VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
T R Ầ N T H
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
Ị
K I Ề U H Ạ N H
TRẦN THỊ KIỀU HẠNH
I
L U Ậ T K N H T Ế
ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT
CỦA DOANH NGHIỆP THEO LUẬT DOANH NGHIỆP 2014
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
K H Ó A
I
.
X 1
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
Hà Nội, năm 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THỊ KIỀU HẠNH
ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT
CỦA DOANH NGHIỆP THEO LUẬT DOANH NGHIỆP 2014
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8380107
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. HỒ NGỌC HIỂN
Hà Nội, năm 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi – Trần Thị Kiều Hạnh cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của
riêng tôi, các kết quả nghiên cứu chưa được công bố ở bất kỳ đâu. Các số liệu, các
nguồn trích dẫn trong luận văn được chú thích nguồn gốc rõ ràng, minh bạch.
Tôi cam đoan chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả
Trần Thị Kiều Hạnh
Mục lục
CHƯƠNG 1..................................................................................................................... 7 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA DOANH NGHIỆP .......................................................................................................... 7 1.1 Khái niệm và đặc điểm của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp 7 1.1.1 Khái niệm người đại diện theo pháp luật ....................................................... 7 1.1.2 Đặc điểm người đại diện theo pháp luật ...................................................... 10 1.1.3 Vai trò của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ...................... 15 1.2 Căn cứ xác lập thẩm quyền đại diện của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ................................................................................................. 18 1.3 Nghĩa vụ của người đại diện pháp luật của doanh nghiệp ............................ 20 Phạm vi đại diện của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ....... 23 1.4 1.5 Trách nhiệm pháp lý của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp . 24 1.6 Chấm dứt thẩm quyền đại diện của người đại diện theo pháp luật .............. 25 CHƯƠNG 2................................................................................................................... 28 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA DOANH NGHIỆP VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH............................................................................................................................. 28 2.1 Thực trạng pháp luật về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ... 28 2.1.1 Xác lập thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật ............................... 28 2.1.2 Nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật ................................................ 37 2.1.3 Phạm vi đại diện của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ...... 41 2.1.4 Trách nhiệm pháp lý của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp 48 2.1.5 Chấm dứt thẩm quyền đại diện của người đại diện theo pháp luật ............. 49 Thực tiễn áp dụng pháp luật về người đại diện theo pháp luật của doanh 2.2 nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh .............................................................. 53 CHƯƠNG 3................................................................................................................... 66 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .................................... 66 3.1 Phương hướng hoàn thiện pháp luật về người đại diện theo pháp luật ........ 66 3.2 Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp tại TP Hồ Chí Minh ......... 67 KẾT LUẬN ................................................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................... PHỤ LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Công ty Hợp danh CTHD
Công ty trách nhiệm hữu hạn CTTNHH
Đại hội đồng cổ đông ĐHĐCĐ
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc GĐ/TGĐ
Hội đồng quản trị HĐQT
Hội đồng thành viên HĐTV
Luật Doanh nghiệp LDN
Người đại diện theo pháp luật NĐDTPL
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong hoạt động kinh doanh, pháp luật được xem là “xương sống” của doanh
nghiệp. Một đất nước có những quy định tiến bộ về kinh doanh sẽ thúc đẩy, đưa một
nền kinh tế phát triển. Một doanh nghiệp am hiểu pháp luật, bám sát hành lang pháp lý
sẽ tồn tại và phát triển lâu dài. Ngược lại, một hành lang pháp lý không vững vàng,
doanh nghiệp thiếu hiểu biết, thiếu sự tuân thủ pháp luật sẽ dẫn đến những hệ lụy khôn
lường.
Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đã làm thay đổi cơ bản tính chất của các quan hệ
trong kinh doanh. Điều này cũng đưa đến yêu cầu tất yếu phải có sự thay đổi trong nội
dung của pháp luật kinh doanh cho phù hợp với thực tế khách quan. Sau sự đột phá của
“Luật Doanh nghiệp năm1999”, thì “Luật Doanh nghiệp năm 2014” được coi là cuộc
đột phá lần hai, thể hiện đúng tinh thần Hiến pháp 2013 về quyền tự do kinh doanh của
công dân, của doanh nghiệp, theo đó, những gì luật pháp không cấm thì người dân,
doanh nghiệp được tự do đầu tư, kinh doanh.
Trong đó, cơ chế pháp lý về vai trò Người đại diện theo pháp luật chiếm vai trò
cực kỳ quan trọng đối với LDN 2014 nói riêng và đối với pháp luật doanh nghiệp nói
chung cũng đã có một số sự thay đổi nổi bật. LDN 2014 ghi nhận một số loại hình
doanh nghiệp có nhiều người đại diện theo pháp luật. Bên cạnh đó, LDN 2014 còn
dành cho doanh nghiệp quyền tự quyết về số lượng, quyền và nghĩa vụ của từng
NĐDTPL quy định trong điều lệ doanh nghiệp…
Tuy nhiên, những quy định mới về NĐDTPL cũng bộc lộ một số điểm hạn chế,
một số điểm yếu trước đây của LDN 2014 đối với chế định NĐDTPL vẫn chưa được
khắc phục như: khái niệm NĐDTPL, thời điểm có thẩm quyền của NĐDTPL tại thời
điểm được ghi nhận trên Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hay tại thời điểm được
ghi nhận trong điều lệ có hiệu lực, phạm vi đại diện của NĐDTPL đặc biệt trong
trường hợp doanh nghiệp có nhiều NĐDTPL, những bất cập từ thực tiễn giải quyết
1
tranh chấp, chế độ lưu giữ công bố tài liệu, đặc biệt là điều lệ doanh nghiệp, những bất
cập trong quá trình thực hiện thủ tục thay đổi NĐDTPL...
Chính những bất cập này đã góp phần làm cho hoạt động kinh doanh trở nên trì
trệ, một số tranh chấp kéo dài, tiền của tiêu tốn, doanh thu giảm sút, hoạt động kinh
doanh yếu kém hơn.
Vì các lý do nêu trên tôi đã lựa chọn đề tài: “Đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp 2014 từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh”
với mong muốn tìm hiểu các bất cập và thực tiễn thực hiện của LDN 2014 đối với chế
định người đại diện và đưa ra các lập luận giải pháp hoàn thiện.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trên thực tế đã có một số bài viết, một số tờ trình của các cơ quan tổ chức như
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật, bài viết trên Thời báo
tài chính – Cơ quan của Bộ Tài chính, bài viết trên Thời báo Ngân hàng – Cơ quan
thuộc Ngân hàng nhà nước Việt Nam đưa ra các bất cập của LDN 2014 và đề xuất sửa
đổi, bổ sung, tuy nhiên vẫn chưa có bất kỳ luận văn cấp độ Thạc sĩ nào nghiên cứu vấn
đề này một cách toàn diện.
Hiện nay, chế định về NĐDTPL của doanh nghiệp đã được nhiều tác giả quan
tâm và nghiên cứu, điển hình như các công trình sau:
Nguyễn Hợp Toàn (2017), Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba
trong trường hợp Công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc Công ty cổ phần có nhiều
NĐDTPL, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 9. Bài viết trình bày về ý nghĩa, các vấn đề
pháp lý đối với trường hợp công ty cổ phần có nhiều NĐDTPL của LDN 2014 và vấn
đề quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba khi có tình trạng xung đột thẩm quyền
giữa những người đại diện theo pháp luật của Công ty.
Phan Thành Nhân (2018), Thực trạng quy định của pháp luật về NĐDTPL của
doanh nghiệp và hướng hoàn thiện, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 7. Bài viết khái quát
về các khía cạnh pháp lý về NĐDTPL của LDN 2014, từ đó đưa ra một số điểm bất cập
2
và đề xuất phương án hoàn thiện.
Nguyễn Thị Thanh (2016), NĐDTPL của doanh nghiệp, Tạp chí Dân chủ và
Pháp luật, Số chuyên đề (tháng 8). Bài viết trình bày bao quát vấn đề pháp lý về
NĐDTPL, từ đó đưa ra một số vấn đề để hoàn thiện.
Bùi Đức Giang (2015), Hành lang pháp lý mới về người đại diện theo pháp luật
của Luật doanh nghiệp 2014, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6 (326). Bài viết tập
trung phân tích các quy định mới của LDN 2014 về chế định NĐDTPL, đặc biệt về
việc chỉ định, quyền và nghĩa vụ của NĐDTPL cùng trách nhiệm dân sự của chức danh
này.
Bùi Thị Tâm (2017), Đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp từ thực tiễn
Tổng Công ty thuốc lá Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học - Học viện khoa học Xã hội.
Đề tài này trình bày những vấn đề lý luận cơ bản về đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp, cũng như thực trạng quy định pháp luật và thực tiễn của Tổng Công ty thuốc lá
Việt Nam về NĐDTPL.
Phạm Lâm Hải Nguyên (2014), Chế định người đại diện của doanh nghiệp theo
pháp luật doanh nghiệp Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học – Trường Đại học Luật
thành phố Hồ Chí Minh. Đề tài tập trung nghiên cứu, phân tích cơ sở lý luận và thực
tiễn áp dụng các quy định về người đại diện của doanh nghiệp theo LDN 2005. Từ đó,
đề xuất kiến nghị một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật doanh nghiệp
Việt Nam về chế định người đại diện của doanh nghiệp.
Vũ Thị Bích Thùy (2014), Đại diện theo pháp luật của CTCP ở Việt Nam, Luận
văn thạc sĩ luật học – Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh. Đề tài tập trung
nghiên cứu, phân tích cơ sở lý luận và thực trạng pháp luật và áp dụng các quy định về
NĐDTPL của CTCP ở Việt Nam theo LDN 2015. Từ đó, đề xuất kiến nghị một số giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật doanh nghiệp Việt Nam về chế định người đại diện
của CTCP ở Việt Nam.
Trần Hoàng Vũ, Quyền, nghĩa vụ của NĐDTPL trong CTCP theo LDN 2014,
3
Luận văn thạc sĩ Luật kinh tế, Học viện khoa học xã hội – Viện Hàn lâm Khoa học xã
hội Việt Nam. Đề tài tập trung nghiên cứu, phân tích cơ sở lý luận và thực trạng pháp
luật về quyền, nghĩa vụ của NĐDTPL trong CTCP áp dụng các quy định về NĐDTPL
của CTCP ở Việt Nam theo LDN 2015. Từ đó, đề xuất kiến nghị một số giải pháp
nhằm hoàn thiện pháp luật doanh nghiệp Việt Nam về chế định về quyền, nghĩa vụ của
NĐDTPL trong CTCP.
Ngoài các công trình tiêu biểu trên, khoa học pháp lý còn tồn tại khá nhiều công
trình nghiên cứu về chế định NĐDTPL của doanh nghiệp. Mỗi công trình đều có phạm
vi và mục đích nghiên cứu cụ thể. Tuy nhiên, chưa có các nghiên cứu về NĐDTPL
trong doanh nghiệp một cách bao quát toàn diện các loại hình doanh nghiệp và thực
tiễn tại thành phố hiện đại kinh tế phát triển, tiến bộ bậc nhất Việt Nam – thành phố Hồ
Chí Minh. Đây được xem là “khoảng trống” để tác giả lựa chọn và nghiên cứu đề tài
này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở nhận diện và đánh giá thực trạng các quy định của LDN 2014 về đại
diện theo pháp luật, thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật đó tại thành phố Hồ Chí
Minh, Luận văn đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp
dụng pháp luật về NĐDTPL của doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu:
Nghiên cứu về những vấn đề còn hạn chế của LDN 2014, từ đó, có thể hiểu một
cách sâu sắc hơn về LDN 2014 và đề xuất các giải pháp hoàn thiện thông qua các
nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu các quy định của LDN 2014, pháp luật liên quan của một số
nước khác;
- Nghiên cứu khái niệm và đặc điểm, vai trò, căn cứ xác lập thẩm quyền,
nghĩa vụ, phạm vi, trách nhiệm pháp lý của NĐDTPL của doanh nghiệp;
4
- Nghiên cứu, tìm hiểu, những bất cập, thực trạng của chế định NĐDTPL
của LDN 2014;
- Đề xuất các giải hướng và giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp
dụng theo LDN 2014.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Để đạt được mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, tiểu luận có đối tượng và
phạm vi nghiên cứu như sau:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Người Đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp theo Luật Doanh nghiệp 2014 từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh, cụ thể là:
(i) những vấn đề lý luận về NĐDTPL; (ii) thực trạng quy định của LDN 2014 về
NĐDTPL; (iii) thực tiễn trạng pháp luật và thực tiễn về NĐDTPL tại thành phố Hồ Chí
Minh.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là:
Nghiên cứu quy định pháp luật về NĐDTPL theo LDN 2014 và Luật Doanh
nghiệp 2005.
- Chế định đại diện pháp luật doanh nghiệp của một số nước trên thế giới.
5. Nghiên cứu các bản án, tranh chấp liên quan đến NĐDTPL, thành viên
công ty trên phạm vi cả nước, đặc biệt là các vụ án tiêu biểu trên địa bàn thành phố Hồ
Chí Minh; Nghiên cứu cách xử lý hồ sơ hành chính liên quan đến NĐDTPL tại các cơ
quan hành chính trên cả nước đặc biệt là thành phố Hồ Chí Minh.Cơ sở lý luận và
phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, Luận văn
sử dụng các phương pháp nghiên cứu bao gồm:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê: đây là phương pháp chính đề
tài sử dụng trong quá trình nghiên cứu; phân tích để tiếp cận và có những hiểu biết nhất
định đối với vấn đề nghiên cứu; dùng làm căn cứ để hình thành các luận điểm, luận cứ,
xác lập các lập luận làm cơ sở phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu của đề tài hướng tới.
5
- Phương pháp so sánh: từ việc so sánh, đối chiếu các khía cạnh về quan
điểm, tư tưởng, mục tiêu, chính sách,… và đặc biệt là hệ thống pháp luật điều chỉnh đối
với vấn đề nghiên cứu của các quốc gia có liên quan; tìm ra được mặt lợi cũng như mặt
hại để tìm ra hướng đi, hướng giải quyết đối với tình hình trong nước.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là kết quả của một quá trình nghiên cứu pháp luật, thực thi pháp luật
trên thực tế, đồng thời tham khảo pháp luật doanh nghiệp của một số nước trên thế
giới, qua đó luận văn này không chỉ mang về ý nghĩa lý luận mà còn đem đến các ý
nghĩa thực tiễn, cụ thể như sau:
- Luận văn nêu ra một số nội dung của LDN 2014 và các nội dung có liên
quan đến LDN 2014 qua đó cho người đọc một cái nhìn bao quát tổng thể về pháp luật
doanh nghiệp từ Việt Nam nhìn ra thế giới.
- Luận văn là công trình nghiên cứu đúc kết từ thực tiễn, từ nhiều bài viết
khoa học qua nhìn nhận và đánh giá của tác giả, do đó, luận văn không chỉ là ý kiến cá
nhân của tác giả mà còn ý kiến của các chủ thể doanh nghiệp, các nhà nghiên cứu lập
pháp.
- Luận văn cũng đưa ra những đề xuất giải pháp hoàn thiện LDN 2014
mong muốn đưa ra những giải pháp hữu ích cho quá trình sửa đổi LDN 2014 sắp tới.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận
văn gồm có 3 chương như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về người đại diện pháp luật của
doanh nghiệp
Chương 2. Thực trạng pháp luật về người đại diện pháp luật theo LDN 2014
Chương 3. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả áp dụng pháp luật về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ở Việt Nam
hiện nay.
6
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT
CỦA DOANH NGHIỆP
1.1 Khái niệm và đặc điểm của người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp
1.1.1 Khái niệm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
Ở một số nước trên thế giới, khái niệm Người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp quy định cũng không giống nhau. Chẳng hạn, Luật Công ty Anh quy định
NĐDTPL của công ty là: “Một thành viên cá nhân được ủy quyền bởi công ty có quyền
thực hiện các quyền hạn tương tự công ty có thể thực hiện”. [50, Điều 323.2] LDN của
Úc quy định: “Đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân do doanh nghiệp
chỉ định để thực hiện tất cả hoặc bất kỳ quyền hạn nào mà doanh nghiệp có thể thực
hiện”. [51, Điều 250D] Pháp luật Nhật Bản tiếp cận NĐDTPL thông qua chức năng
quản lý, đó là: “Người quản lý có quyền thực hiện bất kỳ và tất cả các hành vi pháp lý
và phi tư pháp nhân danh công ty liên quan đến hoạt động kinh doanh của mình”. [52,
Điều 11.1]. Riêng đối với Luật Công ty trách nhiệm hữu hạn không đưa ra khái niệm
một cách rõ ràng, mà theo hướng khẳng định: “Công ty sẽ do các Giám đốc làm đại
diện. Nếu một công ty không có Giám đốc, công ty sẽ được đại diện bởi các cổ đông
bất cứ khi nào có tuyên bố ý định hoặc các tài liệu được cung cấp trên đó”. [53, Điều
35.2] Như vậy, có thể hiểu một cách đơn giản là quyền và nghĩa vụ của NĐDTPL
trong các Công ty trách nhiệm hữu hạn ở Đức được thể hiện thông qua quyền và nghĩa
vụ của Giám đốc và các cổ đông (nếu công ty không có giám đốc).
Khảo sát quy định về NĐDTPL của một số nước trên thế giới, chúng ta có thể
khẳng định thuật ngữ “NĐDTPL của doanh nghiệp” mang những nội dung khác nhau,
tùy thuộc vào pháp luật của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, tựu chung lại thì pháp luật của
các nước vẫn có điểm giao thoa nhau về khái niệm NĐDTPL, đó là người được doanh
nghiệp chỉ định để thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn nhân danh doanh nghiệp.
7
Ở Việt Nam, theo quy định tại Bộ luật Dân sự, đại diện là việc một người nhân
danh và vì lợi ích của người khác xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự trong phạm vi
đại diện.1
Quan hệ đại diện được xác lập theo hai hình thức cơ bản: Đại diện có thể là đại
diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền2. Đại diện theo pháp luật bao gồm các
trường hợp sau: (i) Người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ; (ii) Người có thẩm
quyền đại diện theo quy định của pháp luật;(iii) Người do Tòa án chỉ định trong quá
trình tố tụng tại Tòa án”.3
Đại diện theo ủy quyền là hình thức đại diện mà quyền đại diện được xác lập
trên cơ sở thỏa thuận giữa người được đại diện và người đại diện.
Bên cạnh đó, còn có đại diện theo ủy quyền lại: Người đại diện theo ủy quyền
có thể ủy quyền lại cho một người thứ ba đại diện cho doanh nghiệp, nếu như trong nội
dung ủy quyền ban đầu có nội dung cho phép ủy quyền lại hoặc do sự kiện bất khả
kháng nếu không áp dụng ủy quyền lại thì mục đích xác lập, thực hiện giao dịch dân sự
vì lợi ích của người ủy quyền không thể thực hiện được4. Khi tiếp nhận hồ sơ ủy quyền
lại, cần lưu ý hình thức ủy quyền lại phải phù hợp với hình thức ủy quyền ban đầu và
nội dung không được vượt quá phạm vi ủy quyền ban đầu.
Ví dụ: Chủ tịch HĐQT là đại diện đương nhiên, ủy quyền cho Tổng Giám đốc
ký hợp đồng và cho phép Tổng Giám đốc được ủy quyền lại cho các Phó tổng Giám
đốc hay Giám đốc các chi nhánh ký hợp đồng. Trường hợp này thường xuyên xuất hiện
ở các ngân hàng cũng như các doanh nghiệp có chi nhánh lớn rộng khắp trên cả nước.
NĐDTPL sẽ thực hiện các quyền và nghĩa vụ, theo quy định tại điều lệ doanh
nghiệp và theo LDN 2014. Người đại diện theo ủy quyền và người được ủy quyền lại
1 Khoản 1, Điều 134 Bộ luật Dân sự 2015, 2 Điều 85, Bộ luật Dân sự 2015 3 Khoản 1 Điều 137 Bộ luật Dân sự 2015 4 Khoản 1, Điều 564 Bộ luật Dân sự 2015
sẽ có phạm vi quyền hạn theo nội dung được ủy quyền.
8
Ngoài ba trường hợp nêu trên thì việc ủy quyền đại diện sẽ không tới người thứ
tư vì Bộ luật Dân sự chỉ quy định trường hợp ủy quyền lại cho người thứ ba.
Như vậy, “đại diện theo pháp luật” là sự thiết lập người đại diện của những
thành viên công ty, cổ đông hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định.
Trước đây LDN 2005 không đưa ra khái niệm NĐDTPL của doanh nghiệp, mà
quy định về NĐDTPL của doanh nghiệp chỉ nằm rải rác ở các điều luật quy định về cơ
cấu tổ chức, quản lý của các loại hình doanh nghiệp. 5 Tuy nhiên, đến LDN 2014 đã
thể hiện bước tiến khi có một điều khoản dành riêng để quy định về NĐDTPL. Theo
đó, khoản 1 Điều 13 LDN 2014 quy định: “NĐDTPL của doanh nghiệp là cá nhân
đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch
của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách nguyên đơn, bị đơn, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền và nghĩa vụ
khác theo quy định của pháp luật”. Với quy định này, LDN 2014 đã ghi nhận chức
năng đại diện theo pháp luật trong tố tụng của NĐDTPL được quy định từ Điều 85 đến
Điều 90 của Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015. Tuy nhiên, khái niệm trên
chỉ mới đề cập đến việc “thực hiện” giao dịch nhân danh doanh nghiệp mà chưa đề cập
đến chức năng “xác lập” giao dịch nhân danh doanh nghiệp – vốn là một trong các
quyền hạn then chốt của chế định NĐDTPL. Mặc dù, khoản 1 Điều 13 LDN 2014 có
thêm quy định mở, đó là NĐDTPL được thực hiện “các quyền và nghĩa vụ khác theo
quy định của pháp luật”, tức là được thực hiện quyền xác lập giao dịch, song việc
không quy định cụ thể quyền hạn này trong văn bản luật chuyên ngành cũng là một hạn
chế 6 [1, Tr18]. Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 1 Điều 134 Bộ luật dân sự
5 Chẳng hạn, Công ty trách nhiệm hữu hạn (khoản 5 Điều 67, khoản 1 Điều 74); CTCP (khoản 1 Điều 116); Công ty hợp danh (khoản 1 Điều 137); Doanh nghiệp tư nhân (khoản 4 Điều 143). 6 Bùi Đức Giang (2015), “Hành lang pháp lý mới về NĐDTPL của Luật doanh nghiệp năm 2014”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 6/2015, tr. 18.
(BLDS) năm 2015 thì người đại diện là người nhân danh và vì lợi ích của người được
9
đại diện xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Chính vì vậy, vai trò “xác lập” giao dịch
dân sự là một trong những vai trò không thể thiếu trong việc xác định ai là NĐDTPL
của doanh nghiệp.
1.1.2 Đặc điểm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp Một là, NĐDTPL của doanh nghiệp là người được ghi nhận trên Giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp đó.
Theo quy định tại Điều 29 LDN 2014, trên Giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp gồm các nội dung sau: Tên doanh nghiệp và mã số doanh nghiệp; Địa chỉ trụ
sở chính của doanh nghiệp, Họ, tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số Thẻ căn cước
công dân, Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp
khác của NĐDTPL của doanh nghiệp đối với CTTNHH và CTCP….”. Như vậy, trong
các nội dung đăng ký kinh doanh phải có thông tin NĐDTPL của doanh nghiệp. Hay
nói cách khác, cơ sở để xác định NĐDTPL của một doanh nghiệp chính là Giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp.
Ngoài ra, thông tin người đại diện theo quy định pháp luật còn được ghi nhận
trên các tài liệu khác như: Quyết định của HĐQT, Quyết định của ĐHĐCĐ, Điều lệ
của doanh nghiệp… Tuy nhiên các văn bản này là văn bản nội bộ của doanh nghiệp
nên khả năng chứng minh đối với đối tác không cao như Giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh.
Bên cạnh đó, hiện nay Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh không nhất thiết
phải nộp lại cho cơ quan đăng ký kinh doanh khi đăng ký nội dung thay đổi. Do đó, để
kiểm tra chính xác thông tin NĐDTPL, cần phải đối chiếu thông tin người đại diện trên
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và thông tin tra cứu trên trang thông tin điện tử
Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp
(https://dangkykinhdoanh.gov.vn/vn/Pages/Trangchu.aspx) và cả điều lệ doanh nghiệp.
Hai là, NĐDTPL của doanh nghiệp là cá nhân có đủ năng luật pháp luật dân
sự và năng lực hành vi dân sự
10
Doanh nghiệp là một tổ chức thành lập để sản xuất, đầu tư, kinh doanh. Bản
thân doanh nghiệp vẫn là khái niệm trừu tượng bao gồm nhiều cá nhân, bộ phận, sản
phẩm, dịch vụ, vì vậy không phải ai, bộ phận nào cũng có thể tự mình thể hiện ý chí
của doanh nghiệp ra bên ngoài. Quyết định của doanh nghiệp phải được thể hiện thông
qua một hoặc nhiều cá nhân nhất định được doanh nghiệp bầu chọn, chỉ định theo các
thủ tục hành chính. Do đó, NĐDTPL của tổ chức nói chung, doanh nghiệp nói riêng
phải là cá nhân. Đây là một đặc điểm phân biệt với đại diện theo ủy quyền vì người đại
diện theo ủy quyền có thể cá nhân hoặc tổ chức, chẳng hạn, doanh nghiệp có thể ủy
quyền cho một doanh nghiệp khác nhân danh và vì lợi ích của mình để xác lập, thực
hiện giao dịch theo cơ chế đại diện cho thương nhân theo Luật Thương mại.
Để có thể thể hiện ý chí của doanh nghiệp, NĐDTPL phải có đầy đủ năng lực
pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Theo quy định tại BLDS 2015, năng lực pháp
luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự và
có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết. Khi cá nhân nhân danh
doanh nghiệp để thực hiện giao dịch trong phạm vi cho phép thì các quyền và nghĩa vụ
từ giao dịch phát sinh cho doanh nghiệp chứ không phát sinh cho cá nhân đó.
Ba là, NĐDTPL của doanh nghiệp nhân danh doanh nghiệp thực hiện các
quyền và nghĩa vụ chung của doanh nghiệp
Bản chất của quan hệ đại diện nói chung là người đại diện nhân danh và vì lợi
ích của người được đại diện để xác lập, thực hiện giao dịch. Tuy nhiên, khác với các
người đại diện theo ủy quyền chỉ xác lập, thực hiện các công việc theo phạm vi ủy
quyền, NĐDTPL nhân danh và vì lợi ích của doanh nghiệp xác lập, thực hiện các
quyền và nghĩa vụ chung của doanh nghiệp. Điều này có nghĩa là, NĐDTPL có quyền
nhân danh doanh nghiệp xác lập, thực hiện mọi giao dịch của doanh nghiệp, ngoại trừ
trường hợp có giới hạn phạm vi, thẩm quyền do pháp luật hoặc điều lệ quy định.
Bốn là, CTTNHH và CTCP có thể có một hoặc nhiều NĐDTPL
Trước đây, theo quy định của pháp luật, một doanh nghiệp chỉ có một cá nhân là
11
người đại diện theo pháp luật. Theo BLDS 2015 và LDN 2014, hiện nay, doanh nghiệp
có thể có nhiều cá nhân là người đại diện theo pháp luật. Việc quy định doanh nghiệp
có thể có nhiều cá nhân là người đại diện theo pháp luật là phù hợp với thực tiễn và hài
hòa với pháp luật của nhiều nước trên thế giới hiện nay.
CTTNHH và CTCP có thể có một hoặc nhiều NĐDTPL.7 Đây là một trong
những điểm mới của LDN 2014 đảm bảo quyền tự do kinh doanh, quyền quyết định số
lượng NĐDTPL, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể hội nhập nhanh hơn, tận dụng
được mọi cơ hội kinh doanh thông qua các đại diện theo pháp luật. Tuy nhiên, quy định
mới này chưa áp dụng cho các loại hình doanh nghiệp khác như doanh nghiệp tư
nhân… Về phía CTHD, luật không quy định nhiều người đại diện pháp luật, nhưng
mỗi thành viên hợp danh đều có quyền nhân danh doanh nghiệp để thực hiện giao dịch.
Do đó, mỗi thành viên hợp danh có thể coi là mỗi “NĐDTPL”.
LDN 2014 quy định rõ một công ty có thể có nhiều NĐDTPL mà không quy
định cụ thể một cá nhân có thể là NĐDTPL của nhiều công ty hay không. Khoản 3
Điều 141 BLDS 2015 quy định “Một cá nhân, pháp nhân có thể đại diện cho nhiều cá
nhân hoặc pháp nhân khác nhau nhưng không được nhân danh người được đại diện để
xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình cũng
là người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.
Qua đó, có thể thấy rằng một cá nhân được phép là NĐDTPL của nhiều công ty
chỉ cần không vi phạm điều cấm về việc nhân danh người được đại diện để xác lập,
thực hiện giao dịch dân sự với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình cũng là người
đại diện của người đó8. Trên thực tiễn các cơ quan đăng ký kinh doanh vẫn cho phép
một người làm đại diện theo pháp luật của nhiều doanh nghiệp. Tại thành phố Hồ Chí
Minh cũng vậy, rất nhiều cá nhân làm đại diện pháp luật cho nhiều Công ty. Ví dụ: bà
7 Khoản 2, Điều 13 Luật Doanh Nghiệp 2014, 8 Khoản 3, Điều 141 BLDS 2015
Nguyễn Vũ Thiên Diễm, đồng thời là NĐDTPL của các công ty sau: Công ty TNHH
12
Đầu tư & Phát triển DHT (Mã số thuế:: 0315156480, trụ sở tại 136H Đường Nguyễn
Tri Phương, Phường 09, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam); Công ty Cổ
phần Đầu tư Bất động sản Thiên Minh, (Mã số thuế: 0308964984,
136H Nguyễn Tri Phương, Phường 09, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam),
Công ty TNHH Tập đoàn Đầu tư Thiên Minh, mã số thuế: 0315834143, Khu Thương
mại Dịch vụ Tầng 1 Khu 1.12, Tòa nhà The EverRich Infinity, Số 290 An Dương
Vương, Phường 04, Quận 5, thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam.9Riêng đối với doanh
nghiệp tư nhân, do đặc thù phải chịu trách nhiệm bằng tất cả tài sản cá nhân đối với
hoạt động doanh nghiệp, mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư
nhân và chủ doanh nghiệp tư nhân không được đồng thời là chủ hộ kinh doanh, thành
viên CTHD. Bên cạnh đó, chủ Doanh nghiệp tư nhân không được quyền góp vốn thành
lập hoặc mua cổ phần, phần vốn góp trong CTHD, CTTNHH hoặc CTCP.
Tương tự chủ Doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Do đó, thành
viên hợp danh có một số hạn chế như sau:
“1. Thành viên hợp danh không được làm chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc thành
viên hợp danh của CTHD khác, trừ trường hợp được sự nhất trí của các thành viên
hợp danh còn lại.
2. Thành viên hợp danh không được quyền nhân danh cá nhân hoặc nhân danh
người khác thực hiện kinh doanh cùng ngành, nghề kinh doanh của công ty đó để tư lợi
hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác.
3. Thành viên hợp danh không được quyền chuyển một phần hoặc toàn bộ phần
vốn góp của mình tại công ty cho người khác nếu không được sự chấp thuận của các
thành viên hợp danh còn lại.”10
9 Tra cứu theo tên NĐDTPL của doanh nghiệp, tại https://dangkyquamang.dkkd.gov.vn/inf/Forms/Products/ProductCatalog.aspx?h=23b62 10 Điều 175, Luật Doanh nghiệp 2014
Như vậy, chủ Doanh nghiệp tư nhân thì không được làm người đại diện pháp
13
luật của doanh nghiệp khác. Thành viên hợp danh thì không được làm người đại diện
pháp luật của doanh nghiệp khác trong cùng ngành, nghề kinh doanh.
Năm là, NĐDTPL là người quản lý doanh nghiệp
Theo quy định tại Điều 137, Bộ luật Dân sự về đại diện theo pháp luật của pháp
nhân, những người sau đây có thể làm đại diện theo pháp luật của công ty:
- Người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ;
- Người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật;
- Người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án.
LDN 2014 tiếp tục quy định về chủ thể có thể làm đại diện theo pháp luật cho
từng loại hình doanh nghiệp, cụ thể như sau:
- NĐDTPL trong CTTNHH một thành viên do tổ chức làm chủ sở hữu là
Chủ tịch HĐTV hoặc Chủ tịch công ty trừ trường hợp Điều lệ công ty có quy định khác
(khoản 2 Điều 78 LDN).
- Trong trường hợp CTCP chỉ có một NĐDTPL, thì Chủ tịch HĐQT hoặc
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là NĐDTPL của công ty; trường hợp Điều lệ không có
quy định khác thì Chủ tịch HĐQT là NĐDTPL của công ty. Trường hợp có hơn một
NĐDTPL thì Chủ tịch HĐQT và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc đương nhiên là
NĐDTPL của công ty (khoản 2 Điều 134 LDN 2014).
- Đối với CTHD, các thành viên hợp danh có quyền đại diện theo pháp luật
và tổ chức điều hành hoạt động kinh doanh hằng ngày của công ty theo quy định tại
khoản 1 Điều 179 LDN 2014. Tuy nhiên, chỉ có Chủ tịch HĐTV, Giám đốc hoặc Tổng
giám đốc CTHD có các nhiệm vụ đại diện cho công ty trong quan hệ với cơ quan nhà
nước; đại diện cho công ty với tư cách là bị đơn hoặc nguyên đơn trong các vụ kiện,
tranh chấp thương mại hoặc các tranh chấp khác (theo điểm đ khoản 4 Điều 179 LDN
2014).
- Đối với doanh nghiệp tư nhân: Chủ doanh nghiệp tư nhân là NĐDTPL
của doanh nghiệp theo quy định tại khoản 4 Điều 185, LDN 2014.
14
Tóm lại: Từ những quy định trên ta có thể hiểu NĐDTPL của doanh nghiệp,
ngoài 02 chức danh: Chủ tịch HĐQT, Chủ tịch HĐTV, Giám đốc (hoặc Tổng Giám
đốc) là đương nhiên, thì có thể do người khác đảm nhiệm. Tuy nhiên người này, được
ngầm hiểu phải đáp ứng 2 yêu cầu sau: phải là người thứ 03 và không đồng thời nắm
giữ các vị trí xung đột với quyền và nghĩa vụ của NĐDTPL như kế toán, kiểm sát
viên…
Thứ sáu, NĐDTPL là điều kiện để thành lập doanh nghiệp.
Theo quy định tại Điều 20, 21, 22 hồ sơ đề nghị thành lập doanh nghiệp phải có
giấy đề nghị thành lập doanh nghiệp. Theo quy định tại khoản 8, khoản 9, Điều 24
LDN 2014, giấy đề nghị doanh nghiệp phải có thông tin NĐDTPL.
Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 3 Điều 13 LDN 2014, doanh nghiệp phải
đảm bảo luôn có ít nhất một NĐDTPL cư trú tại Việt Nam. Trong trường hợp doanh
nghiệp vi phạm sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính theo hình thức phạt tiền từ
10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng theo quy định tại khoản 1 Điều 33 Nghị định
50/2016/NĐ-CP.
Như vậy, có thể thấy NĐDTPL của doanh nghiệp đóng vai trò vô cùng quan
trọng, là điều kiện cần để thành lập một doanh nghiệp, cũng như điều kiện để duy trì sự
tồn tại phát triển của một doanh nghiệp.
1.1.2 Vai trò của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
NĐDTPL của doanh nghiệp được ví như “cây nêu” của doanh nghiệp để mọi
người nhìn vào, là một cơ chế pháp lý đặc biệt quan trọng đối với công ty. Thông qua
người đại diện để xác định được tư cách hợp pháp của người thay mặt cho doanh
nghiệp thực hiện các giao dịch kinh tế, dân sự.
Trong quá trình hoạt động, bằng các thủ tục pháp lý, doanh nghiệp có thể thay
NĐDTPL, nhưng người mới làm đại diện theo pháp luật cho doanh nghiệp vẫn tiếp tục
kế thừa việc tổ chức thực hiện các quyền và nghĩa vụ hợp pháp của công ty mà người
đại diện trước đó đã và đang thực hiện. Nếu doanh nghiệp muốn, hoặc buộc phải thay
15
NĐDTPL thì phải bằng một thủ tục pháp lý và đăng ký với cơ quan đăng ký kinh
doanh, đồng thời phải thông báo công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng
ký doanh nghiệp theo trình tự, thủ tục và phải trả phí theo quy định.
Có thể nói, NĐDTPL của doanh nghiệp có vai trò quan trọng. Cụ thể:
Một là, NĐDTPL của doanh nghiệp là một trong các điều kiện pháp lý để công
ty thành lập và hoạt động bình thường.
Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, ngay từ khi thành lập và đăng ký, doanh
nghiệp phải đăng ký chức danh NĐDTPL. Trừ những việc do ĐHĐCĐ hoặc HĐQT
quyết định, các quyền và nghĩa vụ còn lại của doanh nghiệp sẽ do một hoặc nhiều
NĐDTPL trực tiếp hoặc ủy quyền cho người khác thực hiện. Do đó, pháp luật quy định
trường hợp công ty chỉ có duy nhất một người đại diện nhưng người này xuất cảnh
khỏi Việt Nam thì phải ủy quyền cho người khác thực hiện nhiệm vụ của NĐDTPL,
nếu NĐDTPL duy nhất của công ty vắng mặt khỏi Việt Nam quá 30 ngày mà không ủy
quyền cho người khác đại diện hoặc trường hợp NĐDTPL chết, mất tích, bị tạm giam,
bị kết án tù, bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự; từ chức hoặc bị bãi miễn thì
công ty phải cử người đại diện khác.
Hai là, NĐDTPL thay mặt doanh nghiệp duy trì mối quan hệ với các chủ sở hữu
doanh nghiệp (cổ đông), với Nhà nước, khách hàng, đối tác, người lao động… của
doanh nghiệp.
Doanh nghiệp là một thực thể được hình thành từ nguồn vốn của các thành viên,
cổ đông (chủ sở hữu). Quá trình hoạt động doanh nghiệp không tồn tại đơn lẻ mà có sự
gắn kết và quan hệ mật thiết với các chủ thể khác như: Quan hệ với chủ sở hữu (kiểm
soát hoạt động của doanh nghiệp, phân phối lợi nhuận, quyết định phương án kinh
doanh, phương án phân chia lỗ…); quan hệ với Nhà nước (quan hệ đăng ký kinh
doanh, đóng thuế, tố tụng, nộp phạt…); quan hệ với khách hàng, các đối tác, người lao
động, với chủ nợ và các con nợ của công ty. Các mối quan hệ này luôn kiềm chế đối
trọng và thúc đẩy nhau cùng phát triển, trường hợp các mối quan hệ này mâu thuẫn sẽ
16
dễ dẫn đến tranh chấp và chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp. Do đó, doanh nghiệp
phải thiết lập thành một bộ máy thông suốt, một tổ chức chặt chẽ, phối hợp nhịp nhàng
giữa các phòng ban để đẩy mạnh hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và thu lợi
nhuận.
Ba là, NĐDTPL của doanh nghiệp nhân danh doanh nghiệp để xác lập, thực
hiện các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp là một tổ chức có các quyền và nghĩa vụ trước pháp luật, có
quyền tham gia các quan hệ pháp luật. Doanh nghiệp là một tổ chức có nhiều cá nhân,
nhưng không phải mọi cá nhân đều có thể tự mình nhân danh công ty thực hiện được
quyền và nghĩa vụ của mình, do vậy, NĐDTPL của doanh nghiệp có vai trò đặc biệt
quan trọng, trong việc thay mặt công ty, nhân danh công ty để thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của doanh nghiệp. NĐDTPL cũng có thể ủy quyền cho người khác xác lập,
thực hiện giao dịch dân sự.11 Khi người đại diện theo ủy quyền thực hiện các công việc
đại diện trong phạm vi ủy quyền, NĐDTPL vẫn phải chịu trách nhiệm cá nhân về nghĩa
vụ đại diện theo pháp luật.
Bốn là, tổ chức thực hiện các trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp
Bản thân doanh nghiệp là một tổ chức kinh doanh, có thể chịu các trách nhiệm
hành chính, lao động, dân sự và cả trách nhiệm hình sự về các vi phạm của doanh
nghiệp do NĐDTPL gây ra. Khi một doanh nghiệp trong quá trình hoạt động có các
hành vi vi phạm pháp luật (do hành vi của NĐDTPL hoặc của những người khác trong
doanh nghiệp gây ra), chẳng hạn như gây ô nhiễm môi trường, vi phạm pháp luật về
thời hạn nộp thuế… Lúc này, quyết định xử phạt ghi rõ chủ thể vi phạm là “doanh
nghiệp”, nghĩa vụ nộp phạt cũng là của doanh nghiệp. NĐDTPL có nghĩa vụ tổ chức
thực hiện quyết định xử phạt của cơ quan có thẩm quyền đối với công ty mà mình đang
thực hiện nghĩa vụ đại diện theo pháp luật, đồng thời, doanh nghiệp cũng sẽ quy trách
11 Khoản 1, Điều 138 BLDS
nhiệm cá nhân đối với người có hành vi để xảy ra vi phạm gây thiệt hại cho doanh
17
nghiệp.
1.2 Căn cứ xác lập thẩm quyền đại diện của người đại diện theo pháp
luật của doanh nghiệp
Theo quy định của BLDS 2015, thẩm quyền đại diện của NĐDTPL theo pháp
luật được xác lập dựa trên một trong các căn cứ: (i) Người được pháp nhân chỉ định
theo điều lệ; (ii) Người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật; (iii) Người
do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án (Điều 135, Điều 137 BLDS
2015). Việc đại diện thông qua cá nhân chỉ được thực hiện trong các trường hợp và
theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định (Điều 98 BLDS 2015).
Thứ nhất, theo điều lệ doanh nghiệp
Khi kê khai hồ sơ đăng ký thành lập doanh nghiệp bắt buộc doanh nghiệp phải
kê khai NĐDTPL và những thông tin cá nhân của người này trên Giấy đề nghị đăng ký
hoạt động và quy định quyền và nghĩa vụ cụ thể của NĐDTPL, cũng như những thông
tin cụ thể của người này trong điều lệ doanh nghiệp. Theo quy định khoản 2 Điều 13
LDN 2014 điều lệ doanh nghiệp quy định cụ thể số lượng, chức danh quản lý và quyền,
nghĩa vụ của NĐDTPL của doanh nghiệp.
Đây được cho là một trong những bước tiến mới của doanh nghiệp, khi mà
doanh nghiệp được quyền tự quyết định về số lượng, chức danh, quyền và nghĩa vụ
NĐDTPL. Điều này thể hiện nguyên tắc tự do kinh doanh của doanh nghiệp cũng như
quyền định đoạt của chủ sở hữu doanh nghiệp [45, Tr. 7]. Tuy nhiên, điều lệ doanh
nghiệp phải quy định trong phạm vi cho phép pháp luật. Các quy định trong Điều lệ
công ty không được vi phạm điều cấm, vi phạm quy tắc đạo đức xã hội.
Thứ hai, căn cứ theo quy định của pháp luật
Có một số trường hợp căn cứ quy định pháp luật để xác định NĐDTPL như:
Khoản 4, Điều 13 LDN 2014 quy định trường hợp hết thời hạn ủy quyền theo
khoản 3 Điều này mà người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chưa trở lại Việt
Nam và không có ủy quyền khác người được ủy quyền vẫn tiếp tục thực hiện các
18
quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp trong phạm vi
đã được ủy quyền cho đến khi người đại diện theo pháp luật của công ty trở lại…
Thực tế, doanh nghiệp sẽ quy định cụ thể NĐDTPL và chức danh của
NĐDTPL. Thông thường sẽ là Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Tuy nhiên đối với
trường hợp điều lệ công ty không có quy định thì việc xác định NĐDTPL sẽ dựa trên
quy định pháp luật và căn cứ vào chức danh của người đó như sau:
Đối với Công ty cổ phần chỉ có một NĐDTPL, thì Chủ tịch HĐQT hoặc Giám
đốc hoặc Tổng giám đốc là NĐDTPL của công ty; trường hợp Điều lệ không có quy
định khác thì Chủ tịch HĐQT là NĐDTPL của công ty. Trường hợp có hơn một
NĐDTPL, thì Chủ tịch HĐQT và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc đương nhiên là
NĐDTPL của công ty (khoản 2 Điều 134 LDN 2014).
NĐDTPL trong CTTNHH một thành viên do tổ chức làm chủ sở hữu là Chủ
tịch HĐTV hoặc Chủ tịch công ty trừ trường hợp Điều lệ công ty có quy định khác
(khoản 2 Điều 78 LDN 2014).
Thứ ba, theo quyết định của Tòa án
Theo khoản 7, Điều 13, LDN 2014, trong một số trường hợp đặc biệt, để đảm
bảo cho quá trình tố tụng tại Tòa án diễn ra theo đúng trình tự thủ tục, Tòa án có thẩm
quyền sẽ có quyền chỉ định NĐDTPL của doanh nghiệp. Theo quy định của luật
chuyên ngành về thủ tục tố tụng của Tòa án, khoản 1 Điều 87 và khoản 1 Điều 88 Bộ
luật Tố tụng Dân sự 2015 quy định rằng Tòa án phải chỉ định NĐDTPL của doanh
nghiệp để tham gia tố tụng tại Tòa án trong trường hợp (i) Nếu NĐDTPL của doanh
nghiệp cũng là đương sự trong cùng một vụ việc với doanh nghiệp mà quyền và lợi ích
hợp pháp của họ đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp; (ii) Nếu
NĐDTPL đang là NĐDTPL trong tố tụng dân sự cho một đương sự khác mà quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự đó đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của doanh
nghiệp trong cùng một vụ việc. Quy định này của pháp luật tố tụng nhằm tránh xung
đột lợi ích giữa NĐDTPL và doanh nghiệp mà họ làm đại diện. [45, Tr. 8]
19
Bên cạnh đó, theo Luật Phá sản 2014 quy định khá chi tiết đối với trường hợp
công ty bị mở thủ tục phá sản (khoản 2 Điều 47). Trường hợp xét thấy NĐDTPL của
doanh nghiệp không có khả năng điều hành, doanh nghiệp có dấu hiệu vi phạm khoản
1 Điều 48 của Luật Phá sản 2014 thì Thẩm phán ra quyết định thay đổi NĐDTPL của
doanh nghiệp theo đề nghị của Hội nghị chủ nợ hoặc Quản tài viên, doanh nghiệp quản
lý, thanh lý tài sản.
Những trường hợp thay đổi NĐDTPL nêu trên, không phụ thuộc vào điều lệ
công ty hay chỉ có ý chí của cổ đông, Tòa án có quyền chỉ định NĐDTPL để bảo vệ
quyền và lợi ích của doanh nghiệp tại Tòa án. [45, Tr. 8]
Tuy nhiên, đây cũng chỉ là hai trường hợp cụ thể có quy định về việc Tòa án chỉ
định NĐDTPL. Trên thực tế còn rất nhiều trường hợp khác cần phải được Tòa án chỉ
định NĐDTPL tuy nhiên vẫn chưa có quy định hướng dẫn cụ thể khoản 7, Điều 13
LDN.
1.3 Nghĩa vụ của người đại diện pháp luật của doanh nghiệp
Theo quy định tại Bộ luật Dân sự 2015 của Việt Nam, nghĩa vụ dân sự là việc
mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải
chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc
khác hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ
thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền) (Điều 274 Bộ luật dân sự 2015). Đặc
điểm nghĩa vụ dân sự: Các bên chủ thể trong nghĩa vụ dân sự được xác định cụ thể; Là
một loại quan hệ tài sản; Có sự ràng buộc pháp lý giữa các chủ thể; Vì lợi ích bên có
quyền. Nghĩa vụ dân sự gồm có: nghĩa vụ dân sự trong hợp đồng, nghĩa vụ dân sự
ngoài hợp đồng. Đối tượng thực hiện là các bên trong quan hệ dân sự, vì mục đích của
chủ thể có quyền.
Theo như cách luận giải đã phân tích về các khía cạnh của người đại diện và
mối quan hệ về đại diện trong doanh nghiệp tại nhiều quốc gia khác nhau và Việt Nam
đều thừa nhận rằng, người đại diện có quyền và nghĩa vụ làm tất cả mọi thứ mà pháp
20
luật không cấm nhằm đem lại lợi ích tối đa cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, các học
thuyết nổi tiếng ra đời ở thế kỷ thứ 20 như Lý thuyết về đại diện (Theory of Agency),
Xung đột lợi ích (Conflicts of Interests), Lý thuyết hành vi… đều dẫn đến một kết luận
rằng, con người luôn có xu hướng hành động vì lợi ích của chính mình hơn là chủ thể
khác và người đại diện thường lợi dụng vị trí của mình để tìm kiếm lợi ích cho chính
họ hơn là cho các cổ đông và công ty. Từ những thực tiễn đó, nhà làm luật đã xây dựng
những quy định mang tính chất hạn chế những “mục đích cám dỗ” mà những người đại
diện có thể mắc phải bằng những hành động trái với lợi ích của những người đã tin
tưởng “chọn mặt gửi vàng” trong công việc quản lý hoạt động kinh doanh của họ như
sau:
Thứ nhất, thực hiện các quyền và nghĩa vụ được giao một cách trung thực, cẩn
trọng, tốt nhất nhằm bảo đảm lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp.
Với bản chất là một mối quan hệ tương hỗ, “cộng sinh” lẫn nhau để cùng phát
triển, người đại diện mong muốn nhận được thù lao xứng đáng trong phạm vi nhiệm vụ
và quyền hạn được ủy thác của mình còn chủ sở hữu mong muốn người đại diện thực
hiện công việc một cách mẫn cán, trung thực để hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả.
Tuy nhiên, nếu người đại diện một ngày phá vỡ sự giao phó vì lợi ích của công ty thì
các nhà làm luật cũng chỉ quy định những điều mang tính nguyên tắc chung chung như
“trách nhiệm trung thực, cẩn trọng” rất khó để cơ quan Tư pháp giải thích và áp dụng
nhằm áp đặt trách nhiệm dân sự lên chủ thể này.
Thứ hai, trung thành với lợi ích của doanh nghiệp; không sử dụng thông tin, bí
quyết, cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp, không lạm dụng địa vị, chức vụ và sử dụng
tài sản của doanh nghiệp để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác.
Dù là luật định hay điều lệ công ty quy định, trách nhiệm và quyền hạn của
NĐDTPL của công ty gần như là thay mặt pháp nhân, các cổ đông, thành viên chủ sở
hữu thực hiện hầu hết công việc vận hành kinh doanh. NĐDTPL của công ty chính là
người nắm trong tay “thực quyền” điều khiển, chèo lái toàn bộ tổ chức của doanh
21
nghiệp, trực tiếp thực hiện các nghị quyết của hội đồng cổ đông, trực tiếp quyết định
các hoạt động kinh doanh hằng ngày của công ty, tổ chức thực hiện kế hoạch, phương
án kinh doanh, ban hành các quy chế nội bộ cũng như quản lý nguồn lao động12… Với
một quyền lực “to lớn” như vậy, rất dễ dàng người đại diện pháp luật lợi dụng vị trí của
mình để gian lận, trục lợi, bố trí lao động là thân nhân nhằm thiết lập mô hình gia đình
trị trong công ty, đưa ra các quyết định kinh doanh mạo hiểm, ký các hợp đồng có tính
rủi ro cao cho công ty nhưng để hưởng những khoản “hoa hồng” lớn… gây tổn thất
cho công ty và chủ sở hữu13 [14, Tr 52].
Thứ ba, thông báo kịp thời, đầy đủ, chính xác cho doanh nghiệp về việc người
đại diện đó và người có liên quan của họ làm chủ hoặc có cổ phần, phần vốn góp chi
phối tại các doanh nghiệp khác.
Để bắt kịp sự phát triển khách quan của thực tế khi các công ty lớn có hàng
ngàn nhân viên, hàng trăm cơ sở kinh doanh trên khắp các tỉnh thành ngày càng xuất
hiện nhiều trong nền kinh tế, LDN 2014 đã cho phép các loại hình công ty TNHH và
CTCP có thể có nhiều NĐDTPL14. Đồng thời, Bộ luật Dân sự 2015 cũng quy định, một
pháp nhân có thể có nhiều NĐDTPL15 nhưng đối với việc một người có được là người
đại diện tại nhiều công ty khác nhau hay không thì Luật dường như bỏ ngỏ. Tuy nhiên,
dựa vào điều khoản về trách nhiệm của người đại diện trong việc thông báo kịp thời,
đầy đủ, chính xác cho công ty về việc mình hoặc người có liên quan của mình làm chủ
tại các doanh nghiệp khác thì có thể hiểu rằng, một người có thể cùng đứng tên tại
nhiều doanh nghiệp khác nhau trên Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Chính
việc tưởng chừng đem lại những thuận lợi to lớn cho doanh nghiệp trong việc vận hành
kinh doanh khi tận dụng triệt để những người có trình độ cao trong quản lý doanh
12 Khoản 2 Điều 64 Luật Doanh nghiệp 2015 13 Lê Việt Phương (2013), NĐDTPL của công ty theo quy định của pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, tr 52. 14 Khoản 2 Điều 13 Luật Doanh nghiệp 2014 15 Khoản 2 Điều 137 Bộ luật Dân sự 2015
nghiệp để cũng tiềm ẩn những rủi ro đáng ngờ có thể phát sinh de dọa tới lợi ích của
22
doanh nghiệp.
Trong tác phẩm Của cải của các Dân tộc (The Wealth of Nations), nhà kinh tế
học nổi tiếng Adam Smith đã cho rằng với đặc tính của công việc quản lý, các cổ đông
không nên kỳ vọng và tin tưởng rằng người quản lý công ty sẽ hành động như họ
muốn, bởi lẽ người quản lý công ty luôn có xu hướng thiếu siêng năng và lợi dụng vị
trí của mình để tìm kiếm lợi ích cá nhân cho chính họ hơn là cho các cổ đông và công
ty16 [466, Tr 800]. Chính vì vậy, việc Doanh nghiệp nói chung cũng như các chủ sở
hữu Doanh nghiệp nói riêng nắm bắt kịp thời và đầy đủ việc người đại diện của họ
hoặc người có liên quan đến người đại diện này làm chủ hoặc có tài sản tại một doanh
nghiệp khác có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc lường trước được những xung đột
lợi ích sẽ gặp trong trường hợp NĐDTPL đồng thời làm người đại diện cùng lúc cho
nhiều doanh nghiệp khác.
1.4 Phạm vi đại diện của người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp
Công ty với tư cách là một pháp nhân – một thực thể pháp lý độc lập (A
separate legal entity) tự bản thân nó không thể hành động cho chính mình mà chỉ có thể
hành động thông qua con người cụ thể - những người quản lý công ty17 [47, Tr 89 -90].
Chính vì thế mọi hoạt động kinh doanh của công ty luôn cần phải có người đại diện
đứng ra xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ tương ứng18 [4, Tr 25].
Về cơ bản, quyền và nghĩa vụ đại diện của bên đại diện phát sinh trên cơ sở quy
định của pháp luật, điều lệ hoặc văn bản ủy quyền19. Đối với NĐDTPL, nội dung phạm
vi được thực hiện các quyền và nghĩa vụ thay mặt cho doanh nghiệp được tóm gọn
trong các quy định của pháp luật và điều lệ của doanh nghiệp. Tuy nhiên, thực tế có
16 Adam Smith, The Wealth of Nations, 1776, tr. 800 17 Xem án lệ Ferguson v Wilson (1866), LR 2 Ch App 77, tr.89-90. 18 Bùi Xuân Hải (2007), “Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề của pháp luật công ty Việt Nam”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 4/2017, tr 25. 19 Khoản 1 Điều 141 Bộ luật Dân sự 2015
những công việc không nằm trong phạm vi thẩm quyền của người đại diện được quy
23
định cụ thể và rõ ràng trong luật hoặc điều lệ công ty trong một số trường hợp cũng
được coi là thẩm quyền của người đại diện. Ngoài ra, giao dịch đó vẫn có giá trị ràng
buộc giữa công ty và người thứ ba bởi vì trường hợp không xác định được cụ thể phạm
vi đại diện theo quy định của pháp luật hoặc điều lệ thì NĐDTPL của công ty có quyền
xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện, trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác20.
Cụ thể, đối với điều lệ của công ty, được xem như là “luật riêng” của mỗi doanh
nghiệp, không những thể hiện những thông tin cơ bản của doanh nghiệp mà còn quy
định các vấn đề quản trị nội bộ của công ty, đặc biệt là trách nhiệm, quyền hạn và
phạm vi thẩm quyền của NĐDTPL21. Hơn nữa, đối với những công ty lớn có nhiều cơ
sở kinh doanh, có địa bàn hoạt động rộng lớn khắp cả nước, quản lý hàng chục ngàn
nhân viên thì điều lệ cũng phải quy định quyền và nghĩa vụ riêng của từng NĐDTPL
để tránh chồng chéo và phát sinh nhiều rắc rối trong vận hành kinh doanh.
Đối với quy định của pháp luật, LDN 201422 đã liệt kê các công việc nằm trong
phạm vi thẩm quyền của NĐDTPL như sau:
Một là, đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát -
sinh từ giao dịch của doanh nghiệp.
Hai là, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách nguyên đơn, bị đơn, người -
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án.
Ba là, đại diện cho doanh nghiệp đối với các quyền và nghĩa vụ khác -
theo quy định của pháp luật.
1.5 Trách nhiệm pháp lý của người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp
Theo quy định của BLDS: “Bên có nghĩa vụ mà vi phạm nghĩa vụ thì phải chịu
20 Khoản 2 Điều 141 Bộ luật Dân sự 2015 21 Điều 25 Luật Doanh nghiệp 2014 22 Khoản 1 Điều 13 Luật Doanh nghiệp 2014
trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền.
24
Vi phạm nghĩa vụ là việc bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ đúng thời
hạn, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nội dung của nghĩa
vụ”. 23
Theo quy định tại khoản 2, Điều 14 LDN 2014: NĐDTPL của doanh nghiệp
chịu trách nhiệm cá nhân đối với những thiệt hại cho doanh nghiệp do vi phạm nghĩa
vụ quy định tại khoản 1 Điều này.
Như vậy khi vi phạm nghĩa vụ đối với doanh nghiệp, thì NĐDTPL phải bồi
thường cho doanh nghiệp.
Tương tự như các trường hợp bồi thường thiệt hại khác, để yêu cầu NĐDTPL
bồi thường, cần phải chứng minh được: hành vi vi phạm của NĐDTPL, yếu tố lỗi, có
thiệt hại xảy ra, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại.
Bên cạnh đó, NĐDTPL cũng là người đại diện do đó, khi người đại diện vượt
quá phạm vi đại diện sẽ phải chịu các trách nhiệm pháp lý.
Điều 143 BLDS 2015 quy định về Hậu quả của giao dịch dân sự do người đại
diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện. Theo đó, người đại diện phải thực
hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình về phần giao dịch vượt quá phạm vi
đại diện, trừ trường hợp người đã giao dịch biết hoặc phải biết về việc vượt quá phạm
vi đại diện mà vẫn giao dịch. Đồng thời, người đã giao dịch với người đại diện có
quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự đối với phần vượt
quá phạm vi đại diện hoặc toàn bộ giao dịch dân sự và yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ
trường hợp người đó biết hoặc phải biết về việc vượt quá phạm vi đại diện mà vẫn giao
dịch hoặc trường hợp người đại diện đồng ý. Trường hợp người đại diện và người giao
dịch với người đại diện cố ý xác lập, thực hiện giao dịch dân sự vượt quá phạm vi đại
diện mà gây thiệt hại cho người được đại diện thì phải chịu trách nhiệm liên đới bồi
thường thiệt hại.
23 Khoản 1, Điều 351 Bộ luật Dân sự 2015.
1.6 Chấm dứt thẩm quyền đại diện của người đại diện theo pháp luật
25
Theo BLDS 2015, thẩm quyền đại diện NĐDTPL chấm dứt sự tồn tại khi:
Người được đại diện là cá nhân đã thành niên hoặc năng lực hành vi dân sự đã được
khôi phục; Người được đại diện là cá nhân chết; Người được đại diện là pháp nhân
chấm dứt tồn tại; Căn cứ khác theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên
quan.24
Đối với NĐDTPL của doanh nghiệp, thẩm quyền đại diện của NĐDTPL chấm
dứt trong trường hợp sau: doanh nghiệp thay đổi người đại diện pháp luật, người đại
diện chết, doanh nghiệp chấm dứt sự tồn tại.
Sở dĩ người đại diện sẽ chấm dứt việc nhân danh doanh nghiệp trong trường hợp
này là bởi mối quan hệ đại diện chỉ được xác lập trên nền tảng của sự ủy thác. Mối
quan hệ này được coi như là quan hệ hợp đồng mà theo đó các cổ đông (những người
chủ - principals), bổ nhiệm, chỉ định người khác, người quản lý công ty (người thụ ủy -
agents)25 [54, Tr. 244]. Như vậy, việc thiếu một trong hai phía sẽ phá vỡ cấu trúc cân
bằng của mối quan hệ này, doanh nghiệp chấm dứt tồn tại sẽ không còn các quyền và
nghĩa vụ để người đại diện được nhân danh thực hiện và ngược lại.
Kết luận chương 1
Chương 1 của Luận văn đã trình bày một cách khái quát các vấn đề lý luận về
đại diện và NĐDTPL của doanh nghiệp theo LDN 2014, tóm gọn lại các ý như sau:
- Về khái niệm: NĐDTPL của doanh nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh
nghiệp xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh
nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền và nghĩa vụ khác theo quy
24 Khoản 4, Điều 140 Bộ luật Dân sự 2015 25 Ở các nước theo truyền thống luật án lệ, giám đốc, người quản lý công ty (director) được coi là fiduciary – tạm gọi là người thụ ủy - một khái niệm mà chúng ta không thể tìm thấy được thuật ngữ tương đồng, phản ánh đầy đủ bản chất và ý nghĩa của từ này, trong luật thực định và khoa học pháp lý Việt Nam. Nói một cách ngắn gọn, fiduciary là người mà được mong muốn hành động vì lợi ích của một người khác, xem Pamela Hanrahan, Ian Ramsay and Geof Stapledon, Commercial Applications of Company Law (5th ed, 2004), tr. 244.
định của pháp luật.
26
- Về đặc điểm của NĐDTPL: Một là, NĐDTPL của doanh nghiệp là người
được ghi nhận trên giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp đó; Hai là,
NĐDTPL của doanh nghiệp là cá nhân có đủ năng luật pháp luật dân sự và năng lực
hành vi dân sự; Ba là, NĐDTPL của doanh nghiệp nhân danh doanh nghiệp thực hiện
các quyền và nghĩa vụ chung của doanh nghiệp; Bốn là, một doanh nghiệp có thể có
một hoặc nhiều NĐDTPL; Năm là, NĐDTPL là người quản lý doanh nghiệp.
- Căn cứ xác lập thẩm quyền đại diện theo pháp luật được xác lập dựa trên
một trong các căn cứ: (i) Người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ; (ii) Người có
thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật; (iii) Người do Tòa án chỉ định trong
quá trình tố tụng tại Tòa án.
- Nghĩa vụ của NĐDTPL: Thứ nhất, thực hiện các quyền và nghĩa vụ được
giao một cách trung thực, cẩn trọng, tốt nhất nhằm bảo đảm lợi ích hợp pháp của doanh
nghiệp; Thứ hai, trung thành với lợi ích của doanh nghiệp; không sử dụng thông tin, bí
quyết, cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp, không lạm dụng địa vị, chức vụ và sử dụng
tài sản của doanh nghiệp để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác; Thứ
ba, thông báo kịp thời, đầy đủ, chính xác cho doanh nghiệp về việc người đại diện đó
và người có liên quan của họ làm chủ hoặc có cổ phần, phần vốn góp chi phối tại các
doanh nghiệp khác.
- Trách nhiệm pháp lý: NĐDTPL của doanh nghiệp chịu trách nhiệm cá
nhân đối với những thiệt hại cho doanh nghiệp do vi phạm nghĩa vụ quy định tại khoản
1 Điều 14 LDN 2014.
- NĐDTPL chấm dứt trong trường hợp sau: doanh nghiệp thay đổi người
đại diện pháp luật, người đại diện chết, doanh nghiệp chấm dứt sự tồn tại.
Nội dung Chương 1 là các lý luận về NĐDTPL của doanh nghiệp. Chương 2 sẽ
trình bày thực trạng pháp luật về NĐDTPL doanh nghiệp và thực tiễn áp dụng tại thành
phố Hồ Chí Minh.
27
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT
CỦA DOANH NGHIỆP VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH
2.1 Thực trạng pháp luật về người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp
2.1.1 Thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật
2.1.1.1. Thời điểm xác lập thẩm quyền
Theo quy định của BLDS 2015, căn cứ xác lập thẩm quyền đại diện theo pháp
luật được xác lập dựa trên một trong các căn cứ: (i) Người được pháp nhân chỉ định
theo điều lệ; (ii) Người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật; (iii) Người
do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án (Điều 135, Điều 137 BLDS
2015). Việc đại diện thông qua cá nhân chỉ được thực hiện trong các trường hợp và
theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định (Điều 98 BLDS 2015).
Như đã nêu ở phần lý luận, BLDS quy định về căn cứ xác lập thẩm quyền đại
diện, LDN 2014 quy định số lượng, chức danh quản lý… như vậy giữa hai luật có sự
bổ sung cho nhau. Tuy nhiên cách sử dụng từ của BLDS 2015 tại Điều 137 có phần
chưa hợp lý khi nói: “NĐDTPL của pháp nhân bao gồm:…”. Cách viết này dễ gây hiểu
nhầm trong trường hợp người đại diện trên Điều lệ khác với người đại diện theo quyết
định của cơ quan thẩm quyền, chỉ đạo của Tòa án là khác nhau thì tất cả những người
này đều là NĐDTPL của doanh nghiệp.
Đối với quy định chung tại Điều 135 BLDS 2015, căn cứ xác lập thẩm quyền
theo từng trường hợp. Do đó, không thể hiểu như trên.
Xét về quy trình thực hiện, dù NĐDTPL xác lập theo trường hợp nào nêu trên
đều phải thông qua thủ tục thay đổi tại cơ quan đăng ký kinh doanh. Ví dụ trường hợp
thành lập doanh nghiệp mới: trước hết điều lệ phải quy định về NĐDTPL của doanh
nghiệp, nội dung này tiếp tục được thể hiện trong Giấy đề nghị đăng ký thành lập
28
doanh nghiệp, sau khi thực hiện thủ tục đăng ký kinh doanh, trong đăng ký kinh doanh
sẽ có nội dung kê khai thông tin người NĐDTPL. Kết quả là trên Giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh có tên và một số thông tin người NĐDTPL. Tương tự, trường hợp
thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp như thay đổi người đại diện pháp luật, doanh
nghiệp phải nộp hồ sơ thay đổi trong đó có điều lệ sửa đổi thông tin người đại diện đến
cơ quan đăng ký kinh doanh trong vòng 10 ngày kể từ ngày quyết định có sự thay
đổi.26 Sau khi nộp đủ hồ sơ hợp lệ theo quy định pháp luật, doanh nghiệp sẽ được cấp
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh với thông tin người đại diện mới.
Trường hợp NĐDTPL, được Bản án/quyết định bởi bản án có hiệu lực pháp luật
chỉ định, Doanh nghiệp phải tiến hành ngay thủ tục đăng ký thay đổi NĐDTPL trong
vòng 15 ngày từ ngày kể từ ngày Bản án/ Quyết định có hiệu lực, qua đó điều lệ doanh
nghiệp phải thay đổi và tên người đại diện mới sẽ được ghi trên giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh khi hoàn tất thủ tục.27
Như vậy, theo tác giả khi sử dụng cụm từ “căn cứ xác lập thẩm quyền”, tức
BLDS nói về thời điểm bắt đầu có hiệu lực xác lập thẩm quyền của NĐDTPL. Nói một
cách dễ hiểu hơn: NĐDTPL có thẩm quyền ngay khi điều lệ doanh nghiệp, điều lệ
doanh nghiệp sửa đổi có hiệu lực (Trường hợp thành lập mới hoặc thay đổi NĐDTPL),
các trường hợp đáp ứng quy định pháp luật, khi có quyết định/ Bản án quyết định
NĐDTPL của doanh nghiệp có hiệu lực.
Do đó, để dễ hiểu hơn và để thống nhất hướng xử lý, theo tác giả LDN 2014 nên
bổ sung thêm điều khoản quy định cụ thể: “Thời điểm xác lập thẩm quyền đại diện có
hiệu lực khi căn cứ xác lập thẩm quyền đại diện theo quy định pháp luật có hiệu lực”.
2.1.1.2. Thẩm quyền của NĐDTPL trường hợp doanh nghiệp có nhiều
người đại diện theo pháp luật
26 Khoản 2, Điều 31 Luật Doanh nghiệp 2014 27 Khoản 4, Điều 31 Luật Doanh nghiệp 2014
Điều lệ doanh nghiệp quy định số lượng, quyền và nghĩa vụ của NĐDTPL
29
doanh nghiệp:
Theo quy định LDN 2014, Công ty TNHH và CTCP có thể có trên 2 người đại
diện pháp luật. Điều lệ công ty quy định cụ thể số lượng, chức danh quản lý và quyền,
nghĩa vụ của NĐDTPL của doanh nghiệp. Ngoài ra, pháp luật không có bất kỳ quy
định nào khác về quyền, nghĩa vụ của NĐDTPL. Như vậy, điều lệ doanh nghiệp đóng
vai trò quyết định đối với thẩm quyền NĐDTPL. Đây được cho là một trong những
bước tiến mới của doanh nghiệp. Thể hiện quyền tự do quyết định của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, doanh nghiệp cần quy định như thế nào để phát huy được hết sự cho phép
của pháp luật:
Giải quyết được các vấn đề, lý do, về việc cho phép doanh nghiệp nhiều
NĐDTPL: đó là nhằm mục đích phân tán trách nhiệm “to lớn” của NĐDTPL; giải
quyết được các vấn đề về điểm mạnh điểm yếu khi xác định vao trò của người điều
hành, người quản trị, NĐDTPL; giải quyết vấn đề ký tá các Hợp đồng, giao dịch với
chính NĐDTPL…
Bên cạnh đó căn cứ vào nhu cầu mục đích của chính doanh nghiệp, doanh
nghiệp hoàn toàn có thể quy định trách nhiệm của từng NĐDTPL như việc phân chia:
người chịu trách nhiệm chính đối với các giao dịch lớn, người chịu trách nhiệm phụ
với các giao dịch nhỏ theo một giá trị xác định hay trường hợp có mâu thuẫn ý chí của
NĐDTPL thì phải ý chí của ai sẽ mang tính chất quyết định kết hợp với việc xác định
chức vụ, quyền hạn của NĐDTPL cho vị trí quản trị hay điều hành doanh nghiệp; hoặc
phân chia quyền và nghĩa vụ theo lĩnh vực, theo vai trò, nhiệm vụ của doanh nghiệp
trước Tòa án, trọng tài; …
Dưới đây là một số gợi ý đối với việc xây dựng điều lệ cho doanh nghiệp nhiều
NĐDTPL:
Xây dựng điều lệ doanh nghiệp:
Theo tác giả việc quy định không rõ thẩm quyền không phải là bất cập trong
việc doanh nghiệp có nhiều NĐDTPL vì đã có quy định pháp luật giải quyết nêu trên.
30
Nhưng để doanh nghiệp xây dựng được điều lệ chuẩn, thể hiện được quyền tối đa pháp
luật cho phép cũng như là nâng cao hoạt động quản trị doanh nghiệp, khi quy định
quyền và nghĩa vụ đối với doanh nghiệp có nhiều người đại diện, doanh nghiệp nên
xem xét các yếu tố sau:
Thứ nhất, dựa vào thẩm quyền của NĐDTPL theo quy định LDN 2014
Dựa vào thẩm quyền của NĐDTPL có thể phân chia NĐDTPL có các thẩm
quyền sau: Thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp,
đại diện cho doanh nghiệp với tư cách nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của
pháp luật.
Thứ hai, dựa vào quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp quy định tại Điều 7, Điều
8 LDN 2014
Dựa vào Điều 7, Điều 8 LDN 2014 có thể phân chia thẩm quyền người đại diện
dựa trên các nhóm sau:
Xác lập thực hiện giao dịch, hợp đồng; -
- Lựa chọn hình thức, phương thức huy động, phân bổ và sử dụng vốn, ký
kết Hợp đồng vay vốn, thế chấp, các văn bản tài liệu, Hợp đồng có liên quan;
- Xác lập Hợp đồng thuê, sử dụng lao động;
- Thực hiện nghĩa vụ Kê khai thuế, nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài
chính khác theo quy định của pháp luật;
- Thực hiện nghĩa vụ về đăng ký doanh nghiệp, đăng ký thay đổi nội dung
đăng ký doanh nghiệp, công khai thông tin về thành lập và hoạt động, báo cáo và các
nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan;
- Liên hệ làm việc với cơ quan nhà nước;
- Đại diện doanh nghiệp làm việc với Tòa án, trọng tài.
- Các thẩm quyền khác không thuộc thẩm quyền của HĐTV, HĐQT,
ĐHĐCĐ.
31
Thứ ba, dựa trên nhu cầu thực tế của doanh nghiệp
Ví dụ, do quy mô doanh nghiệp mở rộng trên cả nước, do đó cần có nhiều đại
diện pháp luật quản lý từng khu vực có thể phân chia NĐDTPL để xác lập thực hiện
giao dịch theo từng khu vực, tham gia tố tụng cũng như thực hiện các quyền và nghĩa
vụ khác trong từng khu vực. Đây là cách phân chia khá dễ và rõ ràng.
Trường hợp khó hơn, doanh nghiệp phân chia thẩm quyền đại diện theo chuyên
môn phụ trách ví dụ như: xác lập thực hiện giao dịch trong việc mua bán, hợp đồng
dịch vụ, với đối tác, vay vốn thế chấp với ngân hàng, xác lập Hợp đồng lao động quản
lý nhân sự của doanh nghiệp, thực hiện các nghĩa vụ thuế với cơ quan nhà nước.
Thứ tư, dựa vào quyền và nghĩa vụ của những chức danh có thẩm quyền khác
trong LDN 2014 để giới hạn thẩm quyền của người đại diện pháp luật
Đối với các giao dịch lớn sẽ thuộc thẩm quyền thông qua của các bộ phận quản
lý khác như: Hội đồng quản trị, Đại hội đồng cổ đông, chủ sở hữu, Hội đồng thành
viên... Do đó, khi quy định thẩm quyền của NĐDTPL cần xem xét để quy định đúng
thẩm quyền của NĐDTPL theo quy định của LDN 2014.
Giải quyết vấn đề xác định phạm vi đại diện không rõ
Dự liệu trước trường hợp doanh nghiệp quy định chưa rõ về thẩm quyền
NĐDTPL, khoản 2 Điều 141 BLDS 2015 quy định trường hợp không xác định được cụ
thể phạm vi đại diện theo quy định tại khoản 1 Điều này thì NĐDTPL có quyền xác
lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện, trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác. Như vậy khi điều lệ quy định thẩm quyền không rõ,
NĐDTPL sẽ có thẩm quyền đầy đủ để xác lập giao dịch. Quy định pháp lý này giải
quyết cho bài toán sau:
Hùng - tổng giám đốc kiêm NĐDTPL của một CTCP luôn cảm thấy phiền phức
khi phải ký quá nhiều hợp đồng. Anh được biết rằng theo khoản 2, Điều 13, LDN
2014, thì “CTTNHH và CTCP có thể có một hoặc nhiều NĐDTPL”. Như vớ được
vàng, Hùng liền xem đây là giải pháp mà anh có thể áp dụng để giảm bớt việc ký của
32
mình. Anh cho đăng ký liền một lúc 03 NĐDTPL của công ty, gồm vị chủ tịch HĐQT
công ty, một vị phó tổng giám đốc phụ trách kinh doanh và Hùng.
Việc có ba người đại diện tưởng như là một giải pháp quản trị hữu hiệu cho
công ty, cho tới khi doanh nghiệp của Hùng đi vay vốn ngân hàng. Khác với lịch sử
giao dịch trước đây, ngân hàng yêu cầu Hùng cung cấp điều lệ công ty để tìm quy định
thể hiện phạm vi thẩm quyền đại diện của ba người đại diện đương nhiên.
Thực tế điều lệ công ty của Hùng không ghi nhận gì về vấn đề này. Ngân hàng
cho biết nếu doanh nghiệp có cùng một lúc nhiều NĐDTPL, thì quyền và nghĩa vụ của
những người đại diện đó phải ghi nhận trong Điều lệ theo LDN 2014. Ngân hàng cần
xác định rõ giao dịch vay vốn trong trường hợp này, ai trong số ba NĐDTPL là người
có thẩm quyền ký kết theo Điều lệ.
Để đáp ứng yêu cầu của ngân hàng, công ty của Hùng đã phải trải qua một quy
trình triệu tập họp từ HĐQT đến ĐHĐCĐ nhằm quy định phạm vi thẩm quyền đại diện
của 03 NĐDTPL tại công ty. Nội dung điều lệ ghi nhận: Chủ tịch HĐQT chịu trách
nhiệm về các giao dịch đầu tư, tổng giám đốc chịu trách nhiệm về các giao dịch kinh
doanh và vị phó tổng giám đốc chịu trách nhiệm về các giao dịch mua sắm của công
ty.
Tưởng chừng mọi chuyện đã được giải quyết và công ty đã đủ điều kiện để vay
vốn ngân hàng, nhưng trong cuộc họp với Hùng, ngân hàng tiếp tục đưa ra các thắc
mắc về thẩm quyền đại diện của ba vị đại diện theo pháp luật. Trong khi Hùng cho
rằng giao dịch vay vốn mua ô tô là giao dịch mua sắm nên vị phó tổng giám đốc –
thẩm quyền về hoạt động mua sắm của công ty sẽ là người ký kết giao dịch, thì phía
ngân hàng lại cho rằng đây là một giao dịch đầu tư.
Ngân hàng còn cho rằng cũng có thể coi đây là một giao dịch kinh doanh thuộc
thẩm quyền đại diện của chính Hùng. Bởi suy cho cùng, mua ô tô cũng là vì phục vụ
mục đích kinh doanh của công ty. Do vậy ngân hàng cho rằng với nội dung Điều lệ
công ty Hùng quy định, vẫn không rõ ai là người có thẩm quyền đại diện để ký kết.
33
Khoản vay đi vào bế tắc. Tưởng rằng nhiều người đại diện là giải pháp hay, hóa ra lại
hay mang lại nhiều phiền phức.28[37, Tr.1 -2]
Một số quan điểm thực tế cho rằng: Không đúng thẩm quyền đại diện ký kết
hợp đồng là một yếu tố có thể dẫn tới giao dịch vô hiệu. Trong một vụ án tranh chấp,
nếu một bên cho rằng người ký đúng thẩm quyền đại diện, bên còn lại cho rằng không
đúng thì rủi ro pháp lý giao dịch vô hiệu xuất hiện. Nếu doanh nghiệp chỉ có một
NĐDTPL và người đó trực tiếp ký kết giao dịch, thì vấn đề rủi ro giao dịch vô hiệu vì
thẩm quyền ký kết khó xảy ra. Nếu doanh nghiệp có nhiều NĐDTPL, thì sẽ phát sinh
nhiều cách hiểu ai là người có thẩm quyền trong số nhiều người đại diện đương nhiên
đó. Rủi ro pháp lý giao dịch vô hiệu sẽ phát sinh khi vụ việc được đưa ra Tòa án giải
quyết. Đây chính là sự bất hợp lý của quy định đa đại diện trong LDN 2014.
Theo tác giả với quy định trên của BLDS 2015, ngân hàng không phải lo lắng
trong việc ký kết hợp đồng với doanh nghiệp trên, bởi đây là trường hợp điều lệ quy
định không rõ thẩm quyền, hạn chế thẩm quyền của NĐDTPL, như vậy đối với giao
dịch trên, cả người đại diện trong hoạt động mua sắm, hay đầu tư, kinh doanh đều có
thẩm quyền ký kết. Ngoài ra, để đảm bảo an toàn hơn cho ngân hàng, ngân hàng có thể
yêu cầu cả 3 người đại diện cùng ký vào văn bản xác định thẩm quyền ký Hợp đồng
vay vốn mua ô tô trong trường hợp này mà không phải thông qua các thủ tục họp
ĐHĐCĐ vô cùng phức tạp.
Sự khác biệt giữa nhiều NĐDTPL và vấn đề phân công phân nhiệm theo
chức vụ trong công ty
Như đã nêu trên, Công ty TNHH và Công ty Cổ phần có thể có một hoặc nhiều NĐDTPL, Điều lệ doanh nghiệp sẽ quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của mỗi người đại diện. Nói cách khác, doanh nghiệp hoàn toàn có thẩm quyền đại diện trong một hoặc một số lĩnh vực như: kinh doanh, tài chính, nhân sự, marketing, đại diện tham gia tố tụng… Tuy nhiên, việc quy định quyền và nghĩa vụ của từng người đại diện theo pháp luật như nêu trên với việc công ty phân chia nhân sự, chức vụ nhân sự đảm trách 28 Trần Minh Hải (2019), Doanh nghiệp không nên cs nhiều người đại diện theo pháp luật, https://tinnhanhchungkhoan.vn/tu-van-tai-chinh/doanh-nghiep-khong-nen-co-nhieu-nguoi-dai-dien-theo-phap- luat-316738.html, truy cập ngày 20/3/2020.
34
công việc này sẽ có một số khác biệt nêu sau:
Về mặt hình thức: NĐDTPL sẽ được ghi tên trên giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, quyền và nghĩa vụ được quy định trong điều lệ doanh nghiệp. Người được được phân công, phân nhiệm thực hiện một công việc nào đó sẽ thực hiện theo quyết định phân công của NĐDTPL, quy chế tổ chức, hoạt động của công ty.
Về mặt trách nhiệm: Khi quy định nhiều NĐDTPL và phân công phân nhiệm cho họ thì những NĐDTPL này sẽ trực tiếp ký kết xác lập giao dịch với đối tác và phải chịu trách nhiệm với công ty đối với phần công việc đã thực hiện theo quy định tại điều lệ. Đối với việc phân công, phân nhiệm cho nhân viên trong công ty thì NĐDTPL vẫn là người quyết định, ký kết hợp đồng với đối tác, chịu trách nhiệm trước doanh nghiệp trước pháp luật. Người giao dịch, nhân viên dù là trưởng phòng, giám đốc về lĩnh vực đó cũng chỉ chịu phần trách nhiệm liên quan đến nội dung mình thực hiện đối với NĐDTPL. NĐDTPL vẫn phải chịu trách nhiệm đối với doanh nghiệp.
Nhưng trong bất kỳ trường hợp nào thì doanh nghiệp vẫn phải chịu trách nhiệm
đối với các nội dung đã giao phó cho NĐ DTPL, nhân viên doanh nghiệp.
2.1.1.3. Phân biệt thẩm quyền NĐDTPL và các chức danh quản lý doanh
nghiệp
Như đã nêu ở trên, NĐDTPL là người được ghi nhận trên Giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh, điều lệ doanh nghiệp, một số trang công bố thông tin của cơ quan
nhà nước. Mỗi cá nhân đại diện theo pháp luật của công ty sẽ có một chức danh quản
lý như chủ tịch hội đồng thành viên, chủ tịch hội đồng quản trị, giám đốc, tổng giám
đốc hoặc các chức danh quản lý khác.
Về khái niệm, người quản lý doanh nghiệp, LDN 2014 không định nghĩa về bản
chất người quản lý doanh nghiệp, tuy nhiên LDN 2014 liệt kê người quản lý doanh
nghiệp là người quản lý công ty và người quản lý doanh nghiệp tư nhân, bao gồm
Thành viên hợp danh, Chủ tịch HĐTV, Chủ tịch HĐQT, Thành viên HĐQT, Giám đốc
hoặc Tổng giám đốc, Chủ doanh nghiệp tư nhân và cá nhân giữ chức danh quản lý
khác có thẩm quyền nhân danh công ty ký kết giao dịch của doanh nghiệp theo quy
định tại Điều lệ.
Do đó, nếu điều lệ không có quy định khác, người nắm giữ các chức danh nêu
35
trên sẽ là người quản lý doanh nghiệp, bên cạnh đó doanh nghiệp có thể chủ động quy
định các chức danh quản lý khác trong điều lệ doanh nghiệp (Điều này có giá trị để
miễn xin phép lao động cho các chức danh quản lý đối với lao động nước ngoài). Xem
xét kỹ quy định trên có thể thấy, không có nghĩa là tất cả những người làm giám đốc
doanh nghiệp đều là người quản lý công ty. Bởi có những công ty có nhiều giám đốc
như: Giám đốc tài chính, Giám đốc pháp lý, Giám đốc nhân sự, Giám đốc kinh
doanh… không phải tất cả những người này đều là quản lý công ty mà chỉ có những
giám đốc được quyền nhân danh công ty xác lập giao dịch theo quy định tại Điều lệ
mới được xem là người quản lý doanh nghiệp. Các chức danh quản lý nêu trên sẽ được
phép đảm nhiệm vị trí NĐDTPL.
Ngược lại, Điều lệ doanh nghiệp sẽ quy định cụ thể chức danh quản lý của
NĐDTPL. Doanh nghiệp có toàn quyền lựa chọn NĐDTPL, nhưng chỉ chọn những
người có những chức danh quản lý nhất định. LDN 2014 không hạn chế những chức
danh quản lý nào được phép đảm nhận vị trí NĐDTPL như LDN 2005 mà doanh
nghiệp được quyền xác định các chức danh khác ngoài các chức danh đã được liệt kê
tại khoản 18 Điều 4 miễn là chức danh đó được Điều lệ công ty quy định là NĐDTPL
tức là có thẩm quyền nhân danh công ty ký kết các giao dịch. [34, tr. 35]
Bên cạnh đó, LDN 2014 cũng quy định những chức danh quản lý đương nhiên
là NĐDTPL của doanh nghiệp:
Đối với công ty cổ phần, NĐDTPL đương nhiên xoay quanh các chức danh
quản lý Chủ tịch HĐQT, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc tại khoản 2 Điều 134 LDN
2014.
Đối với Công ty TNHH Một thành viên quy định trường hợp Điều lệ công ty
không quy định thì Chủ tịch HĐTV hoặc Chủ tịch công ty là NĐDTPL của công ty.29
Bản chất của việc xác lập, giao dịch, ký kết hợp đồng… cũng là hoạt động quản
29 Khoản 2, Điều 78 Luật Doanh Nghiệp 2014.
lý doanh nghiệp, do đó, những người này cũng phải có các chức danh quản lý doanh
36
nghiệp sẽ là điều hết sức hợp lý để chính họ phải chịu trách nhiệm đối với các nghĩa vụ
của mình chứ không phải do sự chỉ đạo của người khác.
LDN 2014 cũng cho phép một người có thể kiêm nhiều chức danh quản lý, Chủ
tịch HĐQT cũng có thể kiêm làm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty.
Ngược lại một người đã làm NĐDTPL thì có thể đồng thời làm NĐDTPL cho
doanh nghiệp khác được hay không?. Khác với Luật Doanh nghiệp 2005, LDN 2014
đã bỏ quy định về Giám đốc/Tổng giám đốc doanh nghiệp không được đồng thời làm
Giám đốc/Tổng giám đốc của doanh nghiệp khác. LDN 2015 không quy định rõ, Giám
đốc/ Tổng giám đốc được làm đại diện cho nhiều doanh nghiệp.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 141 của BLDS 2015, một cá nhân có thể đại
diện cho nhiều pháp nhân khác nhau, đồng thời quy định “không được nhân danh
người được đại diện để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với chính mình hoặc với
bên thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó” nhằm tránh sự xung đột về
lợi ích và những tranh chấp xảy ra trong trường hợp NĐDTPL đồng thời làm NĐDTPL
cho nhiều doanh nghiệp.
Thực tiễn, một người có khả năng, năng lực và kinh nghiệm…để làm đại diện
cho một doanh nghiệp thì cũng đủ năng lực làm đại diện cho nhiều doanh nghiệp khác.
Điều này cho thấy LDN 2015 đã quy định khá phù hợp với thực tế, tạo sự tự do cho
hoạt động kinh doanh.
Như vậy, LDN 2014 đã tạo thuận lợi cho doanh nghiệp bằng việc trao quyền
nhiều hơn cho công ty trong việc lựa chọn chức danh quản lý để đảm nhận vị trí
NĐDTPL, cho nên trong trường hợp doanh nghiệp có hơn hai NĐDTPL thì có thể lựa
chọn trưởng các bộ phận chuyên môn nghiệp vụ của công ty (nhân sự, tài chính, sản
xuất, kinh doanh…) để làm NĐDTPL.
2.1.2 Nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật
Mục 1.3 Luận văn đã nêu nghĩa vụ của NĐDTPL. Theo đó, nghĩa vụ của
NĐDTPL là các quy định tại khoản 1 Điều 14 LDN 2015. Dù tên điều luật và khoản 1
37
Điều 14 dùng từ “Trách nhiệm”, đây cũng là một trong những mâu thuẫn của LDN
2015.
Xét về nội dung của khoản 1 Điều 14 LDN 2015 thì đây là nghĩa vụ của
NĐDTPL còn trách nhiệm của NĐDTPL được nêu tại khoản 2 Điều 14. Theo khoản 1,
Điều 14 LDN 2014, NĐDTPL có các nghĩa vụ sau đây:
Thứ nhất, thực hiện các quyền và nghĩa vụ được giao một cách trung thực, cẩn
trọng, tốt nhất nhằm bảo đảm lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp.
Dưới góc độ lý luận, trách nhiệm “trung thực, cẩn trọng” đều không được định
nghĩa hay có một sự giới hạn rõ ràng. Tuy nhiên, “để hiểu nội hàm này thì người ta
phải so sánh với mức độ cẩn trọng, trung thực mà một người quản lý thực hiện một
nghĩa vụ bình thường của mình trong một tình huống tương tự”30 [19, Tr. 332] và cho
dù có cố gắng đi nữa, thì LDN 2014 cũng sẽ chẳng thể nào giải thích được một cách
chi tiết và thỏa đáng trong các điều luật với những câu chữ có tính “mơ hồ” và định
tính đầy đủ ý niệm của các nghĩa vụ này31 [4, 25]. Thêm vào đó, các học giả, luật gia
khi nghiên cứu để luận giải về trách nhiệm của người đại diện trong công ty liên quan
đến điểm a khoản 1 Điều 12 LDN 2014 này thường sử dụng những văn bản quy phạm
pháp luật chi tiết để giải thích như Thông tư số 121/2012/TT-BTC ngày 26/7/2012 của
Bộ Tài chính quy định về quản trị công ty áp dụng cho các Công ty đại chúng thì trách
nhiệm trung thực, cẩn trọng của thành viên HĐQT, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và
cán bộ quản lý khai thác là nghĩa vụ thực hiện các nhiệm vụ của mình, kể cả những
nhiệm vụ với tư cách thành viên các tiểu ban của HĐQT, “một cách trung thực vì lợi
ích cao nhất của công ty và với mức độ cẩn trọng mà một người thận trọng phải có khi
30 Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Đình Cung (2009), Công ty – Vốn, quản lý và tranh chấp theo Luật Doanh nghiệp 2005, Nxb. Tri thức, Hà Nội, tr. 332. 31 Bùi Xuân Hải (2007), “Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề của pháp luật công ty Việt Nam”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 4/2017, tr 25. 32 Điều 34 Điều lệ mẫu ban hành kèm Thông tư số 121/2012/TT-BTC ngày 26/7/2012 của Bộ Tài chính. Nay là Điều 39 Điều lệ mẫu ban ành kèm theo Phụ lục số 01 của Thông tư số 95/2017/TT-BTC ngày 22/0/2017 của Bộ
đảm nhiệm vị trí tương đương và trong hoàn cảnh tương tự”.32 Tuy nhiên, đến Thông
38
tư số 95/2017/TT-BTC ngày 22/0/2017 của Bộ Tài chính thay thế thông tư trên thì nội
dung quy định về trách nhiệm trung thực, cẩn trọng bị lượt bỏ đi khá nhiều và chỉ còn
nêu một cách ngắn gọn là “… một cách trung thực, cẩn trọng vì lợi ích của Công ty”.
Tuy nhiên, quy định trên chỉ mang tính chất tham khảo vì chỉ quy định đối với trường
hợp là công ty đại chúng và quy định hiện hành cũng không giải thích như thế nào
được xem là trung thực và như thế nào được xem là cẩn trọng33. [26, Tr. 38)
Chính vì vậy, khi có tranh chấp giữa NĐDTPL của công ty và những cổ đông
trong công ty xảy ra thì việc xác định trách nhiệm và sai phạm của NĐDTPL phần lớn
phụ thuộc vào giải thích của Thẩm phán và các thành viên hội đồng xét xử khác.
Thứ hai, Trung thành với lợi ích của doanh nghiệp; không sử dụng thông tin, bí
quyết, cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp, không lạm dụng địa vị, chức vụ và sử dụng
tài sản của doanh nghiệp để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác.
Trong nhiều trường hợp, NĐDTPL doanh nghiệp không phải là chủ sở hữu công
ty, hay chỉ chiếm một phần nhỏ trong doanh nghiệp. Do đó, việc tư lợi cá nhân hoàn
toàn xảy ra. Điển hình như những vụ án thực tế làm thất thoát hàng chục tỷ đồng mà
những người mang danh đại diện pháp luật của doanh nghiệp đã gây ra ngày càng
nhiều khiến các chủ sở hữu công ty phải lao đao vào kiện tụng nhằm đòi lại những
khoản tài sản khổng lồ đã “không cánh mà bay” vào túi của riêng như trường hợp nêu
ở mục thực trạng 2.2 Chương 2.
Ngày 22/01/2019, sau hai ngày xét xử Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân thành
phố Hà Nội đã quyết định tuyên án với 4 bị cáo nguyên là lãnh đạo của Công ty Lọc
hóa dầu Bình Sơn (BSR) về tội “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản”.
Theo đó Vũ Mạnh Tùng, nguyên Phó TGĐ BSR lĩnh án 8 năm tù; Nguyễn Hoài Giang,
nguyên Chủ tịch HĐTV BSR lĩnh án 7 năm tù; Phạm Xuân Quang, nguyên Kế toán
Tài chính. 33 Phan Thành Nhân (2018), Thực trạng quy định của pháp luật về NĐDTPL của doanh nghiệp và hướng hoàn thiện, Tòa án Nhân dân, số 7/2018, tr 38.
trưởng BSR lĩnh án 6 năm tù và bị cáo Đinh Văn Ngọc, nguyên TGĐ BSR lĩnh án 4
39
năm tù đối với những hành vi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, diễn ra trong thời gian
dài, dùng tài sản chủ sở hữu nhà nước trong Công ty để trục lợi cá nhân và gây thiệt hại
cho ngân hàng. Hành vi của các bị cáo tác động rất xấu đến hoạt động kinh tế của
doanh nghiệp, gây ảnh hưởng xấu đến xã hội34. Cụ thể, Vũ Mạnh Tùng đã nhận và
chiếm đoạt 2,9 tỷ đồng và 40.000 USD (tổng số tương đương hơn 3,7 tỷ đồng);
Nguyễn Hoài Giang đã nhận và chiếm đoạt 2,9 tỷ đồng; Phạm Xuân Quang đã nhận và
chiếm đoạt 1,8 tỷ đồng và 20.000 USD (tổng số tương đương hơn 2,2 tỷ đồng); Đinh
Văn Ngọc đã nhận và chiếm đoạt 1,5 tỷ đồng35.
Như vậy, các nhà làm luật đã dự liệu những tình huống khách quan rất có thể
xảy ra trong thực tiễn liên quan đến mối quan hệ trung thành với lợi ích của doanh
nghiệp cũng như việc lạm dụng địa vị, chức vụ và sử dụng tài sản của doanh nghiệp để
tư lợi của người đại diện pháp luật với công ty. Qua đó, việc nhận diện những hành vi
vi phạm trách nhiệm và đặt ra các chế tài tương ứng đã góp phần nào trong việc hạn
chế hành vi vi phạm nghĩa vụ của người đại diện, giảm những thất thoát về tài sản, uy
tín đáng có của các chủ sở hữu khi giao toàn bộ tài sản doanh nghiệp cho người khác
quản lý.
Thứ ba, thông báo kịp thời, đầy đủ, chính xác cho công ty về việc người đại diện
đó và người có liên quan của họ làm chủ hoặc có cổ phần, phần vốn góp chi phối tại
các doanh nghiệp khác.
Giống như nội dung nêu trên, NĐDTPL của doanh nghiệp có thể tư lợi cho cá
34 Xem bài báo “ Phạt tù dàn cán bộ của Công ty Lọc hóa dầu Bình Sơn tại chuyên mục Pháp đình” của Báo điện tử Công lý – cơ quan ngôn luận của Tòa án nhân dân Tối cao “ http://congly.vn/phap-dinh/toa-tuyen-an/phat- tu-dan-can-bo-cua-cong-ty-loc-hoa-dau-binh-son-284684.html (truy cập ngày 15/3/2020). 35 Theo cáo trạng truy tố của VKS, trong thời gian từ năm 2009 - năm 2014, thực hiện chỉ đạo của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) về việc ưu tiên sử dụng dịch vụ của Ngân hàng thương mại CP Đại Dương (OceanBank) là ngân hàng mà PVN góp 20% vốn điều lệ, Công ty BSR đã gửi tiền có kỳ hạn và không kỳ hạn tại OceanBank chi nhánh Quảng Ngãi. Với vai trò là lãnh đạo của Công ty BSR, trong 2 năm (2013 - 2014), Vũ Mạnh Tùng, Nguyễn Hoài Giang, Phạm Xuân Quang và Đinh Văn Ngọc đã quyết định việc gửi tiền của Công ty BSR vào Ngân hàng OceanBank, do đó đã được Nguyễn Minh Thu (nguyên Tổng Giám đốc OceanBank) chi tiền ngoài hợp đồng (tiền chi chăm sóc khách hàng).
40
nhân hoặc có thể tư lợi cho những người thân của họ. Do đó, LDN 2014 quy định giao
dịch có yếu tố liên quan phải được HĐTV, HĐQT thông qua. Trong trường hợp này,
bên có liên quan trong hợp đồng, giao dịch không có quyền biểu quyết và tỉ lệ cụ thể để
thông qua giao dịch này được quy định cụ thể trong điều lệ doanh nghiệp.
Yếu tố liên quan thể hiện ở việc hợp đồng giao dịch được thực hiện giữa công ty
với các đối tượng có khả năng phát sinh yếu tố xung đột lợi ích.
Trên thực tế có rất nhiều trường hợp Hợp đồng vô hiệu do giao dịch không đúng
thẩm quyền mà nguyên nhân sâu xa là do hợp đồng ký kết với người có liên quan đến
các thành viên quản lý công ty hay NĐDTPL. Tuy nhiên chính NĐDTPL lại đương
nhiên ký hợp đồng này mà không lấy ý kiến HĐQT, ĐHĐCĐ thông qua giao dịch.
2.1.3 Phạm vi đại diện của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
Về cơ bản, quyền và nghĩa vụ đại diện của bên đại diện phát sinh trên cơ sở quy
định của pháp luật, điều lệ hoặc văn bản ủy quyền. Đối với NĐDTPL, nội dung phạm
vi được thực hiện các quyền và nghĩa vụ thay mặt cho doanh nghiệp được tóm gọn
trong các quy định của pháp luật và điều lệ của doanh nghiệp. Tuy nhiên, thực tế có
những công việc không nằm trong phạm vi thẩm quyền của người đại diện được quy
định cụ thể và rõ ràng trong luật hoặc điều lệ công ty trong một số trường hợp cũng
được coi là thẩm quyền của người đại diện và giao dịch đó vẫn có giá trị ràng buộc
giữa công ty và người thứ ba bởi vì trường hợp không xác định được cụ thể phạm vi
đại diện theo quy định của pháp luật hoặc điều lệ thì NĐDTPL của công ty có quyền
xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện, trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác36.
Đối với quy định của pháp luật, LDN 2014 đã liệt kê các công việc nằm trong
phạm vi thẩm quyền của NĐDTPL như sau:
Một là, đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát -
36 Khoản 3, Điều 141 Bộ luật Dân sự
sinh từ giao dịch của doanh nghiệp.
41
Như đã phân tích ở trên, không có một doanh nghiệp nào tồn tại mà không tiến
hành bất cứ một giao dịch nào trong thương trường, với bản chất là một pháp nhân như
vậy, mọi hợp đồng hoặc giao dịch với bên thứ ba của công ty đều phải do NĐDTPL
xác lập và thực hiện, đây là quyền năng cơ bản của người được công ty giao phó thẩm
quyền được nhân danh công ty trong vận hành doanh nghiệp.
NĐDTPL của công ty là người được thay mặt công ty thực hiện các giao dịch vì
lợi ích của công ty với các đối tác, khách hàng và với cơ quan nhà nước. CTCP là một
pháp nhân nên “phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ dân
sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân” (khoản 1 Điều 87 Bộ
luật Dân sự năm 2015).
Về phạm vi đại diện, Điều 141 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định bốn căn cứ
xác định phạm vi đại diện: (i) Quyết định của cơ quan có thẩm quyền; (ii) Điều lệ của
pháp nhân; (iii) Nội dung ủy quyền; (iv) Quy định khác của pháp luật.
LDN 2014 dành quyền quy định thẩm quyền của Giám đốc/Tổng giám đốc và
chủ tịch HĐQT cho Doanh nghiệp quyết định. Do đó, doanh nghiệp có toàn quyền quy
định nhiệm vụ, quyền hạn của các chức danh này cho phù hợp với tính chất tình hình
hoạt động kinh doanh riêng biệt của mỗi doanh nghiệp.
Về cơ bản, quyền và nghĩa vụ đại diện của bên đại diện phát sinh trên cơ sở quy
định của pháp luật, điều lệ hoặc văn bản ủy quyền. Đối với NĐDTPL, nội dung phạm
vi được thực hiện các quyền và nghĩa vụ thay mặt cho doanh nghiệp được tóm gọn
trong các quy định của pháp luật và điều lệ của doanh nghiệp. Tuy nhiên, thực tế có
những công việc không nằm trong phạm vi thẩm quyền của người đại diện được quy
định cụ thể và rõ ràng trong luật hoặc điều lệ công ty trong một số trường hợp cũng
được coi là thẩm quyền của người đại diện và giao dịch đó vẫn có giá trị ràng buộc
giữa công ty và người thứ ba bởi vì trường hợp không xác định được cụ thể phạm vi
đại diện theo quy định của pháp luật hoặc điều lệ thì NĐDTPL của công ty có quyền
xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện, trừ trường
42
hợp pháp luật có quy định khác.
Cụ thể, đối với điều lệ của công ty, được xem như là “luật riêng” của mỗi doanh
nghiệp, không những thể hiện những thông tin cơ bản của doanh nghiệp mà còn quy
định các vấn đề quản trị nội bộ của công ty, đặc biệt là trách nhiệm, quyền hạn và
phạm vi thẩm quyền của NĐDTPL. Hơn nữa, đối với những công ty lớn có nhiều cơ sở
kinh doanh, có địa bàn hoạt động rộng lớn khắp cả nước, quản lý hàng chục ngàn nhân
viên thì điều lệ cũng phải quy định quyền và nghĩa vụ riêng của từng NĐDTPL để
tránh chồng chéo và phát sinh nhiều rắc rối trong vận hành kinh doanh.
Điều 141 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 13, Điều 14 LDN 2014 quy định:
Người đại diện chỉ được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện.
Trường hợp không xác định được cụ thể phạm vi đại diện theo quy định tại khoản 1
Điều 141 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì NĐDTPL có quyền xác lập, thực hiện mọi giao
dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác. Một cá nhân có thể đại diện cho nhiều công ty khác nhau, nhưng không được
nhân danh công ty được đại diện để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với chính mình
hoặc với bên thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp
luật có quy định khác.
Người đại diện phải thông báo cho bên giao dịch biết về phạm vi đại diện của
mình; thực hiện các quyền và nghĩa vụ được giao một cách trung thực, cẩn trọng, tốt
nhất nhằm bảo đảm lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp; trung thành với lợi ích của
doanh nghiệp; không sử dụng thông tin, bí quyết, cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp,
không lạm dụng địa vị, chức vụ và sử dụng tài sản của doanh nghiệp để tư lợi hoặc
phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác; thông báo kịp thời, đầy đủ, chính xác cho
doanh nghiệp về việc người đại diện đó và người có liên quan của họ làm chủ hoặc có
cổ phần, phần vốn góp chi phối tại các doanh nghiệp khác. NĐDTPL của doanh nghiệp
chịu trách nhiệm cá nhân đối với những thiệt hại cho doanh nghiệp do vi phạm nghĩa
vụ quy định tại khoản 1 Điều 14 LDN. Ngoài ra, người đại diện có thể có quyền được
43
trả thù lao đại diện nếu các bên hoặc pháp luật có quy định; có thể ủy quyền cho người
khác thực hiện quyền và nghĩa vụ đại diện của mình, nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm
trước pháp luật và trước người được đại diện về các quyền và nghĩa vụ đại diện.
Điều 143 Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng quy định trường hợp người đại diện
xác lập hoặc thực hiện một giao dịch vượt quá phạm vi đại diện, thì người đại diện phải
thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình về phần vượt quá phạm vi đại
diện, mà không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần
vượt quá phạm vi đại diện, trừ ba trường hợp: (i) Người được đại diện đồng ý; (ii)
Người được đại diện biết mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý; (iii) Người
được đại diện có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc không thể biết
việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình vượt quá phạm vi đại diện.
Trường hợp nếu người đại diện và người giao dịch với người đại diện cố ý xác lập,
thực hiện giao dịch dân sự vượt quá phạm vi đại diện mà gây thiệt hại cho người được
đại diện thì phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại.
Khác với quy định Bộ luật Dân sự 2005, BLDS 2015 đã quy định theo hướng cụ
thể hơn và cũng bó hẹp hơn. Quy định này phần nào gây khó khăn cho bên thứ 3 khi
tham gia giao dịch với doanh nghiệp buộc phải xác định rõ thêm thẩm quyền của
NĐDTPL doanh nghiệp dựa trên các điều lệ, quyết định của cơ quan có thẩm quyền và
quy định pháp luật.
Trong trường hợp không xác định được cụ thể phạm vi đại diện của NĐDTPL,
khoản 2 Điều 141 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Trường hợp không xác định được
cụ thể phạm vi đại diện theo quy định tại khoản 1 Điều này thì NĐDTPL có quyền xác
lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện, trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác”.
Trong khi đó, LDN 2014 không có bất kỳ quy định nào về trường hợp không
xác định được cụ thể phạm vi đại diện theo quy định pháp luật. Do đó, trong trường
hợp có tranh chấp xảy ra do không xác định được phạm vi người đại diện, quy định
44
trên của BLDS sẽ được áp dụng.
Dù vậy, quy định này dùng để áp dụng trong trường hợp điều lệ quy định không
rõ. Do đó, trong quá trình tham gia giao dịch bên giao dịch còn lại vẫn phải cố gắng hết
sức tìm hiểu phạm vi thẩm quyền của người đại diện dựa trên các yếu tố sau:
Thứ nhất, đề nghị doanh nghiệp cung cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
và Bản điều lệ hiện hành của doanh nghiệp. Dựa trên các tài liệu này, để xác định
chính xác ai là người được đại diện. Đồng thời, cần tra cứu đối chiếu thông tin doanh
nghiệp trên trang thông tin điện tử
https://dangkykinhdoanh.gov.vn/vn/Pages/Trangchu.aspx. Điều lệ của một doanh
nghiệp cũng như hiến pháp của một quốc gia. Đa số các doanh nghiệp đều sử dụng
điều lệ mẫu quy định một cách chung chung theo quy định pháp luật. Ngoài ra, có một
số ít doanh nghiệp cũng đã tiến bộ quy định cụ thể các nội dung pháp luật cho phép
doanh nghiệp tự quy định, như quyền và nghĩa vụ của NĐDTPL doanh nghiệp. Dù
điều lệ có quy định như thế nào, việc xem xét điều lệ doanh nghiệp là hết sức cần thiết
thể hiện bên giao dịch đã tìm hiểu kỹ thẩm quyền của NĐDTPL.
Nhiều trường hợp người ký hợp đồng giao dịch là các Phó giám đốc, hay Giám
đốc đầu tư, Giám đốc tài chính, Giám đốc nhân sự… chứ không phải Giám đốc điều
hành hay Tổng giám đốc công ty – tức cũng không phải người đại diện doanh nghiệp.
Trong trường hợp này, bên giao dịch cần yêu cầu doanh nghiệp cung cấp được Giấy ủy
quyền và xác định thẩm quyền dựa trên nội dung ghi trên văn bản ủy quyền.
Thứ hai, đề nghị doanh nghiệp cung cấp quyết định, quy chế, điều lệ phân định
thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông, HĐQT, Giám đốc/ Tổng giám đốc trong việc
quyết định và ký kết các giao dịch.
Thứ ba, khi phát hiện giao dịch đã ký kết vượt quá thẩm quyền, bên giao dịch
cần yêu cầu doanh nghiệp ký lại bản Hợp đồng mới đúng thẩm quyền, hoặc yêu cầu
văn bản ủy quyền của người có thẩm quyền, hoặc yêu cầu văn bản của người có thẩm
quyền thể hiện nội dung đã biết giao dịch này và đồng ý để các bên thực hiện cũng như
45
đồng ý chịu trách nhiệm pháp lý trong các giao dịch đó.
Thứ tư, một số trường hợp NĐDTPL doanh nghiệp đã ký, nhưng lại ký Hợp
đồng giao dịch, thuộc thẩm quyền của HĐQT, ĐHĐCĐ, HĐTV. Khi phát hiện giao
dịch không đúng thẩm quyền, bên giao dịch cần ngay lập tức thông báo với doanh
nghiệp đề nghị doanh nghiệp phải cung cung cấp nghị quyết thông qua của nhóm có
thẩm quyền.
Thứ năm, một số giao dịch có định mức thuộc thẩm quyền của người đại diện,
tuy nhiên cần phải xem xét đến yếu tố người liên quan và các giao dịch liên quan đến
lợi ích của chính người đại diện.
Hai là, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách nguyên đơn, bị đơn, người -
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án.
Bộ luật Dân sự 2015, Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Luật Tố tụng hành chính
2015 quy định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của NĐDTPL của doanh nghiệp trong
việc đại diện cho doanh nghiệp tham gia tố tụng tại Tòa án hoặc Trọng tài với tư cách
nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan quan. Tuy nhiên, đối
với thủ tục tố tụng trọng tài thì không quy định cụ thể vai trò của NĐDTPL. Có lẽ, bởi
LDN 2014 đã quy định rõ là NĐDTPL có quyền đại diện cho doanh nghiệp trong thủ
tục trọng tài. Trên thực tế, NĐDTPL có quyền đại diện cho doanh nghiệp trong thủ tục
tố tụng trọng tài.
Ba là, đại diện cho doanh nghiệp đối với các quyền và nghĩa vụ khác -
theo quy định của pháp luật.
Kinh doanh là hoạt động chính của các doanh nghiệp nên đa số hoạt động của
NĐDTPL của công ty là tiến hành xác lập, thực hiện các giao dịch, mua bán, phân phối
hàng hóa và dịch vụ. Tuy nhiên, bên cạnh thẩm quyền này và thẩm quyền trong thủ tục
tố tụng, NĐDTPL doanh nghiệp cũng đối mặt với rất nhiều những hoạt động mang tính
thường xuyên nhằm duy trì bộ máy tổ chức doanh nghiệp cũng như việc vận hành kinh
doanh một cách hợp pháp mà có thể tạm chia làm hai loại: (1) làm việc với cơ quan
46
nhà nước: thông báo về nội dung đăng ký doanh nghiệp, thông báo về việc cử người
đại diện, thay đổi người đại diện theo ủy quyền, các nghĩa vụ của NĐDTPL trong các
lĩnh vực kế toán, thuế, tổ chức lại công ty, mua bán và sáp nhập, giải thể hoặc phá
sản…(2) làm việc với cơ quan hữu quan: cung cấp thông tin cho báo chí theo quy định
của Luật báo chí, thực hiện việc mở và quản lý tài khoản tại Ngân hàng…
Ngoài những trách nhiệm trong phạm vi ủy quyền được quy định rõ ràng trong
Luật và điều lệ như trên, thực tiễn hoạt động pháp lý tại doanh nghiệp cũng tồn tại một
dạng đại diện gọi là “Quyền đại diện ngầm định”. Cụ thể khi quy định của pháp luật,
điều lệ không quy định và lường trước hết được những thẩm quyền mà NĐDTPL có
thể có để thực hiện hoạt động kinh doanh một cách hiệu quả thì vấn đề pháp lý đặt ra là
liệu bên đại diện có thể thực hiện các hành động khác có liên quan một cách hợp lý đến
quyền đại diện đã được quy định rõ ràng hay không. Hay nói một cách khác, bên đại
diện có quyền đại diện ngầm định khi thực hiện hành động dựa trên hoặc liên quan đến
quyền đại diện rõ ràng hay không.
Phạm vi thẩm quyền đại diện nêu trên có vai trò vô cùng quan trọng trong việc
xác định người có thẩm quyền đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các giao dịch, cũng
như đại diện doanh nghiệp tham gia vào các quan hệ pháp luật. Như đã nêu ở trên,
ngoài quy định của pháp luật, doanh nghiệp cũng có thể quy định quyền và nghĩa vụ
của NĐDTPL doanh nghiệp trong điều lệ doanh nghiệp.
Theo đó, doanh nghiệp có thể giới hạn thẩm quyền đối với NĐDTPL. Tuy
nhiên, đối với NĐDTPL nói chung và đặc biệt là đối với NĐDTPL, giới hạn phạm vi
đại diện hoặc thẩm quyền đại diện chỉ có giá trị pháp lý đối với bên thứ ba nếu bên thứ
ba đã được thông báo rõ hoặc có nghĩa vụ phải biết về giới hạn phạm vi đại diện đó.
Ngược lại, bên thứ ba có quyền hiểu rằng người đại diện, NĐDTPL, có đủ thẩm quyền
đại diện để nhân danh DN xác lập, thực hiện giao dịch. Cụ thể, khoản 2 Điều 141,
LDN 2014 quy định:
“Trường hợp không xác định được cụ thể phạm vi đại diện theo quy định tại
47
khoản 1 Điều này thì NĐDTPL có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi
ích của người được đại diện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.” .37
Đây cũng là cơ sở để giải quyết vướng mắc trong trường hợp doanh nghiệp có
nhiều NĐDTPL.
2.1.4 Trách nhiệm pháp lý của người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp
Theo quy định tại khoản 2, Điều 14 LDN 2014, NĐDTPL chịu trách nhiệm cá
nhân đối với những thiệt hại cho doanh nghiệp do vi phạm nghĩa vụ của mình tại khoản
1 Điều Điều 14, cụ thể là vi phạm nghĩa vụ cẩn trọng, trung thực, trung thành, thông
báo kể trên mà gây ra thiệt hại cho danh nghiệp thì phải bồi thường thiệt hại. Trách
nhiệm bồi thường là trách nhiệm cá nhân của người đại diện. Theo đó, cổ đông hoặc
nhóm cổ đông sở hữu ít nhất 1% số cổ phần phổ thông liên tục trong thời hạn 06 tháng
có quyền khởi kiện đối với người quản lý công ty theo trình tự thủ tục quy định tại Bộ
luật tố tụng dân sự 2015. Cụ thể, khi khởi kiện NĐDTPL của công ty có những vi
phạm nghĩa vụ trên, người khởi kiện phải chứng minh đầy đủ các căn cứ phát sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại: NĐDTPL của công ty có hành vi vi phạm một hoặc
một số các nghĩa vụ cẩn trọng, trung thực, trung thành, thông báo (1); hành vi vi phạm
này gây ra thiệt hại thực tế cho chính công ty của NĐDTPL (2); có mối quan hệ nhân
quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại (3); hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp
luật(4)38. Tuy nhiên, việc các chủ sở hữu kiện NĐDTPL có hành vi vi phạm gây thiệt
hại đến lợi ích của công ty là rất khó khăn trong thực tế, thậm chí có những vụ việc thất
thoát hàng chục tỷ đồng và ảnh hưởng rất lớn đến uy tín, tài sản vô hình của công ty thì
việc đòi lại công bằng dường như là “mò kim đáy bể” khi thuyết bất cân xứng thông tin
(Asymmetric information) cho rằng thông tin được xem là một loại tài sản quan trọng
37 Khoản 2 Điều 141 BLDS. 38 Điều 584 Bộ luật dân sự 2015
đối với các nhà đầu tư. Nhưng không phải ai cũng có cơ hội sở hữu một lượng thông
48
tin chính xác, kịp thời, đầy đủ như nhau. Sự bất cân xứng thông tin xảy ra khi các bên
tham gia giao dịch, cụ thể là những người có khả năng tiếp cận và giải quyết trực tiếp
thông tin như Chủ tịch HĐQT, Chủ tịch HĐTV hay Tổng giám đốc, Giám đốc cố tình
che đậy thông tin, làm cho nhà đầu tư đưa ra những quyết định sai lầm gây thiệt hại
cho lợi ích của họ, trong khi đó những kẻ che đậy thông tin lại thu được những lợi ích
nhất định hoặc thậm chí che giấu những thông tin về vi phạm nghĩa vụ của chính mình
để trốn tránh trách nhiệm của pháp luật39.[20, Tr. 26]
Chính vì vậy, khi có tranh chấp giữa NĐDTPL của công ty và những cổ đông
trong công ty xảy ra thì việc xác định trách nhiệm và sai phạm của NĐDTPL phần lớn
phụ thuộc vào giải thích của Thẩm phán, điển hình là vụ tranh chấp được nêu tại mục
2.2 phần thực tiễn áp dụng pháp luật về NĐ DTPL, chương 2.
2.1.5 Chấm dứt thẩm quyền đại diện của người đại diện theo pháp luật
Thứ nhất, khi doanh nghiệp quyết định thay đổi NĐDTPL.
Thay đổi NĐDTPL của doanh nghiệp là một trong những thủ tục thay đổi nội
dung đăng ký kinh doanh. Vì thế, nếu doanh nghiệp muốn tiến hành việc thay đổi
NĐDTPL thì phải đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh trong thời hạn mười ngày
làm việc, kể từ ngày quyết định thay đổi40. Cụ thể, quyết định bằng văn bản và bản sao
biên bản họp của HĐTV đối với công ty TNHH hoặc quyết định bằng văn bản và bản
sao biên bản họp ĐHĐCĐ đối với CTCP về việc thay đổi NĐDTPL trong trường hợp
việc thay đổi NĐDTPL của công ty làm thay đổi nội dung Điều lệ công ty. Quyết định,
biên bản họp phải ghi rõ những nội dung được thay đổi trong Điều lệ công ty, ở đây là
việc thay đổi NĐDTPL của doanh nghiệp.
Hậu quả của việc thay đổi người đại diện pháp luật là người đại diện mới thay
thế người đại diện cũ nhân danh doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ của
39 TS. Nguyễn Ngọc Thanh (2010), Vấn đề chủ sở hữu và người đại diện: một số gợi ý về chính sách cho Việt Nam, in trong: Chuyên san Kinh tế và kinh doanh, tập 26, số 1/2010 40 Điều 26 Luật Doanh nghiệp 2014
doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. Mọi giao dịch được xác lập, thực hiện bởi
49
người đại diện cũ sau thời điểm doanh nghiệp hoàn tất thủ tục đăng ký thay đổi
NĐDTPL sẽ không có giá trị ràng buộc đối với doanh nghiệp.
Mặc dù quy định như vậy, trên thực tế, khi có tranh chấp về ai là người đại diện
theo pháp luật của doanh nghiệp, Một số Tòa án không quyết định chấm dứt thẩm
quyền người đại diện mà bàn giao lại nghĩa vụ này cho chính Phòng đăng ký kinh
doanh như vụ việc sau:
Vào năm 2018, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã đưa ra xét xử vụ
kiện tranh chấp thành viên công ty có liên quan đến việc thay thế NĐDTPL, bãi nhiệm
Chủ tịch HĐTV một doanh nghiệp.
Sự việc diễn ra từ năm 2013, được khởi kiện vào năm 2016, nhưng phải chờ đến
năm 2018 mới có được Bản án sơ thẩm.
Sự việc cụ thể như sau: bà Nguyễn Thị M. được thành viên góp vốn cử làm
người đại diện và tham gia quản trị, điều hành công ty với vai trò là Chủ tịch HĐTV và
NĐDTPL.
Tuy nhiên, khi cổ đông thay đổi người đại diện thì bà Nguyễn Thị M. đã không
tiến hành hoàn tất các văn bản pháp lý và làm các thủ tục thay đổi thành viên tại Phòng
Đăng ký kinh doanh - Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh.
Sự dùng dằng này khiến cho hoạt động của doanh nghiệp bị ảnh hưởng. Thành
viên góp vốn còn lại đã phải đệ đơn khởi kiện đề nghị tòa án bãi miễn tư cách Chủ tịch
HĐTV và NĐDTPL của bà Nguyễn Thị M., thu hồi toàn bộ sổ sách, chứng từ, Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh và con dấu công ty.
Trong sự việc này, doanh nghiệp chưa tách bạch được quan hệ pháp luật chấm
dứt thẩm quyền đại diện của người đại diện pháp luật và bổ nhiệm thành viên khác làm
người đại diện pháp luật. Phía Tòa án trong suốt quá trình giải quyết cũng không giải
thích rõ cho các bên.
Sau này, nguyên đơn đã thay đổi yêu cầu khởi kiện, đề nghị Tòa án công nhận
Biên bản họp và Quyết định của HĐTV, trong đó có nội dung bà Nguyễn Thị M. có
50
trách nhiệm làm thủ tục thay đổi thành viên. Khi đó yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
mới được chấp nhận.
Có thể thấy, sự việc đã kéo dài 5 năm và tranh chấp về người quản trị, điều hành
doanh nghiệp gây ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
Thứ hai, NĐDTPL chết
Đối với NĐDTPL của doanh nghiệp, Bộ luật Dân sự 2015 quy định thời hạn đại
diện chấm dứt khi NĐDTPL chết41. Đại diện cho doanh nghiệp đó là quan hệ pháp luật
liên quan đến nhân thân, mang đặc thù riêng của từng cá nhân, doanh nghiệp do đó, khi
người đại diện chết, thời hạn đại diện cũng chấm dứt mà không thể để lại thừa kế cho
cá nhân khác.
Thứ ba, doanh nghiệp chấm dứt tồn tại
Một trong những trường hợp chấm dứt quan hệ đại diện theo quy định tại Bộ
luật Dân sự 2015 là người được đại diện là pháp nhân chấm dứt tồn tại42. Theo quy
định Điều 96 LDN, pháp nhân chấm dứt sự tồn tại: Hợp nhất, sáp nhập, chia, chuyển
đổi hình thức, giải thể pháp nhân theo quy định tại các điều 88, 89, 90, 92 và 93 của Bộ
luật này; Bị tuyên bố phá sản theo quy định của pháp luật về phá sản.43
Xuất hiện cùng với sự tồn tại của doanh nghiệp. Đại diện cho doanh nghiệp
trong các giao dịch. Khi doanh nghiệp chấm dứt hoạt động, thẩm quyền đại diện của
NĐDTPL theo đó cũng chấm dứt. Tuy nhiên, NĐDTPL vẫn phải chịu một số trách
nhiệm pháp lý sau khi doanh nghiệp chấm dứt tồn tại, ví dụ như: Trường hợp nộp hồ sơ
giải thể doanh nghiệp nếu có hồ sơ giải thể không chính xác, giả mạo, HĐQT CTCP,
Thành viên HĐTV CTTNHH, Chủ sở hữu công ty, Chủ doanh nghiệp tư nhân, Giám
đốc hoặc Tổng giám đốc, Thành viên hợp danh, NĐDTPL của doanh nghiệp phải liên
41 Điểm b, khoản 4, Điều 140 Bộ luật Dân sự 2015 42 Điểm c khoản 3 Điều 140 Bộ luật Dân sự 2015 43 Điều 96 Bộ luật Dân sự 2015
đới chịu trách nhiệm thanh toán số nợ chưa thanh toán, số thuế chưa nộp và quyền lợi
51
của người lao động chưa được giải quyết và chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật
về những hệ quả phát sinh trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày nộp hồ sơ giải thể doanh
nghiệp đến Cơ quan đăng ký kinh doanh.44
Hợp nhất doanh nghiệp: Kết quả của việc hợp nhất doanh nghiệp là việc chấm
dứt tồn tại địa vị pháp lý của các doanh nghiệp tiến hành hợp nhất, bao gồm cả quan hệ
đại diện theo pháp luật. Theo đó, một doanh nghiệp sẽ xuất hiện đồng thời với một
quan hệ đại diện mới45.
Sáp nhập doanh nghiệp: Kết quả của việc sáp nhập doanh nghiệp là doanh
nghiệp bị sáp nhập sẽ mất hoàn toàn địa vị pháp lý, bao gồm cả quan hệ đại diện theo
pháp luật còn doanh nghiệp nhận sáp nhập sẽ kế thừa toàn bộ quyền và nghĩa vụ của
doanh nghiệp bị sáp nhập đó. Từ đó kéo theo người đại diện của doanh nghiệp nhận
sáp nhập có quyền thừa kế quyền và nghĩa vụ của những NĐDTPL của các doanh
nghiệp bị sáp nhập46.
Chia doanh nghiệp: Kết quả của việc chia doanh nghiệp là việc chấm dứt tồn tại
của doanh nghiệp bị chia và hình thành nên hai doanh nghiệp mới, quan hệ đại diện
cũng mất theo và hình thành nên hai quan hệ đại diện mới tương ứng với hai doanh
nghiệp mới hình thành. Những người đại diện của các doanh nghiệp được chia này sẽ
kết thừa quyền và nghĩa vụ của người đại diện trong doanh nghiệp bị chia47.
Giải thể pháp nhân: Khi bảo đảm thanh toán hết các khoản nợ và nghĩa vụ tài
sản khác và doanh nghiệp không trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án hoặc
cơ quan trọng tài thì Doanh nghiệp có thể tiến hành việc giải thể nếu thuộc một trong
các trường hợp tại khoản 1 Điều 201 LDN 2014. Theo đó, quan hệ đại diện giữa người
đại diện và doanh nghiệp cũng mặc nhiên chấm dứt.
44 Xem điều 204 Luật Doanh Nghiệp 2014 45 Khoản 1 Điều 194 Luật Doanh nghiệp 2014 46 Khoản 1 Điều 195 Luật Doanh nghiệp 2014 47 Khoản 1 Điều 192 Luật Doanh nghiệp 2014
Phá sản doanh nghiệp: Phá sản là tình trạng của doanh nghiệp, hợp tác xã mất
52
khả năng thanh toán và bị Tòa án nhân dân ra Quyết định tuyên bố phá sản48. Kết quả
của việc phá sản là doanh nghiệp sẽ chấm dứt tồn tại và quan hệ đại diện cũng chấm
dứt theo.
2.2 Thực tiễn áp dụng pháp luật về người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh
Theo thông tin của Phòng Đăng ký kinh doanh cập nhật đến ngày 30/01/2020
thống kê các số liệu như sau: khách hàng năm 2020 là 44000 doanh nghiệp, đã đạt là
43516 doanh nghiệp và chiếm 94,19%. Trong đó tháng 01/2020 là 3666 doanh nghiệp,
đã đạt là 3708 doanh nghiệp và chiếm 101%. Khách hàng vốn đầu tư nước ngoài năm
2019 là 5,5 tỷ USD; đã đạt là 0,31 tỷ và chiếm 5,65%.
Qua các số liệu nêu trên, cho thấy Bộ kế hoạch và Đầu tư đã rất nỗ lực trong
việc hỗ trợ hoạt động kinh doanh cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, quá trình hoạt động
kinh doanh luôn đổi mới, vượt quá quy định pháp luật, dẫn đến rất nhiều khó khăn cho
việc đăng ký của Cơ quan đăng ký. Từ đó, nhiều vấn đề chưa có quy định xử lý theo
thủ tục hành chính, đương sự phải trực tiếp khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền.
Dưới đây là một số trường hợp bất cập, vướng mắc trong quá trình thay đổi đại
diện pháp luật tại Phòng Đăng ký kinh doanh Sở kế hoạch và Đầu tư và tại một số cơ
quan.
2.2.1 Trường hợp Tòa án nhận định thời điểm có hiệu lực xác lập thẩm quyền
của NĐDTPL pháp luật là khi đã được ghi tên trên giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh
Trường hợp, Tòa án mặc nhiên xác định thời điểm có hiệu lực xác lập thẩm
quyền của NĐDTPL pháp luật là khi đã được ghi tên trên giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh, như trường hợp sau:
Vụ án tranh chấp Hợp đồng bảo lãnh giữa Nguyên đơn là Ngân hàng V (Bên
48 Khoản 2 Điều 4 Luật phá sản 2014
được bảo lãnh), bị đơn là Ngân hàng B (Bên bảo lãnh), Người có quyền lợi và nghĩa vụ
53
liên quan là Công ty BA (Bên được bảo lãnh). Theo nội dung Bản án phúc thẩm, ngày
24/8/2012, Ngân hàng B phát hành chứng thư bảo lãnh có trị giá 215.400.000.000 đồng
cam kết sau 36 tháng kể từ ngày Thư bảo lãnh có hiệu lực nếu như Công ty Thủy Sản
không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ thay đối với Ngân hàng
V thì Ngân hàng B sẽ thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho toàn bộ giá trị bảo lãnh. Quá
trình thực hiện hợp đồng tín dụng giữa Công ty BA đối với Ngân hàng V liên tục xảy
ra quá trình vi phạm nghĩa vụ thanh toán, dù Ngân hàng V đã nhiều lần gửi công văn
nhắc nhở. Do đó, Ngân hàng V gửi văn bản yêu cầu Ngân hàng B thực hiện nghĩa vụ
bảo lãnh nhưng Ngân hàng B không thực hiện.
Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã không đồng ý chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn. Vì lý do, hồ sơ đề nghị cấp bảo lãnh do ông T ký - người
chính thức có trên giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh ngày 24/8/2012, trong khi hồ
sơ cấp bảo lãnh ký ngày 23/8/2012. Do đó, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
mặc nhiên xác định hồ sơ đề nghị cấp bảo lãnh vô hiệu và Ngân hàng B không phải
thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối với Ngân hàng V.
2.2.2 Tranh chấp giữa công ty và người đại diện theo pháp luật về trách nhiệm
của NĐDTPL
Ông Nguyễn Văn Hồng, cổ đông lớn sở hữu 21% cổ phần của Công ty Cổ phần
Vận chuyển Sài Gòn Tourist (STT) đệ đơn khởi kiện Tổng giám đốc người Nhật
Kakazu Shogo. Với những yêu cầu sau:
- Tuyên bố hợp đồng thuê văn phòng 2415-HĐTVP/2015/PVM-
SGSGTTC vô hiệu do người ký kết là ông Kakazu không có thẩm quyền.
- Yêu cầu ông Kakazu phải chịu trách nhiệm bồi thường cho Công ty STT
1.483.954.720 đồng. Bao gồm các chi phí: 1.017.094.720 đồng thiệt hại do ký hợp
đồng thuê văn phòng trái pháp luật khi chưa xin ý kiến ĐHĐCĐ, 72.000.000 đồng
(gồm hành vi sử dụng lao động là người nước ngoài khi chưa có giấy phép lao động và
sử dụng lái xe để tham gia kinh doanh vận tải mà không có hợp đồng lao động, bị
54
Thanh tra Sở Giao thông Vận tải TP.HCM phạt 12.000.000 đồng), thiệt hại
384.160.000 đồng do ký hợp đồng với xe liên kết hoạt động taxi không tuân thủ theo
pháp luật quy định gây hậu quả nghiêm trọng cho công ty.
Vụ việc đã được giải quyết bởi Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tại
Bản án sơ thẩm số 857/2016/KDTM-ST ngày 19/8/2016 theo cáo buộc của công ty ông
Kakazu phải bồi thường khoản tiền 1.017.094.720 đồng vì đã gây thiệt hại do ký hợp
đồng thuê văn phòng số 2415-HĐTVP/2015/PVM SGSGTTC trái pháp luật để chuyển
trụ sở mà chưa xin ý kiến ĐHĐCĐ. Tòa án sơ thẩm nhận định ông Kakazu là Tổng
giám đốc người ký hợp đồng thuê văn phòng số 2415-HĐTVP/2015/PVM-SGSGTTC
trong trường hợp không có đủ thẩm quyền. Buộc ông Kakazu bồi thường số tiền thiệt
hại do sử dụng lao động là người nước ngoài khi chưa có Giấy phép lao động và sử
dụng lái xe để tham gia kinh doanh vận tải mà không có hợp đồng lao động. Theo đó,
Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tuyên xử: Hợp đồng số 2415-
HĐTVP/2015/PVM-SGSGTTC vô hiệu, Ông Kakazu phải chịu trách nhiệm bồi
thường cho Công ty STT 1.483.954.720 đồng, bao gồm cả các khoản tiền trên.
Tuy nhiên, Bản án phúc thẩm số 29/2017/KDTM-PT ngày 14/08/2017 tuyên
ông Kakazu Shogo không phải chịu trách nhiệm bồi thường cho Công ty STT
1.483.954.720 đồng, gồm 1.017.094.720 đồng do việc ký hợp đồng trái pháp luật để
chuyển trụ sở. Tòa án nhận định rằng mặc dù việc việc tổ chức họp HĐQT lấy ý kiến
ĐHĐCĐ sau khi ông Kakazu đã ký Hợp đồng thuê văn phòng số 2415-
HĐTVP/2015/PVM-SGSGTTC nhưng tất cả thành viên HĐQT đã tham gia họp và
đồng ý, việc thực hiện hợp đồng thuê văn phòng là đúng ý chí của các bên. Vậy nên
đối với Hợp đồng thuê văn phòng số 2415-HĐTVP/2015/PVM-SGSGTTC là đúng quy
định của pháp luật. Vì vậy, kháng cáo của ông Kakazu Shogo về những nội dung này là
có căn cứ chấp nhận. Ngoài ra, ông Kakazu phải bồi thường cho Công ty 65.000.000
đồng do việc sử dụng lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam không có giấy phép
và 5.000.000 đồng do việc sử dụng lái xe để tham gia kinh doanh vận tải mà không có
55
hợp đồng lao động, bị cơ quan nhà nước xử phạt vi phạm hành chính. Tòa án nhận định
căn cứ vào trách nhiệm của NĐDTPL của doanh nghiệp, ông Kakazu là NĐDTPL của
Công ty STT có toàn quyền bổ nhiệm người quản lý và ký hợp đồng với người lao
động nhưng phải tuân thủ quy định của pháp luật và điều lệ của Công ty. Ông Kakazu
đã có lỗi trong việc tuyển dụng vị trí cán bộ quản lý và sử dụng lái xe không có hợp
đồng lao động, bị cơ quan nhà nước xử phạt vi phạm hành chính nên ông Kakazu phải
bồi thường cho Công ty STT là có căn cứ pháp luật.
2.2.3 Trường hợp, Công ty Âu Gia Hòa, không thay đổi được NĐDTPL do
chưa thay đổi hệ thống mã ngành mới do người đại diện pháp luật đã bỏ trốn
Công ty TNHH Âu Gia Hoà, địa chỉ số Xx Trương Đình Hội, Phường Y, Quận
-
8, TP. HCM, gồm có các thành viên như sau:
Bà Nguyễn Thị Minh Trường – Chủ tịch hội đồng thành viên – Chủ tọa
-
cuộc họp, sở hữu 35.000.000.000 đồng giá trị vốn góp, chiếm tỷ lệ 70% vốn điều lệ.
Ông Nguyễn Thanh Hải – Thư ký cuộc họp - thành viên sở hữu
-
7.500.000 đồng giá trị vốn góp, chiếm tỷ lệ 15% vốn điều lệ.
Bà Dương Thị Tý – thành viên sở hữu 2.500.000.000 đồng giá trị vốn
-
góp, chiếm tỷ lệ 5% vốn điều lệ.
Ông Âu Ngọc Hoà – NĐDTPL và là thành viên sở hữu 5.000.000.000
đồng giá trị vốn góp, chiếm tỷ lệ 10% vốn điều lệ.
Theo thông tin bà Nguyễn Thị Minh Trường cung cấp, ông Âu Ngọc Hòa đã
cầm theo con dấu công ty và đến nay không rõ tung tích. Do đó, Công ty muốn thực
hiện thủ tục thay đổi người đại diện pháp luật.
Ngày 31/10/2018, Bà Nguyễn Thị Minh Trường triệu tập cuộc họp HĐTV để
tiến hành thay đổi NĐDTPL và ban hành nghị quyết thông qua nội dung thay đổi người
đại diện pháp luật với 90% thành viên công ty tham gia và 100% thành viên dự họp
tham gia đồng ý nội dung thay đổi NĐDTPL. Ngày 01/11/2018, Công ty nộp hồ sơ
thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh tại Văn phòng đăng ký kinh doanh Sở Kế hoạch
56
và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, chuyên viên văn phòng đăng ký kinh
doanh không nhận hồ sơ này với lý do: Hệ thống mã ngành của Công ty đã được đăng
ký năm 2005 là hệ thống ngành nghề cũ và không có mã ngành.
Do đó, căn cứ theo Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg, Cục Quản lý Đăng ký kinh
doanh (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) đã ban hành Công văn số 234/ĐKKD-NV, cụ thể như
sau:
Đối với doanh nghiệp đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh -
nghiệp trước ngày 20/8/2018 thì không bắt buộc phải thực hiện thủ tục cập nhật ngành,
nghề kinh doanh theo hệ thống mới;
Việc cập nhật ngành, nghề theo hệ thống ngành mới được thực hiện khi -
doanh nghiệp có nhu cầu hoặc khi doanh nghiệp thông báo thay đổi ngành, nghề kinh
doanh hoặc đề nghị cấp đổi sang Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
Như vậy, việc cập nhật mã ngành nghề mới chỉ bắt buộc khi thay đổi bổ sung
ngành nghề kinh doanh hoặc cấp đổi sang Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
Chuyên viên phòng đăng ký kinh doanh nhận định việc thay đổi người đại diện
pháp luật dẫn đến việc cấp đổi sang Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp mới. Do
đó trước khi thực hiện thủ tục thay đổi người đại diện pháp luật, Công ty phải thực hiện
thủ tục cập nhật mã ngành đăng ký kinh doanh theo Quyết định 27/2018/QĐ-TTg.
Trong khi đó, khi thực hiện thủ tục thay đổi ngành nghề đăng ký kinh doanh, thông báo
thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp phải do người đại diện pháp luật doanh nghiệp
hiện hành ký kết.
Áp dụng một cách máy móc, dù Công ty đã cam kết sẽ thực hiện thủ tục thay
đổi ngành nghề đăng ký kinh doanh sau khi đăng ký thay đổi người đại diện pháp luật
nhưng phòng đăng ký kinh doanh vẫn không đồng ý và trả hồ sơ thay đổi người đại
diện pháp luật của Công ty Âu Gia Hòa.
Ngoài ra, hồ sơ thay đổi người đại diện pháp luật của Công ty Âu Gia Hòa đăng
ký thay đổi người đại diện pháp luật nhưng Phòng đăng ký (chủ tọa) tuyên bố số thành
57
viên dự họp đạt 90% vốn điều lệ đủ điều kiện tiến hành họp Hội đồng thành viên.
2.2.4 Tình huống tranh chấp thẩm quyền NĐDTPL của Tập đoàn Trung
Nguyên
Liên quan đến tranh chấp thẩm quyền đại diện không thể không nhắc đến tranh
chấp thẩm quyền đại diện giữa Tập đoàn Trung Nguyên và bà Thảo cũng tốn không ít
“giấy mực” và sự quan tâm của công chúng:
Tháng 11/2015, Tập đoàn Trung Nguyên (TNG) bãi nhiệm chức Phó Tổng giám
đốc thường trực của bà Thảo.
Đến tháng 3/2016, Trung Nguyên IC tổ chức họp HĐQT (HĐQT) tiếp tục bãi
nhiệm chức danh Chủ tịch HĐQT, Tổng giám đốc và NĐDTPL của bà Thảo tại công
ty này, sau đó ra nghị quyết cho ông Vũ là người đại diện. Đến ngày 21/4/2016, Trung
Nguyên IC làm việc với Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bình Dương để thay đổi nội dung
trên Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần thứ 8 từ bà Thảo sang ông Vũ.
Ngày 18/7/2016, bà Thảo nộp Đơn khởi kiện lên TAND thẩm quyền, yêu cầu
tòa hủy bỏ quyết định, nghị quyết bãi nhiệm bà khỏi vị trí đại diện theo pháp luật của
Công ty CP Cà phê Hòa tan Trung Nguyên của HĐQT và nghị quyết của ĐHĐCĐ của
CTCP tập đoàn Trung Nguyên do trái luật và trái với điều lệ.
Ngày 22/7/2016, Tòa án ra Quyết định tạm đình giải quyết vụ kiện với lý do cần
đợi kết quả giải quyết vụ án hành chính sơ thẩm giữa nguyên đơn là Tập đoàn Trung
Nguyên và bị đơn là Trưởng phòng đăng ký kinh doanh – Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh
Bình Dương.
Ngày 30/10/2017, Tòa án ra quyết định tiếp tục giải quyết vụ án vì vụ án hành
chính đã được giải quyết sơ thẩm và phúc thẩm xong.
Ngày 10/11/2017, Tòa ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Theo
đó, Tòa buộc ông Đặng Lê Nguyên Vũ và Công ty Cổ phần Cà phê Hòa tan Trung
Nguyên chưa áp dụng Giấy phép đăng ký kinh doanh về việc thay đổi người đại diện
pháp luật từ bà Thảo sang ông Vũ.
58
Ông Vũ, bà Lê Thị Ước (mẹ ông Vũ) và Tập đoàn Trung Nguyên sau đó đã tiến
hành khiếu nại quyết định này. Sau khi xem xét yêu cầu của ông Vũ và những người
liên quan, TAND Bình Dương đã hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Trong quá trình giải quyết vụ việc, bà Thảo yêu cầu tòa trưng cầu giám định của
Viện khoa học Hình sự (Bộ Công an) về các tài liệu liên quan. Theo bà Thảo, các tài
liệu do ông Nguyễn Duy Phước (người đại diện ủy quyền của ông Vũ) cung cấp cho
Tòa có dấu hiệu cắt ghép và làm giả.
Theo kết luận của Viện khoa học Hình sự ngày 30/1 vừa qua, các chữ “Công ty
CP Cà phê Trung Nguyên” dòng chữ in thứ 10 từ trên xuống, trên tài liệu ký hiệu A3-2
có dấu vết cắt ghép.
Phía ông Vũ cũng cho rằng bà Thảo không có quyền yêu cầu Tòa án hủy bỏ
nghị quyết của ĐHĐCĐ và nghị quyết của HĐQT bởi bà Thảo chỉ là cổ đông sở hữu
5% cổ phần tại Công ty Cổ phần Cà phê Hòa tan Trung Nguyên. Theo đó, ông Vũ đề
nghị tòa đình chỉ yêu cầu khởi kiện của bà Thảo.
Ngày 22/9/2017, HĐXX chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn, tuyên
hủy bỏ quyết định bãi nhiệm chức danh Phó tổng giám đốc của bà Thảo, khôi phục lại
cho bà này. Đồng thời, ông Vũ không được cản trở vợ tham gia điều hành, quản lý
công ty với tư cách thành viên HĐQT cũng như Phó tổng giám đốc.
Không hài lòng với Bản án sơ thẩm này, phía ông Vũ và tập đoàn Trung
Nguyên kháng cáo ngay sau đó. Trong đơn, ông Vũ yêu cầu cấp phúc thẩm hủy án và
đình chỉ giải quyết đề nghị của bà Thảo.
Tranh luận lại, luật sư Trương Trọng Nghĩa (bảo vệ bà Thảo) cho rằng, phía bị
đơn có sự mâu thuẫn khi xác định "đối tượng khởi kiện không còn" nhưng vẫn kháng
cáo yêu cầu này. Luật sư Nghĩa chỉ ra việc bà Thảo bị cấm tham gia điều hành công ty
được thể hiện rõ qua việc mời bà đi họp HĐQT thưa thớt, không cho bà đụng vào các
giấy tờ, hợp đồng hay gặp đối tác công ty.
59
"Giữa bà Thảo và ông Vũ không đơn thuần là quan hệ góp vốn mà còn là quan
hệ vợ chồng. Công ty được hình thành từ một công ty nhỏ rồi cùng nhau lớn mạnh, như
vậy tài sản sở hữu hay cổ phần công ty phải chia đôi", luật sư Nghĩa nhấn mạnh.
Sau khi xem xét hồ sơ và quá trình thẩm vấn tại tòa, HĐXX phúc thẩm đánh giá
"không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của ông Vũ và tập đoàn Trung Nguyên" nên giữ
nguyên bản án sơ thẩm. Theo đó, quyết định bãi nhiệm chức vụ Phó tổng giám đốc của
bà Thảo sẽ được hủy bỏ, ông Vũ không được ngăn cấm, cản trở quyền điều hành, quản
lý của bà này. Quyết định này của TAND Cấp cao có hiệu lực ngay lập tức.
Tuy nhiên, ngay sau khi quyết định này có hiệu lực, tập đoàn Trung Nguyên ban
hành quyết định khác để chấm dứt thẩm quyền đại diện của bà Thảo.
Các tranh chấp trên đều kéo dài nhiều năm liền, cổ đông góp vốn đã có quyết
định thay đổi người đại diện phần vốn tại doanh nghiệp, nhưng người đại diện cũ vì
một lý do nào đó vẫn không chịu từ bỏ cương vị. Hậu quả là hoạt động sản xuất, kinh
doanh của doanh nghiệp chịu nhiều ảnh hưởng.
2.2.5 Tình huống tranh chấp Hợp đồng bảo lãnh liên quan đến thẩm quyền ký
kết Hợp đồng bảo lãnh
Cuối năm 2012, một tranh chấp đã phát sinh giữa Công ty Vinacotex – Viettel
với Ngân hàng TMCP Đông Nam Á (SeABank). Công ty này đã mua trái phiếu doanh
nghiệp và nhận bảo lãnh từ chứng thư bảo lãnh thanh toán trị giá 150 tỉ đồng của
SeABank. Bảo lãnh thanh toán từ SeABank do Phó Tổng Giám đốc ký phát hành, có
đóng con dấu hội sở chính ngân hàng này.
Chứng thư bảo lãnh dưới dạng vô điều kiện, không hủy ngang với cam kết ngân
hàng sẽ thanh toán ngay trong một ngày làm việc, sau khi nhận được văn bản yêu cầu
từ bên nhận bảo lãnh.
Trái phiếu của Tập đoàn Vina Megastar đã đến hạn, nhưng công ty này không
thực hiện việc thanh toán cả gốc và lãi cho Công ty Tài chính cổ phần Vinaconex -
Viettel (Vinaconex - Viettel). Căn cứ thư bảo lãnh phát hành ngày 24/10/2011 của
60
SeABank, Vinaconex - Viettel yêu cầu SeABank phải thực hiện nghĩa vụ của bên bảo
lãnh.
Chứng thư bảo lãnh được phát hành ngày 24/10/2011, do bà Nguyễn Thị Hương
Giang - khi đó là Phó tổng giám đốc SeABank ký, bảo lãnh phát hành trái phiếu cho
Tập đoàn Vina Megastar. Yêu cầu của Vinaconex - Viettel và đại diện pháp lý - Văn
phòng luật sư Nam Hà Nội không được SeABank chấp nhận, với lý do chứng thư bảo
lãnh này trái pháp luật. Cụ thể, SeABank cho rằng, việc bà Giang ký bảo lãnh phát
hành trái phiếu là không đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật và quy định của
SeABank.
SeABank cho biết, ngày 24/10/2011, bà Lê Thu Thủy, quyền Tổng giám đốc
SeABank ký giấy ủy quyền cho bà Nguyễn Thị Hương Giang, Phó tổng giám đốc được
ký chứng thư bảo lãnh đối với đợt phát hành trái phiếu của Tập đoàn Vina Megastar
cho Vinaconex - Viettel. Giấy ủy quyền nêu rõ, việc ký thư bảo lãnh phải tuân thủ theo
đúng quy định của pháp luật và quy định của SeABank.
Theo quy định của SeABank, được thể hiện trong Quyết định số 693/2011/QĐ-
HĐQT ngày 16/5/2011 của HĐQT Ngân hàng về phân quyền phán quyết đối với Hội
đồng tín dụng Hội sở và Ban Tổng giám đốc, thì Tổng giám đốc được phê duyệt các
giao dịch với khách hàng của SeABank, trong đó có việc phê duyệt, ký chứng thư bảo
lãnh (bao gồm cả bảo lãnh phát hành trái phiếu) với mức tối đa không quá 30 tỷ đồng.
Như vậy, bà Nguyễn Thị Hương Giang, với cương vị là Phó Tổng giám đốc, được ký
chứng thư bảo lãnh không quá 30 tỷ đồng. Đối với các khoản vay, bảo lãnh, mở L/C có
hạn mức tín dụng từ trên 30 tỷ đồng sẽ thuộc thẩm quyền quyết định của Hội đồng tín
dụng và trên 70 tỷ đồng sẽ phải được sự phê duyệt của HĐQT. Trong khi đó, bà Giang
ký chứng thư bảo lãnh nêu trên với số tiền bảo lãnh 150 tỷ đồng mà chưa có sự phê
duyệt của HĐQT Ngân hàng.
Ngoài ra, theo Quyết định số 503/2007/QĐ-HĐQT ngày 12/11/2007 của HĐQT
61
SeABank ban hành Quy chế bảo lãnh của SeABank và Quyết định 3505/2011/QĐ-
TGĐ ngày 18/8/2011 của Tổng giám đốc SeABank, thì việc phát hành chứng thư bảo
lãnh phải được thực hiện theo quy trình chặt chẽ gồm: Hồ sơ đề nghị bảo lãnh của
khách hàng, Hợp đồng cấp bảo lãnh và qua các cấp phê duyệt của người có thẩm
quyền. Sau khi có các tài liệu trên, người được giao quyền của SeABank mới được ký
chứng thư bảo lãnh.
Vậy nhưng, trong hồ sơ quản lý hiện tại của SeABank liên quan đến chứng thư
bảo lãnh ngày 24/10/2011 do bà Nguyễn Thị Hương Giang ký, thì Ngân hàng không có
hồ sơ đề nghị bảo lãnh và hợp đồng cấp bảo lãnh với Tập đoàn Vina Megastar, giao
dịch bảo lãnh cho Tập đoàn Vina Megastar không tồn tại trong hệ thống quản lý của
SeABank. Do đó, SeABank cho rằng, việc bà Giang ký chứng thư bảo lãnh phát hành
trái phiếu cho Vinaconex - Viettel là vượt thẩm quyền và không đúng quy định của
Ngân hàng. Do vậy, chứng thư bảo lãnh là vô hiệu và SeABank không chịu trách
nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với chứng thư bảo lãnh trái pháp luật này.
SeABank cũng cho biết, bà Nguyễn Thị Hương Giang ký chứng thư bảo lãnh
trái phép là việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn vi phạm pháp luật, đang được cơ quan
điều tra làm rõ để xử lý.
Về lý do từ chối bảo lãnh của SeABank, phía Vinaconex - Viettel cho rằng,
trong trường hợp này không thể đổ lỗi cho cá nhân bà Nguyễn Thị Hương Giang, vì
trong chứng thư bảo lãnh có con dấu của SeABank.
“Quy trình kiểm soát nội bộ, kiểm soát rủi ro của Ngân hàng như thế nào mà để
xảy ra việc làm đó. Hơn nữa, trong Giấy ủy quyền của quyền Tổng giám đốc SeABank
đã nêu rất rõ là bà Giang được ký chứng thư bảo lãnh đối với đợt phát hành trái phiếu
của Tập đoàn Vina Megastar cho Vinaconex - Viettel”, ông Hoàng Trọng Đức, Tổng
giám đốc Vinaconex - Viettel nói. Ông Đức cho hay, Công ty sẽ đưa vụ việc ra tòa để
bảo vệ quyền lợi của mình.
Theo tìm hiểu của ĐTCK, ngày 27/11, lãnh đạo cấp cao của SeABank và
62
Vinaconex - Viettel có cuộc làm việc để tìm giải pháp xử lý vấn đề trên. Ngày 28/11,
phía Vietel - Vinaconex có cuộc gặp với báo chí để đưa ra những căn cứ chứng minh
chứng thư bảo lãnh là có giá trị. Hiện các cổ đông của Vietel - Vinaconex không khỏi
lo lắng cho khoản tiền 150 tỷ đồng của Công ty, bởi tình hình tài chính của Vina
Megastar rất bết bát.
Diễn tiến của vụ việc này cũng đang được nhiều doanh nghiệp theo dõi, bởi
trong thời gian giữ chức vụ Phó Tổng giám đốc kiêm Giám đốc Chi nhánh Hai Bà
Trưng, bà Nguyễn Thị Hương Giang đã ký nhiều chứng thư bảo lãnh cho các doanh
nghiệp như CTCP Máy Thiết bị Dầu khí (PV Machino), Công ty TNHH Máy xây dựng
VITRAC, Công ty TNHH Vật tư tổng hợp Long Biên, CTCP Vận tải và Thương mại
VEAM, Ban quản lý Dự án công trình giao thông Yên Bái - Sở Giao thông Vận tải tỉnh
Yên Bái, Chi nhánh CTCP Xuất nhập khẩu và Xây dựng công trình tại Hà Nội, BIDV
Tây Hồ và Công ty Vinaconex - Viettel.49[15 Tr. 1-5]
Vụ việc này từng gây xôn xao dư luận cuối năm 2012, tuy nhiên có lẽ sau đó đã
được các bên thương lượng giải quyết trong êm đẹp nên báo chí không còn đưa thông
tin.
Qua vụ tranh chấp trên cho thấy việc nắm vững thẩm quyền ký kết Hợp đồng,
thẩm quyền thông qua giao dịch là hết sức quan trọng để hạn chế rủi ro tranh chấp
cũng như mất tiền tỷ trong tương lai.
Kết luận chương 2
Chương 2 của luận văn làm rõ thực trạng pháp luật về NĐDTPL của doanh
-
nghiệp theo LDN, có thể tóm lại các luận điểm sau:
Việc xác lập thẩm quyền của của NĐDTPL đã được ghi nhận tại Bộ luật
Dân sự như là các căn cứ xác lập đã nêu tại Chương 1. Tuy nhiên trên thực tế nhiều cơ 49 Nhóm phóng viên (2012), Bài viết “Tranh chấp giữa SeaBank và Vinaconex – Viettel” tại https://tinnhanhchungkhoan.vn/phap-luat/tranh-chap-giua-seabank-va-vinaconex-viettel-vi-sao-21556.html (truy cập ngày 15/3/2020), báo đầu tư chứng khoán, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
63
quan, tổ chức thậm chí Tòa án đều cho rằng chỉ khi tên cá nhân được ghi nhận trên
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh mới chính thức trở thành NĐDTPL của doanh
-
nghiệp.
Việc dành quyền tự quyết về số lượng, quyền và nghĩa vụ của doanh
nghiệp làm cho nhiều cá nhân, tổ chức lo ngại về thẩm quyền của từng người… Tuy
nhiên trong trường hợp doanh nghiệp có nhiều đại diện nhưng không quy định rõ thẩm
quyền từng người, có thể áp dụng khoản 2 Điều 141 BLDS 2015 quy định trường hợp
không xác định được cụ thể phạm vi đại diện theo quy định tại khoản 1 Điều này thì
NĐDTPL có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được
đại diện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Theo đó, mỗi NĐDTPL trong các
NĐDTPL đều có thẩm quyền xác lập giao dịch. Điều này tạo sự yên tâm cho các chủ
-
thể tham gia quan hệ pháp luật.
Về trách nhiệm pháp lý của NĐDTPL: Các quy định hiện hành cho thấy
quyền và nghĩa vụ của NĐDTPL còn khá chung chung và mang tính chất định tính do
đó việc chứng minh trách nhiệm pháp lý của NĐDTPL cũng như việc chứng minh
trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, khá khó cho doanh nghiệp. Chính vì
quy định mang tính nguyên tắc nên việc xác định trách nhiệm pháp lý của NĐDTPL sẽ
-
thuộc về ý chí của Hội đồng xét xử.
Về việc chấm dứt thẩm quyền của NĐDTPL: Ở phần lý luận đã cho thấy
khá rõ pháp luật có quy định trường hợp chấm dứt thẩm quyền NĐDTPL. Tuy nhiên
trong một số trường hợp thay đổi NĐDTPL, nhưng NĐDTPL cũ không hợp tác dẫn
đến Quyết định của ĐHĐCĐ, HĐTV không thể thi hành trên thực tế dẫn đến tranh
chấp xảy ra và kéo dài.
Ngoài ra, tác giả cũng nêu một số tình huống về các tranh chấp, vướng mắc
trong thủ tục tại cơ quan có thẩm quyền đăng ký kinh doanh.
Từ những vấn đề lý luận và thực trạng pháp luật về NĐDTPL của doanh nghiệp
nêu tại Chương 1, Chương 2 nêu trên, tác giả đề ra phương pháp, giải pháp hoàn thiện
64
pháp luật nêu ở Chương 3 dưới đây.
65
CHƯƠNG 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO
PHÁP LUẬT CỦA DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1 Phương hướng hoàn thiện pháp luật về người đại diện theo pháp luật
3.1.1 Hài hòa với pháp luật của các nước trên thế giới
Chế định pháp luật NĐDTPL doanh nghiệp cũng là một trong những chế định
quan trọng nhất của doanh nghiệp, được các đối tác nước ngoài hết sức quan tâm, chú
trọng. Bởi khi đến Việt Nam làm việc, họ luôn quan tâm đến người họ làm việc là ai,
có thẩm quyền quyết định, ký kết giao dịch với họ hay không. Do đó, nếu như pháp
luật quy định một cách vòng vo, mập mờ về thẩm quyền sẽ tạo ra một sự e ngại khi đầu
tư vào Việt Nam.
Bên cạnh đó, hiện nay cũng có không ít các chuyên gia nước ngoài làm việc tại
Việt Nam với vai trò là Giám đốc thuê, NĐDTPL…. Do đó, họ cũng cần phải hiểu rõ
quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của chính mình. Vì vậy khung pháp lý Việt Nam xây
dựng về NĐDTPL cần được hoàn thiện cũng như gần với pháp luật của các nước trên
thế giới là điều hết sức quan trọng để tạo ấn tượng tốt đẹp, cũng như sự yên tâm làm
việc tại Việt Nam của nhiều đối tác.
3.1.2. Đáp ứng yêu cầu thực tiễn
Cho đến nay nước ta vẫn là nước nông nghiệp, với tỷ trọng nông nghiệp chiếm
hơn 40%.... Do coi trọng nông nghiệp hơn thương nghiệp. Việc phát triển công thương
nghiệp hết sức nhỏ lẻ, manh mún, thậm chí bị coi thường với các danh xưng như “con
buôn” không phải “thương nhân” như ngày nay, cũng chẳng phải “buôn có phường,
bán có hội” như các tiểu thương Trung Quốc. Ngày nay, quan điểm về việc kinh doanh
đã khác hẳn nhưng phần nào đó vẫn mang nặng tư tưởng đó.
66
Những năm gần đây, Việt Nam đã có sự thay đổi vượt bậc, cũng như đạt được
một số thành tựu nổi bật, GDP cả nước vẫn tăng bình quân khoảng 7%, trong đó, công
nghiệp dịch vụ chiếm tỷ trọng cao.
Kinh tế công thương nghiệp được coi trọng, trở thành nguồn thuế chính của nhà
nước. Do đó, sự cần thiết phải thay đổi cơ chế pháp lý, đặc biệt là LDN, để hoạt động
kinh doanh trở nên gần gũi và gần với hoạt động đời sống của người dân hơn….
Vì thế hoàn thiện những quy định về các loại hình doanh nghiệp, cơ cấu tổ chức
và hoạt động của chúng là một nhu cầu nhằm đảm bảo quyền tự do kinh doanh, tự do ý
chí của công dân là hết sức cần thiết.
Cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật về quản trị đối với các loại hình doanh nghiệp
để nâng chuẩn quản trị doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế theo hướng tuân thủ
các chuẩn mực quản trị hiện đại, đồng thời đề cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
(bảo đảm tôn trọng người tiêu dùng, bảo vệ môi trường, tôn trọng pháp luật lao động,
an sinh xã hội, tôn trọng các nhà đầu tư, nhất là nhà đầu tư thiểu số).
Việc nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật cũng được cộng đồng doanh
nghiệp, người dân rất quan tâm. Ðó là cắt giảm thời gian giải quyết tranh chấp dân sự,
kinh tế, giải quyết phá sản doanh nghiệp. Bảo đảm quyền tự do kinh doanh, cạnh tranh
lành mạnh của các chủ thể kinh tế đã được Hiến pháp quy định; tiếp tục xóa bỏ các rào
cản đối với hoạt động đầu tư, kinh doanh; xóa bỏ các cơ chế can thiệp hành chính trực
tiếp của Nhà nước đối với doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Đồng thời, các
quan hệ tranh chấp mới không ngừng nảy sinh khi chưa có quy định điều chỉnh, do đó
việc cơi nới chính sách, cho các doanh nghiệp được thỏa sức tự do kinh doanh không
vi phạm điều cấm của pháp luật là điều vô cùng cần thiết.
3.2 Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp
luật về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp tại TP Hồ Chí Minh
Tuy nhiên, những quy định về quản trị công ty trong LDN 2014 vẫn còn tồn tại
một số vướng mắc, bất cập cần được hoàn thiện như sau:
67
Thứ nhất, kiến nghị sửa đổi định nghĩa NĐDTPL trên cơ sở bổ sung chức năng
đại diện cho doanh nghiệp xác lập giao dịch, hợp đồng nhân danh công ty; cần bổ sung
vai trò “xác lập” các giao dịch vào khái niệm về NĐDTPL được quy định tại khoản 1
Điều 13 LDN 2014. Cụ thể: “NĐDTPL của doanh nghiệp là cá nhân đại diện cho
doanh nghiệp xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của
doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách nguyên đơn, bị đơn, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền và nghĩa vụ khác
theo quy định của pháp luật”. Việc bổ sung vai trò “xác lập” các giao dịch là cần thiết
và phù hợp, vì NĐDTPL không chỉ là người “thực hiện” mà còn là người ký kết, đàm
phán xác nhận việc giao kết, “xác lập” các giao dịch nhân danh doanh nghiệp, đó cũng
chính là một trong các quyền hạn chủ chốt của NĐDTPL và cũng đảm bảo thống nhất
với quy định tại khoản 1 Điều 134 BLDS năm 2015.
Thứ hai, quy định rõ thời điểm xác lập thẩm quyền của người đại diện theo
pháp luật
Như đã nêu tại chương 2 thực trạng pháp luật về NĐDTPL, mặc dù Bộ luật Dân
sự đã có quy định về việc xác lập thẩm quyền đại diện của pháp nhân. Tuy nhiên quy
định này vẫn chưa rõ, chính Tòa án là cơ quan áp dụng pháp luật đôi khi vẫn hiểu
nhầm. Do đó, cần có một quy định cụ thể tại LDN 2014, xác định: “Thời điểm xác lập
thẩm quyền đại diện có hiệu lực khi căn cứ xác lập thẩm quyền đại diện theo quy định
pháp luật có hiệu lực”.
Thứ ba, quy định các trường hợp Tòa án được chỉ định NĐDTPL, thủ tục chỉ
định NĐDTPL cho Doanh nghiệp.
Như đã nêu ở các phần trên, Tòa án có thẩm quyền chỉ định người đại diện theo
pháp luật. Tuy nhiên, quy định này vẫn chưa phát huy hiệu quả, bởi những trường hợp
Tòa án được chỉ định còn quá ít (Tranh chấp giữa công ty và người đại diện, phá sản
68
nguyên nhân xuất phát từ người đại diện) và chưa có quy định cụ thể thời gian ra quyết
định thay đổi người đại diện.
Do đó, theo tác giả cần bổ sung thêm các trường hợp Tòa án được phép chỉ định
NĐDTPL khác như trường hợp: Người đại diện đi khỏi nơi cư trú quá 30 (ba mươi)
ngày và không thông báo tạm vắng và địa chỉ tạm trú, không nhận thư, không trả lời
email; người đại diện đang bị điều tra, truy tố, xét xử trong một vụ án hình sự;các
trường hợp khác Tòa án xét thấy cần thiết.
Về thủ tục chỉ định NĐDTPL, theo khoản 6 Điều 31 Bộ luật Tố tụng Dân sự,
các cá nhân, tổ chức được quyền: “6. Các yêu cầu khác về kinh doanh, thương mại, trừ
trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của
pháp luật.”. Do đó, theo tác giả khi pháp luật chưa có hướng dẫn cụ thể về trường hợp
chỉ định NĐDTPL, doanh nghiệp có thể áp dụng quy trình yêu cầu giải quyết việc dân
sự yêu cầu về việc “Công nhận NĐDTPL của doanh nghiệp”. Để yêu cầu Tòa án giải
quyết việc dân sự này, doanh nghiệp cần tiến hành tổ chức họp ĐHĐCĐ, HĐTV theo
đúng quy trình quy định tại LDN. Đồng thời, lưu giữ toàn bộ giấy mời, bưu phẩm gửi
đi, báo phát mời họp đúng quy định LDN.
Nhưng quy định chung chung như vậy, thực tế các Tòa án có thể nhận đơn hoặc
bác đơn và yêu cầu khởi kiện vụ án dân sự.
Về lâu về dài cũng như để áp dụng thống nhất trên thực tế và để tránh trường
hợp Tòa án giải quyết máy móc chuyển qua vụ án dân sự, thiết nghĩ khoản 1, Điều 34
Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 nên có quy định cụ thể yêu cầu: “Yêu cầu công nhận, hủy
bỏ nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông, nghị quyết của Hội đồng thành viên theo quy
định của pháp luật về doanh nghiệp”.
Thứ tư, quy định buộc phải công khai điều lệ lên các trang thông tin để minh
bạch thẩm quyền của những người NĐDTPL của doanh nghiệp và bảo vệ quyền lợi
của một bên khi xác lập giao dịch với doanh nghiệp có nhiều NĐDTPL.
69
Khi một doanh nghiệp có nhiều NĐDTPL thì sự phân công thẩm quyền đại diện
giữa những người này sẽ như thế nào. Chẳng hạn, đối với CTHD thì các thành viên
hợp danh phân công nhau quản lý và kiểm soát trong hoạt động kinh doanh50, còn
CTTNHH có nhiều người đại diện thì sự phân công quyền và nghĩa vụ của những
NĐDTPL sẽ được quy định cụ thể trong Điều lệ của công ty51.
Giải quyết vấn đề phân công nhiệm vụ, quyền hạn không cụ thể, trong trường
hợp nếu không xác định được cụ thể phạm vi đại diện theo Điều lệ thì NĐDTPL mới
được quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch theo khoản 2 Điều 141 BLDS năm 2015.
Như vậy, khi xem xét các quy định nhận thấy có sự không rõ ràng minh bạch
trong thẩm quyền đại diện thì mà hợp đồng giao dịch đã thực hiện thì trách nhiệm quy
định về doanh nghiệp đã đưa ra thông tin một cách mập mờ đó. Tuy nhiên, đối với
trường hợp Điều lệ doanh nghiệp hạn chế các quyền của người đại diện, hay doanh
nghiệp cung cấp điều lệ chưa thay đổi, hay không đồng ý cung cấp Điều lệ doanh
nghiệp cho đối tác thì chưa có quy định bảo vệ bên còn lại do bị hạn chế tiếp cận thông
tin.
Ngoài ra, trên thực tế để ký kết hợp đồng, giao dịch phải trải qua quá trình đàm
phán thương lượng rất mất thời gian, mà người ta vẫn thường chú ý các điều khoản về
giá, điều khoản quyền và nghĩa vụ, thời gian thực hiện hợp đồng, trong khi đó rất ái
ngại trong việc yêu cầu cung cấp điều lệ doanh nghiệp để xác định chủ thể có thẩm
quyền ký kết hợp đồng.
Do đó theo tác giả, để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận được thông
tin minh bạch, chính xác, cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp nên công
khai Điều lệ có doanh nghiệp đã đăng ký cũng như đã sửa đổi. Thực tiễn cho thấy, việc
50 Khoản 2 Điều 179 Luật doanh nghiệp năm 2014. 51 Khoản 2 Điều 13 Luật doanh nghiệp năm 2014.
thực hiện hồ sơ đăng ký, thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp ở một số tỉnh thành
70
trên cả nước, trong đó có thành phố Hồ Chí Minh đã phải thực hiện trực tuyến, đồng
nghĩa với việc điều lệ doanh nghiệp phải được sao chụp (scan) nộp kèm hồ sơ. Do đó,
cơ quan đăng ký kinh doanh có thể dễ dàng lưu điều lệ doanh nghiệp trên hệ thống
hơn.
Bên cạnh đó, quy định tại khoản 2 Điều 13 quy định “CTTNHH và CTCP có thể
có một hoặc nhiều NĐDTPL. Điều lệ công ty quy định cụ thể số lượng, chức danh
quản lý và quyền, nghĩa vụ của NĐDTPL của doanh nghiệp”.
Quy định này là một bước tiến trong quá trình lập pháp cũng như đáp ứng được
nhu cầu của thực tiễn khi mà các doanh nghiệp ngày càng có quy mô lớn rộng lớn, đa
ngành nghề, xử lý vấn đề người quản trị, người điều hành doanh nghiệp có phải
NDDTPL, xử lý các trường hợp giao dịch với chính NĐDTPL (Ký hợp đồng lao động,
Hợp đồng thuê văn phòng của chính NĐDTPL). Tuy nhiên, ở góc độ nhận thức nhiều
doanh nghiệp không có pháp chế và chưa quan tâm đến pháp luật, nhiều doanh nghiệp
chưa quan tâm đến cơ chế mở rộng của pháp luật. Pháp luật quy định sao, doanh
nghiệp gần như quy định các điều lệ, quy chế nội bộ quy định như quy định pháp luật.
Do đó, để quy định này được hiện thực hóa trên thực tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có thể
xem xét đưa ra những điều lệ mẫu về trường hợp nhiều người đại diện pháp luật của
doanh nghiệp.
Thứ năm, sửa đổi đồng bộ quy định về điều kiện cư trú của NĐDTPL của
doanh nghiệp đối với cả doanh nghiệp một người đại diện và doanh nghiệp nhiều người
đại diện
LDN 2014 quy định đối với doanh nghiệp chỉ có một NĐDTPL và người này
vắng mặt tại Việt Nam quá 30 ngày mà không ủy quyền cho người khác thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của NĐDTPL của doanh nghiệp thì Chủ sở hữu công ty, HĐTV,
52 Khoản 5 Điều 13 Luật doanh nghiệp năm 2014.
HĐQT cử người khác làm NĐDTPL của doanh nghiệp52. Đối với CTTNHH có hai
71
thành viên trở lên, nếu NĐDTPL của doanh nghiệp trốn khỏi nơi cư trú thì thành viên
còn lại đương nhiên làm NĐDTPL của doanh nghiệp cho đến khi có quyết định mới
của HĐTV về NĐDTPL của doanh nghiệp53. Quy định này nhằm đảm bảo cho doanh
nghiệp không bị trống chỗ NĐDTPL quá lâu, vì sẽ gây cản trở cho các hoạt động của
doanh nghiệp.
Tuy nhiên, LDN 2014 quy định doanh nghiệp phải bảo đảm luôn có ít nhất một
NĐDTPL cư trú tại Việt Nam và nếu doanh nghiệp chỉ có một NĐDTPL, khi xuất cảnh
mới thực hiện việc ủy quyền nêu trên là chưa được đầy đủ. LDN 2014 bắt buộc đối với
doanh nghiệp có nhiều NĐDTPL, thì nhất thiết phải có một người cư trú tại Việt Nam.
Thế nhưng, vì một lý do nào đó mà tất cả NĐDTPL xuất cảnh, thì lại không ủy quyền
hoặc nếu có ủy quyền đi chăng nữa mà thời hạn ủy quyền đã hết, thì cũng không được
phép kéo dài thời hạn như trường hợp chỉ có một NĐDTPL. Trong khi doanh nghiệp
có nhiều NĐDTPL và có thể mỗi người chỉ được phân công thực hiện một hoặc một số
nhiệm vụ, quyền hạn nhất định theo Điều lệ công ty quy định. Như vậy, trong cùng
một tình huống hoàn toàn tương tự nhau nhưng LDN 2014 lại quy định không thống
nhất với nhau, tạo ra sự không bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp. Do đó, cần
phải cân nhắc sửa đổi quy định này để đảm bảo có sự tổng quát trong việc xử lý các
vấn đề.
Thứ sáu, cần bỏ cụm từ “kinh doanh trái phép” nêu tại khoản 6 với khoản 1
Điều 13 LDN 2014 vì không phù hợp với Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung
năm 2017.
Theo quy định tại khoản 6 Điều 13 LDN 2014 thì: “Đối với CTTNHH có hai
thành viên, nếu có thành viên là cá nhân làm NĐDTPL của công ty bị tạm giam, kết án
tù, trốn khỏi nơi cư trú, bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị Tòa án
53 Khoản 6 Điều 13 Luật doanh nghiệp năm 2014.
tước quyền hành nghề vì phạm tội buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép, trốn
72
thuế, lừa dối khách hàng và tội khác theo quy định của Bộ luật Hình sự (BLHS) thì
thành viên còn lại đương nhiên làm NĐDTPL của công ty cho đến khi có quyết định
mới của HĐTV về NĐDTPL của công ty”. Quy định này có các vấn đề sau:
Chưa đồng nhất với quy định của BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và cần
hướng dẫn thủ tục thay đổi người đại diện pháp luật.
Khi xây dựng điều luật này, LDN 2014 đã liệt kê cả tội mới như tội lừa dối
khách hàng nhưng lại không bỏ tội “kinh doanh trái phép” dù BLHS bổ sung hoặc bãi
bỏ một tội danh như BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã bỏ tội “kinh doanh
trái phép”. Có lẽ tại thời điểm thống nhất thông qua LDN 2014 thì BLHS chưa được
thông qua, nên để thà dư còn hơn thiếu, LDN 2014 buộc phải “gom” luôn tội “Kinh
doanh trái phép”.
Không dừng lại ở đó, cụm từ “tội khác theo quy định của BLHS” cho thấy LDN
2014 gần như “quét” hết các tội danh quy định trong BLHS, không bỏ sót bất kỳ
trường hợp nào. Như vậy, các tội danh liệt kê trước đó dường như vô nghĩa.
Cách quy định này, phần nào tạo sự thoải mái, tự do hơn cho doanh nghiệp,
nhưng mặt khác về câu chữ lập pháp hoàn toàn không ổn. Hơn nữa còn đẩy phần quyết
định về Phòng đăng ký kinh doanh. Trong khi Phòng đăng ký kinh doanh thường chỉ
thực hiện theo các nghị định, thông tư, văn bản quy định chi tiết, nên quy định như vậy
không hẳn tạo lợi thế cho doanh nghiệp mà vô tình tạo nên nhiều sự phức tạp khác
trong quá trình thực hiện như phải xin ý kiến lãnh đạo Phòng đăng ky kinh doanh khi
nộp hồ sơ hay phải có Bản án quyết định của Tòa án công nhận người có thẩm quyền
đại diện.
Cụm từ “thành viên còn lại đương nhiên làm NĐDTPL”, cho thấy trường hợp
nếu thành viên còn lại là tổ chức thì thành viên này cũng đương nhiên được làm
NĐDTPL.
Cách quy định như vậy là mâu thuẫn với khái niệm về NĐDTPL của doanh
nghiệp phải là cá nhân đại diện cho doanh nghiệp. Do đó, cần bổ sung trường hợp,
73
thành viên còn lại là tổ chức thì người được tổ chức này chỉ định làm đại diện phần vốn
góp sẽ là NĐDTPL của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, hiện nay các văn bản dưới luật vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể về
việc thay đổi người đại diện trong trường hợp này. Nên nếu thực hiện theo thủ tục
thông thường thì phải nộp hồ sơ thay đổi người đại diện đến Phòng đăng ký kinh doanh
hay không, hay đương nhiên thành viên còn lại được ký các giấy tờ, hợp đồng không
cần thực hiện thủ tục hành chính này. Còn trường hợp phải thực hiện thủ tục thì phải
cung cấp hồ sơ gồm những gì cho cơ quan đăng ký, như là Biên bản họp HĐTV, Kết
luận điều tra, Quyết định tạm giam, Bản án, Cáo trạng... Qua trao đổi với Chuyên viên
Phòng đăng ký kinh doanh tại thành phố Hồ Chí Minh theo số máy 028 3829 3179,
chuyên viên hướng dẫn doanh nghiệp thực hiện thủ tục theo Điều 43 Nghị định
78/2015/NĐ-CP về đăng ký kinh doanh, ngoài ra không hướng dẫn gì thêm.
Vì vậy, để thống nhất với khái niệm NĐDTPL của doanh nghiệp được quy định
tại khoản 1 Điều 13 LDN 2014 và phù hợp với quy định của BLHS năm 2015 sửa đổi,
bổ sung năm 2017, cũng như khi BLHS có thay đổi sẽ dẫn đến tình trạng không còn
phù hợp khi liệt kê các tội danh cụ thể như hiện nay và phù hợp với các hành vi xảy ra
trên thực tế của doanh nghiệp. Trong thời gian tới cần sửa đổi, bổ sung khoản 6 Điều
13 LDN 2014 theo hướng: “Đối với CTTNHH hai thành viên trở lên, nếu có thành viên
làm NĐDTPL của công ty bị tạm giam, kết án tù, trốn khỏi nơi cư trú, bị mất hoặc bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị Tòa án tước quyền hành nghề vì phạm tội
theo quy định tại Chương XVIII[38] và Chương XIX[39] của BLHS thì thành viên cá
nhân còn lại đương nhiên làm NĐDTPL hoặc thành viên là tổ chức được chỉ định
NĐDTPL của công ty cho đến khi có quyết định mới của HĐTV về NĐDTPL của công
ty”.
Thứ bảy, cần quy định thống nhất trong quy định về chức danh người đại diện
đương nhiên giữa CTTNHH Một thành viên với CTTNHH Hai thành viên trở lên
74
LDN 2014 cũng quy định những chức danh quản lý đương nhiên hoặc trường
hợp doanh nghiệp chỉ có một NĐDTPL của công ty. Chẳng hạn, đối với Công ty
TNHH Hai thành viên, trong trường hợp Điều lệ công ty không quy định thì Chủ tịch
HĐTV hoặc Chủ tịch công ty là NĐDTPL. 54Thế nhưng, cũng cùng là một loại hình
doanh nghiệp nhưng Công ty TNHH Hai thành viên trở lên thì lại không có quy định,
trong khi đó Điều lệ và Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh lại thể hiện thông tin về
NĐDTPL. Mặt khác, LDN 2014 còn quy định quyền và nghĩa vụ của Giám đốc, Tổng
Giám đốc được “ký kết hợp đồng nhân danh công ty, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền
của Chủ tịch HĐTV”. 55 Như vậy, theo logic suy nghĩ có thể hiểu, trong Công ty
TNHH Hai thành viên trở lên thì Giám đốc, Tổng Giám đốc hoặc Chủ tịch HĐTV là
một trong hai chủ thể có thể làm NĐDTPL. Do đó, theo tác giả để đảm bảo thống nhất
trong việc áp dụng pháp luật cần quy định bổ sung về chức danh NĐDTPL của Công ty
tại Điều 55 LDN 2014 theo hướng như sau: “Trong trường hợp Điều lệ công ty không
quy định thì Chủ tịch HĐTV hoặc Giám đốc, Tổng giám đốc là NĐDTPL”. Việc quy
định các chức danh Chủ tịch HĐTV hoặc Giám đốc, Tổng giám đốc là NĐDTPL
đương nhiên là phù hợp với quy định tại Điều 55 LDN 2014 về cơ cấu tổ chức quản lý
công ty và cũng phù hợp với nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch HĐTV, Giám đốc,
Tổng Giám đốc. 56
Thứ tám, không cần tách bạch khoản 8, khoản 9 Điều 24 LDN
Việc tách ra thành hai khoản (khoản 8 và khoản 9 Điều 24 LDN 2014) là không
cần thiết vừa làm văn bản kém súc tích vừa dễ tạo sự hiểu nhầm là có sự khác nhau
giữa hai khoản, hơn nữa chủ doanh nghiệp tư nhân và thành viên hợp danh của CTHD
54 Khoản 2 Điều 78 Luật doanh nghiệp năm 2014. 55 Điểm e khoản 2 Điều 64 Luật doanh nghiệp năm 2014. 56 Khoản 13 Điều 4 Luật doanh nghiệp năm 2005.
cũng đều là NĐDTPL của doanh nghiệp. Vì vậy, theo tác giả nên gộp chung quy định
75
tại khoản 8 và khoản 9 Điều 24 LDN 2014 thành một khoản như sau: “Họ, tên, chữ ký,
địa chỉ thường trú, quốc tịch, số Thẻ căn cước công dân, Giấy chứng minh nhân dân,
Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của NĐDTPL của doanh nghiệp”.
Thứ chín, xây dựng án lệ đối với các tranh chấp về trách nhiệm pháp lý của
NĐDTPL
Tại Chương 2, tác giả nêu về một trong những bất cập của LDN 2014 là quy định nghĩa
vụ của NĐDTPL doanh nghiệp còn mang tính định tính, dẫn đến khó khăn cho hoạt
động xét xử, cũng như là chứng minh trách nhiệm pháp lý của NĐDTPL. Theo Điều
74, Hiến pháp năm 2013 thì việc giải thích pháp luật thuộc về thẩm quyền của Ủy ban
thường vụ quốc hội. Tuy nhiên, đối với hoạt động kinh doanh “muôn hình vạn trạng”
rất khó có thể giải thích cụ thể quy định nguyên tắc. Hơn nữa từ trước tới nay, Ủy ban
thường vụ rất ít giải thích pháp luật, thiếu am hiểu về hoạt động xét xử, giải thích các
tình huống pháp lý thực tế.
Theo Khoản 3 Điều 104 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân tối cao thực
hiện việc tổng kết thực tiễn xét xử, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét
xử.”
Do đó, theo tác giả nên xem xét tổng hợp những lập luận, phán quyết trong
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án về các vụ việc liên quan đến
NĐDTPL của doanh nghiệp, từ đó đề xuất Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao lựa chọn công bố là Án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng thống nhất.
Kết luận chương 3
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, tác giả luận văn đề xuất
những giải pháp sau đây để hoàn thiện các quy định của LDN 2014, cụ thể:
(i) Kiến nghị sửa đổi định nghĩa NĐDTPL trên cơ sở bổ sung chức năng đại
diện cho CTCP xác lập giao dịch, hợp đồng.
76
(ii) Kiến nghị bổ sung quy định về thời điểm phát sinh tư cách NĐDTPL
trong thay đổi NĐDTPL: “Thời điểm xác lập thẩm quyền đại diện có hiệu lực khi căn
cứ xác lập thẩm quyền đại diện theo quy định pháp luật có hiệu lực”.
(iii) Quy định các trường hợp Tòa án được chỉ định NĐDTPL cho Doanh
nghiệp và hướng dẫn cụ thể hơn thực thi trong trường hợp này.
(iv) Bên cạnh Cổng thông tin quốc gia về đăng ký điện tử, hầu hết các doanh
nghiệp đều có trang thông tin điện tử. Đồng thời, điều lệ doanh nghiệp không phải tài
liệu mật (Để ẩn một số thông tin cá nhân nếu cần). Thiết nghĩ, nên có quy định buộc
phải công khai điều lệ nên các trang thông tin để minh bạch thẩm quyền của những
người NĐDTPL của doanh nghiệp.
(v) Sửa đổi đồng bộ quy định về điều kiện cư trú của NĐDTPL của doanh
nghiệp đối với cả doanh nghiệp một người đại diện và doanh nghiệp nhiều người đại
diện…
(vi) Cần bỏ cụm từ “kinh doanh trái phép” nêu tại khoản 6 với khoản 1 Điều
13 LDN 2014 vì không phù hợp với Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm
2017.
(vii) Cần quy định thống nhất trong quy định về chức danh người đại diện
đương nhiên giữa CTTNHH Một thành viên với CTTNHH Hai thành viên trở lên trong
Công ty TNHH hai thành viên trở lên thì Giám đốc, Tổng Giám đốc hoặc Chủ tịch
HĐTV là một trong hai chủ thể có thể làm NĐDTPL.
(viii) Gộp khoản 8, khoản 9 Điều 24 LDN 2014.
(ix) Xây dựng án lệ đối với tranh chấp về trách nhiệm pháp lý của NĐDTPL.
77
KẾT LUẬN
LDN 2014 có những cải cách tiến bộ về NĐDTPL của doanh nghiệp, thế nhưng
mọi cải cách đều không thể tránh khỏi những hạn chế, bất cập nhất định, vẫn chưa đáp
ứng được mong muốn và kỳ vọng thật sự của môi trường kinh doanh – nơi kiểm chứng
sự cải cách đó. Có thể lý giải cho sự cải cách đó là LDN 2014 đã tìm ra lối thoát cho
doanh nghiệp bằng việc định cơ chế nhiều NĐDTPL, nhưng đây chỉ mới giải quyết ở
phần bề nổi, mà vẫn chưa xử lý triệt để vấn đề hệ thống cơ sở dữ liệu, công khai thông
tin doanh nghiệp. Do vậy, qua hơn 03 năm đi vào cuộc sống thì hiệu quả thực chất
trong thực tế đã được kiểm chứng và cho thấy vẫn còn nhiều điểm chưa rõ ràng và phù
hợp về mặt lý luận cũng như thực tiễn như: Khái niệm NĐDTPL, thời điểm có thẩm
quyền của NĐDTPL tại thời điểm được ghi nhận trên Giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh hay tại thời điểm được ghi nhận trong điều lệ có hiệu lực, phạm vi đại diện của
NĐDTPL đặc biệt trong trường hợp doanh nghiệp có nhiều NĐDTPL, những bất cập
từ thực tiễn giải quyết tranh chấp, chế độ lưu giữ công bố tài liệu, đặc biệt là điều lệ
doanh nghiệp, những bất cập trong quá trình thực hiện thủ tục thay đổi NĐDTPL...
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, tác giả luận văn đưa ra
những giải pháp cần thiết để hoàn thiện các quy định của LDN 2014:
(i) Kiến nghị sửa đổi định nghĩa NĐDTPL trên cơ sở bổ sung chức năng đại
diện cho CTCP xác lập giao dịch, hợp đồng.
(ii) Kiến nghị bổ sung quy định về thời điểm phát sinh tư cách NĐDTPL
trong thay đổi NĐDTPL: “Thời điểm xác lập thẩm quyền đại diện có hiệu lực khi căn
cứ xác lập thẩm quyền đại diện theo quy định pháp luật có hiệu lực.”.
(iii) Quy định các trường hợp Tòa án được chỉ định NĐDTPL cho Doanh
nghiệp và hướng dẫn cụ thể hơn thực thi trong trường hợp này.
(iv) Bên cạnh Cổng thông tin quốc gia về đăng ký điện tử, hầu hết các doanh
nghiệp đều có trang thông tin điện tử. Đồng thời, Điều lệ doanh nghiệp không phải tài
78
liệu mật (Để ẩn một số thông tin cá nhân nếu cần). Thiết nghĩ, nên có quy định buộc
phải công khai điều lệ nên các trang thông tin để minh bạch thẩm quyền của những
(v)
người NĐDTPL của doanh nghiệp.
Sửa đổi đồng bộ quy định về điều kiện cư trú của NĐDTPL của doanh
nghiệp đối với cả doanh nghiệp một người đại diện và doanh nghiệp nhiều người đại
diện…
(vi) Cần bỏ cụm từ “kinh doanh trái phép” nêu tại khoản 6 với khoản 1 Điều
13 LDN 2014 vì không phù hợp với Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm
2017.
(vii) Cần quy định thống nhất trong quy định về chức danh người đại diện
đương nhiên giữa CTTNHH Một thành viên với CTTNHH Hai thành viên trở lên trong
Công ty TNHH Hai thành viên trở lên thì Giám đốc, Tổng Giám đốc hoặc Chủ tịch
HĐTV là một trong hai chủ thể có thể làm NĐDTPL.
(viii) Gộp khoản 8, khoản 9 Điều 24 Luật Doanh nghiệp 2014.
(ix) Xây dựng án lệ về các tranh chấp liên quan đến trách nhiệm pháp lý của
NĐDTPL.
Luận văn là kết quả của một quá trình nghiên cứu thực thi pháp luật trên thực tế
tại thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời tham khảo rất nhiều bài viết liên quan, pháp luật
doanh nghiệp của một số nước trên thế giới, qua đó tác giả mong muốn đem đến các ý
nghĩa thực tiễn, có giá trị tham khảo cho các doanh nghiệp, sinh viên chuyên ngành,
các nhà nghiên cứu khác.
Tác giả luận văn rất mong nhận được sự góp ý xây dựng của Quý Thầy Cô, các
cán bộ công tác thực tiễn và các đồng nghiệp để tác giả tiếp tục hoàn thiện công trình
nghiên cứu này./.
79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Đức Giang (2015), Hành lang pháp lý mới về NĐDTPL của LDN
2014, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6 (326).
2. Bùi Thị Tâm (2017), Đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp từ
thực tiễn Tổng Công ty thuốc lá Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học - Học viện
khoa học Xã hội.
3. Bùi Trang (2016) “Kiện lãnh đạo đòi bồi thường: Cổ đông gặp khó”,
gap-kho-164264.html>, truy cập ngày 20/3/2020. 4. Bùi Xuân Hải (2007), “Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề của pháp luật công ty Việt Nam”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 4/2017, tr 25. 5. Chính phủ (2001) Nghị định số 58/2001/NĐ-CP của Chính phủ về việc quản lý và sử dụng con dấu, ban hành ngày 24/08/2001, Hà Nội. 6. Chính phủ (2015) Nghị định 78/2015/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp, ban hành ngày 14/09/2015, Hà Nội. 7. Chính phủ (2015) Nghị định 96/2015/NĐ-CP của Chính phủ về việc quy định chi tiết một số điều của Luật Doanh nghiệp, ban hành ngày 19/10/2015, Hà Nội. 8. Chính phủ (2010) Nghị định số 102/2010/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn Luật Doanh nghiệp 2005, ban hành ngày 01/20/2010, Hà Nội. 9. Đỗ Tiến Thịnh (2015), Tổng quan pháp luật về quản trị doanh nghiệp, https://dangkykinhdoanh.gov.vn/tong-quan-phap-luat-ve-dang-ky-doanh- nghiep, truy cập ngày 20/3/2020. 10. Mai Ngọc (2019), Nghiên cứu trao đổi https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=2492, Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp (www.moj.gov.vn), truy cập ngày 20/3/2020. 11. Kỳ Hoa, Khôi phục chức danh bà Lê Hoàng Diệp Thảo tại Trung Nguyên Nguyên https://vnexpress.net/phap-luat/khoi-phuc-chuc-danh-ba-le-hoang- diep-thao-tai-trung-nguyen-3812635.html, Vnexpress, truy cập ngày 20/3/2020. 12. Lê Hoàng Tùng (2009) “Thành viên Hội đồng quản trị độc lập: Quy định và thực tiễn”, Tạp chí Nhà quản lý, (số 68). 13. Lê Thị Thu Thủy và Đỗ Minh Tuấn (2016), Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới, Nxb. Tài Chính, Hà Nội, tr. 157 14. Lê Việt Phương (2018), Người đại diện của Công ty cổ phần thép pháp luật Việt Nam, Luận án Tiến sĩ luật học, Hà Nội. 15. Nhóm phóng viên (2012), Bài viết “Tranh chấp giữa SeaBank và Vinaconex – Viettel” tại https://tinnhanhchungkhoan.vn/phap-luat/tranh-chap-giua- seabank-va-vinaconex-viettel-vi-sao-21556.html (truy cập ngày 15/3/2020), báo đầu tư chứng khoán, Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 16. Ngô Gia Hoàng (2014) – Nguyễn Thị Thương (2016), NĐDTPL của doanh nghiệp theo LDN 2014 dưới góc độ quyền tự do kinh doanh, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 7 (339). 17. Nguyễn Hợp Toàn (2017), Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba trong trường hợp CTTNHH hoặc CTCP có nhiều NĐDTPL, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 9. 18. Nguyễn Hợp Toàn (2018), “Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba trong Công ty có nhiều người đại diện theo pháp luật”, Tạp chí Tòa án điện tử, http://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/bao-ve-quyen-loi-cua-nguoi-thu-ba-trong- cong-ty-co-nhieu-nguoi-dai-dien-theo-phap-luat, truy cập ngày 20/3/2020. 19. Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Đình Cung (2009), Công ty – Vốn, quản lý và tranh chấp theo Luật Doanh nghiệp 2005, Nxb. Tri thức, Hà Nội, tr. 332. 20. Nguyễn Ngọc Thanh (2010), Vấn đề chủ sở hữu và người đại diện: một số gợi ý về chính sách cho Việt Nam, in trong: Chuyên san Kinh tế và kinh doanh, tập 26, số 1/2010 21. Nguyễn Vinh Hưng (2016), Xây dựng chế định pháp luật về công ty hợp vốn đơn giản ở Việt Nam, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, số 1, năm 2016. 22. Nguyễn Thị Thanh (2016), NĐDTPL của doanh nghiệp, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số chuyên đề (tháng 8). 23. Phạm Lâm Hải Nguyên (2014), Chế định người đại diện của doanh nghiệp theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học – Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh. 24. Phạm Thị Hồng Đào (2014), Một số hạn chế của LDN và Luật Đầu tư năm 2014 cần hoàn thiện, http://www.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao- doi.aspx?ItemID=2066, truy cập ngày 20/3/2020. 25. Phan Đức Hiếu (2014), Ba cải cách lớn nhất của LDN 2014, http://khucongnghiep.com.vn/kinhnghiem.aspx, truy cập ngày 20/3/2020. 26. Phan Thành Nhân (2018), Thực trạng quy định của pháp luật về NĐDTPL của doanh nghiệp và hướng hoàn thiện, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 7 năm 2018, https://www.tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/nguoi-dai-dien-theo-phap- luat-cua-doanh-nghiep-thuc-trang-phap-luat-va-huong-hoan-thien, truy cập ngày 20/3/2020. 27. Quách Thúy Quỳnh – Nguyễn Thị Vân Anh (2016), “Lại chuyện hợp đồng vô hiệu do vi phạm thẩm quyền”, https://www.thesaigontimes.vn/148793/Lai- chuyen-hop-dong-vo-hieu-do-vi-pham-tham-quyen.html [Truy cập ngày 03/03/2020]. 28. Quốc hội (2005) Bộ luật Dân sự 2005, ban hành ngày 14/6/2005, Hà Nội. 29. Quốc hội (2005) Luật Doanh nghiệp 2005, ban hành ngày 29/11/2005, Hà Nội. 30. Quốc hội (2005) Luật Thương mại 2005, ban hành ngày 14/6/2005, Hà Nội. 31. Quốc hội (2014) Luật Doanh nghiệp 2014, ban hành ngày 26/11/2014, Hà Nội. 32. Quốc hội (2015) Bộ luật Dân sự 2015, ban hành ngày 24/11/2015, Hà Nội. 33. Quốc hội (2018) nghị quyết số 57/2018/QH14 ngày 08/6/2018 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019 và điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2018, thì LDN 2014 là một trong các luật được sửa đổi vào năm 2019. 34. Tập đoàn xăng dầu Việt Nam Petrolimex (2015) “Điều lệ Tập đoàn xăng dầu Việt Nam Petrolimex”, ication=pdf/a1f6dda29b9a418798756d81861faecd/dieu%20le%20cong%20ty%202 015.pdf>, cập nhật ngày 20/3/3020. 35. Trần Hoài Vũ (2017), Người đại diện của doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp 2016, Luận văn Thạc sĩ luật học, Hà Nội. 36. Trần Hoàng Vũ (2018), Quyền, nghĩa vụ của NĐDTPL trong CTCP theo LDN 2014, luận văn thạc sĩ Luật kinh tế, Học viện khoa học xã hội – Viện Hàn Lâm Khoa học Xã Hội Việt Nam. 37. Trần Minh Hải (2019), rắc rối khi doanh nghiệp muốn thay người đại diện theo pháp luật https://tinnhanhchungkhoan.vn/chung-khoan/rac-roi-khi-doanh- nghiep-muon-thay-nguoi-dai-dien-theo-phap-luat-241650.html, Báo Đầu tư – Cơ quan của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 38. Trần Ngọc Dũng & Trần Ngọc Anh, Các quy định về của LDN 2014 về CTHD và giải pháp hoàn thiện, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật (Viện Nhà nước và Pháp luật), số 3/2017. 39. Trần Ngọc Dũng, Hoàn thiện quy định về cơ chế giám sát hoạt động quản lý, điều hành trong CTCP theo LDN 2014, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật (Viện Nhà nước và Pháp luật), số 5/2016. 40. Trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh (2016) Giáo trình Pháp luật về Chủ thể kinh doanh, Nxb Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam. 41. Trương Nhật Quang (2016), Pháp luật về Doanh nghiệp, các vấn đề pháp lý cơ bản, Nxb Dân trí, tr.179. 42. Trương Thanh Đức (2017), Luận giải về LDN 2014 (36 kế sách pháp lý của doanh nghiệp), (Tái bản có chỉnh sửa), Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, tr. 171. 43. Việt Nam Cổng luật (2015) “Chế định đại diện – Một vài so sánh giữa luật Việt Nam và Thông luật”, https://vietnamlawgate.wordpress.com/2015/06/24/che- dinh-dai-dien-mot-vai-so-sanh-giua-luat-viet-nam-va-thong-luat-phan-i/ truy cập ngày 20/3/2020. 44. Vũ Thị Bích Thùy (2014), Đại diện theo pháp luật của CTCP ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học – Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. 45. Vũ Thị Lan Anh (2016) “Quy định mới của Luật Doanh nghiệp năm 2014 về người đại diện theo pháp luật của Doanh nghiệp”, Tạp chí Luật học, (số 4), tr.11. 46. Adam Smith, The Wealth of Nations, 1776, tr. 800 47. Án lệ Ferguson v Wilson (1866), LR 2 Ch App 77, tr.89-90. 48. Geoffrey Morse and others, Palmer’s Company Law – Volume 1 (Sweet & Maxwell, 2015). 49. Konrad Zweigert and Hein Koetz (1998) An Introduction to Comparative Law, Clarendon Press. Luật Công ty Anh năm 2006. 50. Luật Công ty Úc năm 2001. 51. Luật Công ty Nhật Bản. 52. 53. Luật Công ty trách nhiệm hữu hạn Đức năm 2016. 54. Pamela Hanrahan, Ian Ramsay and Geof Stapledon, Commercial Applications of Company Law (5th ed, 2004), tr. 244. PHỤ LỤC 01 THÔNG TIN TÌNH HÌNH DOANH NGHIỆP ĐĂNG KÝ TUẦN 08 TỪ NGÀY 24/02 – 29/02/2020 1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Thông tin tình hình doanh nghiệp đăng ký tuần 09 từ ngày 24/02 -29/02/2020, https://dangkykinhdoanh.gov.vn/vn/tin- tuc/597/5073/thong-tin-tinh-hinh-doanh-nghiep-dang-ky-tuan-09tu-ngay-24-02--- 29-02-2020.aspx, tra cứu ngày 2/4/2020. 1. Tình hình chung của cả nước Trong tuần này, số doanh nghiệp thành lập mới là 3.063 doanh nghiệp với số vốn
đăng ký là 38.242 tỷ đồng; so với tuần 08, giảm 3,9% về số doanh nghiệp và tăng
30,0% về số vốn đăng ký; so với tuần 07, tăng 26,9% về số doanh nghiệp và tăng
48,1% về số vốn đăng ký; số lao động đăng ký có 20.516 lao động, giảm 12,8% so
với tuần 08.
So sánh tuần 09 với tuần 08, số doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có
476 doanh nghiệp, tăng 40,4%; số doanh nghiệp bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng
ký doanh nghiệp là 98 doanh nghiệp, tăng 53,1%; số doanh nghiệp giải thể là 366
doanh nghiệp, tăng 8,3%.
Bên cạnh số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, trong tuần này có 238 doanh
nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 70,0% so với tuần trước đó.
2. Tình hình doanh nghiệp thành lập mới đăng ký theo loại hình, khu vực và lĩnh
vực
- Loại hình: Thống kê về số lượng doanh nghiệp tại Biểu đồ trên cho thấy, loại hình công ty
TNHH 1 TV có 1.855 doanh nghiệp, chiếm 60,6%; loại hình công ty TNHH 2 thành
viên trở lên có 679 doanh nghiệp, chiếm 22,2%; loại hình công ty cổ phần có 493
doanh nghiệp, chiếm 16,1%; loại hình doanh nghiệp tư nhân có 36 doanh nghiệp,
chiếm 1,2% và cuối cùng là loại hình công ty hợp danh tiếp tục không có doanh
nghiệp đăng ký mới.
Về tỷ lệ doanh nghiệp thành lập mới, hầu hết các loại hình doanh nghiệp của tuần
này đều giảm so với tuần trước đó; duy nhất, doanh nghiệp tư nhân tăng cao (tăng
44,0%), cụ thể: loại hình công ty TNHH 1 TV giảm 5,6%; loại hình công ty cổ phần
giảm 4,1% và loại hình công ty TNHH 2 TV trở lên giảm 0,4%.
- Khu vực: Tình hình doanh nghiệp phân theo vùng lãnh thổ trong tuần này có một số đặc điểm
như sau: Số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới ở các vùng trong cả nước đều
giảm so với tuần 08, trong đó, vùng Đồng bằng Sông Cửu Long có mức giảm cao
nhất với 7,0%. Đông Nam Bộ và Đồng bằng Sông Hồng là các vùng có số doanh
nghiệp đăng ký thành lập mới cao, lần lượt là 1.292 doanh nghiệp (chiếm 42,2%
tổng số doanh nghiệp thành lập của cả nước) và 936 doanh nghiệp (chiếm 30,6%
tổng số doanh nghiệp thành lập của cả nước). Trong khi đó, Tây Nguyên có lượng doanh nghiệp thành lập mới thấp nhất với 82 doanh nghiệp (chiếm 2,7% trên tổng
số doanh nghiệp).
- Lĩnh vực, ngành nghề: Biểu đồ trên cho thấy, tình hình doanh nghiệp thành lập mới chia theo lĩnh vực
hoạt động trong tuần này có một số đặc điểm như sau:
- Số doanh nghiệp thành lập mới giảm so với tuần 08 ở 11/17 ngành, trong đó, nổi
bật có ngành Khai khoáng giảm 53,8%; ngành Giáo dục và đào tạo giảm 22,2%;
ngành Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản giảm 19,6%; ngành Xây dựng giảm
14,3%;... Bên cạnh đó, ngành Kinh doanh bất động sản và lĩnh vực Nghệ thuật, vui
chơi và giải trí không có doanh nghiệp đăng ký thành lập mới trong tuần này.
- Doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tập trung nhiều nhất ở các ngành sau: Bán
buôn, bán lẻ; sửa chữa ô tô, xe máy có 1.071 doanh nghiệp, chiếm 35,0%; Xây
dựng có 421 doanh nghiệp, chiếm 13,7%; Công nghiệp chế biến, chế tạo có 384
doanh nghiệp, chiếm 12,5%. Các ngành, lĩnh vực có số lượng doanh nghiệp đăng ký
thành lập mới thấp nhất là: Khai khoáng có 12 doanh nghiệp, chiếm 0,4%; Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội có 15 doanh nghiệp, chiếm 0,5%; Nghệ thuật, vui chơi và
giải trí có 23 doanh nghiệp, chiếm 0,8%;... Lê Thị Thu Hải PHỤ LỤC 02 1. BẢN ÁN TRANH CHẤP GIỮA CÁC THÀNH VIÊN CÔNG TY https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta8575t1cvn/chi-tiet-ban-an, truy cập ngày 2/4/2020, hoặc link https://anle.toaan.gov.vn/webcenter/ShowProperty?nodeId=/UCMServer/TAND096 780 PHỤ LỤC 03 https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta74510t1cvn/chi-tiet-ban-an BẢN ÁN TRANH CHẤP THÀNH VIÊN CÔNG TY