ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
================
NGUYỄN THỊ NGỌC
DÂN CHỦ LÀNG XÃ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
QUA THỰC TẾ Ở HUYỆN ỨNG HÒA,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành: Triết học
Hà Nội - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
=================
NGUYỄN THỊ NGỌC
DÂN CHỦ LÀNG XÃ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
QUA THỰC TẾ Ở HUYỆN ỨNG HÒA,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.03.01
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Công Nhất
Hà Nội – 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi
dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Phạm Công Nhất. Các tài liệu, số liệu sử dụng
trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 15 tháng 8 năm 2016
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Ngọc
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BCĐ : Ban chỉ đạo
HĐND : Hội đồng nhân dân
PLDC : Pháp lệnh dân chủ
UBND : Uỷ ban nhân dân
MTTQ : Mặt trận Tổ quốc
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
QCDC : Quy chế dân chủ
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài ......................................................... 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 7
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ................................................................... 7
5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu .................................................... 7
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận văn ...................................................... 8
7. Kết cấu của luận văn ..................................................................................... 8
NỘI DUNG ...................................................................................................... 9
Chương 1: DÂN CHỦ LÀNG XÃ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY .................. 9
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN ...................................................................... 9
1.1. Khái niệm và đặc điểm của dân chủ làng xã ở nước ta hiện
nay………………………………………………………………………..9
1.1.1 Quan niệm chung về dân chủ ..................................................... 9
1.1.2. Dân chủ làng xã ở nước và đặc điểm của nó ........................... 11
1.2. Nội dung và một số nhân tố tác động đến nội dung thực hiện dân
chủ làng xã ở nước ta hiện nay ......................................................... 24
1.2.1. Một số nội dung cơ bản của dân chủ làng xã ở Việt Nam
hiện nay ............................................................................................ 24
1.2.2. Một số nhân tố tác động đến nội dung thực hiện dân chủ làng xã
ở nước ta hiện nay ............................................................................ 28
Chương 2: THỰC HIỆN DÂN CHỦ LÀNG XÃ Ở NƯỚC TA HIỆN
NAY QUA THỰC TẾ Ở HUYỆN ỨNG HÒA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ................................................................. 33
2.1. Thực trạng thực hiện dân chủ làng xã ở nước ta hiện nay qua
thực tế ở Huyện Ứng Hòa, Thành phố Hà Nội ................................ 33
2.1.1. Vài nét về tổ chức làng xã và truyền thống dân chủ làng xã ở
Huyện Ứng Hòa, Thành phố Hà Nội hiện nay ................................... 33
2.1.2. Thực trạng thực hiện dân chủ làng xã ở nước ta hiện nay qua
thực tế ở Huyện Ứng Hòa, Thành phố Hà Nội hiện nay .................... 37
2.1.3. Một số vấn đề đặt ra ............................................................... 66
2.2. Một số giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt
tiêu cực khi thực hiện dân chủ làng xã ở nước ta hiện nay qua thực
tế ở Huyện Ứng Hòa, Thành phố Hà Nội .......................................... 69
2.2.1. Nhóm giải pháp phát huy mặt tích cực .................................... 69
2.2.2. Nhóm giải pháp hạn chế mặt tiêu cực ..................................... 75
KẾT LUẬN ............................................................................................. 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 85
PHỤ LỤC ........................................................................................................ 89
MỞ ĐẦU
1 . Lí do chọn đề tài
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt
Nam luôn khẳng định cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân thực
hiện và vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trong bầu trời không có gì quý bằng
quần chúng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết
của nhân dân” [29,tr.276] và “Chế độ xã hội chủ nghĩa là do nhân dân lao
động làm chủ” [29,tr.273]. Chính vì vậy, ngay từ đầu, Chủ tịch Hồ Chí Minh
và Đảng Cộng sản Việt Nam đã chú ý tuyên truyền, giác ngộ ý thức làm chủ
sự nghiệp cách mạng cho quần chúng nhân dân, cả trong cách mạng giải
phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa
Bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa là dân chủ, theo đó dân chủ vừa
là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng do Đảng và nhân dân ta
xây dựng. Từ lâu, Đảng ta rất coi trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, dựa vào dân, nên đã đưa cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng
lợi khác. Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, dân chủ hoá đời sống xã hội được Đảng Cộng sản Việt Nam xác
định là một trong những nội dung cốt lõi, trọng tâm. Đặc biệt là dân chủ hoá
đời sống xã hội từ cơ sở.
Sau 30 năm đổi mới, kinh tế - xã hội của đất nước có nhiều thành tựu to
lớn, tạo tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa, từng bước nâng cao chất lượng đời sống
của nhân dân, nhất là trong giai đoạn hiện nay với Chương trình mục tiêu
quốc gia về xây dựng nông thôn mới đã, đang được triển khai rộng rãi trong
cả nước, được nhiều địa phương quan tâm và ủng hộ đã tạo ra làn sóng
chuyển đổi mạnh mẽ ở các địa phương, diện mạo nông thôn thay đổi, đường
xá được xây dựng khang trang, con người sống hài hòa, kinh tế xã hội phát
1
triển, an ninh quốc phòng được củng cố, tệ nạn xã hội được đẩy lùi, bộ mặt
nông thôn được đổi mới
Với định hướng phát triển đất nước đã xác định, quá trình xây dựng nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang đặt ra những vấn đề cốt lõi không
chỉ trong phương thức thực hiện mà cả trong thể chế và thiết chế. Sự bất cập,
sự chậm trễ, sự méo mó, sự nửa vời trong thực hiện dân chủ xã hôi đã gây nên
những bức xúc âm ỉ trong xã hội, đòi hỏi cần có những nghiên cứu, đề xuất
các giải pháp cho phù hợp.
Trong những năm qua, mặc dù đã có những thành tựu nhất định, xong
quyền làm chủ của nhân dân vẫn bị vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực;
tệ quan liêu, cửa quyền, hách dịch, tham nhũng, sách nhiễu dân vẫn xảy ra
phổ biến và nghiêm trọng. Đây là nguy cơ lớn của Đảng cầm quyền. Quan
liêu và tham nhũng làm xói mòn bản chất cách mạng của Đảng, của Nhà
nước, làm suy thoái đội ngũ đảng viên, cán bộ công chức về đạo đức, chính
trị, phá hoại mối liên hệ mật thiết giữa Đảng và quần chúng nhân dân. Phương
châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” chưa được cụ thể hoá bằng
pháp luật, thành cơ chế, nên chậm đi vào cuộc sống.
Để không ngừng tăng cường việc thực hiện dân chủ làng xã và góp
phần xem xét, đánh giá vấn đề một cách khách quan, khoa học, việc đi sâu
nghiên cứu, tổng kết, đánh giá quá trình thực hiện trên phạm vi toàn quốc hay
từng địa phương cụ thể đều có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn. Từ đó, tiêu
điểm mà tôi muốn đề cập, tập trung tìm hiểu là đời sống dân chủ ở các huyện
ngoại thành Hà Nội qua thực tế tại huyện Ứng Hòa,
Với ý nghĩa như vậy, tôi chọn vấn đề: "Dân chủ làng xã ở nước ta hiện
nay qua thực tế ở huyện Ứng Hòa, Thành phố Hà Nội" để làm đề tài luận văn
thạc sĩ, nhằm vận dụng kiến thức đã học cũng như kinh nghiệm công tác thực
tế để làm rõ hơn vấn đề dân chủ làng xã trên một địa bàn huyện cụ thể.
2
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
a. Qua khảo sát tài liệu, có thể chia thành các nhóm tài liệu lớn như sau:
- Nhóm các tài liệu nghiên cứu về làng xã và truyền thống dân chủ làng xã;
- Nhóm các bài báo viết về đời sống nông dân, xã hội nông thôn, về dân
chủ làng xã;
- Đề tài nghiên cứu về dân chủ làng xã.
* Nhóm các tài liệu nghiên cứu về làng xã và dân chủ làng xã
- “Một số vấn đề làng xã Việt Nam” của Nguyễn Quang Ngọc đã
nghiên cứu sự ra đời và biến đổi của làng xã Việt Nam trong tiến trình lịch sử;
nghiên cứu sự xuất hiện và song hành cùng tồn tại trong thiết chế chính trị, xã
hội nông thôn Việt Nam thời phong kiến; cơ chế, thiết chế quan phương và
phi quan phương, tính hành chính và tính tự trị, tính chính trị và tính xã hội
trong tổ chức và quản lý làng xã nông thôn Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử
của dân tộc Việt Nam... Tác giả khẳng định, mặc dù làng xã truyền thống đã
trải qua nhiều biến đổi nhưng nó chưa hoàn toàn biến mất, thậm chí còn phát
huy tác dụng trong chừng mực nhất định và trong một số mặt nào đó của đời
sống nông thôn hiện nay.
Trong tác phẩm này, tác giả cũng khẳng định truyền thống dân chủ làng
xã Việt Nam có nét đặc trưng cơ bản là quyền lợi, trách nhiệm của con người
không được xem xét với tư cách là cá nhân, mà luôn được xem xét và giải
quyết với tư cách là con người của cộng đồng, thuộc về dòng tộc.
- Các công trình: "Về giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam" (nhiều tác
giả) gồm 2 tập, nhà xuất bản Thông tin lý luận, Hà Nội, 1983 và "Giá trị tinh
thần truyền thống của dân tộc Việt Nam" của Trần Văn Giàu, nhà xuất bản
Thành phố Hồ Chí Minh (tái bản năm 1993) đã phân tích một cách sâu sắc về
các giá trị tinh thần truyền thống của người Việt Nam. Đặc biệt ở góc độ sử
học và đạo đức học, các tác phẩm đã phân tích sự vận động của những giá trị
tinh thần truyền thống qua những sự kiện phong phú của Việt Nam
3
- Hội thảo khoa học Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống Việt Nam trong quá trình hội nhập (đề tài KX.03.14/06-10) tổ chức tại
Biên Hòa – Đồng Nai vào tháng 9 năm 2009 với gần 40 bài viết của các tác
giả nghiên cứu đã được trình bày tại hội thảo. Phần thứ nhất gồm các bài viết
về giá trị văn hóa Việt Nam, chỉ ra những nét đặc sắc của nền văn hóa truyền
thống với các góc nhìn khác nhau. Phần thứ hai gồm tập hợp các bài viết về
giá trị văn hóa Việt Nam, chỉ ra những nét đặc sắc của văn hóa dân tộc và
những vấn đề đặt ra đối với bản sắc văn hóa Việt Nam trong quá trình đổi mới
và hội nhập. Phần ba và phần bốn là các bài viết về những nét đặc trưng và
việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa ở Nam Bộ và Đồng Nai
Cũng có hàng loạt các nghiên cứu về lịch sử nông thôn Việt Nam như
các chuyên khảo về làng xã, những đánh giá về triển vọng lịch sử của quá
trình phát triển kinh tế xã hội (của Phan Đại Doãn, Đào Thế Tuấn), những
cách nhìn mới về " làng truyền thống" (của Trần Từ, Toan Ánh)...
- Tác phẩm Hương ước trong quá trình thực hiện dân chủ ở nông thôn
Việt Nam hiện nay: Sách tham khảo. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2004
do GS.TSKH Đào Trí Úc chủ biên đã đi sâu vào nghiên cứu hương ước và vai
trò quan trọng của hương ước trong quá trình thực hiện dân chủ ở nông thôn
Việt Nam. Nội dung tác phẩm gồm có ba phần: Hương ước xưa và nay;
hương ước và pháp luật; hương ước với việc thực hiện dân chủ ở nông thôn
hiện nay. Ngoài ra, tác phẩm còn có thêm các phần phụ lục gồm một số văn
bản của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng, thực hiện hương ước, quy ước
mới và một số bản hương ước trong các giai đoạn tồn tại, phát triển của
hương ước Việt Nam.
Tác phẩm đã khái quát hóa và đi sâu nghiên cứu sự phát triển hương
ước qua các thời kỳ lịch sử và qua đó vai trò trong quá trình thực hiện dân chủ
của hương ước đã được chỉ rõ, có tác động tích cực tới hệ thống pháp luật để
thực hiện dân chủ hóa ở nông thôn Việt Nam trong thời kỳ mới.
4
Nhìn chung, các tác giả của những công trình đã nghiên cứu tòan diện
các vấn đề về làng xã cổ truyền, những giá trị của nó và sự kế thừa các giá trị
truyền thống trên bình diện chung của văn hóa dân tộc Việt Nam.
* Nhóm các bài báo viết về đời sống nông dân, xã hội nông thôn, về
dân chủ làng xã
- "Cộng đồng làng xã Việt Nam hiện nay" nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2001. Phần 1 của cuốn sách tập trung nghiên cứu một số vấn đề
cơ bản của cộng đồng làng xã Việt Nam hiện nay, như: xây dựng cộng đồng
làng xã, tổ chức Đảng ở làng xã, hoạt động của chính quyền cơ sở cấp xã, vấn
đề làng xã Việt Nam hiện nay và xây dựng, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ
sở, xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở, vấn đè huy động sức dân để xây dựng
cơ sở hạ tàng nông thôn hiện nay và nghiên cứu đói nghèo ở các cộng đồng
làng xã Việt Nam thời gian qua. Phần 2 của cuốn sách trực tiếp mô tả cụ thể
cộng đồng làng xã ở một số địa phương, từ đó có những nhận xét, kiến nghị
cho việc xây dựng thành công cộng đồng làng xã Việt Nam hiện nay theo chủ
trương của Đảng
- “Thực hiện quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước
ta hiện nay” (TS. Nguyễn Văn Sáu và GS. Hồ Văn Thông đồng chủ biên).
Công trình là những nghiên cứu tổng kết việc thực hiện Quy chế thực hiện
dân chủ ở cơ sở sau 5 năm ban hành và xây dựng chính quyền cấp xã trên một
số hoạt động: quản lý xã hội, hoạt động kinh tế, quản lý tài chính, thực hiện
Chương trình xóa đói giảm nghèo... và phụ lục giới thiệu kinh nghiệm triển
khai dân chủ ở cấp thôn của Trung Quốc
- Các công trình “Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện
nay”, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004; “Dân chủ và dân chủ ở
cơ sở nông thôn trong tiến trình đổi mới” GS.TS Hoàng Chí Bảo, nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, Nguyễn Việt Hương: “Dân chủ làng
xã: Truyền thống và hiện đại”. Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 8, năm
2004, tr.18-27; Lê Xuân Huy: “Ảnh hưởng của tâm lý sản xuất nhỏ đối với
5
việc thực hiện dân chủ ở nông thôn ta hiện nay”. Tạp chí triết học, số 7, năm
2005, tr. 12-17 … đều xoay quanh mảng chủ đề lớn, phức tạp, quan trọng và
cấp bách đối với sự phát triển của Việt Nam, đặc biệt nhìn từ góc độ văn hóa
dân chủ, góc độ nhân văn...Các công trình nghiên cứu trên đã khảo sát, nghiên
cứu, đánh giá về đời sống nông thôn Việt Nam trong lịch sử và hiện tại ở cả
khía cạnh thiết chế, thể chế trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội; đã nêu bật tầm quan trọng của dân chủ và dân chủ ở cơ sở, đặc biệt là dân
chủ cơ sở ở nông thôn nước ta hiện nay, những hạn chế, yếu kém trong quá
trình thực hiện dân chủ ở cơ sở trong thời gian qua, đồng thời đề xuất những
giải pháp khắc phục nhằm góp phần thực hiện ngày càng có hiệu quả hơn việc
phát huy dân chủ trong đời sống xã hội, tạo động lực và mục tiêu cho sự
nghiệp xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”
b. Một vài nhận xét
Nhìn chung, các tác giả của những công trình này đã nghiên cứu toàn
diện vấn đề về làng xã cổ truyền, những giá trị của nó và sự kế thừa các giá trị
truyền thống trên bình diện chung của văn hóa dân tộc Việt Nam. Các công
trình trên đã khảo sát, nghiên cứu, đánh giá về đời sống nông thôn Việt Nam
trong lịch sử và hiện tại ở cả khía cạnh thể chế, thiết chế trên các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; đã nêu bật được tầm quan trọng của dân
chủ và dân chủ cơ sở ở nông thôn nước ta hiện nay, những hạn chế thực hiện
dân chủ cơ sở trong thời gian qua, đồng thời đề xuất những giải pháp khắc
phục nhằm góp phần thực hiện ngày càng có hiệu quả hơn việc phát huy dân
chủ trong đời sống xã hội.
Như vậy, về vấn đề dân chủ đã có nhiều công trình, bài viết của nhiều
tác giả đề cập. Từ những tài liệu mà tôi có được, tôi mong muốn lần tìm được
mạch nguồn tiếp nối của dòng chảy liên tục của đời sống con người, xã hội ở
vấn đề xây dựng nông thôn ở Việt Nam nói chung, qua đó nghiên cứu được
một phần nào đó về dân chủ trong đời sống của người dân Ứng Hòa nói riêng
6
3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
a. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của luận văn là phân tích thực trạng và đề xuất
những phương hướng, giải pháp cơ bản để góp phần nâng cao hiệu quả của
việc thực hiện dân chủ làng xã trên địa bàn huyện Ứng Hòa, Thành phố Hà
Nội hiện nay.
b. Nhiệm vụ
- Phân tích những vấn đề lý luận về dân chủ và thực hiện dân chủ ở làng xã;
- Đánh giá thực trạng thực hiện dân chủ làng xã trên địa bàn huyện Ứng
Hòa (Hà Nội), chỉ rõ những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh hiệu quả việc thực
hiện dân chủ làng xã trên địa bàn huyện Ứng Hòa hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu quá trình thực hiện dân chủ làng xã ở nước ta hiện nay qua
thực tế ở huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội
* Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Nghiên cứu quá trình thực hiện dân chủ làng xã ở nước
ta hiện nay qua thực tế ở huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội
- Về không gian và thời gian:
+ Không gian: Hà Nội – huyện Ứng Hoà;
+ Thời gian: từ năm 2000 đến nay.
5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu
a. Cơ sở lí luận
Luận văn sử dụng hệ lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, các quan điểm , chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề dân
chủ làng xã ở nước ta hiện nay. Ngoài ra, còn một số công trình trong và
ngoài nước nghiên cứu về dân chủ làng xã đã được công bố cũng là cơ sở lí
luận của đề tài
7
b. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận triết học: chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy
vật biện chứng; các phương pháp chung: hệ thống hóa, khái quát hóa, phân
tích và tổng hợp, đôi chiếu so sánh; ngoài ra còn sử dụng các phương pháp
điều tra liên ngành như: điều tra, phỏng vấn sâu, lập biểu….
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận văn
a. Về thực tiễn
Qua nghiên cứu, điều tra, phân tích quá trình thực hiện dân chủ làng xã
trên địa bàn huyện Ứng Hòa, đề tài khái quát một số kết quả bước đầu, chỉ ra
những hạn chế, nguyên nhân của nó; đồng thời đề xuất những phương hướng,
giải pháp cụ thể phù hợp với địa bàn huyện
b. Về lí luận
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo, làm cơ sở trong các trường
trong giảng dạy, nghiên cứu, vận dụng trong thực tiễn
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 2 chương, 4 tiết, không kể danh mục tài liệu tham khảo
và phần phụ lục
Chương I: Dân chủ làng xã nước ta hiện nay- một số vấn đề lí luận
Chương II: Thực hiện dân chủ làng xã ở nước ta hiện nay qua thực tế ở
huyện Ứng Hòa, Thành phố Hà Nội – Thực trạng và giải pháp.
8
NỘI DUNG
Chương 1: DÂN CHỦ LÀNG XÃ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Khái niệm và đặc điểm của dân chủ làng xã ở nước ta hiện nay
1.1.1 Quan niệm chung về dân chủ
* Khái niệm dân chủ:
Dân chủ là một khái niệm đa nghĩa, phức tạp, thuộc phạm trù chính trị
có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp. Ở đây, “Dân chủ” là một từ ghép bao gồm hai
chữ: Demos (có nghĩa là người bình dân, dân chúng) và Kratia (chữ gốc là
Kratos - có nghĩa là quyền cai trị, là sức mạnh). Do vậy, từ Demos Kratia có
nghĩa là dân chủ, quyền lực, là sự cai trị của người bình dân. Theo đó, dân
chủ có nghĩa là quyền lực của nhân dân; dân chủ là sự cai trị của nhân dân -
nó được biểu hiện theo nghĩa đối lập với chế độ độc tài. Nhân dân là chủ thể
của quyền lực, sử dụng quyền lực, trong đó quyền lực chính trị là quan trọng
nhất để tổ chức, quản lý xã hội, thực hiện sự nghiệp giải phóng con người và
giải phóng nhân loại cần lao khỏi áp bức, xiềng xích, bất công.
Lênin viết: “Chế độ dân chủ, đó là một Nhà nước thừa nhận việc
thiểu số phục tùng đa số, nghĩa là sự tổ chức đảm bảo cho một giai cấp thi
hành bạo lực một cách có hệ thống chống lại giai cấp khác” [33,tr.101]. Vì
vậy, dân chủ luôn mang tính giai cấp, nó tồn tại và biến đổi cùng với sự
biến đổi của cuộc đấu tranh giai cấp và sự thay đổi của phương thức sản
xuất chủ yếu của xã hội. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một hiện tượng hợp
quy luật, là bước phát triển cao hơn về chất so với các kiểu dân chủ khác và
bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa là giải phóng con người, để con
người có thể thực hiện được những quyền tự nhiên của mình, tự làm chủ
vận mệnh và quyết định những vấn đề xã hội. Theo C.Mác, dân chủ xã hội
chủ nghĩa thực chất là chế độ “do nhân dân tự quy định Nhà nước”, nhân
dân là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước. Nhân dân tự tổ chức quyền
9
lực nhà nước qua bầu cử, tham gia quản lý và quyết định những vấn đề
quan trọng, kiểm tra, giám sát hoạt động của Nhà nước thông qua hình thức
dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Lênin đã khái quát quyền dân chủ
trong lĩnh vực chính trị của nhân dân thành ba nội dung lớn: quyền bầu cử,
quyền tham gia quản lý các công việc của Nhà nước và quyền bãi miễn.
Tiếp thu và kế thừa các quan điểm về “dân chủ” của nhân loại, Chủ
tịch Hồ Chí Minh lý giải khái niệm “dân chủ” một cách đơn giản, hết sức
cô đọng và dễ hiểu, dễ thực hiện và dễ kiểm soát. Người nói: “Chế độ ta là
chế độ dân chủ, tức là dân làm chủ”, “nước ta là nước dân chủ, địa vị cao
nhất là dân, vì dân là chủ” [28,tr.515]. Người viết:
“Nước ta là nước dân chủ Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân
Chính quyền từ xã đến Chính phủ do dân cử ra
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” [28,tr.698]`
Như vậy, “dân là chủ” và “dân làm chủ” là cốt lõi trong khái niệm
“dân chủ” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Quan điểm trên thể hiện nội dung cơ
bản mà nhân loại thừa nhận: dân chủ nghĩa là quyền lực thuộc về nhân dân.
Song nghiên cứu về dân chủ, chúng ta phải đứng trên quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin, khi dùng khái niệm “nhân dân” không bao giờ
được đánh đồng các giai cấp, tầng lớp.Vì dân chủ gắn liền với xã hội có
giai cấp, khái niệm dân có thể thay đổi về số lượng, chất lượng và đối
tượng tùy theo tính chất của một xã hội trong từng thế kỷ, từng nấc thang
phát triển nhất định. Có thể nói, khái niệm “dân” đồng nhất với khái niệm
nhân dân, dân chúng, quần chúng nhân dân. Và việc thực hiện cho được
“dân là chủ, dân làm chủ” đấy chính là thực hiện sứ mệnh lịch sử, vai trò to
lớn của quần chúng nhân dân, bởi vì quần chúng nhân dân là lực lượng cơ
10
bản của mọi cuộc cách mạng, là người trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất
và sáng tạo ra những giá trị tinh thần, nhân tố quyết định sự tồn tại và phát
triển của nhân loại.
Dân chủ là khát vọng được làm chủ, là quyền tự nhiên của con người
trong đó có quyền sử dụng tất cả sức mạnh để thực hiện vai trò của người
chủ và quyền làm chủ đó có lúc, có nơi đã được những người cầm quyền
trong lịch sử nhận thức và thể chế thành pháp luật thực định cùng các thiết
chế chính trị - xã hội khác. Song, chỉ đến khi nền dân chủ vô sản – dân chủ
xã hội chủ nghĩa ra đời, thì đó mới là chế độ dân chủ thực sự, dân chủ của
đa số nhân dân với sự đảm bảo thực hiện của pháp luật, của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
1.1.2. Dân chủ làng xã ở nước và đặc điểm của nó
- Khái niệm làng xã
Khái niệm “Làng” là danh từ (theo tiếng Nôm), dùng để chỉ đơn vị tụ
cư nhỏ nhất nhưng chặt chẽ và hoàn thiện nhất của người Việt. Trong buổi
đầu được gọi là các Kẻ, Chạ, Chiềng của người Việt cổ, về sau được gọi là
Làng, còn ở khu vực miền núi được gọi là Bản, Mường, Buôn, Plei, Plum,
Đê,…
Khái niệm “Xã” là danh từ (theo tiếng Hán) có nơi gọi là Thôn, dùng
để chỉ đơn vị hành chính thấp nhất của nhà nước Phong kiến ở các vùng
nông thôn Việt Nam xưa. Ngày nay tên gọi xã vẫn dùng để chỉ đơn vị hành
chính địa phương cở sở ở nông thôn[20,tr.1]
Mối quan hệ giữa Làng và Xã có một vị trí quan trọng trong sinh
hoạt cộng đồng. Thông thường một “xã” bao gồm một hoặc nhiều “làng”,
làng là đơn vị cấu thành của xã, đôi lúc mỗi xã chỉ có một làng (xã ngang
bằng với làng).
Khác với làng, “làng xã” là thuật ngữ xuất hiện muộn hơn. Và theo GS.
Nguyễn Quang Ngọc: “Làng xã là một đơn vị tụ cư, đơn vị kinh tế, đơn vị tín
ngưỡng và sinh hoạt văn hoá cộng đồng, đơn vị hành chính cấp cơ sở (ở đây
11
chúng tôi muốn nói về trường hợp thời kỳ đầu một xã chỉ có một làng). Cụm
từ “làng xã” hết sức thông dụng, thậm chí nhiều người tưởng rằng làng với
xã chỉ là một và có cùng nguồn gốc rất lâu đời. Thật ra khái niệm “làng xã”
chỉ xuất hiện sớm nhất là từ thế kỷ VII, nhưng chắc chắn phải đến thế kỷ X,
sau khi cấp xã chính thức xuất hiện mới có điều kiện trở thành phổ biến trong xã hội”.[32, tr.10]
Dù còn có nhiều quan niệm khác nhau về thuật ngữ này, nhưng tác giả
đồng tình với quan niệm trên và cũng cho rằng, thuật ngữ “làng xã” có nhiều
điểm tương đồng với thuật ngữ “làng” nhưng xuất hiện muộn hơn. Ngoài ra,
thuật ngữ “làng xã” cũng được sử dụng khá phổ biến để chỉ cấp quản lý thấp
nhất khi nói một cách chung chung. Ở đây, cũng có sự khác biệt khi làng xã
đôi khi cũng được coi là cấp chính quyền cơ sở trong hệ thống bộ máy quản
lý của chính quyền đô hộ cũng như chính quyền phong kiến Việt Nam.
Trường hợp một xã gồm nhiều thôn, thì thôn là phân thể hành chính
của xã nhưng không có tư cách pháp nhân.
Trường hợp xã tương đương với thôn thì thôn mang tính chất độc lập
và nó cũng có tư cách pháp nhân là đơn vị hành chính địa phương, cơ sở
của nhà nước trung ương.
Tuy có trường hợp xã tương đương với làng, nhưng xét về sắc thái, ý
nghĩa thì giữa chúng vẫn có sự khác biệt: làng mang tính chất truyền thống,
được sử dụng để biểu thị tình cảm, còn xã mang ý nghĩa về mặt hành chính,
thường được sử dụng trên giấy tờ.
Trong trường hợp thôn có tư cách pháp nhân giống như xã thì người
ta gọi ghép là xã thôn. Do có nhiều xã chỉ gồm có một làng duy nhất nên
người ta gọi chung là làng xã. Do làng là một tập hợp bao gồm nhiều xóm
nên người ta gọi là làng xóm.
Như vậy, làng không phải bao giờ cũng trùng với xã. Xã là biểu hiện
xác định của một tồn tại ở khía cạnh thực thể đơn vị hành chính (địa giới,
cấu trúc thực thể với mối quan hệ nội tại và mối quan hệ với chính quyền
12
cấp trên, với xã hội bên ngoài); làng với đời sống văn hóa truyền thống, là
nền tảng tinh thần “hồn”, “cốt” của làng xã, đời sống tinh thần, khía cạnh
tình cảm của dân quê gắn chặt với làng. Khái niệm làng xã như một đơn vị
tụ cư, đơn vị kinh tế, đơn vị tín ngưỡng và sinh hoạt cộng đồng văn hóa,
đơn vị hành chính cấp cơ sở. Với những truyền thống văn hóa đặc trưng
của làng xã cổ truyền cùng với tiến trình phát triển lâu dài trong lịch sử,
làng xã, văn hóa truyền thống làng xã ở nông thôn Việt Nam đang ảnh
hưởng đến quá trình xây dựng, thực hiện dân chủ và đời sống dân chủ ở
phạm vi cơ sở của nước ta hiện nay.
- Khái niệm dân chủ làng xã:
+ Những quan niệm khác nhau về dân chủ làng xã:
Nhận thức về dân chủ làng xã có nhiều quan điểm và cách tiếp cận
khác nhau, trong đó có một số quan điểm cụ thể sau:
* Quan điểm cho rằng: dân chủ làng xã là dân chủ truyền thống ở
Việt Nam, gắn với chế độ phong kiến, các mối quan hệ dân chủ này có thể
diễn ra cả các khu đô thị Việt Nam xưa như Hà Nội, phố Hiến, Hội An…
đều có những mối quan hệ dân chủ mang tính chất làng xã. Với quan điểm
này thì dân chủ làng xã là một xã hội thu nhỏ trong các khu đô thị (đó là
đặc trưng riêng có), gắn với tư tưởng “quân vương – thần dân” dựa trên tư
tưởng Nho giáo theo “tam cương, ngũ thường”, chia giai cấp. Vì vậy, cụm
từ “dân chủ” ở đây không thể hiện đầy đủ ý nghĩa của nó. Quan điểm này
chỉ phù hợp trong tìm hiểu văn hóa – lịch sử, truyền thống nhằm làm rõ
hơn đặc trưng văn hóa truyền thống của xã hội Việt Nam qua các thời kỳ.
* Quan điểm cho rằng: dân chủ làng xã là dân chủ gắn với khu vực
nông thôn Việt Nam xưa và hiện nay: dân chủ gắn với nghề trồng lúa nước,
dân chủ diễn ra quanh các mối quan hệ họ hàng, làng nước, giữa cá nhân,
gia đình và cộng đồng thôn xóm.
Truyền thống bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta
gắn liền với nghề trồng lúa nước lâu đời, nó trở thành đặc trưng trong tiến
13
trình phát triển của dân tộc Việt Nam. Dân chủ làng xã gắn với khu vực
nông thôn Việt nam xưa và nghề trồng lúa nước, gia đình, cộng đồng, thôn
xóm dựa trên đặc điểm cơ bản về lịch sử phát triển của dân tộc ta. Ở đó,
dân chủ được thể hiện như một vai trò của cá nhân đối với cộng đồng với
các nhiệm vụ như nhau, thể hiện tình làng nghĩa xóm, nghĩa tình giữa cá
nhân với cá nhân, cá nhân với xã hội. Dân chủ làng xã gắn với “làng quê”
với các thiết chế khép kín.
* Quan điểm cho rằng: dân chủ làng xã thực chất là mối quan hệ giữa
người với người trong cộng đồng dân cư tại các làng xã (khu vực nông
thôn) thể hiện qua nội dung các cam kết cộng đồng của các bản hương ước.
Hương ước của các làng xã là “bản cam kết” thể hiện nguyện vọng
chung của nhân dân trong cùng một khu vực dân cư, ở đó quy định “lệ” của
làng xã. Với quan điểm này, dân chủ làng xã là dân chủ của một cộng đồng
riêng biệt (vì mỗi làng xã, bộ phận dân cư lại có các “lệ” khác nhau) thể
hiện tính “riêng biệt” trong phạm vi rộng hơn là vùng miền và lãnh thổ
quốc gia.
* Quan điểm cho rằng: dân chủ làng xã thực ra để chỉ các sinh hoạt
của các cộng đồng dân cư trong các làng xã thuộc các khu vực nông thôn
Bắc bộ của Việt Nam xưa và nay.
Với quan điểm này cũng mang tính truyền thống văn hóa đặc trưng
như các quan điểm trên, tuy nhiên phạm vi của hình thức dân chủ này mang
“quy mô” rộng hơn – phạm vi vùng miền (chứ không đơn thuần bó hẹp ở
các làng xã). Trong đó, khu vực đồng bằng Bắc Bộ thể hiện đầy đủ các nét
đặc trưng về văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam, những nét đặc
trưng văn hóa đó là cốt lõi, tinh túy thể hiện hồn cốt dân tộc như văn hóa:
Kinh Bắc, Hà Thành… đều tập trung phát huy nét làng xã cổ truyền Việt
cho đến nay.
Tuy nhiên các quan điểm trên về dân chủ làng xã chưa thực sự thể
hiện được bản chất của dân chủ làng xã. Dân chủ trong các quan điểm trên
14
mang tính cục bộ, bó hẹp trong không gian đóng, chưa thể hiện được tính
cố kết cộng đồng trên phạm vi rộng, hoặc là dân chủ hình thức vì vậy
những quan điểm trên chưa phù hợp so với quan niệm hiện nay về dân chủ.
Cộng đồng dân cư là nơi con người tồn tại, sinh sống, phát triển và
gắn bó với nhau bởi các mối quan hệ xã hội. Ở đó, mối quan hệ giữa người
và người được thiết lập trên các mối quan hệ về kinh tế, văn hóa, chính trị-
xã hội… vì mục tiêu phát triển. Trong hệ thống tổ chức chính quyền từ
Trung ương đến cơ sở, làng xã được coi là nền tảng, cốt lõi của cộng đồng
dân tộc mở rộng ra là cộng đồng dân cư của một quốc gia – Làng xã là
cộng đồng dân cư đặc trưng nhất ở nước ta trong tiến trình lịch sử phát
triển của dân tộc.
Quần chúng nhân dân là những người trực tiếp sản xuất ra những giá
trị vật chất và sáng tạo ra giá trị tinh thần. Trong lao động và sinh sống,
nhân dân luôn gắn bó mật thiết với một đơn vị, một tổ chức, một địa bàn
dân cư nhất định. Bất cứ một tổ chức nào, xét theo hệ thống cấu trúc, cũng
bao gồm hệ thống cấu trúc từ nhỏ đến lớn. Những cấu trúc nhỏ nhất trong
một hệ thống có tư cách như một chỉnh thể tương đối hoàn chỉnh, độc lập,
là nền tảng cho toàn bộ hệ thống được gọi là cơ sở. Cơ sở là “tế bào” của
hệ thống. Bất cứ một công dân, một thành viên nào của tổ chức cũng đều
gắn bó và sinh sống, lao động, học tập ở một cơ sở nhất định trong hệ
thống. Đó chính là xã, phường, cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức kinh tế cơ
sở…nơi diễn ra các quan hệ nhiều mặt giữa các tầng lớp nhân dân. Hệ
thống chính trị của nước ta được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập
trung dân chủ, nguyên tắc cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, được
tổ chức thành 4 cấp: trung ương, tỉnh, huyện và xã (cơ sở) là cấp cuối cùng.
Xã, phường, thị trấn là nơi trực tiếp thực hiện đường lối của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước, là nơi kiểm nghiệm một cách chính xác nhất
đường lối của Đảng trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa trong thực
tiễn khách quan. Dân chủ, với ý nghĩa tối cao nhất là quyền tự nhiên của
15
con người được thực hiện trước hết là ở cơ sở. Nhân dân có quyền được
biết, được bàn và được tham gia giải quyết và kiểm tra giám sát mọi hoạt
động diễn ra ở cơ sở. Dân chủ ở cơ sở được thực hiện dưới hình thức gián
tiếp và dân chủ trực tiếp, là hình thức nhân dân thực hiện quyền làm chủ
của mình bằng cách trực tiếp thể hiện ý chí, nguyện vọng đối với những
vấn đề về tổ chức và hoạt động ở cơ sở. Dân chủ trực tiếp là hệ thống báo
động nhạy cảm nhất những vấn đề về chính trị, kinh tế, văn hóa. Dân chủ
trực tiếp giúp cho Đảng và Nhà nước kiểm nghiệm chính sách pháp luật
một cách nhanh nhất, sát với thực tế khách quan, khắc phục bệnh chủ quan,
duy ý chí, tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa chính quyền với nhân dân.
Tăng cường, hoàn thiện và thực hiện dân chủ thực sự là mục tiêu
lâu dài và thường xuyên của Đảng và Nhà nước. Mỗi bước phát triển của
dân chủ phải được ghi nhận bởi các quy định của pháp luật. Dân chủ phải
gắn liền với pháp luật và thực hiện pháp luật. Song việc phát huy và mở
rộng dân chủ phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội, trình độ
dân trí, truyền thống văn hóa, phong tục tập quán của mỗi cộng đồng, dân
chủ gắn liền với kỷ cương. Hiện tại, các quy định về thực hiện dân chủ ở
cơ sở của Nhà nước ta mới chỉ thể chế đối với cơ sở ở xã, phường, thị trấn,
cơ quan doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu
hạn. Trong đó, dân chủ ở xã, phường, thị trấn là một nội dung quan trọng,
chủ yếu đề cập đến thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở trong hệ thống chính
quyền 4 cấp ở nước ta theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra”. Còn rất nhiều loại hình cơ sở khác chưa có quy định về thực
hiện dân chủ đặt ra cho Đảng, Nhà nước yêu cầu tiếp tục được nghiên cứu,
bổ sung, hoàn thiện các quy định của pháp luật về dân chủ ở cơ sở.
Vì có vị trí cốt lõi, quan trọng trong hệ thống tổ chức chính quyền,
do đó đảm bảo dân chủ làng xã sẽ là cơ sở thực hiện chế độ dân chủ trên
phạm vi cả nước hay nói một cách khác thực hiện chế độ dân chủ trong
phạm vi cả nước chính là đạt tới mục tiêu thực hiện dân chủ cơ sở ở làng xã. Tổ
16
chức chính quyền địa phương ở nước ta đã được khẳng định rất rõ tại khoản 1,
Điều 110, Hiến Pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013:
“Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam được
phân định như sau:
Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
Tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh; Thành phố
trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính
tương đương;
Huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố thuộc tỉnh chia
thành phường và xã; quận chia thành phường” [45,tr.29]
Trong các đơn vị hành chính cấp xã, phường bao gồm nhiều thôn,
làng, bản, buôn… như vậy có thể thấy cấp cơ sở cuối cùng đó chính là các
cộng đồng dân cư trong các làng xã.
Làng xã là kết quả của sự tổ chức đời sống cộng đồng ở trình độ
công xã nông thôn kết hợp với sự quản lý hành chính nhất định của chính
quyền trung ương, nó tương thích với cơ cấu giai cấp xã hội và sự vận hành
của song hành quyền lực: tự quản và hành chính. Ở đó vị thế và quyền
tham gia vào đời sống của làng xã của người nông dân được thực hiện ở
phạm vi hẹp, nội dung đơn giản do không gian sống khép kín, các mối
quan hệ cộng đồng về cơ bản là đơn giản liên quan đến những nhu cầu
hàng ngày.
Dân chủ là mục tiêu của các cuộc cách mạng xã hội, là nguyện vọng
của toàn thể nhân dân. Ở nước ta, thực hiện dân chủ là minh chứng cho
mục tiêu xây dựng nhà nước “của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”
nhằm hướng tới xây dựng chế độ XHCN. Dân chủ làng xã chính là cách
thức thực hiện quyền làm chủ của người dân trên mọi mặt của đời sống xã
hội ở phạm vi cơ sở, phạm vi cộng đồng dân cư gắn liền với các thiết chế,
thể chế và các quy chế đảm bảo bằng hành lang pháp lý để người dân thực
thi quyền làm chủ của mình. Dân chủ làng xã là cơ sở để xây dựng đời
17
sống dân cư phát triển, góp phần thực hiện thành công mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” mà Đảng và nhà nước ta
hướng tới. Do đó, mọi quyền dân chủ phải được thực thi và hiện thực hóa ở
cấp độ cộng đồng làng xã. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, việc thực hiện
tốt chế độ dân chủ làng xã có ý nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc
đẩy xã họi phát triển.
Yếu tố dân chủ trong làng xã của Việt Nam chính là biểu hiện ở tính
tự trị, tự quản của tất cả các nhóm xã hội, các thành viên trong cộng đồng
làng xã. Tuy nhiên, làng xã chỉ thừa nhận quyền dân chủ giữa những con
người một khi họ là thành viên chính thức của mình, chỉ bảo đảm quyền lợi
bình đẳng của họ với tư cách là thành viên của cộng đồng. Trong làng,
người nông dân không tồn tại với tư cách là công dân của một đất nước mà
thực chất chỉ là thành viên của một làng, mọi nghĩa vụ, mọi trách nhiệm
cũng như mọi quan hệ ưng xử của họ đều không phải là của cá nhân mà với
tư cách là thành viên của một gia đình, một dòng họ hay một cộng đồng
làng xã. Làng xã không bao giờ công nhận quyền cá nhân của con người
với tư cách là một thực thể độc lập.
Bàn về “dân chủ” ở làng xã, trước hết tác giả khẳng định rằng: Thuật
ngữ “dân chủ” được dùng với nghĩa phi truyền thống, không hoàn toàn theo
nghĩa được hiểu hiện nay. Bởi, trong bối cảnh xã hội bị đô hộ hoặc dưới
phương thức quản lý nhà nước trong thời kỳ phong kiến Việt Nam, thuật ngữ
“dân chủ” khó có thể được hiểu theo nghĩa “là phương thức tổ chức quyền lực
mà ở đó người dân là chủ của quyền lực”. Dù dân chủ được hiểu trên nhiều
giác độ như: chính trị pháp lý, triết học, trên phương diện kinh tế, phương
diện quan hệ quốc tế… thì trong xã hội tiền phong kiến, phong kiến và thực
dân ở Việt Nam thì cũng khó có thể hiểu “dân chủ” thời đó theo nghĩa hiện
nay.
Thuật ngữ “dân chủ làng xã” mà tác giả sử dụng trong bài này nhằm
mô tả một dạng tổ chức quản lý đặc biệt ở làng xã Việt Nam trong lịch sử.
18
Một dạng tổ chức có sự tham gia rộng rãi của các thành viên làng xã, có tính
tự quản, tự trị cao trong đời sống vật chất, quản lý và đời sống tinh thần, tâm
linh. “Dân chủ” ở đây còn được hiểu rộng ra là sự đánh giá cao vai trò của
người dân, cộng đồng làng xã trong việc giải quyết các công việc quốc gia hệ
trọng. Dân chủ làng xã được coi là một hình thức sinh hoạt dân chủ độc đáo
của người Việt Nam dưới chế độ phong kiến nhưng đồng thời nó cũng
được phát huy cho đến tận ngày nay.
- Đặc điểm dân chủ làng xã
Xét chung về làng xã và dân chủ về làng xã, có thể nhận định một số
đặc điểm quan trọng và nổi bật dưới đây:
Thứ nhất, tính cộng đồng cao: dân chủ thường dành cho số đông:
thông qua các sinh hoạt văn hoá, cộng đồng tập thể nên mọi người dân đều
có cơ hội tham gia.
Một nguyên tắc quan trọng hình thành nên làng là tính cộng đồng.
Tính cộng đồng có vai trò gắn kết các thành viên trong làng lại với nhau
thông qua các biểu tượng mang tính truyền thống, như cây đa, bến nước,
sân đình. Hầu hết, mọi làng của người Việt đều hội tụ cả ba biểu tượng
này. Dù đi xa mãi đâu mỗi khi về làng, hình ảnh mà người ta mong chờ
được nhìn thấy đầu tiên chính là cây đa đầu làng. Phải nói rằng, cây đa
chính là nơi hội tụ giao tiếp của làng với thế giới bên ngoài, là chốn nghỉ
chân của lữ khách qua đường hay của những người dân sau một ngày lao
động nơi đồng ruộng. Nói tới cây đa, người ta luôn dành cho biểu tượng
này những lời thành kính, thậm chí là sợ hãi như là: Thần cây đa, ma cây
gạo hay sợ thần sợ cả cây đa. Bên cạnh cây đa, bến nước chính là nơi tập
trung cho sinh hoạt thường nhật của dân làng, đặc biệt là những người phụ
nữ. Bến nước có thể là một đoạn của con sông chảy qua làng hay một hồ
lớn của làng thậm chí đôi khi chỉ là một giếng nước. Đây chính là chỗ giao
lưu, tâm sự chuyện trò của chị em phụ nữ trong khi tắm cho con, vo gạo,
rửa rau… Nếu như, bến nước là nơi tập trung của phụ nữ trong làng thì
19
cánh đàn ông của làng lại thường tập trung ở sân đình. Sân đình chính là
trung tâm hành chính, văn hoá xã hội của làng. Tất cả các việc quan trọng
của làng đều diễn ra ở đây như hội họp việc làng, xét xử kiện tụng, đón
rước quan trên, hội hè ăn uống, văn hoá văn nghệ giải trí.
Thứ hai, nội dung các quy định về dân chủ thường được thể hiện
trong các hương ước hay các quy định, luật lệ của làng, xã.
Trong xã hội từ xưa đến nay, một công cụ quan trọng nhằm đảm bảo
sự tồn tại và phát triển của cộng đồng là hệ thống rất phong phú các quy tắc
xã hội. Các quy tắc này tác động vào các quan hệ xã hội, điều chỉnh các
quan hệ xã hội cũng như các hành vi ứng xử của các cá nhân trong cộng
đồng. Hệ thống các quy tắc này bao gồm các quy phạm pháp luật, quy tắc
đạo đức, tập quán, truyền thống, tín ngưỡng tôn giáo, các quy định mang
tính chất điều lệ của các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội và các đoàn thể
quần chúng… trong đó hương ước là một loại quy tắc xã hội có vai trò
quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội ở làng, thôn. Hương
ước là một thành tố quan trọng trong quản lý nông thôn, đề cao tính tự trị,
tự quản của thôn làng, là nói tới một nét văn hóa quản lý phổ biến ở khu
vực Đông Nam Á. Ở Việt Nam, hương ước gắn với cộng đồng của từng
làng, được coi như “cương lĩnh tinh thần” của làng Việt. Trong đó các điều
khoản của hương ước rất phong phú, quy định các nguyên tắc xử sự trong
nhiều mặt của đời sống làng xã từ đặc điểm về địa lý, lịch sử, truyền thống
đến khuyến khích phát triển sản xuất, bảo vệ trật tự trị an, cảnh quan môi
trường, di tích lịch sử văn hóa và các quy định về thủ tục ma chay, cưới
xin, khuyến khích học hành, mở mang nghề nghiệp, cơ cấu tổ chức và hoạt
động của bộ máy tự quản trong cộng đồng. Trên thực tế đó có thể ví hương
ước như một “bộ luật” của làng, hương ước trực tiếp điều chỉnh hầu hết các
quan hệ giữa các cá nhân, gia đình, dòng họ trong nội bộ làng và với các
cộng đồng làng khác và với nhà nước.
20
Hương ước quy định các chuẩn mực, những quy phạm về việc làm
chủ ở cơ sở. Nói cách khác đây chính là vấn đề định ra những quy phạm,
nguyên tắc tự quản ở nông thôn trên cơ sở làm chủ rộng rãi của nhân dân
mà phạm vi tự quản là trong khuôn khổ những gì mà pháp luật không điều
chỉnh. Nét đặc sắc của hương ước đó chính là chỗ nó được chính các dân
cư ở thôn, làng đưa ra và thống nhất với nhau. Bản chất của hương ước,
quy ước tự nó đã cho thấy vai trò hết sức quan trọng của nó trong quá trình
cải cách pháp luật và dân chủ hóa nông thôn Việt Nam hiện nay. Đó cũng
là đặc điểm của dân chủ làng xã ở cơ sở nói chung, trên địa bàn huyện Ứng
Hòa nói riêng.
Thứ ba, Nội dung các quy định về dân chủ của làng xã thường mang
tính độc lập (thể hiện ý chí độc lập của cộng đồng dân cư làng xã) so với
các quy định quản lý xã hội chung của nhà nước hiện hành (chủ yếu là nhà
nước phong kiến trước đây, phép vua thua lệ làng). Hiểu theo khía cạnh
khác đó chính là tính tự trị của làng xã.
Tính tự trị cũng là một đặc trưng gốc rễ trong văn hoá làng của người
Việt. Tính tự trị nhấn mạnh đến sự khác biệt, là nền tảng tạo nên tính độc
lập của cộng đồng. Đối với làng, biểu tượng truyền thống của tính tự trị là
luỹ tre làng. Luỹ tre trở thành thành luỹ kiên cố của làng bất khả xâm
phạm. Đối với người Việt, bên ngoài luỹ tre làng là cả một thế giới khác
cho nên có người cả đời không bước ra khỏi luỹ tre làng. Do tính chất khép
kín dẫn đến làng người Việt luôn mang trong mình tính bảo thủ, địa
phương cục bộ như “Trống làng nào làng đấy đánh, Thánh làng nào làng
nấy thờ” hay “Ta về ta tắm ao ta, Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”. Tính tự
trị cũng tạo cho người Việt tính gia trưởng tôn ti hay óc bè phái tư hữu ích
kỷ. Bởi vậy trong làng, người ta coi trọng họ to, họ nhỏ, con trưởng con
thứ, tư tưởng thứ bậc, thói gia đình chủ nghĩa.
Thứ tư, Giới hạn phạm vi chỉ diễn ra trong khu vực làng xã.
21
Bên cạnh đó tính độc lập, tự trị của làng xã thể hiện và bắt nguồn từ
việc các làng, các thôn có những đặc điểm khác nhau về địa lý, dân cư, về
phương thức sản xuất, về cơ cấu dân số, phong tục tập quán… chính từ sự
đa dạng này mà mỗi làng, thôn có những yêu cầu riêng, mục tiêu phấn đấu
riêng của mình và để thực hiện được mục tiêu đó họ phải sử dụng mọi công
cụ mà trước hết là nội lực của bản thân cộng đồng dân cư trong làng, thôn
đó. Chính vì vậy mà dân cư trong làng xã cùng ước thúc nhau, đồng tâm
hiệp lực thực hiện những mục tiêu này thông qua các quy chế thiết chế của
làng xã mình - dân chủ làng xã vì lẽ đó có thể thấy một đặc điểm nữa là chỉ
diễn ra trong khu vực làng xã, nhưng không tách ra khỏi chỉnh thể xã hội
chung và thống nhất trên phạm vi đất nước.
Thứ năm, xét về mặt lịch sử truyền, thống dân chủ làng xã (xét trong
điều kiện ở Việt Nam) có lẽ ra đời và gắn liền với chế độ phong kiến.
Nguyên nhân chủ yếu do đặc điểm quản trị của chế độ phong kiến với
quyền lực quản lý xã hội tuyệt đối thuộc về các ông vua đứng đầu chế độ
quân chủ chuyên chế. Chính cái “quyền lực tuyệt đối” của người đứng đầu
chế độ phong kiến cũng có mặt trái của chính nó, khi thuận lợi sẽ tạo ra
một xã hội có tôn ti trật tự, nhưng khi không thuận lợi có thể tạo ra các
“phản ứng ngược”, thậm chí có thể trực tiếp hoặc gián tiếp tạo ra các thế
lực cát cứ phong kiến (điển hình như tình trạng “12 Sứ quân” cuối thời kỳ
Bắc thuộc hoặc hiện tượng “Cung Vua”, “Phủ Chúa” thời Hậu Lê…). Tuy
nhiên, hiện tượng khá phổ biến trong xã hội Việt Nam thời kỳ phong kiến
là xuất hiện phổ biến tình trạng không tuân thủ tuyệt đối các luật lệ do nhà
vua ban ra tại các khu vực làng xã nông thôn mà lý do hợp lý nhất có thể
giải thích cho hiện tượng này chính là “phép vua” trong nhiều trường hợp
chưa đáp ứng để giải quyết được tất cả các hiện tượng kinh tế, văn hoá và
xã hội đã và đang diễn ra tại khu vực nông thôn. Và để khoả lấp được
khoảng trống quyền lực này, nhiều đơn vị làng xã đã đặt ra các quy ước,
hương ước hay nói đơn giản là các luật lệ do chính họ đặt ra trên cơ sở bàn
22
bạc, trao đổi và thống nhất một cách dân chủ mà chúng ta hay gọi tắt là “lệ
làng”. Lệ làng có thể lúc đầu chỉ được coi là một giải pháp tình thế nhằm
khắc phục những hạn chế của hệ thống pháp luật phong kiến được đặt ra
nhằm quản lý có hiệu quả các cộng đồng cư dân khu vực nông thôn, nơi bắt
đầu từ tập hợp của nhiều gia đình – vốn là các tế bào của xã hội. Lệ làng
xuất hiện lúc đầu có thể thách thức quyền lực nhà vua và chính quyền
phong kiến nhưng về sau chính quyền phong kiến cùng chấp nhận và tôn
trọng các luật lệ và cho phép nó tồn tại và được áp dụng tại các khu vực
làng xã miễn là nó không làm phương hại đến quyền lợi của giai cấp phong
kiến, đến lợi ích và an ninh quốc gia. Khác với hệ thông luật pháp phong
kiến chủ yếu do ý chí của nhà vua tạo ra, lệ làng tại các làng xã xưa kia
thường được hình thành dựa trên một cơ chế dân chủ của đông đảo thành
viên cộng đồng dân cư cùng tạo ra nên nó có sức mạnh của nó đối với các
thành viên trong cộng đồng. Trong nhiều trường hợp người ta có thể tuân
theo lệ làng mà không cần quan tâm đến phép vua. Vậy nên mới nói: “Phép
Vua, thua Lệ làng” là hàm ý như vậy. Việc xuất ra đời các quy ước, hương
ước hay lệ làng đã chứng tỏ truyền thống dân chủ làng xã được phát huy.
Tuy nhiên, do được hình thành từ chế độ phong kiến nên bên cạnh những
nội dung tích cực (góp phần giải phóng con người, tăng cường khả năng
tập hợp, đoàn kết cộng đồng, góp phần tạo động lực chung cho sự nghiệp
phát triển nông thôn…) thì dân chủ làng xã ở Việt Nam hiện nay còn bộc lộ
những nét hạn chế, tiêu cực: nặng về tính tôn ti, trật tự, ngôi thứ trong làng
xã, chưa tin tưởng vào lớp trẻ (khôn chi đến trẻ), bất bình đẳng về giới
(nhiều làng, xã còn tổ chức tế lễ họ mạc chỉ tính suất trai đinh (nhất nam
viết hữu, thập nữ viết vô), cục bộ bản vị địa phương chủ nghĩa (đèn nhà ai
nhà ấy rạng), v.v.. cùng với đó là hàng loạt các quan niệm mang tính chất
“lạc hậu” cần loại bỏ. Đặc điểm này sẽ là cơ sở để quán triệt, thực hiện, cải
cách hệ thống pháp luật về dân chủ càng ngày càng hoàn thiện hơn. Mặt
tiêu cực của làng xã tạo ra các quy chế, thiết chế mới cho nhà nước, xã hội
23
quản lý tốt hơn, xây dựng các nội dung phù hợp cũng như xây dựng nền
văn hóa vừa tiên tiến, vừa đậm đà bản sắc dân tộc, đem lại dân chủ thực sự
cho dân cư ở cơ sở.
Thứ sáu, một số nội dung trong dân chủ làng xã ở Việt Nam hiện nay
là một bộ phận của nội dung thực hiện dân chủ cơ sở tại xã phương, thị trấn
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều này thể hiện sự tiến
bộ và dần tiến tới sự hoàn thiện của các thể chế, thiết chế pháp luật. Cho dù
dân chủ làng xã thể hiện thông qua các quy chế, quy ước và hương ước của
các thôn, làng (có những nội dung truyền thống vượt ra khỏi phạm vi điều
chỉnh của pháp luật) thì bên cạnh đó, sự hoàn thiện và với vai trò quan
trọng của pháp luật, một số nội dung trong dân chủ làng xã là một bộ phận
của nội dung thực hiện dân chủ cơ sở tại các xã, phường (thể hiện rõ nhất
thông qua pháp lệnh số 34 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 11).
Trong đó quy định các phương châm để thực hiện dân chủ làng xã (dân chủ
cơ sở) có hiệu quả nhất. Vì vậy dân chủ làng xã với các đặc trưng riêng của nó
không tách rời và là bộ phận quan trọng của nội dung dân chủ ở địa phương –
nền móng cho quá trình hiện thực hóa đời sống dân chủ của xã hội.
1.2. Nội dung và một số nhân tố tác động đến nội dung thực hiện dân
chủ làng xã ở nước ta hiện nay
1.2.1. Một số nội dung cơ bản của dân chủ làng xã ở Việt Nam
hiện nay
1.2.1.1. Thực hiện dân chủ làng xã thông qua việc lập và thực hiện
các hương ước hoặc một số các quy định, quy ước của làng (tuỳ vào mỗi
làng, xã mà có các hình thức khác nhau).
Từ những đặc điểm đã đề cập ở phần trên, thực hiện dân chủ làng xã
được thể hiện trong các quy ước, hương ước của làng xã khác nhau. Do đó,
dân chủ làng xã mang tính đa dạng, mang tính “riêng” không thể lẫn. Tuy
nhiên, các quy ước, hương ước này không trái thuần phong mỹ tục, không
trái với các quy định của pháp luật, hiến pháp. Quá trình xây dựng quy ước,
24
hương ước cũng chính là quá trình thực thi, xác lập và xây dựng dân chủ
làng xã nói riêng, dân chủ cơ sở nói chung. Đồng thời trong quy ước,
hương ước làng xã cũng thể hiện các nội dung cơ bản về chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng và nhà nước với vai trò định hướng đời sống dân
chủ của nhân dân. Việc xác lập, xây dựng và thực hiện các quy ước, hương
ước được thực hiện trong các cuộc họp, sinh hoạt chung của cộng đồng
làng xã – là xây dựng “bản cam kết” tự nguyện chung cùng thực hiện. Vì
vậy, nó thể hiện việc thực thi dân chủ ở làng xã một cách rất rõ nét.
1.2.1.2. Thực hiện dân chủ làng xã thông qua việc tổ chức các sinh
hoạt văn hoá cộng đồng, các lễ hội: như tổ chức làng vui chơi, làng ca
hát, các lế hội truyền thống.
Bên cạnh đó, dân chủ làng xã còn được biểu hiện và thể hiện thông
qua việc tổ chức các sinh hoạt văn hóa cộng đồng, qua các lễ hội truyền
thống. Đời sống tinh thần phong phú của cộng đồng dân cư ở làng xã là
mối dây liên kết tình làng nghĩa xóm. Thông qua các lễ hội, người dân gắn
kết với nhau, cùng nhau hưởng thành quả chung sau hoặc trong quá trình
lao động sản xuất. Các lễ hội như: làng vui chơi, làng ca hát, các lễ hội hạ
điền, lễ tết… luôn là nơi giao thoa văn hóa, phong tục tập quán chung của
một cộng đồng làng xã và giữa các cộng đồng làng xã khác nhau. Thông
qua đó, mọi cá nhân được sống trong không khí lễ hội, không có sự phân
tách về vị thế, tầng lớp, giai cấp. Nó trở thành nơi sinh hoạt rộng rãi cho
toàn thể cộng đồng dân cư. Việc tạo ra môi trường văn hóa, sân khấu vui
chơi, giải trí cho cộng đồng dân cư là một trong những chủ trương quan
trọng của Đảng, nhà nước trong công cuộc xây dựng đời sống văn hóa ở
khu dân cư trên phạm vi cả nước.
1.2.1.3. Phối hợp với Đảng và Nhà nước tổ chức và thực hiện đời
sống mới, nếp sống mới ở nông thôn
Quá trình thực hiện dân chủ làng xã luôn gắn với quá trình thực hiện
đời sống mới, nếp sống mới ở nông thôn. Thông qua phong trào xây dựng
25
đời sống văn hóa và xây dựng nông thôn mới đã góp phần giữ gìn, phát huy
truyền thống và bản sắc văn hóa của gia đình Việt Nam, xây dựng và bồi
dưỡng nhân cách, đạo đức con người, làm cho mối quan hệ giữa gia đình với
cộng đồng và xã hội ngày càng khắng khít, tạo động lực thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội ở từng địa phương. Người dân ý thức đầy đủ hơn về trách
nhiệm, nghĩa vụ đối với Nhà nước, với địa phương; gìn giữ mối tình làng
nghĩa xóm, phát huy tinh thần tương thân tương ái giúp nhau giảm nghèo bền
vững, đoàn kết xây dựng quê hương giàu đẹp, cải thiện cảnh quan môi trường
thôn xóm. Ở nhiều thôn, làng việc bố trí, sắp xếp nơi ăn ở, sinh hoạt, chỉnh
trang xây dựng tường rào, cổng ngõ, xây dựng các công trình vệ sinh, chuồng
trại chăn nuôi gia đình được chú trọng, góp phần tạo nên diện mạo nông thôn
mới văn minh, hiện đại. Việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới,
việc tang và lễ hội có những chuyển biến tích cực.
Nhờ gắn kết chặt chẽ, đồng bộ với thực hiện các chương trình mục tiêu
quốc gia về nông thôn mới mà Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa” tiếp tục được duy trì và phát triển khá tốt. Việc thực hiện các
nội dung, tiêu chí của Phong trào ngày càng đi vào thực chất; bệnh thành tích,
chạy theo số lượng từng bước được hạn chế, khắc phục, đã hình thành được
nếp sống văn hóa, văn minh qua đó cũng đồng thời thực hiện tốt dân chủ làng
xã trên địa bàn.
1.2.1.4. Phối hợp với Đảng và Nhà nước tổ chức và thực hiện
chương trình xây dựng nông thôn mới
Chương trình xây dựng nông thôn mới là chủ trương lớn của Đảng,
đã và đang được thực hiện với nhiều phong trào sôi nổi, nhằm xây dựng
nông thôn theo hướng hiện đại hóa, tạo điều kiện tốt nhất cho người dân có
cơ hội thuận lợi nhất để phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội. Việc thực hiện
chương trình không tách rời các hoạt động khác của cộng đồng dân cư, huy
động mội bộ phận của làng xã cùng tham gia, qua đó thực hiện chủ trương
lớn của Đảng mang tính chất dân chủ. Thực chất, đây là hoạt động chủ yếu
26
của làng xã trong nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới dưới sự lãnh đạo của
Đảng, quản lý của nhà nước. Việc tham gia phối hợp, tổ chức thực hiện
chương trình xây dựng nông thôn mới luôn gắn với quá trình thực hiện dân
chủ làng xã ở cơ sở. Qua đó, người dân thực hiện nghĩa vụ công dân của
mình theo phương châm “nhà nước và nhân dân cùng làm”. Trên hết đó là
quyền tự chủ thuộc về nhân dân trong tất cả các khâu “dân biết, dân làm,
dân bàn, dân kiểm tra”.
1.2.1.5. Phối hợp với Đảng và Nhà nước tổ chức và thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở (nay là thực hiện Pháp lệnh dân chủ xã phường và
thị trấn) tại khu vực nông thôn
Trên cơ sở thực tiễn, qua quá trình nghiên cứu, thử nghiệm, tìm tòi,
Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh số 34 2007 PL-
UBTVQH11 ngày 20 tháng 4 năm 2007. Pháp lệnh đã khẳng định: "Khâu
quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân
ở cơ sở"[52,tr.11]. Dân chủ ở xã, phường là thực hiện những nội dung dân
chủ một cách trực tiếp và rộng rãi, đến với từng người nhằm phát huy cao
độ quyền làm chủ của nhân dân trong đời sống chính trị, kinh tế, kinh tế, xã
hội, an ninh, quốc phòng
Trong bốn cấp chính quyền của bộ máy nhà nước, chính quyền
phường, xã là cấp cơ sở; là nền tảng của xã hội, là nơi đông đảo nhân dân
sinh sống; là nơi dân thực hiện dân chủ một cách trực tiếp và rộng rãi nhằm
giải quyết các công việc trong cộng đồng dân cư, bảo đảm đoàn kết, giữ gìn
trật tự, an toàn xã hội và vệ sinh môi trường; là nơi dân sản xuất, kinh
doanh, lao động, học tập; xã, phường cũng là nơi nảy sinh nhiều yêu cầu
bức xúc hàng ngày của các lĩnh vực kinh tế, chính trị - xã hội; cũng là nơi
thực hiện trực tiếp mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Do
vậy cũng là nơi đang có nhiều đòi hỏi về quyền làm chủ, nơi diễn ra sự
tiếp xúc và thể hiện các mối liên hệ đan chéo nhau, như: Đảng với dân, dân
với dân, các tổ chức, các đơn vị kinh tế, xã hội với dân
27
Dân chủ ở làng xã diễn ra trên các lĩnh vực của đời sống xã hội một
cách trực tiếp và sinh động, liên tục đối với mọi người, nó được thực hiện
thông qua các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở và liên quan đến
trình độ nhận thức, khả năng của mỗi người. Nhưng dù thế nào thì dân chủ
ở làng xã cũng phải dựa trên cơ sở của hiến pháp, pháp luật của nhà nước,
và theo đúng đường lối của Đảng.
1.2.2. Một số nhân tố tác động đến nội dung thực hiện dân chủ
làng xã ở nước ta hiện nay
Tuỳ vào các nhân tố tác động này có thể làm cho nội dung dân chủ
làng xã vận động theo hướng tích cực hoặc tiêu cực.
1.2.2.1. Tác động của yếu tố thời đại, công cuộc đổi mới đang có
tác động đến việc tạo ra các nội dung tích cực trong dân chủ làng xã
Thời đại ngày nay là thời đại kinh tế thị trường, kinh tế tri thức với
nhiều biến động và xu hướng hội nhập toàn cầu hóa đang có tác động
quan trọng tới mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị trong nước, tác động tới
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong đó đối với công cuộc xây dựng
và thực hiện dân chủ làng xã ở cơ sở, công cuộc đổi mới cũng đặt ra
không ít thách thức cũng như tạo ra các cơ chế thuận lợi, tích cực.
Thứ nhất, sau 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành
tựu quan trọng, đặc biệt là sự phát triển về kinh tế, làm cho đời sống của các
tầng lớp nhân dân được cải thiện, nâng cao. Đó chính là điều kiện dân sinh, là
nền tảng của quá trình dân chủ hóa.
Thứ hai, chúng ta trước sau như một kiên định với lý tưởng xã hội chủ
nghĩa và đang làm hết sức mình vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh. Một mặt, Đảng và Nhà nước khuyến khích mọi người
phấn đấu làm giàu chính đáng; mặt khác lại tích cực thực hiện chương trình
xóa đói, giảm nghèo, thực hiện một hệ thống chính sách xã hội, hỗ trợ đắc lực
cho các đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Các hoạt động nhân đạo
28
được cổ vũ, khuyến khích. Đó chính là bầu không khí chính trị - xã hội, là
môi trường xã hội thuận lợi để phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, trình độ dân trí nhìn chung đã được nâng lên đáng kể, điều đó
không chỉ thông qua hệ thống giáo dục, đào tạo mà còn thông qua hệ thống
truyền thông đại chúng ngày càng được mở rộng và phát triển. Sóng truyền
hình được phủ khắp các địa phương trong toàn quốc, phương tiện truyền
thanh và sách báo rất phong phú, đa dạng tạo điều kiện thuận lợi để người dân
tiếp cận với thông tin nhiều chiều. Đây là một bước tiến lớn của tình hình hiện
nay so với những năm trước đây.
Thứ tư, cùng với sự hội nhập, giao lưu quốc tế, với sự phát triển của
đầu tư nước ngoài và của dịch vụ du lịch, các tầng lớp nhân dân ta được trực
tiếp tiếp xúc với người nước ngoài, từ đó bớt đi những mặc cảm, tâm lý tự ty
dân tộc - yếu tố quan trọng để hình thành ý thức dân chủ.
1.2.2.2. Tác động của hệ thống cơ chế chính sách từ trung ương
đến địa phương cũng có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến nội
dung dân chủ làng xã ở nước ta hiện nay
Với hệ thống các văn bản pháp luật ngày càng hoàn thiện, sau gần 30
năm thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” và
hơn 15 năm thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, các cấp ủy đảng, chính
quyền, mặt trận, đoàn thể từ Trung ương tới cơ sở đã có nhiều biện pháp chỉ
đạo, triển khai sâu rộng, làm chuyển biến tích cực về nhận thức, quan điểm,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với xây dựng
và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở của các tầng lớp nhân dân; góp phần
quan trọng phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh;
góp phần xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh và không ngừng tăng cường
vai trò lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội. Những nội dung người dân
biết, dân bàn và biểu quyết đã từng bước được phát huy; nhân dân tích cực
tham gia phong trào xóa đói giảm nghèo, các hoạt động an sinh xã hội, thi đua
làm giàu... Đặc biệt, các phong trào: “toàn dân xây dựng đời sống văn hóa”,
29
xây dựng “Làng văn hóa”, “Gia đình văn hóa”; các hình thức hoạt động: câu
lạc bộ, tổ, đội văn hóa ngày càng nảy nở và phát triển do có sự đóng góp trí
tuệ, công sức của nhân dân; các quỹ khuyến học, khuyến tài đã phát huy hiệu
quả, với mục tiêu giúp đỡ học sinh, sinh viên nghèo, vượt khó học giỏi, các
học sinh nghèo người dân tộc thiểu số, các con em gia đình chính sách.v.v.
Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực đã đạt được, còn có những hạn chế ,
mặt tiêu cực cần khắc phục. Nhiều vấn đề có quan hệ đến lợi ích thiết thực
của nhân dân chưa được công khai đầy đủ; nhiều công trình, dự án thuộc thẩm
quyền quyết định của Chính phủ, của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện,
thực hiện trên địa bàn cấp xã không được công khai theo quy định hoặc chỉ
công khai khi chuẩn bị triển khai thực hiện (như việc giải tỏa, bồi thường, hỗ
trợ giải phóng mặt bằng)... Đây là một trong nhiều nguyên nhân dẫn đến tình
trạng khiếu kiện ngày càng tăng; nhất là việc thu hồi đất, hỗ trợ giải phóng
mặt bằng, tái định cư. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng quan liêu,
tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lộng quyền, xâm phạm quyền và lợi ích
hợp pháp của nhân dân... của một số chính quyền cấp cơ sở. Nội dung thực
hiện dân chủ làng xã có liên quan mật thiết tới các cơ chế chính sách từ trung
ương cho tới cơ sở. Nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân sẽ có
tác động tích cực trong việc điều chỉnh sao cho các chủ trương, chính sách
phù hợp, tác động hiệu quả tới đời sống nhân dân.
1.2.2.3. Tác động của phong tục tập quán truyền thống, của thói
quen và mong muốn chủ quan của người dân đang sinh sống tại các
khu vực nông thôn cũng có thể tạo ra những tác động tích cực hoặc
tiêu cực đến nội dung dân chủ làng xã
Vì mang tính chất tự chủ, độc lập cho nên các làng xã nông thôn
Việt Nam có các phong tục, tập quán không mang tính đồng nhất, điều đó
thể hiện ở thói quen, mong muốn mang tính chất chủ quan của số đông
trong một cộng đồng dân cư. Xét về mặt này, có thể chia ra hai trường
30
hợp tác động của tâm lý, thói quen tới nội dung dân chủ làng xã được điều
chỉnh bởi các quy ước, hương ước:
Thứ nhất, mặt tích cực, các phong tục tập quán phù hợp, tiến bộ,
nhận thức tích cực của người dân, trình độ dân trí cao sẽ là mặt thuận lợi
trong xây dựng và thực hiện dân chủ làng xã, sẽ là tiền đề phát huy dân
chủ trong cộng đồng dân cư ở cơ sở, sẽ tạo ra cơ chế “tự điều chỉnh” phù
hợp với xu thế mới mang ý nghĩa tích cực;
Thứ hai, mặt tiêu cực, trong những trường hợp còn lại, thói quen,
hành vi, mong muốn, phong tục truyền thống lạc hậu, khép kín, lợi ích
nhóm, bè phái “đèn nhà ai, nhà nấy rạng”, bảo thủ không chịu thay đổi…
sẽ cản trở việc thực hiện các nội dung dân chủ tiến bộ ở làng xã.
Do vậy, việc nắm bắt tâm lý, thói quen, phong tục tập quán sẽ tạo
điều kiện cho việc điều chỉnh các nội dung phù hợp trong việc triển khai
thực hiện dân chủ làng xã ở cơ sở
1.2.2.4. Tác động của các cơ chế và một số chính sách trực tiếp
có liên quan
- Tác động của mô hình hệ thống chính trị cấp cơ sở (cấp xã, thôn)
tại địa phương: mô hình chính trị cấp xã, thôn có ảnh hưởng trực tiếp tới
nội dung thực hiện dân chủ làng xã. Một mặt, đây là các cơ quan bộ máy
nhà nước nhỏ nhất trong hệ thống hành chính của nhà nước, tuy nhiên
việc xây dựng, bố trí sao cho phù hợp sẽ có tác động tích cực hay tiêu cực
tới đời sống nhân dân trên địa bàn nói chung, đối với việc thực hiện dân
chủ làng xã nói riêng. Mô hình thuận lợi, sát thực tiễn sẽ thức đẩy việc
thực hiện dân chủ có hiệu quả cao và ngược lại. Điều quan trọng nhất
trong các mô hình chính trị ở cơ sở này đó là phải luôn nâng cao vai trò
lãnh đạo của Đảng tuyệt đối về mọi mặt.
- Tác động của các chính sách có liên quan như: chính sách xây
dựng nông thôn mới, chính sách xây dựng đời sống mới ở nông thôn,
pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã phường, thị trấn… Các cơ chế, chính
31
sách này đã và đang tạo ra những thay đổi lớn và có ảnh hưởng tích cực
đến nội dung dân chủ làng xã ở Việt Nam hiện nay. Bên cạnh sự hoàn
thiện không ngừng của hệ thống pháp luật trong quản lý nhà nước và xã
hội thì các công cụ, chính sách của nhà nước cũng góp phần không nhỏ
vào sự phát triển và ổn định chung của xã hội. Đặc biệt, đối với khu vực
nông thôn, cơ sở thì các cơ chế chính sách liên quan tới xây dựng nông
thôn mới, pháp lệnh dân chủ ở xã phường, thị trấn… vừa là cơ sở để thực
thi và xây dựng dân chủ, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, vừa là
tiêu chí kiểm tra giám sát việc thực hiện dân chủ làng xã ở cơ sở. Vì vậy,
một trong những nội dung quan trọng của dân chủ làng xã có liên quan vô
cùng mật thiết và trực tiếp từ các cơ chế chính sách và pháp lệnh… để
phát triển đời sống kinh tế - xã hội ở địa phương.
Tiểu kết chương 1
Những nét khái quát chung về dân chủ cũng như dân chủ làng xã
thông qua một số khái niệm mang tính chất lý luận là cơ sở để tìm hiểu sâu
hơn về thực trạng thực hiện dân chủ làng xã trên địa bàn huyện Ứng Hòa
(Thành phố Hà Nội) nói riêng, mở rộng hơn là đối với các địa phương, cơ
sở, làng xã nông thôn trên lãnh thổ Việt Nam nói chung. Qua tìm hiểu,
nghiên cứu về dân chủ làng xã, một số nội dung cơ bản và các nhân tố tác
động đến các nhân tố đó sẽ là những nội dung cốt lõi, then chốt để đảm bảo
cho việc thực hiện dân chủ làng xã trở nên thiết thực và đạt hiệu quả cao hơn
trong đời sống thực tiễn hiện nay của cộng đòng dân cư trên địa bàn huyện
Ứng Hòa để từ đó thúc đẩy kinh tế - xã hội địa phương ngày càng tiến bộ,
văn minh, là cơ sở để tìm ra hướng giải quyết nhằm nâng cao hơn nữa dân
chủ làng xã ở cơ sở trong phạm vi đề tài nghiên cứu.
32
Chương 2: THỰC HIỆN DÂN CHỦ LÀNG XÃ Ở NƯỚC TA HIỆN
NAY QUA THỰC TẾ Ở HUYỆN ỨNG HÒA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
2.1. Thực trạng thực hiện dân chủ làng xã ở nước ta hiện nay qua
thực tế ở huyện Ứng Hòa, Thành phố Hà Nội
2.1.1. Vài nét về tổ chức làng xã và truyền thống dân chủ làng xã ở
Huyện Ứng Hòa, Thành phố Hà Nội hiện nay
* Vài nét về tổ chức làng xã ở huyện Ứng Hòa, Thành phố Hà Nội Huyện Ứng Hòa có diện tích 183,72km2 với dân số 194.051 người
(năm 2014), có 29 đơn vị hành chính bao gồm 28 xã và 1 thị trấn. Nằm ở
cực nam của thành phố Hà Nội, cách trung tâm Thành phố khoảng 40 km,
phía bắc Ứng Hòa giáp hai huyện Chương Mỹ và Thanh Oai; phía nam giáp
huyện Kim Bảng (Hà Nam); phía đông giáp huyện Phú Xuyên; phía tây giáp
huyện Mỹ Đức.
Với hệ thống giao thông khá thuận lợi, về đường bộ có Quốc lộ 21B,
tỉnh lộ 424, 428, 429…; đường thủy có sông Nhuệ, sông Đáy chảy qua, nên
Ứng Hòa có điều kiện giao lưu với các vùng khác và có vị trí quan trọng về
quân sự. Đây chính là một trong những cửa ngõ quan trọng ra vào phía nam
Thủ đô.
Là huyện đồng bằng, Ứng Hòa có địa hình tương đối bằng phẳng và
nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình hàng năm là
23,5°C. Vì vậy, Ứng Hòa có điều kiện phù hợp để phát triển một nền nông
nghiệp bền vững.
Lịch sử hình thành
Huyện Ứng Hòa thuộc vùng đồng bằng Bắc Bộ, gắn liền với nền văn
minh lúa nước sông Hồng. Trên đất Ứng Hòa, các nhà khảo cổ học đã tìm
thấy trống đồng ở Phương Tú, các mộ táng hình thuyền ở Hòa Lâm, Kim
Đường, Minh Đức, Trầm Lộng… Điều này chứng tỏ Ứng Hòa sớm là vùng
đất quần cư của cộng đồng người Việt cổ.
33
Trải qua các thời kỳ lịch sử, địa giới hành chính huyện Ứng Hòa từng
bước được xác lập. Thời kỳ Bắc thuộc, đất Ứng Hòa là một bộ phận của
quận Giao Chỉ. Sau năm Canh Tuất (1010), vua Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa
Lư về thành Thăng Long, phân lại địa giới hành chính, đổi thập đạo đời
Đinh thành 24 lộ, vùng đất Ứng Hòa thuộc lộ Quốc Oai. Sang thời Trần,
vùng đất Ứng Hòa bao gồm huyện Sơn Minh và một phần nữa thuộc châu
Quốc Oai trong lộ Đại La Thành.
Năm Bính Tuất (1466), vua Lê Thánh Tông chia cả nước thành 12
đạo thừa tuyên, Ứng Hòa thuộc Sơn Nam thừa tuyên. Sơn Nam thừa tuyên
gồm 11 phủ, 42 huyện, trong đó phủ Ứng Thiên gồm 4 huyện là: Sơn Minh,
Hoài An, Chương Đức và Thanh Oai. Phần đất Ứng Hòa ngày nay gồm
huyện Sơn Minh, một phần nhỏ của 2 huyện Hoài An và Chương Đức. Đến
thời Nguyễn, phủ Ứng Thiên thuộc trấn Sơn Nam thượng có 4 huyện trong
đó có huyện Sơn Minh. Năm 1814, Phủ Ứng Thiên đổi tên thành phủ Ứng
Hòa. Năm 1831, phủ Ứng Hòa thuộc tỉnh Hà Nội, và đến năm 1904, thuộc
tỉnh Hà Đông.
Năm 1965, tỉnh Hà Tây được thành lập trên cơ sở hợp nhất hai tỉnh
Sơn Tây và Hà Đông. Năm 1975, hợp nhất hai tỉnh Hà Tây và Hòa Bình
thành tỉnh Hà Sơn Bình, theo đó, huyện Ứng Hòa thuộc tỉnh Hà Sơn Bình.
Năm 1991, chia tách tỉnh Hà Sơn Bình thành hai tỉnh Hòa Bình và Hà Tây,
huyện Ứng Hòa thuộc tỉnh Hà Tây. Ngày 1-8-2008, tỉnh Hà Tây được sáp
nhập vào thành phố Hà Nội, Ứng Hòa là một huyện của thành phố Hà Nội.
* Vài nét về truyền thống dân chủ làng xã ở huyện Ứng Hòa, Thành
phố Hà Nội - Một số giá trị tích cực và hạn chế
Trải qua quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, với bản
chất cần cù sáng tạo trong lao động và tinh thần đoàn kết, người dân Ứng
Hòa đã tạo dựng nên bề dày truyền thống văn hóa đặc sắc.
Nổi bật nhất là truyền thống yêu nước, kiên cường chống giặc ngoại
xâm. Từ thời Vua Hùng dựng nước, trai tráng và nhân dân các làng ở Ứng
34
Hòa đã theo các tướng lĩnh đánh đuổi quân xâm lược phương Bắc, bảo vệ
non sông bờ cõi. Thời kỳ Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa đánh quân Đông
Hán (40 - 43), nhân dân Ứng Hòa nhất tề nổi dậy hưởng ứng cuộc khởi
nghĩa, nhiều tướng lĩnh của Hai Bà đã lập phòng tuyến sông Đáy chống quân
xâm lược, hai mẹ con bà Hồng Nương và Cung Băng (người Đông Lỗ) đều
là tướng tài giỏi của Hai Bà, những dấu tích lịch sử ấy được lưu giữ ở nhiều
đền thờ, thần phả sắc phong ở các địa phương. Truyền thống kiên cường, bất
khuất ấy được hun đúc và truyền tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trong
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và Đế Quốc Mỹ, Ứng Hòa luôn là
một trong những địa phương có phong trào cách mạng phát triển mạnh.
Trước năm 1945, Ứng Hòa từng là trung tâm ATK của Xứ ủy Bắc Kỳ, đến
thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp Ứng Hòa nổi tiếng với những
chiến công của Khu Cháy Anh Hùng, trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước
Ứng Hòa lại là quê hương của phong trào Chiếc gậy Trường sơn, một phong
trào lôi cuốn thanh niên cả nước lên đường đánh Mỹ giải phóng Miền Nam
thống nhất đất nước.
Với những đóng góp to lớn của nhân dân Ứng Hòa, trong cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và bảo vệ Tổ quốc, Ứng Hòa vinh
dự có 161 bà mẹ được Nhà nước phong tặng danh hiệu Bà Mẹ Việt Nam
Anh hùng, 10 đơn vị đạt danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
là: Nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân huyện Ứng Hòa, xã Hòa Lâm,
xã Liên Bạt, xã Đông Lỗ, xã Đội Bình, xã Đồng Tân, xã Hòa Xá, xã Đại
Cường xã Trầm Lộng, Kim Đường. Và 2 cá nhân được phong tặng danh
hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân gồm: Nguyễn Trường Xuân (xã
Cao Thành), Trịnh Tố Tâm (xã Đồng Tân).
Người dân Ứng Hòa còn từ hào là mảnh đất có truyền thống hiếu học,
nơi sinh ra nhiều nhà nho học, đỗ đạt cao và những nhân tài kiệt xuất đóng
góp vào sự phát triển của đất nước làm rạng danh quê hương. Theo sách Dư
địa chí Hà Tây, qua các triều đại phong kiến, Ứng Hòa có 32 vị đỗ tiến sỹ,
35
đứng thứ 4 sau các huyện Thường Tín, Thanh Oai, Hoài Đức. Trong đó,
Viên Nội và Cao Thành là 2 vùng đất khoa bảng nổi tiếng ở Ứng Hòa.
Những năm gần đây, các thế hệ con em Ứng Hòa lại ghi danh trên những
trang vàng về thành tích học tập của cả nước, góp phần tô thắm thêm truyền
thống hiếu học của quê hương.
Trong quá trình lao động, sản xuất, người Ứng Hòa đã sáng tạo ra
nhiều lễ hội truyền thống cùng với đó là các công trình văn hóa, nghệ thuật
đặc sắc được xây dựng. Hiện nay, ở Ứng Hòa có hơn 100 công trình đình,
chùa, miếu mạo đã được nhà nước xếp hạng di tích. Đồng thời, với bàn tay
tài hoa, khéo léo người Ứng Hòa còn tạo nên những sản phẩm thủ công tinh
xảo như cây Đàn Đào Xá, Gốm Vân Đình, Áo dài Trạch Xá…
Ứng Hòa là một huyện có quy mô dân số, đất đai, lao động trung bình của
Thành phố Hà Nội, người dân trong huyện chủ yếu là sản xuất nông nghiệp.
Trong những năm qua, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong huyện đã nỗ lực
phấn đấu, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, áp
dụng những tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất, cơ cấu kinh tế đang có sự
chuyển biến tích cực. Điều kiện nhà ở, điện, nước, sinh hoạt của nhân dân được
đảm bảo, đời sống nhân dân đã được cải thiện rõ rệt. An ninh, chính trị, trật tự an
toàn huyện hội đảm bảo ổn định, giữ vững. Đảng bộ, chính quyền đoàn kết, hoàn
thành tốt các nhiệm vụ của địa phương và cấp trên giao cho.
Tình hình tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong huyện nhìn
chung là tốt, tuyệt đại bộ phận kiên định với mục tiêu, lý tưởng của Đảng,
niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ từng bước được củng cố và
nâng cao. Các tổ chức, đoàn thể hoạt động ngày càng đi vào chiều sâu, và có
hiệu quả hơn.
Những đặc điểm trên, là điều kiện thuận lợi cho huyện Ứng Hòa từng
bước phát triển kinh tế - xã hội nói chung, cho thực hiện dân chủ ở cơ sở nói
riêng. Song, bên cạnh đó còn có nhiều khó khăn, trở ngại đáng kể, tác giả xin
nêu lên một vài khó khăn, cụ thể như sau:
36
- Nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn do người dân trong huyện sống chủ
yếu bằng nghề nông, các ngành nghề thương mại, dịch vụ… còn kém phát triển;
đất sản xuất nhiều xong chưa được sử dụng có hiệu quả, cơ sở hạ tầng còn nhiều
mặt hạn chế, hộ nghèo vẫn còn.Về các tệ nạn hội xã hội vẫn còn một sồ tiềm ẩn,
chưa được giải quyết triệt để, đây chính là nỗi lo của huyện.
- Tình trạng mất dân chủ, mất đoàn kết ở một số đơn vị chậm khắc
phục và xử lý chưa dứt điểm, chất lượng đội ngũ cán bộ chủ trì còn nhiều bất
cập. Một bộ phận cán bộ thoái hoá, biến chất, tham nhũng chưa được xử lý
nghiêm minh, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà
nước…
- Trình độ dân trí còn hạn chế, người dân ít chịu tìm hiểu về pháp luật.
Như vậy, những thuận lợi và khó khăn trên đây về kinh tế, chính trị,
văn hoá xã hội sẽ là những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của
huyện Ứng Hòa nói chung; đến việc thực hiện dân chủ hóa nói riêng. Do vậy,
việc nắm bắt một cách đầy đủ, đúng đắn vấn đề này, sẽ giúp cho chúng ta
nghiên cứu một cách đúng đắn quá trình xây dựng và thực hiện dân chủ hóa
đời sống của người dân trên địa bàn huyện Ứng Hòa.
2.1.2. Thực trạng thực hiện dân chủ làng xã ở nước ta hiện nay qua
thực tế ở huyện Ứng Hòa, Thành phố Hà Nội hiện nay
2.1.2.1. Thực trạng những biểu hiện tích cực và nguyên nhân
- Biểu hiện các mặt tích cực
* Những nét mới thông qua việc lập và thực hiện các hương ước
hoặc một số các quy định, quy ước của làng
Nhằm phát huy những thuần phong mỹ tục, đề cao các chuẩn mực đạo lý
và đạo đức truyền thống của dân tộc, đồng thời tạo cơ chế duy trì an ninh, trật
tự, vệ sinh, môi trường, phòng chống các tệ nạn xã hội, phát triển sản xuất,
khuyến khích học hành, giải quyết mâu thuẫn nhỏ… thời gian qua, ở nhiều
địa phương, hương ước, quy ước đã được xây dựng và thực hiện một cách có
hiệu quả. Việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước cũng là một trong
37
những phương thức thực hiện chủ trương mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đặc biệt là ở cơ sở.
Như trên đã phân tích, với vị trí, vai trò của mình, hương ước, quy ước là
thành tố quan trọng trong hệ thống thể chế quản lý ở nông thôn, là một bộ
phận hỗ trợ đắc lực pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội tại
cộng đồng dân cư đối với những vấn đề, những nội dung mà pháp luật không
điều chỉnh, mặt khác, hương ước, quy ước còn thực hiện tối đa tinh thần mở
rộng dân chủ ở cơ sở, giúp nhân dân trong tiến trình tham gia giám sát hoạt
động của cơ quan nhà nước.
Cho đến nay, nhìn chung việc xây dựng và thực hiện hương ước đã từng
bước phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng. ở nhiều tỉnh, việc xây
dựng hương ước đã được triển khai đồng bộ như Bắc Ninh, Hải Dương, Thái
Bình, Hà Nội, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình,... Tại các tỉnh này đã có
khoảng hơn 90% số làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư ban hành hương ước,
60% đến 80% trong số đó đã được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện xem xét,
phê duyệt.
Tại địa bàn huyện Ứng Hoà, việc xây dựng và ban hành hương ước, quy
ước đã được triển khai trên diện rộng, có kế hoạch, được chỉ đạo chặt chẽ, có
sự hỗ trợ đắc lực của các cơ quan có thẩm quyền cấp huyện, cấp xã. Các thôn,
xóm , tổ dân phố trên địa bàn huyện đã và đang triển khai xây dựng hương
ước, quy ước với nội dung duy trì an ninh trật tự, vệ sinh môi trường, phòng
chống các tệ nạn xã hội, phát triển sản xuất, khuyến khích học hành, khuyến
khích phát triển những ngành nghề truyền thống, giải quyết các tranh chấp, vi
phạm nhỏ trong nhân dân. Đồng thời, đã bước đầu nghiên cứu đưa được nhiều
nội dung tốt đẹp, tiến bộ của phong tục, tập quán vào hương ước, quy ước,
góp phần xoá đói, giảm nghèo, phát huy tinh thần đoàn kết, tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của các tầng lớp nhân dân trong việc xây dựng cuộc sống mới
tại địa bàn này.
38
Trong những năm qua, công tác xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước
trên địa bàn huyện đã từng bước được hoàn thiện và ngày càng phát huy hiệu
quả, góp phần quan trọng vào việc phát huy dân chủ ở cơ sở, xây dựng gia
đình văn hóa, làng văn hóa, tổ dân phố..., giữ gìn và phát huy những truyền
thống, những nét đẹp của văn hóa dân tộc Việt Nam.
*Nét tích cực và những biểu hiện mới thông qua việc tổ chức các
sinh hoạt văn hoá cộng đồng, các lễ hội
Từ bao đời nay, lễ hội luôn giữ vai trò như sợi dây gắn kết cộng đồng,
tạo dựng không gian văn hóa vừa trang trọng, linh thiêng, vừa tưng bừng, náo
nức. Lễ hội trở thành nơi công chúng đến với lịch sử cha ông, trở về với cội
nguồn dân tộc, tưởng nhớ công ơn người đi trước, cầu mong những điều tốt
lành. Ðồng thời là nơi người dân được vui chơi, giải tỏa, bù đắp về tinh thần.
Cũng như Lễ hội truyền thống, hội làng gồm hai phần lễ và hội, thường diễn
ra ở các ngôi đình làng. Nhưng, ở hội làng, phần hội bao giờ cũng nổi trội
hơn. Lễ thể hiện lòng ngưỡng mộ, sùng bái anh hùng, tôn vinh danh nhân,
người có công với dân, tổ nghề, có thể là những thần, thánh, phật, mẫu, những
nhân vật siêu phàm, những đại diện cho tôn giáo, người bảo trợ tinh thần và
đem lại đời sống ấm no, hạnh phúc cho cộng đồng. Phần lễ thường gồm các
hoạt động rước nước và mộc đục, rước và tế... Hội là dịp thể hiện những sinh
hoạt văn hóa cộng đồng từ múa, hát giao duyên, hát thờ, các diễn xướng sân
khấu cổ truyền, các cuộc thi tài mang tính thượng võ. Trong các sinh hoạt hội,
mọi người tham gia trình diễn, sáng tác, thưởng thức và hưởng thụ sau những
ngày lao động vất vả, không kể sang hèn. Vì thế, có thể cho rằng, hội làng đã
tạo nên niềm cộng cảm sâu sắc giữa các thành viên trong cộng đồng, là sự
nhất quán trong việc trao truyền các giá trị vǎn hóa giữa các thế hệ.
Ứng Hòa là vùng đất giàu truyền thống lịch sử, văn hóa, là địa phương
có nhiều di tích và lễ hội. Việc tổ chức có hiệu quả các hoạt động lễ hội một
mặt thúc đẩy khai thác tiềm năng du lịch, mặt khác tạo nên nét đặc trưng của
mỗi địa phương, góp phần tích cực trong việc giao lưu văn hóa giữa các làng,
39
xã trong và ngoài huyện. Tuy nhiên, với nhiều loại hình và phương thức tổ
chức đa dạng, các hoạt động lễ hội hiện nay đang đặt ra không ít những khó
khăn, bất cập trong công tác quản lý trên địa bàn huyện.
Theo số liệu tổng hợp, hiện nay toàn huyện có tổng số 523 di tích, trong
đó có 139 di tích được xếp hạng cấp quốc gia, cấp tỉnh, thành phố, 64 lễ hội
gồm các loại hình lịch sử, văn hóa, dân gian, tín ngưỡng tôn giáo, đây được xem
là một phần quan trọng không thể thiếu trong sự hình thành nên các di tích.
Hiện nay, lễ hội là một loại hình sinh hoạt văn hóa cộng đồng phổ biến
và đậm đà bản sắc dân tộc. Lễ hội phản ánh những sinh hoạt, những khát
vọng cùng tài năng của nhân dân về nhiều mặt của đời sống; đồng thời, thông
qua lễ hội: Trí tuệ, đạo lý, tình cảm, khuynh hướng thẩm mỹ của nhân dân
được tỏa sáng. Những năm qua khi đất nước chuyển mình mạnh mẽ trong tiến
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế, quốc tế, đời sống vật
chất và tinh thần của đại bộ phận nhân dân được nâng cao, do đó tham gia lễ
hội đã trở thành một nhu cầu chính đáng, có ý nghĩa lớn. Và chính vì vậy, nhu
cầu tổ chức lễ hội ngày nay đã lan tỏa ở hầu hết các địa phương trong huyện,
đặc biệt là loại hình lễ hội văn hóa du lịch, mà tiêu biểu là lễ hội đền Đức
Thánh Cả - Hữu Vĩnh - xã Hồng Quang. Công tác quản lý và tổ chức lễ hội có
nhiều chuyển biến theo hướng tích cực: vừa giữ gìn, phát triển những nét đẹp
văn hóa truyền thống, vừa kết hợp nhuần nhuyễn những yếu tố hiện đại, phát
huy được tác dụng tích cực của lễ hội, nêu cao ý nghĩa giáo dục truyền thống.
Mỗi lễ hội trên địa bàn huyện mang một nét văn hóa tiêu biểu và giá trị
riêng, thông qua các hoạt động lễ hội truyền thống đã huy động sức mạnh, sự
chung tay góp sức của cả cộng đồng trong hưởng thụ và sáng tạo văn hoá, bảo
tồn các giá trị đặc sắc của cả dân tộc, của từng địa phương. Do vậy, đối với
mỗi người dân Ứng Hòa, lễ hội đã trở thành loại hình văn hóa đặc sắc không
thể thiếu trong đời sống tinh thần và tâm linh. Lễ hội truyền thống thu hút sự
tham gia của nhiều tầng lớp nhân dân, là bảo tàng sống về sinh hoạt văn hoá
tinh thần của người dân nơi đây qua mỗi thời kỳ, giai đoạn lịch sử và bao giờ
40
cũng hướng tới một đối tượng linh thiêng cần được suy tôn như: Những vị
anh hùng chống ngoại xâm, những người có công truyền nghề, chống thiên
tai, giàu lòng cứu nhân độ thế. Trong các ngày hội diễn ra sôi động bằng
những sự tích, công trạng, là cầu nối giữa quá khứ với hiện tại, làm cho các
tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ hôm nay hiểu được công lao tổ tiên, tự
hào về truyền thống quê hương mình. Trong đó phải kể đến lễ hội truyền
thống được tổ chức hàng năm của 3 thôn Bặt - xã Liên Bạt; lễ hội đề Đức
Thánh cả thôn Thái Bình - xã Vạn Thái; lễ hội làng Đinh Xuyên - xã Hòa
Nam hay lễ hội được tổ chức 5 năm một lần của xã Hòa Xá…
Những năm gần đây, việc ra đời của một số lễ hội mới, phục dựng một
số lễ hội đã mai một sau một thời gian dài, các lễ hội truyền thống được tạo
điều kiện để tổ chức với quy mô lớn hơn, với sự bổ sung một số thành phần lễ
hội mới, như: Trò chơi dân gian, thi đấu thể thao, hội diễn văn nghệ, các
chương trình biểu diễn nghệ thuật... Các yếu tố này giúp cho lễ hội ngày càng
thu hút công chúng, góp phần làm cho bức tranh mùa xuân của Ứng Hòa nói
riêng và của cả nước nói chung ngày càng thêm sinh động, phong phú, đa sắc
màu.
* Tình hình thực hiện đời sống mới, nếp sống mới ở nông thôn
Trong thời đại khoa học và công nghệ thông tin có những bước nhảy
vọt như vũ bão, nền kinh tế tri thức ngày càng chiếm một vị trí quan trọng
trong đời sống cộng đồng. Bên cạnh những mặt tích cực, vừa hợp tác của xu
thế toàn cầu hóa thì những mặt hạn chế, những mâu thuẫn vẫn đang là một
thách thức đối với việc bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống,
cũng như xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở. Nói đến xây dựng đời sống văn
hóa ở cơ sở, không chỉ bao gồm các sinh hoạt văn hóa của cộng đồng dân cư
mà bao gồm cả cơ sở vật chất kỹ thuật và thiết chế văn hóa, cũng như các
thành tố gia đình văn hóa, thôn buôn, khối phố văn trị và toàn xã hội.
Đây là một chủ trương lớn mà nhiều văn kiện Đại hội của Đảng đã chỉ
rõ: "Phải đưa văn hoá thâm nhập vào cuộc sống hàng ngày của nhân dân.
41
Đặc biệt chú trọng xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở, bảo đảm mỗi nhà
máy, công trường, mỗi cơ quan, trường học, bệnh viện đều có đời sống văn
hóa” [17;tr.15].
Cách đây hơn nửa thế kỷ, kể từ năm 1960 khi phong trào xây dựng
“Gia đình văn hóa” được phát động ở thôn Ngọc Tỉnh, xã Ngọc Long (huyện
Yên Mỹ, Hưng Yên) cho đến nay, phong trào đã được các cấp ủy Đảng, chính
quyền Mặt trận và ngành Văn hóa - thông tin từ Trung ương đến cơ sở quan
tâm chỉ đạo nên đã trở thành một phong trào lớn, mang lại hiệu quả thiết
thực, góp phần làm cho đời sống văn hóa ở cơ sở thêm phong phú.
Cuộc vận động xây dựng “Gia đình văn hóa”, “Thôn, buôn, khối phố
văn hóa”, “Cơ quan văn hóa”, đã trở thành chuẩn mực về đạo đức, lối sống
của mỗi gia đình, mỗi địa phương, mỗi cơ quan. Đơn vị, gia đình, cơ quan
nào được công nhận danh hiệu Văn hóa thì đó là một niềm vinh dự, là niềm
tự hào, vì đấy là kết quả quá trình phấn đấu bền bỉ của mỗi gia đình và của
cộng đồng mới có được.
Trong những năm qua, công tác xây dựng và thực hiện hương ước, quy
ước trên địa bàn huyện Ứng Hoà đã từng bước được hoàn thiện và ngày càng
phát huy hiệu quả, góp phần quan trọng vào việc phát huy dân chủ ở cơ sở,
xây dựng gia đình văn hóa, làng văn hóa, tổ dân phố..., giữ gìn và phát huy
những truyền thống, những nét đẹp của văn hóa dân tộc Việt Nam.
Theo báo cáo của Phòng Văn hoá huyện Ứng Hoà về Kết quả thực hiện
phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” qua các năm, cụ
thể là từ năm 2012 đến nay. Chỉ tính trong năm 2012, toàn huyện có 143 thôn,
làng, tổ dân phố. Số bản hương ước đã phê duyệt là 100% bản,; số hương ước
thực hiện tốt là 138 bản; chưa tốt là 05 bản. Để có những kết quả đó, ủy ban
nhân dân huyện đã chỉ đạo phòng Tư pháp; phòng Văn hóa; Ủy ban nhân dân
các xã, thị trấn tổ chức các lớp bồi dưỡng kiến thức pháp luật và tập huấn kỹ
năng, nghiệp vụ xây dựng hương ước, quy ước cho cán bộ tư pháp, cán bộ
văn hóa và các trưởng thôn, xóm, tổ dân phố trên địa bàn toàn huyện. Đồng
42
thời chú trọng biên soạn và phát hành đến cơ sở các tài liệu hướng dẫn xây
dựng hương ước, quy ước văn hóa và một số hương ước, quy ước mẫu làm cơ
sở để tham khảo trong soạn thảo hương ước, quy ước của địa phương; hướng
dẫn cơ sở sửa đổi, bổ sung hương ước, bãi bỏ những bản hương ước không
còn phù hợp với địa phương và xây dựng mới hương ước. Hầu hết các hương
ước, quy ước trên địa bàn huyện đã đưa các nội dung về thực hiện dân chủ ở
cơ sở, chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình, xây dựng nếp sống văn minh,
gia đình văn hóa là một trong những nội dung chính.
Nội dung hương ước tại các thôn, xóm, tổ dân phố đều quy định rõ
những việc dân phải được biết và bàn như chủ trương, đường lối chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước; quy định việc quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất đai; quyết toán thu chi các loại quỹ, các khoản đóng góp xây dựng
hạ tầng, công trình phúc lợi hay chủ trương vay vốn phát triển sản xuất, xóa
đói giảm nghèo... Các thôn, làng, khu dân cư còn chủ động lồng ghép quy chế
dân chủ vào xây dựng quy ước, hương ước về nếp sống văn hóa, được nhân
dân đồng tình ủng hộ, như: Thanh niên nam nữ kết hôn đúng tuổi quy định;
đăng ký kết hôn tại ủy ban nhân dân xã; không được tảo hôn; không được lấy
vợ lẽ…; xóa bỏ các phong tục, tập quán lạc hậu ảnh hưởng đến chất lượng
cuộc sống. cụ thể như:
Ban chỉ đạo huyện đã căn cứ Quyết định số 07 QĐ-UBND ngày
27/4/2012 của UBND thành phố Hà Nội quy định về thực hiện nếp sống văn
minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội trên địa bàn Thành phố để tập trung
quán triệt, triển khai đồng bộ hướng dẫn các xã, thị trấn thực hiện thống nhất.
- Trong tổ chức việc cưới: Tổ chức việc cưới “trang trọng – lành mạnh
- tiết kiệm” đã có những bước chuyển biến mạnh mẽ, đặc biệt sau một năm
thực hiện Chỉ thị 11/CT-TU của thành ủy Hà Nội ban hành, chiều hướng tích
cực diễn ra trong các tầng lớp nhân dân lao động mà đi đầu là đội ngũ đảng
viên, cán bộ, công nhân, viên chức; đây cũng là kết quả của công tác tuyên
truyền, vận động của Ban chỉ đạo huyện đến cơ sở nhằm thực hiện nghiêm túc
43
việc cưới theo tinh thần của chỉ thị 11/CT-TU đã đề ra. Tổng số đám cưới
năm 2014 là 1616, trong đó có 1612 đám cưới thực hiện theo nếp sống văn
minh trong việc cưới.
- Trong tổ chức tang lễ: Việc tổ chức tang lễ trên địa bàn được thực
hiện và triển khai có hiệu quả theo đúng định hướng: Trang nghiêm, tiết kiệm,
đậm tình nghĩa. Hầu hết các thôn, làng đã thành lập Ban tổ chức lễ tang thống
nhất quy trình, nghi thức phù hợp với điều kiện của địa phương, ít tốn kém,
thể hiện sự quan tâm, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên trong cộng đồng
khi khó khăn hoạn nạn. Tình trạng tổ chức lễ tang rườm rà, kéo dài nhiều
ngày, ăn uống tràn lan được khắc phục. Các hủ tục trong tang lễ ( lăn đường,
khóc mướn, chơi cờ bạc) đã giảm. Tuy nhiên, hiện tượng sử dụng nhiều vòng
hoa, đốt, dải vàng mã quá lãng phí, nhạc buồn mở quá qui định, gây cản trở
giao thông … vẫn còn ở một số đám tang. Tổng số đám tang là 1127, trong đó
hoả táng là 350.
- Trong tổ chức Lễ hội và các sinh hoạt tín ngưỡng: Định hướng tổ
chức lễ hội được thực hiện nghiêm túc theo Quy chế Lễ hội của Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch và văn bản “Hướng dẫn thực hiện nếp sống văn minh
trong các hoạt động tín ngưỡng – tôn giáo nơi thờ tự” của Thành phố.
Ứng Hoà với 64 lễ hội truyền thống và lễ hội của đạo Thiên chúa, hàng
trăm lễ hội của thôn, làng diễn ra quanh năm và tập trung nhiều nhất vào dịp
đầu tháng Giêng, trong đó có những lễ hội mang tầm vóc Quốc gia như lễ hội
Đền Đức Thánh Cả, xã Hồng Quang ... Trong các lễ hội, phần lễ và hội được
kết hợp hài hòa, việc đảm bảo an ninh trật tự mùa lễ hội được giữ vững song
tình trạng gây ùn tắc giao thông trong tổ chức lễ hội vẫn diễn ra trên trục
đường 21b đoạn từ xã Quảng Phú Cầu, Liên Bạt,Vạn Thái đến Hòa Xá và trục
đường 75 qua các xã Phương Tú, Minh Đức.
Hương ước, quy ước còn quy định việc sống đoàn kết, hòa thuận, tương
thân, tương ái giữa các dòng họ. Các hương ước, quy ước được thực hiện theo
đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định, từ việc soạn thảo, tổ chức lấy ý kiến
44
của các cơ quan, tổ chức và nhân dân đến thảo luận, thông qua và phê duyệt.
Cùng với việc thực hiện các chương trình, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, việc thực hiện các hương ước, quy ước trên từng khu dân cư không
những góp phần phát huy thuần phong mỹ tục, đề cao các chuẩn mực đạo đức
truyền thống của dân tộc, mà còn là công cụ hỗ trợ đắc lực cho cuộc vận động
“Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư”, đảm bảo an ninh,
trật tự, môi trường, phòng chống các tệ nạn xã hội, phát triển sản xuất, khuyến
học, giải quyết các xích mích, vi phạm nhỏ trong nhân dân, xóa đói giảm
nghèo...
Thực hiện hướng dẫn tại Chỉ thị số 24/1998/CT-TTg về việc xây dựng
và thực hiện hương ước, quy ước, cơ quan tư pháp, cơ quan văn hóa và ủy
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp đã có sự phối hợp trong quản lý nhà
nước và chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương xây dựng, thực hiện hương ước,
quy ước; lồng ghép việc thực hiện hương ước, quy ước với việc thực hiện các
cuộc vận động khác như: Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa”, “Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”, xây dựng gia đình văn hóa,
làng văn hóa, khu phố văn hóa,...
Công tác xây dựng Gia đình văn hóa
Được xác định là yếu tố hàng đầu trong việc xây dựng các mô hình văn
hóa khác, là tiền đề quan trọng trong quá trình đẩy mạnh công tác xây dựng
đời sống văn hóa cơ sở. Xây dựng Gia đình văn đã được định hình và thực
hiện gắn với cuộc vận động xây dựng Nếp sống văn minh – Gia đình văn hóa,
hiện nay đang được kế thừa và phát triển mạnh mẽ hơn trong phong trào
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”
- Hệ thống Câu lạc bộ “Gia đình văn hóa”, Câu lạc bộ “Phòng, chống
bạo lực gia đình” ở các xã, thị trấn đã được duy trì hoạt động và phát triển
nhân rộng với nhiều buổi sinh hoạt chuyên đề, phổ biến những kiến thức cần
thiết về đối nhân xử thế trong quan hệ gia đình, quan hệ cộng đồng dân cư;
sinh hoạt tín ngưỡng; chăm sóc, giáo dục con cái và các biện pháp phòng
45
chống bạo lực gia đình và các tệ nạn xã hội; giúp nhau phát triển kinh tế
…Thông qua các hoạt động này, giáo dục các thành viên tiếp thu giá trị chân,
thiện, mỹ; ngăn ngừa những tác động tiêu cực đến tính bền vững của gia đình
trong cơ chế thị trường, hướng tới xây dựng “ Người Ứng Hòa, Hà Nội –
Thanh lịch, văn minh”.
- Năm 2014, UBND, BCĐ các xã, thị trấn đã chú trọng đến việc đảm
bảo và nâng cao chất lượng bằng việc tuân thủ chặt chẽ quy trình đăng ký,
bình xét và công nhận danh hiệu Gia đình văn hóa theo đúng Quy chế của
Thành phố. Kết quả bình xét danh hiệu gia đình văn hoá năm 2014, cụ thể:
+ Tổng số hộ gia đình của huyện: 51.592.
+ Số hộ đạt gia đình văn hóa: 45.000
+ Tỷ lệ đạt: 87.2%
Làng văn hoá
- Phong trào xây dựng Làng văn hóa là nội dung chính trong tiến trình
xây dựng Nông thôn mới. Với yêu cầu phát triển cơ sở hạ tầng, củng cố và
hoàn thiện các thiết chế văn hóa, thể dục, thể thao; tạo lập cảnh quan môi
trường xanh, sạch, đẹp; xóa bỏ các hủ tục, giữ gìn thuần phong mỹ tục, xây
dựng nếp sống văn minh; hình thành môi trường văn hóa lành mạnh; thực
hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; những quy định của
chính quyền các cấp, tôn trọng pháp luật… công tác xây dựng được huyện hết
sức chú trọng trong quá trình thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa”. Tính đến năm 2014, kết quả xây dựng Làng văn hóa
đã đạt được như sau:
+ Tổng số làng (thôn): 138.
+ Số làng đạt danh hiệu LVH: 103.
+ Tỷ lệ đạt: 74,6%.
+ Năm 2014 đạt: 04 làng.
Tổ dân phố văn hóa:
46
- Mô hình tổ dân phố văn hóa đã được triển khai thực hiện trong nhiều
năm qua, nhưng do tình hình và tính chất địa bàn dân cư của thị trấn nên tiêu
chí này còn đạt ở mức độ thấp, cụ thể:
+ Tổng số tổ dân phố: 05.
+ Số tổ dân phố đạt danh hiệu VH: 01.
+ Tỷ lệ đạt: 20%
* Tình hình thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới
Nhằm đánh giá một cách khách quan, chân thực tình hình của quá trình xây
dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện thời gian vừa qua, cũng như trong giai
đoạn hiện nay, chúng tôi đã tiến hành phát bảng hỏi để thu thập thông tin trên toàn
địa bàn huyện. Đối tượng lựa chọn để phát bảng hỏi gồm: Cán bộ, đảng viên,
người dân, với 280 phiếu phát ra trong 28 xã (mỗi xã 10 phiếu). Kết quả thu về
190 phiếu, trong đó có 153 phiếu hợp lệ và 37 phiếu không hợp lệ. Cụ thể:
Về mặt nhận thức
Thứ nhất, đa số người dân đều có hiểu biết cần thiết, nhất định về các mặt
của Chương trình. Đó là sự thấm nhuần những tiêu chí, chủ trương, quan điểm,
chính sách, mục tiêu xây dựng nông thôn của Trung ương và địa phương. Hay
tầm quan trọng, đặc điểm, nguyên tắc, tiến độ thực hiện xây dựng nông thôn mới
của huyện. Điều này được thể hiện, chỉ có 3,27% người “Không quan tâm” và
có tới 92,5% người được hỏi “Hiểu rất rõ” về chủ trương xây dựng điểm mô
hình nông thôn mới .
Thứ ba, ưu điểm về nhận thức mà công tác này đem lại còn thể hiện qua
sự tự ý thức cao độ về quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ của nhân dân với quá
trình triển khai xây dựng nông thôn mới tại địa phương. Có thể hiểu thêm nội
dung này qua bảng mô tả kết quả khảo sát dưới đây:
47
TT Nội dung % Quyền lợi
Có quyền tham gia xây dựng, quản lý và thực hiện các quy 134 1 hoạch, đề án, dự án trong quá trình xây dựng mô hình nông (87,58) thôn mới và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
102 2 Được cải thiện điều kiện sống, việc làm và thu nhập. (66,67)
Được đầu tư tu bổ, nâng cấp cơ sở hạ tầng, phát triển điều 114 3 kiện sản xuất đáp ứng yêu cầu của sản xuất hàng hoá, công (74,51) nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
Được đào tạo nghề và nâng cao kiến thức phát triển sản xuất, 102 4 (66,67) kinh doanh.
Vấn đề khác 5
Trách nhiệm
Tích cực tìm hiểu, đóng góp ý kiến vào quy hoạch xây dựng 113 1 mô hình nông thôn mới của địa phương. (73,86)
Tích cực hưởng ứng, tham gia thực hiện cuộc vận động xây
dựng mô hình nông thôn mới của địa phương (dồn đổi diện 131 2 tích canh tác; hiến đất, vật tư, công sức, tiền của làm đường, (85,62) các công trình công cộng; xây dựng nếp sống văn hoá
mới...).
Tự nguyện thực hiện nghĩa vụ đóng góp công sức, vật tư... 105 3 để thực hiện mô hình. (68,63)
Thực hiện nghiêm các đề án sản xuất của địa phương; chủ 101 4 động phương án sản xuất, kinh doanh trong điều kiện mới. (66,01)
Học tập, tiếp thu, ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật nhằm 110 5 nâng cao hiệu quả vào sản xuất, kinh doanh. (71,90)
Thay đổi tập quán, lối sống, xây dựng nông thôn văn minh, 100 6
48
sạch đẹp. (65,36)
Tích cực vận động gia đình, làng xóm cùng tham gia xây 107 7 dựng mô hình nông thôn mới. (69,94)
8 Vấn đề khác
(Nguồn:theo báo cáo kết quả điều tra xã hội học về vấn đề nhận thức
của người dân trong phong trào “xây dựng nông thôn mới“ trên địa bàn
huyện năm 2014)
Hầu hết vấn đề đưa ra đều có tỷ lệ phiếu rất cao, nội dung cao nhất
chiếm 87,58% ý kiến, nội dung thấp nhất cũng nhận được 65,36% ý kiến.
Điều này phản ánh nhận thức thông suốt, sự đồng thuận rất cao trong nhân
dân (cả về quyền lợi và trách nhiệm, nghĩa vụ) khi triển khai xây dựng nông
thôn mới tại địa bàn. Đây là dấu hiệu tích cực, vì trong số những người được
hỏi có đến 47,06% là nông dân nhóm đối tượng chủ yếu nhất của huyện.
Về mặt hành động
có thể nhận thấy trong quá trình triển khai công tác xây dựng nông thôn
mới ở Ứng Hòa là, nhân dân trong huyện đã nhiệt tình, hăng say tham gia vào
công tác xây dựng nông thôn mới với vị thế của người làm chủ, tinh thần cầu thị,
sự quan tâm sát sao tới mọi diễn biến trong quá trình xây dựng. Dưới đây là một
số kết quả có được thông qua quá trình thăm dò ý kiến, thu thập thông tin:
- Khi được hỏi “Để triển khai xây dựng mô hình nông thôn mới ở địa
phương, theo ông (bà) cần ưu tiên cho những vấn đề nào?”, với 18 phương án
lựa chọn được liệt kê ra. Thì vấn đề mà người dân cho rằng cần phải ưu tiên là:
“Quy hoạch, xây dựng hệ thống giao thông nội đồng” (85,62%),“Tu bổ, nâng
cấp hoặc xây dựng hệ thống kênh mương, thủy lợi” (81,7%), “Quy hoạch và
thực hiện quy hoạch vùng sản xuất tập trung quy mô lớn” (77,78%), “Nâng
cao năng lực quản lý cho đội ngũ cán bộ xã, thôn” (77,12) và “Tu bổ, nâng
cấp hệ thống giao thông nông thôn” (76,47%) (Xem Bảng 8 – Phụ lục 2). Đây
là những vấn đề bức thiết ở hầu khắp các nơi, cần được chú trọng thực hiện đầu
tiên, để tạo tiền đề cho các bước khác.
49
- Và, khi được hỏi “Theo ông (bà) để xây dựng mô hình nông thôn mới
thành công, địa phương cần tập trung thực hiện tốt các giải pháp nào?”, với 6
phương án đưa ra. Đa số cho rằng các giải pháp trên đều phải thực hiện đồng bộ.
Tuy nhiên, kết quả khảo sát cho thấy giải pháp “Làm tốt công tác tư tưởng nhằm
tạo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân” (94,12%) và
“Bàn bạc dân chủ, phát huy trách nhiệm của cộng đồng, thực hiện tốt phương
châm Nhà nước và nhân dân cùng làm” (88,24%) cần được tập trung chỉ đạo
thực hiện trước tiên.
Như vậy, có thể thấy rằng sau 5 năm xây dựng nông thôn mới, huyện Ứng
Hoà đã có nhiều thay đổi: các công trình như: Trụ sở UBND xã, Trạm Y tế
các xã được nâng cấp; được hỗ trợ xây dựng nhiều trường học đạt chuẩn quốc
gia từ cấp mầm non đến trung học phôt; tất cả các thôn, xã trên địa bàn huyện
đều đã xây dựng nhà văn hóa thôn; đường giao thông liên thôn, cứng hóa
kênh mương, ….
Trong phát triển kinh tế, xã đã tập trung quy hoạch vùng sản xuất sản
phẩm nông nghiệp hàng hóa chất lượng cao, nhất là các loại giống lúa lai, rau
màu có giá trị kinh tế cao, đến nay huyện Ứng Hoà cũng là địa phương duy trì
diện tích cấy lúa lai nhiều trong Thành phố Hà Nội, với diện tích lúa chất
lượng cao của huyện là 111,4ha. Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm của
huyện đạt 10%, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Tỷ lệ hộ
nghèo giảm từ 26% năm 2010 xuống còn 7,8%, phấn đấu đến cuối năm 2014
còn 4% hộ nghèo theo tiêu chí mới; thu nhập bình quân đầu người 18
triệu người năm.
Cùng với sản xuất nông nghiệp, các ngành nghề truyền thống của địa
phương vẫn tiếp tục được duy trì và phát triển như nghề Mộc, nề, sản xuất vật
liệu xây dựng… Làng nghề đàn Đào Xá được duy trì với hàng trăm hộ làm
nghề, đặc biệt là nghề may gia công đã và đang ngày một phát triển, thu hút
hàng nghìn lao động làm việc cho thu nhập từ 3,5 - 5 triệu đồng người tháng.
Cùng nhiều ngành nghề phụ khác đang là nguồn thu nhập chính của nhiều hộ
50
dân trong huyện. Công tác văn hóa xã hội - TDTT phát triển mạnh cả về bề
rộng và chiều sâu, tạo được không khí thi đua sôi nổi giữa các tổ chức đoàn
thể, các thôn xóm, cụm dân cư. Tất cả xã trong huyện đã hoàn thiện xong việc
dồn điền đổi thửa. Tình hình an ninh - chính trị trong huyện ổn định, không có
điểm nóng, không có khiếu nại tố cáo, đơn thư vượt cấp, khiếu kiện đông
người. Các chính sách xã hội đối với người có công với cách mạng, hộ nghèo
luôn được cấp ủy, chính quyền huyện Ứng Hoà quan tâm chỉ đạo tổ chức tốt
và đã được nhân dân ghi nhận đánh giá cao.
* Tình hình các đơn vị làng xã phối hợp với hệ thống chính trị tại địa
phương để thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở.
PLDC ở cơ sở cũng quy định những việc nhân dân bàn, đóng góp ý
kiến ở các cấp, trên nhiều lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội. Việc dân
bàn, dân tham gia ý kiến trước khi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết
định có một vai trò rất quan trọng trong việc giúp các cơ quan nhà nước cấp
xã, phường ra quyết định một cách đúng đắn, hợp lòng dân hơn - đó cũng là
một trong những giải pháp nhằm khắc phục tình trạng quan liêu, bỏ qua ý
kiến đóng góp, xây dựng của dân; khắc phục được tình trạng thiếu dân chủ
đang khá phổ biến trên địa bàn huyện Ứng Hoà hiện nay.
Quy định về những việc nhân dân giám sát, kiểm tra các hoạt động của
chính quyền, tổ chức của Đảng, MTTQ và các đoàn thể trên địa bàn huyện
Ứng Hoà có một ý nghĩa cực kỳ to lớn đối với sự phát triển, đổi mới trên địa
bàn xã hiện nay.
Pháp lệnh quy định những việc nhân dân xã giám sát, kiểm tra hoạt
động của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân xã; giải quyết khiếu nại, tố cáo
của công dân; dự toán và quyết toán ngân sách xây dựng công trình do nhân
dân đóng góp, và các chương trình của Nhà nước, các tổ chức đầu tư; các
khoản thu và đóng góp của dân; kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết các vụ
tiêu cực liên quan đến cán bộ xã; việc thực hiện chế độ, chính sách ưu đãi,
chăm sóc, giúp đỡ thương, bệnh binh, gia đình có công với cách mạng… Với
51
những quy định này, nhân dân được giám sát, kiểm tra nhưng trong khuôn
khổ của pháp luật và với tinh thần xây dựng. Kiểm tra, giám sát để phát hiện
ra những vi phạm, những sai trái, lệch lạc, từ đó có kiến nghị, chấn chỉnh, kỷ
luật những cá nhân hoặc những tổ chức làm sai trái, nhằm làm cho các tổ
chức Đảng, chính quyền, đoàn thể, của các cán bộ quản lý lành mạnh hơn,
dân chủ hơn; ngăn chặn được tình trạng quan liêu, tham nhũng, thoái hoá,
biến chất; kịp thời bổ sung, sửa đổi những quyết định sai trái, kém hiệu quả.
Việc kiểm tra, giám sát rõ ràng, minh bạch sẽ tạo điều kiện cho việc khen
thưởng, xử phạt đúng người, đúng tội. Nhờ những quy định này, mà các tổ
chức Đảng, chính quyền, đoàn thể ở trên địa bàn huyện Ứng Hoà hoạt động
hiệu quả và năng động hơn, hiệu quả hơn, dân chủ hơn, gây được niềm tin của
nhân dân với Đảng và chính quyền Nhà nước nói chung, với cấp uỷ Đảng,
chính quyền huyện Ứng Hoà nói riêng.
Việc thực hiện PLDC ở cơ sở có ý nghĩa vô cùng to lớn, vừa cấp bách,
vừa xây dựng, hoàn thiện lâu dài đối với sự nghiệp đổi mới trên địa bàn huyện
Ứng Hoà , góp phần ổn định, phát triển kinh tế - xã hội của xã, góp phần cải cách
hành chính, nâng cao năng lực, hiệu quả, hiệu lực của hệ thống chính trị huyện
Ứng Hoà.
Như vậy, có thể nói rằng, thực hiện PLDC ở cơ sở trên địa bàn huyện Ứng
Hoà vừa có ý nghĩa là mục tiêu, vừa có ý nghĩa là động lực trong quá trình đổi mới
hiện nay.
Quá trình tổ chức, triển khai
Sau khi tiếp thu chỉ thị số 30 của Bộ Chính trị và Nghị định 29/CP của
Chính phủ do Tỉnh ủy Hà Tây(cũ) triển khai, Ban thường vụ huyện ủy đã thành
lập Ban chỉ đạo thực hiện quy chế DCCS. Từ năm 1998 đến năm 2008 huyện
ủy Ứng Hoà đã ban hành các loại văn bản: Chỉ thị số 19 của Ban thường vụ
Huyện ủy, thông tri số 11, Công văn số 216 về hướng dẫn triển khai, xây dựng,
thực hiện quy chế dân chủ ở có sở và ban hành các Quyết định thành lập, kiện
toàn, bổ sung Ban chỉ đạo thực hiện quy chế DCCS của huyện. Các xã, thị trấn
52
sau mỗi kỳ Đại hội Đảng bộ xã và các kỳ Đại hội nhiệm kỳ các đoàn thể và
hàng năm dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy đều kiện toàn, bổ sung Ban chỉ đạo
thực hiện quy chế DCCS của xã, thị trấn.
Đảng uỷ, chính quyền, MTTQ và các đoàn thể nhân dân huyện Ứng
Hoà đã nhận thức sâu sắc rằng: Đây là nội dung quan trọng để thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân trong việc xây dựng hệ thống chính trị; đặc biệt
là xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh. Do vậy, việc thực hiện
QCDC ở cơ sở là hết sức quan trọng, vừa cấp bách, vừa lâu dài. Huyện Ứng
Hoà ngày 29 7 2007, dưới sự chỉ đạo của Huyện uỷ Ứng Hoà, đã ra lập Ban
chỉ đạo gồm 11 thành viên, cơ cấu bao gồm: Bí thư Đảng uỷ xã làm trưởng
ban, Chủ tịch xã làm phó ban chỉ đạo và các trưởng khối bộ phận của Đảng
uỷ và chính quyền xã.
Ban chỉ đạo đã tổ chức triển khai vấn đề thực hiện QCDC ở cơ sở trên
phạm vi toàn xã. Phương châm chỉ đạo đó là tiếp tục thực hiện Chỉ thị của Bộ
Chính trị, đặc biệt là Pháp Lệnh 34/2007 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội, sự
lãnh đạo của cấp trên đối với vấn đề thực hiện QCDC ở cơ sở, tạo điều kiện
cho người dân tiếp cận và nắm được những quyền và nghĩa vụ công dân của
mình.Để đảm bảo cho việc thực hiện PLDC ở cơ sở trên địa bàn xã đúng với
tinh thần của Pháp lệnh 34 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội, của Uỷ ban
nhân dân Thành phố, của Ban tổ chức huyện uỷ; đồng thời, phù hợp với điều
kiện cụ thể của địa bàn xã. Ngoài tuyên truyền, tiếp xúc dân cư, Ban chỉ đạo
đã tiến hành phô tô, in ấn tài liệu để cung cấp cho các bí thư chi bộ, các
trưởng khối, tiếp đó, là in nội dung thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở với
nội dung dễ hiểu (nhất là tài liệu của Ban Dân vận Trung ương) phát cho nhân
dân, trước hết đó là các gia đình.
Với những tài liệu đó, các bí thư chi bộ, truởng thôn, xóm được giao
trách nhiệm hướng dẫn người dân trong các bộ phận dân cư hiểu rõ về thực
hiện PLDC ở cơ sở, giải quyết những vấn đề nảy sinh trong quá trình triển
khai.
53
* Những kết quả đạt được
Việc thực hiện PLDC ở cơ sở trên địa bàn huyện Ứng Hoà đã đạt được
nhiều thành tựu đáng kể, thể hiện ở trên các lĩnh vực sau:
- Trên lĩnh vực kinh tế: Thông qua việc thực hiện dân chủ, nhân dân có
quyền được biết, được thông tin các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước, của chính quyền xã về các vấn đề kinh tế, đó chính là các vấn đề liên quan
trực tiếp đến lợi ích của nhân dân, như: luật lao động, luật vay vốn, luật kinh tế…
hay các chủ trương phát triển kinh tế của địa phương, các khoản thuế, định hướng
sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, phát triển thủ công nghiệp, nông
nghiệp dịch vụ…
Các nội dung được thực hiện tốt như: Kế hoạch phát triển kinh tế-xã
hội, về dự toán, quyết toán thu chi ngân sách hàng năm của cấp xã; Dự án,
công trình đầu tư, phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng; Việc quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất; Việc quản lý và sử dụng các loại quỹ, các khoản
huy động nhân dân đóng góp, về vay vốn, phát triển sản xuất, xoá nghèo; Việc
bình xét hộ nghèo, trợ cấp xã hội, cấp thẻ bảo hiểm y tế... Hình thức công khai: Được
niêm yết công khai tại trụ sở UBND xã, thị trấn và nhà văn hoá thôn, tố dân phố, trên
hệ thống loa truyền thanh ở địa phương, qua các hội nghị thôn, tổ dân phố…
Thực hiện dân chủ ở cơ sở, người dân cũng được trực tiếp bàn bạc một
cách dân chủ các khoản đóng góp, xây dựng trường học, trạm xá, đường, điện,
mương phai, cầu cống, xây dựng cơ sở hạ tầng. Không chỉ như vậy, mà nhân
dân còn được phổ biến kinh nghiệm làm ăn, nắm được các chương trình hỗ trợ
vay vốn, xoá đói, giảm nghèo, giúp đỡ các hộ khó khăn về kinh tế phát triển
kinh tế gia đình, vươn lên thoát nghèo.
Quyền dân chủ của nhân dân được thể hiện ở việc các cơ sở đã thực
hiện 5 nội dung Nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền
quyết định, tập trung vào các dự thảo về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội;
phương án chuyển đổi, phát triển kinh tế, dự thảo quy hoạch, kế hoạch sử
54
dụng đất, việc quản lý, sử dụng quỹ đất, dự thảo kế hoạch triển khai các
chương trình, dự án trên địa bàn...
Qua việc thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn huyện, nhân dân được
biết, được bàn các nội dung thu, chi, định mức cụ thể từng khoản đóng góp
tuỳ tiện tràn lan, quá khả năng thực tế đã ngăn chặn. Nhân dân không những
biết, bàn, mà còn trực tiếp tham gia, trực tiếp kiểm tra, giám sát các hoạt động
chi tiêu, quản lý nguồn tài chính mà mình đóng góp. Họ cử người vào quản lý
công trình để kiểm tra, giám sát các hoạt động xây dựng, nghiệm thu chất
lượng công trình,… Điều đó khẳng định rằng, khi người dân được tham gia
trực tiếp vào quá trình kinh tế như là chủ thể, từ khâu bàn bạc đến thực hiện, kiểm
tra, kiểm soát hoạt động của chính quyền cơ sở thì việc huy động nguồn lực của
người dân mới nhanh chóng phục vụ cho lợi ích thiết thực của nhân dân.
- Trên lĩnh vực chính trị: Thông qua việc triển khai, thực hiện dân chủ ở
cơ sở đã bước đầu nâng cao nhận thức chính trị, tư tưởng trong nhân dân, mà
trước hết là ý thức dân chủ.
Quá trình thực hiện dân chủ ở cơ sở bước đầu đã tạo ra sự chuyển biến
tích cực, mạnh mẽ trong nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về vị
trí, vai trò và ý nghĩa của việc thực hiện dân chủ với việc phát huy quyền làm
chủ của nhân dân. Sinh hoạt chính trị của nhân dân đã bình đẳng hơn; nhân
dân nhiệt tình tham gia sinh hoạt chính trị, hưởng ứng các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước. Họ cũng sôi nổi, hăng hái, tự giác bàn và quyết
định nhiều công việc quan trọng, thiết thực; được tự do phát biểu ý kiến xây
dựng, được quyền gia nhập, sinh hoạt trong các tổ chức xã hội phù hợp với lợi
ích thiết thực của bản thân; được tham gia đóng góp ý kiến vào các văn kiện
quan trọng của Đảng và Nhà nước khi còn là dự thảo; được yêu cầu bãi miễn
cán bộ dân cử có sai phạm… quyền làm chủ trên lĩnh vực chính trị của nhân
dân ở cơ sở còn được phát huy, trước hết các quyền bầu cử và ứng cử, lựa
chọn những người đại diện cho lợi ích và quyền lợi của mình.
55
Việc nhân dân bầu trưởng thôn một cách trực tiếp là phù hợp với nguyện
vọng của quần chúng nhân dân, thể hiện dân chủ một cách sâu sắc, hợp lòng dân,
được nhân dân quan tâm, nhiệt tình hưởng ứng với trách nhiệm cao, vì lợi ích thiết
thực của dân chúng.
- Lĩnh vực văn hoá – xã hội: Quyền làm chủ của nhân dân trên lĩnh vực
này thể hiện tập trung ở sự nâng cao trình độ dân trí, xây dựng đời sống văn
hoá, tinh thần lành mạnh, tăng cường củng cố tình đoàn kết làng xóm, cộng
đồng; giáo dục truyền thống văn hoá, nâng cao ý thức chính trị cho nhân dân.
Ở đây, nhân dân ở tất cả các làng trong xã đã xây dựng những quy ước, hương
ước phù hợp với điều kiện từng thôn, trong khuôn khổ của pháp luật, nhằm
xây dựng, củng cố khối đoàn kết toàn dân, xây dựng môi trường văn hoá văn
minh, lành mạnh trong từng gia đình, thôn xóm. Nhờ có những bản quy ước,
hương ước và những buổi tổng kết, rút kinh nghiệm, đã góp phần làm cho đời
sống của nhân dân đi vào ổn định, ít xảy ra sự mất đoàn kết trong nhân dân
trong các làng, trên phạm vi địa bàn.
Việc xây dựng làng văn hoá là một công tác thường xuyên của chính
quyền địa phương, cũng là tinh thần chung của nhân dân trên địa bàn huyện.
Đây là một mục tiêu khẳng định tính tích cực, chủ động của nhân dân trong
việc góp phần đưa dân cư vào nếp sinh hoạt văn hoá tích cực, lành mạnh. Đến
nay, mặc dù điều kiện khó khăn, kinh tế - xã hội cũng mới chỉ dừng lại ở một
mức độ nhất định, toàn huyện có 106 làng được công nhận là làng văn hoá
(nguồn : theo báo cáo tổng kết 15 năm phong trào “toàn dân xây dựng đời
sống văn hoá ” ). Kết quả ấy đánh giá sự nỗ lực, phấn đấu của chính quyền,
Đảng bộ, nhân dân xã nói chung và nhân dân ở các làng đạt danh hiệu “Làng
văn hoá” nói riêng; phần nào đánh giá được những thành tựu bước đầu của
việc thực hiện dân chủ đem lại.
Như vậy, từ thành tựu đạt được trong những năm tiếp tục thực hiện dân
chủ ở cơ sở, ta có thể khẳng định rằng: Việc thực hiện dân chủ không chỉ
nâng cao ý thức chính trị, góp phần cải cách hệ thống chính trị, thúc đẩy phát
56
triển kinh tế; mà còn góp phần cải tạo môi trường văn hoá, giáo dục, làm lành
mạnh hoá các mối quan hệ xã hội, quan hệ ứng xử trong từng gia đình, cộng
đồng; nếp sống văn minh, lịch sự đã được nâng cao, an ninh trật tự đi vào ổn
định. Đây thực sự là kết quả không nhỏ đối với quá trình đổi mới, xây dựng
huyện Ứng Hoà hiện nay, và với quá trình dân chủ hoá đời sống xã hội trên
phạm vi toàn địa bàn.
Như vậy, từ thành tựu đạt được trong những năm tiếp tục thực hiện dân
chủ ở cơ sở, ta có thể khẳng định rằng: Việc thực hiện dân chủ không chỉ
nâng cao ý thức chính trị, góp phần cải cách hệ thống chính trị, thúc đẩy phát
triển kinh tế; mà còn góp phần cải tạo môi trường văn hoá, giáo dục, làm lành
mạnh hoá các mối quan hệ xã hội, quan hệ ứng xử trong từng gia đình, cộng
đồng; nếp sống văn minh, lịch sự đã được nâng cao, an ninh trật tự đi vào ổn
định. Đây thực sự là kết quả không nhỏ đối với quá trình đổi mới, xây dựng
huyện Ứng Hoà hiện nay, và với quá trình dân chủ hoá đời sống xã hội trên
phạm vi toàn địa bàn.
- Nguyên nhân những mặt tích cực
Những kết quả trên trong quá trình thực hiện dân chủ đạt được là do
những nguyên nhân chủ yếu sau:
- Có sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của các tổ chức của Đảng, vai trò
của hệ thống chính trị cơ sở tại địa phương: Nhờ có đường lối đường lối
lãnh đạo đúng đắn, sự chỉ đạo quyết liệt, mạnh dạn của các cấp ủy Đảng, Chính
quyền ở Ứng Hòa trong quá trình thực hiện dân chủ hoá đời sống dân cư. Bên
cạnh đó, huyện đã phối hợp với chính quyền các cấp triển khai xây dựng quy
chế dân chủ trên địa bàn các xã, thị trấn.
Bên cạnh đó, công tác tổ chức chuẩn bị, tuyên truyền, sơ kết, tổng kết,
đúc rút kinh nghiệm của quá trình thực hiện chỉ thị, nghị quyết liên quan đến
vấn đề dân chủ trên địa bàn được tiến hành đúng quy trình, chu đáo.
- Nhờ kế thừa truyền thống dân chủ làng xã – một nét văn hoá truyền
thống vốn có của địa phương: Quá trình thực hiện dân chủ ở làng xã có kế
57
thừa tích cực những nét truyền thống văn hóa lâu đời vốn có của địa
phương: kết cố cộng đồng trong các công việc chung, tinh thần tương thân,
tương ái, lá lành đùm lá rách, truyền thống nhân nghĩa, giúp đỡ và tương
trợ lẫn nhau. Truyền thống văn hóa lâu đời là sợi dây gắn kết trong cộng
đồng làng xã, thúc đẩy và thực hiện có hiệu quả dân chủ làng xã trong thời
kỳ mới. Nét truyền thống – hiện đại đan xen, tác động và duy trì, có tác
động tương hỗ, tạo tiền đề để đưa quy chế dân chủ thực hiện có hiệu quả
cao trong đời sống dân cư ở làng xã nói riêng và trong cộng đồng ở phạm
vi toàn xã hội nói chung.
- Có sự thống nhất cao về mặt nhận thức của các cấp các ngành cùng
với sự ủng hộ và tham gia tích cực của nhân dân: Quá trình thực hiện dân
chủ được sự quan tâm chỉ đạo sát sao, đầy trách nhiệm của Đảng bộ, chính
quyền xã, MTTQ, các đoàn thể quần chúng nhân dân. Thực hiện dân chủ đã
đáp ứng được đòi hỏi bức xúc của thực tiễn cuộc sống hàng ngày của nhân
dân, được nhân dân đồng tình ủng hộ, nhiệt tình tham gia, hưởng ứng cao.
Đội ngũ cán bộ quản lý, các đảng viên đã thực sự trở thành những
hạt nhân gương mẫu, tích cực của việc thực hiện dân chủ trên địa bàn
huyện.
Đa số nhân dân tự ý thức được quyền làm chủ và nêu cao tinh thần
trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ công dân. Từ đó kịp thời ngăn ngừa những
phát sinh tiêu cực, nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức, tạo sự đồng
thuận trong nhân dân
2.1.2.2. Thực trạng những biểu hiện hạn chế và nguyên nhân
- Những biểu hiện hạn chế
* Quan niệm nhận thức của một bộ phận cán bộ, nhân dân về dân chủ
làng xã còn mơ hồ dẫn tới có lúc, có nơi thực hiện chưa hiệu quả
Trong nhận thức của một bộ phận cán bộ, Đảng viên vẫn còn hiện
tượng xem nhẹ, chưa hiểu biết đầy đủ tác động quan trọng của vấn đề truyền
thống dân chủ làng xã. Công tác xây dựng “Người Ứng Hoà, Hà Nội thanh
58
lịch, văn minh” chưa đáp ứng được yêu cầu chung, tiến triển chậm; lối sống
thực dụng, buông thả không có lý tưởng; thiếu ý thức tu dưỡng cá nhân; vô
trách nhiệm với sự phát triển của gia đình, cộng đồng, xã hội; nạn giải quyết
các mâu thuẫn thông thường bằng bạo lực trở nên báo động đã và đang gây
nên nhiều bức xúc trong nhân dân.
Việc tuyên truyền, triển khai quán triệt và học tập các văn bản về thực
hiện QCDC ở cơ sở của một số nơi chưa sâu rộng và thường xuyên, vì vậy
nhiều người dân chưa hiểu rõ hết những điều khoản trong quy chế dân chủ,
dẫn đến ý thức làm chủ của người dân chưa được nâng cao, một số nơi việc tổ
chức họp dân ở các thôn, cụm dân cư để triển khai các nội dung QCDC quy
định tỷ lệ họp dân đạt chưa cao.
- Việc thành lập, kiện toàn bổ sung Ban Chỉ đạo ở một số cơ sở chưa
kịp thời, hoạt động của Ban Chỉ đạo còn nhiều hạn chế, mang tính chất thụ
động, phân công, phân nhiệm các thành viên của Ban Chỉ đạo chưa rõ ràng, vì
vậy hiệu quả công việc chưa cao. Công tác kiểm tra, sơ, tổng kết việc thực
hiện QCDC ở một số cơ sở còn coi nhẹ.
- Việc xây dựng, sửa đổi bổ sung các quy chế, quy ước, hương ước theo
Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, thị trấn còn chậm. Ở một số cơ sở chưa cụ
thể hóa các nghị định của Chính phủ thành các quy chế cụ thể để áp dụng vào
tình hình thực tế của địa phương, đơn vị. Việc triển khai thực hiện QCDC
chưa gắn kết với việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, an
ninh, quốc phòng, cải cách hành chính, xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở.
- Một số nơi còn coi nhẹ việc thực hiện QCDC ở cơ sở, dẫn đến tình
trạng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, những biểu hiện độc đoán, quan
liêu, tham nhũng, tiêu cực, không được phát hiện đấu tranh ngăn chặn, khắc
phục kịp thời, thiếu công khai dân chủ trong các lĩnh vực kinh tế, quản lý
XDCB, quản lý đất đai làm giảm lòng tin gây bất bình trong nhân dân, dẫn
đến khiếu kiện kéo dài vượt cấp. Mặt khác né tránh trong việc giải quyết các
59
đơn thư khiếu nại, tố cáo, những kiến nghị phản ánh của nhân dân, từ đó gây
nên tình trạng bức xúc trong nhân dân.
- Một bộ phận nhân dân do trình độ dân trí còn thấp, ngại học tập và
tham gia hội họp, vì vậy thiếu hiểu biết về dân chủ và pháp luật, lôi kéo bè
cánh cục bộ họ hàng, thôn, xóm gây mâu mắc trong nội bộ nhân dân dẫn đến
vi phạm pháp luật.
* Một số địa phương vốn có truyền thống dân chủ nhưng chưa được
phát huy, trái lại một số địa phương lại chưa có nhận thức đúng đắn về dân
chủ dẫn đến dân chủ quá trớn
Khi dân chủ ở cơ sở chưa được phát huy, bên cạnh đó việc thực hiện
các quy ước, hương ước trong việc duy trì ổn định làng xã chưa được pphast
huy sâu rộng, người dân chưa ý thức được quyền và nghĩa vụ của mình.
Chẳng hạn như, một số địa phương trên địa bàn huyện, khi gặp vấn đề gì đó
liên quan đến việc đền bù, giải phóng mặt bằng, đất đai… thay vì phải khiếu
kiện đúng trình tự, thủ tục thì người dân kéo cả đoàn tới chỗ đông người. Tiêu
biểu nhất là vụ khiếu kiện đông người ở khu vực Chợ cầu, do sự đề bù không
hợp lí giữa chính quyền và người dân, dẫn đến sự việc cả đoàn người đã kéo
đến tập trung trước cổng cơ quan thường trực của Huyện uỷ, thậm chí là dân
chúng đã khéo cả ra tận văn phòng Chính phủ để kiện, cho đến nay sự việc
vẫn chưa được giải quyết.
Từ thực tế trên các cơ quan quản lí nhà nước ở các cấp, các ngành đã
ban hành nhiều quyết định hành chính có liên quan đến quyền, lợi ích của
người dân. Song trong quá trình triển khai thực hiện đền bù, giải toả, nhiều
nơi làm chưa đúng chính sách, thiếu công khai dân chủ, thậm chí có tham
nhũng, tiêu cực. Chính quyền nhiều nơi chưa chỉ đạo tập trung giải quyết kịp
thời, đôi khi còn biểu hiện né tránh, đùn đẩy. Nhiều trường hợp giải quyết
không đúng chính sách, pháp luật, xử lý vi phạm, chưa nghiêm minh. Đây là
những nguyên nhân chính dẫn đến số vụ khiếu kiện tăng nhiều trong những
năm vừa qua và phát sinh những vụ khiếu kiện đông người, gây bức xúc.
60
Về phía người khiếu kiện, một số người do không hiểu chính sách,
pháp luật, khiếu kiện thiếu cơ sở căn cứ, vượt ra ngoài qui định của pháp
luật, nhưng vẫn cố chấp “được thua” hoặc do bất mãn, cố tình không chấp
hành quyết định giải quyết có lý có tình của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Một số biểu hiện cụ thể như: khiếu nại có hành vi vượt quá giới
hạn, thậm chí vi phạm pháp luật, lợi dụng quyền khiếu nại có hành vi quá
khích, coi thường kỷ cương pháp luật, gây mất an ninh trật tự xã hội, khiếu
nại vượt cấp tràn lan khá phổ biến, ở các địa phương. Từ thực tiễn cho
thấy, đối với thủ trưởng cơ quan quản lí nhà nước và các cấp chính quyền
trong quá trình chỉ đạo, tổ chức thực hiện giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân phải theo sát tình hình cơ sở, làm rõ nguyên nhân dẫn đến tình
hình khiếu kiện và đề ra được những chủ trương, giải pháp đúng đắn, tập
trung giải quyết kịp thời những yêu cầu chính đáng của nhân dân.
* Trong quá trình thực hiện đã và đang xuất hiện và tái hiện một số hủ
tục lạc hậu như ma chay, cưới xin gây lãng phí, tốn kém.
Thực hiện lời dạy của Bác, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân trên
địa bàn huyện đã đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa mới, loại bỏ dần các
phong tục, tập quán lạc hậu với nhiều cách làm hay, mô hình tốt, rất đáng biểu
dương, hoan nghênh. Kết quả và những thành tựu đạt được trong xây dựng
đời sống văn hóa mới là to lớn và quan trọng. Tuy nhiên, ở không ít thôn, xã
vẫn tồn tại những tập quán, phong tục lạc hậu.
Một số địa phương trên địa bàn huyện vẫn còn tồn tại các hiện tượng
tiêu cực và các hủ tục lạc hậu như: việc tổ chức cưới xin, ma chay dài ngày,
gây lãng phí tốn kém, tình trạng tảo hôn vẫn còn diễn ra ở một vài nơi, tình
trạng mê tín dị đoan vẫn chưa được loại bỏ… Bên cạnh đó, các tư tưởng
phong kiến truyền thống như: trọng nam khinh nữ (nhất nam viết hữu, thập nữ
viết vô) hay tâm lý coi thường lớp trẻ (khôn đâu đến trẻ), các tư tưởng “sống
lâu lên lão làng”… vẫn xảy ra thường xuyên ở một vài nơi, ở các làng xã
nông thôn trên địa bàn. Những hủ tục, hiện tượng tiêu cực đó tuy không phổ
61
biến rộng khắp. Song, nó đã và đang gây cản trở cho sự phát triển, cho sự tiến
bộ. Đặc biệt là trong quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội làng xã ở nông
thôn, những vấn đề trên là thách thức không nhỏ cần được giải quyết để đưa
mục tiêu dân chủ và tiến bộ thực sự đi vào đời sống của nhân dân khu vực
nông thôn nói riêng và trên phạm vi cả nước nói chung.
- Nguyên nhân những hạn chế
- Nhận thức của một bộ phận cán bộ và nhân dân về dân chủ làng xã và
thực hiện dân chủ làng xã tại địa phương mình còn hạn chế.
Quá trình thực hiện dân chủ ở làng xã không chỉ phụ thuộc vào điều
kiện kinh tế mà còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác để thực sự đạt hiệu
quả dân chủ hóa đời sống của nhân dân cấp cơ sở. Trong các yếu tố đó bao
gồm các yếu tố về lĩnh vực văn hóa - xã hội mà đặc biệt trong đó, yếu tố nhận
thức, trình độ dân trí là rất quan trọng. Bên cạnh những mặt tích cực góp phần
đem lại hiệu quả thực hiện cao thì vẫn còn những hạn chế nhất định cần khắc
phục trong các yếu tố này. Thực tế chứng minh rằng, sự phân cực do bất bình
đẳng xã hội sẽ làm nảy sinh những mâu thuẫn hoặc xung đột chính trị, mà
nhiều khi không thể sử dụng thiết chế và phương pháp dân chủ để giải quyết
các xung đột đó. Do vậy, sự phân cực giầu nghèo trong xã hội là rào cản to
lớn cho quá trình thực hiện dân chủ, mặc dù dân chủ cũng không dễ có trong
một xã hội với chế độ phân phối của cải xã hội theo hình thức cào bằng, bình
quân chủ nghĩa. Bên cạnh đó, trình độ học vấn, trình độ hiểu biết các vấn đề
chính trị - xã hội của nhân dân là nhân tố cơ bản để thực hiện dân chủ.
Bởi vì dân chủ là biểu hiện của trình độ văn hoá chính trị, có quan hệ
mật thiết với trình độ dân trí, văn hoá nói chung. Trình độ dân trí của một bộ
phận dân cư nông thôn còn thấp, chưa phân biệt được rõ đúng, sai, quyền lợi,
trách nhiệm, dẫn đến những hành vi sai lệch. Do trình độ dân trí không đồng
đều, nhận thức của nhân dân còn thấp nên việc tiếp thu chủ trương về thực
hiện dân chủ ở xã còn có những hạn chế thể hiện ở hai khuynh hướng: bàng
quan hoặc lạm dụng dân chủ.
62
Thực tiễn đã chứng minh, chỉ khi nào người dân tự giác nhận thức được
quyền hạn và nghĩa vụ của mình, tự giác tham gia vào công việc nhà nước,
công việc xã hội, hoạt động với tư cách là công dân có tri thức văn hoá mới
thực sự có điều kiện thực hiện pháp luật nói chung, pháp luật về dân chủ và
dân chủ ở cấp xã nói riêng. Trong xã hội, những bộ phận công dân có trình độ
dân trí thấp thường đứng ngoài chính trị và dễ trở thành đối tượng cho các
mánh khoé, thủ đoạn của những lực lượng chính trị cơ hội (những điểm nóng
diễn ra trên địa bàn Tây Nguyên là ví dụ). Điều này đã được Hồ Chí Minh xác
định rõ: "Trình độ văn hoá của nhân dân ta nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy
mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ. Nâng cao trình độ văn
hoá của nhân dân cũng là một việc cần thiết để xây dựng nước ta thành một
nước hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh".
- Trình độ, năng lực của hệ thống chính trị ở cấp xã Dân chủ và thực
hiện dân chủ ở xã không chỉ phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn
hoá xã hội, trình độ dân trí mà còn phụ thuộc vào trình độ, năng lực của hệ
thống chính trị cấp xã. Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn
năm 2007 tại điều 3 quy định chịu trách nhiệm chính trong việc tổ chức thực
hiện dân chủ ở cấp xã thuộc về chính quyền cấp xã. Đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp xã là người trực tiếp giác ngộ, tuyên truyền đầy đủ, sâu sắc mục đích, ý
nghĩa, nội dung pháp luật về dân chủ ở cấp xã cho nhân dân. Nhận thức đúng
sẽ mở đường cho hành động đúng.
Thực tế những năm qua cho thấy, một khi có chủ trương hợp lòng dân,
có đội ngũ cán bộ mẫn cán, thực sự là “công bộc của dân” thì dân tin tưởng và
hăng hái tham gia mọi phong trào. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: Khó thì hỏi
nhân dân, nghe nhân dân, dựa vào nhân dân, làm theo sáng kiến của nhân dân.
Đó không chỉ là quan điểm của nhà chính trị, đó còn là niềm tin sâu sắc, chân
thành... Những nhà lãnh đạo chính trị có tài, có đức thường suy nghĩ và đưa ra
những quyết sách phù hợp với lợi ích và nhu cầu của nhân dân. Thông qua
phong trào cách mạng của quần chúng, vai trò của đội ngũ cán bộ cũng được
63
thể hiện rõ theo hai chiều hướng: hoặc được đề cao phát huy, hoặc bị tẩy
chay, tiêu cực. Để xảy ra những hiện tượng tiêu cực tại cơ sở, nhiều cán bộ
tâm huyết phải thẳng thắn thừa nhận rằng: do họ chưa thực sự bám sát địa bàn
(quần chúng). Tuy nhiên, thực hiện dân chủ không phải chỉ mong đợi vào
"lòng tốt" của người cầm quyền, mà quan trọng hơn là xây dựng những định
chế dân chủ buộc những người nắm giữ quyền lực dù muốn hay không muốn
cũng phải tuân theo. Những người cầm quyền được lựa chọn có thể là những
người có tài và đức, suy nghĩ và hành động của họ vì lợi ích của nhân dân,
nhưng nếu không có thiết chế để nhân dân kiểm soát thì họ có thể dần trở
thành người lạm dụng quyền lực, sử dụng quyền lực đó để mưu cầu lợi ích
cho riêng mình.
- Hệ thống cơ chế chính sách về thực hiện dân chủ làng xã tại địa
phương hiện nay còn chưa hoàn thiện
Cho đến nay, nhiều vấn đề quan trọng đang đặt ra trong phương thức
quản lý của chính quyền xã, như: thể chế quản lý một cách dân chủ và hiệu
lực, hiệu quả phù hợp với đặc điểm vùng miền, tộc người và phát huy đúng
mức được truyền thống tự quản của thôn làng; nội dung, cấu trúc, chức năng
quản lý của chính quyền xã đối với phát triển xã hội; năng lực, kỹ năng thực
hành, các phương thức, điều kiện, thủ tục, quy trình quản lý một cách dân chủ
và hiệu quả; mối quan hệ giữa cơ chế quản lý với ý thức dân chủ, văn hóa
pháp luật, tính minh bạch và trách nhiệm giải trình,... của chính quyền xã.
Một số nội dung về công tác quản lý trong hoạt động của chính quyền xã, tuy
đã được thể chế hóa và thực hiện trên thực tế, nhưng do việc nhận thức chưa
thống nhất, các thiết kế cụ thể của mô hình chính quyền xã chưa hoàn chỉnh
và đồng bộ, nên sau khi thể chế hóa đã không vận hành được. Trong công tác
quản lý của chính quyền địa phương nói chung, chính quyền xã nói riêng,
chưa làm rõ được mối quan hệ giữa sự lãnh đạo chỉ đạo của tổ chức Đảng với
thực hành quản lý của chính quyền và sự giám sát, phản biện của hội đồng
nhân dân và các tổ chức xã hội ở xã; chưa giải quyết được mối quan hệ giữa
64
quyền, lợi ích, nghĩa vụ của các chủ thể phát triển kinh tế - xã hội và chủ thể
quản lý phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn xã; nhất là giữa quản lý của
chính quyền xã với việc bảo đảm truyền thống tự quản của các thôn làng.
- Vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, sự tham gia của
hệ thống chính trị tại địa phương trong quá trình thực hiện dân chủ có lúc, có
nơi còn bị buông lỏng.
Qua nghiên cứu quá trình thực hiện dân chủ trên địa bàn huyện Ứng Hoà,
thực tế đã cho thấy kết quả bước đầu là rất quan trọng. Tuy vậy, vẫn còn bộc lộ
những thiếu sót, yếu kém như:
Đối với Đảng bộ, chi bộ Đảng trên địa bàn xã, phường.
Đảng bộ, chi bộ xã có trách nhiệm rất lớn trong việc thực hiện dân chủ và
phát huy các giá trị truyền thống dân chủ làng xã. Trong thời gian qua, các chi bộ
thuộc Đảng bộ xã đã thực hiện tốt vai trò của mình. Song, một số nơi, vai trò
lãnh đạo của các tổ chức Đảng chưa được phát huy, năng lực công tác yếu kém,
thiếu gương mẫu trong đạo đức, lối sống của một số cán bộ, đảng viên vẫn còn
là tình trạng khá phổ biến, chưa được khắc phục. Nhận thức về vấn đề dân chủ
chưa sâu sắc; một vài nơi, chi bộ chưa phát huy quyền làm chủ của nhân dân
trong lãnh đạo, chỉ đạo bàn bạc, tham gia ý kiến của quần chúng nhân dân; việc
triển khai quy chế còn hình thức, chưa sâu sắc.
- Đối với các cấp chính quyền xã, phường.
Chính quyền cấp xã, phường là yếu tố trụ cột của hệ thống chính trị cơ
sở. Chính quyền địa phương mà trực tiếp ở đây là Hội đồng nhân dân, Uỷ ban
nhân dân xã, phường đó là những cơ quan quyền lực cao nhất ở địa
phương. Phải củng cố, kiện toàn các cơ quan quyền lực này vì trong quá trình
hoạt động của mình, tuy đã có những tiến bộ nhất định, song bên cạnh đó tình
trạng chính quyền vẫn còn những hiện tượng như: cửa quyền, tham nhũng,
sách nhiễu nhân dân, vấn đề dân chủ tuy đã được triển khai, nhưng chưa sâu
rộng…Vì vậy, việc thực hiện dân chủ ở cơ sở muốn được phát huy thì phải
kiện toàn, củng cố bộ máy chính quyền, tiếp tục thực hiện cải cách hành chính
65
trong các hoạt động của chính quyền cơ sở, mà nội dung chính đó là tập trung
xây dựng đội ngũ cán bộ công chức có phẩm chất, năng lực hoàn thành các
nhiệm vụ quản lý nhà nước theo chức danh và chế độ công vụ, tập trung đổi
mới nhằm giảm bớt sự phiền hà đối với nhân dân; xử lý đúng đắn, nhanh gọn
các vấn đề liên quan đến quản lý nhà nước.
- Đối với các đoàn thể nhân dân, tổ chức chính trị - xã hội.
Các tổ chức đoàn thể nhân dân như MTTQ, công đoàn, Hội phụ nữ, Hội
cựu chiến binh…có vai trò quan trọng trong thực hiện dân chủ ở cơ sở: tạo sự
nhất trí về chính trị và tinh thần trong các tầng lớp nhân dân, xây dựng môi
trường chính trị - xã hội lành mạnh và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho người dân
tích cực phát huy quyền làm chủ của mình. Các tổ chức có nhiệm vụ cùng với
các cấp uỷ Đảng, chính quyền kiểm tra việc tổng kết, thực hiện quy chế.
Tuy nhiên trong các hoạt động của mình, nhiều hạn chế, thiếu sót vẫn còn
tồn tại: tính tích cực, chủ động chưa cao, chưa phát huy được công tác đại diện dân
kiểm tra, giám sát các cơ quan dân cử, giám sát pháp luật, thực thi dân chủ… Do
vậy, việc củng cố, kiện toàn các đoàn thể nhân dân là yêu cầu cấp thiết hiện nay,
nhằm củng cố, tăng cường cơ sở chính trị của quyền lực Nhà nước, nâng cao chất
lượng phối hợp và thống nhất hành động của các tầng lớp nhân dân trong thực hiện
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thực hiện mục tiêu “dân
làm chủ”.
2.1.3. Một số vấn đề đặt ra
Một là, vấn đề đặt ra trong nhận thức: cần thống nhất về nhận thức của
các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương và bản thân mỗi người dân
về dân chủ làng xã. Dân chủ làng xã là một hình thức sinh hoạt dân chủ gắn
liền với đời sống xã hội nông thôn của người Việt Nam đã xuất hiện từ xa
xưa. Trải qua bao thăng trầm phất triển của lịch sử, đến nay hình thức sinh
hoạt dân chủ này vẫn còn tồn tại trong các khu vực làng xã vùng nông thôn ở
nước ta hiện nay, nhất là tại các vùng nông thôn vùng Đồng bằng Bắc bộ. Cố
nhiên, so với hình thức sinh hoạt dân chủ làng xã thì hình thức sinh hoạt dân
66
chủ làng xã ở nước ta hiện nay đã có nhiều thay đổi. Việc thực hiện dân chủ
cơ sở trên địa bàn huyện Ứng Hòa đã và đang được triển khai thực hiện, song
một số cơ quan, đơn vị, cán bộ, công chức, viên chức chưa có nhận thức đầy
đủ, sâu sắc hết ý nghĩa và vai trò to lớn của dân chủ và trách nhiệm thực hiện
dân chủ làng xã; phong cách làm việc quan liêu, mất dân chủ, thiếu tôn trọng
dân trong một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức; việc thực hiện Pháp lệnh
dân chủ cơ sở có lúc, có nơi còn mang tính hình thức, chiếu lệ; trình độ của
một bộ phận cán bộ còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu. Bên cạnh
đó, một bộ phận nhân dân nhận thức chưa được đầy đủ quyền và nghĩa vụ của
mình trong việc thực hiện dân chủ ở cơ sở; một số bộ phận còn bàng quan,
xem thường.
Hai là, vấn đề đặt ra trong thực tiễn: dân chủ làng xã đã và đang tồn tại
trong đời sống xã hội tại các khu vực nông thôn ở nước ta hiện nay. Tuy
nhiên, ở mỗi địa phương khác nhau, tuỳ theo tình hình đặc điểm địa lý, lối
sống dân cư, trình độ nhận thức của người dân mà hình thức và những nội
dung của dân chủ làng xã được vận dụng ở các mức độ khác nhau từ đó nó
cũng có tác động khác nhau đến sự phát triển của đời sống kinh tế và văn hoá
xã hội tại các khu vực nông thôn. Từ thực tiễn đời sống phát triển kinh tế, văn
hoá xã hội tại các khu vực nông thôn Việt Nam hiện nay cũng cho thấy việc
chủ trương áp dụng hình thức dân chủ làng xã hiện nay tại các khu vực nông
thôn ở nước ta là tất yếu và cần thiết. Tuy nhiên, thực tiễn đó cũng cho thấy
việc áp dụng hình thức sinh hoạt dân chủ làng xã tại các khu vực nông thôn
hiện nay cần có một sự thống nhất chung không chỉ về nhận thức và qua đó
còn là quan điểm, chủ trương, cơ chế chính sách và các giải pháp đồng bộ cần
được áp dụng để việc áp dụng hình thức sinh hoạt dân chủ này trong điều kiện
hiện nay sao cho có hiệu quả.
Ba là, vấn đề đặt ra về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với việc thực hiện
dân chủ làng xã ở nước ta hiện nay:
67
- Trong thống nhất các quan điểm, chủ trương, trong việc định ra
đường lối chính sách: Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có
nhiều cố gắng trong việc rà soát, ban hành bổ sung, hoàn thiện hệ thống cơ
chế, chính sách; lãnh đạo huyện Ứng Hòa cũng đã có nhiều biện pháp sáng
tạo mới nhằm triển khai tốt nhất các cơ chế chính sách mà Đảng, Nhà nước đã
đề ra nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân và nâng cao hiệu quả thực
hiện dân chủ làng xã. Điều này được thể hiện thông qua việc ban hành và thực
thi nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan. Tuy nhiên, vẫn còn tình trạng
chồng chéo, thiếu sự đồng bộ giữa các văn bản gây khó khăn trong quá trình
áp dụng trong thực tiễn.
- Trong việc thống nhất áp dụng triển khai vận dụng: Để hoàn thành
thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ của Pháp lệnh dân chủ cơ sở và công cuộc cải
cách nền hành chính quốc gia thì không chỉ cần có sự lãnh đạo của Đảng bằng
việc đưa ra những chủ trương đường lối, sự quản lý của nhà nước được cụ thể
hóa thông qua các chính sách, pháp luật mà còn có một phần đóng góp không
nhỏ là sự tham gia, ủng hộ của quần chúng nhân dân. Tuy nhiên, trong quá
trình thực hiện dân chủ làng xã mặc dù được tập trung chỉ đạo thực hiện
nhưng chưa được thường xuyên, chưa tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ
trong đời sống dân cư, nhiều nơi dân chủ vẫn chỉ là hình thức.
Bốn là, Vấn đề đặt ra về công tác nghiên cứu, tổng kết thực tiễn đối với
việc thực hiện dân chủ làng xã ở nước ta hiện nay
- Dân chủ làng xã là hình thức sinh hoạt dân chủ khá phổ biến trong đời
sống xã hội nông thôn Việt Nam trước đây nhưng trên thực tế những nghiên
cứu về nó ở nước ta hiện nay còn chưa nhiều. Cho nên cần phải đẩy mạnh
công tác nghiên cứu để đi tới thống nhất về mặt nhận thức và đề ra các giải
pháp áp dụng hình thức dân chủ này trong điều kiện mới.
- Công tác nghiên cứu, tổng kết xây dựng mô hình phù hợp với từng địa
phương, từng cơ quan đơn vị v.v.. Chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của nhà nước ban hành và được phổ biến là chung nhưng khi
68
triển khai ở các huyện, các xã, thị trấn, cơ quan đơn vị khác nhau thì cần phải
tùy thuộc vào điều kiện cụ thể, đặc thù của từng địa phương, cơ quan đơn vị
để có những biện pháp thực hiện cho phù hợp, linh hoạt, tránh tình trạng áp
dụng rập khuôn, máy móc, giáo điều. Điều này nhằm thực hiện hiệu quả nhất
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, đồng
thời cũng phát huy được tinh thần sáng tạo của cán bộ và nhân dân ở cơ sở.
- Trên thực tế, tại một số địa phương ở nước ta hiện nay hình thức dân
chủ làng xã bươc đầu đã được khôi phục và áp dụng vào trong đời sống xã hội
nông thôn trong điều kiện mới. Do đó công tác nghiên cứu tổng kết thực tiễn
đối với vấn đề này hiện nay là hết sức quan trọng với các mục tiêu đánh giá
cac mặt tích cực hạn chế từ đó tìm ra phương hướng và giải pháp để tiếp tục
áp dụng hình thức dân chủ này vào trong đời sống xã hội nông thôn Việt Nam
trong giai đoạn tới.
2.2. Một số giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt
tiêu cực khi thực hiện dân chủ làng xã ở nước ta hiện nay qua thực tế ở
huyện Ứng Hòa, Thành phố Hà Nội
2.2.1. Nhóm giải pháp phát huy mặt tích cực
2.2.1.1.Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về vai
trò của dân chủ làng xã và vai trò tích cực của việc áp dụng dân chủ làng
xã đối với sự phát triển đời sống xã hội nông thôn ở nước ta hiện nay
Nhà nước là một thể chế dân chủ của xã hội. Bản chất và trình độ của
mỗi Nhà nước cụ thể trước hết biểu hiện ở chủ trương, đường lối và pháp luật.
Nền dân chủ (bất cứ nhà nước nào) đều phải gắn với một thể chế pháp luật
nhất định.
Việc tuyên truyền, phổ biến các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, các văn
bản của TW, của thành phố, của huyện về xây dựng, thực hiện Quy chế dân
chủ ở cơ sở đến cán bộ, đảng viên, cán bộ công chức, công nhân lao động và
nhân dân trong huyện có vai trò rất quan trọng bao gồm: Chỉ thị số 30-
CT/TW, Chỉ thị số 10-CT/TW của Bộ Chính trị, Thông báo, Kết luận số
69
159-TB/TW ngày 15/11/2004 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Nghị quyết
Trung ương 7(khóa IX), Nghị định 71, Nghị định 07, Nghị định 87 của
Chính phủ và đặc biệt là triển khai thực hiện Pháp lệnh số 34/2007/PL-
UBTVQH của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội khóa 11 về pháp lệnh thực hiện
dân chủ ở xã, phường, thị trấn đến tất cả mọi cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Phải thường xuyên tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của nhà nước để các tầng lớp nhân dân hiểu và thực hiện
đầy đủ về quyền và nghĩa vụ công dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
giáo dục một cách sâu rộng các nội dung Pháp lệnh thực hiện dân chủ cơ sở
liên quan đến thự hiện dân chủ ở làng xã (đặc biệt là thể hiện rõ ràng trong
các quy ước, hương ước của các làng, các thôn trên địa bàn huyện) nhằm
nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức trong thực
thi công vụ và phát huy quyền làm chủ, sức sáng tạo của nhân dân; động viên
sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn của nhân dân trong phát triển kinh tế -
xã hội, ổn định chính trị, tăng cường đoàn kết, xây dựng chính qyền trong
sạch, vững mạnh. Thường xuyên tuyên truyền, phổ biến, quán triệt cho lãnh
đạo, cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân nắm vững quan điểm, mục
tiêu, kế hoạch, nội dung, biện pháp thực hiện dân chủ cơ sở; Đổi mới nội
dung, vận dụng linh hoạt sáng tạo các hình thức, phương thức tuyên truyền,
giáo dục pháp luật cho cán bộ, nhân dân.
Các cấp chính quyền cơ quan nhà nước tăng cường công tác tuyên giáo,
dân vận, thường xuyên xây dựng đội ngũ cán bộ công chức trung thành, sáng
tạo, tận tụy, gương mẫu, vì nhân dân mà phục vụ. Tăng cường kiểm tra, kịp
thời phát hiện, xử lý nghiêm những hành vi, thái độ vi phạm dân chủ, quan
liêu, hách dịch, cửa quyền, tăng cường đi cơ sở để sâu sát với nhân dân, kịp
thời nắm bắt tâm tư nguyện vọng của nhân dân để có chủ trương đúng đắn
hợp lòng dân. Các cấp ủy Đảng từng bước đổi mới phương pháp lãnh đạo,
định hướng nội dung hoạt động, tạo điều kiện để các đoàn thể làm tròn chức
năng là cầu nối giữa Đảng, chính quyền với cán bộ, công chức, viên chức,
70
người lao động và nhân dân đồng thời góp phần nâng cao trách nhiệm, thái
độ phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và của cả đội
ngũ làm công tác dân vận từ huyện đến cơ sở, để đảng viên, cán bộ không xa
dân “nghe dân nói, nói cho dân hiểu, làm cho dân tin”; công tác lãnh đạo của
cấp ủy Đảng đối với chính quyền, Mặt trận đoàn thể đã có chuyển biến đáng
kể; lề lối làm việc không ngừng được cải tiến theo hướng phục vụ lợi ích của
nhân dân.Đồng thời, nâng cao hơn nữa nhận thức và năng lực thực hành dân
chủ cho nhân dân. Đặc biệt là không ngừng nâng cao trình độ dân trí đối với
nhân dân, xác định đây là nhiệm vụ rất quan trọng vì dân trí thấp thì khó có
thể thực hành dân chủ và làm chủ cao. Trình độ dân trí càng cao, càng thuận
lợi cho quá trình mở rộng dân chủ, thuận lợi cho quá trình đưa các giá trị dân
chủ vào đời sống xã hội và thuận lợi trong việc nâng cao ý thức pháp luật cho
nhân dân. Có ý thức pháp luật, hình thành thói quen sống và làm việc theo
Hiến pháp và pháp luật, từ đó người dân có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ của
người làm chủ và có khả năng tham gia có hiệu quả vào hoạt động quản lý
nhà nước và thực hiện đời sống dân chủ ở cơ sở có hiệu quả cao nhất.
2.2.1.2. Khuyến khích khôi phục và áp dụng các hình thức hương
ước, quy ước với các nội dung tích cực tại các khu vực nông thôn ở nước ta
hiện nay
Hương ước là sự thể hiện quyền tự chủ của cộng đồng dân cư ở các
làng xã ở ngoài phạm vi Nhà nước (mang tính chất phi hành chính và phi
quyền lực công), đó là sự thể hiện các cam kết tự nguyện của làng thôn, thể
hiện nhu cầu của chính làng xã và do sự thỏa thuận thống nhất với nhau để
thực hiện việc tự quản trong cộng đồng. Hương ước chỉ có thể được phát huy
hiệu quả đích thực của nó nếu được ra đời một cách tự nhiên dựa trên nhu
cầu, tập tính, truyền thống của từng làng xã vốn có sự khác nhau tùy thuộc
vào các đặc tính dân cư, địa lý, kinh tế, quan hệ xã hội... của từng vùng miền.
Để việc thực hiện dân chủ ở làng xã có hiệu quả cao trên địa bàn huyện
Ứng Hòa nói riêng và trên phạmvi khu vực làng xã nông thôn nói riêng, thì
71
việc áp dụng các hương ước, quy ước với các nội dung tích cực sẽ là đòn bẩy
thực hiện thành công dân chủ ở làng xã với hiệu quả cao nhất.
Bản Hương ước, quy ước của các làng xã mang tính đặc trưng khác
nhau, tuy nhiên khi xây dựng, triển khai nhất thiết phải tuân theo hệ thống
pháp luật của nhà nước, không vi hiến; cần tăng cường, đề cao vai trò của
quần chúng trong tham gia xây dựng văn bản, hương ước của làng xã, thôn.
Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát của nhân dân trong việc thực hiện
hương ước, quy ước của thôn, làng để tạo ra hiệu quả thực hiện cao nhất. Bên
cạnh đó, các quy định truyền thống mang tính tiêu cực, lạc hậu, không còn
phù hợp với sự tiến bộ của xã hội cần được kiên quyết loại bỏ trong quá trình
xây dựng và thực hiện.
2.2.1.3. Đẩy mạnh các phong trào khôi phục các hoạt động văn hoá
lễ hội truyền thống, các hình thức sinh hoạt văn hoá mới ở nông thôn
nhằm thu hút và khuyến khích mọi người dân tham gia
Lễ hội văn hóa truyền thống là hiện tượng lịch sử, hiện tượng văn hóa
có mặt ở Việt Nam từ lâu đời và có vai trò không nhỏ trong đời sống xã hội.
Những năm gần đây, trong bối cảnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập
quốc tế của nước ta, văn hóa truyền thống nói chung, trong đó có lễ hội truyền
thống đã được phục hồi và phát huy, làm phong phú hơn đời sống văn hóa của
Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, tốt đẹp trong phục hồi và
phát huy lễ hội cổ truyền trong đời sống xã hội đương đại, thì cũng không ít
các vấn đề nảy sinh khiến xã hội cần phải nhìn nhận lại và tìm cách khắc phục
để những mặt tinh hoa của lễ hội cổ truyền được đẩy mạnh và phát huy, khắc
phục dần các hạn chế, tiêu cực. Và bao giờ cũng thế, mọi hành động của con
người đều bắt đầu từ nhận thức, chỉ khi chúng ta có nhận thức đúng về lễ hội
cổ truyền thì việc phục hồi và phát huy nó trong đời sống xã hội đương đại
mới mang lại hiệu quả mong muốn.
Hiện tại ở nước ta có nhiều loại lễ hội, bên cạnh lễ hội cổ truyền còn có
Lễ hội mới, (lễ hội hiện đại, gắn với các sự kiện lịch sử hiện đại, cách mạng),
72
lễ hội sự kiện (gắn với du lịch quảng bá du lịch, Lễ hội nhân kỷ niệm những
năm chẵn thành lập thành phố, tỉnh, huyện)…, trong đó lễ hội truyền thống có
số lượng nhiều nhất, phạm vi phân bố rộng (cả nông thôn, đô thị, vùng núi các
dân tộc), có lịch sử lâu đời nhất. Người ta có thể phân loại lễ hội cổ truyền
theo thời gian các mùa trong năm, trong đó quan trọng nhất là mùa xuân, mùa
thu, phân chia theo phạm vi lớn nhỏ: Lễ hội làng, lễ hội vùng, lễ hội quốc gia.
Phân loại theo tính chất của lễ hội: Lễ hội nghề nghiệp (nông, ngư, nghề
buôn…), lễ hội tôn vinh anh hùng dân tộc, người có công với quê hương, đất
nước, lễ hội gắn với các tôn giáo tín ngưỡng …
Đối với quá trình thực hiện dân chủ làng xã, việc tạo ra sân chơi văn
hóa cho người dân có một tác động tích cực không nhỏ. Trên địa bàn huyện
Ứng Hòa nói riêng, việc khôi phục các lễ hội văn hóa truyền thống tại địa bàn
các làng, xã trong dịp nghỉ, ngày lễ sẽ phát huy được tính cố kết cộng đồng,
tạo ra môi trường văn hóa lành mạnh bên cạnh sự phát triển và tiếp biến các
xu hướng văn hóa hiện đại ngày nay, mỗi địa phương cần thành lập một đội
văn nghệ quần chúng thường xuyên tập luyện và tổ chức các lễ hội phù hợp
thuần phong mỹ tục, tổ chức các chương trình “làng vui chơi, làng ca hát”
trong các lễ hội trong năm.
Sự kết hợp giữa thực hiện dân chủ ở cơ sở và phát triển các lễ hội văn
hóa truyền thống thực sự sẽ mang lại hiệu quả trong đời sống khu dân cư,
trong việc thực hiện, phát triển văn hóa – xã hôi ở địa phương.
2.2.1.4. Kết hợp thống nhất giữa các nội dung mặt tích cực trong dân
chủ làng xã truyền thống với những nội dung trong Pháp lệnh thực hiện
dân chủ cơ sở, chương trình xây dựng nông thôn mới... trong thực hiện
dân chủ làng xã hiện nay ở nước ta
Pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị được thể hiện thành luật lệ, do
đó, mỗi chế độ xã hội, mỗi chế độ nhà nước chỉ có một hệ thống pháp luật của
giai cấp nắm chính quyền. Đối với các xã hội đối kháng giai cấp, hệ thống
pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích giai cấp thống trị. Hiệu lực của pháp luật
73
không chỉ phụ thuộc vào sức mạnh cưỡng chế của nhà nước mà còn phụ
thuộc vào trình độ hiểu biết và tâm lý pháp luật của xã hội. Dân chủ XHCN là
nền dân chủ rộng rãi nhất trong lịch sử, đó là nền dân chủ của tuyệt đại đa số
của nhân dân lao động, gắn với công bằng xã hội, chống áp bức, bất công,
được thực hiện trong thực tế trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và nó
cũng được thể chế bằng pháp luật, được bảo đảm bằng pháp luật.
Bên cạnh sự phát triển về các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội, thì
quyền làm chủ của nhân dân vẫn còn bị vi phạm, hoặc lợi dụng tình trạng dân
chủ mà vi phạm kỷ cương, pháp luật. Trên địa bàn huyện Ứng Hòa, tình trạng
vi phạm pháp luật, an ninh trật tự vẫn còn là vấn đề vướng mắc, cản trở việc
thực hiện Pháp lệnh phát huy hiệu quả khi áp dụng vào thực tế, trong đó,
ngay cả cán bộ, đảng viên cũng còn vi phạm kỷ cương, kỷ luật. Dân chủ phải
bao gồm cả hai mặt: quyền lợi và nghĩa vụ. Để dân chủ ở cơ sở phát huy được
vai trò của nó và đi sâu vào cuộc sống một cách hiệu quả, các địa phương
trong cả nước nói chung và ở địa bàn huyện Ứng Hòa nói riêng phải gắn việc
thực hiện QCDC ở cơ sở với kỷ cương, pháp luật, gắn với những quy ước,
hương ước, phù hợp với địa phương, tâm lý dân cư.
Nội dung của Pháp lệnh số 34 2007 PL-UBTVQH11 ngày 20 tháng 4
năm 2007 bao gồm phương châm bốn khâu “dân biết, dân làm, dân bàn,
dân kiểm tra” - đó là một quy trình khép kín, huy động và phát huy được
quyền làm chủ thực sự của nhân dân. Để nâng cao hiệu quả của việc thực
hiên dân chủ ở làng xã trên địa bàn huyện Ứng Hòa cần tuyên truyền, quán
triệt và cụ thể hóa nội dung của Pháp lệnh trong sinh hoạt cộng đồng, trong
quy ước, hương ước của làng xã. Bên cạnh đó, chương trình Nông thôn
mới là một chương trình cải cách nông thôn theo hướng hiện đại hóa, là
chủ trương lớn và cốt lõi của Đảng và nhà nước ta. Trong quá trình thực
hiện và tuyên truyền xây dựng nông thôn mới cần đảm bảo tính hài hòa,
thống nhất nội dung giữa pháp lệnh và chương trình nông thôn mới trên cơ
sở đặt lợi ích của số đông, của cộng đồng làng xã lên trên, thực hiện công
74
cuộc vận động “nhà nước và nhân dân cùng làm”, tranh thủ được sức dân,
dựa vào dân để giành thắng lợi trong thực hiện nhiệm vụ. Để làm được đó,
đòi hỏi các tổ chức chính quyền, đoàn thể nâng cao trách nhiệm bồi dưỡng,
rút kinh nghiệp và sâu sát trong từng nhiệm vụ, đặc biệt là nhiệm vụ tuyên
truyền, phổ biến nội dung của pháp lệnh dân chủ ở cơ sở và chương trình
nông thôn mới đến địa bàn các thôn, làng.
2.2.2. Nhóm giải pháp hạn chế mặt tiêu cực
2.2.1.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức nhằm
động viên khuyến khích mọi tầng lớp quần chúng nhân dân tham gia thực
hiện, giám sát và hưởng thụ các thành quả trong quá trình thực hiện dân
chủ làng xã ở nước ta hiện nay
Đời sống vật chất quyết định đời sống tinh thần, tư tưởng; trình độ nhận
thức là cơ sở cho hành động. Vì vậy, để thực hiện dân chủ ở cơ sở, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân phải dựa trên nền tảng của sự phát triển kinh tế -
xã hội, trình độ dân trí.
Trình độ phát triển kinh tế - xã hội, trình độ dân trí cao là điều kiện vật
chất, tinh thần cơ bản bảo đảm để thực hiện dân chủ. Trình độ kinh tế - xã hội,
trình độ dân trí thấp kém thì không những không có điều kiện đảm bảo để
thực hiện dân chủ, mà ngược lại còn thực hiện sai, không hiệu quả. Đồng thời,
nếu xã hội mất ổn định, tệ nạn xã hội gia tăng, tình trạng bất bình đẳng còn
phổ biến, người dân còn chịu cảnh đói nghèo… thì dân chủ không được đảm
bảo. Do vậy, phải thực hiện tốt các vấn đề xã hội, đặc biệt là giải quyết các
vấn đề xã hội bức xúc của xã hội hiện nay, như: nạn cờ bạc, ma tuý, rượu
chè… Đồng thời, thực hiện từng bước thực hiện công bằng xã hội, chống
quan liêu, tham nhũng; thực hiện các chương trình xoá đói - giảm nghèo…
Nâng cao dân trí là điều rất quan trọng để thực hiện và phát huy dân
chủ. Trình độ dân trí thể hiện ở sự hiểu biết về các vấn đề chính trị, văn hoá
xã hội, pháp luật, hiểu biết về quy luật phát triển kinh tế - xã hội; ngược lại,
trình độ dân trí thấp, kém hiểu biết là một trở ngại lớn của việc thực hành dân
75
chủ, của sự phát triển kinh tế - xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói:
“Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Vì vậy, việc nâng cao dân trí như là
một giải pháp, động lực của mọi sự phát triển ; là động lực, giải pháp để thực
hiện dân chủ một cách hiệu quả. Phương châm phát triển con người Việt Nam
nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển, đó là: “Nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Muốn mọi người dân có thể làm chủ được
xã hội, tham gia có hiệu quả vào thực hiện dân chủ ở cơ sở, cần phải xác lập
hệ thống các giá trị dân chủ ở cơ sở, mà nội dung chủ yếu là:
- Bồi dưỡng ý thức dân chủ theo định hướng XHCN cho các tầng lớp
xã hội ở cơ sở.
- Nâng cao kinh nghiệm và năng lực thực hành dân chủ cho từng cá
nhân và cộng đồng dân cư.
- Xây dựng nhân cách dân chủ của cá nhân thông qua hoạt động chính
trị ở cơ sở.
Như vậy, dân trí, dân sinh, dân chủ là ba yếu tố quan trọng, gắn bó chặt
chẽ với nhau trong cuộc sống.
Đồng thời bên cạnh đó, việc vận động tuyên truyền cho người dân hiểu,
tham gia tích cực vào công cuộc đấu tranh chống lại các tệ tham ô, tham
nhũng, quan liêu, hách dịch có liên quan mật thiết tới trình độ nhận thức của
nhân dân như đã đề cập ở trên.
Trong pháp lệnh dân chủ ở cơ sở, phương châm “dân kiểm tra” là khâu
cuối cùng trong việc thực hiện dân chủ, người dân có quyền kiểm tra, giám
sát các hoạt động thuộc lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội. Thực tế
ở huyện Ứng Hòa cũng như các địa phương khác trên phạm vi cả nước, việc
thực hiện quyền giám sát của người dân đã được chú trọng, tuy nhiên hiệu
quả giám sát chưa thực sự cao. Để nâng cao hiệu quả giám sát, phê bình, phản
biện của quần chúng cần có cơ chế thông thoáng để người dân phát huy đúng
quyền và nghĩa vụ này của họ, các cấp, đoàn thể cần thường xuyên liên hệ với
cơ sở, các đại biểu Hội đồng nhân dân cần thường xuy và chủ động tiếp xúc
76
cử tri, nắm bắt tâm tư nguyện vọng và phản ánh của người dân kịp thời nhất,
thiết lập đường dây nóng để nhanh chóng xử lý và khắc phục những vấn đề
mới phát sinh trong cuộc sống. Bên cạnh đó có hình thức biểu dương, khen
thưởng và nhân rộng điển hình tiên tiến trong phòng chống, tố giác, đấu tranh,
ngăn ngừa các hiện tượng tiêu cực, có như vậy hiệu quả thực thi dân chủ làng
xã mới đạt được hiệu quả cao.
2.2.1.2. Tích cực đấu tranh phòng chống việc khôi phục các hủ tục
văn hóa lạc hậu, chống các tư tưởng cục bộ, bè phái, dòng họ, thái độ rụt
rè thụ động hoặc dân chủ quá trớn... trong quá trình thực hiện dân chủ
làng xã ở nước ta hiện nay
Văn hóa là giá trị sáng tạo của con người vè vật chất và tinh thần trong
quá trình lịch sử của đời sống lao động và sinh hoạt của con người. Văn
hóa có giá trị lịch sử, truyền thống lâu đời thể hiện phong tục tập quán gắn
liền lâu đời với cộng đồng làng xã – nó là nét đặc trưng không thể lẫn (văn
hóa là tiêu chí phân biệt giữa cộng đồng này và cộng đồng khác mang tính
đặc trưng nhất).
Làng xã nông thôn Việt Nam nói chung và làng xã trên địa bàn huyện
Ứng Hòa nói riêng có giá trị truyền thống chung vững bền: lòng yêu nước
thương nòi, tinh thần nhân nghĩa, khoan dung, truyền thống đoàn kết dân tộc,
tình làng nghĩa xóm “tối lửa tắt đèn có nhau”, tương thân tương ái... những
bản sắc đó được phát huy là cơ sở cho sự ổn định và phát triển và ngược lại.
Tuy nhiên bên cạnh những nét văn hóa tốt đẹp, mang ý nghĩa tích cực và phù
hợp, một số nét văn hóa truyền thống đã không còn phù hợp, thậm chí nó còn
là những hủ tục lạc hậu, ngăn cản sự phát triển của xã hội, nó là sự lai căng,
pha trộn và du nhập của những xu hướng văn hóa không phù hợp với thuần
phong mỹ tục của dân tộc, biểu hiện một số hiện tượng đó ở nông thôn, làng
xã Việt Nam nói chung đó là: tư tưởng trọng nam khi nữ, tư tưởng dòng họ,
những tập tục cưới hỏi, ma chay tốn kém, phô trương, lối sống buông thả của
77
một số bộ phận giới trẻ... sự tiếp biến ấy lẽ đương nhiên sẽ là chướng ngại cho
sự phát triển.
Để thực hiện đời sống văn hóa ở khu dân cư và phat huy chế độ dân
chủ xã hội chủ nghĩa ở nông thôn, làng xã cần loại bỏ các hủ tục lạc hậu, tư
tưởng dòng họ, bè phái, những thái độ rụt rè, e ngại, không dám phê bình
những việc làm sai... để làm được điều đó đòi hỏi cơ chế dân chủ ở cơ sở mà
mấu chốt là Pháp lệnh 34 khi được tìm hiểu, tuyên truyền phải thật sự chặt
chẽ và phổ biến rộng rãi với nhiều hình thức thông qua sinh hoạt văn hóa,
cộng đồng hoặc một hình thức tuyên truyền nào đó; các quy ước, hương ước
khi xây dựng để đưa vào thực hiện cần kiên quyết loại bỏ những tư tưởng bảo
thủ, lạc hậu, phải thực sự dân chủ, không trái với hiến pháp và pháp luật.
2.2.1.3. Hoàn thiện cơ chế chính sách cho việc thực hiện dân chủ
làng xã ở nước ta hiện nay
Để nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, trong những năm qua
Đảng và nhà nước đã có nhiều cơ chế và chính sách để hỗ trợ cho người dân
phát triển sản xuất nâng cao đời sống, xoá đói giảm nghèo, trong đó đặc biệt
có nhiều ưu tiên đối với đồng bào các dân tộc vùng cao, vùng sâu, vùng xa,
vùng nông thôn. Thông qua các hình thức hỗ trợ vốn, cho vay ưu đãi, đào tạo
nghề, xây dựng nông thôn mới, đầu tư cơ sở hạ tầng trong các lĩnh vực an
sinh xã hội… Trong các chính sách đó, Đảng, Nhà nước ta đã không ngừng
hoàn thiện, bổ sung để tạo ra cơ chế thuận lợi nhất cho người dân. Thực hiện
dân chủ ở làng xã có hiệu quả hay không, phần lớn liên quan tới hệ thống
chính sách của cơ sở có đồng bộ hay không. Do đó cơ chế chính sách cho việc
thực hiện dân chủ làng xã hiện nay nói chung, trên địa bàn huyện Ứng Hòa
nói riêng, các thể chế, thiết chế, chính sách đối với người dân cần được đặt
lên ở mức ưu tiên hàng đầu, cần thực hiện các quy chế thuận lợi cho người
dân. Các tổ chức, đoàn thể chính quyền cần đổi mới cơ chế chính sách cho
phù hợp với chủ trương của Đảng, nhà nước, đồng thời mang lại hiệu quả cao
trong thực thi đời sống dân chủ ở nông thôn, làng xã.
78
Các chính sách, chủ trương của Đảng, nhà nước hoàn thiện và đồng bộ
hóa sẽ là nền tảng thực thi có hiệu quả nhất trong việc thực hiện dân chủ làng
xã ở cơ sở trên địa bàn huyện Ứng Hòa, góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội phát
triển, đồng thời mức độ hiệu quả của dân chủ cơ sở cũng sẽ là thước đo, khảo
nghiệm đối với cơ chế chính sách của nhà nước, của chính quyền địa phương.
2.2.1.4. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà
nước và hệ thống chính trị cơ sở trong việc thực hiện dân chủ làng xã ở
nước ta hiện nay
Những năm vừa qua Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều biện pháp nhằm
củng cố hệ thống chính trị, phát huy sức mạnh của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Song, do chưa thể chế hóa đồng bộ đường lối chính sách của Đảng
thành các quy phạm pháp luật nên hoạt động của hệ thống chính trị còn có
những hạn chế nhất định. Nhưng bản thân các điều lệ, quy chế, nguyên tắc
hoạt động của từng tổ chức trong hệ thống chính trị cũng là yếu tố cơ bản,
quan trọng, thúc đẩy và đảm bảo cho hệ thống hoạt động đúng chức năng, tôn
chỉ, mục đích, góp phần lãnh đạo xã hội phát huy dân chủ. Đại hội lần thứ VII
của Đảng khẳng định: “Thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là thực chất
của việc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị”.
Hệ thống chính trị ở nước ta bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước XHCN, các tổ chức đoàn thể chính trị - nhân dân. Hệ thống chính trị cấp
xã theo đó cũng bao gồm: Đảng uỷ, chính quyền và các đoàn thể nhân dân; hệ
thống chính trị đó có chức năng bảo đảm cho mọi đường lối, chủ trương của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính quyền
cấp trên; bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, thực
hành chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Việc xây dựng, tổ chức và thực hiện dân chủ ở cơ sở muốn thành công
và có hiệu quả trước hết phải nắm được vai trò của từng thành phần trong hệ
thống chính trị.
79
Theo đó, trước tiên, cần phải nâng cao năng lực trí tuệ của tổ chức cơ
sở Đảng và đảng viên ở cơ sở. Tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, là
hạt nhân lãnh đạo của hệ thống chính trị cơ sở. Năng lực trí tuệ của tổ chức cơ
sở Đảng phản ánh tập trung ở chất lượng các quyết sách chính trị, các quyết
sách đó phải mang tính sát thực, phản ánh đúng những vấn đề bức xúc của cơ
sở; đồng thời định hướng vào việc tạo nên bước chuyển biến đồng bộ và căn
bản tình hình thực hiện dân chủ ở cơ sở; Quá trình xây dựng dân chủ trong
Đảng cần tiến hành đồng thời với xây dựng và hoàn thiện tổ chức, xây dựng
dân chủ trong toàn xã hội, trong đó, mỗi đảng viên phải là một tấm gương
mẫu mực trong thực hiện quy chế dân chủ để cho nhân dân noi theo. Tổ chức
cơ sở Đảng cũng như mỗi đảng viên cần khắc phục cách làm chủ quan, áp đặt,
không tôn trọng, lắng nghe ý kiến của chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể;
đồng thời, cũng tập trung lãnh đạo và phân công trách nhiệm cho chính
quyền, Mặt trận, đoàn thể nhân dân, từng cán bộ, đảng viên.
Chính quyền địa phương mà trực tiếp ở đây là Hội đồng nhân dân, Uỷ
ban nhân dân - đó là những cơ quan quyền lực cao nhất ở địa phương. Việc
thực hiện dân chủ ở cơ sở muốn được phát huy thì phải kiện toàn, củng cố bộ
máy chính quyền, nhất là Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân xã; phải tăng
cường vai trò của các cơ quan dân cử, đổi mới cơ cấu tổ chức và phương thức
hoạt động của Hội đồng nhân dân, xây dựng mối quan hệ công tác giữa Đảng,
chính quyền, đoàn thể; xây dựng mối quan hệ giữa chính quyền với nhân dân.
Các tổ chức đoàn thể nhân dân như MTTQ, công đoàn, Hội phụ nữ,
Hội cựu chiến binh… có vai trò quan trọng trong thực hiện dân chủ ở cơ sở:
tạo sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong các tầng lớp nhân dân, xây dựng môi
trường chính trị - xã hội lành mạnh và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho người dân
tích cực phát huy quyền làm chủ của mình. Các tổ chức có nhiệm vụ cùng với các
cấp uỷ Đảng, chính quyền kiểm tra việc tổng kết, thực hiện quy chế.
Tuy nhiên trong các hoạt động của mình, nhiều hạn chế, thiếu sót vẫn
còn tồn tại: tính tích cực, chủ động chưa cao, chưa phát huy được công tác đại
80
diện dân kiểm tra, giám sát các cơ quan dân cử, giám sát pháp luật, thực thi
dân chủ… Do vậy, việc củng cố, thống nhất phối hợp giữa các thành phần
trong hệ thống chính trị cấp cơ sở là yêu cầu cấp thiết hiện nay, nhằm củng
cố, tăng cường cơ sở chính trị của quyền lực Nhà nước, nâng cao chất lượng
phối hợp và thống nhất hành động của các tầng lớp nhân dân trong thực hiện
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thực hiện mục tiêu
“dân làm chủ”.
Tiểu kết chương 2
Quá trình thực hiện dân chủ làng xã trên địa bàn huyện Ứng Hòa trong
các năm trở lại đây gắn với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, quốc
phòng an ninh của huyện nhà đã đạt được nhiều thành tích nổi bật.
Bên cạnh sự cải cách, đổi mới với nhiều đề án phát triển, việc thực hiện
dân chủ làng xã trên địa bàn huyện là cơ sở, động lực góp phần không nhỏ đối
với các thành tựu đã đạt được.
Từ việc chỉ rõ các kết quả và nguyên nhân đạt được, đồng thời các giải
pháp mà luận văn nêu ra sẽ phần nào đó góp phần thúc đẩy việc thực hiện dân
chủ làng xã ở cơ sở trên địa bàn huyện Ứng Hòa hiện nay và trong thời gian tới.
Tóm lại, để không ngừng thực hiện có hiệu quả dân chủ ở cơ sở trên địa
bàn huyện, Đảng bộ huyện cùng với chính quyền, các đoàn thể cần nhận thức
một cách đúng đắn vai trò, vị trí của nó; nhận thấy rõ vai trò thực trạng, hạn
chế, nguyên nhân của hạn chế, yếu kém còn tồn tại, để từ đó có thể đưa ra
những phương hướng, giải pháp thiết thực, khả thi nhằm thực hiện có hiệu
quả dân chủ ở cơ sở, phù hợp với điều kiện địa bàn, phát huy quyền làm chủ
thực sự của nhân dân.
81
KẾT LUẬN
Dân chủ một mặt là đòi hỏi tất yếu của xã hội trong đổi mới và phát
triển, mặt khác là khả năng tự đáp ứng, tự ý thức của cá nhân về những đòi
hỏi đó. Nó vừa có mặt là khách quan, lại vừa có mặt là sự tham dự của nhân
tố chủ quan, dù mức độ giữa khách quan và chủ quan là khác nhau, không
phải là một tương quan tỷ lệ thuận một cách đơn giản.
Dân chủ là tự do của mỗi con người trong các quan hệ của mình với
cộng đồng, có mình trong cộng đồng (đóng góp và thụ hưởng). Điều đó đòi
hỏi xã hội xác lập được thiết chế, thể chế đúng đắn; đồng thời đòi hỏi mỗi cá
thể, cá nhân có nhận thức và hành động đúng đắn, phù hợp với những giá trị
chung của cộng đồng. Xây dựng đời sống dân chủ trong xã hội Việt Nam nói
chung và huyện Ứng Hòa noí riêng không đơn giản, nhất là khi nó bị chi phối
sâu sắc bởi lối sống nông dân
Quá trình xây dựng đời sống dân chủ hoá nông thôn diễn ra với sự chi
phối của rất nhiều nhân tố. Trong số những nhân tố đó cần phải tính đến một
cách đầy đủ ảnh hưởng tâm lí làng xã trên cả 2 chiều tích cực và tiêu cực của
nó. Trong đời sống xã hội thông thường, những ảnh hưởng của tâm lý làng,
các quan hệ tông tộc, dòng họ biểu hiện thành các dòng họ, tính cục bộ
phường hội và phe nhóm, các biến thể từ văn hóa làng với những hệ quả tiêu
cực của các tập tục, hủ tục còn khá đậm nét trong đời sống hàng ngày của mỗi
cá nhân. Đây là một trong những lực cản cần phải vượt qua trên con đường
xây đựng đời sống dân chủ lành mạnh
Để xây dựng đời sống dân chủ lành mạnh, trong đó có đời sống dân chủ
ở nông thôn thì về mặt thể chế hiện nay-với tư cách là gốc, là nền tảng của
nền dân chủ, là cần xác định về vấn đề sở hữu, cụ thể vấn đề sở hữu đất, một
cách khoa học, tường minh. Cùng với đó là vấn đề tính độc lập trong hoạt
động của bộ máy chính quyền để từ đó kiểm tra giám sát, phán quyết đúng sai
trong hoạt động của tất cả các chủ thể trong hoạt động của mình trong sự dẫn
dắt, quy định của thể chế
82
Qua nghiên cứu, tìm hiểu quá trình thực hiện dân chủ làng xã trên địa
bàn huyện Ứng Hòa – Hà Nội, luận văn đã khái quát hóa lý luận về dân chủ
nói chung và dân chủ làng xã nói riêng trên địa bàn một huyện, đây cũng
chính là những nét đặc trưng cơ bản chung của các làng xã, cơ sở địa phương
trong việc thực hiện nếp sống dân chủ, các đặc trưng mang tính truyền thống
đan xen tính hiện đại trong đời sống mới của cộng đồng dân cư và những đặc
điểm khác cũng nó được làm rõ trong luận văn sẽ là cơ sở để nghiên cứu, áp
dụng và từng bước thực hiện dân chủ làng xã thực sự có hiệu quả; Trên cơ sở
những đặc điểm và tình hình chi phối việc thực hiện dân chủ làng xã, tác giả
đã đi sâu vào nghiên cứu và tìm hiểu, đánh giá thực trạng ban đầu, qua đó nêu
bật được những thành tựu đạt được trong quá trình thực hiện dân chủ hóa làng
xã trên địa bàn huyện, bên cạnh đó cũng chỉ rõ những tồn tại, khó khăn cần
khắc phục, đồng thời chỉ rõ được các nguyên nhân cơ bản của những thành
tựu và hạn chế đó.
Từ những thực trạng, nguyên nhân trong quá trình thực hiện dân chủ
làng xã trên địa bàn huyện Ứng Hòa, nhằm góp phần thúc đẩy việc thực hiện
dân chủ trong đời sống nhân dân trên địa bàn ngày càng được nâng cao, đồng
thời góp phần thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng
và văn minh” mà Đảng và nhà nước ta đang xây dựng, hơn bao giờ hết dân
chủ cơ sở, dân chủ làng xã phải được đặt lên hàng đầu như là mục tiêu tiên
quyết, vừa là động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển chung, luận văn đã
đề xuất bảy nhóm giải pháp quan trọng để thực hiện đồng bộ và có hiệu quả
dân chủ làng xã trên địa bàn huyện Ứng Hòa nói riêng và trên địa bàn các
làng xã trong cả nước nói chung.
Quá trình nghiên cứu việc thực hiện dân chủ làng xã trên địa bàn huyện
chỉ là bước đầu, mới chỉ có điều kiện nghiên cứu, đánh giá thực trạng tình
hình và những vấn đề xảy ra trong thực hiện dân chủ làng xã ở mô hình một
huyện, đề ra một số giải pháp áp dụng cho huyện Ứng Hòa mà chưa có điều
kiện nghiên cứu sâu và rộng hơn.
83
Vì vậy, để nâng cao hơn nữa hiệu quả thực hiện dân chủ làng xã ở cơ
sở, làm cho dân chủ thực sự đi vào cuộc sống, cần có những công trình nghiên
cứu ở cấp độ cao hơn, sâu sắc và khái quát hơn về từng mảng vấn đề trong
thực hiện dân chủ làng xã, về quá trình thực hiện dân chủ làng xã của các
nhóm địa phương có điều kiện tương đồng và đặt trong tương quan so sánh
với các địa phương khác trong nước và kết quả thực hiện chung cả nước, từ
đó sẽ có cái nhìn tổng quát, toàn diện, chính xác và đầy đủ hơn.
84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội (2012), Lịch sử Đảng bộ Thành
phố Hà nội tập 1(1926-1945).
2. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Ứng Hòa (2012), Lịch sử Đảng bộ Huyện
Ứng Hoà.
3. Lương Gia Ban (2003), Dân chủ và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Hoàng Chí Bảo (chủ biên): Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta
hiện nay, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà nội, 2004
5. Chính phủ (1998), Chỉ thị số 24/1998 ngày 19/6 của Thủ tướng Chính phủ
về việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng, bản, thôn, ấp,
cụm dân cư, Hà Nội.
6. Chính phủ (1998), Quy chế thực hiện dân chủ ở xã (ban hành kèm theo
Nghị định 29/1998/NĐ/CP ngày 11/5/1998), Hà Nội.
7. Chính phủ (2003), Quy chế thực hiện dân chủ ở xã(ban hành kèm theo
Nghị định số 79/2003/NĐ-Cp ngày 07/07/2003), Hà Nội.
8. Chính phủ (2003), Nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày 10/10 về cán bộ,
công chức phường, xã, thị trấn, Hà Nội.
9. Chính phủ (2008), Nghị quyết liên tịch số 09/2008/NQLT- UBMTTQVN
ngày 17/04/2008 của Chính phủ - UBTWMTTQVN hướng dẫn thi hành
các điều 11, 14, 16, 22 và Điều 26 của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,
phường và thị trấn, Hà Nội.
10. Nguyễn Trọng Chuẩn - Nguyễn Văn Huyên (đồng chủ biên): Giá trị
truyền thống trước những thử thách của toàn cầu hóa, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2002.
11. Phan Đại Doãn (2006), Làng Việt Nam – đa nguyên và chặt, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
85
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Báo cáo tổng kết 6 năm thực hiện Chỉ
thị số 30 CT/TW của Bộ Chính trị(khóa VIII) về xây dựng và thực hiện
Quy chế dân chủ ở cơ sở, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương
lần thứ 3, Khóa VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Chỉ thị số 30 CT/TW, ngày 18/2/1998 của
Bộ Chính trị Về xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam(2002), Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương
lần thứ 5, Khóa IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam(2002), Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương
lần thứ 6, Khóa IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam(1982), Văn kiện Đại hội đại biểu tòan quốc lần
thứ V, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội
18. Đảng Cộng sản Việt Nam(2001), Văn kiện Đại hội đại biểu tòan quốc lần
thứ IX, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội
19. Đảng Cộng sản Việt Nam(2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội
20. Đảng Cộng sản Việt Nam(2011), Văn kiện Đại hội đại biểu tòan quốc lần
thứ XI, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Phạm Nhân Đức (2014), “Làng xã Việt Nam – Một vài khái niệm”,
http://langvinhxuong.com/home/1-trang-chu/489-lngvn.
22. Huyện ủy Ứng Hòa (2012), Báo cáo Sơ kết 5 năm thực hiện Pháp lệnh số
34/PL-UBTVQH11 về “thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn”, Số 56-
BC/HU.
23. Huyện ủy Ứng Hòa (2013), Báo cáo công tác tổng kết xây dựng và thực
hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở năm 2013, phương hướng, nhiệm vụ năm
2014, Số 06-BC BCĐ.
24. Huyện ủy Ứng Hòa (2014), Báo cáo tổng kết 15 năm thực hiện Chỉ thị 30-
CT/TW, ngày 18/02/1998 của Bộ chính trị (Khóa VIII) về xây dựng và
86
thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn huyện Ứng Hòa, Số 130-
BC/HU.
25. Huyện ủy Ứng Hòa (2014), Báo cáo công tác tổng kết xây dựng và thực
hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở năm 2014, nhiệm vụ, giải pháp năm 2015, Số
16 -BC BCĐ.
26. Hồ Chí Minh toàn tập (1998), tập 4, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội
27. Hồ Chí Minh toàn tập (1998), tập 5, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội
28. Hồ Chí Minh toàn tập (1998), tập 8, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội
29. Hồ Chí Minh toàn tập (1998), tập 12, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội
30. Tô Duy Hợp (2010), Bàn về mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại từ
hướng tiếp cận hệ giá trị văn hóa, Đề tài KX.O3.14/06-10.
31. Lênin toàn tập (1978), Nxb Tiến bộ, Matsxcova.
32. Nguyễn Quang Ngọc (2009), Một số vấn đề làng xã Việt Nam, Nxb chính
trị quốc gia, Hà Nội.
33. Phan Ngọc (1998), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa - Thông tin,
Hà Nội.
34. Philippe Papin - Oliver Tessier (2002), Làng ở vùng châu thổ sông Hồng: vấn
đề còn bỏ ngỏ, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia, Hà Nội.
35. Đòan Thị Minh Oanh (2012), Truyền thống dân chủ làng xã với quá trình
xây dựng đời sống nông thôn Việt Nam hiện nay, Đề tài truyền thống dân
chủ làng xã với quá trình xây dựng đời sống dân chủ ở nông thôn Việt
Nam hiện nay.
36. Nguyễn Văn Phúc (10 1998), “Phát huy các giá trị truyền thống trong phát
triển đất nước”, Tạp chí Cộng sản.
37. Mai Thị Qúy (2009), Toàn cầu hóa và vấn đề kế thừa một số gía trị
truyền thống của dân tộc trong bối cảnh tòan cầu hóa hiện nay, Nxb Khoa
học và Xã hội, Hà Nội.
38. Hồ Sỹ Qúy (10 2000), “Mấy suy nghĩ về văn hóa Việt Nam”, Tạp chí Triết học.
87
39. Nguyễn Văn Sáu - Hồ Văn Thông (2003), Thực hiện quy chế dân chủ và
xây dựng chính quyền cấp xã nước ta hiện nay, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Ngô Đức Thịnh (2000), Một số vấn đề lý luận và phương pháp nghiên
cứu giá trị văn hóa truyền thống trong đổi mới và hội nhập, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
41. Đặng Hữu Toản (8 2000), “Gắn con người Việt Nam hiện đại với giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc”, Tạp chí Triết học.
42. Nguyễn Minh Tuấn (9 2005), “Dân chủ hóa nông thôn vì sự phát triển bền
vững”, Tạp chí Khoa học và Tổ quốc.
43. Nguyễn Minh Tuấn (12 2007), “Làng xã xưa và nay”, Tạp chí Khoa học
và Tổ quốc.
44. Nguyễn Minh Tuấn (4 2009), “Truyền thống dân chủ trong xã hội Việt
Nam”, Tạp chí Tia sáng.
45. Trần Văn Giàu (1993), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt
Nam. Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
46. Đào Trí Úc (2004), Hương ước trong quá trình thực hiện dân chủ ở nông
thôn Việt nam hiện nay, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
47. Ủy ban nhân dân Huyện Ứng Hòa (2013), Báo cáo công tác quản lý di tích
năm 2013 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2014, Số 180/BC-VHTT.
48. Ủy ban nhân dân Huyện Ứng Hòa (2015), Báo cáo công tác quản lý di
tích năm 2013 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2016. Số 171/BC-VHTT.
49. Ủy ban nhân dân Huyện Ứng Hòa (2014), Báo cáo kết qủa thực hiện
phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” năm 2014,
phương hướng nhiệm vụ 2015, Số 112/BC-BCĐ.
50. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2007), Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn, Hà Nội.
51. Về giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam (1983), Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội.
88
PHỤ LỤC
PHIẾU THU THẬP Ý KIẾN CÁ NHÂN
Kính thưa ông bà!
Để cung cấp dữ liệu thông tin cần thiết cho nghiên cứu đề tài: “Dân
chủ làng xã ở nước ta hiện nay qua thực tế ở huyện Ứng Hòa, thành phố
Hà Nội”, tác giả rất mong nhận được sự quan tâm đóng góp ý kiến của
ông bà có thể khoanh tròn hoặc đánh dấu (x) vào câu trả lời mà ông bà cho là
thích hợp.Mọi ý kiến của ông bà sẽ được giữ kín, sự tham gia của ông bà vào
cuộc trao đổi này là hoàn toàn tự nguyện.
Xin chân thành cảm ơn ông (bà)!
A. PHẦN ĐỊNH DANH
Câu 1: Xin ông/bà cho biết một số thông tin về bản thân(mỗi ô chỉ lựa chọn
duy nhất một phương án)
Giới tính Tuổi Trình độ học vấn Tình trạng hôn nhân
1. Nam 1.Dưới 20 1.Dưới cấp 1 1. Đang có vợ chồng
2. Nữ 2.Từ 21-30 2.Cấp 2 2. Chưa có vợ chồng
3.Từ 31-40 3.Cấp 3 3.Goá, ly hôn, ly thân
4. Từ 41-50 4.Trung cấp
5.Từ 51-60 5.CĐ-ĐH trở lên
6.Trên 60
Mức sống Dân tộc Tôn giáo Nghề nghiệp chính
1.Giàu 1.Kinh 1.Phật 1. Nông nghiệp
2.Khá giả 2.Dân tộc khác 2.Thiên chúa 2.Cán bộ về hưu
3.Trung 3.Tôn giáo khác 3.Buôn bán
bình 4.Không theo 4.Dịch vụ
4.Nghèo tôngiáo 5.Tiểu thủ công
nghiệp
6.Công nhân
89
7.Cán bộ viên chức
8. Khác
Nơi sinh sống thuộc Ông/bà tham gia những đoàn thể
1. Làng: 1. Hội cựu chiến binh
2. Hội nông dân
3. Hội phụ nữ
4. Đoàn thanh niên
5. Hội nghề nghiệp khác
6. Không tham gia
B. PHẦN NỘI DUNG
Câu 2: Xin ông/bà cho biết mức độ tiếp cận của bản thân về Quy chế DCCS,
pháp lệnh thực hiện dân chủ ở cơ sở xã,phường(chọn 1 đến nhiều phương án)
1.Đã nghe nói đến
2. Đã được đọc trực tiếp
3. Đã được cán bộ phổ biến
4. Đã dành thời gian nghiên cứu
5. Đã tham gia đóng góp ý kiến xây dựng
6. Đã tham gia thực hiện
7. Đã tham gia vận động tuyên truyền
8. Chưa bao giờ nghe nói đến
Câu 3: Đội ngũ cán bộ ở địa phương có vai trò như thế nào đối với sự hiểu
biết và thực hiện Quy chế DCCS của ông/bà (lựa chọn duy nhất 1 phương án)
90
Hiểu biết về Quy chế Thực hiện Quy chế
1. Rất quan trọng 1. Rất quan trọng
2. Quan trọng 2. Quan trọng
3. Bình thường 3. Bình thường
4. Không quan trọng 4. Không quan trọng
5. Khó đánh giá 5. Khó đánh giá
Câu 4a: Trong năm vừa qua ông/bà có đến gặp gỡ chính quyền địa phương
để đề đạt những yêu cầu kiến nghị:
1. Có 2. Không
Câu 4b: Nếu có, xin ông bà nhớ lại và cho biết mức độ hài lòng của bản
thân(lựa chọn duy nhất một phương án)
1. Hoàn toàn hài lòng
2. Hài lòng
3. Chỉ hài lòng một phần
4. Hoàn toàn không hài lòng
5. Khó đánh giá
Câu 5: Theo ông bà, người dân ở địa phương đã được tham gia vào một số
công việc sau:
Được Được Được Được Không
Các nội dung công việc biết bàn quyết kiểm được
định tra tham gia
1. Dự án xây dựng công trình công
cộng
2. Quyết toán các khoản đóng góp
của dân
3. Thu chi ngân sách của địa
phương
91
4. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
đai
5. Thanh tra, kiểm tra các vụ tiêu
cực
6. Chỉ tiêu phát triển KT-XH của
địa phương
7. Khác(ghi cụ thể)
Câu 6: xin ông/ bà cho biết sau khi thực hiện Quy chế DCCS đối với bản thân
mình như thế nào(có thể lựa chọn từ 1 đến nhiều phương án)
1. Hiểu rõ được quyền lợi và nghĩa vụ của mình
2. Nâng cao trình độ chính trị
3. Nâng cao trình độ văn hóa
4. Nâng cao trình độ pháp luật
5. Củng cố lòng tin vào cấp ủy đảng, chính quyền
6. Lý do khác(ghi)
Câu 7: Ông (bà), anh (chị) có thái độ như thế nào trước việc thực hiện dân
chủ trên địa bàn xã?
1. Phấn khởi
2. Bình thường
3. Khó trả lời
Câu 8: Theo ông (bà), anh (chị) thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở, thì trình độ,
năng lực, phẩm chất của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân như thế
nào?
1.Được nâng cao
2.Bình thường
3. Không được nâng cao
Câu 9: Trong làng ông (bà), anh (chị), tình hình xây dựng nếp sống văn hoá
như thế nào?
92
1. Đã xây dựng
2. Đang xây dựng
3. Chưa đặt ra
Câu 10: Vai trò của Đảng bộ, chi bộ trong việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ
sở như thế nào?
1. Đã phát huy vai trò
2. Chưa phát huy vai trò
3. Khó trả lời
Câu 11: Ông (bà), anh (chị) hiểu được quy chế dân chủ ở cơ sở như thế nào?
1. Hiểu được
2. Hiểu ít
3. Không hiểu
Câu 12: Việc tuyên truyền quy chế dân chủ ở địa phương ông (bà), anh (chị)
được thực hiện ra sao?
1. Tuyên truyền sâu
2. Tuyên truyền lấy lệ
3. Không tuyên truyền
Câu 13: Theo ông (bà), anh (chị), nguyên nhân nào làm hạn chế việc thực
hiện dân chủ trên địa bàn xã?
1. Do tổ chức thực hiện
2. Do cán bộ chưa gương mẫu
3. Do dân chưa hiểu
Câu 14: Ông/bà cho biết vai trò và mức độ hoàn thành nhiệm vụ tổ chức thực
hiện Quy chế DCCS của người trưởng thôn/tổ trưởng khu phố(lựa chọn duy
nhất 1 phương án)
Vai trò của trưởng thôn Mức độ hoàn thành nhiệm vụ
Rất quan trọng Hoàn thành tốt nhiệm vụ
Quan trọng Hoàn thành nhiệm vụ
93
Ít quan trọng Mới hoàn thành một phần
nhiệm vụ Không quan trọng
Không hoàn thành nhiệm vụ Khó đánh giá
Khó đánh giá
Câu 15: Theo ông/bà cần phải làm gid để tăng cường vai trò của trưởng
thôn/tổ trưởng trong tổ chức xây dựng và thực hiện Quy chế DCCS(có thể lựa
chọn 1 đến nhiều phương án)
Phải được tập huấn, đào tạo, bồi dưỡng
Có chế độ chính sách đãi ngộ tốt hơn
Tạo điều kiện thuận lợi hơn về cơ chế làm việc
Người dân cần tích cực hợp tác
Cần có sự quan tâm của cấp ủy đảng, chính quyền
Phải lựa chọn người có khả năng gánh vác được công việc
Khác (ghi)
Xin cảm ơn ông bà!
94