ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Nguyễn Thị Thu Hà

Đảng bộ huyện Hưng Hà (Thái Bình) lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội từ 1996 đến 2005

Luận văn ThS. Lịch sử: 60 22 56

Nghd. : PGS.TS. Phạm Xanh

1

125

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1. SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ HUYỆN HƯNG HÀ TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2000 ........... 6 1.1. Tình hình kinh tế - xã hội Hưng Hà trước năm 1996 ....................... 6 1.1.1. Vài nét về huyện Hưng Hà và Đảng bộ huyện Hưng Hà................ 6 1.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội Hưng Hà trước năm 1996 ................... 11

1.2. Sự lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội của Đảng bộ huyện Hưng Hà từ năm 1996-2000 ................................................................................ 20 1.2.1. Về phát triển kinh tế ...................................................................... 23 1.2.2. Về phát triển văn hóa - xã hội ....................................................... 36

Chương 2. SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ HUYỆN HƯNG HÀ TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TỪ NĂM 2001-2005 ............................ 46 2.1 Những chủ trương chung của Đảng bộ huyện Hưng Hà về phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001-2005 ............................................... 46 2.1.1. Kinh tế - xã hội huyện Hưng Hà trước thời cơ và thách thức mới ....... 46 2.1.2.Những chủ trương chung của Đảng bộ huyện Hưng Hà về phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001-2005 .............................................. 50

2.2. Quá trình chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội của Đảng bộ huyện Hưng Hà từ năm 2001 đến năm 2005 ...................................................... 60 2.2.1. Về xây dựng và phát triển kinh tế ................................................. 61 2.2.2. Về phát triển văn hóa - xã hội ....................................................... 72

Chương 3. NHẬN XÉT CHUNG VÀ NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHỦ YẾU ....................................................................................................... 80 3.1. nhận xét chung .................................................................................... 80 3.1.1. Những thành tựu đạt được ............................................................ 80 3.1.2. Những hạn chế, yếu kém ............................................................... 83 3.2. Những bài học kinh nghiệm chủ yếu ................................................ 86 3.2.1. Những bài học kinh nghiệm chủ yếu ............................................ 86 3.2.2. Một số vấn đề đặt ra ...................................................................... 90 KẾT LUẬN .................................................................................................... 94 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 99 PHỤ LỤC ..................................................................................................... 103

1

MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Phát triển kinh tế - xã hội là nền tảng để thực hiện công nghiệp hóa,

hiện đại hóa và cũng là đòi hỏi tất yếu khách quan đưa đất nước phát triển,

góp phần ổn định vững chắc tình hình chính trị của đất nước. Ngay từ khi mới

thành lập, Đảng ta đã coi trọng và xác định phát triển kinh tế - xã hội là một

trong những mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam.

Được tái lập từ năm 1969, cho đến nay, huyện Hưng Hà đã đạt được

nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Là nơi

dựng nghiệp của nhà Trần và là quê hương của nhà bác học Lê Quý Đôn,

Hưng Hà đã mang trong mình tố chất của một vùng quê văn hiến. Trước đây,

nền kinh tế huyện chủ yếu là phát triển nông nghiệp, sau hơn 30 năm tái lập,

dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Hưng Hà, kinh tế - xã hội Hưng Hà đã

đạt được những thành tựu vượt bậc. Từ một huyện nghèo, ít các nguồn lực tự

nhiên để phát triển, hiện nay Hưng Hà đã có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá,

đời sống của nhân dân từng bước được cải thiện. Trong quá trình phát triển,

các ngành kinh tế - xã hội của huyện đã tạo nền tảng, góp phần vào việc phát

triển kinh tế - xã hội của cả nước.

Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ Hưng Hà với việc xây dựng và

phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 1996-2005 là điều cần thiết. Hoạt động

kinh tế - xã hội của Hưng Hà giai đoạn 1996-2005 là sự phản ánh khá toàn

diện, trung thực một chặng đường lịch sử gian khổ, khó khăn, từng bước tìm

tòi trên con đường đổi mới. Chặng đường đó cũng hết sức vẻ vang với nhiều

thành tựu quan trọng mà Đảng bộ và nhân dân trong toàn huyện đã đạt được.

Nghiên cứu hoạt động kinh tế - xã hội ở Hưng Hà nhằm góp thêm những căn

cứ thực tiễn giúp lãnh đạo có thêm cơ sở để hoạch định chính sách phát triển

kinh tế - xã hội của huyện trong giai đoạn hiện nay. Việc nghiên cứu cũng

nhằm hiểu rõ những đặc điểm, thế mạnh và định hướng phát triển của Đảng

2

bộ huyện. Những kinh nghiệm trong lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội của

Đảng bộ huyện Hưng Hà sẽ mang lại nhiều điều bổ ích trong xây dựng và

phát triển kinh tế - xã hội của huyện và nhiều địa phương khác trong cả nước.

Với nhữmg lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: "Đảng bộ huyện Hưng

Hà (Thái Bình) lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội từ 1996 đến 2005" làm

luận văn thạc sĩ Lịch sử chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.

2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, bước vào thời kỳ đổi

mới, các ngành kinh tế - xã hội đã có bước phát triển mạnh mẽ. Vì vậy, việc

nghiên cứu quá trình lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực kinh tế - xã hội đã được

nhiều người quan tâm. Trên phạm vi cả nước đã có nhiều công trình của các

nhà khoa học đề cập đến vấn đề này ở những góc độ khác nhau. Vấn đề kinh

tế - xã hội Hưng Hà cũng có một số công trình nghiên cứu. Có thể chia thành

2 nhóm công trình sau:

Nhóm thứ nhất: là các công trình chung, tiêu biểu là các cuốn sách:

Việt Nam trên chặng đường đổi mới và phát triển kinh tế, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội, 2002; Đảng lãnh đạo kinh tế và đảng viên làm kinh tế; Kinh tế -

xã hội Việt Nam các tỉnh - thành phố - quận - huyện năm 2010, Nxb Thống

kê, Hà Nội v.v... Những tác phẩm này chủ yếu đề cập đến quan điểm, chủ

trương, đường lối lãnh đạo xây dựng phát triển kinh tế - xã hội của Đảng. Đây

là kho tư liệu quý mà luận văn có thể kế thừa khi giải quyết đề tài.

Nhóm thứ hai: là các công trình trực tiếp liên quan đến lãnh đạo xây

dựng phát triển kinh tế - xã hội ở Hưng Hà như: Lịch sử Đảng bộ huyện Hưng

Hà (1927-1954), (xuất bản năm 2002); Lịch sử Đảng bộ huyện Hưng Hà

(1954-2000), (xuất bản năm 2005); Hưng Hà đất ngàn năm văn hiến (Nxb

Văn hóa thông tin, 2004) và một số sách Lịch sử Đảng bộ các xã, thị trấn của

huyện Hưng Hà. Đây là những công trìng rất quan trọng, cung cấp những số

liệu, nhận định, đánh giá về thực trạng phát triển kinh tế - xã hội ở Hưng Hà.

3

Nhìn chung, các nhóm công trình nói trên là rất cần thiết đối với việc

thực hiện đề tài, tác giả có thể kế thừa được nhiều nội dung quan trọng, đặc

biệt là vấn đề tư liệu. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đề cập đến nội dung

của đề tài.

3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

- Mục đích:

Mục đích của luận văn là trình bày một cách hệ thống quá trình Đảng

bộ huyện Hưng Hà lãnh đạo xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội từ năm 1996

đến năm 2005. Thông qua đó, nêu lên những thành tựu, hạn chế và rút ra một

số kinh nghiệm trong lãnh đạo xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội của Đảng

bộ huyện Hưng Hà trong những năm 1996-2005.

- Nhiệm vụ:

Sưu tập và hệ thống hóa các tư liệu lịch sử liên quan đến vấn đề Đảng

bộ Hưng Hà lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội trong những năm 1996-2005,

trên cơ sở đó trình bày sự lãnh đạo của Đảng bộ Hưng Hà đối với vấn đề này.

Nêu lên những thành tựu, hạn chế trong lãnh đạo xây dựng, phát triển

kinh tế - xã hội của Đảng bộ Hưng Hà trong những năm 1996-2005 và rút ra một

số kinh nghiệm để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội ở Hưng Hà hiện nay.

4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

- Đối tượng nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những nhận thức, chủ trương, sự

chỉ đạo của Đảng bộ Hưng Hà trong lãnh đạo xây dựng, phát triển kinh tế - xã

hội và những thành tựu, hạn chế, kinh nghiệm trên lĩnh vực này của Đảng bộ

Hưng Hà trong những năm 1996-2005.

- Phạm vi nghiên cứu:

Về nội dung: Lĩnh vực kinh tế - xã hội là lĩnh vực rộng, bao gồm toàn

bộ nền kinh tế - xã hội của huyện. Nội dung luận văn nghiên cứu chủ trương

của Đảng bộ huyện trên toàn bộ lĩnh vực kinh tế - xã hội, nhưng tập trung đi

4

vào phân tích, làm rõ quá trình lãnh đạo của Đảng bộ Hưng Hà đối với việc

phát triển kinh tế nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; giáo dục, y tế; an ninh

quốc phòng cũng như những kết quả, kinh nghiệm trong sự lãnh đạo phát

triển của Đảng bộ huyện.

Về thời gian: Từ năm 1996 đến năm 2005.

Về không gian: nghiên cứu các lĩnh vực kinh tế - xã hội nói trên tại địa

bàn huyện Hưng Hà bao gồm các xã, thị trấn trong những năm 1996-2005.

5. CƠ SỞ LÝ LUẬN, NGUỒN TƢ LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN

CỨU

- Cơ sở lý luận:

Cơ sở lý luận của luận văn là dựa vào những quan điểm lý luận cơ bản

của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của

Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề phát triển kinh tế - xã hội.

- Nguồn tài liệu:

Quá trình thực hiện luận văn, tác giả sử dụng các nguồn tài liệu sau: các

văn kiện, nghị quyết của Đảng, Nhà nước, các văn kiện, báo cáo của Huyện

ủy Hưng Hà, ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân huyện. Ngoài ra, luận văn

còn sử dụng tài liệu của các công trình đã trình bày ở trên.

- Phương pháp nghiên cứu:

Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp logíc.

Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như: phương

pháp phân tích, so sánh kết hợp với phương pháp thống kê, phương pháp khảo

sát thực tế để đánh giá tình hình với những số liệu đã được khẳng định.

6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN

Trình bày một cách có hệ thống quá trình lãnh đạo, xây dựng, phát triển

kinh tế - xã hội từ năm 1996 đến năm 2005 của Đảng bộ huyện Hưng Hà.

Nêu lên một số kinh nghiệm của Đảng bộ Hưng Hà trong lãnh đạo xây

dựng và phát triển kinh tế - xã hội những năm 1996-2005.

5

Luận văn là nguồn tài liệu tham khảo cần thiết cho việc nghiên cứu lịch

sử Đảng bộ Hưng Hà nói riêng và lịch sử Đảng nói chung trên lĩnh vực lãnh

đạo phát triển kinh tế - xã hội.

7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,

luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Sự lãnh đạo của Đảng bộ Hưng Hà trong phát triển kinh tế -

xã hội từ năm 1996 đến năm 2000.

Chương 2: Sự lãnh đạo của Đảng bộ Hưng Hà trong phát triển kinh tế -

xã hội từ năm 2001 đến năm 2005.

Chương 3: Nhận xét chung và các kinh nghiệm chủ yếu.

6

Chương 1 SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ HUYỆN HƢNG HÀ TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TỪ NĂM 1996

ĐẾN NĂM 2000

1.1. TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI HƢNG HÀ TRƢỚC NĂM 1996

1.1.1. Vài nét về huyện Hƣng Hà và Đảng bộ huyện Hƣng Hà

* Huyện Hưng Hà

Hưng Hà là vùng đất địa linh nhân kiệt, nằm trong địa vực đồng bằng

sông Hồng mang nét độc đáo của tỉnh đồng bằng duy nhất không có đồi núi.

Đất đai Hưng Hà ngày nay là vùng sâu của biển Đông trước đây hình thành

chủ yếu qua quá trình bồi tụ phù sa của sông Hồng và sông Trà Lý, cùng với

công cuộc quai đê, lấn biển của nhiều thế hệ cư dân. Hưng Hà ngày nay vốn

là vùng đất cổ của tỉnh Thái Bình, cư dân đến sinh sống từ cách đây trên 2000

năm. Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, vùng đất Hưng Hà có lịch sử từ

2500 đến 3000 năm.

Hưng Hà là một huyện phía Bắc tỉnh Thái Bình, cách thành phố Thái

Bình khoảng 27 km. Phía Đông huyện giáp huyện Quỳnh Phụ và Đông Hưng,

phía Tây và Tây Nam giáp huyện Lý Nhân (Hà Nam), phía Nam giáp huyện

Vũ Thư, phía Bắc giáp huyện Tiên Lữ (Hưng Yên).

Trong quá trình hình thành và phát triển, vùng đất Hưng Hà đã nhiều

lần thay đổi địa giới và tổ chức hành chính. Thời Văn Lang, nhà nước có 15

bộ lạc, đất Hưng Hà khi ấy thuộc bộ lạc Lục Hải (19; tr.11). Đầu Công

nguyên Hưng Hà nằm trong vùng đất phía Nam cuối cùng của huyện Chu

Diên quận Giao Chỉ với tên gọi là "Đa Cương Hương" (3; tr.19).

Đầu thế kỷ thứ X, khi Ngô Quyền xưng Vương, Hưng Hà thuộc đất

Đằng Châu. Đến thời Tiền Lê (đời vua Lê Ngọa Triều) đã đổi đạo thành lộ,

7

phủ, châu. Hưng Hà thuộc phủ Thái Bình (tên Thái Bình có từ đây, khoảng

năm 1006-1009).

Thời Lý - Trần, đất Hưng Hà thuộc 2 phủ là Ngự Thiên (sau là huyện

Hưng Nhân) và phủ Duyên Hà (tên Duyên Hà có từ đây), thuộc lộ Long

Hưng.

Thế kỷ XV, thời Lê, theo cuốn "Dư địa chí" của Nguyễn Trãi, Hưng Hà

thuộc Nam Đạo, sau thuộc Thừa Tuyên Sơn Nam, lúc ấy gồm phủ Ngự Thiên:

51 xã, phủ Duyên Hà: 42 xã.

Đến năm Cảnh Hưng thứ hai đời vua Lê Hiển Tông (1741) đổi đạo làm

trấn, Hưng Hà thuộc trấn Sơn Nam Hạ.

Cuối thế kỷ XVIII, huyện Duyên Hà có 59 xã, Hưng Nhân có 56 xã.

Năm 1828 dưới triều Nguyễn, trấn Sơn Nam Hạ được đổi thành trấn

Nam Định. Lúc này huyện Hưng Nhân có 55 xã, huyện Duyên Hà có 50 xã,

cuối thế kỷ XIX, Hưng Hà lại thuộc tỉnh Hưng Yên.

Ngày 21-3-1890, tỉnh Thái Bình được thành lập, đến năm 1893 thì cắt

phủ Tiên Hưng (gồm 3 huyện Hưng Nhân, Duyên Hà, Thần Khê) của tỉnh

Hưng Yên về tỉnh Thái Bình.

Vào đầu thế kỷ XX, dưới chế độ cai trị của thực dân Pháp, Duyên Hà

có 74 xã; Hưng Nhân có 82 xã.

Trong Cách mạng Tháng Tám, Duyên Hà, Hưng Nhân vẫn thuộc phủ

Tiên Hưng.

Ngày 10-4-1946, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, tại kỳ

họp thứ nhất Hội đồng nhân dân tỉnh Thái Bình đã quyết định bỏ tổng, đổi

phủ là huyện. Ngày 17-6-1969, QĐ 93/CP hợp nhất và điều chỉnh địa giới

hành chính các huyện, lúc đó huyện Hưng Nhân và huyện Duyên Hà sáp nhập

lại có tên gọi là huyện Hưng Hà như ngày nay.

Sau khi được thành lập, huyện Hưng Hà có diện tích tự nhiên là 20.612

ha, dân số 250.000 người, huyện có 35 xã, thị trấn với 373 thôn làng.

8

Để có những làng mạc trù phú xen giữa những cánh đồng bằng phẳng,

phì nhiêu với một cảnh quan văn hóa tương đối giống nhau như ngày nay,

vùng đất Hưng Hà đã chịu sự tác động của bàn tay con người kiên trì, bền bỉ

từ hàng ngàn năm nay. Ban đầu là công cuộc khẩn hoang rồi qua bao đời đã

liên tiếp quật thổ, bồi cư, quai đê, lấn biển, san gò, lấp trũng biến những bãi

lầy, rừng rậm hoang vu, những gò đống cao, đầm hồ thành những nơi bằng

phẳng, phì nhiêu như ngày nay.

Tỉnh Thái Bình nói chung và Hưng Hà nói riêng không có "cư dân gốc"

như một số tỉnh của đồng bằng Bắc Bộ. Vào khoảng 600-700 năm trước Công

nguyên, các cư dân từ các vùng trung du Bắc Bộ tiến dần xuống vùng đầm lầy

và một số trong đó đã bám theo các triền sông, tụ cư trên các gò, đống, dải đất

cao. Nơi đó chính là Hưng Hà - vùng đất cao và là một trong những vùng đất

cổ xưa nhất của tỉnh Thái Bình ngày nay.

Sức hấp dẫn của vùng đất màu mỡ phù sa thuận lợi cho việc đánh bắt

cá và trồng lúa nước đã nhanh chóng cuốn hút ngày càng đông luồng cư dân

từ Phú Thọ, Bắc Giang, Sơn Tây, Thanh Hóa, Hải Dương, Nam Định... nối

tiếp nhau tìm về đây khẩn hoang, lập nghiệp, hình thành và thiết lập nên làng

xã đông đúc, đa dạng. Như vậy, cư dân Hưng Hà là sự hợp cư, quần cư của

khắp nơi tụ hội trên đất này. Để tồn tại và phát triển trong điều kiện thiên

nhiên khắc nghiệt, họ luôn phải thường trực chống chọi với bão lũ và giặc dữ.

Nhưng cũng chính từ vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên là đồng bằng sông nước

nên rất thuận tiện cho việc giao lưu kinh tế - chính trị - văn hóa. Chính môi

trường sống và quá trình ứng xử với môi trường đã tạo nên nét tính cách và

lối sống rất đặc thù, đậm nét của người dân nơi đây: đó là tính quả cảm, cần

cù, thông minh, sáng tạo, quyết đoán và nhạy cảm ứng phó với thời cuộc (cả

với thiên nhiên và xã hội).

* Đảng bộ huyện Hưng Hà

9

Phát huy truyền thống cách mạng của quê hương, bước sang thế kỷ

XX, dưới các trào lưu cách mạng, phong trào cách mạng Hưng Hà có điều

kiện phát triển. Đầu năm 1927, Chi bộ hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên

được thành lập tại trường Minh Thành thị xã Thái Bình gồm 11 người. Đầu

năm 1928, Chi bộ hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Tiên Hưng - Duyên

Hà được thành lập. Chỉ một năm sau ngày thành lập, số hội viên thanh niên đã

tăng lên 60 người ở các xã thuộc tổng Vị Sĩ, tổng An Xá (Duyên Hà), tổng

Phú Khê, tổng Cổ Quán, tổng Y Đún (Tiên Hưng) nay là các xã Chí Hòa,

Minh Khai, Bình Lăng (Hưng Hà) và Hồng Việt, Hoa Lư (Đông Hưng).

Ngày 17-6-1929, Đông Dương Cộng sản Đảng ra đời tại Hà Nội; Chi

bộ Đông Dương Cộng sản Đảng cũng được thành lập ở Thái Bình. Đầu tháng

7-1929 tại nhà đồng chí Đỗ Gia Chuẩn (thôn Nhuệ xã Chí Hòa) đã diễn ra Hội

nghị thành lập chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng Thần - Duyên (Thần Khê -

Duyên Hà). Chi bộ gồm các đồng chí: Lương Duyên Hồi, Bùi Văn Mộng, Đỗ

Gia Tuấn, Nguyễn Văn Rậng, Nguyễn Đình Liên, Nguyễn Đức Lành. Đồng

chí Lương Duyên Hồi làm Bí thư.

Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, tại 2 huyện Duyên Hà

- Thần Khê, Chi bộ Thần - Duyên có 54 đảng viên đã quyết định thành lập 6

Chi bộ. Những năm đầu mới thành lập, Đảng bộ Hưng Hà phải đi vào hoạt

động bí mật trong lòng địch, vận động quần chúng làm cách mạng. Dưới sự

lãnh đạo của Đảng, nhân dân Hưng Hà cùng với nhân dân Tiên Hưng đã tiến

hành một cuộc biểu tình vào ngày 1-5-1930. Đây là cuộc biểu tình gây tiếng

vang lớn, được coi là đỉnh cao của phong trào nông dân Thái Bình.

Trong những năm từ 1931-1935, khi phong trào cách mạng cả nước rơi

vào tình trạng thoái trào, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân Hưng Hà

vẫn tiếp tục đứng lên dưới các hình thức tổ hội, đấu tranh nửa hợp pháp, nửa

công khai. Thời kỳ 1936-1939, người dân Hưng Hà lại sôi nổi với cuộc đấu

tranh đòi dân sinh, dân chủ. Khi Mặt trận Việt Minh ra đời đã mở đầu cao trào

10

đấu tranh cách mạng mạnh mẽ. Dưới sự lãnh đạo của các Chi bộ Đảng, nhân

dân Hưng Hà một lòng đoàn kết, tập hợp trong các tổ chức cứu quốc. Khắp

nơi như Đa Phú, Nhâm Lang, Thị Độc, Duyên Phúc, Đồng Nhân (Nhân Cầu),

Đãn Tràng, Tuy Lai, Đồng Lạc đã hình thành các cơ sở của Việt Minh gồm

các lực lượng chính trị và vũ trang nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của các lực

lượng Việt Minh, nhân dân Hưng Hà đã chống lại chính sách nhổ lúa trồng đay

của Nhật, chuẩn bị sẵn sàng đứng lên đánh đuổi Pháp - Nhật khi thời cơ đến.

Từ ngày 18 đến ngày 21-8-1945, cuộc tổng khởi nghĩa giành chính

quyền ở Hưng Hà diễn ra nhanh chóng. Lực lượng vũ trang kết hợp cùng với

lực lượng chính trị từ khắp mọi nơi đã kéo về huyện lỵ cướp chính quyền.

Cách mạng Tháng Tám ở Hưng Hà thành công, từ xiềng xích nô lệ, dưới sự

lãnh đạo của Đảng, nhân dân Hưng Hà cùng với nhân dân cả nước bước vào

kỷ nguyên độc lập, tự do.

Trong khi cả nước tiếp tục bước vào cuộc chiến tranh chống thực dân

Pháp trở lại xâm lược, Thái Bình vẫn là vùng đất tự do; nhân dân Hưng Hà

tích cực đẩy mạnh công cuộc xây dựng quê hương đồng thời cũng ra sức

chuẩn bị các hoạt động kháng chiến, vừa kháng chiến kiến quốc, bước đầu

chống địch càn quét. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nhân dân

Hưng Hà đã chiến đấu quyết liệt để bảo vệ quê hương. Hàng trăm tên địch đã

phải bỏ mạng trong các trận đánh đầu tiên ở Minh Tân, Hà Xá, Độc Lập,

Hồng Minh, Hồng Lĩnh và ở các xã ven đường 39, 223, 224, phá hủy 90% cơ

sở tề ngụy của địch. Ngày 7-5-1954, quân đội ta giành chiến thắng ở Điện

Biên Phủ, quân Pháp ở Thái Bình hoang mang dao động, quân và dân Hưng

Hà tiếp tục đánh những đòn quyết định vào dinh lũy cuối cùng của quân Pháp

và tay sai ở bốt Thá, Tịnh Xuyên, Dốc Văn, Diền, giải phóng hoàn toàn quê

hương.

Sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng, Đảng bộ Hưng Hà đã lãnh đạo

nhân dân khôi phục kinh tế, hoàn thành cải cách ruộng đất và bước đầu phát

11

triển kinh tế, văn hóa - xã hội theo hướng xã hội chủ nghĩa. Trong cuộc kháng

chiến chống Mỹ cứu nước, nhân dân Hưng Hà vừa sản xuất. vừa chiến đấu,

góp phần đánh bại hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên địa bàn

huyện. Bên cạnh đó, suốt trong 20 năm kháng chiến chống Mỹ, nhân dân

Hưng Hà đã chi viện tối đa sức người, sức của cho tiền tuyến miền Nam.

Nhân dân Hưng Hà đã góp phần quan trọng vào thắng lợi to lớn của dân tộc,

đánh bại đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Bước vào thời kỳ đất nước đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện

đại hóa, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện, nhân dân Hưng Hà tiếp tục thi

đua, phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội. Thực tế quá trình lãnh đạo đấu tranh

cách mạng và xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội trong những thập kỷ qua của

Đảng bộ Hưng Hà là sự vận dụng một cách sáng tạo chủ trương, đường lối,

chiến lược và sách lược của Đảng vào thực tiễn địa phương qua từng thời kỳ

lịch sử. Tiếp tục xây dựng quê hương, đất nước, bước vào những năm đầu của

thế kỷ XXI, phát huy truyền thống yêu nước và cách mạng của quê hương,

dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ Hưng Hà đã lãnh đạo

nhân dân bước đầu thu được nhiều thành tựu to lớn trong công cuộc xây dựng,

phát triển kinh tế, quyết tâm xây dựng Hưng Hà trở thành huyện Anh hùng

trong thời kỳ đổi mới, xứng đáng với tên gọi của một vùng đất "địa linh nhân

kiệt".

1.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội Hƣng Hà trƣớc năm 1996

Mười năm quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đất nước ta đã đạt được nhiều

thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Tuy

nhiên, nền kinh tế, các lĩnh vực xã hội lâm vào khủng hoảng sâu sắc. Nền

kinh tế mất cân đối nhiều mặt, cơ chế quản lý cũ chưa xoá bỏ hết, cơ chế quản

lý mới đang hình thành, nhưng chưa đồng bộ; trong khi đó, các thế lực đế

12

quốc tăng cường bao vây cấm vận, thực hiện âm mưu "diễn biến hoà bình"

làm cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta càng thêm khó khăn.

Trước diễn biến phức tạp của tình hình, Đảng ta ngay từ đầu đã khẳng

định "Đổi mới tư duy không có nghĩa là phủ nhận những thành tựu lý luận đã

đạt được, phủ nhận những quy luật phổ biến của sự nghiệp xây dựng chủ

nghĩa xã hội, phủ nhận đường lối đúng đắn đã được xác định, trái lại, chính là

sự bổ sung và phát triển những thành tựu ấy" (9; tr.125.) Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986) thành công đặt cơ sở để khắc phục

khủng hoảng kinh tế - xã hội. Ngay từ đầu, Đảng ta đã kết hợp chặt chẽ đổi

mới chính trị với đổi mới kinh tế, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm: chuyển

từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội

chủ nghĩa với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Đồng thời, Đại hội đã

nêu ra phương hướng, mục tiêu chủ yếu để phát triển kinh tế - xã hội trong 5

năm (1986-1990). Sau 5 năm thực hiện đường lối đổi mới trong lĩnh vực phát

triển kinh tế, đất nước ta đã thu được những thành tựu bước đầu hết sức quan

trọng, góp phần từng bước đưa nước ta thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế

trầm trọng; ổn định thị trường trong nước, từng bước hướng ra xuất khẩu.

Nhằm bổ sung, hoàn thiện và phát triển đường lối đổi mới kinh tế được vạch ra

từ Đại hội VI, trong hoàn cảnh mới, Đảng ta đã thông qua "Cương lĩnh xây

dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội" và "Chiến lược ổn

định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000" trong Đại hội lần thứ VII (6-

1991) của Đảng.

Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Nghị

quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII, Đảng bộ huyện Hưng Hà lãnh đạo

nhân dân bước vào công cuộc đổi mới với tinh thần quyết tâm cao, nền kinh

tế - xã hội huyện Hưng Hà đã có những bước chuyển biến mạnh mẽ, bước đầu

thu được những kết quả quan trọng.

Về kinh tế

13

Kinh tế phát triển tương đối toàn diện, có tốc độ tăng trưởng khá, nhiều

mặt tiếp tục đạt đỉnh cao mới, cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh theo hướng

sản xuất hàng hoá. Tổng sản phẩm GDP (theo giá so sánh năm 1989) bình

quân hàng năm (1991-1995) đạt 111 tỷ 231 triệu, tăng 43,5% so với 5 năm

1986-1990. Tỷ trọng hàng hoá 65,9%; nhịp độ tăng GDP hàng năm là

11,92%, gấp 2 lần so với nhịp độ tăng bình quân 5 năm 1986-1990. Năm

1995, tổng sản phẩm GDP đạt 140 tỷ 691 triệu, tăng 58% so với năm 1990.

Giá trị sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ trọng 50,03%; công nghiệp, tiểu thủ

công nghiệp, xây dựng là 30%; dịch vụ 19,97%. Đây là thắng lợi nổi bật nhất,

vượt chỉ tiêu Đại hội đề ra cả về khối lượng và giá trị, nhịp độ phát triển và

chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Nền nông nghiệp phát triển toàn diện ở thế ổn định; sản xuất lương

thực, thực phẩm tăng nhanh; các chỉ tiêu diện tích, năng suất, sản lượng đều

đạt và vượt mục tiêu. Tổng diện tích gieo trồng bình quân 35.151 ha/năm; hệ

số sử dụng ruộng đất là 2,81 lần. Năng suất lúa bình quân 120 tạ/ha. Vụ đông

trở thành vụ sản xuất chính, từng bước đi vào thâm canh nhằm tăng nhanh

khối lượng và giá trị sản phẩm. Sản xuất lương thực đã đáp ứng nhu cầu cần

thiết cho đời sống của nhân dân và phục vụ phát triển chăn nuôi. Kinh tế VAC

có sự chuyển biến mang tính đột phá. Đây được xem như cuộc cách mạng,

một mũi nhọn có ý nghĩa quyết định đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế.

Chăn nuôi phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng, tạo ra khối lượng

hàng hoá lớn, đạt tỷ trọng 27% trong tổng giá trị nông nghiệp, bình quân thực

phẩm 41kg/người. Tổng đàn lợn bình quân 62.365 con, sản lượng thịt hơi

4500 tấn/năm (trong đó đàn lợn nái chiếm 9%), bước đầu nuôi thí nghiệm

giống lợn tỷ lệ nạc cao. Đàn trâu, bò 14.500 con (tăng 2.500 con so với năm

1990), đáp ứng đủ nhu cầu sức kéo và 30% làm thực phẩm.

Nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển, Đảng bộ huyện Hưng Hà luôn coi

trọng công tác quản lý kinh tế nông nghiệp, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả Nghị

14

quyết Trung ương 5 (khoá VII), từng bước hoàn thiện cơ chế quản lý. Việc

giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho hộ đảm bảo đúng luật, được nông dân

dân chủ bàn bạc, yên tâm phấn khởi tập trung đầu tư phát triển sản xuất. Chức

năng của hợp tác xã được xác định rõ, bổ sung phù hợp với cơ chế mới.

Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp giữ vững nhịp độ phát triển,

từng bước thích ứng với cơ chế thị trường. Mục tiêu tăng hộ nghề, giảm hộ

thuần nông đã được thực hiện tích cực. Các ngành nghề truyền thống được

khôi phục, mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng. Sau khi thực hiện Nghị

quyết 30 của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, tốc độ phát triển ngành nghề

tăng rõ rệt. Hình thức liên doanh, liên kết trong sản xuất hàng tiêu dùng, hàng

xuất khẩu bước đầu mang lại hiệu quả. Chủ trương chuyển sản xuất tiểu thủ

công nghiệp về hộ theo hướng đa dạng hoá các loại hình, các ngành nghề

được thực hiện triệt để hơn đã tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát

triển. Mô hình làng nghề, xã nghề đã hình thành rõ và đang được nhân lên.

Giá trị sản lượng toàn ngành bình quân 34 tỷ 212 triệu (năm 1989). Nhịp độ tăng bình quân hàng năm là 31%1. Số hộ sản xuất tiểu thủ công nghiệp, có

việc làm ổn định, thường xuyên chiếm 40%. Thắng lợi của sản xuất công

nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đã góp phần quan trọng giải quyết việc làm cho

người lao động, tạo ra khối lượng sản phẩm hàng hoá lớn, tăng thu nhập kinh

tế hộ, nhanh chóng giảm số hộ nghèo, tăng hộ giàu, từng bước phá thế thuần

nông, phân công lại lao động, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn.

Thương mại dịch vụ phát triển nhanh, đa dạng hoá các loại hình, các

thành phần, đáp ứng mọi nhu cầu sản xuất và đời sống của nhân dân. Giá trị

lưu thông hàng hoá trên thị trường tăng nhanh, đạt 200 tỷ đồng năm 1995.

Các doanh nghiệp Nhà nước được sắp xếp lại, hoạt động có hiệu quả. Việc

1 Riêng năm 1995 đạt 65,22 tỷ, gấp 3 lần năm 1990.

xây dựng thị trấn, thị tứ, chợ nông thôn, các tụ điểm kinh tế vùng đã làm cho

15

thị trường tại chỗ, giao lưu hàng hoá trong và ngoài huyện được mở rộng, góp

phần thúc đẩy sản xuất phát triển.

Văn hoá - xã hội

Cùng với kinh tế, lĩnh vực văn hoá - xã hội đã có những chuyển biến

tích cực, khắc phục được tình trạng yếu kém, đời sống của nhân dân được cải

thiện rõ. Những nhu cầu cơ bản về ăn, mặc, đi lại, học tập, chữa bệnh được

đáp ứng ngày một tốt hơn; quyền dân chủ của công dân được thực hiện và

đảm bảo; bộ mặt nông thôn mới được hình thành, đời sống nhân dân được cải

thiện và dần vào ổn định. Những chủ trương, giải pháp xoá đói, giảm nghèo

đã được triển khai thực hiện tích cực, đồng bộ đem lại hiệu quả thiết thực. Tỷ

lệ hộ khá, giàu chiếm 55%; số hộ trung bình chiếm 42%, hộ nghèo còn 3%.

Sự nghiệp giáo dục đã khắc phục được tình trạng yếu kém, tạo ra sự

chuyển biến đồng bộ trên tất cả các ngành học. Phổ cập giáo dục tiểu học

được giữ vững, chất lượng dạy và học cả diện đại trà và mũi nhọn có chuyển

biến tiến bộ. Tỷ lệ học sinh đến trường ngày càng tăng, học sinh bỏ học giảm

đáng kể. Giáo dục hướng nghiệp dạy nghề đã được quan tâm, một số trường đã

phối hợp với trung tâm dạy nghề tổ chức dạy nghề, hướng nghiệp cho học sinh.

Năng lực quản lý, điều hành, ý thức trách nhiệm, trình độ chuyên môn, nghiệp

vụ của đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên các ngành học có chuyển biến tích

cực. Điều kiện, phương tiện giảng dạy, học tập đã được đáp ứng tốt hơn.

Sự nghiệp y tế có bước tiến rõ, các hoạt động đã tập trung cho nhiệm vụ

bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Chất lượng khám, chữa bệnh có tiến bộ.

Tổ chức bộ máy đã được củng cố, kiện toàn. Công tác quản lý ngành, trình độ

chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, thầy thuốc được nâng lên. Cơ sở

vật chất, trang thiết bị được tăng cường đáng kể. Riêng trạm xá xã, thị trấn có

90% đủ 4 phòng kỹ thuật đảm bảo tiêu chuẩn của ngành.

Công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình được tập trung chỉ đạo thường

xuyên. Ý thức tự giác và trình độ xã hội hoá được tăng cường. Tỷ lệ sinh

16

giảm từ 2,3% (năm 1990) xuống 1,56% (năm 1995); số người sinh con thứ 3

trở lên giảm dần từ 21% (năm 1990) xuống dưới 12,5% năm 1995.

Văn hoá - thể thao có bước tiến mới, các hoạt động luôn gắn liền với

nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng đời sống văn hoá cơ sở. Chủ

trương xây dựng làng văn hoá, trọng tâm là xây dựng quy ước thôn, xóm và

gia đình văn hoá, tôn tạo di tích lịch sử, cách mạng được quan tâm đẩy mạnh.

Việc xây dựng thiết chế văn hoá, đẩy mạnh hoạt động văn nghệ, thể dục thể

thao đã được thực hiện tích cực, đem lại hiệu quả thiết thực trên nhiều mặt,

góp phần giữ vững ổn định chính trị từ cơ sở, đấu tranh ngăn ngừa hủ tục, tai

tệ nạn xã hội. Bộ máy tổ chức đã được củng cố, kiện toàn, chất lượng hoạt

động, vai trò quản lý Nhà nước của ngành đã được tăng cường.

Việc thực hiện cơ chế mở, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế

phát triển, nhất là chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo tinh thần Nghị

quyết 29, Nghị quyết 30 của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã tạo ra nhiều

việc làm tại chỗ, được quần chúng nhân dân tích cực hưởng ứng; vấn đề việc

làm đã được giải quyết cho lực lượng lao động trong toàn huyện, tạo tiền đề

cho sự phân công lao động tại chỗ, chuyển một phần lao động nông nghiệp

sang ngành nghề, dịch vụ. Công tác chuyển dân đi xây dựng các vùng kinh tế

mới có nhiều cố gắng về chế độ, chính sách và tìm kiếm địa bàn. Trong 5 năm

(1991-1995) đã chuyển được 490 hộ với 2.237 khẩu, 1.500 lao động. Đồng

thời với phát triển kinh tế, Đảng bộ huyện đã quan tâm đúng mức đến chính

sách xã hội: có cơ chế, chính sách ưu tiên và xã hội hoá việc thực hiện chính

sách xã hội đối với các đối tượng. Phong trào tặng sổ tích kiệm, xây nhà tình

nghĩa, phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, xây dựng nghĩa trang liệt

sỹ... được các cấp, các ngành, các đoàn thể và nhân dân nhiệt tình hưởng ứng,

tạo điều kiện thuận lợi để các đối tượng chính sách có việc làm; hoạt động của

các tổ thương binh, hoạt động nhân đạo, từ thiện... đã góp phần giảm bớt khó

khăn, nâng cao đời sống cho các gia đình chính sách.

17

Các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh được tăng cường, góp phần quan

trọng giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Trong quá trình chỉ

đạo, Đảng bộ luôn quán triệt 2 nhiệm vụ chiến lược; gắn phát triển kinh tế -

xã hội, xây dựng cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng với củng cố, xây dựng an

ninh quốc phòng từ cơ sở. Việc đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đầu tư

xây dựng kết cấu hạ tầng những năm qua đã phục vụ trực tiếp cho nhiệm vụ

phát triển kinh tế, đồng thời đáp ứng yêu cầu của an ninh quốc phòng. Thắng

lợi của kinh tế và kết quả xây dựng kết cấu hạ tầng đã tạo ra nền tảng hậu

phương vững chắc. Giao thông vận tải, thông tin liên lạc phục vụ đắc lực cho

nhiệm vụ an ninh quốc phòng trong tình hình mới. Đảng bộ huyện đã thường

xuyên củng cố, xây dựng, tăng cường quản lý và tổ chức hoạt động của các

lực lượng, xây dựng phương án phòng thủ, chống diễn biến hoà bình, tổ chức

diễn tập... hoàn thành tốt nhiệm vụ quân sự địa phương, an ninh chính trị

được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, số vụ việc việc giảm,

không có điểm nóng.

Hệ thống chính trị được kiện toàn và tiếp tục đổi mới nội dung, phương

thức hoạt động, nâng cao năng lực và hiệu quả lãnh đạo. Trong 5 năm (1991-

1995), Đảng bộ huyện đã tập trung cao cho nhiệm vụ xây dựng hệ thống

chính trị; gắn công tác xây dựng đảng, chính quyền, đoàn thể vững mạnh với

yêu cầu phát triển toàn diện kinh tế - xã hội. Công tác xây dựng Đảng đã tập

trung thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ đổi mới, chỉnh đốn đảng theo tinh thần

Nghị quyết Trung ương 3 (khoá VII); tạo được bước chuyển cơ bản; giữ vững

định hướng chính trị, đảm bảo sự đoàn kết nhất trí trong Đảng, lòng tin của

quần chúng đối với Đảng được củng cố; năng lực lãnh đạo toàn diện của các

tổ chức đảng được nâng lên, nhất là lãnh đạo phát triển kinh tế, chuyển dịch

cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, phát huy được sức mạnh của các

tầng lớp nhân dân. Kết quả của công tác xây dựng đảng đã nâng cao năng lực

lãnh đạo, sức chiến đấu của các cơ sở đảng và đội ngũ cán bộ đảng viên. Số

18

đảng viên sai phạm, trình độ giác ngộ thấp giảm; số đảng viên có năng lực

ngày càng tăng; đời sống gia đình đảng viên được nâng lên, đã cơ bản xoá

nghèo trong hộ đảng viên. Không còn cơ sở đảng yếu kém, số cơ sở đảng

vững mạnh tăng lên, lòng tin của quần chúng đối với đảng ngày càng vững

chắc.

Những tồn tại, hạn chế

Bên cạnh những thành tựu đạt được, trong phát triển kinh tế - xã hội

huyện Hưng Hà vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế.

Kinh tế tuy đạt được tốc độ tăng trưởng khá, song chuyển dịch cơ cấu

kinh tế còn chậm và chưa đều; nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao, công

nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ chiếm tỷ trọng thấp; tiềm năng còn lớn

nhưng khai thác hiệu quả chưa cao.

Sản xuất nông nghiệp đạt kết quả tốt nhưng tỷ trọng chăn nuôi trong cơ

cấu kinh tế nông nghiệp còn thấp; chăn nuôi chủ yếu vẫn theo tập quán cũ,

chưa tạo dựng được mô hình, giá trị, hiệu quả còn thấp. Tiềm năng kinh tế

vườn - ao còn lớn nhưng chưa được khai thác triệt để. Tiếp thu cây, con giống

mới và quy trình công nghệ mới ở một số địa phương còn chậm. Vai trò quản

lý kinh tế, điều hành sản xuất ở một số hợp tác xã thiếu năng động, trách

nhiệm chưa cao; việc quản lý, sử dụng vốn, quỹ thanh toán công nợ đặt ra

những vấn đề bức xúc cần giải quyết.

Sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp so với tiềm năng và yêu

cầu mới còn chậm và chưa đều; ngành nghề truyền thống chưa được nhân

nhanh, du nhập nghề mới chậm; phát triển ngành nghề ở các xã nội đồng còn

nhiều khó khăn, lúng túng; tỷ lệ hộ thuần nông còn cao; trang thiết bị nhỏ bé,

lạc hậu, năng suất, chất lượng, hiệu quả còn thấp. Sản xuất đã chuyển mạnh

về hộ, nhưng vai trò tổ chức, điều hành của xã, hợp tác xã chưa rõ; quản lý

hoạt động sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nhất là

doanh nghiệp tư nhân chưa chặt chẽ.

19

Dịch vụ thương nghiệp quốc doanh phát triển chậm và còn non yếu, do

vậy việc lưu thông hàng hoá, tiêu thụ sản phẩm trên thị trường phần lớn do tư

thương chiếm lĩnh. Yêu cầu vốn cho phát triển kinh tế - xã hội đang đặt ra rất

lớn song chưa đáp ứng được. Nguồn vốn huy động tại chỗ còn thấp, việc đầu tư

cho vay để phát triển kinh tế hộ tuy đã có cố gắng nhưng còn nhiều hạn chế.

Sự chuyển biến trên lĩnh vực xã hội chưa ngang với phát triển kinh tế

trong huyện; hoạt động có mặt tiến bộ nhưng chưa vững chắc.

Chất lượng giáo dục còn thấp so với một số huyện trong tỉnh; tiêu

chuẩn hoá giáo viên thực hiện chậm, chất lượng mũi nhọn có chuyển biến tích

cực nhưng chưa vững chắc. Ngành giáo dục đào tạo chưa tạo được điển hình

nổi trội, cơ sở vật chất còn nhiều khó khăn.

Chất lượng khám chữa bệnh chưa cao, số cán bộ thầy thuốc trình độ

chuyên môn chưa nhiều; cơ sở vật chất, trang thiết bị còn thiếu thốn, chất

lượng kém, tỷ lệ sinh tuy đã giảm nhưng chưa thật ổn định.

Đời sống văn hoá cơ sở, nếp sống văn hoá nông thôn có nhiều chuyển

biến nhưng không đều, hủ tục còn nặng nề. Một số địa phương chưa quan tâm

lãnh đạo xây dựng đời sống văn hoá.

Công tác quân sự địa phương đổi mới chậm, ý thức chấp hành luật

pháp của một bộ phận nhân dân còn thấp; tai tệ nạn xã hội tiếp tục tăng.

Hệ thống chính trị được đổi mới một bước, nhưng năng lực lãnh đạo, tổ

chức thực hiện còn bộc lộ hạn chế, một số mặt hoạt động hiệu quả thấp. Sự

lãnh đạo trong quản lý kinh tế - xã hội; quản lý hoạt động của cơ sở, quản lý

cán bộ đảng viên còn biểu hiện chủ quan, buông lỏng, chỉ đạo chưa thường

xuyên, có mặt còn lúng túng trước sự vận động của cơ chế thị trường. Ở một

số cơ sở, nguyên tắc tập trung dân chủ chưa được đề cao. Quản lý chính

quyền cơ sở còn yếu, hiệu lực điều hành chưa cao. Hoạt động còn mang tính

hành chính, sự vụ, chưa chú ý đến chất lượng, hiệu quả. Mặt trận và các đoàn

thể đã đổi mới nội dung, phương thức hoạt động nhưng còn chậm; tổ chức cơ

sở chưa đảm bảo nền nếp sinh hoạt, nội dung hoạt động còn đơn điệu, trên

20

lĩnh vực kinh tế còn lúng túng; chưa tạo dựng được nhiều mô hình có tính

thuyết phục để giáo dục, hướng dẫn, vận động quần chúng thực hiện.

Những tồn tại, hạn chế nêu trên là những thách thức không nhỏ đặt ra

buộc Đảng bộ và nhân dân huyện Hưng Hà phải có những chủ trương, quyết

sách đúng đắn mới có thể đưa kinh tế - xã hội của huyện phát triển với tiềm

năng tương xứng vốn có. Là một huyện có truyền thống đấu tranh anh dũng,

người dân cần cù lao động là điều kiện quan trọng để Hưng Hà xây dựng và

phát triển kinh tế - xã hội.

1.2. SỰ LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA ĐẢNG BỘ

HUYỆN HƢNG HÀ TỪ NĂM 1996-2000

Sau 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta đã thu được

những thành tựu cơ bản trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Ngày 28-6-

1996, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng tiến hành tại Thủ đô

Hà Nội. Báo cáo chính trị của Đại hội đã đánh giá 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VII và 10 năm đổi mới với những thành tựu cơ bản1.

Đại hội VIII đã khẳng định: "Công cuộc đổi mới trong 10 năm qua đã thu

được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Nhiệm vụ do Đại hội

VII đề ra cho 5 năm 1991-1995 đã được hoàn thành về cơ bản. Nước ta ra

khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng một số mặt còn chưa vững chắc.

Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị

tiền đề cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành cho phép chuyển sang thời

kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước". (7; tr.67-68).

Sau Đại hội VIII, tình hình thế giới diễn biến phức tạp, tác động không

1 Từ 1991 đến 1995, nhịp độ tăng bình quân (GDP) đạt 8,2%; sản xuất công nghiệp là 13,5%, sản xuất nông nghiệp là 4,5%, kim ngạch xuất khẩu 20%. Cơ cấu kinh tế có bước chuyển đổi: tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP từ 22,6% năm 1990 lên 29,1% năm 1995, dịch vụ từ 38,6% lên 41,9%. Vốn đầu tư cơ bản toàn xã hội trong GDP từ 15,8% (1990) lên 27,4% (1995). Lạm phát từ 67,1% (1991) giảm xuống còn 12,7% (1995).

thuận đến việc thực hiện các chỉ tiêu kinh tế, xã hội mà Đảng ta đã xác định.

21

Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở châu Á làm cho nhiều nước trong khu

vực gặp khó khăn sâu sắc.

Thi hành Chỉ thị số 51-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa

VII) về tổ chức Đại hội Đảng bộ các cấp. Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Bình lần

thứ XV họp từ ngày 25-4-1996 đến ngày 28-4-1996. Đại hội đã quán triệt sâu

sắc nội dung, tinh thần các Nghị quyết Trung ương; đồng thời kiểm điểm,

đánh giá việc thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XIV. Đại hội đã

nhất trí với phương hướng, nhiệm vụ chung của Đảng bộ từ nay đến năm

2000 là giữ vững ổn định chính trị, tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới; tập

trung cao độ mọi nguồn lực, tranh thủ thời cơ, vượt qua khó khăn thử thách,

khai thác có hiệu quả tiềm năng, đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh

tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Bước vào thời kỳ mới, trên bình diện chung, Hưng Hà vẫn còn nhiều

khó khăn. Kinh tế nông thôn chủ yếu vẫn còn độc canh cây lúa. Ngành nghề

tiểu thủ công nghiệp chưa được đầu tư thích đáng, hiệu quả chưa cao, cơ sở

hạ tầng chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Song dưới sự

lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân trong huyện quyết tâm phấn đấu tạo đà cho

kinh tế - xã hội của huyện phát triển. Không những thế, thành tựu đạt được

trong công cuộc đổi mới của Đảng đã củng cố thêm niềm tin trong quần

chúng nhân dân, tạo thành sức mạnh mới, đưa phong trào của huyện đi lên.

Tháng 3-1996, Đảng bộ huyện Hưng Hà tiến hành Đại hội đại biểu lần

thứ XI tại Hội trường Ủy ban nhân dân huyện. Với tinh thần "đoàn kết, dân chủ,

đổi mới, trí tuệ", Đại hội đã thảo luận và thông qua Báo cáo chính trị của Ban

Chấp hành Đảng bộ khóa X, đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội X;

xác định phương hướng, mục tiêu và các giải pháp để phát triển kinh tế - xã hội,

củng cố an ninh, quốc phòng, xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể trong

giai đoạn 1996-2000. Đảng bộ xác định nhiệm vụ trọng tâm của Đảng bộ và

nhân dân huyện trong 5 năm tới là: Nâng cao ý thức tự lực vươn lên, khai thác

22

mọi nguồn lực và tiềm năng, phát triển toàn diện và đồng bộ nền kinh tế - xã hội

ở đỉnh cao mới, đáp ứng yêu cầu mới theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, chuyển hẳn nền kinh tế sang sản xuất

hàng hóa, tập trung hoàn thiện và nâng cấp cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng phục

vụ cho sản xuất và đời sống; giải quyết tốt những vấn đề bức xúc về xã hội; giữ

ổn định an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, tập trung xây dựng cơ sở

vững mạnh; cải thiện và nâng cao chất lượng đời sống dân sinh, dân trí gắn với

xây dựng nông thôn mới, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn sau

năm 2000. Về mục tiêu cụ thể đến năm 2000, Đại hội đã đề ra mức tăng GDP

bình quân hàng năm tăng 13%; cơ cấu kinh tế ngành đến năm 2000 đạt tỷ lệ 4-6

(trong đó: nông nghiệp 40%; tiểu thủ công nghiệp 35%; dịch vụ 25%); tỷ suất

hàng hóa chiếm 70% trở lên trong tổng sản phẩm xã hội; GDP bình quân theo

đầu người đạt 410 USD; phấn đấu đến năm 2000 giảm hộ thuần nông còn 20%;

bảo đảm đủ việc làm thường xuyên cho lao động trong độ tuổi; cơ bản xóa hộ nghèo; tỷ lệ sinh không quá 1,6%1.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 37 đồng chí. Ban Thường vụ

gồm 11 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Văn Thặng được bầu giữ chức vụ Bí thư Huyện ủy, Phó Bí thư là các đồng chí Đỗ Gia Bột và Vũ Minh Thập2.

Giữ trọng trách lãnh đạo nhân dân Hưng Hà trong một giai đoạn lịch sử

đặc biệt - giai đoạn kết thúc kế hoạch 5 năm cuối cùng của thập kỷ 90, chuẩn

bị những tiền đề quan trọng tạo đà bước sang thế kỷ XXI, Đảng bộ nhận thức

được những nhiệm vụ nặng nề đang đặt ra trước mắt. Để thực hiện thắng lợi

mọi nhiệm vụ mà Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng bộ Hưng Hà đề ra

đòi hỏi Đảng bộ không những phát huy cao độ truyền thống cách mạng của

1 Huyện ủy Hưng Hà: Báo cáo chính trị Đại hội Đảng bộ huyện Hưng Hà khóa XI, tr.10. 2 Trong nhiệm kỳ này đồng chí Nguyễn Văn Thặng chuyển về tỉnh công tác, đồng chí Đỗ Gia Bột lên giữ chức Bí thư Huyện ủy, đồng chí Lê Vạn giữ chức Phó bí thư và có bốn đồng chí được bầu bổ sung cấp ủy. Sau đó đồng chí Đỗ Gia Bột chuyển về tỉnh công tác, đồng chí Bùi Phú Hảo lên giữ chức Bí thư Huyện ủy.

quê hương, xiết chặt tình đoàn kết nhất trí nội bộ mà còn phải khơi dậy được

23

tiềm năng trí tuệ của cả hệ thống chính trị, của toàn dân, phát huy sức mạnh

tổng thể, với những chủ trương, biện pháp và cách làm phù hợp, sáng tạo.

1.2.1. Về phát triển kinh tế

Bắt tay vào thực hiện nhiệm vụ với trọng tâm là phát triển kinh tế,

Đảng bộ huyện Hưng Hà xác định để tạo ra bước chuyển mạnh mẽ cơ cấu

kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá như Nghị quyết Đại hội XI

đề ra cần phải có chiến lược phát triển đồng bộ và mang tính bền vững, lâu

dài. Từ quan điểm đó, Huyện uỷ đã chỉ đạo Uỷ ban nhân dân huyện, các Ban,

Phòng nghiên cứu cụ thể tình hình, đặc điểm và thực trạng kinh tế của huyện,

từ đó xây dựng những đề án phát triển kinh tế trong giai đoạn 1996-2000, đề

án chuyển đổi hợp tác xã nông nghiệp...

Chiếm tỷ trọng hơn 70% trong toàn bộ nền kinh tế, nông nghiệp tiếp

tục được xác định là mặt trận hàng đầu. Thực hiện phát triển kinh tế nông

nghiệp không những giải quyết được vấn đề nông dân - nông nghiệp - nông

thôn mà còn có ý nghĩa cực kỳ quan trọng thúc đẩy công nghiệp, tiểu thủ

công nghiệp, thương mại... phát triển. Vấn đề đặt ra là với những kết quả đã

có, nhất là về thuỷ lợi, điện khí hoá, khi trình độ thâm canh của nông dân đã

được nâng lên nhiều so với trước, khi cơ chế thị trường và nền kinh tế hàng

hoá nhiều thành phần đã được thiết lập thì phải có những biện pháp, cách làm

mới để tiếp tục tạo đà phát triển và tạo ra bước đột phá trong nông nghiệp,

vừa kế thừa những thành tựu đã tạo dựng, vừa phù hợp với quan điểm công

nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn của Đảng. Từ nhận thức

này, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện tại Đại hội đại biểu

lần thứ XI đã đề xuất phương hướng, giải pháp cụ thể. Đối với trồng trọt, tập

trung đẩy mạnh thâm canh, mở rộng diện tích; đổi mới phương thức luân

canh, chen canh, gối vụ, tăng vụ. Tiếp tục đổi mới cơ cấu giống cây trồng và

con vật nuôi; đổi mới quy trình, nhất là công nghệ sinh học. Tiếp thu và ứng

24

dụng mạnh mẽ các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất; đưa nhanh cơ khí

nhỏ vào các khâu: làm đất, thu hoạch, vận chuyển, bảo vệ thực vật nhằm tăng

năng suất lao động, bảo đảm đạt đỉnh cao về năng suất và khối lượng, tạo ra

sản phẩm có chất lượng tốt để làm hàng hoá và đủ tiêu chuẩn xuất khẩu. Tiếp

tục tiến hành triệt để cuộc cách mạng loại bỏ cây tạp, cây hiệu quả kinh tế

thấp, phát động phong trào cải tạo vườn ao sâu rộng trong nhân dân. 100%

diện tích ao, hồ, đầm phải được cải tạo, đi vào thâm canh chăn nuôi cá và con

đặc sản. Tích cực xây dựng hộ vườn, làng vườn, xã vườn, làng hoa cây cảnh...

Về chăn nuôi, để tăng nhanh số lượng và nâng cao chất lượng đàn gia súc

phải đặc biệt chú trọng các chương trình "sin hoá" đàn bò, tăng nhanh sản

lượng thịt và làm nền để phát triển đàn bò sữa. Mở rộng thâm canh chăn nuôi

cá, nhất là các giống cá lai. Nâng nhanh số lượng và chất lượng đàn gia cầm,

đảm bảo mỗi năm có 3000 tấn thịt cho nhu cầu tiêu dùng tại chỗ và làm hàng

hoá.

Về Đề án chuyển đổi hợp tác xã nông nghiệp, được nhận thức đây là

vấn đề hệ trọng, tác động sâu sắc đến phát triển nông nghiệp, nông thôn, nên

Ban Thường vụ Huyện uỷ chủ trương sắp xếp, kiện toàn, củng cố hợp tác xã

theo mô hình mới, không xoá bỏ hợp tác xã trong sản xuất nông nghiệp. Ban

nghiên cứu Đề án đã khảo sát nghiêm túc tình hình các hợp tác xã trong toàn

huyện và đề xuất các phương án chuyển đổi, trong đó trọng tâm là kiện toàn,

xây dựng lại các hợp tác xã còn vốn quỹ, Ban quản trị vẫn duy trì chức năng

điều hành quản lý hoạt động, giải thể các hợp tác xã làm ăn không có hiệu quả

để giải phóng sức sản xuất, tạo sức bật cho kinh tế hợp tác đi lên, đồng thời

khẩn trương thành lập hợp tác xã mới để đảm bảo các khâu dịch vụ phục vụ

sản xuất nông nghiệp. Trước hết tập trung đổi mới hợp tác xã nông nghiệp

theo hướng kế thừa và nâng cao, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh

doanh, xóa bỏ quản lý điều hành theo kiểu hành chính quan liêu bao cấp; thực

hiện hình thức đa sở hữu, cổ phần hóa, đa dạng hóa các loại hình trên cơ sở

25

tuân thủ nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi, quản lý dân chủ, không áp đặt

hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh.

Tiến hành đổi mới về tổ chức bộ máy quản lý, xác định rõ chức năng,

bổ sung thêm nhiệm vụ, mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết với các

thành phần kinh tế, các doanh nghiệp Nhà nước, tập thể, tư nhân và hộ gia

đình xã viên, bảo đảm sự thống nhất về lợi ích và quyền làm chủ của mọi

thành viên trong quá trình sản xuất, dịch vụ kinh doanh và phân phối. Đồng

thời tích cực đổi mới về tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động của hợp

tác xã và các xí nghiệp tiểu thủ công nghiệp theo yêu cầu mới.

Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn

giai đoạn 1996-2000, sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trong toàn

bộ nền kinh tế của huyện chiếm một vị trí hết sức quan trọng. Nghị quyết Đại

hội Đảng bộ huyện lần thứ XI đã nhấn mạnh: "... Công nghiệp, tiểu thủ công

nghiệp là mũi nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của huyện" (2;

tr.376). Huyện đã tiến hành khuyến khích các thành phần kinh tế tập trung

đẩy mạnh sản xuất, phát triển theo hướng đa dạng, phong phú, tinh xảo, tăng

nhanh giá trị. Đối với tiểu thủ công nghiệp, hướng phát triển là tăng nhanh số

hộ có nghề gắn với xây dựng làng nghề, xã nghề và xây dựng nông thôn mới

theo phương châm "rời ruộng không rời làng", xây dựng huyện thành một

trong những khu công nghiệp của tỉnh, chủ yếu là công nghiệp chế biến nông

sản thực phẩm, dệt, may mặc, giày da... trong những năm tới tiếp tục mở rộng

và nâng cao chất lượng những ngành nghề hiện có, nhất là những nghề: dệt

chiếu, lụa và đũi tơ tằm, dệt khăn, đồ mộc cao cấp, cơ khí, mây tre đan, chế

biến lương thực, sản xuất giầy và may xuất khẩu... Đồng thời khuyến khích

phát triển các ngành nghề mới, trong đó ưu tiên hàng đầu cho công nghiệp cơ

khí phục vụ sản xuất nông nghiệp, chế biến thức ăn gia súc để mở rộng chăn

nuôi bằng thức ăn công nghiệp và bán công nghiệp, chế biến hoa quả và nước

giải khát từ hoa quả (long nhãn, vải thiều), khai thác nguồn nước khoáng

26

Duyên Hải... Phát động các cấp, các ngành, các cơ sở, doanh nghiệp, các hộ

gia đình tích cực tìm nghề, dạy, học và truyền nghề để phát triển đa dạng. Ưu

tiên và tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở sản xuất, các hộ gia đình, các

doanh nghiệp mua sắm, đổi mới trang thiết bị, đưa công nghệ tiên tiến vào sản

xuất để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, có khả năng cạnh tranh để

ổn định và phát triển sản xuất. Có cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển

ngành nghề; nhanh chóng thực hiện cải cách các thủ tục hành chính, tạo môi

trường pháp lý và kinh tế cho các doanh nghiệp mở mang, phát triển.

Để đẩy mạnh phát triển kinh tế thương mại - dịch vụ, đáp ứng tốt yêu

cầu sản xuất và nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, góp phần thúc đẩy kinh tế -

xã hội phát triển, Đảng bộ huyện chỉ đạo tiếp tục mở rộng màng lưới giao

thông dịch vụ theo hướng đa dạng hóa các loại hình, gắn lưu thông dịch vụ

với sản xuất, chế biến và xây dựng kết cấu hạ tầng, bảo đảm vừa phát triển

sản xuất, vừa mở rộng thị trường nhằm đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu

kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Phấn đấu đưa tỷ suất hàng

hóa chiếm 70% trở lên trong tổng sản phẩm xã hội, bảo đảm giá trị lưu thông

dịch vụ đạt tỷ trọng 25% trong tổng giá trị sản lượng nông - công - nghiệp -

dịch vụ. Đồng thời tích cực tìm kiếm, khai thác và mở rộng thị trường, nhất là

thị trường tiêu thụ nông sản, thực phẩm để thúc đẩy sản xuất phát triển. Thị

trường được xác định theo 3 hướng chính:

- Mở rộng thị trường tại chỗ bằng cách đẩy mạnh phát triển sản xuất,

tăng mức thu nhâp để tăng sức mua của 25 vạn dân trong huyện, thông qua đó

tạo thêm nguồn thu cho ngân sách.

- Mở rộng liên doanh, liên kết với huyện ngoài, tỉnh ngoài, trước hết

tập trung khai thác thị trường một số thành phố và khu công nghiệp lớn như:

Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh... Tích cực tìm đối tác liên doanh, liên kết

với bên ngoài để xuất khẩu nông sản hàng hóa. Phấn đấu đến năm 2000 đạt

giá trị xuất khẩu 31 triệu USD, bình quân đầu người đạt 125 USD/năm.

27

Những sản phẩm xuất khẩu chủ yếu gồm: lương thực 20.000 tấn, thịt lợn

3000 tấn, đay tơ 1000 tấn, đậu tương 1000 tấn, long nhãn, vải thiều 500 tấn.

- Xuất khẩu nấm, khăn các loại, lụa tơ tằm, đồ gỗ cao cấp, mây tre đan,

những vật nuôi đặc sản.

Trước hết, Đảng bộ huyện lãnh đạo tập trung xây dựng thị trấn, thị tứ,

chợ nông thôn thành các trung tâm, tụ điểm kinh tế gắn với phát triển các loại

dịch vụ chế biến, thu mua, lưu thông, tiêu thụ sản phẩm, nhằm tạo cầu nối

giữa sản xuất - chế biến và lưu thông, từng bước làm thay đổi phân công lao

động nông thôn, tạo động lực quan trọng cho quá trình chuyển dịch cơ cấu

kinh tế và đô thị hóa nông thôn. Từng bước quy hoạch và xây dựng đền Tiên

La, từ đường Lê Quý Đôn và một vài di tích lịch sử thành điểm tham quan du

lịch; tiếp tục cải tạo, nâng cấp đường giao thông, bến bãi và nâng cao năng

lực, chất lượng các loại phương tiện vận tải để đẩy nhanh tốc độ lưu thông

hàng hóa nhanh chóng, thuận tiện. Ngành Tài chính, tín dụng tập trung thực

hiện đúng Luật ngân sách trong công tác thu - chi, đặc biệt chú trọng xây

dựng ngân sách xã, phấn đấu đến năm 2000 tất cả các xã tự cân đối ngân sách,

coi đây là điều kiện tiên quyết của quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện

đại hóa nông thôn. Củng cố đội ngũ cán bộ thuế cấp xã, thị trấn để giúp chính

quyền thu đúng, thu đủ thuế theo pháp luật. Mở rộng hơn nữa tín dụng ngắn

hạn, trung hạn, cải tiến các thủ tục cho vay, tạo điều kiện cho hộ, đặc biệt là

các hộ nghèo được vay vốn sản xuất. Chỉ đạo chặt chẽ hoạt động của các quỹ

tín dụng nhân dân mới thành lập; đến năm 1997 tất cả các xã, thị trấn đều có

quỹ tín dụng nhân dân để huy động nguồn vốn tại chỗ còn rất lớn trong nhân

dân. Phấn đấu đến năm 2000 mỗi quỹ tín dụng có 1 tỷ vốn hoạt động...

Việc tổ chức nghiên cứu, xây dựng và thực hiện đồng bộ các đề án là

một nét mới trong lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện của cấp ủy, chính

quyền huyện. Cách làm này cho phép nhìn nhận và giải quyết vấn đề một

cách khoa học, hệ thống hơn, góp phần hình thành chiến lược kinh tế tổng

28

quát của huyện. Trên cơ sở kế thừa và phát triển các chương trình, kế hoạch

trước đó, các đề án là những công trình mang tính khoa học và thực tiễn cao,

vạch ra được chiến lược phát triển của Hưng Hà. Từng đề án có ý nghĩa như

một bản quy hoạch vừa tổng thể, vừa chi tiết, góp phần định hướng cho các

ngành kinh tế phát triển.

Dựa trên phương hướng phát triển của các đề án, xuyên suốt trong

những năm từ 1996-2000, kinh tế - xã hội huyện đã có những bước tiến mạnh

mẽ, vững chắc, trong đó nổi bật là quá trình từng bước công nghiệp hóa, hiện

đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Trên mặt trận nông nghiệp, thuận lợi lớn là

trồng trọt và chăn nuôi đang trên đà phát triển. Nhưng vấn đề đặt ra là kết quả

sản xuất còn chênh lệch giữa các vùng, giữa các hợp tác xã; năng suất lúa khá

cao nhưng đã bắt đầu xuất hiện tư tưởng thỏa mãn với kết quả sản xuất... Để

sản xuất nông nghiệp có bước tiến nhanh và vững chắc, Huyện ủy đã chỉ đạo

đẩy mạnh việc chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật nông nghiệp kết hợp với trang

bị quy trình thâm canh cây trồng đến các hộ xã viên; đẩy mạnh cuộc cách

mạng về cơ cấu giống, cơ cấu mùa vụ đồng thời đưa nhanh những tiến bộ

khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp.

Trong sản xuất thâm canh lúa, mặc dù thời tiết có nhiều diễn biến phức

tạp, song huyện và các cơ sở đã tập trung chỉ đạo, thận trọng trong việc xác

định lịch thời vụ, thường xuyên bổ khuyết và bình tĩnh xử lý có hiệu quả

những yếu tố bất thuận bảo đảm cây lúa sinh trưởng, phát triển tốt. Đối với

vùng trọng điểm lúa, trong điều kiện cây lúa đã đạt năng suất cao, để đẩy

nhanh sự tăng trưởng thì không chỉ thực hiện các biện pháp thâm canh truyền

thống, đơn thuần mà phải kết hợp nhiều biện pháp đồng bộ, trong đó có ý

nghĩa then chốt là ứng dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào thâm canh.

Trước hết, cơ cấu lại bộ giống thích hợp vào các điều kiện canh tác, chất đất

từng xã, từng hợp tác xã, từng chân ruộng. Theo phương châm "đất nào, cây

ấy", đảm bảo hiệu quả kinh tế cao trên từng hécta ruộng. Từng hợp tác xã

29

nhanh chóng đem những giống có tiềm lực, năng suất cao, chống chịu sâu

bệnh tốt, chất lượng gạo ngon như: 13/2, 8865, giống lai và giống lúa lai

Trung Quốc vào canh tác trên đồng ruộng. Đặc điểm nổi bật của giống lúa lai

Trung Quốc là trên tất cả các chân ruộng, các loại đất dù tốt hay thấp trũng,

lầy thụt đều có ưu thế hơn hẳn các giống lúa thuần là chịu sâu bệnh, chịu rét

tốt, khả năng thích ứng rộng, cho năng suất cao. Tuy nhiên, diện tích gieo cấy

lúa lai Trung Quốc chưa nhiều. Trước tình hình đó, Huyện ủy đã chỉ đạo

nhiều cuộc họp bàn tìm nguyên nhân, điều tra các báo cáo... Ngoài các

nguyên nhân khách quan như dịch rầy nâu gây hại, lũ lụt trong vụ cấy lúa lai

diện rộng đầu tiên đã ảnh hưởng đến tư tưởng người nông dân; do thời vụ cấy

lúa lai thường vào tiết lập xuân, đúng dịp tết cổ truyền, khi quan niệm "tháng

giêng là tháng ăn chơi" nên người nông dân chưa hăng hái bắt tay vào lao

động sản xuất... Bên cạnh đó, huyện đã xác định nguyên nhân chủ quan là do

tư tưởng bảo thủ, ngại khó: người nông dân e ngại thóc giống nhập ngoại giá

cao hơn so với giống thuần..., từ đó để mở rộng diện tích lúa lai thì trước tiên

phải làm công tác tư tưỏng cho người nông dân, tuyên truyền, vận động, tập

huấn kỹ cho xã viên về lịch thời vụ, về kỹ thuật chăm bón và phun thuốc

phòng bệnh nên phong trào trồng lúa lai được mở rộng trong toàn huyện. Kết

quả là năng suất lúa tăng nhanh theo từng năm. Năm 1997, năng suất lúa đạt

114,97 tạ/ha (vụ xuân: 66,22 tạ/ha; vụ mùa 48,7 tạ/ha), cao hơn năng suất lúa

bình quân chung của tỉnh là 5,64 tạ/ha; đến năm 1998 đạt 116,85 tạ/ha (vụ

xuân 60,78 tạ/ha; vụ mùa 56,07 tạ/ha).

Bên cạnh giống lúa lai, trong sản xuất nông nghiệp, việc chuyển dịch

cơ cấu cây trồng, phương thức luân canh vùng bãi, vùng nội đồng đã có nhiều

tiến bộ. Nhiều xã đã mạnh dạn đưa giống cây có giá trị kinh tế cao, cây xuất

khẩu vào sản xuất. Cây kê đã được nhiều xã gieo trồng ở những vùng bãi cao,

đạt hiệu quả hơn những cây trồng khác; năm 1997, năng suất kê đạt 42,5

tạ/ha; giá trị sản lượng gấp 1,4 lần so với trồng lúa; tổng diện tích gieo trồng

30

cả năm của toàn huyện là 36.064 ha đạt 99,67% kế hoạch; tổng sản lượng

lương thực quy thóc là 158.053 tấn, bằng 97,28% so với năm 1996. Bình quân

lương thực đầu người là 640kg; bình quân giá trị sản phẩm thu hoạch trên 1

ha canh tác là 29,1 triệu, có một bộ phận diện tích đạt 32-35 triệu đồng. Tiềm

năng mở rộng diện tích trồng kê trên địa bàn toàn huyện còn rất lớn, song thị

trường và giá cả chưa thật ổn định. Việc bố trí cây trồng và phương thức luân

canh gối vụ ở những xã vùng bãi ven sông có nhiều tiến bộ, từng bước khắc

phục dần những khó khăn ảnh hưởng đến kết quả sản xuất khi đến mùa lũ

bão, nâng cao hiệu quả kinh tế. Phong trào cải tạo vườn tạp, ao hoang, trồng

cây ăn quả, trồng hoa, cây cảnh, nuôi cá tiếp tục phát triển. Các hàng cây lâu

năm ven các trục đường bờ sông, đất quốc gia công thổ được chăm sóc, bảo

vệ phát triển tốt.

Trong chỉ đạo phát triển chăn nuôi, Huyện ủy xác định hướng đi chủ

yếu là tăng cường đầu tư để tăng nhanh tổng đàn và chất lượng đàn, đặc biệt

đàn trâu, bò và lợn. Khi nông nghiệp chưa được cơ giới hóa thì chăn nuôi chủ

yếu nhằm đảm bảo sức kéo và phân bón, sau đó là nhu cầu tiêu dùng; khi

nông nghiệp, nông thôn đang được hiện đại hóa mạnh mẽ, các biện pháp thâm

canh đang dần thay thế phương pháp canh tác cũ thì chăn nuôi phải phát triển

theo hướng kinh tế hàng hóa, nghĩa là chuyển dần sang cung cấp thịt cho nhu

cầu tiêu dùng và công nghiệp chế biến thực phẩm... Theo hướng đó, huyện

tiến hành cải tạo đàn bò địa phương theo hướng sin hóa, tạo ra giống bò có

tầm vóc và trọng lượng cao hơn bò địa phương. Đàn trâu, bò 15.106 con/năm;

tăng 1.233 con so với bình quân 5 năm trước; riêng đàn bò có 14.513 con,

trong đó có 48,5% bò lai sin. Đối với đàn lợn, tiến hành chọn lọc và cải tạo

đàn nái theo hướng "nạc hóa". Nhiều hộ gia đình đã dùng thức ăn công nghiệp

chăn nuôi đạt hiệu quả kinh tế khá. Tổng đàn lợn bình quân 74,241 con/năm;

tăng 18,2% so với bình quân 5 năm trước (trong đó lợn nái chiếm 21,8% tổng

đàn). Sản lượng thịt hơi bình quân tăng 36,2% so với 5 năm trước. Huyện chỉ

31

đạo ngành nông nghiệp nghiên cứu đề xuất các đề án chăn nuôi, áp dụng tiến

bộ khoa học công nghệ vào sản xuất thức ăn công nghiệp... bước đầu tạo ra

điều kiện tốt để hình thành trang trại chăn nuôi quy mô nhỏ. Tổng đàn gia

cầm bình quân 918.045 con/năm, tăng 74,1% so với bình quân 5 năm trước;

nhiều hộ gia đình đầu tư nuôi gà công nghiệp, vịt siêu trứng, ngan Pháp...

Huyện đã tổ chức việc tiêm phòng, quản lý đàn gia súc, gia cầm hạn chế dịch

bệnh. 70% diện tích ao, hồ, đầm đã được cải tạo nuôi cá cho thu nhập khá, sản

lượng đạt 2.700 tấn/năm; tăng 7,82% so với năm 1995. Diện tích đất của tập

thể và 80% vườn của hộ gia đình đã được cải tạo trồng các loại cây ăn quả,

cây cảnh, cây có giá trị kinh tế cao...(2; tr.375).

Một trong những vấn đề có tầm quan trọng quyết định đến phát triển

sản xuất nông nghiệp là đổi mới công tác quản lý, trong đó cốt lõi là chuyển

đổi các hợp tác xã nông nghiệp. Trải qua nhiều bước chuyển của cách mạng,

các hợp tác xã đã nhiều lần được tiến hành chuyển đổi cho phù hợp với thực

tiễn sản xuất của nông nghiệp, nông thôn qua các chủ trương lớn như Chỉ thị

100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Nghị quyết 10 Bộ Chính trị (khóa VI),

Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VII) về đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội

nông thôn... Khi sản xuất nông nghiệp có những bước tiến mạnh mẽ theo

hướng kinh tế hàng hóa , cơ chế quản lý có sự thay đổi, hộ gia đình đã thực sự

trở thành đơn vị kinh tế tự chủ, phát huy động lực sản xuất, chủ trương giao

đất ổn định lâu dài cho người nông dân đã được thực hiện rộng rãi,... thì mô

hình hợp tác xã tổng hợp đang tồn tại phổ biến trên địa bàn huyện không còn

phù hợp, đòi hỏi Đảng bộ và chính quyền Hưng Hà phải nghiên cứu tìm

hướng chuyển cho phù hợp. Thực hiện Nghị quyết NQ/HU ngày 6-8-1996 về

đổi mới tổ chức quản lý hợp tác xã nông nghiệp, huyện đã chỉ đạo thực hiện

chuyển đổi từng bước với từng loại hình hợp tác xã, chỉ đạo các hợp tác xã rà

xét lại vốn quỹ, tiến hành phân loại hợp tác xã, xác định rõ và bổ sung thêm

chức năng nhiệm vụ và hình thức tổ chức dịch vụ phục vụ sản xuất kinh

32

doanh... Đến năm 1997 đã có 32/35 hợp tác xã tổ chức được đại hội xã viên,

hoạt động quản lý vốn quỹ sản xuất kinh doanh bước đầu có kết quả. Công tác

quản lý ruộng đất đã có nhiều cố gắng, đã có 32 xã triển khai việc cấp giấy

chứng nhận quyền sử dụng đất lâu dài cho nông dân (triển khai trong 43.278

hộ, đạt gần 70% số hộ). Việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đến

năm 2010 đã cơ bản hoàn thành. Trước vấn đề lớn, hệ trọng và nhạy cảm là

chuyển đổi hợp tác xã, tinh thần chung của Đảng bộ và nhân dân Hưng Hà là

cố gắng duy trì mô hình hợp tác xã xuất phát từ nhận thức đúng đắn tác dụng

nhất định và tích cực của nó đối với kinh tế nông nghiệp và đời sống xã hội

của nông thôn, cho dù có những thời điểm, hoạt động của hợp tác xã gần như

ngưng trệ. Sau khi chuyển đổi, các hợp tác xã đã xây dựng được phương án

sản xuất, kinh doanh, bảo tồn và phát triển được nguồn vốn tập thể. Ban quản

trị hợp tác xã được tổ chức lại theo hướng tinh gọn, thực hiện đúng chức năng

quản lý, giám sát hoạt động. Các khâu dịch vụ nông nghiệp do hợp tác xã điều

hành như điện, thủy lợi, giống cây trồng, bảo vệ thực vật... đã có sự chuyển

biến tích cực. Điều quan trọng hơn, các hợp tác xã đã bước đầu tổ chức được

mô hình sản xuất kinh doanh trên cơ sở áp dụng những tiến bộ khoa học - kỹ

thuật và chuyển dịch cơ cấu mùa vụ, cây trồng, vật nuôi, đem lại hiệu quả kinh

tế cao, mở ra hướng phát triển lâu dài cho hợp tác xã, bảo đảm thu nhập cho xã

viên.

Sau 2 năm thực hiện Nghị quyết 02 của Huyện ủy về đổi mới tổ chức

quản lý hợp tác xã nông nghiệp, nhìn chung các hợp tác xã vẫn duy trì được

hoạt động. Tuy nhiên, hiệu lực điều hành của Hội đồng quản trị, Ban quản lý

hợp tác xã kém hiệu quả, tình trạng nợ sản phẩm ở một số hợp tác xã có xu

hướng tăng lên, không có khả năng hoàn thành thu nộp thủy lợi phí, vốn quỹ

hợp tác xã. Nguyên nhân cơ bản là do phương thức hoạt động kinh doanh dịch

vụ của nhiều hợp tác xã chậm đổi mới, những bất cập trong quản lý, điều hành

chưa được chỉ đạo giải quyết, một bộ phận cán bộ năng lực yếu, thiếu trách

nhiệm, ngại va chạm.

33

Kinh tế nông nghiệp phát triển toàn diện cả về trồng trọt và chăn nuôi,

cả năng suất, sản lượng và giá trị kinh tế, góp phần thúc đẩy các ngành kinh tế

khác có bước phát triển tích cực. Với phương hướng chính là chuyển từ nền

sản xuất chủ yếu là thủ công, từng bước lên cơ khí, mở rộng ngành nghề, tạo

việc làm, giải phóng sức lao động, nâng cao đời sống, xây dựng nông thôn

mới. Từ các ngành nghề truyền thống đã có, huyện tiếp tục củng cố các cơ sở

sản xuất, thành lập các hợp tác xã với quy mô phù hợp, áp dụng tiến bộ khoa

học - kỹ thuật vào sản xuất để không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm,

đáp ứng nhu cầu thị trường. Các loại hình mới xuất hiện như doanh nghiệp tư

nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn được khuyến khích và tạo điều kiện hoạt

động đi liền với công tác quản lý. Việc phát triển công nghiệp, tiểu thủ công

nghiệp đã giải quyết được nhiều việc làm, tạo ra khối lượng sản phẩm hàng

hóa lớn, tăng thu nhập kinh tế hộ gia đình, từng bước phá thế thuần nông, tạo

động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Một số nghề và làng

nghề truyền thống được khôi phục, mở rộng sản xuất hàng thủ công, chế biến

nông sản, sản xuất vật liệu xây dựng, mộc, nề, cơ khí, mây tre đan.... Nhiều hộ,

nhóm hộ liên doanh, liên kết, tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Nghề dệt

vải, dệt khăn xuất khẩu, dệt chiếu, mộc cao cấp phát triển khá, giá trị hàng hóa

lớn. Một số chủ doanh nghiệp đã ký được các hợp đồng kinh tế với nước ngoài

và mở rộng vệ tih sản xuất ra nhiều xã trong huyện. Tổng giá trị sản xuất toàn

ngành đạt 288,8 tỷ đồng/năm, tăng 51,5% so với bình quân 5 năm trước; chiếm

25,15% tổng giá trị sản xuất, tăng 4,19% so với nhiệm kỳ trước; số hộ sản xuất

tiểu thủ công nghiệp có việc làm ổn định chiếm 40%, góp phần tích cực vào

phân công lao động ở nông thôn và thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.

Các hoạt động thương mại - dịch vụ phát triển nhanh, hàng hóa đa dạng

phong phú, tổ chức dịch vụ thuận lợi đến từng thôn xóm, đáp ứng kịp thời và tương

đối đầy đủ các nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân. Tổng giá trị thương mại

dịch vụ đạt 210 tỷ đồng/năm, tăng 25% so với bình quân 5 năm trước.

34

Trong hoạt động tài chính - ngân hàng: Tổng thu ngân sách nhà nước

bình quân đạt 15 tỷ 118 triệu đồng, tăng 18% so với bình quân 5 năm trước;

trong đó các chỉ tiêu thu từ nội bộ nền kinh tế đạt 12,7 tỷ đồng, bằng 98% kế

hoạch, tăng 9,5% so với bình quân 5 năm trước; dành 21,51% đầu tư xây

dựng kết cấu hạ tầng, phát triển kinh tế. Huyện đã xây dựng kế hoạch định

mức chi cho các xã, thị trấn, các đơn vị dự toán; thường xuyên kiểm tra đôn

đốc việc thu chi theo luật ngân sách, đảm bảo tiết kiệm; việc giao nộp thuế,

quỹ cho nhà nước có nhiều tiến bộ. Việc đổi mới hình thức, phương pháp

quản lý huy động và cho vay vốn của ngân hàng và quỹ tín dụng nhân dân có

nhiều tiến bộ. Doanh số cho vay năm sau luôn cao hơn năm trước; số dư

nguồn vốn năm 1999 là 64 tỷ 500 triệu đồng (tăng 18 tỷ 225 triệu đồng so với

năm 1996).

Qua quá trình thực hiện đồng bộ và hiệu quả các đề án, tình hình kinh

tế tiếp tục có sự chuyển biến vững chắc theo hướng đa dạng hóa. Trong sản

xuất nông nghiệp, các tiến bộ khoa học - kỹ thuật được ứng dụng rộng rãi,

góp phần tạo ra sự chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu cây trồng, vật nuôi, mùa vụ.

Nhiều mô hình mới ra đời và phổ biến như lúa lai, ngô lai, cây vụ đông. Mùa

vụ đã được chuyển đổi tránh sự bất lợi của thời tiết, kinh nghiệm thâm canh

của người nông dân ngày càng được nâng cao. Sản lượng thóc cả năm đạt

145.710 tấn (tăng 14,74% so với năm 1998); diện tích lúa cả năm đạt

21775,18 ha, tăng 24,96 ha; năng suất lúa đạt 133,99 tạ/ha (vụ xuân 68,44

tạ/ha; vụ mùa 65,55 tạ/ha); là huyện dẫn đầu về năng suất lúa trong toàn tỉnh

và là năm có năng suất lúa thực thu cao nhất từ trước tới nay. Toàn huyện có

4 xã: Duyên Hải, Minh Hòa, Chí Hòa, Văn Cẩm năng suất lúa cả năm đạt trên

14 tấn/ha, xã Duyên Hải là xã có năng suất lúa cao nhất, đạt 146,93 tạ/ha.

Chăn nuôi có bước tiến vượt bậc với các chương trình sin hóa đàn bò, nạc hóa

đàn lợn, các mô hình kinh tế mới được phổ biến... Kinh tế tiểu thủ công

nghiệp phát triển tích cực, từng bước thể hiện là một thế mạnh kinh tế của

35

huyện. Giá trị sản xuất tiểu thủ công nghiệp năm 1996 của toàn huyện là 311

tỷ 667 triệu đồng, bằng 117,74% so với năm 1995 (trong đó giá trị sản phẩm

của khu vực tư doanh, tập thể chiếm 99%). Cùng với kinh tế quốc doanh và

kinh tế hợp tác được củng cố, có bước chuyển biến phù hợp với cơ chế mới,

kinh tế tư nhân cũng phát triển mạnh, đặc biệt là mô hình kinh tế hộ gia đình

ngày càng phổ biến và làm ăn có hiệu quả, góp phần nâng cao đời sống của

nhân dân, ổn định xã hội.

Kinh tế phát triển, nguồn thu ngân sách tăng là điều kiện quan trọng để

đẩy mạnh công tác xây dựng cơ bản. Trong công tác xây dựng cơ bản đã tập

trung xây dựng một số công trình trọng điểm, thiết thực phục vụ phát triển

kinh tế và đời sống dân sinh. Công tác quản lý, các cơ chế chính sách trong

xây dựng cơ bản được triển khai, thực hiện nghiêm túc; chất lượng các công

trình được coi trọng. Thực hiện phương châm "Nhà nước, tập thể và nhân dân

cùng làm", đã huy động được 46 tỷ 604 triệu đồng xây dựng các công trình

của nhà nước và tập thể. Hoàn thành rải đá láng nhựa 70,3 km đường trục

huyện; rải đá, láng nhựa, đổ bê tông hoặc vật liệu cứng 142 km đường trục xã;

517 km đường liên thôn, liên xóm. Hệ thống thủy lợi được quan tâm đầu tư,

tu bổ, nâng cao hiệu quả tưới tiêu. Đã cải tạo 33/81 trạm bơm; xây dựng kiên

cố 7 km kênh cấp I; tu sửa bờ vùng, trục dẫn nước, nạo vét kênh mương với khối lượng bình quân 200.000 m3 đất/năm, bảo đảm nhu cầu tưới tiêu cho cả

3 vụ sản xuất chính trong năm. Năm 2000 đã triển khai thực hiện kiên cố hóa

kênh mương ở các cụm xã với số vốn 3,5 tỷ đồng; thường xuyên tu bổ, sửa

chữa, xây dựng hệ thống đê, kè cống với tổng kinh phí 6 tỷ 680 triệu đồng và

hàng chục vạn ngày công, gấp 2,5 lần so với 5 năm trước. Công tác phòng

chống bão lũ được tổ chức thực hiện nghiêm túc, đạt kết quả tốt. Các cấp, các

ngành đã quan tâm tập trung chỉ đạo, chủ động triển khai sớm nhiệm vụ

phòng chống bão úng. Các hạng mục công trình đê, kè, cống được xây dựng,

tu bổ, sửa chữa hoàn thành trước mùa mưa bão. Ban chỉ huy phòng chống bão

36

lũ huyện và các xã đã chủ động triển khai tổ chức công tác bảo đảm an toàn

đê, kè, cống; phát hiện và xử lý kịp thời các sự cố xảy ra giữ an toàn tài sản,

hoa màu của nhân dân. Công tác chống úng được tổ chức chỉ đạo cụ thể sát

sao không để xảy ra ngập úng nặng, bảo vệ an toàn diện tích lúa.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong những năm 1996-2000, việc

quản lý, kiểm tra, giám sát các hoạt động kinh tế của cấp ủy, chính quyền có

lúc, có nơi bị buông lỏng, tình trạng vi phạm nghiêm trọng các quy định về

cấp đất, quản lý kinh tế tài chính, quản lý xây dựng cơ bản, thu và sử dụng

các loại quỹ, phạt vi phạm hành chính... đã để xảy ra tình trạng phức tạp ở

một số xã. Nền kinh tế tuy tăng trưởng khá và tương đối toàn diện, nhưng một

số chỉ tiêu chưa đạt so với mục tiêu Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XI đề ra

trên một số mặt như: nhịp độ tăng trưởng kinh tế, cơ cấu kinh tế ngành, năng

suất lúa, tổng sản lượng lương thực... Sản xuất lương thực chưa chuyển mạnh

sang sản xuất hàng hóa; sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng

cơ bản sang năm 1999-2000 chững lại, có mặt giảm sút đáng kể; thương mại,

dịch vụ khu vực quốc doanh và tập thể do thiếu vốn, năng lực kinh doanh hạn

chế nên năng lực tiêu thụ hàng hóa gặp nhiều khó khăn; các chương trình kinh

tế đề ra nhưng tổ chức thực hiện còn kém, một số chương trình chưa phù hợp

với thực tế... Đây sẽ là những thách thức không nhỏ đòi hỏi Đảng bộ huyện

phải tập trung chỉ đạo nhằm đẩy mạnh hơn nữa hoạt động của lĩnh vực kinh tế

trong những năm tiếp theo.

1.2.2. Về phát triển văn hóa - xã hội

Quán triệt tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng

và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Ban Thường vụ

huyện ủy chủ trương chỉ đạo xây dựng và phát triển văn hóa, gắn với cuộc

vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa. Việc thực hiện Nghị

quyết Trung ương 5 (khóa VIII) đã tạo ra luồng không khí mới trong đời sống

37

văn hóa, khơi dậy mạnh mẽ những giá trị truyền thống văn hóa và cách mạng

của Đảng bộ và nhân dân Hưng Hà trong công cuộc đổi mới. Hệ thống chính

trị từ huyện đến xã đã quan tâm đồng thời việc xây dựng đạo đức, lối sống

văn hóa, nâng cao dân trí và đời sống tinh thần của nhân dân; gắn phát triển

kinh tế với văn hóa, đổi mới tập quán, tư duy phát triển kinh tế; bảo tồn và

phát huy các giá trị tốt đẹp. Các hoạt động văn hóa, xã hội phát triển mạnh

mẽ, với nhiều hình thức hoạt động phong phú, lành mạnh trong nhân dân, góp

phần động viên các tầng lớp nhân dân hăng hái thi đua lao động, sản xuất, ổn

định tư tưởng, tạo nên khí thế đoàn kết, nhất trí, phát huy bản sắc văn hóa dân

tộc. Nổi bật là các hoạt động thể thao như bóng đá, bóng chuyền, cầu lông...

phát triển rầm rộ. Các hoạt động văn hóa thông tin, thể dục thể thao, phát

thanh đã bám sát nhiệm vụ chính trị, chú trọng nâng cao chất lượng tin, bài về

chủ trương, chính sách pháp luật, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh

quốc phòng. Đặc biệt là công tác tuyên truyền và tổ chức các hoạt động kỷ

niệm những ngày lễ lớn trong năm, tổ chức đại hội Đảng bộ cơ sở, Đảng bộ

huyện. Công tác quản lý nhà nước về văn hóa thông tin được tăng cường.

Đảng bộ huyện đã tổ chức triển khai thực hiện Quyết định 1086 của UBND

tỉnh về việc thành lập và củng cố nhà văn hóa xã, thị trấn. Việc xây dựng làng

văn hóa, gia đình văn hóa, xây dựng nếp sống và đời sống văn hóa ở cơ sở

tiếp tục được đẩy mạnh và có chuyển biến tích cực. Đến năm 2000 đã có

116/218 làng trong huyện xây dựng được Quy ước. Các Quy ước này đều đã

được thảo luận, xây dựng gắn với việc triển khai thực hiện quy chế dân chủ ở

cơ sở. Toàn huyện đã có 222 câu lạc bộ văn hóa, 18/34 nhà văn hóa xã được

củng cố để đi vào hoạt động. Các xã Đoan Hùng, Tiến Đức đã tổ chức tu sửa

di tích đền Tiên La; khởi công xây dựng khu di tích nhà Trần đúng kế hoạch

của tỉnh. Tuy nhiên, trong lĩnh vực văn hóa, việc thực hiện xây dựng làng văn

hóa còn chậm; thực hiện quyết định 212 của UBND tỉnh kết quả còn hạn chế,

tình trạng ăn uống linh đình trong đám ma, đám cưới còn nhiều; việc xây mộ

38

không đúng quy định, xây với quy mô lớn, tốn kém nhiều tiền của có chiều

hướng tái diễn mạnh.

Phát triển giáo dục được Đảng bộ và nhân dân Hưng Hà xác định là nội

dung trọng tâm của xây dựng nền văn hóa mới, đồng thời tạo nên động lực

phát triển mạnh mẽ, bền vững và toàn diện cả về chính trị, kinh tế - xã hội của

quê hương. Từ năm 1996-2000 huyện đầu tư vốn xây dựng 12 trường học và

trường trung học phổ thông bán công; tu sửa, nâng cấp các phòng học, sân

trường, công trình nước sạch, đầu tư mua sắm trang thiết bị thí nghiệm với số

vốn 16,7 tỷ đồng. Năm 2000, sự nghiệp giáo dục - đào tạo của huyện có

chuyển biến khá trên cả 3 mặt: mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng, phát

huy hiệu quả. Toàn huyện đã có 120 cơ sở giáo dục với trên 60.000 học sinh;

tỷ lệ học sinh tới trường so với dân số độ tuổi tăng, số học sinh bỏ học giảm.

Huyện đã đạt phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi ở cả 34/34 xã, thị trấn;

đã có 32/34 xã, thị trấn đạt tiêu chuẩn phổ cập THCS (còn 2 xã Bình Lăng và

Kim Trung chưa đạt). Năm 1999-2000, chất lượng học sinh giỏi được giữ

vững, số học sinh giỏi tăng (toàn huyện đã có 801 học sinh giỏi cấp tỉnh;

trong đó tiểu học có 565 học sinh, trung học cơ sở có 117 học sinh, trung học

phổ thông và giáo dục thường xuyên có 119 học sinh). Toàn huyện có 527

học sinh đỗ đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp; trong đó có 242 học

sinh đỗ đại học. Tuy vậy, tỷ lệ đỗ tốt nghiệp ở các cấp trong năm học 1999-

2000 đều có sự giảm sút (đặc biệt tốt nghiệp bổ túc THPT giảm 9,25%, tốt

nghiệp THPT giảm 5,6%); chất lượng học sinh giỏi chưa vững chắc, chưa có

điển hình tiên tiến nổi trội; đặc biệt số học sinh THCS bỏ học vẫn còn nhiều

(chiếm 2%); cơ sở vật chất trường, lớp còn quá yếu.

Sự nghiệp y tế - dân số kế hoạch hóa gia đình được quan tâm chỉ đạo.

Đảng bộ huyện chủ trương tiếp tục củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động

của Trung tâm y tê huyện; tăng cường đầu tư, tích cực sự hỗ trợ của cấp trên

và viện trợ của nước ngoài để xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị tiên tiến

39

cho các bệnh viện, phòng khám khu vực và các trạm xá xã, đáp ứng yêu cầu

nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân. Đồng thời nhanh chóng

nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn, đề cao tinh thần "Lương y như từ

mẫu" của đội ngũ thầy thuốc; phấn đấu đến năm 2000 mỗi xã có 1-2 bác sỹ đa

khoa. Đảng bộ xác định công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình phải hướng

vào mục tiêu: mỗi gia đình chỉ có 1 đến 2 con. Đến năm 2000, tỷ lệ sinh

không quá 1,6%; giảm đến mức thấp nhất số người sinh con thứ 3 nhằm tạo

yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện, công tác y tế đã đáp ứng được

nhu cầu của nhân dân. Công tác vệ sinh phòng dịch được quan tâm chỉ đạo từ

huyện tới cơ sở, kịp thời dập tắt không để xảy ra dịch bệnh nguy hiểm. Các

chương trình y tế và dự án được tổ chức thực hiện đạt kết quả cao. Ban chỉ

đạo vệ sinh môi trường từ huyện tới cơ sở được thành lập, hoạt động bước

đầu thu được kết quả tích cực. Công tác khám và chữa bệnh nội trú ở bệnh

viện và Trạm y tế xã, thị trấn được nâng cao chất lượng; công tác cấp cứu ở

cả 2 tuyến xã và các bệnh viện làm khá tốt; tinh thần trách nhiệm, phong cách

y đức cán bộ y tế có sự chuyển biến tích cực. Hàng năm đã tổ chức triển khai

thực hiện nghiêm túc đề án về "Nâng cao chất lượng y tế cơ sở". Trong năm

2000 đã tăng cường thêm 18 bác sỹ về công tác ở trạm xá xã, thị trấn đưa tỷ lệ

xã, thị trấn có bác sỹ là 100%. Trung bình mỗi năm khám từ 220 đến 250

ngàn lượt người, điều trị nội trú cho 9 ngàn lượt người bệnh.

Công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình đạt kết quả tốt, các biện pháp

tuyên truyền vận động và chuyên môn kỹ thuật được thực hiện đồng bộ. Tỷ lệ

sinh giảm từ 1,56% năm 1995 xuống 1,49% năm 1999; tỷ lệ sinh con thứ 3

trở lên giảm từ 12,44% năm 1995 xuống 10,61% năm 1999.

Việc thực hiện các chính sách xã hội được quan tâm duy trì có nền nếp,

đã và đang trở thành phong trào xã hội rộng lớn. Công tác chăm sóc thương

binh, gia đình liệt sỹ, người có công được tổ chức thực hiện; việc phụng

40

dưỡng bà mẹ Việt Nam anh hùng được thực hiện tốt; phong trào tặng sổ tích

kiệm, xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa, xây nhà tình nghĩa, tu bổ nâng cấp

nghĩa trang, đài tưởng niệm liệt sỹ, giải quyết tồn đọng sau chiến tranh... đã

được các cấp, các ngành, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội và toàn

dân nhiệt tình hưởng ứng. Đến ngày 20-11-2000 toàn huyện đã xóa được

74/108 nhà tranh vách đất; xây mới 61 nhà, sửa chữa, nâng cấp 13 nhà. Thực

hiện tốt việc chi trả các đối tượng hưởng chế độ bảo hiểm xã hội và người có

công; thực hiện hỗ trợ nhà ở đối với người hoạt động cách mạng trước năm

1945 đúng quy định. Trong năm 2000, tổng kinh phí đã cấp là 2.050 triệu

đồng. Huyện đã vận động nhân dân đóng góp xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa

được 185 triệu (trong đó quỹ của huyện là 48 triệu, quỹ của các xã, thị trấn là

137 triệu). Hưởng ứng cuộc vận động giúp đỡ đồng bào miền Nam và miền

Trung bị lũ lụt, năm 2000 nhân dân và cán bộ trong huyện đã quyên góp ủng

hộ trên 400 triệu đồng và nhiều tài sản có gía trị khác. Công tác bảo hiểm y tế

được quan tâm, số đối tượng tham gia bảo hiểm y tế tăng. Các hoạt động xã

hội khác như chăm sóc người cao tuổi; bảo trợ người tàn tật, trẻ mồ côi; giúp

đỡ người mù... được duy trì, tổ chức thực hiện tốt.

Tuy nhiên, hoạt động văn hóa - xã hội từ 1996-2000 còn nhiều vấn đề bức

xúc cần được tập trung giải quyết như: tình trạng thiếu và không có việc làm, chất

lượng lao động còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo vẫn còn 4,5%; chất lượng giáo dục đào

tạo còn có mặt yếu, chưa tạo được mô hình nổi trội; chất lượng khám, chữa bệnh

ở một số cơ sở y tế chưa cao, tỷ lệ sinh giảm nhưng kết quả chưa ổn định; công tác

quản lý văn hóa ở một số lĩnh vực chưa chặt chẽ; phong trào xây dựng làng văn

hóa, gia đình văn hóa phát triển mạnh nhưng chưa đều...

Bên cạnh việc Đảng lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội, công tác quốc

phòng - an ninh cũng đã được Đảng bộ chỉ đạo chặt chẽ. Tình hình an ninh

chính trị, trật tự xã hội những năm qua diễn biến phức tạp, đặc biệt là 2 năm

1997-1998, nhiều địa phương trong tỉnh và một số địa phương trong huyện,

41

nhân dân đi khiếu kiện tập thể, có nơi mất ổn định chính trị. Từ tháng 5-1997,

tình hình khiếu kiện tập thể diễn ra ở nhiều xã của một số huyện trong tỉnh đã

tác động trực tiếp đến các xã trong huyện. Từ tháng 6-1997, một số xã trước

đây có vấn đề nổi cộm đã giải quyết, nay lại có đơn yêu cầu giải quyết; một số

xã mới phát sinh. Nội dung khiếu nại, tố cáo chủ yếu về quản lý tài chính,

kinh tế, quản lý đất đai, về các khoản huy động đóng góp của dân, về xây

dựng cơ bản, về thực hiện chính sách xã hội, về tham nhũng, lãng phí, quan

liêu, xa rời quần chúng, mất dân chủ, coi thường dư luận, không chịu lắng

nghe ý kiến của một số cán bộ cơ sở. Đáng lưu ý là tình hình phức tạp ở xã

Dân Chủ và Duyên Hải (2; tr.388).

Tình hình trên đã gây ra những hậu quả không nhỏ đối với an ninh

chính trị và trật tự an toàn xã hội, làm giảm lòng tin, uy tín, hiệu lực lãnh đạo

và quản lý của cấp ủy, chính quyền cơ sở, ảnh hưởng đến tình làng nghĩa

xóm, gây mất đoàn kết trong nông thôn, nhất là ảnh hưởng trực tiếp đến sản

xuất, phát triển kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân. Trước tình hình đó, Ban

Chấp hành Đảng bộ, Ủy ban nhân dân huyện cùng với cấp ủy chính quyền các

xã, thị trấn, các ban ngành của huyện đã sớm xác định nhiệm vụ trọng tâm số

1 là tập trung giải quyết tình hình các cơ sở, với phương châm: chủ động giải

quyết từ xa khi dân chưa có ý kiến; trên quan điểm: đứng về phía nhân dân,

bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân; giải quyết kịp thời, khách quan,

trung thực cán bộ vi phạm nhằm đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân.

Trên cơ sở đó đã nhanh chóng phân loại, đánh giá tình hình từng xã, chủ động

nắm bắt tư tưởng, sớm giải quyết tình hình, những vấn đề mới phát hiện, mới

phát sinh, mới xuất hiện ở phạm vi nhỏ, nên đã hạn chế bùng nổ trên diện

rộng. Trong quá trình giải quyết, huyện đã dùng nhiều biện pháp, hình thức cụ

thể phù hợp với thực tế của từng cơ sở; thông qua tập thể, cá nhân, hoặc sinh

hoạt chính trị để tạo sự thống nhất về nhận thức cho cán bộ, đảng viên và

nhân dân trước khi giải quyết vụ việc; đồng thời sử dụng đồng bộ các biện

42

pháp như giáo dục thuyết phục, răn đe, biện pháp hành chính đối với một số

đối tượng có hành động quá khích. Đặc biệt chú ý giữ vững vai trò lãnh đạo

của tổ chức cơ sở đảng, sự chỉ đạo của chính quyền và hoạt động của đoàn thể

nhân dân. Trong đó nhiệm vụ hàng đầu là duy trì sinh hoạt chi bộ đảng, sinh

hoạt đoàn thể ở từng xóm, thôn, củng cố và nắm vững lực lượng nòng cốt

trung kiên, nhất là cán bộ lão thành cách mạng, cán bộ cao cấp đã nghỉ hưu,

cán bộ chủ chốt xã nghỉ hưu, cựu chiến binh, người cao tuổi...

Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện sớm chủ động có những chủ trương,

quy định trong quản lý kinh tế - xã hội có liên quan trực tiếp đến cơ sở. Đầu

năm 1997, Huyện ủy ra Nghị quyết nêu rõ: "Đẩy mạnh phát triển sản xuất,

nhằm tăng thu nhập, giảm sự đóng góp của nhân dân"; chỉ đạo chặt chẽ các xã

xây dựng kế hoạch thu của xã giao cho Ủy ban nhân dân huyện duyệt trực

tiếp với xã, kiên quyết dừng và hoãn các khoản chưa cần thiết; nghiêm cấm

việc lập quỹ thôn, xóm; chỉ thị về việc tăng cường an ninh thôn xóm... Khi cơ

sở có vụ việc xảy ra, huyện đã tập trung sự lãnh đạo, chỉ đạo của Huyện ủy,

Ủy ban nhân dân huyện, các phòng, ban, cơ quan chức năng, đoàn thể cùng

phối hợp và giải quyết. Việc thanh tra, kiểm tra ở các cơ sở được tiến hành

thận trọng, khách quan, kiên quyết thu hồi những khoản kinh tế bị thất thoát;

những người vi phạm tùy theo mức độ được xử lý thích đáng.

Với các chủ trương, giải pháp trên, tình hình trong huyện nhìn chung

vẫn ổn định. Tuy vậy, nguyên nhân gây ra mất ổn định chưa thể giải quyết

triệt để, những nhân tố mất ổn định vẫn còn tiềm ẩn ở một số cơ sở. Với mong

muốn giải quyết tận gốc tình hình mất ổn định trên địa bàn toàn tỉnh, ngày 12-

1-1998, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh ra Nghị quyết số 06-NQ/TU "Về những

chủ trương giải pháp giải quyết tình hình trong tỉnh".

Nghị quyết 06 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh có vị trí đặc biệt quan

trọng, quyết định hướng ổn định và tạo hướng giải quyết những ách tắc, đáp

ứng yêu cầu, đòi hỏi cấp bách của tình hình và sự mong đợi của cán bộ, đảng

43

viên và nhân dân. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã xác định rõ quan điểm

và tư tưởng chỉ đạo: "Khẩn trương, nghiêm túc, thận trọng, có bước đi thích

hợp, tránh chủ quan, nóng vội". Trên quan điểm đó, đòi hỏi phải có sự chỉ đạo

chặt chẽ ngay từ đầu, nhất là việc chuẩn bị nội dung, chương trình, giải pháp

và các bước tiến hành phải thật cụ thể, tạo điều kiện cho cơ sở triển khai đạt

kết quả cao. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã thành lập Ban Chỉ đạo, xây

dựng chương trình hành động và kế hoạch thực hiện Nghị quyết 05 và 06 của

Tỉnh ủy. Đồng thời trưng dụng cán bộ các ban ngành của huyện tăng cường

theo dõi, đôn đốc, chỉ đạo việc triển khai thực hiện nghị quyết ở cơ sở. Đến

30-4-1998, các đảng bộ, chi bộ trực thuộc Huyện ủy đã hoàn thành việc quán

triệt học tập Nghị quyết Trung ương 3, Nghị quyết Trung ương 4, Nghị quyết

05 và 06 của Tỉnh ủy.

Sau một năm triển khai thực hiện Nghị quyết 06 của Ban Chấp hành

Đảng bộ tỉnh, tình hình mọi mặt trong huyện có những biến chuyển tiến bộ

theo hướng đi dần vào ổn định; tư tưởng trong Đảng, trong dân đều kiên định,

vững vàng. Đối với những xã có diễn biến phức tạp, huyện đã tổ chức thanh

tra, kiểm tra từ cuối năm 1997: giữ nguyên lực lượng thanh tra liên ngành của

huyện, kiên quyết không chấp nhận thanh tra tự phát vô chính phủ, bổ sung

nội dung thanh tra toàn diện theo tinh thần Nghị quyết 06, đẩy nhanh tiến độ,

bảo đảm chất lượng để sớm công bố kết luận thanh tra.

Thực hiện Nghị quyết 06 của Tỉnh ủy, với ý thức và trách nhiệm chính

trị của mình, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã tập trung cao sự lãnh đạo, chỉ

đạo, triển khai tổ chức thực hiện Nghị quyết khá toàn diện, tích cực, đồng bộ,

cùng với sự nỗ lực phấn đấu của các cấp, các ngành, của cán bộ, đảng viên và

nhân dân trong huyện. Đến cuối năm 1998 đầu năm 1999, tình hình chung của

huyện đã đi dần vào thế ổn định, mọi hoạt động trên các lĩnh vực vẫn được

duy trì bình thường. Một số cơ sở vừa qua có diễn biến phức tạp như Duyên

Hải, Hùng Dũng, Bắc Sơn, Tân Tiến, Văn Cẩm, Dân Chủ, Đông Đô... nay

44

đang đi vào ổn định, các phong trào đang được khôi phục dần, hoạt động đã

đi vào nền nếp.

Trong tình hình mới, các công tác xây dựng Đảng, củng cố chính

quyền, các đoàn thể nhân dân được Đảng bộ hết sức quan tâm chỉ đạo.

Công tác chính trị tư tưởng được tiến hành toàn diện, có chiều sâu.

Đảng bộ thường xuyên giáo dục lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,

giáo dục truyền thống, đạo đức cách mạng, bồi dưỡng trình độ, năng lực lãnh

đạo, kiến thức quản lý cho cán bộ, đảng viên. Công tác tự phê bình và phê

bình trong Đảng được đặc biệt coi trọng. Nội dung phê bình và tự phê bình

tập trung vào 3 vấn đề chủ yếu: nhận thức tư tưởng chính trị; đạo đức lối

sống; tổ chức, chỉ đạo điều hành, thực hiện chủ trương, chính sách pháp luật

của Đảng, Nhà nước và của địa phương. Đội ngũ đảng viên được soát xét,

phân loại và phân công công tác cụ thể. Huyện ủy chỉ đạo thường xuyên việc

đánh giá phân loại, xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, bố trí,

sử dụng cán bộ; kiện toàn, bổ sung ở những nơi có biến động, đáp ứng kịp

thời yêu cầu nhiệm vụ. Trong 5 năm (1996-2000) đã cử 302 cán bộ đi học đào

tào ở các trường chính trị của Trung ương và của tỉnh; bổ túc cấp ba cho 259

cán bộ xã; bồi dưỡng lý luận chính trị và nghiệp vụ công tác cho 2.320 lượt

cán bộ thôn, xóm; bồi dưỡng lý luận chính trị phổ thông cho 1.082 đảng viên

mới. Trình độ cán bộ được nâng lên một bước; phẩm chất, đạo đức, lối sống

và tác phong, lề lối làm việc có tiến bộ.

Hội đồng nhân dân các cấp được đổi mới nội dung và phương thức hoạt

động; thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật. Các cấp

ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể đã tập trung lãnh đạo thành công cuộc bầu cử

đại biểu Hội đồng nhân dân và kiện toàn Ủy ban nhân dân các cấp. Chính

quyền xã, thị trấn được sắp xếp lại theo Nghị định 09/CP của Chính phủ,

bước đầu phát huy hiệu quả rõ nét. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, hoạt động

của Mặt trận, các đoàn thể nhân dân và các tổ chức xã hội từ năm 1996-2000

45

đã bám sát nhệm vụ chính trị của huyện, động viên các tầng lớp nhân dân

chấp hành đường lối, chinha sách pháp luật, tham gia xây dựng Đảng, chính

quyền, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân; giữ vững ổn định chính trị; thường

xuyên củng cố tổ chức, tập hợp thu hút ngày càng nhiều đoàn viên, hội viên

vào sinh hoạt. Các cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống

mới ở khu dân cư"; "Hội viên người cao tuổi gương mẫu"; "Cựu chiến binh

gương mẫu, gia đình hội viên cựu chiến binh tiên tiến". Các phong trào:

"Công nhân viên chức lao động sáng tạo"; "Nông dân sản xuất kinh doanh

giỏi"; "Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, nuôi dạy con tốt, xây dựng

gia đình hạnh phúc"; "Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình, cần kiệm

xây dựng đất nước"; "Thanh niên lập nghiệp"; "Tuổi trẻ giữ nước"... đã đạt

hiệu quả thiết thực. Hoạt động nổi bật nhất của Mặt trận, các đoàn thể nhân

dân và các tổ chức xã hội trong những năm 1996-2000 là đã tích cực tham gia

chương trình phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo. Mặt trận và hầu

hết các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội đã hoàn thành xuất sắc nhiệm

vụ, nhiều năm liền là đơn vị dẫn đầu toàn tỉnh.

Tuy hệ thống chính trị đã đổi mới một bước nhưng năng lực lãnh đạo,

tổ chức thực hiện còn nhiều hạn chế, một số mặt hoạt động chưa cao. Năng

lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số cơ sở Đảng còn thụ động, trông chờ

cấp trên; chưa thấy hết vai trò, trách nhiệm trong việc lãnh đạo, chỉ đạo giải

quyết các vấn đề đặt ra ở cơ sở. Công tác kiểm tra của một số cấp ủy, của Ủy

ban kiểm tra thực hiện chưa thường xuyên, có nơi thiếu nghiêm túc, thiếu

kiên quyết trong xử lý, đùn đẩy trách nhiệm lên cấp trên. Việc thực hiện chức

năng quyết định, giám sát của hội đồng các cấp đối với các nhiệm vụ phát

triển kinh tế - xã hội ở địa phương còn hạn chế. Hoạt động của bộ máy chính

quyền ở một số cơ sở chất lượng và hiệu quả còn thấp. Hoạt động của Mặt

trận và các đoàn thể nhân dân chưa đồng đều giữa các địa phương, đơn vị;

46

chất lượng hoạt động đoàn thể ở một số thôn xóm còn hạn chế; tỷ lệ tập hợp

quần chúng vào sinh hoạt chưa cao.

* *

*

Những kết quả đạt được trong lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội của

Đảng bộ huyện Hưng Hà giai đoạn 1996-2000 đã góp phần quan trọng vào sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn huyện, đồng thời đây cũng

là những tiền đề quan trọng để Hưng Hà tiếp tục đẩy mạnh nhiệm vụ phát

triển kinh tế - xã hội trong kế hoạch 5 năm (2001-2005).

Chương 2

SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ HUYỆN HƢNG HÀ TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TỪ NĂM 2001-2005

2.1 NHỮNG CHỦ TRƢƠNG CHUNG CỦA ĐẢNG BỘ HUYỆN HƢNG

HÀ VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI GIAI ĐOẠN 2001-2005

2.1.1. Kinh tế - xã hội huyện Hƣng Hà trƣớc thời cơ và thách thức mới

Năm năm qua, tình hình chính trị thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến

phức tạp; tình hình trong nước, trong tỉnh bên cạnh những thuận lợi là những

khó khăn, phức tạp mới nảy sinh. Đặc biệt, trong hai năm 1997, 1998 nhiều

địa phương trong tỉnh và một số địa phương trong huyện, nhân dân đi khiếu

kiện tập thể, một số nơi đã dẫn đến mất ổn định chính trị. Tình hình trên đã

47

chi phối và ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực

hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện trong nhiệm kỳ qua. Nhưng trong

hoàn cảnh khó khăn đó, Đảng bộ và nhân dân toàn huyện đã đoàn kết, thống

nhất, phát huy truyền thống cách mạng, nỗ lực phấn đấu, vừa tập trung giải

quyết sớm ổn định tình hình ở cơ sở, vừa tổ chức thực hiện các nhiệm vụ phát

triển kinh tế - xã hội giành thắng lợi tương đối toàn diện. Tuy nhiên, bước

sang giai đoạn phát triển mới, trước những yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng

ngày một nặng nề, sự phát triển của kinh tế - xã hội huyện Hưng Hà phải đối

mặt với nhiều khó khăn, thử thách. Do yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp

hóa, hiện đại đại hóa ngày càng cao; tình hình xã hội cũng như đời sống của

nhân dân có những thay đổi tích cực, nên đòi hỏi phải có bước chuyển thích

hợp trong sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, thực trạng phát triển của

kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện trong những năm qua chưa theo kịp tốc độ

phát triển kinh tế - xã hội nói chung của đất nước, chưa đảm nhận tốt vai trò

nền tảng để cải thiện, nâng cao đời sống nhân dân, nhất là khi huyện Hưng Hà

bước vào giai đoạn đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì yêu

cầu này càng trở nên cấp thiết.

Trong phát triển kinh tế

Sản xuất nông nghiệp: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp chậm,

chưa đồng đều, quy mô trang trại còn nhỏ lẻ, tự phát, phân tán và chưa có sức

thuyết phục cao; việc tiếp nhận giống mới, cây có hiệu quả kinh tế cao và quy

trình công nghệ chậm và bảo thủ; diện tích cây vụ đông giảm dần; chăn nuôi

vẫn theo tập quán cũ, giá trị hiệu quả chưa cao; tiềm năng kinh tế vườn, ao

còn lớn nhưng hiệu quả khai thác chưa cao; chế biến, tiêu thụ nông sản gặp

nhiều khó khăn; vai trò quản lý, điều hành ở một số hợp tác xã còn thiếu năng

động; tư tưởng bảo thủ, bao cấp trong một bộ phận cán bộ, nhân dân còn nặng

nề.

48

Sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp: Phần lớn các doanh

nghiệp quốc doanh, tập thể và doanh nghiệp tư nhân hoạt động lúng túng, trì

trệ, kém hiệu quả. Sản xuất tiểu thủ công nghiệp tuy đã chuyển mạnh về hộ và

phát huy tác dụng tốt nhưng vai trò tổ chức, điều hành và tạo điều kiện hỗ trợ

của các cấp, các ngành chưa rõ; việc du nhập nhiều nghề mới còn hạn chế.

Thương mại - dịch vụ: Khu vực kinh doanh và tập thể do thiếu vốn,

năng lực kinh doanh hạn chế, chưa chủ động vươn ra chiếm lĩnh thị trường

nên việc tiêu thụ nông sản, thực phẩm, hàng hóa tiểu thủ công nghiệp gặp

nhiều khó khăn.

Là một huyện có điều kiện để phát triển kinh tế, đặc biệt có thế mạnh

để phát triển nông nghiệp, nhưng thực tế phát triển cũng như những kết quả

thực hiện trong 5 năm vừa qua cho thấy sản xuất nông nghiệp chưa đạt được

những mục tiêu nhất định như trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XI

đề ra. Một số bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn nặng tư tưởng bảo

thủ trông chờ bao cấp của Nhà nước và tập thể, chậm tiếp thu những tiến bộ

kỹ thuật, chậm chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi; chưa năng động

trong việc du nhập ngành nghề mới và khôi phục các ngành nghề truyền

thống, nên đã ảnh hưởng đến kết quả phát triển kinh tế - xã hội trong nhiệm

kỳ qua. Trong lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng,

công tác quản lý kinh tế, quản lý cán bộ đảng viên chưa được Đảng bộ huyện

quan tâm, dẫn đến những vi phạm trong quản lý tài chính, đất đai... Trong chỉ

đạo, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ thiếu sâu sát, chưa đánh giá đúng tình

hình cơ sở, chưa tạo dựng được mô hình có tính thuyết phục cao để tổng kết

nhân ra diện rộng.

Trong phát triển kinh tế - xã hội

Tình trạng thiếu và không có việc làm vẫn là vấn đề bức xúc; chất

lượng lao động còn thấp. Tỷ lệ hộ nghèo vẫn còn 4,5%. Việc thực hiện các

chính sách xã hội còn nhiều thiếu sót.

49

Chất lượng giáo dục đào tạo có mặt yếu, chất lượng bồi dưỡng học sinh

giỏi chưa vững chắc, việc tiêu chuẩn hoá giáo viên thực hiện chậm, ngành

giáo dục chưa tạo được mô hình nổi trội; cơ sở vật chất, điều kiện và phương

tiện phục vụ giảng dạy, học tập còn nhiều khó khăn.

Chất lượng khám chữa bệnh ở một số cơ sở y tế chưa cao, tinh thần,

thái độ phục vụ người bệnh của một số ít cán bộ, nhân viên y tế còn yếu. Tỷ lệ

sinh tuy giảm nhưng kết quả chưa ổn định.

Công tác quản lý văn hoá ở một số lĩnh vực chưa chặt chẽ (in ấn, lễ

hội...). Phong trào xây dựng gia đình văn hoá, làng văn hoá phát triển mạnh

nhưng chưa đều; sự phối hợp của các ngành trong chỉ đạo và hướng dẫn cơ sở

chưa đồng đều, chặt chẽ.

Các vấn đề về công tác quốc phòng an ninh còn bộc lộ một số yếu kém,

khuyết điểm; trật tự an toàn xã hội diễn biến phức tạp, các tệ nạn xã hội có

chiều hướng gia tăng; công tác giáo dục pháp luật chưa được quan tâm

thường xuyên, trình độ nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật của một bộ

phận cán bộ, nhân dân còn hạn chế.

Hệ thống chính trị đã được đổi mới nhưng năng lực lãnh đạo, tổ chức

thực hiện còn nhiều hạn chế, một số mặt hoạt động hiệu quả chưa cao. Việc

thực hiện các nguyên tắc, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ tự phê

bình và phê bình ở một số cơ sở thiếu nghiêm túc.

Như vậy, kết thúc quá trình phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 1996-

2000, bên cạnh những thành tựu đạt được, thực trạng phát triển đã cho thấy

trên lĩnh vực kinh tế - xã hội vẫn còn một số tồn tại, hạn chế cần được khắc

phục khi bước vào giai đoạn tiếp theo. Đẩy mạnh hơn nữa tốc độ cũng như

hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội, khắc phục những yếu kém, từng bước đưa

nền kinh tế - xã hội huyện tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc là vấn đề đặt

ra đòi hỏi Đảng bộ Hưng Hà trong Đại hội lần thứ XII phải tìm ra những chủ

trương, giải pháp phát triển đúng đắn, sáng tạo.

50

2.1.2. Những chủ trƣơng chung của Đảng bộ huyện Hƣng Hà về

phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001-2005

Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng, tình hình đất

nước có những thay đổi to lớn, sức mạnh tổng hợp được tăng cường, nền kinh

tế có bước phát triển mới về lực lượng sản xuất, về quan hệ sản xuất và hội

nhập kinh tế quốc tế, đời sống của nhân dân được nâng lên rõ rệt, thế và lực

của nước ta ngày càng được củng cố và nâng cao, độc lập tự chủ được giữ

vững, tạo ra điều kiện tốt để tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá,

hiện đại hoá.

Từ ngày 19 đến ngày 22-4-2001, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX

của Đảng được tổ chức tại Thủ đô Hà Nội. Đại hội đã nhận định: thực tiễn phong

phú và những thành tựu đã đạt được sau 15 năm đã chứng minh tính đúng đắn

của đường lối mới, đồng thời giúp Đảng nhận thức ngày càng rõ hơn con đường

đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Về đường lối kinh tế, Đại hội xác định: phát

triển kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm;

phát triển kinh tế nhiều thành phần là chính sách nhất quán; tiếp tục tạo lập đồng

bộ các yếu tố thị trường, đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước,

giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Mục tiêu tổng quát của kế hoạch 5 năm 2001-

2005 được xác định là tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững; chuyển dịch

mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá;

nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế...

Với đường lối đúng đắn, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của

Đảng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đưa nước ta vượt qua khó khăn, thách

thức, nắm bắt được thời cơ, vững bước trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội

trong thế kỷ XXI.

Tháng 10-2000, Đại hội lần thứ XVI tỉnh Thái Bình được tiến hành.

Đại hội có nhiệm vụ tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết đại hội Đảng bộ lần

thứ XV, xây dựng phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu, các giải pháp để phát

51

triển kinh tế - xã hội 5 năm (2001-2005) và định hướng phát triển cho những

năm tiếp theo, tạo ra động lực mới đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện

đại hóa, phấn đấu thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công

bằng, dân chủ, văn minh".

Đứng trước những thách thức và vận hội lớn của thời cuộc đối với sự

nghiệp phát triển đất nước nói chung cũng như của huyện Hưng Hà nói riêng,

Đảng bộ và nhân dân trong huyện đã luôn luôn quán triệt đường lối đổi mới,

kịp thời vận dụng sáng tạo những chủ trương, chính sách, nghị quyết, chỉ thị

của Đảng, của Tỉnh ủy vào tình hình cụ thể của địa phương.

Kết thúc nhiệm kỳ khoá XI, những thắng lợi bước đầu trong phát triển

kinh tế - xã hội là điều kiện quan trọng, tạo đà cho toàn Đảng, toàn quân và

toàn dân Hưng Hà tiếp bước vững chắc trong giai đoạn phát triển tiếp theo.

Những tư tưởng của Đại hội IX của Đảng, Đại hội XVI của tỉnh đã được

Đảng bộ quán triệt trong quá trình tiến hành đại hội các cấp. Tháng 10-2000,

Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XII được tổ chức tại Hội trường Uỷ

ban nhân huyện Hưng Hà.

Đại hội đã đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng

bộ huyện lần thứ XI, nhiệm kỳ 1996-2000. Nhìn chung, trong nhiệm kỳ 1996-

2000, công cuộc đổi mới của huyện Hưng Hà đã đạt được những thành tựu

quan trọng, nhấn mạnh những thành tựu đạt được trên các lĩnh vực kinh tế -

xã hội, an ninh quốc phòng, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị là quan

trọng và có ý nghĩa to lớn. Có được thành công đó, nguyên nhân chủ yếu bắt

nguồn tự sự đoàn kết, nhất trí, quyết tâm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của

Đảng bộ và nhân dân huyện Hưng Hà. Ban Chấp hành Đảng bộ luôn chủ

động, sáng tạo trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo phong trào, đề ra chủ trương,

giải pháp kịp thời.

Bên cạnh việc khẳng định những thành tựu đã đạt được, Đại hội đã nghiêm

túc kiểm điểm, nêu những tồn tại cần khắc phục đó là: kinh tế tăng trưởng chưa

52

cao, tỷ suất hàng hoá và tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế còn thấp, sản xuất nông

nghiệp vẫn còn độc canh cây lúa, cơ sở vật chất, kỹ thuật chưa đáp ứng nhu cầu

cho sự nghiệp công nghiệp hoá nông nghiệp - nông thôn; công tác xây dựng

Đảng, tổ chức bộ máy cán bộ chưa đáp ứng kịp thời với yêu cầu đổi mới.

Từ những đánh giá của việc thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ

huyện lần thứ XI, bám sát tinh thần dự thảo Nghị quyết Đại hội IX của Đảng

và những yêu cầu mới đạt ra cho huyện Hưng Hà, Đại hội Đảng bộ lần thứ

XII đã thông qua phương hướng chung là: "Phát huy sức mạnh của toàn dân,

giữ vững ổn định chính trị; tiếp tục đổi mới, khai thác có hiệu quả mọi nguồn

lực và tiềm năng, đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông

nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tập trung đầu

tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng nông thôn; giải quyết

tốt các vấn đề xã hội, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của

nhân dân; xây dựng làng xã văn hoá gắn với xây dựng nông thôn mới; thường

xuyên củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội;

tiếp tục đổi mới, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần

2 khoá VIII), xây dựng chính quyền, đoàn thể nhân dân vững mạnh, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới"1.

Mục tiêu cụ thể về kinh tế - xã hội phấn đấu đến năm 2005 được Đại

hội đề ra là: Tổng giá trị sản xuất đạt 1.641 tỷ 871 triệu đồng (theo giá cố định

năm 1994), tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm là 8%; giá trị sản xuất bình

quân đầu người đạt trên 6 triệu đồng/năm. Trong đó nông nghiệp, thủy sản đạt

850 tỷ 571 triệu đồng, tốc độ tăng trưởng 4,5%, chiếm tỷ trọng 51,8%; công

nghiệp - tiểu thủ công nghiệp đạt 451 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng 13%/năm,

chiếm tỷ trọng 27,5%; thương mại - dịch vụ đạt 340 tỷ 300 triệu đồng, tốc độ

1 Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Hưng Hà lần thứ XII, tr.15.

tăng trưởng 10%/năm, chiếm tỷ trọng 20,7%. Phấn đấu đến năm 2005 giảm

53

hộ thuần nông xuống dưới 30%; tỷ lệ sinh dưới 1,5%, tỷ lệ sinh con thứ 3 trở

lên dưới 10%.

Về kinh tế

+ Tập trung phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng công nghiệp

hoá, hiện đại hoá, gắn phát triển nông nghiệp với thị trường và công nghiệp

chế biến; lấy chất lượng và hiệu quả kinh tế cao nhất trên một đơn vị diện tích

để quyết định phương án sản xuất, tăng nhanh khối lượng, chất lượng và giá

trị sản phẩm, góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông

nghiệp, nông thôn.

- Về kinh tế đồng ruộng: ổn định 20.000 ha lúa cả năm, đạt năng suất

135 tạ/ha/năm. Chuyển 10 đến 15% diện tích cấy lúa kém hiệu quả sang nuôi

trồng cây con có giá trị kinh tế cao hơn. Tập trung vào các vùng ven sông

Hồng, sông Luộc, sông Tiên Hưng và một số vùng đất trũng úng. Phấn đấu vụ

đông đạt ít nhất 60% diện tích đất canh tác, đa dạng hoá sản phẩm, bảo đảm

năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế cao. Căn cứ vào điều kiện cụ thể, quy

hoạch rõ vùng sản xuất lúa, màu, cây công nghiệp, vùng sản xuất vụ đông, lúa

cao sản, lúa đặc sản, rau quả... để đáp ứng yêu cầu xuất khẩu, chế biến và tiêu

thụ sản phẩm.

Để thực hiện nhiệm vụ trên phải tích cực đổi mới cơ cấu giống, áp dụng

các tiến bộ kỹ thuật, quy trình công nghệ mới, nâng cao hiệu quả công tác bảo

vệ thực vật. Tích cực chủ động phòng chống lũ, bão, úng trong mọi tình

huống; thường xuyên làm tốt việc hướng dẫn kỹ thuật, quy trình sản xuất,

hạch toán kinh doanh cho hộ nông dân. Tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống thuỷ lợi,

trước mắt thực hiện có hiệu quả chương trình kiên cố hoá kênh mương, cơ

bản hoàn thành cải tạo trạm bơm trục ngang thành trục đứng vào năm 2005,

bảo đảm chủ động tưới tiêu cho 3 vụ sản xuất trong năm.

- Tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế VAC, gắn phát triển

kinh tế VAC với giải quyết việc làm tăng thu nhập, cải thiện đời sống và cải

54

thiện môi trường sinh thái nông thôn. Cải tạo triệt để vườn tạp, trồng cây có

hiệu quả kinh tế cao, chủ yếu là nhãn, vải và một số cây ăn quả quý. Xây

dựng làng vườn, xã vườn, làng hoa cây cảnh, mô hình trang trại cây con theo

hướng sản xuất kinh doanh khép kín đạt hiệu quả kinh tế cao. Phấn đấu nâng

giá trị sản xuất từ kinh tế vườn chiếm 20 - 25% tổng giá trị ngành trồng trọt.

- Đẩy nhanh tốc độ phát triển chăn nuôi, coi trọng mở rộng quy mô và

nâng cao chất lượng đàn gia súc, gia cầm, thủy sản. Hình thành các vùng chăn

nuôi chuyên canh, xây dựng mô hình chăn nuôi gia trại. Phấn đấu đưa tỷ trọng

chăn nuôi chiếm 30% giá trị sản xuất nông nghiệp. Ổn định đàn lợn 80.000

con/năm, sản lượng thịt xuất chuồng 6.500 tấn, trong đó 30% lợn có tỷ lệ nạc

cao để xuất khẩu. Đàn trâu, bò bình quân 16.000 con, trong đó bò lai sin chiếm

trên 80%; phát triển mạnh đàn vịt, đàn gà siêu thịt, siêu trứng nhằm đáp ứng nhu

cầu tiêu dùng tại chỗ và cung cấp cho các khu công nghiệp, thành phố lớn.

Trước mắt, Huyện ủy chỉ đạo tập trung giải quyết tốt khâu giống theo

hướng nạc hóa đàn lợn, sin hóa đàn bò, cung ứng các giống gà, vịt, cá có chất

lượng cao cho người chăn nuôi. Đồng thời tổ chức chế biến và cung cấp thức

ăn công nghiệp. Chú trọng phòng chống dịch bệnh, đẩy mạnh việc phổ biến

hướng dẫn kỹ thuật và các hoạt động khuyến nông trong lĩnh vực chăn nuôi.

Đối với hợp tác xã nông nghiệp, Đảng bộ chủ trương tăng cường củng

cố, xây dựng quan hệ sản xuất mới, tạo điều kiện và môi trường cho các thành

phần kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện chuyển

đổi hợp tác xã theo luật, với phương châm: tích cực, thận trọng, hiệu quả,

vững chắc trên cơ sở kế thừa và giữ ổn định chính trị. Bảo đảm cho các hợp

tác xã làm tốt các khâu dịch vụ, tạo môi trường thuận lợi giúp các hộ nông

dân có điều kiện giúp đỡ nhau, tăng sức mạnh trong sản xuất kinh doanh, tạo

thêm việc làm, tăng thu nhập, góp phần xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời

sống cho nhân dân.

55

+ Đối với sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp: Phát triển

nhanh, vững chắc nhằm thúc đẩy sự phân công lại lao động, đẩy nhanh quá

trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện

đại hóa. Phấn đấu đến năm 2005, tỷ trọng công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp

chiếm 27,5% tổng giá trị nông - công nghiệp - dịch vụ; 65 - 70% số hộ có

ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, góp phần phá thế thuần nông, giảm số hộ

nghèo và mức nghèo.

Khuyến khích các doanh nghiệp, các hộ nghề nhất là các nghề truyền

thống như: dệt chiếu, dệt vải, dệt khăn, mộc, mây đan, chế biến lương thực...,

từng bước đầu tư kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, đổi mới mẫu mã, nâng cao

chất lượng sản phẩm, đủ sức cạnh tranh thị trường; phát triển làng nghề, xã

nghề; hợp tác, liên doanh để sản xuất các mặt hàng có giá trị kinh tế cao.

Đảng bộ huyện đặc biệt coi trọng việc mở mang du nhập ngành nghề mới,

trong đó ưu tiên những ngành nghề giải quyết được nhiều việc làm phục vụ

sản xuất nông nghiệp, cơ khí sửa chữa, chế biến thức ăn gia súc, chế biến

nông sản, sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Bên cạnh đó có chủ

trương, cơ chế khuyến khích phát triển như: các hình thức tư vấn về tiếp thị,

về công nghệ và luật pháp, tạo điều kiện về mặt bằng sản xuất... nhằm trợ

giúp và tăng thêm nguồn lực cho các thành phần kinh tế mở rộng sản xuất có

hiệu quả, tạo ra việc làm cho người lao động. Tạo điều kiện thuận lợi nhất để

thu hút đầu tư vốn, công nghệ, cơ sở vật chất kỹ thuật để phát triển công

nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tại địa phương.

+ Đẩy mạnh các hoạt động thương mại và dịch vụ theo hướng đa dạng

hóa loại hình, mở rộng sản xuất, chế biến xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật,

kết cấu hạ tầng nhằm đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông

thôn và xây dựng nông thôn mới. Phấn đấu đến năm 2005, tỷ trọng hàng hóa

bình quân chiếm 75%, giá trị thương mại dịch vụ tăng 10%/năm, chiếm

20,7% trong tổng giá trị nông - công nghiệp - dịch vụ. Trước mắt, cần tập

56

trung nâng cao chất lượng và quản lý chặt chẽ các loại hình dịch vụ: giống

cây con, thú y, bảo vệ thực vật, điện, điện thoại, thủy nông... và các dịch vụ

phục vụ sản xuất và đời sống. Khuyến khích phát triển các dịch vụ tìm kiếm

việc làm cho người lao động, tích cực tìm đối tác kinh doanh, liên kết, tìm

kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm. Khuyến khích những người có vốn, có

phương tiện, có kinh nghiệm kinh doanh... phát triển thành những chủ đại lý

lớn thu mua tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Nâng cao

năng lực tiếp thị, nắm bắt thông tin, bám sát nhu cầu thị trường để điều chỉnh

cơ cấu đầu tư và định hướng sản xuất, gắn sản xuất với thị trường và khoa học

công nghệ, bảo đảm những sản phẩm chủ lực như: lúa gạo, thịt lợn, dệt may,

chiếu, mộc, long nhãn.... có chất lượng cao, đủ sức cạnh tranh trên thị trường.

Tiếp tục xây dựng thị trấn, thị tứ, hình thành các cụm kinh tế đi đôi với phát

triển giao thông và mạng lưới chợ nông thôn nhằm gắn sản xuất, chế biến với

tiêu thụ sản phẩm.

Bốn chương trình kinh tế trọng điểm được huyện xác định cần tập trung

ưu tiên:

Một là: Chương trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng, bao gồm: cây lúa,

cây màu lương thực, thực phẩm, cây công nghiệp, cây dược liệu và cây ăn

quả; trong đó chú trọng chuyển dịch cơ cấu giống lúa, phát triển trồng nấm và

rau quả xuất khẩu; với mục tiêu lấy hiệu quả kinh tế cao nhất trên một đơn vị

diện tích để quyết định phương án sản xuất và chuyển dịch cơ cấu cây trồng

theo hướng sản xuất hàng hóa.

Hai là: Chương trình phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm và thủy sản;

hình thành các vùng chăn nuôi chuyên canh, mô hình trang trại, gia trại; áp

dụng phương thức chăn nuôi công nghiệp, bán công nghiệp. Chú trọng phát

triển mạnh về số lượng và chất lượng đàn lợn và đàn bò theo hướng nạc hóa

đàn lợn, sin hóa đàn bò nhằm tạo ra khối lượng hàng hóa lớn.

57

Ba là: Chương trình mở rộng và phát triển làng nghề, xã nghề: Phát huy

nghề truyền thống hiện có, đồng thời mở rộng thêm ngành nghề mới với

nhiều quy mô, trình độ khác nhau, nhằm khai thác triệt để tiềm năng lao động,

thúc đẩy lại phân công lao động trên địa bàn huyện, tạo bước chuyển dịch mới

về kinh tế - xã hội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chú trọng xây

dựng các làng nghề trung tâm như: dệt vải: Thái Phương; may: Phú Sơn, thị

trấn Hưng Hà; dệt chiếu: Tân Lễ, Phú Sơn; mộc cao cấp: Canh Tân, Canh

Hòa; mây tre đan: Bình Lăng, Văn Cẩm...

Bốn là: Tăng cường hợp tác, đầu tư, tìm kiếm thị trường trong nước và

quốc tế để tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, tạo điều kiện

cho sản xuất phát triển. Khuyến khích, ưu đãi đối với tập thể, cá nhân tìm

kiếm thị trường mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Để thực hiện các chương trình kinh tế nêu trên, mỗi chương trình đều

phải xây dựng đề án, phân công người phụ trách, có cơ chế, chính sách cụ thể,

chỉ đạo chặt chẽ, gắn trách nhiệm của từng cấp ủy, chính quyền và đoàn thể

để thực hiện đạt kết quả cao nhất.

Về văn hóa - xã hội

Đảng bộ coi trọng việc nâng cao hiệu quả giáo dục - đào tạo nhằm nâng

cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ cho sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trên cơ sở coi trọng cả ba mặt: mở rộng

quy mô, nâng cao chất lượng, phát huy hiệu quả giáo dục. Đảng bộ đề ra

những nhiệm vụ chủ yếu sau:

+ Đẩy mạnh tuyên truyền cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về vai trò

của tri thức, của giáo dục - đào tạo, nhằm thực hiện xã hội hóa giáo dục, thu

hút sự quan tâm, đầu tư về mọi mặt của các cấp, các ngành đối với giáo dục;

triển khai, thực hiện có hiệu quả luật giáo dục.

+ Tiếp tục nâng cao chất lượng toàn diện ở các ngành học. Nâng cao

chất lượng phổ cập mẫu giáo 4 tuổi; 5 tuổi; phổ cập tiểu học đúng độ tuổi và

58

phổ cập THCS cho thanh niên. Phấn đấu tăng nhanh số trường đạt chuẩn quốc

gia; chú trọng dạy và học về luật pháp, đạo đức, lối sống, giáo dục ý thức học

và làm việc vì sự phát triển của quê hương, đất nước; đưa ngoại ngữ, tin học,

nhạc họa vào tất cả các trường phổ thông; phổ cập nghề cho học sinh trng học

cơ sở và trung học phổ thông.

+ Bằng nhiều hình thức đa dạng, mở rộng quy mô giáo dục, cơ bản đáp

ứng nhu cầu học tập của mọi người, nhất là con em gia đình nghèo, gia đình

chính sách; đưa 85-90% số cháu đến lớp mẫu giáo (trong đó số cháu 5 tuổi là

100%); cơ bản không còn học sinh tiểu học, THCS bỏ học; 65% học sinh tốt

nghiệp THCS vào học THPT; 15-20% học sinh tốt nghiệp THPT thi đỗ vào

các trường công nhân kỹ thuật; trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học.

Khuyến khích các địa phương, cơ quan đơn vị, các gia đình, dòng họ mở rộng

các hình thức khuyến học, khuyến tài.

+ Tăng cường bồi dưỡng, đào tạo và đào tạo lại, nhằm nâng cao chất

lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý. Phấn đấu đến năm 2005 tất cả cán

bộ giáo viên ngành giáo dục đạt tiêu chuẩn hóa cả về trình độ chuyên môn

nghiệp vụ, năng lực, phẩm chất đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp.

+ Tập trung đầu tư, nâng cấp, xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị

cho các trường học. Phấn đấu đến năm 2005 các trường THPT công lập, bán

công, trung tâm giáo dục thường xuyên được cải tạo, nâng cấp cơ sở vật chất;

mỗi xã có từ 1-2 trường cao tầng với phương châm "nhà nước và nhân dân

cùng làm".

Đẩy mạnh sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân theo

hướng dự phòng tích cực; bồi dưỡng thể chất, phấn đấu giảm tỷ lệ suy dinh

dưỡng ở trẻ em từ 4 - 5%/năm; giảm tỷ lệ mắc các bệnh lây nhiễm; khống chế

và ngăn chặn có hiệu qủa virút HIV/AIDS. Nâng cao chất lượng hoạt động

của hệ thống y tế cơ sở; bảo đảm chăm sóc tốt sức khỏe nhân dân ngay tại cơ

sở. Đảng bộ chú trọng xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị cho các bệnh

59

viện và trạm xá xã. Thường xuyên tổ chức hướng dẫn và kiểm tra các đối

tượng hành nghề y dược tư nhân, vệ sinh môi trường, an toàn thực phẩm và

thuốc chữa bệnh, bảo đảm sức khỏe cộng đồng.

Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền,

phát huy vai trò của đoàn thể, đẩy mạnh xã hội hóa công tác dân số - kế hoạch

hóa gia đình. Phấn đấu tỷ lệ sinh hàng năm dưới 1,5%, tỷ lệ sinh con thứ 3 trở

lên dưới 10%. Đảng bộ chủ trương tiến hành đồng bộ các biện pháp tuyên

truyền vận động, nâng cao chất lượng dịch vụ kế hoạch hóa gia đình, gắn

công tác dân số với các chương trình phát triển kinh tế - xã hội.

Nhằm thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về

"xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc", Đảng bộ

huyện đã tập trung lãnh đạo, hướng các hoạt động văn hóa thông tin, thể thao

về cơ sở, góp phần tích cực phục vụ các nhiệm vụ chính trị, trọng tâm là

chuyển dịch cơ cấu kinh tế và xây dựng nông thôn mới. Đẩy mạnh phong trào

"toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa", gắn với cuộc vận động "toàn

dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư"; thực hiện có hiệu quả

quyết định 212/UB của UBND tỉnh về xây dựng nếp sống văn hóa. Xây dựng

các thiết chế phục vụ sinh hoạt văn hóa ở các thôn, làng. Phát huy trách nhiệm

của từng gia đình, dòng họ trong việc truyền thụ những giá trị văn hóa từ thế

hệ này sang thế hệ khác, chống lại ảnh hưởng của văn hóa độc hại.

Để thực hiện tốt các chính sách xã hội và pháp lệnh ưu đãi người có

công với nước, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi đối tượng chính sách được

bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, phong trào chăm sóc thương binh, gia

đình liệt sỹ, những người có công với đất nước và cách mạng được quan tâm.

Các hoạt động nhân đạo, từ thiện, bảo trợ trẻ mồ côi, người già neo đơn, tàn

tật, xây dựng các quỹ tình thương với phương châm: Nhà nước hỗ trợ một

phần và động viên toàn xã hội tham gia đóng góp.

60

Đồng thời với những chủ trương, biện pháp nhằm phát triển kinh tế - xã

hội, Đảng bộ huyện Hưng Hà luôn coi trọng củng cố xây dựng lực lượng vũ

trang, dân quân tự vệ, dự bị động viên, an ninh nhân dân vững mạnh cả về

chính trị, tư tưởng và tổ chức, lấy chất lượng chính trị làm chính. Phát huy

sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân trong việc duy trì và nâng cao chất lượng,

hiệu quả phong trào quần chúng bảo vệ an ninh quốc phòng.

Công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, không ngừng nâng cao

nhận thức, bản lĩnh chính trị, bồi dưỡng phẩm chất và năng lực cho đội ngũ

cán bộ đảng viên tiếp tục được đẩy mạnh. Đảng bộ huyện tập trung củng cố tổ

chức, đổi mới công tác cán bộ, công tác đảng viên nhằm tăng cường sức chiến

đấu, nâng cao vai trò và chất lượng, năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng

và đảng viên. Bên cạnh đó, công tác kiểm tra giữ kỷ luật, nâng cao năng lực

lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng và đội ngũ đảng viên; các đoàn

thể nhân dân, các tổ chức xã hội, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân được coi

trọng nhằm xây dựng nông thôn mới giàu mạnh, văn minh.

2.2. QUÁ TRÌNH CHỈ ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA

ĐẢNG BỘ HUYỆN HƢNG HÀ TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2005

Kết thúc kế hoạch 5 năm (1996-2000), tình hình đất nước có những

thay đổi to lớn, sức mạnh tổng hợp được tăng cường, nền kinh tế có bước phát

triển mới về lực lượng sản xuất, về quan hệ sản xuất và hội nhập kinh tế quốc

tế. Nông nghiệp đã có sự phát triển liên tục, xuất khẩu nông, lâm, thủy sản

năm 2000 đạt 4,3 tỷ USD, tăng gấp 1,7 lần so với năm 1995. Nhịp độ tăng giá

trị sản xuất công nghiệp hàng năm đạt 13,5%, sản xuất công nghiệp xuất khẩu

tăng nhanh, một số khu công nghiệp, khu chế xuất với nhiều cơ sở sản xuất có

công nghệ hiện đại được hình thành. Văn hóa - xã hội có bước tiến bộ trên

nhiều mặt; việc gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội có

chuyển biến tốt, nhất là trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo. Đời sống của

nhân dân được nâng lên rõ rệt, thế và lực của nước ta ngày càng được củng cố

61

và nâng cao, độc lập tự chủ được giữ vững, tạo ra điều kiện tốt để tiếp tục đẩy

mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Tuy nhiên, bên cạnh những thàn tựu đã đạt được, tình hình kinh tế - xã

hội vẫn còn những khuyết điểm và yếu kém: tăng trưởng kinh tế chưa tương

xứng với khả năng; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn

kém; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Cơ chế, chính sách về văn hóa - xã hội

chậm đổi mới; nhiều vấn đề xã hội bức xúc chưa được giải quyết tốt. Các lĩnh

vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại còn một số hạn chế.

Trong bối cảnh chung của cả nước, trên cơ sở định hướng phát triển

kinh tế - xã hội được Đại hội lần thứ IX (2001) của Đảng đề ra, trong 5 năm

(2001-2005), Đảng bộ huyện Hưng Hà đã lãnh đạo quá trình xây dựng và phát

triển kinh tế - xã hội đạt được những thành tựu quan trọng.

2.2.1. Về xây dựng và phát triển kinh tế

Để đưa đất nước phát triển nhanh, mạnh, thực hiện thắng lợi kế hoạch

phát triển kinh tế - xã hội, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã

xác định: phát triển kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm

vụ trung tâm; phát triển kinh tế nhiều thành phần là chính sách nhất quán; tiếp

tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, đổi mới và nâng cao hiệu lực quản

lý kinh tế của Nhà nước. Trên cơ sở quan điểm phát triển và mục tiêu chiến

lược của Đảng, Đảng bộ tỉnh Thái Bình đã đề ra phương hướng, mục tiêu

tổng quát 5 năm (2001-2005) là phát huy nội lực, tăng cường hợp tác đầu tư,

tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu tăng

trưởng kinh tế với nhịp độ cao và bền vững, phát triển lực lượng sản xuất gắn

liền với xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ

nghĩa, tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển mạnh sang sản xuất hàng

hóa, nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm, gắn với thị trường.

Quán triệt phương hướng phát triển của Trung ương và của Đảng bộ

tỉnh, trong năm 2001, Đảng bộ Hưng Hà đã đưa ra phương hướng phát triển

62

trong lĩnh vực nông nghiệp: tiếp tục phát triển nông nghiệp toàn diện cả trồng

trọt và chăn nuôi, chuyển mạnh nông nghiệp sang sản xuất hàng hóa. Trong

tình hình thực tế, thực trạng kinh tế - xã hội vẫn đang đặt ra nhưng khó khăn,

thách thức không nhỏ: nền kinh tế vẫn là thuần nông, nhìn chung chưa ra khỏi

sản xuất nhỏ. Vẫn còn tư tưởng bảo thủ trì truệ, tổ chức thực hiện chưa triệt

để và đồng bộ nên hiệu quả kinh tế - xã hội chưa cao. Bởi vậy, xây dựng nông

thôn mới với mô hình như thế nào, bắt đầu từ đâu là vấn đề lớn, khó khăn, đòi

hỏi Đảng bộ phải nắm vững lý luận, những quan điểm, chủ trương của Đảng

để tìm ra những giải pháp thích hợp gắn phát triển kinh tế với tiến bộ xã hội,

xây dựng nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Đón bắt những thời cơ, nhận diện đúng yêu cầu, thách thức đặt ra, Ban

Thường vụ Huyện ủy xác định cần tập trung cao độ sự lãnh đạo, chỉ đạo vào các

lĩnh vực, các công việc cụ thể như: Tập trung làm tốt công tác tư tưởng, chính trị,

nâng cao nhận thức của mọi người dân, trước hết là nông dân về đường lối đổi

mới, về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, chuyển đổi cơ cấu

cây trồng và vật nuôi; ưu tiên đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn. Xác

định việc xây dựng nông thôn mới vừa là việc làm mang tính cấp bách, vừa là

chiến lược xuyên suốt, trải rộng trên nhiều nội dung, lĩnh vực.

Thực hiện Nghị quyết số 04 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, quyết định

579 của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong

nông nghiệp, sau quá trình khảo sát thực tế ở nhiều xã trong huyện, ngày 29-11-

2001, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã ra Nghị quyết số 01-NQ/HU về việc dồn

chuyển ô thửa, ruộng đất nông nghiệp, khắc phục tình trạng manh mún, phân tán

ruộng đất, tổ chức lại đồng ruộng để chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp sang

sản xuất hàng hóa. Ban Thường vụ đã ra quyết định thành lập Ban chỉ đạo thực

hiện nhằm chỉ đạo cụ thể, sát đúng đối với từng vùng cụ thể

Triển khai thực hiện Nghị quyết, Huyện ủy, Ủy ban nhân dân đã tập

trung chỉ đạo thực hiện dồn chuyển ruộng đất thí điểm ở 5 vùng: Thị trấn,

63

Tiến Đức, Tân Tiến, Phúc Khánh, Duyên Hải; đối với các xã khác tiến hành

chọn từ 1-5 xóm/xã để tiến hành làm trước. Trong quá trình thực hiện, dự kiến

đúng tình huống cuộc vận động sẽ gặp phải sức ỳ của tư tưởng bảo thủ, trì trệ

trong nông dân, Ban chỉ đạo tập trung trước hết vào công tác tư tưởng, phát

huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, tạo sự nhất trí từ huyện đến cơ sở.

Cấp ủy các cấp tuyên truyền cho dân hiểu rõ lợi ích của việc dồn điền, mở

rộng thửa. Các Ban chỉ đạo đã tổ chức hội nghị ở từng xã, đưa đề án chuyển

đổi ruộng đất bàn bạc dân chủ, lấy ý kiến đóng góp của nhân dân. Sau khi

được sự đồng tình, nhất trí của dân, Huyện ủy tiến hành chỉ đạo từng biện

pháp cụ thể, thích hợp để dồn ô, đổi thửa. Tình trạng ruộng đất nhỏ lẻ, manh

mún đã căn bản được khắc phục. Qua chuyển đổi, kết hợp với quy hoạch mở

rộng đường trục, đường vùng và các tuyến kênh mương thủy lợi đảm bảo hợp

lý, nhân dân dễ dàng đầu tư thâm canh và đưa cơ giới hóa đến từng thửa

ruộng của mình. Những thửa ruộng lớn, liền khoảnh đã có điều kiện canh tác

thuận lợi, tiết kiệm đáng kể chi phí trong sản xuất, giảm được sức lao động.

Chương trình dồn điền, đổi thửa thể hiện rõ quyết tâm bứt phá trong phát triển

kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, phát triển mô hình trang

trại gia đình. Tuy nhiên, đây là công việc rất khó khăn và phức tạp, nhạy cảm

và tốn kém, đồng thời là huyện thí điểm trước trong việc thực hiện Nghị quyết

của Tỉnh ủy nên càng gặp nhiều khó khăn hơn nữa. Do vậy, trong quá trình

chỉ đạo thực hiện của Huyện ủy không thể nóng vội mà phải thận trọng và

tiến hành từng bước vững chắc.

Trong quá trình chỉ đạo sản xuất nhiệm kì Đại hội XII của Đảng bộ huyện,

nổi bật lên là việc tiếp tục ứng dụng thành công những tiến bộ khoa học - kỹ thuật

vào sản xuất, xây dựng và mở rộng các mô hình điểm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế,

chuyển mạnh sang sản xuất hàng hóa. Trên cơ sở quy hoạch vùng sản xuất, huyện

đã bố trí cơ cấu giống phù hợp với điều kiện sinh thái và chất đất, tập quán canh

tác từng vùng nhằm khai thác tối đa điều kiện và tiềm năng sẵn có, hỗ trợ đẩy

64

mạnh thâm canh, quyết tâm thay thế bộ giống cũ bằng các giống mới cho năng

suất và chất lượng cao. Các giống lúa ngắn ngày có năng suất và chất lượng cao

như Q5, Khâm Dục, Lưỡng Quảng, Khang Dân 18 chiếm đa số diện tích gieo

cấy... Mặc dù thời tiết năm 2001 diễn biến phức tạp, nhất là cuối vụ xuân và vụ

mùa, giá các loại vật tư nông nghiệp và giống lúa đều cao nhưng do có sự chỉ đạo

chặt chẽ, cương quyết, tổ chức thực hiện có hiệu quả ở cơ sở nên đã khắc phục

được khó khăn, giành thắng lợi toàn diện cả về diện tích, năng suất và sản lượng.

Năng suất lúa bình quân cả năm đạt 126,74 tạ/ha, tăng 2,15 tạ/ha, bằng 101,72%

so với năm 2000; sản lượng thóc cả năm đạt 139.013 tấn; tăng 2.637,4 tấn. bằng

101,93% so với năm 2000. Thắng lợi có ý nghĩa quan trọng là làm chuyển biến về

nhận thức của cán bộ và nhân dân trong việc chuyển đổi cơ cấu giống, mùa vụ,

tiếp thu quy trình gieo cấy tiên tiến. Nhiều xã đã quy hoạch được vùng chuyên

canh cây vụ xuân như: Hồng An, Tân Lễ, Cộng Hòa, Chí Hòa, Tây Đô, Tiến Đức,

Canh Tân.

Nằm trong chương trình kinh tế trọng điểm của huyện, ngành chăn nuôi

tiếp tục được phát triển mạnh theo hướng tăng số lượng, nâng cao chất lượng

và hiệu quả kinh tế. Kết quả điều tra ở thời điểm 1-10-2001, tổng đàn lợn là

92.368 con, tăng 11,81% so với cùng kỳ năm trước; tổng đàn trâu, bò là

15.510 con, trong đó đàn bò 14.994 con tăng 1,18% so với cùng kỳ, đàn bò lai

sin 7.895 con chiếm 52,65% so tổng đàn và tăng 12,42% so cùng kỳ; tổng đàn gia cầm 1.360.104 con, tăng 18,92% so cùng kỳ1. Xác định trong quá trình

phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa, tất yếu phải tổ chức sản xuất theo

quy mô trang trại. Trong Nghị quyết số 06/NQ-TW ngày 10-11-1998 của Bộ

Chính trị đã chỉ rõ: khuyến khích kinh tế hộ gia đình, hợp tác xã và trang trại

chăn nuôi quy mô vừa và lớn, chú trọng khâu giống, công nghiệp chế biến, thị

1 Báo cáo kết quả một năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ các cấp năm 2001.

trường xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi, thực hiện các biện pháp để nâng cao

65

năng suất và hạ giá thành sản phẩm, đưa chăn nuôi thực sự trở thành ngành

sản xuất chính trong nông nghiệp. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh

Thái Bình lần thứ XVI, Nghị quyết số 04 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về

chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi trong nông nghiệp; Nghị quyết số

03 của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện về đẩy mạnh phát triển chăn nuôi hàng

hóa, sản xuất chăn nuôi đã có bước phát triển mới, tăng cả về số lượng, chất

lượng và giá trị sản xuất, góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tăng giá trị sản

xuất nông nghiệp, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân.

Phát triển kinh tế trang trại là mũi nhọn đột phá trong chuyển dịch cơ

cấu kinh tế nông nghiệp. Căn cứ vào đặc điểm, vị trí địa lý, đất đai và thực tế

phát triển kinh tế trang trại những năm qua trên địa bàn huyện thì hình thức

phát triển trang trại chăn nuôi tổng hợp là có hiệu quả cao nhất trong giai

đoạn hiện nay. Phát triển trang trại chăn nuôi tổng hợp sử dụng hợp lý ruộng

đất, khí hậu, khắc phục tính thời vụ, hỗ trợ cho các ngành phát triển và bổ

sung cho nhau, từ đó sử dụng đầy đủ hơn nguồn lực của trang trại, đồng vốn

được luân chuyển nhanh và có lợi nhuận cao nhất trên đơn vị diện tích, nâng

cao giá trị ngày công lao động, sản phẩm làm ra đa dạng, tạo điều kiện cho

việc tiêu thụ sản phẩm. Những chủ trang trại có vốn lớn, phát triển kinh tế

trang trại với sự trợ giúp kỹ thuật trực tiếp của các tổ chức doanh nghiệp chăn

nuôi sẽ được sự trợ giúp đắc lực về kỹ thuật từ cán bộ của các doanh nghiệp

hoặc có thể áp dụng hình thức phát triển trang trại có sự liên kết đầu tư của

các doanh nghiệp. ở đây chủ trang trại đầu tư xây dựng chuồng trại, công lao

động còn các doanh nghiệp cung cấp giống, thức ăn, thuốc thú y và tiêu thụ

sản phẩm. Nhờ đầu tư hợp lý và có các biện pháp phát triển đồng bộ, năm

2003 giá trị sản xuất ngành chăn nuôi, thủy sản tăng 44,8%, sản lượng thịt hơi

xuất khẩu tăng 42,6% so với bình quân 5 năm (1996-2000). Giá trị sản xuất

ngành chăn nuôi ngày càng tăng nhanh so với ngành trồng trọt và chiếm tỷ

trọng ngày càng lớn trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp. Hết năm 2004,

66

toàn huyện đã hình thành được 426 gia trại, trang trại theo hướng tập trung,

chuyên canh (tăng 126 gia trại, trang trại so với năm 2003).

Việc chuyển đổi mô hình hợp tác xã đã dần đi vào ổn định. Thực hiện

Quyết định số 944 của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc chuyển đổi hợp tác xã

nông nghiệp theo luật hợp tác xã, toàn huyện đã có 33/35 hợp tác xã tiến hành

xong các bước chuyển đổi theo luật hợp tác xã. Hợp tác xã đã vươn lên thể

hiện rõ vai trò, vị trí, nhiệm vụ của mình: tự chịu trách nhiệm và chủ động tổ

chức, điều hành tốt với 6 khâu dịch vụ phục vụ sản xuất (dịch vụ thủy nông

chuyển giao khoa học kỹ thuật bảo vệ thực vật, sản xuất giống cây trồng, dịch

vụ thú y, dịch vụ quản lý điện nông thôn), đẩy mạnh hoạt động kinh doanh

cung ứng sản phẩm hàng hóa nông nghiệp đạt hiệu quả, tăng quay vòng vốn,

có lãi cao. Xây dựng và điều hành tốt các đề án, dự án chuyển đổi cơ cấu cây

trồng, vật nuôi, phát triển kinh tế nông nghiệp, thu hút các chương trình, dự

án đầu tư cho nông nghiệp - nông thôn về địa phương có hiệu quả cao.

Việc chuyển đổi hợp tác xã từng bước thể hiện những ưu điểm riêng,

điển hình cho việc chuyển đổi là hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp xã Độc Lập.

Từ khi chuyển đổi theo luật hợp tác xã so với trước chuyển đổi đã giảm chi

phí đóng góp của xã viên 5,1 kg/sào/năm; tổng doanh thu tăng 500 triệu đồng

(trong đó tăng nguồn lãi từ kinh doanh, bổ sung vào vốn 120 triệu đồng); từ

lãi kinh doanh đã trích lập quỹ phát triển sản xuất, quỹ phúc lợi xã viên, quỹ

khen thưởng xã viên luôn có số dư 40 triệu đồng. Hợp tác xã chủ động đầu tư

nâng cấp một số công trình thủy lợi với số vốn tư 30 đến 50 triệu đồng/năm

(18; tr. 58); đồng thời xử lý các tình huống rủi ro, thiên tai như: chống úng,

chống hạn, phòng trừ sâu bệnh; giúp xã viên giảm bớt chi phí đầu tư công lao

động trong nông nghiệp để có điều kiện mở mang các nghề sản xuất khác,

thúc đẩy kinh tế hộ phát triển.

Nhận thức việc phát triển sản xuất có ý nghĩa quan trọng đối với việc

cải thiện và nâng cao mức sống của người dân và bảo vệ sản xuất càng có ý

67

nghĩa quyết định, công tác phòng chống lụt, úng, bão, úng được Huyện ủy,

Ủy ban hành chính triển khai đầy đủ và luôn chủ động đối phó với các tình

huống. Các hạng mục công trình đê, kè, cống, điếm gác nước, trồng tre chắn

sóng được hoàn thành trước khi đến mùa bão lũ. Số vốn đầu tư lên đến 7 tỷ

300 triệu đồng, toàn tuyến đê quốc gia do huyện quản lý được bảo vệ an toàn;

một vài sự cố ở mỏ kè 3 Nhật Tảo và đê bối xã Tân Lễ đang được tiến hành tu

bổ sửa chữa.

Công tác thủy lợi đã đảm bảo tốt việc tưới, tiêu phục vụ sản xuất nông

nghiệp. Năm 2001 đã sử dụng 5 tỷ 700 triệu đồng xây dựng 10,3 km kênh

mương, cải tạo 12 trạm bơm điện, với số vốn 1 tỷ 300 triệu. Do hệ thống kênh

mương được xây dựng kiên cố, trạm bơm được cải tạo, chế độ khoán định

mức tiêu thụ điện đã tiết kiệm được 300 triệu đồng tiền điện so với năm 2000.

Các xã, thị trấn tiến hành nạo vét trục dẫn nước, tu bổ bờ vùng, bờ thửa đạt 17.000 m3 đất; đánh sa bồi cửa cống Tịnh Xuyên, kênh xả trạm bơm Minh Tân được 5.000 m3 đất. Trong năm 2002 đã xây mới thêm 8.000m kênh loại

ba, 900m kênh loại hai và cải tạo 1 trạm bơm từ trục ngang sang trục đứng

(với tổng kinh phí gần 4,4 tỷ đồng, trong đó, vốn ngân sách Nhà nước: 3,5 tỷ

đồng, vốn dân đóng góp 800 triệu đồng, còn lại là thủy lợi phí). Xí nghiệp

Quản lý khai thác công trình thủy nông Hưng Hà và nhiều hợp tác xã dịch vụ

nông nghiệp tiếp tục đổi mới công tác quản lý khai thác hệ thống thủy nông,

mặt khác hệ thống kênh mương được xây dựng kiên cố, trạm bơm được cải

tạo nên đã tiết kiệm giảm được nhiều chi phí điện năng.

Trong lĩnh vực công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và xây dựng cơ bản,

Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện tập trung chỉ đạo đẩy mạnh phát triển công

nghiệp, phát triển mạnh ngành nghề và làng nghề, tiếp tục tổ chức thực hiện

có hiệu quả chương trình phát triển nghề và làng nghề. Giá trị sản xuất công

nghiệp - tiểu thủ công nghiệp năm 2002 đạt 335,733 tỷ đồng, tăng 12,02% so

với năm 2001. Đây là mức tăng trưởng cao nhất so với 5 năm trước đó, có ý

68

nghĩa rất quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Trong nhiều

năm, Hưng Hà luôn là huyện có nhiều làng nghề truyền thống (32 làng), giá

trị sản xuât công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp so với các huyện luôn cao nhất

tỉnh. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XII nhiệm kỳ 2001-2005 đã

xác định: phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, trong đó công tác quy

hoạch và quản lý quy hoạch có vai trò đặc biệt quan trọng, ý nghĩa hết sức to

lớn trong nền kinh tế quốc dân.

Thi hành Nghị quyết số 01 của Ban Thường vụ tỉnh ủy, Quyết định 672

của Ủy ban nhân dân tỉnh, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XII về

một số chủ trương, chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp, tiểu thủ

công nghiệp. Huyện ủy, Ủy ban nhân dân đã xác định: để có vùng công

nghiệp tập trung, tạo bước đột phá lớn cho phát triển công nghiệp - tiểu thủ

công nghiệp thì vấn đề quy hoạch phát triển công nghiệp, tiểu thủ công

nghiệp thời kỳ 2001-2010 là hết sức quan trọng, có ý nghĩa lớn, cần thiết cho

cả trước mắt và lâu dài. Trước mắt, tiến hành quy hoạch 2 cụm công nghiệp:

cụm Thị trấn - Đồng Tu - Phúc Khánh; cụm công nghiệp Phương La; tích cực

xây dựng phát triển nghề - làng nghề, đồng thời quy hoạch hình thành 6 vùng

công nghiệp trong huyện. Trong 3 năm (từ 2002-2005), 2 cụm công nghiệp

trên đã có 34 dự án đầu tư với 154 tỷ đồng vào việc xây dựng, một số doanh

nghiệp đã đi vào sản xuất. Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả,

đơn vị sản xuất thấp, giá trị đạt từ 1-3 tỷ đồng/năm; đơn vị đạt giá trị cao từ

50-60 tỷ đồng/năm. Việc quy hoạch và xây dựng các cụm công nghiệp đã thu

hút hàng ngàn lao động; giá trị sản xuất của các doanh nghiệp góp phần đáng

kể vào giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp toàn huyện, đồng

thời tạo được bước đột phá lớn trong phát triển kinh tế của huyện nhà. Đồng

thời, nhờ việc quy hoạch các cụm công nghiệp nên đã đưa hết các lò tẩy

69

nhuộm thủ công nhiều đời nay nằm rải rác trong làng Phương La1 ra khu công

nghiệp, giảm ô nhiễm cho người dân trong làng do chất thải độc hại của hàng

ngàn tấn sợi mỗi năm. Nhờ được quy hoạch, tổ chức, thực hiện theo từng

bước chuyên nghiệp và có những lộ trình cụ thể, tổng giá trị sản xuất toàn

ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp năm 2001 đạt 299 tỷ 720 triệu đồng

(tăng 28 tỷ 408 triệu đồng so với năm 2000). Các mặt hàng chủ yếu như: chế

biến lương thực, khăn, vải các loại, đồ gỗ đều tăng từ 8,3% đến 14,3% so với

năm 2000. Riêng mặt hàng quần áo may sẵn 6 tháng đầu năm không đạt kế

hoạch, nhưng cuối năm do nhu cầu tiêu dùng tăng và có thị trường nên tăng

167% so với năm 2000. Một số nghề truyền thống được khôi phục, mở rộng

sản xuất như: chế biến nông sản, sản xuất vật liệu xây dựng, mộc, nề, mây tre

đan...; các nghề mới du nhập: đan thảm cói và xe quại cói xuất khẩu, dệt lưới,

tái chế nilon, thêu ren... tiếp tục phát triển khá tốt. Năm 2002 ở cả 34 xã, thị

trấn của huyện đều có nghề với 35 nghề khác nhau; toàn huyện đã có 31 làng

nghề theo tiêu chí mới, trong đó có 13 làng nghề truyền thống, 3 làng nghề

mới khôi phục và 15 làng nghề mới phát triển; các làng nghề của huyện bình

quân đã có 77,3% số lao động làm nghề, giá trị sản xuất nghề đạt 78,4% giá

trị sản xuất. Tổng số lao động làm nghề toàn huyện có trên 42.000 lao động,

chiếm 29,4% tổng số lao động.

Thực hiện phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm", dựa trên

cơ sở kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ, trong nhiệm kỳ 2001-2005, công tác xây

dựng cơ bản đã có những bước tiến vượt bậc. Huyện đã cùng cơ sở tích cực

tranh thủ sự hỗ trợ của cấp trên để gọi vốn đầu tư xây dựng cơ bản, tích cực

phối kết hợp với các chủ đầu tư, các Ban quản lý dự án tháo gỡ khó khăn

vướng mắc trong giải phóng mặt bằng, bảo vệ công trình xây dựng, đẩy nhanh

1 Làng nghề dệt vải sợi thuộc xã Thái Phương.

tiến độ thi công xây dựng các công trình ở địa phương. Tổng số vốn đầu tư

70

xây dựng cơ bản toàn xã hội trên địa bàn huyện năm 2002 thực hiện được

91.620 triệu đồng, tăng 25,27% so với năm 2001. Trong năm 2002, cơ bản

hoàn thành kế hoạch xây dựng các công trình, hạng mục công trình thiết yếu:

đường vào di tích văn hóa từ đường Lê Quí Đôn; đoạn đường 224C từ Văn

Cẩm đi Đông Đô; làm mới đường Kim Trung đi Minh Tân và nâng cấp một

số tuyến đường khác thuộc dự án WB2; tổ chức khởi công xây dựng đoạn

đường 227 vào làng nghề Phương La; cơ bản hoàn thành công tác đền bù giải

phóng mặt bằng xây dựng cống Đồng Nhân; xây dựng cơ bản xong trụ sở làm

việc khối Dân vận, trụ sở ủy ban nhân dân huyện; đưa 9 trường học cao tầng

vào sử dụng, tổ chức khởi công xây dựng thêm 7 trường học cao tầng ở Điệp

Nông, Tân Hòa, Thái Phương, Thái Hưng, Liên Hiệp, Chí Hòa và Thị trấn;

xây thêm 2 trạm xá kiên cố và nhiều phòng học nhà trẻ, mẫu giáo; xây dựng

một số đường bê tông của xã, thôn, xóm...

Ngành giao thông vận tải năm 2001 có nhiều cố gắng, xây dựng mới,

nâng cấp, đắp nền đường 21,443 km; duy tu sửa chữa 70,3 km; đường thôn

xóm do nhân dân góp vốn 7,5 km; xây dựng 16 cống và 3 cầu, với số vốn 3 tỷ

106 triệu đồng (trong đó vốn ngân sách tỉnh: 445 triệu; vốn ngân sách huyện:

896 triệu, vốn ngân sách xã: 1 tỷ 015 triệu, vốn dân đóng góp: 750 triệu).

Khối lượng vận tải, doanh thu vận tải hàng hóa và hành khách, đường bộ,

đường sông đều tăng trên 10%. Việc kiểm tra an toàn giao thông đường bộ,

đường thủy được tiến hành thường xuyên. Các Ban Chỉ đạo an toàn giao

thông từ huyện tới cơ sở được củng cố bổ sung, tăng cường hiệu lực, hiệu quả

hoạt động; công tác tuyên truyền sâu rộng. Tuy nhiên, số vụ tai nạn giao

thông giảm, song tỷ lệ còn thấp (năm 2003 tai nạn giao thông đường bộ xảy ra

9 vụ, làm chết 8 người, bị thương 6 người; trong đó có vụ tai nạn nghiêm

trọng chết 2 người, bị thương 2 người).

Bên cạnh hoạt động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, hoạt động tài

chính - thương mại - ngân hàng cũng có bước tiến bộ mới.

71

Thu ngân sách Nhà nước năm 2001 thực hiện 33 tỷ 140 triệu 500 ngàn

đồng, đạt 111% dự toán, bằng 116% so với năm 2000; năm 2003 ước tính đạt

66.115 triệu đồng, trong đó thu ngân sách phần giao kế hoạch là 43.817 triệu

đồng, đạt 154% dự toán, bằng 125% so với năm 2002; thu trên địa bàn 13.259

triệu đồng, đạt 138% dự toán, bằng 117% so với năm 2002. Tổng chi ngân

sách Nhà nước năm 2003 ước thực hiện: 33.713,8 triệu đồng, trong đó chi

ngân sách huyện 31.974 triệu đồng, đạt 161% dự toán, bằng 123% so với năm

2002. Các chỉ tiêu chi phát triển kinh tế tăng, nhất là sự nghiệp thủy lợi. Chi

tiêu dùng thường xuyên và đột xuất của các cơ quan đảng, chính quyền, đoàn

thể các cấp ở mức độ hợp lý.

Các hoạt động thương mại, dịch vụ tiếp tục phát triển đáp ứng cơ bản nhu

cầu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân. Công tác quản lý thị trường, chống buôn

lậu, gian lận thương mại được tăng cường, góp phần bảo vệ lợi ích người tiêu

dùng. Các chợ nông thôn, các điểm dịch vụ tiếp tục được mở rộng đáp ứng kịp

thời nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân. Huyện đã hỗ trợ đầu tư kinh

phí tu sửa nâng cấp cho 7 chợ nông thôn, một số điểm dịch vụ mới ra đời góp

phần đẩy mạnh lưu thông buôn bán. Tổng giá trị thương mại, dịch vụ năm 2003

ước đạt 275 tỷ đồng, bằng 110% so với năm 2002. Tuy nhiên, việc tiêu thụ sản

phẩm nông nghiệp còn nhiều hạn chế, giá đầu vào nông nghiệp vẫn cao ảnh

hưởng không nhỏ tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn huyện.

Ngân hàng Nông nghiệp huyện tiếp tục cải tiến thủ tục cho vay, chủ

động nguồn vốn, đáp ứng được nhu cầu vốn phát triển của các thành phần

kinh tế và các hộ sản xuất kinh doanh trong huyện. Năm 2001 đã huy động

vốn đạt 75 tỷ 325 triệu đồng, bằng 138% so với cùng kỳ; tổng dư nợ 59 tỷ

025 triệu đồng, bằng 120% (trong đó, quốc doanh: 300 triệu; công ty trách

nhiệm hữu hạn: 70 triệu; hộ sản xuất: 58 tỷ 655 triệu). Ngân hàng Nông

nghiệp huyện đã đẩy mạnh các hoạt động chuyên môn, góp phần tích cực thực

hiện các chương trình kinh tế - xã hội của huyện. Năm 2003 cho vay ở các

72

chương trình: Chương trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng: 1.835 triệu đồng;

chương trình chăn nuôi gia súc, gia cầm: 23.240 triệu đồng; chương trình phát

triển làng nghề, xã nghề: 17.084 triệu đồng; chương trình giải quyết việc làm,

cho người lao động vay đi lao động nước ngoài có thời hạn: 1.224 triệu đồng.

2.2.2. Về phát triển văn hóa - xã hội

Cùng với sự chuyển dịch của kinh tế, các hoạt động văn hóa - xã hội

của huyện có bước chuyển rõ nét theo hướng phát triển, lành mạnh và tích

cực. Ngành giáo dục - đào tạo đã khắc phục được những yếu kém, nỗ lực

vươn lên đạt được thành tích cao ở một số mặt công tác. Ngành y tế, dân số,

kế hoạch hóa gia đình được tăng cường cơ sở vật chất, mạng lưới y tế, dân số

được kiện toàn. Chất lượng khám, chữa bệnh, dịch vụ kế hoạch hóa được

nâng lên một bước. Công tác văn hóa, thông tin vẫn duy trì được phong trào;

việc xây dựng nếp sống văn hóa có nhiều mặt tích cực; việc thực hiện các

chính sách xã hội nhìn chung đảm bảo, kịp thời, đúng đối tượng.

Từ nhận thức phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu, là một trong

những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người. Thực hiện Nghị

quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện

lần thứ XII, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện xác định: tập trung làm chuyển

biến mạnh mẽ về nhận thức cho cán bộ, đảng viên và toàn dân hiểu rõ vai trò,

vị trí của giáo dục; tạo sự chuyển biến cơ bản, toàn diện trong phát triển giáo

dục, đảm bảo cân đối giữa các ngành học, cấp học; tăng cường chất lượng và

hiệu quả lãnh đạo giáo dục; xây dựng nhanh các trường đạt chuẩn quốc gia;

ưu tiên đảm bảo điều kiện phục vụ yêu cầu giảng dạy và học tập; phấn đấu

đáp ứng nhu cầu về nguồn lực con người cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã

hội, đổi mới đất nước, quê hương; huy động mọi nguồn lực để đầu tư cho giáo

dục và phát triển giáo dục - đào tạo tương xứng với tiềm năng, truyền thống

của địa phương. Các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các

73

đoàn thể chính trị - xã hội từ huyện đến cơ sở tập trung cao độ sự lãnh đạo,

chỉ đạo đối với công tác giáo dục. Xã hội hóa giáo dục được đẩy mạnh trong

nhiều năm đã tạo được sự chuyển biến căn bản trong nhận thức và hành động

của các cấp, các ngành và nhân dân đối với giáo dục. Đến năm 2005, toàn

huyện đã có 144 cơ sở giáo dục, với trên 63.000 học sinh, cơ bản đáp ứng nhu

cầu học tập của nhân dân. Đã hoàn thành việc sát nhập Nhà trẻ với Mẫu giáo

thành trường Mầm Non; 35 trường Mầm non đã huy động được 54,4% số

cháu vào Nhà trẻ, vượt 9,4% chỉ tiêu Đại hội; 93% số cháu học mẫu giáo,

vượt mục tiêu Đại hội 3%. Có 35 trường tiểu học với 19.369 học sinh; 33

trường THCS với 19.107 học sinh; 5 trường THPT, 1 trung tâm GDTX, 1

trung tâm hướng nghiệp - dạy nghề; bình quân 5 năm có 60,2% học sinh tốt

nghiệp THCS vào học THPT; 34 trung tâm học tập cộng đồng hoạt động theo

nhu cầu "cần gì học nấy" của nhân dân. Chất lượng giáo dục toàn diện được

nâng lên dần, chất lượng phổ cập tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập THCS được

duy trì, năm sau cao hơn năm trước. Chất lượng học sinh giỏi có chuyển biến

tốt ở tất cả các bậc học. Học sinh đỗ đại học, chuyên nghiệp ngày càng tăng.

Đã có 28 trường tiểu học, 1 trường THCS đạt chuẩn quốc gia giai đoạn I. Đội

ngũ cán bộ quản lý, giáo viên đang được tăng cường theo hướng chuẩn hóa.

Sự tiến bộ trong công tác lãnh đạo, phát triển giáo dục dựa trên cơ sở tiếp nối

và khơi dậy truyền thống hiếu học của quê hương kết hợp với những biện

pháp thúc đẩy động lực của các cấp, các ngành là những biện pháp hữu hiệu

được Đảng bộ đúc rút phục vụ cho việc hoạch định chiến lược thu hút, bồi

dưỡng nhân tài nhằm phát huy nguồn lực nhân văn của huyện.

Phong trào xây dựng đời sống văn hóa mới theo tinh thần Nghị quyết

Hội nghị Trung ương 5, khóa VIII được đẩy mạnh và ngày càng đi vào chiều

sâu. Trong chỉ đạo, Huyện ủy đã lồng ghép, quy tụ nhiều phong trào thuộc

chuyên môn của các ban ngành như: xây dựng trường chuẩn quốc gia, xã hội

hóa giáo dục, xây dựng trạm xá xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia... và các phong

74

trào của các tổ chức quần chúng như: phong trào Uống nước nhớ nguồn,

Người tốt việc tốt, Xóa đói giảm nghèo, Rèn luyện thể dục thể thao theo

gương Bác Hồ vĩ đại,... nhờ vậy đã tổng hợp được sức mạnh của cả hệ thống

chính trị và nhân dân, mở rộng phong trào. Trong năm 2002, toàn huyện đã có

37.424 gia đình đăng ký xây dựng gia đình văn hóa (bằng 113,1% so với năm

2001; 149 dòng họ đăng ký xây dựng dòng họ văn hóa (bằng 124,1% so với

năm 2001); có 138/218 làng xây dựng được Quy ước hương ước, trong đó 98

làng đã đăng ký xây dựng đạt danh hiệu làng văn hóa các cấp. Ủy ban nhân

dân huyện đã có quyết định công nhận và khen 33 đơn vị đạt danh hiệu làng

văn hóa, cơ quan văn hóa cấp huyện, trong đó có 9 làng và 1 cơ quan đạt danh

hiệu thôn, làng, cơ quan văn hóa cấp tỉnh. Tiếp tục triển khai Quyết định 2080

của Ủy ban nhân dân tỉnh về thực hiện nếp sống văn hóa, đến năm 2005, có

193/256 thôn, làng, 55 cơ quan, đơn vị, 565 dòng họ và 60.204/67.786 hộ gia

đình đăng ký xây dựng đời sống văn hóa mới. Công tác quản lý Nhà nước về

các hoạt động lễ hội, quản lý các di tích văn hóa, lịch sử trên địa bàn huyện và

thanh tra kiểm tra các hoạt động văn hóa được chú trọng thực hiện nghiêm

túc. Việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, xây mộ và

tổ chức lễ hội được các địa phương thực hiện nghiêm túc và đã đi vào nề nếp.

Đời sống văn hóa mới đã thấm sâu vào cuộc sống của nhân dân, là một động

lực quan trọng và bền vững của các phong trào cách mạng tại địa phương.

Công tác thể dục thể thao tiếp tục phát triển cả về thể thao quần chúng

và thể thao thành tích cao, là đơn vị dẫn đầu của tỉnh (3 năm liên tục), Đại hội

thể dục thể thao của huyện và của cơ sở diễn ra sôi nổi, giáo dục thể chất

trong nhà trường được duy trì nề nếp; đã tổ chức được 150 giải của các bộ

môn, tham gia 15 giải tỉnh, đạt 17 huy chương vàng, 42 huy chương bạc, 28

huy chương đồng.

Cùng với sự phát triển của sự nghiệp giáo dục, văn hóa, công tác y tế

cũng có nhiều chuyển biến, hệ thống y tế từng bước được củng cố và phát

75

triển. Các cấp, các ngành thường xuyên chỉ đạo ngành y tế tích cực, chủ động

phòng chống dịch bệnh, không để xảy ra dịch lớn. Các chương trình y tế có

mục tiêu được duy trì và nâng dần chất lượng; tỷ lệ tiêm chủng mở rộng hàng

năm đạt 99,9%. Công tác vệ sinh môi trường được đẩy mạnh; tỷ lệ hộ gia

đình dùng nước sạch đạt trên 80%, có nhà tiêu hợp vệ sinh đạt 45%; nhiều xã,

thôn có đội thu gom, xử lý rác thải; một số trang trại, gia trại chăn nuôi đã xây

dựng hầm Biôga, bảo đảm vệ sinh môi trường. Ngành y tế tiếp tục tập trung

triển khai thực hiện hiệu quả chiến lược bảo vệ sức khỏe cho nhân dân theo

chủ trương của Chính phủ và Đề án của UBND tỉnh Thái Bình. Toàn huyện

đã có 10 xã đạt chuẩn quốc gia về y tế. Tuy nhiên, trong lĩnh vực y tế còn

thiếu sự đồng đều về chất lượng cán bộ ở cả 2 tuyến huyện và xã; thiếu cán bộ

có trình độ cao và chuyên khoa; trang thiết bị phục vụ chẩn đoán, điều trị

xuống cấp, chưa được bổ sung kịp thời.

Công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình được các cấp, các ngành và mọi

người dân trong huyện tích cực thực hiện nên vẫn duy trì được kết quả cao.

Các mục tiêu về chiến lược dân số được giữ vững, chất lượng dân số được

nâng lên rõ rệt; tỷ lệ sinh giảm từ 1,51% năm 2001 xuống còn 1,33% năm

2004. Các mục tiêu về chăm sóc, giáo dục, vui chơi giải trí cho trẻ em ngày

càng được quan tâm và tổ chức thực hiện tốt; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh

dưỡng giảm từ 28,3% năm 2001 xuống còn 26,7% năm 2004.

Các chính sách xã hội được thực hiện có nền nếp, đã và đang trở thành

phong trào xã hội rộng lớn. Chế độ, chính sách đối với người có công; chính

sách hậu phương, quân đội; chính sách bảo hiểm xã hội cùng các hoạt động

nhân đạo, từ thiện... được các cấp, các ngành quan tâm chỉ đạo. Thực hiện

Nghị quyết số 09 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về xóa nhà ở dột nát cho hộ

nghèo, trong 2 năm 2004, 2005 đã tích cực vận động các nguồn lực và đã xây

dựng được 1.105 căn nhà tặng hộ nghèo, hộ chính sách; cơ bản hoàn thành

việc xóa nhà ở dột nát cho người nghèo. Trong 5 năm (2001-2005), đã cơ bản

76

giải quyết việc làm cho trên 15.000 người; tăng tỷ lệ thời gian sử dụng lao

động ở nông thôn từ 73% năm 2000 lên 78% năm 2005; số lao động làm nghề

trong trong khu vực công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ là 75.228

người, chiếm 67,7% dân số trong độ tuổi lao động; xuất khẩu lao động được

1.327 người. Trung tâm hướng nghiệp, dạy nghề của huyện đã đào tạo trên

2.000 lao động, hầu hết người học nghề ra trường đều có việc làm; đảm bảo

dạy nghề cho học sinh phổ thông, từng bước tăng tỷ lệ lao động qua đào tạo.

Trên lĩnh vực giữ gìn trật tự an toàn xã hội, phong trào quần chúng bảo

vệ an ninh Tổ quốc của huyện luôn được duy trì tốt với phương châm hướng

về cơ sở, phát huy sức mạnh tổng hợp giải quyết nhiều vấn đề nảy sinh phức

tạp về an ninh trật tự, nhất là an ninh nông thôn. Công tác tiếp dân và giải

quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân được chú trọng, hầu hết các đơn

thư khiếu tố được giải quyết kịp thời, đúng luật. Các ngành khối nội chính đã

phối hợp chặt chẽ, nâng cao chất lượng hoạt động thanh tra, kiểm tra, điều tra,

truy tố, xét xử, đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; đồng thời tập

trung giải quyết có hiệu quả các vụ việc phức tạp phát sinh từ cơ sở.

Trong công tác xây dựng Đảng, huyện luôn chú trọng cả về chính trị, tư

tưởng và tổ chức, trong đó trọng tâm là củng cố, nâng cao vai trò, năng lực

lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đảng viên, tạo sự

chuyển biến tích cực trong việc mở rộng dân chủ, tang cường sự đoàn kết

thống nhất và sức chiến đấu trong từng đảng bộ, chi bộ; thực hiện có nền nếp

các chế độ công tác và nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng.

Trong công tác giáo dục chính trị - tư tưởng đã phát huy được sức

mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị. Các chỉ thị, nghị quyết của Đảng

được triển khai thực hiện nghiêm túc; tỷ lệ đảng viên tham gia học tập đạt trên

80%; các cấp, các ngành đã thường xuyên giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác -

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; giáo dục truyền thống, đạo đức cách mạng, bồi

dưỡng trình độ, năng lực lãnh đạo cho cán bộ, đảng viên. Vì vậy, những năm

77

qua, đại đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân đều kiên định về chính trị, giữ

gìn phẩm chất, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng.

Công tác tổ chức xây dựng Đảng: Thực hiện Nghị quyết Trung ương 3

(khóa VII), Nghị quyết Trung ương 6 - lần 2 (khóa VIII), các cấp ủy Đảng đã

tập trung vào nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ

sở đảng. Các tổ chức cơ sở đảng luôn giữ vững vai trò lãnh đạo trong phát

triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định tình hình chính trị địa phương và xây

dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh. Năm 2004 có 45,9% cơ sở Đảng

đạt trong sạch vững mạnh; 54,1% cơ sở đảng hoàn thành nhiệm vụ. Năm

2005 có 62/62 cơ sở đảng trong huyện đã tổ chức thành công Đại hội nhiệm

kỳ 2005-2010. Công tác phát triển đảng viên được quan tâm lãnh đạo và đạt

kết quả tốt. 5 năm qua đã mở được 27 lớp tìm hiểu về Đảng cho gần 3000

đoàn viên ưu tú và quần chúng tích cực, kết nạp 1.263 đảng viên mới, tăng

278 đồng chí so với nhiệm kỳ trước. Hàng năm, các cấp ủy đều triển khai

kiểm điểm, tự phê bình và phê bình, đánh giá, phân mức đảng viên. Năm

2004, toàn huyện có 72,7% đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ;

26,5% đảng viên đủ tư cách hoàn thành nhiệm vụ; còn 0,74% đảng viên vi

phạm tư cách. Bên cạnh đó, công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và bố trí,

sử dụng cán bộ được các cấp ủy Đảng quan tâm lãnh đạo. Trong 5 năm, đã cử

12 đồng chí học cao cấp lý luận, 743 đồng chí cán bộ xã đi đào tạo, bồi dưỡng

tại trường chính trị và cao đẳng kinh tế - kỹ thuật Thái Bình; bồi dưỡng lý

luận chính trị phổ thông cho 1.239 đảng viên mới. Trình độ, năng lực của đội

ngũ cán bộ các cấp được nâng lên; phẩm chất, đạo đức, lối sống và tác phong,

lề lối làm việc có nhiều tiến bộ, đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ được phân

công.

Hệ thống chính quyền từ huyện đến cơ sở thường xuyên được củng cố,

kiện toàn; hiệu lực quản lý, điều hành từng bước được nâng cao.

78

Hội đồng nhân dân các cấp đã từng bước đổi mới nội dung, phương

thức hoạt động. Các kỳ họp hội đồng nhân dân đã cụ thể hóa, dân chủ thảo

luận và quyết định những vấn đề quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội,

quốc phòng, an ninh và những nội dung chuyên đề theo quy định của pháp

luật, thực hiện chức năng giám sát, phát hiện, kiến nghị. Các cấp ủy đảng,

chính quyền, đoàn thể đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thành công cuộc bầu cử

đại biểu quốc hội khóa XI, bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, kiện toàn Ủy

ban nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2004-2009.

Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, các tố chức kinh tế, xã hội

đã bám sát nhiệm vụ chính trị của huyện, tập trung tuyên truyền, vận động các

tầng lớp nhân dân thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của

Nhà nước. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân thường xuyên đổi mới

nội dung, phương thức và hoạt động ngày càng có hiệu quả; tích cực thực

hiện các phong trào thi đua yêu nước như: "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời

sống văn hóa", "Hội viên người cao tuổi gương mẫu", "Cựu chiến binh gương

mẫu, gia đình hội viên cựu chiến binh tiên tiến", "Công nhân, viên chức thi

đua lao động giỏi, lao động sáng tạo", "Thanh niên tình nguyện, xây dựng bảo

vệ Tổ quốc", "Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, nuôi dạy con tốt,

xây dựng gia đình hạnh phúc", "Nông dân sản xuất kinh doanh giỏi, đoàn kết

giúp nhau xóa đói, giảm nghèo và làm giàu". Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể

nhân dân đã tích cực vận động thành viên, hội viên, đoàn viên tham gia phát

triển kinh tế - xã hội, góp phần tích cực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế

theo hướng công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn.

Trong 5 năm (2001-2005), dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Hưng

Hà, nền kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện đã có bước phát triển vượt bậc so

với giai đoạn 1996-2000. Các mục tiêu kinh tế chủ yếu đều đạt và vượt mục

tiêu Đại hội đề ra. Tổng giá trị sản xuất đến năm 2005 ước đạt 1.613 tỷ đồng

(tăng 58,6% so với bình quân 1996-2000). Sản xuất nông nghiệp giành thắng

79

lợi toàn diện cả về trồng trọt, chăn nuôi và thủy sản, chuyển dịch theo hướng

sản xuất hàng hóa, tăng cả số lượng, chất lượng và giá trị sản xuất. Sản xuất

công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đang phát triển theo hướng tập trung, mở

rộng quy mô sản xuất, tốc độ tăng trưởng khá, đã và đang trở thành lĩnh vực

kinh tế quan trọng, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và kinh

tế nông thôn. Hoạt động thương mại, dịch vụ tiếp tục phát triển, đáp ứng đủ,

kịp thời về vật tư, hàng hóa cho sản xuất và tiêu dùng của nhân dân. Sự

nghiệp văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ, tạo chuyển biến tích cực về tư

tưởng, đạo đức, lối sống, góp phần nâng cao dân trí, ổn định chính trị, phát

triển kinh tế - xã hội. Công tác quốc phòng, an ninh được tăng cường, trật tự

xã hội có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần giữ vững ổn định chính trị -

xã hội trong huyện. Hệ thống chính trị được củng cố, kiện toàn, từng bước đổi

mới nội dung, phương thức hoạt động; nâng cao năng lực và hiệu quả lãnh

đạo, chỉ đạo, điều hành, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trên lĩnh vực kinh tế

- xã hội vẫn còn một số tồn tại, yếu kém. Trong sản xuất nông nghiệp, việc

chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm, chưa đồng đều. Quy mô sản xuất công

nghiệp còn nhỏ, chủ yếu là tiểu thủ công nghiệp. Lĩnh vực văn hóa - xã hội

còn nhiều vấn đề bức xúc, chất lượng giáo dục toàn diện chưa cao, thiếu tính

bền vững; cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ giảng dạy và học tập còn nhiều

khó khăn. Chất lượng khám, chữa bệnh ở một số cơ sở y tế chưa cao. Công

tác an ninh, bảo vệ trật tự an toàn xã hội còn diễn biến phức tạp. Việc tổ chức

thực hiện của các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể còn nhiều hạn chế, có

mặt hiệu quả còn thấp. Đây chính là những thách thức, nhiệm vụ đặt ra đối

với Đảng bộ huyện Hưng Hà trong lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hôi giai

đoạn 2005-2010.

80

Chương 3 NHẬN XÉT CHUNG VÀ NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHỦ YẾU

3.1. NHẬN XÉT CHUNG

3.1.1. Những thành tựu đạt đƣợc

Quá trình lãnh đạo, xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội từ năm 1996

đến năm 2005 của Đảng bộ huyện Hưng Hà đã mang lại những kết quả quan

trọng. Có thể khái quát những thành tựu gần 10 năm đó ở Hưng Hà trên

những mặt cơ bản sau đây:

Thứ nhất, đó là những thành tựu vượt bậc trong phát triển kinh tế. Từ

những khó khăn phải đối mặt với nghèo đói, lạc hậu, đến nay Hưng Hà đã

đứng vững trên nền tảng kinh tế - xã hội khá phát triển. Đối với Đảng bộ,

thành tựu này thể hiện ở sự chuyển biến của cơ chế quản lý, nếp nghĩ, cách

làm. Sự chuyển dịch tích cực về cơ cấu gồm cả cả cơ cấu kinh tế ngành, cơ

cấu thành phần và cơ cấu vùng. Cơ cấu kinh tế được chuyển dịch theo hướng

công nghiệp hóa, hiện đại hóa với sự gia tăng tỷ lệ công nghiệp - xây dựng,

dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp trong GDP. Từ năm 2001-2005, 4 chương trình

kinh tế trọng điểm của huyện đã được triển khai thực hiện đồng bộ và có hiệu

quả, đặc biệt về chương trình phát triển nghề và làng nghề, đã lập được một

đề án chung về phát triển nghề và làng nghề tạo tiền đề cho việc quy hoạch

tổng thể phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp của huyện. Điều đó

không chỉ mở ra khả năng xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống của đại bộ

phận nhân dân mà còn mở ra nhiều hướng phát triển mới, tạo ra công ăn việc

làm cần thiết cho lao động trong huyện. Các mô hình kinh tế theo trang trại,

gia trại, doanh nghiệp, công ty cổ phần..., tạo ra khả năng cạnh tranh lớn, cho

phép ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật tốt hơn, đem lại hiệu quả kinh tế

81

cao hơn. Với gần một thập niên tìm tòi, mỗi ngành kinh tế đã xác định được

hướng đi riêng của mình, tạo ra khả năng tương hỗ của toàn bộ nền kinh tế và

chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Thứ hai, đó là những chuyển biến của văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục -

thể thao, trình độ dân trí. Phong trào xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa

đã phát triển sâu rộng trong huyện vừa bảo tồn, phát huy những giá trị truyền

thống tốt đẹp và bản sắc văn hóa của địa phương, đồng thời tiếp thu những

yếu tố tiến bộ và hiện đại của dân tộc và thời đại. Bản sắc văn hóa của quê

hương, truyền thống hiếu học của một vùng quê văn hiến, tinh thần yêu nước

và cách mạng, bản chất cần cù, sáng tạo trong lao động, chân thành trong

cuộc sống... lại được phát huy trên một nền tảng mới, bối cảnh mới để tạo nên

sức bật mới. Đó là sự biểu hiện của số lượng xóm làng, gia đình được công

nhận đạt danh hiệu "văn hóa", và quan trọng hơn, các giá trị văn hóa đó đã

chuyển hóa thành ý thức của mỗi người dân Hưng Hà về sự cố gắng, nỗ lực

thoát khỏi đói nghèo, làm giàu chính đáng, nâng cao năng lực làm chủ tri

thức, ý chí đấu tranh trước những khó khăn, thử thách. Các lĩnh vực giáo dục

- đào tạo, y tế, văn hóa có bước phát triển mới gắn với hàng loạt chủ trương

như: xã hội hóa giáo dục, mở rộng y tế cộng đồng, phát triển thể thao quần

chúng và thể thao phong trào với thể thao thành tích cao. Kết quả đạt được

trên tất cả các lĩnh vực đã tác đọng tích cực vào việc nâng cao đời sống nhân

dân, nâng cao trình độ dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, cải thiện

chất lượng nguồn nhân lực để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại

hóa không chỉ của địa phương mà còn góp phần cung cấp nguồn nhân lực cho

đất nước trên tất cả các lĩnh vực.

Thứ ba, đó là giải quyết thành công nhiều mục tiêu xã hội, nâng cao

đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Cùng với sự phát triển của kinh

tế, đời sống của nhân dân được cải thiện đáng kể, đáp ứng ngày càng tốt hơn

các nhu cầu về ăn, mặc, ở, đi lại, học hành. Do sự chuyển động tích cực của

82

các thành phần kinh tế, các ngành nghề, quy mô sản xuất mở rộng, các ự án

kinh tế được thực hiện, nhiều dự án tiểu thủ công nghiệp được triển khai,

nhiều nghề mới được du nhập, làm tăng tỷ lệ thời gian lao động của người

dân. Các vấn đề xã hội đã được lồng ghép, giải quyết trong mục tiêu kinh tế,

nổi bật là kết quả của xóa đói, giảm nghèo, giáo dục đào tạo. Các chính sách

đền ơn đáp nghĩa, hậu phương quân đội, lao động và việc làm, an sinh và an

toàn xã hội,... đều tiến bộ vượt bậc. Cùng với việc tập trung vào nhiệm vụ

trọng tâm là phát triển kinh tế, Đảng bộ huyện đã quan tâm đúng mức đến vấn

đề văn hóa, xã hội, đến chiến lược con người; gắn kết kinh tế với văn hóa xã

hội, phát huy những giá trị văn hóa, sự ổn định xã hội vào công cuộc phát

triển kinh tế để đưa đến sự phát triển mạnh về kinh tế, xây dựng Hưng Hà

phát triển hài hòa trên các lĩnh vực, đời sống của người dân ngày một giàu có,

văn minh.

Thứ tư, đó là không ngừng tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh,

giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Công tác quân sự quốc

phòng địa phương được quan tâm chỉ đạo chặt chẽ và có hiệu quả. Các lực

lượng vũ trang từ bộ đội địa phương, dân quân tự vệ đến dự bị động viên...

đều được quan tâm chăm lo, xây dựng củng cố, tạo khả năng phối hợp tốt với

bộ đội chính quy trong huấn luyện, nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu.

Công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân hoạt động có nề

nếp. Lực lượng công an nhân dân và thế trận an ninh nhân dân được củng cố

trở thành nhân tố quyết định đảm bảo giữ vững an ninh chính trị, trật tự an

toàn xã hội trên địa bàn huyện, đảm bảo công cuộc xây dựng, phát triển kinh

tế diễn ra thuận lợi.

Thứ năm, đó là những kết quả tích cực trong công tác xây dựng, chỉnh

đốn Đảng. Nhận thức rõ vai trò của công tác xây dựng Đảng, Đại hội Đảng bộ

huyện Hưng Hà các nhiệm kỳ đều nhấn mạnh đến yêu cầu, nhiệm vụ và đề ra

và các biện pháp xây dựng Đảng. Nhờ coi trọng công tác xây dựng đảng mà

83

năng ực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ luôn được tăng cường, bảo

đảm vai trò lãnh đạo của mình trên địa bàn cấp huyện phải thường xuyên đối

mặt với khó khăn của lũ lụt, thiên tai, của trình độ kinh tế thấp kém mà nhu

cầu đòi hỏi phải tăng tốc, của nhiều vấn nạn xã hội nảy sinh trong quá trình

chuyển biến của đời sống kinh tế - xã hội, của những rào cản tư duy cũ không

còn phù hợp với kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Có thể nói,

những thành tựu đạt được của Hưng Hà rất toàn diện trên tất cả các mặt chính

trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh đều gắn liền với vai trò lãnh

đạo của Đảng, với công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

3.1.2. Những hạn chế, yếu kém

Bên cạnh những thành tựu đạt được, trong những năm 1996-2005,

trong lĩnh vực kinh tế - xã hội còn một số tồn tại, hạn chế. Các ngành kinh tế,

xã hội phát triển còn chậm, thiếu đồng bộ, chưa tương xứng với tốc độ tăng

trưởng kinh tế trong thời kỳ hội nhập.

Một là, các chỉ tiêu kinh tế chưa đạt mục tiêu Đại hội đề ra.

Sản xuất nông nghiệp: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp chậm,

chưa đồng đều, quy mô trang trại còn nhỏ lẻ, tự phát, phân tán và chưa có sức

thuyết phục cao. Việc chuyển nông nghiệp sang sản xuất hàng hóa còn chậm,

chưa tạo được vùng sản xuất hàng hóa rõ rệt, chưa có sự liên kết giữa sản xuất

với chế biến; tiêu thụ sản phẩm vẫn còn nhiều khó khăn; việc thực hiện quy

hoạch, kế hoạch vùng chuyển đổi, vùng chuyên canh, vùng chăn nuôi chưa

mạnh, còn lúng túng; đã xuất hiện ô nhiễm môi trường và biến đất chuyển đổi

thành thổ cư; việc tiếp thu cây, con giống mới và ứng dụng những quy trình

công nghệ tiên tiến còn chậm; việc dồn chuyển ô thửa ruộng đất nông nghiệp

chưa đạt yêu cầu; còn 7 xã chưa xây dựng được cánh đồng đạt giá trị sản xuất

50 triệu đồng/ha/năm.

84

Sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, xây dựng cơ bản: Quy mô

sản xuất công nghiệp còn nhỏ, chủ yếu là tiểu thủ công nghiệp. Việc quy

hoạch, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng các khu công nghiệp, cụm công

nghiệp gặp nhiều khó khăn; một số nghề mới chưa bền vững. Vệ sinh môi

trường trong các làng nghề còn nhiều bức xúc. Đầu tư xây dựng cơ bản còn

dàn trải, tỉ lệ nợ đọng vốn tại các công trình còn cao; thiếu vốn đầu tư xây

dựng về thủy lợi. Hệ thống đường giao thông và một số trường học xuống cấp

nghiêm trọng, nhưng việc đầu tư nâng cấp, duy tu, bảo dưỡng còn nhiều khó khăn.

Thương mại dịch vụ : doanh số xuất khẩu thấp; thiếu chủ động trong

mở rộng và chiếm lĩnh thị trường; thương mại quốc doanh và tập thể có chiều

hướng giảm mạnh; hoạt động quản lý thị trường còn nhiều bất cập.

Công tác quản lý ngân sách , vốn, quỹ, đất đai và xây dựng cơ bản ở

một số địa phương, đơn vị chưa chặt chẽ, còn có vi phạm. Tình trạng thu, chi

đối trừ không qua kho bạc Nhà nước, chi tiêu chưa tích kiệm; cấp, bán đất trái

bản quyền, sử dụng tiền bán đất sai mục đích; vi phạm nguyên tắc tài chính;

tiêu cực trong quản lý xây dựng cơ bản còn xảy ra ở một số nơi.

Bốn chương trình kinh tế đạt hiệu quả còn thấp; các mô hình đã được

xây dựng chủ yếu là quy mô nhỏ, phân tán, thiếu bền vững; có mô hình không

thành công

Hai là, lĩnh vực văn hóa - xã hội còn nhiều vấn đề bức xúc

Chất lượng giáo dục toàn diện chưa cao, thiếu bền vững; đội ngũ giáo

viên và quản lý còn nhiều bất cập; cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ giảng

dạy và học tập còn nhiều khó khăn. Chất lượng khám, chữa bệnh ở một số cơ

sở y tế chưa cao, tinh thần phục vụ của một số cán bộ, nhân viên y tế còn yếu;

vệ sinh môi trường, xử lý rác thải chưa tốt; tỉ lệ sinh con thứ 3 trở lên cao;

phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở thiếu tính

bền vững; việc xây dựng nếp sống văn hóa, phòng, chống các hủ tục, tệ lãng

phí trong một bộ phạn cán bộ, nhân dân chuyển biến chậm; tình trạng thiếu

85

việc làm vẫn là vấn đề bức xúc; tỷ lệ lao động qua đào tạo thấp; việc thực

hiện các chính sách xã hội ở một số cơ sở còn thiếu sót.

Ba là, công tác quốc phòng, an ninh

Trong việc quản lý nguồn dự bị động viên, dân quân tự vệ, đặc biệt là

thanh niên trong độ tuổi nghĩa vụ đi lam ăn xa còn nhiều khó khăn; một số xã

chưa hoàn thành chỉ tiêu giao quân. Trật tự an toàn xã hội còn diễn biến phức

tạp, nhất là ma túy, cờ bạc. Tình trạng khiếu nại, tố cáo tập thể từ năm 2004

trở về trước còn diễn ra gay gắt. Trình độ nhận thức và ý thức chấp hành pháp

luật của một bộ phận cán bộ, nhân dân còn chưa cao.

Bốn là, việc tổ chức thực hiện của các tổ chức Đảng, chính quyền,

đoàn thể còn nhiều hạn chế , có mặt hiệu quả thấp.

Năng lực lãnh đạo phát triển kinh tế còn nhiều hạn chế; còn bị động,

lúng túng trong lãnh đạo, chỉ đạo chuyển dịnh cơ cấu cây trồng, vật nuôi và

phát triển nghề. Chất lượng đội ngũ cán bộ còn nhiều bất cập so với yêu cầu.

Một số nơi nội bộ còn biểu hiện mất đoàn kết. Việc thực hiện các nguyên tắc

và chế độ công tác Đảng ở một số cơ sở chưa nghiêm. Tỷ lệ đảng viên sinh

hoạt chi bộ, đảng bộ và sinh hoạt với nhân dân chưa cao. Công tác quản lý

đảng viên đi làm ăn xa còn nhiêu khó khăn. Một bộ phận cán bộ, đảng viên

giảm sút ý chí chiến đấu, không có quan điểm rõ ràng, thiếu rèn luyện, sa sút

về phẩm chất, đạo đức, lối sống, vi phạm chính sách, pháp luật. Việc thực

hiện chức năng, giám sát của HĐND các cấp về phát triển kinh tế - xã hội ở

địa phương còn hạn chế. Hoạt động của một số chính quyền cơ sở chất lượng

chưa cao. Nội dung hoạt động của cac đoần thể nhân dân còn dàn trải, chưa

xây dựng được nhiều mô hình nổi trội trên từng lĩnh vực để tổng kết nhân ra

diện rộng, tỷ lệ tập hợp đoàn viên, hội viên còn thấp.

86

3.2. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHỦ YẾU

3.2.1. Những bài học kinh nghiệm chủ yếu

Nhìn lại chặng đường gần một thập kỷ Đảng bộ Hưng Hà lãnh đạo xây

dựng và phát triển có thể rút ra những bài học kinh nghiệm sau đây:

Một là: Thường xuyên nắm vững chủ trương, chính sách của đảng và

Nhà nước, vận dụng năng động, sáng tạo vào điều kiện cụ thể của địa phương

để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn cách

mạng, khơi dậy những tiềm năng sáng tạo của địa phương, không ngừng

vươn lên.

Ở mỗi giai đoạn lịch sử, tùy từng hoàn cảnh cụ thể, Đảng ta có những

chỉ thị, nghị quyết chỉ đạo phong trào chung trong cả nước. Mỗi Đảng bộ phải

có trách nhiệm quán triệt nghiêm túc, vận dụng sáng tạo, linh hoạt đường lối,

chính sách của Đảng phù hợp với điều kiện thực tế ở địa phương. Nhận thức

được điều đó, Đảng bộ Hưng Hà đã vận dụng sáng tạo các quan điểm, đường

lối của Đảng để lãnh đạo nhân dân tiến hành thắng lợi công cuộc khôi phục và

phát triển kinh tế, củng cố quan hệ sản xuất mới ở địa phương, thực hiện

nghĩa vụ với Nhà nước, tham gia bảo vệ Tổ quốc. muốn vận dụng sáng tạo

đường lối, chủ trương của cấp trên, Đảng bộ không những nhận diện đúng

khó khăn, thuận lợi của địa phương, mà còn phải dự báo được những thuận

lợi và khó khăn. Luôn quán triệt sự lãnh đạo của Đảng bộ là yêu cầu trước hết

đảm bảo sự thành công trên tất cả các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức, là cơ

sở để vanạ dụng sáng tạo. Tuy nhiên, đó không phải là sự quán triệt thụ động,

máy móc, mà là sự nghiên cứu nghiêm túc những quan điểm, những định

hướng lớn, đối chiếu so sánh với thực tiễn, lấy thực tiễn địa phương để nhận

thức sáng rõ thêm lý luận. Cùng với quán triệt là phải vận dụng sáng tạo,

đúng đắn, phù hợp tình hình thực tế, đảm bảo mỗi chủ trương, nghị quyết của

Trung ương, của tỉnh phải được địa phương hóa. Như vậy mới làm cho đời

87

sống của Đảng có sức sống lâu bền, có khả năng thâm nhập thực tiễn và có

giá trị cải tạo thực tiễn. Thực tiễn gần 10 năm qua đã khẳng định, nếu không

có sự vận dụng sáng tạo, đúng đắn thì không thể có thành quả như ngày hôm

nay. Đảng bộ Hưng Hà luôn tìm tòi suy nghĩ, vận dụng sáng tạo đường lối,

chủ trương của cấp trên và hoàn thiện đường lối, chủ trương ấy qua thực tế

địa phương mình. Đó là sự vận dụng và hoàn thiện về chuyển dịch cơ cấu

kinh tế, về công tác thủy lợi, về xây dựng kết cấu hạ tầng, về đổi mới cơ chế

hoạt động của các đơn vị kinh tế tiểu thủ công nghiệp, về củng cố hệ thống

chính trị, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, về phát triển giáo dục...

Thực tế cho thấy, khi nào và trong công việc gì mà Đảng bộ chỉ quán

triệt đường lối, chủ trương của cấp trên nhưng thiếu sự vận dụng sáng tạo, thì

khi đó, trên lĩnh vực đó, việc chỉ đạo thực hiện sẽ khô cứng, rập khuôn máy

móc, không phát huy cao nhất tiềm năng, lợi thế của địa phương. Nhưng

ngược lại, khi đường lối của Đảng, Nghị quyết của Tỉnh ủy được đưa xuống

cơ sở thông qua việc tiếp thu và vận dụng sáng tạo của Đảng bộ đều nhanh

chóng đi vào cuộc sống, tạo được chuyển biến mạnh mẽ, thực chất. Việc chỉ

đạo thực hiện 4 chương trình kinh tế, đưa các giống lúa mới, xây dựng cánh

đồng 50 triệu/ha, được thực hiện bằng luân canh và xen canh gối vụ đã đạt kết

quả tốt,... đó là những minh chứng điển hình cho tinh thần chủ động, sáng tạo

của Đảng bộ Hưng Hà trong quán triệt, cụ thể hóa đường lối của Đảng vào

thực tiễn địa phương.

Hai là: Làm cho cán bộ, đảng viên thực sự thấm nhuần sâu sắc đường

lối, quan điểm đổi mới của Đảng, "lấy phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung

tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt".

Thực tế lãnh đạo của Đảng bộ huyện đã chỉ rõ: lĩnh vực kinh tế luôn là

nhiệm vụ trung tâm, là đòn bẩy để thúc đẩy sự phát triển toàn diện của xã hội.

Đây là một trong những nội dung lãnh đạo chủ yếu của cấp ủy, chính quyền

và hoạt động của các đoàn thể nhân dân. Trong phát triển kinh tế, Huyện ủy

88

luôn quán triệt đổi mới tư duy kinh tế, bắt kịp với tốc độ của nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa, của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại

hóa. Đồng thời, phải khơi dậy được ý chí phấn đấu của mỗi người, mỗi nhà,

quyết không cam chịu đói nghèo, lạc hậu. Phải tập trung khai thác mọi tiềm

năng, thế mạnh từng cơ sở nhằm tạo ra bước đột phá về tăng trưởng kinh tế;

có cơ chế khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, thu hút vốn đầu tư,

tìm kiếm thị trường tiêu thụ, giải quyết nhiều việc làm cho người lao động,

duy trì nghiêm túc chế độ quản lý kinh tế theo quy định của pháp luật. Từ đó

mở đường và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, tạo nguồn của cải vật

chất dồi dào cho xã hội.

Là một Đảng cầm quyền nên Đảng bộ xác định muốn phát triển kinh tế

- xã hội thành công, không thể không đổi mới và nâng cao năng lực lãnh đạo

của các tổ chức đảng. Công việc này thậm chí phải đi trước một bước và tiến

hành thường xuyên liên tục. Kinh nghiệm đã chỉ ra rằng, nếu không có sự tin

tưởng tuyệt đối của nhân dân vào Đảng; nếu không có Đảng bộ vững mạnh,

thống nhất tư tưởng và hành động, thì không thể củng cố niềm tin của nhân

dân vượt qua khó khăn, phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng của Đảng

bộ. Kinh tế khó khăn, xã hội thiếu ổn định thì không những là biểu hiện mà

còn là nguyên nhân từ sự yếu kém của tổ chức đảng. Nhận thức được bài học

này, Đảng bộ Hưng Hà luôn coi trọng công tác xây dựng Đảng trên cả 3 mặt:

chính trị, tư tưởng và tổ chức theo đường lối đổi mới của Trung ương Đảng.

Các cấp ủy Đảng thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, tổ

chức cho cán bộ, đảng viên học tập, thảo luận các chỉ thị, nghị quyết của

Trung ương, Tỉnh ủy và Huyện ủy. Huyện ủy thường xuyên mở các lớp bồi

dưỡng chính trị để nâng cao nhận thức, trau dồi phẩm chất, đạo đức cách

mạng; đưa sinh hoạt chi, đảng bộ vào nề nếp, đổi mới cả về nội dung, phương

thức lãnh đạo. Hàng năm, Đảng bộ đều tiến hành bình xét những đơn vị trong

sạch, vững mạnh để biểu dương, khen thưởng; đồng thời kiên quyết xử lý các

89

tổ chức và cá nhân vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đảng bộ

luôn khẳng định vai trò lãnh đạo, động viên nhân dân tham gia thực hiện

thắng lợi các phong trào cách mạng ở địa phương.

Ba là: Chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân mà hạt nhân là tổ chức

đảng các cấp, phát huy tinh thần làm chủ, tính năng động, sáng tạo của quần chúng

nhân dân để hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ chính trị ở địa phương.

Chặng đường gần một thập kỷ lãnh đạo nhân dân tham gia xây dựng và

bảo vệ quê hương, đất nước đã đúc kết ngày càng rõ hơn bài học kinh nghiệm

về xây dựng khối đại đoàn kết thống nhất trong Đảng, trong nhân dân và tinh

thần chủ động, sáng tạo của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong

huyện. Nhận rõ chân lý đoàn kết là sức mạnh, là điều kiện của sự thành công,

do đó, trong quá trình lãnh đạo, Đảng bộ Hưng Hà hết sức coi trọng xây dựng

khối đại đoàn kết thống nhất từ trong Đảng bộ đến nhân dân cả về ý chí, tư

tưởng và hành động. Vì vậy, dù phải trải qua nhiều những thời điểm lịch sử

với nhiều sự kiện, biến cố gian nan, thử thách, nhưng Đảng bộ vẫn vững vàng,

duy trì được khối đoàn kết thống nhất cao. Để củng cố khối đoàn kết toàn dân

trước hết phải củng cố khối đoàn kết trong Đảng, nhất là trong đội ngũ cán bộ

chủ chốt. Đoàn kết chỉ có khi mọi cán bộ, đảng viên biết chia sẻ, mạnh dạn,

thẳng thắn phê bình và tiếp thu sự phê bình. Sẽ không có đoàn kết bền vững

trong hệ thống chính trị và trong toàn dân nếu chính trong đội ngũ cán bộ chủ

chốt không đoàn kết.

Những thành quả mà Hưng Hà đạt được trong gần một thập kỷ suy cho

cùng là thành quả của nhân dân dưới sự tổ chức và lãnh đạo của Đảng. Quán

triệt sâu sắc quan điểm "cách mạng là sự nghiệp của quần chúng", lãnh đạo

trong điều kiện một huyện nông nghiệp, không có lợi thế về vị trí địa lý, Đảng

bộ Hưng Hà xác định công tác vận động, phát huy tinh thần làm chủ, tính

năng động, sáng tạo của quần chúng nhân dân phải có những hình thức, biện

pháp sáng tạo, phù hợp. Công tác tuyên truyền phải ngắn gọn, dễ hiểu, có mẫu

90

hình để học tập, làm theo, nói phải đi đôi với làm. Cán bộ, đảng viên phải

gương mẫu chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước.

Bốn là: Nâng cao hiệu lực quản lý và điều hành của chính quyền cấp

huyện và xã.

Thực tiễn lãnh đạo phong trào cách mạng đã chỉ rõ, Đảng bộ huyện

thường xuyên chăm lo, củng cố và xây dựng chính quyền cấp huyện, cấp xã

vững mạnh. Do là một huyện nông nghiệp, nên trình độ của cán bộ nói chung,

đặc biệt là cán bộ cấp xã còn hạn chế. Nhận thức rõ đặc điểm đó, trong quá

trình lãnh đạo, Đảng bộ huyện luôn quan tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhất

là cán bộ cấp cơ sở. Qua đào tạo, trình độ năng lực quản lý và điều hành của

cán bộ, chính quyền được nâng lên. Đồng thời, Huyện ủy luôn chú trọng nâng

cao hiệu lực quản lý của Nhà nước, vai trò giám sát, kiểm tra của Hội đồng

nhân dân các cấp, hoạt động của các đại biểu Hội đồng nhân dân; đã xây

dựng, củng cố quy chế làm việc, tăng cường vai trò quản lý, điều hành của

chính quyền trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng. Từ đó,

đã tạo điều kiện cho chính quyền nhà nước ở địa phương làm tròn chức năng,

nhiệm vụ của chính quyền nhà nước ở địa phương, thực sự là chính quyền

"của dân, do dân và vì dân".

3.2.2. Một số vấn đề đặt ra

Qua việc tìm hiểu, nghiên cứu thực tiễn quá trình lãnh đạo xây dựng, phát

triển kinh tế dịch vụ của Đảng bộ Hưng Hà trong những năm 1996-2005, chúng

tôi nhận thấy còn một số vấn đề đặt ra đối với cấp ủy Đảng, chính quyền trong

tỉnh phải giải quyết để đưa hoạt động kinh tế - xã hội phát triển hơn nữa.

Một là: Tập trung huy động mọi tiềm năng, thế mạnh của huyện,

khai thác mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài; xây dựng kinh tế phát

triển toàn diện, vững chắc theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

91

Tập trung chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu cây trồng theo chiều sâu, hướng

đột phá chủ yếu là tổ chức xây dựng nhiều cánh đồng đạt giá trị sản xuất 50 triệu

và nhiều hộ đạt giá trị sản xuất 1,8 triệu đồng/sào/năm; mở rộng sản xuất vụ

đông, chiếm 65% diện tích canh tác, chủ yếu khai thác các cây chủ lực như: ngô,

đỗ tương, bí đao, khoai tây...; tập trung chuyển đổi, khai thác 1000ha đất vàn

cao, cao cát thành các cánh đồng, các vùng chuyên canh rau màu, hoa, cây cảnh;

đẩy nhanh tốc độ phát triển chăn nuôi, đưa chăn nuôi thành ngành sản xuất

chính, là khâu đột phá trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn.

Hướng phát triển chủ yếu là: phát triển chăn nuôi tập trung theo phương pháp

công nghiệp, bán công nghiệp; mỗi xã, thị trấn quy hoạch xây dựng 1 vùng chăn

nuôi tập trung, chăn nuôi quy mô trang trại, gia trại; nâng cao hiệu quả kinh tế

vườn, 100% số vườn được cải tạo, trồng các cây có hiệu quả kinh tế cao; đổi mới

tổ chức sản xuất theo hướng: từng ngành, từng cây, con phải được quy hoạch,

quy vùng sản xuất tập trung với quy mô vừa và lớn.

Tập trung mọi nguồn lực, đẩy mạnh phát triển các cụm công nghiệp,

điểm công nghiệp nghề và làng nghề, tạo bước đột phá trong phát triển kinh

tế; khuyên khích đầu tư các mặt hàng truyền thống có thế mạnh, đồng thời

phát triển các nghề mới mặt hàng mới. Củng cố vững chắc và mở rộng phát

triển nghề và làng nghề, xã nghề gắn với thành lập doanh nghiệp trong làng

nghề, đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn; quy hoạch 2

cụm công nghiệp: Đồng Tu - Phúc Khánh và thị trấn Hưng Nhân, mỗi cụm 50

ha; tiếp tục mở rộng cụm công nghiệp làng nghề xã Thái Phương; quy hoạch

điểm công nghiệp nghề và làng nghề tập trung ở các thị tứ, các trung tâm xã,

mỗi điểm từ 5-7 ha trở lên.

Tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao chất lượng các hoạt động thương mại,

dịch vụ để đáp ứng nhu cầu sản xuất, tiêu dùng và xuất khẩu; quy hoạch và

kêu gọi đầu tư xây dựng trung tâm thương mại ở 2 thị trấn; quy hoạch, đầu tư

xây dựng, nâng cấp các chợ đầu mối và mạng lưới chợ nông thôn; huy động

92

và khai thác các nguồn vốn để đầu tư xây dựng khu du lịch đền Trần, đền

Tiên La và đền thờ Lê Quý Đôn; đẩy mạnh các hoạt động quản lý thị trường,

kiểm tra giám sát việc kinh doanh hàng hóa; tăng cường công tác quản lý Nhà

nước trong lĩnh vực hoạt động thương mại, dịch vụ, đáp ứng thỏa mãn nhu

cầu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân.

Hai là: Cần mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng trong giáo dục,

đào tạo và phát triển khoa học, công nghệ. Đổi mới mạnh mẽ các hoạt động

văn hóa, thông tin, thể thao phục vụ các nhiệm vụ chính trị, xây dựng con

người mới, nông thôn mới.

Tập trung nâng cao chất lượng phổ cập mẫu giáo 4-5 tuổi, Tiểu học và

THCS. Đẩy nhanh việc chuẩn hóa đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, đến năm

2010 có 90% giáo viên Mầm non, 100% trường Tiểu học và THCS đạt chuẩn

quốc gia giai đoạn 1. Đẩy nhanh việc chuẩn hóa đội ngũ cán bộ quản lý, giáo

viên, đến năm 2010 có 90% giáo viên Mầm non, 100% giáo viên Tiểu học và

THCS đạt chuẩn và trên chuẩn. Đồng thời, khai thác mạnh mẽ các nguồn vốn

để đầu tư vào chiều sâu, tăng thêm cơ sở vật chất, đáp ứng nhu cầu nâng cao

chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh; tích cực ứng dụng và chuyển giao

tiến bộ khoa học, công nghệ tiên tiến vào các lĩnh vực kinh tế - xã hội.

Cần tăng cường củng cố và phát triển toàn diện hệ thống y tế, nhất là y

tế cơ sở. Chủ động phòng chống dịch bệnh, thực hiện tốt công tác vệ sinh môi

trường; tăng cường cơ sở vật chất cho các bệnh viện và trạm y tế cơ sở, quản

lý kiểm soát chặt chẽ các hoạt động y tế ngoài công lập. Coi trọng công tác

đào tạo, bồi dưỡng và thực hiện tốt các chế độ, chính sách đối với cán bộ y tế,

nhất là y tế cơ sở.

Tiếp tục đẩy mạnh phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống

văn hóa ở cơ sở", phong trào "Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác

Hồ vĩ đại", tăng cường công tác kiểm tra, quản lý chặt chẽ việc đăng ký, bình

xét các gia đình, thôn, làng, xã, cơ quan, đơn vị đạt tiêu chuẩn văn hóa; coi

93

trọng công tác quản lý, tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa, cách mạng, quản

lý chặt chẽ các hoạt động dịch vụ văn hóa. Cần chú trọng xây dựng cơ sở vật

chất, thiết chế văn hóa, phục vụ văn hóa cơ sở, phấn đấu đến năm 2010 tất cả

các thôn, làng đều có nhà văn hóa, sân bãi hoạt động thể dục thể thao.

Ba là: Đẩy mạnh hơn nữa cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn

Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng

lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức Đảng.

Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng. Công tác tư tưởng

cần đi sâu vào các định hướng; thực hiện hiệu quả việc giáo dục và nâng cao

phẩm chất chính trị, giữ vững các nguyên tắc sinh hoạt Đảng cho cán bộ, đảng

viên. Thường xuyên giáo dục ý thức cảnh giác cách mạng, đấu tranh kịp thời,

có hiệu quả đối với những quan điểm lệch lạc trong Đảng, âm mưu "Diễn

biến hòa bình" của các thế lực thù địch; tạo dư luận xã hội phê phán mạnh mẽ

tư tưởng cá nhân, cơ hội, bè phái, cục bộ. Bên cạnh đó, tích cực đổi mới, nâng

cao chất lượng công tác tổ chức, công tác cán bộ và công tác đảng viên; tăng

cường quản lý cán bộ, đảng viên, thực hiện tốt việc phân công công tác cho

đảng viên. Thực hiện nghiêm túc việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình,

phân loại tổ chức đảng; đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên theo hướng

nâng cao chất lượng đảng viên.

Tích cực đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của chính quyền

các cấp; tăng cường các hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân trong việc

chấp hành các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, các

nghị quyết của Hội đồng nhân dân về phát triển kinh tế - xã hội, về bảo vệ an

ninh- quốc phòng. Bên cạnh đó, nâng cao chất lượng hoạt động của ủy ban

nhân dân các cấp. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của tập thể,

của chủ tịch và các thành viên ủy ban nhân dân trong việc tổ chức, thực hiện

các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước.

94

Đổi mới nội dung, hình thức, nâng cao chất lượng hoạt động, phát huy

tốt vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Mặt trận Tổ quốc

và các đoàn thể phải bám sát chức năng, nhiệm vụ của tổ chức mình, lấy

nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, những nhu cầu chính đáng, cấp thiết của

các tầng lớp dân cư, tâm lý của các đối tượng để xây dựng nội dung, hình

thức tập hợp quần chúng cho thích hợp. Tích cực xây dựng Mặt trận Tổ quốc

và các tổ chức đoàn thể nhân dân vững mạnh, phát động và tập hợp quần

chúng hăng hái thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn,

thực hiện quy chế dân chủ, tích cực tham gia xây dựng Đảng, chính quyền,

giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Như vậy, có thể khẳng định từ những chủ trương đúng đắn, các biện

pháp chỉ đạo sát hợp của Đảng bộ huyện, lĩnh vực kinh tế - xã hội của huyện

đã đạt được những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu

đã đạt được, kinh tế - xã hội huyện vẫn còn một số tồn tại, hạn chế. Chính từ

những thành tựu đã đạt được cũng như những hạn chế trong quá trình lãnh

đạo xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội đã để lại cho Đảng bộ Hưng Hà

những kinh nghiệm quý báu. Đây là những kinh nghiệm có giá trị thực tiễn to

lớn đối với Đảng bộ Hưng Hà trong công tác lãnh đạo phát triển kinh tế - xã

hội những giai đoạn tiếp theo. Bước sang giai đoạn phát triển mới, trước

những yêu cầu, thách thức mới của nhu cầu phát triển, vấn đề đặt ra cho Đảng

bộ Hưng Hà là tiếp tục khắc phục những hạn chế, định ra phương hướng phát

triển đúng đắn cho kinh tế - xã hội của huyện nhà.

KẾT LUẬN

Qua nghiên cứu đề tài: "Đảng bộ huyện Hưng Hà (Thái Bình) lãnh

đạo phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 1996-2005" có thể đi tới các kết

luận sau:

95

1. Các ngành kinh tế - xã hội có vai trò rất quan trọng trong việc thúc

đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế nói chung, nâng cao đời sống của nhân

dân, đưa đất nước phát triển lên một tầm cao mới và đặc biệt sứ mệnh cuối

cùng là phục vụ nhu cầu của đời sống nhân dân. Đất nước ta ngày càng lớn

mạnh, nước ta phải nhanh chóng trở thành một nước công nghiệp theo hướng

hiện đại. Chính vì thế, yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội theo hướng nhanh,

mạnh và bền vững không những là vấn đề quan trọng mà nó còn là vấn đề cấp

thiết. Tiêu chuẩn cũng như mục tiêu phấn đấu để trở thành một nước công

nghiệp hóa, hiện đại hóa là phải có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, đời sống

của nhân dân được đảm bảo ổn định. Xuất phát từ mục tiêu công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng, đầu tư cho xây

dựng và phát triển kinh tế - xã hội, coi sự phát triển của kinh tế - xã hội là nền

tảng, mở đường cho sự hội nhập, giao lưu quốc tế.

Thực hiện chủ trương, định hướng phát triển của Đảng, Nhà nước, căn

cứ vào thực trạng phát triển kinh tế - xã hội của huyện, trong đường lối xây

dựng, phát triển kinh tế - xã hội của huyện, Đảng bộ huyện Hưng Hà luôn chủ

trương đẩy mạnh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp

hóa - hiện đại hóa, tạo bước đột phá tăng trưởng kinh tế cao; phát triển và

nâng cao chất lượng các lĩnh vực kinh tế - xã hội; xây dựng cơ sở hạ tầng kinh

tế - xã hội gắn với việc xây dựng nông thôn mới.

Quá trình lãnh đạo của Đảng bộ huyện Hưng Hà về phát triển kinh tế -

xã hội từ năm 1996 đến năm 2005 có thể khái quát thành 2 giai đoạn:

Giai đoạn 1996-2000: Đảng bộ huyện Hưng Hà lãnh đạo xây dưng,

phát triển kinh tế - xã hội trong những năm cuối cùng của thế kỷ XX.

Giai đoạn 2001-2005: Đảng bộ huyện Hưng Hà lãnh đạo xây dựng,

phát triển kinh tế - xã hội toàn diện, vững chắc theo hướng công nghiệp hóa,

hiện đại hóa.

96

2. Qua việc phân tích chủ trương, đường lối phát triển kinh tế - xã hội

thông qua các kỳ Đại hội của Đảng bộ huyện Hưng Hà, luận văn đã góp phần

làm rõ tính đúng đắn, sáng tạo trong tư duy phát triển kinh tế - xã hội của

Đảng bộ, đồng thời cũng góp phần làm rõ cơ sở thành công của đường lối

phát triển kinh tế - xã hội ở Hưng Hà, đó là sự đồng tình, thống nhất của cả

Đảng bộ trong việc vận dụng đường lối của Đảng và Nhà nước.

Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng

bộ huyện Hưng Hà, sự phát triển kinh tế - xã hội trong những năm 1996-2005

đã đạt được những thành tựu quan trọng. Nền kinh tế có bước phát triển mới:

tốc độ tăng trưởng khá và tương đối toàn diện, năng lực sản xuất tăng, cơ cấu

chuyển dịch theo hướng tích cực, quan hệ sản xuất được tăng cường, một sô

mục tiêu kinh tế đều đạt và vượt mục tiêu Đại hội. Sự nghiệp văn hóa - xã hội

có nhiều tiến bộ, tạo chuyển biến tích cực về tư tưởng, đạo đức, lối sống, góp

phần nâng cao dân trí, ổn định chính trị. Công tác quốc phòng, an ninh được

tăng cường, trật tự an toàn xã hội có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần giữ

vững ổn định chính trị - xã hội. Hệ thống chính trị được củng cố, kiện toàn,

từng bước đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, nâng cao năng lực và

hiệu quả lãnh đạo.

3. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, lĩnh vực kinh tế - xã hội của

Hưng Hà còn bộc lộ một số hạn chế, yếu kém. Một số chỉ tiêu kinh tế chưa

đạt mục tiêu Đại hội, thực hiện 4 chương trình kinh tế đạt hiệu quả còn thấp;

các mô hình được xây dựng chủ yếu là mô hình nhỏ, phân tán, thiếu bền

vững. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, chưa đồng đều, quy mô trang trại

còn nhỏ lẻ, tự phát, phân tán và chưa có sức thuyết phục cao; việc tiếp thu

cây, con giống mới và ứng dụng những quy trình công nghệ tiên tiến còn

chậm. Sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp còn nhỏ, chủ yếu là tiểu

thủ công nghiệp; việc quy hoạch, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng các khu

công nghiệp, cụm công nghiệp gặp nhiều khó khăn. Lĩnh vực văn hóa - xã hội

97

còn nhiều vấn đề đặt ra, chất lượng giáo dục toàn diện chưa cao, đội ngũ giáo

viên và quản lý còn nhiều bất cập. Công tác quốc phòng, an ninh còn nhiều

khó khăn trong việc quản lý nguồn dự bị động viên, dân quân tự vệ; trật tự xã

hội còn nhiều diễn biến phức tạp, nhất ma túy, cờ bạc. Việc tố chức thực hiện

của tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể còn nhiều hạn chế, có mặt hiệu quả

thấp.

4. Thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng phát triển kinh tế - xã hội của

Đảng bộ huyện Hưng Hà từ năm 1996-2005 đã để lại một số bài học kinh

nghiệm có ý nghĩa thực tiễn. Đó là: phải nắm vững chủ trương, chính sách

của Đảng và Nhà nước, vận dụng năng động, sáng tạo vào điều kiện cụ thể

của địa phương; xác định nhiệm vụ phát triển kinh tế là trọng tâm, là điều

kiện đảm bảo ổn định chính trị - xã hội. Tập trung lãnh đạo trên các lĩnh vực

nông nghiệp, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và thương mại, dịch vụ là

nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của các cấp, các ngành, của cả hệ thống chính

trị từ huyện đến cơ sở; ổn định chính trị - xã hội vừa là mục tiêu, vừa là điều

kiện để phát triển kinh tế - xã hội. Các hoạt động kinh tế, xã hội đều hướng

vào mục tiêu ổn định tình hình chính trị; không ngừng tăng cường đoàn kết,

trước hết là đoàn kết trong Đảng, tạo ra thống nhất cao về tư tưởng, ý chí và

hành động để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị. Phải luôn xác định,

xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Nâng cao hiệu lực và sức chiến đấu

của các tổ chức cơ sở Đảng là nhiệm vụ quan trọng. Tăng cường hoạt động

của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, xây dựng hệ thống chính trị

thật sự trong sạch, vững mạnh. Bốn kinh nghiệm nêu trên đã tổng kết thực

tiễn lãnh đạo của Đảng bộ huyện, đồng thời cũng góp phần làm rõ: nhân tố

quyết định đưa đến sự thành tựu trong hoạt động kinh tế - xã hội ở Hưng Hà

là sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng bộ huyện.

5. Đảng bộ và nhân dân Hưng Hà luôn hướng về tương lai để phấn đấu

và luôn tự hào về những thành tích đạt được trong lao động sản xuất, xây

98

dựng và bảo vệ quê hương. Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nước, nhất là trong thời kỳ mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, bên

cạnh những thời cơ, thuận lợi, còn không ít những khó khăn, thử thách. Thực

tế đó đòi hỏi mỗi cán bộ đảng viên phải nhận thức rõ về tình hình, nhiệm vụ

trong giai đoạn mới, ra sức rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức, năng lực

lãnh đạo nhằm xây dựng Đảng bộ huyện vững mạnh để lãnh đạo nhân dân

thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới của Đảng, xây dựng quê hương Hưng

Hà trở thành huyện có kinh tế - văn hóa phát triển, nhân dân có cuộc sống ấm

no, hạnh phúc.

99

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Bình (2000), Lịch sử Đảng bộ

tỉnh Thái Bình (1930-1975), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Hưng Hà (2000), Lịch sử Đảng bộ

huyện Hưng Hà (1954-2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

3. Ban Tuyên giáo - Phòng Giáo dục huyện Hưng Hà (2001), Hưng Hà

một vùng quê văn hiến.

4. Nguyễn Tiến Dũng (2006), Kinh tế - xã hội Việt Nam các tỉnh -

thành phố - quận - huyện năm 2010.

5. Đặng Đức Đạm (1997), Đổi mới kinh tế Việt Nam - thực trạng và

triển vọng, Nxb Tài chính, Hà Nội.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi

mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11. Đảng bộ tỉnh Thái Bình, (2006), Báo cáo sơ kết 3 năm thực hiện

quản lý và phân công công tác cho đảng viên theo hướng dẫn số 15 và Quy

định số 20 của Ban Tổ chức Tỉnh ủy.

12. Đảng bộ huyện Hưng Hà, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành

Đảng bộ huyện tại Đại hội đại biểu lần thứ XI.

100

13. Đảng bộ huyện Hưng Hà, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành

Đảng bộ huyện tại Đại hội đại biểu lần thứ XII.

14. Đảng bộ huyện Hưng Hà, Báo cáo kiểm điểm của Ban Chấp hành

Đảng bộ huyện khóa XII và kết quả thực hiện cuộc vận động xây dựng chỉnh

đốn Đảng nhiệm kỳ 2001-2005.

15. Đảng bộ huyện Hưng Hà, Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo

của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Hưng Hà giữa nhiệm kỳ 2005-2010.

16. Đảng bộ huyện Hưng Hà, Báo cáo tình hình và nhiệm vụ tại Đại

hội đại biểu lần thứ X.

17. Đảng bộ huyện Hưng Hà, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Hưng

Hà lần thứ XIII (nhiệm kỳ 2005-2010).

18. Đảng bộ huyện Hưng Hà, Tham luận tại Đại hội đại biểu Đảng bộ

huyện lần thứ XIII (nhiệm kỳ 2005-2010).

19. Phạm Minh Đức, Bùi Duy Lam, Phạm Tất Lượng (2004), Hưng Hà

- Đất ngàn năm văn hiến, Nxb Ban Tuyên giáo.

20. Học viện Chính trị - Hành chính khu vực I, Khoa Lịch sử Đảng

(2007), Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

21. Huyện ủy Hưng Hà (2001), Báo cáo kết quả 1 năm thực hiện Nghị

quyết Đại hội Đảng các cấp năm 2001 (nhiệm kỳ 2001-2005) và phương

hướng, nhiệm vụ năm 2002.

22. Huyện ủy Hưng Hà (2002), Báo cáo kết quả kiểm tra việc lãnh đạo,

chỉ đạo và thực hiện Quy định 55-QĐ/TW (nay là Quy định 19 QĐ/TW) về

những điều đảng viên không được làm.

23. Huyện ủy Hưng Hà (2006), Nghị quyết của Ban Chấp hành Đảng

bộ huyện (khóa XIII) về tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện 4 mũi nhọn

đột phá tăng trưởng kinh tế và 2 chương trình trọng tâm về xã hội giai đoạn

2006-2010.

101

24. Nguyễn Đình Hương (1997), Đổi mới và phát triển kinh tế ở Việt

Nam, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.

25. Kinh tế Việt Nam đổi mới: Những phân tích và đánh giá quan

trọng, (2002), Nxb Thống kê, Hà Nội.

26. Đỗ Hoài Nam (chủ biên) (2005), Một số vấn đề phát triển kinh tế

của Việt Nam hiện nay, Nxb Thế giới, Hà Nội.

27. Lê Thanh Nghiệp (2006), Quá trình phát triển kinh tế Việt Nam,

Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.

28. Phát triển kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam, (2004), Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

29. Nguyễn Trần Quế (chủ biên) (2004), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

30. Tỉnh ủy Thái Bình (2000), Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành

Đảng bộ tỉnh khóa XV tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI (2001-

2005).

31. Tỉnh ủy Thái Bình (2002), Đề án về đổi mới và nâng cao chất

lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn.

32. Tỉnh ủy Thái Bình (2004), Tài liệu Hội nghị quán triệt và tổ chức

thực hiện các nghị quyết, kết luận của Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy.

33. Tỉnh ủy Thái Bình (2002), Tài liệu Hội nghị tổng kết thực hiện

NQTW3 (khóa VII) và NQTW7 (khóa VIII) triển khai một số công tác tổ chức

và cán bộ.

34. Tỉnh ủy Thái Bình (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh

Thái Bình lần thứ XIV, Lưu tại Văn phòng Tỉnh ủy.

35. Tỉnh ủy Thái Bình (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh

Thái Bình lần thứ XV, Lưu tại Văn phòng Tỉnh ủy.

36. Nguyễn Minh Tú (1998), Kinh tế Việt Nam trước thế kỷ XXI cơ hội

và thách thức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

102

37. Nguyễn Minh Tú (2002), Việt Nam trên chặng đường đổi mới và

phát triển kinh tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

38. Ủy ban nhân dân huyện Hưng Hà (2002), Báo cáo kết quả phát

triển kinh tế - xã hội năm 2001 và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm

2002.

39. Ủy ban nhân dân huyện Hưng Hà (2003), Báo cáo tình hình kinh tế

-xã hội năm 2002 và phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu năm 2003.

40. Ủy ban nhân dân huyện Hưng Hà (1997), Báo cáo tình hình thực

hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 1996 và tổng quát về kế hoạch

Nhà nước năm 1997 của huyện Hưng Hà.

41. Ủy ban nhân dân huyện Hưng Hà (2000), Báo cáo tình hình thực

hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 1999, phương hướng, mục

tiêu và những nhiệm vụ chủ yếu năm 2000.

42. Ủy ban nhân dân huyện Hưng Hà (1998), Báo cáo tình hình tổ chức

thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 1997 và tổng quát về

kế hoạch năm 1998 của huyện Hưng Hà.

43. Ủy ban nhân dân huyện Hưng Hà (1999), Báo cáo tình hình tổ chức

thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 1998 và những nhiệm

vụ chủ yếu năm 1999.

44. Ủy ban nhân dân huyện Hưng Hà (2001), Báo cáo tình hình tổ chức

thực hiện các nhiệm vụ năm 2000 và phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu năm

2001.

103

PHỤ LỤC

TỈNH UỶ THÁI BÌNH ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Số: 04-CT/TU Thái Bình, ngày 6 tháng 3 năm 2002

CHỈ THỊ

Về tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý

Những năm qua, thực hiện Nghị quyết 10-NQ/TU của Ban Thường vụ

Tỉnh uỷ (khoá XIV), các cấp uỷ, ban cán sự đảng, đảng đoàn, thủ trưởng các

cơ quan, đơn vị trong tỉnh đã quan tâm lãnh đạo và thực hiện có kết quả công

tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý nói riêng.

Trên cơ sở quy hoạch đã xây dựng, thực hiện tương đối tốt kế hoạch đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ cho trước mắt và lâu dài, góp phần nâng cao trình độ lý luận

chính trị, quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế, chuyên môn, nghiệp vụ và năng

lực tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị cho cán bộ; đáp ứng được yêu cầu

kiện toàn với số lượng lớn cán bộ lãnh đạo trong quán trình giải quyết ổn định

tình hình cũng như nhân sự Đại hội Đảng bộ và bầu cử Hội đồng nhân dân

các cấp. Hệ thống trường lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong tỉnh được tăng

cường về cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên; tích cực đổi mới chương trình, nội

dung, phương pháp; nâng cao một bước chất lượngđào tạo, bồi dưỡng cán bộ.

Tuy nhiên, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong tỉnh còn hạn chế,

khuyết điểm: một số cấp uỷ, ban cán sự đảng, đảng đoàn, lãnh đạo cơ quan,

đơn vị chưa nhận thức đầy đủ yêu cầu cấp bách của việc đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ, do đó chưa quan tâm đúng mức đến việc xây dựng và thực hiện quy

hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Việc chọn cử cán bộ đi đào tạo,

bồi dưỡng có lúc, có nơi thiếu chặt chẽ, chưa bám sát vào tiêu chuẩn và đối

tượng đào tạo. Chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng còn trùng lắp, nặng

về lý luận, thiếu liên hệ với thực tiễn, nghiệp vụ và những vấn đề mới nảy

104

sinh. Hình thức, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng tuy đã được cải tiến, nhưng

chưa đáp ứng kịp với yêu cầu. Cơ sở vật chất phục vụ cho đào tạo, nhất là của

trung tâm chính trị cấp huyện còn khó khăn. Chính sách khuyến khích đội ngũ

giáo viên và can bộ đi học chưa được thực hiện thống nhất trong tỉnh.

Từ tình hình thực tế đội ngũ cán bộ hiện nay và đòi hỏi bức xúc phải

nâng cao trình độ mọi mặt của cán bộ nhằm phục vụ sự nghiệp công nghiệp

hoá, hiện đại hoá; Ban Thường vụ Tỉnh uỷ yêu cầu các cấp uỷ, ban cán sự

đảng, đảng đoàn, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị trong tỉnh phải tăng cường

lãnh đạo, chỉ đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo tinh thần Nghị

quyết 10-NQ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ (khoá XIV); trong đó tập trung

thực hiện tốt các nhiệm vụ chủ yếu sau:

1. Trên cơ sở tổng kết 6 năm thực hiện Nghị quyết 10-NQ/TU, tiếp tục

tuyên truyền, giáo dục làm cho cán bộ, đảng viên thấy rõ thực trạng đội ngũ

cán bộ của tỉnh ta hiện nay, nhất là những hạn chế, yếu kém về trình độ, năng

lực. Nhận thức đầy đủ hơn yêu cầu cấp bách của việc đổi mới và nâng cao

chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nói chung và cán bộ lãnh đạo, quản lý

nói riêng. Mỗi cán bộ, đảng viên phải chủ động, tự giác học tập, xác định học

tập vừa là quyền lợi, là trách nhiệm, nghĩa vụ bắt buộc. Phát động phong trào

thi đua học tập trong cán bộ, đảng viên toàn tỉnh.

2.Tiến hành rà soát, bổ sung quy hoạch cán bộ theo phân cấp quản lý để

làm căn cứ xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho từng chức danh; xác

định hình thức, phương pháp, chương trình và nội dung đào tạo, bồi dưỡng cho

phù hợp. Phấn đấu đến năm 2005, cán bộ lãnh đạo chủ chốt của huyện, thị, sở,

ban ngành, đoàn thể thuộc tỉnh có trình độ lý luận chính trị cao cấp trở lên; trình

độ cử nhân về một chuyên ngành nhất định; biết một ngoại ngữ để giao tiếp được

với người nước ngoài và sử dụng máy vi tính trong công tác. Các đồng chí uỷ viên

Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Tỉnh uỷ viên phục trách địa phương, cơ quan, đơn vị nào

105

phải chỉ đạo cấp uỷ, ban cán sự, đảng đoàn đó thực hiện rà soát, bổ sung quy

hoạch và xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.

3. Thực hiện việc đào tạo cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã, phường, thị

trấn có trình độ cao đẳng, đại học, quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế hoặc

chuyên môn nghiệp vụ. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức, cán

bộ khoa học - kỹ thuật, đội ngũ công nhân và lao động. Ban Tổ chức Tỉnh uỷ

cùng với Ban tổ chức chính quyền tỉnh kết hợp với trường Chính trị, trường

Cao đẳng Kinh tế - kỹ thuật tỉnh và các ban, ngành có liên quan xây dựng đề

án cụ thể để trình Ban Thường vụ Tỉnh uỷ.

4. Các trường, trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong tỉnh phải

nghiên cứu đổi mới chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất

lượng dạy, học; đưa quản lý dạy, học đi vào nề nếp, kỷ cương. Khắc phục

triệt để tình trạng đào tạo lan tràn, nặng về số lượng, không đúng đối tượng,

chức năng. Cán bộ sau khi được đào tạo, bồi dưỡng phải có chuyển biến rõ rệt

về năng lực tư duy và tổ chức thực hiện nhiệm vụ được giao; về lập trường tư

tưởng, đạo đức, lối sống; có phong cách lãnh đạo, chỉ đạo; lề lối làm việc

khoa học, dân chủ, năng động, sát thực tiễn. Xây dựng, thực hiện tốt quy chế

hoạt động; tăng cường công tác quản lý, mở rộng dân chủ trong công tác

nghiên cứu, giảng dạy của giảng viên và học tập của học viên. Phối kết hợp

chặt chẽ với các cấp, các ngành trong việc thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ. Quan tâm giáo dục, rèn luyện và thực hiện chuẩn hoá đội ngũ

giảng viên.

5. Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ dạy và học.

Bảo đảm thực hiện đầy đủ các chế độ, quy định của Nhà nước đối với giảng

viên; bổ sung, sửa đổi chế độ trợ cấp của tỉnh khuyến khích cán bộ đi đào tạo

thạc sĩ, tiến sĩ, chuyên khoa cấp II. Bảo đảm kinh phí cho cán bộ chủ chốt xã,

phường, thị trấn đi đào tạo đại học theo kế hoạch. Có chính sách khuyến

khích những sinh viên tốt nghiệp các trường đại học hệ chính quy từ loại khá

106

trở lên về côg tác tại tỉnh. Ban cán sự của Uỷ ban nhân dân tỉnh chỉ đạo để thể

chế hoá chính sách thành các quy định cụ thể, thống nhất cho các đối tượng

cán bộ được cử đi học tại tất cả các trường, trung tâm đào tạo, bồi dưỡng của

tỉnh và Trung ương.

6. Hàng năm, cùng với việc rà soát, bổ sung quy hoạch cán bộ, phải

tiến hành sơ kết công tác đào tạo, bồi dưỡng ở địa phương, cơ quan, đơn vị.

Qua đó, xây dựng kế hoạch cho năm tới và những năm tiếp theo, bảo đảm cho

công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được thực hiện nền nếp và đạt hiệu quả

cao.

Các cấp uỷ, ban cán sự đảng, đảng đoàn, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị

trong toàn tỉnh phải tổ chức quán triệt và thực hiện tốt Chỉ thị này, nhằm tạo

ra một bước tiến mới trong việc thực hiện Nghị quyết 10-NQ/TU của Ban

Thường vụ Tỉnh uỷ (khoá XIV) về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh

đạo, quản lý ở tỉnh ta.

Ban Tổ chức Tỉnh uỷ có trách nhiệm đôn đốc, theo dõi, kiểm tra việc

thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; định kỳ 6 tháng, 1 năm báo cáo

kết quả về Ban Thường vụ Tỉnh uỷ.

Chỉ thị này được phổ biến đến đảng viên.

Nơi nhận T/M BAN THƢỜNG VỤ

- Ban Bí thư Trung ương Đảng (để b/c) BÍ THƢ

- Ban tổ chức Trung ương (để b/c)

- Các huyện, thị uỷ

- Các ban, Ban cán sự Đảng, đảng đoàn, Bùi Sĩ Tiếu

đảng uỷ trực thuộc Tỉnh uỷ.

- Các đồng chí Tỉnh uỷ viên.

- Lưu văn phòng Tỉnh uỷ.

107

TỈNH UỶ THÁI BÌNH ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Số: 26-ĐA/TU Thái Bình, ngày 8 tháng 4 năm 2002

ĐỀ ÁN

Đào tạo cán bộ xã, phƣờng, thị trấn

có trình độ cao đẳng, đại học

Các cơ sở xã, phường, thị trấn là nơi diễn ra mọi quá trình hoạt động

kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của các tầng lớp nhân dân; là nơi tổ chức

thực hiện mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, trực tiếp đưa nghị

quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống; là nơi thể hiện sự gắn

bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Đây cũng là nơi thể hiện sự thành công,

cũng như mặt hạn chế của đường lối, chính sách khi đưa vào cuộc sống. Nhận

thức rõ vị trí quan trọng của cơ sở, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương

Đảng lần thứ 5 (khoá IX) đề ra nghị quyết đổi mới và nâng cao chất lượng hệ

thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn; trong nghị quyết có nội dung

quan trọng là chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng và giải quyết hợp lý, đồng

bộ chính sách đối với cán bộ cơ sở.

Thái Bình là tỉnh nông nghiệp, trong những năm giải quyết mất ổn định

vừa qua, đội ngũ cán bộ cơ sở thay đổi cơ bản, trình độ cũng như kinh nghiệm

công tác còn nhiều bất cập đối với nhiệm vụ chính trị trước mắt và lâu dài. để

thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, đẩy

mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn đòi

hỏi phải có đội ngũ cán bộ cơ sở giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ; nhiệt tình,

hăng say công tác, hết lòng phục vụ Đảng và nhân dân. Vì vậy, cần thiết phải

108

đào tạo đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn có trình độ cao đẳng, đại học về

quản lý kinh tế, chuyên môn kỹ thuật, lý luận chính trị và quản lý Nhà nước.

I. THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ XÃ, PHƢỜNG, THỊ TRẤN HIỆN

NAY

Qua khảo sát 21 chức danh cán bộ cơ sở xã, phường, trị trấn cho thấy

số cán bộ có trình độ lý luận chính trị chiếm tỷ lệ cao hơn so với cán bộ có

trình độ chuyên môn; cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học tỷ lệ còn rất thấp;

cán bộ chưa tốt nghiệp phổ thông trung học, chưa đào tạo chuyên môn kỹ

thuật còn nhiều. Tuổi đời bình quân của cán bộ xã, phường, thị trấn hiện nay

là 41,9. Số cán bộ xã có khả năng hoạt động thực tiễn tốt là 34%; hoạt động

khá 49%; hoạt động trung bình 15,9%; hoạt động yếu 1,1%. Số cán bộ có khả

năng phát triển lâu dài khoảng 48,6%; cán bộ giữ ổn định 1 đến 2 khoá

khoảng 45%; cán bộ cần phải thay đổi khoảng 6,4%.

Về phẩm chất và năng lực, số đông cán bộ xã, phường, thị trấn thể hiện

bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với mục tiêu lý tưởng của Đảng, lối

sống lành mạnh, giản dị gần gũi với nhân dân, không hách dịch, cửa quyền,

sách nhiễu nhân dân; tác phong dân chủ, tích cực nhiệt tình trong công tác;

phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ được giao. Một số ít cán bộ được đào tạo qua

trường lớp nên đã phát huy được những kiến thức đã học, biết vận dụng có

hiệu quả vào thực tế ở địa phương, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở

cơ sở. Tuy nhiên, do thời gian mất ổn định kéo dài nên khi sắp xếp lại đội ngũ

cán bộ chủ yếu là để đáp ứng tình hình trước mắt. Vì vậy, đội ngũ cán bộ xã,

phường, thị trấn hiện nay về trình độ còn nhiều bất cập chưa đáp ứng được

yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và yêu cầu chuyển dịch

cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Năng lực tổ chức, điều hành, đặc biệt

là năng lực quản lý kinh tế, quản lý xã hội còn hạn chế; phần lớn cán bộ

chuyên môn kỹ thuật chưa có đủ trình độ để ứng dụng thành tựu khoa học,

công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Số cán bộ chủ

109

chốt xã và 21 chức danh cán bộ xã có trình độ cao đẳng, đại học về chuyên

môn kỹ thuật quản lý nông nghiệp còn quá ít.

Những yếu kém trên là do công tác quy hoạch chưa gắn với yêu cầu

tiêu chuẩn, khi đào tạo còn nặng về lý luận chính trị, còn quản lý kinh tế, quản

lý nhà nước, chuyên môn kỹ thuật chưa được coi trọng; mặt khác, mới chú ý

đến đào tạo cán bộ đương chức, chưa chú ý đào tạo cán bộ nguồn. Đội ngũ

cán bộ cơ sở chủ yếu do tín nhiệm, được dân bầu chưa qua các trường lớp đào

tạo chính quy về lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ. Một số cán bộ có

trình độ cao đẳng, đại học không muốn về công tác tại địa phương vì việc làm

bấp bênh, chế độ dân bầu, thu nhập thấp hoặc trình độ cán bộ không đồng đều

nên làm việc với nhau rất khó. Việc đào tạo cán bộ có trình độ chuyên môn

cao đẳng, đại học phải tuân theo quy chế tuyển sinh của Bộ giáo dục nên cán

bộ xã ít có tiêu chuẩn phù hợp. Chính sách đối với người đi học tuy có đổi

mới, song chưa khuyến khích được người học; chế độ sử dụng cán bộ sau khi

học xong còn nhiều hạn chế. Tỉnh mới chú ý xây dựng kế hoạch đào tạo cán

bộ có trình độ trung cấp trở xuống, chưa có quy hoạch, kế hoạch đào tạo cán

bộ cao đẳng, đại học cho cơ sở.

II. PHƢƠNG HƢỚNG, MỤC TIÊU ĐÀO TẠO CÁN BỘ XÃ, PHƢỜNG, THỊ

TRẤN CÓ TRÌNH ĐỘ CAO ĐẲNG, ĐẠI HỌC

1. Phƣơng hƣớng:

- Đào tạo cán bộ chủ chốt và cán bộ dự nguồn của xã, phường, thị trấn

có trình độ cao đẳng, đại học ở các ngành chủ yếu: nông nghiệp, công nghiệp,

tài chính, thương mại để đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại

hoá nông nghiệp, nông thôn.

- Đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn tốt nghiệp cao đănge, đại học phải

bảo đảm kiến thức chuyên môn đa dạng về khoa học kỹ thuật, quản lý kinh tế,

quản lý nhà nước, lý luận chính trị, tin học, ngoại ngữ... đáp ứng được yêu cầu

phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

110

- Công tác đào tạo, bồi dưỡng phải bảo đảm chất lượng đào tạo và hiệu

quả sử dụng để cán bộ phát huy kiến thức đã học phục vụ công việc trước mắt

và lâu dài; phận định rõ tiêu chuẩn, đối tượng, hình thức đào tạo để cán bộ có

điều kiện vừa học tập nâng cao trình độ, vừa thực hiện nhiệm vụ chính trị ở

địa phương.

- Chọn số sinh viên tốt nghiệp cao đẳng, đại học ở các trường Trung

ương và địa phương đang chờ việc có nhu cầu công tác ở xã, phường, thị trấn

làm nguồn cho cán bộ cơ sở.

2. Mục tiêu:

- Phấn đấu từ nay đến 2010 cán bộ chủ chốt, cán bộ nguồn nguồn chủ

chốt và cán bộ làm công tác chuyên môn: tài chính, địa chính, tư pháp, văn

phòng... phải có trình độ cao đẳng hoặc đại học chuyên môn khoa học kỹ

thuật, quản lý kinh tế, quản lý nhà nước, tin học, ngoại ngữ và trung cấp lý

luận chính trị.

- Cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn đang giữ các chức vụ: Bí thư,

Phó bí thư, chủ tịch Hội đồng nhân dân, chủ tịch Ủy ban nhân dân, chủ nhiệm

hợp tác xã, tuổi 42 trở xuống có bằng tốt nghiệp phổ thông trung học, tốt

nghiệp trung học bổ túc văn hóa, có sức khỏe, được đào tạo hệ không chính

quy (tại chức), cao đẳng, đại học đa ngành hoặc chuyên ngành về khoa học kỹ

thuật, quản lý kinh tế, quản lý Nhà nước, lý luận chính trị, tin học, ngoại ngữ.

- Đối với cán bộ dự nguồn và các chức danh khác tuổi 32 trở xuống, có

đủ các điều kiện quy định thì đào tạo hệ chính quy cao đẳng đa ngành hoặc

chuyên ngành. Sau đó sẽ chọn trong số cán bộ tốt nghiệp cao đẳng, đồng chí

nào có quá trình học tập, công tác tốt, có khả năng phát triển thì tiếp tục đào

tạo cử nhân đại học.

- Cán bộ lãnh đạo, quản lý tuổi cao, thời gian công tác còn lại không

đảm bảo lâu dài thì đẩy mạnh công tác bồi dưỡng nghiệp vụ, chuyên môn để

đáp ứng kịp thời nhiệm vụ của địa phương.

111

3. Kế hoạch đào tạo, bồi dƣỡng từ 2002 đến 2010

Trên cơ sở nhu cầu đào tạo cán bộ xã, phường, thị trấn có trình độ cao

đẳng, đại học; căn cứ khả năng thực tế về cơ sở vật chất của Trường cao đẳng

Kinh tế - kỹ thuật, dự kiến kế hoạch đào tạo cán bộ xã, phường, thị trấn từ nay

đến 2010 như sau:

a. Hệ cao đẳng (tuyển sinh theo quy chế của Bộ Giáo dục - Đào tạo):

- Hệ cao đẳng tại chức (đối tượng là cán bộ chủ chốt đương chức, tuổi 42

trở xuống). Thời gian đào tạo từ 3,5-4 năm. Mỗi năm học 2 kỳ, mỗi kỳ 2 tháng.

Từ năm 2002 đến năm 2006 mở 10 lớp, mỗi năm tuyển sinh 2 lớp (mỗi

lớp 90 học viên), tổng số 900 học viên, tốt nghiệp ra trường hết vào năm

2010. Ngành đào tạo gồm: Quản trị kinh doanh, tài chính kế toán, quản lý nhà

nước, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, chế biến nông sản thực phẩm.

- Hệ cao đẳng chính quy (đối tượng là cán bộ dự nguồn và các chức

danh khác tuổi từ 32 trở xuống). Thời gian đào tạo 3 năm liên tục.

Từ năm 2002 đến 2010 mở 20 lớp (mỗi năm tuyển sinh 2 lớp, mỗi lớp

100 học viên). Số người được đào tạo: 2.000 học viên. Ngành đào tạo: Nông

nghiệp, thương mại, tài chính, công nghiệp, quản lý nhà nước.

b. Hệ đại học (tuyển sinh theo quy chế của Bộ Giáo dục - Đào tạo)

- Hệ đại học tại chức (Đối tượng là cán bộ chủ chốt đương chức, tuổi

dưới 40): Thời gian đào tạo 5 năm, mỗi năm tập trung 2 kỳ, mỗi kỳ 2-3 tháng.

Từ năm 2002 đến 2005 mở 4 lớp (mỗi năm tuyển sinh1 lớp, mỗi năm

100 học viên), tổng số 400 học viên, tốt nghiệp ra trường hết vào năm 2010.

Ngành đào tạo: các ngành về kỹ thuật nông nghiệp.

Từ năm 2006 trở đi hạn chế mở hệ cao đẳng, đại học tại chức cho cán

bộ cơ sở xã, phường, thị trấn, chủ yếu đào tạo hệ cao đẳng, đại học chính quy.

- Hệ đại học chính quy: Từ năm 2006 trở đi xét những học viên có quá

trình học tập và công tác tốt, có khả năng phát triển, tiếp tục đào tạo, nâng cấp

112

cao đẳng lên đại học, từ năm 2006 đến năm 2010 đào tạo 4 lớp, mỗi năm 1

lớp, mỗi lớp 100 học viên. Tổng số 400 học viên ở các ngành trên.

Đến năm 2010 các chức danh chủ chốt ở cơ sở giữ các chức vụ Bí thư,

Phó bí thư, Chủ tịch Hội đồng nhân dân, chủ tịch Ủy ban nhân dân, chủ

nhiệm hợp tác xã cơ bản có trình độ cao đẳng, đại học.

Các chức danh khác theo Nghị định 09 của Chính phủ và dự nguồn đào

tạo bồi dưỡng đến năm 2010 khoảng trên 40% tốt nghiệp cao đẳng, đại học về

quản lý kinh tế, quản lý nhà nước, chuyên môn kỹ thuật.

III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỦ YẾU

1. Điều tra đối tƣợng đào tạo:

- Đảng ủy cơ sở xã, phường, thị trấn phải rà soát, bổ sung được quy

hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ từ nay đến năm 2010 với các chức

danh chủ chốt. Thống kê cán bộ đương chức và dự nguồn các chức danh: Bí

thư, Phó bí thư, Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân, chủ

nhiệm hợp tác xã và các chức danh khác về trình độ văn hóa, chuyên môn

nghiệp vụ và độ tuổi. Lập kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, dự kiến ngành cần

đào tạo cho từng cán bộ, hình thức đào tạo và thời gian đào tạo từ nay đến

năm 2010; thống kê những sinh viên tốt nghiệp cao đẳng, đại học ở các

trường có nguyện vọng công tác lâu dài ở địa phương, gửi danh sách về Ban

tổ chức các huyện, thị trong 4 tháng hàng năm.

- Các huyện, thị ủy xét duyệt danh sách cán bộ cần được đào tạo, bồi dưỡng

theo các ngành và những sinh viên tốt nghiệp cao đẳng, đại học mà đảng ủy cơ sở

gửi lên; lập danh sách cho từng đối tượng, từng lĩnh vực chuyên môn nghiệp vụ

của toàn huyện gửi về Ban Tổ chức Tỉnh ủy vào tháng 5 hàng năm.

- Ban Tổ chức Tỉnh ủy tổng hợp danh sách cán bộ cần được đào tạo,

bồi dưỡng; phối hợp với trường Cao đẳng Kinh tế - kỹ thuật xây dựng kế

113

hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ xã, phường, thị trấn trong tỉnh về các ngành

cần đào tạo, báo cáo Thường trực Tỉnh ủy vào tháng 6 hàng năm.

2. Bảo đảm nghiêm túc quy chế, quy định của Bộ Giáo dục - đào

tạo về thi tuyển

Trường Cao đẳng Kinh tế - kỹ thuật xây dựng kế hoạch, chương trình,

nội dung, thời gian ôn thi cho cán bộ được cử đi học, để bảo đảm cán bộ có

kiến thức văn hóa dự tuyển đạt kết quả cao và giải quyết các chế độ theo quy

định của tỉnh cho cán bộ trong thời gian dự ôn thi.

- Trường Cao đẳng Kinh tế - kỹ thuật căn cứ vào quy chế, quy định của

Bộ Giáo dục - Đào tạo về thi tuyển, có kế hoạch cụ thể tổ chức thực hiện

nghiêm túc, tránh mọi tiêu cực trong thi tuyển, coi trọng chất lượng và hiệu

quả đào tạo.

3. Xây dựng nguồn ngân sách và chính sách đối với cán bộ đi học

Về xây dựng nguồn ngân sách:

Trên cơ sở kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, được Thường trực Tỉnh

ủy duyệt, các cấp cần xây dựng nguồn ngân sách đào tạo, bồi dưỡng.

- Trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm của tỉnh, huyện,

thị có nội dung chỉ tiêu đào tạo cán bộ xã, phường, thị trấn có trình độ cao

đẳng, đại học.

- Kế hoạch ngân sách hàng năm của tỉnh, huyện, thị phải thể hiện nguồn

ngân sách để đào tạo cán bộ xã, phường, thị trấn có trình độ cao đẳng, đại học.

Chính sách đối với cán bộ đi học:

Trong thời gian qua tỉnh đã ban hành, sửa đổi một số chính sách đối với

cán bộ chủ chốt xã đi học tập trung nhưng chủ yếu ở trình độ trung cấp; còn

trình độ cao đẳng, đại học chưa có quy định cụ thể. Trước mắt, chế độ đối với

cán bộ cơ sở đi học hệ cao đẳng, đại học được thực hiện như sau:

114

- Đối với cán bộ chủ chốt đương chức đi học cao đẳng, đại học (hệ tại

chức hoặc tập trung tại tỉnh) được Ủy ban nhân dân tỉnh cấp sinh hoạt phí

150.000đ/tháng.

- Đối với cán bộ dự nguồn, đi học cao đẳng, đại học được Ủy ban nhân

dân tỉnh cấp sinh hoạt phí 120.000đ/tháng.

- Kinh phí đào tạo cấp cho các đối tượng đi học cao đẳng, đại học thực

hiện theo quy định của Bộ Giáo dục - Đào tạo là 4.500.000đ/người/năm

(trong đó có cả sinh hoạt phí của học viên).

- Các huyện, thị cấp tiền mua tài liệu sách, giấy, bút và tiền công tác

phí cho học viên. Trong thời gian cán bộ đi học, các xã, phường, thị trấn bố trí

công việc hợp lý, tạo điều kiện về thời gian để cán bộ có thể đi học tập bình

thường không ảnh hưởng đến công việc chung.

4. Trƣờng cao đẳng Kinh tế - kỹ thuật là đơn vị trực tiếp thực hiện

đề án

- Ban Tổ chức Tỉnh ủy phố hợp với Trường Cao đẳng Kinh tế - kỹ

thuật quan hệ với các Bộ và các trường ở Trung ương, chịu trách nhiệm mở

các lớp cao đẳng, đại học hệ tại chức và tập trung; Trường Cao đẳng Kinh tế -

kỹ thuật kết hợp với Trường Chính trị tỉnh để bảo ddamr nội dung lý luận

chính trị trong chương trình đào tạo.

- Trường Cao đẳng Kinh tế - kỹ thuật chuẩn bị tốt cơ sở vật chất, xây

dựng đội ngũ giảng viên ngang tầm với nhiệm vụ đào tạo cán bộ ở địa

phương. Nội dung, phương thức đào tạo cần phải thiết thực, phù hợp với yêu

cầu, đối tượng từng loại cán bộ, chú trọng về phẩm chất đạo đức, kiến thức lý

luận và thực tiễn, các kỹ năng của người cán bộ (kỹ năng lãnh đạo, quản lý,

nghiệp vụ chuyên môn).

- Trường Cao đẳng Kinh tế - kỹ thuật lập kế hoạch ngân sách hàng

năm, xây dựng chương trình đào tạo theo từng yêu cầu của ngành học, dự

kiến số lớp, số người và thời gian mở lớp đối với từng hệ đào tạo, lập dự trù

115

kinh phí của từng lớp, số người và thời gian mở lớp đối với từng hệ đào tạo,

lập dự trù kinh phí của từng lớp, báo cáo Thường trực Tỉnh ủy.

Nơi nhận T/M BAN THƯỜNG VỤ

- Ban Bí thư Trung ương Đảng (để b/c) BÍ THƯ

- Ban Tổ chức Trung ương (để b/c)

- Ban cán sự đảng UBND tỉnh

- Các huyện, thị ủy, đảng ủy trực thuộc TƯ

- Các sở, ban, ngành, đoàn thể của tỉnh Bùi Sĩ Tiếu

- Các đồng chí Tỉnh ủy viên

- Lưu văn phòng Tỉnh ủy

THỐNG KÊ TRÌNH ĐỘ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ, CHUYÊN MÔN

KỸ THUẬT CỦA 21 CHỨC DANH CÁN BỘ XÃ

Trình độ chuyên môn

Trình độ lý luận

Quản

Độ

tuổi

Trung

CĐ,

Trung

Cao

stt danh mục

Nhà

bình

cấp

cấp

ĐH

cấp

cấp

cấp

nước

quân

(%)

(%)

(%)

(%)

(%)

(%)

1

21 chức danh cán

4,3

25,9

4,8

44,1

46,16

0,6

41,9

bộ xã

Bí thư Đảng ủy

2

86,6

7,46

Chủ tịch xã

3

39,3

44,5

41,9

Chủ tịch HĐND

4

94,3

91,2

Chủ nhiệm HTX

5

23,9

116

TỈNH ỦY THÁI BÌNH

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Số: 27-KH/TU

Thái Bình, ngày 10 tháng 4 năm 2002

KẾ HOẠCH

Thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 25-1-2002 của Bộ Chính trị

về việc luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý

Để thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng, nhất là sau khi có Nghị

quyết Trung ương 3 (khóa VIII) về chiến lược cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh

công nghiệp hóa, hiện đại hóa; Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã thực hiện luân

chuyển nhiều cán bộ lãnh đạo, quản lý từ các sở, ban, ngành của tỉnh về các

huyện, thị; lãnh đạo chủ chốt các huyện, thị về công tác tại các cơ quan Đảng,

Nhà nước ở tỉnh; từ cơ quan Tỉnh ủy sang cơ quan chính quyền hoặc đoàn thể

chính trị, xã hội và ngược lại. Các sở, ban, ngành, đoàn thể cũng thực hiện việc

luân chuyển cán bộ từ đơn vị này sang đơn vị khác trong nội bộ. Do làm tốt

công tác luân chuyển cán bộ, bước đầu đã đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị

117

và tạo cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp, các ngành có bản lĩnh

chính trị vững vàng, kinh nghiệm thực tiễn phong phú, hoàn thành nhiệm vụ,

được cán bộ, đảng viên, công nhân viên và nhân dân tin tưởng, đồng tình cao.

Tuy nhiên, việc luân chuyển cán bộ trong thời gian qua còn nhiều mặt

hạn chế, một số trường hợp luân chuyển chưa dựa trên quy hoạch, kế hoạch

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, mới chỉ nhằm đáp ứng yêu cầu trước mắt, một số

trường hợp chưa được nghiên cứu kỹ, nên việc điều động, luân chuyển cán bộ

có lúc, có nơi chưa hợp lý. Nhận thức và thực hiện ở một số địa phương, đơn

vị còn băn khoăn, thắc mắc, cấp trên thiếu tin tưởng cán bộ, chưa nhiệt tình

tạo điều kiện giúp đỡ cán bộ được điều động, luân chuyển về địa phương, đơn

vị của mình. Do đó, việc luân chuyển chưa trở thành thường xuyên, nề nếp, có

luân chuyển nhưng chủ yếu là người địa phương. Trong số cán bộ được luân

chuyển, một số đồng chí tư tưởng còn băn khoăn về gia đình, về vị trí công

tác, trách nhiệm và hiệu quả công tác hạn chế. Vì vậy, đội ngũ lãnh đạo, quản

lý của tỉnh tuổi đời bình quân cao, cán bộ qua thực tiễn ở các cơ sở, ngành tỷ

lệ thấp, lãnh đạo quản lý còn lúng túng trong cơ chế mới.

Thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 25-1-2002 của Bộ Chính trị

về việc luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý. Ban Thường vụ Tỉnh ủy xây

dựng kế hoạch luân chuyển cán bộ như sau:

I.MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU

1. Việc luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý là xuất phát từ yêu cầu

nhiệm vụ chính trị, là tạo điều kiện để rèn luyện, bồi dưỡng, thử thách cán bộ,

nhất là cán bộ trẻ, có triển vọng, giúp cán bộ nắm bắt được thực tiễn, am hiểu

nhiều lĩnh vực, nhiều ngành, nâng cao trình độ. Đồng thời kiên quyết thay đổi

những cán bộ yếu kém, mất đoàn kết, ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, chính

quyền với nhân dân, để công tác luân chuyển cán bộ đúng quy hoạch và mạnh

mẽ hơn, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị ở địa phương, đơn vị.

118

2. Nhằm giải quyết những vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp bách hiện nay như

một khâu đột phá có tính chiến lược trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh

đạo, quản lý ngang tầm thời kỳ phát triển mới, thời kỳ tiếp tục đẩy mạnh sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từng bước điều chỉnh việc bố trí cán bộ

để đảm bảo đúng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đồng thời

phá bỏ những nhận thức lệch lạc, những khuynh hướng cục bộ, khép kín trong

từng địa phương, đơn vị, tâm lý thỏa mãn, trì trệ của nhiều cán bộ chỉ muốn

chọn nơi công tác dễ dàng, muốn ổn định chức vụ hoặc lên chức nhưng không

chịu nỗ lực học tập, rèn luyện phấn đấu nâng cao trình độ và hiệu quả công tác.

3. Các cấp ủy đảng và các ngành cần tạo ra sự thống nhất cao về nhậ

thức, làm cho cán bộ, đảng viên thông suốt về tư tưởng. Đây là việc khó, đụng

chạm đến nhiều đối tượng cán bộ nhưng vẫn phải làm kiên quyết và thận

trọng, bảo đảm sự đoàn kết, ổn định và phát triển.

II. PHƢƠNG CHÂM, NGUYÊN TẮC

1. Phƣơng châm

- Việc luân chuyển cán bộ phải được tiến hành vừa mạnh mẽ, vừa thận

trọng, giải quyết tốt giữa luân chuyển với ổn định và xây dựng đội ngũ cán bộ

chuyên sâu; vừa coi trọng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác, vừa coi trọng

mục đích rèn luyện, bồi dưỡng cán bộ, chuẩn bị đội ngũ cán bộ kế cận. Nói

chung chỉ luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý, không luân chuyển cán bộ

làm công tác chuyên môn, nghiệp vụ (trừ trường hợp nhằm mục đích tăng

cường cán bộ cho cơ sở, cho lĩnh vực hoặc địa bàn cần thiết).

- Tạo ra sự thống nhất cao về nhận thức tư tưởng, trước hết trong toàn

Đảng và toàn hệ thống chính trị, nhất là những cơ quan trực tiếp làm công tác

tổ chức, cán bộ phải quyết tâm thực hiện, vừa làm tốt việc động viên, khuyến

khích tính tự giác của cán bộ, vừa yêu cầu cán bộ, đảng viên nghiêm túc chấp

hành quyết định, điều động, luân chuyển của tổ chức.

119

- Chủ động xác lập kế hoạch luân chuyển cán bộ một cách đúng đắn trên

cơ sở quy hoạch cán bộ phù hợp, hiệu quả, sáng tạo. Thực hiện triệt để kế hoạch

và đặt dưới sự lãnh đạo toàn diện của cấp ủy đảng, thận trọng trong cách làm,

phải chuẩn bị kỹ kế hoạch và lộ trình thực hiện từng bước, chuẩn bị tốt cả nơi

cán bộ đi và nơi cán bộ đến, không làm ồ ạt, tràn lan, chạy theo số lượng.

- Chống tư tưởng cục bộ khép kín trong từng ngành, từng địa phương,

đơn vị, không muốn nhận người từ nơi khác đến; ngăn ngừa và kiên quyết đấu

tranh với những biểu hiện không lành mạnh; khắc phục mọi biểu hiện tư

tưởng địa phương, cục bộ, cá nhân chủ nghĩa, gây khó khăn, làm giảm uy tín

người được điều động, luân chuyển tới, hoặc lợi dụng việc luân chuyển cán

bộ để đẩy người trung thực, thẳng thắn, người có năng lực nhưng không hợp

mình đi nơi khác.

2. Nguyên tắc

- Các đồng chí ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thường trực Hội đồng

nhân dân, Thường trực Ủy ban nhân dân tỉnh, lãnh đạo một số cơ sở, ban,

ngành của tỉnh và cán bộ dự nguồn các chức danh trên nhất thiết phải qua thời

gian công tác ở cơ sở và giữ cương vị chủ chốt ở các huyện, thị (trừ các đồng chí ở

Trung ương điều về và các đồng chí ở Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh và Công an tỉnh).

- Cán bộ năng lực yếu, phẩm chất đạo đức sa sút, tín nhiệm thấp và cán bộ

được luân chuyển sau một thời gian nhất định, thấy không phát huy được tác

dụng thì kịp thời điều chuyển, có thể giữ chức vụ tương đương hoặc thấp hơn.

- Bí thư, Phó bí thư huyện, thị ủy; Chủ tịch Ủy ban nhân dân các huyện,

thị xã không nhất thiết là người của địa phương.

- Đối với các chức danh được điều động, luân chuyển giữ các chức vụ

phải thông qua bầu cử thì các cấp ủy đảng, lãnh đạo đảng đoàn, các cơ quan

dân cử, các đoàn thể tổ chức thực hiện tốt việc lãnh đạo bầu cử đúng luật,

đúng điều lệ của Đảng, đoàn thể nhân dân và nghị quyết của cấp ủy cấp trên.

120

- Việc quyết định luân chuyển, điều động cán bộ thực hiện theo nguyên

tắc tập trung dân chủ, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức.

- Tất cả những vấn đề về công tác điều động, luân chuyển cán bộ đều

thực hiện theo đúng các quyết định của Trung ương và của Ban Thường vụ

Tỉnh ủy đã ban hành.

III. ĐỐI TƢỢNG VÀ THỜI GIAN LUÂN CHUYỂN CÁN BỘ

1. Đối tƣợng

Ở tỉnh:

- Các đồng chí ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy là Trưởng các ban của

Đảng, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân tỉnh chưa qua làm cán

bộ chủ chốt ở các huyện, thị và các đơn vị sản xuất kinh doanh với quy mô lớn

(trừ các đồng chí lãnh đạo của Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh và Công an tỉnh).

- Các đồng chí giám đốc các sở, ngành, phó các ban của Đảng, trưởng

các đoàn thể tuổi dưới 50 đối với nam, dưới 45 đối với nữ, nằm trong nguồn

quy hoạch Thường vụ Tỉnh ủy, Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân

dân tỉnh trước mắt và lâu dài.

- Phó giám đốc các sở, ban, ngành, đoàn thể tuổi dưới 45, nằm trong

quy hoạch đào tạo trước mắt và lâu dài cho Giám đốc sở, ban, ngành và chủ

chốt của tỉnh.

- Căn cứ sở trường công tác của một số cán bộ ở các sở, ngành có thể

luân chuyển một số cán bộ lãnh đạo, quản lý từ cơ quan Đảng sang Nhà nước

và ngược lại.

Ở các sở, ban, ngành, đoàn thể:

Chọn một số đồng chí Trưởng phòng ở các sở, ban, ngành của tỉnh có trình

độ, đủ tiêu chuẩn, có triển vọng phát triển đi tăng cường cho các huyện, thị.

- Luân chuyển các đồng chí là trưởng, phó các phòng ban và tương

đương trong nội bộ ngành, đơn vị.

Ở huyện, thị:

121

- Luân chuyển một số cán bộ chủ chốt là Bí thư, Phó bí thư các huyện,

thị ủy; Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó Chủ tịch

Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã đã công tác lâu năm ở huyện, thị, có triển

vọng phát triển, bảo đảm đầy đủ tiêu chuẩn thì đưa về bố trí giữ các cương vị

lãnh đạo chủ chốt của tỉnh, của ngành và các huyện khác.

- Nghiên cứu các đồng chí trưởng, phó phòng ban đã được đào tạo cơ

bản nhưng chưa bố trí hợp lý, chưa phát huy được sở trường thì cần luâ

chuyển bố trí lại cho hợp lý để phát huy. Những đồng chí có triển vọng phát

triển tốt thì mạnh dạn đưa đi cơ sở để đào tạo lâu dài nguồn cán bộ lãnh đạo.

- Luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý trong nội bộ của huyện, thị từ

cơ quan Đảng sang Nhà nước và ngược lại đối với những cán bộ có chuyên

môn gần nhau để tạo cho cán bộ có kiến thức thực tiễn nhiều ngành, nhiều

lĩnh vực, nhưng phải nằm trong quy hoạch cán bộ và có triển vọng phát triển.

2. Thời gian:

Thời gian luân chuyển cán bộ nói chung từ 3 năm trở lên. Đối với những

trường hợp có dự định rõ thời gian luân chuyển, trước khi kết thúc thời hạn, cơ

quan quản lý cán bộ nhận xét, đánh giá, cân nhắc bố trí nhiệm vụ mới cho cán bộ.

IV. CÁC BƢỚC TIẾN HÀNH

1. Lập quy hoạch và kế hoạch luân chuyển cán bộ:

- Các cấp ủy đảng, đảng đoàn, lãnh đạo các đơn vị cần làm tốt việc xây dựng

quy hoạch cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, trong đó khâu đầu tiên là đánh giá cán

bộ cho đúng, phát hiện đúng cán bộ có triển vọng, cán bộ dự bị cho các chức vụ

lãnh đạo, quản lý, biết rõ chỗ mạnh, yếu của cán bộ, cần bồi dưỡng về mặt nào; từ

đó xác định cần luân chuyển cán bộ nào, nhằm mục đích gì, chuyển sang công tác

gì cho phù hợp. Nếu tiến hành luân chuyển cán bộ cán bộ một cách riêng rẽ, tách

rời việc xây dựng quy hoạch, việc đánh giá, lựa chọn cán bộ dự bị thì sẽ không phát

huy được tác dụng. Vì vậy, cần phải nghiên cứu thật kỹ và lập danh sách đối tượng

cán bộ của địa phương, đơn vị cần luân chuyển.

122

- Trong việc luân chuyển cán bộ phải chú ý các mối quan hệ giữa thực

hiện kế hoạch và kế hoạch luân chuyển cán bộ. Cấp ủy huyện, thị chủ động

phối hợp với lãnh đạo các cơ quan cấp tỉnh trong việc xây dựng và thực hiện

quy hoạch, kế hoạch luân chuyển cán bộ thuộc trách nhiệm quản lý trực tiếp

của các ngành cấp tỉnh đang công tác trên địa bàn huyện, thị. Lãnh đạo các

ngành cấp tỉnh chủ động phối hợp với cấp ủy huyện, thị trong việc xây dựng

quy hoạch, kế hoạch luân chuyển cán bộ thuộc trách nhiệm quản lý trực tiếp

của cấp tỉnh đang công tác trên địa bàn huyện, thị.

- Để việc luân chuyển cán bộ phục vụ cho công tác đào tạo cán bộ lãnh

đạo, quản lý chủ chốt huyện, thị trước mắt, lâu dài và có điều kiện bố trí cán

bộ trẻ được đào tạo cơ bản, có trình độ năng lực, phẩm chất tốt, đề nghị Trung

ương tăng cườn thêm số lượng chức danh Phó Bí thư huyện, thị ủy để việc

luân chuyển cán bộ mạnh mẽ hơn.

- Ban Tổ chức Tỉnh ủy được Ban Thường vụ Tỉnh ủy ủy quyền chủ

động phối hợp với lãnh đạo các cơ quan Trung ương để xây dựng quy hoạch,

kế hoạch luân chuyển cán bộ do các Bộ và cơ quan Trung ương quản lý trực

tiếp đang công tác trên địa bàn tỉnh. Đồng thời tham mưu cho Ban Thường vụ

Tỉnh ủy xây dựng các phương án luân chuyển cán bộ, tổng hợp danh sách cán

bộ cần luân chuyển để báo cáo Ban Thường vụ xét duyệt.

2. Chuẩn bị các điều kiện cho cán bộ đƣợc luân chuyển đi và đến:

- Để thực hiện tốt chủ trương luân chuyển cán bộ, cần làm tốt công tác

tư tưởng cho cán bộ được luân chuyển. Cấp quyết định luân chuyển cán bộ có

trách nhiệm làm việc với tập thể cấp ủy và lãnh đạo các đơn vị có cán bộ đi và

đến trước khi quyết định. Xác định rõ trách nhiệm cho cán bộ để chấp hành

quyết định của tổ chức.

- Lãnh đạo cơ quan, đơn vị, cá nhân cán bộ được luân chuyển phải đề

cao trách nhiệm, gương mẫu, phục tùng nghiêm túc quyết định luân chuyển,

điều động của cấp trên. Phải làm tốt công tác tư tưởng, tạo sự thống nhất cao

trong cán bộ, đảng viên và quần chúng.

123

3. Xây dựng các chế độ chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho công

tác luân chuyển cán bộ:

- Cần quan tâm giải quyết thỏa đáng chính sách, chế độ đối với cán bộ

được luân chuyển công tác đến những nơi mới, để cán bộ yên tâm công tác,

cuộc sống của bản thân và gia đình bớt bị xáo trộn, khó khăn. Cần có sự cân

đối chung về chính sách bảo đảm công bằng, hợp lý giữa cán bộ luân chuyển

theo quy hoạch với những cán bộ được điều động tăng cường cho những nơi

khó khăn, những đơn vị có tính phức tạp.

- Nghiên cứu, xây dựng và thực hiện chế độ nhà công vụ thống nhất

theo từng cấp, để tạo điều kiện sinh hoạt, làm việc thuận lợi cho cán bộ được

luân chuyển từ nơi khác đến địa phương, đơn vị công tác.

4. Quyết định về luân chuyển cán bộ:

Việc ra quyết định diều động, luân chuyển cán bộ thực hiện theo các

quyết định về phân cấp quản lý cán bộ của Trung ương và Ban Thường vụ

Tỉnh ủy đã ban hành.

- Những cán bộ không chấp hành quyết định điều động, luân chuyển

của cấp ủy đảng mà không có lý do chính đáng và những cán bộ vì tư tưởng

cục bộ, động cơ cá nhân mà cản trở, gây khó khăn, làm giảm uy tín người

được điều động, luân chuyển tới hoặc lợi dụng việc luân chuyển cán bộ mà

đẩy người không hợp với mình đi nơi khác đều bị xem xét xử lý.

V. TỔ CHỨC THỰC HIỆN

- Ban Thường vụ Tỉnh ủy giao cho Ban Tổ chức Tỉnh ủy căn cứ kế

hoạch này xây dựng phương án luân chuyển cán bộ trong phạm vị toàn tỉnh

đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp, các ngành thuộc diện Tỉnh ủy

quản lý theo từng giai đoạn nhất định trên cơ sở quy hoạch cán bộ đã được

phê duyệt. Trước mắt chọn một số đối tượng cán bộ ở các cấp, các ngành thực

hiện việc luân chuyển vào quý 4-2002 để chuẩn bị đội ngũ cán bộ cho nhân sự

cấp ủy tại Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII.

124

- Căn cứ kế hoạch và căn cứ quyết định phân cấp quản lý cán bộ, lãnh

đạo các sở, ban, ngành, đoàn thể, Ban Thường vụ các huyện, thị ủy, các

doanh nghiẹp nhà nước chủ động rà soát đánh giá lại đội ngũ cán bộ, trên cơ

sở quy hoạch cán bộ để xây dựng kế hoạch luân chuyển cán bộ ở địa phương,

đơn vị mình, đồng thời phối hợp với các ban, ngành liên quan để xây dựng kế

hoạch luân chuyển cán bộ tổng thể trong những thời gian nhất định.

- Giao cho Ủy ban kiểm tra Tỉnh ủy căn cứ chức năng, nhiệm vụ của mình xem

xét xử lý những cán bộ không chấp hành sự điều động, luân chuyển của tổ chức và

những đơn vị, địa phương gây khó khăn, cản trở cho việc luân chuyển cán bộ.

Kế hoạch này được phổ biến tới các tổ chức cơ sở đảng. Trong quá

trình tổ chức triển khai thực hiện có gì vướng mắc, yêu cầu cấp ủy các cấp,

lãnh đạo các đơn vị kịp thời phản ánh, báo cáo về Ban Thường vụ Tỉnh ủy

(qua Ban Tổ chức Tỉnh ủy) để kịp thời bổ sung, điều chỉnh.

T/M BAN THƯỜNG VỤ BÍ THƯ Bùi Sĩ Tiếu

Nơi nhận - Ban Bí thư Trung ương Đảng (để b/c) - Ban Tổ chức Trung ương (để b/c) - Ban cán sự đảng UBND tỉnh - Các huyện, thị ủy, đảng ủy trực thuộc TƯ - Các sở, ban, ngành, đoàn thể của tỉnh - Các đồng chí Tỉnh ủy viên - Lưu văn phòng Tỉnh ủy