ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-------------------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ CÚC

ĐẢNG BỘ HUYỆN ỨNG HÒA (HÀ NỘI)

LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG NGHIỆP

TỪ NĂM 2008 ĐẾN NĂM 2014

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Hà Nội - 2015

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-------------------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ CÚC

ĐẢNG BỘ HUYỆN ỨNG HÒA (HÀ NỘI)

LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG NGHIỆP

TỪ NĂM 2008 ĐẾN NĂM 2014

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Mã số: 60.22.03.15

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Đặng Kim Oanh

Hà Nội - 2015

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tài

liệu và số liệu trích dẫn trong luận văn là hoàn toàn trung thực và có nguồn

gốc xuất xứ rõ ràng.

Hà Nội, ngày tháng năm 2015

Tác giả

Nguyễn Thị Cúc

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn Thạc sĩ, tác giả xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới

TS. Đặng Kim Oanh – cô giáo hướng dẫn khoa học đã tận tình giúp đỡ em

trong suốt quá trình thực hiện luận văn.

Xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô giáo trong khoa Lịch sử, bộ môn

Lịch sử Đảng, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc

gia Hà Nội, nơi tác giả đã học.

Xin chân thành cảm ơn tập thể cán bộ và nhân viên kho lưu trữ văn

phòng Huyện ủy, phòng Nông nghiệp, phòng Thống kê… của huyện Ứng

Hòa đã giúp đỡ trong quá trình khai thác và tìm kiếm tư liệu.

Xin cảm ơn tới gia đình, bạn bè đã hỗ trợ, động viên, giúp đỡ tác giả

trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và làm luận văn.

Xin chân thành cảm ơn!

Tác giả

Nguyễn Thị Cúc

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1

1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 2

3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu. ................................................................. 7

Chƣơng 1: CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ

HUYỆN ỨNG HÒA ĐỐI VỚI KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TỪ NĂM

2008 ĐẾN NĂM 2010 ................................................................................. 10

1.1. Những yếu tố tác động đến kinh tế nông nghiệp huyện Ứng Hòa và

chủ trƣơng của Đảng bộ ............................................................................... 10

1.1.1. Những yếu tố tác động đến kinh tế nông nghiệp huyện Ứng Hòa ............... 10

1.1.2. Chủ trương của Đảng bộ huyện Ứng Hòa về phát triển kinh tế nông

nghiệp .............................................................................................................. 28

1.2. Sự chỉ đạo của Đảng bộ Ứng Hòa về phát triển kinh tế nông

nghiệp ............................................................................................................. 32

1.2.1. Chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và phát triển các

nguồn lực cho nông nghiệp ........................................................................... 32

1.2.2. Chỉ đạo sản xuất nông nghiệp ............................................................ 36

Tiểu kết chương 1 ........................................................................................... 43

Chƣơng 2: ĐẢNG BỘ HUYỆN ỨNG HÒA LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH

PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG NGHIỆP (2011 – 2014) ......................... 45

2.1. Những yếu tố mới tác động đến kinh tế nông nghiệp và chủ trƣơng

mới của Đảng bộ ............................................................................................ 45

2.1.1. Những yếu tố mới tác động đến kinh tế nông nghiệp huyện Ứng Hòa . 45

2.1.2. Chủ trương mới của Đảng bộ huyện Ứng Hòa ..................................... 55

2.2. Sự chỉ đạo của Đảng bộ huyện Ứng Hòa ............................................. 58

2.2.1. Chỉ đạo đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và phát triển

các nguồn lực .................................................................................................. 58

2.2.2. Chỉ đạo phát triển sản xuất nông nghiệp .............................................. 61

Tiểu kết chương 2 ........................................................................................... 74

Chƣơng 3. NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM ............................................ 76

3.1. Nhận xét về sự lãnh đạo của Đảng bộ. ................................................. 76

3.1.1. Ưu điểm ................................................................................................. 76

3.1.2. Hạn chế ................................................................................................. 87

3.2. Một số kinh nghiệm ................................................................................ 91

3.2.1. Thực hiện đúng chủ trương, đường lối phát triển nông nghiệp, nông

thôn của Đảng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và vận dụng sáng

tạo vào thực tiễn địa phương. ......................................................................... 92

3.2.2. Khai thác tiềm năng, thế mạnh phát triển nông nghiệp. ....................... 93

3.2.3. Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển, mở

rộng liên kết kinh tế, đẩy mạnh xã hội hóa. .................................................... 95

3.2.4. Đảng bộ huyện Ứng Hòa đã lãnh đạo, chỉ đạo mạnh dạn tiếp nhận và nhân

rộng các giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng cao, có giá trị kinh tế,

các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất. ................................................ 95

3.2.5. Đổi mới công tác lãnh đạo, chỉ đạo của huyện ủy, Ủy ban nhân dân và

các ban ngành đoàn thể và cả hệ thống chính trị. .......................................... 96

3.2.6. Đảng bộ huyện Ứng Hòa chú trọng phát triển nông nghiệp gắn với hiện

đại hóa nông thôn và nâng cao đời sống nông dân. ....................................... 97

Tiểu kết chương 3 ........................................................................................... 98

KẾT LUẬN .................................................................................................. 100

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 104

PHỤ LỤC ..................................................................................................... 112

DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT

CNH Công nghiệp hóa

CNXH Chủ nghĩa xã hội

HĐH Hiện đại hóa

KTNN Kinh tế nông nghiệp

NXB Nhà xuất bản

TBCN Tư bản chủ nghĩa

UBND Ủy ban nhân dân

XHCN Xã hội chủ nghĩa

DANH MỤC BẢNG

Bảng 1.1. Diện tích năng suất, sản lượng cây lương thực ....................................... 41

Bảng 1.2. Số lượng và sản lượng gia súc, gia cầm ......................................... 42

Bảng 2.1. Hiện trạng sử dụng đất của huyện Ứng Hòa những năm 2007-2014 ...... 46

Bảng 2.2. Về cơ cấu giống, năng suất lúa: ...................................................... 63

Bảng 2.3. Gía trị sản xuất ngành trồng trọt theo giá hiện hành phân theo nhóm

cây trồng .......................................................................................................... 69

MỞ ĐẦU

1 . Tính cấp thiết của đề tài

Việt Nam là một nước nông nghiệp, phần lớn dân cư tập trung chủ yếu

ở nông thôn. Để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội cần phải đẩy nhanh tốc

độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, thúc đẩy sự chuyển

dịch cơ cấu kinh tế ở khu vực nông thôn một cách mạnh mẽ thì vấn đề chú

trọng phát triển kinh tế nông nghiệp là một trong những giải pháp quan trọng

thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, ổn định tình hình chính trị-xã hội.

Đây là một trong những nội dung chủ yếu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa

nông nghiệp, nông thôn ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương,

chính sách khuyến khích, tạo điều kiện để nông nghiệp được phát triển. Chính

vì vậy đã xuất hiện ngày càng nhiều các nghành, vùng có bước phát triển

đáng kể, đóng góp lớn vào sự phát triển kinh tế ở địa phương. Phát triển nông

nghiệp đã đạt được những kết quả to lớn, góp phần làm thay đổi nhanh chóng

bộ mặt nông thôn, không chỉ phát triển kinh tế mà còn góp phần giữ gìn ổn

định chính trị, đảm bảo an ninh trật tự xã hội.

Cùng với sự phát triển của nông nghiệp trong cả nước, nông nghiệp ở

huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội cũng luôn được các cấp chính quyền, địa

phương quan tâm, tạo điều kiện để phát triển, mở rộng về quy mô và đa dạng

về các loại hình cơ cấusản xuất. Song do tính chất thủ công, lạc hậu vốn sẵn

của nó, sự phát triển của các ngành nông nghiệp ở huyện Ứng Hòa còn mang

nặng tính chất tự phát, sản xuất nhỏ, manh mún, công nghệ lạc hậu, năng suất

thấp, kém phát triển, chưa có những vùng kinh tế trọng điểm, gần như chưa

tạo được thị trường rộng lớn … Đi cùng với nó là đội ngũ cán bộ quản lý cơ

sở sản xuất còn thiếu và yếu, trình độ thấp. Hơn nữa, do nhiều nguyên nhân

chủ quan và khách quan, nông nghiệp Ứng Hòa còn nhiều hạn chế trong hoạt

1

động tổ chức sản xuất. Chính vì vậy nông nghiệp chưa phát huy hết vai trò

của của nó trong việc thúc đẩy sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông

nghiệp, nông thôn.

Để ngành nông nghiệp phát huy được vai trò và năng lực trong phát

triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn, vấn đề đặt ra là phải có phương hướng

phát triển tốt, giải pháp phát triển kinh tế ngành nông nghiệp phù hợp với tình

hình thực tế ở địa phương, phù hợp với yêu cầu phát triển và phù hợp với xu

hướng vận động và phát triển của nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Đề

tài: “Đảng bộ huyện Ứng Hòa (Hà Nội) lãnh đạo phát triển kinh tế nông

nghiệp từ năm 2008 đến năm 2014” nghiên cứu làm sáng tỏ vai trò của

Đảng bộ trong lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp; góp phần giải quyết

vấn đề còn tồn tại bấy lâu trong phát triển nông nghiệp trên đại bàn huyện.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Kinh tế nông nghiệp là vấn đề rất quan trọng vì có ảnh hưởng trực tiếp

đến đời sống kinh tế của con người, ảnh hưởng đến đời sống văn hóa, xã hội

và các hoạt động khác của mọi người dân. Bởi vậy, trong lịch sử đã có rất

nhiều công trình nghiên cứu có đề cập đến ngành nông nghiệp.

Những công trình nghiên cứu về kinh tế nông nghiệp, nông dân

nông thôn.

Đây là một mảng đề tài lớn thu hút nhiều nhà nghiên cứu.Đáng chú ý là

những công trình: Nguyễn Văn Bích (2007), Nông nghiệp, nông thôn sau hai

mươi năm đổi mới: Qúa khứ và hiện tại, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Tác

giả với cách nhìn khái quát, công trình nghiên cứu như một bản tổng kết về

lĩnh vực nông nghiệp nước ta, phản ánh đầy đủ, toàn diện, thống kê số liệu

qua các thời kỳ xây dựng và phát triển kinh tế nông nghiệp nước ta dưới sự

lãnh đạo của Đảng. PGS.TS Nguyễn Sinh Cúc: Nông nghiệp Việt Nam 1945

- 1995, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 1995, đã nghiên cứu về điều kiện sản

xuất, quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất; kết quả và hiệu quả kinh tế của cả

2

nước, từng vùng, từng địa phương từ năm 1945 đến năm 1995 trong lĩnh vực

nông nghiệp. Bên cạnh đó, Nguyễn Sinh Cúc còn nghiên cứu về nông nghiệp,

nông thôn qua công trình, Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới

1986-2002, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội (năm 2003). Tác giả nghiên cứu

về thực trạng nông nghiệp nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới, các vấn đề

đặt ra và các giải pháp, đặc biệt tác gải đã thống kê được số liệu nông nghiệp

nông thôn Việt Nam hàng năm. Bùi Huy Đáp có công trình Nông nghiệp Việt

Nam từ cội nguồn đến đổi mới, Nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội,

1996, nghiên cứu về quá trình phát triển của nông nghiệp Việt Nam qua các

giai đoạn lịch sử; nông nghiệp truyền thống và kinh nghiệm làm nông nghiệp;

sự đổi mới (công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nền nông nghiệp Việt Nam).

Tác giả Đặng Phong (chủ biên) với cuốn Lịch sử kinh tế Việt Nam (1945 –

2000), Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 2002, tập 1, nghiên cứu tình hình phát

triển kinh tế Việt Nam nói chung, trong đó kinh tế nông nghiệp trong những

năm 1945 – 1954. Công trình nghiên cứu về Chính sách phát triển nông

nghiệp và nông thôn sau Nghị quyết 10 của Bộ chính trị, do GS.TS Lê Đình

Thắng (chủ biên), Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội. Tác giả đã phân tích và

xác định được tầm quan trọng của sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế

nông thôn ở nước ta trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ sau

Nghị quyết 10, từ đó có những kiến nghị , phương hướng và những giải pháp

để đổi mới, phát triển kinh tế nông thôn trong giai đoạn tiếp theo. Đoàn Văn

Tập (chủ biên): 45 năm kinh tế Việt Nam (1945 – 1990), Nhà xuất bản Khoa

học xã hội, Hà Nội, 1990, đã nghiên cứu tình hình, chính sách và triển vọng

kinh tế Việt Nam trải qua 45 năm xây dựng và phát triển nền công nghiệp.Tác

giả Kim Sơn với cuốn Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam– hôm nay

và mai sau, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 2008, đã làm rõ thực trạng về

nông nghiệp, nông dân và nông thôn hiện nay, những thành tựu, những khó

khăn còn tồn tại. Và từ thực tiễn đó, tác giả Nguyễn Kim Sơn đã đề xuất, kiến

3

nghị nhằm đưa nông nghiệp, nông dân, nông thôn phát triển. Một số công trình

nghiên cứu về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, Đảng bộ địa

phương trên lĩnh vực kinh tế nông nghiệp, nông thôn.

Các công trình nghiên cứu về Đảng, Đảng bộ lãnh đạo phát triển

kinh tế nông nghiệp, nông thôn

Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Đảng Cộng sản Việt Nam với phong

trào Hợp tác xã (tập 2), Nxb Chính Trị Quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản

Việt Nam, Nghị quyết số 26 – NQ/TW của Hội nghị Ban chấp hành Trung

ương khóa X về vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Phan sỹ Mẫn,

“Định hướng và phát triển nền nông nghiệp hàng hóa” Tạp chí kinh tế số

262, tháng 1 năm 2004. Lê Huy Ngọ (2002), Con đường công nghiệp hóa,

hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà

Nội. Trần Thị Minh Châu (2007), Về chính sách đất nông nghiệp ở nước ta

hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

Một số bài báo, công trình nghiên cứu công bố trên các tạp chí khoa

học. Tiêu biểu các bài nghiên cứu của Vũ Văn Phúc, “Một số vấn đề về công

nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn”, ạp chí Cộng sản, số 7

(4 1999). Bạch Đình Ninh, Trương Thị Tiến, “Đường lối đổi mới của Đảng

đối với vấn đề ruộng đất trong nông nghiệp”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 1/

1995. Đặng Kim Oanh, "Quan điểm của Đảng về phát triển nông nghiệp trong

thời kỳ đổi mới", Tạp chí Lịch sử Đảng số 8/2009. Nguyễn Thiện Luân, “Về

đẩy nhanh về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn”, Tạp

chí nông nghiệp và phát triển nông thôn, số 5, tháng 6/2002. Phan Diễn, “Tạo

bước chuyển biến hơn nữa tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông

nghiệp, nông thôn”, Tạp chí Cộng sản,(số 28) tháng 10 /2002. Nguyễn Sinh

Cúc, “Tổng quan nông nghiệp, nông thôn Việt Nam đầu thế kỷ XXI”, Tạp chí

Lao động và xã hội, số 197, năm 2002. Trần Văn Phòng, “Tư tưởng Hồ Chí

Minh về phát triển kinh tế nông nghiệp”, Tạp chí giáo dục lý luận, số

4

11/2005. Vũ Thị Thoa, “Một số quan điểm của Đảng về công nghiệp hóa,

hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 11/2010.

Nguyễn Văn Thông, “Quan điểm của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa

nông nghiệp, nông thôn trong thời kỳ mới”, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 199,

tháng 7/2013...

Một số luận án, luận văn nghiên cứu về Đảng lãnh đạo phát triển nông

nghiệp, nông thôn. Đáng chú ý là của tác giả Tạ Văn Thới, Quá trình thực

hiện đường lối phát triển nông nghiệp của Đảng ở Ninh Bình (1981- 1995),

luận án tiến sĩ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2000. Trịnh Thị

Thủy, Tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp ở huyện Đông Sơn ( hanh

Hóa) nửa đầu thế kỷ XIX, luận án tiến sĩ Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội,

2002. Lê Thị Thu Hương, Đường lối phát triển nông nghiệp, nông thôn của

Đảng trong những năm 1986-2006, luận văn thạc sĩ, Trường Đại học khoa

học xã hội và Nhân Văn, ĐHQG Hà Nội, 2008. Nguyễn Thị Năm (2008), Quá

trình thực hiện đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông

thôn của Đảng ở tỉnh Hà Tây(1996- 2005), luận văn thạc sĩ, Trường Đại học

khoa học xã hội và Nhân Văn, ĐHQG Hà Nội. Bùi Thanh Xuân, Đảng bộ tỉnh

Nghệ An lãnh đạo thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông

thôn (1996- 2006), luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và

Nhân văn, ĐHQGHN, 2009. Nguyễn Văn Vinh, Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa

lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp từ 1986 đến 2005, Luận án

Tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà

Nội, 2010. Lê Minh Tấn, Đảng bộ tỉnh Tiền Giang lãnh đạo phát triển kinh tế

nông nghiệp 1986 - 2005, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng, Học

viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2009. Đặng Kim

Oanh, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông

nghiệp (1996-2006), luận án tiến sĩ, Trường Đại học Khoa học xã hội và

Nhân văn, ĐHQG Hà Nội, 2011. Tống Thị Nga, Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh

5

đạo thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn từ năm

1997 đến năm 2010, luận án tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Trường Đại

học Khoa học xã hội và Nhân Văn, ĐHQG Hà Nội, 2014. Nguyễn Thị Tuyết

(2014), Đảng bộ huyện Hoài Đức (tỉnh Hà ây) lãnh đạo kinh tế nông nghiệp

từ năm 1996 đến 2008, Luận văn thạc sĩ Trường Đại học Khoa học xã hội và

Nhân Văn, ĐHQG Hà Nội. Nguyễn Thị Thoa (2014), Đảng bộ huyện Mỹ

Đức (tỉnh Hà ây) lãnh đạo kinh tế nông nghiệp từ năm 1996 đến 2008. Luận

văn thạc sĩ Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân Văn, ĐHQG Hà Nội.

Các công trình trên đã đề cập đến sự lãnh đạo của Đảng, của Đảng bộ

một số địa phương trong phát triển KTNN, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông

nghiệp, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.

Các công trình nghiên cứu về nông nghiệp Ứng Hòa, Đảng bộ huyện

Ứng Hòa lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp

Ứng Hòa, vùng quê làm nông nghiệp là chủ yếu. Thực hiện Nghị quyết

số 26-NQ/TW ngày 5/8/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X)

và Chương trình hành động số 02 của Thành ủy Hà Nội về Nông nghiệp, nông

dân, nông thôn cùng với nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của Nghị

quyết đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện, Huyện ủy Ứng Hòa đó

xây dựng Kế hoạch số 21-KH HU, ngày 23 10 2008 và Chương trình số 01-

CTr/HU, ngày 22/12/2008 về việc thực hiện triển khai, nghiên cứu, quán triệt

Nghị quyết về Phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, từng bước

nâng cao đời sống nông dân giai đoạn 2011-2015. Đã có một số công trình

nghiên cứu về nông nghiệp nông thôn Ứng Hòa. Đáng chú ý là: Lịch sử Đảng

bộ huyện Ứng Hòa (1930 – 2010), Nxb Lao động, Hà Nội 2010. Địa chí Ứng

Hòa, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2015. Chu Mạnh Tuấn, Nghiên cứu

ảnh hưởng của dồn điền đổi thửa đến hiệu quả sử dụng đất của hộ nông dân

ở huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Nông

nghiệp, 2007. Nguyễn Thị Vân, Thực trạng và giải pháp quy hoạchsử dụng

6

đất nông nghiệp ở huyện Ứng Hòa - Hà Nội, Khóa luận tốt nghiệp, Trường

Đại học Tây Bắc, 2013. Trần Thị Phương, Chuyển biến về quan hệ sở hữu –

sử dụng đất nông nghiệp tại huyện Ứng Hòa – Hà Nội (1993 – 2012), Luận

văn thạc sĩ, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân Văn, ĐHQG Hà Nội,

2014. Ứng Hòa đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông

thôn, báo điện tử Congnghieptudonghoa.com. Tuy nhiên, các công trình này

chưa nghiên cứu toàn diện sâu sắc vai trò của Đảng bộ Huyện trong lãnh đạo

phát triển kinh tế nông nghiệp những năm 2008-2014.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích

- Nghiên cứu chân thực quá trình Đảng bộ huyện Ứng Hòa (thành phố

Hà Nội) lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp từ năm 2008 đến năm

2014.

- Nêu lên được những thành tựu cũng như những hạn chế cần khắc phục

và rút ra những bài học kinh nghiệm để phục vụ phát triển kinh tế nông

nghiệp huyện hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ

- Tập hợp và lựa chọn các nguồn tư liệu liên quan đến đề tài.

- Hệ thống quan điểm, chủ trương của Đảng bộ huyện Ứng Hòa (thành

phố Hà Nội) trong quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp từ

năm 2008 đến năm 2014.

- Phân tích, tổng kết đánh giá và rút ra những bài học kinh nghiệm từ quá

trình đó.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Luận văn giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như sau:

4.1. Đối tượng

Chủ trương và các biện pháp trong quá trình chỉ đạo thực hiện phát

triển kinh tế nông nghiệp của Đảng bộ huyện Ứng Hòa từ năm 2008 đến năm

7

2014.

4.2. Phạm vi

Về nội dung

Phân tích, tổng hợp và làm rõ sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Ứng Hòa

trong sản xuất nông nghiệp từ năm 2008 đến năm 2014, chủ yếu đi sâu nghiên

cứu phát triển kinh tế ngành. Trình bày và đánh giá những kết quả cụ thể

KTNN của huyện. Đúc rút bài học kinh nghiệm trong sự lãnh đạo, chỉ đạo của

Đảng bộ huyện Ứng Hòa.

Về không gian: Địa bàn nghiên cứu là huyện Ứng Hòa.

Về thời gian: Luận văn lấy mốc thời gian từ năm 2008 là năm tỉnh HàTây

sáp nhập về Hà Nội, là năm tiến hành Đại Hội đại biểu Đảng bộ huyện Ứng Hòa

lần thứ XXII và đến năm 2014, chuẩn bị Đại Hội đại biểu Đảng bộ huyện Ứng

Hòa lần thứ XXIII. Với mốc thời gian này, tác giả sẽ làm rõ hơn sự tiến triển

vượt bậc của KTNN Ứng Hòa dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Thành ủy Hà Nội,

mà trực tiếp là Đảng bộ huyện Ứng Hòa, khẳng định đường lối của Đảng về phát

triển KTNN là hoàn toàn đúng đắn.

5. Phƣơng pháp và nguồn tài liệu

5.1. Phương pháp nghiên cứu

Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,

Đảng Cộng Sản Việt Nam; đường lối, chủ trương của Đảng về phát triển kinh

tế nông nghiệp. Phương pháp nghiên cứu chính là phương pháp lịch sử, logic.

Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng một số phương pháp khác trong quá trình

viết luận văn như điền dã, phân tích- tổng hợp, thống kê, so sánh, khảo sát,

tổng kết thực tiễn.

5.2. Nguồn tư liệu

Trong Luận văn, tác giả có sử dụng các nguồn tài liệu: Các Nghị

quyết trong Đại hội Đảng bộ huyện Ứng Hòa lần thứ XXII, các Nghị quyết

chỉ đạo ngành sản xuất kinh tế nông nghiệp, các Văn kiện Đại hội Đảng bộ

8

huyện Ứng Hòa, các Chỉ thị của Thành ủy Hà Nội và Thường vụ Huyện ủy

Ứng Hòa. Các báo cáo tổng kết từng thời kỳ, hàng năm của UBND huyện,

phòng nông nghiệp, phòng phát triển kinh tế hạ tầng nông thôn, Huyện đoàn,

Hội phụ nữ, Hội nông dân… Ngoài ra còn sử dụng một số tài liệu trên các

sách báo, tạp chí từ Trung ương đến địa phương có liên quan tới vấn đề kinh

tế nông nghiệp.

6. Đóng góp của đề tài

Luận văn hệ thống hóa quan điểm đường lối phát triển KTNN của

Đảng, Đảng bộ và quá trình chỉ đạo của Đảng bộ huyện Ứng Hòa vận dụng

vào thực tiễn địa phương để lãnh đạo phát triển KTNN.

Nêu lên những thành tựu và hạn chế của sự phát triển KTNN, đồng

thời đúc rút một số bài học kinh nghiệm của Đảng bộ trong quá trình lãnh

đạo, chỉ đạo phát triển sản xuất nông nghiệp.

Luận văn là một chuyên khảo có thể dùng làm tài liệu nghiên cứu về

sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Ứng Hòa nói chung và về sự phát triển kinh tế

nông nghiệp của Ứng Hòa nói riêng. Góp một phần nhỏ giúp các nhà quản lý

địa phương có cách nhìn nhận cụ thể vào thực tiễn của từng vùng, miền mà có

chính sách áp dụng cho phù hợp

7. Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận

văn được chia làm 3 chương:

Chương 1: Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ huyện Ứng Hòa đối

với kinh tế nông nghiệp từ năm 2008 đến năm 2010.

Chương 2: Đảng bộ huyện Ứng Hòa lãnh đạo đẩy mạnh phát triển kinh

tế nông nghiệp từ năm 2011 đến năm 2014.

9

Chương 3: Nhận xét và kinh nghiệm.

Chƣơng 1: CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ

HUYỆN ỨNG HÒA ĐỐI VỚI KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TỪ NĂM

2008 ĐẾN NĂM 2010

1.1. Những yếu tố tác động đến kinh tế nông nghiệp huyện Ứng

Hòa và chủ trƣơng của Đảng bộ

1.1.1.Những yếu tố tác động đến kinh tế nông nghiệp huyện Ứng Hòa

1.1.1.1.Điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội

Vị trí địa lý

Ứng Hòa là một huyện của tỉnh Hà Tây cũ, có vị trí là “cửa ngõ của Thủ

Đô”. Từ năm 2008 , theo Nghị quyết của Quốc Hội khóa 12 ngày 29 tháng 5

năm 2008 về mở rộng địa giới hành chính Hà Nội, toàn bộ tỉnh Hà Tây sáp

nhập vào Hà Nội. Vì vậy Ứng Hòa là một huyện thuộc Thành phố Hà Nội. Với

vị trí nằm ở phía nam của thành phố Hà Nội, phía bắc giáp huyện Chương Mỹ

và Thanh Oai, phía nam giáp huyện Duy Tiên (Hà Nam) Và Kim Bảng (Hà

Nam), phía tây giáp huyện Mỹ Đức, phía đông giáp huyện Phú Xuyên, Ứng

Hòa có vai trò lớn về vị trí địa lý - chính trị, là địa bàn ngăn cách giữa vùng

bán sơn địa và vùng núi phía tây với vùng đồng bằng; có điệu kiện thuận lợi

trong việc giao lưu về kinh tế, văn hóa, xã hội với các huyện và tỉnh xung

quanh, là cầu nối giao thông về đường bộ, đường sông với các vùng khác.

Về địa giới hành chính, Ứng Hòa gồm 01 thị trấn (Vân Đình) và 28 xã

là Cao Thành, Đại Cường, Đại Hùng, Đông Lỗ, Đồng Tiến, Đồng Tân, Hòa

Lâm, Hòa Nam, Hoa Sơn, Hòa Xá, Hồng Quang, Kim Đường, Liên Bạt, Lưu

Hoàng, Minh Đức, Phù Lưu, Phương Tú, Quảng Phú Cầu, Sơn Công, Tân

Phương, Tảo Dương Văn, Trầm Lộng, Trung Tú, Trường Thịnh, Vạn Thái,

Viên An, Viên Nội.

Tài nguyên thiên nhiên

Địa hình Ứng Hoà tương đối bằng phẳng, là đồng bằng châu thổ, có độ

10

cao trung bình là 1,5m, cao nhất là 4m ở vùng Viên An, Viên Nội, thấp nhất

là 6m ở vùng Trầm Lộng, nghiêng dần từ Bắc xuống Nam, từ Tây sang Đông.

Với đặc điểm đó, địa hình huyện Ứng Hòa có thể chia thành ba vùng : Vùng 1

(vùng ven sông Đáy) gồm 12 xã là Viên An, Viên Nội, Cao Thành, Sơn

Công, Đồng Tiến, Hòa Xá, Hòa Phú, Hòa Nam, Vạn Thái, Phù Lưu, Lưu

Hoàng, Hồng Quang. Vùng này là những xã nằm dọc sông Đáy, phía trong

đồng chủ yếu trồng lúa, phía ngoài bãi chủ yếu trồng cây công nghiệp ngắn

ngày, cây ăn quả, chăn nuôi đại gia súc. Vùng 2 (vùng cao ở phía Bắc) gồm

Thị trấn Vân Đình và 5 xã là Trường Thịnh, Quảng Phú Cầu, Hoa Sơn, Liên

Bạt, và Tảo Dương Văn. Vùng có địa hình tương đối cao so với các xã khác

trong huyện, chủ yếu là thâm canh lúa. Vùng 3 (vùng trũng) gồm 11 xã là

Phương Tú, Đội Bình, Trung Tú, Đồng Tân, Minh Đức, Kim Đường, Đại

Hùng, Đại Cường, Đông Lỗ, Hòa Lâm, Trầm Lộng. Đây được coi là vùng rốn

nước của cả tỉnh Hà Tây cũ, có độ cao thấp hơn mặt nước biển 0,5m, thường

xuyên bị ngập lụt trong mùa mưa bão. Do điều kiện địa hình trũng không

được bồi đắp phù sa hàng năm nên đất đai có độ chua cao, thường trồng trọt

hai vụ lúa 1 vụ đông (đậu tương, ngô hoặc rau). Đây cũng chính là vùng sinh

thái nông nghiệp của huyện, có sự khác biệt tương đối rõ rệt về điều kiện đất

đai, cơ cấu cây trồng và vật nuôi.... vì vậy đây là vùng chủ yếu trồng lúa và

cây vụ đông, chăn nuôi phát triển gia súc, gia cầm, thủy sản. Đây là cơ sở

quan trọng mà Đảng bộ huyện Ứng Hòa chỉ đạo quy hoạch sử dụng đất và

chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Như vậy đặc điểm địa hình huyện

Ứng Hòa rất thuận tiện cho sản xuất nông nghiệp. Cấu tạo đất ở các vùng cao

có cường độ cao, thuận lợi để bố trí các công trình công nghiệp.

Khí hậu Ứng Hòa mang đặc trưng của vùng khí hậu đồng bằng Bắc bộ,

nhiệt đới gió mùa, chịu ảnh hưởng lớn của hai hướng gió chính là gió mùa

Đông Bắc và gió mùa Đông Nam, chia làm hai mùa rõ rệt: mùa đông lạnh ,

chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc, khô xen lẫn gió biển nhiệt đới ẩm gây

11

nên những giao động mạnh trong chế độ nhiệt ẩm và cả chế độ mưa. Trong

mùa đông thường xuất hiện những ngày rét xen kẽ những ngày nắng ấm, có

những ngày hanh khô “nứt nẻ da chân” lại có những ngày nồm khiến nền nhà

“đổ mồ hôi”. Trong tháng lạnh nhất, có năm cũng gặp những ngày nóng nực, nhiệt độ lên đến 25-260C. Mùa hè hay mùa mưa, nằm trong phạm vi khống

chế của áp thấp lục địa châu Á và dải hội tụ nhiệt đới Thái Bình Dương tạo

nên khí hậu nóng, mưa nhiều, nhiều năm có bão. Xen giữa mùa đồn và mùa

hè có hai mùa chuyển tiếp. Mùa xuân bắt đầu từ tháng 2 đến tháng 4, nhiệt độ

tăng dần, kèm theo mưa xuân, cây trồng phát triển mạnh. Mùa hạ từ tháng 5

đến tháng 7, thời tiết nóng nực, kéo theo mưa rào và gió bão. Mùa thu từ

tháng 8 đến tháng 10, thời tiết mát dịu, mùa đông từ tháng 11 năm trước đến

tháng 1 năm sau, nhiệt độ xuống thấp, giá rét, kéo theo mưa phùn ảnh hưởng

rất lớn đến sản xuất và sinh hoạt. Với những đặc trưng của khí hậu vùng châu

thổ, khí hậu Ứng Hòa mang những đặc điểm sau: Nhiệt độ trung bình hàng năm là 23,50C, chênh lệch cao giữa các mùa, trong đó cao nhất là 36 - 370C (tháng 6) và nhiệt độ thấp nhất là 9 - 100C (tháng 1). Độ ẩm trung bình hàng

năm là 84%, trong đó tháng cao nhất (tháng 3 và tháng 4) là 88%, tháng thấp

nhất (tháng 12) là 80%. Lượng mưa trung bình hàng năm là 1.900mm, trong

đó tập trung vào tháng 8, tháng 9 và thấp nhất là tháng 12 hàng năm. Tổng số

giờ nắng trong năm là 4.350 giờ. Với đặc điểm khí hậu có hai mùa rõ rệt, độ

ẩm cao, mưa nhiều rất thuận lợi cho phát triển nền nông nghiệp nhiệt đới và

một số loại cây ôn đới chất lượng cao. Tuy nhiên, ngành nông nghiệp Ứng

Hòa vẫn chưa khắc phục được một số những tồn tại do ảnh hưởng của khí

hậu. Vì vậy, nhà nước cần có những chính sách, biện pháp kịp thời khắc phục

những hạn chế đó.

Mạng lưới sông, ngòi, hồ, ao của Ứng Hòa đa dạng và phong phú, có

hai hệ thống sông chủ yếu là sông Đáy ở phía Tây Nam và sông Nhuệ ở phía

Đông Nam cùng với sông Đào Vân Đình là nguồn cung cấp nước chủ yếu.

12

Trước đây sông Đáy có tên là Hát Giang, một phân lưu của bên bờ phải của

của sông Hồng tại Hát Môn và cũng là tụ điểm thứ hai sau ngã ba Hạc. Dòng

sông Đáy chảy theo hướng của một dứt gãy từ Việt Trì xuống đến cửa Đáy rồi

đổ ra biển. Sông Đáy có chiều dài khoảng 240km và lưu vực (cùng với phụ

lưu sông Nhuệ). Là một phân lưu của sông Hồng ở địa phận Hà Nội giữa hai

huyện Phúc Thọ và Đan Phượng. Xuôi đến Vân Đình thì lòng sông rộng ra.

Sông Đáy chảy qua huyện Ứng Hòa với tổng chiều dài là 31km. Lượng nước

để nuôi sông Đáy được cung cấp chủ yếu là do các sông nhánh, quan trọng

nhất là sông Tích, sông Bôi, sông Đào, sông Nhuệ. Nguồn nước tự nhiên của

sông Đáy kết hợp với chế độ điều hòa của hệ thống thủy lợi đã phục vụ đắc

lực trong việc cung cấp nước cho dân sinh vặn phát triển của ngành kinh tế

như giao thông, thủy sản và đặc biệt là ngành nông nghiệp. Sông Đáy còn là

trục tiêu thoát chính trong mùa lũ và hoàn toàn mang đặc thù của sông ở đồng

bằng: lòng và bãi sông biến đổi mạnh về chiều rộng. Sông Nhuệ là một con

sông nhỏ dài khoảng 76 km, bề rộng trung bình từ 30-40m, chảy ngoằn ngoèo

gần như theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, bắt đầu từ cửa Hàm Rồng thuộc

làng Hạ Mỗ huyện Đan Phượng, chảy qua các cánh đồng phì nhiêu của các

huyệnn Từ Liêm, quận Hà Đông, huyện Thanh Oai, Thường Tín, Phú Xuyên

và qua địa bàn huyện Ứng Hòa 11km. Sông Nhuệ lấy nước từ sông Hồng, là

nguồn cung cấp nước lớn cho nông nghiệp, đặc biệt còn là con sông tiêu nước

cho thành phố Hà Nội, quận Hà Đông. Ngoài ra còn con sông Đào Vân Đình

chảy từ Thanh Oai xuống, dài 6 km. Cùng với hệ thống ao, hồ đã mang lại

nguồn nước mặt cho huyện Ứng Hòa tương đối lớn (1,488 ha). Nguồn nước

của sông Đáy và sông Nhuệ còn có chứa lượng phù sa, chất lượng tốt thích

hợp cho việc cải tạo đồng ruộng và các kênh tưới tiêu. Đây chính là điều kiện

thuận lợi cho ngành nông nghiệp huyện Ứng Hòa phát triển.Tuy nhiên nguồn

nước ngầm chưa được thăm dò, đánh giá cụ thể, nhưng theo kết quả sơ bộ cho

thấy mực nước ngầm khoảng ở độ sâu 15m – 25m, chất lượng tốt, có thể khai

13

thác và sử dụng phục vụ nhu cầu sinh hoạt của nhân dân.

Diện tích đất tự nhiên của huyện Ứng Hòa là 18.372,25ha, chiếm 5,495

diện tích toàn thành phố. Trong đó: Đất nông nghiệp: 12.873,16ha, chiếm

70,07% diện tích đất tự nhiên. Đất chuyên dùng: 3.160 ha, chiếm 17,20%. Đất

ở: 1.313 ha, chiếm 7,15%. Hầu hết toàn bộ diện tích đất của huyện đã được sử

dụng vào mục đích kinh tế, dân sinh. Diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu

người khoảng 650m2 người và 1.296m2 lao động nông nghiệp (cao hơn mức

bình quân chung của Tỉnh Hà Tây là 1.046m2 lao động. Hệ số sử dụng đất

nông nghiệp của Ứng Hòa tương đối cao: 2,4 lần. Để tiếp tục nâng cao hiệu

quả sử dụng đất nhằm tăng sản xuất nông nghiệp cần chuyển đổi cơ cấu cây

trồng đưa vào sử dụng những loại giống cây trồng có giá trị cao và năng suất

cao. Hầu hết đất của Ứng Hòa là đất phù sa Sông Hồng, có độ phì cao, thích

hợp và rất tốt cho nhiều loại cây trồng, đặc biệt là cây lương thực, rau, đậu

thực phẩm và cây ăn quả. Trong giai đoạn hiện nay, diện tích đất nông nghiệp

có xu hướng giảm, đất chuyên dùng và đất ở có xu hướng tăng. Vì vậy cần có

những chính sách để cân đối và nâng cao hiệu quả sử dụng đất.

Về khoáng sản, Ứng Hòa tuy không thuộc vào nhóm khu vực giàu

khoáng sản của vùng Đồng Bằng Sông Hồng, nhưng một số xã có vị trí thấp,

trũng cũng có một loại khoáng sản là than bùn như xã Trung Tú, Đồng Tân,

Hòa Lâm, Trầm Lộng, Minh Đức, Kim Đường, Đông Lỗ và Đại Hùng. Đây là

nguồn nguyên liệu làm phân hữu cơ vi sinh rất tốt cho trồng trọt. Ngoài ra,

một số xã có vị trí nằm ven sông Đáy từ Viên An đến Đội Bình kéo dài 31km

cũng khai thác được một lượng cát lớn nhằm phục vụ cho xây dựng.

Kinh tế - xã hội

Nằm ở vị trí khá thuận lợi để giao lưu với các vùng xung quanh, với hai

trục đường chính: Quốc lộ 21B nối Quốc lộ 6 từ quận Hà Đông đến huyện

Thanh Oai và qua Ứng Hòa với huyện Mỹ Đức và sang Hòa Bình. Tỉnh lộ 75

nối Quốc lộ 21B với huyện Phú Xuyên. Bên cạnh đó là các đường liên tỉnh,

14

liên huyện, liên xã, liên thôn đan chéo nhau rất thuận lợi cho việc giao lưu

hàng hóa trong huyện, đặc biệt cũng là một nơi cung cấp cho nội thành Hà

Nội những nông sản thiết yếu. Ngoài ra, Ứng Hòa có hai con sông chảy qua,

đó là sông Đáy và sông Nhuệ, không chỉ tạo điều kiện cho bà con phát triển

một số ngành đánh bắt mà cũng thuận lợi cho việc đi lại bằng đường sông

trong quá trình giao lưu, trao đổi với các vùng phụ cận, nhất là đối với huyện

Mỹ Đức.

Nhân dân Ứng Hòa vốn có truyền thống cần cù lao động nên từ xa xưa

đã nổi tiếng với một số nghề thủ công. Tiêu biểu là làng nghề may Trạch Xá,

làng bún Bặt, làng đàn Đào Xá, làng khảm trai Cao Xá....Ngày nay, huyện

Ứng Hòa còn phát triển thêm một số nghề thủ công như mây tre đan Trường

Thịnh, Tăm hương Quảng Phú Cầu, rèn Vũ Ngoại....đã làm cho quá trình

chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp có những bước đột phá mới.

Dân số đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển ngành nông

nghiệp. Tính đến năm 2006, dân số của huyện là trên 196.000 người, chiếm

khoảng 7,78% dân số của tỉnh Hà Tây cũ. Ứng Hòa đã thực hiện tốt công tác

DS-KHHGĐ đồng thời thực hiện tốt sự chỉ đạo của các cấp, ngành địa

phương, trong thời gian qua tỷ suất sinh của huyện có xu hướng giảm dần,

bình quân năm thời kỳ 2.000 – 2.005 là 0,5 – 0,6%. Tỷ lệ tăng tự nhiên của

dân số giảm xuống 0,79% (năm 2050, mức tăng bình quân dân số thời kỳ

2.000 – 2.005 khoảng 870 người năm. Dự báo trong giai đoạn từ năm 2011 –

2020 tỷ lệ tăng tự nhiên của dân số huyện bình quân hàng năm sẽ là 0,48%/

năm (khoảng 1.020 người năm). Theo mức đó thì đến năm 2020, dân số

huyện Ứng Hòa khoảng 209.200 người, trong đó qui mô dân số đô thị là

58.500 người chiếm 28% dân số huyện; dân số nông thôn là 150.700 người,

chiếm 72% dân số huyện. Mật độ dân số trung bình của huyện Ứng Hòa là

1.066 người km2, trong đó mật độ dân số khu vực đô thị là 2.519 người/km2

và mật độ dân số khu vực nông thôn là 1.022 người/km2. Là khu vực đồng

15

bằng thuộc vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng nên cư dân ở đây 100% là

người kinh, bởi vậy rất thuận tiện trong quá trình chỉ đạo và thực hiện các

chính sách của Đảng bộ Ứng Hòa.

Nguồn nhân lực

Với đặc trưng là cư dân vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, cần cù

chịu khó, những người con của quê hương Ứng Hòa có truyền thống hiếu học,

tích cực trong lao động sản xuất. Bởi vậy đã tạo nên cho huyện nhà một

nguồn lao động dồi dào và có trình độ, tiếp thu, học hỏi, thích ứng với những

tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Theo thống kê năm 2010, dân số của huyện

Ứng Hòa là 183.898 người, số dân trong độ tuổi lao động là 94.865 người,

51,6% tổng dân số huyện [56, tr.46]. Hàng năm nguồn lao động này không

ngừng tăng, ước tính đến năm 2020 là 142.200 người. Tỷ lệ lao động qua đào

tạo ước đạt 45,2%. Đây là điều kiện thuận lợi cho phát triển nền kinh tế nói

chung và kinh tế nông nghiệp nói riêng.

Những điều kiện về tự nhiên cũng có phần ưu ái đó, mang đặc trưng

của vùng khí hậu của vùng châu thổ Sông Hồng, mưa thuận gió hòa; lại thêm

đất đai tương đối màu mỡ. Cùng với những điều kiện về con người, kiên

cường, bất khuất trong đấu tranh, cần cù trong lao động sản xuất, về truyền

thống lịch sử, văn hóa...đã tạo nên cho Ứng Hòa những điều kiện thuận lợi

nhất để phát triển một nền kinh tế toàn diện, đặc biệt là kinh tế nông nghiệp.

Tuy nhiên, Ứng Hòa vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn, đó là: Trên một nửa số

xã của huyện nằm ở khu vực chiêm, trũng. Bởi vậy, nếu vào mùa mưa, úng,

sẽ rất dễ bị ngập lụt, ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất của bà con nông dân.

Bên cạnh đó, tuy là có vị trí gần với nội đô, nhưng Ứng Hòa cũng chưa được

đầu tư cho phù hợp. Nguồn nhân lực dồi dào nhưng chất lượng còn thấp, số

lao động chưa qua đào tạo và không có việc làm ổn định chiếm tỉ lệ cao, chưa

thu hút được lao động dẫn đến tình trạng lạo động bỏ đi làm ăn theo thời vụ

ngày càng nhiều. Số cán bộ có trình độ chuyên môn chưa sâu, cán bộ quản lý

16

chưa năng động đã dẫn đến nhiều yếu kém.

1.1.1.2. Tình hình kinh tế nông nghiệp huyện Ứng Hòa trước năm 2008

Theo Nghị quyết số 10/NQ-BCT (4-1988) về “Đổi mới quản lý kinh tế

nông ngiệp”, hay còn gọi là Khoán 10, Đảng bộ huyện Ứng Hòa đã tiến hành

chỉ đạo, lãnh đạo giao khoán ruộng đất cho hộ nông dân. Hộ nhận khoán

chính thức trở thành đơn vị sản xuất nông nghiệp với quyền tự chủ được phát

huy. Quản lý nông nghiệp chuyển từ tập trung, bao cấp sang hạch toán, tự chủ

cụ thể; từ chế độ lao động làm thuê sang chế độ lao động làm chủ. Với mô

hình hợp tác kiểu mới trong nông nghiệp, chuyển từ nông nghiệp tự túc sang

nông nghiệp hàng hóa, kinh tế nông nghiệp chuyển từ thuần nông sang đa

ngành nghề. Sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện phát triển mạnh mẽ.

Ngay vụ đầu thực hiện Khoán 10, thu nhập của xã viên tăng từ 18-20%, sản

lượng nâng lên 37-40%. Năng suất lúa tăng từ 39,33 tạ ha (năm 1988) lên

67,38 tạ ha (năm 1989), năm 1995 đạt hơn 9 vạn tấn, năm 2003 đạt 13,7 tấn.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng

(khóa IX) về đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn

thời kỳ 2001-2010 và thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ

XXI, dưới sự chỉ đạo của Tỉnh Uỷ, HĐND, UBND và sự giúp đỡ của các

ngành trong trong tỉnh, cán bộ và nhân dân huyện Ứng Hòa đã nỗ lực phấn

đấu đẩy mạnh các phong trào thi đua, thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, xã hội

tiếp tục phát triển. Vì vậy nhiều năm đã đạt và vượt mức kế hoạch đề ra.

Ngành nông nghiệp có bước phát triển, đã tích cực chuyển đổi cơ cấu vật

nuôi, năm 2006 đã chuyển 350 ha diện tích trồng lúa kém hiệu quả sang mô

hình chăn nuôi tập trung và sản xuất đa canh kết hợp nuôi trồng thủy sản, đưa

diện tích chuyển sang sản xuất đa canh đạt 930 ha và tiếp tục chuyển đổi 863

ha vào năm 2007. Đặc biệt đã tổ chức trình diễn các mô hình thâm canh giống

lúa chất lượng cao để đưa vào mở rộng sản xuất, duy trì việc sản xuất giống

lúa nhân dân để đảm bảo cấp I hóa giống lúa trong toàn huyện. Tập trung khai

17

thác thế mạnh vùng bãi ven sông Đáy để trồng rau sạch, cây ăn quả và trồng

hoa, cây cảnh. Mô hình rau sạch ở xã Phù Lưu, xã Liên Bạt mỗi xã từ 3 đến 5

ha. Tiếp tục mở rộng các mô hình trồng cây ăn quả đã có ở xã Đồng Tiến,

Hòa Xá, Cao Thành, Sơn Công; mỗi mô hình từ 3 ha trở lên và trồng mới 2 ha

ở Hòa Xá, Cao Thành và xã Sơn Công mỗi mô hình từ 3 ha trở lên. Mở rộng

diện tích trồng hoa ở Động Phí xã Phương Tú từ 3 ha trở lên và trồng mới 2

ha ở Hoàng Xá, thị trấn và 10 ha ở Thái Bình xã Vạn Thái. Mở rộng mô hình

trồng cây cảnh ở Đào Xá, xã Đông Lỗ với diện tích 2,5 ha và phát triển mới ở

thôn Ngoại Độ xã Đội Bình 1,5 ha, thôn Nội Xá, xã Vạn Thái 1 ha. Đối với

mô hình chăn nuôi gia súc, gia cầm tập trung ra ngoài khu dân cư: Hoàn thiện

dự án chăn nuôi bò, lợn tập trung ở xã Vạn Thái và tiếp tục mở rộng quy mô

chăn nuôi tập trung phát triển đàn bò ở các xã ven sông Đáy, chăn nuôi lợn

tập trung và phát triển sản xuất đa canh ở các xã trong huyện theo kế hoạch

chuyển đổi bước đầu có hai dự án nuôi trồng thủy sản ở Trung Tú và chăn

nuôi tập trung ở Vạn Thái được tỉnh hỗ trợ. Năm 2006 là năm phát triển mạnh

diện tích cây vụ đông đạt trên 45% diện tích đất canh tác. Trong đó, cây đậu

tương đạt sấp xỉ 4.200 ha. Tổng sản lượng lương thực đạt 13,37 vạn tấn [53,

tr.9]. Tận dụng mặt nước mở rộng diện tích nuôi trồn thủy sản hạn chế phát

triển gia cầm trong thời kỳ vẫn còn nguy cơ dịch cúm gia cầm. Củng cố mạng

lưới thú y, tăng cường các biện pháp phòng chống dịch bệnh đối với đàn gia

súc, gia cầm. Có cơ chế khuyến khích chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi

tập trung; khuyến khích phát triển các mô hình như: Trồng rau sạch, trồng

hoa, cây ăn quả, cây cảnh, chăn nuôi tập trung từ 3 -5 triệu đồng/ha.

Đảng bộ huyện Ứng Hòa đã thực hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu

kinh tế cây trồng vật nuôi sang đa canh, chuyên canh đem lại giá trị kinh tế

cao, giá trị tăng 6,7%, trong đó: Trồng trọt tăng 2,35, chăn nuôi tăng 13,8%.

Đặc biệt, trong nông nghiệp đã áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, bố trí

cơ cấu giống cây trồng, mùa vụ hợp lý. Bởi vậy mà năng xuất lúa xuân đạt 62

18

tạ ha, lúa mùa đạt 55 tạ/ha, mở rộng diện tích lúa có giá trị kinh tế cao (đạt

15% với các giống lúa thơm và nếp). Đặc biệt, Đảng bộ huyện Ứng Hòa đã

chỉ đạo tổ chức trình diễn các mô hình thâm canh giống lúa chất lượng cao để

đưa vào mở rộng sản xuất, trong khi đó thì vẫn duy trì sản xuất giống lúa

nhân dân để đảm bảo cấp I hóa giống lúa trong toàn huyện. Bên cạnh đó thì

phát triển mạnh cây vụ đông, đạt 45% diện tích đất canh tác. Tập trung vào

mở rộng diện tích cây đậu tương, ngô, lạc. Dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ

huyện Ứng Hòa, nhân dân một số xã đã khai thác được thế mạnh vùng bãi ven

đáy để trồng rau sạch, cây ăn quả và trồng hoa, cây cảnh. Xây dựng mô hình

rau sạch ở xã Phù Lưu, xã Liên Bạt, mỗi xã từ 3 đến 5 ha. Bên cạnh đó là các

xã Đồng Tiến, Hòa Xá, Cao Thành, Sơn Công cũng phát triển mô hình cây ăn

quả, mỗi mô hình từ 3 ha trở lên. Mở rộng diện tích trồng hoa ở Động Phí xã

Phương Tú từ 3 ha trở lên và trồng mới 2 ha ở Hoàng Xá xã Liên Bạt, Thị

trấn và 10 ha ở thôn Thái Bình xã Vạn Thái. Trên diện tích trồng cây cảnh ở

Đào Xá xã Đông Lỗ, Đảng ủy xã chỉ đạo tiếp tục mở rộng với diện tích là 2,5

ha, phát triển thêm ở thôn Ngoại Độ xã Đội Bình 1,5 ha, thôn Nội xá xã Vạn

Thái 1 ha. Đối với mô hình chăn nuôi gia súc, gia cầm, trong những năm đầu

của thế kỷ XXI, Đảng bộ huyện đã quán triệt tập trung ra ngoài khu dân cư:

Hoàn thiện dự án chăn nuôi bò, lợn tập trung ở xã Vạn Thái, mở rộng, phát

triển quy mô chăn nuôi tập trung đàn trâu bò ở các xã ven đáy như Sơn Công,

Đồng Tiến... chăn nuôi lợn tập trung và phát triển đa canh ở các xã trong

huyện theo kế hoạch chuyển đổi.

Tuy nhiên, từ năm 2006-2007, dịch cúm gia cầm đã xảy ra trên địa bàn

huyện. Vì vậy, dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ, nhân dân trong huyện đã hạn chế

mở rộng, phát triển gia cầm trong thời kỳ nguy cơ dịch cúm có thể tái phát.

Củng cố mạng lưới thú y và đã tăng cường các biện pháp phòng chống dịch

bệnh đối với đàn gia súc, gia cầm. Có cơ chế khuyến khích chuyển đổi cơ cấu

cây trồng, vật nuôi. Tận dụng được diện tíc nước mặt và mở rộng nuôi trồng

thủy sản. Tập trung khuyến khích phát triển các mô hình như: Trồng rau sạch,

19

trồng hoa, cây ăn quả, cây cảnh, chăn nuôi ập trung từ 3-5 triệu đồng/ha.

Bên cạnh những kết quả đạt được, ngành KTNN Ứng Hòa còn bộc lộ

những tồn tại cần khắc phục. Do thời tiết diễn biến phức tạp, hạn hán liên tục

ảnh hưởng đến sản xuất vụ mùa, vụ đông; dịch cúm gia cầm, dịch lở mồm

long móng ở gia súc có nguy cơ bùng phát, giá cả vật tư có nhiều biến động;

chuyển dịch cơ cấu kinh tế có chuyển biến nhưng chưa tương xứng với tiềm

năng, thế mạnh của địa phương, sản phẩm nông nghiệp có giá trị kinh tế cao

sức cạnh tranh trên thị trường còn hạn chế, tiến độ dồn điền đổi thửa còn

chậm. Tiếp thu các tiến bộ khoa học kỹ thuật ở một số xã còn hạn chế, giống

lúa chất lượng cao còn thấp. Xét trên mặt bằng chung, vị thế người nông dân

Ứng Hòa vẫn chưa tương xứng với sự phát triển chung của ngành, của đất

nước. Thu nhập của nông dân thấp nhất trong xă hội, yếu thế, bị động và chịu

nhiều rủi ro trong sản xuất. Lối làm ăn cá thể; thiếu kỹ năng sản xuất, thiếu

thông tin thị trường… Cơ cấu sản xuất chưa ổn định, thiếu tầm nhìn dài hạn

dẫn đến hệ quả: đa số nông dân bị cuốn theo vòng xoáy của thị trường: “giá

lên thì đua nhau làm, giá xuống thì thi nhau bỏ”. Bên cạnh đó thì đa số nông

dân vẫn không biết sử dụng máy móc, tận dụng mạng Internet; áp dụng khoa

học kỹ thuật để tiết giảm chi phí, gia tăng chất lượng sản phẩm, liên kết thị

trường. Việc dùng giống gì, bón phân gì, sử dụng thuốc trừ sâu như thế nào…

hầu hết đều lệ thuộc vào sự tư vấn từ bên ngoài. Tư tưởng làm ăn mùa vụ,

cộng thêm sự tư vấn đôi khi vì lợi nhuận, vì lợi ích cá nhân đã khiến sản

phẩm nông dân làm ra cho người tiêu dùng và cho cả gia đình họ nhiều khi

trở thành hiểm họa. Điều này đòi hỏi phải có những biện pháp chỉ đạo kịp

thời nhằm khắc phục những tồn tại đó.

1.1.1.3. Chủ trương của Đảng và Đảng bộ Thành phố Hà Nội

Chủ trương của Đảng

Tiếp thu tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã vận

dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, Người thấy được vai trò

20

của nông nghiệp, nông dân và nông thôn trong sự nghiệp cách mạng giải

phóng dân tộc và công cuộc xây dựng CNXH. Vì vậy ngay sau khi Cách

mạng Tháng Tám thành công, trong công cuộc xây dựng đất nước thì Người

đặc biệt quan tâm đến ngành nông nghiệp. Người cho rằng nông nghiệp phải

là gốc vì chính nông nghiệp đảm bảo lương thực, thực phẩm, là nguồn sống

cho con người và là cơ sở cho các ngành kinh tế khác. Hơn nữa, với nước ta

thì nông nghiệp là ngành kinh tế cơ bản vì đại đa số nhân dân làm nông

nghiệp.

Tháng 12 /1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đã đưa nước ta

bước vào thời kỳ đổi mới. Về căn bản, nền kinh tế nước ta đã có những bước

phát triển rõ rệt. Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới ấy, nước ta đã thoát

khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, giữ vững sự ổn định chính trị. Những

thành tựu đạt được, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, đã khẳng định sự

đúng đắn về đường lối đổi mới của Đảng, đồng thời là điều kiện góp phần đưa

nông nghiệp, nông thôn phát triển. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của

Đảng (6/1996) tiếp tục nhận định nước ta đã chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh

CNH, HĐH đất nước. Đại hội khẳng định: “Mục tiêu của công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ

sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý” [23, tr.80]. Đại hội chỉ rõ

phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến

nông, lâm, thủy sản. Đặc biệt Đại hội VIII của Đảng rất coi trọng CNH, HĐH

nông nghiệp và nông thôn; đồng thời đề ra nội dung cơ bản của nhiệm vụ này

là: “Phát triển toàn diện nông - lâm - ngư nghiệp hình thành các vùng tập

trung chuyên canh, có cơ cấu hợp lý về cây trồng, vật nuôi” [23, tr.87].

Năm 1997, thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng, Hội nghị lần

thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (12/1997) ra Nghị quyết:

Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phát huy nội lực, phát huy hiệu quả

hợp tác quốc tế, cần, kiệm để CNH, HĐH, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu

21

kinh tế - xã hội đến năm 2000. Nghị quyết chỉ rõ: Phát triển nông nghiệp và

nông thôn theo hướng CNH, HĐH và hợp tác hóa, dân chủ hóa, đẩy mạnh quá

trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với phân công lao động ở nông thôn, giải

quyết vấn đề thị trường tiêu thụ nông sản; phát triển mạnh các hình thức kinh

tế hợp tác, đổi mới hoạt động của các cơ sở quốc doanh trong nông nghiệp và

nông thôn”.

Trên tinh thần của Nghị quyết Đại hội VIII, tháng 11/1998, Bộ Chính

trị ra Nghị quyết số 06/NQ-TW Về một số vấn đề về phát triển nông nghiệp,

nông thôn. Nghị quyết đã đưa ra 4 quan điểm và 6 mục tiêu về nông nghiệp,

nông thôn, trong đó nhấn mạnh: Phải coi trọng CNH, HĐH trong phát triển

nông nghiệp và xây dựng nông thôn, đưa nông nghiệp và kinh tế nông thôn

lên sản xuất lớn là nhiệm vụ quan trọng trước mắt và lâu dài. Đẩy mạnh

chuyển dịch cơ cấu kinh tế gồm phát triển nông nghiệp với công nghiệp chế

biến , hình thành một số ngành nghề liên kết nông – công nghiệp – dịch vụ và

thị trường trên địa bàn nông thôn. Phát huy lợi thế từng vùng và cả nước, áp

dụng nhanh tiến bộ khoa học công nghệ để phát triển hàng hóa đa dạng. Phát

triển nông nghiệp với nhiều thành phần kinh tế , trong đó kinh tế Nhà nước

giữ vai trò chủ đạo cùng với kinh tế HTX dần dần trở thành nền tảng hợp tác

và hướng dẫn kinh tế tư nhân phát triển theo đúng luật, tạo điều kiện khuyến

khích các hộ nông dân đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh nông nghiệp,

công nghiệp và dịch vụ nông thôn.

Dựa trên cơ sở Nghị quyết 06/BCT, Chính phủ đã ban hành nhiều

chính sách mới để khuyến khích phát triển nông nghiệp. Nghị quyết

03/2000/NQ – CP ngày 2/2/2000 về kinh tế Trang trại. Đây là lần đầu tiên

vấn đề kinh tế trang trại được Nghị quyết thừa nhận. Có thể nói đây là hình

thức khuyến khích nền kinh tế hộ, kinh tế tư nhân sản xuất với quy mô lớn,

trình độ cao; tăng đầu tư cho nông nghiệp; mở rộng quyền của người sử dụng

đất, thừa nhận đất đai có giá. Nghị quyết 09/2000/NQ – CP ngày 15/6/2000

22

Về một số chủ trương và chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ

sản phẩm nông nghiệp nhằm phát huy lợi thế to lớn của nền nông nghiệp

nước ta về tiềm năng thiên nhiên, về truyền thống nông, lâm nghiệp và thực

hiện mục tiêu xây dựng một nền nông nghiệp mạnh, phát triển bền vững, áp

dụng công nghệ mới, từng bước được hiện đại hóa, vươn lên trở thành một

nền nông nghiệp với những ngành sản xuất hàng hóa lớn, có sức cạnh tranh

ngày càng cao trong quá trình hội nhập quốc tế. Trong Nghị quyết đã cho

phép chuyển đổi cơ cấu cây trồng, chuyển một phần diện tích lúa năng suất

thấp sang trồng màu, cây công nghiệp, cây ăn quả, thực hiện đa dạng hóa cây

trồng để tăng thu nhập trên một đơn vị diện tích đất nông nghiệp. Nghị quyết

đã thể hiện sự đổi mới tư duy theo hướng sản xuất nông nghiệp hàng hóa, lấy

hiệu quả làm mục tiêu.

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX (4 2001) đã tiếp tục đề ra đường

lối CNH, HĐH đất nước. Đại hội khẳng định “Phát triển kinh tế, công nghiệp

hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trọng tâm” [23, tr.25]. Về phát triển nông

nghiệp, Đại hội nêu rõ: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông

nghiệp, nông thôn theo hướng hình thành nền nông nghiệp hàng hóa lớn phù

hợp với nhu cầu thị trường và điều kiện sinh thái của vùng” [23, tr.68]. Đại

hội đã đề ra phương hướng : “Chuyển đổi nhanh cơ cấu sản xuất nông nghiệp

và kinh tế nông thôn; xây dựng các vùng sản xuất hàng hóa chuyên canh phù

hợp với tiểm năng và lợi thế của về khí hậu, đất đai và lao động của từng

vùng, từng địa phương. Ứng dụng nhanh khoa học công nghệ vào sản xuất,

nhất là ứng dụng công nghệ sinh học, gắn nông nghiệp với công nghiệp chế

biến; gắn sản xuất với thị trường tiêu thụ; hình thành sự liên kết nông – công

ngiệp – dịch vụ ngay trên địa bàn nông thôn” [27, tr.276].

Trên tinh thần của Đại hôi IX của Đảng, ngày 18/3/2002 tại Hội nghị

lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX ra Nghị quyết số 15-

NQ TW “Về đẩy mạnh công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn thời kì 2001-

23

2010” để tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế nông nghiệp. Nghị quyết đã

khẳng định vai trò, vị trí của CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn đồng thời

đưa ra những chủ trương, chính sách nhằm đẩy mạnh phát triển CNH nông

nghiệp, nông thôn.

Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng cộng sản Việt

Nam (4/2006) tiếp tục đề ra chủ trương phát triển nông nghiệp, nông

thôn.Văn kiện Đại hội X của Đảng nhấn mạnh: "Đẩy mạnh công nghiệp

hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề

nông nghiệp, nông thôn và nông dân". Cụ thể, Nghị quyết nêu rõ: “Phải

luôn luôn coi trọng đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,

nông thôn hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp hàng hoá lớn, đa dạng,

phát triển nhanh và bền vững, có năng suất, chất lượng và khả năng cạnh

tranh cao” [26, tr.88].

Để cụ thể hóa trong đường lối đã đề ra tại Đại hội Đảng lần thứ X, Hội

nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa X đã ban hành Nghị quyết số

26 - NQ TW ngày 5 8 2008 “về nông nghiệp, nông dân và nông thôn”. Trong

quá trình CNH, HDH đất nước theo định hướng XHCN, nông nghiệp, nông

dân và nông thôn vẫn tiếp tục giữ vững vị trí, vai trò chiến lược, là cơ sở và

lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế-xã hội bền vững, giữ vững ổn định

chính trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân

tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước.

Nghị quyết 7 (khóa X) đưa ra mục tiêu tổng quát đến năm 2020 là: tốc độ

tăng trưởng nông, lâm, thủy sản đạt từ 3,5-4% năm; sử dụng đất nông nghiệp tiết

kiệm và hiệu quả, duy trì diện tích đất lúa đảm bảo vững chắc an ninh lương

thực quốc gia trước mắt và lâu dài. Phát triển nông nghiệp kết hợp với phát triển

công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề nông thôn; lao động nông nghiệp được

chuyển dịch còn khoảng 30% trong tổng lực lượng lao động xã hội.

Mục tiêu trước mắt đến năm 2010: tạo chuyển biến mạnh mẽ trong sản

24

xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nâng cao đời sống nhân dân trên cơ sở

đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội

nông thôn, nhất là vùng còn nhiều khó khăn; tăng cường nghiên cứu và

chuyển giao khoa học công nghệ tiên tiến tạo bước đột phá trong đào tạo nhân

lực; tăng cường công tác xóa, đói giảm nghèo, giữ vững ổn định chính trị xã

hội ở nông thôn; triển khai một bước xây dựng nông thôn mới.

Chủ trương của Đảng bộ Thành phố Hà Nội.

Thực hiện Nghị quyết số 15 của Quốc hội (khóa VII), từ ngày

01/8/2008, thủ đô Hà Nội được điều chỉnh, mở rộng địa giới hành chính, diện

tích tăng lên gấp đôi, dân số tăng cũng gần gấp đôi, mở ra triển vọng lớn để

Hà Nội phát triển nhanh, toàn diện và bền vững. Đối với nền kinh tế nông

nghiệp, tiếp thu Nghị quyết 7 của Trung ương Đảng, trong Chương trình công

tác của Ban chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội đã được đề ra mục tiêu,

nhiệm vụ phát triển kinh tế ngoại thành, từng bước hiện đại hóa nông thôn

giai đoạn 2006-2010. Nay tiếp tục phát triển mục tiêu đó, mục tiêu đề ra trong

lĩnh vực nông nghiệp bình quân đạt 70 triệu đồng ha. “Đầu tư xây dựng kết

cấu hạ tầng nông thôn theo hướng hiện đại, chú trọng các dự án giao thông,

xử lý nước thải và môi trường, thủy lợi, nước sạch và các công trình phúc lợi

xã hội phục vụ cho đời sống nhân dân, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về thu

hút đầu tư có trọng điểm, mở thêm các khu công nghiệp mới, phát triển mạnh

TTCN và làng nghề; phát triển, cải tạo và nâng cao chất lượng mạng lưới

thương mại ở nông thôn, xây dựng các cụm dịch vụ thương mại ở thị trấn, thị

tứ. Hình thành rõ nét các điểm, vùng sản xuất hàng hóa tập trung theo hướng

nông nghiệp sinh thái, sản xuất sản phẩm chất lượng cao và an toàn” [70,

tr.78]. Nhiệm vụ phát triển kinh tế mà Đảng bộ Thành phố đã cụ thể trong

việc “Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao

động”. Trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, Đảng bộ Thành phố đã chú trọng

“Nhanh chóng đưa các khu công nghiệp tập trung, cụm công nghiệp vừa và

25

nhỏ, 5 dự án làng nghề triển khai và hoạt động; tạo mặt bằng các khu công

nghiệp mới để đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp; tiếp tục khôi phục và

mở rộng các làng nghề truyền thống có lợi thế về nguyên liệu, phát triển các

nghề mới. Quy hoạch và triển khai các dự án chuyển đổi nghề ở nông thôn

đối với những xã có tốc độ đô thị hóa nhanh. Gắn hiện đại hóa công nghệ với

xử lý môi trường trong sản xuất ở các cụm công nghiệp chế biến, giất mổ gia

súc gia cầm, chế biến rau quả; trước mắt triển khai xây dựng 3-4 cơ sở giết

mổ, chế biến gia súc, gia cầm; 2 cơ sở sơ chế, chế biến rau, quả tập trung với

quy mô hiện đại, tạo tiền đề cho việc tổ chức lại hệ thống sản xuất, giết mổ

gia súc gia cầm trên địa bàn thành phố”. Đối với việc chuyển dịch cơ cấu cây

nông nghiệp, Đảng ủy cũng nêu rõ “Phấn đấu đến năm 2010 chuyển đổi tối

thiểu 30% diện tích trồng lúa nước sang các loại cây trồng, vật nuôi có giá trị

kinh tế cao. Phát triển mạnh các loại hình nông nghiệp đô thị sinh thái, thương

mại, dịch vụ và du lịch; mở rộng quy mô sản xuất hàng hóa, đáp ứng nhu cầu

ngày càng cao của nhân dân và yêu cầu xuất khẩu”. Phát triển chăn nuôi lợn

nạc, bò thịt chất lượng cao và gia cầm an toàn dịch bệnh. Mở rộng diện tích

nuôi trồng thủy sản. Ngoài ra, Đảng bộ Thành phố quan tâm đến việc chuyển

dịch cơ cấu lao động. Luôn chú trọng đến chất lượng lao động như sức khỏe,

tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động, thái độ học tập, kiến thức pháp

luật... Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho cả sản xuất, kinh doanh, dịch vụ

cho cả nông nghiệp, công nghiệp. Đồng thời đưa ra các giải pháp, chính sách

thúc đẩy nhanh quá trình dồn điền đổi thửa, tổ chức sản xuất tập trung trong

nông nghiệp, áp dụng công nghệ cao, bảo vệ môi trường sinh thái, tạo các

vùng chuyên canh quy mô lớn phù hợp với yêu cầu của công nghiệp chế biến,

tiếp cận với thị trường trong nước và quốc tế. Bên cạnh đó, Đảng bộ Ứng Hòa

chỉ đạo tiếp tục thực hiện có hiệu quả của Đề án 17- ĐA TU của Thành ủy

(Khóa XIII) về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động

của kinh tế tập thể, khuyến khích phát triển các hợp tác xã (HTX) kiểu mới.

26

Vì vậy cán bộ quản lý các cơ sở đã xếp lại, giải thể các HTX làm ăn không có

lãi, kém hiệu quả hoặc tồn tại trên hình thức. Đảng bộ chỉ đạo phát triển kinh

tế trang trại với việc mở rộng giữa các khâu chế biến và tiêu thụ sản phẩm

nông nghiệp: “Khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế

đầu tư, liên doạnh, liên kết, chuyển giao kỹ thuật, sản xuất kinh doanh và tiêu

thụ sản phẩm trên địa bàn các huyện” [70, tr.82]. Văn kiện Đại hội đại biểu

lần thứ XV Đảng bộ Thành phố Hà Nội ngày 26 tháng 10 năm 2010 đã nêu rõ

phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế của Thành phố giai đoạn 2010 –

2015 là: “Tiếp tục đẩy mạnh CNH, HĐH, phát huy tiềm năng, lợi thế của

Thành phố. Đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu kinh tế, coi trọng cả việc

mở rộng quy mô với nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của kinh

tế Thủ đô. Đối với lĩnh vực nông nghiệp, quan tâm phát triển nông ngiệp theo

hướng hiện đại, sản xuất hàng hóa sử dụng kỹ thuật cao, có năng suất, chất

lượng cao gắn với mục tiêu phát triển nông nghiệp sinh thái, môi trường bền

vững. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nội bộ ngành nông nghiệp theo hướng

tăng tỷ trọng chăn nuôi, thủy sản và dịch vụ nông nghiệp. Sớm hình thành các

vùng sản xuất hàng hóa chuyên canh quy mô hợp lý, gắn với công nghiệp chế

biến; xây dựng các cơ sở chăn nuôi, giết mổ gia súc tập trung theo quy hoạch.

Mở rộng diện tích rau an toàn, rau có giá trị kinh tế cao; tăng diện tích trồng

hoa, cây cảnh, cây ăn quả. Tập trung đầu tư, hỗ trợ ứng dụng tiến bộ khoa học

kỹ thuật, công nghệ tiên tiến vào sản xuất nông nghiệp và chế biến, tiêu thụ

sản phẩm hàng hóa cho nông dân. Tiếp tục bảo vệ, chăm sóc diện tích rừng

hiện có, phát triển kinh tế rừng gắn với phát triển du lịch. Phấn đấu tốc độ

tăng giá trị gia tăng nông nghiệp đạt bình quân 1,5 – 2% năm” [74, tr.84,85].

Thực hiện Chương trình phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn

mới của Đại hội XIV Đảng bộ Thành phố, lĩnh vực sản xuất nông nghiệp có

nhiều tiến bộ và đạt được những kết quả quan trọng; chủ trương thực hiện cơ

cấu nội ngành chuyển dịch theo hướng tích cực: tăng tỷ trọng chăn nuôi, thủy

27

sản và dịch vụ nông nghiệp. Tỷ trọng giá trị sản xuất các ngành trồng trọt,

chăn nuôi, thủy sản, dịch vụ nông nghiệp có tổng sản lượng lương thực đạt

trên 1 triệu tấn năm; an ninh lương thực được bảo đảm tốt hơn. Cơ cấu cây

trồng chuyển dịch theo hướng hiệu quả: diện tích trồng hoa, cây cảnh, cây ăn

quả đặc sản tiếp tục được mở rộng. Việc ứng dụng kỹ thuật, công nghệ tiên

tiến vào sản xuất được coi trọng; bước đầu đã hình thành một số vùng chuyên

canh sản xuất nông sản hàng hóa tập trung với năng suất và giá trị thu nhập

cao.

1.1.2. Chủ trƣơng của Đảng bộ huyện Ứng Hòa về phát triển kinh

tế nông nghiệp

Theo Nghị quyết số 15/2008/NQ-QH12, ngày 29 – 5 – 2008 của Quốc

hội Về điều chỉnh địa giới hành chính thành phố Hà Nội và một số tỉnh liên

quan, Ứng Hòa có nhiều thuận lợi trong công cuộc xây dựng và phát triển

kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiếp thu Nghị quyết Trung ương 7

và Nghị quyết 06, Đại hội Đảng bộ huyện Ứng Hòa lần thứ XXI đã xây dựng

chương trình công tác, đặc biệt chú trọng nhiệm vụ phát triển kinh tế, dồn sức

cho nông nghiệp, nông thôn. Nghị quyết HĐND huyện khóa 17 tại kỳ họp thứ

11 đã đề ra mục tiêu phát triển kinh tế - xă hội năm 2008 và đã đạt được

những thành tựu đáng kể. Tổng giá trị GDP đạt 814,3 tỷ đồng (giá CĐ) đạt

98,7% kế hoạch, tốc độ tăng trưởng tăng 12,2%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch

theo hướng tích cực, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành

công nghiệp và dịch vụ.

Báo cáo số 131/BC-UBND của UBND huyện Ứng Hòa tại kỳ họp thứ

18 HĐND huyện khóa 17, ngày 8 12 2009 cũng nêu rõ phương hướng,

nhiệm vụ về phát triển kinh tế nông nghiệp huyện trong năm 2010. Đảng bộ

xác định: “Trước hết phải tập trung rà soát bổ xung điều chỉnh các quy hoạch

phát triển kinh tế xã hội của huyện phù hợp với quy hoạch chung của Thành

phố Hà Nội, trên cơ sở đó tận dụng mọi tiềm năng lợi thế của địa phương

28

cùng với sự đầu tư của Thành phố để đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế xã

hội tăng trưởng” [13, tr.7]. Với đặc thù là huyện thuần nông nên Đảng bộ luôn

chú trọng và quan tâm đến sản xuất nông nghiệp: “Tận dụng diện tích gieo

trồng đẩy mạnh trồng rau màu vụ đông. Tích cực triển khai sản xuất mạnh mẽ

toàn diện cả về trồng trọt, chăn nuôi. Tập trung đầu tư thâm canh, đẩy mạnh

ứng dụng các tiến bộ KHKT vào sản xuất để đạt hiệu quả kinh tế cao, bố trí

cơ cấu giống và cơ cấu mùa vụ hợp lý để giành năng suất và hiệu quả cao,

phấn đấu năng suất luá xuân đạt 63 tạ/ha trở lên, lúa mùa 60 tạ /ha trở

lên”[13, tr.9]. Sau đợt lũ thế kỷ năm 2008, huyện ủy, UBND, HĐND huyện

đã có những chủ trương nhằm khác phục những thiệt hại, đồng thời đề ra kế

hoạch: “ Mở rộng diện tích và nâng cao hiệu quả, chuyển đổi cơ cấu cây trồng

vật nuôi. Tập trung cải tạo, nâng cấp các diện tích đã chuyển đổi, đầu tư giống

vốn, kỹ thuật để đẩy mạnh thâm canh nâng cao hiệu quả kinh tế các vùng đã

chuyển đổi đa canh. Triển khai thực hiện dự án nuôi trồng thủy sản tập trung

qui mô 200 ha trở lên khu vực Trung Tú và Đồng Tân; mở rộng dự án chăn

nuôi tập trung xã khu dân cư ở Vạn Thái, Tảo Dương Văn nhằm tạo ra khối

lượng sản phẩm hàng hóa lớn, chất lượng cao phục vụ thị trường trong nước

và xuất khẩu. Duy trì và củng cố mạng lưới khuyến nông viên, bảo vệ thực

vật và thú y cơ sở để tổ chức tốt việc phòng chống bệnh dịch. Tăng cường chỉ

đạo phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm và nuôi trồng thủy sản theo hướng

công nghiệp tập trung xa khu dân cư. Tiếp nhận dự án ngân hàng bò cho 3 xã

nghèo của huyện theo giảm nghèovà 2 xã theo chương trình Việt – Hàn để bổ

sung cho đàn bò. Phấn đấu đàn trâu có 440 con, đàn bò 9.900 con, đàn lợn

86.000 con, gia cầm 1,1 triệu con, sản lượng cá đạt 16.600 tấn. Đưa giá trị

ngành chăn nuôi đạt 41% trở lên trong tỷ trọng ngành nông nghiệp. Kế hoạch

đề ra phấn đấu giá trị tăng thêm ngành nông nghiệp tăng 8,3% so với năm

2009. Tổng sản lượng quy thóc đạt 135 ngàn tấn trở lên. Tỷ lệ diện tích lúa

chất lượng cao từ 25% trở lên. Trồng cây vụ đông đạt 50% trở lên diện tích

29

đất canh tác.

Trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXII, ngày 6 /8/

2010 đã quán triệt và nhất trí cao phương hướng, nhiệm vụ về phát triển kinh

tế nông nghiệp huyện “Phát triển kinh tế đồng bộ, theo chiều sâu, nâng cao

chất lượng, hiệu quả, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững; nhất là lĩnh vực

nông nghiệp, nông dân và nông thôn” [81, tr18]. Nghị quyết nhấn mạnh: “Tập

trung phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại; sản xuất hàng hóa sử dụng

kỹ thuật cao, có năng suất, chất lượng cao. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong

nông nghiệp theo hướng tăng tỷ trọng chăn nuôi, thủy sản và dịch vụ nông

nghiệp”. Với mục tiêu chú trọng phát triển KTNN, huyện ủy khuyến khích và

đề ra những biện pháp nhằm tích cực thu hút đầu tư cho nông nghiệp. Bên

cạnh đó, Nghị quyết còn xác định “Tổ chức thực hiện thành công đề án xây

dựng nông thôn mới; Củng cố, kiện toàn tổ chức để tiếp tục đổi mới, nâng cao

hiệu quả hoạt động của các HTX nông nghiệp theo Luật HTX”. Từ đó Đảng

bộ Ứng Hòa đã đề ra chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng trong kinh tế nông nghiệp

bình quân đạt mức 5,6 – 6,0% năm. Đối với quá trình thực hiện chuyển dịch

cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, “phấn đấu cơ cấu trồng trọt chiếm 48,7%,

chăn nuôi thủy sản chiếm 51,3%. Hình thành vùng sản xuất nông nghiệp ổn

định, các vùng chuyên canh sản xuất tập trung; bố trí hàng vụ có từ 30 – 40%

diện tích canh tác trở lên; mở rộng diện tích rau an toàn, rau cao cấp ở các xã

ven đáy; tăng diện tích trồng hoa, cây cảnh, cây ăn quả kết hợp sinh thái và

môi trường”. Đặc biệt, nhận thức được rõ những lợi thế của vùng trũng Ứng

Hòa, Đảng bộ đã có chủ trương kịp thời, đẩy mạnh chăn nuôi và nuôi trồng

thủy sản: “Xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch chuyển các hộ chăn

nuôi tập trung và các hộ giết mổ gia súc, gia cầm ra khỏi khu dân cư. Tăng

nhanh sản lượng nuôi trồng thủy sản phấn đấu đến năm 2015 đạt trên 1000ha

mặt nước nuôi trồng thủy sản tập trung. Tiếp tục chuyển đổi diện tích lúa và

cây trồng kém hiệu quả từ 600 – 700ha sang nuôi trồng thủy sản để có khoảng

30

3000ha mặt nước nuôi trồng thủy sản vào năm 2015”. Để thực hiện tốt chủ

trương đó, Đảng bộ cũng đề ra nhiệm vụ trong công tác quản lý liên quan tới

nông nghiệp: “Tăng cường quản lý, nâng cao chất lượng các loại hình dịch vụ

về giống cây trồng, vật nuôi, bảo vệ thực vật, thú y, khuyến nông, cung ứng

vật tư, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, dịch vụ vốn và thương mại, dịch vụ

vận chuyển phục vụ sản xuất” [81, tr.19]. Với hạn chế của vùng là chiêm

trũng, cần đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu, tăng tỷ trọng chăn nuôi và nuôi

trồng thủy sản, Đảng bộ luôn coi trọng tới vấn đề áp dụng những tiến bộ về

khoa học và công nghệ vào lĩnh vực này. Nghị quyết nêu rõ: “Khuyến khích

đầu tư cho công nghiệp chế biến nông sản, như : giết mổ gia súc, gia cầm, chế

biến rau quả. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển giao tiến bộ

kỹ thuật vào sản xuất trồng trọt, chăn nuôi, chế biến, bảo quản.Tiếp tục phát

huy hiệu quả việc dồn điền đổi thửa lần II ở các đơn vị sản xuất nông nghiệp”

[81, tr20].

Bên cạnh đó, Đảng bộ cũng đề ra những nhiệm vụ để hỗ trợ phát triển

KTNN như “Nâng cao hiệu quả khai thác, sử dụng hệ thống công trình thủy

lợi phục vụ tưới tiêu, phòng chống bão lụt, phát triển kinh tế - xã hội; đẩy

mạnh xã hội hóa việc quản lý, khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi, đê

điều”. Từ đó, mục tiêu mà Nghị quyết đề ra là: giá trị sản xuất nông nghiệp

(giá thực tế) bình quân ha canh tác đạt trên 100 triệu đồng, giá trị tăng thêm

ngành nông nghiệp đạt bình quân 5,6% năm trở lên. Để đạt được mục tiêu đó,

Đảng bộ cũng chỉ rõ trong Nghị quyết những nhiệm vụ về công tác quản lý và

sử dụng nguồn lực, đặc biệt là nguồn vốn nhằm đảm bảo phát triển bền vững

nền KTNN: “Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển,

mở rộng liên kết kinh tế, đẩy mạnh xã hội hóa. Nâng cao hiệu quả sử dụng

ngân sách và tài sản Nhà nước, sử dụng hợp lý và hiệu quả vốn đầu tư từ ngân

sách Nhà nước và có nguồn gốc từ ngân sách, thực hiện nguyên tắc đầu tư có

31

trọng tâm, trọng điểm; đẩy mạnh xã hội hóa, thu hút vốn đầu tư trong và

ngoài thành phố tập trung cho phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là trong các

lĩnh vực xây dựng hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng nông thôn [81, tr.22].

1.2. Sự chỉ đạo của Đảng bộ Ứng Hòa về phát triển kinh tế

nông nghiệp

1.2.1. Chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và phát

triển các nguồn lực cho nông nghiệp

1.2.1.1. Chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi

Với đặc trưng là huyện thuần nông, ngay sau khi có chủ trương của

Đảng và nhà nước, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Thành ủy, Ứng Hòa đã tiến hành

khẩn trương thực hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông

nghiệp theo hướng tích cực. Xác định chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông

nghiệp có ý nghĩa cơ bản và quan trọng nhất trong quá trình chuyển nền nông

nghiệp từ độc canh cây lương thực sang nền nông nghiệp đa dạng, có nhiều

nông sản hàng hóa phịc vụ cho tiêu dùng và cho sản xuất công nghiệp, làm cơ

sở vững chắc cho việc thực hiện thắng lợi CNH, HĐH đất nước, Đảng bộ

Ứng Hòa tập trung chuyển dịch cơ cấu theo hướng tích cực, tăng dần tỷ trọng

chăn nuôi, thủy sản , nâng cao thu nhập trên một đơn vị diện tích canh tác.

Trước đó, năm 2005 giá trị ngành trồng trọt chiếm 55,64% , chăn nuôi là

39,42% trong cơ cấu sản xuất nông nghiệp, đến năm 2010, tỷ trọng chăn nuôi

đã tăng lên 49,86% và trồng trọt giảm xuống còn 49,80% trong cơ cấu sản

xuất ngành nông nghiệp. Trong quá t nh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành

nông nghiệp, Đảng bộ chú trọng chuyển đổi giống cây trồng vật nuôi theo mô

hình chuyên canh, đa canh mang lại hiệu quả kinh tế cao. Các vùng chuyên

canh thủy sản, chăn nuôi gia súc, gia cầm xa khu dân cư, bảo đảm vệ sinh môi

trường, là điều kiện thuận lợi để kiểm soát vệ sinh thú y, phòng, chống dịch

bệnh. Trên địa bàn huyện đã có rất nhiều mô hình chăn nuôi tập trung theo

32

hướng công nghiệp, bán công nghiệp, hiệu quả kinh tế cao, từng bước giảm

dần hình thức chăn nuôi nhỏ lẻ trong các hộ. Tính đến năm 2008, Ứng Hòa đã

chuyển đổi được 1.078,58ha, với 1.304 hộ tham gia. Các xã có diện tích

chuyển đổi lớn như Trung Tú 177,9ha, Hòa Lâm 197,56ha, Trầm Lộng

64,48ha, Phương Tú 73,52ha....

Phát triển mô hình trang trại nông nghiệp.

Công tác dồn điền đổi thửa được Đảng bộ huyện quan tâm chỉ đạo sát

sao, toàn huyện đã dồn ô đổi thửa được trên 5.200 ha, đạt 93% kế hoạch;

chuyển đổi được 750ha, nâng tổng diện tích trên 3.000 ha đã chuyển đổi đất

trồng lúa kém hiệu quả sang các mô hình đa canh, kết hợp nuôi trồng thủy sản

cho giá trị thu nhập cao hơn từ 1,5 - 2,5 lần so với trồng lúa. Đây là điều kiện

thuận lợi để thực hiện mô hình kinh tế trang trại trên địa bàn huyện. Dưới sự

lãnh đạo của Đảng mà trực tiếp là Thành ủy Hà Nội, đồng thời nhận thức

được những ưu điểm và hạn chế về đất đai, địa hình trên địa bàn huyện, Đảng

bộ Ứng Hòa mạnh dạn khuyến khích bà con nông dân tích cực xây dựng các

mô hình trang trại chuyên canh, đa canh (lúa + cá + vịt) đem lại hiệu quả kinh

tế cao. Tính đến năm 2010, Ứng Hòa có 76 trang trại, trong đó có 35 trang trại

chăn nuôi, 26 trang trại nuôi trồng thủy sản, 14 trang trại tổng hợp và 1 trang

trại trồng trọt. Thu nhập bình quân đạt 1,332 tỉ đồng, riêng trang trại thủy sản

đạt 2,191 tỉ đồng. Với mô hình kinh tế trang trại đã có tác động tới tình hình

kinh tế - xã hội của huyện. Đây là hướng đi đúng để khai thác, sử dụng có

hiệu quả đất đai, vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý, tạo việc làm, tăng thu

nhập cho nông dân, góp phần phát triển nông nghiệp bền vững, thúc đẩy quá

trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo điểm đọt phá chuyển sang sản xuất

hàng hóa chất lượng cao.

1.2.1.2. Chỉ đạo phát triển các nguồn lực cho nông nghiệp

Xây dựng đội ngũ cán bộ và đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp

Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Ứng Hòa lần thứ XXII đã xác định

33

công tác cán bộ là một trong ba khâu đột phá. Lựa chọn như vậy vì xuất phát

điểm đội ngũ cán bộ cơ sở còn thấp, chỉ hơn 60% cán bộ chủ chốt cấp xã có

trình độ chuyên môn từ trung cấp trở lên.Là huyện thuần nông nên Ứng Hòa

xác định phải tập trung huy động các nguồn lực, đầu tư cho nông nghiệp,

trong đó chú trọng phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa hiệu quả và

bền vững.

Nguồn nhân lực là yếu tố hàng đầu nhằm thúc đẩy nền kinh tế nông

nghiệp phát triển theo hướng bền vững. Vì vậy, Đảng bộ huyện Ứng Hòa

cũng rất chú trọng đến công tác đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp,

nông thôn. Phần lớn người lao động ở nông thôn chưa qua đào tao, bởi vậy

huyện ủy đã phối kết hợp với phòng kinh tế huyện, Hội nông dân tổ chức các

lớp đào tạo ngắn hạn để nâng cao trình độ, hướng dẫn bà con nông dân tiếp

cận với kỹ thuật mới, công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ sinh học. Đảng và

Chính phủ đã rất quan tâm đến công tác đào tạo và nâng cao trình độ cho lao

động ở nông thôn. Quyết định số 1956 QĐ- TTg ngày 27/ 11 /2009 về việc

phê duyệt đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” đã

khẳng định đào tạo nghề cho lao động nông thôn là sự nghiệp của Đảng, Nhà

nước, của các cấp, các ngành và xã hội nhằm nâng cao chất lượng lao động

nông thôn, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông

thôn.

Xây dựng kết cấu hạ tầng – xã hội nông thôn.

Để đảm bảo cho sản xuất nông nghiệp được bền vững, Đảng bộ huyện

Ứng Hòa luôn quan tâm tới công tác xây dựng các cơ sở hạ tầng nông thôn.

Giao thông vận tải ở nông thôn là vấn đề thiết yếu đối với việc phát

triển kinh tế và đời sống sinh hoạt của người dân. Được sự chỉ đạo của Thành

ủy, Đảng bộ huyện Ứng Hòa đã phối hợp với các sở, ngành đẩy nhanh tiến

độ, thời gian một số công trình hạ tầng giao thông thuộc Thành phố làm chủ

đầu tư như đường 428 (Vân Đình - Cống Thần); 429 (Quán Tròn - Phú

34

Xuyên); 432 (Thanh Bồ - Đục Khê); Cầu Lão – Xóm Cát; Quàn Xá – Thái

Bằng; bê tông hóa mặt đê Sông Đáy Vân Đình - Sơn Công… Đã hoàn thành

một số công trình giao thông trọng điểm thuộc huyện làm chủ đầu tư, cơ bản

đảm bảo chất lượng và tiến độ thời gian như đường Cần Thơ - Xuân Quang;

Minh Đức – Ngăm; Trầm Lộng – Giang Triều, đang triển khai một số công

trình hạ tầng giao thông như đường Vân Đình – Cầu Bầu; Cao Xá – Đống

Long… Hạ tầng kỹ thuật khu Trung tâm thương mại, nhà ở thị trấn Vân Đình;

các cơ sở hạ tầng phục vụ cho giáo dục, y tế, trụ sở làm việc ở các xã, thị trấn,

trung tâm bồi dưỡng chính trị, trung tâm dạy nghề huyện được xây dựng kiên

cố; các dự án cải tạo, nâng cấp các công trình thủy lợi, trạm bơm, cứng hóa

mặt đê, nạo vét lòng dẫn của các sông, xây kè chống sạt lở; làm đường giao

thông nông thôn được chú trọng đầu tư; 80% đường liên xã, 76% đường liên

thôn, 12% đường trục chính ra đồng đã được kiên cố hóa; trạm bơm cống

thần, Thái Bình, trạm bơm đầu kênh I214 là những công trình mới xây dựng

phục vụ sản xuất rất hiệu quả.

Đẩy mạnh ứng dụng những tiến bộ khoa học – công nghệ vào trong

nông nghiệp, nông thôn được Đảng bộ Ứng Hòa luôn coi trọng và ngày càng

phát triển nhanh chóng. Từ công việc ngoài đồng ruộng, thu hoạch, phơi sấy,

bảo quản và chế biến nông sản đến lưu thông, vận chuyển tới tay người tiêu

dùng đều được thực hiện kịp thời và hiệu quả. Mức độ điện khí hóa trong

nông nghiệp và nông thôn ngày một tăng. Trong chế biến nông sản, máy xay

sát thay thế hoàn toàn cho cối xay thủ công. Đặc biệt, cơ giới hóa trong khâu

làm đất, phun thuốc trừ sâu, thu hoạch lúa... đã được phổ biến trên toàn bộ các

địa bàn Ứng Hòa. Điều này đã góp phần giải phóng sức lao động, làm tăng

năng suất lao động, thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu lao động trong nông thôn.

Hệ thống cung cấp nước sạch của thị trấn tiếp tục được đầu tư mở rộng,

nâng cao chất lượng dịch vụ. Hệ thống chiếu sáng công cộng được chỉnh

35

trang, nâng cấp tạo ra diện mạo mới, văn minh và hiện đại hơn. Việc quản lý

hè phố, làn đường và hoạt động bán hàng đạt được kết quả bước đầu. Tỷ lệ hộ

nông thôn được dùng nước hợp vệ sinh đạt 92%.

Bên cạnh đó, Đảng bộ huyện Ứng Hòa luôn chú ý đến công tác quản lý

đất đai, công khai các thủ tục hành chính cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng

đất. Thường xuyên đôn đốc công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm đất đai

giúp cho việc quản lý đất đai từng bước đi vào nền nếp. Chỉ đạo công tác thu

gom, vận chuyển rác thải, vệ sinh môi trường từ thị trấn đến nông thôn theo

hướng mở rộng xã hội hóa, áp dụng phương thức giao khoán, đấu thầu; đã thu

gom 95% lượng rác thải trong ngày tại thị trấn, 65% tại nông thôn.

Về tài chính ngân hàng, Đảng bộ Ứng Hòa đã sát sao, kịp thời chỉ đạo

hòan thành dự toán thu quản lý và khai thác các nguồn thu, đảm bảo thu đúng,

thu đủ theo các sắc thuế. Đồng thời có các biện pháp thu các khoản thu phí,

lệ phí, quỹ phòng chống thiên tai, thu các hộ kinh doanh tại các làng nghề.

Thu các nguồn vốn từ đất để tạo nguồn vốn xây dựng cơ sở hạ tầng ở các xã,

thị trấn.

Về thủy lợi, cùng với quá trình chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng,

Đảng bộ huyện Ứng Hòa đặc biệt quan tâm tới việc tu bổ, sửa chữa kịp

thời, thủy nông nội đồng tiếp tục được xây dựng. Ngoài trạm bơm Mạnh Tân với 14 máy, công suất mỗi máy 4.000m3/giờ còn khai thông kênh

Ngoại Độ, máng 8, kênh Tân Phương, cầu Trạch Bái. Hằng năm, hệ thống

mương máng, cầu cống được đào đắp với hàng vạn mét khối đất đá, đầu tư

hàng vạn ngày công.

1.2.2. Chỉ đạo sản xuất nông nghiệp

Nông nghiệp trong những năm từ 2008 đến năm 2010 có nhiều biến

động. Năm 2008 nông nghiệp gặp nhiều khó khăn, vụ xuân thì hạn hán

nghiêm trọng, rét đậm, rét hại kéo dài, vụ đông mưa úng lớn gây thiệt hại toàn

bộ diện tích cây vụ đông và hầu hết diện tích nuôi trồng thủy sản; dịch cúm

36

gia cầm, dịch lở mồm long móng ở đàn gia súc có ngu cơ tiềm ẩn. Những

năm sau đó, do tình hình suy thoái kinh tế thế giới, trong nước có ảnh hưởng

không nhỏ tới công tác lănh đạo, chỉ đạo trong việc thực hiện nhiệm vụ phát

triển kinh tế của huyện. Song dưới sự chỉ đạo, điều hành thống nhất, tập trung

cao của HĐND-UBND huyện Ứng Hòa, cùng với tinh thần cố gắng, nỗ lực

phấn đấu của cán bộ và nhân dân đã vượt qua mọi khó khăn do thiên tai gây

ra, sản xuất nông nghiệp vẫn đạt được những kết quả khá toàn diện. Gía trị

tăng thêm ngành nông nghiệp năm 2008 ước đạt 414,9 tỷ đồng ( giá CĐ 94)

bằng 96,1% kế hoạch, tăng 6% so với năm 2007; Năm 2009 đạt 426,3 tỷ đồng

đạt 102,8% kế hoạch .

Trồng trọt

Với đặc trưng là vùng đất chiêm trũng, vì vậy Đảng bộ huyện Ứng Hòa

chỉ đạo, xác định nhiệm vụ ưu tiên là tập trung hoàn thành việc dồn điền đổi

thửa, biến những cánh đồng sản xuất lúa kém năng suất thành những vùng đa

canh, tạo nên những cánh đồng lớn, phục vụ cho việc thay đổi cơ cấu cây

trồng, vật nuôi, xây dựng các mô hình đa canh hàng hóa giá trị cao. Trước đó,

năm 2003, Huyện ủy Ứng Hòa đã có Nghị quyết số 20 về tiếp tục dồn điền

đổi thửa lần 2 và đã đạt kết quả tốt, trở thành điểm sáng, tiên phong của tỉnh

Hà Tây về công tác này. Tính đến giữa năm 2008, đã có 70 thôn thuộc 17 xã

với 16.174 hộ thực hiện được 4.559ha, đạt 39,57% số hộ. Trong đó, 5 xã: Lưu

Hoàng, Hòa Lâm, Trầm Lộng, Đội Bình, Minh Đức thực hiện được 100% số

thôn và số hộ dồn xong; 2 xã: Trung Tú, Kim Đường có 100% số thôn và

85% số hộ thực hiện xong. Thửa ruộng nhỏ nhất là 2,1 sào và lớn nhất là 16,7

sào. Kết quả Ứng Hòa đã hoàn thành công tác dồn điền đổi thửa với diện tích

hơn 5.600 ha, đã tạo ra những thửa ruộng lớn, giảm công làm đất và vận

chuyển vật tư, sản phẩm, có điều kiện áp dụng kỹ thuật thâm canh. Trung

bình mỗi hộ chỉ còn 1-2 thửa rất thuận lợi cho việc đưa cơ giới hóa, việc ứng

dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất để làm tăng giá trị trên đơn vị

37

diện tích đất canh tác. Đặc biệt là đã thúc đẩy tư duy làm ăn mạnh dạn, đầu tư

sản xuất nông sản hàng hóa, đem lại hiệu quả kinh tế cao trên một đơn vị diện

tích như các mô hình lúa, cá, vịt ở các xã Phương Tú, Hòa Lâm...

Cùng với việc dồn ô thửa ruộng, Huyện ủy Ứng Hòa đã tập trung chỉ

đạo, hướng dẫn các xã, các đơn vị cá nhân lập dự án chuyển đổi cơ cấu cây

trồng, vật nuôi theo hướng quy vùng, đồng bộ dịch vụ; đồng thời tăng cường

khâu thẩm định, xét duyệt dự án để tranh thủ vốn hỗ trợ của Thành phố. Qua

công tác dồn điền đổi thửa, huyện đã quy hoạch và hình thành nhiều vùng sản

xuất chuyên canh tập trung như vùng trồng lúa chất lượng cao với diện tích

3873 ha hay các vùng chuyên thủy sản 870 ha, đa canh chăn nuôi kết hợp với

thủy sản hoặc một vụ lúa, một vụ cá 2035 ha, chăn nuôi tập trung xa khu dân

cư 218 ha, trồng cây ăn quả 139 ha, trồng cây rau màu 637 ha, trồng cây dược

liệu là 62 ha. Tính đến năm 2008, đã có 1.575 hộ thuộc 27 xã, thị trấn đã

chuyển sang sản xuất đa canh kết hợp chăn nuôi với diện tích 925ha, đạt 7,3%

diện tích canh tác toàn huyện, tạo nên một số vùng chuyên canh, cho giá trị

kinh tế cao. Hầu hết đều cho thu nhập 42 - 78 triệu đồng/ha; gấp 1,8 - 3,2 lần

so với trồng hai vụ lúa. Tiêu biểu là các mô hình lúa + cá + vịt ở Phương Tú;

lúa + cá + vịt + cây ăn quả ở Trung Tú; lúa + dưa + rau ở Phù Lưu Thượng...

Ứng Hòa đã chuyển đất 2 lúa sang làm trang trại kết hợp đạt 25% diện tích.

Chuyển dần mô hình lúa + cá + vịt sang cá + vịt + gia súc và phát triển các

khu nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi tập trung; trồng cây ăn quả, cây hoa, cây

cảnh phù hợp với từng vùng.

Từ việc chỉ đạo tập trung, đúng trọng tâm của cấp ủy, chính quyền, đã

tạo nên một sắc thái mới, chuyển động rõ rệt ở tất cả các cơ sở trong việc triển

khai các chương trình thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng các cấp ở Đảng bộ

Ứng Hòa. Biểu hiện rõ nhất là khí thế làm vụ đông trong nhiều năm diễn ra

sôi nổi ở tất cả các địa bàn với quyết tâm trồng 45% diện tích lúa trở lên,

trong đó đậu tương chiếm 3.500 ha. Mặc dù trà đầu bị mưa hỏng nhưng các

hộ nông dân vẫn quyết tâm trồng lại cho đủ diện tích. Tiêu biểu là xã Minh

38

Đức đã trồng vụ đông trên 100% diện tích. Trong 1.000 mẫu đậu tương, bị

mưa làm hỏng 200 mẫu (mất 6 tấn giống) nhưng đã được trồng lại và phát

triển tốt.

Sản xuất các vụ đông: Sản xuất vụ đông năm 2007-2008 đạt kết quả

khá: diện tích gieo trồng đạt 5.602 ha đạt 101,9% kế hoạch tăng 3% so với vụ

đông năm trước (5.437 ha). Trong đó chủ lực là cây đậu tương 4.558 ha

chiếm 81,45, năng suất đạt 8,97 tạ/ha, sản lượng đạt 3.691 tấn. Năm 2008

toàn huyện đã trồng được 6.059,9 ha, trong đó diện tích cây đậu tương là

5.197,6 ha, cây ngô 303,1 ha, khoai lang là 125,3 ha, khoai tây 71,5 ha, lạc

9,2 ha, rau đậu các loại là 353,2 ha. Tuy nhiên do mưa úng lớn đã làm mất

mùa toàn bộ diện tích cây vụ đông, ước thiệt hại 42 tỷ đồng. Dưới sự sát sao

chỉ đạo của Đảng ủy, năm 2009 và 2010 người dân tích cực gieo trồng. Toàn

huyện đã trồng được 6.216,8 ha, trong đó có 5.018,8 ha cây đậu tương.

Các vụ xuân: Tổng diện tích gieo cấy đạt 11.353 ha (năm 2008), đạt

100,7% kế hoạch, bằng 98,35 vụ xuân năm 2007. Trong đó cây lúa đạt là

10.660 ha, đạt 103,5% so với kế hoạch, bắng 99,2% so với vụ xuân năm 2007

(trong đó có 2.087 ha lúa có giá trị kinh tế cao (chiếm 19,5%), năng suất lúa

đạt 63,5 tạ/ha, sản lượng đạt 67. 691 tấn, cây ngô 177 ha, cây lạc 248 ha, cây

rau màu khác 268 ha. Đến năm 2009, tổng diện tích gieo trồng tăng lên là

11.759 ha. Trong đó diện tích trồng lúa 10.900 ha (lúa chất lượng cao: 2.180

ha chiếm 20%), năng suất lúa đạt 62,38 tạ/ha. Cây rau màu 859 ha.

Các vụ mùa: Diện tích gieo cấy hạt là 11.317 ha đạt 106,2% với kế

hoạch, bằng 99,9% so với vụ mùa năm 2007. Trong đó cây lúa đạt 10.828 ha

đạt 108, 3% với kế hoạch, bằng 100,1% (trong đó lúa có giá trị kinh tế cao

chiếm 2.191 ha chiếm 20,25). Năng suất lúa mùa đạt 60,2 tạ/ha, sản lượng lúa

đạt 65.185 tấn, cây ngô là 18ha, còn lại là các loại rau màu khác là 305 ha,

diện tích gieo cấy tăng không đáng kể. Lúa chất lượng cao: 2.336 ha chiếm

21%, năng suất lúa bình quân đạt 60,80 tạ/ha. Diện tích cây màu hè thu là 578

39

ha.

40

Bảng 1.1. Diện tích năng suất, sản lƣợng cây lƣơng thực

Chia ra Chỉ tiêu Tổng số Lúa (ha) Ngô (ha)

Diện tích (ha)

2006 22.870 22.043 827

2007 22.376 21.570 806

2008 22159 21.488 671

2009 22.213 21.704 509

2010 22.643 21.726 917

Năng suất (tạ/ha)

2006 58,47 59,06 42,44

2007 56,69 57,15 44,20

2008 61,40 61,89 45,48

2009 61,26 61,62 45,83

2010 60,32 60,67 50,63

Sản lượng (tấn)

2006 133.714 130.204 3.510

2007 126.842 123.279 3.563

2008 136.047 132.995 3.052

2009 136.090 133.757 2.333

2010 136.493 131.849 4.644

(Nguồn: Phòng Thống kê huyện Ứng Hòa qua các năm từ 2008 đến năm 2010)

Chăn nuôi

Đẩy mạnh chương trình chuyển đổi cơ cấu vật nuôi, cây trồng, theo

các mô hình chuyên canh, đa canh, nuôi thủy sản (lúa, cá, vịt). Tính từ năm

2008 đến năm 2010, Ứng Hoà đã đưa chăn nuôi phát triển theo hướng hàng

41

hoá, tăng cường nâng cao hiệu xuất của chăn nuôi để chiếm tỉ trọng cao trong

cơ cấu ngành nông nghiệp. Tính đến năm 2009 tổng đàn gia súc, gia cầm của

huyện khá ổn định, duy trì khoảng gần 900.000 con. Huyện đã xây dựng

nhiều cơ chế, chính sách ưu đãi về mặt bằng, nguồn vốn … đồng thời tích cực

tuyên truyền, phổ biến phương thức chăn nuôi mới, công nghiệp và bán công

nghiệp, khuyến khích xây dựng trang trại chăn nuôi tập trung xa khu dân cư.

Với nguồn giống chất lượng cao, thức ăn chăn nuôi đảm bảo chất lượng,

UBND huyện đã tăng cường đẩy mạnh công tác kiểm tra dịch bệnh, chỉ đạo

tiêm phòng cho đàn gia súc, gia cầm, quản lý tốt khâu giết mổ, tổ chức vệ

sinh môi trường trên địa bàn toàn huyện, do đó dịch bệnh lớn không xảy ra.

kết hợp với phòng, chống dịch bệnh, huyện đang tiến tới xây dựng thương

hiệu thịt lợn sạch, khẳng định uy tín, chất lượng trên thị trường Hà Nội, Hải

Phòng và nhiều khu vực khác. Tuy nhiên do suy giảm kinh tế nên chăn nuôi

có xu hướng giảm. Theo thống kê tại thời điểm 1/10/2009:

+ Đàn trâu có 437 con =87,9% so với cùng kì năm 2008.

+ Đàn bò có 8.161 con =96,8% so với cùng kì năm 2008

+ Đàn lợn có 72.770 con = 102,7% so với cùng kì năm 2008.

+ Đàn gia cầm có 1.012.484 con =112,2% so với cùng kì năm 2008.

Bảng 1.2. Số lƣợng và sản lƣợng gia súc, gia cầm

Trâu Bò Lợn Ngựa Dê Gia cầm

1.Số lượng: Con

2008 497 8.429 70.796 97 42 902.153

2009 437 8.161 72.770 77 70 1.012.448

2010 495 7.018 77.988 65 60 1.130.860

2.Sản lượng: Tấn

2008 31,9 436,2 8.118 0,7 1,6 1.374

2009 23,0 232,0 15.068 2,0 2,5 2.042

2010 38,0 646,0 17.207 4,0 0,4 2.182

42

(Nguồn: Phòng Thống kê huyện Ứng Hòa qua các năm từ 2008 đến năm 2010)

Thủy sản

Cùng với chăn nuôi gia súc, gia cầm, Đảng bộ huyện Ứng Hoà cũng

chỉ đạo tập trung phát triển ngành nuôi trồng thuỷ sản. Với diện tích mặt nước

rộng 1.578 ha, môi trường nước sạch, Ứng Hòa đã tập trung xây dựng các mô

hình nuôi trồng thủy sản quy mô thích hợp với năng lực phát triển kinh tế hộ.

Chỉ tính riêng năm 2008, 17 xã, thị trấn của huyện Ứng Hòa đã xây dựng 42

dự án chuyển đổi với diện tích 1.048,3 ha trong đó chiếm gần 80% diện tích

nuôi trồng thủy sản. Toàn bộ các ao, ô thửa nuôi thủy sản được đào đắp thành

hệ thống, có kênh bơm tiêu nước cho cả khu vực. Trung bình, năng suất thủy

sản đạt 6,2 đến 6,5 tấn ha năm, cho thu nhập từ 75-80 triệu đồng ha năm, cao

gấp 2,5 đến 3 lần so với cấy lúa trước đây. Nhiều hộ đầu tư vốn lớn xây dựng

khu chăn nuôi thủy sản quy mô cho thu nhập cao hơn 100 triệu đồng/ha. Hiện

nay, toàn huyện đã có 100 trang trại, vườn trại nuôi trồng thủy sản. Ứng Hòa

tiếp tục quy hoạch, xây dựng đề án chuyển đổi thêm 122 ha từ trồng lúa sang

chăn nuôi thủy sản, từ năm 2008 toàn huyện có tổng diện tích nuôi thủy sản là

2.500 ha. Ứng Hòa sẽ trở thành vựa cá của Hà Nội và các vùng lân cận.

Huyện cũng đã hoàn thành quy hoạch xây dựng chợ đầu mối thủy sản lớn

nhất các tỉnh trong khu vực nhằm xây dựng hệ thống dịch vụ, thương mại

cung cấp cá tôm cho thị trường thành phố. Ngành chăn nuôi đang tạo ra hiệu

quả kinh tế cao, giải quyết việc làm cho một lực lượng lớn lao động, góp phần

cải thiện đời sống nhân dân.

Tiểu kết chương 1

Nhận thức được những nhược điểm của huyện, là một huyện thuần

nông với xuất phát điểm trong phát triển kinh tế còn thấp, Đảng bộ huyện

Ứng Hoà, được sự chỉ đạo của Thành ủy Hà Nội, ngay từ khi vừa mới sáp

nhập (năm 2008), đã chỉ đạo tập trung chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nâng cao

hiệu quả sản xuất nông nghiệp kết hợp với khôi phục ngành nghề truyền

43

thống và phát triển nghề mới. Huyện đã tập trung chỉ đạo nhân rộng các mô

hình nông nghiệp giá trị kinh tế cao nhằm phát huy tối đa hiệu quả giá trị sử

dụng đất ở địa phương. Bên cạnh đó là sự quyết tâm của bà con nông dân

huyện đã khắc phục những khó khăn, vượt qua thử thách về thiên tai với trận

lụt lịch sử vào năm 2008, vượt qua những trở ngại của nền kinh tế những năm

khủng hoảng và đạt nhiều thành tựu mới. Cơ cấu KTNN có sự chuyển dịch

tích cực. Sản xuất nông sản, thủy sản tiếp tục phát triển; cơ cấu cây trồng, vật

nuôi chuyển dịch tích cực, tăng dần tỷ trọng chăn nuôi, hình thành nên những

vùng chuyên canh từng bước gắn liền phát triển công nghiệp chế biến và xuất

khẩu; chú trọng phát triển các thành phần kinh tế….

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được về KTNN, Đảng bộ

huyện Ứng Hòa trong quá trình chỉ đạo còn những tồn tại, hạn chế. Việc quản

lý khu vực kinh tế tập thể, nhất là các HTX nông nghiệp còn nhiều hạn chế,

hoạt động kém hiệu quả. Việc ứng dụng khoa học - công nghệ, nhất là công

nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp, nông thôn còn hạn chế, chưa tạo được sản

phẩm hàng hóa nông nghiệp sạch, có thương hiệu trên thị trường. Đầu tư cho

nông nghiệp, nông thôn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Tình trạng vi

phạm luật đê điều và pháp lệnh khai thác, bảo vệ công trình thủy lợi chưa

được ngăn chặn triệt để. Kết quả đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho lao

động nông thôn còn hạn chế. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chưa có sản

phẩm chủ lực, sản phẩm sản xuất ra tiêu thụ phải qua nhiều khâu trung

gian.Thu hút đầu tư của các doanh nghiệp vào lĩnh vực nông nghiệp, nông

thôn còn hạn chế; Ô nhiễm môi trường ở nông thôn, đặc biệt ở các làng nghề,

nơi chăn nuôi tập trung và các cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm trong khu dân

cư có xu hướng ngày càng bức xúc. Trước những tồn tại đó, Đảng bộ đã rút ra

nhiều bài học kinh nghiệm qua các kỳ Đại hội để đề ra được phương hướng,

44

nhiệm vụ phát triển KTNN ở giai đoạn sau có triển vọng hơn.

Chƣơng 2: ĐẢNG BỘ HUYỆN ỨNG HÒA LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH

PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG NGHIỆP (2011 – 2014)

2.1. Những yếu tố mới tác động đến kinh tế nông nghiệp và chủ

trƣơng mới của Đảng bộ

2.1.1. Những yếu tố mới tác động đến kinh tế nông nghiệp huyện

Ứng Hòa

2.1.1.1. Yếu tố đất đai

Từ năm 2011 trở lại đây, trong quá trình cùng với cả nước xây dựng

nền kinh tế xã hội, Ứng Hòa có nhiều thay đổi. Trong cơ cấu sử dụng đất, do

Ứng Hòa là huyện thuần nông nên đất nông nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ lớn nhất,

còn lại là đất thổ cư, đất chuyên dùng và đất chưa sử dụng. Theo thống kê của

Thành phố Hà Nội, Ứng Hòa có tỷ lệ đất nông nghiệp đứng thứ hai toàn

Thành phố. Song từ năm 2011 trở lại đây, đất nông nghiệp có xu hướng giảm.

Từ 13.132 ha, chiếm 71,48% diện tích đất tự nhiên (năm 2007) xuống còn

10.636 ha, bằng 57,95 (năm 2014). Trong đó, đất trồng cây hằng năm (chủ

yếu là cây lúa) giảm từ 12.833 ha (năm 2008) xuống còn 10.114 ha (năm

2014). Đất chuyên dùng và đất ở có xu hướng tăng. Đặc biệt, từ những năm

2011 trở lại đây, cơ cấu sử dụng đất ở Ứng Hòa xuất hiện một loại đất mới, đó

là đất đô thị. Những chuyển biến đó xuất phát từ thực tiễn yêu cầu xây dựng

kết cấu hạ tầng kỹ thuật và cơ sở hạ tầng xã hội, xây dựng các trục đường

45

giao thông lớn, nhu cầu mở rộng đô thị và các khu, cụm, điểm công nghiệp.

Bảng 2.1. Hiện trạng sử dụng đất của huyện Ứng Hòa những năm 2007-2014

Năm Năm Năm Năm

2008 2009 2010 2014

18.372 18.372 18.372 18.375 Tổng diện tích

I. Đất chuyên dùng 13.029 12.648 11.900 10.636

Tỷ lệ %so với diện tích tự nhiên 70,91 68,84 64,77 57,9

Trong đó: Đất trồng cây hàng năm 12.107 11.550 10.710 10.517

Tỷ lệ % so với đất nông nghiệp. 92,92 91,32 90,0 98,88

Trong đó: đất ruộng lúa màu 11.740 11.171 10.710 10.174

II. Đất chuyên dùng 3.492 3.896 4.415 3.242

Tỷ lệ % so với đất tự nhiên. 19,0 21,20 24,03 17,64

III. Đất ở 1.056 1.110 1.380 1.381

Tỷ lệ % so với đất tự nhiên 5,75 6,04 7,51 7,51

Trong đó: Đất đô thị 6 60 80 69

Đất nông thôn 1.050 1.050 1.300 1.312

IV. Đất chưa sử dụng 744 718 677 36

Tỷ lệ % so với đất tự nhiên 4,04 3,91 3,69 0,2

(Nguồn: Phòng Tài nguyên – Môi trường huyện Ứng Hòa)

Đặc biệt, theo kế hoạch của Thành phố Hà Nội giao, sau hai đợt dồn

điền, đổi thửa thành công, hiện mỗi hộ nông dân ở Ứng Hòa chỉ có từ 1 đến 2

thửa, bình quân 2,6 ô/hộ. Đây là một trong những điều kiện cho nông dân

Ứng Hòa chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Các hộ nông dân tích cực,

hăng say kiến thiến đồng ruộng, từng bước xây dựng các mô hình trang trại

mới trong sản xuất nông nghiệp, sát với đặc trưng thổ nhưỡng và thị trường

địa phương. Áp dụng tiến bộ khoa học – kỹ thuật vào việc chuyển dịch cơ cấu

cây trồng theo phương thức luân canh mới. Cấy lúa kết hợp với nuôi, thả cá,

46

nuôi vịt. Diện tích nuôi trồng thủy sản tăng đáng kể, từ 1.825 ha (năm 2008)

lên 2.860 ha (năm 2014). Tăng diện tích trồng cây ăn quả , tận dụng bờ vùng,

bờ thửa, góp phần tích cực vào đổi mới cơ cấu cây trồng trong sản xuất nông

nghiệp, tăng thu nhập.

Bên cạnh đó, Đảng bộ Ứng Hòa lãnh đạo và quản lý sát sao trong việc

cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đến năm 2014, huyện đã cấp được

83.111 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chiếm tỷ lệ 72,2%, trong đó cấp

5.260 giấy cho hộ gia đình, cá nhân. Với việc giao ruộng đất ổn định, lâu dài

cho hộ nông dân từ 5 đến 15 năm đã làm thay đổi căn bản quan hệ ruộng đất ở

nông thôn ở Ứng Hòa. Với chính sách giao ruộng đất ổn định, lâu dài cho các

hộ nông dân và những biện pháp cải tiến trong quản lý nông nghiệp đã tạo ra

những bước phát triển mới cho nền KTNN Ứng Hòa. Từ khi người dân được

làm chủ ruộng đất đã tích cực, tăng cường đầu tư công sức, vốn, áp dụng tiến

bộ khoa học- kỹ thuật, thâm canh tăng năng suất, sản lượng cây trồng.

Cùng với những đặc điểm mới đó là tốc độ đô thị hóa tăng nhanh, diện

tích đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp, Đảng bộ Ứng Hòa đã kịp thời có

những chủ trương, chính sách phát triển KTNN, chuyển từ lượng sang chất,

chuyển dịch từ sản xuất nông nghiệp truyền thống với việc khai thác đất đai

và lao động là chính, sang nền nông nghiệp hàng hóa gắn với vốn và khoa

học- công nghệ quy mô lớn, tập trung.

2.1.1.2. Yếu tố nguồn nhân lực

Đối với một huyện thuần nông như Ứng Hòa thì yếu tố con người và

nguồn lao động đóng vai trò quan trọng nhất. Theo số liệu thống kê, năm

2013 dân số của Ứng Hòa là 190.679 người, chiếm khoảng 3,0% tổng dân số

của Thủ đô Hà Nội. Cơ cấu dân số theo giới tính, kể từ năm 2011 đến nay, tỷ

lệ nam luôn thấp hơn tỷ lệ nữ, tỷ lệ nam luôn ở mức từ 48 – 48,23% trên tổng

số dân số. Một trong những nguyên nhân là nhiều nam thanh niên đi học tập

và lao động ở các tỉnh, huyện khác. Bên cạnh đó, thu nhập từ nông nghiệp

47

đang có xu hướng giảm do ảnh hưởng của sự giảm giá nông sản trên thị

trường, khiến ngày càng nhiều nông dân chuyển sang làm dịch vụ phi nông

nghiệp, rời làng ra thành phố làm công, làm thuê để có thêm thu nhập.

Cơ cấu dân số theo thành thị và nông thôn, tỷ trọng dân số thành thị

tăng nhanh kể từ năm 2010 đến nay: Thành thị từ 12.897 người (năm 2010)

lên 13.442 người (năm 2013); dân số thành thị tăng nhanh (ở thị trấn Vân

Đình) là do kết quả phát triển tương đối nhanh của các ngành công nghiệp,

dịch vụ trên địa bàn huyện. Nông thôn là 169.968 người (năm 2010) lên

177.237 người (năm 2013). Cơ cấu tuổi và giới tính của nguồn nhân lực như

sau: Số người trong độ tuổi từ 0-14 tuổi chiếm 21,5% tổng dân số, số người

trong độ tuổi lao động (nam: 15-60, nữa từ 15-55) là 125.312 người, chiếm

65,7% tổng dân số; số người già (trên 60 tuổi) là 24.374 người, chiếm 12,8%.

Với tỷ lệ (trên tổng số dân) đó, Ứng Hòa có tỷ lệ lao động trên là ở mức cao.

Đặc biệt là cơ cấu lao động của Ứng Hòa tương đối trẻ và đang trong giai

đoạn cơ cấu dân số vàng. Điều này cho phép Ứng Hòa đẩy mạnh phát triển

kinh tế- xã hội. Vì vậy, Đảng bộ Ứng Hòa, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của

Đảng và Thành ủy Hà Nội đã có những chủ trương, chính sách phù hợp về

giáo dục, đào tạo, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm,

giảm tỷ lệ thất nghiệp, tránh lãng phí sức lao động, tạo cơ hội để xây dựng và

phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh

tế xã hội. Bên cạnh đó, Đảng bộ huyện cũng đã kịp thời dựa trên cơ sở đó để

đưa ra những chính sách, chỉ đạo đúng đắn, phù hợp với lực lượng lao động

hiện có để phát huy tối đa ngành kinh tế nông nghiệp.

2.1.1.3. Chủ trương của Đảng và Đảng bộ Thành phố Hà Nội về phát

triển kinh tế nông nghiệp

Chủ trương của Đảng

Tại Đại hội XI, Nghị quyết Trung ương Đảng đã đề ra dự thảo chiến

lược phát triển kinh tế từ năm 2011 đến năm 2020 với quan điểm: “Phải phát

48

triển bền vững về kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh

kinh tế. Ðẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng

trưởng, coi chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là ưu tiên hàng

đầu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức” [28, tr.8].

Trong định hướng Phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu

quả, bền vững, Đảng nêu rõ: “Khai thác lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới

để phát triển sản xuất hàng hóa lớn với năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả

năng cạnh tranh cao. Tăng nhanh sản lượng và kim ngạch xuất khẩu nông sản,

nâng cao thu nhập, đời sống nông dân, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực

quốc gia. Xây dựng mô hình sản xuất kinh doanh phù hợp với từng loại cây,

con. Khuyến khích tập trung ruộng đất; phát triển gia trại, trang trại, doanh

nghiệp nông nghiệp phù hợp về quy mô và điều kiện của từng vùng. Gắn kết

chặt chẽ, hài hòa lợi ích giữa người sản xuất, người chế biến và người tiêu

thụ, giữa việc áp dụng kỹ thuật và công nghệ với tổ chức sản xuất, giữa phát

triển nông nghiệp với xây dựng nông thôn mới. Ðổi mới cơ bản phương thức

tổ chức kinh doanh nông sản, trước hết là kinh doanh lúa gạo; bảo đảm phân

phối lợi ích hợp lý trong từng công đoạn từ sản xuất đến tiêu dùng. Phát triển

hệ thống kho chứa nông sản, góp phầnđiều tiết cung cầu. Tiếp tục đổi mới,

xây dựng mô hình tổ chức để phát triển kinh tế hợp tác phù hợp với cơ chế thị

trường. Kiểm soát chặt chẽ việc chuyển đất nông nghiệp, nhất là đất trồng lúa

sang sử dụng vào mục đích khác đi đôi với việc bảo đảm lợi ích của người

trồng lúa và địa phương trồng lúa. Bố trí lại cơ cấu cây trồng, mùa vụ và

giống phù hợp với nhu cầu thị trường và giảm thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh.

Ðẩy nhanh áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại trong sản xuất,

chế biến, bảo quản; ưu tiên ứng dụng công nghệ sinh học để tạo nhiều giống

cây trồng, vật nuôi và quy trình sản xuất đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả

cao, tăng nhanh giá trị gia tăng trên một đơn vị đất canh tác. Hỗ trợ phát triển

các khu nông nghiệp công nghệ cao. Ðẩy mạnh chăn nuôi theo phương thức

49

công nghiệp, bán công nghiệp, bảo đảm chất lượng và an toàn dịch bệnh.Phát

triển lâm nghiệp bền vững. Phát triển nuôi trồng thủy sản theo quy hoạch, tập

trung vào những sản phẩm có thế mạnh, có giá trị cao; xây dựng đồng bộ kết

cấu hạ tầng vùng nuôi; đẩy mạnh áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào

sản xuất và chế biến, nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh và đáp

ứng yêu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm. Xây dựng ngành thủy sản Việt Nam

đạt trình độ tiên tiến trong khu vực” [28, tr9].

Để đẩy mạnh phát triển kinh tế nông nghiệp, theo Quyết định số

899 QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ về “phê duyệt để án tái cơ cấu ngành

nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững”

ngày 10 tháng 3 năm 2013, Trung ương Đảng đã đưa ra quan điểm và mục

tiêu về tái cơ cấu ngành. Tái cơ cấu ngành nông nghiệp là một hợp phần của

tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế quốc dân, phù hợp với chiến lược và kế hoạch

phát triển kinh tế - xã hội của cả nước; gắn với phát triển kinh tế, xã hội và

bảo vệ môi trường để bảo đảm phát triển bền vững; phát triển bền vững vừa là

một quá trình, vừa là mục tiêu của ngành.

Để nông nghiệp phát triển phù hợp với từng vùng, từng loại cây, Bộ

Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã ra Quyết định số 3367 QĐ-BNN-TT

ngày 31 /7 /2014 về “Phê duyệt quy hoạch chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên

đất trồng lúa giai đoạn 2014-2020”. Với quan điểm “Chuyển đổi cơ cấu cây

trồng trên đất trồng lúa là nội dung quan trọng để tái cơ cấu lĩnh vực trồng

trọt, góp phần thực hiện thành công tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng

nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Chuyển đổi cơ cấu cây trồng

trên đất lúa phải dựa trên nhu cầu thị trường; khai thác lợi thế về đất đai,

nguồn nước, khí hậu, thời tiết gắn với sản xuất hàng hóa, tập trung, hiệu quả

và bền vững. Chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất lúa phải dựa trên cơ sở

khoa học, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật để nâng cao năng suất, chất lượng; tổ

chức lại sản xuất theo chuỗi giá trị; tăng cường bảo quản, chế biến, tăng giá trị

50

gia tăng và khả năng cạnh tranh trên thị trường, nâng cao thu nhập cho nông

dân. Chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất lúa phải đảm bảo huy động nguồn

lực của các thành phần kinh tế, phát huy hiệu quả sự hỗ trợ của nhà nước và

hội nhập quốc tế”. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã đưa ra mục

tiêu chung là: Chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất lúa nhằm mục tiêu vừa

nâng cao hiệu quả sử dụng đất, vừa duy trì quỹ đất trồng lúa, bảo đảm an ninh

lương thực quốc gia, tăng thu nhập cho người dân, góp phần xóa đói giảm

nghèo, ổn định chính trị xã hội, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi

khí hậu. Mục tiêu cụ thể: Năm 2014-2015: chuyển đổi khoảng 260 ngàn ha

diện tích gieo trồng lúa sang cây trồng khác và kết hợp nuôi trồng thủy sản.

Đối với vùng đồng bằng sông Hồng: Tập trung chuyển đổi mô hình 2 lúa

sang trồng các loại rau, hoa, màu; mô hình 1 lúa (chân ruộng cao, thiếu

nước) chuyển sang trồng rau màu; mô hình trồng lúa (chân ruộng trũng bấp

bênh trong vụ mùa) sang lúa - cá và tăng diện tích cây màu vụ Đông trên

đất trồng lúa.

Chủ trương của Đảng bộ Thành phố Hà Nội

Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố Hà Nội lần thứ XV- nhiệm kỳ đầu

tiên sau khi Hà Nội điều chỉnh, mở rộng địa giới hành chính đã quyết định

những phương hướng, nhiệm vụ xây dựng phát triển kinh tế nói chung và

kinh tế nông ngiệp nói riêng nhằm phát triển Thủ đô trong giai đoạn 2010-

2015 và những năm tiếp theo, hoàn thành sự nghiệp CNH, HĐH đất nước

theo hướng hiện đại.

Xác định tầm quan trọng của nhiệm vụ phát triển nông nghiệp, nông

dân, nông thôn và vai t của ngành nông nghiệp trong phát triển kinh tế, văn

hóa, xã hội của thành phố; trên cơ sở kế thừa và phát triển Nghị quyết Trung

ương 7, Thành ủy Hà Nội đã xây dựng Chương trình số 02-CTr/TU về “Phát

triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, từng bước nâng cao đời sống

nhân dân giai đoạn 2011-2015”. Chương trình đã đề ra mục tiêu chung là

51

“Phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại, sản xuất hàng hóa tập trung, có

năng suất, chất lượng, hiệu quả cao gắn với bảo vệ môi trường sinh thái. Xây

dựng nông thôn mới phát triển theo quy hoạch, có cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện

đại, giàu bản sắc văn hóa dân tộc, môi trường sinh thái, cảnh quan sạch đẹp,

gắn kết hợp lý giữa phát triển nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ và đô thị.

Từng bước nâng cao đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của nông dân. Nông

dân được đào tạo, tiếp thu các tiến bộ kỹ thuật tiên tiến để phát triển sản xuất,

xây dựng cuộc sống văn minh, hạnh phúc; chú trọng giải quyết việc làm, giảm

dần khoảng cách thu nhập, hưởng thụ văn hóa giữa nông thôn và thành

thị.Củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, giữ vững an

ninh chính trị và bảo đảm trật tự an toàn xã hội ở khu vực nông thôn” [69,

tr.37-38].

Đối với ngành nông nghiệp, Chương trình nêu rõ mục tiêu cụ thể đến

năm 2015: “Phấn đấu tăng trưởng sản xuất nông nghiệp từ 1,5-2% năm trở

lên. Giá trị sản xuất nông nghiệp thực tế đạt 231 triệu đồng/ha. Diện tích lúa

hàng hóa chất lượng cao đạt 35%, diện tích trồng rau an toàn tập trung đạt

5.500 ha, diện tích trồng hoa, cây cảnh đạt 2.160 ha, diện tích trồng mới cây

ăn quả chất lượng cao đạt 750 ha, bảo vệ và nâng cao chất lượng diện tích

rừng 23.600 ha. Chăn nuôi ổn định với đàn lợn khoảng 1,4 triệu con, đàn gia

cầm khoảng 15 triệu con, đàn trâu, đàn bò khoảng 200 ngàn con (trong đó bò

sữa 15 ngàn con). Tổng sản lượng thịt hơi xuất chuồng hàng năm đạt trên 400

ngàn tấn. Mỗi năm chuyển đổi được từ 200 - 250 ha ruộng trũng trồng lúa

kém hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản” [69, tr.40]. Đảng bộ Thành phố tập

trung chỉ đạo, đầu tư kinh phí lập, điều chỉnh, bổ sung hoàn thành các quy

hoạch: Quy hoạch tổng thể phát triển nông nghiệp, quy hoạch thủy lợi, quy

hoạch chăn nuôi, quy hoạch thủy sản, quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng,

quy hoạch đê điều… Thành phố chỉ đạo các cơ quan chuyên môn thực hiện

việc rà soát, điều chỉnh, bổ sung và ban hành các cơ chế, chính sách khuyến

52

khích đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa với quy mô hợp lý,

trong đó tập trung một số vùng có điều kiện thuận lợi với quy mô sản xuất lớn

tập trung, ứng dụng công nghệ cao, an toàn vệ sinh thực phẩm. Tập trung hỗ

trợ về giống, đào tạo kỹ thuật, vật tư, thiết bị phục vụ sản xuất và chế biến,

bảo quản nông sản, hạ tầng kỹ thuật các vùng sản xuất chăn nuôi, trồng trọt

tập trung, dồn điền, đổi thửa để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm

nông sản. Thành phố chỉ đạo xây dựng các chương trình, đề án trọng tâm,

phát triển sản xuất các loại cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao như: Phát

triển sản xuất lúa hàng hóa chất lượng cao, phát triển sản xuất và tiêu thị rau

an toàn, phát triển cây ăn quả đặc sản, phát triển sản xuất hoa, cây cảnh có giá

trị kinh tế cao, cơ giới hóa nông nghiệp, phát triển chăn nuôi hàng hóa xa khu

dân cư, phát triển nuôi trồng thủy sản… Tiến hành rà soát, đánh gia hoạt động

của các HTX nông nghiệp để phân loại chất lượng, trình độ quản lý, điều

hành của cán bộ, trên cơ sở đó xây dựng đề án củng cố, nâng cao chất lượng

hoạt động để HTX nông nghiệp thực sự là một tổ chức kinh tế có vai trò thúc

đẩy sản xuất nông nghiệp ở cơ sở. Hỗ trợ, khuyến khích phát triển và thành

lập mới các HTX chuyên ngành trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ, thương mại,

vận tải, tiểu thủ công nghiệp…. theo luật HTX để tập hợp lao động nông thôn

đoàn kết, hỗ trợ nhau sản xuất và tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường.

Để tiếp tục đẩy mạnh phát triển KTNN, Hội đồng nhân dân Thành

phố ra Nghị quyết của số 04/2012/NQ-HĐND ngày 05 4 2012 “về thí điểm

một số chính sách khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp, xây dựng hạ

tầng nông thôn thành phố Hà Nội giai đoạn 2012-2016”. Và Quyết định số

16 2012 QĐ-UBND Thành phố Hà Nội ngày 06 tháng 7 năm 2012 ban hành

quyết định thí điểm một số chính sách khuyến khích phát triển sản xuất nông

nghiệp, xây dựng hạ tầng nông thôn Thành phố Hà Nội giai đoạn 2012-2016.

Trước tiên là thực hiện chính sách khuyến khích thực hiện dồn điền đổi thửa.

Chỉ đạo UBND cấp xã, hợp tác xã nông nghiệp, hộ gia đình, cá nhân thực

53

hiện “dồn điền, đổi thửa” trong vùng sản xuất nông nghiệp ổn định, tập trung

phù hợp với qui hoạch nông nghiệp đến năm 2020, đạt yêu cầu sau khi dồn

mỗi hộ chỉ còn 01-02 thửa/hộ. Phương án dồn điền đổi thửa được thông qua

HĐND xã và được UBND huyện phê duyệt. Chính sách khuyến khích đầu tư

sản xuất giống cây trồng, vật nuôi, thủy sản cho các cơ sở sản xuất giống cây

trồng, vật nuôi, thủy sản đầu tư cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới theo quy.

Chính sách khuyến khích đầu tư xây dựng cơ sở sơ chế, chế biến, bảo quản

giống, bảo quản nông sản các dự án đầu tư cải tạo, nâng cấp, xây mới cơ sở sơ

chế, chế biến, bảo quản giống, bảo quản nông sản. Chính sách khuyến khích

đầu tư cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm tập trung. Chính sách khuyến khích đầu

tư thực hiện cơ giới hoá trong sản xuất nông nghiệp. Cho các tổ chức, hộ gia

đình, cá nhân khi mua các loại máy móc, thiết bị cơ khí phục vụ sản xuất và

chế biến nông nghiệp bao gồm: máy làm đất; máy gieo cấy; máy gặt đập liên

hợp; máy sấy hạt; máy phun thuốc có động cơ; hệ thống tưới tiết kiệm; máy

phát điện chạy bằng khí sinh học; máy vắt sữa; máy thái cỏ; hệ thống làm mát

chuồng trại; hệ thống cho ăn tự động; thiết bị xử lý ô nhiễm môi trường; máy

quạt nước trong nuôi thủy sản. Chính sách khuyến khích xây dựng kiên cố

hoá đường giao thông thôn, xóm tạo điều kiện cho các thôn, xóm, khu dân cư

nông thôn khi thực hiện việc kiên cố hoá đường giao thông thôn, xóm đạt

chuẩn nông thôn mới. Với chủ trương đó, Đảng bộ huyện Ứng Hòa đã vận

dụng sáng tạo Nghị quyết và Chương trình 02 của Thành ủy, lãnh đạo nhân

dân phát triển KTNN đạt được nhiều thành tựu đáng kể, đưa nền KTNN

huyện tạo nên bước đột phá.

Để đẩy mạnh phát triển KTNN, Đảng bộ Thành phố Hà Nội còn chú

trọng đến vấn đề hỗ trợ vàphát triển vùng sản xuất chuyên canh tập trung.

Nghị quyết số 25/2013/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân Thành phố Hà Nội

ngày 04 tháng 12 năm 2013 đã khuyến khích phát triển vùng sản xuất nông

nghiệp chuyên canh tập trung giai đoạn 2014-2020; chính sách khuyến khích

54

phát triển làng nghề, hỗ trợ đầu tư công trình cấp nước sạch nông thôn Thành

phố Hà Nội. Đảng bộ Thành phố Hà Nội đã áp dụng chính sách này cho các

hoạt động sản xuất, tiêu thụ nông sản phẩm trong vùng sản xuất trồng trọt

chuyên canh, vùng nuôi trồng thủy sản, vùng chăn nuôi trọng điểm, khu chăn

nuôi tập trung, trang trại chăn nuôi ngoài khu dân cư theo quy hoạch có kinh

nghiệm, truyền thống và lợi thế sản xuất, được cấp có thẩm quyền công

nhận.Hỗ trợ tập huấn kỹ thuật; hỗ trợ khuyến khích chuyển đổi cơ cấu giống,

cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Hỗ trợ phòng chống dịch bệnh; hỗ trợ chi phí tiêm

phòng (vắc xin, công tiêm) trên địa bàn Thành phố đối với các loại bệnh nguy

hiểm: Cúm gia cầm, lở mồm long móng gia súc, tai xanh và dịch tả lợn; hóa

chất khử trùng, tiêu độc môi trường. Đối với thủy sản: Hỗ trợ 50% năm đầu

và 30% năm thứ hai chi phí hóa chất khử trùng, tiêu độc môi trường ao nuôi.

2.1.2. Chủ trương mới của Đảng bộ huyện Ứng Hòa

Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ XXII nêu rõ phương

hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế nông nghiệp “Phát triển kinh tế đồng bộ,

theo chiều sâu, nâng cao chất lượng, hiệu quả, đảm bảo phát triển nhanh và

bền vững; nhất là lĩnh vực nông nghiệp, nông dân và nông thôn, với chỉ tiêu

cụ thể, về tốc độ tăng trưởng kinh tế nông nghiệp bình quân giai đoạn 2010 –

2015 là 5,6-6,0% về cơ cấu kinh tế: Nông nghiệp: 36 – 38%, Công nghiệp-

xây dựng: 32- 33%, dịch vụ; 30-31” [82, tr2] .

Trong nông nghiệp cần tập trung phát triển nông nghiệp theo hướng

hiện đại; sản xuất hàng hóa sử dụng kỹ thuật cao, có năng suất, chất lượng

cao. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp theo hướng tăng tỷ trọng

chăn nuôi, thủy sản và dịch vụ nông nghiệp, đến năm 2015 cơ cấu trồng trọt

chiếm 48,7%; chăn nuôi, thủy sản chiếm 51,3%. Hình thành vùng sản xuất

nông nghiệp ổn định, các vùng chuyên canh sản xuất tập trung; bố trí hàng vụ

có từ 30 - 40% diện tích lúa giá trị kinh tế cao; tiếp tục đẩy mạnh sản xuất cây

vụ đông đạt từ 55% diện tích canh tác trở lên; mở rộng diện tích rau an toàn,

55

rau cao cấp ở các xã ven đáy; tăng diện tích trồng hoa, cây cảnh, cây ăn quả

kết hợp sinh thái và môi trườngđến năm 2014 đạt 600ha. Xây dựng và triển

khai thực hiện kế hoạch chuyển các hộ chăn nuôi tập trung và các hộ giết mổ

gia súc, gia cầm ra khỏi khu dân cư. Tăng nhanh sản lượng nuôi trồng thủy

sản, phấn đấu đến năm 2014 đạt trên 1000ha mặt nước nuôi trồng thủy sản tập

trung. Tiếp tục chuyển đổi diện tích lúa và diện tích cây trồng kém hiệu quả

từ 600 - 700ha sang nuôi trồng thủy sản để đạt 3000ha mặt nước nuôi trồng

thủy sản vào năm 2014.

Để đảm bảo cho mùa vụ, mang lại hiệu quả kinh tế cao, Đảng bộ huyện

Ứng Hòa luôn coi trọng việc nâng cao chất lượng các loại hình dịch vụ về

giống cây trồng, vật nuôi, bảo vệ thực vật, thú y, khuyến nông, cung ứng vật

tư, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, dịch vụ vốn và thương mại, dịch vụ vận

chuyển phục vụ sản xuất. Luôn khuyến khích đầu tư cho công nghiệp chế

biến nông sản, như: giết mổ gia súc, gia cầm, chế biến rau quả. Chú ý đẩy

mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật vào sản

xuất trồng trọt, chăn nuôi, chế biến, bảo quản. Tiếp tục phát huy hiệu quả việc

dồn điền đổi thửa lần II ở các đơn vị sản xuất nông nghiệp.

Bên cạnh đó, thường xuyên nâng cao hiệu quả khai thác, sử dụng hệ

thống công trình thủy lợi phục vụ tưới tiêu, phòng chống lụt bão, phát triển

kinh tế- xã hội; đẩy mạnh xã hội hóa việc quản lý, khai thác, bảo vệ công

trình thủy lợi, đê điều. Nhằm nâng cao hiệu quả cho sản xuất nông nghiệp,

ngày 01 tháng 8 năm 2013, UBND huyện ra Chỉ thị số 352 về việc tiêu nước

cho diện tích tích phi canh tác trên địa bàn huyện. Công văn số 40/CV-KT của

Phòng kinh tế huyện Ứng Hòa cũng đề nghị Xí nghiệp thủy lợi huyện phối

hợp với các HTX nông nghiệp thống nhất trong việc tưới tiêu. Phấn đấu đến

năm 2015 giá trị sản xuất nông nghiệp (giá thực tế) bình quân/ha canh tác đạt

trên 100 triệu đồng, giá trị tăng thêm ngành nông nghiệp đạt bình quân

5,6% năm trở lên.

56

Đặc biệt, huyện ủy Ứng Hòa đã chỉ đạo tổ chức thực hiện đề án xây

dựng mô hình nông thôn mới. Đề ra kế hoạch đến năm 2012, hoàn thành việc

lập, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch xây dựng nông thôn mới cho 100% số xã.

Tập trung đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn theo quy hoạch,

ưu tiên cải thiện hệ thống đường giao thông, điện nông thôn, hệ thống tưới

tiêu, thoát nước thải, cấp nước sinh hoạt hợp vệ sinh, nâng cấp các chợ; xây

dựng các khu chăn nuôi quy mô lớn và sản xuất tiểu thủ công nghiệp có ô

nhiễm ra xa khu dân cư. Quan tâm xây dựng trường học, trạm y tế; hoàn thiện

các thiết chế văn hóa ở cơ sở, đồng thời tăng cường chỉnh trang bộ mặt nông

thôn.

Trong lĩnh vực phát triển sản xuất, dịch vụ, Đảng bộ luôn chú trọng các

mô hình tổ chức sản xuất hiệu quả, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng,

vật nuôi, phát triển kinh tế trang trại, ngành nghề để tạo việc làm, tăng thu

nhập cho người dân. Đồng thời, củng cố, kiện toàn tổ chức để tiếp tục đổi

mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của các HTX nông nghiệp theo luật HTX;

phát triển các HTX ngành nghề, dịch vụ, các hội nghề nghiệp ở nông thôn,

nhân rộng mô hình các HTX tiên tiến. Có các giải pháp cụ thể đối với các

HTX sản xuất, kinh doanh thua lỗ kéo dài, hoạt động kém hiệu quả.

Để hỗ trợ đắc lực cho sản xuất nông nghiệp, các cấp cơ sở được sự chỉ

đạo trực tiếp của Đảng bộ, luôn huy động, khai thác tối đa mọi nguồn lực

trong xã hội vào xây dựng mô hình nông thôn mới theo tiêu chí quốc gia, có

kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại, kinh tế phát triển, nông thôn

ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc, môi trường sinh thái được bảo vệ. Chất

lượng hoạt động của hệ thống chính trị được nâng cao; an ninh chính trị được

giữ vững, trật tự an toàn xã hôi có chuyển biến tích cực.

Cùng với những chủ trương và biện pháp chỉ đạo đúng đắn, Đảng bộ

huyện Ứng Hòa luôn chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, gắn với thực hiện tốt

chính sách xã hội đối với nông dân. Quan tâm tới công tác dạy nghề cho nông dân

57

gắn với phát triển sản xuất hàng hóa và các hình thức tổ chức sản xuất có hiệu quả

để tăng thu nhập cho người dân. Mục tiêu phấn đấu thu nhập bình quân đầu người

khu vực nông thôn đạt 16 triệu đồng năm trở lên; lao động nông nghiệp còn dưới

40% lao động xã hội, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 45% trở lên; đến cuối năm

2015 có trên 80% nhà ở của nông dân được xây dựng kiên cố, 100% số hộ dùng

nước bảo đảm vệ sinh, có công trình phụ hợp vệ sinh, 95% số hộ có điện thoại cố

định.

Để đảm bảo cho đời sống người nông dân được đầy đủ về mọi mặt,

huyện ủy luôn chú ý, chăm lo giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa; xây dựng

đời sống văn hóa, từng bước xây dựng nếp sống văn minh. Đầu tư phát triển

giáo dục, nâng cao dân trí; xây dựng hệ thống an sinh xã hội, nâng cao chất

lượng khám chữa bệnh cho nhân dân ở tuyến huyện và tuyến xã.

Năm 2014, huyện ủy đã ban hành nhiều chính sách, cơ chế hỗ trợ

khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp như: Khuyến khích sản xuất lúa

chất lượng cao, trồng cây đậu tương vụ Đông, phát triển sản xuất cây ăn quả,

rau an toàn, hỗ trợ thực hiện mô hình gieo trồng các loại giống mới, phát triển

chăn nuôi, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, đầu tư cơ sở giết mổ gia súc,

gia cầm tập trung, cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp... Cụ thể là ngày 06

tháng 8 năm 2014, UBND huyện Ứng Hòa ra quyết định 600 QĐ-UBND ban

hành cơ chế hỗ trợ khuyến khích phát triển nông nghiệp trên địa bàn huyện.

Qua đó cho thấy Đảng bộ đã luôn sát sao, kịp thời và quan tâm và có chủ

trương đúng đắn nhằm thúc đẩy kinh tế nông nghiệp huyện.

2.2. Sự chỉ đạo của Đảng bộ huyện Ứng Hòa

2.2.1. Chỉ đạo đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và

phát triển các nguồn lực

Chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi

Trong những năm 2011 – 2014, Đảng bộ huyện Ứng Hòa đẩy mạnh

chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, chú trọng chuyển dịch cơ cấu

58

cây trồng. Đảng tập trung quy hoạch vùng sản xuất lúa hàng hóa có giá trị,

chất lượng cao khoảng 1.500 – 2.000ha/vụ, sản xuất rau an toàn là 600 –

800ha, trồng cây ăn quả là 50ha. Cơ cấu chuyển dịch mạnh theo hướng giảm

dần cây lương thực, tăng diện tích cây ăn quả, cây công nghiệp, cây thực

phẩm có giá trị kinh tế cao.

Bên cạnh đó, Đảng bộ luôn chỉ đạo đẩy mạnh chương trình chuyển đổi

cơ cấu vật nuôi, biến những hạn chế thành thế mạnh của huyện. Ở các xã

vùng trũng như Phương Tú, Trung Tú, Hòa Lâm, Đồng Tân.... khuyến khích

bà con chuyển đổi những diện tích sản xuất kém hiệu quả sang mô hình đa

canh hoặc chuyên canh, đặc biệt là chuyên nuôi trồng thủy sản. Riêng hai xã

Trung Tú và Đồng Tân có tới 232ha diện tích nuôi trồng thủy sản. Một số xã

như Vạn Thái, Tảo Dương Văn, Sơn Công... hình thành các vùng chăn nuôi

lớn, tập trung xa khu dân cư, những vùng đa canh, kết hợp lúa – cá – vịt như

Trầm Lộng, Hòa Lâm, Minh Đức.... Mô hình trang trại ngày càng phát triển

trên địa bàn huyện. Tính đến tháng 12 năm 2014, huyện Ứng Hòa có 143

trang trại, gồm 105 trang trại chăn nuôi, 21 trang trại nuôi trồng thủy sản, 17

trang trại tổng hợp. Doanh thu bình quân đạt 2,068 tỉ đồng/trang trại. Trong

đó, trang trại thủy sản đạt 331,48 triệu đồng/ha.Với hình thức chuyển đổi này

đã mang lại hiệu quả kinh tế cao gấp 1,5 – 2 lần so với chuyên canh cây lúa.

Công tác dồn điền đổi thửa

Công tác dồn điền đổi thửa được huyện quan tâm chỉ đạo sát sao, toàn

huyện đã dồn ô đổi thửa được trên 5.600 ha, trung bình mỗi hộ chỉ còn 1-2

thửa rất thuận lợi cho việc đưa cơ giới hóa, việc ứng dụng khoa học công

nghệ tiên tiến vào sản xuất để làm tăng giá trị trên đơn vị diện tích đất canh

tác. Qua công tác dồn điền đổi thửa, huyện đã quy hoạch và hình thành nhiều

vùng sản xuất chuyên canh tập trung như vùng trồng lúa chất lượng cao với

diện tích 3873 ha, nâng tổng diện tích trên 3.000 ha đất trồng lúa kém hiệu

quả sang chuyển đổi các mô hình đa canh, kết hợp nuôi trồng thủy sản cho giá

59

trị thu nhập cao hơn từ 1,5 - 2,5 lần so với trồng lúa, hay các vùng chuyên

thủy sản 870 ha, đa canh chăn nuôi kết hợp với thủy sản hoặc một vụ lúa, một

vụ cá 2035 ha, chăn nuôi tập trung xa khu dân cư 218 ha, trồng cây ăn quả

139 ha, trồng cây rau màu 637 ha, trồng cây dược liệu là 62 ha.Tiêu biểu là xã

Trầm Lộng, cũng là địa phương đầu tiên tại miền Bắc hoàn thành công tác

đồn điển đổi thửa.Trầm Lộng đã mở rộng diện tích trồng 100 mẫu lúa hàng

hóa, 180ha cây trồng vụ đông. Tiếp đến là xã Phương Tú, một trong những xã

điển hình tiên tiến trong phát triển nông nghiệp của huyện Ứng Hòa. Sau dồn

điền đổi thửa đã hình thành nhiều mô hình trên đồng đất chiêm trũng. Trên

địa bàn xã có 135 hộ xây dựng được mô hình trang trại đa canh trên diện tích

214,8 mẫu và hầu hết đã đầu tư chuyên canh nuôi trồng thủy sản. Vì vậy, thôn

Ngọc Động xã Phương Tú trở thành một trong những vựa cá lớn nhất của

huyện Ứng Hòa. Để nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững, xã Phương

Tú phối hợp tích cực với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn mở nhiều

lớp tập huấn, dạy nghề giúp các hộ nuôi trồng thủy sản nâng cao kiến thức

chọn loại cá nuôi cho phù hợp với điều kiện tự nhiên của địa phương. Đồng

thời, nâng cao kinh nghiệm cho nông dân từ khâu cải thiện ao nuôi đến chăm

sóc, quản lý, phòng trị bệnh; khuyến cáo nông dân không sử dụng kháng sinh,

hóa chất trong danh mục bị cấm nhằm đảm bảo chất lượng thủy sản, an toàn

vệ sinh thực phẩm… Ngoài Trầm Lộng, Phương Tú còn các xã Đồng Tân,

Minh Đức, Hòa Lâm, Kim Đường, Đại Hùng, Đại Cường, Trung Tú, Đội

Bình... cũng đang phát triển mở ra nhiều mô hình nông nghiệp giá trị cao. Đặc

biệt, Trung Tú là điển hình về chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi hướng

tới nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa, qui mô lớn. Tổng diện tích đất canh

tác là 400ha, Trung Tú đã chuyển đổi 50% đất lúa sang nuôi trồng thủy sản và

mở rộng diện tích trồng hơn 100ha lúa hàng hóa chất lượng cao. Kết quả, cơ

cấu nội ngành nông nghiệp chuyển dịch theo hướng tích cực. Trồng trọt

chiếm 36,5%, chăn nuôi, thủy sản chiếm 63,5%; giá trị sản xuất nông nghiệp

60

mấy năm gần đây trung bình đạt trên 1.142 tỷ đồng, tốc độ tăng bình quân

6,1% năm. Với sự chỉ đạo đúng đắn của Đảng bộ huyện Ứng Hòa, nhiều hộ

nông dân đã mạnh dạn thực hiện chủ trương phát triển nông nghiệp, nông

thôn. Điển hình là ông Nguyễn Văn Thanh đã nhận thầu 8,84 ha, xây dựng

72.000m2 chuồng trại để chăn nuôi lợn siêu nạc mang lại giá trị kinh tế cao

(880 con lợn nái, 70 con lợn đực giống, 4.900 con lợn thịt), tổng doanh thu

là 93,812 tỷ đồng, lãi thực tế là 19,7 tỷ đồng, giải quết được việc làm cho 46

lao động.

2.2.2. Chỉ đạo phát triển sản xuất nông nghiệp

Phát triển ngành trồng trọt

Là huyện thuần nông, ngay sau khi có chủ trương của Đảng và nhà

nước, đặc biệt là Chương trình 02 của Thành ủy về “Phát triển nông nghiệp,

xây dựng nông thôn mới, từng bước nâng cao đời sống nông dân” giai đoạn

2011 – 2015. Trong những năm 2011-2014, Đảng bộ Ứng Hòa đã tiếp thu và

vận dụng sáng tạo, chỉ đạo nhân dân sản xuất, phát triển ngành KTNN.

Với đặc trưng là vùng chiêm trũng, Đảng bộ huyện Ứng Hòa đã sớm

chỉ đạo thực hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp và

dồn điền đổi thửa nhằm tạo điều kiện cho ngành trồng trọt phát huy hết tiềm

năng và điều kiện vốn có của mình. Đây cũng là vấn đề nổi bật trong KTNN

huyện Ứng Hòa trong những năm 2011-2014. Nghị quyết Đại hội đại biểu

Đảng bộ huyện lần thứ XXII đã xác định làtiếp tục chuyển dịch cơ cấu KTNN

theo hướng tích cực, tỷ trọng trồng trọt chiếm 35,5%, chăn nuôi thủy sản

chiếm 64,5%. Cơ cấu mùa vụ, cơ cấu giống cây trồng bố trí hợp lý, nhiều loại

giống lúa mới được đưa vào sản xuất. Hàng năm, tỷ lệ giống lúa chất lượng

cao luôn chiếm tỷ lệ cao, từ 35 - 40% diện tích, cho giá trị thu nhập cao gấp

1,5- 2 lần so với lúa thuần. Cây vụ Đông đặc biệt là cây đậu tương tiếp tục

được đẩy mạnh hàng năm chiếm khoảng trên 3000 ha. Năm 2013, thời tiết có

diễn biến tương đối phức tạp, đặc biệt là các cơn bão liên tiếp xảy ra, cùng với

61

đó là nạn ốc bươu vàng, chuột và sâu bệnh phá hoại nên ảnh hưởng không

nhỏ đến sản xuất nông nghiệp song Đảng bộ và UBND huyện đã kịp thời chỉ

đạo làm tốt công tác phòng chống dịch bệnh cho lúa (phun phòng thuốc trừ

sâu, diệt chuột, diệt ốc bươu vàng…), công tác tiêm phòng dịch bệnh cho đàn

gia súc, gia cầm, phun thuốc sát trùng, rắc vôi bột diệt trùng,tiêu độc để

phòng trừ dịch bệnh. Vì vậy năng suất hàng năm, năm sau cao hơn năm trước,

một số địa phương đã đạt được năng suất lúa cao. Tiêu biểu phải kể đến một

số xã đã gieo trồng cây hàng nămvới diện tích khá cao như, Minh Đức (1473

ha), Kim Đường (1284 ha), Trầm Lộng (904 ha).

Trồng lúa

Thực hiện chủ trương phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng qui

mô lớn. Chuyển dịch cơ cấu KTNN theo hướng sản xuất hàng hoá, gắn với

công nghiệp chế biến và thị trườngchuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Tập

trung mũi nhọn là nuôi trồng thủy sản và trồng lúa hàng hóa chất lượng cao.

Đảng bộ huyện Ứng Hòa đã chỉ đạo nhân dân xây dựng nhiều mô hình sản

xuất có hiệu quả kinh tế cao. Trong việc chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng,

Đảng bộ huyện đã chỉ đạo và có biến chuyển rõ rệt. Giống lúa mới ngày càng

có nhiều, năng suất cao, chất lượng. Tổng diện tích gieo trồng năm 2011 đạt

28.300 ha giảm 870 ha so với năm 2010. Toàn huyện có 3 xã sản xuất lúa

hàng hóa chất lượng cao quy mô tập trung từ 100 ha trở lên là Kim Đường,

Minh Đức, Đông Lỗ. Đồng thời, huyện cũng có chính sách hỗ trợ đối với các

vùng sản xuất lúa chất lượng cao có diện tích gọn vùng từ 20 ha trở lên tại 9

xã. Với mục đích đưa các giống lúa mới có năng suất cao vào trồng đại trà, vụ

lúa Xuân 2013, Trung tâm Khuyến nông Hà Nội đã hỗ trợ kinh phí cho các

hợp tác xã của huyện Ứng Hòa (Hà Nội) trồng thử nghiệm các giống lúa:

Hương ưu 3068, HDT8, TĐ1, PC6, NV1, hương biển, HYT100 được cấy trên

các chân đất khác nhau ở huyện. Qua triển khai và theo dõi các giống lúa

Hương ưu 3068, HDT8, TĐ1, PC6, NV1, hương biển, HYT100 được cấy trên

62

các chân đất khác nhau ở nhiều xã trong huyện Ứng Hòa, thì các giống lúa

này được đánh giá ít sâu bệnh, đẻ nhánh khỏe, cây cứng, chống đổ tốt, có thời

gian sinh trưởng phù hợp (khoảng 130 ngày), cho năng suất cao (Hương ưu

3068: 280 kg sào, HDT8: 230 kg sào, TĐ1: 240 kg sào, PC6: 240 kg sào,

Hương biển: 235 kg sào, HYT100: 280 kg sào…) và được nhân dân các xã

tiếp thu, đánh giá phù hợp với đất đai, khí hậu và trình độ thâm canh của

người dân Ứng Hòa. Lãnh đạo phòng kinh tế huyện còn cho biết, điều đáng

chú ý hơn là giống Hương ưu 3068, HYT100, HDT8 có thời gian sinh trưởng

tương đương với giống Nghị ưu 838, Hương thơm số 1…, cho năng suất cao,

chất lượng gạo ngon. Đây là các giống lúa mới có thể mở rộng diện tích .

Diện tích sản xuất vụ xuân 2013 là 11.246 ha; trong đó diện tích lúa xuân là

10.640 ha, năng suất lúa đạt 65,034 tạ/ha, tổng sản lượng ước đạt 69.200 tấn.

Bước đầu hình thành vùng sản xuất lúa chuyên canh có chất lượng, giá trị cao,

có hiệu quả cho thu nhập tăng từ 15% - 20% so với sản xuất lúa thường.

Trong vụ xuân năm 2013, tỷ lệ giống lúa chất lượng cao đạt 41,8% diện tích,

tăng 6,3% so với năm 2012. Cụ thể: Tổng diện tích gieo trồng: 10.915 ha so

kế hoạch giảm 161 ha. Trong đó: Diện tích sản xuất lúa mùa: 10.421ha đạt

98,5% kế hoạch, năng suất lúa bình quân 55,37 tạ/ha so với cùng kỳ giảm

3,85 tạ /ha, sản lượng 57.698 tấn giảm 614,9 tấn so với cùng thời điểm của

năm 2012.

Bảng 2.2. Về cơ cấu giống, năng suất lúa:

Giống lúa Diện tích (ha) Năng suất (tạ/ha) tỷ lệ(%)

+ Lúa khang dân 3.966 56,97 38,05

+ Q5 + thuần khác 1.662 56,15 15,9

+ Lúa CLC 4.358 52,83 41,8

+ Lúa lai TQ 435 56,9 4,1

(Nguồn: Phòng Thống kê huyện Ứng Hòa)

Với sự quan tâm và chỉ đạo của Thành ủy, năm 2014, Đảng bộ huyện

63

Ứng Hòa đã đề ra kế hoạch số 52/KH-UBND (ngày 07 tháng 5 năm 2014), về

nhiệm vụ cụ thể về sản xuất vụ mùa, định hướng sản xuất vụ xuân năm 2014.

Đối với cây lúa: Tập trung thu hoạch nhanh gọn lúa xuân, điều tiết nước hợp

lý, huy động các máy làm đất kịp thời, tuổi mạ từ 15-18 ngày bắt đầu cấy từ

13 06, đến 30/06 toàn huyện cơ bản cấy xong 100% diện tích lúa mùa. Các xã

có tiến độ cấy nhanh như: Phương Tú, Trung Tú, Minh Đức, Đội Bình, Tảo

Dương Văn …. , các xã cấy chậm: Liên Bạt, Thị trấn Vân Đình, Hồng Quang,

Quảng Phú Cầu …..Các mô hình tiếp tục được triển khai ứng dụng đạt hiệu

quả cao như: Mô hình sản xuất lúa hàng hoá chất lượng cao, kỹ thuật thâm

canh lúa cải tiến “SRI”.

Tuy đến năm 2014, tổng diện tích gieo trồng còn: 24.898 ha, (thể hiện

cơ cấu ngành KTNN đã giảm tỷ trọng) nhưng tổng sản lượng lương thực quy

thóc vẫn đạt 124.537 tấn, trong đó: Diện tích cây lúa 21.710 ha, năng xuất

bình quân đạt 62,1 tạ/ha; Đến vụ mùa năm 2014, toàn huyện gieo cấy 10.114

ha lúa, trong đó diện tích lúa chất lượng cao là 3.751 ha, chiếm 37,1%, (thơm

2.325 ha, nếp các loại 1.426 ha); Khang dân: 4.558 ha chiếm 45,1%, Q5,

BĐ5, giống khác: 1.373 ha chiếm 13,5%; Lúa lai 432 ha ,chiếm 4.3% (chủ

yếu là giống lúa thơm và nếp các loại).

Đặc biệt, được sự quan tâm và chỉ đạo sát sao của Đảng ủy và UBND,

cán bộ phòng kinh tế huyện đã xuống tỉnh Thái Bình để nghiên cứu, học tập

và mang về giống lúa mới có chất lượng vượt trội, cơm ngon đồng thời năng

suất cao. Tiêu biểu là các giống như TBR 225, ĐH18, Thái Xuyên 111 và

khảo nghiệm giống Đông A1. Được sự quan tâm của cán bộ và nhân dân địa

phương, Đảng bộ Ứng Hòa đã chỉ đạo tiến hành trình diễn giống lúa Đông A1

tại thôn Nguyễn Xá, xã Phương Tú, với diện tích là 3,5ha. Với mục tiêu đưa

những giống lúa mới có tiềm năng năng suất, chất lượng vào sản xuất nhằm

tăng thu nhập trên một đơn vị diện tích cho nông dân, thay thế các giống lúa

có biểu hiện thoái hóa, hạn chế về năng suất, tính chống đổ và nhiễm sâu

64

bệnh. Có nhiều hộ nông dân đã mạnh dạn đăng ký diện tích đất ruộng của

mình để chọn làm mô hình khảo nghiệm, với mong muốn tìm ra được các

giống lúa mới có năng suất, chất lượng cao để đưa vào sản xuất. Đây là giống

lúa không chỉ cho năng suất cao, kháng bệnh tốt mà còn cứng cây, phù hợp

với đồng đất của địa phương. Giống lúa Đông A1 có thời gian sinh trưởng ở

các tỉnh miền Bắc vụ xuân là 130 – 135 ngày, vụ mùa 105-110 ngày; có khả

năng chịu rét, mặn tốt, có dạng hình đẹp lá dòng thẳng đứng, gọn khóm, đẻ

nhánh khá, cứng cây, trỗ bông tập trung, chốngchịu sâu bệnh khá tốt, đặc biết

rất ít nhiễm đạo ôn về vụ xuân và bạc lá về vụ mùa. Giống lúa này thích hợp

với chân đất vàn, vàn cao. Hạt gạo trong, trắng, đẹp, có mùi thơm đặc trưng,

mềm, đậm, dài, rất ngon. Năng suất cao hơn Bắc thơm 7 từ 15-20%, trung

bình đạt 58-65 tạ/ha. Qua theo dõi thực tế từ lúc ngâm ủ giống đến, thì so với

các giống lúa đã trồng trước đây, Đông A1 đã chứng tỏ được nhiều ưu điểm.

Lúc còn là cây mạ, Đông A1 đã rất đẹp, quá trình phát triển cũng rất tốt. Đến

lúc chuẩn bị thu hoạch vẫn chưa bị nhiễm sâu bệnh, nên không phải phun bất

kỳ một loại thuốc bảo vệ thực vật nào, năng suất ung bình 2,4 tạ sào (tăng

gần 20%) so với giống lúa đối chứng Bắc thơm. Đây là giống lúa cho năng

suất cao nên Đảng bộ Ứng Hòa sẽ chủ trương nhân rộng cho toàn huyện và

đưa vào đại trà trong thời gian sắp tới.

Cây hoa màu

Thực hiện Kế hoạch số 52 của Đảng bộ Ứng Hòa, cán bộ và nhân dân

trong huyện tích cực phấn đấu đạt được mục tiêu đề ra. Diện tích cây màu:494

ha. Diện tích ngô: 205 ha, tăng 14 ha ,năng suất 49,3 tạ/ha giảm 1,9 tạ/ha, sản

lượng 1.010 tấn tăng 32 tấn. Diện tích lạc: 12 ha giảm 5 ha, năng suất 22,6

tạ/ha giảm 0,19 tạ/ha, sản lượng 27,12 tấn giảm 14,88 tấn. Diện tích rau màu:

272 ha, tăng 16 ha. Các giống ngô mới, năng suất caotrồng được cả ba vụ:

P11, B9681, B9670, VN2, DK88, TSB2, MSB49, Q2 được đưa vào sản xuất

65

đại trà. Các giống ngô trồng trong vụ đông như: LVN20, LVN4, LVN9,

LVN17, LVN15, LVN12, VLN98... Những giống ngô mới cho năng suất bình

quân từ 40-50 tạ/ha.

Với sự chỉ đạo của Đảng bộ huyện Ứng Hòa, thu nhập của người nông

dân ngoài cây lương thực, năm 2014 còn hơn 494 ha cây màu. Huyện Ứng

Hòa đã hình thành những vùng sản xuất chuyên canh rau xanh, nơi cung cấp

rau xanh cho Thành phố. Tính chất chuyên canh được thể hiện rõ khi diện tích

gieo trồng luôn ổn định và chủng loại rau xanh rất đa dạng, phù hợp với từng

mùa. Mùa hè thì có rau ngót, bí đỏ, bí xanh, mồng tơi, rau rền, dưa chuột, rau

muống...; mùa đông thì có su hào, bắp cải, súp lơ, cà chua... vừa tăng sản

lượng chính vụ và trái vụ. Ngoài ra còn có một số loại rau giống mới như bắp

cải tím, ớt xuất khẩu, cà rốt, ngô "lười"… Thời gian cây sinh trưởng ngắn,

chống chịu tốt với thời tiết và sâu bệnh, năng suất lại tăng vượt khi hầu hết

nông dân dùng thế hệ hạt F1 để gieo trồng. Phòng kinh tế huyện chỉ đạo xây

dựng vùng trồng rau an toàn, cây ăn quả có giá trị kinh tế cao ở các xã ven

sông Đáy. Nhiều giống cây ăn quả mới, giống cây màu mới có giá trị kinh tế

cao đã và đang tiếp tục được đưa vào sản xuất, bước đầu xây dựng một số mô

hình trồng cây ăn quả có hiệu quả kinh tế cao như mô hình cam canh, chanh

đào ở xã Phù Lưu, bưởi Diễn ở Đồng Tiến, Hòa Xá, phật thủ ở Hòa Nam, táo

ở Sơn Công. Với sự chỉ đạo đúng đắn đó đã mang lại kết quả đáng khích lệ,

nâng tổng giá trị sản xuất nông nghiệp của huyện Ứng Hòa đạt 2.273 tỷ đồng

(năm 2013).

Cây đậu tương

Với xu hướng giảm dần diện tích cây lương thực thì Đảng bộ Ứng Hòa

đã kịp thời chỉ đạo nhân dân trong huyện tập trung phát triển cây công nghiệp

có ưu thế như đỗ tương, lạc... Nhiều loại giống đậu tương cho năng suất cao,

chất lượng tốt được đưa vào trồng. Như các loại VX92, DT92, Đ9602, AL57

trồng vào vụ xuân, có thời gian sinh trưởng từ 90 – 105 ngày, phù hợp với

66

những vùng đất cao, bạc màu, đất bãi ngoài đê. Vụ hè trồng các giống

DDVN6, DT2000, DT84, DT93, DT94 có thời gian sinh trưởng 100 – 105

ngày, trồng trên đất thu hoạch lúa xuân, năng suất bình quân đạt 27 – 28 tạ/ha.

Vụ đông trồng các giống: DT92, AX39, Đ960, DT84, DT201... trên đất sau

thu hoạch lúa mùa, năng suất bình quân đạt 80kg sào. Để tăng năng suất, kịp

thời vụ, giảm sức lao động, Đảng đã chỉ đạo và khuyến khích bà con nông

dân sử dụng kỹ thuật gieo vãi đậu tương. Có hộ nông dân cũng đã tự sáng chế

ra chiếc máy gieo hạt như bác Nguyễn Hữu Tùy (Vân Đình - Ứng Hòa). Máy

có khả năng làm việc trên đồng cao, lội xuống vùng chiêm trũng với những

thao tác chuẩn xác, liên hoàn và nhiều tính năng như: gieo đậu, phạt gốc rạ

phủ hạt tạo độ ẩm, đè hạt tiếp đất làm tăng khả năng nảy mầm. Máy có 3 mật

độ gieo, phù hợp với từng yêu cầu kỹ thuật cây trồng: 30-35 hạt/m2, 40-45

hạt/m2 và 50-55 hạt/m2. Công suất gieo của máy đạt tới 5ha/ngày, bằng công

sức của gần 200 lao động thủ công. Tỷ lệ hạt nảy mầm đạt 90-95%, hơn hẳn

gieo bằng tay, theo đó, một chiếc máy trong một vụ thấp nhất cũng gieo được

150 mẫu đất (2,7 mẫu = 1ha). Theo thống kê của Phòng kinh tế huyện, năm

2014 đã chuyển đổi được 2.250ha với hơn 100 trang trại, vườn trại, và nâng

diện đất trồng lúa hàng hóa chất lượng nâng cao lên 45%, tương đương với

gần 5.500ha (vụ mùa năm 2011 đã cấy gần 3.000ha).

Mô hình trồng cây măng tây

Trong quá trình chỉ đạo thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, Đảng

bộ huyện Ứng Hòa đã khuyến khích nhân dân tích cực áp dụng một số mô

hình mới trên địa bàn huyện Ứng Hòa, tiêu biểu là mô hình trồng cây măng

tây xanh, rất phù hợp với đồng đất địa phương.

Cây măng tây có nguồn gốc từ Châu Âu, chồi non dùng làm rau thực

phẩm, dinh dưỡng cao, mang lại giá trị kinh tế cao. Với tính năng của cây

măng tây là giàu khoáng chất, tốt cho tim mạch, hỗ trợ điều trị ung thư, bệnh

gút, tiểu đường, tăng sức đề kháng cho cơ thể... nên Đảng bộ huyện Ứng Hòa

67

đã tổ chức, chỉ đạo cán bộ các cấp và hội viên hội nông dân đi tham quan, học

tập các mô hình trồng cây măng tây ở nhiều địa bàn trên toàn quốc và đưa vào

thử nghiệm một số xã ven Đáy như Phù Lưu, Hòa Xá... Năng suất thu hoạch

trung bình từ 18 đến 25kg/ngày, một năm có thể đạt 4.800kg/mẫu. Với mức

giá mà Công ty Măng tây xanh bao tiêu sản phẩm là 50.000 đồng/kg thì mỗi

68

gia đình thu nhập khoảng 240 triệu đồng năm.

Bảng 2.3. Gía trị sản xuất ngành trồng trọt theo giá hiện hành phân theo

Trong đó

Năm

Cây hàng năm

Cây lâu năm

Trong đó

Trong đó

Tổng số

Lương

Rau, đậu,

Cây

Cây ăn

Cây

Tổng số

Tổng số

thực

hoa,

cây

công

quả

công

hạt (Lúa,

cảnh

nghiệp

nghiệp

ngô)

hàng

lâu

năm

năm

Triệu đồng

216

2011

895.857

77.026 132.952

31.776

nhóm cây trồng

1.143.896

1.111.737

32.159

208

2012

883.755

179.724

16.201

31.197

1.121.994

1.090.496

31.498

142

2013

837.071

78.786

43.708

25.046

995.245

969.974

25.271

2014

841.547

53.124

64.193

62.598

7

1.031.494

968.662

62.832

Cơ cấu (%)

2011

100,0

97,19

80,58

6,93

11,96

2,81

98,81

0,67

2012

100,0

97,19

81,04

16,48

1,49

2,81

99,04

0,66

2013

100,0

97,46

86,30

8,12

4,51

2,54

99,11

0,56

2014

101,0

93,91

86,88

5,48

6,63

6,09

99,63

0,01

*Cây công nghiệp hàng năm: Mía; thuốc lá, thuốc lào; lấy sợi:Bông,

đay, cói

Cây có hạt chứa dầu: Đỗ tương, lạc, vừng...

** Cây công nghiệp lâu năm: Gồm cây lấy quả chứa dầu: Dừa...điều,

hồ tiêu, cao su, cà phê, chè....

(Nguồn: Phòng thống kê huyện Ứng Hòa các năm)

Phát triển ngành chăn nuôi

Được sự chỉ đạo của Đảng bộ Thành Phố Hà Nội và hướng dẫn của Bộ

NNPTNT theoThông tư số 27 /2011/TT-BNNPTNT về việc cấp giấy chứng

69

nhận kinh tế trang trại trên địa bàn huyện và Quyết định Số 1835 QĐ-UBND

(ngày 25/2/2013) của Thành phố Hà Nội về việc phê duyệt Quy hoạch chăn

nuôi thành phố Hà Nội đến năm 2020, định hướng 2030. Hiện nay huyện Ứng

Hòa có 20 trang trại lợn, 5 trang trại gia cầm được cấp giấy chứng nhận. Với

đặc thù là vùng chiêm trũng, huyện Ứng Hòa đã thực hiện tốt công tác dồn

điền đổi thửa, chuyển những vùng sản suất lúa kém năng suất sang đa canh,

khuyến khích nhân dân làm kinh tế trang trại. Đảng bộ huyện đã đẩy mạnh

phát triển các vùng nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi theo hướng trang trại tập

trung, quy mô lớn. Toàn huyện hiện có 2.400 ha thủy sản và sản xuất đa canh

lúa - cá - vịt tại các xã Phương Tú, Trầm Lộng, Đồng Tân, Vạn Thái. Bình

quân hàng năm, toàn huyện có hơn 9.000 hộ đạt tiêu chuẩn hộ sản xuất, kinh

doanh giỏi các cấp. Đến năm 2013, toàn huyện đã có 29 mô hình cho thu nhập

từ 0,5 - 8 tỷ đồng năm, 104 hộ cho thu nhập từ 300 - 500 triệu đồng... Bên

cạnh đó, huyện Ứng Hòa đã chỉ đạo tiếp tục triển khai,đưa các mô hình mới

vào sản xuất, hiệu quả cao.

Trong đó, về chăn nuôi lợn, huyện đã thí điểm xây dựng mô hình chăn

nuôi lợn trên nền đệm lót sinh học cho 10 hộ tại một số xã, tăng hiệu quả kinh

tế, giảm ô nhiễm môi trường, như không còn mùi hôi thối từ phân và nước

tiểu, hạn chế ruồi, muỗi, tránh được các mầm bệnh, nguyên nhân lây lan dịch

bệnh. Nền đệm lót sau một thời gian sử dụng là nguồn phân bón hữu cơ giàu

chất dinh dưỡng. Hiệu quả kinh tế tăng lên rõ rệt: giúp tiết kiệm 80% nước

trong chăn nuôi, 60% nhân công lao động, 10% thức ăn, có thêm nguồn phân

hữu cơ sạch, an toàn. Lãi suất chăn nuôi cao hơn chăn nuôi thông thường

khoảng 200.000 đồng con. Đây là mô hình rất có lợi, giải quyết được vấn đề

về giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong chăn nuôi, nhất là chăn nuôi trong

khu dân cư, giải quyết việc làm tăng thu nhập cho người nông dân.Năm 2011,

đàn lợn của toàn huyện có 98.992 con. Đến năm 2013, Đàn lợn tăng lên

119.591 con, tăng 30,8%. Tổng giá trị sản xuất chăn nuôi ước đạt 580,3 tỷ

70

đồng. Trọng lượng thịt lợn hơi xuất chuồng đạt 25.976 tấn so với năm 2012

tăng 25,9%. Chăn nuôi lợn tập trung một số xã Phương Tú, Hòa Lâm, Trầm

Lộng, Đồng Tân, Trung Tú, Tảo Dương Văn, Vạn Thái..., sản lượng các sản

phẩm chính đều tăng (thịt hơi các loại tăng 2,7%, sữa tăng 15,6%, trứng tăng

3,8%), trong khi giá cả luôn ở mức khá cao. Xuất hiện ngày càng nhiều cơ sở,

trang trại chăn nuôi kiểu công nghiệp, áp dụng công nghệ cao, kỹ thuật tiên

tiến, hiệu quả cao.

Bên cạnh đó, là chăn nuôi bò. Thực hiện dự án ứng dụng, lai tạo giống

bò BBB trên nền bò cái lai Sind thành đàn bò lai F1 hướng thịt. Mở rộng

230ha chăn nuôi xa khu dân cư tại xã Tảo Dương Văn và Vạn Thái. Các địa

phương trong huyện đã bình tuyển được 1.700 và phối giống được 195 con bò

BBB. Theo thống kê thời điểm 01/10/2011: Toàn huyện có 425 con trâu, giảm

so với cùng kỳ 14,1%, đàn bò 5.025 con, giảm so với cùng kỳ 28,3%. Đến

năm 2012: đàn trâu 431 con, (tăng 1,4%), đàn bò 4.075 con, (giảm 18,9%). Theo

thống kê đến 01/10/2013 toàn huyện có: Đàn trâu 588 con, so với năm 2010

tăng 36,4%; Đàn bò còn 3.756 con giảm 7,9%. Trọng lượng thịt trâu, bò hơi

xuất chuồng đạt 311 tấn giảm 17,5%. Năm 2014, Đàn bò có 4.250 con, tăng

14%so với năm 2013; trâu có 480 con, giảm 184%

Về chăn nuôi gia cầm, trước tình hình dịch bệnh ở gia súc, gia cầm

diễn biến hết sức phức tạp, UBND huyện đã chỉ đạo làm tốt công tác tuyên

truyền và phòng chống dịch, bệnh; theo dõi, quản lý khâu giết mổ, tăng cường

vệ sinh môi trường, khử trùng, tiêu độc nên không có dịch bệnh lớn xảy ra.

Năm 2012, đàn gia cầm 1.139.000 con, giảm so với năm 2011 là 14,9%. Năm

2013, đàn gia cầm tăng lên 1.348.900 con, tăng 18,5%. Trọng lượng thịt hơi

gia cầm xuất chuồng đạt 5.105 tấn tăng 12,9%. Sản lượng trứng gia cầm 136

triệu quả, tăng 12%.

Nuôi trồng thủy sản

Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng,vật nuôi trong sản xuất

71

nông nghiệp, Đảng bộ huyệnỨng Hòa đã ban hành quyết định 361 QĐ-

UBND quy định về trình tự, thủ tục chuyển dịch mục đích sử dụng đất trồng

cây hàng năm kém hiệu quả sang sản xuất chuyên canh, đa canh kết hợp.

Năm 2011, diện tích nuôi trồng thủy sản cả năm khoảng 2.190 ha tăng

164 ha so với năm 2010, sản lượng đạt 11.169 tấn, tăng 4,8%. Năm 2012, sản

lượng cá, tôm đạt 120.241 tấn tăng 12,7% so với năm 2011.

Ngành thủy sản được đặc biệt quan tâm, giá trị sản xuất năm 2014 tăng

6,8% so với năm 2013. Khai thác thủy sản có chuyển biến mới theo hướng

đẩy mạnh khai thác xa bờ, áp dụng kỹ thuật và thiết bị tiên tiến để nâng cao

giá trị, chất lượng và hiệu quả khai thác. Lĩnh vực nuôi trồng thủy sản đã khắc

phục khá thành công những khó khăn về dịch bệnh. Sản lượng nuôi trồng

thuỷ sản năm 2014 đạt 3.413 nghìn tấn, tăng 6,1% so với năm trước.

Đảng bộ huyện tiếp tục chỉ đạo các xã đẩy mạnh chuyển đổi sản xuất,

đề ra mục tiêu đến năm 2015, diện tích nuôi trồng thủy sản và sản xuất đa

canh đạt 3.000 ha, sản lượng đạt từ 24.000 - 26.000 tấn.

UBND huyện chỉ đạo các phòng ban lập quy hoạch hệ thống thủy lợi,

ao nuôi từng vùng. Cùng với đó, huyện cho triển khai hỗ trợ xây dựng hạ tầng

cho các vùng chuyển đổi như cứng hóa đường giao thông, xây dựng và cải tạo

hệ thống kênh mương tạo điều kiện cho việc tưới tiêu và thoát úng hiệu quả

khi có mưa lũ. Các xã căn cứ vào quy hoạch của huyện để xây dựng quy

hoạch cấp xã, giúp đỡ các hộ xây dựng đề án chuyển đổi, tạo ra các vùng

chuyên canh tập trung với diện tích tối thiểu mỗi vùng 10 ha.

Đến năm 2008, toàn huyện đã chuyển đổi được 1.078,58 ha, với 1.304

hộ tham gia. Các xã có diện tích chuyển đổi lớn như Trung Tú 177,9 ha, Hòa

Lâm 197,56 ha, Trầm Lộng 66,48 ha, Phương Tú 73,52 ha… Các mô hình, dự

án được duyệt chủ yếu là chuyển đổi sang NTTS kết hợp trồng lúa, chăn nuôi

gia súc, gia cầm. Đáng chú ý là việc hình thành các vùng chuyên canh thủy

sản, chăn nuôi tập trung đều khá xa khu dân cư, bảo đảm vệ sinh môi trường;

72

đó cũng là điều kiện thuận lợi để kiểm soát vệ sinh thú y, phòng chống dịch

bệnh, đã xuất hiện nhiều mô hình chăn nuôi tập trung theo hướng công

nghiệp, bán công nghiệp, hiệu quả kinh tế cao, từng bước giảm dần hình thức

chăn nuôi nhỏ lẻ, tận dụng trong các hộ.

Hầu hết các diện tích chuyển đổi đều phát huy hiệu quả, các hộ nuôi

trong vùng đã tận dụng diện tích đất và mặt nước tổ chức NTTS. Ở một số

vùng chuyển đổi, các hộ đã đưa một số vật nuôi mới có giá trị kinh tế và hiệu

quả cao như cá trắm, cá chép giòn, cá trạch, cua… Phòng Kinh tế huyện cùng

với Chi cục NTTS thường xuyên phối hợp với các hộ nuôi chuyển giao kỹ

thuật, hướng dẫn cách phòng và chữa bệnh cũng như cung cấp con giống chất

lượng cho người dân. Do vậy, công nghệ nuôi được thực hiện theo hướng bền

vững, thân thiện với môi trường.

Một số hộ gia đình đang nuôi cá trên diện tích hơn 2 mẫu. Toàn bộ diện

tích này do gia đình đã dồn đổi ruộng về một khu tập trung sau đó chuyển đổi

từ trồng cây lúa hay bị ngập úng kém hiệu quả trước đây sang nuôi cá. Từ

ngày chuyển đổi, mỗi năm có hộ gia đình thu hoạch 3 vụ cá, mỗi vụ thu được

khoảng 2,5 tấn cá các loại, tính trung bình mỗi kg cá có giá khoảng

40.000đ kg thì gia đình ông đã có thu cỡ 100 triệu. Sau khi trừ các khoản chi

phí thì mỗi vụ gia đình ông thu lãi từ bán cá khoảng 30 triệu đồng. Cộng với

những khoản thu từ 700 vịt đẻ, 2 máy ấp trứng thì mỗi năm có gia đình lãi

ròng khoảng 300 triệu đồng, lợi nhuận cao hơn rất nhiều so với trồng lúa.

Toàn huyện có 12.730,16 ha đất nông nghiệp, trong đó có nhiều diện

tích trũng thường hay bị ngập nước, có nơi người dân chỉ trồng được một vụ

lúa nhưng cũng chỉ cho thu bấp bênh do ảnh hưởng của mưa lũ. Việc chuyển

đổi sang NTTS cho thấy đây là bước đi phù hợp, đem lại hiệu quả kinh tế cao,

vì vậy trong thời gian tới Ứng Hòa sẽ chọn điểm 2 xã để quy hoạch vùng

NTTS với diện tích nuôi trồng tối thiểu là 30 ha, Nhà nước sẽ hỗ trợ thức ăn,

con giống cũng như một số thiết bị máy móc để người dân phát triển theo mô

73

hình chuyên canh NTTS.

Để phát huy hơn nữa hiệu quả từ mô hình này, huyện đã quan tâm đến

việc quản lý chặt chẽ quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất sang NTTS nhằm

hoạt động này phát triển theo đúng định hướng, tránh hiện tượng chăn nuôi tự

phát, tràn lan, nhỏ lẻ phá vỡ quy hoạch. Bên cạnh đó là đẩy mạnh phát triển

NTTS theo hướng trang trại, gia trại, tập trung phát triển đa dạng các đối

tượng nuôi có giá trị kinh tế cao phục vụ cho tiêu dùng, tăng cường công tác

khuyến ngư, áp dụng rộng rãi tiêu chuẩn VietGap trong NTTS. Huyện đã giao

cho các phòng ban chức năng cùng với chính quyền xã tiếp tục rà soát và bổ

sung quy hoạch sử dụng đất đai; quy hoạch thủy lợi; quy hoạch xây dựng

NTM của các địa phương nhằm tiếp tục đẩy mạnh chuyện dịch cơ cấu cây

trồng, đem lại hiệu quả kinh tế cao trên một đơn vị diện tích canh tác.

Trên địa bàn huyện có 117 trang trại gồm 60 trang trại chăn nuôi, 43 trang

trại nuôi trồng thủy sản, 14 trang trại tổng hợp (năm 2014). Diện tích nuôi trồng

thủy sản đạt 2.350 ha, sản lượng ước đạt 15.050 tấn so với cùng kỳ tăng 13,3%.

Tiểu kết chương 2

Đảng bộ huyện Ứng Hòa đã vận dụng sáng tạo những quan điểm, chủ

trương đổi mới phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước và chủ trương

của Thành ủy Hà Nội vào hoàn cảnh cụ thể của địa phương. Bởi vậy trong

những năm 2011 – 2014, Đảng bộ huyện Ứng Hòa đã lãnh đạo, chỉ đạo ngành

KTNN của huyện phát triển toàn diện cả trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng

thuỷ sản.

Trong những năm 2011 – 2014 KTNN huyện Ứng Hòa đã có những

bước tiến đáng kể. Những thành tựu đạt được đó không chỉ là kết quả phấn

đấu của một bộ phận chuyên môn về KTNN, mà còn là kết quả của cả một

quá trình quán triệt, vận dụng đường lối đổi mới của Đảng và sự phấn đấu

không ngừng của toàn hệ thống chính trị và nhân dân trong toàn huyện. Cùng

với những thành tựu đạt được về KTNN, về kinh nghiệm trong lãnh đạo chỉ

74

đạo, và cả hạn chế đã tạo nên những tiền đề để huyện Ứng Hòa, Thành phố

Hà Nội cùng cả nước chuyển sang thời kỳ mới, với nhiều vận hội, thời cơ và

thách thức mới.

Để có được những thành công đó là do đường lối phát triển nông

nghiệp theo hướng CNH, HĐH của Đảng là hoàn toàn đúng đắn. Đồng thời,

dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Đảng bộ Thành phố Hà Nội càng

chứng tỏ chủ trương mở rộng địa giới hành chính là phù hợp với tiến độ đi lên

của nền kinh tế Hà Nội nói chung và KTNN huyện Ứng Hòa nói riêng.

Những thành tựu to lớn đạt được trong sản xuất nông nghiệp đã làm thay đổi

bộ mặt khu vực nông thôn, là động lực to lớn thúc đẩy kinh tế - xã hội huyện

75

tiếp tục phát triển trong những năm tiếp theo.

Chƣơng 3. NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM

3.1. Nhận xét về sự lãnh đạo của Đảng bộ.

3.1.1. Ưu điểm

Trong quá trình lãnh đạo xây dựng và phát triển nền KTNN theo hướng

CNH, HĐH giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2014, Đảng bộ huyện Ứng Hòa

đã luôn quán triệt, sát sao chỉ đạo nhân dân ra sức phấn đấu, khắc phục mọi

khó khăn, thử thách, phát huy ý chí tự lực, tự cường. Nhờ đó mà nền KTNN

huyện Ứng Hòa có những bước tiến đáng kể, góp phần vào phát triển nền

kinh tế nói chung của huyện. Từ đó có thể thấy được những ưu điểm của

Đảng bộ Ứng Hòa như sau:

Thứ nhất, Đảng bộ huyện Ứng Hòa đã đề ra được những chủ trương đúng

đắn, phù hợp với điều kiện và tình hình thực tế của địa phương. Trong giai đoạn

từ năm 2008 đến năm 2014, vận dụng sáng tạo chủ trương, đường lối của

Đảng và Thành ủy, huyện ủy, UBND huyện đã kịp thời đưa ra những Chương

trình, những Nghị quyết nhằm đẩy mạnh nền kinh tế nông nghiệp. Xác định

được đúng nhiệm vụ và vai trò của ngành KTNN, huyện ủy đã chỉ đạo phòng

kinh tế cùng với các cấp chính quyền, ban, ngành từ huyện tới cơ sở phối kết

hợp chặt chẽ thực hiện những kế hoạch, những đề án của huyện giao. Trong

công tác chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, đẩy mạnh ngành chăn nuôi

và nuôi trồng thủy sản; áp dụng những mô hình mới trong chăn nuôi và trồng

trọt. Đặc biệt, trong công tác dồn điền đổi thửa, đã thu được những kết quả

đáng kể, mô hình đa canh được đẩy mạnh, tăng nhanh số lượng các trang trại

tạo điều kiện cho hiệu quả sản xuất ngày một nâng cao, đời sống vật chất và

tinh thần của người nông dân được cải thiện.

Thứ hai, cùng với việc đề ra chủ trương đúng đắn, Đảng bộ huyện Ứng

Hòa còn có những biện pháp, tổ chức, hành động phù hợp, đặc biệt trong

76

chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng tăng dần tỷ trọng chăn

nuôi – thủy sản. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, cơ cấu

lao động nông nghiệp theo hướng CNH- HĐH được Đảng bộ đặc biệt quan

tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Từ năm 2008 -20014, cùng với sự phát triển chung của

các ngành kinh tế, Đảng bộ huyện đã từng bước lãnh đạo, chỉ đạo chuyển dịch

cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, cơ cấu lao động nông nghiệp theo

hướng CNH- HĐH. Từ đó, nền nông nghiệp Ứng Hòa có sự chuyển biến sâu

sắc, khá toàn diện, đồng bộ, sâu sắc cả về chiều rộng và chiều sâu. Từ một

nền KTNN thuần nông từng bước hình thành cơ cấu kinh tế đa dạng hóa,

HĐH với sự gia tăng của ngành KTNN và dịch vụ. Cơ cấu sản phẩm nông

nghiệp đa dạng hơn so với những sản phẩm nông nghiệp truyền thống đây.

Bên cạnh đó, nhiều ngành sản xuất công nghiệp phụ trợ liên quan đến lĩnh

vực nông nghiệp cũng có tốc độ tăng trưởng nhanh như: chế biến bảo quản

thủy sản và sản phẩm từ thủy sản, sản xuất thức ăn gia súc, sản xuất phân

bón...

Cơ cấu KTNN dần dần thoát khỏi tình trạng độc canh, phát triển theo

hướng đa canh, sản xuất hàng hóa, quy mô ngày càng lớn. Trên địa bàn nông

thôn, quá trình phân công lao động mới diễn ra khá sôi động. Chất lượng

nguồn nhân lực ở nông thôn từng bước được nâng cao; cơ cấu lao động ở một

số vùng nông thôn chuyển dịch nhanh sang các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ.

Nông thôn Ứng Hòa đã không còn là nông thôn thuần nông mà đang từng

bước chuyển thành nông thôn - đa dạng hóa, HĐH về cơ cấu với sự gia tăng

của ngành KTNN và dịch vụ. Kinh tế hộ, kinh tế trang trại phát triển mạnh,

kinh tế hợp tác có những chuyển biến tích cực.

Thứ ba, Đảng bộ huyện Ứng Hòa chú trọng chỉ đạo tạo ra những

nguồn lực để phát triển kinh tế nông nghiệp

Về nguồn vốn, trong quá trình thực hiện chủ trương xây dựng nông

thôn mới, Đảng bộ huyện Ứng Hòa đã phát động nhân dân tập trung nguồn

77

lực sẵn có để xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng. Bên cạnh đó, Đảng bộ huyện

đã tích cực, linh hoạt và phát huy hiệu quả nguồn kinh phí của Thành phố Hà

Nội giao cho trong xây dựng các công trình giao thông, thủy lợi nội đồng; đầu

tư nhà máy cung cấp nước sạch; xây dựng một vùng rau an toàn. Hệ thống đê

điều được gia cố. Ngày 10 tháng 6 năm 2013 UBND Thành phố Hà Nội đã có

văn bản chỉ đạo trực tiếp về việc xử lý sạt lở bờ Tả sông Đáy thuộc xã Đồng

Tiến để tránh nguy hiểm , ảnh hưởng đến sản xuất, an toàn đê điều và khu dân

cư địa phương. Cùng với việc gia cố đê điều thì được sự đồng ý của Bộ Nông

nghiệp và PTNT và UBND Thành phố Hà Nội, công ty Đầu tư và phát triển

Thủy lợi Sông Nhuệ đang tiến hành thi công dự án Trạm bơm Ngoại Độ 2

trên địa phận huyện Ứng Hòa. Với dự án này, công trình thủy lợi góp phần

trực tiếp vào việc tiêu nước ra sông Đáy và sông Nhuệ, đảm bảo cho các mùa

vụ của nông dân huyện Ứng Hòa. Với phương châm “nhà nước và nhân dân

cùng làm”, nhiều hộ nông dân đã đầu tư hàng tỷ đồng để làm trang trại, củng

cố bờ vùng, tu sửa chuồng trại chăn nuôi... Từ năm 2008 đến năm 2014,

huyện Ứng Hòa đã huy động nhân dân và doanh nghiệp đóng góp hơn 167 tỷ

đồng cùng với nguồn kinh phí hơn 539 tỷ đồng từ ngân sách của Thành phố,

huyện và xã để hỗ trợ phát triển nông nghiệp. Bên cạnh đó, nhiều hộ dân đã

kết hợp với việc tăng cường áp dụng khoa học kỹ thuật còn sáng kiến lồng

ghép giữa nuôi trồng thủy sản và chăn nuôi đã mang lại mức thu nhập cao cho

người dân lên tới 24 triệu đồng năm. Đặc biệt, ngày 6 tháng 8 năm 2014,

UBND huyện Ứng Hòa đã ban hành quyết định số 600 QĐ-UBND về hỗ trợ

khuyến khích tổ chức, hộ gia đình và cá nhân đầu tư phát tiển nông nghiệp

theo hướng sản xuất hàng hóa, chất lượng cao, an toàn vệ sinh thực phẩm,

hoàn thành mục tiêu phát triển kinh tế nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới,

từng bước nâng cao đời sống nông dân trên địa bàn huyện Ứng Hòa.

Về nguồn nhân lực được đặc biệt quan tâm thông qua các chủ trương,

chính sách của Đảng bộ huyện, không ngừng được nâng cao về trình độ.

78

Huyện đã mở các lớp đào tạo về khoa học công nghệ cho người dân nhằm

trang bị kiến thức để người dân tự làm chủ nền kinh tế, phát huy sáng tạo

trong sản xuất. Hiện nay, số lao động tham gia các ngành kinh tế chiếm

khoảng 91,2% tổng số người trong độ tuổi lao động, bình quân mỗi năm tăng

khoảng 2,1% trong giai đoạn 2010-2014.

Về ứng dụng công nghệ kỹ thuật hiện đại, Đảng bộ huyện Ứng Hòa

đã tích cực thúc đẩy việc nghiên cứu, chuyển giao ứng dụng tiến bộ khoa

học công nghệ vào sản xuất, phục vụ CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.

Trong những năm 2008 đến năm 2014, ngành nông nghiệp huyện Ứng Hòa

đã có nhiều đổi mới trong các hoạt động ứng dụng khoa học công nghệ vào

sản xuất.

Đối với trồng trọt, Đảng bộ huyện Ứng Hòa đặc biệt chú trọng trong

công tác chọn giống. Việc chuyển giao ứng dụng khoa học công nghệ đã làm

cho cơ cấu giống được đổi mới, diện tích sản xuất các giống tiềm năng, năng

xuất ngày càng được mở rộng; đồng thời thu hẹp và dần loại bỏ các giống có

năng suất thấp. Đối với giống lúa, đặc biệt là lúa lai ngày càng được mở rộng

diện tích gieo trồng. Thực hiện tốt chương trình cấp I hóa giống lúa hàng

năm, hệ thống giống nhân dân đã sản xuất tại chỗ không chỉ để cung cấp cho

các hộ trong HTX mà nhiều địa phương còn chuyên sản xuất giống cho các

công ty giống của Thành phố và Trung ương, mang lại hiệu quả cao cho

người lao động.

Đối với cây đậu tương, nhiều loại giống mới, phù hợp với điều kiện đất

đai và khí hậu được đưa vào sản xuất như các loại VX92, DT92, Đ9602,

AL57 hoặc DDVN6, DT2000, DT84, DT93, DT94 năng suất bình quân đạt

27 – 28 tạ/ha. Các giống ngô như DK88O, DK999, LNV10, LNV17...

Cùng với việc áp dụng kỹ thuật chọn giống tốt, Đảng bộ huyện Ứng

Hòa còn tiếp nhận và chuyển giao nhiều tiến bộ khoa học công nghệ trong

khâu gieo trồng như gieo mạ vụ xuân che phủ nilon, gieo vãi đậu tương, gieo

79

trên gốc rạ... Kỹ thuật làm đất đã hoàn toàn cơ giới hóa, toàn huyện có 557

máy làm đất các loại, 100% diện tích đất sử dụng máy kéo nhỏ. Số máy phun

thuốc trừ sâu là 183 chiếc. Trong khâu thu hoạch cũng được áp dụng gần như

hoàn toàn bằng máy móc, khâu tuốt lúa đã 100% bằng máy gặt, tuốt liên hoàn

đã rút ngắn được thời gian thu hoạch, mang lại hiệu quả cao. Chiếc máy cấy

sử dụng mạ gieo trên khay, khoảng 7 khay mạ/sào, tốc độ cấy đạt 0,77m/s

được đưa vào sử dụng. Với chiếc máy cấy này, năng suất tăng gấp 20 lần so

với cấy tay, thích hợp với mọi địa hình, ruộng bùn lầy, ruộng bùn sâu... đảm

bảo cấy chất lượng.

Trong chăn nuôi, những tiến bộ của khoa học công nghệ chủ yếu trong

kỹ thuật thụ tinh nhân tạo để đẩy mạnh chương trình Sinh hóa đàn bò. Bên

cạnh đó còn áp dụng kỹ thuật lai giống đối với chăn nuôi lợn. Ngoài ra còn

đưa vào chăn nuôi các loại gia cầm có năng suất, chất lượng cao như ngan

Pháp, gà Kabir, gà Lương Phượng, vịt siêu thịt, siêu trứng... đã đạt hiệu quả

kinh tế cao. Trong nuôi trồng thủy sản cũng được thực hiện quá trình chọn lọc

nuôi thả các giống cá có năng suất, chất lượng như cá rô phi, cá trê lai, cá

chim trắng, trôi, mè lai...

Những tiến bộ trong khoa học và công nghệ còn được đưa vào ứng

dụng trong công tác xây dựng, tu bổ, nạo vét kênh mương để phục vụ tốt cho

mùa vụ của người nông dân về tưới tiêu. Nhiều công trình thủy lợi được xây

dựng kiên cố; nhiều công trình được cải tạo, nâng cấp theo hướng hiện đại.

Hệ thống đê được kè, đắp ngày càng vững chắc.

Khoa học kỹ thật và công nghệ mới đã có vai trò rất lớn trong việc phát

triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Với việc áp dụng những thành tựu mới

này giúp cho các chương trình, chủ trương của Đảng bộ huyện giành được kết

quả cao.

Thứ tư, Đảng bộ huyện Ứng Hòa đã chỉ đạo, triển khai mô hình liên kết

và xúc tiến thương mại giúp chăn nuôi bền vững và hiệu quả. Mặc dù còn gặp

80

khó khăn, song mô hình sản xuất khép kín, đảm bảo “đầu vào – sản xuất –

tiêu thụ sản phẩm” cho người chăn nuôi đã được huyện ủy đặc biệt quan tâm.

Với mô hình này, các hộ nông dân, đặc biệt là các chủ hộ trang trại vừa có thể

tham gia chăn nuôi, vừa tạo công ăn việc làm cho hàng trăm lao động khác.

Tại HTX Hòa Mỹ thuộc xã Vạn Thái đang có quy mô sản xuất trên 121 mẫu,

nuôi trên 3.600 con lợn nái, 70.000 lợn giống, thịt. Riêng lợn thương phẩm,

trung bình hàng tháng HTX đã cung cấp cho thị trường 1.000 con, tương ứng

với 100 tấn thịt. Có hộ sản xuất quy mô lớn nhất tới 8ha, nuôi 1.050 lợn nái,

7.000 lợn thịt, thu nhập hàng năm trên 4 tỷ đồng, những lao động làm thuê

cũng có thu nhập từ 4 -5 triệu đồng/ tháng. Hiệu quả từ mô hình này cao gấp 3

- 4 lần so với những hộ chăn nuôi nhỏ, lẻ. Được sự lãnh đạo, chỉ đạo và hỗ trợ

của cấp ủy, nhiều địa phương đã xúc tiến việc nghiên cứu nguồn giống, thức

ăn chăn nuôi và thị trường tiêu thụ thịt lợn sạch. Hiện nay loại giống được

chăn nuôi trên địa bàn huyện là giống lợn nạc ngoại, chất lượng cao, được

nhập từ Mỹ. Bên cạnh đó, nguồn thức ăn cũng được lựa chọn cẩn thận. Ngoài

ra, các HTX còn thường xuyên phối hợp với các công ty chăn nuôi tổ chức

các khóa đào tạo, tập huấn cho các hộ xã viên về kỹ thuật chăn nuôi, về công

tác phòng chống dịch bệnh, vệ sinh chuồng trại. Phối hợp với chi cục thú y

tiến hình kiểm dịch chất lượng thịt thương phẩm; phối hợp cùng Trung tâm

Phát triển chăn nuôi Hà Nội (Sở NN&PTTNT) ứng dụng công nghệ tự phối

trộn sản xuất thức ăn chăn nuôi dựa trên nguồn nguyên liệu sẵn có ở địa

phương, vừa giúp nông dân tiết kiệm chi phí đầu vào, tăng giá trị sản xuất đầu

ra, vừa đảm bảo chất lượng thịt an toàn. Vì vậy, hầu hết sản phẩm lợn thịt của

HTX được các lò mổ thu mua, chế biến và đưa đi tiêu thụ tại hệ thống siêu thị

trên địa bàn Thành phố.

Thứ năm, các cấp chính quyền đã tích cực thực hiện những chính sách

của Đảng bộ huyện Ứng Hòa về phát triển nông nghiệp. Trung tâm Khuyến

nông Hà Nội đã hỗ trợ kinh phí cho các hợp tác xã của huyện Ứng Hòa (Hà

81

Nội) trồng thử nghiệm các giống lúa: Hương ưu 3068, HDT8, TĐ1, PC6,

NV1, hương biển, HYT100 được cấy trên các chân đất khác nhau ở huyện.

Qua triển khai và theo dõi các giống lúa Hương ưu 3068, HDT8, TĐ1, PC6,

NV1, hương biển, HYT100 được cấy trên các chân đất khác nhau ở nhiều xã

trong huyện Ứng Hòa, thì các giống lúa này được đánh giá ít sâu bệnh, đẻ

nhánh khỏe, cây cứng, chống đổ tốt, có thời gian sinh trưởng phù hợp

(khoảng 130 ngày), cho năng suất cao (Hương ưu 3068: 280 kg sào, HDT8:

230 kg sào, TĐ1: 240 kg sào, PC6: 240 kg sào, Hương biển: 235 kg/sào,

HYT100: 280 kg sào…) và được nhân dân các xã tiếp thu, đánh giá phù hợp

với đất đai, khí hậu và trình độ thâm canh của người dân Ứng Hòa. Điều đáng

chú ý hơn là giống Hương ưu 3068, HYT100, HDT8 có thời gian sinh trưởng

tương đương với giống Nghị ưu 838, Hương thơm số 1…, cho năng suất cao,

chất lượng gạo ngon.

Thứ sáu, chủ trương và biện pháp của Đảng bộ được nhân dân tích cực

thực hiện, đã đạt được những thành tựu quan trọng.

Trước tiên phải kể đến việc huyện ủy chú trọng, tăng cường chỉ đạo

chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đặc biệt trong công tác dồn điền đổi thửa, Đảng

bộ Ứng Hòa đã chỉ đạo nhân dân tích cực tham gia, số diện tích dồn ô thửa

nhỏ thành ô thửa to lên tới hàng nghìn ha, đạt 90,45%, tạo điều kiện cho

huyện đẩy mạnh cơ giới hóa sản xuất, chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi.

Ruộng đồng ở Ứng Hòa đã bớt manh mún, phân tán. Mỗi hộ nông dân chỉ còn

từ 1-2 thửa , thuận lợi cho việc thực hiện cơ giới hóa nông nghiệp. Từ kết quả

của quá trình dồn điền đổi thửa mà huyện ủy đã quy hoạch và hình thành

nhiều vùng sản xuất chuyên canh tập trung. Do đó đã tạo nên được những

cánh đồng mẫu lớn, những vùng chuyên canh hoa màu 637 ha, trồng cây dược

liệu là 62 ha, vùng đa canh chăn nuôi kết hợp với thủy sản là 870 ha, hoặc

một vụ lúa, một vụ cá 2035 ha; vùng chuyên trồng lúa chất lượng cao với diện

82

tích 3873 ha, vùng chăn nuôi xa khu dân cư.

Tại vùng ven sông Đáy, một số cây ăn quả có giá trị kinh tế cao như

cam Canh, bưởi Diễn, chanh đào, táo, chuối tiêu hồng... đã được đưa vào sản

xuất thay thế các cây rau màu hiệu quả thấp. Hình thành những vùng chăn

nuôi lớn ở các xã như Vạn Thái, Tảo Dương Văn, Sơn Công...; vùng chuyên

sản xuất đa canh kết hợp lúa – cá – vịt – lợn ở các xã Trầm Lộng, Hòa Lâm,

Minh Đức... và vùng chuyên nuôi trồng thủy sản ở các xã như Phương Tú,

Hòa Lâm, Trung Tú, Đồng Tân... Riêng Trầm Lộng đã chuyển đổi được

265 465 ha đất nông nghiệp sang nuôi trồng thủy sản. Nhiều trang trại nuôi

trồng theo mô hình tổng hợp này cho thu nhập từ 150 - 200 triệu đồng/ha.

Mỗi năm, Trầm Lộng thu khoảng 600 tấn cá, 4 triệu quả trứng, trên 100 tấn

thịt gà, vịt, 400 tấn thịt lợn hơi, nơi đây trở thành một trong những trọng

điểm sản xuất nông nghiệp ở huyện Ứng Hòa. Gía trị sản xuất tăng lên rõ

rệt, đạt 152 triệu đồng/ ha, góp phần nâng cao thu nhập bình quân trên đầu

người cho người dân trong huyện.

Bên cạnh đó là những kết quả đạt được trong công tác đào tạo nghề,

giải quyết việc làm cũng đáng khích lệ. Chỉ tính riêng từ năm 2010 đến năm

2014, huyện ủy đã phối hợp với hội nông dân, đã tổ chức được 186 lớp dạy

nghề, nhân cấy nghề cho lao động nông thôn được mở rộng, thu hút hơn

6.300 học viên tham gia. Tỷ lệ lao động qua đào tạo không ngừng tăng, từ

28,8% (năm 2010) lên 36% (năm 2014). Song hành với việc đào tạo nghề,

trong phong trào xây dựng Nông thôn mới, những công trình điện, đường,

trường, trạm đã khang trang. Từ năm 2010 đến 2014 toàn huyện đã cứng hóa

được 76km đường trục xã, 48,8 km đường trục thôn, 120km đường ngõ xóm,

73,4km đường trục chính nội đồng; thêm 6 chợ nông thôn được cải tạo, xây

dựng thêm hai khu xử lý rác thải tập trung tại Đông Lỗ và Thị trấn Vân Đình,

51 điểm tập kết thu gom rác thải, làm cho môi trường được cải thiện. Bộ mặt

83

nông thôn thay đổi rõ rệt, thể hiện rõ trên nét cơ bản sau:

Về công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp: Công nghiệp - tiểu thủ công

nghiệp phát triển được duy trì ổn định. Tính đến hết năm 2014, trên địa bàn

huyện có 98 doanh nghiệp và 5500 cơ sở sản xuất với khoảng 13.500 lao

động. Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đã góp phần làm tăng GDP

của huyện, giải quyết nhiều việc làm. Đặc biệt giá trị xuất khẩu sản phẩm

công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tăng nhanh, đến hết năm 2014 giá trị sản

xuất hàng hàng công nghiệp của huyện đạt 2832 tỉ đồng, tốc độ tăng bình

quân giai đoạn 2011 - 2014 11,5 % năm. Trên địa bàn huyện đã và đang hình

thành, phát triển các cơ sở công nghiệp vừa và nhỏ. Toàn huyện có 87 làng

nghề tiểu thủ công nghiệp, trong đó có 20 làng nghề đã được công nhận.

Huyện đang xây dựng cụm công nghiệp Bắc Vân Đình với quy mô 50 ha và 2

điểm công nghiệp làng nghề ở Quảng Phú Cầu với diện tích 4,5 ha.

Về thương mại- dịch vụ: Lĩnh vực thương mại- dịch vụ phát triển khá

nhanh. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ năm 2013 trên địa bàn huyện

đạt trên 1723 tỉ đồng, tốc độ tăng bình quân là 12,2%. Thị trường được mở

rộng, hoạt động thương mại – dịch vụ phát triển đa dạng và phong phú với sự

góp mặt của các thành phần kinh tế, đặc biệt là sự phát triển mạnh mẽ của khu

vực thương mại tư nhân. Các hoạt động thương mại- dịch vụ của huyện đã

từng bước cung ứng được vật tư sản xuất và hàng hàng hoá tiêu dùng đáp ứng

được nhu cầu phát triển kinh tế và tiêu dùng của huyện. Một số sản phẩm xuất

khẩu của huyện đã bước đầu khẳng định được thương hiệu trên thị trường như

tre đan, tăm hương. Đầu tư, cơ sở hạ tầng kỹ thuật thương mại được nâng cấp

và mở rộng, hệ thống chợ, hệ thống các cửa hàng, trung tâm thương mại phát

triển mạnh, hiện toàn huyện có 31 chợ, trong đó 6 chợ xây dựng kiên cố được

công nhận đạt tiêu chuẩn của Bộ Công thương, trong đó có 1 chợ đầu mối

trung tâm, 1 siêu thị.

Dịch vụ du lịch bước đầu được đầu tư mở rộng, nâng cấp một số cơ sở

84

hạ tầng các điểm du lịch. Hệ thống tài chính ngân hàng của huyện phát triển

khá tốt, vừa huy động được tiền nhàn rỗi trong dân, vừa đáp ứng nhu cầu vốn

cho phát triển kinh tế và góp phần giảm nghèo trên địa bàn huyện. Các tổ

chức dịch vụ tài chính không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động phục vụ

phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn. Hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín

dụng mở rộng hoạt động. Dịch vụ giao thông vận tải phát triển khá tốt. Toàn

huyện có 6 cơ sở làm dịch vụ vận tải (1 doanh nghiệp tư nhân, 1 hợp tác xã và

4 công ty cổ phẩn). Dịch vụ vận tải về cơ bản đáp ứng nhu cầu vận tải hàng

hoá và đi lại của nhân dân.

Về hạ tầng kinh tế kỹ thuật: Đến năm 2014, trên địa bàn huyện đã đầu

tư cải tạo, nâng cấp, xây dựng hệ thống giao thông, phát triển mạng lưới điện,

thông tin liên lạc, công trình thuỷ lợi theo hướng liên thông và kết nối với các

huyện khác của thành phố Hà Nội, tạo thành một hệ thống thông suốt để phục

vụ phát triển kinh tế - xã hội và cải thiện nâng cao đời sống vật chất, tinh thần

của người dân trong huyện. Các tuyến trục đường giao thông liên tỉnh kết nối

huyện Ứng Hoà với bên ngoài được đầu tư nâng cấp, bước đầu tạo điều kiện

giao lưu kinh tế thương mại thông suốt và thúc đẩy phát triển kinh tế của

huyện. Thời gian qua, huyện đã xây dựng nâng cấp một số tuyến đường tỉnh

lộ, liên huyện và đường giao thông liên xã, đường dân sinh thôn.

Mạng lưới bưu chính viễn thông và thông tin liên lạc tiếp tục được mở

rộng và hiện đại hoá. Toàn huyện hiện có 1 cơ sở bưu điện trung tâm huyện

cấp II, 6 bưu cục cấp III và 23 điểm bưu điện - văn hoá xã, đảm bảo thông tin

liên lạc kết nối trong phạm vi huyện, xã và thông suốt trong thành phố và cả

nước. Sử dụng Internet ngày càng phổ biến trong các cơ quan, doanh nghiệp,

trường học.

Nhìn chung kết cấu hạ tầng trong thời gian qua của Ứng Hoà phát triển

tương đối tốt, song so với yêu cầu phát triển, nhất là trong điều kiện Hà Tây

sáp nhập với Hà Nội thì còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu phát

85

triển của huyện.

Về thu, chi ngân sách và huy động các nguồn lực cho phát triển kinh

tế- xã hội : Do điều kiện kinh tế còn thấp nên nguồn thu ngân sách trên địa

bàn huyện rất thấp. Năm 2011 là 78.258 tỷ đồng và năm 2014 là 103.337 tỉ

đồng. Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội hàng năm trên địa bàn huyện liên tục

tăng. Tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội năm 2011 là 265.630 tỉ đồng, năm

2014lên tới 619.450 tỉ đồng. Tổng số vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn huyện

trong 4 năm 2011 - 2014 đạt 1.952 tỉ đồng. (Nguồn: Báo cáo kinh tế xã hội

huyện Ứng Hoà các năm 2011 – 2014)

Nguyên nhân của những thành tựu đạt được:

Một là : Có đường lối đúng đắn của Đảng, đặc biệt việc điều chỉnh, mở

rộng địa giới hành chính Thủ đô Hà Nội (01/8/2008) mở ra triển vọng lớn để

Ứng Hòa phát triển toàn diện, hiệu quả và bền vững. Cùng với sự quan tâm,

chỉ đạo sát sao của Thành ủy Hà Nội và các cấp sở, ban ngành, tạo mọi điều

kiện thuận lợi cho nhân dân huyện Ứng Hòa thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển

nông nghiệp, nông thôn. Bên cạnh đó, Đảng bộ huyện Ứng Hòa đã đánh giá

đúng về vị trí, vai trò của nông nghiệp và kinh tế nông thôn trong tiến trình

phát triển kinh tế xã hội; đã chọn đúng các vấn đề có tính chiến lược cho từng

giai đoạn, từ đó xây dựng thành các đề án tập trung đầu tư, chỉ đạo, thống

nhất có trọng tâm, trọng điểm hướng tới mục tiêu chung.

Hai là, Phòng kinh tế nông nghiệp và Hội nông dân huyện Ứng Hòa

luôn chú ý sát sao, chỉ đạo đổi mới nội dung và phương pháp hoạt động, đẩy

mạnh các hoạt động sản xuất, xóa đói, giảm nghèo. Cùng với phòng nông

nghiệp đã mở nhiều các lớp tập huấn kỹ thuật cho người nông dân, đẩy mạnh

công tác tuyên truyền bằng nhiều hình thức cho nông dân thực hiện. Các

chương trình ban đầu đều được thí điểm ở một số địa phương, sau đó triển

khai rộng trên toàn huyện, tạo nên sự tin cậy đối với nông dân và khích lệ

86

người nông dân hăng hái tham gia và thực hiện.

Ba là, Đảng bộ huyện Ứng Hòa đã xác định đúng về cơ cấu kinh tế, cơ

cấu cây trồng phù hợp với từng địa phương có những đặc trưng về địa hình

riêng. Trong quá trình lãnh đạo, Đảng bộ huyện đã chỉ đạo các địa phương

đầu tư mạnh vào lĩnh vực chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi; tích cực

và mạnh dạn đưa các loại giống mới vào thử nghiệm và sản xuất trên diện

rộng. Vì vậy các loại cây trồng, vật nuôi rất đa dạng và phong phú; các loại

cây trồng vật nuôi năng suất thấp dần được thay thế bằng các loại cây trồng

vật nuôi có năng suất cao, thu nhập cho các hộ nông dân ngày càng tăng

hơn trước.

Bốn là, có được những thành tựu trên đây một phần không nhỏ là do

tác động của các ngành kinh tế khác, đặc biệt là ngành công nghiệp giao

thông vận tải và dịch vụ. Cùng với đó là tinh thần lao động cần cù, sáng tạo

và ý chí vươn lên phát triển kinh tế của các hộ nông dân đã góp phần vào thúc

đẩy nền kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Hơn hết là nguồn lao động trong

nông nghiệp huyện Ứng Hòa không ngừng được nâng cao. Người nông dân

đã làm chủ được các quy trình trong quá trình sản xuất bởi họ là những con

người luôn học hỏi và trau dồi kiến thức trong nông nghiệp.

Để có được những thành tựu trên đây, một phần cũng bởi Ứng Hòa là

huyện có vị trí địa lý thuận lợi, thúc đẩy các hoạt động giao lưu, trao đổi và

tiêu thụ hàng hóa, thu hút các nhà đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, xây dựng

cơ sở hạ tầng nông thôn, tiếp cận nhanh chóng những tiến bộ khoa học kỹ

thuật, đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp.

3.1.2. Hạn chế

Trong quá trình chỉ đạo, bên cạnh những ưu điểm mà Đảng bộ huyện

Ứng Hòa đạt được thì còn tồn tại một số những hạn chế.

Thứ nhất, Đảng bộ huyện Ứng Hòa còn hạn chế trong quá trình chỉ

đạo giải quyết những khó khăn, trở ngại; mức độ đảm bảo chưa cao cho sản

87

xuất khi thiên tai mang tới. Hệ thống đê điều còn nhiều đoạn chưa đảm bảo,

tiềm ẩn những hậu quả khó lường khi có thiên tai xảy ra. Một số hộ dân cư vi

phạm đê điều chưa được giải quyết triệt để. Các công trình thủy lợi chưa phát

huy hết khả năng vốn có. Vấn đề về quy hoạch đất đai còn nhiều bất cập trước

sự phát triển của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sự phát triển của đô thị

ở Thị trấn Vân Đình, gây nên những bức xúc và mâu thuẫn giữa chính quyền

với nhân dân.

Thứ hai, có chủ trương về cho vay vốn nhưng trong quá trình chỉ đạo

thực hiện việc vay vốn tín dụng còn nhiều bất cập, thủ tục rườm rà, chưa đáp

ứng được nhu cầu thực vay của hộ nông dân để phục vụ cho sản xuất. Để đầu

tư cho một trang trại hết khoảng 300 đến 400 triệu, nhiều hộ nông dân đã phải

thế chấp tài sản mới vay được từ Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT với số

tiền từ 30 đến 50 triệu đồng. Còn ngân hàng chính sách chỉ vay được 10 triệu

đồng. Vì vậy, do gặp rất nhiều khó khăn về vốn trong quá trình sản xuất nên

nhiều hộ nông dân chỉ có thể làm trang trại với qui mô nhỏ. Đặc biệt, mỗi khi

gặp thiên tai hoặc dịch bệnh, các chủ hộ trang trại bị thiệt hại nặng nề, có khi

lên tới hàng trăm triệu. Những lúc ấy, muốn khôi phục sản xuất thì nguồn vốn

là yếu tố quan trọng đầu tiên. Để vay được khoảng 50 triệu đồng, các chủ hộ

trang trại thường phải làm nhiều thủ tục rườm rà, gặp nhiều khó khăn. Đợi

ngân hàng giải ngân theo đúng nhu cầu thực vay là rất khó và thời gian thì

kéo dài, làm mất cơ hội sản xuất. Nếu có được thì mức vay cũng quá thấp so

với nhu cầu của người nông dân.

Thứ ba, công tác tuyên truyền vận động quần chúng hiệu quả chưa cao,

một số cơ sở, cán bộ đảng viên còn chưa nhận thức đầy đủ về ý nghĩa và vai

trò của công tác dồn điền đổi thửa.

Công tác dồn điền đổi thửa là khâu quan trọng nhất trong quá trình phát

triển KTNN và xây dựng nông thôn mới. Khâu mấu chốt của quá trình chuyển

đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, chuyển đổi mô hình sản xuất mới chính là quá

88

trình dồn ô thửa nhỏ thành ô thửa lớn. Trong quá trình thực hiện chương trình,

nhiều đơn vị, cán bộ chưa thật sự nhiệt tình với công tác, năng lực còn hạn

chế, có hiện tượng tư lợi; việc tổ chức tuyên truyền, vận động người dân còn

hạn chế. Người dân chưa nhận thấy được lợi ích của việc dồn điền đổi thửa

nên cũng không tha thiết, còn hờ hững. Thậm chí, một số nơi cán bộ còn chưa

gương mẫu, tranh thủ dồn điền đổi thửa lồng ghép lợi ích cá nhân, gia đình,

gây bất bình trong dư luận, khiến người dân hiểu sai về chính sách của Đảng

và Nhà nước.

Thứ tư, công tác kiểm tra đôn đốc chưa thường xuyên, nhiều nghị quyết

của Đảng bộ ở nhiều nơi chưa được thực hiện đến nơi đến chốn. Vì vậy nhiều

địa phương Đảng bộ đã không kiểm tra, giám sát, sát sao chỉ đạo các HTX

điều hành các hoạt động mang đúng chức năng, nhiệm vụ, đã dẫn đến tình

trạng bất bình giữa người nông dân với chính quyền địa phương về vấn đề

dịch vụ và phí dịch vụ. Một số HTX đã không thực hiện đúng theo tinh thần

của Quyết định số 01 QĐ-UBND ngày 11-1-2010 của UBND TP Hà Nội về

mức thu phí dịch vụ và Quyết định số 36 (điều 7) ngày 10-9-2013 của UBND

TP Hà Nội về “miễn thủy lợi phí đối với diện tích đất nông nghiệp trong hạn

mức giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân...”; không công khai,

minh bạch trong công tác quản lý, thu chi tài chính. Bên cạnh đó, một số

Đảng bộ địa phương chưa cấp phát giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông

nghiệp cho các hộ nông dân, chưa bồi thường cho các hộ dân khi triển khai

một số dự án trên đất nông nghiệp và giải phóng mặt bằng. Điều này đã làm

ảnh hưởng không nhỏ tới tình hình sản xuất, đến thời vụ và năng suất lao

động của người dân; ảnh hưởng đến uy tín của chính quyền địa phương.

Ngoài ra còn một số vấn đề đáng quan tâm như: Vấn đề về ô nhiễm môi

trường trở thành vấn đề “nóng” của cả huyện mà chưa giải quyết được triệt

để. Ô nhiễm không chỉ các khu công nghiệp, các làng nghề mà còn ô nhiễm

ngay tại các cơ sở chăn nuôi, chế biến giết mổ gia súc gia cầm trong khu dân

89

cư. Nguồn nước chưa được đảm bảo. Hiện nay, trên địa bàn huyện mới có hai

nhà máy nước được xây dựng tại xã Quảng Phú Cầu và Liên Bạt. Nguồn nước

một số xã bị ô nhiễm nặng. Hai công trình nước sạch nông thôn chưa đáp ứng

được yêu cầu của người dân. Đa số xã trong huyện vẫn còn dùng nước giếng

khoan. Nguồn nước bị ô nhiễm khiến người dân rất lo lắng. Nước nổi váng

vàng, để lâu đóng thành màng cứng, bốc mùi ngai ngái. Mặc dù đã lọc đi lọc

lại nhiều lần nhưng do nguồn nước bị nhiễm asen nên vẫn gây nên những hệ

quả, không chỉ ngứa ngáy, ghẻ lở... mà còn gây bệnh cho người dân địa

phương. Thậm chí có làng đã “lọt” vào trong danh sách 10 làng mắc bệnh ung

thư nhiều nhất cả nước.

Vấn đề về việc làm vẫn chưa giải quyết được triệt để. Số lao động nông

nhàn, lao động theo thời vụ còn cao. Nhiều lao động trẻ tuổi đã ra Thành phố

làm thuê, làm ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống kinh tế, văn hóa... không chỉ đối

với riêng Ứng Hòa mà đối với toàn xã hội. Chưa tập trung, đẩy mạnh nâng

cao chất lượng nguồn lao động trong nông nghiệp. Số lao động có trình độ đại

học nông nghiệp (chăn nuôi, thú y, trồng trọt, thủy sản...) tham gia trực tiếp

trong các trang trại, ở các hộ nông dân còn ít. Những mặt trái của nền kinh tế

thị trường trong quá trình CNH, HĐH còn nhiều tiêu cực, ảnh hưởng đến sản

xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Chưa có chính sách thu hút nguồn nhân

lực có trình độ trở về phục vụ cho quê hương. Chính vấn đề về giải quyết việc

làm trên địa bàn huyện chưa được giải quyết triệt để đã làm cho các tệ nạn xã hội

xuất hiện ngày càng nhiều như cờ bạc, nghiện hút, mại dâm, tai nạn giao thông...

ngày càng diễn biến phức tạp. Việc mở các khu công nghiệp đã thu hút một lực

lượng lớn lao động từ các địa phương khác tới đã gây nên những khó khăn trong

quá trình quản lý và an ninh trật tự tại khu dân cư.

Những hạn chế trên đây là do nhiều nguyên nhân mang lại. Một số

nguyên nhân cơ bản sau:

Thứ nhất là, nguồn nhân lực lao động trực tiếp trong nông nghiệp còn

90

hạn chế về chất lượng. Người nông dân còn hạn chế trong việc tiếp thu các

ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, lực lượng cán bộ khoa học kỹ thuật

trực tiếp tham gia chỉ đạo sản xuất hướng dẫn nông dân còn thấp.

Gía nông sản thường bấp bênh, bất lợi cho người lao động. Chưa có

chính sách về giá cả lâu dài về nông sản cho người nông dân, chưa đề ra được

chiến lược thị trường. Bên cạnh đó khâu dịch vụ cần cho phát triển nông

nghiệp hàng hóa như công nghiệp chế biến, dịch vụ kỹ thuật còn chậm phát

triển. Ngoài ra, ý thức sản xuất của người nông dân vẫn mang tính thức thời,

khi mặt hàng nông sản cao thì tập trung, chú trọng sản xuất. Ngược lại, khi

giá thành giảm thì tuyệt đại đa số nông dân ngừng sản xuất. Điều này đã gây

ảnh hýởng ðến tâm lý các nhà đầu tư. Vì vậy các doanh nghiệp ít đầu tư vào

vào lĩnh vực này.

Thứ hai là, Một số cấp ủy từ huyện đến cơ sở trong quá trình chỉ đạo còn

thiếu khoa học, lúng túng, thiếu trọng tâm, trọng điểm, thiếu kiên quyết. Một số

cán bộ lãnh đạo chưa phát huy hết vai trò và vị trí của mình; bên cạnh đó thì một

số hạn chế về năng lực, ý thức phê và tự phê bình chưa cao; chưa tích cực học

hỏi kinh nghiệm, rèn luyện nên chưa thể hiện được tính tiên phong, gương mẫu.

Một số cán bộ làm việc còn quan liêu, hành chính, chưa xóa bỏ được thói quen

làm việc cũ, áp dụng phong cách làm việc mới còn chậm.

Thứ ba là, Bên cạnh những nguyên nhân chủ quan đó, Đảng bộ huyện

Ứng Hòa còn gặp phải những hạn chế trên đây là do nguyên nhân khách quan

mang tới. Đó là thiên tai nhiều năm đã làm thiệt hại nặng nề nền kinh tế nông

nghiệp. Hậu quả để lại là những đợt dịch bệnh triền miên, gây tổn thất tới

hàng trăm triệu đồng cho một số hộ nông dân. Khó khăn hơn cả là nguồn vốn

có giới hạn, kết cấu hạ tầng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp còn hạn chế,

năng suất lao động, chất lượng và sức cạnh tranh sản phẩm còn yếu.

3.2. Một số kinh nghiệm

Trong những năm từ 2008 đến năm 2014, Đảng bộ huyện Ứng Hòa đã

91

vận dụng đúng đắn, sáng suốt và kịp thời những chủ trương, đường lối của

Đảng để lãnh đạo, chỉ đạo nền kinh tế nông nghiệp huyện nhà có những bước

tiến đáng kể, tạo điều kiện góp phần phát triển kinh tế - xã hội địa phương,

thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Từ

những ưu điểm và hạn chế trong quá trình lãnh đạo phát triển nền KTNN của

Đảng bộ huyện Ứng Hòa trên đây, đã rút ra những bài học kinh nghiệm sau:

3.2.1. Thực hiện đúng chủ trương, đường lối phát triển nông nghiệp,

nông thôn của Đảng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và vận

dụng sáng tạo vào thực tiễn địa phương.

Đảng ta đã luôn đánh giá đúng vị trí và vai trò của KTNN. Nền kinh tế

nông nghiệp quyết định trực tiếp đến đời sống của con người, bởi nông

nghiệp là ngành sản xuất trực tiếp ra lương thực thực phẩm và nguyên liệu,

phục vụ nhu cầu vật chất tất yếu của con người. Vì vậy trong chủ trương và

đường lối của Đảng, nhiệm vụ phát triển kinh tế nông nghiệp luôn được đề

cao, là trọng tâm trong chiến lược phát triển kinh tế nước nhà.

Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế nông nghiệp, từ

Đại hội VI đến nay, Đảng đã có những chủ trương, chính sách kịp thời để

thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn. Đặc biệt là đường lối đổi mới của Đảng, cụ

thể là Chỉ thị 100 của Ban bí thư Trung ương Đảng khóa VI, Nghị quyết 10

của Bộ Chính trị, Nghị quyết Trung ương 5 khóa VII... và tiếp đến các kỳ Đại

hội, gần đây là Đại hội IX năm 2001, Đại hội X năm 2006 và Đại hội XI năm

2011 luôn coi trọng nhiệm vụ phát triển kinh tế nông nghiệp, đặc biệt quan

tâm tới vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn.

Cùng với những chủ trương, đường lối của Đảng, Thành ủy Hà Nội

luôn luôn sát sao và kịp thời lãnh đạo chỉ đạo, ban hành những Nghị quyết,

những Chương trình phù hợp với thực tế của nông nghiệp, nông thôn vùng

ngoại thành. Điển hình nhất là Chương trình 02 của Thành ủy đã góp phần rất

lớn vào quá trình phát triển KTNN Ứng Hòa nói riêng và thành phố Hà Nội

92

nói chung, thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Đối với Ứng Hòa, là một huyện thuần nông nên Đảng bộ huyện đã luôn

vận dụng sáng tạo những quan điểm, những chủ trương của Đảng và của

Thành ủy Hà Nội, đặt vấn đề phát triển KTNN lên hàng đầu, từ đó đưa ra

những chương trình, chỉ thị để phát triển nền kinh tế nông nghiệp theo hướng

sản xuất hàng hóa, hiệu quả và bền vững.

Để thực hiện được mục tiêu đề ra, về phát triển kinh tế nông nghiệp

theo hướng sản xuất hàng hóa, hiệu quả và bền vững, Đảng bộ huyện Ứng

Hòa đã luôn luôn nâng cao hiệu quả của công tác lãnh đạo phát triển kinh tế.

Cụ thể hóa công tác quản lý, Huyện ủy, UBND, HĐND huyện Ứng Hòa đã

căn cứ vào tiềm năng, lợi thế và khả năng phát triển kinh tế của huyện, chỉ

đạo chặt chẽ các cấp, các ngành, các xã, thị trấn xây dựng và tổ chức thực

hiện có hiệu quả các Chương trình, đề án về phát triển kinh tế nông nghiệp.

Đảng bộ huyện Ứng Hòa đã tiến hành cuộc cách mạng xanh trong nông nghiệp:

Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng giảm tỷ trọng ngành trồng trọt,

tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi và dịch vụ; phát triển cây vụ đông; đưa giống mới

có năng suất cao vào đồng ruộng; đẩy mạnh chăn nuôi trở thành một ngành

chính, chú trọng phát triển ngành nuôi trồng thủy sản. Đến 2014, Ứng Hòa

không những giải quyết xong vấn đề lương thực cho nhân dân trong huyện mà

còn trở thành vùng trọng điểm sản xuất lương thực, thực phẩm của Thành phố.

Được sự đồng thuận của các cấp chính quyền từ huyện đến cơ sở và sự

đồng lòng, nhất trí của nhân dân, Đảng bộ huyện Ứng Hòa đã vượt qua được

những khó khăn về thiên tai, dịch bệnh, về ảnh hưởng của cơ chế ... đẩy mạnh

được nền kinh tế nông nghiệp, đưa một số ngành trở thành trọng điểm của

toàn Thành phố. Với những chủ trương, kế hoạch sáng tạo, linh hoạt và kịp

thời đó cần phải phát huy để đảm bảo cho nền nông nghiệp huyện Ứng Hòa

luôn phát triển bền vững.

93

3.2.2. Khai thác tiềm năng, thế mạnh phát triển nông nghiệp.

Ứng Hòa là một vùng đất chiêm trũng, được quy hoạch là vành đai

xanh của Thủ đô nên huyện ủy, HĐND, UBND đã rất chú trọng khai thác thế

mạnh của địa phương để chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, phát triển

kinh tế trang trại, nâng cao hiệu quả canh tác cho người dân. Từ năm 2008

đến năm 2014, Đảng bộ huyện Ứng Hòa đã rất quan tâm, luôn luôn tìm tòi

hướng đi nhằm khai thác triệt để những lợi thế của địa phương trong phát

triển KTNN. Về cơ cấu giống cây, Đảng bộ huyện đã chú trọng đổi mới giống

lúa, đưa những giống lúa mới năng suất cao, chất lượng tốt vào sản xuất. Với

diện tích gần 10.000 ha đất nông nghiệp, lãnh đạo huyện đã kịp thời hướng

dẫn, chỉ đạo các cơ sở lựa chọn giống lúa phù hợp với đặc điểm đất nông

nghiệp và địa hình của địa phương. Bên cạnh đó, huyện cũng kịp thời có

những chính sách hỗ trợ đối với các vùng sản xuất lúa chất lượng cao có diện

tích thu gọn vùng từ 20 ha trở lên. Cùng với các loại giống lúa mới, huyện ủy

đã chỉ đạo cho các vùng ven Đáy đưa một số giống cây ăn quả có giá trị kinh

tế cao vào sản xuất để thay thế cho các loại rau màu hiệu quả thấp.

Với đặc thù là vùng chiêm trũng, Đảng bộ huyện Ứng Hòa đã đẩy

mạnh phát triển các vùng nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi theo hướng trang trại

tập trung, quy mô lớn. Tiêu biểu phải kể đến những vùng chăn nuôi lợn như

Vạn Thái, Tảo Dương Văn, Sơn Công; vùng sản xuất đa canh kết hợp lúa – cá

– vịt – lợn như Trầm Lộng, Minh Đức; vùng nuôi trồng thủy sản như Phương

Tú, Hòa Lâm. Với địa hình trũng, diện tích tới 232 ha, rất thuận lợi cho nuôi

trồng thủy sản như Trung Tú, Đồng Tân đã được Thành phố Hà Nội đầu tư

xây dựng thành vùng thủy sản trọng điểm của Thủ đô. Bởi vậy, trên địa bàn

huyện đã có rất nhiều trang trại đem lại hiệu quả kinh tế cao gấp 1,5 – 2 lần

so với trồng lúa. Doanh thu bình quân của các trang trại bình quân đạt hơn

2 tỷ đồng/trang trại. Do đó cần phát huy những lợi thế của địa phương

94

nhằm đẩy nhanh, mạnh tiến độ phát triển kinh tế nông nghiệp, phát triển

kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; nâng cao mức

sống của người dân, giảm dần tỷ lệ chênh lệch giữa nông thôn và thành thị

trên địa bàn Thành phố.

3.2.3. Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho phát

triển, mở rộng liên kết kinh tế, đẩy mạnh xã hội hóa.

Để thúc đẩy phát triển mạnh mẽ hơn nữa các nguồn lực xã hội, gắn kết

các thành phần kinh tế, tạo làn sóng đầu tư phát triển mới, Đảng ủy đã luôn

tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác với các quận, huyện bạn trong và ngoài

thành phố. Đồng thời rà soát, đánh giá và có những cơ chế, giải pháp huy

động, khai thác hiệu quả các tiềm năng, nguồn lực trên địa bàn, đặc biệt là các

nguồn lực gắn với tài nguyên, đất đai, vốn, nguồn nhân lực.

Bên cạnh đó, HĐND, UBND đã luôn nâng cao và sử dụng hiệu quả

vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước và có nguồn gốc từ ngân sách, thực hiện

nguyên tắc đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, phát huy vai trò là tác nhân kích

thích, thúc đẩy trong phát triển kinh nong nghiệp từ các khoản đầu tư vốn

ngân sách và có nguồn gốc ngân sách. Đẩy mạnh xã hội hóa thu hút vốn ðầu

tý trong và ngoài thành phố tập trung cho phát triển kinh tế nông nghiệp, đặc

biệt là trong các lĩnh vực xây dựng hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng nông thôn. Đẩy

nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân các dự án đã được thành phố phê duyệt

nhằm phát huy hiệu quả sử dụng và làm cơ sở để thực hiện các dự án mới.

3.2.4. Mạnh dạn tiếp nhận và nhân rộng các giống cây trồng, vật nuôi,

các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất.

Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo phát triển KTNN, Đảng bộ Ứng

Hòacùng với Phòng kinh tếthực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo

quy định để hình thành vùng sản xuất tập trung, khắc phục tình trạng chuyển

đổi manh mún, nhỏ lẻ, phân tán, tự phát theo kiểu tự cung, tự cấp sang sản xuất

95

hàng hóa lớn, tập trung với hiệu quả kinh tế cao, bền vững, tiếp tục chuyển đổi

các giống kém hiệu quả sang sản xuất các giống cây, con có giá trị kinh tế cao.

Tăng cường phát triển ngành nuôi trồng thủy sản, đưa các loại giống cá mới,

hiệu quả kinh tế cao vào thử nghiệm. Mở rộng sản xuất cây vụ đông, nâng số

diện tích đất canh tác với các cây trồng có điều kiện thuận lợi về thị trường.

Đồng thời, tích cực đưa các loại giống cây ăn quả cho năng suất và giá trị kinh

tế thay thế các loại rau màu hiệu quả thấp. Đẩy mạnh thâm canh, tăng năng

suất, đồng thời đưa nhanh các giống lúa có chất lượng, giá trị cao vào sản xuất.

Nhân rộng “cánh đồng 50 triệu đồng” và thôn, xã đạt giá trị sản xuất 50 triệu

đồng trở lên trên một ha năm trên toàn bộ diện tích canh tác. Với việc vận dụng

các kỹ thuật lai tạo, Đảng bộ huyện đã chỉ đạo đưa chăn nuôi thật sự trở thành

ngành sản xuất chính. Quy hoạch, xây dựng các khu chăn nuôi tập trung; đẩy

mạnh chăn nuôi trang trại, gia trại theo phương thức công nghiệp và bán công

nghiệp. Tập trung phát triển các con vật nuôi có thế mạnh và điều kiện thuận

lợi về thị trường; tăng nhanh đàn lợn có tỷ lệ nạc cao, đàn bò lai Shind.

3.2.5. Đổi mới công tác lãnh đạo, chỉ đạo của huyện ủy, Ủy ban nhân

dân và các ban ngành đoàn thể và cả hệ thống chính trị.

Trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, huyện ủy Ứng Hòa đã quán triệt

những quan điểm lớn có tính nguyên tắc của Đảng để đề ra những chủ trương,

phương pháp, biện pháp mạnh với tinh thần dám nghĩ dám làm, dám chịu trách

nhiệm trước Đảng, trước nhân dân, Đảng bộ huyện Ứng Hòa nhờ đó đã phát

huy được vai trò của cấp ủy và tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng

viên. Hầu hết các cấp ủy và đảng viên ở các cơ sở đều thể hiện được vai trò

nòng cốt, luôn gương mẫu và đi đầu trong việc tham gia các mô hình, nhất là

những mô hình khó. Luôn luôn đi đầu trong thực hiện các chương trình, các dự

án, tích cực xây dựng những nhân tố mới, mô hình mới, tạo lòng tin, hướng dẫn

và lôi kéo phong trào quần chúng, phát huy nội lực thực hiện các mục tiêu đẩy

96

mạnh phát triển KTNN.

Đối với công tác giáo dục chính trị tư tuởng cho cán bộ, đảng viên có

nhiều chuyển biến tích cực; các cấp ủy đảng quan tâm triển khai, quán triệt có

hiệu quả, đồng bộ các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật

của Nhà nước, kịp thời thông tin định hướng tình hình trong nước, thế giới

đến cấp ủy, cán bộ, đảng viên.

Trong công tác triển khai, quán triệt nghị quyết và xây dựng chương

trình, kế hoạch thực hiện các nghị quyết của Trung ương cũng có nhiều đổi

mới, theo hướng phát huy tính chủ động, sáng tạo của cơ sở; gắn việc triển khai

Nghị quyết với xây dựng chương trình hành động của từng cấp, từng ngành; bố

trí báo cáo viên có năng lực để truyền đạt; tăng cường thảo luận, đối thoại trong

học tập. Đảng bộ huyện Ứng Hòa luôn xác định cán bộ là động lực có tính

quyết định quá trình thực hiện mọi chủ trương, đường lối của Đảng, nhân dân

nên đặc biệt chú trọng công tác tổ chức cán bộ góp phần đổi mới công tác lãnh

đạo, chỉ đạo của Huyện ủy, Ủy ban nhân dân và các ban ngành đoàn thể và cả

hệ thống chính trị. Bên cạnh đó, Đảng bộ cũng thường xuyên nhắc nhở, kiểm

tra đôn đốc và kịp thời có những biện pháp xử lý phù hợp với những sai phạm

theo mức độ. Từ đó cần khắc phục những hạn chế trong công tác quản lý, tạo

điều kiện cho người nông dân yên tâm sản xuất, đảm bảo cho nền kinh tế nông

nghiệp nói riêng và nền kinh tế xã hội Ứng Hòa nói chung phát triển bền vững.

3.2.6. Chú trọng phát triển nông nghiệp gắn với hiện đại hóa nông

thôn và nâng cao đời sống nông dân.

Đồng thời với việc đề ra chủ trương, Nghị quyết nhằm phát triển

KTNN, cần chú trọng gắn phát triển kinh tế nông nghiệp với hiện đại hóa

nông thôn và nâng cao đời sống nông dân, tăng cường đầu tư phát triển kết

cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn, nhất là giao thông, thuỷ lợi, điện,

trường học, trạm y tế; có nhiều cơ sở giáo dục, y tế đạt chuẩn quốc gia.

97

Những kết quả từ sự đầu tư trên đã góp phần phát triển sản xuất KTNN, cải

thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân nông thôn. Công

tác xóa đói, giảm nghèo đạt kết quả tích cực. Từ năm 2008 đến năm 2014,

được sự chỉ đạo sát sao của Thành ủy Hà Nội, KTNN huyện Ứng Hòa nói

riêng và bộ mặt nông thôn nói chung đã có những thay đổi rõ rệt. Nông thôn

Ứng Hòa mới hiện đại, văn minh nhưng vẫn nhưng vẫn giữ được những nét

truyền thống của làng quê Việt.

Tiểu kết chương 3

Trong quá trình xây dựng đất nước, Đảng ta luôn chú trọng, quan tâm

và đặc biệt đề cao vai trò và nhiệm vụ của nền kinh tế nông nghiệp. Chính vì

vậy, Đảng bộ huyện Ứng Hòa đã luôn vận dụng chủ trương của Đảng vào

thực tiễn địa phương, áp dụng linh hoạt những Nghị quyết, Chương trình của

Đảng và của Thành ủy Hà Nội nên đã phát huy được những tiềm năng, những

lợi thế của huyện, thúc đẩy nền kinh tế nông nghiệp tiến nhanh và sánh cùng

các huyện bạn về năng suất, chất lượng và hiệu quả. Có được những thành tựu

đó là do sự nỗ lực, cố gắng khống chỉ ở các cấp ủy Đảng mà còn do sự đồng

thuận của toàn bộ hệ thống chính trị từ huyện đến cơ sở và sự nhất trí của toàn

dân. Để có được những đổi thay trên quê hương Ứng Hòa, Đảng bộ huyện đã

làm tốt công tác tuyên truyền, đổi mới về nhận thức và chỉ đạo. Luôn coi phát

triển kinh tế nông nghiệp là nhiệm vụ trọng tâm. Kiên trì lãnh đạo, chỉ đạo tới

các cấp cơ sở thực hiện tốt các Chương trình, kế hoạch đề ra và đạt hiệu quả.

Bên cạnh đó, trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo phát triển nền kinh tế nông

nghiệp, Đảng bộ huyện Ứng Hòa cũng gặp một số hạn chế nhất định, do

nhiều yếu tố tác động, ảnh hưởng. Đảng bộ huyện cũng đã khắc phục đồng

thời luôn mở rộng, phát huy tính dân chủ trong công tác quản lý để tháo gỡ

những sai sót, rút ra những bài học kinh nghiệm để ngành kinh tế nói chung

và kinh tế nông nghiệp nói riêng, phát triển bền vững.

Qua quá trình lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế nông nghiệp trong

98

những năm 2008-2014, Đảng bộ huyện Ứng Hòa đã rút ra được những bài

học kinh nghiệm quý báu, là cơ sở lý luận, thực tiễn để Đảng bộ huyện tiếp

tục lãnh đạo nhân dân phát triển KTNN theo hướng CNH- HĐH trong giai

đoạn tiếp theo. Bên cạnh những thành tựu đạt được, còn tồn tại những khó

khăn yếu kém cần khắc phục. Bước vào thời kì đẩy mạnh CNH, HĐH nông

nghiệp, nông thôn, đòi hỏi mỗi đảng viên và quần chúng nhân dân cần nâng

cao ý thức trách nhiệm, cố gắng tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu huyện trở

thành một trong những huyện đi đầu của Thành phố Hà Nội về xây dựng nông

thôn mới, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn

99

minh”.

KẾT LUẬN

Xuất phát điểm của nền kinh tế huyện Ứng Hòa là thuần nông. Bởi vậy,

Đảng ủy và UBND huyện đã xác định đúng hướng đi, coi phát triển kinh tế

nông nghiệp là nhiệm vụ trọng tâm. Từ năm 2008, mốc thời gian đánh dấu

bước ngoặt trong lịch sử phát triển của Thành phố Hà Nội nói chung và của

Ứng Hòa nói riêng, là mốc huyện Ứng Hòa trở thành một bộ phận của Thủ đô

sau Nghị quyết số 15/2008/NQ-QH12, ngày 29 – 5 – 2008 của Quốc hội Về

điều chỉnh địa giới hành chính thành phố Hà Nội và một số tỉnh liên quan,

đến năm 2014, được sự chỉ đạo trực tiếp của Thành ủy với những Chương

trình, Nghị quyết đúng đắn, phù hợp Ứng Hòa đã có những chuyển biến rõ

rệt. Đặc biệt Đảng bộ huyện đã vận dụng sáng tạo các chủ trương, Nghị quyết

của Đảng và Thành ủy, đã tạo ra những yếu tố thuận lợi để phát triển sản xuất

nông nghiệp. Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa, nông

dân, nông nghiệp có vai trò rất quan trọng đối với sự ổn định và phát triển

kinh tế - xã hội của huyện. Với Ứng Hòa- một huyện tài nguyên, khoáng sản

không nhiều; công nghiệp, dịch vụ chưa thực sự phát triển thì với nguồn lao

động dồi dào và trên 10 ngàn ha đất nông nghiệp là tài sản quý báu, là cơ sở

vững chắc để Ứng Hòa đi lên.

Với mục tiêu “ Sản xuất phát triển, đời sống ấm no, làng xã văn minh,

diện mạo sạch đẹp, quản lý dân chủ”, Đảng bộ huyện Ứng Hòa trong quá

trình chỉ đạo xây dựng nông thôn mới đã đạt được những thành tựu đáng kể.

Sự sáng tạo trong việc vận dụng đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước vào

thực tiễn của địa phương, nền KTNN của Ứng Hòa đang từng bước chuyển

sang “sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa”. Từ năm 2008 đến năm 20114, kinh tế

nông nghiệp huyện Ứng Hòa có thu nhập từ nông nghiệp luôn chiếm trên

60% GDP của huyện, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của đa số nhân dân

100

trong huyện. Với xu thế phát triển của KTNN huyện Ứng Hòa như hiện nay

về cơ bản đã theo cơ chế thị trường định hướng XHCN, chuyển sang sản xuất

hàng hóa đồng thời phát triển toàn diện. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đảng

bộ, Ứng Hòa đã chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp - nông thôn theo

hướng tích cực, nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, kết hợp với khôi

phục các ngành nghề truyền thống và phát triển nghề mới; đặc biệt đã nhân

cấy rộng một số nghề mang lại hiệu quả kinh tế cao, làm cho bộ mặt nông

thôn có nhiều đổi mới. Những thành tựu đó góp phần rất quan trọng vào việc

ổn định và phát triển kinh tế - xã hội. Hệ thống chính trị ở nông thôn được

củng cố, dân chủ được mở rộng, vai trò của người dân được nâng lên, an ninh

chính trị, trật tự an toàn xã hội được tăng cường, chuyển dịch cơ cấu ngành

nông nghiệp theo hướng hiện đại.

Quá trình Đảng bộ huyện Ứng Hòa (Thành phố Hà Nội) lãnh đạo phát

triển kinh tế nông nghiệp từ năm 2008 đến năm 2014 thể hiện khá rõ nét thực

trạng ngành kinh tế nông nghiệp huyện. Những thành tựu to lớn của ngành

nông nghiệp của huyện trong gần 10 năm qua đã một lần nữa khẳng định vai

trò lãnh đạo của Đảng bộ huyện trong việc vận dụng sáng tạo chủ trương đổi

mới của Đảng và Nhà nước vào hoàn cảnh cụ thể của địa phương. Từ đó tạo ra

bước chuyển trong KTNN của huyện, góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy

sự tăng trưởng chung trong nền kinh tế của huyện nói riêng và của thành phố

nói chung.

Những kết quả đạt được trong ngành KTNN từ năm 2008 đến năm

2014 của huyện Ứng Hòa càng thể hiện đường lối đúng đắn của Đảng, Nhà

nước với chủ trương CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Bên cạnh đó cũng

chứng tỏ Đảng bộ huyện Ứng Hòa đã biết phát huy cao độ những nguồn lực

vốn có như nhân tố con người với tiềm năng tự nhiên; biết khai thác và áp

dụng những thành tựu khoa học và công nghệ trong bước chuyển từ nền kinh

tế tự cung, tự cấp sang nền kinh tế thị trường hàng hóa. Những thành tựu mà

101

huyện đã đạt được trong sản xuất nông nghiệp là cơ sở vững chắc để Ứng Hòa

phấn đấu tiến lên trở thành một huyện nông - công nghiệp trong thế kỷ kinh tế

hội nhập này. Đứng trước kỷ nguyên hội nhập, đặc biệt là khi Việt Nam gia

nhập tổ chức WTO, vừa là thời cơ lớn nhưng cũng là một thách thức lớn trong

quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và kinh tế - xã hội

huyện Ứng Hòa nói riêng.

Những kết quả đạt được trong ngành KTNN đã chứng tỏ quá trình lãnh

đạo, chỉ đạo của Đảng bộ Ứng Hòa là đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng và

yêu cầu của đông đảo quần chúng nhân dân. Với truyền thống cần cù, chịu

thương chịu khó của người nông dân Việt Nam, nay được sự quan tâm, chỉ

đạo, tận tình hướng dẫn của cán bộ các cấp từ huyện tới cơ sở, tinh thần lao

động sản xuất của người dân ngày càng được phát huy cao độ. Các chủ

trương, biện pháp phù hợp với lòng dân đã biến thành lực lượng vật chất to

lớn thúc đẩy KTNN phát triển. Để nền kinh tế của huyện phát triển mạnh

trong tương lai thì cần phải thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng bộ huyện

trong sạch, vững mạnh để hoàn thành tốt vai trò lãnh đạo ở địa phương; phải

xác định đúng phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phù hợp với đặc

điểm từng địa phương và tập trung lãnh đạo các chương trình đề án với bước

đi thích hợp; phải chú trọng xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy

sức mạnh tổng hợp của các tầng lớp nhân dân thực hiện nhiệm vụ chính trị ở

địa phương; Đảng bộ các cấp phải đặc biệt coi trọng lãnh đạo ứng dụng tiến

bộ khoa học, công nghệ vào trong sản xuất. Nhận thức được vai trò của

KTNN đối với đời sống vật chất và tinh thần của người dân, Đảng bộ huyện

đã chỉ đạo, điều hành giúp nông nghiệp Ứng Hòa không chỉ đảm bảo lương

thực, thực phẩm cho người dân trên địa bàn huyện mà còn phục vụ nhu cầu

của một số địa bàn lận cận, đặc biệt là các quận nội thành của Thủ đô Hà Nội.

Nhận thức rõ vai trò của KTNN trong việc cung cấp một phần vốn để công

nghiệp hóa; nông nghiệp, nông thôn còn là thị trường quan trọng của các

102

ngành công nghiệp và dịch vụ và chính sự phát triển của KTNN và nông thôn

là cơ sở ổn định kinh tế, chính trị, xã hội nên trong những năm tới, để KTNN

của huyện ngày càng phát triển cần phải tiếp tục đề ra chủ trương, chính sách

phù hợp, tạo nguồn vốn kinh doanh cho phát triển nông nghiệp, nâng cao chất

lượng nguồn nhân lực phục vụ sản xuất nông nghiệp, cần có biện pháp tăng

cường cơ sở hạ tầng đi liền với phát triển công nghiệp chế biến nông, thủy

sản, mở rộng thị trường, tăng cường các hình thức liên doanh, liên kết giữa

các hộ nông dân, chủ trang trại với các doanh nghiệp thuộc các thành phần

kinh tế.

Bên cạnh những thành tựu đạt được thì trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo

phát triển KTNN, Đảng bộ huyện vẫn còn tồn tại một số hạn chế như chưa khai

thác hết tiềm năng, thế mạnh của huyện, sản xuất nông nghiệp còn nhỏ lẻ, phân

tán; năng suất lao động còn thấp, giá thành sản phẩm cao, chất lượng không đồng

đều, khó khăn cho việc tổ chức thu mua chế biến và tiêu thụ, sức cạnh tranh trên

thị trường yếu. Thu nhập bình quân của người dân ở nông thôn còn thấp, chất

lượng nguồn nhân lực có được quan tâm, bồi dưỡng nhưng chưa cao. Trong quá

trình lãnh đạo, phát triển kinh tế tập thể còn chậm phát huy hiệu quả, các hợp tác

xã dịch vụ nông nghiệp còn mang tính hình thức, hầu hết còn lúng túng trong việc

lựa chọn phương án kinh doanh và cơ chế hạch toán phù hợp với yêu cầu của kinh

tế hàng hóa. Điều này đã và đang là vấn đề mà Đảng bộ huyện Ứng Hòa cần quan

tâm, cố gắng khắc phục những hạn chế đó, nhằm thúc đẩy KTNN phát triển, đưa

nền kinh tế nông nghiệp trở thành mũi nhọn của nền kinh tế huyện, đồng thời

103

nâng cao mức sống của người dân nông thôn.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Ứng Hòa (2008), Báo cáo tổng kết công

tác năm 2008, Văn phòng huyện ủy Ứng Hòa.

2. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Ứng Hòa (2009), Báo cáo tổng kết công

tác năm 2009, Văn phòng huyện ủy Ứng Hòa.

3. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Ứng Hòa (2010), Báo cáo tổng kết công

tác năm 2010, Văn phòng huyện ủy Ứng Hòa.

4. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Ứng Hòa (2011), Báo cáo tổng kết công

tác năm 2011, Văn phòng huyện ủy Ứng Hòa.

5. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Ứng Hòa (2012), Báo cáo tổng kết công

tác năm 2012, Văn phòng huyện ủy Ứng Hòa.

6. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Ứng Hòa (2013), Báo cáo tổng kết công

tác năm 2013, Văn phòng huyện ủy Ứng Hòa.

7. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Ứng Hòa (2014), Báo cáo tổng kết công

tác năm 2014, Văn phòng huyện ủy Ứng Hòa.

8. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Ứng Hòa(2005), Báo cáo trình Đại hội

Đảng bộ huyện Ứng Hòa lần thứ XXII nhiệm kỳ 2005 – 2010, Văn phòng

huyện ủy.

9. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Ứng Hòa(2010), Báo cáo trình Đại hội

Đảng bộ huyện Ứng Hòa lần thứ XXII nhiệm kỳ 2010 – 2010, Văn phòng

huyện ủy Ứng Hòa.

10. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Ứng Hòa (2010), Lịch sử Đảng bộ huyện

Ứng Hòa(1930 – 2010), Nxb Lao động, Hà Nội.

11. Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội (2000), Lịc sử Đảng bộ

thành phố Hà Nội (1930 – 2000), Nxb Hà Nội, Hà Nội.

12. Ban tư tưởng văn hóa Trung ương, Bộ nông nghiệp và phát triển nông

104

thôn, Con đường CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, Nxb

CTQG, H,2002.

13. Báo cáo trình tại kỳ họp thứ 18 HĐND huyện khóa XVII: Tình hình thực

hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội năm 2009,Phương hướng, nhiệm vụ năm

2010.

14. Báo cáo trình tại kỳ họp thứ 21 HĐND huyện khóa XVII: Kết quả thực

hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội năm 2010,Phương hướng, nhiệm vụ năm

2011.

15. Báo cáo trình tại kỳ họp thứ 3 HĐND huyện khóa XVIII: Kết quả thực

hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội năm 2011, phương hướng nhiệm vụ năm

2012.

16. Báo cáo trình tại kỳ họp thứ 7 HĐND huyện khóa XVIII: Kết quả thực

hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội năm 2012, phương hướng nhiệm vụ năm

2013.

17. Báo cáo trình tại kỳ họp thứ 10 HĐND huyện khóa XVIII: Kết quả thực

hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội năm 2013, phương hướng nhiệm vụ năm

2014.

18. Nguyễn Văn Bách, Chu Tiến Quang, chủ biên (1999), Phát triển kinh tế

nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở

Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

19. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2003), Nông nghiệp và nông

thôn trên con đường công ngiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Thành phố Hồ

Chí Minh.

20. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2007), Một số chính sách phát

triển ngành nghề nông thôn, viện chính sách và chiến lược phát triển

nông nghiệp nông thôn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

21. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia,

105

Hà Nội.

22. Nguyễn Sinh Cúc (2003), Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi

mới, Nxb Thống kê.

23. Nguyễn Sinh Cúc (2003), Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam 61 tỉnh

thành, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

24. Lê Doãn Diên (1990), Nông nghiệp và vấn đề phát triển nông nghiệp,

nông thôn Việt Nam, Tạp chí cộng sản số 44-47-53.

25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần

thứ X, Nxb Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội.

26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Đảng cộng sản Việt Nam – chặng

đường qua hai thế kỷ, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.

27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Nghị quyết số 26-NQ/TW của Hội nghị

Ban chấp hành rung ương khóa X về vấn đề nông nghiệp, nông dân và

nông thôn.

28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần

thứ XI, Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.

29. Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo tổng kết 20 năm thực hiện cương

lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (1991-

2011), Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.

30. Đảng Cộng sản Việt Nam , Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực

tiễn qua 30 năm đổi mới (986 – 2016), Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia,

Hà Nội.

31. Địa chí Hà Tây (1995), Nhà xuất bản Văn hóa Thông Tin.

32. Địa chí Ứng Hòa (2015), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

33. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

34. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

35. Huyện ủy, HĐND-UBND huyện Ứng Hòa Thành phố Hà Nội (2008),

106

Huyện Ứng Hòa 5 năm xây dựng và phát triển, Hà Nội.

36. Huyện ủy Ứng Hòa (2005), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện

Ứng Hòa lần thứ XXI (nhiệm kỳ 2005-2010), Ứng Hòa.

37. Lịch sử cách mạng Ứng Hòa (2014), Tài liệu dùng cho giảng dạy lịch sử

địa phương ở các trường THPT.

38. Đặng Kim Oanh (2011),“Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo chuyển

dịch cơ cấu kinh tế NN (1996- 2006)”, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học

Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN.

39. Đặng Kim Oanh, “ hành tựu phát triển nông nghiệp, nông thôn qua 25

năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng” (1986-2010), Tạp chí Lịch

sử Đảng.

40. Lê Quang Phi (2009), Đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa nông

nghiệp nông nghiệp Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

41. Đặng Phong (2009), "Phá rào" trong kinh tế vào đêm trước đổi mới, Nxb

Tri Thức, Hà Nội.

42. Phòng kinh tế, Báo cáo số 84/BC-UB về kết quả thực hiện công tác phát

triển kinh tế năm 2007 và nhiệm vụ trọng tâm năm 2008, Văn phòng

UBND huyện Ứng Hòa, ngày07/12/2007.

43. Phòng kinh tế, Báo cáo số59/BC-UB về kết quả thực hiện công tác phát

triển kinh tế năm 2008 và nhiệm vụ trọng tâm năm 2009, Văn phòng

UBND huyện Ứng Hòa, ngày 10/12/2008.

44. Phòng kinh tế, Báo cáo số131/BC-UB về kết quả thực hiện công tác phát

triển kinh tế năm 2009 và nhiệm vụ trọng tâm năm 2010, Văn phòng

UBND huyện Ứng Hòa, ngày 08/12/2009.

45. Phòng kinh tế, Báo cáo số59/BC-UB về kết quả thực hiện công tác phát

triển kinh tế năm 2010 và nhiệm vụ trọng tâm năm 2011, Văn phòng

107

UBND huyện Ứng Hòa, ngày 10/12/2010.

46. Phòng kinh tế, Báo cáo số45/BC-UB về kết quả thực hiện công tác phát

triển kinh tế năm 2011 và nhiệm vụ trọng tâm năm 2012, Văn phòng

UBND huyện Ứng Hòa, ngày 15/12/2011.

47. Phòng kinh tế, Báo cáo số16/BC-UB về kết quả thực hiện công tác phát

triển kinh tế năm 2012 và nhiệm vụ trọng tâm năm 2013, Văn phòng

UBND huyện Ứng Hòa, ngày 06/12/2012.

48. Phòng kinh tế, Báo cáo số14/BC-UB về kết quả thực hiện công tác phát

triển kinh tế năm 2013 và nhiệm vụ trọng tâm năm 2014, Văn phòng

UBND huyện Ứng Hòa, ngày 08/12/2013.

49. Phòng kinh tế, Báo cáo số57/BC-UB.về kết quả thực hiện công tác phát

triển kinh tế năm 2014 và nhiệm vụ trọng tâm năm 2015, Văn phòng

UBND huyện Ứng Hòa, ngày 09/12/2014.

50. Phòng thống kê huyện Ứng Hòa (2008), Hệ thống chỉ tiêu kinh tế - xã

hội 5 năm (2005 – 2010).

51. Phòng thống kê huyện Ứng Hòa (2008), Niên giám thống kê huyện Ứng

Hòa 2008.

52. Phòng thống kê huyện Ứng Hòa (2009), Niên giám thống kê huyện Ứng

Hòa 2009.

53. Phòng thống kê huyện Ứng Hòa (2010), Niên giám thống kê huyện Ứng

Hòa 2010.

54. Phòng thống kê huyện Ứng Hòa (2011), Niên giám thống kê huyện Ứng

Hòa 2011.

55. Phòng thống kê huyện Ứng Hòa (2012), Niên giám thống kê huyện Ứng

Hòa 2012.

56. Phòng thống kê huyện Ứng Hòa (2013), Niên giám thống kê huyện Ứng

Hòa 2013.

57. Phòng thống kê huyện Ứng Hòa (2014), Niên giám thống kê huyện Ứng

108

Hòa 2014.

58. Nguyễn Trọng Phúc (Chủ biên), Các Đại hội Đại biểu toàn quốc và Hội

nghị Ban Chấp hành rung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (1930 -

2006), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.

59. Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo, Trần Khắc Việt, Lê Ngọc Tòng (2005),

Nhìn lại quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng (1986 – 2005), Tập

1, Nxb Chính Trị Hà Nội.

60. Đặng Kim Sơn (2001), Công nghiệp hóa từ nông nghiệp - lý luận, thực

tiễn và triển vọng áp dụng ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

61. Đặng Kim Sơn, Hoàng Thu Hòa (2002), Một số vấn đề phát triển nông

nghiệp và nông thôn, Nxb Thống kê, Hà Nội.

62. Đặng Kim Sơn (2006), Nông nghiệp nông thôn Việt Nam 20 năm đổi

mới và phát triển, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

63. Đặng Kim Sơn (2008), Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam -

Hôm nay và mai sau, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

64. Thành ủy Hà Nội (2008), Các văn bản chủ yếu của Thành ủy Hà Nội

khóa XIV nhiệm kỳ 2005 -2010, tập 3, Nxb CTQG, Hà Nội.

65. Thành ủy Hà Nội (2009),Các văn bản chủ yếu của Thành ủy Hà Nội

khóa XIV nhiệm kỳ 2005 -2010, tập 4, Nxb CTQG, Hà Nội.

66. Thành ủy Hà Nội(2010), Các văn bản chủ yếu của Thành ủy Hà Nội

khóa XIV nhiệm kỳ 2005 -2010, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội.

67. Thành ủy Hà Nội (2008), Chương trình công tác của Ban Chấp hành Đảng

bộ thành phố Hà Nội khóa XIV, Văn phòng thành ủy Hà Nội, Hà Nội.

68. Thành ủy Hà Nội, Chương trình số 02-CTr/TU Về phát triển nông

nghiệp, xây dựng nông thôn mới, từng bước nâng cao đời sống nông dân

giai đoạn 2011-2015, Văn phòng Thành ủy Hà Nội.

69. Thành ủy Hà Nội, Chương trình số 05-CTr/TU Về phát triển kinh tế

ngoại thành và từng bước hiện đại hóa nông thôn giai đoạn 2006-2010,

109

Văn phòng Thành ủy Hà Nội.

70. Thành ủy Hà Nội, Chương trình số 03-CTr/TU về tập trung nâng cao

chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh, phát triển kinh tế thủ đô tang

trưởng nhanh và bền vững, Văn phòng Thành ủy Hà Nội ngày 9/9/2011.

71. Thành ủy Hà Nội, Chương trình công tác của Ban Chấp hành Đảng bộ

thành phố Hà Nội khóa XV, Văn phòng Thành ủy Hà Nội, 2011.

72. Thành ủy Hà Nội (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu lần thứ XIV Đảng

bộ thành phố Hà Nội, Văn phòng Thành ủy Hà Nội.

73. Thành ủy Hà Nội, (2010), Văn kiện Đại hội Đại biểu lần thứ XV Đảng

bộ thành phố Hà Nội, Văn phòng Thành ủy Hà Nội.

74. Thủ tướng chính phủ, QĐ số: 490 QĐ-TTg ngày 05.5.2008 “Về việc phê

duyệt Quy hoạch xây dựng vùng Thủ đô Hà Nội đến năm 2020 và tầm

nhìn đến năm 2050”.

75. Thủ tướng chính phủ, Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết trung ương

7 và sơ kết thực hiện Nghị quyết số 26 (10/11/2013).

76. Trương Thị Tiến (2000), “Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị và thời kỳ đổi

mới tương đối cơ bản cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp”, Tạp chí Lịch

sử Đảng, (4/4), tr.54-57.

77. Văn phòng UBND huyện Ứng Hòa, Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm

vụ kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng năm và phương hướng nhiệm, vụ

trọng tâm từ năm 2008 đến năm 2014.

78. Văn phòng UBND huyện Ứng Hòa, Kế hoạch số 45/KH-UBND về thực

hiện Chương trình cấp ủy về “ hực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm phát

triển kinh tế” năm 2009, ngày 20/01/2009.

79. Văn phòng UBND huyện Ứng Hòa, Kế hoạch số 15/KH-UBND về thực

hiện Chương trình cấp ủy về “ hực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm phát

triển kinh tế” năm 2010, ngày 12/01/2010.

80. Văn phòng UBND huyện Ứng Hòa , Kế hoạch số 52/KH-UBND về “Sản

110

xuất vụ mùa, định hướng sản xuất vụ đông năm 2014”, ngày 7/5/2014.

81. UBND huyện Ứng Hòa, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện

Ứng Hòa lần thứ XXII, 2010.

111

82. UBND thành phố Hà Nội (2013), Luật Thủ đô, Nxb Hà Nội, Hà Nội.

PHỤ LỤC

Bảng 2.4. Tổng giá trị sản xuất của huyện Ứng Hoà

giai đoạn 2010 - 2013 (giá so sánh 2010)

Tốc độ

tăng

2010

2011

2012

2013

BQ/năm

(%)

1. Tổng giá trị

6.417.179

6.725.307

7.005.230

7.433.141

5,02

(triệu đổng)

Trong đó

- Nông nghiệp

2.410.391

2.540.837

2.628.751

2.879.559

6,14

- Công nghiệp –

2.369.338

2.459.000

2.537.058

2.559.062

2,61

XD

- Dịch vụ

1.637.450

1.725.470

1.839.421

1.994.520

6,80

2. Thu nhập bình

10,8

12,9

15,3

16,5

13,9

quân người (trđ)

3. Tốc độ tăng năm

sau so với năm trước

4,8

4,2

6,1

(% năm)

112

Nguồn: Niêm giám thống kê huyện Ứng Hoà các năm 2010 – 2013

Bảng 2.2. Cơ cấu kinh tế của Ứng Hoà

ĐV : %

2010 2011 2012 2013

Cơ cấu Tổng GTGT 100,0 100,0 100,0 100,0

1. Nông nghiệp 37,56 43,08 42,92 42,81

2. Công nghiệp – Xây dựng 36,92 34,00 33,38 33,29

3. Dịch vụ 25,52 22,92 23,70 23,90

GIÁ TRỊ SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP THEO GIÁ HIỆN HÀNH

PHÂN THEO NGÀNH KINH TẾ

Năm 2011

Năm 2012

Năm 2013

Năm 2014

Đơn vị tính : Triệu đồng

2.672.587

2.782.021

2.949.590

2.976.361

Tổng số

Trồng trọt

1.143.896

1.121.994

995.245

1.031.494

-

1.111.737

1.090.496

969.975

968.662

*Cây hàng năm

875.805

864.899

817.674

826.642

Trong đó :+Lúa

18.855

19.397

14.905

20.052

+Ngô

31.498

25.271

64.193

32.159

*Cây lâu năm

31.197

25.046

62.598

31.776

Trong đó : Cây ăn quả

-

Chăn nuôi

1.304.926

1.387.920

1.677.930

1.697.270

35.554

17.083

20.226

17.597

Trong đó :+Trâu, bò

773.273

974.683

996.498

742.553

+Lợn

553.041

654.899

649.560

490.268

+Chăn nuôi gia cầm

272.107

276.415

247.597

223.765

-Dịch vụ nông ngiệp

272.107

276.415

247.597

223.765

Dịch vụ trồng trọt

Dịch vụ chăn nuôi

Dịch vụ sau thu hoạch

-Săn bắt, đánh bẫy và dịch

vụ có liên quan

113

Nguồn: Niêm giám thống kê huyện Ứng Hoà các năm 2011 – 2014

(Nguồn: Phòng biên tập Đài truyền thanh huyện Ứng Hòa)

Một số hình ảnh về phát triển kinh tế nông nghiệp của huyện

Lãnh đạo huyện tham quan mô hình trồng cây măng tây tại xã Phù Lưu

114

– huyện Ứng Hòa.

Lãnh đạo huyện thăm mô hình trồng cây ăn quả có giá trị kinh tế cao

115

tại xã Phù Lưu (phật thủ, chanh đào, bưởi diễn...)

Mô hình trang trại đa canh của bà Trình Thị Thúy, thôn Đống Long, xã Hòa Lâm

thu lãi trên 200 triệu đồng/năm

Lãnh đạo huyện tham quan mô hình chăn nuôi lợn trên nền đệm lót

116

sinh học tại xã Đồng Tân

Cán bộ kỹ thuật hướng dẫn kỹ thuật pha trộn chế phẩm làm đệm lót sinh học.

117

118

Nuôi trồng thủy sản tại xã Trung Tú