ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----------

DƢƠNG THỊ HUYỀN

ĐẢNG BỘ HUYỆN PHÚ BÌNH (THÁI NGUYÊN) LÃNH ĐẠO

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ƢU ĐÃI NGƢỜI CÓ CÔNG VỚI

CÁCH MẠNG TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2014

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Hà Nội -2015

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----------

DƢƠNG THỊ HUYỀN

ĐẢNG BỘ HUYỆN PHÚ BÌNH (THÁI NGUYÊN) LÃNH ĐẠO

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ƢU ĐÃI NGƢỜI CÓ CÔNG VỚI

CÁCH MẠNG TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2014

Chuyên ngành : Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam

Mã số : 60 22 03 15

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học : PGS.TS Hoàng Hồng

Hà Nội - 2015

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự

hướng dẫn khoa học của PGS.TS Hoàng Hồng. Các số liệu trong đề tài là trung

thực, chính xác, đảm bảo tính khách quan, khoa học và có nguồn gốc xuất xứ

rõ ràng.

Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Hội đồng khoa học về nội

dung luận văn của mình.

Hà Nội, ngày 30 tháng 12 năm 2015

Tác giả

Dương Thị Huyền

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn của mình, bên cạnh những cố gắng và nỗ lực

của bản thân. Tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của nhiều cá nhân.

Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến thầy

giáo - PGS.TS Hoàng Hồng, người đã tận tình hướng dẫn và đóng góp nhiều ý

kiến quý báu trong thời gian tôi tiến hành nghiên cứu và hoàn thành luận văn.

Đồng thời, tôi xin gửi lời cảm ơn Ban lãnh đạo Huyện ủy, UBND huyện

Phú Bình và đội ngũ cán bộ phòng LĐTBXH huyện Phú Bình đã tạo điều kiện

thuận lợi, cung cấp các tư liệu cho tôi trong quá trình nghiên cứu.

Cuối cũng, tôi xin giử lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, người thân, bạn

bè đã động viên khích lệ tôi hoàn thành tốt luận văn.

Hà Nội, ngày 30 tháng 12 năm 2015.

Tác giả

Dương Thị Huyền

DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT

Ban chỉ đạo BCĐ

Công nghiệp hóa CNH

Hiện đại hóa HĐH

Hội đồng nhân dân HĐND

Lao động - Thương binh và Xã hội LĐTBXH

Người có công với cách mạng NCCVCM

Uỷ ban nhân dân UBND

Ủy ban thường vụ Quốc hội UBTVQH

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1

Chƣơng 1. ĐẢNG BỘ HUYỆN PHÚ BÌNH LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN

CHÍNH SÁCH ƢU ĐÃI NGƢỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG GIAI

ĐOẠN 2006 - 2010 ........................................................................................... 12

1.1 Chính sách ưu đãi người có công với cách mạng của Đảng, Nhà nước Việt

Nam và tình hình thực hiện ở huyện Phú Bình trước năm 2006 ...................... 12

1.1.1 Chính sách ưu đãi người có công với cách mạng của Đảng và Nhà nước

Việt Nam ............................................................................................................ 12

1.1.2 Tình hình thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng ở

huyện Phú Bình trước năm 2006....................................................................... 20

1.2. Chủ trương và quá trình chỉ đạo thực hiện chính sách ưu đãi người có công

với cách mạng của Đảng bộ huyện Phú Bình giai đoạn 2006-2010 ................. 27

1.2.1 Chủ trương thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng

của Đảng bộ huyện Phú Bình............................................................................ 27

1.2.2 Quá trình chỉ đạo thực hiện ..................................................................... 34

1.2.2.1 Thành lập Ban chỉ đạo thực hiện chính sách ưu đãi người có công với

cách mạng ......................................................................................................... 34

1.2.2.2 Thực hiện chế độ ưu đãi về trợ cấp, phụ cấp ........................................ 37

1.2.2.3.Thực hiện chế độ ưu đãi về chăm sóc sức khỏe .................................... 41

1.2.2.4. Thực hiện chế độ ưu đãi về nhà ở ........................................................ 45

Chƣơng 2. ĐẢNG BỘ HUYỆN PHÚ BÌNH LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN

CHÍNH SÁCH ƢU ĐÃI NGƢỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG TỪ

NĂM 2010 ĐẾN NĂM 2014 ........................................................................... 51

2.1 Yêu cầu mới và chủ trương của Đảng bộ huyện Phú Bình ......................... 51

2.1.1 Yêu cầu mới .............................................................................................. 51

2.1.2 Chủ trương của Đảng bộ huyện Phú Bình ............................................... 55

2.2 Qúa trình chỉ đạo thực hiện ......................................................................... 60

2.2.1 Kiện toàn Ban chỉ đạo thực hiện chính sách ưu đãi người có công với

cách mạng ......................................................................................................... 60

2.2.2 Thực hiện chế độ ưu đãi về trợ cấp, phụ cấp ........................................... 64

2.2.3 Thực hiện chế độ ưu đãi về chăm sóc sức khỏe ....................................... 70

2.2.4 Thực hiện chế độ ưu đãi nhà ở ................................................................. 75

Chƣơng 3. MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM ............................. 83

3.1. Một số nhận xét .......................................................................................... 83

3.1.1 Ưu điểm .................................................................................................... 83

3.1.2 Hạn chế .................................................................................................... 92

3.2 Kinh nghiệm ................................................................................................ 97

KẾT LUẬN .................................................................................................... 103

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 107

PHỤ LỤC

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên là một quê hương giàu truyền thống

cách mạng. Trải qua những năm tháng chiến tranh ác liệt, nhân dân huyện Phú

Bình đã cùng với quân dân cả nước dũng cảm đứng lên chiến đấu chống giặc

ngoại xâm để bảo vệ quê hương, đất nước. Biết bao người con của quê hương

Phú Bình cùng nhiều đồng chí, đồng đội của mình đã hy sinh xương máu để có

được cuộc sống hòa bình, ấm no, hạnh phúc như ngày hôm nay. Cuộc chiến

tranh đã lùi xa nhưng hậu quả nặng nề mà nó để lại vẫn còn in đậm trong tâm

trí những người con của quê hương Phú Bình nói riêng và của nhân dân cả

nước nói chung. Hàng trăm ngàn thương binh, bệnh binh đã để lại một phần

thân thể của mình ở chiến trường. Họ bị suy giảm khả năng lao động và mang

theo thương tật suốt đời. Hàng ngàn trẻ em bị dị tật do cha mẹ chúng bị nhiễm

chất độc hóa học trong chiến tranh. Hàng trăm thân nhân liệt sĩ chưa tìm thấy

mộ những người thân của mình. Nhiều bà mẹ Việt Nam anh hùng phải sống

trong cảnh neo đơn, không nơi nương tựa vì những người con thân yêu của họ

đã vĩnh viễn nằm lại chiến trường…Tất cả những mất mát to lớn đó không gì

có thể bù đắp được. Vì vậy Đảng, Nhà nước và toàn thể xã hội đã thể hiện sự

quan tâm đặc biệt với chính sách ưu đãi NCCVCM như lời tri ân sâu sắc, sự

biết ơn và kính trọng đối với công lao của họ trong sự nghiệp giải phóng dân

tộc, bảo vệ Tổ quốc.

Thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM là một đạo lý tốt đẹp của dân tộc

ta từ ngàn đời. Đó là đạo lý “uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.

Việc thực hiện chính sách người có công là bổn phận và trách nhiệm của toàn

xã hội với tinh thần đền ơn trả nghĩa, một sự ưu tiên đặc biệt cho họ. Mục đích

của việc thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM nhằm đảm bảo cho các đối

tượng luôn được yên ổn về vật chất, vui vẻ về tinh thần có cuộc sống bằng với

1

mức sống trung bình của người dân địa phương. Đồng thời, tạo điều kiện cho

họ được sử dụng sức lao động của mình góp phần vào những hoạt động có ích

cho xã hội, xây dựng quê hương giàu mạnh, phát huy phẩm chất và truyền

thống tốt đẹp của mình trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.

Phú Bình là một trong những huyện có số lượng người có công cao nhất của

tỉnh Thái Nguyên với trên 3.300 đối tượng người có công bao gồm: cán bộ tiền

khởi nghĩa, cán bộ lão thành cách mạng, bà mẹ Việt Nam anh hùng, liệt sĩ, thương

binh, bệnh binh, người bị nhiễm chất độc hóa học, người có công với nước… Thực

hiện chủ trương cuả Đảng và Nhà nước, quán triệt tinh thần Nghị quyết Đại hội

Đảng bộ lần thứ XVI (nhiệm kỳ 2005 - 2010) và Đại hội Đảng bộ lần thứ XVII

(nhiệm kỳ 2010 - 2015) của tỉnh Thái Nguyên, Đảng bộ huyện Phú Bình đã chỉ đạo

phòng LĐTBXH làm tốt công tác thực hiện chính sách ưu đãi cho những đối tượng

người có công trên địa bàn huyện. Có được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các

cấp, các ngành và toàn thể nhân dân trong huyện nhiều các gia đình thương binh,

bệnh binh, NCCVCM đã vượt qua khó khăn, vươn lên trở thành những hộ dân làm

kinh tế giỏi. Phong trào “người công dân kiểu mẫu” của thương binh, phong trào

“gia đình cách mạng kiểu mẫu” của các gia đình liệt sĩ đã hoạt động sôi nổi ở

huyện, tạo ra không khí phấn khởi đối với các đối tượng gia đình chính sách.

Qúa trình thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM đã đạt được những kết quả

đáng kể góp phần quan trọng vào việc đảm bảo mục tiêu phát triển kinh tế, ổn định

đời sống nhân dân. Đồng thời thể hiện được tấm lòng biết ơn và sự tri ân sâu sắc

của toàn thể nhân dân các dân tộc trong huyện đối với những người đã hy sinh

xương máu để bảo vệ quê hương, đất nước.

Vì vậy, tôi chọn đề tài nghiên cứu “Đảng bộ huyện Phú Bình (Thái

Nguyên) lãnh đạo thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng từ

năm 2006 đến năm 2014” làm luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Lịch sử Đảng

cộng sản Việt Nam. Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Phú Bình trong

2

công tác chỉ đạo thực hiện chính sách ưu đãi người có công để thấy được những

điểm tích cực và hạn chế, rút ra một số kinh nghiệm để làm tốt công tác thực

hiện chính sách ưu đãi NCCVCM trong giai đoạn sau.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Chính sách ưu đãi NCCVCM là một trong những chính sách xã hội quan

trọng được Đảng, Nhà nước quan tâm. Thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM

không chỉ đảm bảo ổn định và nâng cao đời sống vật chất và tinh tinh của các

đối tượng người có công mà còn tạo ra môi trường xã hội ổn định góp phần

phát triển đất nước. Vì vậy, ưu đãi NCCCM đã trở thành đề tài được nhiều

người quan tâm ở các góc độ khác nhau.

2.1.Nhóm nghiên cứu chung về chính sách sách ưu đãi NCCVCM

Trước hết là luận văn Phó tiến sĩ khoa học Luật học của tác giả Nguyễn

Đình Liêu: “Hoàn thiện về pháp luật ưu đãi Người có công ở Việt Nam lý luận

và thực tiễn năm 1996”. Trong đề tài tác giả đi sâu làm rõ những quy phạm

pháp luật do Nhà nước ban hành cho đối tượng các đối tượng người có công.

Đồng thời nêu lên thực trạng các chính sách pháp luật dành cho NCCVCM.

Qua đó đánh giá được thành tựu và hạn chế trong việc ban hành luật pháp trên

lĩnh vực người có công. Đóng góp của tác giả là xây dựng một mô hình Pháp

luật mới cho NCCVCM.

Tiếp theo là cuốn sách “Một số suy nghĩ về hoàn thiện pháp luật ưu đãi

Người có công” của tác giả Nguyễn Đình Liêu, Nxb Chính trị Quốc gia Hà

Nội, năm 2000. Cuốn sách ra đời là kết quả công trình nghiên cứu trong đề tài

Luận văn Phó tiến sĩ của tác giả. Cuốn sách đã khái quát Luận văn của tác giả

dưới dạng tổng quát giúp người đọc hình dung một cách có hệ thống về các

chính sách ưu đãi người có công ở Việt Nam từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ban

hành Sắc lệnh 20/SL về quy định chế độ tiền lương, thương tật cho thân nhân

tử sĩ. Đây là văn bản đầu tiên đặt nền móng cho các chính sách ưu đãi

3

NCCVCM. Phạm vi thời gian kéo dài đến năm 1994 khi UBTVQH ban hành

Pháp lệnh đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, NCCVCM.

Cuốn sách “Hệ thống các văn bản mới nhất về tiền lương, bảo hiểm xã

hội và trợ cấp ưu đãi người có công với cách mạng” của tác giả Lương Đức

Tuấn, Nxb Tư Pháp, năm 2006. Cuốn sách là quá trình tổng hợp các văn bản

quy định tiền lương, bảo hiểm và trợ cấp ưu đãi cho NCCVCM và các điều

chỉnh mới nhất về chế độ lương hưu, trợ cấp khó khăn, trợ cấp xã hội, trợ cấp

hàng tháng cho người có công. Mục đích của việc ban hành các chính sách mới

này nhằm thực hiện nhóm giải pháp đảm bảo an sinh xã hội trong điều kiện

kinh tế bị lạm phát như hiện nay.

Đặc biệt nhân kỷ niệm 60 năm ngày thương binh, liệt sỹ, Ban Tuyên

giáo Trung ương xuất bản Tài liệu tuyên truyền 60 năm ngày thương binh, liệt

sỹ (27/07/1947 - 27/07/2007). Tài liệu tuyên truyền quan điểm, chủ trương của

Đảng và Nhà nước về thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM, các văn bản chỉ

đạo, tuyên dương các cá nhân, tập thể thực hiện tốt công tác người có công qua

các thời kỳ cách mạng.

Cũng trong năm 2007 có bài viết Quân đội nhân dân phấn đấu thực hiện

tốt hơn nữa công tác thương binh, liệt sĩ, chính sách hậu phương quân đội của

tác giả Phùng Quang Thanh - Bộ trưởng bộ Quốc phòng, Tạp chí quốc phòng

toàn dân, số 7, năm 2007. Tác giả đã khái quát những nét chính trong 60 năm

thực hiện công tác thương binh, liệt sĩ và NCCVCM của Đảng và Nhà nước.

Đặc biệt, tác giả nêu và chỉ rõ phương hướng để thực hiện tốt hơn nữa chính

sách thương binh, liệt sĩ, chính sách hậu phương quân đội và phong trào đền ơn

đáp nghĩa.

Tiếp theo là bài viết Chính sách chăm sóc người có công - Thực trạng

và giải pháp của tác giả PGS.TS Đào Văn Dũng in trên Tạp chí Tuyên giáo, số

7, năm 2008 đã trình bày một khái lược một số chủ trương của Đảng và chính

4

sách của Nhà nước đối với người có công. Nêu lên những tồn tại và phương

hướng khắc phục để thực hiện tốt các chính sách.

Kết quả thực hiện Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng những

năm vừa qua và nhiệm vụ, giải pháp trong thời gian tới của tác giả Bùi Hồng

Lĩnh - Thứ trưởng Bộ LĐTBXH in trên Tạp chí Thông tin cải cách nền hành

chính Nhà nước, Bộ Nội vụ, năm 2008. Tác giả đã trình bày khái quát kết quả

đạt được sau 3 năm thực hiện Pháp lệnh ưu đãi NCCVCM (sửa đổi) ngày

29/06/2005 của UBTVQH nêu lên những kết quả, tồn tại, vướng mắc và đề ra

nhiệm vụ, phương hướng, giải pháp để phát triển.

Nâng cao hiệu quả công tác thương binh, liệt sĩ, chính sách hậu phương

quân đội của tác giả Vũ Hữu Luận - Cục trưởng cục chính sách, Tổng cục

chính trị, in trên Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 7, năm 2010. Trong bài viết

tác giả đã nêu được những thành tựu của Quân đội trong việc triển khai thực

hiện các chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước đối với các đối

tượng thương binh, liệt sĩ, NCCVCM trong giai đoạn 2006 - 2010.

Cuốn sách “Hội hỗ trợ gia đình liệt sỹ Việt Nam”, Nxb Quân đội nhân

dân, năm 2011. Cuốn sách nói lên sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với

người có công đồng thời nêu lên nhiệm vụ, chương trình hoạt động của hội hỗ

trợ các gia đình liệt sỹ Việt Nam.

Hoạt động đền ơn đáp nghĩa 65 năm nhìn lại của đồng chí Phạm Thị

Hải Chuyền - Uỷ viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ LĐTBXH in trên tạp

chí Lịch sử Đảng số 7, năm 2012. Bài viết đã tổng hợp các chính sách ưu đãi

NCCVCM từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 20/SL quy định các chế

độ hưu bổng, thương tật, tiền tuất cho thân nhân tử sĩ đến năm 2012 nhân kỷ

niệm 65 năm ngày thương binh - liệt sĩ (27/07/1947 - 27/07/2012). Tác giả đã

đưa ra các giải pháp nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đối tượng

người có công trên cơ sở kết hợp 3 yếu tố: Nhà nước, cộng đồng và bản thân

5

người có công nỗ lực vươn lên.

Nhân kỷ niệm 65 năm ngày thương binh, liệt sỹ có bài viết của PGS.TS

Nguyễn Thị Thanh - Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Thành phố Hồ

Chí Minh“65 năm thực hiện chính sách ưu đãi người có công 1947-2012” in

trên tạp chí Lịch sử Đảng số 7, năm 2012. Bài viết liệt kê theo trình tự thời

gian một số chính sách tiêu biểu về ưu đãi cho đối tượng NCCVCM từ khi văn

bản đầu tiên về chế độ ưu đãi người có công được ban hành cho đến nay

(1947- 2012). Tác giả đưa ra một số đánh giá sự hoàn thiện trong hệ thống

chính sách ưu đãi NCCVCM. Đồng thời nêu lên một số giải pháp thực hiện tốt

chinh sách ưu đãi NCCVCM trong thời gian tới.

Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với thương

binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng từ năm 1991 đến năm 2010 của

tác giả Nguyễn Thị Thu Hoài (Luận văn Thạc sĩ Lịch sử Đảng cộng sản Việt

Nam, trường Đại học Khoa học Xã Hội và Nhân văn). Tác giả đã đi trình bày

khái quát hoàn cảnh lịch sử, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước

Việt Nam đối với thương binh, liệt sĩ và NCCVCM từ năm 1991 đến năm 2010

qua hai khung thời gian 1991- 1995 và 1996 - 2010 gắn với những kết quả cụ

thể. Tác giả cũng đánh giá những ưu điểm, hạn chế và chỉ ra được những

nguyên nhân, tạo cơ sở để đúc rút những kinh nghiệm của Đảng và Nhà nước

đối với thương binh, liệt sỹ, NCCVCM.

2.2.Nhóm nghiên cứu thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM ở các

địa phương

Trước hết là công trình Đảng bộ thành phố Hải Phòng lãnh đạo thực

hiện chính sách thương binh, liệt sĩ người có công với cách mạng từ năm 1995

đến năm 2005 của tác giả Phạm Thị Xuân (Luận văn thạc sĩ Lịch sử Đảng

cộng sản Việt Nam, trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị,

năm 2006). Tác giả đã khái quát việc thực hiện chính sách thương binh, liệt sĩ

6

và NCCVCM ở thành phố Hải Phòng trong giai đoạn 1986 - 1994. Đồng thời

nghiên cứu quá trình Đảng bộ thành phố Hải Phòng vận dụng quan điểm của

Đảng lãnh đạo thực hiện chính sách thương binh, liệt sĩ và người có công ở

thành phố Hải Phòng trong giai đoạn 1995 - 2005. Nêu lên ý nghĩa và một số

kinh nghiệm trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách thương binh, liệt sĩ

và người có công từ Đảng bộ cơ sở.

Tiếp theo là bài viết Hà Nội làm tốt hơn nữa công tác thương binh, gia

đình liệt sĩ, người có công của tác giả Phạm Quang Nghị - Bí thư Thành ủy Hà

Nội in trên Tạp chí Cộng sản, số 7, năm 2007. Tác giả đã nêu tóm tắt những

kết quả đạt được trong công tác thực hiện chính sách đối với thương binh, liệt

sĩ, NCCVCM ở thành phố Hà Nội trên các mặt: Thực hiện chính sách, chăm

sóc người có công, hỗ trợ nhà ở, chăm sóc nghĩa trang liệt sĩ, phần mộ liệt sĩ.

Thực hiện chính sách đãi ngộ vật chất đối với người có công với cách

mạng ở huyện Thanh Hà, tỉnh Hà Tĩnh của tác giả Hà Huy Sơn (Luận văn

Thạc sĩ Kinh doanh và Quản lý, trường Đại học Kinh tế). Tác giả đã nêu lên sự

tác động của chính sách vật chất đến với đối tượng người có công. Đồng thời,

tác giả cũng chỉ ra những mặt tích cực, hạn chế của chính sách và nguyện vọng

của các đối tượng người có công trên địa bàn huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.

Từ thực tiễn quản lý, tác giả đưa ra các giải pháp và kiến nghị chủ yếu để góp

phần nâng cao đời sống kinh tế đối với người có công trên địa bàn tỉnh, góp

phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh

trong thời gian tới.

Như vậy, vấn đề chính sách ưu đãi NCCVCM đã có nhiều công trình đề

cập đến và đạt được kết quả trên một số khía cạnh như:

- Tổng hợp khái lược quan điểm, chủ trương của Đảng về ưu đãi

NCCVCM qua các thời kỳ cách mạng (1947-2014).

7

- Trình bày khái quảt hệ thống chính sách ưu đãi NCCVM trên các mặt:

Trợ cấp, phụ cấp ưu đãi, chế độ chăm sóc sức khỏe, ưu đãi nhà ở, ưu đãi trong

giáo dục, đào tạo việc làm…cho người có công.

- Qúa trình thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM trong cả nước và ở một số

địa phương tiêu biểu. Đồng thời chỉ ra được một số tồn tại, hạn chế và giải pháp khắc

phục để thực hiện tốt chính sách cho các đối tượng người có công.

Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu sự chỉ đạo của chính

quyền địa phương trong việc triển khai thực hiện chủ trương của Đảng, chính

sách của Nhà nước đối với NCCVCM ở địa phương cụ thể (huyện Phú Bình,

tỉnh Thái Nguyên) từ năm 2006 đến năm 2014. Đề tài nghiên cứu “Đảng bộ

huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo thực hiện chính sách ưu đãi người

có công với cách mạng từ năm 2006 đến năm 2014” là một đề tài mới. Công

trình tập trung làm rõ các vấn đề sau:

- Chủ trương của Đảng và Nhà nước về chính sách ưu đãi NCCVCM từ

năm 2006 đến năm 2014.

- Tập trung làm rõ quá trình vận dụng chủ trương của Đảng, Nhà nước

của Đảng bộ huyện Phú Bình (Thái Nguyên) trong việc chỉ đạo thực hiện các

chính sách ưu đãi chính gồm: chế độ ưu đãi về trợ cấp, phụ cấp, chế độ ưu đãi

về chăm sóc sức khỏe, chế độ ưu đãi nhà ở cho NCCVCM từ năm 2006 đến

năm 2014.

- Kết quả thực hiện các chính sách trên, rút ra nhận xét và một số kinh

nghiệm trong quá trình chỉ đạo thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM ở huyện

Phú Bình. Đây là huyện điển hình trong việc thực hiện các chính sách ưu đãi

người có công của tỉnh Thái Nguyên.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích

Đề tài Đảng bộ huyện Phú Bình (Thái Nguyên) lãnh đạo thực hiện chính

8

sách ưu đãi người có công với cách mạng từ năm 2006 đến năm 2014 với mục

đích làm sáng tỏ quá trình thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM từ năm 2006 đến

năm 2014 của Đảng bộ huyện Phú Bình, qua đó chủ ra những ưu điểm và hạn chế

trong quá trình lãnh đạo thực hiện chính sách. Đồng thời đúc rút một số kinh

nghiệm quý báu từ thực tiễn làm nền tảng để thực hiện tốt hơn nữa chính sách ưu

đãi NCCVCM ở Phú Bình trong những giai đoạn tiếp theo.

3.2. Nhiệm vụ

- Phân tích chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ huyện Phú Bình trong

thực hiện chính sách ưu đãi NCCCM.

- Trình bày theo tiến trình lịch sử quá trình lãnh đạo của Đảng bộ huyện

Phú Bình về thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM từ năm 2006 đến năm

2014.

- Đánh giá, nhận xét những ưu điểm và hạn chế của Đảng bộ huyện Phú

Bình trong thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM. Từ đó đúc rút kinh nghiệm

lãnh đạo trong giai đoạn mới.

4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

- Chủ trương, biện pháp, của Đảng bộ huyện Phú Bình trong việc thực

hiện chính sách ưu đãi NCCVCM từ năm 2006 đến năm 2014.

- Qúa trình chỉ đạo thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM về trợ cấp

phụ cấp, chế độ ưu đãi về chăm sóc sức khỏe, chế độ ưu đãi về nhà ở từ năm

2006 đến năm 2014.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Nội dung: Chính sách ưu đãi NCCVCM của Đảng, các vấn đề liên

quan đến sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Phú Bình trong thực hiện chính sách

ưu đãi NCCVCM gồm: Chủ trương của Đảng bộ huyện Phú Bình, các hoạt

động thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM trên ba lĩnh vực chủ yếu: Trợ cấp

9

phụ cấp, chế độ ưu đãi về chăm sóc sức khỏe, chế độ ưu đãi về nhà ở.

- Không gian: Địa bàn huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên.

- Thời gian: Từ năm 2006 đến năm 2014

- Khái niệm NCCVCM bao gồm: Toàn bộ đối tượng người có công quy

định tại Pháp lệnh Người có công với cách mạng

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng trong luận văn là

phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp lôgic. Ngoài ra luận văn còn sử

dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh.

Đồng thời, phỏng vấn cán bộ phụ trách mảng người có công của Phòng

LĐTBXH huyện Phú Bình và một số đối tượng người có công đang được

hưởng chính sách ưu đãi trong địa bàn huyện.

6. Đóng góp của đề tài

6.1.Về mặt nội dung

- Đề tài đã hệ thống hóa quan điểm chủ trương của Đảng, Nhà nước và

sự vận dụng của Đảng bộ huyện Phú Bình trong thực hiện chính sách ưu đãi

NCCVCM.

- Qúa trình chỉ đạo thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách

mạng trên ba mặt: trợ cấp phụ cấp, chăm sóc sức khỏe và nhà ở cho người có

công ở huyện Phú Bình từ năm 2006 đến năm 2014.

- Rút ra một số nhận xét về ưu điểm, hạn chế và kinh nghiệm lịch sử

trong quá trình Đảng bộ huyện Phú Bình lãnh đạo thực hiện chính sách ưu đãi

NCCVCM.

6.2.Về nguồn tài liệu: Luận văn là nguồn tài liệu tham khảo cho các

nghiên cứu về chính sách ưu đãi NCCVCM nói riêng và nghiên cứu chính sách

xã hội nói chung.

10

7. Kết cấu đề tài

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:

Chương 1. Đảng bộ huyện Phú Bình lãnh đạo thực hiện chính sách ưu

đãi người có công với cách mạng giai đoạn 2006 - 2010

Chương 2. Đảng bộ huyện Phú Bình lãnh đạo thực hiện chính sách ưu

đãi người có công với cách mạng từ năm 2010 đến năm 2014

Chương 3. Một số nhận xét và kinh nghiệm

11

Chƣơng 1

ĐẢNG BỘ HUYỆN PHÚ BÌNH LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN

CHÍNH SÁCH ƢU ĐÃI NGƢỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG

GIAI ĐOẠN 2006 - 2010

1.1 Chính sách ƣu đãi ngƣời có công với cách mạng của Đảng, Nhà

nƣớc Việt Nam và tình hình thực hiện ở huyện Phú Bình trƣớc năm 2006

1.1.1 Chính sách ưu đãi người có công với cách mạng của Đảng và

Nhà nước Việt Nam

Con đường cách mạng Việt Nam là con đường cách mạng giải phóng

dân tộc. Trong sự nghiệp cách mạng vĩ đại ấy có biết bao người con ưu tú đã

hy sinh xương máu, tuổi trẻ, sức lực, trí tuệ cho đất nước. Vì vậy Đảng, Nhà

nước và nhân dân Việt Nam đời đời ghi nhớ công lao to lớn của họ. Chủ

trương của Đảng và chính sách của Nhà nước đối với NCCVCM là một chính

sách ưu tiên xuyên suốt trong hệ thống chính sách ưu đãi xã hội. Chính sách

này thể hiện tính ưu việt và bản chất tốt đẹp của Nhà nước, củng cố niềm tin

của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, làm cơ sở

vững chắc để tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc góp phần ổn định chính trị,

xã hội. Trong từng thời kỳ chủ trương của Đảng và chính sách của nhà nước

ưu đãi cho người có công luôn được thay đổi, bổ sung để phù hợp với hoàn

cảnh lịch sử và tình hình kinh tế của đất nước.

Cách mạng tháng Tám - 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng

hòa ra đời chưa được bao lâu thì thực dân Pháp đã quay trở lại xâm lược lần

thứ hai. Hưởng ứng lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí

Minh toàn thể dân tộc Việt Nam nhất tề đứng lên đấu tranh bảo vệ thành quả

của cuộc cách mạng với tinh thần bất diệt “thà hy sinh tất cả chứ không chịu

mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Trong cuộc chiến đấu gian khổ và

quyết liệt ấy nhiều đồng bào chiến sỹ đã hy sinh xương máu trên chiến trường.

12

Thể hiện tấm lòng biết ơn với những người đã “dùng máu đào tô thắm lá cờ

Tổ quốc” Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 20/SL ngày 16/02/1947 tại

Thái Nguyên về quy định chế độ hưu bổng, thương tật, tiền tuất đối với thân

nhân tử sĩ. Đây là văn bản đặt nền móng cho sự ra đời của hệ thống chính sách

ưu đãi NCCCM. Cùng thời gian này tại xóm Bàn Cờ, xã Hùng Sơn, huyện Đại

Từ, tỉnh Thái Nguyên, theo đề nghị của đại diện Chính trị Cục Quân đội Quốc

gia Việt Nam lấy ngày 27/07/1947 làm ngày thương binh - liệt sĩ, ngày toàn

dân cùng thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, là dịp để toàn thể nhân dân

chứng tỏ lòng hiếu nghĩa bác ái và tỏ lòng yêu mến thương binh. Ngày 27

tháng 7 là một dịp để đồng bào cả nước tỏ lòng hiếu nghĩa bác ái và tỏ lòng

yêu mến thương binh.

Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh

các phong trào giúp đỡ binh sỹ như “mùa đông binh sỹ” tặng áo ấm cho các

chiến sỹ, “hội giúp đỡ binh sỹ bị nạn” đưa các binh sỹ bị thương tật trở về địa

phương hoặc đưa vào các trung tâm nuôi dưỡng để chăm sóc. Tại đây họ được

chăm sóc, chữa trị vết thương và nhanh chóng phục hồi sức khỏe. Một số chiến

sỹ đã trở lại chiến trường tiếp tục cầm súng chiến đấu, nhiều người trở về địa

phương tham gia sản xuất, phục vụ chiến đấu.

Như vậy, trong giai đoạn 1945-1954 chính sách ưu đãi NCCVCM được

thực hiện trong điều kiện cả nước phải đương đầu với cuộc kháng chiến chống

Pháp gian khổ, ác liệt. Do đó chính sách ưu đãi NCCVCM của Đảng, Chính

phủ chỉ giải quyết được một phần các vấn đề về trợ cấp, phụ cấp và các ưu đãi

đặc biệt về chia ruộng đất, miễn giảm thuế nông nghiệp cho NCCVCM.

Sau năm 1954, miền Bắc hoàn toàn giải phóng tiến lên chủ nghĩa xã

hội, miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng giải phóng dân tộc chống lại đế quốc

Mỹ xâm lược. Chính sách ưu đãi NCCVCM được triển khai với hình thức khác

nhau trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt. Lúc này ở miền Nam vẫn chịu sự

13

kìm kẹp của chính quyền Mĩ - Diệm nên các chính sách ưu đãi này chưa được

ban hành. Các thương - bệnh binh chiến đấu trong vùng địch tạm chiến được

người dân miền Nam cất giấu, điều trị và nuôi dưỡng chờ cơ hội để chuyển ra

vùng giải phóng. Các chiến sỹ hy sinh được đồng đội, người dân chôn cất ngay

tại chiến trường. Năm 1970, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền

Nam Việt Nam quyết định lấy ngày 01 tháng 12 hàng năm làm Ngày Thương

binh - Liệt sĩ. Từ đó, hàng năm đến ngày 01 tháng 12, Chính phủ cử các đoàn

đại biểu đến tặng quà, thư động viên, thăm hỏi thương binh, bệnh binh, gia

đình liệt sĩ và nhắc nhở quân dân các địa phương quan tâm, săn sóc, giúp đỡ

những người con đã hy sinh cho dân tộc

Ở miền Bắc ngay sau ngày giải phóng, Đảng, Nhà nước đã có nhiều chủ

trương, chính sách quy định chế độ ưu đãi cho NCCVCM. Năm 1955 Đảng đổi

tên ngày Thương binh toàn quốc thành ngày Thương binh - Liệt sỹ. Các chế độ

ưu đãi được quy định cụ thể hơn trong từng văn bản Pháp luật cho từng đối

tượng thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ, dân quân du kích, thanh niên

xung phong bị thương tật…

Ngày 27/07/1956 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 980-

Ttg về bản điều lệ ưu đãi thương binh, dân quân du kích, thanh niên xung

phong bị thương tật, bản điều lệ ưu đãi gia đình liệt sỹ và bản điều lệ ưu đãi

gia đình quân nhân. Đây là những người có công với Tổ quốc, Chính phủ và

nhân dân luôn ghi nhớ công lao đó. Bản điều lệ này, ngoài việc quy định

những vinh dự về tinh thần còn nhằm mục đích giúp đỡ thương binh, bệnh

binh, dân quân du kích, thanh niên xung phong bị thương tật tổ chức đời sống

và phát huy khả năng của mình. Họ được hưởng những ưu đãi về phụ cấp

thương tật, trợ cấp sản xuất hay an dưỡng, ưu đãi trong ruộng đất, thuế nông

nghiệp, được chiếu cố trong tuyển dụng hoặc đi học.

Cùng với việc ban hành các chủ trương, chính sách, các phong trào toàn

14

dân chăm sóc NCCVCM được thực hiện sôi nổi trong thời kỳ này như phong

trào Trần Quốc Toản (các cháu thiếu niên giúp đỡ thương binh gia đình liệt

sỹ), phong trào giúp đỡ thương binh, liệt sỹ trong hợp tác xã nông nghiệp,

phong trào đỡ đầu nhận chăm sóc con liệt sỹ, phong trào xây dựng hũ gạo tình

nghĩa… đã được đông đảo mọi tầng lớp nhân dân tích cực hưởng ứng.

Như vậy, chính sách ưu đãi NCCVCM trong kháng chiến chống Mỹ có

sự khác biệt giữa hai miền Nam - Bắc do tính chất ác liệt của cuộc chiến tranh.

Mọi chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đều nhằm mục đích phục vụ

chiến đấu và động viên chiến đấu để hoàn thành sự nghiệp thống nhất nước

nhà. Do đó, chính sách ưu đãi NCCCM cũng nằm trong chiến lược giải phóng

dân tộc của Đảng. Chính sách ưu đãi người có công với cách mạng được thực

thi có hiệu quả ở miền Bắc đã có tác dụng động viên chiến đấu và khích lệ sản

xuất xây dựng chủ nghĩa xã hội, góp phần chi viện cho tiền tuyến miền Nam

đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược.

Khi đất nước thống nhất, bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội

trên phạm vi cả nước, Đảng và Nhà nước vẫn xác định công tác chăm sóc

người có công là một trong những vấn đề lớn của đất nước. Cụ thể hoá quan

điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước đã ban hành, bổ sung, sửa đổi nhiều văn

bản pháp luật ưu đãi đối với người có công, khắc phục một số bất hợp lý, giải

quyết một khối lượng lớn công việc do hậu quả của chiến tranh để lại, hình

thành một hệ thống văn bản pháp quy có hiệu lực thực hiện thống nhất trong cả

nước, phục vụ yêu cầu của giai đoạn mới. Đầu tiên phải kể đến đó là Chỉ thị số

223/CT-TW ngày 8/7/1975 của Ban Bí thư Trung ương Đảng xác định yêu cầu

nhiệm vụ của công tác thương binh, liệt sỹ sau chiến tranh, thống nhất chế độ

giữa hai miền, tập trung quy tập mộ, xây dựng nghĩa trang liệt sỹ.Từ năm 1975

trở đi ngày 27/7 hàng năm chính thức trở thành “ngày Thương binh - Liệt sỹ”

cả của nước.

15

Ngày 15/7/1985 Ban bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 68 - CT/TW

về việc tăng cường chăm sóc thương binh, gia đình liệt sỹ, gia đình có công với

cách mạng. Đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng"Người công dân kiểu

mẫu”,“Gia đình cách mạng gương mẫu" thu hút nhiều nguời, nhiều gia đình

có công ở cơ sở tham gia. Chấn chỉnh nề nếp sinh hoạt chính trị ở các cấp của

những người và gia đình có công, nhất là đối với cán bộ, bộ đội hưu trí. Mặt

khác cần chống lại luận điệu chiến tranh tâm lý, phá hoại của địch, ngăn ngừa

và xử lý kịp thời những hành động phi pháp làm mất uy tín và phá hoại truyền

thống cách mạng. Thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ, hàng vạn thương binh,

bệnh binh đã nỗ lực phấn đấu, vượt mọi khó khăn, nhiều người đã gương mẫu

trong lao động, sản xuất, công tác và học tập, đảm nhiệm những vị trí trọng

trách quan trọng từ Trung ương đến địa phương và trở thành Anh hùng Lao

động, Chiến sĩ thi đua, Người công dân kiểu mẫu, Gia đình cách mạng kiểu

mẫu.

Như vậy, nhiệm vụ trọng tâm của công tác thực hiện chính sách ưu đãi

NCCVCM ngay sau giải phóng (1975-1985) là tập trung vào công tác xác nhận

thương binh, liệt sỹ, quy tập hài cốt liệt sỹ, xây dựng nghĩa trang, đài tưởng

niệm để tỏ lòng biết ơn đối với những người con đã hy sinh vì nền độc lập của

dân tộc. Đồng thời phát động các cuộc vận động chính trị cho NCCVCM phát

huy truyền thống vẻ vang đóng góp nhiều nhất sức lao động của mình cho phát

triển kinh tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Từ năm 1986, đất nước đổi mới theo con đường CNH - HĐH, công tác

ưu đãi NCCVCM được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm. Chủ trương của

Đảng trong giai đoạn này coi phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện

các chính sách xã hội, thực hiện tốt chính sách xã hội là động lực thúc đẩy phát

triển kinh tế. Quan tâm chăm sóc NCCVCM vừa là trách nhiệm của Nhà nước,

vừa là trách nhiệm của nhân dân và toàn xã hội. Nghị quyết Đại hội Đảng lần

16

VI (1986) chỉ rõ“thực hiện tốt chính sách đối với thương binh, gia đình liệt sĩ,

gia đình cán bộ, chiến sĩ chiến đấu ngoài mặt trận, gia đình có công với cách

mạng”.[15, tr.558]

Vấn đề này tiếp tục được Đại hội VII (1991-1995) của Đảng tiếp tục

khẳng định:“Quan tâm chăm sóc thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và

những người có công với cách mạng, coi đó vừa là trách nhiệm của Nhà nước,

vừa là trách nhiệm của toàn dân; sớm ban hành chế độ toàn dân đóng góp vào

quỹ đền ơn, trả nghĩa để chăm lo đời sống thương binh, gia đình liệt sĩ và

những người có công với cách mạng” [16, tr.102]. Đồng thời, trong báo cáo về

phương hướng, nhiệm vụ kinh tế - xã hội 5 năm 1991 - 1995, Đảng tiếp tục

nhấn mạnh: “Quan tâm chăm sóc thương binh, bệnh binh, các gia đình liệt sĩ,

người có công với cách mạng... Củng cố các cơ sở nuôi dưỡng thương binh

nặng và tiếp tục đưa thương binh nặng về gia đình…” [16, tr.450].

Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội và các Nghị quyết Hội nghị Ban

Chấp hành Trung ương khóa VII (1991 - 1995), công tác chăm sóc NCCVCM

được quan tâm khá toàn diện, bao phủ hầu hết các đối tượng có công với đất

nước. Để tạo điều kiện cho việc quy tập mộ liệt sĩ và xây dựng các nghĩa trang

làm nơi an nghỉ cho các liệt sĩ, ngày 05/5/1993, Ban Bí thư Trung ương Đảng

ra Chỉ thị số 20 - CT/TW về công tác mộ nghĩa trang liệt sĩ yêu cầu các cấp,

các ngành cần có những biện pháp tích cực để trong vài năm tới giải quyết một

bước cơ bản việc tìm kiếm quy tập mộ liệt sĩ vào các nghĩa trang liệt sĩ. Đồng

thời xây dựng các nghĩa trang lớn như nghĩa trang Trường Sơn, Điện Biên Phủ

thể hiện sự hiếu kính và coi đó là công trình mang tính giáo dục sâu sắc đặc

biệt là thế hệ trẻ đối với những lớp cha ông đã hy sinh cho sự nghiệp giải

phóng đất nước. Thực hiện chủ trương của Đảng, cùng với quá trình đẩy mạnh

sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, công tác người có công được tổ chức

thực hiện có hiệu quả. Vấn đề ưu đãi người và gia đình NCCVCM đã trở thành

17

nguyên tắc ghi nhận trang trọng trong Hiến pháp năm 1992: “Thương binh,

bệnh binh, gia đình liệt sỹ được hưởng các chính sách ưu đãi của Nhà nước.

Thương binh được tạo điều kiện phục hồi chức năng lao động, có việc làm phù

hợp với sức khoẻ và đời sống ổn định. Những người và gia đình có công với

nước được khen thưởng, chăm sóc” [20]. Nguyên tắc này đã được thể chế hóa

trong Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sỹ và gia đình liệt sỹ,

thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ

cách mạng (gọi tắt là Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng) do

UBTVQH ban hành ngày 10/9/1994 và được quy định cụ thể tại Nghị định số

28/CP ngày 29/4/1995 của Chính phủ với các nội dung cơ bản về những quy

định về điều kiện, tiêu chuẩn xác nhận đối tượng người có công với cách mạng

được hưởng ưu đãi. Đồng thời thực hiện chế độ ưu đãi cho người trợ cấp về

chăm sóc sức khỏe, chế độ nhà ở [88]. Đây là một bước tiến dài trong việc ban

hành pháp luật ưu đãi NCCVCM, giải quyết một số vấn đề cấp bách của công

tác thực hiện chính sách ưu đãi người có công, đồng thời góp phần cải thiện

đời sống cho các đối tượng trong điều kiện mới. Theo đó, hệ thống chính sách

có nhiều bổ sung, sửa đổi cơ bản. Nhiều vấn đề bất hợp lý do lịch sử để lại

cũng như vấn đề mới nảy sinh trong quá trình chuyển đổi cơ chế và những tồn

đọng về chính sách sau chiến tranh, như vấn đề xác nhận liệt sĩ, thương binh; chính sách ưu đãi đối với thanh niên xung phong, những người tham gia kháng

chiến bị nhiễm chất độc hóa học; chính sách ưu đãi về giáo dục - đào tạo, chăm

sóc sức khỏe, cải thiện nhà ở, chế độ trợ cấp đối với một số đối tượng

NCCVCM bắt đầu được ưu tiên giải quyết.

Trong định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu, mục Chính sách giải

quyết một số vấn đề xã hội, Nghị quyết Đại hội VIII (1996 - 2000) chỉ rõ: “Tổ

chức tốt việc thi hành Pháp lệnh về người có công, bồi dưỡng và tạo điều kiện

cho con em những người có công với cách mạng tiếp nối sự nghiệp của cha anh.

18

Mở rộng phong trào đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ...”

[12, tr.115]. Nghị quyết Đại hội VIII đi vào cuộc sống, các cấp, các ngành, các

đoàn thể chính trị, xã hội từ Trung ương tới địa phương đã làm tốt công tác

chăm sóc NCCVCM, qua đó góp phần tạo được sự phát triển hài hòa giữa tăng

trưởng kinh tế với bảo đảm công bằng xã hội.

Để toàn Đảng, toàn quân và toàn dân thực hiện tốt hơn nữa chủ trương

của Đảng đối với NCCVCM, khắc phục những khó khăn, bất cập trong cuộc

sống của một bộ phận người có công, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, khu căn cứ

kháng chiến, ngày 14/12/1996, Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 09-CT/TW về việc

mở đợt vận động kỷ niệm 50 năm ngày thương binh, liệt sĩ. Chỉ thị yêu cầu các

bộ, ngành, các cấp ủy Đảng và chính quyền tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực

hiện tốt các chế độ, chính sách theo Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách

mạng; tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa việc chăm sóc NCCVCM, có chính sách

bảo đảm những điều kiện thuận lợi cho con của liệt sĩ, anh hùng, thương binh,

bệnh binh được học tập, làm việc để tham gia tốt các hoạt động xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc.

Đại hội IX (2001 - 2005) của Đảng, khẳng định: “Chăm lo tốt hơn đối với

các gia đình chính sách và những người có công với cách mạng, bảo đảm tất cả

các gia đình chính sách đều có cuộc sống bằng hoặc khá hơn mức sống trung

bình so với người dân địa phương trên cơ sở kết hợp 3 nguồn lực: Nhà nước,

cộng đồng và cá nhân các đối tượng chính sách tự vươn lên”. [13, tr. 301]. Sau

Đại hội Đảng IX (2001-2005), hàng loạt chính sách ưu đãi về kinh tế, xã hội đã

được thực hiện. Các ưu đãi của Nhà nước về giáo dục và đào tạo, miễn giảm

thuế trong sản xuất kinh doanh, ưu tiên giao đất sản xuất, cải thiện về nhà ở, đất

ở, chăm sóc sức khoẻ... các chương trình lồng ghép như xoá đói giảm nghèo,

việc làm... đã thiết thực hỗ trợ NCCVCM ổn định đời sống, nỗ lực vươn lên

trong cơ chế mới.

19

Như vậy chủ trương và chính sách của Đảng, Nhà nước đối với NCCVCM không

ngừng được sửa đổi, bổ sung và ngày càng hoàn thiện đáp ứng yêu cầu của

phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện mới. Qua các thời kỳ cách mạng

Đảng và Nhà nước luôn thể hiện sự quan tâm đến người có công, bày tỏ lòng

biết ơn đối với những người đã hy sinh để bảo vệ quê hương đất nước. Qúa

trình hoàn thiện chủ trương và chính sách của Đảng, Nhà nước trong việc ban

hành và thực thi có hiệu quả các chính sách xã hội đặc biệt là chính sách ưu đãi

NCCVCM đã khẳng định bản chất và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Đó chính

là yếu tố bảo đảm quyền con người, bảo đảm sự ổn định của xã hội, không

ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân, tạo nền tảng để

phát triển đất nước trong thời kỳ mới.

1.1.2.Tình hình thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách

mạng ở huyện Phú Bình trước năm 2006

Phú Bình là một huyện miền núi của tỉnh Thái Nguyên kinh tế đang có

nhiều chuyển biến theo hướng CNH-HĐH. Bộ mặt kinh tế của huyện đang có

nhiều khởi sắc tiến bộ với tốc độ tăng trưởng kinh tế khá, tạo nên tiền đề vật

chất vững chắc cho thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM. Nhiều khu công

nghiệp được ra đời thu hút hàng vạn lao động góp phần giải quyết việc làm cho

người dân trong huyện trong đó có một bộ phận không nhỏ là con em của các

đối tượng NCCVCM. Đồng thời với việc tăng trưởng kinh tế, trình độ nhận

thức của người dân cũng được nâng cao. Do vậy đã phát huy được tinh thần

trách nhiệm của người dân thông qua việc tuyên truyền vận động sự ủng hộ về

vật chất và tinh thần cho người có công. Kinh tế phát triển kéo theo đó là các

vấn đề về phúc lợi xã hội cũng được đầu tư phát triển. Hệ thống y tế được hiện

đại đáp ứng việc chăm sóc sức khỏe định kỳ cho đối tượng NCCVCM. Các

chế độ ưu đãi cũng được chú trọng, quan tâm nhiều hơn. Người có công của

huyện ngày càng được chăm lo chu đáo về mặt vật chất và tinh thần.

20

Nếu điều kiện kinh tế - xã hội tạo taọ ra tiền đề vật chất vững chắc thì

truyền thống lịch sử - văn hóa tạo nên một tiền đề vững chắc về tinh thần cho

việc thực thi có hiệu quả các chính sách ưu đãi NCCVCM. Phú Bình là một

vùng quê giàu truyền thống cách mạng trong lịch sử dựng nước và giữ nước

của dân tộc. Trải qua những năm tháng chiến tranh ác liệt, nhân dân các dân

tộc huyện Phú Bình đã cùng với quân dân cả nước nhất tề, anh dũng đứng lên

chiến đấu chống giặc ngoại xâm bảo vệ quê hương đất nước. Góp phần làm

nên chiến thắng vang dội ấy biết bao người con ưu tú của quê hương Phú Bình

đã hy sinh dưới mưa bom bão đạn của kẻ thù, hàng ngàn người đã phải gánh

chịu thương tật hoặc gánh chịu di họa của chiến tranh suốt phần đời còn lại.

Thể hiện tấm lòng biết ơn với những người đã “dùng máu đào tô thắm

lá cờ Tổ quốc”ngay từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 20/SL ngày

16/02/1947 tại Thái Nguyên về quy định chế độ hưu bổng, thương tật, tiền tuất

đối với thân nhân tử sĩ, đặt nền móng cho sự ra đời của hệ thống chính sách ưu

đãi NCCVCM. Thực hiện chủ trương của Đảng và lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí

Minh thông qua sắc lệnh số 20/SL do Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng

hòa ký ngày 16/02/1947 và được bổ sung bằng sắc lệnh 242/SL ngày 12/10/1948 về quy

định tiêu chuẩn xác nhận thương binh, truy tặng tử sỹ, thực hiện chế độ lương

hưu thương tật đối với thương binh, chế độ tiền tuất đối với gia đình liệt sỹ

công tác thực hiện chế độ ưu đãi cho NCCVCM ở huyện Phú Bình được quan

tâm và chú trọng.

Huyện Phú Bình đã làm tốt việc triển khai việc lập hồ sơ, xét duyệt các

đối tượng người có công. Theo đó những quân nhân hoạt động trong Quân đội

quốc gia Việt Nam nếu trong lúc tại ngũ, vì chiến đấu với quân địch cứu một

người hay nhều người mà bị thương thì được gọi là thương binh và được

hưởng lương hưu thương tật. Lương hưu thương tật không tính theo hạng thâm

niên của binh sĩ mà được căn cứ vào tật bệnh nặng hay nhẹ. Những quân nhân

21

được hưởng thương tật tạm thời trong một thời gian rồi vì thương tật cũ mà

chết, sau khi được khám và chứng nhận cũng được coi là tử sĩ. Cha, mẹ, vợ,

con của tử sĩ được nhận cấp tiền tuất. Như vậy, với chính sách này đã thể hiện

sự quan tâm đặc biệt đến các đối tượng người có công khi họ còn sống họ được

hưởng một khoản trợ cấp hỗ trợ để đảm bảo cuộc sống sinh hoạt. Khi chết đi

thân nhân của họ được hưởng trợ cấp tiền tuất đã phần nào bù đắp những đau

thương mất mát và giúp họ bớt đi những khó khăn trong cuộc sống.

Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước (1945 -

1975) công tác thực hiện chính sách ưu đãi cho NCCVCM trên địa bàn huyện

được triển khai thực hiện dưới hình thức chăm sóc thương binh, bệnh binh, đón

thương binh từ chiến trường về chăm sóc điều trị. Nguyên nhân do tính chất

của cuộc chiến tranh khốc liệt nhân dân huyện Phú Bình cùng với quân dân cả

nước đang tiến hành cuộc kháng chiến ác liệt với quân thù. Thêm vào đó hoàn

cảnh chiến tranh nền kinh tế của huyện còn nghèo nên công tác thực hiện chính

sách ưu đãi NCCVCM được thực hiện chủ yếu dưới hình thức của phong trào

đón thương binh về làng. Dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ huyện Phú Bình công

tác tiếp nhận thương binh từ chiến trường về chăm sóc nuôi dưỡng đã được

thực hiện có hiệu quả. Huyện Phú Bình đã thành lập được cơ sở nuôi dưỡng

thương binh bằng cách vận động người dân trong huyện góp gạo nuôi thương

binh. Toàn huyện đã tổ chức các cuộc vận động “hũ gạo cứu đói”, “con gà

tình nghĩa” để giúp đỡ các thương binh thương tật nặng. Đồng thời, huyện chỉ

đạo các xã trích một phần ruộng công, hoặc chung sức vỡ những thửa ruộng

mới tổ chức cấy cày, chăm nom, gặt hái những ruộng đất ấy lấy hoa lợi để nuôi

thương binh. Huyện Phú Bình là ATK đã tiếp nhận hàng trăm thương binh từ

chiến trường về điều trị phục hồi.

Mặt khác, vai trò của huyện làm tốt nghĩa vụ hậu phương động viên anh

chị em thương binh, bệnh binh cùng toàn thể nhân dân trong huyện tham gia

22

sản xuất chi viện cho chiến trường theo phương châm “thương binh tàn nhưng

không phế”, khi đã khôi phục sức khỏe huyện có chủ trương khuyến khích họ

hăng hái tham gia công tác sản xuất đóng góp sức lực vào nhiệm vụ khôi phục,

hàn gắn vết thương chiến tranh, hoàn thành sự nghiệp cách mạng dân tộc dân

chủ nhân dân, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Từ những năm 1975 đến năm 1986, đất nước được hòa bình thống nhất,

nhân dân cả nước hăng hái lao động xây dựng đất nước. Hình ảnh chú bộ đội

chắc tay súng chiến đấu ngoài chiến trường, vững tay cày trên đồng ruộng đã

trở thành một hình ảnh đẹp phát huy năng lực và phẩm chất của anh bộ đội cụ

Hồ trong hoàn cảnh mới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Phú Bình các

cán bộ, chiến sỹ sau khi xuất ngũ trở về địa phương ra sức xây dựng và làm

giàu cho quê hương. Một phong trào thi đua lao động sản xuất được tổ chức đã

thu hút đông đảo đối tượng người có công của huyện tham gia. Nhờ những ưu

đãi từ chính sách của Nhà nước và sự tiếp sức của cộng đồng, các anh chị em

thương binh, bệnh binh, thân nhân liệt sỹ đã phát huy truyền thống, năng lực,

sở trường của mình trong hoàn cảnh mới để xứng đáng là những công dân kiểu

mẫu, những gia đình cách mạng gương mẫu. Nhiều người trong số đó trở thành

những người làm ăn giỏi hoặc đảm đương những trọng trách là cán bộ lãnh

đạo, cán bộ quản lý ở một số thôn, xã.

Cùng với cuộc vận động tích cực trong lao động và sản xuất, huyện Phú

Bình đã tổ chức phong trào đi tìm“địa chỉ đỏ” hướng về vùng đất trong quá

khứ chiến tranh ác liệt, phong trào “đi tìm đồng đội thân yêu”. Thể hiện một

tình cảm thiêng liêng và cao cả. Thực hiện nghĩa cử cao đẹp này, dưới sự chỉ

đạo của Đảng bộ huyện Phú Bình đã tìm được 20 mộ liệt sĩ đưa về nghĩa trang

liệt sĩ huyện, 5 mộ liệt sĩ được quy tụ tại nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn [2, tr.

400].

Từ năm 1986 đến năm 1990 khi đất nước bước vào công cuộc đổi mới

23

toàn diện trên tất cả các mặt chính trị - kinh tế, văn hóa - xã hội. Các đối tượng

NCCVCM được hưởng trợ cấp ưu đãi từ nguồn ngân sách Trung ương. Các

chế độ chăm sóc sức khỏe cũng được cải thiện nhờ trang thiết bị y tế được

trang bị đầy đủ hơn, phục vụ kịp thời cho việc phục hồi chức năng, cải tiến

việc nuôi dưỡng cho những thương binh nặng. Đồng thời, các đối tượng người

có công trên địa bàn huyện Phú Bình được giúp đỡ sản xuất, định hướng việc

làm cho thương binh, bệnh binh, người nhiễm chất độc hóa học, giúp đỡ họ ổn

định cuộc sống thông qua các phong trào hợp tác xã nông nghiệp giúp họ ổn

định cuộc sống.

Tử năm 1991 đến năm 2005 thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà

nước phát triển đất nước theo hướng CNH, HĐH. Việc thực hiện chính sách ưu

đãi xã hội phải được thực hiện một cách công bằng, bình đẳng về quyền lợi và

nghĩa vụ giữa các tầng lớp nhân dân. Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà

nước, Đảng bộ huyện Phú Bình đã có nhiều chủ trương, biện pháp kịp thời hỗ

trợ cho các đối tượng người có công của huyện. Đời sống của các đối tượng

từng bước được nâng cao.

Chính sách ưu đãi người có công với cách mạng ngày càng được hoàn

thiện hơn từ khi Đảng và Nhà nước ban hành Pháp lệnh ưu đãi người hoạt

động cách mạng, liệt sĩ, gia đình liệt sĩ, thương binh bệnh binh người hoạt

động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng ngày 29/8/1994. Đây là

thời kỳ đánh dấu bước chuyển biến to lớn có tính chất quyết định đến mọi mặt

đời sống người có công thông qua các văn bản chính sách ưu đãi xã hội chủ

yếu tập trung vào các nội dung quy định chế độ tiền trợ cấp, phụ cấp, quy định

các chế độ ưu đãi về giáo dục đào tạo, ưu đãi về chăm sóc sức khỏe, đào tạo

việc làm, miễn giảm thuế nông nghiệp…

Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, Đảng bộ huyện Phú Bình

thực hiện có kết quả một số chính sách như giải quyết, công nhận thủ tục cho

24

các đối tượng là NCCVCM, thực hiện đầy đủ các chế độ ưu đãi với người có

công do Nhà nước quy định, từng bước xoa dịu nỗi đau mất mát trong chiến

tranh, khắc phục di chứng chiến tranh để lại. Đồng thời, Đảng bộ huyện cũng

sớm ý thức được trách nhiệm của toàn dân trong việc chăm sóc NCCVCM

bằng cách tuyên truyền vận động người dân tham gia đóng góp xây dựng quỹ

đền ơn đáp nghĩa, xây dựng nhà tình nghĩa tạo nên sức mạnh tổng hợp về

nguồn lực, nhân lực ở cộng đồng dân cư trong việc thực hiện chính sách ưu đãi

NCCVCM.

Có thể nói, trước năm 2006 mặc dù kinh tế của huyện còn nghèo, đời

sống của nhân dân trong huyện còn gặp nhiều khó khăn nhưng dưới sự lãnh

đạo của Đảng bộ huyện Phú Bình công tác thực hiện chính sách ưu đãi người

có công đã thu được một số kết quả đáng ghi nhận. Với đặc điểm nổi bật của

một huyện trung du miền núi nền kinh tế còn nghèo và lạc hậu. Số lượng người

có công trên địa bàn lớn. Đảng bộ huyện Phú Bình đã chỉ đạo đi sâu, đi sát tìm

hiểu thực tế đời sống của NCCVCM khi rời chiến trường trở về với gia đình.

Thấy được sự khó khăn về vật chất, mất mát về tinh thần mà các đối tượng và

thân nhân họ đang gặp phải để có những chủ trương, biện pháp hỗ trợ kịp thời

đến các đối tượng.

Đảng bộ huyện Phú Bình đã bước đầu nhận thức được vị trí và vai trò

của việc thực hiện tốt các chính sách ưu đãi người có công tạo ra một môi

trường xã hội ổn định. Chính sách ưu đãi NCCVCM là một bộ phận của chính

sách an sinh xã hội nhằm phục vụ con người và vì sự phát triển của con người

của mỗi quốc gia. Đồng thời việc thực hiện chế độ chăm sóc ưu đãi NCCVCM

là nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của huyện

khi đất nước bước vào thời kỳ CNH, HĐH. Đây là nền tảng cho sự phát triển

kinh tế của huyện trong thời kỳ mới.

Thành tựu đáng ghi nhận mà Đảng bộ huyện Phú Bình đã chỉ đạo thực

25

hiện được là: Giải quyết cho một lượng đông đảo các đối tượng người có công

trên địa bàn huyện như thương binh, bệnh binh, liệt sĩ, gia đình có công với

cách mạng gồm: 813 thương binh; 22 người được phong tặng và truy tặng

danh hiệu cao quý “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”; 1.360 liệt sĩ; 34 lão thành

cách mạng; 71 cán bộ hoạt động tiền khời nghĩa. Toàn huyện đã giải quyết chế

độ cho 125 gia đình có công với nước [2, tr.247]. Từng bước thực thi đầy đủ

các chế độ ưu đãi của Đảng và Nhà nước đến từng đối tượng người có công.

Bên cạnh một số thành tựu đã đạt được công tác thực hiện chính sách ưu

đãi người có công mắc phải một số khó khăn như sau:

Điều kiện kinh tế của huyện còn nghèo, nhân dân còn gặp nhiều khó

khăn. Đời sống của đại bộ phận các gia đình chính sách vẫn còn khó khăn đặc

biệt là vùng giao thông khó khăn. Thiếu nguồn vốn, kinh phí để tổ chức các

phong trào, chưa huy động sự tham gia đóng góp của nhân dân trong huyện

ủng hộ các chương trình chăm sóc người có công do huyện đề xướng. Phần lớn

các nguồn ngân sách này đều lấy từ Trung ương nên có sự thụ động trong quá

trình thực hiện.

Chưa phát huy được tiềm lực và sức mạnh của cá nhân và cộng đồng

tạo nên một phong trào rộng lớn. Các thủ tục quy định và xác nhận đối tượng

người có công còn rườm rà, thiếu nhất quán, gây khó khăn cho người được

hưởng chế độ.

Trước thực trạng trên đòi hỏi Đảng bộ huyện Phú Bình cần làm tốt

những việc sau đây:

Đề ra những chủ trương mới nhằm áp dụng việc thực hiện chính sách

ưu đãi NCCVCM một cách hiệu quả, phấn đấu không để xảy ra tiêu cực trong

quá trình thực hiện.

Đẩy nhanh việc giải quyết cho các đối tượng đã mất mà chưa được

hưởng tiền trợ cấp mai tang phí, trợ cấp một lần.

26

Tăng cường công tác thanh tra kiểm tra, xử lý nghiêm minh các trường

hợp vi phạm trong quá trình thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM. Đồng thời

đơn giản hóa các thủ tục hành chính trong quá trình thực hiện. Trên cơ sở đó

xác nhận trách nhiệm của cơ quan, đơn vị, phân cấp công tác quản lý cụ thể

cho từng cá nhân, phòng ban. Thành lập cơ quan chuyên trách thực hiện nhiệm

vụ giải quyết, tổ chức thực hiện các chính sách, kế hoạch, chương trình, đề án

về lĩnh vực người có công trên địa bàn huyện.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động sự ủng hộ tham gia của các cấp,

ngành đoàn thể, tổ chức, cá nhân… tham gia vào công tác đền ơn đáp nghĩa. Tôn

vinh cá nhân, tập thể làm tốt công tác người có công.

1.2. Chủ trƣơng và quá trình chỉ đạo thực hiện chính sách ƣu đãi

ngƣời có công với cách mạng của Đảng bộ huyện Phú Bình giai đoạn

2006-2010

1.2.1. Chủ trương thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách

mạng của Đảng bộ huyện Phú Bình

NCCVCM là những người đã hy sinh xương máu hoặc có những cống

hiến lớn lao cho sự nghiệp dân tộc. Vì vậy toàn Đảng, toàn dân phải có trách

nhiệm chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho các đối tượng. Kế thừa và

phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc“uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp

nghĩa”, Ngày 16/2/1947 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 20 - SL tại Thái

Nguyên quy định chế độ hưu bổng, thương tật, tiền tuất cho thân nhân tử sỹ,

đặt nền móng cho sự ra đời của hệ thống chính sách ưu đãi cho NCCVCM sau

này.

Trải qua hai cuộc chiến tranh tàn khốc, đất nước được độc lập, nhân dân

được sống trong hòa bình tự do. Cùng với mục tiêu phát triển kinh tế là mục

tiêu đảm bảo sự ổn định xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân

được nâng cao rõ rệt. Từ năm 2006 đến năm 2010, Đảng và Nhà nước đã ban

27

hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm ổn định đời sống vật chất và tinh thần

của các đối tượng người có công. Hệ thống pháp luật quy định đối tượng và

chính sách ưu đãi người có công không ngừng được sửa đổi, bổ sung và hoàn

thiện, tạo nên một hành lang pháp lý giúp cho việc thực hiện các chính sách ưu

đãi NCCVCM đạt hiệu quả.

Thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đến đối tượng NCCVCM,

ngay tại Nghị quyết Đại hội X (4/2006) của Đảng đã khẳng định thực hiện tiến

bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển,

bảo đảm đời sống của người có công bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình

của xã hội, trong quá trình hoàn thiện chính sách ưu đãi NCCVCM phải

thường xuyên điều chỉnh mức trợ cấp ưu đãi, không ngừng nâng cao mức thụ

hưởng chung. Đồng thời tiếp tục nghiên cứu đề xuất bổ sung, sửa đổi, bảo đảm

cho các chính sách luôn phù hợp với điều kiện mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, khắc phục bất hợp lý tồn tại, bảo đảm tính thống nhất của

chính sách và của quá trình tổ chức thực hiện chính sách đối với NCCVCM.

Theo tinh thần Nghị quyết của Đại hội X (4/2006) của Đảng, các hệ thống văn

bản Pháp luật ưu đãi NCCVCM lần lượt ra đời và đưa thực tế áp dụng. Đảng

và Nhà nước thường xuyên có những chính sách điều chỉnh các chế độ ưu đãi

dành cho NCCVCM. Mục đích của việc điều chỉnh nhằm khắc phục những

hạn chế, điểm bất cập trong quá trình thực hiện bằng việc điều chỉnh và ban

hành các chế độ mới thiết thực và phù hợp hơn để người có công được hưởng

những điều tốt đẹp nhất mà chế độ mang lại.

Thực hiện chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước, Tỉnh Thái

Nguyên đã chỉ đạo thực hiện công tác chăm sóc người có công trong toàn tỉnh.

Thái Nguyên là vùng đất ATK xưa, số lượng người có công trong tỉnh chiếm

số lượng rất lớn. Vấn đề NCCVCM là vấn đề được quan tâm và tập trung giải

quyết sau chiến tranh. Báo cáo chính trị tại đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI

28

nhiệm kỳ 2005 - 2010 nhấn mạnh: “…Thực hiện tốt chế độ chính sách của

Đảng và Nhà nước, Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng, bảo đảm

đời sống vật chất và tinh thần các đối tượng chính sách bằng hoặc cao hơn

mức sống dân cư nơi cư trú”. [68]

Ngày 23/11/2006, trong Báo cáo số 116/BC - UBND tỉnh Thái Nguyên

về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2005 - 2010 đã đề ra mục tiêu

thực hiện tốt cách chính sách xã hội là nhiệm vụ quan trọng để phát triển kinh

tế - xã hội ở Thái Nguyên trong thế chủ động hội nhập và cạnh tranh quốc tế,

trong quá trình đổi mới toàn diện đất nước, bảo đảm thu hẹp khoảng cách giữa

các hộ dân, nâng cao vị thế cuả Thái Nguyên trở thành một trung tâm lớn của

cả nước. Trong đó, vấn đề thực hiện chính sách đối với NCCVCM cần được thực

hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của

người có công. „„ Duy trì 100% xã, phường, thị trấn làm tốt công tác thương binh,

liệt sỹ, người có công. Thực hiện Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng

trong toàn tỉnh.‟‟ [85]

Để tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác NCCVCM, Đảng bộ

Tỉnh Thái Nguyên đã chỉ đạo các cơ quan, ban ngành, đoàn thể, UBND các

huyện, thị xã, thành phố Thái Nguyên tổ chức thực hiện Pháp lệnh ưu đãi người

có công với cách mạng, đánh giá những kết quả đạt được và những tồn tại, tham

gia thực hiện tốt phong trào chăm sóc người có công và tổ chức vận động ủng hộ

quỹ đền ơn đáp nghĩa, tập trung nâng cao và ổn định đời sống của các hộ chính

sách khó khăn trong giai đoạn 2006 – 2010. Đồng thời đề ra phương hướng và

các giải pháp phù hợp nhằm thực hiện hiệu quả phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”

trong thời gian tới.

Ngày 05 tháng 03 năm 2007, UBND Tỉnh Thái Nguyên đã ra Chỉ thị số

13/CT-UBND về việc đẩy mạnh công tác thương binh liệt sỹ người có công với

cách mạng và phong trào đền ơn đáp nghĩa thiết thực kỷ niệm 60 năm ngày

29

thương binh liệt sỹ 27/07/1947-27/07/2007 thể hiện sự quan tâm của các cấp

ủy đảng, chính quyền mục đích chăm sóc ngày càng tốt hơn đời sống vật chất

và tinh thần cho NCCVCM. Thông qua chỉ thị tuyên truyền giáo dục trong cán

bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân ý thức trách nhiệm lòng biết ơn đối với

các anh hùng liệt sỹ đã hy sinh xương máu vì sự tồn vong của Tổ quốc, của

nhân dân. Chỉ thị nhấn mạnh tổ chức các hoạt động thiết thực thể hiện trách

nhiệm của cấp, các ngành và các tầng lớp nhân dân đối với người có công với

nước. Đồng thời tiếp tục đẩy mạnh phòng trào đền ơn đáp nghĩa và các hoạt

động uống nước nhớ nguồn, chăm sóc thương binh, gia đình liệt sỹ, NCCVCM.

Đồng thời, Nghị quyết số 09-NQ/HU ngày 11/12/2008 tại Hội nghị lần

thứ mười một ban chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XVI về mục tiêu nhiệm vụ

năm 2008 đã chỉ ra rằng năm 2008 là năm bản lề thực hiện kế hoạch phát triển

kinh tế - xã hội, có ý nghĩa quan trọng góp phần thực hiện thắng lợi Nghị

Quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh khóa XVI. Hội nghị chú trọng đến phát triển văn

hóa – xã hội, trong đó vấn đề thương binh, liệt sỹ, người có công là vấn đề xã

hội quan trọng. Hội nghị xác định “Tập trung thực hiện tốt các chính sách,

giải quyết các hồ sơ tồn đọng cho các đối tượng người có công chưa được

hưởng chính sách, đánh giá đúng thực trạng đời sống của thương binh, bệnh

binh, các gia đình chính sách trong tỉnh để có những đề án phù hợp nhằm

nâng cao chất lượng cuộc sống cho các đối tượng. Đồng thời, nghiêm cấm và

xử lý nghiêm các vấn đề tiêu cực xảy ra trong quá trình thực hiện chính sách

ưu đãi. Huy động sự tham gia đóng góp của các tổ chức, cá nhân, doanh

nghiệp của tỉnh, phát triển các hoạt động tình nghĩa trong xã hội…” [69]

Như vậy, cùng với việc thực hiện các chính sách ổn định xã hội, thực

hiện chính sách ưu đãi cho NCCVCM được coi là nhiệm vụ xã hội trọng tâm

của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên. Đây là một lĩnh vực nhạy cảm không chỉ là

30

vấn đề tư tưởng mà còn là tình cảm đối với những người đã hy sinh xương máu

cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Sự quan tâm của Đảng bộ tỉnh được thể hiện

trong mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo các ban

ngành, đoàn thể, tổ chức thực hiện tốt chủ trương chính sách của Nhà nước.

Phú Bình là huyện có số lượng người có công cao nhất của tỉnh Thái

Nguyên, người có công chiếm một bộ phận quan trọng trong toàn bộ dân cư

của huyện. Thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM không chỉ nhằm mục đích

nhân văn là sự đền ơn trả nghĩa mà còn có ý nghĩa chính trị ổn định xã hội của

huyện.

Thực hiện sự chỉ đạo của tỉnh Thái Nguyên, tại Nghị quyết Đại hội

Đảng bộ huyện Phú Bình lần thứ XXIII nhiệm kỳ 2005 - 2010 nhấn mạnh:

“Thực hiện các chính sách xã hội, ưu đãi người có công với nước được các

cấp, các ngành quan tâm. Đặc biệt trong nhiệm kỳ qua, huyện đã huy động các

nguồn lực xây dựng Đền thờ các anh hùng liệt sĩ, thể hiện đạo lý uống nước

nhớ nguồn và có ý nghĩa giáo dục truyền thống các tầng lớp nhân dân”. [24]

Coi đó là nhiệm vụ chính trị đặc biệt quan trọng.

Phú Bình là vùng căn cứ địa của cách mạng. Cuộc chiến tranh đã đi qua

nhưng những nỗi đau mà nó để lại vẫn còn đó. Toàn huyện có 3.748 đối tượng

người có công (năm 2009) bao gồm thương binh, bệnh binh, liệt sĩ, mẹ việt

Nam anh hùng, cán bộ lão thành cách mạng, cán bộ tiền khởi nghĩa, thân nhân

liệt sĩ những đối tượng này sau khi từ chiến trường trở về với gia đình mang

theo nhiều di chứng của chiến tranh, làm suy giảm khả năng lao động gây ảnh

hưởng đến cuộc sống sinh hoạt. Thêm vào đó khi đất nước bước vào giai đoạn

CNH, HĐH nền kinh tế thị trường đã thâm nhập ngày càng sâu rộng nhu cầu

về đàm bảo cuộc sống và thực hiện công bằng xã hội càng được yêu cầu cao

hơn.

Chủ trương của huyện là phát triển kinh tế đảm bảo ổn định xã hội. Thực

31

hiện có hiệu quả chính sách an sinh xã hội, thực hiện công bằng xã hội, chăm

lo đến từng đối tượng chính sách trong địa bàn huyện nhất là các đối tượng

NCCVCM là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và toàn thể xã hội đồng thời

cũng là đạo lý và truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta từ ngàn xưa. Thực hiện

có hiệu quả chính sách ưu đãi NCCVCM là một nhiệm vụ chính trị quan trọng

trong quá trình phát triển kinh tế, ổn định xã hội của địa phương.

Trên cơ sở nhận thức vai trò và vị trí trong công tác thực hiện chính sách

ưu đãi với người có công. Ngày 26/8/2006 Chỉ thị 05-CT/HU của Ban thường

vụ Huyện ủy Phú Bình về việc lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện Nghị định

54/2006/CP ngày 26/5/2006 của Thủ tướng Chính phủ về hướng dẫn thi hành

Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng. [26]

Chỉ thị nhận thức rõ Nghị định 54/2006/CP về hướng dẫn thi hành pháp

lệnh ưu đãi người có công số 26/2005/UBTVQH của UBTVQH ban hành ngày

29/06/2005 là một “chính sách có ý nghĩa chính trị sâu sắc của Đảng Nhà

nước, yêu cầu các cấp, ban ngành, triển khai chặt chẽ, đúng đối tượng, đảm

bảo công bằng, công khai, không để kẻ xấu, kẻ gian lợi dụng. Đồng thời rà soát,

nắm chắc tình hình, thực hiện đầy đủ quyền lợi cho những người tham gia kháng

chiến, hỗ trợ chăm sóc cho những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn” [26].

Ban thường vụ Huyện ủy yêu cầu các cấp ủy, chính quyền và lãnh đạo các ban,

ngành đoàn thể các cấp chỉ đạo các cấp ban ngành, quán triệt đầy đủ nội dung

Pháp lệnh số 26/2005/PL- UBTVQH11 ngày 29/06/2005 của UBTVQH về thực

hiện chế độ ưu đãi cho người có công với cách mạng; Nghị định số 54/2006/NĐ-

CP về hướng dẫn thi hành pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng và các

văn bản có liên quan đến việc thực hiện chế độ ưu đãi cho NCCVCM. Thông qua

các tài liệu hướng dẫn để triển khai các chế độ cho người có công của huyện.

Trong báo cáo của Ban chấp hành Đảng bộ huyện Phú Bình lần thứ

mười bốn tại Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXIII nhiệm kỳ 2005 – 2010 về

32

phương hướng nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2006 đã nhấn

mạnh công tác thương binh, liệt sỹ, người có công:“ Đẩy mạnh các hoạt động

chăm sóc người có công, đền ơn, đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn, thu hút sự

tham gia của đông đảo các tầng lớp nhân dân, các đoàn thể, doanh nghiệp

trong địa bàn huyện” [23]

Phát huy truyền thống tốt đẹp của mọi tầng lớp nhân dân, phong trào đền

ơn đáp nghĩa ngày càng được tổ chức rộng rãi và được đông đảo nhân dân

trong huyện nhiệt tình hưởng ứng. Các phong trào nhận phụng dưỡng bà mẹ

Việt Nam anh hùng, lập sổ tiết kiệm tình nghĩa, ủng hộ quỹ đền ơn đáp

nghĩa… được các tổ chức, cơ quan, doanh nghiệp và toàn thể nhân dân địa

phương tham gia. Các hoạt động từ thiện giúp đỡ người tàn tật, các nạn nhân bị

nhiễm chất độc hóa học… được huyện Phú Bình triển khai thực hiện.

Ngày 09/05/2009, Ban thường vụ Huyện ủy ra chỉ thị số 20/CT - HU về

việc tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác thương binh, liệt sỹ,

người có công với cách mạng và phong trào đền ơn đáp nghĩa. Năm 2009 là

năm đẩy mạnh công tác chăm sóc thương binh, gia đình liệt sỹ, NCCVCM với

những hoạt động phong phú và thiết thực. Ban thường vụ Huyện ủy yêu cầu

các cấp ủy, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể các cấp của Huyện lãnh đạo,

chỉ đạo các cấp ủy Đảng tổ chức phổ biến, quán triệt đến cán bộ, đảng viên,

các lực lượng vũ trang và nhân dân thực hiện đầy đủ các nội dung Nghị quyết số 09/NQ - HU của Ban chấp hành Đảng bộ Tỉnh Thái Nguyên. Thực hiện

đúng, đầy đủ và chu đáo các chế độ chính sách theo Pháp lệnh ưu đãi

NCCVCM. Kiên quyết xử lý nghiêm minh các tệ nạn tiêu cực trong thực hiện

chính sách ưu đãi cho NCCVCM. Giải quyết dứt điểm các tồn đọng về công

tác thực hiện chính sách nhất là các đối tượng tham gia kháng chiến bảo vệ Tổ

quốc, làm nhiệm vụ quốc tế ở Cam - pu - chia, giúp bạn Lào sau ngày

30/04/1975 đã phục viên, xuất ngũ, thôi việc. Đây là chủ trương, chính sách

33

của Đảng, Nhà nước nhằm ghi nhận, tôn vinh và động viên những người có

công đóng góp cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và

làm nhiệm vụ quốc tế cao cả, góp phần tăng cường an sinh xã hội và tạo động

lực thúc đẩy sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. [28]

Tiếp tục tuyên truyền, đẩy mạnh cuộc vận động toàn dân tham gia ủng

hộ xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa để có nguồn lực vật chất góp phần chăm

sóc tốt hơn những người có công. Phong trào toàn dân chăm sóc người có công

được đẩy mạnh và mở rộng đã có nhiều cá nhân tập thể là thương binh, người

có công phát huy truyền thống cách mạng, phát triển kinh tế tạo việc làm và

thu nhập cho mình và người dân xung quanh, gương mẫu trong thực hiện chính

sách của Đảng và Pháp luật của Nhà nước.

Thực hiện tốt các chính sách ưu đãi NCVCM là chủ trương nhất quán và

đồng bộ của Đảng bộ huyện Phú Bình góp phần ổn định tình hình trật tự an

toàn xã hội trên địa bàn huyện. Chủ trương tăng cường sự lãnh đạo của các cấp

ủy, chính quyền, sự kết hợp của các ban ngành đoàn thể, công tác thực hiện

chính sách NCCVCM đã đi vào nề nếp, tạo dựng được lòng tin của các đối

tượng người có công và đông đảo quần chúng nhân dân. Chính sách đã thiết

thực góp phần giữ vững ổn định chính trị, tạo điều kiện để phát triển kinh tế -

xã hội, đưa cuộc sống của các đối tượng thương binh, bệnh binh, gia đình liệt

sỹ, NCCVCM dần được ổn định.

Như vậy với những chủ trương kịp thời, hơn lúc nào hết trách nhiệm và

tình cảm đối với người có công đã trở thành một nét đẹp trong truyền thống

văn hóa của người Việt Nam. Đó là sự chuẩn bị cần thiết để công tác thực hiện

chính sách ưu đãi NCCVCM có những bước phát triển mới.

1.2.2 Quá trình chỉ đạo thực hiện

1.2.2.1.Thành lập Ban chỉ đạo thực hiện chính sách ưu đãi người có

công với cách mạng

34

Để đảm bảo chính sách ưu đãi NCCVCM được thực hiện theo đúng quy

trình, quy phạm Pháp luật và bảo đảm tính hiệu quả, theo quyết định của

UBND huyện Phú Bình và xét đề nghị của Phòng LĐTBXH huyện, huyện Phú

Bình thành lập BCĐ thực chính sách ưu đãi người có công. Quán triệt chủ

trương của Đảng bộ huyện Phú Bình về công tác thực hiện chính sách người có

công trong huyện, nhằm tăng cường công tác chỉ đạo thực hiện chính sách ưu

đãi NCCVCM ngày 01/09/2006, theo Quyết định số 1739/QĐ của UBND huyện Phú Bình

về việc thành lập ban chỉ đạo thực hiện Pháp lệnh ưu đãi Người có công với

cách mạng ở huyện Phú Bình [72] để tiến hành thực thi chính sách ưu đãi

NCCVCM theo Pháp lệnh người có công trên địa bàn huyện

Nhiệm vụ của BCĐ là xây dựng chương trình và kế hoạch cụ thể triển

khai thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM theo tinh thần của Pháp lệnh ưu

đãi NCCVCM của UBTVQH11. Đồng thời tuyên truyền, phổ biến mục đích và

yêu cầu của công tác thực hiện chính sách ưu đãi người có công theo Pháp lệnh

ưu đãi NCCVCM.

BCĐ làm nhiệm vụ trực tiếp chỉ đạo, hướng dẫn và triển khai tổ chức

thực hiện chính sách ưu đãi NCCVC, tổ chức tập huấn triển khai cho đội ngũ

cán bộ trực tiếp thực hiện theo Nghị định 54/2006/CP, nắm vững quan điểm,

công tác chỉ đạo chuyên môn, các đối tượng được hưởng chế độ làm hồ sơ, quy

trình xét duyệt công nhận đối tượng là người có công. Lập danh sách thống kê

để quản lý và trình UBND huyện. Trong quá trình giải quyết các chế độ chính

sách cho các đối tượng người có công trong huyện phải có trách nhiệm làm

việc nhiệt tình chu đáo, chặt chẽ, chính xác, không để sai sót, tiêu cực xảy ra ở

địa phương, đơn vị mình quản lý. Nghiêm cấm mọi hành vi gian trá, sách

nhiễu, bớt xén, gây phiền hà, rắc rối cho các đối tượng chính sách được hưởng

chế độ…Các cấp, các ban ngành, các đơn vị, địa phương khẩn trương tổ chức

35

thực hiện, nghiêm túc, chính xác và báo cáo kết quả về Ban thường vụ Huyện

ủy.

BCĐ thực hiện chính sách ưu đãi người có công huyện Phú Bình chỉ đạo

phòng LĐTBXH huyện là cơ quan trực tiếp giải quyết các chế độ chính sách

cho các đối tượng NCCVCM. Trong quá trình thực hiện cần nghiêm chỉnh

thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng quy định, giảm tình trạng hồ sơ bị thất lạc,

tránh để tình trạng tồn đọng gây bức xúc cho các đối tượng. Đội ngũ cán bộ,

chuyên viên là công tác chính sách cho người có công cần nâng cao ý thức tinh

thần trách nhiệm trong việc hướng dẫn, giải quyết chế độ chính sách cho đối

tượng.

Thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM là trách nhiệm, nghĩa vụ đồng

thời bày tỏ sự quan tâm sâu sắc, lòng biết ơn sự kính trọng đối với những

người có công. Chính sách ưu đãi NCCVCM được Đảng bộ huyện Phú Bình

triển khai thực hiện theo chủ trương của Đảng và Nhà nước đồng thời áp dụng

linh hoạt với điều kiện kinh tế - xã hội, phong tục tập quán của nhân dân các

dân tộc trên địa bàn huyện.

Thực hiện Chỉ thị số 05 - CT/HU của Ban thường vụ Huyện ủy Phú Bình ban hành

ngày 26/08/2006 về việc triển khai thực hiện theo Pháp lệnh số 26/2005/PL-

UBTVQH11 ngày 29/6/2005của UBTBQH về ưu đãi người có công với cách

mạng. Theo tinh thần của chỉ thị 05 - CT/HU của Ban thường vụ huyện ủy Phú

Bình, công tác thực hiện chính sách ưu đãi cho các đối tượng NCCVCM được

triển khai trong toàn huyện trên ba chính sách tiêu biểu gồm chế độ ưu đãi về

trợ cấp, phụ cấp, chế độ ưu đãi về chăm sóc sức khỏe, chế độ ưu đãi về nhà ở.

Đối với công tác thực hiện chính sách trợ cấp phụ cấp, BCĐ giao nhiệm

vụ cho phòng LĐTBXH huyện tập trung phân loại, tổng hợp đối tượng, xây

dựng kế hoạch trình UBND huyện phê duyệt, xử lý ngay các vấn đề phát sinh

trong quá trình chi trả tiền trợ cấp, tránh tình trạng tồn đọng, đồng thời có biện

36

pháp xử lý ngay đối với các trường hợp hưởng thiếu chính sách hoặc hưởng sai

chính sách. Về giải quyết hồ sơ chính sách cho đối tượng người có công phải

thực hiện theo trình tự: nộp trước, giải quyết trước; nộp sau, giải quyết sau,

những trường hợp đặc biệt cần được báo cáo lên UBND huyện cho ý kiến mới

được thực hiện.

Đối với công tác thực hiện chế độ ưu đãi về chăm sóc sức khỏe, nhằm

không để sót đối tượng hưởng chế độ điều dưỡng, chăm sóc phục hồi sức khỏe,

BCĐ đề nghị Phòng LĐTBXH lập danh sách và dự toán kinh phí, rà soát đối

tượng hướng dẫn làm hồ sơ, tổ chức xét duyệt, giải quyết theo đúng quy trình,

quy định không bỏ sót đối tượng. Đồng thời tổ chức cấp phát thẻ bảo hiểm

hàng năm cho các đối tượng người có công và thân nhân đang được hưởng chế

độ.

Đối với công tác thực hiện chế độ ưu đãi về nhà ở, BCĐ yêu cầu các xã

thị trấn thống kê số đối tượng người có công thực sự khó khăn và có tên trong

danh sách đề án trình lên UBND huyện phê duyệt. BCĐ quyết định chọn

những đối tượng có hoàn cảnh khó khăn đặc biệt không có khả năng xây dựng

được nhà ở hoặc sống trong những căn nhà tạm sẽ được hỗ trợ xây dựng nhà

mới.

Như vậy với việc thành lập BCĐ thực hiện chính sách ưu đãi người có

công với cách mạng ở huyện Phú Bình đã cho thấy tính khoa học và quy trình

tổ chức chặt chẽ. Thành lập BCĐ thực hiện chính sách ưu đãi người có công,

xây dựng kế hoạch, tổ chức tập huấn nghiệp vụ, hướng dẫn các xã, thị trấn

trong triển khai thực hiện. Đồng thời ban hành các văn bản chỉ đạo, đôn đốc,

kiểm tra thực hiện tại các xã nhằm đảm bảo các chính sách ưu đãi NCCVCM

1.2.2.2.Thực hiện chế độ ưu đãi về trợ cấp, phụ cấp

được thực hiện theo đúng Pháp luật.

Thực hiện chi trả theo chế độ cho các đối tượng NCCVCM là việc làm

37

thiết thực nhằm đảm bảo ổn định và nâng cao chất lượng cuộc sống cho

thương binh, liệt sỹ, NCCVCM. Phú Bình là huyện có số lượng người có công

với cách mạng cao nhất của tỉnh Thái Nguyên với 3.748 đối tượng (năm 2009).

Việc chi trả trợ cấp hàng tháng cho đối tượng người có công trên địa bàn

huyện có ý nghĩa quan trọng.

Sau khi có có quyết định thực hiện chi trả trợ cấp của các đối tượng

người có công do Sở LĐTBXH tỉnh Thái Nguyên chuyển về Phòng LĐTBXH

huyện Phú Bình sẽ đăng ký vào sổ quản lý, lập danh sách và cấp sổ lĩnh tiền

trợ cấp ưu đãi hàng tháng cho các đối tượng chính sách. Người có công hàng

tháng sẽ đến nhận tiền trợ cấp ưu đãi trực tiếp tại bộ phận Kế toán – Phòng

LĐTBXH của huyện. Các đối tượng đến nhận tiền trợ cấp cần mang theo sổ

trợ cấp hàng tháng và xuất trình chứng minh thư nhân dân để đối chiếu và ký

nhận vào danh sách chi trả trợ cấp.

Thực hiện việc chi trả trợ cấp cho người có công trên địa bàn huyện theo

kế hoạch của UBND huyện Phú Bình, tài liệu hướng dẫn về việc chi trả trợ

cấp, phụ cấp ưu đãi hàng tháng do Sở LĐTBXH tỉnh. Năm 2006 các đối tượng

người có công trên địa bàn huyện được hưởng trợ cấp phụ cấp với mức chuẩn

là 355.000 đồng. (Thực hiện theo Nghị định số 147/2005/NĐ-CP ban hành

ngày 30/11/2005 của Chính phủ quy định mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi cho

người có công với cách mạng)

Hàng năm, chế độ trợ cấp, phụ cấp đều được điều chỉnh tăng theo sự

phát triển kinh tế của đất nước. Các đối tượng người có công ngày càng được

chăm lo và hưởng những ưu đãi từ phía Nhà nước, chính phủ và cộng đồng.

Tại Nghị định 32/NĐ - CP của Chính phủ ban hành ngày 02/03/2007, mức

chuẩn để xác định các mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi cho NCCVCM là 470.000

đồng/người/tháng. Chế độ trợ cấp, phụ cấp tăng lên 650.000 đồng/tháng ở

Nghị định 105/NĐ-2008/ND-CP ngày 16/09/2008. Như vậy so với mức trợ cấp

38

cũ, ở nghị định này mức trợ cấp đã tăng thêm 180.000 đồng.

Ngày 23/04/2009 Chính phủ ban hành Nghị định số 38/2009/NĐ-CP

nâng mức chuẩn trợ cấp, phụ cấp cho đối tượng NCCVCM lên 685.000 đồng.

Kinh phí đảm bảo thực hiện chế độ cho người có công lấy từ nguồn ngân sách

của Nhà nước để đảm bảo tính lâu dài, thường xuyên và ổn định.

Theo số liệu thống kê Phòng LĐTBXH huyện Phú Bình năm 2009 trên

toàn huyện có 3.748 đối tượng người có công. Số tiền chi trả hàng phụ cấp, trợ

cấp hàng tháng cho các đối tượng theo Nghị định số 38/2009/NĐ - CP là

3,457,081,000 đồng. [45] Cụ thể như sau:

BÁO CÁO TÌNH HÌNH CHI TRẢ TRỢ CẤP, PHỤ CẤP NGƢỜI

CÓ CÔNG HUYỆN PHÚ BÌNH THÁNG 11 NĂM 2009

Mức trợ

Tổng số

TT

Đối tƣợng

cấp (nghìn

Số tiền (đồng)

(ngƣời)

đồng)

Người HĐCM trước 01/01/1945 (Lão

1

11

1,302

14,322,000

thành cách mạng)

Người HĐCM từ 01/01/1945 đến trước

2

17

710

9,230,000

TKN (cán bộ TKN)

3

Bà mẹ VNAH

11

1,225 + 575

18,700,000

Thƣơng binh ngƣời hƣởng chính sách

4

nhƣ thƣơng binh

-TB bị suy giảm khả năng lao động 21 –

408

1,320

538,560,000

60%

- TB bị suy giảm khả năng lao động 61 –

151

1,760

265,760,000

80%

-TB bị suy giảm khả năng lao động 81%

78

2,200 +682

224,796,000

trở lên

39

- TB bị suy giảm khả năng lao động 81%

2 ,200 +885

12,340,000

4

trở lên có bệnh tật đặc biệt nặng.

5

Bệnh binh

-BB suy giảm khả năng lao động từ 41%

306

717

219,402,000

- 50%

-BB suy giảm khả năng lao động từ 51%

206

892

183,752,000

- 60%

-BB suy giảm khả năng lao động từ 61%

188

1,137

213,756,000

- 70%

-BB suy giảm khả năng lao động từ 71%

59

1,312

77,408,000

- 80%

-BB suy giảm khả năng lao động từ 81%

3

1,570

4,710,000

- 90%

-BB suy giảm khả năng lao động từ 91%

3

1,748 +345

6,279,000

- 100%

BB suy giảm khả năng lao động trên

2

1,748 +685

4,866,000

81% có bệnh tật đặc biệt nặng

6

35

Người có công giúp đỡ cách mạng

1,137

39,795,000

7

1978

Người HĐKC bị nhiễm CĐHH

685

1,354,930,000

8

Trợ cấp tuất thân nhân liệt sỹ

205

Tuất 1 Liệt sỹ

685

140,425,000

78

Tuất 2 Liệt sỹ trở lên

1,225

95,550,000

9

5

Mai táng phí

32,500,000

10

3,748

Cộng tổng

3,457,081,000

(Số liệu thống kê phòng LĐTBXH huyện Phú Bình, tháng 11/2009).

Được sự chỉ đạo của Huyện uỷ, UBND huyện Phú Bình, Phòng

LĐTBXH huyện Phú Bình đã thực hiện đảm bảo chi trả đúng người, đúng

danh sách.

40

Chế độ trợ cấp, phụ cấp ưu đãi cho thương binh, liệt sỹ, người có công

và thân nhân của họ là hình thức giúp đỡ về mặt vật chất thiết thực để người có

công đảm bảo cuộc sống và vươn lên trong xã hội

Thực hiện chi trả kịp thời, đầy đủ chế độ trợ cấp ưu đãi người có công

trên địa bàn huyện là 3.748 đối tượng người có công (năm 2009). Việc chi trả

trợ cấp hàng tháng góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người

có công, đó cũng là sự kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc “uống nước

nhớ nguồn”, giúp họ vượt qua khó khăn vươn lên trong cuộc sống, có mức sinh

hoạt bằng với mức bình quân của người dân trong huyện.

Việc thực hiện trợ cấp cho người có công cho họ thấy được ý nghĩa biết

ơn chứ không phải là sự ban ơn của xã hội đồng thời phải bảo đảm yêu cầu

quản lý đối tượng gắn với việc chăm sóc người có công trên địa bàn của các

cấp chính quyền. Nhờ những số tiền trợ cấp, phụ cấp được hỗ trợ hàng tháng

mà đời sống của các gia đình chính sách dần được cải thiện. Điều đó góp một

phần thiết thực vào việc ổn định cuộc sống khi mà chủ yếu các đối tượng chính

sách sống bằng nguồn trợ cấp do Nhà nước hỗ trợ.

1.2.2.3.Thực hiện chế độ ưu đãi về chăm sóc sức khỏe

Các đối tượng NCCVCM thường là những người giảm sút khả năng lao

động do nhiều nguyên nhân như di chứng thương tật, bị nhiễm chất độc hóa

học, hoặc do tuổi cao. Do vậy, sức khỏe họ thường xuyên bị giảm sút. Chăm

sóc sức khỏe cho NCCVCM là một việc làm thiết thực thể hiện tính nhân văn

sâu sắc nhằm đảm bảo sức khỏe và giúp đỡ họ phục hồi thể trạng của những di

chứng sau chiến tranh. Đây là việc làm cần thiết và cấp bách cho đối tượng

NCCVCM. Chế độ chăm sóc sức khỏe cho người có công được hưởng bao

gồm chế độ bảo hiểm y tế và chế độ điều dưỡng.

Chế độ bảo hiểm y tế: Các đối tượng là người có công và thân nhân của họ

được hưởng chế độ chăm sóc sức khỏe, được cấp thẻ bảo hiểm y tế hàng năm gồm :

41

Người có công với cách mạng và thân nhân đang hưởng trợ cấp hàng

tháng; Người có công với cách mạng thuộc diện hưởng trợ cấp một lần.Trường

hợp này phải kèm thêm bản sao Huân chương Kháng chiến, Huy chương

Kháng chiến; Huân chương Chiến thắng, Huy chương Chiến thắng; Thân nhân

không thuộc diện hưởng trợ cấp hàng tháng của Liệt sĩ, Anh hùng Lực lượng

vũ trang nhân dân, Anh hùng lao động trong thời kỳ kháng chiến; thương binh,

bệnh binh, người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học suy giảm

khả năng lao động 61% trở lên; Người phục vụ Bà mẹ Việt Nam anh hùng;

thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa

học suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên.

Chế độ điều dưỡng là một chế độ rất tốt và thu được hiệu quả, kịp thời

góp phần nâng cao sức khỏe cho người có công. Theo đó đối tượng NCCVCM

được hưởng chế độ điều dưỡng như sau:

Đối tượng được hưởng điều dưỡng một năm một lần đối với: Cán bộ lão

thành cách mạng (người hoạt động cách mạng trước ngày 01/01/1945); Cán bộ

tiền khởi nghĩa (người hoạt động cách mạng từ ngày 01/01/1945 đến trước

Tổng khởi nghĩa 19 tháng Tám năm 1945); bà mẹ việt nam anh hùng; thương

binh và người được hưởng chính sách như thương binh; bệnh binh có tỷ lệ suy

giảm lao động do thương tật, bệnh tật từ 81% trở lên đang sống tại gia đình;

người có công giúp đỡ cách mạng được nhà nước tặng kỷ niệm chương “Tổ

quốc ghi công” hoặc “bằng có công với nước”; người hoạt động cách mạng bị

nhiễm chất độc hóa học hoặc bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên.

Điều dưỡng luân phiên 5 năm 1 lần đối với: Cha đẻ, mẹ đẻ, vợ hoặc

chồng của liệt sĩ, người có công nuôi dưỡng liệt sĩ; anh hùng lực lượng vũ

trang nhân dân, anh hùng lao động trong kháng chiến; người có công giúp đỡ

cách mạng trong kháng chiến; thương binh, bệnh binh có tỷ lệ suy giảm lao

động do thương tật dưới 81%.

42

Người hoạt động cách mạng bị nhiễm chất độc hóa học hoặc suy giảm

khả năng lao động dưới 81%; người hoạt động cách mạng bị bắt bị tù, đày.

Chế độ điều dưỡng tại các cơ sở điều dưỡng

+ Thời gian điều dưỡng tối đa là 10 ngày

+ Mức chi điều dưỡng: 800.000 đồng/người/lần.

+ Trong thời gian điều dưỡng tập trung nếu bị ốm đau đột xuất thì được

giới thiệu đi điều trị tại bệnh viện gần nhất theo chế độ bảo hiểm y tế hiện

hành.

+ Trường hợp đối tượng đi điều dưỡng nếu không ở hết thời gian của đợt điều

dưỡng sẽ được thanh toán lại tiền. Số kinh phí do Sở LĐTBXH chi hàng năm. Chế

độ điều dưỡng tại gia đình với mức chi 600.000 đồng/ người/ lượt.

Căn cứ Thông tư liên tịch số 17/2006/TTLT-BLĐTBXH-BTC-BHYT

ban hành ngày 21/11/2006; Huyện Phú Bình căn cứ vào quyết định số 06/QĐ-

LĐTBXH của tỉnh Thái Nguyên ban hành ngày 17/12/2006 về việc chăm sóc

sức khỏe người có công, chỉ đạo cho phòng LĐTBXH huyện Phú Bình quản lý

đã thực hiện điều dưỡng tại nhà cho 527 người với tổng số tiền là 421,600,000

đồng. [43]

BẢNG TỔNG HỢP DANH SÁCH ĐIỀU DƢỠNG NGƢỜI CÓ

CÔNG HUYỆN PHÚ BÌNH NĂM 2006

(Số tiền 800.000 đồng/ người/ lần)

STT Số ngƣời Tổng số tiền Xã

23 18.400.000 Úc Kỳ 1

39 31.200.000 Hà Châu 2

26 20.800.000 Bảo Lý 3

15 12.000.000 Lương Phú 4

8 6.400.000 Bàn Đạt 5

43

6 Nga My 41 32.800.000

7 Đồng Liên 19 15.200.000

8 Hương Sơn 20 16.000.000

9 Tân Thành 24 19.200.000

10 Thanh Ninh 10 8.000.000

11 Kha Sơn 22 17.600.000

12 Nhã Lộng 33 26.400.000

13 Tân Kim 30 24.000.000

14 Tân Khánh 28 22.400.000

15 Tân Hòa 39 31.200.000

16 Dương Thành 16 12.800.000

17 Thượng Đình 26 20.800.000

18 Điềm Thụy 35 28.000.000

19 Tân Đức 34 27.200.000

20 Xuân Phương 15 12.000.000

21 Đào Xá 23 18.400.000

22 Tổng số: 21 xã 527 412.600.000

(Số liệu Thống kê Phòng LĐTBXH huyện Phú Bình năm 2006)

Từ năm 2006 đến năm 2010 công tác chăm sóc sức khỏe cho đối tượng

NCCVCM được thực hiện thường xuyên. Hàng năm các đối tượng chính sách

đều được đi điều dưỡng ở các cơ sở y tế trong đó có 572 người được đi điều

dưỡng tại bệnh viện huyện Phú Bình và các cơ sở điều dưỡng, 1130 người

được hỗ trợ điều dưỡng tại nhà. [43]

Việc cấp phát thẻ bảo hiểm y tế được thực hiện đúng với các đối tượng.

Tạo điều kiện cho các đối tượng được thực hiện khám chữa bệnh kịp thời.

100% số lượng đối tượng người có công được tham gia bảo hiểm y tế. Hàng

năm công tác chăm sóc sức khỏe cho người có công được thực hiện có kết quả.

44

Đảm bảo cho họ có độ chăm sóc tốt tại cơ sở điều dưỡng và nghiêm túc trong

quá trình điều dưỡng tại nhà. Chế độ chăm sóc sức khỏe tạo được tâm lý vui

tươi, phấn khởi, an tâm trong quá trình điều trị, điều dưỡng. Việc thực hiện chế

độ chăm sóc sức khỏe là vấn đề cần thiết, hỗ trợ cho đối tượng NCCVCM

được sống vui, sống khỏe với gia đình.

1.2.2.4. Thực hiện chế độ ưu đãi về nhà ở

Nhà ở là nhu cầu thiết yếu của mỗi gia đình. Mọi người ai sống cũng cần

có nhà để ở “sống cái nhà, chết cái mồ”. Hiện nay nhiều gia đình có công với

cách mạng đang phải sống trong những căn nhà tạm bợ, dột nát.

Chính sách ưu đãi về nhà ở là một trong những chính sách thiết thực

nhất góp phần ổn định đời sống của đối tượng người có công. Đây là chính

sách giúp cho các đối tượng có công “an cư lạc nghiệp” khi về với cuộc sống

xã hội. Đối tượng được hưởng chế độ ưu đãi trong huyện đó là những

NCCVCM mà hoàn cảnh gia đình gặp nhiều khó khăn không có khả năng xây

dựng nhà ở hoặc ở trong những căn nhà dột nát.

Với tình cảm và lòng biết ơn đối với NCCVCM đã hy sinh vì dân vì

nước. Huyện Phú Bình đã huy động mọi tiềm lực của huyện để hỗ trợ cho các

gia đình được hưởng chính sách giải quyết nhà ở. Chính sách ưu đãi về nhà ở

là một bộ phận của chương trình xây dựng nhà tình nghĩa. Với phương châm

Nhà nước, nhân dân và gia đình người có công cùng làm, chính sách về nhà ở

đã thu hút được sự quan tâm của đông đảo nhân dân trong huyện góp phần

quan trọng vào việc ổn định đời sống của người có công.

Ngày 21/8/2008,thực hiện quyết định số 147/QĐ-UBND tỉnh Thái Nguyên về việc

phê duyệt đề án hỗ trợ làm nhà cho hộ gia đình chính sách có hoàn cảnh khó

khăn đang ở nhà tạm trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, huyện Phú Bình đã ban

hành công văn số 126/CV - UBND chỉ đạo các xã, thị trấn tiến hành thông báo,

lập danh sách các đối tượng người có công trong diện hỗ trợ nhà ở để xem xét

45

thực hiện hỗ trợ. Việc làm nhà ở mới cho các hộ gia đình chính sách khó khăn

được thực hiện theo phương châm Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí, cộng

đồng, anh em, dòng họ giúp đỡ ngày công lao động, vật liệu tại chỗ hoặc bằng

tiền để các hộ gia đình chính sách chủ động tổ chức triển khai thực hiện có sự

giám sát của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể của xã và thôn; UBND

xã, phường, thị trấn tổ chức kiểm tra, nghiệm thu và thanh toán, quyết toán tiền

hỗ trợ theo quy định.

Đối tượng áp dụng theo quy định đó là hộ gia đình chính sách có hoàn

cảnh khó khăn đang ở nhà tạm, bao gồm: Thương binh, bệnh binh, thân nhân

liệt sỹ, người có công giúp đỡ cách mạng, người hoạt động kháng chiến bị

nhiễm chất độc hoá học đang hưởng trợ cấp ưu đãi hàng tháng. Quy định

chung điều kiện hỗ trợ của các đối tượng người có công như sau:

- Có đất ở ổn định không tranh chấp, không thuộc diện phải di chuyển, là

hộ chưa được hỗ trợ để làm nhà ở mới.

- Đang ở nhà tạm; nhà tạm được hỗ trợ theo Đề án này là nhà đang ở có

kết cấu đơn giản, vật liệu thô sơ đã hư hỏng, bị dột khi có mưa và có nguy cơ

bị đổ khi có thiên tai.

Theo điều kiện và tiêu chuẩn như trên huyện Phú Bình đã chỉ đạo các

xã, thị trấn tiến hành tổ chức kiếm tra các đối tượng người có công khó khăn

về nhà ở. Thống kê, phân loại thực trạng nhà ở, hoàn cảnh kinh tế của từng

người để có thứ tự đề xuất giải quyết chế độ và có hình thức hỗ trợ phù hợp,

lập danh sách các đối tượng đủ điều kiện gửi lên huyện để tiến hành kiểm tra

xác minh hồ sơ. Những hồ sơ đầy đủ và hợp lệ được gửi lên tỉnh để xin quyết

định xây dựng. Nguồn kinh phí hỗ trợ bao gồm nguồn ngân sách của tỉnh,

ngân sách của huyện, quỹ đền ơn đáp nghĩa của huyện, hỗ trợ của chính

quyền xã nơi cư trú và sự nỗ lực của bản thân người có công. Phương án hỗ

trợ nhà ở được thực hiện trên nguyên tắc cân đối giữa nguồn hỗ trợ của cấp

46

trên, phù hợp với điều kiện kinh tế và quỹ đất vốn có của địa phương.

Đối tượng tặng nhà tình nghĩa là người có công có hoàn cảnh đặc biệt

khó khăn không thể tự tạo dựng được nhà ở hoặc bị thiên tai phá hủy. Nhà tình

nghĩa được xây dựng có kết cấu tường gạch, có trát vôi, lợp proximăng, 3 gian

rộng 25m². Mỗi căn nhà trị giá 30 triệu đồng.

Đối tượng thuộc diện hỗ trợ cải tạo, sửa chữa nhà ở theo quyết định là

đối tượng người có công đã có nhà ở thuộc quyền sở hữu của mình nhưng nhà

quá dột nát, chật chội như nhà tranh vách đất hoặc nhà ngói tạm xung quanh be

manh tre, tấm cót…không đảm bảo an toàn trong mùa mưa bão, đối tượng

không tự khắc phục được hoặc không có khả năng xây dựng mới thì được hỗ

trợ kinh phí để cải tạo sửa chữa. Nguyên tắc hỗ trợ căn cứ vào công lao và

hoàn cảnh cụ thể của từng đối tượng. Không hỗ trợ theo nguyên tắc bình quân

hoặc đồng loạt cho các đối tượng. Trong trường hợp một người thuộc diện

được hưởng nhiều ưu đãi được xét ưu đãi cải tạo nhà ở thì căn cứ vào ưu đãi

cao nhất mà người đó được hưởng để xét hỗ trợ. Nếu trong trường hợp một gia

đình có nhiều đối tượng người có công được xét ưu đãi hỗ trợ nhà ở thì được

cộng chế độ ưu đãi của từng thành viên thành chế độ ưu đãi của cả hộ, mức hỗ

trợ tối đa là mức hỗ trợ cao nhất. Quy định cho các đối tượng thuộc diện cải

tạo, sửa chữa nhà ở cụ thể như sau:

- Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, anh hùng lao động trong thời

kỳ kháng chiến; thương binh, người hưởng chính sách như thương binh,

thương binh loại B, bệnh binh có tỷ lệ thương tật từ 81% trở lên, thân nhân

đang hưởng tuất nuỗi dưỡng hàng tháng được xét hỗ trợ 80% để xây dựng một

nhà tình nghĩa theo mức giá hiện hành tại địa phương.

- Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học, thương binh,

người hưởng chính sách như thương binh, thương binh loại B, bệnh binh có tỷ

lệ suy giảm lao động do thương tật từ 61 – 80%, được xét hỗ trợ 40% để xây

47

dựng một nhà tình nghĩa theo mức giá hiện hành tại địa phương.

- Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh, thương binh

loại B, bệnh binh có tỷ lệ suy giảm lao động do thương tật từ 41 – 60%, được

xét hỗ trợ 30% để xây dựng một nhà tình nghĩa theo mức giá hiện hành tại địa

phương.

-Thân nhân liệt sỹ: Cha đẻ, mẹ đẻ, vợ hoặc chồng, con, người có công

nuôi dưỡng liệt sỹ khi còn nhỏ người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc

hóa học, thương binh, người hưởng chính sách như thương binh, thương binh

loại B, bệnh binh có tỷ lệ suy giảm lao động do thương tật từ 21 – 40%, người

có công nuôi dưỡng cách mạng được nhà nước phong tặng được xét hỗ trợ

20% để xây dựng một nhà tình nghĩa theo mức giá hiện hành tại địa phương.

Căn cứ vào nguồn hỗ trợ của tỉnh Thái Nguyên hỗ trợ 20 triệu đồng/ hộ

xây mới; 15 triệu đồng/ hộ sửa chữa, cải tạo nhà ở. Huyện Phú Bình đã huy

động đóng góp quỹ đền ơn đáp nghĩa cùng với tỉnh Thái Nguyên tổ chức tặng

nhà, cải tạo, sửa chữa nhà ở cho các đối tượng NCCVCM. Qũy đền ơn đáp

nghĩa của huyện đã hỗ trợ 5 triệu đồng/ hộ xây mới và 2,5 triệu đồng/hộ sửa

chữa, cải tạo nhà. [46]

Trong điều kiện kinh tế của huyện còn nghèo, việc thực hiện xóa nhà

tạm cho các đối tượng người có công ở huyện Phú Bình là một chính sách thiết

thực giúp cho các đối tượng thương binh, liệt sỹ người có công an cư lạc

nghiệp không phải sống trong căn nhà tạm, nhà dột, không còn lo lắng khi mùa

mưa bão đến. Tạo nên sự phấn khởi, vui tươi giúp cho các đối tượng người có

công yên tâm tập trung phát triển kinh tế để đảm bảo cuộc sống gia đình.

Chế độ ưu đãi nhà ở đã được thực hiện nghiêm minh và thu được những

kết quả quan trọng trong quá trình thực hiện. Hỗ trợ kịp thời xây mới, sửa chữa

nhà ở cho các hộ gia đình NCCVCM là việc làm mang tính nhân văn sâu sắc,

thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với những người đã hy sinh

48

cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Huyện Phú Bình đã kịp thời chỉ đạo, giám

sát chặt chẽ trong triển khai thực hiện tiến độ thi công. Đây là niềm động viên

tình thần to lớn, tạo điều kiện cho người dân có nơi ở ổn định, từ đó tạo tiền đề

cho họ vươn lên trong cuộc sống. Năm 2009 huyện đã tổ chức xây mới 65 căn

nhà và sửa chữa cho 129 căn nhà với tổng số tiền là 4,5 tỷ đồng [46]. Chế độ

ưu đãi nhà ở góp phần thiết thực trong việc giải quyết nhu cầu về chỗ ở ổn định

cho người có công, giúp họ yên tâm làm ăn, phát triển kinh tế nâng cao đời

sống của gia đình. Toàn huyện phấn đấu thực hiện xóa bỏ nhà dột nát và nhà

tạm bợ trên trong huyện. Nhiều hộ được hỗ trợ nhà ở đã phấn khởi yên tâm lao

động sản xuất.

*

* *

Phú Bình là huyện trung du miền núi với những điều kiện kinh tế - xã

hội đang trên đà phát triển. Đây chính là nhân tố nền tảng giúp cho việc thực

hiện có hiệu chính sách ưu đãi người có công. Đồng thời truyền thống lịch sử -

văn hóa của địa phương cũng là nhân tố quan trọng trong việc vận động đông

đảo nhân dân tham gia vaò các phong trào tình nghĩa. Tạo nên một sức mạnh

tổng hợp giữa Nhà nước và nhân dân trong việc thực hiện chính sách ưu đãi

người có công.

Với đặc điểm độc đáo của huyện Phú Bình là một địa phương có số

lượng người có công cao nhất của tỉnh Thái Nguyên, dưới sự lãnh đạo của

Đảng bộ huyện Phú Bình công tác thực hiện chính sách ưu đãi người có công

trên ba lĩnh vực chủ yếu là chế độ trợ cấp, phụ cấp, chế độ ưu đãi về chăm sóc

sức khỏe, chế độ ưu đãi nhà ở đã từng bước thực thi và đạt được những kết quả

nhất định. Người có công ở huyện Phú Bình có những đặc điểm riêng biệt, có

nhiều khó khăn hạn chế về sức khỏe, công việc, kinh tế, điều kiện sinh hoạt …

nên vấn đề thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM trên địa bàn huyện Phú

49

Bình là vấn đề hết sức cần thiết đối với họ.

Từ năm 2006 đến năm 2010 công tác thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM đã đạt

được các kết quả đáng ghi nhận trên ba lĩnh vực chính gồm chế độ ưu đãi về

trợ cấp, phụ cấp, chế độ ưu đãi về chăm sóc sức khỏe, chế độ ưu đãi về nhà ở.

Có được những kết quả như trên Đảng bộ huyện Phú Bình quán triệt quan

điểm chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Từng bước đề ra kế hoạch

thực hiện theo lộ trình phù hợp với điều kiện kinh tế, phong tục tập quán của

người dân trong huyện nên đã nhận được sự đồng thuận của đại bộ phận người

dân.

Bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn tồn tại một số hạn chế cần

khắc phục: Công tác tuyên truyền vận động toàn dân tham gia các phong trào

tình nghĩa trên địa bàn huyện còn hạn chế, nguồn vốn thu được còn ít phân lớn

phụ thuộc vào ngân sách Trung ương nên hay bị động. Một số hiện tượng thiếu

công bằng, minh bạch trong quá trình thực hiện chưa được phát hiện và xử lý

kịp thời…Điều đó làm hạn chế hiệu quả trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo ở địa

phương. Trước thực trạng ấy trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2014, Đảng

bộ huyện Phú Bình đề ra những chủ trương mới trong lãnh đạo, tổ chức thực

hiện chính sách ưu đãi NCCVCM.

50

Chƣơng 2

ĐẢNG BỘ HUYỆN PHÚ BÌNH LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN

CHÍNH SÁCH ƢU ĐÃI NGƢỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG

TỪ NĂM 2010 ĐẾN NĂM 2014

2.1 Yêu cầu mới và chủ trƣơng của Đảng bộ huyện Phú Bình

2.1.1 Yêu cầu mới

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, mọi chính sách và

sự biến động về an ninh - chính trị, kinh tế, xã hội ở mỗi nước, mỗi khu vực và

trên thế giới đều có những tác động sâu sắc mang tính toàn cầu đến từng quốc

gia, vùng, miền, địa phương, đến từng cộng đồng dân cư, từng gia đình, thậm

chí đến mỗi con người và ngược lại. Vì vậy, vấn đề an sinh xã hội nói chung,

đặc biệt ưu đãi, chăm sóc người có công để không ngừng nâng cao mức sống

của họ nói riêng, có ý nghĩa và tác động không chỉ trong phạm vi quốc gia mà

còn bị tác động không nhỏ bởi sự ảnh hưởng có tính quốc tế.

Từ năm 2010, Việt Nam đứng trước khó khăn lạm phát, nền kinh tế có

nhiều biến động. Trong bối cảnh đó, Trung ương Đảng, Chính phủ đã đề ra

một số các chính sách, giải pháp bước đầu ổn định nền kinh tế vĩ mô, phục hồi

tốc độ tăng trưởng kinh tế; tăng tiềm lực và quy mô nền kinh tế; giữ vững ổn

định chính trị và trật tự an toàn xã hội; bảo đảm yêu cầu quốc phòng, an ninh;

tăng khả năng bảo đảm an sinh xã hội, trong đó có bảo đảm mức sống cho

người có công và thân nhân của họ.

Trước những biến động của tình hình mới, yêu cầu đặt ra đối với công

tác thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM là cần hoàn chỉnh hệ thống chính

sách và đổi mới về phương hướng chỉ đạo thực hiện để ổn định đời sống cho

các đối tượng người có công, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội

của đất nước.Với mục tiêu chăm lo tốt hơn đối với những NCCVCM trên cơ sở

kết hợp ba nguồn lực: Nhà nước, cộng đồng và bản thân đối tượng tự vươn lên.

51

Công tác chăm sóc người có công, bảo đảm an sinh xã hội cho các đối tượng

chính sách trong phát triển bền vững đòi hỏi cần phối hợp đồng bộ trong việc

thực hiện giải pháp. Các chính sách về trợ cấp, đãi ngộ cho người có công cần

được điều chỉnh và từng bước nâng cao. Tiếp tục đầu tư, xây dựng các cơ sở

điều dưỡng nhằm phục vụ tốt về chăm sóc sức khỏe cho người có công. Đề án

hỗ trợ nhà ở cho người có công tiếp tục triển khai và hoàn thành trong thời

gian tới.

Trên cơ sở những thành tựu đã đạt được trong giai đoạn 2006 - 2010,

Đảng và Nhà nước tiếp tục đề ra những chủ trương, chính sách ưu đãi cho các

đối tượng người có công với cách mạng tạo thành một hệ thống pháp luật ngày

càng hoàn thiện và có nhiều đổi mới. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (01/2011)

của Đảng trong mục tiêu thực hiện có hiệu quả công bằng tiến bộ xã hội, bảo

đảm an sinh xã hội trong từng bước và trong từng chính sách phát triển đã

nhấn mạnh: “Huy động mọi nguồn lực xã hội cùng với Nhà nước chăm lo tốt

hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của những người và gia đình có công.

Giải quyết dứt điểm các tồn đọng về chính sách NCCVCM, đặc biệt là người

tham gia hoạt động bí mật, lực lượng vũ trang, thanh niên xung phong trong

các thời kỳ cách mạng và kháng chiến. Tạo điều kiện, khuyến khích người và

gia đình có công tích cực tham gia phát triển kinh tế để nâng cao đời sống vật

chất, tinh thần.” [17]

Thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM phải phù hợp với trình độ phát

triển kinh tế - xã hội và khả năng huy động, cân đối nguồn lực đất nước. Trong

quá trình thực hiện các chính sách NCCVCM, Nhà nước giữa vai trò chủ đạo

đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa, khuyến khích các tổ chức cá nhân, doanh

nghiệp tham gia. Phong trào toàn dân chăm sóc NCCVCM trong thời kỳ công

nghiệp hóa hiện đại hóa cần được khuyến khích đẩy mạnh. Quán triệt quan

điểm, chủ trương của Đảng, ngày 16/12/2012 UBTVQH đã ban hành Pháp

52

lệnh 04/2012/PL-UBTVQH13 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh

ưu đãi người có công với cách mạng, thay thế cho Pháp lệnh ưu đãi người có

công với cách mạng số 35/2007/PL - UBTVQH11 do một số điểm của Pháp

lệnh này hiện đã không còn phù hợp với tình hình hiện nay, có lĩnh vực đối

tượng được xét hưởng chế độ tiêu chuẩn bị bó hẹp, có lĩnh vực lại nới rộng.

Mặt khác, việc phân cấp quản lý và xác định trách nhiệm của các bộ,

ngành chưa rõ ràng, cụ thể, dẫn đến chồng chéo. Để khắc phục những hạn chế

đó, Pháp lệnh 04/2012/PL - UBTVQH13 chú trọng mở rộng đối tượng được

xác nhận là liệt sĩ, thương binh, bệnh binh; đồng thời giới hạn cụ thể khoảng

thời gian xác nhận người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học.

Tiếp đó, ngày 09/04/2013 Chính phủ ban hành Nghị định số 31/2013/NĐ-CP quy

định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người có

công với cách mạng. Nghị định số 31/2013/NĐ-CP gồm 7 chương 80 điều thay

thế cho Nghị định số 54/2006/NĐ-CP ngày 26 tháng 5 năm 2006 của Chính

phủ về hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người có công

với cách mạng và Nghị định số 89/2008/NĐ-CP ngày 13 tháng 8 năm 2008 của

Chính phủ về hướng dẫn thi hành Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của

Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng. Theo Nghị định số

31/2013/NĐ-CP số người được hưởng chính sách ưu đãi được mở rộng, đúng đối

tượng, đúng chính sách, các nội dung ưu đãi được luật pháp quy định, trở thành

một hệ thống chính sách xã hội có tác dụng động viên, khích lệ tinh thần vì nước

quên thân, vì dân phục vụ của người có công.

Cùng với việc ban hành Pháp lệnh số 04/2013/PL-UBTVQH13 về sửa

đổi bổ sung một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người có công. Ngày

20/10/2012 UBTVQH ban hành Pháp lệnh số 05/2012/PL-UBTVQH13 về sửa

đổi bổ sung một số điều của Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà

nước“Bà mẹ Việt Nam anh hùng”. Cùng với đó, ngày 22/05/2013 Chính phủ

53

ban hành Nghị định số 56/2013/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi

hành Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh

hùng”. So với pháp lệnh cũ năm 1994 thì pháp lệnh này có hai điểm mới.

Thứ nhất, Pháp lệnh số 05 mở rộng đối tượng được xét tặng, truy tặng

danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng” bao gồm 5 trường

hợp như sau: Có 2 con trở lên là liệt sỹ (Pháp lệnh năm 1994 quy định có từ 3

con trở lên là liệt sĩ); Chỉ có 2 con mà 1 con là liệt sĩ và 1 con là thương binh

suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên (Pháp lệnh năm 1994 quy định “Có

2 con mà cả 2 con là liệt sỹ”); Chỉ có 1 con mà người con đó là liệt sỹ; Có 1

con là liệt sỹ và có chồng hoặc bản thân là liệt sỹ (Pháp lệnh năm 1994 quy

định Có 1 con là liệt sỹ, chồng và bản thân là liệt sỹ); Có 1 con là liệt sỹ và bản

thân là thương binh suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên” (Pháp lệnh

năm 1994 không quy định trường hợp này). Việc mở rộng đối tượng được xét

tặng, truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng”

khẳng định chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, được

nhân dân đồng tình, ủng hộ, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội. Thứ hai, Pháp

lệnh số 05 quy định cụ thể hơn về các chế độ đối ưu đãi đối với bà mẹ Việt

Nam anh hùng.

Đặc biệt, để đánh giá toàn diện, đầy đủ việc thực hiện chính sách của

Đảng và Nhà nước đối với người có công, ngày 27/10/2013, Thủ tướng Chính

phủ đã có Chỉ thị số 23/CT - TTg về tổng rà soát việc thực hiện chính sách ưu

đãi đối với người có công với cách mạng trong hai năm 2014 - 2015. Theo đó,

Bộ LĐTBXH và Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã

xây dựng Chương trình phối hợp, triển khai rà soát đối với 7 đối tượng người

có công, bao gồm: Liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, Bà mẹ Việt Nam anh hùng,

thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa

học, người có công giúp đỡ cách mạng và cựu thanh niên xung phong. Trên cơ

54

sở rà soát sẽ kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền tiếp tục hoàn thiện việc

triển khai thực hiện chính sách đối với người có công.

Như vậy, hệ thống văn bản và chính sách pháp luật đối với người có

công ngày càng được bổ sung và hoàn thiện tạo nên hành lang pháp lý giúp

cho NCCVCM được hưởng chế độ chăm sóc tốt hơn. Diện thụ hưởng các

chính sách mở rộng, mức hỗ trợ được nâng lên. Nguồn lực đầu tư ngày càng

lớn. Nguồn lực đầu tư từ ngân sách nhà nước được tăng cường, các nguồn lực

xã hội khác ngày càng có nhiều đóng góp lớn. Công tác thực hiện chính sách

ưu đãi NCCVCM đã đạt được nhiều thành tựu, góp phần ổn định chính trị - xã

hội, đóng gớp vào việc hoàn thành một số mục tiêu Thiên nhiên kỷ của đất

nước.

2.1.2 Chủ trương của Đảng bộ huyện Phú Bình

Nhận thức ý nghĩa việc thực hiện tốt các chủ trương, chính sách lớn của

Đảng và Nhà nước về ưu đãi đối với NCCVCM không chỉ là trách nhiệm của

toàn Đảng, toàn dân trong thời kỳ mới, mà còn thể hiện sự kế thừa, phát huy

truyền thống đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa” đậm tính

nhân văn của dân tộc ta. Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XVII

(nhiệm kỳ 2010-2015) nhấn mạnh mục tiêu của tỉnh là phát triển kinh tế gắn

liền với phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng xã hội. Trong

bối cảnh mới đất nước trong thời kỳ hội nhập và cạnh tranh quốc tế, đổi mới

toàn diện đất nước, tỉnh Thái Nguyên đang phấn đấu trở thành một trung tâm

kinh tế, văn hóa, y tế, đào tạo của cả nước.

Song song với việc phát triển kinh tế, mục tiêu đảm bảo phát triển bền

vững xã hội được tỉnh Thái Nguyên xác định “Tổ chức tốt các chính sách xã

hội, tiếp tục duy trì và phát triển sâu rộng phong trào đền ơn đáp nghĩa, đẩy

mạnh chương trình giải quyết việc làm, giảm hộ nghèo. Từng bước nâng mức

sống của các đối tượng chính sách bằng mức sống trung bình của nhân dân

55

nơi cư trú. Tăng cường các giải pháp thu hút lao động, tạo việc làm tại chỗ

cho người dân, giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống mức thấp nhất” [70]. Quán triệt

tinh thần của Nghị quyết đại hội đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XVII nhiệm

kỳ 2010 - 2015, nhận thấy lĩnh vực chăm sóc NCCVCM là một lĩnh vực quan

trọng, không chỉ là vấn đề đạo lý, truyền thống mà còn là vấn đề chính trị tư

tưởng và tình cảm, vấn đề xã hội mang tính nhân văn cao quý và có ý nghĩa lâu

dài. Thực hiện tốt các chính sách ưu đãi NCCVCM góp phần bảo đảm an sinh

xã hội toàn dân, góp phân nâng cao thu nhập, bảo đảm cuộc sống an toàn, bình

đẳng và hạnh phúc của toàn dân.

Nghị quyết Đại hội cũng chỉ ra rằng để thực hiện tốt các công tác chăm

sóc người có công góp phần làm tốt công tác an sinh xã hội của địa phương

cần phải triển khai đầy đủ và kịp thời tất cả các chính sách của Đảng và Nhà

nước đến từng đối tượng chính sách, đảm bảo đúng đối tượng được thụ hưởng.

Muốn vậy đội ngũ làm công tác chính sách từ tỉnh, thành phố đến các quận

huyện, xã phường vừa phải có tâm, có trình độ chuyên môn đủ khả năng hoàn

thành nhiệm vụ được giao. Đồng thời phải thường xuyên tiến hành kiểm tra,

thanh tra, giám sát, xử lý nghiêm các vụ việc tiêu cực trong quá trình thực hiện

chính sách ưu đãi của Đảng và Nhà nước đến các đối tượng.

Đại hội nhấn mạnh mục tiêu phấn đấu đến năm 2015, toàn tỉnh Thái

Nguyên không còn hộ thương binh, gia đình liệt sỹ ở nhà tạm, nhà dột nát,

100% hộ gia đình, chính sách người có công có mức sống ngang bằng và cao

hơn mức bình quân của nhân dân địa phương nơi cư trú. Huy động sự tham gia

tích cực hơn nữa của các cơ quan, đơn vị cá nhân trên địa bàn tỉnh trong công

tác đền ơn đáp nghĩa và đa dạng hóa công tác huy động nguồn lực cho công tác

thực hiện chính sách NCCVCM.

Để thực hiện tốt các nhiệm vụ và mục tiêu đã đề ra trong Nghị quyết Đại

hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII (nhiệm kỳ 2010- 2015), trong công tác thực hiện

56

chính sách ưu đãi NCCVCM cần tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của các cấp

ủy Đảng, chính quyền xã, phường cần thường xuyên tổ chức tổng kết, biểu

dương, khen thưởng kịp thời, nhân rộng các điển hình tiên tiến, những tập thể,

cá nhân có thành tích trong công tác đền ơn đáp nghĩa. Có như vậy mới tạo được

sự tin tưởng trong nhân dân, sự đồng thuận trong đội ngũ cán bộ để thực hiện tốt

các chính sách cho NCCVCM.

Để thực thi các chế độ chính sách của Đảng và Nhà nước ban hành trong

pháp lệnh số 04/2012/PL-UBTVQH 13 về chính sách ưu đãi NCCVCM và Pháp

lệnh số 05/2012/PL-UBTVQH 13-Pháp lệnh vinh dự bà mẹ Việt Nam anh hùng.

Ngày 23/08/2012 Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên đã ban hành chỉ thị số 14/CT-

UBND tiếp tục đẩy mạnh công tác thương binh, liệt sỹ, NCCVCM và hoạt động

kỷ niệm 65 năm ngày thương binh, liệt sỹ (27/07/1947-27/07/2012) theo đó

UBND tỉnh yêu cầu: “Các sở, ban, ngành, đoàn thể, UBND các huyện, thị xã,

thành phố tổ chức tuyên truyền đến các tầng lớp nhân dân công lao to lớn, sự hy

sinh cống hiến của các thương binh, bệnh binh, liệt sỹ gia đình liệt sỹ,

NCCVCM. Tuyên truyền sâu rộng các chủ trương, các chính sách và chế độ ưu

đãi của nhà nước trong Pháp lệnh số 04/2012/PL-UBTVQH13 và Nghị quyết số

31/2012/NQ-CP về hướng dẫn thi hành Pháp lệnh người có công. Đẩy mạnh

phong trào toàn dân đền ơn đáp nghĩa đối với những người có công với cách

mạng. Biểu dương gương người tốt việc tốt, gương tập thể, cá nhân tích cực

tham gia thực hiện tốt công tác thương binh liệt sỹ, người có công trong dịp 27/7

ở từng huyện, thành phố, thị xã, làm cơ sở để lựa chọn tập thể, xã phường, cá

nhân tiêu biểu tham dự Hội nghị toàn quốc và biểu dương tập thể, cá nhân trong

phong trào đền ơn đáp nghĩa”. [87]

Việc ban hành chỉ thị số 14/CT-UBND có ý nghĩa thiết thực không chỉ

thể hiện sự chấp hành nghiêm túc chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà

nước mà còn thể hiện sự quan tâm của chính quyền địa phương đến các đối

57

tượng người có công trong địa bàn tỉnh Thái Nguyên.

Phú Bình là huyện có số lượng NCCVCM cao nhất trong tỉnh Thái

Nguyên với 3.239 đối tượng là thương binh, bệnh binh, gia đình chính sách

người có công với sách mạng (2014). Trong điều kiện và tình hình mới của

huyện công tác thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM được đặc biệt chú

trọng. Nghị quyết đại hội đảng bộ huyện Phú Bình lần thứ XXIV nhiệm kỳ

2010-2015 nhấn mạnh “Thực thi có hiệu quả Pháp lệnh ưu đãi người có công

với cách mạng và Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng (sửa đổi)

nhằm nâng cao đời sống cho các đối tượng NCCVCM trong huyện. Đồng thời,

ngoài những chính sách ưu đãi về vật chất và tinh thần cho bản thân các đối

tượng thương binh, liệt sỹ, NCCVCM cần có chế độ ưu đãi thích hợp cho thân

nhân của người có công. Bồi dưỡng tạo điều kiện cho con em họ được hưởng

những ưu đãi về giáo dục đào tạo, tạo việc làm. Mở rộng các phong trào đền

ơn đáp nghĩa, khuyến khích các cá nhân, tập thể, đơn vị trong địa bàn huyện

vào công tác chăm sóc thương binh, liệt sỹ, ngươi có công” [32].

Quán triệt quan điểm chỉ đạo của Đảng bộ huyện Phú Bình, công tác

thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM được triển khai rộng khắp và đồng bộ

tạo nên diện mạo vật chất và tinh thần mới cho các đối tượng người có công

trong huyện. Tỷ lệ người có công được ở huyện Phú Bình được hưởng các

chính sách và chế độ ưu đãi đầy đủ và kip thời chiếm tỷ lệ cao nhất trong tỉnh

Thái Nguyên.

Trong giai đoạn mới, mục tiêu tổng quát của huyện Phú Bình là nâng

cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng bộ trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã

hội của huyện, trong đó vấn đề thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM là một

trong những nhiệm vụ quan trọng góp phần ổn định xã hội của huyện. Đảng bộ

huyện Phú Bình đã chủ trương chỉ đạo các ban ngành, đoàn thể, các cấp chính

quyền địa phương, xã thị trấn tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt các

58

chính sách ưu đãi NCCVCM theo Pháp lệnh người có công (sửa đổi), xử lý

ngay các vấn đề bất hợp lý phát sinh trong quá trình chỉ đạo thực hiện chính

sách ưu đãi cho các đối tượng người có công trong huyện. Đồng thời kiên

quyết xử lý các vấn đề tiêu cực, tham nhũng, vi phạm chủ trương, chính sách

của Đảng và Nhà nước, gây nên tâm lý bất bình trong xã hội. Đẩy mạnh các

hoạt động xã hội chăm sóc ưu đãi người NCCVCM, các phong trào đền ơn đáp

nghĩa, uống nước nhớ nguồn, khuyến khích các tầng lớp nhân dân tham gia.

Chủ trương xã hội hóa công tác chăm sóc thương binh, bênh binh, gia

đình liệt sỹ, NCCVCM đã được đông đảo các tầng lớp nhân dân trong huyện

hưởng ứng. Qũy đền ơn đáp nghĩa của huyện được thành lập và hoạt động có

hiệu quả giúp đỡ cho các đối tượng người có công có hoàn cảnh khó khăn

trong huyện. Các hoạt động giúp đỡ bằng tinh thần như chương trình phụng

dưỡng bà mẹ Việt Nam anh hùng, chăm lo cải thiện nhà ở, ưu tiên phát triển

giáo dục, chăm sóc sức khỏe ... đã đem lại hiệu quả thiết thực góp phần nâng

cao đời sống vật chất và tinh thần của người có công trong huyện. Huyện Phú

Bình phấn đấu đạt mục tiêu 100% gia đình người có công có mức sống bằng

hoặc khá hơn mức sống trung bình của nhân dân nơi cư trú, 100% xã, thị trấn

làm tốt công tác thương binh liệt sỹ và người có công. Nhờ sự quan tâm của các

cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, đời sống của đại bộ phận tầng lớp nhân

dân trong huyện nói chung và các đối tượng thương binh, liệt sỹ, NCCVCM nói

riêng được nâng cao. Nhiều đối tượng người có công nỗ lực vươn lên trở thành

những điển hình làm kinh tế giỏi của huyện, phấn đấu trở thành người công dân

kiểu mẫu, gia đình cách mạnh kiểu mẫu của huyện.

Như vậy với chủ trương đẩy mạnh thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM

cảu huyện Phú Bình từ năm 2010 đến năm 2014 cho thấy đã có sự phát triển về

chất trong công tác lãnh đạo. Chủ trương xã hội hóa chăm sóc người có công

được đề ra và nâng cao tạo nên một sức mạnh tổng hợp huy động nguồn lực từ

59

nhiều phía cho người có công. Đây cũng là chủ trương tích cực của huyện Phú

Bình trong giai đoạn mới. Nhờ sự chỉ đạo sát sao trong công tác thực hiện chính

sách ưu đãi NCCVCM mà quá trình thực hiện các chính sách cho người có công

trong huyện đã đạt được nhiều kết quả tích cực so với giai đoạn trước. Từ kết

quả trên cho thấy sự đúng đắn trong chủ trương lãnh đạo thực hiện chính sách

ưu đãi NCCVCM của Đảng bộ huyện Phú Bình.

2.2 Qúa trình chỉ đạo thực hiện

2.2.1 Kiện toàn Ban chỉ đạo thực hiện chính sách ưu đãi người có

công với cách mạng

Thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM là vấn đề xã hội quan trọng

được xác định tại đại hội Đảng bộ huyện Phú Bình lần thứ XXIV nhiệm kỳ

2010 - 2015. Để chính sách ưu đãi NCCVCM được thực hiện có hiệu quả chủ

trương của Đảng bộ huyện Phú Bình nhấn mạnh vai trò lãnh đạo, chỉ đạo thực

hiện của các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương tạo ra khối lãnh đạo

thống nhất, vững mạnh nhằm đạt được các chỉ tiêu về kinh tế, chính trị, văn

hóa, xã hội của huyện.

Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, quán triệt tinh

thần Nghị quyết Đại hội đảng bộ huyện Phú Bình lần thứ XXIV (nhiệm kỳ

2010-2015) tăng cường sự chỉ đạo của các cấp ủy Đảng chính quyền trong

công tác thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM được triển khai toàn diện và

đồng bộ đạt kết quả tích cực, có ý nghĩa chính trị - xã hội sâu rộng. Để triển

khai thực hiện có hiệu quả Pháp lệnh số 04/2012/PL-UBTVQH13 ngày

16/07/2012 của UBTVQH về sửa đổi bổ sung một số điều của Pháp lệnh ưu đãi

người có công với cách mạng trong địa bàn huyện và Chỉ thị số 14/CT-UBND

của tỉnh Thái Nguyên tiếp tục đẩy mạnh công tác thương binh, liệt sỹ, NCCVCM

và hoạt động kỷ niệm 65 năm ngày thương binh, liệt sỹ (27/07/1947-27/07/2012)

công tác chỉ đạo thực hiện ở huyện Phú Bình được tăng cường. Ngày

60

23/08/2013 UBND huyện Phú Bình ban hành Quyết định số 15/QĐ-UBND về

việc triển khai thực hiện pháp lệnh số 04/2012/PL-UBTVQH về việc sửa đổi, bổ

sung một số điều của pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng trên địa

bàn huyện Phú Bình.

UBND huyện Phú Bình yêu cầu các xã, phòng, ban thực hiện tốt các nội

dung sau đây [81]:

-Tổ chức quán triệt đầy đủ, sâu sắc, ý nghĩa mục đích yêu cầu và nội

dung của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng số 04/PL-UBTVQH13

và Nghị định số 31/2013/NĐ-CP về việc quy định chi tiết hướng dẫn thi hành

một số điều của Pháp lệnh ưu đãi NCCVCM đến các cấp, các ngành và mọi tầng

lớp nhân dân nhằm tạo điều kiện để mọi người biết và thực hiện có hiệu quả.

- Chủ động có kế hoạch chỉ đạo thực hiện Pháp lệnh:

+ Thành lập, kiện toàn ban chỉ đạo thực hiện Pháp lệnh ưu đãi NCCVCM

ở các cấp.

+ Phân công rõ nhiệm vụ đến các cơ quan tham mưu, giúp UBND thực

hiện Pháp lệnh.

+ Quy định chế độ trách nhiệm của các cấp, các ngành, các tổ chức, đoàn

thể nhằm đảm bảo thự hiện đúng, đủ các chế độ ưu đãi người có công với cách

mạng đến các đối tượng theo quy định.

+ Tổ chức huấn luyện về công tác người có công theo nội dung Pháp lệnh

NCCVCM, Nghị định và các thông tư hướng dẫn. Tăng cường công tác kiểm

tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện chế độ chính sách cho người có công ở

các xã, thị trấn.

+ Chủ động trong việc rà soát chế độ chính sách người có công, chỉ đạo

thực hiện Pháp lệnh ưu đãi NCCVCM để điều chỉnh mức trợ cấp ưu đãi.

Ngày 20 tháng 10 năm 2013 theo công văn số 458/CV-UBND của UBND

huyện Phú Bình, phòng LĐTBXH huyện Phú Bình là cơ quan thường trực của BCĐ

61

thực hiện Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng của huyện. Phòng

LĐTBXH huyện thực hiện các nhiệm vụ sau đây:

+ Căn cứ nghị dịnh số 31/2013/NĐ-CP ngày 9/4/2013 của chính phủ về

việc quy định chi tiết hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh ưu đãi

người có công với cách mạng, để có kế hoạc tổ chức tập huấn, hướng dẫn các cơ

quan, ban ngành, các tổ chức, đoàn thể. UBND các xã, thị trấn kê khai, xác

minh, xác nhận, giám định điều chỉnh mức trợ cấp theo quy định. Lập danh sách

gửi về Phòng LĐTBXH trước ngày 25/12/2013.

+ Hoàn thành việc điều chỉnh, chuyển đổi mức trợ cấp, phụ cấp đối với

các đối tượng đang được hưởng chính sách, đối tượng là mẹ Việt Nam anh

hùng, người tham gia kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học, thân nhân liệt sỹ,

người hoạt động kháng chiến bị địch bắt và tù đày trình UBND để thực thi chế

độ mới cho các đối tượng người có công trên địa bàn huyện.

-Thường xuyên kiểm tra đôn đốc việc thực hiện ở các xã, thị trấn trong

địa bàn huyện. Thu thập, tổng hợp tình hình, báo cáo ban chỉ đạo và UBND

huyện để kịp thời có ý kiến chỉ đạo, giải quyết những vướng mắc trong quá trình

triển khai thực hiện Pháp lệnh bằng cách:

+ Hướng dẫn các xã, thị trấn kiện toàn ban chỉ đạo thực hiện Pháp lệnh ưu

đãi NCCVCM.

+ Thực hiện chế độ họp ban chỉ đạo cấp huyện và báo cáo việc thực hiện

công tác người có công theo quy định.

Trong quá trình thực hiện nếu có phát sinh những khó khăn, vướng mắc,

yêu cầu các đơn vị báo cáo lên UBND huyện (qua phòng LĐTBXH huyện) để

xem xét giải quyết.

Để thực thi quyết định trên có hiệu quả UBND huyện Phú Bình đã thành

ban hành quy chế số 314/QC-UBND ngày 21 tháng 10 năm 2013 về hoạt động

của ban chỉ đạo thực hiện pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng ở

62

huyện Phú Bình. [80] Theo đó, quy chế quy định rõ BCĐ thực hiện Pháp lệnh

ưu đãi NCCVCM huyện Phú Bình là cơ quan thường trực của UBND huyện

Phú Bình xây dựng kế hoạch hàng năm về chỉ đạo thực hiện chế độ chính sách

ưu đãi người có công.

Phương thức làm việc của BCĐ thực hiện Pháp lệnh ưu đãi người có

công với cách mạng của huyện Phú Bình theo phiên họp định kỳ hoặc đột xuất

theo yêu cầu của Trưởng ban chỉ đạo hoặc Phó ban chỉ đạo thường trực khi

được ủy quyền.

+ Định kỳ 6 tháng một lần BCĐ họp giao ban để kiểm điểm đánh giá các

hoạt động và thực hiện các nhiệm vụ, kế hoạch đề ra.

+ Hàng năm ban chỉ đạo xây dựng các kế hoạch, tổ chức kiểm tra đánh

giá việc thực hiện Pháp lệnh ưu dãi người có công ở các xã, thị trấn ít nhất 1

năm một lần.

+ Tham gia thẩm định xét duyệt hồ sơ đối tượng được hưởng chính sách

ưu đãi NCCVCM.

BCĐ thực hiện Pháp lệnh người có công, cụ thể là Phòng LĐTBXH có

nhiệm vụ sau:

+ Giúp UBND huyện triển khai thực hiện đúng đối tượng và đầy đủ các

chế độ chính sách theo Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng trên địa

bàn huyện.

+ Phối hợp với các bộ phận liên quan nghiên cứu đề xuất các chính sách,

giải pháp nhằm thực thi tốt pháp lệnh ưu đãi NCCVCM trên địa bàn huyện.

+ Thực hiện công tác báo cáo định kỳ hoặc đột xuất cho UBND huyện,

Sở LĐTBXH tỉnh Thái Nguyên theo đúng thời gian và quy định.

+ Nhiệm vụ của từng thành viên trong ban chỉ đạo do ông Trưởng ban

chỉ đạo thực hiện Pháp lệnh ưu đãi NCCVCM phân công. Phòng LĐTBXH

huyện Phú Bình là cơ quan thường trực ban chỉ đạo, các thành viên khác của

63

ban chỉ đạo thực hiện theo chế độ kiêm nhiệm. Kinh phí thực hiện do phòng

LĐTBXH hội huyện lên dự toán và đưa vào dự trù kinh phí năm của ngành.

Phân công nhiệm vụ giữa các thành viên:

+ Trưởng ban chỉ đạo thực hiện pháp lệnh ưu đãi NCCVCM ở huyện

Phú Bình chịu trách nhiệm trước chủ tịch UBND huyện về kết quả và chất

lượng thực hiện pháp lệnh và phân công nhiệm vụ giữa các thành viên trong

ban chỉ đạo.

+ Phó ban chỉ đạo giúp việc cho Trưởng ban chỉ đạo, triển khai, điều

hành việc thẩm định, xét duyệt hồ sơ ưu đãi người có công theo nội dung của

Pháp lệnh và thay mặt trưởng ban chỉ đạo khi trưởng ban đi vắng.

+ Các thành viên khác hoạt động theo sự chỉ đạo của trưởng ban chỉ đạo

Như vậy việc kiện toàn BCĐ thực hiện Pháp lệnh ưu đãi NCCVCM cho

thấy sự nghiêm túc và khoa học trong công tác lãnh đạo thực hiện chính sách

ưu đãi người có công. Trước yêu cầu mới của công tác chăm sóc NCCVCM,

đảng bộ huyện Phú Bình đã có chủ trương để kịp thời chỉ đạo thực hiện chính

sách ưu đãi cho các đối tượng người có công của huyện, chỉ đạo thực hiện đầy

đủ các chế độ chính sách của Nhà nước. Đồng thời nhấn mạnh đến vai trò của

các ban ngành đoàn thể, của mọi tầng lớp nhân dân trong huyện tạo nên phong

trào xã hội hóa công tác chăm sóc người có công ở địa phương coi đó là nét

đẹp và truyền thống văn hóa của dân tộc.

2.2.2 Thực hiện chế độ ưu đãi về trợ cấp, phụ cấp

Thực hiện chính sách trợ cấp ưu đãi cho NCCVCM là đường lối, chủ

trương nhất quán của Đảng và Nhà nước nhằm ghi nhận những công lao đóng

góp, sự hy sinh cao cả của họ đối với đất nước. Để thực hiện tốt chính sách trợ

cấp, phụ cấp nguồn lực tài chính có vai trò đặc biệt quan trọng. Trong đó nguồn

lực tài chính chi cho ưu đãi người có công từ Ngân sách Nhà nước là nguồn chi

thường xuyên, bảo đảm và ổn định.

64

Từ năm 2010 đến năm 2014, Chính phủ đã ban hành liên tiếp 4 Nghị

định điều chỉnh mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi cho các đối tượng người có công

theo quy định trong Pháp lệnh ưu đãi NCCVCM. Mức trợ cấp ưu đãi thường

xuyên được điều chỉnh phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước.

Dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ huyện Phú Bình, Phòng LĐTBXH huyện

Phú Bình tiếp tục thực hiện công tác chi trả trợ cấp, phụ cấp ưu đãi cho các đối

tượng người có công với cách mạng trên địa bàn huyện. Mức trợ cấp, phụ cấp

ưu đãi được thực hiện chi trả chủ yếu bằng nguồn ngân sách từ Trung ương.

Hình thức chi trả được thực hiện hàng tháng và một lần.

Chi trả hàng tháng cho bản thân các đối tượng người có công với cách

mạng, thân nhân người có công. Hình thức chi trả một lần áp dụng trong

trường hợp bản thân đối tượng người có công từ trần, hoặc người đang hưởng

chế độ của người có công từ trần. Tùy theo từng đối tượng mà mức chi trả là

khác nhau.

Chế độ mai táng phí cho người có công đang được hưởng chế độ trợ cấp

hàng tháng khi từ trần thì người tổ chức mai táng sẽ được hưởng tiền trợ cấp mai

táng phí với số tiền bằng 10 tháng lương tối thiểu. Ngoài ra thân nhân người có

công với cách mạng còn được hưởng trợ cấp 1 lần bằng 3 tháng trợ cấp phụ cấp

khi đối tượng còn sống đang được hưởng.

Ví dụ: Ông Dương Văn Hựu thuộc đối tượng cán bộ tiền khởi nghĩa từ

trần ngày 6/5/2013. Theo quyết định số 2725/QĐ-UBND “Về việc trợ cấp tiền

mai táng phí và trợ cấp 01 lần đối với thân nhân người có công với cách mạng

đã từ trần” của UBND Huyện Phú Bình ngày 25/5/2013.

- Thôi trợ cấp hàng tháng với ông Dương Văn Hựu kể từ ngày

01/06/2013.

- Trợ cấp 01 lần với bà Bùi Thị Chuẩn, là vợ đối tượng. Hiện đang

thường trú tại xóm Nguyễn, thị trấn Hương Sơn, huyện Phú Bình, tỉnh Thái

65

Nguyên. Chế độ được hưởng bao gồm :

+ Tiền mai táng phí: 11.500.000 đồng

+ Tiền trợ cấp 01 lần (03 tháng x 2.315.000 đồng) = 6.945.000 đồng

Tổng cộng: 18.445.000 đồng

Theo báo cáo của phòng LĐTBXH, từ năm 2014 giải quyết chế độ mai

táng phí và trợ cấp một lần cho các đối tượng người có công với mức quy định

cụ thể như sau:

Tổng

Tiền mai

Tiền trợ cấp

Stt

Loại đối tƣợng

Tổng cộng

số

táng phí

01 lần

Người hoạt động cách

mạng trước ngày 01 tháng

1

11,500,000

6,945,000

18,445,000

1

01 năm 1945 đang hưởng

trợ cấp ưu đãi hàng tháng;

Thân nhân 01 liệt sĩ đang

hưởng trợ cấp tuất nuôi

1

11,500,000

3,660,000

15,160,000

2

dưỡng hàng tháng;

Thân nhân 02 liệt sĩ đang

hưởng trợ cấp tuất nuôi

2

23,000,000

14,640,000

37,640,000

3

dưỡng hàng tháng;

Thương binh, bệnh binh,

người hưởng chính sách

như thương binh bị suy

giảm khả năng lao động do

4

thương tật, bệnh tật từ

2

23,000,000

16,692,000

39,692,000

80% trở xuống (bao gồm

cả những thương binh loại

B được công nhận từ trước

ngày 31 tháng 12 năm

66

1993) đang hưởng trợ cấp

ưu đãi hàng tháng. Thương

binh hưởng chế độ mất sức

lao động

Người hoạt động kháng

chiến bị nhiễm chất độc

hóa học suy giảm khả năng

5

1

11,500,000

6,516,000

18,016,000

lao động từ 80% trở xuống

đang hưởng trợ cấp ưu đãi

hàng tháng.

Tổng số

7

128,953,000

(Số liệu thống kê Phòng LĐTB&XH huyện Phú Bình năm 2014)

Trợ cấp tiền tuất hàng tháng cho 1.412 đối tượng là thân nhân của người

có công trên địa bàn huyện phú Bình bao gồm 31 đối tượng tuất thân nhân nuôi

dưỡng liệt sỹ, 497 thân nhân chủ yếu của liệt sỹ đang được hưởng chế độ tuất

hàng tháng (quan hệ là chồng, vợ, con, mẹ của liệt sỹ) và trợ cấp tuất thờ cúng

liệt sỹ 1 lần vào 27/7 hàng năm cho 884 gia đình. [54] Cụ thể như sau:

Stt Xã Chế độ thụ hƣởng

Tuất LSND Thân nhân Đại diện gia

thân nhân 02 chủ yếu của đình thờ

Liệt sỹ Liệt sỹ cúng liệt sỹ

Tân Khánh 1 1 28 27

Lương Phú 2 0 19 42

Tân Kim 3 1 16 35

Bàn Đạt 4 1 7 21

Đào Xá 5 0 24 24

Bảo Lý 6 1 27 32

67

Tân Đức 7 3 28 74

Kha Sơn 8 0 36 58

TT Hương Sơn 9 2 37 55

Nhã Lộng 10 2 19 39

Điềm Thụy 11 4 22 37

Tân Hòa 12 2 28 49

Thượng Đình 13 5 33 58

Dương Thành 14 1 16 41

Hà Châu 15 4 26 53

Nga My 16 1 28 68

Thanh Ninh 17 0 18 43

Tân Thành 18 0 9 15

Đồng Liên 19 0 14 29

Úc Kỳ 20 0 29 22

Xuân Phương 21 3 33 65

Tổng cộng 31 497 884

(Số liệu thống kê Phòng LĐTBXH năm 2014)

Thực hiện theo chế độ chính sách của Nhà nước, theo quy định tại Nghị

định 31/2013/NĐ-CP ngày 09/04/2013 bổ sung thêm đối tượng người hoạt

động kháng chiến bị địch bắt tù, đày được hưởng trợ cấp hàng tháng. Năm

2013,toàn huyện Phú Bình có 13 đối tượng người hoạt động kháng chiến bị

địch bắt, tù đày đã được hưởng mức trợ cấp một lần, nay được chuyển sang

hưởng trợ cấp hàng tháng bằng 0,6 lần mức chuẩn. Huyện Phú Bình hiện đang

thực hiện chi trả tiền trợ cấp cho các đối tượng người có công trên địa bàn

huyện với mức chuẩn là 1.220.000 đồng/tháng tháng 7/2013.

Thực hiện theo quyết định số 1785/QĐ-UBND ngày 11/05/2013 “về

việc chấn chỉnh công tác chi trả trợ cấp ưu đãi người có công với cách

68

mạng”.Theo ý kiến phản hồi của một số đối tượng chính sách ở một số xã, thị

trấn về việc chi trả chính sách ưu đãi cho NCCVCM như chi trả còn chậm, thủ

tục hành chính còn rườm rà, một số cán bộ còn sách nhiễu trong việc giải

quyết chính sách cho đối tượng. Do vậy UBND huyện yêu cầu các cán bộ làm

công tác chi trả ở các xã, thị trấn tổ chức đi chi trả đến tận tay các đối tượng,

không được sách nhiễu các đối tượng. Đặc biệt không được yêu cầu các đối

tượng đến xã, thị trấn để chi trả. Đồng thời, trong quá trình thực hiện chi trả trợ

cấp cho các đối tượng người có công phải thực hiện chính xác, kịp thời. Thời

gian chi trả trợ cấp đến tận các đối tượng chậm nhất là đến ngày mùng 5 hàng

tháng. Thực hiện báo cáo về UBND huyện, Phòng LĐTBXH huyện chậm nhất

là ngày 15 hàng tháng.

Nhờ việc đẩy mạnh chỉ đạo, kiểm soát trong việc chi trả trợ cấp, phụ cấp

công tác thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM đã được tiến hành nhanh

chóng, kịp thời đến các đối tượng người có công trong huyện.

Như vậy hệ thống các chế độ, chính sách ưu đãi đối với người có công

ngày càng được sửa đổi, bổ sung hoàn thiện đối tượng hưởng chế độ ưu đãi

cũng được mở rộng, điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế -

xã hội của đất nước. Các quy định về điều kiện, tiêu chuẩn xác nhận người có

công cũng thường xuyên được rà soát để đảm bảo thực hiện đúng đối tượng và

đủ các chính sách. Điều này đã thể hiện tính hệ thống và sự hoàn thiện liên tục

của chính sách ngày càng sâu sát thực tế, mức độ quan tâm và các đối tượng

được ghi công, được ưu đãi ngày càng mở rộng, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử

và tăng trưởng kinh tế gắn kết với bảo đảm an sinh xã hội trong sự nghiệp đổi

mới đất nước.

Kết quả thực hiện chính sách trợ cấp, phụ cấp ưu đãi tính đến 6 tháng

đầu năm 2014 ở huyện Phú Bình có 3.239 đối tượng được hưởng trợ cấp hàng

tháng (năm 2014). Nhờ việc thay đổi và điều chỉnh mức trợ cấp mà các đối

69

tượng nguời có công trên địa bàn huyện được hưởng đầy đủ kịp thời các chế

độ. Tất cả đối tượng được tăng mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi đã góp phần nâng

cao chất lượng cuộc sống cho gia đình và bản thân người có công. Đồng thời,

các đối tượng được bổ sung thêm nhiều ưu đãi. Cụ thể toàn huyện có 6 bà mẹ

Việt Nam anh hùng và 90 người hoạt động kháng chiến nhiễm chất độc hóa

học bị suy giảm khả năng lao đông từ 81% trở lên có trợ cấp người phục vụ.

Đối với người hoạt dồng kháng chiến bị địch bắt và tù đày đã được hưởng mức

trợ cấp hàng tháng thay vì được hưởng mức trợ cấp một lần như trước. Tính

đến năm 2014 có 13 người hoạt động kháng chiến bị địch băt và tù đày đã

chuyển hưởng các mức trợ cấp mới. [54]

Trong bối cảnh kinh tế - xã hội của đất nước còn nhiều khó khăn, thách

thức nhưng hiện nay hơn 95% đối tượng chính sách có công với cách mạng đã

có mức sống bằng và cao hơn mức sống trung bình của xã hội. Nhiều người

nhờ những cơ hội ưu đãi mà vươn lên làm giàu chính đáng và đã có những

đóng góp quan trọng cho sự phát triển chung của đất nước

2.2.3 Thực hiện chế độ ưu đãi về chăm sóc sức khỏe

Trong những năm qua, mặc dù điều kiện kinh tế-xã hội còn nhiều khó

khăn, song Đảng và Nhà nước ta vẫn luôn đặc biệt quan tâm tới đội ngũ người

có công với cách mạng. Điều kiện sống vật chất được nâng cao, do đó các chế

độ về điều dưỡng chăm sóc sức khỏe ngày càng được thực hiện tốt nhằm đảm

bảo sức khỏe cho các đối tượng người có công với cách mạng. Để thực hiện

chăm sóc sức khỏe cho các đối tượng người có công Nhà nước đã ban hành các

thông tư về chế độ ưu đãi NCCVCM. Thể hiện sự quan tâm đặc biệt đến sức

khỏe của các đối tượng như một sự đền ơn đáp nghĩa.

Dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ huyện Phú Bình, công tác thực hiện chính

sách chăm sóc sức khỏe cho người có công được đẩy mạnh hơn trong giai đoạn

2010-2014. Hàng năm, Phòng LĐTBXH huyện Phú Bình ban hành công văn

70

chỉ đạo các xã, thị trấn hướng dẫn thực hiện chế độ điều dưỡng cho người có

công với cách mạng theo các chế độ, chính sách của nhà nước.

Năm 2010, Huyện Phú Bình đã thực hiện chế độ cho đối tượng nguời có

công hưởng chế độ điều dưỡng theo thông tư đã ban hành thông tư liên tịch số

25/2010/BLĐTBXH-BTC-BYT của Liên Bộ Tài chính, Bộ Y tế, Bộ LĐTBXH

ngày 11/09/2010 về hướng dẫn chế độ chăm sóc sức khỏe đối với người có

công với cách mạng. Chế độ chăm sóc sức khỏe được tổ chức dưới hai hình

thức là: Chế độ bảo hiểm và chế độ điều dưỡng.

Đảng bộ huyện Phú Bình tiếp tục chỉ đạo cho Phòng LĐTBXH-cơ quan

chuyên trách của huyện tiến hành tổng hợp danh sách các đối tượng người có

công trong huyện được hưởng chế độ bảo hiểm y tế hàng năm. Ngày 24/10/2010, Phòng

LĐTBXH huyện Phú Bình ban hành công văn số 1709-LĐTBXH về việc triển khai thực hiện

thông tư liên tịch số 25/2010/BLĐTBXH-BTC-BYT. Đồng thời hướng dẫn cho các đối

tượng làm thủ tục hưởng bảo hiểm y tế theo quy định của Nhà nước [48].

Ngoài chế độ khám chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế, công tác chăm sóc

sức khỏe cho người có công ở huyện Phú Bình còn được sự tham gia hỗ trợ

của các cá nhân, doanh nghiệp, đoàn thể như: Hội chữ thập đỏ của huyện đã

phối hợp với bệnh viện chỉnh hình phục hồi chức năng, công ty Bảo hiểm nhân

thọ Prudential Việt Nam, Công ty Dược phẩm Hoàng Giang tổ chức thăm

khám và cấp phát thuốc miễn phí cho các đối tượng là người có công với cách

mạng tại trung tâm y tế của huyện.

Cùng với thực hiện chế độ bảo hiểm y tế, chế độ điều dưỡng được triển

khai toàn bộ 21/21 xã của huyện Phú Bình. Ngày 7/08/2014, thực hiện công

văn 1558-LĐTBXH-NCC của huyện Phú Bình về thực hiện chế độ điều dưỡng

NCC theo thông tư liên tịch số 25/2010/TTLT-BLĐTBXH-BTC Thông tư liên

tịch của liên Bộ LĐTBXH Bộ tài chính quy định các đối tượng được hưởng

chế độ điều dưỡng phục hồi sức khỏe.Ngoài ra, các đối tượng còn được trang

71

cấp phương tiện để phục hồi như chân giả, tay giả, xe lăn… để hỗ trợ họ trong

quá trình điều trị phục hồi chức năng.

Tiếp tục thực hiện chế độ điều dưỡng gồm 2 hình thức: Điều dưỡng tại

các cở điều dưỡng và điều dưỡng tại gia đình.

Điều dưỡng tại cơ sở điều dưỡng gồm 2 chế độ: Chế độ điều dưỡng 1

năm/lần và chế độ điều dưỡng 2 năm/lần. Điều dưỡng mỗi năm một lần cho

các đối tượng: 1.Người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm

1945; 2.Người hoạt động cách mạng từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến trước

Tổng khởi nghĩa 19 tháng Tám năm 1945; 3.Bà mẹ Việt Nam anh hùng; 4.

Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh, thương binh loại B

(gọi chung là thương binh), bệnh binh có tỷ lệ suy giảm khả năng lao động do

thương tật, bệnh tật từ 81% trở lên đang sống tại gia đình; 5.Người có công

giúp đỡ cách mạng được Nhà nước tặng Kỷ niệm chương “Tổ quốc ghi công”

hoặc Bằng “Có công với nước”; 6.Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất

độc hóa học suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên. [55]

Điều dưỡng luân phiên 2 năm một lần cho các đối tượng người có công

và thân nhân của họ gồm: 1.Cha đẻ, mẹ đẻ, vợ hoặc chồng của liệt sĩ, người có

công nuôi dưỡng liệt sĩ‟; 2.Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng

Lao động trong kháng chiến; 3. Người có công giúp đỡ cách mạng trong kháng

chiến; 4.Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học suy giảm khả

năng lao động dưới 81%;5. Thương binh, bệnh binh có tỷ lệ suy giảm khả năng

lao động do thương tật, bệnh tật dưới 81% đang sống tại gia đình; 6. Người

hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày. [55]

Năm 2011 các đối tượng được đi điều dưỡng tập trung tại trung tâm điều

dưỡng Hồ Núi Cốc - thuộc huyện Đại Từ, tinh Thái Nguyên. Thực hiện theo

công văn số 04/ĐDNCC về điều dưỡng người có công tỉnh Thái Nguyên, ngày

08 tháng 02 năm 2011 của trung tâm điều dưỡng người có công tỉnh Thái

72

Nguyên trong vòng 7 ngày. (Bắt đầu từ ngày 28/ 3/2011 đến ngày 03/4/ 2011.)

Tại đây, các đối tượng người có công được tham quan khu du lịch Hồ Núi Cốc,

tập luyện thể thao; tập luyện tại phòng phục hồi chức năng...Các đối tượng

luôn có ấn tượng tốt đẹp và coi đây là ngôi nhà chung của những người có

công với cách mạng, cảm nhận được sự quan tâm của Nhà nước đối với những

người đã có nhiều đóng góp, cống hiến, hy sinh vì độc lập, tự do của đất nước.

2. Chế độ điều dưỡng tại gia đình với mức chi điều dưỡng là 800.000

đồng/người/lần. Điều dưỡng tại gia đình áp dụng cho các đối tượng là thân

nhân người có công có sức khỏe yếu, không thể tham gia các đợt điều dưỡng

tập trung tại cơ sở điều dưỡng.

Năm 2014, Huyện Phú Bình thực hiện thông thông tư liên tịch số

13/2014/TTLT-BLĐTBXH-BTC của Bộ tài chính và Bộ LĐTBXH về hướng

dẫn thực hiện chế độ điều dưỡng phục hồi sức khỏe, cấp phương tiện trợ giúp,

dụng cụ chỉnh hình đối với NCCVCM và thân nhân; quản lý các công trình ghi

công liệt sĩ. Thực hiện theo thông tư mới đối tượng được hưởng chế độ điều

dưỡng có nhiều điểm mới: Thứ nhất, đối tượng được hưởng chế độ điều dưỡng

hàng năm mở rộng thêm cha đẻ, mẹ đẻ chỉ có một con mà người con đó là liệt

sĩ hoặc cha đẻ, mẹ đẻ có hai con là liệt sĩ trở lên. Nhờ vậy số lượng đối tượng

người có công trong huyện được hưởng chế độ chăm sóc sức khỏe tăng lên so

với những năm trước. Đồng thời chất lượng cũng cao hơn. Năm 2014 toàn

huyện có 460 đối tượng đã tham gia điều dưỡng tại trung tâm điều dưỡng tại

Sầm Sơn - Thanh Hóa. Trong đó thuộc diện điều dưỡng hàng năm là 96 người

và điều dưỡng luân phiên 2 năm/lần là 416 người. Điều dưỡng hàng năm tại

gia đình là 370 người. [54]

Thứ hai, điều chỉnh thời gian điều dưỡng 2 năm đối với các đối tượng

đang đươc hưởng chế độ điều dưỡng 5 năm. Đồng thời mở rộng thêm đối

tượng là con liệt sỹ bị thương tật nặng hoặc thương tật đặc biệt nặng. Mức chi

73

cho đối tượng điều dưỡng tập trung là chi là 2.220.000 đồng/người/lần (tăng

720.000 đồng so với thông tư cũ). Nếu điều dưỡng tại nhà sẽ được hưởng chế

độ 1.110.000 đồng/người/lần và được chi trực tiếp (tăng 310.000 đồng so với

thông tư cũ).

Nhờ quá trình chỉ đạo sát sao và tích cực của Đảng bộ huyện, công tác

chăm sóc sức khỏe cho các đối tượng NCCVCM đã đạt được nhiều kết quả.

Về chế độ bảo hiểm, trong toàn huyện 100% số đối tượng người có công

trên địa bàn huyện được hưởng chế độ bảo hiểm y tế và được cấp phát đầy đủ

thẻ bảo hiểm y tế để phục vụ cho quá trình khám chữa bệnh. Hàng năm, các

đối tượng đều đươc thăm khám miễn phí và cấp phát thuốc định kỳ theo chế độ

bảo hiểm y tế tại bệnh viện đa khoa Phú Bình.

Về công tác điều dưỡng, 100% đối tượng người có công của huyện được

hưởng chế độ điều dưỡng trong đó điều dưỡng luân phiên 5 năm một lần sang

2 năm một lần chiếm tỷ lệ cao nhất tới 98%. Đa số các đối tượng người có

công được hưởng chế độ điều dưỡng tại gia đình, số đối tượng tham gia điều

dưỡng tại các cơ sở đìều dưỡng còn hạn chế do số lượng người có công trên

địa bàn huyện cao nên không đủ kinh phí cho tất cả các đối tượng hưởng chế

độ. Thực hiện điều dưỡng phục hồi cho người có công đạt 100% kế hoạch.

Trong đó: điều dưỡng tập trung hàng năm là 96 người bao gồm các đối tượng:

Bà mẹ Việt Nam anh hùng, cán bộ tiền khởi nghĩa, cán bộ lão thành cách

mạng, thương binh và người hưởng chính sách như thương binh bị suy giảm

khả năng lao động từ 81% trở lên, người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất

độc hóa học từ 81% trở lên với tổng kinh phí là 578 triệu đồng. Đồng thời thực

hiện chế độ điều dưỡng luân phiên 2 năm/lần cho 416 người, kinh phí: 1,2 tỷ

đồng, điều dưỡng tại nhà 370 người, kinh phí 260 triệu đồng [54] Các đối

tượng điều dưỡng tại Trung tâm đều đánh giá tinh thần thái độ phục vụ tốt;

đảm bảo khẩu phần ăn cũng như được tham quan, khám sức khỏe theo quy

định và được chăm sóc tận tình, chu đáo.

74

2.2.4.Thực hiện chế độ ưu đãi nhà ở

Hỗ trợ NCCVCM về nhà ở là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà

nước nhằm thực hiện chính sách đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn, tri

ân đối với những người có công đóng góp cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng

dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tiếp tục thực hiện chính sách ưu đãi cho

người có công về nhà ở, ngày 26/04/2013 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành

quyết định số 22/2013/QĐ-TTg (gọi tắt là quyết định số 22) về hỗ trợ người có

công với cách mạng về nhà ở góp phần ổn định đời sống của đối tượng người

có công. Đây là chính sách giúp cho các đối tượng có công “an cư lạc nghiệp”

khi về với cuộc sống xã hội. Nhà nước trực tiếp hỗ trợ gia đình NCCVCM để

có nhà ở ổn định, an toàn và chắc chắn.

Để thực hiện tốt chế độ ưu đãi về nhà ở cho người có công trên địa bàn

huyện. UBND huyện Phú Bình đã ban hành quyết định số 3905/QĐ-UBND

huyện ngày 25/9/2013 về việc phê duyệt đề án triển khai thực hiện quyết định

số 22/2013/QD-TTg ngày 26/04/2013 của thủ tướng chính phủ, hỗ trợ người

có công với cách mạng về nhà ở trên địa bàn huyện Phú Bình quyết định phê

duyệt đề án triển khai thực hiện quyết định số 22 chỉ đạo thực hiện, tổ chức

tuyên truyền chủ trương của Đảng và Nhà nước. Mục tiêu của đề án đến hết

năm 2014, phấn đấu 100% số hộ có công với cách mạng trong huyện được hỗ

trợ xây dựng và cải tạo nhà ở, sau khi hoàn thành các hộ có nhà ổn định, an

toàn, vững chắc bảo đảm “3 cứng” (nền cứng, khung - tường cứng, mái cứng).

Đối tượng được hưởng chế độ ưu đãi trong huyện đó là những NCCVCM đã được

các cơ quan có thẩm quyền công nhận. Hộ đối tượng đang sinh sống và có

đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa phương, hoàn cảnh gia đình gặp nhiều khó

khăn không có khả năng xây dựng nhà ở hoặc ở trong những căn nhà dột nát.

Các đối tượng áp dụng bao gồm 12 đối tượng theo Pháp lệnh số 04 (Pháp lệnh

người có công sửa đổi năm 2012)

75

Nguyên tắc hỗ trợ nhà ở cho đối tượng người có công được xác định như

sau:

Nhà nước trực tiếp hỗ trợ trực tiếp cho các hộ gia đình là đối tượng

NCCVCM có nhà bị hư hỏng, dột nát phải phá đi xây dựng nhà ở mới hoặc

nhà ở bị hư hỏng, dột nát cần phải sửa chữa phần khung-tường và thay mới

mái nhà. Điều kiện áp dụng cho tất cả các hộ đối tượng người có công kể cả

những hộ đã được hỗ trợ theo chính sách khác trước đây mà nay nhà ở bị hư

hỏng, dột nát. Mục đích của việc thực hiện chính sách để đảm bảo cho các đối

tượng xây dựng nhà ở mới hoặc sửa chữa nhà ở hiện có, bảo đảm nâng cao

điều kiện nhà ở của người có công.

Đối với trường hợp xây dựng nhà ở mới càn đảm bảo 3 tiêu chuẩn cứng

(nền cứng, khung tường cứng, mái cứng) có diện tích sử dụng tối thiểu là

30m². Nếu là hộ độc thân có thể xây dựng nhà ở với diện tích sử dụng nhỏ hơn

30m² nhưng không thấp hơn 24m², có tuổi thọ 10 năm trở lên.

Đối với nhà ở thuộc diện sửa chữa khung, tường và thay mới mái nhà thì

sau khi sửa chữa phải đảm bảo tiêu chuẩn 2 cứng (khung - tường cứng, mái

cứng) có tuổi thọ từ 10 năm trở lên nhưng không yêu cầu phải theo đúng tiêu

chuẩn về kích thước như đối với diện nhà ở xây mới.

Nhà ở của các hộ gia đình có công với cách mạng được hỗ trợ phải đảm

bảo vệ sinh môi trường, bao che kín đáo, tránh được những tác động xấu của

khí hậu, thời tiết. Các hộ gia đình có thể sử dụng các mẫu thiết kế điển hình do

Sở Xây dựng cấp hoặc tham khảo các mẫu nhà ở truyền thống, thông dụng tại

địa phương để lựa chọn quy mô và hình thức nhà ở phù hợp với hoàn cảnh cụ

thể của từng hộ.

Để chính sách ưu đãi về nhà ở được thực hiện có hiệu quả ở địa phương,

Đảng bộ huyện Phú Bình đã triển khai và thực hiện đề án. Thành lập ban chỉ

đạo, lập đề án triển khai thực hiện hỗ trợ nhà ở cho người có công trên địa bàn

76

huyện. Ban hành các quyết định, công văn chỉ đạo các cơ quan, đơn vị liên

ngành và UBND các xã, thị trấn phối hợp với các đoàn thể ở địa phương tiến

hành rà soát, thống kê các các hộ gia đình có công với cách mạng thuộc diện

được hỗ trợ theo tiêu chí quy định, bảo đảm đúng quy trình. Chịu trách nhiệm

trực tiếp và toàn diện trong việc rà soát xác định hộ gia đình NCCVCM được

hỗ trợ về nhà ở.

Các thôn, làng, tổ dân phố tổ chức tuyên truyền phổ biến nội dung chính

sách hỗ trợ NCCVCM về nhà ở theo quyết định số 22/2013/QĐ-Ttg tới tất cả

các đối tượng người có công với cách mạng trên địa bàn thôn.Trưởng thôn có

trách nhiệm hướng dẫn các đối tượng có đủ tiêu chuẩn điều kiện được hỗ trợ

nhà ở làm đơn đề nghị đươc hỗ trỡ theo mẫu. Trưởng thôn có trách nhiệm tập

hợp đơn của các đối tượng và lập danh sách gửi về UBND xã, thị trấn. UBND

xã có trách nhiệm thành lập Ban chỉ đạo thực hiện hỗ trợ về nhà ở cho

NCCVCM của xã gồm đại diện chính quyền cấp xã, đại diện UBMTTQ xã,

Hội Cựu chiến binh, tiến hành tổ chức kiểm tra hiện trạng nhà ở của từng đối

tượng có đơn đề nghị hỗ trợ nhà ở. Sau khi tiến hành kiểm tra UBND cấp xã

có trách nhiệm lập danh sách đối tượng được hỗ trợ nhà ở trên địa bàn về số

lượng, mức vốn hỗ trợ dư kiến rồi gửi về UBND huyện.

UBND huyện căn cứ vào báo cáo của UBND xã, thị trấn sẽ chỉ đạo

Phòng LĐTBXH chủ trì phối hợp với các phòng ban liên quan tiến hành rà

soát, kiểm tra, đối chiếu với danh sách các đối tượng người có công đang quản

lý, phê duyệt danh sách đối tượng người có công trên địa bàn huyện báo cáo

với UBND tỉnh để tiến hành triển khai thực hiện đề án.

Phòng LĐBXH huyện có trách nhiệm công bố công khai các đối tượng,

tiêu chuẩn hỗ trợ, tổng hợp và phê duyệt danh sách NCCVCM được hỗ trợ về

nhà ở trên địa bàn (gồm các hộ gia đình đã được hỗ trợ, số nhà ở đã được xây

dựng và sửa chữa, số tiền đã cấp cho các hộ gia đình, số tiền đã huy động từ các

77

nguồn khác, các khó khăn, vướng mắc, các kiến nghị trong quá trình thực hiện).

Trên cơ sở đó lên dự toán về tổng hợp kinh phí và phê duyệt như cầu kinh phí

hỗ trợ người có công với cách mạng về nhà ở trê địa bàn huyện từng năm, phân

loại thứ tự ưu tiên hỗ trợ cho các đối tượng theo quy định sau dây: Hộ gia đình

người có công mà nhà ở có nguy cơ sập đổ, không an toàn khi sử dụng; Hộ gia

đình mà người có công cao tuổi; Hộ gia đình mà người có công là dân tộc thiểu

số; Hộ gia đình nguời có công có hoàn cảnh khó khăn; Hộ gia đình người có

công thuộc vùng thường xuyên xẩy ra thiên tai…

Phương thức thực hiện: Các hộ gia đình sau khi nhận được khoản tiền

tạm ứng kinh phí hỗ trợ theo quy định thì tự tổ chức xây dựng nhà ở. Trong

trường hợp hộ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn (già cả, neo đơn, khuyết tật,...)

không có khả năng tự xây dựng nhà ở thì UBND xã có trách nhiệm tổ chức xây

dựng nhà ở cho các hộ gia đình này. UBND xã có trách nhiệm theo dõi, giám

sát và giúp đỡ các hộ gia đình trong quá trình xây dựng, sửa chữa nhà ở. Đồng

thời phối hợp với các tổ chức, đoàn thể như: MTTQ, Hội Phụ nữ, Hội Cựu

chiến binh, Đoàn thanh niên, tận dụng cao nhất vật liệu có sẵn ở địa phương,

huy động các nguồn lực từ cộng đồng, dòng họ anh em và hộ gia đình người có

công, khai thác vật liệu tự có như cát, sỏi, gỗ để giám giá thành xây dựng.. Khi

tiến hành hoàn thành xong phần nền, móng, khung tường của ngôi nhà các hộ

phải báo cáo với trưởng thôn. UBND cấp xã tiến hành lập biên bản xác nhận

xây dựng nhà ở đã được hoàn thành theo giai đoạn và khi hoàn thành toàn bộ

hạng mục công trình thì phải lập biên bản xác nhận hoàn thành nhà ở đưa vào

sử dụng.

Theo báo cáo số 81/BC-UBND ngày 28 tháng 8 năm 2013 của UBND

huyện Phú Bình về tổng hợp số liệu người có công với cách mạng đề nghị hỗ trợ

nhà ở theo quyết định 22/2013/QĐ-TTg, đề án chia lộ trình thực hiện trong 2

năm 2013-2014 với tổng số vốn ngân sách nhà nước hỗ trợ là 25.949.100.000

78

đồng:

Năm 2013, tổng số đối tượng đề nghị hỗ trợ là 713 hộ với số vốn hỗ trợ

19.657.800.000 đồng trong đó: Số nhà đề nghị làm mới là: 265 nhà với tổng số

tiền là 10.600.000.000 đồng ; Số nhà đề nghị sửa chữa là: 448 nhà với tổng số

tiền là 8.960.000.000 đồng [78]

Năm 2014, tổng số đối tượng đề nghị hỗ trợ là 181 hộ với số vốn hỗ trợ

là 6.291.300.000 đồng, trong đó: Số nhà đề nghị làm mới là: 132 nhà với tổng

sô tiền là 5.280.000.000 đồng ; Số nhà đề nghị sửa chữa là: 49 nhà với tổng số

tiền là 980.000.000 đồng [54]

Nguồn lực tài chính chi cho ưu đãi người có công từ ngân sách nhà nước

là nguồn chi thường xuyên bảo đảm ổn định nhằm hỗ trợ người có công về nhà

ở để các đối tượng có cuộc sống yên ổn, không phải sống trong các căn nhà

tạm bợ, dột nát như trước. Tuy nhiên, Phú Bình là huyện trung du miền núi,

một số xã trong huyện như xã Tân Hòa, Tân Khánh, Đồng Liên, Bàn Đạt giao

thông không thuận tiện, việc đi lại, vận chuyển các nguyên vật liệu là rất khó

khăn. Do vậy để dự án xây dựng nhà ở cho đối tượng người có công được hoàn

thành đúng tiến độ thì việc hỗ trợ chung tay góp sức của cả của cộng đồng là

rất cần thiết. Huy động sự giúp đỡ hỗ trợ của người dân trong các làng xóm

tham gia đóng góp ngày công xây dựng, vận chuyển cát, sỏi, gạch…phục vụ

cho xây dựng.

Mặt khác, trong thời điểm giá cả nhiều mặt hàng cao như hiện nay nếu

chỉ trông chờ vào sự hỗ trợ từ ngân sách nhà nước thì việc thực thi đề án người

có công không đảm bảo. Cấp ủy, chính quyền các xã, thị trấn đẩy mạnh thực

hiện công tác tuyên truyền, huy động các tổ chức, cá nhân tham gia hỗ trợ bằng

những việc làm thiết thực (hỗ trợ thêm tiền, hỗ trợ ngày công), góp phần nâng

cao chất lượng các công trình. Căn cứ vào Quyết định UBND tỉnh và nguồn

tiền được phân bổ, cấp ủy và chính quyền thị trấn và thôn đã vận động con, em

79

trong họ, nhân dân trong thôn xóm cùng chung tay giúp đỡ ngày công, nguyên

vật liệu hoặc hỗ trợ thêm tiền… để căn nhà người có công được triển khai

đúng tiến độ, xây dựng chắc chắn và khang trang hơn.

Việc triển khai chính sách hỗ trợ người có công về nhà ở đã được huyện

ủy – UBND huyện Phú Bình triển khai thực hiện thực hiện bài bản, chỉ đạo

UBND các xã, thị trấn tiến hành thống kê tình trạng nhà ở của các gia đình có

công, thông báo chính sách hỗ trợ người có công về nhà ở trên đài phát thanh

thôn, xã, trong các cuộc họp chi bộ, thôn và đến tận từng gia đình có công; tổ

chức việc bình xét, thẩm định, lập danh sách những hộ được hưởng chính sách

hỗ trợ theo đúng quy định...

Chương trình hỗ trợ NCCVCM về nhà ở là một chủ trương lớn của

Đảng và Nhà nước, thể hiện truyền thống tốt đẹp “đền ơn, đáp nghĩa” của dân

tộc ta, tạo được sự đồng thuận của cán bộ, đảng viên và của toàn xã hội. Để

tiếp tục đẩy nhanh tiến độ xây dựng nhà cho người có công trong điều kiện

nguồn vốn từ trung ương chuyển về chưa đủ, huyện Phú Bình sẽ chủ động

nguồn kinh phí để tạm ứng cho đề án Hỗ trợ người có công với cách mạng về

nhà ở; trước mắt, tập trung tạm ứng vốn hỗ trợ cho những hộ xây nhà, phấn

đấu đến giữa năm 2014, huyện Phú Bình sẽ hoàn thành việc hỗ trợ người có

công xây nhà. Huyện Phú Bình hỗ trợ thêm 6 triệu đồng/căn nhà xây mới và 3

triệu đồng/căn nhà sửa chữa; đồng thời phát động đa dạng hoá các hình thức hỗ

trợ bằng tiền, vật tư, nguyên liệu, công lao động...

Đến nay toàn huyện đã cơ bản hoàn thành việc hỗ trợ xây dựng nhà ở

cho hộ gia đình người có công với cách mạng trên địa bàn huyện theo đúng kế

hoạch và là một trong số các địa phương có số lượng lớn hoàn thành đầu tiên

trong tỉnh Thái Nguyên. Đề án hoàn thành không những có hiệu quả thiết thực

cho hộ gia đình người có công cải thiện nhà ở ổn định cuộc sống; thể hiện đạo

lý “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa”; đồng thời có ý nghĩa củng cố

80

lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước và củng cố khối đại đoàn kết dân

tộc, tinh thần tương thân, tương ái. Đồng thời việc hoàn thành Đề án có ý nghĩa

chính trị to lớn, thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với người có

công với cách mạng để lập thành tích chào mừng Đại hội đảng các cấp. Tính

đến tháng 12/2014, toàn huyện Phú Bình đã hoàn thành xong 100% giai đoạn 1

của đề án hỗ trợ nhà ở cho người có công với cách mạng theo quyết đinh số 22

cuả thủ tướng chính phủ, với tổng số đối tượng hỗ trợ là 181 hộ với số vốn hỗ

trợ là 6.291.300.000 đồng [54].

Việc triển khai hỗ trợ nhà ở đảm bảo nghiêm túc; đúng đối tượng, điều

kiện; kết quả xây dựng, sửa chữa nhà ở tại các địa phương đảm bảo theo quy

định: Nhà ở sau khi được hỗ trợ đảm bảo tiêu chí "3 cứng", diện tích nhà ở đa số trên 30m2 (mức quy định là 24m2), chất lượng đảm bảo; hồ sơ giải ngân và

hoàn công đảm bảo theo hướng dẫn của Tỉnh; có nhiều hộ gia đình người có

công được sự chung tay của gia đình, dòng họ và cộng đồng đã xây dựng lại

nhà ở khang trang, to đẹp hơn với kinh phí lớn nhiều so với kinh phí được hỗ

trợ (ở các xã: Điềm Thụy, thị trấn Hương Sơn, Lương Phú, Nhã Lộng…).

Có được kết quả đó là nhờ Chính quyền địa phương trong quá trình triển

khai đã tích cực hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc các hộ gia đình thực hiện xây

dựng, sửa chữa nhà ở; đồng thời chủ động báo cáo, đề xuất BCĐ tỉnh hướng

dẫn, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc để kịp thời triển khai. Tiêu biểu như:

Nga My, Hà Châu, Tân Đức. Qua đợt mưa lũ cuối tháng 7, đầu tháng 8/2014,

theo báo cáo của các địa phương thì không có hộ gia đình người có công nào

đã được hỗ trợ nhà ở theo quyết định số 22 bị ảnh hưởng nặng; nhà ở cơ bản

*

* *

đảm bảo chắc chắn, chịu được mưa bão.

Với truyền thống tốt đẹp của dân tộc “Uống nước nhứ nguồn, ăn quả

nhớ kẻ trồng cây” thể hiện lòng biết ơn với các thế hệ cha ông chiến đấu hy

sinh cho sự nghiệp giải phóng đất nước. Thực hiện chính sách ưu đãi người có

81

công như một sự tri ân, bày tỏ lòng biết ơn và kính trọng đến những đối tượng.

Đồng thời, qua việc thực hiện chính sách ưu đãi người có công đã giáo dục thế

hệ trẻ hôm nay và mai sau có ý thức và trách nhiệm giữ gìn, bảo vệ những

thành quả đạt được.

Nhận thức được ý nghĩa to lớn của việc thực hiện chính sách ưu đãi

NCCVCM trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của huyện nói riêng và

của đất nước nói chung. Lãnh đạo Đảng bộ huyện Phú Bình đã kịp thời và

đúng đắn đề ra các chủ trương, biện pháp để thực hiện tốt các chính sách ưu

đãi người có công. Những kết quả đã đạt được từ năm 2010 đến năm 2014 đã

góp phần nâng cao đời sồng vật chất và tinh thần của các đối tượng được

hưởng chính sách ưu đãi. Đồng thời có tác dụng làm thay đổi mọi mặt đời sống

xã hội của huyện. Củng cố niềm tin của nhân dân với chính quyền địa phương.

Với những kết quả đã đạt được tạo ra một nguồn động viên lớn về tinh

thần để Đảng bộ huyện Phú Bình tiếp tục phát huy vai trò lãnh đạo của mình

trong công tác thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM nói riêng và toàn bộ sự

nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của huyện Phú Bình nói chung.

82

Chƣơng 3

MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM

3.1. Một số nhận xét

3.1.1. Ưu điểm

Từ năm 2006 đến năm 2014, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Phú

Bình công tác thực hiện chính sách ưu đãi người có công trong địa bàn huyện

đã đạt được nhiều kết quả. Quán triệt sâu sắc mục tiêu không ngừng nâng cao

đời sống vật chất và tinh thần cho NCCVCM đặc biệt các chính sách ưu đãi

phải được triển khai đầy đủ, chính xác và kịp thời cho từng đối tượng người có

công trong huyện. Đảng bộ huyện Phú Bình đã kịp thời đề ra các chủ trương,

biện pháp, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao hiệu quả, nghiêm túc

trong quá trình thực hiện chính sách ưu đãi người có công. Do vậy công tác

thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM đã đạt được nhiều kết quả quan trọng,

thể hiện trên các mặt sau:

Một là, Đảng bộ huyện Phú Bình nhận thức được vị trí và vai trò cuả

việc thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM trong chiến lược phát triển kinh tế

- xã hội của địa phương.

Điểm đặc trưng của huyện Phú Bình là một huyện có số lượng người có

công cao nhất của tỉnh Thái Nguyên. Số lượng này chiếm một tỷ lệ khá cao

trong tổng số dân cư của huyện. Do vậy làm tốt công tác thực hiện chính sách

ưu đãi NCCVCM không chỉ giải quyết được những vấn đề xã hội bức thiết mà

còn tạo tiền đề vững chắc cho sự phát triển kinh tế.

Thực hiện tốt các chính sách ưu đãi NCCVCM không chỉ thể hiện truyền

thống tốt đẹp của nhân dân ta, bày tỏ lòng biết ơn đối với những người đã

chiến đấu, hy sinh xương máu vì sự nghiệp giải phóng đất nước. Đồng thời

thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM còn có ý nghĩa chính trị - xã hội to lớn.

83

Chính sách này là một bộ phận của chính sách ưu đãi xã hội. Một chính sách

ưu đãi đặc biệt góp phần ổn định và nâng cao đời sống của người có công.

Thông qua các chính sách được hưởng sẽ tạo ra động lực rất lớn, có tác dụng

cổ vũ cho họ trong cuộc sống, thực thi tốt các chính sách Pháp luật của Đảng

và Nhà nước ở địa phương. Làm cho họ thấy được vai trò, vị trí và trách nhiệm

của mình trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của huyện.

Nhận thức được vai trò và vị trí của việc thực hiện chính sách ưu đãi

người có công với cách mạng. Ngay từ Đại hội Đảng bộ huyện khóa XXIII

nhiệm kỳ 2005 - 2010 đưa nhiệm vụ quan tâm mọi mặt về đời sống vật chất và

tinh thần cho thương binh, gia đình liệt sỹ, NCCVCM là một mục tiêu cần giải

quyết để ổn định xã hội và phát triển kinh tế.

Để thực hiện được mục tiêu chung ấy công tác thực hiện chính sách ưu

đãi NCCVCM được nâng lên ở một vị trí quan trọng. Đây là một trong những

nội dung chủ yếu của nhiệm vụ thực hiện tốt các chính sách xã hội. Chỉ có duy

trì một xã hội công bằng, ổn định, đời sống của nhân dân được được đảm bảo,

trình độ nhận thức của họ được nâng cao thì mới tạo ra một nền tảng vững

chắc cho sự phát triển kinh tế.

Để thực hiện được mục tiêu lâu dài đó từng chính sách xã hội, nhất là

chính sách ưu đãi NCCVCM phải được thực thi có hiệu quả, mang lại giá trị

thực tế cho các đối tượng được hưởng. Các chính sách ưu đãi NCCVCM được

thực hiện kịp thời và đầy đủ ở toàn bộ các xã trong huyện. Huyện Phú Bình

phấn đầu 100% xã, thị trấn làm tốt chính sách thương binh liệt sĩ, người có

công.

Quán triệt tinh thần chỉ đạo, Đảng bộ Huyện Phú Bình lãnh đạo thực

hiện nghiêm túc và có hiệu quả các chính sách ưu đãi NCCVCM. Đây là chính

sách quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu ổn định xã hội và phát triển kinh

tế của huyện. Vì vậy mà mỗi chính sách ưu đãi cần thực hiện nghiêm túc và có

84

hiệu quả thông qua sự chỉ đạo kiểm tra giám sát của Huyện ủy, UBND huyện

Phú Bình. Thực hiện tốt chính sách ưu đãi chăm sóc thương binh, bệnh binh,

gia đình liệt sĩ, NCCVCM không chỉ là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn xã hội

mà còn thể hiện tình cảm đạo lý của người dân. Chính sách ưu đãi NCCVCM

có vị trí to lớn nó chẳng những có ý nghĩa nhân văn sâu sắc mà còn có vai trò

khích lệ động viên toàn thể nhân dân trong huyện trong công cuộc CNH, HĐH

xây dựng quê hương giàu đẹp. Như vậy việc nhận thức đúng đắn vị trí và vai

trò của việc thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM thể hiện sự nhất quán trong

tư tưởng chỉ đạo. Đồng thời cũng tỏ rõ sự nhạy bén, linh hoạt và kịp thời trong

chủ trương và biện pháp thực hiện.

Hai là, Đảng bộ huyện Phú Bình đã kịp thời đề ra các chủ trương, biện

pháp để thực hiện có hiệu quả các chính sách ưu đãi người có công

Quán triệt tinh thần chỉ đạo chung của Huyện ủy - HĐND - UBND

huyện Phú Bình nhằm nâng cao hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần cho đối

tượng người có công trên địa bàn huyện. Mỗi khi Đảng và Nhà nước ban hành

những chính sách mới quy định việc thực hiện chế độ ưu đãi cho các đối tượng

là thương binh, liệt sĩ, NCCVCM huyện Phú Bình đều nghiêm túc thảo luận và

đưa ra ý kiến để thực hiện tốt các chính sách. Điều đó thể hiện tinh thần, trách

nhiệm làm việc nghiêm túc và khoa học của ban lãnh đạo huyện Phú Bình.

Để làm tốt công tác chỉ đạo thực hiện chính sách ưu đãi cho các đối

tượng, huyện Phú Bình không ngừng đổi mới nâng cao năng lực lãnh đạo bằng

cách đề ra những biện pháp kế hoạch tối ưu nhất cho việc thực hiện. Chủ

trương, biện pháp đưa ra đều trên cơ sở quan điểm của Đảng, Nhà nước đồng

thời phù hợp với tiềm năng thực tế của huyện nên không có sự lúng túng, bị

động trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện.

Trên cơ sở những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước huyện

Phú Bình đã kịp thời đề ra các biện pháp nhằm thực hiện đầy đủ và chính xác

85

từng quy định, giải quyết các chế độ chính sách đến từng đối tượng. Ngay từ

khi UBTVQH ban hành Pháp lệnh số 26/2005/PL-UBTVQH11 ngày 29/06/2005 về ưu

đãi người có công, tiếp sau đó Chính phủ lại ban hành Nghị định số

54/2006/NĐ-CP ngày 26/05/2006 về hướng dẫn thi hành Pháp lệnh ưu đãi

NCCVCM thì Ban thường vụ Huyện ủy đã họp và ra Chỉ thị số 05/CT-HU

ngày 26/08/2006 về về việc lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện Nghị định

54/2006/CP ngày 26/5/2006 của Thủ tướng Chính phủ về hướng dẫn thi hành

Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng. Chỉ thị đã nhấn mạnh vai trò

và tầm quan trọng của việc ban hành văn bản Pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho

việc thực thi chính sách ưu đãi người có công. Đồng thời Ban thường vụ

Huyện ủy cũng yêu cầu sự kết hợp nghiêm túc từ phía các ban, ngành, đoàn thể

cùng phối hợp để thực thi hiệu quả chính sách trên. Trong quá trình triển khai

thực hiện cần nghiêm túc, công khai, công bằng, năm chắc tình hình, rà soát

từng đối tượng cụ thể không để kẻ xấu lợi dụng. Điều đó cho thấy sự kịp thời,

đúng đắn, nghiêm túc trong công tác lãnh đạo chỉ đạo.

Cùng với việc đề ra chủ trương cụ thể cho việc chỉ đạo thực hiện. Đảng

bộ huyện Phú bình còn đi sâu nắm chắc tình hình thực tế của từng đối tượng

người có công trong huyện đề kịp thời và chính xác trong việc áp dụng các chế

độ đãi ngộ đến các đối tượng cụ thể.

Đúc rút được những kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo chỉ đạo thực

hiện các chế độ ưu đãi NCCVCM đã đưa ra trong Đại hội XXIII nhiệm kỳ

2005 - 2010, tinh thần chỉ đạo của Đại hội XXIV nhiệm kỳ 2010- 2015 trong

việc thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM đã được nâng cao hơn nữa bằng

nhiều biện pháp cụ thể như: Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo, chỉ đạo phối hợp

của các cấp, ban, ngành, đoàn thể trong việc chăm lo đời sống vật chất và tinh

thần của thương binh, liệt sĩ, người có công. Đồng thời, tăng cường công tác

tuyên truyền, vận động các cá nhân, tổ chức tích cực tham gia công tác đền ơn

86

đáp nghĩa của huyện. Việc đề ra chủ trương và thực hiện tốt các chính sách ưu

đãi NCCVCM cho thấy sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn

thể đối với người có công. Những chủ trương đưa ra trên cơ sở nghiên cứu cụ

thể tình hình địa phương, thể hiện sự lãnh đạo chỉ đạo đúng đắn, kịp thời,

chính xác của Đảng bộ huyện Phú Bình.

Kết quả việc của việc đề ra chủ trương, biện pháp đúng đắn đã góp phần

nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người có công của huyện. Từ năm

2006 đến năm 2014 dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Phú Bình toàn bộ số

đối tượng người có có công trên địa bàn huyện đều được hưởng các chính sách

đãi ngộ, ưu tiên cả Đảng và Nhà nước. Các chính sách ưu đãi về trợ cấp và phụ

cấp, ưu đãi chăm sóc sức khỏe, trong việc xây dựng nhà ở được thực hiện

nghiêm túc và có hiệu quả, kịp thời, chính xác đến từng đối tượng cụ thể. Điều

đó đã tạo được không khí vui tươi, phấn khởi cho người có công làm cho họ

vơi đi những đau thương, mất mát trong chiến tranh. Tạo được sự tin tưởng và

ủng hộ trong mọi tầng lớp nhân dân nói chung và bộ phận NCCVCM nói

riêng. Sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và các cấp chính quyền, đoàn thể ở

địa phương có tác dụng động viên về vật chất và tinh thần rất lớn, cho họ thấy

được sự cần thiết của mình trong xã hội, khuyến khích sự say mê trong lao

động để xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp.

Ba là, Đảng bộ huyện chú trọng công tác tuyên truyền, vận động cá

nhân, tổ chức và các đoàn thể, nhân dân trong huyện huy động được sức mạnh

tổng hợp giữa Nhà nước - chính quyền địa phương và toàn thể nhân dân trong

huyện vào thực hiện chính sách ưu đãi người có công.

Dưới sự lãnh đạo chỉ đạo nghiêm túc, với chủ trương, biện pháp khoa học

Đảng bộ huyện Phú Bình đã làm tốt công tác tuyên truyền vận động các cá

nhân, tổ chức, đoàn thể, nhân dân trong huyện. Công tác thực hiện chính sách

ưu đãi NCCVCM đã đạt được nhiều kết quả. Cùng với các chế độ ưu đãi do

87

Đảng và Nhà nước ban hành, họ còn được hưởng các chế độ ưu đãi ở địa

phương thông qua các phong trào tình nghĩa. Các phong trào tình nghĩa đã thu

hút sự ủng hộ và đóng góp của nhiều cá nhân, doanh nghiệp trên địa bàn

huyện. Tổng kết phong trào những tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp trên địa bàn

huyện được tuyên dương đã có những đóng góp nhiệt tình trong các phong trào

tinh nghĩa của huyện. Tiêu biểu là xí nghiệp dệt may TNG, công ty trách

nhiệm hữu hạn vàng bạc đã quý Hoa Dũng tổ chức tặng 25 sổ tiết kiệm tình

nghĩa với trị giá 125 triệu đồng cho các gia đình có công với cách mạng có

điều kiện khó khăn. [49]. Nguồn hỗ trợ này không chỉ có ý nghĩa về mặt vật

chất mà còn có ý nghĩa lớn về tinh thần, là sự ưu đãi đặc biệt dành cho người

có công.

Sự huy động nguồn lực từ trong nhân dân, đa dạng hóa các loại hình

chăm sóc, giúp đỡ người có công tạo ra một phong trào xã hội hóa chăm sóc

người có công trên địa bàn huyện. Huyện Phú Bình đã chỉ đạo cho Ban tuyên

giáo Huyện ủy, phối hợp với Hội chữ thập đỏ, Mặt trận Tổ quốc, đài phát

thanh của huyện thường xuyên phổ biến các chủ trương, kế hoạch của huyện.

Tổ chức tuyên truyền, nêu gương các cá nhân, gia đình, các tổ chức đã có

nhiều đóng góp lớn trong phong trào chăm sóc người có công của huyện.

Thông qua việc tuyên tuyền giúp cho người dân hiểu được vấn đề chăm sóc

người có công là vấn đề cần thiết góp phần ổn định xã hội. Đời sống các đối

tượng có được nâng cao thì mặt bằng chung của xã hội mới tiến bộ. Công tác

tuyên truyền đã giáo dục được truyền thống uống nước nhớ nguồn trong toàn

thể nhân dân các dân tộc trong huyện nhất là bộ phận thanh thiếu niên, giúp họ

hiểu được quá khứ hào hùng của cha ông để yêu mến và tự hào về truyền thống

đánh giặc giữ nước.

Cuộc vận động chăm sóc người có công là một nghĩa cử cao đẹp. Kết quả

là đã huy động được nguồn lực lớn, sự phối hợp tổ chức của các ban ngành

88

đoàn thể của huyện tham gia tuyên truyền phổ biến chính sách của Đảng và

Nhà nước, sự nhiệt tình ủng hộ của toàn thể nhân dân các dân tộc trên địa bàn

huyện. Tất cả tạo nên một thế vững chắc kết hợp chặt chẽ giữa Nhà nước-

chính quyền địa phương - nhân dân trong công tác thực hiện chế độ ưu đãi

NCCVCM.

Bốn là, Chính sách ưu đãi người có công đã tạo ra bước chuyển biến lớn

về vật chất và tinh thần cho các đối tượng. Người có công và thân nhân của họ

luôn nỗ lực vươn lên, tiếp tục đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc.

Quán triệt chủ trương của Đảng bộ huyện Phú Bình thực hiện tốt các

chính sách ưu đãi cho thương binh, liệt sĩ, gia đình NCCVCM, không ngừng

nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho các đối tượng. Đảm bảo cho họ có

mức sống trung bình cao hơn hoặc bằng mức trung bình ở nơi cư trú. Đây

chính là mục tiêu mà các cấp ủy Đảng huyện Phú Bình hướng tới.

Từ khi các đối tượng người có công được hưởng chính sách ưu đãi của

Đảng và Nhà nước đới sống vật chất và tinh thần của họ được nâng cao.

Về vật chất: Việc thực hiện có hiệu quả công tác chăm sóc người có công

ở huyện Phú Bình với các chính sách ưu đãi thiết thực đã góp phần ổn định đời

sống của người có công. Chế độ trợ cấp, phụ cấp ưu đãi một lần và hàng tháng

được chi trả thường xuyên và kịp thời đã phần nào làm vơi đi nỗi lo về kinh tế

với cuộc sống vật chất cơm áo, gạo tiền mà hàng ngày họ phải lo lắng. Hàng

tháng các đối tượng được nhận một khoản trợ cấp cố định đã giảm bớt gánh

nặng cho gia đình, người thân của một số đối tượng như thương binh hạng

nặng, người bị nhiễm chất độc hóa học… không còn khả năng lao động.

Các chính sách ưu đãi về nhà ở cho đối tượng người có công khó khăn

không có khả năng xây dựng nhà ở giúp cho họ có chỗ ăn ở yên ổn, yên tâm

tham gia lao động xây dựng kinh tế, đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội

89

của huyện. Các chế độ chăm sóc sức khỏe cho đối tượng người có công với

phương thức cấp phát thẻ y tế, thực hiện chế độ điều dưỡng tại nhà và chế độ

điều dưỡng tại các cơ sở y tế với thời gian 1năm/ lần hay 5 năm/ lần đã thu

được kết quả lớn.

Về tinh thần: Dưới sự lãnh đạo của các cấp chính quyền công tác thực

hiện chính sách ưu đãi NCCVCM đã có nhiều kết quả. Các đối tượng được

hưởng chế độ chăm sóc ưu đãi đầy đủ. Họ được sự chăm sóc, quan tâm từ

phía Đảng và Nhà nước, chính quyền địa phương và nhân dân làm cho họ thấy

được sự cần thiết cuả mình với xã hội. Đồng thời, các đối tượng cũng ý thức

được trách nhiệm và nghĩa vụ mới của mình trong việc phát triển kinh tế xây

dựng quê hương. Họ luôn là tấm gương sáng đi đầu trong các phong trào ở

huyện như: Điển hình làm kinh tế giỏi, các phong trào tham gia tìm hiều lịch

sử phát triển của huyện Phú Bình, cuộc vận động toàn dân tham gia xây dựng

đời sống mới ở thôn, xóm… Qua mỗi phong trào đều tổng kết đánh giá kết quả,

nhiều đối tượng NCCVCM được tuyên dương, nêu gương, chia sẻ kinh

nghiệm.

Từ thực tế trên có thể thấy việc thực hiện chế độ chăm sóc ưu đãi

NCCVCM là vấn đề quan trọng và cần thiết. Các chính sách được thực thi có

hiệu quả góp phần nâng cao đời sống về vật chất và tinh thần cho các đối

tượng chính sách. Tạo động lực họ vượt qua khó khăn vươn lên trong cuộc

sống trở thành những công dân kiểu mẫu, điển hình ở địa phương. Họ không

chỉ là những người anh hùng chiến đấu trong thời kỳ chiến tranh mà còn hăng

hái, nhiệt tình trong việc xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước trong thời kỳ

mới.

Những thành tựu trên xuất phát từ một số nguyên nhân như sau:

Thứ nhất, sự nhất quán về chủ trương, biện pháp, tinh thần chỉ đạo của

Đảng bộ huyện Phú Bình về thực hiện chính sách ưu đãi người có công.

90

Nhận thấy vai trò và vị trí của công tác thực hiện chính sách ưu đãi người

có công có ý nghĩa quan trọng trong mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của

huyện, Đảng bộ huyện Phú Bình đã có những chủ trương và kế hoạch thực

hiện đúng đắn, phù hợp với tình hình thực tế của huyện.

Các chính sách ưu đãi NCCVCM liên tục được áp dụng có hiệu quả theo

chủ trương của Đảng và Nhà nước, theo tinh thần chỉ đạo chung của Tỉnh ủy

Thái Nguyên. Qúa trình đề ra chủ trương, biện pháp, kế hoạch thực hiện được

tiến hành theo đúng quy trình: học tập để quán triệt tư tưởng chỉ đạo, nhiệm vụ

chung; thảo luận lấy ý kiến; tổng hợp, phân tích cơ sở lý luận; triển khai, áp

dụng thực tiễn địa phương; tổng kết đánh giá và rút kinh nghiệm. Với một quy

trình làm việc có tổ chức, khoa học và trình tự nên việc đưa ra các chủ trương,

biện pháp đã đạt được sự đồng tình ủng hộ các cán bộ lãnh đạo Đảng ở địa

phương.

Thứ hai, có sự quan tâm chỉ đạo sát sao của các cấp chính quyền, Huyện

ủy - HĐND - UBND huyện Phú Bình trong công tác chỉ đạo thực hiện chế độ

chính sách.

Để đạt được những thành tựu đáng ghi nhận như trên là nhờ những chủ

trương và biện pháp đúng đắn của các cấp lãnh đạo Đảng bộ huyện Phú Bình.

Ban thường vụ Huyện ủy lập ra ban chỉ đạo do UBND huyện là chủ tịch, các

ban ngành đoàn thể như: Công an, Nội vụ, Quân sự, phòng LĐTBXH, phòng

văn hóa là cơ quan thường trực. Ban chủ đạo thường xuyên thanh tra, kiểm tra

đôn đốc thực hiện. Phát hiện và xử lý nghiêm minh các trường hợp các bộ thực

hiện vi phạm. Yêu cầu Phòng LĐTBXH nộp báo cáo hàng tháng, hàng quý,

hàng năm; các báo cáo tổng kết từng chương trình. Đồng thời, đề ra kế hoạch

mục tiêu cụ thể trong những năm tiếp theo. Nhờ sự chỉ đạo tập trung và kịp

thời nên công tác thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM đã đạt nhiều kết quả

khích lệ.

91

Thứ ba, sự tham mưu kịp thời, chi tiết và đúng đắn của cấp ủy phòng

LĐTBXH trong việc đưa ra các Chỉ thị, Nghị quyết để đạt được kết quả trong

công tác thực hiện chăm sóc ưu đãi NCCVCM.

Phòng LĐTBXH huyện Phú Bình với tư cách là một phòng ban chức

năng tham mưu cho UBND trong việc thực hiện các Chỉ thị, Nghị quyết do

Huyện ủy - HĐND đề ra. Đồng thời là một bộ phận trực tiếp thực hiện các chủ

trương của các cấp lãnh đạo Đảng ủy nên việc tham mưu các biện pháp, giải

pháp thực hiện cho Huyện ủy mang tính khả thi cao và phù hợp với thực tế.

Với mỗi chính sách ưu đãi NCCVCM do Đảng và Nhà nước ban hành

thì các cấp lãnh đạo Đảng bộ huyện Phú Bình đều ban hành các Chỉ thị, Nghị

Quyết và Công văn giao nhiệm vụ cho các phòng ban chức năng phối hợp triển

khai thực hiện. Để các chủ trương chính sách của Đảng được chuyển tải từ lý

luận vào thực tế địa phương đạt kết quả cao thì vai trò tham mưu xây dựng các

biện pháp thực hiện của phòng LĐTBXH có ý nghĩa rất quan trọng. Qua tổng

kết báo cáo kết quả thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM hàng năm phòng

LĐTBXH đều có kế hoạch tham mưu cho UBND huyện về các chương trình

như:“chương trình xây dựng và kế hoạch thực hiện công tác đền ơn đáp

nghĩa”, tham mưu cho UBND thực hiện kỷ niệm ngày thương binh liệt sĩ,

thăm hỏi tặng quà các đối tượng trong dịp lễ, tết. Đề ra các kế hoạch phối hợp

với các xã trong việc tu sửa nghĩa trang liệt sĩ trên địa bàn huyện.

3.1.2 Hạn chế

Bên cạnh những cố gắng, kết quả đã đạt được, công tác lãnh đạo thực

hiện chính sách ưu đãi người có công dưới sự lãnh đạo của của Đảng bộ huyện

Phú Bình từ năm 2006 đến năm 2014 vẫn còn một số tồn tại và thiếu sót như

sau:

Một là, một số chỉ tiêu trong công tác lãnh đạo thực hiện chính sách ưu

đãi NCCVCM không đạt được kế hoạch đề ra.

92

Giai đoạn trước năm 2006, Phú Bình là một huyện nghèo nền kinh tế

thuần nông mang tính chất tự túc, tự cấp. Đời sống nhân dân trong huyện còn

nghèo. Công tác thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM được triển khai thực

hiện nhưng chưa đạt được những thành tựu nổi bật. Từ Đại hội Đảng bộ huyện

Phú Bình khóa XXIII nhiệm kỳ 2005 - 2010 đề ra mục tiêu chung ổn định xã

hội. Thực hiện đầy đủ các chế độ chính sách ưu đãi NCCVCM. Giải quyết hết

những tồn đọng về hồ sơ, thủ tục xét duyệt công nhận cho các đối tượng. Chi

trả trợ cấp hàng tháng cho tất cả các đối tượng. Phấn đấu đến năm 2015 trên

toàn huyện không có đối tượng chính sách phải ở trong những căn nhà dột

nát…

Trên thực tế một số công tác đề ra chưa được thực hiện như: kế hoạch xây

dựng đài tưởng niệm nghĩa trang liệt sĩ ở xã Đào Xá ( huyện Phú Bình) phải lùi lại

do khó khă trong khâu giải phóng mặt bằng, thiếu nguồn vốn thực hiện. Đồng thời

do HĐND - UBND xã Bảo Lý chưa quản lý có hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ.

Công tác quản lý và sử dụng quỹ đền ơn đáp nghĩa vẫn tồn tại nhiều bất

cập. Nhiều nơi xã, thị trấn chưa làm tốt công tác tuyên truyền vận động nên số

lượng người dân tham gia ủng hộ chưa cao.

Một số chỉ tiêu chưa được đưa ra nhưng việc thực hiện chậm chễ, hoặc

chưa được thực hiện nguyên nhân chủ yếu là do thiếu nguồn vốn thực hiện.

Đồng thời, tồn tại một số tư tưởng nóng vội, chủ quan, duy ý trí của một bộ

phận cán bộ lãnh đạo.

Hai là, công tác chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ ở một số xã, thị trấn còn

nhiều hạn chế, kết quả chưa cao.

Để các chính sách ưu đãi NCCVCM, Huyện ủy - HĐND - UBDN huyện

Phú Bình đã giao nhiệm vụ thực hiện cho các xã triển khai thực hiện các Chỉ

thị số 05/CT-HU của Ban thường vụ Huyện ủy về thực hiện Pháp lệnh ưu đãi

NCCVCM và Nghị định 54/2005/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Pháp lệnh ưu

93

đãi người có công. Tuy nhiên ở một số xã nghèo (thuộc khu vực 1 miền núi)

như Tân Đức, Tân Hòa, Tân Khánh, Tân Kim công tác thực hiện còn chậm chễ

chưa đạt được yêu cầu đề ra.

Do vậy, Báo cáo công tác thực hiện ở một số địa phương này còn chung

chung, lý thuyết, chưa đánh giá được đúng thực trạng của công tác địa phương

mình quản lý. Đồng thời do trình độ của một số cán bộ xã còn hạn chế nên việc

lãnh đạo, tổ chức thực hiện chưa đạt được những kết quả nổi bật.

Ba là, tác phong làm việc còn nặng về thủ tục hành chính nên việc giải

quyết các chế độ ưu đãi cho NCCVCM còn chậm chễ, gây khó khăn cho đối

tượng được hưởng chính sách.

Công tác thực hiện chế độ ưu đãi cho NCCVCM là một quy trình liên quan

đến nhiều thủ tục pháp lý. Do vậy để giải quyết các chế độ chính sách cho các đối

tượng người có công trên địa bàn huyện Phú Bình còn mắc phải một số vướng

mắc. Do số lượng đối tượng người có công lớn, khối lượng công việc nhiều, thiếu

cán bộ có năng lực chuyên môn cao. Do vậy gây chậm chễ trong việc giải quyết

công việc.

Thêm vào đó thủ tục pháp lý quá nhiều nên quy trình xét duyệt hồ sơ,làm

thủ tục nhận chế độ ưu đãi, thời gian chờ đợi quyết định từ Sở LĐTBXH công

nhận hồ sơ đối tượng lâu. Trên địa bàn huyện đã xảy ra trường hợp của một số

đối tượng chậm chễ trong thủ tục công nhận chính sách. Trong huyện còn xảy

ra một số trường hợp khi đối tượng qua đời hồ sơ mới được hoàn thành và

công nhận. Thực tế đây là vấn đề thiệt thòi cho các đối tượng.

Một số cán bộ phụ trách mảng người có công trong quá trình làm việc

vẫn còn hiện tượng sách nhiễu, gây khó khăn cho người dân. Đây cũng là

nguyên nhân làm cho việc lập hồ sơ công nhận đối tượng người có công xảy ra

chậm chễ, gây thiệt thòi cho đối tượng.

Bốn là, vẫn còn hiện tượng tiêu cực, thiếu công khai, minh bạch, công

94

bằng trong quá trình xét duyệt và làm thủ tục hồ sơ gây tâm lý bất bình cho đối

tượng được hưởng chính sách.

Trong quá thực hiện thủ tục xét duyệt, công nhận và quản lý hồ sơ đối

tượng rất phức tạp. Một số đối tượng đã lợi dụng điểm yếu này để thực hiện

những hành vi tiêu cực. Trên đại bàn huyện đã xảy ra hiện tượng cố tình làm

hồ sơ và thủ tục giả ở một số xã. Gây khó khăn cho các cán bộ huyện trong

việc xác minh thẩm định hồ sơ đối tượng.

Đồng thời một số cán bộ phụ trách thực hiện thiếu nhiệt tình trong công

tác, trình độ chuyên môn còn yếu. Thực tế hạn chế này đã tiếp tay cho các đối

tượng xấu có hành vi tiêu cực.

Đây là vấn đề đã được các cấp lãnh đạo Đảng bộ huyện Phú Bình thanh

tra, phát hiện và kịp thời xử lý. Không để tình trạng tiêu cực tiếp diễn, có biện

pháp xử lý với những hành vi sai phạm đồng thời tuyên dương những cá nhân

dám đứng ra tố cáo hành vi sai phạm.

Nguyên nhân của những hạn chế trên là do:

Thứ nhất, cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương ở một số xã chưa nhận

thức được đầy đủ tầm quan trọng của người có công, ý nghĩa của viêc thực

hiện chính sách ưu đãi người có công.

NCCVCM là những đối tượng khó khăn rất lớn về vật chất và tinh thần.

Họ là những người bị thương tật trong chiến tranh (thương binh, bệnh binh,

người bị nhiễm chất độc hóa học…) sức khỏe của họ bị suy giảm nghiêm trọng

không thể tham gia vào các công việc phức tạp đòi hỏi sức lực hay trí tuệ vất

vả. Vì vậy đời sống vật chất của họ không được đảm bảo. Những đối tượng bà mẹ

Việt Nam anh hùng sống trong hoàn cảnh cô đơn không nơi nương tựa cũng rất

cần sự chăm sóc và ưu đãi của xã hội. Thực tế đó đặt ra yêu cầu các cấp ủy Đảng

ở các xã nơi trực tiếp quản lý đối tượng cần đi sâu, nắm sát thực tế. Tuy nhiên do

sự hạn chế trong nhận thức công tác này đã không đạt hiệu quả.

95

Trước thực trạng kinh tế của một số xã của huyện còn khó khăn, trình độ dân

trí còn thấp nhất là một số xã miền núi. Trong khi đó các cấp lãnh đạo ở địa

phương này lại chưa ý thức được tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách. Tỏ

thái độ thiếu quan tâm đến tình trạng khó khăn của các đối tượng người có công

trên địa bàn. Chưa kịp thời đề ra được những giải pháp hợp lý để giải quyết

những tồn tại trên.

Thứ hai, đội ngũ cán bộ thực hiện mảng người có công còn thiếu, khó

khăn cho việc giải quyết số lượng công việc lớn.

Trình độ cán bộ phụ trách mảng người có công còn yếu về chuyên môn

nghiêp vụ, kỹ năng giải quyết công việc. Với đặc thù công việc lớn, số lượng

đối tượng người có công trên địa bàn huyện nhiều nên việc thực hiện giải

quyết công việc còn khó khăn. Trong bước tạo nguồn, cơ cấu cán bộ còn thiếu

hợp lý, chưa đồng bộ trong công tác lựa chọn, công tác đào tạo còn nhiều bất

cập, lúng túng, bị động, cơ cấu đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền vận

động quần chúng còn thiếu đồng bộ. Đồng thời một số cán bộ, Đảng viên ở cấp

xã chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách ưu đãi

NCCVCM nên chậm chễ, thiếu sự quan tâm trong việc tổ chức thực hiện.

Thứ ba, thiếu kinh phí hỗ trợ trong việc thực hiện triển khai các chương

trình, đề án chăm sóc người có công.

Kinh phí là vấn đề lớn và tồn tại nhiều những khó khăn. Do vậy các đề

án, chương trình thực hiện chưa đạt được kết quả chưa cao. Cộng thêm điều

kiện kinh tế xã hội còn khó khăn việc huy động nhân dân tham gia phong trào

đền ơn đáp nghĩa còn nhiều hạn chế. Đồng thời, nguồn ngân sách của địa

phương còn eo hẹp gây khó khăn cho việc tổ chức thực hiện các phong trào

toàn dân chăm sóc NCCVCM. Một số chương trình, đề án được triển khai

nhưng hiệu quả chưa cao hoặc không thực hiện được.

96

3.2. Kinh nghiệm

Công tác thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM giai đoạn 2006 - 2014

có được những kết quả như trên là nhờ sự quan tâm lãnh đạo của Ban Thường

vụ huyện ủy, HĐND, UBND sự phối hợp và tạo điều kiện của chính quyền,

các ban, ngành chức năng của tất cả các xã, thị trấn trên địa bàn huyện.

Từ thực tiễn công tác thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM của Đảng

bộ tỉnh Phú Bình từ năm 2006 đến năm 2014, trên cơ sở những ưu điểm và hạn

chế, bước đầu có thể rút ra một số kinh nghiệm như sau:

Một là, công tác chỉ đạo thực hiện chính sách ưu đãi người có công cần

bám sát chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước và phù hợp với thực

tế địa phương

Thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM là một chính sách góp phần quan

trọng vào việc ổn định xã hội. Xã hội ổn định là môi trường thuận lợi để phát

triển kinh tế. Vì vậy mọi chủ trương, biện pháp thực hiện chính sách ưu đãi

NCCVCM cần phải bám sát mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của Đại hội Đảng bộ

huyện trong từng thời kỳ cách mạng. Để cụ thể hóa nhiệm vụ chính trị nêu ra

tại các kỳ Đại hội, Đảng bộ huyện Phú Bình đã đưa ra các Chỉ thị, Nghị quyết,

Công văn, Kế hoạch để lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện các chính sách ưu

đãi NCCVCM. Đồng thời tuyên truyền, vận động các ban, ngành, đoàn thể, các

cá nhân, tổ chức và toàn thể nhân dân tích cự tham gia vào các phong trào tình

nghĩa của huyện Phú Bình tổ chức.

Thực tế từ năm 2006 đến năm 2014, công tác thực hiện chính sách ưu đãi

người có công luôn bám sát mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Các

chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ban hành về chính sách ưu đãi

ngườu có công đều được Đảng bộ huyện Phú Bình thực hiện nghiêm túc và có

hiệu quả, bám sát mục tiêu chính trị chung của huyện, vận dụng sáng tạo, linh

hoạt vào vào cảnh cụ thể của huyện.

97

Các nội dung của chính sách ưu đãi được pháp luật hóa và thực hiện có

hiệu quả ở huyện Phú Bình bao gồm các chính sách trợ cấp, phụ cấp, ưu đãi về

chăm sóc sức khỏe, ưu đãi về nhà ở đã thiết thực giúp người có công vươn lên

ổn định cuộc sống.

Đạt được những thành tựu nổi bật góp phần quan trọng nâng cao mọi mặt

đời sống vật chất và tinh thần cho đối tượng người có công nói riêng và toàn

thể nhân dân trong huyện nói chung.

Hai là, qúa trình thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM được tiến hành

công khai, minh bạch và đảm bảo công bằng cho các đối tượng.

Quá trình thực hiện các chính sách ưu đãi ưu đãi người có công với cách

mạng dựa vào các quyết định, các văn bản giấy tờ có liên quan. Do đó trong

quá trình thực hiện cần ngiêm túc, minh bạch và công khai. Nhất là từ quy

trình xét duyệt, công nhận hồ sơ đối tượng NCCVCM với công đoạn này cần

được thực hiện nghiêm túc ngay từ khâu ký nhận và xác minh ở cấp xóm, xã.

Qúa trình này liên quan rất nhiều đến các thủ tục pháp lý phức tạp. Do đó bộ

phận cán bộ thực hiện phải là người có đạo đức và trách nhiệm với nghề

nghiệp. Hướng dẫn tận tình và chi tiết cho từng đối tượng cụ thể làm hồ sơ.

Việc thực hiện công khai, minh bạch, công bằng cho từng đối tượng

NCCVCM là vấn đề có tác dụng quan trọng trong việc củng cố niềm tin giữa

chính quyền và nhân dân. Vì chính quyền địa phương là khâu trung gian đại

diện cho Đảng và Nhà nước truyền tải các chủ trương, chính sách đến từng

người dân. Vì vậy chính quyền ở địa phương có thực hiện tốt và có hiệu quả

chức năng, nhiệm vụ của mình thì mới được dân tin và ủng hộ.

Đồng thời cán bộ phụ trách mảng người có công cũng cần thực hiện một

cách nghiêm túc và có trách nhiệm trong toàn bộ quá trình để đảm bảo thực hiện

chính sách ưu đãi cho đúng đối tượng, đúng công lao. Tránh tình trạng thiếu công

bằng, bỏ sót, chậm chễ trong việc thực thi chính sách ưu đãi cho các đối tượng.

98

Trong quá tình thực thi các chính sách cần kịp thời, tránh để tình trạng

tồn đọng kéo dài gây khó khăn cho các đối tượng.

Vấn đề thực hiện minh bạch công khai cũng cần được quan tâm, rà soát

hơn nữa trong việc quản lý và sử dụng có hiệu quả quỹ đền ơn đáp nghĩa. Đảng

bộ Huyện Phú Bình cũng cần coi trọng hơn nữa công tác kiểm tra giám sát,

thanh tra xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm, thiếu tinh thần trách

nhiệm trong công việc. Đồng thời khen thưởng, tuyên dương kịp thời những

cán bộ nhiệt tình trong công tác người có công.

Ba là, chú trọng công tác tuyên truyền, phát động các phong trào tình

nghĩa, thu hút nguồn lực trong việc thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM.

Nhận thức được vai trò, ý nghĩa của việc thực hiện chính sách ưu đãi

NCCVCM là nhiệm vụ quan trọng góp phần ổn định đời sống của nhân dân

trong huyện. Đảng bộ huyện Phú Bình đã quán triệt chủ trương cần thực hiện

tích cực công tác tuyên truyền nhằm chuyển tải các chủ trương chính sách của

Đảng và Nhà nước đến từng người dân trong huyện. Để làm được điều đó

trước hết phải nâng cao nhận thức cho cán bộ và nhân dân về chủ trương của

Đảng và Nhà nước đang được áp dụng thực hiện ở địa phương. Từ đó Huyện

uỷ tổ chức hội nghị mở rộng chuyên đề nhằm quán triệt, nâng cao nhận thức và

tinh thần trách nhiệm của các cán bộ lãnh đạo các cấp, ban ngành trực tiếp thực

hiện chính sách ưu đãi NCCVCM đưa ra các giải pháp cụ thể để hoạt động có

hiệu quả. Đảng bộ phải hết sức coi trọng công tác tuyên truyền, vận động nhân

dân, phát huy các nguồn lực để thực hiện chính sách. Coi đây là một nhiệm vụ

quan trọng, là giải pháp mang tính đột phá trong việc thực hiện các chính sách

xã hội góp phần ổn định nâng cao đời sống của người dân ở địa phương. Theo

đó Huyện ủy đã có nhiều phương pháp tuyên truyền phong phú, sáng tạo và có

hiệu quả. Đài phát thanh của huyện đã tăng thêm thời lượng phát sóng các

chuyên mục, sự kiện của huyện nêu gương các thương binh, bệnh binh vượt

99

qua hoàn cảnh khó khăn làm kinh tế giỏi, biểu dương các tấm lòng thơm thảo

của các cá nhân, tổ chức đã đóng góp xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa, giúp đỡ

gia đình liệt sĩ, bà mẹ Việt Nam anh hùng… Ban tuyên giáo Huyện ủy tổ chức

các lớp huấn luyện phổ biến nội dung kế hoạch thực hiện các chính sách ưu đãi

NCCVCM cho các ban ngành trực thuộc huyện và các cán bộ lãnh đạo huyện,

phổ biến đến từng xã thôn. Phát động các phong trào, các cuộc thi “tìm hiểu

tấm gương tiêu biểu của các anh hùng liệt sĩ, người có công trên quê hương

Phú Bình”, phát động phong trào ủng hộ quỹ đền ơn đáp nghĩa…

Trong quá trình thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM Đảng bộ huyện

Phú Bình đã phát huy được sức mạnh đoàn kết của đông đảo nhân dân các dân

tộc trong huyện, khơi dậy tiềm năng, tạo ra những động lực mới thu hút đông

đảo các cá nhân và tổ chức trong địa bàn huyện tham gia hưởng ứng.

Bốn là, chú trọng công tác đào tạo đội ngũ cán bộ trực tiếp tham gia công

tác thực hiện chính sách ưu đãi cho người có công để đáp ứng yêu cầu của công

việc.

Cán bộ chuyên trách là người giữ vai trò quan trọng trực tiếp thực hiện

công việc. Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ được coi là cái

gốc của mọi công việc. Người cho rằng muôn việc thành công hay thất bài là

do cán bộ tốt hoặc kém. [37, tr.273]. Người đặt vai trò của cán bộ có ý nghĩa

quyết định khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công và thất bài của chính

sách đó là do cách tổ chức công việc, do nơi lựa chọn cán bộ, do nơi kiểm tra,

nếu ba điểm ấy sơ sai thì chính sách có đúng mấy cũng vô ích.

Trong quá trình thực hiện các chính sách ưu đãi NCCVCM, cán bộ

phòng LĐTBXH đặc biệt là người phụ trách mảng công việc người có công có

vai trò vô cùng quan trọng. Họ là người trực tiếp chuyển tải các chính sách,

chế độ của Đảng Nhà nước đến từng đối tượng cụ thể. Họ là người trực tiếp

tiếp nhận hồ sơ, giải đáp thắc mắc, hướng dẫn người có công về quy trình thủ

100

tục thực hiện chế độ ưu đãi. Họ là người tham mưu cho Huyện ủy về các chỉ

thị, công văn, các kế hoạch của huyện về thực hiện công tác ưu đãi NCCVCM.

Thông qua đội ngũ cán bộ chuyên trách, người dân mới được hiểu về quyền lợi

được hưởng chế độ của mình do Đảng và Nhà nước ban hành. Có thể nói đội

ngũ cán bộ làm công tác người có công là cầu nối giữa chủ trương, chính sách

của Đảng và Nhà nước với nhân dân, qua đó Đảng bộ huyện đưa ra các chỉ thị

hoặc kịp thời điều chỉnh các kế hoạch thực hiện sao cho đúng với các chủ

trương của Đảng và Nhà nước ban hành. Đồng thời, trong quá trình chỉ đạo

thực hiện chính sách phải phù hợp vào hoàn cảnh và điều kiện của địa phương.

Mặt khác, thông qua đội ngũ cán bộ phụ trách mảng người có công, nhân dân

kiến nghị, đóng góp ý kiến để Đảng bộ xây dựng và hoàn thiện hơn trong việc

đưa ra chủ trương chính sách của mình.

Trong thực công tác thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM cán bộ phòng

LĐTBXH hội huyện Phú Bình đặc biệt là đội ngũ cán bộ làm công tác người có

công là người thực thi hết các khâu từ khâu giúp UBND huyện trực tiếp tiến hành

công việc, xây dựng các chương trình công tác, chỉ đạo việc điều tra, khảo sát,

thống kê, tổng hợp, báo cáo danh sách các đối tượng lên Huyện ủy,UBND; xác

nhận hướng dẫn quy trình làm thủ tục, hồ sơ cho các đối tượng chính sách hưởng

chế độ ưu đãi. Thực tế cho thấy, muốn hoàn thành tốt công việc được giao thì đội

ngũ cán bộ cần phải có phẩm chất đạo đức trong sang, có bản lĩnh chính trị vững

vàng, có tinh thầm trách nhiệm cao đối với công việc. Hơn nữa đội ngũ cán bộ

cũng cần nắm vững chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, có năng lực

chuyên môn tốt để giải quyết các công việc. Trước yêu cầu thực tế đó Đảng bộ

huyện Phú Bình cần có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ

cán bộ. Hình thức đào tạo, bồi dưỡng có thể là cử đi học các lớp đào tạo dài hạn,

mở các lớp huấn luyện, thăm quan học tập những đơn vị điển hình về thực hiện

công tác ưu đãi người có công trên địa bàn Tỉnh Thái Nguyên. Đặc biệt phải quan

101

tâm rèn luyện kỹ năng giao tiếp, kỹ năng xử lý tình huống trong quá trình giải

quyết công việc. Trong quá tình tuyển chọn cần có chiến lược lâu dài, từ khâu

tuyển chọn sắp xếp vị trí cán bộ khi giao nhiệm vụ công tác, cần chủ ý tuyển chọn

những người có chuyên môn, nghiệp vụ, có sức khỏe tốt, nhiệt tình với công việc

có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới.

*

* *

Qúa trình thực hiện chính sách ưu đãi người có công của huyện Phú Bình

dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Phú Bình từ năm 2006 đến năm 2014 đã

đạt được những kết quả có ý nghĩa quan trọng trong sự phát triển của huyện.

Các kết quả trên đã góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đối

tượng người có công nói riêng và toàn thể nhân dân trong huyện nói chung.

Đồng thời có tác dụng ổn định xã hội tạo môi trường thuận lợi cho phát triển

kinh tế của huyện. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Phú Bình công tác

thực hiện chính sách ưu đãi người có công đã huy động sự quan tâm, phối hợp

của các ban ngành đoàn thể trong việc thực hiện chính sách ưu đãi người có

công.

Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm đã đạt được trong công tác lãnh đạo

thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM của Đảng bộ huyện Phú Bình vẫn còn

một số hạn chế thiếu sót cần được khắc phục. Từ thực tiễn công tác chỉ đạo, tổ

chức thực hiện chính sách ưu đãi người có công Đảng bộ huyện Phú Bình đã

rút ra một số kinh nghiệm để làm tốt hơn các chính sách ưu đãi chăm sóc

người có công trong giai đoạn tới. Trong giai đoạn tiếp theo dưới sự lãnh đạo

của Đảng bộ huyện Phú Bình công tác thực hiện chính sách ưu đãi người có

công sẽ giải quyết, khắc phục những tồn đọng cũ đồng thời hoàn thành tốt

những nhiệm vụ mới góp phần tạ ra chuyển biến mới trong sự phát triển của

huyện.

102

KẾT LUẬN

Chính sách ưu đãi NCCVCM là một bộ phận quan trọng trong chính sách

xã hội góp phần ổn định xã hội. Mục đích của chính sách ưu đãi người có công

nhằm xoa dịu đi những đau thương mất mát của đối tượng thương binh, liệt sĩ,

mẹ Việt Nam anh hùng, những NCCVCM. Đồng thời, thể hiện tấm lòng biết

ơn, kính trọng đối với những người đã hy sinh xương máu của mình để bảo vệ

quê hương đất nước. Qua việc thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM để giáo

dục truyền thống uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây đến thế hệ trẻ

hôm nay và mai sau tiếp bước cha ông của mình trong công cuộc xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc.

Chính sách ưu đãi NCCVCM là một hệ thống chính sách và pháp luật

khá rõ ràng về quy định các chế độ trợ cấp, chăm sóc sức khỏe, ưu đãi nhà ở,

tạo công ăn việc làm ….cho các thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ, bà mẹ

Việt Nam anh hùng, người nhiễm chất độc hóa học và các đối tượng khác. Hệ

thống chính sách này đã được thực hiện khá hiệu quả và thiết thực trong đời

sống xã hội. Điều này được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (4/2006) đánh

giá kết quả khái quát và nêu phương hướng nhiệm vụ phát triển. Việc chăm sóc

người có công với cách mạng và trợ giúp những người có đời sống khó khăn

được duy trì và mở rộng, đi đôi với việc mở rộng diện được hưởng chính sách

trợ giúp của nhà nước. Phong trào đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn đã

được các cấp các ngành, tổ chức triển khai có hiệu quả và huy động được đông

đảo sự tham gia của nhân dân. Chính sách ưu đãi NCCVCM tiếp tục được

nhấn mạnh tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (01/2011) trong mục tiêu

thực hiện có hiệu quả công bằng tiến bộ xã hội, bảo đảm an sinh xã hội trong

từng bước và trong từng chính sách phát triển. Huy động mọi nguồn lực xã hội

cùng với Nhà nước chăm lo tốt hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của

những người có công và thân nhân của họ. Đồng thời giải quyết dứt điểm các

103

tồn đọng về chính sách người có công, đặc biệt là người tham gia hoạt động bí

mật, lực lượng vũ trang, thanh niên xung phong trong các thời kỳ cách mạng

và kháng chiến. Tạo điều kiện, khuyến khích người và gia đình có công tích

cực tham gia phát triển kinh tế để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, có mức

sống cao hơn mức sống trung bình của dân cư tại địa bàn.

Như vậy quan điểm, chủ trương, chính sách ưu đãi cho NCCVCM của

Đảng được nhấn mạnh liên tục là cơ sở tiên quyết để Đảng bộ huyện Phú Bình

và nhân dân các huyện khác trong tỉnh Thái Nguyên vận dụng và đề ra chủ

trương, giải pháp thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM phù hợp với địa

phương.

Phú Bình là một huyện thuần nông, nằm ở vị trí trọng yếu trong kế

hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thái nguyên và trung du miền núi

Bắc Bộ. Trong những năm qua, kinh tế của huyện có nhiều bước tiến bộ vượt

bậc. Các khu công nghiệp mới xây dựng, thu hút hàng ngàn công nhân là

người dân địa phương và các vùng lân cận đến làm việc góp phần giải quyết

việc làm cho người dân trong số đó có một bộ phận lớn là con em của các đối

tượng người có công, đời sống của người dân từng bước được nâng cao.

Đặc biệt, với đặc điểm là một huyện có số lượng đối tượng NCCVCM

được hưởng chính sách ưu đãi cao của tỉnh Thái Nguyên, huyện Phú Bình đã

có chủ trương kế hoạch dựa trên cơ sở quan điểm của Đảng và Nghị quyết của

Tỉnh ủy Thái Nguyên đưa ra.

Với việc thực hiện nghiêm túc các chủ trương, chính sách của Đảng,

Nhà nước Đảng bộ huyện Phú Bình đã tổ chức chỉ đạo các ban ngành, đoàn

thể, cán bộ trực tiếp làm công tác thực hiện chính sách ưu đãi người có công

trên địa bàn huyện đảm bảo thực hiện đúng đối tượng, chính xác, đầy đủ quyền

lợi cho các đối tượng người có công trên địa bàn huyện. Nhờ vậy, các chính

sách ưu đãi về trợ cấp, phụ cấp được thực hiện rõ ràng, kịp thời, bảo đảm đúng

104

đối tượng, hạn chế thấp nhất những sai xót trong quá trình thực hiện. Mức sinh

hoạt chung của đại bộ phận đối tượng người có công được nâng lên do có sự

điều chỉnh tăng mức trợ cấp, phụ cấp.

Chế độ chăm sóc sức khỏe gồm chế độ điều dưỡng và chế độ bảo hiểm y

tế đều đạt chỉ tiêu kế hoạch hàng năm. 100% số lượng người có công và thân

nhân hưởng chính sách khám chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế tại bệnh viện đa

khoa huyện. Các đối tượng tham gia điều dưỡng tại các trung tâm đều đánh giá

thái độ phục vụ tốt, đảm bảo khẩu phần ăn cũng như được tham quan, nghỉ

ngơi, khám sức khỏe và được chăm sóc tận tình chu đáo.

Chế độ ưu đãi nhà ở được thực hiện có hiệu quả. Đến hết 2014, toàn

huyện phấn đấu không còn đối tượng người có công phải sống trong những căn

nhà dột nát. Các đối tượng thương bệnh binh, người nhiễm chất độc hóa học

được an cư lạc nghiệp. Nhiều bà mẹ Việt Nam anh hùng được vui vẻ, an hưởng

tuổi già.Chính sách hỗ trợ nhà ở thiết thực góp phần nâng cao đời sống vật chất

và tinh thần cho người có công của huyện.

Cùng với việc thực hiện tốt một số chính sách tiêu biểu như trên, Đảng

bộ huyện Phú Bình tổ chức nhiều hình thức phong phú phối hợp giữa các cấp

Đảng, chính quyền, các ban ngành đoàn thể và toàn bộ nhân dân các dân tộc

trong huyện, Đảng bộ huyện Phú Bình đã phát huy được truyền thống uống

nước nhớ nguồn ăn quả nhớ kẻ trồng cây, vận động và thu hút được các nguồn

lực trong huyện tham gia. Khơi dậy truyền thống tình làng nghĩa xóm, lá lành

đùm lá rách với những NCCVCM ổn định và phát triển cuộc sống. Các phong

trào toàn dân chăm sóc người có công, phong trào đền ơn đáp nghĩa đã tạo

được nguồn lực tại chỗ để giúp đỡ NCCVCM. Nó vừa mang tính xã hội vừa

mang tính giáo dục, không chỉ thể hiện tình cảm mà còn thể hiện trách nhiệm

của cộng đồng dân tộc với đạo lý uống nước nhớ nguồn. Sự chung tay góp sức

của chính quyền và nhân dân huyện Phú Bình góp phần ổn định nâng và nâng

105

cao đời sống vật chất và tinh thần cho thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ,

NCCVCM trong địa bàn huyện.

Qua 8 năm thực hiện (2006 - 2014) các chủ trương, biện pháp chỉ đạo được

cụ thể hóa bằng 2 nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ lần thứ XXIII nhiệm kỳ 2005- 2010

và Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXIV nhiệm kỳ 2011 - 2015 công tác thực

hiện chính sách ưu đãi NCCVCM đã thu được nhiểu thành tựu bước đầu có ý

nghĩa to lớn trong việc thực hiện thắng lợi mục tiêu chính trị chung của huyện.

Nâng cao nhận thức mới, tầm quan trọng của các chính sách ưu đãi NCC với cách

mạng trong các cấp, ban ngành và toàn thể nhân dân của huyện.

Tuy nhiên bên cạnh đó vần còn mắc phải một số hạn chế, thiếu xót cũng

cần phải được khắc phục, rút kinh nghiệm để công tác thực hiện chính sách ưu

đãi người có công với cách mạng được thực hiện có hiệu quả.

Thực tế nghiên cứu quá trình Đảng bộ Huyện Phú Bình thực hiện chính

sách ưu đãi người có công với cách mạng (2006 - 2014) có thể rút ra một số

kinh nghiệm có ý nghĩa, đồng thời cũng là định hướng phát triển trong công

tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ huyện trong những năm tiếp theo.

106

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban bí thư Trung ương Đảng (2007), Chỉ thị số 07/CT-TW về tăng cường

lãnh đạo chỉ đạo đối với công tác thương binh - liệt sỹ, người có công và

phong trào đền ơn đáp nghĩa.

2. Ban chấp hành Đảng bộ huyện Phú Bình (2005), Lịch sử Đảng bộ huyện

Phú Bình, Huyện uỷ Phú Bình xuất bản.

3. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2002), Hệ thống các văn bản pháp

luật hiện hành về chính sách với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và

người có công, Nxb Lao Động - Xã hội, Hà Nội.

4. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2005), Nghị định 147/2005/NĐ-CP

về việc quy định mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi với người có công với cách

mạng.

5. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2006), Thông tư số 07/2006/TT-

BLĐTBXH về hướng dẫn hồ sơ, lập hồ sơ thực hiện chế độ ưu đãi người có

công với cách mạng.

6. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2008), Nghị định 38/2008/NĐ-CP

về việc quy định mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi với người có công với cách

mạng.

7. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2011), Nghị định 52/20011/NĐ-CP

về việc quy định mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi với người có công với cách

mạng.

8. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2012), Thực hiện chính sách ưu đãi

người có công với cách mạng, Nxb Lao Động - Xã hội, Hà Nội.

9. Bộ Lao động - Thương binh Xã hội (2010), Thông tư liên tịch số 25/2010/BLĐTBXH-

BTC-BYT của Liên Bộ Tài chính, Bộ Y tế, Bộ LĐTBXH ngày 11/09/2010 về hướng dẫn

chế độ chăm sóc sức khỏe đối với người có công với cách mạng.

10. Phạm Thị Hải Chuyền (2012), Hoạt động đền ơn đáp nghĩa 65 năm nhìn

107

lại, tạp chí nghiên cứu lịch sử Đảng, Số 5 , tr.13-17.

11. Cục người có công (2009), Tài liệu hướng dẫn thực hiện chế độ ưu đãi

người có công với cách mạng (tài liệu lưu hành nội bộ), Hà Nội.

12. Đảng cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

13. Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

14. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Báo cáo ban chấp hành Trung ương Đảng

khóa IX về phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn

2006 - 2010.

15. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 47, Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

16. Đảng cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 51, Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

17. Đảng cộng sản Việt Nam (2010), Báo cáo ban chấp hành Trung ương Đảng

khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI giai đoạn 2011- 2015.

18. Di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh (1968).

19. Phạm Tiến Giang (2012), Hỏi đáp pháp luật về chính sách xã hội đối với

người có công với cách mạng, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

20. Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 (1993), Nxb Chính trị Quốc

gia, Hà Nội.

21. Nguyễn Thị Thu Hoài (2013), Chủ trương chính sách của Đảng và Nhà

nước Việt Nam đối với thương binh, liệt sỹ người có công với cách mạng từ

năm 1991 đến năm 2010, Luận văn Thạc sỹ Lịch sử, Hà Nội.

22. Hội đồng nhân dân Tỉnh Thái Nguyên, Nghị quyết số 03/HĐND ngày

13/12/2012 về phê duyệt đề án chính sách hỗ trợ cho gia đình có công khó

khăn nhà ở tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2012- 2015.

108

23. Huyện ủy Phú Bình (2005), Nghị quyết 05 - NQ/HU hội nghị lần thứ mười

bốn ban chấp hành đảng bộ huyện khóa XXIII về nhiệm vụ mục tiêu năm

2006.

24. Huyện ủy Phú Bình (2005), Nghị quyết đại hội đại biểu đảng bộ lần thứ

XXIII nhiệm kỳ 2005 – 2010.

25. Huyện uỷ Phú Bình (2006), Chỉ thị số 05 - CT/HU của Ban thường vụ

Huyện uỷ ngày 26/5/2006 về việc lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện theo

nghị quyết số 290/2005/QĐ-TTG của thủ tướng chính phủ về chế độ chính

sách đối với một số đối tượng trực tiếp tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu

nước nhưng chưa được hưởng chế độ chính sách của nhà nước.

26. Huyện uỷ Phú Bình (2006), Chỉ thị số 05 ngày 26/8/2006 của ban thường

vụ Huyện ủy về việc lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện nghị định

54/2006/CP về hướng dẫn thi hành pháp lệnh ưu đãi người có công với

cách mạng.

27. Huyện uỷ Phú Bình (2006), Chỉ thị về việc thực hiện pháp lệnh ưu đãi

người hoạt động cách mạng, liệt sĩ, gia đình liệt sĩ ,thương binh, bệnh binh,

người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng.

28. Huyện ủy Phú Bính (2009), Chỉ thị số 20/CT-HU ngày 9/5/2009 về việc

tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác thương binh, liệt sỹ,

người có công với cách mạng và phong trào đền ơn đáp nghĩa.

29. Huyện ủy Phú Bình (2009), Quyết định số 16/2009/QĐ-UBND về việc

miễn, giảm thuế sử dụng đất ở cho người có công trên địa bàn tỉnh Thái

Nguyên.

30. Huyện ủy Phú Bình (2010), Báo cáo của ban chấp hành đảng bộ huyện về

kết quả thực hiện nhiệm vụ năm 2012.

31. Huyện ủy Phú Bình (2010), Báo cáo của ban chấp hành đảng bộ huyện

khóa XXIII trình đại hội đại biểu đảng bộ lần thứ XXIV nhiệm kỳ 2010 -

109

2015

32. Huyện ủy Phú Bình (2010), Nghị quyết đại hội đại biểu đảng bộ lần thứ

XXIV nhiệm kỳ 2010 – 2015.

33. Nguyễn Đình Liêu (1996), Pháp luật ưu đãi người có công ở Việt Nam lý

luận và thực tiễn, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

34. Nguyễn Đình Liêu (2000), Một số suy nghĩ về hoàn thiện pháp luật ưu đãi

người có công, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

35. Nguyễn Thành Long (2007), Tìm hiểu pháp lệnh ưu đãi người có công với

cách mạng, Nxb Lao động, Hà Nội.

36. Vũ Hữu Luận (2010), Nâng cao hiệu quả công tác thương binh, liệt sỹ,

chính sách hậu phương quân đội , Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 7, tr.7-

11.

37. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

38. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

39. Phạm Quang Nghị (2007), Hà Nội làm tốt hơn nữa công tác thương binh,

gia đình liệt sỹ, người có công, Tạp chí công sản, số 7 , tr. 14 – 18.

40. Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội (2013), Tổng hợp báo cáo số

lượng người có công hưởng chế độ điều dưỡng năm 2013.

41. Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện Phú Bình (2005), Báo cáo

kết quả công tác Lao động- Thương binh và Xã hội.

42. Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện Phú Bình (2006), Báo cáo

kết quả công tác quý I, phương hướng nhiệm vụ trọng tâm quý II.

43. Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện Phú Bình (2006), Báo cáo

kết quả công tác Lao động - Thương binh và Xã hội.

44. Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện Phú Bình (2008), Báo cáo

kết quả chăm sóc người có công.

45. Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện Phú Bình (2009), Báo cáo

110

kết quả tình hình chi trả trợ cấp, phụ cấp tháng 11 năm 2009.

46. Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện Phú Bình (2009), Báo cáo

về công tác thương binh liệt sĩ người có công.

47. Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện Phú Bình (2010), Báo cáo

kết quả công tác Lao động - Thương binh và Xã hội.

48. Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện Phú Bình (2010), Công

văn số 1709- LĐTBXH – NCC ngày 24/10/2010 về việc hướng dẫn thực

hiện thông tư liên tịch số 25/2010/BLĐTBXH-BTC-BYT.

49. Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện Phú Bình (2011), Báo cáo

kết quả công tác thương binh, liệt sỹ, người có công.

50. Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện Phú Bình (2011), Báo cáo

chi trả trợ cấp hàng tháng.

51. Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội Huyện Phú Bình (2012), Báo cáo

chi trả trợ cấp hàng tháng.

52. Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện Phú Bình (2012), Báo cáo

kết quả công tác Lao động - Thương binh và Xã hội.

53. Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện Phú Bình (2013), Tổng

hợp báo cáo công tác đền ơn đáp nghĩa giai đoạn 2008 – 2013.

54. Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện Phú Bình (2014), Báo cáo

kết quả công tác thương binh, liệt sỹ, người có công.

55. Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện Phú Bình (2014), Công

văn 1558-LĐTBXH-NCC ngày 7/8/2014 về thực hiện chế độ điều dưỡng

NCC theo thông tư liên tịch số 25/2010/TTLT-BLĐTBXH-BTC.

56. Nguyễn Hiền Phương (2010), Pháp luật an sinh xã hội những vấn đề lý

luận và thực tiễn, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

57. Sở Lao động - Thương Binh và Xã hội Tỉnh Thái Nguyên (2011), Quyết

định số 65/QĐ-CTN ngày 28/6/2011 về viêc tặng quả nhân dịp kỷ niệm

111

ngày thương binh liệt sĩ.

58. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Thái Nguyên (2012), Quyết

định về việc điều dưỡng người có công.

59. Sở Lao động - Thương Binh và Xã hội Tỉnh Thái Nguyên (2012), Quyết

định số 06/QĐ-LĐTBXH ngày 17/07/2012 về việc điều dưỡng người có

công.

60. Hà Huy Sơn (2013), Thực hiện chính sách đãi ngộ vật chất đối với người có

công với cách mạng ở huyện Thanh Hà, tỉnh Hà Tĩnh, Luận văn Thạc sỹ

Kinh doanh và Quản lý, Hà Nội.

61. Nguyễn Thị Thanh (2012), 65 năm thực hiện chính sách ưu đãi người có

công với cách mạng, Tạp chí nghiên cứu lịch sử Đảng, số7, tr.18-23.

62. Phạm Thị Thanh (2012), 65 năm thực hiện chính sách ưu đãi người có

công, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 7, tr.18-24.

63. Thanh Phùng Quang Thanh (2007), Quân đội nhân dân phấn đấu thực hiện

tốt hơn nữa công tác thương binh liệt sỹ, chính sách hậu phương quân đội,

Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 7, tr. 3-8.

64. Thủ tướng Chính phủ (2006), Nghị định số 54/2006/NĐ-CP ngày 26/5/2006

về hướng dẫn thi hành một số điều ưu đãi người có công với cách mạng.

65. Thủ tướng Chính phủ (2006), Quy định số 150/2006/NĐ-CP về hướng dẫn

thi hành pháp lệnh cựu chiến binh.

66. Thủ tướng Chính phủ (2007), Quyết định 117/2007/QĐ-TTG về việc hỗ trợ

người có công với cách mạng cải thiện nhà ở.

67. Thủ tướng Chính phủ (2008), Nghị định số 89/2008/NĐ-CP về hướng dẫn

thi hành pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh ưu đãi

người có công với cách mạng.

68. Tỉnh ủy Thái Nguyên (2005), Báo cáo chính trị tại đại hội đảng bộ tỉnh lần

thứ XVI nhiệm kỳ 2005 - 2010.

112

69. Tỉnh ủy Thái Nguyên (2008), Nghị quyết số 09-NQ/TU ngày 11/12/2008 về

mục tiêu nhiệm vụ năm 2008.

70. Tỉnh ủy Thái Nguyên (2010), Báo cáo chính trị tại đại hội đảng bộ tỉnh lần

thứ XVII nhiệm kỳ 2010 - 2015.

71. Lương Đức Tuấn (2006), Hệ thống các văn bản mới nhất về tiền lương, bảo

hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công với cách mạng, Nxb Tư pháp,

Hà Nội.

72. Ủy ban nhân dân Huyện Phú Bình (2006), Quyết định số 1739/QĐ ngày

1/09/2006 về việc thành lập ban chỉ đạo thực hiện Pháp lệnh ưu đãi Người

có công với cách mạng ở huyện Phú Bình.

73. Ủy ban nhân dân Huyện Phú Bình (2010), Báo cáo kế hoạch phát triển kinh

tế- xã hội 5 năm 2011- 2015.

74. Ủy ban nhân dân huyện Phú Bình (2011), Kế hoạch số 1699/UBND ngày

13/06/2011 về kỷ niệm ngày thương binh liệt sỹ.

75. Ủy ban nhân dân huyện Phú Bình (2012), Công văn số 354-CV/HU ngày

3/7/2012 về việc thực hiện chế độ chính sách với cựu thanh niên xung

phong tham gia kháng chiến.

76. Ủy ban nhân dân Huyện Phú Bình (2012), Kế hoạch số 13/KH-UBND ngày 3/3/2012 về

việc hoạt động kỷ niệm 65 năm ngày thương binh liệt sĩ (27/07/1947- 27/7/2012).

77. Ủy ban nhân dân huyện Phú Bình (2012), Tổng hợp báo cáo công tác

phong trào đền ơn đáp nghĩa 2008 - 2012.

78. Ủy ban nhân dân huyện Phú Bình (2013), Báo cáo số 81/BC-UBND ngày

28 tháng 8 năm 2013 của UBND huyện Phú Bình về tổng hợp số liệu người

có công với cách mạng đề nghị hỗ trợ nhà ở theo quyết định 22/2013/QĐ-

TTg.

79. Uỷ ban nhân dân huyện Phú Bình (2013), Đề án triển khai thực hiện quyết

định số 22/2013/QD-TTg ngày 26/04/2013 của thủ tướng chính phủ về hỗ

113

trợ người có công với cách mạng về nhà ở trên địa bàn huyện Phú Bình.

80. Uỷ ban nhân dân huyện Phú Bình (2013), Quy chế số 314/QC-UBND ngày

21 tháng 10 năm 2013 về hoạt động của ban chỉ đạo thực hiện pháp lệnh

ưu đãi người có công với cách mạng ở huyện Phú Bình.

81. Uỷ ban nhân dân huyện Phú Bình (2013), Quyết định số 15/QĐ-UBND ngày

23/08/2013 về việc triển khai thực hiện pháp lệnh số 04/2012/PL-UBTVQH

về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của pháp lệnh ưu đãi người có công với

cách mạng trên địa bàn huyện Phú Bình.

82. Uỷ ban nhân dân huyện Phú Bình (2013), Quyết định số 1785/QĐ-UBND

ngày 11/05/2013 về việc chấn chỉnh công tác chi trả trợ cấp ưu đãi người

có công với cách mạng.

83. Ủy ban nhân dân huyện Phú Bình (2013), Quyết định số 3905/QĐ-UBND

huyện về việc phê duyệt đề án triển khai thực hiện quyết định số

22/2013/QD-TTg ngày 26/04/2013 của thủ tướng chính phủ, hỗ trợ người

có công với cách mạng về nhà ở trên địa bàn huyện Phú Bình.

84. Uỷ ban nhân dân huyện Phú Bình (2014), Công văn số 1558-LĐTBXH-

NCC ngày 7/08/2014 về hướng dẫn thực hiện thông tư liên tịch số

13/2014/TTLT-BLĐTBXH-BTC.

85. Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên (2006), Báo cáo số 116/BC-UBND ngày

23/11/2006 về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2005 – 2010.

86. Ủy ban nhân dân Tỉnh Thái Nguyên (2007), Chỉ thị số 13/CT-UBND về

việc đẩy mạnh công tác thương binh liệt sỹ người có công với cách mạng và

phong trào đền ơn đáp nghĩa thiết thực kỷ niệm 60 năm ngày thương binh

liệt sỹ 27/07/1947-27/07/2007.

87. Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên (2012), Chỉ thị số 14/CT-UBND ngày

23/08/2012 tiếp tục đẩy mạnh công tác thương binh, liệt sỹ, NCCVCM và

hoạt động kỷ niệm 65 năm ngày thương binh, liệt sỹ (27/07/1947-

114

27/07/2012).

88. Uỷ ban thường vụ quốc hội (1994), Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách

mạng, liệt sỹ và gia đình liệt sỹ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động

kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng.

89. Ủy ban thường vụ Quốc hội (1994), Quy định danh hiệu vinh dự nhà nước

Bà mẹ Việt Nam anh hùng.

90. Uỷ ban thường vụ quốc hội (2005), Pháp lệnh số 26/2005/PL-UBTVQH

ngày 29/6/2005 về ưu đãi người có công với cách mạng.

91. Uỷ ban thường vụ quốc hội (2007), Pháp lệnh số 35/2007/PL-UBTVQH11

về sửa đổi bổ sung một số điều của pháp lệnh ưu đãi người có công với

cách mạng.

92. Nguyễn Đăng Vinh - Lê Ngọc Tú (2003), Uống nước nhớ nguồn - những

điều cần biết về chính sách thương binh liệt sĩ và người có công, Nxb Lao

động.

93. Phạm Thị Xuân (2006), Đảng bộ thành phố Hải Phòng lãnh đạo thực hiện

chính sách thương binh, liệt sỹ, người có công với cách mạng từ năm 1995

đến năm 2005, Luận văn Thạc sỹ Lịch sử, Hà Nội.

115