ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------
DƢƠNG THỊ HUYỀN
ĐẢNG BỘ HUYỆN PHÚ BÌNH (THÁI NGUYÊN) LÃNH ĐẠO
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ƢU ĐÃI NGƢỜI CÓ CÔNG VỚI
CÁCH MẠNG TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2014
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Hà Nội -2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------
DƢƠNG THỊ HUYỀN
ĐẢNG BỘ HUYỆN PHÚ BÌNH (THÁI NGUYÊN) LÃNH ĐẠO
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ƢU ĐÃI NGƢỜI CÓ CÔNG VỚI
CÁCH MẠNG TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2014
Chuyên ngành : Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam
Mã số : 60 22 03 15
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học : PGS.TS Hoàng Hồng
Hà Nội - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn khoa học của PGS.TS Hoàng Hồng. Các số liệu trong đề tài là trung
thực, chính xác, đảm bảo tính khách quan, khoa học và có nguồn gốc xuất xứ
rõ ràng.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Hội đồng khoa học về nội
dung luận văn của mình.
Hà Nội, ngày 30 tháng 12 năm 2015
Tác giả
Dương Thị Huyền
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn của mình, bên cạnh những cố gắng và nỗ lực
của bản thân. Tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của nhiều cá nhân.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến thầy
giáo - PGS.TS Hoàng Hồng, người đã tận tình hướng dẫn và đóng góp nhiều ý
kiến quý báu trong thời gian tôi tiến hành nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Đồng thời, tôi xin gửi lời cảm ơn Ban lãnh đạo Huyện ủy, UBND huyện
Phú Bình và đội ngũ cán bộ phòng LĐTBXH huyện Phú Bình đã tạo điều kiện
thuận lợi, cung cấp các tư liệu cho tôi trong quá trình nghiên cứu.
Cuối cũng, tôi xin giử lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, người thân, bạn
bè đã động viên khích lệ tôi hoàn thành tốt luận văn.
Hà Nội, ngày 30 tháng 12 năm 2015.
Tác giả
Dương Thị Huyền
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
Ban chỉ đạo BCĐ
Công nghiệp hóa CNH
Hiện đại hóa HĐH
Hội đồng nhân dân HĐND
Lao động - Thương binh và Xã hội LĐTBXH
Người có công với cách mạng NCCVCM
Uỷ ban nhân dân UBND
Ủy ban thường vụ Quốc hội UBTVQH
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
Chƣơng 1. ĐẢNG BỘ HUYỆN PHÚ BÌNH LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH ƢU ĐÃI NGƢỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG GIAI
ĐOẠN 2006 - 2010 ........................................................................................... 12
1.1 Chính sách ưu đãi người có công với cách mạng của Đảng, Nhà nước Việt
Nam và tình hình thực hiện ở huyện Phú Bình trước năm 2006 ...................... 12
1.1.1 Chính sách ưu đãi người có công với cách mạng của Đảng và Nhà nước
Việt Nam ............................................................................................................ 12
1.1.2 Tình hình thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng ở
huyện Phú Bình trước năm 2006....................................................................... 20
1.2. Chủ trương và quá trình chỉ đạo thực hiện chính sách ưu đãi người có công
với cách mạng của Đảng bộ huyện Phú Bình giai đoạn 2006-2010 ................. 27
1.2.1 Chủ trương thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng
của Đảng bộ huyện Phú Bình............................................................................ 27
1.2.2 Quá trình chỉ đạo thực hiện ..................................................................... 34
1.2.2.1 Thành lập Ban chỉ đạo thực hiện chính sách ưu đãi người có công với
cách mạng ......................................................................................................... 34
1.2.2.2 Thực hiện chế độ ưu đãi về trợ cấp, phụ cấp ........................................ 37
1.2.2.3.Thực hiện chế độ ưu đãi về chăm sóc sức khỏe .................................... 41
1.2.2.4. Thực hiện chế độ ưu đãi về nhà ở ........................................................ 45
Chƣơng 2. ĐẢNG BỘ HUYỆN PHÚ BÌNH LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH ƢU ĐÃI NGƢỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG TỪ
NĂM 2010 ĐẾN NĂM 2014 ........................................................................... 51
2.1 Yêu cầu mới và chủ trương của Đảng bộ huyện Phú Bình ......................... 51
2.1.1 Yêu cầu mới .............................................................................................. 51
2.1.2 Chủ trương của Đảng bộ huyện Phú Bình ............................................... 55
2.2 Qúa trình chỉ đạo thực hiện ......................................................................... 60
2.2.1 Kiện toàn Ban chỉ đạo thực hiện chính sách ưu đãi người có công với
cách mạng ......................................................................................................... 60
2.2.2 Thực hiện chế độ ưu đãi về trợ cấp, phụ cấp ........................................... 64
2.2.3 Thực hiện chế độ ưu đãi về chăm sóc sức khỏe ....................................... 70
2.2.4 Thực hiện chế độ ưu đãi nhà ở ................................................................. 75
Chƣơng 3. MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM ............................. 83
3.1. Một số nhận xét .......................................................................................... 83
3.1.1 Ưu điểm .................................................................................................... 83
3.1.2 Hạn chế .................................................................................................... 92
3.2 Kinh nghiệm ................................................................................................ 97
KẾT LUẬN .................................................................................................... 103
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 107
PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên là một quê hương giàu truyền thống
cách mạng. Trải qua những năm tháng chiến tranh ác liệt, nhân dân huyện Phú
Bình đã cùng với quân dân cả nước dũng cảm đứng lên chiến đấu chống giặc
ngoại xâm để bảo vệ quê hương, đất nước. Biết bao người con của quê hương
Phú Bình cùng nhiều đồng chí, đồng đội của mình đã hy sinh xương máu để có
được cuộc sống hòa bình, ấm no, hạnh phúc như ngày hôm nay. Cuộc chiến
tranh đã lùi xa nhưng hậu quả nặng nề mà nó để lại vẫn còn in đậm trong tâm
trí những người con của quê hương Phú Bình nói riêng và của nhân dân cả
nước nói chung. Hàng trăm ngàn thương binh, bệnh binh đã để lại một phần
thân thể của mình ở chiến trường. Họ bị suy giảm khả năng lao động và mang
theo thương tật suốt đời. Hàng ngàn trẻ em bị dị tật do cha mẹ chúng bị nhiễm
chất độc hóa học trong chiến tranh. Hàng trăm thân nhân liệt sĩ chưa tìm thấy
mộ những người thân của mình. Nhiều bà mẹ Việt Nam anh hùng phải sống
trong cảnh neo đơn, không nơi nương tựa vì những người con thân yêu của họ
đã vĩnh viễn nằm lại chiến trường…Tất cả những mất mát to lớn đó không gì
có thể bù đắp được. Vì vậy Đảng, Nhà nước và toàn thể xã hội đã thể hiện sự
quan tâm đặc biệt với chính sách ưu đãi NCCVCM như lời tri ân sâu sắc, sự
biết ơn và kính trọng đối với công lao của họ trong sự nghiệp giải phóng dân
tộc, bảo vệ Tổ quốc.
Thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM là một đạo lý tốt đẹp của dân tộc
ta từ ngàn đời. Đó là đạo lý “uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.
Việc thực hiện chính sách người có công là bổn phận và trách nhiệm của toàn
xã hội với tinh thần đền ơn trả nghĩa, một sự ưu tiên đặc biệt cho họ. Mục đích
của việc thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM nhằm đảm bảo cho các đối
tượng luôn được yên ổn về vật chất, vui vẻ về tinh thần có cuộc sống bằng với
1
mức sống trung bình của người dân địa phương. Đồng thời, tạo điều kiện cho
họ được sử dụng sức lao động của mình góp phần vào những hoạt động có ích
cho xã hội, xây dựng quê hương giàu mạnh, phát huy phẩm chất và truyền
thống tốt đẹp của mình trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Phú Bình là một trong những huyện có số lượng người có công cao nhất của
tỉnh Thái Nguyên với trên 3.300 đối tượng người có công bao gồm: cán bộ tiền
khởi nghĩa, cán bộ lão thành cách mạng, bà mẹ Việt Nam anh hùng, liệt sĩ, thương
binh, bệnh binh, người bị nhiễm chất độc hóa học, người có công với nước… Thực
hiện chủ trương cuả Đảng và Nhà nước, quán triệt tinh thần Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ lần thứ XVI (nhiệm kỳ 2005 - 2010) và Đại hội Đảng bộ lần thứ XVII
(nhiệm kỳ 2010 - 2015) của tỉnh Thái Nguyên, Đảng bộ huyện Phú Bình đã chỉ đạo
phòng LĐTBXH làm tốt công tác thực hiện chính sách ưu đãi cho những đối tượng
người có công trên địa bàn huyện. Có được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các
cấp, các ngành và toàn thể nhân dân trong huyện nhiều các gia đình thương binh,
bệnh binh, NCCVCM đã vượt qua khó khăn, vươn lên trở thành những hộ dân làm
kinh tế giỏi. Phong trào “người công dân kiểu mẫu” của thương binh, phong trào
“gia đình cách mạng kiểu mẫu” của các gia đình liệt sĩ đã hoạt động sôi nổi ở
huyện, tạo ra không khí phấn khởi đối với các đối tượng gia đình chính sách.
Qúa trình thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM đã đạt được những kết quả
đáng kể góp phần quan trọng vào việc đảm bảo mục tiêu phát triển kinh tế, ổn định
đời sống nhân dân. Đồng thời thể hiện được tấm lòng biết ơn và sự tri ân sâu sắc
của toàn thể nhân dân các dân tộc trong huyện đối với những người đã hy sinh
xương máu để bảo vệ quê hương, đất nước.
Vì vậy, tôi chọn đề tài nghiên cứu “Đảng bộ huyện Phú Bình (Thái
Nguyên) lãnh đạo thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng từ
năm 2006 đến năm 2014” làm luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Lịch sử Đảng
cộng sản Việt Nam. Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Phú Bình trong
2
công tác chỉ đạo thực hiện chính sách ưu đãi người có công để thấy được những
điểm tích cực và hạn chế, rút ra một số kinh nghiệm để làm tốt công tác thực
hiện chính sách ưu đãi NCCVCM trong giai đoạn sau.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Chính sách ưu đãi NCCVCM là một trong những chính sách xã hội quan
trọng được Đảng, Nhà nước quan tâm. Thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM
không chỉ đảm bảo ổn định và nâng cao đời sống vật chất và tinh tinh của các
đối tượng người có công mà còn tạo ra môi trường xã hội ổn định góp phần
phát triển đất nước. Vì vậy, ưu đãi NCCCM đã trở thành đề tài được nhiều
người quan tâm ở các góc độ khác nhau.
2.1.Nhóm nghiên cứu chung về chính sách sách ưu đãi NCCVCM
Trước hết là luận văn Phó tiến sĩ khoa học Luật học của tác giả Nguyễn
Đình Liêu: “Hoàn thiện về pháp luật ưu đãi Người có công ở Việt Nam lý luận
và thực tiễn năm 1996”. Trong đề tài tác giả đi sâu làm rõ những quy phạm
pháp luật do Nhà nước ban hành cho đối tượng các đối tượng người có công.
Đồng thời nêu lên thực trạng các chính sách pháp luật dành cho NCCVCM.
Qua đó đánh giá được thành tựu và hạn chế trong việc ban hành luật pháp trên
lĩnh vực người có công. Đóng góp của tác giả là xây dựng một mô hình Pháp
luật mới cho NCCVCM.
Tiếp theo là cuốn sách “Một số suy nghĩ về hoàn thiện pháp luật ưu đãi
Người có công” của tác giả Nguyễn Đình Liêu, Nxb Chính trị Quốc gia Hà
Nội, năm 2000. Cuốn sách ra đời là kết quả công trình nghiên cứu trong đề tài
Luận văn Phó tiến sĩ của tác giả. Cuốn sách đã khái quát Luận văn của tác giả
dưới dạng tổng quát giúp người đọc hình dung một cách có hệ thống về các
chính sách ưu đãi người có công ở Việt Nam từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ban
hành Sắc lệnh 20/SL về quy định chế độ tiền lương, thương tật cho thân nhân
tử sĩ. Đây là văn bản đầu tiên đặt nền móng cho các chính sách ưu đãi
3
NCCVCM. Phạm vi thời gian kéo dài đến năm 1994 khi UBTVQH ban hành
Pháp lệnh đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, NCCVCM.
Cuốn sách “Hệ thống các văn bản mới nhất về tiền lương, bảo hiểm xã
hội và trợ cấp ưu đãi người có công với cách mạng” của tác giả Lương Đức
Tuấn, Nxb Tư Pháp, năm 2006. Cuốn sách là quá trình tổng hợp các văn bản
quy định tiền lương, bảo hiểm và trợ cấp ưu đãi cho NCCVCM và các điều
chỉnh mới nhất về chế độ lương hưu, trợ cấp khó khăn, trợ cấp xã hội, trợ cấp
hàng tháng cho người có công. Mục đích của việc ban hành các chính sách mới
này nhằm thực hiện nhóm giải pháp đảm bảo an sinh xã hội trong điều kiện
kinh tế bị lạm phát như hiện nay.
Đặc biệt nhân kỷ niệm 60 năm ngày thương binh, liệt sỹ, Ban Tuyên
giáo Trung ương xuất bản Tài liệu tuyên truyền 60 năm ngày thương binh, liệt
sỹ (27/07/1947 - 27/07/2007). Tài liệu tuyên truyền quan điểm, chủ trương của
Đảng và Nhà nước về thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM, các văn bản chỉ
đạo, tuyên dương các cá nhân, tập thể thực hiện tốt công tác người có công qua
các thời kỳ cách mạng.
Cũng trong năm 2007 có bài viết Quân đội nhân dân phấn đấu thực hiện
tốt hơn nữa công tác thương binh, liệt sĩ, chính sách hậu phương quân đội của
tác giả Phùng Quang Thanh - Bộ trưởng bộ Quốc phòng, Tạp chí quốc phòng
toàn dân, số 7, năm 2007. Tác giả đã khái quát những nét chính trong 60 năm
thực hiện công tác thương binh, liệt sĩ và NCCVCM của Đảng và Nhà nước.
Đặc biệt, tác giả nêu và chỉ rõ phương hướng để thực hiện tốt hơn nữa chính
sách thương binh, liệt sĩ, chính sách hậu phương quân đội và phong trào đền ơn
đáp nghĩa.
Tiếp theo là bài viết Chính sách chăm sóc người có công - Thực trạng
và giải pháp của tác giả PGS.TS Đào Văn Dũng in trên Tạp chí Tuyên giáo, số
7, năm 2008 đã trình bày một khái lược một số chủ trương của Đảng và chính
4
sách của Nhà nước đối với người có công. Nêu lên những tồn tại và phương
hướng khắc phục để thực hiện tốt các chính sách.
Kết quả thực hiện Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng những
năm vừa qua và nhiệm vụ, giải pháp trong thời gian tới của tác giả Bùi Hồng
Lĩnh - Thứ trưởng Bộ LĐTBXH in trên Tạp chí Thông tin cải cách nền hành
chính Nhà nước, Bộ Nội vụ, năm 2008. Tác giả đã trình bày khái quát kết quả
đạt được sau 3 năm thực hiện Pháp lệnh ưu đãi NCCVCM (sửa đổi) ngày
29/06/2005 của UBTVQH nêu lên những kết quả, tồn tại, vướng mắc và đề ra
nhiệm vụ, phương hướng, giải pháp để phát triển.
Nâng cao hiệu quả công tác thương binh, liệt sĩ, chính sách hậu phương
quân đội của tác giả Vũ Hữu Luận - Cục trưởng cục chính sách, Tổng cục
chính trị, in trên Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 7, năm 2010. Trong bài viết
tác giả đã nêu được những thành tựu của Quân đội trong việc triển khai thực
hiện các chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước đối với các đối
tượng thương binh, liệt sĩ, NCCVCM trong giai đoạn 2006 - 2010.
Cuốn sách “Hội hỗ trợ gia đình liệt sỹ Việt Nam”, Nxb Quân đội nhân
dân, năm 2011. Cuốn sách nói lên sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với
người có công đồng thời nêu lên nhiệm vụ, chương trình hoạt động của hội hỗ
trợ các gia đình liệt sỹ Việt Nam.
Hoạt động đền ơn đáp nghĩa 65 năm nhìn lại của đồng chí Phạm Thị
Hải Chuyền - Uỷ viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ LĐTBXH in trên tạp
chí Lịch sử Đảng số 7, năm 2012. Bài viết đã tổng hợp các chính sách ưu đãi
NCCVCM từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 20/SL quy định các chế
độ hưu bổng, thương tật, tiền tuất cho thân nhân tử sĩ đến năm 2012 nhân kỷ
niệm 65 năm ngày thương binh - liệt sĩ (27/07/1947 - 27/07/2012). Tác giả đã
đưa ra các giải pháp nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đối tượng
người có công trên cơ sở kết hợp 3 yếu tố: Nhà nước, cộng đồng và bản thân
5
người có công nỗ lực vươn lên.
Nhân kỷ niệm 65 năm ngày thương binh, liệt sỹ có bài viết của PGS.TS
Nguyễn Thị Thanh - Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Thành phố Hồ
Chí Minh“65 năm thực hiện chính sách ưu đãi người có công 1947-2012” in
trên tạp chí Lịch sử Đảng số 7, năm 2012. Bài viết liệt kê theo trình tự thời
gian một số chính sách tiêu biểu về ưu đãi cho đối tượng NCCVCM từ khi văn
bản đầu tiên về chế độ ưu đãi người có công được ban hành cho đến nay
(1947- 2012). Tác giả đưa ra một số đánh giá sự hoàn thiện trong hệ thống
chính sách ưu đãi NCCVCM. Đồng thời nêu lên một số giải pháp thực hiện tốt
chinh sách ưu đãi NCCVCM trong thời gian tới.
Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với thương
binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng từ năm 1991 đến năm 2010 của
tác giả Nguyễn Thị Thu Hoài (Luận văn Thạc sĩ Lịch sử Đảng cộng sản Việt
Nam, trường Đại học Khoa học Xã Hội và Nhân văn). Tác giả đã đi trình bày
khái quát hoàn cảnh lịch sử, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
Việt Nam đối với thương binh, liệt sĩ và NCCVCM từ năm 1991 đến năm 2010
qua hai khung thời gian 1991- 1995 và 1996 - 2010 gắn với những kết quả cụ
thể. Tác giả cũng đánh giá những ưu điểm, hạn chế và chỉ ra được những
nguyên nhân, tạo cơ sở để đúc rút những kinh nghiệm của Đảng và Nhà nước
đối với thương binh, liệt sỹ, NCCVCM.
2.2.Nhóm nghiên cứu thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM ở các
địa phương
Trước hết là công trình Đảng bộ thành phố Hải Phòng lãnh đạo thực
hiện chính sách thương binh, liệt sĩ người có công với cách mạng từ năm 1995
đến năm 2005 của tác giả Phạm Thị Xuân (Luận văn thạc sĩ Lịch sử Đảng
cộng sản Việt Nam, trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị,
năm 2006). Tác giả đã khái quát việc thực hiện chính sách thương binh, liệt sĩ
6
và NCCVCM ở thành phố Hải Phòng trong giai đoạn 1986 - 1994. Đồng thời
nghiên cứu quá trình Đảng bộ thành phố Hải Phòng vận dụng quan điểm của
Đảng lãnh đạo thực hiện chính sách thương binh, liệt sĩ và người có công ở
thành phố Hải Phòng trong giai đoạn 1995 - 2005. Nêu lên ý nghĩa và một số
kinh nghiệm trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách thương binh, liệt sĩ
và người có công từ Đảng bộ cơ sở.
Tiếp theo là bài viết Hà Nội làm tốt hơn nữa công tác thương binh, gia
đình liệt sĩ, người có công của tác giả Phạm Quang Nghị - Bí thư Thành ủy Hà
Nội in trên Tạp chí Cộng sản, số 7, năm 2007. Tác giả đã nêu tóm tắt những
kết quả đạt được trong công tác thực hiện chính sách đối với thương binh, liệt
sĩ, NCCVCM ở thành phố Hà Nội trên các mặt: Thực hiện chính sách, chăm
sóc người có công, hỗ trợ nhà ở, chăm sóc nghĩa trang liệt sĩ, phần mộ liệt sĩ.
Thực hiện chính sách đãi ngộ vật chất đối với người có công với cách
mạng ở huyện Thanh Hà, tỉnh Hà Tĩnh của tác giả Hà Huy Sơn (Luận văn
Thạc sĩ Kinh doanh và Quản lý, trường Đại học Kinh tế). Tác giả đã nêu lên sự
tác động của chính sách vật chất đến với đối tượng người có công. Đồng thời,
tác giả cũng chỉ ra những mặt tích cực, hạn chế của chính sách và nguyện vọng
của các đối tượng người có công trên địa bàn huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
Từ thực tiễn quản lý, tác giả đưa ra các giải pháp và kiến nghị chủ yếu để góp
phần nâng cao đời sống kinh tế đối với người có công trên địa bàn tỉnh, góp
phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh
trong thời gian tới.
Như vậy, vấn đề chính sách ưu đãi NCCVCM đã có nhiều công trình đề
cập đến và đạt được kết quả trên một số khía cạnh như:
- Tổng hợp khái lược quan điểm, chủ trương của Đảng về ưu đãi
NCCVCM qua các thời kỳ cách mạng (1947-2014).
7
- Trình bày khái quảt hệ thống chính sách ưu đãi NCCVM trên các mặt:
Trợ cấp, phụ cấp ưu đãi, chế độ chăm sóc sức khỏe, ưu đãi nhà ở, ưu đãi trong
giáo dục, đào tạo việc làm…cho người có công.
- Qúa trình thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM trong cả nước và ở một số
địa phương tiêu biểu. Đồng thời chỉ ra được một số tồn tại, hạn chế và giải pháp khắc
phục để thực hiện tốt chính sách cho các đối tượng người có công.
Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu sự chỉ đạo của chính
quyền địa phương trong việc triển khai thực hiện chủ trương của Đảng, chính
sách của Nhà nước đối với NCCVCM ở địa phương cụ thể (huyện Phú Bình,
tỉnh Thái Nguyên) từ năm 2006 đến năm 2014. Đề tài nghiên cứu “Đảng bộ
huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo thực hiện chính sách ưu đãi người
có công với cách mạng từ năm 2006 đến năm 2014” là một đề tài mới. Công
trình tập trung làm rõ các vấn đề sau:
- Chủ trương của Đảng và Nhà nước về chính sách ưu đãi NCCVCM từ
năm 2006 đến năm 2014.
- Tập trung làm rõ quá trình vận dụng chủ trương của Đảng, Nhà nước
của Đảng bộ huyện Phú Bình (Thái Nguyên) trong việc chỉ đạo thực hiện các
chính sách ưu đãi chính gồm: chế độ ưu đãi về trợ cấp, phụ cấp, chế độ ưu đãi
về chăm sóc sức khỏe, chế độ ưu đãi nhà ở cho NCCVCM từ năm 2006 đến
năm 2014.
- Kết quả thực hiện các chính sách trên, rút ra nhận xét và một số kinh
nghiệm trong quá trình chỉ đạo thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM ở huyện
Phú Bình. Đây là huyện điển hình trong việc thực hiện các chính sách ưu đãi
người có công của tỉnh Thái Nguyên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Đề tài Đảng bộ huyện Phú Bình (Thái Nguyên) lãnh đạo thực hiện chính
8
sách ưu đãi người có công với cách mạng từ năm 2006 đến năm 2014 với mục
đích làm sáng tỏ quá trình thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM từ năm 2006 đến
năm 2014 của Đảng bộ huyện Phú Bình, qua đó chủ ra những ưu điểm và hạn chế
trong quá trình lãnh đạo thực hiện chính sách. Đồng thời đúc rút một số kinh
nghiệm quý báu từ thực tiễn làm nền tảng để thực hiện tốt hơn nữa chính sách ưu
đãi NCCVCM ở Phú Bình trong những giai đoạn tiếp theo.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ huyện Phú Bình trong
thực hiện chính sách ưu đãi NCCCM.
- Trình bày theo tiến trình lịch sử quá trình lãnh đạo của Đảng bộ huyện
Phú Bình về thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM từ năm 2006 đến năm
2014.
- Đánh giá, nhận xét những ưu điểm và hạn chế của Đảng bộ huyện Phú
Bình trong thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM. Từ đó đúc rút kinh nghiệm
lãnh đạo trong giai đoạn mới.
4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Chủ trương, biện pháp, của Đảng bộ huyện Phú Bình trong việc thực
hiện chính sách ưu đãi NCCVCM từ năm 2006 đến năm 2014.
- Qúa trình chỉ đạo thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM về trợ cấp
phụ cấp, chế độ ưu đãi về chăm sóc sức khỏe, chế độ ưu đãi về nhà ở từ năm
2006 đến năm 2014.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung: Chính sách ưu đãi NCCVCM của Đảng, các vấn đề liên
quan đến sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Phú Bình trong thực hiện chính sách
ưu đãi NCCVCM gồm: Chủ trương của Đảng bộ huyện Phú Bình, các hoạt
động thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM trên ba lĩnh vực chủ yếu: Trợ cấp
9
phụ cấp, chế độ ưu đãi về chăm sóc sức khỏe, chế độ ưu đãi về nhà ở.
- Không gian: Địa bàn huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên.
- Thời gian: Từ năm 2006 đến năm 2014
- Khái niệm NCCVCM bao gồm: Toàn bộ đối tượng người có công quy
định tại Pháp lệnh Người có công với cách mạng
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng trong luận văn là
phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp lôgic. Ngoài ra luận văn còn sử
dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh.
Đồng thời, phỏng vấn cán bộ phụ trách mảng người có công của Phòng
LĐTBXH huyện Phú Bình và một số đối tượng người có công đang được
hưởng chính sách ưu đãi trong địa bàn huyện.
6. Đóng góp của đề tài
6.1.Về mặt nội dung
- Đề tài đã hệ thống hóa quan điểm chủ trương của Đảng, Nhà nước và
sự vận dụng của Đảng bộ huyện Phú Bình trong thực hiện chính sách ưu đãi
NCCVCM.
- Qúa trình chỉ đạo thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách
mạng trên ba mặt: trợ cấp phụ cấp, chăm sóc sức khỏe và nhà ở cho người có
công ở huyện Phú Bình từ năm 2006 đến năm 2014.
- Rút ra một số nhận xét về ưu điểm, hạn chế và kinh nghiệm lịch sử
trong quá trình Đảng bộ huyện Phú Bình lãnh đạo thực hiện chính sách ưu đãi
NCCVCM.
6.2.Về nguồn tài liệu: Luận văn là nguồn tài liệu tham khảo cho các
nghiên cứu về chính sách ưu đãi NCCVCM nói riêng và nghiên cứu chính sách
xã hội nói chung.
10
7. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Đảng bộ huyện Phú Bình lãnh đạo thực hiện chính sách ưu
đãi người có công với cách mạng giai đoạn 2006 - 2010
Chương 2. Đảng bộ huyện Phú Bình lãnh đạo thực hiện chính sách ưu
đãi người có công với cách mạng từ năm 2010 đến năm 2014
Chương 3. Một số nhận xét và kinh nghiệm
11
Chƣơng 1
ĐẢNG BỘ HUYỆN PHÚ BÌNH LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH ƢU ĐÃI NGƢỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG
GIAI ĐOẠN 2006 - 2010
1.1 Chính sách ƣu đãi ngƣời có công với cách mạng của Đảng, Nhà
nƣớc Việt Nam và tình hình thực hiện ở huyện Phú Bình trƣớc năm 2006
1.1.1 Chính sách ưu đãi người có công với cách mạng của Đảng và
Nhà nước Việt Nam
Con đường cách mạng Việt Nam là con đường cách mạng giải phóng
dân tộc. Trong sự nghiệp cách mạng vĩ đại ấy có biết bao người con ưu tú đã
hy sinh xương máu, tuổi trẻ, sức lực, trí tuệ cho đất nước. Vì vậy Đảng, Nhà
nước và nhân dân Việt Nam đời đời ghi nhớ công lao to lớn của họ. Chủ
trương của Đảng và chính sách của Nhà nước đối với NCCVCM là một chính
sách ưu tiên xuyên suốt trong hệ thống chính sách ưu đãi xã hội. Chính sách
này thể hiện tính ưu việt và bản chất tốt đẹp của Nhà nước, củng cố niềm tin
của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, làm cơ sở
vững chắc để tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc góp phần ổn định chính trị,
xã hội. Trong từng thời kỳ chủ trương của Đảng và chính sách của nhà nước
ưu đãi cho người có công luôn được thay đổi, bổ sung để phù hợp với hoàn
cảnh lịch sử và tình hình kinh tế của đất nước.
Cách mạng tháng Tám - 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa ra đời chưa được bao lâu thì thực dân Pháp đã quay trở lại xâm lược lần
thứ hai. Hưởng ứng lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí
Minh toàn thể dân tộc Việt Nam nhất tề đứng lên đấu tranh bảo vệ thành quả
của cuộc cách mạng với tinh thần bất diệt “thà hy sinh tất cả chứ không chịu
mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Trong cuộc chiến đấu gian khổ và
quyết liệt ấy nhiều đồng bào chiến sỹ đã hy sinh xương máu trên chiến trường.
12
Thể hiện tấm lòng biết ơn với những người đã “dùng máu đào tô thắm lá cờ
Tổ quốc” Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 20/SL ngày 16/02/1947 tại
Thái Nguyên về quy định chế độ hưu bổng, thương tật, tiền tuất đối với thân
nhân tử sĩ. Đây là văn bản đặt nền móng cho sự ra đời của hệ thống chính sách
ưu đãi NCCCM. Cùng thời gian này tại xóm Bàn Cờ, xã Hùng Sơn, huyện Đại
Từ, tỉnh Thái Nguyên, theo đề nghị của đại diện Chính trị Cục Quân đội Quốc
gia Việt Nam lấy ngày 27/07/1947 làm ngày thương binh - liệt sĩ, ngày toàn
dân cùng thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, là dịp để toàn thể nhân dân
chứng tỏ lòng hiếu nghĩa bác ái và tỏ lòng yêu mến thương binh. Ngày 27
tháng 7 là một dịp để đồng bào cả nước tỏ lòng hiếu nghĩa bác ái và tỏ lòng
yêu mến thương binh.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh
các phong trào giúp đỡ binh sỹ như “mùa đông binh sỹ” tặng áo ấm cho các
chiến sỹ, “hội giúp đỡ binh sỹ bị nạn” đưa các binh sỹ bị thương tật trở về địa
phương hoặc đưa vào các trung tâm nuôi dưỡng để chăm sóc. Tại đây họ được
chăm sóc, chữa trị vết thương và nhanh chóng phục hồi sức khỏe. Một số chiến
sỹ đã trở lại chiến trường tiếp tục cầm súng chiến đấu, nhiều người trở về địa
phương tham gia sản xuất, phục vụ chiến đấu.
Như vậy, trong giai đoạn 1945-1954 chính sách ưu đãi NCCVCM được
thực hiện trong điều kiện cả nước phải đương đầu với cuộc kháng chiến chống
Pháp gian khổ, ác liệt. Do đó chính sách ưu đãi NCCVCM của Đảng, Chính
phủ chỉ giải quyết được một phần các vấn đề về trợ cấp, phụ cấp và các ưu đãi
đặc biệt về chia ruộng đất, miễn giảm thuế nông nghiệp cho NCCVCM.
Sau năm 1954, miền Bắc hoàn toàn giải phóng tiến lên chủ nghĩa xã
hội, miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng giải phóng dân tộc chống lại đế quốc
Mỹ xâm lược. Chính sách ưu đãi NCCVCM được triển khai với hình thức khác
nhau trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt. Lúc này ở miền Nam vẫn chịu sự
13
kìm kẹp của chính quyền Mĩ - Diệm nên các chính sách ưu đãi này chưa được
ban hành. Các thương - bệnh binh chiến đấu trong vùng địch tạm chiến được
người dân miền Nam cất giấu, điều trị và nuôi dưỡng chờ cơ hội để chuyển ra
vùng giải phóng. Các chiến sỹ hy sinh được đồng đội, người dân chôn cất ngay
tại chiến trường. Năm 1970, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền
Nam Việt Nam quyết định lấy ngày 01 tháng 12 hàng năm làm Ngày Thương
binh - Liệt sĩ. Từ đó, hàng năm đến ngày 01 tháng 12, Chính phủ cử các đoàn
đại biểu đến tặng quà, thư động viên, thăm hỏi thương binh, bệnh binh, gia
đình liệt sĩ và nhắc nhở quân dân các địa phương quan tâm, săn sóc, giúp đỡ
những người con đã hy sinh cho dân tộc
Ở miền Bắc ngay sau ngày giải phóng, Đảng, Nhà nước đã có nhiều chủ
trương, chính sách quy định chế độ ưu đãi cho NCCVCM. Năm 1955 Đảng đổi
tên ngày Thương binh toàn quốc thành ngày Thương binh - Liệt sỹ. Các chế độ
ưu đãi được quy định cụ thể hơn trong từng văn bản Pháp luật cho từng đối
tượng thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ, dân quân du kích, thanh niên
xung phong bị thương tật…
Ngày 27/07/1956 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 980-
Ttg về bản điều lệ ưu đãi thương binh, dân quân du kích, thanh niên xung
phong bị thương tật, bản điều lệ ưu đãi gia đình liệt sỹ và bản điều lệ ưu đãi
gia đình quân nhân. Đây là những người có công với Tổ quốc, Chính phủ và
nhân dân luôn ghi nhớ công lao đó. Bản điều lệ này, ngoài việc quy định
những vinh dự về tinh thần còn nhằm mục đích giúp đỡ thương binh, bệnh
binh, dân quân du kích, thanh niên xung phong bị thương tật tổ chức đời sống
và phát huy khả năng của mình. Họ được hưởng những ưu đãi về phụ cấp
thương tật, trợ cấp sản xuất hay an dưỡng, ưu đãi trong ruộng đất, thuế nông
nghiệp, được chiếu cố trong tuyển dụng hoặc đi học.
Cùng với việc ban hành các chủ trương, chính sách, các phong trào toàn
14
dân chăm sóc NCCVCM được thực hiện sôi nổi trong thời kỳ này như phong
trào Trần Quốc Toản (các cháu thiếu niên giúp đỡ thương binh gia đình liệt
sỹ), phong trào giúp đỡ thương binh, liệt sỹ trong hợp tác xã nông nghiệp,
phong trào đỡ đầu nhận chăm sóc con liệt sỹ, phong trào xây dựng hũ gạo tình
nghĩa… đã được đông đảo mọi tầng lớp nhân dân tích cực hưởng ứng.
Như vậy, chính sách ưu đãi NCCVCM trong kháng chiến chống Mỹ có
sự khác biệt giữa hai miền Nam - Bắc do tính chất ác liệt của cuộc chiến tranh.
Mọi chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đều nhằm mục đích phục vụ
chiến đấu và động viên chiến đấu để hoàn thành sự nghiệp thống nhất nước
nhà. Do đó, chính sách ưu đãi NCCCM cũng nằm trong chiến lược giải phóng
dân tộc của Đảng. Chính sách ưu đãi người có công với cách mạng được thực
thi có hiệu quả ở miền Bắc đã có tác dụng động viên chiến đấu và khích lệ sản
xuất xây dựng chủ nghĩa xã hội, góp phần chi viện cho tiền tuyến miền Nam
đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược.
Khi đất nước thống nhất, bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội
trên phạm vi cả nước, Đảng và Nhà nước vẫn xác định công tác chăm sóc
người có công là một trong những vấn đề lớn của đất nước. Cụ thể hoá quan
điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước đã ban hành, bổ sung, sửa đổi nhiều văn
bản pháp luật ưu đãi đối với người có công, khắc phục một số bất hợp lý, giải
quyết một khối lượng lớn công việc do hậu quả của chiến tranh để lại, hình
thành một hệ thống văn bản pháp quy có hiệu lực thực hiện thống nhất trong cả
nước, phục vụ yêu cầu của giai đoạn mới. Đầu tiên phải kể đến đó là Chỉ thị số
223/CT-TW ngày 8/7/1975 của Ban Bí thư Trung ương Đảng xác định yêu cầu
nhiệm vụ của công tác thương binh, liệt sỹ sau chiến tranh, thống nhất chế độ
giữa hai miền, tập trung quy tập mộ, xây dựng nghĩa trang liệt sỹ.Từ năm 1975
trở đi ngày 27/7 hàng năm chính thức trở thành “ngày Thương binh - Liệt sỹ”
cả của nước.
15
Ngày 15/7/1985 Ban bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 68 - CT/TW
về việc tăng cường chăm sóc thương binh, gia đình liệt sỹ, gia đình có công với
cách mạng. Đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng"Người công dân kiểu
mẫu”,“Gia đình cách mạng gương mẫu" thu hút nhiều nguời, nhiều gia đình
có công ở cơ sở tham gia. Chấn chỉnh nề nếp sinh hoạt chính trị ở các cấp của
những người và gia đình có công, nhất là đối với cán bộ, bộ đội hưu trí. Mặt
khác cần chống lại luận điệu chiến tranh tâm lý, phá hoại của địch, ngăn ngừa
và xử lý kịp thời những hành động phi pháp làm mất uy tín và phá hoại truyền
thống cách mạng. Thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ, hàng vạn thương binh,
bệnh binh đã nỗ lực phấn đấu, vượt mọi khó khăn, nhiều người đã gương mẫu
trong lao động, sản xuất, công tác và học tập, đảm nhiệm những vị trí trọng
trách quan trọng từ Trung ương đến địa phương và trở thành Anh hùng Lao
động, Chiến sĩ thi đua, Người công dân kiểu mẫu, Gia đình cách mạng kiểu
mẫu.
Như vậy, nhiệm vụ trọng tâm của công tác thực hiện chính sách ưu đãi
NCCVCM ngay sau giải phóng (1975-1985) là tập trung vào công tác xác nhận
thương binh, liệt sỹ, quy tập hài cốt liệt sỹ, xây dựng nghĩa trang, đài tưởng
niệm để tỏ lòng biết ơn đối với những người con đã hy sinh vì nền độc lập của
dân tộc. Đồng thời phát động các cuộc vận động chính trị cho NCCVCM phát
huy truyền thống vẻ vang đóng góp nhiều nhất sức lao động của mình cho phát
triển kinh tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Từ năm 1986, đất nước đổi mới theo con đường CNH - HĐH, công tác
ưu đãi NCCVCM được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm. Chủ trương của
Đảng trong giai đoạn này coi phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện
các chính sách xã hội, thực hiện tốt chính sách xã hội là động lực thúc đẩy phát
triển kinh tế. Quan tâm chăm sóc NCCVCM vừa là trách nhiệm của Nhà nước,
vừa là trách nhiệm của nhân dân và toàn xã hội. Nghị quyết Đại hội Đảng lần
16
VI (1986) chỉ rõ“thực hiện tốt chính sách đối với thương binh, gia đình liệt sĩ,
gia đình cán bộ, chiến sĩ chiến đấu ngoài mặt trận, gia đình có công với cách
mạng”.[15, tr.558]
Vấn đề này tiếp tục được Đại hội VII (1991-1995) của Đảng tiếp tục
khẳng định:“Quan tâm chăm sóc thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và
những người có công với cách mạng, coi đó vừa là trách nhiệm của Nhà nước,
vừa là trách nhiệm của toàn dân; sớm ban hành chế độ toàn dân đóng góp vào
quỹ đền ơn, trả nghĩa để chăm lo đời sống thương binh, gia đình liệt sĩ và
những người có công với cách mạng” [16, tr.102]. Đồng thời, trong báo cáo về
phương hướng, nhiệm vụ kinh tế - xã hội 5 năm 1991 - 1995, Đảng tiếp tục
nhấn mạnh: “Quan tâm chăm sóc thương binh, bệnh binh, các gia đình liệt sĩ,
người có công với cách mạng... Củng cố các cơ sở nuôi dưỡng thương binh
nặng và tiếp tục đưa thương binh nặng về gia đình…” [16, tr.450].
Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội và các Nghị quyết Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương khóa VII (1991 - 1995), công tác chăm sóc NCCVCM
được quan tâm khá toàn diện, bao phủ hầu hết các đối tượng có công với đất
nước. Để tạo điều kiện cho việc quy tập mộ liệt sĩ và xây dựng các nghĩa trang
làm nơi an nghỉ cho các liệt sĩ, ngày 05/5/1993, Ban Bí thư Trung ương Đảng
ra Chỉ thị số 20 - CT/TW về công tác mộ nghĩa trang liệt sĩ yêu cầu các cấp,
các ngành cần có những biện pháp tích cực để trong vài năm tới giải quyết một
bước cơ bản việc tìm kiếm quy tập mộ liệt sĩ vào các nghĩa trang liệt sĩ. Đồng
thời xây dựng các nghĩa trang lớn như nghĩa trang Trường Sơn, Điện Biên Phủ
thể hiện sự hiếu kính và coi đó là công trình mang tính giáo dục sâu sắc đặc
biệt là thế hệ trẻ đối với những lớp cha ông đã hy sinh cho sự nghiệp giải
phóng đất nước. Thực hiện chủ trương của Đảng, cùng với quá trình đẩy mạnh
sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, công tác người có công được tổ chức
thực hiện có hiệu quả. Vấn đề ưu đãi người và gia đình NCCVCM đã trở thành
17
nguyên tắc ghi nhận trang trọng trong Hiến pháp năm 1992: “Thương binh,
bệnh binh, gia đình liệt sỹ được hưởng các chính sách ưu đãi của Nhà nước.
Thương binh được tạo điều kiện phục hồi chức năng lao động, có việc làm phù
hợp với sức khoẻ và đời sống ổn định. Những người và gia đình có công với
nước được khen thưởng, chăm sóc” [20]. Nguyên tắc này đã được thể chế hóa
trong Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sỹ và gia đình liệt sỹ,
thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ
cách mạng (gọi tắt là Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng) do
UBTVQH ban hành ngày 10/9/1994 và được quy định cụ thể tại Nghị định số
28/CP ngày 29/4/1995 của Chính phủ với các nội dung cơ bản về những quy
định về điều kiện, tiêu chuẩn xác nhận đối tượng người có công với cách mạng
được hưởng ưu đãi. Đồng thời thực hiện chế độ ưu đãi cho người trợ cấp về
chăm sóc sức khỏe, chế độ nhà ở [88]. Đây là một bước tiến dài trong việc ban
hành pháp luật ưu đãi NCCVCM, giải quyết một số vấn đề cấp bách của công
tác thực hiện chính sách ưu đãi người có công, đồng thời góp phần cải thiện
đời sống cho các đối tượng trong điều kiện mới. Theo đó, hệ thống chính sách
có nhiều bổ sung, sửa đổi cơ bản. Nhiều vấn đề bất hợp lý do lịch sử để lại
cũng như vấn đề mới nảy sinh trong quá trình chuyển đổi cơ chế và những tồn
đọng về chính sách sau chiến tranh, như vấn đề xác nhận liệt sĩ, thương binh; chính sách ưu đãi đối với thanh niên xung phong, những người tham gia kháng
chiến bị nhiễm chất độc hóa học; chính sách ưu đãi về giáo dục - đào tạo, chăm
sóc sức khỏe, cải thiện nhà ở, chế độ trợ cấp đối với một số đối tượng
NCCVCM bắt đầu được ưu tiên giải quyết.
Trong định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu, mục Chính sách giải
quyết một số vấn đề xã hội, Nghị quyết Đại hội VIII (1996 - 2000) chỉ rõ: “Tổ
chức tốt việc thi hành Pháp lệnh về người có công, bồi dưỡng và tạo điều kiện
cho con em những người có công với cách mạng tiếp nối sự nghiệp của cha anh.
18
Mở rộng phong trào đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ...”
[12, tr.115]. Nghị quyết Đại hội VIII đi vào cuộc sống, các cấp, các ngành, các
đoàn thể chính trị, xã hội từ Trung ương tới địa phương đã làm tốt công tác
chăm sóc NCCVCM, qua đó góp phần tạo được sự phát triển hài hòa giữa tăng
trưởng kinh tế với bảo đảm công bằng xã hội.
Để toàn Đảng, toàn quân và toàn dân thực hiện tốt hơn nữa chủ trương
của Đảng đối với NCCVCM, khắc phục những khó khăn, bất cập trong cuộc
sống của một bộ phận người có công, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, khu căn cứ
kháng chiến, ngày 14/12/1996, Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 09-CT/TW về việc
mở đợt vận động kỷ niệm 50 năm ngày thương binh, liệt sĩ. Chỉ thị yêu cầu các
bộ, ngành, các cấp ủy Đảng và chính quyền tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực
hiện tốt các chế độ, chính sách theo Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách
mạng; tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa việc chăm sóc NCCVCM, có chính sách
bảo đảm những điều kiện thuận lợi cho con của liệt sĩ, anh hùng, thương binh,
bệnh binh được học tập, làm việc để tham gia tốt các hoạt động xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
Đại hội IX (2001 - 2005) của Đảng, khẳng định: “Chăm lo tốt hơn đối với
các gia đình chính sách và những người có công với cách mạng, bảo đảm tất cả
các gia đình chính sách đều có cuộc sống bằng hoặc khá hơn mức sống trung
bình so với người dân địa phương trên cơ sở kết hợp 3 nguồn lực: Nhà nước,
cộng đồng và cá nhân các đối tượng chính sách tự vươn lên”. [13, tr. 301]. Sau
Đại hội Đảng IX (2001-2005), hàng loạt chính sách ưu đãi về kinh tế, xã hội đã
được thực hiện. Các ưu đãi của Nhà nước về giáo dục và đào tạo, miễn giảm
thuế trong sản xuất kinh doanh, ưu tiên giao đất sản xuất, cải thiện về nhà ở, đất
ở, chăm sóc sức khoẻ... các chương trình lồng ghép như xoá đói giảm nghèo,
việc làm... đã thiết thực hỗ trợ NCCVCM ổn định đời sống, nỗ lực vươn lên
trong cơ chế mới.
19
Như vậy chủ trương và chính sách của Đảng, Nhà nước đối với NCCVCM không
ngừng được sửa đổi, bổ sung và ngày càng hoàn thiện đáp ứng yêu cầu của
phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện mới. Qua các thời kỳ cách mạng
Đảng và Nhà nước luôn thể hiện sự quan tâm đến người có công, bày tỏ lòng
biết ơn đối với những người đã hy sinh để bảo vệ quê hương đất nước. Qúa
trình hoàn thiện chủ trương và chính sách của Đảng, Nhà nước trong việc ban
hành và thực thi có hiệu quả các chính sách xã hội đặc biệt là chính sách ưu đãi
NCCVCM đã khẳng định bản chất và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Đó chính
là yếu tố bảo đảm quyền con người, bảo đảm sự ổn định của xã hội, không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân, tạo nền tảng để
phát triển đất nước trong thời kỳ mới.
1.1.2.Tình hình thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách
mạng ở huyện Phú Bình trước năm 2006
Phú Bình là một huyện miền núi của tỉnh Thái Nguyên kinh tế đang có
nhiều chuyển biến theo hướng CNH-HĐH. Bộ mặt kinh tế của huyện đang có
nhiều khởi sắc tiến bộ với tốc độ tăng trưởng kinh tế khá, tạo nên tiền đề vật
chất vững chắc cho thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM. Nhiều khu công
nghiệp được ra đời thu hút hàng vạn lao động góp phần giải quyết việc làm cho
người dân trong huyện trong đó có một bộ phận không nhỏ là con em của các
đối tượng NCCVCM. Đồng thời với việc tăng trưởng kinh tế, trình độ nhận
thức của người dân cũng được nâng cao. Do vậy đã phát huy được tinh thần
trách nhiệm của người dân thông qua việc tuyên truyền vận động sự ủng hộ về
vật chất và tinh thần cho người có công. Kinh tế phát triển kéo theo đó là các
vấn đề về phúc lợi xã hội cũng được đầu tư phát triển. Hệ thống y tế được hiện
đại đáp ứng việc chăm sóc sức khỏe định kỳ cho đối tượng NCCVCM. Các
chế độ ưu đãi cũng được chú trọng, quan tâm nhiều hơn. Người có công của
huyện ngày càng được chăm lo chu đáo về mặt vật chất và tinh thần.
20
Nếu điều kiện kinh tế - xã hội tạo taọ ra tiền đề vật chất vững chắc thì
truyền thống lịch sử - văn hóa tạo nên một tiền đề vững chắc về tinh thần cho
việc thực thi có hiệu quả các chính sách ưu đãi NCCVCM. Phú Bình là một
vùng quê giàu truyền thống cách mạng trong lịch sử dựng nước và giữ nước
của dân tộc. Trải qua những năm tháng chiến tranh ác liệt, nhân dân các dân
tộc huyện Phú Bình đã cùng với quân dân cả nước nhất tề, anh dũng đứng lên
chiến đấu chống giặc ngoại xâm bảo vệ quê hương đất nước. Góp phần làm
nên chiến thắng vang dội ấy biết bao người con ưu tú của quê hương Phú Bình
đã hy sinh dưới mưa bom bão đạn của kẻ thù, hàng ngàn người đã phải gánh
chịu thương tật hoặc gánh chịu di họa của chiến tranh suốt phần đời còn lại.
Thể hiện tấm lòng biết ơn với những người đã “dùng máu đào tô thắm
lá cờ Tổ quốc”ngay từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 20/SL ngày
16/02/1947 tại Thái Nguyên về quy định chế độ hưu bổng, thương tật, tiền tuất
đối với thân nhân tử sĩ, đặt nền móng cho sự ra đời của hệ thống chính sách ưu
đãi NCCVCM. Thực hiện chủ trương của Đảng và lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí
Minh thông qua sắc lệnh số 20/SL do Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa ký ngày 16/02/1947 và được bổ sung bằng sắc lệnh 242/SL ngày 12/10/1948 về quy
định tiêu chuẩn xác nhận thương binh, truy tặng tử sỹ, thực hiện chế độ lương
hưu thương tật đối với thương binh, chế độ tiền tuất đối với gia đình liệt sỹ
công tác thực hiện chế độ ưu đãi cho NCCVCM ở huyện Phú Bình được quan
tâm và chú trọng.
Huyện Phú Bình đã làm tốt việc triển khai việc lập hồ sơ, xét duyệt các
đối tượng người có công. Theo đó những quân nhân hoạt động trong Quân đội
quốc gia Việt Nam nếu trong lúc tại ngũ, vì chiến đấu với quân địch cứu một
người hay nhều người mà bị thương thì được gọi là thương binh và được
hưởng lương hưu thương tật. Lương hưu thương tật không tính theo hạng thâm
niên của binh sĩ mà được căn cứ vào tật bệnh nặng hay nhẹ. Những quân nhân
21
được hưởng thương tật tạm thời trong một thời gian rồi vì thương tật cũ mà
chết, sau khi được khám và chứng nhận cũng được coi là tử sĩ. Cha, mẹ, vợ,
con của tử sĩ được nhận cấp tiền tuất. Như vậy, với chính sách này đã thể hiện
sự quan tâm đặc biệt đến các đối tượng người có công khi họ còn sống họ được
hưởng một khoản trợ cấp hỗ trợ để đảm bảo cuộc sống sinh hoạt. Khi chết đi
thân nhân của họ được hưởng trợ cấp tiền tuất đã phần nào bù đắp những đau
thương mất mát và giúp họ bớt đi những khó khăn trong cuộc sống.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước (1945 -
1975) công tác thực hiện chính sách ưu đãi cho NCCVCM trên địa bàn huyện
được triển khai thực hiện dưới hình thức chăm sóc thương binh, bệnh binh, đón
thương binh từ chiến trường về chăm sóc điều trị. Nguyên nhân do tính chất
của cuộc chiến tranh khốc liệt nhân dân huyện Phú Bình cùng với quân dân cả
nước đang tiến hành cuộc kháng chiến ác liệt với quân thù. Thêm vào đó hoàn
cảnh chiến tranh nền kinh tế của huyện còn nghèo nên công tác thực hiện chính
sách ưu đãi NCCVCM được thực hiện chủ yếu dưới hình thức của phong trào
đón thương binh về làng. Dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ huyện Phú Bình công
tác tiếp nhận thương binh từ chiến trường về chăm sóc nuôi dưỡng đã được
thực hiện có hiệu quả. Huyện Phú Bình đã thành lập được cơ sở nuôi dưỡng
thương binh bằng cách vận động người dân trong huyện góp gạo nuôi thương
binh. Toàn huyện đã tổ chức các cuộc vận động “hũ gạo cứu đói”, “con gà
tình nghĩa” để giúp đỡ các thương binh thương tật nặng. Đồng thời, huyện chỉ
đạo các xã trích một phần ruộng công, hoặc chung sức vỡ những thửa ruộng
mới tổ chức cấy cày, chăm nom, gặt hái những ruộng đất ấy lấy hoa lợi để nuôi
thương binh. Huyện Phú Bình là ATK đã tiếp nhận hàng trăm thương binh từ
chiến trường về điều trị phục hồi.
Mặt khác, vai trò của huyện làm tốt nghĩa vụ hậu phương động viên anh
chị em thương binh, bệnh binh cùng toàn thể nhân dân trong huyện tham gia
22
sản xuất chi viện cho chiến trường theo phương châm “thương binh tàn nhưng
không phế”, khi đã khôi phục sức khỏe huyện có chủ trương khuyến khích họ
hăng hái tham gia công tác sản xuất đóng góp sức lực vào nhiệm vụ khôi phục,
hàn gắn vết thương chiến tranh, hoàn thành sự nghiệp cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Từ những năm 1975 đến năm 1986, đất nước được hòa bình thống nhất,
nhân dân cả nước hăng hái lao động xây dựng đất nước. Hình ảnh chú bộ đội
chắc tay súng chiến đấu ngoài chiến trường, vững tay cày trên đồng ruộng đã
trở thành một hình ảnh đẹp phát huy năng lực và phẩm chất của anh bộ đội cụ
Hồ trong hoàn cảnh mới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Phú Bình các
cán bộ, chiến sỹ sau khi xuất ngũ trở về địa phương ra sức xây dựng và làm
giàu cho quê hương. Một phong trào thi đua lao động sản xuất được tổ chức đã
thu hút đông đảo đối tượng người có công của huyện tham gia. Nhờ những ưu
đãi từ chính sách của Nhà nước và sự tiếp sức của cộng đồng, các anh chị em
thương binh, bệnh binh, thân nhân liệt sỹ đã phát huy truyền thống, năng lực,
sở trường của mình trong hoàn cảnh mới để xứng đáng là những công dân kiểu
mẫu, những gia đình cách mạng gương mẫu. Nhiều người trong số đó trở thành
những người làm ăn giỏi hoặc đảm đương những trọng trách là cán bộ lãnh
đạo, cán bộ quản lý ở một số thôn, xã.
Cùng với cuộc vận động tích cực trong lao động và sản xuất, huyện Phú
Bình đã tổ chức phong trào đi tìm“địa chỉ đỏ” hướng về vùng đất trong quá
khứ chiến tranh ác liệt, phong trào “đi tìm đồng đội thân yêu”. Thể hiện một
tình cảm thiêng liêng và cao cả. Thực hiện nghĩa cử cao đẹp này, dưới sự chỉ
đạo của Đảng bộ huyện Phú Bình đã tìm được 20 mộ liệt sĩ đưa về nghĩa trang
liệt sĩ huyện, 5 mộ liệt sĩ được quy tụ tại nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn [2, tr.
400].
Từ năm 1986 đến năm 1990 khi đất nước bước vào công cuộc đổi mới
23
toàn diện trên tất cả các mặt chính trị - kinh tế, văn hóa - xã hội. Các đối tượng
NCCVCM được hưởng trợ cấp ưu đãi từ nguồn ngân sách Trung ương. Các
chế độ chăm sóc sức khỏe cũng được cải thiện nhờ trang thiết bị y tế được
trang bị đầy đủ hơn, phục vụ kịp thời cho việc phục hồi chức năng, cải tiến
việc nuôi dưỡng cho những thương binh nặng. Đồng thời, các đối tượng người
có công trên địa bàn huyện Phú Bình được giúp đỡ sản xuất, định hướng việc
làm cho thương binh, bệnh binh, người nhiễm chất độc hóa học, giúp đỡ họ ổn
định cuộc sống thông qua các phong trào hợp tác xã nông nghiệp giúp họ ổn
định cuộc sống.
Tử năm 1991 đến năm 2005 thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà
nước phát triển đất nước theo hướng CNH, HĐH. Việc thực hiện chính sách ưu
đãi xã hội phải được thực hiện một cách công bằng, bình đẳng về quyền lợi và
nghĩa vụ giữa các tầng lớp nhân dân. Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà
nước, Đảng bộ huyện Phú Bình đã có nhiều chủ trương, biện pháp kịp thời hỗ
trợ cho các đối tượng người có công của huyện. Đời sống của các đối tượng
từng bước được nâng cao.
Chính sách ưu đãi người có công với cách mạng ngày càng được hoàn
thiện hơn từ khi Đảng và Nhà nước ban hành Pháp lệnh ưu đãi người hoạt
động cách mạng, liệt sĩ, gia đình liệt sĩ, thương binh bệnh binh người hoạt
động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng ngày 29/8/1994. Đây là
thời kỳ đánh dấu bước chuyển biến to lớn có tính chất quyết định đến mọi mặt
đời sống người có công thông qua các văn bản chính sách ưu đãi xã hội chủ
yếu tập trung vào các nội dung quy định chế độ tiền trợ cấp, phụ cấp, quy định
các chế độ ưu đãi về giáo dục đào tạo, ưu đãi về chăm sóc sức khỏe, đào tạo
việc làm, miễn giảm thuế nông nghiệp…
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, Đảng bộ huyện Phú Bình
thực hiện có kết quả một số chính sách như giải quyết, công nhận thủ tục cho
24
các đối tượng là NCCVCM, thực hiện đầy đủ các chế độ ưu đãi với người có
công do Nhà nước quy định, từng bước xoa dịu nỗi đau mất mát trong chiến
tranh, khắc phục di chứng chiến tranh để lại. Đồng thời, Đảng bộ huyện cũng
sớm ý thức được trách nhiệm của toàn dân trong việc chăm sóc NCCVCM
bằng cách tuyên truyền vận động người dân tham gia đóng góp xây dựng quỹ
đền ơn đáp nghĩa, xây dựng nhà tình nghĩa tạo nên sức mạnh tổng hợp về
nguồn lực, nhân lực ở cộng đồng dân cư trong việc thực hiện chính sách ưu đãi
NCCVCM.
Có thể nói, trước năm 2006 mặc dù kinh tế của huyện còn nghèo, đời
sống của nhân dân trong huyện còn gặp nhiều khó khăn nhưng dưới sự lãnh
đạo của Đảng bộ huyện Phú Bình công tác thực hiện chính sách ưu đãi người
có công đã thu được một số kết quả đáng ghi nhận. Với đặc điểm nổi bật của
một huyện trung du miền núi nền kinh tế còn nghèo và lạc hậu. Số lượng người
có công trên địa bàn lớn. Đảng bộ huyện Phú Bình đã chỉ đạo đi sâu, đi sát tìm
hiểu thực tế đời sống của NCCVCM khi rời chiến trường trở về với gia đình.
Thấy được sự khó khăn về vật chất, mất mát về tinh thần mà các đối tượng và
thân nhân họ đang gặp phải để có những chủ trương, biện pháp hỗ trợ kịp thời
đến các đối tượng.
Đảng bộ huyện Phú Bình đã bước đầu nhận thức được vị trí và vai trò
của việc thực hiện tốt các chính sách ưu đãi người có công tạo ra một môi
trường xã hội ổn định. Chính sách ưu đãi NCCVCM là một bộ phận của chính
sách an sinh xã hội nhằm phục vụ con người và vì sự phát triển của con người
của mỗi quốc gia. Đồng thời việc thực hiện chế độ chăm sóc ưu đãi NCCVCM
là nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của huyện
khi đất nước bước vào thời kỳ CNH, HĐH. Đây là nền tảng cho sự phát triển
kinh tế của huyện trong thời kỳ mới.
Thành tựu đáng ghi nhận mà Đảng bộ huyện Phú Bình đã chỉ đạo thực
25
hiện được là: Giải quyết cho một lượng đông đảo các đối tượng người có công
trên địa bàn huyện như thương binh, bệnh binh, liệt sĩ, gia đình có công với
cách mạng gồm: 813 thương binh; 22 người được phong tặng và truy tặng
danh hiệu cao quý “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”; 1.360 liệt sĩ; 34 lão thành
cách mạng; 71 cán bộ hoạt động tiền khời nghĩa. Toàn huyện đã giải quyết chế
độ cho 125 gia đình có công với nước [2, tr.247]. Từng bước thực thi đầy đủ
các chế độ ưu đãi của Đảng và Nhà nước đến từng đối tượng người có công.
Bên cạnh một số thành tựu đã đạt được công tác thực hiện chính sách ưu
đãi người có công mắc phải một số khó khăn như sau:
Điều kiện kinh tế của huyện còn nghèo, nhân dân còn gặp nhiều khó
khăn. Đời sống của đại bộ phận các gia đình chính sách vẫn còn khó khăn đặc
biệt là vùng giao thông khó khăn. Thiếu nguồn vốn, kinh phí để tổ chức các
phong trào, chưa huy động sự tham gia đóng góp của nhân dân trong huyện
ủng hộ các chương trình chăm sóc người có công do huyện đề xướng. Phần lớn
các nguồn ngân sách này đều lấy từ Trung ương nên có sự thụ động trong quá
trình thực hiện.
Chưa phát huy được tiềm lực và sức mạnh của cá nhân và cộng đồng
tạo nên một phong trào rộng lớn. Các thủ tục quy định và xác nhận đối tượng
người có công còn rườm rà, thiếu nhất quán, gây khó khăn cho người được
hưởng chế độ.
Trước thực trạng trên đòi hỏi Đảng bộ huyện Phú Bình cần làm tốt
những việc sau đây:
Đề ra những chủ trương mới nhằm áp dụng việc thực hiện chính sách
ưu đãi NCCVCM một cách hiệu quả, phấn đấu không để xảy ra tiêu cực trong
quá trình thực hiện.
Đẩy nhanh việc giải quyết cho các đối tượng đã mất mà chưa được
hưởng tiền trợ cấp mai tang phí, trợ cấp một lần.
26
Tăng cường công tác thanh tra kiểm tra, xử lý nghiêm minh các trường
hợp vi phạm trong quá trình thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM. Đồng thời
đơn giản hóa các thủ tục hành chính trong quá trình thực hiện. Trên cơ sở đó
xác nhận trách nhiệm của cơ quan, đơn vị, phân cấp công tác quản lý cụ thể
cho từng cá nhân, phòng ban. Thành lập cơ quan chuyên trách thực hiện nhiệm
vụ giải quyết, tổ chức thực hiện các chính sách, kế hoạch, chương trình, đề án
về lĩnh vực người có công trên địa bàn huyện.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động sự ủng hộ tham gia của các cấp,
ngành đoàn thể, tổ chức, cá nhân… tham gia vào công tác đền ơn đáp nghĩa. Tôn
vinh cá nhân, tập thể làm tốt công tác người có công.
1.2. Chủ trƣơng và quá trình chỉ đạo thực hiện chính sách ƣu đãi
ngƣời có công với cách mạng của Đảng bộ huyện Phú Bình giai đoạn
2006-2010
1.2.1. Chủ trương thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách
mạng của Đảng bộ huyện Phú Bình
NCCVCM là những người đã hy sinh xương máu hoặc có những cống
hiến lớn lao cho sự nghiệp dân tộc. Vì vậy toàn Đảng, toàn dân phải có trách
nhiệm chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho các đối tượng. Kế thừa và
phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc“uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp
nghĩa”, Ngày 16/2/1947 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 20 - SL tại Thái
Nguyên quy định chế độ hưu bổng, thương tật, tiền tuất cho thân nhân tử sỹ,
đặt nền móng cho sự ra đời của hệ thống chính sách ưu đãi cho NCCVCM sau
này.
Trải qua hai cuộc chiến tranh tàn khốc, đất nước được độc lập, nhân dân
được sống trong hòa bình tự do. Cùng với mục tiêu phát triển kinh tế là mục
tiêu đảm bảo sự ổn định xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
được nâng cao rõ rệt. Từ năm 2006 đến năm 2010, Đảng và Nhà nước đã ban
27
hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm ổn định đời sống vật chất và tinh thần
của các đối tượng người có công. Hệ thống pháp luật quy định đối tượng và
chính sách ưu đãi người có công không ngừng được sửa đổi, bổ sung và hoàn
thiện, tạo nên một hành lang pháp lý giúp cho việc thực hiện các chính sách ưu
đãi NCCVCM đạt hiệu quả.
Thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đến đối tượng NCCVCM,
ngay tại Nghị quyết Đại hội X (4/2006) của Đảng đã khẳng định thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển,
bảo đảm đời sống của người có công bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình
của xã hội, trong quá trình hoàn thiện chính sách ưu đãi NCCVCM phải
thường xuyên điều chỉnh mức trợ cấp ưu đãi, không ngừng nâng cao mức thụ
hưởng chung. Đồng thời tiếp tục nghiên cứu đề xuất bổ sung, sửa đổi, bảo đảm
cho các chính sách luôn phù hợp với điều kiện mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, khắc phục bất hợp lý tồn tại, bảo đảm tính thống nhất của
chính sách và của quá trình tổ chức thực hiện chính sách đối với NCCVCM.
Theo tinh thần Nghị quyết của Đại hội X (4/2006) của Đảng, các hệ thống văn
bản Pháp luật ưu đãi NCCVCM lần lượt ra đời và đưa thực tế áp dụng. Đảng
và Nhà nước thường xuyên có những chính sách điều chỉnh các chế độ ưu đãi
dành cho NCCVCM. Mục đích của việc điều chỉnh nhằm khắc phục những
hạn chế, điểm bất cập trong quá trình thực hiện bằng việc điều chỉnh và ban
hành các chế độ mới thiết thực và phù hợp hơn để người có công được hưởng
những điều tốt đẹp nhất mà chế độ mang lại.
Thực hiện chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước, Tỉnh Thái
Nguyên đã chỉ đạo thực hiện công tác chăm sóc người có công trong toàn tỉnh.
Thái Nguyên là vùng đất ATK xưa, số lượng người có công trong tỉnh chiếm
số lượng rất lớn. Vấn đề NCCVCM là vấn đề được quan tâm và tập trung giải
quyết sau chiến tranh. Báo cáo chính trị tại đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI
28
nhiệm kỳ 2005 - 2010 nhấn mạnh: “…Thực hiện tốt chế độ chính sách của
Đảng và Nhà nước, Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng, bảo đảm
đời sống vật chất và tinh thần các đối tượng chính sách bằng hoặc cao hơn
mức sống dân cư nơi cư trú”. [68]
Ngày 23/11/2006, trong Báo cáo số 116/BC - UBND tỉnh Thái Nguyên
về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2005 - 2010 đã đề ra mục tiêu
thực hiện tốt cách chính sách xã hội là nhiệm vụ quan trọng để phát triển kinh
tế - xã hội ở Thái Nguyên trong thế chủ động hội nhập và cạnh tranh quốc tế,
trong quá trình đổi mới toàn diện đất nước, bảo đảm thu hẹp khoảng cách giữa
các hộ dân, nâng cao vị thế cuả Thái Nguyên trở thành một trung tâm lớn của
cả nước. Trong đó, vấn đề thực hiện chính sách đối với NCCVCM cần được thực
hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của
người có công. „„ Duy trì 100% xã, phường, thị trấn làm tốt công tác thương binh,
liệt sỹ, người có công. Thực hiện Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng
trong toàn tỉnh.‟‟ [85]
Để tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác NCCVCM, Đảng bộ
Tỉnh Thái Nguyên đã chỉ đạo các cơ quan, ban ngành, đoàn thể, UBND các
huyện, thị xã, thành phố Thái Nguyên tổ chức thực hiện Pháp lệnh ưu đãi người
có công với cách mạng, đánh giá những kết quả đạt được và những tồn tại, tham
gia thực hiện tốt phong trào chăm sóc người có công và tổ chức vận động ủng hộ
quỹ đền ơn đáp nghĩa, tập trung nâng cao và ổn định đời sống của các hộ chính
sách khó khăn trong giai đoạn 2006 – 2010. Đồng thời đề ra phương hướng và
các giải pháp phù hợp nhằm thực hiện hiệu quả phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”
trong thời gian tới.
Ngày 05 tháng 03 năm 2007, UBND Tỉnh Thái Nguyên đã ra Chỉ thị số
13/CT-UBND về việc đẩy mạnh công tác thương binh liệt sỹ người có công với
cách mạng và phong trào đền ơn đáp nghĩa thiết thực kỷ niệm 60 năm ngày
29
thương binh liệt sỹ 27/07/1947-27/07/2007 thể hiện sự quan tâm của các cấp
ủy đảng, chính quyền mục đích chăm sóc ngày càng tốt hơn đời sống vật chất
và tinh thần cho NCCVCM. Thông qua chỉ thị tuyên truyền giáo dục trong cán
bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân ý thức trách nhiệm lòng biết ơn đối với
các anh hùng liệt sỹ đã hy sinh xương máu vì sự tồn vong của Tổ quốc, của
nhân dân. Chỉ thị nhấn mạnh tổ chức các hoạt động thiết thực thể hiện trách
nhiệm của cấp, các ngành và các tầng lớp nhân dân đối với người có công với
nước. Đồng thời tiếp tục đẩy mạnh phòng trào đền ơn đáp nghĩa và các hoạt
động uống nước nhớ nguồn, chăm sóc thương binh, gia đình liệt sỹ, NCCVCM.
Đồng thời, Nghị quyết số 09-NQ/HU ngày 11/12/2008 tại Hội nghị lần
thứ mười một ban chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XVI về mục tiêu nhiệm vụ
năm 2008 đã chỉ ra rằng năm 2008 là năm bản lề thực hiện kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội, có ý nghĩa quan trọng góp phần thực hiện thắng lợi Nghị
Quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh khóa XVI. Hội nghị chú trọng đến phát triển văn
hóa – xã hội, trong đó vấn đề thương binh, liệt sỹ, người có công là vấn đề xã
hội quan trọng. Hội nghị xác định “Tập trung thực hiện tốt các chính sách,
giải quyết các hồ sơ tồn đọng cho các đối tượng người có công chưa được
hưởng chính sách, đánh giá đúng thực trạng đời sống của thương binh, bệnh
binh, các gia đình chính sách trong tỉnh để có những đề án phù hợp nhằm
nâng cao chất lượng cuộc sống cho các đối tượng. Đồng thời, nghiêm cấm và
xử lý nghiêm các vấn đề tiêu cực xảy ra trong quá trình thực hiện chính sách
ưu đãi. Huy động sự tham gia đóng góp của các tổ chức, cá nhân, doanh
nghiệp của tỉnh, phát triển các hoạt động tình nghĩa trong xã hội…” [69]
Như vậy, cùng với việc thực hiện các chính sách ổn định xã hội, thực
hiện chính sách ưu đãi cho NCCVCM được coi là nhiệm vụ xã hội trọng tâm
của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên. Đây là một lĩnh vực nhạy cảm không chỉ là
30
vấn đề tư tưởng mà còn là tình cảm đối với những người đã hy sinh xương máu
cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Sự quan tâm của Đảng bộ tỉnh được thể hiện
trong mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo các ban
ngành, đoàn thể, tổ chức thực hiện tốt chủ trương chính sách của Nhà nước.
Phú Bình là huyện có số lượng người có công cao nhất của tỉnh Thái
Nguyên, người có công chiếm một bộ phận quan trọng trong toàn bộ dân cư
của huyện. Thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM không chỉ nhằm mục đích
nhân văn là sự đền ơn trả nghĩa mà còn có ý nghĩa chính trị ổn định xã hội của
huyện.
Thực hiện sự chỉ đạo của tỉnh Thái Nguyên, tại Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ huyện Phú Bình lần thứ XXIII nhiệm kỳ 2005 - 2010 nhấn mạnh:
“Thực hiện các chính sách xã hội, ưu đãi người có công với nước được các
cấp, các ngành quan tâm. Đặc biệt trong nhiệm kỳ qua, huyện đã huy động các
nguồn lực xây dựng Đền thờ các anh hùng liệt sĩ, thể hiện đạo lý uống nước
nhớ nguồn và có ý nghĩa giáo dục truyền thống các tầng lớp nhân dân”. [24]
Coi đó là nhiệm vụ chính trị đặc biệt quan trọng.
Phú Bình là vùng căn cứ địa của cách mạng. Cuộc chiến tranh đã đi qua
nhưng những nỗi đau mà nó để lại vẫn còn đó. Toàn huyện có 3.748 đối tượng
người có công (năm 2009) bao gồm thương binh, bệnh binh, liệt sĩ, mẹ việt
Nam anh hùng, cán bộ lão thành cách mạng, cán bộ tiền khởi nghĩa, thân nhân
liệt sĩ những đối tượng này sau khi từ chiến trường trở về với gia đình mang
theo nhiều di chứng của chiến tranh, làm suy giảm khả năng lao động gây ảnh
hưởng đến cuộc sống sinh hoạt. Thêm vào đó khi đất nước bước vào giai đoạn
CNH, HĐH nền kinh tế thị trường đã thâm nhập ngày càng sâu rộng nhu cầu
về đàm bảo cuộc sống và thực hiện công bằng xã hội càng được yêu cầu cao
hơn.
Chủ trương của huyện là phát triển kinh tế đảm bảo ổn định xã hội. Thực
31
hiện có hiệu quả chính sách an sinh xã hội, thực hiện công bằng xã hội, chăm
lo đến từng đối tượng chính sách trong địa bàn huyện nhất là các đối tượng
NCCVCM là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và toàn thể xã hội đồng thời
cũng là đạo lý và truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta từ ngàn xưa. Thực hiện
có hiệu quả chính sách ưu đãi NCCVCM là một nhiệm vụ chính trị quan trọng
trong quá trình phát triển kinh tế, ổn định xã hội của địa phương.
Trên cơ sở nhận thức vai trò và vị trí trong công tác thực hiện chính sách
ưu đãi với người có công. Ngày 26/8/2006 Chỉ thị 05-CT/HU của Ban thường
vụ Huyện ủy Phú Bình về việc lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện Nghị định
54/2006/CP ngày 26/5/2006 của Thủ tướng Chính phủ về hướng dẫn thi hành
Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng. [26]
Chỉ thị nhận thức rõ Nghị định 54/2006/CP về hướng dẫn thi hành pháp
lệnh ưu đãi người có công số 26/2005/UBTVQH của UBTVQH ban hành ngày
29/06/2005 là một “chính sách có ý nghĩa chính trị sâu sắc của Đảng Nhà
nước, yêu cầu các cấp, ban ngành, triển khai chặt chẽ, đúng đối tượng, đảm
bảo công bằng, công khai, không để kẻ xấu, kẻ gian lợi dụng. Đồng thời rà soát,
nắm chắc tình hình, thực hiện đầy đủ quyền lợi cho những người tham gia kháng
chiến, hỗ trợ chăm sóc cho những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn” [26].
Ban thường vụ Huyện ủy yêu cầu các cấp ủy, chính quyền và lãnh đạo các ban,
ngành đoàn thể các cấp chỉ đạo các cấp ban ngành, quán triệt đầy đủ nội dung
Pháp lệnh số 26/2005/PL- UBTVQH11 ngày 29/06/2005 của UBTVQH về thực
hiện chế độ ưu đãi cho người có công với cách mạng; Nghị định số 54/2006/NĐ-
CP về hướng dẫn thi hành pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng và các
văn bản có liên quan đến việc thực hiện chế độ ưu đãi cho NCCVCM. Thông qua
các tài liệu hướng dẫn để triển khai các chế độ cho người có công của huyện.
Trong báo cáo của Ban chấp hành Đảng bộ huyện Phú Bình lần thứ
mười bốn tại Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXIII nhiệm kỳ 2005 – 2010 về
32
phương hướng nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2006 đã nhấn
mạnh công tác thương binh, liệt sỹ, người có công:“ Đẩy mạnh các hoạt động
chăm sóc người có công, đền ơn, đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn, thu hút sự
tham gia của đông đảo các tầng lớp nhân dân, các đoàn thể, doanh nghiệp
trong địa bàn huyện” [23]
Phát huy truyền thống tốt đẹp của mọi tầng lớp nhân dân, phong trào đền
ơn đáp nghĩa ngày càng được tổ chức rộng rãi và được đông đảo nhân dân
trong huyện nhiệt tình hưởng ứng. Các phong trào nhận phụng dưỡng bà mẹ
Việt Nam anh hùng, lập sổ tiết kiệm tình nghĩa, ủng hộ quỹ đền ơn đáp
nghĩa… được các tổ chức, cơ quan, doanh nghiệp và toàn thể nhân dân địa
phương tham gia. Các hoạt động từ thiện giúp đỡ người tàn tật, các nạn nhân bị
nhiễm chất độc hóa học… được huyện Phú Bình triển khai thực hiện.
Ngày 09/05/2009, Ban thường vụ Huyện ủy ra chỉ thị số 20/CT - HU về
việc tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác thương binh, liệt sỹ,
người có công với cách mạng và phong trào đền ơn đáp nghĩa. Năm 2009 là
năm đẩy mạnh công tác chăm sóc thương binh, gia đình liệt sỹ, NCCVCM với
những hoạt động phong phú và thiết thực. Ban thường vụ Huyện ủy yêu cầu
các cấp ủy, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể các cấp của Huyện lãnh đạo,
chỉ đạo các cấp ủy Đảng tổ chức phổ biến, quán triệt đến cán bộ, đảng viên,
các lực lượng vũ trang và nhân dân thực hiện đầy đủ các nội dung Nghị quyết số 09/NQ - HU của Ban chấp hành Đảng bộ Tỉnh Thái Nguyên. Thực hiện
đúng, đầy đủ và chu đáo các chế độ chính sách theo Pháp lệnh ưu đãi
NCCVCM. Kiên quyết xử lý nghiêm minh các tệ nạn tiêu cực trong thực hiện
chính sách ưu đãi cho NCCVCM. Giải quyết dứt điểm các tồn đọng về công
tác thực hiện chính sách nhất là các đối tượng tham gia kháng chiến bảo vệ Tổ
quốc, làm nhiệm vụ quốc tế ở Cam - pu - chia, giúp bạn Lào sau ngày
30/04/1975 đã phục viên, xuất ngũ, thôi việc. Đây là chủ trương, chính sách
33
của Đảng, Nhà nước nhằm ghi nhận, tôn vinh và động viên những người có
công đóng góp cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và
làm nhiệm vụ quốc tế cao cả, góp phần tăng cường an sinh xã hội và tạo động
lực thúc đẩy sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. [28]
Tiếp tục tuyên truyền, đẩy mạnh cuộc vận động toàn dân tham gia ủng
hộ xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa để có nguồn lực vật chất góp phần chăm
sóc tốt hơn những người có công. Phong trào toàn dân chăm sóc người có công
được đẩy mạnh và mở rộng đã có nhiều cá nhân tập thể là thương binh, người
có công phát huy truyền thống cách mạng, phát triển kinh tế tạo việc làm và
thu nhập cho mình và người dân xung quanh, gương mẫu trong thực hiện chính
sách của Đảng và Pháp luật của Nhà nước.
Thực hiện tốt các chính sách ưu đãi NCVCM là chủ trương nhất quán và
đồng bộ của Đảng bộ huyện Phú Bình góp phần ổn định tình hình trật tự an
toàn xã hội trên địa bàn huyện. Chủ trương tăng cường sự lãnh đạo của các cấp
ủy, chính quyền, sự kết hợp của các ban ngành đoàn thể, công tác thực hiện
chính sách NCCVCM đã đi vào nề nếp, tạo dựng được lòng tin của các đối
tượng người có công và đông đảo quần chúng nhân dân. Chính sách đã thiết
thực góp phần giữ vững ổn định chính trị, tạo điều kiện để phát triển kinh tế -
xã hội, đưa cuộc sống của các đối tượng thương binh, bệnh binh, gia đình liệt
sỹ, NCCVCM dần được ổn định.
Như vậy với những chủ trương kịp thời, hơn lúc nào hết trách nhiệm và
tình cảm đối với người có công đã trở thành một nét đẹp trong truyền thống
văn hóa của người Việt Nam. Đó là sự chuẩn bị cần thiết để công tác thực hiện
chính sách ưu đãi NCCVCM có những bước phát triển mới.
1.2.2 Quá trình chỉ đạo thực hiện
1.2.2.1.Thành lập Ban chỉ đạo thực hiện chính sách ưu đãi người có
công với cách mạng
34
Để đảm bảo chính sách ưu đãi NCCVCM được thực hiện theo đúng quy
trình, quy phạm Pháp luật và bảo đảm tính hiệu quả, theo quyết định của
UBND huyện Phú Bình và xét đề nghị của Phòng LĐTBXH huyện, huyện Phú
Bình thành lập BCĐ thực chính sách ưu đãi người có công. Quán triệt chủ
trương của Đảng bộ huyện Phú Bình về công tác thực hiện chính sách người có
công trong huyện, nhằm tăng cường công tác chỉ đạo thực hiện chính sách ưu
đãi NCCVCM ngày 01/09/2006, theo Quyết định số 1739/QĐ của UBND huyện Phú Bình
về việc thành lập ban chỉ đạo thực hiện Pháp lệnh ưu đãi Người có công với
cách mạng ở huyện Phú Bình [72] để tiến hành thực thi chính sách ưu đãi
NCCVCM theo Pháp lệnh người có công trên địa bàn huyện
Nhiệm vụ của BCĐ là xây dựng chương trình và kế hoạch cụ thể triển
khai thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM theo tinh thần của Pháp lệnh ưu
đãi NCCVCM của UBTVQH11. Đồng thời tuyên truyền, phổ biến mục đích và
yêu cầu của công tác thực hiện chính sách ưu đãi người có công theo Pháp lệnh
ưu đãi NCCVCM.
BCĐ làm nhiệm vụ trực tiếp chỉ đạo, hướng dẫn và triển khai tổ chức
thực hiện chính sách ưu đãi NCCVC, tổ chức tập huấn triển khai cho đội ngũ
cán bộ trực tiếp thực hiện theo Nghị định 54/2006/CP, nắm vững quan điểm,
công tác chỉ đạo chuyên môn, các đối tượng được hưởng chế độ làm hồ sơ, quy
trình xét duyệt công nhận đối tượng là người có công. Lập danh sách thống kê
để quản lý và trình UBND huyện. Trong quá trình giải quyết các chế độ chính
sách cho các đối tượng người có công trong huyện phải có trách nhiệm làm
việc nhiệt tình chu đáo, chặt chẽ, chính xác, không để sai sót, tiêu cực xảy ra ở
địa phương, đơn vị mình quản lý. Nghiêm cấm mọi hành vi gian trá, sách
nhiễu, bớt xén, gây phiền hà, rắc rối cho các đối tượng chính sách được hưởng
chế độ…Các cấp, các ban ngành, các đơn vị, địa phương khẩn trương tổ chức
35
thực hiện, nghiêm túc, chính xác và báo cáo kết quả về Ban thường vụ Huyện
ủy.
BCĐ thực hiện chính sách ưu đãi người có công huyện Phú Bình chỉ đạo
phòng LĐTBXH huyện là cơ quan trực tiếp giải quyết các chế độ chính sách
cho các đối tượng NCCVCM. Trong quá trình thực hiện cần nghiêm chỉnh
thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng quy định, giảm tình trạng hồ sơ bị thất lạc,
tránh để tình trạng tồn đọng gây bức xúc cho các đối tượng. Đội ngũ cán bộ,
chuyên viên là công tác chính sách cho người có công cần nâng cao ý thức tinh
thần trách nhiệm trong việc hướng dẫn, giải quyết chế độ chính sách cho đối
tượng.
Thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM là trách nhiệm, nghĩa vụ đồng
thời bày tỏ sự quan tâm sâu sắc, lòng biết ơn sự kính trọng đối với những
người có công. Chính sách ưu đãi NCCVCM được Đảng bộ huyện Phú Bình
triển khai thực hiện theo chủ trương của Đảng và Nhà nước đồng thời áp dụng
linh hoạt với điều kiện kinh tế - xã hội, phong tục tập quán của nhân dân các
dân tộc trên địa bàn huyện.
Thực hiện Chỉ thị số 05 - CT/HU của Ban thường vụ Huyện ủy Phú Bình ban hành
ngày 26/08/2006 về việc triển khai thực hiện theo Pháp lệnh số 26/2005/PL-
UBTVQH11 ngày 29/6/2005của UBTBQH về ưu đãi người có công với cách
mạng. Theo tinh thần của chỉ thị 05 - CT/HU của Ban thường vụ huyện ủy Phú
Bình, công tác thực hiện chính sách ưu đãi cho các đối tượng NCCVCM được
triển khai trong toàn huyện trên ba chính sách tiêu biểu gồm chế độ ưu đãi về
trợ cấp, phụ cấp, chế độ ưu đãi về chăm sóc sức khỏe, chế độ ưu đãi về nhà ở.
Đối với công tác thực hiện chính sách trợ cấp phụ cấp, BCĐ giao nhiệm
vụ cho phòng LĐTBXH huyện tập trung phân loại, tổng hợp đối tượng, xây
dựng kế hoạch trình UBND huyện phê duyệt, xử lý ngay các vấn đề phát sinh
trong quá trình chi trả tiền trợ cấp, tránh tình trạng tồn đọng, đồng thời có biện
36
pháp xử lý ngay đối với các trường hợp hưởng thiếu chính sách hoặc hưởng sai
chính sách. Về giải quyết hồ sơ chính sách cho đối tượng người có công phải
thực hiện theo trình tự: nộp trước, giải quyết trước; nộp sau, giải quyết sau,
những trường hợp đặc biệt cần được báo cáo lên UBND huyện cho ý kiến mới
được thực hiện.
Đối với công tác thực hiện chế độ ưu đãi về chăm sóc sức khỏe, nhằm
không để sót đối tượng hưởng chế độ điều dưỡng, chăm sóc phục hồi sức khỏe,
BCĐ đề nghị Phòng LĐTBXH lập danh sách và dự toán kinh phí, rà soát đối
tượng hướng dẫn làm hồ sơ, tổ chức xét duyệt, giải quyết theo đúng quy trình,
quy định không bỏ sót đối tượng. Đồng thời tổ chức cấp phát thẻ bảo hiểm
hàng năm cho các đối tượng người có công và thân nhân đang được hưởng chế
độ.
Đối với công tác thực hiện chế độ ưu đãi về nhà ở, BCĐ yêu cầu các xã
thị trấn thống kê số đối tượng người có công thực sự khó khăn và có tên trong
danh sách đề án trình lên UBND huyện phê duyệt. BCĐ quyết định chọn
những đối tượng có hoàn cảnh khó khăn đặc biệt không có khả năng xây dựng
được nhà ở hoặc sống trong những căn nhà tạm sẽ được hỗ trợ xây dựng nhà
mới.
Như vậy với việc thành lập BCĐ thực hiện chính sách ưu đãi người có
công với cách mạng ở huyện Phú Bình đã cho thấy tính khoa học và quy trình
tổ chức chặt chẽ. Thành lập BCĐ thực hiện chính sách ưu đãi người có công,
xây dựng kế hoạch, tổ chức tập huấn nghiệp vụ, hướng dẫn các xã, thị trấn
trong triển khai thực hiện. Đồng thời ban hành các văn bản chỉ đạo, đôn đốc,
kiểm tra thực hiện tại các xã nhằm đảm bảo các chính sách ưu đãi NCCVCM
1.2.2.2.Thực hiện chế độ ưu đãi về trợ cấp, phụ cấp
được thực hiện theo đúng Pháp luật.
Thực hiện chi trả theo chế độ cho các đối tượng NCCVCM là việc làm
37
thiết thực nhằm đảm bảo ổn định và nâng cao chất lượng cuộc sống cho
thương binh, liệt sỹ, NCCVCM. Phú Bình là huyện có số lượng người có công
với cách mạng cao nhất của tỉnh Thái Nguyên với 3.748 đối tượng (năm 2009).
Việc chi trả trợ cấp hàng tháng cho đối tượng người có công trên địa bàn
huyện có ý nghĩa quan trọng.
Sau khi có có quyết định thực hiện chi trả trợ cấp của các đối tượng
người có công do Sở LĐTBXH tỉnh Thái Nguyên chuyển về Phòng LĐTBXH
huyện Phú Bình sẽ đăng ký vào sổ quản lý, lập danh sách và cấp sổ lĩnh tiền
trợ cấp ưu đãi hàng tháng cho các đối tượng chính sách. Người có công hàng
tháng sẽ đến nhận tiền trợ cấp ưu đãi trực tiếp tại bộ phận Kế toán – Phòng
LĐTBXH của huyện. Các đối tượng đến nhận tiền trợ cấp cần mang theo sổ
trợ cấp hàng tháng và xuất trình chứng minh thư nhân dân để đối chiếu và ký
nhận vào danh sách chi trả trợ cấp.
Thực hiện việc chi trả trợ cấp cho người có công trên địa bàn huyện theo
kế hoạch của UBND huyện Phú Bình, tài liệu hướng dẫn về việc chi trả trợ
cấp, phụ cấp ưu đãi hàng tháng do Sở LĐTBXH tỉnh. Năm 2006 các đối tượng
người có công trên địa bàn huyện được hưởng trợ cấp phụ cấp với mức chuẩn
là 355.000 đồng. (Thực hiện theo Nghị định số 147/2005/NĐ-CP ban hành
ngày 30/11/2005 của Chính phủ quy định mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi cho
người có công với cách mạng)
Hàng năm, chế độ trợ cấp, phụ cấp đều được điều chỉnh tăng theo sự
phát triển kinh tế của đất nước. Các đối tượng người có công ngày càng được
chăm lo và hưởng những ưu đãi từ phía Nhà nước, chính phủ và cộng đồng.
Tại Nghị định 32/NĐ - CP của Chính phủ ban hành ngày 02/03/2007, mức
chuẩn để xác định các mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi cho NCCVCM là 470.000
đồng/người/tháng. Chế độ trợ cấp, phụ cấp tăng lên 650.000 đồng/tháng ở
Nghị định 105/NĐ-2008/ND-CP ngày 16/09/2008. Như vậy so với mức trợ cấp
38
cũ, ở nghị định này mức trợ cấp đã tăng thêm 180.000 đồng.
Ngày 23/04/2009 Chính phủ ban hành Nghị định số 38/2009/NĐ-CP
nâng mức chuẩn trợ cấp, phụ cấp cho đối tượng NCCVCM lên 685.000 đồng.
Kinh phí đảm bảo thực hiện chế độ cho người có công lấy từ nguồn ngân sách
của Nhà nước để đảm bảo tính lâu dài, thường xuyên và ổn định.
Theo số liệu thống kê Phòng LĐTBXH huyện Phú Bình năm 2009 trên
toàn huyện có 3.748 đối tượng người có công. Số tiền chi trả hàng phụ cấp, trợ
cấp hàng tháng cho các đối tượng theo Nghị định số 38/2009/NĐ - CP là
3,457,081,000 đồng. [45] Cụ thể như sau:
BÁO CÁO TÌNH HÌNH CHI TRẢ TRỢ CẤP, PHỤ CẤP NGƢỜI
CÓ CÔNG HUYỆN PHÚ BÌNH THÁNG 11 NĂM 2009
Mức trợ
Tổng số
TT
Đối tƣợng
cấp (nghìn
Số tiền (đồng)
(ngƣời)
đồng)
Người HĐCM trước 01/01/1945 (Lão
1
11
1,302
14,322,000
thành cách mạng)
Người HĐCM từ 01/01/1945 đến trước
2
17
710
9,230,000
TKN (cán bộ TKN)
3
Bà mẹ VNAH
11
1,225 + 575
18,700,000
Thƣơng binh ngƣời hƣởng chính sách
4
nhƣ thƣơng binh
-TB bị suy giảm khả năng lao động 21 –
408
1,320
538,560,000
60%
- TB bị suy giảm khả năng lao động 61 –
151
1,760
265,760,000
80%
-TB bị suy giảm khả năng lao động 81%
78
2,200 +682
224,796,000
trở lên
39
- TB bị suy giảm khả năng lao động 81%
2 ,200 +885
12,340,000
4
trở lên có bệnh tật đặc biệt nặng.
5
Bệnh binh
-BB suy giảm khả năng lao động từ 41%
306
717
219,402,000
- 50%
-BB suy giảm khả năng lao động từ 51%
206
892
183,752,000
- 60%
-BB suy giảm khả năng lao động từ 61%
188
1,137
213,756,000
- 70%
-BB suy giảm khả năng lao động từ 71%
59
1,312
77,408,000
- 80%
-BB suy giảm khả năng lao động từ 81%
3
1,570
4,710,000
- 90%
-BB suy giảm khả năng lao động từ 91%
3
1,748 +345
6,279,000
- 100%
BB suy giảm khả năng lao động trên
2
1,748 +685
4,866,000
81% có bệnh tật đặc biệt nặng
6
35
Người có công giúp đỡ cách mạng
1,137
39,795,000
7
1978
Người HĐKC bị nhiễm CĐHH
685
1,354,930,000
8
Trợ cấp tuất thân nhân liệt sỹ
205
Tuất 1 Liệt sỹ
685
140,425,000
78
Tuất 2 Liệt sỹ trở lên
1,225
95,550,000
9
5
Mai táng phí
32,500,000
10
3,748
Cộng tổng
3,457,081,000
(Số liệu thống kê phòng LĐTBXH huyện Phú Bình, tháng 11/2009).
Được sự chỉ đạo của Huyện uỷ, UBND huyện Phú Bình, Phòng
LĐTBXH huyện Phú Bình đã thực hiện đảm bảo chi trả đúng người, đúng
danh sách.
40
Chế độ trợ cấp, phụ cấp ưu đãi cho thương binh, liệt sỹ, người có công
và thân nhân của họ là hình thức giúp đỡ về mặt vật chất thiết thực để người có
công đảm bảo cuộc sống và vươn lên trong xã hội
Thực hiện chi trả kịp thời, đầy đủ chế độ trợ cấp ưu đãi người có công
trên địa bàn huyện là 3.748 đối tượng người có công (năm 2009). Việc chi trả
trợ cấp hàng tháng góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người
có công, đó cũng là sự kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc “uống nước
nhớ nguồn”, giúp họ vượt qua khó khăn vươn lên trong cuộc sống, có mức sinh
hoạt bằng với mức bình quân của người dân trong huyện.
Việc thực hiện trợ cấp cho người có công cho họ thấy được ý nghĩa biết
ơn chứ không phải là sự ban ơn của xã hội đồng thời phải bảo đảm yêu cầu
quản lý đối tượng gắn với việc chăm sóc người có công trên địa bàn của các
cấp chính quyền. Nhờ những số tiền trợ cấp, phụ cấp được hỗ trợ hàng tháng
mà đời sống của các gia đình chính sách dần được cải thiện. Điều đó góp một
phần thiết thực vào việc ổn định cuộc sống khi mà chủ yếu các đối tượng chính
sách sống bằng nguồn trợ cấp do Nhà nước hỗ trợ.
1.2.2.3.Thực hiện chế độ ưu đãi về chăm sóc sức khỏe
Các đối tượng NCCVCM thường là những người giảm sút khả năng lao
động do nhiều nguyên nhân như di chứng thương tật, bị nhiễm chất độc hóa
học, hoặc do tuổi cao. Do vậy, sức khỏe họ thường xuyên bị giảm sút. Chăm
sóc sức khỏe cho NCCVCM là một việc làm thiết thực thể hiện tính nhân văn
sâu sắc nhằm đảm bảo sức khỏe và giúp đỡ họ phục hồi thể trạng của những di
chứng sau chiến tranh. Đây là việc làm cần thiết và cấp bách cho đối tượng
NCCVCM. Chế độ chăm sóc sức khỏe cho người có công được hưởng bao
gồm chế độ bảo hiểm y tế và chế độ điều dưỡng.
Chế độ bảo hiểm y tế: Các đối tượng là người có công và thân nhân của họ
được hưởng chế độ chăm sóc sức khỏe, được cấp thẻ bảo hiểm y tế hàng năm gồm :
41
Người có công với cách mạng và thân nhân đang hưởng trợ cấp hàng
tháng; Người có công với cách mạng thuộc diện hưởng trợ cấp một lần.Trường
hợp này phải kèm thêm bản sao Huân chương Kháng chiến, Huy chương
Kháng chiến; Huân chương Chiến thắng, Huy chương Chiến thắng; Thân nhân
không thuộc diện hưởng trợ cấp hàng tháng của Liệt sĩ, Anh hùng Lực lượng
vũ trang nhân dân, Anh hùng lao động trong thời kỳ kháng chiến; thương binh,
bệnh binh, người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học suy giảm
khả năng lao động 61% trở lên; Người phục vụ Bà mẹ Việt Nam anh hùng;
thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa
học suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên.
Chế độ điều dưỡng là một chế độ rất tốt và thu được hiệu quả, kịp thời
góp phần nâng cao sức khỏe cho người có công. Theo đó đối tượng NCCVCM
được hưởng chế độ điều dưỡng như sau:
Đối tượng được hưởng điều dưỡng một năm một lần đối với: Cán bộ lão
thành cách mạng (người hoạt động cách mạng trước ngày 01/01/1945); Cán bộ
tiền khởi nghĩa (người hoạt động cách mạng từ ngày 01/01/1945 đến trước
Tổng khởi nghĩa 19 tháng Tám năm 1945); bà mẹ việt nam anh hùng; thương
binh và người được hưởng chính sách như thương binh; bệnh binh có tỷ lệ suy
giảm lao động do thương tật, bệnh tật từ 81% trở lên đang sống tại gia đình;
người có công giúp đỡ cách mạng được nhà nước tặng kỷ niệm chương “Tổ
quốc ghi công” hoặc “bằng có công với nước”; người hoạt động cách mạng bị
nhiễm chất độc hóa học hoặc bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên.
Điều dưỡng luân phiên 5 năm 1 lần đối với: Cha đẻ, mẹ đẻ, vợ hoặc
chồng của liệt sĩ, người có công nuôi dưỡng liệt sĩ; anh hùng lực lượng vũ
trang nhân dân, anh hùng lao động trong kháng chiến; người có công giúp đỡ
cách mạng trong kháng chiến; thương binh, bệnh binh có tỷ lệ suy giảm lao
động do thương tật dưới 81%.
42
Người hoạt động cách mạng bị nhiễm chất độc hóa học hoặc suy giảm
khả năng lao động dưới 81%; người hoạt động cách mạng bị bắt bị tù, đày.
Chế độ điều dưỡng tại các cơ sở điều dưỡng
+ Thời gian điều dưỡng tối đa là 10 ngày
+ Mức chi điều dưỡng: 800.000 đồng/người/lần.
+ Trong thời gian điều dưỡng tập trung nếu bị ốm đau đột xuất thì được
giới thiệu đi điều trị tại bệnh viện gần nhất theo chế độ bảo hiểm y tế hiện
hành.
+ Trường hợp đối tượng đi điều dưỡng nếu không ở hết thời gian của đợt điều
dưỡng sẽ được thanh toán lại tiền. Số kinh phí do Sở LĐTBXH chi hàng năm. Chế
độ điều dưỡng tại gia đình với mức chi 600.000 đồng/ người/ lượt.
Căn cứ Thông tư liên tịch số 17/2006/TTLT-BLĐTBXH-BTC-BHYT
ban hành ngày 21/11/2006; Huyện Phú Bình căn cứ vào quyết định số 06/QĐ-
LĐTBXH của tỉnh Thái Nguyên ban hành ngày 17/12/2006 về việc chăm sóc
sức khỏe người có công, chỉ đạo cho phòng LĐTBXH huyện Phú Bình quản lý
đã thực hiện điều dưỡng tại nhà cho 527 người với tổng số tiền là 421,600,000
đồng. [43]
BẢNG TỔNG HỢP DANH SÁCH ĐIỀU DƢỠNG NGƢỜI CÓ
CÔNG HUYỆN PHÚ BÌNH NĂM 2006
(Số tiền 800.000 đồng/ người/ lần)
STT Số ngƣời Tổng số tiền Xã
23 18.400.000 Úc Kỳ 1
39 31.200.000 Hà Châu 2
26 20.800.000 Bảo Lý 3
15 12.000.000 Lương Phú 4
8 6.400.000 Bàn Đạt 5
43
6 Nga My 41 32.800.000
7 Đồng Liên 19 15.200.000
8 Hương Sơn 20 16.000.000
9 Tân Thành 24 19.200.000
10 Thanh Ninh 10 8.000.000
11 Kha Sơn 22 17.600.000
12 Nhã Lộng 33 26.400.000
13 Tân Kim 30 24.000.000
14 Tân Khánh 28 22.400.000
15 Tân Hòa 39 31.200.000
16 Dương Thành 16 12.800.000
17 Thượng Đình 26 20.800.000
18 Điềm Thụy 35 28.000.000
19 Tân Đức 34 27.200.000
20 Xuân Phương 15 12.000.000
21 Đào Xá 23 18.400.000
22 Tổng số: 21 xã 527 412.600.000
(Số liệu Thống kê Phòng LĐTBXH huyện Phú Bình năm 2006)
Từ năm 2006 đến năm 2010 công tác chăm sóc sức khỏe cho đối tượng
NCCVCM được thực hiện thường xuyên. Hàng năm các đối tượng chính sách
đều được đi điều dưỡng ở các cơ sở y tế trong đó có 572 người được đi điều
dưỡng tại bệnh viện huyện Phú Bình và các cơ sở điều dưỡng, 1130 người
được hỗ trợ điều dưỡng tại nhà. [43]
Việc cấp phát thẻ bảo hiểm y tế được thực hiện đúng với các đối tượng.
Tạo điều kiện cho các đối tượng được thực hiện khám chữa bệnh kịp thời.
100% số lượng đối tượng người có công được tham gia bảo hiểm y tế. Hàng
năm công tác chăm sóc sức khỏe cho người có công được thực hiện có kết quả.
44
Đảm bảo cho họ có độ chăm sóc tốt tại cơ sở điều dưỡng và nghiêm túc trong
quá trình điều dưỡng tại nhà. Chế độ chăm sóc sức khỏe tạo được tâm lý vui
tươi, phấn khởi, an tâm trong quá trình điều trị, điều dưỡng. Việc thực hiện chế
độ chăm sóc sức khỏe là vấn đề cần thiết, hỗ trợ cho đối tượng NCCVCM
được sống vui, sống khỏe với gia đình.
1.2.2.4. Thực hiện chế độ ưu đãi về nhà ở
Nhà ở là nhu cầu thiết yếu của mỗi gia đình. Mọi người ai sống cũng cần
có nhà để ở “sống cái nhà, chết cái mồ”. Hiện nay nhiều gia đình có công với
cách mạng đang phải sống trong những căn nhà tạm bợ, dột nát.
Chính sách ưu đãi về nhà ở là một trong những chính sách thiết thực
nhất góp phần ổn định đời sống của đối tượng người có công. Đây là chính
sách giúp cho các đối tượng có công “an cư lạc nghiệp” khi về với cuộc sống
xã hội. Đối tượng được hưởng chế độ ưu đãi trong huyện đó là những
NCCVCM mà hoàn cảnh gia đình gặp nhiều khó khăn không có khả năng xây
dựng nhà ở hoặc ở trong những căn nhà dột nát.
Với tình cảm và lòng biết ơn đối với NCCVCM đã hy sinh vì dân vì
nước. Huyện Phú Bình đã huy động mọi tiềm lực của huyện để hỗ trợ cho các
gia đình được hưởng chính sách giải quyết nhà ở. Chính sách ưu đãi về nhà ở
là một bộ phận của chương trình xây dựng nhà tình nghĩa. Với phương châm
Nhà nước, nhân dân và gia đình người có công cùng làm, chính sách về nhà ở
đã thu hút được sự quan tâm của đông đảo nhân dân trong huyện góp phần
quan trọng vào việc ổn định đời sống của người có công.
Ngày 21/8/2008,thực hiện quyết định số 147/QĐ-UBND tỉnh Thái Nguyên về việc
phê duyệt đề án hỗ trợ làm nhà cho hộ gia đình chính sách có hoàn cảnh khó
khăn đang ở nhà tạm trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, huyện Phú Bình đã ban
hành công văn số 126/CV - UBND chỉ đạo các xã, thị trấn tiến hành thông báo,
lập danh sách các đối tượng người có công trong diện hỗ trợ nhà ở để xem xét
45
thực hiện hỗ trợ. Việc làm nhà ở mới cho các hộ gia đình chính sách khó khăn
được thực hiện theo phương châm Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí, cộng
đồng, anh em, dòng họ giúp đỡ ngày công lao động, vật liệu tại chỗ hoặc bằng
tiền để các hộ gia đình chính sách chủ động tổ chức triển khai thực hiện có sự
giám sát của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể của xã và thôn; UBND
xã, phường, thị trấn tổ chức kiểm tra, nghiệm thu và thanh toán, quyết toán tiền
hỗ trợ theo quy định.
Đối tượng áp dụng theo quy định đó là hộ gia đình chính sách có hoàn
cảnh khó khăn đang ở nhà tạm, bao gồm: Thương binh, bệnh binh, thân nhân
liệt sỹ, người có công giúp đỡ cách mạng, người hoạt động kháng chiến bị
nhiễm chất độc hoá học đang hưởng trợ cấp ưu đãi hàng tháng. Quy định
chung điều kiện hỗ trợ của các đối tượng người có công như sau:
- Có đất ở ổn định không tranh chấp, không thuộc diện phải di chuyển, là
hộ chưa được hỗ trợ để làm nhà ở mới.
- Đang ở nhà tạm; nhà tạm được hỗ trợ theo Đề án này là nhà đang ở có
kết cấu đơn giản, vật liệu thô sơ đã hư hỏng, bị dột khi có mưa và có nguy cơ
bị đổ khi có thiên tai.
Theo điều kiện và tiêu chuẩn như trên huyện Phú Bình đã chỉ đạo các
xã, thị trấn tiến hành tổ chức kiếm tra các đối tượng người có công khó khăn
về nhà ở. Thống kê, phân loại thực trạng nhà ở, hoàn cảnh kinh tế của từng
người để có thứ tự đề xuất giải quyết chế độ và có hình thức hỗ trợ phù hợp,
lập danh sách các đối tượng đủ điều kiện gửi lên huyện để tiến hành kiểm tra
xác minh hồ sơ. Những hồ sơ đầy đủ và hợp lệ được gửi lên tỉnh để xin quyết
định xây dựng. Nguồn kinh phí hỗ trợ bao gồm nguồn ngân sách của tỉnh,
ngân sách của huyện, quỹ đền ơn đáp nghĩa của huyện, hỗ trợ của chính
quyền xã nơi cư trú và sự nỗ lực của bản thân người có công. Phương án hỗ
trợ nhà ở được thực hiện trên nguyên tắc cân đối giữa nguồn hỗ trợ của cấp
46
trên, phù hợp với điều kiện kinh tế và quỹ đất vốn có của địa phương.
Đối tượng tặng nhà tình nghĩa là người có công có hoàn cảnh đặc biệt
khó khăn không thể tự tạo dựng được nhà ở hoặc bị thiên tai phá hủy. Nhà tình
nghĩa được xây dựng có kết cấu tường gạch, có trát vôi, lợp proximăng, 3 gian
rộng 25m². Mỗi căn nhà trị giá 30 triệu đồng.
Đối tượng thuộc diện hỗ trợ cải tạo, sửa chữa nhà ở theo quyết định là
đối tượng người có công đã có nhà ở thuộc quyền sở hữu của mình nhưng nhà
quá dột nát, chật chội như nhà tranh vách đất hoặc nhà ngói tạm xung quanh be
manh tre, tấm cót…không đảm bảo an toàn trong mùa mưa bão, đối tượng
không tự khắc phục được hoặc không có khả năng xây dựng mới thì được hỗ
trợ kinh phí để cải tạo sửa chữa. Nguyên tắc hỗ trợ căn cứ vào công lao và
hoàn cảnh cụ thể của từng đối tượng. Không hỗ trợ theo nguyên tắc bình quân
hoặc đồng loạt cho các đối tượng. Trong trường hợp một người thuộc diện
được hưởng nhiều ưu đãi được xét ưu đãi cải tạo nhà ở thì căn cứ vào ưu đãi
cao nhất mà người đó được hưởng để xét hỗ trợ. Nếu trong trường hợp một gia
đình có nhiều đối tượng người có công được xét ưu đãi hỗ trợ nhà ở thì được
cộng chế độ ưu đãi của từng thành viên thành chế độ ưu đãi của cả hộ, mức hỗ
trợ tối đa là mức hỗ trợ cao nhất. Quy định cho các đối tượng thuộc diện cải
tạo, sửa chữa nhà ở cụ thể như sau:
- Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, anh hùng lao động trong thời
kỳ kháng chiến; thương binh, người hưởng chính sách như thương binh,
thương binh loại B, bệnh binh có tỷ lệ thương tật từ 81% trở lên, thân nhân
đang hưởng tuất nuỗi dưỡng hàng tháng được xét hỗ trợ 80% để xây dựng một
nhà tình nghĩa theo mức giá hiện hành tại địa phương.
- Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học, thương binh,
người hưởng chính sách như thương binh, thương binh loại B, bệnh binh có tỷ
lệ suy giảm lao động do thương tật từ 61 – 80%, được xét hỗ trợ 40% để xây
47
dựng một nhà tình nghĩa theo mức giá hiện hành tại địa phương.
- Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh, thương binh
loại B, bệnh binh có tỷ lệ suy giảm lao động do thương tật từ 41 – 60%, được
xét hỗ trợ 30% để xây dựng một nhà tình nghĩa theo mức giá hiện hành tại địa
phương.
-Thân nhân liệt sỹ: Cha đẻ, mẹ đẻ, vợ hoặc chồng, con, người có công
nuôi dưỡng liệt sỹ khi còn nhỏ người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc
hóa học, thương binh, người hưởng chính sách như thương binh, thương binh
loại B, bệnh binh có tỷ lệ suy giảm lao động do thương tật từ 21 – 40%, người
có công nuôi dưỡng cách mạng được nhà nước phong tặng được xét hỗ trợ
20% để xây dựng một nhà tình nghĩa theo mức giá hiện hành tại địa phương.
Căn cứ vào nguồn hỗ trợ của tỉnh Thái Nguyên hỗ trợ 20 triệu đồng/ hộ
xây mới; 15 triệu đồng/ hộ sửa chữa, cải tạo nhà ở. Huyện Phú Bình đã huy
động đóng góp quỹ đền ơn đáp nghĩa cùng với tỉnh Thái Nguyên tổ chức tặng
nhà, cải tạo, sửa chữa nhà ở cho các đối tượng NCCVCM. Qũy đền ơn đáp
nghĩa của huyện đã hỗ trợ 5 triệu đồng/ hộ xây mới và 2,5 triệu đồng/hộ sửa
chữa, cải tạo nhà. [46]
Trong điều kiện kinh tế của huyện còn nghèo, việc thực hiện xóa nhà
tạm cho các đối tượng người có công ở huyện Phú Bình là một chính sách thiết
thực giúp cho các đối tượng thương binh, liệt sỹ người có công an cư lạc
nghiệp không phải sống trong căn nhà tạm, nhà dột, không còn lo lắng khi mùa
mưa bão đến. Tạo nên sự phấn khởi, vui tươi giúp cho các đối tượng người có
công yên tâm tập trung phát triển kinh tế để đảm bảo cuộc sống gia đình.
Chế độ ưu đãi nhà ở đã được thực hiện nghiêm minh và thu được những
kết quả quan trọng trong quá trình thực hiện. Hỗ trợ kịp thời xây mới, sửa chữa
nhà ở cho các hộ gia đình NCCVCM là việc làm mang tính nhân văn sâu sắc,
thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với những người đã hy sinh
48
cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Huyện Phú Bình đã kịp thời chỉ đạo, giám
sát chặt chẽ trong triển khai thực hiện tiến độ thi công. Đây là niềm động viên
tình thần to lớn, tạo điều kiện cho người dân có nơi ở ổn định, từ đó tạo tiền đề
cho họ vươn lên trong cuộc sống. Năm 2009 huyện đã tổ chức xây mới 65 căn
nhà và sửa chữa cho 129 căn nhà với tổng số tiền là 4,5 tỷ đồng [46]. Chế độ
ưu đãi nhà ở góp phần thiết thực trong việc giải quyết nhu cầu về chỗ ở ổn định
cho người có công, giúp họ yên tâm làm ăn, phát triển kinh tế nâng cao đời
sống của gia đình. Toàn huyện phấn đấu thực hiện xóa bỏ nhà dột nát và nhà
tạm bợ trên trong huyện. Nhiều hộ được hỗ trợ nhà ở đã phấn khởi yên tâm lao
động sản xuất.
*
* *
Phú Bình là huyện trung du miền núi với những điều kiện kinh tế - xã
hội đang trên đà phát triển. Đây chính là nhân tố nền tảng giúp cho việc thực
hiện có hiệu chính sách ưu đãi người có công. Đồng thời truyền thống lịch sử -
văn hóa của địa phương cũng là nhân tố quan trọng trong việc vận động đông
đảo nhân dân tham gia vaò các phong trào tình nghĩa. Tạo nên một sức mạnh
tổng hợp giữa Nhà nước và nhân dân trong việc thực hiện chính sách ưu đãi
người có công.
Với đặc điểm độc đáo của huyện Phú Bình là một địa phương có số
lượng người có công cao nhất của tỉnh Thái Nguyên, dưới sự lãnh đạo của
Đảng bộ huyện Phú Bình công tác thực hiện chính sách ưu đãi người có công
trên ba lĩnh vực chủ yếu là chế độ trợ cấp, phụ cấp, chế độ ưu đãi về chăm sóc
sức khỏe, chế độ ưu đãi nhà ở đã từng bước thực thi và đạt được những kết quả
nhất định. Người có công ở huyện Phú Bình có những đặc điểm riêng biệt, có
nhiều khó khăn hạn chế về sức khỏe, công việc, kinh tế, điều kiện sinh hoạt …
nên vấn đề thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM trên địa bàn huyện Phú
49
Bình là vấn đề hết sức cần thiết đối với họ.
Từ năm 2006 đến năm 2010 công tác thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM đã đạt
được các kết quả đáng ghi nhận trên ba lĩnh vực chính gồm chế độ ưu đãi về
trợ cấp, phụ cấp, chế độ ưu đãi về chăm sóc sức khỏe, chế độ ưu đãi về nhà ở.
Có được những kết quả như trên Đảng bộ huyện Phú Bình quán triệt quan
điểm chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Từng bước đề ra kế hoạch
thực hiện theo lộ trình phù hợp với điều kiện kinh tế, phong tục tập quán của
người dân trong huyện nên đã nhận được sự đồng thuận của đại bộ phận người
dân.
Bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn tồn tại một số hạn chế cần
khắc phục: Công tác tuyên truyền vận động toàn dân tham gia các phong trào
tình nghĩa trên địa bàn huyện còn hạn chế, nguồn vốn thu được còn ít phân lớn
phụ thuộc vào ngân sách Trung ương nên hay bị động. Một số hiện tượng thiếu
công bằng, minh bạch trong quá trình thực hiện chưa được phát hiện và xử lý
kịp thời…Điều đó làm hạn chế hiệu quả trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo ở địa
phương. Trước thực trạng ấy trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2014, Đảng
bộ huyện Phú Bình đề ra những chủ trương mới trong lãnh đạo, tổ chức thực
hiện chính sách ưu đãi NCCVCM.
50
Chƣơng 2
ĐẢNG BỘ HUYỆN PHÚ BÌNH LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH ƢU ĐÃI NGƢỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG
TỪ NĂM 2010 ĐẾN NĂM 2014
2.1 Yêu cầu mới và chủ trƣơng của Đảng bộ huyện Phú Bình
2.1.1 Yêu cầu mới
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, mọi chính sách và
sự biến động về an ninh - chính trị, kinh tế, xã hội ở mỗi nước, mỗi khu vực và
trên thế giới đều có những tác động sâu sắc mang tính toàn cầu đến từng quốc
gia, vùng, miền, địa phương, đến từng cộng đồng dân cư, từng gia đình, thậm
chí đến mỗi con người và ngược lại. Vì vậy, vấn đề an sinh xã hội nói chung,
đặc biệt ưu đãi, chăm sóc người có công để không ngừng nâng cao mức sống
của họ nói riêng, có ý nghĩa và tác động không chỉ trong phạm vi quốc gia mà
còn bị tác động không nhỏ bởi sự ảnh hưởng có tính quốc tế.
Từ năm 2010, Việt Nam đứng trước khó khăn lạm phát, nền kinh tế có
nhiều biến động. Trong bối cảnh đó, Trung ương Đảng, Chính phủ đã đề ra
một số các chính sách, giải pháp bước đầu ổn định nền kinh tế vĩ mô, phục hồi
tốc độ tăng trưởng kinh tế; tăng tiềm lực và quy mô nền kinh tế; giữ vững ổn
định chính trị và trật tự an toàn xã hội; bảo đảm yêu cầu quốc phòng, an ninh;
tăng khả năng bảo đảm an sinh xã hội, trong đó có bảo đảm mức sống cho
người có công và thân nhân của họ.
Trước những biến động của tình hình mới, yêu cầu đặt ra đối với công
tác thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM là cần hoàn chỉnh hệ thống chính
sách và đổi mới về phương hướng chỉ đạo thực hiện để ổn định đời sống cho
các đối tượng người có công, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước.Với mục tiêu chăm lo tốt hơn đối với những NCCVCM trên cơ sở
kết hợp ba nguồn lực: Nhà nước, cộng đồng và bản thân đối tượng tự vươn lên.
51
Công tác chăm sóc người có công, bảo đảm an sinh xã hội cho các đối tượng
chính sách trong phát triển bền vững đòi hỏi cần phối hợp đồng bộ trong việc
thực hiện giải pháp. Các chính sách về trợ cấp, đãi ngộ cho người có công cần
được điều chỉnh và từng bước nâng cao. Tiếp tục đầu tư, xây dựng các cơ sở
điều dưỡng nhằm phục vụ tốt về chăm sóc sức khỏe cho người có công. Đề án
hỗ trợ nhà ở cho người có công tiếp tục triển khai và hoàn thành trong thời
gian tới.
Trên cơ sở những thành tựu đã đạt được trong giai đoạn 2006 - 2010,
Đảng và Nhà nước tiếp tục đề ra những chủ trương, chính sách ưu đãi cho các
đối tượng người có công với cách mạng tạo thành một hệ thống pháp luật ngày
càng hoàn thiện và có nhiều đổi mới. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (01/2011)
của Đảng trong mục tiêu thực hiện có hiệu quả công bằng tiến bộ xã hội, bảo
đảm an sinh xã hội trong từng bước và trong từng chính sách phát triển đã
nhấn mạnh: “Huy động mọi nguồn lực xã hội cùng với Nhà nước chăm lo tốt
hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của những người và gia đình có công.
Giải quyết dứt điểm các tồn đọng về chính sách NCCVCM, đặc biệt là người
tham gia hoạt động bí mật, lực lượng vũ trang, thanh niên xung phong trong
các thời kỳ cách mạng và kháng chiến. Tạo điều kiện, khuyến khích người và
gia đình có công tích cực tham gia phát triển kinh tế để nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần.” [17]
Thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM phải phù hợp với trình độ phát
triển kinh tế - xã hội và khả năng huy động, cân đối nguồn lực đất nước. Trong
quá trình thực hiện các chính sách NCCVCM, Nhà nước giữa vai trò chủ đạo
đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa, khuyến khích các tổ chức cá nhân, doanh
nghiệp tham gia. Phong trào toàn dân chăm sóc NCCVCM trong thời kỳ công
nghiệp hóa hiện đại hóa cần được khuyến khích đẩy mạnh. Quán triệt quan
điểm, chủ trương của Đảng, ngày 16/12/2012 UBTVQH đã ban hành Pháp
52
lệnh 04/2012/PL-UBTVQH13 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh
ưu đãi người có công với cách mạng, thay thế cho Pháp lệnh ưu đãi người có
công với cách mạng số 35/2007/PL - UBTVQH11 do một số điểm của Pháp
lệnh này hiện đã không còn phù hợp với tình hình hiện nay, có lĩnh vực đối
tượng được xét hưởng chế độ tiêu chuẩn bị bó hẹp, có lĩnh vực lại nới rộng.
Mặt khác, việc phân cấp quản lý và xác định trách nhiệm của các bộ,
ngành chưa rõ ràng, cụ thể, dẫn đến chồng chéo. Để khắc phục những hạn chế
đó, Pháp lệnh 04/2012/PL - UBTVQH13 chú trọng mở rộng đối tượng được
xác nhận là liệt sĩ, thương binh, bệnh binh; đồng thời giới hạn cụ thể khoảng
thời gian xác nhận người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học.
Tiếp đó, ngày 09/04/2013 Chính phủ ban hành Nghị định số 31/2013/NĐ-CP quy
định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người có
công với cách mạng. Nghị định số 31/2013/NĐ-CP gồm 7 chương 80 điều thay
thế cho Nghị định số 54/2006/NĐ-CP ngày 26 tháng 5 năm 2006 của Chính
phủ về hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người có công
với cách mạng và Nghị định số 89/2008/NĐ-CP ngày 13 tháng 8 năm 2008 của
Chính phủ về hướng dẫn thi hành Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của
Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng. Theo Nghị định số
31/2013/NĐ-CP số người được hưởng chính sách ưu đãi được mở rộng, đúng đối
tượng, đúng chính sách, các nội dung ưu đãi được luật pháp quy định, trở thành
một hệ thống chính sách xã hội có tác dụng động viên, khích lệ tinh thần vì nước
quên thân, vì dân phục vụ của người có công.
Cùng với việc ban hành Pháp lệnh số 04/2013/PL-UBTVQH13 về sửa
đổi bổ sung một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người có công. Ngày
20/10/2012 UBTVQH ban hành Pháp lệnh số 05/2012/PL-UBTVQH13 về sửa
đổi bổ sung một số điều của Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà
nước“Bà mẹ Việt Nam anh hùng”. Cùng với đó, ngày 22/05/2013 Chính phủ
53
ban hành Nghị định số 56/2013/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh
hùng”. So với pháp lệnh cũ năm 1994 thì pháp lệnh này có hai điểm mới.
Thứ nhất, Pháp lệnh số 05 mở rộng đối tượng được xét tặng, truy tặng
danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng” bao gồm 5 trường
hợp như sau: Có 2 con trở lên là liệt sỹ (Pháp lệnh năm 1994 quy định có từ 3
con trở lên là liệt sĩ); Chỉ có 2 con mà 1 con là liệt sĩ và 1 con là thương binh
suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên (Pháp lệnh năm 1994 quy định “Có
2 con mà cả 2 con là liệt sỹ”); Chỉ có 1 con mà người con đó là liệt sỹ; Có 1
con là liệt sỹ và có chồng hoặc bản thân là liệt sỹ (Pháp lệnh năm 1994 quy
định Có 1 con là liệt sỹ, chồng và bản thân là liệt sỹ); Có 1 con là liệt sỹ và bản
thân là thương binh suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên” (Pháp lệnh
năm 1994 không quy định trường hợp này). Việc mở rộng đối tượng được xét
tặng, truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng”
khẳng định chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, được
nhân dân đồng tình, ủng hộ, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội. Thứ hai, Pháp
lệnh số 05 quy định cụ thể hơn về các chế độ đối ưu đãi đối với bà mẹ Việt
Nam anh hùng.
Đặc biệt, để đánh giá toàn diện, đầy đủ việc thực hiện chính sách của
Đảng và Nhà nước đối với người có công, ngày 27/10/2013, Thủ tướng Chính
phủ đã có Chỉ thị số 23/CT - TTg về tổng rà soát việc thực hiện chính sách ưu
đãi đối với người có công với cách mạng trong hai năm 2014 - 2015. Theo đó,
Bộ LĐTBXH và Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã
xây dựng Chương trình phối hợp, triển khai rà soát đối với 7 đối tượng người
có công, bao gồm: Liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, Bà mẹ Việt Nam anh hùng,
thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa
học, người có công giúp đỡ cách mạng và cựu thanh niên xung phong. Trên cơ
54
sở rà soát sẽ kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền tiếp tục hoàn thiện việc
triển khai thực hiện chính sách đối với người có công.
Như vậy, hệ thống văn bản và chính sách pháp luật đối với người có
công ngày càng được bổ sung và hoàn thiện tạo nên hành lang pháp lý giúp
cho NCCVCM được hưởng chế độ chăm sóc tốt hơn. Diện thụ hưởng các
chính sách mở rộng, mức hỗ trợ được nâng lên. Nguồn lực đầu tư ngày càng
lớn. Nguồn lực đầu tư từ ngân sách nhà nước được tăng cường, các nguồn lực
xã hội khác ngày càng có nhiều đóng góp lớn. Công tác thực hiện chính sách
ưu đãi NCCVCM đã đạt được nhiều thành tựu, góp phần ổn định chính trị - xã
hội, đóng gớp vào việc hoàn thành một số mục tiêu Thiên nhiên kỷ của đất
nước.
2.1.2 Chủ trương của Đảng bộ huyện Phú Bình
Nhận thức ý nghĩa việc thực hiện tốt các chủ trương, chính sách lớn của
Đảng và Nhà nước về ưu đãi đối với NCCVCM không chỉ là trách nhiệm của
toàn Đảng, toàn dân trong thời kỳ mới, mà còn thể hiện sự kế thừa, phát huy
truyền thống đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa” đậm tính
nhân văn của dân tộc ta. Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XVII
(nhiệm kỳ 2010-2015) nhấn mạnh mục tiêu của tỉnh là phát triển kinh tế gắn
liền với phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng xã hội. Trong
bối cảnh mới đất nước trong thời kỳ hội nhập và cạnh tranh quốc tế, đổi mới
toàn diện đất nước, tỉnh Thái Nguyên đang phấn đấu trở thành một trung tâm
kinh tế, văn hóa, y tế, đào tạo của cả nước.
Song song với việc phát triển kinh tế, mục tiêu đảm bảo phát triển bền
vững xã hội được tỉnh Thái Nguyên xác định “Tổ chức tốt các chính sách xã
hội, tiếp tục duy trì và phát triển sâu rộng phong trào đền ơn đáp nghĩa, đẩy
mạnh chương trình giải quyết việc làm, giảm hộ nghèo. Từng bước nâng mức
sống của các đối tượng chính sách bằng mức sống trung bình của nhân dân
55
nơi cư trú. Tăng cường các giải pháp thu hút lao động, tạo việc làm tại chỗ
cho người dân, giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống mức thấp nhất” [70]. Quán triệt
tinh thần của Nghị quyết đại hội đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XVII nhiệm
kỳ 2010 - 2015, nhận thấy lĩnh vực chăm sóc NCCVCM là một lĩnh vực quan
trọng, không chỉ là vấn đề đạo lý, truyền thống mà còn là vấn đề chính trị tư
tưởng và tình cảm, vấn đề xã hội mang tính nhân văn cao quý và có ý nghĩa lâu
dài. Thực hiện tốt các chính sách ưu đãi NCCVCM góp phần bảo đảm an sinh
xã hội toàn dân, góp phân nâng cao thu nhập, bảo đảm cuộc sống an toàn, bình
đẳng và hạnh phúc của toàn dân.
Nghị quyết Đại hội cũng chỉ ra rằng để thực hiện tốt các công tác chăm
sóc người có công góp phần làm tốt công tác an sinh xã hội của địa phương
cần phải triển khai đầy đủ và kịp thời tất cả các chính sách của Đảng và Nhà
nước đến từng đối tượng chính sách, đảm bảo đúng đối tượng được thụ hưởng.
Muốn vậy đội ngũ làm công tác chính sách từ tỉnh, thành phố đến các quận
huyện, xã phường vừa phải có tâm, có trình độ chuyên môn đủ khả năng hoàn
thành nhiệm vụ được giao. Đồng thời phải thường xuyên tiến hành kiểm tra,
thanh tra, giám sát, xử lý nghiêm các vụ việc tiêu cực trong quá trình thực hiện
chính sách ưu đãi của Đảng và Nhà nước đến các đối tượng.
Đại hội nhấn mạnh mục tiêu phấn đấu đến năm 2015, toàn tỉnh Thái
Nguyên không còn hộ thương binh, gia đình liệt sỹ ở nhà tạm, nhà dột nát,
100% hộ gia đình, chính sách người có công có mức sống ngang bằng và cao
hơn mức bình quân của nhân dân địa phương nơi cư trú. Huy động sự tham gia
tích cực hơn nữa của các cơ quan, đơn vị cá nhân trên địa bàn tỉnh trong công
tác đền ơn đáp nghĩa và đa dạng hóa công tác huy động nguồn lực cho công tác
thực hiện chính sách NCCVCM.
Để thực hiện tốt các nhiệm vụ và mục tiêu đã đề ra trong Nghị quyết Đại
hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII (nhiệm kỳ 2010- 2015), trong công tác thực hiện
56
chính sách ưu đãi NCCVCM cần tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của các cấp
ủy Đảng, chính quyền xã, phường cần thường xuyên tổ chức tổng kết, biểu
dương, khen thưởng kịp thời, nhân rộng các điển hình tiên tiến, những tập thể,
cá nhân có thành tích trong công tác đền ơn đáp nghĩa. Có như vậy mới tạo được
sự tin tưởng trong nhân dân, sự đồng thuận trong đội ngũ cán bộ để thực hiện tốt
các chính sách cho NCCVCM.
Để thực thi các chế độ chính sách của Đảng và Nhà nước ban hành trong
pháp lệnh số 04/2012/PL-UBTVQH 13 về chính sách ưu đãi NCCVCM và Pháp
lệnh số 05/2012/PL-UBTVQH 13-Pháp lệnh vinh dự bà mẹ Việt Nam anh hùng.
Ngày 23/08/2012 Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên đã ban hành chỉ thị số 14/CT-
UBND tiếp tục đẩy mạnh công tác thương binh, liệt sỹ, NCCVCM và hoạt động
kỷ niệm 65 năm ngày thương binh, liệt sỹ (27/07/1947-27/07/2012) theo đó
UBND tỉnh yêu cầu: “Các sở, ban, ngành, đoàn thể, UBND các huyện, thị xã,
thành phố tổ chức tuyên truyền đến các tầng lớp nhân dân công lao to lớn, sự hy
sinh cống hiến của các thương binh, bệnh binh, liệt sỹ gia đình liệt sỹ,
NCCVCM. Tuyên truyền sâu rộng các chủ trương, các chính sách và chế độ ưu
đãi của nhà nước trong Pháp lệnh số 04/2012/PL-UBTVQH13 và Nghị quyết số
31/2012/NQ-CP về hướng dẫn thi hành Pháp lệnh người có công. Đẩy mạnh
phong trào toàn dân đền ơn đáp nghĩa đối với những người có công với cách
mạng. Biểu dương gương người tốt việc tốt, gương tập thể, cá nhân tích cực
tham gia thực hiện tốt công tác thương binh liệt sỹ, người có công trong dịp 27/7
ở từng huyện, thành phố, thị xã, làm cơ sở để lựa chọn tập thể, xã phường, cá
nhân tiêu biểu tham dự Hội nghị toàn quốc và biểu dương tập thể, cá nhân trong
phong trào đền ơn đáp nghĩa”. [87]
Việc ban hành chỉ thị số 14/CT-UBND có ý nghĩa thiết thực không chỉ
thể hiện sự chấp hành nghiêm túc chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà
nước mà còn thể hiện sự quan tâm của chính quyền địa phương đến các đối
57
tượng người có công trong địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
Phú Bình là huyện có số lượng NCCVCM cao nhất trong tỉnh Thái
Nguyên với 3.239 đối tượng là thương binh, bệnh binh, gia đình chính sách
người có công với sách mạng (2014). Trong điều kiện và tình hình mới của
huyện công tác thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM được đặc biệt chú
trọng. Nghị quyết đại hội đảng bộ huyện Phú Bình lần thứ XXIV nhiệm kỳ
2010-2015 nhấn mạnh “Thực thi có hiệu quả Pháp lệnh ưu đãi người có công
với cách mạng và Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng (sửa đổi)
nhằm nâng cao đời sống cho các đối tượng NCCVCM trong huyện. Đồng thời,
ngoài những chính sách ưu đãi về vật chất và tinh thần cho bản thân các đối
tượng thương binh, liệt sỹ, NCCVCM cần có chế độ ưu đãi thích hợp cho thân
nhân của người có công. Bồi dưỡng tạo điều kiện cho con em họ được hưởng
những ưu đãi về giáo dục đào tạo, tạo việc làm. Mở rộng các phong trào đền
ơn đáp nghĩa, khuyến khích các cá nhân, tập thể, đơn vị trong địa bàn huyện
vào công tác chăm sóc thương binh, liệt sỹ, ngươi có công” [32].
Quán triệt quan điểm chỉ đạo của Đảng bộ huyện Phú Bình, công tác
thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM được triển khai rộng khắp và đồng bộ
tạo nên diện mạo vật chất và tinh thần mới cho các đối tượng người có công
trong huyện. Tỷ lệ người có công được ở huyện Phú Bình được hưởng các
chính sách và chế độ ưu đãi đầy đủ và kip thời chiếm tỷ lệ cao nhất trong tỉnh
Thái Nguyên.
Trong giai đoạn mới, mục tiêu tổng quát của huyện Phú Bình là nâng
cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng bộ trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã
hội của huyện, trong đó vấn đề thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM là một
trong những nhiệm vụ quan trọng góp phần ổn định xã hội của huyện. Đảng bộ
huyện Phú Bình đã chủ trương chỉ đạo các ban ngành, đoàn thể, các cấp chính
quyền địa phương, xã thị trấn tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt các
58
chính sách ưu đãi NCCVCM theo Pháp lệnh người có công (sửa đổi), xử lý
ngay các vấn đề bất hợp lý phát sinh trong quá trình chỉ đạo thực hiện chính
sách ưu đãi cho các đối tượng người có công trong huyện. Đồng thời kiên
quyết xử lý các vấn đề tiêu cực, tham nhũng, vi phạm chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước, gây nên tâm lý bất bình trong xã hội. Đẩy mạnh các
hoạt động xã hội chăm sóc ưu đãi người NCCVCM, các phong trào đền ơn đáp
nghĩa, uống nước nhớ nguồn, khuyến khích các tầng lớp nhân dân tham gia.
Chủ trương xã hội hóa công tác chăm sóc thương binh, bênh binh, gia
đình liệt sỹ, NCCVCM đã được đông đảo các tầng lớp nhân dân trong huyện
hưởng ứng. Qũy đền ơn đáp nghĩa của huyện được thành lập và hoạt động có
hiệu quả giúp đỡ cho các đối tượng người có công có hoàn cảnh khó khăn
trong huyện. Các hoạt động giúp đỡ bằng tinh thần như chương trình phụng
dưỡng bà mẹ Việt Nam anh hùng, chăm lo cải thiện nhà ở, ưu tiên phát triển
giáo dục, chăm sóc sức khỏe ... đã đem lại hiệu quả thiết thực góp phần nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của người có công trong huyện. Huyện Phú
Bình phấn đấu đạt mục tiêu 100% gia đình người có công có mức sống bằng
hoặc khá hơn mức sống trung bình của nhân dân nơi cư trú, 100% xã, thị trấn
làm tốt công tác thương binh liệt sỹ và người có công. Nhờ sự quan tâm của các
cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, đời sống của đại bộ phận tầng lớp nhân
dân trong huyện nói chung và các đối tượng thương binh, liệt sỹ, NCCVCM nói
riêng được nâng cao. Nhiều đối tượng người có công nỗ lực vươn lên trở thành
những điển hình làm kinh tế giỏi của huyện, phấn đấu trở thành người công dân
kiểu mẫu, gia đình cách mạnh kiểu mẫu của huyện.
Như vậy với chủ trương đẩy mạnh thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM
cảu huyện Phú Bình từ năm 2010 đến năm 2014 cho thấy đã có sự phát triển về
chất trong công tác lãnh đạo. Chủ trương xã hội hóa chăm sóc người có công
được đề ra và nâng cao tạo nên một sức mạnh tổng hợp huy động nguồn lực từ
59
nhiều phía cho người có công. Đây cũng là chủ trương tích cực của huyện Phú
Bình trong giai đoạn mới. Nhờ sự chỉ đạo sát sao trong công tác thực hiện chính
sách ưu đãi NCCVCM mà quá trình thực hiện các chính sách cho người có công
trong huyện đã đạt được nhiều kết quả tích cực so với giai đoạn trước. Từ kết
quả trên cho thấy sự đúng đắn trong chủ trương lãnh đạo thực hiện chính sách
ưu đãi NCCVCM của Đảng bộ huyện Phú Bình.
2.2 Qúa trình chỉ đạo thực hiện
2.2.1 Kiện toàn Ban chỉ đạo thực hiện chính sách ưu đãi người có
công với cách mạng
Thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM là vấn đề xã hội quan trọng
được xác định tại đại hội Đảng bộ huyện Phú Bình lần thứ XXIV nhiệm kỳ
2010 - 2015. Để chính sách ưu đãi NCCVCM được thực hiện có hiệu quả chủ
trương của Đảng bộ huyện Phú Bình nhấn mạnh vai trò lãnh đạo, chỉ đạo thực
hiện của các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương tạo ra khối lãnh đạo
thống nhất, vững mạnh nhằm đạt được các chỉ tiêu về kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội của huyện.
Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, quán triệt tinh
thần Nghị quyết Đại hội đảng bộ huyện Phú Bình lần thứ XXIV (nhiệm kỳ
2010-2015) tăng cường sự chỉ đạo của các cấp ủy Đảng chính quyền trong
công tác thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM được triển khai toàn diện và
đồng bộ đạt kết quả tích cực, có ý nghĩa chính trị - xã hội sâu rộng. Để triển
khai thực hiện có hiệu quả Pháp lệnh số 04/2012/PL-UBTVQH13 ngày
16/07/2012 của UBTVQH về sửa đổi bổ sung một số điều của Pháp lệnh ưu đãi
người có công với cách mạng trong địa bàn huyện và Chỉ thị số 14/CT-UBND
của tỉnh Thái Nguyên tiếp tục đẩy mạnh công tác thương binh, liệt sỹ, NCCVCM
và hoạt động kỷ niệm 65 năm ngày thương binh, liệt sỹ (27/07/1947-27/07/2012)
công tác chỉ đạo thực hiện ở huyện Phú Bình được tăng cường. Ngày
60
23/08/2013 UBND huyện Phú Bình ban hành Quyết định số 15/QĐ-UBND về
việc triển khai thực hiện pháp lệnh số 04/2012/PL-UBTVQH về việc sửa đổi, bổ
sung một số điều của pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng trên địa
bàn huyện Phú Bình.
UBND huyện Phú Bình yêu cầu các xã, phòng, ban thực hiện tốt các nội
dung sau đây [81]:
-Tổ chức quán triệt đầy đủ, sâu sắc, ý nghĩa mục đích yêu cầu và nội
dung của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng số 04/PL-UBTVQH13
và Nghị định số 31/2013/NĐ-CP về việc quy định chi tiết hướng dẫn thi hành
một số điều của Pháp lệnh ưu đãi NCCVCM đến các cấp, các ngành và mọi tầng
lớp nhân dân nhằm tạo điều kiện để mọi người biết và thực hiện có hiệu quả.
- Chủ động có kế hoạch chỉ đạo thực hiện Pháp lệnh:
+ Thành lập, kiện toàn ban chỉ đạo thực hiện Pháp lệnh ưu đãi NCCVCM
ở các cấp.
+ Phân công rõ nhiệm vụ đến các cơ quan tham mưu, giúp UBND thực
hiện Pháp lệnh.
+ Quy định chế độ trách nhiệm của các cấp, các ngành, các tổ chức, đoàn
thể nhằm đảm bảo thự hiện đúng, đủ các chế độ ưu đãi người có công với cách
mạng đến các đối tượng theo quy định.
+ Tổ chức huấn luyện về công tác người có công theo nội dung Pháp lệnh
NCCVCM, Nghị định và các thông tư hướng dẫn. Tăng cường công tác kiểm
tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện chế độ chính sách cho người có công ở
các xã, thị trấn.
+ Chủ động trong việc rà soát chế độ chính sách người có công, chỉ đạo
thực hiện Pháp lệnh ưu đãi NCCVCM để điều chỉnh mức trợ cấp ưu đãi.
Ngày 20 tháng 10 năm 2013 theo công văn số 458/CV-UBND của UBND
huyện Phú Bình, phòng LĐTBXH huyện Phú Bình là cơ quan thường trực của BCĐ
61
thực hiện Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng của huyện. Phòng
LĐTBXH huyện thực hiện các nhiệm vụ sau đây:
+ Căn cứ nghị dịnh số 31/2013/NĐ-CP ngày 9/4/2013 của chính phủ về
việc quy định chi tiết hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh ưu đãi
người có công với cách mạng, để có kế hoạc tổ chức tập huấn, hướng dẫn các cơ
quan, ban ngành, các tổ chức, đoàn thể. UBND các xã, thị trấn kê khai, xác
minh, xác nhận, giám định điều chỉnh mức trợ cấp theo quy định. Lập danh sách
gửi về Phòng LĐTBXH trước ngày 25/12/2013.
+ Hoàn thành việc điều chỉnh, chuyển đổi mức trợ cấp, phụ cấp đối với
các đối tượng đang được hưởng chính sách, đối tượng là mẹ Việt Nam anh
hùng, người tham gia kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học, thân nhân liệt sỹ,
người hoạt động kháng chiến bị địch bắt và tù đày trình UBND để thực thi chế
độ mới cho các đối tượng người có công trên địa bàn huyện.
-Thường xuyên kiểm tra đôn đốc việc thực hiện ở các xã, thị trấn trong
địa bàn huyện. Thu thập, tổng hợp tình hình, báo cáo ban chỉ đạo và UBND
huyện để kịp thời có ý kiến chỉ đạo, giải quyết những vướng mắc trong quá trình
triển khai thực hiện Pháp lệnh bằng cách:
+ Hướng dẫn các xã, thị trấn kiện toàn ban chỉ đạo thực hiện Pháp lệnh ưu
đãi NCCVCM.
+ Thực hiện chế độ họp ban chỉ đạo cấp huyện và báo cáo việc thực hiện
công tác người có công theo quy định.
Trong quá trình thực hiện nếu có phát sinh những khó khăn, vướng mắc,
yêu cầu các đơn vị báo cáo lên UBND huyện (qua phòng LĐTBXH huyện) để
xem xét giải quyết.
Để thực thi quyết định trên có hiệu quả UBND huyện Phú Bình đã thành
ban hành quy chế số 314/QC-UBND ngày 21 tháng 10 năm 2013 về hoạt động
của ban chỉ đạo thực hiện pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng ở
62
huyện Phú Bình. [80] Theo đó, quy chế quy định rõ BCĐ thực hiện Pháp lệnh
ưu đãi NCCVCM huyện Phú Bình là cơ quan thường trực của UBND huyện
Phú Bình xây dựng kế hoạch hàng năm về chỉ đạo thực hiện chế độ chính sách
ưu đãi người có công.
Phương thức làm việc của BCĐ thực hiện Pháp lệnh ưu đãi người có
công với cách mạng của huyện Phú Bình theo phiên họp định kỳ hoặc đột xuất
theo yêu cầu của Trưởng ban chỉ đạo hoặc Phó ban chỉ đạo thường trực khi
được ủy quyền.
+ Định kỳ 6 tháng một lần BCĐ họp giao ban để kiểm điểm đánh giá các
hoạt động và thực hiện các nhiệm vụ, kế hoạch đề ra.
+ Hàng năm ban chỉ đạo xây dựng các kế hoạch, tổ chức kiểm tra đánh
giá việc thực hiện Pháp lệnh ưu dãi người có công ở các xã, thị trấn ít nhất 1
năm một lần.
+ Tham gia thẩm định xét duyệt hồ sơ đối tượng được hưởng chính sách
ưu đãi NCCVCM.
BCĐ thực hiện Pháp lệnh người có công, cụ thể là Phòng LĐTBXH có
nhiệm vụ sau:
+ Giúp UBND huyện triển khai thực hiện đúng đối tượng và đầy đủ các
chế độ chính sách theo Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng trên địa
bàn huyện.
+ Phối hợp với các bộ phận liên quan nghiên cứu đề xuất các chính sách,
giải pháp nhằm thực thi tốt pháp lệnh ưu đãi NCCVCM trên địa bàn huyện.
+ Thực hiện công tác báo cáo định kỳ hoặc đột xuất cho UBND huyện,
Sở LĐTBXH tỉnh Thái Nguyên theo đúng thời gian và quy định.
+ Nhiệm vụ của từng thành viên trong ban chỉ đạo do ông Trưởng ban
chỉ đạo thực hiện Pháp lệnh ưu đãi NCCVCM phân công. Phòng LĐTBXH
huyện Phú Bình là cơ quan thường trực ban chỉ đạo, các thành viên khác của
63
ban chỉ đạo thực hiện theo chế độ kiêm nhiệm. Kinh phí thực hiện do phòng
LĐTBXH hội huyện lên dự toán và đưa vào dự trù kinh phí năm của ngành.
Phân công nhiệm vụ giữa các thành viên:
+ Trưởng ban chỉ đạo thực hiện pháp lệnh ưu đãi NCCVCM ở huyện
Phú Bình chịu trách nhiệm trước chủ tịch UBND huyện về kết quả và chất
lượng thực hiện pháp lệnh và phân công nhiệm vụ giữa các thành viên trong
ban chỉ đạo.
+ Phó ban chỉ đạo giúp việc cho Trưởng ban chỉ đạo, triển khai, điều
hành việc thẩm định, xét duyệt hồ sơ ưu đãi người có công theo nội dung của
Pháp lệnh và thay mặt trưởng ban chỉ đạo khi trưởng ban đi vắng.
+ Các thành viên khác hoạt động theo sự chỉ đạo của trưởng ban chỉ đạo
Như vậy việc kiện toàn BCĐ thực hiện Pháp lệnh ưu đãi NCCVCM cho
thấy sự nghiêm túc và khoa học trong công tác lãnh đạo thực hiện chính sách
ưu đãi người có công. Trước yêu cầu mới của công tác chăm sóc NCCVCM,
đảng bộ huyện Phú Bình đã có chủ trương để kịp thời chỉ đạo thực hiện chính
sách ưu đãi cho các đối tượng người có công của huyện, chỉ đạo thực hiện đầy
đủ các chế độ chính sách của Nhà nước. Đồng thời nhấn mạnh đến vai trò của
các ban ngành đoàn thể, của mọi tầng lớp nhân dân trong huyện tạo nên phong
trào xã hội hóa công tác chăm sóc người có công ở địa phương coi đó là nét
đẹp và truyền thống văn hóa của dân tộc.
2.2.2 Thực hiện chế độ ưu đãi về trợ cấp, phụ cấp
Thực hiện chính sách trợ cấp ưu đãi cho NCCVCM là đường lối, chủ
trương nhất quán của Đảng và Nhà nước nhằm ghi nhận những công lao đóng
góp, sự hy sinh cao cả của họ đối với đất nước. Để thực hiện tốt chính sách trợ
cấp, phụ cấp nguồn lực tài chính có vai trò đặc biệt quan trọng. Trong đó nguồn
lực tài chính chi cho ưu đãi người có công từ Ngân sách Nhà nước là nguồn chi
thường xuyên, bảo đảm và ổn định.
64
Từ năm 2010 đến năm 2014, Chính phủ đã ban hành liên tiếp 4 Nghị
định điều chỉnh mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi cho các đối tượng người có công
theo quy định trong Pháp lệnh ưu đãi NCCVCM. Mức trợ cấp ưu đãi thường
xuyên được điều chỉnh phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước.
Dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ huyện Phú Bình, Phòng LĐTBXH huyện
Phú Bình tiếp tục thực hiện công tác chi trả trợ cấp, phụ cấp ưu đãi cho các đối
tượng người có công với cách mạng trên địa bàn huyện. Mức trợ cấp, phụ cấp
ưu đãi được thực hiện chi trả chủ yếu bằng nguồn ngân sách từ Trung ương.
Hình thức chi trả được thực hiện hàng tháng và một lần.
Chi trả hàng tháng cho bản thân các đối tượng người có công với cách
mạng, thân nhân người có công. Hình thức chi trả một lần áp dụng trong
trường hợp bản thân đối tượng người có công từ trần, hoặc người đang hưởng
chế độ của người có công từ trần. Tùy theo từng đối tượng mà mức chi trả là
khác nhau.
Chế độ mai táng phí cho người có công đang được hưởng chế độ trợ cấp
hàng tháng khi từ trần thì người tổ chức mai táng sẽ được hưởng tiền trợ cấp mai
táng phí với số tiền bằng 10 tháng lương tối thiểu. Ngoài ra thân nhân người có
công với cách mạng còn được hưởng trợ cấp 1 lần bằng 3 tháng trợ cấp phụ cấp
khi đối tượng còn sống đang được hưởng.
Ví dụ: Ông Dương Văn Hựu thuộc đối tượng cán bộ tiền khởi nghĩa từ
trần ngày 6/5/2013. Theo quyết định số 2725/QĐ-UBND “Về việc trợ cấp tiền
mai táng phí và trợ cấp 01 lần đối với thân nhân người có công với cách mạng
đã từ trần” của UBND Huyện Phú Bình ngày 25/5/2013.
- Thôi trợ cấp hàng tháng với ông Dương Văn Hựu kể từ ngày
01/06/2013.
- Trợ cấp 01 lần với bà Bùi Thị Chuẩn, là vợ đối tượng. Hiện đang
thường trú tại xóm Nguyễn, thị trấn Hương Sơn, huyện Phú Bình, tỉnh Thái
65
Nguyên. Chế độ được hưởng bao gồm :
+ Tiền mai táng phí: 11.500.000 đồng
+ Tiền trợ cấp 01 lần (03 tháng x 2.315.000 đồng) = 6.945.000 đồng
Tổng cộng: 18.445.000 đồng
Theo báo cáo của phòng LĐTBXH, từ năm 2014 giải quyết chế độ mai
táng phí và trợ cấp một lần cho các đối tượng người có công với mức quy định
cụ thể như sau:
Tổng
Tiền mai
Tiền trợ cấp
Stt
Loại đối tƣợng
Tổng cộng
số
táng phí
01 lần
Người hoạt động cách
mạng trước ngày 01 tháng
1
11,500,000
6,945,000
18,445,000
1
01 năm 1945 đang hưởng
trợ cấp ưu đãi hàng tháng;
Thân nhân 01 liệt sĩ đang
hưởng trợ cấp tuất nuôi
1
11,500,000
3,660,000
15,160,000
2
dưỡng hàng tháng;
Thân nhân 02 liệt sĩ đang
hưởng trợ cấp tuất nuôi
2
23,000,000
14,640,000
37,640,000
3
dưỡng hàng tháng;
Thương binh, bệnh binh,
người hưởng chính sách
như thương binh bị suy
giảm khả năng lao động do
4
thương tật, bệnh tật từ
2
23,000,000
16,692,000
39,692,000
80% trở xuống (bao gồm
cả những thương binh loại
B được công nhận từ trước
ngày 31 tháng 12 năm
66
1993) đang hưởng trợ cấp
ưu đãi hàng tháng. Thương
binh hưởng chế độ mất sức
lao động
Người hoạt động kháng
chiến bị nhiễm chất độc
hóa học suy giảm khả năng
5
1
11,500,000
6,516,000
18,016,000
lao động từ 80% trở xuống
đang hưởng trợ cấp ưu đãi
hàng tháng.
Tổng số
7
128,953,000
(Số liệu thống kê Phòng LĐTB&XH huyện Phú Bình năm 2014)
Trợ cấp tiền tuất hàng tháng cho 1.412 đối tượng là thân nhân của người
có công trên địa bàn huyện phú Bình bao gồm 31 đối tượng tuất thân nhân nuôi
dưỡng liệt sỹ, 497 thân nhân chủ yếu của liệt sỹ đang được hưởng chế độ tuất
hàng tháng (quan hệ là chồng, vợ, con, mẹ của liệt sỹ) và trợ cấp tuất thờ cúng
liệt sỹ 1 lần vào 27/7 hàng năm cho 884 gia đình. [54] Cụ thể như sau:
Stt Xã Chế độ thụ hƣởng
Tuất LSND Thân nhân Đại diện gia
thân nhân 02 chủ yếu của đình thờ
Liệt sỹ Liệt sỹ cúng liệt sỹ
Tân Khánh 1 1 28 27
Lương Phú 2 0 19 42
Tân Kim 3 1 16 35
Bàn Đạt 4 1 7 21
Đào Xá 5 0 24 24
Bảo Lý 6 1 27 32
67
Tân Đức 7 3 28 74
Kha Sơn 8 0 36 58
TT Hương Sơn 9 2 37 55
Nhã Lộng 10 2 19 39
Điềm Thụy 11 4 22 37
Tân Hòa 12 2 28 49
Thượng Đình 13 5 33 58
Dương Thành 14 1 16 41
Hà Châu 15 4 26 53
Nga My 16 1 28 68
Thanh Ninh 17 0 18 43
Tân Thành 18 0 9 15
Đồng Liên 19 0 14 29
Úc Kỳ 20 0 29 22
Xuân Phương 21 3 33 65
Tổng cộng 31 497 884
(Số liệu thống kê Phòng LĐTBXH năm 2014)
Thực hiện theo chế độ chính sách của Nhà nước, theo quy định tại Nghị
định 31/2013/NĐ-CP ngày 09/04/2013 bổ sung thêm đối tượng người hoạt
động kháng chiến bị địch bắt tù, đày được hưởng trợ cấp hàng tháng. Năm
2013,toàn huyện Phú Bình có 13 đối tượng người hoạt động kháng chiến bị
địch bắt, tù đày đã được hưởng mức trợ cấp một lần, nay được chuyển sang
hưởng trợ cấp hàng tháng bằng 0,6 lần mức chuẩn. Huyện Phú Bình hiện đang
thực hiện chi trả tiền trợ cấp cho các đối tượng người có công trên địa bàn
huyện với mức chuẩn là 1.220.000 đồng/tháng tháng 7/2013.
Thực hiện theo quyết định số 1785/QĐ-UBND ngày 11/05/2013 “về
việc chấn chỉnh công tác chi trả trợ cấp ưu đãi người có công với cách
68
mạng”.Theo ý kiến phản hồi của một số đối tượng chính sách ở một số xã, thị
trấn về việc chi trả chính sách ưu đãi cho NCCVCM như chi trả còn chậm, thủ
tục hành chính còn rườm rà, một số cán bộ còn sách nhiễu trong việc giải
quyết chính sách cho đối tượng. Do vậy UBND huyện yêu cầu các cán bộ làm
công tác chi trả ở các xã, thị trấn tổ chức đi chi trả đến tận tay các đối tượng,
không được sách nhiễu các đối tượng. Đặc biệt không được yêu cầu các đối
tượng đến xã, thị trấn để chi trả. Đồng thời, trong quá trình thực hiện chi trả trợ
cấp cho các đối tượng người có công phải thực hiện chính xác, kịp thời. Thời
gian chi trả trợ cấp đến tận các đối tượng chậm nhất là đến ngày mùng 5 hàng
tháng. Thực hiện báo cáo về UBND huyện, Phòng LĐTBXH huyện chậm nhất
là ngày 15 hàng tháng.
Nhờ việc đẩy mạnh chỉ đạo, kiểm soát trong việc chi trả trợ cấp, phụ cấp
công tác thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM đã được tiến hành nhanh
chóng, kịp thời đến các đối tượng người có công trong huyện.
Như vậy hệ thống các chế độ, chính sách ưu đãi đối với người có công
ngày càng được sửa đổi, bổ sung hoàn thiện đối tượng hưởng chế độ ưu đãi
cũng được mở rộng, điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước. Các quy định về điều kiện, tiêu chuẩn xác nhận người có
công cũng thường xuyên được rà soát để đảm bảo thực hiện đúng đối tượng và
đủ các chính sách. Điều này đã thể hiện tính hệ thống và sự hoàn thiện liên tục
của chính sách ngày càng sâu sát thực tế, mức độ quan tâm và các đối tượng
được ghi công, được ưu đãi ngày càng mở rộng, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử
và tăng trưởng kinh tế gắn kết với bảo đảm an sinh xã hội trong sự nghiệp đổi
mới đất nước.
Kết quả thực hiện chính sách trợ cấp, phụ cấp ưu đãi tính đến 6 tháng
đầu năm 2014 ở huyện Phú Bình có 3.239 đối tượng được hưởng trợ cấp hàng
tháng (năm 2014). Nhờ việc thay đổi và điều chỉnh mức trợ cấp mà các đối
69
tượng nguời có công trên địa bàn huyện được hưởng đầy đủ kịp thời các chế
độ. Tất cả đối tượng được tăng mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi đã góp phần nâng
cao chất lượng cuộc sống cho gia đình và bản thân người có công. Đồng thời,
các đối tượng được bổ sung thêm nhiều ưu đãi. Cụ thể toàn huyện có 6 bà mẹ
Việt Nam anh hùng và 90 người hoạt động kháng chiến nhiễm chất độc hóa
học bị suy giảm khả năng lao đông từ 81% trở lên có trợ cấp người phục vụ.
Đối với người hoạt dồng kháng chiến bị địch bắt và tù đày đã được hưởng mức
trợ cấp hàng tháng thay vì được hưởng mức trợ cấp một lần như trước. Tính
đến năm 2014 có 13 người hoạt động kháng chiến bị địch băt và tù đày đã
chuyển hưởng các mức trợ cấp mới. [54]
Trong bối cảnh kinh tế - xã hội của đất nước còn nhiều khó khăn, thách
thức nhưng hiện nay hơn 95% đối tượng chính sách có công với cách mạng đã
có mức sống bằng và cao hơn mức sống trung bình của xã hội. Nhiều người
nhờ những cơ hội ưu đãi mà vươn lên làm giàu chính đáng và đã có những
đóng góp quan trọng cho sự phát triển chung của đất nước
2.2.3 Thực hiện chế độ ưu đãi về chăm sóc sức khỏe
Trong những năm qua, mặc dù điều kiện kinh tế-xã hội còn nhiều khó
khăn, song Đảng và Nhà nước ta vẫn luôn đặc biệt quan tâm tới đội ngũ người
có công với cách mạng. Điều kiện sống vật chất được nâng cao, do đó các chế
độ về điều dưỡng chăm sóc sức khỏe ngày càng được thực hiện tốt nhằm đảm
bảo sức khỏe cho các đối tượng người có công với cách mạng. Để thực hiện
chăm sóc sức khỏe cho các đối tượng người có công Nhà nước đã ban hành các
thông tư về chế độ ưu đãi NCCVCM. Thể hiện sự quan tâm đặc biệt đến sức
khỏe của các đối tượng như một sự đền ơn đáp nghĩa.
Dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ huyện Phú Bình, công tác thực hiện chính
sách chăm sóc sức khỏe cho người có công được đẩy mạnh hơn trong giai đoạn
2010-2014. Hàng năm, Phòng LĐTBXH huyện Phú Bình ban hành công văn
70
chỉ đạo các xã, thị trấn hướng dẫn thực hiện chế độ điều dưỡng cho người có
công với cách mạng theo các chế độ, chính sách của nhà nước.
Năm 2010, Huyện Phú Bình đã thực hiện chế độ cho đối tượng nguời có
công hưởng chế độ điều dưỡng theo thông tư đã ban hành thông tư liên tịch số
25/2010/BLĐTBXH-BTC-BYT của Liên Bộ Tài chính, Bộ Y tế, Bộ LĐTBXH
ngày 11/09/2010 về hướng dẫn chế độ chăm sóc sức khỏe đối với người có
công với cách mạng. Chế độ chăm sóc sức khỏe được tổ chức dưới hai hình
thức là: Chế độ bảo hiểm và chế độ điều dưỡng.
Đảng bộ huyện Phú Bình tiếp tục chỉ đạo cho Phòng LĐTBXH-cơ quan
chuyên trách của huyện tiến hành tổng hợp danh sách các đối tượng người có
công trong huyện được hưởng chế độ bảo hiểm y tế hàng năm. Ngày 24/10/2010, Phòng
LĐTBXH huyện Phú Bình ban hành công văn số 1709-LĐTBXH về việc triển khai thực hiện
thông tư liên tịch số 25/2010/BLĐTBXH-BTC-BYT. Đồng thời hướng dẫn cho các đối
tượng làm thủ tục hưởng bảo hiểm y tế theo quy định của Nhà nước [48].
Ngoài chế độ khám chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế, công tác chăm sóc
sức khỏe cho người có công ở huyện Phú Bình còn được sự tham gia hỗ trợ
của các cá nhân, doanh nghiệp, đoàn thể như: Hội chữ thập đỏ của huyện đã
phối hợp với bệnh viện chỉnh hình phục hồi chức năng, công ty Bảo hiểm nhân
thọ Prudential Việt Nam, Công ty Dược phẩm Hoàng Giang tổ chức thăm
khám và cấp phát thuốc miễn phí cho các đối tượng là người có công với cách
mạng tại trung tâm y tế của huyện.
Cùng với thực hiện chế độ bảo hiểm y tế, chế độ điều dưỡng được triển
khai toàn bộ 21/21 xã của huyện Phú Bình. Ngày 7/08/2014, thực hiện công
văn 1558-LĐTBXH-NCC của huyện Phú Bình về thực hiện chế độ điều dưỡng
NCC theo thông tư liên tịch số 25/2010/TTLT-BLĐTBXH-BTC Thông tư liên
tịch của liên Bộ LĐTBXH Bộ tài chính quy định các đối tượng được hưởng
chế độ điều dưỡng phục hồi sức khỏe.Ngoài ra, các đối tượng còn được trang
71
cấp phương tiện để phục hồi như chân giả, tay giả, xe lăn… để hỗ trợ họ trong
quá trình điều trị phục hồi chức năng.
Tiếp tục thực hiện chế độ điều dưỡng gồm 2 hình thức: Điều dưỡng tại
các cở điều dưỡng và điều dưỡng tại gia đình.
Điều dưỡng tại cơ sở điều dưỡng gồm 2 chế độ: Chế độ điều dưỡng 1
năm/lần và chế độ điều dưỡng 2 năm/lần. Điều dưỡng mỗi năm một lần cho
các đối tượng: 1.Người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm
1945; 2.Người hoạt động cách mạng từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến trước
Tổng khởi nghĩa 19 tháng Tám năm 1945; 3.Bà mẹ Việt Nam anh hùng; 4.
Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh, thương binh loại B
(gọi chung là thương binh), bệnh binh có tỷ lệ suy giảm khả năng lao động do
thương tật, bệnh tật từ 81% trở lên đang sống tại gia đình; 5.Người có công
giúp đỡ cách mạng được Nhà nước tặng Kỷ niệm chương “Tổ quốc ghi công”
hoặc Bằng “Có công với nước”; 6.Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất
độc hóa học suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên. [55]
Điều dưỡng luân phiên 2 năm một lần cho các đối tượng người có công
và thân nhân của họ gồm: 1.Cha đẻ, mẹ đẻ, vợ hoặc chồng của liệt sĩ, người có
công nuôi dưỡng liệt sĩ‟; 2.Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng
Lao động trong kháng chiến; 3. Người có công giúp đỡ cách mạng trong kháng
chiến; 4.Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học suy giảm khả
năng lao động dưới 81%;5. Thương binh, bệnh binh có tỷ lệ suy giảm khả năng
lao động do thương tật, bệnh tật dưới 81% đang sống tại gia đình; 6. Người
hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày. [55]
Năm 2011 các đối tượng được đi điều dưỡng tập trung tại trung tâm điều
dưỡng Hồ Núi Cốc - thuộc huyện Đại Từ, tinh Thái Nguyên. Thực hiện theo
công văn số 04/ĐDNCC về điều dưỡng người có công tỉnh Thái Nguyên, ngày
08 tháng 02 năm 2011 của trung tâm điều dưỡng người có công tỉnh Thái
72
Nguyên trong vòng 7 ngày. (Bắt đầu từ ngày 28/ 3/2011 đến ngày 03/4/ 2011.)
Tại đây, các đối tượng người có công được tham quan khu du lịch Hồ Núi Cốc,
tập luyện thể thao; tập luyện tại phòng phục hồi chức năng...Các đối tượng
luôn có ấn tượng tốt đẹp và coi đây là ngôi nhà chung của những người có
công với cách mạng, cảm nhận được sự quan tâm của Nhà nước đối với những
người đã có nhiều đóng góp, cống hiến, hy sinh vì độc lập, tự do của đất nước.
2. Chế độ điều dưỡng tại gia đình với mức chi điều dưỡng là 800.000
đồng/người/lần. Điều dưỡng tại gia đình áp dụng cho các đối tượng là thân
nhân người có công có sức khỏe yếu, không thể tham gia các đợt điều dưỡng
tập trung tại cơ sở điều dưỡng.
Năm 2014, Huyện Phú Bình thực hiện thông thông tư liên tịch số
13/2014/TTLT-BLĐTBXH-BTC của Bộ tài chính và Bộ LĐTBXH về hướng
dẫn thực hiện chế độ điều dưỡng phục hồi sức khỏe, cấp phương tiện trợ giúp,
dụng cụ chỉnh hình đối với NCCVCM và thân nhân; quản lý các công trình ghi
công liệt sĩ. Thực hiện theo thông tư mới đối tượng được hưởng chế độ điều
dưỡng có nhiều điểm mới: Thứ nhất, đối tượng được hưởng chế độ điều dưỡng
hàng năm mở rộng thêm cha đẻ, mẹ đẻ chỉ có một con mà người con đó là liệt
sĩ hoặc cha đẻ, mẹ đẻ có hai con là liệt sĩ trở lên. Nhờ vậy số lượng đối tượng
người có công trong huyện được hưởng chế độ chăm sóc sức khỏe tăng lên so
với những năm trước. Đồng thời chất lượng cũng cao hơn. Năm 2014 toàn
huyện có 460 đối tượng đã tham gia điều dưỡng tại trung tâm điều dưỡng tại
Sầm Sơn - Thanh Hóa. Trong đó thuộc diện điều dưỡng hàng năm là 96 người
và điều dưỡng luân phiên 2 năm/lần là 416 người. Điều dưỡng hàng năm tại
gia đình là 370 người. [54]
Thứ hai, điều chỉnh thời gian điều dưỡng 2 năm đối với các đối tượng
đang đươc hưởng chế độ điều dưỡng 5 năm. Đồng thời mở rộng thêm đối
tượng là con liệt sỹ bị thương tật nặng hoặc thương tật đặc biệt nặng. Mức chi
73
cho đối tượng điều dưỡng tập trung là chi là 2.220.000 đồng/người/lần (tăng
720.000 đồng so với thông tư cũ). Nếu điều dưỡng tại nhà sẽ được hưởng chế
độ 1.110.000 đồng/người/lần và được chi trực tiếp (tăng 310.000 đồng so với
thông tư cũ).
Nhờ quá trình chỉ đạo sát sao và tích cực của Đảng bộ huyện, công tác
chăm sóc sức khỏe cho các đối tượng NCCVCM đã đạt được nhiều kết quả.
Về chế độ bảo hiểm, trong toàn huyện 100% số đối tượng người có công
trên địa bàn huyện được hưởng chế độ bảo hiểm y tế và được cấp phát đầy đủ
thẻ bảo hiểm y tế để phục vụ cho quá trình khám chữa bệnh. Hàng năm, các
đối tượng đều đươc thăm khám miễn phí và cấp phát thuốc định kỳ theo chế độ
bảo hiểm y tế tại bệnh viện đa khoa Phú Bình.
Về công tác điều dưỡng, 100% đối tượng người có công của huyện được
hưởng chế độ điều dưỡng trong đó điều dưỡng luân phiên 5 năm một lần sang
2 năm một lần chiếm tỷ lệ cao nhất tới 98%. Đa số các đối tượng người có
công được hưởng chế độ điều dưỡng tại gia đình, số đối tượng tham gia điều
dưỡng tại các cơ sở đìều dưỡng còn hạn chế do số lượng người có công trên
địa bàn huyện cao nên không đủ kinh phí cho tất cả các đối tượng hưởng chế
độ. Thực hiện điều dưỡng phục hồi cho người có công đạt 100% kế hoạch.
Trong đó: điều dưỡng tập trung hàng năm là 96 người bao gồm các đối tượng:
Bà mẹ Việt Nam anh hùng, cán bộ tiền khởi nghĩa, cán bộ lão thành cách
mạng, thương binh và người hưởng chính sách như thương binh bị suy giảm
khả năng lao động từ 81% trở lên, người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất
độc hóa học từ 81% trở lên với tổng kinh phí là 578 triệu đồng. Đồng thời thực
hiện chế độ điều dưỡng luân phiên 2 năm/lần cho 416 người, kinh phí: 1,2 tỷ
đồng, điều dưỡng tại nhà 370 người, kinh phí 260 triệu đồng [54] Các đối
tượng điều dưỡng tại Trung tâm đều đánh giá tinh thần thái độ phục vụ tốt;
đảm bảo khẩu phần ăn cũng như được tham quan, khám sức khỏe theo quy
định và được chăm sóc tận tình, chu đáo.
74
2.2.4.Thực hiện chế độ ưu đãi nhà ở
Hỗ trợ NCCVCM về nhà ở là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà
nước nhằm thực hiện chính sách đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn, tri
ân đối với những người có công đóng góp cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng
dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tiếp tục thực hiện chính sách ưu đãi cho
người có công về nhà ở, ngày 26/04/2013 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
quyết định số 22/2013/QĐ-TTg (gọi tắt là quyết định số 22) về hỗ trợ người có
công với cách mạng về nhà ở góp phần ổn định đời sống của đối tượng người
có công. Đây là chính sách giúp cho các đối tượng có công “an cư lạc nghiệp”
khi về với cuộc sống xã hội. Nhà nước trực tiếp hỗ trợ gia đình NCCVCM để
có nhà ở ổn định, an toàn và chắc chắn.
Để thực hiện tốt chế độ ưu đãi về nhà ở cho người có công trên địa bàn
huyện. UBND huyện Phú Bình đã ban hành quyết định số 3905/QĐ-UBND
huyện ngày 25/9/2013 về việc phê duyệt đề án triển khai thực hiện quyết định
số 22/2013/QD-TTg ngày 26/04/2013 của thủ tướng chính phủ, hỗ trợ người
có công với cách mạng về nhà ở trên địa bàn huyện Phú Bình quyết định phê
duyệt đề án triển khai thực hiện quyết định số 22 chỉ đạo thực hiện, tổ chức
tuyên truyền chủ trương của Đảng và Nhà nước. Mục tiêu của đề án đến hết
năm 2014, phấn đấu 100% số hộ có công với cách mạng trong huyện được hỗ
trợ xây dựng và cải tạo nhà ở, sau khi hoàn thành các hộ có nhà ổn định, an
toàn, vững chắc bảo đảm “3 cứng” (nền cứng, khung - tường cứng, mái cứng).
Đối tượng được hưởng chế độ ưu đãi trong huyện đó là những NCCVCM đã được
các cơ quan có thẩm quyền công nhận. Hộ đối tượng đang sinh sống và có
đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa phương, hoàn cảnh gia đình gặp nhiều khó
khăn không có khả năng xây dựng nhà ở hoặc ở trong những căn nhà dột nát.
Các đối tượng áp dụng bao gồm 12 đối tượng theo Pháp lệnh số 04 (Pháp lệnh
người có công sửa đổi năm 2012)
75
Nguyên tắc hỗ trợ nhà ở cho đối tượng người có công được xác định như
sau:
Nhà nước trực tiếp hỗ trợ trực tiếp cho các hộ gia đình là đối tượng
NCCVCM có nhà bị hư hỏng, dột nát phải phá đi xây dựng nhà ở mới hoặc
nhà ở bị hư hỏng, dột nát cần phải sửa chữa phần khung-tường và thay mới
mái nhà. Điều kiện áp dụng cho tất cả các hộ đối tượng người có công kể cả
những hộ đã được hỗ trợ theo chính sách khác trước đây mà nay nhà ở bị hư
hỏng, dột nát. Mục đích của việc thực hiện chính sách để đảm bảo cho các đối
tượng xây dựng nhà ở mới hoặc sửa chữa nhà ở hiện có, bảo đảm nâng cao
điều kiện nhà ở của người có công.
Đối với trường hợp xây dựng nhà ở mới càn đảm bảo 3 tiêu chuẩn cứng
(nền cứng, khung tường cứng, mái cứng) có diện tích sử dụng tối thiểu là
30m². Nếu là hộ độc thân có thể xây dựng nhà ở với diện tích sử dụng nhỏ hơn
30m² nhưng không thấp hơn 24m², có tuổi thọ 10 năm trở lên.
Đối với nhà ở thuộc diện sửa chữa khung, tường và thay mới mái nhà thì
sau khi sửa chữa phải đảm bảo tiêu chuẩn 2 cứng (khung - tường cứng, mái
cứng) có tuổi thọ từ 10 năm trở lên nhưng không yêu cầu phải theo đúng tiêu
chuẩn về kích thước như đối với diện nhà ở xây mới.
Nhà ở của các hộ gia đình có công với cách mạng được hỗ trợ phải đảm
bảo vệ sinh môi trường, bao che kín đáo, tránh được những tác động xấu của
khí hậu, thời tiết. Các hộ gia đình có thể sử dụng các mẫu thiết kế điển hình do
Sở Xây dựng cấp hoặc tham khảo các mẫu nhà ở truyền thống, thông dụng tại
địa phương để lựa chọn quy mô và hình thức nhà ở phù hợp với hoàn cảnh cụ
thể của từng hộ.
Để chính sách ưu đãi về nhà ở được thực hiện có hiệu quả ở địa phương,
Đảng bộ huyện Phú Bình đã triển khai và thực hiện đề án. Thành lập ban chỉ
đạo, lập đề án triển khai thực hiện hỗ trợ nhà ở cho người có công trên địa bàn
76
huyện. Ban hành các quyết định, công văn chỉ đạo các cơ quan, đơn vị liên
ngành và UBND các xã, thị trấn phối hợp với các đoàn thể ở địa phương tiến
hành rà soát, thống kê các các hộ gia đình có công với cách mạng thuộc diện
được hỗ trợ theo tiêu chí quy định, bảo đảm đúng quy trình. Chịu trách nhiệm
trực tiếp và toàn diện trong việc rà soát xác định hộ gia đình NCCVCM được
hỗ trợ về nhà ở.
Các thôn, làng, tổ dân phố tổ chức tuyên truyền phổ biến nội dung chính
sách hỗ trợ NCCVCM về nhà ở theo quyết định số 22/2013/QĐ-Ttg tới tất cả
các đối tượng người có công với cách mạng trên địa bàn thôn.Trưởng thôn có
trách nhiệm hướng dẫn các đối tượng có đủ tiêu chuẩn điều kiện được hỗ trợ
nhà ở làm đơn đề nghị đươc hỗ trỡ theo mẫu. Trưởng thôn có trách nhiệm tập
hợp đơn của các đối tượng và lập danh sách gửi về UBND xã, thị trấn. UBND
xã có trách nhiệm thành lập Ban chỉ đạo thực hiện hỗ trợ về nhà ở cho
NCCVCM của xã gồm đại diện chính quyền cấp xã, đại diện UBMTTQ xã,
Hội Cựu chiến binh, tiến hành tổ chức kiểm tra hiện trạng nhà ở của từng đối
tượng có đơn đề nghị hỗ trợ nhà ở. Sau khi tiến hành kiểm tra UBND cấp xã
có trách nhiệm lập danh sách đối tượng được hỗ trợ nhà ở trên địa bàn về số
lượng, mức vốn hỗ trợ dư kiến rồi gửi về UBND huyện.
UBND huyện căn cứ vào báo cáo của UBND xã, thị trấn sẽ chỉ đạo
Phòng LĐTBXH chủ trì phối hợp với các phòng ban liên quan tiến hành rà
soát, kiểm tra, đối chiếu với danh sách các đối tượng người có công đang quản
lý, phê duyệt danh sách đối tượng người có công trên địa bàn huyện báo cáo
với UBND tỉnh để tiến hành triển khai thực hiện đề án.
Phòng LĐBXH huyện có trách nhiệm công bố công khai các đối tượng,
tiêu chuẩn hỗ trợ, tổng hợp và phê duyệt danh sách NCCVCM được hỗ trợ về
nhà ở trên địa bàn (gồm các hộ gia đình đã được hỗ trợ, số nhà ở đã được xây
dựng và sửa chữa, số tiền đã cấp cho các hộ gia đình, số tiền đã huy động từ các
77
nguồn khác, các khó khăn, vướng mắc, các kiến nghị trong quá trình thực hiện).
Trên cơ sở đó lên dự toán về tổng hợp kinh phí và phê duyệt như cầu kinh phí
hỗ trợ người có công với cách mạng về nhà ở trê địa bàn huyện từng năm, phân
loại thứ tự ưu tiên hỗ trợ cho các đối tượng theo quy định sau dây: Hộ gia đình
người có công mà nhà ở có nguy cơ sập đổ, không an toàn khi sử dụng; Hộ gia
đình mà người có công cao tuổi; Hộ gia đình mà người có công là dân tộc thiểu
số; Hộ gia đình nguời có công có hoàn cảnh khó khăn; Hộ gia đình người có
công thuộc vùng thường xuyên xẩy ra thiên tai…
Phương thức thực hiện: Các hộ gia đình sau khi nhận được khoản tiền
tạm ứng kinh phí hỗ trợ theo quy định thì tự tổ chức xây dựng nhà ở. Trong
trường hợp hộ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn (già cả, neo đơn, khuyết tật,...)
không có khả năng tự xây dựng nhà ở thì UBND xã có trách nhiệm tổ chức xây
dựng nhà ở cho các hộ gia đình này. UBND xã có trách nhiệm theo dõi, giám
sát và giúp đỡ các hộ gia đình trong quá trình xây dựng, sửa chữa nhà ở. Đồng
thời phối hợp với các tổ chức, đoàn thể như: MTTQ, Hội Phụ nữ, Hội Cựu
chiến binh, Đoàn thanh niên, tận dụng cao nhất vật liệu có sẵn ở địa phương,
huy động các nguồn lực từ cộng đồng, dòng họ anh em và hộ gia đình người có
công, khai thác vật liệu tự có như cát, sỏi, gỗ để giám giá thành xây dựng.. Khi
tiến hành hoàn thành xong phần nền, móng, khung tường của ngôi nhà các hộ
phải báo cáo với trưởng thôn. UBND cấp xã tiến hành lập biên bản xác nhận
xây dựng nhà ở đã được hoàn thành theo giai đoạn và khi hoàn thành toàn bộ
hạng mục công trình thì phải lập biên bản xác nhận hoàn thành nhà ở đưa vào
sử dụng.
Theo báo cáo số 81/BC-UBND ngày 28 tháng 8 năm 2013 của UBND
huyện Phú Bình về tổng hợp số liệu người có công với cách mạng đề nghị hỗ trợ
nhà ở theo quyết định 22/2013/QĐ-TTg, đề án chia lộ trình thực hiện trong 2
năm 2013-2014 với tổng số vốn ngân sách nhà nước hỗ trợ là 25.949.100.000
78
đồng:
Năm 2013, tổng số đối tượng đề nghị hỗ trợ là 713 hộ với số vốn hỗ trợ
19.657.800.000 đồng trong đó: Số nhà đề nghị làm mới là: 265 nhà với tổng số
tiền là 10.600.000.000 đồng ; Số nhà đề nghị sửa chữa là: 448 nhà với tổng số
tiền là 8.960.000.000 đồng [78]
Năm 2014, tổng số đối tượng đề nghị hỗ trợ là 181 hộ với số vốn hỗ trợ
là 6.291.300.000 đồng, trong đó: Số nhà đề nghị làm mới là: 132 nhà với tổng
sô tiền là 5.280.000.000 đồng ; Số nhà đề nghị sửa chữa là: 49 nhà với tổng số
tiền là 980.000.000 đồng [54]
Nguồn lực tài chính chi cho ưu đãi người có công từ ngân sách nhà nước
là nguồn chi thường xuyên bảo đảm ổn định nhằm hỗ trợ người có công về nhà
ở để các đối tượng có cuộc sống yên ổn, không phải sống trong các căn nhà
tạm bợ, dột nát như trước. Tuy nhiên, Phú Bình là huyện trung du miền núi,
một số xã trong huyện như xã Tân Hòa, Tân Khánh, Đồng Liên, Bàn Đạt giao
thông không thuận tiện, việc đi lại, vận chuyển các nguyên vật liệu là rất khó
khăn. Do vậy để dự án xây dựng nhà ở cho đối tượng người có công được hoàn
thành đúng tiến độ thì việc hỗ trợ chung tay góp sức của cả của cộng đồng là
rất cần thiết. Huy động sự giúp đỡ hỗ trợ của người dân trong các làng xóm
tham gia đóng góp ngày công xây dựng, vận chuyển cát, sỏi, gạch…phục vụ
cho xây dựng.
Mặt khác, trong thời điểm giá cả nhiều mặt hàng cao như hiện nay nếu
chỉ trông chờ vào sự hỗ trợ từ ngân sách nhà nước thì việc thực thi đề án người
có công không đảm bảo. Cấp ủy, chính quyền các xã, thị trấn đẩy mạnh thực
hiện công tác tuyên truyền, huy động các tổ chức, cá nhân tham gia hỗ trợ bằng
những việc làm thiết thực (hỗ trợ thêm tiền, hỗ trợ ngày công), góp phần nâng
cao chất lượng các công trình. Căn cứ vào Quyết định UBND tỉnh và nguồn
tiền được phân bổ, cấp ủy và chính quyền thị trấn và thôn đã vận động con, em
79
trong họ, nhân dân trong thôn xóm cùng chung tay giúp đỡ ngày công, nguyên
vật liệu hoặc hỗ trợ thêm tiền… để căn nhà người có công được triển khai
đúng tiến độ, xây dựng chắc chắn và khang trang hơn.
Việc triển khai chính sách hỗ trợ người có công về nhà ở đã được huyện
ủy – UBND huyện Phú Bình triển khai thực hiện thực hiện bài bản, chỉ đạo
UBND các xã, thị trấn tiến hành thống kê tình trạng nhà ở của các gia đình có
công, thông báo chính sách hỗ trợ người có công về nhà ở trên đài phát thanh
thôn, xã, trong các cuộc họp chi bộ, thôn và đến tận từng gia đình có công; tổ
chức việc bình xét, thẩm định, lập danh sách những hộ được hưởng chính sách
hỗ trợ theo đúng quy định...
Chương trình hỗ trợ NCCVCM về nhà ở là một chủ trương lớn của
Đảng và Nhà nước, thể hiện truyền thống tốt đẹp “đền ơn, đáp nghĩa” của dân
tộc ta, tạo được sự đồng thuận của cán bộ, đảng viên và của toàn xã hội. Để
tiếp tục đẩy nhanh tiến độ xây dựng nhà cho người có công trong điều kiện
nguồn vốn từ trung ương chuyển về chưa đủ, huyện Phú Bình sẽ chủ động
nguồn kinh phí để tạm ứng cho đề án Hỗ trợ người có công với cách mạng về
nhà ở; trước mắt, tập trung tạm ứng vốn hỗ trợ cho những hộ xây nhà, phấn
đấu đến giữa năm 2014, huyện Phú Bình sẽ hoàn thành việc hỗ trợ người có
công xây nhà. Huyện Phú Bình hỗ trợ thêm 6 triệu đồng/căn nhà xây mới và 3
triệu đồng/căn nhà sửa chữa; đồng thời phát động đa dạng hoá các hình thức hỗ
trợ bằng tiền, vật tư, nguyên liệu, công lao động...
Đến nay toàn huyện đã cơ bản hoàn thành việc hỗ trợ xây dựng nhà ở
cho hộ gia đình người có công với cách mạng trên địa bàn huyện theo đúng kế
hoạch và là một trong số các địa phương có số lượng lớn hoàn thành đầu tiên
trong tỉnh Thái Nguyên. Đề án hoàn thành không những có hiệu quả thiết thực
cho hộ gia đình người có công cải thiện nhà ở ổn định cuộc sống; thể hiện đạo
lý “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa”; đồng thời có ý nghĩa củng cố
80
lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước và củng cố khối đại đoàn kết dân
tộc, tinh thần tương thân, tương ái. Đồng thời việc hoàn thành Đề án có ý nghĩa
chính trị to lớn, thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với người có
công với cách mạng để lập thành tích chào mừng Đại hội đảng các cấp. Tính
đến tháng 12/2014, toàn huyện Phú Bình đã hoàn thành xong 100% giai đoạn 1
của đề án hỗ trợ nhà ở cho người có công với cách mạng theo quyết đinh số 22
cuả thủ tướng chính phủ, với tổng số đối tượng hỗ trợ là 181 hộ với số vốn hỗ
trợ là 6.291.300.000 đồng [54].
Việc triển khai hỗ trợ nhà ở đảm bảo nghiêm túc; đúng đối tượng, điều
kiện; kết quả xây dựng, sửa chữa nhà ở tại các địa phương đảm bảo theo quy
định: Nhà ở sau khi được hỗ trợ đảm bảo tiêu chí "3 cứng", diện tích nhà ở đa số trên 30m2 (mức quy định là 24m2), chất lượng đảm bảo; hồ sơ giải ngân và
hoàn công đảm bảo theo hướng dẫn của Tỉnh; có nhiều hộ gia đình người có
công được sự chung tay của gia đình, dòng họ và cộng đồng đã xây dựng lại
nhà ở khang trang, to đẹp hơn với kinh phí lớn nhiều so với kinh phí được hỗ
trợ (ở các xã: Điềm Thụy, thị trấn Hương Sơn, Lương Phú, Nhã Lộng…).
Có được kết quả đó là nhờ Chính quyền địa phương trong quá trình triển
khai đã tích cực hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc các hộ gia đình thực hiện xây
dựng, sửa chữa nhà ở; đồng thời chủ động báo cáo, đề xuất BCĐ tỉnh hướng
dẫn, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc để kịp thời triển khai. Tiêu biểu như:
Nga My, Hà Châu, Tân Đức. Qua đợt mưa lũ cuối tháng 7, đầu tháng 8/2014,
theo báo cáo của các địa phương thì không có hộ gia đình người có công nào
đã được hỗ trợ nhà ở theo quyết định số 22 bị ảnh hưởng nặng; nhà ở cơ bản
*
* *
đảm bảo chắc chắn, chịu được mưa bão.
Với truyền thống tốt đẹp của dân tộc “Uống nước nhứ nguồn, ăn quả
nhớ kẻ trồng cây” thể hiện lòng biết ơn với các thế hệ cha ông chiến đấu hy
sinh cho sự nghiệp giải phóng đất nước. Thực hiện chính sách ưu đãi người có
81
công như một sự tri ân, bày tỏ lòng biết ơn và kính trọng đến những đối tượng.
Đồng thời, qua việc thực hiện chính sách ưu đãi người có công đã giáo dục thế
hệ trẻ hôm nay và mai sau có ý thức và trách nhiệm giữ gìn, bảo vệ những
thành quả đạt được.
Nhận thức được ý nghĩa to lớn của việc thực hiện chính sách ưu đãi
NCCVCM trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của huyện nói riêng và
của đất nước nói chung. Lãnh đạo Đảng bộ huyện Phú Bình đã kịp thời và
đúng đắn đề ra các chủ trương, biện pháp để thực hiện tốt các chính sách ưu
đãi người có công. Những kết quả đã đạt được từ năm 2010 đến năm 2014 đã
góp phần nâng cao đời sồng vật chất và tinh thần của các đối tượng được
hưởng chính sách ưu đãi. Đồng thời có tác dụng làm thay đổi mọi mặt đời sống
xã hội của huyện. Củng cố niềm tin của nhân dân với chính quyền địa phương.
Với những kết quả đã đạt được tạo ra một nguồn động viên lớn về tinh
thần để Đảng bộ huyện Phú Bình tiếp tục phát huy vai trò lãnh đạo của mình
trong công tác thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM nói riêng và toàn bộ sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của huyện Phú Bình nói chung.
82
Chƣơng 3
MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
3.1. Một số nhận xét
3.1.1. Ưu điểm
Từ năm 2006 đến năm 2014, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Phú
Bình công tác thực hiện chính sách ưu đãi người có công trong địa bàn huyện
đã đạt được nhiều kết quả. Quán triệt sâu sắc mục tiêu không ngừng nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần cho NCCVCM đặc biệt các chính sách ưu đãi
phải được triển khai đầy đủ, chính xác và kịp thời cho từng đối tượng người có
công trong huyện. Đảng bộ huyện Phú Bình đã kịp thời đề ra các chủ trương,
biện pháp, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao hiệu quả, nghiêm túc
trong quá trình thực hiện chính sách ưu đãi người có công. Do vậy công tác
thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM đã đạt được nhiều kết quả quan trọng,
thể hiện trên các mặt sau:
Một là, Đảng bộ huyện Phú Bình nhận thức được vị trí và vai trò cuả
việc thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM trong chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội của địa phương.
Điểm đặc trưng của huyện Phú Bình là một huyện có số lượng người có
công cao nhất của tỉnh Thái Nguyên. Số lượng này chiếm một tỷ lệ khá cao
trong tổng số dân cư của huyện. Do vậy làm tốt công tác thực hiện chính sách
ưu đãi NCCVCM không chỉ giải quyết được những vấn đề xã hội bức thiết mà
còn tạo tiền đề vững chắc cho sự phát triển kinh tế.
Thực hiện tốt các chính sách ưu đãi NCCVCM không chỉ thể hiện truyền
thống tốt đẹp của nhân dân ta, bày tỏ lòng biết ơn đối với những người đã
chiến đấu, hy sinh xương máu vì sự nghiệp giải phóng đất nước. Đồng thời
thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM còn có ý nghĩa chính trị - xã hội to lớn.
83
Chính sách này là một bộ phận của chính sách ưu đãi xã hội. Một chính sách
ưu đãi đặc biệt góp phần ổn định và nâng cao đời sống của người có công.
Thông qua các chính sách được hưởng sẽ tạo ra động lực rất lớn, có tác dụng
cổ vũ cho họ trong cuộc sống, thực thi tốt các chính sách Pháp luật của Đảng
và Nhà nước ở địa phương. Làm cho họ thấy được vai trò, vị trí và trách nhiệm
của mình trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của huyện.
Nhận thức được vai trò và vị trí của việc thực hiện chính sách ưu đãi
người có công với cách mạng. Ngay từ Đại hội Đảng bộ huyện khóa XXIII
nhiệm kỳ 2005 - 2010 đưa nhiệm vụ quan tâm mọi mặt về đời sống vật chất và
tinh thần cho thương binh, gia đình liệt sỹ, NCCVCM là một mục tiêu cần giải
quyết để ổn định xã hội và phát triển kinh tế.
Để thực hiện được mục tiêu chung ấy công tác thực hiện chính sách ưu
đãi NCCVCM được nâng lên ở một vị trí quan trọng. Đây là một trong những
nội dung chủ yếu của nhiệm vụ thực hiện tốt các chính sách xã hội. Chỉ có duy
trì một xã hội công bằng, ổn định, đời sống của nhân dân được được đảm bảo,
trình độ nhận thức của họ được nâng cao thì mới tạo ra một nền tảng vững
chắc cho sự phát triển kinh tế.
Để thực hiện được mục tiêu lâu dài đó từng chính sách xã hội, nhất là
chính sách ưu đãi NCCVCM phải được thực thi có hiệu quả, mang lại giá trị
thực tế cho các đối tượng được hưởng. Các chính sách ưu đãi NCCVCM được
thực hiện kịp thời và đầy đủ ở toàn bộ các xã trong huyện. Huyện Phú Bình
phấn đầu 100% xã, thị trấn làm tốt chính sách thương binh liệt sĩ, người có
công.
Quán triệt tinh thần chỉ đạo, Đảng bộ Huyện Phú Bình lãnh đạo thực
hiện nghiêm túc và có hiệu quả các chính sách ưu đãi NCCVCM. Đây là chính
sách quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu ổn định xã hội và phát triển kinh
tế của huyện. Vì vậy mà mỗi chính sách ưu đãi cần thực hiện nghiêm túc và có
84
hiệu quả thông qua sự chỉ đạo kiểm tra giám sát của Huyện ủy, UBND huyện
Phú Bình. Thực hiện tốt chính sách ưu đãi chăm sóc thương binh, bệnh binh,
gia đình liệt sĩ, NCCVCM không chỉ là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn xã hội
mà còn thể hiện tình cảm đạo lý của người dân. Chính sách ưu đãi NCCVCM
có vị trí to lớn nó chẳng những có ý nghĩa nhân văn sâu sắc mà còn có vai trò
khích lệ động viên toàn thể nhân dân trong huyện trong công cuộc CNH, HĐH
xây dựng quê hương giàu đẹp. Như vậy việc nhận thức đúng đắn vị trí và vai
trò của việc thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM thể hiện sự nhất quán trong
tư tưởng chỉ đạo. Đồng thời cũng tỏ rõ sự nhạy bén, linh hoạt và kịp thời trong
chủ trương và biện pháp thực hiện.
Hai là, Đảng bộ huyện Phú Bình đã kịp thời đề ra các chủ trương, biện
pháp để thực hiện có hiệu quả các chính sách ưu đãi người có công
Quán triệt tinh thần chỉ đạo chung của Huyện ủy - HĐND - UBND
huyện Phú Bình nhằm nâng cao hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần cho đối
tượng người có công trên địa bàn huyện. Mỗi khi Đảng và Nhà nước ban hành
những chính sách mới quy định việc thực hiện chế độ ưu đãi cho các đối tượng
là thương binh, liệt sĩ, NCCVCM huyện Phú Bình đều nghiêm túc thảo luận và
đưa ra ý kiến để thực hiện tốt các chính sách. Điều đó thể hiện tinh thần, trách
nhiệm làm việc nghiêm túc và khoa học của ban lãnh đạo huyện Phú Bình.
Để làm tốt công tác chỉ đạo thực hiện chính sách ưu đãi cho các đối
tượng, huyện Phú Bình không ngừng đổi mới nâng cao năng lực lãnh đạo bằng
cách đề ra những biện pháp kế hoạch tối ưu nhất cho việc thực hiện. Chủ
trương, biện pháp đưa ra đều trên cơ sở quan điểm của Đảng, Nhà nước đồng
thời phù hợp với tiềm năng thực tế của huyện nên không có sự lúng túng, bị
động trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện.
Trên cơ sở những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước huyện
Phú Bình đã kịp thời đề ra các biện pháp nhằm thực hiện đầy đủ và chính xác
85
từng quy định, giải quyết các chế độ chính sách đến từng đối tượng. Ngay từ
khi UBTVQH ban hành Pháp lệnh số 26/2005/PL-UBTVQH11 ngày 29/06/2005 về ưu
đãi người có công, tiếp sau đó Chính phủ lại ban hành Nghị định số
54/2006/NĐ-CP ngày 26/05/2006 về hướng dẫn thi hành Pháp lệnh ưu đãi
NCCVCM thì Ban thường vụ Huyện ủy đã họp và ra Chỉ thị số 05/CT-HU
ngày 26/08/2006 về về việc lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện Nghị định
54/2006/CP ngày 26/5/2006 của Thủ tướng Chính phủ về hướng dẫn thi hành
Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng. Chỉ thị đã nhấn mạnh vai trò
và tầm quan trọng của việc ban hành văn bản Pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho
việc thực thi chính sách ưu đãi người có công. Đồng thời Ban thường vụ
Huyện ủy cũng yêu cầu sự kết hợp nghiêm túc từ phía các ban, ngành, đoàn thể
cùng phối hợp để thực thi hiệu quả chính sách trên. Trong quá trình triển khai
thực hiện cần nghiêm túc, công khai, công bằng, năm chắc tình hình, rà soát
từng đối tượng cụ thể không để kẻ xấu lợi dụng. Điều đó cho thấy sự kịp thời,
đúng đắn, nghiêm túc trong công tác lãnh đạo chỉ đạo.
Cùng với việc đề ra chủ trương cụ thể cho việc chỉ đạo thực hiện. Đảng
bộ huyện Phú bình còn đi sâu nắm chắc tình hình thực tế của từng đối tượng
người có công trong huyện đề kịp thời và chính xác trong việc áp dụng các chế
độ đãi ngộ đến các đối tượng cụ thể.
Đúc rút được những kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo chỉ đạo thực
hiện các chế độ ưu đãi NCCVCM đã đưa ra trong Đại hội XXIII nhiệm kỳ
2005 - 2010, tinh thần chỉ đạo của Đại hội XXIV nhiệm kỳ 2010- 2015 trong
việc thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM đã được nâng cao hơn nữa bằng
nhiều biện pháp cụ thể như: Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo, chỉ đạo phối hợp
của các cấp, ban, ngành, đoàn thể trong việc chăm lo đời sống vật chất và tinh
thần của thương binh, liệt sĩ, người có công. Đồng thời, tăng cường công tác
tuyên truyền, vận động các cá nhân, tổ chức tích cực tham gia công tác đền ơn
86
đáp nghĩa của huyện. Việc đề ra chủ trương và thực hiện tốt các chính sách ưu
đãi NCCVCM cho thấy sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn
thể đối với người có công. Những chủ trương đưa ra trên cơ sở nghiên cứu cụ
thể tình hình địa phương, thể hiện sự lãnh đạo chỉ đạo đúng đắn, kịp thời,
chính xác của Đảng bộ huyện Phú Bình.
Kết quả việc của việc đề ra chủ trương, biện pháp đúng đắn đã góp phần
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người có công của huyện. Từ năm
2006 đến năm 2014 dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Phú Bình toàn bộ số
đối tượng người có có công trên địa bàn huyện đều được hưởng các chính sách
đãi ngộ, ưu tiên cả Đảng và Nhà nước. Các chính sách ưu đãi về trợ cấp và phụ
cấp, ưu đãi chăm sóc sức khỏe, trong việc xây dựng nhà ở được thực hiện
nghiêm túc và có hiệu quả, kịp thời, chính xác đến từng đối tượng cụ thể. Điều
đó đã tạo được không khí vui tươi, phấn khởi cho người có công làm cho họ
vơi đi những đau thương, mất mát trong chiến tranh. Tạo được sự tin tưởng và
ủng hộ trong mọi tầng lớp nhân dân nói chung và bộ phận NCCVCM nói
riêng. Sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và các cấp chính quyền, đoàn thể ở
địa phương có tác dụng động viên về vật chất và tinh thần rất lớn, cho họ thấy
được sự cần thiết của mình trong xã hội, khuyến khích sự say mê trong lao
động để xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp.
Ba là, Đảng bộ huyện chú trọng công tác tuyên truyền, vận động cá
nhân, tổ chức và các đoàn thể, nhân dân trong huyện huy động được sức mạnh
tổng hợp giữa Nhà nước - chính quyền địa phương và toàn thể nhân dân trong
huyện vào thực hiện chính sách ưu đãi người có công.
Dưới sự lãnh đạo chỉ đạo nghiêm túc, với chủ trương, biện pháp khoa học
Đảng bộ huyện Phú Bình đã làm tốt công tác tuyên truyền vận động các cá
nhân, tổ chức, đoàn thể, nhân dân trong huyện. Công tác thực hiện chính sách
ưu đãi NCCVCM đã đạt được nhiều kết quả. Cùng với các chế độ ưu đãi do
87
Đảng và Nhà nước ban hành, họ còn được hưởng các chế độ ưu đãi ở địa
phương thông qua các phong trào tình nghĩa. Các phong trào tình nghĩa đã thu
hút sự ủng hộ và đóng góp của nhiều cá nhân, doanh nghiệp trên địa bàn
huyện. Tổng kết phong trào những tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp trên địa bàn
huyện được tuyên dương đã có những đóng góp nhiệt tình trong các phong trào
tinh nghĩa của huyện. Tiêu biểu là xí nghiệp dệt may TNG, công ty trách
nhiệm hữu hạn vàng bạc đã quý Hoa Dũng tổ chức tặng 25 sổ tiết kiệm tình
nghĩa với trị giá 125 triệu đồng cho các gia đình có công với cách mạng có
điều kiện khó khăn. [49]. Nguồn hỗ trợ này không chỉ có ý nghĩa về mặt vật
chất mà còn có ý nghĩa lớn về tinh thần, là sự ưu đãi đặc biệt dành cho người
có công.
Sự huy động nguồn lực từ trong nhân dân, đa dạng hóa các loại hình
chăm sóc, giúp đỡ người có công tạo ra một phong trào xã hội hóa chăm sóc
người có công trên địa bàn huyện. Huyện Phú Bình đã chỉ đạo cho Ban tuyên
giáo Huyện ủy, phối hợp với Hội chữ thập đỏ, Mặt trận Tổ quốc, đài phát
thanh của huyện thường xuyên phổ biến các chủ trương, kế hoạch của huyện.
Tổ chức tuyên truyền, nêu gương các cá nhân, gia đình, các tổ chức đã có
nhiều đóng góp lớn trong phong trào chăm sóc người có công của huyện.
Thông qua việc tuyên tuyền giúp cho người dân hiểu được vấn đề chăm sóc
người có công là vấn đề cần thiết góp phần ổn định xã hội. Đời sống các đối
tượng có được nâng cao thì mặt bằng chung của xã hội mới tiến bộ. Công tác
tuyên truyền đã giáo dục được truyền thống uống nước nhớ nguồn trong toàn
thể nhân dân các dân tộc trong huyện nhất là bộ phận thanh thiếu niên, giúp họ
hiểu được quá khứ hào hùng của cha ông để yêu mến và tự hào về truyền thống
đánh giặc giữ nước.
Cuộc vận động chăm sóc người có công là một nghĩa cử cao đẹp. Kết quả
là đã huy động được nguồn lực lớn, sự phối hợp tổ chức của các ban ngành
88
đoàn thể của huyện tham gia tuyên truyền phổ biến chính sách của Đảng và
Nhà nước, sự nhiệt tình ủng hộ của toàn thể nhân dân các dân tộc trên địa bàn
huyện. Tất cả tạo nên một thế vững chắc kết hợp chặt chẽ giữa Nhà nước-
chính quyền địa phương - nhân dân trong công tác thực hiện chế độ ưu đãi
NCCVCM.
Bốn là, Chính sách ưu đãi người có công đã tạo ra bước chuyển biến lớn
về vật chất và tinh thần cho các đối tượng. Người có công và thân nhân của họ
luôn nỗ lực vươn lên, tiếp tục đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Quán triệt chủ trương của Đảng bộ huyện Phú Bình thực hiện tốt các
chính sách ưu đãi cho thương binh, liệt sĩ, gia đình NCCVCM, không ngừng
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho các đối tượng. Đảm bảo cho họ có
mức sống trung bình cao hơn hoặc bằng mức trung bình ở nơi cư trú. Đây
chính là mục tiêu mà các cấp ủy Đảng huyện Phú Bình hướng tới.
Từ khi các đối tượng người có công được hưởng chính sách ưu đãi của
Đảng và Nhà nước đới sống vật chất và tinh thần của họ được nâng cao.
Về vật chất: Việc thực hiện có hiệu quả công tác chăm sóc người có công
ở huyện Phú Bình với các chính sách ưu đãi thiết thực đã góp phần ổn định đời
sống của người có công. Chế độ trợ cấp, phụ cấp ưu đãi một lần và hàng tháng
được chi trả thường xuyên và kịp thời đã phần nào làm vơi đi nỗi lo về kinh tế
với cuộc sống vật chất cơm áo, gạo tiền mà hàng ngày họ phải lo lắng. Hàng
tháng các đối tượng được nhận một khoản trợ cấp cố định đã giảm bớt gánh
nặng cho gia đình, người thân của một số đối tượng như thương binh hạng
nặng, người bị nhiễm chất độc hóa học… không còn khả năng lao động.
Các chính sách ưu đãi về nhà ở cho đối tượng người có công khó khăn
không có khả năng xây dựng nhà ở giúp cho họ có chỗ ăn ở yên ổn, yên tâm
tham gia lao động xây dựng kinh tế, đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội
89
của huyện. Các chế độ chăm sóc sức khỏe cho đối tượng người có công với
phương thức cấp phát thẻ y tế, thực hiện chế độ điều dưỡng tại nhà và chế độ
điều dưỡng tại các cơ sở y tế với thời gian 1năm/ lần hay 5 năm/ lần đã thu
được kết quả lớn.
Về tinh thần: Dưới sự lãnh đạo của các cấp chính quyền công tác thực
hiện chính sách ưu đãi NCCVCM đã có nhiều kết quả. Các đối tượng được
hưởng chế độ chăm sóc ưu đãi đầy đủ. Họ được sự chăm sóc, quan tâm từ
phía Đảng và Nhà nước, chính quyền địa phương và nhân dân làm cho họ thấy
được sự cần thiết cuả mình với xã hội. Đồng thời, các đối tượng cũng ý thức
được trách nhiệm và nghĩa vụ mới của mình trong việc phát triển kinh tế xây
dựng quê hương. Họ luôn là tấm gương sáng đi đầu trong các phong trào ở
huyện như: Điển hình làm kinh tế giỏi, các phong trào tham gia tìm hiều lịch
sử phát triển của huyện Phú Bình, cuộc vận động toàn dân tham gia xây dựng
đời sống mới ở thôn, xóm… Qua mỗi phong trào đều tổng kết đánh giá kết quả,
nhiều đối tượng NCCVCM được tuyên dương, nêu gương, chia sẻ kinh
nghiệm.
Từ thực tế trên có thể thấy việc thực hiện chế độ chăm sóc ưu đãi
NCCVCM là vấn đề quan trọng và cần thiết. Các chính sách được thực thi có
hiệu quả góp phần nâng cao đời sống về vật chất và tinh thần cho các đối
tượng chính sách. Tạo động lực họ vượt qua khó khăn vươn lên trong cuộc
sống trở thành những công dân kiểu mẫu, điển hình ở địa phương. Họ không
chỉ là những người anh hùng chiến đấu trong thời kỳ chiến tranh mà còn hăng
hái, nhiệt tình trong việc xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước trong thời kỳ
mới.
Những thành tựu trên xuất phát từ một số nguyên nhân như sau:
Thứ nhất, sự nhất quán về chủ trương, biện pháp, tinh thần chỉ đạo của
Đảng bộ huyện Phú Bình về thực hiện chính sách ưu đãi người có công.
90
Nhận thấy vai trò và vị trí của công tác thực hiện chính sách ưu đãi người
có công có ý nghĩa quan trọng trong mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của
huyện, Đảng bộ huyện Phú Bình đã có những chủ trương và kế hoạch thực
hiện đúng đắn, phù hợp với tình hình thực tế của huyện.
Các chính sách ưu đãi NCCVCM liên tục được áp dụng có hiệu quả theo
chủ trương của Đảng và Nhà nước, theo tinh thần chỉ đạo chung của Tỉnh ủy
Thái Nguyên. Qúa trình đề ra chủ trương, biện pháp, kế hoạch thực hiện được
tiến hành theo đúng quy trình: học tập để quán triệt tư tưởng chỉ đạo, nhiệm vụ
chung; thảo luận lấy ý kiến; tổng hợp, phân tích cơ sở lý luận; triển khai, áp
dụng thực tiễn địa phương; tổng kết đánh giá và rút kinh nghiệm. Với một quy
trình làm việc có tổ chức, khoa học và trình tự nên việc đưa ra các chủ trương,
biện pháp đã đạt được sự đồng tình ủng hộ các cán bộ lãnh đạo Đảng ở địa
phương.
Thứ hai, có sự quan tâm chỉ đạo sát sao của các cấp chính quyền, Huyện
ủy - HĐND - UBND huyện Phú Bình trong công tác chỉ đạo thực hiện chế độ
chính sách.
Để đạt được những thành tựu đáng ghi nhận như trên là nhờ những chủ
trương và biện pháp đúng đắn của các cấp lãnh đạo Đảng bộ huyện Phú Bình.
Ban thường vụ Huyện ủy lập ra ban chỉ đạo do UBND huyện là chủ tịch, các
ban ngành đoàn thể như: Công an, Nội vụ, Quân sự, phòng LĐTBXH, phòng
văn hóa là cơ quan thường trực. Ban chủ đạo thường xuyên thanh tra, kiểm tra
đôn đốc thực hiện. Phát hiện và xử lý nghiêm minh các trường hợp các bộ thực
hiện vi phạm. Yêu cầu Phòng LĐTBXH nộp báo cáo hàng tháng, hàng quý,
hàng năm; các báo cáo tổng kết từng chương trình. Đồng thời, đề ra kế hoạch
mục tiêu cụ thể trong những năm tiếp theo. Nhờ sự chỉ đạo tập trung và kịp
thời nên công tác thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM đã đạt nhiều kết quả
khích lệ.
91
Thứ ba, sự tham mưu kịp thời, chi tiết và đúng đắn của cấp ủy phòng
LĐTBXH trong việc đưa ra các Chỉ thị, Nghị quyết để đạt được kết quả trong
công tác thực hiện chăm sóc ưu đãi NCCVCM.
Phòng LĐTBXH huyện Phú Bình với tư cách là một phòng ban chức
năng tham mưu cho UBND trong việc thực hiện các Chỉ thị, Nghị quyết do
Huyện ủy - HĐND đề ra. Đồng thời là một bộ phận trực tiếp thực hiện các chủ
trương của các cấp lãnh đạo Đảng ủy nên việc tham mưu các biện pháp, giải
pháp thực hiện cho Huyện ủy mang tính khả thi cao và phù hợp với thực tế.
Với mỗi chính sách ưu đãi NCCVCM do Đảng và Nhà nước ban hành
thì các cấp lãnh đạo Đảng bộ huyện Phú Bình đều ban hành các Chỉ thị, Nghị
Quyết và Công văn giao nhiệm vụ cho các phòng ban chức năng phối hợp triển
khai thực hiện. Để các chủ trương chính sách của Đảng được chuyển tải từ lý
luận vào thực tế địa phương đạt kết quả cao thì vai trò tham mưu xây dựng các
biện pháp thực hiện của phòng LĐTBXH có ý nghĩa rất quan trọng. Qua tổng
kết báo cáo kết quả thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM hàng năm phòng
LĐTBXH đều có kế hoạch tham mưu cho UBND huyện về các chương trình
như:“chương trình xây dựng và kế hoạch thực hiện công tác đền ơn đáp
nghĩa”, tham mưu cho UBND thực hiện kỷ niệm ngày thương binh liệt sĩ,
thăm hỏi tặng quà các đối tượng trong dịp lễ, tết. Đề ra các kế hoạch phối hợp
với các xã trong việc tu sửa nghĩa trang liệt sĩ trên địa bàn huyện.
3.1.2 Hạn chế
Bên cạnh những cố gắng, kết quả đã đạt được, công tác lãnh đạo thực
hiện chính sách ưu đãi người có công dưới sự lãnh đạo của của Đảng bộ huyện
Phú Bình từ năm 2006 đến năm 2014 vẫn còn một số tồn tại và thiếu sót như
sau:
Một là, một số chỉ tiêu trong công tác lãnh đạo thực hiện chính sách ưu
đãi NCCVCM không đạt được kế hoạch đề ra.
92
Giai đoạn trước năm 2006, Phú Bình là một huyện nghèo nền kinh tế
thuần nông mang tính chất tự túc, tự cấp. Đời sống nhân dân trong huyện còn
nghèo. Công tác thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM được triển khai thực
hiện nhưng chưa đạt được những thành tựu nổi bật. Từ Đại hội Đảng bộ huyện
Phú Bình khóa XXIII nhiệm kỳ 2005 - 2010 đề ra mục tiêu chung ổn định xã
hội. Thực hiện đầy đủ các chế độ chính sách ưu đãi NCCVCM. Giải quyết hết
những tồn đọng về hồ sơ, thủ tục xét duyệt công nhận cho các đối tượng. Chi
trả trợ cấp hàng tháng cho tất cả các đối tượng. Phấn đấu đến năm 2015 trên
toàn huyện không có đối tượng chính sách phải ở trong những căn nhà dột
nát…
Trên thực tế một số công tác đề ra chưa được thực hiện như: kế hoạch xây
dựng đài tưởng niệm nghĩa trang liệt sĩ ở xã Đào Xá ( huyện Phú Bình) phải lùi lại
do khó khă trong khâu giải phóng mặt bằng, thiếu nguồn vốn thực hiện. Đồng thời
do HĐND - UBND xã Bảo Lý chưa quản lý có hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ.
Công tác quản lý và sử dụng quỹ đền ơn đáp nghĩa vẫn tồn tại nhiều bất
cập. Nhiều nơi xã, thị trấn chưa làm tốt công tác tuyên truyền vận động nên số
lượng người dân tham gia ủng hộ chưa cao.
Một số chỉ tiêu chưa được đưa ra nhưng việc thực hiện chậm chễ, hoặc
chưa được thực hiện nguyên nhân chủ yếu là do thiếu nguồn vốn thực hiện.
Đồng thời, tồn tại một số tư tưởng nóng vội, chủ quan, duy ý trí của một bộ
phận cán bộ lãnh đạo.
Hai là, công tác chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ ở một số xã, thị trấn còn
nhiều hạn chế, kết quả chưa cao.
Để các chính sách ưu đãi NCCVCM, Huyện ủy - HĐND - UBDN huyện
Phú Bình đã giao nhiệm vụ thực hiện cho các xã triển khai thực hiện các Chỉ
thị số 05/CT-HU của Ban thường vụ Huyện ủy về thực hiện Pháp lệnh ưu đãi
NCCVCM và Nghị định 54/2005/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Pháp lệnh ưu
93
đãi người có công. Tuy nhiên ở một số xã nghèo (thuộc khu vực 1 miền núi)
như Tân Đức, Tân Hòa, Tân Khánh, Tân Kim công tác thực hiện còn chậm chễ
chưa đạt được yêu cầu đề ra.
Do vậy, Báo cáo công tác thực hiện ở một số địa phương này còn chung
chung, lý thuyết, chưa đánh giá được đúng thực trạng của công tác địa phương
mình quản lý. Đồng thời do trình độ của một số cán bộ xã còn hạn chế nên việc
lãnh đạo, tổ chức thực hiện chưa đạt được những kết quả nổi bật.
Ba là, tác phong làm việc còn nặng về thủ tục hành chính nên việc giải
quyết các chế độ ưu đãi cho NCCVCM còn chậm chễ, gây khó khăn cho đối
tượng được hưởng chính sách.
Công tác thực hiện chế độ ưu đãi cho NCCVCM là một quy trình liên quan
đến nhiều thủ tục pháp lý. Do vậy để giải quyết các chế độ chính sách cho các đối
tượng người có công trên địa bàn huyện Phú Bình còn mắc phải một số vướng
mắc. Do số lượng đối tượng người có công lớn, khối lượng công việc nhiều, thiếu
cán bộ có năng lực chuyên môn cao. Do vậy gây chậm chễ trong việc giải quyết
công việc.
Thêm vào đó thủ tục pháp lý quá nhiều nên quy trình xét duyệt hồ sơ,làm
thủ tục nhận chế độ ưu đãi, thời gian chờ đợi quyết định từ Sở LĐTBXH công
nhận hồ sơ đối tượng lâu. Trên địa bàn huyện đã xảy ra trường hợp của một số
đối tượng chậm chễ trong thủ tục công nhận chính sách. Trong huyện còn xảy
ra một số trường hợp khi đối tượng qua đời hồ sơ mới được hoàn thành và
công nhận. Thực tế đây là vấn đề thiệt thòi cho các đối tượng.
Một số cán bộ phụ trách mảng người có công trong quá trình làm việc
vẫn còn hiện tượng sách nhiễu, gây khó khăn cho người dân. Đây cũng là
nguyên nhân làm cho việc lập hồ sơ công nhận đối tượng người có công xảy ra
chậm chễ, gây thiệt thòi cho đối tượng.
Bốn là, vẫn còn hiện tượng tiêu cực, thiếu công khai, minh bạch, công
94
bằng trong quá trình xét duyệt và làm thủ tục hồ sơ gây tâm lý bất bình cho đối
tượng được hưởng chính sách.
Trong quá thực hiện thủ tục xét duyệt, công nhận và quản lý hồ sơ đối
tượng rất phức tạp. Một số đối tượng đã lợi dụng điểm yếu này để thực hiện
những hành vi tiêu cực. Trên đại bàn huyện đã xảy ra hiện tượng cố tình làm
hồ sơ và thủ tục giả ở một số xã. Gây khó khăn cho các cán bộ huyện trong
việc xác minh thẩm định hồ sơ đối tượng.
Đồng thời một số cán bộ phụ trách thực hiện thiếu nhiệt tình trong công
tác, trình độ chuyên môn còn yếu. Thực tế hạn chế này đã tiếp tay cho các đối
tượng xấu có hành vi tiêu cực.
Đây là vấn đề đã được các cấp lãnh đạo Đảng bộ huyện Phú Bình thanh
tra, phát hiện và kịp thời xử lý. Không để tình trạng tiêu cực tiếp diễn, có biện
pháp xử lý với những hành vi sai phạm đồng thời tuyên dương những cá nhân
dám đứng ra tố cáo hành vi sai phạm.
Nguyên nhân của những hạn chế trên là do:
Thứ nhất, cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương ở một số xã chưa nhận
thức được đầy đủ tầm quan trọng của người có công, ý nghĩa của viêc thực
hiện chính sách ưu đãi người có công.
NCCVCM là những đối tượng khó khăn rất lớn về vật chất và tinh thần.
Họ là những người bị thương tật trong chiến tranh (thương binh, bệnh binh,
người bị nhiễm chất độc hóa học…) sức khỏe của họ bị suy giảm nghiêm trọng
không thể tham gia vào các công việc phức tạp đòi hỏi sức lực hay trí tuệ vất
vả. Vì vậy đời sống vật chất của họ không được đảm bảo. Những đối tượng bà mẹ
Việt Nam anh hùng sống trong hoàn cảnh cô đơn không nơi nương tựa cũng rất
cần sự chăm sóc và ưu đãi của xã hội. Thực tế đó đặt ra yêu cầu các cấp ủy Đảng
ở các xã nơi trực tiếp quản lý đối tượng cần đi sâu, nắm sát thực tế. Tuy nhiên do
sự hạn chế trong nhận thức công tác này đã không đạt hiệu quả.
95
Trước thực trạng kinh tế của một số xã của huyện còn khó khăn, trình độ dân
trí còn thấp nhất là một số xã miền núi. Trong khi đó các cấp lãnh đạo ở địa
phương này lại chưa ý thức được tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách. Tỏ
thái độ thiếu quan tâm đến tình trạng khó khăn của các đối tượng người có công
trên địa bàn. Chưa kịp thời đề ra được những giải pháp hợp lý để giải quyết
những tồn tại trên.
Thứ hai, đội ngũ cán bộ thực hiện mảng người có công còn thiếu, khó
khăn cho việc giải quyết số lượng công việc lớn.
Trình độ cán bộ phụ trách mảng người có công còn yếu về chuyên môn
nghiêp vụ, kỹ năng giải quyết công việc. Với đặc thù công việc lớn, số lượng
đối tượng người có công trên địa bàn huyện nhiều nên việc thực hiện giải
quyết công việc còn khó khăn. Trong bước tạo nguồn, cơ cấu cán bộ còn thiếu
hợp lý, chưa đồng bộ trong công tác lựa chọn, công tác đào tạo còn nhiều bất
cập, lúng túng, bị động, cơ cấu đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền vận
động quần chúng còn thiếu đồng bộ. Đồng thời một số cán bộ, Đảng viên ở cấp
xã chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách ưu đãi
NCCVCM nên chậm chễ, thiếu sự quan tâm trong việc tổ chức thực hiện.
Thứ ba, thiếu kinh phí hỗ trợ trong việc thực hiện triển khai các chương
trình, đề án chăm sóc người có công.
Kinh phí là vấn đề lớn và tồn tại nhiều những khó khăn. Do vậy các đề
án, chương trình thực hiện chưa đạt được kết quả chưa cao. Cộng thêm điều
kiện kinh tế xã hội còn khó khăn việc huy động nhân dân tham gia phong trào
đền ơn đáp nghĩa còn nhiều hạn chế. Đồng thời, nguồn ngân sách của địa
phương còn eo hẹp gây khó khăn cho việc tổ chức thực hiện các phong trào
toàn dân chăm sóc NCCVCM. Một số chương trình, đề án được triển khai
nhưng hiệu quả chưa cao hoặc không thực hiện được.
96
3.2. Kinh nghiệm
Công tác thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM giai đoạn 2006 - 2014
có được những kết quả như trên là nhờ sự quan tâm lãnh đạo của Ban Thường
vụ huyện ủy, HĐND, UBND sự phối hợp và tạo điều kiện của chính quyền,
các ban, ngành chức năng của tất cả các xã, thị trấn trên địa bàn huyện.
Từ thực tiễn công tác thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM của Đảng
bộ tỉnh Phú Bình từ năm 2006 đến năm 2014, trên cơ sở những ưu điểm và hạn
chế, bước đầu có thể rút ra một số kinh nghiệm như sau:
Một là, công tác chỉ đạo thực hiện chính sách ưu đãi người có công cần
bám sát chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước và phù hợp với thực
tế địa phương
Thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM là một chính sách góp phần quan
trọng vào việc ổn định xã hội. Xã hội ổn định là môi trường thuận lợi để phát
triển kinh tế. Vì vậy mọi chủ trương, biện pháp thực hiện chính sách ưu đãi
NCCVCM cần phải bám sát mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của Đại hội Đảng bộ
huyện trong từng thời kỳ cách mạng. Để cụ thể hóa nhiệm vụ chính trị nêu ra
tại các kỳ Đại hội, Đảng bộ huyện Phú Bình đã đưa ra các Chỉ thị, Nghị quyết,
Công văn, Kế hoạch để lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện các chính sách ưu
đãi NCCVCM. Đồng thời tuyên truyền, vận động các ban, ngành, đoàn thể, các
cá nhân, tổ chức và toàn thể nhân dân tích cự tham gia vào các phong trào tình
nghĩa của huyện Phú Bình tổ chức.
Thực tế từ năm 2006 đến năm 2014, công tác thực hiện chính sách ưu đãi
người có công luôn bám sát mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Các
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ban hành về chính sách ưu đãi
ngườu có công đều được Đảng bộ huyện Phú Bình thực hiện nghiêm túc và có
hiệu quả, bám sát mục tiêu chính trị chung của huyện, vận dụng sáng tạo, linh
hoạt vào vào cảnh cụ thể của huyện.
97
Các nội dung của chính sách ưu đãi được pháp luật hóa và thực hiện có
hiệu quả ở huyện Phú Bình bao gồm các chính sách trợ cấp, phụ cấp, ưu đãi về
chăm sóc sức khỏe, ưu đãi về nhà ở đã thiết thực giúp người có công vươn lên
ổn định cuộc sống.
Đạt được những thành tựu nổi bật góp phần quan trọng nâng cao mọi mặt
đời sống vật chất và tinh thần cho đối tượng người có công nói riêng và toàn
thể nhân dân trong huyện nói chung.
Hai là, qúa trình thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM được tiến hành
công khai, minh bạch và đảm bảo công bằng cho các đối tượng.
Quá trình thực hiện các chính sách ưu đãi ưu đãi người có công với cách
mạng dựa vào các quyết định, các văn bản giấy tờ có liên quan. Do đó trong
quá trình thực hiện cần ngiêm túc, minh bạch và công khai. Nhất là từ quy
trình xét duyệt, công nhận hồ sơ đối tượng NCCVCM với công đoạn này cần
được thực hiện nghiêm túc ngay từ khâu ký nhận và xác minh ở cấp xóm, xã.
Qúa trình này liên quan rất nhiều đến các thủ tục pháp lý phức tạp. Do đó bộ
phận cán bộ thực hiện phải là người có đạo đức và trách nhiệm với nghề
nghiệp. Hướng dẫn tận tình và chi tiết cho từng đối tượng cụ thể làm hồ sơ.
Việc thực hiện công khai, minh bạch, công bằng cho từng đối tượng
NCCVCM là vấn đề có tác dụng quan trọng trong việc củng cố niềm tin giữa
chính quyền và nhân dân. Vì chính quyền địa phương là khâu trung gian đại
diện cho Đảng và Nhà nước truyền tải các chủ trương, chính sách đến từng
người dân. Vì vậy chính quyền ở địa phương có thực hiện tốt và có hiệu quả
chức năng, nhiệm vụ của mình thì mới được dân tin và ủng hộ.
Đồng thời cán bộ phụ trách mảng người có công cũng cần thực hiện một
cách nghiêm túc và có trách nhiệm trong toàn bộ quá trình để đảm bảo thực hiện
chính sách ưu đãi cho đúng đối tượng, đúng công lao. Tránh tình trạng thiếu công
bằng, bỏ sót, chậm chễ trong việc thực thi chính sách ưu đãi cho các đối tượng.
98
Trong quá tình thực thi các chính sách cần kịp thời, tránh để tình trạng
tồn đọng kéo dài gây khó khăn cho các đối tượng.
Vấn đề thực hiện minh bạch công khai cũng cần được quan tâm, rà soát
hơn nữa trong việc quản lý và sử dụng có hiệu quả quỹ đền ơn đáp nghĩa. Đảng
bộ Huyện Phú Bình cũng cần coi trọng hơn nữa công tác kiểm tra giám sát,
thanh tra xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm, thiếu tinh thần trách
nhiệm trong công việc. Đồng thời khen thưởng, tuyên dương kịp thời những
cán bộ nhiệt tình trong công tác người có công.
Ba là, chú trọng công tác tuyên truyền, phát động các phong trào tình
nghĩa, thu hút nguồn lực trong việc thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM.
Nhận thức được vai trò, ý nghĩa của việc thực hiện chính sách ưu đãi
NCCVCM là nhiệm vụ quan trọng góp phần ổn định đời sống của nhân dân
trong huyện. Đảng bộ huyện Phú Bình đã quán triệt chủ trương cần thực hiện
tích cực công tác tuyên truyền nhằm chuyển tải các chủ trương chính sách của
Đảng và Nhà nước đến từng người dân trong huyện. Để làm được điều đó
trước hết phải nâng cao nhận thức cho cán bộ và nhân dân về chủ trương của
Đảng và Nhà nước đang được áp dụng thực hiện ở địa phương. Từ đó Huyện
uỷ tổ chức hội nghị mở rộng chuyên đề nhằm quán triệt, nâng cao nhận thức và
tinh thần trách nhiệm của các cán bộ lãnh đạo các cấp, ban ngành trực tiếp thực
hiện chính sách ưu đãi NCCVCM đưa ra các giải pháp cụ thể để hoạt động có
hiệu quả. Đảng bộ phải hết sức coi trọng công tác tuyên truyền, vận động nhân
dân, phát huy các nguồn lực để thực hiện chính sách. Coi đây là một nhiệm vụ
quan trọng, là giải pháp mang tính đột phá trong việc thực hiện các chính sách
xã hội góp phần ổn định nâng cao đời sống của người dân ở địa phương. Theo
đó Huyện ủy đã có nhiều phương pháp tuyên truyền phong phú, sáng tạo và có
hiệu quả. Đài phát thanh của huyện đã tăng thêm thời lượng phát sóng các
chuyên mục, sự kiện của huyện nêu gương các thương binh, bệnh binh vượt
99
qua hoàn cảnh khó khăn làm kinh tế giỏi, biểu dương các tấm lòng thơm thảo
của các cá nhân, tổ chức đã đóng góp xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa, giúp đỡ
gia đình liệt sĩ, bà mẹ Việt Nam anh hùng… Ban tuyên giáo Huyện ủy tổ chức
các lớp huấn luyện phổ biến nội dung kế hoạch thực hiện các chính sách ưu đãi
NCCVCM cho các ban ngành trực thuộc huyện và các cán bộ lãnh đạo huyện,
phổ biến đến từng xã thôn. Phát động các phong trào, các cuộc thi “tìm hiểu
tấm gương tiêu biểu của các anh hùng liệt sĩ, người có công trên quê hương
Phú Bình”, phát động phong trào ủng hộ quỹ đền ơn đáp nghĩa…
Trong quá trình thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM Đảng bộ huyện
Phú Bình đã phát huy được sức mạnh đoàn kết của đông đảo nhân dân các dân
tộc trong huyện, khơi dậy tiềm năng, tạo ra những động lực mới thu hút đông
đảo các cá nhân và tổ chức trong địa bàn huyện tham gia hưởng ứng.
Bốn là, chú trọng công tác đào tạo đội ngũ cán bộ trực tiếp tham gia công
tác thực hiện chính sách ưu đãi cho người có công để đáp ứng yêu cầu của công
việc.
Cán bộ chuyên trách là người giữ vai trò quan trọng trực tiếp thực hiện
công việc. Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ được coi là cái
gốc của mọi công việc. Người cho rằng muôn việc thành công hay thất bài là
do cán bộ tốt hoặc kém. [37, tr.273]. Người đặt vai trò của cán bộ có ý nghĩa
quyết định khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công và thất bài của chính
sách đó là do cách tổ chức công việc, do nơi lựa chọn cán bộ, do nơi kiểm tra,
nếu ba điểm ấy sơ sai thì chính sách có đúng mấy cũng vô ích.
Trong quá trình thực hiện các chính sách ưu đãi NCCVCM, cán bộ
phòng LĐTBXH đặc biệt là người phụ trách mảng công việc người có công có
vai trò vô cùng quan trọng. Họ là người trực tiếp chuyển tải các chính sách,
chế độ của Đảng Nhà nước đến từng đối tượng cụ thể. Họ là người trực tiếp
tiếp nhận hồ sơ, giải đáp thắc mắc, hướng dẫn người có công về quy trình thủ
100
tục thực hiện chế độ ưu đãi. Họ là người tham mưu cho Huyện ủy về các chỉ
thị, công văn, các kế hoạch của huyện về thực hiện công tác ưu đãi NCCVCM.
Thông qua đội ngũ cán bộ chuyên trách, người dân mới được hiểu về quyền lợi
được hưởng chế độ của mình do Đảng và Nhà nước ban hành. Có thể nói đội
ngũ cán bộ làm công tác người có công là cầu nối giữa chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước với nhân dân, qua đó Đảng bộ huyện đưa ra các chỉ thị
hoặc kịp thời điều chỉnh các kế hoạch thực hiện sao cho đúng với các chủ
trương của Đảng và Nhà nước ban hành. Đồng thời, trong quá trình chỉ đạo
thực hiện chính sách phải phù hợp vào hoàn cảnh và điều kiện của địa phương.
Mặt khác, thông qua đội ngũ cán bộ phụ trách mảng người có công, nhân dân
kiến nghị, đóng góp ý kiến để Đảng bộ xây dựng và hoàn thiện hơn trong việc
đưa ra chủ trương chính sách của mình.
Trong thực công tác thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM cán bộ phòng
LĐTBXH hội huyện Phú Bình đặc biệt là đội ngũ cán bộ làm công tác người có
công là người thực thi hết các khâu từ khâu giúp UBND huyện trực tiếp tiến hành
công việc, xây dựng các chương trình công tác, chỉ đạo việc điều tra, khảo sát,
thống kê, tổng hợp, báo cáo danh sách các đối tượng lên Huyện ủy,UBND; xác
nhận hướng dẫn quy trình làm thủ tục, hồ sơ cho các đối tượng chính sách hưởng
chế độ ưu đãi. Thực tế cho thấy, muốn hoàn thành tốt công việc được giao thì đội
ngũ cán bộ cần phải có phẩm chất đạo đức trong sang, có bản lĩnh chính trị vững
vàng, có tinh thầm trách nhiệm cao đối với công việc. Hơn nữa đội ngũ cán bộ
cũng cần nắm vững chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, có năng lực
chuyên môn tốt để giải quyết các công việc. Trước yêu cầu thực tế đó Đảng bộ
huyện Phú Bình cần có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ
cán bộ. Hình thức đào tạo, bồi dưỡng có thể là cử đi học các lớp đào tạo dài hạn,
mở các lớp huấn luyện, thăm quan học tập những đơn vị điển hình về thực hiện
công tác ưu đãi người có công trên địa bàn Tỉnh Thái Nguyên. Đặc biệt phải quan
101
tâm rèn luyện kỹ năng giao tiếp, kỹ năng xử lý tình huống trong quá trình giải
quyết công việc. Trong quá tình tuyển chọn cần có chiến lược lâu dài, từ khâu
tuyển chọn sắp xếp vị trí cán bộ khi giao nhiệm vụ công tác, cần chủ ý tuyển chọn
những người có chuyên môn, nghiệp vụ, có sức khỏe tốt, nhiệt tình với công việc
có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới.
*
* *
Qúa trình thực hiện chính sách ưu đãi người có công của huyện Phú Bình
dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Phú Bình từ năm 2006 đến năm 2014 đã
đạt được những kết quả có ý nghĩa quan trọng trong sự phát triển của huyện.
Các kết quả trên đã góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đối
tượng người có công nói riêng và toàn thể nhân dân trong huyện nói chung.
Đồng thời có tác dụng ổn định xã hội tạo môi trường thuận lợi cho phát triển
kinh tế của huyện. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Phú Bình công tác
thực hiện chính sách ưu đãi người có công đã huy động sự quan tâm, phối hợp
của các ban ngành đoàn thể trong việc thực hiện chính sách ưu đãi người có
công.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm đã đạt được trong công tác lãnh đạo
thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM của Đảng bộ huyện Phú Bình vẫn còn
một số hạn chế thiếu sót cần được khắc phục. Từ thực tiễn công tác chỉ đạo, tổ
chức thực hiện chính sách ưu đãi người có công Đảng bộ huyện Phú Bình đã
rút ra một số kinh nghiệm để làm tốt hơn các chính sách ưu đãi chăm sóc
người có công trong giai đoạn tới. Trong giai đoạn tiếp theo dưới sự lãnh đạo
của Đảng bộ huyện Phú Bình công tác thực hiện chính sách ưu đãi người có
công sẽ giải quyết, khắc phục những tồn đọng cũ đồng thời hoàn thành tốt
những nhiệm vụ mới góp phần tạ ra chuyển biến mới trong sự phát triển của
huyện.
102
KẾT LUẬN
Chính sách ưu đãi NCCVCM là một bộ phận quan trọng trong chính sách
xã hội góp phần ổn định xã hội. Mục đích của chính sách ưu đãi người có công
nhằm xoa dịu đi những đau thương mất mát của đối tượng thương binh, liệt sĩ,
mẹ Việt Nam anh hùng, những NCCVCM. Đồng thời, thể hiện tấm lòng biết
ơn, kính trọng đối với những người đã hy sinh xương máu của mình để bảo vệ
quê hương đất nước. Qua việc thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM để giáo
dục truyền thống uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây đến thế hệ trẻ
hôm nay và mai sau tiếp bước cha ông của mình trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
Chính sách ưu đãi NCCVCM là một hệ thống chính sách và pháp luật
khá rõ ràng về quy định các chế độ trợ cấp, chăm sóc sức khỏe, ưu đãi nhà ở,
tạo công ăn việc làm ….cho các thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ, bà mẹ
Việt Nam anh hùng, người nhiễm chất độc hóa học và các đối tượng khác. Hệ
thống chính sách này đã được thực hiện khá hiệu quả và thiết thực trong đời
sống xã hội. Điều này được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (4/2006) đánh
giá kết quả khái quát và nêu phương hướng nhiệm vụ phát triển. Việc chăm sóc
người có công với cách mạng và trợ giúp những người có đời sống khó khăn
được duy trì và mở rộng, đi đôi với việc mở rộng diện được hưởng chính sách
trợ giúp của nhà nước. Phong trào đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn đã
được các cấp các ngành, tổ chức triển khai có hiệu quả và huy động được đông
đảo sự tham gia của nhân dân. Chính sách ưu đãi NCCVCM tiếp tục được
nhấn mạnh tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (01/2011) trong mục tiêu
thực hiện có hiệu quả công bằng tiến bộ xã hội, bảo đảm an sinh xã hội trong
từng bước và trong từng chính sách phát triển. Huy động mọi nguồn lực xã hội
cùng với Nhà nước chăm lo tốt hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của
những người có công và thân nhân của họ. Đồng thời giải quyết dứt điểm các
103
tồn đọng về chính sách người có công, đặc biệt là người tham gia hoạt động bí
mật, lực lượng vũ trang, thanh niên xung phong trong các thời kỳ cách mạng
và kháng chiến. Tạo điều kiện, khuyến khích người và gia đình có công tích
cực tham gia phát triển kinh tế để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, có mức
sống cao hơn mức sống trung bình của dân cư tại địa bàn.
Như vậy quan điểm, chủ trương, chính sách ưu đãi cho NCCVCM của
Đảng được nhấn mạnh liên tục là cơ sở tiên quyết để Đảng bộ huyện Phú Bình
và nhân dân các huyện khác trong tỉnh Thái Nguyên vận dụng và đề ra chủ
trương, giải pháp thực hiện chính sách ưu đãi NCCVCM phù hợp với địa
phương.
Phú Bình là một huyện thuần nông, nằm ở vị trí trọng yếu trong kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thái nguyên và trung du miền núi
Bắc Bộ. Trong những năm qua, kinh tế của huyện có nhiều bước tiến bộ vượt
bậc. Các khu công nghiệp mới xây dựng, thu hút hàng ngàn công nhân là
người dân địa phương và các vùng lân cận đến làm việc góp phần giải quyết
việc làm cho người dân trong số đó có một bộ phận lớn là con em của các đối
tượng người có công, đời sống của người dân từng bước được nâng cao.
Đặc biệt, với đặc điểm là một huyện có số lượng đối tượng NCCVCM
được hưởng chính sách ưu đãi cao của tỉnh Thái Nguyên, huyện Phú Bình đã
có chủ trương kế hoạch dựa trên cơ sở quan điểm của Đảng và Nghị quyết của
Tỉnh ủy Thái Nguyên đưa ra.
Với việc thực hiện nghiêm túc các chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước Đảng bộ huyện Phú Bình đã tổ chức chỉ đạo các ban ngành, đoàn
thể, cán bộ trực tiếp làm công tác thực hiện chính sách ưu đãi người có công
trên địa bàn huyện đảm bảo thực hiện đúng đối tượng, chính xác, đầy đủ quyền
lợi cho các đối tượng người có công trên địa bàn huyện. Nhờ vậy, các chính
sách ưu đãi về trợ cấp, phụ cấp được thực hiện rõ ràng, kịp thời, bảo đảm đúng
104
đối tượng, hạn chế thấp nhất những sai xót trong quá trình thực hiện. Mức sinh
hoạt chung của đại bộ phận đối tượng người có công được nâng lên do có sự
điều chỉnh tăng mức trợ cấp, phụ cấp.
Chế độ chăm sóc sức khỏe gồm chế độ điều dưỡng và chế độ bảo hiểm y
tế đều đạt chỉ tiêu kế hoạch hàng năm. 100% số lượng người có công và thân
nhân hưởng chính sách khám chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế tại bệnh viện đa
khoa huyện. Các đối tượng tham gia điều dưỡng tại các trung tâm đều đánh giá
thái độ phục vụ tốt, đảm bảo khẩu phần ăn cũng như được tham quan, nghỉ
ngơi, khám sức khỏe và được chăm sóc tận tình chu đáo.
Chế độ ưu đãi nhà ở được thực hiện có hiệu quả. Đến hết 2014, toàn
huyện phấn đấu không còn đối tượng người có công phải sống trong những căn
nhà dột nát. Các đối tượng thương bệnh binh, người nhiễm chất độc hóa học
được an cư lạc nghiệp. Nhiều bà mẹ Việt Nam anh hùng được vui vẻ, an hưởng
tuổi già.Chính sách hỗ trợ nhà ở thiết thực góp phần nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần cho người có công của huyện.
Cùng với việc thực hiện tốt một số chính sách tiêu biểu như trên, Đảng
bộ huyện Phú Bình tổ chức nhiều hình thức phong phú phối hợp giữa các cấp
Đảng, chính quyền, các ban ngành đoàn thể và toàn bộ nhân dân các dân tộc
trong huyện, Đảng bộ huyện Phú Bình đã phát huy được truyền thống uống
nước nhớ nguồn ăn quả nhớ kẻ trồng cây, vận động và thu hút được các nguồn
lực trong huyện tham gia. Khơi dậy truyền thống tình làng nghĩa xóm, lá lành
đùm lá rách với những NCCVCM ổn định và phát triển cuộc sống. Các phong
trào toàn dân chăm sóc người có công, phong trào đền ơn đáp nghĩa đã tạo
được nguồn lực tại chỗ để giúp đỡ NCCVCM. Nó vừa mang tính xã hội vừa
mang tính giáo dục, không chỉ thể hiện tình cảm mà còn thể hiện trách nhiệm
của cộng đồng dân tộc với đạo lý uống nước nhớ nguồn. Sự chung tay góp sức
của chính quyền và nhân dân huyện Phú Bình góp phần ổn định nâng và nâng
105
cao đời sống vật chất và tinh thần cho thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ,
NCCVCM trong địa bàn huyện.
Qua 8 năm thực hiện (2006 - 2014) các chủ trương, biện pháp chỉ đạo được
cụ thể hóa bằng 2 nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ lần thứ XXIII nhiệm kỳ 2005- 2010
và Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXIV nhiệm kỳ 2011 - 2015 công tác thực
hiện chính sách ưu đãi NCCVCM đã thu được nhiểu thành tựu bước đầu có ý
nghĩa to lớn trong việc thực hiện thắng lợi mục tiêu chính trị chung của huyện.
Nâng cao nhận thức mới, tầm quan trọng của các chính sách ưu đãi NCC với cách
mạng trong các cấp, ban ngành và toàn thể nhân dân của huyện.
Tuy nhiên bên cạnh đó vần còn mắc phải một số hạn chế, thiếu xót cũng
cần phải được khắc phục, rút kinh nghiệm để công tác thực hiện chính sách ưu
đãi người có công với cách mạng được thực hiện có hiệu quả.
Thực tế nghiên cứu quá trình Đảng bộ Huyện Phú Bình thực hiện chính
sách ưu đãi người có công với cách mạng (2006 - 2014) có thể rút ra một số
kinh nghiệm có ý nghĩa, đồng thời cũng là định hướng phát triển trong công
tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ huyện trong những năm tiếp theo.
106
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban bí thư Trung ương Đảng (2007), Chỉ thị số 07/CT-TW về tăng cường
lãnh đạo chỉ đạo đối với công tác thương binh - liệt sỹ, người có công và
phong trào đền ơn đáp nghĩa.
2. Ban chấp hành Đảng bộ huyện Phú Bình (2005), Lịch sử Đảng bộ huyện
Phú Bình, Huyện uỷ Phú Bình xuất bản.
3. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2002), Hệ thống các văn bản pháp
luật hiện hành về chính sách với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và
người có công, Nxb Lao Động - Xã hội, Hà Nội.
4. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2005), Nghị định 147/2005/NĐ-CP
về việc quy định mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi với người có công với cách
mạng.
5. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2006), Thông tư số 07/2006/TT-
BLĐTBXH về hướng dẫn hồ sơ, lập hồ sơ thực hiện chế độ ưu đãi người có
công với cách mạng.
6. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2008), Nghị định 38/2008/NĐ-CP
về việc quy định mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi với người có công với cách
mạng.
7. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2011), Nghị định 52/20011/NĐ-CP
về việc quy định mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi với người có công với cách
mạng.
8. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2012), Thực hiện chính sách ưu đãi
người có công với cách mạng, Nxb Lao Động - Xã hội, Hà Nội.
9. Bộ Lao động - Thương binh Xã hội (2010), Thông tư liên tịch số 25/2010/BLĐTBXH-
BTC-BYT của Liên Bộ Tài chính, Bộ Y tế, Bộ LĐTBXH ngày 11/09/2010 về hướng dẫn
chế độ chăm sóc sức khỏe đối với người có công với cách mạng.
10. Phạm Thị Hải Chuyền (2012), Hoạt động đền ơn đáp nghĩa 65 năm nhìn
107
lại, tạp chí nghiên cứu lịch sử Đảng, Số 5 , tr.13-17.
11. Cục người có công (2009), Tài liệu hướng dẫn thực hiện chế độ ưu đãi
người có công với cách mạng (tài liệu lưu hành nội bộ), Hà Nội.
12. Đảng cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
13. Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
14. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Báo cáo ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa IX về phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn
2006 - 2010.
15. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 47, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
16. Đảng cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 51, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
17. Đảng cộng sản Việt Nam (2010), Báo cáo ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI giai đoạn 2011- 2015.
18. Di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh (1968).
19. Phạm Tiến Giang (2012), Hỏi đáp pháp luật về chính sách xã hội đối với
người có công với cách mạng, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
20. Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 (1993), Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
21. Nguyễn Thị Thu Hoài (2013), Chủ trương chính sách của Đảng và Nhà
nước Việt Nam đối với thương binh, liệt sỹ người có công với cách mạng từ
năm 1991 đến năm 2010, Luận văn Thạc sỹ Lịch sử, Hà Nội.
22. Hội đồng nhân dân Tỉnh Thái Nguyên, Nghị quyết số 03/HĐND ngày
13/12/2012 về phê duyệt đề án chính sách hỗ trợ cho gia đình có công khó
khăn nhà ở tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2012- 2015.
108
23. Huyện ủy Phú Bình (2005), Nghị quyết 05 - NQ/HU hội nghị lần thứ mười
bốn ban chấp hành đảng bộ huyện khóa XXIII về nhiệm vụ mục tiêu năm
2006.
24. Huyện ủy Phú Bình (2005), Nghị quyết đại hội đại biểu đảng bộ lần thứ
XXIII nhiệm kỳ 2005 – 2010.
25. Huyện uỷ Phú Bình (2006), Chỉ thị số 05 - CT/HU của Ban thường vụ
Huyện uỷ ngày 26/5/2006 về việc lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện theo
nghị quyết số 290/2005/QĐ-TTG của thủ tướng chính phủ về chế độ chính
sách đối với một số đối tượng trực tiếp tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu
nước nhưng chưa được hưởng chế độ chính sách của nhà nước.
26. Huyện uỷ Phú Bình (2006), Chỉ thị số 05 ngày 26/8/2006 của ban thường
vụ Huyện ủy về việc lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện nghị định
54/2006/CP về hướng dẫn thi hành pháp lệnh ưu đãi người có công với
cách mạng.
27. Huyện uỷ Phú Bình (2006), Chỉ thị về việc thực hiện pháp lệnh ưu đãi
người hoạt động cách mạng, liệt sĩ, gia đình liệt sĩ ,thương binh, bệnh binh,
người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng.
28. Huyện ủy Phú Bính (2009), Chỉ thị số 20/CT-HU ngày 9/5/2009 về việc
tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác thương binh, liệt sỹ,
người có công với cách mạng và phong trào đền ơn đáp nghĩa.
29. Huyện ủy Phú Bình (2009), Quyết định số 16/2009/QĐ-UBND về việc
miễn, giảm thuế sử dụng đất ở cho người có công trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên.
30. Huyện ủy Phú Bình (2010), Báo cáo của ban chấp hành đảng bộ huyện về
kết quả thực hiện nhiệm vụ năm 2012.
31. Huyện ủy Phú Bình (2010), Báo cáo của ban chấp hành đảng bộ huyện
khóa XXIII trình đại hội đại biểu đảng bộ lần thứ XXIV nhiệm kỳ 2010 -
109
2015
32. Huyện ủy Phú Bình (2010), Nghị quyết đại hội đại biểu đảng bộ lần thứ
XXIV nhiệm kỳ 2010 – 2015.
33. Nguyễn Đình Liêu (1996), Pháp luật ưu đãi người có công ở Việt Nam lý
luận và thực tiễn, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
34. Nguyễn Đình Liêu (2000), Một số suy nghĩ về hoàn thiện pháp luật ưu đãi
người có công, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
35. Nguyễn Thành Long (2007), Tìm hiểu pháp lệnh ưu đãi người có công với
cách mạng, Nxb Lao động, Hà Nội.
36. Vũ Hữu Luận (2010), Nâng cao hiệu quả công tác thương binh, liệt sỹ,
chính sách hậu phương quân đội , Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 7, tr.7-
11.
37. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
38. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
39. Phạm Quang Nghị (2007), Hà Nội làm tốt hơn nữa công tác thương binh,
gia đình liệt sỹ, người có công, Tạp chí công sản, số 7 , tr. 14 – 18.
40. Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội (2013), Tổng hợp báo cáo số
lượng người có công hưởng chế độ điều dưỡng năm 2013.
41. Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện Phú Bình (2005), Báo cáo
kết quả công tác Lao động- Thương binh và Xã hội.
42. Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện Phú Bình (2006), Báo cáo
kết quả công tác quý I, phương hướng nhiệm vụ trọng tâm quý II.
43. Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện Phú Bình (2006), Báo cáo
kết quả công tác Lao động - Thương binh và Xã hội.
44. Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện Phú Bình (2008), Báo cáo
kết quả chăm sóc người có công.
45. Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện Phú Bình (2009), Báo cáo
110
kết quả tình hình chi trả trợ cấp, phụ cấp tháng 11 năm 2009.
46. Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện Phú Bình (2009), Báo cáo
về công tác thương binh liệt sĩ người có công.
47. Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện Phú Bình (2010), Báo cáo
kết quả công tác Lao động - Thương binh và Xã hội.
48. Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện Phú Bình (2010), Công
văn số 1709- LĐTBXH – NCC ngày 24/10/2010 về việc hướng dẫn thực
hiện thông tư liên tịch số 25/2010/BLĐTBXH-BTC-BYT.
49. Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện Phú Bình (2011), Báo cáo
kết quả công tác thương binh, liệt sỹ, người có công.
50. Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện Phú Bình (2011), Báo cáo
chi trả trợ cấp hàng tháng.
51. Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội Huyện Phú Bình (2012), Báo cáo
chi trả trợ cấp hàng tháng.
52. Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện Phú Bình (2012), Báo cáo
kết quả công tác Lao động - Thương binh và Xã hội.
53. Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện Phú Bình (2013), Tổng
hợp báo cáo công tác đền ơn đáp nghĩa giai đoạn 2008 – 2013.
54. Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện Phú Bình (2014), Báo cáo
kết quả công tác thương binh, liệt sỹ, người có công.
55. Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện Phú Bình (2014), Công
văn 1558-LĐTBXH-NCC ngày 7/8/2014 về thực hiện chế độ điều dưỡng
NCC theo thông tư liên tịch số 25/2010/TTLT-BLĐTBXH-BTC.
56. Nguyễn Hiền Phương (2010), Pháp luật an sinh xã hội những vấn đề lý
luận và thực tiễn, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
57. Sở Lao động - Thương Binh và Xã hội Tỉnh Thái Nguyên (2011), Quyết
định số 65/QĐ-CTN ngày 28/6/2011 về viêc tặng quả nhân dịp kỷ niệm
111
ngày thương binh liệt sĩ.
58. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Thái Nguyên (2012), Quyết
định về việc điều dưỡng người có công.
59. Sở Lao động - Thương Binh và Xã hội Tỉnh Thái Nguyên (2012), Quyết
định số 06/QĐ-LĐTBXH ngày 17/07/2012 về việc điều dưỡng người có
công.
60. Hà Huy Sơn (2013), Thực hiện chính sách đãi ngộ vật chất đối với người có
công với cách mạng ở huyện Thanh Hà, tỉnh Hà Tĩnh, Luận văn Thạc sỹ
Kinh doanh và Quản lý, Hà Nội.
61. Nguyễn Thị Thanh (2012), 65 năm thực hiện chính sách ưu đãi người có
công với cách mạng, Tạp chí nghiên cứu lịch sử Đảng, số7, tr.18-23.
62. Phạm Thị Thanh (2012), 65 năm thực hiện chính sách ưu đãi người có
công, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 7, tr.18-24.
63. Thanh Phùng Quang Thanh (2007), Quân đội nhân dân phấn đấu thực hiện
tốt hơn nữa công tác thương binh liệt sỹ, chính sách hậu phương quân đội,
Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 7, tr. 3-8.
64. Thủ tướng Chính phủ (2006), Nghị định số 54/2006/NĐ-CP ngày 26/5/2006
về hướng dẫn thi hành một số điều ưu đãi người có công với cách mạng.
65. Thủ tướng Chính phủ (2006), Quy định số 150/2006/NĐ-CP về hướng dẫn
thi hành pháp lệnh cựu chiến binh.
66. Thủ tướng Chính phủ (2007), Quyết định 117/2007/QĐ-TTG về việc hỗ trợ
người có công với cách mạng cải thiện nhà ở.
67. Thủ tướng Chính phủ (2008), Nghị định số 89/2008/NĐ-CP về hướng dẫn
thi hành pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh ưu đãi
người có công với cách mạng.
68. Tỉnh ủy Thái Nguyên (2005), Báo cáo chính trị tại đại hội đảng bộ tỉnh lần
thứ XVI nhiệm kỳ 2005 - 2010.
112
69. Tỉnh ủy Thái Nguyên (2008), Nghị quyết số 09-NQ/TU ngày 11/12/2008 về
mục tiêu nhiệm vụ năm 2008.
70. Tỉnh ủy Thái Nguyên (2010), Báo cáo chính trị tại đại hội đảng bộ tỉnh lần
thứ XVII nhiệm kỳ 2010 - 2015.
71. Lương Đức Tuấn (2006), Hệ thống các văn bản mới nhất về tiền lương, bảo
hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công với cách mạng, Nxb Tư pháp,
Hà Nội.
72. Ủy ban nhân dân Huyện Phú Bình (2006), Quyết định số 1739/QĐ ngày
1/09/2006 về việc thành lập ban chỉ đạo thực hiện Pháp lệnh ưu đãi Người
có công với cách mạng ở huyện Phú Bình.
73. Ủy ban nhân dân Huyện Phú Bình (2010), Báo cáo kế hoạch phát triển kinh
tế- xã hội 5 năm 2011- 2015.
74. Ủy ban nhân dân huyện Phú Bình (2011), Kế hoạch số 1699/UBND ngày
13/06/2011 về kỷ niệm ngày thương binh liệt sỹ.
75. Ủy ban nhân dân huyện Phú Bình (2012), Công văn số 354-CV/HU ngày
3/7/2012 về việc thực hiện chế độ chính sách với cựu thanh niên xung
phong tham gia kháng chiến.
76. Ủy ban nhân dân Huyện Phú Bình (2012), Kế hoạch số 13/KH-UBND ngày 3/3/2012 về
việc hoạt động kỷ niệm 65 năm ngày thương binh liệt sĩ (27/07/1947- 27/7/2012).
77. Ủy ban nhân dân huyện Phú Bình (2012), Tổng hợp báo cáo công tác
phong trào đền ơn đáp nghĩa 2008 - 2012.
78. Ủy ban nhân dân huyện Phú Bình (2013), Báo cáo số 81/BC-UBND ngày
28 tháng 8 năm 2013 của UBND huyện Phú Bình về tổng hợp số liệu người
có công với cách mạng đề nghị hỗ trợ nhà ở theo quyết định 22/2013/QĐ-
TTg.
79. Uỷ ban nhân dân huyện Phú Bình (2013), Đề án triển khai thực hiện quyết
định số 22/2013/QD-TTg ngày 26/04/2013 của thủ tướng chính phủ về hỗ
113
trợ người có công với cách mạng về nhà ở trên địa bàn huyện Phú Bình.
80. Uỷ ban nhân dân huyện Phú Bình (2013), Quy chế số 314/QC-UBND ngày
21 tháng 10 năm 2013 về hoạt động của ban chỉ đạo thực hiện pháp lệnh
ưu đãi người có công với cách mạng ở huyện Phú Bình.
81. Uỷ ban nhân dân huyện Phú Bình (2013), Quyết định số 15/QĐ-UBND ngày
23/08/2013 về việc triển khai thực hiện pháp lệnh số 04/2012/PL-UBTVQH
về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của pháp lệnh ưu đãi người có công với
cách mạng trên địa bàn huyện Phú Bình.
82. Uỷ ban nhân dân huyện Phú Bình (2013), Quyết định số 1785/QĐ-UBND
ngày 11/05/2013 về việc chấn chỉnh công tác chi trả trợ cấp ưu đãi người
có công với cách mạng.
83. Ủy ban nhân dân huyện Phú Bình (2013), Quyết định số 3905/QĐ-UBND
huyện về việc phê duyệt đề án triển khai thực hiện quyết định số
22/2013/QD-TTg ngày 26/04/2013 của thủ tướng chính phủ, hỗ trợ người
có công với cách mạng về nhà ở trên địa bàn huyện Phú Bình.
84. Uỷ ban nhân dân huyện Phú Bình (2014), Công văn số 1558-LĐTBXH-
NCC ngày 7/08/2014 về hướng dẫn thực hiện thông tư liên tịch số
13/2014/TTLT-BLĐTBXH-BTC.
85. Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên (2006), Báo cáo số 116/BC-UBND ngày
23/11/2006 về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2005 – 2010.
86. Ủy ban nhân dân Tỉnh Thái Nguyên (2007), Chỉ thị số 13/CT-UBND về
việc đẩy mạnh công tác thương binh liệt sỹ người có công với cách mạng và
phong trào đền ơn đáp nghĩa thiết thực kỷ niệm 60 năm ngày thương binh
liệt sỹ 27/07/1947-27/07/2007.
87. Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên (2012), Chỉ thị số 14/CT-UBND ngày
23/08/2012 tiếp tục đẩy mạnh công tác thương binh, liệt sỹ, NCCVCM và
hoạt động kỷ niệm 65 năm ngày thương binh, liệt sỹ (27/07/1947-
114
27/07/2012).
88. Uỷ ban thường vụ quốc hội (1994), Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách
mạng, liệt sỹ và gia đình liệt sỹ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động
kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng.
89. Ủy ban thường vụ Quốc hội (1994), Quy định danh hiệu vinh dự nhà nước
Bà mẹ Việt Nam anh hùng.
90. Uỷ ban thường vụ quốc hội (2005), Pháp lệnh số 26/2005/PL-UBTVQH
ngày 29/6/2005 về ưu đãi người có công với cách mạng.
91. Uỷ ban thường vụ quốc hội (2007), Pháp lệnh số 35/2007/PL-UBTVQH11
về sửa đổi bổ sung một số điều của pháp lệnh ưu đãi người có công với
cách mạng.
92. Nguyễn Đăng Vinh - Lê Ngọc Tú (2003), Uống nước nhớ nguồn - những
điều cần biết về chính sách thương binh liệt sĩ và người có công, Nxb Lao
động.
93. Phạm Thị Xuân (2006), Đảng bộ thành phố Hải Phòng lãnh đạo thực hiện
chính sách thương binh, liệt sỹ, người có công với cách mạng từ năm 1995
đến năm 2005, Luận văn Thạc sỹ Lịch sử, Hà Nội.
115