ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ***********
TRẦN THỊ THU HẰNG
ĐẢNG BỘ THỊ XÃ SƠN TÂY (TỈNH HÀ TÂY)
LÃNH ĐẠO KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
(1996- 2008)
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60.22.03.15
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. LÊ MẬU HÃN
Hà Nội – 2014
LỜI CẢM ƠN
Luận văn tốt nghiệp cao học được hoàn thành tại Đại học Khoa học xã hội
và Nhân văn- Đại học Quốc gia Hà Nội. Có được bản luận văn tốt nghiệp này,
cùng với sự nỗ lực của bản thân. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo
đã tận tình hướng dẫn, giảng dạy trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và
rèn luyện ở Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn- Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới PGS.Lê Mậu Hãn
người thầy đã trực tiếp hướng dẫn, dìu dắt, giúp đỡ và chỉ bảo những kiến
thức về chuyên môn thiết thực, những chỉ dẫn khoa học quí báu trong suốt
quá trình triển khai, nghiên cứu và hoàn thành đề tài “Đảng bộ Thị xã Sơn
Tây (Hà Tây) lãnh đạo kinh tế nông nghiệp giai đoạn 1996- 2008”.
Xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Thị ủy Sơn Tây, Phòng Thống kê Thị xã Sơn
Tây, Phòng Kinh tế Thị xã Sơn Tây….và các cơ quan liên quan, các cá nhân
đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp tôi thu thập số liệu cũng như những tài
liệu cần thiết liên quan tới đề tài.
Cuối cùng, một lần nữa một lần nữa xin chân thành cảm ơn các thầy, cô
giáo, các đơn vị và cá nhân đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện
luận văn tốt nghiệp này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 16 tháng 12 năm 2014
Học viên
Trần Thị Thu Hằng
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng
dẫn của PGS. Lê Mậu Hãn và chưa được bảo vệ bất cứ một học vị nào.
Những thông tin, số liệu trong luận văn đảm bảo tính chính xác, trung thực,
có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày 20 tháng 12 năm 2014
Học viên
Trần Thị Thu Hằng
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu ................................................................................. 4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................... 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................... 7
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ............................................. 8
6. Đóng góp của luận văn ........................................................................... 9
7. Kết cấu của luận văn ............................................................................... 9
Chƣơng 1: ĐẢNG BỘ THỊ XÃ SƠN TÂY LÃNH ĐẠO KINH TẾ NÔNG
NGHIỆP (1996- 2000) ................................................................................ 10
1.1 Khái quát điều kiện tự nhiên- kinh tế xã hội của Thị xã Sơn Tây . 10
1.1.1 Khái quát điều kiện tự nhiên ........................................................ 10
1.1.2 Điều kiện kinh tế xã hội ............................................................... 17
1.2 Tình hình kinh tế nông nghiệp của Thị xã Sơn Tây trƣớc năm 1996 ..... 23
1.3 Đảng bộ Thị xã Sơn Tây lãnh đạo, chỉ đạo kinh tế nông nghiệp từ
năm 1996 đến năm 2000 ......................................................................... 32
1.3.1 Đường lối đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng
Cộng sản Việt Nam và chủ trương của Đảng bộ Tỉnh Hà Tây .............. 32
1.3.2 Quá trình lãnh đạo thực hiện phát triển kinh tế nông nghiệp của
Đảng bộ Thị xã Sơn Tây (1996- 2000) .................................................. 44
Chƣơng 2: ĐẢNG BỘ THỊ XÃ SƠN TÂY LÃNH ĐẠO KINH TẾ NÔNG
NGHIỆP (2001- 2008) ................................................................................ 58
2.1 Đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng bộ
Tỉnh Hà Tây về phát triển kinh tế nông nghiệp .................................... 58
2.1.1 Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam ..................................... 58
2.1.2 Chủ trương của Đảng bộ Tỉnh Hà Tây......................................... 64
2.2 Quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện phát triển kinh tế nông
nghiệp của Thị xã Sơn Tây (2001- 1008) ............................................... 68
2.2.1 Chủ trương của Đảng bộ Thị xã Sơn Tây ..................................... 68
2.2.2 Quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng
CNH, HĐH ........................................................................................... 72
CHƢƠNG 3: NHẬN XÉT CHUNG VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM CHỦ YẾU . 93
3.1 Một số nhận xét................................................................................. 93
3.1.1 Thành tựu .................................................................................... 93
3.1.2 Hạn chế ..................................................................................... 104
3.2 Bài học kinh nghiệm ....................................................................... 107
3.2.1 Nghiêm túc, vận dụng đúng đắn, sáng tạo, kịp thời các quan điểm
chủ trương, đường lối của Trung ương Đảng và của Tỉnh ủy Hà Tây,
trên cơ sở nắm chắc tình hình của Thị xã, hợp với lòng dân và được nhân dân
hưởng ứng............................................................................................ 107
3.2.2 Đẩy mạnh việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, chọn, tạo
giống cây con phù hợp với từng vùng sinh thái ................................... 109
3.2.3 Phát huy ý thức tự lực, tự cường, sáng tạo, huy động sức dân, dựa
vào dân để tiến hành CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. ................. 110
3.2.4 Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng ở nông thôn để đáp ứng yêu
cầu phát triển nông nghiệp. ................................................................ 112
KẾT LUẬN ............................................................................................... 114
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 117
PHỤ LỤC.................................................................................................. 125
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
STT Chữ viết tắt Viết đủ
1 BCH Ban Chấp hành
CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa 2
Đảng Cộng sản Việt Nam 3 ĐCSVN
4 HĐND Hội đồng nhân dân
5 HTX Hợp tác xã
6 KHCN Khoa học công nghệ
7 Nxb Nhà xuất bản
8 TW Trung ương
9 UBND Ủy ban nhân dân
10 XHCN Xã hội chủ nghĩa
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam hình thành và phát triển từ một nền văn minh nông nghiệp
lúa nước cổ truyền. Là một quốc gia có truyền thống nông nghiệp từ hàng
ngàn năm nay, đại bộ phận dân cư sinh sống ở khu vực nông thôn. Một quốc
gia với nền văn minh nông nghiệp đặc trưng. Vì vậy nông nghiệp luôn được
coi là mặt trận kinh tế hàng đầu và được ưu tiên phát triển. Nông nghiệp và
nông thôn là những yếu tố đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh
tế, xây dựng đất nước.
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nước ta đi lên chủ nghĩa
xã hội từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, sản xuất nông nghiệp là chủ
yếu. Để có nền kinh tế phát triển cao, cơ sở vất chất kỹ thuật tiên tiến và hiện
đại, Đảng ta khẳng định tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quy luật
khách quan và yêu cầu cấp bách của sự nghiệp cách mạng. Song, vấn đề cơ
bản quyết định cho thành công là xác định bước đi đúng đắn và phù hợp. Với
nguồn lao động dồi dào, tiềm năng trong nông nghiệp, nông thôn và nông dân
còn rất lớn. Đây là điều kiện có sẵn, là lợi thế cơ bản của đất nước cần được
khơi dậy và phát huy, thúc đẩy sản xuất phát triển. Đảng và Nhà nước ta nhất
quán khẳng định, nông nghiệp- nông dân- nông thôn giữ vị trí chiến lược cả
trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Bởi vậy, tại Đại hội lần thứ VIII (1996) Đảng ta chủ trương “coi trọng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong nông nghiệp, nông thôn” [31; 442] và “phát
triển nông nghiệp toàn diện hướng vào đảm bảo an ninh lương thực quốc gia
trong mọi tình huống” [31; 498] và đồng thời thực hiện “chuyển dịch cơ cấu
nông nghiệp và kinh tế nông nghiệp có hiệu quả” [31; 498].
Đến Đại hội lần thứ X Đảng ta xác định “Hiện nay và trong nhiều năm
tới, vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn vẫn có tầm chiến lược đặc
1
biệt quan trọng. Phải luôn luôn coi trọng, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, đa dạng, phát triển nhanh và bền vững, có năng xuất, chất lượng và khả
năng cạnh tranh cao, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực và tạo điều kiện
từng bước hình thành nên nông nghiệp sạch” [33].
Với một đất nước có gần 80% dân số là nông dân và sản phẩm nông
nghiệp vẫn chiếm gần 40% GDP thì nông nghiệp được coi là một cơ sở quan
trọng cho sự phát triển kinh tế của đất nước. Thực tế trong những năm qua
cũng như suốt chiều dài của lịch sử cho thấy tầm quan trọng của nền nông
nghiệp và nông thôn Việt Nam. Nông nghiệp sản xuất ra nông sản thiết yếu để
duy trì cuộc sống của đại bộ phận dân cư, đồng thời cung cấp nguyên liệu cho
công nghiệp và hàng hóa để xuất khẩu; còn nông thôn là nơi cung cấp nguồn
lao động chủ yếu cho các ngành kinh tế quốc dân. Phát triển nông nghiệp và
kinh tế nông thôn không chỉ tạo ra nguồn thu nhập cho đại bộ phận dân cư,
mà còn góp phần thúc đẩy quá trình CNH, HĐH đất nước. Đặc biệt, đối với
một nước đi lên từ nông nghiệp như Việt Nam thì phát triển nông nghiệp và
nông thôn còn là cơ sở quan trọng để đảm bảo ổn định chính trị xã hội. phát
triển kinh tế bền vững và tăng cường quốc phòng an ninh.
Thị xã Sơn Tây là một vùng đất cổ, “địa linh nhân kiệt”, là trung tâm
văn hóa xứ Đoài, có bề dày lịch sử và chiều sâu văn hóa, mang đậm bản sắc
vùng và dấu ăn văn hóa truyền thống dân tộc, là nơi trưởng thành cùng với
tiến trình phát triển của lịch sử đất nước và của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thị
xã Sơn Tây là trung tâm hành chính, chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội của
Tỉnh Sơn Tây trước đây, với tổng diện tích là 113,46 ha, dân số khoảng 18
vạn người (không kể lực lượng quân đội và học sinh, sinh viên đang theo học
ở các trường Đại học, Cao đẳng và trung cấp trên địa bàn), trong đó có 60,5%
số người sống ở khu vực nông thôn. Diện tích sản xuất nông nghiệp có
5.059,8 ha với lực lượng lao động nông nghiệp 21.686 người, chiếm 34,42%
2
lực lượng lao động toàn Thị xã. Đây là nơi được coi là trung tâm kinh tế, văn
hóa khu vực Tây Bắc của tỉnh Hà Tây trước đây và nay là thủ đô Hà Nội.
Thị xã Sơn Tây thuộc vùng trung du, trong đó 3/4 là diện tích đồi gò,
nối liền với vùng núi huyện Ba Vì, trải dài thoai thoải từ Tây Bắc đến Đông
Nam khu vực phụ cận núi Tản Viên đến sông Tích là đất đồi gò, khu vực từ
nội thị đến đê sông Hồng là vùng đồng bằng tương đối màu mỡ do thường
xuyên được phù xa bồi đắp, ở đây nổi lên những quả đồi cao, thấp xen kẽ
nhau tạo ra những đường đi uốn lượn được hình thành một cách tự nhiên.
Với vị trí chiến lược, Thị xã Sơn Tây có điều kiện thuận lợi cho việc
mở mang, phát triển kinh tế như: phát triển kinh tế công thương nghiệp, đẩy
mạnh phát triển thương mại, du lịch, dịch vụ, đầu tư cơ sở hạ tầng đô thị.
Với tình hình trên, Đảng bộ Thị xã Sơn Tây đã nỗ lực và sáng suốt lãnh
đạo phát triển kinh tế, trọng tâm là phát triển nông nghiệp nhằm ổn định tình
hình kinh tế trong giai đoạn đầu đổi mới, và tiếp tục lãnh đạo quá trình phát
triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Nhờ đó
từng bước ổn định tình hình kinh tế xã hội và phát triển kinh tế nông nghiệp,
nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tìm hiểu quá trình Đảng bộ Thị xã Sơn Tây lãnh đạo kinh tế nông
nghiệp theo hướng CNH, HĐH là một trong những vấn đề có ý nghĩa rất quan
trọng, nhằm tổng kết lại sự lãnh đạo của Đảng bộ Thị xã trong việc vận dụng
chủ trương, chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước vào thực tiễn
địa phương. Qua đó, đánh giá những thành tựu, hạn chế trong quá trình lãnh
đạo của Đảng bộ; đồng thời từ đó đúc kết những bài học kinh nghiệm cho giai
đoạn mới. Với những lý do trên, tôi lựa chọn đề tài “Đảng bộ Thị xã Sơn
Tây (Hà Tây) lãnh đạo kinh tế nông nghiệp từ năm 1996 đến năm 2008”
làm luận văn Thạc sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam. Là một người con, sinh ra và lớn lên ở mảnh đất quê hương Sơn Tây,
khi nghiên cứu đề tài này tôi mong muốn có những đóng góp nhỏ vào việc
3
phát triển kinh tế của Thị xã- một vấn đề chiến lược và rất quan trọng, có ý
nghĩa thực tiễn.
2. Lịch sử nghiên cứu
Nông nghiệp là một hoạt động sản xuất mang tính chất cơ bản. Ở nước
ta, Nghị quyết từ Đại hội Đảng lần thứ III (1960) đến Đại hội Đảng lần thứ X
(2006) đều quan tâm, chú trọng tới phát triển kinh tế, tạo nền tảng, điều kiện
cho sự phát triển đất nước, trong đó có kinh tế nông nghiệp và có nhiều Nghị
quyết chuyên đề về phát triển nông nghiệp, nông thôn. Vì vậy, đề tài về nông
nghiệp đã có nhiều tác phẩm nghiên cứu của các tác giả, nhiều bài viết trên
các tạp chí… đã góp phần cung cấp lý luận và thực tiễn về phát triển nông
nghiệp, nông thôn như:
* Với các công trình nghiên cứu chung:
Các bài nghiên cứu, các đề tài… đã đề cập tới việc phát triển kinh tế,
đặc biệt là kinh tế nông nghiệp dưới nhiều góc độ khác nhau, như bài viết:
- Hồng Vinh (1998), Công nghiêp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn: một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Đặng Kim Sơn (2001), Công nghiệp hóa từ nông nghiệp: lý luận, thực
tiễn và triển vọng ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
- PGS.TS Nguyễn Văn Khánh (2001), Biến đổi cơ cấu ruộng đất và
kinh tế nông nghiệp ở vùng Châu thổ sông Hồng trong thời kỳ đổi mới, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- T.s Lê Quang Phi (2004), Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Xuân Thảo (2004), Góp phần phát triển bền vững nông
nghiệp, nông thôn Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Qua các công trình của các tác giả từ những cách tiếp cận khác nhau
đều đề cập đến việc phát triển kinh tế, trong đó đặc biệt là kinh tế nông
nghiệp, đề cập đến sự quan tâm của Đảng và Nhà nước trong các chương
4
trình, đề án phát triển nông nghiệp, đồng thời đưa ra các giải pháp thích hợp
để kinh tế nông nghiệp phát triển trong thời kỳ CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn và nông dân.
* Ngoài ra còn có những luận văn, luận án của các học viên cao học,
nghiên cứu sinh lấy đề tài kinh tế nông nghiệp làm đề tài nghiên cứu:
- Đào Thị Vân (2004): “Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa giai đoạn 1997 –
2003”, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Phạm Thị Thu Hiền (2010), Chuyển đổi ngành nghề trong nông
nghiệp và nông thôn thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa,
Luận văn Thạc sĩ kinh doanh và quản lý, Đại học Kinh tế.
- Tạ Thị Phương Thúy (2013), Giải quyết việc làm cho nông dân huyện
Phù Ninh- Tỉnh Phú Thọ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn.
- Tống Văn Chung (2011), Những nhân tố kinh tế xã hội tác động đến
sự chuyển cư của cư dân nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, Luận án Tiến sĩ Xã hội học, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn.
- Đặng Kim Oanh (2010), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp từ 1996- 2006, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Đại
học Khoa học xã hội và Nhân văn.
Qua các đề tài này, các tác giả cũng đã nghiên cứu vấn đề kinh tế nông
nghiệp qua việc thực hiện chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, giải quyết việc
làm, các điều kiện tác động tới kinh tế nông nghiệp và đời sống nông
dân…Từ đó, đưa ra các giải pháp cụ thể để phát triển kinh tế nông nghiệp.
Các công trình nghiên cứu về kinh tế nông nghiệp rất đa dạng và phong
phú, trên nhiều lĩnh vực cho thấy tầm quan trọng, vai trò của nông nghiệp,
nông dân, nông thôn đối với nền kinh tế đất nước. Tuy nhiên, hiện nay chưa
5
có một công trình khoa học nào nghiên cứu sâu, toàn diện về kinh tế nông
nghiệp ở Thị xã Sơn Tây, nhất là dưới góc độ Lịch sử Đảng. Nhưng các công
trình kể trên là những tài liệu quý, để tôi có thể tham khảo trong quá trình
thực hiện luận văn của mình.
* Tại Thị xã Sơn Tây cũng có một số công trình, sách báo liên quan
đến vấn đề này: Cuốn“Lịch sử Đảng bộ Thị xã Sơn Tây 1930 - 1995” xuất
bản năm 1999 và “Các kỳ Đại hội Đảng bộ Thị xã Sơn Tây” xuất bản năm
2010 đã giới thiệu và khái quát về quá trình xây dựng, phát triển đi lên của
Thị xã.
Ngoài ra còn các báo cáo tổng kết hàng năm của HĐND, UBND Thị xã
Sơn Tây, các báo cáo của các sở, ban, ngành đặc biệt là Sở Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn Thị xã Sơn Tây (nay là Phòng Kinh tế Thị xã Sơn Tây)
Những công trình và những báo cáo trên về Thị xã Sơn Tây cũng đã
nêu lên một vài khía cạnh hoặc khái quát được tình hình kinh tế xã hội của
Thị xã. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu riêng
và trình bày một cách tổng quát, hệ thống và chuyên sâu về vấn đề phát triển
nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ thị xã Sơn
Tây trong một giai đoạn cụ thể và vai trò của Đảng trong quá trình đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Đề tài luận văn bước đầu giải quyết một số vấn đề sau:
- Tìm hiểu sự lãnh đạo, những chủ trương của Đảng bộ Thị xã Sơn Tây
về kinh tế nông nghiệp từ năm 1996 đến năm 2008. Bên cạnh đó đưa ra một
số ý kiến đánh giá những thành tựu, hạn chế của Đảng bộ Thị xã Sơn Tây
trong phát triển kinh tế nông nghiệp.
- Bước đầu rút ra những bài học kinh nghiệm của Đảng bộ Thị xã Sơn
Tây trong quá trình lãnh đạo kinh tế nông nghiệp (1996- 2008), đồng thời từ
đó đề ra hướng phát triển cho kinh tế nông nghiệp giai đoạn sau.
6
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Đánh giá những thuận lợi và khó khăn về điều kiện tự nhiên, kinh tế
xã hội đối với việc phát triển kinh tế nông nghiệp của Thị xã Sơn Tây; khái
quát về kinh tế nông nghiệp của Thị xã trước năm 1996.
- Trình bày khái quát các đường lối, chủ trương của ĐCSVN và Đảng
bộ Tỉnh Hà Tây về kinh tế nông nghiệp.
- Mô tả quá trình Đảng bộ Thị xã Sơn Tây vận dụng chủ trương của
Nhà nước và Đảng bộ Tỉnh Hà Tây để chỉ đạo thực hiện kinh tế nông nghiệp
từ 1996- 2008.
- Qua đó đánh giá kết quả đạt được, đồng thời cũng rút ra bài học kinh
nghiệm trong quá trình chỉ đạo thực hiện kinh tế nông nghiệp của Đảng bộ
Thị xã.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Là các chủ trương, quá trình chỉ đạo thực hiện đường lối phát triển kinh
tế nông nghiệp của Đảng bộ Thị xã Sơn Tây, sự phát triển kinh tế nông
nghiệp của Thị xã từ 1996- 2008.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung:
Các thuận lợi cũng như những khó khăn của Thị xã Sơn Tây trong lĩnh
vực kinh tế nông nghiệp
Các chủ trương, biện pháp chỉ đạo thực hiện và kết quả đạt được trong
kinh tế nông nghiệp của Đảng bộ Thị xã Sơn Tây từ 1996- 2008.
- Thời gian: Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ Thị xã Sơn Tây về
kinh tế nông nghiệp trên địa bàn Thị xã từ 1996- 2008.
- Không gian: Nghiên cứu sự lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng bộ Thị xã
Sơn Tây về kinh tế nông nghiệp của Thị xã.
7
5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1 Nguồn tư liệu
Để hoàn thành luận văn của mình tôi đã sử dụng nguồn tư liệu chủ yếu:
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc của ĐCSVN, Hồ Chí Minh toàn tập, các
văn kiện, Nghị quyết, báo cáo của Đảng bộ Tỉnh Hà Tây và của Thị xã Sơn
Tây trong những năm 1996- 2008, các báo cáo kinh tế của Phòng Kinh tế Thị
xã Sơn Tây, các báo cáo tổng hợp của UBND Thị xã Sơn Tây và một số tư
liệu trong lịch sử Đảng bộ Thị xã Sơn Tây. Đây là nguồn tư liệu cơ bản để
thực hiện đề tài này và những tài liệu đó được khai thác bằng nhiều nguồn
khác nhau nhưng chủ yếu là tại Phòng Lưu Trữ của Thị ủy Sơn Tây, UBND
Thị xã Sơn Tây, Phòng Kinh tế Thị xã, Thư viện Thị xã, Phòng Thống kê Thị
xã và Thư viện trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các công trình nghiên cứu khoa học,
các luận văn, luận án, các bài nói, bài viết của các nhà khoa học, các lãnh đạo
Đảng và Nhà nước xung quanh lĩnh vực kinh tế nông nghiệp.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Marx- Lênin để xem xét, đánh giá các sự kiện, hiện tượng của kinh
tế nông nghiệp ở Thị xã Sơn Tây. Đây được coi là cơ sở lý luận của luận văn.
Bên cạnh đó, có phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp logic
và sự kết hợp hai phương pháp đó. Các khía cạnh, các vấn đề có liên quan tới
kinh tế nông nghiệp ở địa phương được trình bày theo trật tự thời gian, đồng
thời được đặt trong mối quan hệ có tính hệ thống, tức là nghiên cứu những nét đặc
thù của Thị xã Sơn Tây trong bối cảnh phát triển kinh tế chung của cả nước.
Thêm vào đó, luận văn còn sử dụng phương pháp thống kê, phân tích,
so sánh, đối chiếu để có thể đưa ra những kết quả xác đáng nhất nhằm góp
phần làm sáng tỏ một giai đoạn kinh tế ở địa phương.
8
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn nhằm hệ thống hóa các chủ trương, chính sách của Đảng bộ
Tỉnh Hà Tây về kinh tế nông nghiệp và cách thức mà Đảng bộ Thị xã Sơn
Tây lãnh đạo thực hiện phát triển kinh tế nông nghiệp.
Tổng kết, đúc rút những kinh nghiệm Đảng bộ Thị xã lãnh đạo thực
hiện phát triển kinh tế nông nghiệp từ năm 1996 đến năm 2008.
Bên cạnh đó, luận văn phần nào là nguồn tư liệu tham khảo để viết lịch
sử địa phương, ngoài ra còn phục vụ cho nghiên cứu, giảng dạy lịch sử tại các
trường Đảng, các trung tâm chính trị và các trường phổ thông địa phương.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm có 3 chương:
Chương 1: Đảng bộ Thị xã Sơn Tây lãnh đạo kinh tế nông nghiệp
(1996- 2000).
Chương 2: Đảng bộ Thị xã Sơn Tây lãnh đạo kinh tế nông nghiệp
(2001- 2008).
Chương 3: Nhận xét chung và một số kinh nghiệm chủ yếu
9
Chƣơng 1:
ĐẢNG BỘ THỊ XÃ SƠN TÂY LÃNH ĐẠO KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
(1996- 2000)
1.1 Khái quát điều kiện tự nhiên- kinh tế xã hội của Thị xã Sơn Tây
1.1.1 Khái quát điều kiện tự nhiên
Sơn Tây là vùng đất cổ, “địa linh nhân kiệt”, là trung tâm văn hóa xứ
Đoài, nơi có bề dày và chiều sâu văn hóa, mang đậm bản sắc vùng và dấu ấn
văn hóa truyền thống của dân tộc, nơi đây trưởng thành cùng với tiến trình
phát triển của lịch sử đất nước và của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Vị trí địa lý
Thị xã Sơn Tây có vị trí thuận lợi trong phát triển kinh tế xã hôi nói
chung, sản xuất nông nghiệp nói riêng. Đây là trung tâm chính trị, kinh tế, văn
hóa xã hội của Tỉnh Hà Tây trước đây.
Thị xã Sơn Tây là cửa ngõ phía Tây của thủ đô Hà Nội, nằm trên tọa độ từ 210 01’22’’ đến 21010’20’’ vĩ độ Bắc và từ 105024’52’’ – 105032’14’’ kinh độ
Đông, cách trung tâm Hà Nội 42 km về phía Tây Bắc theo quốc lộ 32. Ranh
giới giáp với các đơn vị hành chính:
Phía Bắc giáp với tính Vĩnh Phúc qua sông Hồng.
Phía Đông giáp với huyện Phúc Thọ và huyện Thạch Thất
Phía Nam giáp với huyện Phúc Thọ
Phía Tây giáp với huyện Ba Vì.
Tổng diện tích tự nhiên (2010) là 11.345,85 ha (trong đó diện tích đất tự nhiên khu vực nông thôn là 92,44km2, chiếm 81,48% diện tích tự nhiên
toàn thị xã); dân số khoảng 18 vạn người (trong đó có khoảng 5 vạn quân
nhân các đơn vị quân đội, sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng, trung cấp
chuyên nghiệp và dạy nghề).
10
Thị xã Sơn Tây hiện có 15 đơn vị hành chính gồm 9 phường và 6 xã
(trong đó có 6 phường và 6 xã còn sản xuất nông nghiệp): Ngô Quyền, Quang
Trung, Sơn Lộc, Xuân Khanh, Phú Thịnh, Viên Sơn, Trung Sơn Trầm, Trung
Hưng; 6 xã: Đường Lâm, Thanh Mỹ, Xuân Sơn, Kim Sơn, Sơn Đông. Với
143 thôn, tổ dân phố; ngoài ra còn có 53 cơ quan, đơn vị doanh nghiệp, bệnh
viện, trường học Trung ương, Thành phố Hà Nội và 32 đơn vị, doanh nghiệp,
bệnh viện trên địa bàn Thị xã.
Thị xã có vị trí thuận lợi là đầu mối giao thông và giao lưu thương mại
ở cửa ngõ phía Tây thành phố, có các đường giao thông thủy, bộ quan trọng
chạy qua như: tuyến đường thủy chạy dọc theo sông Hồng lên các tỉnh vùng
Tây Bắc; đường quốc lộ 21 nối liền với đường Hồ Chí Minh và quốc lộ 32;
cầu Vĩnh Thịnh nối giữa hai tỉnh Vĩnh Phúc với Thị xã Sơn Tây (hoàn thành
6/2014). Đặc biệt, trong tương lai khi các tuyến đường trọng điểm của thành
phố được xây dựng và nâng cấp như: đường trục Hồ Tây- Ba Vì, trục phát
triển Sơn Tây- Thạch Thất- Quốc Oai- Xuân Mai- Miếu Môn, đường vành đai
V liên kết các đô thị xung quanh Hà Nội, cộng thêm các công trình đầu mối
hạ tầng kỹ thuật của Thành phố được đầu tư, khu đô thị Hòa Lạc được hình
thành sẽ thúc đẩy quá trình đô thị hóa kéo theo sự chuyển biến toàn diện về
kinh tế xã hội của Thị xã.
Nằm sát với Sơn Tây là khu công nghệ cao và khu đô thị Hòa Lạc, khu
trường Đại học Quốc gia. Mặt khác, Sơn Tây còn thuộc khu vực định hướng
phát triển văn hóa- nghệ thuật, vui chơi giải trí, dịch vụ cao cấp phía Tây thủ
đô Hà Nội, nên Sơn Tây trở thành đô thị loại III, do đó, có điều kiện phát huy
tối đa nội lực của mình và tranh thủ được sự tác động từ các nguồn vốn đầu tư
bên ngoài.
- Khí hậu:
Điều kiện khí hậu ở khu vực Sơn Tây thuận lợi cho sự phát triển theo
hướng đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi do địa hình khu vực chia thành các
11
dạng khác nhau (đồng bằng và chuyển tiếp) nên đã tạo ra nhiều vùng khí hậu
thích hợp cho phát triển đa dạng sản xuất nông nghiệp.
Thị xã Sơn Tây mang đặc điểm chung của vùng khí hậu nhiệt đới gió
mùa, mưa và nóng vào mùa hè, khô và lạnh vào mùa đông; ngoài ra còn mang
thêm khí hậu của cùng trung du bán sơn địa mát mẻ nên thuận tiện cho các
cây ưa lạnh phát triển, thích hợp cho phát triển nền nông nghiệp nhiệt đới đa
dạng và tạo ra các khu nghỉ dưỡng, các khu du lịch sinh thái khá tốt.
Một năm chia làm hai mùa rõ rệt mùa nóng ẩm và mùa khô hanh. Mùa
nóng ẩm kéo dài từ tháng 5- tháng 10 hàng năm; mùa khô hanh kéo dài từ
tháng 11- tháng 4 năm sau. Giữa hai mùa nóng ẩm và khô hanh có các thời kỳ
xen kẽ chuyển tiếp khí hậu vào cuối mùa tạo ra thời tiết đặc trưng gồm 4 mùa
xuân- hạ- thu – đông.
Nhiệt độ không khí trung bình là 22,30C; mùa nóng nhiệt độ cao nhất có thể lên đến 390 – 400C nhưng sáng và chiều mát mẻ; mùa hanh khô nhiệt độ thấp nhất có thể xuống đến 30 – 40C, trời giá rét, khô hạn và có nhiều
sương muối.
Lượng mưa trung bình năm 1.830 mm. Mưa nhiều nhất vào tháng 7-8-
9, trong các tháng này lượng mưa đạt 822,8mm, độ ẩm tương đối cao nhất
trung bình năm đạt 84%, độ ẩm tương đối thấp nhất trung bình năm là 66%.
Hướng gió chủ đạo trong năm là gió Đông Nam (vào mùa nóng ẩm
mang theo nhiều hơi nước từ biển vào gây nên những trận mưa rào lớn kèm
theo gió bão) và gió Đông Bắc (vào mùa lạnh gây lạnh và khô hanh ở những
tháng 12- tháng 2 năm sau, sau đó lại gây mưa phùn lạnh và ẩm ướt + sương
mù sương giá). Do vậy, khí hậu khu vực này tương đối khắc nghiệt tuy có gây
khó khăn nhất định cho cuộc sống con người nhưng cũng chính nhờ đó tạo
điều kiện phát triển nền nông nghiệp nhiệt đới đa dạng.
- Địa hình:
12
Thị xã Sơn Tây là vùng có địa hình trung du đa dạng với 3/4 diện tích
là đồi gò có: vùng đất đồi thấp, vùng đất bãi ven sông, vùng đồng bằng và
vũng trũng thấp hay bị úng ngập khi mưa.
Đất đai khá đồng nhất về tính chất lý, hóa học. Địa hình dốc dần từ Bắc
xuống Nam theo hướng Tây Bắc- Đông Nam, được chia làm 2 dạng địa hình:
+ Dạng bán sơn địa: gồm các xã: Thanh Mỹ, Kim Sơn, Cổ Đông, Sơn
Đông; phường Xuân Khanh, Trung Sơn Trầm có diện tích 7.867,63 ha
(69,33% diện tích tự nhiên toàn Thị xã).
+ Vùng đồng bằng: các xã, phường còn lại, diện tích tự nhiên chiếm
30,67% tổng diện tích toàn Thị xã, tuy nhiên sản xuất nông nghiệp chỉ chiếm
41,86% diện tích tự nhiên toàn vùng; phần còn lại là đất phi nông nghiệp.
- Thủy văn:
Trên địa bàn Thị xã có 3 sông lớn chảy qua là sông Hồng chảy theo
hướng Bắc- Nam qua Thị xã với chiều dài 5,6km, rộng 1000m; sông Tích bắt
nguồn từ núi Tản Viên thuộc dãy Ba Vì chảy theo hướng Tây Bắc- Đông
Nam chiều dài 10km, rộng trung bình 50m và sông Hang, ngoài ra còn nhiều
hồ chứa lớn như: hồ Xuân Khanh, hồ Đồng Mô, hơn 20 hồ lớn nhỏ khác và hệ
thống kênh mương tưới tiêu thuận lợi cho sản xuất và sinh hoạt. Ngoài ra, trữ
lượng nước ngầm cũng khá, gồm 2 tầng trữ nước là nước lỗ hổng và khe nứt
có thể cung cấp khi nước bề mặt hiếm vào mùa khô.
- Đất đai:
Tổng diện tích tự nhiên toàn Thị xã là 113,46ha, diện tích tự nhiên khu vực nông thôn là 92,44km2 chiếm 81,43% diện tích tự nhiên toàn Thị xã. Gồm
các loại đất:
Đất phù sa được bồi đắp hàng năm (Pb): Diện tích 50 ha chiếm 0,44%
diện tích tự nhiên toàn Thị xã; phân bố ở các xã, phường: Đường Lâm, Viên
Sơn, Phú Thịnh. Đây là loại đất tốt, độ phì thực tế cao, thích hợp với phần lớn
các loại cây màu và cây công nghiệp ngắn ngày: đỗ, lạc…
13
Đất phù sa không được bồi đắp (P): diện tích 588 ha chiếm 5,18% tổng
diện tích tự nhiên toàn Thị xã. Phân bố ở địa nhìn trung bình phía trong đê,
tập trung ở: Đường Lâm, Viên Sơn, Phú Thịnh và Trung Hưng. Trên loại đất
này, phần lớn diện tích đã được khai thác trồng lúa nước 2 vụ, 1 phần diện
tích trồng các loại cây trồng cạn ngắn ngày: ngô, khoai lang, đậu….
Đất phù sa glây (Pg): diện tích 598ha chiếm 5,27% diện tích tự nhiên
toàn Thị xã. Phân bố những nơi địa hình thấp, khó thoát nước; tập trung ở các
xã, phường: Trung Hưng và Trung Sơn Trầm. Hiện tại, phần lớn diện tích loại
đất này được khai thác trồng lúa nước 2 vụ, để đạt được hiệu quả kinh tế cao
trong trồng lúa trên loại đất này cần bổ sung lân và vôi để làm giảm độ chua
cho đất.
Đất phù sa úng nước (Pj): diện tích 374 ha chiếm 3,3% diện tích tự
nhiên toàn Thị xã, phân bố chủ yếu ở: Trung Hưng. Do phần lớn diện tích loại
đất này ở địa hình trũng rất khó tiêu thoát nước về mùa mưa, thường bị ngập
sâu nên hiện tại chỉ khai thác trồng được 1 vụ lúa đông xuân là chính. Những
nơi có khả năng tiêu thoát nước khá hơn thì có thể trồng 2 vụ lúa/năm, nhưng
khả năng cho thu hoạch 1 vụ mùa khá bấp bênh. Một số diện tích, nông dân
ứng dụng thành công công thức 1 lúa- 1 cá. Để sử dụng có hiệu quả loại đất
này, tùy theo tình hình của từng xã, phường có thể trồng 1 vụ lúa và thả cá vụ
mùa hoặc chuyển toàn bộ diện tích đất này sang hình thức nuôi trồng thủy sản.
Đất bạc màu trên phù sa cổ (B): diện tích 588 ha chiếm 5,18% diện tích
tự nhiên toàn Thị xã, phân bố ở các dạng địa hình cao thuộc phường Trung
Hưng và xã Thanh Mỹ. Hiện tại trên loại đất này đang được khai thác trồng
chủ yếu các loại cây rau, màu, khoai lang, lạc. Tuy vậy, do dễ làm đất nên khả
năng tăng vụ cao dẫn đến lượng phân bón trên loại đất này cũng tăng theo,
nếu biết thâm canh tốt cũng có thể cho hiệu quả sử dụng đất cao hơn các loại khác.
Đất đỏ vàng trên đá sét (Fs): diện tích 570 ha chiếm 5,02% diện tích tự
nhiên toàn Thị xã, loại đất này tập trung ở xã: Thanh Mỹ, Sơn Đông và Cổ
14
Đông. Đây là sản phẩm phong hóa của đá phiến sét, đất có màu đỏ vàng là
chủ đạo. Loại đất này hiện đang được khai thác trồng cây dài ngày hoặc trồng
rừng, tuy nhiên đây là loại đất phân bố ở địa hình tương đối cao nên cần có
biện pháp chống xói mòn rửa trôi cho đất.
Đất nâu vàng trên phù sa cổ (Fp): diện tích 3563,8 ha chiếm 31,41%
diện tích tự nhiên toàn Thị xã. Phân bố: Thanh Mỹ, Trung Sơn Trầm, Trung
Hưng, Kim Sơn, Sơn Đông, Cổ Đông và Xuân Khanh. Hiện tại trên loại đất
này ở những nơi đất có tầng dày 50cm – 100cm, được nhân dân địa phương
khai thác trồng rừng, trồng có kết hợp chăn nuôi đại gia súc.
Đất đỏ vàng biến đổi do trồng lúa nước (Fl): diện tích 725,25ha chiếm
6,39% diện tích tự nhiên toàn Thị xã, phân bố: Thanh Mỹ, Trung Sơn Trầm,
Kim Sơn, Cổ Đông, Sơn Đông. Hiện tại được sử dụng để sản xuất lương thực,
do vậy, để bồi dưỡng và nâng cao độ phì cho loại đất này cần có chế độ canh
tác hợp lý để giảm thiểu tình trạng xói mòn, rửa trôi đất đai theo tầng mặt.
- Khoáng sản:
Thị xã Sơn Tây có một số tài nguyên khoáng sản:
+ Mỏ cao lanh: xã Thanh Mỹ, trữ lượng 2,3 triệu tấn, làm nguyên liệu
sản xuất gốm, sứ, gạch chịu lửa.
+ Mỏ đất Puzơlan: ở xã Thanh Mỹ, Trung Hưng, trữ lượng 2,5 triệu
tấn, làm nguyên liệu sản xuất xi măng, vật liệu không nung và gạch chịu lửa.
+ Mỏ nước khoáng ở phường Xuân Khanh, giáp xã Tản Lĩnh- huyện
Ba Vì. Tương lai có thể xây dựng xí nghiệp nước khoáng, nước ngọt và bể
tắm nước khoáng thiên nhiên.
+ Nguồn than bùn ở xã Xuân Sơn, trữ lượng 3 triệu tấn, làm nguyên
liệu sản xuất than tổ ong, phân lân vi sinh.
+ Nguồn đá ong: nằm rải rác ở các xã Cổ Đông, Thanh Mỹ, Kim Sơn…
có thể khai thác làm vật liệu xây dựng, để tôn tạo các di tích lịch sử và xây
dựng dân dụng.
15
Những đặc điểm tự nhiên của Thị xã Sơn Tây cho ta thấy những thuận
lợi cũng như khó khăn để phát triển kinh tế nông nghiệp của Thị xã:
- Thuận lợi:
Thứ nhất, Thị xã nằm trong khu vực Đồng bằng sông Hồng, hàng năm
được bồi đắp một lượng phù xa lớn từ hệ thống sông Hồng, do vậy đất đai
màu mỡ, khí hậu thời tiết ôn hòa, thuận lợi, lượng mưa hàng năm lớn, số giờ
nằng trong năm cao, hệ thống sông ngòi, ao hồ, thuận tiện cho việc tưới tiêu,
cấp thoát nước cho hoạt động sản xuất nông nghiệp. Đây là cơ sở để Thị xã
tiến hành thâm canh, sản xuất lương thực, cung cấp nhu cầu của người dân
Thị xã. Lực lượng lao động dồi dào, có nhiều kinh nghiệm trong thâm canh
lúa và hoa màu. Do đó, tạo thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp của Thị xã.
Thứ hai, Thị xã có diện tích đất trung du lớn, thuận lợi cho sản xuất các
cây công nghiệp, trong đó điển hình: sắn, lạc, đậu… Ngoài ra, đồng cỏ tương
đối rộng là điều kiện tốt để Thị xã khuyến khích người dân phát triển kinh tế
trang trại, chăn nuôi bò sữa, bò lai sind. Những năm gần đây, do điều kiện tự
nhiên thuận lợi, Thị xã tạo điều kiện cho người dân nhân rộng mô hình kinh tế
vườn đồi, tạo cảnh quan du lịch đạt hiệu quả cao.
Thứ ba, các loại đất phong phú, địa hình phù hợp tạo cơ cấu cây trồng,
vật nuôi đa dạng, phong phú, thích nghi với điều kiện tự nhiên của Thị xã, tạo
đà cho sự phát triển nông nghiệp.
Thứ tư, do thuận lợi về giao thông, đây là một trong những điều kiện
thuận lợi để giao lưu, trao đổi sản phẩm nông sản, từ đó tăng thu nhập cho
cuộc sống người dân nói riêng, đồng thời phát triển kinh tế xã hội.
- Khó khăn:
Một là, Thị xã là vùng đất chuyển tiếp đồng bằng- vùng trung du miền
núi phía Bắc nên nền nhiệt độ trung bình luôn cao hơn so với các vùng xung
quanh. Thêm nữa, do tác dộng chung của biến đổi khí hậu toàn cầu, tác động
16
của nền nhiệt độ nóng lên, cộng với độ ẩm cao, sâu bệnh nhiều. Do vậy, khó
khăn với nông nghiệp của Thị xã.
Hai là, diện tích đất phù sa để sản xuất nông nghiệp, nhất là cây lúa
không lớn, Thêm vào đó là một diện tích đất đồi ít chất dinh dưỡng, khó canh
tác, khó khăn cho người nông dân trong việc lựa chọn cây trồng thích hợp.
Ba là, 70% diện tích đất tự nhiên của Thị xã là đất đồi gò, chua ỉ, bạc
màu, nghèo dinh dưỡng và thiếu nước. Đất thuộc loại ferarit đỏ vàng và đất
trên nền đá ong. Còn lại 30% là đất khe đồi trũng, đất ven sông, ruộng bậc
thang, dễ ngập, úng. Do đó việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất bị hạn
chế, khó khăn về hệ thống kênh mương, tưới tiêu nước đảm bảo cho sản xuất
nông nghiệp, tổ chức sản xuất gặp khó khăn nên nguồn thu nhập bấp bênh gây
tâm lý lo ngại cho các nhà đầu tư vì vậy nguồn vốn đầu tư cho sản xuất còn
hạn chế.
1.1.2 Điều kiện kinh tế xã hội
Theo số liệu thống kê của Thị xã, năm 2010 diện tích tự nhiên 113,46 ha (trong đó diện tích đất tự nhiên khu vực nông thôn 92,44 km2 chiếm
81,43% diện tích tự nhiên toàn Thị xã; dân số khảng 18 vạn người (trong đó
có khoảng 5 vạn quân nhân và đơn vị quân đôi, sinh viên các trường Đại học,
cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề). Có 15 đơn vị hành chính,
gồm 9 phường và 6 xã (trong đó có 6 phường, 6 xã sản xuất nông nghiệp).
Tổng số hộ dân nông thôn là 14.884 hộ với trên 6 vạn nhân khẩu chiếm
46,2% tổng dân số Thị xã trực tiếp quản lý; số lao động trong độ tuổi khoảng
3,6 vạn người chiếm 59,2% dân số của toàn Thị xã, trong đó, lao động trực
tiếp trong nông nghiệp 1,97 vạn người (chiếm 55, 6%), trong công
nghiệp:7.531 người (chiếm 21, 17%), trong du lịch- dịch vụ: 8.374 người
(chiếm 23,54%).
Bên cạnh sản xuất nông nghiệp, Thị xã Sơn Tây còn có các làng nghề
thủ công. Hiện nay, Thị xã Sơn Tây có 2 làng nghề đã được công nhận làng
17
nghề truyền thống: làng nghề làm bánh tẻ ở Phú Nhi- phường Phú Thịnh và
làng nghề thêu ren Ngọc Kiên- xã Cổ Đông. Các làng nghề mới đang được
phát triển: sinh vật cảnh, mộc, đan lát, đóng giày, tơ tằm…tập trung ở xã Cổ
Đông, Sơn Đông, Đường Lâm, phường Xuân Khanh.
Nhìn chung, đời sống của nhân dân Thị xã Sơn Tây ngày càng tiến bộ,
theo báo cáo tại Đại hội Đại biểu Thị xã lần thứ XIX thì “tổng giá trị tăng
thêm (VĐ) bình quân một năm tăng 16,5%. Giá trị tăng thêm bình quân đầu
người năm 2000 ước đạt 21 triệu đồng”. [73; 4]
Đất và người Sơn Tây gắn liền với truyền thống lịch sử dựng nước và
giữ nước của dân tộc. Người dân Thị xã Sơn Tây luôn kiên cường, bất khuất
trong chiến đấu chống giặc ngoại xâm và luôn tự hào vì vùng đất này có vị trí
chiến lược về mặt quân sự, là một trong những lũy thép bảo vệ kinh thành
Thăng Long xưa và Thủ đô Hà Nội ngày nay.
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa (1975- nay). Nhất là từ thời kỳ đổi mới và thực hiện sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thị xã Sơn Tây đã quán
triệt sâu sắc các chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước, vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể địa phương, phát
huy truyền thống anh hùng trên mảnh đất “Địa linh- Nhân kiệt”, đã nỗ lực
phấn đấu, đoàn kết, năng động, sáng tạo, quan tâm đẩy mạnh tốc độ phát triển
kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội, giữ vững an ninh- quốc phòng; diện mạo đô
thị và nông thôn của Sơn Tây được đổi mới hàng ngày.
Ngày 13/4/2006, Bộ Xây dựng ban hành quyết định công nhận Thị xã
Sơn Tây là đô thị loại III. Tháng 08/2007, Chính phủ ban hành Nghị định số
130- NQ/CP về việc thành lập Thành phố Sơn Tây thuộc Tỉnh Hà Tây và
được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương lao động hạng Nhì cho cán bộ
và nhân dân Thị xã Sơn Tây. Đây là sự kiện có ý nghĩa đặc biệt, tác động toàn
diện đến đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội, tạo điều kiện để kinh tế
18
của Thị xã vững mạnh, là niềm tự hào của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân
Thị xã Sơn Tây.
Thị xã Sơn Tây có nhiều thuận lợi cả về đường thủy và đường bộ. Thị
xã cách trung tâm Thủ đô Hà Nội 42 km, có Quốc lộ 11A nay là Quốc lộ 32
chạy qua đền cầu Trung Hà, nối Hà Nội với các tỉnh Tây Bắc. Quốc lộ 21A từ
Sơn Tây đi qua 1 số huyện như: Thạch Thất, Quốc Oai, Chương Mỹ, qua Lạc
Thủy (Hòa Bình) rồi đi vào Ninh Bình, Thanh Hóa. Các tỉnh lộ: 413, 414,
416, 417, 418 nối Thị xã với các huyện Ba Vì, Phúc Thọ, Thạch Thất. Bên
cạnh việc bồi đắp phù sa và cung cấp nước tưới tiêu cho cả vùng phía Tây Hà
Nội, sông Hồng được coi là con đường huyết mạch giao thông đường thủy,
ngược lên nối liền với các tỉnh phía Bắc, xuôi về kết nối với Thủ đô Hà Nội
và các tỉnh phía Nam. Cảng Sơn Tây cũng đang được lập quy hoạch, triển
khai các dự án đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng.
Đường cao tốc Láng- Hòa Lạc đang được mở rộng, nâng cấp Quốc lộ
21A, đường tránh Quốc lộ 32, đường từ Thành cổ- Đền Và đến khu di tích
lịch sử- văn hóa Đường Lâm, đường Hoàng Quốc Việt kéo dài, dự án tiếp
nước, cải tạo, khôi phục sông Tích sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
của Thị xã.
- Giáo dục:
Thị xã Sơn Tây là địa bàn trọng điểm về quốc phòng an ninh tập trung
các học viện, các trường Đại học đào tạo các sĩ quan quân đội cho cả nước, là
nơi tập trung nhiều quân, binh chủng, các nhà máy quốc phòng, Sơn Tây có
khả năng lớn trong việc huy động ủng hộ, đóng góp về tài lực, vật lực và nhân
lực (nhân công) trong việc đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông, nông thôn từ các
cơ sở, đơn vị quân đội này.
Với hệ thống các trường Đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp
trên địa bàn, mỗi năm thu hút hàng chục ngàn sinh viên đến học tập và nghiên
19
cứu, đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho Thị xã và
các vùng lân cận, đồng thời thúc đẩy các ngành du lịch dịch vụ phát triển.
- Văn hóa- di tích:
Sơn Tây nằm trong vùng cội nguồn văn hóa xứ Đoài, là vùng giao thoa
giữa các nền văn hóa: văn hóa Hòa Bình, văn hóa Thăng Long- Hà Nội, đồng
thời tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa Trung Hoa, Ấn Độ, Chăm pa
và Pháp qua các thời đại tạo nên một bản sắc văn hóa, một bản lĩnh dân tộc rất
quý báu.
Mặt khác, Sơn Tây có nhiều điểm di tích lịch sử văn hóa, du lịch và
danh lam thắng cảnh hấp dẫn. Trên địa bàn Thị xã có 183 di tích lịch sử văn
hóa, trong đó có 55 di tích được xếp hạng cấp Quốc gia, 66 di tích được xếp
hạng cấp Thành phố và Thị xã Sơn Tây cũng mới khai trương công trình Làng
văn hóa các dân tộc Việt Nam từ năm 2010. Trong đời sống cộng đồng nhân
dân còn lưu giữ nhiều lễ hội văn hóa và các làng nghề truyền thống.
Với nhiều tiềm năng to lớn này, Thị xã Sơn Tây có thể thu hút đầu tư
vào lĩnh vực khách sạn, nhà hàng, du lịch sinh thái, liên kết các tour du lịch
liên vùng với các danh thắng của các vùng khác như: Ba Vì, Phúc Thọ, Thạch
Thất…
Điều kiện kinh tế xã hội của vùng đất “Địa linh- Nhân kiệt” đã mang
tới cho vùng những thuận lợi đồng thời cũng tạo ra những khó khăn góp phần
tạo ra sự phát triển kinh tế của Thị xã nói chung cũng như kinh tế nông nghiệp
Thị xã nói riêng:
- Thuận lợi:
Thứ nhất, gắn liền với truyền thống lịch sử dựng nước và giữ nước,
người Sơn Tây luôn kiên cường, bất khuất trong đấu tranh chống giặc ngoại
xâm, cần cù trong lao động, nhạy bén với cải mới và biết nhân rộng cái mới.
Thứ hai, dân số đông, lực lượng lao động trẻ, lao động khu vực nông
thôn dồi dào, số người trong tuổi lao động chiếm tỷ lệ cao, sẵn sàng tiếp thu
20
khoa học kỹ thuật tiên tiến. Đây là nguồn lực quý, là tiền đề quan trọng để
phát triển khoa học kỹ thuật của Thị xã. Nằm gần Thị xã lại có nhiều cơ quan,
đơn vị hành chính, các khu cụm công nghiệp nên có thị trường tiêu thụ sản
phẩm tại chỗ đông.
Thứ ba, hệ thống cơ sở hạ tầng như: điện, đường, trường, thông tin
trong toàn Thị xã phát triển khá đồng bộ, các tuyến đường huyết mạch nối
Thành phố Hà Nội với Thị xã Sơn Tây như: Quốc lộ 32, Quốc lộ 21, Đại lộ
Thăng Long, các tuyến đường tỉnh lộ nối Thị xã Sơn Tây với các vùng lân
cận, các tuyến đường sông, cầu Vĩnh Thịnh….tạo cho Thị xã Sơn Tây có
bước nhảy vọt về chất. Đây là cơ sở thuận lợi để thu hút vốn đầu tư, phát triển
kinh tế Thị xã, đặc biệt trong công nghiệp và du lịch, dịch vụ, mở rộng, giao
lưu với các vùng lân cận.
Thứ tư, Thị xã Sơn Tây là địa phương có ngành du lịch phát triển ngày
càng mạnh mẽ với các khu di tích, các danh lam thắng cảnh, khu du lịch sinh
thái đáp ứng nhu cầu của người dân địa phương và của các thành phố lân cận.
Ngoài ra, Thị xã còn là nơi có ngành nông nghiệp phát triển và có một số làng
nghề nổi tiếng, với những người thợ có đôi tay khéo léo.
- Khó khăn:
Một là, trình độ công nghệ, máy móc thiết bị còn lạc hậu chưa đồng bộ.
Đặc biệt để phát triển kinh tế theo hướng CNH, HĐH thì phải có cơ cấu công-
nông nghiệp, dịch vụ hợp lý. Tuy nhiên, cơ cấu công nông nghiệp và dịch vụ
của Thị xã còn lạc hậu, tỷ trọng nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ còn
chưa hợp lý.
Hai là, lực lượng lao động đông nhưng trình độ chưa cao, chủ yếu là
lao động phổ thông có những quan niệm và suy nghĩ đơn giản, khả năng áp
dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp còn hạn chế, phần lớn lao
động làm việc trong các khu vực nông- lâm- thủy sản chưa qua đào tạo, nên
thu nhập thường không cao. Đây là khó khăn lớn của Thị xã trong việc quy
21
hoạch nguồn nhân lực phục vụ cho CNH, HĐH nói chung và ngành nông
nghiệp nói riêng.
Với những tiềm năng và thế mạnh về điều kiện tự nhiên cũng như khoa
học kỹ thuật, đây không chỉ là niềm tự hào của toàn thể Đảng bộ và nhân dân
Thị xã Sơn Tây, mà còn là sự tiếp nối truyền thống đáng tự hào của một vùng
đất, vùng quê có truyền thống lịch sử kiên cường, bất khuất. Ngày nay, khi
đất nước đã thanh bình, Đảng bộ Thị xã Sơn Tây tiếp tục lãnh đạo nhân dân
xây dựng và phát triển kinh tế xã hội trong thời kỳ mới theo phương hướng,
nhiệm vụ do các thời kỳ Đại hội Đảng bộ của Thị xã đề ra, góp phần giữ gìn
an ninh chính trị, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, với vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên tương đối thuận lợi cho
việc phát triển kinh tế nông nghiệp, lại là vùng đất giàu tiềm năng về nguồn
nhân lực dồi dào, thị trường tiêu thụ rộng lớn, hệ thống giao thông nông thôn
thuận lợi…. đang được xây dựng, nâng cấp và phát triển. Bên cạnh đó, với
tiềm năng và thế mạnh của công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ nên Thị xã Sơn
Tây có thể phát triển một nền kinh tế toàn diện từ sản xuất nông nghiệp đến
công nghiệp, thương mại, dịch vụ. Tuy vậy, những thuận lợi, khó khăn trên đã
tác động tới quá trình phát triển kinh tế xã hội của Thị xã.
Do vậy, Thị xã Sơn Tây nói chung và khu vực nông thôn Thị xã nói
riêng có nhiều lợi thế để phát triển nền kinh tế đa dạng như tiềm năng phát
triển các hoạt động du lịch sinh thái, góp phần bảo vệ và cải thiện môi trường
cũng như tạo địa bàn tham quan du lịch, nghỉ dưỡng để lấy lại sự cân bằng
tinh thần trước nhịp sống căng thẳng của quá trình đô thị hóa, công nghiệp
hóa và phát triển dịch vụ thương mại, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp nhất
là công nghiệp phụ trợ và phát triển nền nông nghiệp đa dạng với chăn nuôi
gia súc, gia cầm quy mô lớn và các loại cây, quả nhiệt đới, ôn đới.
22
1.2 Tình hình kinh tế nông nghiệp của Thị xã Sơn Tây trƣớc năm 1996
Cuối năm 1985, sau những cải cách về giá- lương- tiền thì tình hình
kinh tế trong cả nước có biến động không thuận lợi, sự mất cân đối giữa tiền
và hàng, giữa cung và cầu trở nên gay gắt, giá cả thị trường tăng nhanh. Bên
cạnh đó, tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, không có lợi cho chủ
nghĩa xã hội, cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Sự sụp đổ của
Liên Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu vào đầu những năm 90
đã tác động lớn đến tâm tư, tình cảm của cán bộ, Đảng viên và nhân dân.
Trước tình hình đó, tháng 12/1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI được
tổ chức ở Hà Nội, đây là một điểm mốc quan trọng đánh dấu sự khởi đầu
công cuộc đổi mới của Đảng, nhằm “đổi mới về quản lý kinh tế nhằm tiến tới
xóa bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp; phát huy tính chủ động, sáng tạo
của các đơn vị và cá nhân người lao động”. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự
thật, Đại hội đã đánh giá đúng mức những thành tựu quan trọng về xây dựng
chủ nghĩa xã hội mà nhân dân đã đạt được; đồng thời chỉ ra những khuyết
điểm trên tất cả các mặt kinh tế xã hội, đời sống nhân dân khó khăn gay gắt,
tiêu cực xã hội phát triển.
Từ những bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn, Đại hội đã đề ra chủ
trương đổi mới trên tất cả các lĩnh vực, trong đó tập trung vào ba chương trình
kinh tế lớn “lương thực thực phẩm- hàng tiêu dùng- hàng xuất khẩu”. Đường
lối đổi mới và ba chương trình kinh tế của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI
như một luồng sinh khí mới, động viên mạnh mẽ tinh thần lao động hăng say,
sáng tạo của nhân dân cả nước. Quán triệt đường lối đổi mới của Đảng do Đại
hội Đảng toàn quốc lần VI đề ta, được sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy Hà
Sơn Bình về phát triển kinh tế xã hội, cùng với cả nước, Đảng bộ và nhân dân
Thị xã Sơn Tây bước vào thời kỳ đổi mới với niềm tin và sức mạnh mới.
23
Thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ toàn quốc lần thứ VI, Đảng bộ
Thị xã Sơn Tây đã vận dụng các Nghị quyết của Đảng vào tình hình cụ thể
của địa phương nhất là vấn đề kinh tế nông nghiệp của Thị xã.
Tháng 9/1986, Đại hội Đại biểu Đảng bộ Thị xã lần thứ XIII đã được
triệu tập. Sau khi thảo luận, đóng góp ý kiến vào các dự thảo của Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đại hội đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ của
Đảng bộ nhiệm kỳ XII, đồng thời đề ra phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ
1986-1988 và phương hướng đến năm 1990 theo cơ cấu kinh tế công- nông
nghiệp- dịch vụ xuất khẩu với những nhiệm vụ trung tâm là “ổn định phát
triển sản xuất, khai thác tiềm năng và sử dụng tốt cơ sở vật chất hiện có, tổ
chức tốt, phân phối lưu thông, mở rộng xuất khẩu, ổn định từng bước đời
sống cho nhân dân, giải quyết việc làm cho người lao động, cung cấp ổn định
những mặt hàng định lượng cho cán bộ, công nhân viên chức”.[4;95]
Tháng 4/1987, Thị ủy, UBND Thị xã đã chỉ đạo thực hiện mô hình
quản lý kinh tế theo hình thức Hợp tác xã (HTX) nông – công- thương- tín
(thống nhất từ 3 HTX: nông nghiệp- mua bán- tín dụng) và lấy HTX Đường
Lâm làm đơn vị điểm. Qua một thời gian hoạt động, hình thức HTX nông-
công- thương- tín được thừa nhận là mô hình phát huy được tính năng động
trong tổ chức quản lý sản xuất, kinh doanh, tiềm năng nhiều mặt đạt được
hiểu quả kinh tế tốt. Nông nghiệp có điều kiện để phát triển, mua bán mở rộng
được kinh doanh và tín dụng phát huy được hiệu quả, phục vụ thiết thực sản
xuất và đời sống của bà con xã viên. Thực tiễn và kinh nghiệm của HTX
Đường Lâm là cơ sở để mở rộng mô hình HTX nông- công- thương- tín ra
toàn xã.
Tháng 4/1988, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 10- NQ/BCT
(thường gọi là Nghị quyết khoán 10) nhằm giải phóng sức sản xuất, gắn việc
sắp xếp, tổ chức lại sản xuất với cải tạo XHCN, tăng cường cơ sở vật chất kỹ
thuật và đưa kỹ thuật tiến bộ vào sản xuất nông nghiệp, “chuyển nền kinh tế
24
nước ta còn mang nặng tính chất tự cung, tự cấp ở nhiều vùng sang sản xuất
hàng hóa”. [23]
Bước vào vụ đông xuân 1988, dưới sự lãnh đạo của Thành ủy Hà Nội,
sau khi làm điểm ở HTX Đường Lâm, Thị ủy Sơn Tây đã chỉ đạo tất cả các
HTX nông nghiệp điều thực hiện khoán gọn cho hộ gia đình cả cây lúa và các
cây, con, ngành nghề khác. Gắn khoán với kế hoạch sản xuất và phân phối
ngay từ đầu. Tuy mới là bước đầu, song thực tiễn đã khẳng định tính đúng
đắn, sức thuyết phục mạnh mẽ đối với chủ trương mới của Đảng.
Đảng bộ Thị xã đã có những chỉ đạo phù hợp thực hiện Chỉ thị 100 và
thi hành Chỉ thị 12 của Thành ủy Hà Nội và Thị ủy Sơn Tây về “Khoán sản
phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động trong các HTX sản xuất nông
nghiệp” [36; 215], phương thức khoán sản phẩm mới đã khơi dậy tiềm năng
lao động và trách nhiệm của bà con xã viên trước các khâu công việc được
giao, động viên được phong trào lao động, sản xuất ở nông thôn, khuyến
khích được mọi người hăng hái lao động, chất lượng công việc được tốt hơn,
xã viên chủ động đầu tư về lao động, phân bón, dụng cụ, sức kéo….vào sản xuất.
Sau hơn một năm thực hiện Nghị quyết, kết quả đã thể hiện rõ nét:
nông dân yên tâm phấn khởi sản xuất, chấm dứt được tình trạng trả bớt ruộng
khoán (gần 200ha); khai thác được tiềm năng đất đai, lao động, vật tư, tiền
vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật của cả ba khu vực để tập trung đầu tư vào sản
xuất, thực hiện có hiệu quả chương trình lương thực- thực phẩm đã đề ra:
năng suất lúa năm 1988 so với năm 1986 tăng 2,2 tạ/ha; sản lượng lương thực
đạt 12.820 tấn/12.000 tấn kế hoạch, tăng 12,6%; thịt lợn đạt 480 tấn/450 tấn
kế hoạch. Đời sống của nông dân giảm bớt khó khăn, mức ăn từ 14kg nâng
lên 17,3kg/người/tháng. Bộ máy quản lý HTX được kiện toàn theo hướng gọn
nhẹ (giảm 42%).
25
“Chỉ thị 100 của Ban Bí thư (khóa IV) và nghị quyết số 10- NQ/BCT
khóa VI là hai mốc lớn, góp phần rất quan trọng, tạo ra bước ngoặt trên con
đường phát triển của nông nghiệp, nông thôn nước ta”[20; 4].
Nhìn chung, trên mặt trận nông nghiệp ở thời kỳ này bước đầu đã có sự
chuyển biến. Tuy nhiên, vẫn chưa khai thác hết tiềm năng, nhất là tiềm năng
đất đai, chưa tự giải quyết cân đối được lương thực cho nông dân, thu nhập 3
lợi ích chưa hài hòa. Nhiều HTX không thống nhất điều hành được theo kế
hoạch. Ngoài ra, đầu tư cho nông nghiệp chưa tương xứng với vị trí của
ngành trong cơ cấu kinh tế, cơ sở vật chất phục vụ cho nông nghiệp nhiều nơi
xuống cấp nghiêm trọng kể cả các công trình thủy lợi trọng điểm của Thị xã.
Vật tư kỹ thuật cũng chưa có dự trữ chiến lược, cung ứng không kịp yêu cầu
sản xuất. Nhiều HTX lúc này còn nặng tư tưởng bao cấp, còn lúng túng trong
sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường. Việc chuyển giao tiến bộ kỹ thuật
đến hộ xã viên chưa làm sâu rộng. Sản xuất màu, sản xuất lương thực tăng
chậm, một số cây công nghiệp như: mía, sắn, lạc và các ngành thủ công trong
nông thôn giảm sút. Sản xuất nông nghiệp còn nhỏ lẻ, mang tính chất hộ gia
đình, ngành chăn nuôi trong cơ cấu ngành nông nghiệp cũng chưa cao, đặc
biệt là chăn nuôi bò dựa trên thế mạnh các đồng cỏ ngoại vi Thị xã.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI(1986) cùng với những
chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước với sự lãnh đạo trực tiếp
của Thành ủy Hà Nội đã động viên Đảng bộ và nhân dân Thị xã Sơn Tây
quyết tâm phấn đấu đạt những mục tiêu kinh tế. Tuy nhiên, trong những năm
đầu của công cuộc đổi mới, cơ chế mới còn đang hình thành thể nghiệm, chưa
đồng bộ, hậu quả của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp vẫn tốn tại kéo dài,
do vậy hoạt động kinh tế của Thị xã vẫn còn những khó khăn. Song với
những định hướng đúng đắn của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã từng
bước làm bật dậy những tiềm năng của xã hội nói chung và của Thị xã Sơn
Tây nói riêng.
26
Công cuộc đổi mới của Đảng đã đem lại cho toàn xã hội bầu không khí
dân chủ, sống động, làm phong phú không chỉ hàng hóa tiêu dùng mà còn
khơi dậy nhiều năng lực tư duy sáng tạo của đất nước. Cuộc sống của nhân
dân sau những năm đầu đã khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng
đắn và chính vì thế nó đã từng bước đi vào cuộc sống và thể hiện sinh động
trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Thị xã Sơn Tây mặc dù còn nhiều khó
khăn, nhưng với thắng lợi bước đầu đạt được đã củng cố niềm tin và thúc đẩy
cán bộ, đảng viên và nhân dân quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết của
Đại hội Đảng bộ Thị xã lần thứ XIV.
Qua 4 năm đổi mới (1986- 1990), đất nước ta đã có một số thành tựu,
song vẫn chưa thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội. Đứng trước
tình hình đó, tháng 6/1991, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII được tổ
chức ở Hà Nội. Đại hội đã toát lên một tinh thần “trí tuệ, đổi mới, dân chủ, kỷ
cương và đoàn kết”. Đây là một Đại hội có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nếu
như ở Đại hội VI đề ra phương hướng đổi mới toàn diện, đánh dấu bước
ngoặt trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, thì Đại hội VII có
nhiệm vụ trọng đại không chỉ tổng kết thực tiễn Nghị quyết Đại hội VI trên cơ
sở đó đề ra phương hướng, nhiệm vụ 5 năm (1991- 1995), mà còn thông qua
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; bên
cạnh đó còn vạch ra hệ thống những quan niệm, phương hướng cơ bản, bước
đi của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, một khí thế mới sôi nổi, rộng
khắp trong toàn xã hội với quyết tâm cao, tràn đầy tin tưởng để biến Nghị
quyết Đại hội thành hiện thực. Hòa chung với khí thế của cả nước, Đại biểu
và nhân dân Thị xã Sơn Tây đã dấy lên phong trào thi đua trên tất cả các lĩnh
vực xã hội chào mừng thành công của Đại hội, đồng thời lập thành tích chào
mừng Đại hội Đại biểu Thị xã lần thứ XV (vòng 2).
27
Đại hội Đại biểu Thị xã lần thứ XV xác định phương hướng, nhiệm vụ
nhiệm kỳ (1991- 1995). Nghị quyết của Đại hội nhấn mạnh “quán triệt sâu sắc
những tư tưởng, quan điểm cơ bản của Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ VII, Đảng bộ và nhân dân Thị xã Sơn Tây quyết tâm phấn đấu thực
hiện những nhiệm vụ và mục tiêu do Đại hội đề ra, từng bước ổn định và phát
triển sản xuất theo cơ cấu kinh tế: công- nông- thương nghiệp- dịch vụ- xuất
khẩu và du lịch” [4; 109].
Tháng 10/1991, theo Nghị quyết của Chính phủ, Thị xã Sơn Tây cùng
với một số huyện tái nhập về Tỉnh Hà Tây. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh
ủy Hà Tây, mặc dù tình hình thế giới lúc này có những diễn biến phức tạp,
tình hình kinh tế xã hội trong nước có nhiều khó khăn, nhưng với khí thế và
quyết tâm mới, đặc biệt có Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VII soi sáng, Đảng bộ và nhân dân Thị xã Sơn Tây tiếp tục thu được những
kết quả quan trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong báo cáo
Hội nghị giữa nhiệm kỳ của Đảng bộ Thị xã nêu rõ “trước những thử thách
mới, trong 2 năm qua Đảng bộ và nhân dân Thị xã Sơn Tây đã tỏ rõ bản lĩnh
chính trị vững vàng, tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng. Thông qua
việc chỉ đạo thực hiện các Nghị quyết của Trung ương, của Tỉnh ủy và Thị ủy,
Đảng bộ và nhân dân Thị xã đã vượt qua khó khăn, phấn đấu đạt được những
kết quả tương đối toàn diện, tạo được bước chuyển dịch tích cực trên mọi lĩnh
vực, tạo lòng tin về công cuộc đổi mới trong Đảng và trong nhân dân” [37; 4].
Phát huy kết quả đạt được, những năm tiếp theo Đảng bộ tiếp tục đề ra những
nhiệm vụ và các chỉ tiêu mà trong phương hướng của Hội nghị giữa nhiệm kỳ
đề ra.
Tại Hội nghị Đại hội Đại biểu giữa nhiệm kỳ khóa XV (3/1994) đã
tổng kết lại quá trình nỗ lực phấn đấu của Đảng bộ Thị xã Sơn Tây trong thời
kỳ đổi mới và hội nhập. Tính đến năm 1993, giá trị tổng sản lượng nông
nghiệp đạt 15,665 tỷ đồng/10,862 tỷ đồng chiếm 114% chỉ tiêu. Tổng sản
28
lượng lương thực quy thóc đạt 16.444 tấn/14.500 tấn, bằng 113%. Mức lương
thực bình quân khẩu nông nghiệp đạt 24,2 kg/20 kg/tháng, bằng 121% . Sản
lượng lợn hơi đạt 1.360 tấn/140 tấn, bằng 97%. Đàn trâu bò đạt 8.109
con/8.000 con, chiếm 101% chỉ tiêu đại hội. Tổng thu ngân sách đạt 7,215 tỷ
đồng bằng 144%.
Đảng bộ phấn đấu chỉ đạo sử dụng hiệu quả đất đai, tích cực trồng cây
có giá trị kinh tế cao, đổi mới công tác quản lý của HTX, đưa ứng dụng khoa
học kỹ thuật vào sản xuất. Phấn đấu năm 1994 đạt sản lượng lương thực quy
ra thóc là 17.500 tấn/năm; năm 1995 đạt 18.000 tấn/năm; chủ động trong việc
thay giống đàn gia súc, gia cầm có sản lượng thịt cao. Hàng năm trồng 100 ha
rừng tập trung.
Để những người nông dân yên tâm sản xuất trên mảnh đất của mình,
thực hiện Luật đất đai và Kết luận 41 của Tỉnh ủy Hà Tây về cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất ruộng, đất lâu dài cho hộ nông dân (10/1992), sau khi
rút kinh nghiệm của xã điển hình Thanh Mỹ; Ban Thường vụ Thị ủy đã chỉ
đạo triển khai bước hai (giao ruộng trên thực địa) ra tất cả các xã. 13/13 HTX
nông nghiệp đã hoàn thành việc giao ruộng đất đến hộ nông dân, đảm bảo
đúng luật, giữ được ổn định và đoàn kết trong nông thôn, tạo bước chuyển
mới trong nông nghiệp.
Từng bước đổi mới cơ cấu giống, đưa giống mới có năng suất cao vào
sản xuất, đưa khoa học kỹ thuật đến hộ nông dân, kiện toàn tổ chức, đổi mới
phương thức hoạt động của Ban Quản lý Hợp tác xã. Công tác khuyến nông
có cố gắng phục vụ sản xuất nông nghiệp, do vậy, diện tích, năng suất, sản
lượng đều tăng. Tổng sản lượng nông nghiệp quy thóc đạt cao so với nhiều
năm qua. Năm 1992, đạt 16.560 tấn, năm 1993 mặc dù vụ xuân mất mùa
nhưng sản lượng cả năm đạt 16.444 tấn (Tăng 2,7% so với kế hoạch), riêng
vụ mùa năng suất đạt 39 tạ/ha, cao nhất từ trước tới nay, hoàn thành nghĩa vụ
nộp thuế hàng năm cho nông nghiệp. Đàn lợn, trâu bò được ổn định và phát
29
triển. Trong 2 năm đã trồng được 238 ha rừng tập trung, hoàn thành kế hoạch
trồng rừng tập trung và cây phân tán, tỷ lệ sống cao.
Thực hiện Nghị quyết số 5- NQ/TW về phát triển và xây dựng nông
thôn mới, Ban Thường vụ Thị ủy đã chỉ đạo chặt chẽ, lấy 2 xã Đường Lâm và
Trung Sơn Trầm làm điểm trước khi phát ra diện. Qua thực hiện Nghị quyết
này, bộ mặt của nông thôn đã có sự thay đổi rõ rệt, cơ sở hạ tầng được tăng
cường một bước: 40 km đường nông thôn được xây dựng và nâng cấp (trong
đó có 4km đường bê tông), 7 trường học cấp 1, cấp 2; 06 trạm xá được xây
dựng; 100% số xã có điện, phục vụ cho sản xuất kinh doanh và sinh hoạt;
100% số xã có loa truyền thanh, đáp ứng nhu cầu thông tin góp phần nâng cao
đời sống tinh thần cho nhân dân.
Những năm 1991- 1995, do có sự chỉ đạo chặt chẽ của Thị ủy, với tính
năng động, tự chủ của các hộ nông dân nên các chỉ tiêu trong sản xuất nông
nghiệp đều đạt cao. Tổng sản lượng lương thực quy thóc năm 1991 đạt 11.265
tấn; năm 1995 tăng lên 19.225 tấn (bình quân mỗi năm tăng 1.600 tấn). Thị ủy
cũng chỉ đạo chặt chẽ việc thực hiện Chương trình 327 của Chính phủ, đẩy
mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhân dân tăng cường phủ xanh đất
trống đồi trọc vì vậy phong trào này được hưởng ứng tốt. Từ 1991- 1995, Thị
xã đã trồng 901 ha rừng tập trung, 682.000 cây phân tán. Kinh tế VAC đã trở
thành phong trào rộng khắp, không những ở khối xã mà cả ở khối phường.
Ngày 12/3/1991, Hội những người làm vườn Thị xã đã được thành lập
nhằm đẩy mạnh kinh tế VAC. Sau khi làm điểm ở xã Trung Sơn Trầm đã
được nhân rộng ra toàn Thị xã. Đến nay, 100% số phường, xã đã có Chi hội
làm vườn. Kinh tế VAC đã thực sự trở thành nguồn thu nhập lớn trong nông
thôn và ở các phường của Thị xã; 65% - 70% thu nhập kinh tế gia đình ở
nông thôn từ nguồn kinh tế VAC. Đó là một phong trào có sức hút mạnh góp
phần tích cực vào chương trình xóa đói giảm nghèo của Thị xã. Những kết
quả trong sản xuất nông nghiệp càng khẳng định tính đúng đắn của đường lối
30
đổi mới của Đảng, đồng thời khẳng định nông dân Sơn Tây có thể làm giàu
trên vùng đất đồi gò của mình.
Mặt khác, để sản xuất nông nghiệp phát triển ổn định, vững chắc. Đảng
bộ Thị xã chú trọng thực hiện các giải pháp xây dựng hệ thống thủy lợi, hệ
thống dịch vụ khuyến nông, hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nông thôn,
giao đất, lấy hộ làm đơn vị kinh tế tự chủ, xây dựng chính sách hỗ trợ giá về
phân bón, thuốc trừ sâu, tăng tỷ trọng đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp.
Thị ủy đã chỉ đạo xây dựng một số chương trình điểm như: cống qua đê Phù
Xa, đập Vị Thủy, trạm bơm Trung Hưng…
Như vậy, bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng bộ và nhân dân Thị xã Sơn
Tây đã cố gắng khai thác hết mọi tiềm năng, thế mạnh của tự nhiên và xã hội
để phát triển kinh tế trong đó nông nghiệp là trọng điểm. Sau những năm thực
hiện công cuộc đổi mới, Thị xã đã có những chuyển biến tích cực trên mọi
phương diện: đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt; bộ mặt của Thị xã từ
nội thị đến nông thôn đã có những thay đổi cơ bản; các công trình điện, nước,
giao thông…được xây dựng mới hoặc nâng cấp. Nhiều xã đã từng bước thực
hiện việc xây dựng nông thôn mới, đầu tư xây dựng đường điện, nâng cấp các
đường liên thôn, liên xã. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, kinh tế phát triển, đời
sống nhân dân được nâng cao, diện thiếu đói của Thị xã ngày một thu hẹp và
số hộ có điều kiện khá giả tăng lên: năm 1991 số hộ đói của Thị xã chiếm 7%,
hộ nghèo 23%; năm 1995: số hộ đói nghèo chỉ còn 6,2%.
Nhìn chung từ trước 1996, nền kinh tế nông nghiệp của Thị xã Sơn Tây
đã có bước phát triển theo đường lối của Đảng, song tốc độ chậm, sản xuất
chủ yếu ở tình trạng tự cung, tự cấp, chưa tập trung đúng mức cho mặt trận
hàng đầu là nông nghiệp. Trình độ kỹ thuật và trình độ sản xuất nông nghiệp
còn thấp, chưa đảm bảo tưới tiêu chủ động và hợp lý cho cây trồng, chưa
cung ứng đủ công cụ vật tư cần thiết cho nông nghiệp. Trong khi đó, tiềm
năng lao động, đất đai….chưa được tận dụng, khai thác triệt để. Trong sản
31
xuất nông nghiệp, còn yếu về khoa học kỹ thuật, chậm chuyển đổi cơ cấu cây
trồng vào sản xuất. Từ đó, hạn chế tốc độ tăng trưởng lương thực thực phẩm.
Thu nhập của người dân chủ yếu từ nông nghiệp nên đời sống gặp nhiều khó khăn.
Tất cả những thành tựu và hạn chế còn tồn tại trong việc lãnh đạo kinh
tế nông nghiệp giai đoạn trước năm 1996 là cơ sở, là kinh nghiệm quý báu để
Đảng bộ Thị xã Sơn Tây lãnh đạo, chỉ đạo đưa kinh tế Thị xã Sơn Tây nói
chung, kinh tế nông nghiệp nói riêng phát triển nhanh, mạnh và bền vững
trong những năm tiếp theo.
1.3 Đảng bộ Thị xã Sơn Tây lãnh đạo, chỉ đạo kinh tế nông nghiệp từ
năm 1996 đến năm 2000
1.3.1 Đường lối đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng
Cộng sản Việt Nam và chủ trương của Đảng bộ Tỉnh Hà Tây
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quy luật của tất cả các nước khi tiến
lên một nền kinh tế xã hội hiện đại và phát triển. Đó là con đường tất yếu mà
mọi quốc gia không thể bỏ qua để đạt được thành quả phát triển về kinh tế xã
hội và thoát khỏi nguy cơ tụt hậu. Do xuất phát điểm từ một nước nông
nghiệp với hơn 80% dân số và 76,9% lực lượng lao động sống và làm việc ở
nông thôn, Việt Nam coi CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là vấn đề đầu
tiên và là trọng tâm. Đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển
nền kinh tế xã hội của đất nước.
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là quá trình xây dựng, phát triển
cơ sở vật chất kỹ thuật, chuyển từ lao động thủ công là chủ yếu sang lao động
sử dụng máy móc với kỹ thuật, công nghệ tiên tiến. Chuyển dịch cơ cấu kinh
tế xã hội nông thôn theo hướng tiến lên hiện đại gắn nông nghiệp với công
nghiệp và dịch vụ; cho phép khai thác, phát huy có hiệu quả các nguồn lực và
lợi thế so sánh đất nước trong sự mở rộng hợp tác quốc tế.
32
1.3.1.1 Đường lối đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng
Cộng sản Việt Nam
Nông nghiệp nông thôn có vai trò, vị trí quan trọng đối với sự phát triển
của mỗi quốc gia, mọi tiềm năng nguồn lực và thế mạnh của nông nghiệp,
nông thôn có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước
trong thời kỳ đầu của quá trình xây dựng, đưa nền kinh tế từ lạc hậu lên nền
kinh tế tiên tiến, hiện đại. Khi nông nghiệp phát triển bền vững sẽ tạo ra
những bước phát triển ổn định cho nền kinh tế xã hội. Ở nước ta, trong quá
trình lãnh đạo xây dựng, phát triển đất nước, ĐCSVN luôn khẳng định tầm
quan trọng của nông nghiệp, nông thôn và có những chủ trương đúng đắn
thúc đẩy sản xuất phát triển đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng.
Phát huy những thành tựu đạt được của công cuộc đổi mới nói chung,
kết quả của nông nghiệp - nông thôn nói riêng. Đại hội VII (6/1991) và
Cương lĩnh xây dựng đất nước của Đảng đã cụ thể hóa nội dung công nghiệp
hóa đất nước thể hiện qua những nội dung:
- Phát triển lực lượng sản xuất, đẩy mạnh công nghiệp hóa đất nước
theo hướng hiện đại, gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là
nhiệm vụ trọng tâm.
- Phát triển nông- lâm- ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, phát
triển toàn diện kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới.
- Phát triển một số ngành công nghiệp nặng với bước đi thích hợp,
trước hết là các ngành công nghiệp trực tiếp phục vụ cho phát triển nông-
lâm- ngư nghiệp, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, thực hiện liên kết công
nghiệp với nông nghiệp, thành thị với nông thôn.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII và Cương lĩnh xây dựng đất
nước xác định và nhấn mạnh vị trí, vai trò của nông nghiệp và kinh tế nông
thôn, một trong những nhiệm vụ trọng tâm của sự nghiệp công nghiệp hóa đất
nước, có ý nghĩa quyết định đến ổn định tình hình kinh tế xã hội. Những
33
thành tựu trong lĩnh vực kinh tế đã khẳng định sự đúng đắn về đường lối đồng
thời là điều kiện để Đảng ta tiếp tục cụ thể hóa đường lối CNH, HĐH đất
nước trên từng lĩnh vực, kế thừa những quan điểm, chủ trương cơ bản về
CNH, HĐH đất nước trong những năm 1991- 1995(Đại hội Đại biểu toàn
quốc VII), đồng thời tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm về CNH của các
quốc gia trên thế giới. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng
(6/1996) mở đầu thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, xây dựng nước Việt
Nam độc lập dân chủ, xã hội công bằng văn minh theo định hướng XHCN.
Đại hội nhấn mạnh “phải đặc biệt coi trọng CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn, ra sức phát triển nông- lâm- ngư nghiệp, các ngành công nghiệp chế
biến nông- lâm- thủy sản” [24; 22]. Đại hội đã bổ sung, phát triển, quyết định
chọn CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn làm bước đi đầu tiên để thực hiện
CNH, HĐH đất nước. Đại hội xác định nội dung chủ yếu của CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn:
- Phát triển toàn diện nông nghiệp, hình thành các vùng tập trung
chuyên canh, có cơ cấu hợp lý về cây trồng, vật nuôi, có sản phẩm hàng hóa
với số nhiều lượng nhiều, chất lượng tốt, đảm bảo an toàn lương thực, đáp
ứng được yêu cầu của công nghiệp chế biến và của thị trường trong cũng như
ngoài nước.
- Thực hiện thủy lợi hóa, hiện đại hóa, cơ giới hóa, sinh học hóa nông nghiệp.
- Phát triển công nghiệp chế biến nông- lâm- thủy sản với công nghệ
ngày càng cao gắn với nguồn nguyên liệu và liên kết với công nghiệp ở đô thị.
- Phát triển các ngành nghề, làng nghề truyền thống và các ngành nghề
mới, bao gồm thủ công nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng
xuất khẩu và chế biến các nguồn nguyên liệu phi nông nghiệp, các loại hình
dịch vụ cho sản xuất và đời sống nhân dân.
- Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội ở nông thôn, từng bước
hình thành nông thôn mới văn minh, hiện đại. Trong 5 năm tới, xây dựng
34
thêm đường sá, mạng lưới dây điện, cấp nước, điện thoại, trường học, cơ sở y
tế văn hóa ở nông thôn để phát huy tiềm năng nguồn lực tự nhiên và con
người ở nông thôn [24; 87].
Nội dung CNH, HĐH đất nước do Đại hội VIII xác định là phản ánh
toàn diện tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó tiến hành CNH,
HĐH nông nghiệp và nông thôn được đặt lên vị trí hàng đầu của sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước trên cơ sở nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò quan
trọng của nông nghiệp nông thôn và nông dân đối với sự nghiệp cách mạng.
Nghị quyết Đại hội VIII khẳng định rõ hơn vai trò của kinh tế hộ và
khuyến khích kinh tế hộ phát triển: kinh tế hộ gia đình ở nông thôn (làm
nông- lâm- ngư nghiệp, diêm nghiệp, dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp… hoặc
kết hợp làm nhiều ngành nghề) là loại hình sản xuất có hiệu quả về kinh tế xã
hội, phát triển lâu dài, có vị trí quan trọng trong sản xuất nông nghiệp và quá
trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Vì vậy, cần khuyến khích kinh tế
hộ phát triển mạnh mẽ.
Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII, Quốc hội và Chính phủ
ban hành nhiều chủ trương, chính sách thúc đẩy sự phát triển của nông
nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH như:
Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII (6/1996) về
“Định hướng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ trong thời kỳ CNH,
HĐH và nhiệm vụ đến năm 2000” đã xác định nhiệm vụ, quan điểm chỉ đạo
về CNH, HĐH nông nghiệp và kinh tế nông thôn trong giai đoạn tới; đẩy
mạnh nghiên cứu tuyển chọn các loại giống cây, con có năng suất và chất
lượng cao; áp dụng công nghệ sinh học hiện đại, để sản xuất ra các loại nông
sản sạch, phục vụ nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của xã hội và xuất khẩu.
Bên cạnh đó, chú trọng phát triển chăn nuôi trên cơ sở đẩy mạnh các
biện pháp sinh học vào sản xuất, tạo ra nhiều chủng loại tốt, hiệu quả cao,
nâng cao trình độ chế biến và bảo quản nông sản hàng hóa; đẩy nhanh cơ giới
35
hóa, điện khí hóa, sử dụng phương pháp tiên tiến trong tưới tiêu nước, phục
vụ cho sản xuất nông nghiệp, sử dụng và khai thác hợp lý vùng đất đai mới để
phát triển sản xuất.
Ngày 01/7/1997, Luật HTX ra đời đã chú trọng chuyển các HTX sản
xuất nông nghiệp cũ sang làm chức năng dịch vụ theo mô hình HTX nông
nghiệp kiểu mới. Sau khi Luật có hiệu lực, Chính phủ ra Nghị định số 15-
NĐ/CP và Nghị định số 16-NQ/CP (2/1997) về chính sách khuyến khích phát
triển HTX nông nghiệp và thực hiện chuyển đổi đăng ký HTX. Tháng 4/1997,
Chính phủ ra Nghị định số 43- NQ/CP ban hành điều lệ mẫu cho các HTX
nông - lâm nghiệp, thủy sản. Tạo điều kiện cho các HTX nông nghiệp có sơ
sở pháp lý để tiến hành đổi mới.
Các HTX mới ra đời trên cơ sở chuyển đổi của các HTX cũ, sang làm
các hoạt động dịch vụ cung cấp đầu vào, tiêu thụ sản phẩm đầu ra cho kinh tế
hộ, kinh tế trang trại và các thành phần kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn.
Nhờ đó đã khai thác nguồn nguyên liệu, tiềm năng trong nông nghiệp, nông
dân và nông thôn ngày càng hiệu quả hơn.
Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, ngày
29/12/1996 về “Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới và phát huy nội lực,
nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, cần kiệm để CNH, HĐH, phấn đấu hoàn
thành các mục tiêu kinh tế xã hội đến năm 2000”, chủ trương phát triển nông
nghiệp, nông thôn theo hướng CHN, HĐH và hợp tác hóa, dân chủ hóa. Để
tạo yên tâm và thuận lợi cho nông dân, Chính phủ ra Chỉ thị số 10/1998/ CT-
Ttg (2/1998) chỉ đạo nhiệm vụ giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất nông nghiệp và đẩy mạnh hoạt động tín dụng tạo điều kiện cho kinh tế hộ
gia đình, các tổ hợp tác vay vốn để phát triển sản xuất.
Trên cơ sở đánh giá sâu sắc tình hình kinh tế xã hội những năm qua và
dự báo diễn biến thuận lợi, khó khăn trong thời gian tới, Hội nghị lần thứ 6
(lần 1) Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, ngày 17/10/1998 về “Nhiệm vụ
36
kinh tế xã hội năm 1999, và vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn”. Hội
nghị đã đưa ra mục tiêu tổng quát về kinh tế xã hội trong năm 1999 và đến
năm 2000: tiếp tục công cuộc đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, nhất
là công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn, thực hiện có hiệu quả chương
trình hành động theo Nghị quyết Trung ương 4[21; 192].
Hội nghị xác định rõ nhiệm vụ chính thực hiện trong năm 1999 trong
đó “tập trung sức cao hơn nữa cho nhiệm vụ phát triển nông nghiệp và lao
động nông thôn theo hướng CNH, HĐH làm cơ sở vững chắc cho sự ổn định
và phát triển kinh tế xã hội trong mọi tình huống; ưu tiên phát triển công
nghiệp phục vụ nông nghiệp, điều chỉnh cơ cấu, đổi mới cơ chế các ngành
công nghiệp nhằm tháo gỡ khó khăn, tăng nhanh khả năng cạnh tranh của sản
phẩm” [21; 195].
Trong Hội nghị, vai trò quan trọng của kinh tế hộ gia đình trong quá
trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn được khẳng định. Khuyến khích các
hình thức kinh tế trang trại phát triển thực hiện liên kết với kinh tế hộ và các
thành phần kinh tế khác để mở rộng quy mô sản xuất- kinh doanh.
Nghị quyết đã chú trọng đến những chủ trương, chính sách nhằm phát
triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn:
- Coi trọng thực hiện CNH, HĐH trong phát triển nông nghiệp (gồm cả
lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp) và xây dựng nông thôn, đưa nông
nghiệp và kinh tế nông thôn lên sản xuất lớn là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng cả
trước mắt và lâu dài, là cơ sở để ổn định tình hình kinh tế, chính trị, xã hội.
- Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, gắn phát triển nông nghiệp với
công nghiệp chế biến, ngành nghề gắn sản xuất với thị trường để hình thành
sự liên kết nông- công nghiệp- dịch vụ và thị trường ngay trên địa bàn nông
thôn và trên phạm vi cả nước; gắn phát triển nông nghiệp với xây dựng nông
thôn mới, gắn công nghiệp hóa với thực hiện dân chủ hóa và nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực ở nông thôn.
37
- Phát huy lợi thế của từng vùng và của cả nước, áp dụng nhanh các
tiến bộ khoa học công nghệ để phát triển nông nghiệp hàng hóa đa dạng, đáp
ứng ngày càng cao nhu cầu nông sản thực phẩm và nguyên liệu công nghiệp,
hướng mạnh ra xuất khẩu.
- Phát triển nền nông nghiệp với nhiều thành phần kinh tế, trong đó
kinh tế nông nghiệp giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế HTX dần trở thành
nền tảng…Tạo điều kiện và khuyến khích mạnh mẽ hộ nông dân và những
người có khả năng đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh nông nghiệp, công
nghiệp, dịch vụ ở nông thôn [22; 6-7].
Nghị quyết 6 lần 1 Ban Chấp hành Trung ương lần VIII của Đảng có
nhiều nội dung mới, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh và tạo thuận lợi cho
người nông dân, trong đó vấn đề quan trọng nhất là khẳng định vai trò, vị trí
quan trọng của nông nghiệp, nông thôn và nông dân trong giai đoạn đẩy mạnh
CNH, HĐH. Lần đầu tiên vấn đề kinh tế trang trại được thừa nhận trong Nghị
quyết của Đảng.
Để khai thác đất đai ngày càng có hiệu quả hơn, tháng 6/2000, Chính
phủ ra Nghị quyết số 09- NQ/CP, ngày 15/6/2000 về “Một số chủ trương và
chính sách về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp”,
cho phép những vùng trồng lúa và các loại cây hoa màu có hiệu quả kinh tế
thấp, chuyển sang sản xuất các loại sản phẩm khác. Nghị quyết ra đời nhằm
phát huy lợi thế to lớn của nền nông nghiệp nước ta về tiềm năng tự nhiên, về
truyền thống làm nông nghiệp của nước ta từ lâu đời. Về tính cần cù, năng
động, sáng tạo của nhân dân, thực hiện mục tiêu xây dựng một nền nông
nghiệp mạnh, phát triển bền vững, áp dụng công nghệ cao, công nghệ mới,
từng bước được hiện đại hóa, vươn lên để trở thành một nền nông nghiệp với
những ngành sản xuất hàng hóa lớn, có sức cạnh tranh ngày càng cao trong
quá trình hội nhập quốc tế, có năng suất và thu nhập cao trên một đơn vị diện
tích, đáp ứng nhu cầu lương thực, thực phầm cho nhân dân, nguyên liệu cho
38
công nghiệp, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu và bảo vệ môi trường sinh thái,
góp phần nâng cao đời sống nông dân, ổn định kinh tế xã hội đất nước.
Nghị quyết 09 thể hiện sự đổi mới tư duy theo hướng sản xuất nông
nghiệp hàng hóa, lấy hiệu quả làm mục tiêu, khác hẳn tư duy tự túc lương
thực bằng mọi giá.
Sự phát triển kinh tế xã hội nhất là nông nghiệp, xây dựng nông thôn
trong thời kỳ 1996- 2000 trên cơ sở thực hiện những chủ trương, đường lối đã
chứng minh đường lối đúng đắn của Đảng, đó là một bước chuyển quan trọng
lớn lao trong thời kỳ đổi mới, xây dựng đất nước. Nông nghiệp, nông thôn
nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, cơ bản đã trở thành nền sản xuất
hàng hóa với tốc độ tăng trưởng bình quân 4,2%/năm, đảm bảo lương thực
quốc gia, một số mặt hàng xuất khẩu có thị phần khá lớn trong khu vực và
trên thế giới, đời sống nông dân được cải thiện rõ rệt. Thành tựu có ý nghĩa
quan trọng là trong một thời gian dài, từ một nền nông nghiệp tự cấp, tự túc
đã vươn lên thành một nền nông nghiệp với những ngành sản xuất hàng hóa
lớn, có sức cạnh tranh ngày càng mạnh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Những thành tựu đạt được trong thời gian 1996- 2000 về kinh tế xã hội
cùng với những chủ trương, đường lối của ĐCSVN về CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn đã đáp ứng yêu cầu cấp bách về phát triển kinh tế xã hội,
nguyện vọng của nông dân, nhờ đó đã thúc đẩy sản xuất phát triển với năng
xuất, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao. Đồng thời đây cũng là điều kiện,
là tiền đề để ĐCSVN lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế xã hội giai đoạn sau
giành nhiều kết quả.
1.3.1.2 Chủ trương của Đảng bộ Tỉnh Hà Tây
Thi hành Điều lệ ĐCSVN và Chỉ thị số 15-CT/TW của Ban Bí thư
Trung ương Đảng, Đảng bộ Tỉnh Hà Tây đã tiến hành Đại hội Đại biểu lần
thứ XII nhiệm kỳ 1996- 2000 (4/1996). Đại hội đã thông qua báo cáo của Ban
39
Chấp hành Đảng bộ Tỉnh về kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội nhiệm kỳ
1992- 1995 và phương hướng nhiệm vụ thời kỳ 1996- 2000.
Đại hội Đại biểu Đảng bộ Tỉnh Hà Tây lần XII đã nhấn mạnh nhiều nội
dung rất quan trọng, đặc biệt là bàn định những chủ trương, giải pháp đúng
đắn nhằm phát huy tốt hơn những tiềm năng, lợi thế sẵn có, đưa nền kinh tế
xã hội của Hà Tây phát triển với tốc độ cao hơn, có cơ cấu hợp lý hơn theo
hướng CHN, HĐH và đúng định hướng XHCN, đặc biệt là CNH, HĐH nông
nghiệp và kinh tế nông thôn. Khẳng định nông nghiệp vẫn luôn là một ngành
kinh tế trọng yếu của Tỉnh, Đại hội đã đề ra mục tiêu phát triển tới năm 2000:
- Tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm khoảng 10- 11%, bình quân theo
đầu người năm 2000 đạt ít nhất 400 USD.
- Năm 2000 có cơ cấu kinh tế: công nghiệp 30%; du lịch- dịch vụ 30%,
nông nghiệp 40%. Tổng sản lượng lương thực: 1 triệu tấn.
- Ứng dụng rộng rãi các tiến bộ khoa học công nghệ trong sản xuất,
nhất là sản xuất nông nghiệp, công nghiệp chế biến, bảo vệ môi trường sinh
thái bền vững” [5; 300].
Để mục tiêu đạt hiệu quả, Đại hội đã đề ra các nhiệm vụ cụ thể để phát
triển kinh tế xã hội, trong đó về phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn.
Đại hội chỉ rõ: phải quán triệt quan điểm của Đảng về CNH, HĐH, phải thâm
canh, ứng dụng khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ sinh học, chú trọng
khâu giống cây, con và sinh thái môi trường; đồng thời đẩy nhanh việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động nông thôn theo hướng phát triển công
nghiệp, dịch vụ. Quan tâm xây dựng cơ sở hạ tầng ở nông thôn, phát triển
mạnh công nghiệp chế biến lương thực thực phẩm, công nghiệp sản xuất hàng
tiêu dùng nhằm đảm bảo nông nghiệp và kinh tế nông thôn tiếp tục tạo cơ sở
cho sự phát triển các ngành khác…
Sau Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Tỉnh ủy xác định: giai
đoạn 1996- 2000 là bước đi rất quan trọng của thời kỳ phát triển mới, đẩy
40
mạnh CNH, HĐH. Nghị quyết Đại hội nhấn mạnh “tiến hành CNH, HĐH ở
tỉnh ta trong những năm 1996- 2000 phải rất coi trọng môi trường nông
nghiệp, thúc đẩy phát triển nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH tạo ra nông
sản hàng hóa có chất lượng, đạt hiệu quả giá trị trên 1 đơn vị diện tích ngày
càng cao” [86; 26]. Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của kế hoạch 5 năm
(1996- 2000) đã được xây dựng với mức phấn đấu cao cả về tốc độ phát triển,
chất lượng và hiệu quả tăng trưởng, chuẩn bị tiền đề cho bước phát triển cao
hơn sau năm 2000.
Để thực hiện mục tiêu, Tỉnh ủy tập trung triển khai tuyên truyền quán
triệt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII và Nghị quyết Đại hội
Đại biểu Đảng bộ Tỉnh lần XII; thực hiện Nghị quyết Đại hội “một số HTX ở
Ứng Hòa trong đó có xã Trầm Lộng đã tổ chức các hộ nông dân đổi ruộng
cho nhau, từ chỗ có nhiều thửa nay chỉ có 3-4 thửa để tiện lợi cho việc thâm
canh và chuyển dịch mô hình cơ cấu cây trồng, vật nuôi” [5; 303] . Đây là
việc làm sáng tạo, một dấu mốc mở đầu ngành nông nghiệp hợp tác chuyển
dịch sang sản xuất hàng hóa. Bên cạnh đó, phong trào làm vườn- ao- chuồng
(VAC), cải tạo vườn tạp thành vườn cây ăn quả có giá trị kinh tế cao bắt đầu
được phát triển ở nhiều nơi.
Được xác định là một tỉnh mà nông nghiệp là mặt trận có vị trí, vai trò
quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội theo hướng CNH, HĐH,
cùng với những thành quả đạt được, Tỉnh ủy Hà Tây ra Nghị quyết số 01-
NQ/TU ngày 01/10/1996 về “Tổ chức thực hiện mục tiêu phát triển nông
nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng CNH, HĐH đến năm 2000”, Nghị
quyết nêu ra phương hướng “chuyển đổi nhanh cơ cấu kinh tế nông nghiệp,
nông thôn từ thuần nông sang sản xuất hàng hóa đa dạng; đồng thời đẩy
nhanh tốc độ khôi phục ngành nghề truyền thống và mở mang nghề mới nhằm
làm chuyển biến việc phân công lại lao động và nâng cao đời sống nông dân”
[5; 304]. Nghị quyết đã đề ra 6 giải pháp chính nhằm thúc đẩy nền kinh tế
41
nông nghiệp của Tỉnh gồm: về giống, về quy hoạch vùng sản xuất hàng hóa,
về tăng cường cơ sở hạ tầng, về phát triển công nghiệp- thủ công nghiệp và
dịch vụ phục vụ nông nghiệp, nông thôn, về HTX nông nghiệp và một số vấn
đề về chính sách.
Nghị quyết 01- NQ/TU còn đề cập đến việc đổi mới HTX nông nghiệp
nhằm tạo động lực mới để chuyển đổi nhanh cơ cấu kinh tế nông nghiệp và cơ
cấu kinh tế nông thôn, thúc đẩy kinh tế hộ xã viên và kinh tế HTX cùng phát
triển.
Đối với lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, Nghị quyết 01 ngày
1/10/1996 là một dấu mốc quan tọng trong việc thực hiện Nghị quyết Đại hội
Đảng lần thứ VIII và Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ Tỉnh lần XII.
Sau Nghị quyết số 01, ngày 12/2/1997, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Chỉ
thị số 14- CT/TU về việc“Đẩy mạnh sản xuất trên cơ sở đổi ruộng từ ô thửa
nhỏ thành ô thửa lớn gắn với quy hoạch sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho hộ nông dân”, chủ trương phấn đấu tới năm 2000, tất
cả các xã đều chuyển đổi xong. Việc chuyển đổi ruộng đất là cơ sở để kinh tế
nông nghiệp trên địa bàn Tỉnh đi đúng với thời kỳ CNH, HĐH.
Ngày 06/03/1997, UBND Tỉnh ra Quyết định số 160- QĐ/UB ban hành
kế hoạch hướng dẫn chuyển đổi ruộng đất từ ô thửa nhỏ thành ô thửa lớn.
Chị thị số 14 và Quyết định số 160 đã tạo thuận lợi cho hộ canh tác,
thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa
có hiệu quả. Đó là cơ sở thực hiện nhiều mô hình sản xuất có hiệu quả, tạo
việc làm và tăng thu nhập cho người lao động, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp,
phát triển chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
Để khuyến khích phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH,
HĐH phù hợp với điều kiện của Tỉnh, ngày 14/4/1997, Tỉnh ủy ra Nghị quyết
số 04- NQ/TU về “Phát triển khoa học công nghệ trong thời kỳ công nghiệp
42
hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000”, ra Chỉ thị số 20- CT/TU ngày
1/4/1997 về việc “Chuyển đổi HTX nông nghiệp theo Luật HTX”.
Quán triệt tinh thần Nghị quyết Hội nghị TW 6 lần 1, Hội nghị Ban
Chấp hành Đảng bộ Tỉnh lần thứ 15, khóa XII đã nghiên cứu, thảo luận và
quyết định 4 chương trình lớn nhằm phát triển nông nghiệp, nông thôn theo
hướng CNH, HĐH: chương trình 1 triệu tấn lương thực quy thóc vào năm
2000; chương trình tiếp tục thực hiện mục tiêu phát triển chăn nuôi đến năm
2000; chương trình an toàn đê điều và giải quyết cơ bản úng, hạn để ổn định
và phát triển nông nghiệp; chương trình củng cố HTX nông nghiệp sau
chuyển đổi HTX theo Luật.
Về công tác thủy lợi: Đảng bộ tích cực chỉ đạo công tác thủy lợi gồm cả
vấn đề bảo vệ đê kè, củng cố xây dựng trạm bơm và kiên cố hóa kênh mương.
Song song với việc chuyển đổi ruộng đất từ ô thửa nhỏ sang ô thửa lớn
và chuyển đổi HTX theo Luật, để tạo yên tâm cho người nông dân trên mảnh
đất của họ, đồng thời để thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về việc
giao ruộng đất lâu dài cho nông dân, UBND Tỉnh đã triển khai việc cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho nông dân.
Được sự quan tâm, chỉ đạo của Đảng, các ban ngành, các hộ nông dân
rất phấn khởi được tự chủ trên mảnh đất của mình, ra sức sản xuất nhằm nâng
cao năng xuất và sản lượng cây trồng. Trong chỉ đạo, Tỉnh kết hợp nhiều biện
pháp đồng bộ, tích cực mở rộng diện tích với thâm canh, tăng năng suất. Mở
rộng diện tích vụ đông, đưa loại lúa có năng suất cao vào cấy trồng. Năm
2000, Tỉnh thực hiện chính sách hỗ trợ giống, điện, nước tưới tiêu cho xã viên
HTX sản xuất nông nghiệp.
Do thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp nên sản xuất nông nghiệp có
bước phát triển mạnh, diện tích, năng suất, sản lượng đều tăng. Bên cạnh đó,
Đảng bộ luôn chú trọng đến sự gắn kết chặt chẽ giữa nông nghiệp- công
43
nghiệp và dich vụ qua các công đoạn chuẩn bị, quá trình sản xuất, chế biến và
tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm.
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn cả nước nói chung và Hà Tây nói
riêng là giải pháp quan trọng, là khâu trọng yếu, có tính đột phá trong sự phát
triển kinh tế xã hội của đất nước tiến tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Những kết quả, những chủ trương, chính sách
của Đảng bộ Tỉnh Hà Tây 5 năm qua (1996-2000) tạo cơ sở vững chắc cho
Đảng bộ và nhân dân trong Tỉnh liên tục thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước trên địa bàn toàn Tỉnh những năm đầu thế kỷ XXI
1.3.2 Quá trình lãnh đạo thực hiện phát triển kinh tế nông nghiệp
của Đảng bộ Thị xã Sơn Tây (1996- 2000)
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sau 10 năm tiến hành công cuộc đổi mới,
tình hình kinh tế xã hội của đất nước đã đạt được những thành tựu nhất định.
Đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, đời sống nhân dân được cải thiện
và thiết lập quan hệ ngoại giao.
Thực hiện Chỉ thị số 51- CT/TW ngày 09/03/1995 của Ban Bí thư TW
Đảng bộ Tỉnh Hà Tây về tổ chức Đại hội Đảng các cấp, Đại hội Đại biểu
Đảng bộ Thị xã Sơn Tây lần thứ XVI đã được tổ chức. Đại hội xem xét đánh
giá tình hình, kết quả đã đạt được, chưa đạt được và những thiếu sót tồn tại
trong việc lãnh đạo chỉ đạo và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần XV
để rút ra những bài học kinh nghiệm cho nhiệm kỳ XVI và để tiếp tục đẩy
mạnh và phát triển kinh tế chính trị của Thị xã, Đại hội đã tán thành phương
hướng, mục tiêu cơ bản, nhiệm vụ chủ yếu và những giải pháp chính của
nhiệm kỳ XVI (1996- 2000)
Đại hội nhấn mạnh, trong 5 năm tới, Đảng bộ và nhân dân Thị xã Sơn
Tây quyết tâm phấn đấu đạt và vượt những chỉ tiêu: “phấn đấu đến năm 2000,
giá trị nông-lâm nghiệp đạt 164 tỷ đồng chiếm 25% trong cơ cấu kinh tế, tăng
bình quân hàng năm 12%; giữ vững sản lượng lương thực trên 19.000 tấn/
44
năm. Đưa vụ đông lên 60% diện tích đất canh tác. Giữ vững phát triển đàn gia
súc, gia cầm, đẩy mạnh hoạt động kinh tế VAC, sinh vật cảnh, phát triển chăn
nuôi dê, bò sữa và nuôi con đặc sản. Hoàn thành kế hoạch trồng cây tập trung
và cây phân tán, kết hợp trồng cây lấy gỗ và cây ăn quả. Phấn đấu đến năm
2000 mức thu nhập bình quân đầu người 5 triệu đồng, tương đương 700 USD.
Giảm số hộ nghèo xuống còn 3%, không có hộ đói” [4; 126-127].
Nhằm đạt được những mục tiêu đề ra và tạo sự chuyển biến tích cực
trên mọi mặt đời sống xã hội thì Đảng ủy và UBND Thị xã đã chỉ đạo các
phòng, ban đề ra các giải pháp lớn để phát triển kinh tế xã hội của Thị xã trên
tất cả các lĩnh vực, đồng thời phân công người giám sát, kiểm tra việc thực
hiện đó, đã chú trọng tới việc phát triển kinh tế để củng cố vững chắc tiềm lực
và phát huy tiềm năng sẵn có của địa phương. Ban Chấp hành Đảng bộ Thị xã
tập trung chỉ đạo tiếp tục phát triển kinh tế nông nghiệp, công nghiệp- tiểu thủ
công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
Qua quá trình chỉ đạo thực hiện, kinh tế Thị xã trong 5 năm (1996-
2000) có những bước phát triển nhanh chóng. Năm 2000, tổng giá trị công
nghiệp- thương mại, dịch vụ và nông- lâm ngư nghiệp đạt 628 tỷ đồng, so với
năm 1996 bằng 150%, tăng bình quân 10%/năm, so với mục tiêu Đại hội bằng
96%. GDP đạt 271 tỷ đồng, so với năm 1996 bằng 120%, tăng bình quân
4%/năm, so với mục tiêu Đại hội bằng 70% [70; 3].
Thu nhập bình quân đầu người năm 2000 đạt 3,5 triệu đồng, tăng 32%
so với năm 1996. Năm 2000, năng suất lúa bình quân đạt 50,9 tạ/ha, tăng 6,8
tạ/ha so với năm 1996. Tổng sản lượng lương thực quy thóc đạt 22.300 tấn,
bằng 123% so với mục tiêu Đại hội. Bình quân lương thực khẩu nông nghiệp
đạt 364kg/người/năm. Chăn nuôi tiếp tục phát triển, mô hình nuôi bò sữa
bước đầu đã đem lại hiệu quả kinh tế, số hộ phát triển sản xuất theo mô hình
trang trại đạt 23 trang trại [4; 137].
45
Cùng với sự đổi mới đi lên của đất nước, phát triển kinh tế xã hội theo
hướng CNH, HĐH. Mặc dù trong thời gian này Thị xã Sơn Tây còn gặp nhiều
khó khăn, tình hình thời tiết diễn biến phức tạp gây bão, lũ, hạn hán lớn,
nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng còn hạn chế, Tuy nhiên, các cấp,
các ngành và nhân dân Thị xã đã nỗ lực phấn đấu, phát huy kết quả đạt được,
tranh thủ lợi thế và huy động mọi nguồn vốn để phát triển nhanh theo cơ cấu
kinh tế: công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp; thương mại- du lịch- dịch vụ;
nông- lâm ngư nghiệp nhằm xây dựng Thị xã Sơn Tây văn minh, giàu đẹp.
Trong 5 năm (1996- 2000) qua quán triệt Nghị quyết của Trung ương
Đảng, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy, HĐND Thị xã; sự
quan tâm chỉ đạo của Trung ương, của Tỉnh vào điều kiện cụ thể của Thị xã,
đã phát huy nội lực, khai thác mọi tiềm năng sẵn có, đã triển khai nhiều biện
pháp tích cực nhằm hoàn thành những chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch phát
triển kinh tế xã hội trong nhiệm kỳ (1996- 2000). Quá trình lãnh đạo phát
triển kinh nông nghiệp của Đảng bộ Thị xã Sơn Tây thể hiện trên nội dung:
*Chuyển dịch cơ cấu trong kinh tế:
Trong quá trình chỉ đạo sản xuất nông- lâm nghiệp đã chuyển biến nhận
thức; gắn phát triển sản xuất nông- lâm nghiệp với xây dựng nông thôn mới;
đẩy mạnh sản xuất lương thực gắn với phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm,
nhất là chuyển dịch cơ cấu cây trồng, con, gia súc theo hướng tăng dần các
loại cây, con có giá trị kinh tế cao, coi trọng công tác khuyến nông, đưa tiến
bộ khoa học kỹ thuật áp dụng vào sản xuất có hiệu quả. Kiện toàn tổ chức, đổi
mới phương thức hoạt động của Ban Quản lý HTX, các dịch vụ về điện, thủy
lợi, giống, phân bón cơ bản đáp ứng được nhu cầu của hộ nông dân.
Mặc dù nhiều năm thời tiết phức tạp gây hạn hán kéo dài hoặc mưa
nhiều gây úng ngập một số diện tích. Song có sự chỉ đạo tích cực của các cấp,
các ngành từ Thị xã đến cơ sở sản xuất nông- lâm nghiệp vẫn giữ vững và
phát triển, các chỉ tiêu trong sản xuất nông nghiệp đều đạt cao. Đảng bộ đã tập
46
trung lãnh đạo, chỉ đạo, đảm bảo cho kinh tế phát triển đúng hướng, trong đó,
tốc độ tăng trưởng của các ngành đều tăng lên: công nghiệp- xây dựng tăng
15%; nông – lâm nghiệp tăng 12%; thương mại- dịch vụ- du lịch tăng
15%/năm. Cơ cấu kinh tế của Thị xã bước đầu có sự chuyển dịch theo hướng
tăng dần tỷ trọng trong ngành công nghiệp, dịch vụ từ 42,8% (1996) lên
51,4% (2000); ngành nông- lâm nghiệp giảm từ 57,2% (1996) xuống còn
49,6% (2000). Tỷ lệ lực lượng lao động có việc làm thường xuyên của Thị xã
Sơn Tây trong nhóm ngành nông – lâm nghiệp giảm từ 63,4% (1996) xuống
còn 58,7% (2000). Ngược lại, tỷ lệ lực lượng lao động có việc làm thường
xuyên trong nhóm ngành công nghiệp- xây dựng và thương mại- du lịch- dịch
vụ tăng từ 36,6% (1996) lên 41,3% (2000). Thu nhập bình quân 5 triệu đồng,
tương đương 700 USD/năm. Đây là hướng đi tốt giúp cho việc nâng cao chất
lượng đội ngũ lao động, phát huy và sử dụng hết tiềm năng sẵn có của địa
phương đẻ phát triển kinh tế xã hội của toàn Thị xã, cơ cấu kinh tế nông- lâm
nghiệp nông thôn chuyển dịch đúng hướng, mang lại hiệu quả cao cho nền
kinh tế nói chung và nền kinh tế của Thị xã nói riêng.
Kinh tế nông nghiệp của Thị xã có vai trò quan trọng với 6 xã và 6
phường sản xuất nông nghiệp, Đảng bộ đã chỉ đạo phát triển sản xuất nông-
lâm nghiệp theo Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VII) và chương trình nông
nghiệp của Tỉnh. Coi trọng sản xuất vụ chiêm, vụ mùa, vụ đông (vụ đông gieo
trồng đạt 50% diện tích đất canh tác), phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thay đổi cơ bản giống lúa cũ bằng giống mới năng
suất cao; tích cực thực hiện khuyến nông, thủy lợi, phòng trừ dịch bệnh nên
sản xuất nông nghiệp đạt kết quả cao.
Giá trị sản xuất nông- lâm nghiệp năm 2000 đạt 105 tỷ đồng, so với
1996 bằng 140%, tăng bình quân 8%/năm, bằng 64% so với mục tiêu đại hội.
Bình quân lương thực khẩu nông nghiệp đạt 364kg/người/năm. Đây là thành
47
tích quan trọng trong việc thực hiện chương trình lương thực của Thị xã [70;
5].
Cơ cấu kinh tế nông- lâm nghiệp, nông thôn chuyển dịch đúng hướng,
tăng tỷ trọng công nghiêp- dịch vụ và giảm dần tỷ trọng nông- lâm nghiệp,
các sản phẩm nông nghiệp không chỉ cung cấp cho đời sống nhân dân trong
địa bàn Thị xã mà còn xuất khẩu ra bên ngoài, phát triển nông- lâm nghiệp
dựa trên tiềm năng của Thị xã, sự áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào
sản xuất làm tăng năng suất và chất lượng nông sản, từ đó làm nâng cao đời
sống của người nông dân.
Dưới sự lãnh đạo của các ấp ủy Đảng, trong những năm 1996- 2000,
kinh tế xã hội của Thị xã đã có những bước phát triển nhanh chóng. Năm
2000, tổng giá trị công nghiệp- thương mại, dịch vụ và nông lâm nghiệp đạt
628 tỷ đồng, so với năm 1996 bằng 120%, tăng bình quân 10%/năm, so với
mục tiêu đại hội bằng 96%. GDP đạt đạt 271 tỷ đồng, so với năm 1996 bằng
120%, tăng bình quân 4%/năm, so với mục tiêu đại hội bằng 70%. Thu nhập
bình quân theo đầu người năm 2000 đạt 3,5 tỷ đồng, tăng 32% so với năm
1996. Năm 2000, năng suất lúa bình quân đạt 50,9 tạ/ha, tăng 6,8 tạ/ha so với
năm 1996. Tổng sản lượng lương thực quy thóc đạt 22.300 tấn, bằng 123% so
với mục tiêu đại hội đề ra. Bình quân lương thực khẩu nông nghiệp đạt 364
kg/người/năm. Chăn nuôi tiếp tục phát triển, mô hình nuôi bò sữa bước đầu
đã đem lại hiệu quả kinh tế, số hộ phát triển sản xuất theo mô hình trang trại
đạt 23 trang trại [70; 5].
Chăn nuôi được giữ vững và phát triển. Năm 2000, đàn trâu bò 9.533
con (trong đó đàn bò là 5.628 con và 80% được sind hóa), so với mục tiêu đại
hội đạt 95,3%, so với năm 1996 tăng 895 con, đảm bảo đủ sức kéo phục vụ
sản xuất. Đàn lợn: 25.300 con, bằng 104%, gia cầm: 320.000 con, bằng 160%
so với năm 1996, bước đầu nuôi bò sữa đem lại hiệu quả kinh tế (hiện nay có
53 con) [70; 6].
48
Tích cực trồng rừng và cây phân tán, từ năm 1996- 2000 đã trồng được
320ha rừng tập trung, bằng 109,3% và 357.700 cây phân tán bằng 90% mục
tiêu đại hội đặt ra. Kinh tế VAC, nuôi thả cá, sinh vật cảnh và các cây có giá
trị: vải, nhãn, na… phát triển khá, từ đó góp phần tăng thu nhập, giải quyết
việc làm mang lại hiệu quả kinh tế cho nông dân như ở các xã: Trung Sơn
Trầm, Cổ Đông, Thanh Mỹ…Một số sản xuất theo mô hình kinh tế trang trại
(hiện nay Thị xã có 23 trang trại) [70; 6].
Trong nhiệm kỳ này, Đảng bộ đã lãnh đạo thực hiện tốt các mục tiêu
kinh tế, xã hội mà Đại hội đề ra. Kết quả 14/14 mục tiêu đều đạt được và
vượt, trong đó 13 mục tiêu vượt từ 3% đến 127%. Hoạt động sản xuất kinh
doanh đã tập trung sắp xếp tổ chức sản xuất, mở rộng liên doanh, liên kết,
tăng cường đầu tư công nghệ mới, nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã, đa
dạng hóa sản phẩm… nên hiệu quả kinh tế tăng cao.
Cơ cấu kinh tế trong thời gian này góp phần quan trọng giải quyết việc
làm, nâng cao đời sống của người dân, sự tăng cao lao động ngành công
nghiệp, xây dựng, dịch vụ và giảm tỷ lao động ngành nông nghiệp chứng tỏ
lao động ngày càng có trình độ kỹ thuật cao, nhận thức của người dân tích cực
và đó là sự chỉ đạo đúng đắn của các cấp ủy Đảng đã quan tâm hơn tới đời
sống nhân dân, tới sự phát triển kinh tế xã hội của Thị xã, số lao động lúc
nông nhàn được sử dụng, lập ra các cơ sở, xí nghiệp sản xuất nông nghiệp,
khôi phục các ngành nghề truyền thống.
* Ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp
Để nền kinh tế xã hội của Thị xã nói chung và kinh tế nông nghiệp nói
riêng phát triển vượt bậc, Thị xã đã tập trung đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp theo hướng tăng năng xuất, sản lượng những cây con,
giống có giá trị cao, chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi để thích hợp với
điều kiện từng địa phương. Đồng thời, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật,
công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp để tăng năng suất và chất lượng của
49
cây trồng, vật nuôi, áp dụng luân canh tăng vụ phù hợp, thực hiện tốt và có
hiệu quả mối liên hệ giữa Nhà nước- nhà nông- nhà khoa học và nhà doanh
nghiệp, tạo cho nông dân có niềm tin trong sản xuất nông nghiệp.
Trong 5 năm (1996- 2000) việc đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật áp dụng
vào sản xuất có hiệu quả thiết thực. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
thể hiện ở việc bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý, các giống lúa tiến bộ có năng
suất cao chiếm tỷ trên 80% diện tích gieo cấy. Đồng thời, chỉ đạo trồng các
loại cây màu như: sắn, lạc, ngô, đậu tương… nhằm tận dụng tối đa diện tích
gieo trồng, nâng cao năng suất và thực hiện chỉ tiêu sản lượng lương thực
hàng năm.
Cùng với việc vận dụng kinh nghiệm trong chỉ đạo sản xuất nông
nghiệp, năm 1999 Thị xã đã có phương án triển khai thực hiện 4 chương trình
phát triển nông- lâm nghiệp đến năm 2000, phong trào phát triển kinh tế gia
đình gắn với chương trình VAC ngày càng được mở rộng. Nhiều hộ gia đình
đã tiến hành cải tạo, quy hoạch lại vườn đồi, trồng cây ăn quả, chăn nuôi gia
súc, gia cầm và các loại đặc sản đem lại hiệu quả kinh tế cao, đã thực sự trở
thành nguồn thu nhập lớn trong nông thôn và ở cả các phường, góp phần tích
cực vào chương trình xóa đói giảm nghèo. Bên cạnh đó, Đảng bộ Thị xã xây
dựng quỹ xóa đói giảm nghèo, khuyến khích phát triển tiểu thủ công nghiệp,
dịch vụ, triển khai một số dự án trong nông- lâm nghiệp…Trong 5 năm
(1996- 2000) giải quyết việc làm cho hơn 5.500 lao động. Hộ đói nghèo giảm
từ 6,2% (1996) xuống còn 3,86% (2000). Trong đó hộ đói là 172 hộ, bằng
0,67%; hộ nghèo là 821 hộ, bằng 3,19% [70; 8]. Từ kết quả đó, đã khẳng định
người nông dân Sơn Tây có thể làm giàu trên đất đồi gò.
Tiếp tục đưa giống mới, kỹ thuật thâm canh mới vào sản xuất nông
nghiệp. Các loại giống như: lúa Q5, Khang dân cho năng suất cao, sắn cao sản
HN124 của ngoại vẫn được phát triển trên diện tích rộng. Chỉ đạo trồng các
50
loại cây màu vụ xuân, trong đó có các loại cây: sắn, lạc, đậu tương, ngô, khoai
lang, các loại dưa và rau cho năng suất, chất lượng cao.
Để đảm bảo cho các cây, con phát triển thì còn cần chú trọng công tác
bảo vệ thực vật, tích cực diệt chuột, diệt sâu đảm bảo năng suất cây trồng và
nâng cao sản lượng lương thực.
Tình hình chăn nuôi được duy trì và phát triển, hệ thống thú y được
kiện toàn từ Thị xã đến xã, phường nên đã thường xuyên thực hiện công tác
tiêm phòng dịch bệnh cho đàn gia súc, gia cầm, không để dịch bệnh xảy ra.
Đến năm 2000, tổng đàn trâu bò có 9.533 con (trong đó đàn bò có 5.628 con,
tăng 895 con so với năm 1996). Đàn lợn có 25.300 con, bằng 104%; gia cầm
có 320.000 con, bằng 160% so với năm 1996.
Bên cạnh đó, thực hiện chương tình cải tạo đàn bò theo hướng sind hóa
và sữa hóa. Cùng hãng Neslei cho vay với lãi suất thấp để nuôi bò sữa cho 12
hộ giá trị 60 triệu đồng. Bước đầu đã có sản lượng sữa thu hoạch bình quân
mỗi tháng từ 15,5- 2 tấn sữa. Tiếp tục thực hiện giống gia cầm mới như: gà
thả vườn 882 được 150 con; ngan Pháp được 65 con giao cho các xã Trung
Sơn Trầm, Viên Sơn, Trung Hưng. Các con thủy sản, đặc sản như: cá, baba,
ếch… vẫn được phát triển [92; 3].
Việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp làm cho
tăng năng suất và chất lượng nông sản, cải thiện cuộc sống và tăng thu nhập
cho người nông dân từ đó làm tăng trưởng ngành nông nghiệp năm sau cao
hơn năm trước. Thu nhập bình quân đầu người năm 2000 đạt 3,5 tỷ đồng,
tăng 32 so với năm 1996. Năng suất lúa bình quân đạt 50,9 tạ/ha, tăng 6,8
tạ/ha.
Công tác phòng chống lụt, bão, úng được triển khai đúng quy định, chỉ
đạo chặt chẽ từ Thị xã đến cơ sở. Xây dựng cụ thể các phương án tiền
phương, hậu phương, phương án phối hợp với huyện Phúc Thọ, Ba Vì và với
các đơn vị quân đội trên địa bàn, cả trong trường hợp Thị xã chịu ảnh hưởng
51
của phân lũ. Tích cực chống úng nội đồng ở một số xã để hạn chế thiệt hại.
Hoàn thành nhiệm vụ tu sửa đê kè hàng năm và đảm bảo an toàn trong mùa
mưa bão [70; 7].
Hàng năm đã chủ động triển khai công tác phòng chống lụt, bão, úng
theo quy định, đảm bảo an toàn đê kè, hồ đập trong mùa mưa bão. Các
phương án được xây dựng cụ thể, chi tiết. Chuẩn bị mọi điều kiện khi có tình
huống xấu xảy ra, toàn bộ hệ thống đê, kè, chương trình thủy lợi đều được
kiểm tra trước mùa mưa bão nhằm phát hiện sự cố để kịp thời khắc phục.
Hàng năm đều xây dựng hiệp đồng với các huyện Ba Vì, Phúc Thọ để bảo vệ đê khi có lũ xảy ra. Trong 5 năm (1996- 2000), “đã nạo vét được 229.135 m3
kênh mương dẫn nước hoàn chỉnh nâng cấp 8 trạm bơm nước” [93; 3].
Đã hoàn thành đề án thủy lợi năm 1999- 2000, khảo sát xây dựng trạm bơm tiêu cống Bắc Kiên. Năm 1999, triển khai thi công đắp xong 100.000m3
đất cơ đê Đại Hà kể cả phần khối lượng của Thị xã thực hiện công trình đã
hoàn thành trước mùa mưa lũ, và đưa vào sử dụng, xử lý 2 vết nứt đê.
Thực hiện Nghị quyết của Ban Thường vụ và kế hoạch của UBND Thị
xã về công tác đổi ruộng từ ô thửa nhỏ sang ô thửa lớn và cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho nông dân. Có 9 xã và phường Xuân Khanh đã
xây dựng xong quy hoạch và có phương án đổi ruộng. Các đơn vị đã có Ban
chỉ đạo và tích cực hoạt động đến năm 1999 đã có 8 xã và phường Xuân
Khanh đã hoàn thành cơ bản xong phần đổi ruộng gắn với quy hoạch sử dụng
quỹ đất. Số hộ đã đổi ruộng được 5.825 hộ/11.916 hộ, cấp được 3.500 giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp và 228 giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất ở [93; 4]. Kết quả ban đầu tạo chuyển biến mới trong sản xuất nông
nghiệp, đồng thời trong quá trình chỉ đạo đã đạt được yêu cầu đúng luật, dân
chủ, giữ được sự ổn định, đoàn kết trong nhân dân.
Tới năm 2000, thực hiện Luật đất đai đã cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho 10.000 hộ, bằng 85% số hộ nhận ruộng, tạo điều kiện cho nông
52
dân yên tâm sản xuất. 13 HTX nông nghiệp và 2 HTX tín dụng (bằng 100%)
hoạt động theo Luật, có tác dụng tích cực phục vụ kinh tế hộ nông dân [70; 7].
Đảng bộ Thị xã Sơn Tây chủ trương khuyến khích và mở mang kinh tế
xã hội chủ nghĩa, kinh tế gia đình, kinh tế trang trại, các ngành, nghề truyền
thống để thu hút, tạo ra việc làm cho người lao động tại chỗ. Nhiều làng nghề
truyền thống được khôi phục và phát triển, các HTX nông nghiệp đã thực hiện
đổi mới quản lý, giao quyền sử dụng đất ổn định lâu dài cho nông dân, tạo
động lực thúc đầy sản xuất nông nghiệp phát triển.
* Chuyển dịch cơ cấu cây trồng:
Kinh tế nông nghiệp phát triển, tỷ lệ lao động sử dụng của lực lượng
lao động ở khu vực nông thôn năm 1996 là 70,2% tới năm 2000 đã tăng lên
90,2%. Kết quả này như một thành quả đáng ghi nhận góp phần tạo ra những
sự chuyển biến lớn trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội mà Thị xã Sơn
Tây đang dày công xây dựng.
Mô hình kinh tế VAC, nuôi thả cá, sinh vật cảnh và các cây có giá trị:
vải, nhãn, na… phát triển khá, một số sản xuất theo mô hình kinh tế trang trại
(hiện có 23 trang trại). Hoàn thành kế hoạch trồng cây tập trung và cây phân
tán, kết hợp trồng cây lấy gỗ và cây ăn quả.
Chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng công nghệ cao, đô thị, sinh
thái, sản xuất hàng hóa lớn, chất lượng hiệu quả, đảm bảo an toàn thực phẩm,
hài hòa và bền vững môi trường, góp phần đảm bảo an ninh lương thực, nâng
cao thu nhập cho nông dân.
Dựa vào điều kiện tự nhiêu và cơ cấu các loại đất của Thị xã mà lựa
chọn các giống cây trồng và biện pháp luân canh thích hợp.
Mở rộng các loại giống có hiệu quả kinh tế cao và thực hiện tốt thời vụ
đối với từng loại cây trồng, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào nông
nghiệp nhằm đưa lại năng suất, chất lượng cao.
53
Sản xuất nông nghiệp được đẩy mạnh phát triển gắn với xây dựng nông
thôn mới, sản xuất lương thực gắn với chăn nuôi gia súc, gia cầm. Coi trọng
công tác khuyến nông, hướng dẫn kỹ thuật, lịch thời vụ gieo trồng, kiện toàn
tổ chức, đổi mới phương thức hoạt động của Ban Quản lý HTX. Các dịch vụ
về thủy lợi, điện, giống, phân bón…cơ bản đáp ứng được nhu cầu của nông
dân. Giá trị tổng sản lượng nông- lâm nghiệp năm 1995 đạt 17,8 tỷ đồng, tổng
sản lượng lương thực quy thóc đạt 19.225 tấn. Đàn lợn có 22.385 con, tăng
26%; đàn trâu bò 8.754 con; đàn gia cầm được giữ vững và phát triển. Đảng
bộ cũng quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, hệ thống điện, đường,
trường, trạm.
Năm 2000, tổng giá trị công nghiệp- thương mại, dịch vụ và nông
nghiệp đạt 628 tỷ đồng, so với năm 1996 bằng 150%, tăng bình quân
10%/năm. Trong đó giá trị nông- lâm nghiệp đạt 164 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng
25% trong cơ cấu kinh tế, tăng bình quân hàng năm 12%. Giữ vững sản lượng
lương thực trên 19.000 tấn/năm. Đưa vụ đông lên 60% diện tích đất canh tác.
Việc phát triển kinh tế nông nghiệp góp phần xây dựng nông thôn mới,
ổn định kinh tế xã hội nông thôn, góp phần xóa đói giảm nghèo. Cùng với
chính sách đầu tư, phát triển kinh tế của Thị xã đã tạo được động lực mới cho
sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp phát triển toàn diện. Cơ cấu cây trồng vật
nuôi được chuyển dịch một cách tích cực. Năm 2000, đàn trâu bò 9.533 con
đảm bảo đủ sức kéo phục vụ sản xuất; Đàn lợn là 25.300 con, bằng 104%;
gia cầm 320.000 con, bằng 160% so với năm 1996; bước đầu nuôi bò sữa
đem lại hiệu quả kinh tế. Tích cực trồng rừng và cây phân tán từ 1996 đã
trồng được 320 ha rừng tập trung, bằng 109,3% và 357.700 cây phân tán,
bằng 90%.
Phấn đấu tới năm 2000 mức thu nhập bình quân đầu người là 5 triệu
đồng, tương đương 700 USD. Giảm số nghèo xuống còn 3%, không có hộ
đói. Tranh thủ các nguồn vốn đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng phụ vụ sản xuất,
54
đời sống nhân dân, hướng tập trung vào các công trình trọng điểm như: điện,
đường, trường học, trạm y tế và các công trình phúc lợi công cộng.
Triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 về phát triển nông
nghiệp và xây dựng nông thôn mới- bước đầu thu được kết quả đáng kể. Cơ
sở hạ tầng ở nông thôn được nâng lên một bước: 53km đường nông thôn được
làm mới và nâng cấp, 9 trường, 7 trạm xá được xây dựng và sửa chữa, điện
đảm bảo cung ứng cho sản xuất kinh doanh và phục vụ đời sống nhân dân, hệ
thống thông tin truyền thanh được trang bị, đảm bảo thông tin kịp thời về tình
hình trong nước và địa phương đến nhân dân. Những kết quả này góp phần
cải thiện và từng bước nâng cao đời sống vật chất tinh thần của người dân.
Để khai thác tối đa tiềm năng của Thị xã, nâng cao chất lượng và giá trị
nông sản hàng hóa, Đảng bộ Thị xã đã luôn chú trọng đến sự gắn kết giữa
nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ thông qua các công đoạn chuẩn bị, quá
trình sản xuất, chế biến và tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm. Trong nông
nghiệp, dần phát triển các ngành công nghiệp chế biến, phục vụ sản xuất, đáp
ứng nhu cầu chế biến nguyên liệu tại chỗ, giải quyết việc làm, kích thích cho
tăng trưởng kinh tế xã hội ở nông thôn. Đảng bộ Thị xã đã đề ra những chính
sách kinh tế phù hợp, khuyến khích các hộ nông dân, tư nhân đầu tư vào lĩnh
vực nông nghiệp, tiếp tục tăng cường đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ
thuật nông thôn, trước hết là làm thủy lợi, đường giao thông, điện nước, thông
tin liên lạc, trường học, trạm y tế… khai thác và đưa vào sử dụng có hiệu quả
các chương trình thủy lợi, kết hợp chặt chẽ giữa giao thông đường thủy với
đường bộ, đẩy mạnh phong trào làm thủy lợi, kết hợp nguồn vốn giữa Nhà
nước và nhân dân để làm các công trình giao thông nông thôn, việc xây dựng
kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội của Thị xã chủ yếu dựa trên cơ sở Nhà nước và
nhân dân cùng làm, quản lý chặt chẽ đất đai, quy hoạch lại sản xuất cho phù
hợp với từng vùng đất cụ thể để phát triển nông nghiệp, nông thôn của Thị xã,
55
quyết tâm tạo ra sự chuyển biến căn bản về sản xuất nông nghiệp , xã hội
nông thôn và đời sống nông dân.
Trong 5 năm (1996- 2000), Đảng bộ Thị xã đã tranh thủ các nguồn vốn
để xây dựng, nâng cấp được nhiều công trình phục vụ phát triển kinh tế xã
hội: nâng cấp mở rộng 10 đường phố nội thị, xây dựng trung tâm y tế, ủy ban
dân số- kế hoạch hóa gia đình, trung tâm khuyến nông…xây dựng một số
kênh mương, trạm bơm, hệ thống cấp thoát nước đô thị…Trong 5 năm, tổng
vốn đầu tư xây dựng cơ bản là 74 tỷ đồng (trong đó ngân sách tập trung là 28
tỷ đồng, vốn của ngành, quốc phòng hỗ trợ, vốn vay 40 tỷ đồng, vốn huy
động nhân dân 6 tỷ đồng). Cơ sở hạ tầng đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn
của Thị xã dần được đổi mới, đời sống nông dân được cải thiện và thu nhập
bình quân đầu người, số hộ giàu tăng lên, số hộ nghèo giảm.
Tiểu kết chương 1:
Trong những năm 1996- 2000, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ
Thị xã và sự nỗ lực của các phòng ban, nền kinh tế xã hội của Thị xã có bước
tiến đáng kể, góp phần vào sự phát triển kinh tế chung của Thị xã và nâng cao
đời sống của người dân.
Trong 5 năm (1996- 2000), tổng giá trị công nghiêp- thương mại, địch
vụ- nông , lâm nghiệp đạt 628 tỷ đồng, tăng bình quân 10%/năm so với năm
1996. Thu nhập bình quân 3,5 triệu đồng/ năm, tăng 32% so với năm 1996.
Năng suất bình quân đạt 50,9 tạ/ha,tăng 6,8 tạ/ha so với năm 1996. Sản xuất
nông- lâm nghiệp phát triển ổn định, liên tục mang lại hiệu quả kinh tế cao và
phát triển tiềm năng của Thị xã.
Việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp ngày
càng được nâng cao, tạo ra các nông sản năng suất, chất lượng phụ vụ nhu cầu
đời sống của nông dân và hướng ra công nghiệp hàng hóa.
Chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi góp phần tạo ra bước phát triển
căn bản về năng suất, sản lượng lương thực, tạo diện mạo mới của nông thôn
56
Thị xã. Việc lựa chọn các giống cây, con có chất lượng tốt, cùng với các biện
pháp thâm canh tăng vụ đã làm cho kinh tế nông- lâm nghiệp sử dụng được
tiềm năng, nâng cao năng suất.
Để tạo điều kiện cho người nông dân yên tâm sản xuất, Đảng bộ Thị xã
đã tiến hành cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người dân, người
nông dân đã làm chủ trên chính mảnh đất mình sử dụng, từ đó tạo tâm lý ổn
định để phát triển sản xuất.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, sản xuất nông- lâm
nghiệp của Thị xã vẫn phát triển chậm, chưa tương xứng với tiềm năng của
Thị xã: Giá trị sản xuất không đạt mục tiêu đề ra, chuyển dịch cơ cấu áp dụng
khoa học kỹ thuật chưa mạnh, thực hiện lịch thời vụ không nghiêm. Hoạt
động của một số Ban Quản trị HTX nông nghiệp, quỹ tín dụng còn yếu trong
cơ chế mới.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn chuyển dịch còn chậm, tỷ trọng
chăn nuôi, dịch vụ thấp. Công nghiệp và ngành nghề trong nông thôn chậm
phát triển, sản phẩm nông sản chủ yếu ở dạng sơ chế, bán nguyên liệu, giá
thành nông sản còn cao.
Trên cơ sở những thành tựu và hạn chế trong nông nghiệp, trong giai
đoạn tiếp theo (2001- 2005), bên cạnh việc phát huy những thành tựu thì
Đảng bộ Thị xã Sơn Tây cần đẩy mạnh hơn nữa quá trình CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn nói riêng và trên toàn bộ các lĩnh vực để phát huy tiềm
năng và thực hiện chủ trương của Đảng về CNH, HĐH theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
57
Chƣơng 2
ĐẢNG BỘ THỊ XÃ SƠN TÂY LÃNH ĐẠO KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
(2001- 2008)
2.1 Đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng bộ Tỉnh
Hà Tây về phát triển kinh tế nông nghiệp
2.1.1 Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam
Những thành tựu đạt được trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn những
năm 1996- 2000 đã chứng tỏ chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
về CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn là đúng đắn, sựa lựa chọn bước đi phù
hợp, đáp ứng nguyện vọng của các vùng nông thôn. Tuy nhiên, để phát huy
những thành tựu đạt được, tiếp tục khai thác những tiềm năng, nguồn lực to
lớn trong nông nghiệp nông thôn, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho
người lao động phát triển kinh tế xã hội, phải tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng trong CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. Đại hội Đảng bộ toàn quốc
lần IX của Đảng chủ trương trong những năm 2001 – 2005 cần phải tăng
cường sự chỉ đạo và huy động các nguồn lực cần thiết để đẩy nhanh CNH,
HĐH nông nghiệp nông thôn.
Đại hội lần IX của Đảng là đại hội của trí tuệ- dân chủ- đoàn kết- đổi
mới. Đây là thời điểm có ý nghĩa quan trọng: Thế kỷ XX kết thúc, thế kỷ XXI
bắt đầu; toàn Đảng, toàn dân trải qua năm năm thực hiện Nghị quyết Đại hội
lần thứ XIII của Đảng, 10 năm thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh
tế xã hội 1991 – 2000 và 15 năm đổi mới.
Đại hội xác định đường lối chiến lược phát triển kinh tế xã hội của
nước ta từ 2001-2010, trong đó nông nghiệp nông thôn được quan tâm đặc
biệt. Đại hội khẳng định “Đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn theo
hướng hình thành nền nông nghiệp hàng hóa lớn, phù hợp với nhu cầu, thị
trường và điều kiện sinh thái của từng vùng, chuyển dịch cơ cấu ngành nghề,
58
cơ cấu lao động tạo việc làm, thu hút nguồn lao động nông thôn. Đưa nhanh
tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất, xây dựng hợp lý cơ cấu sản xuất
nông nghiệp…phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn” [25; 171].
Chủ trương đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước đòi hỏi phải xây dựng, phát
triển nền kinh tế toàn diện phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở
thành 1 đất nước công nghiệp theo hướng hiện đại rút ngắn thời gian tiến
hành CNH, HĐH.
Định hướng về CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn đối với từng khu
vực nông thôn như: khu vực nông thôn đồng bằng, khu vực nông thôn trung
du, miền núi, khu vực biển đảo. Đại hội IX còn xác định định hướng lớn để
phát triển sản xuất trong những năm 2001 – 2005 đối với từng vùng, từng
khu kinh tế nông thôn. Những định hướng thể hiện sự quan tâm của Đảng đối
với sự phát triển kinh tế và đời sống dân cư ở từng khu vực, từng vùng; đồng
thời thể hiện bước đối mới tư duy về phương thức lãnh đạo đối với nông
nghiệp nông thôn trong tổng thể nền kinh tế quốc dân, tránh áp đặt chủ quan
duy ý chí, nhưng vẫn đảm bảo cho các ngành, các vùng kinh tế nông nghiệp
nông thôn năng động, sáng tạo trong xác định hình thức, bước đi của sản xuất,
phù hợp với điều kiện tự nhiên, thổ nhưỡng, vùng sinh thái, khai thác và phát
huy thế mạnh ở địa phương để phát triển sản xuất với năng suất, chất lượng
và hiệu quả kinh tế ngày càng cao.
Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội Đảng bộ toàn quốc lần thứ IX, ngày 28-
02-2001, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị 63 – CT/TW về “Đẩy mạnh nghiên
cứu ứng dụng khoa học công nghệ phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp nông thôn”, trong đó, chú trọng ứng dụng công nghệ gen, công
nghệ tế bào, công nghệ thông tin vào quá trình sản xuất nhằm tạo ra nhiều
nông sản hàng hóa đáp ứng nhu cầu sinh hoạt ngày càng cao của đời sống xã
hội. Bên cạnh đó còn nâng cao giá trị của nông sản hàng hóa xuất khẩu trong
điều kiện hội nhập và toàn cầu hóa kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập cho
59
người lao động. Việc ứng dụng những thành tựu KHCN mới để đẩy nhanh
tiến trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn là sự kế thừa và kết hợp chặt
chẽ giữa yếu tố truyền thống với hiện đại, đây là một trong những nguyên
nhân quyết định sự phát triển của nền kinh tế xã hội.
Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, ngày
18/03/2002 về “Đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông
thôn thời kỳ 2001 - 2010” đã xác định nội dung tổng quát: “CNH, HĐH nông
nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản
xuất hàng hóa lớn gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện cơ
khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, ứng dụng các thành tựu KHCN, trước hết
là công nghệ sinh học đưa thiết bị và công nghệ hiện đại vào các khâu sản
xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả sức cạnh
tranh những nông sản hàng hóa trên thị trường” [27]. Lần đầu tiên Đảng ta ra
Nghị quyết chuyên đề về CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn và đặt trong mối
quan hệ với sự phát triển với các thành phần kinh tế. Nghị quyết đề ra những
quan điểm, chủ trương, phương hướng, nhiệm vụ và các giải pháp lớn cho
CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn thể hiện.
Thứ 1: CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn là một trong những
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của CNH, HĐH đất nước. Phát triển công
nghiệp, dịch vụ phải gắn bó chặt chẽ, hỗ trợ đắc lực và phục vụ có hiệu quả
cho CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn.
Thứ 2: Ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, chú trọng phát huy nguồn
nhân lực cá nhân, ứng dụng rộng rãi thành tựu khoa học, công nghệ thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy lợi thế của từng vùng gắn với
thị trường để sản xuất hàng hóa quy mô lớn với chất lượng và hiệu quả cao,
bảo vệ môi trường, phòng chống, hạn chế và giảm nhẹ thiên tai phát triển
nông nghiệp nông thôn bền vững.
60
Thứ 3: Dựa vào nội lực là chính đồng thời tranh thủ tối đa các nguồn
lực bên ngoài, phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế; trong đó kinh
tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành
nền tảng vững chắc, phát triển mạnh mẽ kinh tế hộ, sản xuất hàng hóa các loại
hình doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn.
Thứ 4: Kết hợp chặt chẽ các vấn đề kinh tế và xã hội trong quá trình
CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn nhằm giải quyết việc làm, xóa đói giảm
nghèo, ổn định kinh tế xã hội, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của
người dân nông thôn.
Thứ 5: Kết hợp chặt chẽ CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn với xây
dựng tiềm lực và thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân [27].
Nghị quyết Trung ương V có nội dung toàn diện và sâu sắc, thể hiện
một tầm nhìn bao quát rộng và lâu dài. Nghị quyết có vị trí đặc biệt quan
trọng trong việc thực hiện chiến lược phát triển nhanh và bền vững đất nước
thời kỳ 2001 – 2010.
Đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn, ngày 04/6/2002 Thủ
tướng Chính phủ ra Quyết định số 68/2002/QĐ-Ttg về “Chương trình hành
động nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông
thôn thời kỳ 2001 - 2010” với nội dung: tạo thêm việc làm và tăng nhanh thu
nhập cho dân cư khu vực nông thôn, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo với khu
vực đô thị và tao dựng bộ mặt nông thôn mới trong thời kỳ CNH, HĐH.
Tháng 1/2003, Hội nghị Trung ương lần 7 khóa IX đã đề ra Nghị quyết
về “Tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Hội nghị xác định những quan điểm cơ bản
về đổi mới chế độ sử dụng đất đai với từng loại đất, đồng thời xác định về
nhiệm vụ, quyền hạn, quản lý đất đai của Nhà nước, xây dựng các chính sách
giao đất, thuê đất sản xuất, tạo điều kiện về đất đai để thúc đẩy CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn tiếp tục phát triển.
61
Nghị quyết TW 9 khóa IX (01/2004) xác định chủ trương “Chú trọng
xây dựng các khu, cụm công nghiệp vừa và nhỏ phục vụ CNH, HĐH nông
nghiệp nông thôn gắn với bảo vệ môi trường”[28; 198], đẩy mạnh thực hiện
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng tạo ra các vùng
sản xuất hàng hóa tập trung chuyên canh, thâm canh, có năng suất, chất lượng
cao, áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ mới, nhất là công nghệ sinh học gắn
với chế biến và tiêu thụ sản phẩm.
Tại Đại hội lần thứ X (tháng 04/2006) Đảng ta khẳng định: “Hiện nay
và trong nhiều năm tới, vấn đề nông nghiệp- nông dân- nông thôn có tầm
chiến lược đặc biệt quan trọng. Phải luôn coi trọng đẩy mạnh CNH, HĐH
nông nghiệp nông thôn hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp hàng hóa
lớn, đa dạng, phát triển nhanh và bền vững” [29; 190- 191]. Đẩy mạnh hơn
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn trong đó phải chuyển dịch mạnh cơ cấu
kinh tế nông nghiệp, kinh tế nông thôn tạo giá trị gia tăng ngày càng cao, đưa
nhanh tiến bộ khoa học công nghệ nhất là công nghệ sinh học vào sản xuất,
khuyến khích đổi điền, đổi ruộng cho thuê, góp vốn cổ phần bằng đất.
Đại hội lần X chủ trương đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn
theo định hướng XHCN gắn với phát triển kinh tế tri thức. Bước quan trọng
của CNH, HĐH đất nước là phải tiếp tục “Đẩy mạnh hơn nữa CNH, HĐH
nông nghiệp nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp nông thôn
và nông dân” [29; 29].
Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ và kinh tế tri thức vào
sản xuất, đưa nông nghiệp nông thôn phát triển lên trình độ mới. Đây là điểm
mới trong định hướng phát triển nền kinh tế xã hội. Sự ra đời và phát triển của
kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển của lực
lượng sản xuất làm chuyển nền kinh tế dựa vào lao động và tài nguyên là chủ
yếu sang nền kinh tế dựa vào trí tuệ con người, thúc đẩy nhanh sự phát triển
đất nước.
62
Từ năm 1986 đến năm 2006, 20 năm đổi mới Đảng ta có bước phát
triển vượt bậc tư duy về chính trị, kinh tế xã hội. Cùng với xác định mô hình,
con đường đi lên CNXH ở nước ta, chủ trương của Đảng đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước, trong đó, bước đi có ý nghĩa quyết định của quá trình này là
phải đẩy mạnh hơn nữa CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn.
Gắn phát triển kinh tế tri thức với CNH, HĐH đất nước, nhất là về kinh
tế xã hội, điều đó cũng có ý nghĩa phải tận dụng thành tựu khoa học công
nghệ, kinh tế tri thức để đẩy nhanh hơn nữa đối với CNH, HĐH nông nghiệp
nông thôn giải quyết mối quan hệ nông thôn và nhân dân, đảm bảo sự ổn
định, bền vững về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước.
Tháng 07/2008, Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng
lần 7 (khóa X) tiếp tục khẳng định cần quan tâm hơn nữa tới vấn đề nông
nghiệp, nông dân, nông thôn. Trong quá trình CNH, HĐH đất nước theo định
hướng XHCN: Nông nghiệp là cơ sở- nông thôn là địa bàn- nông dân là lực
lượng đảm bảo góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững, ổn định
chính trị, xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng.
Mục tiêu tổng quát của Nghị quyết TW 7 khóa X về nông nghiệp và
kinh tế nông nghiệp đề ra: từ nay đến 2020 không ngừng nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần của cư dân nông thôn, hài hòa giữa các vùng, tạo sự chuyển
biến nhanh hơn ở các vùng có nhiều khó khăn, nông dân được đào tạo có trình
độ sản xuất ngang bằng với các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh
chính trị, đóng vai trò làm chủ nông thôn mới. Xây dựng nền nông nghiệp
phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hóa lớn, có
năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, đảm bảo vững
chắc an ninh quốc gia cả trước mắt và lâu dài. Xây dựng nông thôn mới có kết
cấu hạ tầng kinh tế xã hội hiện đại, cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức
sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ,
đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân
63
tộc, dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được đảm bảo. Hệ thống
chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường [34].
Trên nền tảng những chủ trương, đường lối của Đảng đã tạo điều kiện,
nền tảng để chỉ đạo tiếp tục xây dựng các đề án, chương trình hành động
trong phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là trong kinh tế nông nghiệp.
2.1.2 Chủ trương của Đảng bộ Tỉnh Hà Tây
Đại hội Đại biểu Đảng bộ Tỉnh Hà Tây lần thứ XIII (tháng 12/2000)
khẳng định: Đảng bộ và nhân dân Tỉnh Hà Tây sát cánh cùng với cả nước
thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH đề ra chủ trương “Tiếp tục đầu tư phát triển
nông nghiệp nông thôn theo hướng CNH, HĐH, trọng tâm là áp dụng tiến bộ
về giống, kỹ thuật canh tác, công nghệ sinh học, thâm canh chuyển dịch cơ
cấu, nhiệm vụ để tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất” [87; 37].
Xác định sản xuất nông nghiệp trong Tỉnh những năm tới vẫn giữ vị trí
quan trọng để đảm bảo ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Đại hội đề ra
phương hướng “trước hết chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, thực hiện một
bước CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn để thúc đẩy phát triển kinh tế với
tốc độ cao và bền vững hơn; cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, các thành phần
kinh tế đều phát triển. Trong đó, kinh tế quốc doanh, HTX phát triển và giữ
vai trò nền tảng” [87; 337].
Để phát triển một nền nông nghiệp toàn diện và thực hiện tốt phương
hướng đề ra, cần thực hiện tốt các giải pháp sau: “Tăng cường đầu tư khâu
giống cây trồng, nhằm đưa vào sản xuất những giống có năng suất, chất lượng
cao, phù hợp với từng vùng, đảm bảo để giống tốt đưa vào sản xuất. Quy
hoạch các vùng sản xuất lúa gạo có giá trị cao, vùng cây công nghiệp, cây
thành phẩm, rau sạch gắn với quy hoạch sử dụng hợp lý đất đồi gò, đất bãi,
vườn tạp để phát triển cây công nghiệp phù hợp với từng vùng. Đẩy mạnh sản
xuất vụ đông, đưa vụ đông trở thành vụ chính chiếm 60% diện tích lúa màu
với những cây trồng có giá trị kinh tế cao. Phát triển tài nguyên rừng, nâng
64
cao độ che phủ rừng lên 30% năm 2005. Hình thành việc giao đất, giao rừng,
kết hợp lâm nghiệp với nông nghiệp nông nghiệp” [82; 60].
Nhằm cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XIII và Nghị
quyết TW 5 (khóa IX) của Đảng về “Đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp
nông thôn thời kỳ 2001- 2010” Ban Chấp hành Đảng bộ Tỉnh đã đề ra
Chương trình số 24-CTr/TU, ngày 20/04/2002 Đảng bộ Tỉnh đánh giá những
kết quả đạt được “Từ một nền nông nghiệp tự cung, tự cấp, lạc hậu, thiếu
lương thực triền miên, đến nay Tỉnh đang dần chuyển sang sản xuất hàng hóa,
tốc độ tăng trưởng đạt 4,5%, đảm bảo an ninh lương thực, tỷ suất hàng hóa
ngày một cao... Các tiến bộ khoa học kỹ thuật được áp dụng rộng rãi vào
trong sản xuất. Mức độ cơ giới hóa các khâu canh tác ngày càng cao. Tổng
giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn năm 2001 đạt
1.700 tỷ đồng (riêng 120 làng nghề đạt 1.045 tỷ)” [89; 2].
Từ đó, Đảng bộ thông qua chương trình đẩy nhanh CNH, HĐH nông
nghiệp nông thôn thời kỳ 2001 – 2010 với mục tiêu tổng quát “Xây dựng nền
nông nghiệp sản xuất hàng hóa quy mô lớn, hiệu quả và bền vững, có năng
suất, chất lượng và sức cạnh tranh cao trên cơ sở ứng dụng các tiến bộ khoa
học, công nghệ tiên tiến để đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Xây
dựng nông thôn có cơ cấu kinh tế hợp lý, có quan hệ sản xuất phù hợp, kết
cấu hạ tầng kinh tế xã hội phát triển ngày càng hiện đại, giàu mạnh, công
bằng, dân chủ, văn minh” [89; 4].
Để thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội, trong Báo cáo chính trị của
Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần XIII Tỉnh ủy Hà Tây chỉ đạo tập trung cao độ thực
hiện Thông báo số 40-TB/TU ngày 15/01/2001 về triển khai thực hiện chương
trình kinh tế nông, lâm nghiệp và phát triển nông thôn giai đoạn 2001 – 2005
theo hướng sản xuất hàng hóa, ổn định bền vững. Thực hiện được mục tiêu
giữ vững sản lượng lương thực hàng năm đạt trên 1 triệu tấn. Lương thực bình
quân đầu người đạt trên 400kg. Giá trị thu được trên 1ha canh tác đạt 28 triệu
65
đồng/năm trở lên. Giá trị sản xuất nông nghiệp tốc độ tăng bình quân 4-
5%/năm. Đồng thời, tiếp tục quán triệt đường lối đẩy mạnh phát triển và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn;
thực hiện Nghị quyết TW 7-NQ/TW (khóa IX) ngày 17/04/2003 Tỉnh ủy ra
Nghị quyết số 06-NQ/TU về tăng cường quản lý và sử dụng đất đai trên địa
bàn Tỉnh.
Ngày 14/09/2003, Tỉnh ủy Hà Tây ra chỉ thị về lãnh đạo xây dựng cánh
đồng đạt giá trị từ 50 triệu đồng/ha/năm trở lên và Đề án xây dựng cánh đồng
giá trị từ 50 triệu đồng/ha/năm trở lên giai đoạn 2003 – 2010 nhằm nâng cao
giá trị thu được trên 1 đơn vị diện tích canh tác.
“Cánh đồng 50 triệu” là sự tiếp tục của quá trình chuyển dịch cơ cấu
cây trồng, vật nuôi với tốc độ phát triển cao hơn nữa. Nhằm tạo nên một bước
đột phá về hiệu quả sản xuất nông nghiệp tỉnh trên đơn vị diện tích sử dụng
đất tăng khối lượng và giá trị nông sản, hàng hóa, nâng cao thu nhập của
người nông dân, đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp nông thôn
theo hướng CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. Đây được coi là một chủ
trương lớn trong phát triển nông nghiệp, vừa có tính cấp bách vừa có tính lâu
dài, phải huy động nhiều nguồn nhân lực và vật lực. Không chỉ áp dụng máy
móc, mà cần linh hoạt chỉ đạo trong một nền nông nghiệp đa canh.
Thực hiện Chỉ thị 63-CT/TW của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh nghiên
cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp và nông thôn”, Đảng bộ luôn quan tâm đẩy mạnh công tác
khuyến nông. Đây là cầu nối vững chắc giữa tiến bộ kỹ thuật với sản xuất,
giữa sản xuất với tiêu thụ sản phẩm. Xây dựng các mô hình trình diễn theo
hướng trọng tâm, trọng điểm nhằm phục vụ đắc lực chương trình cung cấp
cây trồng, vật nuôi nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ XIII (2005 - 2010) đã đề ra mục tiêu cho
sự phát triển của giai đoạn này “Đảng bộ nhân dân trong Tỉnh phấn đấu nâng
66
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các cấp ủy và tổ chức Đảng; phát
huy sức mạnh tập thể của toàn dân, tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới toàn
diện… Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế hàng hóa đạt giá trị cao, tăng giá
trị sản xuất nông nghiệp trên đơn vị diện tích canh tác, tạo bước phát triển
cao, bền vững, huy động tối đa các nguồn lực để phát triển đồng bộ các ngành
và các lĩnh vực [42; 38].
Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần XIV về phát triển
nông nghiệp nông thôn giai đoạn 2005 – 2010. Tháng 03/2006 Ban Thường
vụ Tỉnh ủy tổ chức Hội nghị Tỉnh ủy để thông qua “Chương trình phát triển
nông nghiệp nông thôn Hà Tây giai đoạn năm 2006 – 2010 theo hướng
chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu sản xuất hàng hóa đảm bảo hiệu quả kinh tế cao
và bền vững”.
Trung ương đề ra quan điểm để phát triển nông nghiệp nông thôn phải
phù hợp với các quy hoạch phát triển của Trung ương, vùng kinh tế trọng
điểm Bắc Bộ và của Tỉnh, phù hợp với quá trình phân công và hợp tác sản
xuất của “vùng”. Phát triển nông nghiệp nông thôn trên cơ sở phù hợp với các
yêu cầu hội nhập, cạnh tranh kinh tế quốc tế nhằm nhanh chóng làm giàu và
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân và dân cư nông thôn; làm
tiền đề quan trọng để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế xã hội của Tỉnh và
rút ngắn chênh lệch giàu nghèo giữa đô thị và nông thôn.
Những quan điểm, đường lối chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam
và Đảng bộ Tỉnh Hà Tây về kinh tế nông nghiệp nông thôn trong thời kỳ đổi
mới là điều kiện và tiền đề để các địa phương trong nước nói chung và Đảng
bộ Thị xã Sơn Tây nói riêng chỉ đạo, lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp
địa phương, tăng tốc độ phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần của người dân, đảm bảo an sinh lương thực, giải quyết việc làm,
tăng thu nhập bình quân đầu người.
67
Những chủ trương, chính sách và những giải pháp cụ thể hướng vào
phát triển một nền kinh tế nông nghiệp hàng hóa ổn định và bền vững theo
hướng CNH, HĐH.
2.2 Quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện phát triển kinh tế nông nghiệp
của Thị xã Sơn Tây (2001- 1008)
2.2.1 Chủ trương của Đảng bộ Thị xã Sơn Tây
Thực hiện Chỉ thị số 54-CT/TW ngày 22/05/2000 của Bộ Chính trị và
Chỉ thị số 75-CT/TW ngày 03/07/2000 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hà Tây
về tổ chức Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng bộ toàn quốc lần thứ
IX của Đảng. Đại hội Đại biểu Đảng bộ Thị xã Sơn Tây lần thứ XVII nhiệm
kỳ 2000 – 2005 đã được tiến hành. Đại hội diễn ra trong bối cảnh đất nước
trải qua 15 năm đổi mới và giành được nhiều thành tựu to lớn trên tất cả các
lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng.
Đại hội Đại biểu Đảng bộ Thị xã Sơn Tây lần XVII nhiệm kỳ 2000-
2005 (11/2000). Đại hội đã thông qua báo cáo kiểm điểm của Ban Chấp hành
và thống nhất với báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ Thị xã khóa XVI về
kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị giai đoạn (1996 - 2000). Trong 5 năm
(1996 – 2000) mặc dù còn nhiều khó khăn, xong Thị xã vẫn giữ được ổn định
và có bước phát triển rõ rệt. Năm 2000, tổng giá trị công nghiệp, thương mại-
dịch vụ, nông- lâm nghiệp đạt 628 tỷ đồng, so với năm 1996 bằng 150%, tăng
bình quân 10%/năm. Thu nhập bình quân đầu người năm 2000 đạt 3,5 triệu
đồng, tăng 32% so với năm 1996. Năm 2000 năng suất lúa bình quân đạt 50,9
tạ/ha, tăng 6,8 tạ/ha so với năm 1996. Tổng sản lượng lương thực quy thóc đạt
22.300 tấn, bằng 123% so với mục tiêu đại hội. Bình quân lương thực khẩu
nông nghiệp đạt 364kg/người/năm. Chăn nuôi tiếp tục phát triển, mô hình
nuôi bò sữa bước đầu đã đem lại hiệu quả kinh tế, số hộ phát triển sản xuất
theo mô hình trang trại đạt 23 trang trại [70; 4-6].
68
Từ những thành quả đạt được trong 5 năm (1996 - 2000) Đại hội đã đề
ra phương hướng, nhiệm vụ 5 năm tiếp theo (2000 - 2005). Đại hội nhấn
mạnh mục tiêu “phát triển kinh tế của Thị xã theo cơ cấu công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ, du lịch, nông lâm nghiệp. Tỷ trọng
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp: 48%; thương mại, dịch vụ, du lịch: 37%;
nông lâm nghiệp 15%”. Tổng sản phẩm GDP tăng bình quân 8-10%/năm. Giá
trị sản xuất nông, lâm nghiệp tăng bình quân 5%/năm. Tổng sản lượng lương
thực quy thóc là 20.000 tấn/năm. Năm 2005 bình quân 1ha thu được 25 triệu
đồng, trồng cây phân tán: 100.000 cây” [70; 17-18]. Trong chăn nuôi “thực
hiện chương trình sind hóa đàn bò, nuôi dê, bò sữa đạt hiệu quả kinh tế. Đến
năm 2005 có 500 con bò sữa, gia cầm 400.000 con, đàn lợn 300.000 con” [70; 19].
Để thực hiện đạt kết quả những mục tiêu Đại hội đề ra, Đảng bộ đã chỉ
đạo phát triển sản xuất nông nghiệp đạt diện tích, năng suất, sản lượng giá trị
cao, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về cơ cấu theo hướng tăng giá trị thu nhập
trên diện tích canh tác theo Nghị quyết số 09- NQ/CP của Chính phủ. Coi
trọng khuyến nông, lịch thời vụ, khoa học kỹ thuật, các giống có hiệu quả
kinh tế vào sản xuất. Phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm, kinh tế VAC,
khuyến khích phát triển kinh tế theo hướng trang trại và trồng các cây có giá
trị kinh tế cao. Quản lý tốt hệ thống thủy nông, thủy lợi phục vụ sản xuất, sử
dụng có hiệu quả diện tích ao hồ để nuôi thả cá.
Ngày 23/04/2001 Ban Chấp hành Thị ủy Sơn Tây ra Nghị quyết số 16-
NQ/TU về “Thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp Thị xã Sơn Tây
giai đoạn 2001- 2005”. Mục tiêu: “Phấn đấu đến năm 2005 giá trị nông
nghiệp đạt 131 tỷ đồng, chiếm 20% tỷ trọng kinh tế Thị xã. Tốc độ tăng
trưởng bình quân đạt 5%/năm. Giá trị canh tác đạt 25 triêu đồng/ha/năm. Thu
nhập bình quân/người trong sản xuất nông nghiệp đạt 3 triệu đồng/năm” [77;
1].
69
Để triển khai và tổ chức thực hiện Nghị quyết số 16-NQ/TU, UBND
Thị xã Sơn Tây đã xây dựng đề án chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp Thị
xã Sơn Tây giai đoạn 2001 – 2005 với các chỉ tiêu cụ thể:
“Tổng sản lượng lương thực ổn định 20.000 tấn/năm, giảm diện tích
cây lúa cả nước từ 4.000 ha xuống còn 3.200ha; cây khoai lang giảm từ 750
ha xuống còn 300 ha; cây sắn giảm từ 500 ha xuống còn 300 ha; cây lạc tăng
từ 450 ha lên 700 ha; cây đỗ tương từ 500 ha lên 800 ha; cây ngô vẫn giữ ổn
định ở mức 100 ha; cây rau 550 ha; cỏ chăn nuôi 100 ha; dâu tằm 300 ha; cải
tạo vườn tạp để trồng cây ăn quả 500 ha. Đẩy mạnh chăn nuôi công nghiệp và
bán công nghiệp nâng cao tỷ trọng kinh tế ngành chăn nuôi; phấn đấu đưa đàn
trâu bò đạt 10.500 con, trong đó bò sữa đạt 500 con, đàn lợn đạt 30.000 con,
đàn gia cầm đạt 350.000 con. Đồng thời chỉ đạo phát triển ngành nghề trong
nông thôn; trồng nấm, mộc nhĩ, chế biến sản phẩm…” [77; 1].
Là vùng có địa hình đa dạng, tài nguyên thiên nhiên phong phú, khí hậu
tạo điều kiện cho việc phát triển nền nông nghiệp nhiệt đới đa dạng với cơ cấu
cây trồng vật nuôi phù hợp với điều kiện, tiềm năng và thế mạnh của Thị xã,
nên để thực hiện Nghị quyết 16- NQ/TU và Đề án chuyển đổi cơ cấu kinh tế
nông nghiệp Thị xã Sơn Tây giai đoạn 2001 – 2005, Đảng bộ và các ban
ngành cần:
- Phát huy cao độ các tiềm năng, lợi thế của Thị xã (về đất đai, mặt
nước, vị trí địa lý, kinh tế, sinh thái, nguồn lực con người, vốn…) để phát
triển sản xuất phù hợp nhu cầu thị trường.
- Lựa chọn đối tượng chuyển đổi sản xuất, xây dựng các vùng cây con,
sản xuất tập trung quy mô vừa và lớn nhằm tạo ra khối lượng nông sản hàng
hóa lớn, giá trị kinh tế cao đồng thời có sức cạnh tranh với thị trường trong và
ngoài nước.
- Sử dụng triệt để quỹ đất hiện có một cách hợp lý, hiệu quả.
70
- Tạo nhiều việc làm tại chỗ hợp lý, nâng cao thu nhập và đời sống
nông dân.
- Xây dựng một nền nông nghiệp sinh thái bền vững, phát triển theo
hướng CNH, HĐH.
- Chuyển mạnh từ hướng chú trọng số lượng, năng suất sang hướng
chất lượng, hiệu quả cao… đảm bảo ổn định, bền vững.
- Kịp thời nắm bắt các thông tin khoa học kỹ thuật để đáp dụng cụ thể
vào địa bàn Sơn Tây một cách nhanh, đúng hướng, hiệu quả cao.
- Chuyển đổi mạnh theo hướng giảm diện tích lúa, màu hiệu quả thấp,
tăng giá trị 1ha canh tác. Mạnh dạn đưa các mô hình mới, hiệu quả cao vào
sản xuất như: trồng cỏ nuôi bò sữa, cải tạo vườn tạp trồng cây ăn quả, đặc sản,
trồng dâu nuôi tằm, đẩy mạnh trồng rau sạch, rau trái vụ và rau cao cấp,
khuyến khích mô hình VAC, kinh tế trang trại.
- Nâng cao tỷ trọng, cơ cấu ngành chăn nuôi, đẩy mạnh chăn nuôi bò
sữa, bò lai sind, nuôi cá, gà công nghiệp trứng, thịt và gà thả vườn, giống lợn
nạc, tằm tơ và các con đặc sản.
Để đạt hiệu quả kinh tế cao, nâng cao giá trị trên đơn vị diện tích canh
tác Đảng bộ Thị xã đã triển khai Chỉ thị số 50-CT/TU của Ban Thường vụ
Tỉnh Hà Tây về lãnh đạo xây dựng cánh đồng đạt giá trị kinh tế cao. Năm
2005 đã triển khai ở 6 xã với diện tích 34 ha, năm 2007 là 82,3ha.
Công tác phòng chống lụt bão Thị xã tập trung tu bổ đê kè, sửa chữa
trạm bơm; tiếp tục thực hiện Chị thị số 23-CT/TW về giải tỏa hành lang đê điều.
Bước sang thời kỳ đổi mới đất nước theo định hướng XHCN Thị xã đã
và đang nỗ lực phấn đấu tạo sự chuyển biến tích cực, toàn diện trên toàn bộ
các lĩnh vực. Kinh tế của Thị xã dần dần ổn định và có xu hướng phát triển,
kinh tế nhiều thành phần đã hình thành và phát triển theo cơ chế thị trường
định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước. Kinh tế quốc doanh được sắp
71
xếp đổi mới tổ chức lại sản xuất phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường. Đời
sống vật chất và tinh thần của nông dân được cải thiện rõ rệt.
Những nội dung chỉ đạo trên của Ban Chấp hành Đảng bộ Thị xã Sơn
Tây là định hướng chung nhất để từ đó trong quá trình thực hiện thủ tục có
những chính sách cụ thể thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế Thị xã Sơn Tây
trong giai đoạn 2001 – 2010.
2.2.2 Quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng
CNH, HĐH
Trong 5 năm (1996- 2000) dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ Thị
xã Sơn Tây các mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thị xã lần XVI đã cơ
bản hoàn thành: cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, cơ sở vật
chất, hạ tầng cơ sở được nâng cao, đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân được cải thiện, bộ mặt đô thị, nông thôn Thị xã có nhiều khởi sắc. Tuy
nhiên, bên cạnh đó còn một số hạn chế: tốc độ tăng trưởng kinh tế và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng. Hoạt động của các HTX
nông nghiệp chưa đạt hiệu quả cao và còn tồn tại nhiều bất cập. Công tác quy
hoạch, xây dựng cơ sở hạ tầng các cụm, điểm công nghiệp, du lịch còn chậm,
công tác xây dựng điện, đường, nước chưa đồng bộ.
* Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Bước sang giai đoạn 2001- 2005, với nỗ lực của mình, Đảng bộ và
nhân dân Thị xã Sơn Tây từng bước khắc phục những khó khăn trước mắt,
đẩy mạnh CNH, HĐH, góp phần cùng cả nước thực hiện mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” và đạt được nhiều thành
tựu trong các lĩnh vực kinh tế xã hội, đời sống văn hóa của nhân dân Thị xã,
nhất là trong việc chỉ đạo, phát triển kinh tế nông nghiệp để đạt hiệu quả cao.
Trong 5 năm (2001- 2005) tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm
Thị xã đạt 9,8% (mục tiêu đại hội đề ra là 9- 10%). Tổng giá trị sản xuất ước
đạt 809 tỷ đồng, thu nhập bình quân đầu người năm 2005 đạt 5,4 triệu đồng,
72
tăng 8% so với mục tiêu đề ra. Về cơ cấu kinh tế: công nghiệp- xây dựng:
48%; thương mại, dịch vụ, du lịch: 37%; nông- lâm nghiệp 15% [71; 4].
Giai đoạn 2001- 2005, Thị xã đã tập trung chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp, cơ cấu cây trồng. Đã chuyển dịch cơ cấu cây trồng được
333 ha, chuyển đổi 33, 21 ha đất nông- lâm nghiệp sang làm công nghiêp; 328
ha sang làm thương mại- du lịch. Giá trị 1 ha đất canh tác năm 2005 đạt 26
triệu đồng, vượt 4% so với mục tiêu đại hội. Tổng sản lượng lương thực quy
thóc hàng năm luôn đạt 20.000 tấn. Tổng diện tích gieo trồng hàng năm đạt 6.200 ha
trong đó diện tích lúa là 3.700 ha. Năng suất bình quân 106 tạ/ha [71; 7].
Trong hoạt động sản xuất nông- lâm nghiệp và chăn nuôi. Đảng bộ Thị
xã Sơn Tây nhanh chóng chỉ đạo nhằm có biện pháp nâng cao tỷ trọng ngành
chăn nuôi và nâng cao giá trị 1 ha canh tác. Tăng cường chỉ đạo, hướng dẫn
nông dân sản xuất, giao chỉ tiêu cấy lúa lai tới cán bộ, đảng viên. Ra Nghị
quyết chỉ đạo xây dựng quy hoạch phát triển vùng sản xuất rau an toàn, xây
dựng cánh đồng giá trị kinh tế cao. Chỉ đạo nâng cao chất lượng hoạt động
của HTX. Tích cực mở cửa 526 lớp huấn luyện chuyển giao kỹ thuật, áp dụng
tiến bộ mới cho 25 ngàn lượt người dự học. Vận động, khuyến khích nhân
dân dồn điền, đổi thửa, chuyển đổi mục đích canh tác, áp dụng khoa học kỹ
thuật. Đã lập quy hoạch chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi đến năm 2000,
đưa các giống cây trồng, vật nuôi có giá trị cao vào sản xuất theo hướng sản
xuất hàng hóa ổn định và bền vững.
Khuyến khích chăn nuôi bò sữa, bò lai sind, lợn hướng nạc. Quan tâm
phát triển kinh tế trang trại… nhân rộng mô hình kinh tế vườn đồi, tạo cảnh
quan du lịch hiệu quả, kinh tế cao. Đến năm 2005, có 74 trang trại, tăng hơn 3
lần so với năm 2000; trong đó có 11 trang trại lợn, bình quân 1 trang trại có
600 con/lứa; 30 trang trại gà, bình quân 1 trang trại có 5.700 con/lứa và 33
trang trại tổng hợp. Các trang trại đã giải quyết việc làm được hơn 700 lao
động gồm cả lao động thường xuyên có việc làm và lao động lúc nông nhàn.
73
Nhiều trang trại thu nhập đạt 80 triệu đồng/ năm trở lên… Tỷ trọng chăn nuôi
thủy sản tăng khá nhanh, đã nâng từ 27% (2000) lên 49.6 (2005) trong cơ cấu
ngành nông nghiệp, các trang trại phát triển góp phần tích cực xây dựng nông
thôn mới, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân. Tới năm 2005
Thị xã có 10.108 con trâu bò, trong đó có 264 con bò sữa và 3.455 con bò lai
sind; 39.642 con lợn và 451.241 con gia cầm [71; 7].
Nông- lâm nghiệp- thủy sản của Thị xã có những kết quả tích cực, ước
đạt 67 tỷ đồng, tăng bình quân 4,2 %/năm. Tỷ trọng chăn nuôi chiếm 49,1%
trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp, tăng 3,8% so với năm 2000. Tổng sản
lượng bình quân cây lương thực có hạt đạt 16.100 tấn/năm, giá trị canh tác
năm 2005 bình quân ước đạt 32, 5 triệu đồng/ha. Tăng cường hoạt động chỉ
đạo, hướng dẫn nông dân sản xuất, giao chỉ tiêu cấy lúa lai tới cán bộ, đảng
viên.
Việc chuyển đổi mô hình, tăng nhanh tỷ trọng chăn nuôi, thủy sản của
Thị xã phải gắn với việc bảo vệ môi trường. Năm 2005, Thị xã có 74 trang
trại chăn nuôi trên địa bàn, trong đó có 11 trang trại lợn và 30 trang trại gà, 33
trang trại tổng hợp và từ chỗ đầu tư khoảng 5-6 tỷ đồng/1 trang trại, các trang
trại đã tạo việc làm cho trên 700 lao động nông thôn. Tổng đàn trâu, đàn bò là
10.178 con; đàn lợn 39.642 con; gia cầm 45.124 con.
Thị xã cũng chú trọng đầu tư, cải tạo và nâng cấp hệ thống thủy lợi nội
đồng đảm bảo phục vụ tưới tiêu cho 82,6% diện tích đất sản xuất nông
nghiệp, chủ động triển khai các phương án phòng chống lụt, bão, úng. Quan
tâm công tác bảo vệ rừng và phát triển cây phân tán, tăng độ che phủ toàn Thị xã.
Từ 2001- 2005, Thị xã đã chuyển đổi gần 500 ha kém hiệu quả sang
phát triển các mô hình cây, con hiệu quả cao. Bên cạnh đó, diện tích rau màu
phát triển mạnh với trên 1.600 ha cây rau màu các loại khắp các vùng đồi gò,
ven sông Tích hoặc ven sông Hồng cho thu nhập cao. Trong đó cây rau và cây
lạc cho thu nhập cao, chiếm trên 70% diện tích. Điển hình trong phát triển cây
74
rau màu là xã Viên sơn với gần 50 ha rau mỗi năm, trong đó có 15 ha chuyên
rau cho thu nhập cao hơn cấy lúa, trồng ngô 3-4 lần. Đặc biệt, Viên Sơn còn
là nơi đầu tiên xây dựng thành công mô hình rau an toàn với diện tích gần
10ha, đáp ứng được nhu cầu thị trường đô thị. Bên cạnh vùng rau màu, các
vườn bưởi, cam, vải, nhãn cũng được nhân rộng với trên 170 ha (gồm cả diện
tích gắn với công tác trồng rừng)…
Đảng bộ Thị xã còn ra Nghị quyết chỉ đạo xây dựng quy hoạch, phát
triển vùng sản xuất rau an toàn, xây dựng cánh đồng đạt giá trị kinh tế cao.
Trong 5 năm (2001- 2005) Thị xã Sơn Tây đã chuyển đổi cơ cấu cây trồng
được 333 ha, chuyển 33,21 ha đất nông- lâm nghiệp sang làm đất công nghiệp
và 318 ha đất sang làm thương mại, du lịch và dịch vụ. Giá trị 1 ha đất canh
tác năm 2005 đạt 26 triệu đồng, vượt 4% so với mục tiêu. Tổng sản lượng
lương thực quy thóc hàng năm luôn đạt 20.000 tấn, khuyến khích chăn nuôi
bò sữa, bò lai sind, lợn hướng nạc, đẩy mạnh kinh tế trang trại… nhân rộng
mô hình kinh tế vườn đồi, tạo cảnh quan du lịch đạt hiệu quả kinh tế cao.
Năm 2005 có 74 trang trại, tăng hơn 3 lần so với năm 2000.
Thực hiện Nghị quyết số 16- NQ/TU của Thị ủy, triển khai Chỉ thị số
50- CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hà Tây về lãnh đạo xây dựng cánh
đồng đạt giá trị kinh tế cao. Kết quả thực hiện toàn Thị xã đạt 37,5 ha ở các
xã, phường: Đường Lâm, Viên Sơn, Xuân Sơn, Trung Hưng, Thanh Mỹ,
Trung Sơn Trầm, Sơn Đông. Hiệu quả kinh tế đạt 50-70 triệu/ha/năm.
Chương trình đã góp phần nâng cao trình độ sản xuất thâm canh nông nghiệp
trên 1 đơn vị diện tích. Xây dựng cánh đồng rau an toàn 3ha ở Viên Sơn và
vận động nhân dân gieo cấy đúng lịch thời vụ, đẩy mạnh công tác khuyến
nông, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất [77; 4].
Thực hiện những chủ trương và chỉ đạo của Đảng bộ Thị xã, theo tinh
thần Đại hội Đại biểu Thị xã lần thứ XVI (1996) và lần thứ XVII (2000),
ngành nông nghiệp của Thị xã đã có những bước chuyển biến tích cực, tạo sự
75
đột phá trong sản xuất nông nghiệp. Nông dân hăng say hơn với lao động,
sáng tạo hơn trong sản xuất, thích ứng với cơ chế thị trường. Tới năm 2005,
nông dân trên địa bàn Thị xã không còn có hộ đói, xóa dần hộ nghèo và đang
từng bước vươn tới làm giàu trên chính mảnh đất quê hương.
Đại hội Đại biểu Đảng bộ Thị xã lần thứ XVIII nhiệm kỳ 2006- 2010
đã nhận định những khó khăn, thách thức từ đó xác định mục tiêu phát triển
kinh tế xã hội, đặc biệt trong đó là kinh tế nông nghiệp.
Những thành tựu quan trọng đạt được trong sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước sau hơn 20 năm đổi mới (1986- 2006) đang tạo điều kiện quan trọng cho
sự phát triển của cả nước nói chung và Thị xã nói riêng. Kinh tế của Thị xã đã
có chuyển biến tích cực, cơ sở hạ tầng, giao thông đang được đầu tư mở rộng,
nâng cấp, an ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo.
Thị xã được xác định là trung tâm kinh tế xã hội phía Bắc Tỉnh Hà Tây,
nằm trong quy hoạch chuỗi đô thị Miếu Môn- Xuân Mai- Hòa Lạc- Sơn Tây.
Vào ngày 13/4/2006, Bộ Xây dựng ban hành quyết định công nhận Thị xã
Sơn Tây là đô thị loại III. Ngày 02/08/2007, Chính phủ ban hành Quyết định
số 130/2007/NĐ- CP về việc “Thành lập Thành phố Sơn Tây thuộc Tỉnh Hà
Tây”. Từ đó, tạo điều kiện thuận lợi, là cơ sở, tiền đề để Đảng bộ và nhân dân
Thị xã Sơn Tây phát triển kinh tế xã hội những năm tiếp theo, đưa nền kinh tế
của Thị xã phát triển, đóng góp vào việc xây dựng đất nước vì mục tiêu độc
lập dân tộc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đại hội Đại biểu Đảng bộ Thị xã lần thứ XVIII đã xác định mục tiêu
tổng quát “khai thác mọi nguồn lực, tiềm năng, lợi thế, tập trung xây dựng,
nâng cấp kết cấu hạ tầng, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế xã hội theo
hướng CNH, HĐH, tăng nhanh tỷ trọng các ngành công nghiệp- xây dựng và
dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông- lâm nghiệp. Phát triển kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần” [71; 25].
76
Để đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội của Thị xã, Đại hội đưa ra các
chỉ tiêu cụ thể: Tốc độ tăng trưởng (GDP) bình quân từ 15,3- 17%/năm. Cơ
cấu kinh tế đến năm 2010: công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp- xây dựng 50%;
thương mại- du lịch 40%; nông- lâm nghiệp 10%. Giá trị 1 ha canh tác đạt 35-
40 triệu đồng/năm [70; 26].
Với phương châm “đổi mới- đoàn kết- trí tuệ- dân chủ- trách nhiệm”
Đại hội đã kiểm điểm kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần XVII
(2001- 2005) trên cơ sở đó đưa ra phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế
xã hội trong những năm 2006- 2010. Về nông nghiệp, Đại hội xác định: từng
bước đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn bền vững, kết hợp với du
lịch sinh thái và xây dựng bộ mặt nông thôn mới.
Ban Chấp hành Đảng bộ Thị xã đã xác định nhiệm vụ trọng tâm từng
năm của nhiệm kỳ 2006- 2010, đưa ra các Quyết định, Nghị quyết, Chương
trình…để chỉ đạo việc phát triển kinh tế xã hội, trong đó có kinh tế nông
nghiệp. Qua 3 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XVIII
(2006-2008), kinh tế Thành phố Sơn Tây đã ổn định và tăng trưởng ở mức
cao: tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 15%. Tổng giá trị sản xuất đạt
3.270 tỷ đồng (theo mức giá cố định 1994). Thu nhập bình quân theo đầu
người đạt 8,2 triệu đồng, tăng 2,8 triệu đồng so với năm 2005. Về cơ cấu kinh
tế: công nghiệp, xây dựng chiếm 47,5%; thương mại- dịch vụ- du lịch chiếm
39%; nông lâm nghiệp, thủy sản13,5% [72; 1].
Giá trị sản xuất kinh tế nông- lâm nghiệp, thủy sản đạt 312 tỷ đồng
(theo giá cố định năm 1994), tăng bình quân 5,2%/năm, đạt 113% so với mục
tiêu đại hội. Chăn nuôi chiếm tỷ trọng 54% giá trị sản xuất nông nghiệp, giá
trị canh tác đạt 42 triệu đồng/ha/năm, đạt 120% so với mục tiêu đại hội. Đã
quy hoạch, chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, cơ cấu cây trồng được 152
ha. Tổng diện tích gieo trồng hàng năm đạt trên 6.400 ha, tăng 3,8% so với
77
đầu nhiệm kỳ; năng suất bình quân 52 tạ/ha; tổng sản lượng đạt 17.210 tấn,
bằng 114,7% chỉ tiêu đại hội đề ra.
Phát triển mới 94 triệu ha tăng tổng số lên 168 trang trại với tổng diện
tích lớn hơn 232 ha. Thành phố hiện có hơn 100 nhà vườn giá trị từ 100 triệu
đồng trở lên. Tổ chức thực hiện tốt công tác bảo vệ thực vật hàng năm. Tập
huấn 196 buổi về công tác khuyến nông cho 11.739 lượt người; đưa một số
giống mới, thiết bị kỹ thuật vào sản xuất. Chăn nuôi phát triển ổn định, tổng
đàn trâu bò 11.372 con (giảm 11,8% so với đầu nhiệm kỳ); đàn lợn 43.218
con (tăng 9%); đàn gia cầm 702.164 con (tăng 55,6%). Thực hiện tốt công tác
thú y, phòng chống dịch bệnh ở gia súc, không để dịch bệnh lây lan thành
dịch lớn, tăng cường công tác kiểm soát giết mổ động vật và vệ sinh thú y ở
các chợ, các trại chăn nuôi. Củng cố hoạt động mạng lưới thú y các xã,
phường [72; 3].
Ngày 11/04/2006 Ban Chấp hành Đảng bộ Thị xã đã thảo luận và thống
nhất ra Nghị quyết về “Đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp Thị
xã Sơn Tây giai đoạn 2006 - 2010” trên cơ sở đánh giá kết quả 5 năm thực
hiện Nghị quyết chuyên đề số16-NQ/TU ngày 23/04/2001 của Ban Chấp hành
Đảng bộ Thị xã khóa XVII (2000 – 2005) về “Chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông
nghiệp giai đoạn 2001 – 2005” và tình hình thực tiễn. Nghị quyết đề ra mục
tiêu tổng quát để phát triển kinh tế nông nghiệp “Tập trung công tác lãnh đạo,
chỉ đạo đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản
xuất hàng hóa đa dạng, hiệu quả và bền vững. Hình thành các vùng sản xuất
tập trung, nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên đất đai và lao động nông
thôn. Đẩy mạnh việc thực hiện CNH, HĐH trong nông nghiệp nông thôn, xây
dựng nông thôn mới phù hợp với quá trình phát triển đô thị của Thị xã và khu
vực” [75; 2].
Cụ thể hóa mục tiêu tổng quát, Nghị quyết đã đưa ra các chỉ tiêu phấn
đấu và các giải pháp thực hiện “cơ cấu nông, lâm nghiệp chiếm 10% trong cơ
78
cấu kinh tế chung của Thị xã (trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp chăn nuôi và
thủy sản 60%, trồng trọt 35%, lâm nghiệp và dịch vụ 5%). Giá trị sản xuất
nông- lâm nghiệp và thủy sản tăng bình quân 5%/ năm. Sản lượng lương thực
ổn định ở mức 12.000 tấn. Giá trị canh tác bình quân đạt 35 – 40 triệu
đồng/ha. Thu nhập bình quân ở nông thôn đạt 8-10 triệu đồng/người/năm [75; 2].
Trong đó, phấn đấu chuyển đổi diện tích lúa rộc trũng, chân đất sâu
sang mô hình nuôi cá, chăn nuôi thủy sản hoặc kết hợp với trồng cây ăn quả,
hoa, cây cảnh đạt 300 ha; chuyển đổi đất nông nghiệp đồi thấp gò cao và đất
lâm nghiệp sang mô hình vườn ruộng, vườn đồi và trang trại đạt 350ha.
Trong chăn nuôi tập trung phát triển đàn bò sinh sản, bò thịt, xây dựng
đàn bò sind cái nền có máu ngoại cao từ 1.000 – 1.500 con. Khuyến khích
phát triển chế biến tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi, hướng tới phát triển chăn
nuôi công nghiệp.
Thực hiện đưa giống mới vào sản xuất chăn nuôi thủy sản theo hướng
quy trình kỹ thuật đồng thời tạo nguồn nước tưới phục vụ sản xuất nông
nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất các trang trại, phấn đấu đến năm 2010 đạt
100 trang trại trong quy hoạch.
Đưa nông nghiệp đạt giá trị kinh tế cao, đời sống nông dân dần cải
thiện và thực hiện tốt có hiệu quả cao mục tiêu đề ra. Đại hội xây dựng các
giải pháp để phát triển:
- Tập trung xây dựng quy hoạch phát triển nông nghiệp giai đoạn 2006
– 2010, định hướng tới 2020; xây dựng đề án chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông
nghiệp của Thị xã và các xã, phường giai đoạn 2006 – 2010, định hướng đến
năm 2020. Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo về phát triển sản xuất nông
nghiệp, xây dựng nông thôn mới.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động, khuyến khích chuyển đổi,
chuyển nhượng dồn điền, đổi thửa. Thực hiện đa dạng hóa các hình thức góp
79
vốn, góp quyền sử dụng đất và thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho kinh tế trang trại.
- Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp theo
hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên đất. Phát
triển đa dạng chuyển đổi phù hợp với điều kiện của mỗi địa phương. Đẩy
mạnh việc chuyển giao công nghệ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nhân rộng
các mô hình điểm. Chú trọng công tác thú y và bảo vệ trật tự, đầu tư phương
tiện kỹ thuật, củng cố mạng lưới tổ chức hoạt động, làm tốt công tác phòng
chống dịch bệnh, hạn chế tối đa các thiệt hại ảnh hưởng đến phát triển sản
xuất và sức khỏe con người.
- Nâng cao và mở rộng hoạt động dịch vụ các HTX nông nghiệp, xây
dựng mô hình HTX mới. Chú trọng phát triển ngành nghề trong nông thôn,
thực hiện chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp và phát triển nông thôn mới.
- Củng cố xây dựng hệ thống thủy lợi đảm bảo tưới tiêu hợp lý. Thực
hiện rà soát toàn bộ hệ thống công trình thủy lợi hiện có, phân loại công trình
và giá trị đầu tư để nâng cấp, sửa chữa, xây mới hoặc đề nghị Tỉnh đầu tư hỗ
trợ. Tiếp tục thực hiện công trình kiên cố hóa nông nghiệp và dân sinh. Xây
dựng các phương án, chủ động phòng chống lụt, bão, úng, chống hạn để giảm
thiểu tối đa các thiệt hại có thể xảy ra.
- Đẩy mạnh các công tác đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ phát
triển nông thôn. Trên cơ sở nguồn vốn thu được từ việc đấu giá và cấp quyền
sử dụng đất.
- Phát huy nguồn lực sẵn có, khuyến khích đầu tư vào sản xuất kinh
doanh chế biến sản phẩm nông nghiệp.
Ngày 15/09/2006, UBND Thị xã ban hành Kế hoạch số 34-KH/UBND
về “Thực hiện dồn điền đổi thửa gắn với chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật
nuôi” nhằm quản lý và khuyến khích các hộ gia đình, cá nhân tích tụ ruộng
đất, phát triển sản xuất nông nghiệp tập trung theo hướng hàng hóa, quy mô
80
trang trại. Năm 2007 giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 126 tỷ đồng, tốc độ tăng
trưởng đạt 42 triệu đồng/ha. Cơ cấu kinh tế trong nông thôn chuyển dịch theo
hướng tích cực, chăn nuôi thủy sản đạt 54%, giá trị sản xuất nông nghiệp với
149/168 triệu trại nuôi gà, lợn. Tổng số đàn trâu bò 11.285 con; đàn lợn
42.748 con; gia cầm 601.214 con. Sản lượng lương thực đạt 17.331 tấn. Bước
đầu đã hình thành một số vùng chuyên sản xuất rau màu, rau an toàn, cây
cảnh, vùng chăn nuôi quy mô lớn đáp ứng yêu cầu người tiêu dùng [76; 1].
Với lợi thế Sơn Tây là đô thị loại III, là cửa ngõ phía Tây của thủ đô Hà
Nội nơi có tiềm năng phát triển kinh tế xã hội, giao thương trao đổi với các
vùng khác trong nước, từ đó tạo cho Thị xã Sơn Tây những thuận lợi cũng
như thử thách để đưa kinh tế xã hội của Thị xã phát triển. Trước những thuận
lợi đó, thực hiện Nghị định số15-NĐ/QH ngày 01/08/2008 của Quốc hội về
việc điều chỉnh mở rộng địa giới hành chính thành phố Hà Nội thì Thị xã Sơn
Tây tái nhập lần 2 về với Thủ đô Hà Nội. Từ đó tạo ra cho Thị xã Sơn Tây
những lợi thể để phát triển trên toàn bộ các khu vực.
Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành TW Đảng khóa X đã ban hành Nghị
quyết số 26-NQ/TW ngày 05/08/2008 về “Nông nghiệp, nông dân, nông
thôn”. Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa X, Thành ủy Sơn Tây xây dựng Chương trình số 05-CTr/TU ngày
28/10/08 nhằm: Đảm bảo an ninh lương thực, an sinh nông dân, nông thôn.
Xây dựng ngành nông nghiệp thành phố theo hướng hiện đại hóa, gắn với đô
thị sinh thái, sản xuất hàng hóa, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả
năng canh tranh cao, hài hòa và bền vững với môi trường. Không ngừng nâng
cao đời sống vật chất văn hóa, tinh thần của nông dân, giảm dần sự cách biệt
về thu nhập giữa nông thôn và đô thị nông dân được đào tạo. Tiếp thu các tiến
bộ khoa học kỹ thuật sản xuất tiên tiến, có đủ bản lĩnh chính trị vững vàng
đóng vai trò làm chủ nông thôn mới. Xây dựng nông thôn thành phố có kết
cấu hạ tầng kinh tế xã hội đồng bộ, hiện đại, phát triển theo quy hoạch, gắn
81
kết hợp lý giữa nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ và đô thị. Xã hội nông
thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc, môi trường sinh thái được bảo vệ,
sức mạnh của hệ thống chính trị được nâng cao, đảm bảo giữ vững an ninh
chính trị và trật tự an toàn xã hội [76; 4].
Trong những năm qua (2006- 2008), thực hiện Nghị quyết Đại hội lần
thứ X của Đảng và Nghị quyết Đảng bộ Tỉnh lần XIV, Nghị quyết Đảng bộ
Thị xã lần XVIII nhằm đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn, Thị ủy
Sơn Tây đã ban hành nhiều chính sách, nghị quyết, chuyên đề về phát triển
kinh tế xã hội đặc biệt đã tập trung công tác chỉ đạo thực hiện sản xuất nông
nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, phát huy lợi thế đặc điểm đất đai, điều
kiện riêng của mỗi xã, phường.
Các vùng đồi gò phát triển các cây ăn quả, cây ăn màu và cây trồng
khác phù hợp. Vùng đồng trũng và các diện tích không thuận lợi hệ canh tác
định hướng chuyển đổi mô hình lúa, cá hoặc chuyển sang chuyển nôi trồng
thủy sản. Các trang trại chăn nuôi tập trung ở các xã vùng đồi gò có nhiều
diện tích đảm bảo cách xa khu dân cư.
Thị xã Sơn Tây được quy hoạch là một trong những đô thị vệ tinh của
Thủ đô Hà Nội nên tốc độ đô thị hóa nhanh diện tích đất sản xuất nông nghiệp
ngày càng thu hẹp và đẩy nhanh phát triển công nghiệp, du lịch, dịch vụ. Do
đó giá trị sản xuất ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản của Thị xã
giảm dần trong cơ cấu kinh tế chung của Thị xã. Năm 2006: 16% tới năm
2008: 13,5% trong đó tăng dần tỷ trọng ngành chăn nuôi, thủy sản.
Đa phần dân số trên địa bàn Thị xã sống bằng nghề nông, do đó hàng
năm Thị xã vẫn rất quan tâm đến phát triển sản xuất trồng trọt bằng việc đâu
tư hỗ trợ giống đảm bảo chất lượng cho nông dân, đầu tư kinh phí cho công
tác khuyến nông xây dựng mô hình khảo nghiệm, trình diễn những giống mới
có năng suất, chất lượng cao để bổ sung vào cơ cấu giống của Thị xã. Trong
đó cơ cấu giống lúa dần thay đổi theo hướng tăng diện tích gieo cấy giống lúa
82
chất lượng cao và lúa lai, giảm diện tích cây giống lúa Q5 và Khang dân 18.
Các giống cây rau màu chủ yếu phát triển các giống lai năng suất cao, các
giống cây ăn quả phát triển theo hướng tăng diện tích cây có giá trị cao như:
bưởi diễn, cam canh, nhãn lồng,… tuy nhiên do đặc thù sản xuất nông nghiệp
của Thị xã Sơn Tây manh mún có nhiều đồi gò xen kẽ nên khó phát triển
vũng sản xuất chuyên canh tập trung. Tới năm 2008, trên địa bàn Thị xã mới
hình thành vùng sản xuất rau an toàn (20ha) và hoa (3-5ha) ở xã Viên Sơn,
vùng sản xuất chè tại xã Kim Sơn (30ha).
Trong chăn nuôi, phát triển mới 94 trang trại (tính tới 2008) nâng tổng
số lên 168 trang trại với tổng diện tích 232 ha. Tổng đàn trâu bò 11.372 con,
đàn lợn 43.218 con, đàn gia cầm 702.164 con (tăng 55.617 %) [72; 3]. Tình
hình phát triển chăn nuôi trang trại tương đối ổn định, số lượng đàn từng thời
điểm phụ thuộc vào diễn biến thị trường và dịch bệnh. Các hộ gia đình dần có
ý thức chuyển từ chăn nuôi nhỏ lẻ sang chăn nuôi trang trại, theo hướng nuôi
công nghiệp và bán công nghiệp… nhằm nâng cao hiệu quả chăn nuôi. Các
trang trại chăn nuôi phát triển mạnh ở các xã có nhiều đồi gò, đất đai lâm
nghiệp: Sơn Đông, Cổ Đông, Kim Sơn do đó công tác phòng chống dịch bệnh
được thực hiện dễ dàng và hiệu quả.
Phát huy thành tựu các dự án trồng rừng trước đây, giai đoạn 2006 –
2010 UBND Thị xã đã chỉ đạo triển khai thực hiện kế hoạch trồng rừng, chăm
sóc, bảo vệ và thực hiện phòng cháy chữa cháy rừng trên địa bàn Thị xã. Hiện
nay “giao trồng mới 110 ha rừng, khoán bảo vệ, chăm sóc 346,2 ha rừng, tăng
cường công tác bảo vệ rừng và lâm sản [72; 3]. Nhìn chung diện tích rừng
sinh trưởng, phát triển tốt, đảm bảo độ che phủ và sinh khối khi thu hoạch.
Một phần diện tích rừng trồng ở đồi thấp được Thị xã xét duyệt cho phép thực
hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng sang trồng cây ăn quả và kết hợp phát triển
chăn nuôi trang trại cho hiệu quả kinh tế cao. Diện tích rừng trồng trong các
83
đơn vị quân đội được chăm sóc và bảo vệ tốt đã đảm bảo môi trường, che phủ
và phục vụ tốt cho công tác huấn luyện bộ đội.
Nửa nhiệm kỳ qua (2006- 2008) chính quyền và nhân dân Thị xã Sơn
Tây đã có nhiều cố gắng, nỗ lực phấn đấu, khắc phục những khó khăn, cơ bản
hoàn thành các chỉ tiêu trên các lĩnh vực công tác. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn
tồn tại một số hạn chế yếu kém: việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp
còn chậm, chất lượng sản phẩm hàng hóa nông nghiệp chưa cao, giá trị còn
thấp, chưa xây dựng được những vùng chuyên canh sản xuất tập trung, hoạt
động của các HTX nông nghiệp còn yếu, chưa đáp ứng được nhu cầu dịch vụ
sản xuất của nông dân. Để thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ X, Nghị quyết Đại hội Đại biểu Tỉnh khóa XIV, các Nghị quyết của
Đảng bộ Thành phố Hà Nội mới và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố
lần thứ XVIII, các phòng ban của Thành phố Sơn Tây lãnh đạo, chỉ đạo phát
triển kinh tế xã hội, đặc biệt trong nông nghiệp: “phấn đấu đạt giá trị sản xuất
nông- lâm nghiệp thủy sản tăng 6%. Đưa các giống lúa, màu mới vào sản
xuất, thực hiện kế hoạch dồn điền đổi thửa, gắn với chuyển dịch cơ cấu cây
trồng, vật nuôi; mở rộng cánh đồng đạt giá trị kinh tế cao, diện tích sản xuất
rau an toàn; chỉ đạo chuyển mạnh sang sản xuất các ngành nghề, chế tác sinh
vật cảnh; đưa các giống mới có giá trị kinh tế cao vào chăn nuôi, triển khai
các mô hình thâm canh nuôi trồng thủy sản. Nâng cao hiệu quả hoạt động của
các HTX nông nghiệp và HTX chăn nuôi” [72; 19].
* Phát triển cơ sở hạ tầng- kỹ thuật, thực hiện chính sách xã hội trong
nông nghiệp.
Việc đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng phòng chống thiên tai và thích ứng
với biến đổi khí hậu đã được Thị xã đầu tư, xây dựng. Trong 5 năm (2001-
2005), đã đầu tư xây mới và nâng cấp 39 công trình thủy lợi với tổng số vốn
đầu từ 283,884 tỷ đồng. Đến nay, hệ thống thủy lợi cơ bản đã đảm bảo việc
tưới tiêu trong nông nghiệp; xây dựng nâng cấp hệ thống đường giao thông
84
của Thị xã, đường giao thông ngõ, xóm và đường nội đồng đảm bảo đi lại
thuận tiện…
Do đặc điểm đất đai nên việc áp dụng cơ giới hóa trong sản xuất nông
nghiệp trên địa bàn Thị xã còn hạn chế, chỉ có một số loại máy được áp dụng
trong từng khâu của sản xuất nông nghiệp như: máy làm đất, máy bơm nước,
máy phụt lúa… Tỷ lệ cơ giới hóa các khâu công việc trong sản xuất nông
nghiệp: làm đất 70%, tưới nước 76%; thu hoạch 40%; vận chuyển 20%, gieo
trồng, bón phân, làm cỏ, phun thuốc 0%. Thị xã đã và đang xây dựng sản xuất
rau an toàn tập trung diện tích 20 ha tại Viên Sơn, nhưng chưa xây dựng được
vùng sản xuất nông nghiệp công nghệ cao.
Nhận thức được mạng lưới giao thông nông thôn là một phần không
nhỏ trong mạng lưới giao thông vận tải của Thị xã, có vai trò thúc đẩy sự phát
triển kinh tế xã hội của các xã, phường và của toàn Thị xã nên Đảng bộ đã tập
trung chỉ đạo việc nâng cấp, cải tạo hệ thống giao thông nông thôn trên địa
bàn Thị xã. Trong 5 năm, UBND Thị xã đã chỉ đạo việc nâng cấp, cải tạo hệ
thống giao thông nông thôn trên địa bàn Thị xã được 107,91/198,98 km(trong
đó có: 20,55 km đường bê tông nhựa; 72,560 km đường bê tông xi măng;
14,8 km đường gạch).
Ngày 20/12/2006, HĐND Thị xã Sơn Tây khóa 17 đã ban hành Nghị
quyết số 24/2006/ NQ- HĐND 17 về “Nâng cấp, cải tạo, xây dựng hệ thống
giao thông nông thôn đến hết năm 2010” với mục tiêu phấn đấu là “toàn bộ
hệ thống đường giao thông nông thôn của Thị xã được cứng hóa 100%”; đề
án giao thông nông thôn được xây dựng và triển khai tới 6 xã và 3 phường
(năm 2008) đều đạt kết quả tốt 21 km được nâng cấp, cải tạo với số vốn đầu tư
23.986 tỷ đồng (trong đó Tỉnh, Thành phố hỗ trợ 4 tỷ; của Thị xã là 2 tỷ [94; 2].
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu Thị xã lần XVIII, nhiệm kỳ
(2006- 2010), Ban Thường vụ Thị ủy cùng các ban ngành lãnh đạo, chỉ đạo
xây dựng và triển khai các phương án phòng chống lụt, bão, úng và tìm kiếm
85
cứu hộ, cứu nạn. Đã tổ chức di dời 19/22 hộ dân phường Phú Thịnh vùng sạt
lở ven sông Hồng vào nơi tái định cư. Kiên cố hóa 2.503 m kênh mương, xây
dựng nâng cấp 4 trạm bơm nước, cứng hóa 3,4 km mặt đê Hữu Hồng, nâng
cấp tràn xả lũ hồ Đồng Mô [72; 4].
Trong 3 năm (2006- 2008), tổng số vốn đầu tư trên địa bàn Thị xã
1.286,89 tỷ đồng, Đảng bộ đã triển khai xây dựng 142 công trình, hoàn thành
đưa vào sử dụng 128 công trình, 13 công trình đang tiếp tục thi công với tổng
giá trị đầu tư 235,411 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, Thị xã mở rộng hoạt động kinh doanh thu hút nguồn vốn
đầu tư và phát huy lợi thế của Thị xã, đã khuyến khích các thành phần kinh tế
đầu tư vào địa bàn, có thêm 39 dự án đã được duyệt thuê đất, nâng tổng số lên
76 dự án, với diện tích 280,7 ha, tổng số vốn đăng ký đầu tư 481,48 tỷ đồng,
thu hút gần 4000 lao động ở địa phương. Từ đó giải quyết việc làm và nâng
cao đời sống người lao động, xóa đói cho 1.970 hộ (giảm bình quân
2,87%/năm) [72; 2].
Trong giai đoạn 2001- 2007, công tác chuyển giao đưa tiến bộ kỹ thuật
vào sản xuất được trú trọng tăng cường:
Chuyển đổi cơ cấu mùa vụ và tăng vụ đối với sản xuất lúa: ở 2 vụ sản
xuất lúa đều có sự chuyển biến rõ rệt về lịch thời vụ. Vụ xuân giảm diện tích
giống lúa dài ngày từ 28,9% (2001) xuống còn 20%(2007). Vụ mùa tập trung
gieo cấy sớm để lúa trỗ bông đúng khung thời vụ tốt nhất, đảm bảo diện tích
đất cho sản xuất vụ đông. Các chương trình khuyến nông, ứng dụng khoa học
kỹ thuật đưa vào sản xuất có hiệu quả như: chương trình giống lúa nhân dân
đạt trên 40ha/năm, chương trình thực hiện cấp 1 hóa giống luấ đạt trên 90%
diện tích, chướng trình phát triển diện tích lúa gieo thẳng….
Về giống: đối với cây lạc, đậu tương: đã đưa giống mới có năng suất,
chất lượng cao vào sản xuất như: Giống lạc MD7, LVT, giống đậu tương
AK06, VX9. Đối với cây lạc đã có bước tiến rõ rệt về cải tạo giống và trình
86
độ sản xuất thâm canh, nổi bật là việc trồng cây lạc vụ đông có che phủ nilon
(lạc trái vụ) đem lại hiệu quả kinh tế cao. Đã mở ra một hướng mới cho phát
triển diện tích cây lạc.
Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho công tác khảo nghiệm và
ứng dụng các giống cây trồng năng suất, chất lượng cao để đưa vào sản xuất
đại trà trên địa bàn huyện.
* Thu hút các thành phần kinh tế tham gia vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp
Chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi đem lại hiệu quả cao trong kinh
tế nông nghiệp, nâng cáo giá trị nền kinh tế, trong đó, phong trào xây dựng
trang trại trong những năm qua đã có bước phát triển mạnh mẽ, chủ yếu tập
trung tại các xã có điều kiện diện tích đất đai rộng. Vốn và thị trường tiêu thụ
cũng là những nhân tố hạn chế đáng kể đến việc hình thành và phát triển trang
trại trên địa bàn Thị xã. Từ năm 2000- nay, do kết quả của công cuộc dồn
điền đổi thửa và thực hiện Nghị quyết số 16- NQ/TU của Ban Chấp hành
Đảng bộ Thị xã về “Chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp (2001- 2005)”
nên các xã gò đồi cũng đã hình thành một số trang trại, chủ yếu là chăn nuôi,
tổng hợp (trồng trọt cây lâu năm+ cây rừng+ chăn nuôi). Năm 2007, toàn Thị
xã có 75 trang trại, cụ thể có 57 trang trại chăn nuôi chiếm 76,3% số trang trại.
Quan hệ hợp tác phát triển kinh tế trong nông thôn ngày càng được mở
rộng. Phát triển chăn nuôi theo hướng công nghiệp hiện đang có tiền đề vững
chắc bằng các mô hình liên doanh với các công ty cổ phẩn Group Thái Lan,
Jafa Indonexia. Các HTX dịch vụ nông nghiệp vẫn tiếp tục duy trì, đảm bảo
phục vụ sản xuất nông nghiệp. Các loại hình dịch vụ về xây dựng, vận tải,
thương mại….phát triển đã góp phần thúc đẩy và tạo điều kiện cho các hoạt
động kinh tế khu vực nông thôn.
Các trang trại hoạt động tổ chức sản xuất theo hình thức sản xuất tiên
tiến, phát triển quy mô lớn cho hiệu quả kinh tế cao như: mô hình chăn nuôi
gà, lợn công nghiệp cho hiệu quả kinh tế rất cao.
87
Bên cạnh đó còn có các trung tâm nghiên cứu trong vùng như: trung
tâm Dê và Thỏ Sơn Tây, trung tâm nghiên cứu bò và đồng cỏ Ba Vì…rồi các
mô hình tư nhân, hợp tác như thành lập Câu lạc bộ ở Cổ Đông, HTX chăn
nuôi ở Xuân Khanh. Vấn đề còn lại là phát triển chăn nuôi công nghiệp nhưng
phải đúng quy hoạch, đưa chăn nuôi ra xa khu dân cư, tích cực áp dụng quy
trình kỹ thuật tiên tiến, chọn lọc con giống có chất lượng, giải quyết khâu tiêu
thụ, chế biến thì phát triển mới bền vững và hiệu quả cao.
Đối với trồng trọt, Thị xã Sơn Tây có tiềm năng rất lớn và có hiệu quả
kinh tế cao là mô hình: sản xuất rau an toàn tại Viên Sơn, mô hình chuyên
canh hoa- cây cảnh tại Viên Sơn, Trung Hung, Trung Sơn Trầm; chăn nuôi
lợn quy mô trang trại vừa và nhỏ tại xã Cổ Đông, kinh tế VAC… Nổi bật là
mô hình trồng cây cảnh ở Viên Sơn và Trung Sơn Trầm cần được nhân rộng
và tiến tới chiều sâu để sản xuất cây giống, cây hàng hóa, cây nghệ thuật có
giá trị cao. Ở Viên Sơn với diện tích hơn 6 ha, trong đó có một số áp dụng các
mô hình mới như trồng đào, quất cảnh. Mô hình rau sạch cũng đang được ứng dụng ở Viên Sơn với 1 nhà lười 200m2 , 1 cửa hàng bán rau sạch được khai
trương ở Trung tâm Thị xã.
Hệ thống chợ trên địa bàn Thị xã hiện có: trung tâm Chợ Nghệ Sơn Tây
đến nay đã có 939 hộ bán buôn, bán lẻ, là cầu nối tới các chợ, các hộ bán lẻ
tại các nhà ở các xã, phường và vươn tới các huyện, tỉnh liền kề. Bên cạnh đó,
có 10 chợ cấp III và một số chợ tạm ở các xã, phường cũng góp phần phục vụ
nhu cầu của nhân dân trên địa bàn. Nhìn chung, hệ thống chợ của Thị xã là
nơi tiêu thụ phần lớn sản phẩm nông nghiệp của Thị xã như: rau sạch, thịt, cá
các loại.
Hoạt động của các HTX nông nghiệp trên địa bàn Thị xã hiện nay chủ
yếu mới làm khâu đầu vào cho sản xuất, còn đầu ra cho sản phẩm hầu như
chưa được thực hiện. Năm 2008, phối hợp với Viện Bảo vệ thực vật triển khai
đưa giống lạc mới kháng bệnh héo xanh TK10, MD7 vào sản xuất tại xã Sơn
88
Đông, Thanh Mỹ, trong đó Viện ứng giống cho các hộ đến khi thu hoạch sẽ
trả bằng lạc củ quy đổi và có thu mua giống cho các hộ.
Đẩy mạnh hoạt động của các HTX chăn nuôi dịch vụ Cổ Đông, tạo sự
liên kết phát triển giữa các hộ chăn nuôi trang trại. Đổi mới, phát triển HTX,
tổ hợp tác phù hợp với nguyên tắc tổ chức của HTX và cơ chế thị trường.
Toàn Thị xã có 18 HTX dịch vụ nông nghiệp.
Thị xã đã triển khai một số chính sách khuyến khích phát triển ngành
nghề, làng nghề nông thôn (hiện nay có 2 làng nghề), chính sách đầu tư cơ sở
hạ tầng và xử lý môi trường ở các làng nghề, cụm công nghiệp, chính sách về
khuyến nông, khuyến ngư và đào tạo nghề nông thôn để tạo môi trường phát
triển các loại hình doanh nghiệp nông thôn; hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp
tham gia Hội chợ triển lãm hàng thủ công mỹ nghệ, hàng năm hỗ trợ trên 300
triệu cho công tác khuyến công, dạy nghề, đào tạo lao động trong đó có các
doanh nghiệp nông thôn.
* Phát triển nông nghiệp theo hướng mô hình sản xuất tập trung
Là trung tâm kinh tế, văn hóa xã hội khu vực phía Bắc tỉnh, Sơn Tây có
nhiều tiềm năng vươn lên phát triển là một thành phố du lịch, công nghiệp.
Tuy nhiên, để tạo điều kiện tiền đề cho sự phát triển đó thì nông nghiệp của
Thị xã Sơn Tây phải hướng tới nền sản xuất hàng hóa, hiệu quả, bền vững
Sản xuất nông nghiệp đã có bước tăng trưởng cao đạt 5%/năm. Sản
xuất trồng trọt đã bắt đầu phá bỏ thế độc canh cây lúa, diện tích cây trồng có
giá trị tăng lên. Thu nhập từ nông nghiệp đã có tính đa dạng hóa, bước đầu
thực hiện sản xuất hàng hóa.
Sơn Tây có truyền thống sản xuất nông nghiệp lâu đời với trên 2700 ha
đất canh tác nhưng đây lại lại vùng bán sơn địa, đồi gò xen kẽ đồng trũng ven
sông, đất đai sỏi đá nhiều, diện tích đất canh tác thu hẹp. Do vậy, để phát triển
thành phố du lịch, dịch vụ, thương mại thì nông nghiệp của Sơn Tây cũng
phải có bước chuyển mình phù hợp với quá trình đi lên, vừa tạo chuyển biến
89
trong cơ cấu ngành nông nghiệp, vừa tạo thuận lợi cho quy hoạch quỹ đất
phát triển du lịch, công nghiệp....
Đáp ứng nhu cầu phát triển, Thành phố đã hoàn thành quy hoạch
chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi đến năm 2010 và định hướng đến năm
2020 vừa tạo điều kiện cho nhân dân yên tâm đầu tư phát triển sản xuất vừa
tạo điều kiện cho việc quy hoạch xây dựng các khu đô thị, dịch vụ, công
nghiệp... Năm 2007, toàn Thành phố đã có 20 dự án phát triển vùng chăn nuôi
tập trung hoặc trồng hoa, cây cảnh được phê duyệt trên diện tích hàng chục
ha. Ngoài ra, Thành phố Sơn Tây cũng triển khai nhiều mô hình cây trồng
mới, trong đó có gần 40 ha trồng cây bưởi Diễn trên diện tích đồi gò phát
triển xanh tốt...
Từ năm 2001 -2008, Thành phố đã chuyển đổi được gần 500 ha kém
hiệu quả sang phát triển các mô hình cây, con hiệu quả cao. Bên cạnh đó, diện
tích cây rau màu phát triển mạnh với trên 1.600 ha cây rau màu các loại khắp
các vùng đồi gò, ven sông Tích hay ven sông Hồng cho thu nhập cao. Trong
đó cây rau và cây lạc cho thu nhập cao, chiếm trên 70% diện tích. Điển hình
trong phát triển cây rau màu là xã Viên Sơn với gần 50ha rau mỗi năm, trong
đó có 15 ha chuyên rau cho thu nhập cao hơn cấy lúa, trồng ngô 3 - 4 lần. Đặc
biệt, Viên Sơn còn là xã đầu tiên xây dựng thành công mô hình rau an toàn
với diện tích gần 10ha đáp ứng được nhu cầu thị trường đô thị. Bên cạnh vùng
rau màu, các vườn bưởi, cam, vải, nhãn cũng được nhân rộng với trên 170 ha
(gồm cả diện tích gắn với công tác trồng rừng)... Các mô hình kinh tế trang
trại, vườn trại cũng từng bước phát triển khẳng định hiệu quả cao; năm 2001
toàn Thành phố mới có 27 trang trại thì tới năm 2008 đã có trên 125 trang trại
các loại. Điều đáng mừng là ngoài những trang trại phát triển nhỏ lẻ thì trong
những năm qua số lượng trang trại chăn nuôi kết hợp với Công ty Cổ phần
Group và JAFA đã tạo nên những vùng trang trại số lượng lớn, có quy mô
chăn nuôi từ 5.000 -10.000 con gà, lợn/lứa cho thu nhập hàng trăm triệu đồng
90
mỗi năm, góp phần đưa giá trị chăn nuôi chiếm trên 52% cơ cấu nông
nghiệp...
Phát huy những kết quả đã đạt được, Thành phố Sơn Tây tiếp tục đẩy
mạnh các giải pháp, quy hoạch và khuyến khích các mô hình chuyển dịch cơ
cấu cây trồng, vật nuôi nhằm tạo vùng nông sản hàng hóa tập trung. Toàn
Thành phố phấn đấu mỗi năm chuyển dịch khoảng 700 – 800 ha, trong đó
phát triển diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản đến 2010 đạt 400 ha, giá trị
chăn nuôi chiếm 60% cơ cấu nông nghiệp; xây dựng những vùng trang trại,
vườn trại tập trung quy mô lớn... tạo vùng nông sản hàng hóa tập trung cung
cấp cho thị trường, nhằm góp phần tạo nên một bộ mặt, mới trong phát triển
nông nghiệp gắn với quá trình hình thành Thành phố du lịch, dịch vụ.
Tiểu kết chƣơng 2
Với những chủ trương và sự chỉ đạo tổ chức thực hiện phát triển kinh tế
nông nghiệp tích cực, đúng đắn trong giai đoạn 2001- 2008, kinh tế nông
nghiệp của Thị xã đã phát triển khá toàn diện, cơ sở hạ tầng phục vụ nông
nghiệp và phát triển nông thôn có nhiều đổi mới, đời sống nông dân được cải
thiện. Công tác chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, chuyển đổi cơ cấu kinh
tế nông nghiệp được đẩy mạnh, nhận thức của nông dân có nhiều đổi mới.
Các hộ nông dân từng bước tiếp cận với tiến bộ khoa học kỹ thuật và nền sản
xuất hàng hóa theo cơ chế thị trường.
Chương trình phát triển trồng rau sạch, chăn nuôi lợn, bò theo mô hình
trang trại đã tạo việc làm tại chỗ cho người nông dân, nâng cao chất lượng
cuộc sống và tinh thần của người dân. Nhiều hộ gia đình, nhiều trang trại tại
các xã Cổ Đông, Kim Sơn, Sơn Đông tạo điều kiện nâng cao kinh tế cho
người dân, người dân giàu và có thu nhập ổn định hàng năm.
91
Mô hình kinh tế trang trại, kinh tế VAC, phát triển hoa, cây cảnh đã đi
vào chiều sâu, từng bước hòa nhập vào nền kinh tế thị trường, góp phần đưa
kinh tế nông hộ lên một tầm cao mới.
Có được những thành tựu trên trước hết là nhờ có sự chỉ đạo sâu sắc
của Đảng bộ Thị xã Sơn Tây nắm bắt yêu cầu thực tiễn đề ra chủ trương phù
hợp với yêu cầu của tình hình sản xuất nông nghiệp góp phần đưa nông
nghiệp phát triển, tạo đà cho sự phát triển kinh tế xã hội của Thị xã Sơn Tây
nói chung.
92
CHƢƠNG 3
NHẬN XÉT CHUNG VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM CHỦ YẾU
3.1 Một số nhận xét
Trong những năm 1996 - 2008, Đảng bộ Thị xã Sơn Tây lần thứ XVI,
XVII, XVIII đã quán triệt, cụ thể hóa từng bước đường lối, chủ trương Trung
ương Đảng,Tỉnh ủy Hà Tây (Thành ủy Hà Nội), phù hợp với tình hình địa
phương, thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Từ đó, nhân dân Thị xã Sơn
Tây nói chung và nông dân Thị xã Sơn Tây nói riêng đã ra sức phấn đấu khắc
phục những khó khăn thử thách, phát huy ý chí tự lực tự cường trong quá trình
thực hiện đường lối của Đảng về phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Thị xã Sơn Tây nông nghiệp của Thị xã
gặt hái được nhiều thành quả quan trọng, góp phần đáng kể vào phát triển
kinh tế xã hội chung của Thị xã, sản xuất lương thực ổn định, sản xuất cây ăn
quả, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản tăng nhanh đã góp phần tích cực để thực
hiện mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất
hàng hóa, hiệu quả và bền vững. Từ một vùng chỉ độc canh cây lúa là chính
sau một thời gian đã chuyển dịch sang đa dạng hóa cây trồng trong sản xuất
nông nghiệp.
Kết quả nổi bật của nông nghiệp Thị xã Sơn Tây là phát triển toàn diện
cả trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản và lâm nghiệp:
3.1.1 Thành tựu
3.1.1.1. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp có bước chuyển dịch tích cực theo
hướng tăng dần tỷ trọng chăn nuôi thủy sản, nâng cao thu nhập trên 1 đơn vị
diện tích.
Cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế, nền nông nghiệp của Thị
xã Sơn Tây đã có sự chuyển đổi toàn diện, toàn bộ, sâu sắc, ngày càng phát
huy được những lợi thế của vùng và ngày càng hòa nhập, gắn kết với các
thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Cơ
93
cấu sản phẩm nông nghiệp đã có sự thay đổi cơ bản so với sản phẩm của nền
nông nghiệp truyền thống trước đây, từ một nền nông nghiệp lạc hậu lại
quảng canh trên vùng đất đồi gò, tự cấp, tự túc lương thực tới nay nền nông
nghiệp của Thị xã đã phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung, bền
vững. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp chuyển dịch nhanh theo hướng tăng tỷ
trọng công nghiệp, dịch vụ và giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp. Năm
2002: Tỷ trọng trong nông nghiệp 23,8% tới năm 2008: Tỷ trọng nông nghiệp
13,5% (trong đó, tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản xuất chăn nuôi thủy sản: 54%
giá trị sản xuất nông nghiệp).
Tổng diện tích gieo trồng năm 2008: 6.437ha (đạt 105,4% kế hoạch
năm) tăng 4,1% so với cùng kỳ. Trong đó diện tích cây màu và rau các loại:
2.995ha, diện tích sản xuất vụ đông: 1.099ha đạt 91,5% kế hoạch. Diện tích
lúa: 3.442ha giảm 1,9% so với cùng kỳ; tổng sản lượng lương thực năm 2008:
17,210 tấn, bằng 114,7% so với mục tiêu đại hội. Tốc độ tăng trưởng bình
quân giai đoạn (1996 – 2008) là 5,2%/năm. Năng suất bình quân 53 tạ/ha, giá
trị trên 1 ha canh tác là 42 triệu đồng.
Trong cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp:
Sản xuất nông nghiệp Thị xã tuy chỉ đóng góp tỷ trọng nhỏ trong cơ
cấu kinh tế chung nhưng là nguồn thu chủ yếu của hơn 60% dân số khu vực
nông thôn hiện nay. Giá trị thu nhập của nông nghiệp năm 2007: 163 tỷ đồng. Đối
với toàn ngành nông - lâm nghiệp thì ngành sản xuất nông nghiệp chiếm 95,4%.
Chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp trong thời gian qua đã
có sự chuyển biến tích cực, tỷ trọng ngành trồng trọt có xu hướng giảm nhanh
66,46% (2004) xuống còn 49% (2007). Sản xuất chăn nuôi đang có xu
hướng phát triển và thực sự đóng góp cho sự phát triển của nông nghiệp Thị xã.
Do địa hình đồi gò nên khó khăn trong việc phát triển vùng chuyên
canh tập trung. Hiện nay, Thị xã mới hình thành vùng sản xuất rau an toàn và
hoa ở phường Viên Sơn, cây cảnh ở Trung Sơn Trầm. Trong phát triển trồng
94
trọt quan tâm việc đầu tư hỗ trợ giống, công tác khuyến nông, cơ cấu giống
lúa dần thay đổi theo hướng tăng diện tích gieo cấy giống lúa chất lượng cao
và lúa lai, giảm giống Q5 và Khang dân. Các giống cây rau, màu chủ yếu phát
triển giống lai cho năng suất và hiệu quả cao. Các giống cây ăn quả phát triển
theo hướng tăng diện tích cây có giá trị cao như bưởi diễn, cam canh….
Cơ cấu sản xuất nông nghiệp từng bước có sự chuyển dịch theo hướng
sản xuất hàng hóa, hình thành một số vùng sản xuất tập trung: vùng lạc và đậu
tương giống cao sản: 100ha; mô hình cánh đồng giá trị trên 50 triệu đồng/ha
đạt 150ha; mô hình chuyên trồng rau, rau an toàn và cây thương phẩm 100ha.
Các sản phẩm trồng trọt đa dạng, phương pháp, cơ cấu sản phẩm trồng trọt
đang chuyển dịch tích cực theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung và khai
thác ưu điểm thế mạnh của vùng.
Cánh đồng 50 triệu: Thực hiện Nghị quyết của Thị xã về xây dựng
cánh đồng 50 triệu. Thị xã Sơn Tây đã triển khai và kết quả đạt 37,5 ha ở
Đường Lâm, Xuân Sơn, Trung Hưng, Thanh Mỹ, Sơn Đông. Hiệu quả kinh tế
đạt 50 – 70 triệu/ha/năm. Giá trị trên 1 đơn vị canh tác tăng lên từng năm và
đạt 25 triệu/ha/năm (2000) - 42 triệu/ha/năm (2008).
Lâm nghiệp: Phát huy kết quả đạt được từ các dự án trồng rừng trước
đây. UBND Thị xã đã chỉ đạo các phòng ban chuyên môn, UBND xã,
phường, các chủ rừng triển khai thực hiện kế hoạch trồng, bảo vệ và chăm sóc
rừng trên địa bàn toàn Thị xã. Năm 2005 chăm sóc 160 ha rừng tập trung,
trồng 35.000 cây phân tán, bằng 100% kế hoạch giao. Năm 2008 trồng mới
110 ha rừng, khoán, chăm sóc và bảo vệ 346,2 ha rừng.
Diện tích rừng sinh trưởng phát triển tốt đảm bảo độ che phủ và sinh
khối khi thu hoạch. Hàng năm Thị xã tổ chức và phát động Tết trồng cây
trong nhân dân, trung bình mỗi năm trồng 4,5 vạn cây phân tán.
95
Chăn nuôi, Thủy sản:
Từ năm 1996 – 2008 chăn nuôi thủy sản có bước phát triển mạnh mẽ
với tốc độ phát triển cao, công tác phòng dịch bệnh được triển khai. Năm
2001 tỷ trọng chăn nuôi thủy sản đạt 49% giá trị sản xuất nông nghiệp thì tới
năm 2008 đạt 54% giá trị sản xuất nông nghiệp. Chăn nuôi thủy sản phát triển
theo hướng sản xuất con giống, kết hợp chăn nuôi thương phẩm, trong đó đặc
biệt là chăn nuôi lợn theo hướng nạc hóa, bò lai sind, bò thịt, thủy sản … cho
năng suất, hiệu quả cao. Năm 2000: Tổng đàn trâu bò: 9.533 con (trong đó
đàn bò: 5.628 con và 80% được sind hóa); đàn lợn: 25.300 con; gia cầm:
320.000 con. Năm 2008: Tổng đàn trâu bò: 11.378 con; đàn lợn: 43.218 con;
gia cầm: 702.164 con
Chăn nuôi chủ yếu theo phương thức hộ gia đình đơn lẻ ở các xã Cổ
Đông, Sơn Đông, Kim Sơn, Viên Sơn, Trung Sơn Trầm … Các hộ gia đình
dần có ý thức chuyển từ chăn nuôi nhỏ lẻ sang chăn nuôi trang trại theo
hướng nuôi công nghiệp, bán công nghiệp….nhằm nâng cao hiệu quả chăn
nuôi. Một số trang trại chăn nuôi điển hình như các xã Sơn Đông, Kim Sơn,
Cổ Đông do điều kiện địa hình các xã có nhiều đồi gò, đất lâm nghiệp.
Vấn đề con giống luôn được quan tâm hàng đầu. Thị xã có các trung
tâm nghiên cứu phát triển như: Trung tâm nghiên cứu bò và đồng cỏ Ba Vì,
Trung tâm nghiên cứu dê và thỏ, các trung tâm nghiên cứu măng, dứa Suối
Hai, gà lơ-go, đà điểu… Các HTX chăn nuôi như Cổ Đông tập trung 300
trang trại chăn nuôi cung cấp nguồn giống và thức ăn cho thị trường trong Thị
xã và xuất khẩu ra thị trường lân cận. Bên cạnh đó, còn mở rộng liên doanh,
liên kết với các công ty như công ty Group Thái Lan, JAFA Indonexia… cung
cấp giống và chăn nuôi tập trung.
Hình thức chăn nuôi phổ biến trong kinh tế nông nghiệp là: trang trại-
đó là sự hoạt động trên sự liên kết rất chặt chẽ với các nông hộ, các trang trại
tại các làng nông nghiệp truyền thống xung quanh. Từ đó hỗ trợ về cách thức
sản xuất, tiến bộ mới về giống, thức ăn, chuồng trại, chế biến, tìm thị trường
96
tiêu thụ với thương hiệu sản phẩm được các hộ chăn nuôi áp dụng để đem lại
hiệu quả kinh tế cao trong chăn nuôi. Số lượng các trang trại ngày càng phát
triền, có 83 trang trại (2000)- 168 trang trại với diện tích 232 ha (2008).
Chăn nuôi phát triển đã tạo thêm việc làm, nâng cao thu nhập cho nông
dân, cung cấp sức kéo và phân bón cho trồng trọt, thúc đẩy sản xuất hoa màu
để chế biến thức ăn cho chăn nuôi, chế biến nông sản. Các tiến bộ về giống,
thức ăn, thuốc thú y phát triển mạnh mẽ điển hình như ở xã Cổ Đông đa số
các hộ nông dân đều có từ 2 – 3 mô hình lợn, gà và cá. Doanh thu đạt khá như
năm 2007 tổng doanh thu của HTX: 35 tỷ đồng (Bình quân 294 triệu đồng/xã viên).
Nuôi trồng thủy sản có bước tăng trưởng khá với chủ trương chuyển
đổi đồng trũng cấy lúa kém hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản. Thực hiện cải
tạo 40 – 60 ha ao, hồ cũ và diện tích chuyển đổi sang nuôi cá kết hợp từ 200 –
300 ha. Năm 2007 tổng diện tích nuôi thả thủy sản là 235,1ha (chuyên nuôi
thủy sản: 164,8ha; nuôi kết hợp: 70,3ha); diện tích ao hồ được cải tạo nâng
cấp: 32 ha, chuyển đổi chân ruộng trũng: 38,2ha.
Bên cạnh đó, diện tích một số hồ chuyên dùng cũng được khai thác để
nuôi trồng thủy sản kết hợp diện tích sinh thái. Hồ Xuân Khanh, hồ Đồng Mô
(xã Kim Sơn, Sơn Đông, Cổ Đông) …. Đã đưa diện tích nuôi trồng thủy sản
toàn thành phố năm 2007: đạt 597ha; sản lượng đạt 450,6 tấn thủy sản các
loại. Trong đó, cá là loại con nuôi chiếm tỷ trọng chủ yếu. Năng suất nuôi thả
đạt 2 -2,5 tấn/ ha. Nhiều hộ đã thâm canh các giống cá cao sản để thử nghiệm
như: cá chim trắng, cá rô phi đơn tính với nguồn giống được cung cấp từ các
chương trình khuyến nông có kết quả tốt. Tuy nhiên, diện tích chuyển đổi còn
ít, nặng về quảng canh, nuôi thả tự nhiên, mức đầu tư thấp.
3.1.1.2 Xây dựng kết cấu hạ tầng ở nông thôn được quan tâm đầu tư và
phát triển
Với mục đích phục vụ cho phát triển kinh tế nông nghiệp và nâng cao
cải thiện đời sống người dân. Trong những năm 1996 – 2008, kết cấu hạ tầng
97
ở nông thôn Thị xã Sơn Tây luôn được Đảng bộ Thị xã và UBND Thị xã quan
tâm, đầu tư xây dựng và phát triển. Với quyết tâm tập trung mọi nguồn lực,
đẩy nhanh tốc độ phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH,
HĐH, đảm bảo cho sự phát triển toàn diện, bền vững, nâng cao từ tích lũy nội
bộ nền kinh tế, tạo chuyển biến mãnh mẽ hơn về văn hóa, xã hội, cải thiện đời
sống người nông dân … trong đó ưu tiên xây dựng kết cấu hạ tầng nề kinh tế
xã hội, đặc biệt là kết cấu hạ tầng cho phát triển nông nghiệp và kinh tế nông
thôn. Năm 2008 tổng vốn đầu tư trên địa bàn Thị xã: 1.256,89 tỷ (vốn ngân
sách Nhà nước: 273.647 tỷ; Thị xã và Tỉnh: 102.046 tỷ; Địa phương: 232.755
tỷ; nhân dân và doanh nghiệp nước ngoài: 1.013.243 tỷ).
Các cơ sở hạ tầng nông thôn được đầu tư, nâng cấp như: Hệ thống
đường liên xã, liên thôn, ngõ xóm có tổng chiều dài 198,98 k. Trong đó, đến
tháng 12/2007 đã có: 11,8km đường bê tông nhựa; 42,81km đường bê tông xi
măng;10,4 km đường gạch;133,969km đường đất, cấp phối; công trình cầu có
14 chiếc.
Cùng với mạng lưới đường bộ, công tác thủy lợi nội đồng cũng được
đẩy mạnh góp phần phục vụ cho sản xuất và dân sinh nông thôn của Thị xã
Sơn Tây. Từ 2001- 2008 toàn Thành phố đã thực hiện kiên cố hóa kênh
mương đạt 48,23km trong đó chủ yếu được thực hiện trong những năm 2001-
2005. Tính riêng năm 2007 kiên cố hóa kênh mương được 1,6 km. Việc kiên
cố hóa kênh mương trên toàn địa bàn Thị xã đã khắc phục tình trạng thiếu
nước tưới, hạn chế tối đa lãng phí nưới tưới và phát huy hết công suất của các
công trình thủy lợi.
Các công trình thủy lợi trên địa bàn Thị xã Sơn Tây gồm 2 hồ chứa lớn: + Hồ Đồng Mô: Diện tích lưu vực: 96km2, dung tích 84,5 triệu m3,
cung cấp nước tưới trên 5.300ha. Do nằm ở vị trí địa lý thuận lợi cùng ưu thế
về cảnh quan môi trường đã biến hồ Đồng Mô trở thành 1 trong những trung
tâm du lịch và giá trị lớn của Thị xã (của cả nước).
98
+ Hồ Xuân Khanh: diện tích lưu vực: 4,04km2, dung tích 6,12 triệu m3 nước trong đó dung tích hữu ích 5,62 triệu m3, cấp nước tưới gần 1.000ha đất
canh tác của các xã Cam Thượng, Đường Lâm, Trung Hưng, Thanh Mỹ,
Xuân Sơn và cho cụm công nghiệp Xuân Sơn.
Ngoài hồ chứa, trong vùng tưới tự chảy còn có nhiều đập dâng nhỏ
khác đảm bảo tưới chủ động cho hàng trăm ha đất nông nghiệp: Đập dâng Vai
Cời, Vai Quýt, Vai Danh, Vai Va, Vị Thủy, Vai Mun… và những công trình
thủy lợi nhỏ khác đảm bảo đủ nước tưới khoảng 604ha đất canh tác.
Trong những năm qua Thị xã đã đầu tư xây dựng trạm bơm tiêu Cầu
Cổng ở Cổ Đông (giá trị 3,3 tỷ đồng) công trình kiên cố hóa kênh mương đã
được triển khai, thực hiện tốt. Từ năm 2000 - 2006 kiên cố hóa 48,23km; xây
mới và sửa chữa 13 công trình tưới tiêu với tổng vốn đầu tư 9, 17 tỷ đồng.
Các công trình đầu tư đã phát huy hiệu quả, diện tích thường xuyên bị hạn
hán giảm từ 500 – 600ha (2002) xuống còn 200 – 300 ha (năm 2006); diện
tích thường xuyên bị úng giảm từ 300 – 400ha (năm 2000) xuống còn 200 –
250 (năm 2006).
Hệ thống điện:
Hệ thống cấp điện cho Thị xã tương đối hoàn chỉnh và phủ kín các xã
phường. Hệ thống điện được cung cấp bởi trạm biến áp 110 KV Sơn Tây với
3 trạm biến áp có công suất 96.000 KVA và nguồn điện tương đối ổn định.
Năm 2007 xây dựng thêm 16 trạm biến áp tại các xã, phường đáp ứng cho
sinh hoạt và sản xuất.
Y tế:
Hệ thống y tế trên địa bàn Thị xã cơ bản đáp ứng công tác chăm sóc
sức khỏe cho nhân dân địa phương. Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe, bảo vệ
sức khỏe nhân dân được quan tâm chỉ đạo. Chất lượng khám chữa bện ở các
cơ sở y tế được nâng cao do được đầu tư về trang thiết bị và nâng cao trình độ
chuyên môn của y, bác sĩ. Chỉ đạo kiện toàn đội ngũ cán bộ y tế từ các cơ sở.
99
Tới năm 2008 có 12/15 trạm y tế xã, phường có bác sĩ (đạt 80% kế hoạch),
6/15 xã phường đạt chuẩn quốc gia về y tế (đạt 40% kế hoạch). Thực hiện có
kết quả các chương trình, mục tiêu y tế quốc gia, vệ sinh an toàn thực phẩm
năm 2008 tổ chức kiểm tra 1.451 cở sở sản xuất, chế biến kinh doanh thực phẩm.
Văn hóa giáo dục:
Công tác giáo dục và đào tạo, công tác khuyến học, khuyến tài và xây
dựng xã hội học tập luôn được sự quan tâm của Đảng bộ cùng các cấp nhằm
tạo ra bước chuyển biến quan trọng trên lĩnh vực văn hóa giáo dục. Ổn định
quy mô trường và lớp học đáp ứng yêu cầu học tập, cơ sở vật chất, trường
học, lớp học đều tăng. Hàng năm có trên 3000 học sinh giỏi cấp cơ sở (20%),
1000 học sinh giỏi cấp phổ thông (7%), 500 học sinh giỏi cấp tình và quốc gia (3%).
Hoàn thành chương trình tiểu học đạt 99,8%; tốt nghiệp THCS:99%,
tốt nghiệp THPT: 90%; tỷ lệ học sinh đỗ đại học, cao đẳng hàng năm đạt
25%, THCN và dạy nghề 30%. Tổng số trường đạt chuẩn quốc gia trên địa
bàn Thị xã là 10 trường. Đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục được bổ
sung, bồi dưỡng nâng cao trình độ theo hướng đạt và vượt chuẩn quốc gia.
3.1.1.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp:
Phong trào chuyển đổi cơ cấu cây trồng, chăn nuôi thủy sản đang được
nông dân hưởng ứng mạnh mẽ đã tạo được nhiều mô hình sản xuất mới, cơ
cấu sản xuất mới cho thu nhập cao.
Tổng diện tích chuyển đổi ngày càng tăng. Năm 2008 đã quy hoạch
chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, cơ cấu cây trồng được 152 ha ( năm
2007: tổng diện tích chuyển đổi là 526,5ha trong đó chuyển đổi sang phát
triển trang trại: 495 ha; mô hình kinh tế khác: 31,3ha ).
Nhờ chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hóa, giá trị
sản lượng nông sản hàng hóa của Thị xã Sơn Tây đã tăng từ 60% (năm 2005)
lên 70% giai đoạn 2010 – 2020 đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường.
100
Chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hóa nâng cao
giá trị sản xuất trên 1 đơn vị sản phẩm đồng nghĩa với việc tạo thêm việc làm
có thu nhập khá và ổn định cho hàng nghìn lao động. Cứ 1ha lúa chuyển sang
trông rau nước sẽ cần 850 công lao động; chuyển sang trồng rau cạn cần thêm
2100 – 2200 công lao động; sang trồng hoa cần thêm 2200 – 3700.
Trình độ canh tác của người nông dân cũng được tăng lên qua quá trình
chuyển đổi cơ cấu cây trồng, từ lao động giản đơn trồng lúa sang những khâu
kỹ thuật phức tạp như chăm sóc rau sạch, hoa, cây cảnh. Cùng với đó là sự
nhanh nhạy linh hoạt trong phương thức tiếp cận thị trường cung ứng và tiêu
thụ của quá trình nông hộ sản xuất hàng hóa thay cho nếp làm ăn tự cấp tự túc
trước đây.
Nâng cao hiệu quả sản xuất thông qua chuyển đổi cơ cấu sản xuất giúp
thu nhập gia đình nông dân tăng thêm, mức sống người dân được cải thiện cả
về vật chất và tinh thần. Kinh tế nông nghiệp tiếp tục phát triển theo hướng sx
hàng hóa hiệu quả bền vững, góp phần ổn định và cải thiện đời sống nhân dân.
Về cơ cấu ngành nông nghiệp- công nghiệp- dịch vụ: Đảng bộ Thị xã
xác định cần đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế phát triển mạnh kinh tế
công nghiệp và dịch vụ, tăng giá trị sản xuất nông nghiệp trên đơn vị diện tích
canh tác, tạo bước phát triển cao, bền vững. Năm 2001 – 2008 cơ cấu kinh tế
chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm dần tỷ trọng trong sản xuất nông
nghiệp, tăng tỷ trọng trong sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Năm 2002: Công
nghiệp – xây dựng: 42,8%; Dịch vụ: 33,4%; Nông nghiệp: 23,8%. Năm 2008:
Công nghiệp – xây dựng: 47,5%; Thương mại dịch vụ: 39%; Nông nghiệp:
13,5%
Sự hình thành và phát triển làng nghề là điều kiện tạo sự gắn bó hữu cơ
với nông nghiệp và công nghiệp đồng thời góp phần thúc đẩy nhanh quá trình
phân công lao động xã hội và CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. Phát triển
101
làng nghề có vai trò và ý nghĩa to lớn đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, tạo việc làm tăng thu nhập cho người lao động ở nông thôn.
Thị xã đã xây dựng được 2 làng nghề: Bánh tẻ (Phú Nhi) và thêu ren
(Ngọc Kiên). Nhiều ngành nghề được duy trì và phát triển: đồ gỗ, may mặc,
kẹo thủ công… từ đó góp thêm nhiều việc làm cho nông dân lúc nông nhàn.
Tới nay, Thị xã có hơn 50% làng và khu phố có nghề.
Ngoài ra còn nhân rộng, phát triển nghề chế tác sinh vật cảnh ở Viên
Sơn, Trung Sơn Trầm, làm kẹo Đông Sàng- Đường Lâm… Việc phát triển
làng nghề, làng có nghề của Thị xã gắn với phát triển du lịch sẽ tạo điều kiện
phát huy thế mạnh của Thị xã, tạo điều kiện phát triển kinh tế xã hội của Thị
xã nói chung và kinh tế nông nghiệp nói riêng.
Trên địa bàn Thị xã có nhiều điểm du lịch có tiềm năng phát triển gắn
với làng nghề: Làng cổ Đường Lâm, làng nghề bánh tẻ Phú Nhi, làng nghề
thêu ren Ngọc Kiên, chế tác sinh vật cảnh ở Viên Sơn, Trung Sơn Trầm, có
nhiều khu di tích, danh lam thắng cảnh. Đây là điều kiện để phát triển làng
nghề gắn với du lịch.
Việc tích cực chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp của Thị xã Sơn
Tây, chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi, chuyển dịch cơ cấu mùa vụ phù
hợp, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào phát triển sản xuất nông nghiệp,
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ nên đã tạo ra sự phát triển về
kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng tăng tỷ trọng ngành công nghiệp-
dịch vụ, giảm dần tỷ trọng của ngành nông nghiệp để vừa tạo thêm thu nhập
cho người nông dân vừa giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao
động.
Thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo, Thị xã đầu tư nguồn vốn
hỗ trợ cho các hộ nghèo vay để phát triển kinh tế. Từ năm 2001 – 2005 có
2.400 hộ thoát nghèo; năm 2006 – 2008 xóa nghèo 1.970 hộ.
102
Nguyên nhân chính của những thành tựu trên:
Trong thời gian qua (1996 - 2008) nền kinh tế nông nghiệp của Thị xã
đạt được những thành tựu nhằm đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội của
Thị xã, nâng cao đời sống của người dân nguyên nhân là do sản xuất nông
nghiệp trong điều kiện thời tiết tương đối thuận lợi không gặp thiên tai lớn.
Đây là 1 yếu tố ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, do
đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đại biểu Thị xã
qua các kỳ Đại hội lần XVI, XVII, XVIII đề ra phù hợp với thực tiễn, yêu cầu
phát triển nông nghiệp nông thôn của Thị xã.
Đảng bộ Thị xã đã có những cơ chế, chính sách hợp lý, khuyến khích
đưa nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật, đặc biệt là tiến bộ giống vào sản xuất,
có cơ chế và chính sách hỗ trợ hợp lý phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ sản
xuất, nhất là thủy lợi; đồng thời từng bước đổi mới quan hệ sản xuất nhằm tạo
điều kiện phát triển nhanh lực lượng sản xuất, huy động các nguồn lực trong
đầu tư vào sản xuất nông nghiệp, phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ
thống chính trị ở các cấp, thực hiện tốt công tác phát triển nông nghiệp, xây
dựng kinh tế nông thôn, cải thiện đời sống nhân dân.
Vấn đề có ý nghĩa quyết định tạo bước phát triển kinh tế xã hội nói
chung và kinh tế nông nghiệp nói riêng là Đảng bộ Thị xã sớm xác định cơ
cấu kinh tế phù hợp với từng vùng, từng khu vực trong Thị xã. Cơ cấu kinh tế
nông nghiệp chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng chăn nuôi thủy sản,
nâng cao thu nhập trên đơn vị diện tích canh tác. Phát triển chăn nuôi trở
thành ngành sản xuất có tỷ trọng cao trong nông nghiệp, kinh tế nông nghiệp
chuyển từ nền nông nghiệp sản xuất tự cấp tự túc sang nền nông nghiệp sản
xuất hàng hóa tập trung, bền vững.
Trong ngành chăn nuôi, Đảng bộ Thị xã đã tập trung chỉ đạo, đổi mới,
nâng cao chất lượng, cung cấp giống vật nuôi nhằm nâng cao hiệu quả cho
người chăn nuôi. Thị xã xác định tập trung phát triển chăn nuôi toàn diện cả
103
gia súc, gia cầm, thủy sản theo mô hình trang trại nhỏ gắn với phát triển kinh
tế hộ gia đình, phục vụ nhu cầu thị trường khu vực và các vùng lân cận.
Những thành tựu trên cho thấy sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng bộ Thị
xã và là kết quả của tinh thần chủ động, sáng tạo, đoàn kết, cần cù lao động
của nhân dân Thị xã Sơn Tây dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Thị xã. Tư tưởng
chỉ đạo và các chủ trương, chính sách phát triển nông nghiệp của Đảng bộ Thị
xã đã đưa ra hoàn toàn đúng đắn và tiếp tục đề ra những chủ trương và chính
sách thích hợp hơn nữa để thúc đẩy công cuộc CNH, HĐH đi vào tầm rộng
hơn, sâu hơn ở thời kỳ tiếp theo.
3.1.2 Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong giai đoạn (1996 - 2008)
thì nền kinh tế nông nghiệp của Thị xã Sơn Tây còn những hạn chế, tồn tại,
thiếu sót:
Sự chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi diễn ra chậm: Chưa tạo được
vùng sản xuất hàng hóa tập trung với sản phẩm có giá trị cao. Hiệu quả sản
xuất nông nghiệp và giá trị thu được trên 1 diện tích chưa cao, diện tích
chuyển đổi còn nhỏ lẻ, đầu tư ít, kém bền vững, chất lượng nông sản thành
phẩm còn hạn chế nên giá trị hàng hóa thấp, sức cạnh tranh kém. Quy mô sản
xuất lẻ, phân tán, chưa xây dựng được vùng chuyên canh sản xuất hàng hóa
tập trung. Công nghiệp chế biến nông sản thành phẩm, công nghệ sau thu
hoạch, công nghệ sinh học… chậm phát triển chưa đủ tác động kích thích sản
xuất nông nghiệp hàng hóa phát triển.
Cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch chậm, chưa đồng đều và thiếu
vững chắc. Chất lượng tăng trưởng và hiệu quả sản xuất nông nghiệp chưa
cao, năng lực cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp, làng nghề còn thấp, hoạt
động của các HTX nông nghiệp còn hạn chế.
Đời sống vất chật, tinh thần của một bộ phần nông dân còn khó khăn,
hạ tầng xã hội về văn hóa, y tế, giáo dục… nông thôn còn thiếu thốn, hạ tầng
104
về giao thông, thủy lợi ở một số nơi đã xuống cấp chậm được đầu tư. Tỷ lê hộ
nông dân được dùng nước máy còn thấp, còn một số nơi nông dân còn phải sử
dụng nước giếng khơi, giếng khoan chưa được xử lý đảm bảo an toàn cho sức
khỏe. Sự cách biệt về thu nhập, hưởng thụ về văn hóa, y tế, giáo dục giữa
nông thôn và thành thị vẫn còn, tỷ lệ hộ nghèo cao.
Công tác tuyên truyền còn hạn chế: Có một số xã phường nhận thức
của một số cán bộ chủ chốt về công tác chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông
nghiệp còn chưa đầy đủ, chưa gương mẫu. Các đối tượng thực hiện là Đảng
viên, Đoàn viên, Hội viên, Xã viên chưa được tuyên truyền sâu rộng, chưa
thực sự vận động để chuyển đổi.
Thời gian thực hiện chu trình sản xuất từ công tác lãnh đạo, chỉ đạo đến
tổ chức thực hiện thành công còn dài chưa theo kịp nền kinh tế thị trường.
Nhiều nông hộ chưa đủ vốn và vay vốn để tham gia vào chương trình bò sữa,
cải tạo ao, đắp bờ, đào ao chuyển đổi kinh tế nên còn nhiều chương trình thu
được kết quả thấp.
Kết cấu hạ tầng ở nông thôn tuy đã được quan tâm đầu tư nhưng so với
yêu cầu CNH, HĐH nhà nước nông thôn thì vẫn còn yếu kém: Trình độ cơ
giới hóa, điện khí hóa còn thấp. Công nghệ tự động hóa, công nghệ vật liệu
mới chưa được quan tâm đầu tư đúng mức, mức độ sử dụng điện trong sinh
hoạt và các ngành sản xuất vật chất còn hạn chế.
Hệ thống dịch vụ thương mại, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật
cho nông dân còn yếu, thiếu sự phối hợp. Công tác quy hoạch triển khai
chậm, thiếu đồng bộ làm ảnh hưởng đến quá trình phát triển sản xuất, cũng
như đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và địa bàn nông thôn.
Giải quyết việc làm ở nông thôn đang là vấn đề được quan tâm: Thị xã
Sơn Tây có hơn 60% lao động sinh sống và làm việc ở nông thôn, vấn đề việc
làm trở nên bức xúc, nhất là việc làm cho lực lượng lao động trẻ nông thôn.
Lao động nông thôn phổ biến là thủ công, làm theo kinh nghiệm truyền thống,
105
thu nhập thấp và bấp bênh. Năm 2007 thu nhập bình quân/ người khu vực
nông thôn đạt trên 7.200.000đ/người/năm. Số hộ nghèo đa phần tập trung chủ
yếu ở nông thôn.
Nhìn chung, sản xuất nông nghiệp của Thị xã Sơn Tây vẫn còn ở trình
độ thấp và thiếu ổn định. Năng suất cây trồng, vật nuôi tăng chậm và thiếu
vững chắc. Cơ cấu kinh tế nông thôn vẫn mang nặng tính thuần nông nên lao
động dư thừa lại tập trung vào ngành nông nghiệp. Khu vực công nghiệp và
dịch vụ nông thôn chưa tạo được nhiều việc làm để thu hút lực lượng lao
động dư thừa lúc nông nhàn dẫn đến hạn chế tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh
tế và lao động nông thôn.
Thị xã Sơn Tây chưa tận dụng tối đa khoa học công nghệ để phát triển
sản xuất nông nghiệp, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội ở nông thôn, kinh tế nông
thôn chưa đa dạng, nguồn thu chính của nông dân từ nông nghiệp. Từ đó có
sự phân hóa xã hội, kèm theo là quá trình phát triển của nền kinh tế thị
trường, quá trình đô thị hóa nông thôn.
Sự lãnh đạo của các tổ chức Đảng ở cơ sở chưa phát huy hết vai trò tiên
phong, gương mẫu của cán bộ Đảng viên trong việc tập hợp quần chúng, xây
dựng thôn, xã…
* Nguyên nhân của những tồn tại trên là do:
Một số cấp ủy Đảng, chính quyền, cơ quan, đoàn thể chưa nhận thức
đẩy đủ về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của kinh tế nông nghiệp trong quá
trình CNH, HĐH đất nước. Mốt số cơ chế, chính sách đầu tư của Nhà nước
cho lĩnh vực nông nghiệp nông thôn chưa đồng bộ, còn phân tán và chưa đáp
ứng yêu cầu phát triển. Tư tưởng cục bộ, hẹp hòi, phân hóa giàu nghèo còn
nặng nề ở nông thôn.
Do HTX nông nghiệp được chuyển đổi từ thời tự cấp sang nên không
huy động được vốn, Ban quản trị và xã viên còn thụ động, trông chờ vào sự
hỗ trợ của Nhà nước và tập thể. Đầu tư xây dựng cơ sở kinh tế, xã hội nông
106
thôn hàng năm chưa đáp ứng được yêu cầu. Chưa khắc phục được tư tưởng
bảo thủ, lạc hậu, trì trệ, ngại đổi mới trong nông thôn, chưa đào tạo xây dựng
được lớp nông dân mới thích nghi kịp với nên kinh tế thị trường.
Những hạn chế trên đòi hỏi Nhà nước và các cấp lãnh đạo của Thị xã
Sơn Tây cần có những chính sách, biện pháp hỗ trợ để tạo động lực mới thúc
đẩy nông nghiệp vươn lên, đời sống nông dân không ngừng được cải thiện và
nâng cao.
3.2 Bài học kinh nghiệm
Trong những năm 1996 – 2008 thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp và
nông thôn dù còn nhiều hạn chế, nhưng Đảng bộ Thị xã Sơn Tây đã đạt được
nhiều thành tựu quan trọng góp phần ổn định tình hình kinh tế xã hội tạo tiền
đề cần thiết cho việc hoạch định chủ trương chính sách phát triển kinh tế xã
hội trong những năm tiếp theo. Trong quá trình lãnh đạo đó đã rút ra những
kinh nghiệm:
3.2.1 Nghiêm túc, vận dụng đúng đắn, sáng tạo, kịp thời các quan
điểm chủ trương, đường lối của Trung ương Đảng và của Tỉnh ủy Hà Tây,
trên cơ sở nắm chắc tình hình của Thị xã, hợp với lòng dân và được nhân dân
hưởng ứng.
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất có vai trò quan trọng, có ảnh
hưởng trực tiếp đến sự phát triển của nền kinh tế và ổn định tình hình chính trị
xã hội của đất nước.
Trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước kinh tế nông nghiệp
luôn được đạt ở vị trí quan trọng hàng. Đại hội V của Đảng (1982) đã xác
định “trong 5 năm (1981 - 1985) và những năm 80 là tập trung sức phát triển
mạnh mẽ nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông
nghiệp bước lên, sản xuất lớn XHCN” [30; 190].
Tiếp tục khẳng định vị trí hàng đầu tập trung thực hiện 3 chương trình
kinh tế, trong đó quan trọng nhất là chương trình sản xuất lương thực, thực
107
phẩm. Đến Đại hội VII, Đảng chủ trương “phát triển nông- lâm- ngư nghiệp
gắn với công nghiệp chế biến, phát triển toàn diện kinh tế nông thôn và xây
dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tình hình
kinh tế xã hội” [19; 63].
Tiếp tục kiên trì sự nghiệp đổi mới, Đại hội VIII của Đảng chủ trương
đẩy mạnh CNH, HĐH trong đó trọng tâm là CNH, HĐH nông nghiệp nông
thôn. Với những thành tựu giành được trong nông nghiệp, Đại hội Đại biểu
lần thứ IX của Đảng khẳng định chiến lược phát triển KTXH nước ta 10 năm
(2001 - 2010) là phải đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông
thôn. Giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp,nông thôn và nông dân.
Những chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng trong lĩnh vực nông
nghiệp, nông thôn có vai trò quyết định đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH nông
nghiệp nông thôn. Đối với Thị xã Sơn Tây, nông lâm nghiệp vẫn là ngành
kinh tế chủ đạo, ảnh hưởng đến hơn 60% dân số trên địa bàn Thị xã. Do vậy,
trong những năm (1996 - 2008) Đảng bộ Thị xã Sơn Tây luôn xác định phát
triển một nền kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung,
hiệu quả và bền vững.
Thực hiện mục tiêu đề ra, Đảng bộ Thị xã Sơn Tây đã vận dụng một
cách đúng đắn sáng tạo đường lối của Trung ương Đảng và chủ trương của
Tỉnh ủy Hà Tây và phát triển kinh tế nông nghiệp. Trong những năm qua,
Đảng bộ Thị xã Sơn Tây đã quan tâm, chú trọng tới kinh tế nông nghiệp, nắm
chắc tình hình địa phương, có những chủ trương, chính sách đầu tư cần thiết
cho phát triển kinh tế nông nghiệp. Đảng bộ Thị xã, HĐND và UBND Thị xã
đã xây dựng đề án, chỉ đạo thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi,
chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, thực hiện chuyển diện tích đất trồng
lúa kém hiệu quả sang mô hình kinh tế trang trại, tạo nên phương thức sản
xuất mới có hiệu quả kinh tế cao. Cơ cấu kinh tế nông thôn có biến đổi quan
trọng, trong đó chăn nuôi thủy sản phát triển mạnh, chiếm tỷ lệ cao trọng cơ
108
cấu kinh tế nông nghiệp thu nhập trên đơn vị diện tích ngày càng được nâng
cao về giá trị.
Đảng bộ, UBND Thị xã Sơn Tây đã chỉ đạo các ben ngành xây dựng đề
án, tổ chức thực hiện tập huấn, hướng dẫn nông dân chuyển dịch cơ cấu cây
trồng vật nuôi, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp một cách hợp lý nhằm
tăng năng suất lúa, cây trồng, vật nuôi, xây dựng cơ cấu hợp lý, áp dụng tiến
bộ khoa học kỹ thuật trong canh tác, xây dựng nền nông nghiệp phát triển
toàn diện, đã tổ chức thực hiện tốt việc dồn điền đổi thửa.
Từ những thành tựu trong nông nghiệp giai đoạn (1996 – 2008) cung
cấp đủ lương thực cho người dân, đảm bảo cuộc sống, phát triển nền kinh tế
nông nghiệp từ tự cấp tự túc lên sản xuất hàng hóa thị trường. Góp phần ổn
định nền kinh tế của Thị xã, giữ vững an ninh quốc phòng. Kết quả trên khẳng
định từ thực tiễn cách mạng, khoa học và đúng đắn của chương trình đẩy
mạnh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn của Đảng.
3.2.2 Đẩy mạnh việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, chọn,
tạo giống cây con phù hợp với từng vùng sinh thái
Việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật góp phần ổn định giá trị
kinh tế nông nghiệp đạt năng suất cao trong sản xuất…. Trước năm 1996
điểm xuất phát về kinh tế nông nghiệp trên địa bàn Thị xã thấp, việc ứng dụng
tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn hạn chế, nông dân chủ yếu sản
xuất nông nghiệp theo kinh nghiệm và truyền thống nên hiệu quả kinh tế
không cao.
Từ sau năm 1996 đến nay, Đảng bộ Thị xã Sơn Tây đẩy mạnh chuyển
giao ứng dụng khoa học về giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng
cao, phù hợp với điều kiện cụ thể của từng vùng, tổ chức nhân giống cây
trồng, vật nuôi và kiểm soát chặt chẽ chất lượng việc sản xuất và cung cấp
giống cây lâu năm… nên đã góp phần làm tăng năng suất, tăng thu nhập cho
các hộ nông dân. Trong trồng trọt, Thị xã chỉ đạo thực hiện nhân rộng các
109
giống lúa, các cây công nghiệp ngắn ngày có năng suất, sản lượng cao. Trong
chăn nuôi, đã khuyến khích phát triển chăn nuôi theo mô hình trang trại kinh
tế hộ gia đình, đưa chăn nuôi xa khu vực dân cư. Các chương trình sind hóa
đàn bò, nạc hóa đàn lợn… đã được triển khai đem lại hiệu quả to lớn cho
ngành nông nghiệp.
Đảng bộ luôn nhận thức rõ vấn đề cơ sở vật chất kỹ thuật là một trong
những điều kiện rất cần thiết để phát triển nông nghiệp. Trong quá trình lãnh
đạo, chỉ đạo Đảng bộ Thị xã Sơn Tây luôn tranh thủ vốn của Trung ương
Đảng, của Tỉnh ủy và UBND tình Hà Tây, nguồn ngân sách địa phương và
nguồn đóng góp của nhân dân để tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng cho nông
nghiệp nông thôn như: giao thông, thủy lợi, điện đường trường trạm…
Để đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp, Đảng đã quan tâm đầu tư,
tu bổ, nâng cấp đê kè… các công trình thủy lợi được gắn với CNH, HĐH
nông nghiệp nông thôn đảm bảo tưới tiêu phục vụ cho nông nghiệp.
Mạng lưới điện cũng được tập trung đầu tư, chương trình lưới điện
quốc gia được đưa về các vùng nông thôn của Thị xã. Đây là một thành tựu
lớn vừa có ý nghĩa về mặt chính trị, kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng, góp
phần làm cho bộ mặt nông thôn ngày càng khởi sắc.
3.2.3 Phát huy ý thức tự lực, tự cường, sáng tạo, huy động sức dân,
dựa vào dân để tiến hành CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn.
Nông dân là động lực to lớn của xã hội. Cùng với giai cấp công nhân,
giai cấp nông dân là quân chủ lực của cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp
giải phóng dân tộc cũng như xây dựng đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
đánh giá đúng vai trò của nông dân, của sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông
thôn”. Nói đến nông dân là phải nói đến vấn đề ruộng đất, đó là lẽ sống của cả
cuộc đời họ”.
Nói đến nông nghiệp, kinh tế nông nghiệp cần được hiểu theo nghĩa
rộng gồm: nông nghiệp- lâm nghiệp- ngư nghiệp. Trong sản xuất nông
110
nghiệp, quá trình lao động của con người liên quan chặt chẽ với quá trình sinh
trưởng tự nhiên của các sinh vật, của thực vật và động vật các loại. Lao động
của con người là hoạt động có ý thức nhằm chủ động chọn ra những giống tốt
nhất về cây trồng và vật nuôi. Như vậy, người nông dân vừa là động lực vừa
là mục tiêu trong phát triển sản xuất nông nghiệp. Nên lãnh đạo nông dân phát
triển sản xuất nông nghiệp phải chú trọng lợi ích chính đáng của người nông dân.
Truyền thống yêu nước và truyền thống cách mạng của nhân dân Thị xã
Sơn Tây gắn liền với quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Xuất phát từ đặc điểm về địa lý, Sơn tây là nơi có nhiều đơn vị quân đội đóng
trên địa bàn. Đây không những là lực lượng quân sự mà còn là lực lượng
chính trị rất lớn. Vì vậy, song song với việc xây dựng khối đoàn kết trong
Đảng, trong nhân dân, Đảng bộ Thị xã Sơn Tây còn rất coi trọng xây dựng
mối đoàn kết quân dân. Từ đó tạo nguồn sức mạnh mới trong việc bảo vệ
thành quả cách mạng, trong khắc phục thiên tai, đảm bảo an ninh, chính trị,
trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn Thị xã.
Đảng bộ Thị xã Sơn Tây đã phát động phong trào toàn dân làm công
tác thủy lợi, hệ thống kênh mương nội đồng, giao thông nông thôn với
phương châm” Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Đã huy động nguồn vốn từ
Trung ương Đảng, Tỉnh ủy và quần chúng nhân dân để tiến hành CNH, HĐH
nông nghiệp nông thôn.
Với chính sách hợp lý về giao quyền sử dụng đất, chính sách thuế nông
nghiệp… từ đó phát huy ý thức tự lực, tự cường, khai thác triệt để sức lao
độn, kinh nghiệm để phát triển nông nghiệp toàn diện, góp phần xây dựng kết
cấu hạ tầng và phát triển nông thôn.
Đảng bộ luôn quan tâm chú trọng vấn đề lãnh đạo, phát triển, bồi
dường nguồn nhân lực cho nông nghiệp nông thôn. Coi đây là một trong
những nội dung hết sức quan trọng của quá trình CNH, HĐH. Khi nền công
nghiệp sản xuất tiên tiến với công nghệ cao làm thu hẹp dần về diện tích và đi
111
vào chuyên môn hóa. Đảng bộ Thị xã đặc biệt quan tâm đến việc giải quyết
việc làm cho những lao động dôi dư. Đây là điều kiện phát triển sản xuất theo
hướng bền vững.
Bên cạnh đó, các xã phường có các làng nghề: thêu ren Ngọc Kiên,
bánh tẻ Phú Nhi, cây cảnh Viên Sơn, Trung Sơn Trầm… mở rộng đào tạo
nhân rộng nghề ở các làng thuần nông chưa có làng nghề, làng đã có nghề
thành làng nghề. Tạo việc làm cho lao động nông nhàn, nâng cao chất lượng
cuộc sống cảu nông dân và trình độ dân trí của họ.
3.2.4 Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng ở nông thôn để đáp ứng
yêu cầu phát triển nông nghiệp.
Trước sự biến động của nền kinh tế, xã hội hàng ngày, hàng giờ luôn
đặt ra yêu cầu cho đời sống xã hội cũng như sự phát triển của sản xuất. Nắm
bắt kịp thời các yêu cầu đó, Đảng bộ thị xã Sông Công đã đưa ra những biện
pháp giải quyết kịp thời cho từng xã, phường. Do vậy, ngay từ cơ sở, từ xóm
làng các tổ chức Đảng đã nhận thức rõ nhiệm vụ của mình trong việc phát
triển kinh tế, xã hội nông thôn.
Để Đảng bộ cơ sở thực sự đủ mạnh để gánh vác nhiệm vụ CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn, trong những năm 1985 - 2000, Thị ủy và Đảng bộ
các cấp ở thị xã Sông Công cần tập trung vào những vấn đề sau:
Xác định nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ địa phương. Từ thực tiễn
cuộc sống, yêu cầu nhiệm vụ chính trị, đồng thời trên cơ sở quán triệt việc
thực hiện Nghị quyết của Trung ương Đảng, Đảng bộ Tỉnh, Thị ủy để xác
định nhiệm vụ chính trị cụ thể cho phù hợp với điều kiện của từng xã,
phường. Từ đó mới phát huy được những thế mạnh của từng địa phương, tạo
điều kiện cho người nông dân tăng gia sản xuất, xóa đói giảm nghèo, xây
dựng đời sống mới ở nông thôn.
Phải thường xuyên tăng cường, củng cố cơ sở Đảng thật trong sạch,
vững mạnh. Xây dựng chi bộ, Đảng bộ thành một khối thống nhất ý chí và
112
hành động, tăng cường giáo dục bản chất giai cấp công nhân, tính tiên phong
gương mẫu của cán bộ Đảng viên chấp hành chủ trương của Đảng, pháp luật
của Nhà nước, kiên định con đường đi lên CNXH. Bồi dưỡng những đối
tượng nông dân ưu tú trong phong trào sản xuất giỏi đưa vào hàng ngũ của
Đảng. Tạo thêm niềm tin của nông dân vào sự lãnh đạo của Đảng.
Tăng cường công tác lãnh đạo của Đảng bộ đối với chính quyền và
đoàn thể ở cơ sở. Trong thời gian qua, Đảng bộ thị xã đã thực hiện tốt công
tác giới thiệu những cán bộ đảng viên có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực,
giỏi về chuyên môn ứng cử vào cơ quan dân chủ như Hội đồng nhân dân, và
các đoàn thể trong hệ thống chính trị.
Các phong trào trong nông dân cũng phát triển mạnh mẽ như phong
trào toàn dân làm công tác thủy lợi, phong trào xóa đói, giảm nghèo, chuyển
dịch cơ cấu sản xuất, xây dựng giao thông nông thôn,… các phong trào trên
đã có tác động tích cực đến đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, tạo
thêm động lực cho nhân dân trong quá trình phát triển sản xuất và xây dựng
nông thôn mới.
Chăm lo công tác cán bộ: Cán bộ là vấn đề quan trọng gắn liền với
thành công hay thất bại của sự nghiệp cách mạng. Đảng bộ thị xã đã xác định
được nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là then chốt của quá trình thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa của thị xã. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải toàn
diện về cả đức và tài, phải toàn diện về phẩm chất và chuyên môn nhất là đối
với cán bộ lãnh đạo trong hệ thống chính trị, cán bộ quản lý, cán bộ chủ chốt.
113
KẾT LUẬN
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là con đường tất yếu phải tiến hành ở
bất cư quốc gia nào nhất là những quốc gia có xuất phát điểm từ nền nông
nghiệp kém phát triển muốn đi lên xây dựng một nền kinh tế phát triển hiện
đại. Trong hoàn cảnh nước ta nông nghiệp vẫn là một ngành kinh tế chủ yếu
thì CNH, HĐH nông nghiệp cần được đẩy mạnh hơn nữa và thực hiện trong
từng vùng, từng địa phương trên phạm vi cả nước.
Qua việc nghiên cứu, tìm hiểu, đánh giá điều kiện tự nhiên - kinh tế xã
hội có thế thấy: Thị xã Sơn Tây đã tiến hành quá trình CNH, HĐH nông
nghiệp theo chủ trương của Trung ương Đảng từ đó làm thay đổi cơ cấu kinh
tế của Thị xã và Tỉnh theo hướng hiện đại, phù hợp với xu thế chuyển dịch cơ
cấu kinh tế của đất nước trong thời kỳ đổi mới.
Thời gian (1996 - 2008) là thời gian thực hiện chủ trương đổi mới của
Đảng, đặc biệt là các chủ trương về CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. Qua
15 năm thực hiện đường lối của Đảng, nền kinh tế của Thị xã có những thay
đổi tích cực theo hướng giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp và tăng tỷ trọng
ngành công nghiệp- xây dựng, thương mại- du lịch. Kinh tế nông nghiệp dần
chuyển sang nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa bền vững. Cơ cấu ngành
những năm qua cũng có sự chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng ngành
chăn nuôi và giảm dần tỷ trọng ngành trồng trọt. Nổi bật là mô hình kinh tế
VAC, đây là mô hình được Tỉnh ủy đánh giá phù hợp nhất với vùng đất đồi
gò nên đã chỉ đạo nhân nhanh ra diện rộng; nay đã trở thành phong trào rộng
khắp trên toàn địa bàn và thực sự là nguồn thu nhập lớn trong nông nghiệp
nông thôn và ở các phường trong Thị xã. Việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật, cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp ngày càng phổ biến. Từ đó năng
suất lao động và giá trị sản xuất không ngừng tăng lên, đời sống của người
nông dân được cải tiến, nâng cao làm thay đổi bộ mặt nông thôn ở Thị xã.
114
Có được những thành tựu nêu trên là do sự quan tâm chỉ đạo đúng đắn,
sáng suốt, kịp thời của Đảng bộ Thị xã Sơn Tây. Sự vận dụng sáng tạo, linh
hoạt đường lối đổi mới, chủ trương, chính sách của Trung ương Đảng, của
Đảng bộ Tỉnh Hà Tây vào điều kiện thực tiễn của Thị xã, nhờ đó đã phát huy
được những thế mạnh về điều kiện tự nhiên, đất đai… đưa nông nghiệp của
Thị xã có bước tiến, chuyển từ nền nông nghiệp tự cung tự cấp sang nền nông
nghiệp sản xuất hàng hóa thị trường bền vững và tiến kịp với xu hướng chung
của cả nước trong giai đoạn CNH, HĐH.
Trong quá trình lãnh đạo thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn.
Đảng bộ Thị xã Sơn Tây luôn khơi dậy tiềm năng thế mạnh của người nông
dân và của cả vùng kinh tế nông thôn, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào sản xuất… nhằm tăng năng suất và chất lượng nông sản, nâng cao chất
lượng cuộc sống của người dân vùng nông thôn. Qua đó thấy được rằng lợi
ích chính đáng của người nông dân chỉ được thực hiện và nâng cao khi sản
xuất nông nghiệp phát triển. Đảng bộ đã chủ trương, khuyến khích và tạo điều
kiện cho kinh tế hộ gia đình phát triển trở thành đơn vị kinh tế tự chủ, hình
thành các trang trại chăn nuôi có sự kết hợp với các công ty nước ngoài, áp
dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật, đưa giống mới, cây trồng có giá trị
kinh tế cao vào phát triển kinh tế nông nghiệp. Đồng thời, Đảng bộ Thị xã
Sơn Tây còn tập trung nhiều giải pháp để huy động các nguồn lực tại Thị xã
để phát triển kinh tế và ổn định xã hội.
Trong nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa, thị trường là yếu tố quyết
định tới tốc độ phát triển. Bởi vậy Đảng bộ Thị xã đã lãnh đạo đẩy nhanh việc
xóa bỏ cơ chế hành chính tập trung, quan liêu, bao cấp. Phát triển mạnh công
nghiệp chế biến nông sản đảm bảo sự phát triển ổn định, lâu dài và nâng cao
sức cạnh tranh sản phẩm trong nông nghiệp.
Tuy nhiên trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp ngành nông nghiệp
nói riêng và Thị xã Sơn Tây nói chung gặp phải một số khó khăn hạn chế.
115
Qua đó, đặt ra yêu cầu cần tăng cường hơn nữa vai trò lãnh đạo của Đảng ở
nông thôn để đáp ứng sự phát triển của nông nghiệp, khắc phục những khuyết
điểm, hạn chế trong chủ trương và trong quá trình thực hiện. Đồng thời cần
đẩy mạnh hơn nữa quá trình CNH, HĐH nông nghiệp.
Với thành tựu của ngành nông nghiệp mà Thị xã đã đạt được trong thời
gian qua sẽ tạo những điều kiện, động lực để thúc đẩy các ngành kinh tế khác
phát triển. Đồng thời đặt cơ sở, nền móng cho sự phát triển ở giai đoạn tiếp
theo. Những thành tựu đó cùng với bước phát triển chung của Thị xã sẽ là nền
tảng xây dựng Thị xã Sơn Tây thành một đô thị giàu đẹp, một trung tâm kinh
tế văn hóa của vùng phía Tây Thủ đô Hà Nội.
116
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trịnh Gia Ban, Tư tưởng của V.I Lênin soi sáng sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nước ta, Tạp chí cộng sản, số 8/1999, tr.20- 21.
2. Nguyễn Đình Bích, Phát triển công nghiệp nông thôn, khâu mấu chốt
trong chiến lược phát triển nhanh và bền vững nông nghiệp, nông thôn,
Tạp chí cộng sản, số 17 (6/2003), tr.20- 23
3. Ban chấp hành Đảng bộ Đảng Lao động Việt Nam, Tỉnh Hà Tây (1967),
Sơ thảo lịch sử Cách mạng tháng 8 Hà Đông- Sơn Tây, Ban nghiên cứu
Lịch sử Đảng Hà Tây.
4. BCH Đảng bộ Hà Tây (2008), Lịch sử Đảng bộ Hà Tây, tập IV (1975-
2008), Nxb Chính trị- Hành chính.
5. BCH Đảng bộ Thị xã Sơn Tây (2010), Các kỳ Đại hội Đại biểu Thị xã
Sơn Tây (1959-2010), Nxb Chính trị- Hành chính.
6. Ban Nông nghiệp Trung ương (1991), Kinh tế xã hội nông thôn Việt Nam
ngày nay, tập 1, Nxb Tư tưởng văn hóa, Hà Nội.
7. Phạm Đỗ Chí (chủ biên) (2004), Kinh tế Việt Nam trên con đường hóa
rồng, Nxb Trẻ, Hà Nội.
8. Đỗ Kim Chung, CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn ở các vùng kinh tế-
lãnh thổ Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 253 (6/1999), tr.41- 51.
9. PGS.TS Trần Văn Chử, Nông nghiệp trong phát triển bền vững ở nước ta,
Tạp chí Lý luận chính trị, số 3- 2003, tr.7-10.
10. Nguyễn Sinh Cúc (1995), Nông nghiệp Việt Nam 1945 - 1975, Nxb Thống
kê, Hà Nội.
11. Nguyễn Sinh Cúc, Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động nông nghiệp
trong CNH- HĐH, Tạp chí cộng sản, số 14 (5/2002), tr.43- 46.
12. Nguyễn Sinh Cúc, Làng xã Việt Nam và quan điểm CNH- HĐH nông thôn
đến 2020, Tạp chí Lý luận chính trị, số 1- 2003, tr.21-26.
117
13. Cục thống kê Hà Tây (2001), Niên giám thống kê Tỉnh Hà Tây 1996-
2000, Hà Đông.
14. Cục thống kê Hà Tây (2001), Niên giám thống kê Tỉnh Hà Tây 2001-
2005, Hà Đông.
15. Phạm Ngọc Dũng (2011), CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn từ lý luận
đến thực tiễn ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
16. Nguyễn Tấn Dũng, Để nông nghiệp, nông thôn phát triển bền vững, nông
dân giàu hơn, Tạp chí cộng sản, số 28 (10/2002), tr.6- 11.
17. Phan Diễn, Tạo bước chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa tiến trình CNH-
HĐH nông nghiệp, nông thôn, Tạp chí cộng sản, số 28 (10/2002), tr.3- 5.
18. Đại học Quốc gia Hà Nội, Trung tâm đào tạo bồi dưỡng giảng viên lý luận
chính trị (2010), Những vấn đề kinh tế xã hội ở nông thôn trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 10- NQ/BCT ngày 5/4/1988 về
“đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp”, http://dangcongsan.vn
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, NXB Sự thật, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị lần 5- BCH TW khóa
VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Nghị quyết Trung ương 6 lần 1, khóa
VIII, Nxb Chính trị Quốc gia.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Nghị quyết của Bộ Chính trị về một số
vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia.
118
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Chiến lược phát triển kinh tế xã hội từ
2001- 2010, http://www.cpv.org.vn
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 15- NQ/ TW về “đẩy
nhanh CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001- 2010”,
http://www.cpv.org.vn
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Nghị quyết lần thứ 9 BCH
TW khóa IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới
và hội nhập (Đại hội VI- X), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 43, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Báo cáo của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa IX ngày ngày 10 tháng 4 năm 2006 về phương hướng,
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 – 2010,
http://dangcongsan.vn
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 54, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành TW
khóa X, Nghị quyết số 26- NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn”,
http://www.cpv.org.vn
35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đảng bộ toàn quốc
lần thứ XI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
36. Đảng bộ Thị xã Sơn Tây, Lịch sử Đảng bộ Thị xã Sơn Tây (1930- 1995).
37. Đảng bộ Thị xã Sơn Tây (1994), Hội nghị giữa nhiệm kỳ của Đảng bộ Thị
xã lần XV (1991- 1995), ngày 21 &22/3/1994.
119
38. Nguyễn Điền (1997), Công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn các nước
Châu Á và Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
39. Nguyễn Điền, Phương hướng phát triển nông nghiệp Việt Nam trong 10
năm đầu thế kỷ XXI, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 275/ 2001, tr.50-54.
40. Phạm Xuân Độ (1941), Sơn Tây tỉnh địa chí.
41. Phạm Văn Đồng (1976), Ra sức phấn đấu cho một nền nông nghiệp lớn
xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội.
42. Đảng bộ tỉnh Hà Tây (2005), Nghị quyết Đại hội Đại biểu Tỉnh Hà Tây
lần thứ XIV nhiệm kỳ 2005- 2010, Hà Đông.
43. Ngô Văn Giang, Về công nghiệp hóa, hiện đai hóa nông nghiệp, nông
thôn theo yêu cầu rút ngắn ở nước ta, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 303
(8/2003), tr.49-52.
44. Võ Nguyên Giáp (1978), Đẩy mạnh cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật
trong nông nghiệp và nông thôn, Nxb Sự thật, Hà Nội.
45. Đặng Kim Hà, Phạm Quang Diệu, Bài học từ cuộc khủng hoảng kinh tế
tài chính Châu Á và vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn, Tạp chí
Nghiên cứu kinh tế, số 253 (6/1999), tr.29- 39.
46. Lê Mậu Hãn (1997), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập III, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
47. Nguyễn Thị Hằng, Phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam đến 2010,
Tạp chí cộng sản, số 7 (4/1999), tr.29-33.
48. Lưu Bích Hồ, Một số định hướng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp và nông thôn nước ta, Tạp chí cộng sản, số 12 (4/2002), tr.30-34.
49. Lê Mạnh Hùng (chủ biên, 1998), Thực trạng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà Nội.
50. Nguyễn Thị Lan Hương, Chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn: hiện
trạng thời kỳ 1990- 2005 và triển vọng đến 2015, Tạp chí Nghiên cứu kinh
tế, số 354(11/2007), tr.22-37
120
51. Vũ Trọng Khải (2002), Hai mô hình kinh tế và sự đổi mới kinh tế qua
thực tiễn phát triển nông nghiệp ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
52. Nguyễn Văn Khánh (2001), Biến đổi cơ cấu ruộng đất và kinh tế nông
nghiệp ở vùng Châu thổ sông Hồng trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
53. Hồ Chí Minh toàn tập (2011), tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
54. Hồ Chí Minh toàn tập (2011), tập 11, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
55. Dương Ngọc, Cơ cấu kinh tế nông thôn, nông, lâm nghiệp và thủy sản-
sự chuyển dịch và hạn chế, bất cập, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 298
(3/2003), tr.63-67
56. Nguyễn Quang Ngọc (chủ biên) (2010), Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb
Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
57. Nông nghiệp, an ninh lương thực với tăng trưởng kinh tế, Nxb Viện thông
tin khoa học xã hội (1999).
58. Nông nghiệp, nông thôn trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, Nxb Học viện
Chính trị Quốc gia, Hồ Chí Minh, 1993.
59. Nguyễn Hữu Phận (1978), Tìm hiểu Nghị quyết của Trung ương về nông
nghiệp, Nxb Phổ Thông.
60. Lê Quang Phi (2007), Đẩy mạnh công nghiêp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
61. Nguyễn Văn Phúc (2004), Công nghiệp nông thôn hiện nay: thực trạng và
giải pháp phát triển, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
62. Vũ Văn Phúc, Một số vấn đề về: công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngông
nghiệp, nông thôn, Tạp chí cộng sản, số 7 (4/1999), tr.25- 28.
63. Hoàng Thiếu Sơn, nhà văn Phượng Vũ (chủ biên) (1999), Địa chí Hà Tây,
Sở văn hóa thông tin Hà Tây.
121
64. Đặng Kim Sơn (2001), Công nghiệp hóa từ nông nghiệp: lý luận, thực
tiễn và triển vọng ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
65. Đặng Kim Sơn (2008), Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam: hôm
nay và mai sau, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
66. Nguyễn Xuân Thảo (2004), Góp phần phát triển bền vững nông thôn Việt
Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
67. Sở văn hóa thông tin Tỉnh Hà Tây (2005), Sơn Tây- từ một vùng đất cổ.
68. Lê Bá Tâm, Tác dụng của tăng năng xuất lao động nông nghiệp trong
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Tạp chí Lý luận chính trị, số 6/2002, tr29- 35.
69. Thị ủy Sơn Tây, Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế, chính trị 5
năm (1991- 1995) và phương hướng tới năm 2000.
70. Thị ủy Sơn Tây, Báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ Thị xã Sơn Tây
khóa XVI trình Đại hội Đại biểu Thị xã lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2001- 2005.
71. Thị ủy Sơn Tây, Báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ Thị xã Sơn Tây khóa
XVII trình Đại hội Đại biểu Thị xã lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2006- 2010.
72. Thị ủy Sơn Tây (2008), Báo cáo kiểm điểm giữa nhiệm kỳ kết quả lãnh
đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố Sơn Tây
khóa XVIII (giai đoạn 2006- 06/2008) ngày 29/07/2008.
73. Thị ủy Sơn Tây (2010), Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ
Thị xã Sơn Tây khóa XVIII trình Đại hội Đại biểu Thị xã lần thứ XIX,
nhiệm kỳ (2010- 2015).
74. Thị ủy Sơn Tây, Nghị quyết số 16- NQ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ
Thị xã khóa XVII (nhiệm kỳ 2001- 2005) về “chuyển đổi cơ cấu kinh tế
nông nghiệp Thị xã giai đoạn 2001- 2005.
75. Thị ủy Sơn Tây, Nghị quyết số 10- NQ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ
Thị xã khóa XVIII (nhiệm kỳ 2006- 2010) về “đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu
kinh tế nông nghiệp Thị xã giai đoạn 2006- 2010”.
122
76. Thị ủy Sơn Tây, Chương trình số 05- Ctr/TU của Ban Chấp hành Đảng
bộ Thị xã về thực hiện nghị quyết số 20- NQ/TW Hội nghị lần thứ VII Ban
Chấp hành khóa X về “nông nghiệp, nông dân, nông thôn”.
77. Thị ủy Sơn Tây (2005), Báo cáo kết quả 4 năm thực hiện Nghị quyết số
16- NQ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ Thị xã về chuyển đổi cơ cấu kinh
tế nông nghiệp.
78. Bùi Tất Thắng (2006), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
79. Hồ Văn Thông (2008), Bàn về một số vấn đề nông thôn nước ta hiện nay,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
80. Lê Bàn Thạch, Trần Thị Tri (2000), Công nghiệp hóa ở Nics Đông Nam Á
và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội.
81. Nguyễn Xuân Thảo (2004), Góp phần phát triển bền vững nông thôn Việt
Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
82. Nguyễn Hữu Tiến (2008), Phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn ở Việt
Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
83. PGS.TS Ngô Đăng Tri (2010), 80 năm (1930- 2010) Đảng Cộng sản Việt
Nam- Những chẳng đường lịch sử, Nxb Thông tin và truyền thông, Hà Nội.
84. Nguyễn Kế Tuấn (2006), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
85. Nguyễn Từ (chủ biên) (2008), Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế với
phát triển nông nghiệp Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
86. Tỉnh ủy Hà Tây (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu tỉnh lần thứ XII, Hà
Đông.
87. Tỉnh ủy Hà Tây (2000), Văn kiện Đại hội Đại biểu tỉnh lần thứ XIII, Hà
Đông.
88. Tỉnh ủy Hà Tây (2005), Văn kiện Đại hội Đại biểu tỉnh lần thứ XIV, Hà
Đông.
123
89. Tỉnh ủy Hà Tây (2002), Chương trình số 24- Ctr/TU ngày 20/04/2002 về
đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn giai
đoạn 2001- 2010, Hà Đông.
90. Ủy ban nhân dân Thị xã Sơn Tây, Niên giám thống kê Thị xã giai đoạn
2006- 2010.
91. Ủy ban nhân dân Thị xã Sơn Tây, Đề án chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông
nghiệp Thị xã Sơn Tây giai đoạn 2001- 2005, Sơn Tây.
92. Ủy ban nhân dân Thị xã Sơn Tây, Báo cáo tình hình kinh tế xã hội 6 tháng
đầu năm 1999 và phương hướng, nhiệm vụ 6 tháng cuối năm, Sơn Tây.
93. Ủy ban nhân dân Thị xã Sơn Tây, Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện
các mục tiêu kinh tế xã hội của Ủy ban nhân dân Thị Sơn Tây, nhiệm kỳ
1994- 1999, Sơn Tây.
94. Ủy ban nhân dân Thị xã Sơn Tây, Báo cáo số 270- BC/UBND: kết quả 4
năm thực hiện Nghị quyết 24/2006/ NQ- HĐND 17 ngày 20/12/2006 của
HĐND Thị xã Sơn Tây về việc đẩy mạnh thực hiện nâng cấp, cải tạo xây
dựng hệ thống giao thông nông thôn trên địa bàn Thị xã Sơn Tây đến 2010.
95. Vũ Quang Việt (1997), Kinh tế Việt Nam trên đường phát triển, Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.
96. Hồng Vinh (1998), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông
thôn: một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
97. Nguyễn Hoàng Xanh, Mấy giải pháp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn, Tạp chí cộng sản, số 28 (10/2002), tr. 23- 27.
124
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1: Các loại đất chính của Thị xã Sơn Tây
Đơn vị tính: ha
Toàn thành phố STT Loại đất Ký hiệu Diện tích Tỷ lệ (%)
588,0 5,2 Đất phù sa không được bồi P 1
50,0 0,4 Đất phù sa được bồi Pb 2
598,0 5,3 Đất phù sa glây Pg 3
588,0 5,2 Đất phù sa cổ B 4
374,0 3,3 Đất phù sa úng nước Pj 5
570,0 5,0 Đất đỏ vàng trên đá sét Fs 6
Đất nâu vàng trên phù sa cổ 3563,8 31,4 Fp 7
Đất đỏ vàng biến đổi do trồng 725,3 6,4 Fl 8 lúa nước
CỘNG DIỆN TÍCH ĐẤT 7057,1 62,2
651,0 5,7 Thổ cư
165,75 1,5 Ao hồ
3473,0 30,6 Đất chuyên dùng
TỔNG DIỆN TÍCH TỰ 11346,85 100,0 NHIÊN
Nguồn: Viện Quy hoạch và TKNN, 2006
125
PHỤ LỤC 2: Cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu kinh tế Thị xã Sơn Tây
Đơn vị tính: %
Chỉ tiêu 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Cơ cấu giá trị sản 100 100 100 100 100 100 100 xuất
Công nghiệp – 42,8 43,1 43,9 44,9 48,0 48,0 47,5 Xây dựng
Thương mại – Du 33,4 34,1 35,6 36,0 36,0 36,0 39 lịch – Dịch vụ
Nông nghiệp 23,8 22,8 20,5 19,1 16 15,6 13,5
Nguồn: Phòng Thống kê thành phố Sơn Tây năm 2007
126
PHỤ LỤC 3: Biến động sản xuất ngành chăn nuôi Thành phố Sơn Tây
STT Chỉ tiêu 2002 2003 2004 2005 2006 2007
I Số lượng
Trâu (con) 2.700 2.500 2.427 2.273 1.886 1.514
Bò (con) 6.392 6.401 6.806 7.260 8.304 9.777
Lợn (1000con) 28,4 29,6 30,3 36,9 40,9 42
Gia cầm 430,1 452,9 472,3 481,2 451,5 504,6 (1000 con)
Sản lượng II 4.023 4.331 4.841,5 5.503,9 6.359,5 6.800 (tấn)
67 59 45,9 53,8 61,1 Trâu
73 79 99,9 110,6 120,5 Bò
2.903 3.113 3.308,4 3.939,4 4.877 Lợn
Gia cầm 980 1.080 1.360,3 1.407,1 1.300,9
Nguồn: phòng thống kê Thành phố Sơn Tây, 2007
127
PHỤ LỤC 4: Giá trị thu nhập và cơ cấu ngành nông nghiệp
(Giá hàng hóa)
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Chỉ tiêu 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Tổng giá trị nông, 127,5 111,03 117,43 161,87 169,03 170,89 lâm, thủy sản 8
120,3 I. - Nông nghiệp 105,50 110,45 154,40 161,29 163 5
1. Trồng trọt 69,78 71,27 64,87 82,97 87,62 79,87
Cơ cấu (%) 66,46 64,53 53,90 53,74 54,32 49
2. Chăn nuôi – 35,22 39,18 55,48 71,43 73,68 83,13 Thủy sản
Cơ cấu (%) 33,54 35,47 46,10 46,26 45,68 51
II. Lâm nghiệp 6,03 6,99 7,23 7,47 7,73 7,89
Nguồn: Phòng Thống kê Thành phố Sơn Tây năm 2007
128
PHỤ LỤC 5: Biến động ngành sản xuất thủy sản của Thành phố Sơn Tây
STT Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 2007
Diện tích nuôi 1 218 223 227 230 235,1 thả thủy sản (ha)
Chuyên nuôi 161,3 161,3 164,8 164,8 164,8 thủy sản
1 vụ lúa- 1 vụ 56,7 61,7 65,2 65,2 70,3 thủy sản
233 2 Sản lượng (tấn) 324,5 397,4 397,4 411,9
Cá các loại 227 322 393,2 392,8 408,6
Tôm 6 2,5 4,4 4,6 3,3
Các loại khác
Giá trị sản lượng 3 3.225 3.790 4.140 4.985 4.984 (triệu đồng)
Nguồn: phòng thống kê Thành phố Sơn Tây, 2007
129
PHỤ LỤC 6: Hiện trạng sản xuất nông- lâm nghiệp của Thị xã Sơn Tây
1997- 2000
Đv BQ 5 Chỉ tiêu 1997 1998 1999 2000 tính năm
105.00 90.89 1- Giá trị TSL Tr.đ 87.000 91.000 96.000 0 0
Trong đó:-T.trọt+vườn Tr.đ 59.500 62.600 64.500 68.000 61,05
- chăn nuôi Tr.đ 26.400 27.150 30.000 30.500 27,54
- lâm nghiệp Tr.đ 1.100 1.450 1.500 6.500 2,3
19.81 2- Tổng SLLT Tấn 18.195 21.933 20.440 19.229 7
17.24 Trong đó: - Thóc Tấn 15.086 18.568 20.056 18.863 2
- Màu Tấn 3.109 3.365 384 366 2.575
Tổng diện tích gieo Ha 6.486 7.034 6.717 6.706 trồng
3- Chăn nuôi
Tổng đàn trâu Con 3.952 3.891 3.908 3.525
Tổng đàn bò Con 5.450 5.491 5.496 6.205
Tổng đàn lợn Con 25.059 25.210 25.388 26.312
1000 Tổng đàn gia cầm 299.6 310,2 316,3 357,2 con
Sản lượng cá 150 175 Tấn
Nguồn: Phòng thống kê Thị xã Sơn Tây, 2000
130