ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ***********

TRẦN THỊ THU HẰNG

ĐẢNG BỘ THỊ XÃ SƠN TÂY (TỈNH HÀ TÂY)

LÃNH ĐẠO KINH TẾ NÔNG NGHIỆP

(1996- 2008)

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Mã số: 60.22.03.15

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. LÊ MẬU HÃN

Hà Nội – 2014

LỜI CẢM ƠN

Luận văn tốt nghiệp cao học được hoàn thành tại Đại học Khoa học xã hội

và Nhân văn- Đại học Quốc gia Hà Nội. Có được bản luận văn tốt nghiệp này,

cùng với sự nỗ lực của bản thân. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo

đã tận tình hướng dẫn, giảng dạy trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và

rèn luyện ở Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn- Đại học Quốc gia

Hà Nội.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới PGS.Lê Mậu Hãn

người thầy đã trực tiếp hướng dẫn, dìu dắt, giúp đỡ và chỉ bảo những kiến

thức về chuyên môn thiết thực, những chỉ dẫn khoa học quí báu trong suốt

quá trình triển khai, nghiên cứu và hoàn thành đề tài “Đảng bộ Thị xã Sơn

Tây (Hà Tây) lãnh đạo kinh tế nông nghiệp giai đoạn 1996- 2008”.

Xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Thị ủy Sơn Tây, Phòng Thống kê Thị xã Sơn

Tây, Phòng Kinh tế Thị xã Sơn Tây….và các cơ quan liên quan, các cá nhân

đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp tôi thu thập số liệu cũng như những tài

liệu cần thiết liên quan tới đề tài.

Cuối cùng, một lần nữa một lần nữa xin chân thành cảm ơn các thầy, cô

giáo, các đơn vị và cá nhân đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện

luận văn tốt nghiệp này.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 16 tháng 12 năm 2014

Học viên

Trần Thị Thu Hằng

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng

dẫn của PGS. Lê Mậu Hãn và chưa được bảo vệ bất cứ một học vị nào.

Những thông tin, số liệu trong luận văn đảm bảo tính chính xác, trung thực,

có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.

Hà Nội, ngày 20 tháng 12 năm 2014

Học viên

Trần Thị Thu Hằng

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài .................................................................................... 1

2. Lịch sử nghiên cứu ................................................................................. 4

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................... 6

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................... 7

5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ............................................. 8

6. Đóng góp của luận văn ........................................................................... 9

7. Kết cấu của luận văn ............................................................................... 9

Chƣơng 1: ĐẢNG BỘ THỊ XÃ SƠN TÂY LÃNH ĐẠO KINH TẾ NÔNG

NGHIỆP (1996- 2000) ................................................................................ 10

1.1 Khái quát điều kiện tự nhiên- kinh tế xã hội của Thị xã Sơn Tây . 10

1.1.1 Khái quát điều kiện tự nhiên ........................................................ 10

1.1.2 Điều kiện kinh tế xã hội ............................................................... 17

1.2 Tình hình kinh tế nông nghiệp của Thị xã Sơn Tây trƣớc năm 1996 ..... 23

1.3 Đảng bộ Thị xã Sơn Tây lãnh đạo, chỉ đạo kinh tế nông nghiệp từ

năm 1996 đến năm 2000 ......................................................................... 32

1.3.1 Đường lối đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng

Cộng sản Việt Nam và chủ trương của Đảng bộ Tỉnh Hà Tây .............. 32

1.3.2 Quá trình lãnh đạo thực hiện phát triển kinh tế nông nghiệp của

Đảng bộ Thị xã Sơn Tây (1996- 2000) .................................................. 44

Chƣơng 2: ĐẢNG BỘ THỊ XÃ SƠN TÂY LÃNH ĐẠO KINH TẾ NÔNG

NGHIỆP (2001- 2008) ................................................................................ 58

2.1 Đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng bộ

Tỉnh Hà Tây về phát triển kinh tế nông nghiệp .................................... 58

2.1.1 Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam ..................................... 58

2.1.2 Chủ trương của Đảng bộ Tỉnh Hà Tây......................................... 64

2.2 Quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện phát triển kinh tế nông

nghiệp của Thị xã Sơn Tây (2001- 1008) ............................................... 68

2.2.1 Chủ trương của Đảng bộ Thị xã Sơn Tây ..................................... 68

2.2.2 Quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng

CNH, HĐH ........................................................................................... 72

CHƢƠNG 3: NHẬN XÉT CHUNG VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM CHỦ YẾU . 93

3.1 Một số nhận xét................................................................................. 93

3.1.1 Thành tựu .................................................................................... 93

3.1.2 Hạn chế ..................................................................................... 104

3.2 Bài học kinh nghiệm ....................................................................... 107

3.2.1 Nghiêm túc, vận dụng đúng đắn, sáng tạo, kịp thời các quan điểm

chủ trương, đường lối của Trung ương Đảng và của Tỉnh ủy Hà Tây,

trên cơ sở nắm chắc tình hình của Thị xã, hợp với lòng dân và được nhân dân

hưởng ứng............................................................................................ 107

3.2.2 Đẩy mạnh việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, chọn, tạo

giống cây con phù hợp với từng vùng sinh thái ................................... 109

3.2.3 Phát huy ý thức tự lực, tự cường, sáng tạo, huy động sức dân, dựa

vào dân để tiến hành CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. ................. 110

3.2.4 Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng ở nông thôn để đáp ứng yêu

cầu phát triển nông nghiệp. ................................................................ 112

KẾT LUẬN ............................................................................................... 114

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 117

PHỤ LỤC.................................................................................................. 125

BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

STT Chữ viết tắt Viết đủ

1 BCH Ban Chấp hành

CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa 2

Đảng Cộng sản Việt Nam 3 ĐCSVN

4 HĐND Hội đồng nhân dân

5 HTX Hợp tác xã

6 KHCN Khoa học công nghệ

7 Nxb Nhà xuất bản

8 TW Trung ương

9 UBND Ủy ban nhân dân

10 XHCN Xã hội chủ nghĩa

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Việt Nam hình thành và phát triển từ một nền văn minh nông nghiệp

lúa nước cổ truyền. Là một quốc gia có truyền thống nông nghiệp từ hàng

ngàn năm nay, đại bộ phận dân cư sinh sống ở khu vực nông thôn. Một quốc

gia với nền văn minh nông nghiệp đặc trưng. Vì vậy nông nghiệp luôn được

coi là mặt trận kinh tế hàng đầu và được ưu tiên phát triển. Nông nghiệp và

nông thôn là những yếu tố đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh

tế, xây dựng đất nước.

Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nước ta đi lên chủ nghĩa

xã hội từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, sản xuất nông nghiệp là chủ

yếu. Để có nền kinh tế phát triển cao, cơ sở vất chất kỹ thuật tiên tiến và hiện

đại, Đảng ta khẳng định tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quy luật

khách quan và yêu cầu cấp bách của sự nghiệp cách mạng. Song, vấn đề cơ

bản quyết định cho thành công là xác định bước đi đúng đắn và phù hợp. Với

nguồn lao động dồi dào, tiềm năng trong nông nghiệp, nông thôn và nông dân

còn rất lớn. Đây là điều kiện có sẵn, là lợi thế cơ bản của đất nước cần được

khơi dậy và phát huy, thúc đẩy sản xuất phát triển. Đảng và Nhà nước ta nhất

quán khẳng định, nông nghiệp- nông dân- nông thôn giữ vị trí chiến lược cả

trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Bởi vậy, tại Đại hội lần thứ VIII (1996) Đảng ta chủ trương “coi trọng công

nghiệp hóa, hiện đại hóa trong nông nghiệp, nông thôn” [31; 442] và “phát

triển nông nghiệp toàn diện hướng vào đảm bảo an ninh lương thực quốc gia

trong mọi tình huống” [31; 498] và đồng thời thực hiện “chuyển dịch cơ cấu

nông nghiệp và kinh tế nông nghiệp có hiệu quả” [31; 498].

Đến Đại hội lần thứ X Đảng ta xác định “Hiện nay và trong nhiều năm

tới, vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn vẫn có tầm chiến lược đặc

1

biệt quan trọng. Phải luôn luôn coi trọng, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại

hóa, đa dạng, phát triển nhanh và bền vững, có năng xuất, chất lượng và khả

năng cạnh tranh cao, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực và tạo điều kiện

từng bước hình thành nên nông nghiệp sạch” [33].

Với một đất nước có gần 80% dân số là nông dân và sản phẩm nông

nghiệp vẫn chiếm gần 40% GDP thì nông nghiệp được coi là một cơ sở quan

trọng cho sự phát triển kinh tế của đất nước. Thực tế trong những năm qua

cũng như suốt chiều dài của lịch sử cho thấy tầm quan trọng của nền nông

nghiệp và nông thôn Việt Nam. Nông nghiệp sản xuất ra nông sản thiết yếu để

duy trì cuộc sống của đại bộ phận dân cư, đồng thời cung cấp nguyên liệu cho

công nghiệp và hàng hóa để xuất khẩu; còn nông thôn là nơi cung cấp nguồn

lao động chủ yếu cho các ngành kinh tế quốc dân. Phát triển nông nghiệp và

kinh tế nông thôn không chỉ tạo ra nguồn thu nhập cho đại bộ phận dân cư,

mà còn góp phần thúc đẩy quá trình CNH, HĐH đất nước. Đặc biệt, đối với

một nước đi lên từ nông nghiệp như Việt Nam thì phát triển nông nghiệp và

nông thôn còn là cơ sở quan trọng để đảm bảo ổn định chính trị xã hội. phát

triển kinh tế bền vững và tăng cường quốc phòng an ninh.

Thị xã Sơn Tây là một vùng đất cổ, “địa linh nhân kiệt”, là trung tâm

văn hóa xứ Đoài, có bề dày lịch sử và chiều sâu văn hóa, mang đậm bản sắc

vùng và dấu ăn văn hóa truyền thống dân tộc, là nơi trưởng thành cùng với

tiến trình phát triển của lịch sử đất nước và của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thị

xã Sơn Tây là trung tâm hành chính, chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội của

Tỉnh Sơn Tây trước đây, với tổng diện tích là 113,46 ha, dân số khoảng 18

vạn người (không kể lực lượng quân đội và học sinh, sinh viên đang theo học

ở các trường Đại học, Cao đẳng và trung cấp trên địa bàn), trong đó có 60,5%

số người sống ở khu vực nông thôn. Diện tích sản xuất nông nghiệp có

5.059,8 ha với lực lượng lao động nông nghiệp 21.686 người, chiếm 34,42%

2

lực lượng lao động toàn Thị xã. Đây là nơi được coi là trung tâm kinh tế, văn

hóa khu vực Tây Bắc của tỉnh Hà Tây trước đây và nay là thủ đô Hà Nội.

Thị xã Sơn Tây thuộc vùng trung du, trong đó 3/4 là diện tích đồi gò,

nối liền với vùng núi huyện Ba Vì, trải dài thoai thoải từ Tây Bắc đến Đông

Nam khu vực phụ cận núi Tản Viên đến sông Tích là đất đồi gò, khu vực từ

nội thị đến đê sông Hồng là vùng đồng bằng tương đối màu mỡ do thường

xuyên được phù xa bồi đắp, ở đây nổi lên những quả đồi cao, thấp xen kẽ

nhau tạo ra những đường đi uốn lượn được hình thành một cách tự nhiên.

Với vị trí chiến lược, Thị xã Sơn Tây có điều kiện thuận lợi cho việc

mở mang, phát triển kinh tế như: phát triển kinh tế công thương nghiệp, đẩy

mạnh phát triển thương mại, du lịch, dịch vụ, đầu tư cơ sở hạ tầng đô thị.

Với tình hình trên, Đảng bộ Thị xã Sơn Tây đã nỗ lực và sáng suốt lãnh

đạo phát triển kinh tế, trọng tâm là phát triển nông nghiệp nhằm ổn định tình

hình kinh tế trong giai đoạn đầu đổi mới, và tiếp tục lãnh đạo quá trình phát

triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Nhờ đó

từng bước ổn định tình hình kinh tế xã hội và phát triển kinh tế nông nghiệp,

nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Tìm hiểu quá trình Đảng bộ Thị xã Sơn Tây lãnh đạo kinh tế nông

nghiệp theo hướng CNH, HĐH là một trong những vấn đề có ý nghĩa rất quan

trọng, nhằm tổng kết lại sự lãnh đạo của Đảng bộ Thị xã trong việc vận dụng

chủ trương, chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước vào thực tiễn

địa phương. Qua đó, đánh giá những thành tựu, hạn chế trong quá trình lãnh

đạo của Đảng bộ; đồng thời từ đó đúc kết những bài học kinh nghiệm cho giai

đoạn mới. Với những lý do trên, tôi lựa chọn đề tài “Đảng bộ Thị xã Sơn

Tây (Hà Tây) lãnh đạo kinh tế nông nghiệp từ năm 1996 đến năm 2008”

làm luận văn Thạc sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt

Nam. Là một người con, sinh ra và lớn lên ở mảnh đất quê hương Sơn Tây,

khi nghiên cứu đề tài này tôi mong muốn có những đóng góp nhỏ vào việc

3

phát triển kinh tế của Thị xã- một vấn đề chiến lược và rất quan trọng, có ý

nghĩa thực tiễn.

2. Lịch sử nghiên cứu

Nông nghiệp là một hoạt động sản xuất mang tính chất cơ bản. Ở nước

ta, Nghị quyết từ Đại hội Đảng lần thứ III (1960) đến Đại hội Đảng lần thứ X

(2006) đều quan tâm, chú trọng tới phát triển kinh tế, tạo nền tảng, điều kiện

cho sự phát triển đất nước, trong đó có kinh tế nông nghiệp và có nhiều Nghị

quyết chuyên đề về phát triển nông nghiệp, nông thôn. Vì vậy, đề tài về nông

nghiệp đã có nhiều tác phẩm nghiên cứu của các tác giả, nhiều bài viết trên

các tạp chí… đã góp phần cung cấp lý luận và thực tiễn về phát triển nông

nghiệp, nông thôn như:

* Với các công trình nghiên cứu chung:

Các bài nghiên cứu, các đề tài… đã đề cập tới việc phát triển kinh tế,

đặc biệt là kinh tế nông nghiệp dưới nhiều góc độ khác nhau, như bài viết:

- Hồng Vinh (1998), Công nghiêp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông

thôn: một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

- Đặng Kim Sơn (2001), Công nghiệp hóa từ nông nghiệp: lý luận, thực

tiễn và triển vọng ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

- PGS.TS Nguyễn Văn Khánh (2001), Biến đổi cơ cấu ruộng đất và

kinh tế nông nghiệp ở vùng Châu thổ sông Hồng trong thời kỳ đổi mới, Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

- T.s Lê Quang Phi (2004), Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

nông nghiệp, nông thôn trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

- Nguyễn Xuân Thảo (2004), Góp phần phát triển bền vững nông

nghiệp, nông thôn Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

Qua các công trình của các tác giả từ những cách tiếp cận khác nhau

đều đề cập đến việc phát triển kinh tế, trong đó đặc biệt là kinh tế nông

nghiệp, đề cập đến sự quan tâm của Đảng và Nhà nước trong các chương

4

trình, đề án phát triển nông nghiệp, đồng thời đưa ra các giải pháp thích hợp

để kinh tế nông nghiệp phát triển trong thời kỳ CNH, HĐH nông nghiệp,

nông thôn và nông dân.

* Ngoài ra còn có những luận văn, luận án của các học viên cao học,

nghiên cứu sinh lấy đề tài kinh tế nông nghiệp làm đề tài nghiên cứu:

- Đào Thị Vân (2004): “Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo chuyển dịch

cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa giai đoạn 1997 –

2003”, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

- Phạm Thị Thu Hiền (2010), Chuyển đổi ngành nghề trong nông

nghiệp và nông thôn thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa,

Luận văn Thạc sĩ kinh doanh và quản lý, Đại học Kinh tế.

- Tạ Thị Phương Thúy (2013), Giải quyết việc làm cho nông dân huyện

Phù Ninh- Tỉnh Phú Thọ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông

nghiệp, nông thôn, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Đại học Khoa học xã hội và

Nhân văn.

- Tống Văn Chung (2011), Những nhân tố kinh tế xã hội tác động đến

sự chuyển cư của cư dân nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại

hóa, Luận án Tiến sĩ Xã hội học, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn.

- Đặng Kim Oanh (2010), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo chuyển

dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp từ 1996- 2006, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Đại

học Khoa học xã hội và Nhân văn.

Qua các đề tài này, các tác giả cũng đã nghiên cứu vấn đề kinh tế nông

nghiệp qua việc thực hiện chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, giải quyết việc

làm, các điều kiện tác động tới kinh tế nông nghiệp và đời sống nông

dân…Từ đó, đưa ra các giải pháp cụ thể để phát triển kinh tế nông nghiệp.

Các công trình nghiên cứu về kinh tế nông nghiệp rất đa dạng và phong

phú, trên nhiều lĩnh vực cho thấy tầm quan trọng, vai trò của nông nghiệp,

nông dân, nông thôn đối với nền kinh tế đất nước. Tuy nhiên, hiện nay chưa

5

có một công trình khoa học nào nghiên cứu sâu, toàn diện về kinh tế nông

nghiệp ở Thị xã Sơn Tây, nhất là dưới góc độ Lịch sử Đảng. Nhưng các công

trình kể trên là những tài liệu quý, để tôi có thể tham khảo trong quá trình

thực hiện luận văn của mình.

* Tại Thị xã Sơn Tây cũng có một số công trình, sách báo liên quan

đến vấn đề này: Cuốn“Lịch sử Đảng bộ Thị xã Sơn Tây 1930 - 1995” xuất

bản năm 1999 và “Các kỳ Đại hội Đảng bộ Thị xã Sơn Tây” xuất bản năm

2010 đã giới thiệu và khái quát về quá trình xây dựng, phát triển đi lên của

Thị xã.

Ngoài ra còn các báo cáo tổng kết hàng năm của HĐND, UBND Thị xã

Sơn Tây, các báo cáo của các sở, ban, ngành đặc biệt là Sở Nông nghiệp và

Phát triển Nông thôn Thị xã Sơn Tây (nay là Phòng Kinh tế Thị xã Sơn Tây)

Những công trình và những báo cáo trên về Thị xã Sơn Tây cũng đã

nêu lên một vài khía cạnh hoặc khái quát được tình hình kinh tế xã hội của

Thị xã. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu riêng

và trình bày một cách tổng quát, hệ thống và chuyên sâu về vấn đề phát triển

nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ thị xã Sơn

Tây trong một giai đoạn cụ thể và vai trò của Đảng trong quá trình đó.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1 Mục đích nghiên cứu

Đề tài luận văn bước đầu giải quyết một số vấn đề sau:

- Tìm hiểu sự lãnh đạo, những chủ trương của Đảng bộ Thị xã Sơn Tây

về kinh tế nông nghiệp từ năm 1996 đến năm 2008. Bên cạnh đó đưa ra một

số ý kiến đánh giá những thành tựu, hạn chế của Đảng bộ Thị xã Sơn Tây

trong phát triển kinh tế nông nghiệp.

- Bước đầu rút ra những bài học kinh nghiệm của Đảng bộ Thị xã Sơn

Tây trong quá trình lãnh đạo kinh tế nông nghiệp (1996- 2008), đồng thời từ

đó đề ra hướng phát triển cho kinh tế nông nghiệp giai đoạn sau.

6

3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

- Đánh giá những thuận lợi và khó khăn về điều kiện tự nhiên, kinh tế

xã hội đối với việc phát triển kinh tế nông nghiệp của Thị xã Sơn Tây; khái

quát về kinh tế nông nghiệp của Thị xã trước năm 1996.

- Trình bày khái quát các đường lối, chủ trương của ĐCSVN và Đảng

bộ Tỉnh Hà Tây về kinh tế nông nghiệp.

- Mô tả quá trình Đảng bộ Thị xã Sơn Tây vận dụng chủ trương của

Nhà nước và Đảng bộ Tỉnh Hà Tây để chỉ đạo thực hiện kinh tế nông nghiệp

từ 1996- 2008.

- Qua đó đánh giá kết quả đạt được, đồng thời cũng rút ra bài học kinh

nghiệm trong quá trình chỉ đạo thực hiện kinh tế nông nghiệp của Đảng bộ

Thị xã.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1 Đối tượng nghiên cứu

Là các chủ trương, quá trình chỉ đạo thực hiện đường lối phát triển kinh

tế nông nghiệp của Đảng bộ Thị xã Sơn Tây, sự phát triển kinh tế nông

nghiệp của Thị xã từ 1996- 2008.

4.2 Phạm vi nghiên cứu

- Nội dung:

Các thuận lợi cũng như những khó khăn của Thị xã Sơn Tây trong lĩnh

vực kinh tế nông nghiệp

Các chủ trương, biện pháp chỉ đạo thực hiện và kết quả đạt được trong

kinh tế nông nghiệp của Đảng bộ Thị xã Sơn Tây từ 1996- 2008.

- Thời gian: Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ Thị xã Sơn Tây về

kinh tế nông nghiệp trên địa bàn Thị xã từ 1996- 2008.

- Không gian: Nghiên cứu sự lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng bộ Thị xã

Sơn Tây về kinh tế nông nghiệp của Thị xã.

7

5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu

5.1 Nguồn tư liệu

Để hoàn thành luận văn của mình tôi đã sử dụng nguồn tư liệu chủ yếu:

Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc của ĐCSVN, Hồ Chí Minh toàn tập, các

văn kiện, Nghị quyết, báo cáo của Đảng bộ Tỉnh Hà Tây và của Thị xã Sơn

Tây trong những năm 1996- 2008, các báo cáo kinh tế của Phòng Kinh tế Thị

xã Sơn Tây, các báo cáo tổng hợp của UBND Thị xã Sơn Tây và một số tư

liệu trong lịch sử Đảng bộ Thị xã Sơn Tây. Đây là nguồn tư liệu cơ bản để

thực hiện đề tài này và những tài liệu đó được khai thác bằng nhiều nguồn

khác nhau nhưng chủ yếu là tại Phòng Lưu Trữ của Thị ủy Sơn Tây, UBND

Thị xã Sơn Tây, Phòng Kinh tế Thị xã, Thư viện Thị xã, Phòng Thống kê Thị

xã và Thư viện trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn.

Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các công trình nghiên cứu khoa học,

các luận văn, luận án, các bài nói, bài viết của các nhà khoa học, các lãnh đạo

Đảng và Nhà nước xung quanh lĩnh vực kinh tế nông nghiệp.

5.2 Phương pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của

chủ nghĩa Marx- Lênin để xem xét, đánh giá các sự kiện, hiện tượng của kinh

tế nông nghiệp ở Thị xã Sơn Tây. Đây được coi là cơ sở lý luận của luận văn.

Bên cạnh đó, có phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp logic

và sự kết hợp hai phương pháp đó. Các khía cạnh, các vấn đề có liên quan tới

kinh tế nông nghiệp ở địa phương được trình bày theo trật tự thời gian, đồng

thời được đặt trong mối quan hệ có tính hệ thống, tức là nghiên cứu những nét đặc

thù của Thị xã Sơn Tây trong bối cảnh phát triển kinh tế chung của cả nước.

Thêm vào đó, luận văn còn sử dụng phương pháp thống kê, phân tích,

so sánh, đối chiếu để có thể đưa ra những kết quả xác đáng nhất nhằm góp

phần làm sáng tỏ một giai đoạn kinh tế ở địa phương.

8

6. Đóng góp của luận văn

Luận văn nhằm hệ thống hóa các chủ trương, chính sách của Đảng bộ

Tỉnh Hà Tây về kinh tế nông nghiệp và cách thức mà Đảng bộ Thị xã Sơn

Tây lãnh đạo thực hiện phát triển kinh tế nông nghiệp.

Tổng kết, đúc rút những kinh nghiệm Đảng bộ Thị xã lãnh đạo thực

hiện phát triển kinh tế nông nghiệp từ năm 1996 đến năm 2008.

Bên cạnh đó, luận văn phần nào là nguồn tư liệu tham khảo để viết lịch

sử địa phương, ngoài ra còn phục vụ cho nghiên cứu, giảng dạy lịch sử tại các

trường Đảng, các trung tâm chính trị và các trường phổ thông địa phương.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn

gồm có 3 chương:

Chương 1: Đảng bộ Thị xã Sơn Tây lãnh đạo kinh tế nông nghiệp

(1996- 2000).

Chương 2: Đảng bộ Thị xã Sơn Tây lãnh đạo kinh tế nông nghiệp

(2001- 2008).

Chương 3: Nhận xét chung và một số kinh nghiệm chủ yếu

9

Chƣơng 1:

ĐẢNG BỘ THỊ XÃ SƠN TÂY LÃNH ĐẠO KINH TẾ NÔNG NGHIỆP

(1996- 2000)

1.1 Khái quát điều kiện tự nhiên- kinh tế xã hội của Thị xã Sơn Tây

1.1.1 Khái quát điều kiện tự nhiên

Sơn Tây là vùng đất cổ, “địa linh nhân kiệt”, là trung tâm văn hóa xứ

Đoài, nơi có bề dày và chiều sâu văn hóa, mang đậm bản sắc vùng và dấu ấn

văn hóa truyền thống của dân tộc, nơi đây trưởng thành cùng với tiến trình

phát triển của lịch sử đất nước và của Đảng Cộng sản Việt Nam.

- Vị trí địa lý

Thị xã Sơn Tây có vị trí thuận lợi trong phát triển kinh tế xã hôi nói

chung, sản xuất nông nghiệp nói riêng. Đây là trung tâm chính trị, kinh tế, văn

hóa xã hội của Tỉnh Hà Tây trước đây.

Thị xã Sơn Tây là cửa ngõ phía Tây của thủ đô Hà Nội, nằm trên tọa độ từ 210 01’22’’ đến 21010’20’’ vĩ độ Bắc và từ 105024’52’’ – 105032’14’’ kinh độ

Đông, cách trung tâm Hà Nội 42 km về phía Tây Bắc theo quốc lộ 32. Ranh

giới giáp với các đơn vị hành chính:

Phía Bắc giáp với tính Vĩnh Phúc qua sông Hồng.

Phía Đông giáp với huyện Phúc Thọ và huyện Thạch Thất

Phía Nam giáp với huyện Phúc Thọ

Phía Tây giáp với huyện Ba Vì.

Tổng diện tích tự nhiên (2010) là 11.345,85 ha (trong đó diện tích đất tự nhiên khu vực nông thôn là 92,44km2, chiếm 81,48% diện tích tự nhiên

toàn thị xã); dân số khoảng 18 vạn người (trong đó có khoảng 5 vạn quân

nhân các đơn vị quân đội, sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng, trung cấp

chuyên nghiệp và dạy nghề).

10

Thị xã Sơn Tây hiện có 15 đơn vị hành chính gồm 9 phường và 6 xã

(trong đó có 6 phường và 6 xã còn sản xuất nông nghiệp): Ngô Quyền, Quang

Trung, Sơn Lộc, Xuân Khanh, Phú Thịnh, Viên Sơn, Trung Sơn Trầm, Trung

Hưng; 6 xã: Đường Lâm, Thanh Mỹ, Xuân Sơn, Kim Sơn, Sơn Đông. Với

143 thôn, tổ dân phố; ngoài ra còn có 53 cơ quan, đơn vị doanh nghiệp, bệnh

viện, trường học Trung ương, Thành phố Hà Nội và 32 đơn vị, doanh nghiệp,

bệnh viện trên địa bàn Thị xã.

Thị xã có vị trí thuận lợi là đầu mối giao thông và giao lưu thương mại

ở cửa ngõ phía Tây thành phố, có các đường giao thông thủy, bộ quan trọng

chạy qua như: tuyến đường thủy chạy dọc theo sông Hồng lên các tỉnh vùng

Tây Bắc; đường quốc lộ 21 nối liền với đường Hồ Chí Minh và quốc lộ 32;

cầu Vĩnh Thịnh nối giữa hai tỉnh Vĩnh Phúc với Thị xã Sơn Tây (hoàn thành

6/2014). Đặc biệt, trong tương lai khi các tuyến đường trọng điểm của thành

phố được xây dựng và nâng cấp như: đường trục Hồ Tây- Ba Vì, trục phát

triển Sơn Tây- Thạch Thất- Quốc Oai- Xuân Mai- Miếu Môn, đường vành đai

V liên kết các đô thị xung quanh Hà Nội, cộng thêm các công trình đầu mối

hạ tầng kỹ thuật của Thành phố được đầu tư, khu đô thị Hòa Lạc được hình

thành sẽ thúc đẩy quá trình đô thị hóa kéo theo sự chuyển biến toàn diện về

kinh tế xã hội của Thị xã.

Nằm sát với Sơn Tây là khu công nghệ cao và khu đô thị Hòa Lạc, khu

trường Đại học Quốc gia. Mặt khác, Sơn Tây còn thuộc khu vực định hướng

phát triển văn hóa- nghệ thuật, vui chơi giải trí, dịch vụ cao cấp phía Tây thủ

đô Hà Nội, nên Sơn Tây trở thành đô thị loại III, do đó, có điều kiện phát huy

tối đa nội lực của mình và tranh thủ được sự tác động từ các nguồn vốn đầu tư

bên ngoài.

- Khí hậu:

Điều kiện khí hậu ở khu vực Sơn Tây thuận lợi cho sự phát triển theo

hướng đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi do địa hình khu vực chia thành các

11

dạng khác nhau (đồng bằng và chuyển tiếp) nên đã tạo ra nhiều vùng khí hậu

thích hợp cho phát triển đa dạng sản xuất nông nghiệp.

Thị xã Sơn Tây mang đặc điểm chung của vùng khí hậu nhiệt đới gió

mùa, mưa và nóng vào mùa hè, khô và lạnh vào mùa đông; ngoài ra còn mang

thêm khí hậu của cùng trung du bán sơn địa mát mẻ nên thuận tiện cho các

cây ưa lạnh phát triển, thích hợp cho phát triển nền nông nghiệp nhiệt đới đa

dạng và tạo ra các khu nghỉ dưỡng, các khu du lịch sinh thái khá tốt.

Một năm chia làm hai mùa rõ rệt mùa nóng ẩm và mùa khô hanh. Mùa

nóng ẩm kéo dài từ tháng 5- tháng 10 hàng năm; mùa khô hanh kéo dài từ

tháng 11- tháng 4 năm sau. Giữa hai mùa nóng ẩm và khô hanh có các thời kỳ

xen kẽ chuyển tiếp khí hậu vào cuối mùa tạo ra thời tiết đặc trưng gồm 4 mùa

xuân- hạ- thu – đông.

Nhiệt độ không khí trung bình là 22,30C; mùa nóng nhiệt độ cao nhất có thể lên đến 390 – 400C nhưng sáng và chiều mát mẻ; mùa hanh khô nhiệt độ thấp nhất có thể xuống đến 30 – 40C, trời giá rét, khô hạn và có nhiều

sương muối.

Lượng mưa trung bình năm 1.830 mm. Mưa nhiều nhất vào tháng 7-8-

9, trong các tháng này lượng mưa đạt 822,8mm, độ ẩm tương đối cao nhất

trung bình năm đạt 84%, độ ẩm tương đối thấp nhất trung bình năm là 66%.

Hướng gió chủ đạo trong năm là gió Đông Nam (vào mùa nóng ẩm

mang theo nhiều hơi nước từ biển vào gây nên những trận mưa rào lớn kèm

theo gió bão) và gió Đông Bắc (vào mùa lạnh gây lạnh và khô hanh ở những

tháng 12- tháng 2 năm sau, sau đó lại gây mưa phùn lạnh và ẩm ướt + sương

mù sương giá). Do vậy, khí hậu khu vực này tương đối khắc nghiệt tuy có gây

khó khăn nhất định cho cuộc sống con người nhưng cũng chính nhờ đó tạo

điều kiện phát triển nền nông nghiệp nhiệt đới đa dạng.

- Địa hình:

12

Thị xã Sơn Tây là vùng có địa hình trung du đa dạng với 3/4 diện tích

là đồi gò có: vùng đất đồi thấp, vùng đất bãi ven sông, vùng đồng bằng và

vũng trũng thấp hay bị úng ngập khi mưa.

Đất đai khá đồng nhất về tính chất lý, hóa học. Địa hình dốc dần từ Bắc

xuống Nam theo hướng Tây Bắc- Đông Nam, được chia làm 2 dạng địa hình:

+ Dạng bán sơn địa: gồm các xã: Thanh Mỹ, Kim Sơn, Cổ Đông, Sơn

Đông; phường Xuân Khanh, Trung Sơn Trầm có diện tích 7.867,63 ha

(69,33% diện tích tự nhiên toàn Thị xã).

+ Vùng đồng bằng: các xã, phường còn lại, diện tích tự nhiên chiếm

30,67% tổng diện tích toàn Thị xã, tuy nhiên sản xuất nông nghiệp chỉ chiếm

41,86% diện tích tự nhiên toàn vùng; phần còn lại là đất phi nông nghiệp.

- Thủy văn:

Trên địa bàn Thị xã có 3 sông lớn chảy qua là sông Hồng chảy theo

hướng Bắc- Nam qua Thị xã với chiều dài 5,6km, rộng 1000m; sông Tích bắt

nguồn từ núi Tản Viên thuộc dãy Ba Vì chảy theo hướng Tây Bắc- Đông

Nam chiều dài 10km, rộng trung bình 50m và sông Hang, ngoài ra còn nhiều

hồ chứa lớn như: hồ Xuân Khanh, hồ Đồng Mô, hơn 20 hồ lớn nhỏ khác và hệ

thống kênh mương tưới tiêu thuận lợi cho sản xuất và sinh hoạt. Ngoài ra, trữ

lượng nước ngầm cũng khá, gồm 2 tầng trữ nước là nước lỗ hổng và khe nứt

có thể cung cấp khi nước bề mặt hiếm vào mùa khô.

- Đất đai:

Tổng diện tích tự nhiên toàn Thị xã là 113,46ha, diện tích tự nhiên khu vực nông thôn là 92,44km2 chiếm 81,43% diện tích tự nhiên toàn Thị xã. Gồm

các loại đất:

Đất phù sa được bồi đắp hàng năm (Pb): Diện tích 50 ha chiếm 0,44%

diện tích tự nhiên toàn Thị xã; phân bố ở các xã, phường: Đường Lâm, Viên

Sơn, Phú Thịnh. Đây là loại đất tốt, độ phì thực tế cao, thích hợp với phần lớn

các loại cây màu và cây công nghiệp ngắn ngày: đỗ, lạc…

13

Đất phù sa không được bồi đắp (P): diện tích 588 ha chiếm 5,18% tổng

diện tích tự nhiên toàn Thị xã. Phân bố ở địa nhìn trung bình phía trong đê,

tập trung ở: Đường Lâm, Viên Sơn, Phú Thịnh và Trung Hưng. Trên loại đất

này, phần lớn diện tích đã được khai thác trồng lúa nước 2 vụ, 1 phần diện

tích trồng các loại cây trồng cạn ngắn ngày: ngô, khoai lang, đậu….

Đất phù sa glây (Pg): diện tích 598ha chiếm 5,27% diện tích tự nhiên

toàn Thị xã. Phân bố những nơi địa hình thấp, khó thoát nước; tập trung ở các

xã, phường: Trung Hưng và Trung Sơn Trầm. Hiện tại, phần lớn diện tích loại

đất này được khai thác trồng lúa nước 2 vụ, để đạt được hiệu quả kinh tế cao

trong trồng lúa trên loại đất này cần bổ sung lân và vôi để làm giảm độ chua

cho đất.

Đất phù sa úng nước (Pj): diện tích 374 ha chiếm 3,3% diện tích tự

nhiên toàn Thị xã, phân bố chủ yếu ở: Trung Hưng. Do phần lớn diện tích loại

đất này ở địa hình trũng rất khó tiêu thoát nước về mùa mưa, thường bị ngập

sâu nên hiện tại chỉ khai thác trồng được 1 vụ lúa đông xuân là chính. Những

nơi có khả năng tiêu thoát nước khá hơn thì có thể trồng 2 vụ lúa/năm, nhưng

khả năng cho thu hoạch 1 vụ mùa khá bấp bênh. Một số diện tích, nông dân

ứng dụng thành công công thức 1 lúa- 1 cá. Để sử dụng có hiệu quả loại đất

này, tùy theo tình hình của từng xã, phường có thể trồng 1 vụ lúa và thả cá vụ

mùa hoặc chuyển toàn bộ diện tích đất này sang hình thức nuôi trồng thủy sản.

Đất bạc màu trên phù sa cổ (B): diện tích 588 ha chiếm 5,18% diện tích

tự nhiên toàn Thị xã, phân bố ở các dạng địa hình cao thuộc phường Trung

Hưng và xã Thanh Mỹ. Hiện tại trên loại đất này đang được khai thác trồng

chủ yếu các loại cây rau, màu, khoai lang, lạc. Tuy vậy, do dễ làm đất nên khả

năng tăng vụ cao dẫn đến lượng phân bón trên loại đất này cũng tăng theo,

nếu biết thâm canh tốt cũng có thể cho hiệu quả sử dụng đất cao hơn các loại khác.

Đất đỏ vàng trên đá sét (Fs): diện tích 570 ha chiếm 5,02% diện tích tự

nhiên toàn Thị xã, loại đất này tập trung ở xã: Thanh Mỹ, Sơn Đông và Cổ

14

Đông. Đây là sản phẩm phong hóa của đá phiến sét, đất có màu đỏ vàng là

chủ đạo. Loại đất này hiện đang được khai thác trồng cây dài ngày hoặc trồng

rừng, tuy nhiên đây là loại đất phân bố ở địa hình tương đối cao nên cần có

biện pháp chống xói mòn rửa trôi cho đất.

Đất nâu vàng trên phù sa cổ (Fp): diện tích 3563,8 ha chiếm 31,41%

diện tích tự nhiên toàn Thị xã. Phân bố: Thanh Mỹ, Trung Sơn Trầm, Trung

Hưng, Kim Sơn, Sơn Đông, Cổ Đông và Xuân Khanh. Hiện tại trên loại đất

này ở những nơi đất có tầng dày 50cm – 100cm, được nhân dân địa phương

khai thác trồng rừng, trồng có kết hợp chăn nuôi đại gia súc.

Đất đỏ vàng biến đổi do trồng lúa nước (Fl): diện tích 725,25ha chiếm

6,39% diện tích tự nhiên toàn Thị xã, phân bố: Thanh Mỹ, Trung Sơn Trầm,

Kim Sơn, Cổ Đông, Sơn Đông. Hiện tại được sử dụng để sản xuất lương thực,

do vậy, để bồi dưỡng và nâng cao độ phì cho loại đất này cần có chế độ canh

tác hợp lý để giảm thiểu tình trạng xói mòn, rửa trôi đất đai theo tầng mặt.

- Khoáng sản:

Thị xã Sơn Tây có một số tài nguyên khoáng sản:

+ Mỏ cao lanh: xã Thanh Mỹ, trữ lượng 2,3 triệu tấn, làm nguyên liệu

sản xuất gốm, sứ, gạch chịu lửa.

+ Mỏ đất Puzơlan: ở xã Thanh Mỹ, Trung Hưng, trữ lượng 2,5 triệu

tấn, làm nguyên liệu sản xuất xi măng, vật liệu không nung và gạch chịu lửa.

+ Mỏ nước khoáng ở phường Xuân Khanh, giáp xã Tản Lĩnh- huyện

Ba Vì. Tương lai có thể xây dựng xí nghiệp nước khoáng, nước ngọt và bể

tắm nước khoáng thiên nhiên.

+ Nguồn than bùn ở xã Xuân Sơn, trữ lượng 3 triệu tấn, làm nguyên

liệu sản xuất than tổ ong, phân lân vi sinh.

+ Nguồn đá ong: nằm rải rác ở các xã Cổ Đông, Thanh Mỹ, Kim Sơn…

có thể khai thác làm vật liệu xây dựng, để tôn tạo các di tích lịch sử và xây

dựng dân dụng.

15

Những đặc điểm tự nhiên của Thị xã Sơn Tây cho ta thấy những thuận

lợi cũng như khó khăn để phát triển kinh tế nông nghiệp của Thị xã:

- Thuận lợi:

Thứ nhất, Thị xã nằm trong khu vực Đồng bằng sông Hồng, hàng năm

được bồi đắp một lượng phù xa lớn từ hệ thống sông Hồng, do vậy đất đai

màu mỡ, khí hậu thời tiết ôn hòa, thuận lợi, lượng mưa hàng năm lớn, số giờ

nằng trong năm cao, hệ thống sông ngòi, ao hồ, thuận tiện cho việc tưới tiêu,

cấp thoát nước cho hoạt động sản xuất nông nghiệp. Đây là cơ sở để Thị xã

tiến hành thâm canh, sản xuất lương thực, cung cấp nhu cầu của người dân

Thị xã. Lực lượng lao động dồi dào, có nhiều kinh nghiệm trong thâm canh

lúa và hoa màu. Do đó, tạo thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp của Thị xã.

Thứ hai, Thị xã có diện tích đất trung du lớn, thuận lợi cho sản xuất các

cây công nghiệp, trong đó điển hình: sắn, lạc, đậu… Ngoài ra, đồng cỏ tương

đối rộng là điều kiện tốt để Thị xã khuyến khích người dân phát triển kinh tế

trang trại, chăn nuôi bò sữa, bò lai sind. Những năm gần đây, do điều kiện tự

nhiên thuận lợi, Thị xã tạo điều kiện cho người dân nhân rộng mô hình kinh tế

vườn đồi, tạo cảnh quan du lịch đạt hiệu quả cao.

Thứ ba, các loại đất phong phú, địa hình phù hợp tạo cơ cấu cây trồng,

vật nuôi đa dạng, phong phú, thích nghi với điều kiện tự nhiên của Thị xã, tạo

đà cho sự phát triển nông nghiệp.

Thứ tư, do thuận lợi về giao thông, đây là một trong những điều kiện

thuận lợi để giao lưu, trao đổi sản phẩm nông sản, từ đó tăng thu nhập cho

cuộc sống người dân nói riêng, đồng thời phát triển kinh tế xã hội.

- Khó khăn:

Một là, Thị xã là vùng đất chuyển tiếp đồng bằng- vùng trung du miền

núi phía Bắc nên nền nhiệt độ trung bình luôn cao hơn so với các vùng xung

quanh. Thêm nữa, do tác dộng chung của biến đổi khí hậu toàn cầu, tác động

16

của nền nhiệt độ nóng lên, cộng với độ ẩm cao, sâu bệnh nhiều. Do vậy, khó

khăn với nông nghiệp của Thị xã.

Hai là, diện tích đất phù sa để sản xuất nông nghiệp, nhất là cây lúa

không lớn, Thêm vào đó là một diện tích đất đồi ít chất dinh dưỡng, khó canh

tác, khó khăn cho người nông dân trong việc lựa chọn cây trồng thích hợp.

Ba là, 70% diện tích đất tự nhiên của Thị xã là đất đồi gò, chua ỉ, bạc

màu, nghèo dinh dưỡng và thiếu nước. Đất thuộc loại ferarit đỏ vàng và đất

trên nền đá ong. Còn lại 30% là đất khe đồi trũng, đất ven sông, ruộng bậc

thang, dễ ngập, úng. Do đó việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất bị hạn

chế, khó khăn về hệ thống kênh mương, tưới tiêu nước đảm bảo cho sản xuất

nông nghiệp, tổ chức sản xuất gặp khó khăn nên nguồn thu nhập bấp bênh gây

tâm lý lo ngại cho các nhà đầu tư vì vậy nguồn vốn đầu tư cho sản xuất còn

hạn chế.

1.1.2 Điều kiện kinh tế xã hội

Theo số liệu thống kê của Thị xã, năm 2010 diện tích tự nhiên 113,46 ha (trong đó diện tích đất tự nhiên khu vực nông thôn 92,44 km2 chiếm

81,43% diện tích tự nhiên toàn Thị xã; dân số khảng 18 vạn người (trong đó

có khoảng 5 vạn quân nhân và đơn vị quân đôi, sinh viên các trường Đại học,

cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề). Có 15 đơn vị hành chính,

gồm 9 phường và 6 xã (trong đó có 6 phường, 6 xã sản xuất nông nghiệp).

Tổng số hộ dân nông thôn là 14.884 hộ với trên 6 vạn nhân khẩu chiếm

46,2% tổng dân số Thị xã trực tiếp quản lý; số lao động trong độ tuổi khoảng

3,6 vạn người chiếm 59,2% dân số của toàn Thị xã, trong đó, lao động trực

tiếp trong nông nghiệp 1,97 vạn người (chiếm 55, 6%), trong công

nghiệp:7.531 người (chiếm 21, 17%), trong du lịch- dịch vụ: 8.374 người

(chiếm 23,54%).

Bên cạnh sản xuất nông nghiệp, Thị xã Sơn Tây còn có các làng nghề

thủ công. Hiện nay, Thị xã Sơn Tây có 2 làng nghề đã được công nhận làng

17

nghề truyền thống: làng nghề làm bánh tẻ ở Phú Nhi- phường Phú Thịnh và

làng nghề thêu ren Ngọc Kiên- xã Cổ Đông. Các làng nghề mới đang được

phát triển: sinh vật cảnh, mộc, đan lát, đóng giày, tơ tằm…tập trung ở xã Cổ

Đông, Sơn Đông, Đường Lâm, phường Xuân Khanh.

Nhìn chung, đời sống của nhân dân Thị xã Sơn Tây ngày càng tiến bộ,

theo báo cáo tại Đại hội Đại biểu Thị xã lần thứ XIX thì “tổng giá trị tăng

thêm (VĐ) bình quân một năm tăng 16,5%. Giá trị tăng thêm bình quân đầu

người năm 2000 ước đạt 21 triệu đồng”. [73; 4]

Đất và người Sơn Tây gắn liền với truyền thống lịch sử dựng nước và

giữ nước của dân tộc. Người dân Thị xã Sơn Tây luôn kiên cường, bất khuất

trong chiến đấu chống giặc ngoại xâm và luôn tự hào vì vùng đất này có vị trí

chiến lược về mặt quân sự, là một trong những lũy thép bảo vệ kinh thành

Thăng Long xưa và Thủ đô Hà Nội ngày nay.

Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ

nghĩa (1975- nay). Nhất là từ thời kỳ đổi mới và thực hiện sự nghiệp CNH,

HĐH đất nước, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thị xã Sơn Tây đã quán

triệt sâu sắc các chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp

luật của Nhà nước, vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể địa phương, phát

huy truyền thống anh hùng trên mảnh đất “Địa linh- Nhân kiệt”, đã nỗ lực

phấn đấu, đoàn kết, năng động, sáng tạo, quan tâm đẩy mạnh tốc độ phát triển

kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội, giữ vững an ninh- quốc phòng; diện mạo đô

thị và nông thôn của Sơn Tây được đổi mới hàng ngày.

Ngày 13/4/2006, Bộ Xây dựng ban hành quyết định công nhận Thị xã

Sơn Tây là đô thị loại III. Tháng 08/2007, Chính phủ ban hành Nghị định số

130- NQ/CP về việc thành lập Thành phố Sơn Tây thuộc Tỉnh Hà Tây và

được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương lao động hạng Nhì cho cán bộ

và nhân dân Thị xã Sơn Tây. Đây là sự kiện có ý nghĩa đặc biệt, tác động toàn

diện đến đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội, tạo điều kiện để kinh tế

18

của Thị xã vững mạnh, là niềm tự hào của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân

Thị xã Sơn Tây.

Thị xã Sơn Tây có nhiều thuận lợi cả về đường thủy và đường bộ. Thị

xã cách trung tâm Thủ đô Hà Nội 42 km, có Quốc lộ 11A nay là Quốc lộ 32

chạy qua đền cầu Trung Hà, nối Hà Nội với các tỉnh Tây Bắc. Quốc lộ 21A từ

Sơn Tây đi qua 1 số huyện như: Thạch Thất, Quốc Oai, Chương Mỹ, qua Lạc

Thủy (Hòa Bình) rồi đi vào Ninh Bình, Thanh Hóa. Các tỉnh lộ: 413, 414,

416, 417, 418 nối Thị xã với các huyện Ba Vì, Phúc Thọ, Thạch Thất. Bên

cạnh việc bồi đắp phù sa và cung cấp nước tưới tiêu cho cả vùng phía Tây Hà

Nội, sông Hồng được coi là con đường huyết mạch giao thông đường thủy,

ngược lên nối liền với các tỉnh phía Bắc, xuôi về kết nối với Thủ đô Hà Nội

và các tỉnh phía Nam. Cảng Sơn Tây cũng đang được lập quy hoạch, triển

khai các dự án đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng.

Đường cao tốc Láng- Hòa Lạc đang được mở rộng, nâng cấp Quốc lộ

21A, đường tránh Quốc lộ 32, đường từ Thành cổ- Đền Và đến khu di tích

lịch sử- văn hóa Đường Lâm, đường Hoàng Quốc Việt kéo dài, dự án tiếp

nước, cải tạo, khôi phục sông Tích sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển

của Thị xã.

- Giáo dục:

Thị xã Sơn Tây là địa bàn trọng điểm về quốc phòng an ninh tập trung

các học viện, các trường Đại học đào tạo các sĩ quan quân đội cho cả nước, là

nơi tập trung nhiều quân, binh chủng, các nhà máy quốc phòng, Sơn Tây có

khả năng lớn trong việc huy động ủng hộ, đóng góp về tài lực, vật lực và nhân

lực (nhân công) trong việc đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông, nông thôn từ các

cơ sở, đơn vị quân đội này.

Với hệ thống các trường Đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp

trên địa bàn, mỗi năm thu hút hàng chục ngàn sinh viên đến học tập và nghiên

19

cứu, đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho Thị xã và

các vùng lân cận, đồng thời thúc đẩy các ngành du lịch dịch vụ phát triển.

- Văn hóa- di tích:

Sơn Tây nằm trong vùng cội nguồn văn hóa xứ Đoài, là vùng giao thoa

giữa các nền văn hóa: văn hóa Hòa Bình, văn hóa Thăng Long- Hà Nội, đồng

thời tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa Trung Hoa, Ấn Độ, Chăm pa

và Pháp qua các thời đại tạo nên một bản sắc văn hóa, một bản lĩnh dân tộc rất

quý báu.

Mặt khác, Sơn Tây có nhiều điểm di tích lịch sử văn hóa, du lịch và

danh lam thắng cảnh hấp dẫn. Trên địa bàn Thị xã có 183 di tích lịch sử văn

hóa, trong đó có 55 di tích được xếp hạng cấp Quốc gia, 66 di tích được xếp

hạng cấp Thành phố và Thị xã Sơn Tây cũng mới khai trương công trình Làng

văn hóa các dân tộc Việt Nam từ năm 2010. Trong đời sống cộng đồng nhân

dân còn lưu giữ nhiều lễ hội văn hóa và các làng nghề truyền thống.

Với nhiều tiềm năng to lớn này, Thị xã Sơn Tây có thể thu hút đầu tư

vào lĩnh vực khách sạn, nhà hàng, du lịch sinh thái, liên kết các tour du lịch

liên vùng với các danh thắng của các vùng khác như: Ba Vì, Phúc Thọ, Thạch

Thất…

Điều kiện kinh tế xã hội của vùng đất “Địa linh- Nhân kiệt” đã mang

tới cho vùng những thuận lợi đồng thời cũng tạo ra những khó khăn góp phần

tạo ra sự phát triển kinh tế của Thị xã nói chung cũng như kinh tế nông nghiệp

Thị xã nói riêng:

- Thuận lợi:

Thứ nhất, gắn liền với truyền thống lịch sử dựng nước và giữ nước,

người Sơn Tây luôn kiên cường, bất khuất trong đấu tranh chống giặc ngoại

xâm, cần cù trong lao động, nhạy bén với cải mới và biết nhân rộng cái mới.

Thứ hai, dân số đông, lực lượng lao động trẻ, lao động khu vực nông

thôn dồi dào, số người trong tuổi lao động chiếm tỷ lệ cao, sẵn sàng tiếp thu

20

khoa học kỹ thuật tiên tiến. Đây là nguồn lực quý, là tiền đề quan trọng để

phát triển khoa học kỹ thuật của Thị xã. Nằm gần Thị xã lại có nhiều cơ quan,

đơn vị hành chính, các khu cụm công nghiệp nên có thị trường tiêu thụ sản

phẩm tại chỗ đông.

Thứ ba, hệ thống cơ sở hạ tầng như: điện, đường, trường, thông tin

trong toàn Thị xã phát triển khá đồng bộ, các tuyến đường huyết mạch nối

Thành phố Hà Nội với Thị xã Sơn Tây như: Quốc lộ 32, Quốc lộ 21, Đại lộ

Thăng Long, các tuyến đường tỉnh lộ nối Thị xã Sơn Tây với các vùng lân

cận, các tuyến đường sông, cầu Vĩnh Thịnh….tạo cho Thị xã Sơn Tây có

bước nhảy vọt về chất. Đây là cơ sở thuận lợi để thu hút vốn đầu tư, phát triển

kinh tế Thị xã, đặc biệt trong công nghiệp và du lịch, dịch vụ, mở rộng, giao

lưu với các vùng lân cận.

Thứ tư, Thị xã Sơn Tây là địa phương có ngành du lịch phát triển ngày

càng mạnh mẽ với các khu di tích, các danh lam thắng cảnh, khu du lịch sinh

thái đáp ứng nhu cầu của người dân địa phương và của các thành phố lân cận.

Ngoài ra, Thị xã còn là nơi có ngành nông nghiệp phát triển và có một số làng

nghề nổi tiếng, với những người thợ có đôi tay khéo léo.

- Khó khăn:

Một là, trình độ công nghệ, máy móc thiết bị còn lạc hậu chưa đồng bộ.

Đặc biệt để phát triển kinh tế theo hướng CNH, HĐH thì phải có cơ cấu công-

nông nghiệp, dịch vụ hợp lý. Tuy nhiên, cơ cấu công nông nghiệp và dịch vụ

của Thị xã còn lạc hậu, tỷ trọng nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ còn

chưa hợp lý.

Hai là, lực lượng lao động đông nhưng trình độ chưa cao, chủ yếu là

lao động phổ thông có những quan niệm và suy nghĩ đơn giản, khả năng áp

dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp còn hạn chế, phần lớn lao

động làm việc trong các khu vực nông- lâm- thủy sản chưa qua đào tạo, nên

thu nhập thường không cao. Đây là khó khăn lớn của Thị xã trong việc quy

21

hoạch nguồn nhân lực phục vụ cho CNH, HĐH nói chung và ngành nông

nghiệp nói riêng.

Với những tiềm năng và thế mạnh về điều kiện tự nhiên cũng như khoa

học kỹ thuật, đây không chỉ là niềm tự hào của toàn thể Đảng bộ và nhân dân

Thị xã Sơn Tây, mà còn là sự tiếp nối truyền thống đáng tự hào của một vùng

đất, vùng quê có truyền thống lịch sử kiên cường, bất khuất. Ngày nay, khi

đất nước đã thanh bình, Đảng bộ Thị xã Sơn Tây tiếp tục lãnh đạo nhân dân

xây dựng và phát triển kinh tế xã hội trong thời kỳ mới theo phương hướng,

nhiệm vụ do các thời kỳ Đại hội Đảng bộ của Thị xã đề ra, góp phần giữ gìn

an ninh chính trị, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Như vậy, với vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên tương đối thuận lợi cho

việc phát triển kinh tế nông nghiệp, lại là vùng đất giàu tiềm năng về nguồn

nhân lực dồi dào, thị trường tiêu thụ rộng lớn, hệ thống giao thông nông thôn

thuận lợi…. đang được xây dựng, nâng cấp và phát triển. Bên cạnh đó, với

tiềm năng và thế mạnh của công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ nên Thị xã Sơn

Tây có thể phát triển một nền kinh tế toàn diện từ sản xuất nông nghiệp đến

công nghiệp, thương mại, dịch vụ. Tuy vậy, những thuận lợi, khó khăn trên đã

tác động tới quá trình phát triển kinh tế xã hội của Thị xã.

Do vậy, Thị xã Sơn Tây nói chung và khu vực nông thôn Thị xã nói

riêng có nhiều lợi thế để phát triển nền kinh tế đa dạng như tiềm năng phát

triển các hoạt động du lịch sinh thái, góp phần bảo vệ và cải thiện môi trường

cũng như tạo địa bàn tham quan du lịch, nghỉ dưỡng để lấy lại sự cân bằng

tinh thần trước nhịp sống căng thẳng của quá trình đô thị hóa, công nghiệp

hóa và phát triển dịch vụ thương mại, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp nhất

là công nghiệp phụ trợ và phát triển nền nông nghiệp đa dạng với chăn nuôi

gia súc, gia cầm quy mô lớn và các loại cây, quả nhiệt đới, ôn đới.

22

1.2 Tình hình kinh tế nông nghiệp của Thị xã Sơn Tây trƣớc năm 1996

Cuối năm 1985, sau những cải cách về giá- lương- tiền thì tình hình

kinh tế trong cả nước có biến động không thuận lợi, sự mất cân đối giữa tiền

và hàng, giữa cung và cầu trở nên gay gắt, giá cả thị trường tăng nhanh. Bên

cạnh đó, tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, không có lợi cho chủ

nghĩa xã hội, cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Sự sụp đổ của

Liên Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu vào đầu những năm 90

đã tác động lớn đến tâm tư, tình cảm của cán bộ, Đảng viên và nhân dân.

Trước tình hình đó, tháng 12/1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI được

tổ chức ở Hà Nội, đây là một điểm mốc quan trọng đánh dấu sự khởi đầu

công cuộc đổi mới của Đảng, nhằm “đổi mới về quản lý kinh tế nhằm tiến tới

xóa bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp; phát huy tính chủ động, sáng tạo

của các đơn vị và cá nhân người lao động”. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự

thật, Đại hội đã đánh giá đúng mức những thành tựu quan trọng về xây dựng

chủ nghĩa xã hội mà nhân dân đã đạt được; đồng thời chỉ ra những khuyết

điểm trên tất cả các mặt kinh tế xã hội, đời sống nhân dân khó khăn gay gắt,

tiêu cực xã hội phát triển.

Từ những bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn, Đại hội đã đề ra chủ

trương đổi mới trên tất cả các lĩnh vực, trong đó tập trung vào ba chương trình

kinh tế lớn “lương thực thực phẩm- hàng tiêu dùng- hàng xuất khẩu”. Đường

lối đổi mới và ba chương trình kinh tế của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI

như một luồng sinh khí mới, động viên mạnh mẽ tinh thần lao động hăng say,

sáng tạo của nhân dân cả nước. Quán triệt đường lối đổi mới của Đảng do Đại

hội Đảng toàn quốc lần VI đề ta, được sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy Hà

Sơn Bình về phát triển kinh tế xã hội, cùng với cả nước, Đảng bộ và nhân dân

Thị xã Sơn Tây bước vào thời kỳ đổi mới với niềm tin và sức mạnh mới.

23

Thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ toàn quốc lần thứ VI, Đảng bộ

Thị xã Sơn Tây đã vận dụng các Nghị quyết của Đảng vào tình hình cụ thể

của địa phương nhất là vấn đề kinh tế nông nghiệp của Thị xã.

Tháng 9/1986, Đại hội Đại biểu Đảng bộ Thị xã lần thứ XIII đã được

triệu tập. Sau khi thảo luận, đóng góp ý kiến vào các dự thảo của Đại hội

Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đại hội đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ của

Đảng bộ nhiệm kỳ XII, đồng thời đề ra phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ

1986-1988 và phương hướng đến năm 1990 theo cơ cấu kinh tế công- nông

nghiệp- dịch vụ xuất khẩu với những nhiệm vụ trung tâm là “ổn định phát

triển sản xuất, khai thác tiềm năng và sử dụng tốt cơ sở vật chất hiện có, tổ

chức tốt, phân phối lưu thông, mở rộng xuất khẩu, ổn định từng bước đời

sống cho nhân dân, giải quyết việc làm cho người lao động, cung cấp ổn định

những mặt hàng định lượng cho cán bộ, công nhân viên chức”.[4;95]

Tháng 4/1987, Thị ủy, UBND Thị xã đã chỉ đạo thực hiện mô hình

quản lý kinh tế theo hình thức Hợp tác xã (HTX) nông – công- thương- tín

(thống nhất từ 3 HTX: nông nghiệp- mua bán- tín dụng) và lấy HTX Đường

Lâm làm đơn vị điểm. Qua một thời gian hoạt động, hình thức HTX nông-

công- thương- tín được thừa nhận là mô hình phát huy được tính năng động

trong tổ chức quản lý sản xuất, kinh doanh, tiềm năng nhiều mặt đạt được

hiểu quả kinh tế tốt. Nông nghiệp có điều kiện để phát triển, mua bán mở rộng

được kinh doanh và tín dụng phát huy được hiệu quả, phục vụ thiết thực sản

xuất và đời sống của bà con xã viên. Thực tiễn và kinh nghiệm của HTX

Đường Lâm là cơ sở để mở rộng mô hình HTX nông- công- thương- tín ra

toàn xã.

Tháng 4/1988, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 10- NQ/BCT

(thường gọi là Nghị quyết khoán 10) nhằm giải phóng sức sản xuất, gắn việc

sắp xếp, tổ chức lại sản xuất với cải tạo XHCN, tăng cường cơ sở vật chất kỹ

thuật và đưa kỹ thuật tiến bộ vào sản xuất nông nghiệp, “chuyển nền kinh tế

24

nước ta còn mang nặng tính chất tự cung, tự cấp ở nhiều vùng sang sản xuất

hàng hóa”. [23]

Bước vào vụ đông xuân 1988, dưới sự lãnh đạo của Thành ủy Hà Nội,

sau khi làm điểm ở HTX Đường Lâm, Thị ủy Sơn Tây đã chỉ đạo tất cả các

HTX nông nghiệp điều thực hiện khoán gọn cho hộ gia đình cả cây lúa và các

cây, con, ngành nghề khác. Gắn khoán với kế hoạch sản xuất và phân phối

ngay từ đầu. Tuy mới là bước đầu, song thực tiễn đã khẳng định tính đúng

đắn, sức thuyết phục mạnh mẽ đối với chủ trương mới của Đảng.

Đảng bộ Thị xã đã có những chỉ đạo phù hợp thực hiện Chỉ thị 100 và

thi hành Chỉ thị 12 của Thành ủy Hà Nội và Thị ủy Sơn Tây về “Khoán sản

phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động trong các HTX sản xuất nông

nghiệp” [36; 215], phương thức khoán sản phẩm mới đã khơi dậy tiềm năng

lao động và trách nhiệm của bà con xã viên trước các khâu công việc được

giao, động viên được phong trào lao động, sản xuất ở nông thôn, khuyến

khích được mọi người hăng hái lao động, chất lượng công việc được tốt hơn,

xã viên chủ động đầu tư về lao động, phân bón, dụng cụ, sức kéo….vào sản xuất.

Sau hơn một năm thực hiện Nghị quyết, kết quả đã thể hiện rõ nét:

nông dân yên tâm phấn khởi sản xuất, chấm dứt được tình trạng trả bớt ruộng

khoán (gần 200ha); khai thác được tiềm năng đất đai, lao động, vật tư, tiền

vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật của cả ba khu vực để tập trung đầu tư vào sản

xuất, thực hiện có hiệu quả chương trình lương thực- thực phẩm đã đề ra:

năng suất lúa năm 1988 so với năm 1986 tăng 2,2 tạ/ha; sản lượng lương thực

đạt 12.820 tấn/12.000 tấn kế hoạch, tăng 12,6%; thịt lợn đạt 480 tấn/450 tấn

kế hoạch. Đời sống của nông dân giảm bớt khó khăn, mức ăn từ 14kg nâng

lên 17,3kg/người/tháng. Bộ máy quản lý HTX được kiện toàn theo hướng gọn

nhẹ (giảm 42%).

25

“Chỉ thị 100 của Ban Bí thư (khóa IV) và nghị quyết số 10- NQ/BCT

khóa VI là hai mốc lớn, góp phần rất quan trọng, tạo ra bước ngoặt trên con

đường phát triển của nông nghiệp, nông thôn nước ta”[20; 4].

Nhìn chung, trên mặt trận nông nghiệp ở thời kỳ này bước đầu đã có sự

chuyển biến. Tuy nhiên, vẫn chưa khai thác hết tiềm năng, nhất là tiềm năng

đất đai, chưa tự giải quyết cân đối được lương thực cho nông dân, thu nhập 3

lợi ích chưa hài hòa. Nhiều HTX không thống nhất điều hành được theo kế

hoạch. Ngoài ra, đầu tư cho nông nghiệp chưa tương xứng với vị trí của

ngành trong cơ cấu kinh tế, cơ sở vật chất phục vụ cho nông nghiệp nhiều nơi

xuống cấp nghiêm trọng kể cả các công trình thủy lợi trọng điểm của Thị xã.

Vật tư kỹ thuật cũng chưa có dự trữ chiến lược, cung ứng không kịp yêu cầu

sản xuất. Nhiều HTX lúc này còn nặng tư tưởng bao cấp, còn lúng túng trong

sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường. Việc chuyển giao tiến bộ kỹ thuật

đến hộ xã viên chưa làm sâu rộng. Sản xuất màu, sản xuất lương thực tăng

chậm, một số cây công nghiệp như: mía, sắn, lạc và các ngành thủ công trong

nông thôn giảm sút. Sản xuất nông nghiệp còn nhỏ lẻ, mang tính chất hộ gia

đình, ngành chăn nuôi trong cơ cấu ngành nông nghiệp cũng chưa cao, đặc

biệt là chăn nuôi bò dựa trên thế mạnh các đồng cỏ ngoại vi Thị xã.

Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI(1986) cùng với những

chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước với sự lãnh đạo trực tiếp

của Thành ủy Hà Nội đã động viên Đảng bộ và nhân dân Thị xã Sơn Tây

quyết tâm phấn đấu đạt những mục tiêu kinh tế. Tuy nhiên, trong những năm

đầu của công cuộc đổi mới, cơ chế mới còn đang hình thành thể nghiệm, chưa

đồng bộ, hậu quả của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp vẫn tốn tại kéo dài,

do vậy hoạt động kinh tế của Thị xã vẫn còn những khó khăn. Song với

những định hướng đúng đắn của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã từng

bước làm bật dậy những tiềm năng của xã hội nói chung và của Thị xã Sơn

Tây nói riêng.

26

Công cuộc đổi mới của Đảng đã đem lại cho toàn xã hội bầu không khí

dân chủ, sống động, làm phong phú không chỉ hàng hóa tiêu dùng mà còn

khơi dậy nhiều năng lực tư duy sáng tạo của đất nước. Cuộc sống của nhân

dân sau những năm đầu đã khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng

đắn và chính vì thế nó đã từng bước đi vào cuộc sống và thể hiện sinh động

trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Thị xã Sơn Tây mặc dù còn nhiều khó

khăn, nhưng với thắng lợi bước đầu đạt được đã củng cố niềm tin và thúc đẩy

cán bộ, đảng viên và nhân dân quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết của

Đại hội Đảng bộ Thị xã lần thứ XIV.

Qua 4 năm đổi mới (1986- 1990), đất nước ta đã có một số thành tựu,

song vẫn chưa thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội. Đứng trước

tình hình đó, tháng 6/1991, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII được tổ

chức ở Hà Nội. Đại hội đã toát lên một tinh thần “trí tuệ, đổi mới, dân chủ, kỷ

cương và đoàn kết”. Đây là một Đại hội có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nếu

như ở Đại hội VI đề ra phương hướng đổi mới toàn diện, đánh dấu bước

ngoặt trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, thì Đại hội VII có

nhiệm vụ trọng đại không chỉ tổng kết thực tiễn Nghị quyết Đại hội VI trên cơ

sở đó đề ra phương hướng, nhiệm vụ 5 năm (1991- 1995), mà còn thông qua

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; bên

cạnh đó còn vạch ra hệ thống những quan niệm, phương hướng cơ bản, bước

đi của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, một khí thế mới sôi nổi, rộng

khắp trong toàn xã hội với quyết tâm cao, tràn đầy tin tưởng để biến Nghị

quyết Đại hội thành hiện thực. Hòa chung với khí thế của cả nước, Đại biểu

và nhân dân Thị xã Sơn Tây đã dấy lên phong trào thi đua trên tất cả các lĩnh

vực xã hội chào mừng thành công của Đại hội, đồng thời lập thành tích chào

mừng Đại hội Đại biểu Thị xã lần thứ XV (vòng 2).

27

Đại hội Đại biểu Thị xã lần thứ XV xác định phương hướng, nhiệm vụ

nhiệm kỳ (1991- 1995). Nghị quyết của Đại hội nhấn mạnh “quán triệt sâu sắc

những tư tưởng, quan điểm cơ bản của Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc

lần thứ VII, Đảng bộ và nhân dân Thị xã Sơn Tây quyết tâm phấn đấu thực

hiện những nhiệm vụ và mục tiêu do Đại hội đề ra, từng bước ổn định và phát

triển sản xuất theo cơ cấu kinh tế: công- nông- thương nghiệp- dịch vụ- xuất

khẩu và du lịch” [4; 109].

Tháng 10/1991, theo Nghị quyết của Chính phủ, Thị xã Sơn Tây cùng

với một số huyện tái nhập về Tỉnh Hà Tây. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh

ủy Hà Tây, mặc dù tình hình thế giới lúc này có những diễn biến phức tạp,

tình hình kinh tế xã hội trong nước có nhiều khó khăn, nhưng với khí thế và

quyết tâm mới, đặc biệt có Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ

VII soi sáng, Đảng bộ và nhân dân Thị xã Sơn Tây tiếp tục thu được những

kết quả quan trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong báo cáo

Hội nghị giữa nhiệm kỳ của Đảng bộ Thị xã nêu rõ “trước những thử thách

mới, trong 2 năm qua Đảng bộ và nhân dân Thị xã Sơn Tây đã tỏ rõ bản lĩnh

chính trị vững vàng, tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng. Thông qua

việc chỉ đạo thực hiện các Nghị quyết của Trung ương, của Tỉnh ủy và Thị ủy,

Đảng bộ và nhân dân Thị xã đã vượt qua khó khăn, phấn đấu đạt được những

kết quả tương đối toàn diện, tạo được bước chuyển dịch tích cực trên mọi lĩnh

vực, tạo lòng tin về công cuộc đổi mới trong Đảng và trong nhân dân” [37; 4].

Phát huy kết quả đạt được, những năm tiếp theo Đảng bộ tiếp tục đề ra những

nhiệm vụ và các chỉ tiêu mà trong phương hướng của Hội nghị giữa nhiệm kỳ

đề ra.

Tại Hội nghị Đại hội Đại biểu giữa nhiệm kỳ khóa XV (3/1994) đã

tổng kết lại quá trình nỗ lực phấn đấu của Đảng bộ Thị xã Sơn Tây trong thời

kỳ đổi mới và hội nhập. Tính đến năm 1993, giá trị tổng sản lượng nông

nghiệp đạt 15,665 tỷ đồng/10,862 tỷ đồng chiếm 114% chỉ tiêu. Tổng sản

28

lượng lương thực quy thóc đạt 16.444 tấn/14.500 tấn, bằng 113%. Mức lương

thực bình quân khẩu nông nghiệp đạt 24,2 kg/20 kg/tháng, bằng 121% . Sản

lượng lợn hơi đạt 1.360 tấn/140 tấn, bằng 97%. Đàn trâu bò đạt 8.109

con/8.000 con, chiếm 101% chỉ tiêu đại hội. Tổng thu ngân sách đạt 7,215 tỷ

đồng bằng 144%.

Đảng bộ phấn đấu chỉ đạo sử dụng hiệu quả đất đai, tích cực trồng cây

có giá trị kinh tế cao, đổi mới công tác quản lý của HTX, đưa ứng dụng khoa

học kỹ thuật vào sản xuất. Phấn đấu năm 1994 đạt sản lượng lương thực quy

ra thóc là 17.500 tấn/năm; năm 1995 đạt 18.000 tấn/năm; chủ động trong việc

thay giống đàn gia súc, gia cầm có sản lượng thịt cao. Hàng năm trồng 100 ha

rừng tập trung.

Để những người nông dân yên tâm sản xuất trên mảnh đất của mình,

thực hiện Luật đất đai và Kết luận 41 của Tỉnh ủy Hà Tây về cấp giấy chứng

nhận quyền sử dụng đất ruộng, đất lâu dài cho hộ nông dân (10/1992), sau khi

rút kinh nghiệm của xã điển hình Thanh Mỹ; Ban Thường vụ Thị ủy đã chỉ

đạo triển khai bước hai (giao ruộng trên thực địa) ra tất cả các xã. 13/13 HTX

nông nghiệp đã hoàn thành việc giao ruộng đất đến hộ nông dân, đảm bảo

đúng luật, giữ được ổn định và đoàn kết trong nông thôn, tạo bước chuyển

mới trong nông nghiệp.

Từng bước đổi mới cơ cấu giống, đưa giống mới có năng suất cao vào

sản xuất, đưa khoa học kỹ thuật đến hộ nông dân, kiện toàn tổ chức, đổi mới

phương thức hoạt động của Ban Quản lý Hợp tác xã. Công tác khuyến nông

có cố gắng phục vụ sản xuất nông nghiệp, do vậy, diện tích, năng suất, sản

lượng đều tăng. Tổng sản lượng nông nghiệp quy thóc đạt cao so với nhiều

năm qua. Năm 1992, đạt 16.560 tấn, năm 1993 mặc dù vụ xuân mất mùa

nhưng sản lượng cả năm đạt 16.444 tấn (Tăng 2,7% so với kế hoạch), riêng

vụ mùa năng suất đạt 39 tạ/ha, cao nhất từ trước tới nay, hoàn thành nghĩa vụ

nộp thuế hàng năm cho nông nghiệp. Đàn lợn, trâu bò được ổn định và phát

29

triển. Trong 2 năm đã trồng được 238 ha rừng tập trung, hoàn thành kế hoạch

trồng rừng tập trung và cây phân tán, tỷ lệ sống cao.

Thực hiện Nghị quyết số 5- NQ/TW về phát triển và xây dựng nông

thôn mới, Ban Thường vụ Thị ủy đã chỉ đạo chặt chẽ, lấy 2 xã Đường Lâm và

Trung Sơn Trầm làm điểm trước khi phát ra diện. Qua thực hiện Nghị quyết

này, bộ mặt của nông thôn đã có sự thay đổi rõ rệt, cơ sở hạ tầng được tăng

cường một bước: 40 km đường nông thôn được xây dựng và nâng cấp (trong

đó có 4km đường bê tông), 7 trường học cấp 1, cấp 2; 06 trạm xá được xây

dựng; 100% số xã có điện, phục vụ cho sản xuất kinh doanh và sinh hoạt;

100% số xã có loa truyền thanh, đáp ứng nhu cầu thông tin góp phần nâng cao

đời sống tinh thần cho nhân dân.

Những năm 1991- 1995, do có sự chỉ đạo chặt chẽ của Thị ủy, với tính

năng động, tự chủ của các hộ nông dân nên các chỉ tiêu trong sản xuất nông

nghiệp đều đạt cao. Tổng sản lượng lương thực quy thóc năm 1991 đạt 11.265

tấn; năm 1995 tăng lên 19.225 tấn (bình quân mỗi năm tăng 1.600 tấn). Thị ủy

cũng chỉ đạo chặt chẽ việc thực hiện Chương trình 327 của Chính phủ, đẩy

mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhân dân tăng cường phủ xanh đất

trống đồi trọc vì vậy phong trào này được hưởng ứng tốt. Từ 1991- 1995, Thị

xã đã trồng 901 ha rừng tập trung, 682.000 cây phân tán. Kinh tế VAC đã trở

thành phong trào rộng khắp, không những ở khối xã mà cả ở khối phường.

Ngày 12/3/1991, Hội những người làm vườn Thị xã đã được thành lập

nhằm đẩy mạnh kinh tế VAC. Sau khi làm điểm ở xã Trung Sơn Trầm đã

được nhân rộng ra toàn Thị xã. Đến nay, 100% số phường, xã đã có Chi hội

làm vườn. Kinh tế VAC đã thực sự trở thành nguồn thu nhập lớn trong nông

thôn và ở các phường của Thị xã; 65% - 70% thu nhập kinh tế gia đình ở

nông thôn từ nguồn kinh tế VAC. Đó là một phong trào có sức hút mạnh góp

phần tích cực vào chương trình xóa đói giảm nghèo của Thị xã. Những kết

quả trong sản xuất nông nghiệp càng khẳng định tính đúng đắn của đường lối

30

đổi mới của Đảng, đồng thời khẳng định nông dân Sơn Tây có thể làm giàu

trên vùng đất đồi gò của mình.

Mặt khác, để sản xuất nông nghiệp phát triển ổn định, vững chắc. Đảng

bộ Thị xã chú trọng thực hiện các giải pháp xây dựng hệ thống thủy lợi, hệ

thống dịch vụ khuyến nông, hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nông thôn,

giao đất, lấy hộ làm đơn vị kinh tế tự chủ, xây dựng chính sách hỗ trợ giá về

phân bón, thuốc trừ sâu, tăng tỷ trọng đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp.

Thị ủy đã chỉ đạo xây dựng một số chương trình điểm như: cống qua đê Phù

Xa, đập Vị Thủy, trạm bơm Trung Hưng…

Như vậy, bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng bộ và nhân dân Thị xã Sơn

Tây đã cố gắng khai thác hết mọi tiềm năng, thế mạnh của tự nhiên và xã hội

để phát triển kinh tế trong đó nông nghiệp là trọng điểm. Sau những năm thực

hiện công cuộc đổi mới, Thị xã đã có những chuyển biến tích cực trên mọi

phương diện: đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt; bộ mặt của Thị xã từ

nội thị đến nông thôn đã có những thay đổi cơ bản; các công trình điện, nước,

giao thông…được xây dựng mới hoặc nâng cấp. Nhiều xã đã từng bước thực

hiện việc xây dựng nông thôn mới, đầu tư xây dựng đường điện, nâng cấp các

đường liên thôn, liên xã. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, kinh tế phát triển, đời

sống nhân dân được nâng cao, diện thiếu đói của Thị xã ngày một thu hẹp và

số hộ có điều kiện khá giả tăng lên: năm 1991 số hộ đói của Thị xã chiếm 7%,

hộ nghèo 23%; năm 1995: số hộ đói nghèo chỉ còn 6,2%.

Nhìn chung từ trước 1996, nền kinh tế nông nghiệp của Thị xã Sơn Tây

đã có bước phát triển theo đường lối của Đảng, song tốc độ chậm, sản xuất

chủ yếu ở tình trạng tự cung, tự cấp, chưa tập trung đúng mức cho mặt trận

hàng đầu là nông nghiệp. Trình độ kỹ thuật và trình độ sản xuất nông nghiệp

còn thấp, chưa đảm bảo tưới tiêu chủ động và hợp lý cho cây trồng, chưa

cung ứng đủ công cụ vật tư cần thiết cho nông nghiệp. Trong khi đó, tiềm

năng lao động, đất đai….chưa được tận dụng, khai thác triệt để. Trong sản

31

xuất nông nghiệp, còn yếu về khoa học kỹ thuật, chậm chuyển đổi cơ cấu cây

trồng vào sản xuất. Từ đó, hạn chế tốc độ tăng trưởng lương thực thực phẩm.

Thu nhập của người dân chủ yếu từ nông nghiệp nên đời sống gặp nhiều khó khăn.

Tất cả những thành tựu và hạn chế còn tồn tại trong việc lãnh đạo kinh

tế nông nghiệp giai đoạn trước năm 1996 là cơ sở, là kinh nghiệm quý báu để

Đảng bộ Thị xã Sơn Tây lãnh đạo, chỉ đạo đưa kinh tế Thị xã Sơn Tây nói

chung, kinh tế nông nghiệp nói riêng phát triển nhanh, mạnh và bền vững

trong những năm tiếp theo.

1.3 Đảng bộ Thị xã Sơn Tây lãnh đạo, chỉ đạo kinh tế nông nghiệp từ

năm 1996 đến năm 2000

1.3.1 Đường lối đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng

Cộng sản Việt Nam và chủ trương của Đảng bộ Tỉnh Hà Tây

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quy luật của tất cả các nước khi tiến

lên một nền kinh tế xã hội hiện đại và phát triển. Đó là con đường tất yếu mà

mọi quốc gia không thể bỏ qua để đạt được thành quả phát triển về kinh tế xã

hội và thoát khỏi nguy cơ tụt hậu. Do xuất phát điểm từ một nước nông

nghiệp với hơn 80% dân số và 76,9% lực lượng lao động sống và làm việc ở

nông thôn, Việt Nam coi CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là vấn đề đầu

tiên và là trọng tâm. Đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển

nền kinh tế xã hội của đất nước.

CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là quá trình xây dựng, phát triển

cơ sở vật chất kỹ thuật, chuyển từ lao động thủ công là chủ yếu sang lao động

sử dụng máy móc với kỹ thuật, công nghệ tiên tiến. Chuyển dịch cơ cấu kinh

tế xã hội nông thôn theo hướng tiến lên hiện đại gắn nông nghiệp với công

nghiệp và dịch vụ; cho phép khai thác, phát huy có hiệu quả các nguồn lực và

lợi thế so sánh đất nước trong sự mở rộng hợp tác quốc tế.

32

1.3.1.1 Đường lối đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng

Cộng sản Việt Nam

Nông nghiệp nông thôn có vai trò, vị trí quan trọng đối với sự phát triển

của mỗi quốc gia, mọi tiềm năng nguồn lực và thế mạnh của nông nghiệp,

nông thôn có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước

trong thời kỳ đầu của quá trình xây dựng, đưa nền kinh tế từ lạc hậu lên nền

kinh tế tiên tiến, hiện đại. Khi nông nghiệp phát triển bền vững sẽ tạo ra

những bước phát triển ổn định cho nền kinh tế xã hội. Ở nước ta, trong quá

trình lãnh đạo xây dựng, phát triển đất nước, ĐCSVN luôn khẳng định tầm

quan trọng của nông nghiệp, nông thôn và có những chủ trương đúng đắn

thúc đẩy sản xuất phát triển đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng.

Phát huy những thành tựu đạt được của công cuộc đổi mới nói chung,

kết quả của nông nghiệp - nông thôn nói riêng. Đại hội VII (6/1991) và

Cương lĩnh xây dựng đất nước của Đảng đã cụ thể hóa nội dung công nghiệp

hóa đất nước thể hiện qua những nội dung:

- Phát triển lực lượng sản xuất, đẩy mạnh công nghiệp hóa đất nước

theo hướng hiện đại, gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là

nhiệm vụ trọng tâm.

- Phát triển nông- lâm- ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, phát

triển toàn diện kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới.

- Phát triển một số ngành công nghiệp nặng với bước đi thích hợp,

trước hết là các ngành công nghiệp trực tiếp phục vụ cho phát triển nông-

lâm- ngư nghiệp, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, thực hiện liên kết công

nghiệp với nông nghiệp, thành thị với nông thôn.

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII và Cương lĩnh xây dựng đất

nước xác định và nhấn mạnh vị trí, vai trò của nông nghiệp và kinh tế nông

thôn, một trong những nhiệm vụ trọng tâm của sự nghiệp công nghiệp hóa đất

nước, có ý nghĩa quyết định đến ổn định tình hình kinh tế xã hội. Những

33

thành tựu trong lĩnh vực kinh tế đã khẳng định sự đúng đắn về đường lối đồng

thời là điều kiện để Đảng ta tiếp tục cụ thể hóa đường lối CNH, HĐH đất

nước trên từng lĩnh vực, kế thừa những quan điểm, chủ trương cơ bản về

CNH, HĐH đất nước trong những năm 1991- 1995(Đại hội Đại biểu toàn

quốc VII), đồng thời tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm về CNH của các

quốc gia trên thế giới. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng

(6/1996) mở đầu thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, xây dựng nước Việt

Nam độc lập dân chủ, xã hội công bằng văn minh theo định hướng XHCN.

Đại hội nhấn mạnh “phải đặc biệt coi trọng CNH, HĐH nông nghiệp, nông

thôn, ra sức phát triển nông- lâm- ngư nghiệp, các ngành công nghiệp chế

biến nông- lâm- thủy sản” [24; 22]. Đại hội đã bổ sung, phát triển, quyết định

chọn CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn làm bước đi đầu tiên để thực hiện

CNH, HĐH đất nước. Đại hội xác định nội dung chủ yếu của CNH, HĐH

nông nghiệp, nông thôn:

- Phát triển toàn diện nông nghiệp, hình thành các vùng tập trung

chuyên canh, có cơ cấu hợp lý về cây trồng, vật nuôi, có sản phẩm hàng hóa

với số nhiều lượng nhiều, chất lượng tốt, đảm bảo an toàn lương thực, đáp

ứng được yêu cầu của công nghiệp chế biến và của thị trường trong cũng như

ngoài nước.

- Thực hiện thủy lợi hóa, hiện đại hóa, cơ giới hóa, sinh học hóa nông nghiệp.

- Phát triển công nghiệp chế biến nông- lâm- thủy sản với công nghệ

ngày càng cao gắn với nguồn nguyên liệu và liên kết với công nghiệp ở đô thị.

- Phát triển các ngành nghề, làng nghề truyền thống và các ngành nghề

mới, bao gồm thủ công nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng

xuất khẩu và chế biến các nguồn nguyên liệu phi nông nghiệp, các loại hình

dịch vụ cho sản xuất và đời sống nhân dân.

- Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội ở nông thôn, từng bước

hình thành nông thôn mới văn minh, hiện đại. Trong 5 năm tới, xây dựng

34

thêm đường sá, mạng lưới dây điện, cấp nước, điện thoại, trường học, cơ sở y

tế văn hóa ở nông thôn để phát huy tiềm năng nguồn lực tự nhiên và con

người ở nông thôn [24; 87].

Nội dung CNH, HĐH đất nước do Đại hội VIII xác định là phản ánh

toàn diện tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó tiến hành CNH,

HĐH nông nghiệp và nông thôn được đặt lên vị trí hàng đầu của sự nghiệp

CNH, HĐH đất nước trên cơ sở nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò quan

trọng của nông nghiệp nông thôn và nông dân đối với sự nghiệp cách mạng.

Nghị quyết Đại hội VIII khẳng định rõ hơn vai trò của kinh tế hộ và

khuyến khích kinh tế hộ phát triển: kinh tế hộ gia đình ở nông thôn (làm

nông- lâm- ngư nghiệp, diêm nghiệp, dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp… hoặc

kết hợp làm nhiều ngành nghề) là loại hình sản xuất có hiệu quả về kinh tế xã

hội, phát triển lâu dài, có vị trí quan trọng trong sản xuất nông nghiệp và quá

trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Vì vậy, cần khuyến khích kinh tế

hộ phát triển mạnh mẽ.

Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII, Quốc hội và Chính phủ

ban hành nhiều chủ trương, chính sách thúc đẩy sự phát triển của nông

nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH như:

Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII (6/1996) về

“Định hướng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ trong thời kỳ CNH,

HĐH và nhiệm vụ đến năm 2000” đã xác định nhiệm vụ, quan điểm chỉ đạo

về CNH, HĐH nông nghiệp và kinh tế nông thôn trong giai đoạn tới; đẩy

mạnh nghiên cứu tuyển chọn các loại giống cây, con có năng suất và chất

lượng cao; áp dụng công nghệ sinh học hiện đại, để sản xuất ra các loại nông

sản sạch, phục vụ nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của xã hội và xuất khẩu.

Bên cạnh đó, chú trọng phát triển chăn nuôi trên cơ sở đẩy mạnh các

biện pháp sinh học vào sản xuất, tạo ra nhiều chủng loại tốt, hiệu quả cao,

nâng cao trình độ chế biến và bảo quản nông sản hàng hóa; đẩy nhanh cơ giới

35

hóa, điện khí hóa, sử dụng phương pháp tiên tiến trong tưới tiêu nước, phục

vụ cho sản xuất nông nghiệp, sử dụng và khai thác hợp lý vùng đất đai mới để

phát triển sản xuất.

Ngày 01/7/1997, Luật HTX ra đời đã chú trọng chuyển các HTX sản

xuất nông nghiệp cũ sang làm chức năng dịch vụ theo mô hình HTX nông

nghiệp kiểu mới. Sau khi Luật có hiệu lực, Chính phủ ra Nghị định số 15-

NĐ/CP và Nghị định số 16-NQ/CP (2/1997) về chính sách khuyến khích phát

triển HTX nông nghiệp và thực hiện chuyển đổi đăng ký HTX. Tháng 4/1997,

Chính phủ ra Nghị định số 43- NQ/CP ban hành điều lệ mẫu cho các HTX

nông - lâm nghiệp, thủy sản. Tạo điều kiện cho các HTX nông nghiệp có sơ

sở pháp lý để tiến hành đổi mới.

Các HTX mới ra đời trên cơ sở chuyển đổi của các HTX cũ, sang làm

các hoạt động dịch vụ cung cấp đầu vào, tiêu thụ sản phẩm đầu ra cho kinh tế

hộ, kinh tế trang trại và các thành phần kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn.

Nhờ đó đã khai thác nguồn nguyên liệu, tiềm năng trong nông nghiệp, nông

dân và nông thôn ngày càng hiệu quả hơn.

Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, ngày

29/12/1996 về “Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới và phát huy nội lực,

nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, cần kiệm để CNH, HĐH, phấn đấu hoàn

thành các mục tiêu kinh tế xã hội đến năm 2000”, chủ trương phát triển nông

nghiệp, nông thôn theo hướng CHN, HĐH và hợp tác hóa, dân chủ hóa. Để

tạo yên tâm và thuận lợi cho nông dân, Chính phủ ra Chỉ thị số 10/1998/ CT-

Ttg (2/1998) chỉ đạo nhiệm vụ giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng

đất nông nghiệp và đẩy mạnh hoạt động tín dụng tạo điều kiện cho kinh tế hộ

gia đình, các tổ hợp tác vay vốn để phát triển sản xuất.

Trên cơ sở đánh giá sâu sắc tình hình kinh tế xã hội những năm qua và

dự báo diễn biến thuận lợi, khó khăn trong thời gian tới, Hội nghị lần thứ 6

(lần 1) Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, ngày 17/10/1998 về “Nhiệm vụ

36

kinh tế xã hội năm 1999, và vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn”. Hội

nghị đã đưa ra mục tiêu tổng quát về kinh tế xã hội trong năm 1999 và đến

năm 2000: tiếp tục công cuộc đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, nhất

là công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn, thực hiện có hiệu quả chương

trình hành động theo Nghị quyết Trung ương 4[21; 192].

Hội nghị xác định rõ nhiệm vụ chính thực hiện trong năm 1999 trong

đó “tập trung sức cao hơn nữa cho nhiệm vụ phát triển nông nghiệp và lao

động nông thôn theo hướng CNH, HĐH làm cơ sở vững chắc cho sự ổn định

và phát triển kinh tế xã hội trong mọi tình huống; ưu tiên phát triển công

nghiệp phục vụ nông nghiệp, điều chỉnh cơ cấu, đổi mới cơ chế các ngành

công nghiệp nhằm tháo gỡ khó khăn, tăng nhanh khả năng cạnh tranh của sản

phẩm” [21; 195].

Trong Hội nghị, vai trò quan trọng của kinh tế hộ gia đình trong quá

trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn được khẳng định. Khuyến khích các

hình thức kinh tế trang trại phát triển thực hiện liên kết với kinh tế hộ và các

thành phần kinh tế khác để mở rộng quy mô sản xuất- kinh doanh.

Nghị quyết đã chú trọng đến những chủ trương, chính sách nhằm phát

triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn:

- Coi trọng thực hiện CNH, HĐH trong phát triển nông nghiệp (gồm cả

lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp) và xây dựng nông thôn, đưa nông

nghiệp và kinh tế nông thôn lên sản xuất lớn là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng cả

trước mắt và lâu dài, là cơ sở để ổn định tình hình kinh tế, chính trị, xã hội.

- Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, gắn phát triển nông nghiệp với

công nghiệp chế biến, ngành nghề gắn sản xuất với thị trường để hình thành

sự liên kết nông- công nghiệp- dịch vụ và thị trường ngay trên địa bàn nông

thôn và trên phạm vi cả nước; gắn phát triển nông nghiệp với xây dựng nông

thôn mới, gắn công nghiệp hóa với thực hiện dân chủ hóa và nâng cao dân trí,

đào tạo nhân lực ở nông thôn.

37

- Phát huy lợi thế của từng vùng và của cả nước, áp dụng nhanh các

tiến bộ khoa học công nghệ để phát triển nông nghiệp hàng hóa đa dạng, đáp

ứng ngày càng cao nhu cầu nông sản thực phẩm và nguyên liệu công nghiệp,

hướng mạnh ra xuất khẩu.

- Phát triển nền nông nghiệp với nhiều thành phần kinh tế, trong đó

kinh tế nông nghiệp giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế HTX dần trở thành

nền tảng…Tạo điều kiện và khuyến khích mạnh mẽ hộ nông dân và những

người có khả năng đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh nông nghiệp, công

nghiệp, dịch vụ ở nông thôn [22; 6-7].

Nghị quyết 6 lần 1 Ban Chấp hành Trung ương lần VIII của Đảng có

nhiều nội dung mới, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh và tạo thuận lợi cho

người nông dân, trong đó vấn đề quan trọng nhất là khẳng định vai trò, vị trí

quan trọng của nông nghiệp, nông thôn và nông dân trong giai đoạn đẩy mạnh

CNH, HĐH. Lần đầu tiên vấn đề kinh tế trang trại được thừa nhận trong Nghị

quyết của Đảng.

Để khai thác đất đai ngày càng có hiệu quả hơn, tháng 6/2000, Chính

phủ ra Nghị quyết số 09- NQ/CP, ngày 15/6/2000 về “Một số chủ trương và

chính sách về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp”,

cho phép những vùng trồng lúa và các loại cây hoa màu có hiệu quả kinh tế

thấp, chuyển sang sản xuất các loại sản phẩm khác. Nghị quyết ra đời nhằm

phát huy lợi thế to lớn của nền nông nghiệp nước ta về tiềm năng tự nhiên, về

truyền thống làm nông nghiệp của nước ta từ lâu đời. Về tính cần cù, năng

động, sáng tạo của nhân dân, thực hiện mục tiêu xây dựng một nền nông

nghiệp mạnh, phát triển bền vững, áp dụng công nghệ cao, công nghệ mới,

từng bước được hiện đại hóa, vươn lên để trở thành một nền nông nghiệp với

những ngành sản xuất hàng hóa lớn, có sức cạnh tranh ngày càng cao trong

quá trình hội nhập quốc tế, có năng suất và thu nhập cao trên một đơn vị diện

tích, đáp ứng nhu cầu lương thực, thực phầm cho nhân dân, nguyên liệu cho

38

công nghiệp, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu và bảo vệ môi trường sinh thái,

góp phần nâng cao đời sống nông dân, ổn định kinh tế xã hội đất nước.

Nghị quyết 09 thể hiện sự đổi mới tư duy theo hướng sản xuất nông

nghiệp hàng hóa, lấy hiệu quả làm mục tiêu, khác hẳn tư duy tự túc lương

thực bằng mọi giá.

Sự phát triển kinh tế xã hội nhất là nông nghiệp, xây dựng nông thôn

trong thời kỳ 1996- 2000 trên cơ sở thực hiện những chủ trương, đường lối đã

chứng minh đường lối đúng đắn của Đảng, đó là một bước chuyển quan trọng

lớn lao trong thời kỳ đổi mới, xây dựng đất nước. Nông nghiệp, nông thôn

nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, cơ bản đã trở thành nền sản xuất

hàng hóa với tốc độ tăng trưởng bình quân 4,2%/năm, đảm bảo lương thực

quốc gia, một số mặt hàng xuất khẩu có thị phần khá lớn trong khu vực và

trên thế giới, đời sống nông dân được cải thiện rõ rệt. Thành tựu có ý nghĩa

quan trọng là trong một thời gian dài, từ một nền nông nghiệp tự cấp, tự túc

đã vươn lên thành một nền nông nghiệp với những ngành sản xuất hàng hóa

lớn, có sức cạnh tranh ngày càng mạnh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Những thành tựu đạt được trong thời gian 1996- 2000 về kinh tế xã hội

cùng với những chủ trương, đường lối của ĐCSVN về CNH, HĐH nông

nghiệp, nông thôn đã đáp ứng yêu cầu cấp bách về phát triển kinh tế xã hội,

nguyện vọng của nông dân, nhờ đó đã thúc đẩy sản xuất phát triển với năng

xuất, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao. Đồng thời đây cũng là điều kiện,

là tiền đề để ĐCSVN lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế xã hội giai đoạn sau

giành nhiều kết quả.

1.3.1.2 Chủ trương của Đảng bộ Tỉnh Hà Tây

Thi hành Điều lệ ĐCSVN và Chỉ thị số 15-CT/TW của Ban Bí thư

Trung ương Đảng, Đảng bộ Tỉnh Hà Tây đã tiến hành Đại hội Đại biểu lần

thứ XII nhiệm kỳ 1996- 2000 (4/1996). Đại hội đã thông qua báo cáo của Ban

39

Chấp hành Đảng bộ Tỉnh về kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội nhiệm kỳ

1992- 1995 và phương hướng nhiệm vụ thời kỳ 1996- 2000.

Đại hội Đại biểu Đảng bộ Tỉnh Hà Tây lần XII đã nhấn mạnh nhiều nội

dung rất quan trọng, đặc biệt là bàn định những chủ trương, giải pháp đúng

đắn nhằm phát huy tốt hơn những tiềm năng, lợi thế sẵn có, đưa nền kinh tế

xã hội của Hà Tây phát triển với tốc độ cao hơn, có cơ cấu hợp lý hơn theo

hướng CHN, HĐH và đúng định hướng XHCN, đặc biệt là CNH, HĐH nông

nghiệp và kinh tế nông thôn. Khẳng định nông nghiệp vẫn luôn là một ngành

kinh tế trọng yếu của Tỉnh, Đại hội đã đề ra mục tiêu phát triển tới năm 2000:

- Tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm khoảng 10- 11%, bình quân theo

đầu người năm 2000 đạt ít nhất 400 USD.

- Năm 2000 có cơ cấu kinh tế: công nghiệp 30%; du lịch- dịch vụ 30%,

nông nghiệp 40%. Tổng sản lượng lương thực: 1 triệu tấn.

- Ứng dụng rộng rãi các tiến bộ khoa học công nghệ trong sản xuất,

nhất là sản xuất nông nghiệp, công nghiệp chế biến, bảo vệ môi trường sinh

thái bền vững” [5; 300].

Để mục tiêu đạt hiệu quả, Đại hội đã đề ra các nhiệm vụ cụ thể để phát

triển kinh tế xã hội, trong đó về phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn.

Đại hội chỉ rõ: phải quán triệt quan điểm của Đảng về CNH, HĐH, phải thâm

canh, ứng dụng khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ sinh học, chú trọng

khâu giống cây, con và sinh thái môi trường; đồng thời đẩy nhanh việc

chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động nông thôn theo hướng phát triển công

nghiệp, dịch vụ. Quan tâm xây dựng cơ sở hạ tầng ở nông thôn, phát triển

mạnh công nghiệp chế biến lương thực thực phẩm, công nghiệp sản xuất hàng

tiêu dùng nhằm đảm bảo nông nghiệp và kinh tế nông thôn tiếp tục tạo cơ sở

cho sự phát triển các ngành khác…

Sau Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Tỉnh ủy xác định: giai

đoạn 1996- 2000 là bước đi rất quan trọng của thời kỳ phát triển mới, đẩy

40

mạnh CNH, HĐH. Nghị quyết Đại hội nhấn mạnh “tiến hành CNH, HĐH ở

tỉnh ta trong những năm 1996- 2000 phải rất coi trọng môi trường nông

nghiệp, thúc đẩy phát triển nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH tạo ra nông

sản hàng hóa có chất lượng, đạt hiệu quả giá trị trên 1 đơn vị diện tích ngày

càng cao” [86; 26]. Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của kế hoạch 5 năm

(1996- 2000) đã được xây dựng với mức phấn đấu cao cả về tốc độ phát triển,

chất lượng và hiệu quả tăng trưởng, chuẩn bị tiền đề cho bước phát triển cao

hơn sau năm 2000.

Để thực hiện mục tiêu, Tỉnh ủy tập trung triển khai tuyên truyền quán

triệt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII và Nghị quyết Đại hội

Đại biểu Đảng bộ Tỉnh lần XII; thực hiện Nghị quyết Đại hội “một số HTX ở

Ứng Hòa trong đó có xã Trầm Lộng đã tổ chức các hộ nông dân đổi ruộng

cho nhau, từ chỗ có nhiều thửa nay chỉ có 3-4 thửa để tiện lợi cho việc thâm

canh và chuyển dịch mô hình cơ cấu cây trồng, vật nuôi” [5; 303] . Đây là

việc làm sáng tạo, một dấu mốc mở đầu ngành nông nghiệp hợp tác chuyển

dịch sang sản xuất hàng hóa. Bên cạnh đó, phong trào làm vườn- ao- chuồng

(VAC), cải tạo vườn tạp thành vườn cây ăn quả có giá trị kinh tế cao bắt đầu

được phát triển ở nhiều nơi.

Được xác định là một tỉnh mà nông nghiệp là mặt trận có vị trí, vai trò

quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội theo hướng CNH, HĐH,

cùng với những thành quả đạt được, Tỉnh ủy Hà Tây ra Nghị quyết số 01-

NQ/TU ngày 01/10/1996 về “Tổ chức thực hiện mục tiêu phát triển nông

nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng CNH, HĐH đến năm 2000”, Nghị

quyết nêu ra phương hướng “chuyển đổi nhanh cơ cấu kinh tế nông nghiệp,

nông thôn từ thuần nông sang sản xuất hàng hóa đa dạng; đồng thời đẩy

nhanh tốc độ khôi phục ngành nghề truyền thống và mở mang nghề mới nhằm

làm chuyển biến việc phân công lại lao động và nâng cao đời sống nông dân”

[5; 304]. Nghị quyết đã đề ra 6 giải pháp chính nhằm thúc đẩy nền kinh tế

41

nông nghiệp của Tỉnh gồm: về giống, về quy hoạch vùng sản xuất hàng hóa,

về tăng cường cơ sở hạ tầng, về phát triển công nghiệp- thủ công nghiệp và

dịch vụ phục vụ nông nghiệp, nông thôn, về HTX nông nghiệp và một số vấn

đề về chính sách.

Nghị quyết 01- NQ/TU còn đề cập đến việc đổi mới HTX nông nghiệp

nhằm tạo động lực mới để chuyển đổi nhanh cơ cấu kinh tế nông nghiệp và cơ

cấu kinh tế nông thôn, thúc đẩy kinh tế hộ xã viên và kinh tế HTX cùng phát

triển.

Đối với lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, Nghị quyết 01 ngày

1/10/1996 là một dấu mốc quan tọng trong việc thực hiện Nghị quyết Đại hội

Đảng lần thứ VIII và Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ Tỉnh lần XII.

Sau Nghị quyết số 01, ngày 12/2/1997, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Chỉ

thị số 14- CT/TU về việc“Đẩy mạnh sản xuất trên cơ sở đổi ruộng từ ô thửa

nhỏ thành ô thửa lớn gắn với quy hoạch sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất cho hộ nông dân”, chủ trương phấn đấu tới năm 2000, tất

cả các xã đều chuyển đổi xong. Việc chuyển đổi ruộng đất là cơ sở để kinh tế

nông nghiệp trên địa bàn Tỉnh đi đúng với thời kỳ CNH, HĐH.

Ngày 06/03/1997, UBND Tỉnh ra Quyết định số 160- QĐ/UB ban hành

kế hoạch hướng dẫn chuyển đổi ruộng đất từ ô thửa nhỏ thành ô thửa lớn.

Chị thị số 14 và Quyết định số 160 đã tạo thuận lợi cho hộ canh tác,

thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa

có hiệu quả. Đó là cơ sở thực hiện nhiều mô hình sản xuất có hiệu quả, tạo

việc làm và tăng thu nhập cho người lao động, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp,

phát triển chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn.

Để khuyến khích phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH,

HĐH phù hợp với điều kiện của Tỉnh, ngày 14/4/1997, Tỉnh ủy ra Nghị quyết

số 04- NQ/TU về “Phát triển khoa học công nghệ trong thời kỳ công nghiệp

42

hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000”, ra Chỉ thị số 20- CT/TU ngày

1/4/1997 về việc “Chuyển đổi HTX nông nghiệp theo Luật HTX”.

Quán triệt tinh thần Nghị quyết Hội nghị TW 6 lần 1, Hội nghị Ban

Chấp hành Đảng bộ Tỉnh lần thứ 15, khóa XII đã nghiên cứu, thảo luận và

quyết định 4 chương trình lớn nhằm phát triển nông nghiệp, nông thôn theo

hướng CNH, HĐH: chương trình 1 triệu tấn lương thực quy thóc vào năm

2000; chương trình tiếp tục thực hiện mục tiêu phát triển chăn nuôi đến năm

2000; chương trình an toàn đê điều và giải quyết cơ bản úng, hạn để ổn định

và phát triển nông nghiệp; chương trình củng cố HTX nông nghiệp sau

chuyển đổi HTX theo Luật.

Về công tác thủy lợi: Đảng bộ tích cực chỉ đạo công tác thủy lợi gồm cả

vấn đề bảo vệ đê kè, củng cố xây dựng trạm bơm và kiên cố hóa kênh mương.

Song song với việc chuyển đổi ruộng đất từ ô thửa nhỏ sang ô thửa lớn

và chuyển đổi HTX theo Luật, để tạo yên tâm cho người nông dân trên mảnh

đất của họ, đồng thời để thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về việc

giao ruộng đất lâu dài cho nông dân, UBND Tỉnh đã triển khai việc cấp giấy

chứng nhận quyền sử dụng đất cho nông dân.

Được sự quan tâm, chỉ đạo của Đảng, các ban ngành, các hộ nông dân

rất phấn khởi được tự chủ trên mảnh đất của mình, ra sức sản xuất nhằm nâng

cao năng xuất và sản lượng cây trồng. Trong chỉ đạo, Tỉnh kết hợp nhiều biện

pháp đồng bộ, tích cực mở rộng diện tích với thâm canh, tăng năng suất. Mở

rộng diện tích vụ đông, đưa loại lúa có năng suất cao vào cấy trồng. Năm

2000, Tỉnh thực hiện chính sách hỗ trợ giống, điện, nước tưới tiêu cho xã viên

HTX sản xuất nông nghiệp.

Do thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp nên sản xuất nông nghiệp có

bước phát triển mạnh, diện tích, năng suất, sản lượng đều tăng. Bên cạnh đó,

Đảng bộ luôn chú trọng đến sự gắn kết chặt chẽ giữa nông nghiệp- công

43

nghiệp và dich vụ qua các công đoạn chuẩn bị, quá trình sản xuất, chế biến và

tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm.

CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn cả nước nói chung và Hà Tây nói

riêng là giải pháp quan trọng, là khâu trọng yếu, có tính đột phá trong sự phát

triển kinh tế xã hội của đất nước tiến tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội

công bằng, dân chủ, văn minh. Những kết quả, những chủ trương, chính sách

của Đảng bộ Tỉnh Hà Tây 5 năm qua (1996-2000) tạo cơ sở vững chắc cho

Đảng bộ và nhân dân trong Tỉnh liên tục thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH,

HĐH đất nước trên địa bàn toàn Tỉnh những năm đầu thế kỷ XXI

1.3.2 Quá trình lãnh đạo thực hiện phát triển kinh tế nông nghiệp

của Đảng bộ Thị xã Sơn Tây (1996- 2000)

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sau 10 năm tiến hành công cuộc đổi mới,

tình hình kinh tế xã hội của đất nước đã đạt được những thành tựu nhất định.

Đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, đời sống nhân dân được cải thiện

và thiết lập quan hệ ngoại giao.

Thực hiện Chỉ thị số 51- CT/TW ngày 09/03/1995 của Ban Bí thư TW

Đảng bộ Tỉnh Hà Tây về tổ chức Đại hội Đảng các cấp, Đại hội Đại biểu

Đảng bộ Thị xã Sơn Tây lần thứ XVI đã được tổ chức. Đại hội xem xét đánh

giá tình hình, kết quả đã đạt được, chưa đạt được và những thiếu sót tồn tại

trong việc lãnh đạo chỉ đạo và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần XV

để rút ra những bài học kinh nghiệm cho nhiệm kỳ XVI và để tiếp tục đẩy

mạnh và phát triển kinh tế chính trị của Thị xã, Đại hội đã tán thành phương

hướng, mục tiêu cơ bản, nhiệm vụ chủ yếu và những giải pháp chính của

nhiệm kỳ XVI (1996- 2000)

Đại hội nhấn mạnh, trong 5 năm tới, Đảng bộ và nhân dân Thị xã Sơn

Tây quyết tâm phấn đấu đạt và vượt những chỉ tiêu: “phấn đấu đến năm 2000,

giá trị nông-lâm nghiệp đạt 164 tỷ đồng chiếm 25% trong cơ cấu kinh tế, tăng

bình quân hàng năm 12%; giữ vững sản lượng lương thực trên 19.000 tấn/

44

năm. Đưa vụ đông lên 60% diện tích đất canh tác. Giữ vững phát triển đàn gia

súc, gia cầm, đẩy mạnh hoạt động kinh tế VAC, sinh vật cảnh, phát triển chăn

nuôi dê, bò sữa và nuôi con đặc sản. Hoàn thành kế hoạch trồng cây tập trung

và cây phân tán, kết hợp trồng cây lấy gỗ và cây ăn quả. Phấn đấu đến năm

2000 mức thu nhập bình quân đầu người 5 triệu đồng, tương đương 700 USD.

Giảm số hộ nghèo xuống còn 3%, không có hộ đói” [4; 126-127].

Nhằm đạt được những mục tiêu đề ra và tạo sự chuyển biến tích cực

trên mọi mặt đời sống xã hội thì Đảng ủy và UBND Thị xã đã chỉ đạo các

phòng, ban đề ra các giải pháp lớn để phát triển kinh tế xã hội của Thị xã trên

tất cả các lĩnh vực, đồng thời phân công người giám sát, kiểm tra việc thực

hiện đó, đã chú trọng tới việc phát triển kinh tế để củng cố vững chắc tiềm lực

và phát huy tiềm năng sẵn có của địa phương. Ban Chấp hành Đảng bộ Thị xã

tập trung chỉ đạo tiếp tục phát triển kinh tế nông nghiệp, công nghiệp- tiểu thủ

công nghiệp, thương mại và dịch vụ.

Qua quá trình chỉ đạo thực hiện, kinh tế Thị xã trong 5 năm (1996-

2000) có những bước phát triển nhanh chóng. Năm 2000, tổng giá trị công

nghiệp- thương mại, dịch vụ và nông- lâm ngư nghiệp đạt 628 tỷ đồng, so với

năm 1996 bằng 150%, tăng bình quân 10%/năm, so với mục tiêu Đại hội bằng

96%. GDP đạt 271 tỷ đồng, so với năm 1996 bằng 120%, tăng bình quân

4%/năm, so với mục tiêu Đại hội bằng 70% [70; 3].

Thu nhập bình quân đầu người năm 2000 đạt 3,5 triệu đồng, tăng 32%

so với năm 1996. Năm 2000, năng suất lúa bình quân đạt 50,9 tạ/ha, tăng 6,8

tạ/ha so với năm 1996. Tổng sản lượng lương thực quy thóc đạt 22.300 tấn,

bằng 123% so với mục tiêu Đại hội. Bình quân lương thực khẩu nông nghiệp

đạt 364kg/người/năm. Chăn nuôi tiếp tục phát triển, mô hình nuôi bò sữa

bước đầu đã đem lại hiệu quả kinh tế, số hộ phát triển sản xuất theo mô hình

trang trại đạt 23 trang trại [4; 137].

45

Cùng với sự đổi mới đi lên của đất nước, phát triển kinh tế xã hội theo

hướng CNH, HĐH. Mặc dù trong thời gian này Thị xã Sơn Tây còn gặp nhiều

khó khăn, tình hình thời tiết diễn biến phức tạp gây bão, lũ, hạn hán lớn,

nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng còn hạn chế, Tuy nhiên, các cấp,

các ngành và nhân dân Thị xã đã nỗ lực phấn đấu, phát huy kết quả đạt được,

tranh thủ lợi thế và huy động mọi nguồn vốn để phát triển nhanh theo cơ cấu

kinh tế: công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp; thương mại- du lịch- dịch vụ;

nông- lâm ngư nghiệp nhằm xây dựng Thị xã Sơn Tây văn minh, giàu đẹp.

Trong 5 năm (1996- 2000) qua quán triệt Nghị quyết của Trung ương

Đảng, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy, HĐND Thị xã; sự

quan tâm chỉ đạo của Trung ương, của Tỉnh vào điều kiện cụ thể của Thị xã,

đã phát huy nội lực, khai thác mọi tiềm năng sẵn có, đã triển khai nhiều biện

pháp tích cực nhằm hoàn thành những chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch phát

triển kinh tế xã hội trong nhiệm kỳ (1996- 2000). Quá trình lãnh đạo phát

triển kinh nông nghiệp của Đảng bộ Thị xã Sơn Tây thể hiện trên nội dung:

*Chuyển dịch cơ cấu trong kinh tế:

Trong quá trình chỉ đạo sản xuất nông- lâm nghiệp đã chuyển biến nhận

thức; gắn phát triển sản xuất nông- lâm nghiệp với xây dựng nông thôn mới;

đẩy mạnh sản xuất lương thực gắn với phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm,

nhất là chuyển dịch cơ cấu cây trồng, con, gia súc theo hướng tăng dần các

loại cây, con có giá trị kinh tế cao, coi trọng công tác khuyến nông, đưa tiến

bộ khoa học kỹ thuật áp dụng vào sản xuất có hiệu quả. Kiện toàn tổ chức, đổi

mới phương thức hoạt động của Ban Quản lý HTX, các dịch vụ về điện, thủy

lợi, giống, phân bón cơ bản đáp ứng được nhu cầu của hộ nông dân.

Mặc dù nhiều năm thời tiết phức tạp gây hạn hán kéo dài hoặc mưa

nhiều gây úng ngập một số diện tích. Song có sự chỉ đạo tích cực của các cấp,

các ngành từ Thị xã đến cơ sở sản xuất nông- lâm nghiệp vẫn giữ vững và

phát triển, các chỉ tiêu trong sản xuất nông nghiệp đều đạt cao. Đảng bộ đã tập

46

trung lãnh đạo, chỉ đạo, đảm bảo cho kinh tế phát triển đúng hướng, trong đó,

tốc độ tăng trưởng của các ngành đều tăng lên: công nghiệp- xây dựng tăng

15%; nông – lâm nghiệp tăng 12%; thương mại- dịch vụ- du lịch tăng

15%/năm. Cơ cấu kinh tế của Thị xã bước đầu có sự chuyển dịch theo hướng

tăng dần tỷ trọng trong ngành công nghiệp, dịch vụ từ 42,8% (1996) lên

51,4% (2000); ngành nông- lâm nghiệp giảm từ 57,2% (1996) xuống còn

49,6% (2000). Tỷ lệ lực lượng lao động có việc làm thường xuyên của Thị xã

Sơn Tây trong nhóm ngành nông – lâm nghiệp giảm từ 63,4% (1996) xuống

còn 58,7% (2000). Ngược lại, tỷ lệ lực lượng lao động có việc làm thường

xuyên trong nhóm ngành công nghiệp- xây dựng và thương mại- du lịch- dịch

vụ tăng từ 36,6% (1996) lên 41,3% (2000). Thu nhập bình quân 5 triệu đồng,

tương đương 700 USD/năm. Đây là hướng đi tốt giúp cho việc nâng cao chất

lượng đội ngũ lao động, phát huy và sử dụng hết tiềm năng sẵn có của địa

phương đẻ phát triển kinh tế xã hội của toàn Thị xã, cơ cấu kinh tế nông- lâm

nghiệp nông thôn chuyển dịch đúng hướng, mang lại hiệu quả cao cho nền

kinh tế nói chung và nền kinh tế của Thị xã nói riêng.

Kinh tế nông nghiệp của Thị xã có vai trò quan trọng với 6 xã và 6

phường sản xuất nông nghiệp, Đảng bộ đã chỉ đạo phát triển sản xuất nông-

lâm nghiệp theo Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VII) và chương trình nông

nghiệp của Tỉnh. Coi trọng sản xuất vụ chiêm, vụ mùa, vụ đông (vụ đông gieo

trồng đạt 50% diện tích đất canh tác), phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm và

chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thay đổi cơ bản giống lúa cũ bằng giống mới năng

suất cao; tích cực thực hiện khuyến nông, thủy lợi, phòng trừ dịch bệnh nên

sản xuất nông nghiệp đạt kết quả cao.

Giá trị sản xuất nông- lâm nghiệp năm 2000 đạt 105 tỷ đồng, so với

1996 bằng 140%, tăng bình quân 8%/năm, bằng 64% so với mục tiêu đại hội.

Bình quân lương thực khẩu nông nghiệp đạt 364kg/người/năm. Đây là thành

47

tích quan trọng trong việc thực hiện chương trình lương thực của Thị xã [70;

5].

Cơ cấu kinh tế nông- lâm nghiệp, nông thôn chuyển dịch đúng hướng,

tăng tỷ trọng công nghiêp- dịch vụ và giảm dần tỷ trọng nông- lâm nghiệp,

các sản phẩm nông nghiệp không chỉ cung cấp cho đời sống nhân dân trong

địa bàn Thị xã mà còn xuất khẩu ra bên ngoài, phát triển nông- lâm nghiệp

dựa trên tiềm năng của Thị xã, sự áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào

sản xuất làm tăng năng suất và chất lượng nông sản, từ đó làm nâng cao đời

sống của người nông dân.

Dưới sự lãnh đạo của các ấp ủy Đảng, trong những năm 1996- 2000,

kinh tế xã hội của Thị xã đã có những bước phát triển nhanh chóng. Năm

2000, tổng giá trị công nghiệp- thương mại, dịch vụ và nông lâm nghiệp đạt

628 tỷ đồng, so với năm 1996 bằng 120%, tăng bình quân 10%/năm, so với

mục tiêu đại hội bằng 96%. GDP đạt đạt 271 tỷ đồng, so với năm 1996 bằng

120%, tăng bình quân 4%/năm, so với mục tiêu đại hội bằng 70%. Thu nhập

bình quân theo đầu người năm 2000 đạt 3,5 tỷ đồng, tăng 32% so với năm

1996. Năm 2000, năng suất lúa bình quân đạt 50,9 tạ/ha, tăng 6,8 tạ/ha so với

năm 1996. Tổng sản lượng lương thực quy thóc đạt 22.300 tấn, bằng 123% so

với mục tiêu đại hội đề ra. Bình quân lương thực khẩu nông nghiệp đạt 364

kg/người/năm. Chăn nuôi tiếp tục phát triển, mô hình nuôi bò sữa bước đầu

đã đem lại hiệu quả kinh tế, số hộ phát triển sản xuất theo mô hình trang trại

đạt 23 trang trại [70; 5].

Chăn nuôi được giữ vững và phát triển. Năm 2000, đàn trâu bò 9.533

con (trong đó đàn bò là 5.628 con và 80% được sind hóa), so với mục tiêu đại

hội đạt 95,3%, so với năm 1996 tăng 895 con, đảm bảo đủ sức kéo phục vụ

sản xuất. Đàn lợn: 25.300 con, bằng 104%, gia cầm: 320.000 con, bằng 160%

so với năm 1996, bước đầu nuôi bò sữa đem lại hiệu quả kinh tế (hiện nay có

53 con) [70; 6].

48

Tích cực trồng rừng và cây phân tán, từ năm 1996- 2000 đã trồng được

320ha rừng tập trung, bằng 109,3% và 357.700 cây phân tán bằng 90% mục

tiêu đại hội đặt ra. Kinh tế VAC, nuôi thả cá, sinh vật cảnh và các cây có giá

trị: vải, nhãn, na… phát triển khá, từ đó góp phần tăng thu nhập, giải quyết

việc làm mang lại hiệu quả kinh tế cho nông dân như ở các xã: Trung Sơn

Trầm, Cổ Đông, Thanh Mỹ…Một số sản xuất theo mô hình kinh tế trang trại

(hiện nay Thị xã có 23 trang trại) [70; 6].

Trong nhiệm kỳ này, Đảng bộ đã lãnh đạo thực hiện tốt các mục tiêu

kinh tế, xã hội mà Đại hội đề ra. Kết quả 14/14 mục tiêu đều đạt được và

vượt, trong đó 13 mục tiêu vượt từ 3% đến 127%. Hoạt động sản xuất kinh

doanh đã tập trung sắp xếp tổ chức sản xuất, mở rộng liên doanh, liên kết,

tăng cường đầu tư công nghệ mới, nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã, đa

dạng hóa sản phẩm… nên hiệu quả kinh tế tăng cao.

Cơ cấu kinh tế trong thời gian này góp phần quan trọng giải quyết việc

làm, nâng cao đời sống của người dân, sự tăng cao lao động ngành công

nghiệp, xây dựng, dịch vụ và giảm tỷ lao động ngành nông nghiệp chứng tỏ

lao động ngày càng có trình độ kỹ thuật cao, nhận thức của người dân tích cực

và đó là sự chỉ đạo đúng đắn của các cấp ủy Đảng đã quan tâm hơn tới đời

sống nhân dân, tới sự phát triển kinh tế xã hội của Thị xã, số lao động lúc

nông nhàn được sử dụng, lập ra các cơ sở, xí nghiệp sản xuất nông nghiệp,

khôi phục các ngành nghề truyền thống.

* Ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp

Để nền kinh tế xã hội của Thị xã nói chung và kinh tế nông nghiệp nói

riêng phát triển vượt bậc, Thị xã đã tập trung đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu

kinh tế nông nghiệp theo hướng tăng năng xuất, sản lượng những cây con,

giống có giá trị cao, chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi để thích hợp với

điều kiện từng địa phương. Đồng thời, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật,

công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp để tăng năng suất và chất lượng của

49

cây trồng, vật nuôi, áp dụng luân canh tăng vụ phù hợp, thực hiện tốt và có

hiệu quả mối liên hệ giữa Nhà nước- nhà nông- nhà khoa học và nhà doanh

nghiệp, tạo cho nông dân có niềm tin trong sản xuất nông nghiệp.

Trong 5 năm (1996- 2000) việc đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật áp dụng

vào sản xuất có hiệu quả thiết thực. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp

thể hiện ở việc bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý, các giống lúa tiến bộ có năng

suất cao chiếm tỷ trên 80% diện tích gieo cấy. Đồng thời, chỉ đạo trồng các

loại cây màu như: sắn, lạc, ngô, đậu tương… nhằm tận dụng tối đa diện tích

gieo trồng, nâng cao năng suất và thực hiện chỉ tiêu sản lượng lương thực

hàng năm.

Cùng với việc vận dụng kinh nghiệm trong chỉ đạo sản xuất nông

nghiệp, năm 1999 Thị xã đã có phương án triển khai thực hiện 4 chương trình

phát triển nông- lâm nghiệp đến năm 2000, phong trào phát triển kinh tế gia

đình gắn với chương trình VAC ngày càng được mở rộng. Nhiều hộ gia đình

đã tiến hành cải tạo, quy hoạch lại vườn đồi, trồng cây ăn quả, chăn nuôi gia

súc, gia cầm và các loại đặc sản đem lại hiệu quả kinh tế cao, đã thực sự trở

thành nguồn thu nhập lớn trong nông thôn và ở cả các phường, góp phần tích

cực vào chương trình xóa đói giảm nghèo. Bên cạnh đó, Đảng bộ Thị xã xây

dựng quỹ xóa đói giảm nghèo, khuyến khích phát triển tiểu thủ công nghiệp,

dịch vụ, triển khai một số dự án trong nông- lâm nghiệp…Trong 5 năm

(1996- 2000) giải quyết việc làm cho hơn 5.500 lao động. Hộ đói nghèo giảm

từ 6,2% (1996) xuống còn 3,86% (2000). Trong đó hộ đói là 172 hộ, bằng

0,67%; hộ nghèo là 821 hộ, bằng 3,19% [70; 8]. Từ kết quả đó, đã khẳng định

người nông dân Sơn Tây có thể làm giàu trên đất đồi gò.

Tiếp tục đưa giống mới, kỹ thuật thâm canh mới vào sản xuất nông

nghiệp. Các loại giống như: lúa Q5, Khang dân cho năng suất cao, sắn cao sản

HN124 của ngoại vẫn được phát triển trên diện tích rộng. Chỉ đạo trồng các

50

loại cây màu vụ xuân, trong đó có các loại cây: sắn, lạc, đậu tương, ngô, khoai

lang, các loại dưa và rau cho năng suất, chất lượng cao.

Để đảm bảo cho các cây, con phát triển thì còn cần chú trọng công tác

bảo vệ thực vật, tích cực diệt chuột, diệt sâu đảm bảo năng suất cây trồng và

nâng cao sản lượng lương thực.

Tình hình chăn nuôi được duy trì và phát triển, hệ thống thú y được

kiện toàn từ Thị xã đến xã, phường nên đã thường xuyên thực hiện công tác

tiêm phòng dịch bệnh cho đàn gia súc, gia cầm, không để dịch bệnh xảy ra.

Đến năm 2000, tổng đàn trâu bò có 9.533 con (trong đó đàn bò có 5.628 con,

tăng 895 con so với năm 1996). Đàn lợn có 25.300 con, bằng 104%; gia cầm

có 320.000 con, bằng 160% so với năm 1996.

Bên cạnh đó, thực hiện chương tình cải tạo đàn bò theo hướng sind hóa

và sữa hóa. Cùng hãng Neslei cho vay với lãi suất thấp để nuôi bò sữa cho 12

hộ giá trị 60 triệu đồng. Bước đầu đã có sản lượng sữa thu hoạch bình quân

mỗi tháng từ 15,5- 2 tấn sữa. Tiếp tục thực hiện giống gia cầm mới như: gà

thả vườn 882 được 150 con; ngan Pháp được 65 con giao cho các xã Trung

Sơn Trầm, Viên Sơn, Trung Hưng. Các con thủy sản, đặc sản như: cá, baba,

ếch… vẫn được phát triển [92; 3].

Việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp làm cho

tăng năng suất và chất lượng nông sản, cải thiện cuộc sống và tăng thu nhập

cho người nông dân từ đó làm tăng trưởng ngành nông nghiệp năm sau cao

hơn năm trước. Thu nhập bình quân đầu người năm 2000 đạt 3,5 tỷ đồng,

tăng 32 so với năm 1996. Năng suất lúa bình quân đạt 50,9 tạ/ha, tăng 6,8

tạ/ha.

Công tác phòng chống lụt, bão, úng được triển khai đúng quy định, chỉ

đạo chặt chẽ từ Thị xã đến cơ sở. Xây dựng cụ thể các phương án tiền

phương, hậu phương, phương án phối hợp với huyện Phúc Thọ, Ba Vì và với

các đơn vị quân đội trên địa bàn, cả trong trường hợp Thị xã chịu ảnh hưởng

51

của phân lũ. Tích cực chống úng nội đồng ở một số xã để hạn chế thiệt hại.

Hoàn thành nhiệm vụ tu sửa đê kè hàng năm và đảm bảo an toàn trong mùa

mưa bão [70; 7].

Hàng năm đã chủ động triển khai công tác phòng chống lụt, bão, úng

theo quy định, đảm bảo an toàn đê kè, hồ đập trong mùa mưa bão. Các

phương án được xây dựng cụ thể, chi tiết. Chuẩn bị mọi điều kiện khi có tình

huống xấu xảy ra, toàn bộ hệ thống đê, kè, chương trình thủy lợi đều được

kiểm tra trước mùa mưa bão nhằm phát hiện sự cố để kịp thời khắc phục.

Hàng năm đều xây dựng hiệp đồng với các huyện Ba Vì, Phúc Thọ để bảo vệ đê khi có lũ xảy ra. Trong 5 năm (1996- 2000), “đã nạo vét được 229.135 m3

kênh mương dẫn nước hoàn chỉnh nâng cấp 8 trạm bơm nước” [93; 3].

Đã hoàn thành đề án thủy lợi năm 1999- 2000, khảo sát xây dựng trạm bơm tiêu cống Bắc Kiên. Năm 1999, triển khai thi công đắp xong 100.000m3

đất cơ đê Đại Hà kể cả phần khối lượng của Thị xã thực hiện công trình đã

hoàn thành trước mùa mưa lũ, và đưa vào sử dụng, xử lý 2 vết nứt đê.

Thực hiện Nghị quyết của Ban Thường vụ và kế hoạch của UBND Thị

xã về công tác đổi ruộng từ ô thửa nhỏ sang ô thửa lớn và cấp giấy chứng

nhận quyền sử dụng đất cho nông dân. Có 9 xã và phường Xuân Khanh đã

xây dựng xong quy hoạch và có phương án đổi ruộng. Các đơn vị đã có Ban

chỉ đạo và tích cực hoạt động đến năm 1999 đã có 8 xã và phường Xuân

Khanh đã hoàn thành cơ bản xong phần đổi ruộng gắn với quy hoạch sử dụng

quỹ đất. Số hộ đã đổi ruộng được 5.825 hộ/11.916 hộ, cấp được 3.500 giấy

chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp và 228 giấy chứng nhận quyền sử

dụng đất ở [93; 4]. Kết quả ban đầu tạo chuyển biến mới trong sản xuất nông

nghiệp, đồng thời trong quá trình chỉ đạo đã đạt được yêu cầu đúng luật, dân

chủ, giữ được sự ổn định, đoàn kết trong nhân dân.

Tới năm 2000, thực hiện Luật đất đai đã cấp giấy chứng nhận quyền sử

dụng đất cho 10.000 hộ, bằng 85% số hộ nhận ruộng, tạo điều kiện cho nông

52

dân yên tâm sản xuất. 13 HTX nông nghiệp và 2 HTX tín dụng (bằng 100%)

hoạt động theo Luật, có tác dụng tích cực phục vụ kinh tế hộ nông dân [70; 7].

Đảng bộ Thị xã Sơn Tây chủ trương khuyến khích và mở mang kinh tế

xã hội chủ nghĩa, kinh tế gia đình, kinh tế trang trại, các ngành, nghề truyền

thống để thu hút, tạo ra việc làm cho người lao động tại chỗ. Nhiều làng nghề

truyền thống được khôi phục và phát triển, các HTX nông nghiệp đã thực hiện

đổi mới quản lý, giao quyền sử dụng đất ổn định lâu dài cho nông dân, tạo

động lực thúc đầy sản xuất nông nghiệp phát triển.

* Chuyển dịch cơ cấu cây trồng:

Kinh tế nông nghiệp phát triển, tỷ lệ lao động sử dụng của lực lượng

lao động ở khu vực nông thôn năm 1996 là 70,2% tới năm 2000 đã tăng lên

90,2%. Kết quả này như một thành quả đáng ghi nhận góp phần tạo ra những

sự chuyển biến lớn trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội mà Thị xã Sơn

Tây đang dày công xây dựng.

Mô hình kinh tế VAC, nuôi thả cá, sinh vật cảnh và các cây có giá trị:

vải, nhãn, na… phát triển khá, một số sản xuất theo mô hình kinh tế trang trại

(hiện có 23 trang trại). Hoàn thành kế hoạch trồng cây tập trung và cây phân

tán, kết hợp trồng cây lấy gỗ và cây ăn quả.

Chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng công nghệ cao, đô thị, sinh

thái, sản xuất hàng hóa lớn, chất lượng hiệu quả, đảm bảo an toàn thực phẩm,

hài hòa và bền vững môi trường, góp phần đảm bảo an ninh lương thực, nâng

cao thu nhập cho nông dân.

Dựa vào điều kiện tự nhiêu và cơ cấu các loại đất của Thị xã mà lựa

chọn các giống cây trồng và biện pháp luân canh thích hợp.

Mở rộng các loại giống có hiệu quả kinh tế cao và thực hiện tốt thời vụ

đối với từng loại cây trồng, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào nông

nghiệp nhằm đưa lại năng suất, chất lượng cao.

53

Sản xuất nông nghiệp được đẩy mạnh phát triển gắn với xây dựng nông

thôn mới, sản xuất lương thực gắn với chăn nuôi gia súc, gia cầm. Coi trọng

công tác khuyến nông, hướng dẫn kỹ thuật, lịch thời vụ gieo trồng, kiện toàn

tổ chức, đổi mới phương thức hoạt động của Ban Quản lý HTX. Các dịch vụ

về thủy lợi, điện, giống, phân bón…cơ bản đáp ứng được nhu cầu của nông

dân. Giá trị tổng sản lượng nông- lâm nghiệp năm 1995 đạt 17,8 tỷ đồng, tổng

sản lượng lương thực quy thóc đạt 19.225 tấn. Đàn lợn có 22.385 con, tăng

26%; đàn trâu bò 8.754 con; đàn gia cầm được giữ vững và phát triển. Đảng

bộ cũng quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, hệ thống điện, đường,

trường, trạm.

Năm 2000, tổng giá trị công nghiệp- thương mại, dịch vụ và nông

nghiệp đạt 628 tỷ đồng, so với năm 1996 bằng 150%, tăng bình quân

10%/năm. Trong đó giá trị nông- lâm nghiệp đạt 164 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng

25% trong cơ cấu kinh tế, tăng bình quân hàng năm 12%. Giữ vững sản lượng

lương thực trên 19.000 tấn/năm. Đưa vụ đông lên 60% diện tích đất canh tác.

Việc phát triển kinh tế nông nghiệp góp phần xây dựng nông thôn mới,

ổn định kinh tế xã hội nông thôn, góp phần xóa đói giảm nghèo. Cùng với

chính sách đầu tư, phát triển kinh tế của Thị xã đã tạo được động lực mới cho

sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp phát triển toàn diện. Cơ cấu cây trồng vật

nuôi được chuyển dịch một cách tích cực. Năm 2000, đàn trâu bò 9.533 con

đảm bảo đủ sức kéo phục vụ sản xuất; Đàn lợn là 25.300 con, bằng 104%;

gia cầm 320.000 con, bằng 160% so với năm 1996; bước đầu nuôi bò sữa

đem lại hiệu quả kinh tế. Tích cực trồng rừng và cây phân tán từ 1996 đã

trồng được 320 ha rừng tập trung, bằng 109,3% và 357.700 cây phân tán,

bằng 90%.

Phấn đấu tới năm 2000 mức thu nhập bình quân đầu người là 5 triệu

đồng, tương đương 700 USD. Giảm số nghèo xuống còn 3%, không có hộ

đói. Tranh thủ các nguồn vốn đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng phụ vụ sản xuất,

54

đời sống nhân dân, hướng tập trung vào các công trình trọng điểm như: điện,

đường, trường học, trạm y tế và các công trình phúc lợi công cộng.

Triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 về phát triển nông

nghiệp và xây dựng nông thôn mới- bước đầu thu được kết quả đáng kể. Cơ

sở hạ tầng ở nông thôn được nâng lên một bước: 53km đường nông thôn được

làm mới và nâng cấp, 9 trường, 7 trạm xá được xây dựng và sửa chữa, điện

đảm bảo cung ứng cho sản xuất kinh doanh và phục vụ đời sống nhân dân, hệ

thống thông tin truyền thanh được trang bị, đảm bảo thông tin kịp thời về tình

hình trong nước và địa phương đến nhân dân. Những kết quả này góp phần

cải thiện và từng bước nâng cao đời sống vật chất tinh thần của người dân.

Để khai thác tối đa tiềm năng của Thị xã, nâng cao chất lượng và giá trị

nông sản hàng hóa, Đảng bộ Thị xã đã luôn chú trọng đến sự gắn kết giữa

nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ thông qua các công đoạn chuẩn bị, quá

trình sản xuất, chế biến và tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm. Trong nông

nghiệp, dần phát triển các ngành công nghiệp chế biến, phục vụ sản xuất, đáp

ứng nhu cầu chế biến nguyên liệu tại chỗ, giải quyết việc làm, kích thích cho

tăng trưởng kinh tế xã hội ở nông thôn. Đảng bộ Thị xã đã đề ra những chính

sách kinh tế phù hợp, khuyến khích các hộ nông dân, tư nhân đầu tư vào lĩnh

vực nông nghiệp, tiếp tục tăng cường đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ

thuật nông thôn, trước hết là làm thủy lợi, đường giao thông, điện nước, thông

tin liên lạc, trường học, trạm y tế… khai thác và đưa vào sử dụng có hiệu quả

các chương trình thủy lợi, kết hợp chặt chẽ giữa giao thông đường thủy với

đường bộ, đẩy mạnh phong trào làm thủy lợi, kết hợp nguồn vốn giữa Nhà

nước và nhân dân để làm các công trình giao thông nông thôn, việc xây dựng

kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội của Thị xã chủ yếu dựa trên cơ sở Nhà nước và

nhân dân cùng làm, quản lý chặt chẽ đất đai, quy hoạch lại sản xuất cho phù

hợp với từng vùng đất cụ thể để phát triển nông nghiệp, nông thôn của Thị xã,

55

quyết tâm tạo ra sự chuyển biến căn bản về sản xuất nông nghiệp , xã hội

nông thôn và đời sống nông dân.

Trong 5 năm (1996- 2000), Đảng bộ Thị xã đã tranh thủ các nguồn vốn

để xây dựng, nâng cấp được nhiều công trình phục vụ phát triển kinh tế xã

hội: nâng cấp mở rộng 10 đường phố nội thị, xây dựng trung tâm y tế, ủy ban

dân số- kế hoạch hóa gia đình, trung tâm khuyến nông…xây dựng một số

kênh mương, trạm bơm, hệ thống cấp thoát nước đô thị…Trong 5 năm, tổng

vốn đầu tư xây dựng cơ bản là 74 tỷ đồng (trong đó ngân sách tập trung là 28

tỷ đồng, vốn của ngành, quốc phòng hỗ trợ, vốn vay 40 tỷ đồng, vốn huy

động nhân dân 6 tỷ đồng). Cơ sở hạ tầng đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn

của Thị xã dần được đổi mới, đời sống nông dân được cải thiện và thu nhập

bình quân đầu người, số hộ giàu tăng lên, số hộ nghèo giảm.

Tiểu kết chương 1:

Trong những năm 1996- 2000, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ

Thị xã và sự nỗ lực của các phòng ban, nền kinh tế xã hội của Thị xã có bước

tiến đáng kể, góp phần vào sự phát triển kinh tế chung của Thị xã và nâng cao

đời sống của người dân.

Trong 5 năm (1996- 2000), tổng giá trị công nghiêp- thương mại, địch

vụ- nông , lâm nghiệp đạt 628 tỷ đồng, tăng bình quân 10%/năm so với năm

1996. Thu nhập bình quân 3,5 triệu đồng/ năm, tăng 32% so với năm 1996.

Năng suất bình quân đạt 50,9 tạ/ha,tăng 6,8 tạ/ha so với năm 1996. Sản xuất

nông- lâm nghiệp phát triển ổn định, liên tục mang lại hiệu quả kinh tế cao và

phát triển tiềm năng của Thị xã.

Việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp ngày

càng được nâng cao, tạo ra các nông sản năng suất, chất lượng phụ vụ nhu cầu

đời sống của nông dân và hướng ra công nghiệp hàng hóa.

Chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi góp phần tạo ra bước phát triển

căn bản về năng suất, sản lượng lương thực, tạo diện mạo mới của nông thôn

56

Thị xã. Việc lựa chọn các giống cây, con có chất lượng tốt, cùng với các biện

pháp thâm canh tăng vụ đã làm cho kinh tế nông- lâm nghiệp sử dụng được

tiềm năng, nâng cao năng suất.

Để tạo điều kiện cho người nông dân yên tâm sản xuất, Đảng bộ Thị xã

đã tiến hành cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người dân, người

nông dân đã làm chủ trên chính mảnh đất mình sử dụng, từ đó tạo tâm lý ổn

định để phát triển sản xuất.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, sản xuất nông- lâm

nghiệp của Thị xã vẫn phát triển chậm, chưa tương xứng với tiềm năng của

Thị xã: Giá trị sản xuất không đạt mục tiêu đề ra, chuyển dịch cơ cấu áp dụng

khoa học kỹ thuật chưa mạnh, thực hiện lịch thời vụ không nghiêm. Hoạt

động của một số Ban Quản trị HTX nông nghiệp, quỹ tín dụng còn yếu trong

cơ chế mới.

Cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn chuyển dịch còn chậm, tỷ trọng

chăn nuôi, dịch vụ thấp. Công nghiệp và ngành nghề trong nông thôn chậm

phát triển, sản phẩm nông sản chủ yếu ở dạng sơ chế, bán nguyên liệu, giá

thành nông sản còn cao.

Trên cơ sở những thành tựu và hạn chế trong nông nghiệp, trong giai

đoạn tiếp theo (2001- 2005), bên cạnh việc phát huy những thành tựu thì

Đảng bộ Thị xã Sơn Tây cần đẩy mạnh hơn nữa quá trình CNH, HĐH nông

nghiệp, nông thôn nói riêng và trên toàn bộ các lĩnh vực để phát huy tiềm

năng và thực hiện chủ trương của Đảng về CNH, HĐH theo định hướng xã

hội chủ nghĩa.

57

Chƣơng 2

ĐẢNG BỘ THỊ XÃ SƠN TÂY LÃNH ĐẠO KINH TẾ NÔNG NGHIỆP

(2001- 2008)

2.1 Đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng bộ Tỉnh

Hà Tây về phát triển kinh tế nông nghiệp

2.1.1 Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam

Những thành tựu đạt được trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn những

năm 1996- 2000 đã chứng tỏ chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước

về CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn là đúng đắn, sựa lựa chọn bước đi phù

hợp, đáp ứng nguyện vọng của các vùng nông thôn. Tuy nhiên, để phát huy

những thành tựu đạt được, tiếp tục khai thác những tiềm năng, nguồn lực to

lớn trong nông nghiệp nông thôn, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho

người lao động phát triển kinh tế xã hội, phải tăng cường sự lãnh đạo của

Đảng trong CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. Đại hội Đảng bộ toàn quốc

lần IX của Đảng chủ trương trong những năm 2001 – 2005 cần phải tăng

cường sự chỉ đạo và huy động các nguồn lực cần thiết để đẩy nhanh CNH,

HĐH nông nghiệp nông thôn.

Đại hội lần IX của Đảng là đại hội của trí tuệ- dân chủ- đoàn kết- đổi

mới. Đây là thời điểm có ý nghĩa quan trọng: Thế kỷ XX kết thúc, thế kỷ XXI

bắt đầu; toàn Đảng, toàn dân trải qua năm năm thực hiện Nghị quyết Đại hội

lần thứ XIII của Đảng, 10 năm thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh

tế xã hội 1991 – 2000 và 15 năm đổi mới.

Đại hội xác định đường lối chiến lược phát triển kinh tế xã hội của

nước ta từ 2001-2010, trong đó nông nghiệp nông thôn được quan tâm đặc

biệt. Đại hội khẳng định “Đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn theo

hướng hình thành nền nông nghiệp hàng hóa lớn, phù hợp với nhu cầu, thị

trường và điều kiện sinh thái của từng vùng, chuyển dịch cơ cấu ngành nghề,

58

cơ cấu lao động tạo việc làm, thu hút nguồn lao động nông thôn. Đưa nhanh

tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất, xây dựng hợp lý cơ cấu sản xuất

nông nghiệp…phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn” [25; 171].

Chủ trương đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước đòi hỏi phải xây dựng, phát

triển nền kinh tế toàn diện phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở

thành 1 đất nước công nghiệp theo hướng hiện đại rút ngắn thời gian tiến

hành CNH, HĐH.

Định hướng về CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn đối với từng khu

vực nông thôn như: khu vực nông thôn đồng bằng, khu vực nông thôn trung

du, miền núi, khu vực biển đảo. Đại hội IX còn xác định định hướng lớn để

phát triển sản xuất trong những năm 2001 – 2005 đối với từng vùng, từng

khu kinh tế nông thôn. Những định hướng thể hiện sự quan tâm của Đảng đối

với sự phát triển kinh tế và đời sống dân cư ở từng khu vực, từng vùng; đồng

thời thể hiện bước đối mới tư duy về phương thức lãnh đạo đối với nông

nghiệp nông thôn trong tổng thể nền kinh tế quốc dân, tránh áp đặt chủ quan

duy ý chí, nhưng vẫn đảm bảo cho các ngành, các vùng kinh tế nông nghiệp

nông thôn năng động, sáng tạo trong xác định hình thức, bước đi của sản xuất,

phù hợp với điều kiện tự nhiên, thổ nhưỡng, vùng sinh thái, khai thác và phát

huy thế mạnh ở địa phương để phát triển sản xuất với năng suất, chất lượng

và hiệu quả kinh tế ngày càng cao.

Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội Đảng bộ toàn quốc lần thứ IX, ngày 28-

02-2001, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị 63 – CT/TW về “Đẩy mạnh nghiên

cứu ứng dụng khoa học công nghệ phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa

nông nghiệp nông thôn”, trong đó, chú trọng ứng dụng công nghệ gen, công

nghệ tế bào, công nghệ thông tin vào quá trình sản xuất nhằm tạo ra nhiều

nông sản hàng hóa đáp ứng nhu cầu sinh hoạt ngày càng cao của đời sống xã

hội. Bên cạnh đó còn nâng cao giá trị của nông sản hàng hóa xuất khẩu trong

điều kiện hội nhập và toàn cầu hóa kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập cho

59

người lao động. Việc ứng dụng những thành tựu KHCN mới để đẩy nhanh

tiến trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn là sự kế thừa và kết hợp chặt

chẽ giữa yếu tố truyền thống với hiện đại, đây là một trong những nguyên

nhân quyết định sự phát triển của nền kinh tế xã hội.

Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, ngày

18/03/2002 về “Đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông

thôn thời kỳ 2001 - 2010” đã xác định nội dung tổng quát: “CNH, HĐH nông

nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản

xuất hàng hóa lớn gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện cơ

khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, ứng dụng các thành tựu KHCN, trước hết

là công nghệ sinh học đưa thiết bị và công nghệ hiện đại vào các khâu sản

xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả sức cạnh

tranh những nông sản hàng hóa trên thị trường” [27]. Lần đầu tiên Đảng ta ra

Nghị quyết chuyên đề về CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn và đặt trong mối

quan hệ với sự phát triển với các thành phần kinh tế. Nghị quyết đề ra những

quan điểm, chủ trương, phương hướng, nhiệm vụ và các giải pháp lớn cho

CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn thể hiện.

Thứ 1: CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn là một trong những

nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của CNH, HĐH đất nước. Phát triển công

nghiệp, dịch vụ phải gắn bó chặt chẽ, hỗ trợ đắc lực và phục vụ có hiệu quả

cho CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn.

Thứ 2: Ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, chú trọng phát huy nguồn

nhân lực cá nhân, ứng dụng rộng rãi thành tựu khoa học, công nghệ thúc đẩy

chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy lợi thế của từng vùng gắn với

thị trường để sản xuất hàng hóa quy mô lớn với chất lượng và hiệu quả cao,

bảo vệ môi trường, phòng chống, hạn chế và giảm nhẹ thiên tai phát triển

nông nghiệp nông thôn bền vững.

60

Thứ 3: Dựa vào nội lực là chính đồng thời tranh thủ tối đa các nguồn

lực bên ngoài, phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế; trong đó kinh

tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành

nền tảng vững chắc, phát triển mạnh mẽ kinh tế hộ, sản xuất hàng hóa các loại

hình doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn.

Thứ 4: Kết hợp chặt chẽ các vấn đề kinh tế và xã hội trong quá trình

CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn nhằm giải quyết việc làm, xóa đói giảm

nghèo, ổn định kinh tế xã hội, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của

người dân nông thôn.

Thứ 5: Kết hợp chặt chẽ CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn với xây

dựng tiềm lực và thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân [27].

Nghị quyết Trung ương V có nội dung toàn diện và sâu sắc, thể hiện

một tầm nhìn bao quát rộng và lâu dài. Nghị quyết có vị trí đặc biệt quan

trọng trong việc thực hiện chiến lược phát triển nhanh và bền vững đất nước

thời kỳ 2001 – 2010.

Đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn, ngày 04/6/2002 Thủ

tướng Chính phủ ra Quyết định số 68/2002/QĐ-Ttg về “Chương trình hành

động nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông

thôn thời kỳ 2001 - 2010” với nội dung: tạo thêm việc làm và tăng nhanh thu

nhập cho dân cư khu vực nông thôn, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo với khu

vực đô thị và tao dựng bộ mặt nông thôn mới trong thời kỳ CNH, HĐH.

Tháng 1/2003, Hội nghị Trung ương lần 7 khóa IX đã đề ra Nghị quyết

về “Tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh

công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Hội nghị xác định những quan điểm cơ bản

về đổi mới chế độ sử dụng đất đai với từng loại đất, đồng thời xác định về

nhiệm vụ, quyền hạn, quản lý đất đai của Nhà nước, xây dựng các chính sách

giao đất, thuê đất sản xuất, tạo điều kiện về đất đai để thúc đẩy CNH, HĐH

nông nghiệp, nông thôn tiếp tục phát triển.

61

Nghị quyết TW 9 khóa IX (01/2004) xác định chủ trương “Chú trọng

xây dựng các khu, cụm công nghiệp vừa và nhỏ phục vụ CNH, HĐH nông

nghiệp nông thôn gắn với bảo vệ môi trường”[28; 198], đẩy mạnh thực hiện

chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng tạo ra các vùng

sản xuất hàng hóa tập trung chuyên canh, thâm canh, có năng suất, chất lượng

cao, áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ mới, nhất là công nghệ sinh học gắn

với chế biến và tiêu thụ sản phẩm.

Tại Đại hội lần thứ X (tháng 04/2006) Đảng ta khẳng định: “Hiện nay

và trong nhiều năm tới, vấn đề nông nghiệp- nông dân- nông thôn có tầm

chiến lược đặc biệt quan trọng. Phải luôn coi trọng đẩy mạnh CNH, HĐH

nông nghiệp nông thôn hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp hàng hóa

lớn, đa dạng, phát triển nhanh và bền vững” [29; 190- 191]. Đẩy mạnh hơn

CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn trong đó phải chuyển dịch mạnh cơ cấu

kinh tế nông nghiệp, kinh tế nông thôn tạo giá trị gia tăng ngày càng cao, đưa

nhanh tiến bộ khoa học công nghệ nhất là công nghệ sinh học vào sản xuất,

khuyến khích đổi điền, đổi ruộng cho thuê, góp vốn cổ phần bằng đất.

Đại hội lần X chủ trương đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn

theo định hướng XHCN gắn với phát triển kinh tế tri thức. Bước quan trọng

của CNH, HĐH đất nước là phải tiếp tục “Đẩy mạnh hơn nữa CNH, HĐH

nông nghiệp nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp nông thôn

và nông dân” [29; 29].

Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ và kinh tế tri thức vào

sản xuất, đưa nông nghiệp nông thôn phát triển lên trình độ mới. Đây là điểm

mới trong định hướng phát triển nền kinh tế xã hội. Sự ra đời và phát triển của

kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển của lực

lượng sản xuất làm chuyển nền kinh tế dựa vào lao động và tài nguyên là chủ

yếu sang nền kinh tế dựa vào trí tuệ con người, thúc đẩy nhanh sự phát triển

đất nước.

62

Từ năm 1986 đến năm 2006, 20 năm đổi mới Đảng ta có bước phát

triển vượt bậc tư duy về chính trị, kinh tế xã hội. Cùng với xác định mô hình,

con đường đi lên CNXH ở nước ta, chủ trương của Đảng đẩy mạnh CNH,

HĐH đất nước, trong đó, bước đi có ý nghĩa quyết định của quá trình này là

phải đẩy mạnh hơn nữa CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn.

Gắn phát triển kinh tế tri thức với CNH, HĐH đất nước, nhất là về kinh

tế xã hội, điều đó cũng có ý nghĩa phải tận dụng thành tựu khoa học công

nghệ, kinh tế tri thức để đẩy nhanh hơn nữa đối với CNH, HĐH nông nghiệp

nông thôn giải quyết mối quan hệ nông thôn và nhân dân, đảm bảo sự ổn

định, bền vững về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước.

Tháng 07/2008, Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng

lần 7 (khóa X) tiếp tục khẳng định cần quan tâm hơn nữa tới vấn đề nông

nghiệp, nông dân, nông thôn. Trong quá trình CNH, HĐH đất nước theo định

hướng XHCN: Nông nghiệp là cơ sở- nông thôn là địa bàn- nông dân là lực

lượng đảm bảo góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững, ổn định

chính trị, xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng.

Mục tiêu tổng quát của Nghị quyết TW 7 khóa X về nông nghiệp và

kinh tế nông nghiệp đề ra: từ nay đến 2020 không ngừng nâng cao đời sống

vật chất, tinh thần của cư dân nông thôn, hài hòa giữa các vùng, tạo sự chuyển

biến nhanh hơn ở các vùng có nhiều khó khăn, nông dân được đào tạo có trình

độ sản xuất ngang bằng với các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh

chính trị, đóng vai trò làm chủ nông thôn mới. Xây dựng nền nông nghiệp

phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hóa lớn, có

năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, đảm bảo vững

chắc an ninh quốc gia cả trước mắt và lâu dài. Xây dựng nông thôn mới có kết

cấu hạ tầng kinh tế xã hội hiện đại, cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức

sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ,

đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân

63

tộc, dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được đảm bảo. Hệ thống

chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường [34].

Trên nền tảng những chủ trương, đường lối của Đảng đã tạo điều kiện,

nền tảng để chỉ đạo tiếp tục xây dựng các đề án, chương trình hành động

trong phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là trong kinh tế nông nghiệp.

2.1.2 Chủ trương của Đảng bộ Tỉnh Hà Tây

Đại hội Đại biểu Đảng bộ Tỉnh Hà Tây lần thứ XIII (tháng 12/2000)

khẳng định: Đảng bộ và nhân dân Tỉnh Hà Tây sát cánh cùng với cả nước

thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH đề ra chủ trương “Tiếp tục đầu tư phát triển

nông nghiệp nông thôn theo hướng CNH, HĐH, trọng tâm là áp dụng tiến bộ

về giống, kỹ thuật canh tác, công nghệ sinh học, thâm canh chuyển dịch cơ

cấu, nhiệm vụ để tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất” [87; 37].

Xác định sản xuất nông nghiệp trong Tỉnh những năm tới vẫn giữ vị trí

quan trọng để đảm bảo ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Đại hội đề ra

phương hướng “trước hết chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, thực hiện một

bước CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn để thúc đẩy phát triển kinh tế với

tốc độ cao và bền vững hơn; cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, các thành phần

kinh tế đều phát triển. Trong đó, kinh tế quốc doanh, HTX phát triển và giữ

vai trò nền tảng” [87; 337].

Để phát triển một nền nông nghiệp toàn diện và thực hiện tốt phương

hướng đề ra, cần thực hiện tốt các giải pháp sau: “Tăng cường đầu tư khâu

giống cây trồng, nhằm đưa vào sản xuất những giống có năng suất, chất lượng

cao, phù hợp với từng vùng, đảm bảo để giống tốt đưa vào sản xuất. Quy

hoạch các vùng sản xuất lúa gạo có giá trị cao, vùng cây công nghiệp, cây

thành phẩm, rau sạch gắn với quy hoạch sử dụng hợp lý đất đồi gò, đất bãi,

vườn tạp để phát triển cây công nghiệp phù hợp với từng vùng. Đẩy mạnh sản

xuất vụ đông, đưa vụ đông trở thành vụ chính chiếm 60% diện tích lúa màu

với những cây trồng có giá trị kinh tế cao. Phát triển tài nguyên rừng, nâng

64

cao độ che phủ rừng lên 30% năm 2005. Hình thành việc giao đất, giao rừng,

kết hợp lâm nghiệp với nông nghiệp nông nghiệp” [82; 60].

Nhằm cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XIII và Nghị

quyết TW 5 (khóa IX) của Đảng về “Đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp

nông thôn thời kỳ 2001- 2010” Ban Chấp hành Đảng bộ Tỉnh đã đề ra

Chương trình số 24-CTr/TU, ngày 20/04/2002 Đảng bộ Tỉnh đánh giá những

kết quả đạt được “Từ một nền nông nghiệp tự cung, tự cấp, lạc hậu, thiếu

lương thực triền miên, đến nay Tỉnh đang dần chuyển sang sản xuất hàng hóa,

tốc độ tăng trưởng đạt 4,5%, đảm bảo an ninh lương thực, tỷ suất hàng hóa

ngày một cao... Các tiến bộ khoa học kỹ thuật được áp dụng rộng rãi vào

trong sản xuất. Mức độ cơ giới hóa các khâu canh tác ngày càng cao. Tổng

giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn năm 2001 đạt

1.700 tỷ đồng (riêng 120 làng nghề đạt 1.045 tỷ)” [89; 2].

Từ đó, Đảng bộ thông qua chương trình đẩy nhanh CNH, HĐH nông

nghiệp nông thôn thời kỳ 2001 – 2010 với mục tiêu tổng quát “Xây dựng nền

nông nghiệp sản xuất hàng hóa quy mô lớn, hiệu quả và bền vững, có năng

suất, chất lượng và sức cạnh tranh cao trên cơ sở ứng dụng các tiến bộ khoa

học, công nghệ tiên tiến để đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Xây

dựng nông thôn có cơ cấu kinh tế hợp lý, có quan hệ sản xuất phù hợp, kết

cấu hạ tầng kinh tế xã hội phát triển ngày càng hiện đại, giàu mạnh, công

bằng, dân chủ, văn minh” [89; 4].

Để thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội, trong Báo cáo chính trị của

Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần XIII Tỉnh ủy Hà Tây chỉ đạo tập trung cao độ thực

hiện Thông báo số 40-TB/TU ngày 15/01/2001 về triển khai thực hiện chương

trình kinh tế nông, lâm nghiệp và phát triển nông thôn giai đoạn 2001 – 2005

theo hướng sản xuất hàng hóa, ổn định bền vững. Thực hiện được mục tiêu

giữ vững sản lượng lương thực hàng năm đạt trên 1 triệu tấn. Lương thực bình

quân đầu người đạt trên 400kg. Giá trị thu được trên 1ha canh tác đạt 28 triệu

65

đồng/năm trở lên. Giá trị sản xuất nông nghiệp tốc độ tăng bình quân 4-

5%/năm. Đồng thời, tiếp tục quán triệt đường lối đẩy mạnh phát triển và

chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn;

thực hiện Nghị quyết TW 7-NQ/TW (khóa IX) ngày 17/04/2003 Tỉnh ủy ra

Nghị quyết số 06-NQ/TU về tăng cường quản lý và sử dụng đất đai trên địa

bàn Tỉnh.

Ngày 14/09/2003, Tỉnh ủy Hà Tây ra chỉ thị về lãnh đạo xây dựng cánh

đồng đạt giá trị từ 50 triệu đồng/ha/năm trở lên và Đề án xây dựng cánh đồng

giá trị từ 50 triệu đồng/ha/năm trở lên giai đoạn 2003 – 2010 nhằm nâng cao

giá trị thu được trên 1 đơn vị diện tích canh tác.

“Cánh đồng 50 triệu” là sự tiếp tục của quá trình chuyển dịch cơ cấu

cây trồng, vật nuôi với tốc độ phát triển cao hơn nữa. Nhằm tạo nên một bước

đột phá về hiệu quả sản xuất nông nghiệp tỉnh trên đơn vị diện tích sử dụng

đất tăng khối lượng và giá trị nông sản, hàng hóa, nâng cao thu nhập của

người nông dân, đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp nông thôn

theo hướng CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. Đây được coi là một chủ

trương lớn trong phát triển nông nghiệp, vừa có tính cấp bách vừa có tính lâu

dài, phải huy động nhiều nguồn nhân lực và vật lực. Không chỉ áp dụng máy

móc, mà cần linh hoạt chỉ đạo trong một nền nông nghiệp đa canh.

Thực hiện Chỉ thị 63-CT/TW của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh nghiên

cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa

nông nghiệp và nông thôn”, Đảng bộ luôn quan tâm đẩy mạnh công tác

khuyến nông. Đây là cầu nối vững chắc giữa tiến bộ kỹ thuật với sản xuất,

giữa sản xuất với tiêu thụ sản phẩm. Xây dựng các mô hình trình diễn theo

hướng trọng tâm, trọng điểm nhằm phục vụ đắc lực chương trình cung cấp

cây trồng, vật nuôi nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao.

Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ XIII (2005 - 2010) đã đề ra mục tiêu cho

sự phát triển của giai đoạn này “Đảng bộ nhân dân trong Tỉnh phấn đấu nâng

66

cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các cấp ủy và tổ chức Đảng; phát

huy sức mạnh tập thể của toàn dân, tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới toàn

diện… Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế hàng hóa đạt giá trị cao, tăng giá

trị sản xuất nông nghiệp trên đơn vị diện tích canh tác, tạo bước phát triển

cao, bền vững, huy động tối đa các nguồn lực để phát triển đồng bộ các ngành

và các lĩnh vực [42; 38].

Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần XIV về phát triển

nông nghiệp nông thôn giai đoạn 2005 – 2010. Tháng 03/2006 Ban Thường

vụ Tỉnh ủy tổ chức Hội nghị Tỉnh ủy để thông qua “Chương trình phát triển

nông nghiệp nông thôn Hà Tây giai đoạn năm 2006 – 2010 theo hướng

chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu sản xuất hàng hóa đảm bảo hiệu quả kinh tế cao

và bền vững”.

Trung ương đề ra quan điểm để phát triển nông nghiệp nông thôn phải

phù hợp với các quy hoạch phát triển của Trung ương, vùng kinh tế trọng

điểm Bắc Bộ và của Tỉnh, phù hợp với quá trình phân công và hợp tác sản

xuất của “vùng”. Phát triển nông nghiệp nông thôn trên cơ sở phù hợp với các

yêu cầu hội nhập, cạnh tranh kinh tế quốc tế nhằm nhanh chóng làm giàu và

nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân và dân cư nông thôn; làm

tiền đề quan trọng để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế xã hội của Tỉnh và

rút ngắn chênh lệch giàu nghèo giữa đô thị và nông thôn.

Những quan điểm, đường lối chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam

và Đảng bộ Tỉnh Hà Tây về kinh tế nông nghiệp nông thôn trong thời kỳ đổi

mới là điều kiện và tiền đề để các địa phương trong nước nói chung và Đảng

bộ Thị xã Sơn Tây nói riêng chỉ đạo, lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp

địa phương, tăng tốc độ phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống vật chất

và tinh thần của người dân, đảm bảo an sinh lương thực, giải quyết việc làm,

tăng thu nhập bình quân đầu người.

67

Những chủ trương, chính sách và những giải pháp cụ thể hướng vào

phát triển một nền kinh tế nông nghiệp hàng hóa ổn định và bền vững theo

hướng CNH, HĐH.

2.2 Quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện phát triển kinh tế nông nghiệp

của Thị xã Sơn Tây (2001- 1008)

2.2.1 Chủ trương của Đảng bộ Thị xã Sơn Tây

Thực hiện Chỉ thị số 54-CT/TW ngày 22/05/2000 của Bộ Chính trị và

Chỉ thị số 75-CT/TW ngày 03/07/2000 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hà Tây

về tổ chức Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng bộ toàn quốc lần thứ

IX của Đảng. Đại hội Đại biểu Đảng bộ Thị xã Sơn Tây lần thứ XVII nhiệm

kỳ 2000 – 2005 đã được tiến hành. Đại hội diễn ra trong bối cảnh đất nước

trải qua 15 năm đổi mới và giành được nhiều thành tựu to lớn trên tất cả các

lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng.

Đại hội Đại biểu Đảng bộ Thị xã Sơn Tây lần XVII nhiệm kỳ 2000-

2005 (11/2000). Đại hội đã thông qua báo cáo kiểm điểm của Ban Chấp hành

và thống nhất với báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ Thị xã khóa XVI về

kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị giai đoạn (1996 - 2000). Trong 5 năm

(1996 – 2000) mặc dù còn nhiều khó khăn, xong Thị xã vẫn giữ được ổn định

và có bước phát triển rõ rệt. Năm 2000, tổng giá trị công nghiệp, thương mại-

dịch vụ, nông- lâm nghiệp đạt 628 tỷ đồng, so với năm 1996 bằng 150%, tăng

bình quân 10%/năm. Thu nhập bình quân đầu người năm 2000 đạt 3,5 triệu

đồng, tăng 32% so với năm 1996. Năm 2000 năng suất lúa bình quân đạt 50,9

tạ/ha, tăng 6,8 tạ/ha so với năm 1996. Tổng sản lượng lương thực quy thóc đạt

22.300 tấn, bằng 123% so với mục tiêu đại hội. Bình quân lương thực khẩu

nông nghiệp đạt 364kg/người/năm. Chăn nuôi tiếp tục phát triển, mô hình

nuôi bò sữa bước đầu đã đem lại hiệu quả kinh tế, số hộ phát triển sản xuất

theo mô hình trang trại đạt 23 trang trại [70; 4-6].

68

Từ những thành quả đạt được trong 5 năm (1996 - 2000) Đại hội đã đề

ra phương hướng, nhiệm vụ 5 năm tiếp theo (2000 - 2005). Đại hội nhấn

mạnh mục tiêu “phát triển kinh tế của Thị xã theo cơ cấu công nghiệp, tiểu

thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ, du lịch, nông lâm nghiệp. Tỷ trọng

công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp: 48%; thương mại, dịch vụ, du lịch: 37%;

nông lâm nghiệp 15%”. Tổng sản phẩm GDP tăng bình quân 8-10%/năm. Giá

trị sản xuất nông, lâm nghiệp tăng bình quân 5%/năm. Tổng sản lượng lương

thực quy thóc là 20.000 tấn/năm. Năm 2005 bình quân 1ha thu được 25 triệu

đồng, trồng cây phân tán: 100.000 cây” [70; 17-18]. Trong chăn nuôi “thực

hiện chương trình sind hóa đàn bò, nuôi dê, bò sữa đạt hiệu quả kinh tế. Đến

năm 2005 có 500 con bò sữa, gia cầm 400.000 con, đàn lợn 300.000 con” [70; 19].

Để thực hiện đạt kết quả những mục tiêu Đại hội đề ra, Đảng bộ đã chỉ

đạo phát triển sản xuất nông nghiệp đạt diện tích, năng suất, sản lượng giá trị

cao, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về cơ cấu theo hướng tăng giá trị thu nhập

trên diện tích canh tác theo Nghị quyết số 09- NQ/CP của Chính phủ. Coi

trọng khuyến nông, lịch thời vụ, khoa học kỹ thuật, các giống có hiệu quả

kinh tế vào sản xuất. Phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm, kinh tế VAC,

khuyến khích phát triển kinh tế theo hướng trang trại và trồng các cây có giá

trị kinh tế cao. Quản lý tốt hệ thống thủy nông, thủy lợi phục vụ sản xuất, sử

dụng có hiệu quả diện tích ao hồ để nuôi thả cá.

Ngày 23/04/2001 Ban Chấp hành Thị ủy Sơn Tây ra Nghị quyết số 16-

NQ/TU về “Thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp Thị xã Sơn Tây

giai đoạn 2001- 2005”. Mục tiêu: “Phấn đấu đến năm 2005 giá trị nông

nghiệp đạt 131 tỷ đồng, chiếm 20% tỷ trọng kinh tế Thị xã. Tốc độ tăng

trưởng bình quân đạt 5%/năm. Giá trị canh tác đạt 25 triêu đồng/ha/năm. Thu

nhập bình quân/người trong sản xuất nông nghiệp đạt 3 triệu đồng/năm” [77;

1].

69

Để triển khai và tổ chức thực hiện Nghị quyết số 16-NQ/TU, UBND

Thị xã Sơn Tây đã xây dựng đề án chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp Thị

xã Sơn Tây giai đoạn 2001 – 2005 với các chỉ tiêu cụ thể:

“Tổng sản lượng lương thực ổn định 20.000 tấn/năm, giảm diện tích

cây lúa cả nước từ 4.000 ha xuống còn 3.200ha; cây khoai lang giảm từ 750

ha xuống còn 300 ha; cây sắn giảm từ 500 ha xuống còn 300 ha; cây lạc tăng

từ 450 ha lên 700 ha; cây đỗ tương từ 500 ha lên 800 ha; cây ngô vẫn giữ ổn

định ở mức 100 ha; cây rau 550 ha; cỏ chăn nuôi 100 ha; dâu tằm 300 ha; cải

tạo vườn tạp để trồng cây ăn quả 500 ha. Đẩy mạnh chăn nuôi công nghiệp và

bán công nghiệp nâng cao tỷ trọng kinh tế ngành chăn nuôi; phấn đấu đưa đàn

trâu bò đạt 10.500 con, trong đó bò sữa đạt 500 con, đàn lợn đạt 30.000 con,

đàn gia cầm đạt 350.000 con. Đồng thời chỉ đạo phát triển ngành nghề trong

nông thôn; trồng nấm, mộc nhĩ, chế biến sản phẩm…” [77; 1].

Là vùng có địa hình đa dạng, tài nguyên thiên nhiên phong phú, khí hậu

tạo điều kiện cho việc phát triển nền nông nghiệp nhiệt đới đa dạng với cơ cấu

cây trồng vật nuôi phù hợp với điều kiện, tiềm năng và thế mạnh của Thị xã,

nên để thực hiện Nghị quyết 16- NQ/TU và Đề án chuyển đổi cơ cấu kinh tế

nông nghiệp Thị xã Sơn Tây giai đoạn 2001 – 2005, Đảng bộ và các ban

ngành cần:

- Phát huy cao độ các tiềm năng, lợi thế của Thị xã (về đất đai, mặt

nước, vị trí địa lý, kinh tế, sinh thái, nguồn lực con người, vốn…) để phát

triển sản xuất phù hợp nhu cầu thị trường.

- Lựa chọn đối tượng chuyển đổi sản xuất, xây dựng các vùng cây con,

sản xuất tập trung quy mô vừa và lớn nhằm tạo ra khối lượng nông sản hàng

hóa lớn, giá trị kinh tế cao đồng thời có sức cạnh tranh với thị trường trong và

ngoài nước.

- Sử dụng triệt để quỹ đất hiện có một cách hợp lý, hiệu quả.

70

- Tạo nhiều việc làm tại chỗ hợp lý, nâng cao thu nhập và đời sống

nông dân.

- Xây dựng một nền nông nghiệp sinh thái bền vững, phát triển theo

hướng CNH, HĐH.

- Chuyển mạnh từ hướng chú trọng số lượng, năng suất sang hướng

chất lượng, hiệu quả cao… đảm bảo ổn định, bền vững.

- Kịp thời nắm bắt các thông tin khoa học kỹ thuật để đáp dụng cụ thể

vào địa bàn Sơn Tây một cách nhanh, đúng hướng, hiệu quả cao.

- Chuyển đổi mạnh theo hướng giảm diện tích lúa, màu hiệu quả thấp,

tăng giá trị 1ha canh tác. Mạnh dạn đưa các mô hình mới, hiệu quả cao vào

sản xuất như: trồng cỏ nuôi bò sữa, cải tạo vườn tạp trồng cây ăn quả, đặc sản,

trồng dâu nuôi tằm, đẩy mạnh trồng rau sạch, rau trái vụ và rau cao cấp,

khuyến khích mô hình VAC, kinh tế trang trại.

- Nâng cao tỷ trọng, cơ cấu ngành chăn nuôi, đẩy mạnh chăn nuôi bò

sữa, bò lai sind, nuôi cá, gà công nghiệp trứng, thịt và gà thả vườn, giống lợn

nạc, tằm tơ và các con đặc sản.

Để đạt hiệu quả kinh tế cao, nâng cao giá trị trên đơn vị diện tích canh

tác Đảng bộ Thị xã đã triển khai Chỉ thị số 50-CT/TU của Ban Thường vụ

Tỉnh Hà Tây về lãnh đạo xây dựng cánh đồng đạt giá trị kinh tế cao. Năm

2005 đã triển khai ở 6 xã với diện tích 34 ha, năm 2007 là 82,3ha.

Công tác phòng chống lụt bão Thị xã tập trung tu bổ đê kè, sửa chữa

trạm bơm; tiếp tục thực hiện Chị thị số 23-CT/TW về giải tỏa hành lang đê điều.

Bước sang thời kỳ đổi mới đất nước theo định hướng XHCN Thị xã đã

và đang nỗ lực phấn đấu tạo sự chuyển biến tích cực, toàn diện trên toàn bộ

các lĩnh vực. Kinh tế của Thị xã dần dần ổn định và có xu hướng phát triển,

kinh tế nhiều thành phần đã hình thành và phát triển theo cơ chế thị trường

định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước. Kinh tế quốc doanh được sắp

71

xếp đổi mới tổ chức lại sản xuất phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường. Đời

sống vật chất và tinh thần của nông dân được cải thiện rõ rệt.

Những nội dung chỉ đạo trên của Ban Chấp hành Đảng bộ Thị xã Sơn

Tây là định hướng chung nhất để từ đó trong quá trình thực hiện thủ tục có

những chính sách cụ thể thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế Thị xã Sơn Tây

trong giai đoạn 2001 – 2010.

2.2.2 Quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng

CNH, HĐH

Trong 5 năm (1996- 2000) dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ Thị

xã Sơn Tây các mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thị xã lần XVI đã cơ

bản hoàn thành: cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, cơ sở vật

chất, hạ tầng cơ sở được nâng cao, đời sống vật chất và tinh thần của nhân

dân được cải thiện, bộ mặt đô thị, nông thôn Thị xã có nhiều khởi sắc. Tuy

nhiên, bên cạnh đó còn một số hạn chế: tốc độ tăng trưởng kinh tế và chuyển

dịch cơ cấu kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng. Hoạt động của các HTX

nông nghiệp chưa đạt hiệu quả cao và còn tồn tại nhiều bất cập. Công tác quy

hoạch, xây dựng cơ sở hạ tầng các cụm, điểm công nghiệp, du lịch còn chậm,

công tác xây dựng điện, đường, nước chưa đồng bộ.

* Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp

Bước sang giai đoạn 2001- 2005, với nỗ lực của mình, Đảng bộ và

nhân dân Thị xã Sơn Tây từng bước khắc phục những khó khăn trước mắt,

đẩy mạnh CNH, HĐH, góp phần cùng cả nước thực hiện mục tiêu “dân giàu,

nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” và đạt được nhiều thành

tựu trong các lĩnh vực kinh tế xã hội, đời sống văn hóa của nhân dân Thị xã,

nhất là trong việc chỉ đạo, phát triển kinh tế nông nghiệp để đạt hiệu quả cao.

Trong 5 năm (2001- 2005) tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm

Thị xã đạt 9,8% (mục tiêu đại hội đề ra là 9- 10%). Tổng giá trị sản xuất ước

đạt 809 tỷ đồng, thu nhập bình quân đầu người năm 2005 đạt 5,4 triệu đồng,

72

tăng 8% so với mục tiêu đề ra. Về cơ cấu kinh tế: công nghiệp- xây dựng:

48%; thương mại, dịch vụ, du lịch: 37%; nông- lâm nghiệp 15% [71; 4].

Giai đoạn 2001- 2005, Thị xã đã tập trung chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu

kinh tế nông nghiệp, cơ cấu cây trồng. Đã chuyển dịch cơ cấu cây trồng được

333 ha, chuyển đổi 33, 21 ha đất nông- lâm nghiệp sang làm công nghiêp; 328

ha sang làm thương mại- du lịch. Giá trị 1 ha đất canh tác năm 2005 đạt 26

triệu đồng, vượt 4% so với mục tiêu đại hội. Tổng sản lượng lương thực quy

thóc hàng năm luôn đạt 20.000 tấn. Tổng diện tích gieo trồng hàng năm đạt 6.200 ha

trong đó diện tích lúa là 3.700 ha. Năng suất bình quân 106 tạ/ha [71; 7].

Trong hoạt động sản xuất nông- lâm nghiệp và chăn nuôi. Đảng bộ Thị

xã Sơn Tây nhanh chóng chỉ đạo nhằm có biện pháp nâng cao tỷ trọng ngành

chăn nuôi và nâng cao giá trị 1 ha canh tác. Tăng cường chỉ đạo, hướng dẫn

nông dân sản xuất, giao chỉ tiêu cấy lúa lai tới cán bộ, đảng viên. Ra Nghị

quyết chỉ đạo xây dựng quy hoạch phát triển vùng sản xuất rau an toàn, xây

dựng cánh đồng giá trị kinh tế cao. Chỉ đạo nâng cao chất lượng hoạt động

của HTX. Tích cực mở cửa 526 lớp huấn luyện chuyển giao kỹ thuật, áp dụng

tiến bộ mới cho 25 ngàn lượt người dự học. Vận động, khuyến khích nhân

dân dồn điền, đổi thửa, chuyển đổi mục đích canh tác, áp dụng khoa học kỹ

thuật. Đã lập quy hoạch chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi đến năm 2000,

đưa các giống cây trồng, vật nuôi có giá trị cao vào sản xuất theo hướng sản

xuất hàng hóa ổn định và bền vững.

Khuyến khích chăn nuôi bò sữa, bò lai sind, lợn hướng nạc. Quan tâm

phát triển kinh tế trang trại… nhân rộng mô hình kinh tế vườn đồi, tạo cảnh

quan du lịch hiệu quả, kinh tế cao. Đến năm 2005, có 74 trang trại, tăng hơn 3

lần so với năm 2000; trong đó có 11 trang trại lợn, bình quân 1 trang trại có

600 con/lứa; 30 trang trại gà, bình quân 1 trang trại có 5.700 con/lứa và 33

trang trại tổng hợp. Các trang trại đã giải quyết việc làm được hơn 700 lao

động gồm cả lao động thường xuyên có việc làm và lao động lúc nông nhàn.

73

Nhiều trang trại thu nhập đạt 80 triệu đồng/ năm trở lên… Tỷ trọng chăn nuôi

thủy sản tăng khá nhanh, đã nâng từ 27% (2000) lên 49.6 (2005) trong cơ cấu

ngành nông nghiệp, các trang trại phát triển góp phần tích cực xây dựng nông

thôn mới, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân. Tới năm 2005

Thị xã có 10.108 con trâu bò, trong đó có 264 con bò sữa và 3.455 con bò lai

sind; 39.642 con lợn và 451.241 con gia cầm [71; 7].

Nông- lâm nghiệp- thủy sản của Thị xã có những kết quả tích cực, ước

đạt 67 tỷ đồng, tăng bình quân 4,2 %/năm. Tỷ trọng chăn nuôi chiếm 49,1%

trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp, tăng 3,8% so với năm 2000. Tổng sản

lượng bình quân cây lương thực có hạt đạt 16.100 tấn/năm, giá trị canh tác

năm 2005 bình quân ước đạt 32, 5 triệu đồng/ha. Tăng cường hoạt động chỉ

đạo, hướng dẫn nông dân sản xuất, giao chỉ tiêu cấy lúa lai tới cán bộ, đảng

viên.

Việc chuyển đổi mô hình, tăng nhanh tỷ trọng chăn nuôi, thủy sản của

Thị xã phải gắn với việc bảo vệ môi trường. Năm 2005, Thị xã có 74 trang

trại chăn nuôi trên địa bàn, trong đó có 11 trang trại lợn và 30 trang trại gà, 33

trang trại tổng hợp và từ chỗ đầu tư khoảng 5-6 tỷ đồng/1 trang trại, các trang

trại đã tạo việc làm cho trên 700 lao động nông thôn. Tổng đàn trâu, đàn bò là

10.178 con; đàn lợn 39.642 con; gia cầm 45.124 con.

Thị xã cũng chú trọng đầu tư, cải tạo và nâng cấp hệ thống thủy lợi nội

đồng đảm bảo phục vụ tưới tiêu cho 82,6% diện tích đất sản xuất nông

nghiệp, chủ động triển khai các phương án phòng chống lụt, bão, úng. Quan

tâm công tác bảo vệ rừng và phát triển cây phân tán, tăng độ che phủ toàn Thị xã.

Từ 2001- 2005, Thị xã đã chuyển đổi gần 500 ha kém hiệu quả sang

phát triển các mô hình cây, con hiệu quả cao. Bên cạnh đó, diện tích rau màu

phát triển mạnh với trên 1.600 ha cây rau màu các loại khắp các vùng đồi gò,

ven sông Tích hoặc ven sông Hồng cho thu nhập cao. Trong đó cây rau và cây

lạc cho thu nhập cao, chiếm trên 70% diện tích. Điển hình trong phát triển cây

74

rau màu là xã Viên sơn với gần 50 ha rau mỗi năm, trong đó có 15 ha chuyên

rau cho thu nhập cao hơn cấy lúa, trồng ngô 3-4 lần. Đặc biệt, Viên Sơn còn

là nơi đầu tiên xây dựng thành công mô hình rau an toàn với diện tích gần

10ha, đáp ứng được nhu cầu thị trường đô thị. Bên cạnh vùng rau màu, các

vườn bưởi, cam, vải, nhãn cũng được nhân rộng với trên 170 ha (gồm cả diện

tích gắn với công tác trồng rừng)…

Đảng bộ Thị xã còn ra Nghị quyết chỉ đạo xây dựng quy hoạch, phát

triển vùng sản xuất rau an toàn, xây dựng cánh đồng đạt giá trị kinh tế cao.

Trong 5 năm (2001- 2005) Thị xã Sơn Tây đã chuyển đổi cơ cấu cây trồng

được 333 ha, chuyển 33,21 ha đất nông- lâm nghiệp sang làm đất công nghiệp

và 318 ha đất sang làm thương mại, du lịch và dịch vụ. Giá trị 1 ha đất canh

tác năm 2005 đạt 26 triệu đồng, vượt 4% so với mục tiêu. Tổng sản lượng

lương thực quy thóc hàng năm luôn đạt 20.000 tấn, khuyến khích chăn nuôi

bò sữa, bò lai sind, lợn hướng nạc, đẩy mạnh kinh tế trang trại… nhân rộng

mô hình kinh tế vườn đồi, tạo cảnh quan du lịch đạt hiệu quả kinh tế cao.

Năm 2005 có 74 trang trại, tăng hơn 3 lần so với năm 2000.

Thực hiện Nghị quyết số 16- NQ/TU của Thị ủy, triển khai Chỉ thị số

50- CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hà Tây về lãnh đạo xây dựng cánh

đồng đạt giá trị kinh tế cao. Kết quả thực hiện toàn Thị xã đạt 37,5 ha ở các

xã, phường: Đường Lâm, Viên Sơn, Xuân Sơn, Trung Hưng, Thanh Mỹ,

Trung Sơn Trầm, Sơn Đông. Hiệu quả kinh tế đạt 50-70 triệu/ha/năm.

Chương trình đã góp phần nâng cao trình độ sản xuất thâm canh nông nghiệp

trên 1 đơn vị diện tích. Xây dựng cánh đồng rau an toàn 3ha ở Viên Sơn và

vận động nhân dân gieo cấy đúng lịch thời vụ, đẩy mạnh công tác khuyến

nông, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất [77; 4].

Thực hiện những chủ trương và chỉ đạo của Đảng bộ Thị xã, theo tinh

thần Đại hội Đại biểu Thị xã lần thứ XVI (1996) và lần thứ XVII (2000),

ngành nông nghiệp của Thị xã đã có những bước chuyển biến tích cực, tạo sự

75

đột phá trong sản xuất nông nghiệp. Nông dân hăng say hơn với lao động,

sáng tạo hơn trong sản xuất, thích ứng với cơ chế thị trường. Tới năm 2005,

nông dân trên địa bàn Thị xã không còn có hộ đói, xóa dần hộ nghèo và đang

từng bước vươn tới làm giàu trên chính mảnh đất quê hương.

Đại hội Đại biểu Đảng bộ Thị xã lần thứ XVIII nhiệm kỳ 2006- 2010

đã nhận định những khó khăn, thách thức từ đó xác định mục tiêu phát triển

kinh tế xã hội, đặc biệt trong đó là kinh tế nông nghiệp.

Những thành tựu quan trọng đạt được trong sự nghiệp CNH, HĐH đất

nước sau hơn 20 năm đổi mới (1986- 2006) đang tạo điều kiện quan trọng cho

sự phát triển của cả nước nói chung và Thị xã nói riêng. Kinh tế của Thị xã đã

có chuyển biến tích cực, cơ sở hạ tầng, giao thông đang được đầu tư mở rộng,

nâng cấp, an ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo.

Thị xã được xác định là trung tâm kinh tế xã hội phía Bắc Tỉnh Hà Tây,

nằm trong quy hoạch chuỗi đô thị Miếu Môn- Xuân Mai- Hòa Lạc- Sơn Tây.

Vào ngày 13/4/2006, Bộ Xây dựng ban hành quyết định công nhận Thị xã

Sơn Tây là đô thị loại III. Ngày 02/08/2007, Chính phủ ban hành Quyết định

số 130/2007/NĐ- CP về việc “Thành lập Thành phố Sơn Tây thuộc Tỉnh Hà

Tây”. Từ đó, tạo điều kiện thuận lợi, là cơ sở, tiền đề để Đảng bộ và nhân dân

Thị xã Sơn Tây phát triển kinh tế xã hội những năm tiếp theo, đưa nền kinh tế

của Thị xã phát triển, đóng góp vào việc xây dựng đất nước vì mục tiêu độc

lập dân tộc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Đại hội Đại biểu Đảng bộ Thị xã lần thứ XVIII đã xác định mục tiêu

tổng quát “khai thác mọi nguồn lực, tiềm năng, lợi thế, tập trung xây dựng,

nâng cấp kết cấu hạ tầng, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế xã hội theo

hướng CNH, HĐH, tăng nhanh tỷ trọng các ngành công nghiệp- xây dựng và

dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông- lâm nghiệp. Phát triển kinh tế hàng hóa

nhiều thành phần” [71; 25].

76

Để đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội của Thị xã, Đại hội đưa ra các

chỉ tiêu cụ thể: Tốc độ tăng trưởng (GDP) bình quân từ 15,3- 17%/năm. Cơ

cấu kinh tế đến năm 2010: công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp- xây dựng 50%;

thương mại- du lịch 40%; nông- lâm nghiệp 10%. Giá trị 1 ha canh tác đạt 35-

40 triệu đồng/năm [70; 26].

Với phương châm “đổi mới- đoàn kết- trí tuệ- dân chủ- trách nhiệm”

Đại hội đã kiểm điểm kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần XVII

(2001- 2005) trên cơ sở đó đưa ra phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế

xã hội trong những năm 2006- 2010. Về nông nghiệp, Đại hội xác định: từng

bước đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn bền vững, kết hợp với du

lịch sinh thái và xây dựng bộ mặt nông thôn mới.

Ban Chấp hành Đảng bộ Thị xã đã xác định nhiệm vụ trọng tâm từng

năm của nhiệm kỳ 2006- 2010, đưa ra các Quyết định, Nghị quyết, Chương

trình…để chỉ đạo việc phát triển kinh tế xã hội, trong đó có kinh tế nông

nghiệp. Qua 3 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XVIII

(2006-2008), kinh tế Thành phố Sơn Tây đã ổn định và tăng trưởng ở mức

cao: tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 15%. Tổng giá trị sản xuất đạt

3.270 tỷ đồng (theo mức giá cố định 1994). Thu nhập bình quân theo đầu

người đạt 8,2 triệu đồng, tăng 2,8 triệu đồng so với năm 2005. Về cơ cấu kinh

tế: công nghiệp, xây dựng chiếm 47,5%; thương mại- dịch vụ- du lịch chiếm

39%; nông lâm nghiệp, thủy sản13,5% [72; 1].

Giá trị sản xuất kinh tế nông- lâm nghiệp, thủy sản đạt 312 tỷ đồng

(theo giá cố định năm 1994), tăng bình quân 5,2%/năm, đạt 113% so với mục

tiêu đại hội. Chăn nuôi chiếm tỷ trọng 54% giá trị sản xuất nông nghiệp, giá

trị canh tác đạt 42 triệu đồng/ha/năm, đạt 120% so với mục tiêu đại hội. Đã

quy hoạch, chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, cơ cấu cây trồng được 152

ha. Tổng diện tích gieo trồng hàng năm đạt trên 6.400 ha, tăng 3,8% so với

77

đầu nhiệm kỳ; năng suất bình quân 52 tạ/ha; tổng sản lượng đạt 17.210 tấn,

bằng 114,7% chỉ tiêu đại hội đề ra.

Phát triển mới 94 triệu ha tăng tổng số lên 168 trang trại với tổng diện

tích lớn hơn 232 ha. Thành phố hiện có hơn 100 nhà vườn giá trị từ 100 triệu

đồng trở lên. Tổ chức thực hiện tốt công tác bảo vệ thực vật hàng năm. Tập

huấn 196 buổi về công tác khuyến nông cho 11.739 lượt người; đưa một số

giống mới, thiết bị kỹ thuật vào sản xuất. Chăn nuôi phát triển ổn định, tổng

đàn trâu bò 11.372 con (giảm 11,8% so với đầu nhiệm kỳ); đàn lợn 43.218

con (tăng 9%); đàn gia cầm 702.164 con (tăng 55,6%). Thực hiện tốt công tác

thú y, phòng chống dịch bệnh ở gia súc, không để dịch bệnh lây lan thành

dịch lớn, tăng cường công tác kiểm soát giết mổ động vật và vệ sinh thú y ở

các chợ, các trại chăn nuôi. Củng cố hoạt động mạng lưới thú y các xã,

phường [72; 3].

Ngày 11/04/2006 Ban Chấp hành Đảng bộ Thị xã đã thảo luận và thống

nhất ra Nghị quyết về “Đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp Thị

xã Sơn Tây giai đoạn 2006 - 2010” trên cơ sở đánh giá kết quả 5 năm thực

hiện Nghị quyết chuyên đề số16-NQ/TU ngày 23/04/2001 của Ban Chấp hành

Đảng bộ Thị xã khóa XVII (2000 – 2005) về “Chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông

nghiệp giai đoạn 2001 – 2005” và tình hình thực tiễn. Nghị quyết đề ra mục

tiêu tổng quát để phát triển kinh tế nông nghiệp “Tập trung công tác lãnh đạo,

chỉ đạo đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản

xuất hàng hóa đa dạng, hiệu quả và bền vững. Hình thành các vùng sản xuất

tập trung, nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên đất đai và lao động nông

thôn. Đẩy mạnh việc thực hiện CNH, HĐH trong nông nghiệp nông thôn, xây

dựng nông thôn mới phù hợp với quá trình phát triển đô thị của Thị xã và khu

vực” [75; 2].

Cụ thể hóa mục tiêu tổng quát, Nghị quyết đã đưa ra các chỉ tiêu phấn

đấu và các giải pháp thực hiện “cơ cấu nông, lâm nghiệp chiếm 10% trong cơ

78

cấu kinh tế chung của Thị xã (trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp chăn nuôi và

thủy sản 60%, trồng trọt 35%, lâm nghiệp và dịch vụ 5%). Giá trị sản xuất

nông- lâm nghiệp và thủy sản tăng bình quân 5%/ năm. Sản lượng lương thực

ổn định ở mức 12.000 tấn. Giá trị canh tác bình quân đạt 35 – 40 triệu

đồng/ha. Thu nhập bình quân ở nông thôn đạt 8-10 triệu đồng/người/năm [75; 2].

Trong đó, phấn đấu chuyển đổi diện tích lúa rộc trũng, chân đất sâu

sang mô hình nuôi cá, chăn nuôi thủy sản hoặc kết hợp với trồng cây ăn quả,

hoa, cây cảnh đạt 300 ha; chuyển đổi đất nông nghiệp đồi thấp gò cao và đất

lâm nghiệp sang mô hình vườn ruộng, vườn đồi và trang trại đạt 350ha.

Trong chăn nuôi tập trung phát triển đàn bò sinh sản, bò thịt, xây dựng

đàn bò sind cái nền có máu ngoại cao từ 1.000 – 1.500 con. Khuyến khích

phát triển chế biến tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi, hướng tới phát triển chăn

nuôi công nghiệp.

Thực hiện đưa giống mới vào sản xuất chăn nuôi thủy sản theo hướng

quy trình kỹ thuật đồng thời tạo nguồn nước tưới phục vụ sản xuất nông

nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất các trang trại, phấn đấu đến năm 2010 đạt

100 trang trại trong quy hoạch.

Đưa nông nghiệp đạt giá trị kinh tế cao, đời sống nông dân dần cải

thiện và thực hiện tốt có hiệu quả cao mục tiêu đề ra. Đại hội xây dựng các

giải pháp để phát triển:

- Tập trung xây dựng quy hoạch phát triển nông nghiệp giai đoạn 2006

– 2010, định hướng tới 2020; xây dựng đề án chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông

nghiệp của Thị xã và các xã, phường giai đoạn 2006 – 2010, định hướng đến

năm 2020. Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo về phát triển sản xuất nông

nghiệp, xây dựng nông thôn mới.

- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động, khuyến khích chuyển đổi,

chuyển nhượng dồn điền, đổi thửa. Thực hiện đa dạng hóa các hình thức góp

79

vốn, góp quyền sử dụng đất và thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng

đất cho kinh tế trang trại.

- Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp theo

hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên đất. Phát

triển đa dạng chuyển đổi phù hợp với điều kiện của mỗi địa phương. Đẩy

mạnh việc chuyển giao công nghệ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nhân rộng

các mô hình điểm. Chú trọng công tác thú y và bảo vệ trật tự, đầu tư phương

tiện kỹ thuật, củng cố mạng lưới tổ chức hoạt động, làm tốt công tác phòng

chống dịch bệnh, hạn chế tối đa các thiệt hại ảnh hưởng đến phát triển sản

xuất và sức khỏe con người.

- Nâng cao và mở rộng hoạt động dịch vụ các HTX nông nghiệp, xây

dựng mô hình HTX mới. Chú trọng phát triển ngành nghề trong nông thôn,

thực hiện chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp và phát triển nông thôn mới.

- Củng cố xây dựng hệ thống thủy lợi đảm bảo tưới tiêu hợp lý. Thực

hiện rà soát toàn bộ hệ thống công trình thủy lợi hiện có, phân loại công trình

và giá trị đầu tư để nâng cấp, sửa chữa, xây mới hoặc đề nghị Tỉnh đầu tư hỗ

trợ. Tiếp tục thực hiện công trình kiên cố hóa nông nghiệp và dân sinh. Xây

dựng các phương án, chủ động phòng chống lụt, bão, úng, chống hạn để giảm

thiểu tối đa các thiệt hại có thể xảy ra.

- Đẩy mạnh các công tác đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ phát

triển nông thôn. Trên cơ sở nguồn vốn thu được từ việc đấu giá và cấp quyền

sử dụng đất.

- Phát huy nguồn lực sẵn có, khuyến khích đầu tư vào sản xuất kinh

doanh chế biến sản phẩm nông nghiệp.

Ngày 15/09/2006, UBND Thị xã ban hành Kế hoạch số 34-KH/UBND

về “Thực hiện dồn điền đổi thửa gắn với chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật

nuôi” nhằm quản lý và khuyến khích các hộ gia đình, cá nhân tích tụ ruộng

đất, phát triển sản xuất nông nghiệp tập trung theo hướng hàng hóa, quy mô

80

trang trại. Năm 2007 giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 126 tỷ đồng, tốc độ tăng

trưởng đạt 42 triệu đồng/ha. Cơ cấu kinh tế trong nông thôn chuyển dịch theo

hướng tích cực, chăn nuôi thủy sản đạt 54%, giá trị sản xuất nông nghiệp với

149/168 triệu trại nuôi gà, lợn. Tổng số đàn trâu bò 11.285 con; đàn lợn

42.748 con; gia cầm 601.214 con. Sản lượng lương thực đạt 17.331 tấn. Bước

đầu đã hình thành một số vùng chuyên sản xuất rau màu, rau an toàn, cây

cảnh, vùng chăn nuôi quy mô lớn đáp ứng yêu cầu người tiêu dùng [76; 1].

Với lợi thế Sơn Tây là đô thị loại III, là cửa ngõ phía Tây của thủ đô Hà

Nội nơi có tiềm năng phát triển kinh tế xã hội, giao thương trao đổi với các

vùng khác trong nước, từ đó tạo cho Thị xã Sơn Tây những thuận lợi cũng

như thử thách để đưa kinh tế xã hội của Thị xã phát triển. Trước những thuận

lợi đó, thực hiện Nghị định số15-NĐ/QH ngày 01/08/2008 của Quốc hội về

việc điều chỉnh mở rộng địa giới hành chính thành phố Hà Nội thì Thị xã Sơn

Tây tái nhập lần 2 về với Thủ đô Hà Nội. Từ đó tạo ra cho Thị xã Sơn Tây

những lợi thể để phát triển trên toàn bộ các khu vực.

Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành TW Đảng khóa X đã ban hành Nghị

quyết số 26-NQ/TW ngày 05/08/2008 về “Nông nghiệp, nông dân, nông

thôn”. Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương

Đảng khóa X, Thành ủy Sơn Tây xây dựng Chương trình số 05-CTr/TU ngày

28/10/08 nhằm: Đảm bảo an ninh lương thực, an sinh nông dân, nông thôn.

Xây dựng ngành nông nghiệp thành phố theo hướng hiện đại hóa, gắn với đô

thị sinh thái, sản xuất hàng hóa, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả

năng canh tranh cao, hài hòa và bền vững với môi trường. Không ngừng nâng

cao đời sống vật chất văn hóa, tinh thần của nông dân, giảm dần sự cách biệt

về thu nhập giữa nông thôn và đô thị nông dân được đào tạo. Tiếp thu các tiến

bộ khoa học kỹ thuật sản xuất tiên tiến, có đủ bản lĩnh chính trị vững vàng

đóng vai trò làm chủ nông thôn mới. Xây dựng nông thôn thành phố có kết

cấu hạ tầng kinh tế xã hội đồng bộ, hiện đại, phát triển theo quy hoạch, gắn

81

kết hợp lý giữa nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ và đô thị. Xã hội nông

thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc, môi trường sinh thái được bảo vệ,

sức mạnh của hệ thống chính trị được nâng cao, đảm bảo giữ vững an ninh

chính trị và trật tự an toàn xã hội [76; 4].

Trong những năm qua (2006- 2008), thực hiện Nghị quyết Đại hội lần

thứ X của Đảng và Nghị quyết Đảng bộ Tỉnh lần XIV, Nghị quyết Đảng bộ

Thị xã lần XVIII nhằm đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn, Thị ủy

Sơn Tây đã ban hành nhiều chính sách, nghị quyết, chuyên đề về phát triển

kinh tế xã hội đặc biệt đã tập trung công tác chỉ đạo thực hiện sản xuất nông

nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, phát huy lợi thế đặc điểm đất đai, điều

kiện riêng của mỗi xã, phường.

Các vùng đồi gò phát triển các cây ăn quả, cây ăn màu và cây trồng

khác phù hợp. Vùng đồng trũng và các diện tích không thuận lợi hệ canh tác

định hướng chuyển đổi mô hình lúa, cá hoặc chuyển sang chuyển nôi trồng

thủy sản. Các trang trại chăn nuôi tập trung ở các xã vùng đồi gò có nhiều

diện tích đảm bảo cách xa khu dân cư.

Thị xã Sơn Tây được quy hoạch là một trong những đô thị vệ tinh của

Thủ đô Hà Nội nên tốc độ đô thị hóa nhanh diện tích đất sản xuất nông nghiệp

ngày càng thu hẹp và đẩy nhanh phát triển công nghiệp, du lịch, dịch vụ. Do

đó giá trị sản xuất ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản của Thị xã

giảm dần trong cơ cấu kinh tế chung của Thị xã. Năm 2006: 16% tới năm

2008: 13,5% trong đó tăng dần tỷ trọng ngành chăn nuôi, thủy sản.

Đa phần dân số trên địa bàn Thị xã sống bằng nghề nông, do đó hàng

năm Thị xã vẫn rất quan tâm đến phát triển sản xuất trồng trọt bằng việc đâu

tư hỗ trợ giống đảm bảo chất lượng cho nông dân, đầu tư kinh phí cho công

tác khuyến nông xây dựng mô hình khảo nghiệm, trình diễn những giống mới

có năng suất, chất lượng cao để bổ sung vào cơ cấu giống của Thị xã. Trong

đó cơ cấu giống lúa dần thay đổi theo hướng tăng diện tích gieo cấy giống lúa

82

chất lượng cao và lúa lai, giảm diện tích cây giống lúa Q5 và Khang dân 18.

Các giống cây rau màu chủ yếu phát triển các giống lai năng suất cao, các

giống cây ăn quả phát triển theo hướng tăng diện tích cây có giá trị cao như:

bưởi diễn, cam canh, nhãn lồng,… tuy nhiên do đặc thù sản xuất nông nghiệp

của Thị xã Sơn Tây manh mún có nhiều đồi gò xen kẽ nên khó phát triển

vũng sản xuất chuyên canh tập trung. Tới năm 2008, trên địa bàn Thị xã mới

hình thành vùng sản xuất rau an toàn (20ha) và hoa (3-5ha) ở xã Viên Sơn,

vùng sản xuất chè tại xã Kim Sơn (30ha).

Trong chăn nuôi, phát triển mới 94 trang trại (tính tới 2008) nâng tổng

số lên 168 trang trại với tổng diện tích 232 ha. Tổng đàn trâu bò 11.372 con,

đàn lợn 43.218 con, đàn gia cầm 702.164 con (tăng 55.617 %) [72; 3]. Tình

hình phát triển chăn nuôi trang trại tương đối ổn định, số lượng đàn từng thời

điểm phụ thuộc vào diễn biến thị trường và dịch bệnh. Các hộ gia đình dần có

ý thức chuyển từ chăn nuôi nhỏ lẻ sang chăn nuôi trang trại, theo hướng nuôi

công nghiệp và bán công nghiệp… nhằm nâng cao hiệu quả chăn nuôi. Các

trang trại chăn nuôi phát triển mạnh ở các xã có nhiều đồi gò, đất đai lâm

nghiệp: Sơn Đông, Cổ Đông, Kim Sơn do đó công tác phòng chống dịch bệnh

được thực hiện dễ dàng và hiệu quả.

Phát huy thành tựu các dự án trồng rừng trước đây, giai đoạn 2006 –

2010 UBND Thị xã đã chỉ đạo triển khai thực hiện kế hoạch trồng rừng, chăm

sóc, bảo vệ và thực hiện phòng cháy chữa cháy rừng trên địa bàn Thị xã. Hiện

nay “giao trồng mới 110 ha rừng, khoán bảo vệ, chăm sóc 346,2 ha rừng, tăng

cường công tác bảo vệ rừng và lâm sản [72; 3]. Nhìn chung diện tích rừng

sinh trưởng, phát triển tốt, đảm bảo độ che phủ và sinh khối khi thu hoạch.

Một phần diện tích rừng trồng ở đồi thấp được Thị xã xét duyệt cho phép thực

hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng sang trồng cây ăn quả và kết hợp phát triển

chăn nuôi trang trại cho hiệu quả kinh tế cao. Diện tích rừng trồng trong các

83

đơn vị quân đội được chăm sóc và bảo vệ tốt đã đảm bảo môi trường, che phủ

và phục vụ tốt cho công tác huấn luyện bộ đội.

Nửa nhiệm kỳ qua (2006- 2008) chính quyền và nhân dân Thị xã Sơn

Tây đã có nhiều cố gắng, nỗ lực phấn đấu, khắc phục những khó khăn, cơ bản

hoàn thành các chỉ tiêu trên các lĩnh vực công tác. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn

tồn tại một số hạn chế yếu kém: việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp

còn chậm, chất lượng sản phẩm hàng hóa nông nghiệp chưa cao, giá trị còn

thấp, chưa xây dựng được những vùng chuyên canh sản xuất tập trung, hoạt

động của các HTX nông nghiệp còn yếu, chưa đáp ứng được nhu cầu dịch vụ

sản xuất của nông dân. Để thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc

lần thứ X, Nghị quyết Đại hội Đại biểu Tỉnh khóa XIV, các Nghị quyết của

Đảng bộ Thành phố Hà Nội mới và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố

lần thứ XVIII, các phòng ban của Thành phố Sơn Tây lãnh đạo, chỉ đạo phát

triển kinh tế xã hội, đặc biệt trong nông nghiệp: “phấn đấu đạt giá trị sản xuất

nông- lâm nghiệp thủy sản tăng 6%. Đưa các giống lúa, màu mới vào sản

xuất, thực hiện kế hoạch dồn điền đổi thửa, gắn với chuyển dịch cơ cấu cây

trồng, vật nuôi; mở rộng cánh đồng đạt giá trị kinh tế cao, diện tích sản xuất

rau an toàn; chỉ đạo chuyển mạnh sang sản xuất các ngành nghề, chế tác sinh

vật cảnh; đưa các giống mới có giá trị kinh tế cao vào chăn nuôi, triển khai

các mô hình thâm canh nuôi trồng thủy sản. Nâng cao hiệu quả hoạt động của

các HTX nông nghiệp và HTX chăn nuôi” [72; 19].

* Phát triển cơ sở hạ tầng- kỹ thuật, thực hiện chính sách xã hội trong

nông nghiệp.

Việc đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng phòng chống thiên tai và thích ứng

với biến đổi khí hậu đã được Thị xã đầu tư, xây dựng. Trong 5 năm (2001-

2005), đã đầu tư xây mới và nâng cấp 39 công trình thủy lợi với tổng số vốn

đầu từ 283,884 tỷ đồng. Đến nay, hệ thống thủy lợi cơ bản đã đảm bảo việc

tưới tiêu trong nông nghiệp; xây dựng nâng cấp hệ thống đường giao thông

84

của Thị xã, đường giao thông ngõ, xóm và đường nội đồng đảm bảo đi lại

thuận tiện…

Do đặc điểm đất đai nên việc áp dụng cơ giới hóa trong sản xuất nông

nghiệp trên địa bàn Thị xã còn hạn chế, chỉ có một số loại máy được áp dụng

trong từng khâu của sản xuất nông nghiệp như: máy làm đất, máy bơm nước,

máy phụt lúa… Tỷ lệ cơ giới hóa các khâu công việc trong sản xuất nông

nghiệp: làm đất 70%, tưới nước 76%; thu hoạch 40%; vận chuyển 20%, gieo

trồng, bón phân, làm cỏ, phun thuốc 0%. Thị xã đã và đang xây dựng sản xuất

rau an toàn tập trung diện tích 20 ha tại Viên Sơn, nhưng chưa xây dựng được

vùng sản xuất nông nghiệp công nghệ cao.

Nhận thức được mạng lưới giao thông nông thôn là một phần không

nhỏ trong mạng lưới giao thông vận tải của Thị xã, có vai trò thúc đẩy sự phát

triển kinh tế xã hội của các xã, phường và của toàn Thị xã nên Đảng bộ đã tập

trung chỉ đạo việc nâng cấp, cải tạo hệ thống giao thông nông thôn trên địa

bàn Thị xã. Trong 5 năm, UBND Thị xã đã chỉ đạo việc nâng cấp, cải tạo hệ

thống giao thông nông thôn trên địa bàn Thị xã được 107,91/198,98 km(trong

đó có: 20,55 km đường bê tông nhựa; 72,560 km đường bê tông xi măng;

14,8 km đường gạch).

Ngày 20/12/2006, HĐND Thị xã Sơn Tây khóa 17 đã ban hành Nghị

quyết số 24/2006/ NQ- HĐND 17 về “Nâng cấp, cải tạo, xây dựng hệ thống

giao thông nông thôn đến hết năm 2010” với mục tiêu phấn đấu là “toàn bộ

hệ thống đường giao thông nông thôn của Thị xã được cứng hóa 100%”; đề

án giao thông nông thôn được xây dựng và triển khai tới 6 xã và 3 phường

(năm 2008) đều đạt kết quả tốt 21 km được nâng cấp, cải tạo với số vốn đầu tư

23.986 tỷ đồng (trong đó Tỉnh, Thành phố hỗ trợ 4 tỷ; của Thị xã là 2 tỷ [94; 2].

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu Thị xã lần XVIII, nhiệm kỳ

(2006- 2010), Ban Thường vụ Thị ủy cùng các ban ngành lãnh đạo, chỉ đạo

xây dựng và triển khai các phương án phòng chống lụt, bão, úng và tìm kiếm

85

cứu hộ, cứu nạn. Đã tổ chức di dời 19/22 hộ dân phường Phú Thịnh vùng sạt

lở ven sông Hồng vào nơi tái định cư. Kiên cố hóa 2.503 m kênh mương, xây

dựng nâng cấp 4 trạm bơm nước, cứng hóa 3,4 km mặt đê Hữu Hồng, nâng

cấp tràn xả lũ hồ Đồng Mô [72; 4].

Trong 3 năm (2006- 2008), tổng số vốn đầu tư trên địa bàn Thị xã

1.286,89 tỷ đồng, Đảng bộ đã triển khai xây dựng 142 công trình, hoàn thành

đưa vào sử dụng 128 công trình, 13 công trình đang tiếp tục thi công với tổng

giá trị đầu tư 235,411 tỷ đồng.

Bên cạnh đó, Thị xã mở rộng hoạt động kinh doanh thu hút nguồn vốn

đầu tư và phát huy lợi thế của Thị xã, đã khuyến khích các thành phần kinh tế

đầu tư vào địa bàn, có thêm 39 dự án đã được duyệt thuê đất, nâng tổng số lên

76 dự án, với diện tích 280,7 ha, tổng số vốn đăng ký đầu tư 481,48 tỷ đồng,

thu hút gần 4000 lao động ở địa phương. Từ đó giải quyết việc làm và nâng

cao đời sống người lao động, xóa đói cho 1.970 hộ (giảm bình quân

2,87%/năm) [72; 2].

Trong giai đoạn 2001- 2007, công tác chuyển giao đưa tiến bộ kỹ thuật

vào sản xuất được trú trọng tăng cường:

Chuyển đổi cơ cấu mùa vụ và tăng vụ đối với sản xuất lúa: ở 2 vụ sản

xuất lúa đều có sự chuyển biến rõ rệt về lịch thời vụ. Vụ xuân giảm diện tích

giống lúa dài ngày từ 28,9% (2001) xuống còn 20%(2007). Vụ mùa tập trung

gieo cấy sớm để lúa trỗ bông đúng khung thời vụ tốt nhất, đảm bảo diện tích

đất cho sản xuất vụ đông. Các chương trình khuyến nông, ứng dụng khoa học

kỹ thuật đưa vào sản xuất có hiệu quả như: chương trình giống lúa nhân dân

đạt trên 40ha/năm, chương trình thực hiện cấp 1 hóa giống luấ đạt trên 90%

diện tích, chướng trình phát triển diện tích lúa gieo thẳng….

Về giống: đối với cây lạc, đậu tương: đã đưa giống mới có năng suất,

chất lượng cao vào sản xuất như: Giống lạc MD7, LVT, giống đậu tương

AK06, VX9. Đối với cây lạc đã có bước tiến rõ rệt về cải tạo giống và trình

86

độ sản xuất thâm canh, nổi bật là việc trồng cây lạc vụ đông có che phủ nilon

(lạc trái vụ) đem lại hiệu quả kinh tế cao. Đã mở ra một hướng mới cho phát

triển diện tích cây lạc.

Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho công tác khảo nghiệm và

ứng dụng các giống cây trồng năng suất, chất lượng cao để đưa vào sản xuất

đại trà trên địa bàn huyện.

* Thu hút các thành phần kinh tế tham gia vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp

Chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi đem lại hiệu quả cao trong kinh

tế nông nghiệp, nâng cáo giá trị nền kinh tế, trong đó, phong trào xây dựng

trang trại trong những năm qua đã có bước phát triển mạnh mẽ, chủ yếu tập

trung tại các xã có điều kiện diện tích đất đai rộng. Vốn và thị trường tiêu thụ

cũng là những nhân tố hạn chế đáng kể đến việc hình thành và phát triển trang

trại trên địa bàn Thị xã. Từ năm 2000- nay, do kết quả của công cuộc dồn

điền đổi thửa và thực hiện Nghị quyết số 16- NQ/TU của Ban Chấp hành

Đảng bộ Thị xã về “Chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp (2001- 2005)”

nên các xã gò đồi cũng đã hình thành một số trang trại, chủ yếu là chăn nuôi,

tổng hợp (trồng trọt cây lâu năm+ cây rừng+ chăn nuôi). Năm 2007, toàn Thị

xã có 75 trang trại, cụ thể có 57 trang trại chăn nuôi chiếm 76,3% số trang trại.

Quan hệ hợp tác phát triển kinh tế trong nông thôn ngày càng được mở

rộng. Phát triển chăn nuôi theo hướng công nghiệp hiện đang có tiền đề vững

chắc bằng các mô hình liên doanh với các công ty cổ phẩn Group Thái Lan,

Jafa Indonexia. Các HTX dịch vụ nông nghiệp vẫn tiếp tục duy trì, đảm bảo

phục vụ sản xuất nông nghiệp. Các loại hình dịch vụ về xây dựng, vận tải,

thương mại….phát triển đã góp phần thúc đẩy và tạo điều kiện cho các hoạt

động kinh tế khu vực nông thôn.

Các trang trại hoạt động tổ chức sản xuất theo hình thức sản xuất tiên

tiến, phát triển quy mô lớn cho hiệu quả kinh tế cao như: mô hình chăn nuôi

gà, lợn công nghiệp cho hiệu quả kinh tế rất cao.

87

Bên cạnh đó còn có các trung tâm nghiên cứu trong vùng như: trung

tâm Dê và Thỏ Sơn Tây, trung tâm nghiên cứu bò và đồng cỏ Ba Vì…rồi các

mô hình tư nhân, hợp tác như thành lập Câu lạc bộ ở Cổ Đông, HTX chăn

nuôi ở Xuân Khanh. Vấn đề còn lại là phát triển chăn nuôi công nghiệp nhưng

phải đúng quy hoạch, đưa chăn nuôi ra xa khu dân cư, tích cực áp dụng quy

trình kỹ thuật tiên tiến, chọn lọc con giống có chất lượng, giải quyết khâu tiêu

thụ, chế biến thì phát triển mới bền vững và hiệu quả cao.

Đối với trồng trọt, Thị xã Sơn Tây có tiềm năng rất lớn và có hiệu quả

kinh tế cao là mô hình: sản xuất rau an toàn tại Viên Sơn, mô hình chuyên

canh hoa- cây cảnh tại Viên Sơn, Trung Hung, Trung Sơn Trầm; chăn nuôi

lợn quy mô trang trại vừa và nhỏ tại xã Cổ Đông, kinh tế VAC… Nổi bật là

mô hình trồng cây cảnh ở Viên Sơn và Trung Sơn Trầm cần được nhân rộng

và tiến tới chiều sâu để sản xuất cây giống, cây hàng hóa, cây nghệ thuật có

giá trị cao. Ở Viên Sơn với diện tích hơn 6 ha, trong đó có một số áp dụng các

mô hình mới như trồng đào, quất cảnh. Mô hình rau sạch cũng đang được ứng dụng ở Viên Sơn với 1 nhà lười 200m2 , 1 cửa hàng bán rau sạch được khai

trương ở Trung tâm Thị xã.

Hệ thống chợ trên địa bàn Thị xã hiện có: trung tâm Chợ Nghệ Sơn Tây

đến nay đã có 939 hộ bán buôn, bán lẻ, là cầu nối tới các chợ, các hộ bán lẻ

tại các nhà ở các xã, phường và vươn tới các huyện, tỉnh liền kề. Bên cạnh đó,

có 10 chợ cấp III và một số chợ tạm ở các xã, phường cũng góp phần phục vụ

nhu cầu của nhân dân trên địa bàn. Nhìn chung, hệ thống chợ của Thị xã là

nơi tiêu thụ phần lớn sản phẩm nông nghiệp của Thị xã như: rau sạch, thịt, cá

các loại.

Hoạt động của các HTX nông nghiệp trên địa bàn Thị xã hiện nay chủ

yếu mới làm khâu đầu vào cho sản xuất, còn đầu ra cho sản phẩm hầu như

chưa được thực hiện. Năm 2008, phối hợp với Viện Bảo vệ thực vật triển khai

đưa giống lạc mới kháng bệnh héo xanh TK10, MD7 vào sản xuất tại xã Sơn

88

Đông, Thanh Mỹ, trong đó Viện ứng giống cho các hộ đến khi thu hoạch sẽ

trả bằng lạc củ quy đổi và có thu mua giống cho các hộ.

Đẩy mạnh hoạt động của các HTX chăn nuôi dịch vụ Cổ Đông, tạo sự

liên kết phát triển giữa các hộ chăn nuôi trang trại. Đổi mới, phát triển HTX,

tổ hợp tác phù hợp với nguyên tắc tổ chức của HTX và cơ chế thị trường.

Toàn Thị xã có 18 HTX dịch vụ nông nghiệp.

Thị xã đã triển khai một số chính sách khuyến khích phát triển ngành

nghề, làng nghề nông thôn (hiện nay có 2 làng nghề), chính sách đầu tư cơ sở

hạ tầng và xử lý môi trường ở các làng nghề, cụm công nghiệp, chính sách về

khuyến nông, khuyến ngư và đào tạo nghề nông thôn để tạo môi trường phát

triển các loại hình doanh nghiệp nông thôn; hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp

tham gia Hội chợ triển lãm hàng thủ công mỹ nghệ, hàng năm hỗ trợ trên 300

triệu cho công tác khuyến công, dạy nghề, đào tạo lao động trong đó có các

doanh nghiệp nông thôn.

* Phát triển nông nghiệp theo hướng mô hình sản xuất tập trung

Là trung tâm kinh tế, văn hóa xã hội khu vực phía Bắc tỉnh, Sơn Tây có

nhiều tiềm năng vươn lên phát triển là một thành phố du lịch, công nghiệp.

Tuy nhiên, để tạo điều kiện tiền đề cho sự phát triển đó thì nông nghiệp của

Thị xã Sơn Tây phải hướng tới nền sản xuất hàng hóa, hiệu quả, bền vững

Sản xuất nông nghiệp đã có bước tăng trưởng cao đạt 5%/năm. Sản

xuất trồng trọt đã bắt đầu phá bỏ thế độc canh cây lúa, diện tích cây trồng có

giá trị tăng lên. Thu nhập từ nông nghiệp đã có tính đa dạng hóa, bước đầu

thực hiện sản xuất hàng hóa.

Sơn Tây có truyền thống sản xuất nông nghiệp lâu đời với trên 2700 ha

đất canh tác nhưng đây lại lại vùng bán sơn địa, đồi gò xen kẽ đồng trũng ven

sông, đất đai sỏi đá nhiều, diện tích đất canh tác thu hẹp. Do vậy, để phát triển

thành phố du lịch, dịch vụ, thương mại thì nông nghiệp của Sơn Tây cũng

phải có bước chuyển mình phù hợp với quá trình đi lên, vừa tạo chuyển biến

89

trong cơ cấu ngành nông nghiệp, vừa tạo thuận lợi cho quy hoạch quỹ đất

phát triển du lịch, công nghiệp....

Đáp ứng nhu cầu phát triển, Thành phố đã hoàn thành quy hoạch

chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi đến năm 2010 và định hướng đến năm

2020 vừa tạo điều kiện cho nhân dân yên tâm đầu tư phát triển sản xuất vừa

tạo điều kiện cho việc quy hoạch xây dựng các khu đô thị, dịch vụ, công

nghiệp... Năm 2007, toàn Thành phố đã có 20 dự án phát triển vùng chăn nuôi

tập trung hoặc trồng hoa, cây cảnh được phê duyệt trên diện tích hàng chục

ha. Ngoài ra, Thành phố Sơn Tây cũng triển khai nhiều mô hình cây trồng

mới, trong đó có gần 40 ha trồng cây bưởi Diễn trên diện tích đồi gò phát

triển xanh tốt...

Từ năm 2001 -2008, Thành phố đã chuyển đổi được gần 500 ha kém

hiệu quả sang phát triển các mô hình cây, con hiệu quả cao. Bên cạnh đó, diện

tích cây rau màu phát triển mạnh với trên 1.600 ha cây rau màu các loại khắp

các vùng đồi gò, ven sông Tích hay ven sông Hồng cho thu nhập cao. Trong

đó cây rau và cây lạc cho thu nhập cao, chiếm trên 70% diện tích. Điển hình

trong phát triển cây rau màu là xã Viên Sơn với gần 50ha rau mỗi năm, trong

đó có 15 ha chuyên rau cho thu nhập cao hơn cấy lúa, trồng ngô 3 - 4 lần. Đặc

biệt, Viên Sơn còn là xã đầu tiên xây dựng thành công mô hình rau an toàn

với diện tích gần 10ha đáp ứng được nhu cầu thị trường đô thị. Bên cạnh vùng

rau màu, các vườn bưởi, cam, vải, nhãn cũng được nhân rộng với trên 170 ha

(gồm cả diện tích gắn với công tác trồng rừng)... Các mô hình kinh tế trang

trại, vườn trại cũng từng bước phát triển khẳng định hiệu quả cao; năm 2001

toàn Thành phố mới có 27 trang trại thì tới năm 2008 đã có trên 125 trang trại

các loại. Điều đáng mừng là ngoài những trang trại phát triển nhỏ lẻ thì trong

những năm qua số lượng trang trại chăn nuôi kết hợp với Công ty Cổ phần

Group và JAFA đã tạo nên những vùng trang trại số lượng lớn, có quy mô

chăn nuôi từ 5.000 -10.000 con gà, lợn/lứa cho thu nhập hàng trăm triệu đồng

90

mỗi năm, góp phần đưa giá trị chăn nuôi chiếm trên 52% cơ cấu nông

nghiệp...

Phát huy những kết quả đã đạt được, Thành phố Sơn Tây tiếp tục đẩy

mạnh các giải pháp, quy hoạch và khuyến khích các mô hình chuyển dịch cơ

cấu cây trồng, vật nuôi nhằm tạo vùng nông sản hàng hóa tập trung. Toàn

Thành phố phấn đấu mỗi năm chuyển dịch khoảng 700 – 800 ha, trong đó

phát triển diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản đến 2010 đạt 400 ha, giá trị

chăn nuôi chiếm 60% cơ cấu nông nghiệp; xây dựng những vùng trang trại,

vườn trại tập trung quy mô lớn... tạo vùng nông sản hàng hóa tập trung cung

cấp cho thị trường, nhằm góp phần tạo nên một bộ mặt, mới trong phát triển

nông nghiệp gắn với quá trình hình thành Thành phố du lịch, dịch vụ.

Tiểu kết chƣơng 2

Với những chủ trương và sự chỉ đạo tổ chức thực hiện phát triển kinh tế

nông nghiệp tích cực, đúng đắn trong giai đoạn 2001- 2008, kinh tế nông

nghiệp của Thị xã đã phát triển khá toàn diện, cơ sở hạ tầng phục vụ nông

nghiệp và phát triển nông thôn có nhiều đổi mới, đời sống nông dân được cải

thiện. Công tác chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, chuyển đổi cơ cấu kinh

tế nông nghiệp được đẩy mạnh, nhận thức của nông dân có nhiều đổi mới.

Các hộ nông dân từng bước tiếp cận với tiến bộ khoa học kỹ thuật và nền sản

xuất hàng hóa theo cơ chế thị trường.

Chương trình phát triển trồng rau sạch, chăn nuôi lợn, bò theo mô hình

trang trại đã tạo việc làm tại chỗ cho người nông dân, nâng cao chất lượng

cuộc sống và tinh thần của người dân. Nhiều hộ gia đình, nhiều trang trại tại

các xã Cổ Đông, Kim Sơn, Sơn Đông tạo điều kiện nâng cao kinh tế cho

người dân, người dân giàu và có thu nhập ổn định hàng năm.

91

Mô hình kinh tế trang trại, kinh tế VAC, phát triển hoa, cây cảnh đã đi

vào chiều sâu, từng bước hòa nhập vào nền kinh tế thị trường, góp phần đưa

kinh tế nông hộ lên một tầm cao mới.

Có được những thành tựu trên trước hết là nhờ có sự chỉ đạo sâu sắc

của Đảng bộ Thị xã Sơn Tây nắm bắt yêu cầu thực tiễn đề ra chủ trương phù

hợp với yêu cầu của tình hình sản xuất nông nghiệp góp phần đưa nông

nghiệp phát triển, tạo đà cho sự phát triển kinh tế xã hội của Thị xã Sơn Tây

nói chung.

92

CHƢƠNG 3

NHẬN XÉT CHUNG VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM CHỦ YẾU

3.1 Một số nhận xét

Trong những năm 1996 - 2008, Đảng bộ Thị xã Sơn Tây lần thứ XVI,

XVII, XVIII đã quán triệt, cụ thể hóa từng bước đường lối, chủ trương Trung

ương Đảng,Tỉnh ủy Hà Tây (Thành ủy Hà Nội), phù hợp với tình hình địa

phương, thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Từ đó, nhân dân Thị xã Sơn

Tây nói chung và nông dân Thị xã Sơn Tây nói riêng đã ra sức phấn đấu khắc

phục những khó khăn thử thách, phát huy ý chí tự lực tự cường trong quá trình

thực hiện đường lối của Đảng về phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Thị xã Sơn Tây nông nghiệp của Thị xã

gặt hái được nhiều thành quả quan trọng, góp phần đáng kể vào phát triển

kinh tế xã hội chung của Thị xã, sản xuất lương thực ổn định, sản xuất cây ăn

quả, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản tăng nhanh đã góp phần tích cực để thực

hiện mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất

hàng hóa, hiệu quả và bền vững. Từ một vùng chỉ độc canh cây lúa là chính

sau một thời gian đã chuyển dịch sang đa dạng hóa cây trồng trong sản xuất

nông nghiệp.

Kết quả nổi bật của nông nghiệp Thị xã Sơn Tây là phát triển toàn diện

cả trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản và lâm nghiệp:

3.1.1 Thành tựu

3.1.1.1. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp có bước chuyển dịch tích cực theo

hướng tăng dần tỷ trọng chăn nuôi thủy sản, nâng cao thu nhập trên 1 đơn vị

diện tích.

Cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế, nền nông nghiệp của Thị

xã Sơn Tây đã có sự chuyển đổi toàn diện, toàn bộ, sâu sắc, ngày càng phát

huy được những lợi thế của vùng và ngày càng hòa nhập, gắn kết với các

thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Cơ

93

cấu sản phẩm nông nghiệp đã có sự thay đổi cơ bản so với sản phẩm của nền

nông nghiệp truyền thống trước đây, từ một nền nông nghiệp lạc hậu lại

quảng canh trên vùng đất đồi gò, tự cấp, tự túc lương thực tới nay nền nông

nghiệp của Thị xã đã phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung, bền

vững. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp chuyển dịch nhanh theo hướng tăng tỷ

trọng công nghiệp, dịch vụ và giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp. Năm

2002: Tỷ trọng trong nông nghiệp 23,8% tới năm 2008: Tỷ trọng nông nghiệp

13,5% (trong đó, tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản xuất chăn nuôi thủy sản: 54%

giá trị sản xuất nông nghiệp).

Tổng diện tích gieo trồng năm 2008: 6.437ha (đạt 105,4% kế hoạch

năm) tăng 4,1% so với cùng kỳ. Trong đó diện tích cây màu và rau các loại:

2.995ha, diện tích sản xuất vụ đông: 1.099ha đạt 91,5% kế hoạch. Diện tích

lúa: 3.442ha giảm 1,9% so với cùng kỳ; tổng sản lượng lương thực năm 2008:

17,210 tấn, bằng 114,7% so với mục tiêu đại hội. Tốc độ tăng trưởng bình

quân giai đoạn (1996 – 2008) là 5,2%/năm. Năng suất bình quân 53 tạ/ha, giá

trị trên 1 ha canh tác là 42 triệu đồng.

Trong cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp:

Sản xuất nông nghiệp Thị xã tuy chỉ đóng góp tỷ trọng nhỏ trong cơ

cấu kinh tế chung nhưng là nguồn thu chủ yếu của hơn 60% dân số khu vực

nông thôn hiện nay. Giá trị thu nhập của nông nghiệp năm 2007: 163 tỷ đồng. Đối

với toàn ngành nông - lâm nghiệp thì ngành sản xuất nông nghiệp chiếm 95,4%.

Chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp trong thời gian qua đã

có sự chuyển biến tích cực, tỷ trọng ngành trồng trọt có xu hướng giảm nhanh

66,46% (2004) xuống còn 49% (2007). Sản xuất chăn nuôi đang có xu

hướng phát triển và thực sự đóng góp cho sự phát triển của nông nghiệp Thị xã.

Do địa hình đồi gò nên khó khăn trong việc phát triển vùng chuyên

canh tập trung. Hiện nay, Thị xã mới hình thành vùng sản xuất rau an toàn và

hoa ở phường Viên Sơn, cây cảnh ở Trung Sơn Trầm. Trong phát triển trồng

94

trọt quan tâm việc đầu tư hỗ trợ giống, công tác khuyến nông, cơ cấu giống

lúa dần thay đổi theo hướng tăng diện tích gieo cấy giống lúa chất lượng cao

và lúa lai, giảm giống Q5 và Khang dân. Các giống cây rau, màu chủ yếu phát

triển giống lai cho năng suất và hiệu quả cao. Các giống cây ăn quả phát triển

theo hướng tăng diện tích cây có giá trị cao như bưởi diễn, cam canh….

Cơ cấu sản xuất nông nghiệp từng bước có sự chuyển dịch theo hướng

sản xuất hàng hóa, hình thành một số vùng sản xuất tập trung: vùng lạc và đậu

tương giống cao sản: 100ha; mô hình cánh đồng giá trị trên 50 triệu đồng/ha

đạt 150ha; mô hình chuyên trồng rau, rau an toàn và cây thương phẩm 100ha.

Các sản phẩm trồng trọt đa dạng, phương pháp, cơ cấu sản phẩm trồng trọt

đang chuyển dịch tích cực theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung và khai

thác ưu điểm thế mạnh của vùng.

Cánh đồng 50 triệu: Thực hiện Nghị quyết của Thị xã về xây dựng

cánh đồng 50 triệu. Thị xã Sơn Tây đã triển khai và kết quả đạt 37,5 ha ở

Đường Lâm, Xuân Sơn, Trung Hưng, Thanh Mỹ, Sơn Đông. Hiệu quả kinh tế

đạt 50 – 70 triệu/ha/năm. Giá trị trên 1 đơn vị canh tác tăng lên từng năm và

đạt 25 triệu/ha/năm (2000) - 42 triệu/ha/năm (2008).

Lâm nghiệp: Phát huy kết quả đạt được từ các dự án trồng rừng trước

đây. UBND Thị xã đã chỉ đạo các phòng ban chuyên môn, UBND xã,

phường, các chủ rừng triển khai thực hiện kế hoạch trồng, bảo vệ và chăm sóc

rừng trên địa bàn toàn Thị xã. Năm 2005 chăm sóc 160 ha rừng tập trung,

trồng 35.000 cây phân tán, bằng 100% kế hoạch giao. Năm 2008 trồng mới

110 ha rừng, khoán, chăm sóc và bảo vệ 346,2 ha rừng.

Diện tích rừng sinh trưởng phát triển tốt đảm bảo độ che phủ và sinh

khối khi thu hoạch. Hàng năm Thị xã tổ chức và phát động Tết trồng cây

trong nhân dân, trung bình mỗi năm trồng 4,5 vạn cây phân tán.

95

Chăn nuôi, Thủy sản:

Từ năm 1996 – 2008 chăn nuôi thủy sản có bước phát triển mạnh mẽ

với tốc độ phát triển cao, công tác phòng dịch bệnh được triển khai. Năm

2001 tỷ trọng chăn nuôi thủy sản đạt 49% giá trị sản xuất nông nghiệp thì tới

năm 2008 đạt 54% giá trị sản xuất nông nghiệp. Chăn nuôi thủy sản phát triển

theo hướng sản xuất con giống, kết hợp chăn nuôi thương phẩm, trong đó đặc

biệt là chăn nuôi lợn theo hướng nạc hóa, bò lai sind, bò thịt, thủy sản … cho

năng suất, hiệu quả cao. Năm 2000: Tổng đàn trâu bò: 9.533 con (trong đó

đàn bò: 5.628 con và 80% được sind hóa); đàn lợn: 25.300 con; gia cầm:

320.000 con. Năm 2008: Tổng đàn trâu bò: 11.378 con; đàn lợn: 43.218 con;

gia cầm: 702.164 con

Chăn nuôi chủ yếu theo phương thức hộ gia đình đơn lẻ ở các xã Cổ

Đông, Sơn Đông, Kim Sơn, Viên Sơn, Trung Sơn Trầm … Các hộ gia đình

dần có ý thức chuyển từ chăn nuôi nhỏ lẻ sang chăn nuôi trang trại theo

hướng nuôi công nghiệp, bán công nghiệp….nhằm nâng cao hiệu quả chăn

nuôi. Một số trang trại chăn nuôi điển hình như các xã Sơn Đông, Kim Sơn,

Cổ Đông do điều kiện địa hình các xã có nhiều đồi gò, đất lâm nghiệp.

Vấn đề con giống luôn được quan tâm hàng đầu. Thị xã có các trung

tâm nghiên cứu phát triển như: Trung tâm nghiên cứu bò và đồng cỏ Ba Vì,

Trung tâm nghiên cứu dê và thỏ, các trung tâm nghiên cứu măng, dứa Suối

Hai, gà lơ-go, đà điểu… Các HTX chăn nuôi như Cổ Đông tập trung 300

trang trại chăn nuôi cung cấp nguồn giống và thức ăn cho thị trường trong Thị

xã và xuất khẩu ra thị trường lân cận. Bên cạnh đó, còn mở rộng liên doanh,

liên kết với các công ty như công ty Group Thái Lan, JAFA Indonexia… cung

cấp giống và chăn nuôi tập trung.

Hình thức chăn nuôi phổ biến trong kinh tế nông nghiệp là: trang trại-

đó là sự hoạt động trên sự liên kết rất chặt chẽ với các nông hộ, các trang trại

tại các làng nông nghiệp truyền thống xung quanh. Từ đó hỗ trợ về cách thức

sản xuất, tiến bộ mới về giống, thức ăn, chuồng trại, chế biến, tìm thị trường

96

tiêu thụ với thương hiệu sản phẩm được các hộ chăn nuôi áp dụng để đem lại

hiệu quả kinh tế cao trong chăn nuôi. Số lượng các trang trại ngày càng phát

triền, có 83 trang trại (2000)- 168 trang trại với diện tích 232 ha (2008).

Chăn nuôi phát triển đã tạo thêm việc làm, nâng cao thu nhập cho nông

dân, cung cấp sức kéo và phân bón cho trồng trọt, thúc đẩy sản xuất hoa màu

để chế biến thức ăn cho chăn nuôi, chế biến nông sản. Các tiến bộ về giống,

thức ăn, thuốc thú y phát triển mạnh mẽ điển hình như ở xã Cổ Đông đa số

các hộ nông dân đều có từ 2 – 3 mô hình lợn, gà và cá. Doanh thu đạt khá như

năm 2007 tổng doanh thu của HTX: 35 tỷ đồng (Bình quân 294 triệu đồng/xã viên).

Nuôi trồng thủy sản có bước tăng trưởng khá với chủ trương chuyển

đổi đồng trũng cấy lúa kém hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản. Thực hiện cải

tạo 40 – 60 ha ao, hồ cũ và diện tích chuyển đổi sang nuôi cá kết hợp từ 200 –

300 ha. Năm 2007 tổng diện tích nuôi thả thủy sản là 235,1ha (chuyên nuôi

thủy sản: 164,8ha; nuôi kết hợp: 70,3ha); diện tích ao hồ được cải tạo nâng

cấp: 32 ha, chuyển đổi chân ruộng trũng: 38,2ha.

Bên cạnh đó, diện tích một số hồ chuyên dùng cũng được khai thác để

nuôi trồng thủy sản kết hợp diện tích sinh thái. Hồ Xuân Khanh, hồ Đồng Mô

(xã Kim Sơn, Sơn Đông, Cổ Đông) …. Đã đưa diện tích nuôi trồng thủy sản

toàn thành phố năm 2007: đạt 597ha; sản lượng đạt 450,6 tấn thủy sản các

loại. Trong đó, cá là loại con nuôi chiếm tỷ trọng chủ yếu. Năng suất nuôi thả

đạt 2 -2,5 tấn/ ha. Nhiều hộ đã thâm canh các giống cá cao sản để thử nghiệm

như: cá chim trắng, cá rô phi đơn tính với nguồn giống được cung cấp từ các

chương trình khuyến nông có kết quả tốt. Tuy nhiên, diện tích chuyển đổi còn

ít, nặng về quảng canh, nuôi thả tự nhiên, mức đầu tư thấp.

3.1.1.2 Xây dựng kết cấu hạ tầng ở nông thôn được quan tâm đầu tư và

phát triển

Với mục đích phục vụ cho phát triển kinh tế nông nghiệp và nâng cao

cải thiện đời sống người dân. Trong những năm 1996 – 2008, kết cấu hạ tầng

97

ở nông thôn Thị xã Sơn Tây luôn được Đảng bộ Thị xã và UBND Thị xã quan

tâm, đầu tư xây dựng và phát triển. Với quyết tâm tập trung mọi nguồn lực,

đẩy nhanh tốc độ phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH,

HĐH, đảm bảo cho sự phát triển toàn diện, bền vững, nâng cao từ tích lũy nội

bộ nền kinh tế, tạo chuyển biến mãnh mẽ hơn về văn hóa, xã hội, cải thiện đời

sống người nông dân … trong đó ưu tiên xây dựng kết cấu hạ tầng nề kinh tế

xã hội, đặc biệt là kết cấu hạ tầng cho phát triển nông nghiệp và kinh tế nông

thôn. Năm 2008 tổng vốn đầu tư trên địa bàn Thị xã: 1.256,89 tỷ (vốn ngân

sách Nhà nước: 273.647 tỷ; Thị xã và Tỉnh: 102.046 tỷ; Địa phương: 232.755

tỷ; nhân dân và doanh nghiệp nước ngoài: 1.013.243 tỷ).

Các cơ sở hạ tầng nông thôn được đầu tư, nâng cấp như: Hệ thống

đường liên xã, liên thôn, ngõ xóm có tổng chiều dài 198,98 k. Trong đó, đến

tháng 12/2007 đã có: 11,8km đường bê tông nhựa; 42,81km đường bê tông xi

măng;10,4 km đường gạch;133,969km đường đất, cấp phối; công trình cầu có

14 chiếc.

Cùng với mạng lưới đường bộ, công tác thủy lợi nội đồng cũng được

đẩy mạnh góp phần phục vụ cho sản xuất và dân sinh nông thôn của Thị xã

Sơn Tây. Từ 2001- 2008 toàn Thành phố đã thực hiện kiên cố hóa kênh

mương đạt 48,23km trong đó chủ yếu được thực hiện trong những năm 2001-

2005. Tính riêng năm 2007 kiên cố hóa kênh mương được 1,6 km. Việc kiên

cố hóa kênh mương trên toàn địa bàn Thị xã đã khắc phục tình trạng thiếu

nước tưới, hạn chế tối đa lãng phí nưới tưới và phát huy hết công suất của các

công trình thủy lợi.

Các công trình thủy lợi trên địa bàn Thị xã Sơn Tây gồm 2 hồ chứa lớn: + Hồ Đồng Mô: Diện tích lưu vực: 96km2, dung tích 84,5 triệu m3,

cung cấp nước tưới trên 5.300ha. Do nằm ở vị trí địa lý thuận lợi cùng ưu thế

về cảnh quan môi trường đã biến hồ Đồng Mô trở thành 1 trong những trung

tâm du lịch và giá trị lớn của Thị xã (của cả nước).

98

+ Hồ Xuân Khanh: diện tích lưu vực: 4,04km2, dung tích 6,12 triệu m3 nước trong đó dung tích hữu ích 5,62 triệu m3, cấp nước tưới gần 1.000ha đất

canh tác của các xã Cam Thượng, Đường Lâm, Trung Hưng, Thanh Mỹ,

Xuân Sơn và cho cụm công nghiệp Xuân Sơn.

Ngoài hồ chứa, trong vùng tưới tự chảy còn có nhiều đập dâng nhỏ

khác đảm bảo tưới chủ động cho hàng trăm ha đất nông nghiệp: Đập dâng Vai

Cời, Vai Quýt, Vai Danh, Vai Va, Vị Thủy, Vai Mun… và những công trình

thủy lợi nhỏ khác đảm bảo đủ nước tưới khoảng 604ha đất canh tác.

Trong những năm qua Thị xã đã đầu tư xây dựng trạm bơm tiêu Cầu

Cổng ở Cổ Đông (giá trị 3,3 tỷ đồng) công trình kiên cố hóa kênh mương đã

được triển khai, thực hiện tốt. Từ năm 2000 - 2006 kiên cố hóa 48,23km; xây

mới và sửa chữa 13 công trình tưới tiêu với tổng vốn đầu tư 9, 17 tỷ đồng.

Các công trình đầu tư đã phát huy hiệu quả, diện tích thường xuyên bị hạn

hán giảm từ 500 – 600ha (2002) xuống còn 200 – 300 ha (năm 2006); diện

tích thường xuyên bị úng giảm từ 300 – 400ha (năm 2000) xuống còn 200 –

250 (năm 2006).

Hệ thống điện:

Hệ thống cấp điện cho Thị xã tương đối hoàn chỉnh và phủ kín các xã

phường. Hệ thống điện được cung cấp bởi trạm biến áp 110 KV Sơn Tây với

3 trạm biến áp có công suất 96.000 KVA và nguồn điện tương đối ổn định.

Năm 2007 xây dựng thêm 16 trạm biến áp tại các xã, phường đáp ứng cho

sinh hoạt và sản xuất.

Y tế:

Hệ thống y tế trên địa bàn Thị xã cơ bản đáp ứng công tác chăm sóc

sức khỏe cho nhân dân địa phương. Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe, bảo vệ

sức khỏe nhân dân được quan tâm chỉ đạo. Chất lượng khám chữa bện ở các

cơ sở y tế được nâng cao do được đầu tư về trang thiết bị và nâng cao trình độ

chuyên môn của y, bác sĩ. Chỉ đạo kiện toàn đội ngũ cán bộ y tế từ các cơ sở.

99

Tới năm 2008 có 12/15 trạm y tế xã, phường có bác sĩ (đạt 80% kế hoạch),

6/15 xã phường đạt chuẩn quốc gia về y tế (đạt 40% kế hoạch). Thực hiện có

kết quả các chương trình, mục tiêu y tế quốc gia, vệ sinh an toàn thực phẩm

năm 2008 tổ chức kiểm tra 1.451 cở sở sản xuất, chế biến kinh doanh thực phẩm.

Văn hóa giáo dục:

Công tác giáo dục và đào tạo, công tác khuyến học, khuyến tài và xây

dựng xã hội học tập luôn được sự quan tâm của Đảng bộ cùng các cấp nhằm

tạo ra bước chuyển biến quan trọng trên lĩnh vực văn hóa giáo dục. Ổn định

quy mô trường và lớp học đáp ứng yêu cầu học tập, cơ sở vật chất, trường

học, lớp học đều tăng. Hàng năm có trên 3000 học sinh giỏi cấp cơ sở (20%),

1000 học sinh giỏi cấp phổ thông (7%), 500 học sinh giỏi cấp tình và quốc gia (3%).

Hoàn thành chương trình tiểu học đạt 99,8%; tốt nghiệp THCS:99%,

tốt nghiệp THPT: 90%; tỷ lệ học sinh đỗ đại học, cao đẳng hàng năm đạt

25%, THCN và dạy nghề 30%. Tổng số trường đạt chuẩn quốc gia trên địa

bàn Thị xã là 10 trường. Đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục được bổ

sung, bồi dưỡng nâng cao trình độ theo hướng đạt và vượt chuẩn quốc gia.

3.1.1.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp:

Phong trào chuyển đổi cơ cấu cây trồng, chăn nuôi thủy sản đang được

nông dân hưởng ứng mạnh mẽ đã tạo được nhiều mô hình sản xuất mới, cơ

cấu sản xuất mới cho thu nhập cao.

Tổng diện tích chuyển đổi ngày càng tăng. Năm 2008 đã quy hoạch

chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, cơ cấu cây trồng được 152 ha ( năm

2007: tổng diện tích chuyển đổi là 526,5ha trong đó chuyển đổi sang phát

triển trang trại: 495 ha; mô hình kinh tế khác: 31,3ha ).

Nhờ chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hóa, giá trị

sản lượng nông sản hàng hóa của Thị xã Sơn Tây đã tăng từ 60% (năm 2005)

lên 70% giai đoạn 2010 – 2020 đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường.

100

Chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hóa nâng cao

giá trị sản xuất trên 1 đơn vị sản phẩm đồng nghĩa với việc tạo thêm việc làm

có thu nhập khá và ổn định cho hàng nghìn lao động. Cứ 1ha lúa chuyển sang

trông rau nước sẽ cần 850 công lao động; chuyển sang trồng rau cạn cần thêm

2100 – 2200 công lao động; sang trồng hoa cần thêm 2200 – 3700.

Trình độ canh tác của người nông dân cũng được tăng lên qua quá trình

chuyển đổi cơ cấu cây trồng, từ lao động giản đơn trồng lúa sang những khâu

kỹ thuật phức tạp như chăm sóc rau sạch, hoa, cây cảnh. Cùng với đó là sự

nhanh nhạy linh hoạt trong phương thức tiếp cận thị trường cung ứng và tiêu

thụ của quá trình nông hộ sản xuất hàng hóa thay cho nếp làm ăn tự cấp tự túc

trước đây.

Nâng cao hiệu quả sản xuất thông qua chuyển đổi cơ cấu sản xuất giúp

thu nhập gia đình nông dân tăng thêm, mức sống người dân được cải thiện cả

về vật chất và tinh thần. Kinh tế nông nghiệp tiếp tục phát triển theo hướng sx

hàng hóa hiệu quả bền vững, góp phần ổn định và cải thiện đời sống nhân dân.

Về cơ cấu ngành nông nghiệp- công nghiệp- dịch vụ: Đảng bộ Thị xã

xác định cần đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế phát triển mạnh kinh tế

công nghiệp và dịch vụ, tăng giá trị sản xuất nông nghiệp trên đơn vị diện tích

canh tác, tạo bước phát triển cao, bền vững. Năm 2001 – 2008 cơ cấu kinh tế

chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm dần tỷ trọng trong sản xuất nông

nghiệp, tăng tỷ trọng trong sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Năm 2002: Công

nghiệp – xây dựng: 42,8%; Dịch vụ: 33,4%; Nông nghiệp: 23,8%. Năm 2008:

Công nghiệp – xây dựng: 47,5%; Thương mại dịch vụ: 39%; Nông nghiệp:

13,5%

Sự hình thành và phát triển làng nghề là điều kiện tạo sự gắn bó hữu cơ

với nông nghiệp và công nghiệp đồng thời góp phần thúc đẩy nhanh quá trình

phân công lao động xã hội và CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. Phát triển

101

làng nghề có vai trò và ý nghĩa to lớn đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu

kinh tế, tạo việc làm tăng thu nhập cho người lao động ở nông thôn.

Thị xã đã xây dựng được 2 làng nghề: Bánh tẻ (Phú Nhi) và thêu ren

(Ngọc Kiên). Nhiều ngành nghề được duy trì và phát triển: đồ gỗ, may mặc,

kẹo thủ công… từ đó góp thêm nhiều việc làm cho nông dân lúc nông nhàn.

Tới nay, Thị xã có hơn 50% làng và khu phố có nghề.

Ngoài ra còn nhân rộng, phát triển nghề chế tác sinh vật cảnh ở Viên

Sơn, Trung Sơn Trầm, làm kẹo Đông Sàng- Đường Lâm… Việc phát triển

làng nghề, làng có nghề của Thị xã gắn với phát triển du lịch sẽ tạo điều kiện

phát huy thế mạnh của Thị xã, tạo điều kiện phát triển kinh tế xã hội của Thị

xã nói chung và kinh tế nông nghiệp nói riêng.

Trên địa bàn Thị xã có nhiều điểm du lịch có tiềm năng phát triển gắn

với làng nghề: Làng cổ Đường Lâm, làng nghề bánh tẻ Phú Nhi, làng nghề

thêu ren Ngọc Kiên, chế tác sinh vật cảnh ở Viên Sơn, Trung Sơn Trầm, có

nhiều khu di tích, danh lam thắng cảnh. Đây là điều kiện để phát triển làng

nghề gắn với du lịch.

Việc tích cực chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp của Thị xã Sơn

Tây, chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi, chuyển dịch cơ cấu mùa vụ phù

hợp, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào phát triển sản xuất nông nghiệp,

công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ nên đã tạo ra sự phát triển về

kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng tăng tỷ trọng ngành công nghiệp-

dịch vụ, giảm dần tỷ trọng của ngành nông nghiệp để vừa tạo thêm thu nhập

cho người nông dân vừa giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao

động.

Thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo, Thị xã đầu tư nguồn vốn

hỗ trợ cho các hộ nghèo vay để phát triển kinh tế. Từ năm 2001 – 2005 có

2.400 hộ thoát nghèo; năm 2006 – 2008 xóa nghèo 1.970 hộ.

102

Nguyên nhân chính của những thành tựu trên:

Trong thời gian qua (1996 - 2008) nền kinh tế nông nghiệp của Thị xã

đạt được những thành tựu nhằm đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội của

Thị xã, nâng cao đời sống của người dân nguyên nhân là do sản xuất nông

nghiệp trong điều kiện thời tiết tương đối thuận lợi không gặp thiên tai lớn.

Đây là 1 yếu tố ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, do

đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đại biểu Thị xã

qua các kỳ Đại hội lần XVI, XVII, XVIII đề ra phù hợp với thực tiễn, yêu cầu

phát triển nông nghiệp nông thôn của Thị xã.

Đảng bộ Thị xã đã có những cơ chế, chính sách hợp lý, khuyến khích

đưa nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật, đặc biệt là tiến bộ giống vào sản xuất,

có cơ chế và chính sách hỗ trợ hợp lý phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ sản

xuất, nhất là thủy lợi; đồng thời từng bước đổi mới quan hệ sản xuất nhằm tạo

điều kiện phát triển nhanh lực lượng sản xuất, huy động các nguồn lực trong

đầu tư vào sản xuất nông nghiệp, phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ

thống chính trị ở các cấp, thực hiện tốt công tác phát triển nông nghiệp, xây

dựng kinh tế nông thôn, cải thiện đời sống nhân dân.

Vấn đề có ý nghĩa quyết định tạo bước phát triển kinh tế xã hội nói

chung và kinh tế nông nghiệp nói riêng là Đảng bộ Thị xã sớm xác định cơ

cấu kinh tế phù hợp với từng vùng, từng khu vực trong Thị xã. Cơ cấu kinh tế

nông nghiệp chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng chăn nuôi thủy sản,

nâng cao thu nhập trên đơn vị diện tích canh tác. Phát triển chăn nuôi trở

thành ngành sản xuất có tỷ trọng cao trong nông nghiệp, kinh tế nông nghiệp

chuyển từ nền nông nghiệp sản xuất tự cấp tự túc sang nền nông nghiệp sản

xuất hàng hóa tập trung, bền vững.

Trong ngành chăn nuôi, Đảng bộ Thị xã đã tập trung chỉ đạo, đổi mới,

nâng cao chất lượng, cung cấp giống vật nuôi nhằm nâng cao hiệu quả cho

người chăn nuôi. Thị xã xác định tập trung phát triển chăn nuôi toàn diện cả

103

gia súc, gia cầm, thủy sản theo mô hình trang trại nhỏ gắn với phát triển kinh

tế hộ gia đình, phục vụ nhu cầu thị trường khu vực và các vùng lân cận.

Những thành tựu trên cho thấy sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng bộ Thị

xã và là kết quả của tinh thần chủ động, sáng tạo, đoàn kết, cần cù lao động

của nhân dân Thị xã Sơn Tây dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Thị xã. Tư tưởng

chỉ đạo và các chủ trương, chính sách phát triển nông nghiệp của Đảng bộ Thị

xã đã đưa ra hoàn toàn đúng đắn và tiếp tục đề ra những chủ trương và chính

sách thích hợp hơn nữa để thúc đẩy công cuộc CNH, HĐH đi vào tầm rộng

hơn, sâu hơn ở thời kỳ tiếp theo.

3.1.2 Hạn chế

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong giai đoạn (1996 - 2008)

thì nền kinh tế nông nghiệp của Thị xã Sơn Tây còn những hạn chế, tồn tại,

thiếu sót:

Sự chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi diễn ra chậm: Chưa tạo được

vùng sản xuất hàng hóa tập trung với sản phẩm có giá trị cao. Hiệu quả sản

xuất nông nghiệp và giá trị thu được trên 1 diện tích chưa cao, diện tích

chuyển đổi còn nhỏ lẻ, đầu tư ít, kém bền vững, chất lượng nông sản thành

phẩm còn hạn chế nên giá trị hàng hóa thấp, sức cạnh tranh kém. Quy mô sản

xuất lẻ, phân tán, chưa xây dựng được vùng chuyên canh sản xuất hàng hóa

tập trung. Công nghiệp chế biến nông sản thành phẩm, công nghệ sau thu

hoạch, công nghệ sinh học… chậm phát triển chưa đủ tác động kích thích sản

xuất nông nghiệp hàng hóa phát triển.

Cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch chậm, chưa đồng đều và thiếu

vững chắc. Chất lượng tăng trưởng và hiệu quả sản xuất nông nghiệp chưa

cao, năng lực cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp, làng nghề còn thấp, hoạt

động của các HTX nông nghiệp còn hạn chế.

Đời sống vất chật, tinh thần của một bộ phần nông dân còn khó khăn,

hạ tầng xã hội về văn hóa, y tế, giáo dục… nông thôn còn thiếu thốn, hạ tầng

104

về giao thông, thủy lợi ở một số nơi đã xuống cấp chậm được đầu tư. Tỷ lê hộ

nông dân được dùng nước máy còn thấp, còn một số nơi nông dân còn phải sử

dụng nước giếng khơi, giếng khoan chưa được xử lý đảm bảo an toàn cho sức

khỏe. Sự cách biệt về thu nhập, hưởng thụ về văn hóa, y tế, giáo dục giữa

nông thôn và thành thị vẫn còn, tỷ lệ hộ nghèo cao.

Công tác tuyên truyền còn hạn chế: Có một số xã phường nhận thức

của một số cán bộ chủ chốt về công tác chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông

nghiệp còn chưa đầy đủ, chưa gương mẫu. Các đối tượng thực hiện là Đảng

viên, Đoàn viên, Hội viên, Xã viên chưa được tuyên truyền sâu rộng, chưa

thực sự vận động để chuyển đổi.

Thời gian thực hiện chu trình sản xuất từ công tác lãnh đạo, chỉ đạo đến

tổ chức thực hiện thành công còn dài chưa theo kịp nền kinh tế thị trường.

Nhiều nông hộ chưa đủ vốn và vay vốn để tham gia vào chương trình bò sữa,

cải tạo ao, đắp bờ, đào ao chuyển đổi kinh tế nên còn nhiều chương trình thu

được kết quả thấp.

Kết cấu hạ tầng ở nông thôn tuy đã được quan tâm đầu tư nhưng so với

yêu cầu CNH, HĐH nhà nước nông thôn thì vẫn còn yếu kém: Trình độ cơ

giới hóa, điện khí hóa còn thấp. Công nghệ tự động hóa, công nghệ vật liệu

mới chưa được quan tâm đầu tư đúng mức, mức độ sử dụng điện trong sinh

hoạt và các ngành sản xuất vật chất còn hạn chế.

Hệ thống dịch vụ thương mại, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật

cho nông dân còn yếu, thiếu sự phối hợp. Công tác quy hoạch triển khai

chậm, thiếu đồng bộ làm ảnh hưởng đến quá trình phát triển sản xuất, cũng

như đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và địa bàn nông thôn.

Giải quyết việc làm ở nông thôn đang là vấn đề được quan tâm: Thị xã

Sơn Tây có hơn 60% lao động sinh sống và làm việc ở nông thôn, vấn đề việc

làm trở nên bức xúc, nhất là việc làm cho lực lượng lao động trẻ nông thôn.

Lao động nông thôn phổ biến là thủ công, làm theo kinh nghiệm truyền thống,

105

thu nhập thấp và bấp bênh. Năm 2007 thu nhập bình quân/ người khu vực

nông thôn đạt trên 7.200.000đ/người/năm. Số hộ nghèo đa phần tập trung chủ

yếu ở nông thôn.

Nhìn chung, sản xuất nông nghiệp của Thị xã Sơn Tây vẫn còn ở trình

độ thấp và thiếu ổn định. Năng suất cây trồng, vật nuôi tăng chậm và thiếu

vững chắc. Cơ cấu kinh tế nông thôn vẫn mang nặng tính thuần nông nên lao

động dư thừa lại tập trung vào ngành nông nghiệp. Khu vực công nghiệp và

dịch vụ nông thôn chưa tạo được nhiều việc làm để thu hút lực lượng lao

động dư thừa lúc nông nhàn dẫn đến hạn chế tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh

tế và lao động nông thôn.

Thị xã Sơn Tây chưa tận dụng tối đa khoa học công nghệ để phát triển

sản xuất nông nghiệp, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội ở nông thôn, kinh tế nông

thôn chưa đa dạng, nguồn thu chính của nông dân từ nông nghiệp. Từ đó có

sự phân hóa xã hội, kèm theo là quá trình phát triển của nền kinh tế thị

trường, quá trình đô thị hóa nông thôn.

Sự lãnh đạo của các tổ chức Đảng ở cơ sở chưa phát huy hết vai trò tiên

phong, gương mẫu của cán bộ Đảng viên trong việc tập hợp quần chúng, xây

dựng thôn, xã…

* Nguyên nhân của những tồn tại trên là do:

Một số cấp ủy Đảng, chính quyền, cơ quan, đoàn thể chưa nhận thức

đẩy đủ về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của kinh tế nông nghiệp trong quá

trình CNH, HĐH đất nước. Mốt số cơ chế, chính sách đầu tư của Nhà nước

cho lĩnh vực nông nghiệp nông thôn chưa đồng bộ, còn phân tán và chưa đáp

ứng yêu cầu phát triển. Tư tưởng cục bộ, hẹp hòi, phân hóa giàu nghèo còn

nặng nề ở nông thôn.

Do HTX nông nghiệp được chuyển đổi từ thời tự cấp sang nên không

huy động được vốn, Ban quản trị và xã viên còn thụ động, trông chờ vào sự

hỗ trợ của Nhà nước và tập thể. Đầu tư xây dựng cơ sở kinh tế, xã hội nông

106

thôn hàng năm chưa đáp ứng được yêu cầu. Chưa khắc phục được tư tưởng

bảo thủ, lạc hậu, trì trệ, ngại đổi mới trong nông thôn, chưa đào tạo xây dựng

được lớp nông dân mới thích nghi kịp với nên kinh tế thị trường.

Những hạn chế trên đòi hỏi Nhà nước và các cấp lãnh đạo của Thị xã

Sơn Tây cần có những chính sách, biện pháp hỗ trợ để tạo động lực mới thúc

đẩy nông nghiệp vươn lên, đời sống nông dân không ngừng được cải thiện và

nâng cao.

3.2 Bài học kinh nghiệm

Trong những năm 1996 – 2008 thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp và

nông thôn dù còn nhiều hạn chế, nhưng Đảng bộ Thị xã Sơn Tây đã đạt được

nhiều thành tựu quan trọng góp phần ổn định tình hình kinh tế xã hội tạo tiền

đề cần thiết cho việc hoạch định chủ trương chính sách phát triển kinh tế xã

hội trong những năm tiếp theo. Trong quá trình lãnh đạo đó đã rút ra những

kinh nghiệm:

3.2.1 Nghiêm túc, vận dụng đúng đắn, sáng tạo, kịp thời các quan

điểm chủ trương, đường lối của Trung ương Đảng và của Tỉnh ủy Hà Tây,

trên cơ sở nắm chắc tình hình của Thị xã, hợp với lòng dân và được nhân dân

hưởng ứng.

Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất có vai trò quan trọng, có ảnh

hưởng trực tiếp đến sự phát triển của nền kinh tế và ổn định tình hình chính trị

xã hội của đất nước.

Trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước kinh tế nông nghiệp

luôn được đạt ở vị trí quan trọng hàng. Đại hội V của Đảng (1982) đã xác

định “trong 5 năm (1981 - 1985) và những năm 80 là tập trung sức phát triển

mạnh mẽ nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông

nghiệp bước lên, sản xuất lớn XHCN” [30; 190].

Tiếp tục khẳng định vị trí hàng đầu tập trung thực hiện 3 chương trình

kinh tế, trong đó quan trọng nhất là chương trình sản xuất lương thực, thực

107

phẩm. Đến Đại hội VII, Đảng chủ trương “phát triển nông- lâm- ngư nghiệp

gắn với công nghiệp chế biến, phát triển toàn diện kinh tế nông thôn và xây

dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tình hình

kinh tế xã hội” [19; 63].

Tiếp tục kiên trì sự nghiệp đổi mới, Đại hội VIII của Đảng chủ trương

đẩy mạnh CNH, HĐH trong đó trọng tâm là CNH, HĐH nông nghiệp nông

thôn. Với những thành tựu giành được trong nông nghiệp, Đại hội Đại biểu

lần thứ IX của Đảng khẳng định chiến lược phát triển KTXH nước ta 10 năm

(2001 - 2010) là phải đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông

thôn. Giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp,nông thôn và nông dân.

Những chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng trong lĩnh vực nông

nghiệp, nông thôn có vai trò quyết định đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH nông

nghiệp nông thôn. Đối với Thị xã Sơn Tây, nông lâm nghiệp vẫn là ngành

kinh tế chủ đạo, ảnh hưởng đến hơn 60% dân số trên địa bàn Thị xã. Do vậy,

trong những năm (1996 - 2008) Đảng bộ Thị xã Sơn Tây luôn xác định phát

triển một nền kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung,

hiệu quả và bền vững.

Thực hiện mục tiêu đề ra, Đảng bộ Thị xã Sơn Tây đã vận dụng một

cách đúng đắn sáng tạo đường lối của Trung ương Đảng và chủ trương của

Tỉnh ủy Hà Tây và phát triển kinh tế nông nghiệp. Trong những năm qua,

Đảng bộ Thị xã Sơn Tây đã quan tâm, chú trọng tới kinh tế nông nghiệp, nắm

chắc tình hình địa phương, có những chủ trương, chính sách đầu tư cần thiết

cho phát triển kinh tế nông nghiệp. Đảng bộ Thị xã, HĐND và UBND Thị xã

đã xây dựng đề án, chỉ đạo thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi,

chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, thực hiện chuyển diện tích đất trồng

lúa kém hiệu quả sang mô hình kinh tế trang trại, tạo nên phương thức sản

xuất mới có hiệu quả kinh tế cao. Cơ cấu kinh tế nông thôn có biến đổi quan

trọng, trong đó chăn nuôi thủy sản phát triển mạnh, chiếm tỷ lệ cao trọng cơ

108

cấu kinh tế nông nghiệp thu nhập trên đơn vị diện tích ngày càng được nâng

cao về giá trị.

Đảng bộ, UBND Thị xã Sơn Tây đã chỉ đạo các ben ngành xây dựng đề

án, tổ chức thực hiện tập huấn, hướng dẫn nông dân chuyển dịch cơ cấu cây

trồng vật nuôi, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp một cách hợp lý nhằm

tăng năng suất lúa, cây trồng, vật nuôi, xây dựng cơ cấu hợp lý, áp dụng tiến

bộ khoa học kỹ thuật trong canh tác, xây dựng nền nông nghiệp phát triển

toàn diện, đã tổ chức thực hiện tốt việc dồn điền đổi thửa.

Từ những thành tựu trong nông nghiệp giai đoạn (1996 – 2008) cung

cấp đủ lương thực cho người dân, đảm bảo cuộc sống, phát triển nền kinh tế

nông nghiệp từ tự cấp tự túc lên sản xuất hàng hóa thị trường. Góp phần ổn

định nền kinh tế của Thị xã, giữ vững an ninh quốc phòng. Kết quả trên khẳng

định từ thực tiễn cách mạng, khoa học và đúng đắn của chương trình đẩy

mạnh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn của Đảng.

3.2.2 Đẩy mạnh việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, chọn,

tạo giống cây con phù hợp với từng vùng sinh thái

Việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật góp phần ổn định giá trị

kinh tế nông nghiệp đạt năng suất cao trong sản xuất…. Trước năm 1996

điểm xuất phát về kinh tế nông nghiệp trên địa bàn Thị xã thấp, việc ứng dụng

tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn hạn chế, nông dân chủ yếu sản

xuất nông nghiệp theo kinh nghiệm và truyền thống nên hiệu quả kinh tế

không cao.

Từ sau năm 1996 đến nay, Đảng bộ Thị xã Sơn Tây đẩy mạnh chuyển

giao ứng dụng khoa học về giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng

cao, phù hợp với điều kiện cụ thể của từng vùng, tổ chức nhân giống cây

trồng, vật nuôi và kiểm soát chặt chẽ chất lượng việc sản xuất và cung cấp

giống cây lâu năm… nên đã góp phần làm tăng năng suất, tăng thu nhập cho

các hộ nông dân. Trong trồng trọt, Thị xã chỉ đạo thực hiện nhân rộng các

109

giống lúa, các cây công nghiệp ngắn ngày có năng suất, sản lượng cao. Trong

chăn nuôi, đã khuyến khích phát triển chăn nuôi theo mô hình trang trại kinh

tế hộ gia đình, đưa chăn nuôi xa khu vực dân cư. Các chương trình sind hóa

đàn bò, nạc hóa đàn lợn… đã được triển khai đem lại hiệu quả to lớn cho

ngành nông nghiệp.

Đảng bộ luôn nhận thức rõ vấn đề cơ sở vật chất kỹ thuật là một trong

những điều kiện rất cần thiết để phát triển nông nghiệp. Trong quá trình lãnh

đạo, chỉ đạo Đảng bộ Thị xã Sơn Tây luôn tranh thủ vốn của Trung ương

Đảng, của Tỉnh ủy và UBND tình Hà Tây, nguồn ngân sách địa phương và

nguồn đóng góp của nhân dân để tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng cho nông

nghiệp nông thôn như: giao thông, thủy lợi, điện đường trường trạm…

Để đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp, Đảng đã quan tâm đầu tư,

tu bổ, nâng cấp đê kè… các công trình thủy lợi được gắn với CNH, HĐH

nông nghiệp nông thôn đảm bảo tưới tiêu phục vụ cho nông nghiệp.

Mạng lưới điện cũng được tập trung đầu tư, chương trình lưới điện

quốc gia được đưa về các vùng nông thôn của Thị xã. Đây là một thành tựu

lớn vừa có ý nghĩa về mặt chính trị, kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng, góp

phần làm cho bộ mặt nông thôn ngày càng khởi sắc.

3.2.3 Phát huy ý thức tự lực, tự cường, sáng tạo, huy động sức dân,

dựa vào dân để tiến hành CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn.

Nông dân là động lực to lớn của xã hội. Cùng với giai cấp công nhân,

giai cấp nông dân là quân chủ lực của cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp

giải phóng dân tộc cũng như xây dựng đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn

đánh giá đúng vai trò của nông dân, của sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông

thôn”. Nói đến nông dân là phải nói đến vấn đề ruộng đất, đó là lẽ sống của cả

cuộc đời họ”.

Nói đến nông nghiệp, kinh tế nông nghiệp cần được hiểu theo nghĩa

rộng gồm: nông nghiệp- lâm nghiệp- ngư nghiệp. Trong sản xuất nông

110

nghiệp, quá trình lao động của con người liên quan chặt chẽ với quá trình sinh

trưởng tự nhiên của các sinh vật, của thực vật và động vật các loại. Lao động

của con người là hoạt động có ý thức nhằm chủ động chọn ra những giống tốt

nhất về cây trồng và vật nuôi. Như vậy, người nông dân vừa là động lực vừa

là mục tiêu trong phát triển sản xuất nông nghiệp. Nên lãnh đạo nông dân phát

triển sản xuất nông nghiệp phải chú trọng lợi ích chính đáng của người nông dân.

Truyền thống yêu nước và truyền thống cách mạng của nhân dân Thị xã

Sơn Tây gắn liền với quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc.

Xuất phát từ đặc điểm về địa lý, Sơn tây là nơi có nhiều đơn vị quân đội đóng

trên địa bàn. Đây không những là lực lượng quân sự mà còn là lực lượng

chính trị rất lớn. Vì vậy, song song với việc xây dựng khối đoàn kết trong

Đảng, trong nhân dân, Đảng bộ Thị xã Sơn Tây còn rất coi trọng xây dựng

mối đoàn kết quân dân. Từ đó tạo nguồn sức mạnh mới trong việc bảo vệ

thành quả cách mạng, trong khắc phục thiên tai, đảm bảo an ninh, chính trị,

trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn Thị xã.

Đảng bộ Thị xã Sơn Tây đã phát động phong trào toàn dân làm công

tác thủy lợi, hệ thống kênh mương nội đồng, giao thông nông thôn với

phương châm” Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Đã huy động nguồn vốn từ

Trung ương Đảng, Tỉnh ủy và quần chúng nhân dân để tiến hành CNH, HĐH

nông nghiệp nông thôn.

Với chính sách hợp lý về giao quyền sử dụng đất, chính sách thuế nông

nghiệp… từ đó phát huy ý thức tự lực, tự cường, khai thác triệt để sức lao

độn, kinh nghiệm để phát triển nông nghiệp toàn diện, góp phần xây dựng kết

cấu hạ tầng và phát triển nông thôn.

Đảng bộ luôn quan tâm chú trọng vấn đề lãnh đạo, phát triển, bồi

dường nguồn nhân lực cho nông nghiệp nông thôn. Coi đây là một trong

những nội dung hết sức quan trọng của quá trình CNH, HĐH. Khi nền công

nghiệp sản xuất tiên tiến với công nghệ cao làm thu hẹp dần về diện tích và đi

111

vào chuyên môn hóa. Đảng bộ Thị xã đặc biệt quan tâm đến việc giải quyết

việc làm cho những lao động dôi dư. Đây là điều kiện phát triển sản xuất theo

hướng bền vững.

Bên cạnh đó, các xã phường có các làng nghề: thêu ren Ngọc Kiên,

bánh tẻ Phú Nhi, cây cảnh Viên Sơn, Trung Sơn Trầm… mở rộng đào tạo

nhân rộng nghề ở các làng thuần nông chưa có làng nghề, làng đã có nghề

thành làng nghề. Tạo việc làm cho lao động nông nhàn, nâng cao chất lượng

cuộc sống cảu nông dân và trình độ dân trí của họ.

3.2.4 Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng ở nông thôn để đáp ứng

yêu cầu phát triển nông nghiệp.

Trước sự biến động của nền kinh tế, xã hội hàng ngày, hàng giờ luôn

đặt ra yêu cầu cho đời sống xã hội cũng như sự phát triển của sản xuất. Nắm

bắt kịp thời các yêu cầu đó, Đảng bộ thị xã Sông Công đã đưa ra những biện

pháp giải quyết kịp thời cho từng xã, phường. Do vậy, ngay từ cơ sở, từ xóm

làng các tổ chức Đảng đã nhận thức rõ nhiệm vụ của mình trong việc phát

triển kinh tế, xã hội nông thôn.

Để Đảng bộ cơ sở thực sự đủ mạnh để gánh vác nhiệm vụ CNH, HĐH

nông nghiệp, nông thôn, trong những năm 1985 - 2000, Thị ủy và Đảng bộ

các cấp ở thị xã Sông Công cần tập trung vào những vấn đề sau:

Xác định nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ địa phương. Từ thực tiễn

cuộc sống, yêu cầu nhiệm vụ chính trị, đồng thời trên cơ sở quán triệt việc

thực hiện Nghị quyết của Trung ương Đảng, Đảng bộ Tỉnh, Thị ủy để xác

định nhiệm vụ chính trị cụ thể cho phù hợp với điều kiện của từng xã,

phường. Từ đó mới phát huy được những thế mạnh của từng địa phương, tạo

điều kiện cho người nông dân tăng gia sản xuất, xóa đói giảm nghèo, xây

dựng đời sống mới ở nông thôn.

Phải thường xuyên tăng cường, củng cố cơ sở Đảng thật trong sạch,

vững mạnh. Xây dựng chi bộ, Đảng bộ thành một khối thống nhất ý chí và

112

hành động, tăng cường giáo dục bản chất giai cấp công nhân, tính tiên phong

gương mẫu của cán bộ Đảng viên chấp hành chủ trương của Đảng, pháp luật

của Nhà nước, kiên định con đường đi lên CNXH. Bồi dưỡng những đối

tượng nông dân ưu tú trong phong trào sản xuất giỏi đưa vào hàng ngũ của

Đảng. Tạo thêm niềm tin của nông dân vào sự lãnh đạo của Đảng.

Tăng cường công tác lãnh đạo của Đảng bộ đối với chính quyền và

đoàn thể ở cơ sở. Trong thời gian qua, Đảng bộ thị xã đã thực hiện tốt công

tác giới thiệu những cán bộ đảng viên có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực,

giỏi về chuyên môn ứng cử vào cơ quan dân chủ như Hội đồng nhân dân, và

các đoàn thể trong hệ thống chính trị.

Các phong trào trong nông dân cũng phát triển mạnh mẽ như phong

trào toàn dân làm công tác thủy lợi, phong trào xóa đói, giảm nghèo, chuyển

dịch cơ cấu sản xuất, xây dựng giao thông nông thôn,… các phong trào trên

đã có tác động tích cực đến đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, tạo

thêm động lực cho nhân dân trong quá trình phát triển sản xuất và xây dựng

nông thôn mới.

Chăm lo công tác cán bộ: Cán bộ là vấn đề quan trọng gắn liền với

thành công hay thất bại của sự nghiệp cách mạng. Đảng bộ thị xã đã xác định

được nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là then chốt của quá trình thực hiện

công nghiệp hóa, hiện đại hóa của thị xã. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải toàn

diện về cả đức và tài, phải toàn diện về phẩm chất và chuyên môn nhất là đối

với cán bộ lãnh đạo trong hệ thống chính trị, cán bộ quản lý, cán bộ chủ chốt.

113

KẾT LUẬN

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là con đường tất yếu phải tiến hành ở

bất cư quốc gia nào nhất là những quốc gia có xuất phát điểm từ nền nông

nghiệp kém phát triển muốn đi lên xây dựng một nền kinh tế phát triển hiện

đại. Trong hoàn cảnh nước ta nông nghiệp vẫn là một ngành kinh tế chủ yếu

thì CNH, HĐH nông nghiệp cần được đẩy mạnh hơn nữa và thực hiện trong

từng vùng, từng địa phương trên phạm vi cả nước.

Qua việc nghiên cứu, tìm hiểu, đánh giá điều kiện tự nhiên - kinh tế xã

hội có thế thấy: Thị xã Sơn Tây đã tiến hành quá trình CNH, HĐH nông

nghiệp theo chủ trương của Trung ương Đảng từ đó làm thay đổi cơ cấu kinh

tế của Thị xã và Tỉnh theo hướng hiện đại, phù hợp với xu thế chuyển dịch cơ

cấu kinh tế của đất nước trong thời kỳ đổi mới.

Thời gian (1996 - 2008) là thời gian thực hiện chủ trương đổi mới của

Đảng, đặc biệt là các chủ trương về CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. Qua

15 năm thực hiện đường lối của Đảng, nền kinh tế của Thị xã có những thay

đổi tích cực theo hướng giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp và tăng tỷ trọng

ngành công nghiệp- xây dựng, thương mại- du lịch. Kinh tế nông nghiệp dần

chuyển sang nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa bền vững. Cơ cấu ngành

những năm qua cũng có sự chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng ngành

chăn nuôi và giảm dần tỷ trọng ngành trồng trọt. Nổi bật là mô hình kinh tế

VAC, đây là mô hình được Tỉnh ủy đánh giá phù hợp nhất với vùng đất đồi

gò nên đã chỉ đạo nhân nhanh ra diện rộng; nay đã trở thành phong trào rộng

khắp trên toàn địa bàn và thực sự là nguồn thu nhập lớn trong nông nghiệp

nông thôn và ở các phường trong Thị xã. Việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ

thuật, cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp ngày càng phổ biến. Từ đó năng

suất lao động và giá trị sản xuất không ngừng tăng lên, đời sống của người

nông dân được cải tiến, nâng cao làm thay đổi bộ mặt nông thôn ở Thị xã.

114

Có được những thành tựu nêu trên là do sự quan tâm chỉ đạo đúng đắn,

sáng suốt, kịp thời của Đảng bộ Thị xã Sơn Tây. Sự vận dụng sáng tạo, linh

hoạt đường lối đổi mới, chủ trương, chính sách của Trung ương Đảng, của

Đảng bộ Tỉnh Hà Tây vào điều kiện thực tiễn của Thị xã, nhờ đó đã phát huy

được những thế mạnh về điều kiện tự nhiên, đất đai… đưa nông nghiệp của

Thị xã có bước tiến, chuyển từ nền nông nghiệp tự cung tự cấp sang nền nông

nghiệp sản xuất hàng hóa thị trường bền vững và tiến kịp với xu hướng chung

của cả nước trong giai đoạn CNH, HĐH.

Trong quá trình lãnh đạo thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn.

Đảng bộ Thị xã Sơn Tây luôn khơi dậy tiềm năng thế mạnh của người nông

dân và của cả vùng kinh tế nông thôn, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật

vào sản xuất… nhằm tăng năng suất và chất lượng nông sản, nâng cao chất

lượng cuộc sống của người dân vùng nông thôn. Qua đó thấy được rằng lợi

ích chính đáng của người nông dân chỉ được thực hiện và nâng cao khi sản

xuất nông nghiệp phát triển. Đảng bộ đã chủ trương, khuyến khích và tạo điều

kiện cho kinh tế hộ gia đình phát triển trở thành đơn vị kinh tế tự chủ, hình

thành các trang trại chăn nuôi có sự kết hợp với các công ty nước ngoài, áp

dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật, đưa giống mới, cây trồng có giá trị

kinh tế cao vào phát triển kinh tế nông nghiệp. Đồng thời, Đảng bộ Thị xã

Sơn Tây còn tập trung nhiều giải pháp để huy động các nguồn lực tại Thị xã

để phát triển kinh tế và ổn định xã hội.

Trong nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa, thị trường là yếu tố quyết

định tới tốc độ phát triển. Bởi vậy Đảng bộ Thị xã đã lãnh đạo đẩy nhanh việc

xóa bỏ cơ chế hành chính tập trung, quan liêu, bao cấp. Phát triển mạnh công

nghiệp chế biến nông sản đảm bảo sự phát triển ổn định, lâu dài và nâng cao

sức cạnh tranh sản phẩm trong nông nghiệp.

Tuy nhiên trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp ngành nông nghiệp

nói riêng và Thị xã Sơn Tây nói chung gặp phải một số khó khăn hạn chế.

115

Qua đó, đặt ra yêu cầu cần tăng cường hơn nữa vai trò lãnh đạo của Đảng ở

nông thôn để đáp ứng sự phát triển của nông nghiệp, khắc phục những khuyết

điểm, hạn chế trong chủ trương và trong quá trình thực hiện. Đồng thời cần

đẩy mạnh hơn nữa quá trình CNH, HĐH nông nghiệp.

Với thành tựu của ngành nông nghiệp mà Thị xã đã đạt được trong thời

gian qua sẽ tạo những điều kiện, động lực để thúc đẩy các ngành kinh tế khác

phát triển. Đồng thời đặt cơ sở, nền móng cho sự phát triển ở giai đoạn tiếp

theo. Những thành tựu đó cùng với bước phát triển chung của Thị xã sẽ là nền

tảng xây dựng Thị xã Sơn Tây thành một đô thị giàu đẹp, một trung tâm kinh

tế văn hóa của vùng phía Tây Thủ đô Hà Nội.

116

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trịnh Gia Ban, Tư tưởng của V.I Lênin soi sáng sự nghiệp công nghiệp

hóa, hiện đại hóa nước ta, Tạp chí cộng sản, số 8/1999, tr.20- 21.

2. Nguyễn Đình Bích, Phát triển công nghiệp nông thôn, khâu mấu chốt

trong chiến lược phát triển nhanh và bền vững nông nghiệp, nông thôn,

Tạp chí cộng sản, số 17 (6/2003), tr.20- 23

3. Ban chấp hành Đảng bộ Đảng Lao động Việt Nam, Tỉnh Hà Tây (1967),

Sơ thảo lịch sử Cách mạng tháng 8 Hà Đông- Sơn Tây, Ban nghiên cứu

Lịch sử Đảng Hà Tây.

4. BCH Đảng bộ Hà Tây (2008), Lịch sử Đảng bộ Hà Tây, tập IV (1975-

2008), Nxb Chính trị- Hành chính.

5. BCH Đảng bộ Thị xã Sơn Tây (2010), Các kỳ Đại hội Đại biểu Thị xã

Sơn Tây (1959-2010), Nxb Chính trị- Hành chính.

6. Ban Nông nghiệp Trung ương (1991), Kinh tế xã hội nông thôn Việt Nam

ngày nay, tập 1, Nxb Tư tưởng văn hóa, Hà Nội.

7. Phạm Đỗ Chí (chủ biên) (2004), Kinh tế Việt Nam trên con đường hóa

rồng, Nxb Trẻ, Hà Nội.

8. Đỗ Kim Chung, CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn ở các vùng kinh tế-

lãnh thổ Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 253 (6/1999), tr.41- 51.

9. PGS.TS Trần Văn Chử, Nông nghiệp trong phát triển bền vững ở nước ta,

Tạp chí Lý luận chính trị, số 3- 2003, tr.7-10.

10. Nguyễn Sinh Cúc (1995), Nông nghiệp Việt Nam 1945 - 1975, Nxb Thống

kê, Hà Nội.

11. Nguyễn Sinh Cúc, Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động nông nghiệp

trong CNH- HĐH, Tạp chí cộng sản, số 14 (5/2002), tr.43- 46.

12. Nguyễn Sinh Cúc, Làng xã Việt Nam và quan điểm CNH- HĐH nông thôn

đến 2020, Tạp chí Lý luận chính trị, số 1- 2003, tr.21-26.

117

13. Cục thống kê Hà Tây (2001), Niên giám thống kê Tỉnh Hà Tây 1996-

2000, Hà Đông.

14. Cục thống kê Hà Tây (2001), Niên giám thống kê Tỉnh Hà Tây 2001-

2005, Hà Đông.

15. Phạm Ngọc Dũng (2011), CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn từ lý luận

đến thực tiễn ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

16. Nguyễn Tấn Dũng, Để nông nghiệp, nông thôn phát triển bền vững, nông

dân giàu hơn, Tạp chí cộng sản, số 28 (10/2002), tr.6- 11.

17. Phan Diễn, Tạo bước chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa tiến trình CNH-

HĐH nông nghiệp, nông thôn, Tạp chí cộng sản, số 28 (10/2002), tr.3- 5.

18. Đại học Quốc gia Hà Nội, Trung tâm đào tạo bồi dưỡng giảng viên lý luận

chính trị (2010), Những vấn đề kinh tế xã hội ở nông thôn trong quá trình

công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.

19. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 10- NQ/BCT ngày 5/4/1988 về

“đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp”, http://dangcongsan.vn

20. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần

thứ VII, NXB Sự thật, Hà Nội.

21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị lần 5- BCH TW khóa

VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.

22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần

thứ VIII, Nxb Sự thật, Hà Nội.

23. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Nghị quyết Trung ương 6 lần 1, khóa

VIII, Nxb Chính trị Quốc gia.

24. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Nghị quyết của Bộ Chính trị về một số

vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc

lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia.

118

26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Chiến lược phát triển kinh tế xã hội từ

2001- 2010, http://www.cpv.org.vn

27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 15- NQ/ TW về “đẩy

nhanh CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001- 2010”,

http://www.cpv.org.vn

28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Nghị quyết lần thứ 9 BCH

TW khóa IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới

và hội nhập (Đại hội VI- X), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc

lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 43, Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Báo cáo của Ban Chấp hành Trung

ương Đảng khóa IX ngày ngày 10 tháng 4 năm 2006 về phương hướng,

nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 – 2010,

http://dangcongsan.vn

33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 54, Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành TW

khóa X, Nghị quyết số 26- NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn”,

http://www.cpv.org.vn

35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đảng bộ toàn quốc

lần thứ XI, Nxb Sự thật, Hà Nội.

36. Đảng bộ Thị xã Sơn Tây, Lịch sử Đảng bộ Thị xã Sơn Tây (1930- 1995).

37. Đảng bộ Thị xã Sơn Tây (1994), Hội nghị giữa nhiệm kỳ của Đảng bộ Thị

xã lần XV (1991- 1995), ngày 21 &22/3/1994.

119

38. Nguyễn Điền (1997), Công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn các nước

Châu Á và Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

39. Nguyễn Điền, Phương hướng phát triển nông nghiệp Việt Nam trong 10

năm đầu thế kỷ XXI, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 275/ 2001, tr.50-54.

40. Phạm Xuân Độ (1941), Sơn Tây tỉnh địa chí.

41. Phạm Văn Đồng (1976), Ra sức phấn đấu cho một nền nông nghiệp lớn

xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội.

42. Đảng bộ tỉnh Hà Tây (2005), Nghị quyết Đại hội Đại biểu Tỉnh Hà Tây

lần thứ XIV nhiệm kỳ 2005- 2010, Hà Đông.

43. Ngô Văn Giang, Về công nghiệp hóa, hiện đai hóa nông nghiệp, nông

thôn theo yêu cầu rút ngắn ở nước ta, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 303

(8/2003), tr.49-52.

44. Võ Nguyên Giáp (1978), Đẩy mạnh cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật

trong nông nghiệp và nông thôn, Nxb Sự thật, Hà Nội.

45. Đặng Kim Hà, Phạm Quang Diệu, Bài học từ cuộc khủng hoảng kinh tế

tài chính Châu Á và vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn, Tạp chí

Nghiên cứu kinh tế, số 253 (6/1999), tr.29- 39.

46. Lê Mậu Hãn (1997), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập III, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

47. Nguyễn Thị Hằng, Phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam đến 2010,

Tạp chí cộng sản, số 7 (4/1999), tr.29-33.

48. Lưu Bích Hồ, Một số định hướng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông

nghiệp và nông thôn nước ta, Tạp chí cộng sản, số 12 (4/2002), tr.30-34.

49. Lê Mạnh Hùng (chủ biên, 1998), Thực trạng công nghiệp hóa, hiện đại

hóa nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà Nội.

50. Nguyễn Thị Lan Hương, Chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn: hiện

trạng thời kỳ 1990- 2005 và triển vọng đến 2015, Tạp chí Nghiên cứu kinh

tế, số 354(11/2007), tr.22-37

120

51. Vũ Trọng Khải (2002), Hai mô hình kinh tế và sự đổi mới kinh tế qua

thực tiễn phát triển nông nghiệp ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà

Nội.

52. Nguyễn Văn Khánh (2001), Biến đổi cơ cấu ruộng đất và kinh tế nông

nghiệp ở vùng Châu thổ sông Hồng trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

53. Hồ Chí Minh toàn tập (2011), tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

54. Hồ Chí Minh toàn tập (2011), tập 11, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

55. Dương Ngọc, Cơ cấu kinh tế nông thôn, nông, lâm nghiệp và thủy sản-

sự chuyển dịch và hạn chế, bất cập, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 298

(3/2003), tr.63-67

56. Nguyễn Quang Ngọc (chủ biên) (2010), Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb

Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

57. Nông nghiệp, an ninh lương thực với tăng trưởng kinh tế, Nxb Viện thông

tin khoa học xã hội (1999).

58. Nông nghiệp, nông thôn trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, Nxb Học viện

Chính trị Quốc gia, Hồ Chí Minh, 1993.

59. Nguyễn Hữu Phận (1978), Tìm hiểu Nghị quyết của Trung ương về nông

nghiệp, Nxb Phổ Thông.

60. Lê Quang Phi (2007), Đẩy mạnh công nghiêp hóa, hiện đại hóa nông

nghiệp, nông thôn trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

61. Nguyễn Văn Phúc (2004), Công nghiệp nông thôn hiện nay: thực trạng và

giải pháp phát triển, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

62. Vũ Văn Phúc, Một số vấn đề về: công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngông

nghiệp, nông thôn, Tạp chí cộng sản, số 7 (4/1999), tr.25- 28.

63. Hoàng Thiếu Sơn, nhà văn Phượng Vũ (chủ biên) (1999), Địa chí Hà Tây,

Sở văn hóa thông tin Hà Tây.

121

64. Đặng Kim Sơn (2001), Công nghiệp hóa từ nông nghiệp: lý luận, thực

tiễn và triển vọng ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

65. Đặng Kim Sơn (2008), Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam: hôm

nay và mai sau, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

66. Nguyễn Xuân Thảo (2004), Góp phần phát triển bền vững nông thôn Việt

Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

67. Sở văn hóa thông tin Tỉnh Hà Tây (2005), Sơn Tây- từ một vùng đất cổ.

68. Lê Bá Tâm, Tác dụng của tăng năng xuất lao động nông nghiệp trong

công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Tạp chí Lý luận chính trị, số 6/2002, tr29- 35.

69. Thị ủy Sơn Tây, Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế, chính trị 5

năm (1991- 1995) và phương hướng tới năm 2000.

70. Thị ủy Sơn Tây, Báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ Thị xã Sơn Tây

khóa XVI trình Đại hội Đại biểu Thị xã lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2001- 2005.

71. Thị ủy Sơn Tây, Báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ Thị xã Sơn Tây khóa

XVII trình Đại hội Đại biểu Thị xã lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2006- 2010.

72. Thị ủy Sơn Tây (2008), Báo cáo kiểm điểm giữa nhiệm kỳ kết quả lãnh

đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố Sơn Tây

khóa XVIII (giai đoạn 2006- 06/2008) ngày 29/07/2008.

73. Thị ủy Sơn Tây (2010), Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ

Thị xã Sơn Tây khóa XVIII trình Đại hội Đại biểu Thị xã lần thứ XIX,

nhiệm kỳ (2010- 2015).

74. Thị ủy Sơn Tây, Nghị quyết số 16- NQ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ

Thị xã khóa XVII (nhiệm kỳ 2001- 2005) về “chuyển đổi cơ cấu kinh tế

nông nghiệp Thị xã giai đoạn 2001- 2005.

75. Thị ủy Sơn Tây, Nghị quyết số 10- NQ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ

Thị xã khóa XVIII (nhiệm kỳ 2006- 2010) về “đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu

kinh tế nông nghiệp Thị xã giai đoạn 2006- 2010”.

122

76. Thị ủy Sơn Tây, Chương trình số 05- Ctr/TU của Ban Chấp hành Đảng

bộ Thị xã về thực hiện nghị quyết số 20- NQ/TW Hội nghị lần thứ VII Ban

Chấp hành khóa X về “nông nghiệp, nông dân, nông thôn”.

77. Thị ủy Sơn Tây (2005), Báo cáo kết quả 4 năm thực hiện Nghị quyết số

16- NQ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ Thị xã về chuyển đổi cơ cấu kinh

tế nông nghiệp.

78. Bùi Tất Thắng (2006), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

79. Hồ Văn Thông (2008), Bàn về một số vấn đề nông thôn nước ta hiện nay,

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

80. Lê Bàn Thạch, Trần Thị Tri (2000), Công nghiệp hóa ở Nics Đông Nam Á

và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội.

81. Nguyễn Xuân Thảo (2004), Góp phần phát triển bền vững nông thôn Việt

Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

82. Nguyễn Hữu Tiến (2008), Phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn ở Việt

Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

83. PGS.TS Ngô Đăng Tri (2010), 80 năm (1930- 2010) Đảng Cộng sản Việt

Nam- Những chẳng đường lịch sử, Nxb Thông tin và truyền thông, Hà Nội.

84. Nguyễn Kế Tuấn (2006), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,

nông thôn ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

85. Nguyễn Từ (chủ biên) (2008), Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế với

phát triển nông nghiệp Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

86. Tỉnh ủy Hà Tây (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu tỉnh lần thứ XII, Hà

Đông.

87. Tỉnh ủy Hà Tây (2000), Văn kiện Đại hội Đại biểu tỉnh lần thứ XIII, Hà

Đông.

88. Tỉnh ủy Hà Tây (2005), Văn kiện Đại hội Đại biểu tỉnh lần thứ XIV, Hà

Đông.

123

89. Tỉnh ủy Hà Tây (2002), Chương trình số 24- Ctr/TU ngày 20/04/2002 về

đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn giai

đoạn 2001- 2010, Hà Đông.

90. Ủy ban nhân dân Thị xã Sơn Tây, Niên giám thống kê Thị xã giai đoạn

2006- 2010.

91. Ủy ban nhân dân Thị xã Sơn Tây, Đề án chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông

nghiệp Thị xã Sơn Tây giai đoạn 2001- 2005, Sơn Tây.

92. Ủy ban nhân dân Thị xã Sơn Tây, Báo cáo tình hình kinh tế xã hội 6 tháng

đầu năm 1999 và phương hướng, nhiệm vụ 6 tháng cuối năm, Sơn Tây.

93. Ủy ban nhân dân Thị xã Sơn Tây, Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện

các mục tiêu kinh tế xã hội của Ủy ban nhân dân Thị Sơn Tây, nhiệm kỳ

1994- 1999, Sơn Tây.

94. Ủy ban nhân dân Thị xã Sơn Tây, Báo cáo số 270- BC/UBND: kết quả 4

năm thực hiện Nghị quyết 24/2006/ NQ- HĐND 17 ngày 20/12/2006 của

HĐND Thị xã Sơn Tây về việc đẩy mạnh thực hiện nâng cấp, cải tạo xây

dựng hệ thống giao thông nông thôn trên địa bàn Thị xã Sơn Tây đến 2010.

95. Vũ Quang Việt (1997), Kinh tế Việt Nam trên đường phát triển, Nxb

Thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.

96. Hồng Vinh (1998), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông

thôn: một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

97. Nguyễn Hoàng Xanh, Mấy giải pháp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại

hóa nông nghiệp, nông thôn, Tạp chí cộng sản, số 28 (10/2002), tr. 23- 27.

124

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1: Các loại đất chính của Thị xã Sơn Tây

Đơn vị tính: ha

Toàn thành phố STT Loại đất Ký hiệu Diện tích Tỷ lệ (%)

588,0 5,2 Đất phù sa không được bồi P 1

50,0 0,4 Đất phù sa được bồi Pb 2

598,0 5,3 Đất phù sa glây Pg 3

588,0 5,2 Đất phù sa cổ B 4

374,0 3,3 Đất phù sa úng nước Pj 5

570,0 5,0 Đất đỏ vàng trên đá sét Fs 6

Đất nâu vàng trên phù sa cổ 3563,8 31,4 Fp 7

Đất đỏ vàng biến đổi do trồng 725,3 6,4 Fl 8 lúa nước

CỘNG DIỆN TÍCH ĐẤT 7057,1 62,2

651,0 5,7 Thổ cư

165,75 1,5 Ao hồ

3473,0 30,6 Đất chuyên dùng

TỔNG DIỆN TÍCH TỰ 11346,85 100,0 NHIÊN

Nguồn: Viện Quy hoạch và TKNN, 2006

125

PHỤ LỤC 2: Cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu kinh tế Thị xã Sơn Tây

Đơn vị tính: %

Chỉ tiêu 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008

Cơ cấu giá trị sản 100 100 100 100 100 100 100 xuất

Công nghiệp – 42,8 43,1 43,9 44,9 48,0 48,0 47,5 Xây dựng

Thương mại – Du 33,4 34,1 35,6 36,0 36,0 36,0 39 lịch – Dịch vụ

Nông nghiệp 23,8 22,8 20,5 19,1 16 15,6 13,5

Nguồn: Phòng Thống kê thành phố Sơn Tây năm 2007

126

PHỤ LỤC 3: Biến động sản xuất ngành chăn nuôi Thành phố Sơn Tây

STT Chỉ tiêu 2002 2003 2004 2005 2006 2007

I Số lượng

Trâu (con) 2.700 2.500 2.427 2.273 1.886 1.514

Bò (con) 6.392 6.401 6.806 7.260 8.304 9.777

Lợn (1000con) 28,4 29,6 30,3 36,9 40,9 42

Gia cầm 430,1 452,9 472,3 481,2 451,5 504,6 (1000 con)

Sản lượng II 4.023 4.331 4.841,5 5.503,9 6.359,5 6.800 (tấn)

67 59 45,9 53,8 61,1 Trâu

73 79 99,9 110,6 120,5 Bò

2.903 3.113 3.308,4 3.939,4 4.877 Lợn

Gia cầm 980 1.080 1.360,3 1.407,1 1.300,9

Nguồn: phòng thống kê Thành phố Sơn Tây, 2007

127

PHỤ LỤC 4: Giá trị thu nhập và cơ cấu ngành nông nghiệp

(Giá hàng hóa)

Đơn vị tính: Tỷ đồng

Chỉ tiêu 2002 2003 2004 2005 2006 2007

Tổng giá trị nông, 127,5 111,03 117,43 161,87 169,03 170,89 lâm, thủy sản 8

120,3 I. - Nông nghiệp 105,50 110,45 154,40 161,29 163 5

1. Trồng trọt 69,78 71,27 64,87 82,97 87,62 79,87

Cơ cấu (%) 66,46 64,53 53,90 53,74 54,32 49

2. Chăn nuôi – 35,22 39,18 55,48 71,43 73,68 83,13 Thủy sản

Cơ cấu (%) 33,54 35,47 46,10 46,26 45,68 51

II. Lâm nghiệp 6,03 6,99 7,23 7,47 7,73 7,89

Nguồn: Phòng Thống kê Thành phố Sơn Tây năm 2007

128

PHỤ LỤC 5: Biến động ngành sản xuất thủy sản của Thành phố Sơn Tây

STT Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 2007

Diện tích nuôi 1 218 223 227 230 235,1 thả thủy sản (ha)

Chuyên nuôi 161,3 161,3 164,8 164,8 164,8 thủy sản

1 vụ lúa- 1 vụ 56,7 61,7 65,2 65,2 70,3 thủy sản

233 2 Sản lượng (tấn) 324,5 397,4 397,4 411,9

Cá các loại 227 322 393,2 392,8 408,6

Tôm 6 2,5 4,4 4,6 3,3

Các loại khác

Giá trị sản lượng 3 3.225 3.790 4.140 4.985 4.984 (triệu đồng)

Nguồn: phòng thống kê Thành phố Sơn Tây, 2007

129

PHỤ LỤC 6: Hiện trạng sản xuất nông- lâm nghiệp của Thị xã Sơn Tây

1997- 2000

Đv BQ 5 Chỉ tiêu 1997 1998 1999 2000 tính năm

105.00 90.89 1- Giá trị TSL Tr.đ 87.000 91.000 96.000 0 0

Trong đó:-T.trọt+vườn Tr.đ 59.500 62.600 64.500 68.000 61,05

- chăn nuôi Tr.đ 26.400 27.150 30.000 30.500 27,54

- lâm nghiệp Tr.đ 1.100 1.450 1.500 6.500 2,3

19.81 2- Tổng SLLT Tấn 18.195 21.933 20.440 19.229 7

17.24 Trong đó: - Thóc Tấn 15.086 18.568 20.056 18.863 2

- Màu Tấn 3.109 3.365 384 366 2.575

Tổng diện tích gieo Ha 6.486 7.034 6.717 6.706 trồng

3- Chăn nuôi

Tổng đàn trâu Con 3.952 3.891 3.908 3.525

Tổng đàn bò Con 5.450 5.491 5.496 6.205

Tổng đàn lợn Con 25.059 25.210 25.388 26.312

1000 Tổng đàn gia cầm 299.6 310,2 316,3 357,2 con

Sản lượng cá 150 175 Tấn

Nguồn: Phòng thống kê Thị xã Sơn Tây, 2000

130