ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------

TRẦN DANH NAM

ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HOÁ LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN Y TẾ (1986-2005)

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2008

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------

TRẦN DANH NAM

ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HOÁ LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN Y TẾ (1986-2005)

CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

MÃ SỐ: 60.22.56

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS HỒ KHANG

HÀ NỘI – 2008

MỤC LỤC

Trang

Lời nói đầu ........................................................................................................ 1

1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................. 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................. 4

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................. 6

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................. 7

5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu ................................................... 7

6. Đóng góp của luận văn ................................................................................... 8

7. Bố cục của luận văn ....................................................................................... 9

CHƯƠNG 1. VÀI NÉT VỀ THANH HOÁ VÀ SỰ NGHIỆP Y TẾ DƯỚI SỰ

LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH TRƯỚC NĂM 1986

1.1.1 Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên ................................................................ 10

1.1.2 Tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội ............................................................... 16

1.1 Vài nét khái quát về Thanh Hoá ................................................................. 10

1.2.1 Y tế Thanh Hoá trước cách mạng tháng Tám 1945 ..................................... 19

1.2.2 Y tế Thanh Hoá trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) ..... 21

1.2.3 Y tế Thanh Hoá trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước

(1954-1975) ........................................................................................................... 23

1.2.4 Y tế Thanh Hoá trong thời kỳ khôi phục, phát triển kinh tế, văn hoá,

xây dựng và bảo vệ CNXH (1975-1985) .............................................................. 27

1.2 Sự nghiệp phát triển y tế ở Thanh Hoá trước năm 1986 ............................ 19

CHƯƠNG 2. ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HOÁ LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN

Y TẾ (1986-2005)

2.1.1 Đường lối phát triển y tế của Đảng và Nhà nước ..................................... 32

2.1.2 Chủ trương phát triển y tế của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá .......................... 41

2.1 Đường lối phát triển y tế của Đảng và Nhà nước thời kỳ đổi mới ............ 32

2.2.1 Xây dựng mạng lưới y tế và nguồn nhân lực ............................................... 47

2.2.2 Công tác y tế dự phòng ............................................................................... 55

2.2.3 Công tác phòng chống các bệnh xã hội ....................................................... 68

2.2 Quá trình chỉ đạo thực hiện chủ trương phát triển y tế của tỉnh ................ 47

2.2.4 Công tác khám chữa bệnh ............................................................................ 72

2.2.5 Công tác dược, vật tư y tế ............................................................................ 78

2.2.6 Một số mặt công tác khác của ngành y tế Thanh Hoá ................................. 81

CHƯƠNG 3. MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM

3.1.1 Những thành tựu đạt được ........................................................................... 89

3.1.2 Những hạn chế tồn tại .................................................................................. 99

3.1 Thành tựu và hạn chế ................................................................................. 89

3.2 Một số bài học kinh nghiệm ..................................................................... 105

3.3 Một số vấn đề đặt ra ................................................................................. 109

Kết luận ......................................................................................................... 120

Tài liệu tham khảo ....................................................................................... 124

Phần Phụ lục ................................................................................................. 134

BẢNG QUY ƯỚC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG BÀI

- BHYT Bảo hiểm y tế

- CS&BVSKND Chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân

- TTYT Trung tâm y tế

- UBND Ủy ban nhân dân

- YHCT Y học cổ truyền

- YTDP Y tế dự phòng

LỜI NÓI ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Sức khoẻ là vốn quý nhất của con người, là một trong những điều cơ bản

để con người sống hạnh phúc, là mục tiêu và là nhân tố quan trọng trong việc

phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội và bảo vệ Tổ quốc, là một trong những

chính sách ưu tiên hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta. Bảo vệ sức khỏe là sự

nghiệp của toàn dân. Tất cả công dân có nghĩa vụ thực hiện nghiêm chỉnh

những quy định của pháp luật về bảo vệ sức khỏe nhân dân để giữ gìn sức

khoẻ cho mình và cho mọi người. Đồng thời, đó cũng là trách nhiệm của các

cấp ủy Đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể, các tổ chức xã hội, trong

đó ngành y tế giữ vai trò nòng cốt về chuyên môn kỹ thuật.

Lịch sử y học luôn gắn liền với sự phát triển của xã hội loài người. Trong

quá trình đấu tranh để tồn tại và phát triển, con người dần khám phá ra những

bí mật và quy luật vận động của tự nhiên như sự tuần hoàn của ngày đêm,

thời tiết bốn mùa, quy luật sinh, lão, bệnh, tử….Con người cũng dần dần phát

hiện thấy một số loại hoa quả, cây cỏ, động vật, khoáng vật ngoài việc sử

dụng làm thực phẩm còn có tác dụng phòng và chữa một số chứng bệnh. Dần

dần, những kinh nghiệm đúc kết và lưu truyền từ đời này sang đời khác trở

thành vốn văn hóa và tri thức giúp con người chống chọi lại bệnh tật và điều

kiện tự nhiên khắc nghiệt. Y tế Thanh Hoá cũng không nằm ngoài quy luật

chung đó.

Thanh Hoá là một tỉnh rộng lớn, lại có điều kiện tự nhiên khá đặc biệt, bao

gồm đường biên giới, miền núi, vùng cao, bờ biển và hải đảo, lại chịu chi

phối bởi nhiều tiểu vùng khí hậu khác nhau, vì thế việc kiểm soát các loại

dịch bệnh và công tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe của nhân dân gặp rất nhiều

khó khăn. Điều kiện đất đai, sông ngòi bị chia cắt nhiều, nắng lắm mưa nhiều,

1

lũ lụt thường xuyên, giao thông, kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là

vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn. Tất cả những đặc điểm đó đã ảnh hưởng

không nhỏ đến sự phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh nói chung và sự nghiệp y

tế nói riêng. Do đó, tìm kiếm những giải pháp nhằm không ngừng nâng cao

chất lượng công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân (CS&BVSKND)

trong tỉnh là một yêu cầu bức bách khách quan.

Trong suốt nửa thế kỷ qua, từ sau cách mạng tháng Tám thành công và

nhất từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho cán bộ ngành y tế

(27/02/1957). Thấm sâu lời dạy của Người, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của các

cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp, sự giúp đỡ của Bộ Y tế, sự phối hợp chặt

chẽ giữa các cấp, các ngành, y tế Thanh Hoá đã ngày càng lớn mạnh và

trưởng thành về mọi mặt, thu được những thành tựu quan trọng trong sự

nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của nhân dân trong tỉnh và góp một phần

xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc cũng như công cuộc đổi

mới vĩ đại của dân tộc do Đảng khởi xướng, tổ chức và lãnh đạo.

Khi chính quyền cách mạng về tay giai cấp công nhân, nước Việt Nam

Dân chủ Cộng hòa ra đời đã mở ra một trang sử mới, ngành y tế Thanh Hóa

cũng đắm mình trong dòng chảy của cách mạng. Chúng ta đã tiếp thu một gia

tài coi như không đáng kể, lại còn phải chịu đựng và đương đầu với muôn vàn

khó khăn: nạn đói năm 1945, hạn hán, lũ lụt liên miên…..và rồi cuộc chiến

tranh chống thực dân Pháp, đánh đuổi đế quốc Mỹ rất ác liệt suốt 30 năm

ròng, tình hình bệnh tật, vết thương chiến tranh và hậu quả của chiến

tranh….là những gánh nặng đè trĩu trên vai cả dân tộc và toàn ngành y tế tỉnh

Thanh Hóa.

Để gánh vác và hoàn thành trọng trách nặng nề song rất vẻ vang là chăm

sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, ngành y

tế đã đem hết sức mình để xây dựng màng lưới y tế rộng khắp từ tỉnh đến cơ

2

sở, nhanh chóng đào tạo các chủng loại cán bộ theo yêu cầu của từng giai

đoạn cách mạng, cố gắng sản xuất tự túc một phần lượng thuốc cần thiết bằng

các nguồn dược liệu sẵn có, phát triển các chuyên khoa và trang thiết bị y

tế…..Ra sức rèn luyện nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật và nêu cao tinh

thần thái độ, ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ y tế đối với người bệnh.

Gương mẫu và động viên cả cộng đồng tham gia rèn luyện sức khỏe, giữ gìn

vệ sinh và chăm sóc sức khỏe cho bộ đội, dân công và đồng bào các dân tộc

trong tỉnh.

Từ thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp đến giai đoạn kháng chiến

chống Mỹ cứu nước, nhiều thế hệ cán bộ y tế tỉnh nhà đã vượt lên mọi khó

khăn gian khổ, có mặt ở mọi nẻo đường của quê hương, của Tổ quốc và cả

các nước bạn Lào, Cam-pu-chia anh em để phục vụ, chăm sóc sức khỏe bộ

đội, dân công và nhân dân. Đặc biệt là trong chiến tranh phá hoại của đế quốc

Mỹ, cán bộ y tế Thanh Hóa luôn luôn nâng cao ý chí ngoan cường, bám trụ

tại các trọng điểm thường xuyên bị oanh tạc, để phục vụ, chiến đấu và sản

xuất. Các đội cấp cứu đã dũng cảm băng qua sông dưới mưa bom bão đạn của

đế quốc Mỹ, nhanh chóng đến từng trận địa để cấp cứu và tham gia chiến đấu,

không chỉ những bằng trí tuệ, lương tâm và trách nhiệm cao cả của người cán

bộ y tế tỉnh Thanh, mà còn cả bằng xương máu của mình. Trong chiến đấu có

nhiều đóng y, bác sỹ đã hy sinh anh dũng, để cùng cả dân tộc làm nên những

chiến công vang dội, góp phần quan trọng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc

và thống nhất đất nước.

Thực hiện quá trình đổi mới do Đảng đề xướng và lãnh đạo, sau 20 năm

đất nước ta đã giành được nhiều thành tựu tốt đẹp trên nhiều lĩnh vực, nền

kinh tế đã có nhiều bước phát triển đáng kể, trong đó công tác bảo vệ và chăm

sóc sức khoẻ cho nhân dân có vai trò hết sức quan trọng. Quán triệt và thực

hiện thắng lợi đường lối y tế của Đảng, y tế tỉnh Thanh Hóa đã có nhiều

3

phong trào đi đầu như phong trào 5 dứt điểm, phong trào “sạch làng tốt

ruộng”, “sạch bản tốt nương”, phong trào sinh đẻ có kế hoạch, phong trào

vườn cây thuốc Nam, khóm thuốc gia đình…..

Đặc biệt, từ khi có Nghị quyết 04 của Ban chấp hành Trung ương Đảng

khóa VII (14/01/1993), tỉnh Thanh Hoá càng gắn chặt công tác chăm sóc sức

khỏe nhân dân với sự nghiệp phát triển kinh tế và ổn định chính trị, xã hội.

Nhờ đó, công tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân ở Thanh Hoá đã đạt

được nhiều thành tích quan trọng. Mạng lưới y tế, đặc biệt là y tế cơ sở ngày

càng được cũng cố và phát triển, nhiều dịch bệnh nguy hiểm được khống chế

và đẩy lùi, các dịch vụ y tế ngày càng đa dạng, nhiều công nghệ mới được

nghiên cứu và ứng dụng trong cả phòng bệnh, chẩn đoán và điều trị, việc

cung ứng thuốc và trang thiết bị y tế đã có nhiều tiến bộ mới. Nhân dân ở hầu

hết các vùng miền trong tỉnh đã được chăm sóc sức khoẻ tốt hơn.

Tìm hiểu những thành quả y tế Thanh Hoá trong 20 năm đổi mới là một

vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết. Trên cơ sở đánh giá những thành tựu

và những mặt còn hạn chế tồn tại trong công tác lãnh đạo phát triển y tế của

tỉnh, chúng ta có thể đúc rút ra những bài học kinh nghiệm thiết thực, từ đó

đưa ra những giải pháp nhằm đẩy mạnh hơn nữa công tác CS&BVSKND

trong tỉnh, góp phần đáng kể vào thắng lợi của công cuộc đổi mới trên quê

hương Thanh Hóa. Là một người con sinh ra trên quê hương xứ Thanh, tác

giả rất quan tâm đến vấn đề này. Đó cũng là lý do để tác giả quyết định chọn

đề tài “Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lãnh đạo phát triển y tế (1986-2005)” làm

luận văn thạc sĩ của mình.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Công trình nghiên cứu: “Địa chí Thanh Hoá, tập 2” (2004), Nxb VHXH,

Hà Nội được biên soạn dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh uỷ-HĐND-UBND

tỉnh Thanh Hoá giới thiệu một cách toàn diện các mặt văn hóa, xã hội liên

4

quan đến mảnh đất, con người xứ Thanh. Về công tác y tế, cuốn sách tập

trung giới thiệu một cách khái quát quá trình ra đời, phát triển của của y học

phương Đông và phương Tây trên mảnh đất Thanh Hoá. Về phần y tế từ sau

cách mạng tháng Tám 1945, cuốn sách giới thiệu về quá trình phát triển của

nền y tế cách mạng qua các thời kỳ lịch sử, nhấn mạnh đến hệ thống tổ chức

của y tế Thanh Hoá, những thành quả về điều trị, phòng chống các bệnh xã

hội, thực hiện các chương trình y tế quốc gia, về công tác dược và vật tư y tế.

Sách “Ngành Y tế Thanh Hoá 60 năm xây dựng và trưởng thành” (2005),

Nxb Thanh Hoá do Sở Y tế Thanh Hoá biên soạn, đây là cuốn sách ra đời

nhân kỷ niệm 60 năm thành lập ngành y tế Thanh Hoá kể từ sau cách mạng

tháng Tám 1945. Cuốn sách này đã khái quát về quá trình xây dựng và trưởng

thành của ngành y tế Thanh Hoá kể từ khi được thành lập cho đến năm 2005.

Nội dung sách mang tính liệt kê các sự kiện liên quan đến công tác y tế trong

tỉnh qua các thời kỳ lịch sử nhằm giới thiệu truyền thống của ngành mà không

đi sâu vào việc phân tích, đánh giá những thành tựu, hạn chế trong quá trình

xây dựng và trưởng thành, không đề cập những bài học kinh nghiệm rút ra

trong công tác CS&BVSKND trong tỉnh cũng như đưa ra các giải pháp nhằm

đẩy mạnh hơn nữa công tác y tế trong thời kì tiếp theo.

Sách “Những sự kiện lịch sử Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá (1975-2000)”

(2005), Nxb Thanh Hoá do Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá chỉ đạo

biên soạn là cuốn sách giới thiệu một cách có chọn lọc những sự kiện tiêu

biểu về chính trị, kinh tế, xã hội, xã hội, an ninh, quốc phòng, xây dựng hệ

thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá từ năm 1975

đến năm 2000. Trong cuốn sách này, phần về y tế được giới thiệu chiếm một

số lượng bài rất ít, trải đều qua các năm.

Sách “Thanh Hóa-thế và lực mới trong thế kỷ XXI” (2003), Nxb CTQG,

Hà Nội do tác giả Chu Viết Luân (chủ biên) trình bày một cách có hệ thống,

5

ngắn gọn, không chỉ cung cấp những thông tin cơ bản, mà còn cho thấy được

bức tranh toàn cảnh trong sự phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh cũng như các

huyện, thị, thành phố, doanh nghiệp tiêu biểu, các gương mặt mới, những

nhân tố mới trong sản xuất, kinh doanh và trong các lĩnh vực hoạt động xã

hội, từ đó hình dung rõ hơn về hướng đi tới của Thanh Hóa trong tương lai.

Trong cuốn sách này, phần y tế được đề cập đến qua các bài giới thiệu khái

quát về Bệnh viện Đa khoa tỉnh, Hội đông y, Công ty cổ phần Dược-Vật tư y

tế Thanh Hoá, Bệnh viện Phụ sản Thanh Hoá.

Các công trình nêu trên là nguồn tư liệu có giá trị, cung cấp cho chúng ta

có một cái nhìn khái quát về ngành y tế Thanh Hoá kể từ khi được thành lập.

Tuy nhiên, các công trình đó mới chỉ tập trung giới thiệu mang tính chất liệt

kê các sự kiện liên quan đến hoạt động chuyên môn y tế mà không đánh giá

những mặt đạt được, những mặt hạn chế trong quá trình phát triển sự nghiệp y

tế của tỉnh. Đặc biệt, các công trình không đúc rút tổng kết kinh nghiệm trong

quá trình thực hiện nhiệm vụ CS&BVSKND trong tỉnh, không nhấn mạnh

đến các giải pháp nhằm thúc đẩy hơn nữa công tác y tế trong thời kỳ mới

nhằm đáp ứng yêu cầu được chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của người dân. Từ

thực tế đó, nhằm đánh giá một cách toàn diện sự nghiệp y tế tỉnh Thanh Hoá

dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh trong thời kỳ đổi mới, đúc rút kinh nghiệm

trong quá trình lãnh đạo cũng như đề xuất kiến nghị những giải pháp nhằm

đẩy mạnh hơn nữa công tác y tế trong thời kỳ tiếp theo, tác giả đã quyết định

chọn đề tài này làm luận văn nghiên cứu khoa học.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu: Làm sáng tỏ quá trình Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá

lãnh đạo sự nghiệp BV&CSSKND trong thời kỳ đổi mới. Từ đó thấy được

các thành tựu, hạn chế của sự nghiệp đó. Trên cơ sở đó rút ra các bài học kinh

nghiệm quý báu để đề xuất một số kiến nghị nhằm đẩy mạnh hơn nữa sự

6

nghiệp BV&CSSKND trong tỉnh nói riêng và cả nước nói chung.

Nhiệm vụ nghiên cứu: Để giải quyết những vấn đề đặt ra trong đề tài, luận

văn có nhiệm vụ thu thập, bổ sung và xử lý nguồn tư liệu về đề tài một cách

khoa học để phục vụ mục đích nghiên cứu. Trên cơ sở đó phân tích và đánh

giá một cách khách quan quá trình Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá nhận thức và thể

hiện bằng chủ trương, nghị quyết về phát triển y tế.

Trình bày quá trình xây dựng, phát triển sự nghiệp y tế từ sau đổi mới trên

các lĩnh vực: xây dựng mạng lưới y tế, công tác YTDP, phòng chống các

bệnh xã hội, khám chữa bệnh, vật tư y tế và một số mặt công tác khác.

Qua nghiên cứu về chủ trương và việc tổ chức thực hiện sẽ cho chúng ta

thấy được bước tiến triển, thành quả đạt được cũng như những hạn chế trong

công tác BV&CSSKND ở Thanh Hoá.

Từ thực tiễn đó đúc kết ra được các bài học kinh nghiệm trong quá trình

lãnh đạo y tế của Đảng bộ tỉnh trong 20 năm đổi mới.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Phát triển sự nghiệp y tế thời kỳ đổi mới là một

trong những mặt lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ, chính quyền tỉnh Thanh Hoá

trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện mọi mặt tình tình kinh tế, chính trị,

xã hội, an ninh quốc phòng của tỉnh. Do đó, đối tượng đề tài tập trung vào đó

là quá trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đối với sự nghiệp y tế

trong thời kỳ đổi mới, được thể hiện qua quá trình đề ra đường lối và lãnh đạo

thực hiện đường lối đó.

Phạm vi nghiên cứu:

- Thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu về quá trình lãnh đạo của Đảng bộ

tỉnh Thanh Hóa với sự nghiệp y tế trong 20 năm đổi mới. Đồng thời, để đảm

bảo tính hệ thống của vấn đề, đề tài đề cập một cách khái quát về Thanh Hoá

và sự nghiệp y tế dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh trước năm 1986 để người

7

đọc có cái nhìn bao quát hơn về vấn đề.

- Không gian: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu ở tỉnh Thanh Hóa.

5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu

Nguồn tài liệu: Để thực hiện nghiên cứu đề tài này, tôi đã khai thác và sử

dụng một số nguồn tài liệu khác nhau. Cụ thể là:

- Nguồn tài liệu thành văn:

+ Các văn bản, chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Nhà nước về y tế thời kỳ

đổi mới.

+ Các văn bản, chỉ thị, nghị quyết của Đảng bộ, Uỷ ban nhân dân (UBND)

tỉnh Thanh Hóa từ năm 1986 đến nay có liên quan đến công tác y tế.

+ Các tài liệu chỉ đạo công tác y tế của Sở Y tế Thanh Hóa

+ Các tác phẩm có liên quan đến đề tài như: Lịch sử Đảng bộ Thanh Hóa,

Địa chí Thanh Hóa, Lịch sử Thanh Hóa,….

+ Các bài viết, công trình nghiên cứu đã công bố liên quan đến đề tài đăng

trên các sách báo, tạp chí.

- Nguồn tài liệu tranh ảnh, sơ đồ, thống kê…..mang tính chất minh họa

làm phong phú nội dung, từ đó có cái nhìn khái quát hơn về luận văn.

Phương pháp nghiên cứu: Để hoàn thành luận văn này, tôi đã sử dụng tổng

hợp các phương pháp nghiên cứu: phương pháp luận sử học Mác xít làm nền

tảng; phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc là hai phương pháp được sử

dụng chủ yếu trong luận văn. Bên cạnh đó, tôi còn sử dụng một số phương

pháp có liên quan đến đề tài luận văn như: thống kê, tổng hợp, so sánh, đối

chiếu, phân tích, đánh giá, sưu tầm và chọn lọc tư liệu, …nhằm giải quyết

những vấn đề mà đề tài đặt ra. Trên cơ sở đó, người nghiên cứu rút ra những

kết luận chính xác, khoa học về các nội dung nghiên cứu.

6. Đóng góp của luận văn

Về mặt khoa học: Luận văn tập trung trình bày về quá trình lãnh đạo của

8

Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa đối với sự nghiệp y tế trong 20 năm đổi mới trên các

lĩnh vực: xây dựng mạng lưới y tế và nguồn nhân lực, đẩy mạnh công tác y tế

dự phòng (YTDP) và phòng chống các bệnh xã hội, khám chữa bệnh, dược và

vật tư y tế và một số công tác khác, qua đó nêu bật lên được những thành tựu,

hạn chế trong quá trình lãnh đạo của Đảng bộ Thanh Hoá trong công tác

CS&BVSKND trong tỉnh. Trên cơ sở đó làm sáng tỏ vai trò, đóng góp của

Đảng bộ Thanh Hóa đối với sự nghiệp phát triển y tế của tỉnh. Trên cơ sở

đánh giá những thành tựu, hạn chế, người viết đúc rút ra những bài học kinh

nghiệm bổ ích cũng như đề xuất những giải pháp nhằm đẩy mạnh hơn nữa sự

nghiệp y tế của tỉnh trong thời kỳ tiếp theo.

Về mặt thực tế: Luận văn bổ sung thêm nguồn tư liệu về quá trình lãnh đạo

của Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa đối với y tế địa phương. Nó là cuốn tài liệu cần

thiết cho những ai quan tâm đến công tác y tế tỉnh Thanh Hoá. Đồng thời bổ

sung nguồn tư liệu tham khảo cho việc giảng dạy lịch sử địa phương. Từ đó

nâng cao sự hiểu biết, trách nhiệm của mọi người dân cả nước nói chung và

người dân Thanh Hoá nói riêng về công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe

nhân dân.

7. Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm

các phần sau:

Chƣơng 1: Vài nét về Thanh Hoá và sự nghiệp y tế dƣới sự lãnh đạo

của Đảng bộ tỉnh trƣớc năm 1986.

Chƣơng 2: Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lãnh đạo phát triển y tế (1986-

2005)

9

Chƣơng 3: Một số nhận xét và bài học kinh nghiệm

CHƢƠNG 1

VÀI NÉT VỀ THANH HOÁ VÀ SỰ NGHIỆP Y TẾ DƢỚI SỰ

LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH TRƢỚC NĂM 1986

1.1 Vài nét khái quát về Thanh Hoá

1.1.1 Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên

Thanh Hóa là vùng đất có từ lâu đời, một trong những cái nôi của dân tộc

Việt Nam. Ngay từ thời tiền sử vùng đất này đã có người sinh sống. Qua

những công cụ thô sơ trong những xưởng chế tác đá công cụ ở núi Đọ (Thanh

Hóa) cho thấy, người tiền sử đã sinh sống trên mảnh đất này từ thời đại đồ đá

cũ. Ngoài ra, các nhà khảo cổ học còn tìm thấy nhiều công cụ đồ đá đẽo gọt

tinh xảo khác không chỉ nổi tiếng ở Việt Nam, ở Đông Nam Á mà còn được

cả thế giới biết đến. Mặt khác, Thanh Hóa còn có vị trí chiến lược đặc biệt

quan trọng cả trong lĩnh vực quân sự lẫn kinh tế. Vì vậy, mảnh đất này là nơi

phát sinh nhiều triều đại phong kiến Việt Nam gắn với lịch sử đấu tranh dựng

nước và giữ nước của dân tộc. Với những kỳ tích đó, Thanh Hóa được ví như

một hình ảnh thu nhỏ của Việt Nam, theo lời di huấn của Chủ tịch Hồ Chí

Minh coi đây là mảnh đất “địa linh, nhân kiệt, đất đai màu mỡ, phì nhiêu….”.

Cũng như những vùng đất khác trên nước Việt Nam, trải qua quá trình lịch sử

hàng nghìn năm, Thanh Hóa cũng thay đổi về địa giới hành chính và tên gọi.

Tên đơn vị hành chính Thanh Hóa được thay đổi qua các thời kỳ theo

phương thức cai trị của bộ máy trung ương toàn lãnh thổ. Thời Hùng Vương,

Thanh Hóa thuộc bộ Cửu Chân của vương quốc Văn Lang. Thời thuộc Hán,

đất Thanh Hóa ngày nay là một phần quận Cửu Chân, thuộc bộ Giao Chỉ.

Thời Tam Quốc-Lưỡng Tấn Nam Bắc triều, Thanh Hóa tương đương với

quận Cửu Chân. Đến nhà Lương đặt là Ái Châu, đất Thanh Hóa từ “quận”

10

chuyển thành “châu”. Sang thời Tùy-Đường, Thanh Hóa lại được đặt lại tên

cũ là quận Cửu Chân. Thời Đinh-Tiền Lê, Thanh Hóa vẫn là Ái Châu. Thời

Lý-Trần, tên đơn vị hành chính của tỉnh Thanh Hóa được đổi sang “lộ” và

“phủ”, sang đó được đổi thành “trấn” ở thời Trần-Hồ, “thừa tuyên” ở đầu thời

Lê, “xứ” thời Hồng Đức. Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) đổi tên là tỉnh

Thanh Hoa. Đến năm Thiệu Trị thứ 3 (1843) đổi là tỉnh Thanh Hoá. Tên gọi

tỉnh Thanh Hoá bắt đầu có từ đây.

Dưới thời thuộc Pháp, Thanh Hóa là một tỉnh thuộc xứ Trung Kỳ, có một

tỉnh lỵ, 14 phủ, huyện đồng bằng, trung du và 6 châu thượng du.

Từ sau khi cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nhà nước Việt

Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Thanh Hóa là một tỉnh thuộc Liên khu IV cả

về hành chính và quân sự. Các phủ, huyện, châu cũ được đổi thành 21 huyện

và một thị xã. Đến năm 1995, bản đồ địa lý hành chính tỉnh Thanh Hóa chính

thức gồm: 1 thành phố, 2 thị xã và 20 huyện. Từ năm 1999, theo Nghị định số

72/CP của Chính phủ ngày 05/08/1999 về việc điều chỉnh địa giới hành chính

và cho đến hiện nay, tỉnh Thanh Hóa gồm 27 huyện, thị, thành phố với 630

xã, phường, thị trấn, 5.759 thôn, xóm, làng, bản, phố [82, tr. 279]. Trong đó

có 11 huyện miền núi là: Bá Thước, Cẩm Thủy, Lang Chánh, Mường Lát,

Như Thanh, Như Xuân, Ngọc Lặc, Quan Hóa, Quan Sơn, Thạch Thành,

Thường Xuân; 5 huyện ven biển: Hậu Lộc, Hoằng Hóa, Nga Sơn, Quảng

Xương, Tĩnh Gia; 8 huyện đồng bằng trung du là: Đông Sơn, Hà Trung, Nông

Cống, Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Triệu Sơn, Vĩnh Lộc, Yên Định; thành phố

Thanh Hóa và 2 thị xã: Bỉm Sơn và Sầm Sơn.

Thanh Hóa là tỉnh thuộc Bắc Trung Bộ. Thanh Hóa có vỹ độ Bắc 19033'- 20030', kinh độ Đông 1140-106030'. Phía Bắc Thanh Hóa giáp các tỉnh Ninh

Bình, Hoà Bình, Sơn La với đường ranh giới dài 175 km. Phía Nam và Tây

Nam liền kề Nghệ An với đường ranh giới dài hơn 160 km. Phía Tây nối liền

11

sông núi với tỉnh Hủa Phăn của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào với

đường biên giới dài 192 km. Phía Đông, mở ra phần giữa của vịnh Bắc Bộ

thuộc Biển Đông, với đường bờ biển dài trên 102 km và một thềm lục địa khá

rộng. Phần đất liền của Thanh Hóa chạy dài theo hướng Tây Bắc xuống Đông

Nam.

Thanh Hóa có mạng lưới giao thông phát triển khá hoàn chỉnh. Thanh

Hóa nằm án ngữ trên nhiều tuyến đường giao thông quan trọng nối liền mạch

máu giao thông Bắc-Nam. Tỉnh Thanh Hóa từ rất sớm được xem là nơi tập

trung các đầu mối giao thông thủy bộ quan trọng trong cả nước, nên việc đi

lại và phát triển kinh tế của nhân dân rất thuận lợi. Dọc chiều dài toàn tỉnh là

Quốc lộ 1A và đường sắt Bắc-Nam chạy qua, trong đó có các điểm mút giao

thông quan trọng như: Cầu Lèn, cầu Hàm Rồng, bến phà Ghép. Đường 15A

từ phía Tây, Tây Bắc Bộ xuyên qua vùng trung du và miền núi phía Bắc

Thanh Hóa kéo dài về phía Nam sang đất Nam Đàn (Nghệ An). Đường 217 từ

Na Mèo đến tỉnh lỵ Hủa Phăn (Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào). Ngoài ra

còn có nhiều hệ thống đường nhánh tỏa đi khắp tỉnh, nối liền các tỉnh khác

trong và ngoài nước….Do đó, trong các cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc,

Thanh Hóa luôn là mục tiêu bị đánh phá ác liệt.

Hệ thống giao thông đường thủy với bờ biển dài 102 km và một vùng

thềm lục địa rộng lớn được đánh giá là một kho tài nguyên vô giá về khoáng

sản và hải sản. Ngoài tiềm năng về kinh tế, vùng biển và thềm lục địa còn

được đánh giá là có vị trí chiến lược, có nhiều điểm xung yếu về quốc phòng,

tạo thành nhiều mục tiêu quân sự và các điểm cao quan trọng.

Thanh Hoá là tỉnh nằm trong vùng ảnh hưởng của những tác động từ khu

vực trọng điểm kinh tế phía Bắc (Hà Nội-Hải Phòng-Quảng Ninh) và những

tác động từ các vùng trọng điểm kinh tế phía Trung Bộ và Nam Bộ nên có

một vị trí rất thuận lợi trong giao lưu với các tỉnh, thành phố trong cả nước và

12

giao lưu quốc tế.

Thanh Hóa có đủ các dạng địa hình: từ núi tương đối cao đến đồi trung

du, đồng bằng, đồng chiêm trũng (nhiều vùng mặt đất còn thấp hơn mực nước

biển), đến bãi bồi, ruộng vùng ven biển, các đảo ven bờ và ngoài khơi. Địa

hình Thanh Hóa có đồi núi chiếm 3/4 diện tích cả tỉnh, nhiều đồi núi cao từ

1.000 m đến 1.500 m gắn liền với vùng rừng núi thuộc tỉnh Hủa Phăn (Lào).

Từ đây, địa hình thoải dần, kéo dài và mở rộng về phía Đông Nam. Đến

ngang vùng trung tâm của tỉnh, chỉ còn các núi đồi cao trên dưới 500 m, từ độ

cao 20 m trở xuống là đồng bằng, tiếp theo là vùng thềm lục địa rộng và nông

dưới đáy vịnh Bắc Bộ.

Khí hậu Thanh Hóa mang đặc điểm của vùng khí hậu Bắc Bộ với một

mùa đông (tuy ngắn) lạnh và khô, vừa mang những tính chất riêng của khí

hậu Trung Bộ. Mùa mưa muộn hơn các nơi khác và bão muộn hơn Bắc Bộ.

Đồng thời, Thanh Hóa còn có những ngày khô nóng do chịu ảnh hưởng gió

phơn Tây Nam thổi từ Lào sang. Nhìn chung, khí hậu Thanh Hóa có tính chất

chuyển tiếp giữa Bắc Bộ và Trung Bộ với kiểu khí hậu nhiệt đới gió mùa. Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 23-240c ở vùng đồng bằng-trung du; 200c ở

vùng núi. Lượng mưa trung bình 1600-2000 mm/năm. Số ngày mưa 130-150

ngày và mùa mưa thường kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10.

Diện tích đất tự nhiên của Thanh Hoá là 1.110.609 ha, trong đó đất nông

nghiệp 236.740 ha, đất lâm nghiệp 375.439 ha, đất chuyên dùng 55.304 ha,

đất ở 19.453 ha, đất chưa sử dụng và sông suối, núi đá 429.840 ha [82, tr. 97].

Do địa hình toàn tỉnh nghiêng dốc từ Tây Bắc xuống Đông Nam, tạo cho

hầu hết các sông suối đều bắt nguồn từ miền núi chảy theo hướng Tây Bắc-

Đông Nam đổ ra biển Đông đều ngắn (trừ sông Mã dài 528 km, trên địa phận

Thanh Hóa dài 242 km) có độ dốc lớn, biến thiên từ 5,4% đến 23,7%. Ở vùng

sát biển, sông có độ dốc nhỏ và chịu ảnh hưởng của thủy triều. Tổng diện tích

13

chiều dài của 16 sông chính và nhánh là 1.072 km. Mật độ sông ngòi không

lớn, biến đổi từ 0,1-1,06 km/km2. Từ Bắc vào Nam, Thanh Hóa có 4 hệ thống

sông chính là: sông Hoạt, sông Mã, sông Yên và sông Lạch Bạng. Hệ thống

sông ngòi không những liên tục được phù sa bồi đắp tạo thành vùng châu thổ

rộng lớn mà còn là nguồn nước chủ yếu phục vụ sản xuất và đời sống, đồng

thời là hệ thống giao thông đường thủy nối liền các vùng trong tỉnh và tỉnh

bạn. Trong các cuộc kháng chiến bảo vệ dân tộc, sông ngòi có vai trò rất quan

trọng trong việc vận chuyển lương thực, vũ khí, thuốc men và chở người tham

gia chiến đấu tới các chiến trường trong nước và các chiến trường trên bán

đảo Đông Dương.

Thanh Hóa là tỉnh có hệ thực vật đa dạng, trong hệ thực vật đó tiềm lực

dược liệu rất phong phú. Những cây con làm thuốc và các bài thuốc dân gian,

thuốc gia truyền là tài sản quý giá của xứ Thanh. Theo thống kê, tỉnh Thanh

Hóa có 714 loài thuốc, 514 chi, 167 họ, 82 bộ, 11 lớp, trong đó có hơn 600

loài cây thuốc mọc tự nhiên, phần lớn tập trung ở vùng rừng đất đai thấp.

Những loài cây có nhiều ở vùng núi đất là Thiên niên kiện, Sa nhân, Bách bộ,

Cẩu tích, Ngũ gia bì chân chim, Ba gạc, Củ mài, Đẳng sâm, Lá khôi, Thổ

phục linh, Hoàng đàn và Thạch xương bồ. Trên núi đá vôi thường gặp Lan

một lá, Thạch hộc, Vương tùng, Củ bình vôi, Huyết giác, Cốt toái bổ và Chân

chim núi. Ở các trảng cây bụi hay gặp Báo sâm, Ba kích, Cà gai leo, Kim

ngân, Thảo quyết minh, Nhân trần, Hy thiêm…..Trên các đụn cát ven biển có

Củ gấu biển và Dừa cạn. Ở vùng đồng bằng có Dành dành. Trước đây mỗi

năm có lúc khai thác tới vài trăm tấn dược liệu mọc tự nhiên. Hơn 100 loại

cây thuốc khác được trồng rãi rác trong các vườn cây thuốc của các trạm y tế,

các lương y và gia đình để dùng tại chỗ [82, tr.194-195].

Thanh Hoá có những cây, con, nguyên liệu làm thuốc quý như:

- Quế Thanh: nhiều nhất là ở Thường Xuân, Quế Thanh có trữ lượng tinh

14

dầu lớn và hiệu lực trị bệnh cao, ngày xưa thường dùng quế Thường Xuân để

cung tiến. Ngoài huyện Thường Xuân, người dân còn trồng ở Cẩm Thủy,

Ngọc Lặc. Dùng vỏ thân, vỏ cành, lá sắc uống để chữa các bệnh cảm lạnh,

đau bụng, ỉa chảy.

- Các loại Sâm là thuốc để bồi dưỡng cơ thể gồm: Báo sâm: ở Vĩnh Lộc,

Cẩm Thủy. Trước đây sâm Báo chỉ có ở Bồng Thượng, xã Vĩnh Hùng. Nay

mới phát hiện thêm ở Cẩm Thủy; Đẳng sâm: ở vùng Quan Hóa, Bá Thước;

Huyền sâm: cây trồng ở Hoằng Hóa, Thường Xuân; Sâm bố chính: trồng ở

Nga Sơn, Đông Sơn.

- Câu đằng: cây mọc hoang ở 6 huyện miền núi, có nhiều ở Như Xuân,

Thường Xuân, điều trị chứng co giật, nhức đầu, sốt, huyết áp cao.

- Thiên niên kiện: cây mọc hoang ở khắp các huyện miền núi, có nhiều ở

Quan Hóa, Bá Thước, Thường Xuân, dùng điều trị tê thấp.

- Cẩu tích: cây mọc hoang ở các huyện miền núi, dùng điều trị tê thấp, đau

lưng.

- Thổ phục linh: mọc hoang ở vùng trung du, miền núi, dùng điều trị đau

lưng, mụn nhọt, giang mai.

- Bách bộ: mọc ở các vùng trung du, miền núi, chữa ho và trừ giun sán.

- Thảo quyết minh: mọc hoang phổ biến ở Thọ Xuân, Thiệu Hóa, Yên

Định, dùng điều trị an thần, đau đầu, quáng gà.

- Ba kích lông: ở Thường Xuân, Như Xuân, chữa tê mỏi xương, bổ thận.

Rừng Thanh Hoá là nơi quần tụ và sinh sống của nhiều loài động vật,

trong đó có những loại động vật dùng làm thuốc. Đó là xương của không ít

loài thú như hổ, vượn, khỉ để nấu cao, mật gấu và mật của một số loài khác

như vượn, khỉ, nhung hươu, nai, vẩy tê tê, tắc kè, một số loài rắn, mỡ trăn và

gấu, nọc cóc và nọc của một số loài rắn, mật ong và nhiều sản phẩm khác

15

nữa. Một số loài khỉ, vượn được dùng để sản xuất vắc-xin. Nhiều dược liệu

nguồn gốc động vật là những mặt hàng có giá trị xuất khẩu đang có nhu cầu

tăng lên. Cần có biện pháp bảo vệ và phát triển chúng.

Từ sau năm 1975, thực hiện chủ trương của Đảng bộ, UBND tỉnh Thanh

Hoá đã chỉ đạo cho các địa phương trong tỉnh đẩy mạnh việc xây dựng các

vùng dược liệu tập trung theo kế hoạch. Trên cơ sở đó, ở Thanh Hoá thời kỳ

này đã xây dựng được một số vùng dược liệu tập trung như: vùng trồng cây di

thực (Xuyên khung, Bạch chỉ, Đương quy, Huyền Sâm) ở Son Bá Mười (Bá

Thước), Đục Vịn (Thường Xuân); vùng trồng cây Sinh địa (50 ha) ở huyện

Nga Sơn; vùng trồng cây Bạc hà và sản xuất tinh dầu Bạc hà (100 ha) ở

Hoằng Thắng (Hoằng Hóa); vùng trồng và sản xuất tinh dầu Hương nhu (150

ha) ở huyện Cẩm Thủy, Hà Trung; vùng trồng Ngưu tất, Huyền sâm (50 ha) ở

xã Phú Lộc (Hậu Lộc); vùng trồng Ý dĩ (150 ha) ở huyện Thường Xuân,

Quan Hóa, Như Xuân; vùng trồng Sen (100 ha) ở Vĩnh Lộc.

Thanh Hoá là một trong số ít các tỉnh ở Việt Nam có nguồn tài nguyên

khoáng sản phong phú và đa dạng, có tới 250 điểm với 42 loại khoáng sản

khác nhau, nhiều loại có trữ lượng lớn. Có các loại khoáng sản dùng trong y

tế như: đá vôi sử dụng làm các loại thuốc có can-xi, ma-giê, các-bô-nát lọc từ

nước ót.

Được thiên nhiên ưu đãi, Thanh Hóa xứng đáng là vùng đất “biển bạc,

rừng vàng”, hội đủ các nhân tố về nhân lực và vật lực để phát triển kinh tế, xã

hội một cách toàn diện trên nhiều lĩnh vực, trong đó có y tế. Tuy vậy, để

Thanh Hóa trở thành nền kinh tế động lực của miền Trung, nhân dân Thanh

Hóa cần phải hết sức nỗ lực và đoàn kết để có thể tận dụng tốt những lợi thế

sẵn có, vượt qua khó khăn, khẳng định vị thế là một tỉnh lớn của cả nước.

16

1.1.2 Tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội

Do điều kiện tự nhiên quy định đã tạo cho Thanh Hóa có một thế mạnh

hoàn chỉnh về kinh tế, cả về nông nghiệp, thủ công nghiệp, nghề rừng và nghề

biển.

Từ rất sớm, đồng bào các dân tộc Thanh Hoá đã biết quay đê đắp đập chế

ngự sông suối, phát triển một ngành nông nghiệp đa dạng ngành nghề, phong

phú về sản vật. Cùng với nông nghiệp, nhân dân Thanh Hoá còn khai thác

lâm sản phục vụ xây dựng, đóng kết thuyền bè, tổ chức đánh bắt thủy hải sản

trên sông, biển và sáng tạo nhiều nghề tiểu thủ công nghiệp: nghề chế tác đá,

đúc đồng, nghề mộc, nghề rèn, đan lát mây tre, dệt chiếu…..Sự có mặt đa

dạng của các ngành nghề kinh tế là cơ sở tạo nên những bước phát triển của

ngành thương nghiệp tỉnh Thanh Hoá.

Trước năm 1986, do những sai lầm về đường lối kinh tế, Việt Nam bị lâm

vào cuộc khủng hoảng và giảm sút nghiêm trọng, tỉnh Thanh Hoá cũng không

nằm ngoài tình trạng ấy. Sản xuất nông nghiệp phát triển chưa đều, năng suất

lúa chưa thật ổn định, chăn nuôi chậm phát triển. Sản xuất công nghiệp, thủ

công nghiệp chưa tương xứng với tiềm năng của tỉnh. Công tác quản lý bị

buông lỏng, sản phẩm làm ra kém chất lượng…Yêu cầu phải đổi mới về kinh

tế, đổi mới tư duy được đặt ra cấp thiết.

Khi bước vào công cuộc đổi mới, Thanh Hoá dần khắc phục được khó

khăn, nâng cao dần đời sống nhân dân với mức độ tăng trưởng GDP bình

quân hàng năm trên 7%. Thanh Hoá đang cùng cả nước tiến hành công

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hiện nay, Thanh Hoá đã hình thành 4 khu

công nghiệp là Bỉm Sơn-Thạch Thành ở phía Bắc, Nghi Sơn ở phía Nam, khu

công nghiệp Lam Sơn ở phía Tây và khu công nghiệp Lễ Môn ở phía Đông.

Tỉnh Thanh Hoá đã xây dựng được hệ thống cơ sở hạ tầng có thể đáp ứng

17

nhu cầu phát triển kinh tế ở mức độ nhất định.

Thanh Hoá nằm giữa miền Bắc và miền Trung, có đủ ba vùng tự nhiên, có

lịch sử phát triển lâu dài và liên tục, lại có nhiều đồng bào các dân tộc sinh

sống. Do đó, nhân dân Thanh Hoá đã tạo nên một nền văn hóa có truyền

thống lâu đời, vừa phong phú đa dạng, giàu chất dân tộc, vừa có những nét

độc đáo riêng. Di sản văn hoá, văn minh đặc sắc nhất của Thanh Hoá là sự

phát triển của nền văn minh đồng thau Đông Sơn. Sản phẩm đồng thau Đông

Sơn được xem là biểu tượng của nền văn hoá Đông Sơn, đồng thời là đại diện

cho nền văn minh của dân tộc Việt Nam.

Trên nền tảng một nền văn hoá như vậy, từ lâu Thanh Hoá đã được xem là

đất học. Ngay từ đầu của kỷ nguyên độc lập dưới các triều Lý, Trần, Hồ, Lê,

Thanh Hoá đã sản sinh ra nhiều nhân tài cho đất nước, làm rạng rỡ quê

hương. Sự học đã đào tạo cho quê hương đất nước những nhân tài xuất chúng

như: Lê Văn Hưu, Lê Lợi, Lê Thánh Tông, Đào Duy Từ….

Thanh Hoá nổi tiếng với nhiều danh lam thắng cảnh như: biển Sầm Sơn,

cụm di tích Nga Sơn, vườn quốc gia Bến En, suối cá Cẩm Lương….Bên cạnh

đó, Thanh Hoá còn nổi tiếng với nhiều di tích lịch sử có giá trị như: đền Bà

Triệu, thành nhà Hồ (Vĩnh Lộc), đền Lê Hoàn, cụm di tích lịch sử Lam Kinh

(Thọ Xuân), cụm di tích lịch sử Hàm Rồng và nhiều công trình kiến trúc đền

chùa độc đáo khác.

Trong sinh hoạt văn hoá tinh thần, hầu hết các dân tộc trong tỉnh đều theo

tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và tín ngưỡng thờ Thành hoàng. Ngoài đạo Phật,

đạo Lão, đạo Nho được du nhập từ rất sớm, đạo Thiên chúa cũng được truyền

bá vào Thanh Hoá, tạo nên sự đa dạng về mặt tôn giáo, tín ngưỡng.

Từ sau khi đất nước được giải phóng năm 1975 đến trước 1986, mặc dù

tình hình xã hội của tỉnh có nhiều chuyển biến, song cũng còn nhiều mặt yếu

kém như: đời sống vật chất của người dân (đặc biệt ở các vùng miền núi) còn

18

rất thấp, số hộ nghèo chiếm tỷ lệ cao, chất lượng giáo dục chưa đồng đều giữa

các vùng, miền; tình trạng thiếu cơ sở vật chất, trang thiết bị trường học, bệnh

viện hay các cơ sở y tế là phổ biến; công tác an ninh quốc phòng cũng còn

thiếu sót….

Theo số liệu thống kê và thời điểm 01/04/1989, số dân của Thanh Hóa là

2.991.317 người, đông thứ 5 trong 40 tỉnh, thành phố. Đến 01/04/1999, số dân

là 3.467.609 người. Với số lượng này, Thanh Hóa trở thành tỉnh đông dân thứ

hai trong cả nước (sau số dân của Thành phố Hồ Chí Minh). Năm 1999, bình quân mật độ dân số trung bình toàn tỉnh là 310 người/km2, năm 2000 tăng lên 320 người/km2 [82, tr. 479]. Tính đến năm 2005, só dân của tỉnh Thanh Hoá

là 3.676 triệu người. Do đó đã tạo ra lực lượng lao động đông đảo. Thanh Hoá

có chừng gần 2 triệu lao động, trong đó khoảng 90% sống ở địa bàn nông

thôn và phần lớn tham gia các hoạt động nông nghiệp hay liên quan đến nông

nghiệp. Về chất lượng lao động, điều đáng chú ý là có nhiều lao động trẻ,

trình độ văn hoá cao, thích ứng với sự ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật….

Với sự đông đảo về dân cư, đó là nguồn lao động dồi dào để khai thác các thế

mạnh về vị trí và tài nguyên để phát triển sản xuất. Đồng thời đó cũng là một

thị trường rộng lớn để tiêu thụ sản phẩm nhằm kích thích sản xuất phát triển.

Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế, xã hội của tỉnh hiện nay, số dân đông là

một trở ngại rất lớn, gây sức ép nhiều mặt cho các vấn đề phát triển kinh tế,

xã hội, môi trường và chất lượng cuộc sống, trong đó có việc CS&BVSKND

trong tỉnh.

1.2 Sự nghiệp phát triển y tế ở Thanh Hóa trƣớc năm 1986

1.2.1 Y tế Thanh Hoá trước cách mạng tháng Tám 1945

Trải qua các triều đại phong kiến, nền y dược học Thanh Hoá cũng có

nhiều thay đổi. Càng về sau càng xuất hiện nhiều danh y và công đức của họ

được người đời ca tụng. Tuy nhiên, y học giai đoạn này nhìn chung có nhiều

19

hạn chế, như số lượng những người làm thuốc còn ít, hệ thống Thái y viện

được lập ra cũng chỉ chủ yếu chăm sóc sức khoẻ cho vua chúa, quan lại,

những người giàu có trong xã hội. Còn phần lớn dân nghèo vẫn ít được chăm

sóc sức khoẻ, đặc biệt là ở những giai đoạn chuyển giao quyền lực, loạn lạc

và giặc dã.

Năm 1858, thực dân Pháp nổ phát súng đầu tiên ở Đà Nẵng xâm lược

nước ta. Năm 1883, cùng với sự đầu hàng nhục nhã của triều đình nhà

Nguyễn, đất nước hoàn toàn rơi vào tay giặc. Theo chân quân đội viễn chinh

Pháp, Tây y cũng vào nước ta và vì vậy y dược học Việt Nam được gọi là

Đông y, Thái y viện của Nam triều (nhà Nguyễn) không làm nhiệm vụ của

mình như trước nữa. Dần dần Ty lương y ở các tỉnh (trong đó có Thanh Hoá)

bị bãi bỏ. Pháp tổ chức y tế theo Tây y, xây dựng nhà thương ở các thành phố

và tỉnh lỵ. Đông y mất dần vị thế vì bị thực dân Pháp hạn chế, chèn ép, bị Tây

y coi rẻ và khinh miệt. Tuy mất vị trí Nhà nước, nhưng Đông y vẫn phát huy

tác dụng bảo vệ sức khoẻ nhân dân ở đồng bằng, miền biển, nông thôn cũng

như vùng cao.

Sau khi đế quốc Pháp chiếm đóng Đông Dương, một mặt khai thác bóc lột

nhân công, nhân dân phải chịu cuộc sống cơ cực: kinh tế cạn kiệt, bệnh tật ốm

đau tăng, sức khoẻ nhân dân giảm sút. Mặt khác, chúng cũng mở trường dạy

học và xây dựng hệ thống y tế để chữa bệnh cho quan chức người Pháp,

người Âu, người ngoại quốc, quan lại, binh lính, kể cả cho một số dân trong

nội hạt. Như vậy, cả nước nói chung và Thanh Hoá nói riêng, nền y học

phương Tây cũng theo quân đội viễn chinh Pháp và truyền bá. Từ đó, hình

thành ba nền y học: Y học dân tộc, y học phương Đông và y học phương Tây.

Sau khi bình định xong Đông Dương, thực dân Pháp cho xây dựng ở

Thanh Hoá một hệ thống y tế nhỏ nhoi và chắp vá, bao gồm một bệnh viện,

20

một phòng cấp cứu ở phủ Thọ Xuân, một trạm y tế ở Hồi Xuân và phòng y tế

ở các phủ huyện. Tất cả đều thiếu thốn, hạn chế về trang thiết bị cũng như

trình độ chuyên môn nghiệp vụ.

Theo quy định của Phủ toàn quyền, việc xây dựng bệnh viện là do quỹ địa

phương đảm nhận, quỹ của chính phủ bảo hộ chỉ hỗ trợ khi cần thiết. Những

năm đầu thế kỷ XX, người Pháp đã thành lập các phòng y tế ở hầu hết các

huyện trong tỉnh. Mỗi phòng y tế có 1 y tá và 1-2 tá dịch, chủ yếu phục vụ

nhu cầu khám chữa bệnh của bộ máy cai trị, quan lại và những người giàu có,

ngoài ra hàng năm còn tổ chức chủng đậu mùa và tiêm phòng tả cho nhân dân

trong vùng.

Nhìn chung, trong thời Pháp thuộc, y tế Thanh Hoá không đáp ứng được

yêu cầu khám và chữa bệnh của nhân dân. Ở các địa phương, phần lớn phải

dựa vào các lang y, các thầy thuốc tư hoặc ỷ thác số mệnh vào những cuộc

cúng bái. Ở thôn xã, việc sinh đẻ hay ốm đau đều do các bà mụ đảm nhiệm

nên tỷ lệ tai biến và tử vong rất cao. Có nhiều năm trong tỉnh đã có hàng ngàn

người phải thiệt mạng vì những bệnh dịch như: thổ tả, đậu mùa, sốt rét, lao,

phù thũng, dịch hạch….

1.2.2 Y tế Thanh Hoá trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp

(1945-1954)

Cách mạng tháng Tám thành công đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch

sử nước ta, kết thúc hơn 80 năm đô hộ của chủ nghĩa thực dân và hàng nghìn

năm áp bức của chế độ phong kiến. Cùng với thành công của cách mạng

tháng Tám, hệ thống y tế Thanh Hoá từ nay đã chính thức thuộc về chính

quyền cách mạng và nhân dân.

Tuy nhiên, sau cách mạng tháng Tám năm 1945, đất nước ta bước vào

giai đoạn hết sức khó khăn, chính quyền cách mạng còn non trẻ phải đối mặt

với thù trong, giặc ngoài, giặc đói, giặc dốt là hậu quả của chính sách đàn áp,

21

bóc lột của thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra cho nhân dân ta trong

những năm trước đó. Trong khi đó, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt

Nam lúc này là xây dựng và cũng cố bộ máy chính quyền cách mạng. Bên

cạnh đó, nguồn tài chính quốc gia hầu như không có, rồi bệnh tật phát sinh đã

ảnh hưởng đến mọi ngành trong cả nước nói chung, y tế Thanh Hoá non trẻ

nói riêng. Y tế Thanh Hoá theo đó bước vào một giai đoạn mới với nhiều khó

khăn ở phía trước.

Ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công, dưới sự lãnh đạo của

Đảng bộ tỉnh, ngành y tế bắt tay vào thực hiện 4 nhiệm vụ quan trọng trong

hoạt động vệ sinh phòng bệnh, đó là phòng các bệnh dịch (chấy rận, tả, đậu

mùa, thương hàn), tuyên truyền vệ sinh phòng bệnh (xây dựng nhà tiêu, giếng

nước, nhà tắm), phòng chống các bệnh xã hội (mắt hột, hoa liễu) và tuyên

truyền về tân dược. Bên cạnh đó, còn tích cực hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ

Chủ tịch bằng việc tham gia các phong trào “chống giặc đói”, “chống giặc

dốt”, đóng góp cho “Quỹ độc lập”, “Tuần lễ vàng”, tham gia phong trào “Hũ

gạo tiết kiệm”, với tinh thần “đồng tâm bớt bữa”.

Ngày 19/12/1946, trước âm mưu thôn tính nước ta thêm một lần nữa của

thực dân Pháp, Hồ Chủ tịch ra “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” với tinh

thần: “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không

chịu làm nô lệ”. Mới tiếp thu từ thực dân Pháp một bệnh viện nhỏ, nghèo nàn

lạc hậu thì bắt đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Thực hiện chủ trương tiêu

thổ kháng chiến, Bệnh viện tỉnh cũng như các phòng y tế phải sơ tán để vừa

phục vụ chiến đấu, vừa phục vụ sản xuất và đời sống. Theo đó, Bệnh viện

tỉnh phải sơ tán và chia ra làm 3 phân viện đóng tại Quảng Hán (nay thuộc xã

Yên Thọ, huyện Yên Định), thôn Hà Lũng (xã Thọ Dân, huyện Triệu Sơn) và

tại thôn Nhân Vực (nay thuộc xã Hoằng Hợp, huyện Hoằng Hóa). Ngoài ra,

còn thành lập 3 bệnh xá ở Vĩnh Lộc, Hà Trung và Nông Cống. Ngoài việc

22

cứu chữa cho thương binh, dân công, cán bộ và nhân dân, ngành y tế còn phải

đảm nhiệm cả nhiệm vụ chữa trị cho cán bộ của Quân khu IV, Khu III và

nước bạn Lào.

Xây dựng mạng lưới y tế nông thôn bằng cách đào tạo cán bộ, với sự phân

công trách nhiệm: các phòng y tế đào tạo vệ sinh viên, cứu thương, cán bộ y

tế; các phân viện, các bệnh xá khu vực đào tạo nữ hộ sinh nông thôn (nữ hộ

sinh sơ cấp 3-6 tháng); riêng phân viện Quảng Hán mở lớp nữ hộ sinh 9

tháng. Nhờ vậy mà trong những năm chống Pháp, ở hầu hết các thôn xã đã có

các chủng loại cán bộ nói trên.

Mở rộng phong trào vệ sinh yêu nước: ăn sạch, ở sạch (sạch làng, tốt

ruộng, đẹp nông thôn) được sự tham gia nhiệt tình của các tầng lớp nhân dân

và cán bộ các ngành sơ tán theo cơ quan về nông thôn.

Càng đến giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến, nhiệm vụ của ngành y tế

càng nặng nề hơn. Để phục vụ kế hoạch VTL24, VTL25, ngành đã thành lập

hàng chục trạm cấp cứu và 4 bệnh xá giã chiến trên các tuyến đường có dân

công đi phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, cứ từ 7-12 km lại có một trạm cấp

cứu. Ngành y tế Thanh Hoá đã tích cực bảo vệ sức khoẻ cho 12 vạn dân công

trong tỉnh chuyển lương thực đến Điện Biên Phủ cho đến thắng lợi hoàn toàn.

Công tác xây dựng mạng lưới y tế và đào đội ngũ cán bộ với khẩu hiệu

“yếu còn hơn thiếu” đã tổ chức được 26 trạm tải thương, 25 trạm cấp cứu, 25

trạm cứu thương, 2 trạm giải phẫu miền Tây và Vĩnh Lộc. Năm 1951, Bệnh

viện Hà Lũng được thành lập với quy mô 150 giường. Trong suốt thời kỳ

kháng chiến chống Pháp, Bệnh viện đã trở thành nơi khám chữa bệnh chủ yếu

của ngành y tế. Tính đến năm 1954, tổ chức và nhân lực của ngành y tế đã có

21 phòng y tế huyện với 984 cán bộ y tế, 414 nữ hộ sinh, 11.813 vệ sinh viên.

Toàn tỉnh có 484 xã có cán bộ y tế hoạt động [51, tr. 49].

1.2.3 Y tế Thanh Hoá trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước

23

(1954-1975)

Sau khi thất bại ở Điện Biên Phủ, ngày 21/07/1954, thực dân Pháp đã phải

ký Hiệp định đình chiến ở Giơnevơ. Mỹ bắt đầu can thiệp vào miền Nam với

âm mưu chiếm đóng, chia cắt lâu dài đất nước ta. Từ đây, đất nước tạm thời

bị chia làm hai miền Nam-Bắc, sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất

nước sẽ còn phải trải qua nhiều gian nan thử thách. Nhân dân ta vừa phải lo

hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, đưa miền Bắc tiến dần lên

chủ nghĩa xã hội, vừa phải tiếp tục đẩy mạnh cuộc cách mạng dân tộc dân chủ

nhân dân ở miền Nam, tiến tới thực hiện hoà bình thống nhất đất nước.

Đất nước vừa trải qua 9 năm kháng chiến, bom đạn tàn phá hầu hết cơ sở

hạ tầng, cộng với thiên tai nặng nề, nhân dân lầm vào cảnh nghèo đói, trình

độ văn hoá thấp kém, tập tục mê tín dị đoan, sinh hoạt, ăn ở mất vệ sinh phổ

biến khắp nơi, trong khi đó việc tuyên truyền giáo dục vệ sinh phòng bệnh

còn yếu, các bệnh dịch như: sởi, lỵ, đậu mùa, ỉa chảy, tả, sốt rét….nhân đà đó

phát sinh, phát triển khắp nơi.

Trong bối cảnh ấy, y tế Thanh Hoá cũng đang gặp rất nhiều khó khăn, như

lực lượng cán bộ mỏng, yếu, trang thiết bị y tế thiếu thốn lạc hậu, dụng cụ

phẫu thuật thô sơ, thuốc chữa bệnh thiếu thốn cả về chủng loại và số lượng

nhưng vẫn phải đáp ứng nhu cầu chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân

trong tỉnh. Góp phần thực hiện chủ trương tập trung khôi phục kinh tế, khắc

phục hậu quả chiến tranh, thiên tai, sớm ổn định đời sống nhân dân….y tế

Thanh Hoá đã tích cực phòng chống dịch bệnh, khám chữa bệnh kịp thời để

chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ nhân dân.

Cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc, ngành y tế Thanh Hóa bắt tay vào

giai đoạn khôi phục kinh tế, khắc phục hậu quả thiên tai và tham gia nhiều

nhiệm vụ quan trọng khác như: khắc phục hậu quả vỡ đê ở Thọ Nguyên (Thọ

Xuân), phục vụ công trình tu sửa đập Bái Thượng và hệ thống Nông Giang;

24

phục vụ công trường A-56 Hồi Xuân và công trường 217; thành lập bệnh xá

riêng phục vụ đoàn cán bộ cải cách ruộng đất của tỉnh; phục vụ bộ phận đồng

bào chiến sĩ miền Nam tập kết ra Bắc; chăm sóc sức khỏe cho nhân dân đi

khai hoang,….

Trong thời kỳ hoà bình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1955-

1964), y tế Thanh Hoá đã có bước trưởng thành và phát triển vượt bậc, thể

hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong khoảng thời gian đó,

dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, y tế Thanh Hoá đã được thiết lập và hình

thành được hệ thống tổ chức từ tuyến tỉnh đến các xã, phường, thôn, bản.

Hình thành các chuyên ngành để thực hiện công tác YTDP và phòng chống

các bệnh xã hội. Hoạt động của ngành lúc này đã thể hiện quán triệt quan

điểm đường lối YTDP của Đảng và Nhà nước. Sau khi Bệnh viện miền Nam

D được bàn giao cho tỉnh và sáp nhập với Bệnh viện Thanh Hóa đã trở thành

bệnh viện lớn nhất miền Bắc lúc bấy giờ với quy mô 800 giường nội trú. Ở

hầu hết các huyện thị đều thành lập bệnh xá có từ 50-70 giường bệnh, sau đó

được nâng cấp chuyển thành bệnh viện huyện có quy mô từ 50-100 giường.

Đây là thời kỳ thực hiện tốt xã hội hoá công tác y tế thể hiện rõ nét qua

việc phát động và duy trì phong trào vệ sinh phòng bệnh, vệ sinh yêu nước

rộng khắp trong nhân dân; bài trừ các hủ tục lạc hậu không có lợi cho sức

khoẻ; khống chế đẩy lùi một số bệnh xã hội; huy động sức người, sức của của

nhân dân để xây dựng cơ sở vật chất cho ngành, đặc biệt là xây dựng hệ thống

trạm y tế tại các xã trong tỉnh.

Mạng lưới y tế được quan tâm chú trọng với việc kiện toàn mạng lưới y tế

xã, thôn bản, y tế công, nông trường, xí nghiệp cùng chế độ chính sách cho y

tế cơ sở. Đây là yếu tố quan trọng góp phần đạt những kết quả to lớn trong

công tác YTDP và phòng chống các bệnh xã hội.

Đội ngũ cán bộ có bước phát triển vượt bậc cả về số lượng và chất lượng,

25

đủ khả năng hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ công tác y tế trong thời bình

cũng như chuẩn bị sẵn sàng đáp ứng các yêu cầu nhiệm vụ phục vụ thời

chiến.

Đây là thời kỳ đạt nhiều thành tựu quan trọng trong các lĩnh vực điều trị,

dự phòng, phòng chống các bệnh xã hội, phát triển nền y học cổ truyền

(YHCT) dân tộc, cũng cố và phát triển ngành dược….Nhiều hoạt động và mô

hình đã trở thành điểm sáng của ngành y tế cả nước, có giá trị đóng góp về lý

luận và thực tiễn trong tiến trình xây dựng và phát triển ngành y tế cả nước.

Sau thất bại trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam, đế quốc

Mỹ buộc phải thực hiện chiến lược “chiến tranh cục bộ”, đưa nửa triệu quân

viễn chinh Mỹ và quân chư hầu và miền Nam, gây ra cuộc chiến tranh phá

hoại trên toàn miền Bắc. Thanh Hoá là một trong những trọng điểm chiến

tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của địch, nhằm ngăn chặn sự chi

viện của miền Bắc xã hội chủ nghĩa cho chiến trường miền Nam. Cùng với

miền Bắc, Thanh Hoá phải đối đầu với hai cuộc chiến tranh phá hoại bằng

không quân và hải quân của đế quốc Mỹ, trong đó lần thứ nhất bắt đầu từ năm

1965, lần thứ hai khốc liệt hơn mang tính huỷ diệt vào năm 1972. Trong hai

cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ có 14 bệnh viện, 114 trạm y tế xã,

12 hiệu thuốc, trường y sĩ, xí nghiệp dược phẩm bị bom đạn tàn phá. Bom đạn

cũng đã cướp đi sinh mạng của nhiều con người, trong đó có 85 cán bộ và học

sinh trường Trung cấp Y sĩ trong khi làm nhiệm vụ đắp đê bảo vệ công trình

quốc phòng an ninh trọng điểm gần chân cầu Hàm Rồng. Y tế Thanh Hoá

phải hai lần sơ tán về các vùng nông thôn, cách xa các khu vực trọng điểm

đánh phá ác liệt của giặc Mỹ để bảo toàn lực lượng, vừa làm nhiệm vụ chăm

sóc bảo vệ sức khoẻ nhân dân, vừa phục vụ chiến đấu.

Công tác y tế thời kỳ này thực hiện 5 phương châm: Y tế phục vụ sản xuất

26

và chiến đấu; phòng bệnh là chính; thống nhất phòng bệnh và chữa bệnh,

chữa bệnh để phòng bệnh, chữa bệnh toàn diện; kết hợp Đông-Tây y trong

công tác phòng bệnh và chữa bệnh; y tế đi đúng đường lối.

Trong 10 năm, vừa có hoà bình, vừa có chiến tranh, y tế Thanh Hoá vẫn

không ngừng phát triển, ngày càng lớn mạnh, đạt nhiều thành tích trong công

tác bảo vệ chăm sóc sức khoẻ nhân dân và phục vụ chiến đấu, khắc phục các

hậu quả thiên tai, bão lụt. Mạng lưới y tế tiếp tục được phát triển, cũng cố và

ngày càng hoàn thiện, đã xây dựng và nâng cấp các bệnh xá trở thành các

bệnh viện huyện, thị, phát triển các chuyên khoa, hầu hết các chuyên ngành

đều có mạng lưới chân rết tại cơ sở. Công tác đào tạo tiếp tục được đẩy mạnh,

đội ngũ cán bộ có sự phát triển lớn mạnh vượt bậc (đến năm 1974, toàn ngành

có 200 bác sỹ và dược sỹ đại học). Đến năm 1975, đã đạt tỷ lệ 8,7 y bác sỹ và

10,5 giường bệnh cho 1 vạn dân [51, tr. 143].

Trong công tác phục vụ chiến đấu, Thanh Hoá là một trong những tỉnh

phát triển về công tác ngoại khoa thời kỳ này, những kinh nghiệm về tổ chức

và thực hiện cấp cứu chiến thương ở Thanh Hoá đã được báo cáo điển hình,

đóng góp vào công tác cấp cứu chiến thương của Bộ Y tế. Để sẵn sàng phục

vụ chiến đấu, ngành đã thành lập một hệ thống các trạm cấp cứu đặt cách nơi

hay đánh phá 2-3 km tập trung các khu vực gần ga xe lửa, dọc đường số 1,

ven biển và ở thị xã Thanh Hóa. Các bệnh viện và các hiệu thuốc đều có các

cơ số thuốc dự trữ. Các đội cấp cứu và hồi sức đề được trang bị đầy đủ dụng

cụ thuốc men.

Đây cũng là thời kỳ ngành y tế Thanh Hoá tiếp tục thực hiện chủ trương

tiêu diệt, thanh toán một số bệnh xã hội và đã đạt nhiều kết quả quan trọng.

Nhiều mô hình trở thành điểm sáng của y tế cả nước, có giá trị đóng góp cả về

lý luận và thực tiễn đối với y tế cả nước (điển hình là phong trào vệ sinh yêu

nước, thanh toán quặm, tiêu diệt và thanh toán bệnh sốt rét, thanh toán bệnh

27

lao….).

Với những kết quả đó, ngành y tế Thanh Hoá đã có những đóng góp thiết

thực trong thành tích chung của quân và dân Thanh Hoá, vừa xây dựng kiến

thiết chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, hoàn thành nghĩa vụ hậu phương lớn chi

việc cho tiền tuyến lớn miền Nam.

1.2.4 Y tế Thanh Hoá trong thời kỳ khôi phục, phát triển kinh tế, văn

hoá, xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội (1975-1985)

Sau khi sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước của

nhân dân ta đã giành thắng lợi hoàn toàn. Toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta

bước vào một thời kỳ mới, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong bối cảnh

đó, y tế Thanh Hoá đã nhanh chóng khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định tổ

chức và thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành mà Đảng và Nhà nước giao

phó.

Cùng với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, giai đoạn này, y tế Thanh

Hoá nhận được sự viện trợ của nhiều tổ chức quốc tế, trong đó đặc biệt là

UNICEF, Quỹ phát triển dân số Liên hợp quốc. Tính đến năm 1984, hầu hết

các đội vệ sinh phòng dịch chống sốt rét, sinh đẻ kế hoạch tại các huyện, thị

và hơn một nửa số trạm y tế xã đã nhận viện trợ trang thiết bị của UNICEF và

Quỹ phát triển dân số Liên hợp quốc. Viện trợ quốc tế của các tổ chức này

chủ yếu là trang thiết bị, thuốc, hoá chất nhằm giải quyết công tác YTDP,

tiêm chủng mở rộng, phòng chống bệnh cho trẻ em dưới 5 tuổi và các dịch vụ

kế hoạch hoá gia đình.

Thời kỳ này một số đơn vị y tế tuyến tỉnh được thành lập mới như: Trạm

vật tư và sửa chữa thiết bị y tế (năm 1976), đến năm 1985 đổi tên thành Công

ty Vật tư thiết bị y tế; Trạm Bướu cổ (1976); Bệnh viện Phụ sản (1980) trên

cơ sở từ Khoa Sản Bệnh viện Đa khoa tỉnh tách ra; Trường Cao đẳng y Thanh

Hoá (1981) trên cơ sở tách một bộ phận ra khỏi Trường Trung học Y tế

28

Thanh Hoá; Trạm chuyên khoa phòng chống bệnh tâm thần (1983).

Bên cạnh việc cũng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế tuyến tỉnh, mạng lưới

y tế tuyến huyện cũng có nhiều thay đổi. Thời gian này, nhiều bệnh viện được

xây dung như: Bệnh viện Đa khoa Cẩm Thuỷ, Bệnh viện Hoằng Hoá, Bệnh

viện Hậu Lộc, Bệnh viện Bá Thước, Bệnh viện vùng cao Quan Hoá, Bệnh

viện Thị xã Sầm Sơn, Bệnh viện Bỉm Sơn….

Hệ thống y tế, đặc biệt là tại tuyến tỉnh đã được củng cố thêm một bước

với việc thành lập thêm một số trạm chuyên khoa. Đội ngũ cán bộ cũng có sự

phát triển về số lượng và chất lượng. Đến năm 1985 có 5.628 cán bộ (trong đó

có 18 cán bộ trên đại học, 646 bác sỹ, 151 dược sỹ đại học). Tỷ lệ bác sỹ/1

vạn dân trong toàn tỉnh là 2,4 [51, tr. 149-150].

Trong lĩnh vực dự phòng, năm 1976 huyện Hoằng Hóa được Bộ Y tế công

nhận là huyện đầu tiên trong cả nước hoàn thành dứt điểm 3 công trình vệ

sinh. Kết quả và kinh nghiệm triển khai chương trình ở Thanh Hóa đã được

Trung ương chỉ đạo áp dụng rộng khắp cả nước. Năm 1979, từ mô hình xã

chống phong tốt tại Nga Sơn, Bộ Y tế đã xây dựng chiến lược thanh toán

phong trong cả nước. Năm 1983, huyện Nga Sơn được công nhận là huyện

đầu tiên trong cả nước thanh toán bệnh phong và trở thành một mẫu hình của

phong trào thanh toán phong từng vùng để làm tiền đề cho công tác thanh

toán bệnh phong trong cả nước về sau này.

Trong công tác khám chữa bệnh, tổng số giường bệnh từ 2.550 trong năm

1975 được tăng lên 3.980 năm 1985. Các hoạt động chuyên khoa trong bệnh

viện được củng cố. Tại Bệnh viện tỉnh đã có 19 chuyên khoa và phân khoa đã

thực hiện một số loại phẫu thuật phức tạp như: sọ não, mổ thận, ghép giác

mạc,….Đến năm 1985, hầu hết các huyện đều có đủ các chuyên khoa: X

quang, ngoại sản, mắt, răng-hàm-mặt, tai-mũi-họng. Tỷ lệ tử vong chung

29

ngày càng giảm, từ 1,8% năm 1976, đến năm 1985 còn 0,37%.

Nhìn chung, trước năm 1986, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thanh

Hoá, công tác CS&BVSKND của tỉnh đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Hệ

thống y tế tuyến tỉnh, huyện đã được mở rộng, đã thành lập hầu hết các đơn vị

chuyên khoa tuyến tỉnh và hệ thống bệnh viện, phòng y tế, đội vệ sinh phòng

dịch và hiệu thuốc ở tuyến huyện. Công tác vệ sinh phòng bệnh luôn được

xác định là nhiệm vụ trọng tâm của ngành. Việc phòng chống các bệnh xã hội

đã được đẩy mạnh và thu được những kết quả đáng kể. Lĩnh vực khám chữa

bệnh đã có nhiều cố gắng nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu khám và điều trị

bệnh của nhân dân trong tỉnh. Đội ngũ cán bộ y tế có sự bổ sung và tăng

cường cán bộ y tế có trình độ đại học và trên đại học. Phong trào trồng và sử

dụng thuốc Nam được phát triển rộng khắp. Việc kết hợp Đông-Tây y trong

các bệnh viện được chú trọng.

Tuy nhiên, trong giai đoạn này y tế Thanh Hoá cũng phải đối mặt với

nhiều khó khăn thử thách. Sau khi thống nhất nước nhà, hậu quả của cuộc

chiến tranh để lại rất nặng nề, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, thiếu

lương thực, thực phẩm và các nhu yếu phẩm. Cơ sở vật chất chậm được xây

dựng cũng cố, thiếu trang thiết bị, vật tư, kinh phí đáp ứng yêu cầu công tác.

Sau giải phóng, sự giao lưu giữa các vùng miền ngày càng lớn, tạo điều kiện

để một số loại dịch xâm nhập và bùng phát. Năm 1980-1981 liên tiếp xảy ra

các trận bão lớn gây nhiều thiệt hại về cơ sở vật chất, ô nhiễm môi trường

nặng nề, tạo điều kiện cho một số dịch bệnh phát sinh, phát triển.

Thời kỳ này một số dịch bệnh xuất hiện và bùng phát như: dịch tả, sốt

xuất huyết, dịch hạch, bạch hầu, sở, ho gà, cúm, đau mắt,…Việc phòng chống

bệnh lao đối mặt với những khó khăn, thách thức do số người bị nhiễm lao

trong cộng đồng còn cao. Hơn nữa, do giới hạn về nhận thức nên có nhiều

người bị mắc lao nhưng vẫn không đến cơ sở y tế Nhà nước, tự mua thuốc

30

điều trị hay tin vào việc cúng bái nên không những không khỏi bệnh mà họ

còn trở thành nguồn lây nhiễm lao cho cộng đồng. Công tác vệ sinh môi

trường mặc dù được tỉnh quan tâm chỉ đạo, nhưng do điều kiện kinh tế và

nhận thức của người dân còn hạn chế nên những thành quả của các cuộc vận

động xây dựng công trình vệ sinh môi trường bị xuống cấp nghiêm trọng.

Những tập quán sinh hoạt không có lợi cho sức khoẻ vẫn tiếp tục là bài toán

nan giải. Nhiều nơi, nhân dân còn tồn tại những tập quán ăn uống không có

lợi cho sức khoẻ. Công tác vệ sinh môi trường, phòng chống dịch bệnh và

việc làm thay đổi nhận thức của người dân là một thách thức đối với y tế

Thanh Hoá trong giai đoạn tiếp theo.

Mặc dù được đầu tư, nhưng tình trạng bệnh viện thường xuyên quá tải vẫn

diễn ra. Khó khăn bao trùm nhất của công tác khám chữa bệnh trong thời kỳ

này là sự xuống cấp về cơ sở hạ tầng, thiếu kinh phí cho hoạt động. Các trang

thiết bị kỹ thuật phục vụ công tác khám chữa bệnh đa số đều đã cũ kỹ, lạc hậu

và rất thiếu thốn, các máy móc phương tiện thăm dò chức năng và chẩn đoán

hình ảnh hầu như chưa có gì ngoài X.quang, chỉ có Bệnh viện Đa khoa tỉnh có

1 máy điện tim. Máy X.quang ở các bệnh viện tuyến huyện đều do các nước

xã hội chủ nghĩa sản xuất từ những năm 60-70, chất lượng kém, đa số không

đảm bảo an toàn cho người sử dụng. Xét nghiệm sinh hoá trong toàn tỉnh chủ

yếu là phương pháp thủ công. Thuốc, hoá chất, dịch truyền và các vật tư tiêu

hao phục vụ cho công tác khám chữa bệnh ở các tuyến rất khó khăn thiếu

thốn. Tinh thần thái độ phục vụ người bệnh có chiều hướng ngày càng giảm

sút, cán bộ không thiết tha đi học để nâng cao trình độ chuyên môn, do đó

chẳng những không phát triển được các kỹ thuật mới trong chẩn đoán và điều

trị mà một số kỹ thuật còn bị mai một.

Hoạt động của mạng lưới y tế cơ sở hết sức khó khăn. Vẫn còn tình trạng

nhiều xã chưa có trạm y tế, chủ yếu tập trung ở các huyện miền núi. Trình độ

31

của đội ngũ cán bộ công tác ở y tế cơ sở còn thấp. Trang thiết bị tại trạm y tế

hết sức nghèo nàn, thiếu những thuốc men thiết yếu dẫn đến tình trạng nhân

dân ốm đau không đủ thuốc điều trị, nhất là ở miền núi. Do đời sống khó

khăn, nên đến năm năm 1980 trở đi hệ thống y tế cơ sở, đặc biệt là y tế xã bắt

đầu xuống cấp, hoạt động rời rạc, công tác y tế ở một số địa bàn bị buông

lỏng, tạo điều kiện thuận lợi cho một số dịch bệnh bùng phát.

Mặc dù được tỉnh quan tâm chỉ đạo, nhưng việc hạ tỷ lên tăng dân số vẫn

chưa đạt được những bước chuyển sâu sắc. Tỷ lệ tăng dân số vẫn còn cao,

thời kỳ (1983-1986) ở mức 2,3%. Do đó, việc giảm tỷ lệ phát triển dân số đã

trở thành một vấn đề lớn và cấp bách của tỉnh.

Những tồn tại trên đã kéo dài từ nhiều năm, đòi hỏi sự nỗ lực của Đảng

bộ, chính quyền, nhân dân Thanh Hoá, trong đó ngành y tế giữ vai trò đặc biệt

quan trọng về chuyên môn nhằm phát huy những mặt đạt được, từng bước

tháo gỡ những khó khăn trong công tác CS&BVSKND cho nhân dân trong

tỉnh, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội thời kỳ đổi mới mà Đảng

32

bộ tỉnh đã đề ra.

CHƢƠNG 2

ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HÓA LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN Y TẾ

(1986-2005)

2.1 Đƣờng lối phát triển y tế của Đảng và Nhà nƣớc thời kỳ đổi mới

2.1.1 Đường lối phát triển y tế của Đảng và Nhà nước

Thực hiện các nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, lần V và

các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng trong thời kỳ của các

nhiệm kỳ Đại hội đó, nhân dân Việt Nam đã giành được nhiều thắng lợi quan

trọng trên các lĩnh vực, cải tiến được một phần cơ cấu nền kinh tế, xã hội, đặt

những cơ sở đầu tiên cho sự phát triển mới. Song, chúng ta chưa tiến xa được

bao nhiêu, trái lại còn gặp nhiều khó khăn và khuyết điểm mới. Trong thời kỳ

kế hoạch 5 năm (1981-1985), chúng ta không ổn định được mục tiêu đề ra là

ổn định tình hình kinh tế, xã hội, ổn định đời sống nhân dân. Trái lại, sai lầm

về tổng điều chỉnh giá, lương, tiền cuối năm 1985 đã làm cho nền kinh tế

nước ta gặp nhiều khó khăn mới. Nền kinh tế nước ta lâm vào khủng hoảng

trầm trọng. Trong khi đó, trên thế giới các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô

và Đông Âu đã bị khủng hoảng do không bắt nhịp được thời đại. Do đó, đổi

mới là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với nước ta, đồng thời là vấn đề phù

hợp với xu thế chung của thời đại.

Bối cảnh đó Đảng ta đã tiến hành Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI

(12/1986) với phương châm “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật và

nói rõ sự thật”, từ đó xác định nhiệm vụ và đường lối chiến lược để đưa đất

nước vượt qua khó khăn, tiến lên phía trước.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã

phân tích sâu sắc những thành quả và sai lầm, khuyết điểm của cách mạng

33

nước ta, đồng thời rút ra những bài học về hành động để phù hợp với quy luật

khách quan. Từ đó, Đại hội đã xác định nhiệm vụ, mục đích của cách mạng

trong thời kỳ đất nước đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội là: “Toàn Đảng, toàn

dân và toàn quân đoàn kết một lòng, quyết đưa hết tinh thần và lực lượng tiếp

tục thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng thành công chủ

nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” [30,

tr. 37-38].

Để thực hiện tốt nhiệm vụ trên, Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới đất

nước một cách toàn diện, đồng bộ, từ kinh tế, chính trị, đến xã hội, văn hoá,

tư tưởng, những trong đó trọng tâm là đổi mới kinh tế.

Về y tế, Đại hội nhấn mạnh: “Sức khỏe của nhân dân, tương lai của giống

nòi là mối quan tâm thường xuyên của Đảng và Nhà nước ta, là trách nhiệm

của tất cả các ngành, các đoàn thể, là trách nhiệm và lợi ích thiết thân của mỗi

công dân. Trên cơ sở tiếp tục quán triệt các quan điểm y học dự phòng, kết

hợp y học hiện đại với YHCT và phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng

làm”, trước mắt tập trung nâng cao chất lượng các hoạt động y tế và đạt được

tiến bộ rõ rệt trong việc chăm sóc sức khỏe nhân dân. Có biện pháp tích cực

và chính sách thích hợp nhanh chóng cũng cố mạng lưới y tế, nhất là y tế

huyện, quận và cơ sở. Phát động rộng rãi phong trào quần chúng và huy động

lực lượng các ngành tham gia bảo vệ và làm sạch môi trường, phòng và chống

dịch, phòng và chống các bệnh xã hội, nghề nghiệp….Nâng cao chất lượng và

hiệu quả công tác khám và chữa bệnh. Tăng cường giáo dục cán bộ, nhân viên

y tế về thái độ, tinh thần phục vụ. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học,

cải cách công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ y tế, không ngừng nâng cao trình

độ của nền y học và y tế nước ta. Cố gắng đầu tư thêm cho công tác y tế và

chăm lo tốt hơn đời sống vật chất, văn hóa của đội ngũ cán bộ y tế. Phát triển

sản xuất dược phẩm và thiết bị, dụng cụ y tế. Mở rộng nuôi trồng, chế biến và

34

sử dụng có hiệu quả thuốc ta. Có chính sách đầu tư để hình thành các vùng

dược liệu tập trung, tạo nguồn nguyên liệu cho sản xuất dược phẩm và cho

xuất khẩu, mở rộng sản xuất hóa dược, xây dựng công nghiệp kháng sinh.

Nâng cao năng lực xuất khẩu để nhập khẩu những thứ chưa sản xuất được.

Xây dựng ngành công nghiệp dược phẩm. Tranh thủ sự hợp tác quốc tế và sử

dụng đúng các nguồn viện trợ trong lĩnh vực bảo vệ sức khỏe nhân dân” [30,

tr. 93-94].

Đại hội VI của Đảng là Đại hội kế thừa và quyết tâm đổi mới, đoàn kết

tiến lên của Đảng. Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam là mốc quan

trọng đánh dấu bước chuyển mình sang một thời kỳ mới của đất nước Việt

Nam.

Tuy nhiên, trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị

trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, ngành y tế cả nước nói chung và y

tế Thanh Hóa nói riêng cũng gặp không ít khó khăn trở ngại. Trước năm

1986, Việt Nam đã có một nền y tế khá phát triển, với một màng lưới y tế

rộng khắp tới tận thôn xóm. Y tế Việt Nam đã từng là hình mẫu cho nhiều

nước học tập. Sau năm 1986, và nhất là sau năm 1989, sự tác động của cơ chế

thị trường làm cho hệ thống y tế gặp nhiều khó khăn không chỉ ở nông thôn

mà còn ở bệnh viện các tuyến.

Trong những năm đầu thời kỳ đổi mới, nhận thức của ngành y tế về đổi

mới hoạt động trong điều kiện nền kinh tế chuyển dần sang kinh tế thị trường

chưa rõ ràng, tuy nhiên có định hướng của Đảng, Nhà nước, trong đó có Bộ Y

tế chưa ban hành kịp thời những chế độ chính sách, những cơ chế để thực

hiện chuyển hướng. Ngân sách nhà nước cấp giảm dần hàng năm, nguồn thu

tài chính hợp pháp không có, nhân dân thì quen được Nhà nước bao cấp toàn

bộ thuốc men, thậm chí cả ăn khi vào bệnh viện.

Tăng trưởng kinh tế đã làm tăng thêm mức sống dân cư một cách đáng kể,

35

cơ chế thị trường đã tạo ra sự phân hóa giàu nghèo. Có những kẻ giàu, người

nghèo ngay trong một vùng địa lý, dân cư. Cách biệt giàu nghèo đã ảnh

hưởng đến thực trạng sử dụng dịch vụ y tế. Nhóm người nghèo sử dụng cơ sở

y tế công trong khám chữa bệnh thấp hơn hẳn nhóm người có thu nhập cao.

Sự khác biệt giữa miền xuôi và miền núi cũng bắt đầu nảy sinh những vấn đề

trong sử dụng các cơ sở y tế. Bên cạnh đó, vấn đề tệ nạn xã hội có xu hướng

ngày càng phát triển, đạo đức xuống cấp, nhiều lĩnh vực phải hoạch toán lại,

nhân dân phải lo lấy việc chăm sóc sức khỏe, đến bệnh viện phải trả viện

phí…..làm cho một số cán bộ ở các bệnh viện làm công tác điều trị bệnh nhân

dẫn đến một số tiêu cực ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa bệnh nhân và thầy

thuốc.

Trước yêu cầu đổi mới hoạt động y tế đang đứng trước một thực tế hết sức

phức tạp, với khả năng đầu tư có hạn của ngân sách, ngành y tế phải từng

bước khắc phục tình trạng bao cấp tràn lan, song phải đáp ứng nhu cầu chăm

sóc và bảo vệ sức khỏe ngày càng tăng, đồng thời phải đảm bảo đầy đủ các

chính sách xã hội. Trong khi xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp,

những ảnh hưởng của cơ chế thị trường trong đời sống kinh tế, đổi mới với sự

công bằng trong ngành y tế đã đặt ngành đứng trước lựa chọn sao cho phù

hợp với tình hình thực tế để tồn tại và phát triển. Mặt trái của cơ chế thị

trường tác động rất lớn đến công tác y tế, làm ảnh hưởng đến tinh thần và thái

độ phục vụ của cán bộ, nhân viên ngành y tế.

Trước tình hình đó, Đảng ta đã đưa ra chủ trương chung nhằm phát triển y

tế trong cả nước: Hướng phát triển y tế là Nhà nước đóng vai trò chủ đạo, tư

nhân là một lực lượng cần tham gia cùng chia sẻ.

Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 04 (khóa VII) ngày

14/01/1993 “Về những vấn đề cấp bách trong sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ

36

sức khỏe nhân dân” trên cơ sở đánh giá những thành tựu, hạn chế của sự

nghiệp CS&BVSKND từ sau khi thực hiện đổi mới, đã đưa ra những quan

điểm cơ bản và mục tiêu của công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân:

Các quan điểm chỉ đạo công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân:

- Sức khỏe là vốn quý của mỗi con người và của toàn xã hội, là nhân tố

quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, chúng ta

phấn đấu để mọi người đều được quan tâm chăm sóc sức khỏe.

- Việc chăm sóc sức khỏe và giải quyết các vấn đề về bệnh tật cần phải

theo quan điểm dự phòng tích cực và chủ động, đẩy mạnh phong trào vệ sinh

phòng bệnh, rèn luyện thân thể, đi đôi với nâng cao hiệu quả điều trị.

- Kết hợp y học hiện đại với YHCT dân tộc.

- Sự nghiệp chăm sóc sức khỏe là trách nhiệm của cộng đồng và mỗi

người dân, là trách nhiệm của các cấp ủy đảng và chính quyền, các đoàn thể

nhân dân và các tổ chức xã hội, trong đó ngành y tế giữ vai trò nòng cốt.

- Thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, đa dạng hóa

các hình thức tổ chức chăm sóc sức khỏe (Nhà nước, tập thể, nhân dân) trong

đó y tế nhà nước là chủ đạo, tận dụng mọi tiềm năng sẵn có trong nước và mở

rộng hợp tác quốc tế.

Mục tiêu phát triển sự nghiệp CS&BVSKND: Mục tiêu tổng quát là giảm

tỷ lệ mắc bệnh, nâng cao thể lực, tăng tuổi thọ, làm cho giống nòi ngày càng

tốt.

Các mục tiêu cụ thể:

- Từng bước khắc phục về cơ bản về các bệnh nhiễm trùng và ký sinh

trùng. Khống chế và giảm tỷ lệ mắc bệnh sốt rét và các bệnh dịch khác. Hạ

dần tỷ lệ mắc bệnh bướu cổ, các bệnh lao, phong, hoa liễu…..khắc phục các

hậu quả của chiến tranh trên lĩnh vực sức khỏe. Chủ động phòng chống các

bệnh SIDA, ung thư, cao huyết áp, tâm thần, bệnh nghề nghiệp; chống các tệ

37

nạn xã hội như mãi dâm, ma túy….

- Phát triển các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, đặc biệt là các dịch vụ khám,

chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe ban đầu.

- Thực hiện công bằng xã hội trong chăm sóc sức khỏe, quan tâm những

người có công với nước, những người nghèo, đồng bào các dân tộc thiểu số.

Bảo vệ, chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em, hạ thấp tỷ lệ suy dinh dưỡng và

các bệnh về dinh dưỡng ở trẻ em.

Nghị quyết số 46-NQ/TW, ngày 23 tháng 02 năm 2005 của Bộ chính trị

“Về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ của nhân dân trong tình

hình mới” tiếp tục nhấn mạnh về tầm quan trọng của công tác chăm sóc và

bảo vệ sức khỏe nhân dân, đồng thời cũng đã đưa ra những quan điểm chỉ đạo

cụ thể đối với công tác này. Về mục tiêu của công tác CS&BVSKND trong

tình hình mới, Nghị quyết nhấn mạnh: Giảm tỷ lệ mắc bệnh tật và tử vong,

nâng cao sức khoẻ, tăng tuổi thọ, cải thiện chất lượng giống nòi, góp phần

nâng cao chất lượng cuộc sống, chất lượng nguồn nhân lực, hình thành hệ

thống chăm sóc sức khoẻ đồng bộ từ Trung ương đến cơ sở và thói quen giữ

gìn sức khoẻ của nhân dân, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá,

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thực hiện nghị quyết của Đảng về công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe

nhân dân, ngày 19/03/2001, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số

35/QĐ-TTg “Về việc phê duyệt Chiến lược CS&BVSKND giai đoạn 2001-

2010”. Nghị quyết đề ra mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể cho công tác

CS&BVSKND giai đoạn 2001-2010, đồng thời đưa ra những giải pháp lớn để

thực hiện chiến lược này. Nghị quyết nêu rõ mục tiêu chung là: Phấn đấu để

mọi người dân được hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu, có điều

kiện tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế có chất lượng. Mọi người đều được

sống trong cộng đồng an toàn, phát triển tốt về thể chất và tinh thần. Giảm tỷ

38

lệ mắc bệnh, nâng cao thể lực, tăng tuổi thọ và phát triển giống nòi.

Các mục tiêu cụ thể:

- Các chỉ tiêu sức khoẻ đạt được vào năm 2010:

+ Tuổi thọ trung bình 71 tuổi.

+ Tỷ suất chết mẹ giảm xuống còn 70/100.000 trẻ đẻ sống.

+ Tỷ lệ chế trẻ em dưới 1 tuổi hạ xuống dưới 25‰ trẻ đẻ sống.

+ Tỷ lệ chết trẻ em dưới 5 tuổi xuống dưới 32‰.

+ Tỷ lệ trẻ mới đẻ có trọng lượng dưới 2.500g giảm xuống dưới 6%.

+ Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng giảm xuống dưới 20%.

+ Chiều cao trung bình của thanh niên đạt từ 1,60 m trở lên.

+ Có 4,5 bác sỹ và 1 dược sỹ đại học/10.000 dân.

- Giảm tỷ lệ mắc và tử vong các bệnh truyền nhiễm gây dịch. Không để

dịch lớn xảy ra. Khống chế tới mức thấp nhất tỷ lệ mắc và chết các bệnh tả,

thương hàn, sốt xuất huyết, sốt rét, dịch hạch, viêm gan B và viêm não Nhật

Bản B, các bệnh lây truyền qua đường tình dục….Duy trì kết quả thanh toán

bệnh bại liệt, loại trừ uốn ván sơ sinh. Hạn chế tốc độ gia tăng tỷ lệ nhiễm

HIV/AIDS.

Phòng chống và quản lý các bệnh không nhiễm trùng như bệnh tim mạch,

ung thư, tai nạn và thương tích, đái tháo đường, bệnh nghề nghiệp, tâm thần,

ngộ độc, tự tử và các bệnh do lối sống không lành mạnh mang lại (nghiện ma

túy, nghiện rượu, béo phì….).

- Nâng cao tính công bằng trong việc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ

chăm sóc sức khoẻ, đặc biệt là các dịch vụ khám chữa bệnh.

- Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ ở tất cả các tuyến y tế trong các

lĩnh vực phòng bệnh, khám chữa bệnh, phục hồi chức năng và nâng cao sức

khoẻ, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật để ngành y tế nước ta phát triển

39

kịp trình độ các nước tiên tiến trong khu vực.

Những quan điểm trên không những xuyên suốt thời kỳ đổi mới mà nó còn

có giá trị định hướng cho sự phát triển y tế trong giai đoạn sau. Nhờ vào sự

đúng đắn của những quan điểm này, Đảng và Nhà nước tiếp tục đưa ra Chiến

lược phát triển CS&BVSKND giai đoạn (2001-2010): “Nâng cao tính công

bằng và hiệu quả trong tiếp cận và sử dụng các dịch vụ chăm sóc và bảo vệ

sức khỏe nhân dân. Tiếp tục thực hiện các chương trình mục tiêu về y tế quốc

gia. Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe ở tất cả các tuyến. Đặc biệt coi

trọng tăng cường dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe cho trẻ em, người bị di

chứng chiến tranh, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng căn cứ cách

mạng, vùng sâu, vùng xa. Giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng, tỷ lệ tử vong của

trẻ em dưới 5 tuổi, tỷ lệ tử vong của bà mẹ có liên quan đến thai sản. Giảm tỷ

lệ mắc bệnh và tử vong do các bệnh truyền nhiễm, không để xảy ra dịch lớn.

Tích cực phòng, chống các bệnh không do nhiễm trùng, khắc phục hậu quả tai

nạn và thương tích. Bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm và an toàn truyền

máu.

Hoàn chỉnh quy hoạch, cũng cố và nâng cấp mạng lưới y tế cơ sở, có bác

sỹ làm việc ở tất cả các trạm y tế xã đồng bằng và trung du, phần lớn xã miền

núi. Nâng cấp bệnh viện huyện, tỉnh; phát triển các bệnh viện đa khoa khu

vực (liên huyện) ở các địa bàn xã trung tâm tỉnh. Hoàn thiện hai TTYT

chuyên sâu tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, xây dựng TTYT chuyên

sâu tại miền Trung và phát triển các TTYT vùng. Từng bước hiện đại hóa

trang bị y tế, ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến. Kết

hợp y học hiện đại với YHCT dân tộc, kết hợp quân-dân y; phấn đấu có một

số lĩnh vực y, dược học có thế mạnh trở thành trung tâm của khu vực Đông

Nam Á. Tiêu chuẩn hóa và tăng cường đào tạo cán bộ y tế, chú ý người dân

tộc thiểu số; phân bổ cán bộ theo vùng phù hợp với nhu cầu. Khuyến khích

40

các thành phần kinh tế tham gia phát triển các cơ sở khám, chữa bệnh, chăm

sóc sức khỏe, đáp ứng yêu cầu đa dạng của xã hội. Đề cao y đức gắn với xây

dựng và thực hiện uy chế hành nghề, xóa bỏ các tiêu cực.

Thực hiện chính sách quốc gia về thuốc, tăng cường khả năng sản xuất và

cung ứng thuốc đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.

Đổi mới cơ chế, chính sách viện phí; mở rộng bảo hiểm y tế (BHYT) tự

nguyện, tiến tới BHYT toàn dân. Có chính sách trợ giúp cho người nghèo

được khám, chữa bệnh” [33, tr. 213-215].

Chiến lược phát triển y tế (2001-2010) là những quan tấm lớn lao của

Đảng đối với sự nghiệp y tế, nhất là việc chăm sóc sức khỏe nhân dân, đồng

thời đề cao vai trò của nhân đối với sự nghiệp y tế. Y tế là sự nghiệp của toàn

dân, trước hết nó đề cao vai trò của mỗi cá nhân thông qua các hoạt động tự

giác để bảo vệ và nâng cao sức khỏe, đề cao trách nhiệm của cá nhân trong

việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng, đồng thời nó cũng đề cao trách nhiệm của

cộng đồng trong công tác bảo vệ sức khỏe.

Cũng từ nhận thức đó, chúng ta cần xác định rõ vai trò của cá nhân gắn

chặt với vai trò của cộng đồng, trong đó có vai trò quản lý của Nhà nước

trong chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân. Nhận thức này xuyên suốt quá

trình xây dựng và chăm sóc sức khỏe của nước ta. Luật bảo vệ sức khỏe nhân

dân được Quốc hội khóa VIII, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 30/06/1989 đã

ghi rõ: Bảo vệ sức khoẻ là sự nghiệp của toàn dân. Tất cả công dân có nghĩa

vụ thực hiện nghiêm chỉnh những quy định của pháp luật về bảo vệ sức khoẻ

nhân dân để giữ gìn sức khoẻ cho mình và cho mọi người.

Đó cũng chính là cơ sở của quan điểm xã hội hóa trong công tác chăm sóc

sức khỏe nhân dân. Trong những năm gần đây, công tác xã hội hóa y tế của

Đảng và Nhà nước được nhân dân hưởng ứng nhiệt liệt. Ngành y tế đã phối

hợp với các ngành, các địa phương phát động và thực hiện các tiêu chí về sức

41

khỏe trong phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Tăng

cường mạng lưới y tế và phát huy sức mạnh toàn dân tham gia vào hoạt động

chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân. Có như vậy, sức khỏe mới trở thành

một tiêu chí văn hóa của mỗi gia đình trong cộng đồng. Sự nghiệp y tế mới

trở thành sự nghiệp của toàn dân-toàn dân tham gia chương trình y tế cộng

đồng, chương trình mục tiêu y tế quốc gia. Bởi lẽ, sức khỏe không chỉ bắt

nguồn từ việc được hưởng những dịch vụ y tế tốt, mà còn phải xây dựng một

nếp sống lành mạnh, từ đó bỏ tập tục có hại cho sức khỏe, đảm bảo vệ sinh an

toàn thực phẩm, cải thiện vệ sinh môi trường, phòng chống tai nạn thương

tích, khống chế các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.

Vì vậy, muốn công tác CS&BVSKND đạt kết quả cao thì rất cần sự đóng

góp của toàn Đảng, toàn dân và đặc biệt là của công nhân viên chức ngành y

tế.

2.1.2 Chủ trương phát triển y tế của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá

Trên tinh thần Nghị quyết Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng

bộ tỉnh Thanh Hoá đã nắm bắt đường lối đổi mới của Đảng, vận dụng vào

tình hình cụ thể của tỉnh và thực hiện một cách chủ động, sáng tạo đường lối

đổi mới.

Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lần thứ XII (1986) với tinh thần

“Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật”, Đại hội đã nêu lên nhiệm vụ

cơ bản: Tiếp tục thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành

công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ

nghĩa.

Đánh giá việc thực hiện kế hoạch nhiệm vụ Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ

XI (1983-1986), Báo cáo Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khẳng định: “7 mục

tiêu chủ yếu về kinh tế-xã hội đề ra trong Đại hội tỉnh thực hiện không toàn

diện, có mục tiêu đạt thấp.....Tỷ lệ tăng dân số 2,3%/1,7% là mục tiêu đạt thấp

42

nhất” [36, tr.21].

Trên cơ sở đánh giá những thành tựu, hạn chế trong việc thực hiện những

mục tiêu, kế hoạch do Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI đề ra, Đại hội đã phân

tích rõ những nguyên nhân khách quan và chủ quan trong quá trình lãnh đạo,

chỉ đạo kinh tế, xã hội của nhiệm kỳ trước, từ đó đề ra phương hướng, nhiệm

vụ mục tiêu kế hoạch 5 năm (1986-1991) là: Phát triển sản xuất nông nghiệp

toàn diện, trọng tâm là sản xuất lương thực, thực phẩm; tăng nhanh hàng xuất

khẩu, mở rộng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng;

thực hiện kế hoạch hoá dân số, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân; tăng

cường công tác quân sự địa phương và xây dựng lực lượng vũ trang vững

mạnh. Trong các nhiệm vụ đó, nhiệm vụ xây dựng kinh tế là nhiệm vụ trọng

tâm của tỉnh.

Về công tác y tế, Đại hội nhấn mạnh: “Về y tế, chú trọng trước hết công

tác bảo vệ sức khỏe, phòng bệnh cho nhân dân và sinh đẻ có kế hoạch. Tích

cực cũng cố mạng lưới y tế huyện, xã, phường, cơ quan, xí nghiệp, bảo đảm

tốt chính sách đối với đội ngũ cán bộ y tế cơ sở. Thực hiện cuộc vận động cải

tiến chế độ phục vụ người bệnh, bảo đảm yêu cầu phòng, chữa bệnh cho nhân

dân. Mở rộng nuôi trồng, khai thác dược liệu và sản xuất thuốc, dành một số

ngoại tệ để nhập thêm thuốc và hóa chất, phấn đấu có đủ thuốc thông thường

cho nhân dân. Chống mọi biểu hiện tiêu cực trong phân phối thuốc, bảo đảm

thuốc đến tay người bệnh” [36, tr. 56].

Về giải pháp ứng dụng rộng rãi tiến bộ khoa học kỹ thuật: “Về đời sống:

nghiên cứu thực hiện kế hoạch hóa dân số, sinh đẻ có kế hoạch, cải tiến chế

biến bữa ăn, chế biến dược liệu”, “dành vốn đầu tư thích đáng của Nhà nước

và vốn tích lũy từng cơ sở ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật. Có chính sách

khuyến khích cán bộ về cơ sở sản xuất nghiên cứu, ứng dụng và hướng dẫn

thực hiện khoa học kỹ thuật. Ưu đãi, phát huy tài năng các nghệ nhân, cán bộ

43

khoa học kỹ thuật đầu đàn và công nhân kỹ thuật có tay nghề cao” [36, tr. 48].

Công cuộc đổi mới trong những năm 1986-1990 tuy còn gặp nhiều khó

khăn, yếu kém, nhưng đã đạt được những kết quả bước đầu rất quan trọng.

Tình hình chính trị và kinh tế, xã hội đi dần vào thế ổn định và phát triển, bộ

mặt kinh tế, xã hội ở nhiều nơi đã có chuyển biến tiến bộ, đời sống của nhân

dân trong tỉnh về ăn, mặc, ở, đi lại, mua sắm tiện nghi sinh hoạt, hưởng thụ

văn hoá đỡ khó khăn hơn, một bộ phận dân cư có đời sống khá lên rõ rệt. Tuy

thế, sản xuất hàng hoá phát triển còn chậm, tình trạng tự cấp tự túc còn nặng

nề, chất lượng dạy và học giảm sút rõ rệt, việc làm vẫn là vấn đề bức

thiết…..Thực trạng đó chứng tỏ rằng: công cuộc đổi mới của tỉnh Thanh Hoá

muốn đạt được thành tựu to lớn thì phải có đường lối đổi mới phù hợp hơn.

Theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII (vòng 2) tháng 09 năm

1991, căn cứ vào mục tiêu chiến lược kinh tế xã hội của cả nước và Nghị

quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, trên cơ sở phân tích tình hình và

điều kiện cụ thể của tỉnh, định hướng trong thời kỳ 1991-1995 của tỉnh là:

Phát huy những kết quả bước đầu rất quan trọng đã đạt được, khắc phục các

mặt yếu kém, tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội VII của Đảng. Giữ vững

thế ổn định và phát triển về chính trị và kinh tế. Đổi mới cơ cấu kinh tế, tiếp

tục thực hiện cơ chế quản lý, tập trung sức triển khai nhanh nền kinh tế hàng

hóa nhiều thành phần, ổn định và từng bước cải thiện đời sống nhân dân; đẩy

lùi tiêu cực và bất công xã hội, tạo đà tiến lên trong giai đoạn tiếp theo. Về y

tế, Nghị quyết Đại hội nhấn mạnh: “Tổ chức thực hiện tốt chương trình xây

dựng màng lưới y tế cơ sở, nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh ở các bệnh

viện, thực hiện tốt chăm lo sức khỏe ban đầu, chăm sóc bà mẹ và trẻ em, tăng

cường công tác phòng chống dịch bệnh, nhất là dịch sốt rét, bướu cổ ở miền

núi. Cũng cố trạm y tế xã, sắp xếp lại các cơ sở khám, chữa bệnh ở huyện,

tỉnh. Quản lý chặt chẽ việc khám, chữa bệnh và bán thuốc trong các cơ sở nhà

44

nước và tư nhân. Mở rộng và khuyến khích nuôi trồng, khai thác, chế biến

dược liệu….Tăng cường cán bộ, phương tiện và thực hiện tổng hợp các biện

pháp giáo dục, hành chính, kinh tế,….để thực hiện chính sách dân số và kế

hoạch hóa gia đình. Phấn đấu đến năm 1995 tỷ lệ phát triển dân số ở tỉnh ta là

1,9%” [37, tr. 108].

Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế của tỉnh đã đi vào

thế ổn định và phát triển, một số lĩnh vực kinh tế có bước phát triển khá, đặc

biệt là kinh tế nông nghiệp (thời kỳ 1996-2000, sản lượng trung bình đạt 1,3

triệu tấn/năm). Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ổn định và được

cải thiện, cơ bản chấm dứt nạn đói. Bộ mặt xã hội có nhiều đổi mới và tiến

bộ, tạo được niềm tin phấn khởi, tin tưởng trong nhân dân. Trật tự an toàn xã

hội được đảm bảo, hệ thống chính trị được cũng cố một bước, khối đại đoàn

kết toàn dân được mở rộng, chính quyền ngày càng vững mạnh và có hiệu

lực.

Tuy nhiên, trong các hoạt động kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh và

xây dựng hệ thống chính trị, tỉnh Thanh Hoá còn có nhiều thiếu sót, khuyết

điểm, điển hình như: việc khai thác thế mạnh của tỉnh, các vấn đề xã hội khác

như việc làm, tệ nạn tham nhũng, sự phân hoá giàu nghèo, trật tự an toàn xã

hội còn nhiều phức tạp….

Do đó, để tiếp tục sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng bộ và chính quyền

tỉnh Thanh Hoá đã đề ra đường lối, chủ trương đổi mới qua các kỳ Đại hội

Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, XV và XVI. Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV

(1996) đã xác định các nhiệm vụ tổng quát trong 5 năm (1996-2000) là: Phát

huy những thành quả đạt được, tranh thủ thời cơ thuận lợi, khắc phục khó

khăn, tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện

đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, triệt để khai thác và sử dụng tốt các

nguồn lực để đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, bền vững. Kết hợp hài hoà

45

giữa vấn đề tăng trưởng kinh tế với giải quyết những vấn đề xã hội, quốc

phòng và an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị vững mạnh, nâng cao

một bước đời sống nhân dân, chuẩn bị tích cực những tiền đề cần thiết cho

giai đoạn phát triển cao hơn sau năm 2000.

Cùng với việc tập trung vào nhiệm vụ phát triển kinh tế, cần chăm lo giải

quyết tốt các vấn đề xã hội theo hướng xã hội hóa, cần huy động sức mạnh

tổng hợp của toàn xã hội, tạo động lực to lớn thúc đẩy phát triển sự nghiệp

văn hóa xã hội vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn

minh”. Đây là nhiệm vụ có tầm quan trọng trước mắt và lâu dài về chiến lược

con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nghị

quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV nhấn mạnh về công tác y tế: “Chăm

lo sức khỏe nhân dân trong tỉnh là nhiệm vụ quan trọng nhằm tăng nguồn lực

để phát triển kinh tế, xã hội trong những năm trước mắt, tạo đà phát triển toàn

diện trong những năm tiếp theo.

Phấn đấu đến năm 2000 giảm đáng kể tỷ lệ tử vong do dịch bệnh, giảm số

người mắc bệnh bướu cổ, thanh toán bệnh phong, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng

xuống dưới 30%; khống chế các ổ dịch sốt rét, ngăn chặn dịch bệnh

AIDS…..Cải thiện đáng kể sức khỏe nhân dân, nhất là bà mẹ, trẻ em, người

cao tuổi.

Cũng cố hệ thống y tế từ tỉnh đến cơ sở, nâng cao chất lượng hoạt động

của y tế xã, phường, huyện. Trước mắt, trong những năm tới tập trung xây

dựng bệnh viện đa khoa tỉnh với các trang thiết bị hiện đại. Thực hiện khám,

chữa bệnh miễn phí cho người nghèo, gia đình chính sách. Mở rộng BHYT,

bảo hiểm xã hội, phát triển YHCT. Đẩy mạnh phong trào nuôi, trồng cây con

dược liệu. Sản xuất và quản lý tốt, phục vụ kịp thời thuốc chữa bệnh thông

thường cho nhân dân. Ngăn chặn hiện tượng xuống cấp về cơ sở vật chất ở

46

các cơ sở điều trị, nâng cao trách nhiệm phục vụ của cán bộ y tế, đề cao ý

thức “Lương y như từ mẫu”. Tổ chức các hoạt động vệ sinh môi trường, vệ

sinh thực phẩm bảo đảm yêu cầu sản xuất và đời sống.

Thực hiện đồng bộ công tác dân số kế hoạch hóa gia đình từ xây dựng hệ

thống tổ chức, truyền thông, làm dịch vụ kỹ thuật đến việc đảm bảo kinh phí,

phương tiện hoạt động cần thiết…..để đạt cho được mục tiêu mỗi cặp vợ

chồng chỉ có từ một đến hai con, giảm tỷ lệ sinh hàng năm từ 0,7 phần nghìn

trở lên để đến năm 2000 tỷ lệ tăng dân số tự nhiên còn 1,70%” [38, tr. 77-78].

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, trong bối cảnh

phải vượt qua những yếu kém của nền kinh tế, những tác động của cuộc

khủng hoảng tài chính, tiền tệ khu vực và mặt trái của kinh tế thị trường, vừa

phải nỗ lực giải quyết những hậu qủa do thiên tai lũ lụt gây ra, Đảng bộ và

nhân dân Thanh Hoá luôn giữ vững đoàn kết nhất trí, chủ động và vận dụng

các chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước, coi trọng phát huy những

thành quả đã đạt được trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, tiếp tục

khơi dậy tiềm năng lao động sáng tạo trong nhân dân và các nguồn lực của

địa phương, đồng thời tranh thủ có hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài, phấn

đấu thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ mà nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần

thứ XIV đã đề ra, tạo bước phát triển quan trọng trên tất cả các lĩnh vực kinh

tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng an ninh, xây dựng hệ thống chính trị.

Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lần thứ XV (2001) sau khi đánh giá

những kết quả đạt được cũng như những mặt còn hạn chế trong việc thực hiện

các mục tiêu kinh tế, xã hội mà Đại hội lần thứ XIV đề ra, đã đề ra phương

hướng, nhiệm vụ cho thời kỳ 2001-2005 nhằm tiếp tục đẩy mạnh công cuộc

đổi mới, tăng tốc độ phát triển, phát huy nội lực, khai thác có hiệu quả các

nguồn lực cho phát triển; ưu tiên đầu tư phát triển các ngành, các lĩnh vực có

tiềm năng, lợi thế của tỉnh, đáp ứng yêu cầu thị trường; tiếp tục chuyển dịch

47

cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đảm bảo tăng

trưởng kinh tế với tốc độ cao và bền vững, nâng cao hiệu quả và sức cạnh

tranh, tích cực, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thể giới.

Về công tác y tế, Nghị quyết Đại hội đề ra các nhiệm vụ chủ yếu cho kế

hoạch 5 năm (2001-2005) là: “Đẩy mạnh công tác chăm sóc sức khỏe nhân

dân, trước hết là công tác y học dự phòng, chủ động phòng chống dịch bệnh,

không để dịch lớn xả ra; tiêm phòng cho trẻ em dưới 1 tuổi đặt trên 98%; loại

trừ uốn ván sơ sinh và giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em. Mở rộng và phòng

chống có hiệu quả các bệnh xã hội như lao, tâm thần, bướu cổ, tích cực ngăn

chặn lây nhiễm HIV/AIDS. Tăng cường kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm,

thực hiện tốt chương trình nước sạch. Cải thiện các chỉ tiêu cơ bản về sức

khỏe nhân dân. Cũng cố y tế cơ sở, kiện toàn và chống xuống cấp trong ngành

y tế từ cơ sở vật chất, thiết bị đến chất lượng và thái độ phục vụ, tăng cường

giáo dục y đức và giải quyết có hiệu quả những tiêu cực trong khám, chữa

bệnh. Phấn đấu đến năm 2005, đạt 60% trạm y tế xã có bác sỹ và nữ hộ sinh

trung học; 100% thôn bản có cán bộ y tế. Tập trung đầu tư xây dựng, trang

thiết bị chuyên sâu cho Bệnh viện Đa khoa tỉnh, Bệnh viện Phụ sản, Bệnh

viện khu vực Ngọc Lặc, Bệnh viện Nhi, Bệnh viện Nghi Sơn. Thực hiện

khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo, đối tượng chính sách…..

Đẩy mạnh hơn nữa việc xã hội hóa công tác y tế, mở rộng và quản lý tốt

hoạt động hành nghề y dược tư nhân, khuyến khích xây dựng bệnh viện tư

nhân. Đa dạng hóa các loại hình BHYT. Kế thừa và phát triển YHCT dân tộc,

kết hợp YHCT với y học hiện đại. Sản xuất và cung ứng đủ thuốc cho nhu

cầu phòng và chữa bệnh của nhân dân.

Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong công tác dân số-kế hoạch hóa gia

đình. Chuyển mạnh sang nâng cao chất lượng dân số và xây dựng cơ cấu dân

số hợp lý. Trên cơ sở tiếp tục thực hiện tốt việc truyền thông nâng cao nhận

48

thức trong nhân dân về công tác dân số-kế hoạch hóa gia đình, cũng cố hệ

thống tổ chức, đầu tư kinh phí, phương tiện, cung cấp dịch vụ kỹ thuật đến tận

cơ sở, nhằm đạt mục tiêu mỗi cặp vợ chồng chỉ có 1 hoặc 2 con, giảm tối đa

tỷ lệ người sinh con thứ 3, giảm tỷ lệ phát triển dân số xuống còn 1,1% vào

năm 2005” [39, tr. 53-54].

2.2 Quá trình chỉ đạo thực hiện chủ trƣơng phát triển y tế của tỉnh

2.2.1 Xây dựng mạng lưới y tế và nguồn nhân lực

Hệ thống y tế tuyến tỉnh

Giai đoạn này, hệ thống các đơn vị y tế tuyến tỉnh có một số thay đổi về tổ

chức, tên gọi và chức năng.

Ngày 04/11/1992, UBND tỉnh Thanh Hoá ra Quyết định số 1387

TC/UBTH thành lập Bảo hiểm y tế Thanh Hoá trực thuộc Sở Y tế Thanh Hoá.

Ở các huyện, thị được phép thành lập các chi nhánh bảo hiểm trực thuộc

BHYT tỉnh. Từ năm 2000, BHYT Thanh Hoá sáp nhập vào Bảo hiểm Xã hội

tỉnh Thanh Hoá.

Trạm Bảo vệ sức khoẻ bà mẹ trẻ em-sinh đẻ kế hoạch trải qua một số lần

chia tách. Năm 1991, sáp nhập vào Uỷ ban bảo vệ bà mẹ trẻ em-kế hoạch hoá

gia đình. Năm 1995 được tỉnh quyết định nâng cấp lên thành Trung tâm Bảo

vệ sức khoẻ bà mẹ trẻ em-kế hoạch hoá gia đình.

Những năm 90, 15 hiệu thuốc thuộc huyện hoạt động không hiệu quả,

nhiều đơn vị bị thua lỗ. Trước tình hình đó, UBND tỉnh Thanh Hoá ra Quyết

định số 882, ngày 18/06/1992 chuyển 15 hiệu thuốc phân cấp về Công ty

Dược quản lý. Thực hiện Nghị định số 500/NĐ-CP của Chính phủ, ngày

05/05/1997, Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hoá có Quyết định số 787 QĐ/UB

về việc hợp nhất hai đơn vị là Công ty Dược và Công ty Thiết bị vật tư y tế

Thanh Hoá thành Công ty Dược-Vật tư y tế Thanh Hoá, có 27 hiệu thuốc

49

huyện và 4 hiệu thuốc trực thuộc. Ngành nghề kinh doanh: sản xuất thuốc tân

dược và đông dược, kinh doanh thuốc và vật tư, sửa chữa và sản xuất các loại

thiết bị vật tư y tế.

Sau đó, thực hiện Quyết định số 143 QĐ/UB, ngày 20/01/1998 của

UBND tỉnh Thanh Hoá sáp nhập Xí nghiệp Dược phẩm vào Công ty Dược-

Vật tư y tế Thanh Hoá. Ngày 08/12/2000, UBND tỉnh có Quyết định số

3136/UBTH/ĐMDN chuyển Cửa hàng vật tư trực thuộc Công ty Dược-Vật tư

y tế thành Công ty Cổ phần Thiết bị-Vật tư y tế Thanh Hoá.

Ngày 17/05/1999, Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hoá ra Quyết định số

900/1999/TC-UB về việc thành lập Trung tâm Truyền thông-Giáo dục sức

khoẻ.

Ngày 27/11/2000, Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hoá ra Quyết định số

2983/QĐ-UB về việc đổi tên Bệnh viện chống Lao Thanh Hoá thành Bệnh

viện Lao và Phổi Thanh Hoá.

Ngày 12/02/2004, Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hoá ra Quyết định số

335/QĐ-CT thành lập Bệnh viện Đa khoa khu vực Ngọc Lặc trên cơ sở

TTYT Ngọc Lặc. Đây là bệnh viện tuyến II trong hệ thống bệnh viện Nhà

nước có chức năng chăm sóc sức khoẻ nhân dân khu vực miền núi tỉnh Thanh

Hoá.

Năm 1997, nhằm phát triển kỹ thuật và mở rộng phạm vi hoạt động chuẩn

bị cho những bước phát triển mới, theo chủ trương chung của Bộ Y tế, một số

Trạm lần lượt đổi tên và bổ sung chức năng, nhiệm vụ như: Trạm vệ sinh

phòng dịch đổi tên thành Trung tâm YTDP, Trạm phòng chống sốt rét thành

Trung tâm Phòng chống Sốt rét-ký sinh trùng-côn trùng, Trạm Bướu cổ thành

Trung tâm Phòng chống Bướu cổ (đến năm 2001 đổi thành Trung tâm Nội

tiết), Trạm Da liễu Trung tâm Da liễu, Trạm Mắt thành Trung tâm Mắt (đến

năm 2005 đổi là Bệnh viện Mắt), Trạm Kiểm nghiệm Dược phẩm thành

50

Trung tâm Kiểm nghiệm dược phẩm và mỹ phẩm.

Như vậy, đến năm 2005 hệ thống y tế tuyến tỉnh đã có 17 đơn vị bao gồm:

Bệnh viện Đa khoa tỉnh, Bệnh viện Phụ sản, Bệnh viện YHCT dân tộc, Bệnh

viện Tâm thần, Bệnh viện Lao và Phổi, Bệnh viện Điều dưỡng phục hồi chức

năng, Bệnh viện Đa khoa khu vực Ngọc Lặc, Bệnh viện Mắt, Trung tâm

YTDP, Trung tâm phòng chống sốt rét-ký sinh trùng côn trùng, Trung tâm

phòng chống bệnh Da liễu, Trung tâm Nội tiết, Trung tâm Bảo vệ sức khoẻ bà

mẹ trẻ em, Trung tâm Kiểm nghiệm dược phẩm và mỹ phẩm, Trung tâm

Truyền thông-Giáo dục sức khoẻ, Công ty Cổ phần Dược-Vật tư Y tế, Công

ty Cổ phần Thiết bị-Vật tư Y tế.

Đây là thành quả của cả một quá trình và từ đây hệ thống này đã trở thành

một động lực quan trọng góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ chăm sóc và bảo vệ

sức khoẻ đã được Đảng, chính quyền và nhân dân giao phó.

Hệ thống y tế tuyến huyện

Ngày 12/04/1991, Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị quyết số 109/HĐBT về

việc sắp xếp tổ chức biên chế hành chính sự nghiệp, Bộ Y tế có hướng dẫn số

2521/TC ngày 25/05/1988 về tổ chức và hoạt động của TTYT huyện, thị. Tại

Thanh Hoá, tính đến năm 1993, mới có 8/23 huyện thành lập TTYT. Đến năm

1994, đã thành lập được 13 TTYT. Đến hết năm 1995, tất cả các huyện, thị

trong toàn tỉnh đã thành lập TTYT.

Như vậy, TTYT huyện được thành lập trên cơ sở hợp nhất các tổ chức y

tế hành chính sự nghiệp hiện có của tuyến huyện như: Phòng Y tế, Đội Vệ

sinh phòng dịch-chống sốt rét, Đội Sinh đẻ kế hoạch, Bệnh viện Đa khoa khu

vực, Phòng khám Đa khoa khu vực….Việc thành lập TTYT làm cho việc

triển khai công tác được thuận lợi và nhanh chóng so với trước. Việc thành

lập các TTYT thay thế cho hệ thống trước đây là cần thiết. Mô hình có tác

dụng tập trung các đơn vị y tế lại một mối, tạo điều kiện thuận lợi cho việc

51

điều hành công tác của huyện và ngành, đồng thời cũng tập trung nhân lực,

vật lực và tài lực một các kinh tế và hiệu quả nhất. Cho đến năm 2006, toàn

tỉnh có 27 TTYT thuộc 27 huyện, thị, thành phố (gọi chung là huyện). TTYT

huyện chịu trách nhiệm quản lý toàn diện về y tế trong phạm vi toàn huyện.

Về nhân lực, đến năm 2002, có 2.899 cán bộ công tác tại 27 TTYT huyện,

thị, trong đó có 689 cán bộ có trình độ đại học và sau đại học (chiếm tỷ lệ

23,7%), 1.700 cán bộ có trình độ trung học y và dược (chiếm tỷ lệ 58,8%),

160 cán bộ có trình độ sơ học y và dược (chiếm tỷ lệ 5,5%) và 350 cán bộ

khác (chiếm tỷ lệ 12%). Bình quân Thạc sĩ y/huyện là 0,25, bác sỹ chuyên

khoa I/huyện là 3,96, dược sỹ đại học/huyện là 1,4. Bình quân 24 bác

sỹ/huyện. Số lượng cán bộ đại học tăng đã đáp ứng được một số yêu cầu về

chuyên khoa trong công tác khám chữa bệnh cho nhân dân trên địa bàn tỉnh

[51, tr. 210].

Về cơ sở hạ tầng, trang thiết bị: Y tế tuyến huyện đã có từ 1-3 khu nhà cao

tầng kiên cố và trang thiết bị cơ bản đáp ứng yêu cầu khám chữa bệnh như:

máy X.quang, điện tim, xét nghiệm sinh hoá đa chức năng, máy tạo ôxy, máy

xét nghiệm nước tiểu, siêu âm chuẩn đoán thai…..Chất lượng các dịch vụ y tế

không ngừng được tăng lên, đã thu hút được nhiều người bệnh đến khám và

điều trị, giảm được tỷ lệ bệnh nhân gửi lên tuyến trên. Tại mỗi TTYT đã được

trang bị từ 1-5 máy vi tính phục vụ công tác quản lý điều hành. Đến cuối năm

2004, bắt đầu khởi động thực hiện thu nhận thông tin qua mạng.

Hệ thống các đơn vị y tế cơ sở

Bên cạnh việc tổ chức sắp xếp lại hệ thống y tế tuyến huyện thì vấn đề

kiện toàn lại mạng lưới y tế tuyến xã cũng được đặt ra cấp thiết. Trong những

năm 1988-1990, tình hình hoạt động của mạng lưới y tế xã, phường hết sức

khó khăn. Do đó, việc cũng cố mạng lưới y tế xã, phường trở thành 1 trong 6

chương trình y tế quốc gia, là 1 trong 10 nhiệm vụ chăm sóc sức khoẻ ban

52

đầu. Số trạm y tế xã hoạt động khá chiếm tỷ lệ ít, chủ yếu là loại trung bình và

yếu kém. Trang thiết bị tại trạm y tế hết sức nghèo nàn, xuống cấp cần phải

thay thế. Tủ thuốc tại trạm y tế cũng rất nghèo nàn, 50% số tủ thuốc xã đạt giá

trị từ 20.000-50.000đ. Do đó, khi nhân dân đau ốm thì không đủ thuốc để điều

trị, nhất là khu vực miền núi.

Ngày 03/02/1994, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 58/TTg quy

định một số vấn đề về chính sách đối với cán bộ y tế xã, phường. Nhờ đó, số

trạm y tế hoạt động khá đã tăng lên, số trạm y tế hoạt động yếu kém đã giảm

nhiều. Đội ngũ cán bộ trực trạm cũng đã được chuyển đổi cả về số lượng và

chất lượng. Số lượng bác sỹ được tăng cường, giảm số cán bộ cơ sơ cấp.

Nhằm tạo động lực cho mạng lưới y tế tuyến xã, ngày 06/11/1995, Chủ

tịch UBND tỉnh Thanh Hoá ra Quyết định số 3123 QĐ/UBTH về quy định tổ

chức, hoạt động và chế độ chính sách đối với cán bộ y tế xã, phường và thị

trấn. Theo đó, khu vực đồng bằng trung du từ 8.000 dân trở xuống được bố trí

4 cán bộ, từ 8.000-12.000 dân được bố trí 5 cán bộ và trên 12.000 dân được

bố trí 6 cán bộ. Khu vực miền núi, biên giới dưới 3.000 dân được bố trí 4 cán

bộ, từ trên 3.000 dân được bố trí 6 cán bộ. Khu vực thành phố, thị xã, thị trấn

và những xã có phòng khám đa khoa khu vực thì được bố trí 3 người có trình

độ trung cấp trở lên. Bên cạnh đó, quyết định còn quy định rõ chế độ tiền

lương và phụ cấp cùng những chế độ khác đối với cán bộ công tác tại các

trạm y tế. Đây là định hướng đúng đắn góp phần quan trọng vào việc xây

dựng và cũng cố mạng lưới y tế xã, phường ở tỉnh Thanh Hoá.

Tuyến y tế xã, phường, thị trấn được cũng cố, bố trí đủ cán bộ, tăng cường

về chất lượng, các cơ sở đã đi vào hoạt động có chiều sâu, cả về chuyên môn

và công tác quản lý. Chế độ giao ban hàng tháng giữa TTYT huyện với các

trạm đã trở thành nề nếp. Năm 1995, tổng số cán bộ y tế cơ sở là 2.164 cán bộ

(trong đó có 102 bác sỹ). Tuy nhiên, chất lượng hoạt động ở một số trạm y tế

53

xã, phường chưa cao, chưa có tính thuyết phục để thu hút người bệnh đến

khám và điều trị, cán bộ y tế chưa làm hết chức năng quy định, chưa chủ động

để bám cơ sở, bám dân, khai thác nhu cầu của nhân dân mà chỉ chờ dân đến

khám và điều trị tại trạm nên công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu ở cộng

đồng còn nhiều hạn chế.

Từ năm 1996-2000, công tác cũng cố mạng lưới y tế cơ sở được tăng

cường theo hướng đẩy mạnh xây dựng cơ sở vật chất như: nhà cửa, trang thiết

bị phục vụ khám chữa bệnh, đẩy mạnh xã hội hoá về y tế, quản lý theo ngành

kết hợp với quản lý theo lãnh thổ. Kết quả có 100% trạm y tế hoạt động. Đội

ngũ cán bộ được cải thiện về chất lượng với 235 bác sỹ công tác tại trạm (năm

2000).

Từ năm 2000-2006, mạng lưới y tế tuyến xã được cũng cố thêm một

bước. Số cán bộ y tế xã trong định biên chế là 2.840, bình quân đạt 4,5

người/trạm (miền núi 5,15, miền xuôi 4,19) và 218 cán bộ do xã hợp đồng.

Như vậy, bình quân đạt 4,9 người/trạm. Số xã có bác sỹ là 370 xã (58,45%)

tính đến 6 tháng đầu năm 2006, trong đó miền núi đạt 47,42%, đồng bằng đạt

63,33%. 585 trạm y tế có nữ hộ sinh trung học hoặc y sĩ sản nhi, đạt tỷ lệ

92,4%, trong đó miền núi đạt 90,72%, đồng bằng đạt 93,17%. Cán bộ y tế cơ

sở định biên đã được đóng Bảo hiểm xã hội, được hưởng chính sách hỗ trợ

khi được cử đi đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn và khi công tác tại vùng cao.

Hoạt động của y tế cơ sở theo chức năng, nhiệm vụ do Bộ Y tế ban hành đã

dần dần đi vào nề nếp. Nội dung và phương thức hoạt động đã chuyển biến

theo hướng dự phòng tích cực, gần dân hơn. Quản lý các chỉ số sức khỏe chặt

chẽ và tốt hơn. Hiệu suất công tác cao hơn, tinh thần phục vụ và chất lượng

dịch vụ y tế cao hơn, người dân sử dụng dịch vụ y tế tại trạm nhiều hơn, có

trạm đạt 0,81 lượt người/năm [81, tr.7].

Số lượng và chất lượng cán bộ y tế đều được cải thiện do đó đã đáp ứng

54

được một số yêu cầu về CS&BVSKND. Chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ cán

bộ này cũng đã được thực hiện tốt. Theo đó, ngoài ngân sách tỉnh đã chi cho

số cán bộ của trạm y tế xã, hàng năm họ còn được nâng lương theo chế độ

hiện hành, được hưởng chế độ trực, phụ cấp khu vực đặc thù, phụ cấp trách

nhiệm, độc hại, được tham gia đóng BHYT, Bảo hiểm xã hội, được hỗ trợ

nghiệp vụ phí và hành chính phí cho mỗi trạm. Ngoài ra còn có chính sách hỗ

trợ cho cán bộ y tế công tác tại các xã vùng cao.

Về cơ sở hạ tầng, trang thiết bị: Bằng nguồn ngân sách sự nghiệp y tế và

các chương trình, dự án (xoá xã trắng, xoá đói, giảm nghèo 135, Tầm nhìn thế

giới,…) đã xây dựng được 532/633 trạm y tế nhà mái bằng. Đại đa số các

trạm y tế xã được trang bị các loại dụng cụ y tế, nhiều trạm y tế xã được trang

bị bộ truyền thông. Vốn tủ thuốc mỗi xã đạt từ 3-5 triệu đồng, đáp ứng được

thuốc thiết yếu phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân.

Thực hiện Quyết định số 370/2002/QĐ-BYT, ngày 02/02/2002 của Bộ

trưởng Bộ Y tế về việc ban hành “Chuẩn quốc gia về y tế xã giai đoạn 2001-

2010”, sau 3 năm triển khai, tính đến hết năm 2005, đã có 248 Trạm y tế xã

đạt Chuẩn quốc gia y tế xã (bằng 39,17%), trong đó có 94 xã miền núi và xã

vùng 135; có 4 huyện đạt trên 60% số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế xã là Thọ

Xuân, Đông Sơn, Yên Định và Thiệu Hóa. Năm 2006, trong tỉnh đã có 55 xã,

phường, thị trấn được Chủ tịch UBND tỉnh ra quyết định công nhận đạt chuẩn

quốc gia về y tế, nâng tỷ lệ số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế trong toàn tỉnh

lên 47,87%.

Bên cạnh hệ thống y tế xã, y tế thôn, bản trong giai đoạn này cũng được

tập trung xây dựng. Trước đổi mới, y tế thôn, bản gắn liền với hợp tác xã và

đội sản xuất đó đó được trả thù lao bằng công điểm. Từ khi chuyển đổi sang

cơ chế thị trường thì những mặt trái của cơ chế này đã có ảnh hưởng rất lớn

đối với đội ngũ y tế thôn, bản, làm cho đội ngũ y tế thôn, bản từng bước bị tan

55

rã cùng với y tế xã, phường, thị trấn.

Thực hiện Chỉ thị 06-CT/TW về cũng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ

sở, Quyết định số 58/TTg của Thủ tướng Chính phủ, ngày 20/04/1996, Chủ

tịch UBND tỉnh Thanh Hoá đã ra Quyết định số 910/TC-UBTH quy định tổ

chức và chế độ chính sách đối với cán bộ y tế thôn, bản. Nhờ đó, y tế thôn,

bản dần được khôi phục và đi vào hoạt động.

Đến năm 2005, toàn tỉnh có 5.573 thôn, bản, trong đó có 5.127 thôn, bản

có nhân viên y tế họat động, chiếm tỷ lệ 92%. 100% nhân viên y tế thôn, bản

đã được nhà nước trả phụ cấp, một số nơi được trả thêm bằng nguồn kinh phí

của địa phương và đóng góp của cộng đồng. Hoạt động đã đi vào nề nếp và có

hiệu quả hơn, góp phần quan trọng trong việc chăm sóc sức khỏe nhân dân tại

cộng đồng.

Như vậy, cho đến 2005, hệ thống bệnh viện tỉnh Thanh Hoá có 36 bệnh

viện (8 bệnh viện tuyến tỉnh, 24 bệnh viện đa khoa huyện, 2 cơ sở điều trị

trong TTYT huyện, 1 khu điều trị phong thuộc Trung tâm phòng chống Da

liễu và 1 bệnh viện ngoài công lập), 34 phòng khám đa khoa khu vực, với

4.690 giường bệnh, đạt 12,65 giường trên 1 vạn dân, trong đó giường bệnh

ngoài công lập chiếm 2,7% tổng số giường bệnh.

Về hệ thống YTDP, toàn tỉnh có 34 Trung tâm YTDP, trong đó có 9 trung

tâm tuyến tỉnh, 25 trung tâm tuyến huyện và 2 đội YTDP nằm trong TTYT

huyện (hiện nay còn 2 đơn vị chưa thực hiện Nghị định 172 là TTYT Bỉm

Sơn và Triệu Sơn)

Đã có 26/27 huyện thành lập Phòng y tế, riêng thị xã Bỉm Sơn chưa thành

lập.

Có 633/633 xã, phường, thị trấn có nhân viên y tế hoạt động, không còn

xã trắng về y tế.

Về nhân lực, hiện tỉnh Thanh Hoá có 7.448 cán bộ công tác trong hệ thống

56

y tế công lập (1.939 người ở tuyến tỉnh, 2.660 người ở tuyến huyện, 2.840

người ở trạm y tế) và 2.082 người làm việc ở các cơ sở y tế tư nhân. Trong

đó, có 1.153 cán bộ y tế có trình độ đại học trở lên, đạt 4,2 bác sỹ trên 1 vạn

dân (cùng thời kỳ đạt 4,1) và 138 dược sỹ đại học, đạt 0,4 dược sỹ đại học

trên 1 vạn dân [81, tr. 3].

2.2.2 Công tác Y tế dự phòng

Với phương châm “Vững tuyến xã, mạnh tuyến huyện, giỏi tuyến tỉnh”,

hệ YTDP luôn coi trọng công tác chỉ đạo tuyến trước về mọi hoạt động và

thường xuyên có mặt tại cơ sở để chỉ đạo, giúp đỡ y tế cơ sở làm tốt trách

nhiệm của mình. Hệ YTDP đã phát huy được sức mạnh tổng hợp trong quản

lý, chỉ đạo và tổ chức thực hiện, triển khai đồng bộ các hoạt động phòng

chống dịch, thực hiện tốt công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân, góp

phần thiết thực vào sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh.

Vệ sinh phòng dịch

Công tác vệ sinh phòng dịch là một trong những nội dung quan trọng của

hoạt động y tế. Từ năm 1986, các hoạt động về vệ sinh phòng dịch đã tập

trung vào việc xây dựng mới và sửa chữa các công trình vệ sinh. Thời gian

này, toàn tỉnh có 2 huyện Như Xuân và Quan Hoá đạt tiêu chuẩn về vệ sinh

phòng bệnh. Cũng như tình hình chung của cả nước, bộ mặt dịch tễ Thanh

Hoá từ năm 1986 trở đi, có những biến động phức tạp. Có 3 bệnh phát thành

dịch phải huy động lực lượng của toàn ngành để đối phó là dịch sốt rét, dịch

tả và sốt xuất huyết.

Phòng chống bệnh sốt rét: Với địa hình rừng núi, trung du, đồng bằng đan

xen, nhiều sông ngòi khe suối, sự biến đổi khí hậu và nhiệt độ trong vùng

thuận lợi cho côn trùng, muỗi sốt rét phát triển. Các dự án kinh tế, phát triển

trang trại đồi rừng trồng cây công nghiệp với số lượng người tham gia khá

lớn, hơn nữa sự thay đổi môi trường, sinh thái là những yếu tố có tác động

57

mạnh đến dịch tễ sốt rét ở Thanh Hoá. Toàn tỉnh có 27 huyện, thị, thành phố,

trong đó có 21 huyện nằm trong vùng sốt rét lưu hành, với số dân trên 1 triệu

người, đặc biệt là khu vực miền núi.

Để tăng cường hiệu lực của công tác phòng chống sốt rét, ngày 09/07/997,

Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hoá ra Quyết định số 124/QĐ-TCUB đổi tên

Trạm sốt rét thành Trung tâm phòng chống sốt rét-ký sinh trùng côn trùng.

Thời kỳ đầu đổi mới, tình hình sốt rét ở Thanh Hoá diễn biến hết sức phức

tạp. Năm 1987, qua kiểm tra, hầu hết các huyện, thị trong tỉnh đều có ký sinh

trùng sốt rét, nhiều nhất là các huyện Quan Hoá, Như Xuân, Thường Xuân,

Thiệu Yên, Thọ Xuân và Hà Trung. Năm 1987 là năm có ký sinh trùng cao

nhất kể từ 25 năm qua. Số người bị sốt rét nặng và sốt rét ác tính lên tới trên

600 người (trong đó có 32 trường hợp tử vong). Thực tế tình hình dịch bệnh

và công tác phòng chống sốt rét chưa được quan tâm đúng mức đã làm cho

kết quả phòng chống sốt rét ở thời kỳ đầu không đạt được hiệu quả.

Trong những năm 1986-1989, sốt rét tăng lên gấp hàng chục lần so với

những năm 1970 trở về trước. Công tác phòng chống sốt rét tính đến năm

1990 vẫn còn những biến động xấu. Năm 1991 được xem là đỉnh cao của dịch

sốt rét, với 28 vụ dịch, làm 126.034 người mắc, tử vong 351 người. Có thể

nói, năm 1991 không có làng bản nào ở miền núi Thanh Hoá không có người

mắc sốt rét, thậm chí dịch còn lan đến vùng trung du và đồng bằng.

Trước tình hình dịch bệnh sốt rét lan rộng trong cả nước, đầu năm 1992,

Chính phủ đã quyết định thành lập Chương trình quốc gia phòng chống sốt rét

Trung ương và các cấp. Với mục tiêu khống chế tốc độ tăng của sốt rét, giảm

chết, giảm dịch do sốt rét, từ thực trạng sốt rét của tỉnh, dưới sự lãnh đạo trực

tiếp của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh và tham mưu tích cực của ngành y tế, đã đề ra

các biện pháp đồng bộ huy động nguồn lực, các ngành, các cấp cùng với

ngành y tế đồng loạt ra quân phòng chống sốt rét. Theo đó, Ban phòng chống

58

sốt rét tỉnh Thanh Hoá cũng được thành lập, tiếp đó thành lập Ban phòng

chống sốt rét ở các huyện, thị, xã, phường. Do triển khai tích cực, đồng bộ các

biện pháp, từ năm 1992-1997 tình hình sốt rét dần đi vào ổn định. Từ năm

1998, tình hình sốt rét khá ổn định, không có dịch lớn xảy ra, không có trường

hợp nào tử vong do sốt rét. Tình hình dịch bệnh sốt rét dần dần ổn định. Trên

80% thôn, bản có cán bộ y tế đã tập huấn về phòng chống sốt rét.

Dịch sốt xuất huyết: Cũng như dịch sốt rét, dịch sốt xuất huyết xuất hiện

vào giữa tháng 06/1987, lây lan ra khắp các huyện trong trong toàn tỉnh, nhất

là ở các huyện miền biển và đồng bằng, cường độ dịch diễn ra khá nhanh.

Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong công tác phòng chống dịch, nhưng do

những nguyên nhân khách quan và chủ quan, việc bao vây, dập tắt dịch ngày

càng trở nên khó khăn hơn.

Với sự giúp đỡ của Bộ Y tế và Viện vệ sinh dịch tễ Trung ương, tại Thanh

Hoá đã triển khai Dự án Phòng chống sốt xuất huyết ở những địa bàn trọng

điểm như Hoằng Hoá, Tĩnh Gia, thành phố Thanh Hoá. Với phương châm

“Không có bọ gậy không có sốt xuất huyết”, nhiều phong trào vệ sinh môi

trường, giải quyết thuỷ vực đã được các cấp chính quyền quan tâm, mạng lưới

cộng tác viên cũng hình thành tới tận thôn, bản. Nhờ đó, những năm qua tuy

dịch xuất hiện ở nhiều nơi trong cả nước nhưng tại Thanh Hoá tình hình vẫn

tương đối ổn định. Chỉ có một vài vụ dịch lẻ tẻ xuất hiện ở Hoằng Hoá, Tĩnh

Gia nhưng chỉ một thời gian ngắn đã được dập tắt, không có trường hợp nào

tử vong.

Dịch tả: Bên cạnh dịch sốt xuất huyết, dịch tả cũng xâm nhập vào Thanh

Hoá. Năm 1987, dịch đã bùng phát ở 36 xã của 7 huyện. Nhờ triển khai các

biện pháp phòng chống tích cực nên tình hình đã trở lại ổn định. Những năm

sau đó dịch lớn không xảy ra. Đến năm 1994, do tình hình dịch bệnh trong cả

nước có những diễn biến phức tạp, dịch tả đã xuất hiện lại ở Thanh Hoá, lan

59

rộng ra 10 xã trong tỉnh. Để chủ động đối phó với dịch tả, ngành y tế Thanh

Hoá đã tập trung cũng cố y tế cơ sở, tăng cường hệ thống giám sát, phát hiện

ngày từ những ca bệnh đầu tiên, bao vây, dập tắt không để dịch lan rộng.

Hàng năm, trước mùa dịch đều tổ chức tập huấn phác đồ cấp cứu điều trị bệnh

tả và tổ chức các đoàn đi kiểm tra công tác chỉ huy phòng chống dịch ở các

địa phương. Yêu cầu đặt ra khi có dịch là: tổ chức cấp cứu điều trị tại chỗ,

không nên chuyển bệnh nhân lên tuyến trên, tuyến trên tăng cường cán bộ,

phương tiện kỹ thuật và thuốc men, hoá chất cho tuyến dưới.

Dịch viêm đường hô hấp cấp: Tình hình dịch hô hấp cấp do vi rút (SARS)

xuất hiện vào tháng 03/2003 tại nhiều nước trên thế giới. Ngay sau khi nhận

được thông báo của Bộ Y tế, ngành y tế Thanh Hoá đã chuẩn bị các điều kiện

và thành lập Đội cơ động phòng chống SARS nhằm hỗ trợ cho y tế cơ sở,

đồng thời đảm bảo 100% các đối tượng có nguy cơ cao từ vùng dịch bệnh trở

về cư trú tại địa bàn tỉnh Thanh Hoá. Nhờ các biện pháp phòng chống tích cực

nên bệnh SARS không xuất hiện ở Thanh Hoá.

Bệnh viêm phổi do vi rút: Khi tình hình dịch SARS vừa được khống chế

thì đến những tháng đầu năm 2004, lại xảy ra dịch cúm gà lây từ gia cầm sang

người. Tình hình dịch cúm gà đã diễn ra rất phức tạp trong phạm vi cả nước.

Tại Thanh Hoá, dịch cúm gà đã xuất hiện ở hầu hết các địa phương. Ban chỉ

đạo phòng chống dịch được thành lập, khẩn cấp tiến hành các phương án

phòng chống dịch viêm đường hô hấp cấp năng do vi rút. Đồng thời kết hợp

với các ngành khác như: nông nghiệp, văn hoá, du lịch, công an… tiến hành

các biện pháp phòng chống dịch theo nội dung đã được phân công và phối

hợp cùng thực hiện. Nhờ chủ động tích cực và sự ứng phó kịp thời của các

ngành, các cấp, sự ủng hộ của quần chúng nhân dân nên dịch cúm gia cầm

sau đó đã được khống chế và không xuất hiện thêm bệnh nhân nhiễm bệnh.

60

Tiêm chủng mở rộng

Tiêm chủng mở rộng là một biện pháp hữu hiệu trong phòng chống các

bệnh dịch nguy hiểm. Vì vậy, chương trình tiêm chủng mở rộng quốc gia đã

chọn Thanh Hoá làm một trong những điểm triển khai tiêm đầy đủ 6 lợi vắc

xin cho trẻ em dưới 1 tuổi từ năm 1985 theo phương thức tiêm thường xuyên,

hàng tháng trên địa bàn các xã miền xuôi và tiêm chiến dịch ở tất cả các xã ở

miền núi. Năm 1986, chương trình được mở rộng quy mô 590 xã, phường

trong toàn tỉnh. Trong những năm qua, công tác tiêm chủng mở rộng đã được

xã hội hoá, vận động sự đóng góp của các tổ chức xã hội, các nhà hảo tâm,

các cơ quan đoàn thể, các doanh nghiệp để có thêm kinh phí hỗ trợ cho tiêm

chủng mở rộng tại các xã, phường.

Ban chỉ đạo tiêm chủng mở rộng từ tỉnh đến xã, phường thường xuyên

được cũng cố và duy trì hoạt động có hiệu quả. Hàng năm, Ban chỉ đạo tiêm

chủng mở rộng tỉnh đã ký hợp đồng trách nhiệm với Bộ trưởng Bộ Y tế và

Chủ tịch UBND các huyện, thị, thành phố về việc thực hiện chương trình tiêm

chủng mở rộng tại địa phương. Ban chỉ đạo tỉnh, huyện đã có văn bản chỉ đạo,

hướng dẫn cơ sở thực hiện kế hoạch tiêm chủng thường xuyên hàng năm và

tổ chức kiểm tra, đánh giá hiệu quả của việc thực hiện ở từng đơn vị, thường

xuyên tổ chức tập huấn chuyên môn, giao ban sơ kết, tổng kết rút kinh

nghiệm và kịp thời biểu dương các đơn vị, cá nhân đạt thành tích xuất sắc,

đồng thời phê bình, nhắc nhở các đơn vị, cá nhân chưa đạt kết quả cao trong

tiêm chủng mở rộng.

Các hoạt động xã hội hóa công tác tiêm chủng mở rộng đã được các cấp

ủy Đảng, chính quyền, các ban ngành đoàn thể xã hội quan tâm đúng mức.

Chính vì vậy, ngày tiêm chủng mở rộng đã trở thành ngày hội vì sức khỏe trẻ

em và hành phúc của chị em phụ nữ ở khắp các bản làng trong tỉnh. Nhờ công

tác xã hội hoá tiêm chủng mở rộng được tiến hành có hiệu quả, nên tỷ lệ trẻ

61

em dưới 5 tuổi được uống đủ 2 liều vắc xin bại liệt hàng năm luôn đạt trên

99% và năm 2000, Thanh Hoá được công nhận thanh toán hết bại liệt. Các

bệnh như ho gà, uốn ván, bại liệt, bạch hầu….đã giảm rõ rệt.

Vệ sinh an toàn thực phẩm và dinh dưỡng

Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm và dinh dưỡng giai đoạn từ những

năm 1990 được quan tâm và triển khai có hiệu quả, nhiệm vụ chính là kiểm

tra và cấp giấy chứng nhận vệ sinh an toàn thực phẩm cho các cơ sở sản xuất

chế biến và kinh doanh thực phẩm. Hàng năm, ngành y tế Thanh Hoá đã tổ

chức nhiều hoạt động về vệ sinh an toàn thực phẩm và dinh dưỡng tại cộng

đồng như tháng hành động vì chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm, tập huấn

kiến thức về vệ sinh an toàn thực phẩm cho đối tượng là người sản xuất, chế

biến và kinh doanh phục vụ ăn uống, giải khát, khám sức khỏe định kỳ và cấp

giấy chứng nhận sức khoẻ cho cán bộ, nhân viên các nhà hàng khách sạn, các

cơ sở sản xuất kinh doanh lương thực, thực phẩm, ăn uống và giải khát. Tổ

chức các đoàn kiểm tra liên ngành, xử lý nhiều cơ sở vi phạm các quy định về

vệ sinh an toàn thực phẩm.

Từ năm 2000, công tác vệ sinh an toàn thực phẩm chính thức được Nhà

nước quan tâm đầu tư và trở thành Chương trình y tế quốc gia. Vì vậy, các

hoạt động về vệ sinh an toàn thực phẩm ngày càng phát triển và đi vào nề

nếp. Ngày 01/07/2003, Chủ tịch nước đã ký ban hành Pháp lệnh vệ sinh an

toàn thực phẩm, đây là hành lang pháp lý quan trọng cho công tác này trước

mắt cũng như lâu dài.

Chính vì xác định rõ vai trò và tầm quan trọng của công tác vệ sinh an toàn

thực phẩm và dinh dưỡng, ngành y tế đã thường xuyên phối hợp với các cấp,

các ngành chức năng như: Chi cục quản lý thị trường, chi cục tiêu chuẩn đo

lường chất lương, Chi cục thú y, Chi cục bảo vệ thực vật, Công an và Thanh

tra y tế đã tổ chức chỉ đạo tốt công tác đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn

62

thực phẩm, hàng năm tổ chức thanh tra, kiểm tra và các dịp như: Trước tết

Nguyên Đán, Tháng hành động vì chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm, tết

Trung thu….Trong 5 năm (từ 2001-2005) đã tiến hành kiểm tra 17.188 lượt

cơ sở chế biến, kinh doanh lương thực, thực phẩm, trong đó có 11.033 cơ sở

đạt vệ sinh (đạt 64,19%). Trong 5 năm này, có 20 vụ ngộ độc thực phẩm với

589 người mắc, tử vong 8 người. Tổ chức lấy 8.435 mẫu xét nghiệm về vi

sinh vật và hóa học, có 6.234 mẫu đạt tiêu chuẩn vệ sinh (73,90%) [74, tr. 2].

Nhờ việc đẩy mạnh công tác truyền thông giáo dục về vệ sinh an toàn

thực phẩm trên các phương tiện thông tin đại chúng, tổ chức thanh, kiểm tra

các cơ sở sản xuất, kinh doanh lương thực, thực phẩm, vì vậy tỷ lệ mẫu thực

phẩm đạt tiêu chuẩn vệ sinh ngày càng tăng, số vụ ngộ độc thực phẩm ngày

càng giảm.

Công tác đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm liên quan tới tất

cả các công đoạn từ nuôi trồng, thu hoạch, sản xuất, chế biến bảo quản, lưu

thông và tiêu dùng. Tác hại của việc không đảm bảo vệ sinh an toàn thực

phẩm ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển kinh tế, xã hội, ảnh hưởng tới sức

khoẻ người tiêu dùng và giống nòi dân tộc. Với xu thế trên thế giới và khu

vực nhằm mục tiêu giảm gánh nặng xã hội và y tế đối với các bệnh truyền qua

thực phẩm, cũng như các yêu cầu của lộ trình hội nhập về lĩnh vực vệ sinh an

toàn thực phẩm ở khu vực và trên thế giới, cho nên công tác vệ sinh an toàn

thực phẩm không những phải thúc đẩy sản xuất trong tỉnh mà còn tăng cường

công tác quản lý nhằm xuất khẩu thực phẩm an toàn và loại trừ thực phẩm

không đảm bảo chất lượng, vệ sinh an toàn để bảo vệ sức khoẻ nhân dân và

khách du lịch ngày càng tốt hơn.

Ngoài ra, hàng năm hệ YTDP đã tổ chức thực hiện tốt chương trình phòng

chống thiếu Vitamin A, đã có trên 99% số trẻ em trong độ tuổi 6-36 tháng

63

tuổi được uống đủ 2 lần Vitamin A hàng năm và trên 90% số bà mẹ sau sinh

trong vòng 1 tháng được uống Vitamin A. Chính vì vậy, nhiều năm qua ở

Thanh Hoá không có trẻ em bị mù lòa do thiếu Vitamin A.

Phòng chống HIV/AIDS

HIV/AIDS là địa dịch nguy hiểm, là mối hiểm hoạ đối với sức khoẻ, tính

mạng con người và tương lai của giống nòi, tác động trực tiếp đến phát triển

kinh tế, văn hoá, trật tự an toàn của các dân tộc. Trong điều kiện cơ chế thị

trường, nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần làm cho nền kinh tế có những

bước phát triển nhảy vọt, mạnh mẽ, đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý

nghĩa rất quan trọng. Tuy nhiên tình hình kinh tế, xã hội vẫn còn nhiều mặt

yếu kém do mặt trái của cơ chế thị trường tác động. Một số bệnh dịch, bệnh

xã hội xuất hiện và có nguy cơ phát triển mà điển hình là căn bệnh thế kỷ

HIV/AIDS đe doạ đến tính mạng, sức khoẻ con người.

Tại Thanh Hoá, trường hợp HIV đầu tiên được phát hiện vào tháng 11

năm 1995. Trong những năm đầu (1995-2000) số trường hợp nhiễm mới hàng

năm chỉ dừng lại ở con số hàng chục. Tuy nhiên, từ năm 2001-2005, số

trường hợp mới nhiễm HIV/AIDS từ 143 lên 387 trường hợp mỗi năm. Năm

2005, Thanh Hoá là tỉnh có số người nhiễm HIV/AIDS xếp thứ 13 trong tổng

số 64 tỉnh thành cả nước. Tính đến ngày 31/03/2006, toàn tỉnh có 2.796 người

nhiễm HIV, 498 bệnh nhân AIDS (1.761 người Thanh Hoá nhiễm HIV, 398

người nhiễm AIDS), có 318/636 xã, phường và 100% các huyện, thị, thành

phố có người nhiễm HIV.

Tình hình lây nhiễm HIV/AIDS trong tỉnh vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp.

Số trường hợp phát hiện nhiễm mới không chỉ gia tăng nhanh ở một số khu

vực thành phố, các thị xã, các huyện đồng bằng như thành phố Thanh Hoá,

Đông Sơn, thị xã Sầm Sơn, Quảng Xương, Tĩnh Gia….mà còn nhận thấy ở

một số huyện miền núi, vùng sâu, vùng xa như Quan Hoá, Bá Thước, Mường

64

Lát. Ngoài các nhóm nguy cơ cao (tiêm chích ma tuý, mại dâm), tỷ lệ nhiễm

HIV/AIDS ở phụ nữ mang thai, độ tuổi thanh thiếu niên cũng tăng nhanh.

HIV/AIDS đang ảnh hưởng trực tiếp và nghiêm trọng đến sức khoẻ, tính

mạng con người, trật tự an ninh, kinh tế của nhân dân các dân tộc trong tỉnh.

Ngay sau khi HIV/AIDS xâm nhập vào nước ta, Ban chỉ đạo Quốc gia đã

xếp Thanh Hoá vào 1 trong 10 tỉnh giám sát trọng điểm (do tính chất địa lý và

giao lưu của tỉnh với cả nước). Căn cứ Nghị định 16/CP ngày 18/12/1992 của

Thủ tướng Chính phủ về Phòng chống SIDA, ngày 08/06/1993, UBND tỉnh

Thanh Hoá đã ra Quyết định số 750 VX/UBTH thành lập Ban chỉ đạo Phòng

chống SIDA tỉnh Thanh Hoá. Sau đó, để đáp ứng yêu cầu cụ thể trong công

tác phòng chống AIDS, Ban Chỉ đạo phòng chống SIDA được đổi tên thành

Ủy ban phòng chống AIDS (1998).

Thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về công tác phòng chống

HIV/AIDS, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ra Chỉ thị số 02-CT/TU ngày

05/04/2001 “Về tăng cường sự lãnh đạo đối với công tác phòng, chống các tệ

nạn ma túy, mại dâm và HIV/AIDS”. Bản Chỉ thị đã chỉ rõ trách nhiệm của

các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể trong việc tăng cường công tác lãnh

đạo, chỉ đạo việc đấu tranh ngăn ngừa các tệ nạn trên. Tăng cường công tác

tuyên truyền, giáo dục và phương pháp phòng chống tệ nạn ma túy, mại dâm,

HIV/SIDA. Tổ chức tốt công tác chữa bệnh, cai nghiện bắt buộc kết hợp với

cai nghiện tại cộng đồng và gia đình có sự tham gia quản lý, giúp đỡ của

chính quyền và các đoàn thể địa phương để từng bước xã hội hóa công tác cai

nghiện.

Thực hiện Chỉ thị của Tỉnh ủy, ngày 24/11/2004, Chủ tịch UBND tỉnh

Thanh Hoá ra Quyết định số 3776/QĐ-CT về việc phê duyệt “Chương trình

hành động thực hiện Chiến lược quốc gia phòng, chống HIV/AIDS ở Việt

Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020” tại Thanh Hoá. UBND tỉnh Thanh

65

Hoá đã thành lập Ban chỉ đạo phòng chống AIDS và tệ nạn mại dâm, ma tuý

trên cơ sở hợp nhất Uỷ ban phòng chống AIDS, Uỷ ban phòng chống ma tuý,

Ban chỉ đạo phòng chống tệ nạn xã hội và kiện toàn lại bộ máy tổ chức của

Ban chỉ đạo. Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hoá cũng đã có Chỉ thị về việc tăng

cường phòng chống tệ nạn ma tuý, mại dâm, HIV/AIDS. Hầu hết các huyện,

thị xã, thành phố đã thành lập Ban chỉ đạo xây dựng kế hoạch phòng chống tệ

nạn ma tuý, mại dâm và HIV/AIDS.

Công tác phòng chống HIV/AIDS trong những năm qua đã được sự quan

tâm chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, chính quyền với sự tham gia của các ngành,

các tổ chức đoàn thể, bước đầu đã hạn chế được tốc độ gia tăng, góp phần giữ

vững trật tự xã hội và phát triển kinh tế tỉnh nhà.

Công tác thông tin, giáo dục, truyền thông được triển khai thường xuyên,

liên tục ngày từ những ngày đầu và ngày càng được triển khai rộng khắp, huy

động được nhiều lực lượng và phương tiện truyền thông, kết hợp ngày càng

tốt hơn giữa truyền thông đại chúng và truyền thông theo chiều sâu qua các

tuyên truyền viên của hệ thống phòng chống HIV/AIDS của các ngành, đoàn

thể. Đã có hàng triệu lượt người được tiếp cận với thông tin, truyền thông

phòng chống HIV/AIDS. Phối hợp với Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy thường xuyên

có tin bài về tình hình HIV/AIDS đăng trên bản tin nội bộ, in ấn và phát hành

hàng chục bản tin nhanh, tờ rơi, áp pích, sách nhỏ các loại và hàng ngàn băng

hình video, caset tuyên truyền phòng chống HIV/AIDS cấp phát tới tận các

xã, phường, thị trấn. Lồng ghép các hoạt động thông tin, giáo dục truyền

thông phòng chống HIV/AIDS với các chương trình, các phong trào và các

cuộc vận động quần chúng như phong trào xây dựng gia đình văn hóa, phố

văn hóa…

Thanh Hoá là một trong những tỉnh đầu tiên triển khai công tác giám sát

điểm HIV (năm 1994). Đến nay, mạng lưới giám sát và sàng lọc máu được

66

trang bị phương tiện xét nghiệm và hoạt động tốt từ tỉnh đến cơ sở, đảm bảo

100% đơn vị máu được sàng lọc HIV/AIDS trước khi truyền cho bệnh nhân.

Các hoạt động giám sát thường xuyên, giám sát trọng điểm, đặc biệt giám sát

hành vi của các nhóm có hành vi nguy cơ cao như tiêm chích ma tuý, mại

dâm, nhóm dân cư di biến động, thanh niên, phụ nữ mang thai, người nhiễm

và gia đình người nhiễm HIV, các hoạt động tư vấn xét nghiệm tự nguyện,

điều trị nhiễm trùng cơ hội, thuốc kháng vị rút được tăng cường hơn.

Các hoạt động can thiệp giảm tác hại của HIV/AIDS, hoạt động giám sát,

truyền thông…..đã được xã hội hoá và mang tính chất đa ngành với sự tham

gia tích cực của cộng đồng và các tổ chức xã hội. Vấn đề phân biệt đối xử và

kỳ thị của người thân, gia đình và cộng đồng đối với người nhiễm HIV đã

được cải thiện, góp phần làm giảm tốc độ gia tăng của đại dịch, bảo vệ sức

khoẻ nhân dân. Công tác đấu tranh triệt phá, xử lý các đường dây, tụ điểm

mua bán, sử dụng ma túy, mại dâm được đẩy mạnh.

Công tác quản lý, chăm sóc người nhiễm HIV/AIDS đã được chú trọng cả

về quản lý y tế và hỗ trợ xã hội. Vấn đề “sống chung với AIDS” đã được các

ngành, các cấp quan tâm. Hoạt động chăm sóc người nhiễm HIV/AIDS tại gia

đình, như nhóm “Bạn giúp bạn”, nhóm “Giáo dục đồng đẳng” được tăng

cường. Được sự hỗ trợ của Bộ Y tế, Văn phòng thường trực phòng chống

AIDS quốc gia và các tổ chức quốc tế, Thường trực phòng chống HIV/AIDS-

Trung tâm YTDP tỉnh đã phổi hợp với các tổ chức trong và ngoài nước triển

khai hiệu quả các chương trình dự án can thiệp dự phòng lây nhiễm

HIV/AIDS trên địa bàn như: Dự án của tổ chức cứu trợ nhi đồng Mỹ: triển

khai mô hình truyền thông trực tiếp về phòng chống HIV/AIDS, Bạn giúp

bạn; Dự án của tổ chức MBC (Australia); Dự án Cộng đồng hành động phòng

chống HIV/AIDS; Dự án 100% bao cao su; Dự án Quỹ toàn cầu; Dự án

67

phòng lây nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam.

Trong tình hình hiện nay, công tác phòng chống HIV/AIDS và phòng

chống các tệ nạn xã hội đang là vấn đề khó khăn và phức tạp. Vì vậy, đặt ra

cho các ngành các cấp, từng địa phương, đơn vị, các đồng chí lãnh đạo Đảng

và chính quyền, các ban ngành và đoàn thể phải thường xuyên quan tâm theo

dõi, đôn đốc thực hiện và kiểm tra công tác phòng chống HIV/AIDS tốt hơn

nữa.

Vệ sinh môi trường

Công tác vệ sinh môi trường được xác định là điều kiện tiên quyết để

phòng chống các dịch bệnh, nâng cao sức khoẻ cho cộng đồng. Thực hiện Chỉ

thị số 200/TTg ngày 24/09/1994 của Thủ tướng Chính phủ về đảm bảo nước

sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, ngành y tế Thanh Hoá đã xác định rõ

tầm quan trọng của công tác vệ sinh môi trường trong việc bảo vệ sức khoẻ

cho cộng đồng. Nhiều năm qua, ngành y tế đã tham mưu cho cấp ủy Đảng,

chính quyền tổ chức tuyên truyền vận động nhân dân khơi dậy phong trào vệ

sinh yêu nước, sạch làng tốt ruộng. Cho đến nay, hầu hết các xã, phường đã

tham gia và duy trì thường xuyên phong trào vệ sinh môi trường xanh sạch

đẹp.

Thực hiện Chỉ thị số 352/NV-YT ngày 24/08/1995 của Giám đốc Sở Y tế

Thanh Hoá về việc xây dựng các công trình vệ sinh trong ngành y tế. Theo

đó, các đơn vị, cá nhân trong ngành y tế phải gương mẫu đi đầu xây dựng nhà

vệ sinh đạt tiêu chuẩn. Đồng thời, tiến hành vận động nhân dân hàng năm xây

dựng và sữa chữa 3 công trình vệ sinh phòng bệnh. Đến năm 2005, toàn tỉnh

có số hộ gia đình có nhà tiêu hợp vệ sinh là 88.270 hộ (chiếm 11,95% số hộ

gia đình có nguồn nước đạt vệ sinh), 52,71% số hộ gia đình có nhà tắm.

Trong 5 năm (2001-2005), đã kiểm tra vệ sinh trường học ở cả 3 vùng sinh

thái với tổng số 2.124 trường đều có phong trào xanh-sạch-đẹp đạt 100%, đại

68

đa số các trường học có nhà nhà tiêu hợp vệ sinh, có hệ thống thoát nước tốt,

có đủ nước sinh hoạt hợp vệ sinh và có biện pháp xử lý rác. 100% số trường

có giáo dục ngoại khóa về công tác vệ sinh phòng bệnh [74, tr. 2].

Bảo vệ sức khoẻ bà mẹ trẻ em-kế hoạch hoá gia đình

Trong những năm 1986-1989, công tác này gặp rất nhiều khó khăn, trong

đó nổi cộm nhất là vấn đề bùng nổ dân số. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến

tình trạng này, trong đó có việc nhiều cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể,

các ngành có liên quan vẫn dừng lại ở chủ trương, chỉ thị, nghị quyết mà chưa

trở thành hành động cụ thể; công tác tuyên truyền về sinh đẻ có kế hoạch còn

yếu kém, do đó phần lớn nhân dân, kể cả cán bộ công chức còn mang nặng

quan niệm lỗi thời về vấn đề con cái, phân biệt giới tính; các biện pháp kỹ

thuật thực hiện mới chỉ bù đắp được cho số phụ nữ chuyển độ tuổi hàng năm

mà chưa đủ hiệu lực để làm giảm tỷ lệ phát triển dân số.

Theo thống kê của UBND tỉnh Thanh Hoá năm 1987, tỷ lệ tăng dân số tự

nhiên là 2,29%. Năm 1990, toàn tỉnh Thanh Hoá có hơn 3 triệu người, tỷ lệ

tăng dân số tự nhiên bình quân toàn tỉnh là 2,18%. Mức sinh và mức tăng dân

số còn rất cao, đặc biệt là tại khu vực miền núi. Năm 1991, Uỷ ban dân số kế

hoạch hoá gia đình được thành lập và một mạng lưới chuyên trách từ tỉnh đến

xã, thôn được thành lập. Cùng với sự ra đời của Pháp lệnh dân số đã đưa công

tác này trở thành nhiệm vụ của các cấp uỷ Đảng, chính quyền và nghĩa vụ của

công dân. Nhờ đó, công tác dân số bước sang giai đoạn mới, hoạt động có

hiệu quả hơn. Nhờ các biện pháp thực hiện có hiệu quả, tỷ lệ tăng dân số tự

nhiên năm 2005 xuống còn 1,03%.

Xác định đầu tư cho sức khoẻ nói chung và sức khoẻ sinh sản nói riêng

cũng là đầu tư cho phát triển. Vì vậy, một trong những ưu tiên của Đảng và

Nhà nước ta là các chính sách và chiến lược phát triển con người, đặc biệt coi

trọng các quyền của phụ nữ và trẻ em, nhất là trẻ em dưới 5 tuổi, tăng cường

69

sức khoẻ bà mẹ trẻ em và từng bước nâng cao chất lượng dân số.

Nhờ những biện pháp tích cực và hiệu quả nên công tác chăm sóc sức

khoẻ sinh sản, kế hoạch hóa gia đình và phòng, chống suy dinh dưỡng được

triển khai có hiệu quả. Năm 2006, tỷ lệ khám thai trung bình đạt 2,88 lần/1

phụ nữ đẻ; tỷ lệ nữ đẻ được cán bộ y tế đỡ đạt 97,7%; tỷ lệ phụ nữ đẻ tại các

cơ sở y tế đạt 90,38%, các tai biến phụ khoa giảm so với năm 2005; các chỉ

tiêu kế hoạch hóa gia đình đều đạt kế hoạch đề ra; dự án phòng, chống suy

dinh dưỡng được chú trọng; tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi giảm

từ 31,3% xuống còn 29,1% (giảm 2,2%).

2.2.3 Công tác phòng chống các bệnh xã hội

Phòng chống bệnh da liễu

Công tác phòng chống bệnh da liễu mà trọng tâm là phòng chống bệnh

phong tiếp tục được đẩy mạnh và đạt nhiều kết quả. Để đẩy mạnh hơn nữa

công tác phòng chống bệnh phong trong thời kỳ này, UBND tỉnh Thanh Hoá

có quyết định sáp nhập Khu điều trị phong ở Cẩm Thuỷ vào Trạm Da liễu.

Từ năm 1986, công tác phòng chống bệnh phong được tập trung cao độ

mà trọng tâm là khám, phát hiện, quản lý và điều trị bệnh nhân phong mới,

triển khai chương trình thanh toán phong từng vùng. Trong giai đoạn 1986-

1990, công tác phòng chống bệnh phong được Chính phủ đưa vào Chương

trình quốc gia, đồng thời có kế hoạch lập Ban chỉ đạo chương trình từ trung

ương đến xã, phường với 4 nội dung hoạt động cụ thể là: Tổ chức khám, phân

loại bệnh nhân; khám điều tra cơ bản và phát hiện bệnh nhân phong mới;

quản lý và điều trị bệnh nhân tại nhà; tổ chức tuyên truyền, giáo dục bệnh

nhân và người nhà của họ có quan niệm và hiểu biết về bệnh phong là: lây ít,

khó lây và lây chậm.

Sau khi được công nhận loại trừ bệnh phong tháng 05/1998, Trung tâm

phòng chống bệnh Da liễu Thanh Hoá đã quyết tâm xây dựng kế hoạch và có

70

biện pháp cụ thể để tổ chức thực hiện duy trì công tác loại trừ bệnh phong bởi

vì thực tế số bệnh nhân phong bị tàn tật độ 1, độ 2 rất nhiều và bệnh nhân mới

hàng năm vẫn còn được phát hiện. Thường xuyên mở lớp đào tạo lại cho

màng lưới chuyên khoa huyện, lồng ghép đào tạo mạng lưới đa khoa, phòng

khám chuyên khoa như chuyên khoa Lao, chuyên khoa Bướu cổ, chuyên khoa

Mắt….Về công tác khám phát hiện bệnh phong, thường xuyên mở các lớp tập

huấn về công tác chống phong cho các cán bộ chống phong tuyến xã. Tất cả

bệnh nhân phong được quản lý và điều trị cũng như việc theo dõi tác dụng

phụ của thuốc, theo dõi cơn phản ứng phong, theo dõi tàn tật và chăm sóc tàn

tật trong quá trình điều trị.

Trong lĩnh vực phòng chống bệnh phong, công tác truyền thông đóng một

vai trò hết sức quan trọng. Nhận thức rõ điều đó, liên tục trong nhiều năm

ngành đã tập huấn cho nhiều lượt cán bộ y tế xã về 3 nội dung: kiến thức

chung về bệnh phong, cách điều trị và những quan niệm mới về bệnh phong.

Bên cạnh đó còn chú trọng hình thức tuyên truyền trực tiếp tại các công sở, cơ

quan, trường học…..Nhờ đó, tại nhiều xã đã dần xoá bỏ được thành kiến đối

với bệnh phong, người dân chủ động tìm tới khám và điều trị tại bệnh viện

khi mới xuất hiện 1-2 dấu hiệu đầu tiên. Năm 1994, huyện Thạch Thành đã

trở thành huyện miền núi đầu tiên trong cả nước đạt tiêu chuẩn loại trừ bệnh

phong. Đến cuối năm 1998, tất cả 27 huyện, thị, thành phố trong toàn tỉnh

được công nhận loại trừ bệnh phong toàn tỉnh.

Trong những năm tiếp theo, công tác phòng chống bệnh phong và các

bệnh da liễu tiếp tục được đẩy mạnh. Từ năm 2000, đã hình thành một mạng

lưới chuyên khoa rộng khắp tại 27/27 huyện, thị, thành phố với 480/633 xã có

cán bộ chuyên khoa hoạt động.

Bên cạnh công tác phòng chống phong, công tác phòng chống các bệnh da

71

liễu cũng đạt nhiều kết quả quan trọng. Chương trình phòng chống các bệnh

lây truyền qua đường tình dục được triển khai có hiệu quả ở một số địa bàn

trong tỉnh.

Phòng chống bệnh bướu cổ

Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, ngày 12/08/1992,

UBND tỉnh Thanh Hoá đã ra Quyết định số 1059 VX/UBTH về việc thành

lập Ban chỉ đạo chương trình phòng chống bệnh Bướu cổ. Tiếp đó, ngày

27/02/1996, UBND tỉnh Thanh Hoá đã quyết định chuyển Trạm Bướu cổ

thành Trung tâm Phòng chống các rối loạn thiếu iốt. Nhằm đáp ứng yêu cầu

công tác bảo vệ chăm sóc sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới, ngày

17/07/2001, UBND tỉnh Thanh Hoá đã có quyết định đổi tên Trạm Phòng

chống Bướu cổ thành Trung tâm Nội tiết, với nhiệm vụ phòng và chống các

bệnh nội tiết cho nhân dân trong tỉnh.

Trong giai đoạn này, Chính phủ, Bộ Y tế, UBND tỉnh Thanh Hoá đã ban

hành nhiều văn bản làm cơ sở pháp lý để ngành y tế đẩy mạnh hoạt động

phòng chống bệnh bướu cổ, đặc biệt là khu vực miền núi. Theo đó, công tác

phòng chống bướu cổ-đần độn phải đảm bảo 6kg muối iốt/1 người/năm.

Phòng chống bệnh mù loà

Chương trình phòng chống mù loà trong những năm 1986-1990 tiếp tục

mở rộng quy mô ở các huyện miền xuôi. Trong những năm 90, theo sự chỉ

đạo của Viện Mắt Trung ương, công tác mở đục thuỷ tinh thể giải phóng mù

loà đã được đẩy mạnh trong toàn quốc.

Phòng chống bệnh lao

Công tác phòng chống bệnh lao trong những năm 1986-1990 nhìn chung

gặp nhiều khó khăn. Do có giai đoạn ngành Y tế cũng như người dân chủ

quan với việc phòng chống nên bệnh đã âm thầm quay trở lại, số lượng người

mắc ngày càng tăng. Bên cạnh đó, cơ chế thị trường làm tăng sự giao lưu giữa

72

các vùng miền và cũng đồng thời làm gia tăng người lây nhiễm, trong khi đó,

sự đầu tư cho công tác phòng chống còn nhiều hạn chế, cơ sở xuống cấp

nghiêm trọng, trang thiết bị kỹ thuật nghèo nàn.

Giai đoạn 1986-2000, nhiệm vụ trung tâm của công tác phòng chống lao

là thực hiện Chương trình quốc gia chống lao quốc gia, Chương trình chống

lao cấp II, Chương trình chống nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính trẻ em dưới 5

tuổi. Năm 1986, Chương trình chống lao cấp II mới chỉ thực hiện ở 100 xã,

đến năm 1991, đã mở rộng quy mô tới 330 xã của 14 huyện, thị. Chương trình

chống lao quốc gia ngay từ đầu đã triển khai tới 100% huyện, thị trong toàn

tỉnh Thanh Hoá. Hầu hết các xã đều triển khai chương trình chống nhiễm

khuẩn hô hấp cấp tính trẻ em dưới 5 tuổi.

Từ năm 2001, tỷ lệ xã, phường triển khai Chương trình quốc gia đạt

100%. Năm 2003, tổng số bệnh nhân lao được phát hiện là 3.714 người, tăng

2,1% so với năm 2002. Cùng với sự gia tăng của căn bệnh thế kỷ thì vấn đề

lao trên bệnh nhân HIV/AIDS cũng đang gia tăng tại Thanh Hoá, ảnh hưởng

rất lớn tới kết quả điều trị lao, đồng thời làm tăng thêm gánh nặng đối với

ngành y tế bởi việc chẩn đoán bệnh lao ở người HIV dương tính rất khó khăn,

bệnh nhân lại có nhu cầu chăm sóc toàn diện trong khi năng lực tài chính và

con người của ngành cũng chỉ có giới hạn. Bên cạnh đó, nhận thức của người

dân về căn bệnh nguy hiểm này vẫn còn rất hạn chế, đa số còn mặc cảm

không đến khám và điều trị còn phổ biến….do đó dẫn đến hậu quả là bệnh

càng trầm trọng thêm, tỷ lệ bệnh nhân lao kháng thuốc ngày càng nhiều.Thực

hiện đúng quy định của Chương trình chống lao quốc gia, Chương trình

chống lao tỉnh đã tổ chức kiểm tra, giám sát mỗi huyện 4 lần trong năm. Bên

cạnh đó, công tác truyền thông giáo dục sức khoẻ phòng chống bệnh lao ngày

càng được chú trọng và đẩy mạnh dưới nhiều hình thức như: phát thanh,

truyền hình, tọa đàm, họp báo, cung cấp băng đĩa và tài liệu tuyên truyền đến

73

27 TTYT huyện, thị, thành phố; tổ chức mít tinh, cổ động về công tác phòng

chống lao; tập huấn kỹ năng truyền thông công tác phòng chống lao cho cán

bộ chuyên khoa lao của 27 TTYT trong toàn tỉnh….Đây là những hoạt động

cần thiết vì thông qua đó nhận thức của nhân dân cũng như chính quyền địa

phương về bệnh lao từng bước được nâng lên, tạo tiền đề cho việc thực hiện

mục tiêu phát hiện và điều trị cho số bệnh nhân lao còn tiềm ẩn trong cộng

đồng.

Phòng chống bệnh tâm thần và nghiện hút ma tuý

Công tác phòng chống bệnh tâm thần ngày càng được quan tâm cùng với

việc cũng cố và hoàn thiện công tác cán bộ, xây dựng cơ sở vật chất, trang

thiết bị. Công tác phòng chống bệnh tâm thần trong những năm 1986-1989,

phải đối diện với số lượng bệnh nhân ngày một gia tăng, đặc biệt là tâm thần

phân liệt và động kinh. Năm 1991, tổng số bệnh nhân quản lý và điều trị đối

với hai bệnh động kinh và tâm thần phân liệt là 5.459 người (gấp 1,5 lần so

với năm 1990). Năm 2001, chương trình sức khoẻ tâm thần dựa vào cộng

đồng trở thành Chương trình y tế quốc gia và thực hiện được tốt hơn. Năm

2003, đã tổ chức triển khai thực hiện tại 20 huyện với tổng số 37 xã.

Nhìn chung, công tác phòng chống một số bệnh xã hội trong giai đoạn này

tuy đã có bước phát triển vượt bậc nhưng để có thể đáp ứng được yêu cầu

trong tình hình mới đòi hỏi ngành y tế phải tiếp tục đầu tư hơn nữa về trang bị

cũng như con người.

2.2.4 Công tác khám chữa bệnh

Năm 1991 là năm khởi đầu của việc thực hiện chiến lược kinh tế, xã hội 5

năm (1991-1995). Cả nước trên đà chuyển đổi và điều chỉnh từng bước cơ chế

hoạt động trên mọi lĩnh vực. Năm 1994 là năm thứ 2 thực hiện Nghị quyết 04

của Ban Chấp hành trung ương Đảng (khoá VII) nhằm thực hiện thắng lợi

74

những mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm (1991-1995). Trong năm 1994,

tổng số lần khám chữa bệnh là 3.566.494 lượt người, bằng 1,4 lần/năm so với

năm 1993. Tổng số bệnh nhân điều trị nội trú là 229.100 người [51, tr. 282].

Những năm tiếp theo, từ 1995-2000, để đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh

ngày càng tăng cao của nhân dân, Nhà nước đã tăng kinh phí cho đầu tư xây

dựng cơ bản và đây là điều kiện cần và đủ để ngành y tế Thanh Hoá triển khai

công tác đạt kết quả.

Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật

Trong thời gian này, cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ sở khám chữa

bệnh từ tuyến tỉnh, huyện đến trạm y tế xã tiếp tục được đầu tư xây dựng.

Thực hiện chủ trương của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh Thanh Hoá về tăng cường cơ

sở vật chất và trang thiết bị cho các cơ sở khám chữa bệnh, ngày 09/03/1994,

UBND tỉnh có Quyết định số 2011 TC/UBTH thành lập Ban quản lý công

trình trực thuộc Sở Y tế. Chủ trương đầu tư là ưu tiên các đơn nguyên kỹ

thuật, các huyện miền núi và những huyện có khó khăn. Nguồn kinh phí huy

động từ kinh phí tập trung của tỉnh, kinh phí tiết kiệm của sự nghiệp y tế, viện

trợ ODA…Trong thời gian 1994-2004 đã đầu tư hoàn chỉnh Bệnh viện chống

Lao, Bệnh viện Tâm thần, Bệnh viện Đông y, Bệnh viện Phụ sản, Trung tâm

Phòng chống sốt rét, Trạm vệ sinh phòng dịch, đang nâng cấp và xây dựng

hiện đại Bệnh viện Đa khoa tỉnh, xây dựng mới Bệnh viện Nhi với quy mô

200 giường….Tổng kinh phí đã được đầu tư cho các đơn vị tuyến tỉnh là 143

tỷ đồng, tuyến huyện là 102 tỷ đồng. Ngoài ra còn nâng cấp thiết bị phục vụ

cho công tác dự phòng và phòng chống dịch. Tổng kinh phí được đầu tư giai

đoạn 2000-2005 là 33,5 tỷ đồng. Đến nay, hầu hết các đơn vị y tế tuyến huyện

đã có đủ máy siêu âm, điện tim, X.quang, xét nghiệm sinh hoá đa chức năng,

máy xét nghiệm nước tiểu, siêu âm chẩn đoán thai, máy tạo ô xy…Các đơn vị

tuyến tỉnh tiếp tục được đầu tư trang thiết bị theo hướng chuyên sâu, tập trung

75

cho khoa chẩn đoán hình ảnh, cận lâm sàng, cấp cứu, phẫu thuật, CT Scaner,

X.quang tăng sáng, siêu âm màu, các máy xét nghiệm sinh hoá, nội soi, máy

gây mê, máy thở, máy chạy thận nhân tạo.

Trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin, ngành đã bước đầu ứng dụng

tin học vào công tác quản lý, điều hành. Đến nay, đã có 33/33 bệnh viện đã

triển khai ứng dụng tin học trong quản lý bệnh viện và sử dụng phần mềm

thống kê theo phân loại bệnh viện quốc tế….Việc tin học hoá quản lý bệnh

viện đã tăng cường hiệu quả quản lý nguồn thu viện phí, tránh thất thoát, tạo

điều kiện cho người bệnh trong nộp và thanh toán viện phí cũng như trong

công tác thống kê báo cáo. Nhiều đơn vị thực hiện tốt như: Bệnh viện Đa

khoa tỉnh, Bệnh viện Phụ sản, TTYTHoằng Hoá, Ngọc Lặc, Tĩnh Gia, Sầm

Sơn, Thiệu Hóa….

Thực hiện chính sách xã hội hoá trong khám chữa bệnh

Trong những năm qua, được sự quan tâm của Đảng uỷ, chính quyền, các

tổ chức đoàn thể xã hội, cùng với sự chỉ đạo của Bộ Y tế, y tế Thanh Hoá đã

có nhiều cố gắng trong việc CS&BVSKND, tạo mọi điều kiện để các tầng lớp

nhân dân được hưởng thụ các dịch vụ y tế.

Để thực hiện chính sách xã hội hoá về y tế, ngày 21/08/1997, Chính phủ

đã có Nghị quyết 90/CP “Về phương hướng chủ trương xã hội hoá hoạt động

giáo dục, y tế, văn hoá”. Đa dạng các loại hình chăm sóc sức khoẻ, cho phép

thành lập các bệnh viện bán công, bệnh viện tư, bệnh viện liên doanh 100%

vốn đầu tư nước ngoài, các xí nghiệp dược phẩm liên doanh hoặc cổ phần.

Nghị định số 73/1999/NĐ-Chính phủ ngày 19/08/1999 “Về chính sách

khuyến khích xã hội hoá đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế,

văn hoá, thể thao” nhằm tổ chức và vận động nhân dân tham gia vào phát

triển các sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao nhằm từng bước nâng cao

mức hưởng thụ về giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao trong sự phát triển về vật

76

chất và tinh thần của nhân dân.

Dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ, chính quyền tỉnh Thanh Hoá, trong nhiều

năm qua ngành y tế Thanh Hoá đã từng bước thực hiện xã hội hoá công tác

chăm sóc sức khoẻ nhân dân tại cộng đồng thông qua việc thực hiện các mục

tiêu của Chương trình y tế quốc gia, chương trình thanh toán loại trừ và phòng

ngừa một số bệnh dịch nguy hiểm, chương trình vệ sinh an toàn thực phẩm

thanh khiết môi trường và cung cấp nước sạch, chương trình xã hội hoá

YHCT.

Đối với lĩnh vực khám chữa bệnh, mục tiêu đặt ra là phải tạo điều kiện

thuận lợi cho nhân dân được khám chữa bệnh một cách thuận lợi, có chất

lượng an toàn và đảm bảo công bằng. Phát huy được các nguồn lực sẵn có

(con người và cơ sở vật chất) và tạo thêm nguồn lực cho ngành y tế. Xây

dựng được cơ chế chính sách hợp lý huy động và sử dụng có hiệu quả các

nguồn lực được huy động.

Thực hiện chủ trương xã hội hoá công tác y tế, ngành y tế đã xây dựng đề

án xã hội hoá công tác y tế, trong đó nhấn mạnh những nội dung cơ bản sau:

Xây dựng chiến lược phát triển sự nghiệp y tế qua từng giai đoạn

Xây dựng mô hình y tế Nhà nước, tư nhân trên các lĩnh vực khám bệnh và

chữa bệnh, chia ra các loại hình đa khoa và chuyên khoa. Xây dựng chiến

lược đào tạo đội ngũ cán bộ y tế có chuyên khoa sâu. Tăng cường đầu tư trang

thiết bị kỹ thuật hiện đại. Xây dựng cơ chế quản lý nhân lực và tài chính cụ

thể có thể phục vụ bệnh nhân một cách tốt nhất.

Trước mắt có phương án triển khai thực hiện thí điểm mô hình bệnh viện

bán công, tạo điều kiện giúp đỡ các hoạt động y tế tư nhân phát triển đúng

định hướng, tiến tới thành lập bệnh viện tư. Tăng cường các nguồn lực cùng

với sự đóng góp của cộng đồng để hỗ trợ cho sự nghiệp phát triển chuyên

77

môn y tế.

Thực hiện các chính sách xã hội, nâng cao tính công bằng và hiệu quả

trong tiếp cận và sử dụng các dịch vụ bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, nhất là đối

với trẻ em, người nghèo, người sống ở vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc

biệt khó khăn, ngành y tế đã tích cực phối hợp với các ngành, các cấp có liên

quan triển khai thực hiện Quyết định số 139 về khám chữa bệnh cho người

nghèo, Quyết định số 1007/QĐ-CT ngày 20/04/2005 của UBND tỉnh về

phương thức thực hiện chính sách khám chữa bệnh cho trẻ em dưới 6 tuổi.

Sau khi đề án được phê duyệt, ngành Lao động-Thương binh xã hội phối hợp

với UBND các huyện, thị, thành phố tổng hợp danh sách các đối tượng đói

nghèo thuộc diện được cấp thẻ khám chữa bệnh 139 đã được bình xét từ thôn,

bản theo đúng quy định của Nhà nước, tổ chức hoàn chỉnh việc cấp thẻ cho

các đối tượng được hưởng. Tổng số đối tượng được cấp thẻ khám chữa bệnh

139 đã được UBND tỉnh Thanh Hoá phê duyệt là 716.155 người. Tất cả các

đối tượng 139 khi đến cơ sở y tế từ xã đến tỉnh đều được điều trị miễn phí

theo quy định.

Đến cuối năm 2003, đã cấp 732.899 thẻ, trong đó có 239.193 thẻ cho nhân

dân vùng đặc biệt khó khăn, 493.706 thẻ cho người nghèo theo Quyết định

1443/LĐTB&XH, với tổng kinh phí đã chi là 38.700.837.000 đồng, bằng

113% so với cùng kỳ. 6 tháng đầu năm 2006, đã cấp 1.092.229 thẻ khám chữa

bệnh cho người nghèo theo chuẩn nghèo mới và cấp 314.397 thẻ khám chữa

bệnh cho trẻ em dưới 6 tuổi. Bệnh nhân thuộc các đối tượng trên sử dụng dịch

vụ khám chữa bệnh ngày càng cao, từ 58.338 lượt năm 2004 lên 89.527 lượt

năm 2005, nhất là ở Trạm y tế xã, phường, thị trấn (từ 18.812 năm 2004 lên

67.692 năm 2005), với trẻ em 6 tuổi tăng từ 11.200 lượt (năm 2004) lên

158.346 lượt (năm 2005). Ngoài ra, quỹ đã vận dụng để hỗ trợ chương trình

phẫu thuật đục thủy tinh thể, đem lại ánh sáng cho người mù nghèo, với tổng

78

số 3.033 người được phẫu thuật [81, tr.5].

Chủ trương khám chữa bệnh cho người nghèo là một bước đột phá đối với

ngành y tế, nhờ đó mà những tỉnh nghèo như Thanh Hoá có điều kiện chăm

sóc sức khoẻ cho người nghèo, tránh được tình trạng khó khăn trước đây.

Hệ thống khám chữa bệnh tư nhân

Thực hiện đa dạng hoá, xã hội hoá các loại hình khám chữa bệnh, lĩnh vực

hành nghề y, dược tư nhân ngày càng phát triển.

Sau khi Pháp lệnh hành nghề y dược tư nhân do Chủ tịch nước công bố

ngày 31/10/1993 và Pháp lệnh mới về hành nghề y dược tư nhân được Ủy ban

Thường vụ Quốc hội ban hành ngày 25/02/2003 cho phép những người có đủ

tiêu chuẩn và điều kiện được phép hành nghề. Cùng với pháp lệnh, Chính phủ

và Bộ Y tế đã ban hành các văn bản pháp quy tương đổi hoàn chỉnh, tạo điều

kiện cho công tác quản lý Nhà nước và sự phát triển đúng hướng của hoạt

hành nghề y dược tư nhân. Trên cơ sở đó, khu vực y dược tư nhân-bộ phận

cấu thành của hệ thống y tế hoạt động theo pháp luật ở Thanh Hóa đã phát

triển nhanh chóng và đa dạng, góp phần làm tăng khả năng tiếp cận và lựa

chọn của người dân đến các cơ sở y tế, đóng góp không nhỏ vào việc giảm

gánh nặng cho y tế công.

Ở Thanh Hoá, trước khi triển khai thực hiện Pháp lệnh hành nghề y dược

tư nhân, có 420 cơ sở được cấp giấy phép hành nghề (1994). Đến 30/06/1996,

số cơ sở được cấp giấy đủ tiêu chuẩn và điều kiện hành nghề đã tăng lên 656

cơ sở (trong đó y tư nhân là 88, YHCT dân tộc tư nhân là 98, dược tư nhân là

470).

Cho đến 09/1999, tổng số cơ sở được cấp giấy phép là 850 cơ sở (trong đó

hành nghề y là 136, hành nghề YHCT là 118, hành nghề dược là 596 cơ sở).

Tính đến ngày 30/06/2006, toàn tỉnh có 2.086 cơ sở hàng nghề y dược tư

nhân, với các loại hình, số lượng và chủng loại cán bộ như sau: Về Y, có 202

79

cơ sở, trong đó có 1 bệnh viện tư (Bệnh viện Đa khoa tư nhân Hợp Lực) quy

mô 100 giường bệnh; 148 phòng khám đa khoa và chuyên khoa; 53 cơ sở

cung cấp dịch vụ, với tổng số cán bộ là 310 người, trong đó 179 người có

trình độ đại học trở lên. Về Dược, có 1.663 cơ sở, trong đó có 19 doanh

nghiệp, 45 nhà thuốc, 336 quầy thuốc, 1.259 đại lý thuốc và 4 cơ sở sản xuất

thuốc, với tổng số cán bộ là 1.772 người, trong đó có 85 người có trình độ đại

học trở lên. Về Y dược dân tộc, có 221 cơ sở, trong đó có 76 cơ sở kinh

doanh thuốc và 145 phòng chuẩn trị YHCT, với tổng số cán bộ là 221 người,

trong đó có 5 bác sỹ, 81 y sỹ và 131 lương y [81, tr. 6].

Ở Thanh Hoá, nhìn chung công tác quản lý hành nghề y dược tư nhân

thực hiện tương đối tốt, việc thẩm định xét duyệt các cơ sở hành nghề y dược

tư nhân thực hiện đúng quy định. Thường xuyên kiểm tra, thanh tra, phát hiện

và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, nhất là các trường hợp hành nghề

không có giấy phép. Ngành y tế đã làm tốt chức năng tham mưu của mình.

Các cấp chính quyền từ tỉnh đến cơ sở bước đầu đã thấy rõ vai trò trách nhiệm

trong quản lý Nhà nước đối với hành nghề y dược tư nhân, từng bước đưa

công tác quản lý hành nghề y dược tư nhân đi vào nề nếp. Công tác tuyên

truyền giáo dục pháp lệnh và các văn bản pháp quy về hành nghề y dược tư

nhân được quan tâm đúng mức. Các cơ sở hiểu rõ chính sách quy định của

Nhà nước và tự giác chấp hành một cách nghiêm túc.

Cùng với việc thực hiện nghiêm các quy chế, chế độ chuyên môn, nâng

cấp cơ sở vật chất,đầu tư trang thiết bị hiện đại như CT-Scaner, máy siêu âm

4D, chất lượng hoạt động của các cơ sở y tế tư nhân từng bước được nâng lên,

tỷ lệ người bệnh sử dụng các dịch vụ y tế tư nhân ngày càng tăng, từ 9,5%

(năm 2003) lên 12% (năm 2005) so với các cơ sở công lập, góp phần giảm tải

cho y tế công lập.

80

2.2.5 Công tác dược, vật tư y tế

Công tác dược và vật tư y tế trong những năm 80 gặp rất nhiều khó khăn

do có quá nhiều yếu tố khách quan chi phối. Trong thời gian này, ngành được

tiếp nhận viện trợ y dụng cụ của UNICEF, Quỹ Dân số Liên hiệp quốc, một

số chương trình như tiêm chủng mở rộng. Do điều kiện kinh tế khó khăn, Bộ

Y tế không có đủ kinh phí để trang bị mới hoặc thay thế một số máy móc cho

hệ khám chữa bệnh từ tỉnh đến huyện. Do đó, các bệnh viện đều thiếu trang

thiết bị và dụng cụ thông thường.

Thực hiện chính sách quốc gia về thuốc, từ năm 1995-2000, đã mở rộng

mạng lưới bán hàng tới tận vùng sâu, vùng xa, có chính sách đầu tư ban đầu 2

triệu đồng cho mỗi tủ thuốc trạm y tế và thực hiện quay vòng vốn tủ thuốc ở

300 xã trong toàn tỉnh, bảo đảm nhu cầu thuốc thiết yếu cho công tác điều trị

tại trạm y tế. Bình quân thuốc cho đầu người ngày càng tăng. Năm 1989 là

12.000đ/người, năm 1996 là 20.000đ/người, năm 2000 là 38.000đ/người.

Trong giai đoạn từ 1990, hệ thống hành nghề dược tư nhân cũng phát triển

mạnh mẽ. Tính đến hết năm 2004, tỉnh Thanh Hoá có 9 công ty tư nhân kinh

doanh dược phẩm. Theo chỉ đạo của ngành, doanh nghiệp Nhà nước vẫn giữ

vai trò độc quyền cung ứng thuốc phục vụ bệnh nhân BHYT, bệnh nhân

nghèo theo quyết định 139 và thuốc 135 cho các xã đặc biệt khó khăn. Năm

2004, bình quân tiền thuốc đạt 58.000đ/người, chưa kế thuốc chuyên khoa và

thuốc chương trình. Năm 2005, bình quân tiền thuốc đạt 100.000đ/người.

Cũng như các ngành kinh tế khác, ngành dược cũng có nhiều thành phần

tham gia sản xuất và cung ứng thuốc chữa bệnh cho người. Đặc biệt, sau khi

Pháp lệnh hành nghề y dược tư nhân ra đời, đã có nhiều công ty trách nhiệm

hữu hạn, nhà thuốc và đại lý thuốc tư nhân hoạt động trên khắp các địa bàn.

Toàn tỉnh có 2 công ty cổ phần, 10 công tác trách nhiệm hữu hạn, 44 nhà

81

thuốc tư nhân, 1.190 đại lý bán thuốc cho doanh nghiệp, 74 nhà thuốc YHCT.

Ngay sau khi cổ phần hóa, Công ty Dược-Vật tư y tế Thanh Hoá đã nhanh

chóng sắp xếp lại sản xuất, kinh doanh. Với mục tiêu mở rộng quy mô và

nâng cao chất lượng sản phẩm, đi tắt đón đầu để hội nhập, công ty không

ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Công ty đã mạnh dạn đầu tư

đổi mới thiết bị công nghệ, cải tiến mẫu mã bao bì hợp thị hiếu người tiêu

dùng, đồng thời áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nâng cao

chất lượng sản phẩm. Trong 4 năm (2002-2006), công ty đã đầu tư hơn 40 tỷ

đồng để xây dựng các xưởng sản xuất đạt Tiêu chuẩn thực hành tốt sản xuất

thuốc (GMP), như xưởng sản xuất thuốc non Blactam, xưởng sản xuất thuốc

kháng sinh Blactam GMP ASEAN, phòng kiểm nghiệm thuốc đạt tiêu chuẩn

GLP, xây dựng nhà kho, trung tâm buôn bán…với các trang thiết bị hiện đại

đáp ứng yêu cầu chất lượng thuốc. Với sự năng động, sáng tạo trong sản xuất,

kinh doanh, Công ty Dược-Vật tư y tế Thanh Hoá đã tạo bước phát triển nhảy

vọt, doanh thu bán hàng của công ty tăng nhanh, tổng doanh thu năm 2002

mới đạt 114 tỷ đồng, đến năm 2006 đã đạt hơn 510 tỷ đồng (tăng gần 4,5 lần),

nộp ngân sách Nhà nước từ hơn 1,4 tỷ đồng năm 2002 lên gần 10 tỷ đồng

năm 2006.

Cơ chế thị trường đã tạo ra thị trường thuốc phong phú và đa dạng với

nhiều loại thuốc mới, thuốc biệt dược, không còn tình trạng khan hiếm thuốc

như trước đây. Tuy nhiên, đó cũng là điều kiện thuận lợi để thuốc kém chất

lượng, thuốc giả lưu hành trên thị trường. Từ thực tế đó, công tác kiểm

nghiệm dược phẩm đã được quan tâm hơn. Trung tâm kiểm nghiệm Dược

phẩm và Mỹ phẩm đã và đang ra sức phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ của

mình, ngăn chặn kịp thời những hàng dược phẩm, mỹ phẩm kém chất lượng.

Công tác nghiên cứu và phát triển nguồn dược liệu thời kỳ này vẫn tiếp

tục duy trì và phát triển. Trạm nghiên cứu Dược liệu đã tổ chức điều tra lại

82

dược liệu lần thứ 2 trên phạm vi toàn tỉnh, qua đó phát hiện 714 loại cây làm

thuốc, 167 họ. Từ năm 1996, Trạm đã phát động phong trào đưa dược liệu

vào trồng ở vườn tạp và dưới tán rừng. Trạm đã tập trung nghiên cứu sản xuất

thử một số thành phẩm thông thường từ nguồn dược liệu địa phương như: cao

lỏng ích mẫu, cồn xoa bóp, thuốc thang…Trong hai năm (1995-2996) đã hoàn

thành đề tài nghiên cứu: Điều tra đánh giá nguồn dược liệu và khả năng phục

vụ chiến lược phát triển dược liệu ở Thanh Hoá (Đề tài này được Sở Khoa

học và Công nghệ nghiệm thu quý 3 năm 1996); Hoàn thành giai đoạn đầu đề

tà nghiên cứu khoa học: Tìm những giải pháp giữ rắn hổ mang qua đông đế

phát triển nguồn dược liệu về rắn; Hoàn thành giai đoạn 1 đề tài (1996-2000):

Nghiên cứu xây dựng mô hình sinh thái nông lập nghiệp phát triển cây trồng

làm thuốc trong vườn rừng trung du (huyện Thạch Thành); Hoàn thành giai

đoạn 1 đề tài: Trồng và giữ cây di thực vùng cao Son Bá Mười (đề tài 1996-

2000).

Trang thiết bị y tế-một yếu tố vô cùng quan trọng tác động lớn đến hoàn

thành nhiệm vụ chuyên môn của các đơn vị. Trong công tác bảo đảm thiết bị

y tế, những năm 1986-1990 đã thực hiện tốt công tác tiếp nhận hàng viện trợ,

bảo quản và phân phối đến các đơn vị, ngoài ra thực hiện chức năng sửa chữa

trang thiết bị cho toàn ngành.

Được tỉnh quan tâm đầu tư kinh phí bằng nhiều nguồn, ngành Y tế Thanh

Hoá đã tổ chức tốt việc mua sắm, nâng cấp trang thiết bị cho các tuyến. Một

số máy móc hiện đại đã được lắp đặt đưa vào sử dụng như: Dao điện, nội soi

ống mềm, máy đo chuyển hóa cơ bản, siêu âm, X quang, máy xét nghiệm, vi

phẫu thuật bằng kính hiển vi…. Nhìn chung đã phát huy tác dụng, đảm bảo

nhu cầu phục vụ bệnh nhân. Năm 1995, danh số thực hiện tại Công ty Vật tư

Y tế: 6 tỷ đồng (đạt 181% kế hoạch), nộp ngân sách nhà nước 120 triệu đồng

(đạt 200% kế hoạch).

83

2.2.6 Một số mặt công tác khác của ngành y tế Thanh Hoá

Y học cổ truyền

Công tác YHCT trong bất cứ giai đoạn nào cũng được Đảng và Nhà nước

quan tâm. Tuy nhiên, trong những năm đầu của giai đoạn đổi mới, trong bối

cảnh khó khăn chung, công tác YHCT bị mai một. Từ năm 1990, công tác

này mới thực sự chuyển biến.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng

sản Việt Nam (Khóa VII) về “Những vấn đề cấp bách trong sự nghiệp chăm

sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân” đã khẳng định cần phải triển khai mạnh mẽ

việc nghiên cứu, ứng dụng và hiện đại hóa YHCT dân tộc, kết hợp với y học

hiện đại. Phát triển nuôi trồng cây, con làm thuốc, trang bị thêm phương tiện

cho việc khám chữa bệnh và sản xuất thuốc YHCT dân tộc. Khẩn trương đào

tạo đội ngũ cán bộ và cán bộ đầu đàn y học dân tộc. Tăng thâm đầu tư và

nâng cấp cơ sở y học dân tộc

Ngày 03 tháng 11 năm 2003, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số

222/2003/QĐ-TTg “Về việc phê duyệt chính sách quốc gia về Y Dược học cổ

truyền đến năm 2010”. Mục tiêu chung nhằm kế thừa, bảo tồn và phát triển y

dược học cổ truyền, kết hợp với y dược học hiện đại trong chăm sóc và bảo vệ

sức khỏe nhân dân. Xây dựng nền y dược học Việt Nam hiện đại, khoa học,

dân tộc và đại chúng.

Thực hiện các Nghị quyết của Đảng, Nhà nước về công tác y dươc học cổ

truyền, ngày 12/11/1999, Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hoá ra Chỉ thị số

33/1999/CT-UB về việc đẩy mạnh công tác y dược học cổ truyền, với chủ

trương:

- Đẩy mạnh việc kế thừa tiềm năng vốn quý của y dược học cổ truyền,

thẩm định, nghiên cứu để thừa kế và phổ biến rộng rãi những bài thuốc hay,

những cây thuốc quý và các phương pháp chữa bệnh không dùng thuốc cho

84

cộng đồng.

- Tích cực triển khai nghiên cứu khoa học, đặc biệt trong nghiên cứu ứng

dụng, hiện đại hoá y dược học cổ truyền trên các lĩnh vực chẩn đoán, chữa

bệnh, phòng bệnh và bào chế thuốc, kết hợp chặt chẽ giữa y dược học cổ

truyền và y học hiện đại trong tất cả các cơ sở khám chữa bệnh.

- Phát triển cây con dược liệu từ các vùng chuyên canh và các vườn thuốc,

tạo nguồn dược liệu để bào chế và chiết xuất thành hàng hoá sử dụng trong

nước và xuất khẩu, tạo thế mạnh đối với y dược học cổ truyền.

- Tăng cường phát triển mạng lưới y dược cổ truyền, tăng cường quản lý

hành nghề y dược cổ truyền tư nhân theo đúng quy định của Bộ Y tế, đảm bảo

an toàn cho sức khoẻ nhân dân, đồng thời đáp ứng yêu cầu khám chữa bệnh

của xã hội.

- Tập trung cao hơn cho công tác đào tạo cơ bản về y dược học cổ truyền

để tất cả các bệnh viện đều có khoa y dược học cổ truyền hoặc có bác sỹ

YHCT, các xã phường phải có cán bộ y tế y học dân tộc.

Được sự quan tâm Đảng, Nhà nước, dưới sự chỉ đạo của ngành và của

tỉnh, Bệnh viện Y học dân tộc Thanh Hoá được xây dựng quy mô 150 giường

bệnh nội trú và 200 giường ngoại trú. Trong những năm qua, bệnh viện không

ngừng cũng cố về chuyên môn, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, chỉ đạo

việc trồng cây thuốc Nam trong cộng đồng, tiếp thu nhiều kinh nghiệm quý và

chữa bệnh trong dân gian. Trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện

đại hoá đất nước, để đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh ngày càng tăng trên

lĩnh vực YHCT, từ năm 1995 bệnh viện đã liên tục được đầu tư các máy móc

phục vụ bào chế, sản xuất thuốc phục vụ bệnh nhân như máy xay, máy xát,

máy nghiền, máy chế hoàn, giàn sắc thuốc tự động đóng túi. Công tác chuyên

môn cũng phát triển theo hướng đa khoa hoá, hiện đại hoá và chuyên khoa

85

sâu để làm tốt công tác kết hợp hai nền y học.

Tính đến năm 2001, các bệnh viện tuyến tỉnh (Bệnh viện Đa khoa tỉnh,

Bệnh viện Tâm thần, Bệnh viện Lao và Phổi, Bệnh viện Phụ sản) đã thành lập

khoa YHCT với tổng số 50 giường bệnh (chiếm 6% tổng số giường bệnh).

Chất lượng khám chữa bệnh đã được nâng lên rõ rệt, lưu lượng bệnh nhân đến

khám và điều trị ngày một tăng, cơ sở vật chất và trang thiết bị được cũng cố

và tăng cường.

Tại tuyến huyện, có 17 TTYT thành lập khoa YHCT, 11 trung tâm lồng

ghép các khoa Nội-Nhi, với tổng số 175 giường bệnh YHCT (chiếm 13%

tổng số giường bệnh). Hoạt động khám chữa bệnh bằng thuốc và không dùng

thuốc (như xoa bóp, day, ấn) ngày một tăng.

Đối với tuyến xã, phường từ năm 1995 bắt đầu khôi phục lại các vườn

thuốc Nam và phát triển điều trị bằng YHCT. Theo thời gian, công tác này đã

có nhiều chuyển biến so với trước đây. Trong những năm 2002-2004, thực

hiện Chỉ thị 06 CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về cũng cố và hoàn

thiện mạng lưới y tế cơ sở, Quyết định số 370, ngày 07/02/2002 của Bộ Y tế

ban hành Chuẩn quốc gia về y tế xã với 10 chuẩn, trong đó có chuẩn về công

tác YHCT nên hầu hết các trạm y tế đã và đang xây dựng vườn thuốc Nam.

Năm 2005, có 248 xã đạt chuẩn, trong đó chuẩn về y học dân tộc đã được các

xã thực hiện nghiêm túc.

Cho dù còn nhiều khó khăn nhưng lĩnh vực YHCT đang từng bước khẳng

định vị trí của mình bên cạnh nền y học hiện đại. Trong vòng 5 năm (1998-

2003), số lượng bệnh nhân được khám chữa bệnh bằng YHCT tăng nhanh:

Năm 1998 là 208.583 người, đến năm 2002 tăng lên 399.829 người [51, tr.

299]. Năm 2005, có hơn 20% bệnh nhân được khám chữa bệnh bằng y học

dân tộc so với khám chữa bệnh chung.

86

Hoạt động truyền thông, giáo dục sức khoẻ

Công tác truyền thông giáo dục sức khoẻ là một nội dung quan trong

trong đường lối YTDP, tích cực, chủ động của ngành y tế nhằm giải quyết căn

bản nhiều vấn đề về bệnh tật mà nguyên nhân liên quan đến hành vi, lối sống

của cộng đồng.

Ngày 03/01/1998, Chính phủ có Nghị định số 10 quy định hệ thống tổ

chức y tế địa phương, trong đó Trung tâm truyền thông giáo dục sức khoẻ là

một trong những đơn vị y tế tuyến tỉnh trực thuộc Sở Y tế. Thực hiện Nghị

định trên, ngày 17/05/1999, Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hoá có Quyết định

số 900/TC-UBTH thành lập Trung tâm Truyền thông-Giáo dục sức khoẻ

Thanh Hoá. Ngay sau khi thành lập và đi vào hoạt động, Trung tâm đã nhanh

chóng ổn định về mọi mặt, từng bước tiếp cận và hoàn thành nhiệm vụ được

giao.

Từ năm 2000, mạng lưới cộng tác viên truyền thông bắt đầu được xây

dựng. Đến năm 2003, đã kiện toàn mạng lưới từ tỉnh đến huyện, xã. Hoạt

động truyền thông giáo dục sức khoẻ đang được đẩy mạnh sang hướng giáo

dục sức khoẻ phát triển cả về bề rộng và bề sâu, từng bước sân khấu hoá, văn

nghệ hoá.

Nghiên cứu khoa học và đào tạo cán bộ

Công tác nghiên cứu khoa học, phát triển ứng dụng tiến bộ kỹ thuật giai

đoạn này có nhiều tiến bộ vượt bậc. Chỉ tính trong 10 năm, từ 1991-2000,

toàn ngành đã thực hiện 20 đề tài cấp tỉnh, 103 đề tài cấp cơ sở. Nhiều đề tài

có giá trị và ứng dụng vào thực tiễn đạt kết quả tốt. Các đề tài nghiên cứu

khoa học đã được nâng lên cả về số lượng và chất lượng. Nghiên cứu tập

trung vào việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến để nâng cao chất

lượng khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe nhân dân. Nhiều bệnh nhân trước

kia phải đi bệnh viện Trung ương, nay đã được điều trị tại tỉnh. Năm 2005, đã

87

triển khai 3 đề tài cấp tỉnh, 15 đề tài cấp ngành. Hoạt động nghiên cứu khoa

học đã có những bước chuyển biến tích cực và đồng đều hơn, nhiều kỹ thuật

công nghệ mới được áp dụng vào các lĩnh vực chăm sóc sức khỏe. Nhiều đơn

vị có phong trào nghiên cứu khoa học tốt như: Bệnh viện Đa khoa tỉnh, Bệnh

viện Phụ Sản, Trung tâm YTDP, Trung tâm Nội Tiết, Công ty Dược-Vật tư y

tế….

Trong lĩnh vực điều trị, tuyến tỉnh đã có đủ các trang thiết bị hiện đại, đáp

ứng nhu cầu chẩn đoán và điều trị, đã phát triển phẫu thuật sọ não, nội soi,

chạy thận nhân tạo, truyền máu chọn lọc, phẫu thuật vá nhĩ, ghép xương, phẫu

thuật nội soi sản khoa, điều trị vô sinh hiếm muộn. Hệ dự phòng cũng được

đầu tư nâng cấp nhiều loại máy, thiết bị hiện đại đáp ứng nhu cầu xét nghiệm,

chẩn đoán và nghiên cứu khoa học như máy phá mẫu, miễn dịch huỳnh

quang, trưng cất đạm, sắc ký lớp mỏng, máy đo chuyển hoá cơ bản, máy đo

lưu huyết não…..

Hệ YHCT đã đầu tư theo hướng hiện đại hóa, đa khoa hoá YHCT, có máy

sắc thuốc và đóng túi tự động, đáp ứng nhu cầu phục vụ bệnh nhân.

Hệ phục hồi chức năng đã áp dụng điều trị bằng xung điện, máy hút chân

không, thuỷ trị liệu.

Hệ dược đã xây dựng cơ sở sản xuất đạt tiêu chuẩn GMP cùng tiêu chuẩn

phòng kiểm nghiệm thuốc tốt GLP.

Tại tuyến huyện đã được trang bị tương đối đầy đủ các thiết bị cơ bản đáp

ứng yêu cầu điều trị. Hầu hết các bệnh viện huyện đã làm chủ các phẫu thuật

ngoại bụng, ngoại sản, điều trị các bệnh nội khoa, điều trị tương đối cơ bản

các bệnh chuyên khoa mắt, răng hàm mặt, tai mũi họng, thực hiện cơ bản các

xét nghiệm sinh hoá, huyết học.

Để đáp ứng yêu cầu cán bộ y tế cả về cơ cấu, số lượng và chất lượng,

trong những năm qua ngành y tế đã cử nhiều cán bộ đi đào tạo ở các bậc trình

88

độ, chuyên ngành và hình thức khác nhau. Chú trọng đào tạo cán bộ có trình

độ kỹ thuật cao để đáp ứng nhu cầu phát triển kỹ thuật y tế, đồng thời đào tạo

cán bộ theo chế độ cử tuyển, cán bộ có kiến thức về y tế công cộng để đáp

ứng nhu cầu tại tuyến y tế cơ sở. Công văn số 370/YT-TC ngày 27/03/2003

của Sở Y tế Thanh Hoá về việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức ngành y tế đã nêu rõ mục đích của việc xây dựng và triển khai thực hiện

việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ngành y tế Thanh Hoá:

- Từng bước xây dựng và hoàn thiện tiêu chuẩn cử cán bộ đi học đảm bảo

quyền lợi của cán bộ, công chức đồng thời phù hợp với trình độ chuyên môn

và nhu cầu bố trí, sử dụng cán bộ của đơn vị, cơ quan.

- Xây dựng và hoàn thiện đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức lãnh đạo

trong các đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp Nhà nước có phẩm chất, bản lĩnh

chính trị, có năng lực đáp ứng được nhu cầu lãnh đạo, quản lý trong thời kỳ

mới. Đảm bảo đúng tiêu chuẩn, theo đúng quy hoạch, thay thế ngay được các

chức danh cán bộ, công chức lãnh đạo khi có nhu cầu.

- Tạo môi trường thuận lợi để cán bộ liên tục phấn đấu, đồng thời thực

hiện tốt quy chế bổ nhiệm và bổ nhiệm lại công chức, viên chức lãnh đạo.

Năm 2005, đã cử 102 cán bộ đi đào tạo sau đại học, 106 cán bộ đi học bác

sỹ, dược sỹ chuyên tu và cử nhân, 18 cán bộ đi học lý luận chính trị cao cấp

và trung cấp, xét tuyển đi học 30 bác sỹ tại đại học y Thái Nguyên cho 11

huyện miền núi và đào tạo 410 nhân viên y tế thôn, bản cho các huyện Lang

Chánh, Bá Thước, Thường Xuân, Như Thanh, Mường Lát, Cẩm Thủy, Như

Xuân. Tỉnh đã có chính sách hỗ trợ đối với cán bộ, công chức, viêc chức được

cử đi đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận chính trị và

chính sách hỗ trợ đối với cán bộ y tế công tác tại vùng cao.

89

Hoạt động thanh tra, kiểm tra

Công tác thanh tra, kiểm tra được ngành xác định là một trong những

nhiệm vụ quan trọng, vì vậy hoạt động này được tăng cường mở rộng ở nhiều

lĩnh vực của ngành và được nhiều ngành có liên quan tham gia phối hợp.

Năm 1995, đã kiểm tra hành nghề y dược tư nhân 96 hộ trên địa bàn tỉnh,

đã xử lý 24 trường hợp thuốc quá hạn ngoài danh mục. Cũng trong năm 1995

đã tiếp nhận 28 đơn khiếu nại và tố cáo. Qua kiểm tra cho thấy đơn thuốc

không thuộc thẩm quyền vẫn còn, một số đơn do tuyến trên gửi về. Nội dung

đơn thư chủ yếu tập trung vào công tác quản lý lao động, tài chính, mua sắm

vật tư trang thiết bị y tế, thu lệ phía hành nghề y tế tư nhân, tuyển dụng đào

tạo.

Năm 2005, đã thanh tra 194 cơ sở, trong đó phát hiện 53 cơ sở vi phạm,

phạt cảnh cáo 31 cơ sở, xử lý và phạt tiền 22 cơ sở, tiêu hủy một số thành

phẩm không đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm theo quy định. Tiến

hành thanh tra 51 cơ sở hành nghề y dược tư nhân, phạt hành chính 7 cơ sở và

đình chỉ hoạt động 4 cơ sở. Thanh tra 37 trường học về công tác vệ sinh, có

18 trường xếp loại tốt, 18 trường xếp loại khá và 1 trường trung bình. Về giải

quyết đơn thư, trong năm 2005 đã nhận được 31 đơn thư khiếu nại tố cáo, đã

giải quyết 25 đơn thư [67, tr.7-8].

Nhìn chung, hoạt động thanh tra đã có những tác dụng đáng kể trong việc

chấn chỉnh công tác quản lý cũng như việc thực hiện các quy định về chế độ,

chính sách của Đảng và Nhà nước trong chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân

dân, giúp cho các đơn vị đi đúng quỹ đạo của quy chế và pháp luật.

Hai mươi năm qua, mặc dù có những thời điểm rất khó khăn nhưng y tế

Thanh Hoá dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, sự chỉ đạo của chính quyền tỉnh đã

có những bước phát triển mạnh mẽ và toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, từ

cũng cố tổ chức mạng lưới y tế cơ sở đến đào tạo cán bộ, phát triển khoa học

90

kỹ thuật, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất. Trong giai đoạn này, bằng các

nguồn vốn trung ương và địa phương, Thanh Hoá đã đầu tư hàng trăm tỷ

đồng xây dựng cơ sở hạ tầng và đầu tư mua sắm các trang thiết bị kỹ thuật

làm thay đổi đáng kể diện mạo hệ thống y tế cơ sở, tăng cường và nâng cao

năng lực của hệ thống y tế từ tỉnh đến các xã, phường, phát triển và ứng dụng

kỹ thuật trong các lĩnh vực dự phòng, phòng chống các bệnh xã hội và khám

chữa bệnh. Đã khống chế nhiều bệnh dịch nguy hiểm như tả, lỵ, thương hàn,

sốt xuất huyết, sốt rét, các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm ở trẻ em. Việc cung

ứng thuốc cũng có nhiều tiến bộ, có đủ thuốc đảm bảo cho điều trị, phòng

chống các dịch và đề phòng thảm hoạ. Các doanh nghiệp dược địa phương đã

sản xuất ngày càng đa dạng các loại thuốc đáp ứng nhu cầu thị trường và công

tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Ngành cũng chú trọng đẩy mạnh các hoạt

động nghiên cứu khoa học, phát triển YHCT dân tộc trên cơ sở tiếp cận và áp

dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật mới. Hoạt động truyền thông giáo dục

sức khoẻ đã được chú trọng, góp phần vào việc giáo dục sức khoẻ lành mạnh

trong cộng đồng. Những kết quả nêu trên là cơ sở để y tế Thanh Hoá tiếp tục

91

phát triển hơn nữa trong tương lai.

CHƢƠNG 3

MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM

3.1 Thành tựu và hạn chế

3.1.1 Những thành tựu đạt được

Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ và chính quyền tỉnh Thanh Hoá, đặc biệt là

dưới ánh sáng Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII của Đảng và các Đại hội

đại biểu lần thứ XII-XVI của tỉnh, y tế Thanh Hoá đã từng bước tháo gỡ

những khó khăn trở ngại để cũng cố và phát triển ngành, đáp ứng những yêu

cầu về chất lượng ngày càng cao trong chăm sóc sức khoẻ. Cán bộ, nhân viên

trong ngành y tế Thanh Hoá đã học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng, nắm

vững những quan điểm chỉ đạo của Đảng cùng những mục tiêu mà tỉnh đã đề

ra về CS&BVSKND. Thực tiễn 20 năm đổi mới đã khẳng định đường lối đổi

mới của Đảng và những chủ trương của tỉnh là hoàn toàn đúng đắn. Qua 20

năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, công tác CS&BVSKND ở

Thanh Hoá đạt được một số thành tựu cơ bản sau:

Thứ nhất, mạng lưới y tế cơ sở được cũng cố, từng bước hoàn thiện và

phát triển cả về chuyên môn nghiệp vụ, cả về cán bộ, tổ chức, chính sách và

phương thức hoạt động phù hợp với thời kỳ mới.

Đây là niềm ước ao, mong đợi từ lâu của ngành y tế và của cả cộng đồng,

bởi vì y tế cơ sở đóng vai trò rất quan trọng, là người gần dân nhất, trực tiếp

phục vụ và cùng nhân dân thực hiện các hoạt động chăm sóc sức khoẻ ban

đầu, là một trong những điều kiện cơ bản để thực hiện thắng lợi các chương

trình y tế quốc gia, là yếu tố quan trọng góp phần đưa các nghị quyết của

Đảng, Nhà nước đi vào cuộc sống và đó cũng là một yếu tố quan trọng góp

phần xóa đói giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội. Cũng cố y tế cơ sở còn

92

có nhiều ý nghĩa lớn lao hơn, đã thúc đẩy nhanh quá trình xã hội hóa công tác

y tế, đã xuất hiện nhiều nhân tố mới, mô hình mới trong công tác

CS&BVSKND trong từng gia đình, từng thôn xóm, bản làng.

Có thể nói chưa bao giờ đội ngũ cán bộ y tế cơ sở, những chiến sỹ áo

trắng ngày đêm bám sát dân và chịu trách nhiệm về sức khoẻ của cộng đồng

dân cư, được cũng cố vững chắc và có chất lượng như hiện nay. Với số lượng

2.840 người trong định biên, chủ yếu là bác sỹ và trung cấp, rất ít sơ cấp đảm

bảo mỗi trạm y tế trên khắp các xã, phường toàn tỉnh đều có từ 3 đến 6 người,

được đào tạo đầy đủ về chuyên môn, được chọn lọc kỹ càng về phẩm chất đạo

đức và được trả lương theo Quyết định 58/TTg của Thủ tướng Chính phủ.

100% số xã, phường, thị trấn có cán bộ y tế hoạt động, không có xã trắng về y

tế. Tính đến 6 tháng đầu năm 2006, số xã có bác sỹ tăng lên 370 xã (58,45%).

92,4% số trạm y tế có nữ hộ sinh trung học hoặc y sỹ sản nhi. Cán bộ y tế cơ

sở định biên đã được đóng Bảo hiểm xã hội, được hưởng chính sách hỗ trợ

khi được cử đi đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn và khi công tác tại vùng cao.

Hoạt động của y tế cơ sở theo chức năng, nhiệm vụ do Bộ Y tế ban hành đã

dần dần đi vào nề nếp. Nội dung và phương thức hoạt động đã chuyển biến

theo hướng dự phòng tích cực, gần dân hơn. Quản lý các chỉ số sức khỏe chặt

chẽ và tốt hơn. Hiệu suất công tác cao hơn, tinh thần phục vụ và chất lượng

dịch vụ y tế cao hơn, người dân sử dụng dịch vụ y tế tại trạm nhiều hơn. Triển

khai thực hiện Chỉ thị 06 của Ban Bí thư Trung ương về cũng cố, hoàn thiện

mạng lưới y tế cơ sở được chú trọng triển khai và đã đi vào cuộc sống cộng

đồng. Tiếp tục triển khai thực hiện Quyết định 370 của Bộ Y tế về 10 Chuẩn

quốc gia y tế xã, đến hết năm 2005, đã có 248 Trạm y tế xã đạt Chuẩn quốc

gia y tế xã (bằng 39,17%), trong đó có 94 xã miền núi và xã vùng 135; có 4

huyện đạt trên 60% số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế xã là Thọ Xuân, Đông

93

Sơn, Yên Định và Thiệu Hóa. Phần lớn các Trạm y tế thuộc xã đạt chuẩn

quốc gia đều được đầu tư cơ sở vật chất đáp ứng được nhu cầu cơ bản trong

chăm sóc sức khỏe nhân dân.

Số thôn, bản có nhân viên y tế hoạt động tính đến năm 2005 là

5.127/5.573 thôn, bản (chiếm 92%). 100% nhân viên y tế thôn, bản đã được

nhà nước trả phụ cấp, một số nơi được trả thêm bằng nguồn kinh phí của địa

phương và đóng góp của cộng đồng. Bên cạnh đó, mỗi chòm bản vùng cao,

vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới còn có 1 cán bộ y tế được tỉnh trả lương, tất

cả gắn chặt với nhau, phối hợp với các lực lượng y tế của các lực lượng vũ

trang trên địa bàn, tạo thành một màng lưới rộng khắp, khép kín đủ sức đảm

nhiệm công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân, tuyên truyền và

quản lý sức khoẻ tại cộng đồng. Hiện nay, hệ thống khám chữa bệnh cho nhân

dân ở Thanh Hoá đã được bao phủ trong toàn tỉnh, kể cả vùng sâu, vùng xa,

mọi người đều được tạo cơ hội để khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế.

Thứ hai, mạng lưới khám chữa bệnh và công tác đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ không ngừng được cũng cố, phát triển, đáp ứng về cơ bản yêu cầu khám

chữa bệnh của đại đa số nhân dân trên toàn tỉnh với chất lượng ngày càng cao

và chi phí hợp lý, được nhân dân chấp nhận.

Với mục tiêu nâng cao chất lượng chuyên môn và tinh thần phục vụ

giảm phiền hà cho người bệnh, ngành đã triển khai đồng bộ nhiều biện pháp

đã có nhiều chuyển biến tích cực. Các cơ sở khám chữa bệnh được quan tâm,

từng bước đầu tư, mặc dù chưa đồng bộ song đến nay các đơn vị đã đảm bảo

về cơ sở vật chất, trang thiết bị cơ bản phục vụ bệnh nhân. Đến nay, toàn tỉnh

Thanh Hoá với hệ thống 8 bệnh viện tuyến tỉnh, 24 bệnh viện đa khoa huyện,

thị, thành phố, 34 phòng khám đa khoa khu vực, 34 Trung tâm YTDP (trong

đó có 9 trung tâm tuyến tỉnh, 25 trung tâm tuyến huyện), 2.086 cơ sở hành

nghề y dược tư nhân. Chất lượng dịch vụ ngày càng được cải thiện và tiến bộ

94

rõ rệt. Nhiều trang thiết bị hiện đại, thích hợp và hiệu quả đã được mua sắm

và sử dụng cho cả tuyến tỉnh, huyện, thị, trạm y tế xã và các chòm bản vùng

cao cũng như được trang bị thêm y cụ, túi thuốc cần thiết.

Trong chuyên môn, đã hiện đại hóa trang thiết bị y tế và phát triển các kỹ

thuật chuyên sâu như chụp CT Scaner, chạy thận nhân tạo, phẫu thuật nội soi,

siêu âm 4D, mổ Laser….

Bệnh viện Đa khoa tỉnh có nhiều cán bộ chuyên sâu và trang thiết bị hiện

đại để chẩn đoán các bệnh khó và chẩn đoán được chính xác như: máy điện

tim, chẩn đoán các bệnh tim; máy siêu âm hiện đại, có cả máy siêu âm màu để

chẩn đoán các khối ở các phủ tạng, đo kích thước các phủ tạng đặc; điện não

đồ chẩn đoán một số chứng bệnh về não; máy nội soi trực tràng, ổ bụng, bàng

quang, máy soi dạ dày ống mềm; máy X.quang tăng sáng truyền hình; máy

siêu âm mắt; máy soi phế quản; các máy tán sỏi, bàng quang, dao mổ điện;

gây mê, hỗ trợ hô hấp và tạo ô xy bảo đảm cho an toàn phẫu thuật; máy xét

nghiệm cùng một thời gian cho biết nhiều thông số xét nghiệm máu (huyết

học 18 chỉ tiêu), nước tiểu; thiết bị sàng lọc máu để truyền máu an toàn và

loại trừ lây nhiễm viêm siêu vi và HIV, số lượng máu chuyền cho bệnh nhân

tăng khoảng 1000 lít/năm; máy lọc thận nhân tạo đã cứu sống được nhiều

bệnh nhân suy thận cấp tính, đặc biệt là bệnh nhân tự tử bằng thuốc ngủ, mật

cá trắm….

Bệnh viện Phụ sản được trang bị máy siêu âm; máy thở; máy tạo ô xy;

máy theo dõi cơn co tử cung, nhịp đập thai nhi; máy theo dõi khi chuyển dạ

nhiều chức năng; máy sàng lọc, máy phòng chống nhiếm HIV khi truyền

máu. Đặc biệt đã có máy phẫu thuật nội soi qua màn hình. Các bác sỹ đã bắt

đầu cắt u nang buồng trứng, bóc tách dính vòi trứng, rút ngắn được thời gian

95

phẫu thuật, bệnh nhân chỉ điều trị sau 3 ngày là có thể xuất viện.

Bệnh viện Tâm thần đã mở rộng việc điều trị bệnh nhân tại cộng đồng có

hệ thống theo dõi hướng dẫn, nhờ vậy đã giải toả gánh nặng bệnh nhân nằm

viện.

Bệnh viện chống Lao đã áp dụng phương pháp đa hoá trị liệu đối với bệnh

nhân lao, rút ngắn thời gian điều trị và tích cực phát hiện, quản lý bệnh nhân

lao.

Bệnh viện Điều dưỡng và Phục hồi chức năng đã được xây dựng tại địa

điểm mới (thị xã Sầm Sơn) thực hiện phục hồi chức năng sau các di chứng

bằng vận động liệu pháp với nhiều thiết bị hiện đại.

Bệnh viện YHCT được xây dựng khang trang, các trang thiết bị và

phương tiện chuyên sâu được tăng cường, như: máy siêu âm, X.quang, xét

nghiệm đa chức năng, máy sản xuất viên hoàn, máy sắc thuốc và đóng gói tự

động…..

Hầu hết các bệnh viện tuyến huyện đều trang bị máy X.quang, máy siêu

âm, các thiết bị xét nghiệm máu, nước tiểu được tăng cường, các chuyên khoa

sâu được thành lập. Ngoài các khoa: nội, ngoại, sản phụ, nhi khoa, còn có các

khoa tai-mũi-họng, răng-hàm-mặt, mắt, khoa cấp cứu hồi sức. Cán bộ được

bổ túc chuyên khoa thường xuyên nên đã đảm nhận được nhiệm vụ của tuyến

điều trị cấp huyện; nhiều bệnh nhân bị nhiễm trùng nặng được cấp cứu kịp

thời. Các phẫu thuật ngoại, sản phụ khoa và chuyên khoa được giải quyết nên

ít phải chuyển lên tuyến tỉnh.

Song song với nâng cao kỹ thuật chuyên môn, ngành y tế Thanh Hoá

cũng rất coi trọng nâng cao tinh thần thái độ, ý thức trách nhiệm của cán bộ y

tế trong phục vụ bệnh nhân. Toàn ngành đã hưởng ứng phong trào thi đua:

“Kỷ cương, lương tâm và trách nhiệm”, kết hợp hài hòa giữa y học dân tộc và

y học hiện đại. Triển khai từng bước có hiệu quả công tác điều dưỡng, phục

96

hồi chức năng và chăm sóc toàn diện cũng như phát triển mạnh mẽ các

phương pháp điều trị không cần thuốc. Nhờ đó, đã từng bước lấy lại lòng tin

của nhân dân. Công suất sử dụng giường bệnh liên tục tăng, bình quân đạt gần

100% ở tuyến huyện, 100% ở tuyến tỉnh. Nhiều bệnh viện trong tỉnh luôn

trong tình trạng quá tải như Bệnh viện Lao, Tâm thần, Bệnh viện Phụ Sản,

Bệnh viện Đa khoa tỉnh,…Số lượng bệnh nhân chuyển ra tuyến Trung ương

ngày càng giảm.

Bên cạnh đó ngành đã tăng cường công tác đào tạo, nâng cao trình độ

cho cán bộ quản lý, cán bộ chuyên môn kỹ thuật, cán bộ chuyên khoa đầu

ngành, cán bộ kế cận cũng như nghiên cứu khoa học. Số đề tài nghiên cứu

khoa học ngày một tăng. Các công trình nghiên cứu đều tập trung vào các

mục tiêu chiến lược chuyên môn kỹ thuật phục vụ thiết thực cho các hoạt

động của ngành, nhiều đề tài được áp dụng trong công tác quản lý và phục vụ

trực tiếp bệnh nhân tại các đơn vị. Nhiều đơn vị có phong trào nghiên cứu

khoa học tốt như: Bệnh viện Đa khoa tỉnh, Bệnh viện Phụ Sản, Trung tâm

YTDP, Trung tâm Nội Tiết, Công ty Dược-Vật tư y tế….

Thứ ba, lĩnh vực YTDP, phòng chống các bệnh xã hội có nhiều cố gắng

và đạt được những kết quả quan trọng cả về chất lượng và mức độ bao phủ.

Nhờ tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục nhân dân đẩy mạnh phong

trào vệ sinh phòng dịch, triển khai có hiệu quả công tác giám sát dịch tễ và

phòng chống dịch, cùng với sự chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, sự

phối hợp giữa các ngành, đoàn thể nên nhiều bệnh dịch nguy hiểm đã được

khống chế và đẩy lùi. Trước tiến phải nói đến thắng lợi trong công tác phòng

chống sốt rét. Thanh Hoá đã khống chế và đang từng bước đẩy lùi nguy cơ

của sốt rét, đã loại bỏ được nỗi lo âu của nhân dân miền núi về bệnh dịch này.

Công tác bảo vệ sức khoẻ bà mẹ trẻ em và kế hoạch hoá gia đình cũng đạt

nhiều thắng lợi: Đã thực hiện lồng ghép các chương trình phòng chống suy

97

dinh dưỡng, chương trình phòng chống tiêu chảy, chương trình phòng chống

nhiễm đường hô hấp cấp tính, chương trình phòng chống mù lòa, bệnh về thai

sản, nuôi con bằng sữa mẹ, đa dạng hóa và cung ứng thuận lợi cũng như nâng

cao chất lượng các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình…..Nhờ vậy đã góp phần

làm giảm tỷ lệ phát triển dân số từ 2,3% (năm 1986) xuống còn dưới 1,03%

(năm 2005). Tỷ lệ chết mẹ, chết trẻ em dưới 1 tuổi giảm rõ rệt, tỷ lệ mắc và

chết các bệnh nhiễm khuẩn có vắc xin ở trẻ em cũng giảm một cách đáng kể,

nhờ làm tốt công tác tiêm chủng thường xuyên cũng như định kỳ. Những

ngày tiêm chủng toàn quốc nhằm thanh toán bại liệt và loại trừ uốn ván sơ

sinh thực sự trở thành ngày hội của toàn dân và đạt tỷ lệ cao: 99% trẻ em

trong độ tuổi được tiêm chủng đầy đủ 6 loại vắc xin, 100% trẻ em dưới 5 tuổi

được uống vắc xin Sabin.

Công tác phòng chống các bệnh bướu cổ, phòng chống lao, phong, tâm

thần, nghiện hút, phòng chống nhiễm HIV/AIDS, phòng chống mắt hột và mù

lòa cũng có nhiều tiến bộ. Chương trình phòng chống lao quốc gia được triển

khai ở 27/27 huyện, thị, thành phố với 100% số xã. Duy trì tỷ lệ dùng muối

iốt vùng núi đạt 100%, vùng đồng bằng đạt 98,9%, chất lượng muối iốt đạt

100% cho phòng bệnh. Năm 1983, huyện Nga Sơn là huyện thanh toán bệnh

phong đầu tiên của cả nước. Tháng 05 năm 1998, đoàn kiểm tra y tế Trung

ương gồm: Bộ Y tế, Viện Da liễu, Trung tâm da liễu các tỉnh, thành công

nhận Thanh Hoá là tỉnh đã thanh toán bệnh phong. 100% xã, phường, huyện,

thị, thành phố đạt tiêu chuẩn thanh toán phong, xếp loại xuất sắc.

Phong trào vệ sinh yêu nước với khẩu hiệu “sạch làng, tốt ruộng, đẹp

nông thôn” đã động viên nhân dân thực hiện “tam tinh, tứ diệt” (ăn sạch, ở

sạch, uống sạch; diệt ruồi, diệt muỗi, bọ chét, chuột). Tiếp đó là phong trào “5

dứt điểm” (dứt điểm 3 công trình vệ sinh phòng bệnh, dứt điểm quản lý sức

khoẻ toàn dân, dứt điểm sinh đẻ có kế hoạch, dứt điểm trồng và sử dụng thuốc

98

Nam tại xã và dứt điểm mạng lưới y tế cơ sở). Năm 1980, huyện Hoằng Hoá

là huyện đầu tiên dứt điểm 3 công trình vệ sinh phòng bệnh trong cả nước.

Những năm gần đây, nhân dân các huyện miền núi đã đồng loạt xây dựng

công trình nhà tiêu hố chìm, nắp xi-măng có độ bền lâu dài, hợp vệ sinh. Nhờ

vậy, các bệnh lây lan qua đường tiêu hoá như ỉa chảy, lỵ, thương hàn giảm đi

nhiều.

Thấy rõ được vai trò quan trọng của công tác truyền thông giáo dục sức

khỏe trong lĩnh vực y tế nói chung và YTDP nói riêng, hàng năm Trung tâm

YTDP đã chủ động xây dựng kế hoạch truyền thông hàng tháng, hàng quý và

phối hợp với các cơ quan hữu quan thực hiện tốt kế hoạch truyền thông đã có

tác dụng làm chuyển biến nhận thức của nhân dân trong việc thực hiện các

hoạt động vệ sinh phòng bệnh tại gia đình và cộng đồng. Chính vì vậy, nhiều

năm qua các dịch bệnh đã giảm rõ rệt, nhất là các bệnh dịch lây truyền theo

đường tiêu hóa, sốt xuất huyết…

Thứ tư, công tác sản xuất, cung ứng đảm bảo thuốc và trang thiết bị y tế

có nhiều tiến bộ.

Có đủ thuốc đảm bảo cho điều trị, phòng chống dịch và đề phòng thảm

họa. Từ chỗ màng lưới rất mỏng manh và thiếu các loại thuốc chữa bệnh

thông thường cũng như thuốc chuyên khoa của những năm 1989-1990. Đến

nay, thiết bị máy móc hiện đại đã được lắp đặt và vận hành tại Công ty Dược-

Vật tư y tế như xưởng sản xuất thuốc đạt Tiêu chuẩn thực hành tốt sản xuất

thuốc GMP, phòng kiểm nghiệm thuốc đạt tiêu chuẩn GLP, xây dựng nhà

kho, trung tâm buôn bán….với các trang thiết bị hiện đại đáp ứng yêu cầu

chất lượng thuốc. Mạng lưới cung ứng, đảm bảo thuốc đã được mở rộng và

quản lý chặt chẽ, bình quân mỗi xã có 3-4 điểm phân phối thuốc. Nhờ vậy, thị

trường thuốc ở Thanh Hoá rất phong phú, đa dạng và chất lượng tốt, cả thuốc

nhập và thuốc tự sản xuất, đã đáp ứng đủ nhu cầu của người bệnh, cung cấp

99

kịp thời cho phòng và chữa bệnh, nộp ngân sách Nhà nước ngày càng tăng.

Nếu năm 1995 mới chỉ nộp 782 triệu đồng, thì đến năm 2006 đã nộp 10 tỷ

đồng. Thuốc sản xuất trong tỉnh đáp ứng khoảng 20% nhu cầu sử dụng của

nhân dân, trong nhiều năm không phát hiện thấy thuốc giả lưu hành trên địa

bàn có quản lý, điều đó đã góp phần bình ổn giá thuốc trong tỉnh.

Thứ năm, công tác xã hội hóa y tế đã có những bước tiến đáng kể, thu hút

sự tham gia ngày càng đông đảo của các tầng lớp nhân dân trong tỉnh.

Hoạt động y tế đã được xã hội hóa đáng kể, nhất là tại tuyến xã trong xây

dựng xã chuẩn về y tế. Hoạt động đa dạng hóa các loại hình CS&BVSKND

đang được khuyến khích và đã đạt được một số kết quả nhất định. Các cấp ủy

Đảng, chính quyền, các ngành, các đoàn thể quần chúng ngày càng tham gia

tích cực vào các hoạt động tuyên truyền, vận động nhân dân tự giác tham gia

các phong trào rèn luyện và nâng cao sức khoẻ. Việc đa dạng hóa các loại

hình cung cung cấp dịch vụ y tế thuận lợi hơn. Đến ngày 30/06/2006, toàn

tỉnh đã có 2.086 cơ sở hành nghề y dược tư nhân, trong đó có 202 cơ sở

YHCT và 1.663 cơ sở dược [81, tr. 6].

Chính sách thu một phần viện phí và BHYT đã đóng góp đáng kể vào

ngân sách y tế của tỉnh. Việc huy động đóng góp của người có khả năng chi

trả để miễn phí một phần cho người nghèo, người sống tại vùng khó khăn

được thực hiện có hiệu quả. Có nguồn kinh phí để từng bước nâng cấp bệnh

viện, mua sắm trang thiết bị mới trong khi nguồn ngân sách Nhà nước còn

hạn chế. Việc thu viện phí cũng góp phần cải thiện đời sống của cán bộ y tế từ

hoạt động chuyên môn của mình qua việc trích thưởng từ nguồn viện phí.

BHYT đã thực hiện được mục đích huy động sự đóng góp của nhiều người

khỏe để hỗ trợ cho số ít người ốm bớt khó khăn trong điều kiện chi phí khám

bệnh và chữa bệnh ngày càng cao do dùng kỹ thuật cao, do giá thuốc và giá

các chi phí khác trong bệnh viện tăng (điện, nước, dịch vụ…). Nhờ có BHYT,

100

đã khám chữa bệnh cho hàng chục ngàn bệnh nhân.

Thứ sáu, YHCT đã phát huy được tác dụng tích cực trong việc điều trị

các bệnh thông thường và nhiều bệnh mạn tính khác nhau với chi phí thấp,

phù hợp với những người nghèo và nhân dân vùng nông thôn, miền núi.

Hệ thống YHCT có bước phát triển mới về cơ sở vật chất, trang thiết bị và

nguồn nhân lực, cả trong y tế công cũng như y tế tư nhân. Đến nay, toàn tỉnh

có 1 bệnh viện y học dân tộc với quy mô 150 giường bệnh, 16/26 bệnh viện

huyện có khoa y học dân tộc, 7/26 bệnh viện huyện có tổ y học dân tộc hoạt

động lồng ghép, 34 phòng khám đa khoa khu vực và 150/633 (23,7%) trạm y

tế có hoạt động khám chữa bệnh bằng y học dân tộc. Hầu hết các bệnh viện

tuyến tỉnh và huyện đều có khoa YHCT. Tỷ lệ bệnh nhân điều trị bằng YHCT

tăng nhanh. Năm 2005, có hơn 20% bệnh nhân được khám chữa bệnh bằng y

học dân tộc so với khám chữa bệnh chung. Nhiều trạm y tế xã đã có cán bộ

YHCT chuyên trách. Công tác tuyên truyền vận động nhân dân trồng và sử

dụng thuốc Nam để phòng và chữa bệnh thông thường được đẩy mạnh với

mục tiêu nâng cao tỷ lệ bệnh nhân được khám chữa bệnh bằng y học dân tộc

và hướng về cộng đồng làm nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu. Nhiều bài

thuốc Đông y được ứng dụng cho hiệu quả điều trị cao, số vườn thuốc Nam

được nhân rộng, nhiều cây thuốc quý được khai thác và sử dụng rộng rãi phục

vụ người bệnh. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ y học dân tộc được chú

trọng. Việc bồi dưỡng chuyên môn được chú trọng đã hình thành nên một đội

ngũ thầy thuốc đông đảo, từng bước kế thừa có hiệu quả, khôi phục và phát

huy thế mạnh của YHCT vào phục vụ nhân dân.

Thứ bảy, việc sử dụng các nguồn vốn đầu tư phát triển y tế có hiệu quả.

Các cơ sở y tế huyện và tỉnh được đầu tư nâng cấp về cơ sở vật chất,

trang thiết bị cơ bản đủ khả năng đáp ứng cho nhu cầu bệnh nhân đến khám

và điều trị. Ngân sách tỉnh dành cho sự nghiệp y tế được tăng dần qua các

101

năm. Nếu như năm 1995-năm đầu tiên sau hơn 10 năm đổi mới ngành y tế

Thanh Hoá được cấp đủ kinh phí chi thường xuyên theo kế hoạch tỉnh giao,

kinh phí dành cho sự nghiệp y tế là 41,489 tỷ đồng (trong đó đầu tư cho xây

dựng cơ bản là 9,76 tỷ đồng), thì đến năm 2005, tổng kinh phí cho sự nghiệp

y tế là 253,682 tỷ đồng (trong đó đầu tư xây dựng cơ bản là 35,2 tỷ đồng).

Bằng các nguồn vốn của trung ương và địa phương, ngành đã đầu tư hàng

trăm tỷ đồng xây dựng cơ sở hạ tầng và đầu tư mua sắm các trang thiết bị kỹ

thuật, làm thay đổi đáng kể diện mạo hệ thống y tế cơ sở, tăng cường và nâng

cao năng lực của hệ thống y tế từ tỉnh đến các xã, phường, phát triển và ứng

dụng kỹ thuật trong các lĩnh vực dự phòng, phòng chống các bệnh xã hội và

khám chữa bệnh. Các đơn vị trong ngành y tế đã chủ động áp dụng các biện

pháp quản lý chặt chẽ, tiết kiệm chi tiêu hợp lý để đầu tư cải thiện điều kiện,

khắc phục khó khăn nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho nhân dân. Nhờ

đó, đã sử dụng có hiệu quả nguồn kinh phí sự nghiệp y tế trong công tác chăm

sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân.

Số trạm y tế được đầu tư do dân đóng góp và kinh phí của xã là khá lớn,

248 xã (năm 2005) đạt xã Chuẩn quốc gia về y tế xã đều có trạm y tế khang

trang, sạch đẹp đáp ứng nhu cầu CS&BVSKND về các dịch vụ y tế cơ bản.

Nhờ thực hiện các biện pháp tích cực và chủ động, các chỉ tiêu tình trạng

sức khoẻ của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hiện nay, Thanh Hoá là một

trong những tỉnh đứng đầu có nhiều thành tích nổi bật về mặt CS&BVSKND

trong cả nước. Nhân dân được hưởng thụ các dịch vụ y tế cơ bản từ xã đến

tỉnh thuận lợi, một số dịch vụ y tế chuyên sâu đáp ứng được nhu cầu của nhân

dân trong tỉnh. Giảm đáng kể tỷ lệ mắc và chết các bệnh truyền nhiễm và dịch

lây, tình hình dịch bệnh ổn định, không có dịch lớn xảy ra và không có tử

vong do dịch.

Năm 2005, tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 1 tuổi còn 30‰. Tử vong trẻ em dưới

102

5 tuổi 35 ‰. Tỷ lệ trẻ sơ sinh có cân nặng dưới 2.500g còn 8%. Tỷ lệ suy

dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi giảm còn 31%. Tỷ lệ tử vong mẹ còn

80/100.000 trẻ đẻ sống. Tuổi thọ trung bình của người dân đạt trên 72 tuổi.

Đạt được những thành tựu kể trên, ngành y tế Thanh Hoá đã nắm vững

đường lối, quan điểm và chủ trương của Đảng và của tỉnh Thanh Hoá, đề ra

chính sách chiến lược đúng đắn, đưa ra những giải pháp đúng, được thực tiễn

kiểm chứng là khả thi và có hiệu quả nhằm mục tiêu CS&BVSKND ngày

càng công bằng, chất lượng và hiệu quả hơn.

3.1.2 Những hạn chế tồn tại

Thành tựu y tế Thanh Hoá đạt được trong 20 năm đổi mới là hết sức to

lớn, đáp ứng được những yêu cầu cơ bản của công tác khám chữa bệnh cũng

như phòng chống các dịch bệnh, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã

hội của tỉnh. Tuy vậy, trong quá trình phát triển của mình, y tế Thanh Hoá

cũng gặp không ít những khó khăn, bất cập cần phải giải quyết.

Thứ nhất, khó khăn lớn nổi bật hiện nay của y tế Thanh Hoá đó là vấn đề

về nguồn vốn đầu tư và nguồn nhân lực để đáp ứng tốt hơn nữa sự nghiệp

CS&BVSKND trong tỉnh.

Đầu tư cho y tế trong những năm qua tuy đã được quan tâm nhiều những

chưa đáp ứng được với nhu cầu chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Một số chương

trình mục tiêu triển khai trên địa bàn rộng, chi tiêu cao song vật tư kinh phí

thấp, vốn đối ứng không có hoặc quá ít nên không thể đáp ứng theo yêu cầu

như: chương trình vệ sinh an toàn thực phẩm, chương trình sức khoẻ sinh sản,

chống lao, HIV/AIDS, xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị….Công tác tạo

nguồn còn khó khăn, nhiều nơi thu không đủ chi theo thực tế. Các nguồn đầu

tư từ bên ngoài hạn hẹp, nguồn đóng góp của dân còn hạn chế. Các dự án

nước sạch sinh hoạt bệnh viện, dự án chất thải còn nhiều khó khăn và bất cập

do thủ tục chậm và chưa có nguồn. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, bổ

103

sung biên chế chưa được chủ động, cần được quan tâm quản lý theo ngành

mới đáp ứng được kế hoạch đề ra, đặc biệt là tuyến y tế cơ sở và miền núi, tỷ

lệ một số chủng loại cán bộ thiếu và yếu (sau đại học, của nhân và cao đẳng

điều dưỡng, YHCT, dược…). Trình độ quản lý của một số cán bộ quản lý

chưa ngang tầm với nhu cầu phát triển. Đời sống của một bộ phận cán bộ

công chức ở các đơn vị còn khó khăn (nhất là vùng núi, vùng cộng đồng dân

cư kinh tế kém phát triển) đã ảnh hưởng đến chất lượng công tác ở các đơn vị.

Thứ hai, công tác YTDP và phòng chống các bệnh xã hội còn gặp nhiều

khó khăn.

Dịch bệnh vẫn diễn biến phức tạp, có thể bùng phát bất cứ lúc nào. Các

nguy cơ dịch nguy hiểm như: sốt rét, tả, thương hàn, sốt xuất huyết, sởi, dịch

hạch….còn tiềm ẩn tại nhiều địa phương, nhất là ở các vùng miền núi, vùng

sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Trong vài năm trở lại đây, một

số dịch mới xuất hiện như: dịch viêm đường hô hấp cấp do vi rút (SARS),

dịch cúm gà lây từ gia cầm sang người (H5N1)….đã gây rất nhiều khó khăn

cho công tác phòng, chống dịch bệnh bởi Thanh Hoá là tỉnh có dân số đông

và địa hình rộng, phức tạp. Đặc biệt là đại dịch HIV/AIDS đang trở thành một

mối đe dọa lớn, đang ảnh hưởng trực tiếp và nghiêm trọng đến sức khoẻ, tính

mạng con người, trật tự an ninh, kinh tế của các dân tộc trong tỉnh. Năm 1995

mới chỉ phát hiện 1 trường hợp đầu tiên nhiễm HIV ở Thanh Hoá, năm 2000

con số đó là 185, thì đến năm 2005, con số đó đã tăng lên tới 2.343 người

nhiễm HIV (trong đó có 1.308 người Thanh Hoá), đã có 306 trường hợp tử

vong. Đến 31/08/2006, số người nhiễm HIV đã tăng lên 2.994 người, đã có có

437 trường hợp tử vong do AIDS. Hiện nay, mô hình bệnh tật có sự chuyển

dịch, đan xen phức tạp đòi hỏi công tác YTDP ở Thanh Hoá phải có những nỗ

104

lực rất lớn mới có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.

Thứ ba, việc thực hiện công bằng trong khám chữa bệnh giữa nông thôn

và thành thị, giữa người giàu và người nghèo vẫn chưa đạt được kết quả mong

muốn mặc dù đã có những nỗ lực lớn.

Khám chữa bệnh cho người nghèo, người thuộc đối tượng ưu đãi xã hội,

vùng nghèo, vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số vẫn là một tồn tại

lớn, tạo gánh nặng cho các bệnh viện vì thiếu hệ thống chính sách đồng bộ và

sự phối hợp liên ngành. Nhiều bệnh viện vùng cao, vùng sâu, vùng xa bị

xuống cấp về cơ sở, lạc hậu về trang thiết bị và thiếu cán bộ chuyên môn giỏi

có khả năng công tác độc lập, chỉ đạo chuyên khoa trong phạm vi một huyện

hoặc một khu vực.

Với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, xã hội đã tác động mạnh mẽ tới

hoạt động y tế. Đời sống của đại đa số các tầng lớp nhân dân trong tỉnh đã

được nâng lên rõ rệt, nhu cầu về chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ của các tầng

lớp nhân dân ngày càng cao và đa dạng. Nhưng do đầu tư kinh phí còn hạn

chế nên nhiều cơ sở chưa được nâng cấp, cải tạo và trang bị mới. Cán bộ kỹ

thuật chuyên môn, các phương tiện trang thiết bị kỹ thuật hiện đại phân bố

không đồng đều, hầu hết tập trung ở tuyến tỉnh dẫn đến tình trạng bệnh nhân

dồn về các bệnh viện lớn, gây quá tải cho các bệnh viện tuyến trên.

Chính sách thu một phần viện phí và cơ chế thị trường đã đặt đồng tiền

giữa người phục vụ là nhân viên y tế và người được phục vụ là bệnh nhân.

Nạn thu phí ngầm mặc dù có giảm đáng kể nhưng chưa chấm dứt. Tình trạng

này nếu không được ngăn chặn có hiệu quả sẽ làm mất lòng tin của nhân dân.

Công tác thông tin quản lý, ứng dụng công nghệ tin học trong quản lý còn

hạn chế, mới chỉ tập trung chủ yếu ở các bệnh viện, trung tâm tuyến tỉnh và

huyện. Đời sống cán bộ, công nhân viên trong ngành còn nhiều khó khăn,

105

nhất là ở các vùng kinh tế, xã hội còn nhiều khó khăn.

Thứ tư, hoạt động của hệ thống y tế cơ sở cả tuyến huyện và xã còn rất

nhiều khó khăn, bất cập dẫn đến việc chăm sóc sức khoẻ, khám chữa bệnh

cho nhân dân còn nhiều mặt hạn chế, nhất là về cơ sở vật chất, trang thiết bị

và đội ngũ cán bộ.

Định biên cán bộ ở các tuyến còn thiếu và chưa hợp lý, việc cập nhật

thông tin, ứng dụng thực tiễn, kỹ năng thực hành, tiếp cận với bệnh nhân cấp

cứu….còn nhiều hạn chế. Cán bộ quản lý trạm năng lực tham mưu cho cấp ủy

và điều hành công việc của trạm còn yếu, dẫn đến việc chăm sóc, bảo vệ sức

khoẻ nhân dân hiệu quả không cao. Đội ngũ cán bộ y tế thôn, bản tuy đã được

tăng cường với hơn 92% thôn, bản đã có nhân viên y tế hoạt động và có chế

độ phụ cấp, nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu khám, chữa bệnh cho nhân

dân. Việc đào tạo nâng cao trình độ cho y tế cơ sở còn nhiều khó khăn do mặt

bằng văn hoá thấp. Để đạt được mục tiêu 100% số trạm y tế xã, phường có

bác sỹ vào năm 2010, ngành y tế Thanh Hoá cần phải nỗ lực rất nhiều thì mới

thực hiện được mục tiêu đó.

Về cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế, nhất là tuyến cơ sở nhiều nơi đã

xuống cấp, lạc hậu và thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng với nhu cầu chăm sóc sức

khoẻ ngày càng cao và đa dạng của nhân dân. Ngoài 76 xã đạt chuẩn quốc gia

và một số xã được đầu tư xây dựng theo Quyết định 950 và một số dự án do

tài trợ nước ngoài, vẫn còn tới 50 trạm chưa đạt chuẩn cơ sở hạ tầng, 29 trạm

đã xuống cấp, 5 trạm chưa được xây dựng. Trang thiết bị, các phòng chức

năng (theo chuẩn) phục vụ công tác khám và điều trị chưa đồng bộ và còn

thiếu nhiều, chưa có xã nào đạt chuẩn về trang thiết bị, kể cả 248 xã đạt chuẩn

quốc gia về y tế xã. Về tuyến huyện, sau khi chia tách các đơn vị y tế, hiện

nay các Trung tâm YTDP 11 huyện miền núi vẫn chưa có cơ sở làm việc. Đội

ngũ cán bộ và năng lực chuyên môn của những đơn vị này cũng chưa đáp ứng

106

yêu cầu…

Thứ năm, xã hội hoá y tế là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, quá

trình triển khai thực hiện chủ trương này chúng ta còn gặp nhiều khó khăn.

Đối với các cơ sở y tế Nhà nước: Đây là hệ thống cơ sở chủ đạo trong

hoạt động y tế nhưng hiện nay còn thiếu và yếu, đặc biệt là hệ thống các

TTYT huyện, thị xã, thành phố nhiều nơi chưa đáp ứng được yêu cầu do điều

kiện cơ sở vật chất nhà cửa còn thiếu. Ngoài hệ thống các bệnh viện, trung

tâm tuyến tỉnh về cơ bản được đầu tư tốt, ở các đơn vị y tế tuyến huyện và

tuyến xã, nhìn chung hệ thống trang thiết bị y tế chưa được hiện đại hoá, đa số

đã lạc hậu và thiếu đồng bộ. Đội ngũ y bác sỹ, thầy thuốc giỏi còn thiếu. Cá

thể dịch vụ hoạt động y tế chưa phát triển đặc biết là lĩnh vực khám chữa

bệnh theo yêu cầu.

Đối với các cơ sở y tế tư nhân: Hoạt động hành nghề tư nhân chưa theo

một quy định chúng do chưa có cơ chế chính sách đồng bộ và phù hợp. Sức

hút bệnh nhân chưa cao. Một số cơ sở không đảm bảo quy chế chuyên môn y

tế. Nhìn chung các dịch vụ y tế tư nhân còn nhỏ lẻ, chủ yếu là phòng khám tư,

hiệu thuốc tư. Hiện tại, ở Thanh Hoá mới chỉ có Bệnh viện Đa khoa Hợp Lực

là bệnh viện tư nhân đáp ứng được các yêu cầu về nhân lực cũng như cơ sở

vật chất, trang thiết bị phục vụ việc khám và chữa bệnh cho nhân dân. Việc

kiểm soát chất lượng dịch vụ y tế, chấp hành các quy định của Nhà nước đối

với các cơ sở y tế ngoài Nhà nước còn chưa theo kịp với tốc độ phát triển.

Cơ chế chính sách của Nhà nước chưa đồng bộ và còn nhiều bất cập gây

ra những khó khăn làm hạn chế tốc độ xã hội hoá y tế. Nhà nước chưa huy

động được nguồn lực trong nhân dân những khu vực có đời sống cao, đồng

thời vẫn phải bao cấp những khu vực dân cư có đời sống thấp, mức thu viện

phí thấp. Đối tượng được miễn giảm lại rộng, do đó các cơ sở y tế không đủ

107

nguồn lực để phát triển chiều sâu.

Cơ chế quản ý thu chi nguồn kinh phí BHYT còn nhiều bất cập. Nguồn

thu vẫn chỉ tập trung ở các đối tượng là cán bộ, công nhân viên khu vực hành

chính sự nghiệp, cán bộ về hưu mất sức lao động, các đối tượng hưởng chính

sách trợ cấp ưu đãi của Nhà nước, BHYT do ngân sách Nhà nước cấp, các đối

tượng khác chưa khai thác được, đặc biệt là đối tượng tự nguyện. Chế độ chi

cho người bệnh có thẻ BHYT cũng chưa thật hợp lý. Số thu BHYT 3% hàng

năm tăng dần do việc điều chỉnh mức lương khu vực hành chính sự nghiệp và

khu vực sản xuất kinh doanh nhưng số chi không tăng. Một số trường hợp

bệnh nhân nặng chi phí lớn thì BHYT khống chế chi phí bằng chính sách giá

trần, do đó các cơ sở y tế rất căn ce trong việc chi cho bệnh nhân có thẻ

BHYT vì một số khoản không được BHYT chi trả như tiền kim chỉ phẫu

thuật, màng lọc bể thận, kỹ thuật phẫu thuật laser, nội soi….những chi phí

vượt trần phải được xem xét cụ thể BHYT mới chi trả.

Thứ sáu, hệ thống cung ứng thuốc cũng còn nhiều hạn chế chưa đáp ứng

kịp thời các nhu cầu của nhân dân, đặc biệt là đồng bào các dân tộc ở vùng

sâu, vùng xa.

Hiện tại năng lực sản xuất thuốc của các đơn vị trong tỉnh mới chỉ đáp

ứng được trên 20% nhu cầu về thuốc chữa bệnh của nhân dân trong tỉnh. Việc

quản lý giá thuốc, ngăn chặn việc lưu hành thuốc giả, thuốc kém chất lượng,

thuốc ngoài danh mục quy định rất khó khăn.

Thứ bảy, hệ thống YHCT cho dù được coi là mũi nhọn ưu tiên trong chính

sách, song trên thực tế đầu tư còn hạn chế nên chưa phát huy hết tiềm năng

hiện có, chưa đủ mạnh so với yêu cầu nhiệm vụ.

Thuốc YHCT đưa vào điều trị chưa đa dạng, chủ yếu dạng thuốc thang và

số lượng chưa đáp ứng nhu cầu thị hiếu ngày càng tăng của nhân dân. Công

tác đào tạo chuyên sâu về YHCT chưa tương xứng với nhiệm vụ, chất lượng

108

chưa theo kịp nhu cầu. Đại đa số các trạm y tế xã, phường chưa có biên chế

chuyên về YHCT. Hoạt động khám chữa bệnh bằng y học dân tộc ở các trạm

y tế còn hạn chế do thiếu cán bộ được đào tạo YHCT, thiếu trang thiết bị phục

vụ công tác điều trị bằng các phương pháp không dùng thuốc, khuôn viên

vườn thuốc Nam tại nhiều trạm chưa đủ cung cấp nguồn thuốc phục vụ nhu

cầu khám chữa bệnh. Hiện tại, mới chỉ có khoảng 20% số bệnh nhân điều trị

bằng YHCT. Vì vậy, việc đẩy mạnh hơn nữa hoạt động YHCT trong việc

khám và điều trị cho nhân dân trong tỉnh là một nhiệm vụ rất quan trọng đòi

hỏi phải có những nỗ lực lớn hơn nữa để đưa công tác này phát triển.

Đó là những tồn tại, hạn chế cơ bản của ngành y tế Thanh Hoá trong 20

năm đổi mới, cần thiết phải được khắc phục để công tác CS&BVSKND được

tốt hơn.

3.2 Một số bài học kinh nghiệm

Sau 20 năm đổi mới, cùng với những thành tựu đạt được trong phát triển

kinh tế, xã hội, cũng cố an ninh quốc phòng, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ và

sự quản lý điều hành của UBND tỉnh, chỉ đạo của ngành y tế, sự phối hợp và

giúp đỡ có hiệu quả của các ban ngành, các đoàn thể và địa phương, sự ủng

hộ và tham gia nhiệt tình của các tầng lớp nhân dân, sự nghiệp

CS&BVSKND ở Thanh Hoá đã đạt được những thành tựu to lớn, đáp ứng

được nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của các tầng lớp nhân dân đối với

công tác chăm sóc sức khoẻ. Thực tiễn công tác lãnh đạo, chỉ đạo phát triển y

tế trong 20 năm qua ở Thanh Hoá, tôi rút ra một số bài học kinh nghiệm để

tiếp tục phát triển hơn nữa trong tình hình mới:

Thứ nhất, phải tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, công tác chỉ

đạo cụ thể, sát sao của các cấp chính quyền và sự tham gia tích cực của các

ngành, các đoàn thể nhân dân. Đây là điều đầu tiên có ý nghĩa quan trọng

109

quyết định để đảm bảo thực hiện thắng lợi công tác y tế trong thời kỳ mới.

Đầu tư cho y tế là đầu tư cho con người và chính là đầu tư cho phát triển.

Cần tiếp tục quán triệt và thực hiện một các đầy đủ các chủ trương, chính sách

của Đảng và Nhà nước, của Bộ Y tế cũng như chủ trương, chính sách của tỉnh

về y tế, từ đó xây dựng kế hoạch, chương trình hành động phù hợp với tình

hình thực tế của địa phương để tập trung phấn đấu. Các cấp ủy Đảng và chính

quyền các cấp, các đoàn thể và các tổ chức xã hội cùng phối hợp với ngành y

tế thực hiện tốt kế hoạch triển khai các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Nhà

nước về y tế. Tăng cường các hoạt động tuyên truyền nhằm nâng cao nhận

thức và hành động khi triển khai thực hiện công tác y tế trên địa bàn tỉnh.

Từng bước tăng cường đầu tư kinh phí cho sự nghiệp y tế đáp ứng nhu cầu

ngày càng cao và đa dạng của nhân dân trong chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ.

Thứ hai, tiếp tục cũng cố và hoàn chỉnh mạng lưới y tế cơ sở cả về chính

sách, đào tạo cán bộ và nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật với

phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, địa phương và ngành cùng lo.

Đóng góp của nhân dân và các tổ chức xã hội là chính, hỗ trợ của trên là

quan trọng, ngay ở các xã và kể cả y tế thôn, bản. Vì y tế cơ sở là y tế cho

cộng đồng dân cư nhỏ nhất của xã hội, là người trực tiếp chăm lo sức khoẻ

ban đầu cho cộng đồng. Điều này vừa đảm bảo quan điểm y học dự phòng,

vừa thể hiện tính ưu việt và nhân văn cao cả của xã hội ta. Đây là bài học có ý

nghĩa vô cùng quan trọng, nó khẳng định vai trò không thể thay thế được của

y tế đối với việc CS&BVSKND, thể hiện sự công bằng cho mọi người dân

trong việc chăm sóc sức khoẻ của chính mình.

Thứ ba, phát triển sự nghiệp y tế là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, vì

vậy phải huy động sự tham gia tích cực của toàn xã hội nhằm bảo vệ và nâng

cao sức khoẻ cộng đồng.

Các cấp ủy Đảng, chính quyền xác định đúng vai trò, chức năng của mình

110

trong việc chỉ đạo các hoạt động y tế ở địa phương với mục đích hướng sự

phát triển y tế phục vụ cho việc hoàn thành các mục tiêu mà tỉnh đề ra. Muốn

vậy, điều quan trọng là phải phát huy tính chủ động, sáng tạo của ngành, của

từng địa phương đối với công tác y tế, không trông chờ, ỷ lại, biết dựa vào

nhân dân để phát triển sự nghiệp y tế.

Làm tốt hơn nữa xã hội hóa công tác y tế, ưu tiên và hướng mạnh hơn nữa

về cơ sở, huy động mọi nguồn lực để giải quyết cơ bản, dứt điểm từng việc

trong công tác y học dự phòng, đặc biệt là vấn đề vệ sinh môi trường và nước

sạch. Có những giải pháp tích cực đảm bảo tính công bằng và hiệu quả trong

chăm sóc sức khoẻ cho người nghèo, người sống ở những vùng khó khăn

được tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế cơ bản và chuyên sâu đem lại niềm

tin cho nhân dân đối với chế độ.

Thứ tư, cần gắn chặt hơn nữa công tác phát triển y tế trong kế hoạch phát

triển kinh tế, xã hội của tỉnh, của từng địa phương.

Tiếp tục thực hiện hiệu quả hơn nữa các chương trình y tế quốc gia để

không ngừng nâng cao chất lượng công tác CS&BVSKND trong tỉnh, góp

phần phát triển kinh tế, ổn định chính trị và xã hội. Y tế phát triển vừa là đối

tượng vừa là động lực cho sự phát triển đất nước và con người, nó tham gia

tích cực vào phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Nếu sức khoẻ phục vụ sản

xuất, đời sống và bảo vệ Tổ quốc, sức khoẻ rất cần cho công nghiệp hoá, hiện

đại hoá đất nước thì ngành y tế là đội ngũ xung kích trên mặt trận

CS&BVSKND, đem lại lợi ích sức khoẻ cho tất cả mọi người. Sự phát triển y

tế luôn gắn liền với phát triển kinh tế, kinh tế phát triển tạo điều kiện thúc đẩy

việc CS&BVSKND được tốt hơn, nâng cao số lượng và chất lượng đội ngũ

cán bộ, kiện toàn mạng lưới cơ sở nhanh hơn.

Cùng với việc gắn phát triển y tế với phát triển kinh tế là phát triển y tế

gắn liền với văn hoá. Đó là việc thực hiện tốt công tác YTDP, vệ sinh môi

111

trường sống, thực hiện phong trào ba công trình, vận động “Toàn dân đoàn

kết xây dựng đời sống văn hoá”, nêu cao tinh thần bảo vệ môi trường sống

sạch sẽ chính là bảo vệ sức khoẻ của mình và được nhân dân hưởng ứng. Và

thông qua các hoạt động văn hoá truyền thống, hiện đại ngành y tế đã lồng

nhiều nội dung y tế vào để tuyên truyền, giáo dục nhân dân trong việc chăm

sóc sức khoẻ.

Thứ năm, có những biện pháp hợp lý và đúng đắn để cải thiện đời sống,

chăm lo sức khoẻ cho cán bộ nhân viên ngành y tế.

Muốn vậy, cần phải có những cơ chế, chính sách thiết thực để khuyến

khích, thu hút đội ngũ cán bộ y tế yên tâm công tác, phát huy hơn nữa tài

năng và y đức của mình trong công tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân

dân, làm tròn bổn phận của người thầy thuốc. Để hoàn thành tốt công tác

được giao, điều quan trọng là cũng cố sự đoàn kết nhất trí trong nội bộ ngành

và từng đơn vị, xây dựng cơ chế quản lý, cơ chế làm việc mới phù hợp để

hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ công tác và xây dựng tổ chức vững mạnh, tạo

ra một tinh thần cố kết cộng đồng cao, đồng nghiệp gắn bó cùng nhau sống và

làm việc trong một môi trường đầy tình thương yêu, chia sẻ.

Thứ sáu, cần ra sức khắc phục và hạn chế những khó khăn, tồn tại mà

ngành đang phải đối mặt là yêu cầu cấp thiết hiện nay nhằm đẩy mạnh hơn

nữa sự nghiệp y tế của tỉnh.

Muốn vậy, cần phải nâng cao năng lực quản lý toàn diện, đẩy mạnh công

tác thanh tra, quản lý hành nghề y dược tư nhân, quản lý nghiêm ngặt thuốc

gây nghiện, thuốc độc, phòng chống thuốc giả, thuốc kém phẩm chất. Đồng

thời tăng cường tiết kiệm, đấu tranh kiên quyết với các tệ nạn xã hội, tệ tham

nhũng, hối lộ, lãng phí thời gian, tiền của của công ở mọi khâu, mọi lúc, mọi

người và mọi đơn vị. Đây là biện pháp cần thiết để ngăn chặn những tiêu cực

nảy sinh trong nội bộ ngành y tế, tạo cho nhân dân có niềm tin vào đội ngũ

112

cán bộ, nhân viên y tế, xứng đáng với danh hiệu “Lương y như từ mẫu”.

Những bài học kinh nghiệm nêu trên cần được quán triệt không chỉ ở giai

đoạn hiện tại mà còn phải coi đó là bài học thiết thực để tiếp tục phát triển

hơn nữa sự nghiệp y tế tỉnh Thanh Hoá trong giai đoạn tiếp theo nhằm đẩy

mạnh hơn nữa sự nghiệp CS&BVSKND của tỉnh.

3.3 Một số vấn đề đặt ra

Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lần thứ XVI (2006) trên cơ sở đánh giá

những thành tựu, hạn chế trong việc thực hiện những mục tiêu, nhiệm vụ của

kế hoạch kinh tế, xã hội 5 năm (2001-2005), đã đề ra những mục tiêu, nhiệm

vụ chủ yếu cho thời kỳ 2006-2010. Về y tế, mục tiêu của kế hoạch 5 năm

(2006-2010) được Đại hội đặt ra là: “Tốc độ tăng dân số bình quân hàng năm

dưới 1%. 75% số xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế vào năm

2010. Đến năm 2010, tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 1 tuổi còn 25‰, dưới 5 tuổi

còn 32‰, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng còn 2%; tỷ lệ tử vong bà

mẹ liên quan thai sản dưới 0,7‰; tuổi thọ trung bình của người dân nâng lên

73 tuổi…..

Cũng cố y tế cơ sở, đến năm 2010, có 100% trạm y tế miền xuôi và 70%

trạm y tế miền núi có bác sỹ, 100% trạm y tế có nữ hộ sinh trung học, 100%

thôn bản có cán bộ y tế, tạo điều kiện thuận lợi về các mặt để mọi người, mọi

nhà đều được hưởng thụ các dịch vụ y tế, chủ động phòng ngừa, chữa bệnh

kịp thời. Thực hiện tốt việc khám chữa bệnh cho các đối tượng chính

sách…..” [40, tr. 50, 63].

Thực tiễn 20 năm đổi mới đã chứng kiến bước trưởng thành rất đáng tự

hào của sự nghiệp CS&BVSKND của ngành y tế Thanh Hoá. Trong nhiều

năm, Thanh Hoá luôn là một trong những đơn vị có thành tích cao trong lĩnh

vực này. Song bên cạnh đó, ngành y tế vẫn còn bộc lộ những tồn tại, hạn chế

cần phải khắc phục. Để thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ

113

XVI về công tác y tế giai đoạn (2006-2010) cũng như những năm tiếp theo

của sự nghiệp đổi mới, từng bước khắc phục những khó khăn, tiếp tục đưa sự

nghiệp phát triển y tế lên một tầm cao mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ

tỉnh, sự quản lý điều hành của UBND tỉnh mà trực tiếp thực hiện là ngành y

Thanh Hoá, cần tập trung vào một số vấn đề dưới đây:

Thứ nhất, tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng,

chính quyền đối với công tác y tế. Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng

đầu để đẩy mạnh công tác CS&BVSKND không chỉ trong cả nước nói chung

mà ở Thanh Hoá nói riêng.

Nhà nước cần tăng cường đầu tư ngân sách cho y tế, trước hết tập trung

cho YTDP, bệnh viện đa khoa huyện và nâng cấp các trạm y tế, tăng chỉ tiêu

đào tạo cử tuyển (theo vùng, miền) đối với các trường đại học y, dược. Chính

phủ và Quốc hội cần ban hành chính sách ưu đãi đối với cán bộ y tế công tác

ở cơ sở, đặc biệt là vùng miền núi, vùng nông thôn. Hạn chế tình trạng chảy

máu chất xám từ hệ công lập sang dân lập, từ nông thôn, miền núi về thành

thị.

UBND tỉnh cần có những hướng dẫn và quy định cần thiết cho việc thực

hiện đầy đủ các nghị quyết, chỉ thị của Đảng. Cần chủ động bố trí ngân sách

hàng năm của địa phương để thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ

CS&BVSKND trên địa bàn, nhất là cho các hệ bệnh viện tuyến tỉnh để từng

bước đảm đương tốt được nhiệm vụ khám chữa bệnh của tuyến tỉnh. Bên

cạnh đó cũng chú ý quan tâm đầu tư ngân sách cho y tế cơ sở. Có chính sách

hỗ trợ các xã đạt chuẩn quốc gia và bố trí ngân sách của địa phương hỗ trợ

các xã, phường phấn đấu đạt chuẩn hàng năm. Cần tăng thêm kinh phí bổ

sung cho các chương trình mục tiêu y tế quốc gia hoạt động để mở rộng diện

triển khai và duy trì kết quả. UBND tỉnh cần có các chính sách ưu tiên,

khuyến khích đầu tư vào các loại hình khám chữa bệnh ngoài công lập để

114

nâng cao năng lực phục vụ nhân dân. Tăng cường đầu tư cho lĩnh vực YTDP,

nhất là cơ sở vật chất, các thiết bị cho trung tâm YTDP tuyến huyện nhằm

thực hiện công tác phòng chống dịch ở cơ sở đi vào ổn định và tốt hơn.

Ban Tuyên giáo tỉnh ủy, các ban khác có liên quan và Đảng đoàn ngành y

tế giúp Thường vụ tỉnh ủy hướng dẫn và theo dõi, kiểm tra việc tổ chức thực

hiện những nghị quyết, chỉ thị đó.

Các cấp ủy Đảng và chính quyền căn cứ vào các nghị quyết, chỉ thị của

Trung ương và tình hình thực tiễn của địa phương, cần tổ chức nghiên cứu,

thảo luận, có liên hệ kiểm điểm, đề ra các chủ trương, biện pháp và có quyết

định cụ thể để thi hành nghị quyết, thường xuyên theo dõi, đôn đốc, kiểm tra

thực hiện. Các ngành, ngoài việc tổ chức thực hiện công tác bảo vệ sức khỏe

cán bộ, công nhân viên trong ngành, cần phải phối hợp chặt chẽ với ngành y

tế để góp phần vào việc phát triển sự nghiệp y tế theo đúng chức năng của

ngành mình. Các đoàn thể các cấp, cần làm tốt công tác giáo dục vận động

quần chúng thực hiện nếp sống văn minh, giữ gìn sức khoẻ và có trách nhiệm

giám sát việc thực hiện công tác bảo vệ sức khỏe của ngành y tế.

Ngành y tế có trách nhiệm xác định rõ các bước đi trong quá trình tổ chức

thực hiện. Chỉ đạo các đơn vị lập và thực hiện các dự án khả thi theo kế hoạch

đề ra. Trong quá trình triển khai thực hiện, hàng năm tổ chức rút kinh nghiệm

để điều chỉnh các mục tiêu, phương thức hoạt động cho phù hợp và đạt hiệu

quả.

Tăng cường đào tạo cán bộ quản lý các cấp về kiến thức tổ chức và quản

lý trong lĩnh vực y tế. Phân cấp quản lý rõ ràng cho các tuyến y tế, để các địa

phương phát huy tính chủ động, sáng tạo trong việc xây dựng và thực hiện kế

hoạch chăm sóc sức khoẻ theo nhu cầu thực tế, tránh chồng chéo trong việc

thực hiện các chương trình.

Tổ chức việc thực hiện tốt chủ trương tăng cường có thời hạn cán bộ y tế

115

có trình độ chuyên môn cho các huyện miền núi, vùng sâu còn thiếu cán bộ y

tế. Kết hợp quân-y trong chăm sóc sức khoẻ, nhất là ở những vùng có nhiều

khó khăn trong phòng chống dịch bệnh và khắc phục hậu quả thiên tai.

Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chế độ chính

sách của Nhà nước trong chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân. Mở rộng

việc thanh tra, kiểm tra các cơ sở hành nghề y dược tư nhân để kịp thời xử lý

những trường hợp vi phạm, tránh những hậu quả đáng tiếc xảy ra. Thực hiện

tốt quy chế dân chủ tại các cơ sở y tế. Xây dựng phong trào thi đua trong

ngành, đặc biệt là việc xây dựng các đơn vị, cá nhân điển hình tiên tiến.

Thứ hai, củng cố và từng bước hoàn thiện hệ thống tổ chức mạng lưới y tế

từ cấp tỉnh đến cấp cơ sở, từng bước nâng cao chất lượng khám chữa bệnh kể

cả về đầu tư, nhân lực và trang thiết bị y tế.

Hệ thống tổ chức mạng lưới y tế bao gồm: YTDP, khám chữa bệnh, sản

xuất cung ứng thuốc và vật tư y tế theo hướng tinh gọn và hiệu quả cao.

Tiếp tục cũng cố và phát triển thêm bệnh viện ở một số tuyến, nhất là ở

vùng sâu, vùng xa, giải quyết một bước tình trạng thiếu giường bệnh. Nâng

cấp bệnh viện huyện, tỉnh; phát triển các bệnh viện đa khoa khu vực (liên

huyện) ở các địa bàn xa trung tâm tỉnh. Nâng cao chất lượng chăm sóc sức

khoẻ ở tất cả các tuyến bằng các đầu tư nâng cấp hệ thống khám chữa bệnh

một cách đồng bộ, phù hợp với yêu cầu từng vùng và khả năng kinh tế xã hội.

Tập trung nguồn lực cho việc nâng cấp Bệnh viện Đa khoa tỉnh, Bệnh viện

Đa khoa khu vực Ngọc Lặc, Bệnh viện Nhi. Mở thêm một số chuyên khoa

của Bệnh viện Đa khoa tỉnh, Bệnh viện Phụ Sản…. Từng bước đầu tư xây

dựng Trung tâm YTDP từ tỉnh đến huyện, nâng cấp các bệnh viện trở thành

bệnh viện hạng nhất. Đầu tư xử lý chất thải, nước thải các bệnh viện.

Đầu tư xây dựng các bệnh viện đa khoa liên huyện để có điều kiện nâng

cấp cả về cơ sở, chuyên môn và trang thiết bị. Phân tuyến chuyên môn kỹ

116

thuật và có quy định chuyển tuyến chặt chẽ hơn để giảm bớt tình trạng quá tải

ở tuyến trên. Chuẩn hóa các phương tiện và kỹ thuật chẩn đoán và điều trị.

Xây dựng danh mục thuốc phù hợp với nhu cầu của bệnh viện, khuyến khích

sử dụng thuốc sản xuất trong tỉnh.

Nâng cao trình độ chuyên môn và y đức của cán bộ y tế, cải thiện chất

lượng khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế. Sử dụng công nghệ thông tin trong

quản lý bệnh viện. Tập trung triển khai thực hiện tốt quy chế bệnh viện, cải

cách thủ tục hành chính trong khám bệnh, chữa bệnh để tạo điều kiện thuận

lợi cho người bệnh.

Hoàn chỉnh quy hoạch, cũng cố và nâng cấp mạng lưới y tế cơ sở, có bác

sỹ làm việc ở tất cả các trạm y tế xã đồng bằng và trung du, phần lớn xã miền

núi. Tiêu chuẩn hóa tăng cường đào tạo cán bộ y tế, chú ý người dân tộc thiểu

số; phân bổ cán bộ theo từng vùng phù hợp với yêu cầu. Tiếp tục cũng cố và

phát triển mạng lưới y tế cơ sở nhằm đáp ứng cả về số lượng và từng bước

nâng cao chất lượng công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu. Phấn đấu đến năm

2010,100% số trạm y tế xã đồng bằng và 70% số trạm y tế xã ở vùng núi,

vùng sâu có bác sỹ, 100% trạm y tế có nữ hộ sinh, các trạm y tế đều có dược

tá phụ trách công tác dược và có cán bộ có trình độ YHCT. Phấn đấu 100%

thôn bản có nhân viên y tế có trình độ sơ học trở lên.

Cần tập trung nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ y tế, nhất là đội ngũ bác

sỹ quản lý các trạm y tế, trong đó thường xuyên có chương trình tập huấn

nâng cao trình độ chuyên môn, tổ chức cập nhật thông tin cho cán bộ y tế xã,

tăng cường đào tạo chuẩn hóa cán bộ cả về trình độ chuyên môn, năng lực tổ

chức quản lý và lý luận chính trị….Để đảm bảo cho mọi người dân được

chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ, hướng tới sự công bằng và hiệu quả trong cung

cấp, sử dụng các dịch vụ y tế, thời gian tới cần tăng cường đầu tư kinh phí

hơn nữa cho đào tạo bác sỹ theo địa chỉ, đào tạo lại, đào tạo mới bổ sung cho

117

cơ sở, nhất là đội ngũ cán bộ y tế thôn, bản. Tiếp tục bổ sung và thực hiện tốt

chính sách hỗ trợ đối với cán bộ y tế công tác tại miền núi, nhất là đội ngũ cán

bộ y tế thôn, bản, quan tâm đầu tư hoàn thiện cơ sở hạ tầng nhà trạm….Thực

hiện cử tuyển đối với cán bộ tại chỗ (không phải qua thi tuyển) để đào tạo bác

sỹ cho các vùng kinh tế đặc biệt khó khăn. Có kế hoạch đào tạo lại và bồi

dưỡng chuyên môn cho cán bộ y tế cơ sở. Có chính sách khuyến khích, động

viên cán bộ y tế công tác nghĩa vụ tại các vùng có nhiều khó khăn.

Từng bước nâng cao chất lượng toàn diện khám chữa bệnh kể cả về đầu

tư, nhân lực, trang thiết bị. Phấn đấu đưa Bệnh viện Đa khoa tỉnh trở thành

bệnh viện hạng nhất. Nâng cao hệ số cán bộ phục vụ trên giường bệnh ở các

bệnh viện tuyến tỉnh, tăng giường bệnh theo nhu cầu khám, chữa bệnh của

nhân dân. Nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh cho người dân.

Thứ ba, tiếp tục đẩy mạnh công tác YTDP và phòng, chống dịch bệnh,

không để xảy ra dịch bệnh, cũng cố hệ thống thông tin, giám sát báo cáo dịch

tễ.

Tăng cường giám sát và xử lý chất thải, bao gồm: chất thải công nghiệp,

chất thải bệnh viện, hóa chất bảo vệ thực vật, các chất gây ô nhiễm môi

trường tác động xấu đến sức khỏe. Đảm bảm đảm vệ sinh an toàn thực phẩm

và an toàn truyền máu.

Công tác phòng chống dịch phải được coi là trọng tâm công tác thường

xuyên của ngành y tế từ tỉnh xuống cơ sở. Tập trung vào chỉ đạo và huy động

nguồn lực, kiên quyết không để dịch lớn xảy ra. Khống chế tới mức thấp nhất

tỷ lệ mắc và chết của các bệnh tả, thương hàn, sốt xuất huyết, sốt rét, dịch

hạch, viêm gan B và viêm não Nhật Bản B, các bệnh lây truyền qua đường

tình dục…Duy trì kết quả thanh toán bệnh bại liệt, loại trừ uốn ván sơ sinh.

Hạn chế tốc độ lây nhiễm HIV/AIDS trong cộng đồng.

Tiếp tục thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia thanh toán một số

118

bệnh xã hội và dịch bệnh nguy hiểm.

Cũng cố hệ thống báo cáo, giám sát dịch tễ, hiện đại hóa hệ thống quản lý

số liệu để có thông tin kịp thời cho việc xử lý các vụ dịch. Lãnh đạo chính

quyền có trách nhiệm trực tiếp chỉ đạo cung cấp nguồn lực, huy động các ban

ngành, đoàn thể và nhân dân tham gia phòng chống dịch và các chương trình

như cung cấp nước sạch, vệ sinh môi trường…

Xây dựng đề án phòng chống, chủ động giảm nhẹ và khắc phục hậu quả

thiên tai, chuẩn bị các phương án đề phòng và khắc phục nhanh chóng hậu

quả của thảm họa, thiên tai. Tham gia tích cực trong việc phòng chống tai nạn

và thương tích, nhất là tai nạn giao thông, tai nạn lao động và bệnh nghề

nghiệp. Ưu tiên giám sát và xử lý các chất thải gây ô nhiễm môi trường, tác

động xấu đến sức khoẻ như chất thải bệnh viện, hóa chất trừ sâu…Tăng

cường quản lý chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm, phát triển đội ngũ thanh

tra và kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm ở tất cả các tuyến. Nghiên cứu và

chủ động giám sát tình hình ô nhiễm thực phẩm để đề phòng ngộ độc và các

bệnh tật gây ra do ăn uống.

Triển khai chương trình sức khoẻ sinh sản, làm mẹ an toàn, chăm sóc sản

khoa và các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình. Phấn đấu giảm nhanh tỷ suất chết

mẹ, tỷ lệ nạo phá thai và tỷ lệ phụ nữ mắc các bệnh phụ khoa. Thực hiện các

chương trình chăm sóc sức khoẻ trẻ em như: phòng chống suy dinh dưỡng,

sức khỏe vị thành niên, nha học đường, phòng chống tiêu chảy, nhiễm khuẩn

hô hấp cấp, giun sán….

Thứ tư, tăng cường khả năng sản xuất và cung ứng thuốc đáp ứng nhu cầu

khám chữa bệnh trong tỉnh, đẩy mạnh việc đầu tư, hịện đại hóa các trang thiết

bị y tế.

Tiếp tục triển khai “Chính sách quốc gia về thuốc”, đảm bảo tủ thuốc,

thuốc có chất lượng cho phòng chống dịch bệnh, khám chữa bệnh và chăm

119

sóc sức khỏe nhân dân. Thực hiện sử dụng thuốc an toàn, hợp lý, hiệu quả.

Nâng cao chất lượng thuốc trong tỉnh đạt tiêu chuẩn GMP. Thuốc sản xuất

bằng dược liệu địa phương đạt 30% giá trị sản lượng và 35% nhu cầu thuốc

trong tỉnh.

Đầu tư máy móc, thiết bị hiện đại, nâng cao trình độ và năng lực của cán

bộ để đảm bảo kiểm soát chất lượng thuốc từ khâu sản xuất đến lưu thông,

phân phối và sử dụng. Hiện đại hóa mạng lưới phân phối, chú trọng mạng

lưới thuốc cho cộng đồng ở nông thôn, miền núi và vùng sâu. Đầu tư trang

thiết bị hiện đại theo phân tuyến kỹ thuật của hệ thống phòng bệnh, khám

chữa bệnh, đảm bảo đến năm 2010, tất cả các cơ sở y tế được trang bị đầy đủ

thiết bị y tế theo danh mục chuẩn của Bộ Y tế và được cung cấp đầy đủ vật tư

và các dụng cụ thông thường.

Thứ năm, đẩy mạnh xã hội hóa công tác y tế, sử dụng có hiệu quả các

nguồn lực trong cung cấp các dịch vụ y tế.

Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết 90 của Chính phủ về

“Phương hướng và chủ trương xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn

hoá”. Đa dạng hóa các hoạt động khám chữa bệnh, bao gồm các cơ sở của

Nhà nước, y tế các ngành, cơ sở khám chữa bệnh có vốn đầu tư nước ngoài,

bán công và tư nhân. Thống nhất quản lý về chuyên môn và nghiệp vụ của

các cơ sở y tế tư nhân với các hoạt động của hệ thống y tế quốc gia. Đa dạng

hóa các loại hình chăm sóc sức khoẻ, tìm kiếm và khai thác các nguồn tài

chính cho y tế tư như BHYT tự nguyện, viện trợ nước ngoài…..

Tổ chức tốt việc khám chữa bệnh cho người nghèo, người có công, thực

hiện công bằng trong khám chữa bệnh. Cần cũng phát triển các cơ sở y tế

miền núi, vùng sâu, vùng xa (các TTYT, trạm y tế xã, phòng khám đa

khoa…) để đồng bào các dân tộc thiểu số miền núi (phần lớn là người nghèo)

có dịch vụ y tế gần hơn và được hưởng các dịch vụ y tế đó. Đưa công tác

120

BHYT tới các xã, các cụm xã, các phòng khám khu vực ở vùng sâu, vùng xa

để tạo điều kiện thuận lợi và bình đẳng cho bệnh nhân có thẻ BHYT. Dưới sự

lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng và chính quyền động viên khuyến

khích các hội từ thiện, hội Chữ thập đỏ, các tổ chức xã hội và nhân dân, các tổ

chức kinh tế đóng góp xây dựng quỹ bảo trợ giúp cho người nghèo được

khám chữa bệnh, gọi tắt là “Quỹ bảo trợ bệnh nhân nghèo” do Hội chữ thập

đỏ quản lý và bảo trợ, trên cơ sở đó mua thẻ BHYT cho người nghèo, hoặc hỗ

trợ ăn ở cho những bệnh nhân nghèo phải điều trị dài ngày phải chi trả phí

lớn. Từng bước thực hiện khám BHYT tại các trạm y tế xã cho các đối tượng

có thẻ ở vùng sâu, vùng xa, đảm bảo tính công bằng trong khám chữa bệnh.

Phát triển văn hoá, xây dựng nếp sống văn minh, từng bước xóa bỏ những

lối sống, tập quán có hại cho sức khoẻ. Tiếp tục cũng cố, phát triển năng lực

của Trung tâm truyền thông giáo dục sức khỏe cơ sở nhằm tuyên truyền, giáo

dục nâng cao kiến thức về y tế thường thức để nhân dân tự giác tham gia và

đóng góp vào việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho chính bản thân mình và

cộng đồng.

Sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong cung cấp dịch vụ y tế từ ngân

sách Nhà nước, đóng góp của nhân dân qua viện phí và BHYT. Việc đầu tư

cho công tác CS&BVSKND phải dựa vào nhiều nguồn lực khác nhau, bao

gồm: đầu tư của Nhà nước, đóng góp của cộng đồng và viện trợ quốc tế, trong

đó đầu tư của Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Thực hiện thu phí tất cả các dịch

vụ y tế tuyến huyện, tuyến tỉnh theo quy định của Nhà nước với mức quy định

chung và sử dụng theo Luật ngân sách. Nguồn thu từ BHYT đóng vai trò

ngày càng lớn trong ngân sách y tế và dần thay thế nguồn thu từ viện phí. Xây

dựng mệnh giá BHYT phù hợp với những người làm việc trong các công ty tư

nhân tham gia BHYT bắt buộc. Tiếp tục mở rộng các hình thức BHYT tự

nguyện khác. Đẩy mạnh thu viện phí và BHYT, mở rộng BHYT tự nguyện và

121

tăng cường quản lý thu, chi trong y tế theo quy định của pháp luật. Không để

xảy ra những tiêu cực, thất thoát trong cấp phát và sử dụng kinh phí sự nghiệp

y tế.

Thứ sáu, tăng cường nguồn nhân lực y tế đáp ứng yêu cầu về số lượng và

chất lượng, nghiên cứu và áp dụng khoa học công nghệ, thông tin y tế mới

vào công tác y tế.

Lao động y tế có đặc thù riêng biệt: Lao động y tế là lao động có trách

nhiệm trước sức khoẻ con người nói chung và tính mệnh của người bệnh nói

riêng; là lao động khẩn trương giành giật từng giây, từng phút trước tử thần

để cứu mạng người bệnh; là lao động diễn ra trong điều kiện không phù hợp

với quy luật sinh lý của con người, làm việc (trực) ban đêm và nghỉ ngơi

(nghỉ bù trực) ban ngày (thông thường người lao động nghỉ ngơi ban đêm và

lao động ban ngày); lao động trong môi trường không phù hợp với tâm lý con

người (phục vụ bệnh nhân AIDS, bệnh nhân phong…), tiếp xúc với bệnh

nhân trong trạng thái đau đớn, lo âu vì bệnh tật; là lao động tiếp xúc với môi

trường độc hại của hoá chất và chất thải bệnh viện; là lao động liên quan với

yếu tố nguy hiểm (mầm bệnh, trong đó có bệnh tối nguy hiểm như tả, HIV…)

luôn có nguy cơ lây lan cho bản thân người thầy thuốc; là lao động chịu trách

nhiệm nhất của dư luận xã hội và hành vi, thái độ không đúng của bệnh nhân

(tâm thần) và người thân (khi thân nhân của họ bị tử vong hoặc khi người

thầy thuốc không thoả mãn được nguyên vọng trên của họ….). Vì vậy, cần có

những chính sách hợp lý và đúng đắn để cải thiện đời sống, chăm lo sức khoẻ

cho cán bộ nhân viên ngành y tế.

Cần tiêu chuẩn hóa việc đào tạo các loại hình cán bộ cho từng tuyến. Tăng

cường đào tạo cán bộ y tế thôn, bản đáp ứng nhu cầu của từng địa phương.

Tập trung đào tạo bác sỹ chuyên khoa đầu ngành ở tuyến tỉnh: tăng cường đào

tạo sau đại học (tiến sỹ, thạc sỹ, chuyên khoa cấp I, chuyên khoa cấp II) cho

122

các tuyến, các hệ. Có chính sách và chế độ trợ giúp để tăng cường đào tạo

thạc sỹ, tiến sỹ, bác sỹ chuyên khoa I, chuyên khoa II cho tuyến tỉnh và tuyến

huyện. Cán bộ phụ trách chuyên môn các khoa, phòng, các đơn vị y tế tuyến

tỉnh phải có trình độ trên đại học.

Có chính sách ưu tiên cho đào tạo cán bộ y tế xã, vùng núi, vùng cao đáp

ứng được nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân từng vùng, miền. Thực hiện

tốt chủ trương tăng cường cán bộ chuyên môn y tế cho các huyện, xã vùng

sâu, vùng xa còn thiếu. Nâng cao trình độ chuyên môn, tăng cường kỷ luật lao

động và y đức đối với đội ngũ cán bộ y tế.

Phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý ngành từ tỉnh

đến cơ sở. Cũng cố hệ thống báo cáo thống kê, thông tin quản lý và cung cấp

các thông tin kịp thời với độ tin cậy cao cho công tác quản lý ở các cấp.

Thực hiện tốt những vấn đề nêu trên sẽ góp phần đẩy mạnh hơn nữa công

tác BV&CSSKND ở Thanh Hoá, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu

123

kinh tế, xã hội mà Đảng bộ tỉnh đã đề ra.

KẾT LUẬN

Thanh Hoá là tỉnh có truyền thống chăm sóc sức khoẻ nhân dân từ lâu đời.

Ngày nay, Thanh Hoá vẫn tiếp tục kế thừa, phát huy và phát triển sự nghiệp

thiêng liêng, cao quý đó.

Nhìn lại hơn 60 năm-một chặng đường dài, trải qua bao biến đổi của đất

nước, của xã hội và của chính bản thân mình. Bao nhiêu cán bộ y tế tỉnh

Thanh Hóa đã chủ động khắc phục vượt qua mọi khó khăn gian khổ để phục

vụ, xây dựng và trưởng thành, để ngày một hoàn thành xuất sắc hơn mọi

nhiệm vụ được giao. Đã có biết bao cán bộ y tế chẳng những chỉ gắng công,

đổ sức dốc hết tâm can, trí tuệ của người lương y-từ mẫu, mà bằng cả mồ hôi,

nước mắt và không ít trong số họ đã hy sinh một phần xương máu và hiến

dâng cả cuộc đời cho sự nghiệp cao cả vẻ vang này-sự nghiệp chăm sóc và

bảo vệ sức khỏe nhân dân, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp giải phóng dân

tộc, thống nhất đất nước. Bước vào thời kỳ đổi mới, hòa chung vào dòng chảy

đổi thay của quê hương, đất nước, đoàn quân áo trắng tỉnh Thanh Hóa vẫn

đang nối tiếp cha anh, giữ vững và phát huy những thành quả và truyền thống

của ngành đang cống hiến hết sức mình cho công cuộc đổi mới, cho sự tăng

trưởng kinh tế, ổn định chính trị và xã hội.

Từ khi bước vào công cuộc đổi mới đất nước đến nay, được sự quan tâm

của Đảng, Chính phủ, Bộ Y tế, sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, của UBND tỉnh

mà trực tiếp là ngành y tế, công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân ở Thanh Hoá

vẫn được giữ vững, hoàn thành và vượt mức hầu hết các chỉ tiêu kế hoạch

được giao. Thanh Hoá đã xây dựng được một hệ thống y tế tương đối hoàn

chỉnh, từ mạng lưới các bệnh viện, TTYT tuyến tỉnh cho đến hệ thống y tế cơ

sở rộng khắp xuống đến tận thôn bản, cùng với đội ngũ y, bác sỹ không

ngừng được bổ sung về số lượng và chất lượng. Nhờ việc sử dụng các nguồn

124

vốn đầu tư phát triển y tế có hiệu quả nên nhiều kỹ thuật tiên tiến đã được áp

dụng vào công tác khám chữa bệnh cũng như phòng chống các bệnh xã hội,

nhiều bệnh dịch nguy hiểm đã được khống chế và đẩy lùi. Thanh Hoá đã tăng

cường công tác đào tạo, nâng cao trình độ cho cán bộ quản lý, cán bộ chuyên

môn kỹ thuật, cán bộ chuyên khoa đầu ngành, cán bộ kế cận cũng như nghiên

cứu khoa học. Việc sản xuất, cung ứng đảm bảo thuốc và trang thiết bị y tế có

nhiều tiến bộ. Có đủ thuốc đảm bảo cho điều trị, phòng chống dịch và đề

phòng thảm họa. YHCT đã phát huy được tác dụng tích cực trong việc điều trị

các bệnh thông thường và nhiều bệnh mạn tính khác nhau với chi phí thấp,

phù hợp với những người nghèo và nhân dân vùng nông thôn, miền núi. Đặc

biệt là công tác xã hội hóa y tế đã thu hút được sự quan tâm, tham gia của cả

cộng đồng, nên đã đáp ứng tốt hơn nhu cầu khám và chữa bệnh ngày càng cao

và đa dạng của nhân dân trong tỉnh. Nhân dân ngày càng yên tâm khi đến với

các cơ sở y tế trong tỉnh để khám và chữa bệnh. Nhờ thực hiện các biện pháp

tích cực và chủ động, các chỉ tiêu tình trạng sức khoẻ của nhân dân được cải

thiện rõ rệt. Hiện nay, Thanh Hoá là một trong những tỉnh đứng đầu có nhiều

thành tích nổi bật về mặt CS&BVSKND trong cả nước.

Có được những thành tựu cơ bản và lâu dài như vậy, trước hết là do sự

lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Nhà nước với những chủ trương, biện pháp

tích cực nhằm đẩy mạnh sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân.

Đối với Thanh Hoá, đó còn là sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt của Đảng bộ,

chính quyền tỉnh đã quán triệt đầy đủ và vận dụng một cách sáng tạo các chủ

trương, chính sách của Đảng, Nhà nước vào điều kiện cụ thể của địa phương.

Đó còn là sự phối kết hợp của các ban ngành, đoàn thể trong tỉnh, sự tham gia

tích cực của cả cộng đồng hướng vào mục tiêu đem lại sự công bằng và đầy

đủ hơn trong việc hưởng thụ các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ. Nhờ đó, công

tác CS&BVSKND ở Thanh Hoá mới đạt được những thành tựu to lớn và

125

đáng tự hào đến như vậy.

Thành tựu y tế Thanh Hoá đạt được trong 20 năm đổi mới là thực tiễn

khách quan đầy tính thuyết phục, khẳng định tính đúng đắn về đường lối,

chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong lĩnh vực chăm sóc và bảo vệ sức

khỏe nhân dân. Nó là tiền đề để Đảng bộ và chính quyền tỉnh Thanh Hoá tiếp

tục lãnh đạo, chỉ đạo công tác y tế phát triển đúng định hướng xã hội chủ

nghĩa với mục tiêu mọi người phải được chăm sóc sức khoẻ khi còn khỏe.

Mặc dù vậy, trên thực tế vẫn còn những tồn tại, bất cập mà việc giải quyết

nó không hề dễ dàng. Khó khăn lớn nổi bật hiện nay của y tế Thanh Hoá đó là

vấn đề về nguồn vốn đầu tư và nguồn nhân lực để đáp ứng tốt hơn nữa sự

nghiệp CS&BVSKND trong tỉnh. Công tác YTDP và phòng chống các bệnh

xã hội còn gặp nhiều khó khăn. Dịch bệnh vẫn diễn biến phức tạp, có thể

bùng phát bất cứ lúc nào. Việc triển khai thực hiện chính sách xã hội hoá y tế

vẫn gặp nhiều khó khăn. Việc thực hiện công bằng trong khám chữa bệnh

giữa nông thôn và thành thị, giữa người giàu và người nghèo vẫn chưa đạt

được kết quả mong muốn. Hệ thống cung ứng thuốc cũng còn nhiều hạn chế

chưa đáp ứng kịp thời các nhu cầu của nhân dân, đặc biệt là đồng bào các dân

tộc ở vùng sâu, vùng xa. Các thói quen có hại cho sức khoẻ còn phổ biến

không chỉ tại những nơi thiếu thông tin như vùng đồng bào các dân tộc mà

còn ở cả những địa bàn kinh tế phát triển.

Trong hai mươi năm đổi mới và phát triển, y tế Thanh Hoá đã thu được

những thành tựu hết sức to lớn. Thắng lợi đó không chỉ có ý nghĩa trên lĩnh

vực BV&CSSKND trong tỉnh mà còn có ý nghĩa quan trọng góp phần vào sự

phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh. Trong quá trình đó, không thể tránh khỏi

những thiếu sót và sai lầm. Những vấn đề đó, chính là bài học kinh nghiệm

quý báu cho Đảng bộ, chính quyền tỉnh Thanh Hoá trong quá trình phát triển

sự nghiệp y tế của tỉnh nhà hiện tại và trong tương lai. Khó khăn phức tạp còn

126

nhiều, song xu thế ổn định và phát triển của ngành đã được khẳng định. Với

truyền thống đoàn kết, tinh thần sáng tạo, với lương tâm nghề nghiệp, cùng

với những tiền đề vật chất đã tạo dựng được, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ

tỉnh Thanh Hoá, bước vào những năm tiếp theo chắc chắn y tế Thanh Hoá sẽ

tạo ra những bước chuyển biến mới trong sự nghiệp bảo vệ và chăm sóc sức

khoẻ cho nhân dân trong tỉnh.

Lúc này hơn bao giờ hết cán bộ nhân viên y tế tỉnh Thanh Hóa càng khắc

sâu hơn nữa lời dạy của Bác Hồ :“….phải thương yêu, săn sóc người bệnh

như anh em ruột thịt của mình, coi họ đau đớn cũng như mình đau đớn.

Lương y phải như từ mẫu”, nhanh chóng khắc phục những tồn tại thiếu sót,

tăng cường đoàn kết, phối hợp với các ngành, vận động cả cộng đồng hợp tác

chung lòng, tập trung sức lực và trí tuệ, vượt qua mọi khó khăn, thử thách đưa

công tác CS&BVSKND lên một tầm cao mới, tương xứng với đòi hỏi của quá

trình đổi mới, thực hiện mục tiêu: “Sức khỏe ngày càng tăng, bệnh tật ngày

càng giảm, tuổi thọ ngày càng cao và giống nòi ngày càng tốt” cho cán bộ,

chiến sỹ và đồng bào các dân tộc tỉnh nhà, góp phần tích cực vào việc đẩy

127

mạnh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa quê hương, đất nước.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Bí thư Trung ương Đảng (1995), Chỉ thị số 52-CT/TU về lãnh đạo

công tác phòng chống AIDS, Hà Nội.

2. Ban chỉ đạo phòng chống sốt rét Thanh Hoá (2006), Báo cáo tổng kết

công tác phòng chống sốt rét 2001-2005, triển khai kế hoạch 2006-2010,

Thanh Hoá.

3. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Thanh Hoá (2006), Tài liệu nghiệp vụ công tác

tuyên giáo (tập 1)-Công tác khoa giáo, Nxb Thanh Hoá.

4. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy (1991), Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt

Nam tỉnh Thanh Hóa (Sơ thảo), tập 1 (1930-1945).

5. BCH Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa (2005), Những sự kiện lịch sử Đảng bộ

tỉnh Thanh Hóa (1975-2000), Nxb Thanh Hoá.

6. BCHTW Đảng (1993), Nghị quyết Hội Nghị lần thứ 4 BCHTW Đảng

(khoá VII) về những vấn đề cấp bách của sự nghiệp CS&BVSKND, Hà

Nội.

7. BCHTW Đảng (2002), Chỉ thị số 06-CT/TW của Ban Bí thư về cũng cố

và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở, Hà Nội.

8. BCHTW Đảng (2005), Nghị quyết số 46-NQ/TW của Bộ Chính trị về

công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình

mới, Hà Nội.

9. BCHTW Đảng (2005), Nghị quyết số 47-NQ/TW của Bộ Chính trị về tiếp

tục thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình, Hà Nội.

10. BCHTW Đảng (2005), Chỉ thị số 54-CT/TW của Ban Bí thư về tăng

cường lãnh đạo công tác phòng, chống HIV/AIDS trong tình hình mới, Hà

Nội.

11. Bộ Y Tế (1996), Chỉ thị số 02/BYT-CT của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc

128

tăng cường công tác trật tự vệ sinh an toàn thực phẩm, Hà Nội.

12. Bộ Y tế (1998), Chỉ thị số 04/1998/CT-BYT của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc

tăng cường sử dụng thuốc hợp lý, an toàn, tiết kiệm tại các cơ sở khám

chữa bệnh, Hà nội.

13. Bộ Y tế (1997), Chỉ thị số 06/BYT-CT của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc tăng

cường công tác quản lý, sử dụng vắc xin, sinh phẩm miễn dịch, Hà nội.

14. Bộ Y tế (1997), Chỉ thị số 10/BYT-CT của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc tăng

cường công tác phòng chống nhiễm HIV/AIDS, Hà nội.

15. Bộ Y tế (2002), Quyết định số 370/2002/QĐ-BYT của Bộ trưởng Bộ Y tế

về việc ban hành “Chuẩn quốc gia về y tế xã giai đoạn 2001-2010”, Hà

nội.

16. Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh Hóa (2002), Những chặng đường phát

triển của Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh Hóa (1899-2002), Nxb VHTT,

Hà Nội.

17. Chính phủ (2005), Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP về đẩy mạnh xã hội hoá

các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá và thể dục thể thao, Hà nội.

18. Chính phủ (1994), Nghị định số 06/CP của Chính phủ về cụ thể hoá một

số điều trong pháp lệnh hành nghề y, dược tư nhân, Hà nội.

19. Chính phủ (2002), Quyết định số 108/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính

phủ về việc phê duyệt Chiến lược phát triển ngành Dược giai đoạn đến

2010, Hà nội.

20. Chính phủ (2003), Chỉ thị số 11/2003/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ

về việc tăng cường công tác phòng, chống dịch viêm đường hô hấp cấp

do Virut (SARS), Hà nội.

21. Chính phủ (2004), Quyết định số 182/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính

phủ về việc tính thời gian công tác để hưởng chế độ bảo hiểm xã hội đối

129

với cán bộ y tế xã, phường, thị trấn, Hà nội.

22. Chính phủ (2003), Quyết định số 222/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính

phủ về việc phê duyệt Chính sách quốc gia về Y Dược cổ truyền đến năm

2020, Hà nội.

23. Chính phủ (2004), Quyết định số 36/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính

phủ về việc phê duyệt Chiến lược quốc gia phòng, chống HIV/AIDS ở Việt

Nam đến năm 2020 và tầm nhìn 2020, Hà nội.

24. Chính phủ (1996), Nghị quyết số 37/CP của Chính phủ về định hướng

chiến lược CS&BVSKND trong thời gian 1996-2000 và Chính sách quốc

gia về thuốc của Việt Nam, Hà nội.

25. Chính phủ (1994), Quyết định số 58/TTg của Thủ tướng Chính phủ quy

định một số vấn đề về tổ chức và chế độ chính sách đối với y tế cơ sở, Hà

nội.

26. Chính phủ (1997), Nghị quyết số 90/CP của Chính phủ về phương hướng

và chủ trương xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá, Hà nội.

27. Phan Huy Chúc (Chủ biên) (1996), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa, tập

2 (1954-1975), Nxb CTQG, Hà Nội.

28. Cục Thống kê Thanh Hoá (2002), Niên giám thống kê (2000-2001).

29. Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa (1976), Nghị quyết của Ban Thường vụ Tỉnh ủy

về công tác y tế, Thanh Hoá.

30. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VI, Nxb Sự Thật, Hà Nội.

31. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VII, Nxb CTQG, Hà Nội.

32. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VIII, Nxb CTQG, Hà Nội.

33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

130

lần thứ IX, Nxb CTQG, Hà Nội.

34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ X, Nxb CTQG, Hà Nội.

35. ĐCSVN, Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa (1983), Văn kiện Đại hội Đại biểu

Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XI, Nxb Thanh Hóa.

36. ĐCSVN, Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa (1986), Văn kiện Đại hội Đại biểu

Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XII, Nxb Thanh Hóa.

37. ĐCSVN, Tỉnh ủy Thanh Hóa (1991), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ

tỉnh lần thứ XIII, Nxb Thanh Hóa.

38. ĐCSVN, Tỉnh ủy Thanh Hóa (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ

tỉnh lần thứ XIV, Nxb Thanh Hóa.

39. ĐCSVN, Tỉnh ủy Thanh Hóa (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ

tỉnh lần thứ XV, Nxb Thanh Hóa.

40. ĐCSVN, Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu

Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, Nxb Thanh Hóa.

41. HĐND,UBND tỉnh Thanh Hoá (1992), Quy định số 1013 VX/UBTH tạm

thời về vệ sinh phòng bệnh, Thanh Hoá.

42. HĐND,UBND tỉnh Thanh Hoá (1992), Quyết định số 1059 VX/UBTH

của UBND tỉnh Thanh Hoá về việc thành lập Ban chỉ đạo Chương trình

phòng chống bệnh bướu cổ, Thanh Hoá.

43. HĐND,UBND tỉnh Thanh Hoá (1992), Quyết định số 1138 VX/UBTH

của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hoá về việc BHYT, Thanh Hoá.

44. HĐND,UBND tỉnh Thanh Hoá (1992), Quyết định số 1387 TC/UBTH

của UBND tỉnh Thanh Hoá về việc thành lập BHYT Thanh Hoá, Thanh

Hoá.

45. HĐND,UBND tỉnh Thanh Hoá (1991), Chỉ thị số 374 VX/UBTH về một

131

số biện pháp khẩn cấp trong công tác phòng chống dịch, Thanh Hoá.

46. HĐND,UBND Tỉnh Thanh Hoá (1991), Quyết định số 711 VX/UBTH của

UBND tỉnh Thanh Hoá về việc thành lập Ban chỉ đạo quản lý sản xuất

lưu thông thuốc chữa bệnh, Thanh Hoá.

47. HĐND,UBND tỉnh Thanh Hoá (1993), Quyết định số 750 VX/UBTH của

Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hoá về việc thành lập Ban chỉ đạo phòng

chống SIDA, Thanh Hoá.

48. Chu Viết Luân (Chủ biên) (2003), Thanh Hóa thế và lực trong thế kỷ XXI,

Nxb CTQG, Hà Nội.

49. Sở VHTT Thanh Hóa (2000), Đảng bộ Thanh Hóa từ Đại hội đến Đại

hội, Nxb Thanh Hóa.

50. Sở Y tế Thanh Hóa (1998), Lịch sử Bệnh viện Y học Cổ truyền Dân tộc

Thanh Hóa (1967-1997), Bệnh viện YHCTDT Thanh Hóa.

51. Sở Y tế Thanh Hoá (2005), Ngành Y tế Thanh Hoá: 60 năm xây dựng và

trưởng thành (1945-2005), Nxb Thanh Hoá.

52. Sở Y Tế Thanh Hoá, (1997), Báo cáo thực trạng mạng lưới y tế cơ sở tỉnh

Thanh Hoá, Thanh Hoá.

53. Sở Y Tế Thanh Hoá, (1996), Báo cáo tổng kết công tác y tế năm 1996 và

định hướng công tác năm 1997, Thanh Hoá.

54. Sở Y Tế Thanh Hoá (1996), Báo cáo số 06/YT-QLD về hoạt động công

tác dược ngành y tế năm 1996, Thanh Hoá.

55. Sở Y Tế Thanh Hoá (1996), Công văn số 155/YTCS về việc tăng cường

chỉ đạo toàn diện mạng lưới y tế cơ sở, Thanh Hoá.

56. Sở Y Tế Thanh Hoá (1996), Báo cáo số 156/YTCS về thực trạng và

những giải pháp chủ yếu để không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động

y tế xã, phường, thị trấn, Thanh Hoá.

57. Sở Y Tế Thanh Hoá (1998), Quy định số 232/TTr-YT về việc tổ chức tiếp

132

dân trong ngành y tế, Thanh Hoá.

58. Sở Y Tế Thanh Hoá (1996), Báo cáo số 321/YT-BC về thực trạng hành

nghề y dược tư nhân và những yêu cầu trong công tác quản lý, Thanh

Hoá.

59. Sở Y Tế Thanh Hoá (2003), Công văn số 370/YT-TC về việc quy hoạch,

đào tào, bồi dưỡng cán bộ, công chức ngành y tế, Thanh Hoá.

60. Sở Y Tế Thanh Hoá (2006), Quyết định số 379/QĐ-SYT về chức năng,

nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của bệnh viện đa khoa huyện, thị xã,

thành phố, Thanh Hoá.

61. Sở Y Tế Thanh Hoá (2006), Công văn số 399/SYT-QLD về việc chấn

chỉnh công tác quản lý thuốc tại các cơ sở y tế, Thanh Hoá.

62. Sở Y Tế Thanh Hoá (1996), Báo cáo số 454/TC-YT về tình hình tổ chức

và hoạt động của mạng lưới y tế cơ sở trong 3 năm 1993-1995, Thanh

Hoá.

63. Sở Y Tế Thanh Hoá (2003), Công văn số 493/YT-QLD về việc chấn chỉnh

việc cung ứng, quản lý, sử dụng thuốc tại bệnh viện, Thanh Hoá.

64. Sở Y Tế Thanh Hoá (1999), Báo cáo số 602/YT-BC về tổng kết 6 năm

thực hiện Pháp lệnh hành nghề y dược tư nhân, Thanh Hoá.

65. Sở Y Tế Thanh Hoá (1998), Báo cáo số 714/KH-YT về tổng quát tình

hình thực hiện kế hoạch năm 1998 và định hướng kế hoạch năm 1999,

Thanh Hoá.

66. Sở Y Tế Thanh Hoá (1998), Báo cáo số 82/98/YT-NV về hoạt động khám

chữa bệnh năm 1997 và triển khai kế hoạch năm 1998, Thanh Hoá.

67. Sở Y tế Thanh Hoá (2006), Báo cáo tổng kết công tác y tế năm 2005,

phương hướng, nhiệm vụ bảo vệ chăm sóc sức khoẻ nhân dân năm 2006

133

ngành y tế Thanh Hoá, Thanh Hoá.

68. Sở Y Tế Thanh Hoá (2001), Đề án một số vấn đề về thực trạng và giải

pháp khai thác và quản lý sử dụng các nguồn thực hiện xã hội hoá hoạt

động sự nghiệp y tế tại Thanh Hoá, Thanh Hoá.

69. Sở Y Tế Thanh Hoá (2005), Kế hoạch sự nghiệp y tế Thanh Hoá năm

2006 và giai đoạn 2006-2010, Thanh Hoá.

70. Sở Y Tế Thanh Hoá, Trạm Da liễu (1996), Báo cáo hoạt động phòng

chống bệnh Phong của tỉnh Thanh Hoá từ 1983-1995 và phương hướng

nhiệm vụ năm 1996-2000, Thanh Hoá.

71. Sở Y Tế Thanh Hoá, Trạm VSPD (1995), Báo cáo số 554/PDTH về kết

quả vận động VSPD năm 1995, phương hướng nhiệm vụ công tác VSPD

năm 1996, Thanh Hoá.

72. Sở Y Tế Thanh Hoá, Trung tâm PCB Da liễu (2005), Báo cáo số

23/DLTH về công tác phòng chống bệnh Phong tại Thanh Hoá từ năm

1998 đến nay, Thanh Hoá.

73. Sở Y Tế Thanh Hoá, Trung tâm YTDP (2005), Báo cáo công tác YTDP

năm 2005 và kế hoạch công tác YTDP năm 2006, Thanh Hoá.

74. Sở Y Tế Thanh Hoá, Trung tâm YTDP (2005), Báo cáo công tác YTDP 5

năm (2001-2005), Thanh Hoá.

75. Sở Y Tế Thanh Hoá (1995), Báo cáo về tình hình công tác y tế năm 1995,

phương hướng nhiệm vụ trọng tâm năm 1996, Thanh Hoá.

76. Sở Y tế Thanh Hoá (2006), Kế hoạch số 753/KH-SYT hành động thực

hiện Chỉ thị 54-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng “Về tăng cường

lãnh đạo công tác phòng chống HIV/AIDS trong tình hình mới”, Thanh

Hoá.

77. Tỉnh ủy Thanh Hóa (1980), Năm mươi năm hoạt động của Đảng bộ Đảng

134

Cộng sản Việt Nam tỉnh Thanh Hóa (1930-1980), Nxb Thanh Hóa.

78. Tỉnh ủy Thanh Hóa (2001), Chỉ thị số 02-CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh

ủy về tăng cường sự lãnh đạo đối với công tác phòng, chống các tệ nạn

ma túy, mại dâm và HIV/AIDS, Thanh Hoá.

79. Tỉnh ủy Thanh Hóa (2006), Hướng dẫn số 07/HD/TG về kế hoạch triển

khai thực hiện Chỉ thị 54-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa

IX) “Về tăng cường lãnh đạo công tác phòng chống HIV/AIDS trong tình

hình mới”, Thanh Hoá.

80. Tỉnh ủy Thanh Hoá, Ban Tuyên giáo (2004), Báo cáo số17-BC/TG về

tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị 52-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương

Đảng (khóa VII) “Về lãnh đạo công tác phòng chống AIDS”, Thanh Hoá.

81. Tỉnh ủy Thanh Hoá, Ban Tuyên giáo (2006), Báo cáo số 43-BC/TG về

tình hình thực hiện Chỉ thị 06-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng

và Nghị quyết 46-NQ/TW của Bộ chính trị, Thanh Hoá.

82. Tỉnh ủy-HĐND-UBND tỉnh Thanh Hóa (2000), Địa chí Thanh Hóa, tập 1

(Địa lý và Lịch sử), Nxb VHTT, Hà Nội.

83. Tỉnh ủy-HĐND-UBND tỉnh Thanh Hóa (2004), Địa chí Thanh Hóa, tập 2

(Văn hóa-xã hội), Nxb KHXH, Hà Nội.

84. UBDS-KHHGĐ (1994), Báo cáo số 176/UBDS về tóm tắt tình hình thực

hiện kế hoạch 4 năm 1991-1994 về DS-KHHGĐ, kế hoạch năm 1995 và

định hướng 1996-2000, Thanh Hoá.

85. UBND tỉnh Thanh Hóa (2004), Quyết định số 3776/QĐ-CT của Chủ tịch

UBND tỉnh về việc phê duyệt “Chương trình hành động thực hiện chiến

lược quốc gia phòng, chống HIV/AIDS ở Việt Nam đến năm 2010 và tầm

nhìn 2020” tại Thanh Hóa, Thanh Hoá.

86. UBND tỉnh Thanh Hoá (1998), Quyết định số 1236/1998/QĐ/UB/TC của

Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hoá về việc thành lập Ban điều hành mục

135

tiêu phòng, chống suy dinh dưỡng trẻ em, Thanh Hoá.

87. UBND tỉnh Thanh Hoá (1994), Thông báo số 135 VX/UBND tỉnh Thanh

Hoá về việc quản lý kinh phí y tế, Thanh Hoá.

88. UBND tỉnh Thanh Hoá (1997), Quyết định số 1356 QĐ TC/UBND của

Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hoá về việc thành lập Ban chỉ đạo phòng

chống bệnh sốt xuất huyết, Thanh Hoá.

89. UBND tỉnh Thanh Hoá (1993), Quyết định số 1729/VX/UBTH của Chủ

tịch UBND tỉnh Thanh Hoá về những mục tiêu chủ yếu và những giải

pháp nhằm phát triển sự nghiệp y tế 2 năm 1994-1995 và đến năm 2000,

Thanh Hoá.

90. UBND tỉnh Thanh Hoá (1996), Công văn số 1758 CV-VX/UBND tỉnh

Thanh Hoá về việc xây dựng các trạm y tế, Thanh Hoá.

91. UBND tỉnh Thanh Hoá (1996), Quyết định số 1838 TC/UBND tỉnh Thanh

Hoá của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hoá về việc thành lập Ban chỉ đạo

về tăng cường công tác quản lý hành nghề y, dược tư nhân, Thanh Hoá.

92. UBND tỉnh Thanh Hoá (1996), Chỉ thị số 19 CT VX/UBND của Chủ tịch

UBND tỉnh Thanh Hoá về việc tăng cường thanh tra, kiểm tra công tác

hành nghề y dược tư nhân, Thanh Hoá.

93. UBND tỉnh Thanh Hoá (1999), Chỉ thị số 24 CT/UB-VX của Chủ tịch

UBND tỉnh Thanh Hoá về việc tăng cường công tác đảm bảo chất lượng

an toàn vệ sinh thực phẩm, Thanh Hoá.

94. UBND tỉnh Thanh Hoá (1995), Quyết định số 3123 QĐ/UBND của Chủ

tịch UBND tỉnh Thanh Hoá về quy định, tổ chức, hoạt động và chế độ

chính sách đối với cán bộ y tế xã, phường, thị trấn, Thanh Hoá.

95. UBND tỉnh Thanh Hoá (1995), Quyết định số 3220 VX/UBND tỉnh Thanh

Hoá của UBND tỉnh Thanh Hoá về việc thu một phần viện phí, Thanh

136

Hoá.

96. UBND tỉnh Thanh Hoá (1999), Chỉ thị số 33/1999/CT-UB của Chủ tịch

UBND tỉnh Thanh Hoá về việc đẩy mạnh công tác y dược học cổ truyền,

Thanh Hoá.

97. UBND tỉnh Thanh Hoá (1994), Quyết định số 37 VX/UBND của UBND

tỉnh Thanh Hoá về những nội dung cơ bản đề án dân số kế hoạch hoá gia

đình đến năm 2000, Thanh Hoá.

98. UBND tỉnh Thanh Hoá (1999), Quyết định số 900/1999/QĐ-UB của Chủ

tịch UBND tỉnh Thanh Hoá về việc thành lập Trung tâm Truyền thông

giáo dục sức khoẻ, Thanh Hoá.

99. UBND tỉnh Thanh Hoá (1996), Quyết định số 910 TC/UBND của Chủ

tịch UBND tỉnh Thanh Hoá về việc ban hành quy định tạm thời nhiệm vụ,

tổ chức hoạt động, chế độ chính sách đối với y tế chòm, bản, thôn xóm và

nghiệp vụ phí, hành chính phí của trạm y tế xã, phường, thị trấn, Thanh

137

Hoá.

PHỤ LỤC

Phụ lục 1:

Cơ sở y tế, giƣờng bệnh và cán bộ y tế ở Thanh Hoá (1995-2000)

1995

1996

1997

1998

1999

2000

Nhà nước 84

Dân lập 625

Nhà nước 74

Dân lập 626

Nhà nước 69

Dân lập 626

Nhà nước 695

Dân lập -

Nhà nước 695

Dân lập -

Nhà nước 696

Dân lập -

29 54

- -

31 42

- -

32 -

- -

32 36

- -

32 33

- -

32 33

- -

1

-

1

-

-

-

1

-

-

-

1

-

-

-

-

625

626

626

626

-

630

-

630

-

3.631 5.250 4.270 4.270 4.400 3.560 7.540

-

6.880

-

7.540

-

3.400 81

- 3.364 756 -

- 3.700 540 -

- 3.780 480 -

- -

3.730 -

- -

4.390 -

- -

150

-

150

-

150

-

150

-

-

-

120

-

- 5.250

- 4.762

-

- 3.130

-

3.150

-

3.150

-

2.950 1.814 3.461 1.987 5.474

- 5.549

-

5.300

-

6.899

-

753

72

852

100

958

- - 1.072

- -

1.137

- -

1.277

- -

1.485 1.613 1.527 1.618 3.159

- 3.262

-

2.936

-

4.471

-

-

-

-

712

129 1.082

269 1.357

- 1.215

1.227

2.187

506

-

509

-

517

-

510

-

424

-

1.013

-

-

-

-

-

6

-

6

187

181

334

-

334

-

334

-

334

-

147

-

252

-

94 78

- -

95 80

- -

96 74

- -

96 74

- -

90 -

- -

580 -

- -

Số cơ sở y tế Bệnh viện Phòng khám ĐK khu vực Trạm điều dưỡng Trạm y tế xã, phường Số giƣờng bệnh Bệnh viện Phòng khám ĐK khu vực Trạm điều dưỡng Trạm y tế xã, phường Số cán bộ y tế (ngƣời) Ngành y Bác sĩ và trên đại học Y sĩ, kỹ thuật viên và khác Y tá, hộ lý và CB y tế khác Ngành dược Dược sĩ đại học Dược sĩ trung cấp Dược tá Trình độ khác

Số liệu lưu tại Sở Y tế Thanh Hoá

138

Phụ lục 2:

Một số thành tựu bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân (2001-2005) của ngành y tế Thanh Hoá Đơn vị tính

Nội dung

2005

2001

Cơ sở khám chữa bệnh

Cơ sở

34

36

Giường bệnh Giường bệnh/1 vạn dân Bác sỹ/1 vạn dân

Giường GB/1 vạn dân BS/1 vạn dân

4.440 12,4 3,31

4.620 12,48 4,1

Tăng, giảm so với năm 2001 Tăng 2 cơ sở (BV Hợp Lực+BV Mắt) Tăng 180 giường Không tăng Tăng gần 0,8 BS/1 vạn dân Tăng gần 20% Tăng 70% Tăng 63%

55,7 254 68.000

36,5 148,6 41.550

% Tỷ đồng Đồng

Tăng hơn gấp đôi Giảm 8,7%

37,4 31,1

17,8 39,8

Tỷ đồng %

Giảm 3%

31

34

%

98,6

98,8

ổn định

Người Bệnh nhân Bệnh nhân

7.734 3.514 2.196

3.390 3.825 2.498

Giảm 57% Tăng 8% Tăng 13%

Bệnh nhân

331

326

ổn định

Bệnh nhân

7

3

ổn định

Xã Tỷ đồng

0 15

248 77

Tăng 5 lần

Tỷ đồng

95

360

Tăng gần 4 lần

Đồng Cơ sở

38.000

100.000 316

Tăng 2,63 lần

Tỷ lệ Trạm y tế có bác sỹ Ngân sách chi cho sự nghiệp y tế Bình quân NS chi cho y tế/1 người dân/năm Vốn đầu tư XDCB Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng Tỷ lệ trẻ em dưới 1 tuổi bị tử vong Tỷ lệ trẻ em dưới 1 tuổi TC đầy đủ 6 loại vắc xin Số người mắc sốt rét Quản lý và điều trị bệnh nhân lao + Trong đó bệnh nhân BK+mới phát hiện Quản lý và điều trị bệnh nhân phong + Trong đó bệnh nhân BK+mới phát hiện Số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế SXN thuốc tại CTCP Dược- VTYT Doanh thu tiêu thụ tại CTCP Dược-VTYT Bình quân tiền thuốc/1 người/năm Các cơ sở KCB tư nhân

Số liệu lưu tại Sở Y tế Thanh Hoá

139

Phụ lục 3:

Bảng thống kê bệnh viện tuyến tỉnh,TTYT huyện, thị, thành phốThanhHoá năm 2004

TT Tên trung tâm y tế

Số giƣờng bệnh

Khoa phòng

Cán bộ

ĐT nội trú

Số ca phẫu thuật

BV tuyến tỉnh BV Đa khoa tỉnh BVĐK KV Ngọc Lặc BV ĐD và PHCN BV Lao và bệnh Phổi BV Phụ sản BV Tâm thần BV Y học dân tộc BV Mắt TTYT tuyến huyện TTYT Bá Thước TTYT Bỉm Sơn TTYT Cẩm Thuỷ TTYT Đông Sơn TTYT Hà Trung TTYT Hậu Lộc TTYT tế Hoằng Hoá TTYT Lang Chánh TTYT Mường Lát

1 2 3 4 5 6 7 8 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 TTYT Nga Sơn 11 TTYT Như Thanh 12 TTYT Nông Cống 13 TTYT Quan Hoá 14 TTYT Quan Sơn 15 TTYT Quảng Xương 16 TTYT Sầm Sơn 17 TTYT Thạch Thành 18 TTYTTP Thanh Hoá 19 TTYT Thiệu Hoá 20 TTYT Thọ Xuân 21 TTYT Thường Xuân 22 TTYT Tĩnh Gia 23 TTYT Triệu Sơn 24 TTYT Vĩnh Lộc 25 TTYT Yên Định 26 TTYT Như Xuân

620 200 120 200 220 200 150 100 80 100 80 120 120 160 80 50 130 70 120 50 50 150 60 130 140 100 180 90 150 130 100 130 80

38 16 8 16 20 16 11 4 12 12 11 12 15 15 17 9 8 16 11 10 16 10 14 15 14 13 11 15 13 14 10

4.946 2.268 2.768 4.647 513 288 400 517 476 457 699 232 233 530 225 905 108 156 820 300 695 1.017 366 400 300 980 435 499 441 177

Ngày ĐT trung bình 27,5 23 9 7 5,8 7,5 7 8,2 8,26 7,7 8,7 7 7,8 7,2 6,7 7 7,1 6 6,5 7,5 7,5 8 6,8 7 6,5 7,7 8,3 8,3

677 153 50 180 239 190 134 29 110 101 111 84 126 133 150 80 56 138 86 130 73 51 140 87 146 136 102 158 113 143 123 112 136 118

27.690 10.102 1.300 3.666 18.096 3.374 5.078 4.522 4.547 4.514 5.605 5.520 7.334 2.426 2.457 5.994 3.832 5.872 4.962 2.560 8.289 3.500 5.936 6.236 4.888 9.500 4.000 6.600 6.000 4.700 5.659 5.241

140

Số liệu lưu tại Sở Y tế Thanh Hoá

141

Phụ lục 4:

Tình hình thực hiện xã chuẩn quốc gia và kiểm tra bệnh viện năm 2005 ở Thanh Hóa

TT

Tên huyện

2002 2003 2004 2005 Tổng

TS xã

Kiểm tra bệnh viện 2005

Khá Khá Xuất sắc Khá Khá

Khá

4 3 1 2 2 1 3 4 2 3 7 2 1 1 3 1 1

8 12 8 6 4 2 3 8 8 6 10 6 4 1 2 2 1 1 2 3 2 2 3 1 1

2 4 5 8 3 8 14 9 6 4 5 4 5 5 2 3 4 4 3 1 1

14 19 14 16 6 6 14 26 19 15 21 14 5 2 9 8 7 3 5 3 6 6 6 2 1 1

20 36 33 31 27 16 27 41 29 41 49 25 18 11 20 22 17 7 17 34 23 28 18 5 12 18 8

% xã ĐC 70.0 Xuất sắc TD 52.8 Xuất sắc TD 42.4 Xuất sắc TD 51.6 Xuất sắc TD 22.2 37.5 51.9 63.4 65.5 36.6 Xuất sắc TD 42.9 56.0 Xuất sắc TD 27.8 18.2 45.0 36.4 41.2 42.9 29.4 8.8 26.1 21.4 33.3 40.0 8.3 5.6

Khá Khá Khá Khá Khá Khá Khá Khá Khá Khá Khá Khá Khá Khá Trung bình Xuất sắc TD Xuất sắc TD

1 Đông Sơn 2 Triệu Sơn 3 Nông Cống 4 Thiệu Hóa 5 Nga Sơn 6 Vĩnh Lộc 7 Hậu Lộc 8 Thọ Xuân 9 Yên Định 10 Quảng Xương 11 Hoằng Hóa 12 Hà Trung 13 TP Thanh Hoá 14 Lang Chánh 15 Cẩm Thủy 16 Ngọc Lặc 17 Như Thanh 18 TX Bỉm Sơn 19 Thường Xuân 20 Tĩnh Gia 21 Bá Thước 22 Thạch Thành 23 Như Xuân 24 TX Sầm Sơn 25 Quan Sơn 26 Quan Hóa 27 Mường Lát 28 BVĐK tỉnh 29 BVĐKKV Ngọc

1

Lặc

Xuất sắc TD Xuất sắc TD Xuất sắc TD Xuất sắc TD Xuất sắc Khá

41

100

106

248

633 39.2

30 BV Phụ Sản 31 BV Tâm Thần 32 BV Lao và Phổi 33 BV ĐD-PHCN 34 BV YHDC 35 BV Hợp Lực Cộng

1

142

Số liệu lưu tại Sở Y tế Thanh Hoá

143