ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

LÊ THỊ HÀ

ĐẢNG VỚI CUỘC VẬN ĐỘNG PHỤ NỮ (1930 – 1945) Chuyên ngành: Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam

Mã số : 60.22.56

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS.Trần Văn Thức

Hà Nội - 2008

CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

- CB: Chủ biên

- ĐCSĐD: Đảng cộng sản Đông Dương

- KHXH: Khoa học xã hội

- LHPNVN: Liên hiệp phụ nữ Việt Nam

Nhà xuất bản - NXB:

Phụ nữ - PN:

Việt Nam - VN:

- VNCMTN: Việt Nam cách mạng thanh niên

- TVCMĐ: Tân Việt cách mạng Đảng

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................ 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 2

3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 4

4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu ................................................. 5

5. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 6

6. Bố cục của luận văn ....................................................................................... 7

CHƢƠNG 1: ĐẢNG VỚI CUỘC VẬN ĐỘNG PHỤ NỮ (1930 – 1939) .................. 8

1.1. Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và Đảng ta về vấn

đề vận động phụ nữ............................................................................................ 8

1.2. Cuộc vận động phụ nữ của Đảng những năm 1930 – 1935 ................. 14

1.2.1. Bối cảnh lịch sử và chủ trương vận động phụ nữ của Đảng .............. 14

1.2.2. Phong trào đấu tranh của phụ nữ cả nước .......................................... 19

1.2.3. Phong trào đấu tranh của nữ công nhân ................................................................... 42

1.3. Cuộc vận động phụ nữ của Đảng (1936 - 1939) .......................................... 49

1.3.1. Tình hình mới, chủ trương mới của Đảng ........................................... 49

1.3.2. Phong trào đấu tranh của phụ nữ cả nước .......................................... 52

1.3.3. Phong trào đấu tranh của nữ công nhân ............................................. 63

CHƢƠNG 2: ĐẢNG VỚI CUỘC VẬN ĐỘNG PHỤ NỮ (1939 – 1945) ........ 71

2.1. Bối cảnh lịch sử và chủ trƣơng vận động phụ nữ của Đảng ................ 71

2.2. Phong trào đấu tranh của phụ nữ cả nƣớc ............................................ 77

2.3. Phong trào đấu tranh của nữ công nhân ............................................... 91

2.4. Một số nhận xét ...................................................................................... ..97

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 103

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 107

PHỤ LỤC ........................................................................................................ 114

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:

Với tƣ cách là một nửa xã hội, phụ nữ ở bất cứ nơi đâu và trong bất cứ thời

đại nào cũng có những đóng góp vô cùng to lớn vào sự phát triển của lịch sử

nhân loại. Phụ nữ không chỉ là một lực lƣợng lao động xã hội quan trọng mà còn

giữ chức năng sản sinh ra con ngƣời.

Phụ nữ Việt Nam trong những điều kiện lịch sử xã hội đặc biệt đã có

những đóng góp vô cùng to lớn trên tất cả các lĩnh vực sản xuất, chiến đấu và

phát triển văn hoá. Họ là ngƣời lao động cần cù, sáng tạo, thông minh; đồng thời

là những chiến sĩ chống ngoại xâm kiên cƣờng dũng cảm; là ngƣời giữ vai trò

đặc biệt quan trọng trong việc giữ gìn, phát triển bản sắc và tinh hoa văn hoá dân

tộc; là những ngƣời vợ, ngƣời chị, ngƣời mẹ dịu hiền, đảm đang, trung hậu đã

sản sinh ra những thế hệ anh hùng của dân tộc anh hùng.

Dƣới chế độ thực dân phong kiến, phụ nữ Việt Nam là lớp ngƣời bị áp bức,

bóc lột, chịu nhiều bất công nhất nên luôn có yêu cầu đƣợc giải phóng và sẵn

sàng đi theo cách mạng. Cuộc đấu tranh tự giải phóng mình của phụ nữ Việt Nam

đã đƣợc nhen nhóm lẻ tẻ từ những thời xa xƣa khi trong giới phụ nữ có ngƣời

sớm nhận thức ra điều bất công về giới. Họ mang chính cuộc đời mình để chứng

minh, để thức tỉnh giới và xã hội. Họ biết kết hợp đấu tranh giải phóng mình

trong cuộc chiến đấu lớn lao của dân tộc giành độc lập tự do và họ đã để lại

những tấm gƣơng không chỉ cho giới nữ mà cho cả dân tộc Việt Nam đƣợc tự

hào và noi theo.

Nhận thức đƣợc sức mạnh đó, nối gót ngƣời xƣa, lớp lớp phụ nữ Việt Nam

thời đƣơng đại đã tự bộc lộ mình qua các thời điểm lịch sử, càng ở những giai

đoạn gay gắt nhất của đất nƣớc, những thử thách khắc nghiệt nhất của đời sống,

phụ nữ Việt Nam càng phát huy sức mạnh tiềm ẩn của mình, vừa mang tính

quyết liệt, vừa mang tính nhân bản.

1

Ngày 3 tháng 2 năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Vấn đề vận

động phụ nữ tham gia vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc đƣợc Đảng quan

tâm hàng đầu. Cƣơng lĩnh đầu tiên của Đảng đã ghi: “Nam nữ bình quyền” [19, tr

22]. Đảng sớm nhận rõ, phụ nữ là lực lƣợng quan trọng của cách mạng và đề ra

nhiệm vụ: Đảng phải giải phóng phụ nữ, gắn liền giải phóng dân tộc, giải phóng

giai cấp với giải phóng phụ nữ. Năm 1945, dƣới sự lãnh đạo của Đảng, Cách

mạng tháng Tám đã thành công chứng tỏ đƣờng lối cách mạng đúng đắn của

Đảng, trong đó việc vận động phụ nữ tham gia cách mạng là một nhân tố quan

trọng. Cách mạng tháng Tám năm 1945 vĩ đại đã đổi đời cho cả dân tộc, cho cả

giới phụ nữ. Ngƣời phụ nữ đƣợc giải phóng khỏi ách nô lệ, giải thoát khỏi ách áp

bức, bóc lột, những ràng buộc ngàn đời của ý thức hệ phong kiến, đứng lên làm

chủ quê hƣơng, đất nƣớc và vận mệnh của mình. Chính vì vậy, nghiên cứu về

cuộc vận động phụ nữ của Đảng (1930 – 1945) không chỉ có ý nghĩa quan trọng

góp phần nghiên cứu lịch sử phụ nữ - một bộ phận của lịch sử dân tộc mà còn

làm sáng tỏ sự đúng đắn trong đƣờng lối lãnh đạo của Đảng đối với phong trào

phụ nữ nói riêng cũng nhƣ phong trào cách mạng chung của cả dân tộc. Mặt

khác, nó còn có giá trị thực tiễn vô cùng to lớn đó là góp phần thay đổi cách nhìn

nhận của xã hội về vai trò vị trí của ngƣời phụ nữ, từ đó góp phần vào việc đẩy

mạnh tiến trình thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam.

Trên những ý nghĩa đó, chúng tôi đã mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu:

“Đảng với cuộc vận động phụ nữ (1930 – 1945)” làm đề tài luận văn Thạc sĩ sử

học của mình.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Vấn đề Đảng với cuộc vận động phụ nữ từ trƣớc tới nay đã thu hút sự quan

tâm, nghiên cứu của nhiều ngƣời.

Trƣớc hết phải kể đến là cuốn Văn kiện Đảng về công tác vận động phụ nữ

(1930 – 1969), Nhà xuất bản Phụ nữ, 1970. Đây là tập hợp các văn kiện, các nghị

2

quyết hoặc các đoạn trích trong văn kiện và nghị quyết của Đảng về công tác vận

động phụ nữ qua các thời kỳ từ năm 1930 đến năm 1969. Cuốn sách cung cấp

cho ngƣời đọc thấy đƣợc những chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng mang tính lý

luận đối với cuộc vận động phụ nữ chứ chƣa có đƣợc cái nhìn toàn diện về thực

tiễn của việc thực hiện cuộc vận động đó.

Cuốn sách Những quan điểm cơ bản trong công tác vận động phụ nữ, NXB Phụ

nữ, 1995 đã trình bày những quan điểm cơ bản của Đảng ta trong công tác vận động phụ

nữ trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của Đảng.

Trung tâm nghiên cứu phụ nữ (Nay là Viện nghiên cứu Gia đình và giới)

và Tập san Khoa học về phụ nữ (Nay là Tạp chí Nghiên cứu gia đình và giới) đã

tập hợp đƣợc nhiều nhà khoa học nghiên cứu về phụ nữ dƣới nhiều góc độ khác

nhau. Trong đó có bài “Đường lối vận động phụ nữ của Đảng cộng sản Việt Nam

trong cách mạng giải phóng dân tộc 1930 – 1945” của Đặng Thị Vân Chi (Báo

cáo tham luận tại Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ II: Việt Nam trên đƣờng

phát triển và hội nhập: Truyền thống và hiện đại. Tháng 7 năm 2004). Bằng cách

tiếp cận tƣ liệu báo chí và ấn phẩm, tác giả đã bƣớc đầu giới thiệu đƣờng lối vận

động phụ nữ của Đảng ta trong những năm 1930 – 1945. Tuy nhiên, bài viết chỉ

giới hạn cuộc vận động phụ nữ của Đảng thông qua lĩnh vực báo chí chứ chƣa

khai thác một cách toàn diện cuộc vận động phụ nữ của Đảng ở thời kỳ này.

Những công trình tìm hiểu và giới thiệu về các phong trào đấu tranh chung

của phụ nữ cả nƣớc cũng nhƣ phụ nữ ở từng địa phƣơng cũng lần lƣợt đƣợc xuất

bản nhƣ cuốn Lịch sử phong trào phụ nữ Việt Nam (1981), do Nguyễn Thị Thập

chủ biên và các cuốn Lịch sử phong trào phụ nữ ở các địa phƣơng đƣợc biên

soạn đã cung cấp những hiểu biết và tƣ liệu về phong trào phụ nữ cả nƣớc dƣới

sự lãnh đạo của Đảng.

Nhƣ vậy, chúng ta có thể thấy vấn đề Đảng với cuộc vận động phụ nữ

(1930 – 1945) là vấn đề đƣợc nhiều ngƣời quan tâm nghiên cứu. Nhƣng cho đến

3

nay vẫn chƣa có một công trình chuyên sâu. Vấn đề vận động phụ nữ của Đảng

từ trƣớc tới nay mới ở phƣơng diện của sự thu thập những phong trào phụ nữ nói

chung, những đóng góp của phụ nữ trong lịch sử dựng nƣớc và giữ nƣớc của dân

tộc. Các công trình trên hoặc chỉ tập trung nghiên cứu hoạt động của chị em phụ nữ

một cách đơn thuần hoặc chỉ cung cấp cho chúng ta những chủ trƣơng, đƣờng lối

của Đảng về cuộc vận động phụ nữ một cách chung chung, chƣa đi sâu phân tích

đƣờng lối, cách thức tổ chức của Đảng đối với phong trào phụ nữ, chƣa làm nổi bật

sự lãnh đạo, vai trò của Đảng đối với công tác phụ nữ một cách sâu sắc và đầy đủ

cũng nhƣ chƣa tổng kết đƣợc kinh nghiệm sự lãnh đạo đó trong bối cảnh chung, gắn

liền với từng bƣớc thăng trầm của cách mạng giải phóng dân tộc nƣớc ta từ khi

Đảng mới ra đời (1930) cho đến ngày Cách mạng tháng Tám thành công (1945). Để

có một cái nhìn toàn diện và cụ thể về cuộc vận động phụ nữ của Đảng thời kỳ 1930

– 1945 thì nhất thiết phải có sự tổng hợp một cách cụ thể, hệ thống nó từ chủ trƣơng,

đƣờng lối của Đảng đến việc hƣởng ứng, áp dụng những chủ trƣơng, đƣờng lối ấy

trong phong trào phụ nữ và những kết quả đạt đạt đƣợc cụ thể của cuộc vận động

đó…

Mặc dù vậy, những bài viết, bài nghiên cứu của các cuốn sách và tạp chí đó

có ý nghĩa hết sức quan trọng, là một phần tƣ liệu quý giá để gợi ý cho chúng tôi

nghiên cứu sâu hơn, toàn diện hơn vấn đề “Đảng với cuộc vận động phụ nữ (1930

– 1945)”.

3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài

3.1. Mục đích nghiên cứu

Thông qua việc tìm hiểu diễn biến và kết quả cụ thể của phong trào phụ nữ

cả nƣớc những năm 1930 – 1945 dƣới sự lãnh đạo của Đảng, đề tài sẽ làm sáng

tỏ vai trò và sức mạnh của phụ nữ trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc dƣới

sự lãnh đạo của Đảng. Qua đó khẳng định sự đúng đắn về đƣờng lối lãnh đạo

4

cách mạng của Đảng đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp

nói chung và và đối với cuộc vận động phụ nữ nói riêng.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, chúng tôi không có tham vọng

giải quyết tất cả các vấn đề đặt ra liên quan đến cuộc vận động phụ nữ. Với mục tiêu

làm sáng tỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với cuộc vận động phụ nữ (1930 – 1945),

chúng tôi giới hạn nghiên cứu và khảo sát đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng đối với

cuộc vận động phụ nữ thông qua các văn kiện, các chỉ thị, nghị quyết của Đảng; tìm

hiểu các phong trào phụ nữ trên phạm vi cả nƣớc dƣới sự lãnh đạo của Đảng từ khi

Đảng ra đời (năm1930) đến khi cuộc Cách mạng tháng Tám thành công (năm

1945). Trên cơ sở tìm hiểu về cuộc vận động phụ nữ của Đảng (1930 – 1945) chúng

tôi rút ra những nhận xét về vấn đề đó.

4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu

4.1. Nguồn tư liệu

Trong quá trình thực hiện đề tài, các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa

Mác-Lênin, Hồ Chí Minh và các văn kiện của Đảng và Nhà nƣớc ta về vấn đề

vận động phụ nữ, cũng nhƣ những nghiên cứu về các cuộc vận động phụ nữ trên

thế giới là cơ sở lý luận, là phƣơng pháp luận để chúng tôi xem xét vấn đề. Các

sách nghiên cứu, các cuốn sách thông sử, các công trình chuyên khảo là những

phông kiến thức quan trọng và là những gợi ý để chúng tôi có thể tham khảo,

tổng kết lại vấn đề vận động phụ nữ, để từ đó có nhận thức rõ hơn thực chất cuộc

vận động phụ nữ của Đảng thời kỳ 1930 - 1945.

Nguồn tƣ liệu chính của chúng tôi là toàn bộ văn kiện, nghị quyết, chỉ thị

của Đảng từ khi Đảng ra đời (1930) đến khi Cách mạng tháng Tám thành công

(1945). Bên cạnh đó còn phải kể đến các sách, báo, tài liệu lƣu trữ viết về phong

trào đấu tranh cách mạng của phụ nữ cả nƣớc dƣới sự lãnh đạo của Đảng thời kỳ

5

1930 – 1945. Ngoài ra còn có các bài viết liên quan đến đề tài trên các báo, tạp

chí nhƣ: Tạp chí ngiên cứu Gia đình và giới, Tạp chí Khoa học và phụ nữ v.v…

4.2. Phương pháp nghiên cứu:

Với đối tƣợng nghiên cứu là “Đảng với cuộc vận động phụ nữ (1930 –

1945)” chúng tôi đã vận dụng linh hoạt nhiều phƣơng pháp nghiên cứu.

Phương pháp nghiên cứu lịch sử: Tìm hiểu, thu thập và nghiên cứu các tài liệu

liên quan đến cuộc vận động phụ nữ của Đảng giai đoạn 1930 – 1945 qua các phƣơng

tiện thông tin đại chúng nhƣ sách, báo, tạp chí, những công trình khoa học… từ đó

chọn lọc vấn đề, xử lý sử liệu, lựa chọn các tài liệu cần thiết làm cơ sở cho việc viết

nội dung đề tài.

Phương pháp nghiên cứu lôgíc: Trên cơ sở khai thác triệt để các sự kiện lịch

sử, các chủ trƣơng, đƣờng lối chính sách của Đảng thuộc phạm vi đề tài sau đó tiến

hành viết nội dung đề tài. Các sự kiện đều đƣợc sắp xếp một cách tuần tự, có hệ

thống, lôgíc đủ để phác hoạ lại cuộc vận động phụ nữ của Đảng thời kỳ 1930 – 1945.

Khai thác các sự kiện lịch sử để thực hiện đề tài này, chúng tôi còn sử dụng

phƣơng pháp luận sử học, phƣơng pháp nghiên cứu về giới đứng trên quan điểm mác-

xít về duy vật lịch sử, từ đó rút ra những những nhận xét khách quan sát với thực tế

lịch sử .

Mặt khác, chúng tôi cũng sử dụng phƣơng pháp phân tích và so sánh các

quan điểm, đƣờng lối lãnh đạo của Đảng ở từng thời điểm khác nhau trong lịch

sử để từ đó thấy rõ đƣợc sự linh hoạt, sáng suốt của Đảng trong cuộc vận động

toàn dân tham gia phong trào cách mạng nói chung và đối với cuộc vận động phụ

nữ nói riêng thời kỳ 1930 – 1945.

5. Đóng góp của luận văn:

Là công trình nghiên cứu về “Đảng với cuộc vận động phụ nữ thời kỳ

1930 – 1945” luận văn có những đóng góp cụ thể sau:

6

- Nêu lên những nét khái quát về quan điểm vận động phụ nữ tham gia

cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin và sự vận dụng quan điểm đó của Đảng ta

trong cuộc vận động phụ nữ (1930 – 1945).

- Khẳng định và làm rõ vai trò của Đảng trong việc định hƣớng nhận thức,

tổ chức, hƣớng dẫn và lãnh đạo phụ nữ tích cực tham gia vào cuộc cách mạng

giải phóng dân tộc.

- Trình bày, khôi phục lại bức tranh về phong trào phụ nữ cả nƣớc dƣới sự

lãnh đạo của Đảng thời kỳ 1930 – 1945, qua đó làm nổi bật vai trò cũng nhƣ sức

mạnh của phụ nữ đối với sự nghiệp cách mạng chung của cả dân tộc.

- Góp phần phản ánh những đóng góp của toàn thể phụ nữ cả nƣớc trong

phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam.

- Góp thêm một nguồn sử liệu phong phú, sống động phục vụ công tác

nghiên cứu về lịch sử Đảng nói chung và nghiên cứu về phụ nữ nói riêng.

6. Bố cục của luận văn:

Ngoài phần mở đầu và Kết luận, luận văn chia làm hai chƣơng chính gồm

106 trang:

- Chƣơng 1: Đảng với cuộc vận động phụ nữ (1930 – 1939)

- Chƣơng 2: Đảng với cuộc vận động phụ nữ (1939 – 1945).

Phần Phụ lục gồm có 26 trang giới thiệu một số văn kiện, Nghị quyết, trích

lƣợc các văn kiện, nghị quyết về công tác vận động phụ nữ của Đảng thời kỳ 1930 –

1945.

7

CHƢƠNG 1: ĐẢNG VỚI CUỘC VẬN ĐỘNG PHỤ NỮ (1930 – 1939)

1.1. Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và Đảng ta về vấn

đề vận động phụ nữ.

Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề vận động phụ nữ đã bác bỏ

một cách hùng hồn những thành kiến coi thƣờng phụ nữ do xã hội cũ để lại, đồng

thời khẳng định rõ phụ nữ là một nửa nhân loại và lại bị áp bức bóc lột nặng nề.

Do đó phụ nữ tham gia một cách tích cực trong các phong trào đấu tranh cách

mạng từ trƣớc tới nay. Lê-nin đã nói: “Không thể lôi cuốn quần chúng tham gia

chính trị mà lại không lôi cuốn phụ nữ tham gia chính trị”[60, tr 38]. Không

những phụ nữ tham gia các phong trào đấu tranh giải phóng mà còn có vai trò

quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lê-nin cũng đã khẳng

định rằng: Không thể bảo đảm đƣợc tự do thực sự, không thể nào xây dựng đƣợc

ngay cả chế độ dân chủ chứ đừng nói đến chế độ xã hội chủ nghĩa nữa. Nếu phụ

nữ không tham gia xây dựng xã hội, đội dân cảnh, sinh hoạt chính trị, nếu không

giải thoát phụ nữ khỏi tình trạng làm cho ngƣời ta mụ mẫm đi, tức là công việc

nội trợ bếp núc. “…dƣới chế độ tƣ bản thì phụ nữ, tức là một nửa nhân loại, phải

8

chịu hai tầng áp bức. Nữ công nhân và nữ nông dân đều bị tƣ bản áp bức và

ngoài ra họ còn bị giam cầm trong cảnh nô lệ gia đình”[60, tr 38-39].

Ở các nƣớc thuộc địa, phụ nữ cùng với chồng con của họ đều chịu chung

cái nhục mất nƣớc, mất độc lập tự do. Họ bị tƣớc đoạt quyền tự do, dân chủ, kể

cả những quyền sơ đẳng nhất. Họ bị đàn áp dã man khi tham gia các phong trào

yêu nƣớc, bị kìm hãm trong vòng dốt nát. Họ không những bị bóc lột trong các

nhà máy, hầm mỏ, đồn điền của chủ nghĩa tƣ bản mà còn bị chà đạp nhân phẩm,

là nạn nhân của tƣ tƣởng phong kiến, những tập tục lạc hậu và hàng loạt những tệ

nạn xã hội khác nhƣ: tục đa thê, nạn ép duyên, nạn tảo hôn, nạn mãi dâm, v.v...

Vì vậy, chủ nghĩa Mác-Lênin chủ trƣơng: “muốn giải phóng phụ nữ thì trƣớc hết

phải xóa bỏ chế độ chiếm hữu tƣ nhân về tƣ liệu sản xuất, phải xóa bỏ ách áp bức

bóc lột giai cấp và ách nô dịch dân tộc”[62, tr 20-21].

Con đƣờng giải phóng loài ngƣời khỏi chế độ áp bức, bóc lột chỉ có thể là

con đƣờng cách mạng, xây dựng một xã hội mới mà trong đó mọi ngƣời đều bình

đẳng, ấm no, tự do và hạnh phúc. Đây phải là một cuộc cách mạng sâu sắc nhất,

triệt để nhất trong lịch sử và vấn đề giải phóng phụ nữ phải là một bộ phận của

cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc. Lê-nin khẳng định: “giai

cấp vô sản sẽ không đạt đƣợc tự do hoàn toàn nếu không giành đƣợc tự do hoàn

toàn cho phụ nữ” [60, tr 61]. Mặt khác, Lê-nin cũng nhấn mạnh: “giải phóng phụ

nữ lao động… phải là việc của bản thân phụ nữ lao động” [60, tr55]. Chỉ bằng

cách tham gia vào phong trào cách mạng chung, phụ nữ mới chứng tỏ đƣợc lực

lƣợng và khả năng to lớn của mình, từ đó, dần dần tƣ tƣởng trọng nam khinh nữ

trong xã hội mới bị đẩy lùi, phụ nữ mới có điều kiện vƣơn lên giải phóng từng

bƣớc, tiến tới giải phóng hoàn toàn.

Chủ nghĩa Mác-Lênin cũng vạch ra rằng chỉ khi nào cách mạng dân tộc

dân chủ nhân dân thắng lợi, phụ nữ mới có thể giành đƣợc quyền bình đẳng với

nam giới về mặt pháp lý. Nhƣng để đảm bảo quyền bình đẳng về mọi mặt của

9

phụ nữ với nam giới và giải phóng phụ nữ một cách triệt để cần phải tiến hành

cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Điều này phải làm cho phụ nữ hiểu rõ thì mới

có thể vận động họ tham gia vào sự nghiệp cách mạng chung của dân tộc.

Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Mác và Ăng-ghen đã chỉ ra rằng

muốn vận động phụ nữ tham gia cách mạng thì phải kéo ngƣời đàn bà thoát khỏi

vai trò hiện nay của họ là vai trò một công cụ sản xuất đơn giản.

Ăng-ghen lại nói: “Muốn thực hiện cuộc vận động phụ nữ thì trƣớc hết phải

làm cho phụ nữ có thể tham gia vào sản xuất trên một quy mô xã hội rộng lớn và

chỉ phải làm việc trong nhà ít thôi" [4, tr 78]. Muốn cho phụ nữ hoàn toàn đƣợc

giải phóng thì sau khi giai cấp vô sản nắm đƣợc chính quyền, phải xóa bỏ quyền tƣ

hữu về tƣ bản ruộng đất, phải tạo ra sự bình đẳng giữa nam và nữ trƣớc pháp luật,

rồi phải để cho phụ nữ đƣợc tham gia hoạt động chính trị và hoạt động sản xuất.

Mà muốn phụ nữ hoạt động đƣợc thì phải biến “công việc nội trợ vụn vặt cá thể

thành công việc lớn xã hội hóa” và Lê-nin đã chỉ rõ: “Cuộc cách mạng vô sản xóa

bỏ tận gốc áp bức và sự không bình đẳng đối với phụ nữ một cách triệt để nhất mà

không một đảng nào mà cuộc cách mạng nào trên thế giới dám làm. Ở nƣớc ta,

nƣớc Nga xô viết không còn lại chút dấu vết gì để bất bình đẳng giữa nữ giới và

nam giới trƣớc pháp luật. Chính quyền Xô Viết đã hoàn toàn thủ tiêu sự bất bình

đẳng đê tiện xấu xa giả nhân giả nghĩa trong luật pháp về hôn nhân và gia đình, sự

bất bình đẳng về con cái, đó mới chỉ là bƣớc đầu đi đến giải phóng phụ nữ. Nhƣng

không có một nƣớc tƣ sản nào, cả những nƣớc cộng hòa dân chủ nhất đã dám bƣớc

cái bƣớc đi đầu đó. Ngƣời ta không dám vì cái “quyền tƣ hữu thiêng liêng” [72, tr

21].

Bƣớc thứ hai và chủ yếu là thủ tiêu tƣ hữu về ruộng đất, công xƣởng, nhà

máy. Bƣớc đó và chỉ bƣớc đó mới mở đƣờng cho việc giải phóng hoàn toàn và

thực sự cho phụ nữ, giải phóng cho họ khỏi “cảnh nô lệ gia đình” bằng cách

chuyển công việc nội trợ vụn vặt, cá thể thành công việc lớn xã hội hóa. Bƣớc

10

chuyển đó là khó khăn, vì đây là thay đổi một trật tự thâm canh cố đế nhất đã trở

thành thói quen (nói cho đúng ra thì không phải là một trật tự mà là điều ghê tởm

dã man) [61, tr 138-140]. Có tiến hành những bƣớc đi mang lại quyền lợi cho phụ

nữ nhƣ thế thì cuộc vận động phụ nữ mới thu hút đƣợc sự quan tâm của đông đảo

chị em phụ nữ.

Vâ ̣n du ̣ng lý luâ ̣n củ a chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề vận động phụ nữ vào

thƣ̣c tiễn cách ma ̣ng Viê ̣t Nam , ngay tƣ̀ khi mớ i thành lâ ̣p Đảng cô ̣ng sản Viê ̣t Nam đã xác đi ̣nh sƣ̣ nghiê ̣p giải phóng phu ̣ nƣ̃ gắn liền vớ i sƣ̣ nghiê ̣p giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc. Đảng đã có những nhận định, đánh giá đú ng vai trò , vị trí và khẳng định khả năng to lớ n củ a phu ̣ nƣ̃ Viê ̣t Nam.

Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng Cô ̣ng sản Đông Dƣơng

năm 1930 đã chỉ rõ: “Lƣ̣c lƣơ ̣ng phu ̣ nƣ̃ là mô ̣t lƣ̣c lƣơ ̣ng tro ̣ng yếu nếu quảng đa ̣i quần chú ng phu ̣ nƣ̃ không tham gia vào nhƣ̃ng cuô ̣c đấu tranh cách ma ̣ng thì cách mạng không thể thắng lợi” [27, tr 14].

Chủ trƣơng nam nữ bình đẳng là một trong mƣời nhiê ̣m vu ̣ đã đƣơ ̣c ghi

trong Luâ ̣n cƣơng chính tri ̣ củ a Đảng cô ̣ng sản Đông Dƣơng do đồng chí Trần Phú – Tổng bí thƣ củ a Đảng khở i thảo . Đảng rất ch ú trọng đến việc tổ chức vâ ̣n đô ̣ng phu ̣ nƣ̃ công nông “phải đ ƣa phu ̣ nƣ̃ công nông vào công hô ̣i , nông hô ̣i cho đông, lại cần phải đem họ vào cơ quan chỉ huy tập làm công việc lãnh đạo quần

chúng” [27, tr 95].

Phụ nữ Việt Nam bị áp bức , bóc lột nặng nề . Muốn thoát khỏi cảnh nô lê ̣ lầm than, họ không còn đƣờ ng nào khác là tham gia đấu tranh cách ma ̣ng dƣớ i sƣ̣ lãnh đạo của Đảng , của giai cấp công nhân . Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc

cách mạng sâu sắc nhất , triê ̣t để nhất , toàn diện nhất trong lịch sử lo ài ngƣời .

Cuô ̣c cách ma ̣ng đó không thể giành đƣơ ̣c thắng lơ ̣i nếu không có sƣ̣ tham gia tích cực của phụ nữ . Lê-nin đã nói : “Không thu hú t đƣơ ̣c phu ̣ nƣ̃ tham gia công tác xã hội , đi dân quân tham dƣ̣ vào sinh hoa ̣t chính tri ̣ , nếu không kéo ho ̣ thoát

11

khỏi không khí mụ mẫm của việc nội trợ bếp núc thì không thể nào bảo đảm

đƣơ ̣c tƣ̣ do thâ ̣t sƣ̣, không thể nào xây dƣ̣ng đƣơ ̣c chế đô ̣ dân chủ chƣ́ đƣ̀ ng nói gì xây dƣ̣ng xã hô ̣i chủ nghĩa nƣ̃a” [60, tr 45].

Án Nghi ̣ quyết củ a Trung ƣơng toàn thể Hội nghị của Đảng cộng sản Đông

Dƣơng (10.1930) về phu ̣ nƣ̃ vâ ̣n đô ̣ng đã nhâ ̣n đi ̣nh : “Trong đám quần chú ng lao khổ ở thành phố và nhà quê phu ̣ nƣ̃ chiếm mô ̣t phần lớ n , tình hình của những ngƣờ i phu ̣ nƣ̃ ấy rất cƣ̣c khổ , ngoài những cảnh bóc lột nhƣ nhiều giờ làm việc , ít tiền lƣơng, họ bị phong tục tró i buô ̣c, bị coi nhƣ ngƣời tôi mọi, rất đê tiê ̣n trong

xã hội, không có mô ̣t chú t tƣ̣ do nào hết . Phải làm cho quần chú ng phu ̣ nƣ̃ lao khổ ấy tham gia nhƣ̃ng cuô ̣c đấu tranh cách ma ̣ng củ a công nông đó là điều kiê ̣n cốt yếu nhất . Nếu phu ̣ nƣ̃ đƣ́ ng ngoài cuô ̣c đấu tranh cách ma ̣ng củ a công nông thì không bao giờ đạt mục đích phụ nữ giải ph óng đƣợc” [27, tr 11]. Đảng đã

khẳng định vai trò to lớn và có tính quyết định của cách mạng dân tộc dân chủ

nhân dân. Đảng coi công tác vận động phụ nữ là một “nhiệm vụ lớn và trọng

yếu” [27, tr 11]. Đây là một trong những điểm khác nhau căn bản giữa Đảng

cộng sản và các tổ chức chính trị đƣơng thời, đồng thời là cội nguồn sức mạnh

đƣa Đảng cộng sản đi tới thắng lợi trong công cuộc cách mạng của mình.

Cũng ngay trong Án nghị quyết về công tác vận động phụ nữ, Đảng cũng

nhắc nhở phải: “làm cho phụ nữ thoát khỏi cái tƣ tƣởng tƣ bổn, đánh đổ các

mộng tƣởng “nam nữ bình quyền” trong vòng tƣ bổn chủ nghĩa. Không những

thế mà thôi, đồng thời lại phải làm cho quần chúng phụ nữ lao khổ tham gia vào

những cuộc tranh đấu cách mạng của công nông; đó là điều cốt yếu nhứt, nếu phụ

nữ đứng ngoài cuộc tranh đấu cách mạng của công nông thì không bao giờ đạt

mục đích phụ nữ giải phóng đƣợc” [27, tr 12].

Do thấy rõ vai trò của phụ nữ trong cuộc vận động giải phóng dân tộc,

Đảng chú trọng công tác vận động phụ nữ tham gia vào các hoạt động cách

mạng. Cũng khác với tất cả phong trào yêu nƣớc và cách mạng trƣớc đó, đối

12

tƣợng vận động của Đảng cộng sản Việt Nam là phụ nữ lao động, phụ nữ công

nhân và nông dân, những ngƣời chiếm đa số trong xã hội. Đảng chủ trƣơng:

“Muốn cho phụ nữ tham gia vào các cuộc tranh đấu cách mạng thì trƣớc hết cần

phải đánh đổ hết thảy những cái phong tục thuộc về tôn giáo hoặc luân lý. Phải

huấn luyện chánh trị cho phụ nữ công nông, làm cho họ thêm giác ngộ giai cấp

để kéo họ vào những đoàn thể vô sản giai cấp. Công tác ấy không chỉ làm ở

thành phố mà thôi, đồng thời phải thực hành ở trong nhà quê, trong đám đàn bà

làm thợ nông nghiệp đi ở mƣớn và khắp trong quần chúng phụ nữ lao khổ ở nhà quê

nữa” [27, tr 13].

Để vận động phụ nữ tham gia vào các hoạt động cách mạng, Đảng chủ

trƣơng trƣớc hết phải vận động “phụ nữ công nông vào công, nông hội cho đông,

lại cần phải đem họ vào cơ quan chỉ huy để tập làm công việc lãnh đạo quần

chúng. Muốn cho phụ nữ vào công, nông hội cho đông thì phải đề xƣớng ra

những yêu cầu cần kíp của họ (nhƣ cấm đàn bà làm công đêm; công làm ngang

nhau thì lƣơng phải ngang nhau thì lƣơng phải ngang nhau; trƣớc và sau khi sinh

đẻ đều nghỉ một tháng có lƣơng; bỏ chế độ cƣới vợ, gả chồng nhƣ là mua bán....).

Trong đám phụ nữ công nông, con gái rất nhiều. Nhiệm vụ của thanh niên cộng

sản đoàn trong việc tổ chức ra các đoàn thể phụ nữ là phải thâu phục cho đƣợc

quần chúng thanh niên ấy” [27, tr 12]. Đảng cũng chủ trƣơng thành lập các tổ

chức riêng phụ nữ nhƣ “phụ nữ liên hiệp hội” để “thâu phục cho hết đám phụ nữ

lao khổ nhƣ vợ công nhân, ngƣời buôn gánh, bán bƣng và tất cả những đám phụ

nữ mà không thể tổ chức vào công nông hội đƣợc” [27, tr 14].

Công tác tổ chức và vận động phụ nữ luôn đƣợc Đảng quan tâm và chỉ đạo

kịp thời, cũng nhƣ uốn nắn thiếu sót. Đảng chỉ rõ trong các cuộc đấu tranh có phụ

nữ tham gia thì “nhất luật phải ra khẩu hiệu đặc biệt cho phụ nữ (nhƣ: công bằng

nhau thì tiền lƣơng phải bằng nhau, cấm làm việc đêm, đƣợc nghỉ hai tháng trƣớc

và hai tháng sau khi đẻ mà cứ lĩnh toàn tiền lƣơng theo nhƣ khẩu hiệu trong các

13

bản chƣơng trình của Đảng, của Công hội, Thanh niên cộng sản… Chống chế độ

nhiều vợ, phản đối chính phủ Pháp duy trì và lợi dụng chế độ làm đĩ để thu thuế”

[27, tr 21]. Ngày 29 tháng 4 năm 1931, Nghị quyết của Xứ ủy Trung Kỳ nhắc

nhở nhiều đảng viên quan niệm chƣa đúng về tổ chức phụ nữ, về việc phụ nữ vận

động “chỉ quanh quẩn trong vòng nữ quyền của tƣ bản hoặc quốc gia hẹp hòi”

[63, tr 66 – 67]. Điều đó trái với chính sách và hành động của Đảng.

Trong suốt 15 năm (1930 – 1945), tùy từng thời điểm lịch sử cụ thể Đảng ta đã

đề ra và sử dụng nhiều hình thức tổ chức phù hợp với từng đối tƣợng quần chúng và

luôn có nhƣ̃ng khẩu hiê ̣u đòi quyền lơ ̣i chính đáng cho phu ̣ nƣ̃. Đảng ma ̣nh da ̣n phát huy khả năng củ a phu ̣ nƣ̃ trong mo ̣i công tác : tuyên truyền, đấu tranh bí mật, đấu tranh chính tri ̣, vũ trang tiến lên khởi nghĩa giành chính quyền…

. Trong cách ma ̣ng tháng Tám năm 1945, Đảng đã phát huy tinh thần cách mạng, đƣ́ c tính kiên trung , bất khuất củ a phu ̣ nƣ̃ ở mo ̣i miền Tổ quốc , đô ̣ng viên nhƣ̃ng ngƣờ i phu ̣ nƣ̃ Viê ̣t Nam cù ng toàn dân vù ng lên đấu tranh giải phóng dân tô ̣c

1.2. Cuộc vận động phụ nữ của Đảng những năm 1930 – 1935.

1.2.1. Bối cảnh lịch sử và chủ trương vận động phụ nữ của Đảng:

Thế giới tƣ bản chủ nghĩa lâm vào một cuộc đại khủng hoảng kinh tế bắt

đầu từ năm 1929. Đây là một trong những cuộc khủng hoảng nghiêm trọng và

sâu sắc nhất trong lịch sử chủ nghĩa tƣ bản. Nó đã chấm dứt thời kỳ ổn định tạm

thời của chủ nghĩa tƣ bản trong những năm 20.

Cuộc khủng hoảng diễn ra ở tất cả các ngành công nghiệp, nông nghiệp,

thƣơng nghiệp và tài chính. Cuộc khủng hoảng này chẳng những tàn phá nặng nề

nền kinh tế mà còn gây ra những hậu quả nặng nề về chính trị, xã hội cho thế giới tƣ

bản chủ nghĩa. “Số công nhân thất nghiệp lên tới 50 triệu. Nhiều nƣớc không có bảo

hiểm xã hội, thất nghiệp không đƣợc trợ cấp. Các chủ xí nghiệp ra sức bóc lột công

nhân bằng cách tăng cƣờng độ lao động, giảm tiền lƣơng và kéo dài thời gian làm

việc trong ngày. Hàng triệu nông dân bị mất ruộng đất phải sống trong cảnh nghèo

14

đói. Các tầng lớp khác trong xã hội nhƣ tiểu tƣ sản, thợ thủ công, công chức, những

ngƣời làm dịch vụ… mức sống bị hạ thấp”[66, tr 295]. Phong trào đấu tranh của

nhân dân lao động đòi cải thiện đời sống diễn ra mạnh mẽ. Mâu thuẫn giai cấp ở các

nƣớc ngày càng gay gắt.

Ở Pháp, cuộc khủng hoảng này đến muộn hơn, so với các nƣớc khác nhƣng

lại hết sức mạnh và sâu sắc. Khủng hoảng công nghiệp xen kẽ khủng hoảng nông

nghiệp và khủng hoảng tài chính.

Là thuộc địa của Pháp, nền kinh tế Việt Nam không tránh khỏi chịu tác động

của cuộc đại khủng hoảng và ảnh hƣởng trực tiếp tới đời sống của mọi tầng lớp

nhân dân trong đó đặc biệt là phụ nữ. Một phần ba số công nhân (trong đó đa số là

chị em phụ nữ) bị thất nghiệp. Riêng miền Bắc, 25.000 công nhân bị sa thải, trong

đó có 12.000 công nhân ngành mỏ. Những công nhân có việc làm thì bị giảm lƣơng

từ 30% đến 50%[66, tr 298]. Trong dịp sang Đông Dƣơng tháng 9 năm 1931, nhà

báo Pháp Ăngđơrê Viôlít (A.Viollis) viết: “Lƣơng công nhân không bao giờ vƣợt

quá 2 đến 2,5 phơrăng mỗi ngày. Trong các xƣởng dệt, ngày làm việc bắt đầu từ 7

giờ sáng đến 9 giờ tối. Đàn ông, lƣơng từ 1,75 phơrăng đến 2 phơrăng, đàn bà từ

1,25 phơrăng đến 1,5 phơrăng…”[66, tr 289]. Nữ công nhân thất nghiệp, tiền lƣơng

bị cắt giảm không chỉ ảnh hƣởng đến đời sống của họ và gia đình họ mà còn đẩy

nhiều phụ nữ vào hoàn cảnh khốn cùng. Nông dân thì chịu sƣu cao thuế nặng và nạn

cho vay nặng lãi. Ngƣời nông dân phải vay của địa chủ với bất cứ tỷ lệ lãi nào để

sống và sau đó phải bán mọi thứ tài sản nghèo nàn của mình, thậm chí phải bán cả

con của mình đi để trả nợ.

Các tầng lớp khác nhƣ tiểu thƣơng, tiểu chủ, thợ thủ công, viên chức, trí thức

cũng sống trong điêu đứng. Địa chủ nhỏ cũng bị sa sút. Một số tƣ sản dân tộc bị vỡ

nợ, phá sản. Chính vì thế, mâu thuẫn trong xã hội nhất là mâu thuẫn giữa các tầng

lớp nhân dân Việt Nam với bọn thực dân Pháp thống trị ngày càng trở nên gay gắt.

15

Trong khi đó, sau hơn mƣời năm thực hiện chƣơng trình khai thác thuộc địa

lần thứ hai, tình hình xã hội Việt Nam cũng có nhiều biến chuyển quan trọng. Đó là

sự hình thành giai cấp tƣ sản, tiểu tƣ sản và sự ra đời của các tổ chức yêu nƣớc và

cách mạng. Năm 1927, Việt Nam Quốc Dân Đảng ra đời. Cuối năm 1929, ở Việt

Nam phong trào đấu tranh đã diến ra sôi nổi và đã hình thành ba tổ chức cộng sản ở

cả ba kỳ đó là Đông Dƣơng cộng sản Đảng và An Nam cộng sản Đảng và Đông

Dƣơng cộng sản Liên đoàn. Trong quá trình phát triển tổ chức của mình các đảng

cộng sản không thể không tranh giành ảnh hƣởng trong quần chúng nhân dân và

không tránh khỏi công kích lẫn nhau. Cả ba tổ chức cách mạng đã thúc đẩy phong

trào cách mạng phát triển mạnh mẽ nhƣng về đƣờng lối cũng nhƣ về tổ chức chƣa

thể đáp ứng đƣợc yêu cầu phát triển cách mạng của nƣớc ta. Trƣớc tình hình cấp

thiết đó, ngày 3 tháng 2 năm 1930, tại Hƣơng Cảng (Trung Quốc) dƣới sự chủ trì

của đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã hợp nhất ba tổ chức cộng sản thành một đảng duy

nhất - Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 10 năm 1930, đổi tên thành Đảng cộng sản

Đông Dƣơng). Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là một sự kiện trọng đại có ý nghĩa

quyết định cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Đảng

cộng sản Việt Nam ra đời không chỉ đánh dấu một bƣớc ngoặt quan trọng trong lịch

sử dân tộc Việt Nam, chấm dứt một thời kỳ khủng hoảng về đƣờng lối cứu nƣớc –

thời kỳ “đen tối nhƣ không có đƣờng ra” của nhân dân Việt Nam mà còn mở ra một

thời kỳ mới trên con đƣờng đấu tranh giải phóng phụ nữ, thực hiện nam nữ bình

đẳng.

Sau cao trào cách mạng 1930 – 1931, lực lƣợng cách mạng bị đàn áp nặng nề.

Từ năm 1930 tới đầu năm 1933 có 246.532 ngƣời bị bắt giam trong các nhà tù của

thực dân. Trong suốt các năm 1931 – 1935, thực dân Pháp tăng cƣờng đàn áp cách

mạng. Các cơ sở cách mạng không ngừng bị khủng bố, việc phục hồi tổ chức cơ sở

của Đảng và tổ chức quần chúng gặp nhiều khó khăn. Đến cuối năm 1934, nhờ có

sự chỉ đạo, sự hỗ trợ kịp thời của Quốc tế cộng sản, sự nỗ lực của cán bộ đảng viên

16

và tinh thần yêu nƣớc của quần chúng, hệ thống tổ chức Đảng đƣợc khôi phục ở

nhiều nơi. Trên cơ sở đó, năm 1935, Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng cộng

sản Đông Dƣơng đã đƣợc tổ chức, đánh dấu một mốc quan trọng trong lịch sử cách

mạng của nhân dân Việt Nam.

Tháng 8 năm 1935, Mặt trận Bình dân Pháp đƣợc thành lập do hai tổ chức là

Đảng Cộng sản Pháp và Đảng Dân chủ xã hội Pháp làm nòng cốt. Đây là điều kiện

thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Trong bối cảnh đó, Đảng cộng sản Đông Dƣơng

đã kịp thời đƣa ra những chủ trƣơng mới, khôi phục lại phong trào cách mạng.

Ngay từ khi mới thành lập, Đảng cộng sản Việt Nam đã quán triệt tƣ tƣởng

chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề giải phóng dân tộc, đã đánh giá cao vai trò của phụ

nữ trong lao động và trong đấu tranh cách mạng, đồng thời thấu hiểu nỗi khổ đau

của phụ nữ dƣới chế độ đế quốc phong kiến, gắn liền sự nghiệp giải phóng phụ nữ

với sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp.

Mục tiêu của Đảng đƣợc nêu rõ ngay trong Chính cƣơng vắn tắt là: làm “tƣ

sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” và “nam

nữ bình quyền” [21, tr 2] là một trong 13 chủ trƣơng lớn của Đảng, đồng thời là một

trong Mƣời mục tiêu đƣợc nhắc tới trong Lời kêu gọi của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.

Luận cƣơng chính trị năm 1930 của Đảng cũng khẳng định một trong mƣời “nhiệm

vụ cốt yếu của cách mạng tƣ sản dân quyền là thực hiện nam nữ bình quyền” [21, tr

95]. Tháng 10 năm 1930, Đảng Cộng sản đã ra Án nghị quyết của Trung ƣơng toàn

thể hội nghị về công tác phụ nữ vận động, thể hiện rõ quan điểm của Đảng về vai trò

của phụ nữ trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do Đảng lãnh đạo, cũng

nhƣ đƣờng lối vận động phụ nữ của Đảng. Từ chỗ xác định: phụ nữ là một lực

lƣợng quan trọng “chiếm một phần lớn trong giai cấp vô sản” không những bị tƣ

bản và phong kiến bóc lột mà còn bị bó buộc bởi phong tục và lễ giáo phong kiến

“Ngoài những cách bóc lột nhƣ nhiều giờ làm việc, ít tiền lƣơng họ lại bị phong

tục bó buộc, bị coi là một hạng ngƣời tôi mọi, rất đê tiện trong xã hội, không có

17

một chút tự do nào hết” nên nếu đƣợc giác ngộ, phụ nữ sẽ rất hăng hái tham gia

cách mạng và trở thành một một lực lƣợng rất trọng yếu. Nếu quảng đại quần

chúng không tham gia vào những cuộc đấu tranh cách mạng thì cách mạng không

thắng lợi đƣợc”. Khẳng định vai trò to lớn và quyết định của phụ nữ trong cách

mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Đảng coi công tác vận động phụ nữ “không phải

là nhiệm vụ phụ thuộc của Đảng. Công tác ấy chính là một nhiệm vụ lớn và trọng

yếu” [21, tr 188]. Đây là một trong những điểm khác nhau căn bản giữa Đảng

cộng sản và các tổ chức chính trị đƣơng thời, đồng thời cũng là cội nguồn sức

mạnh đƣa Đảng cộng sản đi tới thắng lợi trong sự nghiệp cách mạng nói chung

và trong cuộc vận động phụ nữ nói riêng.

Ngoài các khẩu hiệu đấu tranh chung là đánh đổ giai cấp địa chủ làm cho

ngƣời cày có ruộng và đánh đổ đế quốc Pháp làm cho Đông Dƣơng hoàn toàn độc

lập, Nghị quyết về công tác vận động phụ nữ còn đề ra những khẩu hiệu nhằm đáp

ứng nguyện vọng sâu xa của phụ nữ, bênh vực quyền lợi riêng của phụ nữ:

- Bỏ hết pháp luật và tục lệ hủ bại làm cho đàn bà không bình đẳng với đàn

ông.

- Bỏ chế độ áp bức của cha mẹ đối với con cái, của chồng đối với vợ, cƣới vợ

gả chồng nhƣ là mua bán...

- Chống chế độ nhiều vợ, phản đối chính phủ Pháp duy trì và lợi dụng chế độ

làm đĩ để thu thuế.

- Công làm ngang nhau thì lƣơng phải ngang nhau.

- Cấm bắt đàn bà làm việc ở chỗ nguy hiểm, cấm làm việc đêm, đƣợc nghỉ

một tháng trƣớc và sau khi đẻ mà cứ lĩnh tròn lƣơng...[37, tr 44].

Về tổ chức, Đảng chủ trƣơng: Trong các cơ quan lãnh đạo của Đảng và

Thanh niên đoàn (từ địa phƣơng đến Trung ƣơng) cần phải tổ chức ra ban phụ nữ

hoặc là ngƣời chuyên môn phụ trách. Trong Đảng thƣờng phải thảo luận công

việc phụ nữ vận động và thƣờng lại phải tổ chức ra những cuộc cuộc hội nghị

18

phụ nữ để nghiên cứu cách làm việc, phải đem phụ nữ công nông vào công, nông

hội cho đông, lại cần phải đem họ vào cơ quan chỉ huy để tập làm công việc lãnh

đạo quần chúng.... Muốn thâu phục cho đƣợc hết các phần tử phụ nữ thì ngoài sự

công tác trong phụ nữ công nông ra, Đảng lại cần phải tổ chức ra các đoàn thể

phụ nữ nhƣ “Phụ nữ hiệp hội”[27, tr13]. Ngoài ra Đảng còn đề ra các hình thức

tổ chức nhƣ: “Phụ nữ giải phóng”, “Phụ nữ Phản đế đồng minh”... mục đích là

mƣu quyền lợi cho phụ nữ, làm cho phụ nữ đƣợc triệt để giải phóng, để thâu phục

cho hết đám phụ nữ lao khổ nhƣ vợ công nhân, ngƣời buôn gánh, bán bƣng và tất

cả những đám phụ nữ mà không thể tổ chức vào công nông hội đƣợc... [27, tr

15].

Đối với nữ công nhân lao động, Nghị quyết của Đảng nhấn mạnh “phải

huấn luyện chính trị cho phụ nữ công nhân, làm cho họ thêm giác ngộ giai cấp để

kéo họ vào những đoàn thể của vô sản giai cấp. Phải chú ý lấy phụ nữ thợ thuyền

vào Đảng và đƣa phụ nữ vào các ban cán sự. Đồng thời phải đƣa phụ nữ, nữ công

nhân vào Công hội, Nông hội cho đông, lại cần phải đƣa họ vào cơ quan chỉ huy

để tập làm công việc lãnh đạo quần chúng… [27, tr 15].

Sau cao trào cách mạng 1930-1931, cách mạng Việt Nam nói chung,

phong trào công nhân nói riêng bị đàn áp tổn thất nặng nề và ở vào thời kỳ thoái

trào, Đại hội lần thứ nhất của Đảng (3-1935) đã đánh giá tình hình, rút ra nhiều

bài học kinh nghiệm, trong đó có vấn đề vận động phụ nữ công nhân lao động.

Nghị quyết về phụ nữ vận động thông qua tại Đại hội, phần nhiệm vụ cần kíp đã

chỉ rõ: “Cần đem các phần tử phụ nữ hăng hái (gồm cả dân tộc thiểu số) vào các

cơ quan chỉ đạo. Dùng hết các hình thức công khai và bán công khai mà kéo quần

chúng phụ nữ vào phạm vi tổ chức những hình thức tổ chức quần chúng rất dễ

hiểu rất thích hợp cho các lớp phụ nữ lao động là các Hội phụ nữ lao động, phụ

nữ lao động giải phóng... chen vào các đoàn thể phụ nữ cải lƣơng mà kéo quần

chúng phụ nữ lao động của chúng sang phe cách mạng” [27, tr 16].

19

Do quan điểm và đƣờng lối đúng đắn nên Đảng đã sớm tập hợp đƣợc quần

chúng nói chung và lực lƣợng phụ nữ nói riêng tiến hành cuộc cách mạng giải

phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Dƣới sự lãnh đạo của Đảng, phụ nữ Việt Nam

đã hăng hái, tự nguyện tham gia đấu tranh góp phần to lớn vào thắng lợi chung

của cách mạng giải phóng dân tộc.

1.2.2. Phong trào đấu tranh của phụ nữ cả nƣớc

Trong cao trào 1930 - 1931, phụ nữ Việt Nam thực sự là một lực lƣợng

trọng yếu. Ngay từ những ngày Đảng cộng sản mới thành lập, nhiều chị từ Thanh

niên Cách mạng đồng chí Hội, từ Tân Việt Cách mạng Đảng đủ tiêu chuẩn đã

đƣợc chuyển sang thành đảng viên Cộng sản. Qua thử thách, số đảng viên nữ

ngày càng đông. Một số chị đã đƣợc cử vào các cấp ủy hay giữ những trọng trách

của Đảng ở các địa phƣơng. Ngoài việc tham gia vào các đoàn thể nhƣ: Công hội,

Nông hội đỏ, Thanh niên cộng sản đoàn, Cứu tế đỏ... là những tổ chức chung của

cả nam lẫn nữ. Chị em còn tham gia vào các tổ chức nhƣ: “Phụ nữ Giải phóng”,

“Phụ nữ Phản đế” (là những tổ chức tiền thân của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt

Nam sau này). Những tổ chức đó đã tập hợp và giáo dục quần chúng từ cơ sở.

Nhiều nơi còn chú ý mở lớp đào tạo cán bộ, ra tờ báo riêng cho phụ nữ, tổ chức

lớp dạy chữ quốc ngữ, nhóm đọc sách báo để nâng cao trình độ hiểu biết của chị

em về chủ nghĩa Mác – Lênin, về Đảng cộng sản, về quyền lợi phụ nữ, tập cho

phụ nữ làm quen với hoạt động cách mạng và tranh đấu với kẻ thù nhƣ: nuôi giấu

cán bộ, làm giao thông liên lạc, quyên góp ủng hộ cách mạng, ấn loát, rải truyền

đơn, diễn thuyết, mít tinh, biểu tình...

Ở Quảng Nam, Đà Nẵng, ngay từ khi thành lập Đảng bộ (3.1930) chị Thái

Thị Bôi và sau đó là chị Trần Thị Dƣ đã đƣợc chuyển từ Thanh Niên Cách mạng

Đồng Chí Hội sang thành đảng viên Đảng cộng sản. Ở huyện Điện Bàn, Duy

Xuyên, Quế Sơn, Thị xã Hội An.v.v.., một số chị em đã tham gia vào các tổ chức

Nông hội, Công hội, Cứu tế đỏ. Tháng 10 năm 1930, tổ chức “Phụ nữ Giải

20

phóng” đầu tiên đƣợc hình thành ở Hội An có 2 nhóm gồm 6 hội viên do chị

Trần Thị Dƣ phụ trách. Ở Điện Bàn, một số chị em đƣợc tổ chức vào “Hội phụ

nữ Phản đế”. Chị em cắt tóc ngắn lên núi Đức Ký cắt máu ăn thề, nguyện giữ bí

mật trung thành với tổ chức. Ở Thành phố Đà Nẵng và các huyện Duy Xuyên,

Tam Kỳ, Thăng Bình, Quế Sơn, Hòa Vang,v.v..., đông đảo chị em đã tham gia

vào các nhóm đọc sách báo. Để giữ bí mật, chị Trần Thị Dƣ đã đóng vai “Vợ

giả” để tổ chức cơ sở ấn loát tài liệu của Đảng ở Hội An. Chị Hoàng Thị Ái vừa

làm công nhân xƣởng chè ở Đà Nẵng, vừa làm công việc ấn loát, rải truyền đơn

của Đảng.

Tại Quảng Ngãi, ngay từ khi mới thành lập Đảng bộ (tháng 3 năm1930),

nhiều chị đã đƣợc kết nạp vào Đảng. Một số chị đã đƣợc giao những trọng trách

nhƣ: Chị Trần Thị Hiệp (Tỉnh ủy viên), Nguyễn Thị Nhạn (Bí thƣ huyện ủy

Nghĩa Hành), Lê Thị Hành (Bí thƣ huyện ủy Bình Sơn), Trần Thị Lan (Bí thƣ

huyện ủy Tƣ Nghiã), Huỳnh Thị Tuyết (Huyện ủy viên Mộ Đức), Phạm Thị

Trinh (Bí thƣ Tổng ủy tổng Thƣợng, huyện Sơn Tịnh) và các bà các chị khác

nhƣ: Huỳnh Thị Hồng Hà, Huỳnh Thị Hồng Đào, Võ Thị Cơ (Đức Phổ), Phạm

Thị Xuy (Bình Sơn), Huỳnh Thị Thàng (Ba Tơ), Trần Thị Viêm, Trần Thị Trong

(Nghĩa Hành), Mai Thi Én, Mai Thị Thục (Sơn Tịnh)... đều là những đảng viên

tiêu biểu, có uy tín với phong trào địa phƣơng [37, tr 47].

Đảng bộ Quảng Ngãi mở lớp riêng đào tạo cán bộ nữ, thành lập các tổ

chức phụ nữ ở cơ sở nhƣ: “Phụ nữ đoàn” ở Tƣ Nghĩa, “Phụ nữ hiệp hội” ở Sơn

Tịnh. Cùng với các tờ báo “Dân cày”, “Khôn sống”, “Tiến lên”, v.v... Tỉnh ủy

còn xuất bản thêm tờ “Bạn gái” để giáo dục, vận động quần chúng phụ nữ tham

gia cách mạng.

Ngoài việc tham gia hoạt động tích cực, một số chị em còn sáng tác nhiều bài

thơ ca yêu nƣớc, cách mạng có tác dụng cổ vũ phong trào, giáo dục phụ nữ... Trong

đó tiêu biểu là các chị Ngọc Sƣơng (Tƣ Nghĩa), Huỳnh Thị Tuyết (Mộ Đức), Bích

21

Thủy, Phạm Thị Trinh, Mai Thị Én (Sơn Tịnh), Nguyễn Thị Nhạn (Nghĩa Hành),

Trần Thị Hƣờng, Nguyễn Thị Du (Thị xã Quảng Ngãi),v.v...

Ở Bình Định, sau khi ra đời các chi bộ Đảng Cộng sản ở Quy Nhơn

(3.1930) và ở Cửu Lợi, Hoài Nhơn (8.1930) rất quan tâm củng cố các tổ chức quần

chúng đã có của Thanh Niên Cách mạng đồng chí Hội, trong đó nhấn mạnh vấn đề

phát triển Hội Phụ nữ. Sau một thời gian ngắn, Hội phụ nữ thôn Cửu Lợi ra đời

gồm có các chị Huỳnh Thị Thanh, Nguyễn Thị Châu và một số chị khác. Từ đó

phong trào lan rộng ra cả Bắc và Trung Hoài Nhơn cùng với các tổ chức Nông hội,

Thanh Niên cộng sản đoàn, Cứu tế đỏ,v.v... với đông đảo chị em phụ nữ tham gia.

Tháng 11 năm 1930, Huyện ủy lâm thời Hoài Nhơn thành lập có 6 chi bộ với 60

đảng viên. Các hội quần chúng lúc này lên đến mấy trăm hội viên. Đƣợc thử thách

trong hoạt động cách mạng, một số chị đƣợc kết nạp vào Đảng nhƣ: chị Võ Thị

Chiên, Nguyễn Thị Vụ (tại chi bộ Dĩnh Thạnh, Tam Quan). Tháng 6 năm 1931, tại

chi bộ thôn Trà Quang (Phù Mỹ) các chị Đỗ Thị Trâm, Hứa Thị Mai cũng đã đƣợc

kết nạp vào Đảng [37, tr 48].

Ở Khánh Hòa, tháng 4 năm 1930, Ban cán sự Đông Dƣơng Cộng sản Liên

đoàn đƣợc chuyển thành Tỉnh ủy Lâm thời Đảng cộng sản Việt Nam. Trong số

đảng viên Tân Việt Cách mạng Đảng đƣợc chuyển thành đảng viên Cộng sản có

hai chị Lê Thị Em và Bùi Thị Trung Lƣơng. Hai chị đƣợc phân công phụ trách cơ

quan và đƣờng dây liên lạc của tỉnh ủy. Ngoài ra còn có chị Thái Thị Bôi, từ

Đảng bộ Quảng Nam đƣợc chuyển vào sinh hoạt và hoạt động ở chi bộ này. Tuy

phụ nữ ở đây không có tổ chức riêng nhƣng nhiều chị em đã tham gia các đoàn

thể: Nông hội đỏ, Công hội đỏ... Các tổ chức này phát triển khá ở Tân Định

(Ninh Hòa ngày nay), Nha Trang, Vĩnh Xƣơng, v.v... Đến tháng 7 năm 1930 đã

có tới hơn 500 hội viên đoàn thể quần chúng.

Thực hiện chủ trƣơng của Trung ƣơng Đảng phát động cao trào cách mạng

trong cả nƣớc nhân dịp ngày Quốc tế lao động (1.5.1930), Tỉnh ủy đã huy động

22

quần chúng đấu tranh, rải truyền đơn, treo cờ Đảng, mít tinh, biểu tình, đòi dân

chủ... Những khẩu hiệu chính trị chung cùng với khẩu hiệu đòi quyền lợi thiết

thực của phụ nữ đã động viên, cổ vũ đông đảo chị em tham gia. Chị em là lực

lƣợng chủ yếu phân phối và tham gia treo cờ, dán và rải truyền đơn ở các thị tứ,

thị trấn, dọc các trục đƣờng giao thông, nhất là ở Nha Trang, Vĩnh Xƣơng và Tân

Định. Trong đợt đấu tranh ủng hộ công nông Nghệ Tĩnh, ngày 16 tháng 7 năm

1930 diễn ra cuộc biểu tình lớn ở Tân Định có đông đảo chị em tham gia và đi

đầu.

Dƣới sự chỉ đạo của Đảng bộ Tân Định (Ninh Hòa), đoàn biểu tỉnh có tới

hơn 500 ngƣời có trên một phần ba là chị em phụ nữ, đội ngũ chỉnh tề do đồng

chí Dƣơng Chƣớc và Nguyễn Thế chỉ huy. Xuất phát từ núi Ổ Gà (Ninh Đa) dẫn

đầu đoàn biểu tình là lực lƣợng phụ nữ. Chị Nguyễn Thị Thích (Suối Ré, Ninh

Lộc) đánh trống lệnh, các chị Nguyễn Thị Chuột (Hòn Khói, Ninh Diêm), Mai

Thị Chuộc, Huỳnh Thị Sƣơng (Suối Ré) cầm cờ đỏ búa liềm, chị Nguyễn Thị

Miến (Hòn Khói) cầm biểu ngữ... Đoàn vừa đi vừa hô vang khẩu hiệu “Đả đảo

thực dân Pháp và Nam triều phong kiến”, “Chống khủng bố trắng”, “Ủng hộ

công nông Nghệ Tĩnh và Quảng Ngãi”, “Chống sƣu cao thuế nặng, bỏ thuế chợ,

hạ giá lúa”, “Ủng hộ Liên bang Xô viết”,v.v... Đi đến đâu đoàn lại thu hút thêm

nhiều ngƣời tham gia. Khi vào tới thị trấn Tân Định đoàn đã lên đến 1.000 ngƣời.

Vƣợt qua đồn lính khố xanh, toán quân đồn trú này không kịp phản ứng vì quá

bất ngờ và hoảng hốt trƣớc lực lƣợng đông đảo cùng khí thế sôi sục của quần

chúng cách mạng. Đoàn biểu tình đã bao vây huyện đƣờng, phá nhà giam, thả tù

và buộc tên trị huyện Đinh Bá Cẩm cúi đầu nhận bản yêu sách. Trên đƣờng về,

một bộ phận quần chúng mở mít tinh tại chợ Dinh thu hút rất nhiều chị em phụ

nữ tham gia... [38, tr 16].

Đây là một trong những cuộc biểu tình lớn ở Nam Trung Bộ trong thời kỳ

này. Kẻ thù hốt hoảng ra sức đàn áp phong trào. Hai giờ chiều cùng ngày chúng

23

cho hai xe chở đầy lính ra phối hợp cùng bọn quan quân địa phƣơng truy lùng

đảng viên và cốt cán quần chúng. Gần 20 chị dẫn đầu đã lần lƣợt bị bắt, bị tra tấn

rất dã man nhƣng vẫn giữ tròn khí tiết.

Tinh thần và khí thế đấu tranh của phụ nữ Tân Định trong cuộc biểu tình

sáng ngày 16 tháng 7 năm 1930 đã cổ vũ mạnh mẽ phụ nữ toàn tỉnh tham gia

cuộc đấu tranh. Trong các ngày 16 và 17 tháng 7 năm 1930, diễn ra những cuộc

đấu tranh nhƣ đình công của công nhân xe lửa và Sở Thuế Nha Trang đòi tăng

lƣơng, đòi lập nghiệp đoàn. Nông dân Xuân Phong, Lƣ Cờm, Phú Vinh, Phú

Nông... đấu tranh đòi giảm thuế chống xâu. Đấu tranh của của ngƣ dân xóm

Cồn, Chụt, Cửa Bé... đòi định lại tỷ lệ ăn chia giữa chủ và thợ ghe mành. Chị em

các chợ Cửa (chợ Đầm), chợ Xóm Cồn, Bình Tân... đấu tranh chống tăng thuế

chợ. Trong tháng 8 và tháng 9 năm 1930, tại Tân Định, Nha Trang, Vĩnh

Xƣơng... lại có những đợt treo cờ, rải truyền đơn chống khủng bố và kỷ niệm

ngày quốc tế chống chiến tranh đế quốc (1. 8).

Ở Lâm Viên, tháng 4 năm1930, chi bộ Đảng cộng sản Đà Lạt thành lập.

Các đoàn thể: Công hội đỏ, Hội Phụ nữ, Hội Phản đế đồng minh v.v..., cũng rất

phát triển. Riêng Hội Phụ nữ gồm hội viên là công nhân, tiểu thƣơng, viên chức

tham gia các cuộc đấu tranh và tiến hành nhiều đợt tuyên truyền vận động, rải

truyền đơn, treo cờ, bãi công, chống sa thải, chống giảm và quỵt lƣơng, chống

đánh đập công nhân...

Tại Ninh Thuận, tháng 4 năm 1930, chị Dƣơng Thị Thủy đƣợc kết nạp ở

chi bộ Tháp Chàm, sau đó chị đƣợc phân công đi hoạt động ở Khánh Hòa, Đà

Lạt. Sau khi Đảng ra đời, các tổ chức Nông hội, Công hội đỏ đƣợc thành lập ở 30

làng của Vạn Phƣớc, Phú Quý, Đắc Nhơn, Kinh Dinh, Đề-Pô Tháp Chàm và một

số làng của đồng bào Chăm ở Huyện Ninh Phƣớc trong đó khá đông phụ nữ tham

gia.

24

Ở Bình Thuận, sau khi chi bộ Đảng ra đời, trong tổ Nông hội làng Tùy

Hòa (Hàm Thuận), các bà, các chị Nguyễn Thị Ngôn, Nguyễn Thị Bốn (Hoa),

Nguyễn Thị Quán, Nguyễn Thị Đơn là những hội viên hoạt động rất tích cực. Chị

Hồ Thị Quế ở thị xã Phan Thiết đã thoát ly làm liên lạc cho các đồng chí đặc phái

viên Xứ ủy Nam kỳ cử ra Bình Thuận hoạt động.

Sau khi đƣợc thành lập, theo chủ trƣơng của Trung ƣơng Đảng, các Đảng

bộ phát động cao trào cách mạng nhằm gây thanh thế của Đảng, nâng cao trình

độ giác ngộ và rèn luyện quần chúng nhân các ngày kỷ niệm lớn nhƣ: ngày 1

tháng 5, ngày 1 tháng 8, ngày 7 tháng 11, ngày 8 tháng 3... Đặc biệt là nhân ngày

Quốc tế lao động (1. 5), các Đảng bộ tổ chức những cuộc mít tinh, biểu tình lớn,

huy động đông đảo quần chúng treo cờ Đảng, rải truyền đơn với các khẩu hiệu:

Giảm sƣu, giảm thuế, giảm tô và nợ lãi, tăng tiền lƣơng, ngày làm 8 giờ, phản đối

chiến tranh đế quốc, đánh đổ ách thống trị của đế quốc Pháp và Nam triều phong

kiến, ủng hộ Liên bang Xô Viết... Những khẩu hiệu chính trị chung cùng với

những khẩu hiệu đòi quyền lợi thiết thực riêng của phụ nữ đã thu hút đông đảo

chị em phụ nữ tham gia.

Ở Hải Phòng, sau khi Đảng ra đời, phong trào cách mạng nói chung và

phong trào đấu tranh của phụ nữ nói riêng cũng phát triển mạnh mẽ. Nhằm đẩy

mạnh phong trào cách mạng Hải Phòng, hệ thống tổ chức của Đảng bộ đƣợc chấn

chỉnh và sắp xếp lại, bổ sung thêm thành phần công nhân. Vai trò thanh niên, phụ

nữ trong công nhân đƣợc chú ý. Các tổ chức quần chúng Thanh niên Cộng sản

Đoàn, Phụ nữ giải phóng, Công hội đỏ, Nông hội đỏ mở rộng ở cả thành thị và

nông thôn. Năm 1930, số phụ nữ trực tiếp hoạt động cách mạng ở Hải Phòng có

tới gần 50 ngƣời. Đƣợc sự chỉ đạo trực tiếp của Xứ uỷ Bắc kỳ, Đảng bộ phát

động phong trào đấu tranh sôi nổi đòi tăng lƣơng, giảm giờ làm, chống đánh đập,

cúp phạt, đòi giảm sƣu, giảm thuế. Chị em, nhất là nữ công nhân tích cực tham

gia vào các cuộc đấu tranh. Những ngày đầu tháng 5 năm 1930, tại Sáu Kho, chị

25

em phát báo Nhân đạo trƣớc bọn cảnh binh. Chị em tiểu thƣơng chợ Sắt bãi thị.

Công nhân Xi măng, máy điện bãi công… kỷ niệm ngày 1 tháng 5 năm 1930

truyền đơn mang nội dung phản đối Hội đồng đề hình: “Hỡi anh chị em công

nhân, nông dân, thƣ ký, học sinh và tiểu thƣơng! Hỡi đồng bào! Hội đồng đề hình

do thực dân Pháp thành lập đã sát hại hàng vạn ngƣời yêu nƣớc Việt Nam. Vài

ngày nữa thêm 9 ngƣời sẽ bị tử hình ở Hà Nội và 3 ngƣời ở Hải Phòng. Chúng

giết và còn giết nhiều hơn nữa. Hỡi đồng bảo… vì ai mà đồng bào bị tù đày, hy

sinh mặc dầu họ có cha mẹ, anh hị em, vợ chồng, con cái? Không phải là để giải

phóng cho chúng ta ƣ? Bổn thận của chúng ta là đình công, biểu tình để phản đối

Hội đồng đề hình, phản đối sự dã man ấy…” [6, tr 39]. Ngày 5 tháng 9 năm

1930, nông dân Đình Vũ (Hải An) biểu tình đòi giảm thuế muối. Nam nữ nông

dân phá kho, lấy muối chia cho nhân dân. Học sinh trƣờng Trung Hành cũng tích

cực tham gia. Mọi ngƣời hô vang khẩu hiệu:

- Nhân dân phải đƣợc sử dụng muối tự do!

- Ủng hộ phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh!

Thực dân Pháp tìm mọi cách dập tắt phong trào cách mạng, tiêu diệt Đảng

Cộng sản. Những cuộc bắt bớ xảy ra liên tiếp. Có nhiều đồng chí nữ bị bắt, bị

đánh đập dã man, nhƣng vẫn giữ vững khí tiết ngƣời cộng sản. Trong nhà giam

Hải Phòng, đồng chí Hoàng Quốc Việt liên hệ với ngƣời lính gác tù nhờ mua

giúp vải đỏ. Chị Bích Hợp (vợ đồng chí Lƣơng Khánh Thiện) và chị Khánh cắt

vải may đƣợc 2 lá cờ đỏ dán búa liềm bằng giấy trắng. Một lá cờ đƣợc đồng chí

Phúc An treo ở đề lao Hải Phòng, trƣớc sự kiểm soát nghiêm ngặt của bọn lính

gác. Còn một lá cờ đƣợc nữ đồng chí Bích Hợp khéo léo giấu trong độn tóc chờ

dịp sử dụng.

Tuy bị thực dân Pháp khủng bố nhƣng phong trào cách mạng ở Hải Phòng

vẫn phát triển. Hải Phòng đƣợc bổ sung thêm nhiều nữ đồng chí và quần chúng

trung kiên, hoạt động trong phong trào công nhân, tiểu thƣơng và trong các cơ

26

quan Đảng. Ban tuyên truyền của Tỉnh uỷ có Lƣu Thị Định, Nguyễn Thị Nhài,

Đào Thị Toan. Ban ấn loát có Lê Thị Chắt, Trần Thị Tho, Nguyễn Thị Thảo. Ban

giao thông có Phạm Thị Hảo, Nguyễn Thị Vân, Nguyễn Thị Di (tức Phƣơng). Nữ

đồng chí Nguyễn Thị Vân nhận nhiệm vụ liên lạc với các đồng chí trên tàu,

thƣờng chuyển vũ khí, tài liệu tới các địa điểm khác nhau. Nữ đồng chí Lê Thị

Chắt ở cơ quan in, có một thời gian nhận trách nhiệm trƣởng cơ quan. Ban tài

chính có Hoàng Thị Diệp 17 tuổi. Chị Hoàng Thị Diệp đƣợc mẹ là Trần Thị Tho

giác ngộ tham gia hoạt động và đƣợc kết nạp vào Đảng. Nữ đồng chí Bích Thuỷ,

ngoài nhiệm vụ liên lạc còn là ngƣời giúp việc nấu ăn cho các đồng chí trong cơ

quan Tỉnh uỷ Hải Phòng (những đồng chí đƣợc bổ sung vào những thời điểm

khác nhau, hoạt động trong những năm 1930 – 1931)… Để giữ bí mật, một số

đồng chí đóng giả là vợ chồng nhằm che mắt địch.

Trong Hội nghị tháng 10 năm 1930, Trung ƣơng Đảng nhận định vai trò

của phụ nữ đối với cách mạng. Hội nghị thông qua Luận cƣơng chính trị quyết

định nhiều vấn đề: “Phải tổ chức ra các đoàn thể phụ nữ nhƣ “Phụ nữ Liên hiệp

hội” mục đích là mƣu quyền lợi cho phụ nữ, làm cho phụ nữ đƣợc triệt để giải

phóng”… Ban chấp hành Trung ƣơng thông qua Điều lệ Phụ nữ Liên hiệp hội.

Điều lệ quy định rõ: “…Mỗi tỉnh thành lập một tỉnh Phụ nữ hiệp hội và một tỉnh

chấp uỷ viên. Mỗi thành phố hay mỗi phủ huyện thành lập một phân hội phụ nữ

và một ban chấp hành uỷ viên…”[27, tr 12]. Nghị quyết của Đảng từng bƣớc

đƣợc triển khai trong hoàn cảnh phong trào cách mạng đang lâm vào thoái trào.

Do vậy, không phải nơi nào cũng lập đƣợc hiệp hội.

Từ đầu năm 1931, phong trào cách mạng bị kẻ thù khủng bố ác liệt. Nhiều

gia đình vẫn là cơ sở tin cậy của cán bộ hoạt động bí mật, trong sự dò la, vây bắt

của mật thám và cảnh binh. Các mẹ, các chị dù biết sẽ hy sinh, tù đày nhƣng vẫn

nhận bảo vệ nuôi cán bộ trong nhà, cất giấu tài liệu, vũ khí đảm bảo bí mật, an

toàn. Bà Phạm Thị Tứ ở làng Hạ Lý thƣờng nuôi các đồng chí lãnh đạo của Đảng

27

bộ trong những năm phong trào cách mạng ở Hải Phòng bị địch khủng bố ác liệt

nhất. Mặc dầu bị mật thám rình rập ngày đêm nhƣng từ những năm 1930, gia

đình bà là cơ quan in ấn tài liệu của Xứ uỷ Bắc kỳ, hoặc là địa điểm hội họp của

ban cán sự Hải Phòng. Bà thƣờng giúp tiền để các đồng chí hoạt động và canh

gác, bảo vệ cán bội hội họp. Bà Ngãi (ở số 39 ngõ Đá), ngƣời nấu ăn cho anh em

Tuyên huấn Xứ uỷ Bắc kỳ.Khi cơ quan bị vây, bà và nhiều đồng chí bị bắt. Bà

chịu đựng mọi cực hình tra tấn, không nhận bất kỳ “tội” nào mà mật thám Pháp

gán cho. [6, tr 47].

Chị Nguyễn Thị Nhân ngƣời giữ liên lạc Hà Nội - Hải Phòng, bị bắt khi

trong thắt lƣng có nhiều tài liệu của Đảng. Chị đã cắn răng chịu đựng đòn tra tấn

thâm hiểm nhất của kẻ thù, cắn lƣỡi hy sinh oanh liệt, thà chết không khai, nêu

cao khí phách hiên ngang của ngƣời cộng sản. Trong phiên toà Hội đồng đề hình

xử các chiến sĩ cộng sản tại Kiến An ngày 26 tháng 1 năm 1931, những nữ đảng

viên cùng đồng chí của mình biến phiên toà thành nơi tố cáo tội ác của đế quốc,

tỏ rõ ý chí kiên cƣờng bất khuất của phụ nữ Việt Nam. Chị Nguyễn Thị Bích Hợp

đanh thép trả lời tên chánh án “Tôi vào Đảng cộng sản bởi vì chủ nghĩa cộng sản

là một học thuyết đúng đắn…Nếu ông là ngƣời vô sản thì ông cũng vào đảng nhƣ

tôi” [6, tr 41]. Cuối phiên toà, lá cờ đỏ búa liềm do ngƣời phụ nữ đảng viên

Nguyễn Thị Bích Hợp cất giấu từ đề lao đƣợc giƣơng cao trong tiếng hô vang

khẩu hiệu của các đảng viên cộng sản:

- Đảng cộng sản Đông Dƣơng muôn năm!

- Đả đảo Hội đồng đề hình, đả đảo đế quốc chủ nghĩa!

Trong báo cáo gửi Quốc tế cộng sản (19.2.1931), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc

viết: “Khủng bố trắng không thể làm giảm tinh thần cách mạng của các chiến sĩ.

Những câu trả lời của anh chị em trƣớc toà đã chứng tỏ điều đó. Mặc dù anh chị

em không đƣợc phép nói nhiều” [33, tr 34].

28

Ở Hoằng Hoá (một huyện nằm ở phía Đông Nam tỉnh Thanh Hoá) phong

trào đấu tranh của phụ nữ dƣới sự lãnh đạo của Đảng cũng diễn ra rất sôi nổi.

Trên mảnh đất anh hùng ấy, phụ nữ Hoằng Hoá đã xứng đáng là những ngƣời giữ

vai trò trụ cột trong gia đình và ngoài xã hội. Tháng 9 năm 1930, chị bộ Đảng

cộng sản Việt Nam của Hoằng Hoá đƣợc thành lập đầu tiên ở thôn Cự Đà (Hoằng

Minh) nhiều ngƣời mẹ, ngƣời vợ có con, có chồng đi hoạt động cách mạng đã

đảm đang công việc gia đình, nuôi và bảo vệ cán bộ. Trong các hội truyền bá

quốc ngữ, hội tƣơng tế, hội ái hữu, hội bạn cày, hội bạn cấy, hội dệt vải… đã thu

hút nhiều ngƣời phụ nữ tham gia. Chị em đã đoàn kết giúp đỡ nhau đi cày, đi

câấykhi gặp khó khăn, tƣơng trợ nhau đồng tiền, bát gạo lúc giáp hạt đói kém,

giúp đỡ nhau khi sinh đẻ ốm đau, khi cha mẹ già yếu… Thông qua những tổ chức

này, phụ nữ dần dần đƣợc giác ngộ, và bƣớc lên đƣờng đấu tranh, dƣới ngọn cờ

của Đảng.

Ở Quảng Nam, Đà Nẵng, những năm 1930 – 1931, những hoạt động táo

bạo của Đảng nhƣ treo cờ búa liềm trên nóc tòa sứ Hội An, sở cảnh sát Đà Nẵng,

cột đèn biển Hòa Mỹ, đƣờng dây điện trƣớc nhà ga, trên màn ảnh rạp Lạc

Khoáng (nay là rạp 29.3). Truyền đơn đƣợc rải ở nhiều nơi. Các cuộc mít tinh ở

Hội An, Chiêm Sơn, Thi Lai (Duy Xuyên), Khe Muôn (Quế Sơn) và kỷ niệm

ngày chống chiến tranh đế quốc (1.8)... đã gây đƣợc thanh thế của Đảng và có

ảnh hƣởng tốt đến quần chúng và nhiều chị em phụ nữ tiên tiến.

Ở Ninh Thuận, sáng ngày 1 tháng 5 năm 1930, truyền đơn cộng sản rải

khắp nơi, cờ đỏ búa liềm phấp phới tung bay trên Đềpô Tháp Chàm và chợ làng

Bảo An. Hơn 100 anh chị em công nhân Đềpô Tháp Chàm đã tham gia cuộc mít

tinh kỷ niệm ngày Quốc tế lao động đòi chủ Pháp tăng lƣơng, giảm giờ làm,

không đƣợc vô cớ cúp phạt… Cuộc đấu tranh do chi bộ Đảng tổ chức với sự

tham gia của các cơ sở nòng cốt trong đó có một số chị rất đắc lực nhƣ chị Trần

Thị Có, chị Hồng Việt… Tiếp đó ngày 1 tháng 8 năm 1930 và ngày 19 tháng 10

29

năm 1930, công nhân làng Bảo An, Phú Thọ, Đông Ba tổ chức kỷ niệm cách

mạng tháng Mƣời và ủng hộ Xô Viết Nghệ – Tĩnh. Sau các đợt đấu tranh, ảnh

hƣởng cách mạng đã lan rộng trong các tầng lớp nhân dân, đã in sâu trong tâm trí

chị em những từ “Cộng sản”, “Bình đẳng”, “Bình quyền”… Bọn địch đã bắt 600

ngƣời và đƣa 347 ngƣời ra xét xử nhƣng những ngƣời cộng sản không hề khiếp

sợ. Chị em có chồng con bị bắt, tra tấn, tù đày vẫn lo gánh vác công việc gia

đình, động viên chồng con giữ vững khí tiết cách mạng [37, tr 52].

Ở Gia Lai, đồng chí Hà Phú Hƣơng, một đảng viên trí thức đi “vô sản hoá”

ở đồn điền Bầu Cạn đã tổ chức Công hội đỏ đầu tiên. Từ tháng 5 đến tháng 7

năm 1930, Công hội đã tổ chức nhiều cuộc đấu tranh đòi tăng lƣơng, giảm giờ

làm đƣợc đông đảo công nhân nam nữ tham gia. Địch khủng bố, đàn áp, bắt đồng

chí Hà Phú Hƣơng và 15 công nhân. Tháng 8 năm 1930, công nhân đồn điền

phẫn uất, nổi dậy đình công, phản đối bắt ngƣời, đuổi thợ, đòi cải thiện đời sống,

bao vây đốt nhà cai Tằm, đuổi sếp Phƣơng, đòi thả đồng chí Hƣơng và số công

nhân bị bắt… Địch phải thả số công nhân bị bắt nhƣng đƣa đồng chí Hƣơng đi

giam ở Kon Tum.

Ở Bình Định, hoạt động phụ nữ trong các hội quần chúng lúc này tập trung

việc quyên góp tiền, nuôi giấu cán bộ, canh gác, liên lạc, rải truyền đơn... Nhân

ngày Quốc tế lao động (1. 5) và ngày quốc tế chống chiến tranh (1. 8), dƣới sự

lãnh đạo của tổ chức đảng ở Quy Nhơn, phụ nữ Bình Định đã tham gia đợt đấu

tranh trên quy mô lớn. Tại Phù Mỹ, trong dịp kỷ niệm ngày 1 tháng 8, chị Đỗ Thị

Trâm nhận nhiệm vụ rải truyền đơn ở các làng An Lƣơng, An Xuyên (xã Mỹ

Chánh) đã bị địch bắt giam tại nhà lao Bình Định. Trƣớc nhục hình tra tấn của

địch, chị vẫn không một lời khai báo khiến địch lúng túng và chùn bƣớc.

Nhân dịp kỷ niệm Cách mạng tháng Mƣời Nga (7.11.1930), phụ nữ Bình

Định đã tham gia treo cờ, rải truyền đơn nhiều nơi trong tỉnh do hai Đảng bộ Quy

Nhơn và Hoài Nhơn phối hợp tổ chức. Địch hoảng sợ, tìm đủ mọi cách ngăn

30

chặn, ra sức đánh phá cơ sở Đảng và các tổ chức quần chúng, xây thêm đồn bốt

và điếm canh, điều thêm mật thám về rình mò, tăng cƣờng xuyên tạc nói xấu

cộng sản, truy lùng, bắt bớ đảng viên và cơ sở quần chúng trong đó có 2 đồng chí

Bí thƣ đảng bộ Quy Nhơn và Hoài Nhơn.

Trƣớc tình hình hết sức khó khăn, phụ nữ Bình Định vẫn hăng hái tham gia

các cuộc đấu tranh trong những tháng đầu năm 1931, nhất là trong dịp kỷ niệm

ngày Quốc tế phụ nữ (8. 3) và ngày Quốc tế lao động (1. 5). Ngày 23 tháng 7

năm 1931, Đảng bộ Hoài Nhơn tổ chức cuộc đấu tranh ủng hộ phong trào cách

mạng Nghệ – Tĩnh – Ngãi với khẩu hiệu: Phản đối chiến tranh đế quốc, ủng hộ

Liên bang Xô Viết, phản đối bắn giết nhân dân trong các cuộc biểu tình Nghệ –

Tĩnh – Ngãi. Trƣớc sức mạnh nhƣ nƣớc vỡ bờ của hơn 3.000 nhân dân mà trong

đó khá đông là phụ nữ với vũ khí thô sơ, hùng dũng tiến về huyện lỵ Bồng Sơn,

địch huy động lính khố xanh, khố đỏ do công sứ Quy Nhơn trực tiếp chỉ huy đàn

áp. Cuộc đụng độ diễn ra vô cùng quyết liệt. Một số đồng chí hy sinh, nhiều đồng

chí, đồng bào bị bắt. Đây là cuộc biểu tình lớn từ khi Đảng bộ ra đời. Hầu hết chị

em phụ nữ có cảm tình với cách mạng ở Bắc Hoài Nhơn đều tham gia: một số lo

tiếp tế cơm nƣớc, cổ vũ các đoàn biểu tình. Khi cuộc biểu tình chấm dứt, bất chấp

nguy hiểm, chị em lại tham gia tổ chức lễ tang cho các đồng chí mới vừa hy sinh.

Đặc biệt ở Quảng Ngãi, hƣởng ứng phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, dƣới

sự lãnh đạo của Đảng bộ, quần chúng chuẩn bị lực lƣợng, vũ khí, tập luyện quân

sự... sẵn sàng đứng lên cƣớp chính quyền ở địa phƣơng. Các cuộc đấu tranh, mít

tinh, biểu tình liên tiếp xảy ra từ năm 1930 đến cuối năm 1931. Mở đầu là cuộc

biểu tình đêm mồng 7 rạng ngày tháng 10 năm 1930 của 50 nông dân huyện Đức

Phổ trong đó khá đông là phụ nữ. Với khí thế hừng hực, đoàn biểu tình đã giƣơng

cao biểu ngữ, cờ đở búa liềm rầm rập kéo về huyện đƣờng hô to các khẩu hiệu:

Giảm thuế, giảm xiêu; chống khủng bố đồng bào Nghệ Tĩnh, đả đảo đế quốc, đả

đảo phong kiến; thực hiện độc lập tự do; Đảng Cộng sản Đông Dƣơng muôn

31

năm... Tri huyện Đức Phổ hoảng sợ đã cùng với tay chân chạy trốn. Lực lƣợng

biểu tình tịch thu, đốt phá giấy tờ, sổ sách. Anh chị em rải truyền đơn, treo cờ

Đảng trên nóc huyện đƣờng. Phối hợp với Đức Phổ, phụ nữ cùng nhân dân huyện

Mộ Đức chặt cây ngả ra đƣờng, ngăn cản địch từ Quảng Ngãi vào, từ Ba Tơ

xuống để đàn áp. Sau cuộc biểu tình, địch bắt giam một số đồng chí. Huyện ủy

Đức Phổ đã tổ chức phụ nữ vào huyện đƣờng đấu tranh đòi thả những ngƣời bị

bắt. Bọn cầm quyền đã phải nhƣợng bộ.

Ngày 13 tháng 10 năm 1930, Tỉnh ủy Quảng Ngãi họp rút kinh nghiệm và

lập kế hoạch phát triển phong trào. Tiếp theo Đức Phổ là các cuộc biểu tình ở hai

huyện Sơn Tịnh và Mộ Đức. Ngày 30 tháng 10 năm 1930, hàng ngàn quần chúng

các làng An Kỳ, Sung Tích, Châu Sa rầm rộ kéo về huyện Sơn Tịnh do đồng chí

Mai Thị Thục dẫn đầu, buộc địch phải nhận yêu sách của ta. Sau đó chúng bắt

đồng chí Mai Thị Thục và một số ngƣời khác. Đêm ngày 16 tháng 11 năm 1930,

cuộc biểu tình lớn của nhân dân Mộ Đức do đồng chí Trần Thi Hiệp (Tỉnh ủy

viên trực tiếp chỉ đạo. Địch giả vờ nhận yêu sách, hứa thực hiện một số điểm

nhƣng chúng đã tìm cách bắt đồng chí Trần Thị Hiệp và một số cán bộ đảng viên.

Đồng chí Trần Thị Hiệp đã dõng dạc thét lớn: “Tụi bay có súng đạn lừa bắt tao

nhƣng bay không thể nào ngăn đƣợc sự phẫn nộ và khí phách hào hùng của đồng

bào, đồng chí tao” [37, tr 54]. Không nao núng trƣớc sự khủng bố của địch, chị

Trần Thị Phối, ngƣời chỉ huy dự bị, tiến lên giành lá cờ Đảng từ tay giặc tịch thu,

tiếp tục giƣơng cao dẫn đầu đoàn biểu tình.

Trƣớc sự đàn áp của kẻ thù, phong trào cách mạng vẫn dâng cao, lực lƣợng

cách mạng vẫn phát triển mạnh. Trong các cuộc đấu tranh, chị em phụ nữ đã tỏ rõ

khí phách và khả năng của mình. Nhiều chị đƣợc kết nạp vào Đảng và Hội Phụ

nữ. Các đồng chí Huỳnh Thị Tuyết, Phạm Thị Trinh đƣợc phân công vào đội

Tuyên truyền xung kích của tỉnh.

32

Trƣớc tình hình trên Tỉnh uỷ đã họp cuối tháng 12 năm 1930, quyết định mở

đợt đấu tranh mới ra toàn tỉnh. Từ ngày 15 tháng 1 đến ngày 23 tháng 2 năm 1930,

các cuộc biểu tình liên tiếp nổ ra khắp các huyện trung châu, miền núi và đảo Lý

Sơn.

Đặc biệt ở Bình Thuận, từ năm 1930, có phong trào quần chúng đấu tranh

chống bọn quan lại ăn hối lộ, chống các công ty tƣ bản dựa vào nhà cầm quyền

Pháp độc chiếm quyền kinh doanh nhƣ: Ve chai, nƣớc mắm… Điển hình là vụ

đấu tranh vạch trần vụ “Cộng sản giả” năm 1930 do bà Bùi Thị Tân (Vợ nhà chí

sĩ Trƣơng Gia Mô) kiện tên tri phủ Hoà Đa là Thân Trọng Dƣợc lợi dụng việc

đàn áp cộng sản, bắt một số ngƣời có máu mặt để tống tiền. Trƣớc những chứng cớ

rõ ràng, nhà cầm quyền Pháp phải thả 100 ngƣời bị chúng bắt giam, bỏ tù tri phủ

Hoà Đa 3 năm, thay tuần vũ Nguyễn Khoa Kỳ về tội có liên quan trong vụ này. Vụ

kiện thắng lợi, gây chấn động lớn. Cũng trong năm 1930, bà Bùi Thị Tân đã tổ

chức cuộc đấu tranh đòi nhà cầm quyền Pháp bỏ dự luật bắt buộc nƣớc mắm phải

đựng trong ve chai của Công ty Thuỷ tinh Đông Dƣơng sản xuất, không đƣợc

đựng trong hũ sành để độc quyền sản xuất.

Qua các cuộc đấu tranh trên một số đảng viên cốt cán bị bắt giam tại nhà

lao Phan Thiết trong đó có đồng chí Nguyễn Gia Tú. Lợi dụng việc ngƣời nhà

vào thăm nom các đồng chí bị bắt, đồng chí Nguyễn Gia Tú đã lãnh đạo phụ nữ

Hàm Thuận và thị xã Phan Thiết kiện vụ ăn hối lộ “Cộng sản giả” buộc tỉnh

trƣởng Bình Thuận phải cách chức Hồ Đức Bích, tri phủ Hàm Thuận và trả lại số

tiền ăn hối lộ.

Tại Tƣ Nghĩa, từ ngày 15 đến ngày 19 tháng 1 năm 1931, quần chúng Vạn

Tƣợng kéo đến hỏi tội bọn tay sai. Các nơi khác nhân dân cũng nổi dậy biểu tình

kết hợp. Đồng chí Trần Thị Lan, ngƣời dẫn đầu đoàn biểu tình ngày 17 tháng 1

của đồng bào Tây Tƣ Nghĩa và một số đông các đồng chí lãnh đạo bị bắt. Ở Sơn

Tịnh, từ ngày 17 đến ngày 19 tháng 1 năm 1931, ba cuộc biểu tình của nhân dân

33

các tổng Châu, Thƣợng, Trung liên tiếp diễn ra. Cả ba cuộc biểu tình ấy đều bị

đàn áp nhƣng nhân dân mà nhất là phụ nữ vẫn xông lên đòi bồi thƣơng nhân

mạng. Đồng chí Phạm Thị Trinh cầm cờ chỉ huy cuộc biểu tình của tổng Thƣợng

ngày 19 tháng 1 năm 1931 để truy điệu các đồng chí đã bị Pháp bắn chết. Trên

đƣờng đi từ Đồng Ké xuống huyện lỵ, nhân dân tham gia rất đông (trong đó có

đến hơn 2.000 phụ nữ tham gia). Với khí thế hừng hực buộc chi huyện Sơn Tịnh

phải nhận yêu sách không đƣợc khủng bố nhân dân. Tại Bình Sơn, đồng chí Lê

Thị Hành (tức Sính) lên thay, đã tổ chức một cuộc đấu tranh quy mô lớn từ bảy

hƣớng kéo về huyện lỵ. Đồng chí Phạm Thị Xuy, cầm cờ dẫn đầu cánh Hải Ninh

bị bắt cùng với một số đồng chí lãnh đạo khác.

Ngày 30 tháng 1 năm 1931, hơn 4.000 ngƣời trong đó phần lớn là phụ nữ,

biểu tình kéo về châu lỵ Trà Bồng. Cầm cờ đi đầu là hai chị Đoàn Thị Có và Võ

Thị Nã. Tại Nghĩa Hành, đầu tháng năm 1931, chị em tham gia vào các cuộc đấu

tranh của nhân dân kéo về huyện lỵ; chị Nguyễn Thị Kỷ cầm cờ dẫn đầu đoàn

biểu tình tổng Thƣợng. Ngày 5 tháng 2 năm 1931, nhân dân các vùng phía Bắc,

Đông và Tây huyện Đức Phổ lại biểu tình. Địch ra sức đàn áp và bắt nhiều ngƣời,

đốt phá nhà đồng chí Nguyễn Nghiêm, bắt giam bà thủ Bảy (mẹ vợ đồng chí

Nguyễn Nghiêm). Ngày 9 tháng 2 năm 1931, phụ nữ đảo Lý Sơn đã tham gia

biểu tình và nổi dậy làm chủ đảo một tuần lễ. Tại Ba Tơ, đồng chí Huỳnh Thị

Thàng cầm cờ dẫn đầu đoàn biểu tình của đồng bào Kinh – Thƣợng kéo về châu

lỵ. Bọn kiểm lý, binh lính khiếp sợ phải nhận yêu sách của ta. Quần chúng đƣợc

tự do hoạt động từ đêm 16 đến ngày 23 tháng 2 năm 1931.

Tuy phần lớn các cuộc biểu tình đều bị đàn áp nhƣng khí thế đấu tranh của

quần chúng vẫn dâng cao, ảnh hƣởng của Đảng vẫn lan rộng, các đoàn thể cũng

nhƣ hội Phụ nữ vẫn phát triển.

Trƣớc tình hình địch khủng bố ác liệt, Trung ƣơng Đảng và Xứ uỷ chỉ thị

chống khủng bố. Tỉnh uỷ Quảng Ngãi phát động ba ngày căm thù từ ngày 16 đến

34

ngày 18 tháng 2 năm 1931 (tức tết Tân Mùi) không vui xuân, không đốt pháo, tổ

chức thăm hỏi các gia đình bị địch khủng bố, truy điệu các chiến sĩ hy sinh, tìm

cách liên lạc với các đồng chí trong tù, chuẩn bị tổ chức cuộc đấu tranh mới. Phụ

nữ không họp chợ, không chở đò, không bán lƣơng thực thực phẩm cho địch, kêu

gọi binh lính không tham gia đàn áp cách mạng…

Ngày 23 tháng 4 năm 1931, thực dân Pháp và tay sai xử đồng chí Nguyễn

Nghiêm, bí thƣ tỉnh uỷ, đã gây xúc động và căm thù đúng vào dịp Quốc tế lao

động. Từ ngày 30 tháng 4 đến ngày 1 tháng 5 năm 1931, đông đảo phụ nữ và

nhân dân kéo về tỉnh lỵ đấu tranh. Ở thị xã, thị trấn nổ ra các cuộc mít tinh, tuần

hành, học sinh bãi khoá, tiểu thƣơng bãi chợ, nông dân không ra đồng cấy gặt. Ở

nhiều xã phụ nữ đội nón quai đen, cài băng tang vào áo… Họ hô vang khẩu hiệu:

Phản đối xử tử đồng chí Nguyễn Nghiêm, phản đối bắn giết dân thƣờng vô tội;

ủng hộ vào bảo vệ phong trào Nghệ – Tĩnh, ủng hộ Liên bang Xô viết; đả đảo đế

quốc Pháp và Nam triều phong kiến. Thực dân Pháp ra tay đàn áp, gây tổn thất

lớn cho phong trào. Đây là đợt đấu tranh sôi nổi và mạnh mẽ nhấtt, là đỉnh cao

trong cao trào 1930 – 1931 ở Quảng Ngãi.

Trong chỉ thị ngày 18 tháng 1 năm 1931, Thƣờng vụ Trung ƣơng Đảng

đánh giá: “Ở Quảng Ngãi tuy phong trào chƣa bằng Nghệ – Tĩnh nhƣng nó vẫn là

mạnh nhất trong phía Nam Trung kỳ” [20, tr 137].

Ở Bình Thuận, nhân ngày thế giới chống chiến tranh đế quốc, để chuẩn bị

cho cuộc đấu tranh, từ làng Tuỳ Hoà (nay là xã Hàm Đức, huyện Hàm Thuận) bà

Nguyễn Thị Quán và bà Nguyễn Thị Ngôn đã giấu truyền đơn trong gánh gạo

mang đến cho cơ sở ta trong toà sứ và một số nơi khác. Đúng vào giữa đêm 14,

rạng ngày 15 tháng 8 năm 1931, truyền đơn, biểu ngữ và cờ búa liềm đƣợc phân

phát kháp nơi từ Phan Thiết đi Ma Lâm, Tuy Hoà, Rạng. Sau đợt đấu tranh này,

địch đàn áp quyết liệt đƣa 360 ngƣời ra xét xử và kết án trong đó có các bà

Nguyễn Thị Quán, bà Nguyễn Thị Ngôn và bà Nguyễn Thị Hàn.

35

Tháng 11 năm 1931, chị em công nhân nhà máy diêm Hàm Rồng (Tỉnh

Thanh Hoá) đoàn kết với chị em nông dân làm công theo thời vụ, đã đấu tranh

bãi công, trực tiếp đƣơng đầu với bọn chủ là ba chị Tỏ, chị Sơn, chị Kiến. Trƣớc

sức mạnh đoàn kết đấu tranh của chị em, buộc bọn chủ phải tăng lƣơng cho chị

em từ hai xu lên ba xu một công [42, tr 11].

Nuôi, bảo vệ cán bộ, làm giao thông liên lạc là thành tích nổi bật nhất của

phụ nữ thời kỳ này. Tiêu biểu là chị Nguyễn Thị Trang (Hoằng Tiến), dũng cảm

mƣu trí giữ vững nhiều đầu mối giao thông liên lạc quan trọng của Đảng trong

huyện. Không những thế, chị còn giác ngộ đƣợc tám chị cùng lứa tuổi đôi mƣơi

nhƣ chị cũng tham gia cách mạng. Các chị vừa là cơ sở của Đảng, vừa làm nhiệm

vụ buôn hàng tấm để có tiền mua giấy in tài liệu cho Đảng. Chị Lê Thị Ngọc

Oanh (Hoằng Đạo), là cơ sở nuôi cán bộ đầu tiên của xã. Đồng chí Tố Hữu cùng

các đồng chí lãnh đạo của tỉnh thƣờng về đây hội họp để bàn kế hoạch, biện pháp

tuyên truyền vận động cách mạng. Khi bị lộ, bọn tri phủ bắt chị Oanh cùng với

ba đứa con nhỏ của chị về huyện giam cầm hai tháng. Bọn chúng đã doạ nạt rồi

dụ dỗ mua chuộc nhƣng chị vẫn bí mật hoạt động của chồng và các đồng chí

cùng hoạt động với chồng mình. Lúc ấy chị mới 20 tuổi. Không khuất phục đƣợc

chị, bọn chúng phải trả tự do cho chị và ba con nhỏ. Trở về quê hƣơng chị lại tiếp

tục hoạt động, đƣợc Đảng giao nhiệm vụ giác ngộ và vận động nữ thanh niên ra

nhập đội tự vệ của thôn.

Ở Hải Phòng những năm 1931 – 1932, thực dân Pháp tiến hành hàng chục

vụ vây ráp cơ sở cách mạng, bắt nhiều cán bộ lãnh đạo của Xứ uỷ, Tỉnh uỷ, đảng

viên và quần chúng trung kiên, lập Hội đồng đề hình để xử án, kết tội chiến sĩ

cộng sản, phong trào cách mạng ở Hải Phòng bị tổn thất nặng nề. Một số ngƣời

không chịu nổi đòn thù, bị dụ dỗ mua chuộc đã khai báo, nhƣng hầu hết cán bộ,

đảng viên và nhân dân vẫn giữ lòng sắt son với Đảng. Những ngƣời phụ nữ hiền

36

lành nhẫn nhục, đã tỏ rõ ý chí gan dạ, quật cƣờng, vẫn tiếp tục nuôi giấu, bảo vệ

cán bộ trƣớc sự truy lùng gay gắt của kẻ thù.

Do có kẻ phản bội, tháng 4 năm 1931, mật thám Pháp phá vỡ 7 cơ quan,

bắt 36 cán bộ, đảng viên và quần chúng trung kiên. Nhiều chị chủ nhà của những

cơ sở của Xứ uỷ, Tỉnh uỷ ở Tám Gian, Cát Cụt, Cầu Đất, ngõ Quang Lạc… cũng

bị bắt, bị tù đày. Trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, quần chúng vẫn tiến hành

đấu tranh phản đối Hội đồng đề hình, đòi huỷ bỏ án chém, thả tù chính trị, phản

đối chiến tranh. Nhiều cuộc hội họp, mít tinh có đông đảo anh em tham gia. Kỷ

niệm ngày Quốc tế lao động 1 tháng 5 năm 1931, các đồng chí đã chuẩn bị kế

hoạch rất chu đáo. Báo chí đƣa tin: “Đảng cộng sản đã dự định thu thập các tài

liệu và hết sức hành động, vào ngày 1 tháng 5 tới. Họ cắt cử đàn bà thì rải truyền

đơn, còn đàn ông thì đi biểu tình …” [6, tr 40]. Năm 1931, tiểu thƣơng chợ Sắt bãi

thị đòi giảm thuế, họ viết đơn, thu thập chữ ký và gửi đơn lên Sở Đốc lý yêu cầu

giảm thuế.Chị em bán rau, quả nhân cơ hội đó cũng tập hợp nhau lại, gánh rau lên

Toà Đốc lý đòi giảm thuế. Một tờ báo đƣa tin “Hãng rau đình nghiệp (bãi thị) để

phản đối thuế nặng và những điều bất công của chủ. Kết quả họ đƣợc nhƣ ý” [6, tr

45].

Tháng 7 năm 1931, Tỉnh uỷ đƣợc khôi phục. Các chị Bến, chị Khánh, chị

Mùi… tham gia ban cán sự. Tỉnh uỷ chủ trƣơng thành lập tổ chức phụ nữ để chỉ

đạo riêng phong trào phụ nữ Hải Phòng vì chị em giữ một vai trò rất lớn trong

các cuộc đấu tranh, nhất là ở các nhà máy đông nữ công nhân nhƣ máy Tơ, máy

Chỉ, máy Chai, Thảm len, tiểu thƣơng, học sinh… Tháng 8 năm 1931, quyết định

thành lập Tổ phụ nữ Liên hiệp hội Hải Phòng đƣợc thành lập gồm các chị

Nguyễn Thị Nghiêm, Trần Thị Bốn, Nguyễn Thị Khánh. Chị Nguyễn Thị

Nghiêm đƣợc chỉ định làm tổ trƣởng. Sau một thời gian chị Trần Thị Bốn giữ

trách nhiệm làm hội trƣởng.

37

Hiệp hội Phụ nữ Hải Phòng ra đời đánh dấu sự giác ngộ của chị em và

bƣớc trƣởng thành của phong trào phụ nữ. Đó là quyết tâm rất lớn của chị em

trƣớc những định kiến, lề thói phong kiến và thể hiện ý chí, ƣớc vọng vƣơn lên

đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng bản thân. Sau khi thành lập, Phụ nữ Liên

hiệp hội Hải Phòng xúc tiến việc phát triển cơ sở, hƣớng dẫn chị em tham gia hội

tƣơng tế, chơi họ, tổ buôn chung, bán chung và tranh đấu bảo vệ quyền lợi ngƣời

lao động, quyền lợi của phụ nữ. Tổ chức phụ nữ phát triển khá mạnh, đặc biệt là

ở các nhà máy đông phụ nữ, có phong trào đấu tranh liên tục và trong giới tiểu

thƣơng. Ở khu chợ Con đã có 15-16 nữ cảm tình và toàn thành phát triển tới vài

chục hội viên bí mật. Chị em đƣợc tập hợp trong tổ chức, tích cực tham gia hoạt

động.

Cuối năm 1931 đầu năm 1932, phong trào cách mạng Nam Trung Bộ bị

đánh phá nặmg bƣớc vào những năm tháng đầy khó khăn thử thách. Hầu hết các

cơ sở quần chúng bị địch phá vỡ. Bên cạnh một số đảng viên bị hy sinh tại chỗ,

đa số đảng viên quần chúng cách mạng bị bắt bớ tù đày, đƣờng dây liên lạc bị

mất. Tuy vậy ngọn lửa cách mạng của cao trào 1930 – 1931 vẫn âm ỉ, chờ thời cơ

bùng cháy. Điều đáng tự hào là đa số phụ nữ đảng viên vẫn giữ trọn khí tiết.

Trong tù các đồng chí vẫn cùng với anh em làm reo, tuyệt thực và đấu trí với

địch, đấu tranh chống khủng bố, chống bắt phụ nữ làm việc nặng, đi làm xâu bên

ngoài, đòi cải thiện điều kiện ăn ở, đòi thực hiện chế độ tù chính trị, tìm cách liên

lạc với bên ngoài để khôi phục tổ chức… Tiêu biểu có các đồng chí nhƣ: chị

Hoàng Thị Ái, Thái Thị Bôi, Trần Thị Dƣ (Quảng Nam, Đà Nẵng), Đỗ Thị Trâm

(Bình Định), Dƣơng Thị Thuỷ (Ninh Thuận).

Ở nhà lao Quảng Ngãi, phòng giam nữ có 15 lỗ cùm mà chúng nhốt đến hơn

60 ngƣời. Bà Trần Thị Viêm, các chị Nguyễn Thị Thuỷ, Nguyễn Thị Cheo là những

đầu mối liên hệ quan trọng của cách mạng nên bị địch tra tấn hết sức dã man mà vẫn

không hề khai báo. Chị Phạm Thị Trinh, 9 lần bị gia án vẫn không ký vào bản án.

38

Chị Nguyễn Thị Hợi, quê ở Nghệ An, cán bộ xứ uỷ Trung kỳ cuũng là một tấm

gƣơng đấu tranh trong nhà tù Quảng Ngãi. Và còn rất nhiều chị khác sẵn sàng hy

sinh, chịu đựng không hề khuất phục trƣớc kẻ thù.

Trƣớc phong trào đấu tranh của anh chị em các nhà lao, tháng 7 năm 1931,

bộ thuộc địa Pháp cử đoàn đại biểu sang kiểm tra tình hình chính trị ở Đông

Dƣơng. Cuộc đấu lý của các đồng chí Trần Thị Hiệp và Phạm Thị Trinh với toàn

quyền Pat-ki-tê khi hắn đến kiểm tra nhà lao Quảng Ngãi đã có tiếng vang lớn

qua các báo “Tiếng dân” của ta và báo “Nhân đạo” của Pháp.

Mặc dù địch khủng bố những đảng viên Cộng sản và cơ sở cách mạng vẫn

tìm cách liên lạc với nhau, với cấp trên, cùng với số đảng viên và quần chúng yêu

nƣớc từ nhà tù trở về xây dựng lại Đảng và các đoàn thể. Cuối năm 1932, phong

trào dần dần đƣợc khôi phục. Tổ chức Đảng nhiều nơi nhƣ: Quảng Nam, Quảng

Ngãi, Bình Định… đã gây dựng lại cơ sở và liên lạc với Xứ uỷ Trung kỳ. Không

những phần lớn chị em cơ sở hội viên nhƣ Cửu Lợi (Bình Định) còn phát triển thêm

các chị: Đinh Thị Yết, Đinh Thị Phiệt.

Trong những năm 1932 – 1935, mặc dù địch vẫn không ngừng khủng bố

nhƣng bên cạnh phong trào nông dân tiếp tục chống sƣu, chống thuế, đòi tăng

công cấy, công cày, giảm thuỷ lợi phí, chống cƣớp ruộng đất công… là phong

trào công nhân đòi tăng lƣơng giảm giờ làm, tiểu thƣơng đòi giảm thuế chợ vẫn

giữ vững và phát triển có tác dụng hỗ trợ lẫn nhau. Mặc dù phong trào đấu tranh

không sôi nổi nhƣ trƣớc do kẻ thù đàn áp ác liệt, trong năm 1932, nhiều hoạt

động cách mạng vẫn diễn ra. Với sự thông minh khéo léo, chị em tham gia rải

truyền đơn tại các khu lao động Xi măng, Hạ Lý, Trại Cau… kêu gọi công nhân

chống sa thải, chống đàn áp bóc lột. Ngày 21 tháng 1 năm 1932, nhân kỷ niệm

Lênin, Liép Nếch, Luych-Xăm-bua, truyền đơn đƣợc rải ở khắp các thành phố,

vùng ngoại thành và nông thôn Kiến An. Ngày 31 tháng 7 năm 1932, phụ nữ Hải

Phòng tích cực tham gia cuộc đấu tranh đả đảo thực dân Pháp xử chém hai đồng

39

chí Nguyễn Đức Cảnh và Hồ Ngọc Lân trƣớc cổng Đề lao Hải Phòng. Nhiều phụ

nữ đóng góp tích cực cho cách mạng.

Trƣởng thành trong phong trào cách mạng, đƣợc thử thách rèn luyện và

với tinh thần kiên trinh, bất khuất, những nữ đảng viên cộng sản đã tham gia vào

cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng bộ Hải Phòng. Từ đầu năm 1932 tới giữa

năm 1933, dù trong thời kỳ thoái trào, ban cán sự Hải Phòng đƣợc lập lại nhiều

lần (sau nhiều đợt khủng bố của đế quốc). Các chị Trần Thị Bốn, Nguyễn Thị

Khánh, Nguyễn Thị Mùi là uỷ viên Ban cán sự.

Thực dân Pháp tiếp tục đẩy mạnh khủng bố trắng. Những cuộc vây ráp xảy

ra liên tiếp. Hàng trăm cán bộ, đảng viên và quần chúng bị sa lƣới mật thám.

Nhiều ngƣời chỉ bị tình nghi cũng bị bắt: ngày 30 tháng 5 năm 1932, “3 nữ nông

dân Vinh Thị Định, Trần Thị Yến, Lê Thị Tú vì bị nghi có chân trong hội kín” [6,

tr 50]. Ngày 19 tháng 6 năm 1932, nữ đồng chí Nguyễn Thị Nghĩa bị bắt. Chúng

mở phiên toà xét xử, buộc tội chị có chân trong chi bộ đàn bà của Hội, thƣờng

liên lạc với Nguyễn Thị Tất, Băng Tâm… Đồng chí Trần Thị Bốn bị bắt khi đang

in tài liệu tại nhà số 37 phố Lò Mỗ… Các chị bị tra tấn hết sức dã man, chết đi

sống lại, có chị bị chúng triệt cả thiên chức của ngƣời phụ nữ. Nhƣng vƣợt lên tất

cả, các chị vẫn cắn răng chịu đựng, không run sợ hay tỏ ra mất tinh thần. Nhiều

chị vạch mặt lũ tay sai bán nƣớc, thà hy sinh, quyết không khai báo. Phong trào

cách mạng ở Hải Phòng tạm thời lắng xuống. Nhiệm vụ của Đảng bộ lúc này là

phục hồi liên lạc, chuẩn bị lực lƣợng tạo thời cơ mới. Những đảng viên còn lại

cùng với cơ sở trung kiên vẫn bám sát quần chúng, duy trì hoạt động. Hội viên

phụ nữ động viên nhau giữ vững tinh thần, tìm cách bắt mối, giúp đỡ cán bộ

nhanh chóng khôi phục tổ chức, khôi phục phong trào.

Đầu năm 1933, anh chị em Cứu tế đỏ ở Hội An (Quảng Nam) quyên góp

tiền mua sách báo, in sách bình dân giúp chi em lao động nghèo học tập. Phụ nữ

Phú Yên vận động mở trƣờng dạy chữ Quốc ngữ, mở lớp dạy ban đêm, khuyến

40

khích các em gái đi học… qua đó khơi dậy lòng yêu nƣớc và ý thức giác ngộ về

quyền lợi phụ nữ.

Ở Hải Phòng, đầu năm 1933, đồng chí Hoàng Đình Giong về xây dựng cơ

sở đảng và tổ chức quần chúng, chắp nối liên lạc giữa Hải Phòng với Xứ uỷ.

Cũng về Hải Phòng với đồng chí Hoàng Đình Giong có nữ đồng chí Vọng Bình.

Đồng chí Hoàng Đình Giong liên lạc với những đảng viên và cơ sở tại Dƣ Hàng

Kênh, tổ chức kết nạp đảng viên mới và thành lập chi bộ Đảng. Đảng viên có

khoảng 10 đồng chí ở nhà máy Tơ, Cảng và khu Du Hàng Kênh. Từ đó, phong

trào dần dần dƣợc phục hồi.

Năm 1934, nhiều nơi đã tổ chức các nhóm đọc sách báo, ca hát, ngâm thơ

cách mạng. Các đoàn thể nhƣ: Thanh niên, Nông hội, hội Phụ nữ, Cứu tế đỏ…

đƣợc phục hồi. Chị em vẫn chiếm tỷ lệ đáng kể trong các tổ chức nói trên, tiếp

tục làm giao liên đắc lực, mƣu trí, nuôi giấu và bảo vệ cán bộ, bảo vệ các cuộc

họp của Đảng và các đoàn thể. Phong trào cách mạng nhiều nơi lên cao, tiêu biểu

là cuộc mít tinh do đồng chí Mai Thị Én đứng lên diễn thuyết trƣớc 400 đồng bào

ở Tổng Châu (nay thuộc xã Tịnh Kỳ, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi) vào

tháng 8 năm 1934 đòi giảm xâu, giảm thuế và tô tức. Địch lo sợ nạn “tái tổ Cộng

sản” cho quân đi lùng sục, bắt bớ và đàn áp…

Đầu năm 1934, phụ nữ Hải Phòng tham gia phong trào ký tên, gửi đơn tới

đại biểu cứu tế đỏ Pháp đòi thả chồng con, anh em bị bắt giam tại nhà tù Sơn La,

Côn Đảo. Sang năm 1935, nổ ra cuộc bãi thị lớn của chị em tiểu thƣơng đòi giảm

thuế hàng và miễn thuế chỗ bán hàng. Song song với những cuộc đấu tranh ấy là

những đợt rải truyền đơn kêu gọi công, nông và nhân dân lao động đoàn kết đấu

tranh chống áp bức bóc lột của tƣ bản Pháp và địa chủ.

Phối hợp với phong trào các tỉnh đồng bằng, phong trào đấu tranh chống

Pháp của các tỉnh Tây Nguyên và miền Tây các tỉnh ven biển vẫn tiếp tục phát triển. Cùng với phòng trào N, Trang Lơng ở Đắc Lắc (1932 – 1935), phụ nữ và

41

đồng bào Gia Lai liên tục nổi dậy chống các cuộc hành quân của Pháp, chống sƣu

thuế rất quyết liệt. Năm 1931, đồng bào và phụ nữ Bahnar vùng Kannak (Gia

Lai), Kon Plong (Kon Tum) nổi dậy đấu tranh bao vây, tiến công đồn Kon Plong,

bắn bị thƣơng tên đồn trƣởng làm địch không dám lùng sục, bắt phu, thu thuế

vùng này. Ở huyện Ba Tơ (miền Tây Quảng Ngãi) phụ nữ cùng nhân dân kéo

xuống đánh chiếm đồn địch ở Liệt Sơn (Tây Đức Phổ). Trong cuộc đấu tranh này

nhiều ngƣời bị bắt. Chị em rất thông minh và gan dạ khiến giặc Pháp và tay sai

phải cảm phục. Thực dân Pháp phải thừa nhận “nhiều vùng nhân dân làm chủ núi

rừng, không chịu hàng phục. Có nơi vẫn sống hiên ngang trong những buôn làng

bất khả xâm phạm” [37, tr62].

Từ khi Đảng ra đời lãnh đạo nhân dân trong cả nƣớc đấu tranh giành độc lập

dân tộc, ruộng đất cho dân cày, quyền bình đẳng cho phụ nữ, phong trào cách mạng

phát triển chƣa từng có. Trong những năm cao trào cách mạng 1930-1931 và thời

kỳ thoái trào (1932-1935), phụ nữ cả nƣớc đã tích cực tham gia vào phong trào

đấu tranh cách mạng. Chị em vƣợt qua những hoàn cảnh hết sức khó khăn, nguy

hiểm, và sự đàn áp khốc liệt của kẻ thù. Lực lƣợng phụ nữ đƣợc tập hợp trong tổ

chức, giáo dục chính trị và nâng cao trình độ giác ngộ cách mạng. Phụ nữ nhận

thức rõ sự quan tâm của Đảng đến lợi ích của giới mình mà tin theo và ngày càng

gắn bó với Đảng. Trải qua quá trình rèn luyện trong đấu tranh, hầu hết cán bộ,

hội viên phụ nữ đều kiên trung, bất khuất, góp phần rất to lớn vào sự nghiệp cách

mạng. Điều đó đặt cơ sở cho phong trào phụ nữ phát triển mạnh mẽ trong cao

trào cách mạng mới. Phong trào phụ nữ đã trƣởng thành nhanh chóng, có bƣớc biến

đổi cơ bản. Chị em đã đóng góp tất cả tinh thần, trí tuệ, sức lực và của cải của mình

cho cách mạng và đã trở thành lực lƣợng trọng yếu.

Đại hội Đảng lần thứ nhất (3.1935) đã đánh giá: “Cờ vận động dân tộc và

xã hội giải phóng xuất hiện thì có phụ nữ tham gia cách mạng. Thời kỳ cách

mạng vận động cao nhất của phụ nữ lao động là năm 1930 – 1931. Trong hai

42

năm ấy, không có cuộc thị oai, bãi công nào mà không có phụ nữ tham gia. Có

lúc phụ nữ dẫn đạo các cuộc tranh đấu, có nơi đã tổ chức những cuộc biểu tình,

bãi công hoàn toàn bao gồm đàn bà… những chứng cứ đó biểu tỏ rằng bộ phận

phụ nữ lao động Đông Dƣơng đã có giai cấp giác ngộ, rằng phụ nữ là một lực

lƣợng cách mạng rất lớn mà Đảng Cộng sản hết sức chú ý tổ chức và chỉ đạo”.

Từ nhận định đó, Nghị quyết đã nêu rõ: “Mỗi đảng bộ phải thiết pháp tổ chức cho

đƣợc phụ nữ vào Đảng, vào Thanh Niên Cộng sản đoàn và các đoàn thể cách

mạng, cần đem các phần tử nữ hăng hái (gồm cả phụ nữ dân tộc thiểu số và

ngƣời ngoại quốc) vào các cơ quan chỉ đạo”[20, tr 63].

Trƣớc phong trào cách mạng ngày càng mạnh trong cả nƣớc cũng nhƣ ở

Nam Trung Bộ, bọn Tờ-rốt-kít, bọn cơ hội cải lƣơng công khai xuyên tạc chủ

nghĩa Mác – Lênin, nói xấu Đảng ta, hô hào nữ quyền theo quan điểm tƣ sản, lôi

kéo phụ nữ về gia đình, chế giễu cán bộ phụ nữ ra hoạt động cách mạng, cho

cộng sản là vô gia đình... Nghị quyết của Đảng (3.1935) đã nói rõ: “Chống các xu

hƣớng đầu cơ, miệt thị phụ nữ vận động, chống hết các lý thuyết phản động bọn

tƣ sản và phong kiến ngăn cản cuộc đấu tranh cách mạng của phụ nữ vận động”

[20, tr 63].

Phong trào phụ nữ cả nƣớc có đƣợc kết quả nhƣ trên là nhờ có ánh sáng

của Đảng đƣa đƣờng chỉ lối, đã khơi dậy và phát huy những truyền thống và khả

năng của phụ nữ, đã giáo dục và tạo điều kiện để chị em hoàn thành nhiệm vụ

trƣớc mắt và chuẩn bị bƣớc vào những cuộc đấu tranh tiếp theo.

1.2.3. Phong trào đấu tranh của nữ công nhân lao động

Đảng Cộng sản Đông Dƣơng ra đời (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) đã mở

ra một thời kỳ mới trong lịch sử đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam nói

chung, của phong trào nữ công nhân lao động nói riêng.

Sau khi ra đời, Đảng Cộng sản tăng cƣờng hoạt động trong phong trào

công nhân, mở rộng các cuộc đấu tranh của công nhân, xây dựng cơ sở ở các xí

43

nghiệp, coi công vận là công tác trọng tâm của mình, Đảng đánh giá cao vai trò

và khả năng các mạng của phụ nữ đặc biệt là nữ công nhân.

Sự chuyển hƣớng kịp thời về chủ trƣơng, phƣơng châm, phƣơng pháp vận

động công nhân và phụ nữ lao động của Đảng ta đã khơi dậy tinh thần yêu nƣớc

của nữ công nhân lao động, hƣớng họ tham gia đấu tranh cách mạng giải phóng

dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng phụ nữ. Đây là điểm rất tiến bộ của

Đảng ta, một chính Đảng vừa mới thành lập, ở một nƣớc thuộc địa phong kiến

còn mang nhiều tàn tích lạc hậu của tƣ tƣởng phong kiến trọng nam khinh nữ.

Nhờ vậy phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân nói chung, của nữ công

nhân lao động nói riêng có những bƣớc phát triển mạnh mẽ, đóng vai trò quan

trọng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc.

Phong trào đấu tranh của nữ công nhân lao động gắn liền với phong trào

đấu tranh của giai cấp công nhân việt Nam và phụ nữ Việt Nam. Từ tháng 10

năm 1929, nữ công nhân lao động đã tham gia cuộc bãi công của 1.800 công

nhân cao su ở đồn điền Phú Riềng chống việc phải ăn gạo hẩm, khô mục, chống

đánh đập, đòi tăng lƣơng, đòi bảo vệ khi sinh đẻ. Tiếp đó là cuộc bãi công của

hơn 400 công nhân Nhà máy Sợi Nam Định phản đối đánh đập, đòi tăng lƣơng,

đòi bảo vệ nữ công nhân khi sinh đẻ...

Từ sau Hội nghị thành lập Đảng Cộng Sản Đông Dƣơng, một khí thế đấu

tranh mới bùng lên trong công nhân lao động, mà tiêu biểu là cuộc bãi công của

3.000 công nhân Đồn điền cao su Phú Riềng (3.1930) trong đó lực lƣợng lao

động phụ nữ chiếm hơn một nửa, các chị đã hăng hái tham gia biểu tình, tham gia

trong đội Xích Vệ đỏ, các chị còn tự bảo nhau đem ớt trộn với tro để ném vào

mặt lính khố xanh và lính lê dƣơng nếu chúng đến bắt họ để hãm hiếp. Lần đầu

tiên trong lịch sử bãi công ở Đông Dƣơng, cờ đỏ búa liềm đƣợc treo trên, án trại.

Ảnh hƣởng cuộc bãi công lan rộng, mặc dù chính quyền thực dân khủng bố gắt

gao, đàn áp đẫm máu.

44

Tiếp theo cuộc đấu tranh của công nhân Phú Riềng là cuộc đấu tranh lớn

của 400 nam nữ công nhân Nhà máy Dệt Nam Định cuối tháng 3 năm 1930. Đây

là một trong những cơ sở có nữ công nhân chiếm số đông so với nam giới. Nhân

có tên đốc công Pháp đánh một công nhân ở Xƣởng dệt A, chi bộ Đảng đã lãnh

đạo công nhân giƣơng cao khẩu hiệu chống đánh dập, đòi tăng lƣơng, giảm giờ

làm, đòi bỏ một số quy định vô lý, chống khủng bố thợ bãi công, Cuộc đấu tranh

kéo dài hơn 3 tuần lễ đã làm cho bọn chủ nhà máy thiệt hại lớn về nhiều mặt.

Đánh giá về tầm quan trọng của cuộc bãi công này, tên trùm mật thám Biê

(Billet) đã viết: Cuộc bãi công của công nhân Nhà máy Dệt Nam Định do Xứ ủy

Bắc Kỳ của Đảng Cộng sản trực tiếp lãnh đạo... nó có ảnh hƣởng sâu sắc đến giới

thợ thuyền trong cả nƣớc suốt năm 1930 [77, tr 16]. Nhiều nơi ở Bắc Kỳ và ở

miền Bắc Trung Kỳ đã góp tiền, viết thƣ gửi Quyết nghị ủng hộ công nhân Nam

Định.

Phong trào công nhân đấu tranh sôi nổi nhất là thời gian giữa tháng 4 năm

1930 mà tiêu biểu là cuộc bãi công của hơn 400 công nhân Nhà máy Diêm Bến

Thủy (trong đó có 90% là nữ). Ở đây các chị phải làm việc 14 - 16 giờ/ngày với

tiền công rẻ mạt (20 xu/ngày). Ngày 19 tháng 4 năm 1930, các chị đã cùng toàn

thể công nhân Nhà máy bãi công đòi tăng lƣơng 5 xu/ngày, giảm giờ làm từ 16

giờ xuống 12 giờ, không đƣợc bắt hoặc đuổi thợ bãi công. Ảnh hƣởng của cuộc

bãi công nhanh chóng lan rộng ra khắp thành phố Vinh và các tỉnh miền Trung.

Hơn 1.000 nông dân các làng ngoại thành kéo vào nội ô phối hợp với công nhân

biểu tình tuần hành, hát Quốc tế ca, hô vang các khẩu hiệu đòi “giảm giờ làm,

tăng tiền lƣơng, bỏ sƣu, giảm thuế”. Bọn thực dân phong kiến đàn áp khủng bố,

xả súng bắn vào đoàn biểu tình. Nhiều chị em đã bị bắn, bị giết, nhƣng cuộc đấu

tranh vẫn tiếp tục, lôi cuốn đông đảo công nhân lao động và nông dân tham gia.

Ngày 1 tháng 5 năm 1930, lần đầu tiên giai cấp công nhân và nhân dân lao

động Việt Nam tổ chức kỷ niệm ngày Quốc tế lao động bằng những cuộc đấu

45

tranh rầm rộ, với vô số truyền đơn, biểu ngữ, băng cờ ở hàng mấy chục tỉnh.

Trong những ngày này đã nổ ra nhiều cuộc bãi công và biểu tình đổ máu của

công nhân và phụ nữ lao động. Tiêu biểu nhất là cuộc bãi công và biểu tình của

công nhân Vinh- Bến Thủy. Đó là một cuộc đấu tranh lớn mà báo “Lao Khổ”

ngày 5 tháng 9 năm1930 của Đảng bộ Cộng sản thị trấn Vinh, Bến Thủy gọi là

“cuộc tổng bãi công mở đƣờng”. Cuộc đấu tranh có sự tham gia của 1.200 công

nhân Nhà máy Diêm và Nhà máy Cƣa Bến Thủy, cùng 400 công nhân Nhà máy

Trƣờng Thi và 1.500 nông dân thuộc các xã Yên Dũng, Lộc Đa, Đức Thịnh, An

Hậu, Đông Trù hợp thành một đoàn biểu tình rất lớn. Công nhân đi đầu phất cao

cờ búa liềm và nhiều biểu ngữ đòi: tăng tiền lƣơng, bớt giờ làm, giảm sƣu thuế,

bỏ đánh đập, thi hành luật lao động, đòi bồi thƣờng cho các gia đình bị thực dân

Pháp khủng bố tàn sát trong cuộc khởi nghĩa Yên Bái.

Cuộc biểu tình bị đàn áp dã man, 7 ngƣời bị chết, 18 ngƣời bị thƣơng, hàng

trăm ngƣời bị bắt. Đây là lần đầu tiên ở Việt Nam nổ ra cuộc biểu tình lớn có

đông đảo công nhân và nông dân cùng tham gia đấu tranh trong ngày 1 tháng 5

và bị bọn thực dân Pháp đàn áp đẫm máu. Trong cuộc đấu tranh này nữ công

nhân lao động chiếm tỷ lệ đáng kể và đóng vai trò to lớn.

Mƣời ngày sau đó, 500 công nhân Nhà máy Diêm Bến Thủy (phần đông là

nữ) lại bãi công đòi ngày làm 8 giờ, bảo hiểm lao động, cải thiện điều kiện làm

việc, chống khủng bố trắng, nguyên nhân do bọn chủ trắng trợn lật lọng nuốt lời

hứa nhƣợng bộ sau cuộc tổng bãi công ngày 1 tháng 5 năm 1930. Chị Nguyễn

Thị Tự, công nhân Nhà máy đã căm phẫn chạy đến giật phắt tấm bảng niêm yết

“cấm công nhân biểu tình, cấm đòi làm 8 giờ” của bọn chủ rồi ném xuống đất,

giẫm nát. Cuộc đấu tranh bị Sở Giám binh đƣa lính đến đàn áp, nhƣng công nhân

vẫn kiên trì kéo dài cuộc đấu tranh tới 20 ngày với sự cổ vũ ủng hộ của đông đảo

công nhân Nhà máy Cƣa, công nhân khuân vác Bến tàu Bến Thủy và đã biến

thành một cuộc tổng bãi công của nhân dân khắp thị trấn này. Cuộc bãi công

46

thắng lợi, chủ phải nhƣợng bộ làm nhà ăn, nhà tắm cho công nhân, sơn lại cửa,

mắc thêm quạt máy v.v... Đến tháng 6, công nhân ở đây lại bãi công kéo dài thêm

40 ngày đòi tăng lƣơng, giảm giờ làm, đòi tự do hội họp, tự do biểu tình. Cuộc

bãi công đã giành đƣợc thắng lợi thiết thực nhƣ: chỉ có đàn bà mới đƣợc khám

xét nữ công nhân ra vào công sở và chủ phải nhận tăng 30% lƣơng...

Ở Nam Bộ, ngày 23 tháng 3 năm 1931 có cuộc đấu tranh quyết liệt của

nam nữ công nhân Hãng Dầu Nhà Bè chống các thủ đoạn bóc lột của bọn chủ đòi

tăng tiền lƣơng, bớt giờ làm, phản đối đánh đập công nhân, bảo vệ quyền lợi cho

một nữ công nhân có thai bị đánh đập. Ngƣời đứng lên diễn thuyết là chị Trần

Thị Hân, một giáo viên đi “vô sản hóa” tham gia lãnh đạo cuộc đình công này.

Nói chung trong cao trào cách mạng 1930 - 1931, dƣới sự lãnh đạo của

Đảng, nữ công nhân lao động đã hăng hái tham gia vào cuộc đấu tranh chung của

giai cấp công nhân Việt Nam, giữ vai trò to lớn trong việc tổ chức và duy trì các

cuộc đấu tranh, đảm bảo cho đấu tranh thắng lợi, góp phần tô thắm trang sử oanh

liệt của giai cấp công nhân và phụ nữ Việt Nam.

Qua thực tiễn đấu tranh, nhiều nữ công nhân lao động đã bộc lộ những khả

năng tiềm tàng của mình: Khả năng tổ chức lãnh đạo đấu tranh, tổ chức diễn

thuyết, tuyên truyền, làm giao thông liên lạc, bảo vệ cán bộ... Những chị không

may sa vào tay quân thù đã nêu cao tấm gƣơng kiên trung bất khuất, trung thành

tuyệt đối với Đảng, với cách mạng. Tinh thần đó của các chị, là sự kế tục và phát

huy truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc và phụ nữ Việt Nam. Đồng thời

cũng là những phẩm chất mới đƣợc hình thành do Đảng bồi dƣỡng, giáo dục và

rèn luyện.

Từ tháng 6 năm 1931, phong trào đấu tranh của công nhân lao động tạm

thời lắng xuống. Địch tiến hành khủng bố trắng, điên cuồng lùng bắt đàn áp

những ngƣời cộng sản và công nhân lao động tham gia cách mạng. Hàng vạn cán

bộ và quần chúng yêu nƣớc, trong đó có nhiều nữ công nhân lao động bị bắt bớ

47

giam cầm, giết hại trong các khám lớn Sài Gòn, Nhà tù Hỏa Lò Hà Nội, Nhà lo

Vinh, Thái Bình... Nhƣng cũng chính ở những thời điểm gay go ác liệt nhất đã

xuất hiện nhiều tấm gƣơng sáng kiên trung của nữ công nhân lao động Việt Nam.

Trƣớc tòa án của thực dân pháp ở Hà Nội, chị Nguyễn Thị Nhâm đã hiên

ngang nói câu đanh thép: “Tôi làm cách mạng để lấy lại nước tôi, tôi không có tội gì

cả, nếu các người muốn buộc tội tôi hãy buộc tội bà Gian - da anh hùng cứu nước

của nước Pháp đi đã” [77, tr 35]. Còn nhiều phụ nữ công nhân lao động khác âm

thầm nhận về mình cái chết đau đớn nhƣng hết sức vẻ vang, bảo vệ tuyệt đối bí mật

của Đảng và an toàn của cơ sở. Ở nhà lao Vinh, chị Nựu, mặc dù tay chân đã lạnh

cứng đã cố dồn chút hơi tàn dặn dò đồng chí, chị em “đừng khai”, chị Nguyễn Thị

Nghĩa, trƣớc những thủ đoạn thâm độc tàn ác của kẻ thù đã giả câm suốt thời gian

dài và chỉ hé miệng để nói lời cuối cùng, dằn dò các đồng chí mình “đứng vững”

trƣớc lúc hy sinh. Chị Cả Khƣơng, cán bộ biệt phái của Xứ ủy Bắc Kỳ ở vùng mỏ,

đầu năm 1931 bị sa vào tay giặc và là vật thí nghiệm đầu tiên của đòn tra tấn “võng

thịt” độc ác của bọn mật thám Hòn Gai, bị treo rút ngƣợc bốn đầu ngón tay cái của

chân và tay lên cây quéo, chết đi sống lại, khi trở về phòng giam, chị Khƣơng còn cố

giấu đƣợc mấy quả quéo chia cho các bạn tù, kèm vời lời dặn “gắng chịu nhé”...[77,

tr 35 – 36].

Trƣớc tình hình địch khủng bố dữ dội nhƣ vậy, Đảng ta chủ trƣơng tăng

cƣờng lãnh đạo đấu tranh đòi quyền lợi hàng ngày, lấy sức mạnh của quần chúng

mà chống khủng bố trắng của địch, chuyển phƣơng thức hoạt động, giảm các

hình thức rầm rộ nhƣ mít tinh, biểu tình... đi sâu ổn định tinh thần quần chúng,

tiếp tục tuyên truyền giác ngộ và hƣớng dẫn quần chúng đấu tranh từ thấp đến

cao.

Từ năm 1932 đến 1935 bản “Chương tình hành động của Công hội Đỏ”,

“Chương trình hành động của hội, Công nhân nông nghiệp”, “Chương trình hành

48

động của Đảng”... đƣợc lƣu truyền rộng rãi trong công nhân lao động là những định

hƣớng cụ thể cho phong trào công nhân phát triển trong thời kỳ này.

Song do bị khủng bố ác liệt thời kỳ này những cuộc bãi công của công

nhân lao động nổ ra rất ít, chủ yếu có các vụ xung đột giữa chủ và thợ. Tuy vậy

vẫn có một só cuộc đấu tranh của nữ công mhân lao động. Năm 1932 có cuộc bãi

công đồng loạt của 500 nữ công nhân tại 13 xƣởng dệt khăn ở Chợ Lớn chống

bọn chủ xƣởng hạ tiền lƣơng. Đó là cuộc tổng bãi công đƣợc đánh giá là lớn nhất

trong năm nổ ra ngày 21 tháng 4. Nguyên do bọn chủ Hoa kiều thấy có nhiều

ngƣời thất nghiệp mong đƣợc làm việc nên chúng ỷ thế chèn ép công nhân. Ban

đầu chúng giảm tiền công làm mỗi chiếc khăn xuống còn 5 xu, sau rút xuống 4

xu rồi 3 xu, cuối cùng chỉ còn 2 xu.

Trƣớc thái độ lật lọng của bọn chủ, các chị đã đồng loạt bãi công và biểu

tình trên đƣờng phố, hô vang những khẩu hiệu phản đối bọn chủ bóc lột công

nhân. Đây là lần đầu tiên có cuộc tổng bãi công với quy mô nhiều xƣởng, một

cuộc bãi công toàn phụ nữ tham gia.

Năm 1934, nữ công nhân Nhà máy Xay lúa, công nhân các Đồn điền cao

su ở Biên Hòa, Gia Định, Tây Ninh, Hóc Môn, Trảng Bàng... nhiều lần đấu tranh

chống bọn chủ cắt bớt tiền lƣơng của công nhân.

Trong khi đó, những chị em còn bị giam giữ trong các nhà tù đế quốc vẫn

kiên trì đấu tranh, quyết liệt chống lại chế độ nhà tù hà khắc của đế quốc, giữ

vững khí tiết cách mạng, tiếp tục bắt liên lạc để hoạt động. Tiêu biểu là chị

Hoàng Thị Ái, từng làm công nhân ở Nhà máy Chè Đà Nẵng, do hoạt động cách

mạng bị địch bắt giam, đánh đập chết đi sống lại, vẫn không khai nửa lời, giữ gìn

bí mật của Đảng, tiếp tục tổ chức chị em trong tù, đoàn kết đấu tranh. Ra khỏi

nhà tù, chị liên tục hoạt động, hy sinhh cả hạnh phúc riêng tƣ, một lòng với

Đảng. Khi đƣợc Đảng phân công làm Bí thƣ Ban Phụ vận Trung ƣơng chị luôn

49

quan tâm đến công tác vận động nữ công nhân lao động và phong trào nữ công

nhân lao động.

Qua thực tiễn hoạt động, nhiều chị đã trƣởng thành trong đấu tranh cách

mạng, trở thành những cán bộ xuất sắc của Đảng ngay trong những năm tháng ác

liệt chống quân thù. Chị Nguyễn Thị Lựu, chị Nguyễn Thị Thập từ năm 1930-

1935 đã lần lƣợt tham gia xứ ủy Bắc kỳ, chị Nguyễn Thị Nhỏ - Phó bí thƣ Tỉnh

ủy Chợ Lớn v.v...

Những năm 1930 - 1935 là thời kỳ Đảng Cộng sản Đông Dƣơng mới thành

lập, phong trào cách mạng nói chung, phong trào đấu tranh của phụ nữ nói riêng

chịu nhiều thử thách to lớn trƣớc sự khủng bố, đàn áp man rợ của thực dân Pháp.

Song dƣới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào phụ nữ phát triển khá mạnh mà

“thời kỳ vận động cách mạng nhất của phụ nữ là năm 1930-1931. Trong hai năm

ấy không có cuộc thị oai, bãi công nào mà không có phụ nữ tham gia, có lúc phụ

nữ dẫn đầu các cuộc đấu tranh, có chỗ đã tổ chức đƣợc những cuộc biểu tình, bãi

công hoàn toàn bao gồm đàn bà. Những chứng cớ đó biểu tỏ rằng bộ phận phụ

nữ lao động Đông Dƣơng đã có giai cấp giác ngộ, rằng phụ nữ là một lực lƣợng

cách mạng rất lớn của Đảng Cộng sản, phải hết sức chú ý tổ chức và chỉ đạo” [27,

tr 89].

1.3. Cuộc vận động phụ nữ của Đảng (1936 - 1939)

1.3.1. Tình hình mới, chủ trương mới của Đảng

Cuộc khủng hoảng kinh tế ở các nƣớc tƣ bản (1929 - 1933) đã gây ra

những biến động lớn về kinh tế, chính trị, xã hội trên toàn thế giới. Đời sống của

nhân dân lao động ở các nƣớc tƣ bản cũng nhƣ các nƣớc thuộc địa vô cùng điêu

đứng. Ngƣời lao động, từ công nhân, nông dân đến mọi tầng lớp khác đều mong

muốn thay đổi cuộc sống tối tăm ngột ngạt đó. Phong trào đấu tranh của giai cấp

vô sản ở các nƣớc tƣ bản và phong trào đòi giải phóng dân tộc ở các nƣớc thuộc

địa lên cao. Chủ nghĩa Phát xít hình thành và phát triển ở ba nƣớc Đức, Ý, Nhật

50

kết thành phe trục chống Liên Xô và phong trào cách mạng thế giới chuẩn bị gây

chiến tranh thế giới lần thứ hai.

Tháng 7 năm 1935, Đại hội lần thứ VII của Quốc tế cộng sản đã chỉ rõ:

“Kẻ thù của nhân dân thế giới lúc này là chủ nghĩa phát xít và chiến tranh, giành

dân chủ và hoà bình, thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất bao gồm các đảng

phái yêu nƣớc, dân chủ tiến bộ, các tầng lớp nhân dân nhằm tập hợp lực lƣợng

đông đảo chống kẻ thù chung”[78, tr 178]. Nghị quyết Đại hội lần thứ VII Quốc

tế cộng sản đã kịp thời giúp các Đảng cộng sản đề ra chủ trƣơng đúng đắn, phù

hợp với hoàn cảnh từng nƣớc, đã thống nhất hành động cách mạng của nhân dân

thế giới trong một mục tiêu chung.

Tháng 5 năm 1936, Mặt trận nhân dân Pháp giành thắng lợi trong cuộc

tổng tuyển cử và đứng ra lập nội các mới do lãnh tụ Đảng Xã hội Lêông Bơlom

làm Thủ tƣớng. Chính phủ này vẫn nằm trong khuôn khổ của chính quyền tƣ sản.

Nó vẫn duy trì hệ thống thuộc địa nhƣ cũ. Tuy nhiên trƣớc sự đấu tranh của

Đảng Cộng sản Pháp và cao trào chống phát xít của nhân dân Pháp, chính phủ

Bơlum buộc phải thi hành một số điểm mà Cƣơng lĩnh của Mặt trận nhân dân đã

nêu ra. Đối với thuộc địa, Chính phủ có ba quyết định quan trọng: Thả những tù

chính trị; thành lập Uỷ ban điều tra tình hình thuộc địa, đặc biệt ở Bắc Phi và

Đông Dƣơng; thi hành một số cải cách cho ngƣời lao động. Đây là một thuận lợi

lớn cho cuộc đấu tranh của nhân dân các nƣớc thuộc địa.

Cuộc đấu tranh đòi cải thiện đời sống của giai cấp công nhân Pháp lên cao.

Ở Châu Phi cuộc đấu tranh của nhân dân các nƣớc thuộc địa Pháp có những dấu

hiệu mới.

Trƣớc tình hình mới, tháng 7 năm 1936, Trung ƣơng Đảng họp, quyết định

tạm gác khẩu hiệu: “Đánh đổ đế quốc Pháp và giai cấp địa chủ, giành độc lập dân

tộc và ruộng đất cho dân cày” nêu mục tiêu trƣớc mắt: “Đấu tranh chống chế độ

phản động thuộc địa, chống phát xít và chiến tranh, đòi tự do dân chủ, cơm áo và

51

hoà bình”. Kẻ thù chủ yếu trƣớc mắt của nhân dân Đông Dƣơng là bọn phản

động thuộc địa và bè lũ tay sai. Hội nghị chủ trƣơng thành lập Mặt trận nhân dân

phản đế Đông Dƣơng và phát động phong trào quần chúng rộng rãi nhằm tập

hợp, rèn luyện và tổ chức quần chúng đấu tranh trong tình hình mới [21, tr 72].

Ngày 26 tháng 3 năm 1937, Trung ƣơng Đảng họp và đƣa nhận định chung

về tình hình chung của phụ nữ Đông Dƣơng. Đảng cũng chỉ ra những thiếu sót

của phong trào cách mạng thời kỳ mới thành lập Đảng. Trung ƣơng Đảng đã kịp

thời ra chủ trƣơng mới về công tác tổ chức vận động phụ nữ tham gia cách mạng.

Nghị quyết của Đảng nhắc nhở các cấp uỷ chú trọng tập hợp phụ nữ vào các tổ

chức nhƣ: Phụ nữ Giải phóng, Phụ nữ Tân tiến, Tổ học chữ, Tổ tƣơng tế. Nếu địa

phƣơng nào có nhiều tổ chức hội khác nhau thì chúng ta lấy danh nghĩa là “Phụ

nữ Liên hiệp Hội” mà thống nhất lại để thu hút đông đảo các tầng lớp phụ nữ vào

Mặt trận nhân dân Phản đế Đông Dƣơng [27, tr 22]. Đảng cũng đề ra những

nhiệm vụ cần kíp trƣớc mắt: Mỗi cấp đảng bộ phải lập một ban uỷ viên phụ nữ,

ngƣời phụ trách ban ấy đƣợc quyền tham dự các hội nghị của Đảng uỷ trong

Đảng, đƣợc biểu quyết về các vấn đề phụ nữ; Mỗi đảng bộ thiết pháp tổ chức cho

đƣợc phụ nữ vào Đảng, vào Thanh niên Cộng sản đoàn và các đoàn thể cách

mạng; mỗi Đảng bộ thƣợng cấp thƣờng phải có sáng kiến: Triệu tập các cuộc đại

biểu hội nghị của phụ nữ lao động trong địa phƣơng mình chỉ huy; Phải có tài

liệu tuyên truyền riêng cho phụ nữ, các cấp uỷ viên phụ nữ của Đảng nên thiết

pháp ra báo riêng cho quần chúng phụ nữ đọc các báo của Đảng, của Đoàn và của

các đoàn thể cách mạng khác mỗi lần cần bàn đến vấn đề phụ nữ vận động;

Chống các xu hƣớng đầu cơ, miệt thị phụ nữ vận động… Đảng cũng khẳng định

lại một lần nữa: “Phụ nữ là một lực lƣợng cách mạng rất lớn, Đảng phải hết sức

chú ý đem phụ nữ vào trƣờng tranh đấu, phải kéo họ tham gia các hình thức công

tác cách mạng tranh đấu”[27, tr 23].

52

Trong giai đoạn này do nhiệm vụ trƣớc mắt của cách mạng có thay đổi nên

trong Nghị quyết của toàn thể hội nghị Ban Trung ƣơng Đảng Cộng sản Đông

Dƣơng (ngày 29 đến ngày 30.3.1938) Đảng cũng phải lãnh đạo quần chúng tranh

đấu đòi thực hiện những điều cải cách cần kíp:

Cho phụ nữ đòi:

a, Tài lực ngang nhau cũng đƣợc làm các công việc nhƣ đàn ông.

b, Công ngang nhau tiền lƣơng ngang nhau.

c, Bảo hiểm khi chửa đẻ...

Thi hành luật lao động ngày làm 8 giờ, 7 giờ cho các hầm mỏ, luật xã hội bảo

hiểm hoàn toàn, tiền hƣu trí cho thợ thất ngiệp, trợ cấp thất nghiệp, công việc ngang

nhau, đồng lƣơng ngang nhau, không biệt già trẻ, đàn ông, đàn bà...

Ban hành các quyền tự do dân chủ, có quyền nghiệp đoàn, bãi công, phổ

thông đầu phiếu, những ngƣời công dân từ 18 tuổi trở lên bất cứ đàn ông, đàn bà,

nòi giống nào đều đƣợc quyền bầu cử, ứng cử.

Nam nữ bình quyền về mọi phƣơng diện xã hội, kinh tế và chính trị.

Mở rộng các cuộc xã hội, y tế, cứu tế, thể thao...

Đảng cũng chỉ rõ: “Những khẩu hiệu tự do ngôn luận, tự do báo chí, lập

hội, lập Đảng, phổ thông đầu phiếu... là những khẩu hiệu cho toàn thể các giai

cấp, bất cứ một phong trào riêng lẻ nào đều phải đƣa các khẩu hiệu chung ấy vào

để cho thành một phong trào chung rộng rãi’’[32, tr 32]. Bất kỳ hình thức nào có

thể bao quát đƣợc các lớp phụ nữ nhƣ: đám giỗ, đám cƣới, học chữ, học nghề, từ

thiện... ta cứ tuỳ theo hoàn cảnh mà tổ chức. Trên hết mọi việc ấy phải chú ý đào

tạo ra cán bộ phụ nữ và tổ chức các ban chuyên môn vận động phụ nữ....

Với sự chuyển hƣớng kịp thời trong chủ trƣơng và đƣờng lối cuộc vận

động phụ nữ những năm 1936 – 1939 của Đảng đã có bƣớc phát triển và thu

đƣợc nhiều thắng lợi mới.

1.2.3. Phong trào đấu tranh của phụ nữ cả nƣớc

53

Cuối năm 1935, nhiều đảng bộ đƣợc khôi phục và thêm các đồng chí ở tù

mới ra nên phong trào phát triển rất nhanh và rộng. Từ đây phong trào đấu tranh

của phụ nữ đã chuyển sang một thời kỳ mới.

Khắp Nam Trung Bộ, các tỉnh uỷ (có nơi là chi bộ) chuyển hƣớng tổ chức

và hình thức đấu tranh mới, triệt để lợi dụng khả năng hợp pháp và nửa hợp pháp,

tích cực sử dụng các quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do nghiệp đoàn và

sôi nổi nhất là hƣởng ứng phong trào Đông Dƣơng Đại hội, đón phải đoàn của

chính phủ Mặt trận Bình dân Pháp do Giuyt-tanh Gô-đa dẫn đầu; lấy chữ ký đƣa

dân nguyện, vận động bầu cử vào Viện Dân biểu Trung kỳ, tổ chức và lãnh đạo

phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân đòi dân sinh, dân chủ và hoà

bình.

Về phong trào phụ nữ, ngoài việc duy trì và phát triển các tổ chức đã đƣợc

chuyển hƣớng từ năm 1935 nhƣ hội cấy, hội gặt, hội đồng canh, nhóm đọc sách

báo, học chữ quốc ngữ… các tỉnh, một mặt phát triển các tổ chức Phụ nữ Giải

phóng, Phụ nữ Dân chủ, Phụ nữ Tân tiến, Đoàn thanh Niên Dân chủ, Nông dân

Tƣơng tế ở Quảng Ngãi, Quảng Nam, Phụ nữ Giải phóng, Phụ nữ Cứu tế ở Phú

Yên để làm nòng cốt cho phong trào, mặt khác rất quan tâm tổ chức rộng rãi các

hội ái hữu theo nghề nghiệp nhƣ: Ái hữu Thợ may, thợ dệt, thợ giày, thợ làm

mắm, làm muối, ái hữu tiểu thƣơng, các nhóm nuôi heo, nuôi tằm, nhóm cấy,

nhóm gặt… Đồng thời phát triển các tổ chức mang tính chất xã hội nhƣ: Nhóm

ca hát, nhóm dạy nữ công, các hội Tƣơng tế, tƣơng trợ, cứu tế, từ thiện, trợ

táng… Đặc biệt các tổ chức đọc sách báo và các lớp truyền bá Quốc ngữ phát

triển rất nhanh cả nông thôn và thành thị, thu hút nhiều nữ thanh niên tham gia có

cả giáo giới, công tƣ chức. Qua đó, chị em đƣợc tuyên truyền phổ biến đƣờng lối

chính sách của Đảng, các sách báo cách mạng, nâng cao trình độ, chống các hủ

tục bất công, thách cƣới, ma chay… Các hiệu sách do các Đảng bộ tổ chức nhƣ:

Việt Quảng (Đà Nẵng), Tín Thành Thƣ Quán, Tín Thành thƣ xã (Quảng Ngãi),

54

Mỹ Liên, Hồ Văn Bá (Bình Định) và các đại lý sách báo ở các địa phƣơng khác

đã cung cấp cho chị em, ngoài các sách báo chung còn có các tác phẩm giành cho

phụ nữ nhƣ: “Chị em phải làm gì?”, “Phụ nữ Xô viết”, “Đời chị em”, “Ngƣời

mẹ”… Có thể nói, báo chí cách mạng giai đoạn 1936 – 1939 phát triển rất mạnh

mẽ. Nhiều tờ báo của Đảng đã đƣợc phát hành công khai dƣới danh nghĩa cơ

quan của Mặt trận Dân chủ, cơ quan của lao động Đông Dƣơng.. Việc phát hành

công khai báo chí cách mạng cũng là một thuận lợi cho Đảng Cộng sản Đông

Dƣơng đấu tranh với những tƣ tƣởng sai lầm trong nhận thức về vấn đề vận động

phụ nữ, tuyên truyền tƣ tƣởng cách mạng, tổ chức và hƣớng dẫn phong trào đấu

tranh của phụ nữ... Nhiều nữ trí thức đã tham gia vào mặt trận báo chí, viết bài

tuyên truyền quan điểm của Đảng về công cuộc vận động phụ nữ, đấu tranh với

những quan điểm sai lầm trong phong trào phụ nữ tham gia cách mạng nhƣ

Nguyễn Thị Lựu, Mai Huỳnh Hoa, Nguyễn Thị Thu v.v.., đặc biệt các bài viết

của chị Nguyễn Thị Minh Khai dƣới bút danh Nguyễn Thị Kim Anh, Kim Anh...

đã góp phần giác ngộ phụ nữ và thúc đẩy phong trào phụ nữ phát triển.

Nhân các ngày lễ lớn: ngày 1 tháng 5, ngày 1 tháng 8, ngày 8 tháng 3, kỷ

niệm Lê nin, Li nich, Rô-da Luyt-dăm-bua… nhiều nơi các chi bộ tổ chức nói

chuyện và ca hát có tác dụng nâng cao tinh thần cách mạng và trình độ hiểu biết

cho chị em về phong trào phụ nữ thế giới.

Tháng 8 năm 1936, các tỉnh hƣởng ứng phong trào Đông Dƣơng Đại hội,

đón phái đoàn Chính phủ Pháp do thƣợng nghị sĩ Guýt tanh Gôđa dẫn đầu với

các khẩu hiệu: Ủng hộ chính phủ Mặt trận bình dân Pháp, chống bọn phát xít và

phản động thuộc địa; cải thiện đời sống nhân dân; tự do đi lại, tự do báo chí, tự

do nghiệp đoàn…

Lo sợ trƣớc tình hình đấu tranh sôi nổi rầm rộ của quần chúng khắp Bắc –

Trung – Nam, ngày 1 tháng 9 năm 1936, thực dân Pháp ra lệnh giải tán các uỷ

55

ban hành động chuẩn bị Đại hội, cấm hội họp, mít tinh, giăng lƣới mật thám,

khủng bố khắp nơi để phá cuộc đón tiếp Gôđa.

Phụ nữ Huế nhân dịp đón tiếp Gôđa đã ra Lời hiệu triệu kêu gọi chị em

phụ nữ lao động và trí thức liên hiệp lại để bênh vực quyền lợi thiết thân của phụ

nữ với các yêu cầu:

1. Thi hành luật xã hội. Bênh vực quyền lợi cho đàn bà và trẻ em.

2. Thợ đàn bà làm việc nhƣ đàn ông thì cũng ăn lƣơng nhƣ đàn ông.

3. Khi thai sản đƣợc quyền nghỉ và ăn toàn lƣơng.

4. Con cái đẻ ra chủ phải cho thêm tiền trợ cấp, lúc ốm đau chủ phải cho

thuốc men.

5. Thi hành luật cải cách sự sống của đàn bà trong chốn thôn quê, bỏ chế

độ tì thiếp.

6. Bỏ thuế môn bài cho ngƣời buôn thúng bán bƣng, bớt thuế cho các hàng

vặt, hàng xén, nghiêm trị hà khắc, bóc lột của bọn thâu thuế và lính cảnh sát.

7. Cho đàn bà đƣợc bổ dụng trong các công sở nhƣ đàn ông.

8. Mở thêm các trƣờng công – nghệ, hộ sinh, trƣờng học cho phụ nữ.

9. Cho đàn bà đƣợc quyền bầu cử, ứng cử trong các hội đồng công cử,

Viện dân biểu, Hội đồng quản hạt, Hội đồng thành phố.

10. Bài trừ nạn mãi dâm.” [38, tr 57]

Ở Hải Phòng, thực hiện chủ trƣơng chuyển hƣớng về tổ chức và phƣơng

hƣớng của Đảng, Đảng bộ Hải Phòng tập trung củng cố và xây dựng lực lƣợng

cách mạng, lợi dụng mọi khả năng hợp pháp để tranh thủ quần chúng. Cũng trong

thời gian này, những cán bộ, đảng viên, trong đó có nhiều phụ nữ đã thoát khỏi

ngục tù của thực dân, trở về tiếp tục hoạt động. Cơ sở Đảng và quần chúng dần

dần đƣợc khôi phục ở nhà máy Xi măng, máy Tơ, chợ Sắt, khu lao động và vùng

nông thôn An Dƣơng, Hải An, Thuỷ Nguyên, An Lão, Kiến Thuỵ, Tiên Lãng…

56

Từ tháng 9 năm 1936, Đảng bộ đƣợc khôi phục. Tháng 4 năm 1937, Thành

uỷ Hải Phòng đƣợc thành lập. Các hội phản đế đƣợc chuyển thành hội dân chủ.

Hội phụ nữ dân chủ, Thanh niên dân chủ, Hội những ngƣời trí thức, Hội truyền

bá quốc ngữ, Hội ánh sáng, Hội tƣơng tế, Hội từ thiện… đã thu hút hàng vạn

quần chúng tham gia. Phong trào đấu tranh đƣợc đẩy lên mạnh mẽ: Ngày 3 tháng

10 năm 1936, dân làng Lạc Viên (đa số là nữ) bao vây tên giám binh Pháp và lính

khi chúng kéo đến Vạn Mỹ bắt các đồng chí Lê Văn Hiền, Bùi Lâm, Phùng Bá

Thanh.

Phong trào đấu tranh của công nhân, tiểu thƣơng và các tầng lớp nhân dân

Hải Phòng tiếp tục dâng lên mạnh mẽ, nhất là công nhân trong các nhà máy, xí

nghiệp đòi thành lập Hội ái hữu, đòi quyền lợi dân sinh, dân chủ. Mục tiêu đấu

tranh cho từng ngành, từng giới rất cụ thể, rõ ràng:

Công nhân: tự do Nghiệp đoàn, Ái hữu, thi hành luật lao động, tăng lƣơng,

bớt giờ làm, chống đánh đập, cúp phạt, đuổi thợ.

Phụ nữ: nam nữ bình quyền, nghỉ đẻ đƣợc hƣởng lƣơng, cấm bắt bớ, bỏ tù

đàn bà sắp đẻ.

Nông dân: tự do lập hội, chia lại công điền, chống sƣu cao thuế nặng, phụ

thu lạm bổ.

Khẩu hiệu chung: tự do hội họp, đi lại, xuất bản báo chí, bỏ thuế, sửa đổi

ngạch thuế, thả tù chính trị… [6, tr 27].

Trong thời kỳ này có nhiều cuộc mít tinh biểu tình ở An Dƣơng, Lạc Viên…

có đông đảo phụ nữ tham dự. Trong một buổi diễn thuyết ở Lạc Viên, một đại biểu

nữ lên tiếng nói về cuộc sống khổ cực của nữ công nhân, nông dân, chế độ làm

việc hà khắc trong các nhà máy. Sau đó chị em hô vang khẩu hiệu:

- Giảm thuế cho dân nghèo.

- Chống khủng bố, chống phát xít và thuộc địa.

- Tự do lập hội, tự do tranh đấu.

57

Những tiểu thƣơng chợ Sắt, dƣới sự lãnh đạo của chị Phạm Thị Vân (Hoàng

Ngân) làm đơn, lấy chữ ký và kéo lên Toà Đốc Lý đề nghị thành lập Ái hữu tiểu

thƣơng chợ Sắt. Sau nhiều lần chất vấn, chính quyền thực dân phải đồng ý. Tại trƣờng

học Trí Tri ( Phố Cát Dài) tổ chức thành công đại hội thành lập Hội ái hữu tiểu

thƣơng chợ Sắt, bầu ban chủ tịch Hội: chị Yểng chủ tịch, chị Phạm Thi Chính phó

chủ tịch, chị Nguyễn Thị Đƣợc uỷ viên. Hội có khoảng 400 hội viên. Nhiều chị em

sống trên thuyền đánh cá trên sông cũng tham gia. Dƣới sự lãnh đạo của Đảng bộ, các

hội Ái hữu có quan hệ chặt chẽ, phối hợp hành động.

Đêm 29 tháng 5 năm 1937, cuộc họp giữa đại biểu các Hội ái hữu, tại nhà

một cơ sở ở chợ Con (chị Yểng, đại biểu tiểu thƣơng dự họp).Các đại biểu nhất

trí:

- Ngày 30 tháng 5 hƣớng các tầng lớp thợ thuyền ở Hải Phòng đến toà Đốc

lý, khi Hội đồng thành phố họp để kháng nghị việc thiết lập thuế nƣớc và điện.

- Gửi đơn chống lại thứ thuế đó lên phủ Thống sứ. Gửi thƣ cho nhiều

nhóm khác ở Hà Nội để yêu cầu họ phối hợp hành động với hoạt động đƣợc tiến

hành ở Hải Phòng…

Phong trào đấu tranh đòi tự do dân chủ, tự do lập hội… diễn ra sôi nổi. Phụ

nữ Hải Phòng giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Xuất hiện nhiều gƣơng tiêu biểu

nhƣ chị Phạm Thị Vân, Trƣơng Thị Viếng, Chu Thị Kim, Nguyễn Thị Nghĩa,

Nguyễn Thị Khánh, Nguyễn Thị Đƣợc, Phạm Thị Chính… Các chị hoạt động rất

tích cực, vận động chị em gia nhập Hội ái hữu, đấu tranh chống hà hiếp, cƣớp

bóc, chống thuế, đòi thi hành luật lao động, tăng lƣơng, giảm giờ làm, học chữ

quốc ngữ. Ở vùng nông thôn, chị em đƣợc tuyên truyền, giác ngộ tham gia vào

hội Phụ nữ dân chủ, Thanh niên dân chủ, Hội cấy, Hội gặt, Hội học chữ quốc

ngữ… Trên cơ sở đó, phong trào đấu tranh chống phụ thu lạm bổ, chống sƣu thuế

lan rộng ở nhiều nơi.

58

Ở Đà Nẵng, ngày 28 tháng 2 năm 1937, hơn 500 nhân dân cả thành phố và

nông thôn đứng chật cả hai bên đƣờng từ bƣu điện Cầu Vồng. Bọn địch tìm cách

phá nhƣng đồng chí Phan Bôi, Lê Văn Hiến, Nguyễn Sơn Trà là đại biểu của

nhân dân vẫn đến gặp và trao tận tay cho Gôđa những đơn từ kiến nghị tại toà

Đốc lý.

Ở Quảng Nam, bọn phản động Pháp và bè lũ tay sai Ngô Đình Khôi tìm

cách ngăn cản cuộc gặp Gôđa của đồng bào Thi Lai, Vĩnh Trinh. Mặc dù vậy hơn

4.000 đồng bào (trong đó khá đông là phụ nữ) vẫn họp mít tinh, gửi kiến nghị

đến Gôđa. Ngày 1 tháng 3 năm 1937, ba vạn nhân dân Quảng Ngãi (gần một nửa

là phụ nữ) giƣơng cao cờ, băng, khẩu hiệu kéo về thị xã gặp Gôđa trình bày nỗi

thống khổ và đƣa yêu sách có hàng vạn chữ ký. Cũng ở Quảng Ngãi, ngày 5

tháng 6 năm 1937, phụ nữ cùng đông đảo nhân dân biểu dƣơng lực lƣợng dọc hai

đầu cầu Trà Khúc đón tên toàn quyền Bờ-rê-vi-ê, đƣa yêu sách và đòi thả những

ngƣời bị bắt trong những cuộc đấu tranh trƣớc đó.

Ở Bình Định, phụ nữ cùng nhân dân lấy hàng ngàn chữ ký với nội dung

đòi quyền sống, chống sƣu cao thuế nặng. Tại Bồng Sơn, Tam Quan, Hoài

Thanh, Hoài Hảo (Hoài Nhơn) và thị xã Quy Nhơn, chị em cùng nhân dân dự mít

tinh, hội họ, rải truyền đơn, lợi dụng nơi đông ngƣời truyên truyền cổ động về

Đại hội và thắng lợi của Mặt trận nhân dân Pháp. Địch khủng bố, bắt giam một

số ngƣời. Lập tức gần 100 quần chúng, phần đông là phụ nữ, tập trung ở ngã tƣ

đƣờng Lê Lợi – Phan Bội Châu (Quy Nhơn) xông vào phản đối hành động của

bọn lính.

Một số tỉnh khác nhƣ Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận…

các tầng lớp nhân dân cũng đã chuẩn bị sẵn sàng nhƣng lo sợ trƣớc phong trào

quần chúng thực dân Pháp đƣa Gôđa lên Đà Lạt “nghỉ”. Nhân dân phải cử phái

đoàn vào Sài Gòn đƣa các bản dân nguyện tận tay Gôđa.

59

Tháng 8 năm 1937, theo chủ trƣơng của Xứ uỷ, các lãnh đạo nhân dân bầu

đại biểu vào viện Dân biểu Trung kỳ. Chị em đã cùng chồng con bàn bạc vận

động bầu cử cho các đại biểu do Mặt trận dân chủ giới thiệu nhƣ: Phan Thanh

(Quảng Nam), Võ Hàng, Võ Đình Thị (Quảng Ngãi), Nguyễn Trân (Bình Định),

Trần Chƣơng (Phú Yên), Huỳnh Văn Dậu (Bình Thuận)... Mặc dù bọn địch tìm

cách mua chuộc, hăm doạ cử tri nhƣng các đại biểu do Mặt trận giới thiệu đều

trúng cử với số phiếu cao. Hai ông Phan Thanh và Huỳnh Văn Dậu đƣợc bầu vào

Hội đồng Kinh tế lý tài Đông Dƣơng.

Tháng 3 năm 1938, Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng họp nhận định: “Nhờ

sự đấu tranh của quần chúng và sự ủng hộ của phong trào Mặt trận Nhân dân

Pháp, tình hình Đông Dƣơng đã đƣợc cải thiện một phần nhƣng những điều cải

cách còn hạn chế… Do ở Đông Dƣơng chƣa có Mặt trận Dân chủ thống nhất

đƣợc các tầng lớp nhân dân” [21, tr 128]. Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận

Dân chủ Đông Dƣơng (thay Mặt trận Phản đế Đông Dƣơng). Về công tác phụ nữ,

Hội nghị nhận định: Từ 6 tháng nay, số phụ nữ có tăng lên gấp hai, song nói

chung toàn xứ nó vẫn là con số nhỏ, tổ chức phụ nữ chƣa lan rộng đến phụ nữ tri

thức, tƣ sản… Hội nghị chủ trƣơng: “Phải bệnh vực quyền lợi thiết thực của phụ

nữ nhất là phụ nữ lao động và buôn gánh bán bƣng… kéo các lớp phụ nữ vào các

tổ chức đơn sơ: tƣơng tế, đám cƣới, đám giỗ, ca hát, hội thiện… Chỉ có bắt đầu

từ những điều thấp đó mới có thể dẫn dắt họ lên giác ngộ chính trị và tham gia

vào cuộc vận động giải phóng phụ nữ và cho cả nhân loại nữa”. Hội nghị nêu:

“Mỗi Đảng bộ phải có một ban phụ nữ chuyên môn, phải lấy những ngƣời phụ

nữ hăng hái vào làm việc ấy. Phải đào tạo một số cán bộ phụ nữ để gánh lấy công

việc phụ nữ vận động” [27, tr 24].

Những chủ trƣơng đề ra trên đây đã nói lên quan điểm của Đảng đối với sự

nghiệp giải phóng phụ nữ, đáp ứng nguyện vọng thiết tha nhất của chị em phụ nữ

nên đã phát động đƣợc phong trào phụ nữ một cách rộng rãi và mạnh mẽ.

60

Quán triệt tinh thần Nghị quyết Trung ƣơng, từ năm 1936 – 1939, các tỉnh

uỷ đều quan tâm chỉ đạo, vận động, giáo dục, tổ chức quần chúng phụ nữ và đào

tạo cán bộ nữ. Các tổ chức trên đã xây dựng tình đoàn kết, ý thức chống áp bức

bất công. Từ đó phụ nữ đã trở thành lực lƣợng đông đảo trong các cuộc đấu tranh

đòi tự do dân chủ, đòi cải thiện đời sống.

Chị em cùng đông đảo nông dân đòi tăng công cấy, công gặt, đòi giảm tô,

giảm sƣu, giảm thuế, chống lấn chiếm ruộng đất, đòi chia lại công điền, chống

đồi phong bại tục…

Ở Bình Định, phong trào đòi dân sinh dân chủ ở nông thôn đã lôi cuốn

đông đảo chị em tham gia đấu tranh chống tệ xôi thịt, phù thu lạm bổ, sách nhiễu

dân nghèo của cƣờng hào hƣơng lý, chống Tây đoan thƣơng chánh độc quyền

mua dừa, mua muối với giá rẻ mạt, chống tăng thuế thuốc lá, chống cƣờng hào

mua rẻ công điền… Tại xã Mỹ Thành (Phù Mỹ) chị em rủ nhau đến nhà hƣơng lý

đấu tranh quyết liệt đòi chia lại công điền, tố cáo địa chủ hà hiếp tá điền.

Ở Phú Yên, các cuộc đấu tranh chống đồi phong bại tục, đòi lập hƣơng

ƣớc, chống cƣờng hào nhũng nhiễu, chống quan lại tham ô lại đƣợc quần chúng

tham gia đông đảo, có nơi kéo dài hàng năm. Ở Tân Mỹ, Lƣơng Phƣớc, Quảng

Phú, Thạnh Phú (Tuy Hoà) nhân dân đấu tranh chống chủ nhà máy đƣờng Đồng

Bò chiếm ruộng đất, trả giá rẻ mạt. Phụ nữ các xã Hoà Phong, Hoà Mỹ ủng hộ

công nhân nhà máy đƣờng đình công đòi giảm giờ làm, trả công xứng đáng, đòi

cải thiện đời sống. Chủ phải nhƣợng bộ trả gấp đôi số tiền mƣớn đất, không mở

rộng diện tích, cải thiện đời sống cho công nhân…

Ở Ninh Thuận, phụ nữ cùng nhân dân các làn Vạn Phƣớc, Trƣờng Sanh,

Thuận Hoà… đấu tranh đòi giảm tô, giảm sƣu thuế, giảm xâu. Các làng An

Xuân, An Hoà, Đắc Nhơn, Cầu Chuối chống tên Đuy văn (chủ đồn điền Pháp)

chiếm ruộng đất, đòi giảm tô, đòi đƣợc tự do khai hoang ở suối Dầu, đƣợc làm

rẫy… và chống tên Lý Chân cƣớp đoạt ruộng đất của nông dân.

61

Phối hợp với cuộc đấu tranh của công nhân, nông dân, phong trào đấu

tranh của chị em tiểu thƣơng buôn bán nhỏ cũng rất sôi nổi, rộng rãi ở hầu hết

các tỉnh Nam Trung Bộ. Mở đầu là cuộc bãi chợ ở Nhơn Lộc (Nghĩa Hành,

Quảng Ngãi), các chợ tỉnh (thị xã), Sông Vệ (Tƣ Nghĩa), chợ Trạm (Sơn Tịnh)

tháng 2 năm 1937. Chị em không chịu nộp thuế môn bài, thuế chỗ ngồi, thuế sát

sinh và chống lại những hành động cƣớp bóc, ức hiếp của bọn lính. Trong nhân

dân còn lƣu lại rất nhiều câu chuyện về các chị em ở chợ sông Vệ, tay không tổ

chức vây đánh và giật súng của bọn lính ức hiếp chị em. Bọn chúng phải rút lui

nhƣợng bộ. Chị em các chợ Sơn Tịnh bãi thị chống thuế và đòi nhóm chợ ở

những điểm thuận lợi cho việc mua bán. Ở Bình Thuận, cuộc bãi thị đòi giảm

thuế trong ba ngày vào dịp Tết Thanh minh ở chợ Phan Thiết. Cuộc đấu tranh do

các cơ sở nhƣ chị Tám Yên, chị Năm Ƣớc ở làng Đại Nẫm làm nòng cốt lôi cuốn

đông đảo chị em bán hàng tham gia, buộc tên chủ thầu phải niêm yết giá thuế và

thu thuế chợ một lần. Công sứ Bình Thuận phải tuyên bố công khai hạ mức thuế

chợ, cảnh sát chợ không đƣợc phạt bừa bãi ở chợ.

Tại Quảng Nam, Đà Nẵng, tháng 3 năm 1938, chị em hai huyện Điện Bàn,

Duy Xuyên tham gia ký đơn đến viện dân biểu Trung kỳ đòi giảm thuế, không

thu quá cao nhƣ trƣớc. Cũng trong năm 1938, chị em tiểu thƣơng chợ Hàn (Đà

Nẵng), chợ Hội An (Quảng Nam) nhiều lần bãi thị, đòi giảm thuế chợ đã đạt

đƣợc kết quả. Chị Trần Thị Minh ở chợ Hàn lập nhóm Ái Hữu trong tiểu thƣơng

làm nòng cốt cho các cuộc đấu tranh của chị em ở chợ. Ở Bình Định, chị em tiểu

thƣơng các chợ Ân Thƣờng, Mộc Bài (Hoài Ân), chợ Cát (Hoài Nhơn), chợ Cây

Thị (Phù Mỹ) đồng loạt chống tăng thuế, đánh trả bọn thƣơng chánh đến thu

thuế. Quyết liệt nhất là cuộc đấu tranh của hàng trăm chị em ở chợ Cát ngày 8

tháng 4 năm 1938 chống lại tên Rốt-xi-nhôn, nhân viên thƣơng chánh Tam quan

đến thu thuế chợ. Trƣớc đó tên này đã bị chị em chợ Tam quan dùng đòn gánh

đánh đuổi khi nó hống hách hất đổ rổ trứng của một chị nông dân. Cuộc đấu

62

tranh ở chợ Tuy Hoà (Phú Yên), Chợ Đầm, Chợ Dinh (Khánh Hoà) kéo dài nhiều

ngày buộc bọn thống trị phải hạ thuế môn bài, giảm thuế chợ…

Phong trào của đồng bào dân tộc thiểu số cũng phát triển mạnh mẽ mà tiêu

biểu là phong trào Mộ Cọ. Phong trào bắt đầu từ làng Dong Dor thuộc xã Đinh

Lạc, sau lan ra các xã xung quanh của các huyện Di Linh (Lâm Đồng) và cả

huyện Tánh Linh (Bình Thuận) đƣợc bí mật tổ chức có hệ thống xuống các làng,

xã có tính chất tự quản, đối lập với bộ máy chính quyền của Pháp. Đồng bào đã

chuẩn bị nổi dậy thì bị thực dân Pháp phát hiện vào tháng 5 năm 1938. Bà K,Woai và K,Nhòi bị bắt cùng với 14 lãnh tụ khác, bị đánh đập và bị đƣa ra toà kết tội “âm mƣu làm loạn chống lại chính quyền Pháp”. Bà K,Woai và K,Nhòi bị

kết án 20 năm tù khổ sai. Ở Bình Thuận, phong trào Mộ Cọ thu hút hơn 5.000 ở

huyện Tánh Linh tham gia. Công sứ Bình Thuận lo sợ ra lệnh cho bọn cầm quyền

địa phƣơng không đƣợc làm rầm rộ trong ngày Quốc khánh Pháp (14.9.1938) để

tránh cơ hội cho phong trào cách mạng dấy lên lại. Phong trào đấu tranh tuy bị

đàn áp dã man nhƣng ảnh hƣởng của nó trong đồng bào dân tộc rất sâu sắc và rộng

lớn [38, tr 78].

Từ năm 1938, thực dân Pháp thi hành chính sách đàn áp phát xít, đàn áp

phong trào công nhân và phong trào đấu tranh của nhân dân ta. Báo chí tiến bộ bị

cấm hoạt động. Nhiều chủ bút và phóng viên bị bắt. Vùng nông thôn ngày càng

xơ xác, tiêu điều do sƣu cao, thuế nặng, thiên tai xảy ra liên tiếp và lệ làng hà

khắc. Ngƣời lao động lâm vào tình trạng khốn đốn. Nạn đói xảy ra trầm trọng.

Báo chí mô tả nạn đói năm 1937 ở Kiến An nhƣ sau: “…Đến hạng bần nông thì

cực kỳ khốn khổ, họ phải ăn thứ cháo loãng cho đỡ đói và để cho khỏi chết. Ấy

thế mà hai, ba ngày họ mới đƣợc một bữa cháo nhƣ thế mà ăn… ngày thƣờng họ

đào củ chuối ăn… Trong nhà có gì đem bán hết lấy tiền. Có ngƣời đem chẻ cả

giƣờng nằm, mâm ăn ra để lấy củi bán…” [6, tr23].

63

Phong trào đấu tranh của phụ nữ lao động Hải Phòng trong những năm

1938-1939 dù gặp nhiều khó khăn vẫn không ngừng nổ ra. Cuối năm 1938, Hội

ái hữu thƣơng thuyền thủy thủ tổ chức lễ an táng cụ Nguyễn Hữu Tuệ, ngƣời

thuỷ thủ lão thành. Hàng vạn nhân dân Hải Phòng đến dự, trong đó có đại diện và

đông đảo hội viên phụ nữ dân chủ.

Ngày 30 tháng 5 năm 1939, Thành uỷ Hải Phòng tổ chức cuộc mít tinh

chống tăng thuế đèn, thuế nƣớc, tại phố Bắc Ninh. Sau mít tinh, quần chúng tuần

hành qua các phố, kéo lên Toà Đốc lý trong lúc Hội đồng thành phố đang họp.

Khi kéo tới Sở Cẩm, thì cảnh sát và mật thám ra đàn áp, bắt 250 ngƣời. Trong số

ngƣời bị bắt có các chị Phạm Thị Vân, Hoàng Ngân, Chu Thị Kim, Trƣơng Thị

Viếng, chị Tý, chị Sửu… Trong phòng giam giữ, anh chị em khôn khéo giăng

hàng che mắt địch để đồng chí Tô Hiệu, Bí thƣ thành uỷ thoát ra ngoài. Mật thám

đặc biệt chú ý tới các chị Nguyễn Thị Nghĩa, Nguyễn Thị Khánh, Nguyễn Thị

Bích Kim, Phạm Thị Vân… Theo chúng “Phần lớn những ngƣời này giữ vai trò

quen thuộc trong những cuộc đình công đã xảy ra ở Hải Phòng trong những đêm

30,31. Họ vẫn không ngừng biểu tình trong các nhà giam của Sở cảnh sát thành

phố Hải Phòng…”[6, tr 54]. Vụ này, chị Hoàng Ngân bị địch bắt đi tù. Ra tù, chị

lại tiếp tục hoạt động và bị bắt lần thứ hai. Năm 1947, chị làm Bí thƣ Trung ƣơng

lâm thời Đoàn phụ nữ cứu quốc Việt Nam và mất năm 29 tuổi do hậu quả của

đòn thù. Chị là một cán bộ tài ba, một phụ nữ có bản lĩnh.

Không những tham gia trong phong trào đấu tranh đòi quyền lợi chung của

phụ nữ lao động, đông đảo chị em còn tích cực tham gia tuyên truyền cách mạng.

Trong nhiều cuộc mít tinh, biểu tình, nhiều chị lên diễn thuyết, tố cáo chế độ bóc

lột tàn bạo của thực dân, nỗi khổ cực của phụ nữ dƣới ách thực dân phong kiến,

kêu gọi đấu tranh bảo vệ hoà bình, bảo vệ quyền lợi của phụ nữ. Cùng với nam

giới, chị em thƣờng xuyên đi rải truyền đơn. Dù cảnh sát mật thám rình mò, bắt

bớ tra tấn, các chị vẫn hăng hái nhận công việc nguy hiểm ấy. Trong tháng 9 năm

64

1939, rất nhiều truyền đơn đƣợc rải vào lúc tan tầm ở các nhà máy, đƣờng phố,

tuyên truyền chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc và chống phản động

thuộc địa, yêu cầu phòng thủ phát xít Nhật…

Trong những năm đấu tranh đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hoà bình (1936-

1939), chủ nghĩa Mác-Lênin đƣợc truyền bá công khai và thâm nhập vào đông

đảo quần chúng lao động. Hàng ngàn chị em đƣợc tập hợp và tham gia vào Mặt

trận dân chủ, trở thành một lực lƣợng rất quan trọng. Các tổ phụ nữ dân chủ ở

nhà máy, xí nghiệp, bến cảng, trong giới tiểu thƣơng, ở nông thôn đã hoạt động

khá mạnh, góp phần to lớn vào cuộc đấu tranh chung, tạo nên một sắc thái mới,

một thế trận mới của phong trào cách mạng. Qua cao trào này, phụ nữ nƣớc ta

đƣợc tập hợp đông đảo và đã khẳng định vị thế không thể thiếu trong sự nghiệp

giải phóng dân tộc.

1.3.3. Phong trào đấu tranh của nữ công

Từ năm 1936, tình hình quốc tế cũng nhƣ trong nƣớc có những thuận lợi

căn bản cho sự phát triển của cách mạng và phong trào công nhân nƣớc ta trong

đó có phong trào nữ công nhân lao động.

Trong nƣớc, phong trào công nhân và tổ chức Công hội Đỏ sau mấy năm

phục hồi đã có nhiều chuyển biến tốt. Số đông tù chính trị trong đó có nhiều chị

em phụ nữ đã ra khỏi nhà tù trở về với cơ sở quần chúng, tiếp tục tham gia lãnh

đạo đấu tranh.

Tháng 7 năm 1936, Hội nghị Trung ƣơng Đảng Cộng sản Đông Dƣơng đã

chủ trƣơng thành lập Mặt trận Nhân dân phản đế rộng rãi, sau đổi là Mặt trận Dân

chủ Đông Dƣơng. Chủ trƣơng đƣa mọi hoạt động ra công khai và nửa công khai.

Sau Hội nghị này, Đảng Cộng sản Đông Dƣơng gửi thƣ công khai cho các đảng

phái gồm 12 điểm yêu sách, trong đó nhấn mạnh đấu tranh “đòi phụ nữ đƣợc hƣởng

quyền lợi kinh tế và chính trị ngang hàng với đàn ông” [21, tr 25].

65

Dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản nữ công nhân lao động hăng hái

tham gia các cuộc đấu tranh chung của giai cấp công nhân và phụ nữ Việt Nam.

Mà trƣớc hết là “phong trào Đông Dƣơng Đại hội”, với tổ chức cơ sở của nó là

các Ủy ban hành động. Đây là cuộc vận động dân chủ công khai đầu tiên ở Đông

Dƣơng nhằm thu thập nguyện vọng các tầng lớp nhân dân, tiến tới triệu tập Đại

hội đại biểu nhân dân Đông Dƣơng thảo bản dân quyền gởi lên Đoàn điều tra.

Phong trào này hoàn toàn phù hợp với nguyện vọng khát khao tự do dân

chủ của nhân dân và đã đƣợc nữ công nhân lao động hƣởng ứng sôi nổi. Các “Ủy

ban hành động” đƣợc thành lập ở khắp nơi, nhất là ở Nam Kỳ. Chỉ hơn một tháng

đã thành lập đƣợc 600 Ủy ban hành động. Đông đảo nữ công nhân lao động đã

tham gia vào các Ủy ban này. Chẳng hạn Ủy ban trù bị Đông Dƣơng Đại hội ở

Sài Gòn có 3 chị tham gia nhƣ chị Nguyễn Thị Lựu tham gia Ban thƣ ký, chị

Tràn Thị Đầy, Nguyễn Thị Lƣợng tham gia Ban Tuyên truyền vân động. Đặc biệt

chị Nguyễn Thị Minh Khai - Xứ ủy viên Nam Kỳ, Bí thƣ tỉnh ủy Sài Gòn- Chợ

Lớn là ngƣời trực tiếp vận động và tổ chức lực lƣơng nữ công nhân trong thời

gian này [77, tr 14].

Các “Ủy ban hành động” đã tổ chức mít tinh hội họp quần chúng, rải truyền

đơn, giải thích thảo lận về tình hình đời sống, luật lao động... Các tổ chức của phụ

nữ lao động từ những năm trƣớc đây nhƣ Hội tƣơng tế, tƣơng trợ nay đƣợc mở

rộng tập hợp đông đảo thêm gấp bội. Đó cũng là những tổ chức góp phần thành lập

các “Ủy ban hành động” các nhóm “sƣu tập dân nguyện”, phong trào “Đông

Dƣơng Đại hội”... Thông qua các tổ chức này nữ công nhân lao động đã thảo luận,

phát biểu các nguyện vọng, ghi thành văn bản và cử đại biểu đƣa đến tận phái viên

của Chính phủ Mặt trận bình dân Pháp.

Phong trào “Đông Dƣơng Đại hội” đã buộc chính quyền thuộc địa phải

nhƣợng bộ từng bƣớc nhƣ ban hành luật lao động. Một số nơi có phong trào

66

mạnh nhƣ than Hòn Gai, buộc bọn chủ phải thực hiện ngày làm 10 giờ, nữ công

nhân nghỉ đẻ 10 ngày có lƣơng, không để công nhân nữ làm ca đêm, v.v...

Phong trào “Đông Dƣơng Đại hội” chỉ tồn tại có 3 tháng, song nó có ý

nghĩa và tác dụng mở đầu một thời kỳ sinh hoạt chính trị rộng rãi, công khai hợp

pháp của công nhân lao động nƣớc ta trong thời kỳ 1936-1939, trong đó nữ công

nhân lao động giữ vị trí quan trọng.

Đầu năm 1937, J. Gôđa đặc phái viên của Chính phủ Mặt trận Bình dân

Pháp sang Đông Dƣơng để điều tra tình hình thuộc địa. Lợi dụng tình hình đó,

Đảng ta đã nhanh chóng phát động phong trào “đón Gôđa”. Cùng giai cấp công

nhân ở khắp các thành phố lớn nhƣ Sài Gòn- Chợ Lớn, Hà Nội, Hải Phòng, Nam

Định, Vinh, Huế, Đà Nẵng... nữ công nhân lao động đã hăng hái tham gia “đón

Gôđa” bằng những cuộc mít tinh biểu tình giƣơng cao các khẩu hiệu nhƣ: “Hoan

nghênh Mặt trận Bình dân”, “Tự do lập Công hội, “Thi hành Luật lao động”,

“Đại xá chính trị phạm”,v.v... Nữ công nhân các nhà máy xay lớn nhƣ Nam

Long, nhà máy xay của hãng rƣợu Bình Tây, hãng đƣờng Hiệp Hòa (Nam Kỳ)

đấu tranh đƣa yêu sách. Hơn 700 công nhân Trƣờng Thi (Nghệ An) họp Hội nghị

toàn thể cử đại biểu thảo bản nguyện vọng gồm 27 điều, thợ hãng Sifa, Samanal,

Nhà in, Bồi bếp và hàng ngàn công nhân lao động Huế đấu tranh trong các ngày

24, 25 tháng 2 năm 1937.

Trƣớc áp lực mạnh mẽ của giai cấp công nhân, Gôđa buộc phải tuyên bố

“tán thành tự do nghiệp đoàn” và sau đó một thời gian, Brêviê, Toàn quyền Phấp

sang Đông Dƣơng, cũng phải hứa hẹn ban hành luật nghiệp đoàn. Đó là một cơ

hội tốt cho phong trào đấu tranh đòi tự do nghiệp đoàn của công nhân Việt Nam

phát triển.

Để đối phó với phong trào đòi tự do nghiệp đoàn, Brêviê đã lập ra cái gọi là

“Hội đồng ngiên cứu việc thi hành Luật nghiệp đoàn ở Đông Dƣơng” nhằm thống

nhất thái độ đối với phong trào và trì hoãn việc ban bố Luật ngiệp đoàn.

67

Tháng 6 năm 1937, dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dƣơng một

phong trào ủy ban sáng kiến, ủy ban vận động thành lập nghiệp đoàn, phát triển sôi

nổi trong toàn quốc, từ cấp nhà máy, xí nghiệp đến cấp toàn thành, toàn xứ.

Việc làm này không chỉ thể hiện ý chí của giai cấp công nhân đối với việc

Chính phủ Pháp cắt xén Luật Công đoàn, đối với việc Chính phủ Đông Dƣơng và

bọn tƣ bản thực dân âm mƣu hoãn việc ban hành Luật Công đoàn, mà còn là sự

chuẩn bị tƣ tƣởng và tổ chức cho giai cấp công nhân trong việc sử dụng quyền

lập công đoàn sắp tới. Ủy ban đã ra hiệu triệu anh chị em thợ thuyền hƣởng ứng

lập “Ủy ban sáng xuất nghiệp đoàn” ở các hầm mỏ, xí nghiệp, đồn điền, đƣờng

phố ở mỗi xứ để cùng nhau đi đến tổ chức Tổng nghiệp đoàn toàn quốc và thống

nhất.

Nhƣng khi phong trào nghiệp đoàn mới bắt đầu phát triển, chính quyền

thực dân đã tìm mọi cách vu cáo, chia rẽ, ngăn cản, phá hoại đến đàn áp khủng

bố các chiến sĩ nghiệp đoàn. Nhƣng khi chúng biết rằng ngăn chặn con đƣờng

nghiệp đoàn sẽ bùng nổ một phong trào mới, nên chính quyền thực dân buộc phải

cho công nhân lập tổ chức Ái hữu.

Dự đoán đúng âm mƣu và ý đồ của địch, giai cấp công nhân chủ động

trong sách lƣợc đấu tranh của mình.

Ngay từ giữa năm 1936, Trung ƣơng Đảng Cộng sản Đông Dƣơng đã tiên

đoán tình hình này và chỉ thị: “Từ nay về sau chỗ nào mà các Công hội, Nông hội

khó tổ chức thì các đồng chí lấy danh nghĩa nhƣ Ái hữu hội, tƣơng tế hội... vô

luận lấy tên là gì mà các đồng chí trong các hội ấy có thể làm công tác Công

hội... là đƣợc” [21, tr 25].

Nhờ có những chủ trƣơng rõ ràng và đúng đắn của Đảng Cộng sản Đông

Dƣơng, nên khi có thời cơ, công nhân đã rầm rộ tổ chức các Ái hữu theo ngành,

theo nghề, theo xí nghiệp, địa phƣơng nhƣ Ái hữu thợ dệt, Ái hữu công nhân nhà

68

máy tơ, Ái hữu thợ nón, thợ mũ, thợ giày, thợ nề, thợ mộc, thợ cạo, thợ thủy tinh,

bồi bếp, v.v...

Nhiều Ái hữu gồm hàng trăm hội viên, nhƣ Ái hữu Nam Định có trên 400

hội viên.

Phong trào Ái hữu ở Bắc Kỳ ảnh hƣởng tới Nam Kỳ. Tại đây, hầu nhƣ

không có ngành nào, xí nghiệp nào không lập Ái hữu mới. Nhiều tổ chức Ái hữu

cũ đƣợc chỉnh đốn và hoạt động theo phƣơng thức mới, thu hút hàng vạn hội viên

tham gia.

Rút kinh nghiệm, anh chị em cán bộ quy định nội dung hoạt động của Ái

hữu vào những điều cần thiết nhƣ giúp đỡ nhau khi ốm nặng, thất nghiệp, giúp

nhau tìm việc làm, bênh vực nhau khi bị áp bức. Chủ trƣơng đúng đắn này đã góp

phần đẩy mạnh phong trào Ái hữu. Ái hữu không chỉ phát triển trong các cơ sở

lâu đời nhƣ Ba Son mà lan rộng đến nhiều ngành nghề mà trƣớc đó chƣa lập ái

hữu nhƣ thợ thủ công, Ái hữu thợ cúp tóc, Ái hữu phụ nữ giữ trẻ mƣớn Sài Gòn-

Chợ Lớn, Ái hữu chị em giặt là,v.v...

Phong trào Ái hữu và hoạt động của nó đã làm thất bại hoàn toàn âm mƣu

của kẻ thù dùng Ái hữu chống lại nghiệp đoàn, ngăn cấm công nhân hoạt động

chính trị. Chúng bắt đầu tìm cách đàn áp Ái hữu. Phổ biến nhất là những ngƣời

tham gia Ái hữu bị sa thải. Chẳng hạn Công ty Dệt Nam Định đuổi 200 gia đình

tham gia Ái hữu ra khỏi khu tập thể nhà ở của Công ty... Càng về sau địch càng

khủng bố ác liệt, phong trào đã từng bƣớc chuyển sang những hình thức đấu

tranh mới.

Bên cạnh việc tham gia vào những hoạt động chung của Mặt trận dân chủ,

vào phong trào Ái hữu, Nghiệp đoàn, Phụ nữ công nhân lao động đã tích cực

cùng công nhân tham gia các cuộc bãi công chống áp bức bóc lột, đòi quyền lợi

thiết thân hàng ngày. Cuối năm 1936 đã có 361 cuộc bãi công, trong đó có 297

cuộc bãi công của công nhân kỹ nghệ và thƣơng mại, tổng số ngƣời tham gia có

69

tới 5,5 vạn ngƣời bằng một phần tƣ tổng số công nhân công nghiệp. Điển hình là

cuộc bãi công của công nhân vùng mỏ Quảng Ninh, Đông Triều tháng 1 năm

1936, nơi có khá đông nữ công nhân (2.500 ngƣời). Cuộc bãi công thắng lợi có

tiếng vang lớn trong toàn quốc và làm chấn động dƣ luận nƣớc Pháp [77, tr 22].

Năm 1937, cả nƣớc có tới gần 400 cuộc bãi công của công nhân. Trong đó

có nhiều cuộc đấu tranh của các cơ sở có đông nữ hoặc có những cuộc đấu tranh

của riêng chị em nữ công nhân lao động.

Ngày 18 tháng 1 năm 1937, 2.500 anh chị em tại 36 Nhà máy xay gạo

Chợ Lớn tổng đình công yêu cầu tăng lƣơng, thi hành luật Công đoàn. Ngày 2

tháng 2 năm 1937, 7.000 công nhân Nhà máy Dệt Nam Định tổng đình công yêu

cầu tăng lƣơng, giảm giờ làm. Cuộc đấu tranh kéo dài gần một tháng. Cuối cùng

bọn chủ phải tăng lƣơng 25% và hứa thi hành Luật Lao động, thực hiện chế độ

sản xuất ba ca. Ngày 6 tháng 2 năm 1937, một loạt cuộc bãi công của nam nữ

công nhân xƣởng tơ, dệt và in Nam Định đòi tăng lƣơng. Tiếp đó ngày 24 tháng

2, 1.000 công nhân Sợi Nam Định đấu tranh phản đối chủ đuổi 30 thợ. Ngày 27

tháng 11 năm 1937, toàn thể thợ may, thợ giầy ở Huế bãi công và sau đó 2 ngày,

ngày 29 tháng 11 công nhân Nhà máy xay gạo Nguyễn Phong Đệ (Chợ Lớn) đấu

tranh đòi bớt giờ làm, chống ngƣợc đãi, không đƣợc bớt lƣơng...[77, tr 32 – 33].

Có thể nói, năm 1937 là năm nữ công nhân lao động tham gia nhiều cuộc

đấu tranh do riêng chị em tổ chức. Điển hình nhƣ cuộc đình công của 700 nữ

công nhân Dệt ở Chợ Mới (Long Xuyên), một cuộc bãi công có tính chất toàn

ngành buộc bọn chủ phải tăng lƣơng nhất loạt 15%. Cuộc đấu tranh của 100 nữ

công nhân Nhà máy Sàng Vàng Danh chống chủ ăn bớt giờ làm, yêu cầu bấm thẻ

đúng giờ vào làm. Cuộc đấu tranh của hơn 100 nữ công nhân Nhà máy Giấy Đáp

Cầu (Bắc Ninh) đấu tranh đòi đuổi tên cai hà khắc, phản đối chủ kéo dài ngày lao

động, bắt làm thêm việc...

70

Sang năm 1938, tình hình có nhiều khó khăn hơn. Nạn khủng hoảng kinh

tế của chủ nghĩa tƣ bản thế giới cộng với thiên tai lũ lụt ở miền Trung, Bắc Kỳ...

chính phủ Pháp ngày càng đi vào con đƣờng phản động, nguy cơ chiến tranh thế

giới đến gần... phong trào đấu tranh của công nhân có giảm sút hơn trƣớc (có 131

cuộc bãi công). Nhƣng vẫn xuất hiện các cuộc bãi công ở những cơ sở có đông

nữ và những cuộc đấu tranh của riêng nữ công nhân lao động. Tiêu biểu nhƣ cuộc

đình công của 200 nữ công nhân tại 5 công ty xuất khẩu Sài Gòn (8.3.1938), bãi

công của 400 thợ may ở 55 tiệm may Sài Gòn- Chợ Lớn (4.1.1938); bãi công của

1.600 công nhân Sở chè Entrerays (Trung Kỳ), bãi công của 400 công nhân (có

250 nữ) của Hãng Thuốc lá Cotap chống chế độ làm khoán cuối năm 1938...[78,

tr 98].

Từ đó cho đến trƣớc chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, vẫn còn nhiều

cuộc đấu tranh của nữ công nhân lao động hoặc có nhiều nữ công nhân tham gia.

Chẳng hạn nhƣ ở Nam Kỳ tháng 1 năm 1939, 300 anh chị em đồn điền Thủ Dầu

Một bãi công đòi giảm giờ làm từ 11 giờ xuống 9 giờ. Tháng 5 năm 1939, diễn ra

5 cuộc bãi công của 300 anh chị em công nhân vệ sinh ở Sài Gòn. Hãng thuốc lá

Côtap Sài Gòn, nơi tập trung đông nữ công nhân đã bãi công đòi tăng lƣơng,

giảm giờ làm, đòi cải thiện điều kiện làm việc. Ở miền Bắc có cuộc bãi công của

công nhân dệt Xƣởng “Công thƣơng” phố Khách Hải Phòng, đấu tranh của công

nhân Hãng Xuất cảng chè Cothesu (Hải Phòng) ở Xƣởng dệt Đức Xƣơng. Đáng

chú ý có cuộc bãi công của 3.000 công nhân Nhà máy Tơ Hải Phòng (có 2.600

nữ) ngày 16 tháng 5 năm 1939 đấu tranh đòi quy định ngày trả lƣơng, ốm đau

phải đƣợc phát thuốc, không đƣợc đuổi đại biểu công nhân, đòi cho phụ nữ nghỉ

40 phút/ ngày cho con bú... Tham gia lãnh đạo cuộc bãi công có chị Trƣơng Thị

Mỹ và chị Kim Sơn. Cuộc đình công đã đƣợc công nhân các nhà máy ở Hải

Phòng, Nam Định, xƣởng Ba Son (Sài Gòn) ủng hộ mạnh mẽ. Sau 12 ngày đấu

tranh liên tục, cuộc bãi công đã giành đƣợc thắng lợi. Các yêu sách của công

71

nhân đƣợc giải quyết. Ngoài ra còn phải kể đến cuộc bãi công của công nhân nhà

in Lê Văn Tân (2.6.1939) và cuộc bãi công của 250 nữ công nhân Nhà máy Diêm

Hà Nội phản đối sự đánh đập chửi mắng, đòi đƣợc nghỉ trƣa 1 giờ, có nƣớc uống

trong giờ làm, bồi thƣờng khi xảy ra, đòi tăng tiền đóng mỗi vỉ diêm từ 16 xu lên

20 xu...

Bên cạnh việc trực tiếp tham gia vào cuộc đấu tranh của mình, nữ công

nhân lao động còn tích cực ủng hộ các cuộc bãi thị của chị em lao động tiểu

thƣơng nhƣ ủng hộ cuộc đấu tranh của tiểu thƣơng chợ Long Xuyên, tiểu thƣơng

chợ Đông Ba (Huế), bạn hàng chợ Đà Lạt, chợ Đà Nẵng, chợ Đồng Xuân Hà Nội

(25.5.1937)...

Có thể nói, thời kỳ mặt trận Dân chủ 1936 - 1939 do đặc điểm của giới và

tính chất nghề nghiệp, nữ công nhân lao động đã nhanh chóng thích nghi với

phong trào và là bộ phận quan trọng của phong trào đấu tranh chung của giai cấp

công nhân và phong trào cách mạng cả nƣớc. Nhiều cơ sở tập trung đông nữ,

phong trào phát triển khá mạnh. Đây cũng là thời kỳ nhiều nữ công nhân lao

động đƣợc giác ngộ và có ngƣời trở thành những cán bộ lãnh đạo xuất sắc của

Đảng, của giai cấp công nhân và phụ nữ việt Nam. Đây cũng là thời gian phong

trào nữ công nhân lao động đƣợc tập dƣợt trƣớc khi bƣớc vào cao trào đấu tranh

mới, cùng giai cấp công nhân và nhân dân lao động cả nƣớc giành chính quyền

về tay nhân dân.

Nhƣ vậy, trong những năm 1936 - 1939, với Cƣơng lĩnh của Mặt trận nhân

dân chống chiến tranh phát xít, đòi dân sinh, dân chủ, Đảng đã phát động phong

trào rộng rãi, nâng câo trình độ hiểu biết của phụ nữ về tự do dân chủ, về chủ

nghĩa Cộng sản và những quyền lợi thiết thân của mình.

Chính trong thời kỳ này, với những hình thức tổ chức và phƣơng thức hoạt

động thích hợp, phong phú, với những nội dung, khẩu hiệu thiết thực, Đảng đã

tập hợp đƣợc hầu hết các tầng lớp phụ nữ kể cả công nhân, nông dân, tiểu

72

thƣơng, tiểu chủ, tiểu tƣ sản trí thức; cũng là thời kỳ một số khá đông chị em

đƣợc kết nạp vào Đảng và trở thành đội ngũ cán bộ cốt cán của Đảng và quần

chúng phụ nữ.

Tuy tổ chức phụ nữ chƣa thành hệ thống nhƣng qua Phụ nữ Tân tiến, Phụ

nữ Giải phóng, Phụ nữ Liên hiệp, các tổ chức Tƣơng tế, Ái hữu, Hội từ thiện, các

lớp dạy chữ Quốc ngữ, tổ đọc sách báo. Đảng đã giáo dục lòng yêu nƣớc, ý thức

dân chủ, tự do, bình đẳng cho phụ nữ và huy động tham gia cuộc đấu tranh. Đây

cũng là cơ sở, là bƣớc diễn tập rộng rãi, rèn luyện ý chí và khả năng để phụ nữ

tiến lên góp phần cùng toàn dân tham gia đấu tranh trong trong giai đoạn 1939 –

1945.

CHƢƠNG 2: ĐẢNG VỚI CUỘC VẬN ĐỘNG PHỤ NỮ (1939 - 1945)

2.1. Bối cảnh lịch sử và chủ trƣơng vận động phụ nữ của Đảng

Năm 1940, phát xít Đức tấn công nƣớc Pháp, chính phủ Pháp do Reynaud

cầm đầu nhanh chóng sụp đổ. Chính phủ mới do Thống chế Philippe Petain thành

lập tuyên bố đầu hàng phát xít Đức. Một nhóm khác do tƣớng Charles de Gaulle

lãnh đạo chạy sang Anh và thành lập Uỷ ban giải phóng dân tộc Pháp. Chính phủ

Bình dân của Pháp không còn tồn tại, Đảng cộng sản bị giải tán, phải đi vào hoạt

động bí mật. Việc nƣớc Pháp bị Đức xâm chiếm ảnh hƣởng mạnh mẽ đến những

diễn biến chính trị tại Đông Dƣơng.

73

Ở Đông Dƣơng, chức vụ toàn quyền Đông Dƣơng cũng thay đổi. Chức

quan toàn quyền dân sự là Brevie chuyển sang cho tƣớng Catroux và sau đó là

Đô đốc Jean Decoux. Pháp đã chuẩn bị cho tình trạng chiến tranh ở các nƣớc

thuộc địa. Hành động đầu tiên của chính quyền thuộc địa là ra sức đàn áp Đảng

Cộng sản. Sắc lệnh ngày 28 tháng 9 năm 1939 cấm ngặt tất cả các hành vi tuyên

truyền Quốc tế III và các tổ chức có liên quan. Đảng cộng sản, các đoàn thể và

các nhóm có liên quan đều bị giải tán, báo chí cách mạng bị kiểm soát rất gắt

gao. Bộ máy đàn áp đƣợc tăng cƣờng. Lệnh thiết quân luật đƣợc ban bố. Những

quyền lợi mà nhân dân Đông Dƣơng đấu tranh đạt đƣợc trong thời kỳ Mặt trận

dân chủ bị thủ tiêu.

Trƣớc tình hình đó, Đảng cộng sản Đông Dƣơng đã kịp thời chuyển hƣớng

chỉ đạo cách mạng, thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dƣơng,

ra chỉ thị cho tất cả các tổ chức và các tờ báo cách mạng rút vào hoạt động bí

mật.

Ngày 23 tháng 9 năm 1940, Nhật nhảy vào Đông Dƣơng đặt thêm một ách

thống trị mới lên xã hội Việt Nam. Phát xít Nhật đã từng bƣớc ép Pháp phải

nhƣờng cho Nhật một số quyền lợi về kinh tế, chính trị và quân sự. Đồng thời

Nhật cũng ráo riết tuyên truyền chính sách Đại Đông Á, văn hóa Nhật nhằm gây

ảnh hƣởng trong dân chúng. Nhật cũng thành lập văn phòng kiểm duyệt báo chí,

ra thông báo về việc kiểm duyệt toàn bộ báo chí, xuất bản ấn phẩm và các

phƣơng tiện truyên truyền nhằm hạn chế đến mức tối thiểu sự tuyên truyền cách

mạng của các tổ chức yêu nƣớc.

Trƣớc sự thay đổi của tình hình, Đảng Cộng sản Đông Dƣơng đã phát

động phong trào đấu tranh chống Pháp - Nhật. Sau khởi nghĩa Bắc Sơn, một khu

căn cứ địa cách mạng đƣợc hình thành ở núi rừng Việt Bắc. Hội nghị Trung ƣơng

lần thứ VIII (5. 1941) quyết định thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi

lấy tên là Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh). Một trong mƣời

74

chƣơng trình lớn của Việt Minh là “nam nữ bình quyền”. Hội phụ nữ Cứu quốc

nằm trong hệ thống tổ chức của Mặt trận. Điều lệ của hội nêu rõ: “Đoàn kết hết

thảy các chị em phụ nữ ái quốc Việt Nam để mƣu lợi ích hàng ngày cho phụ nữ,

để cùng các đoàn thể cứu quốc khác đánh Pháp, đánh Nhật, làm cho nƣớc Việt

Nam ta hoàn toàn độc lập” [27, tr 198]. Năm 1941, trƣớc tình hình khẩn cấp của

phong trào vận động phản đế, Nghị quyết Hội nghị cán bộ toàn xứ Bắc kỳ chỉ

đạo: Không nên dùng nữ cán bộ phụ vận làm giao thông, nhƣ thế làm cho công

tác phụ vận bị đình trệ. Cần phải “đào tạo cán bộ giao thông khác để cho các nữ

đồng chí chuyên môn tiến hành công tác phụ vận của họ” [27, tr 198]. Theo chỉ

thị của Trung ƣơng, phải thống nhất dần các Hội quần chúng, nhƣ Việt Nam công

nhân cứu quốc hội, Việt Nam phụ nữ cứu quốc đoàn, Việt Nam Thanh niên cứu

quốc đoàn, Việt Nam tự vệ cứu quốc đội...

“Các đoàn, các Hội cứu quốc liên hiệp lại thành Việt Nam độc lập đồng

minh. Phải nói rõ cho quần chúng hiểu tại sao lại phải thay tên là Việt Nam cứu

quốc, nghĩa là phải nói rõ cho họ hiểu rằng chính sách mới của Đảng lúc này là

chính sách duy nhất cứu tổ quốc, cứu đồng bào” [27, tr 198].

Đảng cũng nhấn mạnh “Cuộc đấu tranh giải phóng cho dân tộc phải có phụ

nữ tham gia mới dễ thắng lợi” và đề ra biện pháp tổ chức cụ thể đối với phong

trào phụ nữ “Cần đào tạo thêm cán bộ phụ nữ bằng cách huấn luyện cho các nữ

đảng viên và các đoàn viên phụ nữ cứu quốc... Cần phát hành một tờ truyền đơn

kêu gọi chị em thành thị. Phải dùng mọi hình thức liên hiệp tất cả các tầng lớp

phụ nữ tổ chức chơi họ, đan áo rét cho các chiến sĩ cách mạng” và “mỗi xứ phải

có một ban phụ vận để chú trọng đến vấn đề vận động phụ nữ và kịp ra những tài

liệu cần thiết cho phụ nữ. Những tổ chức đơn sơ nhƣ hợp tác xã buôn chung, hợp

tác xã tiêu thụ, các lớp học chữ quốc ngữ, v.v..., là những hình thức rất cần thiết

để đƣa chị em phụ nữ lên “Việt Nam phụ nữ cứu quốc hội”...[27, tr 197]. Phong

trào Việt Minh phát triển, ở các vùng căn cứ địa cách mạng, báo chí cách mạng

75

cũng đƣợc xuất bản góp phần tuyên truyền và vận động toàn thể nhân dân nói

chung và phụ nữ nói riêng nhƣ tờ: Việt Nam độc lập, Cứu quốc, Cờ giải phóng...

Ở các địa phƣơng cũng có báo cách mạng để vận động tuyên truyền phụ nữ nhƣ

báo Đuổi giặc nƣớc của cơ quan tuyên truyền cổ động của Việt Minh Thanh Hoá,

Báo Hiệp lực của cơ quan cổ động Việt Minh tỉnh Bắc Ninh.

Ngay từ đầu năm 1939, Đảng đã phân tích rõ tình hình: Bọn quân phiệt

Nhật say máu ngƣời vẫn lăm le xâm chiếm Đông Dƣơng. Xứ sở chúng ta chƣa

biết bị lôi cuốn vào năm lính lửa ngày nào, chồng con ta đang nơm nớp lo sợ bị

đem thân làm mồi cho súng đạn và chừng đó chúng ta không thoát khỏi bị quân

phát xít hãm hiếp, con cái chúng ta bị chúng chém giết” và kêu gọi toàn dân đứng

lên chống phát xít, chống chiến tranh. Riêng đối với phụ nữ việc 2 vạn thanh niên

Đông Dƣơng bị bắt đi lính, điều đó có nghĩa sẽ có ít nhất 2 vạn chị em phải xa

chồng, xa con. Vì vậy hơn lúc nào hết, chị em ta không thể đứng địa vị bàng

quan mà cần phải tham gia vào phong trào thống nhất dân chúng, đòi tự do dân

chủ và ủng hộ hoà bình. Chị em cũng cần phải khuyên giải cho chồng con hiểu

cái nhiệm vụ chống chiến tranh phản cách mạng của đế quốc ủng hộ cột trụ hoà

bình thế giới và ủng hộ Liên Xô.

Trong điều kiện Đảng Cộng sản Đông Dƣơng rút vào hoạt động bí mật,

phƣơng thức vận động phụ nữ của Đảng chủ yếu bằng báo chí cách mạng phát

hành bí mật và lƣu hành chủ yếu ở vùng miền núi căn cứ địa cách mạng và vùng

nông thôn với đối tƣợng chính là nhân dân lao động, đặc biệt là phụ nữ lao động

nghèo, phần lớn bị thất học, nên các bài báo đƣợc thể hiện dƣới dạng văn vần dễ

nhớ, dễ thuộc và có khả năng lƣu truyền trong nhân dân.

Ví dụ Báo Đuổi giặc nước số ra ngày 15 tháng 7 năm 1944 có bài thơ vận

động phụ nữ đấu tranh phản chiến với những hƣớng dẫn tỉ mỉ:

Chị em ơi kíp đồng tình

Ta ra phản đối chiến tranh giết ngƣời

76

Chống mộ lính, bắt phu đòi

Giữ con, chồng, bố đuổi loài thù chung

Vén tay ta níu lấy chồng

Ta ôm lấy bố, ta bồng lấy con

Sắn quần ta đến trại đồn

Ta kêu ta dục chồng con ta về

Nằm ngang đƣờng cản tàu xe

Chỉ quân phát xít ta hè nhau la

Phải trả chồng, phải trả cha

Trả con yêu quý cho ta tức thời

Rủ đầu nằm vạ công môn

Đòi bồi thƣờng cho con cho chồng”

Luận cƣơng của Đảng đã xác định rõ cuộc đấu tranh cách mạng của nhân

dân Việt Nam là cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và nếu cuộc cách mạng dân

tộc không có phụ nữ tham gia thì cách mạng không thể thành công. Chính vì vậy,

khi nhận định cuộc chiến tranh đế quốc đang diễn ra có thể tạo thời cơ cho nhân

dân Việt Nam đứng lên giành độc lập, Đảng chủ trƣơng đẩy mạnh công tác vận

động phụ nữ tham gia vào cuộc đấu tranh chung của toàn dân, nhằm giải phóng

dân tộc Việt Nam thoát khỏi ách thống trị của đế quốc.

Đảng cổ động phụ nữ thông qua tờ báo Việt Nam Độc lập “noi gƣơng hai

vị nữ anh hùng dân tộc Việt Nam là Hai Bà Trƣng”, đoàn kết cùng nhân dân toàn

quốc nổi dậy đánh Pháp - Nhật, giành độc lập dân tộc. Thông qua một số tờ báo,

Đảng cũng khẳng định: Phụ nữ là phần nửa nhân dân. Dƣới gót sắt Nhật - Tây,

phụ nữ cũng bị áp bức nhƣ đàn ông và còn hơn đàn ông. Vậy phụ nữ cũng phải

cùng đàn ông làm cách mạng, đánh Nhật - Tây, làm cho nƣớc ta độc lập thì phụ

nữ mới đƣợc giải phóng và sung sƣớng. Muốn làm trọn nhiệm vụ của phụ nữ

trong cuộc cách mạng này, phụ nữ cần gây một phong trào mạnh mẽ. Đảng cũng

77

chỉ ra các tấm gƣơng phụ nữ tiêu biểu trên tờ báo Cứu Quốc số Xuân năm 1945:

phụ nữ Việt Nam trong lịch sử vốn có truyền thống yêu nƣớc chống ngoại xâm với

những tấm gƣơng tiêu biểu nhƣ Hai Bà Trƣng, Bà Triệu, nữ tƣớng Bùi Thị Xuân

hoặc gần đây có cô Tám chuyên chở vũ khí cho Phan Đình Phùng, cô Ba Đề Thám,

chị Nguyễn Thị Bƣởi, chị Nguyễn Thị Minh Khai, cô Giang... Phụ nữ có thể gánh

vác công việc nhƣ nam giới, không những thế, trách nhiệm của các chị phải làm

đƣợc những gì mà phái đàn ông khó làm đƣợc chu đáo. Ví dụ nhƣ đóng vai hàng

quà, hàng bánh len lỏi trong đám quân thù để do thám chúng, hoặc canh gác, bảo vệ

các cơ quan địa điểm khai hội cách mạng, trong vai cô hàng buôn thúng bán mẹt

hiền lành chuyên chở vũ khí, làm thông tin liên lạc, binh vận, cứu thƣơng... Cũng có

thể xung vào các đội du kích, có quyền ứng cử vào các hội đồng cách mạng.

Đến tháng 7 năm 1945, tại các khu căn cứ địa Cao - Bắc - Lạng, thời cơ

khởi nghĩa vũ trang đến gần, cơ quan tuyên truyền của Việt Minh kêu gọi: “Các

địa phƣơng phải mau thành lập Phụ nữ phục vụ đoàn. Hội viên của hội là những

phụ nữ hết sức giúp đỡ và hết sức làm việc hội, những phụ nữ chƣa vào hội và

các bà già hăng hái tham gia Phụ nữ phục vụ đoàn đều có thể vào đƣợc. Công tác

chú trọng về sinh sản (sản xuất) và giúp đỡ bộ đội nhuộm vải, dệt may, thêu đan,

làm giầy giúp các bộ đội...”[63, tr 98].

Báo chí cách mạng - Cơ quan ngôn luận của Đảng thời kỳ này phát hành

và lƣu truyền phổ biến trong căn cứ địa cách mạng và vùng nông thôn với những

lời thơ hừng hực khí thế kêu gọi phụ nữ đứng lên làm cách mạng giành độc lập

dân tộc:

“Đứng lên hỡi chị em ơi

Tuốt gƣơm chiến đấu ta thời kém ai

Kẻ thù dân tộc là ai

Chính quân Nhật Pháp với loài Việt gian...”

78

Bên cạnh việc hƣớng dẫn chỉ đạo phong trào, báo chí cách mạng chính là

phƣơng tiện để Đảng ta thực hiện công tác tuyên truyền vận động phụ nữ tham

gia cách mạng. Trên báo Đuổi giặc nƣớc (Cơ quan tuyên truyền cổ động của Việt

Minh Thanh Hoá), báo Tự do, Báo Cứu quốc (Cơ quan tuyên truyền cổ động của

Việt Nam độc lập Đồng Minh), báo Việt Nam độc lập đều đăng tin những ngƣời

phụ nữ tiêu biểu trong mọi hoạt động cách mạng, từ việc tuyên truyền tổ chức lập

Hội Phụ nữ Cứu quốc đến các hoạt động cụ thể khác nhƣ đóng góp bằng tiền và

hiện vật cũng nhƣ công sức cho phong trào cách mạng và đều đƣợc tuyên dƣơng

kịp thời. Tấm gƣơng hy sinh của chị Nguyễn Thị Minh Khai cũng đƣợc đăng trên

nhiều tờ báo... Việc tuyên truyền biểu dƣơng những đóng góp của phụ nữ trên

báo cách mạng đã góp phần động viên kịp thời phụ nữ hăng hái tham gia cách

mạng. Sự tham gia của phụ nữ vào cao trào cách mạng 1939 - 1945, đã góp phần

to lớn đƣa đến thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám 1945. Và nhƣ vậy,

những ngƣời phụ nữ Việt Nam yêu nƣớc, cần cù, đảm đang đƣợc sự giác ngộ của

Đảng đã dũng cảm dấn thân vào cuộc cách mạng vĩ đại của dân tộc và giành

đƣợc thắng lợi to lớn.

Sự tham gia đông đảo của phụ nữ trong các cuộc đấu tranh dƣới sự lãnh

đạo của Đảng cũng nhƣ thành công của Cách mạng tháng Tám năm 1945 với bản

Hiến pháp đầu tiên của nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hoà công nhận quyền bình

đẳng nam nữ đã khẳng định đƣờng lối đúng đắn của Đảng trong việc vận động

phụ nữ tham gia cách mạng cũng nhƣ những đóng góp to lớn của phụ nữ vào

cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.

Với đƣờng lối chỉ đạo đúng đắn, cuộc vận động phụ nữ của Đảng trong

cao trào kháng Nhật cứu nƣớc và cách mạng tháng Tám đã giành đƣợc thắng lợi

có ý nghĩa vô cùng to lớn.

2.2. Phong trào đấu tranh của phụ nữ cả nƣớc

79

Dƣới sự lãnh đạo của Đảng, phụ nữ cả nƣớc tiếp tục hăng hái tham gia

cách mạng, tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nƣớc.

Ở Hải Phòng, thực dân Pháp giải tán các Hội ái hữu của công nhân, đóng

cửa các báo chí tiến bộ, bắt bớ hàng loạt chiến sĩ cộng sản… Nhiều cán bộ lãnh

đạo Xứ uỷ, Liên tỉnh B, Thành uỷ bị bắt. Cơ quan Thành uỷ bị phá vỡ liên tục

trong thời gian ngắn. Chi bộ Đảng của nhiều nhà máy, xí nghiệp bị phá nhƣ nhà

máy Tơ, máy Chai, Xi măng, Đảng viên bị bắt nhiều, có chi bộ bị bắt hết số đảng

viên.

Cuối năm 1939, mật thám và cảnh sát khám xét nhà chị Ngô Thị Phƣơng ở

112 Cát Dài, tịch thu một số sách báo và bắt đi một số ngƣời trong đó có chị

Phƣơng. Chị Ngô Thị Phƣơng bán hàng ở chợ Sắt cùng với chị Nguyễn Thị

Chuyên, tổ chức một phân hội phụ nữ Thanh niên dân chủ trong giới tiểu thƣơng

chợ Sắt.

Thời gian này, chị em vẫn tích cực tham gia rải truyền đơn, đƣa tài liệu,

báo chí của đảng tới các chi bộ, trong đó có báo “chiến đấu” cơ quan tuyên

truyền của Liên tỉnh B xuất bản tại Hải Phòng. Thực hiện chủ trƣơng của Thành

uỷ, thông qua quan hệ đã xây dựng từ trƣớc, một số nữ công nhân máy Tơ bắt

mối với lính trong trại lính khố xanh, giao truyền đơn tuyên truyền chống bắt

lính, không đi lính. Chị em bán hàng rong đƣa truyền đơn tới lính ONS (ouvrier

non spécialesé – lính thợ).

Ở Bắc Sơn, khi nghe tin quân Pháp sẽ đi qua, không bỏ lỡ thời cơ, đêm 27

tháng 9 năm 1940, nhân dân Bắc Sơn (trong đó có rất đông chị em phụ nữ tham

gia) dƣới sự lãnh đạo của đảng bộ địa phƣơng đã nổi dậy, chặn đánh tàn quân

Pháp, tƣớc vũ khí của chúng để trang bị cho mình. Nhiều chị đã tham gia vận

động binh lính ngƣời Việt bỏ hàng ngũ địch, đánh chiếm đồn Mỏ Nhài. Viên tri

châu Bắc Sơn bỏ trốn. Nguỵ quyền ở Bắc Sơn tan rã. Nhân dân hoàn toàn làm

chủ châu lỵ và các vùng trong châu.

80

Khởi nghĩa Bắc Sơn chỉ tồn tại trong vòng một tháng và chỉ diễn ra trên

phạm vi một huyện, nhƣng nó có ý nghĩa lịch sử quan trọng. Khởi nghĩa Bắc Sơn

mở đầu phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân Đông Dƣơng trong thời kỳ

chiến tranh thế giới thứ hai, sau khi có Nghị quyết chuyển hƣớng chỉ đạo chiến

lƣợc của Đảng; mở đầu thời kỳ cách mạng nƣớc ta sử dụng các hình thức bạo lực

cách mạng, đấu tranh vũ trang kết hợp đấu tranh chính trị, nổi dậy của quần

chúng mà đặc biệt là có sự tham gia đông đảo của phụ nữ. Tiếng súng của cuộc

khởi nghĩa Bắc Sơn đã thức tỉnh tinh thần cách mạng của nhân dân cả nƣớc nói

chung và của phụ nữ nói riêng, chứng tỏ phụ nữ Việt Nam cũng nhƣ nhân dân cả

nƣớc đã đứng vào hàng ngũ các dân tộc trên thế giới chống bọn phát xít, chống

chiến tranh xâm lƣợc.

Tháng 9 năm 1940, phát xít Nhật đổ bộ vào Hải Phòng. Cũng nhƣ bao

ngƣời dân Việt Nam, phụ nữ Hải Phòng phải chịu cảnh “một cổ hai tròng”. Nhật

– Pháp vào hùa với nhau, tăng cƣờng bóc lột về kinh tế và khủng bố dã man

những ngƣời tham gia cách mạng. Nhật đóng quân khắp thành phố, chiếm trƣờng

học làm trại lính. Vùng nông thôn bị nhổ lúa trồng đay. Thóc gạo không chở đi

đƣợc bị đổ xuống biển. Nhân dân ta đã đói rét lại càng đói thêm. Phong trào cách

mạng Hải Phòng ở trong hoàn cảnh hết sức khó khăn. Hình thức hoạt động hợp

pháp và bán hợp pháp không còn phù hợp. Hoạt động chuyển sang bí mật, củng

cố cơ sở nội thành và phát triển cơ sở vùng nông thôn Hải Phòng.

Thực hiện chuyển hƣớng công tác, những nữ đồng chí bị lộ tạm thời ngừng

hoạt động. Những ngƣời chƣa bị lộ vẫn tích cực vận động công nhân tranh đấu

khi có điều kiện, tiếp tục chuyển thƣ, tài liệu trên tới cơ sở. Tháng 10 năm 1940,

Thành uỷ Hải Phòng đƣợc lập lại, có năm đồng chí, một đồng chí nữ (đồng chí

Thu Minh). Thành uỷ quyết định thành lập cơ quan lãnh đạo phụ nữ dân chủ.

Nhƣng chƣa kịp thực hiện thì ba tháng sau các đồng chí bị bắt. Nữ đồng chí Thu

Minh, Thành uỷ viên bị bắt ngày 17 tháng 1 năm 1941.

81

Để tránh sự chú ý của kẻ thù, Trung ƣơng và Xứ uỷ chủ trƣơng đƣa cán bộ

nữ về xây dựng phong trào cách mạng ở Hải Phòng. Tuy bị thực dân đàn áp, cơ

quan Thành uỷ bị phá liên tục, cán bộ, đảng viên bị bắt nhƣng do Trung ƣơng và

xứ uỷ đặc biệt quan tâm chỉ đạo, thƣờng xuyên tăng cƣờng cán bộ nên phong trào

cách mạng Hải Phòng không bị lâm vào “thoái trào” nhƣ thời kỳ 1932-1935, mà

luôn đƣợc duy trì, khôi phục.

Tháng 8 năm 1941, Xứ uỷ cử nữ đồng chí Khuất Thị Bẩy cán bộ Ban công

vận Xứ uỷ về xây dựng phong trào Hải Phòng. Cũng trong thời gian này, Liên

tỉnh B cử nữ đồng chí Bốn, Uỷ viên Liên Tỉnh uỷ B về Hải Phòng công tác.

Đồng chí Khuất Thị Bẩy đến các khu lao động, liên lạc với đảng viên và nữ

quần chúng tích cực, tìm hiểu phong trào công nhân, tình hình các nhà máy, công

sở, xúc tiến thành lập lại chi bộ Đảng, tổ chức lực lƣợng công nhân đấu tranh. Sau

một thời gian, đồng chí đã củng cố cơ sở đảng, cơ sở quần chúng ở nhà máy Xi

măng, máy Chỉ Hạ Lý… Tháng 11 năm 1941, đồng chí Khuất Thị Bẩy bị bắt, khi

trong ngƣời mang theo những tài liệu quan trọng của cách mạng.

Ở Nam Trung Bộ, trƣớc không khí ngột ngạt đè nén của hai tên đế quốc

Pháp và Nhật, Xứ ủy Nam Kỳ họp tại xã Tân Hƣng (Mỹ Tho) vào tháng 7 năm

1940, quyết định cho Nam Kỳ khởi nghĩa và cử đồng chí Phan Đăng Lƣu ra Bắc

xin ý kiến Trung ƣơng. Thấy điều kiện chủ quan, khách quan chƣa chín muồi,

Trung ƣơng ra chỉ thị đình chỉ cuộc khởi nghĩa, nhƣng chỉ thị chƣa đến nơi thì

cuộc khởi nghĩa đã nổ ra.

Hƣởng ứng cuộc khởi nghĩa, trong cuộc mít tinh lớn ở xã Thuận Giao,

huyện Thuận An, ngày 23 tháng 11 năm 1940, hàng trăm đồng bào, trong đó có

nhiều chị em phụ nữ ở các xã Thuận Giao, Bình Hòa, An Phú, An Sơn, An

Thạnh, Bình Nhâm kéo đến tham gia. Tham gia mít tinh còn có một đội tự vệ vũ

trang cả nam lẫn nữ, đƣợc trang bị hai súng trƣờng Nhật (do kết quả công tác

binh vận của chị em với lính Nhật) còn lại là tầm vông vạt nhọn và gƣơm, dao.

82

Sau cuộc mít tinh, chị em cùng đồng bào đi rải truyền đơn, treo cờ đỏ sao vàng ở

một số nơi trong các xã An Sơn, An Thạnh, Bình Nhâm, Bình Hòa, Thụân Giao.

Cũng trong ngày 23 tháng 11 năm 1940, tại một số làng thuộc huyện Tân Uyên,

chị em cùng đồng bào tổ chức biểu tình, rải truyền đơn, thổi tù và, đánh trống

mõ, kéo vào thị trấn đập phá trụ sở chính quyền huyện.

Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ tuy bị địch dìm trong biển máu, nhƣng tiếng

vang của nó đã làm dấy lên ngọn lửa đấu tranh mạnh mẽ không thể dập tắt đƣợc.

Nó là tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc.

Sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, thực dân Pháp điều lính đến đàn áp khủng bố

dữ dội. Chúng đốt nhà, bắn giết và bắt đi nhiều ngƣời, trong đó có một số hội viên

hội phụ nữ. Gần 30 chị em bị chúng đƣa về giam giữ và tra tấn, đánh đập ở nhà tù

Bà Rá (Phƣớc Long). Hầu hết chị em đều giữ vững khí tiết cách mạng.

Sau cuộc đánh phá khốc liệt của thực dân Pháp, phong trào cách mạng ở

Nam Bộ lâm vào tình trạng khó khăn. Các cơ sở Đảng và quần chúng đều bị tan

vỡ, chỉ còn lại một số đảng viên trung kiên thoát đƣợc sự truy lùng của địch, tiếp

tục hoạt động, nhen nhóm lại phong trào. Từ 60 đảng viên nay chỉ còn 10 đồng

chí, nhƣng 10 đồng chí này chính là cái hạt nhân làm bùng lên chọn lửa cách

mạng trong tỉnh. Mƣời đảng viên còn lại là cái vốn quý phải đƣợc bảo vệ an toàn

trƣớc sự truy bắt của bọn mật thám, chỉ điểm. Nhận thức đƣợc điều đó, nhân dân

và đặc biệt là các mẹ các chị ở các huyện Thuận An, Tân Uyên, Dầu Tiếng, Hớn

Quản đã không sợ nguy hiểm, nuôi giấu và bảo vệ an toàn nhiều đồng chí nhƣ

Nguyễn Văn Tiết, Văn Công Khai, Nguyễn Văn Trung, Lê Đức Anh, Nguyễn

Văn Sáng, Lê Văn Lành, Lê Quốc, Năm Liên. Không có sự đùm bọc, chở che

của các mẹ, các chị, của nhân dân nói chung thì những cán bộ trung kiên của Đảng

khó thoát khỏi mạng lƣới đã giăng bẫy của kẻ thù.

Tháng 5 năm 1941, để tập hợp rộng rãi mọi lực lƣợng, đẩy mạnh cao trào

kháng Nhật, Mặt trận Việt Minh đƣợc thành lập. Từ đó các đoàn thể quần chúng

83

mang tên Cứu quốc. Hội Phụ nữ Cứu quốc đƣợc thành lập rộng rãi trong cả nƣớc.

Giữa năm 1943, Xứ uỷ Bắc kỳ cử nữ đồng chí Yên về phụ trách phong trào cách

mạng Hải Phòng, Kiến An và vùng mỏ. Đồng chí Yên tích cực xây dựng cơ sở,

phát triển Việt Minh, phát triển Đảng. Từ năm 1944, tổ chức phụ nữ cứu quốc đã

phát triển mạnh ở vùng nông thôn Kiến An, đƣờng phố và nhà máy, xí nghiệp.

Những năm này, phong trào cách mạng ở Hải Phòng luôn bị địch khủng bố dã

man. Cán bộ chủ chốt ở Hải Phòng luôn thay đổi nhằm đảm bảo bí mật.

Ở Tân Uyên, từ cuối năm 1943, các chiến sĩ tham gia khởi nghĩa Nam Kỳ

nhƣ các đồng chí Huỳnh Văn Lũy, Lê Thái, Phạm Văn Búng, Phạm Văn Thăng

thoát khỏi sự khủng bố của giặc nhờ các mẹ, các chị nuôi giấu đã liên lạc đƣợc

với nhau, tổ chức nhóm đảng viên trung kiên. Các đồng chí tỏa ra làm công tác

vận động quần chúng và tổ chức quần chúng đấu tranh, từng bƣớc khôi phục các

cơ sở cách mạng. Từ đó, phong trào đấu tranh của phụ nữ và các tầng lớp nhân

dân đƣợc phục hồi. Nhiều cuộc đấu tranh đòi giảm tô giảm tức, đòi thả ngƣời bị

bắt giành đƣợc thắng lợi.

Đầu năm 1944, Xứ uỷ tăng cƣờng nữ đồng chí Nguyễn Thị Hải về Hải

Phòng phụ trách công tác công vận. Đƣợc tăng cƣờng cán bộ, phong trào Việt

Minh ở Hải Phòng, Kiến An phát triển khá mạnh. Các tổ chức cứu quốc của mặt

trận Việt Minh thu hút đông đảo phụ nữ, thanh niên và phụ lão tham gia.

Vùng nông thôn Kiến An, dƣới sự lãnh đạo của Việt Minh, phong trào

ngày càng phát triển. Không khí cách mạng sôi sục khắp nội ngoại thành. Nữ

nông dân tham gia đấu tranh chống sƣu cao thuế nặng, đòi chia lại ruộng đất,

chống thu thóc tạ, chống lý dịch hà hiếp dân chúng.

Trong các nhà máy, công xƣởng công nhân bí mật rèn vũ khí. Chị em còn

gặp lính khố xanh, vận động họ bỏ ngũ, mang theo vũ khí về với cách mạng.

Ở Thủ Dầu Một, sau hai năm hoạt động chắp nối, Ban cán sự Đảng tỉnh

đƣợc thành lập vào mùa xuân năm 1943. Nghị quyết VIII của Trung ƣơng đến

84

với Ban cán sự Đảng tỉnh vào mùa thu năm 1943. Các hội cứu quốc trong Mặt

trận Việt Minh nhƣ Phụ nữ cứu quốc, Công nhân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc

đƣợc xúc tiến thành lập. Ngọn lửa cách mạng đƣợc nhen nhóm từ trƣớc nay lại

bùng lên mạnh mẽ khắp trong toàn tỉnh. Từ đồng bằng đến các đồn điền cao su,

xƣởng thợ, các vùng dân tộc, đâu đâu chị em cũng xin gia nhập Việt Minh. Từ

mùa xuân năm 1944, trong hàng ngàn hội viên của Mặt trận Việt Minh, trong đó

hơn nửa là phụ nữ tham gia hoạt động với tính chất là một tổ chức của giới mình

ở cơ sở. Chỉ thị “Sửa soạn khởi nghĩa”, “Sắm sửa vũ khí đuổi thù chung” của

Trung ƣơng và Tổng bộ Việt Minh đƣợc phổ biến trong các hội phụ nữ và toàn

dân. Lực lƣợng vũ trang của tỉnh đƣợc Tỉnh ủy triển khai bƣớc đầu nhen nhóm

hình thành.

Cùng với những hoạt động bí mật của các tổ chức phụ nữ cứu quốc ở nông

thôn, đồn điền, nhiều chị buôn bán ở thị xã, thị trấn, các em học sinh, các chị

thuộc lớp nghèo thành thị rủ nhau vào đoàn thanh niên tiền phong hoạt động

công khai, tổ chức tập luyện chuẩn bị tầm vông vạt nhọn và các loại vũ khí thô sơ

chuẩn bị đón thời cơ. Các giáo chức, công chức, vợ binh lính yêu nƣớc cũng tích

cực gia nhập hội. Nhiều đêm kịch của nam nữ học sinh thị xã phối hợp với phong

trào học sinh, sinh viên Sài Gòn diễn các vở kịch lịch sử nhƣ Hội nghị Diên

Hồng, Đêm Lam Sơn, Tiếng trống Mê Linh… càng khuấy động tinh thần yêu

nƣớc của các tầng lớp nhân dân. Những bài hát Tiếng gọi thanh niên, Lên đàng,

Hờn Sông Gianh, Bạch Đằng Giang… đƣợc phổ biến rộng rãi trong nam nữ

thanh niên nhƣ kêu gọi thúc giục mọi ngƣời hãy hành động. Một số chị em có

học thức nhƣ chị Lƣơng Thị Quyền đã tham gia tích cực phong trào truyền bá

chữ quốc ngữ - một phong trào có tác dụng cổ vũ lòng yêu nƣớc. Đúng nhƣ điều

lệ của hội Phụ nữ cứu quốc lúc bấy giờ ghi rõ: “Đoàn kết hết thảy các chị em phụ

nữ ái quốc Việt Nam để đem lại lợi ích hàng ngày cho phụ nữ, để cùng các đoàn

thể cứu quốc khác chuẩn bị đánh Pháp, đuổi Nhật, làm cho nƣớc Việt Nam ta

85

đƣợc hoàn toàn độc lập” [63, tr 26]. Tinh thần của điều lệ đƣợc tất cả các tầng

lớp phụ nữ trong tỉnh thực hiện đúng đắn, khẩn trƣơng, đạt hiệu quả cao.

Giữa lúc tình hình đang chuyển biến thuận lợi, đêm 9 tháng 3 năm 1945,

quân Nhật nổ súng đảo chính Pháp trên toàn Đông Dƣơng. Phát xít Nhật trở

thành kẻ thù chính của nhân dân ta. Ở Thủ Dầu Một, tên Lƣơng Sơ Khai, nguyên

là tay sai của Pháp đƣợc Nhật dựng lên làm tỉnh trƣởng dƣới sự điều hành của tên

A-ra-ki. Từ đó bọn tay sai của Nhật mọc lên nhƣ nấm và ráo riết hoạt động để lôi

kéo quần chúng. Chỉ thị của Trung ƣơng “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động

của chúng ta”, đã tạo điều kiện cho các địa phƣơng gấp rút chuẩn bị lực lƣợng

khởi nghĩa giành chính quyền. Các đội vũ trang tự vệ đƣợc thành lập hầu khắp các

nơi, trong đó lực lƣợng phụ nữ tham gia đông đảo.

Sau ngày 9 tháng 3 năm 1945, cơ sở Việt Minh phát triển mạnh trong hầu

hết các xí nghiệp, trƣờng học, đƣờng phố… Công nhân rèn dao kiếm, thành lập

đội tự vệ. Chị em tiểu thƣơng chợ Sắt mua vải, cùng chị em thợ may cờ đỏ sao

vàng. Nữ học sinh, trí thức tham gia cách mạng rất nhiệt tình. Phong trào dân chủ

Đảng (do Đảng Cộng sản lãnh đạo, hoạt động mạnh mẽ trong trí thức). Chi uỷ

điều thêm chị Thanh Thuỷ về Hải Phòng làm công tác vận động phụ nữ trí thức,

học sinh. Các chị Nguyễn Thị Sen, Lê Hoà, chị Ngà, chị Hậu, chị Hợi tham gia

mọi phong trào của Việt Minh. Vùng nông thôn Kiến An, phong trào phát triển

chƣa từng thấy. Đội tuyên truyền vũ trang đi về thôn xóm, tiến hành trừng trị

phản cách mạng, đồng thời kêu gọi đồng bảo ủng hộ Mặt trận Việt Minh, chống

Nhật cứu nƣớc. Đội tuyền truyền vũ trang luôn nhận đƣợc sự ủng hộ to lớn của

nông dân, nhân dân lao động. Rất đông phụ nữ nông thôn đi dự mít tinh, biểu tình

chống Nhật. Đặc biệt, nhiều chị em đã tham gia đội tự vệ, luyện tập quân sự cùng

nam giới.

Trong lúc nhân dân ta đang gấp rút chuẩn bị Tổng khởi nghĩa thì nạn đói

khủng khiếp đã xảy ra. Đó là hậu quả thảm khốc nhất của chính sách bóc lột hà khắc

86

của phát xít Nhật – Pháp. Hàng vạn ngƣời dân bị chết đói. Có làng chết đói hơn

50%. Ở thôn quê không có rau, củ ăn qua bữa, ngƣời đói lũ lƣợt kéo nhau ra thành

phố xin ăn nhƣng cũng không xin đƣợc. Nạn cƣớp giật miếng ăn xảy ra thƣờng

xuyên. Ngƣời chết đói nằm la liệt giữa đƣờng phố, chợ búa, thôn quê. Những thân

gầy xơ xác, xiêu vẹo, nông thôn tiêu điều, tang tóc. Nhiều em bé nằm thoi thóp bên

xác mẹ… cảnh tƣợng rất thảm thƣơng [6, tr 14].

Chủ trƣơng của Đảng phát động quần chúng xông lên phá kho thóc để giải

quyết nạn đói phù hợp với nguyện vọng cấp bách nhất của quần chúng lao động,

thổi bùng ngọn lửa đấu tranh và khởi nghĩa trong nhân dân. Tự vệ và công nhân

Cảng phá kho gạo Tơrăngdit và kho bột mì Lanien chia cho những gia đình bị

đói. Tự vệ và quần chúng nhân dân các huyện Thuỷ Nguyên, Tiên Lãng, Vĩnh

Bảo, Kiến Thuỵ, An Lão… phá kho, lấy thóc chia cho dân. Khí thế cách mạng

của quần chúng đƣợc phát huy. Phong trào cách mạng lôi cuốn hết thảy mọi tầng

lớp nhân dân, từ công nhân, nông dân, tiểu thƣơng, học sinh, viên chức tới một số

tƣ sản dân tộc, địa chủ tham gia. Các tổ chức cứu quốc trong Mặt trận Việt Minh

và đội tự vệ phát triển mạnh mẽ, không khí cách mạng sôi sục. Hàng triệu quần

chúng kéo đi phá kho thóc, chống đói diễn ra bằng nhiều hình thức. Lực lƣợng

phụ nữ tham gia đông đảo, có nơi có lúc phụ nữ là lực lƣợng dẫn đầu trong đoàn

ngƣời đi phá kho thóc. Phong trào đã diễn ra sôi nổi ở các tỉnh Bắc Giang, Bắc

Ninhh, Ninh Bình, Thái Bình, Hƣng Yên, Hải Dƣơng, Sơn Tây, Hà Đông, Hà

Nam, Hải Phòng, Quảng Yên, Nghệ An, Hà Tĩnh v.v…

Phá kho thóc giải quyết nạn đói không có chỉ có ý nghĩa đời sống, kinh tế

trƣớc mắt mà thực sự mang nội dung chính trị. Những cuộc biểu tình vũ trang

phá kho thóc là hình thức thích hợp nhất lúc bấy giờ để phát động quần chúng,

dẫn hàng triệu ngƣời không phân biệt nam nữ tham gia cách mạng. Đó cũng là

cách tập hợp, tập dƣợt quần chúng đấu tranh từ hình thức thấp đến cao, từ đấu

tranh chính trị tiến lên kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang. Qua thử

87

thách trong đấu tranh, phụ nữ nói riêng và toàn thể nhân dân Việt Nam nói chung

tin tƣởng ở sức mạnh đoàn kết của mình, trình độ giác ngộ cách mạng của các chị

đƣợc nâng cao, quyết tâm đánh đuổi kẻ thù.

Đồng thời với phong trào phá kho thóc, giải quyết nạn đói, làn sóng khởi

nghĩa từng phần đã phát triển đến cao trào, nhiều địa phƣơng đã thành lập đƣợc

chính quyền cách mạng.

Ngày 12 tháng 7 năm 1945, đông đảo chị em thôn Kim Sơn (xã Tân Trào),

Kiến Thuỵ cùng nhân dân đứng lên lật đổ chính quyền tay sai của Nhật, thành lập

Uỷ ban dân tộc giải phóng, một hình thức của chính quyền nhân dân cách mạng

đầu tiên xuất hiện ở tỉnh Kiến An.

Phát xít Nhật đàn áp, khủng bố phong trào cách mạng Kim Sơn, hòng xoá

bỏ chính quyền nhân dân vừa đƣợc thiết lập. Sáng ngày 4 tháng 8 năm 1945, hai

xe Camion chở 40 lính do sĩ quan Nhật chỉ huy kéo về Kim Sơn.

Nhân dân Kim Sơn hết thảy giả, trẻ, gái trai cùng đứng lên đánh giặc Nhật

giữ vững chính quyền cách mạng. Đƣợc nhân dân các thôn bạn hỗ trợ, giúp sức,

tự vệ và nhân dân Kim Sơn với vũ khí thô sơ đã đánh trả quyết liệt. Nữ tự vệ chỉ

có đòn càn, dao, liềm cũng quyết đánh giặc đến cùng. Nhiều chị vừa tham gia

chiến đấu vừa làm nhiệm vụ đƣa cụ già, em nhỏ, tránh sự khủng bố của giặc. Đến

chiều bọn lính phải rút lui. Trên đƣờng rút chạy, chúng bị nhân dân các thôn khác

ở Kiến Thuỵ chặn đánh quyết liệt. Việc thành lập Uỷ ban dân tộc giải phóng và

cuộc vũ trang toàn dân chống Nhật khủng bố ở Kim Sơn (Kiến Thuỵ) đã thúc đẩy

mạnh mẽ cao trào kháng Nhật cứu nƣớc ở Kiến An và Hải Phòng.

Phong trào đấu tranh yêu nƣớc của nữ học sinh, sinh viên, trí thức, tiểu tƣ

sản ở thành thị cũng rất phát triển. Nông dân ngoại thành Hà Nội trong đó chị em

phụ nữ tham gia rất đông cũng sôi nổi đấu tranh. Các chị đấu tranh không nộp

thóc, nộp thuế cho Nhật, phá ruộng đay, thầu dầu, giành tiền cho chồng con mua

88

vũ khí v.v… Nhiều xã đã thành lập Ban Việt Minh hoặc Uỷ ban giải phóng bí

mật.

Cao trào kháng Nhật cứu nƣớc sôi sục trong cả nƣớc. Tình thế cách mạng

trực tiếp đang đến gần. Lực lƣợng phụ nữ cùng cả dân tộc đang gấp rút hoàn

thành công việc chuẩn bị cuối cùng, đón thời cơ vùng dậy tổng khởi nghĩa giành

chính quyền trong cả nƣớc.

Trong lúc cả nƣớc sẵn sàng chuẩn bị các yếu tố chủ quan cho cuộc giành

chính quyền thì tình hình khách quan đƣa đến vô cùng thuận lợi. Liên Xô tuyên

chiến với Nhật. Ngày 14 tháng 8, vua Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng Minh không

điều kiện. Lệnh khởi nghĩa lập tức đƣợc phát ra trên cả nƣớc. Đây là thời cơ

nghìn năm có một về sự kết hợp tài tình giữa chuẩn bị yếu tố chủ quan để đón

nhận thời cơ khách quan vùng lên giành thắng lợi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và

Trung ƣơng Đảng.

Ở Sông Bé, dƣới sự lãnh đạo của Ban cán sự Đảng tỉnh, đoàn Phụ nữ cứu

quốc ráo riết hoạt động, mở rộng tổ chức chuẩn bị tham gia khởi nghĩa. Đặc biệt chị

em phụ nữ ở xã Chánh Hiệp đã khéo léo dùng tình cảm vận động, thuyết phục binh

sĩ Nhật lấy súng trang bị cho đội tự vệ. Cùng với các chị ở Chánh Hiệp, chị em ở

Mỹ Phƣớc, Thới Hòa bằng công tác binh vận đã thu đƣợc tất cả 21 súng, có 3 trung

liên và hàng ngàn viên đạn cung cấp cho các đơn vị. Nhiều chị em công nhân cao su

ở Chánh Lƣu cũng tìm cách lấy súng Nhật giao cho đội tự vệ.

Ở xã Uyên Hƣng, huyện Tân Uyên có chị Tƣ Bái rất gan dạ. Chị tình

nguyện tham gia đội cảm tử quân huyện Tân Uyên. Khi cƣớp chính quyền thành

công ở huyện, đội cảm tử cùng nhân dân bắt đƣợc năm tên Việt gian thân Nhật.

Khi đem ra xử, chị cầm gƣơm chém đứt đầu một tên việt gian có nợ máu với

nhân dân.

Vào thƣợng tuần tháng 6 năm 1945, tỉnh ủy họp nhận định tịnh hình để có

phƣơng án xúc tiến mọi công việc khởi nghĩa. Quân Nhật trong tỉnh đông nhƣng

89

không mạnh, tinh thần chúng đang rệu rã, chờ ngày giải giáp. Về phía cách

mạng, lực lƣợng chính trị phát triển mạnh mẽ, rộng khắp. Hội Phụ nữ cứu quốc

cùng với các hội Cứu quốc khác đã từng bƣớc chuyển từ hoạt động bí mật sang

công khai. Các lực lƣợng vũ trang tự vệ tổ chức đều khắp cả phía Bắc và phía

Nam tỉnh, có đông đảo phụ nữ tham gia. Phong trào lấy súng Nhật của chị em

phụ nữ phát triển rầm rộ. Nhờ đó nhiều đội tự vệ vũ trang đƣợc trang bị khá nhƣ

Hớn Quân Lộc Ninh, Bến Cát, Dầu Tiếng, Chánh Lƣu. Chị em phụ nữ các dân

tộc Xtiêng, Mơ Nông, Khơ Me đã cùng nam giới hoàn toàn làm chủ buôn sóc của

mình. Mọi thứ vũ khí thô sơ truyền thống đƣợc chị em chuẩn bị khá đầy đủ.

Lực lƣợng quần chúng cả chính trị và vũ trang, trong đó phụ nữ chiếm hơn

một nửa đã sẵn sàng. Bão táp cách mạng đang đến gần, chỉ còn chờ lệnh là vùng dậy

quật khởi. Thời gian này, từ trong lòng thị xã, thị trấn đến các vùng nông thôn đồng

bằng quang cảnh thật rộn rịp. Thanh niên nam nữ lo tập luyện, chuẩn bị vũ khí, các

mẹ, các chị may cờ, chuẩn bị truyền đơn, biểu ngữ. Khí thế cách mạng của quần

chúng lên cao chƣa từng thấy. Khắp nơi nổ ra những cuộc mít tinh, biểu tình, thị

uy có tới hàng ngàn ngƣời tham gia. Hàng triệu chị em phụ nữ sẵn sàng đứng lên

khởi nghĩa, ủng hộ Việt Minh, giành chính quyền, đánh đổ bọn cƣớp nƣớc và bán

nƣớc. Các chị em phụ nữ thuộc tầng lớp trung gian đã ngả hẳn về phía cách

mạng. Đông đảo quần chúng nhân dân quyết không chịu làm nô lệ, sẵn sàng hy

sinh và quyết tâm nổi dậy giành chính quyền. Gần đến ngày khởi nghĩa, không

khí cách mạng càng sôi sục. Mọi hoạt động của quần chúng gần nhƣ công khai.

Khắp nơi, phụ nữ cùng với nhân dân cả nƣớc hƣởng ứng lệnh Tổng khởi

nghĩa đã đồng loạt nổi dậy. Ở những vùng xa xôi, dù chƣa nhận đƣợc lệnh Tổng

khởi nghĩa nhƣng căn cứ vào tình hình cụ thể ở địa phƣơng và vận dụng chỉ thị

Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta các đảng bộ đã lãnh đạo nhân

dân khởi nghĩa.

90

Ngày 14 tháng 8 năm 1945, lực lƣợng vũ trang Quảng Ngãi giành chính

quyền thắng lợi tại tỉnh lỵ.

Từ ngày 14 đến ngày 18 tháng 8, các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái

Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái và hầu hết các tỉnh ở đồng bằng sông Hồng, các

tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Thừa Thiên Huế, Khánh Hoà… phụ nữ cùng

nhân dân đã nổi dậy giành chính quyền.

Phụ nữ Hải Phòng, Kiến An tham gia vào các đội tuyên truyền xung

phong, dự mít tinh biểu tình, nghe phổ biến tình hình và nhiệm vụ khẩn cấp, phát

truyền đơn, dán áp phích kêu gọi đồng bào đứng lên đánh đổ phát xít Nhật. Công

nhân nhà máy in tích cực in truyền đơn, thợ may tập trung may cờ đỏ sao vàng,

nữ tự vệ tích cực luyện tập quân sự… Lực lƣợng cách mạng chuẩn bị hết sức

khẩn trƣơng chờ ngày khởi nghĩa.

Từ ngày 15 tháng 8 năm 1945 đến ngày 23 tháng 8 năm 1945, đông đảo

phụ nữ và nhân dân các huyện thuộc thành phố Hải Phòng và tỉnh Kiến An nổi

dậy phá bỏ gông xiềng nô lệ, lập chính quyền nhân dân (Kiến Thuỵ ngày 15.8,

Tiên Lãng ngày 19.8, An Dƣơng ngày 21.8, Thuỷ Nguyên ngày 22.8).

Ngày 23 tháng 8, hàng chục vạn quần chúng từ các hƣớng kéo về quảng

trƣờng thành phố dự mít tinh, chứng kiến giờ phút trọng đại thành lập Uỷ ban

nhân dân cách mạng lâm thời thành phố Hải Phòng. Đại biểu nữ duy nhất trong

Uỷ ban là bà Nguyễn Thị Mùi, Uỷ viên phụ trách công tác xã hội.

Sau cuộc mít tinh là cuộc tuần hành thị uy của quần chúng. Lực lƣợng vũ

trang toả đi chiếm các công sở, nhà băng, bƣu điện và các nhà máy, xí nghiệp

lớn.

Ngày 24 tháng 8, trên năm vạn nhân dân lao động thị xã và các huyện

thuộc tỉnh Kiến An dự mít tinh chào mừng Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời

tỉnh. Trong những vị đại biểu Uỷ ban có bà Lê Thị Hảo, uỷ viên phụ trách công

tác xã hội (cán bộ Việt Minh).

91

Xứ uỷ Bắc kỳ quan tâm đặc biệt tới địa bàn Hà Nội vì Hà Nội có tầm quan

trọng chiến lƣợc đối với Tổng khởi nghĩa trong cả nƣớc.

Đƣợc tin Tổng hội viên sẽ tổ chức một cuộc mít tinh lớn vào chiều 17

tháng 8 tại Nhà hát lớn để ủng hộ Chính hủ bù nhìn, Uỷ ban khởi nghĩa quyết

định biến cuộc mít tinh ấy thành cuộc mít tinh của quần chúng ủng hộ cách

mạng.

Chiều hôm đó, đông đảo phụ nữ của tổ chức Phụ nữ Cứu quốc, cùng với

quần chúng của các tổ chức Cứu quốc khác thuộc nội, ngoại thành, tự vệ chiến

đấu, tuyên truyền xung phong đƣợc bí mật huy động đến Nhà hát thành phố. Khi

cuộc mít tinh vừa khai mạc thì cờ đỏ sao vàng xuất hiện trƣớc đám đông. Các nữ

đội viên tuyên truyền xung phong Việt Minh xông lên giành lấy diễn đàn, thông

báo tin Nhật đầu hàng và kêu gọi nhân dân ủng hộ Việt Minh khởi nghĩa. Sau đó,

cuộc mít tinh biến thành cuộc tuần hành ủng hộ Việt Minh. Các chị xếp thành đội

ngũ, có các đội viên tự vệ chiến đấu dẫn đầu, đi từ Nhà hát lớn qua các phố trung

tâm, hô vang khẩu hiệu: “Ủng hộ Việt Minh”, “Đả đảo bù nhìn”, “Việt Nam độc

lập”.

Trƣớc khí thế cách mạng của quần chúng thủ đô dâng cao, chính quyền bù

nhìn không dám chống cự, quân Nhật không dám can thiệp. Uỷ ban khởi nghĩa

quyết định khởi nghĩa giành chính quyền vào ngày 19 tháng 8 năm 1945.

Ngày 18 tháng 8, cờ đỏ sao vàng xuất hiện trên các đƣờng phố Hà Nội, từ

Bƣởi, qua Dịch Vọng, xuống Tƣơng Mai, Mai Động…

Sáng ngày 19 tháng 8, hàng vạn chị em phụ nữ cùng với nhân dân nội,

ngoại thành xuống đƣờng biểu dƣơng lực lƣợng. Tất cả tập trung tại Nhà hát lớn.

Đúng 11 giờ, Uỷ ban khởi nghĩa đọc lời kêu gọi khởi nghĩa. Sau đó cuộc mít tinh

biến thành cuộc biểu tình vũ trang giành chính quyền. Đông đảo chị em phụ nữ

cùng với quần chúng cách mạng, có sự hỗ trợ của các đội tự vệ chiến đấu, lần

lƣợt chiếm các cơ quan đầu não của địch: Phủ Khâm sai Bắc Bộ, Sở Mật thám,

92

Sở cảnh sát Trung ƣơng, Sở Bƣu điện, Trại bảo an binh…. Tối 19 tháng 8 năm

1945, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội đã kết thúc hoàn toàn thắng

lợi.

Ở Sông Bé, công việc khởi nghĩa đƣợc chuẩn bị khẩn trƣơng thì ngày 19

tháng 8 năm 1945, Hà Nội tiến hành khởi nghĩa thắng lợi đã tạo đà cho Sông Bé

tiến lên khởi nghĩa giành chính quyền. Theo kế hoạch thống nhất của Xứ ủy, đêm

24 tháng 8, dƣới sự lãnh đạo trực tiếp của Ban cán dự Đảng và Ủy ban khởi nghĩa

tỉnh, các hội viên phụ nữ cùng các đoàn thể cứu quốc không ai ngủ mà tất cả đều

náo nức chờ lệnh xuất phát đi cƣớp chính quyền vào sáng ngày hôm sau. Từ 3

giờ sáng ngày 25 tháng 8 năm 1945, cuộc biểu dƣơng lực lƣợng của gần ba vạn

ngƣời từ các huyện kéo về cùng với hai vạn ngƣời ở thị xã hàng ngũ tề chỉnh, khí

thế ngút trời do các đội nam nữ tự vệ vũ trang dẫn đầu chia nhau đi cƣớp chính

quyền, chiếm các công sở trong tỉnh lỵ. Nhiều bà má trên 60 tuổi, có má phải

chống gậy cũng không chịu thua con cháu trong ngày lịch sử đầy vinh quang này.

Một cuộc mít tinh lớn gần năm vạn ngƣời, thể hiện sức mạnh bạo lực cách

mạng của nhân dân Sông Bé, đƣợc tổ chức ngay trong buổi sáng ngày 25 tháng 8

năm 1945, ở trung tâm thị xã Thủ Dầu Một với một rừng cờ đỏ và biểu ngữ rợp

trời. Đồng chí Văn Công Khai, Trƣởng ban khởi nghĩa tỉnh, thay mặt Ủy ban

khởi nghĩa tuyên bố xóa bỏ chính quyền phản động thân Nhật, thành lập chính

quyền cách mạng. Nhiều chị sung sƣớng, xúc động không cầm đƣợc nƣớc mắt.

Họ vô cùng tự hào và hiểu rằng từ nay phụ nữ đã có chỗ đứng trong xã hội, trong

công việc của chính quyền cách mạng.

Trên lễ đài, chị Cao Thị Lình- nữ đảng viên, ngƣời cán bộ đã bao năm theo

Đảng đi làm cách mạng, vận động các tầng lớp phụ nữ, không ngại hiểm nguy,

gian khổ trong những năm hoạt động bí mật, lúc thuận lợi cũng nhƣ lúc thoái

trào, hôm nay xứng đáng đƣợc thay mặt chị em nói lên tiếng nói của phụ nữ toàn

tỉnh trong ngày lịch sử vẻ vang này.

93

Cũng sáng ngày 25 tháng 8 năm 1945, chị em và đồng bào các dân tộc ở

Lộc Ninh, Hớn Quản, Chơn Thành không về thị xã kịp đã tập trung làm lễ mừng

cách mạng thành công tại thị trấn An Lộc. Chủ trì cuộc mít tinh có các đồng chí

Nguyễn Khắc Thành, phó bí thƣ huyện ủy, Lê Đức Anh, Sáu Sang.

Ngày 26 tháng 8, thị xã Hồng Gai, Sơn La, Châu Đốc, Biên Hoà, Cần Thơ

đƣợc giải phóng.

Ngày 27 tháng 8, nhân dân Rạch Giá giành chính quyền.

Ngày 28 tháng 8, chính quyền bù nhìn bị lật đổ ở Đồng Nai Thƣợng, Hà

Tiên.

Chỉ trong vòng hai tuần lễ, cuộc tổng khởi nghĩa của nhân dân ta với sự

tham gia của đông đảo chị em phụ nữ đã giành thắng lợi hoàn toàn. Chế độ thuộc

địa và chế độ quân chủ từng ngự trị trên đất nƣớc ta bị lật nhào.

2.3. Phong trào đấu tranh của nữ công nhân

Trƣớc tình hình thế giới và Việt Nam có những biến chuyển quan trọng,

chính phủ phản động Pháp bị lôi cuốn vào vòng chiến đấu đã thi hành hàng loạt

chính sách phản động ở Pháp và thuộc địa. Bọn thực dân tiến hành khủng bố

quyết liệt đánh thẳng vào phong trào công nhân nhằm phá vỡ các tổ chức nghiệp đoàn. Ngày 28 tháng 9 năm 1939, đế quốc Pháp ra sắc lệnh giải tán Hội ái hữu,

liên tiếp vây bắt cán bộ ở các thành phố, đô thị, khu công nghiệp. Nhiều cơ sở

của Đảng Cộng sản và các tổ chức quần chúng bị phá vỡ, nhiều cán bộ lãnh đạo

bị giặc bắt, chém giết, tù đầy. Bất cứ hình thức tổ chức nào của thợ thuyền cũng

bị giải tán, dù chỉ là những tổ chức công khai có tính chất giúp đỡ nhau. Một vài

quyền lợi ít ỏi về chế độ lao động và tự do dân chủ mà giai cấp công nhân giành

đƣợc trong những năm 1936-1939, đến lúc đó bị bọn phản động thuộc địa xóa

sạch.

Đứng trƣớc thực tế đó, tháng 11 năm 1939, Đảng Cộng sản Đông Dƣơng

họp Hội nghị Trung ƣơng lần thứ 6 khẳng định con đƣờng cách mạng nƣớc ta

94

“không có con đƣờng nào khác hơn là con đƣờng đánh đổ đế quốc Pháp, chống

tất cả ách ngoại xâm, vô luận da trắng hay da vàng để tranh lấy giải phóng độc

lập” và “dự bị những điều kiện bƣớc tới bạo động, làm cách mạng giải phóng dân

tộc” [22, tr 98]. Đảng quyết định thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế

Đông Dƣơng mà nòng cốt là công nhân và nông dân.

Đối với lực lƣợng phụ nữ, Đảng chủ trƣơng “vận động phụ nữ tổ chức các Hội

phụ nữ phản chiến, phản đế, các hội cứu tế bảo an để giúp đỡ nhau, nhất là giúp đỡ

những nạn nhân do chiến tranh gây ra, đòi trợ cấp đầy đủ cho vợ con lính, đòi trả chồng

con, chống đế quốc, chiến tranh, đòi hòa bình” [27, tr 28].

Dƣới sự lãnh đạo trực tiếp của các cơ sở Đảng, phụ nữ công nhân lao động

sát cánh cùng nam công nhân và các tầng lớp phụ nữ cả nƣớc bƣớc vào thời kỳ đấu

tranh quyết liệt. Nhiều chị trƣởng thành trong cao trào cách mạng 1936-1939 đấu

tranh công khai, nửa công khai nay rút vào bí mật, bám sát phong trào, số chị thoát

ly gia đình đi hoạt động ngày càng đông hơn. Họ đến với những vùng tập trung

công nhân, dân nghèo thành thị, trong những xƣởng máy, hầm lò, bến cảng, đồn

điền hay xóm thợ. Nhiều nữ công nhân lao động đƣợc giác ngộ, bí mật làm công tác

tuyên truyền vận động quần chúng, đảm nhiệm các công việc giao thông liên lạc, tài

chính, bảo vệ cơ sở Đảng, cất giấu tài liệu, truyền đơn, vận động quyên góp mua

sắm vũ khí và các phƣơng tiện để hoạt động cách mạng.

Tháng 9 năm 1940, phát xít Nhật kéo quân vào chiếm Đông Dƣơng. Giữa

năm 1941, Chính phủ Pháp chính thức ký hiệp ƣớc thừa nhận quyền ƣu đãi tối

huệ quốc đối với phát xít Nhật ở khu vực này. Tình hình đó càng thúc đẩy mâu

thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với thực dân Pháp và phát xít Nhật. Nhiệm vụ giải

phóng dân tộc trở thành nhiệm vụ hàng đầu, cấp bách của giai cấp công nhân và

nhân dân ta.

Ngày 19 tháng 5 năm 1941, Trung ƣơng Đảng họp Hội nghị lần thứ 8 dƣới

sự chủ tọa của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Hội nghị phân tích tình hình trong nƣớc và

95

thế giới một các sâu sắc và khẳng định cuộc cách mạng Việt Nam đang tiến hành

trƣớc mắt là cách mạng giải phóng dân tộc, vì lẽ: “Trong lúc này nếu không giải

quyết đƣợc vấn đề giải phóng dân tộc, không đòi đƣợc độc lập tự do cho toàn thể

dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu,

mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại đƣợc” [27, tr

28].

Hội nghị đã quyết định thành lập “Việt Nam Độc lập Đồng Minh” (Gọi tắt

là Việt Minh), là một mặt trận tập hợp tất cả các lực lƣợng yêu nƣớc, bao gồm

các đoàn thể cứu quốc nhƣ Công nhân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Thanh niên

cứu quốc... nòng cốt là liên minh công nông.

Hội Công nhân Cứu quốc có tính chất quần chúng rộng rãi hơn Hội công

nhân Phản đế. Bất kỳ là công nhân hay cai ký, nói chung là những ngƣời làm

công ăn lƣơng trong xí nghiệp hay trong các ngành nghề tự do, miễn là muốn

đánh Pháp, đuổi Nhật cứu nƣớc, cứu mình ra khỏi cảnh nô lệ, đều có thể gia nhập

công nhân cứu quốc hội, không bắt buộc phải theo những điều kiện chặt chẽ nhƣ

trƣớc. Bởi vậy Hội công nhân cứu quốc đã phát triển nhanh chóng theo hệ thống

dọc từ Trung ƣơng đến cơ sở, thu hút đông đảo công nhân lao động tham gia. Hội

tổ chức theo lối “tam tam chế”, 3 ngƣời 1 tổ, 3 tổ thành 1 liên tổ và 3 liên tổ

thành 1 chi hội. Hội lấy xí nghiệp, đƣờng phố... làm cơ sở. Mỗi cơ sở có Ban

chấp hành riêng, mỗi cấp đều có Ban chấp hành, mỗi Ban chấp hành lại có đại

diện của mình trong Mặt trận Việt Minh ngang cấp.

Ngày 16 tháng 6 năm 1941, Đoàn Phụ nữ Cứu quốc ra đời tiếp tục sự

nghiệp của Hội Phụ nữ Giải phóng, Hội Phụ nữ Dân chủ, Hội Phụ nữ Phản đế...

Đoàn làm nhiệm vụ tuyên truyền vận động nữ công nhân lao động, nông dân và

các tầng lớp xã hội khác gia nhập Mặt trận Việt Minh, gia nhập các đoàn thể cứu

quốc đánh Pháp đuổi Nhật... nhiều nữ công nhân lao động đã tích cực tham gia

công tác tuyên truyền tổ chức quần chúng, vận động quần chúng đấu tranh, làm

96

giao thông liên lạc, chuyển tài liệu, dẫn đƣờng đƣa đón cán bộ, làm công tác binh

vận, xây dựng căn cứ địa cách mạng...

Bên cạnh các hoạt động trên, nữ công nhân lao động đã đóng vai trò quan

trọng trong các cuộc đấu tranh, bãi công... của giai cấp công nhân.

Thời gian từ 1939 - 1943 là thời kỳ phong trào đấu tranh của công nhân lao

động gặp nhiều khó khăn.

Tuy vậy vẫn có những cuộc đấu tranh của riêng nữ công nhân và của

những cơ sở có đông nữ công nhân lao động. Chẳng hạn, tháng 2 năm 1940 nổ ra

cuộc đấu tranh lớn của 160 nữ công nhân nhà máy Thảm len Hải Phòng. Tháng 6

năm 1940, là cuộc đấu tranh của 2.000 anh chị em công nhân nhà máy Tƣ Hải

Phòng.

Tháng 2 năm 1943. Hội nghị thƣờng vụ Trung ƣơng Đảng đã phân tích

tình hình, xu thế thắng lợi của phe dân chủ chống phát xít và quyết định nhiều

chủ trƣơng quan trọng trong việc lãnh đạo nhân dân ta chuẩn bị lực lƣợng khởi

nghĩa giành chính quyền khi thời cơ đến. Đối với công tác công vận, Hội Nghị

nhấn mạnh: “Phải luôn luôn củng cố và phát triển tổ chức của thợ thuyền và dân

cày vì đó là xƣơng sống của Mặt trận dân tộc thống nhất chống Nhật Pháp” [25,

tr 124].

Xác định tầm quan trọng của công tác thành thị, Nghị quyết chỉ rõ: Phải tích cực

hoạt động trong công nhân xí nghiệp “đi vào xí nghiệp, chiếm lấy xí nghiệp”.

Nhờ có chủ trƣơng kịp thời đúng đắn của Đảng, phong trào công nhân trong

các đô thị đƣợc phục hồi mạnh mẽ hơn trƣớc. Tháng 5 năm 1943, các cơ sở có đông

nữ công nhân nhƣ Nhà máy in Lê Văn Tân, Nhà in “Tin mới”, Nhà in báo Action...

đấu tranh đòi tăng lƣơng, trả tiền giờ phụ... đều giành thắng lợi. Ngày 8 tháng 5 năm

1943, hơn 1.000 nữ công nhân ở trƣờng bay Gia Lâm đình công phản đối lính Nhật

đánh chết một phụ nữ làm phu. Cuộc đấu tranh có sự liên hệ mật thiết với phong

trào nông dân vùng phụ cận đấu tranh chống nạn thu thóc, nạn bắt nhổ lúa trồng

97

đay... Riêng từ tháng 5 đến tháng 6 năm 1943 có đến 42 cuộc đấu tranh của công

nhân. Đáng chú ý tháng 12 năm 1943 có cuộc bãi công của nam nữ công nhân Nhà

máy Tơ Nam Định nổ ra và giành thắng lợi to lớn…[77, tr 42 - 43].

Sang năm 1944, nhiều cuộc bãi công và đấu tranh đƣa yêu sách của nữ

công nhân lao động và các cơ sở có đông nữ công nhân liên tiếp nổ ra. Điển hình

nhƣ nữ công nhân Dệt thảmTràng Kênh Hải Phòng kéo dài trong 10 ngày; thợ

may quân phục cho Nhật ở đƣờng Sê-nhô (Chaigneun) Sài Gòn bãi công đòi bồi

thƣờng cho những gia đình bị chết bom; ngày 15 tháng 5 năm 1944, công nhân

nhà máy xay Rạch Giá, nhà máy thuộc da (Hà Nội) đấu tranh. Tháng 1 năm 1944

nam nữ công nhân nhà in Viễn Đông, nhà in Xuân Thu làm đơn tập thể đòi chủ

tăng lƣơng và đòi mua vải theo giá Hội đồng đã thắng lợi. Tháng 2 năm 1944,

công nhân in Lê Văn Tận đấu tranh yêu cầu tăng lƣơng và đƣợc tăng một hạng 1

hào, 1 hạng 2 hào, rồi tiếp tục đấu tranh lần sau đƣợc tăng lƣơng gấp hai... Nhà in

báo Tin Mới, thợ sắp chữ đòi chủ tăng lƣơng theo giá sinh hoạt, chủ phải tăng

gấp 1,5 lần. Đến đầu tháng 7 công nhân nhà in Lê Văn Tân lại đấu tranh đòi phụ

cấp nguy hiểm vì anh chị em phải làm việc ban ngày trong lúc Hà Nội thƣờng có

báo động máy bay (tháng 4 năm 1944 trong một trận bom có 65 ngƣời chết, 148

ngƣời bị thƣơng). Tháng 10 năm 1944, anh chị em công nhân nhà máy Khuy Hải

Phòng đấu tranh đòi tăng lƣơng...

Tại các đồn điền cao su, năm 1942 nổ ra cuộc bãi công của 700 anh chị em

công nhân các đồn điền cao su An Lộc, Xuân Lộc (Biên Hòa). Năm 1943 cộc đấu

tranh lan dần tới các đồn điền Trảng Bom, Long Thành... Cuối năm 1944, các

cuộc đấu tranh dồn dập nổ ra tại các đồn điền Tân Thuận, Gò Lớn, Bình Chánh

đòi tăng lƣơng, đòi phát lƣơng sớm.

Sau cuộc đảo chính Nhật - Pháp (9.3.1945), tình hình có nhiều chuyển biến

thuận lợi cho cách mạng. Dƣới ánh sáng của Hội nghị thƣờng vụ Trung ƣơng

Đảng mở rộng và bản chỉ thị lịch sử “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của

98

chúng ta” (12.3.1945), phong trào cánh mạng của quần chúng dâng lên nhƣ vũ

bão. Cũng trong thời gian này, Đảng tổ chức cho nhiều chiến sĩ cách mạng vƣợt

ngục, trong đó có nhiều nữ công nhân lao động. Ra khỏi nhà lao, các chị trở lại tiếp

tục hoạt động trong phong trào công nhân.

Hoạt động của nữ công nhân lao động trong thời kỳ này rất phong phú.

Nhiều chị tham gia đấu tranh bãi công, đình công, tham gia bán tín phiếu ủng hộ

Việt Minh, có chị còn đƣợc phân công đi mua súng đạn của lính Pháp, Nhật, lính

khố xanh... Bên cạnh đó các chị còn cùng với tầng lớp nhân dân tham gia trong

các đội tự vệ chiến đấu, đội tuyên truyền xung phong, phổ biến chủ trƣơng “đánh

đuổi phát xít Nhật” chuẩn bị tổng khởi nghĩa. Nhiều nơi nữ công nhân lao động

tham gia trong các cuộc đấu tranh giải thoát những ngƣời bị bắt, biểu tình thị

uy... Nhƣ ở Hà Nội ngày 20 tháng 4 năm 1945, công nhân cứu quốc hội lãnh đạo

dân nghèo phá kho thóc của Nhật ở phố Bắc Ninh tới ba lần rồi tiếp tục phá kho

thóc của Nhật ở gần Lò Lợn, ở bến Phà Đen, ở vùng Láng, ở làng Mọc. Ở Hải

Phòng công nhân bí mật đốt phá các kho lƣơng thực ở bến Sáu Kho tạo điều kiện

cho dân nghèo vào lấy... Khí thế cách mạng trong cả nƣớc sôi sục.

Tháng 6 năm 1945, khu giải phóng “Cao, Bắc, Lạng, Hà, Tuyên, Thái”

chính thức đƣợc thành lập. Mƣời chính sách lớn của Mặt trận Việt Minh đƣợc

ban bố. Nhân dân khắp nơi hết sức hoan nghênh những chính sách: tịch thu ruộng

đất của đế quốc và Việt gian chia cho dân cày, các dân tộc đƣợc bình đẳng, trai

gái đƣợc bình quyền.

Ngày 15 tháng 6 năm 1945, Nhật đầu hàng Liên Xô và phe đồng minh.

Ngày 16 và ngày 17 tháng 8 năm 1945 quốc dân Đại hội họp ở Tân Trào. Đại hội

đã có quyết định lịch sử phát động Tổng khởi nghĩa. Ngày17 tháng 8, ở Hà Nội,

Đảng đã vận động đông đảo cốt cán tham dự cuộc mít tinh do phe Đại Việt quốc

gia liên minh, một tổ chức thân Nhật tổ chức và biến cuộc mít tinh này thành

cuộc biểu dƣơng lực lƣợng của ta. Cờ đỏ sao vàng lần đầu tiên xuất hiện và phấp

99

phới tung bay trên tầng cao Nhà hát Lớn thành phố giữa hàng vạn ngƣời tham dự

mít tinh. Trong số những cán bộ diễn thuyết có chị Nguyễn Khoa Diệu Hồng. Chị

kêu gọi nhân dân thành phố ủng hộ Việt Minh và đả đảo chính phủ bù nhìn thân

Nhật. Cuộc mít tinh đã biến thành cuộc biểu tình tuần hành trên đƣờng phố Hà

Nội lôi cuốn đông đảo quần chúng hai bên đƣờng tham gia và hô vang các khẩu

hiệu “Ủng hộ Việt Minh và đả đảo chính phủ bù nhìn thân Nhật”. Cuộc mít tinh

đã biến thành cuộc biểu tình tuần hành trên đƣờng phố Hà Nội lôi cuốn đông đảo

quần chúng hai bên đƣờng tham gia và hô vang các khẩu hiệu “Đả đảo bù nhìn”,

“Việt Nam độc lập”...

Ngày 19 tháng 8 năm 1945, dƣới sự lãnh đạo trực tiếp của Xứ ủy Bắc Kỳ và

Thành ủy Hà Nội, các tầng lớp nhân dân Hà Nội, mà nòng cốt là giai cấp công nhân đã

vùng lên giành chính quyền thắng lợi. Cũng trong buổi sáng ngày 19 tháng 8, chị

Trƣơng Thị Mỹ, một trong những cán bộ trƣởng thành từ phong trào công nhân đã lãnh

đạo đoàn biểu tình gần 600 ngƣời mang theo súng chim, đinh ba, giáo mác, gậy gộc...

hàng ngũ chỉnh tề từ làng Canh tiến ra Hà Nội, vừa đi vừa hô vang khẩu hiệu: “Ủng hộ

Việt Minh”, “Đả đảo chính phủ bù nhình Trần Trọng Kim”. Sau đó chị chỉ huy đoàn

biểu tình quay về giành chính quyền ở Huyện Hoài Đức, Hà Đông.

Ngoài ra còn hàng trăm cán bộ nữ công nhân tham gia khởi nghĩa vũ trang,

giành chính quyền khắp nơi trong cả nƣớc.

Có chị đƣợc cử vào ủy ban Nhân dân cách mạng tỉnh và huyện, nhiều chị

giữ các cƣơng vị Chủ tịch, Phó chủ tịch... Hàng ngàn nữ công nhân lao động,

tham gia trong đoàn Phụ nữ Cứu quốc hăng hái bảo vệ chính quyền cách mạng,

giữ gìn trật tự an ninh và nền độc lập của dân tộc.

Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập,

nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Từ đây lịch sử dân tộc ta nói chung,

phong trào công nhân và phụ nữ lao động nói riêng bƣớc sang một trang mới.

100

Nhƣ vậy, dƣới sự lãnh đạo của Đảng, của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ

chí Minh vĩ đại, cùng với toàn dân, chị em phụ nữ từ nay đã thoát khỏi cảnh

ngƣời dân nô lệ mất nƣớc, không còn bị thực dân, đế quốc, phong kiến chà đạp

lên nhân phẩm, đè nén, bóc lột; ngƣời phụ nữ Việt Nam đã có thể ngẩng cao đầu,

ngang vai với nam giới đảm đƣơng mọi công việc của xã hội trong một quốc gia

độc lập, tự chủ.

2.4. Một số nhận xét

Trải qua 15 năm dƣới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng, phong trào phụ nữ

không những tiếp thu, kế thừa mà còn phát huy cao độ truyền thống của tổ tiên,

của Bà Trƣng, Bà Triệu, của Bùi Thị Xuân anh hùng; là bản trƣờng ca bất diệt

của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, một trang sử vàng chói lọi, một bài học lớn

về vận động quần chúng tham gia cách mạng nói chung và vận động phụ nữ nói

riêng của Đảng, góp phần to lớn trong cuộc đấu tranh giành độc lập ở nƣớc ta. Từ

thực tiễn của cuộc vận động phụ nữ của Đảng 15 năm qua chúng ta có thể khẳng

định rằng:

Thứ nhất, sự lãnh đạo của Đảng chính là nhân tố quyết định thắng lợi của

phong trào cách mạng Việt Nam nói chung, phong trào phụ nữ nói riêng.

Phụ nữ Việt Nam vốn có tinh thần thần yêu nƣớc nồng nàn và lòng căm

thù giặc sâu sắc lại đƣợc thiếp thu truyền thống tốt đẹp của tổ tiên. Dƣới chế độ

cũ, ngoài nỗi khổ chung của toàn thể dân tộc, phụ nữ còn bị rằng buộc bởi lễ giáo

phong kiến, luôn luôn bị kìm hãm ở vị trí thấp hèn trong gia đình và ngoài xã hội.

Từ khi thực dân Pháp sang xâm lƣợc nƣớc ta, chúng muốn biến ngƣời dân Việt

Nam nói chung trở thành nô lệ và ngƣời phụ nữ cũng là nạn nhân của chế độ cai

trị thực dân đó.

Phụ nữ là ngƣời phải gánh chịu nhiều hy sinh gian khổ khi đế quốc rày xéo

lên quê hƣơng, chồng con, tài sản, kể cả tính mạng bị cƣớp đoạt huỷ hoại. Nhƣng

chính tình yêu quê hƣơng đất nƣớc hoà quyện với tình yêu gia đình chồng con,

101

làng xóm ruộng vƣờn, nhà cửa, tài sản do mồ hôi nƣớc mắt của mình làm ra bật

lên sức mạnh diệu kỳ, sức mạnh xung thiên làm nên những chiến công, kỳ tích lạ

lùng. Những đau thƣơng mất mát càng nhiều thì lòng căm thù, ý chí chiến đấu,

hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc càng cao. Trong khi bọn đế quốc xâm lƣợc

và bè lũ tay sai phơi bày bộ mặt gian ác của chúng cũng chính là lúc kẻ thù đã

khơi dậy trong nhân dân tinh thần căm thù sục sôi, lòng yêu nƣớc, yêu độc lập tự

do đến cao độ, đƣa đến phong trào cách mạng nói chung, phong trào phụ nữ Việt

Nam nói riêng dâng lên nhƣ nƣớc vỡ bờ, bất chấp súng đạn, nhà tù, trại giam,

máy chém trong mấy thập kỷ qua. Thực tế đó càng chứng minh chân lý: “Giặc

đến nhà đàn bà cũng đánh”, “có áp bức có đấu tranh, càng bị áp bức đấu tranh

càng quyết liệt”.

Đảng đã sớm nhận rõ hoàn cảnh, nỗi khổ nhục, đánh giá đúng khả năng, vai

trò phụ nữ, Đảng đã quan tâm tổ chức, bồi dƣỡng cho chị em tham gia cách mạng

để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng bản thân phụ nữ. Ngoài

chủ trƣơng chung, Đảng còn có những chủ trƣơng, chính sách riêng để đào tạo bồi

dƣỡng cán bộ, quan tâm xây dựng tổ chức, giao việc thích hợp nhằm phát huy vai

trò, khả năng và đấu tranh bảo vệ những quyền lợi chính đáng riêng của phụ nữ.

Cuộc chiến đấu vĩ đại của dân tộc ta nhất là trong 15 năm qua dƣới sự lãnh đạo của

Đảng đã toàn thắng bởi nhân dân và phụ nữ ta một lòng với Đảng, tuyệt đối tin

Đảng, biết hy sinh tất cả để Tổ quốc độc lập tự do. Khả năng và vai trò cách mạng

của phụ nữ, một lực lƣợng to lớn vô cùng quan trọng của cách mạng Việt Nam,

điều đó thực sự là bằng chứng hùng hồn về quan điểm của Đảng: “Công tác vận

động phụ nữ là một công tác trọng yếu; nếu không có phụ nữ tham gia thì cách

mạng không thể thành công đƣợc”.

Thứ hai, cuộc vận động phụ nữ của Đảng đạt đƣợc kết quả cao, phong trào

phụ nữ cả nƣớc lớn mạnh do Đảng đã sử dụng các biện pháp linh hoạt trong việc

102

tổ chức, phát triển, động viên giáo dục các tầng lớp phụ nữ tham gia cách mạng

dƣới sự lãnh đạo của Đảng.

Ngay từ khi đế quốc Pháp xâm lƣợc nƣớc ta, từ tổ chức phôi thai của Nữ

công học hội đến các tổ chức Phụ nữ tân tiến, Phụ nữ hiệp hội, Phụ nữ Phản đế.

Đảng đã đề ra việc thành lập các tổ chức khác nhau để động viên các tầng lớp chị

em phụ nữ khác nhau tham gia. Mặc dù tổ chức có lúc có nơi chậm hình thành

hay bị ách tắc do địch đánh phá, nhƣng phong trào quần chúng ở cơ sở vẫn âm ỉ

tồn tại và phát triển. Phong trào và tổ chức phụ nữ đã gắn chặt và làm tròn nhiệm

vụ qua các thời kỳ lịch sử do Đảng giao cho, biết kết hợp, phối hợp chặt chẽ với

các ngành và đoàn thể. Đảng vừa tổ chức tập hợp, vừa tuyên truyền vận động phụ

nữ đấu tranh giải phóng dân tộc, vừa đào tạo đội ngũ cán bộ nữ, hƣớng dẫn, giáo

dục quần chúng đấu tranh và bảo vệ những quyền lợi chính đáng của mình.

Công cụ đắc lực mà Đảng sử dụng để vận động phụ nữ tham gia cách

mạng đó chính là báo chí cách mạng. Có những lúc xuất bản công khai, cũng có

lúc phải phát hành bí mật nhƣng báo chí cách mạng luôn có vai trò vô cùng to lớn

trong cuộc vận động phụ nữ của Đảng. Báo chí cách mạng bên cạnh việc hƣớng

dẫn, chỉ đạo phong trào, còn làm công tác tuyên truyền vận động phụ nữ hăng hái

đi theo Đảng và tham gia công tác cách mạng. Việc tuyên truyền, biểu dƣơng kịp

thời những đóng góp của phụ nữ trên báo chí cách mạng đã góp phần động viên,

cổ vũ phụ nữ hăng hái tham gia cách mạng.

Do mục đích đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng thiết tha của quần chúng,

cuộc vận động phụ nữ của Đảng ngày càng thu hút mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi,

mọi dân tộc, sắc tộc, mọi tôn giáo, ở mọi vùng từ đồng bằng đến trung du, miền

núi và đô thị tham gia và đƣợc phân công một cách hợp lý, phù hợp với khả năng

và đặc điểm của chị em ở mọi lứa tuổi, mọi hoàn cảnh khác nhau hành động cách

mạng. Tất cả đã hình thành một khối thống nhất, góp phần cùng cả nƣớc làm nên

thắng lợi to lớn của của Cách mạng tháng Tám năm 1945 vĩ đại.

103

Thứ ba, đội ngũ cán bộ phụ nữ Việt Nam có ý chí vững vàng, có lòng tin

sắt đá, thông minh sáng tạo, gƣơng mẫu, biết dựa vào quần chúng, biết tổ chức

lãnh đạo quần chúng cũng là nguyên nhân quan trọng làm cho cuộc vận động phụ

nữ của Đảng thu đƣợc nhiều kết quả to lớn.

Từ khi mới ra đời, Đảng và Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm đào tạo,

bồi dƣỡng, tạo điều kiện cho cán bộ nữ hoạt động. Nhƣng qua thực tế rõ ràng sự

trƣởng thành của ngƣời cán bộ phụ nữ còn là do tinh thần tự cƣờng, tự lực của

bản thân ngƣời phụ nữ, biết và dám vƣợt qua mọi khó khăn với sự nỗ lực vƣợt

bậc để đảm đang trách nhiệm đƣợc giao. Sự trƣởng thành của cán bộ phụ nữ là

một sự đánh đổi không chỉ bằng xƣơng máu, bằng mồ hôi nƣớc mắt mà cả bằng

sự hy sinh lớn lao, hy sinh toàn diện. Một số không ít vừa tham gia hoạt động

vừa gánh vác việc gia đình để chồng con yên tâm làm nhiệm vụ. Có những chị

em đã hiến dâng cả tuổi thanh xuân cho cách mạng khi chƣa lập gia đình, chƣa

đƣợc hƣởng hạnh phúc của một ngày làm vợ, làm mẹ. Trải qua những năm tháng

đấu tranh gian khổ, ác liệt, nhiều chị em ốm đau thƣơng tật, nhiều chị có con phải

gửi cho gia đình, cho sơ sở nuôi dạy. Và sẽ là thiếu sót nếu chúng ta không nói

đến sự hy sinh, chịu đựng và tinh thần đấu tranh dũng cảm, kiên cƣờng của hàng

ngàn, hàng vạn chị em cán bộ và quần chúng cách mạng bao lần bị bắt bớ, tù đày

v.v…

Đi suốt chiều dài của lịch sử, chỉ từ khi có Đảng lãnh đạo đến nay, trong

cuộc đấu tranh một mất một còn với kẻ thù, nhất là khi cuộc đấu tranh đến giai

đoạn gay go quyết liệt, nhƣng có thể nói chƣa bao giờ phụ nữ lại tham gia cách

mạng đông đảo và nhiệt tình nhƣ thời kỳ này. Nhiều chị em đã anh dũng hy sinh,

không ít bị ốm đau tàn phế dƣới sự tra tấn dã man của kẻ thù nhƣng tuyệt đại đa

số chị em đều giữ vững khí tiết, sẵn sàng chấp nhận hy sinh. Có đồng chí còn

bình tĩnh, hiên ngang đấu lý trên tƣ thế của ngƣời chiến thắng buộc kẻ thù phải

run sợ và khâm phục. Trong tù, chị em vẫn tổ chức học tập, động viên nhau tiếp

104

tục đấu tranh, giữ vững khí tiết, tìm cách liên hệ với tổ chức bên ngoài. Ra tù, các

chị lại tiếp tục hoạt động. Rõ ràng đây là những “hạt giống đỏ” đã đƣợc gian khổ,

khó khăn sàng lọc, là vốn quý của Đảng, của cách mạng, là tấm gƣơng sáng cho

thế hệ mai sau.

Thứ tư, sự tự giác tham gia hƣởng ứng của đông đảo phụ nữ cả nƣớc mà

đặc biệt là sự tự giác tham gia đấu tranh cách mạng của chị em công nhân là một

nhân tố vô cùng to lớn đem đến những thắng lợi trong cuộc vận động phụ nữ của

Đảng thời kỳ 1930 – 1945.

Ngay từ khi mới ra đời Đảng đã xác định “phụ nữ choán một phần nửa

nhân dân xứ Đông Dƣơng. Hơn 90% là phụ nữ lao động: mẹ, vợ, con của công

nôngg và dân nghèo thành thị, phụ nữ lao động là những phần tử bị áp bức và bị

bóc lột nhất trong nhân dân” [27, tr 20]. Chúng ta đều biết, cùng với chƣơng

trình khai thác thuộc địa của Pháp thì số lƣợng công nhân mà nhất là công nhân

nữ tăng lên rất nhanh. Chính vì thế mà ngay sau khi ra đời, Đảng đã tăng cƣờng

hoạt động trong phong trào công nhân, mở rộng các cuộc đấu tranh của công

nhân, xây dựng các cơ sở ở các xí nghiệp, coi công vận là công tác trọng tâm của

mình. Đảng đánh giá cao vai trò và khả năng cách mạng của quần chúng phụ nữ

mà đặc biệt là nữ công nhân. Với phƣơng pháp vận động quần chúng phụ nữ và

nữ công nhân rất linh hoạt, Đảng đã khơi dậy tinh thần yêu nƣớc của nữ công

nhân lao động nói riêng và của quần chúng phụ nữ nói chung, hƣớng họ tự

nguyện tham gia đấu tranh cách mạng, giải phóng dân tộc và giải phóng phụ nữ.

Đây chính là một điểm tiến bộ của Đảng ta, một chính đảng ở một nƣớc thuộc địa

phong kiến còn mang nhiều tàn tích lạc hậu của tƣ tƣởng trọng nam, khinh nữ.

Nhờ vậy phong trào đấu tranh của phụ nữ nói chung, của nữ công nhân lao động

nói riêng có những bƣớc phát triển mạnh mẽ, đóng vai trò quan trọng trong sự

nghiệp đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc.

105

Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đã đạt đƣợc nhƣ trên, trong cuộc vận động

phụ nữ của Đảng (1930 – 1945) cùng còn có một số mặt hạn chế nhƣ: Có nơi có

lúc vấn đề vận động phụ nữ chƣa đƣợc chú ý đúng mức, hoặc nếu có vận động

“tổ chức đƣợc phụ nữ thì có khi lại không chú ý huấn luyện cách mạng cho họ,

không làm cho họ hoạt động... không đặc biệt chú ý huấn luyện những phụ nữ

trong các cơ quan, không làm cho họ tham gia vào sự sanh hoạt của Đảng, để họ

rời rạc, không phát triển trình độ chánh trị” [27, tr 11]. Có nơi chỉ chú trọng vận

động phụ nữ vô sản mà không chú ý vận động phụ nữ bần nông và trung nông.

Hoặc Đảng có lúc có quan niệm sai lầm về việc đƣa ra những khẩu hiệu vận động

phụ nữ “Nói đến việc phụ nữ thì đảng viên yên trí ngay rằng phải hô hào đòi

quyền, chống chế độ phong kiến áp bức phụ nữ... và chỉ đi vận động nữ giới đòi

cho đƣợc ngang hàng với nam giới. Có ngƣời cũng tuyên truyền cao hơn nữa thì

lại đem những tƣ tƣởng anh hùng, những gƣơng nữ kiệt mà hô hào phụ nữ. Rút

lại, vận động phụ nữ chỉ quanh quẩn trong vòng nữ quyền của tƣ bản hoặc quốc

gia hẹp hòi...[27, tr 15 – 16]. Tuy nhiên, những hạn chế này cũng đã đƣợc Đảng

khắc phục trong suốt tiến trình tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Và

đây cũng chính là những bài học kinh nghiệm quý báu của Đảng trong cuộc vận

động phụ nữ (1930 – 1945).

KẾT LUẬN

Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 vĩ đại đã đổi đời cho cả

dân tộc, cho cả giới phụ nữ. Dƣới sự lãnh đạo của Đảng, ngƣời phụ nữ đƣợc giải

phóng khỏi ách nô lệ, giải thoát khỏi ách áp bức, bóc lột, những ràng buộc ngàn

đời của ý thức hệ phong kiến, đứng lên làm chủ quê hƣơng, đất nƣớc và vận

106

mệnh của mình. Phụ nữ Việt Nam rất tự hào đã góp phần xứng đáng vào trang sử

hào hùng của dân tộc.

1. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng từ năm 1930 đến năm 1945 Đảng ta

luôn nhận thức đầy đủ và đúng đắn vai trò và vị trí của chị em phụ nữ trong sự

nghiệp cách mạng của dân tộc.

Có thể khẳng định phụ nữ là một lực lƣợng có vai trò quan trọng trong đời

sống và trong sản xuất. Họ còn là ngƣời sản sinh ra những thế hệ anh hùng cho

dân tộc Việt Nam. Dƣới chế độ phong kiến và đế quốc, phụ nữ là lớp ngƣời bị áp

bức, bóc lột, chịu nhiều bất công nhất. Trong xã hội phong kiến, mặc dù phụ nữ

Việt Nam luôn đƣợc thừa nhận là có đóng góp quan trọng cho kinh tế gia đình và

nền sản xuất xã hội, nhƣng quan niệm “nam tôn, nữ ty”, “nam ngoại, nữ nội” đã

kìm phụ nữ trong gia đình. Phụ nữ chƣa bao giờ có tiếng nói trong đời sống chính

trị của đất nƣớc. Phụ nữ không đƣợc đi học, không đƣợc tham gia vào bộ máy

quyền lực ở bất cứ cấp nào từ địa phƣơng cho tới trung ƣơng.

Trong xã hội thuộc địa nửa phong kiến những năm nửa đầu thế kỷ XX, phụ

nữ Việt Nam lại phải đối mặt với nhiều điều bất công. Đó là bất công về chế độ

tiền lƣơng, chế độ bảo hiểm. Phụ nữ trở thành nạn nhân của các vấn đề trong xã

hội tƣ bản nhƣ nạn khủng hoảng kinh tế, vấn đề thất nghiệp, tai nạn lao động, nạn

lạm phát. Cũng ở thời điểm này, lần đầu tiên phụ nữ đƣợc tiếp xúc với những tƣ

tƣởng dân chủ về quyền con ngƣời và quyền phụ nữ, vấn đề tự do cá nhân, phụ

nữ phải nhìn nhận lại vai trò và địa vị của mình trong gia đình và ngoài xã hội.

Từ những thay đổi trong nhận thức về vai trò và địa vị của chính mình

trong gia đình và xã hội, phụ nữ bắt đầu nhận thức về quyền lợi chính trị của bản

thân. Phụ nữ lên tiếng đòi quyền đƣợc bầu cử và ứng cử, quyền có tiếng nói đại

diện trong các cơ quan quyền lực và từ đó họ ý thức đƣợc sứ mệnh của họ trong

việc cải tạo xã hội. Họ hăng hái và tự nguyện tham gia đông đảo vào cuộc đấu

tranh yêu nƣớc và cách mạng nhằm thay đổi xã hội đồng thời thay đổi thân phân

mình. Chính vì thấy đƣợc phụ nữ là một lực lƣợng cách mạng vô cùng to lớn nên

107

ngay từ khi mới ra đời Đảng đã rất chú trọng đến công tác vận động phụ nữ tham

gia cách mạng. Đó chính là cách mà phụ nữ tự đứng lên giải phóng dân tộc và

giải phóng cho chính bản thân mình.

2. Trong mỗi giai đoạn cách mạng, tuỳ theo điều kiện cụ thể mà Đảng đƣa

ra những phƣơng pháp, khẩu hiệu vận động phụ nữ một cách linh hoạt và sáng

tạo; Đảng luôn có sự chỉ đạo sát sao trong việc vận động và tổ chức phụ nữ đấu

tranh.

Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã chấm dứt thời kỳ khủng

hoảng đƣờng lối cứu nƣớc của dân tộc Việt Nam, đồng thời cũng mở ra một niềm

hy vọng mới cho phụ nữ Việt Nam. Đó là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp

tiền đề quan trọng để giải phóng phụ nữ. Ngay từ khi mới ra đời Đảng đã đề cao

công tác vận động phụ nữ đặc biệt là phụ nữ lao động chiếm phần đông trong xã

hội Việt Nam. Trong các nghị quyết, văn kiện, chỉ thị, vấn đề phụ nữ luôn đƣợc

Đảng quan tâm đúng mức với những yêu cầu về quyền bình đẳng, những lợi ích

thiết thực của phụ nữ.

Trong cao trào 1930 - 1931, dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, với

những khẩu hiệu yêu cầu quyền lợi cho phụ nữ về kinh tế, trong hôn nhân và gia

đình, các phong trào đấu tranh cách mạng do Đảng phát động đã có sự tham gia

đông đảo của phụ nữ. Trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, rất nhiều cuộc đấu

tranh lớn đã bùng nổ mà phụ nữ là ngƣời châm ngòi, cũng nhƣ phụ nữ luôn đi

đầu trong các cuộc đấu tranh. Trong thời kỳ này, nhiều cuộc bãi công, đình công

có sự tham gia của đông đảo phụ nữ nhƣ cuộc biểu tình của công nhân đồn điền

Phú Riềng, phong trào của công nhân nhà máy dệt Nam Định, công nhân hãng

dầu Nhà Bè. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ nhất năm 1935 đã tổng kết: “Cờ vận

động dân tộc và xã hội giải phóng xuất hiện thì có phụ nữ tham gia cách mạng.

Thời kỳ cách mạng vận động cao nhất của phụ nữ lao động là năm 1930 - 1931.

Trong hai năm ấy không có cuộc bãi công nào mà không có phụ nữ tham gia. Có

lúc phụ nữ dẫn đầu các cuộc tranh đấu, có nơi đã tổ chức các cuộc biểu tình, bãi

108

công hoàn toàn chỉ có đàn bà. Điều đặc sắc nhất là phụ nữ Nghệ An, Hà Tĩnh đã

cùng với công nông đàn ông tổ chức võ trang bạo động và thiết lập chính quyền

Xô Viết. Những chứng cứ đó biểu tỏ rằng bộ phận phụ nữ lao động Đông Dƣơng

đã có giai cấp giác ngộ, rằng phụ nữ là một lực lƣợng cách mạng rất lớn mà Đảng

phải hết sức chú ý tổ chức và chỉ đạo” [18, tr 176].

Thời kỳ vận động dân chủ 1936 - 1939, trong điều kiện Đảng Cộng sản ra

hoạt động công khai, cuộc vận động phụ nữ tham gia vào phong trào đấu tranh

chung của dân tộc do Đảng lãnh đạo đã lôi cuốn đƣợc đông đảo phụ nữ tham gia

với những khẩu hiệu đòi quyền lợi thiết thực cho phụ nữ. Đây cũng là lần đầu

tiên trong lịch sử phụ nữ tham gia một cách có tổ chức và hiệu quả vào cuộc đấu

tranh của dân tộc trên tất cả các lĩnh vực: đấu tranh đòi quyền lợi về kinh tế, văn

hoá, đòi tự do dân chủ, đòi quyền lợi chính trị. Trong thời kỳ này, với Cƣơng lĩnh

của Mặt trận nhân dân chống chiến tranh phát xít, đòi dân sinh, dân chủ, Đảng đã

phát động phong trào rộng rãi, nâng câo trình độ hiểu biết của phụ nữ về tự do

dân chủ, về chủ nghĩa Cộng sản và những quyền lợi thiết thân của mình. Cũng

chính trong thời kỳ này, với những hình thức tổ chức và phƣơng thức hoạt động

thích hợp, phong phú, với những nội dung, khẩu hiệu thiết thực, Đảng đã tập hợp

đƣợc hầu hết các tầng lớp phụ nữ kể cả công nhân, nông dân, tiểu thƣơng, tiểu

chủ, tiểu tƣ sản trí thức; cũng là thời kỳ một số khá đông chị em đƣợc kết nạp vào

Đảng và trở thành đội ngũ cán bộ cốt cán của Đảng và quần chúng phụ nữ. Tuy

tổ chức phụ nữ chƣa thành hệ thống nhƣng qua Phụ nữ Tân tiến, Phụ nữ Giải

phóng, Phụ nữ Liên hiệp, các tổ chức Tƣơng tế, Ái hữu, Hội từ thiện, các lớp dạy

chữ Quốc ngữ, tổ đọc sách báo… Đảng đã giáo dục lòng yêu nƣớc, ý thức dân

chủ, tự do, bình đẳng cho phụ nữ và huy động tham gia cuộc đấu tranh. Đây cũng

là cơ sở, là bƣớc diễn tập rộng rãi, rèn luyện ý chí và khả năng để phụ nữ tiến lên

góp phần cùng toàn dân tham gia giành chính quyền trong cách mạng tháng Tám

năm 1945.

109

3. Trong cuộc vận động giải phóng dân tộc, Đảng đã có vai trò to lớn trong

việc tuyên truyền, giác ngộ quần chúng đấu tranh, hƣớng dẫn, tổ chức quần

chúng phụ nữ tham gia hoạt động cách mạng, động viên phụ nữ tham gia phong

trào đấu tranh giải phóng dân tộc.

Kết quả của đƣờng lối vận động phụ nữ đúng đắn của Đảng đã động viên

khích lệ phụ nữ hăng hái tham gia vào phong trào Việt Minh, vào các đội du

kích. Cuộc khởi nghĩa Nam kỳ có sự tham gia tự nguyện của nhiều chị em phụ

nữ, nhiều ngƣời đã hy sinh anh dũng trong đấu tranh. Đặc biệt trong cao trào tổng

khởi nghĩa giành chính quyền tháng Tám, phụ nữ đã trở thành một lực lƣợng vô

cùng quan trọng. Nhiều phụ nữ đã dẫn đầu trong các cuộc biểu tình thị uy, cƣớp

chính quyền ở các địa phƣơng trong khắp cả nƣớc. Trong khí thế sục sôi của

những ngày Tổng khởi nghĩa cƣớp chính quyền trong Cách mạng tháng Tám,

hàng trăm phụ nữ đã đƣợc bầu vào Uỷ ban nhân dân cách mạng các tỉnh huyện

trong cả nƣớc là bằng chứng hùng hồn về vai trò thực sự và những đóng góp to

lớn của phụ nữ vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.

Cách mạng tháng Tám năm 1945 vĩ đại đã đổi đời cho cả dân tộc. Ngƣời

phụ nữ đƣợc giải phóng khỏi ách nô lệ, giải thoát khỏi ách áp bức, bóc lột những

ràng buộc ngàn đời của ý thức hệ phong kiến, đứng lên làm chủ quê hƣơng, đất

nƣớc và vận mệnh của mình. Dƣới sự lãnh đạo của Đảng, của lãnh tụ Nguyễn Ái

Quốc - Hồ Chí Minh vĩ đại, ngƣời phụ nữ Việt Nam đã có thể ngẩng cao đầu,

ngang vai với nam giới đảm đƣơng mọi công việc của xã hội trong một quốc gia

độc lập, tự chủ. Chúng ta tin tƣởng rằng trí thông minh và lòng dũng cảm, tinh

thần tự lực tự cƣờng trong đấu tranh chống kẻ thù xâm lƣợc cũng sẽ là tiền đề tốt

đẹp để phụ nữ chúng ta vững bƣớc tiến vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá

đất nƣớc dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với những chiến công

mới không kém phần oanh liệt.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

110

1. Nguyễn Thị Kim Anh (1938), Vấn đề phụ nữ, NXB Thân Dân, Chợ Lớn.

2. Phùng Thị Kim Anh (2004), “Các quan niệm nửa đầu thế kỷ XX về việc

phụ nữ tham gia lao động xã hội”, Tạp chí Khoa học về phụ nữ, số 6, tr

32- 40.

3. Trần Thị Vân Anh (2006), “Quyền con ngƣời và quyền của phụ nữ”, Tạp

chí Nghiên cứu gia đình và giới”, quyển 16, số 1, tr 49-60.

4. Ph. Ăngghen (1961), Nguồn gốc gia đình của chế độ tư hữu và của nhà

nước, NXB Sự thật.

5. Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng Quảng Ninh (1972), Cuộc bãi công của

công nhân vùng mỏ năm 1936, Quảng Ninh.

6. Ban chấp hành Hội Liên hiệp phụ nữ Hải Phòng (2002), Lịch sử phong

trào và tổ chức hội phụ nữ Hải Phòng (1930 – 2000), NXB Hải Phòng.

7. Ban chấp hành Hội Liên hiệp phụ nữ Hòa Bình (1999), Lịch sử phong trào

phụ nữ tỉnh Hòa Bình 1930 – 1996, NXB Phụ nữ.

8. Ban Tuyên giáo tỉnh ủy Nghệ An – Tiểu ban nghiên cứu Lịch sử Đảng

(2000), Nghệ An đỏ (Hồi ký), NXB Nghệ An, 2000.

9. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Thành uỷ Hà Nội (1970), Cuộc vận động

cách mạnh tháng Tám ở Hà Nội (cuối 1939 – 1946), Hà Nội.

10. Mai Huy Bích (2002), “Giới và thuyết nữ quyền phƣơng Tây”, Tạp chí

Khoa học về phụ nữ, số 5, tr 3 - 12.

11. Cao Văn Bền (1979), Giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ 1936 – 1939,

Uỷ ban KHXH Việt Nam.

12. Cục xuất bản Báo chí (1975), Bốn mươi lăm năm hoạt động của Đảng lao

động Việt Nam (1930 – 1975), Hà Nội.

111

13. Chủ nghĩa Mác-Lênin với vấn đề giải phóng phụ nữ (1977), NXB Phụ nữ,

Hà Nội.

14. Phan Bội Châu (1929), Vấn đề phụ nữ, Duy Tân thƣ xã, Huế.

15. Trƣờng Chinh (1975), Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, NXB Sự thật, Hà

Nội.

16. Lê Duẩn (1970), Về cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, NXB Sự thật, Hà

Nội.

17. Lê Duẩn (1974), Vai trò và nhiệm vụ của phụ nữ Việt Nam trong giai

đoạn mới của cách mạng, NXB Sự thật, Hà Nội.

18. Lê Duẩn (1976), Phải đứng trên quan điểm giai cấp mà nhận xét vấn đề

phụ nữ, NXB Phụ nữ, Hà Nội.

19. Đảng Cộng sản Việt Nam – Mười mốc son lịch sử (2006), NXB Văn hóa

Thông tin, Hà Nội.

20. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện đảng toàn tập, Tập 1, NXB

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện đảng toàn tập, Tập 2, NXB

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện đảng toàn tập, Tập 3, NXB

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

23. Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện đảng toàn tập, Tập 4, NXB

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện đảng toàn tập, Tập 5, NXB

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện đảng toàn tập, Tập 6, NXB

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

112

26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện đảng toàn tập, Tập 7, NXB

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

27. Đảng Lao động Việt Nam (1970), Ban chấp hành Trung ƣơng, Văn kiện

Đảng về công tác vận động phụ nữ (1930 – 1969), NXB Phụ nữ ,

28. Phan Cự Đệ (1982), Phong trào thơ mới 1932 – 1935. NXB KHXH,

29. Trần Thị Minh Đức (Chủ biên) (1997), Định kiến và phân biệt đối xử theo

giới – Lý thuyết và thực tiễn, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.

30. Trần Hàn Giang (2003), “Lịch sử phát triển của lý thuyết nữ quyền và lý

thuyết giới”, Tạp chí Khoa học về phụ nữ số 6 (61), tr 9-15.

31. Giáo trình nghiệp vụ công tác hội phụ nữ (2004). Chƣơng trình trung cấp

lý luận chính trị và nghiệp vụ vận. NXB Phụ nữ.

32. Lê Sĩ Giáo (1992), “Phụ nữ với việc phát minh ra nền văn minh nông

nghiệp trồng lúa”, Tạp chí Khoa học và phụ nữ số 1.

33. Hồ Chủ Tịch với vấn đề giải phóng phụ nữ (1970), NXB Phụ nữ, Hà Nội.

34. Lê Mậu Hãn (1991), Các Đại hội của Đảng ta (1930 – 1986), NXB Sự Thật.

35. Cao Hùng (1991), Phụ nữ Sông Bé 45 năm đấu tranh giải phóng (1930 –

1945), NXB Tổng hợp Sông Bé.

36. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (1957), Công tác vận động phụ nữ tham

gia cách mạng, Tài liệu huấn luyện cán bộ xã, NXB Phụ nữ.

37. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (1968), Quan điểm cơ bản về vấn đề giải

phóng phụ nữ trong Đảng lao động Việt Nam, Hội LHPN VN.

38. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (1999), Phụ nữ Nam Trung Bộ trong sự

nghiệp kháng chiến cứu nước (1930 – 1975), NXB Đà Nẵng.

39. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (2002), Phụ nữ Việt Nam bước vào thế kỷ

XXI, NXB Chính trị quốc gia.

113

40. Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam (1997), Hai mươi năm một chặng đường

phát triển của phụ nữ Việt Nam (1975 – 1995), NXB Phụ nữ.

41. Hội Liên hiệp phụ nữ Trung ƣơng (1955), Đường lối công tác phụ nữ, Tài

liệu học tập của cán bộ xã.

42. Hội Phụ nữ Hoằng Hoá (1983), Truyền thống phụ nữ Hoằng Hoá (1930 –

1983).

43. Hội LHPN Tỉnh Hải Hƣng (1983), Lịch sử đấu tranh cách mạng của phụ

nữ tỉnh Hải Hưng (1930 – 1945).

44. Hội Liên hiệp phụ nữ Khánh Hoà (1993), Truyền thống cách mạng của

phụ nữ Khánh Hoà (1930 – 1975), Tổ Sử biên soạn.

45. Hội Liên hiệp phụ nữ Thái Bình (1959), Công tác vận động phụ nữ, Tài

liệu huấn luyện cán bộ xã Thái Bình.

46. Hội Liên hiệp phụ nữ Thái Bình (2000), Lịch sử phong trào phụ nữ Thái

Bình 1927 -2000, NXB Chính trị Quốc gia.

47. Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Bắc Ninh (2000), Lịch sử phong trào phụ nữ

tỉnh Bắc Ninh.

48. Đỗ Huy (1991), “Vai trò của ngƣời phụ nữ trong văn hóa gia đình Việt

Nam”, Tạp chí Nghiên cứu gia đình và giới, số 4.

49. Phùng Hƣng (1996), “Phụ nữ và văn hóa Việt Nam”, Tạp chí Văn hoá

nghệ thuật, tháng 2, tr 45 – 47.

50. Nguyễn Văn Khánh (1999), Cơ cấu kinh tế xã hội Việt Nam thời thuộc địa

(1858 – 1945), NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.

51. Nguyễn Văn Ký (2001), “Phụ nữ Việt Nam qua những trang lịch sử, các

huyền thoại và khẩu truyền”, Việt Nam học – Kỷ yếu hội thảo quốc tế lần

thứ I, Tập IV, NXB Thế giới, Hà Nội, tr 177 – 190.

52. Kolongtai.A.M (1961), Vấn đề giải phóng phụ nữ, NXB Phụ nữ.

114

53. Tƣơng Lai (CB) (1996), Những nghiên cứu xã hội học về gia đình Việt

Nam, NXB Khoa học xã hội.

54. Đinh Xuân Lâm (CB) (1998), Đại cương lịch sử Việt Nam, NXB Giáo dục.

55. Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang (CB), (Tập 1: 1994; Tập 2: 1996), Các giá

trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay, NXB Chính trị quốc gia.

56. Phan Thị Minh Lệ (2001), “Quan điểm của một số người có tên tuổi về vị trí

của người phụ nữ trong xã hội những năm 1930”, Việt Nam học, Kỷ yếu hội

thảo quốc tế lần thứ I, Tập IV, NXB Thế giới, Hà Nội, tr 196 – 206.

57. Lịch sử Việt Nam hiện đại – Thời kỳ vận động dân chủ 1936 – 1939

(1965), Đại học Tổng hợp Hà Nội.

58. Lịch sử Việt Nam (1985), Tập 2, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

59. Trần Huy Liệu (1960), “30 năm đấu tranh của phụ nữ Việt Nam dưới sự

lãnh đạo của Đảng”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 4, tr 1-12.

60. V. Lê-nin với vấn đề giải phóng phụ nữ (1970), NXB Phụ nữ.

61. V.Lê-nin “Ngày phụ nữ quốc tế” (1987), Nhà xuất bản phụ nữ. Tập 32.

Trang 138-140.

62. Các Mác - Ăngghen – Lênin – Xtalin (1967), Vấn đề giải phóng phụ nữ, NXB

Sự thật, Hà Nội.

63. Những quan điểm cơ bản trong công tác vận động phụ nữ (1995), NXB Phụ nữ.

64. Những quan điểm cơ bản và những nhiệm vụ chủ yếu thể hiện trong Nghị

quyết phụ vận và nghị quyết đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ ba (1961),

NXB Phụ nữ, (Tài liệu huấn luyện cán bộ xã).

65. Nguyễn Quang Ngọc (CB) (1995), Cơ cấu xã hội trong quá trình phát

triển của lịch sử Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

66. Nguyễn Quang Ngọc (CB) (2005), Tiến trình lịch sử Việt Nam, NXB Giáo

dục, Hà Nội.

115

67. Phan Ngọc (1994), Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, NXB Văn

hóa Thông tin.

68. Vũ Dƣơng Ninh (1997), Đại cương lịch sử thế giới cận đại, Tập 2, NXB

Giáo dục.

69. Một số vấn đề về lịch sử (2001), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

70. Vũ Thị Phụng (1995), “Phụ nữ Việt Nam qua một số hƣơng ƣớc và phong

tục làng cổ truyền”, Tạp chí Khoa học về phụ nữ, số 18, tr 6-10.

71. Nguyễn Ái Quốc (1959), Lên án chủ nghĩa thực dân, NXB Sự thật, Hà

Nội.

72. Nguyễn Ái Quốc (1960), Bản án chế độ thực dân Pháp, NXB Sự thật, H.

73. Dƣơng Kinh Quốc (2005), Chính quyền thuộc địa ở Việt Nam trước Cách

mạng tháng Tám năm 1945, NXB KHXH.

74. Dƣơng Trung Quốc (2000), Việt Nam những sự kiện lịch sử 1919 – 1945,

NXB Giáo dục.

75. Tổng cục Chính trị (1994), Công tác vận động phụ nữ trong quân đội

nhân dân Việt Nam, Hà Nội.

76. Nguyệt Tú (2002), Bác Hồ với thiếu nhi và phụ nữ, NXB Hội nhà văn, Hà

Nội.

77. Tổng liên đoàn lao động Việt Nam – Ban nữ công (1965), Phong trào nữ

công nhân lao động và hoạt động nữ công công đoàn Việt Nam (1930 –

1993), NXB Lao động, Hà Nội.

78. Nguyễn Thành (1985), Cuộc vận động Đại hội Đông Dương năm 1936,

NXB Thành phố Hồ Chí Minh.

79. Nguyễn Thị Thập (1960), Con đường giải phóng phụ nữ Việt Nam, NXB

Phụ nữ.

116

80. Nguyễn Thị Thập (1981), Lịch sử phong trào phụ nữ Việt Nam, Tập 1,

NXB Phụ nữ.

81. Nguyễn Tài Thƣ (CB) (1993), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, NXB KHXH,.

82. Tổ Lịch sử phụ nữ Nam bộ (1989), Truyền thống cách mạng của phụ nữ

Nam bộ thành đồng, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.

83. Trung tâm nghiên cứu phụ nữ (1990), Bác Hồ và sự nghiệp giải phóng

phụ nữ, Hà Nội.

84. Lê Thị Nhâm Tuyết (1973), Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại, NXB

KHXH.

85. Tập bài giảng công tác nghiệp vụ phụ vận (1999), NXB Phụ nữ.

86. Tỉnh uỷ Nghệ An (1966), Cách mạnh tháng Tám 1939 – 1945, Ban nghiên

cứu Lịch sử đảng.

87. Vấn đề giải phóng phụ nữ (1974), NXB Sự thật.

88. Trần Quốc Vƣợng (1972), Truyền thống phụ nữ Việt Nam, NXB Phụ nữ.

89. Trần Thị Vinh (1992), “Quốc triều hình luật và làng xã đối với phụ nữ

trong xã hội cổ truyền”, Tạp chí Khoa học và phụ nữ số 3.

117

PHỤ LỤC

I. TÍNH CHẤT, NHIỆM VỤ CỦA CÁCH MẠNG ĐÔNG DƢƠNG

... Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tƣ sản dân quyền là:

1. Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, phong kiến và địa chủ.

2. Lập chánh phủ công nông.

3. Tịch ký hết thảy ruộng đất của bọn địa chủ ngoại quốc, bổn xứ và các giáo

hội và giao ruộng đất ấy cho trung và bần nông. Quyền sở hữu ruộng đất

về chánh phủ công nông.

4. Sung công hết thảy các sản nghiệp lớn của bọn tƣ bổn ngoại quốc.

5. Bỏ các thứ sƣu, thuế hiện thời lập ra thuế luỹ tiến.

6. Ngày làm công 8 giờ, sửa đổi sự sinh hoạt cho thợ thuyền và quần chúng

lao khổ.

7. Xứ Đông Dƣơng hoàn toàn độc lập, thừa nhận dân tộc tự quyết.

8. Lập quân đội công nông.

9. Nam nữ bình quyền.

10. Ủng hộ Liên bang Xô-viết, liên kết với vô sản giai cấp toàn thế giới và

phong trào cách mạng thuộc địa và bán thuộc địa.

Trích Luận cƣơng chính trị của ĐCS Đông Dƣơng

(Thông qua Hội nghị Trung ương lần thứ nhất 10-1930)

Nguồn: Đảng Lao động Việt Nam (1970), Ban chấp hành Trung ƣơng, Văn

kiện Đảng về công tác vận động phụ nữ (1930 – 1969), NXB Phụ nữ, tr 5 - 6.

118

II.TÌNH HÌNH CÔNG NHÂN ĐÔNG DƢƠNG

Số công nhân ở Đông Dƣơng chiếm chừng 5% dân số. Đông nhất là công

nhân đồn điền và mỏ rồi đến công nghệ và vận tải. Trong số công nhân thì công

nhân phụ nữ và trẻ con cũng chiếm một phần khá đông, nhất là ở các nhà máy

sợi, máy dệt, máy diêm...

Lại vì chính sách “hợp lý hoá” mà tiền công cứ hạ xuống, giờ làm lại tăng

lên; tƣ bổn thƣờng dùng cách “ăn công làm khoán” và đem công nhân nữ và trẻ

con vào thế cho công nhân phụ nữ và trẻ con vào thế cho công nhân ngƣời lớn,

thành thử nhứt là trong kinh tế khủng hoảng ở Đông Dƣơng bấy giờ. Số công

nhân thất nghiệp mỗi ngày mỗi tăng, mà tình cảnh toàn thể công nhân rất là nguy

ngập.

B. Những điều sai lầm và khuyết điểm trong cuộc công nhân vận động.

...

5. Sai lầm khuyết điểm về tổ chức

đ,Trong các công hội không có ban phụ nữ, bộ thanh niên để vận động đàn bà

và thanh niên.

....

11. Tổ chức....

B, Phụ nữ - Các cơ quan Công hội phải đặt ra phụ nữ uỷ viên hội để làm cho

việc vận động phụ nữ đƣợc phát triển. Nhiệm vụ của hội uỷ viên âý là: phải kéo

công nhân phụ nữ tham gia vào công nhân vận động.

Điều tra sự sanh hoạt của đám công nhân phụ nữ để giúp cho Công hội

định kế hoạch vận động cho đúng, đem những vấn đề thiết yếu của phụ nữ đăng

vào báo chƣơng của Tổng công hội và phải làm cho phụ nữ xem báo của Công

hội. Khi Công hội sắp cử Ban chấp hành thì phụ nữ uỷ viên phải giới thiệu cho

Công hội những ngƣời công nhân nên cử vào ban ấy. Phải tổ chức ra những hội

119

nghị phụ nữ do phụ nữ tới để bàn định công việc làm trong đám phụ nữ và trao

đổi kinh nghiệm.

D. Những điều yêu cầu phần ít trong khi tranh đấu.

Về kinh tế:

A) Ngày làm tám giờ.

B) ở các sản nghiệp độc thân ngày làm bảy giờ.

C) Tiền công ít nhứt cũng phải đủ duy trì sanh hoạt gia đình của công nhân.

D) Mỗi tuần nghỉ một ngày rƣỡi có lƣơng.

E) Mỗi năm nghỉ bốn tuần có lƣơng, khi đau ốm chủ phải chịu tiền thuốc và

trả tiền lƣơng. Các ngày lễ kỷ niệm các mạng đều nghỉ và có lƣơng.

F) Mỗi năm ít nhứt phải có thêm một lần lƣơng; lúc thƣờng phải phát tiền

công cho đúng kỳ, không đƣợc chịu hay cƣớp tiền công.

G) Đàn bà, đàn ông thanh niên làm việc ngang nhau thì tiền công cũng phải

ngang nhau.

H) Công nhân và đàn bà trƣớc bà trƣớc và sau khi sinh đẻ phải nghỉ tám tuần

lễ có lƣơng.

I) Cấm dùng trẻ con dƣới 14 tuổi, thanh niên từ 14 đến 15 tuổi, mỗi ngày làm

4h ; từ 16-18 tuổi mỗi ngày làm 6h. Chủ phải chịu tiền cho thanh niên đi

học nghề.

J) Không đƣợc bắt đàn bà và trẻ con làm những việc nặng nề và nguy hiểm.

K) Xã hội bảo hiểm cho hết thảy công nhân.

L) Công xƣởng đóng cửa thì phải trả 3 tháng lƣơng.

M) Bỏ cách ăn công làm khoán.

Trích án Nghị quyết của Trung ương toàn thể hội nghị về

tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng.

(tháng 10/1930)

120

Nguồn: Đảng Lao động Việt Nam (1970), Ban chấp hành Trung ƣơng, Văn

kiện Đảng về công tác vận động phụ nữ (1930 – 1969), NXB Phụ nữ, tr 7 - 9.

PHỤ NỮ VẬN ĐỘNG

(Án nghị quyết của Trung ƣơng toàn thể hội nghị năm 1930)

1. Công nhân phụ nữ ở Đông Dƣơng chiếm một phần lớn trong giai cấp vô

sản. Bọn tƣ bản và bọn đế quốc càng ngày càng mở rộng cách “hợp lý hoá” dùng

công nhân đàn bà cho rẻ; bởi vậy số công nhân phụ nữ lại ngày càng thêm đông.

Trong đám quần chúng lao khổ ở thành phố và ở nhà quê, phụ nữ càng chiếm

một phần lớn. Tình hình sanh hoạt của hai hạng phụ nữ ấy rất cực khổ. Ngoài

những cách bóc lột nhƣ nhiều giờ làm việc, ít tiền lƣơng họ lại bị phong tục bó

buộc, bị coi là một hạng ngƣời tôi mọi, rất đê tiện trong xã hội, không có một

chút tự do nào hết. Bởi tình hình sanh hoạt nhƣ vậy, nên khi họ đã tiêm nhiễm

đƣợc tƣ tƣởng cách mạng thì họ rất hăng hái và quả quyết tham gia và những

cuộc đấu tranh cách mạng. Sự kinh nghiệm trong những cuộc tranh đấu vừa qua

của công nông đã chứng minh điều ấy ra một cách rõ rệt. Lực lƣợng cách mạng

của phụ nữ là một lực lƣợng rất trọng yếu. Nếu quảng đại quần chúng không

tham gia vào những cuộc đấu tranh cách mạng thì cách mạng không thắng lợi

đƣợc. Bởi vậy nên công tác trong quần chúng phụ nữ không phải là một cái

nhiệm vụ phụ thuộc của Đảng; công tác ấy chánh là một cái nhiệm vụ lớn và

trọng yếu.

2. Bấy lâu nay công tác của Đảng trong đám phụ nữ rất sơ sài và nhiều

khuyết điểm, đại khái sau này:

A, Các cấp Đảng bộ ít chú ý đến việc phụ nữ vận động, bởi vậy số phụ nữ ở trong

Đảng và trong các đoàn thể cách mạng rất ít, có nhiều chỗ đoàn thể quần chúng

khá đông mà không tổ chức đƣợc ngƣời phụ nữ nào cả.

121

B, Những chỗ có tổ chức đƣợc phụ nữ thì có khi lại không chú ý huấn luyện cách

mạng cho họ, không làm cho họ hoạt động. Nhiều khi đồng chí lại không đặc biệt

chú ý huấn luyện những phụ nữ trong các cơ quan, không làm cho họ than gia

vào sự sanh hoạt của Đảng, để họ rờ rạc, không phát triển trình độ chánh trị.

C, Trong những cuộc tranh đấu cách mạng không có những điều yêu cầu binh

vực quyền lợi riêng cho phụ nữ

Ở các cấp Đảng bộ và trong các đoàn thể quần chúng không có các ban

chuyên trách về việc phụ nữ vận động và không chú ý đào tạo ra một lớp phụ nữ

ở các ban chỉ huy.

3. Tình hình cách mạng hiện thời khiến Đảng phải đặc biệt chú ý về công tác

quần chúng phụ nữ lao khổ, sửa đổi những khuyết điểm để khoách trƣơng các

đoàn thể quần chúng.

Trong công tác hàng ngày, Đảng cần phải làm cho phụ nữ thoát khỏi cái tƣ

tƣởng tƣ bổn, đánh đổ các mộng tƣởng “nam nữ bình quyền” trong vòng tƣ bổn

chủ nghĩa. Không những thế mà thôi, đồng thời lại phải làm cho quần chúng phụ

nữ lao khổ tham gia vào những cuộc tranh đấu cách mạng của công nông; đó là

điều cốt yếu nhứt, nếu phụ nữ đứng ngoài cuộc tranh đấu cách mạng của công

nông thì không bao giờ đạt mục đích phụ nữ giải phóng đƣợc. Muốn cho phụ nữ

tham gia vào các cuộc tranh đấu cách mạng thì trƣớc hết cần phải đánh đổ hết

thảy những cái phong tục thuộc về tôn giáo hoặc luân lý. Phải huấn luyện chánh

trị cho phụ nữ công nông, làm cho họ thêm giác ngộ giai cấp để kéo họ vào

những đoàn thể vô sản giai cấp. Công tác ấy không chỉ làm ở thành phố mà thôi,

đồng thời phải thực hành ở trong nhà quê, trong đám dân bà làm thợ nông nghiệp

đi ở mƣớn và khắp trong quần chúng phụ nữ lao khổ ở nhà quê nữa.

Trong các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Thanh niên đoàn (từ địa phƣơng

đến Trung ƣơng) cần phải tổ chức ra ban phụ nữ hoặc là ngƣời chuyên môn phụ

trách. Trong Đảng thƣờng phải thảo luận công việc phụ nữ vận động và thƣờng

122

lại phải tổ chức ra những cuộc cuộc hội nghị phụ nữ để nghiên cứu cách làm

việc, phải đem phụ nữ công nông vào công, nông hội cho đông, lại cần phải đem

họ vào cơ quan chỉ huy để tập làm công việc lãnh đạo quần chúng. Muốn cho phụ

nữ vào công, nông hội cho đông thì phải đề xƣớng ra những yêu cầu cần kíp của

họ (nhƣ cấm đàn bà làm công đêm; công làm ngang nhau thì lƣơng phải ngang

nhau thì lƣơng phải ngang nhau; trƣớc và sau khi sinh đẻ đều nghỉ một tháng có

lƣơng; bỏ chế độ cƣới vợ, gả chồng nhƣ là mua bán....) Trong đám phụ nữ công

nông, con gái rất nhiều. Nhiệm vụ của thanh niên cộng sản đoàn trong việc tổ

chức ra các đoàn thể phụ nữ là phải thâu phục cho đƣợc quần chúng thanh niên

ấy.

Muốn thâu phục cho đƣợc hết các phần tử phụ nữ thì ngoài sự công tác

trong phụ nữ công nông ra, Đảng lại cần phải tổ chức ra các đoàn thể phụ nữ nhƣ

“Phụ nữ hiệp hội”, mục đích là mƣu quyền lợi cho phụ nữ, làm cho phụ nữ đƣợc

triệt để giải phóng, để thâu phục cho hết đám phụ nữ lao khổ nhƣ vợ công nhân,

ngƣời bôn gánh, bán bƣng và tất cả những đám phụ nữ mà không thể tổ chức vào

công nông hội đƣợc.

Về việc cổ động tuyên truyền thì các báo chƣơng của Đảng, thanh niên

đoàn, Công hội và Nông hội thƣờng phải nói đến những việc thiết thực cho phụ

nữ, hoặc để riêng một chƣơng đăng chung những bài về vấn đề ấy.

- Phụ nữ vận động:

Công việc phụ nữ vận động thì từ Đảng cho đến Công, Nông hội phải lƣu

ý hơn trƣớc, phải tổ chức ra bộ phụ nữ vận động và kiếm cách mà tổ chức những

cuộc hội nghị phụ nữ để mà bàn định kế hoạch phát triển phụ nữ vận động ....

Ngày 9-12-1930

Trung ương thường vụ

Trích thư của Trung ương gửi cho các cấp Đảng bộ

.......

123

Nguồn: Đảng Lao động Việt Nam (1970), Ban chấp hành Trung ƣơng, Văn kiện

Đảng về công tác vận động phụ nữ (1930 – 1969), NXB Phụ nữ, tr 10 -13.

NHỮNG ĐIỀU SAI LẦM KHUYẾT ĐIỂM CỦA ĐẢNG TRONG VẬN ĐỘNG

PHỤ NỮ

…..

5. Sai lầm về việc tổ chức:

G, Nông dân vận động…

.... Vận động phụ nữ và thanh niên dân cày nghèo và trung nông cũng là một

nhiệm vụ quan trọng. Song hiện nay hãy còn có nơi vận động sai, đối với phụ nữ

thì chỉ vận động nữ quyền, chống lại các gia đình áp bức phụ nữ, hoặc tranh đấu

có ý nghĩa đạo đức nhƣ dập bàn đèn. Thanh niên vận động thì chỉ vận động đối

phó với bọn thầy đồ, cấm đánh bạc... Đó là cái xu hƣớng rất nguy; phụ nữ thanh

niên dân cày cũng là một bộ phận của dân cày, cũng bị áp bức, bóc lột nhƣ dân

cày thì nhiệm vụ cũng phải làm thổ địa cách mạng. Cho nên cũng phải đem họ

vào Nông hội, tổ chức họ lẫn với đàn ông, ngƣời lớn và kéo họ tham dự tranh đấu

chống địa chủ lý hào.

...

I, Phụ nữ vận động: Từ trƣớc tới nay trong Đảng có quan niệm sai lầm về việc tổ

chức phụ nữ. Nói đến việc phụ nữ thì đảng viên yên trí ngay rằng phải hô hào

124

đòi quyền, chống chế độ phong kiến áp bức phụ nữ...v à chỉ đi vận động nữ giới

đòi cho đƣợc ngang hàng với nam giới. Có ngƣời cũng tuyên truyền cao hơn nữa

thì lại đem những tƣ tƣởng anh hùng, những gƣơng nữ kiệt mà hô hào phụ nữ.

Rút lại, vận động phụ nữ chỉ quanh quẩn trong vòng nữ quyền của tƣ bản hoặc

quốc gia hẹp hòi. Thật là trái hẳn với chính sách và hành động của Đảng.

Đảng nói đến phụ nữ vận động là nói riêng về phụ nữ vô sản, phụ nữ lao

động phổ thông thôi chứ không phải là kể cả phụ nữ con cái tƣ bản, địa chủ..

Đảng vận động phụ nữ vô sản và phụ nữ lao động không phải chỉ bo bo trong

mấy câu nữ quyền mà phải kéo phụ nữ vô sản và phụ nữ lao động vào vòng giai

cấp tranh đấu, cho nên phụ nữ bần nông và trung nông phải vào Nông hội để làm

thổ địa cách mạng, phụ nữ vô sản vào Công hội chống chế độ tƣ bản, phụ nữ lao

khổ các thành phố thì tổ chức vào các hội buôn bán rong, Hội chợ, Hội ngƣời ở

để chống mọi sự áp bức của tƣ bản chủ nghĩa và làm cách mạng.

....

7. Công nhân vận động:

a, Các chi bộ phải mở rộng công việc tổ chức các Công hội và tổ chức họ lẫn lộn

họ với công nhân ngƣời lớn. Cũng phải chú ý cử ngƣời phụ trách vận động công

nhất thất nghiệp. Ban chấp hành Công hội phải cử ra ban phụ nữ và thanh niên

vận động để chuyên trách liên lạc và huấn luyện cho phụ nữ và thanh niên. Các

ban đó có thể tổ chức các cuộc hội nghị riêng của phụ nữ và thanh niên để bàn

những vấn đề riêng của phụ nữ và thanh niên.

....

8. Nông dân vận động:

...

b, Trong Nông hội (trong các tiểu tổ cũng vậy) thì đàn ông, phụ nữ, thanh niên cứ

tổ chức lẫn lộn song ban chấp hành Nông hội phải cử ra ban phụ nữ vận động và

thanh niên vận động để phụ trách việc phụ nữ và thanh niên. Nông hội phải

125

khuyếch trƣơng lối khai hội toàn thể để thảo luận công việc của nông hội. Mỗi

lần khai hội hàng tháng, Ban chấp hành Nông hội phải báo cáo công việc mình

làm.

.....

Trích án nghị quyết của xứ uỷ khuyếch đại Hội nghị (từ 22 dến 29 tháng 6 năm 1931)

Nguồn: Đảng Lao động Việt Nam (1970), Ban chấp hành Trung ƣơng, Văn kiện Đảng về công tác vận động phụ nữ (1930 – 1969), NXB Phụ nữ, tr 15 -17.

NGHỊ QUYẾT VỀ PHỤ NỮ VẬN ĐỘNG (THÁNG 3 NĂM 1935)

I.Tình cảnh phụ nữ lao động:

1. Phụ nữ choán một phần nửa nhân dân xứ Đông Dƣơng. Hơn 90% là phụ nữ

lao động: mẹ, vợ con của công nông và dân nghèo thành thị, phụ nữ lao động là

những phần tử bị áp bức bóc lột nặng nề nhất trong nhân dân. Lúc nhỏ bị cha mẹ,

anh chị hành hạ, bị đem bán, cầm ở đợ cho bọn phong kiến và địa chủ. Lúc đến

tuổi lấy chồng, tự mình không quyền kén chọn, cha mẹ muốn gả bán làm vợ, làm

hầu cho ai cũng không có quyền phản kháng, “tam tòng”, “tứ đức”, đấy là một

giây xiềng mà chế độ phong kiến hủ bại kia dùng để giam chặt phụ nữ trong

phạm vị nô lệ.

2. Địa vị phụ nữ trong gia đình đã thấp kém nhƣ vậy tất nhiên vị trí của chị em

trong xã hội lại thua sút đàn ông trăm bề, phụ nữ tuyệt nhiên không có một quyền

chính tị nhỏ mọn nào. Về đƣờng xã hội và kinh tế, chị em cũng không đƣợc bình

đẳng với đàn ông. Bị cai, chủ đánh chửi, hà hiếp, đấy là những điều mà nữ công

nhân gặp luôn luôn trong các nhà máy, mỏ, đồn điền. Thất nghiệp không có trợ

cấp, đau ốm, tàn tật không có xã hội bảo hiểm, sinh đẻ đã không đƣợc tiền giúp

126

mà lại còn bị mất chỗ làm, đều là những nỗi khổ luôn luôn treo trƣớc cổ chị em

công nhân. Sƣu cao, thuế nặng, công ích thêm địa tô bóp họng, nợ nần đầy đầu,

nên nông dân đàn bà tuy cùng cha anh, chồng con hết sức làm lụng mà không đủ

duy trì sinh hoạt, trái lại số nông dân bị bần cùng hoá, bị phá sản mỗi ngày một

tăng thêm. Các chị dân nghèo thành thị bị thuế chợ, thuế môn bài mỗi ngày một

tăng. Các chị em dân nghèo thành thị càng điêu đứng khổ trăm phần; các nữ tòng

sự cũng bị chính phủ, bị chủ hà hiếp, bớt lƣơng vì chế độ phong kiến và tƣ bản ác

nghiệt nhƣ vậy đến nỗi mỗi bộ phận chị em sa cơ vào chỗ lầu xanh, buồng kín,

tụi đế quốc Pháp và phong kiến bản xứ lại lợi dụng và duy trì lấy thói rất dã man

đê tiện ấy để bắt chi em phải nộp thuế. Nói chung lại, tình cảnh phụ nữ mỗi ngày

một khốn khổ thêm, nhất là trong mấy năm kinh tế khủng hoảng, vì bọn đế quốc

Pháp và các giai cấp bóc lột bản xứ đổ hết gánh nặng của cuộc kinh tế khủng

hoảng vào đầu của quần chúng lao động.

3. Trong khoảng mấy năm sau này phong trào phụ nữ phát triển bồng bột theo

cao trào cách mạng chung ở xứ Đông dƣơng. Chị em phụ nữ lao động tỉnh giấc

tranh đấu dã man làm đế quốc kinh sợ, nên chúng dùng mƣu mô mua chuộc chị

em phụ nữ phong kiến, tƣ sản, tri thức để kéo hẳn bọn này sang phe phản động.

Ban thƣởng mề-đay, kiim khánh, kim tiền cho các nữ tòng sự, cho phép những

mẹ, vợ, con của bọn chó săn lập báo cáo chƣơng chống cộng sản chủ nghĩa và ca

tụng chính sách đế quốc; cho ký giả đàn bà nghe công tác các Hội đồng, các viện

dân biểu, cho quyền lập các hội phụ nữ cải lƣơng (nhƣ các hội nữ công), để đàn

bà bản xứ vào các ban trị sự trong các hội “từ thiện”.... đều là những thủ đoạn

xảo quyệt để củng cố sự đồng minh với phụ nữ trong các giai cấp bóc lột bản xứ.

Bọn phụ nữ quốc gia cải lƣơng (nhƣ bọn “phụ nữ tân văn”, “đàn bà mới”, “phụ

nữ tân tiến”...) là những con trùng độc ác, chịu mệnh lệnh của đế quốc phá rối

cuộc vận động cách mạng giải phóng phụ nữ lao động. Chúng đƣơng hô hào cải

cách, đề xƣớng giai cấp đề huề hợp tác, viết báo, diễn thuyết hô hào “nam nữ

127

bình quyền”, mở những “hội dục anh” để mà nuôi vài chục trẻ con để ra tuồng

nhân đạo lừa gạt ngƣời, giúp tiền cho phụ nữ nhà giàu qua Pháp du học, đặng đào

tạo nên những tay trung thành hầu hạ cho đế quốc Pháp. Đối với phụ nữ bóc lột

thì cải cách, đối với phụ nữ lao động thì tăng gia khủng bố trắng, bớt lƣơng, thêm

giờ làm, hợp lý hoá công việc, tăng thuế chợ, thuế đò, thuế môn bài... Đấy là sách

lƣợc “khai hoá” của đế quốc Pháp ở xứ ta.

II. Vận động cách mạng của phụ nữ lao động

1. Cờ vận động dân tộc và xã hội giải phóng xuất hiện, thì có phụ nữ tham gia

cách mạng. Thời kỳ cách mạng vận động cao nhất của phụ nữ lao động là năm

1930 – 1931. Trong hai năm ấy không có cuộc thị oai, bãi công nào mà không có

phụ nữ tham gia. Có lúc phụ nữ dẫn đạo các cuộc tranh đấu, có chỗ đã tổ chức

đƣợc những cuộc biểu tình, bãi công hoàn toàn bao gồm đàn bà. Điều đặc sắc

nhất là phụ nữ Nghệ An, Hà Tĩnh đã cùng với công nông đàn ông tổ chức võ

trang bạo động và thiết lập chính quyền xô - viết. Những chứng cớ đó biểu tỏ

rằng bộ phận phụ nữ lao động Đông Dƣơng đã có giai cấp giác ngộ, rằng phụ nữ

là một lực lƣợng cách mạng rất lớn mà Đảng cộng sản phải hết sức chú ý tổ chức

và chỉ đạo.

2. Đảng cộng sản tạm thời bị phá, nên phong trào phụ nữ đầu năm 1931 cuối năm

1932 kém sút, cũng nhƣ phong trào cách mạng chung sứ Đông Dƣơng trong thời

kỳ tƣơng đƣơng đó. Nhƣng trong cao trào cách mạng mới đƣơng thời bồng bột từ

hơn hai năm nay, hoạt động cách mạng phụ nữ mỗi ngày lại thấy nảy nở thêm.

Các cuộc bãi công của thợ kỹ nghệ (Nam Kỳ) biểu tình của nông dân (Nam Kỳ,

Nam – Trung kỳ và thƣợng dƣ Bắc kỳ đều có phụ nữ tham gia. Đặc sắc nhất của

phong trào hiện thời là:

a, Sự tham gia của các lớp phụ nữ lao động hậu tiến lúc trƣớc chƣa làm cách

mạng.

128

b, Sự cách mạng hoá của phụ nữ nghèo ở thành thị (biểu chứng rõ rệt về sự

phân tích này là số gia tăng phong trào bãi thị gần khắp toàn xứ Đông

Dƣơng).

c, Sự hoạt động hăng hái của phụ nữ và các dân tộc thiểu số (nhất là ngƣời

Thổ)

d, Sự hăng hái chống đế quốc chiến tranh (các cuộc mít tinh ở Gia Định tháng

8 năm 1934).

3. Địa vị chỉ đạo của Đảng cộng sản trong cuộc phụ nữ vận động không phải là

nhỏ, nhờ có Đảng khôn khéo chỉ đạo chị em lao động mà nhiều nơi họ đƣợc hoàn

toàn thắng lợi, hoặc thắng lợi từng phần nhƣ ở Viên-chăn, Bà Điểm; nhƣng đại

khái có những lầm lỗi và khuyết điểm sau này:

a, Có chỗ không chịu tổ chức Hội phụ nữ (Nam kỳ), các chỗ khác các hội phụ

nữ tổ chức rất chậm và không có sinh hoạt rõ rệt, ít đem phụ nữ vào các cơ

quan chỉ đạo.

b, Đảng còn theo đuổi các cuộc tranh đấu của quần chúng phụ nữ, trong các

cuộc tranh đấu thƣờng không đề xƣớng khẩu hiệu riêng cho phụ nữ.

II. Nhiệm vụ cần kíp

1. Mỗi cấp đảng bộ phải lập một ban uỷ viên phụ nữ, ngƣời phụ trách ban ấy

đƣợc quyền tham dự các hội nghị của Đảng uỷ trong Đảng, đƣợc biểu quyết về

các vấn đề phụ nữ. Nếu ngƣời ấy không có chân trong Đảng uỷ thì đối với các

vấn đề khác chỉ có quyền thảo luận và đề nghị. Tốt nhất là lấy đàn bà làm ngƣời

phụ trách, nhƣng nếu không có đàn bà thì lấy đồng chí đàn ông thay thế.

2. Mỗi đảng bộ thiết pháp tổ chức cho đƣợc phụ nữ vào Đảng, vào thanh niên

cộng sản đoàn và các đoàn thể cách mạng. Cần đem các phần tử phụ nữ hăng hái

(gồm cả phụ nữ dân tộc thiểu số và ngƣời ngoại quốc) vào các cơ quan chỉ đạo.

Dùng hết các hình thức công khai mà kéo quần chúng phụ nữ vào phạm vi tổ

chức những hình thức tổ chức rất dễ hiểu, rất thích hợp cho các lớp phụ nữ lao

129

động, phụ nữ lao động giải phóng, học chữ, nữ công, cứu tế, hợp tác xã... chen

vào các đoàn thể phụ nữ cải lƣơng mà kéo quần chúng phụ nữ lao động của

chúng sang phe.

3. Mỗi Đảng bộ thƣợng cấp thƣờng phải có sáng kiến:

a, Triệu tập những cuộc đại biểu hội nghị của các cấp uỷ viên phụ nữ hạ cấp kế

đó, hay là thấp hơn nữa.

b, Triệu tập các cuộc đại biểu hội nghị của phụ nữ lao động trong địa phƣơng

mình chỉ huy. Mục đích những cuộc đại biểu hội nghị nhƣ thế là để làm những

cơ hội cổ động và tuyên truyền trong quần chúng phụ nữ lao động, phấn khởi

sáng kiến và tinh thần phấn đấu của họ và nhất là để định kế hoạch tiến hành

công tác vận động phụ nữ. Trƣớc lúc khai mạc cuộc đại biểu hội nghị nhƣ thế cần

phải dự bị một cách rộng rãi trong quần chúng cả đàn bà và đàn ông tổ chức và

kéo quần chúng phụ nữ lao động liên kết với đàn ông tranh đấu bênh vực quyền

lợi hàng ngày của họ. Chỗ nào có đàn bà mà xảy ra cuộc tranh đấu thì nhất luật

phải ra khẩu hiệu đặc biệt cho phụ nữ (nhƣ: công bằng nhau thì tiền lƣơng phải

bằng nhau, cấm làm việc đêm, đƣợc nghỉ hai tháng trƣớc và hai tháng sau khi đẻ

mà cứ lĩnh toàn tiền lƣơng theo nhƣ khẩu hiệu trong các bản chƣơng trình của

Đảng, của Công hội, Thanh niên cộng sản… Chống chế độ nhiều vợ, phản đối

chính phủ Pháp duy trì và lợi dụng chế độ làm đĩ để thu thuế).

4. Phải có tài liệu tuyên truyền riêng cho phụ nữ, các cấp uỷ viên phụ nữ của

Đảng nên thiết pháp ra báo riêng cho quần chúng phụ nữ đọc các báo của Đảng,

của Đoàn và của các đoàn thể cách mạng khác mỗi lần cần bàn đến vấn đề phụ

nữ vận động.

5. Chống các xu hƣớng đầu cơ, miệt thị phụ nữ vận động. Chống hết các lý

thuyết phản động của bọn tƣ sản và phong kiến ngăn cản cuộc đấu tranh cách

mạng của phụ nữ vận động. Hết sức gỡ mặt nạ bọn “phụ nữ tân văn”, “đàn bà

mới”, “phụ nữ tân tiến”, các bọn lãnh tụ quốc gia cảI lƣơng vừa cả đàn ông và

130

đàn bà; các “bà” lãnh tụ, các hội phụ nữ tƣ sản. Phụ nữ là một lực lƣợng cách

mạng rất lớn, Đảng phảI hết sức chú ý đem phụ nữ vào trƣờng tranh đấu, phải

kéo họ tham gia các hình thức công tác cách mạng tranh đấu.

Công nhận tại Đại hội lần thứ I của Đảng Cộng sản Đông Dương ( 28.3.1935)

(Nguồn: Đảng Lao động Việt Nam (1970), Ban chấp hành Trung ƣơng, Văn kiện

Đảng về công tác vận động phụ nữ (1930 – 1969), NXB Phụ nữ, tr 20 - 25.)

BÁO CÁO TÌNH HÌNH PHONG TRÀO PHỤ NỮ VIỆT NAM.

I. Sự tiến triển của phong trào từ ngày Đảng thành lập

Trong công cuộc chống ngoại xâm của dân tộc ta trên 80 năm nay phụ nữ

luôn góp phần tranh đấu. Nhƣng chỉ từ ngày Đảng thành lập giữ vai trò lãnh

đạo cách mạng giải phóng dân tộc, sự tham gia của phụ nữ ngày càng đông

đảo, rộng lớn.

1.Tổ chức

A, Yên Bái khởi nghĩa tháng 2 năm 1930 bị thất bại, hàng ngũ tƣ sản

cách mạng tan rã. Tháng 9 năm 1930 dƣới sự lãnh đạo của Đảng Xô-

131

viết Nghệ An thành lập, phụ nữ không phải một vài chị em tiểu tƣ sản

trí thức mà hàng trăm chi em công nhân, nông dân vào tổ chức phụ nữ

phản đế, hăng hái hy sinh bảo vệ chính quyền Xô-viết ở Nghệ An và

tham gia tranh đấu ở những nơi Đảng có cơ sở. Trong phong trào đấu

tranh này chị Minh Khai, chị Nguyễn Thị Bình và chị Hƣờng Thị Ái đã

tƣợng trƣng tinh thần tranh đấu của phụ nữ và đã đƣợc tín nhiệm trong

hàng ngũ.

Dƣới sự lãnh đạo của Đảng, sự hoạt động của phụ nữ bắt đầu nhóm lên

trên cơ sở phụ nữ nông dân với con số đôi ba chục ngƣời lên đến hàng

trăm chị em, giác ngộ quyền lợi nhƣng hẹp hòi cô độc “bài trừ tri phủ

địa hào” nên chƣa có ý thức đoàn kết toàn giới trên một đƣờng cách

mạng.

B, Đến thời kỳ bình dân năm 1936 – 1939 chị em tham gia hoạt động

gồm thêm từng lớp tiểu thƣơng ở các chợ, chị em bãi thị đấu tranh đòi

giảm thuế (chợ Đồng Xuân – Hà Nội). Một số chị em tiểu tƣ sản học

sinh sốt sắng ủng hộ các chiến sĩ cách mạng và tham gia công tác tuyên

truyền, bán báo, rải truyền đơn. Chị em công nhân tham gia các hội ái

hữu với các anh em chiếm 40% tỷ số. Chị em nông dân vào hội dân

cày. Trong phong trào Đông Dƣơng đại hội chị em tham gia đông đảo.

Ngày 1-5-1938 chị em hƣởng ứng rầm rộ, có đại biểu phụ nữ kên diễn

đàn phát biểu ý kiến trong cuộc mít tinh hàng nghìn ngƣời ở địa điểm

hội chợ Hà Nội.

Phong trào có rộng hơn nhƣng chị em vẫn chƣa có ý thức đoàn kết

toàn giới, chỉ hoạt động chung chung dƣới sự chỉ đạo của các tổ chức

quần chúng của Đảng.

C, Năm 1939 chiến tranh Đức – Pháp nổ ra, thực dân Pháp ở Đông

Dƣơng bắt đầu thu lại các quyền tự do. Sự hoạt động cách mạng chuyển

132

vào bí mật thì số chị em kiên quyết đấu tranh chuyển vào tổ chức phụ

nữ giải phóng.

Đầu năm 1941 Đảng thành lập Mặt trận Việt Minh để thực hiện chính

sách đàon kết toàn dân tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc. Tổ

chức phụ nữ giải phóng còn trong thời kỳ phôi thai chuyển sang tổ chức

phụ nữ cứu quốc (tổ chức ra đời ngày 16-6-1941). Phụ nữ cứu quốc

đƣợc phát triển ở và ba xã trong các tỉnh Hà Đông, Thái Bình, Nam

Định. Một vài xã ở Cao Bằng, Lạng Sơn. Chị em miền núi cũng thành

lập phụ nữ cứu quốc. Tháng 6 năm 1945, ngay trong thành phố Hà Nội

só đoàn viên phụ nữ cứu quốc đƣợc ngót 30 chị em.

Nhìn lại lịch trình tiến triển phong trào tổ chức phụ nữ khởi đầu từ một

vài tổ chức lẻ tẻ ở một vài xã đến một mặt trận phụ nữ toàn quốc bào

gồm đủ tầng lớp công nông, địa chủ, tƣ sản, tri thức, chị em các dân tộc

miền núi, từ các chị em 18 tuổi đến các cụ già 50 tuổi.

2.Cán bộ

Ngày tổng khởi nghĩa cán bộ phụ nữ ƣớc chừng 2.000 ngƣời. Một nét

đặc biệt của cán bộ phụ nữ: phần đông chị em đều tận tuỵ hy sinh và

trung thành với cách mạng, trong những trƣờng hợp khó khăn, nguy

hiểm bị tra tấn dã man chị em đều tỏ rõ tinh thần bất khuất.

II. Sự lãnh đạo của Đảng

Phong trào phụ nữ Việt Nam trƣởng thành đƣợc nhƣ thế là nhờ sự lãnh đạo

đúng đắn của Đảng. Song với truyền thống phụ nữ Việt Nam đảm đang gánh vác

nền kinh tế gia đình với tinh thần hăng hái phấn khởi tham gia hoạt động trong xã

hội sau cách mạng tháng Tám, chị em còn có thể tiến hơn nữa nếu không mắc

vào những thiếu sót sau đây:

1. Quan niệm vận động phụ nữ:

133

Lê-nin vạch rõ: “giai cấp vô sản không tranh thủ đƣợc giải phóng nếu

không thực hiện cho phụ nữ sự bình đẳng hoàn toàn”. Nhƣng tƣ tƣởng ấy chƣa

đƣợc phổ biến sâu rộng trong Đảng. Trái lại tƣ tƣởng phong kiến khinh thƣờng

phụ nữ lại mạnh mẽ. Vì thế mặc dầu trong luận cƣơng cách mạng tƣ sản dân chủ

năm 1930 của đồng chí Trần Phú và trong hội nghị thƣờng vụ Trung ƣơng tháng

3 – 1945 vấn đềnam nữ bình quyền đã đƣợc nêu lên, trong thực tế vấn đề ấy vẫn

chƣa đƣợc đề cập đúng tính chất quan trọng của nó. Đa số nam đồng chí cho rằng

vận động phụ nữ là công tác riêng của nữ đồng chí, dầu cho mình phụ trách quần

chúng cả nam lẫn nữ cũng nhẹ hẳn phần lãnh đạo phụ nữ thực hiện chính sách

của Đảng. Một số nữ đồng chí ngại công tác phụ nữ chỉ muốn đi công tác khác

hay khi đi vào công tác chuyên môn thì không nhìn nhận gì vấn đề phụ nữ nữa.

Một số đồng chí khác có thái độ đối lập với nam đồng chí, cho rằng công tác phụ

nữ là công tác riêng của mình, cũng không muốn hiểu biết gì ngoài công tác phụ

nữ.

Vận động phụ nữ là công tác chung của toàn Đảng, nam nữ đồng chí đều

phải đảm nhận. Riêng nữ đồng chí có nhiệm vụ đặc biệt đảm nhiệm thêm công

tác vận động phụ nữ ngoài công tác khác trong xã hội mà mình cũng phải cùng

anh em phụ trách chung. Công tác phụ nữ rất khó khăn, gian khổ vì quần chúng

phụ nữ nặng tàn tích phong kiến, xƣa nay ít đƣợc học hỏi, hiểu biết, cần kiên

quyết tiến hành mới làm cho công tác vận động nói chung chắc chắn thành công.

Lê-nin nói: “Sự tham gia nhiều hay ít của phụ nữ vào một cuộc cách mạng quyết

định sự thành bại của cuộc cách mạng ấy”

2. Chủ trƣơng

Cách mạng tháng Tám thành công chị em nô nức xin gia nhập đoàn phụ nữ

cứu quốc. Ở Trung bộ xứ uỷ kịp thời triệu tập đại biểu hội nghị phụ nữ xứ, cử ra

ban chấp hành chính thức. Trái lại ở Bắc bộ chỉ có hội nghị của cán bộ xứ bầu ra

ban liên lạc xứ. Trong thời gian 1945 – 1946 giao thông thuận tiên, đại biểu hội

134

nghị Bắc bộ và ngay cả Đại hội toàn quốc cũng có thể triệu tập đƣợc để giáo dục

ý thức chính trị cho phụ nữ, để thống nhất phong trào và dìu dắt cho phụ nữ nề

nếp lãnh đạo, nhƣng Đảng đã bỏ qua phƣơng hƣớng đó. Đến lúc chuẩn bị toàn

quốc kháng chiến các ban chấp hành Trung bộ, liên lạc Bắc bộ đều phải phân tán.

Cán bộ phụ nữ chuyển sang hoạt động trong các ngành chuyên môn. Chị em phụ

nữ xã vẫn hăng hái công tác chung với toàn dân, chỉ thiếu cấp lãnh đạo của giới

hƣớng dẫn công tác và tổng kết thành tích làm lu mờ vai trò phụ nữ trong cuộc

kháng chiến.

Lúc cách mạng tháng Tám vừa mới thành công cá phụ nữ đồng chí cán bộ

đã từng lãnh đạo đấu tranh chống bắt phu, bắt lính, cƣớp kho thóc của Nhật chia

cho dân và tham gia Uỷ ban khỏi nghĩa đƣợc cử vào làm chủ tịch uỷ ban nhân

dân huyện. Các chị em có tinh thần hy sinh gan dạ, lãnh đạo đấu tranh kiên quyết

và linh động nhƣng trình độ văn hoá kém, điều kiện công việc hành chính không

thạo, dƣ luận phê bình chị em không đủ năng lực làm công tác chính quyền, thế

là chị em phải rút khỏi chính quyền.

Đối với phong trào phụ nữ chủ trƣơng trên đã làm chậm bƣớc tiến của chị

em. Đảng không thể thay quần chúng làm hết mọi việc mà phải hƣớng dẫn cho

quần chúng biết tự mình tranh đấu cho mình. Giúp đỡ cho tổ chức quần chúng

đƣợc phát triển cho phong trào quần chúng đƣợc thống nhất là việc cần thiết mà

Đảng có nhiệm vụ nhận rõ cơ hội để xúc tiến.

Vấn đề phụ nữ tham chính và vấn đề vô sản cƣớp chính quyền là một. Bọn

đệ nhị quốc tế trƣớc kia có nói: “Vô sản chƣa biết công tác chính quyền cần học

lại chính quyền trƣớc rồi sẽ cƣờp chính quyền sau”. Lê-nin đã nói lại: “Tại sao vô

sản không cƣớp chính quyền trƣớc để tạo điều kiện thuận tiện học làm chính

quyền?”. Phụ nữ kém năng lực chính quyền càng cần đƣợc dìu dắt trong công tác

chính quyền để bồi dƣỡng năng lực và làm tròn nhiệm vụ.

3, Tổ chức sự lãnh đạo

135

Nhờ đƣờng lối lãnh đạo chính trị đúng đắn của Đảng nên phong trào phụ

nữ đã tiến đến tình hình hiện tại. Nhƣng nề nếp lãnh đạo cụ thể, chặt chẽ thúc đẩy

phong trào gấp rút tiến nhanh chƣa đƣợc thực hiện đầy đủ. Nhiệm vụ phụ vận

nghiên cứu vấn đề phụ nữ, đề ra những chủ trƣơng, kế hoạch vận động để Trung

ƣơng xét và quyết nghị rồi giao cho đảng đoàn lãnh đạo hội quần chúng thi đua

có định rõ. Năm 1947 Ban phụ vận Bắc bộ và sau đó Ban phụ vận Trung ƣơng

đƣợc tổ chức kiêm nhiệm vụ lãnh đạo hội quần chúng. Đầu năm 1948, ban phụ

vận và Ban Đảng đoàn đều đƣợc tổ chức song song nhƣng phạm công tác chập

chững, hai ban nhƣng kỳ thực cũng chung một số ngƣời nặng về lãnh đạo nhẹ

hẳn phần nghiên cứu đề ra chủ trƣơng kế hoạch công tác của ngành mình. Hiện

nay tổ chức phụ vận đã có chỉ còn thiếu tổ chức đảng đoàn.

Sự lựa chọn cán bộ vào phụ vận, Đảng đoàn trƣớc kia thiên về những chị

em tiểu tƣ sản trí thức tƣơng đối nhanh nhẹn, biết phƣơng pháp làm việc gọi là

khoa học nhƣng lại kém kinh nghiệm công tác, lập trƣờng giai cấp chƣa cững,

kém phƣơng thức lãnh đạo, không làm tròn nhiệm vụ lãnh đạo phong trào. Ngày

nay nói chung sự lựa chọn đã chú ý căn cứ vào những điều kiện căn bản: chỉ

những chị em đã đƣợc rèn luyện trong đời sống tranh đấu, Đảng tình mạnh, lập

trƣờng vững, sát thực tế, có thành tích, có kinh nghiệm mới đƣợc Đảng giao phó

nhiệm vụ lãnh đạo phong trào.

Sự dìu dắt kiểm soát Đảng đoàn đến nay vẫn chƣa quy định rõ ràng. Có

nhiều cấp uỷ chỉ chú ý giải quyết những nhu cầu vật chất ít chú ý dìu dắt chủ

trƣơng công tác, trong kế hoạch thực hiện, cấp uỷ thƣờng khoán trắng cho Đảng

đoàn, không kiểm soát công việc để kịp thời giúp đỡ ý kiến, sửa chữa những sai

lầm. Có địa phƣơng cấp uỷ bao biện công việc của Đảng đoàn và trong khi bao

biện không nghiện cứu tình hình, đặc tính của tổ chức phụ nữ để giải quyết cho

sát, làm mất bản sắc và tính chất độc lập của hội quần chúng, ví dụ: Bắc Cạn,

Tuyên Quang đã tự ý giải tán tổ chức phụ nữ.

136

4. Chính sách cán bộ

Cán bộ phụ nữ có những nét đắc biệt cần đƣợc chú ý mới bảo vệ đào

tạo đƣợc cán bộ.

Chị em bản chất yếu, dễ đau ốm nhất là phải công tác vùng địch, vùng

rừng núi, thêm vào đấy nhiệm vụ làm mẹ phải nuôi nấng con hao công tốn của,

cần đƣợc một sự cấp dƣỡng đặc biệt của Đảng. Nhƣng đến nay vẫn chƣa có quy

chế rõ ràng. Có nơi cấp uỷ quá tả (liên khu V) đặt cả chế độ cán bộ phụ nữ đƣợc

nghỉ công tác 4 ngày vào dịp hành kinh. Nhiều nơi trái lại chị em đƣợc phụ cấp

hàng tháng không đủ tiền đò ngang. Do đấy cán bộ ốm, cán bộ có con phải xa rời

đoàn thể và đoàn thể mất những cán bộ đã tốn bao công mới đào tạo nên. Việc

giáo dục, đề bạt cán bộ phụ nữ cũng ảnh hƣởng lớn đến phong trào. Phần nhiều

cán bộ phụ nữ không đƣợc giáo dục xuất thân là tiểu tƣ sản trí thức có một ít

trình độ văn hoá lanh lẹ hoạt bát là đƣợc chỉ định ngay vào công tác, lớt phớt

giấy tờ hình thức, không hề đƣợc giáo dục về lập trƣờng giai cấp, về ý thức Đảng

về quan điểm quần chúng, không hề đƣợc phân công vào công tác quần chúng để

tập sự công tác thực tế và nhờ đó phải tạo tƣ tƣởng và đoạn tuyệt với tính chất

của giai cấp gốc rễ minh. Trái lại chị em công nông cần cù chắc chắn, hy sinh

gan dạ, chỉ mải míêt vào những công tác cần thiết nhất thời, không đƣợc học hỏi

nâng cao trình độ văn hoá, trình độ lý luận, tạo cho mình một năng lực tƣơng đối

để đảm nhận trọng trách lãnh đạo phong trào mà Đảng cần giao phó cho chị em

là những cán bộ cốt cán.

Một số cán bộ tiểu tƣ sản trí thức chƣa đƣợc giáo dục, rèn luyện lại đề

bạt quá nhanh, sinh tự kiêu tự phụ làm thiệt hại công tác của đoàn thể. Một số chị

em tranh đấu mấy năm trƣớc kia không đƣợc giáo dục, nay kém năng lực công

tác không đƣợc đề bạt đâm ra bất mãn. Số nửa thiếu giáo dục, đƣợc nuông chiều

có xu hƣớng đòi hỏi Đảng, không nhận rõ nhiệm vụ bản thân mình là ngƣời cán

bộ trong đội quân tiền phong.

137

Việt đề bạt thì thiên về tiểu tƣ sản, khi thiên về công nông thiếu sự căn

cứ xác đáng vào những điểm căn bản: Đạo đức cách mạng, năng lực công tác và

thành tích cách mạng cũng gây nên nhiều hiện tƣợng bất mãn, tiêu cực, xích

mích, đố kỵ đáng tiếc trong hàng ngũ cán bộ. Lối đề bạt tƣợng trƣng thành phần

phụ nữ vào các cấp chính quyền và các cấp uỷ Đảng, không thiết thực giúp đỡ

chị em trong kế hoạch công tác, dìu dắt chị em dần dần làm tròn nhiệm vụ công

tác của mình, thực là trái hẳn với tình hình thực tế của Đảng khiến chị em mất tự

tin và anh em lại càng thêm mắc nặng vào tƣ tƣởng phong kiến xem thƣờng phụ

nữ. Cán bộ phụ nữ là những ngƣời chịu đựng nhiều nhất tất cả những thiệt thòi

của chế độ cũ, cần đƣợc đặc biệt cấp dƣỡng, đặc biệt giáo dụcc và cũng cần đƣợc

đặc biệt đề bạt vào những công tác tổ chức điều kiện của Đảng mới xúc tiến đƣợc

sự tiến bộ chung của giới phụ nữ.

5, Phát triển nữ đồng chí

Từ ngày Đảng thành lập, phụ nữ luôn tận tuỵ hy sinh, trung thành bền

bỉ tranh đấu dƣới sự lãnh đạo của Đảng. Thế mà đến năm 1946 tỷ số nữ đồng chí

trong toàn Đảng chỉ có 2,3%. Bổ khuyết sự hẹp hòi ấy Đảng đã ấn định sự phát

triển nữ đồng chí theo tỷ số tối thiểu là 10%. Nhờ chủ trƣơng ấy chị em đƣợc chú

ý luôn, nói chung tỷ số ấy đã đạt đƣợc. Nhƣng các chi bộ thƣờng nhằm những chị

em trẻ tuổi, trung, phú nông có điều kiện hoạt động để gần gũi dìu dắt và phát

triển, ít chú ý đến chị em bần cố nông, các bà trên 40 tuổi không nhanh nhẹn

bằng, ít có hoàn cảnh hoạt động hơn, mặc dầu những chị em, những bà sốt sắng,

hăng hái tham gia mọi công tác. Có những thôn chị em bị lãng quên bên cạnh

những thôn chị em rất đƣợc chú ý. Sự phát triển do chỗ không đều, lệch hƣớng,

bỏ rơi một số chị em căn bản vững chắc, có triển vọng.

6.Tác phong công tác của Đảng đoàn

A, Đối với cấp uỷ, Đảng đoàn phụ nữ thƣờng dè dặt không trình bày thẳng

thắn những ý kiến của mình về sự lãnh đạo của cấp uỷ, giữ thái độ tiêu cực chịu

138

đựng. Đảng đoàn thiếu căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể của địa phƣơng, vào khả năng

của quần chúng để đề ra với cấp uỷ những chủ trƣơng kế hoạch công tác bảo vệ

quyền lợi phụ nữ, thiếu đề nghị với cấp uỷ sự giúp đỡ tích cực. Đồng chí Đặng

Dĩnh Siêu – phụ nữ Trung Hoa là uỷ viên Trung ƣơng Đảng cộng sản Trung Quốc

có nói với các cán bộ trong Đảng đoàn phụ nữ Trung Hoa: “Chúng ta không đƣợc

trách Đảng không chú ý giúp đỡ phụ nữ mà chúng ta phải tự trách chúng ta không

kiến nghị với Đảng”.

B, Đối với cán bộ, Đảng đoàn thiếu sự gần gũi, tìm hiểu tâm trạng kịp thời

giải quyết những thắc mắc, chƣa nhận đúng khả năng chƣa có kế hoạch phát triển

năng lực, làm cho cán bộ kém phấn khởi, chậm tiến bộ. Trong công tác Đảng

đoàn chƣa nắm vững nguyên tắc để điều khiển cán bộ, vấn đề thƣờng xuyên kiểm

soát và áp dụng kỷ luật còn lỏng lẻo. Vì thế Đảng đoàn chƣa sử dụng hết khả

năng cán bộ, chƣa gây cho cán bộ một tinh thần tích cực công tác tinh thần xây

dựng lãnh đạo tập trung, chƣa tẩy trừ những bệnh tự do chủ nghĩa, bệnh qua loa

xong chuyện của cán bộ, làm thiệt hại rất nhiều cho công tác Đảng.

C, Đối với quần chúng: Đảng đoàn không nghiên cứu tính chất của mỗi tần

lớp để có kế hoạch vận động cho sát huy động đƣợc mọi khả năng. Đối với chị

em công nông thuần tuý thì xem thƣờng, thiếu kế hoạch vận động chỉ dùng mệnh

lệnh để huy động. Đối với chị em tƣ sản, địa chủ, trí thức, công giáo thì hẹp hòi,

xa lánh cho rằng họ không làm đƣợc việc gì thực tế vả lại mình kém văn hoá, đến

gần sợ họ sẽ khinh thị hoặc đoàn kết một chiều không thành thật, thẳng thắn giáo

dục, đối phó, thủ đoạn, bỏ phí nhiều khả năng.

Vấn đề tập hợp quần chúng thƣờng thiên về hình thức kết nạp phụ nữ vào

tổ chức, không căn cứ vào trình độ giác ngộ vào ý thức đoàn thể mà chỉ cốt cho

có ngƣời, đánh trống ghi tên, chị em hiểu hay không, không quan tâm. Hƣớng tổ

chức không nhắm đúng, không phân biệt rõ ràng tầng lớp quần chúng cơ sở cần

tập trung cán bộ để nắm chắc trƣớc khi vận động những tầng lớp khác, chƣa nhận

139

rõ địa phƣơng mấu chốt để tập trung cán bộ gây phong trào làm đà tiến cho cả

miền.

Đảng đoàn chƣa nghiên cứu nguyện vọng, chƣa căn cứ vào trình độ quần

chúng để đặt chủ trƣơng công tác và hƣớng dẫn thực hiện, thƣờng căn cứ vào

chủ quan của mình mà chủ trƣơng hoặc quá tả hoặc quá hữu. Khi thực hiện chủ

trƣơng thì bao biện, không mạnh dạn giao việc cho quần chúng rồi dìu dắt công

tác làm cho quần chúng ỷ lại, kém phát huy sáng kiến.

Từ ngày cách mạng tháng Tám thành công, sự giáo dục về quyền lợi phụ nữ

bị sao lãng. Đảng đoàn chỉ huy động chị em phục vụ kháng chiến, không chú ý

đến công tác có thể làm đƣợc trong hoàn cảnh cụ thể, mạng lợi ích thiết thực cho

quần chúng.

Nói chung Đảng đoàn còn kém quan điểm quần chúng kém lập trƣờng giai

cấp, ỷ lại nhiều vào thanh thế của Đảng.

D, Lề lối làm việc của Đảng đoàn: Còn nặng hình thức chủ nghĩa không điều

tra nghiên cứu điều kiện cụ thể, không phối hợp với các ngành, chủ quan đơn độc

một mình, nêu ra rất nhiều công tác nhƣng rồi buông trôi không có kế hoạch thực

hiện, không nhằm công tác trọng tâm để theo dõi, đôn đốc, tổng kết kinh nghiệm

và nêu cao thành tích của quần chúng. Chỉ chạy theo những việc cấp thời, không

chủ động chƣơng trình công tác, không giành thì giờ học tập thƣờng xuyên, bồi

bổ lý luận cách mạng và năng lực lãnh đạo.

7. Những nét đặc biệt của phong trào.

A, Phong trào phụ nữ Việt Nam bao gồm đủ mọi tầng lớp do Đảng độc

quyền lãnh đạo làm cách mạng giải phóng dân tộc để kiến thiết chế độ dân chủ

nhân dân và tiến lên xã hội chủ nghĩa.

B, Phong trào thiếu tính chất tranh đấu đòi nữ quyền bài trừ tàn tích phong

kiến.

140

C, 80 % hội viên là nông dân nhƣng đa số cán bộ cấp tỉnh, khu, Trung ƣơng

lại là tiểu tƣ sản, trí thức, kém ý thức giai cấp, kém quan điểm quần chúng. Cán

bộ tiến chậm, không đuổi kịp đà tiến của quần chúng, không đủ cung cấp cho

phong trào rộng lớn.

D, Cấp trên chƣa tổng kết đƣợc kinh nghiệm phong phú của cấp dƣới thành

lý luận lãnh đạo phong trào cho sát.

E, Mọi mặt công tác trong xã hội đều đòi hỏi cán bộ phụ nữ, nhƣng phụ nữ

chƣa có cán bộ cử vào các ngành sản xuất, chuyên môn, giáo dục, văn hoá, kinh

tế.

III. Nhiệm vụ mới

1. Xây dựng lý luận vận động phụ nữ.

Cuộc vận động phụ nữ từ 20 năm có đảng đến nay, nhất là từ ngày cách

mạng tháng Tám thành công, thiên hẳn về tranh đấu giải phóng dân tộc, kém ý

thức dân tộc, ý thức giới, hai đặc điểm căn bản của phong trào phụ nữ do Đảng

của giai cấp vô sản lãnh đạo.

Công tác Đảng đoàn phụ nữ nặng tính chất sự vụ, thi hành từng chỉ thị cấp

thời của Đảng. Đảng chƣa có một lý luận vận động phụ nữ căn cứ vào chủ nghĩá

Mác- Lênin về vấn đề phụ nữ, căn cứ vào điều kiện kinh tế nƣớc nhà, vào khả

năng sản xuất của chị em. Cố nhiên phụ nữ phải cùng dân tộc làm tròn nhiệm vụ

của giai đoạn cách mạng giải phóng dân tộc nhƣng không vì thế mà chỉ biết ra

sức tiêu diệt thực dân Pháp, ngoài ra không hiểu biết gì hơn, không hiểu biết

triển vọng của cuộc đấu tranh hiện tại. Vấn đề xây dựng lý luận vận động phụ

nữ đã đến lúc Đảng cần phải đặt ra và giải quyết. Cần có lý luận soi đƣờng làm

cho phụ nữ nhận thấy rõ con đƣờng tiến của mình mà hăng hái hoạt động thực

hiện giải phóng giai cấp, giải phóng phụ nữ, thủ tiêu chế độ thực dân phong kiến

bóc lột giai cấp vô sản, bóc lột giới phụ nữ.

141

2. Chấn chỉnh sự lãnh đạo của các cấp uỷ và Đảng đoàn phụ nữ. Các cấp uỷ cần

nghiên cứu chủ trƣơng của Đảng về công tác phụ nữ, kiểm soát Đảng đoàn

trong chủ trƣơng kế hoạch công tác. Cấp uỷ cần chú ý đến những điểm đặc

biệt của cán bộ phụ nữ để có sự cấp dƣỡng, sự giáo dục và sự đề bạt đúng đắn.

Các Đảng đoàn phụ nữ cần nghiên cứu chủ trƣơng của Đảng về toàn bộ công

tác của Đảng, đề đạt ý kiến về sự thực hiện nam nữ bình quyền trong các ngành

công tác để Đảng giúp đỡ. Đảng đoàn phụ nữ cần hiểu rõ tình hình phụ nữ

trong các ngành hoạt động để có chủ trƣơng kế hoạch công tác, bảo vệ quyền

lợi cán bộ và quần chúng phụ nữ cho sát.

3. Chuyển hƣớng tổ chức.

Mặt trận phụ nữ cần đƣợc củng cố để thực hiện sự đoàn kết rộng rãi toàn

giới phụ nữ tranh đấu bảo vệ quyền lợi phụ nữ, bảo vệ độc lập quốc gia và hoà

bình dân chủ thế giới. Đồng thời những chị em công nông phải gia nhập cá

nhân vào các tổ chức giai cấp, chịu sự lãnh đạo trực tiếp của các tổ chức giai

cấp để tranh đấu giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và để thực hiện

chƣơng trình sản xuất xây dựng nền kinh tế dân chủ nhân dân của tổ chức giai

cấp .

Ngƣời phụ nữ phải là hội viên Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam đồng thời

là đoàn viên của Công đoàn, Nông hội. Có nhƣ thế phụ nữ mới tranh đấu thực

hiện đƣợc song song hai nhiệm vụ của mình giải phóng giai cấp, giải phóng

phụ nữ.

4. Đào tạo cán bộ.

Phong trào phụ nữ hiện thiếu nhiều những cán bộ chủ chốt của từng địa

phƣơng, thiếu cán bộ giữ vững cơ sở, cán bộ trong các ngành công nông, thanh

và trong các ngành chuyên môn. Việc đào tạo cán bộ đã đề ra cấp bách nhƣng

ngoài việc mở lớp huần luyện cần có chính sách cán bộ đúng, căn cứ vào

những nguyên tắc cụ thể và cƣơng quyết thực hiện: cấp dƣỡng, giáo dục và đề

142

bạt cán bộ phụ nữ cần hợp với bản chất, hợp với nghĩa vụ làm mẹ, làm vợ của

phụ nữ và hợp với năng lực bao nhiêu thế kỷ không đƣợc phát triển của chị em.

5. Giáo dục

A, Cán bộ: Cán bộ nam nữ đều cần giáo dục chu đáo về ý thức giai cấp và

quan điểm quần chúng. Nhƣng riêng cán bộ phụ nữ phải đƣợc nâng cao ý thức

đối với giới của mình, tranh đấu bài trừ tàn tích phong kiến đè nặng phụ nữ làm

chậm bƣớc tiến của chị em. Cán bộ phụ nữ cần phải nhận rõ nghĩa vụ của mình là

ngƣời chiến sĩ cách mạng, tích cực tạo điều kiện để luôn luôn công tác xây dựng

sự nghiệp cách mạng, phục vụ Đảng. Một số chi em phải tẩy trừ tâm trạng bị

quan, tiêu cực, hủ hoá, an phận mà mình đã lâm vào để tiến lên phụng sự cách

mạng. Cán bộ tiểu tƣ sản cần đƣợc quần chúng hoá, đi sâu vào công tác thực tế

để cải tạo tƣ tƣởng. Cán bộ công nông cần đƣợc nâng cao trình độ văn hoá và

chính trị để làm đƣợc nhiệm vụ lãnh đạo phong trào.

B, Quần chúng: Chị em đã tiến nhiều trong ý thức làm nghĩa vụ công dân,

trong ý thức tôn trọng lao động, tăng gia sản xuất, nhƣng chị em còn cần đƣợc

giáo dục về ý thức nam nữ bình đẳng, bài trừ tƣ tƣởng phong kiến ỷ lại, tham địa

vị, tôn ti trật tự. Đề phòng dân chủ quá trớn, bình quyền máy móc. Chị em cần

nhận định rõ sự cần thiết phải tham gia lao động chủ yếu góp phần vào việc xây

dựng kinh tế quốc gia, có thực lực trong việc sản xuất của xã hội. Chị em phải có

ý thức thiết tha nâng cao trình độ hiểu biết của mình, tạo cho mình một nghề

chuyên môn trong đời sống xã hội. Chị em cần có một nhận định về hôn nhân,

gia đình, con cái đúng đắn không ngăn cản bƣớc tiến của chị em. Khẩu hiệu giáo

dục của chị em là “mẹ hiền dâu tốt”.

6, Đƣa lợi ích thiết thực cho quần chúng.

Vấn đề này đã đƣợc đặt ra từ năm 1935, nhƣng chƣa có chủ trƣơng sát

thực tế, chƣa có kế hoạch cụ thể để giải quyết vấn đề. Tƣ tƣởng phong kiến còn

sâu trong nhân dân và ngay trong cả hàng ngũ Đảng làm cho ý thức đối với vấn

143

đề này còn kém. Sau 15 năm Đảng lãnh đạo dân tộc tranh đấu trên quan điểm

giải phóng giai cấp trên quan điểm Mác-Lênin, quan điểm giải phóng giai cấp,

giải phóng phụ nữ, sau 5 năm Đảng nắm chính quyền, phụ nữ đã nhận rõ nhiệm

vụ ngƣời công dân của mình và hăng hái hy sinh thực hiện nhiệm nhiệm vụ

quyền hạn và địa vị ngƣời phụ nữ trong xã hội, trong gia đình nói chung vẫn nhƣ

ngày xƣa. Vẫn vợ cả vợ lẽ, thờ phụng chồng rồi lục đục nhau, đau khổ trong tâm

tƣ. Tình trạng này cần chấm dứt. Căn cứ vào hoàn cảnh thực tế của quốc gia, vào

khả năng của phụ nữ cần có chủ trƣơng kế hoạch cụ thể và ráo riết thực hiện để

đem lại quyền lợi thiết thực cho phụ nữ, thực hiện dần dần nguyên tắc năm nữ

bình quyền.

Nạn tảo hôn và đa thê cần đƣợc bài trừ bằng tuyên truyền giải thích và

pháp luật nghiêm cấm. Chị em phải đƣợc huấn luyện về nhiệm vụ điều khiển bộ

máy quốc gia và phải đƣợc tham gia điều khiển bộ máy ấy.

Cần giáo dục nghề nghiệp cho chị em dần dần có trình độ kỹ thuật, trình

độ chuyên môn trong các ngành sản xuất và thƣơng mại giúp chị em chuyển đơn

vị sản xuất gia đình qua sản xuất xã hội, phát triển hợp tác xã. Pháp luật phải quy

định quyền độc lập kinh tế của phụ nữ.

Đối với sản phụ và nhi đồng cần có những tổ chức bảo vệ và giúp đỡ cho

những chị em có con dại, vẫn tiếp tục tham gia hoạt động xã hội.

Vấn đề cứu chữa những chị em bị hãm hiếp hiện là một tình trạng hết sức

thƣơng tấm của phụ nữ, phải đề ra để giải quyết nhất là lúc này phụ nữ có thể đòi

hỏi sự ủng hộ thực tế của phụ nữ các nƣớc dân chủ.

Hiện nay thực dân Pháp và bọn can thiệp Mỹ đang tìm hết cách lôi cuốn

phụ nữ. Chúng thành lập những tổ chức kinh tế nhƣ: Liên đoàn ngũ cốc ở Hải

Phòng nhả cho chị em một ít lợi trƣớc mắt để bóc lột sâu xa hơn. Chúng thành

lập những tổ chức văn hoá dạy hát, dạy đàn, dạy nữ công, dạy ngoại ngữ làm cho

chị em không còn thì giờ tìm hiểu gì khác, mắc vào mƣu thâm độc của chúng là

144

làm cho chị em mê muội theo văn hoá lãng mạn, để cho chúng điều khiển làm tay

sai của chúng.

IV. Kết luận

Đảng ta thực hiện đƣợc những nhiệm vụ cần kíp trên đối với phong trào

phụ nữ sẽ giúp cho phong trào tiến bộ nhanh hơn nữa và do đấy làm cho lực

lƣợng cách mạng Việt Nam nói chung tiến vƣợt lên.

Phụ nữ Việt Nam bao nhiêu thế kỷ nay tháo vát, đảm đƣơng gánh vác công

việc gia đình, với một tinh thần hy sinh chịu đựng đặc biệt của dân tộc ta và nhờ

thế gián tiếp gánh vác công việc xã hội. Ngày nay Đảng lãnh đạo chị em trực tiếp

tham gia công việc xã hội những đức tính truyền thống của chị em sẽ đƣợc phát

triển nhanh hơn và sẽ đƣợc sử dụng hợp lý, lợi ích nhiều hơn. Phụ nữ sẽ thành

một lực lƣợng hùng hậu trong công cuộc kiến thiết chế độ dân chủ nhân dân tiến

lên xã hội chủ nghĩa.

(Tài liệu tham khảo ở Đại hội Đảng lần thứ hai)

Nguồn: Đảng Lao động Việt Nam (1970), Ban chấp hành Trung ƣơng, Văn

kiện Đảng về công tác vận động phụ nữ (1930 – 1969), NXB Phụ nữ, tr 185 -

210.

145