ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
--------------***--------------
ĐẬU VĂN DŨNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA CÁC CÔNG TY
XUYÊN QUỐC GIA Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ Chuyên ngành : KINH TẾ CHÍNH TRỊ Mã số : 60 31 01
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Vũ Văn Hiền
1
HÀ NỘI - 2007
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
--------------***--------------
ĐẬU VĂN DŨNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA CÁC CÔNG TY
XUYÊN QUỐC GIA Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ Chuyên ngành : KINH TẾ CHÍNH TRỊ Mã số : 60 31 01
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Vũ Văn Hiền
1
HÀ NỘI - 2007
MỤC LỤC
Trang
Mở đầu:……………………………………………………………… 1
6
Chƣơng 1. Công ty xuyên quốc gia (TNCs) và việc đầu tƣ trực tiếp vào các nƣớc đang phát triển
1.1. Nhận dạng các công ty xuyên quốc gia ( TNCs). 6
13
1.2. Đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia (TNCs) và vai trò của nó ở các nước đang phát triển.
1.3. Bài học kinh nghiệm thu hút FDI của TNCs ở các nước trong khu vực 24
33
Chƣơng 2. Thực trạng đầu tƣ trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia (TNCs) vào Việt Nam và những vấn đề đặt ra.
33
2.1.Thực trạng FDI của TNCs vào các lĩnh vực của nền kinh tế Việt Nam.
2.2. Các hình thức FDI của TNCs ở Việt Nam. 51
2.3. Những vấn đề đặt ra đối với FDI của các TNCs. 64
78
Chƣơng 3. Phƣơng hƣớng và giải pháp thu hút đầu tƣ trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia vào Việt Nam.
78
3.1. Một số nhận xét khái quát về xu hướng vận động của FDI của TNCs tại Việt Nam.
3.2.Phương hướng phát triểncác hình thức FDI của TNCs ở Việt Nam 84
90
3.3. Các giải pháp chủ yếu nhằm thu hút và sử dụng có hiệu qủa FDI của TNCs tại Việt Nam.
Kết luận 118
Danh mục tài liệu tham khảo 120
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
: Khu vực mậu dịch tự do của Hiệp hội các nước Đông Nam á : Diễn đàn hợp tác kinh tế các nước Châu á Thái Bình Dương : Hiệp hội các nước Đông Nam á : Hội nghị thượng đỉnh á - âu : Xây dựng - Vận hành - Chuyển giao : Xây dựng - Chuyển giao : Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ : Xây dựng - Chuyển giao - Kinh doanh : Công nghiệp
AFTA APEC ASEAN ASEM BOT BT BTA BTO CN CNH, HĐH : Công nghiệp hoá, hiện đại hoá : Đầu tư nước ngoài ĐTNN : Liên minh Châu âu EU : Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI : Tổng sản phẩm quốc nội GDP : Hợp đồng hợp tác kinh doanh HĐHTKD : Hình thức đầu tư HTĐT : Tỷ số ICOR-Tỷ số giữa đầu tư và phần tăng thêm của GDP ICOR : Cụm linh kiện dạng rời IKD : Tổ chức ngoại thương Nhật Bản JETRO : Khu công nghiệp, khu chế xuất KCN-KCX : Mua lại và sát nhập M & A : Các nền công nghiệp mới NIEs : Nhà xuất bản Nxb : Viện trợ phát triển chính thức ODA : Quỹ hợp tác và phát triển kinh tế OECF : Tư bản nhà nước TBNN : Các công ty xuyên quốc gia TNCs : Đồng đô la Mỹ USD : Thuế giá trị gia tăng VAT : Tổ chức thương mại thế giới WTO
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học
công nghệ hiện đại và xu thế toàn cầu hoá kinh tế. Sự vận động của hàng
hoá, dịch vụ, của các dòng vốn đầu tư đã vượt khỏi biên giới các quốc gia,
được thực hiện trên phạm vi toàn cầu. Sự hoạt động của các công ty xuyên
quốc gia (Transnational Coporations-TNCs) đang và sẽ là lực lượng chủ đạo
thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá, chi phối mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
trên phạm vi quốc tế. Với tiềm lực kinh tế to lớn, hệ thống chi nhánh trải
rộng khắp thế giới, các công ty này đã gắn kết các bộ phận cấu thành của
nền kinh tế thế giới, thực hiện quốc tế hoá sản xuất và lưu thông một cách
sâu rộng, đồng thời thúc đẩy nhanh quá trình toàn cầu hoá kinh tế, vừa hợp
tác, vừa cạnh tranh dưới những hình thức mới, phong phú, đa dạng.
Đặc điểm đó vừa tạo ra những cơ hội vừa tạo ra những thách thức với
tất cả các nước, đặc biệt là với các nước kém phát triển. Những năm vừa
qua, Đảng ta xác định một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy nền
kinh tế nước ta phát triển là nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI),
trong đó các công ty xuyên quốc gia chiếm giữ một vai trò quan trọng. Văn
kiện Đại hội Đảng lần thứ IX khẳng định: "Các công ty xuyên quốc gia tiếp
tục được cấu trúc lại, hình thành những tập đoàn khổng lồ chi phối nhiều
lĩnh vực kinh tế”. Sự lớn mạnh của các tập đoàn kinh tế, đặc biệt là sự lớn
mạnh của TNCs là một trong những đặc trưng cơ bản của quá trình quốc tế
hoá nền sản xuất xã hội trong giai đoạn hiện nay. Từ năm 1988 đến hết năm
2005, Việt Nam đã thu hút được một lượng FDI đáng kể, tổng số vốn đăng
ký là 65,7 tỷ USD, trong đó tổng số vốn thực hiện đạt 33 tỷ USD. Đến nay,
đã có trên 200 TNCs và 18 quốc gia đầu tư và hoạt động tại Việt Nam trên
nhiều lĩnh vực như: chế tạo thiết bị viễn thông, công nghệ máy tính, khai
thác dầu khí, sản xuất ôtô và xe gắn máy, nước giải khát, xây dựng kết cấu
hạ tầng, chế tạo điện tử dân dụng, thương mại và dịch vụ... Hoạt động của
2
TNCs đã đem lại những tác động to lớn đối với nền kinh tế như: cung cấp
vốn, kỹ thuật công nghệ, kinh nghiệm quản lý... Tuy nhiên, so với tiềm năng
và yêu cầu đặt ra đối với nước ta, đầu tư của TNCs vào Việt Nam vẫn chưa
thật mạnh. Hơn thế nữa, hoạt động của một số công ty còn gây ra các tác
động tiêu cực: làm phá sản xí nghiệp vừa và nhỏ, gây ô nhiễm môi trường
sinh thái, chuyển vào nước ta những công nghệ cũ lạc hậu, làm băng hoại
truyền thống văn hoá…
Từ thực trạng tình hình đó, tác giả chọn đề tài “Đầu tư trực tiếp của
các công ty xuyên quốc gia tại Việt Nam”. Để góp phần vào việc nâng cao
khả năng thu hút nhiều hơn với chất lượng tốt hơn của lĩnh vực đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam đã được nhiều nhà khoa học
cũng như các nhà quản lý kinh tế trong và ngoài nước nghiên cứu, như:
* Ở ngoài nước: Có nhiều công trình sách báo đề cập đến hoạt động
đầu tư ra nước ngoài của TNCs. Tuy nhiên, chưa có công trình khoa học nào
nghiên cứu riêng về Việt Nam.
* Ở trong nước:
- Mai Đức Lộc: Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong việc phát triển kinh
tế Việt Nam, luận án phó tiến sĩ kinh tế chính trị, Học viện CTQG Hồ Chí
Minh, 1994.
- Đề tài KHXH- 06- 05, Bản chất, đặc điểm và vai trò của các công ty
xuyên quốc gia và đa quốc gia trên thế giới - Chính sách của ta.
- Nguyễn Xuân Thiện: Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam: vấn
đề và giải pháp, Tạp chí Kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương, số1/2001.
- Hoàng Thị Bích Loan: Về hoạt động của các công ty xuyên quốc gia,
Tạp chí Lý luận chính trị, số 8/2004.
Trong các nghiên cứu trên, các tác giả đều đã đề cập đến đặc điểm, vai
trò của FDI nói chung và TNCs nói riêng cũng như các chính sách nhằm thu
3
hút và sử dụng nguồn vốn bên ngoài vào Việt Nam. Tuy nhiên những nghiên
cứu nói trên chưa thật sự tổng kết đầy đủ về hoạt động đầu tư của TNCs tại
Việt Nam như về số lượng, lĩnh vực hoạt động, xu hướng vận động của các
TNCs
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu của Luận văn: từ sự phân tích đúng thực trạng
FDI của TNCs vào Việt Nam, luận văn đưa ra những phương hướng và giải
pháp nhằm nâng cao khả năng thu hút vốn FDI của TNCs, khắc phục được
mặt trái trong đầu tư trực tiếp của TNCs, góp phần đẩy nhanh quá trình
CNH, HĐH đất nước.
* Nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn:
- Phân tích vai trò FDI của TNCs đối với sự phát triển kinh tế xã hội
của Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá thực trạng tình hình FDI tại Viêt Nam thời kỳ
1988 đến nay và tác động của nó tới nền kinh tế.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp thích hợp nhằm nâng cao khả
năng thu hút vốn FDI của TNCs vào Việt Nam để thực hiện đẩy nhanh quá
trình CNH, HĐH nhằm thực hiện hoàn thành nhiệm vụ kinh tế - xã hội của
đất nước.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là TNCs đã đầu tư vào Việt Nam.
Luận văn tập trung vào nghiên cứu, đánh giá thực trạng tình hình hoạt động
của TNCs tại Việt Nam từ năm 1988 đến nay. Từ đó đưa ra phương hướng
và khuyến nghị một số giải pháp thích hợp nhằm nâng cao khả năng thu hút
vốn FDI của các TNCs vào Việt Nam trong những năm sắp tới.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử.
- Phương pháp thống kê tổng hợp.
- Phương pháp so sánh, phân tích.
4
- Phương pháp chuyên gia và một số phương pháp khác.
6. Những đóng góp của Luận văn
- Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về bản chất, đặc điểm và vai trò
của TNCs đối với phát triển kinh tế của các nước được đầu tư.
- Đánh giá thực trạng và kết quả của việc đầu tư của các TNCs 1988
đến nay; đồng thời nêu lên những tồn tại và hạn chế.
- Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao khả năng thu hút và sử
dụng có hiệu quả đầu tư trực tiếp của TNCs trong những năm tới.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung chính của Luận văn được cấu trúc thành ba chương:
Chương 1: Vấn đề đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia
(TNCs) vào các nước đang phát triển.
Chương 2: Thực trạng đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia
(TNCs) vào Việt Nam và những vấn đề đặt ra.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao khả năng thu hút đầu tư
trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia (TNCs) vào Việt Nam.
5
Chƣơng 1
VẤN ĐỀ ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP CỦA CÁC CÔNG TY
XUYÊN QUỐC GIA (TNCS) VÀO CÁC NƢỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
1.1. Các công ty xuyên quốc gia.
1.1.1. Khái niệm
Công ty xuyên quốc gia là hình thức tổ chức doanh nghiệp quốc tế
trong nền kinh tế thị trường có tầm hoạt động vượt quá khuôn khổ biên giới
của một quốc gia.
Theo định nghĩa của UNCTAD, tập đoàn xuyên quốc gia (TNC) là hệ
thống bao gồm công ty mẹ là công ty kiểm soát toàn bộ tài sản của chúng ở
chính quốc. Công ty con là các công ty hoạt động ở nước ngoài dưới sự quản
lý của công ty mẹ và thường được gọi chung là chi nhánh ở nước ngoài. Có
ba loại hình công ty con của TNC là:
+ Chi nhánh là công ty con hoạt động ở nước ngoài với 100% tài sản
thuộc sở hữu của công ty mẹ.
+ Công ty con phụ thuộc: công ty mẹ sở hữu hơn 50% tổng tài sản
công ty này và họ có quyền chỉ định hoặc bãi nhiệm các thành viên bộ máy
tổ chức và quản lý điều hành của công ty con này.
+ Công ty con liên kết: công ty mẹ tuy chiếm trên 10% tài sản của
công ty nhưng chưa đủ tỷ lệ sở hữu để có quyền hạn như công ty con phụ
thuộc.
1.1.2. Đặc trưng của các công ty xuyên quốc gia - Về quy mô: Các NTC có quy mô về tài chính rất lớn. Trong số 500 công ty lớn nhất thế giới, thì Mỹ có 162 công ty, Nhật Bản có 126 công ty, các nước như Đức có 41 công ty, Pháp 42, Anh 34, Hà Lan 8, Thuỵ Sỹ 14, Italia 13, Nga 1. Công ty đứng số 1 thế giới về tài sản ở nước ngoài trong bảng danh sách của UNCTAD năm 2003 là General Electric (Mỹ) với tổng
6
số tài sản nước ngoài là 258.900 triệu USD, tổng doanh thu là 134.187 triệu USD, số lượng công nhân là 305.000 ngàn người. Công ty đứng thứ 2 là Vodafone Group Plc (Anh), tiếp theo sau là 3 công ty Ford Motor, General Motors (Mỹ), British Petroleum Company của Anh. Đứng thứ 7 mới là công ty Royal Dutch – Shell Group (Anh – Hà Lan) có tổng tài sản nước ngoài là 112.587 triệu USD (tổng tài sản là 168.091 triệu USD), lợi nhuận 8.887,1 triệu USD, tổng doanh thu 201.728 triệu USD và có số công nhân là 119.000 người. Các TNCs có phạm vi hoạt động rộng, không chỉ bó hẹp trong phạm vi một quốc gia, mà mở rộng ra phạm vi toàn cầu thông qua việc cắm nhánh ra nước ngoài với số lượng lớn, kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực, chiến lược sản phẩm và hướng đầu tư luôn thay đổi cho phù hợp với sự phát triển của tập đoàn và môi trường kinh doanh, nhưng mỗi ngành đều có định hướng chủ đạo, lĩnh vực đầu tư mũi nhọn với những sản phẩm đặc trưng của các TNCs như tập trung vào các ngành có hàm lượng khoa học cao (công nghiệp chế biến, dịch vụ,…) và các nước tư bản phát triển. Chúng nắm những phương tiện kỹ thuật hiện đại với những trung tâm nghiên cứu và phát triển đồ sộ, mà khoản chi ngân sách bằng với ngân sách nghiên cứu và phát triển của một nước lớn. Ví dụ như công ty Philips Electric (Hà Lan) là một trong những công ty điện tử hàng đầu thế giới với 263 chi nhánh đặt ở hơn 70 nước, nếu tính cả nước mẹ thì có 378 chi nhánh công ty Heineken (Hà Lan) là một công ty sản xuất bia đã mua nhà máy bia của Italia, Hungary. Hãng Renaul SA (Pháp) chuyển về lĩnh vực động cơ máy có 136 (trong số 207) chi nhánh ở nứơc ngoài như ở Đức, Tây Ban Nha, Ba Lan,… Tổ hợp dầu lửa Total (Pháp) với 602 chi nhánh có mặt ở hơn 80 nứơc trên thế giới và các trọng điểm dầu khí như Trung Đông, Biển Bắc, Mỹ – Latinh. Trong đó, có 150 cơ sở sản xuất ở 35 nứơc, Total có cổ phần trong 17 cơ sở lọc dầu ngoài nước Pháp và Hà Lan, Đức, Mỹ và Châu Phi. Mỗi năm Total khoan thăm dò hoặc khoan cho sản xuất ở 20 nước trên diện tích rộng 72 vạn m2. Khí đốt do Total sản xuất chủ yếu được khai thác ở Inđônêxia, Thái Lan, Mianma, Arhentina và Biển Bắc.
7
- Đặc trưng cắm nhánh ngoại quốc – một đặc trưng cơ bản của các công ty xuyên quốc gia, là việc những xí nghiệp con, cháu và những liên hợp ở nước ngoài đặt dưới sự kiểm soát của công ty mẹ. Ngày nay, các chi nhánh của các công ty xuyên quốc gia ít mang tính cổ truyền, thực chất nó là các công ty xuyên quốc gia mà công ty mẹ thực hiện phân công chuyên môn hoá đối với các chi nhánh. Để thực hiện cắm nhánh ở nước ngoài, các TNCs cũng thực hiện một số hình thức cơ bản, như thiết lập các xí nghiệp 100% vốn của mình và hình thức liên doanh,… đối với hình thức 100% vốn, là hình thức mà các TNCs sử dụng sớm nhất với việc các xuyên quốc gia thực hiện mua lại xí nghiệp của nước chủ nhà - thường là các xí nghiệp kinh doanh kém hiệu quả và có nguy cơ phá sản, hoặc đầu tư xây dựng xí nghiệp mới. Đây cũng là cách thức khá phổ biến trong thời đại ngày nay, khi mà các nước theo đuổi chính sách mở cửa và tạo ra nhiều ưu đãi về thuế nhằm thu hút FDI, phục vụ cho mục tiêu công nghiệp hoá đất nước. Còn với hình thức liên doanh, cũng là hình thức phổ biến hiện nay mà TNCs sử dụng để thực hiện cắm nhánh và bành trướng quốc tế. Các xí nghiệp liên doanh có thể được hình thành bằng nhiều con đường khác nhau, như mua cổ phần của một xí nghiệp mới, xây dựng hoặc lập ra những xí nghiệp chi nhánh mà TNCs nắm giữ cổ phiếu khống chế theo chế độ tham dự.
QG1
QG6
FDI FDI QG2
QG5 FDI
FII
FII
QG3 FDI
QG4
8
Hình 1.1: Biểu diễn đặc trƣng cắm nhánh của các TNCs - Về cơ cấu tổ chức, quản lý: các TNCs là những hình thức liên kết của nhiều công ty hoạt động trong cùng một ngành, hay những ngành khác nhau dưới sự điều tiết chung của một công ty mẹ đối với hệ thống các chi nhánh ở nhiều nước. Trong thực tế, các TNCs trên thế giới thường áp dụng những mô hình quản trị điều hành cơ bản sau:
+ Mô hình “kim tự tháp”, về thể chế quản lý tập trung quyền lực theo
chiều dọc, trực tuyến.
+ Mô hình “mạng lưới” (đa trung tâm), về thể chế quản lý phân tán
quyền lực cho các bộ phận chi nhánh.
+ Mô hình “hỗn hợp” (nhị nguyên), về thể chế quản lý phối hợp giữa
tập trung và phân tán quyền lực.
Tuy vậy, đối với từng nhòm nước lại áp dụng mô hình mang tính đặc
thù riêng tuỳ theo trình độ phát triển, văn hoá, tập quán, đại lý,…
+ Đối với nhóm các TNCs Mỹ – Châu Âu: do chịu ảnh hửơng lâu dài của hệ thống kinh tế thị trường nên các nước này luôn lấy mô hình “tự do cạnh tranh” làm nội dung cơ bản của chế độ hoạt động của TNCs. Các TNCs Âu – Mỹ có đặc trưng chủ yếu là quyền sở hữu tách khỏi quyền kinh doanh. Các cổ đông là người sở hữu không trực tiếp tham gia sản xuất kinh doanh, mà tác động vào các quyết định của công ty thông qua hội đồng quản trị do Đại hội cổ đông bầu ra. Hội đồng quản trị thuê giám đốc chuyên nghiệp điều hành việc kinh doanh của công ty. Giám đốc công ty là người làm thuê cho công ty, chịu mọi trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của công ty. Quan hệ trong tổ chức nội bộ của các tập đoàn xí nghiệp nhà nứơc Âu – Mỹ nói chung là đơn giản. Cầu nối cơ bản của sự liên kết giữa các xí nghiệp thành viên là quan hệ tư bản (vốn, tài sản) và đó là cơ sở để tập đoàn có đựơc sự quản lý thống nhất.
+ Đối với Nhật Bản: cơ chế quản lý kinh doanh của TNCs Nhật Bản bắt nguồn từ nền văn hoá truyền thống, mang màu sắc Nhật Bản, có tiếp thu
9
các nhân tố tích cực trong cơ chế quản lý kinh doanh của các công ty hiện đại của phương Tây. Nhật Bản là một xã hội đẳng cấp được xây dựng kết cấu theo chiều dọc, giữa các TNCs cũng phân biệt đẳng cấp rõ rệt. Quan hệ giữa các TNCs ảnh hưởng trực tiếp đến địa vị xã hội của nhà kinh doanh và công nhân viên trong tập đoàn. Với mục tiêu phát triển mạng lưới công ty của Nhật Bản trên khắp thế giới, các TNCs Nhật Bản luôn để cho những công ty vệ tinh của chúng có đựơc quyền tự do ở mức đáng kể. ở Nhật Bản, các công ty, tập đoàn áp dụng “chế độ làm việc suốt đời”. Quan hệ giữa công nhân viên với công ty là cố định, các nhà kinh doanh không tuỳ tiện sa thải công nhân, việc trả lương và nâng bậc cho công nhân căn cứ vào tuổi tác, học lực và thâm niên công tác liên tục. Chính vì lẽ đó nên mọi người đều phải dốc sức phấn đấu cho sự sinh tồn và phát triển của công ty.
1.1.3. Các loại hình công ty xuyên quốc gia Các chuyên gia kinh tế đã dựa vào nhiều tiêu chí khác nhau để thực
hiện hình thức tồn tại của các TNCs. Chẳng hạn:
- Căn cứ theo quá trình vận động và lĩnh vực hoạt động của các TNCs: + Công ty xuyên quốc gia sơ khai: là loại hình đầu tiên có từ thời kỳ tư bản tự do cạnh tranh thống trị. Các công ty này thường hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, khai khoáng với mục đích khai thác nguyên liệu, bóc lột lao động làm thuê ở thuộc địa phục vụ cho quá trình tích luỹ tư bản để công nghiệp hoá. Các công ty Đông Ấn của Hà Lan và Anh thế kỷ XVII – XVIII là những ví dụ điển hình về loại hình TNCs này.
+ Công ty xuyên quốc gia thương mại: gồm những công ty mà chi nhánh ở nước ngoài là những chi nhánh chủ yếu thực hiện việc xuất nhập khảu hàng hoá. Ngoài ra việc sản xuất cũng có thể được thực hiện tại chỗ ở các chi nhánh này khi việc thâm nhập thị trường trở nên khó khăn. Song việc sản xuất tại chỗ thường có giới hạn, chỉ sản xuất một phần sản phảm theo mẫu của công ty mẹ, hoặc chỉ thực hiện việc lắp ráp một số bộ phận linh kiện để thực hiện xuất khẩu tại chỗ.
+ Công ty xuyên quốc gia sản xuất: Với loại hình này, quy trình sản xuất một sản phẩm được phân chia theo những công đọan nhất định và mỗi
10
xí nghiệp chi nhánh sẽ đảm nhiệm sản xuất một bộ phận hoặc một số chi tiết sản phảm, hoặc lắp ráp sản phẩm cuối cùng. Các bộ phận của sản phẩm đựơc lưu thông giữa các chi nhánh, trong nội bộ công ty, cuối cùng đến một chi nhánh, ở đó sản phẩm được lắp ráp và mang nhãn hiệu của nước mẹ hoặc nước chủ nhà. Các TNC điển hình cho loại này như: Sony, IBM, Toyota, Honda,…
+ Công ty xuyên quốc gia tài chính, kỹ thuật: là những công ty có sức mạnh về tài chính, kỹ thuật, hoạt động trong những ngành có hàm lượng khoa học cao và làm nhiệm vụ cung cấp kỹ thuật, tài chính cho các công ty chi nhánh ở nứơc ngoài. Qua con đường này, công ty mẹ kiểm soát, cho phối các hoạt động của các công ty nhánh. Điển hình cho loại hình này: Exxon, Mc Donal Douglas, Mobil Oil,…
- Tuỳ theo tính chất phức tạp của sản xuất và hình thức tổ chức công
ty
Theo Maicơn Z.Brucơ và H.Liremmơ có thể chia các công ty xuyên quốc gia thành các loại công ty A, B, C, D. Trong đó công ty loại A chỉ sản xuất một loại sản phẩm cá biệt; công ty loại B sản xuất những nhóm sản phẩm trong nước và tổ chức việc tiêu thị ở nứơc ngoài theo sự phân chia các khu vực địa lý, với mục đích đẩy mạnh và tạo ra các điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu hàng hoá; công ty loại C cũng sản xuất các nhóm sản phẩm nhưng việc sản xuất ở nước ngoài được đặt dười sự kiểm soát trực tiếp của công ty mẹ; công ty loại D được hình thành từ sự phát triển hơn nữa của các loại công ty A, B, C.
Mặc dù có nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại các TNC. Tuy nhiên, theo nhiều nhà nghiên cứu thì cách phân loại phổ biến hiện nay là phân loại theo trình độ phát triển, biểu hiện ra là sự thay đổi về hình thức sở hữu tư bản của các TNCs.
+ Cartel: loại hình liên kết giữa các công ty độc quyền trong cùng một ngành, có thể liên kết với nhau bằng cách cùng nhau ký kết một hiệp định lập ra thị trường tiêu thụ, xác định giá cả hàng hoá, số lượng sản phẩm bán ra nhằm mục tiêu hạn chế cạnh tranh, từ đó phân chia lợi ích cụ thể với
11
nhau. Ví dụ OPEC là một Cartel có quy mô quốc tế, các thành viên của OPEC thường thoả thuận với nhau về số lượng dầu cung cấp, cũng như giá bán ra trên thế giới. Mặc dù vậy các công ty này vẫn là những công ty độc lập về pháp lý trong sản xuất cũng như thương mại. Tại Hồng Kông, các ngân hàng đã cấu kết với nhau thành một tổ chức Cartel, họ định lãi suất thấp cho các tài khoản gửi nhưng cao cho các khoản vay ngân hàng, nhờ đó các ngân hàng trong Cartel đã được lãi to: trên 645 triệu USD thu được trong năm 1991 (bằng 0,8% GDP của Hồng Kông).
+ Syndicate: cũng là loại hình liên kết giữa các xí nghiệp tư bản chủ nghĩa, các bên cùng ký kết hiệp định có liên quan đến số lượng hàng hoá tiêu thụ chung, đến việc mua nguyên vật liệu, nhằm mua được nguyên vật liệu với giá thấp, bán được sản phẩm với giá cao. Trong loại hình này, các xí nghiệp vẫn độc lập về sản xuất, pháp lý, nhưng không còn độc lập về thương mại nữa. Một điều đáng chú ý lá rất nhiều Syndicate là do Cartel phát triển lên.
+ Trust: loại hình công ty được hình thành nên do sự liên hiệp hoá theo chiều ngang, phát triển cao hơn về mặt tổ chức, trong đó nhiều xí nghiệp sản xuất cùng một loại hàng hoá hoặc các xí nghiệp ở các ngành kế cận nhau có quan hệ chặt chẽ với nhau cùng hợp nhất lại thành một tổ chức (kinh tế). Các xí nghiệp khi đã đựơc hợp nhất vào tổ chức kinh tế này không còn độc lập về tất cả mọi mặt sản xuất, thương mại và luật pháp. Có 2 loại Trust cơ bản, đó là công ty cổ phần đặc biệt (kiểm soát công ty thông qua việc nắm cổ phiếu khống chế của công ty) và công ty hợp nhất các xí nghiệp, đó là hợp nhất hoàn toàn các xí nghiệp với nhau, thông qua hợp nhất hay bị thông tính. Việc điều hành sản xuất kinh doanh hoàn toàn do Ban quản trị đảm nhiệm. Ví dụ, công ty General Motor (Mỹ) nguyên là một Trust quốc tế hùng mạnh, là một trong số 15 công ty xuyên quốc gia tầm cỡ nhất thế giới năm 1987, với doanh số 101,8 tỷ USD, với 876 ngàn nhân viên. Đến năm 1988 doanh số bán của nó lên đến 121,085 tỷ USD, còn vào năm 1992 con số đó là 132 tỷ USD, năm 2002 là 186,76 tỷ USD và đến năm 2003 doanh số giảm nhẹ còn 185,5 tỷ USD , với 294 ngàn nhân viên. Ngành chính
12
là sản xuất ôtô chiếm tới 80 – 90% tổng sản phảm của công ty. Nó đã thành lập được một hệ thống chi nhánh gồm 297 nhà máy ở Mỹ, Canada và Tây Âu, Austraylia, Mỹ – Latinh và một số nước châu Á [48]. Tất cả các chi nhánh đều chịu sự điều hành của Ban quản trị công ty trụ sở đặt tại Detroit (Mỹ). Với sự phát triển hơn nữa, cho đến này, công ty này đã thâu tóm nhiều ngành nghề khác nhau như đồ điện dân dụng, môtơ, tuabin khí, đầu máy điện, máy giặt, máy hút bụi và một số mặt hàng khác, nên nó đã được coi là một Concern quốc tế. Nhiều quốc gia đã cấm hình thức Trust, tại Mỹ, toà án sẽ bắt buộc giải tán các Trust khi nó có khả năng lũng đoạn nền kinh tế do thị phần quá lớn của nó.
+ Concern: hình thức tổ chức kiểu Concern là một trong những hình thức phổ biến của TNCs hiện đại. Concern xuất hiện của yếu thông qua mối liên kết ngang giữa ít nhất là 2 công ty lớn kinh doanh độc lập, có tư cách pháp nhân trong một ngành sản xuất hoặc giữa các ngành có mối liên hệ chặt chẽ về kinh tế và kỹ thuật. Mối liên hệ giữa các xí nghiệp trong Concern được thiết lập trên cơ sở lợi ích thống nhất thông qua các quan hệ hợp tác cùng sử dụng về phát minh sáng chế, cùng tham gia nghiên cứu trong những chương trình, đề án khoa học và ứng dụng công nghệ sản xuất; cùng hợp tác sản xuất kinh doanh và sử dụng một hệ thống tài chính, tín dụng. Concern thể hiện ở tính pháp nhân độc lập của các công ty thành viên. Tuy vậy, mối quan hệ bền vững của Concern được thiết lập trong sự liên hệ chặt chẽ giữa các cá nhân lãnh đạo chủ chốt với nhau và với các thành viên của Chính phủ dựa trên cơ sở lợi ích kinh tế. Đặc điểm nổi bật của công ty xuyên quốc gia thuộc loại Concern là sự thống nhất giữa tư bản sở hữu và quyền kiểm soát. Hình thức kiểm soát được xác lập từ công ty mẹ tới các công ty con, cháu bằng chế độ điều hành trong hội đồng quản trị. Công ty mẹ chiếm một số cổ ohiếu khống chế trong các công ty nhánh. Đứng đầu các công ty xuyên quốc gia thuộc loại Concern là một Hội đồng quản trị thường bao gồm những người có sở hữu cổ phiếu lớn nhất. Dưới Hội đồng quản trị là Hội đồng các giám đốc (những người quản lý) trực thuộc Ban quản trị, có nhiệm vụ trực tiếp chỉ đạo sản xuất và kinh doanh khác nhau, Ngày nay, với sự phát triển
13
hơn nữa của tích tụ sản xuất, xu hướng đa dạn hoá sản phẩm, đa dạng hoá ngành đang trở thành xu hướng phổ biến và tổ chức Concern đã đáp ứng đòi hỏi đó. Trong các Concern thường bao gồm các công ty hoạt động ở các ngành kinh tế khác nhau, như công nghiệp, vận tải, thương nghiệp, ngân hàng, bảo hiểm,… Người ta thấy rằng trong số 500 công ty lớn nhất của Mỹ, thị phẩn của Concern đa ngành vào những năm 70 chiếm 94& so với 66% năm 1949. Trong số các Concern thì Daimler Chrysler AG (DC) của Cộng hoà Liên bang Đức và Mỹ là một Concern khá điển hình. Nó bao gồm nhiều công ty thành viên trong nhiều ngành nghề khác nhau, trong đó có công ty Motorentua Binen Union (MTU) sản xuất các loại động cơ; công ty Doocnie sản xuất các mặt hàng thuộc ngành hàng không, còn công ty AEG sản xuất các mặt hàng thuộc ngành kỹ thuật điện,… Do đó sản phảm của DC hết sức đa dạng, từ những động cơ thông dụng đến động cơ xe tăng, tàu biển, máy bay, tên lửa có điều khiển và những trang bị kỹ thuật khác. Song các ngành sản xuất chủ yếu của Concern DC vẫn là các loại động cơ thông dụng. Hiện nay, DC có số tài sản ở nước ngoài lên đến 41,7 tỷ USD và doanh thu hàng năm là 55,2 tỷ USD, chỉ tính riêng cho 281 chi nhánh ở nứơc ngoài. Các Concern thường xây dựng một hệ thống dịch vụ kỹ thuật và thương mại tương đối hoàn chỉnh. Trong hệ thống này có cả trung tâm khoa học, viện nghiên cứu, phòng thiết kế và bộ phận triển khai sản xuất thử, viện thăm dò và nghiên cứu thị trường,… Tất cả nhằm bảo đảm cho Concern đổi mới kỹ thuật kịp thời và thích ứng nhanh chóng với điều kiện biến động của thị trường quốc tế, tăng sức mạnh cạnh tranh để thu lợi nhuận cao.
+ Conglomerate: là kết quả của quá trình liên kết công ty theo chiều dọc, tức là công ty lớn thâm nhập vào công ty, xí nghiệp của các ngành sản xuất khác không có sự liên hệ ràng buộc hoặc quy định về kỹ thuật sản xuất kinh doanh. Mối liên hệ giữa công ty mẹ và các chi nhánh chủ yếu là tài chính; điều hành thông qua cơ cấu quyền lực và liên kết với các ngân hàng đầu tư, ngân hàng thương mại, công ty đầu tư, công ty bảo hiểm,… Hoạt động bành trướng và thâu tóm của Conglomerate cơ bản trên thị trường chứng khoán. Công ty mẹ lựa chọn các công ty đang hoạt động tốt ở tất cả
14
các ngành có tỷ suất lợi nhuận cao và nuốt dần bằng cách mua cổ phiếu của chúng. Do đó cơ cấu ngành kinh doanh trong tập đoàn luôn biến đổi nhanh chóng theo hướng đa dạng, hỗn hợp và cơ cấu quản lý, điều hành phải gọn nhẹ, linh hoạt.
Công ty Điện tín, Điện thoại (ITT) của Mỹ vốn là một Trust đầu đàn của thế giới trong lĩnh vực điện thoại và viễn thông quốc tế. Ngày nay, nó đã trở thành một Conglomerate khổng lồ bành trướng xâm nhập vào ngành ngân hàng, bảo hiểm, khai thác đáy biển, vũ trụ, dịch vụ, khách sạn,, kể cả những ngành công nghiệp thực phẩm và báo chí,…
Việc phân loại các công ty xuyên quốc gia theo các hình thức từ Cartel đến Conglomerate là những nấc thang phản ánh sự giảm dần tính chất sở hữu tư nhân thuần tuý và sự tăng lên của nhân tố “tập thể” trong sở hữu tư bản – xét trong giới hạn quan hệ sản xuất TBCN. Mặt khác, việc phân loại như trên đảm bảo tính logic trong nghiên cứu và cũng phù hợp với hiện thực TBNC ở chỗ các công ty tư bản độc quyền vốn đã tồn tại trong những loại hình cơ bản này ở phạm vi quốc gia, nhưng do quá trình phát triển buộc chúng phải vượt ra khỏi biên giới quốc gia và hoạt động trên phạm vi quốc tế mà thội. Trên thực tế dù hoạt động quốc tế nhưng nó vẫn mang những dấu ấn quốc gia và chịu sự kiểm soát của công ty gốc ở chính quốc.
1.2. Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài (FDI) của TNCs và vai trò của nó
ở các nƣớc đang phát triển.
1.2.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
Mặc dù còn nhiều khác biệt về quan niệm, nhìn chung ở các nước trên
thế giới, FDI được hiểu là một hoạt động kinh doanh mà trong đó có sự tách
biệt ở tầm vĩ mô về mặt chủ thể, nhưng lại có sự kết hợp ở tầm vi mô trong
sử dụng vốn và quản lý đối tượng đầu tư.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại một quốc gia là việc nhà đầu tư
ở một nước khác đưa vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào vào quốc gia đó
15
để có được quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát một thực thể kinh
tế tại quốc gia đó, với mục tiêu tối đa hoá lợi ích của mình.
Tài sản trong khái niệm này, theo thông lệ quốc tế, có thể là tài sản
hữu hình (máy móc, thiết bị, quy trình công nghệ, bất động sản, các loại hợp
đồng và giấy phép có giá trị…), tài sản vô hình (quyền sở hữu trí tuệ, bí
quyết và kinh nghiệm quản lý…) hoặc tài sản chính (cổ phần, cổ phiếu, trái
phiếu, giấy ghi nợ…).
Như vậy, FDI bao giờ cũng là một dạng quan hệ kinh tế có nhân tố
nước ngoài (chủ đầu tư, vốn đầu tư và địa điểm đầu tư từ các quốc gia khác
nhau). Nhân tố nước ngoài ở đây không chỉ thể hiện ở sự khác biệt về quốc
tịch hoặc về lãnh thổ cư trú thường xuyên của các bên tham gia vào quan hệ
đầu tư trực tiếp nước ngoài mà còn thể hiện ở việc di chuyển tư bản trong
đầu tư trực tiếp vượt ra khỏi biên giới một quốc gia. Hai đặc điểm cơ bản
của FDI là: có sự dịch chuyển tư bản trong phạm vi quốc tế và chủ đầu tư
(pháp nhân, thể nhân) trực tiếp tham gia vào hoạt động sử dụng vốn và quản
lý đối tượng đầu tư.
1.2.2. Vai trò FDI của TNCs đối với những nền kinh tế đang phát triển.
Hiện nay trên thế giới xu thế xu thế hoà bình, hợp tác và phát triển đang
diễn ra ngày càng mạnh, nó gây ảnh hưởng rất lớn tới nền kinh tế của mỗi
quốc gia trong xu thế toàn cầu hoá. Trong điều kiện toàn cầu hoá và hội
nhập kinh tế quốc tế, sự phát triển của mỗi quốc gia đều có sự gắn liền với
các quốc gia trong và ngoài khu vực. Một trong những yếu tố gây ảnh hưởng
trực tiếp hoặc gián tiếp tới các lĩnh vực đời sống xã hội trong nền kinh tế thế
giới đó là sự hoạt động mạnh mẽ của các công ty xuyên quốc gia (TNC).
Các TNC đã trở thành lực lượng thao túng chủ yếu đối với sự vận động tư
bản quốc tế trên phạm vi toàn cầu và có vai trò rất to lớn góp phần thúc đẩy
các lĩnh vực như: thúc đẩy phân công lao động xã hội trên phạm vi toàn
cầu, chuyển giao và phát triển công nghệ, tạo việc làm, phát triển nguồn
16
nhân lực, thúc đẩy đầu tư trực tiếp và chuyển dich cơ cấu kinh tế, tham gia
vào quá trình điều tiết nền kinh tế thế giới v.v.. - các lĩnh vực này đã đóng
vai trò quan trọng thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của từng
quôc gia và trên phạm vi toàn cầu.
Thứ nhất, thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội
Xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế ngày càng diễn ra mạnh mẽ rộng
khắp trên phạm vi toàn thế giới, mà lực lượng chủ yếu tác động tới kinh tế
toàn cầu đó là các TNC. Sự hoạt động của các TNC thúc đẩy sự chuyên môn
hoá ngày càng sâu, rộng, biểu hiện ở chỗ các công ty mẹ và các công ty chi
nhánh ở các nước TBCN phát triển đảm nhiệm những khâu đòi hỏi trình độ
khoa học công nghệ cao, phức tạp của dây chuyền sản xuất. Còn các chi
nhánh cắm ở các nước đang phát triển tuỳ theo điều kiện của mình có thể
đảm nhận các khâu ít phức tạp hơn, những khâu mà lao động giản đơn cũng
có thể thao tác được. Chẳng hạn, Việc sản xuất máy tính điện tử hiện nay
của các TNC Nhật Bản, Mỹ, Cộng hoà Liên Bang Đức thì việc sản xuất
“phần mềm” “phần cứng” và việc lắp đặt các bộ phận đầu, cuối được thực
hiện theo sự phân công chuyên môn hoá theo cách thức công nghiệp hoá.
Việc thực hiện phân công chuyên môn hoá sản xuất trên phạm vi toàn
cầu là một bước tiến có tính chất lịch sử, nó cho phép khai thác được tiềm
năng và thế mạnh của từng nước, từng khu vực, tạo được các mối quan hệ
phụ thuộc lẫn nhau và phản ánh quá trình tất yếu kinh tê- kỹ thuật. Thực
hiện sự phân công chuyên môn hoá tư bản chủ nghĩa trên phạm vi quốc tế thì
các nước tư bản chủ nghĩa phát triển đã khai thác được tiềm năng của các
nước đang phát triển về tài nguyên và sức lao động để làm tăng hiệu suất của
tư bản. Còn về phía các nước đang phát triển cũng có những lợi ích kinh tế
nhất định khi tham gia vào sự phân công lao động quốc tế như: giải quyết
17
được một phần lao động thất nghiệp, tăng thêm nguồn thu ngoại tệ, cải thiện
hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội.
Chủ nghĩa tư bản với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận nên sự hoạt động
của các TNC không thể tránh khỏi những hậu quả mà chúng đưa đến cho các
nước chủ nhà cần phải khắc phục như: làm què quặt sự phát triển kinh tế
của một số nước, tạo ra sự phụ thuộc nặng nề của các nước này vào các nước
tư bản phát triển.v.v... Do đó, vấn đề đặt ra là các nước tham gia vào quá
trình toàn cầu hoá kinh tế quốc tế phải có đường lối chiến lược đúng đắn của
mình, phải biết chấp nhận sự phân công này ở mức độ nào, khả năng nhận
chuyển giao công nghệ tiên tiến đến dâu thì mới có thể khắc phục được
những tiêu cực do các TNC gây nên.
Thứ hai, thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển các loại thị trường
hàng hoá, dịch vụ.
Cùng với việc phân công chuyên môn hoá các TNC đã khai thác được
thị trường tại chỗ, giảm chi phí vận chuyển, hạ giá trành, nâng cao sức cạnh
tranh của hàng hoá. Cùng với những sản phẩm hàng hoá thông thường mang
tính truyền thống, dưới tác động của các TNC thế giới hàng hoá được bổ
sung hàng loạt các mặt hàng mới. Chẳng hạn, những tri thức của con người
được thể hiện trong các phát minh sáng chế cũng được đem trao đổi dưới
hình thức hàng hoá và phương thức trao đổi cũng được đa dạng hoá; trong
lĩnh vực dịch vụ bưu chính viễn thông, bảo hiểm sự hoạt động của các TNC
đã góp phần rất lón thúc đẩy thị trường này ở các nước đang phát triển.v.v...
Các TNC đang trở thành một lực lượng đông đảo nắm giữ nguồn hàng
hoá và thị trường thế giới. Hiện chúng đã kiểm soát 60% buôn bán quốc tế
và trong nhiều ngành hàng đã kiểm soát hầu như toàn bộ thị trường. Chẳng
hạn, một số ngành hàng nông sản như: chè, cà phê, ca cao, chuối, các TNC
đã kiểm soát tới 80 - 90% thị phần. (1) Đồng thời các TNC đã thúc đẩy và
18
phát triển mối quan hệ hàng hoá - tiền tệ, gây ra những hiện tượng tiêu cực
trên thị trường ở phạm vi toàn cầu như: tranh chấp thương mại, thâu tóm thị
trường v.v...
Thứ ba, đẩy mạnh phát triển khoa học và công nghệ
Để chiến thắng trong cạnh tranh trên phạm vi toàn cầu, các TNC đã đi
đầu trong việc nghiên cứu thử nghiệm những dây chuyền công nghệ tiên
tiến, tiết kiệm nhiên liệu, nghiên cứu thiết lập hệ thống điều khiển tự động
hoá, phương pháp điều khiển từ xa trong quản lý. Vì vậy nó tạo động lực
thúc đẩy sự phát triển khoa học và công nghệ trên phạm vi toàn cầu. Theo
tính toán của các chuyên gia Liên hợp quốc các TNC kiểm soát tới 80% các
phát minh sáng chế của thế giới. Các TNC khi đã nắm được lực lượng khoa
học - công nghệ của thế giới, chúng buộc phải thực hiện sự chuyển giao kỹ
thuật, công nghệ sang các nước khác, mà chủ yếu là sang các nước đang
phát triển. Đối với các nước kém phát triển, các TNC đã thực hiện chuyển
giao công nghệ từ công ty mẹ sang công ty chi nhánh cũng như từ nước mẹ
sang nước chủ nhà, thực hiện đào tạo cán bộ quản lý và công nhân lành nghề
Do đó, các TNC trở thành lực lượng có vai trò quan trọng trong việc thúc
đẩy cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới. Đồng thời chúng
chiếm giữ một vị tri to lớn trong việc thực hiện cách mạng khoa học và công
nghệ, thực hiện quá trình công nghiệp hoá ở các nước đang phát triển. Điều
đó đòi hỏi các quốc gia trên thế giới phải có chiến lược kinh tế đúng đắn mới
có thể tận dụng được cơ hội để ứng dụng được các thành tựu khoa học -
công nghệ tiến tiến trên thế giới (các thành tựu khoa học - công nghệ mới
phần lớn nằm trong tay các TNC), mới có khả năng tránh được nguy cơ tụt
hậu về kinh tế.
19
Thứ tư, tăng nguồn vốn ngoại lực cho các nước đang phát triển, là lực
lượng chủ yếu thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài, thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu kinh tế.
Cần hiểu thêm rằng, nguồn vốn trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
không chỉ là bằng tiền mà nó còn bao hàm cả công nghệ, trình độ quản lý, cổ
phiếu, trái phiếu v.v... vốn không phải chỉ của riêng một nhà kinh doanh hay
một nước mà là vốn quốc tế nói chung - quốc tế hoá nguồn vốn. Hiện nay,
thương mại nội bộ các TNC và thương mại giữa các TNC với nhau chiếm
khoảng 2/3 thương mại thế giới, trên 4/5 đầu tư trực tiếp ra nước ngoài trên
thế giới là do TNCs tiến hành, hơn 9/10 thành quả nghiên cứu triển khai kỹ
thuật và chuyển giao kỹ thuật trên thế giới nằm trong tay các TNC. (2)
Lực lượng chủ yếu thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là các
TNC (hiện tại các TNC chiếm khoảng 90% lượng vốn FDI). Nguồn vốn FDI
không chỉ có vai trò quan trọng trong việc tạo ra các thành quả về các mặt
như: chuyển giao công nghệ, tạo thêm việc làm, phát triển các dịch vụ và các
nguồn phụ thêm khác cho các nước chủ nhà mà nguồn vốn này còn có tác
động rất lớn đến sự biến đổi cơ cấu kinh tế của nước chủ nhà qua sự biến đổi
cơ cấu đầu tư ở chính các nước này, tạo nên sự biến đổi cơ cấu kinh tế trên
phạm vi toàn cầu. Sự biến đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng trong
các công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng trong ngành nông nghiệp. Cùng
với sự biến đổi cơ cấu ngành, cơ cấu lao động, cơ cấu vùng cũng có sự biến
đổi theo, trong đó có sự hình thành các trung tâm thương mại, trung tâm
công nghiệp kỹ thuật cao, đồng thời cũng làm biến đổi cơ cấu lao động và cơ
cấu nghề nghiệp.
Thực tế cho thấy sự chuyển biến nền kinh tế của Việt Nam trong những
năm đổi mới là một minh chứng khẳng định sự đóng góp vô cùng quan trọng
của vốn đầu nước nước ngoài. Sáu tháng đầu năm 2006 vốn đầu tư trực tiếp
20
nước ngoài tăng khá nhanh, tổng vốn của các dự án cấp phép mới và vốn
đăng ký tăng thêm của các dự án đang hoạt động ước đạt 2.845 triệu USD. (3)
Các quốc gia đang phát triển nếu có chiến lượng sử dụng được lợi thế
của mình sẽ thúc đẩy sự chuyển biến cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ phù
hợp với yêu cầu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, Chính sự biến
đối cơ cấu kinh tế theo chiều hướng tích cực sẽ có tác động rất lớn tới quá
trình tăng trưởng kinh tế của các nước chủ nhà và góp phần tăng trưởng kinh
tế trên phạm vi toàn cầu.
Thứ năm, các TNC đã góp phần quan trọng tạo động lực cạnh tranh
mạnh mẽ, do đó thúc đẩy quá trình cải cách về mọi mặt ở các nước đang
phát triển để phát triển.
Hội nhập kinh tế quốc tế vừa tạo cơ hội, nhưng cũng vừa là sức ép lớn
thúc đẩy các quốc gia phải đẩy mạnh cải cách về mọi mặt để phát triển trong
xu thế toàn cầu hoá. Hiện nay có nhiều quốc gia trên thế giới đã tận dụng tốt
các cơ hội để phát triển và sự có mặt của các TNC đã buộc các quốc gia phải
tham gia vào xu thế cạnh tranh toàn cầu, do đó đã thúc đẩy quá trình cải
cách để cùng phát triển.
Chẳng hạn, ở Trung Quốc, nhờ quá trình toàn cầu hoá kinh tế quốc tế
mà Trung Quốc đã tiến hành thực hiện cải cách một cách tích cực. Tính đến
cuối năm 2004 đã có 3000 văn bản pháp quy ở cấp Trung ương đã bị huỷ bỏ,
sửa đổi hoặc bổ sung thêm, trên 200000 văn bản của chính quyền địa
phưong cũng bị huỷ bỏ. Do vậy, nền kinh tế Trung quốc tiếp tục được tạo
những hành lang mới pháp lý để phát triển và ngày càng đạt được những
thành tựu to lớn. (4)
Thứ sáu, sự hoạt động của TNCs đã góp phần quan trọng trong việc tạo
việc làm trực tiếp và gián tiếp cho người lao động ở các nước đang phát
triển, qua đó góp phần làm tăng thu nhập tăng trưởng kinh tế.
21
Mục tiêu hoạt động phổ biến của các TNC trên phạm vi toàn cầu là
tranh thủ giá cả sức lao động rẻ ở các quốc gia đang phát triển. Do đó với số
lượng các TNC ngày càng lớn và sự có mặt của các TNC ở khắp các quốc
gia trên thế giới cho thấy quy mô và khả năng tạo việc làm của các TNC trên
phạm vi toàn cầu.
Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới, năm 1995 với 100 TNC hàng đầu
thế giới và 50 TNC lớn nhất của các nước đang phát triển đã tạo ra được
5.800.000 và 470.000 việc làm ở các nước phát triển và đang phát triển.
Trong 100 TNC hàng đầu thế giới, bình quân mức tăng việc làm ở nước
ngoài đạt 4% giữa các năm 1993 - 1995. (5). Các TNC còn tạo việc làm gián
tiếp thông qua các hoạt động liên kết, cung cấp dịch vụ cho các công ty nội
địa. Đầu những năm 1990, nếu tính cả số việc làm được tạo ra một cách trực
tiếp và gián tiếp thì TNCs đã tạo việc làm cho khoảng 150 triệu người lao
động, chiếm khoảng 3% lực lượng lao động thế giới. Trong đó số có việc
làm trực tiếp là 73 triệu người và có gần 60% nhân viên làm việc ở các TNC
mẹ, còn 40 % là làm việc ở các tổ chức khác nhau ở nước ngoài. Tính đến
năm 1996, 500 công ty hàng đầu thế giới đã tạo việc làm cho hơn 35,5 triệu
lao động. Chẳng hạn, năm 1996 GMC có số lao động lớn nhất 647.000
người; Ford Motor là 371.000 người, Uniliver là 306.000 người và US
Postal Service là 88.000 người. (6)
Thứ bẩy, các TNC đã và đang có vai trò quan trọng về đào tạo nguồn
nhân lực có hàm lượng chất xám ngày càng cao.
Chúng ta biết rằng sự phát triển của mỗi quốc gia nói riêng và trên
phạm vi toàn cầu nói chung được tạo bới nguồn nhân lực có chất lượng cao.
Nguồn nhân lực là động lực tạo nên khả năng tăng trưởng kinh tế. Thông
qua sự phát triển của chính bản thân mình các TNC đã chú trọng đến đào tạo
nguồn nhân lực về mọi mặt. Dưới các hình thức tài trợ tài chính khác nhau
22
các TNC đã đầu tư cho lĩnh vực giáo dục, đào tạo nghề ở các nước chủ nhà
thông qua: tài trợ phát triển giáo dục, khuyến khích học tập v.v..
Một hình thức phổ cập giáo dục có hiệu quả mà các TNC thường áp
dụng đó là sử dụng hệ thống đào tạo qua mạng Internet, dưới hình thức này
nguồn nhân lực ở các quốc gia có thể nâng cao trình độ một cách cập nhật.
Hơn nữa, xu thế toàn cầu hoá đã tạo động lực mạnh mẽ trong việc áp
dụng công nghệ hiện đại vào tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, nó đòi hỏi
các TNC phải có chiến lược đào tạo cán bộ, nâng cao kỹ năng quản lý của
các TNC. Chính yếu tố này sẽ góp phần quan trọng tạo nên khả năng cạnh
tranh lớn cho các TNC. Vì vậy, hàng năm chi phí cho giáo dục nghề nghiệp
của cán bộ công nhân viên của TNC thường không dưới 80 tỷ USD. Các
TNC đã tích cực áp dụng các công nghệ và hệ thống dạy học hiện đại và các
khoá học khác nhau để nâng cao chất lượng dạy học. Chẳng hạn, ở tập đoàn
IBM tỷ trọng các chương trình dạy học trên nhiều phương tiện thông tin đại
chúng đã tăng trong thời gian từ 1998 – 2000 từ 10% lên 37% (7)
Mặt khác thông qua hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài các TNC đã
trợ giúp tài chính cho các chương trình nghiên cứu, đào tạo nghề và đào tạo
kỹ năng quản lý, qua đó người lao động được nâng cao trình độ về mọi mặt:
kỹ năng nghề nghiệp, kỹ năng quản lý, hiểu biết pháp luật, tác phong làm
việc theo lối công nghiệp.v.v.. từ đó tạo nên hiệu ứng lan toả các kỹ năng
này ở các quốc gia có sự hoạt động của các TNC.
1.3. Bài học kinh nghiệm thu hút FDI của TNCs ở các nƣớc trong khu vực
Qua nghiên cứu kinh nghiệm phát triển các hình thức đầu tư trực tiếp
nước ngoài ở các nước trong khu vực Châu Á, đặc biệt là Trung Quốc(phụ
lục số 1), có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cho các nước đang phát
triển như sau:
23
- Cần mạnh dạn phát triển các hình thức FDI phù hợp với điều kiện
thực tế của đất nước trong từng giai đoạn phát triển, đặc biệt, trong giai đoạn
đầu, bên cạnh các hình thức đầu tư thông thường nên khuyến khích và tạo
điều kiện phát triển hình thức BOT nhằm phát triển nhanh cơ sở hạ tầng để
tạo lợi thế vị trí thu hút FDI.
- Để tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn FDI, Chính
phủ nước sở tại phải nỗ lực tạo dựng các điều kiện cần thiết cho việc hình
thành và phát triển các hình thức FDI ở nước mình cụ thể là phải tạo hành
lang pháp lý cho các hình thức FDI, hoàn thiện các điều kiện về hạ tầng kinh
tế - xã hội, phát triển thị trường vốn trong nước…
- Để thu hút FDI của TNCs, các chính sách ưu đãi về tài chính không
đủ hấp dẫn đầu tư mà cần phải mạnh dạn phát triển các hình thức FDI phù
hợp với cơ cấu tổ chức của TNCs như cho phép thành lập chi nhánh Công
ty, thành lập Công ty holding (mô hình Công ty mẹ - con) và doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài. Đồng thời, cần chuẩn bị hành lang pháp lý để thực
hiện lộ trình mở cửa cho đầu tư nước ngoài tham gia vào các lĩnh vực
thương mại, dịch vụ.
- Kinh nghiệm của các nước cho thấy, chính sách minh bạch, rõ ràng,
ổn định có ý nghĩa hết sức quan trọng trong thu hút FDI. Các nước đang
phát triển cần tiếp thu kinh nghiệm này trong quá trình hoàn thiện hệ thống
pháp luật của mình, đặc biệt là khi xây dựng các chính sách liên quan đến
hoạt động FDI.
24
Chƣơng 2 THỰC TRẠNG ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP CỦA CÁC CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA (TNCs) VÀO VIỆT NAM VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
2.1. Thực trạng FDI của TNCs vào các lĩnh vực của nền kinh tế Việt
Nam.
2.1.1 Lĩnh vực Công nghiệp – Xây dựng Hiện nay khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm trên 1/3 giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp, với nhiều sản phẩm có sức cạnh tranh ở cả thị trường trong nước và xuất khẩu. tímh đến hết năm 2005, trong lĩnh vực công nghiệp – xây dựng (CN - XD) đã có 4,053 dự án đầu tư nước ngoài được cấp phép với tổng vốn đăng kí. Tuy nhiên, dòng vốn FDI vào lĩnh vực CN – XD không đồng đều qua các năm. Nếu như trong giai đoạn 1988 – 1995 FDI đã tăng liên tục và đạt đỉnh cao vào năm 1995 với 3,8 tỷ USD đăng kí thì trong giai đoạn 1996 – 1999 đã suy giảm và từ 2001 đến nay dòng vốn này đã có dấu hiệu phục hồi.
Thời điểm 1988 – 1990, Việt Nam bắt đầu thực hiện chính sách thu hút đầu tư nước ngoài, thể chế kinh tế thị trường bắt đầu được hình thành , cơ sở hạ tầng yếu kém, hệ thống pháp luật chính sách chưa hoàn thiện. Do vậy trong 3 năm đầu tư cả nước mới thu hút ddược 213 dự án đầu tư nước ngoài với vốn đăng kí 561 triệu USD, chiếm 40,1% tổng số vốn dầu tư.
Giai đoạn 1991 – 1995, dòng vốn FDI vào Việt Nam tăng mạnh, trong 5 năm đã có 1.416 dự án được cấp phép với tổng vốn đầu tư đăng ký 17,01 tỷ USD. Trong xu hướng chung đó, FDI vào lĩnh vực CN – XD cũng tăng liên tục, từ 685,5 triệu USD năm 1991 đã đạt 3,8 tỷ USD vốn đầu tư đăng ký vào năm 1995. Tính chung trong 5 năm, lĩnh vực CN – XD đã thu hút được 9,02 tỷ USD vốn đầu tư đăng ký, tập chung chủ yếu trong các ngành công nghiệp nặng (36,3%), công nghiệp nhẹ (21,4%), xây dựng (17%), công nghiệp thực phẩm và dầu khí (25,3%).
Giai đoạn 1996 – 1999 khủng hoảng tài chính khu vực đã dẫn tới sụt giảm đầu tư ra nước ngoài của các nứơc đối tác hàng đầu của Việt Nam như:
25
Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan, … Vốn FDI vào lĩnh vực CN – XD giai đoạn này đã sụt giảm trong 4 năm liên tiếp xuống mức thấp nhất vào năm 1999 với 1,58 tỷ USD vốn đăng ký. Tuy nhiên tình hình chung cả 5 năm, nguồn FDI vào lĩnh vực CN – XD đạt 11,25 tỷ USD tăng 25% so với 5 năm trước. Trong đó, ngành công nghiệp nặng chiếm 36,5%, ngành công nghiệp nhẹ chiếm 16%, xây dựng chiếm 20,1%, công nghiệp thực phẩm chiếm 13,5%, công nghiệp dầu khí chiếm 13,4%.
Giai đoạn từ năm 2000 đến nay: Từ năm 2000 dòng FDI vào lĩnh vực CN – XD đã bắt đầu phục hồi tuy chưa vững chắc. Năm 2001 đạt 2,4 tỷ USD, tuy nhiên đã giảm xuống mức 1,97 tỷ USD trong năm 2002 và tiếp tục tăng nhẹ từ năm 2003. Năm 2004, có một số dự án quy mô lớn như: Công ty liên doanh khai thác chế biến khoáng sản Núi Pháo (Canada) với tổng vốn đầu tư 147 triệu USD; Công ty đầu tư và phát triển Thành Công (Trung Quốc) 114,58 triệu USD. Nhờ đó đã tạo đà khởi động cho một loại đầu tư của TNCs năm 2005. Năm 2005, có những dự án tăng vốn như: Công ty TNHH Canon, vốn 160 triệu USD; Công ty chế tạo công nghiệp VMEP vốn đầu tư tăng thêm 70,2 triệu USD; Công ty liên doanh Larkhanll, vốn bổ sung 62,5 triệu USD; Công ty Honda Việt Nam,vốn đầu tư tăng thêm 58 triệu USD; Công ty Toto Việt Nam, vốn đầu từ tăng thêm 52 triệu USD,… Tính chung trong 5 năm, FDI vào lĩnh vực CN – XD đã thu hút thêm 10,21 tỷ USD vốn đăng ký. Trong đó, công nghiệp nặng chiếm 43%, công nghiệp nhẹ chiếm 34,3%, công nghiệp dầu khí chiêm 12,1%, ngành công nghiệp
26
thực phẩm và ngành xây dựng giảm đáng kể, công nghiệp thực phẩm chiếm 4,3%, xây dựng chiếm 6,3%.
Trong lĩnh vực CN – XD nhóm các TNCs hàng đầu của Mỹ với 145 dự án và vốn đăng ký đạt trên 785,47 triệu USD, điển hình là dự án lắp ráp ô tô Ford với vốn đăng lý 102 triệu USD, dự án công ty sản xuất xà phòng, kem đánh răng Colgate Palmolive với 40 triệu USD, Cocacola trong lĩnh vực nước giải khát với 358,6ud tại thành phố Hồ Chí Minh… Phần lớn các TNCs Mỹ chọn hình thức đầu tư vốn 100% với 113 dự án (chiếm 65%), tổng vốn đăng ký là 680,52 triệu USD (chiếm 60%); 47 dự án liên doanh (chiếm 27%), tổng vốn đầu tư đăng ký là 340,26 triệu USD (chiếm 30%); và 14 dự án hợp doanh (chiếm 8%) với vốn đăng ký là 113,42 triệu USD (chiếm 10%).
Cho đến nay, Việt Nam đã cấp 26 giấy phép cho các tập đoàn dầu khí lớn nhất thế giới ở cả 4 Châu lục là Bắc Mỹ, châu Âu, châu Úc và châu Á theo các hợp đồng phân chia sản phẩm để thăm dò và khai thác dầu khí ở thềm lục địa Việt Nam. Theo đó, không kể số vốn của Liên doanh Việt Xô Petro và các TNCs đầu tư vào những lĩnh vực liên quan đến dầu khí, chỉ riêng tổng số vốn đầu tư vào thăm dò trong lĩnh vực liên quan đến dầu khí đã lên tới xấp xỉ 1,9 tỷ USD. Ngay từ những năm 70, các công ty Agip (Italia), Deminex (Đức), Companie Generale de Geophysique (Pháp) đã có những hợp đồng thăm dò dầu khí thềm lục địa phía Nam. Sau đó là những tập đoàn có tên tuổi và tầm cỡ quốc tế của Tây Âu, khoảng 70% tổng vốn đầu tư của Anh ở Việt Nam tập trung vào lĩnh vực dầu khí. Trong số 7 công ty dầu khí lớn của Anh đang hoạt động ở Việt Nam thì đều là những tập đoàn lớn như: BP, Enterprise Oil, Castrol, British Gas, BBL, Shell,… Đáng kể là dự án hợp doanh giữa tập đoàn BP và Statoil (Nauy), có tổng vốn đầu tư 1,8 tỷ USD, trong đó Anh đóng góp 1 tỷ USD. Hay liên doanh giữa tập đoàn Total (Pháp) vứi Shell (Anh – Hà Lan) dành được hợp đồng thăm dò lô số 10, 11 ở phía Tây Nam mỏ Đại Hùng, tổng vốn đầu tư cho hợp đồng này lên đến 80 triệu USD. Bên cạnh đó, Total còn xíc tiến hoạt động trong lĩnh vực năng lượng, hoá chất, xây dựng, mạng lưới bán xăng dầu, hơi đốt hoá
27
lỏng. Vừa qua Chính phủ Việt Nam mới cấp giấy phép cho dự án liên doanh nhựa đường Total với vốn đầu tư 198 triệu USD.
Bảng 2.1: Một số tiêu chí của các TNC trong lĩnh vực CN – XD
Stt Khu vực và quốc gia
Lao động (người)
I
Châu á Nhật Bản Hàn Quốc Đài Loan Singapore Số TNCs Vốn đầu tư (triệu USD ) 8.652 2.377 1.661 1.907 1.972 147 52 23 15 15 112.777 32.750 44.021 7.544 7.601
II
Châu Âu Pháp Hà Lan Anh 54 16 12 8 4.432 652 1.456 1.036 18.284 5.069 3.933 2.019
III
Châu Mỹ Mỹ B.V.Islands 35 25 5 1.229 537 159 9.352 2.649 3.338
14.155 240 141.673
Tổng = I + II + III + Châu úc Nguån: T¸c gi¶ tù tæng hîp trªn c¬ së sè liÖu cña Bé KÕ ho¹ch vµ §Çu t
Trong sè 240 TNC ® îc kh¶o s¸t trong lÜnh vùc CN – XD, cã 52 TNCs cña NhËt víi tæng vèn ®Çu tõ lµ 2,377 tû USD chiÕm 21,67% vÒ sè TNC vµ 16,79% vÒ vèn ®Çu t . C¸c TNC NhËt B¶n còng tËp trung chñ yÕu vµo c¸c lÜnh vùc c«ng nghiÖp mòi nhän mµ n íc ta cßn yÕu nhe: s¶n xuÊt vËt liÖu x©y dùng, c«ng nghiÖp « t«, xe m¸y; hµng ®iÖn tö vµ c¸c mÆt hµng c¬ khÝ cao cÊp. C¸c dù ¸n trong lÜnh vùc c«ng nghiÖp hiÖn chiÕm 65,4% tæng sè dù ¸n vµ 81,5% tæng sè vèn ®Çu t cña NhËt B¶n ®ang ho¹t ®éng. §èi víi ngµnh ®iÖn vµ ®iÖn tö, c¸c TNC NhËt B¶n ®ang ho¹t ®éng t¹i ViÖt Nam cung cÊp chñ yÕu lµ ti vi vµ c¸c thiÕt bÞ gia dông nh tñ l¹nh, m¸y giÆt,… Ngoµi ra c¸c c«ng ty nµy cßn cung cÊp mét sè thiÕt bÞ ©m thanh Hifi stereo, ®Çu DVD. Riªng lÜnh vùc l¾p r¸p vµ s¶n xuÊt « t«, c¸c c«ng ty NhËt tham gia ®«ng d¶o nhÊt víi 7 dù ¸n cã tæng vèn ®Çu t trong giai ®o¹n ®Çu 384 triÖu USD.C¸c TNCs NhËt B¶n ho¹t ®éng trªn kh¾p c¶ n íc ViÖt Nam. NÕu khu vùc phÝa
28
Nam tËp trung c¸c dù ¸n vÒ s¶n xuÊt thiÕt bÞ ®iÖn tö nh : Sony, Sanyo, Toshiba,… th× khu vùc phÝa B¾c lµ ®Þa ®iÓm ®Çu t cña NhËt vÒ lÜnh vùc ®éng c¬ nh: Toyota, Honda, Suziki,… Ti vi lµ thiÕt bÞ gia dông lµ nh÷ng s¶n phÈm cã nhu cÇu ®Æc biÖt cao trong thêi kú ®Çu cña qóa tr×nh ph¸t triÓn kinh tÕ do nguyÖn väng n©ng cao møc sèng cña ®¹i ®a sè quÇn hcóng. TNCs th êng x©y dùng c¸c nhµ m¸y t¹i thÞ tr êng tiªu thô ®Ó kh«ng bá lì c¬ héi kinh doanh. Ngoµi ra, c¸c s¶n phÈm nµy th êng cã khèi l îng vµ kÝch cì cång kÒnh, do vËt c¸c nhµ m¸y cÈn x©y dùng gÇn ®Þa ®iÓm tiªu thô ®Ó gi¶m chi chÝ vËn chuyÓn. Canon lµ vÝ dô ®iÓn h×nh, trong n¨m 2005 Canon tiÕn hµnh ®Çu t 100 triÖu USD ®Ó n©ng c«ng suÊt hµng n¨m tõ 600.000 bé s¶n phÈm lªn 1.200.000 bé s¶n phÈm. Nhµ m¸y míi ® îc x©y dùng ngay s¸t c¬ së cò (KCN Th¨ng Long) cho ra ®êi c¸c s¶n phÈm chøc n¨ng nh m¸y in cã tÝnh n¨ng ph«t« vµ scan. Canon cam kÕt sÏ n©ng tû lÖ néi ®Þa ho¸ tõ 5% lªn 15% theo quy m« s¶n xuÊt.
C¸c TNC NhËt B¶n ®ãng t¹i ViÖt Nam nh ng h íng vµo thÞ tr êng quèc tÕ th êng s¶n xuÊt c¸c thiÕt bÞ m¸y tÝnh ngo¹i vi vµ c¸c thiÕt bÞ ©m thanh. So víi viÖc s¶n xuÊt ti vi vµ ®å gia dông, c¸c c«ng ty thuéc lÜnh vùc kÓ trªn th êng cã xu h íng x©y dùng nhµ m¸y c¸ch xa thÞ tr êng tiªu thô. RÊt nhiÒu c«ng ty s¶n xuÊt c¸c thiÕt bÞ ©m thanh vµ ®iÖn tö, m¸y tÝnh ngo¹i vi ®ãng t¹i §«ng Á, nhưng xuất khẩu phần lớn sản phẩm của mình sang thị trường Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản
Mặc dù ban đầu các nhà đầu tư Nhật Bản vào Việt Nam còn rất dè dặt và mang tính chất thăm dò, tuy nhiên cho tới nay Nhật Bản đang và sẽ trở thành đối tác hàng đầu của Việt Nam. Xét về quy mô dự án, tính đến hết 31/ 12/ 2005 Nhật Bản có 600 dự án với vốn đăng ký 6,28 tỷ USD và vốn thực hiện đạt 4,67 tỷ USD, bình quân mỗi dự án là 10,48 triệu USD, cao hơn nhiều so với bình quan chung của các dự án đầu tư tại Việt Nam (8,46 triệu USD /dự án). Trong đó, Nhật Bản đã đầu tư 4,87 tỷ USD vào lĩnh vực CN – XD. Đến nay hầu hết TNCs hùng mạnh của Nhật Bản như: Sony, Mitsushita, Toyota, Honda,… đều đã có mặt ở Việt Nam với những dự án đầu tư quy mô lớn.
29
Bảng 2.2: Các dự án trong lĩnh vực công nghiệp – xây dựng do
TNCs đầu tƣ tại Việt Nam
(Đơn vị: triệu USD, người)
Tên TNCs Lĩnh vực đầu tư Nơi đầu tư
St t
Vốn đăng ký
1 Cocacola 2 Chrysler Đồ uống có ga Động cơ và ô tô Lao độn g 957 -
TP.Hồ Chí Minh 358.6 109.4 TP. Hồ Chí Minh Hải Dương
3 Ford 4 P&G 5 Mobil E Động cơ và ô tô Mỹ phẩm, hoá chất Bình Dương Khai thác dầu khí Rịa-Vũng 102.7 83 55 468 - -
Bà Tàu
46.423 Sản xuất gạch men Bình Dương Bình Dương 25 Đồ sứ vệ sinh TP.Hồ Chí Minh 40 - 30 493
6 American Home 7 American Stand 8 Colgate Palmolive Kem đánh răng 9 Kidweld Rịa-Vũng 39.585 35
10 Mitsubishi 11 Nisho Iwai 12 Fujitsu Dự án điện 40MW Bà Tàu Thanh Hoá Đồng Nai Đồng Nai Xi măng Phân bón Máy vi tính 347 151 198.8
13 Honda Xe máy Vĩnh Phúc 104
89.6 75
14 Toyota 15 Sanyo 16 Sony 17 Matsushita 18 Posco Ô tô Máy giặt Sản phẩm điển tử Điện tử, điện lạnh Thép Vĩnh Phúc Đồng Nai TP.Hồ Chí Minh 16.6 TP.Hồ Chí Minh 8 Hải Phòng 95.69 - - 254 6 210 8 684 434 500 224 542
Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài – Bộ kế hoạch và đầu tư FDI vào lĩnh vực CN – XD phân bố không đều giữa các địa phương. Trừ dầu khí, các dự án đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực CN – XD tập trung chủ yếu ở Đồng Nai, TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Hà Nội, Bà Rịa –
30
Vũng Tàu, Hải Phòng. Riêng vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (Thành Phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương và Bà Rịa – Vũng Tàu) đã thu hút được 2.236 dự án với số vốn 15,75 triệu USD, chiếm 56,7% số dự án và 51,8% tổng vốn đầu tư nước ngaòi vào lĩnh vực CN – XD của cả nước. Vùng kinh tế trọng điểm phí Bắc (Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Hải Dương) thu hút được 515 dự án với số vốn đăng ký 4,12 tỷ USD, chiếm 13,06% số dự án và 13,55% tổng số vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực CN – XD cả nước. Các dự án FDI vào lĩnh vực CN – XD có xu hướng trong lĩnh vực tập trung vào các khu công nghiệp ,khu chế xuất. Tính đến nay, các KCX-KCn đã thu hút được 1.416 dự án đầu tư nước ngaòi thuộc lĩnh vực CN – XD với tổng số vông đầu tư đăng ký trong ngành.
2.2.2. Lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp Những năm qua, hoạt động đầu tư nước ngoài đã tác động đáng kể cho sự phát triển lĩnh vực nông – lâm – ngu nghiệp. Tính đến hết tháng 12/ 2005, lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp có 789 dự án còn hiệulực đã đầu tư với tông số vốn là 3,775 tỷ USD, chiếm 13,08% số dự án và 7,4% vốn đầu tư đăng ký của khu vực đầu tư nước ngoài cả nước và phân vào các ngành chính như sau: trồng trọt chiếm 8,2%; chế biến nông sản, thực phẩm chiếm 49,2%; chăn nuôi và chế biến thức ăn gia súc chiếm 11,6%; trồng rừng và chế biến lâm sản chiếm 22,6%; nuôi trồng thuỷ sản và chế biến lâm sản chiếm 8,4% vốn đầu tư đăng ký. Trong số các dự án còn hiệu lực nói trên có 585 dự án đã góp vốn triển khai, với số vốn đầu tư thực hiện là 1,775 tỷ USD. Bình quan hàng năm, toàn ngành thu hút khoảng 49,3 dự án với 235,9 triệu USD.
Bảng 2.3: Một số tiêu chí của các TNCs trong lĩnh vực nông – lâm – ngƣ nghiệp
Stt Khu vực và quốc gia Số TNCs
Lao động (người)
I
Châu á Đài Loan Nhật Bản Hàn Quốc Vốn đầu tư (triệu USD ) 320 89 64 39 27 8 5 5 5.504 837 878 273
31
II
Châu Âu Pháp Na Uy 8 3 2 273,4 237,7 13 3.097 2.702 69
III
Châu Mỹ Mỹ B.V.Islands 12 7 4 475,18 106,64 217 3.014 417 1.522
47 1.069 11.615
Tổng = I + II + III Nguồn : Tác giả tự tổng hợp trên cơ sở số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư Lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp đã thu hút 47 TNCs với vốn đầu tư 1.069 triệu USD và 11.615 lao động trực tiếp, chưa kể đến số lượng lớn các lao động thời vụ cũng như các lao động khác trong khu vự nông nghiệp chăn nuôi trồng trọt để cung cấp các sản phẩm cho ngành chế biến thực phẩm và chế biến thức ăn gia súc. Trong đó, nhóm các TNCs của Châu Á chiếm phần lớn về số TNCs và lao động với các số liệu tương ứng là 27 TNCs và 5.504 lao động. Các TNC Mỹ đã đầu tư vào Việt Nam 106,64 triệu USD và tạo ra 417 việc làm. Điển hình là công ty Cargiel chuyên chế biến sản phẩm nông nghiệp tại Đồng Nai đã đầu tư 4,2 triệu USD vào thu mua, xuất khẩu cafe tại Lâm Đồng. Trong khi, lĩnh vực này vẫn đang được coi là “sở trường” của các nhà đầu tư Pháp. Trong số 8 TNCs của Châu Âu với số vốn 273,4 triệu USD, Pháp chỉ có 3 TNCs nhưng số vốn lại chiếm tới 86,9% với 237,7 triệu USD. Có thể điểm tên các dự án quan trọng như: Tập đoàn Buorbon xây dựng nhà máy đường tại Tây Ninh với vốn đầu tư 113 triệu USD, nâng cấp nhà máy đường Yuanpa ở Gia Lai vơi 25,55 triệu USD. Tập đoàn Sivex, đầu tư 2 dự án liên doanh về sản xuất phân bón và cung cấp hạt giống tại Bà Rịa – Vũng Tàu, với 30,3 triệu USD và một dự án sản xuất thức ăn bột cá tại Đồng Nai với 50 triệu USD; France Hybrides Crop đầu tư 1,858 triệu USD vào xst heo giống tại Đồng Nai,… Bên cạnh đó một số TNCs của Đài Loan, Xingapore, Thái Lan, Hà Lan,… cũng có những dự án lên đến trên 20 triệu USD trong lĩnh vực nông nghiệp. (Xem chi tiết Phụ lục 5).
Cơ cấu vốn đầu tư của TNCs trong lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp đã thay đổi theo hướng tích cực, phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành. Trong những năm đầu, nguồn vốn đầu tư của TNCs của yếu
32
hướng vào lĩnh vực chế biến gỗ và các loại lâm sản. Từ năm 1994, nguồn vốn đầu tư từ TNCs được thu hút khá đồng đều vào lĩnh vực trồng trọt, chế biến thuỷ sản, sxr đường mía, sản xuất thức ăn chăn nuôi, chăn nuôi gia súc gia cẩm, trồng rừng và sản xuất nguyên liệu giấy. Đa số các chủ đầu tư chú trọng vào việc lựa chọn địa bàn đầu tư và cùng nguyên liệu truyền thống, phù hợp và thuận lợi với thổ nhưỡng, khí hậu cho việc phát triển nguồn nguyên liệu cho nhà máy (như các dự án mía đường tại các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, các tỉnh Đông Nam Bộ, các dự án trồng chè, trồng rau và hoa tại cá tỉnh miền núi phía Bắc, Lâm Đồng,…). Trừ một số dự án sản xuất đường mía, thức ăn chăn nuôi, các dự án trồng rừng và chế biến nguyên liệu giấy có quy mô hàng trục triệu USD, phần lớn các dự án đầu tư của TNCs vào ngành nông – lâm – thuỷ sản có quy mô nhỏ (dưới 10 triệu USD) và gần với nguồn nguyên liệu địa phương. Đây là đặc điểm riêng của ngành vì các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường có tính năng động cao, thích ứng nhanh với biến động thị trường, phù hợp vơi điều kiẹn Việt Nam có khả năng góp vốn, năng lực tiếp thu công nghệ, kinh nghiệm tổ chức quản lý, khia thác tốt tiềm năng trong nông nghiệp – nông thôn, tạo được nhiều việc làm mới.
Phần lớn các ngành trong lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp không thuộc danh mục đầu tư có điều kiện, nên có đến 13 TNCs (trong số 47 TNCs) là doanh nghiệp theo hình thức 100% vốn nước ngoài, chiếm 76,6% và số vốn đầu tư là 781,68 triệu USD (trong số 1.069 triệu USD), chiếm 73%, Hình thức này phù hợp với yêu cầu vốn điều hành hoạt động của doanh nghiệp cũng như những rủi ro cao của lĩnh vực này. Trong đó hình thức liên doanh chiếm 26,7% vốn đàu tư, 21,28% số lưọng dự án. Trong số các dự án 100% vốn nước ngoài, đa số thuộc các nước Đài Loan, Pháp, Thái Lan, Hàn Quốc, Xingapore, Mỹ và B.V.Islands, còn trong hinng thức liên doanh có khoảng 81% dự án của Pháp, Hồng Kông, Nhật Bản.
Theo báo cáo từ các doanh nghiệp đã đi vào sản xuất kinh doanh, tổng doanh thu hàng năm bình quân đạt 312 triệu USD và tăng dần trong các năm liên tiếp theo (năm 1999 tăng 37% so với năm 1998, năm 2000 tăng gần 2 lần năm 1999, năm 2002 tăng 52% so với năm 2001). Từ năm 1998 cho
33
tớinay, doanh thu luỹ kế của lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp đạt trên 5 tỷ USD.
Giá trị xuất khẩu từ năm 2001 đến nay tăng gấp 2 lần so với giai đoạn 1991 – 1995. Trong vài năm gần đây giá trị xuất khẩu đã tăng lên, năm 2001 tăng 16% so với năm 2000, năm 2002 tăng 31% so với năm 2001. Từ năm 1998 đến any, doanh thu xuất khẩu luỹ kế của lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp đạt trên 1,5 tỷ USD (chiếm 31% tổng doanh thu).
Nộp ngân sách của khu vực đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp tuy mới đạt mức khiêm tốn khoảng 200 triệu USD (từ năm 1998 đến nay), nhưng đã tăng dần qua các năm (giai đoạn 1996 – 2000 tăng gấp 10 lân so với giai đoạn 1991 – 1995). Nguyên nhân do phần lớn các dự án thuộc lĩnh vực và địa bàn khuyến khích đầu từ đang được hưởng chính sách ưu đãi miễn, giảm thuế và mức tiền thuê đất trong những năm đầu.
2.2.3. Lĩnh vực dịch vụ Theo bản thống kê đầu tư nước ngoài hiện nay lĩnh vực dịch vụ bao gồm: xây dựng và vận hành tổ họp khách sạn; khu du lịch; giao thông vận tải; bưu chính viễn thông; xây dựng và kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất; phát triển các khu đô thị mới; xây dựng và vận hành các khu văn phòng, căn hộ, nhà ở, văn hoá, y tế, giáo dục; tài chính – ngân hàng và các ngành dịch vụ khác.
Tính đến 12/ 2005, trong lĩnh vực dịch vụ có 1.142 dự án còn hiệu lực, chiếm 19,5% tổng số dự án đầu tư nước ngoài còn hiệu lực ở Việt Nam. Vốn đầu tư đăng ký trong lĩnh vực dịch vụ là 16,054 tỷ USD, chiém 32% tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký tại Việt Nam, trong đó 6,386 tỷ USD đã được thực hiện, chiếm 24,5% tổng vốn đầu tư nước ngoài đã được thực hiện. Nhìn chung, vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ có xu hướng biến động cùng chiều với sự biến động của dòng vốn đầu tư đăng ký vào Việt Nam, trong khi dòng vốn đầu tư vào lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp có xu hướng ít thay đổi. Trong giai đoạn trứơc năm 1999, sự biến động của dòng vốn đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ ảnh hưởng lớn tới sự biến động của dòng vốn nước ngoài vào Việt Nam. Từ năm 2000 vai trò của khu vực dịch
34
vụ có xu hướng giảm đi, dòng vốn đầu tư vào lĩnh vực CN – XD giờ đây có tác động mạnh mẽ tới sự biến động của dòng vốn đầu tư nứơc ngoài.
Xét về giá trị, dòng vốn đăng ký trong lĩnh vực dịch vụ trải qua 3 giai đoạn: giai đoạn tăng nhanh liên tục từ năm 1988 đến năm 1996, tiếp đó là giai đoạn suy giảm mạnh lên tiếp từ năm 1997 – 2000 (do khủng hoảng kinh tế châu Á) giai đoạn từ năm 2001 đến nay là giai đoạn phục hồi, tuy chưa mạnh mẽ và rõ rệt:
Giai đoạn 1988 - 1996, giai đoạn đầu thực hiện chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài, do cơ sở hạ tâng của Việt Nam ở trình độ thấp, hành lang pháp lý chưa hoàn thiện và đồng bộ, thị trường chứa đựng nhiều yếu tố bất ổn, rủi ro cao nên các nhà đầu tư có khuynh hướng đầu tư vào các lĩnh vực thu hôi vốn nhanh. Bên cạnh đó, nhu cầu đầu tư vào các công trình hạ tầng phục hồi trực tiếp cho việc phát triển hạ tầng kinh doanh cho các giai đoạn sau như hạ tâng khu công nghiệp, khách sạn, viễn thông, hạ tâng giao thông,… là rất bức thiết, trong khi nguồn vốn và công nghệ trong nước trong các lĩnh vực này còn rất hạn chế. Các nhà đầu tư nước ngoài đã nắm bắt được cơ hội này nên vốn đăng ký trong lĩnh vực dịch vụ đã tăng liên tục cho đến trước khi diễn ra khủng hoảng tài chính khu vực, đạt đỉnh cao vào năm 1996 với tổn g vốn đăng ký lên tới 5,4 tỷ USD, chiếm tới 59,9% tổng vốn đăng ký tại Việt Nam của cả năm này.
Cuộc khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997 dẫn tới sự sụt giảm đầu tư ra nước ngoài của các nước đối tác chính của Việt Nam như Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước trong khối ASEAN. Việc đầu tư quá lớn vào lĩnh vực dịch vụ trong giai đoạn trước trong bối cảnh diễn ra khủng hoảng tài chính khu vực làm cho hàng loạt các dự án dịch vụ, đặc biệt là các khách sạn, văn phòng và khu du lịch,… rơi vào tình trạng thua lỗ. Các nguyên nhân này dẫn tới vốn đăng ký vào lĩnh vực dịch vụ đã giảm sút liên tục trong 4 năm liền từ năm 1997 và xuống thấp nhất vào năm 2000, với 133 triệu USD vốn đăng ký (bằng 2,5% của năm cao nhất) và chỉ chiếm tới 6,4% tổng vốn đăng ký. Tuy nhiên, năm 2000 cũng đánh dấu sự gia tăng trở lại của dòng vốn đăng ký vào
35
Việt Nam, chủ yếu là đầu tư vào ngành CN – XD (chiếm 88,8% tổng dòng vốn đăng ký của năm này).
Tính đến hết năm 2004, Việt Nam đã thu hút được 128 TNCs đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ với tổng vốn đầu tư 11.135 triệu USD. Trong lĩnh vực này, 15 TNCs của Xingapore đầu tư 4.122 triệu USD, chiếm 50,37% trong tổng vốn đầu tư 8.183,5 triệu USD của 69 TNCs đến từ châu Á. Hầu hết các TNCs của Xingapore đều đầu tư vào lĩnh vực xây dựng khách sạn, khu vui choi giả trí và các trung tâm thương mại. Điển hình như: Tập đoàn PID Investment Private xây dựng khu liên hợp gồm khách sạn, cửa hàng bán thực phẩm tại Hà Nội với số vốn 69,9 triệu USD, giải quyết cho 360 lao động; tập đoàn Antara Koh Development V Pte.,Ltd xây dựng một quần thể nhà ở,văn phòng, khách sạn, trung tâm thương mại với tổng vốn đầu tư lên tới 240 triệu USD; …
Tài chính – ngân hàng: TNCs về lĩnh vực này của Châu Âu vào Việt Nam tương đối sớm (1991 – 1992) như Credit Lyonnais (Pháp), Amono (Hà Lan), ANZ ( Ôxtrâylia), HongKong and Shanghai Banking Corporation – HSBC (Anh); Deutsch Bank (Đức), United Overseas Bank, Chase Manhattan Bank (Mỹ). Các dự án này có số vốn trung bình 15 triệu USD. Đây là những ngân hàng tầm cỡ trong giới ngân hàng – tài chính thế giới. Phạm vi hoạt động tại Việt Nam của các ngân hàng này rất rộng như tài trợ xuất nhập khẩu, cho vay ngắn hạn, trung hạn đối với các dự án lớn, chuyển tiền, tư vấn đầu tư, … Về dịch vụ bảo hiểm cũng đã có mặt một số công ty như: Prudential bảo hiểm nhân thọ với số vốn đầu tư 60 triệu USD, Prudential & AGF bảo hiểm phi nhân thọ AIA bảo hiểm y tế. Ngoài ra còn có sự tham gia của một số tập đoàn khác như Commercial Union và Citi Group,…
Bên cạnh đó, lĩnh vực bưu chính – viễn thông ở Việt Nam hiện nay cũng đang được nhiều nhà đầu tư nước ngoài quan tâm. Đến giữa năm 1999, Việt Nam đã tiếp nhận được 14 dự án của TNCs với tổng số vốn đầu tư là 1,545 tỷ USD và 25% trong số đó đã thực hiện (vào khoảng 388 triệu USD).Giai đoạn 1991-1995, vốn đầu tư cam kết là 413 triệu USD, nhưng
36
giai đoạn 1996 – 1998, mặc dù khu vực lâm vào khủng hoảng kinh tế, mức cam kết đầu tư vào lĩnh vực này vẫn đạt 845 triệu USD. Trong vòng 10 năm (từ 1991), doanh thu của ngành hàng năm tăng gấp 2 lần so với năm trước, tốc độ công nghệ đổi mới nhanh, đã hiện đại hoá cả sản xuất và dịch vụ. Sự hiện diện của các TNCs trong lĩnh vực này chủ yếu đến từ các nước châu Âu, Mỹ và châu Úc như: Erisson (Thuỷ Điển), Motorola (Mỹ), Telstra ( Ôxtrâylia),… TNCs của Pháp đã sớm có quan hệ hợp tác với Việt Nam với thiện chí chuyển giao công nghệ cao. Các TNCs tên tuổi như: Alcatel, France Telecom, Philips TRT, SAT, Siemens,… đã và đang có các sản phẩm tại Việt Nam. Tiên phong trong hợp tác kinh doanh là Alcatel. Kể từ năm 1990, Alcatel đã triển khai hàng loạt dự án cung cấp thiết bị viễn thông như tổng đài E10B cho các thành phố Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và nhiều tỉnh, thành khác trong cả nứơc, thiết bị chuyển mạch gói, truyền dữ liệu,… Tập đoàn Siemens (Đức) đầu tư vào lĩnh vực cáp quang trị giá 2,83 triệu USD. Hay dự án hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) giữa tổng công ty bưu chính – viễn thông và tập đoàn France Telecom phát triển mạng viễn thông ở khu vực TP Hồ Chí Minh, trị giá 615 triệu USD. Một điểm sáng khác của lĩnh vực viễn thông là dự án BCC về thông tin di động giữa tổng công ty bưu chính – viễn thông với Comvik – một công ty viễn thông của Thuỵ Điển với tổng vốn đầu tư phía Thuỵ Điển góp là 341 triệu USD. Dự án này đã thành lập lên mạng viễn thông di động Mobil Fone. Đây là một trong những mạng di động hoạt động có hiệu quả nhất tại Việt Nam cho đến thời điểm này. Ngoài ra là các dự án như xây dựng nhà máy điện với sự tham gia của một số công ty Đức (110 triệu USD); dự án xây dựng nhà máy nứơc Thủ Đức (120 triệu USD) với sự tham gia của Lyonaise des Eaux (Pháp)5 .
Trong lĩnh vực du lịch – khách sạn, Pháp cũng là đối tác châu Âu đi tiên phong đầu tư vào Việt Nam. Khởi đầu là dự án khách sạn Metropole trị giá 49 triệu USD, liên doanh giữa Công ty Du lịch Hà Nội với Feal International và Societede Devel thuộc tập đoàn kinh doanh khách sạn phong cách Pháp nổi tiếng thế giới. Đây được xem là một khách sạn đang hoạt động có hiệu quả nhất tại Việt Nam. Ngoài ra, phải kể đến các dự án
37
khách sạn Mercure (Thành phố Hồ Chí Minh) 76 triệu USD, Soiftel Đà Lạt 40 triệu USD. Các TNCs Nhật Bản trong lĩnh vực du lịch rất khiêm tốn chỉ chiếm 10% tổng vốn đầu tư của Nhật vào Việt Nam.
Ngoài ra trong lĩnh vực ý tế cũng có sự tham gia tích cực của một số TNCs như: Công ty US – International hospital trong lĩnh vực dịch vụ y tế có trụ sở chính tại Hà Nội đã đàu tư 50 triệu USD; Uukaria S.A (Pháp) đã xây dựng một bệnh viện đa khoa tại Hà Nội với 28,5 triệu USD dưới hình thức 100% vốn nước ngoài; hay như Lab Group International cũng của Pháp đầu tư 3,8 triệu USD vào lĩnh vực y tế tại TP Hồ Chí Minh. Tiếp đến là tập đoàn Far East medical HK Ltd của Hồng Kông, đầu tư 39 triệu USD xây dựng bệnh viện tại TP Hồ Chí Minh.
Bảng 2.4: Vốn của các TNCs trong lĩnh vực dịch vụ theo hình thức đầu tƣ.
100% HĐHTKD BOT Tổng 43 1.259 Liên doanh 75 7.688 9 1.769 1 149 128 11.135 (triệu tư
Hình thức đầu tư Số TNCs Vốn đầu USD) Nguồn: Tác giả tự tổng hợp trên cơ sở số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Số lượng dự án 100% vốn nước ngaòi có xu hướng gia tăng trong lĩnh vực dịch vụ nói riêng và trong toàn nền kinh tế nói chung. Tuy nhiên, các dự án 100% vốn nước ngoài thường nhỏ bé về quy mô, khả năng tài chính của TNCs có phần nào hạn chế do TNCs dường như còn e ngại về số các rào cản – chủ yếu xuất phát do nhân tố chủ quan của nước chủ nhà như: hệ thống chính sách pháp luật vừa thiếu, vừa yếu vừa không rõ ràng; quan điểm xử lý còn rất khác nhau giữa các cơ quan cùng cấp và khác cấp. Các TNCs dường như ít lựa chọn hình thức 100% vốn nước ngoài để đầu tư trong lĩnh vực dịch vụ mà thường chọn một đối tác Việt Nam để hợp tác kinh doanh. Các TNCs trong lĩnh vực dịch vụ dưới hình thức liên doanh, chiếm 58,59% về số lượng TNCs và 69% về vốn đầu tư. Trong khi, con số này tương ứng dưới hình thức 100% vốn nưới ngoài chỉ là 33,59% và 14%. Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (HĐHTKD) chỉ chiếm coa 7,03% về số TNCs, nhưng
38
lượng vốn đầu tư lại chiếm tới 16% cho thấy quy mô của mỗi dự án theo hình thức này là tương đối lớn.
2.2. Các hình thức FDI của TNCs ở Việt Nam
Thứ nhất, hình thức doanh nghiệp liên doanh:
Cho đến nay, đầu tư trực tiếp nước ngoài của TNCs ở Việt Nam chủ
yếu được thực hiện dưới hình thức doanh nghiệp liên doanh: chiếm 33% số
dự án và 49% vốn đầu tư đã được cấp phép. Đến hết tháng 12 năm 2003 đã
có 1.798 dự án FDI đầu tư theo hình thức liên doanh với tổng vốn đăng ký
27,4 tỷ USD, trong đó số vốn đã thực hiện đạt hơn 11,8 ty USD, tạo gần
154.000 việc làm trực tiếp.
Xuất phát từ định hướng thu hút đầu tư của Nhà nước, hầu hết các
doanh nghiệp lớn, hoạt động trong lĩnh vực kinh tế quan trọng như kinh
doanh bất động sản, sản xuất xi măng, sắt thép, phân bón, hoá chất, lắp ráp
ôtô, xe máy, điện tử… đều là doanh nghiệp liên doanh. Hình thức này chiếm
tới 90% vốn đăng ký đầu tư trong lĩnh vực kinh doanh khách sạn du lịch,
84% vốn đăng ký đầu tư trong lĩnh vực kinh doanh văn phòng căn hộ, 81%
vốn đăng ký trong lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng.
Từ năm 1996 trở về trước, hình thức doanh nghiệp liên doanh chiếm
đa số cả về số dự án FDI được cấp phép và tổng vốn đăng ký đầu tư. Tuy
nhiên sau khi Luật đầu tư nước ngoài (1996) được ban hành với các quy
định thu hẹp các lĩnh vực và giảm bớt điều kiện hạn chế đối với hình thức
đầu tư 100% vốn nước ngoài, thì số lượng dự án và vốn đăng ký đầu tư theo
hình thức doanh nghiệp liên doanh bị giảm sút nhanh chóng. Tỷ lệ dự án
theo hình thức này trong tổng số dự án được cấp phép giảm từ 81% năm
1991 xuống còn 15% năm 2003, tỷ trọng vốn đăng ký đầu tư theo hình thức
này cũng giảm từ 77,7% năm 1996 xuống còn 17,1% năm 2003 (xem phụ
lục 2 và 3).
Nghiên cứu sự vận động của hình thức doanh nghiệp liên doanh
(1988-2003) có thể thấy, hình thức này vận động theo 4 giai đoạn (xem hình
2-5):
39
+ Giai đoạn hình thành (1988-1990): số lượng dự án và tổng vốn đăng
ký được cấp phép đầu tư trong giai đoạn này còn ít, quy mô dự án nhỏ, tốc
độ phát triển chậm.
+ Giai đoạn phát triển mạnh (1991-1996), thể hiện ở sự gia tăng mạnh
mẽ số dự án và vốn đầu tư, với tốc độ tăng trưởng bình quân 35% năm, và
đạt cực đại vào năm 1996 với hơn 6,7 tỷ USD.
+ Giai đoạn suy giảm (1997- 2000) do ảnh hưởng của khủng hoảng tài
chính khu vực, thể hiện ở sự giảm sút liên tục về số dự án và tổng vốn đăng
ký được cấp phép. Năm 2000 cũng là năm có số dự án và vốn đăng ký đầu
tư theo hình thức này thấp nhất từ trước tới nay.
+ Giai đoạn từ 2001 đến nay, đầu tư theo hình thức này đã phục hồi
nhưng phát triển chậm chạp, tốc độ gia tăng hàng năm quá thấp.
40
Hình 2-5: Sự vận động của hình thức doanh nghiệp liên doanh thời
kỳ 1988-2003
Nguồn: Bộ Kế hoạch và đầu tư, 6/2004.
Quy mô dự án đầu tư theo hình thức doanh nghiệp liên doanh thường
nhỏ hơn hình thức hợp doanh nhưng lớn hơn doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài. Vốn đầu tư bình quân của một dự án theo hình thức này tăng từ 5,5
triệu USD/dự án vào năm 1988 lên 35,5 triệu USD/ dự án vào năm 1996 và
giảm mạnh trong những năm tiếp theo, xuống 2,9 triệu USD/dự án vào năm
2003 (xem hình 2- 6).
Hình 2-2: Sự thay đổi quy mô vốn đầu tƣ của các dự án FDI theo
hình thức đầu tƣ theo thời kỳ 1988-2003
Nguồn: Bộ Kế hoạch và đầu tư, 6/2004.
Các doanh nghiệp liên doanh đã góp phần vực dậy nhiều ngành công
nghiệp của Việt Nam bị suy thoái do mất thị trường khi Liên xô (cũ) và
Đông Âu tan rã, chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam theo hướng công
41
nghiệp hoá, cung cấp nhiều sản phẩm quan trọng cho nền kinh tế mà trước
đây vẫn phải nhập khẩu. Tuy nhiên, doanh nghiệp liên doanh còn có hạn
chế:
- Khả năng góp vốn của các doanh nghiệp Việt Nam rất thấp, bình
quân chỉ chiếm chưa đầy 30% vốn pháp định và dưới 19% vốn đầu tư của
các liên doanh; vốn góp chủ yếu bằng giá trị quyền sử dụng đất. Thông
thường toàn bộ vốn vay của liên doanh do bên nước ngoài thu xếp, nhiều
trường hợp lãi xuất cao và điều kiện vay rất khắt khe, trở thành gánh nặng
của doanh nghiệp, ảnh hưởng đến cán cân thanh toán quốc gia.
Với cơ chế doanh nghiệp Việt Nam góp vốn bằng giá trị quyền sử
dụng đất, Nhà nước cho doanh nghiệp Việt Nam nhận nợ, nhưng khi doanh
nghiệp Việt Nam chưa được chia lãi hoặc liên doanh thua lỗ thì Nhà nước
không thu được tiền cho thuê đất để góp vốn; trong khi đó, nếu cho doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài thuê đất, thì Nhà nước thu được ngay tiền thuê
đất. Ngoài ra, với cơ chế hiện nay, doanh nghiệp nào có quyền sử dụng đất
thì doanh nghiệp đó có thể liên doanh với nước ngoài cho dù ngành nghề
chuyên môn không phù hợp vơi mục tiêu hoạt động của liên doanh.
- Xét về bản chất, liên doanh là hình thức đầu tư mà các bên tham gia
là đồng sở hữu đối với tài sản của liên doanh, nhưng hai bên đối tác lại có
thể theo đuổi chiến lược riêng của mình. Điều đó tất yếu dẫn đến mâu thuẫn
nội bộ khó hoà giải, làm cho việc điều hành doanh nghiệp kém hiệu quả. Đối
với các liên doanh mà Bên nước ngoài là các TNCs, mục tiêu lâu dài của chủ
đầu tư nước ngoài là chiếm lĩnh thị trường Việt Nam, mục tiêu trước mắt là
khuyến khích người Việt Nam dùng sản phẩm của họ, nên chấp nhận bán
hàng với giá thấp và chi phí rất cao cho quảng cáo. Họ xác định chịu lỗ
trong một số năm để đẩy lùi các đối thủ cạnh tranh, giành giật thị trường
trong nước, điển hình là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực rượu,
42
bia, nước giải khát, hoá mỹ phẩm. Bên Việt Nam không đủ năng lực tài
chính để theo đuổi chiến lược kinh doanh này.
- Liên doanh thành công hay thất bại phụ thuộc rất nhiều vào trình độ
quản lý, điều hành của các nhà quản trị công ty. Nhìn chung, cán bộ Việt
Nam được cử sang làm việc trong các doanh nghiệp liên doanh với nước
ngoài đều chưa qua đào tạo quản lý kinh doanh, thiếu kinh nghiệm hợp tác
quốc tế. Nhiều cán bộ Việt Nam trong liên doanh với năng lực kinh doanh,
trình độ ngoại ngữ, hiểu biêt pháp luật chưa đáp ứng nhu cầu, thiếu quýêt
đoán, phụ thuộc nhiều vào các cấp lãnh đạo, đã không nắm chắc được tình
hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì thế, khi phải đối mặt với các
nhà kinh doanh nước ngoài lọc lõi, cán bộ Việt Nam chưa thể hiện được vai
trò là người đại diện và bảo vệ quyền lợi của đất nước, của đối tác Việt Nam
và của người lao động, dẫn đến hai biểu hiện:
Một là, “theo đuôi” Bên nước ngoài, đồng tình với họ trong mọi quyết
định, không khống chế được chi tiêu tài chính, dẫn đến để cho doanh nghiệp
ngày càng thua lỗ.
Hai là, “đấu tranh bất hợp tác” với đối tác nước ngoài. Trong mọi
công việc của liên doanh đều muốn có vai trò quyết định nên không dễ dàng
thống nhất với bên nước ngoài, dẫn đến làm mất cơ hội kinh doanh, chưa kể
đến các trường hợp mâu thuẫn giữa các bên kéo dài làm ảnh hưởng đến hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong hoàn cảnh đó, nguyên
tắc nhất trí trong Hội đồng quản trị là một trở ngại lớn, làm cho các nhà đầu
tư nước ngoài không muốn liên doanh với doanh nghiệp Việt Nam.
- Các đối tác liên doanh có xu hướng khai vống các chi phí đầu tư.
Năm 1995, Uỷ ban Nhà nước về Hợp tác và Đầu tư (SCCI) trước đây đã
thuê Công ty SGS (Societe Genneral de Surveilance) giám định lại giá trị
máy móc thiết bị tạo tài sản cố định của 14 doanh nghiệp liên doanh và phát
43
hiện 6 doanh nghiệp trong số trên đã khai vống giá trị thiết bị (xem bảng 2-
7).
Hiện tượng khai tăng giá trị thiết bị của phía nước ngoài gây thiệt hại
về tài chính cho nước tiếp nhận đầu tư. Khi đó, tỷ lệ góp vốn của phía đối
tác nước ngoài cao hơn so với thực tế và họ sẽ được chia lợi nhuận cao hơn
phần lợi nhuận họ đáng được hưởng. Nói cách khác, bằng cách tăng giá thiết
bị, phía đối tác nước ngoài đã chiếm đoạt một cách bất hợp pháp một phần
lợi nhuận của đối tác Việt Nam. Hơn nữa, việc gia tăng giá thiết bị sẽ làm
tăng chi phí khấu hao một cách giả tạo. Là một bộ phận của chi phí sản xuất,
nó sẽ được khấu trừ khi xác định lợi nhuận để tính thuế thu nhập doanh
nghiệp, kết quả là lợi nhuận của liên doanh giảm và ngân sách nhà nước
cũng bị thiệt hại.
44
Bảng 2-7: Chênh lệch giá thiết bị ở một số liên doanh
Tên liên doanh
Đối tác nƣớc ngoài
Giá giám định (Tr. USD)
Giá thực tế (Tr. USD)
Chênh lệch giữa giá giám định và giá thực tế (Tr.USD)
Tỷ lệ chênh lệch so với giá giám định (%)
HongKong 4.340 2.997 1.343 44.8
Philippines 5.820 4.210 1.610 38.2
Pháp 28.460 19.360 9.100 47.0
Đài Loan 1.009 0.650 0.359 55.2
Đài Loan 3.278 3.010 0.268 9.0
Đài Loan 3.497 3.004 0.493 16.4
1. Khách sạn Thăng Long 2. XN ôtô Hoà Bình 3. Công ty bia BGI TiềnGiang 4. Công ty SaigonVewong 5. Khách sạn Hà Nội 6. Công ty dệt Saigon - Jubo Cộng 44.404 33.231 13.173 39.6
Nguồn: [1, Việt Nam Đầu tư nước ngoài số 119 ra ngày 18/7/1995]
- Ở một số liên doanh, bên nước ngoài (công ty mẹ) trực tiếp cung ứng
nguyên liệu đầu vào và bao tiêu sản phẩm. Việc này có thể dẫn đến tình
trạng nâng giá đầu vào và hạ giá đầu ra gây ra thua lỗ, trong khi Bên Việt
Nam tham gia liên doanh không thể khống chế được, đồng thời Nhà nước
cũng không thể can thiệp, vì không có đủ cơ sở để xác định được giá thành
nguyên liệu đầu vào.
Trong thực tế, nhiều doanh nghiệp Việt Nam không có đủ năng lực tài
chính khi tham gia liên doanh, nên sau một thời gian triển khai dự án đã phải
chuyển nhượng toàn bộ quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong liên doanh cho
đối tác nước ngoài để chuỷên thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Tỷ
lệ đổ vỡ của các dự án liên doanh khá cao. Đến hết năm 2003 đã có 648 dự
án với tổng vốn đăng ký 9 tỷ USD (chiếm 36% về số dự án và 33% về vốn
đầu tư đã cấp phép) phải giải thể trước thời hạn.
45
46
Thứ hai, hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Tính đến hết 22 tháng 8 năm 2005 có 1.284 dự án đầu tư trực tiếp
nước ngoài tại Việt Nam theo hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài, với tổng vốn đăng ký ban đầu là 18,88 tỷ USD, trong đó số vốn đã
thực hiện đạt 10,3 tỷ USD, tạo ra 523.900 việc làm trực tiếp. Hiện có 62%
số dự án và 36% vốn FDI tại Việt Nam được cấp giấy phép theo hình thức
đầu tư này.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tập trung chủ yếu vào các ngành
sản xuất. Hình thức đầu tư này hiện chiếm 87% tổng số vốn FDI đăng ký
đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp nhẹ, 55% tổng vốn FDI trong lĩnh vực công
nghiệp nặng, 72% tổng vốn FDI trong lĩnh vực công nghiệp chế biến thực
phẩm, 63% tổng vốn FDI trong lĩnh vực nông - lâm nghiệp.
Nhìn chung tốc độ triển khai thực hiện dự án của các doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài nhanh hơn các doanh nghiệp liên doanh. Tỷ lệ các dự
án bị thất bại thấp hơn nhiều so với các hình thức đầu tư khác. Đến hết năm
2005 chỉ có 257 dự án đầu tư theo hình thức này với số vốn đăng ký 1,43 tỷ
USD phải giải thể trước thời hạn, chiếm 8% về số dự án và 7% về vốn đầu
tư đã cấp phép.
Sau khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam , đầu tư theo
hình thức này gia tăng nhanh chóng, so với tổng số dự án được cấp Giấy
phép đầu tư trong cùng thời kỳ, số dự án 100% vốn nước ngoài năm 1988-
1990 chỉ chiếm 10%, thì năm 1995 chiếm 43,8%, năm 1998 chiếm 53,4%,
năm 2000 chiếm tới 73% và năm 2003 chiếm tới 82%.Tuy tỷ trọng về vốn
đăng ký của hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài trong tổng vốn FDI luỹ
kế đến hết năm 2003 vẫn nhỏ hơn so với hình thức liên doanh, từ năm 2000
tổng vốn đăng ký của các dự án được cấp giấy phép đầu tư theo hình thức
100% vốn nước ngoài đã vượt xa hình thức doanh nghiệp liên doanh và
chiếm đa số tuyệt đối trong tổng vốn FDI thu hút được hàng năm (xem phụ
lục 2 và 3).
47
Nghiên cứu sự vận động của hình thức đầu tư này trong giai đoạn
1988-2005 có thể thấy, tác động của khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á
dẫn đến giảm sút cả về số dự án và vốn đăng ký đầu tư theo hình thức doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài trong năm 1998. Từ năm 1999 đến nay hình
thức đầu tư 100% vốn nước ngoài đã đạt tốc độ phát triển bình quân còn cao
hơn thời kỳ 1991-1996 là thời kỳ phát triển nhanh của hình thức đầu tư này
trước khủng hoảng. Số dự án được cấp phép trong năm 2005 gấp 3,8 lần so
với năm 1996, số vốn đăng ký đầu tư của các dự án 100% vốn nước ngoài
năm 2005 bằng 1,35 lần năm đạt cao nhất trong thời kỳ trước khủng hoảng
tài chính tiền tệ Châu Á (xem hình 2-3). Tuy nhiên, quy mô dự án đầu tư
theo hình thức này vẫn còn nhỏ và có xu hướng giảm dần từ năm 1991 đến
nay. Bình quân vốn đăng ký 18,0 triệu USD/dự án vào năm 1991 đã giảm
xuống 7,1 triệu USD/dự án vào năm 1996 và 2.55 triệu USD/dự án vào năm
2003 (xem hình 2-8).
Hình 2-8: Sự vận động của hình thức doanh nghiệp 100% vốn
nƣớc ngoài tại Việt Nam trong thời kỳ 1988-2003
Nguồn: Bộ Kế hoạch và đầu tư, 6/2004.
48
Đối với hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài, nhà đầu tư được chủ động hơn trong việc lựa chọn địa điểm thực hiện dự án, trong điều hành sản xuất - kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thực chất là các công ty con trong mạng lưới kinh doanh toàn cầu của các TNC, nên có nhiều thuận lợi trong tiếp cận thị trường thế giới. Nhiều tập đoàn có chiến lược địa phương hoá nhân viên quản lý để tiết kiệm chi phí, ngoài một số ít vị trí chủ chốt do người nước ngoài nắm giữ, họ có chủ trương đào tạo, sử dụng người Việt Nam quản lý, điều hành doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đã chuyển dần cho người Việt Nam quản lý toàn bộ hoạt động. Như vậy, đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài vẫn tạo điều kiện cho việc thu hút vốn, kinh nghiệm quản lý, giải quyết việc làm cho người lao động, tiếp cận thị trường thế giới.
Gần đây, nhiều nhà đầu tư nước ngoài và nhiều tổ chức quốc tế đã yêu cầu Việt Nam thu hẹp lĩnh vực hạn chế đối với hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài và tự do hoá về mặt nguyên tắc đôí với loại hình doanh nghiệp này tại Việt Nam.
Thứ ba, hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác
kinh doanh
Hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh chủ yếu áp dụng trong lĩnh vực thăm dò, khai thác dầu khí và về thực chất là hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài theo dạng hợp đồng chia sản phẩm. Ngoài ra, hình thức này còn được áp dụng đối với các dự án viễn thông do yêu cầu bảo đảm an ninh quốc phòng, Bên nước ngoài chỉ đầu tư vốn và thiết bị, còn Bên Việt Nam nắm toàn quyền quản lý, điều hành dự án.
Đối với hình thức này, các bên tham gia không thành lập pháp nhân mới. Bên nước ngoài thực hiện nghĩa vụ thuế và tài chính theo Luật Đầu tư nước ngoài; Bên Việt Nam thực hiên theo pháp luật áp dụng đối với doanh nghiệp trong nước. Hiện nay, số dự án và vốn đăng ký đầu tư theo hình thức này chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng số dự án và vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, chủ yếu tập trung vào lĩnh vực thăm dò khai thác dầu khí và khai thác mạng bưu chính viễn thông. Tính đến hết năm 2003 chỉ có 280 dự án
49
đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam theo hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh, với tổng vốn đầu tư 5,8 tỷ USD, chiếm 5% trong tổng số dự án và 10,8% tổng vốn đầu tư của các dự án được cấp phép (xem phụ lục 2 và 3). Hình thức đầu tư này đã góp phần tích cực vào việc phát triển, hiện đại hoá công nghệ viễn thông Việt Nam, đồng thời đã tạo điều kiện cho Việt Nam tiến hành thăm dò khai thác nguồn tài nguyên quý giá trên thềm lục địa.
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư – 6/2004.
Hình 2-9 cho thấy sự vận động của hình thức hợp doanh không ổn
định cả về số dự án cũng như vốn đăng ký được cấp phép hàng năm.
Vốn đăng ký đầu tư theo hình thức này đạt giá trị cực đại vào năm 2000, là thời điểm FDI vào Việt Nam đang giảm sút tới mức thấp nhất và trong 3 năm gần đây vốn FDI đăng ký đầu tư theo hình thức nău giảm liên tục xuống tới mức 42,6 triệu USD vào năm 2003.
50
Quy mô vốn đầu tư của các dự án hợp doanh khá lớn, gấp 1,4 lần vốn đầu tư bình quân của các doanh nghiệp liên doanh và gấp 3,3 lần vốn đầu tư của các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Lý do chính là các dự án hợp doanh chủ yếu tập trung vào lĩnh vực thăm dò khai thác dầu khí và dịch vụ viễn thông đòi hỏi phải đầu tư vốn lớn. Vốn bình quân vốn đăng ký của các dự án đầu tư theo hình thức này đạt giá trị cực đại 62,7 triệu USD/dự án vào năm 2000 và giảm xuống còn 2 triệu USD/dự án vào năm 2003. Những vấn đề nảy sinh khi triển khai thực hiện dự án đầu tư theo hình thức hợp doanh hiện nay là:
- Thời hạn dự án thường được quy định ngắn (không quá 10 năm), phải gia hạn hợp đồng nhiều lần, làm cho nhà đầu tư nước ngoài cảm thấy hình thức này không được khuyến khích. Việc chuyển đổi từ hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh sang các hình thức đầu tư khác gặp nhiều khó khăn do hình thức đầu tư này ở Việt Nam không được phép hình thành pháp nhân.
- Tỷ lệ dự án bị giải thể trước thời hạn khá cao, chiếm 33% về số dự
án và 22% về số đăng ký đã cấp phép.
Thứ tư, hình thức đầu tư Xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT) Luật đầu tư nước ngoài sửa đổi tháng 12 năm 1992 đã bổ sung hình thức đầu tư theo hợp đồng BOT và Quy chế BOT áp dụng đối với đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã được ban hành từ năm 1993, nhưng cho tới nay, hình thức đầu tư BOT có vốn đầu tư nước ngoài vẫn chưa phát triển ở Việt Nam , chỉ có 7 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 2 tỷ USD đã được cấp Giấy phép đầu tư, bao gồm 3 dự án BOT về cấp nước, 3 dự án BOT trong ngành điện và 1 dự án BOT về cảng biển. Tuy nhiên, dự án xây dựng và kinh doanh cảng nước sâu Bến Đình Sao Mai với tổng vốn đăng ký 637 triệu USD đã phải giảu thể trước thời hạn, do mâu thuẫn nội bộ và gặp khó khăn về tài chính. Tình hình hoạt động của các dựa án BOT được thể hiện trong bảng 2-10.
TT
Bảng 2-10: Tình hình các dự án BOT đang hoạt động (tính đến 31 tháng 12 năm 2003) Năm cấp Mục tiêu hoạt động Vốn đầu tư Tình hình hoạt động Tên dự án và chủ đầu tư
51
1 GPĐT 1995 (tr.USD) 35,8
Đã đi vào hoạt động từ tháng 8 năm 1999
Công ty cấp nước Bình An, TP.Hồ Chí Minh(Malaysia)
2 1997 110,0
Nhà máy điện Wartsila tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (HongKong)
Đang gặp trở ngại do chưa đàm phán được giá bán điện với Tổng công ty Điện lực Việt Nam (EVN)
3 1997 145,0
Công ty cấp nước Thủ Đức TP. Hồ Chí Minh (Pháp)
Đang gặp trở ngại do chưa đàm phán được giá bán điện, chưa triển khai xây dựng
4 1999 149,3
Công ty cấp nước Grand Imperial Sài Gòn(Malaysia) Chưa triển khai xây dựng, do gặp khó khăn về tài chính.
5 2001 450,0
Đã đi vào hoạt động năm 2003
Công ty Điện lực Phú Mỹ 3 (Hà Lan - Nhật)
2001 480,0 6
Công ty Năng lượng MêKông (Pháp–Nhật Bản)
§ang hoµn thiÖn x©y dùng chuÈn bÞ ® a vµo ho¹t ®éng chÝnh thøc
SX nước sạch công suất 100.000m3/ng (thời hạn 20 năm) Sản xuất nước sạch công suất 300.000 m3/ng (thời hạn 20 năm) Sản xuất nước sạch công suất 300.000 m3/ng (thời hạn 20 năm) Sản xuất nước sạch công suất 300.000 m3/ng (thời hạn 20 năm) Sản xuất điện từ khí công suất 416,8MW (thời hạn 20 năm) Sản xuất điện từ khí công suất 400 MW (thời hạn 20 năm) Tæng sè 6 dù ¸n 1.370,1
Nguån: Bé KÕ ho¹ch vµ §Çu t - 6/2004
52
Tõ n¨m 1996, LuËt §Çu t n íc ngoµi ®· bæ sung thªm h×nh thøc ®Çu
t theo hîp ®ång BTO, BT vµ Quy chÕ ®Çu t theo hîp ®ång BOT, BTO, BT
®· ® îc ChÝnh phñ ban hµnh n¨m 1998, nh ng cho ®Õn nay vÉn ch a cã dù
¸n nµo ®¨ng ký ®Çu t theo hai h×nh thøc nµy, do cßn thiÕu c¸c v¨n b¶n
h íng dÉn cña Nhµ n íc vÒ c¬ chÕ thanh to¸n vµ chuyÓn giao c¸c c«ng tr×nh
sau khi x©y dùng, nh»m ®¶m b¶o quyÒn lîi cho nhµ ®Çu t .
ViÖc thùc thi Quy chÕ BOT thêi gian qua cho thÊy, thêi gian ®µm ph¸n
c¸c dù ¸n BOT qu¸ dµi, th«ng th êng lµ 2 n¨m, cã dù ¸n mÊt tíi 3-4 n¨m.
Mét sè dù ¸n, tuy ®· ® îc cÊp phÐp, nh ng ph¶i mÊt 3-4 míi thu xÕp ® îc
tµi chÝnh. ChÊt l îng ®µm ph¸n c¸c hîp ®ång BOT ch a cao, do vËy, cã mét
sè dù ¸n BOT ngay sau khi ® îc cÊp GiÊy phÐp ®Çu t ®· ph¶i xin söa ®æi,
bæ sung Hîp ®ång nh dù ¸n ®iÖn Wartsila dù ¸n nhµ m¸y n íc Grand
Imperial Sµi Gßn. §iÒu nµy lµm cho thêi gian triÓn khai dù ¸n bÞ kÐo dµi.
Thø n¨m, h×nh thøc C«ng ty cæ phÇn cã vèn ®Çu t n íc ngoµi.
TÝnh ®Õn hÕt th¸ng 6/2004, míi cã 12 doanh nghiÖp FDI tr×nh hå s¬
xin chuyÓn ®æi h×nh thøc ®Çu t sang ho¹t ®éng theo h×nh thøc c«ng ty cæ
phÇn. C¸c doanh nghiÖp nµy t ¬ng ®èi ®a d¹ng vÒ quy m« vèn ®Çu t , lÜnh
vùc ho¹t ®éng. VÒ quy m« vèn, cã 4 doanh nghiÖp cã vÊn ®Çu t d íi 5 triÖu
USD, 2 doanh nghiÖp cã vèn ®Çu t 5-10 triÖu USD, 4 doanh nghiÖp cã vèn
®Çu t trªn 10 triÖu USD. Trong sè c¸c doanh nghiÖp ®¨ng ký chuyÓn ®æi ®ît
®Çu cã 10 doanh nghiÖp ho¹t ®éng trong lÜnh vùc c«ng nghiÖp vµ x©y dùng, 1
doanh nghiÖp ho¹t ®éng dÞch vô vµ 1 doanh nghiÖp trong lÜnh vùc n«ng
nghiÖp. Tíi nay, Thñ t íng ChÝnh phñ ®· chÊp thuËn cho phÐp tiÕn hµnh thÝ
®iÓm cæ phÇn ho¸ 6 doanh nghiÖp. Tuy nhiªn, ch a cã doanh nghiÖp nµo
hoµn thµnh qu¸ tr×nh cæ phÇn ho¸.
53
2.2.1. Tình hình chuyển nhượng (mua lại) trong khu vực doanh
nghiệp FDI của TNCs.
Theo số liệu của Bộ kế hoạch và đầu tư, đến hết tháng 12 năm 2003
đã có 666 dự án, với tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 13 tỷ USD được điều
chỉnh giấy phép đầu tư với nội dung chuyển nhượng vốn giữa các đối tác,
trong đó có 239 dự án có tổng vốn đầu tư đăng ký gần 4,25 tỷ USD do
chuyển nhượng vốn đã dẫn tới chuyển đổi hình thức đầu tư. Số dự án có
hoạt động mua lại chỉ chiếm 12,2% so với tổng số dự án FDI đầu tư vào Việt
Nam (tính đến 31/12/2003) nhưng tổng vốn đăng ký của các dự án này
chiếm tới 25,1% tổng vốn FDI được cấp phép. Điều này cho thấy rằng, các
vụ mua lại thường xảy ra ở các dự án có quy mô tương đối lớn (xem bảng 2-
6).
- Hình thức doanh nghiệp liên doanh có 268 dự án, với tổng vốn 5,65
tỷ USD có hoạt động chuyển nhượng vốn, trong đó 218 dự án với tổng vốn
gần 4,17 tỷ USD đã chuyển đổi hình thức đầu tư sang thành doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài hoặc doanh nghiệp 100% vốn Việt Nam.
Bảng 2-11: Tình hình chuyển nhƣợng vốn trong các doanh nghiệp
TT
Chuyên ngành
Số dự án chuyển nhƣợng
Tổng vốn đầu tƣ của các dự án chuyển nhƣợng (triệu USD)
FDI (thời kỳ 1988 - 2003) Tỷ lệ dự án chuyển nhƣợng trên số dự án cấp phép (%) 58,0 15,5
29 43
1.833 1.743
Tỷ lệ vốn đầu tƣ của các dự án chuyển nhƣợng trên tổng vốn đầu tƣ đã cấp phép (%) 43,6 51,2
1 Công nghiệp dầu khí 2 Công nghiệp chế biến
thực phẩm
3 Công nghiệp nặng 4 Công nghiệp nhẹ 5 Xây dung 6 Nông lâm nghiệp 7 Thuỷ sản
155 125 49 71 5
2.530 1.276 1.099 1.024 25
22,4 18,4 24,8 29,2 4,9
10,9 9,1 14,0 10,9 3,1
54
8 KD văn phòng, du
43
27,7
1.353
28,8
lịch
tầng KCN-
45 37 30 3
19,0 20,0 17,4 15,0
870 281 416 221
16,1 35,6 10,3 21,1
9 KD khách sạn, du lịch 10 Văn hoá - Y tế – GD 11 GT vận tải, bưu điện 12 KD hạ KCX
13 Tài chính ngân hàng 14 Dịch vụ khác
Tổng cộng
4 27 666
7,1 8,4 12,2
32 334 13.037
5,0 32,2 25,1
Nguån: T¸c gi¶ ph©n tÝch trªn c¬ së sè liÖu cña Bé KH & §T - 6/1994
- H×nh thøc doanh nghiÖp 100% vèn n íc ngoµi cã 364 dù ¸n víi tæng vèn 5,7 tû USD cã ho¹t ®éng chuyÓn nh îng vèn, trong ®ã 11 dù ¸n víi tæng vèn 56,6 triÖu USD ®· chuyÓn ®æi h×nh thøc ®Çu t .
- H×nh thøc hîp t¸c kinh doanh trªn c¬ së hîp ®ång hîp t¸c kinh doanh cã 32 dù ¸n víi tæng vèn 1,15 tû USD cã ho¹t ®éng chuyÓn nh îng vèn, trong ®ã cã 10 dù ¸n víi tæng vèn 12,4 triÖu USD ®· chuyÓn ®æi h×nh thøc ®Çu t .
Ngoµi ra, cã 2 dù ¸n ®Çu t theo h×nh thøc hîp ®ång x©y dùng - kinh doanh - chuyÓn giao (BOT), víi tæng vèn ®Çu t ®¨ng ký 523 triÖu USD còng cã ho¹t ®éng chuyÓn nh îng vèn.
2.2.2. T×nh h×nh s¸p nhËp doanh nghiÖp FDI cña TNCs.
Kh¸c víi ho¹t ®éng mua l¹i (chuyÓn nh îng), ho¹t ®éng s¸p nhËp c¸c doanh nghiÖp cã vèn ®Çu t n íc ngoµi ë ViÖt Nam diÔn ra chËm vµ t ¬ng ®èi Ýt. Cho ®Õn nay, ë ViÖt Nam míi cã 10 vô giao dÞch s¸p nhËp gi÷a c¸c doanh nghiÖp FDI, víi tæng gi¸ trÞ s¸p nhËp h¬n 1 tû USD (xem b¶ng 2 - 7).
Bảng 2-12: Các vụ sáp nhập các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam (1988 - 2003)
TT
Tên vụ giao dịch sáp nhập
Năm sáp nhập
Giá trị sáp nhập (Tr.USD)
1
358,6
1999
Sáp nhập Công ty nước giải khát Coca-Cola Ngọc Hồi và Công ty Coca-Cola Non nước vào Công ty Coca -
55
2
328,3
1996
3
79,4
1998
4
79,0
1997
5
65,0
1999
6
50,0
2000
7
27,8
1996
8
16,3
2000
9
3,9
2003
10
1,1
2003
Cola Việt Nam Sát nhập Công ty Advance Pharma Việt Nam và Công ty chăn nuôi CP Việt Nam Sáp nhập Công ty chế biến thực phẩm Cagill Việt Nam và Công ty cagill Việt Nam Sáp nhập Công ty Pangrim Việt Nam và Công ty Pangrim Yoochang Việt Nam Sáp nhập Công ty liên doanh Lever Haso và Công ty liên doanh Lever Việt Nam Sáp nhập Sell Codamo Việt Nam và Sell Bitumen VN Sáp nhập Công ty Colusa Vewong và Xí nghiệp liên doanh Sài Gòn Vewong Sáp nhập Công ty Agrevo Việt Nam và Công ty Aventis Cropscience Việt Nam Sáp nhập Công ty Happy Vina và Công ty Happy Cook Sáp nhập Công ty TNHH Hoa Hưng và Công ty Thuỷ sản Hoằng Ký Nguồn: Bộ Kế hoạch và đầu tư - 6/2004
2.2.3. Tình hình chuyển đổi hình thức đầu tư giai đoạn (1988 - 2003)
* Tình hình chuyển đổi hình thức đầu tư của các dự án FDI
Đến hết 2003 đã có 239 dự án FDI với tổng vốn đầu tư gần 4,25 tỷ
USD được phép chuyển đổi hình thức đầu tư, cụ thể như sau :
- Chuyển từ doanh nghiệp liên doanh sang doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài 175 dự án với tổng vốn đầu tư 2,575 tỷ USD
- Chuyển từ doanh nghiệp liên doanh sang 100% vốn Việt Nam 43 dự
án với tổng vốn đầu tư 1,6 tỷ USD
Bảng 2- 13: Chuyển đổi hình thức đầu tƣ phân theo ngành kinh tế (thời kỳ 1988 - 2003)
TT
Chuyên ngành
Số dự án chuyển đổi hình thức đầu tƣ
Tổng vốn đầu tƣ của các dự án chuyển đổi (triệu USD)
1 25
Tỷ lệ dự án chuyển đổi trên số dự án cấp phép (%) 2 9
1.300 1.093
Tỷ lệ vốn đầu tƣ của các dự án chuyển đổi trên tổng vốn đầu tƣ đã cấp phép (%) 31,0 32,0
1 Công nghiệp dầu khí 2 Công nghiệp chế biến thực phẩm 3 Công nghiệp nặng
47
3
333
3,0
56
4 Công nghiệp nhẹ 5 Xây dựng 6 Nông lâm nghiệp 7 Thuỷ sản 8 KD văn phòng, du
47 22 29 4 14
3,4 6,3 4,4 2,5 9
199 94 271 5 483
3,0 2,3 7,7 1,0 10,0
lịch
9 KD KS, du lịch 10 VH - Y tế - giáo dục 11 Giao thông vận tải,
20 15 7
8,4 8,1 4,1
295 121 17
5,5 15,3 0,5
bưu điện
12 KD hạ tầng KCN –
1
5
13,5
1,3
KCX
13 Tài chính ngân hàng 14 Dịch vụ khác
Tổng cộng
2 5 239
3,6 1,6 4,4
11,5 9,0 4.246
1,8 0,9 7,7
Nguồn: Tác giả phân tích trên cơ sở số liệu của Bộ KH & ĐT - 6/1994
- Chuyển từ doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thành doanh nghiệp
Việt Nam 4 dự án với tổng vốn đầu tư 26,6 triệu USD.
- Chuyển từ doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thành doanh nghiệp
liên doanh 7 doanh nghiệp với tổng vốn đầu tư 30 triệu USD;
- Chuyển hợp thành liên doanh 5 dự án với vốn đầu tư 4,7 triệu USD.
- Chuyển từ hợp doanh thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài 3
dự án với tổng vốn đầu tư 5 triệu USD.
- Chuyển từ hợp doanh thành doanh nghiệp 100% vốn Việt Nam 2 dự
án với tổng vốn đầu tư 2,7 triệu USD.
Từ những số liệu thực tế có thể rút ra một số nhận xét:
+ Việc chuyển đổi hình thức đầu tư diễn ra đối với mọi hình thức đầu
tư, chiếm khoảng 4,4% về số dự án và 7,7% về vốn đăng ký đầu tư đã được
cấp phép. Tuy nhiên, hình thức đầu tư có nhiều dự án chuyển đổi nhất là
hình thức doanh nghiệp liên doanh chiếm hơn 91% về số dự án và 98% tổng
vốn đăng ký chuyển đổi hình thức đầu tư.
57
- Xét theo các chuyên ngành kinh tế, thì tỷ lệ dự án và vốn đăng ký
chuyển đổi hình thức đầu tư vẫn còn mức thấp (xem bảng 2 - 8), không có tđ
lớn đến tình hình sản xuất, kinh doanh chung của ngành, trừ lĩnh vực công
nghiệp dầu khí và công nghiệp nhẹ (tập trung chủ yếu vào các dự án sản
xuất rượu, bia, nước giải khát).
- Do có những rào cản về pháp lý, việc chuyển đổi hình thức đầu tư
mặc dù có xu hướng tăng dần qua các năm, nhưng không phải là mạnh và
phát triển chủ yếu từ năm 1997 lại đây (xem bảng 2 - 9).
- Các dự án liên doanh chuyển thành doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài đã góp phần làm tăng dòng chảy FDI vào Việt Nam, trong khi các dự
án chuyển từ liên doanh thành doanh nghiệp 100% vốn trong nước dẫn tới
sụt giảm tổng vốn FDI do các nhà đầu tư rút vốn ra khỏi Việt Nam. Hiện nay
các trường hợp doanh nghiệp FDI chuyển thành doanh nghiệp 100% vốn
Việt Nam vẫn được thống kê chung vào số các doanh nghiệp FDI bị giải thể
trước thời hạn và tạo ra ấn tượng không tốt về môi trường đầu tư.
Bảng 2 - 13: Tình hình chuyển đổi hình thức đầu tƣ theo năm
Số dự án Vốn đăng ký (USD) Năm
1992 100.000 1
1993 12.704.676 3
1994 9.982.671 7
1995 11.105.131 4
1996 77.404.345 6
1997 116.020.417 12
1998 499.039.032 16
1999 375.569.519 36
2000 544.612.848 41
2001 479.656.549 41
2002 273.631.129 32
2003 1.846.685.549 40
Tổng cộng 4.246.512.066 239
58
Nguồn: Bộ Kế hoạch và đầu tư - 6/2004
Bảng 2-14 đưa ra danh mục các dự án lớn chuyển đổi hình thức đầu tư
trong thời gian từ 1996 đến 2003. Đây là những dự án nhạy cảm do quảng
cáo nhiều và tên tuổi của các bên nước ngoài (như Coca-Cola, Pepsi, Foster,
San Miguel…) đều là các tập đoàn xuyên quốc gia, được mọi người biết đến,
nên đã gây ra phản ứng trong dư luận. Tuy vậy, đến nay có thể khẳng định
rằng, việc xử lý chuyển đổi hình thức đầu tư của các doanh nghiệp trên đã
được xem xét phù hợp với quá trình phát triển của doanh nghiệp, có sự
thống nhất của các bộ, ngành, địa phương liên quan.
* Nguyên nhân chuyển đổi doanh nghiệp liên doanh thành doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài
Nguyên nhân chính dẫn đến việc chuyển đổi doanh nghiệp liên doanh
thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là do những hạn chế của hình
thức đầu tư này như đã trình bày ở trên. Theo Công ty tài chính quốc tế
(IFC), tất cả mọi liên doanh, lúc này hay lúc khác, đều tỏ ra không hoàn toàn
hài lòng về chuyện chung vốn làm ăn cho dù liên doanh đang làm ăn thuận
lợi. Điểm chung là các bên thường coi trọng lợi ích của đồng vốn mình góp
mà ít nghĩ đến lợi ích chung của liên doanh. Ngay cả ở Mỹ, IFC nhận thấy
sau sáu năm, khoảng hơn một nửa liên doanh với nước ngoài tan vỡ vì lý do
này hay lý do khác [TBKT Sài Gòn số 2-99, ngày 7/1/99, tr.15].
Bảng 2-14: Danh sách một số dự án lớn chuyển đổi hình thức
đầu tƣ trong thời kỳ 1988 - 2003.
TT
Tên dự án
Hình thức đầu tƣ cũ
Hình thức đầu tƣ mới
Vốn đăng ký (Triệu USD)
Thời điểm chuyển đổi
Liên doanh
1.300
2003
1
Liên doanh
190
2003
2
CTLD Nhà máy lọc dầu Việt - Nga số 1 CTLD Nhà máy bia Hà Tây
100% vốn Việt Nam 100% vốn nước ngoài
59
3
Liên doanh
182,5
1998
100% vốn nước ngoài
4
Liên doanh
171
2000
100% vốn nước ngoài
5
Liên doanh
151
1999
100% vốn nước ngoài
Công ty nước giải khát Coca - Cola Việt Nam Công ty Fei Yueh Đất Việt Công ty nước ngọt Coca - Cola Ngọc Hồi
6 Công ty Pepsi VN
Liên doanh
130
2003
7
Liên doanh
113
2000
8
Liên doanh
81,5
2001
ty
9
Liên doanh
65
1997
10
Liên doanh
60
1996
Công ty mía đường Bourbon Tây Ninh CTLD Khách sạn Cột cờ Thủ Ngữ Công bia Forster’s Tiền Giang Công ty bia San Miguel Việt Nam
100% vốn nước ngoài 100% vốn nước ngoài 100% vốn nước ngoài 100% vốn nước ngoài 100% vốn nước ngoài
Nguån: Bé KÕ ho¹ch vµ §Çu t - 6/2004
Ở Việt Nam, vấn đề chuyển đổi thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đều xảy ra ở các doanh nghiệp liên doanh kinh doanh kém hiệu quả, bị thua lỗ kéo dài. Đặc biệt, trong những năm 1996 - 1997 sự thua lỗ của các liên doanh mà đối tác nước ngoài là các Công ty xuyên quốc gia hùng mạnh như liên doanh Coca - Cola Việt Nam, liên doanh bia BGI Tiền Giang, liên doanh mỹ phẩm P & G đã tạo nên phản ứng khác nhau trong dư luận.
Để tìm hiểu vấn đề này, ta hãy nghiên cứu bảng kết quả kinh doanh của Công ty Coca - Cola Việt Nam năm 1996 là năm trước khi hai bên liên doanh đi tới chuyển nhượng vốn cho nhau và chuyển đổi hình thức đầu tư từ doanh nghiệp liên doanh thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Bảng 2-15: Kết quả kinh doanh của Coca - Cola Việt Nam
(Coca - Cola Chƣơng Dƣơng) năm 1996 (Do Công ty kiểm toán Ernst & Young lập)
ĐVT: 1.000 VNĐ
60
: 238.537.228 : 266.375.982
: 239.761.715 : 1.224.487 : (27.838.755)
Tổng doanh thu bán hàng Chiết khấu hoa hồng Tổng doanh thu chịu thuế Tổng chi phí Lỗ Kết cấu chi phí
Loại chi phí
Số tiền
TiÒn l ¬ng KhÊu hao TSC§ Nguyªn vËt liÖu ThuÕ doanh thu L·i vay ng©n hµng Chi phÝ tiÕp thÞ Chi b¸n hµng Chi QLHC Chi phÝ kh¸c
Céng
% so với Doanh thu 4,45 3,50 66,82 7,51 1,15 11,51 9,41 4,33 2,42 111,20
% so với tổng chi phí 4,01 3,15 60,14 6,76 1,03 10,36 8,47 3,90 2,18 100,00
10.679.268 8.397.586 160.204.461 18.013.878 2.749.856 27.581.873 22.570.142 10.368.447 5.810.471 266.375.982
Ph©n tÝch kÕt cÊu chi phÝ cña C«ng ty liªn doanh Coca - Cola Ch ¬ng D ¬ng n¨m 1996 (b¶ng 2-15) cã thÓ x¸c ®Þnh nguyªn nh©n lç kinh doanh cña liªn doanh nµy lµ :
- Chi phÝ nguyªn liÖu chiÕm 60,14% trong tæng chi phÝ vµ 66,82% trong tæng doanh thu lµ qu¸ lín vµ kh«ng hîp lý ®èi víi ngµnh s¶n xuÊt n íc gi¶i kh¸t. Kh«ng tÝnh chi phÝ tiÕp thÞ th× liªn doanh nµy ®· bÞ lç chøng tá cã t×nh tr¹ng n©ng gi¸ nguyªn vËt liÖu ®Çu vµo cao h¬n so víi gi¸ thùc tÕ ®Ó h ëng chªnh lÖch gi¸.
- Chi phÝ tiÕp thÞ chiÕm tû träng qu¸ cao (10,45% trong tæng chi phÝ vµ 11,61% trong tæng doanh thu. §iÒu nµy cã nghÜa lµ, ®Ó ®¶m b¶o môc tiªu chiÕm lÜnh thÞ tr êng cña C«ng ty mÑ, phÝa ®èi t¸c n íc ngoµi trong liªn doanh chÊp nhËn thua lç ®Ó lo¹i trõ ®èi thñ c¹nh tranh trªn thÞ tr êng ViÖt Nam.
§iÒu ®¸ng nãi lµ khi liªn doanh bÞ thua lç, ®èi t¸c n íc ngoµi th êng yªu cÇu t¨ng vèn ®Ó më réng quy m«, t¨ng kh¶ n¨ng c¹nh tranh, nh ng phÝa
61
ViÖt Nam th êng kh«ng cã kh¶ n¨ng ®¸p øng, do ®ã, ph¶i lùa chän mét trong c¸c gi¶i ph¸p t×nh thÕ: hoÆc mua l¹i cæ phÇn cña ®èi t¸c n íc ngoµi ®Ó chuyÓn thµnh doanh nghiÖp ViÖt Nam, hoÆc chÊp nhËn chuyÓn nh îng hÕt cæ phÇn cho ®èi t¸c n íc ngoµi, hoÆc chÊp nhËn gi¶m tû lÖ vèn gãp trong liªn doanh. Trong c¸c gi¶i ph¸p trªn, bªn ViÖt Nam th êng chØ cã thÓ chän gi¶i ph¸p thø 2 hoÆc thø 3. CÇn l u ý r»ng, nÕu chän gi¶i ph¸p thø 3 còng cã nghÜa lµ ®èi t¸c ViÖt Nam ph¶i tiÕp tôc chÊp nhËn thua lç, ®Ó ®ång vèn cña m×nh tiÕp tôc bÞ tiªu hao vµ chÊp nhËn gi¶m quyÒn lùc trong liªn doanh. V× thÕ, thêi gian qua, Nhµ n íc ViÖt Nam ®· tr¶i cho phÐp hµng lo¹t doanh nghiÖp liªn doanh chuyÓn thµnh doanh nghiÖp 100% vèn n íc ngoµi.
* T×nh h×nh c¸c doanh nghiÖp sau khi chuyÓn tõ doanh nghiÖp liªn
doanh thµnh doanh nghiÖp 100% vèn n íc ngoµi
Theo Bé KÕ ho¹ch vµ ®Çu t , hÇu hÕt c¸c liªn doanh sau khi chuyÓn thµnh doanh nghiÖp 100% vèn n íc ngoµi ®Òu tiÕp tôc triÓn khai thùc hiÖn dù ¸n, æn ®Þnh s¶n xuÊt kinh doanh, duy tr× ® îc viÖc lµm cho ng êi lao ®éng.
MÆc dï liªn doanh bÞ thua lç, khi rót khái liªn doanh bªn ViÖt Nam vÉn b¶o toµn ® îc vèn, do phÝa ngoµi chÞu toµn bé lç cña liªn doanh, tr¶ hé tiÒn thuª ®Êt mµ bªn ViÖt Nam ®· ghi nî víi Nhµ n íc khi gãp vèn liªn doanh, thËm chÝ cã doanh nghiÖp Bªn n íc ngoµi cßn hç trî thªm cho bªn ViÖt Nam kh¾c phôc khã kh¨n tr íc m¾t ®Ó æn ®Þnh l¹i s¶n xuÊt. VÝ dô, C«ng ty n íc ngät Coca - Cola Ch ¬ng D ¬ng, bªn n íc ngoµi ®· thanh to¸n cho bªn ViÖt Nam 2,6 triÖu USD, kh«ng kÓ tiÒn thuª ®Êt ; ®ång thêi bªn ViÖt Nam ® îc tiÕp tôc gia c«ng nót chai cho doanh nghiÖp 100% vèn n íc ngoµi trong 10 n¨m, ® îc lµm tæng ®¹i lý vµ cho thuª hÖ thèng ph©n phèi.
C¸c doanh nghiÖp 100% vèn n íc ngoµi chuyÓn ®æi tõ doanh nghiÖp liªn doanh mÆc dï kinh doanh vÉn cßn bÞ lç trong nh÷ng n¨m ®Çu sau khi chuyÓn ®æi, nh ng doanh sè cña nhiÒu doanh nghiÖp ®· t¨ng m¹nh so víi tr íc khi chuyÓn ®æi, viÖc lµm cña hµng chôc ngh×n ng êi lao ®éng ® îc ®¶m b¶o, Nhµ n íc ViÖt Nam thu ® îc tiÒn thuª ®Êt, tiÒn thuÕ. VÝ dô: C«ng ty Coca - Cola Ch ¬ng D ¬ng chuyÓn ®æi h×nh thøc
62
®Çu t th¸ng 10/1998, n¨m 1999 t¨ng tr ëng 30%, nép ng©n s¸ch Nhµ n íc h¬n 3 triÖu USD. C«ng ty bia Foster §µ N½ng (tr íc ®©y lµ C«ng ty bia BGI §µ N½ng) sau khi chuyÓn ®æi tiÕp tôc t¨ng tr ëng s¶n xuÊt kinh doanh víi tèc ®é cao ®ang chiÕm lÜnh thÞ tr êng §µ N½ng vµ khu vùc miÒn Trung…
Thực tế cho thấy, chỉ các doanh nghiệp mà chủ đầu tư nước ngoài có tiềm lực tài chính mạnh và trình độ quản lý cao khi chuyển thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam mới duy trì được mục tiêu của dự án và đảm bảo được quyền lợi cho các bên, của Nhà nước Việt Nam và của người lao động. Nếu chủ đầu tư nước ngoài là các Công ty nhỏ, chưa có thị trường, tiềm lực tài chính yếu thì việc chuyển đổi hình thức đầu tư cũng không mang lại hiệu quả. Điển hình là một số trường hợp dưới đây :
- Công ty liên doanh Daly Thuỷ Tinh (liên doanh giữa đối tác Việt Nam với đối tác Latvia, vốn đầu tư 1,1 triệu USD), Công ty liên doanh hữu nghị tơ lụa Việt Triều (liên doanh với Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên, vốn đầu tư 5,34 triệu USD), Công ty sản xuất và xuất khẩu cao su Việt Nam - Belarus (liên doanh với cộng hoà Belarus, vốn đầu tư 7,5 triệu USD)… sau khi chuyển sang hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài vẫn gặp khó khăn về tài chính và thị trường tiêu thụ sản phẩm nên đã phải giải thể trước thời hạn.
- Công ty liên doanh rượu Sampanh Việt Nga, vốn đầu tư 10 triệu USD, sau khi chuyển thành doanh nghiệp 100% vốn Liên bang Nga đã triển khai xây dựng xong nhà máy, song, do gặp khó khăn về tài chính, chủ đầu tư Nga lại phải chuyển nhượng bớt 20% cổ phần cho doanh nghiệp Việt Nam và trở lại hình thức doanh nghiệp liên doanh.
- Công ty liên doanh Pioneer - Transmecco sản xuất đá xây dựng và bê tông trộn sẵn, vốn đầu tư 5,7 triệu USD, sau khi chuyển thành doanh nghiệp 100% vốn của Australia, gặp khó khăn trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm đã phải bán lại toàn bộ tài sản cho bên Việt Nam.
2.4. Các đối tác chính đầu tƣ vào Việt Nam
63
Tính đến cuối năm 2005, trong số 5000 công ty nước ngoài thuộc 75 nước và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư vào Việt Nam, các nước Châu Á là đối tác lớn nhất, chiếm 76,55 về số dự án và 70% về vốn đăng kí. Trong đó, các nhà đầu tư thuộc ASEAN chiếm 21,69% (Singapore: 14,92%; Thái lan: 2,85%, malaysia: 3,08% ); các nước Đông Bắc Á chiếm 46,78% (Đài Loan: 15,23%; Nhật bản: 12,33%; Hồng Kông: 7,31%; Hàn Quốc: 10,46%) Châu Âu chiếm 15,52% về số dự án và 21,65% về vốn đăng kí và Mỹ chiếm 2,85% (cả Châu Mỹ là 3,59% ). Xét về số lượng TNCs đến từ Châu Á là 242 công ty, chiếm 58,3% (Nhật bản có 68 TNCs; Hông Kông: 30 TNCs; Xingapore: 32 TNCS; Hàn Quốc: 49 TNCs và Đài Loan có 26 TNCs ,...; Châu âu có 104 TNCs chiếm 25%). Do đầu tư vào Việt Nam được thực hiện chủ yếu từ các TNCs Châu Á hầu hết đều chịu sự tác động nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997, dẫn đến việc thu hẹp các khoản đầu tư mới cũng như sự trì trệ trong việc thực hiện các số vốn đầu tư đã cam kết.
Bảng 2.16: 12 nƣớc và vùng lãnh thổ đầu tƣ lớn nhất vào VN giai
đoạn 1988 - 2005
(Tính tới ngày 31/12/2005, chỉ tính các dự án còn hiệu lực)
Stt Tổng số vốn đầu tƣ
Tên nƣớc và vùng lãnh thổ Vốn đầu tƣ thực hiện Số dự án (tỷ USD)
1 Đài Loan 1.422 7,77 2,83
2 Xingapore 403 7,61 3,62
3 Nhật Bản 600 6,29 4,67
4 Hàn Quốc 1.064 5,34 2,59
5 Hồng Kông 360 3,73 1,99
6 British Virgin Islands 251 2,69 1,24
7 Pháp 164 2,17 1,19
8 Hà Lan 62 1,99 1,92
64
9 Malaysia 184 1,57 0,84
10 Thái Lan 130 1,46 0,80
11 Mỹ 265 1,46 0,75
12 Vương Quốc Anh 68 1,25 0,64
Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài – Bộ kế hoạch đầu tư
Sở dĩ các TNC vào Việt Nam chủ yếu đến từ Châu Á, một phần cũng là do chiến lược của các TNC này. Mặc dù quá trình hội nhập đang diễn ra mạnh mẽ, nhưng thực tế, môi trường kinh doanh ở Việt Nam chưa bị ảnh hưởng nhiều bởi yếu tố toàn cầu hoá, nên đó là cơ hội để các TNC cỡ trung bình có thể đầu tư chiếm lĩnh thị trường, tận dụng các lợi thế so sánh của Việt Nam trong quá trình sản xuất kinh doanh. Hơn nữa, do cùng nằm trong khu vực nên giữa các nhà đầu tư Châu Á và Việt Nam có rất nhiều mối tương đồng như về văn hoá, phong tục, trình độ,... Điều đó tạo điều kiện để nhà đầu tư và bên tiếp nhận đầu tư dễ hiểu nhau hơn trong công việc, qua đó việc hợp tác cũng như sản xuất kinh doanh sẽ hiệu quả hơn. Và cũng chính vì các TNCs đến từ Châu Á - vốn là những TNCs mới chỉ được phát triển trong khoảng 20 năm trở lại đây nên đặc điểm tiếp theo là hệ quả tất yếu của đặc điểm trên.
2.3. Những vấn đề đặt ra đối với FDI của các TNCs.
Thực tế hoạt động FDI tại Việt Nam thời gian qua cho thấy, Nhà nước
còn thụ động trong việc tạo dựng hành lang pháp lý định hướng phát triển
các hình thức FDI mà quan tâm nhiều đến việc ban hành các chính sách ưu
đãi về tài chính nhằm khuyến khích FDI như miễn giảm thuế, giảm giá tiền
thuê đất… Trên thực tế các chính sách ưu đãi về tài chính nêu trên chỉ có tác
động rất hạn chế đối với đầu tư nước ngoài (ví dụ việc ban hành liên tiếp các
Nghị định 10/1998/NĐ-CP, quyết định số 53/1999/QĐ-TTg. Luật đầu tư
nước ngoài sửa đổi năm 2000, Nghị định số 24/2000/NĐ-CP và Nghị định
27/2003/NĐ-CP nhằm khuyến khích và tăng cường thu hút FDI vẫn không
65
ngăn cản được sự giảm sút dòng vốn FDI vào Việt Nam trong giai đoạn này
1998 - 2003). Trong khi đó, việc mở cửa đối với một số lĩnh vực, việc cho
phép hình thành các hình thức FDI mới được tiến hành quá chậm chạp mặc
dù đã có nhiều tổ chức quốc tế và các đối tác yêu cầu Chính phủ Việt Nam
phải nhanh chóng đa dạng hoá các hình thức đầu tư và mở rộng các lĩnh vực
thu hút vốn đầu tư nước ngoài phù hợp với các cam kết quốc tế. Tôi thấy
trên khía cạnh chính sách, các biện pháp ưu đãi thu hút FDI không phải là tất
cả những gì cần có để có thể thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này.
Trong khi những điều kiện về cơ sở hạ tầng về pháp lý của nước ta
đang ngày càng được hoàn hiện tốt hơn và những chính sách ưu đãi đầu tư
liên tục được ban hành thì sự suy giảm đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
trong thời gian dài gần đây cần được xem xét một cách nghiêm túc từ khía
cạnh hình thức đầu tư.
Việc chậm phát triển các hình thức đầu tư mới trước đòi hỏi của thực
tế trong giai đoạn đầu của sự phát triển, đặc biệt là những trở ngại đối với
hình thức BOT và tình trạng đóng cửa đối với FDI trong một số lĩnh vực đã
làm Việt Nam mất đi lợi thế vị trí để hấp dẫn các nhà đầu tư quốc tế trong
một thời gian dài vừa qua. Nhà nước cần nhanh chóng khắc phục những vấn
đề tồn tại trong việc phát triển các hình thức FDI được nêu ra dưới đây.
Thứ nhất, chưa mạnh dạn phát triển hình thức FDI
Xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới cùng với sự phát triển của
khoa học và công nghệ… đã góp phần hình thành các hình thức huy động
FDI ngày càng đa dạng và sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các hình thức FDI
cũng rất linh hoạt. Tuy nhiên, ở Việt Nam, hơn 20 năm qua vẫn chỉ duy trì 3
hình thức đầu tư truyền thống là hợp doanh, doanh nghiệp liên doanh và
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Cho đến nay, vẫn chưa có một khái
niệm thống nhất về hình thức FDI tại Việt Nam. Luật đầu tư nước ngoài sau
nhiều lần sửa đổi vẫn chưa bổ sung thêm các hình thức đầu tư mới. Do vậy,
66
nhận thức về các hình thức đầu tư còn nhiều khác biệt, ngay cả trong các cơ
quan quản lý Nhà nước. Điển hình là việc đầu tư theo hợp đồng BOT, BTO,
BT; thành lập Công ty cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài, Công ty hợp danh
FDI, Công ty quản lý, hoạt động mua lại và sáp nhập vẫn chưa được thừa
nhận là các hình thức đầu tư ở Việt Nam. Việc thiếu các văn bản hướng dẫn
áp dụng cho các hình thức đầu tư này đang là trở ngại lớn cho quá trình hình
thành của chúng hoặc khi đã hình thành cũng không có đủ điều kiện để phát
triển.
Sự nhận thức không đầy đủ về các hình thức FDI còn bắt nguồn từ
tâm lý bảo thủ, sợ cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài để bảo hộ sản
xuất trong nước, không chấp nhận đòi hỏi của thực tế trong quá trình hội
nhập là phải đa dạng hoá các hình thức đầu tư để thu hút FDI.
Trong khi chúng ta mong muốn đẩy mạnh khả năng tiếp nhận vốn và
công nghệ nước ngoài từ hoạt động FDI thì việc chậm cho phép các tập đoàn
xuyên quốc gia được triển khai các hình thức FDI phù hợp với sự thay đổi
hệ thống sản xuất quốc tế của chúng như thành lập chi nhánh ở nước ngoài,
thành lập Công ty Holding Company… hoặc hạn chế đầu tư của các tập
đoàn này trong một số lĩnh vực do lo ngại bị bóc lột, bị thua thiệt, đã gây ra
trở ngại lớn cho việc thu hút đầu tư từ các TNC và khả năng tiếp nhận công
nghệ từ bên ngoài. Chính sách bảo hộ sở hữu trí tuệ thiếu minh bạch và kém
hiệu quả hiện nay là một nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng mới có một
số ít TNC đầu tư vào Việt Nam, chủ yếu là những dự án quy mô nhỏ và chưa
có một TNC nào đặt đại bản doanh khu vực tại Việt Nam.
Thứ hai, chính sách phát triển các hình thức đầu tư còn thiếu nhất quán
Có thể thấy rằng, sau những năm đầu thực hiện chính sách mở cửa,
FDI đã qua giai đoạn phát triển theo chiều rộng và bắt đầu bước vào giai
đoạn phát triển theo chiều sâu. Chính sách đầu tư nước ngoài của Việt Nam
lúc mới ban hành năm 1987, được đánh giá là hấp dẫn nhất khu vực đã dần
67
mất đi sức hút của nó đối với các nhà đầu tư quốc tế. Để khắc phục điều này,
Chính phủ đã liên tục sửa đổi, cải tiến các quy định liên quan đến hoạt động
FDI (gần đây nhất là việc ban hành Nghị định số 27/2003/NĐ-CP ngày
19/3/2003 và Nghị định 38/2003/NĐ-CP ngày 15/4/2003), nhưng chính sách
phát triển các hình thức FDI vẫn còn nhiều bất cập và thiếu nhất quán.
Theo Nghị định 24/2000/NĐ-CP, “nhà đầu tư nước ngoài được chủ
động lựa chọn dự án đầu tư, đối tác đầu tư, hình thức đầu tư, địa bàn, thời
hạn đầu tư, thị trường tiêu thụ sản phẩm, tỷ lệ góp vốn pháp định phù hợp
với quy định của Luật đầu tư nước ngoài và Nghị định này”. Tuy nhiên,
trong quá trình chỉ đạo điều hành, Thủ tướng Chính phủ và một số Bộ,
ngành đã ban hành thêm một số văn bản quy định tạm dừng hoặc không cấp
giấy phép đầu tư đối với dự án thuộc các lĩnh vực: sản xuất thép, xi măng,
cấp nước theo hình thức BOT, xây dựng nhà máy đường, lắp ráp xe gắn máy
2 bánh, sản xuất xe nông dụng, xay xát lúa mì…
Ví dụ điển hình là việc thu hút FDI vào lĩnh vực sản xuất xi măng,
một sản phẩm Việt Nam đang có nhu cầu cao và nguồn vốn cũng như công
nghệ trong nước còn hạn chế. Nghị định 24/2000/NĐ-CP ngày 31/7/2000 đã
loại bỏ quy định bắt buộc áp dụng hình thức doanh nghiệp liên doanh đối
với các dự án đầu tư sản xuất xi măng, cho phép các nhà đầu tư nước ngoài
được đầu tư sản xuất xi măng tại Việt Nam dưới hình thức doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài. Tuy nhiên, quyết định 164/2002/QĐ-TTg ngày
18/11/2002 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt việc điều chỉnh quy hoạch
tổng thể phát triển ngành công nghiệp xi măng đến năm 2010 lại có quy
định: “đối với các dự án mới, thực hiện theo hình thức Công ty cổ phần,
trong đó Tổng Công ty Nhà nước giữ cổ phần chi phối” và “những dự án
liên doanh với nước ngoài đang sản xuất, nếu mở rộng đầu tư phải tăng vốn
pháp định của Bên Việt Nam để đạt tỷ lệ từ 40% trở lên”.
Trong chương trình hành động của Sáng kiến chung Việt Nam - Nhật
Bản nhằm cải thiện môi trường kinh doanh nâng cao khả năng cạnh tranh
68
của Việt Nam, phía Nhật Bản cũng đã kiến nghị xoá bỏ hạn chế về tỷ lệ vốn
pháp định tối thiểu của Bên Việt Nam (40%) khi tăng vốn đầu tư tại các liên
doanh sản xuất xi măng quy định tại quyết định 164/2001/QĐ-TTg nói trên.
Ngoài ra, một số văn bản pháp quy khác ban hành gần đây cũng có
những quy định ngặt nghèo về hình thức đầu tư nhằm hạn chế đầu tư nước
ngoài để bảo hộ đầu tư trong nước như Nghị định số 10/2001/NĐ-CP ngày
19/3/2001 về điều kiện kinh doanh dịch vụ hàng hải, công văn số 1011/CP-
QHQT ngày 6/1/2001 về đại lý vận tải hàng không; nghị định số
14/2001/NĐ-CP ngày 25/4/2001 về quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ
bảo vệ; Nghị định số 27/2001/NĐ-CP ngày 05/6/2001 về kinh doanh lữ
hành, hướng dẫn du lịch… Thực tế trên đã bó hẹp lĩnh vực thu hút FDI, tạo
cho các nhà đầu tư ấn tượng; chính sách của Việt Nam là không nhất quán,
không minh bạch, gây ảnh hưởng xấu đến môi trường đầu tư.
Thứ ba, công tác quy hoạch thu hút đầu tư nước ngoài chưa tốt
Quy hoạch phát triển các ngành kinh tế hiện nay chưa phù hợp với sự
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các quy hoạch được xây dựng chủ
yếu dựa trên đề xuất của các tổng Công ty Nhà nước nên thường mang nặng
tính chất bảo hộ sản xuất trong nước, bảo hộ độc quyền doanh nghiệp Nhà
nước, chưa khuyến khích và chưa tạo điều kiện để các thành phần kinh tế
khác, kể cả thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, tham gia đầu tư.
Tuy đã có danh mục dự án kêu gọi đầu tư giai đoạn 2001 - 2005 và
danh mục lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư, lĩnh vực khuyến khích đầu
tư, lĩnh vực đầu tư có điều kiện và lĩnh vực không cấp giấy phép đầu tư,
nhưng các danh mục này còn chung chung, chưa rõ ràng. Một số dự án đã
thuộc danh mục khuyến khích đầu tư nhưng do chủ trương thay đổi, nên khi
nhà đầu tư tìm hiểu lại không dành cho khu vực FDI. Nhiều dự án đầu tư
vào sản xuất xi măng, sắt thép, khai thác khoáng sản đã bị từ chối bởi quy
hoạch phát triển ngành không đặt ra yêu cầu thu hút vốn FDI. Một số dự án
69
xi măng có vốn đầu tư nước ngoài nằm trong quy hoạch tổng thể phát triển
ngành nhưng khi triển khai thực hiện đầu tư lại gặp trở ngại do các văn bản
mới ban hành đặt thêm các điều kiện về hình thức đầu tư, tỷ lệ góp vốn trong
các liên doanh.
Danh mục dự án kêu gọi FDI còn bất cập, được chuẩn bị quá sơ sài,
không có đủ các thông tin về quy mô dự án, điều kiện thực hiện, hình thức
đầu tư, đối tác trong nước, nêu không phát huy được tác dụng trong quá
trình xúc tiến, vận động đầu tư, làm cho các nhà đầu tư nước ngoài vào địa
phương mình. Gần đây rộ lên phong trào “trải thảm đỏ” để thu hút đầu tư
nước ngoài, trong khi thiếu sự chỉ đạo phối hợp đồng bộ từ trung ương đến
địa phương. Thực tế này đã dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh
giữa đối với các dự án đã được phân cấp cấp giấy phép đầu tư và cả các giấy
phép đã được Bộ kế hoạch và đầu tư cấp trong phạm vi hạn mức vốn đầu tư
được phân cấp.
Tuy nhiên, UBND cấp tỉnh vẫn phải xin ý kiến chấp thuận của Bộ kế
hoạch và đầu tư đối với các trường hợp chuyển đổi hình thức đầu tư từ
doanh nghiệp liên doanh, hợp đồng hợp tác kinh doanh thành doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài. Như vậy, trong trường hợp này, việc phân cấp quản
lý hoạt động FDI, với quy định trên, chẳng những không đạt được mục tiêu
đơn giản hoá thủ tục hành chính, mà trái lại, tạo thêm nhiều cửa, gây phiền
hà cho nhà đầu tư. Hơn nữa, việc chuyển nhượng vốn, chuyển đổi hình thức
đầu tư của các doanh nghiệp liên doanh thường liên quan nhiều đến các
doanh nghiệp Nhà nước, do đó hợp đồng chuyển nhượng còn phải có ý kiến
chấp thuận của cq chủ quản phía doanh nghiệp Việt Nam.
Đối với các trường hợp sát nhập, hợp nhất doanh nghiệp, còn thiếu
các văn bản hướng dẫn xử lý các vấn đề tài chính, lao động… Do đó, khi
giải quyết cần phải có ý kiến của nhiều bộ, ngành và thời gian thường bị kéo
dài.
70
Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài (6/2000)
đã luật hoá quyền chuyển nhượng, mua lại, chuyển đổi hình thức đầu tư,
chia tách, sát nhập của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Mặc dù vậy,
cho đến nay, việc chuyển nhượng (mua lại), chuyển đổi hình thức đầu tư,
sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp FDI mới giải
quyết theo từng trường hợp riêng biệt, chưa có những tiêu chí chung. Việc
chuyển nhượng vốn giữa các doanh nghiệp FDI gặp rất nhiều trở ngại, vì
phải tuân thủ một số điều kiện như ưu tiên chuyển nhượng cho đối tác Việt
Nam, được sự chấp thuận của các cơ quan Nhà nước. Thủ tục giải quyết các
vấn đề trên khá phức tạp, đòi hỏi cp nhiều thời gian, như đã trình bày ở trên,
nhiều khi làm mất cơ hội chuyển nhượng hoặc chuyển nhượng không được
giá mong muốn.
Luật đầu tư nước ngoài cũng như các văn bản dưới luật cũng chưa có
quy định về việc chuyển nhượng vốn thông qua việc cổ phần hoá và phát
hành cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. Vì vậy, để tối đa hoá lợi nhuận,
các chủ đầu tư nước ngoài đã thành lập Công ty cổ phần ở ngoài Việt Nam,
thường là ở các khu vực lãnh thổ tương đối tự do trong việc thành lập doanh
nghiệp và có mức thuế thu nhập thấp như British Virgin Islands, Bermuda,
Cayman, Islands… và lấy danh nghĩa các Công ty này đầu tư vào Việt Nam
để dễ dàng thực hiện việc chuyển nhượng vốn.
Rõ ràng, bên cạnh thủ tục chuyển nhượng quá phiền hà, với sự can
thiệp quá sâu của các cơ quan Nhà nước, việc buộc phải hoạt động dưới
dạng Công ty trách nhiệm hữu hạn để cản trở việc tự do chuyển nhượng vốn,
sáp nhập và mua lại trên lãnh thổ Việt Nam, buộc các nhà đầu tư nước ngoài
phải tìm một lối đi khác vừa nhẹ nhàng, vừa có lợi cho họ trong khi pháp
luật Việt Nam không cấm.
Việc Nhà nước cho phép cổ phần hoá doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, cũng như cho phép các doanh nghiệp Việt Nam được bán cổ
phần cho tổ chức và cá nhân nước ngoài cũng đang đặt ra yêu cầu phải đổi
71
mới và nâng cao vai trò của Nhà nước trong việc định hướng hoạt động đầu
tư mau lại và sáp nhập ở Việt Nam.
Chƣơng 3
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP THU HÚT ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP
CỦA CÁC CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA VÀO VIỆT NAM
3.1. Một số nhận xét khái quát về xu hƣớng vận động của FDI của
TNCs tại Việt Nam.
Thứ nhất, đối với hình thức doanh nghiệp liên doanh
Trong quá trình phát triển các doanh nghiệp liên doanh ở Việt Nam đã
xuất hiện tình trạng không tương xứng giữa đối tác trong nước là những
doanh nghiệp có tiềm lực tài chính nhỏ bé, công nghệ và trình độ quản lý lạc
hậu với đối tác nước ngoài là những tập đoàn xuyên quốc gia hùng mạnh.
Xu hướng giảm cả về số lượng và vốn đăng ký đầu tư theo hình thức liên
doanh thời gian qua chứng tỏ sự yếu kém của đối tác Việt Nam, hợp tác
không có hiệu quả, làm cho đối tác nước ngoài cảm thấy phiền hà, rắc rối
trong điều hành quản lý doanh nghiệp. Do đó, nhà đầu tư nước ngoài muốn
nhanh chóng thoát khỏi sự tham gia quản lý của phía Việt Nam. Với sự thay
đổi của hệ thống pháp luật nước ta cùng với sự cạnh tranh thu hút vốn đầu tư
72
nước ngoài đang ngày càng trở nên gay gắt, hình thức doanh nghiệp liên
doanh sẽ ngày càng bị thu hẹp trong một số lĩnh vực nhất định.
Doanh nghiệp liên doanh chỉ có thể phát triển có hiệu quả trong lĩnh
vực then chốt của nền kinh tế quốc dân như: sản xuất xi măng, sắt thép, ô tô
- xe máy, kinh doanh bất động sản, kinh doanh vận tải là những lĩnh vực
Việt Nam có thị trường, có lợi thế so sánh. Đối tác trong nước là các Tổng
Công ty lớn của Nhà nước có tiềm lực mạnh. Những doanh nghiệp liên
doanh quy mô nhỏ và những doanh nghiệp liên doanh trong những lĩnh vực
không bắt buộc phải liên doanh có xu hướng chuyển thành doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài. Nhiều doanh nghiệp liên doanh, đặc biệt là các doanh
nghiệp bị thua lỗ trong kinh doanh có xu hướng phát triển thành doanh
nghiệp cổ phần để có cơ hội tự do chuyển nhượng vốn và huy động vốn từ
các cổ đông.
Thứ hai, đối với hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thời gian qua đã thể
hiện một số ưu thế so với hình thức doanh nghiệp liên doanh: triển khai
nhanh, thu hút nhiều lao động, tỷ lệ xuất khẩu cao, quản lý Nhà nước cũng
như quản lý doanh nghiệp tương đối thuận lợi. Hình thức đầu tư này có
nhiều cơ hội mở rộng và phát triển tại Việt Nam trong giai đoạn tới vì những
lý do sau đây:
- Môi trường chính trị, kinh tế, xã hội ở Việt Nam khá ổn định. Nhà
nước thực hiện nhất quán chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế kinh doanh có
hiệu quả.
- Những sửa đổi về luật pháp thời gian qua đã giảm dần sự kỳ thị đối
với hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài, như thu hẹp dần lĩnh vực đầu tư
có điều kiện phải liên doanh với doanh nghiệp Việt Nam; mở rộng lĩnh vực
đầu tư, đơn giản hoá điều kiện xem xét cấp giấy phép đầu tư và các dự án
73
đầu tư theo hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được đối xử bình
đẳng như doanh nghiệp liên doanh.
- Sự ra đời hàng loạt khu công nghiệp thời gian qua (hiện nay cả nước
đã có hơn 100 khu công nghiệp được thành lập) tạo thuận lợi cho các nhà
đầu tư trong việc triển khai dự án, không mất thời gian cho các thủ tục về
đền bù, giải phóng mặt bằng, xin giấy phép xây dựng… đã khuyến khích đầu
tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài vào các khu này.
Chính phủ cần tạo điều kiện hơn nữa để phát triển hình thức doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài trở thành hình thức FDI chủ yếu trong các lĩnh
vực sản xuất hàng xuất khẩu, hàng tiêu dùng, vật liệu xây dựng, cơ khí -
điện - điện tử, giáo dục đào tạo và bệnh viện quốc tế. Đồng thời, tạo điều
kiện để doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài chuyển đổi thành Công ty cổ
phần và tham gia vào thị trường chứng khoán Việt Nam.
Thứ ba, đối với hình thức hợp doanh
Hợp doanh thực chất là hình thức liên doanh theo hợp đồng chứ không
liên doanh theo vốn nên quyền hạn và trách nhiệm của các bên tham gia rất
khó xác định. Đây chỉ là giai đoạn các đối tác thăm dò, tìm hiểu lẫn nhau
trước khi chuyển tiếp lên hình thức hợp tác đầu tư cao hơn là doanh nghiệp
liên doanh.
Như vậy, Việt Nam cần phát triển hình thức đầu tư này theo hướng
hoàn thiện hơn để tăng sức hấp dẫn đối với nhà đầu tư nước ngoài. Đối với
lĩnh vực thăm dò và khai thác dầu khí, các dự án hợp doanh có thể phát triển
thành các doanh nghiệp liên doanh nếu kết quả thăm dò khả quan trước khi
đi vào khai thác. Đối với những dự án hợp tác kinh doanh trong lĩnh vực bưu
chính viễn thông, hiện Việt Nam đang phải đối mặt với sự thiếu kinh nghiệm
marketting, phục vụ khách quốc tế và phát triển sản phẩm, vì chủ đầu tư
nước ngoài không muốn cung cấp các bí quyết và kỹ năng của họ trong hình
thức hợp tác kinh doanh.
74
Thực tế đang xuất hiện nhu cầu kết hợp hai hình thức liên doanh và
hợp tác kinh doanh trong dịch vụ khai thác viễn thông. Theo mô hình này,
vận hành mạng viễn thông sẽ do Việt Nam kiểm soát và sở hữu toàn bộ.
Hoạt động dịch vụ (bao gồm marketting phát triển sản phẩm, phục vụ và hỗ
trợ khách hàng, kinh doanh các thiết bị và phương tiện liên quan đến dịch vụ
viễn thông…) sẽ do các doanh nghiệp liên doanh thực hiện. Mục tiêu của
Công ty liên doanh dịch vụ nhằm tăng việc khai thác, phát triển mạng hiện
nay và tạo thêm nguồn thu thông qua việc cung cấp các dịch vụ khách hàng
hoàn hảo.
Mô hình đầu tư mới này rất cần được nghiên cứu, áp dụng vì nó sẽ
tăng tính hấp dẫn của hình thức hợp tác kinh doanh trong lĩnh vực bưu chính
viễn thông, tạo điều kiện để tiếp tục thu hút FDI vào lĩnh vực này, sử dụng
công nghệ hiện đại để tăng thêm nguồn thu cho các bên hợp doanh, chuyển
giao kỹ năng marketting và phục vụ khách hàng cho bên hợp doanh Việt
Nam, đồng thời vẫn đảm bảo chủ quyền an ninh của Việt Nam.
Thứ tư, đối với hình thức đầu tư BOT
Việc chậm phát triển hình thức BOT thời gian qua đã làm cho nước ta
mất đi lợi thế vị trí để thu hút FDI so với các nước khu vực. Mặc dù số
lượng dự án FDI đầu tư theo hình thức BOT có vốn đầu tư nước ngoài được
cấp giấy phép đầu tư còn hạn chế (7 dự án trong 10 năm), nhưng quá trình
phát triển của các dự án BOT thời gian qua đã khẳng định sự tồn tại của hình
thức đầu tư này ở Việt Nam. Có nhiều cơ hội cho các nhà đầu tư nước ngoài
tham gia đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội theo hình thức
này, kể cả các dạng thức tương tự như BTO và BT.
Theo số lượng thống kê của Bộ kế hoạch và đầu tư, trên địa bàn cả
nước đã có 60 dự án đầu tư từ nguồn vốn trong nước theo hình thức BOT và
các dạng tương tự BOT, với tổng mức đầu tư hơn 44.000 tỷ đồng, trong đó
có 42 dự án đã hoàn thành hoặc đang triển khai xây dựng với tổng mức đầu
75
tư gần 7.300 tỷ đồng và 18 dự án đang chuẩn bị đầu tư với tổng mức đầu tư
37.000 tỷ đồng.
Hiện tại, có nhiều nhà đầu tư nước ngoài bày tỏ nguyện vọng được
tham gia đầu tư dưới hình thức BOT, đặc biệt là trong các lĩnh vực cung cấp
nước sạch, sản xuất điện, công trình giao thông vận tải, kết cấu hạ tầng đô
thị. Một số nhà đầu tư Hàn Quốc đã bày tỏ nguyện vọng được đầu tư vào các
dự án phát triển nhà ở tại thành phố Hồ Chí Minh và các công trình hạ tầng
khu đô thị mới theo hình thức BT hoặc BTO.
Trong giai đoạn từ nay đến 2010, Việt Nam có kế hoạch xây dựng và
đưa vào vận hành 32 nhà máy điện, với tổng vốn đầu tư khoảng 305 ngàn tỷ
đồng (tương đương gần 20 tỷ USD). Để làm lành mạnh hoá tình hình tài
chính và đảm bảo khả năng trả nợ, Tổng Công ty Điện lực Việt Nam đã dự
kiến thực hiện một số biện pháp huy động vốn đầu tư tư nhân để phát triển
nguồn điện, trong đó có việc kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài tham gia
xây dựng các nhà máy điện theo hình thức BOT, BTO hoặc BT.
Thứ năm, các hình thức đầu tư khác
Ngoài các hình thức đầu tư truyền thống kể trên, hiện nay đã xuất hiện
nhu cầu phát triển các hình thức đầu tư mới như: doanh nghiệp cổ phần có
vốn đầu tư nước ngoài, Công ty mẹ - con, Công ty hợp danh có vốn đầu tư
nước ngoài, hình thức đầu tư mua lại và sáp nhập giữa các Công ty nước
ngoài và doanh nghiệp FDI tại Việt Nam.
3.2. Phƣơng hƣớng phát triển các hình thức FDI của TNCs phù
hợp với điều kiện Việt Nam
Để xác định hướng phát triển các hình thức FDI của TNCs cho phù
hợp với điều kiện Việt Nam, trước hết, tôi tiến hành một phân tích SWOT về
toàn bộ nền kinh tế để nhìn nhận lại các điểm mạnh (strengths), những điểm
yếu (weaknesses), những cơ hội (opportunities) và những nguy cơ (threats)
mà Việt Nam phải đối mặt. Thông qua sự phân tích này để xác định hướng
76
thu hút đầu tư theo những hình thức có lợi cho nước ta khi đón nhận các cơ
hội đang đến và tránh được các nguy cơ đang rình rập.
Những điểm mạnh của Việt Nam.
- Môi trường chính trị ổn định, tính nhất quán trong đường lối phát
triển kinh tế, tạo sự yên tâm cho các nhà đầu tư nước ngoài. Đảng Cộng sản
Việt Nam là lực lượng lãnh đạo và điều hành đất nước trong 6 thập kỷ qua,
có đường lối lãnh đạo đúng đắn được toàn dân ủng hộ. Đảng đã và đang lãnh
đạo thành công công cuộc đổi mới và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
- Chính phủ đã tỏ rõ thiện chí và quyết tâm cải thiện môi trường đầu
tư, thể hiện ở sự thống nhất về đường lối, cố gắng hoàn thiện hệ thống luật
pháp, mở rộng việc nối kết thị trường thương mại, tài chính, đầu tư; quyết
tâm cải cách nền hành chính quốc gia, giảm bớt phân biệt đối xử và tiến dần
tới một môi trường kinh doanh bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế, trong
đó có thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
- Nguồn nhân công: Việt Nam với số dân hơn 80 triệu người, phần lớn
dân số còn trẻ, với tỷ lệ có sức lao động cao, trình độ giáo dục tốt, mức
lương tương đối thấp so với các nước trong khu vực. Người Việt Nam thông
minh, cần cù, dũng cảm và hiếu học được các nhà đầu tư nước ngoài đánh
giá cao.
- Việt Nam nằm ở trung tâm của vùng Đông Nam Á, gần các tuyến
hàng không, hàng hải quan trọng. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên thuận lợi
cho việc phát triển vận tải biển, hàng không, thông tin liên lạc và những
ngành tạo tiền đề cho việc phát triển những ngành công nghiệp khác, đồng
thời mang lại lợi nhuận cao. Nhiều tiềm năng của đất nước chưa được khai
thác.
77
- Nhiều nhà đầu tư đánh giá Việt Nam là thị trường tiềm năng đầy
triển vọng. Đây không chỉ là thị trường với 80 triệu người mà còn là địa bàn
để cung cấp hàng hoá cho Lào, Cămpuchia, Myanmar và Tây Nam Trung
Quốc.
- Sự an toàn: Trong bối cảnh chủ nghĩa khủng bố phát triển và hoành
hành trên thế giới những năm gần đây, Việt Nam được đánh giá là một trong
những nước an toàn nhất đối với đầu tư nước ngoài.
Như vậy, Việt Nam không chỉ có lợi thế về vị trí địa lý, giá lao động
rẻ, nguồn nhân lực dồi dào, hệ thống pháp luật chính sách có định hướng cởi
mở và một thị trường hơn 80 triệu dân đang phát triển mà còn có lợi thế hết
sức quan trọng là sự ổn định về chính trị - xã hội, tạo sự an toàn cho các nhà
đầu tư.
Những điểm yếu.
- Điều kiện cơ sở hạ tầng lạc hậu, chi phí sử dụng cơ sở hạ tầng quá
cao so với các nước trong khu vực làm tăng chi phí đầu tư và giảm hiệu quả
kinh doanh, giảm sức cạnh tranh của hàng hoá sản xuất tại Việt Nam. Theo
báo cáo của Tổ chức JETRO (Nhật Bản) tại Diễn đàn doanh nghiệp Việt
Nam tháng 6/2004, mặc dù chi phí đầu tư tại Việt Nam liên tục giảm trong
thời gian gần đây nhưng vẫn còn cao hơn mức bình quân của một số nước
ASEAN và Trung Quốc. Ví dụ giá điện cao hơn 25%, cước vận tải biển cao
hơn 62%. Ngay cả chi phí lao động, giá thuê đất trên danh nghĩa được coi là
thấp, nhưng thực tế nhà đầu tư phải bỏ thêm các chi phí liên quan đến đào
tạo và đào tạo lại, đền bù giải phóng mặt bằng… nên Việt Nam có nguy cơ
mất lợi thế này.
- Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam rất thấp, đặc
biệt là các doanh nghiệp Nhà nước, bị chi phối bởi nhiều yếu tố: sử dụng
vốn không hiệu quả, giá cả hàng hoá cao, trình độ quản lý kém, công nghệ
lạc hậu, dịch vụ tiếp thị và quảng cáo nghèo nàn.
78
- Bộ máy quản lý còn quá cồng kềnh, thiếu hiệu quả; hệ thống pháp
luật chưa hoàn chỉnh. Đội ngũ cán bộ bất cập với yêu cầu phát triển nền kinh
tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Những yếu kém trong môi
trường hành chính và pháp lý gây ảnh hưởng xấu tới hiệu quả hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tạo cho các nhà đầu tư nước ngoài tâm lý
ngại đầu tư vào Việt Nam.
- Tình trạng thừa lao động phổ thông, nhưng thiếu nguồn lao động
trình độ cao, đặc biệt là thiếu lao động kỹ thuật đang trở nên nan giải trong
việc thực hiện các dự án đầu tư, đặc biệt trong việc tiếp nhận công nghệ
được chuyển giao.
- Sự yếu kém của hệ thống tài chính, ngân hàng, thị trường vốn chưa
phát triển là trở ngại lớn cho phát triển kinh tế và hoạt động của doanh
nghiệp.
- Sự khác biệtlớn về văn hoá giữa Việt Nam với các nước Âu – Mỹ,
đặc biệt là cách giải quyết vấn đề thiên về tình cảm hơn là coi trọng pháp lý
đang là trở ngại lớn cho việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài từ EU và
Bắc Mỹ.
Những cơ hội.
- Xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thị trường đã tạo cơ hội cho các
nước chung và Việt Nam nói riêng trong hoạt động thu hút vốn FDI. Trong
đó đặc biệt phải kể đến vai trò của các Công ty đa quốc gia. Các tổ chức này
đã thực sự trở thành hệ thống thống trị nền kinh tế thế giới với sức mạnh
chưa từng có về tài chính, công nghệ, năng lực sản xuất, thị trường…
- Khả năng tiếp cận thị trường tăng lên: việc tham gia ký kết các hiệp
định song phương và đa phương đang đem lại cho Việt Nam nhiều cơ hội
thâm nhập các thị trường khác trong khu vực và thị trường Mỹ, EU – các thị
trường nhiều tiềm năng cho các mặt hàng tiêu dùng như nông phẩm chế
biến, lâm sản, thuỷ sản, hàng may mặc và giày dép.
79
- Sự gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO) trong tương lai gần
là nhân tố tích cực thúc đẩy thu hút vốn FDI vào Việt Nam, vì khi đó hàng
hoá sản xuất tại Việt Nam không những có chi phí thấp (do lợi thế về giá
nhân công) mà còn được đảm bảo bởi các cam kết không phân biệt đối xử
quốc gia của các nước khác. Tư cách thành viên WTO sẽ giúp Việt Nam đấu
tranh một cách có hiệu quả để không bị coi là "một nền kinh tế phi thị
trường" của các đối tác mậu dịch lớn như EU và Mỹ, tránh được các biện
pháp bảo hộ không minh bạch như "chống bán phá giá" mà các nước này đã
áp dụng đối với Việt Nam thời gian qua.
Nguy cơ
- Nguy cơ lớn nhất đối với Việt Nam hienẹ nay là cạnh tranh thu hút
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới và trong khu vực trở nên hết
sức gay gắt. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á vừa qua đã làm tăng
thêm số đối thủ cạnh tranh của Việt Nam trong hoạt động thu hút vốn FDI.
- Trung Quốc sau khi ký Hiệp định thương mại với Hoa Kỳ và gia
nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), đang đẩy nhanh quá trình cải
cách, với cam kết mở cửa cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
hoạt động trong một số lĩnh vực dịch vụ, bao gồm cả bưu chính viễn thông,
phân phối hàng hoá, ngân hàng, bảo hiểm v.v… sẽ làm chuyển hướng đầu tư
của các nhà đầu tư nước ngoài từ các nước khác, kể cả Việt Nam.
Trung Quốc đã vượt Mỹ trong thu hút vốn FDI năm 2002 với 52,7 tỷ
USD. Theo báo cáo về triển vọng đầu tư của Cơ quan phát triển quốc tế Hoa
Kỳ, giai đoạn 2001 - 2005, nguòn vốn FDI vào các nước Đông Nam Á sẽ
giảm, nhưng sẽ tăng mạnh vào Trung Quốc với quy mô bình quân hàng năm
57,6 tỷ USD, chiếm khoảng 6,5% tổng nguồn FDI toàn thế giới và 54%
nguồn FDI vào các nước đang phát triển.
Bảng 3 - 1: Mô hình ma trận SWOT định hƣớng phát triển các hình thức đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài tại Việt Nam
80
Cơ hội (O)
Ma trận SWOT
tiếp cận
- Xu hướng toàn cầu hoá - Các TNC phát triển, cơ cấu lại. - Việc gia nhập WTO của VN trong tương lai gần. - Khả năng thị trường của VN sau khi tham gia các Hiệp định đa phương và khu vực.
trung
Mặt mạnh (S). - ổn định chính trị. - Vị trí địa lý thuận lợi Nguồn - lực nhân dồi dào. - Kinh tế tăng trưởng ổn định. - An toàn
Nguy cơ (T) - Cạnh tranh gay gắt với các nước khu vực trong thu hút FDI. - Việc gia nhập WTO của Trung Quốc. - Chiến lược độc quyền của các TNC. - Tính cạnh tranh thấp của nền kinh tế khi rõ bỏ hàng rào thuế quan. Phối hợp S – T. - Mở ra các hình thức mới để hấp dẫn FDI. - Áp dông c¸c biÖn ph¸p hç trî, nh c¶i c¸ch hµnh chÝnh, t¹o dùng h×nh ¶nh míi vÒ ViÖt Nam ®Ó l«i kÐo c¸c nhµ ®Çu t . - T¨ng c êng thu hót FDI tõ Trung Quèc d íi mäi h×nh thøc ®Çu t vµo c¸c lÜnh vùc c«ng nghiÖp chÕ biÕn thùc phÈm, ®iÖn tö, ho¸ dÇu, thÐp. - Më réng h×nh thøc ®Çu t vµo lÜnh vùc dÞch vô vËn t¶i, giao nhËn vµ dÞch vô hç trî xuÊt khÈu hµng ho¸ cña Trung Quèc.
tiÕn
MÆt yÕu (W) M«i - tr êng ph¸p lý, hµnh chÝnh yÕu. - C¬ së h¹ tÇng yÕu, chi phÝ ®Çu t cao. - Tr×nh ®é c«ng nghÖ, kü thuËt l¹c hËu, quy m« n¨ng nhá,
Phối hợp S – O - Tập thu hút FDI hướng xuất khẩu, sử dụng nhiều nhân lực giá rẻ và công nghiệp sử dụng công nghệ cao củae các TNC trên cơ sở lợi thế ổn định và an toàn. - Đơn giản hoá thủ tục cấp phép đầu tư và mở rộng lĩnh vực thu hút FDI thông qua thức 100% vốn nước hình ngoài. - Cho phép thành lập Công ty cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài. - Cho phép các TNC được đầu tư vào Việt Nam dưới mô hình Công ty mẹ – con, thành lập chi nhánh tại Việt Nam. Phèi hîp W – O - Hoµn chØnh hµnh lang ph¸p lý cho ho¹t ®éng cña c¸c lo¹i h×nh tæ chøc kinh doanh. - T¨ng c êng thu hót FDI theo h×nh thøc BOT ®Ó ph¸t triÓn nhanh c¬ së h¹ tÇng. - Cho phÐp thùc hiÖn ®Çu t vµo ViÖt Nam d íi h×nh thøc M & A, b¸n cæ phÇn cho nhµ ®Çu t n íc ngoµi kh«ng giíi h¹n tû lÖ ®Ó hiÖn ®¹i ho¸ c«ng nghÖ. - C¸c nhµ ®Çu t cã quyÒn
Phèi hîp W – T: - N©ng cao hiÖu lùc qu¶n lý Nhµ n íc ®èi víi ho¹t ®éng FDI. - T¹o dùng m«i tr êng tranh kinh doanh c¹nh b×nh ®¼ng gi÷a c¸c thµnh phÇn kinh tÕ, chèng ®éc quyÒn doanh nghiÖp. - Kh¾c phôc nhanh c¸c yÕu kÐm vÒ c¬ së h¹ tÇng. - §Èy nhanh tr×nh thùc hiÖn cam kÕt gia nhËp WTO, n©ng cao tÝnh c¹nh
81
c¹nh
c¸c
cña
lùc tranh thÊp. - ThiÕu lao ®éng vµ c¸n bé qu¶n lý tr×nh ®é cao
tham gia qu¶n lý doanh nghiÖp nÕu n¾m gi÷ trªn 10% cæ phÇn doanh nghiÖp. - Kh«ng h¹ chÕ FDI (d íi mäi h×nh thøc) trong lÜnh vùc gi¸o dôc - ®µo t¹o, y tÕ, t vÊn qu¶n lý.
tranh doanh nghiÖp trong n íc th«ng qua thu hót FDI vµ tranh thñ lîi thÕ cña Trung Quèc ®Ó tham gia c¸c thÞ tr êng mµ ViÖt Nam cã lîi thÕ t ¬ng tù.
- Các Công ty xuyên quốc gia, một mặt tạo cơ hội cho Việt Nam thu
hút vốn FDI, mặt khác thông qua hoạt động FDI để thực hiện chiến lược của
Công ty mẹ, có thể dẫn tới độc quyền doanh nghiệp, tạo sự cạnh tranh không
lành mạnh, gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp
trong nước.
- Xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá cũng là một thách thức đối với
Việt Nam trong thu hút đầu tư. Nếu môi trường đầu tư của Việt Nam không
hấp dẫn thì các nhà đầu tư sẽ chuyển sang các nước khác trong khu vực và
khi hàng rào bảo hộ đựơc dỡ bỏ, hàng hoá nước ngoài sẽ tràn vào Việt Nam,
trong khi hàng hoá Việt Nam, do các doanh nghiệp trong nước sản xuất,
chưa có khả năng cạnh tranh để thâm nhập các thị trường khác.
Căn cứ mô hình ma trận SWOT (xem bảng 3 - 2), phối hợp các điểm
mạnh - yếu - cơ hội - nguy cơ đối với Việt Nam, phương pháp xác định
hướng phát triển các hình thức đầu tư nhằm tăng cường thu hút và nâng cao
hiệu quả sử dụng FDI của Việt Nam trong giai đoạn tới là: củng cố và tăng
cường các mặt mạnh, khắc phục các mặt yếu để tận dụng được các cơ hội và
tránh được nguy cơ đối với hoạt động thu hút FDI.
Các định hướng cụ thể là:
- Dòng vốn FDI của TNCs đầu tư vào Việt Nam cần được hướng
nhiều hơn vào lính vực xây dung và dịch vụ, nhất làc các dịch vụ yêu ầu cao
về kỹ năng nghiệp vụ, công nghệ và xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế
- Song song với việc thu hút FDI của TNCs hướng xuất khẩu sử dụng
nhiều nhân lực giá rẻ, Việt Nam phải đẩy mạnh thu hút TNCs sử dụng công
nghệ cao, hiện đại.
82
- Mở ra các hình thức đầu tư mới để thu hút FDI của TNCs như cho
phép thành lập Công ty cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài, Công ty mẹ -
con, chi nhánh Công ty nước ngoài, Công ty hợp danh.
- Cho phép nhà đầu tư nước ngoài mua lại cổ phần doanh nghiệp Nhà
nước cổ phần hoá và có quyền tham gia kiểm soát, điều hành doanh nghiệp
nếu nắm giữ trên 10% cổ phần doanh nghiệp; cho phép các tổ chức, cá nhân
nước ngoài được mua, nhận khoán kinh doanh, thuê lại các doanh nghiệp
trong nước quy mô nhỏ kinh doanh kém hiệu quả.
- Mở rộng lĩnh vực cho phép thu hút đầu tư dưới hình thức 100% vốn
nước ngoài; thu hẹp những lĩnh vực hạn chế đối với đầu tư nước ngoài; tăng
cương thu hút đầu tư dưới dạng thức BOT trong lĩnh vực phát triển cơ sở hạ
tầng và đô thị.
- Thu hẹp dần và tiến tới xoá bỏ hạn chế về đầu tư nước ngoài trong
các lĩnh vực dịch vụ vận tải, thương mại, du lịch lữ hành và các dịch vụ hỗ
trợ đầu tư, xuất khẩu.
3.3. Các giải pháp chủ yếu nhằm thu hút và sử dụng có hiệu qủa
FDI của TNCs tại Việt Nam
3.3.1. Các giải pháp chung
Thứ nhất, nâng cao chất lượng quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội
làm cơ sở thu hút vốn FDI của TNCs.
Sự yếu kém trong công tác quy hoạch thời gian qua dẫn đến tình trạng
thu hút FDI một cách tự phát là nguyên nhân chính làm cho chất lượng
nguồn FDI còn thấp và kém hiệu quả, tỷ lệ dự án bị giải thể trước thời hạn
quá cao. Do đó, việc quy hoạch thu hút vốn FDI ngay từ đầu phải gắn với
phát huy nội lực (gồm cả vốn, tài sản và cơ sở vật chất - kỹ thuật đã tích luỹ
được cùng với nguồn tài nguyên chưa sử dụng, nguồn lực con người, lợi thế
về vị trí địa lý và chính trị); gắn với việc đảm bảo về an ninh quốc phòng;
phát huy được lợi thế so sánh của sản phẩm Việt Nam trong bối cảnh cạnh
83
tranh và hội nhập quốc tế. Trước mắt, định hướng quy hoạch cần tập trung
xử lý tốt các vấn đề sau:
Một là: Nhanh chóng hoàn chỉnh quy hoạch phát triển hệ thống cơ sở
hạ tầng và quy hoạch sử dụng đất đai, quy hoạch cơ sở đào tạo nguồn nhân
lực làm cơ sở thu hút FDI của TNCs vào các dự án phát triển kết cấu hạ tầng
nhằm tạo lợi thế vị trí để hấp dẫn FDI.
Hai là: Khi xây dựng các quy hoạch ngành và sản phẩm cần xác định
những lĩnh vực ưu tiên đối với FDI của TNCs nhằm tạo khả năng tiếp cận
nhanh với các nguồn vốn, công nghệ, bí quyết kinh doanh và thị trường để
phát triển những ngành mũi nhọn, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Việc xây dựng quy hoạch phát triển ngành phải gắn với quy hoạch phát triển
các vùng lãnh thổ; đáp ứng mục tiêu trước mắt là ưu tiên phát triển các
ngành khai thác lợi thế so sánh của vùng, đồng thời tăng cường thu hút các
dự án có công nghệ thích hợp. Kiên quyết`xoá bỏ độc quyền doanh nghiệp
Nhà nước và khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia thực hiện quy
hoạch.
Việc xây dựng quy hoạch phát triển các ngành cần đứng trên quan
điểm dành nguồn vốn Nhà nước để phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh
tế - xã hội tại các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, chưa thu
hút được đầu tư nước ngoài, tạo điều kiện lưu thông hàng hoá giữa các vùng
miền trong nước, giảm bớt chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng. Tại các
vùng kinh tế trọng điểm, trước đây đã được Nhà nước ưu tiên đầu tư phát
triển cơ sở hạ tầng tạo sức hấp dẫn đối với đầu tư nước ngoài và đầu tư tư
nhân, cần huy động mọi nguồn vốn, đặc biệt là nguồn FDI để đầu tư phát
triển cơ sở hạ tầng và các ngành công nghiệp Việt Nam có lợi thế cạnh
tranh. Trước mắt cần chú trọng thu hút đầu tư nước ngoài theo các hình thức
thích hợp để phát triển nhanh cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, cấp thoát
nước, điện, bưu chính viễn thông, ngân hàng và tài chính ở các vùng kinh tế
84
trọng điểm nhằm đảm bảo điều kiện tương đối thuận lợi cho các nhà đầu tư
tương tự các nước trong khu vực.
Thứ hai, tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách
liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng thông thoáng, hấp dẫn
và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Cùng với việc tham gia vào các thoả thuận đầu tư quốc tế, nhất là các
thoả thuận song phương, tiểu vùng và khu vực nhằm vào các vấn đề đầu tư,
thời gian qua Việt Nam đã đẩy mạnh xây dựng hệ thống pháp luật điều
chỉnh hoạt động FDI theo hướng minh bạch, ổn định, có thể dự báo, được
đảm bảo. Định hướng tự do hoá hoạt động FDI và cho phép nhà đầu tư
nướcngoài tự do lựa chọn hình thức đầu tư đã làm giảm bớt các trở ngại đối
với FDI. Tuy nhiên, để tạo ra sự hấp dẫn đối với FDI cần đẩy mạnh hơn nữa
việc xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp luật về đầu tư nước ngoài
theo hướng:
- Từng bước tiến tới thiết lập một mặt bằng pháp lý chung cho cả đầu
tư trong nước và đầu tư nước ngoài nhằm tạo lập môi trường ổn định, bình
đẳng cho sản xuất và kinh doanh. Bổ sung các biện pháp hỗ trợ, khuyến
khích đầu tư nước ngoài có sức thuyết phục và tính cạnh tranh cao, tập trung
vào những lĩnh vực ưu tiên, những mục tiêu trọng điểm, đảm bảo chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Điều chỉnh hợp lý một số nội dung liên quan đến các lĩnh vực pháp
luật khác liên quan đến đầu tư và kinh doanh, như Luật Đất đai, Bộ Luật Lao
động, Bộ Luật dân sự, Luật Thương mại…, có tác động đến hoạt động củat
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nhằm tạo dựng môi trường kinh
doanh ổn định, giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh.
- Luật hoá những quy định quan trọng về đầu tư nước ngoài đã được
thực tế thừa nhận, đang được quy định ở các văn bản dưới luật; cụ thể hoá
85
các quy định còn chung chung nhằm đảm bảo tính rõ ràng, minh bạch, có
hiệu lực pháp lý cao.
- Tiếp tục cải cách hệ thống theo hướng đơn giản hoá các sắc thuế.
Xây dựng chính sách thuế ổn đinh, lâu dài áp dụng chung cho mọi loại hình
doanh nghiệp, không phân biệt đầu tư trong nước hay đầu tư nước ngoài để
nhà đầu tư có thể dự báo trước hiệu quả các dự án đầu tư.
- Tập trung hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến sở hữu trí tuệ
tại Việt Nam nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhà đầu tư.
- Nghiên cứu, bổ sung sửa đỏi các quy định liên quan tới tài chính,
tiền tệ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp FDI nói riêng và doanh nghiệp ngoài
quốc doanh nói chung có nhiều cơ hội tiếp cận với nguồn vốn vay dài hạn tại
các ngân hàng quốc doanh và các tổ chức tín dụng nước ngoài. Đơn giản hoá
thủ tục chuyển đổi từ ngoại tệ thành VNĐ và ngược lại.
Thứ ba, đa dạng hoá các hình thức đầu tư và mở rộng lĩnh vực thu hút
FDI phù hợp với cam kết trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Cần tạo dựng cơ sở pháp lý cho phép thu hút FDI theo các hình thức
Công ty cổ phần, Công ty hợp danh, Công ty mẹ – con, chi nhánh Công ty
nước ngoài; cho phép nhà đầu tư nước ngoài mua, nhận khoán kinh doanh,
thuê lại các doanh nghiệp trong nước để thực hiện mục tiêu kinh doanh của
mình.
- Cần chính thức thừa nhận đầu tư theo hợp đồng BOT (và các dạng
thức tương tự như BT, BTO…) là một hình thức đầu tư và tạo dựng hành
lang pháp lý đầy đủ để khuyến khích đầu tư nước ngoài mua, nhận khoán
kinh doanh, thuê lại các doanh nghiệp trong nước để thực hiện mục tiêu kinh
doanh của mình.
- Cần chính thức thừa nhận đầu tư theo hợp đồng BOT (và các dạng
thức tương tự như BT, BTO…) là một hình thức đầu tư và tạo dựng hành
86
lang pháp lý đầy đủ để khuyến khích đầu tư nước ngoài theo hình thức này
trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng và đô thị.
- Tạo thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài tham gia xây dựng nhà ở để
bán cho người Việt Nam và cho người nước ngoài thuê. Tuy Chính phủ đã
ban hành Nghị định 71/2001/NĐ - CP quy định những chính sách ưu đãi đối
với người nước ngoài xây nhà để bán và cho thuê, nhưng để thúc đẩy những
dự án kinh doanh bất động sản cần có thểm văn bản hướng dẫn cụ thể về giá
kinh doanh nhà gắn liền với đất đai và sửa đổi các văn bản pháp lý liên quan
đến việc kinh doanh nhà; cho phép nhà đầu tư nước ngoài làm ăn lâu dài ở
Việt Nam hoặc doanh nghiệp FDI được mua nhà ở; cho phép các doanh
nghiệp FDI đầu tư xây dựng khu đô thị được chuyển quyền sử dụng đất đã
đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các tổ chức, cá nhân Việt Nam để xây
dựng nhà ở hoặc cho nhà đầu tư thứ cấp thuê để thực hiện dự án đầu tư.
- Cho phép các doanh nghiệp FDI tham gia dịch vụ nhập khẩu và phân
phối trong nước theo các hình thức đầu tư thích hợp và thực hiện lộ trình mở
cửa tiến tới tự do hoá đầu tư trong lĩnh vực này.
Theo tinh thần của Luật Thương mại, Chính phủ cần nghiên cứu, cho
phép các doanh nghiệp FDI được tham gia vào dịch vụ kinh doanh xuất nhập
khẩu quốc tế, trước mắt có thể lựa chọn một số doanh nghiệp sản xuất hàng
công nghiệp thuộc các tập đoàn xuyên quốc gia để thực hiện thí điểm dịch
vụ xuất nhập khẩu và phân phối những mặt hàng cùng loại với sản phẩm
doanh nghiệp sản xuất tại Việt Nam.
- Từng bước xử lý việc hạn chế về hình thức đầu tư trong một số lĩnh
vực phù hợp với cam kết trong Hiệp định thương mại Việt – Mỹ và các hiệp
định bảo hộ đầu tư song phương và đa phương mà Việt Nam đã ký kết với
các nước. Mở rộng thu hút FDI vào một số lĩnh vực đầu tư có điều kiện như
kinh doanh vận tải biển, hàng không, vận tải hành khách công cộng, kinh
doanh du lịch lữ hành, bưu chính, viễn thông…
87
Thứ tư, đổi mới công tác vận động, xúc tiến đầu tư để đảm bảo đúng
định hướng thu hút FDI của TNCs.
Cùng với việc duy trì ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, cần đổi mới
phương pháp vận động xúc tiến đầu tư nhằm mục tiêu tăng cường thu hút và
nâng cao hiệu quả sử dụng FDI.
- Tăng cường quảng bá hình ảnh Việt Nam trên các trang Web, các
phương tiện thông tin đại chúng thông qua việc giới thiệu về đất nước, con
người Việt Nam, các dự án đầu tư thành công ở Việt Nam, các cơ hội đầu tư
đang đón đợi và các chính sách khuyến khích, hỗ trợ đầu tư của Nhà nước
Việt Nam. Thường xuyên giới thiệu các thông tin cập nhật về hoạt động FDI
tại Việt Nam với các nhà đầu tư tiềm năng.
- Tập trung xây dựng và ban hành sớm một chương trình xúc tiến đầu
tư quốc gia dài hạn để làm cơ sở cho việc xây dựng các chương trình vận
động, xúc tiến đầu tư của các Bộ, ngành, địa phương.
- Thực hiện các chương trình vận động trực tiếp đối với từng lĩnh vực,
từng dự án cụ thể theo hướng:
+ Tiếp xúc trực tiếp ở cấp Chính phủ với các tập đoàn xuyên quốc gia
có tiềm lực tài chính, công nghệ để vận động đầu tư vào một số dự án quan
trọng được lựa chọn. Đồng thời, Chính phủ cần có các cam kết mạnh mẽ về
việc tạo thuận để nhà đầu tư thực hiện dự án nhanh chóng và hiệu quả.
+ Sử dụng tối đa các quan hệ cá nhân trong hợp tác xúc tiến đầu tư và
kết hợp chặt chẽ vận động đầu tư với các hoạt động xúc tiến thương mại,
triển lãm, hội chợ.
Tăng cường hợp tác song phương và đa phương về xúc tiến đầu tư với
các tổ chức quốc tế và doanh nghiệp nước ngoài, nhằm tranh thủ sự hỗ trợ
của các tổ chức này trong việc thực hiện các chương trình vận động đầu tư
trực tiếp với từng đối tác, lĩnh vực cụ thể.
88
- Xây dựng và phát triển các đối tác đầu tư trong nước đạt chất lượng
cao nhằm đảm bảo trong quan hệ kinh tế quốc tế với các đối tác nước ngoài.
Đây là vấn đề đối tác nước ngoài rất quan tâm. Do vậy nhà nước cần có
chính sách khuyến khích, hỗ trợ giúp đỡ củng cố và phát triển các doanh
nghiệp chủ lực, xây dựng các tập đoàn kinh tế mạnh, khuyến khích các thành
phần kinh tế phát triển. Đồng thời bản thân các doanh nghiệp cần có sự nỗ
lực cao trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thứ năm, phát triển nguồn nhân lực.
Trong điều kiện hiện nay để hội nhập kinh tế quốc tế thì đây là nhiệm
vụ bức xúc để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đảm bảo tính bền vững
của sự phát triển. Do vậy cần thiết phải có đội ngũ cán bộ công nhân kỹ
thuật lành nghề tiếp nhận và hướng dẫn đầu tư có trình độ năng lực và am
hiểu sâu sát để phân tích tình hình, lựa chọn đúng đối tác. Đồng thời đội ngũ
này phải có bản lĩnh chính trị, kinh doanh, hiểu biết pháp luật trong và ngoài
nước, có trình độ ngoại ngữ và khả năng thích nghi với mọi biến động trên
thị trường. Để phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao, cần có chương
trình đào tạo tổng thể, xây dựng một đội ngũ cán bộ quản lý giỏi, năng động;
công nhân tay nghề cao đáp ứng yêu cầu sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
3.3.2. Các giải pháp cụ thể phát triển từng hình thức FDI của TNCs.
Thứ nhất, giải pháp phát triển doanh nghiệp liên doanh.
Vấn đề lớn nhất bị các nhà đầu tư nước ngoài phản ứng đối với hình
thức doanh nghiệp liên doanh là nguyên tắc nhất trí trong Hội đồng quản trị.
Quy định này được đưa ra với mục đích đảm bảo cho bên Việt Nam tham
gia quản lý doanh nghiệp liên doanh trong điều kiện tỷ lệ góp vốn còn hạn
chế, đồng thời chưa đủ khả năng kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp.
Quy định này được áp dụng cho nhiều vấn đề liên quan đến toàn bộ hoạt
động của doanh nghiệp nên khi các bên không đạt được sự nhất trí thì hoạt
động của doanh nghiệp bị ngừng trệ. Thực tiễn hoạt động nhiều năm qua cho
thấy, trong điều kiện vốn góp hạn chế, chủ yếu bằng giá trị quyền sử dụng
89
đất, năng lực cán bộ Việt Nam còn yếu thì việc quy định nguyên tắc nhất trí
nhiều khi chỉ có tính hình thức, không phải là biện pháp duy nhất để bảo vệ
quyền lợi của bên Việt Nam mà vấn đề quyết định vẫn là năng lực của cán
bộ Việt Nam. Do đó cần tiến tới bỏ nguyên tắc nhất trí, áp dụng nguyên tắc
quá bán khi biểu quyết các vấn đề liên quan đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, những vấn đề quan trọng nhất đối với hoạt động
của doanh nghiệp thì áp dụng nguyên tắc biểu quyết theo đa số.
Nhà nước cần có cơ chế tuyển dụng và bổ nhiệm cán bộ Việt Nam làm
việc trong các doanh nghiệp liên doanh có sự tham gia của doanh nghiệp
Nhà nước, đảm bảo những người được đưa vào quản lý doanh nghiệp liên
doanh thực sự có đủ năng lực bảo vệ quyền lợi củann và bên Việt Nam tiếp
thu được công nghệ và kinh nghiệm quản lý của nước ngoài. Sau 20 năm
thực hiện chính sách mở cửa, đội ngũ cán bộ Việt Nam đã tương đối trưởng
thành về chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ và kinh nghiệm hợp tác quốc tế.
Do đó, cần cho phép và hướng dẫn các doanh nghiệp liên doanh áp dụng cơ
chế tuyển cán bộ điều hành doanh nghiệp.
Để tạo điều kiện cho người Việt Nam nắm được các chức vụ cao trong
các doanh nghiệp liên doanh, ngoài các biện pháp khuyến khích đào tạo và
tự đào tạo, Nhà nước cần xem xét lại mức thuế thu nhập cá nhân đối với
người lao động Việt Nam theo hướng tạo điều kiện để nâng cao sức cạnh
tranh của lực lượng lao động trình độ cao của ta hơn hẳn so với lao động
nước ngoài.
Để thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh và hiệu quả của các tập đoàn kinh
tế Việt Nam trong giai đoạn tới, Nhà nước cần tạo điều kiện và khuyến
khích các tập đoàn lớn của Việt Nam liên doanh với các tập đoàn lớn của
nước ngoài đầu tư vào các dự án quy mô lớn, có vai trò quan trọng đối với
nền kinh tế. Xem xét cho phép thí điểm hình thức liên doanh trong lĩnh vực
kinh doanh nhập khẩu phân phối trong nước, trong đó Bên Việt Nam là các
tập đoàn lớn đóng góp trên 50% vốn pháp định của các liên doanh.
90
Để tăng tính hấp dẫn cho hình thức doanh nghiệp liên doanh, Chính
phủ cần xem xét sửa đổi quy định tại Nghị định 10/2001/NĐ - CP về kinh
doanh lữ hành, hướng dẫn du lịch theo hướng cho phép thu hút đầu tư nước
ngoài theo hình thức doanh nghiệp liên doanh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch
lữ hành, dịch vụ đại lý tàu biển và dịch vụ lại dắt tàu biển.
Thứ hai, giải pháp phát triển doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Để đẩy mạnh xuất khẩu của đất nước, việc thu hút đầu tư dưới hình
thức 100% vốn nước ngoài có vai trò hết sức quan trọng. Cần khuyến khích
hơn nữa bằng đòn bẩy kinh tế đối với dự án đầu tư theo hình thức doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài sử dụng công nghệ cao, công nghệ mới; dự án
có quy mô đầu tư lớn, thời gian hoàn vốn dài, độ rủi ro cao, tỷ lệ lợi nhuận
thấp và các dự án trong lĩnh vực cơ khí chế tạo.
Luật cạnh tranh ra đời là một cơ sở pháp lý quan trọng để đảm bảo
cạnh tranh lành mạnh, trung thực, công bằng giữa các chủ thể cạnh tranh;
điều tiết cạnh tranh theo mức độ, phạm vi phát triển đối với từng loại thị
trường hàng hoá; bảo vệ lợi ích của người sản xuất, lợi ích của người tiêu
dùng, lợi ích của Nhà nước và xã hội; làm cho cạnh tranh thực sự trở thành
động lực phát triển của các nhà sản xuất và động lực phát triển nền kinh tế
quốc dân.
Để tăng cường thu hút FDI của TNCs, cần sớm xoá bỏ hạn chế đầu tư
theo hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ tư
vấn (hiện nay mới cho phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
kinh doanh dịch vụ tư vấn kỹ thuật), dịch vụ vận chuyển hành khách công
cộng bằng đường bộ, chế biến khoáng sản quý hiếm tại Việt Nam.
Thứ ba, giải pháp phát triển hình thức hợp danh.
Hiện nay, nhà đầu tư nước ngoài chỉ có một lựa chọn duy nhất là đầu
tư theo hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh
doanh khi tham gia các dự án thiết lập mạng viễn thông công cộng, cung cấp
91
dịch vụ viễn thông, kinh doanh dịch vụ chuyển phát thư trong nước, chuyển
phát thư quốc tế, hoạt động báo chí, phát thanh, truyền hình.
Đây là hình thức tốt để Việt Nam phát triển cơ sở hạ tầng viễn thông,
chuyển giao công nghệ và cho phép Việt Nam đảm bảo chủ quyền và an
ninh mạng. Tuy vậy, thực tế thời gian qua đã cho thấy, hình thức đầu tư này
có một số hạn chế:
+ Không khuyến khích các nhà đầu tư dài hạn;
+ Giá cả không cạnh tranh, hiện nay cước viễn thông của Việt Nam
vẫn quá cao so với các nước trong khu vực và thế giới.
+ Có hai bộ phận quản lý của hai bên hợp danh cùng vận hành chung
một công việc.
+ Các tổ chức tín dụng nước ngoài lo ngại về việc thiếu quyền kiểm
soát đầu tư mà một hợp đồng hợp tác kinh doanh tạo ra cho nhà đầu tư nước
ngoài.
Việc cung cấp các dịch vụ viễn thông hiệu quả, hiện đại và kinh tế có
ý nghĩa rất quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Đầu tư trực
tiếp nước ngoài và các chuyên gia nước ngoài rất cần thiết cho việc cung cấp
những dịch vụ này và phát triển kỹ năng quản lý dịch vụ ở nước ta. Theo tôi,
việc duy trì hình thức hợp danh trong lĩnh vực khai thác dịch vụ viễn thông
(Internet, điện thoại nội hạt và quốc tế), dịch vụ chuyển phát thư, hoạt động
báo chí, phát thanh, truyền hình, nhằm đảm bảo an ninh quốc gia trong giai
đoạn trước mắt là cần thiết. Đối với loại hình dịch vụ nhạy cảm này, chúng
ta phải thực hiện mở cửa từ từ tuỳ theo mức độ đáp lại của các nước, đặc
biệt là Mỹ, EU và Nhật Bản. Vấn đề đặt ra là phải sửa đổi những quy định
về hình thức hợp danh đã lỗi thời và không còn hấp dẫn đối với các nhà đầu
tư nước ngoài.
Đối với các lĩnh vực khác không bắt buộc phải đầu tư theo hình thức
này, cần quy định rõ một số tiêu chí chủ yếu về thủ tục để thống nhất xem
92
xét chuyển hợp doanh lên hình thức đầu tư cao hơn là doanh nghiệp liên
doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Thứ tư, giải pháp phát triển hình thức đầu tư BOT.
Trong phần trên, tôi đã kiến nghị chuyển đổi phương thức đầu tư BOT
thành hình thức đầu tư để thúc đẩy thu hút đầu tư nước ngoài vào phát triển
kết cấu hạ tầng và đô thị ở nước ta. Thực tế các nước trên thế giới đã cho
thấy BOT là hình thức đầu tư thích hợp, đáp ứng yêu cầu cải thiện và phát
triển hệ thống kết cấu hạ tầng của đất nước để tạo lợi thế vị trí thu hút FDI
trong bước đâù của quá trình phát triển đầu tư. Vì vậy, nếu khéo vận dụng,
có thể trong một thời gian ngắn sẽ giải quyết cơ bản sự yếu kém trong một
hệ thống kết cấu hạ tầng nào đó. Kinh nghiệm của Philippines đã chứng
minh cho thực tế này. Với Việt Nam, hình thức đầu tư BOT có vốn đầu tư
nước ngoài hầu như không phát triển được, tới nay chỉ có 7 dự án được cấp
phép. Nguyên nhân của thực trạng này ngoài những trở ngại liên quan đến
chính sách đảm bảo đầu tư của Nhà nước, còn xuất phát từ việc các nhà đầu
tư nước ngoài gặp trở ngại trong việc tiếp cận các thông tin về cơ hội đầu tư.
Song song với việc ban hành quy chế đầu tư theo hình thức BOT,
BTO và BT áp dụng cho đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Chính phủ cũng
ban hành quy chế đầu tư BOT áp dụng cho đầu tư trong nước (sau đây gọi là
Quy chế BOT trong nước). Trong khi các dự án BOT có vốn đầu tư trong
nước lại phát triển mạnh với hơn 60 dự án đã và đang triển khai, với tổng
mức đầu tư lên tới 44.000 tỷ đồng (hơn 2,8 tỷ USD).
Các dự án BOT và các dạng tương tự là dạng thức đầu tư phổ biến ở
các nước nhằm thu hút đầu tư từ khu vực tư nhân để xây dựng công trình kết
cấu hạ tầng phục vụ lợi ích công cộng mà thông thường Nhà nước phải bỏ
vốn xây dựng, nhưng khả năng cân đối ngân sách còn hạn chế. Xuất phát từ
đặc điểm đó, dự án BOT ở các nước chủ yếu do doanh nghiệp thuộc khu vực
tư nhân thực hiện từ nguồn vốn tự có và vốn vay theo phương thức "tài trợ
93
dự án". Trong khi đó, ở Việt Nam, ngoài nguồn vốn tư nhân, dự án BOT còn
có thể được thực hiện bằng vốn góp của ngân sách Nhà nước. Trên thực tế,
do năng lực tài chính của các doanh nghiệp dân doanh vòn hạn chế và du
yêu cầu cấp bách phải xây dựng sớm một số công trình quan trọng, nên phần
lớn các dự án BOT hiện nay vẫn do các doanh nghiệp Nhà nước thực hiện từ
nguồn vốn thực chất của Nhà nước. Những bất cập này đã và đang làm biến
dạng mục tiêu và tính chất của dự án BOT, một công cụ hữu hiệu để thu hút
đầu tư tư nhân vào các dự án xây dựng công trình kết cấu hạ tầng. Đó là
chưa kể tình trạng một số doanh nghiệp tham gia thực hiện dự án BOT như
một biện pháp nhằm tránh thủ tục đấu thầu, tranh thủ nguồn vốn vay ngân
hàng và hưởng các ưu đãi thuế… Khá nhiều doanh nghiệp Nhà nước có tư
tưởng dựa dẫm vào Nhà nước từ khâu khảo sát, lập nghiên cứu tiền khả thi
đến huy động vốn để triển khai dự án.
Ngoài hợp đồng BOT, một số địa phương đã cho phép triển khai các
dự án xây dựng nhà máy nước, nhà chung cư, khu đô thị, công thị giao thông
dưới hình thức xây dựng - sở hữu - kinh doanh (BOO). Hình thức đổi đất lấy
hạ tầng, công trình đô thị và các công trình khác (một biến tướng của hợp
đồng BT) cũng đã được triển khai phổ biến ở nhiều địa phương.
Phần lớn các nhà đầu tư BOT trong nước hiện nay là các doanh
nghiệp Nhà nước thuộc các Bộ, ngành nên thường xin phép thực hiện cùng
một lúc nhiều dự án khác nhau để chia sẻ rủi ro. Điều này làm hạn chế đáng
kể đến năng lực tài chính của doanh nghiệp do phải cam kết đóng góp cho
nhiều dự án khác nhau, làm chậm tiến độ đưa công trình vào sử dụng phục
vụ phát triển kinh tế.
Thực tế, hình thức đầu tư BOT không chỉ có lợi cho Nhà nước Việt
Nam mà còn đem lại lợi ích chắc chắn cho các nhà đầu tư. Hiện tại, có nhiều
nhà đầu tư nước ngoài bày tỏ nguyện vọng được tham gia thực hiện các dự
án BOT, đặc biệt là trong các lĩnh vực cung cấp nước sạch, sản xuất điện,
công trình giao thông, kết cấu hạ tầng đô thị.
94
Để tăng cường hơn nữa thu hút đầu tư nước ngoài vào các dự án đầu
tư xây dựng kết cấu hạ tầng, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước, nhằm khắc phục các vấn đề tồn tại đối với hình thức đầu tư BOT cần:
Một là, sự hỗ trợ tích cực của Chính phủ cho các nhà đầu tư nước
ngoài tham gia đầu tư theo hình thức Hợp đồng BOT thông qua việc lựa
chọn và công bố một danh mục thiết thực các dự án kết cấu hạ tầng thu hút
đầu tư theo hình thức này, với sự chuẩn bị kỹ lưỡng của các Bộ, ngành để
chủ động vận động xúc tiến thu hút đầu tư. Danh mục này nên tập trung và
một số công trình có độ rủi ro thấp như nhà máy điện, nhà máy cung cấp
nước, cầu, hạ tầng khu công nghiệp, khu đô thị và được thông tin rộng rãi
trên các phương tiện thông tin, kể cả trang web của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Hai là, tổ chức đấu thầu quốc tế rộng rãi lựa chọn chủ đầu tư đối với
các dự án đầu tư theo hình thức BOT, không nên phân biệt đầu tư trong
nước và đầu nước nước ngoài như hiện nay.
Ba là, thành lập Tổ chuyên gia liên ngành, với sự tham gia của các đại
diện có thẩm quyền và kinh nghiệm của các Bộ, ngành, địa phương liên
quan, thay mặt Chính phủ đàm phán và ký kết hợp đồng BOT.
Bốn là, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần phối hợp với các Bộ, ngành liên
quan xây dựng và ban hành các hợp đồng mẫu về BOT và các hợp đồng phụ
khác như hợp đồng mua bán sản phẩm đầu ra (điện, nước), hợp đồng mua
nguyên liệu, nhiên liệu đầu vào (than, khí…) liên quan đến dự án đầu tư
BOT, tạo thuện lợi cho việc đàm phán và ký kết hợp đồng.
Năm là, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích các nhà đầu tư
triển khai nhanh dự án, đưa công trình vào hoạt động trước thời hạn quy
định trong hợp đồng như cho phép doanh nghiệp BOT được hưởng các ưu
đãi trong thời gian vượt tiết độ quy định ngoài thời gian dự án được hưởng
ưu đãi theo Luật Đâù tư nước ngoài và được cộng điểm ưu tiên khi tham gia
đấu thầu các công trình BOT mới. Đồng thời, Nhà nước trực tiếp đứng ra tổ
95
chức thực hiện việc đền bù, tái định cư và giải phóng mặt bằng cho các dự
án BOT.
Sáu là, cần quy định rõ việc các doanh nghiệp BOT được thế chấp tài
sản gắn liền với đất để vay vốn các tổ chức tín dụng ở nước ngoài, nếu các
tổ chức tín dụng ở Việt Nam không đáp ứng được nhu cầu vốn của doanh
nghiệp.
Ngoài ra, Chính phủ cần ban hành những văn bản hướng dẫn triển
khai thực hiện các dự án đầu tư theo hợp đồng BTO, BT, tạo hành lang pháp
lý đầy đủ để các hình thức đầu tư này có thể hình thành và phát triển.
Thứ năm, giải pháp phát triển hình thức doanh nghiệp cổ phần có vốn
đầu tư nước ngoài.
Theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được thành lập và tổ chức dưới dạng Công
ty trách nhiệm hữu hạn. Vốn và tài sản của các doanh nghiệp FDI khi thành
lập được hình thành bằng vốn góp của chủ đầu tư và cả bằng vốn vay. Loại
hình Công ty trách nhiệm hữu hạn thích hợp trong điều kiện Việt Nam chưa
có thị trường khoán và phần nào hạn chế việc huy động vốn của các chủ đầu
tư, buộc các chủ đầu tư phải có đủ năng lực tài chính, kể cả việc thu xếp các
nguồn vốn vay và chấp nhận gánh chịu toàn bộ rủi ro đầu tư cũng như khả
năng hạn hẹp của việc chuyển nhượng vốn. Vì vậy, nhiều nhà đầu tư nước
ngoài đã thành lập Công ty cổ phần ở ngoài Việt Nam và lấy danh nghĩa
Công ty này để đầu tư vào Việt Nam. Phần vốn góp của bên nước ngoài,
trong trường hợp này một phần thuộc sở hữu của chủ đầu tư nước ngoài và
một phần được huy động trên thị trường chứng khoán bên ngoài Việt Nam.
Đối với Bên Việt Nam là doanh nghiệp Nhà nước trong các doanh nghiệp
liên doanh, phần vốn góp vào liên doanh hoàn toàn thuộc sở hữu của chủ
đầu tư trong nước, chủ yếu là giá trị quyền sử dụng đất, không thể huy động
vốn từ công chúng.
96
Luật doanh nghiệp hiện hành của Việt Nam đã quy định cụ thể về
Công ty cổ phần. Tuy nhiên, Luật này cũng như Luật khuyến khích đầu tư
trong nước chưa cho phép nhà đầu tư nước ngoài thành lập doanh nghiệp cổ
phần mà chỉ được mua cổ phần với mức không quá 30% vốn điều lệ của
doanh nghiệp Việt Nam.
Việc cho phép nhà đầu tư nước ngoài thành lập doanh nghiệp cổ phần
là giải pháp cần thiết để tạo thêm kênh huy động vốn mới và mở ra khả năng
cho phép các tổ chức, cá nhân trong nước mua lại cổ phần của các doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài, tạo điều kiện tiến tới thống nhất mặt bằng
pháp lý giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, đây là một
vấn đề hết sức mới mẻ, Việt Nam chưa có kinh nghiệm và chưa có điều kiện
nghiên cứu kỹ. Nhà nước cần sớm ban hành quy chế tạm thời về việc thành
lập Công ty cổ phần hoạt động theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam,
trong đó phải quy định rõ một số nguyên tắc:
- Lĩnh vực đầu tư được phép thành lập doanh nghiệp cổ phần có vốn
đầu tư nước ngoài trong giai đoạn 2006 - 2010.
- Doanh nghiệp phải có ít nhất một sáng lập viên nước ngoài. Tổng giá
trị cổ phần do các cổ đông sáng lập nước ngoài nắm giữ không hạn chế mức
tối đa nhưng ít nhất phải có một cổ đông sở hữu không dưới 10% vốn điều lệ
của doanh nghiệp. Nguyên tắc này phân biệt doanh nghiệp cổ phần có vốn
đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp cổ phần Việt Nam.
- Quy định về tỷ lệ cổ phần mà các cổ đông sáng lập cần nắm giữ, cho
phép chuyển nhượng cổ phần, phát hành chứng khoán theo quy định của
pháp luật Việt Nam.
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 38/2003/NĐ - CP ngày 15 tháng 4
năm 2003 về việc chuyển đổi một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
sang hoạt động theo hình thức công Công ty cỏ phần. Để hướng dẫn triển khai
97
thực hiện Nghị định trên, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính đã ban hành
Thông tư liên tịch số 08/2003/TTLT - BKH - BTC ngày 29 tháng 12 năm 2003.
Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến hết tháng 12/2004 đã có
12 doanh nghiệp FDI trình hồ sơ xin chuyển sang hoạt động theo hình thức
Công ty cổ phần, một tỷ lệ quá nhỏ so với hơn 3.200 doanh nghiệp FDI đã đi
vào sản xuất kinh doanh. Nguyên nhân chính của tình trạng này theo tôi là
do các điều kiện quy định tại các văn bản trên quá khắt khe đối với doanh
nghiệp chuyển đổi thành Công ty cổ phần.
Theo Thông tư số 08/2003/TTLT - BKH - BTC, các doanh nghiệp
FDI thuộc diện sau đây chưa được xem xét để chuyển đổi sang hình thức
Công ty cổ phần.
+ Doanh nghiệp trong đó bên nước ngoài hoặc các Bên tham gia liên
doanh (đối với doanh nghiệp liên doanh) hoặc nhà đầu tư nước ngoài (đối
với doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài) có cam kết chuyển giao không bồi
hoàn tài sản cho Nhà nước Việt Nam.
+ Doanh nghiệp có doanh thu thu trước như các doanh nghiệp hoạt
động trong các lĩnh vực kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất,
khu đô thị mới, xây nhà để bán hoặc cho thuê thu tiền trước; xây dựng văn
phòng, căn hộ cho thuê thu tiền trước; sân gôn; dịch vụ có bán thẻ hội viên;
cho thuê lại đất thu tiền trước…
+ Doanh nghiệp đầu tư theo các hình thức BOT, BTO, BT.
+ Doanh nghiệp có quy mô vốn đầu tư quy định tại Giấy phép đầu tư
trên 70 triệu USD và dưới 1 triệu USD.
+ Doanh nghiệp có số lỗ luỹ kế tại thời điểm xin chuyển đổi (sau khi
đã dùng lãi của năm tài chính ngay trước năm chuyển đổi để bù đắp) lớn hơn
hoặc bằng vốn của chủ sở hữu.
+ Doanh nghiệp có số nợ phải thu không còn khả năng thu hồi tại thời
điểm xin chuyển đổi lớn hơn vốn của chủ sở hữu.
98
Ngoài ra, theo quy định tại Nghị định 38/2003/NĐ - CP, các doanh
nghiệp FDI chỉ được xem xét chuyển đổi sang hoạt động theo hình thức
Công ty cổ phần nếu đáp ứng các điều kiện: đã góp đủ vốn pháp định theo
quy định tại Giấy phép đầu tư, đã chính thức hoạt động ít nhất 3 năm, trong
đó năm cuối cùng trước khi chuyển đổi phải có lãi.
Để thu hút thêm doanh nghiệp FDI tham gia cổ phần hoá, trước mắt,
cần sửa đổi một số quy định tại Nghị định 38/2003/NĐ - CP và Thông tư
08/2003/TTLT - BKH - BTC, cụ thể là:
+ Loại bỏ quy định về quy mô vốn đầu tư của doanh nghiệp FDI cổ
phần hoá (cụ thể là quy định chỉ cho phép cổ phần hoá doanh nghiệp có quy
mô vốn đầu tư trên 1 triệu USD và dưới 70 triệu USD).
+ Để động viên các doanh nghiệp triển khai dự án nhanh và kinh
doanh có hiệu quả, cần xem xét cho phép cổ phần hoá doanh nghiệp FDI
mới đi vào sản xuất dưới 3 năm nếu đáp ứng điều kiện góp đủ vốn pháp định
và năm tài chính trước khi chuyển đổi có lãi.
Thứ sáu, giải pháp phát triển hình thức mua lại và sáp nhập (M & A).
Để huy động vốn, công nghệ, phương pháp quản lý doanh nghiệp tiên
tiến và mở rộng thị trường, tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong
nước, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 36/2003/QĐ - TTg ngày
11/3/2003 ban hành Quy chế góp vốn mua cổ phần của các doanh nghiệp
Việt Nam, bao gồm doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hoá, Công ty cổ phần,
mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt Nam.
Các nhà đầu tư nước ngoài (bao gồm cả người Việt Nam định cư ở nước
ngoài) được phép góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp Việt Nam tối
đa bằng 30% vốn điều lệ của doanh nghiệp. Khi có nhu cầu đầu tư, họ giao
dịch trực tiếp với doanh nghiệp trong nước hoặc với các tổ chức tài chính
trung gian thực hiện việc phát hành để góp vốn, mua cổ phần.
99
Mặc dù Quyết định 36/2003/QĐ - TTg còn một số bất cập nhưng nó
đã phản ánh tính nhất quán về chủ trương đa dạng hoá sở hữu, huy động mọi
nguồn lực cho phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta, được các nhà đầu
tư nước ngoài quan tâm. Tuy nhiên, cần xem xét lại quy định về tỷ lệ nắm
giữ tối đa 30% tổng vốn điều lệ cho phù hợp với thông lệ quốc tế.
Tiếp theo Quyết định 36/2003/QĐ - TTg, Thủ tướng Chính phủ cũng
đã ban hành Quyết định số 146/2003/QĐ - TTg ngày 17/7/2003 thay thế
Quyết định số 139/1999/QĐ - TTg về cho phép nhà đầu tư nước ngoài mua,
bán cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam được nắm giữ tối đa
30% tổng số cổ phiếu của một Công ty niêm yết, thay cho tỷ lệ khống chế
20% trước đó.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành Trung ương khoá IX
Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: trọng tâm của công cuộc sắp xếp đổi
mới, phát triển và nâng cao hiệu quả khu vực doanh nghiệp Nhà nước trong
giai đoạn tới là cổ phần hoá mạnh hơn nữa [1, tr.4]. Trên tinh thần đó báo
cáo của Chính phủ tại Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 5 đã đưa ra giải pháp:
"tạo bước tiến mới trong việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả của
doanh nghiệp Nhà nước, trọng tâm là đẩy mạnh cổ phần hoá với phạm vi
rộng hơn, bao gồm cả một số tổng Công ty, doanh nghiệp lớn làm ăn có hiệu
quả và áp dụng hình thức bán cổ phần rộng rãi, công khai, không khép kín
trong nội bộ doanh nghiệp" [28, tr.3].
Để giải pháp của Chính phủ được thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả
theo tôi, cần có quy đặt bắt buộc thực hiện công khai đấu giá cổ phần doanh
nghiệp khi cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước và không hạn chế quyền
mua cổ phần của nhà đầu tư nướcngoài trong các lĩnh vực không quy định
về điều kiện về hình thức đầu tư. Trước mắt bãi bỏ quy định chỉ cho phép
nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ dưới 30% vốn điều lệ của doanh nghiệp cổ
phần hoá hoạt động trong lĩnh vực sản xuất hàng công nghiệp tiêu dùng,
hàng xuất khẩu, tạo điều kiện chuyển từ đầu tư gián tiếp sang đầu tư trực
100
tiếp để nhà đầu tư được tham gia quản lý điều hành doanh nghiệp hoặc có
quyền kiểm soát hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy,
doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá sẽ vừa có điều kiện đầu tư đổi mới công
nghệ nhờ huy động thêm vốn từ bên ngoài vừa tiếp cận được kinh nghiệm
quản lý tiên tiến và thị trường nước ngoài. Trong tương lai, cần xem xét
giảm giới hạn tỷ lệ trên 30% vốn điều lệ trong Công ty cổ phần có vốn đầu
tư nước ngoài đối với nhà đầu tư trực tiếp cho phù hợp với thông lệ quốc tế
mà OECD đã đưa ra, tức là một nhà đầu tư sở hữu 10% cổ phiếu thường của
doanh nghiệp có thể được coi là nhà đầu tư trực tiếp và có quyền tham gia
quản lý hoặc kiểm soát doanh nghiệp.
Mặt khác, Chính phủ đã cho phép cổ phần hoá doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài, do vậy, cũng cần bổ sung các quy định cho phép nhà đầu
tư nước ngoài được mua lại cổ phần của các doanh nghiệp FDI cổ phần hoá
không hạn chế tỷ lệ cổ phần tối đa để tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài
thông qua quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp này.
Chính phủ cũng cần xem xét việc cho phép nhà đầu tư nước ngoài
mua, nhận khoán, thuê các doanh nghiệp trong nước để kinh doanh nhằm
cứu vãn các doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả, đảm bảo việc làm và
thu nhập cho người lao động.
Thứ bảy, giải pháp phát triển các hình thức đầu tư khác.
Đối với hình thức Công ty hợp danh: trên thế giới đã áp dụng phổ biến
hình thức đầu tư này trong các lĩnh vực dịch vụ đòi hỏi chuyên môn cao như
kiểm toán, tư vấn luật, khám chữa bệnh, thiết kế kiến trúc… Ở nước ta thời
gian qua đã cấp giấy phép đầu tư cho một số dự án hoạt động trong các lĩnh
vực này theo hình thức tổ chức Công ty trách nhiệm hữu hạn. Theo chúng
tôi, trong các lĩnh vực trên, nhà đầu tư hoạt động chủ yếu dựa trên cơ sở địa
vị xã hội và uy tín nghề nghiệp, phải chịu trách nhiệm rất cao đối với khách
hàng về dịch vụ mà họ cung cấp. Khi hoạt động trong khuôn khổ Công ty
101
trách nhiệm hữu hạn, họ chỉ phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với khách
hàng trong phạm vi số vốn góp của mình và thực tế các dự án đã được cấp
giấy phép đầu tư đều có số vốn đầu tư rất nhỏ bé, do vậy, có thể dẫn đến gây
thiệt hại cho khách hàng khi dịch vụ không được thực hiện hoặc thực hiện
không hoàn hảo.
Luật doanh nghiệp đã cho phép thành lập Công ty hợp danh đối với
đầu tư trong nước, vì vậy, có thể xem xét cho phép hình thức này cũng được
áp dụng đối với đầu tư nước ngoài nhằm nâng cao chất lượng một số loại
dịch vụ thiết yếu mà xã hội đang có nhu cầu. Doanh nghiệp hợp danh có vốn
đầu tư nướcngoài phải có một số đặc điểm giống với Công ty hợp danh trong
nước đó là: các thành viên hợp danh phải chịu tráchnhiệm bằng toàn bộ tài
sản của mình về các nghĩa vụ của doanh nghiệp, nhưng có điểm khác là phải
có ít nhất một thành viên hợp danh là cá nhân nước ngoài.
Đối với hình thức holding company (Công ty mẹ - con):
Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến nay đã có hơn 100 trong
số 500 TNC lớn nhất thế giới có mặt tại Việt Nam. Nhiều TNC đã tham gia
đầu tư vào nhiều dự án tại Việt Nam. Điển hình là Tập đoàn BP (Anh) đã
đầu tư vào 8 dự án với tổng vốn đăng ký 1,8 tỷ USD, Tập đoàn Daewoo
(Hàn Quốc) đã đầu tư vào 14 dự án với tổng vốn đăng ký hơn 900 triệu USD
và đang có kế hoạch đầu tư tiếp một số dự án lớn khác, tập đoàn Mitsubishi
(Nhật Bản) đã đầu tư vào 8 dự án với tổng vốn đăng ký 520 triệu USD…
Theo quy định của Luật Đầu tư nước ngoài hiện hành, mỗi doanh nghiệp
FDI có một bộ máy điều hành riêng và kinh doanh độc lập. Để nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh, tăng sức cạnh tranh, giảm chi phí và thuận lợi
trong điều phối hoạt động của các Công ty con theo chiến lược phát triển
chung, một số tập đoàn đã đề xuất nguyện vọng muốn thành lập Công ty
quản lý đầu tư (holding company) tại Việt Nam để cung cấp các dịch vụ
thương mại, chuyển giao công nghệ, hỡ trợ tài chính, đào tạo, tư vấn… cho
các Công ty con của tập đoàn. Việc thành lập Công ty quản lý giúp các TNC
102
chủ động nắm bắt cơ hội tham gia vào các dự án đầu tư mới hoặc mua lại cổ
phần của các doanh nghiệp trong nước. Trên cơ sở kinh nghiệm của Trung
Quốc trong việc định hướng phát triển hình thức đầu tư này, qua tìm hiểu
nguyện vọng của một số Công ty, trong đó Công ty Matsushita (Nhật Bản),
tôi kiến nghị Chính phủ xem xét cho phép các Công ty xuyên quốc gia đáp
ứng một trong hai điều kiện dưới đây được thành lập Công ty quản lý
(holding company) tại Việt Nam.
- Công ty đã đầu tư vào ít nhất 5 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam trong lĩnh vực sản xuất hoặc xây dựng cơ sở hạ tầng với
tổng vốn thực góp vào các doanh nghiệp này ít nhất là 30 triệu USD.
- Công ty có tổng giá trị tài sản theo báo cáo kiểm toán năm gần nhất
không dưới 400 triệu USD, đồng thời, có ít nhất 3 dự án đầu tư đã được Nhà
nước Việt Nam chấp nhận về chủ trương đầu tư.
Holding company thực hiện các chức năng tiếp thị, bán hàng, dịch vụ
liên quan đến sản phẩm của các Công ty con sản xuất tại Việt Nam, sản
phẩm nhập khẩu được sản xuất từ các Công ty con ở nước ngoài; xuất khẩu
các sản phẩm sản xuất tại Việt Nam; đầu tư vào các Công ty sắp thành lập
tại Việt Nam và cung cấp dịch vụ quản lý chung (đào tạo, tư vấn…) cho các
Công ty con tại Việt Nam. Các Công ty con hạch toán kinh doanh độc lập
với Công ty mẹ (holding company).
Đối với hình thức thành lập chi nhánh Công ty nước ngoài tại Việt Nam.
Luật Thương mại đã cho phép thương nhân nước ngoài có đủ điều
kiện được thành lập chi nhánh thương mại theo mục đích phạm vi và thời
hạn quy định trong giấy phép như mua bán hàng hoá, đại diện cho thương
nhân, gia công hàng hoá, giám định hàng hoá, đại lý, quảng cáo, giao nhận
hàng hoá…
Để mở rộng kênh thu hút vốn FDI của TNcs, Việt Nam cần bổ sung
quy định cho phép các Công ty nước ngoài được thành lập chi nhánh sản
103
xuất tại Việt Nam, theo thủ tục đăng ký cấp giấy phép. Trước mắt, cho phép
thành lập các chi nhánh sản xuất hàng xuất khẩu (đảm bảo tỷ lệ xuất khẩu
trên 80% sản phẩm), với điều kiện nhà đầu tư nước ngoài phải chịu trách
nhiệm vô hạn đối với các nghĩa vụ và các khoản lỗ của chi nhánh.
KẾT LUẬN
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của các TNCs đang và sẽ còn là
nguồn vốn đầu tư quan trọng cho sự tăng trưởng và phát triển của toàn bộ
nền kinh tế thế giới nói chung và kinh tế các nướcđang phát triển nói riêng,
đặc biệt là Việt Nam.
FDI không tự chảy vào bất cứ quốc gia nào mà cần phải có sự thống
nhất về lợi ích giữa nhà đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư. Hiệu quả sử dụng
vốn FDI không chỉ phụ thuộc vào ý đồ của nhà đầu tư, mà còn phụ thuộc
chủ yếu vào cách thức thu hút, quản lý và sử dụng nó của nước tiếp nhận
đầu tư.
Nguy cơ tụt hậu ngày càng xa hơn so với các nước khu vực đang đặt
Việt Nam trước những thách thức to lớn, đòi hỏi phải huy động một cách
hiệu quả mọi nguồn lực để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế. Để đáp ứng
nhu cầu vốn đầu tư cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực hiện
được các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, trước yêu cầu đẩy
nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam bắt buộc và cần phải mở
104
cửa thu hút FDI của TNCs thông qua các hình thức đầu tư khác nhau đã tồn
tại và phổ biến trên thế giới.
Trong bối cảnh hiện nay, khi hiệp định tránh đánh thuế trùng song
hành cùng hiệp định bảo hộ đầu tư song phương và đa phương được ký kết
ngày càng nhiều giữa các nước, thì các cơ chế ưu đãi về tài chính không còn
hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài bằng việc mở rộng và phát triển các hình
thức đầu tư mới nhằm tạo cho họ thêm khả năng lựa chọn cách thức đầu tư
tối ưu.
FDI của TNCs tác động có tính hai mặt đối với các lĩnh vực của nền
kinh tế thế giới, trong đó đặc biệt đối với các nước đang phát triển. Các mức
độ ảnh hưởng tốt hoặc xấu không chỉ phụ thuộc vào TNCs mà còn phụ thuộc
rất quan trọng vào điều kiện hoạt động và chính sách công nghiệp hoá của
nước chủ nhà. Vì vậy, cần phải xem xét những tác động này trong điều kiện
cụ thể của từng nước và đánh giá tác động của FDI của TNCs một cách toàn
diện trên tất cả các mặt và có tính lâu dài.
FDI của TNCs tác động thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá
và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực sản xuất quốc tế thông qua tham gia
sâu rộng và phân công lao động quốc tế, thúc đẩy thương mại quốc tế, thúc
đẩy đầu tư nước ngoài, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm và phát triển
nguồn nhân lực... Đặc biệt tác động của TNCs đối với Công nghiệp hoá của
các nước Đang phát triển. Đối với Việt Nam, FDI của TNCs thời gian qua
đã mang lại cho nền kinh tế như : vốn, khoa học công nghệ, tri thức quản lý
tiên tiến hiện đại, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam theo hướng
hiện đại và hợp lý, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động, đẩy
nhanh CNH, HĐH ở Việt Nam..... Tuy nhiên, chúng ta cần chú ý những tác
động tiêu cực của FDI của TNCs đối với nền kinh tế Việt Nam.
105
Từ những cơ hội và thách thức mà tác giả đã luận giải ở trên, luận văn
đã đề ra một số giải pháp để thu hút và sử dụng có hiệu quả FDI của TNCs
vào Việt Nam thông qua các hình thức đầu tư cụ thể. Hoạt động này đòi hỏi
sự nỗ lực chung của toàn xã hội, các ban ngành ở các cấp Trung ương và địa
phương, các doanh nghiệp.... và ở đây vai trò của nhà nước là hết sức quan
trọng trong việc cải thiện môi trường đầu tư, các hoạt động xúc tiến đầu tư,
công tác quản lý hoạt động đầu tư....
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. BCHTƯ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị Lần thứ 9
(khoá IX), Hà Nội
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2004), Báo cáo khung định hướng kế hoạch
phát triển kinh tế- xã hội 5 năm 2006-2010, Hà Nội.
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2002), Báo cáo tình hình đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2002 và những giải pháp chính năm 2003, Tài liệu báo cáo tại Hội nghị ngành Kế hoạch và Đầu tư, họp tại Hà Nội từ ngày 20 - 30/12/2002.
4. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2004), Báo cáo so sánh pháp luật về đầu tư
nước ngoài ở một số nước, Hà Nội.
5. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2000), Các văn bản hướng dẫn hoạt độngđầu
tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, Hà Nội.
106
6. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2003), Luật Đầu tư nước ngoài tai Việt Namvà nghị định của Chính Phủ hướng dẫn thi hành năm 2003, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2002), Số liệu thống kê lao động
và việc làm ở Việt Nam, Công ty in Lao động - Xã hội, tr.257.
8. Vũ Quốc Bình (5/2001), “Về lãi lỗ trong các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo.
9. Vũ Xuân Bình (6/2002), “ Đầu tư trực tiếp nước ngoài - Nguồn tiềm năng quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam”, Tạp chí Giáo dục lý luận.
10. Công nghiệp hoá và tăng chiến lược tăng trưởng dựa trên xuất khẩu
(1997), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nôị.
11. Mai Ngọc Cường (2000), Hoàn thiện chính sách và tổ chức thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Đề tài KHXH. 06. 05 (1998), Số liệu thống kê về các công ty xuyên
quốc gia, Hà Nội.
13. Giáo trình Kinh tế chính trị học (1999), NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
14. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác- Lênin về thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (2002), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nôị.
15. Lưu Tiền Hải (2003), “Tạo bước đột phá trong thu hút vốn đầu tư nước
ngoài”, Thời báo Kinh tế Việt Nam.
16. Học viện Quan hệ quôc tế (1996), Đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia ở các nước đang phát triển, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. “Hoạt động xúc tiến đầu tư nước ngoài - Thành tựu và kinh nghiệm”,
Tạp chí Thông tin tài chính, (5/2002).
18. Trần Lãm (1994), “Đầu tư nước ngoài tại các nước ASEAN”, Tạp chí
Kinh tế và Dự báo, (12).
107
19. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, NXB Tiến bộ, Matxcơva.
20. Mai Đức Lộc (1994), Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong việc phát triển kinh tế Việt Nam, luận án Phó tiến sĩ Kinh tế chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
21. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (1987), NXB. Thống kê, Hà Nội.
22. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (1990), NXB. Thống kê, Hà Nội.
23. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (1996), NXB. Thống kê, Hà Nội.
24. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (2000), NXB. Thống kê, Hà Nội.
25. Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (Bổ sung và sửa đổi) (2000),
NXB Thống kê, Hà Nội.
26. Nghị quyết của Chính phủ số 09/2001/NQ - CP ngày 28 tháng 8 năm 2001 về tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài thời kỳ 2001 - 2005.
27. Paul A.Samuelson và William D.Nordhaus (1997), Kinh tế học, tập 2,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Vũ Trường Sơn (1997), Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng
kinh tế ở Việt Nam, NXB Thống kê, Hà Nội.
29. Nguyễn Văn Thân - Chu Văn Cấp (1996), Những giải pháp chính trị, kinh tế nhằm thu hút có hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Phạm Hồng Tiến (4/2001), “Đầu tư nước ngoài trên thế giới tiếp tục gia
tăng”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (275).
31. Tổng cục Thống kê (1997), Niên giám thống kê 1996, NXB Thống kê,
Hà Nội.
32. Tổng cục Thống kê (1998), Phương pháp biên soạn Hệ thống Tài
khoản quốc gia ở Việt Nam, NXB Thống kê, Hà Nội.
33. Tổng cục Thống kê (2002), Niên giám thống kê 2001, NXB Thống kê,
Hà Nội.
108
34. Khánh Thuỷ (10/2002), “Đầu tư trực tiếp nước ngoài: Lượng hay chất”,
Báo Khoa học đời sống, (65).
35. Lê Xuân Trinh (1998), “Đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển khu
công nghiệp”, Tạp chí Cộng sản, (1).
36. Viên nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương(1998), Nghiên cứu so sánh Luật công ty ở một số nước Đông Nam Á điển hình, Hà Nội.
37. Viện nghiên cứu tài chính (12/1999), Cải cách kinh tế, tài chính Việt Nam và Trung Quốc: Thành tựu và triển vọng, NXB Tài chính, Hà Nội.
38. Nguyễn Trọng Xuân (4/2000), “Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt
Nam, 1998-1999”, Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới, (2).
39. Nguyễn Trọng Xuân (4/2000), “Đầu tư trực tiếp nước ngoại với công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (268).
109
Phụ lục
Phụ lục số 1. Kinh nghiệm quốc tế trong việc thu hút FDI của TNCs nhằm điều chỉnh cơ cấu ngành kinh tế của các nƣớc
1. Trung Quốc:
- Từ năm 1978, Trung Quốc đã tích cực huy động FDI và tìm kiếm công nghệ để thúc đẩy quá trình hiện đại hoá và tăng nhanh năng lực xuất khẩu, chủ yếu mở cửa ngành công nghiệp nhẹ và dệt cho các nhà đầu tư nước ngoài, từng bước mở rộng phạm vi thị trường cho các nhà dầu tư nước ngoài bao gồm năng lượng, nguyên liệu thô, các ngành cơ bản, xây dựng cơ sở hạ tầng.
- Khi Trung Quốc gia nhập WTO đã sử dụng vốn FDI để tái cơ cấu
kinh tế và nâng cấp ngành công nghiệp của Trung Quốc.
- Khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các Công ty xuyên quốc gia đầu tư vào các ngành công nghệ cao và cơ sở hạ tầng, khuyến khích các Công ty này hình thành các trung tâm nghiên cứu và triển khai (R&D) và tham gia vào việc tái cơ cấu và đổi mới doanh nghiệp Nhà nước.
Một số bài học chính là:
1. Bảo hộ qua mức đối với một số khu vực như ôtô, viễn thông, tài
chính, đã ngăn cản việc cải thiện khả năng cạnh tranh của ngành.
2. Thiết các tiêu chí về chính sách ưu đãi dẫn đến cạnh tranh không
lành mạnh giữa các địa phương trong việc thu hút FDI.
3. Bỏ qua môi trường phần mềm làm cản trở đến việc tham gia của các
công ty xuyên quốc gia (TNC).
4. Ít chú ý đến các dịch vụ sau cấp phép ảnh hưởng đến việc duy trì đầu
tư của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
5. Hệ thống điều tiết thiếu minh bạch.
- Để FDI phù hợp với định hướng phát triển công nghiệp, Trung Quốc đã ban hành và xuất bản những quy định tạm thời về định hướng đầu tư
110
nước ngoài và Danh mục tổng thể các ngành đầu tư nước ngoài vào tháng 6 năm 1995, sửa đổi tháng 12 năm 1997 để công bố các chính sách thu hút đầu tư nước ngoài vào ngành công nghiệp dưới dạng các quy định và làm rõ thêm các chính sách này. So với những hướng dẫn cũ, hướng dẫn mới đưa ra nhiều cơ hội hơn cho các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, thể hiện ở các đặc điểm sau:
(1). Kiên trì việc mở cửa dối với bên ngoài, khuyến khích mạnh mẽ các
nhà đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc.
(2). Phù hợp với các cam kết của Trung Quốc với WTO, danh mục mới cũng bao gồm nhiều dự án khuyến khích liên quan đến việc tự do hơn nữa lĩnh vực dịch vụ, bao gồm các hoạt động ngân hàng, bảo hiểm, thương mại, ngoại thương du lịch, truyền thông, vận tải, các dịch vụ kế toán và pháp lý.
(3). Sử dụng cơ chế cạnh tranh của thị trường. Các hướng dẫn mới xếp các sản phẩm công nghiệp thông thường vào các danh mục khuyến khích đầu tư để thông qua cạnh tranh thúc đẩy cải thiện cơ cấu ngành và các sản phẩm.
(4). Danh mục hướng dẫn các ngành công nghiệp mở cho đầu tư nước ngoài yêu cầu các dự án đầu tư nước ngoài phải hoặc là ”liên doanh” hoặc có ”cổ phần chi phối của phía Trung Quốc” hoặc ”phía Trung Quốc nắm giữ cổ phần đa số”.
2. Singapore:
- Singapore là một điển hình của sự thành công trong thu hút FDI phục vụ cho tăng trưởng kinh tế, nhất là cho thúc đẩy xuất khẩu, đầu tư trực tiếp nước ngoài được coi là nguồn vốn quan trọng nhất trong thời kỳ đầu tiến hành công nghiệp hoá.
- Singapore đã lấy tiêu chuẩn về vốn đầu tư có giá trị lớn, tiêu chuẩn h]ngs về xuất khẩu và tiêu chuẩn kỹ thuật, công nghệ cao để làm điều kiện xét hưởng các ưu đãi nhằm kêu gọi và khuyến khích công ty nước ngoài đầu tư vào các dự án này.
111
- Nhằm hướng các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư trực tiếp vào các lĩnh vực theo mục tiêu phát triển của Singapore, Chính phủ đã dự kiến và đưa ra bảng phân loại các xí nghiệp. Các ngành sản xuất, cần gọi vốn đầu tư và đi cùng với nó là chế độ ưu đãi cụ thể và có phân biệt.
- Các loại doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp ngoài (nói chung) đều được miễn thuế nhập khẩu các các thiết bị có liên quan đến việc thực hiện các dự án đầu tư, được phép do chuyển lợi nhuận về nước, nếu trong quá trình kinh doanh còn bị lỗ thì được xem xét để kéo dài thời gian miễn giảm thuế.
- Thành công chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, Chính phủ Singapore coi FDI như là một bộ phận không thể thiếu được trong cơ thể kinh tế thông nhất của họ.
3. Đài Loan:
- Những năm 60, khi Đài Loan theo đuổi chiến lược đẩy mạnh xuất
khẩu.
- Trong thập kỷ 70 Đài Loan chủ trương kết hợp thay thế nhập khẩu và đẩy mạnh xuất khẩu dòng FDI tăng lên (số tuyệt đối) và có đóng góp 20% tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu.
- Đã sớm chú trọng thu hút FDI để tiếp nhận những công nghệ tích hợp (ít vốn, sạch), cải tiến công nghệ phục vụ nông nghiệp. Các liên doanh Hoa Kỳ - Đài Loan là một khâu trong dây chuyền sản xuất của các công ty xuyên quốc gia nhằm tiếp thu công nghệ cao, cạnh tranh với Nhật Bản.
- Thành công trong việc hướng các nhà đầu tư nước ngoài sử dụng
nhiều nguyên vật liệu trong nước.
- Xác định cần tập trung các ngành chủ chốt như điện tử, xử lý thông tin, máy móc và dụng cụ chính xác, khoa học vật liệu công nghệ cao, khoa học năng lượng, kỹ thuật hàng không, kỹ thuật gen, Chính phủ Đài Loan đã khuyến khích FDI vào những ngành nêu trên để cơ cấu một cách hợp lý và có hiệu quả giữa các ngành kinh tế đất nước.
112
4. Malaysia:
- Những năm 1960 nguồn FDI vào Malaysia chủ yếu tập chung ở các lĩnh vực sản xuất nguyên liệu xuất khẩu và thay thế nhập khẩu do đó cán cân thương mại đã mạnh lên rất nhiều và luôn có đầu tư.
- Trong thập kỷ 70, Malaysia tiến hành chương trình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, FDI trong giai đoạn này chủ yếu tập trung vào công nghiệp chế tác và điện tử, do vậy đã đã thu hút được nhiều lao động trẻ, khoẻ, song nguyên liệu chủ yếu vẫn từ bên ngoài, chuyển giao công nghệ hầu như không cao.
- Về các chế độ ưu đãi: Cũng tương tự như Singapore, Chính phủ Malaysia đã căn cứ vào đặc điểm, vị trí, trình độ công nghệ, danh mục khuyến khích của ngành nghề, quy mô xuất khẩu sản phẩm, quy mô và khu vực đầu tư để đề ra chính sách, trong đó quy định rõ các mức độ ưu đãi.
- Chính sách kinh tế mà Malaysia theo đuổi là học tập kiểu mẫu của Nhật Bản và Hàn Quốc. Malaysia đã có những chuyển biến lớn về cơ cấu ngành kinh tế theo hướng đa dạng hoá sản xuất công nghiệp và nông nghiệp, phát huy ưu thế về khả năng tiềm tàng về trữ lượng khoáng chất và cây trồng nhiệt đới.
- Có những chính sách thiết thực nhằm thu hút FDI vào ngành công nghiệp, sản lượng hàng xuất khẩu tăng nhanh, nhất là về các linh kiện điện tử, hàng tiêu dùng đồ điện, sản phẩm dệt và các mặt hàng công nghiệp khác, góp phần đáng kể tăng trưởng kinh tế và hoàn thiện cơ cấu ngành kinh tế quốc dân.
5. Thái Lan:
- Sau 1987, định hướng vào các ngành chế tác xuất khẩu nguồn FDI mới thực sự có đóng góp đáng kể vào sự phát triển một số lĩnh vực nhất định: khai thác mỏ, khai thác đá, năng lượng, một số ngành chế tác như dệt, hoá chất, nhựa, sản phẩm từ dầu, điện và điện tử, ô tô, sản phẩm kim loại và máy móc.
113
Phụ lục 2 Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài theo ngành 1988 – 2005 (tính tới ngày 22/8/2005 - chỉ tính các dự án còn hiệu lực)
STT
Số dự án
Vốn pháp định
Đầu tƣ thực hiện
Chuyên ngành
I
Nông-Lâm-Ng nghiệp
II
253 303 747 638 109
Nông-Lâm nghiệp Thuỷ sản
III
1,406,191,815 3,580,697,658 4,837,450,387 1,351,601,022 1,425,170,337 1,596,811,509 1,436,806,128 133,005,831 7,385,034,080 2,310,407,639 1,164,868,545 699,295,000 323,071,691 700,683,000
TVĐT Công nghiệp và xây dựng 3,798 28,996,154,868 12,601,111,219 17,717,309,149 4,587,290,313 1,913,191,815 CN dầu khí 28 3,015,658,859 1,569 CN nhẹ 7,996,396,563 6,152,749,854 1,645 12,088,157,968 CN nặng 1,844,196,879 3,027,759,603 CN thực phẩm 2,117,413,244 3,970,648,919 Xây dựng 1,758,118,839 3,610,051,804 1,606,101,464 3,308,630,624 152,017,375 301,421,180 6,294,099,101 1,072 15,548,764,434 698,133,046 2,905,563,979 2,114,922,862 2,806,399,035 616,930,077 722,550,000 269,258,207 703,563,416 2,551,674,000 51,294,598 1,323,855,808 1,1,676,337,799 3,777,102,929 521,371,777 986,099,546 345,850,735 1,095,811,529
Dịch vụ GTVT-Bưu điện Khách sạn-Du lịch Tài chính-Ngân hàng Văn hoá-Y tế-Giáo dục XD Khu đô thị mới XD Văn phòng-Căn hộ XD hạ tầng KCX-KCN Dịch vụ khác
156 159 54 195 4 106 20 378
379,519,597 483,332,800
Tổng số
5,617 48,154,971,106 21,555,956,808 25,769,527,089
Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
114
Phụ lục 3. Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài theo HTĐT 1988 -2005
(tính tới ngày 22/08/2005 - chỉ tính các dự án còn hiệu lực)
Số dự
Vốn pháp
Đầu tƣ thực
Hình thức đầu tƣ
án
TVĐT
định
hiện
Công ty quản lý vốn
1
14,448,000
14,448,000
-
Công ty cổ phần
6
168,910,000
65,518,203
124,704,385
6
BOT
1,370,125,000
411,385,000
724,824,892
Hợp đồng hợp tác kinh
doanh
181
4,187,152,793
3,604,162,902
5,068,909,496
100% vốn nước ngoài
1,284 18,882,192,158
7,257,748,996
10,317,088,845
Liên doanh
4,139 23,532,143,155
10,202,693,707 9,533,999,471
Tổng số
5,617 48,154,971,106 21,555,956,808 5,769,527,089
Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
115
Phụ lục 4. Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài theo nƣớc 1988 - 2005 (tính tới ngày 22/8/2005 - chỉ tính các dự án còn hiệu lực)
STT
Nƣớc, vùng lãnh thổ
British Virginlslands Pháp
1 Đài Loan 2 Singapore 3 Nhật Bản 4 Hàn Quốc 5 Hồng Kông 6 7 8 Hà Lan 9 Malaysia 10 Thái Lan 11 Hoa Kỳ 12 Vương quốc Anh 13 Luxembourg 14 Trung Quốc 15 Thuỵ Sỹ 16 Australia 17 Cayman Islands 18 British West Indies 19 CHLB Đức 20 Liên bang Nga 21 Bermuda 22 Canada 23 Philippines 24 Mauritius 25 Đan Mạch Indonesia 26 27 Channel Islands 28 Samoa 29 Bỉ 30 Thổ Nhĩ Kỳ 31 Saint Kitts & Nevis 32 Cook Islands Italia 33 34 Na Uy 35 Ấn Độ
Vốn pháp định 3,271,165,201 2,798,682,861 2,692,825,18 2,066,069,119 1,551,589,940 970,595,605 1,331,350,204 1,174,305,274 673,142,695 480,867,615 715,625,901 445,414,591 725,859,400 403,999,827 336,934,981 248,878,863 179,983,771 118,000,000 143,683,445 164,883,417 98,936,700 112,084,428 117,477,446 108,421,519 83,848,234 70,405,600 38,755,729 31,340,000 33,100,189 19,185,000 18,625,000 17,000,000 23,739,498 24,957,307 26,551,891
Đầu tƣ thực hiện 2,839,026,869 3,419,168,442 4,131,110,861 2,425,190,831 1,922,644,022 1,240,979,764 1,166,079,323 1,776,782,057 826,714,889 707,972,109 721,235,620 631,310,515 14,729,132 181,146,480 529,019,721 331,765,683 361,671,127 98,799,570 159,366,015 195,137,436 172,317,885 18,805,212 86,526,975 689,772,331 81,380,383 127,028,864 49,114,603 2,800,000 49,766,562 5,882,566 23,458,904 - 25,028,591 15,349,258 580,035,845
TVĐT 7,642,860,711 7,443,198,540 5,938,310,674 4,879,194,568 3,642,805,782 2,553,061,581 2,146,375,994 1,885,734,710 1,453,384,072 1,435,694,566 1,392,244,949 1,242,194,238 809,216,324 710,477,762 686,286,029 626,629,248 497,637,926 407,000,000 341,884,603 271,023,841 260,322,867 254,246,159 233,398,899 149,603,600 143,093,744 130,093,000 84,800,788 79,400,000 73,145,211 63,450,000 56,685,000 55,000,000 51,996,000 47,316,918 45,443,710
STT
Nƣớc, vùng lãnh thổ
Số dự án 1,363 366 549 959 345 237 151 57 171 123 239 66 15 346 31 110 13 4 64 47 5 49 22 16 29 13 12 13 25 6 3 2 21 14 10 Số dự án
Vốn pháp định
Đầu tƣ thực hiện
TVĐT
116
Irắc
Isle of Man
14,938,000 13,858,673 10,820,000 14,805,005 15,604,000 27,100,000 9,610,000 13,085,818 5,850,000 7,185,000 10,323,527 5,200,000 6,211,497 6,564,175 7,100,000 6,860,000 2,700,000 1,450,000 4,141,136 2,200,000 3,000,000 4,249,865 2,019,688 894,000 1,000,000 350,000 430,000 590,000 300,000
12,327,065 9,322,037 35,510,100 14,091,214 13,903,000 15,100,000 1,000,000 14,092,291 5,850,000 3,528,815 5,478,527 1,000,000 5,255,132 4,174,000 2,480,000 979,000 - 1,050,000 5,720,413 7,320,278 - 60,00 1,740,460 - - - 30,000 400,000 150,000
36 New Zealand 37 Cộng Hoà Séc 38 Liechtenstein 39 Thuỵ Điển 40 Ba Lan 41 42 Brunei 43 Ukraina 44 Bahamas 45 Panama 46 Lào 47 48 Áo 49 Srilanca 50 Ma Cao 51 Belize 52 Dominica 53 Saint Vincent 54 Israel 55 Cu Ba 56 Grand Cayman 57 Tây Ban Nha 58 Hungary 59 Guatemala 60 Nam Tư 61 Phần Lan 62 Syria 63 Campuchia 64 Cộng hoà Síp
11 5 2 9 6 2 9 6 3 6 6 1 9 4 5 3 2 1 4 1 1 4 3 1 1 2 3 3 1
44,367,000 35,928,673 35,500,000 30,093,005 30,000,000 27,100,000 25,000,000 23,954,667 18,850,000 16,882,400 16,053,528 15,000,000 13,775,000 13,014,048 11,200,000 10,000,000 8,9000,000 8,000,000 7,531,136 6,600,000 5,000,000 4,489,865 3,126,606 1,866,185 1,580,000 1,050,000 1,050,000 1,000,000 1,000,000
65
1
1,000,000
400,000
-
St Vincent & The Grenadines Turks&Caicos 66 Islands 67 Guinea Bissau 68 Guam 69 Belarus 70 Achentina
1 1 1 1 1
1,000,000 709,979 500,000 400,000 120,000
700,000 1,009,979 500,000 400,000 120,000
700,000 - - 400,000 746,312
CHDCND Triều Tiên
71
1
100,000
100,000
Tổng số
- 5,617 48,154,971,106 21,555,956,808 25,769,527,089
Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
117
Phụ lục 5. Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài theo địa phƣơng 1988 - 2005 (tính tới ngày 22/8/2005 - chỉ tính các dự án còn hiệu lực)
STT Địa phƣơng
TVĐT
Số dự án
Vốn pháp định
Đầu tƣ thực hiện
TP Hồ Chí Minh
1,733 11,811,186,876 8,794,675,766 8,228,859,129 4,747,298,577
596 666 1,011
5,673,631,071 3,825,921,093 3,276,751,209 1,979,504,457
5,800,986,257 3,130,819,267 3,408,537,252 1,799,029,811
1 2 Hà Nội 3 Đồng Nai 4 Bình Dương Bà Rịa-Vũng 5 Tàu 6 Hải Phòng 7 Vĩnh Phúc Thanh Hóa 8 Long An 9 10 Hải Dương 11 Quảng Ninh 12 Kiên Giang 13 Đà Nẵng 14 Hà Tây 15 Khánh Hoà 16 Tây Ninh 17 Phú Thọ 18 Nghệ An 19 Phú Yên 20 Quảng Nam 21 Bắc Ninh 22 Thái Nguyên
118 176 82 17 92 72 77 9 67 40 58 93 40 16 33 36 34 19
2,176,444,896 1,941,254,720 708,787,872 702,962,339 674,626,165 627,498,408 492,165,030 454,538,000 430,674,835 423,167,092 400,736,076 353,014,785 286,722,987 254,230,064 245,906,313 225,796,571 212,251,446 209,960,472
817,678,111 784,466,904 284,546,809 218,051,061 276,473,780 257,015,816 240,311,554 199,478,000 195,063,635 179,482,622 147,134,802 251,910,928 157,720,569 110,312,521 117,418,655 100,318,733 91,798,261 82,323,472
1,223,321,667 1,216,461,379 413,584,049 411,093,608 289,577,031 374,935,691 303,063,291 394,290,402 158,916,484 220,629,589 300,502,141 181,932,650 195,568,720 109,494,123 68,142,280 51,452,413 157,661,650 23,132,565
Thừa Thiên 23 Huế 24 Hưng Yên 25 Lâm Đồng 26 Bình Thuận 27 Cần Thơ 28 Lạng Sơn 29 Tiền Giang 30 Nam Định 31 Ninh Bình 32 Lào Cai 33 Hoà Bình
30 49 67 39 32 25 11 11 7 29 12
200,381,462 199,137,242 187,830,862 173,571,683 111,698,676 84,637,900 82,181,276 69,599,022 65,807,779 41,856,733 41,651,255
87,179,899 89,299,911 128,064,563 68,548,064 60,942,050 40,977,900 34,807,309 29,752,142 26,494,629 26,546,187 16,421,574
143,600,118 119,364,141 134,955,148 33,340,913 52,127,357 17,201,061 93,994,982 6,547,500 6,100,000 23,451,201 12,861,062
118
34 Bình Phước
40,955,000
25,213,640
13,784,220
15 Số dự án
STT Địa phƣơng 35 Quảng Trị 36 Bình Định 37 Quảng Ngãi 38 Thái Bình 39 Quảng Bình 40 Hà Tĩnh 41 Ninh Thuận 42 Tuyên Quang 43 Vĩnh Long 44 Bạc Liêu 45 Sơn La 46 Bắc Giang 47 Gia Lai 48 Yên Bái 49 Bắc Cạn 50 Đắc Lắc 51 Kon Tum 52 An Giang 53 Bến Tre 54 Cao Bằng 55 Đắc Nông 56 Đång Th¸p 57 Trà Vinh 58 Hà Nam 59 Hà Giang 60 Sóc Trăng 61 Cà Mau 62 Lai Châu 63 Hậu Giang 64 Điện Biên
Vốn pháp định 17,697,100 20,567,000 17,430,000 12,757,200 9,733,800 11,890,000 12,908,839 5,500,000 11,985,000 13,922,687 9,171,000 16,286,320 10,660,000 11,347,081 6,538,667 4,518,750 10,015,000 4,516,000 4,945,175 6,270,000 3,391,770 5,733,037 6,442,636 2,590,000 2,633,000 2,706,000 3,175,000 2,000,000 804,000 129,000
TVĐT 40,127,000 38,712,000 38,463,689 35,190,506 32,333,800 30,595,000 30,471,000 26,000,000 25,495,000 25,178,646 25,070,000 23,050,320 20,500,000 18,500,688 15,906,667 15,232,280 15,080,000 14,831,895 10,994,048 9,570,000 8,350,770 7,203,037 6,606,636 6,200,000 5,925,000 5,286,000 5,175,000 3,000,000 804,000 129,000
8 15 9 14 4 7 8 2 8 6 5 22 5 9 5 2 3 3 5 5 5 8 4 3 2 3 3 2 1 1
Tổng số
Đầu tƣ thực hiện 4,288,840 20,805,000 12,816,032 1,780,000 25,490,197 1,595,000 6,040,442 - 9,141,630 23,993,658 10,670,898 12,555,893 19,100,500 7,197,373 3,220,331 15,232,280 1,800,000 14,813,401 3,550,397 200,000 3,074,738 1,514,970 917,147 3,807,156 - 2,055,617 5,130,355 180,898 804,000 - 5,617 48,154,971,106 21,555,956,808 25,769,527,089
Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
119
Tên dự án
Phụ lục 6. Các dự án đầu tƣ của các công ty xuyên quốc gia ở Việt Nam 1. Unilever Số giấy phép
Tổng vốn đầu tƣ đăng ký 56,280,470
TVĐT thực hiện 32,010,000
1130 CTLD Lever Vietnam, SX bột giặt và dầu
gội đầu
1528 Cty TNHH Wall's Vietnam, sx kem ăn và
30,000,000
27,864,286
đá khô
1783 CTLD Elida P/S, sx các SP vệ sinh răng
17,500,000
14,000,000
miệng Số lượng = 3
103,780,470
73,874,286
2. Ford Số giấy phép
Tên dự án
1365 Công ty TNHH Ford Việt Nam
Số lượng =1
TVĐT 102,700,000 102,700,000
ĐTTH 75,538,811 75,538,811
3. Toyota Motor + Toyota Tsusho Số giấy phép
Tên dự án
TVĐT 2,424,242
ĐTTH 1,658,930
888 CTLD Toyota TC Hà Nội, sửa chữa, bảo
hành xe Toyota
1367 Cty ôtô Toyota Việt Nam 1781 CTLD Toyota Tsuscho Sài Gòn Moto,
89,609,490 3,000,000
51,837,974 3,000,000
bảo trì xe Toyota Số lượng = 3
95,033,732
56,496,904
4. Heineken Số giấy phép
Tên dự án
287 Nhà máy Bia Việt Nam
1600 CTLD Nhà máy bia Hà Tây
Số lượng = 2
TVĐT 93,000,000 190,000,000 283,000,000
ĐTTH 93,000,000 55,300,000 148,300,000
5. Fujitsu Số giấy phép
Tên dự án
1377 Cty sản phẩm máy tinh Fujitsu Việt Nam
TVĐT 198,818,719
ĐTTH 42,300,000
TNHH
1878 Cty TNHH các hệ thống viễn thông
12,000,000
6,950,000
VNPT-Fujitsu
44 Cty TNHH các hệ thống máy tính Fujitsu
800,000
700,000
tại VN Số lượng = 3
211,618,719
49,950,000
6. Telstra Số giấy phép
Tên dự án
TVĐT
ĐTTH
120
127 Hợp doanh INTELSAT
327,150,000 310,904,500 327,150,000 310,904,500
Số lượng = 1
7. Keppel Số giấy phép
Tên dự án
263 Trung tâm Quốc tế (XD V.P cho thuê) 283 CTLD Vietcombank-bonday (XD VP tại
TVĐT 17,660.000 10,671,263
ĐTTH 18,212,000 8,224,891
35 Nguyễn Huệ)
626 Cty TNHH FPSL Watco (XD K.S 5 sao
270,087,898
48,577,290
và Trung tâm Sài Gòn)
1090 Cty TNHH vườn Hoàng Viên- Quảng Bá 1157 Cty Keppel Land Agtex, XD cao ốc văn
50,931,000 45,000,000
37,512,790 9,888,147
phòng
1221 Cty TNHH kinh doanh văn phòng dầu khí 1369 CTLD tư vấn kỹ thuật và xây dựng
22,162,260 5,000,000
11,435,847 2,918,820
421,512,421 136,769,785
FOLEC Số lượng = 7
8. Coca-Cola Số giấy phép
Tên dự án
2026 Cty TNHH nước ngọt Coca-Cola Non
TVĐT 25,000,000
ĐTTH 22,572,757
nước
834 Cty TNHH nước ngọt Coca-Cola Ngọc
151,092,000
35,400,000
Hồi
1384 Cty TNHH nước ngọt Coca-Cola Việt
182,519,000
51,459,000
358,611,000 109,431,757
Nam Số lượng = 3
9. BP Amoco Số giấy phép
Tên dự án
7 HĐ thăm dò khai thác dầu khí, Lô
TVĐT 17,000,000
ĐTTH 148,464,892
6,9,12E
369 HĐ kh/thác dầu khí Lô 05-3 với aedc, bp
42,400,000
138,223,219
Exp…, Den No
407 CTLD BP PETCO TNHH (SX dầu mỡ
48,000,000
35,553,000
bôi trơn)
371 HĐ dầu khí lô 05-2 với BP và statoil-Anh
103,000,000 197,204,387
210,400,000 519,445,498
và NaUy Số lượng = 4
10. Pou Yuen Số giấy phép
Tên dự án
1045 Cty Hưng Hiệp cổ phần TNHH Pouchen
TVĐT 74,049,350
ĐTTH 63,505,000
VN, SX giày
1497 Cty cổ phần TNHH Pou Yuen Việt nam,
120,259,000 158,358,090
SX giày thể thao
121
Số lượng = 2
11. Comvik Số giấy phép
Tên dự án
1242 Hợp đồng hợp tác kinh doanh thông tin di
194,308,350 TVĐT 341,500,000
221,863,090 ĐTTH 87,236,266
động Số lượng = 1
12. Charoen Pokphand Số giấy phép
Tên dự án
1587 Cty TNHH Charoen Pokphand-Việtnam,
341,500,000 TVĐT 33,000,000
87,236,266 ĐTTH 10,500,000
SX thức ăn gia súc
545 Cty TNHH Chăn nuôi C.P. Việt Nam
19 VINASIAM Bank Số lương = 3
13. Bourbon Số giấy phép
Tên dự án
1849 CTLD V/tải đg sông, đg bộ cho Cty
78,188,000 15,000,000 126,188,000 TVĐT 2,800,000
đường Tây Ninh
2051 Cty TNHH vận tải Bourbon - Đức Hạnh 2104 Cty chế biến, đóng gói b.bì n.sản t.phẩm
3,700,000 15,000,000
Bourbon Bến Lức
56,654,599 15,000,000 82,154,599 ĐTTH - 1,129,850 - 16,799,500 14,295,000
1950 Cty TNHH mía đường Bourbon Gia Lai 2013 Cty TNHH Th.mại và d.vụ l.doanh Đại
25,550,000 30,000,000
siêu thị An Lạc
2128 Cty TNHH TMQT và d.vụ siêu thị
30,000,000
-
Bourbon Thăng Long
1751 Cty TNHH TMDV quốc tế Bourbon
54,000,000
19,000,000
Đồng Nai, XD VP
1316 Cty TNHH mía đường Bourbon - Tây
111,000,000
54,000,312
Ninh Số lượng = 8
272,050,000 105,224,662
14. Hyundai Số giấy phép
Tên dự án
68 CTLD TNHH Quốc tế Hyundai Việt Nam 1522 Cty chế tạo cột thép Hyundai - Đông Anh 1419 Cty TNHH Hyundai-Huy Hoàng Pipe
TVĐT 500,000 8,100,000 11,000,000
ĐTTH - 8,100,000 10,127,395
(SX ống thép)
1686 Cty TNHH nhà máy tàu biển Hyundai-
149,496,000 140,844,000
Vinashin Số lượng = 4
169,096,000 159,071,395
15. ChinFon Group Số giấy phép
TVĐT
ĐTTH 87,827,000
341 Cty TNHH chế tạo CN và G.Công C.Biến 120,000,000
122
hàng XK Việt Nam
11 Chi nhánh NH Cathay Investment &
15,000,000
15,000,000
Trust Co.Ltd tại Hà Nội
490 Cty xi măng ChinFon - HảI Phòng
288,300,000 263,705,555
1069 CtyTN HH ốc vít Lâm Viễn, SX ốc vít xe
1,287,130
1,287,130
máy, ô tô
1071 CtyTN HH Hong Chi, SX phanh xe máy,
1,500,000
714,030
ô tô
1072 Cty TNHH Công nghiệp Ztong Yee-Việt
3,230,390
3,230,390
Nam, SX ắc quy
1073 Cty TNHH đầu tư See Well, SX đèn ôtô,
3,543,310
1,758,086
xe máy
1075 Cty TNHH CN Kai Fa-Việt Nam, SX
4,000,000
1,768,790
giảm xóc
1077 CtyTN HH CN Broad Bright, SX ống xả
4,099,500
2,255,175
xe máy
1086 Cty dầu khí Đài Hải, phân phối khí hoá
13,028,000
11,028,000
lỏng
1087 Cty TNHH điện cơ Shih Lin-ViệtNam,
2,678,000
2,678,000
SX thiết bị cho xe máy
1,096,750
564,380
1088 Cty TNHH Công nghiệp Sơn Chung Yang-Việt Nam, Sx sơn xe
1096 Cty TNHH Chiu Yi Việt Nam, SX đồng
2,436,110
1,402,600
hồ báo tốc, báo xăng
1219 Cty Súc sản (Việt Nam) ChinFon, SX
30,000,000
9,865,007
thức ăn chăn nuôi
1873 Cty TNHH cao su Kenda (Việt Nam), SX
15,000,000
7,590,226
săm lốp
2122 Cty TNHH bảo hiểm ChinFon-Manulife
8,500,000
6,000,000
Số lượng = 16
505,199,190 410,674,369
16. Korea Telecom Số giấy phép
Tên dự án
1588 Hợp đồng phát triển mạng viễn thông nội
TVĐT 53,243,818
ĐTTH 29,056,452
hạt HN, HP, QN Số lượng = 1
53,243,818
29,056,452
123