1

Zv

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC ------------------

HOÀNG THỊ PHƯƠNG

ĐỀ TÀI ĐÔ THỊ TRONG TRUYỆN NGẮN

NGUYỄN THỊ THU HUỆ

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Thái Nguyên, 2018

2

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC ------------------ HOÀNG THỊ PHƯƠNG

ĐỀ TÀI ĐÔ THỊ TRONG TRUYỆN NGẮN

NGUYỄN THỊ THU HUỆ

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã ngành: 8220121 LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Giáo viên hướng dẫn khoa học : TS. NGUYỄN THỊ THANH NGÂN

Thái Nguyên, 2018

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi dưới sự hướng dẫn

của TS. Nguyễn Thị Thanh Ngân, kết quả nêu trong luận văn này là hoàn toàn

trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả

Hoàng Thị Phương

ii

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn

Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Báo chí – Truyền thông và Văn học,

Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực

tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.

Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên hướng

dẫn T.S Nguyễn Thị Thanh Ngân đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong

suốt thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.

Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đã giúp

đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.

Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018

Tác giả

Hoàng Thị Phương

iii

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1

1. Lí do chọn đề tài………………………………………………………………..... 1

2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................................... 2

2.1. Về đề tài đô thị ............................................................................................. 2

2.2. Về truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ .......................................................... 5

3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu ................................................................................. 7

3.1. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................... 7

3.2. Mục tiêu nghiên cứu ..................................................................................... 8

4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 8

4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................... 8

4.2. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 8

5. Phạm vi nghiên cứu.......................................................................................................... 9

6. Đóng góp của luận văn .................................................................................................... 9

7. Cấu trúc luận văn.............................................................................................................. 9

Chương 1. ĐỀ TÀI ĐÔ THỊ TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM VÀ VÀI

NÉT VỀ TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN THỊ THU HUỆ ............................ 11

1.1. Đô thị hóa và ảnh hưởng của đô thị hóa đến xã hội Việt Nam ............................. 11

1.1.1. Khái niệm đô thị và đô thị hóa ................................................................ 11

1.1.2. Quá trình đô thị hóa ở Việt Nam ............................................................ 12

1.1.3. Ảnh hưởng của đô thị hóa đến đời sống xã hội Việt Nam ...................... 13

1.2. Văn học đô thị Việt Nam ........................................................................................... 15

1.2.1. Văn học đô thị ......................................................................................... 15

1.2.2. Văn học đô thị ở Việt Nam trước 1986 ................................................... 16

1.2.3. Văn học đô thị Việt Nam sau 1986 ........................................................ 19

1.3. Khái quát về truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ ..................................................... 21

1.3.1. Giới thuyết về truyện ngắn ...................................................................... 21

1.3.2. Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Thị Thu Huệ ................................... 22

iv

1.3.2.1. Cuộc đời ............................................................................................ 22

1.3.2.2.Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ trong dòng chảy truyện ngắn

nữ đương đại .................................................................................................. 23

Chương 2. BỨC TRANH ĐỜI SỐNG VÀ CON NGƯỜI ĐÔ THỊ TRONG

TRUYỆN NGẮN NGUYỄN THỊ THU HUỆ ...................................................... 27

2.1. Bức tranh đời sống đô thị .......................................................................................... 27

2.1.1. Đời sống gia đình với những quan hệ đạo đức truyền thống bị phá vỡ .. 27

2.1.2. Đời sống xã hội phức tạp, xô bồ với nhiều tệ nạn tiêu cực ..................... 34

2.2. Con người đô thị ......................................................................................................... 38

2.2.1. Con người cô đơn .................................................................................... 38

2.2.2. Con người lạnh lùng, vô cảm .................................................................. 42

2.2.3. Con người tha hóa, biến chất ................................................................... 45

2.2.4. Con người với khát khao hạnh phúc ....................................................... 48

Chương 3. NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN ĐỀ TÀI ĐÔ THỊ TRONG

TRUYỆN NGẮN NGUYỄN THỊ THU HUỆ ...................................................... 52

3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ................................................................................... 52

3.1.1. Miêu tả nhân vật qua ngoại hình ............................................................. 51

3.1.2. Miêu tả nhân vật qua hành động ............................................................. 56

3.1.3. Miêu tả nhân vật qua ngôn ngữ ............................................................... 58

3.1.3.1. Ngôn ngữ độc thoại ........................................................................... 58

3.1.3.2. Ngôn ngữ đối thoại ........................................................................... 61

3.2. Không gian- thời gian nghệ thuật nghệ thuật ......................................................... 64

3.2.1. Không gian nghệ thuật ............................................................................ 64

3.2.1.1. Không gian gia đình .......................................................................... 64

3.2.1.2. Không gian căn phòng ...................................................................... 67

3.2.1.3. Không gian tâm tưởng ...................................................................... 68

3.2.2. Thời gian nghệ thuật ................................................................................ 70

3.2.2.1. Thời gian tuyến tính .......................................................................... 71

v

3.2.2.2. Thời gian đồng hiện .......................................................................... 73

3.3. Ngôn ngữ nghệ thuật .................................................................................................. 75

3.3.1. Ngôn ngữ đời thường vừa giản dị vừa sắc sảo, gai góc .......................... 76

3.3.2. Ngôn ngữ đằm thắm dịu dàng ................................................................. 78

3.4. Giọng điệu .................................................................................................................... 80

3.4.1. Giọng dửng dưng, lạnh lùng................................................................... 81

3.4.2. Giọng mỉa mai, châm biếm ..................................................................... 82

3.4.3. Giọng phân tích, chiêm nghiệm, triết lý .................................................. 84

KẾT LUẬN ............................................................................................................. 88

TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 90

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Sau năm 1986, đất nước ta bước vào thời kì đổi mới xây dựng nền

kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đời sống kinh tế, xã hội

Việt Nam cũng có những thay đổi lớn lao. Cùng với sự thay đổi của đời sống

kinh tế xã hội, văn học Việt Nam cũng có bước chuyển mình mạnh mẽ. Văn học

giai đoạn này đã bắt đầu gặt hái được nhiều thành tựu đặc biệt ở thể loại tiểu

thuyết và truyện ngắn. Có thể nói, đây được coi là mùa vàng bội thu của thể loại

truyện ngắn. Bên cạnh những cây bút kỳ cựu như: Nguyễn Khải, Nguyễn Minh

Châu, Nguyễn Huy Thiệp… sự xuất hiện của nhiều cây bút trẻ như: Phan Thị

Vàng Anh, Y Ban, Võ Thị Xuân Hà, Võ Thị Hảo ... đã đem đến cho nền văn học

luồng sinh khí mới. Trong đó phải kể đến cây bút nữ giàu tài năng Nguyễn Thị

Thu Huệ.

Nguyễn Thị Thu Huệ xuất hiện với tư cách là một nhà văn nữ có cá tính

độc đáo và cách viết mới lạ. Thu Huệ quan niệm rằng: Văn chương chưa bao

giờ là những điều thần bí, chỉ đơn giản đó là một phần của cuộc sống mà những

ai trót mang nặng kiếp người đều lấy đó để cắt bớt đi gánh nặng đa mang. Vì

vậy ngay từ khi mới xuất hiện, truyện ngắn của Thu Huệ đã hấp dẫn bạn đọc vì

giàu chất đời, với cách viết tả chân sắc sảo. Chất đời ấy đã truyền cảm hứng

mãnh liệt để chuyển thể nhiều truyện ngắn thành kịch bản phim, và từ phim ảnh,

độc giả quay trở lại để đón nhận những đứa con tinh thần của nhà văn từ những

góc nhìn mới mẻ, thú vị hơn. Chính vì vậy, Thu Huệ nhanh chóng chiếm được

nhiều cảm tình sâu sắc của đông đảo độc giả trong cả nước.

1.2. Đặc biệt, bước vào thời kì đổi mới, quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh

chóng đã tác động mạnh mẽ đến kinh tế- văn hóa, xã hội Việt Nam. Đời sống đô

thị đặt ra nhiều vấn đề nóng hổi, tích cực có mà tiêu cực, tệ nạn nhức nhối cũng

không thiếu. Đô thị trở thành miền đất hứa để con người thực hiện khát vọng đổi

2

đời, là những mảnh đất phồn hoa nơi hứa hẹn cuộc sống văn minh hiện, đại. Tuy

nhiên, những mất mát hư hao, những tệ nạn, tiêu cực, những mặt trái, góc khuất

của nền kinh tế thị trường len lỏi vào từng ngóc nghách, từng ra đình hiện đại.

Vì thế, hơn bao giờ hết đô thị cũng trở thành mảnh đất màu mỡ thu hút được sự

quan tâm chú ý của nhiều nhà văn tài năng. Đây trở thành đề tài quen thuộc xuất

hiện trong nhiều sáng tác của các nhà văn đương đại như Nguyễn Huy Thiệp,

Đỗ Phấn, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Thị Thu Huệ... Theo đó, văn học đô thị cũng

được giới nghiên cứu phê bình đặc biệt quan tâm.

Vì những lí do trên, chúng tôi quyết định chọn Đề tài đô thị trong truyện

ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ làm đối tượng nghiên cứu, với mong muốn chỉ ra

những đóng góp mới mẻ của Thu Huệ về đề tài đô thị, đồng thời thấy được tài

năng, phong cách nghệ thuật của tác giả trong nền văn học đương đại Việt Nam.

2. Lịch sử vấn đề

2.1. Về đề tài đô thị trong văn học Việt Nam đương đại

Sau năm 1986, văn học đô thị đã nhận được sự quan tâm đặc biệt của giới

nghiên cứu phê bình văn học. Đây trở thành đề tài trong nhiều cuộc hội thảo

khoa học cũng như nhiều công trình nghiên cứu. Chúng tôi xin được điểm qua

một số ý kiến, công trình như sau:

Trong cuộc thảo luận về văn học đô thị do báo điện tử Người đô thị tổ

chức, tác giả Đỗ Lai Thúy cho rằng: “tiểu thuyết đô thị Việt Nam còn ít về đề tài

đô thị, nếu có thì đôi khi đô thị thường được nhìn bằng sự hoài niệm nông

thôn. Bởi vậy, tính đô thị của nó chủ yếu biểu hiện ở phương diện thể

loại”. Nhà văn Nguyễn Việt Hà cũng nhận xét: “chưa thấy cuốn tiểu thuyết dài

nào viết về chuyện đô thị của giới viết trẻ mà thấy hay và đáng nể”. Cùng quan

điểm này, tác giả Mai Anh Tuấn cũng khẳng định: “văn học đô thị Việt Nam

xuất hiện từ khi đô thị xuất hiện tầng lớp trung lưu đô thị và tầng lớp tư sản nội

địa. Tức là khi xuất hiện hai sự đối kháng cả về mặt địa chính trị và địa văn hóa

3

với tầng lớp nông dân”. Một cảm thức đô thị quan trọng được ông nhắc tới: “Sự

cô đơn của con người, khi viết về điều đó thì văn học đô thị hiện đại đã chạm

sâu vào con người đô thị”. Với tác giả Phó Đức Tùng: “Đô thị Việt Nam không

có lõi, và khi không có lõi, tính hiện đại trong văn học đô thị của Việt Nam chỉ

là tính hiện đại bắt chước, chưa phải là tính đô thị”.

Như vậy, bàn về văn học đô thị đang trở thành một chủ đề nóng

của nhiều các nhà chuyên môn và bạn yêu văn chương. Các ý kiến đánh giá đã

góp phần quan trọng trong việc nhìn nhận đúng về đặc điểm, tình hình văn

học đô thị đương đại. Các tác giả đều chỉ ra rằng, văn học đô thị ở nước ta chưa

thực sự phát triển, ít nhiều vẫn ảnh hưởng của văn hóa nông thôn. Tuy nhiên,

các nhà nghiên cứu cũng khẳng định, văn học đô thị hiện đại đã bắt đầu nói

nhiều hơn về hình ảnh con người cô đơn, đây được coi là một trong những vấn

đề nổi cộm khi viết về con người đô thị thời hiện đại.

Bên cạnh đó còn có nhiều bài báo, công trình nghiên cứu về vấn đề này.

Tác giả Lê Hương Thủy trong bài viết: Truyện ngắn đương đại về đề tài đô thị

đăng trên Tạp chí văn nghệ quân đội ngày 10/12/2012 đã chỉ ra “đời sống đô

thị đã góp phần tạo nên những thay đổi trong đời sống văn hoạc Việt Nam

đương đại”. Theo bài viết này, hiện thực đời sống đô thị được phản ánh “không

chỉ là hình ảnh hào nhoáng, sang trọng, lịnh lãm mà còn là những góc khuất,

những xáo trộn trong đời sống và tâm hồn con người”. Tác giả cũng khẳng định

con người cô đơn, con người cá nhân là một dạng thức và tâm thái của người đô

thị. Đây cũng là quan niệm mới mẻ về con người của các nhà văn đương đại.

Tác giả Đặng Thái Hà trong bài viết: Vấn đề sinh thái- đô thị trong văn

xuôi Việt Nam thời đổi mới đăng trên Tạp chí văn nghệ quân đội ngày

03/08/2005 cũng đề cập đến vấn đề đô thị trong sáng tác của nhiều nhà văn

đương đại. Bài viết đã nói đến một vân đề nhức nhối: “đô thị hóa hay là sự tuyệt

giao với thiên nhiên”. Chính đô thị hóa là nguy cơ hủy hoại nghiêm trọng môi

4

trường sống của con người. Đây thực sự là hệ lụy tiêu cực đáng báo động của

quá trình đô thị hóa hiện nay.

Còn tác giả Thái Thị Hồng Vinh trong luận văn Vấn đề đô thị trong tiểu

thuyết Việt Nam sau 1986 lại khai thác khá toàn diện về những vấn đề đô thị

được đặt ra trong tiểu thuyết Việt Nam sau thời kì đổi mới. Theo đó, đô thị hiện

lên là biểu hiện của cuộc sống văn minh, hiện đại, đô thị gắn liền với ước vọng

đổi đời của con người. Tuy nhiên, luận văn cũng nhận định môi trường đô thị dễ

làm con người tha hóa, sống vô cảm, thờ ơ…

Với đề tài Cảm quan đô thị trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại, tác giả

Đỗ Thanh Hương đã trình bày cơ sở hình thành cảm quan đô thị cũng như

những phương diện cơ bản của cảm quan đô thị trong tiểu thuyết Việt Nam

đương đại. Theo đó, tác giả nhấn mạnh đến không gian, thời gian và con người

đô thị. Luận văn đi sâu vào hình ảnh con người sùng bái vật chất, chạy theo văn

minh; con người cô đơn và sự chuyển dịch từ con người gia đình sang con người

cá nhân bản thể.

Ngoài ra còn có nhiều luận văn, luận án khác như: Đề tài đô thị trong tiểu

thuyết Đỗ Phấn của tác giả Nguyễn Thị Hương. Tác giả luận văn đã phân tích

bức tranh cuộc sống và con người đô thị trong tiểu thuyết Đỗ Phấn. Tác giả đặc

biệt nhấn mạnh tới không gian- thời gian, lối sống cũng như đời sống nội tâm

của con người đô thị. Với đề tài Cảm thức đô thị trong đại tiểu thuyết của

Nguyễn Việt Hà, tác giả Trần Việt Hà cũng chỉ ra những xung đột giá trị và

không gian sống trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà.

Các công trình nghiên cứu đều chỉ những đặc điểm cũng như những nét

riêng, độc đáo trong các sáng tác viết về đề tài đô thị của các tác giả đương đại.

5

2.2. Về truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ

Nguyễn Thị Thu Huệ được coi là cây bút tài năng của nền văn xuôi Việt

Nam đương đại. Với lối viết tả chân sắc sảo, ngay từ khi mới xuất hiện nhà văn

đã tạo được ấn tượng mạnh trong lòng độc giả. Tác phẩm của Nguyễn Thị Thu

Huệ cũng vì thế thu hút được sự quan tâm của giới chuyên môn. Đã có rất nhiều

những bài viết, bài nghiên cứu phê bình, những luận văn, luận án lấy truyện

ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ làm đối tượng nghiên cứu. Có thể kể đến một số

những bài viết, công trình nghiên cứu sau đây:

Tác giả Lý Hoài Thu đã nhận ra nét riêng trong một số truyện ngắn dự thi

của Thu Huệ: “những cuộc săn đuổi, tìm kiếm đích thực của tình yêu dường như

được nâng lên để đẩy đến tận cùng của ý đồ” [43]. Đây được coi là một phát

hiện sâu sắc và lí thú về những đề tài chính trong các sáng tác của Thu Huệ: đề

tài tình yêu và hạnh phúc gia đình. Còn tác giả Hồ Phương thì đánh giá : “Trong

các tác giả trẻ, Thu Huệ là cây bút hết sức sắc sảo. Đọc Huệ tôi ngạc nhiên lắm,

sao còn ít tuổi mà Huệ lại lọc lõi thế. Nó như con mụ phù thủy lão luyện. Nó đi

guốc trong bụng mình. Ruột gan mình có gì hình như nó cũng biết cả” [34]. Tác

giả Kim Dung khi đánh giá về truyện ngắn của Thu Huệ thì cho rằng: “Truyện

ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ luôn có hai mặt – vừa “bụi bặm” trong tả chân, vừa

trữ tình đằm thắm, văn của chị vừa táo bạo vừa thanh khiết. Một cái gì đó thuần

nhất, không đơn giản thậm chí có khi còn đối chọi nhau trong văn Nguyễn Thị

Thu Huệ” [4]. Về văn phong của Nguyễn Thị Thu Huệ, Đoàn Hương ghi nhận:

“Huệ lại có lối viết văn như bị “lên đồng”. Trong truyện ngắn của mình không

phải là cô “kể” cho chúng ta nghe mà là cô “lôi” chúng ta đi theo nhân vật. Đó

là phong cách độc đáo của Nguyễn Thị Thu Huệ” [20]. Còn tác giả Bùi Việt

Thắng nhận xét : “Truyện ngắn Thu Huệ hấp dẫn rộng rãi người đọc trước hết

vì giàu chất đời” và “những truyện ngắn hay của Thu Huệ là nhờ người viết biết

bứt lên được trên cái có thực đến tận cùng để tìm tòi cái gì đó cao hơn con

người, đó là đời sống tâm hồn vốn không rõ ràng, rành mạch, vốn bí ẩn khó giải

6

thích bằng lý trí” [39]. Nhìn nhận Nguyễn Thị Thu Huệ là nhà văn nữ “độc đáo

và tài hoa”, Hồ Sỹ Vịnh đã tìm hiểu truyện ngắn của Thu Huệ trên bình diện thi

pháp và chỉ ra rằng: “Nhà văn này đã vượt ra ngoài phương thức miêu tả vừa

thực, vừa hư, vừa trần thế, vừa ảo mộng, chuyện hiện tại, chuyện dĩ vãng nhằm

tạo dựng một cuộc sống có dung tích, khai thác chiều sâu những góc khuất uẩn

khúc “thế giới bên trong” của con người” [48].

Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều trong bài viết Báo cáo giải thưởng Hội nhà

văn Việt Nam 2012 đã ghi nhận “Thành phố đi vắng đã thực sự làm đầy thêm hồ

sơ sáng tạo truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ và đặt chị vào vị trí

những nhà văn Việt Nam đương đại viết truyện ngắn tiêu biểu”. [53]. Gần đây

nhất, nhà văn Nhật Tuấn trong bài viết Một thành tựu văn xuôi hiện đại nhân

đọc Thành phố đi vắng đã nhận thấy: “Thành phố đi vắng thực sự rất đáng ghi

nhận như một tín hiệu đáng mừng, một thành tựu mới trong văn xuôi hiện đại”

[46].

Các nhà nghiên cứu đều chỉ ra Nguyễn Thị Huệ là cây bút viết truyện ngắn

sắc sảo, có khả năng nắm bắt phản ánh những vấn đề nóng bỏng, phức tạp của

đời sống đương đại bằng một chất giọng riêng vừa sắc sảo, bụi bặm vừa trữ tình

đằm thắm. Chính điều này đã tạo nên phong cách nghệ thuật riêng của Thu Huệ,

đồng thời tạo nên sức hấp dẫn thú vị trong các truyện ngắn của chị.

Bên cạnh đó còn có nhiều luận văn, luận án nghiên cứu về truyện ngắn

Nguyễn Thị Thu Huệ. Luận văn Cảm thức đô thị trong truyện ngắn Việt Nam

đương đại của tác giả Nguyễn Đình Doanh cũng chỉ ra bức tranh đời sống và

con người trong truyện ngắn của qua truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh

Thái, Nguyễn Thị Thu Huệ. Đó là đời sống xô bồ, hỗn tạp, sự đảo lộn các giá trị,

xu hướng sùng ngoại, chạy theo lối sống phương Tây. Luận văn cũng đề cập đến

hình ảnh con người tha hóa, biến chất, thực dụng và cô đơn trong đời sống đô thị

7

hiện đại. Mỗi nhà văn khi tiếp cận đề tài đô thị, vừa có những điểm tương đồng,

đồng thời vừa tạo cho mình những dấu ấn riêng.

Tác giả Trịnh Thị Hiệp trong đề tài: Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Thị

Thu Huệ cũng trình bày khá đầy đủ về những đặc điểm nội dung và nghệ thuật

trong truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ. Còn Vũ Thị Tố Nga ở đề tài: Quan

niệm nghệ thuật về con người trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ đã

xem xét một cách khá toàn diện về các truyện ngắn của Thu Huệ và chỉ ra: “tư

duy hướng nội là một đặc điểm định tính đã phần nào chi phối các phương thức

diễn đạt. Nhiều hình thức nghệ thuật đã được Thu Huệ khéo léo đan cài và sử

dụng phù hợp trong việc biểu đạt tâm trạng – đi sâu vào thế giới nội tâm của

nhân vật. Bằng lối viết hết mình đến cạn kiệt...chúng ta thấy được nỗi say đắm

của chị với cuộc đời và con người” [28].

Ngoài ra còn có luận văn: Nhân vật nữ trong truyện ngắn: Võ Thị Hảo,

Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư của tác giả Nguyễn Thị Nhuận; đề tài:

Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn của các nhà văn nữ đương đại:

Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Ngọc Tư của tác giả Chu

Thị Hiền… Tuy nhiên chúng tôi nhận thấy chưa có một công trình nào nghiên

cứu một cách toàn diện về đề tài đô thị trong các truyện ngắn của Nguyễn Thị

Thu Huệ.

Từ những đánh giá gợi mở của các công trình nghiên cứu trên đây, chúng

tôi quyết định chọn đề tài nghiên cứu: Đề tài đô thị trong truyện ngắn Nguyễn

Thị Thu Huệ.

3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đề tài đô thị trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ.

8

3.2. Mục tiêu nghiên cứu

Trên cơ sở kế thừa những tài liệu khoa học đã công bố về tác phẩm và tác

giả Nguyễn Thị Thu Huệ, chúng tôi muốn đi sâu khai thác đề tài đô thị trong

truyện ngắn của Thu Huệ trên cả hai phương diện nộ dung và nghệ thuật biểu

hiện. Từ đó khẳng định tài năng và phong cách độc đáo và cả những đóng góp

của nữ nhà văn trong nền văn học đương đại khi viết về đề tài này.

4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu

4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện đề tài này, luận văn đề ra những nhiệm vụ sau:

Thứ nhất: Tìm hiểu những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến đề tài:

khái niệm đô thị; đô thị hóa; quá trình đô thị hóa ở Việt Nam và tác động của nó

tới văn hóa xã hội; đề tài đô thị trong Văn học Việt Nam …

Thứ hai: Khảo sát đề tài đô thị trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ ở

các khía cạnh cụ thể: cuộc sống đô thị, con người đô thị.

Thứ ba: Tập trung khai thác các đặc sắc nghệ thuật của nhà văn trong các

truyện ngắn về đề tài đô thị.

Thứ tư: Từ đó chỉ ra những đóng góp mới mẻ ở đề tài đô thị của tác giả và

thấy được phong cách nghệ thuật, vị trí của nhà văn trong văn đàn đương đại.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài này, luận văn áp dụng những phương pháp sau:

- Phương pháp thống kê, phân loại

- Phương pháp so sánh đối chiếu

- Phương pháp phân tích – tổng hợp

- Phương pháp liên ngành

9

Các phương pháp nghiên cứu trên không tách rời nhau mà tương tác, bổ

sung cho nhau trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài.

5. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn khảo sát đề tài đô thị trong các truyện ngắn thuộc các tập truyện

sau:

- Cát đợi ( Nhà xuất bản Hà Nội – 1992)

- Hậu Thiên Đường ( Nhà xuất bản Hội Nhà văn – 1993)

- Phù thủy (Nhà xuất bản Văn học – 1995)

- 21 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ ( Nhà xuất bản Hội Nhà văn –

2001)

- Nào, ta cùng lãng quên (Nhà xuất bản Hội Nhà văn – 2003)

- 37 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ ( Nhà xuất bản Văn học – 2006)

- Thành phố đi vắng ( Nhà xuất bản Trẻ - 2012)

6. Đóng góp của luận văn

Về lý luận: Luận văn đã làm sáng tỏ đề tài đô thị trong truyện ngắn Nguyễn

Thị Thu Huệ trên cả hai bình diện nội dung và nghệ thuật biểu hiện.Từ đó khẳng

định được tài năng và phong cách nghệ thuật cũng như đóng góp của nhà văn

khi viết về đề tài này.

Về thực tiễn: Luận văn cũng là một tài liệu tham khảo cho các công trình

nghiên cứu tiếp theo về Nguyễn Thị Thu Huệ đặc biệt là về đề tài đô thị.

7. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, luận văn gồm ba chương:

Chương 1. Đề tài đô thị trong văn học Việt Nam và vài nét về truyện ngắn

Nguyễn Thị Thu Huệ

10

Chương 2. Bức tranh cuộc sống và con người đô thị trong truyện ngắn

Nguyễn Thị Thu Huệ

Chương 3. Nghệ thuật thể hiện đề tài đô thị thị trong truyện ngắn Nguyễn

Thị Thu Huệ

11

Chương 1.

ĐỀ TÀI ĐÔ THỊ TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM VÀ VÀI NÉT VỀ

TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN THỊ THU HUỆ

1.1. Đô thị hóa và ảnh hưởng của đô thị hóa đến xã hội Việt Nam

1.1.1. Khái niệm đô thị và đô thị hóa

Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam thì “Đô thị là một không gian cư trú

của cộng đồng người sống tập trung và hoạt động trong những khu vực kinh tế

phi nông nghiệp” [49]. Còn theo Từ điển Tiếng Việt, đô thị là “nơi dân cư đông

đúc, là trung tâm thương nghiệp và có thể cả công nghiệp; thành phố hoặc thị

trấn” [33, tr 332]. Trong Giáo trình quy hoạch đô thị, Đại học Kiến trúc Hà Nội

có viết: “ Đô thị là nơi tập trung dân cư, chủ yếu là lao động phi nông nghiệp,

sống và làm việc theo kiểu thành thị”.

Như vậy, đô thị có thể hiểu là điểm dân cư tập trung với mật độ cao, chủ

yếu là lao động phi nông nghiệp; thương mại, công nghiệp và dịch vụ phát triển,

có hạ tầng cơ sở tích hợp, là trung tâm tổng hợp hay chuyên ngành, có vai trò

thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, hoặc một vùng miền, một

tỉnh, hay một huyện.

Đô thị hóa là một quá trình phát triển kinh tế- xã hội, mà biểu hiện của nó là

sự tăng nhanh về số lượng và quy mô các đô thị, dân cư tập trung đông tại các

thành phố, đô thị, lối sống thành thị cũng càng được phổ biến rộng rãi.

Đô thị hóa là sự mở rộng của đô thị, nếu tính theo tỉ lệ phần trăm giữa số

dân đô thị hay diện tích đô thị trên tổng số dân hay diện tích của một vùng hay

khu vực. thì đó là mức độ đô thị hóa. Còn nếu tính theo tỉ lệ gia tăng của hai yếu

tố trên theo thời gian người ta gọi là tốc độ đô thị hóa. Đô thị hóa sẽ góp phần

thúc đẩy kinh tế-xã hội phát triển.

12

1.1.2. Quá trình đô thị hóa ở Việt Nam

Đô thị hóa là xu hướng tất yếu của tất cả các nước phát triển trên thế giới.

Đặc biệt khi nhu cầu cuộc sống của con người ngày càng nâng cao thì quá trình

đô thị hóa càng phát triển. Ở nước ta, do đi lên từ nền kinh tế nông nghiệp nên

quá trình đô thị hóa diễn ra còn chậm và chưa đồng đều giữa các vùng miền trên

cả nước.

Theo dòng lịch sử, trở về với thời kì nhà nước Văn Lang- Âu Lạc thế kỉ III

trước Công nguyên, thành Cổ Loa được coi là đô thị đầu tiên ở nước ta. Thành

Cổ Loa cũng đã trở thành niềm tự hào, kiêu hãnh của người dân Âu Lạc một

thời.

Đến thời kì phong kiến từ thể kỉ X trở đi, một số đô thị được hình hành ở

những nơi có vị trí địa lí thuận lợi. Thế kỉ XI xuất hiện thành Thăng Long,

Thăng Long trở thành kinh đô phát triển vào bậc nhất ở nước ta thời phong kiến.

Bên cạnh đó là các đô thị khác như Phố Hiến, Hội An, Huế… Dân gian đến nay

vẫn còn lưu truyền câu ca: Thứ nhất kinh kì, thứ nhì Phố Hiến. Tuy nhiên trong

suốt chiều dài hàng nghìn năm của chế độ phong kiến, đô thị nước ta chưa thực

sự phát triển. Các đô thị thời đó chủ yếu thực hiện chức năng chính trị, văn hóa

hơn là phát triển kinh tế.

Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX do ảnh hưởng của quá trình khai thác thuộc

địa của thực dân Pháp, nhiều đô thị cũng được hình thành như Hà Nội, Hải

Phòng, Nam Định… Lối sống thị dân Phương Tây bắt đầu du nhập vào Việt

Nam có tác động mạnh mẽ đến đời sống văn hóa xã hội. Bộ mặt đô thị thời kì

này cũng có nhiều thay đổi so với thời kì phong kiến. Tuy nhiên, hệ thống đô thị

bấy giờ vẫn nhỏ, lẻ. Chức năng chủ yếu vẫn là hành chính, quân sự, kinh tế chưa

thực sự phát triển.

Từ năm 1945 đến năm 1954, quá trình đô thị hoá vẫn diễn ra chậm, các đô

thị không có sự thay đổi nhiều. Đây là thời kì chúng ta tiến hành cuộc trường kì

13

kháng chiến chống thực dân Pháp vô cùng gian khổ. Do hoàn cảnh chiến tranh

nên kinh tế xã hội kém phát triển. Cũng vì thế quá trình đô thị hóa không phát

triển.

Từ năm 1954 đến năm 1975 đô thị phát triển theo hai xu hướng khác nhau:

Ớ miền Nam, chính quyền Sài Gòn đã dùng đô thị hoá như một biện pháp để

dồn dân phục vụ chiến tranh. Vì thế quá trình đô thị hóa diễn ra ở đây khá phức

tạp và có nhiều biểu hiện tiêu cực. Còn ở miền Bắc, đô thị hóa gắn liền với quá

trình xây dựng XHCN, nhưng từ 1965 đến 1972, các đô thị bị chiến tranh phá

hoại, quá trình đô thị hoá chững lại. Do đế quốc Mĩ leo thang bắn phá Miền Bắc

nên nhiều khu đô thị bị ném bom thiệt hại nặng nề nhất là thủ đô Hà Nội.

Từ năm 1975 đến nay, quá trình đô thị hóa có chuyển biến khá tích cực.

Đặc biệt từ sau năm 1986, đất nước ta bước vào thời kì đổi mới, cùng với sự

phát triển của nền kinh tế thị trường, quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng.

đã tác động mạnh mẽ đến đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa của nhân dân trong

đó vừa có những mặt tích cực, song cũng không tránh được những hệ lụy tiêu

cực.

Có thể nói, các đô thị ở nước ta chủ yếu là đô thị vừa và nhỏ, ít nhiều vẫn

ảnh hưởng của văn hóa nông nghiệp. Đây cũng là đặc điểm nổi bật của quá trình

đô thị hóa ở nước ta, vừa có sự giao thoa giữa văn hóa làng xã và văn hóa phố

thị.

1.1.3. Ảnh hưởng của đô thị hóa đến đời sống xã hội Việt Nam

Quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng đã có những tác động mạnh mẽ

đến nền kinh tế- xã hội- văn hóa Việt Nam, tích cực có mà hệ lụy tiêu cực cũng

nhiều.

Quá trình đô thị hóa đã góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy kinh tế - xã

hội của đất nước phát triển. Đô thị hóa góp phần đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch

cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, thay đổi sự phân bố dân cư. Các đô thị không

14

chỉ là nơi tạo ra nhiều việc làm và thu nhập cho người lao động mà còn là nơi

tiêu thụ sản phẩm hàng hóa lớn và đa dạng, là nơi sử dụng lực lượng lao động có

chất lượng cao, cơ sở kĩ thuật hạ tầng cơ sở hiện đại có sức hút đầu tư mạnh

trong nước và nước ngoài. Đó là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Theo

đó, diện mạo kinh tế - xã hội của đất nước có nhiều thay đổi, chất lượng cuộc

sống của nhân dân không ngừng được cải thiện. Xã hội ngày càng phát triển

theo hướng văn minh, hiện đại. Việt Nam ngày càng khẳng định vị thế của mình

trên trường quốc tế. Đặc biệt, trình độ dân trí cũng được nâng cao, con người

không ngừng được mở rộng giao lưu văn hóa với nhiều nước trong khu vực và

trên thế giới. Đời sống vật chất cũng như đời sống tinh thần của nhân dân được

nâng cao rõ rệt. Đó thực sự là những thành tựu đáng tự hào mà Đảng và Nhà

nước ta đã làm được.

Tuy nhiên, quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng cũng gây ra nhiều hệ

lụy tiêu cực. Đô thị hóa làm sản xuất ở nông thôn bị đình trệ do lao động chuyển

đến thành phố. Thành thị phải chịu áp lực thất nghiệp, quá tải cơ sở hạ tầng, ô

nhiễm môi trường sống, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, tệ nạn xã hội ngày càng

gia tăng gây nguy cơ mất an toàn trật tự xã hội… Đặc biệt, đô thị hóa tác động

trực tiếp đến văn hóa truyền thống, làm thay đổi lối sống đạo đức của người

Việt. Con người, nhất là con người ở đô thị có xu hướng sùng ngoại, chạy theo

lối sống Phương Tây, đề cao giá trị vật, hình thành lối sống, lối suy nghĩ thực

dụng, bất chấp nền tảng đạo đức, luân lí truyền thống của dân tộc. Đứng trước

vòng xoáy của tiền tài, danh vọng, trước sự cạnh tranh khốc liệt của cơ chế thị

trường nhiều người đã không giữ được nhân cách của mình. Vậy nên, hiện

tượng băng hoại về mặt đạo đức ngày càng nhiều, con người trượt dài trên con

đường tha hóa, biến chất vì cám dỗ vật chất. Chính điều đó đẩy con người rơi

vào bi kịch đau đớn không lối thoát. Đó cũng là thực trạng cay đắng, là những

gam màu xám, những góc khuất của quá trình đô thị hóa.

15

1.2. Văn học đô thị Việt Nam

1.2.1. Văn học đô thị

Ỏ nước ta, trong suốt nghìn năm phong kiến, do ảnh hưởng của tư tưởng

Nho giáo nên văn học mang nặng tính giáo lí, đạo đức. Với quan niệm “thơ dĩ

ngôn chí” (dùng thơ văn để tỏ chí, tỏ lòng), “văn dĩ tải đạo” (lấy văn chương để

truyền dạy đạo đức), thơ văn trở thành công cụ đắc lực để truyền dạy tư tưởng,

đạo lí. Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu từng bày tỏ quan niệm văn chương của

mình: “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm/ Đâm mấy thằng gian bút chẳng

tà”. Nhà văn lúc này cũng thường là những nhà Nho, những bậc trí thức sinh ra

từ “cửa Khổng sân Trình” như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữ,

Nguyễn Du... Vì thế có thể gọi đây là văn học cung đình của tầng lớp vua quan

trong xã hội phong kiến xưa.

Là một nước nông nghiệp, luôn tự hào bởi nền văn minh lúa nước nên văn

học Việt Nam luôn hướng về nông thôn, sinh ra và ảnh hưởng chi phối của nền

văn hóa này. Ở Việt Nam tuy không có dòng văn học được đặt tên cụ thể viết về

nông thôn nhưng đề tài nông thôn là đề tài quen thuộc trong văn học. Ngay từ

thời trung đại, bên cạnh dòng văn học Cung đình, vẫn xuất hiện những tác phẩm

viết về nông thôn. Nguyễn Khuyến là một minh chứng cụ thể. Ông được mệnh

danh là “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam”. Bức tranh đời sống của nông thôn

Việt Nam được tái hiện sinh động giàu xúc cảm trong thơ Nguyễn Khuyến. Đặc

biệt là từ những năm ba mươi của thế kỉ hai mươi trở đi đề tài nông thôn đã trở

đi trở lại trong nhiều sáng tác làm nên tên tuổi cho nhiều nhà văn lớn như: Nam

Cao, Ngô Tất Tố, Kim Lân. Nguyễn Thi… Cho nên, dù không được gọi bằng

một cái tên chính danh, nhưng rõ ràng, dòng văn học viết về nông thôn đã tồn tại

và gặt hái khá nhiều thành công.

Vậy cần phải hiểu khái niệm văn học đô thị như thế nào. Theo tác giả Đoàn

Ánh Dương: "Văn học về đô thị tức văn học lấy đô thị làm đề tài, cái đô thị có

16

trước, đô thị là một thực thể, và văn học thể hiện nó trong sáng tác. Văn học của

đô thị xác định tính chất đô thị của nó, làm cho nó khác với văn học về nông

thôn, miền núi chẳng hạn. Tính đô thị rất quan trọng, làm nên phẩm chất của

văn học đô thị" [5]. Như vậy, có thể hiểu văn học đô thị là văn học viết về đô thị

và có tính đô thị, ở đây cụ thể là nói về tính hiện đại, dân chủ trong đề tài và

cách thức tiếp cận với đề tài ấy. Còn đề tài đô thị, được hiểu “như một phạm vi

hiện thực đô thị được các tác giả nhận thức, lựa chọn và phản ánh trong tác

phẩm”. Bên cạnh đó, sự định vị nhà văn trong không gian đô thị cũng rất quan

trọng, nó quyết định đến góc nhìn và chất đô thị thực sự cuả tác phẩm. Cũng

theo tác giả Đoàn Ánh Dương: "Định vị nhà văn trong không gian đô thị là cần

thiết. Nhà văn ở trong đô thị, và quan trọng hơn, có ý thức trở thành đô thị, mới

tạo nên văn học đô thị đích thực. Ở ngoài đô thị khó có được cảm quan đô thị,

trong khi thuộc về đô thị nhà văn vẫn có thể sáng tạo ở chủ đề khác" [5]. Như

vậy có thể nói cơ sở để xác định một tác phẩm văn học đô thị là: cuộc sống

người viết; cuộc sống, con người đô thị được miêu tả và tính hiện đại và dân

chủ. Tuy nhiên không phải một tác phẩm cụ thể nào cũng hội tụ đầy đủ các yếu

tố đó.

1.2.2. Văn học đô thị ở Việt Nam trước 1986

Sang đầu thế kỉ XX, quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã làm

cho cơ cấu xã hội Việt Nam có nhiều chuyển biến sâu sắc. Một số thành phố

công nghiệp ra đời, đô thị mọc lên ở nhiều nơi, xã hội xuất hiện nhiều giai cấp

tầng lớp mới như tư sản, trí thức tiểu tư sản. Văn hóa Việt Nam bắt đầu mở rộng

tiếp xúc với văn hóa phương Tây đặc biệt là văn hóa Pháp. Chữ quốc ngữ xuất

hiện, dần thay thế chữ Hán và chữ Nôm trong nhiều lĩnh vực. Những nhân tố ấy

đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của văn học đô thị. Trong những năm

đầu còn nhiều bỡ ngỡ, tuy chưa gặt hái được nhiều thành công nhưng văn học

đô thị thời kì này cũng đã có một số tác giả, tác phẩm gây được tiếng vang như

17

Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, hay các tác phẩm viết về đô thị Nam Bộ của

Hồ Biểu Chánh…

Sang những năm 1930-1945, văn học đô thị phát triển mạnh mẽ đạt được

nhiều thành tựu rực rỡ. Đề tài đô thị trở thành mảnh đất màu mỡ thu hút nhiều

nhà văn lớn. Đời sống đô thị được soi chiếu nhìn nhận ở nhiều góc độ, nhiều

phương diện khác nhau, tích cực có mà tiêu cực cũng nhiều. Trong văn xuôi

lãng mạn của nhóm Tự lực văn đoàn, hình ảnh con người đô thị hiện lên là

những nam thanh, nữ tú cùng những câu chuyện tình yêu tự do, vượt qua lễ giáo

phong kiến hà khắc. Những vấn đề như giải phóng cá nhân, đề cao cuộc sống cá

nhân, ca ngợi tình yêu đã được đề cập đến trong nhiều tác phẩm như Bướm

trắng, Đoạn tuyệt của Nhất Linh… Dưới con mắt của các nhà văn lãng mạn đô

thị vẫn là miền đất hứa hẹn nhiều điều tốt đẹp. Còn với các nhà văn hiện thực

như Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan…đời sống đô thị đương thời hiện lên

với nhiều tệ nạn, bao thói hư tật xấu, bao bí mật kinh tởm, bao cảnh đời éo le,

ngang trái của lớp thị dân nghèo. Trong số đó không thể không nhắc đến Số đỏ

của Vũ Trọng Phụng. Được mệnh danh là cây bút trào phúng bậc thầy, dưới

ngòi bút của Vũ Trọng Phụng, tất cả những gương mặt thị dân của đô thị Việt

Nam ở giai đoạn đầu của quá trình tư sản hóa cũng đã lần đầu tiên được phơi

bày trên sân khấu văn chương một cách sống động, chân thực. Mỗi nhân vật như

một bức chân dung biếm họa về con người đô thị thời “Âu hóa”, “vui vẻ trẻ

trung”. Một Xuân Tóc Đỏ lưu manh, bịp bợm, một cụ Cố Hồng háo danh, ngu

dốt, một mụ Phó Đoan dâm đãng, ông Văn Minh bất nhân, bất hiếu… Mỗi nhân

vật đại diện cho một lớp người thành thị đương thời. Cả xã hội quay quắt, đảo

điên bởi lối sống nhố nhăng, đểu giả, mạt lưu, đê tiện, tham lam, học đòi. “Là

người thư kí trung thành của thời đại”, ngòi bút của Vũ Trọng Phụng đã phanh

phui tất thẩy chân tướng của đời sống, con người đô thị bấy giờ. Đây thực sự là

một đỉnh cao của văn chương viết về đô thị Việt Nam.

18

Bước sang giai đoạn 1945 - 1975, do hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, nhân dân

ta thức hiện công cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ và xây dựng xã hội

chủ nghĩa ở Miền Bắc cho nên văn học tập trung cao độ phục vụ sự nghiệp của

toàn dân tộc. Đề tài lớn như đề tài Tổ Quốc, đấu tranh vì nền độc lập dân tộc,

xây dựng chủ nghĩa xã hội được khai thác tập trung, triệt để. Hình tượng con

người trung tâm trong các sáng tác văn học thời kì này là hình ảnh người lính và

con người lao động mới. Những vấn đề của đô thị và hình ảnh nhân vật thị dân

trở nên nhạt đi. Thậm chí lối sống đô thị trở nên lạc lõng không phù hợp với đời

sống chung của nhân dân lao động bấy giờ. Nhân vật Hoàng trong Đôi mắt của

Nam Cao, một trí thức tiểu tư sản, về nông thôn tản cư vẫn giữ những tư tưởng,

nếp sống của người thành thị. Anh trở nên xa lạ, lạc lõng với nhân dân, với

không khí chung của thời đại. Nói tóm lại văn học đô thị thời kì này không phát

triển, không nhiều tác giả, tác phẩm để lại dấu ấn trong lòng độc giả.

Từ sau năm 1975, đất nước hòa bình, Bắc- Nam thống nhất một nhà, cảm

hứng sử thi dần nhường chỗ cho cảm hứng thế sự, đời tư. Văn học đô thị cũng

bắt đầu có nhiều khởi sắc. Đáng chú ý nhất phải kể đến Mùa lá rụng trong

vườn của Ma Văn Kháng. Tác phẩm thể hiện sự quan sát và cảm nhận tinh tế

của nhà văn về những biến động, những đổi thay trong tư tưởng, tâm lí con

Người Việt Nam khi đất nước bước sang thời kinh tế thị trường. Với Mùa lá

rụng trong vườn, Ma Văn Kháng đã cảnh báo về những bi kịch về gia đình và

xã hội trước nguy cơ sụp đổ của những giá trị đạo đức truyền thống trong sự tác

động trái chiều của nền kinh tế hàng hóa. Từ đó nhà văn đặt ra vấn đề mỗi gia

đình cũng cần phải thay đổi để phù hợp với xã hội để có thể dễ dàng hòa nhập

và thích nghi hơn với cuộc sống mới, môi trường mới; con người cần có bản lĩnh

trước những biến động của đời sống xã hội.

Như vậy, có thể nói cùng với những biến động của lịch sử dân tộc, văn học

đô thị Việt Nam trước năm 1986 cũng có nhiều thăng trầm. Có những giai đoạn,

do bối cảnh lịch sử chi phối nên văn học đô thị tạm thời lắng xuống, nhưng nhìn

19

vào bức tranh văn học đô thị nói chung, chúng ta nhận thấy vẫn có nhiều điểm

sáng, nhiều nhà văn đã thực sự thăng hoa với nhiều tác phẩm xuất sắc.

1.2.3. Văn học đô thị Việt Nam sau 1986

Từ năm 1986 trở đi, đất nước bước vào công cuộc đổi mới, xây dựng nền

kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo đó, văn học Việt Nam

cũng có bước chuyển mình mạnh mẽ để đáp ứng nhu cầu thị hiếu của con người

thời đại mới. Đề tài đô thị cũng trở thành mảnh đất màu mỡ thu hút được nhiều

nhà văn tên tuổi như: Nguyễn Việt hà, Đỗ Phấn, Nguyễn Khải, Hồ Anh Thái,

Nguyễn Huy Thiệp…Bức tranh đô thị muôn màu, sống động hiện lên các trang

văn. Ở đó đô thị vừa là biểu hiện cho cái văn minh, phồn hoa, đô hội, phát triển,

nhưng đi kèm với đó là những tệ nạn, cám dỗ có nguy cơ đe dọa và làm tha hóa

nhân cách con người. Nhà nghiên cứu Đỗ Hải Ninh đã từng nhận xét về sự phát

triển mạnh của văn học đô thị hiện nay như sau: "Trong văn học đương đại đã

có những tác giả thành công khi viết về đô thị, thể hiện được nét đặc sắc cuộc

sống và con người đô thị như Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Việt Hà, Đỗ Phấn,

Nguyễn Danh Lam, Trần Nhã Thụy… Sáng tác của họ đã chạm đến nơi sâu

khuất của con người và đời sống đô thị: nỗi cô đơn, sự trống rỗng, cuộc sống

đơn điệu, thiếu vắng. Văn học viết về đô thị đương đại đã rất thành công khi

kiến tạo nên kiểu nhân vật trí thức, nhưng tôi vẫn mong các nhà văn viết về đô

thị hãy nhìn xuống “dưới đáy” để có nhiều tác phẩm thể hiện được đời sống đô

thị đa diện, đa chiều hơn nữa”.

Là một cây bút kì cựu, sau đổi mới Nguyễn Khải cũng nhanh chóng bắt kịp

hơi thở nóng hổi của cuộc sống mới với nhiều sáng tác viết về đề tài đô thị. Với

tập truyện ngắn Hà Nội trong mắt tôi, Nguyễn Khải đã gửi trọn niềm tin yêu,

trân trọng và kính phục với những con người Hà Nội. Trước bão táp của nền

kinh tế thị trường, trải qua bao thăng trầm, biến động, những con người Hà Nội

như cô Hiền, bà Bơ… vẫn luôn giữ được “nếp nhà”, vẻ đẹp cốt cách, thanh lịch,

20

tự trọng của con người đất kinh kì. Đó là “những hạt bụi vàng” mãi lấp lánh và

tỏa sáng giữa những xô bồ, bụi bặm của cuộc sống đô thị đương đại. Hình ảnh

cây si già cổ thụ ở đền Ngọc Sơn bị bão đánh bật rễ rồi hồi sinh chính là biểu

tượng của niềm tin vào những giá trị vàng son của Hà Nội sẽ mãi trường tồn

(Một người Hà Nội).

Nói đến đề tài đô thị không thể không nhắc đến Nguyễn Việt Hà. Sinh ra và

lớn lên ở Hà Nội, gắn bó máu thịt với Hà Nội, hơn ai hết nhà văn thấm thía một

cách sâu sắc những mất mát, đổi thay của mảnh đất này. Hà Nội trở thành không

gian quen thuộc trong nhiều sáng tác của Việt Hà như: Cơ hội của Chúa, Khải

huyền muộn, Ba ngôi của người… Tình yêu sâu nặng với mảnh đất bao năm

gắn bó cùng những trải nghiệm thực tế, vốn hiểu biết tường tận về con người,

phố phường Hà Nội đã giúp cho Nguyễn Việt Hà có những trang văn xúc động,

gợi ra cái hồn cốt của mảnh đất của đất kinh kì. “Tác giả đã dựng lên bức tranh

thực về Hà Nội hôm nay – nơi quần cư của nhiều con người đến từ mọi miền,

hòa hợp với những giá trị tự thân của Hà Nội, tạo nên nét tinh tế, tao nhã của

văn hóa Thăng Long” [51]. Nhưng nhà văn cũng tỉnh táo để nhận ra rằng bên

cạnh một Hà Nội cổ kính, trầm mặc, thanh lịch, vẫn có một Hà Nội xấu xí, xô

bồ, ồn ào, bụi bặm, nhếch nhác, con người dần trở nên chao chát, cộc cằn, thô

lỗ, toan tính, vụ lợi. Nhà văn lên tiếng báo động về những hư hao, nhạt dần,

nhòa dần của những giá trị văn hóa, những thuần phong mĩ tục bao đời của

mảnh đất nghìn năm văn hiến.

Ngoài ra còn phải kế đến nhiều tác giả với nhiều tác phẩm viết về đô thị

khác như: Hồ Anh Thái với tập truyện ngắn Tự sự 265 ngày, Bảo Ninh

với Khắc dấu mạn thuyền hay Hà Nội lúc không giờ, Phong Điệp (Lạc chốn

thị thành, Nhật kí nhân viên văn phòng), Dương Thụy (Con gái Sài Gòn), Đỗ

Bích Thúy (Cửa hiệu giặt là), Nguyễn Xuân Thủy (Nhắm mắt nhìn trời)...

21

Tóm lại có thể nói, từ sau 1986, văn học đô thị đã có những bước đi mạnh

mẽ, khẳng định được đây là dòng văn học chủ lưu của nền văn học Việt Nam

đương đại. Chính nó góp phần tạo nên diện mạo mới cho nền văn học nước nhà.

Đồng thời cũng báo hiệu một tương lai tươi sáng cho dòng văn học này ở nước

ta.

1.3. Khái quát về truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ

1.3.1. Giới thuyết về truyện ngắn

Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Truyện ngắn là hình thức tự sự loại

nhỏ; truyện ngắn khác với truyện vừa ở dung lượng nhỏ hơn, tập trung mô tả

một mảnh của cuộc sống: một biến cố hay một vài biến cố xảy ra trong một giai

đoạn nào đó của đời sống nhân vật, thể hiện một khía cạnh nào đó của vấn đề

xã hội” [37, tr 137]. Còn trong 150 thuật ngữ văn học thì truyện ngắn được xác

định là “thể tài tác phẩm tự sự cỡ nhỏ, thường được viết bằng văn xuôi, đề cập

đến hầu hết các phương diện đời sống con người và xã hội. Nét nổi bật của

truyện ngắn là sự giới hạn về dung lượng; tác phẩm truyện ngắn thích hợp với

người tiếp nhận (độc giả) đọc nó liền mạch không nghĩ” [2, tr 359].

Như vậy đã có nhiều định nghĩa khác nhau về thuật ngữ văn học này. Các

định nghĩa bổ sung cho nhau làm nổi bật rõ những đặc trưng cơ bản nhất của

truyện ngắn. Nội dung của nó có thể phong phú: đời tư, thế sự hay sử thi…

Nhưng cái độc đáo nhất của thể loại này chính là ngắn. Truyện ngắn thường ít

nhân vật, ít sự kiện phức tạp, nó hướng tới một vài mảnh nhỏ của cuộc sống, có

thể kể về cuộc đời hay chỉ một đoạn đời, một chốc lát của nhân vật, nhưng trong

phạm vi hạn hẹp vẫn có thể đặt ra những vấn đề lớn lao thể hiện tư tưởng nhân

sinh sâu sắc. Vì vậy, nó được ví như “một kì quan bé nhỏ nhưng có sức chấn

động phi thường”.

Truyện ngắn là một hình thức ngắn của tự sự. Trong các tác phẩm tự sự

không thể không nhắc đến cốt truyện. Cốt truyện trong truyện ngắn cũng là đặc

22

điểm đáng lưu ý. Tùy vào tài năng và dụng ý nghệ thuật của mỗi nhà văn mà có

thể xây dựng những kiểu cốt truyện khác nhau cho tác phẩm truyện ngắn của

mình. Cốt truyện có thể li kì, hấp dẫn, giàu kịch tính, nhưng cũng có thể đơn

giản “truyện không có cốt truyện”…nhưng chức năng của nó là để nhận ra một

điều gì đó. Có nghĩa là, thông qua cốt truyện nhà văn gửi gắm ý đồ nghệ thuật

của mình cũng như nội dung tư tưởng của tác phẩm.

“Kết cấu của truyện ngắn thường là một sự liên tưởng, tương phản. Bút

pháp trần thuật thường là chấm phá”[27, tr398]. Một trong những yếu tố quan

trọng trong truyện ngắn chính là những chi tiết nghệ thuật mang ý nghĩa hàm

ẩn, tạo cho tác phẩm những chiều sâu chưa nói hết. Mỗi truyện ngắn đều gây

một ấn tượng sâu đậm về cuộc đời và tình người đều: “Đánh thức và cuốn hút

cả năm giác quan của người đọc” (D. Boulanger). Ngoài ra giọng điệu, cái nhìn

cũng hết sức quan trọng góp phần làm nên sự lôi cuốn của tác phẩm.

Truyện ngắn là thể loại dân chủ, gần gũi với cuộc sống hằng ngày, lại súc

tích dễ đọc, dễ bắt kịp hơi thở thời đại, có khả năng là tiếng nói nhanh nhạy

nhất, phản ánh thời sự các vấn đề nóng hổi của thời đại, con người một cách

chính xác. Đây cũng là thể loại văn học năng động, bén nhạy, luôn có xu hướng

cách tân, đổi mới linh hoạt. Với những đặc điểm đó, truyện ngắn được coi là thể

loại xung kích trong đời sống văn học, chiếm được tình cảm của bạn đọc ở nhiều

thời kì khác nhau.

1.3.2. Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Thị Thu Huệ

1.3.2.1 Cuộc đời

Nguyễn Thị Thu Huệ sinh ngày 12 tháng 8 năm 1966, quê ở Bến Tre. Ngay

từ khi còn nhỏ Thu Huệ sớm đã bộc lộ năng khiếu văn chương. Thu Huệ từng

tâm sự: “Mình không nghĩ sau này sẽ trở thành nhà văn, thế hệ bọn mình lúc

đấy hồn nhiên lắm, không bao giờ có ước mơ phải trở thành một người nổi

tiếng, giàu sang gì đâu”. Nhưng niềm say mê và tài năng đã đưa chị đến với văn

23

chương. Khi vừa tốt nghiệp Khoa Văn Đại học Tổng hợp, chị đăng hai truyện

ngắn Mưa trái mùa và Mùa hoa sấu rụng trên Báo Văn Nghệ khiến văn đàn

xôn xao một thời.

Con đường văn chương của chị tạm lắng xuống khi Thu Huệ lập gia đình

và dành toàn bộ thời gian cho gia đình. Sau đó chị quyết định vào làm biên tập

viên sân khấu tại Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật. Mang sẵn trong mình ngọn lửa

đam mê văn chương, chị tiếp tục sáng tác. Chị tiếp tục gửi năm truyện ngắn Hậu

thiên đường, Biển ấm, Bảy ngày trong đời, Tình yêu ơi, ở đâu?, Minu xinh

đẹp đi dự thi Tạp chí Văn nghệ Quân đội và đều được đánh giá cao. Rồi chị

chuyển sang làm tại hãng Phim Truyền hình Việt Nam. Liên tiếp các truyện

ngắn của chị được chuyển thể thành phim và gây được tiếng vang lớn. Đầu tiên

là Của để dành, sau đó là Nước mắt đàn ông cũng đến với khán giả và đoạt huy

chương vàng liên hoan phim Truyền hình. Sau sáu tháng làm việc ở đây, chị

được đề bạt làm trưởng phòng phim, trưởng xưởng II của hãng Phim Truyền

hình. Bằng tài năng của mình, chị đã vươn lên đứng ở vị trí Giám đốc của VTC9

Let’s Việt (2008), một kênh chuyên về phim Truyền hình Việt Nam.

Nguyễn Thị Thu Huệ mặc dù rất bận rộn với công việc quản lý nhưng

không vì thế niềm đam mê văn chương, nhu cầu được viết của chị giảm bớt. Chị

vẫn miệt mài viết, miệt mài sáng tạo vì văn chương đã trở thành người bạn tinh

thần của chị: “Văn chương luôn làm ấm lòng tôi, viết và đọc là điều không thể

thiếu trong cuộc sống”,“Văn chương đối với tôi là người bạn chung thủy có thể

chia sẻ với mình nhiều điều”.

1.3.2.2. Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ trong dòng chảy truyện

ngắn nữ đương đại

Văn học đương đại Việt Nam sau thời kì đổi mới đã bước đầu gặt hái được

nhiều thành công đáng kể. Đặc biệt thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết được coi

như đã có một mùa vàng bội thu. Cũng chưa bao giờ trong tiền lệ văn hoặc Việt

24

Nam người ta lại thấy có nhiều tài năng nữ nở rộ đến như thế. Bên cạnh những

nhà văn nữ đã thành danh trong chiến tranh như: Lê Minh Khuê, Lê Minh,

Nguyễn Thị Ngọc Tú… trên văn đàn xuất hiện rất nhiều cây bút trẻ có sức sáng

tạo dồi dào như:

Võ Thị Hảo, Lý Lan, Phạm Thị Hoài, Y Ban, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị

Châu Giang, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy… Tác giả Bùi Việt Thắng đã có

những nhận xét xác đáng: “Đã hình thành một tỉ lệ giữa phái yếu và đấng mày

râu là 2/3 – một tỉ lệ đáng gờm bởi nhìn vào đó sẽ thấy truyện ngắn trẻ hôm nay

và văn chương nói chung mang gương mặt nữ”. Các cây bút nữ thời kì này có

cái nhìn gần hơn, thực hơn về cuộc sống cũng như con người. Các tác giả cũng

sẵn sàng mở rộng vùng đề tài, khai thác tới những vấn đề gai góc, những góc

khuất, những mảng tối trong sâu thẳm tâm hồn con người cũng như đời sống xã

hội. Mỗi tác giả giống như một dây đàn mang một “âm điệu riêng”, góp phần

làm nên “giai điệu chung”, “diện mạo chung” cho nền văn học Việt Nam đương

đại. Người ta thấy xuất hiện một Y Ban dịu dàng, ngọt ngào mà không kém phần

sâu sắc, một Phan Thị Vàng Anh trí tuệ, sắc sảo, một Nguyễn Ngọc Tư sâu lắng,

trữ tình, một Phạm Thị hoài thông minh, thâm thúy… Tất cả góp phần tạo nên

bức tranh đa sắc màu cho nền văn học nữ Việt Nam đương đại.

Giữa khu vườn văn học đang nở rộ nhiều tài năng ấy, Thu Huệ xuất hiện

vẫn ngát hương, tỏa sắc với một phong cách riêng không trộn lẫn. Các sáng tác

của chị chủ yếu xoay quanh một số đề tài chính như đề tài tình yêu, đề tài hôn

nhân, hạnh phúc gia đình và đề tài đô thị. Dù ở đề tài nào, Thu Huệ cũng tỏ ra là

một cây bút sắc sảo, có khả năng nắm bắt những vấn đề nóng hổi, nhức nhối của

đời sống xã hội với một lối viết độc đáo, mới lạ. Người ta thấy một Thu Huệ

vừa dịu dàng đằm thắm, sâu sắc nữ tính, vừa có nét mạnh mẽ, sắc sảo, có phần

táo bạo của một người phụ nữ bản lĩnh, giàu trải nghiệm. Những tác phẩm của

chị ngay khi mới ra đời đã tạo nên sức hút đặc biệt với bạn đọc bởi chất đời của

nó. Những câu chuyện dung dị, đời thường nhưng lại đem đến cho bạn đọc bao

25

bài học, bao triết lí nhân sinh sâu sắc, đặt ra bao vấn đề nhức nhối của đời sống

xã hội đương thời. Những yếu tố ấy đã làm nên gái trị, sức hấp dẫn riêng trong

sáng tác của Thu Huệ.

Thu Huệ đã khẳng định được vị trí, tên tuổi của mình bằng rất nhiều giải

thưởng. Đó là giải nhì cuộc thi truyện ngắn của Hội văn học Nghệ thuật Hà Nội

1986 (Một khoảng đời chờ đợi); giải nhì cuộc thi truyện ngắn Tác phẩm tuổi

xanh báo Tiền Phong 1993 (Những đêm thắp sáng); giải nhất cuộc thi truyện

ngắn NXB Hà Nội 1994; giải nhất cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ

Quân đội tổ chức cho chùm tác phẩm gồm 5 truyện ngắn (Hậu thiên đường,

Biển ấm, Minu xinh đẹp, Bảy ngày trong đời, Tình yêu ơi, ở đâu?); nhận

thưởng của Hội Nhà văn cho tập truyện Hậu thiên đường. Năm 2012, Thu Huệ

được nhận giải thưởng của Hội Nhà văn dành cho tập truyện ngắn Thành phố đi

vắng. Có thể nói Nguyễn Thị Thu Huệ trở thành một trong những cây bút nữ

xuất sắc nhất của văn học Việt Nam đương đại.

Cho đến nay, với ngòi bút giàu nội lực, khả năng sáng tạo dồi dào chị đã có

trong tay nhiều tập truyện như:

- Cát đợi (1992)

- Hậu thiên đường (1993)

- Phù thủy (1995)

- 21 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ (2001)

- Nào, ta cùng lãng quên (2003)

- 37 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ (2006)

- Thành phố đi vắng (2012).

Thu Huệ trở thành gương mặt nữ sáng giá của nền văn học Việt Nam

đương đại. Tác phẩm của chị đã thực sự chạm đến trái tim đông đảo bạn đọc và

để lại trong lòng người nhiều dư vị khó quên.

26

Tiểu kết

Trong chương 1, luận văn đã giới thiệu các khái niệm cơ bản về đô thị, đô

thị hóa cũng như khái lược quá trình đô thị hóa ở nước ta, chỉ ra những tác động

của đô thi hóa tới đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa Việt Nam. Đồng thời, chúng

tôi cũng giới thiệu văn học đô thị và lịch sử phát triển của dòng văn học này ở

nước ta. Tuy nhiên trong phạm vi có hạn, luận văn chỉ khái lược ngắn gọn văn

học đô thị kể từ trước năm 1945 tới sau thời kì đổi mới 1986, để từ đó thấy được

sự vận động phát triển của dòng văn học này trong dòng chảy văn học Việt Nam

nói chung. Chương 1 giới thiệu sơ lược về cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn

Nguyễn Thị Thu Huệ theo đó thấy được vị trí truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ

trong văn học nữ Việt Nam đương đại.

27

Chương 2.

BỨC TRANH ĐỜI SỐNG VÀ CON NGƯỜI ĐÔ THỊ TRONG TRUYỆN

NGẮN NGUYỄN THỊ THU HUỆ

2.1. Bức tranh đời sống đô thị

Không thể phủ nhận rằng nền kinh tế thị trường giúp cho đời sống vật chất

của con người được cải thiện, nâng cao rõ rệt. Nhưng bên cạnh đó, chúng ta

cũng đau đớn nhận ra rằng những tệ nạn, những mặt trái, những sự đổ vỡ… vẫn

đang hiện hữu trong từng gia đình, trở thành những vấn đề nhức nhối của toàn

xã hội. Với cái nhìn sắc lạnh, Nguyễn Thị Thu Huệ đã không ngần ngại hướng

ngòi bút của mình vào những câu chuyện đời thường để đem đến cho bạn đọc

cái nhìn chân thực về cuộc sống của con người đô thị hôm nay.

2.1.1. Đời sống gia đình với những quan hệ đạo đức truyền thống bị phá

vỡ

Trong xã hội Việt Nam xưa, các mối quan hệ trong gia đình rất được coi

trọng. Bởi gia đình chính là tế bào của xã hội. Truyền thống của người Việt Nam

xưa là con cái vâng lời, hiếu kính với ông bà cha mẹ tổ tiên: “Công cha nghĩa

mẹ ơn thầy” hay “Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước trong nguồn

chảy ra”; vợ chồng thì hòa thuận, thủy chung gắn bó: “Tay nâng chén muối đĩa

gừng/ Gừng cay muối mặn ta đừng quên nhau”,“Muối ba năm muối đang còn

mặn/ Gừng chín tháng gừng vẫn còn cay”; anh em máu mủ ruột già, nghĩa nặng

tình thâm, gắn bó như chân với tay... Truyền thống đạo lí tốt đẹp ấy của người

Việt Nam cần được nâng niu trân trọng giữ gìn. Nhưng trong cuộc sống đô thị

hôm nay, dưới tác động của nền kinh tế thị trường giá trị tốt đẹp đó ít nhiều bị

xói mòn, băng hoại. Với cái nhìn chân thực Nguyễn Thị Thu Huệ đã phơi bày tất

cả hiện thực cay đắng đó trên trang viết của mình.

Đọc truyện ngắn của Thu Huệ, chúng ta vẫn nhận thấy những tình cảm gia

đình ấm ấp vẫn luôn hiện hữu trở thành ngọn lửa nuôi dưỡng hạnh phúc nhiều

28

gia đình. Hình ảnh của người bà bao dung, nhận hậu, vị tha trở đi trở lại trong

nhiều truyện ngắn của chị. Bà trở thành điểm tựa tinh thần, là bến đỗ bình yên

cho cháu, giúp cháu vựợt qua những bi kịch, những bão giông và cả những sai

lầm vấp ngã trong cuộc đời (Người đi tìm giấc mơ, Một trăm linh tám cây bằng

lăn). Sự ân cần chu đáo, yêu thương vợ con hết lòng của người chồng trong Một

nửa cuộc đời. cũng đã giúp anh níu giữ người vợ trở về sau những phút giây

lầm lỡ. Đó còn là sự hi sinh âm thầm của người chị để đứa em trai được học

hành thành tài, nên người (Chị tôi), hay tình yêu thương của những người cha,

người mẹ cả một đời tần tảo lo cho con cái, mong cho con cái có một cuộc sống

đủ đầy hạnh phúc (Của để dành, Nước mắt đàn ông), và cả sự nhẫn nhịn đầy

bao dung của những người vợ, người mẹ dịu dàng thủy chung (Ám ảnh, Một

trăm linh tám cây bằng lăng)… Những tình cảm gia đình quý báu ấy là truyền

thống tốt đẹp trong các gia đình người Việt. Nó trở thành dòng suối mát nuôi

dưỡng tâm hồn con người, xua tan những bụi bặm, nhọc nhằn của cuộc sống để

con người cảm thấy được yêu thương, được bình an và hạnh phúc.

Nhưng nhìn sâu hơn vào bức tranh gia đình đô thị trong nhiều truyện ngắn

của Thu Huệ, chúng tôi nhận thấy, tác giả nói nhiều hơn về sự mất mát, sự đi

xuống của những tình cảm đạo đức truyền thống. Đó là sự đổ vỡ của hôn nhân,

gia đình, sự bất hòa của tình cảm vợ chồng. Gia đình đổ vỡ, vợ chồng không

hạnh phúc xuất phát từ rất nhiều nguyên nhân. Khi vợ chồng không tìm được

tiếng nói chung, sự yêu thương, chia sẻ đồng cảm dành cho nhau ngày càng vơi

cạn, cũng là lúc hôn nhân gia đình đứng trên bờ vực của sự tan vỡ. Không còn

nữa hình ảnh những cặp vợ chồng đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi, Thuận

vợ thuận chồng tát bể đông cũng cạn, mà là những trận cãi vã, những câu nói

tục tĩu, những lời lẽ cay độc xúc xiểm nhau như những người dưng nước lã:

- Không gặp mẹ trẻ à? Mẹ hỏi vóng sang

Im lặng.

29

- Hết tiền bao nên nó đi với thằng khác rồi. Sướng nhỉ?

Mẹ lại tiếp tục véo von sang bên bố.

- Câm mồm. Rõ dơ vất con cái ở nhà tớn lên đi với giai. Gái phải hơi giai

như thài lài gặp cứt chó.

- Thế đấy. Bà đây không đi thì ở nhà nhìn chúng mày đú a?” (Phù Thủy)

Đó là cuộc đối thoại của hai vợ chồng trong Phù Thủy. Họ xúc phạm nhau,

nguyền rủa nhau, coi nhau không khác kẻ thù, thản nhiên sống theo kiểu “ông ăn

chả bà ăn nem”. Những gia đình như thế, đâu đó vẫn hiện hữu quanh ta, giữa

chốn phồn hoa đô thị. Sau vẻ ngoài hào nhoáng, vẹn nguyên, hạnh phúc là sự

rách nát, đổ vỡ của biết bao tình cảm gia đình thiêng liêng quý giá.

Đặc biệt có một nguyên nhân gây ra những đổ vỡ của hạnh phúc gia đình

mà Thu Huệ đề cập đến trong nhiều truyện ngắn của mình, đó là ngoại tình.

Ngoại tình trở thành vấn nạn của xã hội. Những cuộc tình tay đôi, tay ba, những

cuộc tình lén lút, vụng trộm… tất cả đều dẫn đến những đau đớn bi kịch và nguy

cơ tan rã của gia đình. Vấn đề này được Thu Huệ đề cập tới trong nhiều truyện

ngắn như: Thiếu phụ chưa chồng, Tân Cảng, Của Cha, của Con và những

cành vạn niên thanh… Trong Thiếu phụ chưa chồng, Dương là một người đàn

ông có học thức, anh cũng đã có một gia đình hạnh phúc, một người vợ hiền dịu

- Hảo cùng một cậu con trai ngoan ngoãn. Nhưng bất chấp luân lí, đạo đức,

Dương đã ngoại tình với chính em vợ của mình – My. Trơ tráo, ích kỉ, tàn nhẫn

hơn khi Dương và My công khai quan hệ về chung sống với nhau đẩy Hảo rơi

vào bi kịch đau đớn tủi hờn. Kết thúc tác phẩm Hảo chết, con trai Dương có dấu

hiệu tâm thần, My sinh ra một đứa con gái dị tật, Dương đem hai đứa con bỏ đi.

Đó là cái kết đầy cay đắng và nước mắt, cũng là lời cảnh tỉnh con người đừng vì

những phút giây lạc thú thỏa mã dục vọng cá nhân tầm thường mà đánh mất đi

bao điều quý giá. Còn trong Của Cha, của Con những cành vạn niên thanh

cũng vì lầm lỡ đi tìm thú vui bên ngoài mà Cha đánh mất đi sự nghiệp và gia

30

đình hạnh phúc của mình. Người Cha đã ngoại tình khi đang ở đỉnh cao của sự

nghiệp: “Cha đã phản bội mẹ. Cha quan hệ với một người đàn bà khác. Đúng

khi mẹ thành đạt nhất, Cha chuẩn bị được thăng chức thì người đàn bà kia

mang tài liệu của Cha và cô ta, cùng cái bụng bầu đến gặp Mẹ, đòi một số tiền

lớn, để cô ấy không tung tóe mọi chuyện”. Cái giá mà Cha phải trả cũng thật đớn

đau: sự nghiệp tan biến, gia đình tan nát, vợ bỏ đi, Cha phải bán nhà và đưa con

đến một ngôi nhà mới ven sông. Chìm đắm trong nỗi đau quá khứ, Cha đã vô

tình để đứa con gái của mình trở thành miếng mồi ngon của lão hàng xóm. Bi

kịch nối tiếp bi kịch, nỗi đau chất chồng nỗi đau.

Như vậy ngoại tình đã trở thành vấn đề nhức nhối và khá phổ biến trong

cuộc sống đô thị hiện đại. Có những câu chuyện ngoại tình xuất phát từ tình yêu,

từ cuộc sống hôn nhân gia đình ngột ngạt, thiếu hạnh phúc như Nước mắt đàn

ông, Một nửa cuộc đời… Nhưng chủ yếu Thu Huệ nói tới những tiêu cực, mặt

trái của vấn nạn này. Khi ý thức cá nhân trỗi dậy, con người chạy theo những

cảm xúc nhất thời, những ham muốn dục vọng bản năng đã đánh mất những giá

trị đạo đức tốt đẹp, đẩy chính mình và gia đình vào bi kịch đau đớn.

Nạn nhân đau khổ nhất của những cuộc chia li, của những gia đình không

hạnh phúc không ai khác chính là những đứa trẻ vô tội. Tình cảm vợ chồng rạn

nứt, sự đổ vỡ hôn nhân đã đẩy những đứa trẻ vào bi kịch cùng quẫn, gây ra

những mất mát, tổn thương tâm hồn không thể bù đắp. Đến với Phù thủy chúng

ta bắt gặp sự rách nát đổ vỡ trong gia đình “nó”. “Nó” sống trong gia đình có cả

cha với mẹ. Nhưng thứ mà nó nhận lại không phải là tình yêu thương mà là

những trận cãi vã, chửi rủa của cha và mẹ. Điều “nó” ngạc nhiên và không thể

hiểu được là tại sao bố mẹ nó ban ngày có thể chì chiết, văng tục, chửi bậy, mạt

sát nhau như kẻ thù ấy vậy mà đêm xuống mẹ lại nằm ngủ trong lòng bố êm ái

như thế! Nỗi đau trở nên ám ảnh và vỡ òa khi “nó” biết cả bố và mẹ không ai

quan tâm đến nó, coi nó là gánh nặng cản trở ba mẹ đi tìm hạnh phúc mới. Ý

thức được điều đó, nó không còn là đứa trẻ vô tư mà tâm hồn trở nên đau khổ

31

hờn căm, u uất. Còn trong Tân Cảng hình ảnh hai đứa trẻ trong thời khắc chia

tay thực sự đã khiên trái tim bạn đọc nhói buốt: “Thằng anh mở to mắt nhìn

xuống, một tay nắm chặt thằng siêu nhân trắng. Bên dưới. Phía xa. Chỉ thấy

nắng chiếu vào ô cửa kính laong loáng như những tấm gương trời. Người đi tiễn

bé xíu với những cái đầu đen như hạt đỗ. Nó lùi người lại. Chùi nước mắt. Đi ra

đứng giữa hai hàng ghế, và nhìn mẹ. Mẹ nó đang cúi gục xuống khóc.Chiếc máy

bay lạnh lùng chạy một vòng ra xa và dừng lại. Rú to lên. Rồi nhấc hẳn lên khỏi

mặt đất. Đằng sau những tấm kính. Thằng em vẫn đứng với chiếc máy bay trên

tay, lấy ngón trỏ chỉ vào những chấm trắng bé xíu và đếm "Một. Hai. Ba. Bốn...

Năm”. Niềm khao khát mãnh liệt của những đứa trẻ là có một gia đình vẹn

nguyên, đủ đầy tình yêu thương của cả cha lẫn mẹ. Cũng không có nỗi đau nào

hơn nỗi đau sự li biệt, gia đình tan đàn xẻ nghé, mỗi người một chân trời riêng.

Đó là nỗi đau mà không có thứ của cải vật chất nào có thể bù đắp. Những đứa

trẻ như thế liệu rằng sẽ có một cuộc sống hạnh phúc khi phải chịu quá nhiều mất

mát, tổn thương. Đó sẽ là nỗi ám ảnh theo chúng suốt cuộc đời. Từ đó nhà văn

cũng lên án, phê phán một cách nghiêm khắc đối những bậc làm cha làm mẹ, chỉ

vì hạnh phúc của cá nhân mình mà đẩy những đứa trẻ vô tội đến bi kịch đau

đớn.

Gia đình chính là cái nôi nuôi dưỡng thế giới tâm hồn, là môi trường giáo

dục quyết định đến nhân cách của con người. Vì vậy, lối sống của cha mẹ là tấm

gương ảnh hưởng lớn đến sự hình thành nhân cách cho con cái. Trong Hậu

Thiên đường cũng chỉ vì sự thờ ơ, thiếu trách nhiệm của mẹ mà vô tình đã đẩy

cô con gái đi vào vết xe đổ của chính mình. Một trăm linh tám cây bằng lăng

cũng là câu chuyện đầy nhức nhối. Nỗi ám ảnh về một người cha vũ phu đã ăn

sâu trong tiềm thức của “anh”. Khi cha “anh” đánh mẹ, ông không biết rằng

mình đang gieo rắc hận thù và đẩy con mình vào vòng lao lí. Hành động nóng

nẩy, thiếu kiểm soát của “anh” khi giết người đàn ông vũ phu đánh vợ chính là

kết quả của nỗi đau ám ảnh trong quá khứ về hình ảnh người cha luôn đánh vợ,

32

chửi con. Còn truyện ngắn Ám ảnh cũng là một bức tranh gia đình xám xịt của

cuộc sống đô thị. Ông bố Thạnh là một người đàn ông gia trưởng, ích kỉ, vũ phu

và dâm đãng. Dù có một gia đình viên mãn, một người vợ hiền thục cùng ba đứa

con đã lớn nhưng ông ta vẫn tìm thú vui bên ngoài với những người đàn bà

khác. Ông ta đối xử với vợ con lạnh lùng, độc đoán và tàn nhẫn. Là một đứa trẻ

mới lớn, hàng ngày chứng kiến cảnh cha mình đi chơi gái, Thạnh thấy ghê tởm

cha mình, căm ghét những người đàn bà đĩ thõa lẳng lơ chuyên phá hoại hạnh

phúc gia đình người khác. Sự ghê tởm, lòng hận thù trở thành nỗi ám ảnh khiến

Thạnh luôn nghĩ tới cái ác, tới việc giết người. Giấc mơ khủng khiếp của Thạnh

là cầm súng bắn chết người đàn bà nhân tình của bố cùng đưa con riêng của ả ta

để rồi mình bị tử hình như tiếng chuông cảnh tỉnh: hãy cứu lấy nhân cách trẻ

thơ. Khi cha mẹ chẳng thể là tấm gương cho con cái, khi cha mẹ bất chấp luân lí

và đạo đức chạy theo dục vọng tầm thường cũng là lúc họ đang ươm mầm nuôi

dưỡng những tội ác cho chính con cái của mình. Những đứa trẻ sẽ không có một

môi trường lành mạnh để phát triển nhân cách thì ắt cái ác được nuôi dưỡng. Đó

thực sự là lời cảnh báo cho mỗi gia đình và cả xã hội.

Không chỉ có đổ vỡ trong hôn nhân gia đình, nhiều tình cảm gia đình

thiêng liêng cũng dần bị băng hoại. Một trong những đạo lí được người Việt coi

trọng là đạo hiếu. Đã là con cái thì phải hiếu kính với bậc sinh thành. Thế nhưng

trong cuộc sống đô thị hiện đại hôm nay, đạo lí tốt đẹp ấy có nguy cơ đổ vỡ.

Ông Cậu trong Nước mắt đàn ông là một người đàn ông có tài, giỏi kiếm tiền

nhưng lại cô độc trong chính ngôi nhà dư thừa về vật chất mà lại vơi cạn tình

cảm, tình thân gia đình. Suốt đời ông lăn lội bôn ba để kiếm sống, để làm giàu.

Người đàn ông ấy từng phải nếm bao vị đắng ở đời, thậm chí là hy sinh tất cả

cho gia đình, vợ con. Nhưng thứ ông nhận lại lại là sự lạnh lùng thậm chí là vô

ơn của chính con cái mình. Con cái chỉ nói với ông chuyện tiền bạc chứ không

có nổi những phút giây ngắn ngủi tâm sự với cha mình. Đối với chúng, cha chỉ

như cái máy rút tiền không hơn không kém. Chúng coi đó là thứ đáng có được,

33

nhận nó như một lẽ tự nhiên. Tất nhiên chúng không biết đến khái niệm cho đi

và đền đáp lại. Khi chúng càng được nhận từ cha mẹ nhiều hơn thì sự vô ơn

càng lớn lên. Còn trong Của để dành, bà Vy suốt đời yêu thương, cung phụng,

chăm sóc các con. Chồng mất sớm, mình bà tần tảo nuôi dạy các con thành

người, ai cũng được học hành, có công việc tốt những mong ba đứa con sẽ là

chỗ dựa, niềm an ủi khi tuổi già “con cái là của để dành của cha mẹ”. Nhưng

đến khi bà ngã, không đi được thì cả ba con trở nên cáu bẳn, đùn đẩy trách

nhiệm. Cuộc sống gia đình đảo lộn. Ai cũng vin vào cái cớ mình quá bận mà

quên đi đạo hiếu với mẹ. Họ ích kỉ và nghĩ rằng chỉ cần bỏ tiền ra thuê ô sin về

chăm lo cho mẹ là xong. Họ rảnh rang rũ bỏ trách nhiệm báo hiếu của mình.

Những đứa con không hiểu rằng, những lúc ốm đau như thế, sự chăm sóc, yêu

thương của các con chính là niềm an ủi, là bài thuốc chữa lành những vết thương

đối với cha mẹ. Chính sự thờ ơ và thiếu trách nhiệm ấy làm cho người mẹ càng

thêm đau đớn, buồn tủi.

Gia đình vốn là chốn nương thân để con người tìm được sự bình yên, ấm

áp trước những bão giông của cuộc đời. Vậy mà giờ đây sự rạn nứt, đổ vỡ trong

các mối quan hệ gia đình làm cho con người cảm thấy bất an, cô đơn thậm chí

đau khổ và bi kịch ngay chính trong gia đình. Với những câu chuyện đời

thường, Thu Huệ đã đặt ra bao vấn đề nhức nhối đem lại cho người đọc nhiều

bài học nhân sinh sâu sắc. Bằng tấm lòng yêu thương, tác giả cũng đồng cảm, sẻ

chia với những đau đớn mất mát, những bi kịch đổ vỡ trong đời sống gia đình

của con người. Đồng thời nhà văn cũng rung lên hồi chuông cảnh tỉnh: mỗi

người tự phải biết điều chỉnh hành vi đạo đức, lối sống của mình để giữ gìn hạnh

phúc gia đình, trân quý những gì mình đang có. Đó cũng là tiếng nói đầy nhân

văn có ý nghĩa thức tỉnh sâu sắc với tất cả chúng ta hôm nay.

34

2.1.2. Đời sống xã hội phức tạp, xô bồ với nhiều tệ nạn tiêu cực

Như đã nói ở trên, nền kinh tế thị trường năng động giàu tính cạnh tranh

cùng sự phát triển mạnh mẽ của quá trình đô thị hóa đã tác động không nhỏ đến

đời sống của con người. Với cái nhìn đa chiều, sắc sảo, Nguyễn Thị Thu Huệ đã

phanh phui tất cả những mặt trái, những góc khuất của đời sống đô thị hiện đại.

Nhìn vào đời sống đô thị hiện đại, chúng ta không thể phủ nhận rằng, quá

trình đô thị hóa, nền kinh tế thị trường giàu tính cạnh tranh đã thúc đẩy nền kinh

tế phát triển. Đất nước đang thay da đổi thịt hằng ngày, chất lượng cuộc sống

của con người ngày càng được nâng cao, cải thiện rõ rệt. Những con phố, những

ngôi nhà xa hoa lộng lẫy mọc lên khắp nơi, xe cộ, đồ dùng tiện nghi, đầy đủ

hơn. Đô thị trở thành không gian sống phồn hoa, văn minh, hiện đại, trở thành

mảnh đất hứa hấp dẫn con người: “Đó là căn nhà rộng hai trăm năm mươi mét

vuông với năm phòng nằm trên con đường gần phi trường, bên cạnh vài chục

biệt thự của những thương gia giàu lên nhờ cơ chế thị trường…” (Tân Cảng).

Hay “Tôi đi sâu vào trong nhà. Lẩm nhẩm đếm thấy có 7 phòng. Sáu phòng lớn

quây tròn quanh một phòng khách. Mỗi phòng đều có một ban công nhìn ra một

khu vườn nhỏ, mỗi vườn trồng một loài hoa. Có cảm giác lên thiên đường cũng

chỉ êm ái dịu dàng đến thế này thôi” (Dĩ Vãng). Đô thị hóa trở thành cơ hội để

con người thực hiện khát vọng đổi đời, khát vọng làm giàu. Con người cũng có

cơ hội giao lưu văn hóa với bạn bè quốc tế, mở rộng vốn sống, hiểu biết (Một

trăm linh tám cây bằng lăng, sống gửi thác về…). Đây thực sự là những dấu

hiệu đáng mừng, là những tác động tích cực mà quá trình đô thị hóa đem lại.

Nhưng sau vẻ về ngoài hào nhoáng ấy, tiềm ẩn trong lòng xã hội đô thị có

biết bao mặt trái, bao hệ lụy tiêu cực. Như “một người thư kí trung thành của

thời đại”, Thu Huệ đã chụp lại tất cả những góc khuất, những mảng tối trong xã

hội đô thị hiện đại đương thời.

35

Trước hết đó là một xã hội phức tạp, xô bồ. Trong tác phẩm Trong lúc ăn

một bát phở gia truyền, không gian đô thị có thể nói được thu nhỏ “trong không

gian quán phở”. Ở đó có đủ các hạng người. Họ nói năng với nhau bằng những

lời lẽ thô tục, thiếu văn hóa: “Để bố mày tìm cái sổ ghi lần trước đã. Cân chúng

mày điêu bỏ mẹ, lần nào cũng hao”. Đó là lời của bà chủ quán phở nói với mấy

thanh niên cân ga. Niềm tin, tình yêu, sự tin tưởng lẫn nhau giờ trở thành món

hàng xa xỉ. Bởi lẽ khi con người ta sống mà chỉ luôn nghĩ đến lợi ích cá nhân thì

sự tráo trở, lọc lừa sẽ lên ngôi, ngự trị.

Tiềm ẩn trong lòng xã hội đô thị hôm nay là biết bao tệ nạn như rượu chè,

cờ bạ, nghiện hút, trộm cướp.... Những tệ nạn chết người ấy đang dần dần xâm

nhập, lan truyền với sức mạnh khủng khiếp và hủy diệt đời sống tốt đẹp của con

người, đặc biệt là những bạn trẻ thiếu bản lĩnh. Nó giống như một thứ a xít đang

dần ăn mòn những truyền thống đạo đức, những thuần phong mĩ tục tốt đẹp của

ông cha ta bao đời. Cái ác, cái xấu hiện hữu ở khắp nơi: “Hôm qua hai đứa

thanh niên đi vu vơ qua cửa hàng bán ga. Thấy không ai ngồi trông, một đứa

nhảy vào ôm bình ga rồi nhảy lên xe đứa kia chở đi. Thế là xã hội có hai thằng

cướp”,“Anh có thấy hiếm khi nào phụ nữ ra đường đeo dây chuyền, hoa tai và

túi như ngày xưa. Hở ra là bị giật ngay”,“Thì đói, chúng làm liều. Có của thì

phải giữu thôi” (Trong lúc ăn một bát phở gia truyền). Xã hội ấy khiến con

người lo lắng, bất an và sợ hãi bởi cái ác, cái xấu luôn ám ảnh rình rập: “Cô lạnh

người…Tự gồng mình che giấu từng cơn run đang chạy khắp người”, “chúng

mặc áo choàng dài gần đầu gối. Hai xe máy không biển số. Thằng nào khi vào

cũng đeo khẩu trang. Thôi đúng là cướp rồi. Cô có đọc trên báo, dạo này, cướp

hay đi xe không biển số, đội mũ bảo hiểm và đeo khẩu trang che mặt. Vũ khí của

chúng dùng là dao, kiếm hay súng tự chế. Những thứ chúng cướp là xe máy, túi

xách, điện thoại di động, máy tính xách tay, dây chuyền…”(Trong lúc ăn một

bát phở gia truyền). Còn trong Với tay là đến Dương một chàng thanh niên

vùng biển, luôn là niềm hy vọng , tự hào của gia đình. Nhưng lên thành thị học,

36

Dương chẳng những không mang lại niềm vui, vinh quang cho cha mẹ mà còn

sa đà vào các tệ nạn xã hội. Để rồi, trong một lần trở lại thăm quê, Dương

không dám đối mặt và nói ra sự thật với gia đình. Cậu đã dối cha mẹ mình là

được đi du học. Thương thay, cha mẹ anh vẫn luôn nuôi hy vọng, vẫn luôn hãnh

diện về cậu con trai tài hơn người. Họ đâu ngờ rằng Dương đang vật vã trong

trại cai nghiện. Nghiện ngập là một mối nguy hại chết người, nó đã cướp đi

tương lai của biết bao thanh niên, nó cũng nhấn chìm hạnh phúc của bao nhiêu

gia đình. Đó là nỗi đau nhức nhối của cả xã hội.

Mặt trái của xã hội còn được Thu Huệ phản ánh qua mảng tối của những

lầu xanh thời hiện đại. Thông qua thói quen của những cô gái làng chơi, Thu

Huệ lột trần lối sống bê tha, trụy lạc của không ít gã đàn ông bỉ ổi. Trong Xmen

có mùi trường đua, Thu Huệ viết: “Gái vùng biển nhiều, các anh dân cán bộ,

làm ăn, lâu lâu đi đổi gió, đừng gặp gái quen, nó làm lười mình thêm. Đi chơi

gái, nó có cái hồi hộp háo hức rất riêng, không như đi nhậu hay mát xa, loanh

quanh toàn món quen. Riêng món này, phải lạ mới bõ cái hao tâm khổ tứ nói

dối, tạo dựng hiện trường, tốn tiền bạc...”. Những anh cán bộ đạo mạo có học

thức nhưng lại có những hành vi, thói quen đi ngược lại với truyền thống đạo

đức của dân tộc. Đây là một tệ nạn đáng lên án bởi lẽ nó chính là nguyên nhân

gây đổ vỡ hạnh phúc gia đình, làm bào mòn những giá trị đạo đức tốt đẹp của

cha ông.

Đó còn là một xã hội coi trọng đồng tiền, mọi mối quan hệ đều dựa trên

lợi ích kinh tế. Vì thế người ta tham lam, ích kỉ, bất chấp mọi giá để làm giàu.

Khi mà đồng tiền lên ngôi cũng là lúc tình người dần cạn kiệt. Hơn thế, để chạy

theo vòng xoáy của tiền tài danh vọng, con người dễ dàng đánh mất đi nhân

cách của mình. Vì tiền người ta sẵn sàng tráo trở lọc lừa nhau (Nước mắt đàn

ông). Cũng vì tiền mà bảng giá trị đạo đức xã hội bị đảo lộn. Đó là câu chuyện

về thực trạng kinh doanh chó Nhật trong Mi nu xinh đẹp. Chú chó bây giờ

không chỉ là một chú chó mà là “hai cây vàng bốn con chín”. Vì thế người ta

37

nâng nui, chăm sóc, yêu thương chú chó hơn cả những người thân trong gia

đình. Cuộc sống gia đình cũng theo đó mà bị xáo trộn. Người vợ, người mẹ, một

cô giáo dạy Văn hiền dịu ngày nào bỗng trở thành người vợ cay nghiệt, mắng

con chửi chồng không biết ngượng. Còn anh chồng tốt bụng, giàu khát vọng

nhưng “lực bất tòng tâm”.

Một trong những mối đe dọa ngấm ngầm của xã hội đô thị hôm nay là sự

đánh tráo các gía trị thật giả. Phải đến hai phần ba những câu chuyện trong

Thành phố đi vắng là những câu chuyện đầy ẩn dụ về hai thứ thật và giả.

Những giá trị đạo đức tốt đẹp xưa đang dần bị tráo đổi. Không thể kết thúc nói

về một gia đình nhiều đời sưu tập đồ cổ. Những món đồ cổ ấy là biểu tượng của

dòng tộc, của những giá trị truyền thống lâu đời tồn tại qua mấy trăm năm.

Nhưng vì những cám dỗ vật chất, bà dâu trưởng đã bán đồ cổ mua đồ mới thay

vào. Ở đây, Thu Huệ muốn nói về những giá trị lớn lao đời xưa để lại cho

chúng ta, nay đã mất dần, hoặc được “làm mới” - bởi sự tráo đổi. Con người vì

chạy theo tiếng gọi của dục vọng, của tiền bạc đã thẳng tay lật nhào bàn thờ đạo

đức. Kết thúc tác phẩm người chồng thì tha hương, bà vợ thì ngồi viện dưỡng

lão - tâm trí bất thường giống như một lời cảnh tỉnh đối với những ai đã chà đạp

nên giá trị truyền thống tốt đẹp của người xưa. Lối sống giả tạo, đánh tráo những

giá trị đích thực thì cuối cùng dù sớm hay muộn con người sẽ phải trả giá.

Truyện ngắn Không thể kết thúc vì thế có ý nghĩa phê phán và thức tỉnh sâu sắc.

Ẩn đằng sau những câu chữ là tiếng thở dài nặng trĩu, là nỗi lòng hoang

mang, buồn bã, lo sợ của nhà văn về một xã hội đang biến đổi, về những mất

mát đổi thay, xáo trộn. Như Thu Huệ đã từng chia sẻ: “Tôi luôn bị ám ảnh về

những dòng chảy đang xoay chuyển những thế hệ người Việt theo hướng xấu đi,

đang đi xuống. Sự thanh cao, phẩm chất đáng quý của người Việt một là dần bé

lại, hai là bị đè nén trước sự trần trụi và thô tục, sự suy cấp đạo đức, bế tắc

không lối thoát trong khi vẫn phải sống chứ không chết hay tìm ra một giải pháp

khác. Sự bất an, đời sống khó khăn, đơn điệu, những thói quen sinh hoạt văn

38

hóa cộng đồng ít dần làm người ta mất cảm xúc...Những giá trị tốt đẹp bị triệt

tiêu từ từ, thay bằng sự hào nhoáng phô trương của trang phục, đồ dùng tỷ lệ

nghịch với văn hóa sống” [50]. Nhưng sâu thẳm trái tim người phụ nữ nhạy

cảm, vẫn là tình yêu tha thiết với cuộc đời, niềm tin yêu vào con người. Thu Huệ

vẫn tin rằng, đâu đó trong cuộc đời này, cái Đẹp, cái Thiện, người tốt vẫn còn

hiện hữu giống như dòng sông cuộc đời dù có nhiều rong rêu, cỏ dại nhưng ẩn

sâu dưới đó vẫn là dòng nước mát trong lành.

2.2. Con người đô thị

Với quan niệm nghệ thuật đa chiều về con người cá nhân, hình ảnh con

người trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ hiện lên sinh động trong tính

phức tạp đa dạng của nó. Đây chính là nét nổi bật mang đậm ý nghĩa nhân văn

của Nguyễn Thị Thu Huệ khi nhìn nhận con người.

2.2.1. Con người cô đơn

Bước sang thế kỉ XX, do ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, ý thức cá

nhân bắt đầu trỗi dậy. Các nhà văn đã không ngần ngại phơi bầy tất cả những

buồn vui, hỉ, nộ, ái, ố của con người trên các trang văn đặc biệt là cảm thức về

nỗi cô đơn. Bằng trực cảm của một nhà văn, một người phụ nữ, Thu Huệ đã đi

vào khám phá các phương diện khác nhau của sự cô đơn trong con người. Vật

vã, ngập ngụa trong nỗi cô đơn tận cùng là tâm trạng thường gặp của các nhân

vật trong truyện ngắn của chị.

Là một đất nước đi lên từ nền văn minh nông nghiệp, văn hóa làng xã trở

thành nét đặc trưng của xã hội Việt Nam. Các thành viên trong xã hội ít nhiều

đều có sự gắn kết bởi nhiều hoạt động sinh hoạt cộng đồng. Quá trình đô thị hóa

diễn ra nhanh chóng, đô thị mọc lên nhiều hơn, nông thôn cũng phát triển theo

hướng đô thị hóa. Theo đó, những sinh hoạt văn hóa cộng đồng dần mất đi, con

người dần mất đi sợi dây kết nối, gắn kết yêu thương. Vì vậy, con người luôn có

cảm giác cô đơn, mất dần đi sợi dây gắn kết. Người ta cảm thấy bơ vơ, lạc lõng

39

ngay khi sống giữa phố phường đô hội tấp nập. Đó là tâm trạng lạc lõng của cô

gái sau ba năm ra nước ngoài nay trở về thành phố thân yêu. Những tưởng sẽ

tìm lại được những kí ức ngọt ngào ngày xưa, được gặp lại những con người

thân quen một thời, được hít thở cái không khí của thành phố một thời gắn bó,

nhưng bao trùm lên tất cả là: “Cơn tủi thân, sự cô độc giữa chốn đông người và

ý thức những điều mất mát, tốt đẹp đã tuột mất trong đời làm cô không đứng dậy

nổi” (Thành phố đi vắng). Cái cảm giác cô độc đến ngộp thở khiến cô không

thể hiểu nổi tại sao lại có những đổi thay, mất mát đến vậy. Có phải nó xuất phát

từ lối sống vô cảm, dửng dưng của con người đô thị hiện đại. Tỉ lệ nghịch với sự

phát triển đi lên của nền kinh tế thị trường lại là sự vơi cạn của tình người ấm

áp. Đó còn là cuộc sống cô đơn, nhạt nhẽo của Quang với những chiều chủ nhật

buồn trong Chủ nhật được xem phim hoạt hình. Sau những bộn bề, lo toan của

công việc thường nhật, những chiều chủ nhật là quãng thời gian con người được

nghỉ ngơi, sum vầy bên gia đình, người thân. Nhưng đó cũng là những khoảnh

khắc mà Quang phải đối diện với chính mình, với sự cô độc trong căn phòng

mười bốn mét vuông ngột ngạt. Quang đã có biết bao chiều chủ nhật buồn,

hoang mang và trống trải nằm lướt qua những chương trình ti vi và vô thức dừng

lại ở chương trình phim hoạt hình. Cảm giác trống rỗng, bơ vơ, trơ trọi khiến

cuộc sống anh trở nên nhàm chán, vô vị.

Đáng sợ hơn, đó là cái cảm giác lạc lõng, không tìm được tiếng nói yêu

thương gắn kết, không tìm được sự đồng cảm chia sẻ ngay trong gia đình mình.

Sống bên cạnh người thân yêu mà vẫn cảm thấy mình cô độc. Ông cậu trong

Nước mắt đàn ông là một người đàn ông có tài, giỏi kiếm tiền nhưng cô độc

trong gia đình dư thừa vật chất. Ông hết lòng cho gia đình nhưng các thành viên

khác lại chẳng hết lòng với ông. Những đứa con chỉ biết đến tiền, tiêu tiền, phá

tiền mà không cần biết tiền ở đâu ra, bố chúng phải làm những gì để có được số

tiền ấy. Một bà vợ ghen tuông, cay nghiệt và chửi chồng như một bà hàng tôm

hàng cá. Cay đắng với cuộc sống gia đình nhưng ông vẫn phải chấp nhận và

40

không thể chối bỏ được vợ con. Truyện ngắn Dĩ vãng cũng là một câu chuyện

buồn. Nhân vật chính là ông Xung- một người lính trở về từ bão tố chiến tranh.

Ông khao khát sự bình yên sau những năm tháng đầy bão tố. Nhưng rồi khi trở

về với cuộc sống đời thường, cuộc sống đầy đủ và tiện nghi hơn, ông lại trở

thành một kẻ cô đơn. Ngôi nhà với 7 căn phòng tiện nghi, không gian đẹp như

chốn bồng lai tiên cảnh nhưng lại lạnh lẽo âm u vô cùng. Vợ bỏ đi, ông sống

một mình. Ông thuê người giúp việc chỉ để nó ngủ, xem tivi, ăn cơm cùng. Còn

trong Của để dành bà Vy cuối cùng cũng chết trong sự mệt mỏi và cô đơn khi

những đứa con luôn cảm thấy mẹ chính là gánh nặng của chúng bởi nơi lạnh

nhất không phải là bắc cực mà là nơi thiếu tình yêu thương.

Đặc biệt trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, người đọc bắt gặp rất

nhiều hình ảnh những người phụ nữ cô đơn. Dễ dàng nhận thấy, nhân vật chính

trong truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ thường là nhân vật nữ. Mỗi nhân

vật một số phận, một cảnh đời khác nhau nhưng họ đều mang trong mình nỗi

trống trải, cô độc. Đó là cô đơn của những người phụ nữ suốt đời kiếm tìm tình

yêu, hạnh phúc và bến đỗ bình yên nhưng rơi vào tuyệt vọng. Đó là câu chuyện

của một người đàn bà trong Người đàn bà ám khói. Vang, nhân vật chính trong

tác phẩm suốt đời sống với một niềm mong ước được làm vợ, làm mẹ, có một

gia đình vẹn nguyên, hạnh phúc. Nhưng bi kịch chồng chất bi kịch, nỗi đau

chồng chất nỗi đau. Vang chẳng được hưởng niềm hạnh phúc của một người vợ

đúng nghĩa bởi cô chỉ là vợ hờ của lão thủ trưởng, và bị lão rũ bỏ trách nhiệm

ngay sau khi lão chán. Đau đớn hơn nữa là cô con gái bé bỏng của Vang cũng

chết. Ngập ngụa trong nỗi cô đơn, tuyệt vọng, Vang đi khóc đám ma thuê mong

có thể khỏa lấp sự cô đơn, buồn tủi. Còn trong Tình yêu ơi, ở đâu? cũng vậy,

Quyên cứ đi tìm mãi, tìm mãi một tình yêu đích thực nhưng tình yêu chẳng đến.

Trải qua ba mối tình Quyên đau đớn nhận ra rằng: “Tại sao đến giờ nàng vẫn cô

đơn, khi mà nàng xinh đẹp, có học, không tật nguyền”. Sau mỗi lần đổ vỡ tình

41

yêu “Nàng lại sống cô độc với một khối tâm tư của cô gái đang tuổi yêu đương

mà không thể giãi bày”.

Không chỉ có những người phụ nữ cô đơn trên hành trình tìm kiếm tình

yêu, hạnh phúc gia đình, thậm chí có những người phụ nữ tưởng như đã có một

gia đình hạnh phúc, sum vầy sung túc đủ đầy về vật chất nhưng vẫn cô đơn. Đó

là hình ảnh của người vợ trong Tân cảng. Chị vốn có một gia đình viên mãn với

hai cậu con trai ngoan ngoãn, một người chồng giàu trách nhiệm. Cuộc sống vật

chất tuy nghèo nàn nhưng gia đình vẫn ngập tràn tiếng cười. Mọi việc bắt đầu

khi anh có hợp đồng làm việc tới Hy Lạp. Cũng từ đó những vật dụng sang

trọng anh gửi về ngày càng nhiều hơn. Những hợp đồng anh kí ngày càng nhiều,

càng lớn. Ngôi nhà họ ở không còn chật trội thiếu thốn như xưa thay vào đó là

căn biệt thự khang trang tiện nghi đầy đủ. Anh cứ ngỡ rằng như vậy là đủ, là

tròn trách nhiệm của người chồng yêu thương vợ con. Nhưng anh không hiểu

rằng thân thể người phụ nữ trẻ vẫn luôn khao khát yêu thương: “Anh không nghe

thấy tiếng thở dài tức ngực của người chưa đến bốn mươi tuổi, da thịt mát lạnh,

thơm tho của sự đầy đủ, nhàn hạ dần đang cần sự yêu chiều ve vuốt. Anh không

kịp thấy chị đợi anh bằng chiếc váy sa tanh bóng mát lịm như miếng thạch mới

mua. Và anh cũng chẳng kịp thấy một lọ hoa chị cắm góc phòng đang dịu dàng

toả hương. Tất cả. Tất cả đều đầy đủ và hoàn thiện. Chỉ đợi có anh. Còn anh.

Anh luôn luôn thấy hài lòng và yên tâm khi săn được những hợp đồng mới.

Không gì sướng bằng chưa xong việc này đã có việc khác. Để khi về nhà, đi vào

qua cánh cửa, bỏ lại xã hội ngoài đường, anh có chị. Có hai thằng bé với một

căn nhà như thiên đường trên mặt đất. Anh tưởng thế là đủ. Đủ lắm cho một gia

đình cho đến khi chị đi”. Chị cứ ngập ngụa trong sự cô đơn như thế cho đến một

ngày chị gặp người đàn không đánh thức những yêu thương trong chị: “Chắc là

từ hôm chị bay ra Hà Nội họp. Một hợp đồng ký thành công với phía đối tác và

chị là người đóng góp không nhỏ. Đêm liên hoan. Chị uống rượu. Ba ly rượu

vang khai vị chua chua. Nhẹ nhàng say lúc nào không biết. Chị lâng lâng tỉnh và

42

thấy mình đang ngồi ghế sau trong một chiếc ôtô sang trọng. Bên cạnh một

chàng người Pháp đẹp trai, lịch lãm. Vô thức nói. Vô thức cười. Vô thức thấy

lòng chộn rộn. Vô thức thấy rạo rực đôi môi. Và tim vô thức đập nhanh. Mọi thứ

đều vô thức. Chắc tại một thứ không vô thức là bản năng đàn bà khao khát trỗi

dậy bên trong. Gặp rượu vô thức. Gặp trời Hà Nội se lạnh vô thức. Gặp những

động chạm thân xác vô thức. Nó bỗng thành ý thức đánh thức chị dậy. Đến khi

chỉ còn chị và người đàn ông đó, mọi thứ như nổ tung ra” (Tân Cảng). Đây trở

thành bài học đắt giá cho nhiều cặp vợ chồng chồng thời hiện đại. Đôi khi họ bị

cuốn vào vòng xoáy của công việc, tiền tài, danh vọng mà quên đi những yêu

thương giản dị đời thường. Đến khi vật chất đủ đầy cũng là lúc họ nhận ra mình

đã không thuộc về nhau, yêu thương đã chết từ lâu. Là một người phụ nữ, Thu

Huệ dễ dàng đồng cảm và thấu hiểu với những cô đơn giằng xé trong tâm hồn

của những người phụ nữ.

Ẩn sau một cuộc sống xa hoa hào nhoáng của xã hội đô thị lại là hình ảnh

của những con người cô đơn đến rã rời. Đi sâu vào tận ngóc ngách tâm hồn của

con người, những trang văn của Nguyễn Thị Thu Huệ đã đem đến cho người đọc

nhiều cảm nhận sâu sắc về cuộc sống con người đô thị hôm nay.

2.2.2. Con người lạnh lùng, vô cảm

Cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từng quan niệm “ Sống trên đời sống cần có

một tấm lòng dù chỉ để gió cuốn đi…”. Tình người, sự yêu thương chính là chất

keo gắn kết con người, giúp con người xích lại gần nhau hơn. Tình yêu thương

cũng là liều thuốc tinh thần chữa lành những vết thương tâm hồn, giúp con

người vượt qua nghịch cảnh, sống người hơn, nhân văn hơn. Trước cách mạng,

trong Chí Phèo của nhà văn Nam Cao, cũng nhờ tình người ấm áp, sự yêu

thương chân thành của Thị Nở mà phần người, phần lương tri còn cất giấu của

Chí Phèo được đánh thức, hồi sinh. Yêu thương gắn bó, trọng tình trọng nghĩa

cũng là phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam bao đời. Ấy vậy mà trong xã

43

hội đô thị hiện đại, khi cuộc sống vật chất ngày càng đủ đầy, phát triển thì con

người ngày càng trở nên lạnh lùng, vô cảm. Với tâm hồn nhạy cảm, Thu Huệ đã

phát hiện ra những đổi thay mất mát đó trong con người hôm nay như chính chị

chia sẻ: “Sống mà như chết, vô cảm với bản thân, với mọi người, cảnh vật xung

quanh. Không ai còn biết ai, không ai quan tâm đến ai và mỉm cười với ai. Tất

cả chỉ trong nhắm, mở mắt, một thành phố đã đi vắng từ lúc nào” (Thành phố

đi vắng)

Vô cảm là khi con người thờ ơ bàng quan với mọi người xung quanh,

không rung động trước cái đẹp, cái Thiện, người ta không cảm thấy xót xa đau

đớn trước nỗi khổ đau của đồng loại, im lặng lạnh lùng trước những bất công

ngang trái, những chướng tai gai mắt ở đời…Trong nhiều truyện ngắn của mình,

Thu Huệ đã nói đến thực trạng đau lòng này của con người đô thị hiện đại. Lối

sống ấy len lỏi vào tận ngóc ngách của đời sống gia đình, là nguyên nhân gây ra

những mất mát, đau đớn, đổ vỡ. Đó là sự thờ ơ, thiếu trách nhiệm, thiếu sự quan

tâm của người mẹ đã đẩy con gái đi vào vết xe đổ của chính mình (Hậu thiên

đường). Khi mẹ chợt nhận ra thì tất cả đã quá muộn: “Bây giờ, khi tôi bốn mươi

tuổi, chợt thấy tại sao lâu nay mình để tuổi thơ của con trôi qua trong nỗi buồn

của sự cô đơn, và hứng chịu nỗi cay đắng của một người đàn bà bị phụ bạc”.

Còn trong Của Cha, của Con những cành vạn niên thanh cũng vì Cha chìm

đắm trong nỗi đau quá khứ, Cha đã không nhận ra con gái đã lớn để cho con

thường xuyên chứng kiến cảnh lão hàng xóm làm chuyện người lớn để cuối

cùng chính Con đã trở thành miếng mồi ngon của hắn. Đó còn là sự vô tâm của

người chồng trước những khát vọng yêu thương chính đáng của vợ trong Tân

cảng. Để rồi khi nhận ra, cũng là lúc tình yêu không còn, hạnh phúc chẳng thể

níu giữ. Là sự lạnh lùng đến tàn nhẫn của những người cha trong Ám ảnh, Một

trăm linh tám cây bằng lăng cuối cùng đẩy chính những đứa con trai của mình

vào vòng tội lỗi. Và cả sự thiếu quan tâm của những đứa con đối với chính cha

mẹ của mình trong Của để dành, Nước mắt đàn ông, Còn lại một vầng trăng…

44

Hãy yêu thương, quan tâm, chia sẻ với nhau nhiều hơn để gia đình trở thành tổ

ấm thực sự, là chốn bình yên con người tìm về trước sóng gió cuộc đời chính là

lời nhắn nhủ mà nhà văn muốn gửi gắm đến chúng ta hôm nay.

Xuất phát từ gia đình, lạnh lùng vô cảm đã trở thành căn bệnh trầm kha của

xã hội. Con người dần mất đi sợi dây kết nối, yêu thương vơi cạn, khái niệm

đồng cảm và thấu hiểu trở thành xa xỉ. Trong tập Thành phố đi vắng, Thu Huệ

nói nhiều đến sự mất mát đổi thay ấy trong đời sống tâm hồn con người hiện đại.

Trong truyện ngắn cùng tên, Thu Huệ kể về câu chuyện của một cô gái sau ba

năm ra nước ngoài nay trở về thành phố thân yêu năm nào. Cảnh vật không đổi

thay, vẫn phố phường, những con đường, hàng cây, nhà hàng, khách sạn…Tất

cả vẫn vẹn nguyên nhắc lại những kỉ niệm còn tươi rói. Cô gặp lại những con

người năm cũ: bác tài xế xe buýt, cô quản lý nhà hàng, ông bác sĩ… Họ vẫn nhớ

cô là ai nhưng sự thân thiện khi xưa thì hầu như đã không còn nữa. Trên nẻo

đường tìm kiếm lại tình người, những tín hiệu cô nhận lại được chỉ là những ánh

mắt sắc lạnh, vô cảm, những động tác lái xe thành thạo như rô bốt của bác lái

xe; là những tiếng trả lời dửng dưng như những cỗ máy của cô quản lý nhà

hàng, “ Dạ”, “Dạ.” và “ Dạ”… Vẫn trong không gian quen thuộc cũ, nhưng cô

nhận ra biết bao điều đổi thay mất mát, không còn nữa sự náo nhiệt, thân thiện

năm nào, giờ đây thành phố “ người vẫn đông, nhưng hết âm thanh như những

diễn viên câm”, “ thành phố như người đông máu, vô cảm dửng dưng”, “Người

ngồi cứng đơ như những bức tượng”. Mọi âm thanh cuộc sống như biến mất.

Đến âm thanh quen thuộc nhất là tiếng người “lào xào” cũng trở thành nỗi khát

khao nhức buốt. Để rồi cuối cùng như không chịu nổi sự lạnh lùng, vô cảm đó

cô gái đã chết: “Mảnh giấy báo nơi ở thường trú của cô: Khu 29, Lô E, số mộ

435, nghĩa trang Bình yên”. Cái chết đầy bất ngờ của cô là tiếng kêu thức tỉnh

con người cần sống yêu thương nhiều hơn. Sự thờ ơ, vô cảm, lạnh lùng và ích kỉ

chính là mảnh đất màu mỡ ươm mầm cho cái ác, cái xấu: “Thành phố đi vắng

là lời cảnh báo một đời sống của vô cảm, ích kỷ và thù hận và gián tiếp dự báo

45

một tội ác kinh hoảng hơn trong tương lai nếu lương tâm con người không được

đánh thức”[53].

2.2.3. Con người tha hóa, biến chất

Cùng với sự chuyển mình của kinh tế- xã hội Việt Nam sau đổi mới, văn

học Việt Nam cũng có một cuộc cách mạng mạnh mẽ. Văn học Việt Nam 1945-

1975 có thể nói đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh thiêng liêng của nó: phục vụ sự

nghiệp cách mạng của toàn dân tộc. Văn chương lúc đó trở thành thứ vũ khí sắc

bén để tuyên truyền cách mạng, ca ngợi cuộc sống chiến đấu của nhân dân ta:

dẫu có chịu nhiều đau thương nhưng vô cùng kiên cường oanh liệt. Với cái nhìn

sử thi, hình ảnh con người hiện lên thật đẹp. Họ là những người lính, những dân

quân, những người lao động mới… đang ngày đêm cống hiến hết sức mình cho

sự nghiệp chung của đất nước. Những con người mang trong mình lí tưởng lớn

“quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Các nhà văn thời kì này khi nhìn nhận con

người thường khám phá ở quan hệ công dân- Tổ quốc, ý thức trách nhiệm của cá

nhân với cộng đồng. Nhưng các nhà văn thời kì đổi mới đã dám nhìn nhận

thẳng vào hiện thực, đi sâu khám phá “con người bên trong con người”. Với cái

nhìn đa chiều, sắc nhọn, những người nghệ sĩ đã khám phá ra cả “phần rồng

phượng và rắn rết” trong mỗi cá nhân. Truyện ngắn Thu Huệ cũng hòa chung

vào dòng tư tưởng ấy. Các nhân vật của chị hiện lên đa sắc diện, tốt có, xấu có,

thanh cao có mà ti tiện xấu xa, bỉ ổi cũng không thiếu.

Đứng trước một xã hội có nhiều tệ nạn, con người nếu như không làm chủ

bản thân, không có bản lĩnh vững vàng sẽ dễ dàng đánh mất đi chính mình. Đó

là hình ảnh những cô cậu thanh niên ra thành phố học, trong cuộc sống đô thành

nhiều thách thức, nhiều người đã trượt dài trên con đường tha hóa. Hoài “thớt

trơ” là một cô sinh viên tỉnh lẻ, thiếu sự quan tâm, uốn nắn, giám sát, dạy dỗ của

cha mẹ, Hoài lao vào những cuộc vui. Dùng tiền bố mẹ gửi lên cho ăn học, Hoài

chơi bời phá phách, uống rượu hút thuốc nổi tiếng toàn trường: “Hoài có thể

46

uống hàng lít rượu trắng không say, hút thuốc lào không mệt mỏi, nhẩy đầm

thâu đêm và đánh đu với những người đàn ông nào chịu được cô” (Xin hãy tin

em). Tương tự như vậy, Dương trong Với tay là đến cũng đánh mất tương lai,

cuộc đời của mình khi thiếu bản lĩnh trước cám dỗ của ma túy. Là một thanh

niên sinh ra ở một miền biển nghèo, Dương từng là niềm tự hào, kiêu hãnh,

niềm hy vọng của cả gia đình. Những mong đi học đại học, giữa chốn phồn hoa

đô hội giúp Dương được mở mày, mở mặt, áo gấm vinh quy nhưng cuối cùng

chính anh không vượt qua được những cám dỗ, cạm bẫy, tệ nạn. Đây thực sự là

những bài học đắt giá cho thế hệ trẻ đương thời: cần phải nghiêm khắc với bản

thân, giữ vững lập trường tư tưởng để có thể trưởng thành trước những va chạm

cám dỗ đầu đời.

Không chỉ vậy, trước vòng xoáy của nền kinh tế thị trường, nhiều người đã

không thể đứng vững trước những cám dỗ vật chất, của tiền tài danh vọng. Vì

tiền bạc, danh vọng con người trở nên tráo trở, lừa lọc (Nước mắt đàn ông); vì

tiền bạc con người sẵn sàng đánh tráo những giá trị tốt đẹp (Không thể kết

thúc); con người bất chấp thủ đoạn, bất chấp đạo đức luân lí để đạt được tham

vọng của bản thân (Thiếu phụ chưa chồng). Truyện ngắn Thiếu phụ chưa

chồng đem đến cho bạn đọc nhiều giá trị nhân sinh sâu sắc. Được sống, được

yêu, được hạnh phúc, được đổi đời đó là khát vọng chính đáng của con người.

Thế nhưng không vì thế mà con người bất chấp luân lí chà đạp nên tình thân,

đạo đức để thỏa mãn dục vọng của bản thân. My là một cô gái thôn quê khoẻ

mạnh, xinh đẹp nhưng ít học luôn ao ước có một cuộc sống xa hoa nơi phố

phường đô hội. Để có thể đạt được mục đích đó, My đã bất chấp tất cả lạnh

lùng, tàn nhẫn, thậm chí đến mức trơ tráo, trơ trẽn, My ngoại tình với anh rể, yêu

cầu chị gái từ bỏ anh rể và tuyên bố giờ “chúng tôi đã yêu nhau”. My chiếm

Dương bằng được cho mình, đẩy chị gái đến cái chết đau đớn. Thế vẫn là chưa

đủ, khi đã có được Dương cô vẫn còn ngoại tình với Hoàng để thỏa mãn dục

vọng khi bụng mang dạ chửa. Kết thúc đáng buồn của My khi sinh ra đứa con dị

47

dạng, Dương bỏ đi, My một mình đối diện với nỗi đau của chính mình chính là

lời cảnh tỉnh cho những cô gái giàu tham vọng và bất chấp thủ đoạn để đạt được

múc đích.

Đáng sợ nhất trong xã hội đô thị hiện đại chính là hiện tượng con người vì

chạy theo những ham muốn dục vọng bản năng mà đánh mất đi nhân cách của

mình. Đó là hình ảnh của những con “yêu râu xanh” đáng khinh bỉ, sẵn sàng chà

đạp, cướp đi cuộc sống và tương lai của những đứa trẻ vô tội. Hai lão hàng xóm

trong Phù Thủy và Của Cha, của Con những cành vạn niên thanh là những

kẻ bỉ ổi như thế. Lợi dụng sự ngây thơ, trong sáng của những đứa trẻ chỉ đáng

tuổi con mình, những gã hàng xóm đã cướp đi đời con gái của chúng. Đó là

hành động đầy thú tính của những kẻ vô liêm sỉ, khoác lên mình vẻ ngoài lịch

lãm, đẹp đẽ nhưng thực chất chỉ là những kẻ mặt người dạ thú đáng kinh tởm.

Đau lòng hơn nữa là những loại người như thế ngày càng nhiều hơn trong xã

hội. Gã đàn ông trong Hậu thiên đường cũng là một thằng Sở Khanh như thế.

Đã có vợ, có con, hắn vẫn lừa gạt một đứa con gái mới lớn, hứa hẹn một thiên

đường hạnh phúc nhưng thực chất đẩy cô gái vào bi kịch cùng quẫn. Hơn thế

hắn còn tìm mọi cách để bòn rút từng đồng, từng hào của con bé. Đó là những

hành động nhơ bẩn đáng bị lên án, trừng trị. Vậy cần phải làm gì đây để bảo vệ

những đứa trẻ ngây thơ, răn đe những tên yêu râu xanh để đem lại cuộc sống

trong sạch lành mạnh hơn. Đó là lời cảnh tỉnh về những vấn đề nhức nhối của xã

hội hôm nay.

Có thể nói, sự tha hóa biến chất của con người là nguy cơ đe dọa cả xã hội.

Nó thể hiện bản lĩnh kém cỏi của con người trước những cám dỗ, ham muốn

dục vọng thấp hèn, đam mê tội lỗi. Đó cũng là nguyên nhân gây ra tội ác, làm

mất trật tự xã hội, gây hoang mang bất an cho lòng người. Con người cần phải

thức tỉnh để cứu lấy chính mình, giữ gìn nhân cách của bản thân, xây dựng một

xã hội nhân văn và lành mạnh. Đó cũng là tiếng lòng đau đáu của một nhà văn

giàu tấm lòng nhân đạo.

48

2.2.4. Con người với khát khao hạnh phúc

Cuộc sống đô thị hiện đại phát triển làm cho đời sống vật chất của con

người ngày càng được nâng cao và cải thiện rõ rệt. Nhưng thực tế cũng cho thấy,

ẩn sau vẻ bề ngoài hào nhoáng của xã hội hôm nay, con người sống cô đơn, lạnh

lùng vô cảm và ngày càng mất đi sự kết nối. Cùng với đó là sự lo âu, là nỗi bất

an về một xã hội thiếu tình người và nhiều mối hiểm nguy, bất trắc. Vì vậy khát

vọng về một cuộc sống tốt đẹp, giàu tình yêu thương, bình yên và hạnh phúc trở

thành khát vọng mãnh liệt của con người. Các nhân vật trong truyện ngắn của

Nguyễn Thị Thu Huệ đều đã trực tiếp hoặc gián tiếp nói lên khát vọng chân

chính ấy.

Trước hết đó là khát vọng hoàn lương, làm lại cuộc đời sau những sai lầm

vấp ngã. Đứng trước những cám dỗ, những tệ nạn, nhiều cá nhân đã đánh mất đi

nhân cách của mình. Với trái tim giàu tình yêu thương, Thu Huệ đã đi sâu vào

thế giới tâm hồn bên trong con người để phát hiện, nâng niu và trân trọng

những khát vọng thầm kín của con người. Nhà văn vẫn tin tưởng rằng bản chất

tốt đẹp vẫn luôn như đốm lửa âm ỉ cháy trong tâm hồn mỗi người. Đó là niềm

mong ước được trở về với cuộc đời sau những lầm lỗi của Dương trong Với tay

là đến. Những hình ảnh tươi đẹp về cha, về mẹ, về vùng biển nghèo mà yên ả,

chan hòa trở thành miền kí ức ngọt ngào trong tâm trí Dương khi anh đang phải

vật vã trong trại cai nghiện. Cuộc sống giản dị, bình yên ấy giờ thành niềm khát

vọng mãnh liệt sau những vấp ngã, sai lầm của một thời tuổi trẻ bồng bột, thiếu

bản lĩnh. Hạnh phúc đôi khi rất giản đơn, nhưng chỉ đến khi tuột khỏi tầm tay

con người mới chợt nhận ra thì đã quá muộn. Đó còn là hình ảnh của Hoài trong

truyện ngắn Xin hãy tin em. Vốn là cô gái ham chơi nổi tiếng nhưng vì tình yêu

Hoài sẵn sàng thay đổi bản thân, từ bỏ những thói hư tật xấu của mình để trở

thành người con gái dịu dàng nữ tính. Cái kết không có hậu của tác phẩm có thể

kiến bạn đọc có nhiều tiếc nuối nhưng câu chuyện cũng đã chuyền đến bạn đọc

49

một thông điệp đầy ý nghĩa: tình yêu có thể cảm hóa con người, làm cho con

người sống Người hơn, nhân văn hơn.

Đó còn là khát vọng về một cuộc sống tốt đẹp, yêu thương, hạnh phúc

cũng được nhà văn gửi gắm qua nhiều truyện ngắn đặc sắc. Đó là mong muốn

về một xã hội không có cái ác, cái xấu bủa vây rình rập (X – Men có mùi

trường đua, Trong lúc ăn một bát phở gia), khi ấy con người tìm được sự bình

an, có thể thong dong dạo phố, uống cà phê, đeo những bộ trang sức mình thích

mà không sợ bọn cướp có trang bị vũ khí. Là niềm khao khát tìm được tiếng nói

tri âm với những người thân (Nước mắt đàn ông, Tân cảng, Phù thủy) để

những mất mát, đổ vỡ, những đau đớn dằn vặt không hiện hữu trong mỗi gia

đình, những yêu thương trở thành sợi dây gắn kết những thành viên trong gia

đình, những nụ cười thay cho những giọt nước mắt chia li đổ vỡ. Hơn tất cả là

niềm khao khát về một xã hội giàu tình thương yêu, tình đời, tình người ấm áp

(Thành phố đi vắng)…

Trong sáng tác của Thu Huệ, chị nói nhiều đến tiếng lòng, khát vọng của

giới mình. Bằng sự đồng cảm Thu Huệ đã nói lên nỗi lòng của những người phụ

nữ. Mỗi người một cảnh ngộ, một số phận nhưng ẩn sâu trong trái tim những

người phụ nữ ấy vẫn là khát vọng được yêu, được hạnh phúc. Trên hành trình tất

tả tìm hạnh phúc ấy, những người phụ nữ nếm trải đủ dư vị của tình yêu, có cả

những giọt nước mắt ngọt ngào, cả những giọt đắng, niềm đau; những hy vọng

đợi chờ, tin yêu, cả những chán chường tuyệt vọng… Quyên trong Tình yêu ơi,

ở đâu? là câu chuyện cảm động về hành trình kiếm tìm hạnh phúc của cô gái tên

Quyên. Quyên luôn khao khát tìm kiếm được người đàn ông đích thực của cuộc

đời mình để dựng xây hạnh phúc. “Tình yêu ơi, ở đâu?” cũng là câu hỏi khắc

khoải chưa có lời giả đáp đối với cô gái đã hai nhăm tuổi. Mối tình đầu của cô

là một nhà thơ nghiện rượu. Cô yêu anh qua những tập thơ của anh, nhưng rồi

cô nhận ra rằng “tình không như là mơ, và người không đẹp như thơ”, họ đã chia

tay. Rồi cô gặp một người đàn ông thứ hai, hắn là kẻ có học, gia đình giàu có

50

nhưng cực kì ích kỉ, gia trưởng, ghen tuông đến mù quáng. Mối tình thứ hai tiếp

tục đổ vỡ. Những tưởng rằng Quyên sẽ tìm được hạnh phúc khi gặp Bình người

đàn ông góa vợ, tốt tính, giàu trách nhiệm nhưng rồi “tình yêu ơi, ở đâu?”, hạnh

phúc vẫn chưa gõ cửa trái tim mình. Quyên không thể trở thành người thừa

trong gia đình anh khi hai đứa con anh không thể sẵn sàng đón nhận một người

phụ nữ khác. Mơ ước bé nhỏ, giản đơn mà trở nên xa vời với Quyên. Thế nhưng

những éo le, sóng gió đó không làm khỏa lấp khát vọng được yêu, được hạnh

phúc của cô. Tương tự như vậy, người thiếu nữ trong Cát đợi luôn hoang mang

trên con đường đi tìm hạnh phúc. Cô vẫn bao nhiêu năm nhang hương cho một

tình yêu qua cố dù biết rằng người ấy vẫn ngày ngày chỉn chu chở vợ con đi làm

mỗi sáng. Rồi anh đã đến- người tình tuyệt vời có đầy ắp những gì cô khiếm

khuyết. Cô ngập tràn sung sướng trong cảm giác hạnh phúc “tôi yêu và được

yêu”. Nhưng cô cũng chẳng bao giờ có được hạnh phúc trọn vẹn, bởi lẽ cô chỉ là

người đến sau. Người đàn bà ngẩn ngơ ngồi với cát, cát mềm mại, bao dung trìu

mến và chị đợi một ngày nào đó tình yêu của mình sẽ quay lại. Trên con đường

ngược xuôi kiếm tìm tình yêu, hạnh phúc, người phụ nữ trong truyện ngắn của

Nguyễn Thị Thu Huệ lúc thất vọng đau đớn, khi cô đơn tuyệt vọng nhưng vượt

lên tất cả họ vẫn luôn hi vọng về một tình yêu trọn vẹn.

Nhìn vào bức tranh đô thị hiện đại trong truyện ngắn Thu Huệ, bạn đọc

không tránh khỏi những hoang mang, lo lắng về một xã hội có quá nhiều mặt

trái, cái ác, cái xấu giăng mắc khắp nơi. Đó là hiện thực Thu Huệ không hề né

tránh. Làm tròn sứ mệnh của một nhà văn hiện thực, Thu Huệ đã ghi lại một

cách chân thực những góc khuất, những gam màu tối của cuộc sống đô thành

hiện đại. Nhưng ẩn sau những trang văn tưởng như lạnh lùng, dửng dưng ấy lại

là một trái tim “nóng”, một tấm lòng luôn đau đáu về những vấn đề nóng hổi của

xã hội. Đọc truyện ngắn của chị, người đọc vẫn cảm nhận được những khao

khát, tin yêu về một cuộc sống tốt đẹp, văn minh hơn được chị gửi gắm qua thế

giới nhân vật của mình. Đó cũng là giá trị nhân văn của những tác phẩm văn học

51

chân chính. Bởi “Chao ôi, nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối,

không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật chỉ có thể là tiếng kêu đau khổ kia,

thoát ra từ những kiếp lầm than”(Nam Cao)

Tiểu kết

Với cái nhìn tả chân sắc sảo, Nguyễn Thị Thu Huệ đã phơi bày bức tranh

hiện thực xã hội hiện đại hôm nay với đầy đủ gam màu sáng tối. Xã hội đô thị

hiện lên là miền đất đô hội, văn minh, phát triển. Nhưng Thu Huệ nhạy cảm hơn

với những tiêu cực, mặt trái của đời sống đô thành. Bức tranh đô thị được tác giả

tái hiện không chỉ từ môi trường gia đình với nhiều giá trị đạo đức bị phá vỡ mà

đó còn là khung cảnh đô thị xô bồ tiềm ẩn biết bao hiểm nguy, tệ nạn. Không hề

né tránh, Thu Huệ đã đem đến cho người đọc nhiều cảm nhận sâu sắc về những

đổ vỡ, mất mát của bức tranh đô thị hiện đại. Cùng với đó, với khả năng đi sâu

khám phá thế giới con người bên trong con người, Nguyễn Thị Thu Huệ cũng tái

hiện chân dung sinh động của con người hiện đại. Sống trong xã hội có nhiều

biến động, con người luôn cảm thấy bất an, cô đơn. Họ cô đơn ngay trong chính

không gian gia đình- nơi mà đáng lẽ con người tìm được sự bình yên, ấm áp, tìm

được chỗ dựa tinh thần vững chắc. Đặc biệt là hình ảnh của những người phụ nữ

luôn khắc khoải trong hành trình kiếm tìm tình yêu và hạnh phúc. Hơn thế, sống

trong một xã hội mà nhiều giá trị truyền thống bị chao đảo, con người chạy theo

những giá trị vật chất thì tình yêu thương trở thành món quà xa xỉ. Con người

thiếu vắng tình cảm, sống thờ ơ, vô cảm, lạnh lùng hơn. Sau tất cả những bi kịch

đổ vỡ ấy, con người luôn khao khát được hạnh phúc, mong muốn về một cuộc

sống giàu tình yêu thương và an bình hơn. Đó cũng là tiếng lòng của nhiều nhân

vật trong truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ. Chính điều đó đã tạo nên giá trị

nhân văn của truyện ngắn Thu Huệ, là lí do vì sao truyện ngắn của chị lại neo

đậu và gây nhiều dư ba trong lòng độc giả.

52

Chương 3.

NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN ĐỀ TÀI ĐÔ THỊ TRONG TRUYỆN

NGẮN NGUYỄN THỊ THU HUỆ

3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật

Nói đến nhân vật văn học là nói đến đối tượng được nhà văn thể hiện trong

tác phẩm bằng phương tiện ngôn ngữ. Đối tượng ở đây không chỉ là con người,

mà có thể là các con vật, là cỏ cây, hoa lá, dòng sông, con suối, hay một sự vật,

hiện tượng nào đó trong tự nhiên, xã hội. Nhân vật chính là phương tiện để khái

quát hiện thực.“Chức năng của nhân vật là khái quát những quy luật của cuộc

sống con người, thể hiện những hiểu biết, những ước mơ, kì vọng về con người.

Nhà văn sáng tạo nhân vật là để thể hiện những cá nhân xã hội nhất định và

những quan niệm về các cá nhân đó. Nói cách khác nhân vật là phương tiện

khái quát tính cách, số phận con người và các quan niệm về chúng”[27, tr279].

Không chỉ thế, nhân vật còn là phương tiện để nhà văn bộc lộ tư tưởng, tình

cảm, thái độ của mình đối với từng loại người trong xã hội, đối với hiện thực

được phản ánh. Chính vì thế nhân vật trở thành yếu tố trung tâm để xem xét giá

trị một tác phẩm văn học đồng thời khẳng định được tài năng nghệ thuật của tác

giả.

Chính bởi nhân vật văn học giữ vai trò quyết định nội dung tư tưởng trong

tác phẩm vì vậy nhà văn dành hết bút lực của mình vào việc xây dựng nhân vật.

Có nhiều phương thức thể hiện nhân vật khác nhau như miêu tả nhân vật qua

ngoại hình, qua ngôn ngữ, qua hành động, cử chỉ, hay miêu tả nội tâm…Việc

vận dụng linh hoạt các phương thức thể hiện ấy như thế nào phụ thuộc vào tài

năng cũng như ý đồ nghệ thuật của tác giả trong mỗi tác phẩm.

Qua khảo sát nhiều truyện ngắn viết về đề tài đô thị của Thu Huệ, chúng tôi

nhận thấy tác giả đã vận dụng thành công nhiều phương thức xây dựng nhân vật

53

góp phần thể hiện nội dung tư tưởng tác phẩm đồng thời cho thấy Thu Huệ là

một cây bút nữ giàu tài năng.

3.1.1. Miêu tả nhân vật qua ngoại hình

Ngoại hình là dáng vẻ bên ngoài của nhân vật như trang phục, tác phong,

diện mạo... Ngoại hình là yếu tố quan trọng góp phần biểu hiện nội tâm, tính

cách, phẩm chất, số phận của nhân vật. Ðây cũng chính là sự thống nhất giữa

cái bên ngoài và cái bên trong của con người. Vì vậy, khi tính cách, đời sống

bên trong thay đổi, nhiều nét bên ngoài của nhân vật cũng thay đổi theo. Để làm

nổi bật sự tỉa tót, chải chuốt, giả tạo của Mã Giám Sinh, Nguyễn Du chỉ miêu tả

bằng một câu thơ “Quá niên trạc ngoại tứ tuần/ Mày râu nhẵn nhụi, áo quần

bảnh bao”, hay bản chất của một người đàn bà chuyên buôn phấn bán hoa của

Tú bà cũng được đặc tả “Thoắt trông nhờn nhợt màu da/ Ăn gì to lớn đẫy đà làm

sao”. Sau này, trong văn học hiện đại với ngòi bút trào phúng bậc thầy, Vũ

Trọng Phụng đã xây dựng thành công những bức chân dung biếm họa của tầng

lớp thị dân tư sản Việt Nam những năm ba mươi, mỗi người một vẻ, tất cả hiện

lên sống động như những thước phim quay chậm: cụ cố Hồng háo danh mơ

màng nghĩ mình được mặc áo xô gai, lụ khụ ho khạc mếu máo: “úi kìa con giai

nhớn đã già thế kia kìa”, cháu trai Văn Minh bất nhân, bất hiếu “vò đầu, bứt

tai”, “ đăm đăm chiêu chiêu” lo nghĩ chia gia tài trong đám tang ông nội… Cũng

qua những chi tiết miêu tả chân dung bên ngoài, Nam Cao đã cho thấy sự tha

hóa của Chí Phèo sau khi ra tù: “cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái

mặt thì đen mà rất câng câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”. Như vậy có

thể nói, những nhân vật thành công trong văn học từ xưa đến nay đều được xây

dựng bởi những chi tiết ngoại hình đặc sắc.

Truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ xây dựng được khá nhiều nhân vật

gây được ấn tượng với độc giả bằng ngoại hình. “Chân dung tinh thần” của con

người đô thị phần nào được thể hiện qua ngoại hình nhân vật. Anh nhà thơ - mối

54

đầu của Quyên trong Tình yêu ơi, ở đâu? có “bộ mặt gầy và xanh, môi chàng

thâm lại vì rượu. Những cái râu mọc xiên xẹo, không hàng lối,…tóc rối tung

trên đầu, áo quần xộc xệch”. Với ngoại hình ấy, chàng thi sĩ hiện lên là một

người lôi thôi, luộm thuộm, nghiện rượu, nghiện thuốc. Còn Bình - một anh bộ

đội phục viên lại là người “có khuôn mặt đẹp một cách cứng cỏi, rất đàn ông”

và “giọng anh trầm ấm, chắc nịch. Mái tóc anh lấm tấm bạc. Khuôn mặt trầm

tĩnh, đôi môi rộng, khi cười trông sang trọng và quyến rũ. Nhìn anh, nguời ta có

thể gửi cả lòng tin của mình. Anh bình thản nói chuyện chứ không vồ vập hay

bẻm mép”. Bình hiện lên là một người đàn ông giàu tinh thần trách nhiệm, đầy

bản lĩnh đàn ông, tự tin, tự chủ. Đó là mẫu đàn ông đáng tin cậy, xứng đáng là

trụ cột trong gia đình. Đó cũng là người đàn ông lí tưởng mà Quyên đang kiếm

đợi. Không chỉ là tính cách mà số phận nhân vật cũng phần nào được tái hiện

qua những nét vẽ ngoại hình. Kết cục bi thảm của người bác dâu trong Không

thể kết thúc cũng được miêu tả qua ngoại hình “một người mờ mắt, mất trí nhớ,

tay chân bị tháo cụt từng ngón”. Đó là cái giá phải trả của những con người giả

dối vì chạy theo những giá trị vật chất tầm thường mà chà đạp nên giá trị truyền

thống tốt đẹp bao đời. Hay hình ảnh của Dương trong trại cai nghiện những

ngày cuối đời cũng hiện lên đầy ám ảnh: “Nằm bệt trên giường, toàn thân như

sáp không có xương (…) đôi mắt đục mờ như có một màn sương che phủ”(Với

tay là đến). Đó là kết cục của những thanh niên thiếu bản lĩnh dễ dàng tha hóa

trước những cám dỗ, tệ nạn xã hội. Như vậy thông qua những chi tiết miêu tả

ngoại hình, người đọc cảm nhận được phẩm chất, tính cách, số phận của nhân

vật.

Đặc biệt trong nhiều truyện ngắn của mình, Thu Huệ quan tâm miêu tả vẻ

đẹp ngoại hình của những người phụ nữ. Mỗi câu chuyện là một cuộc đời, mỗi

nhân vật đều có những nét vẽ riêng, thông qua những chi tiết miêu tả ngoại hình,

người đọc cảm nhận được thế giới tâm hồn, tình cảm, ước mơ, khát vọng và

phẩm chất của những người phụ nữ hiện đại. My trong Thiếu phụ chưa chồng

55

có “vẻ đẹp của cô gái thôn quê khỏe mạnh đang tuổi dậy thì…Người My thấp,

chắc lẳn…Khuôn mặt tròn. Hai mắt to. Môi dày và đỏ. Ngực to hông nở. Bà

Ngài bên hàng xóm bảo My có bộ ngực và cái mông giết đàn ông…”. Đó là vẻ

đẹp của một cô gái lẳng lơ, đầy ham muốn dục vọng. Bởi những ham muốn ấy,

My đánh mất đi nhân cách của mình, bất chấp luân thường đạo lí để thỏa mã dục

vọng của bản thân. Còn trong Tân Cảng những khao khát đời sống bản năng

trong sạch của người phụ được miêu tả qua những chi tiết ngoại hình tinh tế:

“Anh không nghe thấy tiếng thở dài tức ngực của người chưa đến bôn mước

tuổi, da thịt mát lạnh, thơm tho của sự đầy đủ, nhàn hạ dần đang cần sự yêu

chiều ve vuốt”. Đó cũng là những nhu cầu chính đáng, lành mạnh của con

người.

Giống như một nhà quay phim tài ba, với góc quay cận cảnh, từng khuôn

mặt thị dân hiện lên sắc nét, sinh động, mỗi người một vẻ. Không chỉ vậy, nhà

văn còn đưa ống kính của mình lên cao để có cái nhìn bao quát, thâu tóm được

bức tranh toàn cảnh về đời sống con người đô thị: “Người ngồi cứng đơ như

những bức tượng. Mỗi khi xe phanh gấp, tượng người như bê tông đó nghiêng

nguyên khối, sau trở về vị trí cũ. Mắt ai cũng nhìn vào một khoảng không trước

mặt…tất cả đều mang khuôn mặt ơ hờ, bình thản” (Thành phố đi vắng). Với

những chi tiết đắt giá hình ảnh con người đô thị lạnh lùng vô cảm như những

bóng ma câm lặng được nhà văn chộp lấy qua những chi tiết miêu tả ngoại hình

sống động. Cuộc sống đô thị tiềm ẩn bao bất trắc, thói hư tật xấu, khiến con

người luôn có cảm giác bất an, hoang mang, lo sợ. Nỗi niềm hoang hoải ấy cũng

hiện lên trên từng khuôn mặt thị dân: “Phía khuất lấp, là một người đàn ông râu

rậm, mặt lì, cắm cúi nhai”,“ Mặt bà cụ xanh lét. Ông cụ thất thần, dáng xiêu

vẹo”,“chúng mặc áo choàng dài gần đầu gối. Hai xe máy không biển số. Thằng

nào khi vào cũng đeo khẩu trang” (Trong lúc ăn một bát phở gia truyền). Bằng

những chi tiết miêu tả ngoại hình có chọn lọc, Nguyễn Thị Thu Huệ đã mang

56

đến cho nhân vật của mình sự sinh động riêng. Điều đó cũng chứng tỏ nỗ lực tìm

tòi, khám phá tạo nên phong cách riêng cho nhà văn.

3.1.2. Miêu tả nhân vật qua hành động

Hành động nhân vật là phương diện đặc biệt quan trọng để thể hiện tính

cách nhân vật vì việc làm của mỗi người là căn cứ quan trọng có ý nghĩa quyết

định nói lên tư cách, lí tưởng, phẩm chất cũng như những đặc điểm thuộc về thế

giới tinh thần của người đó. Hơn nữa, trong các tác phẩm tự sự, tính cách nhân

vật không phải ngay từ đầu đã được hình thành trọn vẹn. Chính hành động có

tác dụng bộc lộ quá trình phát triển của tính cách và thúc đẩy sự diễn biến của hệ

thống cốt truyện. Thông qua các mối quan hệ, sự đối xử giữa các nhân vật trong

những tình huống khác nhau, người đọc có thể xác định được những đặc điểm,

bản chất của nhân vật.

Nguyễn Thị Thu Huệ có biệt tài khiến nhân vật tỏa sáng hoặc tắt lịm hoàn

toàn thông qua một hành động điển hình. Hoài trong Xin hãy tin em là một nhân

vật như thế. Hoài vốn là cô gái bản tính lại ngang tàng, mạnh mẽ, được mệnh

danh là một “cao thủ” có thể “uống hàng lít rượu trắng không say, hút thuốc lào

không mệt mỏi, nhảy đầm thâu đêm và đánh đu được với những người đàn ông

chịu được cô”. Cô nổi tiếng khắp trường và còn lan ra cả khu vực xung quanh.

Khi yêu Thắng, một kĩ sư điện, Hoài đã cố gắng thay đổi hẳn trở thành một

người con gái ngoan hiền. Nhưng chính trong buổi sinh nhật của mẹ người yêu,

Hoài đã không kiểm soát được hành vi của mình: “Hoài lắc lắc, uốn éo mông và

run rẩy thân hình…người Hoài giật đùng đùng, tóc cô rũ rượi, tay chân vung

vẩy…như một cô gái điếm rẻ tiền thỉnh thoảng đến các vũ trường nhử khách…”.

Hành động ấy đã tố cáo bản chất ăn chơi, sa đọa của Hoài, khiến cả người yêu

và gia đình anh sốc nặng. Còn trong Tình yêu ơi, ở đâu? bản chất gia trưởng, vũ

phu và ích kỉ người yêu thứ hai của Quyên cũng được vạch trần qua những hành

động của hắn. Khi Quyên khoe những tấm ảnh chụp thời sinh viên hắn đã nổi

57

điên lên, ghen tuông mù quáng, thậm chí hắn xúc phạm Quyên, giang tay tát

Quyên, lấy tất cả những món đồ hắn đã tặng cô đập tan, xé nát. Hành động thô

bạo thiếu văn hóa ấy cũng xé toang vẻ ngoài có học thức, lột trần bản chất con

người vô liêm sỉ của hắn. Hay Hải trong Một nửa cuộc đời là một người chồng

chu đáo, yêu thương vợ con, hết lòng vì gia đình. Phẩm chất tốt đẹp của người

đàn ông ấy được thể hiện qua hàng loạt những hành động, cử chỉ ân cần, chăm

sóc yêu thương anh dành cho vợ và con gái. Sự giả dối của cô con dâu trưởng

trong Không thể kết thúc lại được bóc trần qua hành động đánh tráo chiếc bình

cổ.... Như vậy tính cách nhân vật được bộc lộ qua những hành động, cử chỉ của

nhân vật trong quan hệ với nhân vật khác, ở những tình huống khác nhau.

Không chỉ góp phần thể hiện tính cách, phẩm chất, hành động cũng là một

phương diện quan thể hiện thế giới nội tâm nhân vật. Thông qua những hành

động, cử chỉ bên ngoài, người đọc cảm nhận được những tâm trạng phức tạp của

con người. Đó là tâm trạng đau đớn của hai anh em khi phải xa nhau trong Tân

Cảng. Những đau đớn, tuyệt vọng của cậu bé khi phải lên máy bay rời xa em

trai được diễn tả qua hàng loạt những hành động: “Nó đi vào giữa hai hàng ghế.

Chăm chăm đếm như không cần biết có ai bên mình. Một. Hai. Ba. Bốn. Và

năm. Nó dừng lại. Bên ô cửa sổ..Thằng anh cứ đứng ở hàng thứ 5 như bị thôi

miên bởi ông béo bụng(..). Thằng anh nhìn mẹ mắt đầy nước.Nó lắc đầu tuyệt

vọng. " Dưới này cơ mà con". Chị lại gọi. Nó vẫn lắc đầu, nhìn người đàn ông

đầy vẻ kinh hãi. Rồi chị nhìn. Nói " Con hẹn với em là ngồi ở đây. Ô cửa số

5(..). Thằng anh vẫn lắc đầu. Nó nhìn mẹ bằng đôi mắt mở to chưa từng thấy

bao giờ. Rồi lại nhìn qua ô cửa đã bị lão béo kéo sập tấm chắn nắng xuống và

đang nhắm mắt ngủ. Thằng anh chồm người qua mọt người khách bên ngoài.

Chồm qua lãi béo. Đấm như điên vào ô cửa tròn đã đóng(...)Thằng anh vừa đấm

vào ô cửa, vừa hét trong những giọt nước mắt: " Bé ơi, có thấy anh không. Anh

đang ở đây này". Còn sự dửng dưng, lạnh lùng vô cảm của bác tài được thể hiện

qua những hành động: “bác tài nào cũng như người máy, thành thạo vài động

58

tác đơn giản, chính xác, lịch sự. Khách quẹt thẻ, im lặng tự vào chỗ ngồi. Khách

trả tiền mặt, bác nhìn thẳng, tay chìa đưa vé, nhận tiền bỏ vào cái hộp nhỏ bên

cạnh. ” (Thành phố đi vắng). Con người giống như những con rô bốt thành thạo

những động tác nhưng không bao giờ biểu lộ xúc cảm, không buồn, không vui,

không gắn kết yêu thương.

Như vậy những hành động việc làm của nhân vật không chỉ góp phần tạo

kịch tính cho câu chuyện, thúc đẩy cốt truyện phát triển mà thông qua đó nhà

văn còn tái hiện chân dung tinh thần, cuộc đời, số phận của các nhân vật. Cũng

thông qua những hành động, việc làm đó, bạn đọc cảm nhận được thói quen sinh

hoạt, nếp sống của con người đô thị hiện đại với bao đổi thay, xáo trộn.

3.1.3. Miêu tả nhân vật qua ngôn ngữ

3.1.3.1. Ngôn ngữ độc thoại

Độc thoại là phát ngôn của nhân vật nói với chính mình, trực tiếp bày tỏ

tâm tư, tình cảm, suy nghĩ bên trong của mình. Đây là thủ pháp nghệ thuật quen

thuộc được nhiều nhà văn, nhà thơ khai thác sử dụng nhằm miêu tả thế giới nội

tâm cũng như tính cách, số phận nhân vật. Trong văn học Việt Nam từ văn học

trung đại đến văn học hiện đại nhiều tác giả cũng đã sử dụng thành công thủ

pháp nghệ thuật này góp phần tạo nên những nhân vật bất hủ như Truyện Kiều

của Nguyễn Du, Chí Phèo của Nam Cao… Kế thừa truyền thống đó, trong

nhiều truyện ngắn của mình Thu Huệ cũng sử dụng triệt để loại ngôn ngữ này

đem lại hiệu quả nghệ thuật cao.

Trong truyện ngắn của Thu Huệ, ngôn ngữ độc thoại xuất hiện nhiều dưới

dạng tự bạch. Tự bạch là nhân vật xưng tôi, tự kể chuyện về mình, trực tiếp bộc

lộ những suy nghĩ, tình cảm, tâm tư thầm kín của chính mình. Có thể thấy kiểu

ngôn ngữ này xuất hiện trong một số truyện ngắn như: Người đi tìm giấc mơ,

Biển ấm, Ám ảnh, Hình bóng cuộc đời…

59

Người đi tìm giấc mơ là lời tự bạch của một cô gái bất hạnh. Sinh ra mà

chưa một lần được gặp cha, chưa một lần gọi tiếng cha, lớn hơn, mẹ cũng bỏ đi

tìm hạnh phúc khác, cô bé bỗng dưng thành một đứa trẻ mồ côi. Điểm tựa tinh

thần cuối cùng là người bà tần tảo. Hai bà cháu nương tựa rau cháo qua ngày với

một cửa hàng sách nhỏ. Những tưởng cô sẽ tìm được hạnh phúc và bến đỗ bình

yên khi có một chàng trai đem lòng yêu mến muốn cưới làm vợ, dù người đó có

bị tật nguyền. Nhưng về nhà chồng cô mới biết gia đình chồng chỉ coi cô như cái

máy đẻ. Chẳng thể sinh con, họ chửi bới hắt hủi, đánh đập cô dã man. Bà chết,

chỗ dựa tinh thần duy nhất không còn, nỗi đau thể xác cùng những giày vò về

tinh thần khiến cô bấn loạn, đi lang thang và sống với giấc mơ không thành của

mình: giấc mơ hạnh phúc. Lời tự bạch của cô gái cho thấy những tâm trạng đau

đớn, những bi kịch cùng niềm khao khát kiếm tìm hạnh phúc của nhân vật.

Ám ảnh cũng là lời tự bạch của Thạnh về cuộc sống gia đình của mình.

Lớn lên trong một gia đình không hạnh phúc, cha là một kẻ gia trưởng, vũ phu

ngoại tình hết với người đàn bà này đến người đàn bà khác, Thạnh- một đứa trẻ

mới lớn chịu nhiều ám ảnh. Ám ảnh về việc làm sai trái của bố, ám ảnh về

những đổ vỡ trong gia đình, ám ảnh về sự hiền từ đến nhu nhược của mẹ để rồi

cậu bé lớn lên luôn mang trong mình nỗi ám ảnh về tội ác. Ám ảnh mình một

ngày đó sẽ giết cha, giết những người đàn bà phá vỡ hạnh phúc gia đình người

khác và bị xử tử…Lời tự bạch của Thạnh cũng đem đến cho người đọc nhiều ám

ảnh, nhiều bài học nhân sinh sâu sắc.

Bên cạnh lời tự bạch, truyện ngắn của Thu Huệ cũng chọn dạng ngôn ngữ

độc thoại nội tâm dưới dạng nhật ký để khám phá thế giới tinh thần bên trong

con người. Trong Hậu thiên đường kiểu ngôn ngữ này đã phát huy tối đa tác

dụng trong việc miêu tả thế giới nội tâm của nhân vật. Những suy nghĩ ngây thơ,

trong trẻo của cô con gái về tình yêu, cuộc sống được gửi gắm qua những trang

nhật kí: “Ngày. Hôm nay đang ngồi trong lớp đợi mưa tạnh, chợt thấy cuối

đường một chị che cái ô đỏ. Đẹp thế không biết…”, “Ngày. Sao mẹ hay về

60

khuya thế. Mình mà như mẹ, mình sẽ lấy chồng”, “Mình thích anh ấy vì mắt anh

ấy đẹp”, “Ngày. Mình nhớ anh ấy quá. Hai ngày không thấy anh ấy đâu. Hay

anh ấy ốm rồi. Đi học về, mình cứ thấy ngơ ngác thế nào ấy. Bỗng nhiên anh ấy

hiện ra ở đầu đường: bé con, mấy ngày vừa rồi anh phải có phi vụ làm ăn. Nhớ

em quá, phải đón em đây. Ối giời ơi, sao mình sung sướng thế. Mình yêu anh ấy

mất rồi. Mẹ bảo cái bọn đàn ông rặt một loạt đểu cả, đừng nên tin ai. Mình thì

thấy ai cũng đáng tin hết, nhất là anh”. Nhật kí trở thành người bạn tri kỉ để cô

bé gửi gắm, giãi bày bao vui buồn, mong ước trong cuộc sống. Thiếu vắng tình

yêu của cha, sự quan tâm của mẹ, tất cả những tâm trạng phức tạp của cô gái

mới lớn gửi tất vào những trang nhật kí. Để rồi, một ngày người mẹ vô tình đọc

được những dòng tâm sự ấy, chị hốt hoảng nhận ra con mình đã lớn. Đau đớn tột

cùng khi chị phát hiện con gái đang đi vào vết xe đổ của mình năm xưa. Bao

nhiêu sự giằng xé, day dứt của người mẹ được diễn tả bằng những lời độc thoại:

“tôi lặng người”, “tôi có cảm giác như mình bỗng hóa thành đá”, “tôi lặng lẽ ra

sân”, “tôi có cảm giác như mình bỗng tan thành nước”, “giống như một người

điên”… Để rồi, cuối cùng chị đã chết trong nỗi uất hận, trong sự ân hận tột cùng

của một người mẹ thương con nhưng quá muộn màng.

Sử dụng ngôn ngữ độc thoại, Thu Huệ đã đi sâu miêu tả được đời sống bên

trong tâm hồn con người khơi dậy những xúc cảm thầm kín nhất, những khát

vọng giấu kín, những nỗi niềm riêng khó có thể giãi bày của con người đô thị

hiện đại. Qua đó Thu Huệ cũng chứng tỏ tài năng am hiểu đời sống tình cảm của

con người cũng như biệt tài miêu tả tâm lí nhân vật. Tất cả góp phần tạo nên

những trang văn giàu xúc cảm, đem đến cho bạn đọc những thông điệp nhân văn

sâu sắc.

61

3.1.3.2. Ngôn ngữ đối thoại

Bên cạnh sử dụng ngôn ngữ độc thoại để thể hiện tính cách, tâm trạng của

nhân vật thì Nguyễn Thị Thu Huệ còn sử dụng ngôn ngữ đối thoại.

Con người đô thị hiện đại mải miết chạy theo vòng xoáy của tiền tài, danh

vọng vì vậy yêu thương con người dành cho nhau ngày càng ít. Trong truyện

ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ, chúng tôi thấy xuất hiện khá nhiều những mẩu

đối thoại ngắn, rời rạc giữa các nhân vật. Con người như chìm vào thế giới của

cá nhân. Người ta không đối xử với nhau cởi mở, hồ hởi, thân thiện như trước

nữa. Tất cả đều kiệm lời tới mức tối đa:

-“Cô có thể ngồi với tôi vài phút, tôi muốn hỏi cô chuyện này”,

-“Dạ”

- “Tôi có việc phải đi xa thành phố ba năm”

- “Dạ”

- “ Hồi trước khi đi, tôi và bạn trai thường ăn ở đây, lúc ấy cô đã làm quản

lý, cô có nhớ tôi không”.

-“ Dạ. Tôi có nhớ chị. Bạn chị người Thụy Điển”.

-“ Đúng rồi”.

Đó là đoạn đối thoại giữa cô gái đi xa sau ba năm trở về thành phố thân

yêu với người quen cũ trong Thành phố đi vắng. Những câu trả lời ngắn như

tiếng của những con rô bốt phát ra từ miệng của cô quản lí nhà hàng đã cho thấy

cuộc sống của con người đô thị, mải miết với công việc, với bộn bề lo toan kiếm

sống, tình yêu thương, sự quan tâm, cởi mở chân thành con người dành cho

nhau ngày càng ít đi.

Suy nghĩ và lối sống của những sinh viên trí thức cũng được phơi bày qua

ngôn ngữ đối thoại giữa Hoài và Thanh:

62

- “Nó vừa ki, vừa Trư như thế mày đánh đu làm gì?

- Nó không ki với tao. Nó làm ăn được toàn đưa tao giữ để chi tiêu.

Thằng này tuy cục súc nhưng được cái thật thà. Chỉ ăn ngủ và vần tao

chứ không để ý con khác. Trong khi các khóa sau mình bao con hơ hớ

ra đấy. Không yêu nó, mày bảo yêu ai?..” (Xin hãy tin em)

Trong Phù Thủy bản chất dâm ô, xấu xa, sự tha hóa biến chất của lão hàng

xóm cũng được bộc lộ qua đoạn đối thoại với đứa trẻ:

“- Tại sao bác cứ nhìn cháu. Nó hỏi

- Cháu bao nhiêu tuổi. Ông ta hỏi và ngồi bên cạnh.

- Mười hai tuổi- Nó trả lời

- Lớn quá. Ngực cháu rất đẹp

- Gì cơ ạ? Nó không hiểu ông ta nói gì.

- Ngực cháu ấy. Nó trắng ngần và phổng phao như ngực thiếu nữ. Chú

chưa thấy ai có bộ ngực như cháu(...)

- Chú sẽ dạy cho cháu hiểu. Cuộc sống tuyệt lắm. Nhà chú cách nhà cháu

cái ngõ, sang đó chú dạy cháu thành người lớn”.

Bộ mặt vô liêm sỉ của kẻ dâm ô đã được phơi bày khi lão hàng xóm gạ gẫm

con bé đáng tuổi con mình. Dù là một người đàn ông lớn tuổi, đã có gia đình

đàng hoàng, nhưng hắn sẵn sàng buông ra những lời tán tỉnh thô thiển, thiếu

văn hóa với một đứa trẻ vị thành niên. Những lời lẽ thô tục ấy như một thứ nước

rửa, phơi bày bộ mặt bỉ ổi của hắn, khiến hắn hiện nguyên hình là một tên yêu

râu xanh đáng khinh bỉ.

Trong truyện ngắn Thiếu phụ chưa chồng sự trơ tráo, ích kỉ của My cũng

được qua những lời nói My nói với chị:

63

- Thôi đi, chuyện sau này chị đừng bàn ra đây, biết đâu tôi không nhằn

được chồng chị trước. Thời của tôi khác thời của chị rồi. Sống như các mẹ, các

chị mà ngớ ngẩn à? Giời ơi, biết có sống đến lúc ấy mà ân với cả hận.

- Thế em muốn gì? Em không nghĩ đến thằng cháu ruột em à, và gia đình

mình nữa. Con người sống lúc nào cũng chỉ có mình với người mình yêu đâu,

có biết bao mối quan hệ?

- Tôi sống với Dương, không cần cưới xin, anh chị cũng chẳng cần bỏ

nhau,chỉ cần viết cho tôi một cái giấy cam kết thôi là đủ.

Tôi cóc cần sống vì ai, tôi vì tôi bởi vì có ai vì tôi đâu.”

Qua lời lẽ táo tợn sống sượng của mình, My bộc lộ là một cô gái ích kỉ đến

tàn nhẫn, chỉ vì ham muốn, dục vọng các nhân mà sẵn sàng chà đạp, bất chấp cả

luân lí đạo đức. Cũng qua đoạn đối thoại này, người đọc cảm nhận được sự nhu

mì, yếu đuối, đau khổ thậm chí có phần bế tắc, bất lực của Hảo khi biết chính

chồng và em gái ruột là những kẻ đâm sau lưng cô. Khác với lối sống ích kỉ chỉ

biết đến mình của My, Hảo là người phụ nữ giàu tình cảm, trân trọng những giá

trị đạo đức truyền thống. Hảo cũng là người từng trải khi chị nhận ra rằng, con

người không chỉ sống với tình yêu mà xung quanh còn có bao mối quan hệ cần

nâng niu giữ gìn, không thể vì tình yêu của bản thân mà chà đạp lên tất cả nhất

là tình cảm gia đình thiêng liêng quý giá.

Như vậy ngôn ngữ trở thành thủ pháp hữu hiệu giúp nhà văn tái hiện chân

dung nhân vật con người đô thị. Bởi lẽ tính cách nhân vật không chỉ bộc lộ qua

hành động cử chỉ, điệu bộ mà còn qua lời nói. Hơn thế thông qua ngôn ngữ,

người đọc cũng cảm nhận được thói quen tư duy, giao tiếp của cả cộng đồng

trong thời kì đô thị hóa.

64

3.2. Không gian- thời gian nghệ thuật nghệ thuật

3.2.1. Không gian nghệ thuật

Theo Từ điển thuật ngữ văn học, “Không gian nghệ thuật là hình thức bên

trong của hình tượng nghệ thuật, thể hiện tính chỉnh thể của nó” đồng thời “thể

hiện quan niệm về thế giới, chiều sâu cảm thụ của thời gian hay của một giai

đoạn văn học” [11, tr134]. Như vậy không gian nghệ thuật chính là môi trường

sống của nhân vật, là nơi diễn ra các biến cố, sự kiện của câu chuyện. Việc tạo

dựng không gian nghệ thuật như thế nào phụ thuộc vào tài năng và ý đồ nghệ

thuật của nhà văn. Nếu như trong điêu khắc và hội họa, chất liệu đặc trưng để

tạo ra những tác phẩm nghệ thuật là hình khối, đường nét, màu sắc, vì vậy

những người nghệ sĩ chỉ có thể lựa chọn cho mình một không gian tĩnh. Nghĩa

là, trong hội họa và điêu khắc không có sự, vận động phát triển của không gian,

thời gian. Nhưng với chất liệu đặc trưng để xây dựng tác phẩm văn học là ngôn

từ, nên nhà văn có thể dễ dàng đưa người đọc di chuyển đến nhiều không gian,

thời gian khác nhau. Có thể là không gian rộng lớn nhưng cũng có thể là không

gian hẹp, có thể là không gian thực cũng có thể là không gian tâm tưởng mang

nặng tâm trạng của con người. Qua việc khảo sát các truyện ngắn của Thu Huệ

viết về đề tài đô thị, chúng tôi nhận thấy trong các sáng tác của chị xuất hiện

một số kiểu không gian như: Không gian gia đình, không gian căn phòng, không

gian tâm tưởng.

3.2.1.1. Không gian gia đình

Một tỷ lệ lớn truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ chọn không gian gia

đình làm nền cảnh cho câu chuyện. Chúng ta bắt gặp kiểu không gian này trong

nhiều câu chuyện của Thu Huệ như: Sống gửi thác về, Nước mắt đàn ông, Hậu

thiên đường, Phù Thủy, Tân Cảng, Ám ảnh, Của để dành... Những mặt trái

của nền kinh tế thị trường, sự thay đổi quan niệm, giá trị sống của con người

đương đại được phản chiếu trong không gian đô thị thu nhỏ: gia đình.

65

Gia đình vốn là tổ ấm thiêng liêng mà ở đó các thành viên gắn kết yêu

thương, là nơi con người tìm được bến đậu bình yên sau những bão giông của

cuộc đời nhưng trong những ngôi nhà xa hoa lộng lẫy kia biết bao con người vẫn

ngày đêm sống với nỗi cô đơn, giày vò, bi kịch. Đó là nỗi cô đơn buồn tủi của

người phụ nữ trong những đêm dài thiếu vắng bóng chồng; nỗi đau đớn của hai

đứa trẻ khi phải li biệt mỗi đứa một nơi (Tân Cảng); là nỗi đau, sự bất lực của

một người đàn ông không đủ sức níu kéo, gìn giữ hạnh phúc đời mình (Dĩ

Vãng); là sự đau đớn cô đơn của người cha suốt một đời hi sinh cho gia đình

(Nước mắt đàn ông); sự bế tắc của cô con gái khi thiếu vắng tình thương, sự

quan tâm chăm sóc của mẹ để cuối cùng đi vào vết xe đổ của mẹ (Hậu thiên

đường); là sự ngờ vực không hiểu được chính cha mẹ của mình (Phù Thủy); là

nỗi ám ảnh của người con khi chứng kiến thói gia trưởng, trăng hoa của chính

cha mình (Ám ảnh) và cả những xáo động của cuộc sống gia đình trước cơn sốt

kinh tế thị trường (Mi-nu xinh đẹp)… Tái hiện không gian gia đình, Thu Huệ đã

thấy được những tác động ghê gớm của nhịp sống hiện đại, của nền kinh tế thị

trường đối với từng gia đình. Bởi lẽ gia đình chính là tế bào của xã hội. Mọi sự

biến động của xã hội đều ít nhiều tác động đến gia đình.

Chính bởi lẽ con người không tìm được sợi dây gắn kết, tình yêu, hạnh

phúc trong gia đình nên nhiều nhân vật trong truyện ngắn của Thu Huệ đã có

thiên hướng xê dịch thoát khỏi không gian ấy. Đó là hình ảnh của Lan trong Một

nửa cuộc đời. Suốt ngày quanh quẩn trong nhà, bên xó bếp với những công việc

thường nhật của một người mẹ, người vợ, Lan cảm thấy ngột ngạt, nhàm chán,

vô vị. “Ngày nào em cũng thấy mòn đi, mỗi ngày một tí, một tí… Em trở nên đần

độn, trì trệ, quẩn quanh ở xó bếp, xó cửa… Chỉ mươi năm nữa, em thành một cụ

già bốn mươi tuổi, không ai nhận ra em nữa”. Chính vì thế, Lan mong muốn

vượt thoát ra khỏi không gian gia đình để đến một chân trời mới bên người tình,

được nếm trải những ngọt ngào, lãng mạn, bay bổng của tình yêu. Nhưng sau

những xúc cảm thăng hoa giữa biển trời bao la, trở về với không gian quen

66

thuộc, Lan lại thấy day dứt, hối hận. Như vậy sự xê dịch không gian ra khỏi gia

đình chỉ là một phép thử để con người biết trân quý hơn những gì mình đang có

và có ý thức gìn giữ hạnh phúc gia đình.

Gia đình người Việt xưa ít nhiều đều có sự gắn kết với cộng đồng xã hội

theo kiểu như “bán anh em xa, mua láng giềng gần”, hàng xóm “tối lửa tắt đèn

có nhau”, nhưng trong bức tranh đô thị hiện đại, gia đình gần như có sự bức tử

với môi trường xung quanh. Không thấy, không có một sợi dây gắn kết, một mối

quan hệ thân xơ nào được nói đến trong ngôi nhà của vợ chồng Tân- Luyến

trong Sống gửi thác về. Suốt chiều dài tác phẩm, theo chân cuộc đời của Luyến

từ khi lấy chồng, sinh con, rồi chết đi vì bị bạo bệnh, người ta không thấy một

mối quan hệ bạn bè thân quen nào hiện hữu trong gia đình của cô. Quanh năm

suốt tháng, với cái dáng nằm ngủ úp thìa, ngày qua tháng lại, với từng ấy công

việc quen thuộc, từng ấy con người trong gia đình, nhịp sống trôi đi nhịp nhàng

đến buồn tẻ. Đó cũng là lối sống quen thuộc của nhiều gia đình đô thị hiện đại,

nhà nào biết nhà nấy, không ai quan tâm tới ai, không nhà nào can thiệp vào đời

sống riêng của nhà nào.

Có thể nói, không gian gia đình là kiểu không gian xuất hiện nhiều hơn cả

trong truyện ngắn về đề tài đô thị của Nguyễn Thị Thu Huệ. Đây không chỉ là

không gian sống, không gian sinh hoạt, nơi diễn ra những biến cố sự kiện của

câu chuyện mà nó còn là một tín hiệu thẩm mĩ mang nhiều ý nghĩa. Xây dựng

không gia gia đình, Thu Huệ đã chỉ ra cả những tác động tích cực lẫn những hệ

lụy của quá trình đô thị hóa đối với đời sống mỗi gia đình, cái được đi cùng

những cái mất, cái phát triển đi lên đi cùng cả những đổ vỡ. Chính vì vậy mỗi cá

nhân, mỗi gia đình cần phải biết giữ gìn, trân quý những gì mình đang có trước

những biến động, đổi thay hàng ngày của xã hội.

67

3.2.1.2. Không gian căn phòng

Đối lập với những căn biệt thự rộng lớn xa hoa là hình ảnh của những căn

phòng nhỏ hẹp tù túng. Đó là nơi sinh hoạt, là không gian sống, không gian làm

việc của con người đô thị hiện đại. Cùng với sự phát triển chóng mặt của quá

trình đô thị hóa, dân thành thị ngày càng đông đúc hơn. Khát vọng được ra thành

phố, được bám trụ và sinh sống tại những đô thị phồn hoa đã tạo ra sức ép mạnh

mẽ về không gian sống tại những đô thị lớn. Phố chật người đông, cuộc sống trở

nên ngột ngạt, con người ngày càng đoạn tuyệt với thiên nhiên. Những sinh hoạt

văn hóa cộng đồng cũng dần mất đi, con người thu mình trong không gian tù

túng chật chội. “Đó là căn phòng mười ba mét vuông chứa tới mười tám người

và chuẩn bị đón thêm hai ông bà già là thành hai mươi” (Giai nhân). Hay “Căn

phòng mười bốn mét vuông, tầng xép của một khu nhà Pháp cổ, trần cao, sàn

gỗ” của Quang trong Chủ nhật được xem phim hoạt hình. Không gian ấy là nơi

để nhân vật cảm nhận cuộc sống vô vị nhạt nhẽo của mình với những chiều chủ

nhật xem phim hoạt hình. Đó là cảm giác ngộp thở khi “cả tuần ngồi trong căn

phòng chín mét vuông, chung với ba đồng nghiệp, dưới ánh sáng của bốn bóng

đèn nêông, cửa sổ luôn đóng để chống, bụi chống ồn” của cô gái trong Trong

lúc ăn một bát phở Gia truyền. Để rồi cô khao khát có những ngày chủ nhật

thong dong hít khí trời, ăn một bát phở ưa thích, ngồi nhâm nhi một cốc cà phê.

Nhưng rồi lo lắng, bất an bởi những hiểm nguy luôn rình rập cô lại tự nhốt mình

trong “góc phòng mười hai mét vuông, không cửa sổ giữa một chung cư cũ là

lựa chọn duy nhất cho ngày cuối tuần nếu không muốn ra đường và đối mặt với

bọn cướp chuyên nghiệp” có trang bị vũ khí. Còn người đàn bà ba mươi tám tuổi

xinh đẹp chưa chồng trong Giai nhân đã tự giam mình ba ngày quanh quẩn

trong bốn bức tường, dọn dẹp lặt vặt, chờ tiếng chuông điện thoại, tiếng gõ cửa

của một ai đó để nhắc rằng người ta vẫn nhớ đến cô nhưng tuyệt nhiên không

có. Chính trong sự chật hẹp ấy, cô có cơ hội đối diện với chính mình, để cảm

nhận một cách sâu sắc, thấm thía nỗi cô độc của cuộc đời. Trong Thành phố đi

68

vắng, cô gái trở về xứ sở thân yêu của mình sau ba năm xa cách nhưng tất cả

đều vỡ òa trong sự thất vọng bởi cảnh vật vẫn như xưa nhưng tình người đã “đi

vắng”. Cô chọn cho mình không gian là căn phòng khách sạn ngày xưa để cảm

nhận rõ rệt những mất mát, đổi thay của tình đời, tình người: “Ba năm qua rồi,

giờ cô đứng một mình nơi cửa sổ, nhìn xuống đường. Sau lưng cô, trong phòng,

không có những bức phác thảo rải kín mặt giường. Không quần áo bừa bãi vắt

khắp nơi. Không có anh. Không có bia. Mùa hè nhưng lạnh. Giá vẽ mini gập

nguyên dựng góc cửa. Bảng màu và những ống sơn gọn gàng im lặng chân

giường”. Nhốt mình trong căn phòng nhỏ, cô gái đã cảm nhận một cách sâu sắc

những mất mát, đổi thay của cuộc sống phố phường. Cảnh cũ, người xưa, nhưng

mọi thứ xung quanh giờ đã thay đổi, con người trở nên lạnh lùng, vô cảm hơn.

Xây dựng không gian đời tư nhỏ hẹp, biệt lập với không gian đô thị rộng

lớn Thu Huệ càng cho thấy con người cá nhân ngày càng cô đơn, thu mình bởi

họ luôn cảm thấy lo lắng trước những biến động của đời sống xã hội.

3.2.1.3. Không gian tâm tưởng

Khảo sát các truyện ngắn của Thu Huệ, chúng tôi nhận thấy trong tác phẩm

của chị không chỉ xuất hiện không gia đình, không gian căn phòng, nơi diễn ra

những sinh hoạt đời tư, công việc, cuộc sống hằng ngày của con người đô thị,

mà kiểu không gian tâm tưởng cũng xuất hiện khá nhiều. Đó là không gian tâm

trạng chất chứa bao nỗi niềm, tâm tư, ước vọng của con người. Đó có thể là

không gian quá khứ, có thể là không gian của mơ ước, khát vọng.

Khi cuộc sống thực tại gặp nhiều bi kịch, con người thường có thiên hướng

tìm về với quá khứ, với những hoài niệm. Vì vậy kiểu không gian hồi tưởng

cũng là một đặc sắc nghệ thuật xuất hiện trong nhiều truyện ngắn của Thu Huệ.

Đó là những kí ức về tuổi thơ ngọt ngào bên mẹ: “Ngày xưa. Mẹ gánh Dương

một bên, gánh tép một bên, đung đưa, đung đưa từ chợ chiều về. Qua khu chợ.

Qua rặng phi lao. Là biển. Ngày xưa. Lúc mới biết chạy. mẹ hay thả Dương bập

69

bõm bước trên cát, gần với mép sóng…” (Với tay là đến). Vùng biển nghèo, đầy

nắng, đầy gió hiện lên ăm ắp, vơi đầy trong kí ức của Dương. Nơi ấy có bóng

dáng hao gầy của người mẹ tảo tần, có khuôn mặt rạng ngời tin yêu, hy vọng của

cha, nơi ấy có biết bao người dân chài quanh năm rám nắng mà vẫn nặng nghĩa,

nặng tình. Nhưng tất cả chỉ còn trong kí ức, trong hoài niệm, không biết Dương

còn có cơ hội để trở về, để cho gió biển tạt vào da thịt, để hít thở hương vị của

cát, của mùi mồ hôi trên áo mẹ ướt đầm. Khi mà giờ đây, đối lập với không gian

ấy, mình Dương quằn quại đau đớn, vật vã đấu trọi lại những cơn thèm thuốc

trong trại cai nghiện.

Còn trong Thành phố không mùa đông không gian của quá khứ hiện cũng

hiện về trong dòng hoài niệm của nhân vật. Kỉ niệm ùa về trong tâm trí, những

không gian quen thuộc của ngày xưa: “Lúc này đây, tôi lại được hít trong

không gian mát lạnh của mưa, của miền rừng cộng với độ lạnh trong xe cái mùi

hương êm dịu của những hạt ngô rang”. Không gian kí ức gắn liền với những kỉ

niệm ấm áp về gia đình. Nhưng tất cả chỉ còn là hoài niệm, tiếc nuối.

Không chỉ tìm về với không gian hồi tưởng, tìm đến một thế giới khác, thê

giới của những giấc mơ, của khát vọng cũng là cách để con người xoa dịu những

bi kịch trong thực tại. Trong Người đi tìm giấc mơ kiểu không gian tâm tưởng

cũng xuất hiện trở thành tín hiệu thẩm mĩ giàu ý nghĩa. Đó là không gian xuất

hiện trong những giấc mơ của một cô gái chịu quá nhiều bất hạnh. Cuộc đời cô

là một chuỗi những buồn đau, mất mát, thiếu thốn và bi kịch: không có cha, lên

tám tuổi mẹ lại bỏ đi theo người khác, lớn lên lấy một người chồng tật nguyền

và thường xuyên bị gia đình nhà chồng đánh đập… Cuộc sống hiện thực có quá

nhiều bất hạnh đau đớn cô tìm đến những giấc mơ. Giấc mơ được đổi đời, giấc

mơ được làm hoa hậu, giấc mơ được hạnh phúc được lên thiên đường... Đó là

không gian của ước mơ, khát vọng khi đời thực cô chịu qua nhiều đắng cay, tủi

hờn.

70

Mai trong truyện Một đời sống khác luôn bị giày vò bởi căn bệnh đau đầu

quái ác. Sau mỗi giấc mơ, cơn đau đầu lại kéo đến. Cùng với cuộc sống hiện

thực, Mai sống cùng những giấc mơ. Những giấc mơ làm cô đau đớn: “Những

giấc mơ thật ám ảnh. Gần gũi. Cô đã khóc. Đã cãi nhau. Đau khổ. Tức giận. Vui

vẻ”. Giấc mơ đưa Mai về với những kỉ niệm của mối tình đầu:“ Mơ thấy anh

chở mình bằng xe đạp, leo dốc Tam Đảo Mùa đông trời tối. Vắng không bóng

người. Mình buồn ngủ, anh lấy cái khăn buộc lưng mình vào lưng anh, gò mình

leo dốc”. Giấc mơ đưa Mai đến gặp bố, gặp bà, với những kỉ niệm đã qua và cả

những điều sắp đến. Giấc mơ giờ đây cũng trở thành một phần không thể thiếu

trong cuộc sống của cô. Phải chăng những áp lực của cuộc sống hiện đại hôm

nay đang đè nặng lên con người, nó khiến con người ta trở nên ngộp thở, đau

đớn. Nỗi đau âm ỉ ăn sâu vào tiềm thức của con người. Làm thế nào để giải tỏa

những đau đớn và căng thẳng đó. Làm thế nào để con người có một cuộc sống

thật sự thanh thản. Đó cũng là câu hỏi nhức nhối mà nhà văn đặt ra giữa cuộc

sống hiện đại xô bồ.

Như vậy, với cách xây dựng không gian theo dòng tâm trạng, truyện ngắn

Nguyễn Thị Thu Huệ không chỉ đi sâu vào khám phá đời sống tâm lí của con

người mà còn diễn tả được đời sống hiện thực vô cùng phức tạp và luôn biến

động.

3.2.2. Thời gian nghệ thuật

Cũng theo Từ điển thuật ngữ văn học “Thời gian nghệ thuật là hình thức

nội tại của hình tượng nghệ thuật (…) thể hiện sự cảm thụ độc đáo của thời gian

về phương thức tồn tại của con người trong thời gian” [11, tr264]. Mỗi hành

động, sự kiện đều phải xảy ra ở một thời điểm nào đó. Vì vậy, đi liền với không

gian nghệ thuật là thời gian nghệ thuật. Mỗi nhà văn, mỗi thời đại lại có quan

niệm khác nhau về thời gian. Như trong văn học trung đại Việt Nam, các nhà

thơ quan niệm rằng thời gian là tuần hoàn, xuân qua xuân lại lại. Nhưng đến các

71

nhà Thơ Mới, Xuân Diệu lại cho rằng thời gian là tuyến tính, một đi không trở

lại, mỗi khoảnh khắc trôi qua là mất đi mãi mãi. Do được xây dựng bằng ngôn

ngữ nghệ thuật nên thời gian trong tác phẩm dễ dàng biến đổi linh hoạt, có thể là

thời gian kéo dài hàng thế kỉ, cũng có thể chỉ là một khoảnh khắc, có thể trôi qua

rất nhanh, thay đổi đột ngột, gấp gáp, cũng có thể chầm chậm, yên ả như những

thước phim quay chậm. Thời gian có thể được trần thuật cùng chiều với thời

gian tự nhiên, đó là thời gian tuyến tính, nhưng cũng có thể là thời gian đồng

hiện có sự đan cài hòa quện giữa quá khứ, hiện tại, tương lai. Việc miêu tả thời

gian như thế nào, nhanh hay chậm, tự nhiên hay đồng hiện, hồi tưởng… phụ

thuộc vào dụng ý nghệ thuật của nhà văn. Thời gian nghệ thuật cũng là một yếu

tố nghệ thuật góp phần khẳng định tài năng của tác giả cũng như sự thành công

của tác phẩm.

Trong các truyện ngắn của Thu Huệ viết về đề tài đô thị, chúng tôi nhận

thấy có nhiều kiểu thời gian khác nhau. Xin được liệt ra đây và phân tích tác

dụng nghệ thuật của hai kiểu thời gian chúng tôi cho là phổ biến: Thời gian

tuyến tính (thời gian tự nhiên) và thời gian đồng hiện (có sự đan cài quá khứ -

hiện tại - tương lai).

3.2.2.1. Thời gian tuyến tính

Thời gian tuyến tính là thời gian câu chuyện được miêu tả theo trình tự

trước sau. Kiểu thời gian này xuất hiện phổ biến trong văn học truyền thống như

Truyện Kiều, Truyền kì mạn lục… Với thời gian tuyến tính người đọc dễ dàng

nắm bắt diễn biến cốt truyện. Hình tượng nhân vật hiện lên sống động từ lai lịch,

tên tuổi, số phận từ khi sinh ra cho đến khi chết đi. Tuy nhiên kiểu thời gian này

không tạo ra những khúc quanh, ngã rẽ nên chưa tạo nên được sự hấp dẫn, bất

ngờ cho câu chuyện. Khảo sát truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ viết về đề

tài đô thị, chúng tôi nhận thấy nhiều truyện ngắn xuất hiện kiểu thời gian này

như: Sống gửi thác về, Tình yêu ơi, ở đâu? Phù Thủy, Của để dành… Kiểu

72

thời gian này góp một phần không nhỏ trong việc thể hiện cuộc sống, con người

đô thị hiện đại.

Vẫn biết thời gian trôi đi tuần hoàn, cuộc đời con người thì ngắn ngủi, hữu

hạn trong cái vòng quay vô tận của đất trời, nhưng từ xưa cho đến nay nhiều thi

sĩ vẫn ngậm ngùi tiếc nuối bởi quy luật nghiệt ngã đó của thời gian. Bà chúa thơ

Nôm Hồ Xuân Hương từng ngao ngán thốt lên: “Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại/

Mảnh tình san sẻ tí con con”. Sau này, ông Hoàng thơ tình Việt Nam Xuân Diệu

cũng tiếc nuối: “Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua/ Xuân còn non nghĩa

là xuân sẽ già/ …Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn/ Nếu tuổi trẻ chẳng hai

lần thắm lại”. Ta cũng bắt gặp tiếng lòng đồng điệu ấy trong con người đô thị

hiện đại ở nhiều truyện ngắn của Thu Huệ. Nhiều nhân vật của Nguyễn Thị Thu

Huệ cảm nhận thời gian trôi đi nhanh quá, chưa kịp tận hưởng hạnh phúc, chưa

kịp có hạnh phúc, hoặc chưa kịp chuộc lại lỗi lầm thì thời gian đã vụt qua. Đó là

sự trôi chảy không ngừng, một đi không trở lại của thời gian, kéo theo là sự tàn

phai của nhan sắc, sự khắc khoải mong chờ hạnh phúc trọn vẹn nhưng vẫn rơi

vào bi kịch của Quyên trong Tình yêu ơi, ở đâu? Câu chuyện được kể lại theo

dòng thời gian tuyến tính, từ khi Quyên trải qua mối tình đầu với chàng thi sĩ

nhiều mộng mơ, đến anh chàng ích kỉ, vũ phu làm cùng cơ quan với anh trai.

Hai mối tình tan vỡ, thời gian cứ thế qua đi, mùa đông qua, mùa hạ tới, qua cái

thời thiếu nữ nhiều mộng ước, giờ nàng đã hai nhăm. Những tưởng hạnh phúc sẽ

mỉm cười khi nàng gặp Bình, thế nhưng hạnh phúc đến với người ta thật dễ dàng

còn đối với nàng câu hỏi khắc khoải vẫn chỉ là “ Tình yêu ơi, ở đâu?”. Còn cô

gái trong Còn lại một vầng trăng sau khi trải qua biết bao biến cố thăng trầm

trong cuộc đời cô nhận ra rằng: “Thiên nhiên bao la vĩnh cửu. Thiên nhiên tồn

tại với muôn đời”, nhưng “Ôi cuộc đời con người ngắn ngủi quá!”. Để rồi thời

gian qua đi, khi mất đi những điều quý giá, khi cha không còn bên cạnh mình

nữa, cô mới thấy xót xa, ân hận: “Ngày tôi hai mươi tuổi. Tôi có tất cả. Nhưng

tôi không có nước mắt để khóc lúc bố tôi chết. Giờ đây. Hơn mười năm sau. Tôi

73

luôn tràn nước mắt trên mi thương nhớ bố”. Những xót xa, ân hận, day dứt của

cô gái giống như một lời nhắn nhủ, mỗi chúng ta cần phải trân quý những người

thân yêu bên cạnh mình, đừng để khi mất đi rồi mới thấy tiếc nuối thì đã quá

muộn.

Trong cuộc sống thường nhật, đặc biệt trong không gian gia đình, bước đi

của thời gian được đánh dấu bằng những công việc, sinh hoạt hàng ngày. Những

công việc lặp đi lặp lại ấy cùng với bước đi tuần tự của thời gian khiến cuộc

sống của con người trở nên nhàm chán, tẻ nhạt. Truyện ngắn Sống gửi thác về

kể về gia đình của vợ chồng Tân Luyến theo thời gian tuyến tính. Cả cuộc đời

của cô sống tù đọng quẩn quanh trong ngôi nhà đầy đủ tiện nghi nhưng vẫn thật

ngột ngạt bí bách. Dù người cha có đi nhiều nơi, học rộng hiểu nhiều cũng

không làm sao thay đổi được cuộc sống nghèo nàn, buồn tẻ về tinh thần của cô

con gái. Suốt đời cô, sống tại ngôi nhà của mình cùng chồng và cậu con trai tên

Dương. Quanh năm, suốt tháng cuộc sống vẫn trôi đi như thế “Quẩn quanh mãi

với vài ba dáng điệu/ Tới hay lui vẫn từng ấy mặt người” (Huy Cận). Rồi một

ngày Luyến phát hiện ung thư cuộc sống vẫn lặng lẽ trôi đi sống gửi thác về.

Câu chuyện đem đến cho bạn đọc thông điệp có ý nghĩa nhân văn sâu sắc: con

người đừng để những thứ tủn mủn, nhỏ nhặt mà biến cuộc sống của mình trở

nên vô nghĩa nhạt nhẽo.

Sự trôi chảy của dòng thời gian tuyến tính trên những trang văn của Thu Huệ nặng trĩu bao suy tư, chiêm nghiệm, ẩn chứa trong đó cả xúc cảm nhân văn sâu sắc.

3.2.2.2. Thời gian đồng hiện

Thời gian vốn có tính liên tục, một chiều, không thể đảo ngược, từ quá khứ,

đến hiện tại, rồi mới đến tương lai. Tuy nhiên trong thế giới nghệ thuật văn

chương, quá khứ, hiện tại và cả tương lai có thể cùng xuất hiện, đó là hiện tượng

mà người ta gọi là đồng hiện. Trong truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ kiểu

74

thời gian đồng hiện xuất hiện trong nhiều tác phẩm góp phần tái hiện cuộc sống

cũng như con người đô thị hiện đại.

Tân cảng là một câu chuyện đầy xúc động có sự đan xen giữa quá khứ và

hiện tại cùng những dự định tương lại. Quá khứ là những kỉ niệm êm đềm hạnh

phúc, anh và em được ở bên nhau. Khi đó dù gia đình của chúng còn nghèo,

phải ở trong không gian chật chội tù túng của những ngôi nhà tập thể nhưng lúc

nào cũng ngập tràn yêu thương. Còn hiện tại, ngôi nhà to, rộng đầy đủ tiện nghi,

đồ chơi chẳng thiếu thứ gì nhưng lại nhuốm màu li biệt. Cha mẹ li hôn, hai anh

em mỗi người một nơi. Sự đan xen giữa quá khứ và hiện tại đã tạo lên sự lôi

cuốn hấp dẫn cho cốt truyện. Đồng thời số phận, tính cách và những khao khát

của nhân vật dần được bật mí. Cuộc sống đô thị hiên đại ngày càng phát triển

nhưng không tránh được những va chạm, đổ vỡ.

Trong Hậu thiên đường, nhân vật tôi trong sinh nhật lần thứ 16 của con

gái đã kể: “Bây giờ, khi tôi bốn mươi tuổi thấy sao lâu nay để tuổi thơ con trôi

qua trong nỗi buồn sự cô đơn và hứng chịu nỗi cay đắng của người đàn bà bị

phụ bạc. Bỗng nhiên lâu lắm rồi tôi lại thấy phụ bạc nó”. Rồi trong chốc lát chị

nhớ lại quá khứ ngày xưa: “Chỉ có con tôi là khổ. Cái sự sinh ra nó trên đời

cũng vậ. Ngày ấy, khi sung sướng, chúng tôi chỉ nghĩ đến mình. Nhưng khi đau

khổ tôi lại mang nó ra mà soi, mà ngắm , và nhìn nó như chướng ngại vật cản

trở tôi bước trên đường đời”. Bằng việc tái hiện cả quá khứ và cả hiện tại, nhà

văn đã thể hiện được những đau khổ, dằn vặt, sự giày vò giằng xé trong tâm hồn

người mẹ từng có nhiều lầm lỗi.

Còn trong Dĩ Vãng, nhân vật tôi tìm gặp lại vị đội trưởng của mình năm

xưa. Những kí ức về những năm tháng nhập ngũ hiện về trong tâm trí của “tôi”.

Quá khứ chập chờn ẩn hiện đan cài hòa quyện vào nhau. Theo dòng hoài niệm

của nhân vật người đọc lại được trở về với những kí ức của anh, kí ức về vị đội

trưởng nghiêm khắc. Song hành với đó là cuộc sống hiện tại của vị đội trưởng

75

già. Vốn là người lính chinh chiến trải qua bao bão tố của chiến tranh, hôm nay

chú Xung lại phải đối diện với bao sự đổ vỡ, bi kịch gia đình. Vợ bỏ đi, lại về,

lại đi…cứ như thế để lại nỗi đau gặm nhấm trong tâm hồn người đàn ông từng

trải. Nhờ sử dụng thời gian đồng hiện mà người đọc cảm nhận được tính cách

cũng như những bi kịch tinh thần giằng xé của nhân vật.

Với tay là đến cũng có sự đan cài giữa thời gian hoài niệm và cuộc sống

thực tại, cùng những khao khát về tương lai của nhân vật Dương. Kí ức về tuổi

thơ ngọt ngào bên mẹ ở vùng biển nghèo quê hương dội về trong tâm trí của

Dương. Nó giống như dòng suối mát trong lành xoa dịu những đau đớn vật vã

của hiện tại khi Dương phải đối diện với cơn thèm thuốc. Nó cũng nguồn sữa

nuôi dưỡng những ước mơ, khát vọng được trở về với cuộc đời sau những vấp

ngã, lầm lỗi của một thời tuổi trẻ bồng bột. Sự đan cài hòa quyện giữa thời gian

hoài niệm với thời gian thực tại cùng những dự ước về tương lai vừa tạo nên sự

lôi cuốn, bất ngờ thú vị cho câu chuyện, vừa giúp người đọc hiểu hơn về số phận

nhân vật. Cùng với thời gian tuyến tính, thời gian nghệ thuật trở thành tín hiệu

tẩm mĩ giàu ý nghĩa.

Như vậy bằng việc xây dựng những kiểu không gian-thời gian khác nhau

Thu Huệ đã thể hiện được phong cách riêng của mình. Đây cũng là một trong

những yếu tố nghệ thuật hữu hiệu thể hiện bức tranh đô thị muôn màu.

3.3. Ngôn ngữ nghệ thuật

Ngôn ngữ là chất liệu, là phương tiện biểu hiện mang tính đặc trưng của

văn học. Không có ngôn ngữ thì không có tác phẩm văn học. M.Gorki khẳng

định: “Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học”. Ngôn ngữ trong tác phẩm văn

học là ngôn ngữ của đời sống, ngôn ngữ toàn dân nhưng đã được nâng lên thành

ngôn ngữ nghệ thuật. Nó đòi hỏi sự trau chuốt, gọt giũa, tinh luyện của nhà văn

như Maiacopxki đã nói:

Phải phí tốn ngàn cân quặng chữ

76

Mới thu về một chữ mà thôi

Những chữ ấy làm cho rung động

Triệu trái tim trong hàng triệu năm dài

Việc sử dụng ngôn ngữ để phản ánh cuộc sống cũng cho thấy tài năng của

người cầm bút. Để góp phần tạo nên bức tranh hiện thực đô thị đa sắc màu

trong truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ không thể không kẻ đến tài năng sử

dụng ngôn ngữ của nhà văn. Đọc các sáng tác của chị, người đọc cảm nhận được

một lối văn chương mộc mạc, giản dị đời thường, vừa sắc sảo, gai góc, bên cạnh

đó là một Thu Huệ đằm thắm dịu dàng với những trang văn giàu xúc cảm. Tất cả

đều góp phần đem đến cho bạn đọc những xúc cảm thẩm mĩ mạnh mẽ, đồng thời

góp phần tạo nên dấu ấn riêng cho phong cách nghệ thuật của nhà văn.

3.3.1. Ngôn ngữ mộc mạc đời thường, gai góc, sắc cạnh

Khác với ngôn ngữ thơ vừa hàm súc, đa nghĩa, vừa giàu hình tượng, ngôn

ngữ trong truyện ngắn gần gũi đời thường, mộc mạc giản, dị gần với ngôn ngữ

tự nhiên. Truyện ngắn của Thu Huệ sử dụng ngôn ngữ đời thường khá phổ biến.

Đó là lời ăn tiếng nói hằng ngày, những câu văn mang tính khẩu ngữ “Vứt mẹ

cái bằng đại học của cô đi, sử với chả sách. Ông giáo chủ nhiệm tôi năm lớp

mười hôm nọ tôi thấy đi bán sổ số kia kìa, tôi thương hại mua cho vài bộ, thiếu

nước ông ta vái sống tôi.” (Tình yêu ơi, ở đâu?). Ngôn ngữ trần trụi thậm chí có

phần thô nhám ấy đã phơi bầy được bản chất thực dụng của anh trai Quyên

trước cơn sốt kinh tế thị trường. Học hành, bằng cấp, chữ nghĩa sẽ không có

nghĩa lí gì cả nếu con người chẳng thể kiếm tiền. Hay: “Cá chó gì. Tao chỉ tin

em Hoài thôi. Anh chẳng cần cá cũng thắng bởi anh biết em quá”. Thu Huệ

cũng khéo léo sử dụng ngôn ngữ đậm chất địa phương cho một cô gái thôn quê

ra thành phố giúp việc: “Ấy bà biết không? Cháu “nà” có bốn đám hỏi nhưng

cháu “nà” đéo ưng đám nào. Toàn “nà” đồ chó dái”; “Nàm” thử vài việc chả

ra cái gì mà về quê “nại” gặp bọn chó dái. Đéo về nữa. Đéo có tiền tiêu khổ

77

“nắm” (Của để dành). Những thành ngữ, cách nói dân gian cũng xuất hiện

nhiều trong sáng tác của chị: “ nó ăn ốc, mình đổ vỏ. Ở đời chuyện đó thường

lắm” (Nước mắt đàn ông), hay “lọt sàng thì xuống đất rồi chôn luôn, không có

nia nào cả” (Thời gian của mỗi người). Những câu trần thuật ngắn, câu đặc biệt

cũng được sử dụng với mật độ dày đặc “Thế là đi. Như trốn. Như chạy. Như đứa

con chẳng ra gì vừa về nhà thấy bố mẹ nghèo bỏ đi” (Với tay là đến).. Đặc biệt,

điều thú vị là Thu Huệ đã nhanh chóng cập nhập ngôn ngữ hiện đại của nền

kinh tế thị trường làm cho tác phẩm của mình mang hơi thở nóng hổi của cuộc

sống mới “Bên B là chùm khế ngọt, bên A trèo hái mỗi ngày” (Nước mắt đàn

ông). Cũng bằng cách viết này chị đã đưa các nhân vật của mình đến gần hơn

với thực tế đời sống. Chân dung con người đô thị hiện lên sống động, chân thực

mà chúng ta đễ dàng bắt gặp đâu đó ngay giữa cuộc đời. Chính những yếu tố

ngôn ngữ ấy làm cho tác phẩm của Thu Huệ xích lại gần hơn với bạn đọc, đồng

thời phản ánh được những chuyển biến trong tư duy ngôn ngữ của con người

thời đổi mới.

Bên cạnh đó phải kể đến là khả năng sử dụng ngôn từ vô cùng sắc sảo, gai

góc của tác giả. Sự từng trải, vốn hiểu biết sâu rộng về đời sống xã hội con

người cùng tài năng vốn có giúp nhà văn có những nhận xét những câu văn ngắn

gọn mà như điểm đúng huyệt nói lên được thần thái, tính cách của nhân vật. Xưa

kia, Nguyễn Du chỉ với một câu thơ: “Ghế trên ngồi tót sỗ sàng” mà đã vạch

mặt bản chất tráo trở, lưu manh của Mã Giám Sinh thì nay cũng với cách sử

dụng ngôn ngữ tài tình, sắc sảo Nguyễn Thị Thu Huệ đã lột tả được bản chất của

con người đô thị. Bản chất của Hoài “thớt trơ” được miêu tả qua những từ ngữ

sắc sảo: “Hoài tiếp tục rít, càng sau càng ngon lành ngọt ngào. Mặt Hoài như

có sương phủ, mơ màng một vẻ đàng điếm đĩ thõa” (Xin hãy tin em). Chỉ với

một vài câu văn ngắn Thu Huệ đã lột tả được sự ăn chơi, buông thả, đàng điếm

của Hoài. Ngôn ngữ sắc sảo của nhà văn còn thể hiện ở việc nhà văn nói lên

những suy nghĩ mà ít người dám nói bằng những từ ngữ có phần mạnh bạo: “

78

Đàn ông là thế nào? Biết đánh nhau, biết chửi thề, hay biết giúp đỡ người khác?

Thế nào để biết một thằng giống đực là đàn ông hay không đàn ông?” (X-Men

có mùi trường đua)…

Như vậy, khi miêu tả con người cũng như bức tranh đời sống đô thị, Thu

Huệ sử dụng khá dày đặc chất liệu ngôn ngữ tự nhiên. Đó là ngôn ngữ xuất phát

từ lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân. Nhưng sự thông minh, khôn khéo và

tài năng của nhà văn là sử dụng chất liệu ấy một cách đúng lúc, đúng chỗ làm

cho chân dung, cuộc sống con người đô thị hiện lên sinh động chân thực.

3.3.2. Ngôn ngữ đằm thắm, dịu dàng

Bên cạnh một Thu Huệ sắc sảo, gai góc là một Thu Huệ đằm thắm dịu

dàng, giàu chất thơ để hướng vào thế giới nội tâm con người hoặc miêu tả những

bức tranh thiên nhiên trữ tình thơ mộng.

Những tình cảm yêu thương ngọt ngào, những buồn vui, cay đắng, bi kịch

đổ vỡ, những khao khát và cả những hy vọng, tin yêu… trong thế giới nội tâm

con người đô thị được Thu Huệ chạm khắc bằng một thứ ngôn ngữ dịu dàng

giàu xúc cảm. Là một người mẹ Thu Huệ đã có nhiều trang văn thực sự xúc

động thấm đẫm tình mẫu tử:“Chị đứng ở cửa vào.Thằng anh đeo ba lô đứng

bên cạnh. Anh đứng đối diện chị, bế trên tay thằng em đang díp mắt buồn ngủ.

Tay cầm chặt chiếc máy bay. Chị cúi lại gần thằng bé. Rúc khuôn mặt đầy nước

mắt vào cổ, hít một hơi dài như muốn nuốt mùi da thịt thơm tho của nó vào

lòng(…) Chị cúi mặt. Cắn chặt môi. Bất giác chị đưa tay ra nắm lấy tay anh

đang bóp chặt. " Xin lỗi anh. Xin lỗi con trai của mẹ..." (Tân Cảng). Đó là nỗi

đau đớn pha cả chút hối ận của người mẹ khi phải xa đưa con trai bé bỏng của

mình. Bởi chính sự ích kỉ của bản thân, chị đã làm tổn thương trái tim của các

con. Cả những rung động đầu đời, những cảm xúc yêu đương ngọt ngào cũng

được Thu Huệ miêu tả bằng một cách tinh tế: “Mối tình đầu tiên. Thoáng va

chạm, run rẩy đầu tiên. Tất cả tôi gửi gắm nơi anh”; “Người con gái đến tuổi

79

dậy thì có những đụng chạm đầu tiên với một người đàn ông thường bị xúc động

ghê gớm” (Biển ấm). Hay niềm hạnh phúc ngập tràn của cô gái đang yêu và

được yêu: “Cả đất trời bao la đầy ánh sáng này. Không có anh sẽ thành vô

nghĩa. Có anh. Trăng trở nên thần thánh… Tôi yêu cuộc sống này. Yêu đêm nay

quá” (Còn lại một vầng trăng). Với ngôn ngữ đằm thắm trữ tình, Thu Huệ đã

miêu tả tất thảy những biến thái tinh vi, những xúc cảm tinh tế trong tâm hồn

con người.

Đặc biệt, với ngôn ngữ dịu dàng đằm thắm, thiên nhiên trong nhiều truyện

ngắn của chị hiện lên thật thơ mộng trữ tình. Trong Dĩ vãng, tâm hồn của nhân

vật Linh đã có lúc rung lên xúc động trước cảnh đẹp khu vườn của ông Xung,

thủ trưởng cũ: “Bốn góc vườn là bốn cái cột điện. Ánh sáng vàng vàng tỏa tràn

lan trên các lối đi, vườn hoa, tán lá. Đúng là thần tiên. Tôi bỗng run lên vì xúc

động”. Hay khung cảnh của một đêm trăng tuyệt mĩ “Đêm nay. Trăng mười

sáu. Tròn trĩnh và trinh nguyên, vàng rực tưới ánh sáng xuống nước như thể lần

đầu hiển hiện trên đời.” (Cát đợi) “Trăng lên cao và vàng rực góc trời. Ánh

sáng vàng chảy như lụa từ trên trời cao mênh mông gió trải xuống mặt hồ”

(Mùa thu vàng rực rỡ). Đó là khung cảnh êm đềm thơ mộng của thành phố

biển:“Thành phố Tuy Hòa nhỏ nhắn, êm đềm quanh năm vỗ sóng. Thắng thuê

phòng nghỉ sát bên bờ biển, dưới tán xanh mát rượu của một rừng dừa và phi

lao. Làng xóm yên bình. Con người hiền hậu” (Một nửa cuộc đời)… Ẩn sau đó

người đọc cảm nhận được tấm lòng tinh tế, nhạy cảm yêu thiên nhiên, cuộc sống

của nhà văn. Sau cái ồn ào, bụi bặm của của sống đô thành con người vẫn luôn

kháo khát được trở về với thiên nhiên, sống chan hòa với tự nhiên.

Nhịp sống đô thị xô bồ bon chen ồn ã đôi khi làm cho con người trở nên

chai lì cảm xúc. Con người ngày càng quan tâm đến những thực đơn vật chất,

chạy theo vòng xoáy của tiền tài danh vọng, chăm lo cho những nhu cầu vật chất

xa hoa nhiều hơn. Cùng với đó là sự thờ ơ, vô cảm, bàng quan với cuộc sống,

con người xung quanh. Chính những trang văn dịu dàng, đằm thắm thấm đượm

80

tình người, tình yêu với thiên nhiên, cuộc sống của Thu Huệ đã đánh thức những

xúc cảm nhân văn trong tâm hồn con người. Giống như dòng nước trong trẻo

mát lành chất thơ ấy làm cho cuộc sống cân bằng hơn trong xã hội bụi bặm hôm

nay: “Bởi văn chương chính là thứ khí giới thanh ca, đắc lực mà chúng ta có, để

vừa tố cáo và thay đổi cái thế giới giả dối, tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm

phong phú và trong sạch hơn”(Thạch Lam).

3.4. Giọng điệu

Trong Từ điển thuật ngữ văn học, giọng điệu được hiểu là: “Thái độ, tình

cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả

thể hiện trong lời văn qui định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình

cảm, cách cảm thụ xa gần, thân, sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm

biếm (…) Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu

thẩm mỹ của tác giả, có vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong cách nhà văn

và tác dụng truyền cảm cho người đọc (…). Giọng điệu là một phạm trù thẩm

mỹ của tác phẩm văn học” [37, tr112]. Mỗi nhà văn muốn tác phẩm của mình

neo đậu được trong tâm hồn của người đọc thì cần tạo cho mình một phong cách

riêng. Bởi văn chương là lĩnh vực của cái độc đáo, sự lặp lại trong văn học đồng

nghĩa với cái chết. Nguyễn Thị Thu Huệ cũng tạo cho mình một dấu ấn riêng

bằng một chất giọng không trộn lẫn. Nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng khi nghiên

cứu về vấn đề giọng điệu trong tác phẩm của Nguyễn Thị Thu Huệ đã từng nhận

xét: “Nguyễn Thị Thu Huệ là một cây bút linh hoạt trong giọng điệu – lúc bạo

liệt, lúc thật thà, lúc thâm trầm triết lý, lúc đỏng đảnh, lại có lúc dịu dàng đến

bất ngờ” [41]. Đọc truyện ngăn của Thu Huệ, chúng ta nhận thấy sự biến đổi

linh hoạt đa giọng điệu khi thì lạnh lùng dưng dưng, khi lại châm biếm mỉa mai,

lúc lại dịu dàng sâu lắng. Đây cũng là một yếu tố nghệ thuật góp phần không

nhỏ trong việc miêu tả cuộc sống, con người đô thị hiện đại.

81

3.4.1. Giọng dửng dưng, lạnh lùng

Với con mắt tinh nhạy, sắc sảo, Nguyễn Thị Thu Huệ thường nhanh chóng

phát hiện ra những mảng tối, những bất ổn của đời sống con người trong xã hội

hiện đại. Khi đề cập đến những mặt trái, những thói tật xấu xa của con người,

nhà văn thường vạch trần bằng giọng văn lạnh lùng dửng dưng thậm chí là tưng

tửng.

Thu Huệ từng chia sẻ : “Ngày trước, những câu chuyện của đời sống đến

với tôi, và tôi kể lại chúng theo cách nhìn của một người trẻ, trong một xã hội ít

bất an, đâu đó còn nhiều góc bình yên. Bây giờ, đời sống của đám đông, của

những thân phận bị trồi lên trụt xuống quẫy đạp nhằm tồn tại trong những cơn

sóng táp thẳng, khiến tôi chao đảo, buồn bã và đau đớn. Và tôi đã kể những

chuyện qua lăng kính của tôi, những ngày tháng này”[50]. Đi nhiều, hiểu nhiều,

biết nhiều giúp chị có cái nhìn thản nhiên và bản lĩnh hơn trước những vấn đề

phức tạp của đời sống xã hội. Giống như cây đại thụ, khi đã trải qua nhiều

phong ba bão táp nó sẽ kiên cường, mạnh mẽ, vững trãi hơn trước bão tố cuộc

đời. Giờ đây Thu Huệ cũng vậy. Đọc Thành phố đi vắng, người đọc sẽ thấy một

Thu Huệ điềm tĩnh lạnh lùng, cảm xúc của người viết gần như được tiết chế tối

đa, mỗi câu chuyện giống như một bản tường trình của cuộc sống, để bạn đọc tự

nhìn nhận, khám phá và bày tỏ thái độ, tình cảm của mình trước mọi vấn đề của

đời sống. Lối sống thờ ơ, vô cảm trong đô thị hiện đại được Thu Huệ tái hiện

bằng một giọng văn thản nhiên:“Người ngồi cứng đơ như những bức tượng. Mỗi

khi xe phanh gấp, tượng người bê tông đó nghiêng nguyên khối, sau trở về trí

cũ. Mắt ai cũng nhìn vào khoảng trống trước mặt, đem cho người đối diện cảm

giác họ đang suy nghĩ rất sâu về một vấn đề riêng, tất cả đều mang khuôn mặt ơ

hờ, bình thản”(Thành phố đi vắng). Đó là giọng điệu dửng dưng, lạnh lùng khi

X-Men nói đến việc mình đã giết người: “X-Men nhìn xoáy nàng, thì thầm,

nghiêm trang: “Anh giết đấy”,“Không nhớ nhiều thế nào. Mà này, anh phải làm

82

gì hay nói thế nào,em mới chịu tin, là cô gái trôi ngoài biển ấy nhỉ?” (X-Men có

mùi trường đua).

Nhưng ẩn sau những câu chữ tưởng chừng như dửng dưng vô cảm ấy là bao

xót xa của một tâm hồn nhạy cảm trước những biến động của đời sống, của lòng

người. Đúng như Thu Huệ đã tâm sự “Lạnh lùng ở câu chữ, nhưng xa xót trong

tâm can”. Nhà văn vẫn chưa mất hẳn niềm tin vào con người, rải rác ở đâu đó

vẫn còn những người tốt luôn sống vì cộng. Tất cả những trăn trở ưu tư ấy càng

chứng tỏ Thu Huệ là một nhà văn chân chính luôn mong muốn đem văn chương

để phục vụ cuộc sống. Suy cho cùng mọi tác phẩm văn học có giá trị đều không

vượt ra khỏi quy luật Chân- Thiện- Mĩ.

3.4.2. Giọng mỉa mai, châm biếm

Bên cạnh giọng văn lạnh lùng dửng dưng, giọng điệu trong truyện ngắn

Thu Huệ biến đổi linh hoạt thành giọng điệu mỉa mai, châm biếm khi Thu Huệ

viết các truyện ngắn phê phán. Với cái nhìn hiện thực, dân chủ nhà văn đã chỉ ra

tất cả những thói hư tật xấu, những mặt trái của cuộc sống đô thị.

Giọng điệu mỉa mai, châm biếm được Nguyễn Thị Thu Huệ sử dụng để

phơi bày những thói hư tật xấu của con người cùng những mặt trái, nghịc lí trớ

trêu của xã hội. Đó là lối sống tha hóa của những anh cán bộ bề ngoài thì đạo

mạo, lịch lãm nhưng dễ dàng buông thả theo những cuộc vui: “Đi chơi gái nó có

cái hồi hộp riêng, không như đi nhậu, hay mát xa, loanh quanh toàn món quen.

Riêng món này, phải lạ mới bõ cái công hao tâm khổ tứ nói dối, tạo dựng hiện

trường, tốn tiền bạc. Cái gì lười còn châm chước được chứ chơi gái mà lười thì

nhạt lắm” (X-Men có mùi trường đua). Hay là sự giả dối của những kẻ khóc

thuê và thuê khóc trong đám tang: “Cứ mỗi đoàn vào viếng thì tiếng khóc lại rồ

lên. Đau đớn thảm thiết như thể cái kẻ đang nằm im như thóc, teo tóp trong

quan tài mới toe kia là một vĩ nhân đang độ sung sức mới lìa đời, để lại cho

nhân gian những công trình thế kỉ? Chẳng lẽ trong đám ma tôi lại phỉ nhổ.”

83

(Người đàn bà ám khói). Đó còn là lòng tham, sự hiếu kì của con người trong

cuộc sống hiện đại: “Việc cậu tôi trúng độc đắc lan nhanh khắp hang cùng ngõ

hẻm, nhanh hơn tin bão giật cấp mười ba” (Một chuyến đi). Hay sự thương mại

hóa trong các cuộc thi hoa hậu trong (X-Men có mùi trường đua): “Kính thưa

ban giám khảo. Kính thưa các nhà tài trợ quý hiếm –dừng cười - Ấy chết em

nhầm, các nhà tài trợ quý giá, vì nhờ có tài trợ thì chúng em mới có mặt ở đây

hôm nay”…

Tất cả những thói giả dối, bịp bợm, tham lam, ích kỉ, tha hóa biến chất của

con người hiện đại được vạch trần phơi bày sắc nét. Những con người ấy, đâu đó

vẫn hiện hữu quanh ta để rồi đi vào các trang văn của Thu Huệ đầy ám ảnh. Với

cái nhìn thẳng thắn, không né tránh hiện thực Thu Huệ dũng cảm chỉ ra tất thẩy

những thói hư tật xấu ấy không nhằm mạt thị con người mà đó là lời cảnh tỉnh:

mỗi chúng ta cần có bản lĩnh để giữ gìn nhân cách trước những biến động của

đời sống xã hội.

Như vậy có thể nói giọng điệu châm biếm, mỉa mai đã đem đến cho truyện

ngắn phê phán của Thu Huệ một âm hưởng riêng. Tuy nhiên nếu xuất hiện nhiều

nó dễ gây nhàm chán thậm chí là thất vọng bi quan nơi bạn đọc. Bởi lẽ cái ác,

cái xấu luôn song hành tồn tại cùng cái Đẹp, cái Thiện, nếu mỗi nhà văn chỉ đi

khơi sâu phê phán những mặt trái của xã hội đôi khi sẽ gây phản ứng ngược lại

với người đọc, dễ gây hoang mang, chán nản mất niềm tin cho con người. Công

việc của nhà văn không chỉ là lên án phê phán cái ác, cái xấu mà còn phát hiện

ra những vẻ đẹp ở chỗ không ai ngờ tới, tìm ra “hạt ngọc ẩn giấu” bên trong tâm

hồn con người để khơi dậy những xúc cảm thẩm mĩ, hướng con người tới Chân-

Thiện- Mĩ. Nắm bắt được điều đó nên bên cạnh những trang viết có phần sâu

cay, táo tợn đầy mỉa mai người đọc vẫn cảm nhận được một Thu Huệ với chất

giọng đằm thắm, trữ tình, dạt dào cảm xúc tin yêu, tươi vui đến bất ngờ: “Hình

như cô đang mơ. Những người tò mò nhìn thấy đôi lúc cô lại nhoẻn miệng cười”

(Người đi tìm giấc mơ). Hay sự thân thiện, vui vẻ giữa những con người cùng

84

sống trong một cộng đồng xã hội: “Cảm giác của việc chạy xe thật nhanh, rồi

dừng đánh phịch đột ngột làm mọi người dúi dụi, bất ngờ hít sâu mùi của người

bên cạnh. Va đập, hít ngửu nhau xong, cô và anh luôn phá lên cười. Khách trên

xe cũng cười” (Thành phố đi vắng).

Sự linh hoạt ấy không chỉ góp phần tạo nên sự đa giọng điệu trong truyện

ngắn của Thu Huệ mà còn tạo nên sự cân bằng giữa các giọng điệu đem đến cho

bạn đọc nhiều xúc cảm thẩm mĩ, đồng thời giúp nhà văn phản ánh hiện thực đa

diện sâu sắc hơn.

3.4.3. Giọng phân tích, chiêm nghiệm, triết lý

Đây là giọng điệu thường thấy trong các truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu

Huệ đặc biệt trong những truyện ngắn viết về đô thị.

Là một người phụ nữ từng trải, có vốn hiểu biết sâu rộng về đời sống xã hội

Thu Huệ đã có nhiều cảm nhận, chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời, tình yêu, con

người. Những chiêm nghiêm triết lí ấy hiện lên trên từng trang viết làm cho

những tác phẩm của Thu Huệ “đằm hơn”, sâu sắc hơn, gửi gắm đến bạn đọc

nhiều thông điệp nhân sinh thật ý nghĩa.

Thu Huệ có nhiều chiêm nghiệm thú vị, sâu sắc về quy luật của cuộc sống.

Đó là sự ngắn ngủi của kiếp người “Đời người ngắn ngủi lắm.” (Cầu thang).Vì

thế hãy biết nâng niu quý trọng cuộc sống, yêu thương nhiều hơn để cuộc sống

thực sự có giá trị. Con người sống cũng không nên quá tham lam, ích kỉ cầm

được, giữ được thì cũng buông bỏ được :“đừng giữ gì chặt quá. Đừng yêu

thương ai hay đồ vật gì quá. Rồi cũng tuột ra khỏi tay thôi” (Không thể kết

thúc). Ai trong cuộc đời cũng phải trải qua những buồn vui, hỉ, nộ, ái, ố, những

vấp ngã, chướng ngại, thậm chí là nghịch lí: “Sao con người phức tạp thế. Bão

tố và bình yên. Nó là cái gì nhỉ? Bão tố của người này là bình yên của kẻ

khác.”(Dĩ vãng). Vì thế hãy dũng cảm đương đầu và bước tiếp. Cần có bản lĩnh

để vượt qua chính mình và nghịch cảnh. Những đúc kết kinh nghiệm của dân

85

gian cũng được chị gửi gắm qua nhiều tác phẩm. Đó là thuyết nhân quả ở đời

“mọi thứ đều có giá của nó”; “trồng cây gì ăn quả nấy”; “gieo gì gặt nấy” ; “của

đi thay người” (Thiếu phụ chưa chồng, Hậu thiên đường, Phù thủy, Xin hãy

tin em, Chúng ta cần suy nghĩ về chuyện này…). Những bài học nhân sinh sâu

sắc ấy có ý nghĩa cảnh tỉnh sâu sắc đối với con người hôm nay. Bởi lẽ đứng

trước những cám dỗ nếu con người thiếu đi bản lĩnh đánh mất nhân cách của

mình thì cái giá con người phải trả là quá đắt. Cuộc đời mong manh vô thường,

hãy sống sao cho thật ý nghĩa, sống sao để không phải xót xa, ân hận, nuối tiếc.

Sự chiêm nghiệm và triết lý trong tác phẩm của Thu Huệ không chỉ hướng

vào tìm hiểu về cuộc sống mà còn đưa ra những triết lí thâm trầm về con người.

Đó là những triết lý thú vị về con người hiện đại: “Thế nào để biết một thằng

giống đực là đàn ông hay không đàn ông? Không phải ai giống đực cũng là đàn

ông. Giống đực khác. Đàn ông khác. Anh thấy khối cô nàng còn hơn đàn ông.

Nhiều thằng giống đực lèm nhèm hơn đàn bà” (X-Men có mùi trường đua).

Hay “Đàn bà đẹp lại thông minh thì khổ lắm”; “Đa tình lỗi chẳng phải tại đàn

bà. Lỗi ở đàn ông” (Hoàng hôn có màu cỏ úa). Đó là những chiêm nghiệm, mà

chị đã đúc kết từ những cuộc đời, số phận chị đã đi qua, đã trông, đã thấy dù có

thể “ Những điều trông thấy mà đau đớn lòng” nhưng nó là sự thật ở đời. Hơn

thế dưới ngòi bút của Thu Huệ, con người đô thị hiện lên không phải là những

bậc thánh nhân. Họ là những con người bình thường với cả “ rồng phượng và

rắn rết”, có cả phần thanh cao trong sạch lẫn những ham muốn, dục vọng xấu xa

thấp hèn. Đó cũng là cách tiếp cận con người theo tư duy đổi mới của văn học

Việt Nam đương đại.

Bên cạnh đó, Thu Huệ cũng đem đến cho người đọc nhiều triết lí về tình

yêu thâm trầm, sâu sắc. Cô gái (Đêm dịu dàng) trong giây phút đau đớn bẽ bàng

chợt nhận ra sự bỉ ổi của người yêu: “Hóa ra, là như vậy. Tôi cứ tưởng cái gì tôi

cũng biết. Nhưng có một điều tôi không hề biết là người ta có nhiều kiểu thay

lòng đổi dạ, nhiều kiểu bỏ người tình, ngon lành lắm”. Đó cũng là thực trạng

86

cay đắng trong tình yêu thời đô thị hóa. Đó là những mối tình “tình một đêm”,

“ăn bánh trả tiền”… Tình yêu không phải là thứ tình cảm vĩnh cửu như nhiều

người vẫn tôn thờ. Đôi khi, tình yêu nó nhuốm màu nhục cảm, đơn giản chỉ để

thỏa mãn dục vọng của con người, khi người ta chán, người ta sẵn sàng rũ bỏ

nhau. Nhưng bên cạnh đó, Thu Huệ cũng có nhiều trang văn viết về tình yêu hết

sức trong sáng (Sơ-ri đắng). Tình yêu đem đến cho con người nhiều xúc cảm

lãng mạn, nó làm con người yêu đời, yêu cuộc sống, và hạnh phúc hơn: “Ăn

cũng là một hạnh phúc. Ngủ cũng là một hạnh phúc.Yêu cũng là một hạnh

phúc”, khát vọng tình yêu là khát vọng muôn đời của con người giống như thi sĩ

Xuân Diệu từng thốt lên: “Làm sao sống được mà không yêu/ Không nhớ không

thương một kẻ nào?”

Những chiêm nghiệm, triết lí về tình yêu, cuộc sống, con người được Thu

Huệ gửi gắm qua thế giới hình tượng nhân vật sống động vì vậy nó dễ dàng

chạm tới trái tim và cả trí tuệ của người đọc. Những chiêm nghiệm ấy phần nào

được chắt lọc từ chính thực tế cuộc sống, từ những trải nghiệm, kinh nghiệm

sống của một người phụ nữ từng trải. Có thể nói, đây cũng là giọng điệu xuất

hiện trong truyện ngắn nhiều cây bút thời kì đổi mới, nhưng Thu Huệ vẫn tạo

được dấu ấn riêng bởi sự biến đổi linh hoạt, sự đa thanh trong giọng điệu.

Sự khéo léo, tài năng của Thu Huệ là đã biết sử dụng những chất giọng

trên vừa “đúng” mà lại vừa “ trúng”. Thói hư tật xấu, những mặt trái, góc khuất

của cuộc sống đô thị được Thu Huệ nói tới bằng chất giọng lạnh lùng, mỉa mai,

châm biếm nhẹ nhàng mà không kém phần sâu sắc. Nhưng ngay lập tức, Thu

Huệ lại tiết chế cảm xúc, đem đến cho bạn đọc những trang văn nhẹ nhàng, thấm

đẫm chất thơ như dòng suối mát xoa dịu những nhức nhối trong tâm hồn bạn

đọc, gieo vào lòng người những tin yêu, hi vọng. Chính điều đó đã tạo nên sức

hấp dẫn riêng cho những truyện ngắn của Thu Huệ đồng thời khẳng định lối viết

độc đáo, mới lạ của nhà văn.

87

Tiểu kết

“Nếu anh không có giọng riêng, anh khó trở thành nhà văn thực thụ” (Sê-

khốp). Tìm hiểu truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ chúng ta nhận thấy đây

là một cây bút có phong cách nghệ thuật độc đáo, tìm được cho mình một lối đi

riêng, một giọng điệu riêng. Thông qua nghệ thuật xây dựng nhân vật từ ngoại

hình, hành động cử chỉ đến ngôn ngữ đối thoại, độc thoại mà phẩm chất tính

cách cũng như thế giới nội tâm nhân vật hiện lên chân thực, sống động. Từ đó

người đọc hiểu được bức tranh đời sống cũng như chân dung con người đô thị

hiện đại. Thu Huệ cũng đã thành công khi xây dựng cho mình thế giới nghệ

thuật riêng với nhiều kiểu không gian, thời gian khác nhau. Hơn nữa, sức hấp

dẫn của truyện ngắn Thu Huệ còn bởi sự đa dạng, linh hoạt trong giọng điệu trần

thuật. Đọc truyện ngắn của chị chúng ta thấy có lúc chị dùng giọng dửng dưng

lạnh lùng, cũng có lúc lại thấy giọng điệu phân tích, chiêm nghiệm, triết lý, có

khi lại là giọng đằm thắm trữ tình. Những yếu tố nghệ thuật ấy góp phần tạo

nên dấu ấn riêng của nhà văn, khơi gợi ở bạn đọc nhiều xúc cảm thẩm mĩ đồng

thời làm phong phú thêm bức tranh văn xuôi nữ đương đại Việt Nam.

88

KẾT LUẬN

1. Bước vào thời kì đổi mới, quá trình đô thị hóa đã tác động mạnh mẽ đến

đời sống kinh tế - văn hóa xã hội Việt Nam. Văn học Việt Nam cũng có bước

chuyển mình mạnh mẽ. Đề tài đô thị cũng trở thành mảnh đất màu mỡ thu hút

nhiều nhà văn tên tuổi như: Nguyễn Thái Hà, Chu Lai, Tạ Duy Anh, Hồ Anh

Thái, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Bình Phương, Ma Văn Kháng, Đỗ Phấn…

Trong đó phải kể đến nữ nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ.

2. Với ngòi bút tả chân sắc sảo, Thu Huệ đã phanh phui tất cả những góc

khuất, những mảng tối, mặt trái của bức tranh đô thị hiện đại. Ẩn sau vẻ ngoài

cuộc sống hào nhoáng xa hoa, tiềm ẩn trong lòng xã hội là biết bao thói hư tật

xấu, bao tệ nạn chết người. Nhiều giá trị đạo đức truyền thống có nguy cơ chao

đảo và bị đánh tráo. Lòng người hoang mang, cảm giác bất an lo sợ bởi cái ác,

cái xấu hiện diện khắp nơi, tình người cạn kiệt, cộng đồng dần mất đi sợi dây kết

nối gắn kết, yêu thương. Đồng thời với khả năng đi sâu mổ xẻ hình ảnh “con

người bên trong con người”, chân dung con người hiện đại cũng được Thu Huệ

tái hiện một cách sinh động. Hình ảnh con người cô đơn co ro như thiếu áo ấm,

họ sống thờ ơ, lạnh lùng vô cảm hơn. Nhất là đứng trước vòng xoáy của đồng

tiền, của những ham muốn dục vọng nhiều người đã trượt dài trên con đường tha

hóa đánh mất đi nhân cách tốt đẹp của mình. Đồng thời, nhà văn cũng gửi gắm

khát vọng về một cuộc sống bình an, yêu thương gắn kết nhiều hơn qua thế giới

nhân vật của mình. Chỉ ra những tiêu cực, những mất mát, đổi thay ấy trong đời

sống đô thị, Thu Huệ muốn rung lên một hồi chuông cảnh tỉnh: mỗi cá nhân,

mỗi gia đình và cả xã hội cần phải làm gì để xây dựng một cuộc sống văn minh,

nhân đạo. Đó mới thực sự là sự phát triển bền vững trên con đường tiến vào

tương lai của đất nước. Sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế phải đi kèm một đời

sống văn hóa lành mạnh. Cần gìn giữ, trân trọng những giá trị văn hóa truyền

thống tốt đẹp của cha ông. Đây cũng là tiếng nói nhân văn, là đóng góp đáng ghi

89

nhận của truyện ngắn Thu Huệ nói chung, những truyện ngắn viết về đô thị nói

riêng.

3. Tìm hiểu thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ

càng giúp chúng tôi khẳng định thêm đây là một cây bút nữ giàu tài năng. Nghệ

thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, nó đòi hỏi người viết phải có phong cách mới

lạ, thu hút người đọc “khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì

chưa có”. Giữa khu vườn văn học đương đại đang nở rộ nhiều tài năng trẻ, Thu

Huệ vẫn là bông hoa ngát hương để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng độc

giả. Những truyện ngắn của chị đặc biệt là mảng truyện viết về đề tài đô thị gây

ấn tượng mạnh với bạn đọc không chỉ bởi chất đời, chất hiện thực của nó mà

còn bởi nó được xây dựng bằng một văn phong vừa sắc sảo vừa đằm thắm dịu

dàng, sự biến đổi linh hoạt trong giọng điệu, sự đa dạng trong thế giới nghệ

thuật với nhiều kiểu không gian, thời gian…Chính những yếu tố nghệ thuật ấy

góp phần khẳng định phong cách nghệ thuật độc đáo của nhà văn và đưa Thu

Huệ lên vị trí một trong những nhà văn nữ xuất sắc nhất của nền văn học Việt

Nam đương đại. Bởi lẽ đó truyện ngắn của Thu Huệ sẽ còn có sức sống hơn nữa

bởi những giá trị nghệ thuật đích thực của nó.

4. Với phạm vi có hạn, đề tài cũng chỉ dừng lại ở việc khai thác bức tranh

cuộc sống, con người đô thị cùng nghệ thuật biểu hiện trong truyện ngắn

Nguyễn Thị Thu Huệ. Những thú vị nào của truyện ngắn Thu Huệ chưa được

khám phá trong đề tài sẽ là đối tượng nghiên cứu của những đề tài với phạm vi

lớn hơn.

90

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Vũ Tuấn Anh (1996), Quá trình văn học đương đại nhìn từ phương diện

thể loại, Tạp chí văn học, (9).

2. Lại Nguyên Ân (2003), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc Gia

Hà Nội.

3. Lại Huy Bắc (1998), Giọng và giọng điệu trong thơ văn hiện đại, Tạp chí

văn học, (9).

4. Kim Dung (1994), Đọc hồi ức Bến trần gian, Tạp chí Văn nghệ Quân

đội, (11).

5. Đoàn Ánh Dương, Vấn đề đô thị trong văn chương Việt Nam hiện đại,

Tạp chí Văn nghệ Quân đội.

6. Đặng Anh Đào (1993), Hình thức mới trong truyện ngắn hôm nay, Tạp

chí Văn học, (3).

7. Phan Cự Đệ (1986), Mấy vấn đề lí luận văn xuôi hiện đại, Tạp chí Văn

học, (5).

8. Trần Thanh Địch (1998), Tìm hiểu truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới.

9. Hà Minh Đức (2003), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục.

10. Nhiều tác giả (1997), Giảng văn văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục.

11. Nhiều tác giả, (2000), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục.

12. Nhiều tác giả (2002), Truyện ngắn bốn cây bút nữ Phan Thị Vàng Anh,

Võ Thị Thảo, Lý Lan, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nxb Văn học.

13. Đặng Thái Hà (2005), Vấn đề sinh thái – đô thị trong văn xuôi Việt

Nam thời đổi mới, Tạp chí Văn nghệ quân đội.

14.Trần Việt Hà (2015), Cảm thức đô thị trong đại tiểu thuyết của Nguyễn

Việt Hà, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Sư Phạm Hà Nội 2.

91

15. Võ Thị Hảo (1996), Truyện ngắn – sự trớ trêu trong khung hẹp, Tạp chí

Diễn đàn Văn hóa văn nghệ Việt Nam, (10).

16. Chu Thị Hiền (2012), Giọng điệu trần thuật trong truyện ngán của các

nhà văn nữ đương đại: Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Ngọc

Tư, Luận văn thạc sĩ Văn học, Trường ĐHSP Hà Nội 2.

17. Trịnh Thị Hiệp (2014) Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ,

Luận văn thạc sĩ Khoa học, Trường Đại học Sư Phạm Thái Nguyên.

18. Phạm Hoa (1993), Đọc sách “Cát đợi” của Nguyễn Thị Thu Huệ, Tạp

chí Văn nghệ Quân đội, (5).

19. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo

dục.

20. Đoàn Thị Đặng Hương (1996), Những ngôi sao nước mắt, Báo Văn

nghệ Trẻ.

21. Đỗ Thanh Hương (2016), Cảm quan đô thị trong tiểu thuyết Việt Nam

đương đại, Luận án tiến sĩ, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Học viện

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

22. Nguyễn Thị Hương (2014), Đề tài đô thị trong tiểu thuyết Đỗ Phấn,

Luận văn thạc sĩ, Đại hoạc Quốc Gia Hà Nội.

23. Hà Thị Hương Lan (2016), Cảm thức đô thị trong tiểu thuyết Số Đỏ của

Vũ Trọng Phụng, Luận văn thạc sĩ, Đại học Khoa học Thái Nguyên.

24. Nguyễn Văn Lưu (1997), Luận chiến văn chương, Nxb Văn học.

25. Phương Lựu (2005), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb

ĐHSP Hà Nội.

26. Phương Lựu (1998), Suy nghĩ về đặc điểm của nữ văn sĩ, Tạp chí Tác

phẩm mới, (3)

92

27. Phương Lựu, Trần Đình Sử và nhiều tác giả (2006), Lí luận văn học,

Nxb Giáo dục.

28. Vũ Thị Tố Nga (2005), Quan niệm nghệ thuật về con người trong

truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, Luận văn thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Trường

Đại học sư phạm Hà Nội.

29. Nguyên Ngọc (1992), Diện mạo riêng của vụ mùa này, Báo Việt Nam,

(7).

30. Vương Trí Nhàn (1998), Sổ tay truyện ngắn, Nxb Hội nhà văn.

31. Vương Trí Nhàn (1996), Phụ nữ và sáng tác văn chương, Tạp chí văn

học, (6).

32. Nguyễn Thị Nhuận (2012), Nhân vật nữ trong truyện ngắn, Võ Thị Hảo,

Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Luận văn thạc sĩ, Trường ĐHSP Hà Nội

2.

33. Hoàng Phê (2005), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.

34. Hồ Phương (1994), Thế hệ thứ ba, Tạp chí Văn nghệ Quân đội.

35. Trần Đình Sử, Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục.

36. Trần Đình Sử (1996), Lí luận phê bình văn học, Nxb Hội nhà văn.

37. Trần Đình Sử (2005), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục.

38. Bùi Việt Thắng (2002), Những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại,

Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

39. Bùi Việt Thắng (2002), Tứ tử trình làng, Bài giới thiệu cuốn Truyện

bốn cây bút nữ, Nxb Văn học.

40. Bùi Việt Thắng (1994), Năm truyện ngắn dự thi của một cây bút trẻ,

Tạp chí Văn nghệ Quân đội.

93

41.Trần Văn Thắng, Giọng điệu nghệ thuật trong truyện ngắn Việt Nam

thời kì đổ mới (1986-2000), Tạp chí Khoa học ĐHSP TPHCM.

42. Bích Thu (1999), Nam Cao về tác giả và tác phẩm, Nxb Giáo dục.

43. Lý Hoài Thu (2003), “Những truyện ngắn hay”, Tạp chí Văn nghệ

Quân đội, (12).

44. Đỗ Lai Thúy, Văn học đô thị Việt Nam nhìn từ thể loại tiểu thuyết,

Người đô thị.

45. Lê Hương Thủy, Truyện ngắn đương đại về đề tài đô thị, Tạp chí văn

nghệ quân đội, ngày 10/12/2012.

46. Nhật Tuấn (2013), Một thành tựu văn xuôi hiện đại, Báo Văn nghệ,

(10).

47. Thái Thị Hồng Vinh (2010), Vấn đề đô thị trong tiểu thuyết Việt Nam

sau 1986, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Vinh.

48. Hồ Sỹ Vịnh (2002), Thi pháp truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ ,

Báo VN, (35).

49. Từ điển Bách khoa Việt Nam, NXB Hà Nội, 1995

50. Dương Thùy Chi (2013), Nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ: Lạnh lùng câu

chữ, xa xót tâm can, http://baotintuc.vn/van-hoa/nha-van-nguyen-thi-thu-hue-

lanh-lungcau-chu-xa-xot-tam-can-20130711211730593.htm, ngày 19/07/2013.

51. Nguyễn Thị Lê Ngọc, Không gian Hà Nội trong tiểu thuyết của Nguyễn

Việt Hà, http://chuyen-qh.com

52. Nguyễn Toàn (2008), Không lạnh lòng với văn chương,

http://www.tienphong.vn/van-nghe/khong-lanh-long-voi-van-chuong-

145717.tpo, ngày 06/12/2008.

53. Nguyễn Quang Thiều (2013), Báo cáo giải thưởng Hội nhà văn Việt

Nam 2012, http://phebinhvanhoc.com.vn, ngày 03/01/2013.