1
Zv
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC ------------------
HOÀNG THỊ PHƯƠNG
ĐỀ TÀI ĐÔ THỊ TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN THỊ THU HUỆ
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Thái Nguyên, 2018
2
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC ------------------ HOÀNG THỊ PHƯƠNG
ĐỀ TÀI ĐÔ THỊ TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN THỊ THU HUỆ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã ngành: 8220121 LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM
Giáo viên hướng dẫn khoa học : TS. NGUYỄN THỊ THANH NGÂN
Thái Nguyên, 2018
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi dưới sự hướng dẫn
của TS. Nguyễn Thị Thanh Ngân, kết quả nêu trong luận văn này là hoàn toàn
trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả
Hoàng Thị Phương
ii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn
Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Báo chí – Truyền thông và Văn học,
Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực
tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên hướng
dẫn T.S Nguyễn Thị Thanh Ngân đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong
suốt thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đã giúp
đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018
Tác giả
Hoàng Thị Phương
iii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài………………………………………………………………..... 1
2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................................... 2
2.1. Về đề tài đô thị ............................................................................................. 2
2.2. Về truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ .......................................................... 5
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu ................................................................................. 7
3.1. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................... 7
3.2. Mục tiêu nghiên cứu ..................................................................................... 8
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 8
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................... 8
4.2. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 8
5. Phạm vi nghiên cứu.......................................................................................................... 9
6. Đóng góp của luận văn .................................................................................................... 9
7. Cấu trúc luận văn.............................................................................................................. 9
Chương 1. ĐỀ TÀI ĐÔ THỊ TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM VÀ VÀI
NÉT VỀ TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN THỊ THU HUỆ ............................ 11
1.1. Đô thị hóa và ảnh hưởng của đô thị hóa đến xã hội Việt Nam ............................. 11
1.1.1. Khái niệm đô thị và đô thị hóa ................................................................ 11
1.1.2. Quá trình đô thị hóa ở Việt Nam ............................................................ 12
1.1.3. Ảnh hưởng của đô thị hóa đến đời sống xã hội Việt Nam ...................... 13
1.2. Văn học đô thị Việt Nam ........................................................................................... 15
1.2.1. Văn học đô thị ......................................................................................... 15
1.2.2. Văn học đô thị ở Việt Nam trước 1986 ................................................... 16
1.2.3. Văn học đô thị Việt Nam sau 1986 ........................................................ 19
1.3. Khái quát về truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ ..................................................... 21
1.3.1. Giới thuyết về truyện ngắn ...................................................................... 21
1.3.2. Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Thị Thu Huệ ................................... 22
iv
1.3.2.1. Cuộc đời ............................................................................................ 22
1.3.2.2.Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ trong dòng chảy truyện ngắn
nữ đương đại .................................................................................................. 23
Chương 2. BỨC TRANH ĐỜI SỐNG VÀ CON NGƯỜI ĐÔ THỊ TRONG
TRUYỆN NGẮN NGUYỄN THỊ THU HUỆ ...................................................... 27
2.1. Bức tranh đời sống đô thị .......................................................................................... 27
2.1.1. Đời sống gia đình với những quan hệ đạo đức truyền thống bị phá vỡ .. 27
2.1.2. Đời sống xã hội phức tạp, xô bồ với nhiều tệ nạn tiêu cực ..................... 34
2.2. Con người đô thị ......................................................................................................... 38
2.2.1. Con người cô đơn .................................................................................... 38
2.2.2. Con người lạnh lùng, vô cảm .................................................................. 42
2.2.3. Con người tha hóa, biến chất ................................................................... 45
2.2.4. Con người với khát khao hạnh phúc ....................................................... 48
Chương 3. NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN ĐỀ TÀI ĐÔ THỊ TRONG
TRUYỆN NGẮN NGUYỄN THỊ THU HUỆ ...................................................... 52
3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ................................................................................... 52
3.1.1. Miêu tả nhân vật qua ngoại hình ............................................................. 51
3.1.2. Miêu tả nhân vật qua hành động ............................................................. 56
3.1.3. Miêu tả nhân vật qua ngôn ngữ ............................................................... 58
3.1.3.1. Ngôn ngữ độc thoại ........................................................................... 58
3.1.3.2. Ngôn ngữ đối thoại ........................................................................... 61
3.2. Không gian- thời gian nghệ thuật nghệ thuật ......................................................... 64
3.2.1. Không gian nghệ thuật ............................................................................ 64
3.2.1.1. Không gian gia đình .......................................................................... 64
3.2.1.2. Không gian căn phòng ...................................................................... 67
3.2.1.3. Không gian tâm tưởng ...................................................................... 68
3.2.2. Thời gian nghệ thuật ................................................................................ 70
3.2.2.1. Thời gian tuyến tính .......................................................................... 71
v
3.2.2.2. Thời gian đồng hiện .......................................................................... 73
3.3. Ngôn ngữ nghệ thuật .................................................................................................. 75
3.3.1. Ngôn ngữ đời thường vừa giản dị vừa sắc sảo, gai góc .......................... 76
3.3.2. Ngôn ngữ đằm thắm dịu dàng ................................................................. 78
3.4. Giọng điệu .................................................................................................................... 80
3.4.1. Giọng dửng dưng, lạnh lùng................................................................... 81
3.4.2. Giọng mỉa mai, châm biếm ..................................................................... 82
3.4.3. Giọng phân tích, chiêm nghiệm, triết lý .................................................. 84
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 90
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Sau năm 1986, đất nước ta bước vào thời kì đổi mới xây dựng nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đời sống kinh tế, xã hội
Việt Nam cũng có những thay đổi lớn lao. Cùng với sự thay đổi của đời sống
kinh tế xã hội, văn học Việt Nam cũng có bước chuyển mình mạnh mẽ. Văn học
giai đoạn này đã bắt đầu gặt hái được nhiều thành tựu đặc biệt ở thể loại tiểu
thuyết và truyện ngắn. Có thể nói, đây được coi là mùa vàng bội thu của thể loại
truyện ngắn. Bên cạnh những cây bút kỳ cựu như: Nguyễn Khải, Nguyễn Minh
Châu, Nguyễn Huy Thiệp… sự xuất hiện của nhiều cây bút trẻ như: Phan Thị
Vàng Anh, Y Ban, Võ Thị Xuân Hà, Võ Thị Hảo ... đã đem đến cho nền văn học
luồng sinh khí mới. Trong đó phải kể đến cây bút nữ giàu tài năng Nguyễn Thị
Thu Huệ.
Nguyễn Thị Thu Huệ xuất hiện với tư cách là một nhà văn nữ có cá tính
độc đáo và cách viết mới lạ. Thu Huệ quan niệm rằng: Văn chương chưa bao
giờ là những điều thần bí, chỉ đơn giản đó là một phần của cuộc sống mà những
ai trót mang nặng kiếp người đều lấy đó để cắt bớt đi gánh nặng đa mang. Vì
vậy ngay từ khi mới xuất hiện, truyện ngắn của Thu Huệ đã hấp dẫn bạn đọc vì
giàu chất đời, với cách viết tả chân sắc sảo. Chất đời ấy đã truyền cảm hứng
mãnh liệt để chuyển thể nhiều truyện ngắn thành kịch bản phim, và từ phim ảnh,
độc giả quay trở lại để đón nhận những đứa con tinh thần của nhà văn từ những
góc nhìn mới mẻ, thú vị hơn. Chính vì vậy, Thu Huệ nhanh chóng chiếm được
nhiều cảm tình sâu sắc của đông đảo độc giả trong cả nước.
1.2. Đặc biệt, bước vào thời kì đổi mới, quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh
chóng đã tác động mạnh mẽ đến kinh tế- văn hóa, xã hội Việt Nam. Đời sống đô
thị đặt ra nhiều vấn đề nóng hổi, tích cực có mà tiêu cực, tệ nạn nhức nhối cũng
không thiếu. Đô thị trở thành miền đất hứa để con người thực hiện khát vọng đổi
2
đời, là những mảnh đất phồn hoa nơi hứa hẹn cuộc sống văn minh hiện, đại. Tuy
nhiên, những mất mát hư hao, những tệ nạn, tiêu cực, những mặt trái, góc khuất
của nền kinh tế thị trường len lỏi vào từng ngóc nghách, từng ra đình hiện đại.
Vì thế, hơn bao giờ hết đô thị cũng trở thành mảnh đất màu mỡ thu hút được sự
quan tâm chú ý của nhiều nhà văn tài năng. Đây trở thành đề tài quen thuộc xuất
hiện trong nhiều sáng tác của các nhà văn đương đại như Nguyễn Huy Thiệp,
Đỗ Phấn, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Thị Thu Huệ... Theo đó, văn học đô thị cũng
được giới nghiên cứu phê bình đặc biệt quan tâm.
Vì những lí do trên, chúng tôi quyết định chọn Đề tài đô thị trong truyện
ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ làm đối tượng nghiên cứu, với mong muốn chỉ ra
những đóng góp mới mẻ của Thu Huệ về đề tài đô thị, đồng thời thấy được tài
năng, phong cách nghệ thuật của tác giả trong nền văn học đương đại Việt Nam.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Về đề tài đô thị trong văn học Việt Nam đương đại
Sau năm 1986, văn học đô thị đã nhận được sự quan tâm đặc biệt của giới
nghiên cứu phê bình văn học. Đây trở thành đề tài trong nhiều cuộc hội thảo
khoa học cũng như nhiều công trình nghiên cứu. Chúng tôi xin được điểm qua
một số ý kiến, công trình như sau:
Trong cuộc thảo luận về văn học đô thị do báo điện tử Người đô thị tổ
chức, tác giả Đỗ Lai Thúy cho rằng: “tiểu thuyết đô thị Việt Nam còn ít về đề tài
đô thị, nếu có thì đôi khi đô thị thường được nhìn bằng sự hoài niệm nông
thôn. Bởi vậy, tính đô thị của nó chủ yếu biểu hiện ở phương diện thể
loại”. Nhà văn Nguyễn Việt Hà cũng nhận xét: “chưa thấy cuốn tiểu thuyết dài
nào viết về chuyện đô thị của giới viết trẻ mà thấy hay và đáng nể”. Cùng quan
điểm này, tác giả Mai Anh Tuấn cũng khẳng định: “văn học đô thị Việt Nam
xuất hiện từ khi đô thị xuất hiện tầng lớp trung lưu đô thị và tầng lớp tư sản nội
địa. Tức là khi xuất hiện hai sự đối kháng cả về mặt địa chính trị và địa văn hóa
3
với tầng lớp nông dân”. Một cảm thức đô thị quan trọng được ông nhắc tới: “Sự
cô đơn của con người, khi viết về điều đó thì văn học đô thị hiện đại đã chạm
sâu vào con người đô thị”. Với tác giả Phó Đức Tùng: “Đô thị Việt Nam không
có lõi, và khi không có lõi, tính hiện đại trong văn học đô thị của Việt Nam chỉ
là tính hiện đại bắt chước, chưa phải là tính đô thị”.
Như vậy, bàn về văn học đô thị đang trở thành một chủ đề nóng
của nhiều các nhà chuyên môn và bạn yêu văn chương. Các ý kiến đánh giá đã
góp phần quan trọng trong việc nhìn nhận đúng về đặc điểm, tình hình văn
học đô thị đương đại. Các tác giả đều chỉ ra rằng, văn học đô thị ở nước ta chưa
thực sự phát triển, ít nhiều vẫn ảnh hưởng của văn hóa nông thôn. Tuy nhiên,
các nhà nghiên cứu cũng khẳng định, văn học đô thị hiện đại đã bắt đầu nói
nhiều hơn về hình ảnh con người cô đơn, đây được coi là một trong những vấn
đề nổi cộm khi viết về con người đô thị thời hiện đại.
Bên cạnh đó còn có nhiều bài báo, công trình nghiên cứu về vấn đề này.
Tác giả Lê Hương Thủy trong bài viết: Truyện ngắn đương đại về đề tài đô thị
đăng trên Tạp chí văn nghệ quân đội ngày 10/12/2012 đã chỉ ra “đời sống đô
thị đã góp phần tạo nên những thay đổi trong đời sống văn hoạc Việt Nam
đương đại”. Theo bài viết này, hiện thực đời sống đô thị được phản ánh “không
chỉ là hình ảnh hào nhoáng, sang trọng, lịnh lãm mà còn là những góc khuất,
những xáo trộn trong đời sống và tâm hồn con người”. Tác giả cũng khẳng định
con người cô đơn, con người cá nhân là một dạng thức và tâm thái của người đô
thị. Đây cũng là quan niệm mới mẻ về con người của các nhà văn đương đại.
Tác giả Đặng Thái Hà trong bài viết: Vấn đề sinh thái- đô thị trong văn
xuôi Việt Nam thời đổi mới đăng trên Tạp chí văn nghệ quân đội ngày
03/08/2005 cũng đề cập đến vấn đề đô thị trong sáng tác của nhiều nhà văn
đương đại. Bài viết đã nói đến một vân đề nhức nhối: “đô thị hóa hay là sự tuyệt
giao với thiên nhiên”. Chính đô thị hóa là nguy cơ hủy hoại nghiêm trọng môi
4
trường sống của con người. Đây thực sự là hệ lụy tiêu cực đáng báo động của
quá trình đô thị hóa hiện nay.
Còn tác giả Thái Thị Hồng Vinh trong luận văn Vấn đề đô thị trong tiểu
thuyết Việt Nam sau 1986 lại khai thác khá toàn diện về những vấn đề đô thị
được đặt ra trong tiểu thuyết Việt Nam sau thời kì đổi mới. Theo đó, đô thị hiện
lên là biểu hiện của cuộc sống văn minh, hiện đại, đô thị gắn liền với ước vọng
đổi đời của con người. Tuy nhiên, luận văn cũng nhận định môi trường đô thị dễ
làm con người tha hóa, sống vô cảm, thờ ơ…
Với đề tài Cảm quan đô thị trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại, tác giả
Đỗ Thanh Hương đã trình bày cơ sở hình thành cảm quan đô thị cũng như
những phương diện cơ bản của cảm quan đô thị trong tiểu thuyết Việt Nam
đương đại. Theo đó, tác giả nhấn mạnh đến không gian, thời gian và con người
đô thị. Luận văn đi sâu vào hình ảnh con người sùng bái vật chất, chạy theo văn
minh; con người cô đơn và sự chuyển dịch từ con người gia đình sang con người
cá nhân bản thể.
Ngoài ra còn có nhiều luận văn, luận án khác như: Đề tài đô thị trong tiểu
thuyết Đỗ Phấn của tác giả Nguyễn Thị Hương. Tác giả luận văn đã phân tích
bức tranh cuộc sống và con người đô thị trong tiểu thuyết Đỗ Phấn. Tác giả đặc
biệt nhấn mạnh tới không gian- thời gian, lối sống cũng như đời sống nội tâm
của con người đô thị. Với đề tài Cảm thức đô thị trong đại tiểu thuyết của
Nguyễn Việt Hà, tác giả Trần Việt Hà cũng chỉ ra những xung đột giá trị và
không gian sống trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà.
Các công trình nghiên cứu đều chỉ những đặc điểm cũng như những nét
riêng, độc đáo trong các sáng tác viết về đề tài đô thị của các tác giả đương đại.
5
2.2. Về truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ
Nguyễn Thị Thu Huệ được coi là cây bút tài năng của nền văn xuôi Việt
Nam đương đại. Với lối viết tả chân sắc sảo, ngay từ khi mới xuất hiện nhà văn
đã tạo được ấn tượng mạnh trong lòng độc giả. Tác phẩm của Nguyễn Thị Thu
Huệ cũng vì thế thu hút được sự quan tâm của giới chuyên môn. Đã có rất nhiều
những bài viết, bài nghiên cứu phê bình, những luận văn, luận án lấy truyện
ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ làm đối tượng nghiên cứu. Có thể kể đến một số
những bài viết, công trình nghiên cứu sau đây:
Tác giả Lý Hoài Thu đã nhận ra nét riêng trong một số truyện ngắn dự thi
của Thu Huệ: “những cuộc săn đuổi, tìm kiếm đích thực của tình yêu dường như
được nâng lên để đẩy đến tận cùng của ý đồ” [43]. Đây được coi là một phát
hiện sâu sắc và lí thú về những đề tài chính trong các sáng tác của Thu Huệ: đề
tài tình yêu và hạnh phúc gia đình. Còn tác giả Hồ Phương thì đánh giá : “Trong
các tác giả trẻ, Thu Huệ là cây bút hết sức sắc sảo. Đọc Huệ tôi ngạc nhiên lắm,
sao còn ít tuổi mà Huệ lại lọc lõi thế. Nó như con mụ phù thủy lão luyện. Nó đi
guốc trong bụng mình. Ruột gan mình có gì hình như nó cũng biết cả” [34]. Tác
giả Kim Dung khi đánh giá về truyện ngắn của Thu Huệ thì cho rằng: “Truyện
ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ luôn có hai mặt – vừa “bụi bặm” trong tả chân, vừa
trữ tình đằm thắm, văn của chị vừa táo bạo vừa thanh khiết. Một cái gì đó thuần
nhất, không đơn giản thậm chí có khi còn đối chọi nhau trong văn Nguyễn Thị
Thu Huệ” [4]. Về văn phong của Nguyễn Thị Thu Huệ, Đoàn Hương ghi nhận:
“Huệ lại có lối viết văn như bị “lên đồng”. Trong truyện ngắn của mình không
phải là cô “kể” cho chúng ta nghe mà là cô “lôi” chúng ta đi theo nhân vật. Đó
là phong cách độc đáo của Nguyễn Thị Thu Huệ” [20]. Còn tác giả Bùi Việt
Thắng nhận xét : “Truyện ngắn Thu Huệ hấp dẫn rộng rãi người đọc trước hết
vì giàu chất đời” và “những truyện ngắn hay của Thu Huệ là nhờ người viết biết
bứt lên được trên cái có thực đến tận cùng để tìm tòi cái gì đó cao hơn con
người, đó là đời sống tâm hồn vốn không rõ ràng, rành mạch, vốn bí ẩn khó giải
6
thích bằng lý trí” [39]. Nhìn nhận Nguyễn Thị Thu Huệ là nhà văn nữ “độc đáo
và tài hoa”, Hồ Sỹ Vịnh đã tìm hiểu truyện ngắn của Thu Huệ trên bình diện thi
pháp và chỉ ra rằng: “Nhà văn này đã vượt ra ngoài phương thức miêu tả vừa
thực, vừa hư, vừa trần thế, vừa ảo mộng, chuyện hiện tại, chuyện dĩ vãng nhằm
tạo dựng một cuộc sống có dung tích, khai thác chiều sâu những góc khuất uẩn
khúc “thế giới bên trong” của con người” [48].
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều trong bài viết Báo cáo giải thưởng Hội nhà
văn Việt Nam 2012 đã ghi nhận “Thành phố đi vắng đã thực sự làm đầy thêm hồ
sơ sáng tạo truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ và đặt chị vào vị trí
những nhà văn Việt Nam đương đại viết truyện ngắn tiêu biểu”. [53]. Gần đây
nhất, nhà văn Nhật Tuấn trong bài viết Một thành tựu văn xuôi hiện đại nhân
đọc Thành phố đi vắng đã nhận thấy: “Thành phố đi vắng thực sự rất đáng ghi
nhận như một tín hiệu đáng mừng, một thành tựu mới trong văn xuôi hiện đại”
[46].
Các nhà nghiên cứu đều chỉ ra Nguyễn Thị Huệ là cây bút viết truyện ngắn
sắc sảo, có khả năng nắm bắt phản ánh những vấn đề nóng bỏng, phức tạp của
đời sống đương đại bằng một chất giọng riêng vừa sắc sảo, bụi bặm vừa trữ tình
đằm thắm. Chính điều này đã tạo nên phong cách nghệ thuật riêng của Thu Huệ,
đồng thời tạo nên sức hấp dẫn thú vị trong các truyện ngắn của chị.
Bên cạnh đó còn có nhiều luận văn, luận án nghiên cứu về truyện ngắn
Nguyễn Thị Thu Huệ. Luận văn Cảm thức đô thị trong truyện ngắn Việt Nam
đương đại của tác giả Nguyễn Đình Doanh cũng chỉ ra bức tranh đời sống và
con người trong truyện ngắn của qua truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh
Thái, Nguyễn Thị Thu Huệ. Đó là đời sống xô bồ, hỗn tạp, sự đảo lộn các giá trị,
xu hướng sùng ngoại, chạy theo lối sống phương Tây. Luận văn cũng đề cập đến
hình ảnh con người tha hóa, biến chất, thực dụng và cô đơn trong đời sống đô thị
7
hiện đại. Mỗi nhà văn khi tiếp cận đề tài đô thị, vừa có những điểm tương đồng,
đồng thời vừa tạo cho mình những dấu ấn riêng.
Tác giả Trịnh Thị Hiệp trong đề tài: Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Thị
Thu Huệ cũng trình bày khá đầy đủ về những đặc điểm nội dung và nghệ thuật
trong truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ. Còn Vũ Thị Tố Nga ở đề tài: Quan
niệm nghệ thuật về con người trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ đã
xem xét một cách khá toàn diện về các truyện ngắn của Thu Huệ và chỉ ra: “tư
duy hướng nội là một đặc điểm định tính đã phần nào chi phối các phương thức
diễn đạt. Nhiều hình thức nghệ thuật đã được Thu Huệ khéo léo đan cài và sử
dụng phù hợp trong việc biểu đạt tâm trạng – đi sâu vào thế giới nội tâm của
nhân vật. Bằng lối viết hết mình đến cạn kiệt...chúng ta thấy được nỗi say đắm
của chị với cuộc đời và con người” [28].
Ngoài ra còn có luận văn: Nhân vật nữ trong truyện ngắn: Võ Thị Hảo,
Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư của tác giả Nguyễn Thị Nhuận; đề tài:
Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn của các nhà văn nữ đương đại:
Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Ngọc Tư của tác giả Chu
Thị Hiền… Tuy nhiên chúng tôi nhận thấy chưa có một công trình nào nghiên
cứu một cách toàn diện về đề tài đô thị trong các truyện ngắn của Nguyễn Thị
Thu Huệ.
Từ những đánh giá gợi mở của các công trình nghiên cứu trên đây, chúng
tôi quyết định chọn đề tài nghiên cứu: Đề tài đô thị trong truyện ngắn Nguyễn
Thị Thu Huệ.
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài đô thị trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ.
8
3.2. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở kế thừa những tài liệu khoa học đã công bố về tác phẩm và tác
giả Nguyễn Thị Thu Huệ, chúng tôi muốn đi sâu khai thác đề tài đô thị trong
truyện ngắn của Thu Huệ trên cả hai phương diện nộ dung và nghệ thuật biểu
hiện. Từ đó khẳng định tài năng và phong cách độc đáo và cả những đóng góp
của nữ nhà văn trong nền văn học đương đại khi viết về đề tài này.
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, luận văn đề ra những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất: Tìm hiểu những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến đề tài:
khái niệm đô thị; đô thị hóa; quá trình đô thị hóa ở Việt Nam và tác động của nó
tới văn hóa xã hội; đề tài đô thị trong Văn học Việt Nam …
Thứ hai: Khảo sát đề tài đô thị trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ ở
các khía cạnh cụ thể: cuộc sống đô thị, con người đô thị.
Thứ ba: Tập trung khai thác các đặc sắc nghệ thuật của nhà văn trong các
truyện ngắn về đề tài đô thị.
Thứ tư: Từ đó chỉ ra những đóng góp mới mẻ ở đề tài đô thị của tác giả và
thấy được phong cách nghệ thuật, vị trí của nhà văn trong văn đàn đương đại.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, luận văn áp dụng những phương pháp sau:
- Phương pháp thống kê, phân loại
- Phương pháp so sánh đối chiếu
- Phương pháp phân tích – tổng hợp
- Phương pháp liên ngành
9
Các phương pháp nghiên cứu trên không tách rời nhau mà tương tác, bổ
sung cho nhau trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài.
5. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn khảo sát đề tài đô thị trong các truyện ngắn thuộc các tập truyện
sau:
- Cát đợi ( Nhà xuất bản Hà Nội – 1992)
- Hậu Thiên Đường ( Nhà xuất bản Hội Nhà văn – 1993)
- Phù thủy (Nhà xuất bản Văn học – 1995)
- 21 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ ( Nhà xuất bản Hội Nhà văn –
2001)
- Nào, ta cùng lãng quên (Nhà xuất bản Hội Nhà văn – 2003)
- 37 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ ( Nhà xuất bản Văn học – 2006)
- Thành phố đi vắng ( Nhà xuất bản Trẻ - 2012)
6. Đóng góp của luận văn
Về lý luận: Luận văn đã làm sáng tỏ đề tài đô thị trong truyện ngắn Nguyễn
Thị Thu Huệ trên cả hai bình diện nội dung và nghệ thuật biểu hiện.Từ đó khẳng
định được tài năng và phong cách nghệ thuật cũng như đóng góp của nhà văn
khi viết về đề tài này.
Về thực tiễn: Luận văn cũng là một tài liệu tham khảo cho các công trình
nghiên cứu tiếp theo về Nguyễn Thị Thu Huệ đặc biệt là về đề tài đô thị.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, luận văn gồm ba chương:
Chương 1. Đề tài đô thị trong văn học Việt Nam và vài nét về truyện ngắn
Nguyễn Thị Thu Huệ
10
Chương 2. Bức tranh cuộc sống và con người đô thị trong truyện ngắn
Nguyễn Thị Thu Huệ
Chương 3. Nghệ thuật thể hiện đề tài đô thị thị trong truyện ngắn Nguyễn
Thị Thu Huệ
11
Chương 1.
ĐỀ TÀI ĐÔ THỊ TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM VÀ VÀI NÉT VỀ
TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN THỊ THU HUỆ
1.1. Đô thị hóa và ảnh hưởng của đô thị hóa đến xã hội Việt Nam
1.1.1. Khái niệm đô thị và đô thị hóa
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam thì “Đô thị là một không gian cư trú
của cộng đồng người sống tập trung và hoạt động trong những khu vực kinh tế
phi nông nghiệp” [49]. Còn theo Từ điển Tiếng Việt, đô thị là “nơi dân cư đông
đúc, là trung tâm thương nghiệp và có thể cả công nghiệp; thành phố hoặc thị
trấn” [33, tr 332]. Trong Giáo trình quy hoạch đô thị, Đại học Kiến trúc Hà Nội
có viết: “ Đô thị là nơi tập trung dân cư, chủ yếu là lao động phi nông nghiệp,
sống và làm việc theo kiểu thành thị”.
Như vậy, đô thị có thể hiểu là điểm dân cư tập trung với mật độ cao, chủ
yếu là lao động phi nông nghiệp; thương mại, công nghiệp và dịch vụ phát triển,
có hạ tầng cơ sở tích hợp, là trung tâm tổng hợp hay chuyên ngành, có vai trò
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, hoặc một vùng miền, một
tỉnh, hay một huyện.
Đô thị hóa là một quá trình phát triển kinh tế- xã hội, mà biểu hiện của nó là
sự tăng nhanh về số lượng và quy mô các đô thị, dân cư tập trung đông tại các
thành phố, đô thị, lối sống thành thị cũng càng được phổ biến rộng rãi.
Đô thị hóa là sự mở rộng của đô thị, nếu tính theo tỉ lệ phần trăm giữa số
dân đô thị hay diện tích đô thị trên tổng số dân hay diện tích của một vùng hay
khu vực. thì đó là mức độ đô thị hóa. Còn nếu tính theo tỉ lệ gia tăng của hai yếu
tố trên theo thời gian người ta gọi là tốc độ đô thị hóa. Đô thị hóa sẽ góp phần
thúc đẩy kinh tế-xã hội phát triển.
12
1.1.2. Quá trình đô thị hóa ở Việt Nam
Đô thị hóa là xu hướng tất yếu của tất cả các nước phát triển trên thế giới.
Đặc biệt khi nhu cầu cuộc sống của con người ngày càng nâng cao thì quá trình
đô thị hóa càng phát triển. Ở nước ta, do đi lên từ nền kinh tế nông nghiệp nên
quá trình đô thị hóa diễn ra còn chậm và chưa đồng đều giữa các vùng miền trên
cả nước.
Theo dòng lịch sử, trở về với thời kì nhà nước Văn Lang- Âu Lạc thế kỉ III
trước Công nguyên, thành Cổ Loa được coi là đô thị đầu tiên ở nước ta. Thành
Cổ Loa cũng đã trở thành niềm tự hào, kiêu hãnh của người dân Âu Lạc một
thời.
Đến thời kì phong kiến từ thể kỉ X trở đi, một số đô thị được hình hành ở
những nơi có vị trí địa lí thuận lợi. Thế kỉ XI xuất hiện thành Thăng Long,
Thăng Long trở thành kinh đô phát triển vào bậc nhất ở nước ta thời phong kiến.
Bên cạnh đó là các đô thị khác như Phố Hiến, Hội An, Huế… Dân gian đến nay
vẫn còn lưu truyền câu ca: Thứ nhất kinh kì, thứ nhì Phố Hiến. Tuy nhiên trong
suốt chiều dài hàng nghìn năm của chế độ phong kiến, đô thị nước ta chưa thực
sự phát triển. Các đô thị thời đó chủ yếu thực hiện chức năng chính trị, văn hóa
hơn là phát triển kinh tế.
Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX do ảnh hưởng của quá trình khai thác thuộc
địa của thực dân Pháp, nhiều đô thị cũng được hình thành như Hà Nội, Hải
Phòng, Nam Định… Lối sống thị dân Phương Tây bắt đầu du nhập vào Việt
Nam có tác động mạnh mẽ đến đời sống văn hóa xã hội. Bộ mặt đô thị thời kì
này cũng có nhiều thay đổi so với thời kì phong kiến. Tuy nhiên, hệ thống đô thị
bấy giờ vẫn nhỏ, lẻ. Chức năng chủ yếu vẫn là hành chính, quân sự, kinh tế chưa
thực sự phát triển.
Từ năm 1945 đến năm 1954, quá trình đô thị hoá vẫn diễn ra chậm, các đô
thị không có sự thay đổi nhiều. Đây là thời kì chúng ta tiến hành cuộc trường kì
13
kháng chiến chống thực dân Pháp vô cùng gian khổ. Do hoàn cảnh chiến tranh
nên kinh tế xã hội kém phát triển. Cũng vì thế quá trình đô thị hóa không phát
triển.
Từ năm 1954 đến năm 1975 đô thị phát triển theo hai xu hướng khác nhau:
Ớ miền Nam, chính quyền Sài Gòn đã dùng đô thị hoá như một biện pháp để
dồn dân phục vụ chiến tranh. Vì thế quá trình đô thị hóa diễn ra ở đây khá phức
tạp và có nhiều biểu hiện tiêu cực. Còn ở miền Bắc, đô thị hóa gắn liền với quá
trình xây dựng XHCN, nhưng từ 1965 đến 1972, các đô thị bị chiến tranh phá
hoại, quá trình đô thị hoá chững lại. Do đế quốc Mĩ leo thang bắn phá Miền Bắc
nên nhiều khu đô thị bị ném bom thiệt hại nặng nề nhất là thủ đô Hà Nội.
Từ năm 1975 đến nay, quá trình đô thị hóa có chuyển biến khá tích cực.
Đặc biệt từ sau năm 1986, đất nước ta bước vào thời kì đổi mới, cùng với sự
phát triển của nền kinh tế thị trường, quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng.
đã tác động mạnh mẽ đến đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa của nhân dân trong
đó vừa có những mặt tích cực, song cũng không tránh được những hệ lụy tiêu
cực.
Có thể nói, các đô thị ở nước ta chủ yếu là đô thị vừa và nhỏ, ít nhiều vẫn
ảnh hưởng của văn hóa nông nghiệp. Đây cũng là đặc điểm nổi bật của quá trình
đô thị hóa ở nước ta, vừa có sự giao thoa giữa văn hóa làng xã và văn hóa phố
thị.
1.1.3. Ảnh hưởng của đô thị hóa đến đời sống xã hội Việt Nam
Quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng đã có những tác động mạnh mẽ
đến nền kinh tế- xã hội- văn hóa Việt Nam, tích cực có mà hệ lụy tiêu cực cũng
nhiều.
Quá trình đô thị hóa đã góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy kinh tế - xã
hội của đất nước phát triển. Đô thị hóa góp phần đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch
cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, thay đổi sự phân bố dân cư. Các đô thị không
14
chỉ là nơi tạo ra nhiều việc làm và thu nhập cho người lao động mà còn là nơi
tiêu thụ sản phẩm hàng hóa lớn và đa dạng, là nơi sử dụng lực lượng lao động có
chất lượng cao, cơ sở kĩ thuật hạ tầng cơ sở hiện đại có sức hút đầu tư mạnh
trong nước và nước ngoài. Đó là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Theo
đó, diện mạo kinh tế - xã hội của đất nước có nhiều thay đổi, chất lượng cuộc
sống của nhân dân không ngừng được cải thiện. Xã hội ngày càng phát triển
theo hướng văn minh, hiện đại. Việt Nam ngày càng khẳng định vị thế của mình
trên trường quốc tế. Đặc biệt, trình độ dân trí cũng được nâng cao, con người
không ngừng được mở rộng giao lưu văn hóa với nhiều nước trong khu vực và
trên thế giới. Đời sống vật chất cũng như đời sống tinh thần của nhân dân được
nâng cao rõ rệt. Đó thực sự là những thành tựu đáng tự hào mà Đảng và Nhà
nước ta đã làm được.
Tuy nhiên, quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng cũng gây ra nhiều hệ
lụy tiêu cực. Đô thị hóa làm sản xuất ở nông thôn bị đình trệ do lao động chuyển
đến thành phố. Thành thị phải chịu áp lực thất nghiệp, quá tải cơ sở hạ tầng, ô
nhiễm môi trường sống, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, tệ nạn xã hội ngày càng
gia tăng gây nguy cơ mất an toàn trật tự xã hội… Đặc biệt, đô thị hóa tác động
trực tiếp đến văn hóa truyền thống, làm thay đổi lối sống đạo đức của người
Việt. Con người, nhất là con người ở đô thị có xu hướng sùng ngoại, chạy theo
lối sống Phương Tây, đề cao giá trị vật, hình thành lối sống, lối suy nghĩ thực
dụng, bất chấp nền tảng đạo đức, luân lí truyền thống của dân tộc. Đứng trước
vòng xoáy của tiền tài, danh vọng, trước sự cạnh tranh khốc liệt của cơ chế thị
trường nhiều người đã không giữ được nhân cách của mình. Vậy nên, hiện
tượng băng hoại về mặt đạo đức ngày càng nhiều, con người trượt dài trên con
đường tha hóa, biến chất vì cám dỗ vật chất. Chính điều đó đẩy con người rơi
vào bi kịch đau đớn không lối thoát. Đó cũng là thực trạng cay đắng, là những
gam màu xám, những góc khuất của quá trình đô thị hóa.
15
1.2. Văn học đô thị Việt Nam
1.2.1. Văn học đô thị
Ỏ nước ta, trong suốt nghìn năm phong kiến, do ảnh hưởng của tư tưởng
Nho giáo nên văn học mang nặng tính giáo lí, đạo đức. Với quan niệm “thơ dĩ
ngôn chí” (dùng thơ văn để tỏ chí, tỏ lòng), “văn dĩ tải đạo” (lấy văn chương để
truyền dạy đạo đức), thơ văn trở thành công cụ đắc lực để truyền dạy tư tưởng,
đạo lí. Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu từng bày tỏ quan niệm văn chương của
mình: “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm/ Đâm mấy thằng gian bút chẳng
tà”. Nhà văn lúc này cũng thường là những nhà Nho, những bậc trí thức sinh ra
từ “cửa Khổng sân Trình” như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữ,
Nguyễn Du... Vì thế có thể gọi đây là văn học cung đình của tầng lớp vua quan
trong xã hội phong kiến xưa.
Là một nước nông nghiệp, luôn tự hào bởi nền văn minh lúa nước nên văn
học Việt Nam luôn hướng về nông thôn, sinh ra và ảnh hưởng chi phối của nền
văn hóa này. Ở Việt Nam tuy không có dòng văn học được đặt tên cụ thể viết về
nông thôn nhưng đề tài nông thôn là đề tài quen thuộc trong văn học. Ngay từ
thời trung đại, bên cạnh dòng văn học Cung đình, vẫn xuất hiện những tác phẩm
viết về nông thôn. Nguyễn Khuyến là một minh chứng cụ thể. Ông được mệnh
danh là “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam”. Bức tranh đời sống của nông thôn
Việt Nam được tái hiện sinh động giàu xúc cảm trong thơ Nguyễn Khuyến. Đặc
biệt là từ những năm ba mươi của thế kỉ hai mươi trở đi đề tài nông thôn đã trở
đi trở lại trong nhiều sáng tác làm nên tên tuổi cho nhiều nhà văn lớn như: Nam
Cao, Ngô Tất Tố, Kim Lân. Nguyễn Thi… Cho nên, dù không được gọi bằng
một cái tên chính danh, nhưng rõ ràng, dòng văn học viết về nông thôn đã tồn tại
và gặt hái khá nhiều thành công.
Vậy cần phải hiểu khái niệm văn học đô thị như thế nào. Theo tác giả Đoàn
Ánh Dương: "Văn học về đô thị tức văn học lấy đô thị làm đề tài, cái đô thị có
16
trước, đô thị là một thực thể, và văn học thể hiện nó trong sáng tác. Văn học của
đô thị xác định tính chất đô thị của nó, làm cho nó khác với văn học về nông
thôn, miền núi chẳng hạn. Tính đô thị rất quan trọng, làm nên phẩm chất của
văn học đô thị" [5]. Như vậy, có thể hiểu văn học đô thị là văn học viết về đô thị
và có tính đô thị, ở đây cụ thể là nói về tính hiện đại, dân chủ trong đề tài và
cách thức tiếp cận với đề tài ấy. Còn đề tài đô thị, được hiểu “như một phạm vi
hiện thực đô thị được các tác giả nhận thức, lựa chọn và phản ánh trong tác
phẩm”. Bên cạnh đó, sự định vị nhà văn trong không gian đô thị cũng rất quan
trọng, nó quyết định đến góc nhìn và chất đô thị thực sự cuả tác phẩm. Cũng
theo tác giả Đoàn Ánh Dương: "Định vị nhà văn trong không gian đô thị là cần
thiết. Nhà văn ở trong đô thị, và quan trọng hơn, có ý thức trở thành đô thị, mới
tạo nên văn học đô thị đích thực. Ở ngoài đô thị khó có được cảm quan đô thị,
trong khi thuộc về đô thị nhà văn vẫn có thể sáng tạo ở chủ đề khác" [5]. Như
vậy có thể nói cơ sở để xác định một tác phẩm văn học đô thị là: cuộc sống
người viết; cuộc sống, con người đô thị được miêu tả và tính hiện đại và dân
chủ. Tuy nhiên không phải một tác phẩm cụ thể nào cũng hội tụ đầy đủ các yếu
tố đó.
1.2.2. Văn học đô thị ở Việt Nam trước 1986
Sang đầu thế kỉ XX, quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã làm
cho cơ cấu xã hội Việt Nam có nhiều chuyển biến sâu sắc. Một số thành phố
công nghiệp ra đời, đô thị mọc lên ở nhiều nơi, xã hội xuất hiện nhiều giai cấp
tầng lớp mới như tư sản, trí thức tiểu tư sản. Văn hóa Việt Nam bắt đầu mở rộng
tiếp xúc với văn hóa phương Tây đặc biệt là văn hóa Pháp. Chữ quốc ngữ xuất
hiện, dần thay thế chữ Hán và chữ Nôm trong nhiều lĩnh vực. Những nhân tố ấy
đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của văn học đô thị. Trong những năm
đầu còn nhiều bỡ ngỡ, tuy chưa gặt hái được nhiều thành công nhưng văn học
đô thị thời kì này cũng đã có một số tác giả, tác phẩm gây được tiếng vang như
17
Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, hay các tác phẩm viết về đô thị Nam Bộ của
Hồ Biểu Chánh…
Sang những năm 1930-1945, văn học đô thị phát triển mạnh mẽ đạt được
nhiều thành tựu rực rỡ. Đề tài đô thị trở thành mảnh đất màu mỡ thu hút nhiều
nhà văn lớn. Đời sống đô thị được soi chiếu nhìn nhận ở nhiều góc độ, nhiều
phương diện khác nhau, tích cực có mà tiêu cực cũng nhiều. Trong văn xuôi
lãng mạn của nhóm Tự lực văn đoàn, hình ảnh con người đô thị hiện lên là
những nam thanh, nữ tú cùng những câu chuyện tình yêu tự do, vượt qua lễ giáo
phong kiến hà khắc. Những vấn đề như giải phóng cá nhân, đề cao cuộc sống cá
nhân, ca ngợi tình yêu đã được đề cập đến trong nhiều tác phẩm như Bướm
trắng, Đoạn tuyệt của Nhất Linh… Dưới con mắt của các nhà văn lãng mạn đô
thị vẫn là miền đất hứa hẹn nhiều điều tốt đẹp. Còn với các nhà văn hiện thực
như Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan…đời sống đô thị đương thời hiện lên
với nhiều tệ nạn, bao thói hư tật xấu, bao bí mật kinh tởm, bao cảnh đời éo le,
ngang trái của lớp thị dân nghèo. Trong số đó không thể không nhắc đến Số đỏ
của Vũ Trọng Phụng. Được mệnh danh là cây bút trào phúng bậc thầy, dưới
ngòi bút của Vũ Trọng Phụng, tất cả những gương mặt thị dân của đô thị Việt
Nam ở giai đoạn đầu của quá trình tư sản hóa cũng đã lần đầu tiên được phơi
bày trên sân khấu văn chương một cách sống động, chân thực. Mỗi nhân vật như
một bức chân dung biếm họa về con người đô thị thời “Âu hóa”, “vui vẻ trẻ
trung”. Một Xuân Tóc Đỏ lưu manh, bịp bợm, một cụ Cố Hồng háo danh, ngu
dốt, một mụ Phó Đoan dâm đãng, ông Văn Minh bất nhân, bất hiếu… Mỗi nhân
vật đại diện cho một lớp người thành thị đương thời. Cả xã hội quay quắt, đảo
điên bởi lối sống nhố nhăng, đểu giả, mạt lưu, đê tiện, tham lam, học đòi. “Là
người thư kí trung thành của thời đại”, ngòi bút của Vũ Trọng Phụng đã phanh
phui tất thẩy chân tướng của đời sống, con người đô thị bấy giờ. Đây thực sự là
một đỉnh cao của văn chương viết về đô thị Việt Nam.
18
Bước sang giai đoạn 1945 - 1975, do hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, nhân dân
ta thức hiện công cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ và xây dựng xã hội
chủ nghĩa ở Miền Bắc cho nên văn học tập trung cao độ phục vụ sự nghiệp của
toàn dân tộc. Đề tài lớn như đề tài Tổ Quốc, đấu tranh vì nền độc lập dân tộc,
xây dựng chủ nghĩa xã hội được khai thác tập trung, triệt để. Hình tượng con
người trung tâm trong các sáng tác văn học thời kì này là hình ảnh người lính và
con người lao động mới. Những vấn đề của đô thị và hình ảnh nhân vật thị dân
trở nên nhạt đi. Thậm chí lối sống đô thị trở nên lạc lõng không phù hợp với đời
sống chung của nhân dân lao động bấy giờ. Nhân vật Hoàng trong Đôi mắt của
Nam Cao, một trí thức tiểu tư sản, về nông thôn tản cư vẫn giữ những tư tưởng,
nếp sống của người thành thị. Anh trở nên xa lạ, lạc lõng với nhân dân, với
không khí chung của thời đại. Nói tóm lại văn học đô thị thời kì này không phát
triển, không nhiều tác giả, tác phẩm để lại dấu ấn trong lòng độc giả.
Từ sau năm 1975, đất nước hòa bình, Bắc- Nam thống nhất một nhà, cảm
hứng sử thi dần nhường chỗ cho cảm hứng thế sự, đời tư. Văn học đô thị cũng
bắt đầu có nhiều khởi sắc. Đáng chú ý nhất phải kể đến Mùa lá rụng trong
vườn của Ma Văn Kháng. Tác phẩm thể hiện sự quan sát và cảm nhận tinh tế
của nhà văn về những biến động, những đổi thay trong tư tưởng, tâm lí con
Người Việt Nam khi đất nước bước sang thời kinh tế thị trường. Với Mùa lá
rụng trong vườn, Ma Văn Kháng đã cảnh báo về những bi kịch về gia đình và
xã hội trước nguy cơ sụp đổ của những giá trị đạo đức truyền thống trong sự tác
động trái chiều của nền kinh tế hàng hóa. Từ đó nhà văn đặt ra vấn đề mỗi gia
đình cũng cần phải thay đổi để phù hợp với xã hội để có thể dễ dàng hòa nhập
và thích nghi hơn với cuộc sống mới, môi trường mới; con người cần có bản lĩnh
trước những biến động của đời sống xã hội.
Như vậy, có thể nói cùng với những biến động của lịch sử dân tộc, văn học
đô thị Việt Nam trước năm 1986 cũng có nhiều thăng trầm. Có những giai đoạn,
do bối cảnh lịch sử chi phối nên văn học đô thị tạm thời lắng xuống, nhưng nhìn
19
vào bức tranh văn học đô thị nói chung, chúng ta nhận thấy vẫn có nhiều điểm
sáng, nhiều nhà văn đã thực sự thăng hoa với nhiều tác phẩm xuất sắc.
1.2.3. Văn học đô thị Việt Nam sau 1986
Từ năm 1986 trở đi, đất nước bước vào công cuộc đổi mới, xây dựng nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo đó, văn học Việt Nam
cũng có bước chuyển mình mạnh mẽ để đáp ứng nhu cầu thị hiếu của con người
thời đại mới. Đề tài đô thị cũng trở thành mảnh đất màu mỡ thu hút được nhiều
nhà văn tên tuổi như: Nguyễn Việt hà, Đỗ Phấn, Nguyễn Khải, Hồ Anh Thái,
Nguyễn Huy Thiệp…Bức tranh đô thị muôn màu, sống động hiện lên các trang
văn. Ở đó đô thị vừa là biểu hiện cho cái văn minh, phồn hoa, đô hội, phát triển,
nhưng đi kèm với đó là những tệ nạn, cám dỗ có nguy cơ đe dọa và làm tha hóa
nhân cách con người. Nhà nghiên cứu Đỗ Hải Ninh đã từng nhận xét về sự phát
triển mạnh của văn học đô thị hiện nay như sau: "Trong văn học đương đại đã
có những tác giả thành công khi viết về đô thị, thể hiện được nét đặc sắc cuộc
sống và con người đô thị như Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Việt Hà, Đỗ Phấn,
Nguyễn Danh Lam, Trần Nhã Thụy… Sáng tác của họ đã chạm đến nơi sâu
khuất của con người và đời sống đô thị: nỗi cô đơn, sự trống rỗng, cuộc sống
đơn điệu, thiếu vắng. Văn học viết về đô thị đương đại đã rất thành công khi
kiến tạo nên kiểu nhân vật trí thức, nhưng tôi vẫn mong các nhà văn viết về đô
thị hãy nhìn xuống “dưới đáy” để có nhiều tác phẩm thể hiện được đời sống đô
thị đa diện, đa chiều hơn nữa”.
Là một cây bút kì cựu, sau đổi mới Nguyễn Khải cũng nhanh chóng bắt kịp
hơi thở nóng hổi của cuộc sống mới với nhiều sáng tác viết về đề tài đô thị. Với
tập truyện ngắn Hà Nội trong mắt tôi, Nguyễn Khải đã gửi trọn niềm tin yêu,
trân trọng và kính phục với những con người Hà Nội. Trước bão táp của nền
kinh tế thị trường, trải qua bao thăng trầm, biến động, những con người Hà Nội
như cô Hiền, bà Bơ… vẫn luôn giữ được “nếp nhà”, vẻ đẹp cốt cách, thanh lịch,
20
tự trọng của con người đất kinh kì. Đó là “những hạt bụi vàng” mãi lấp lánh và
tỏa sáng giữa những xô bồ, bụi bặm của cuộc sống đô thị đương đại. Hình ảnh
cây si già cổ thụ ở đền Ngọc Sơn bị bão đánh bật rễ rồi hồi sinh chính là biểu
tượng của niềm tin vào những giá trị vàng son của Hà Nội sẽ mãi trường tồn
(Một người Hà Nội).
Nói đến đề tài đô thị không thể không nhắc đến Nguyễn Việt Hà. Sinh ra và
lớn lên ở Hà Nội, gắn bó máu thịt với Hà Nội, hơn ai hết nhà văn thấm thía một
cách sâu sắc những mất mát, đổi thay của mảnh đất này. Hà Nội trở thành không
gian quen thuộc trong nhiều sáng tác của Việt Hà như: Cơ hội của Chúa, Khải
huyền muộn, Ba ngôi của người… Tình yêu sâu nặng với mảnh đất bao năm
gắn bó cùng những trải nghiệm thực tế, vốn hiểu biết tường tận về con người,
phố phường Hà Nội đã giúp cho Nguyễn Việt Hà có những trang văn xúc động,
gợi ra cái hồn cốt của mảnh đất của đất kinh kì. “Tác giả đã dựng lên bức tranh
thực về Hà Nội hôm nay – nơi quần cư của nhiều con người đến từ mọi miền,
hòa hợp với những giá trị tự thân của Hà Nội, tạo nên nét tinh tế, tao nhã của
văn hóa Thăng Long” [51]. Nhưng nhà văn cũng tỉnh táo để nhận ra rằng bên
cạnh một Hà Nội cổ kính, trầm mặc, thanh lịch, vẫn có một Hà Nội xấu xí, xô
bồ, ồn ào, bụi bặm, nhếch nhác, con người dần trở nên chao chát, cộc cằn, thô
lỗ, toan tính, vụ lợi. Nhà văn lên tiếng báo động về những hư hao, nhạt dần,
nhòa dần của những giá trị văn hóa, những thuần phong mĩ tục bao đời của
mảnh đất nghìn năm văn hiến.
Ngoài ra còn phải kế đến nhiều tác giả với nhiều tác phẩm viết về đô thị
khác như: Hồ Anh Thái với tập truyện ngắn Tự sự 265 ngày, Bảo Ninh
với Khắc dấu mạn thuyền hay Hà Nội lúc không giờ, Phong Điệp (Lạc chốn
thị thành, Nhật kí nhân viên văn phòng), Dương Thụy (Con gái Sài Gòn), Đỗ
Bích Thúy (Cửa hiệu giặt là), Nguyễn Xuân Thủy (Nhắm mắt nhìn trời)...
21
Tóm lại có thể nói, từ sau 1986, văn học đô thị đã có những bước đi mạnh
mẽ, khẳng định được đây là dòng văn học chủ lưu của nền văn học Việt Nam
đương đại. Chính nó góp phần tạo nên diện mạo mới cho nền văn học nước nhà.
Đồng thời cũng báo hiệu một tương lai tươi sáng cho dòng văn học này ở nước
ta.
1.3. Khái quát về truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ
1.3.1. Giới thuyết về truyện ngắn
Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Truyện ngắn là hình thức tự sự loại
nhỏ; truyện ngắn khác với truyện vừa ở dung lượng nhỏ hơn, tập trung mô tả
một mảnh của cuộc sống: một biến cố hay một vài biến cố xảy ra trong một giai
đoạn nào đó của đời sống nhân vật, thể hiện một khía cạnh nào đó của vấn đề
xã hội” [37, tr 137]. Còn trong 150 thuật ngữ văn học thì truyện ngắn được xác
định là “thể tài tác phẩm tự sự cỡ nhỏ, thường được viết bằng văn xuôi, đề cập
đến hầu hết các phương diện đời sống con người và xã hội. Nét nổi bật của
truyện ngắn là sự giới hạn về dung lượng; tác phẩm truyện ngắn thích hợp với
người tiếp nhận (độc giả) đọc nó liền mạch không nghĩ” [2, tr 359].
Như vậy đã có nhiều định nghĩa khác nhau về thuật ngữ văn học này. Các
định nghĩa bổ sung cho nhau làm nổi bật rõ những đặc trưng cơ bản nhất của
truyện ngắn. Nội dung của nó có thể phong phú: đời tư, thế sự hay sử thi…
Nhưng cái độc đáo nhất của thể loại này chính là ngắn. Truyện ngắn thường ít
nhân vật, ít sự kiện phức tạp, nó hướng tới một vài mảnh nhỏ của cuộc sống, có
thể kể về cuộc đời hay chỉ một đoạn đời, một chốc lát của nhân vật, nhưng trong
phạm vi hạn hẹp vẫn có thể đặt ra những vấn đề lớn lao thể hiện tư tưởng nhân
sinh sâu sắc. Vì vậy, nó được ví như “một kì quan bé nhỏ nhưng có sức chấn
động phi thường”.
Truyện ngắn là một hình thức ngắn của tự sự. Trong các tác phẩm tự sự
không thể không nhắc đến cốt truyện. Cốt truyện trong truyện ngắn cũng là đặc
22
điểm đáng lưu ý. Tùy vào tài năng và dụng ý nghệ thuật của mỗi nhà văn mà có
thể xây dựng những kiểu cốt truyện khác nhau cho tác phẩm truyện ngắn của
mình. Cốt truyện có thể li kì, hấp dẫn, giàu kịch tính, nhưng cũng có thể đơn
giản “truyện không có cốt truyện”…nhưng chức năng của nó là để nhận ra một
điều gì đó. Có nghĩa là, thông qua cốt truyện nhà văn gửi gắm ý đồ nghệ thuật
của mình cũng như nội dung tư tưởng của tác phẩm.
“Kết cấu của truyện ngắn thường là một sự liên tưởng, tương phản. Bút
pháp trần thuật thường là chấm phá”[27, tr398]. Một trong những yếu tố quan
trọng trong truyện ngắn chính là những chi tiết nghệ thuật mang ý nghĩa hàm
ẩn, tạo cho tác phẩm những chiều sâu chưa nói hết. Mỗi truyện ngắn đều gây
một ấn tượng sâu đậm về cuộc đời và tình người đều: “Đánh thức và cuốn hút
cả năm giác quan của người đọc” (D. Boulanger). Ngoài ra giọng điệu, cái nhìn
cũng hết sức quan trọng góp phần làm nên sự lôi cuốn của tác phẩm.
Truyện ngắn là thể loại dân chủ, gần gũi với cuộc sống hằng ngày, lại súc
tích dễ đọc, dễ bắt kịp hơi thở thời đại, có khả năng là tiếng nói nhanh nhạy
nhất, phản ánh thời sự các vấn đề nóng hổi của thời đại, con người một cách
chính xác. Đây cũng là thể loại văn học năng động, bén nhạy, luôn có xu hướng
cách tân, đổi mới linh hoạt. Với những đặc điểm đó, truyện ngắn được coi là thể
loại xung kích trong đời sống văn học, chiếm được tình cảm của bạn đọc ở nhiều
thời kì khác nhau.
1.3.2. Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Thị Thu Huệ
1.3.2.1 Cuộc đời
Nguyễn Thị Thu Huệ sinh ngày 12 tháng 8 năm 1966, quê ở Bến Tre. Ngay
từ khi còn nhỏ Thu Huệ sớm đã bộc lộ năng khiếu văn chương. Thu Huệ từng
tâm sự: “Mình không nghĩ sau này sẽ trở thành nhà văn, thế hệ bọn mình lúc
đấy hồn nhiên lắm, không bao giờ có ước mơ phải trở thành một người nổi
tiếng, giàu sang gì đâu”. Nhưng niềm say mê và tài năng đã đưa chị đến với văn
23
chương. Khi vừa tốt nghiệp Khoa Văn Đại học Tổng hợp, chị đăng hai truyện
ngắn Mưa trái mùa và Mùa hoa sấu rụng trên Báo Văn Nghệ khiến văn đàn
xôn xao một thời.
Con đường văn chương của chị tạm lắng xuống khi Thu Huệ lập gia đình
và dành toàn bộ thời gian cho gia đình. Sau đó chị quyết định vào làm biên tập
viên sân khấu tại Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật. Mang sẵn trong mình ngọn lửa
đam mê văn chương, chị tiếp tục sáng tác. Chị tiếp tục gửi năm truyện ngắn Hậu
thiên đường, Biển ấm, Bảy ngày trong đời, Tình yêu ơi, ở đâu?, Minu xinh
đẹp đi dự thi Tạp chí Văn nghệ Quân đội và đều được đánh giá cao. Rồi chị
chuyển sang làm tại hãng Phim Truyền hình Việt Nam. Liên tiếp các truyện
ngắn của chị được chuyển thể thành phim và gây được tiếng vang lớn. Đầu tiên
là Của để dành, sau đó là Nước mắt đàn ông cũng đến với khán giả và đoạt huy
chương vàng liên hoan phim Truyền hình. Sau sáu tháng làm việc ở đây, chị
được đề bạt làm trưởng phòng phim, trưởng xưởng II của hãng Phim Truyền
hình. Bằng tài năng của mình, chị đã vươn lên đứng ở vị trí Giám đốc của VTC9
Let’s Việt (2008), một kênh chuyên về phim Truyền hình Việt Nam.
Nguyễn Thị Thu Huệ mặc dù rất bận rộn với công việc quản lý nhưng
không vì thế niềm đam mê văn chương, nhu cầu được viết của chị giảm bớt. Chị
vẫn miệt mài viết, miệt mài sáng tạo vì văn chương đã trở thành người bạn tinh
thần của chị: “Văn chương luôn làm ấm lòng tôi, viết và đọc là điều không thể
thiếu trong cuộc sống”,“Văn chương đối với tôi là người bạn chung thủy có thể
chia sẻ với mình nhiều điều”.
1.3.2.2. Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ trong dòng chảy truyện
ngắn nữ đương đại
Văn học đương đại Việt Nam sau thời kì đổi mới đã bước đầu gặt hái được
nhiều thành công đáng kể. Đặc biệt thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết được coi
như đã có một mùa vàng bội thu. Cũng chưa bao giờ trong tiền lệ văn hoặc Việt
24
Nam người ta lại thấy có nhiều tài năng nữ nở rộ đến như thế. Bên cạnh những
nhà văn nữ đã thành danh trong chiến tranh như: Lê Minh Khuê, Lê Minh,
Nguyễn Thị Ngọc Tú… trên văn đàn xuất hiện rất nhiều cây bút trẻ có sức sáng
tạo dồi dào như:
Võ Thị Hảo, Lý Lan, Phạm Thị Hoài, Y Ban, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị
Châu Giang, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy… Tác giả Bùi Việt Thắng đã có
những nhận xét xác đáng: “Đã hình thành một tỉ lệ giữa phái yếu và đấng mày
râu là 2/3 – một tỉ lệ đáng gờm bởi nhìn vào đó sẽ thấy truyện ngắn trẻ hôm nay
và văn chương nói chung mang gương mặt nữ”. Các cây bút nữ thời kì này có
cái nhìn gần hơn, thực hơn về cuộc sống cũng như con người. Các tác giả cũng
sẵn sàng mở rộng vùng đề tài, khai thác tới những vấn đề gai góc, những góc
khuất, những mảng tối trong sâu thẳm tâm hồn con người cũng như đời sống xã
hội. Mỗi tác giả giống như một dây đàn mang một “âm điệu riêng”, góp phần
làm nên “giai điệu chung”, “diện mạo chung” cho nền văn học Việt Nam đương
đại. Người ta thấy xuất hiện một Y Ban dịu dàng, ngọt ngào mà không kém phần
sâu sắc, một Phan Thị Vàng Anh trí tuệ, sắc sảo, một Nguyễn Ngọc Tư sâu lắng,
trữ tình, một Phạm Thị hoài thông minh, thâm thúy… Tất cả góp phần tạo nên
bức tranh đa sắc màu cho nền văn học nữ Việt Nam đương đại.
Giữa khu vườn văn học đang nở rộ nhiều tài năng ấy, Thu Huệ xuất hiện
vẫn ngát hương, tỏa sắc với một phong cách riêng không trộn lẫn. Các sáng tác
của chị chủ yếu xoay quanh một số đề tài chính như đề tài tình yêu, đề tài hôn
nhân, hạnh phúc gia đình và đề tài đô thị. Dù ở đề tài nào, Thu Huệ cũng tỏ ra là
một cây bút sắc sảo, có khả năng nắm bắt những vấn đề nóng hổi, nhức nhối của
đời sống xã hội với một lối viết độc đáo, mới lạ. Người ta thấy một Thu Huệ
vừa dịu dàng đằm thắm, sâu sắc nữ tính, vừa có nét mạnh mẽ, sắc sảo, có phần
táo bạo của một người phụ nữ bản lĩnh, giàu trải nghiệm. Những tác phẩm của
chị ngay khi mới ra đời đã tạo nên sức hút đặc biệt với bạn đọc bởi chất đời của
nó. Những câu chuyện dung dị, đời thường nhưng lại đem đến cho bạn đọc bao
25
bài học, bao triết lí nhân sinh sâu sắc, đặt ra bao vấn đề nhức nhối của đời sống
xã hội đương thời. Những yếu tố ấy đã làm nên gái trị, sức hấp dẫn riêng trong
sáng tác của Thu Huệ.
Thu Huệ đã khẳng định được vị trí, tên tuổi của mình bằng rất nhiều giải
thưởng. Đó là giải nhì cuộc thi truyện ngắn của Hội văn học Nghệ thuật Hà Nội
1986 (Một khoảng đời chờ đợi); giải nhì cuộc thi truyện ngắn Tác phẩm tuổi
xanh báo Tiền Phong 1993 (Những đêm thắp sáng); giải nhất cuộc thi truyện
ngắn NXB Hà Nội 1994; giải nhất cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ
Quân đội tổ chức cho chùm tác phẩm gồm 5 truyện ngắn (Hậu thiên đường,
Biển ấm, Minu xinh đẹp, Bảy ngày trong đời, Tình yêu ơi, ở đâu?); nhận
thưởng của Hội Nhà văn cho tập truyện Hậu thiên đường. Năm 2012, Thu Huệ
được nhận giải thưởng của Hội Nhà văn dành cho tập truyện ngắn Thành phố đi
vắng. Có thể nói Nguyễn Thị Thu Huệ trở thành một trong những cây bút nữ
xuất sắc nhất của văn học Việt Nam đương đại.
Cho đến nay, với ngòi bút giàu nội lực, khả năng sáng tạo dồi dào chị đã có
trong tay nhiều tập truyện như:
- Cát đợi (1992)
- Hậu thiên đường (1993)
- Phù thủy (1995)
- 21 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ (2001)
- Nào, ta cùng lãng quên (2003)
- 37 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ (2006)
- Thành phố đi vắng (2012).
Thu Huệ trở thành gương mặt nữ sáng giá của nền văn học Việt Nam
đương đại. Tác phẩm của chị đã thực sự chạm đến trái tim đông đảo bạn đọc và
để lại trong lòng người nhiều dư vị khó quên.
26
Tiểu kết
Trong chương 1, luận văn đã giới thiệu các khái niệm cơ bản về đô thị, đô
thị hóa cũng như khái lược quá trình đô thị hóa ở nước ta, chỉ ra những tác động
của đô thi hóa tới đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa Việt Nam. Đồng thời, chúng
tôi cũng giới thiệu văn học đô thị và lịch sử phát triển của dòng văn học này ở
nước ta. Tuy nhiên trong phạm vi có hạn, luận văn chỉ khái lược ngắn gọn văn
học đô thị kể từ trước năm 1945 tới sau thời kì đổi mới 1986, để từ đó thấy được
sự vận động phát triển của dòng văn học này trong dòng chảy văn học Việt Nam
nói chung. Chương 1 giới thiệu sơ lược về cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn
Nguyễn Thị Thu Huệ theo đó thấy được vị trí truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ
trong văn học nữ Việt Nam đương đại.
27
Chương 2.
BỨC TRANH ĐỜI SỐNG VÀ CON NGƯỜI ĐÔ THỊ TRONG TRUYỆN
NGẮN NGUYỄN THỊ THU HUỆ
2.1. Bức tranh đời sống đô thị
Không thể phủ nhận rằng nền kinh tế thị trường giúp cho đời sống vật chất
của con người được cải thiện, nâng cao rõ rệt. Nhưng bên cạnh đó, chúng ta
cũng đau đớn nhận ra rằng những tệ nạn, những mặt trái, những sự đổ vỡ… vẫn
đang hiện hữu trong từng gia đình, trở thành những vấn đề nhức nhối của toàn
xã hội. Với cái nhìn sắc lạnh, Nguyễn Thị Thu Huệ đã không ngần ngại hướng
ngòi bút của mình vào những câu chuyện đời thường để đem đến cho bạn đọc
cái nhìn chân thực về cuộc sống của con người đô thị hôm nay.
2.1.1. Đời sống gia đình với những quan hệ đạo đức truyền thống bị phá
vỡ
Trong xã hội Việt Nam xưa, các mối quan hệ trong gia đình rất được coi
trọng. Bởi gia đình chính là tế bào của xã hội. Truyền thống của người Việt Nam
xưa là con cái vâng lời, hiếu kính với ông bà cha mẹ tổ tiên: “Công cha nghĩa
mẹ ơn thầy” hay “Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước trong nguồn
chảy ra”; vợ chồng thì hòa thuận, thủy chung gắn bó: “Tay nâng chén muối đĩa
gừng/ Gừng cay muối mặn ta đừng quên nhau”,“Muối ba năm muối đang còn
mặn/ Gừng chín tháng gừng vẫn còn cay”; anh em máu mủ ruột già, nghĩa nặng
tình thâm, gắn bó như chân với tay... Truyền thống đạo lí tốt đẹp ấy của người
Việt Nam cần được nâng niu trân trọng giữ gìn. Nhưng trong cuộc sống đô thị
hôm nay, dưới tác động của nền kinh tế thị trường giá trị tốt đẹp đó ít nhiều bị
xói mòn, băng hoại. Với cái nhìn chân thực Nguyễn Thị Thu Huệ đã phơi bày tất
cả hiện thực cay đắng đó trên trang viết của mình.
Đọc truyện ngắn của Thu Huệ, chúng ta vẫn nhận thấy những tình cảm gia
đình ấm ấp vẫn luôn hiện hữu trở thành ngọn lửa nuôi dưỡng hạnh phúc nhiều
28
gia đình. Hình ảnh của người bà bao dung, nhận hậu, vị tha trở đi trở lại trong
nhiều truyện ngắn của chị. Bà trở thành điểm tựa tinh thần, là bến đỗ bình yên
cho cháu, giúp cháu vựợt qua những bi kịch, những bão giông và cả những sai
lầm vấp ngã trong cuộc đời (Người đi tìm giấc mơ, Một trăm linh tám cây bằng
lăn). Sự ân cần chu đáo, yêu thương vợ con hết lòng của người chồng trong Một
nửa cuộc đời. cũng đã giúp anh níu giữ người vợ trở về sau những phút giây
lầm lỡ. Đó còn là sự hi sinh âm thầm của người chị để đứa em trai được học
hành thành tài, nên người (Chị tôi), hay tình yêu thương của những người cha,
người mẹ cả một đời tần tảo lo cho con cái, mong cho con cái có một cuộc sống
đủ đầy hạnh phúc (Của để dành, Nước mắt đàn ông), và cả sự nhẫn nhịn đầy
bao dung của những người vợ, người mẹ dịu dàng thủy chung (Ám ảnh, Một
trăm linh tám cây bằng lăng)… Những tình cảm gia đình quý báu ấy là truyền
thống tốt đẹp trong các gia đình người Việt. Nó trở thành dòng suối mát nuôi
dưỡng tâm hồn con người, xua tan những bụi bặm, nhọc nhằn của cuộc sống để
con người cảm thấy được yêu thương, được bình an và hạnh phúc.
Nhưng nhìn sâu hơn vào bức tranh gia đình đô thị trong nhiều truyện ngắn
của Thu Huệ, chúng tôi nhận thấy, tác giả nói nhiều hơn về sự mất mát, sự đi
xuống của những tình cảm đạo đức truyền thống. Đó là sự đổ vỡ của hôn nhân,
gia đình, sự bất hòa của tình cảm vợ chồng. Gia đình đổ vỡ, vợ chồng không
hạnh phúc xuất phát từ rất nhiều nguyên nhân. Khi vợ chồng không tìm được
tiếng nói chung, sự yêu thương, chia sẻ đồng cảm dành cho nhau ngày càng vơi
cạn, cũng là lúc hôn nhân gia đình đứng trên bờ vực của sự tan vỡ. Không còn
nữa hình ảnh những cặp vợ chồng đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi, Thuận
vợ thuận chồng tát bể đông cũng cạn, mà là những trận cãi vã, những câu nói
tục tĩu, những lời lẽ cay độc xúc xiểm nhau như những người dưng nước lã:
- Không gặp mẹ trẻ à? Mẹ hỏi vóng sang
Im lặng.
29
- Hết tiền bao nên nó đi với thằng khác rồi. Sướng nhỉ?
Mẹ lại tiếp tục véo von sang bên bố.
- Câm mồm. Rõ dơ vất con cái ở nhà tớn lên đi với giai. Gái phải hơi giai
như thài lài gặp cứt chó.
- Thế đấy. Bà đây không đi thì ở nhà nhìn chúng mày đú a?” (Phù Thủy)
Đó là cuộc đối thoại của hai vợ chồng trong Phù Thủy. Họ xúc phạm nhau,
nguyền rủa nhau, coi nhau không khác kẻ thù, thản nhiên sống theo kiểu “ông ăn
chả bà ăn nem”. Những gia đình như thế, đâu đó vẫn hiện hữu quanh ta, giữa
chốn phồn hoa đô thị. Sau vẻ ngoài hào nhoáng, vẹn nguyên, hạnh phúc là sự
rách nát, đổ vỡ của biết bao tình cảm gia đình thiêng liêng quý giá.
Đặc biệt có một nguyên nhân gây ra những đổ vỡ của hạnh phúc gia đình
mà Thu Huệ đề cập đến trong nhiều truyện ngắn của mình, đó là ngoại tình.
Ngoại tình trở thành vấn nạn của xã hội. Những cuộc tình tay đôi, tay ba, những
cuộc tình lén lút, vụng trộm… tất cả đều dẫn đến những đau đớn bi kịch và nguy
cơ tan rã của gia đình. Vấn đề này được Thu Huệ đề cập tới trong nhiều truyện
ngắn như: Thiếu phụ chưa chồng, Tân Cảng, Của Cha, của Con và những
cành vạn niên thanh… Trong Thiếu phụ chưa chồng, Dương là một người đàn
ông có học thức, anh cũng đã có một gia đình hạnh phúc, một người vợ hiền dịu
- Hảo cùng một cậu con trai ngoan ngoãn. Nhưng bất chấp luân lí, đạo đức,
Dương đã ngoại tình với chính em vợ của mình – My. Trơ tráo, ích kỉ, tàn nhẫn
hơn khi Dương và My công khai quan hệ về chung sống với nhau đẩy Hảo rơi
vào bi kịch đau đớn tủi hờn. Kết thúc tác phẩm Hảo chết, con trai Dương có dấu
hiệu tâm thần, My sinh ra một đứa con gái dị tật, Dương đem hai đứa con bỏ đi.
Đó là cái kết đầy cay đắng và nước mắt, cũng là lời cảnh tỉnh con người đừng vì
những phút giây lạc thú thỏa mã dục vọng cá nhân tầm thường mà đánh mất đi
bao điều quý giá. Còn trong Của Cha, của Con những cành vạn niên thanh
cũng vì lầm lỡ đi tìm thú vui bên ngoài mà Cha đánh mất đi sự nghiệp và gia
30
đình hạnh phúc của mình. Người Cha đã ngoại tình khi đang ở đỉnh cao của sự
nghiệp: “Cha đã phản bội mẹ. Cha quan hệ với một người đàn bà khác. Đúng
khi mẹ thành đạt nhất, Cha chuẩn bị được thăng chức thì người đàn bà kia
mang tài liệu của Cha và cô ta, cùng cái bụng bầu đến gặp Mẹ, đòi một số tiền
lớn, để cô ấy không tung tóe mọi chuyện”. Cái giá mà Cha phải trả cũng thật đớn
đau: sự nghiệp tan biến, gia đình tan nát, vợ bỏ đi, Cha phải bán nhà và đưa con
đến một ngôi nhà mới ven sông. Chìm đắm trong nỗi đau quá khứ, Cha đã vô
tình để đứa con gái của mình trở thành miếng mồi ngon của lão hàng xóm. Bi
kịch nối tiếp bi kịch, nỗi đau chất chồng nỗi đau.
Như vậy ngoại tình đã trở thành vấn đề nhức nhối và khá phổ biến trong
cuộc sống đô thị hiện đại. Có những câu chuyện ngoại tình xuất phát từ tình yêu,
từ cuộc sống hôn nhân gia đình ngột ngạt, thiếu hạnh phúc như Nước mắt đàn
ông, Một nửa cuộc đời… Nhưng chủ yếu Thu Huệ nói tới những tiêu cực, mặt
trái của vấn nạn này. Khi ý thức cá nhân trỗi dậy, con người chạy theo những
cảm xúc nhất thời, những ham muốn dục vọng bản năng đã đánh mất những giá
trị đạo đức tốt đẹp, đẩy chính mình và gia đình vào bi kịch đau đớn.
Nạn nhân đau khổ nhất của những cuộc chia li, của những gia đình không
hạnh phúc không ai khác chính là những đứa trẻ vô tội. Tình cảm vợ chồng rạn
nứt, sự đổ vỡ hôn nhân đã đẩy những đứa trẻ vào bi kịch cùng quẫn, gây ra
những mất mát, tổn thương tâm hồn không thể bù đắp. Đến với Phù thủy chúng
ta bắt gặp sự rách nát đổ vỡ trong gia đình “nó”. “Nó” sống trong gia đình có cả
cha với mẹ. Nhưng thứ mà nó nhận lại không phải là tình yêu thương mà là
những trận cãi vã, chửi rủa của cha và mẹ. Điều “nó” ngạc nhiên và không thể
hiểu được là tại sao bố mẹ nó ban ngày có thể chì chiết, văng tục, chửi bậy, mạt
sát nhau như kẻ thù ấy vậy mà đêm xuống mẹ lại nằm ngủ trong lòng bố êm ái
như thế! Nỗi đau trở nên ám ảnh và vỡ òa khi “nó” biết cả bố và mẹ không ai
quan tâm đến nó, coi nó là gánh nặng cản trở ba mẹ đi tìm hạnh phúc mới. Ý
thức được điều đó, nó không còn là đứa trẻ vô tư mà tâm hồn trở nên đau khổ
31
hờn căm, u uất. Còn trong Tân Cảng hình ảnh hai đứa trẻ trong thời khắc chia
tay thực sự đã khiên trái tim bạn đọc nhói buốt: “Thằng anh mở to mắt nhìn
xuống, một tay nắm chặt thằng siêu nhân trắng. Bên dưới. Phía xa. Chỉ thấy
nắng chiếu vào ô cửa kính laong loáng như những tấm gương trời. Người đi tiễn
bé xíu với những cái đầu đen như hạt đỗ. Nó lùi người lại. Chùi nước mắt. Đi ra
đứng giữa hai hàng ghế, và nhìn mẹ. Mẹ nó đang cúi gục xuống khóc.Chiếc máy
bay lạnh lùng chạy một vòng ra xa và dừng lại. Rú to lên. Rồi nhấc hẳn lên khỏi
mặt đất. Đằng sau những tấm kính. Thằng em vẫn đứng với chiếc máy bay trên
tay, lấy ngón trỏ chỉ vào những chấm trắng bé xíu và đếm "Một. Hai. Ba. Bốn...
Năm”. Niềm khao khát mãnh liệt của những đứa trẻ là có một gia đình vẹn
nguyên, đủ đầy tình yêu thương của cả cha lẫn mẹ. Cũng không có nỗi đau nào
hơn nỗi đau sự li biệt, gia đình tan đàn xẻ nghé, mỗi người một chân trời riêng.
Đó là nỗi đau mà không có thứ của cải vật chất nào có thể bù đắp. Những đứa
trẻ như thế liệu rằng sẽ có một cuộc sống hạnh phúc khi phải chịu quá nhiều mất
mát, tổn thương. Đó sẽ là nỗi ám ảnh theo chúng suốt cuộc đời. Từ đó nhà văn
cũng lên án, phê phán một cách nghiêm khắc đối những bậc làm cha làm mẹ, chỉ
vì hạnh phúc của cá nhân mình mà đẩy những đứa trẻ vô tội đến bi kịch đau
đớn.
Gia đình chính là cái nôi nuôi dưỡng thế giới tâm hồn, là môi trường giáo
dục quyết định đến nhân cách của con người. Vì vậy, lối sống của cha mẹ là tấm
gương ảnh hưởng lớn đến sự hình thành nhân cách cho con cái. Trong Hậu
Thiên đường cũng chỉ vì sự thờ ơ, thiếu trách nhiệm của mẹ mà vô tình đã đẩy
cô con gái đi vào vết xe đổ của chính mình. Một trăm linh tám cây bằng lăng
cũng là câu chuyện đầy nhức nhối. Nỗi ám ảnh về một người cha vũ phu đã ăn
sâu trong tiềm thức của “anh”. Khi cha “anh” đánh mẹ, ông không biết rằng
mình đang gieo rắc hận thù và đẩy con mình vào vòng lao lí. Hành động nóng
nẩy, thiếu kiểm soát của “anh” khi giết người đàn ông vũ phu đánh vợ chính là
kết quả của nỗi đau ám ảnh trong quá khứ về hình ảnh người cha luôn đánh vợ,
32
chửi con. Còn truyện ngắn Ám ảnh cũng là một bức tranh gia đình xám xịt của
cuộc sống đô thị. Ông bố Thạnh là một người đàn ông gia trưởng, ích kỉ, vũ phu
và dâm đãng. Dù có một gia đình viên mãn, một người vợ hiền thục cùng ba đứa
con đã lớn nhưng ông ta vẫn tìm thú vui bên ngoài với những người đàn bà
khác. Ông ta đối xử với vợ con lạnh lùng, độc đoán và tàn nhẫn. Là một đứa trẻ
mới lớn, hàng ngày chứng kiến cảnh cha mình đi chơi gái, Thạnh thấy ghê tởm
cha mình, căm ghét những người đàn bà đĩ thõa lẳng lơ chuyên phá hoại hạnh
phúc gia đình người khác. Sự ghê tởm, lòng hận thù trở thành nỗi ám ảnh khiến
Thạnh luôn nghĩ tới cái ác, tới việc giết người. Giấc mơ khủng khiếp của Thạnh
là cầm súng bắn chết người đàn bà nhân tình của bố cùng đưa con riêng của ả ta
để rồi mình bị tử hình như tiếng chuông cảnh tỉnh: hãy cứu lấy nhân cách trẻ
thơ. Khi cha mẹ chẳng thể là tấm gương cho con cái, khi cha mẹ bất chấp luân lí
và đạo đức chạy theo dục vọng tầm thường cũng là lúc họ đang ươm mầm nuôi
dưỡng những tội ác cho chính con cái của mình. Những đứa trẻ sẽ không có một
môi trường lành mạnh để phát triển nhân cách thì ắt cái ác được nuôi dưỡng. Đó
thực sự là lời cảnh báo cho mỗi gia đình và cả xã hội.
Không chỉ có đổ vỡ trong hôn nhân gia đình, nhiều tình cảm gia đình
thiêng liêng cũng dần bị băng hoại. Một trong những đạo lí được người Việt coi
trọng là đạo hiếu. Đã là con cái thì phải hiếu kính với bậc sinh thành. Thế nhưng
trong cuộc sống đô thị hiện đại hôm nay, đạo lí tốt đẹp ấy có nguy cơ đổ vỡ.
Ông Cậu trong Nước mắt đàn ông là một người đàn ông có tài, giỏi kiếm tiền
nhưng lại cô độc trong chính ngôi nhà dư thừa về vật chất mà lại vơi cạn tình
cảm, tình thân gia đình. Suốt đời ông lăn lội bôn ba để kiếm sống, để làm giàu.
Người đàn ông ấy từng phải nếm bao vị đắng ở đời, thậm chí là hy sinh tất cả
cho gia đình, vợ con. Nhưng thứ ông nhận lại lại là sự lạnh lùng thậm chí là vô
ơn của chính con cái mình. Con cái chỉ nói với ông chuyện tiền bạc chứ không
có nổi những phút giây ngắn ngủi tâm sự với cha mình. Đối với chúng, cha chỉ
như cái máy rút tiền không hơn không kém. Chúng coi đó là thứ đáng có được,
33
nhận nó như một lẽ tự nhiên. Tất nhiên chúng không biết đến khái niệm cho đi
và đền đáp lại. Khi chúng càng được nhận từ cha mẹ nhiều hơn thì sự vô ơn
càng lớn lên. Còn trong Của để dành, bà Vy suốt đời yêu thương, cung phụng,
chăm sóc các con. Chồng mất sớm, mình bà tần tảo nuôi dạy các con thành
người, ai cũng được học hành, có công việc tốt những mong ba đứa con sẽ là
chỗ dựa, niềm an ủi khi tuổi già “con cái là của để dành của cha mẹ”. Nhưng
đến khi bà ngã, không đi được thì cả ba con trở nên cáu bẳn, đùn đẩy trách
nhiệm. Cuộc sống gia đình đảo lộn. Ai cũng vin vào cái cớ mình quá bận mà
quên đi đạo hiếu với mẹ. Họ ích kỉ và nghĩ rằng chỉ cần bỏ tiền ra thuê ô sin về
chăm lo cho mẹ là xong. Họ rảnh rang rũ bỏ trách nhiệm báo hiếu của mình.
Những đứa con không hiểu rằng, những lúc ốm đau như thế, sự chăm sóc, yêu
thương của các con chính là niềm an ủi, là bài thuốc chữa lành những vết thương
đối với cha mẹ. Chính sự thờ ơ và thiếu trách nhiệm ấy làm cho người mẹ càng
thêm đau đớn, buồn tủi.
Gia đình vốn là chốn nương thân để con người tìm được sự bình yên, ấm
áp trước những bão giông của cuộc đời. Vậy mà giờ đây sự rạn nứt, đổ vỡ trong
các mối quan hệ gia đình làm cho con người cảm thấy bất an, cô đơn thậm chí
đau khổ và bi kịch ngay chính trong gia đình. Với những câu chuyện đời
thường, Thu Huệ đã đặt ra bao vấn đề nhức nhối đem lại cho người đọc nhiều
bài học nhân sinh sâu sắc. Bằng tấm lòng yêu thương, tác giả cũng đồng cảm, sẻ
chia với những đau đớn mất mát, những bi kịch đổ vỡ trong đời sống gia đình
của con người. Đồng thời nhà văn cũng rung lên hồi chuông cảnh tỉnh: mỗi
người tự phải biết điều chỉnh hành vi đạo đức, lối sống của mình để giữ gìn hạnh
phúc gia đình, trân quý những gì mình đang có. Đó cũng là tiếng nói đầy nhân
văn có ý nghĩa thức tỉnh sâu sắc với tất cả chúng ta hôm nay.
34
2.1.2. Đời sống xã hội phức tạp, xô bồ với nhiều tệ nạn tiêu cực
Như đã nói ở trên, nền kinh tế thị trường năng động giàu tính cạnh tranh
cùng sự phát triển mạnh mẽ của quá trình đô thị hóa đã tác động không nhỏ đến
đời sống của con người. Với cái nhìn đa chiều, sắc sảo, Nguyễn Thị Thu Huệ đã
phanh phui tất cả những mặt trái, những góc khuất của đời sống đô thị hiện đại.
Nhìn vào đời sống đô thị hiện đại, chúng ta không thể phủ nhận rằng, quá
trình đô thị hóa, nền kinh tế thị trường giàu tính cạnh tranh đã thúc đẩy nền kinh
tế phát triển. Đất nước đang thay da đổi thịt hằng ngày, chất lượng cuộc sống
của con người ngày càng được nâng cao, cải thiện rõ rệt. Những con phố, những
ngôi nhà xa hoa lộng lẫy mọc lên khắp nơi, xe cộ, đồ dùng tiện nghi, đầy đủ
hơn. Đô thị trở thành không gian sống phồn hoa, văn minh, hiện đại, trở thành
mảnh đất hứa hấp dẫn con người: “Đó là căn nhà rộng hai trăm năm mươi mét
vuông với năm phòng nằm trên con đường gần phi trường, bên cạnh vài chục
biệt thự của những thương gia giàu lên nhờ cơ chế thị trường…” (Tân Cảng).
Hay “Tôi đi sâu vào trong nhà. Lẩm nhẩm đếm thấy có 7 phòng. Sáu phòng lớn
quây tròn quanh một phòng khách. Mỗi phòng đều có một ban công nhìn ra một
khu vườn nhỏ, mỗi vườn trồng một loài hoa. Có cảm giác lên thiên đường cũng
chỉ êm ái dịu dàng đến thế này thôi” (Dĩ Vãng). Đô thị hóa trở thành cơ hội để
con người thực hiện khát vọng đổi đời, khát vọng làm giàu. Con người cũng có
cơ hội giao lưu văn hóa với bạn bè quốc tế, mở rộng vốn sống, hiểu biết (Một
trăm linh tám cây bằng lăng, sống gửi thác về…). Đây thực sự là những dấu
hiệu đáng mừng, là những tác động tích cực mà quá trình đô thị hóa đem lại.
Nhưng sau vẻ về ngoài hào nhoáng ấy, tiềm ẩn trong lòng xã hội đô thị có
biết bao mặt trái, bao hệ lụy tiêu cực. Như “một người thư kí trung thành của
thời đại”, Thu Huệ đã chụp lại tất cả những góc khuất, những mảng tối trong xã
hội đô thị hiện đại đương thời.
35
Trước hết đó là một xã hội phức tạp, xô bồ. Trong tác phẩm Trong lúc ăn
một bát phở gia truyền, không gian đô thị có thể nói được thu nhỏ “trong không
gian quán phở”. Ở đó có đủ các hạng người. Họ nói năng với nhau bằng những
lời lẽ thô tục, thiếu văn hóa: “Để bố mày tìm cái sổ ghi lần trước đã. Cân chúng
mày điêu bỏ mẹ, lần nào cũng hao”. Đó là lời của bà chủ quán phở nói với mấy
thanh niên cân ga. Niềm tin, tình yêu, sự tin tưởng lẫn nhau giờ trở thành món
hàng xa xỉ. Bởi lẽ khi con người ta sống mà chỉ luôn nghĩ đến lợi ích cá nhân thì
sự tráo trở, lọc lừa sẽ lên ngôi, ngự trị.
Tiềm ẩn trong lòng xã hội đô thị hôm nay là biết bao tệ nạn như rượu chè,
cờ bạ, nghiện hút, trộm cướp.... Những tệ nạn chết người ấy đang dần dần xâm
nhập, lan truyền với sức mạnh khủng khiếp và hủy diệt đời sống tốt đẹp của con
người, đặc biệt là những bạn trẻ thiếu bản lĩnh. Nó giống như một thứ a xít đang
dần ăn mòn những truyền thống đạo đức, những thuần phong mĩ tục tốt đẹp của
ông cha ta bao đời. Cái ác, cái xấu hiện hữu ở khắp nơi: “Hôm qua hai đứa
thanh niên đi vu vơ qua cửa hàng bán ga. Thấy không ai ngồi trông, một đứa
nhảy vào ôm bình ga rồi nhảy lên xe đứa kia chở đi. Thế là xã hội có hai thằng
cướp”,“Anh có thấy hiếm khi nào phụ nữ ra đường đeo dây chuyền, hoa tai và
túi như ngày xưa. Hở ra là bị giật ngay”,“Thì đói, chúng làm liều. Có của thì
phải giữu thôi” (Trong lúc ăn một bát phở gia truyền). Xã hội ấy khiến con
người lo lắng, bất an và sợ hãi bởi cái ác, cái xấu luôn ám ảnh rình rập: “Cô lạnh
người…Tự gồng mình che giấu từng cơn run đang chạy khắp người”, “chúng
mặc áo choàng dài gần đầu gối. Hai xe máy không biển số. Thằng nào khi vào
cũng đeo khẩu trang. Thôi đúng là cướp rồi. Cô có đọc trên báo, dạo này, cướp
hay đi xe không biển số, đội mũ bảo hiểm và đeo khẩu trang che mặt. Vũ khí của
chúng dùng là dao, kiếm hay súng tự chế. Những thứ chúng cướp là xe máy, túi
xách, điện thoại di động, máy tính xách tay, dây chuyền…”(Trong lúc ăn một
bát phở gia truyền). Còn trong Với tay là đến Dương một chàng thanh niên
vùng biển, luôn là niềm hy vọng , tự hào của gia đình. Nhưng lên thành thị học,
36
Dương chẳng những không mang lại niềm vui, vinh quang cho cha mẹ mà còn
sa đà vào các tệ nạn xã hội. Để rồi, trong một lần trở lại thăm quê, Dương
không dám đối mặt và nói ra sự thật với gia đình. Cậu đã dối cha mẹ mình là
được đi du học. Thương thay, cha mẹ anh vẫn luôn nuôi hy vọng, vẫn luôn hãnh
diện về cậu con trai tài hơn người. Họ đâu ngờ rằng Dương đang vật vã trong
trại cai nghiện. Nghiện ngập là một mối nguy hại chết người, nó đã cướp đi
tương lai của biết bao thanh niên, nó cũng nhấn chìm hạnh phúc của bao nhiêu
gia đình. Đó là nỗi đau nhức nhối của cả xã hội.
Mặt trái của xã hội còn được Thu Huệ phản ánh qua mảng tối của những
lầu xanh thời hiện đại. Thông qua thói quen của những cô gái làng chơi, Thu
Huệ lột trần lối sống bê tha, trụy lạc của không ít gã đàn ông bỉ ổi. Trong Xmen
có mùi trường đua, Thu Huệ viết: “Gái vùng biển nhiều, các anh dân cán bộ,
làm ăn, lâu lâu đi đổi gió, đừng gặp gái quen, nó làm lười mình thêm. Đi chơi
gái, nó có cái hồi hộp háo hức rất riêng, không như đi nhậu hay mát xa, loanh
quanh toàn món quen. Riêng món này, phải lạ mới bõ cái hao tâm khổ tứ nói
dối, tạo dựng hiện trường, tốn tiền bạc...”. Những anh cán bộ đạo mạo có học
thức nhưng lại có những hành vi, thói quen đi ngược lại với truyền thống đạo
đức của dân tộc. Đây là một tệ nạn đáng lên án bởi lẽ nó chính là nguyên nhân
gây đổ vỡ hạnh phúc gia đình, làm bào mòn những giá trị đạo đức tốt đẹp của
cha ông.
Đó còn là một xã hội coi trọng đồng tiền, mọi mối quan hệ đều dựa trên
lợi ích kinh tế. Vì thế người ta tham lam, ích kỉ, bất chấp mọi giá để làm giàu.
Khi mà đồng tiền lên ngôi cũng là lúc tình người dần cạn kiệt. Hơn thế, để chạy
theo vòng xoáy của tiền tài danh vọng, con người dễ dàng đánh mất đi nhân
cách của mình. Vì tiền người ta sẵn sàng tráo trở lọc lừa nhau (Nước mắt đàn
ông). Cũng vì tiền mà bảng giá trị đạo đức xã hội bị đảo lộn. Đó là câu chuyện
về thực trạng kinh doanh chó Nhật trong Mi nu xinh đẹp. Chú chó bây giờ
không chỉ là một chú chó mà là “hai cây vàng bốn con chín”. Vì thế người ta
37
nâng nui, chăm sóc, yêu thương chú chó hơn cả những người thân trong gia
đình. Cuộc sống gia đình cũng theo đó mà bị xáo trộn. Người vợ, người mẹ, một
cô giáo dạy Văn hiền dịu ngày nào bỗng trở thành người vợ cay nghiệt, mắng
con chửi chồng không biết ngượng. Còn anh chồng tốt bụng, giàu khát vọng
nhưng “lực bất tòng tâm”.
Một trong những mối đe dọa ngấm ngầm của xã hội đô thị hôm nay là sự
đánh tráo các gía trị thật giả. Phải đến hai phần ba những câu chuyện trong
Thành phố đi vắng là những câu chuyện đầy ẩn dụ về hai thứ thật và giả.
Những giá trị đạo đức tốt đẹp xưa đang dần bị tráo đổi. Không thể kết thúc nói
về một gia đình nhiều đời sưu tập đồ cổ. Những món đồ cổ ấy là biểu tượng của
dòng tộc, của những giá trị truyền thống lâu đời tồn tại qua mấy trăm năm.
Nhưng vì những cám dỗ vật chất, bà dâu trưởng đã bán đồ cổ mua đồ mới thay
vào. Ở đây, Thu Huệ muốn nói về những giá trị lớn lao đời xưa để lại cho
chúng ta, nay đã mất dần, hoặc được “làm mới” - bởi sự tráo đổi. Con người vì
chạy theo tiếng gọi của dục vọng, của tiền bạc đã thẳng tay lật nhào bàn thờ đạo
đức. Kết thúc tác phẩm người chồng thì tha hương, bà vợ thì ngồi viện dưỡng
lão - tâm trí bất thường giống như một lời cảnh tỉnh đối với những ai đã chà đạp
nên giá trị truyền thống tốt đẹp của người xưa. Lối sống giả tạo, đánh tráo những
giá trị đích thực thì cuối cùng dù sớm hay muộn con người sẽ phải trả giá.
Truyện ngắn Không thể kết thúc vì thế có ý nghĩa phê phán và thức tỉnh sâu sắc.
Ẩn đằng sau những câu chữ là tiếng thở dài nặng trĩu, là nỗi lòng hoang
mang, buồn bã, lo sợ của nhà văn về một xã hội đang biến đổi, về những mất
mát đổi thay, xáo trộn. Như Thu Huệ đã từng chia sẻ: “Tôi luôn bị ám ảnh về
những dòng chảy đang xoay chuyển những thế hệ người Việt theo hướng xấu đi,
đang đi xuống. Sự thanh cao, phẩm chất đáng quý của người Việt một là dần bé
lại, hai là bị đè nén trước sự trần trụi và thô tục, sự suy cấp đạo đức, bế tắc
không lối thoát trong khi vẫn phải sống chứ không chết hay tìm ra một giải pháp
khác. Sự bất an, đời sống khó khăn, đơn điệu, những thói quen sinh hoạt văn
38
hóa cộng đồng ít dần làm người ta mất cảm xúc...Những giá trị tốt đẹp bị triệt
tiêu từ từ, thay bằng sự hào nhoáng phô trương của trang phục, đồ dùng tỷ lệ
nghịch với văn hóa sống” [50]. Nhưng sâu thẳm trái tim người phụ nữ nhạy
cảm, vẫn là tình yêu tha thiết với cuộc đời, niềm tin yêu vào con người. Thu Huệ
vẫn tin rằng, đâu đó trong cuộc đời này, cái Đẹp, cái Thiện, người tốt vẫn còn
hiện hữu giống như dòng sông cuộc đời dù có nhiều rong rêu, cỏ dại nhưng ẩn
sâu dưới đó vẫn là dòng nước mát trong lành.
2.2. Con người đô thị
Với quan niệm nghệ thuật đa chiều về con người cá nhân, hình ảnh con
người trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ hiện lên sinh động trong tính
phức tạp đa dạng của nó. Đây chính là nét nổi bật mang đậm ý nghĩa nhân văn
của Nguyễn Thị Thu Huệ khi nhìn nhận con người.
2.2.1. Con người cô đơn
Bước sang thế kỉ XX, do ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, ý thức cá
nhân bắt đầu trỗi dậy. Các nhà văn đã không ngần ngại phơi bầy tất cả những
buồn vui, hỉ, nộ, ái, ố của con người trên các trang văn đặc biệt là cảm thức về
nỗi cô đơn. Bằng trực cảm của một nhà văn, một người phụ nữ, Thu Huệ đã đi
vào khám phá các phương diện khác nhau của sự cô đơn trong con người. Vật
vã, ngập ngụa trong nỗi cô đơn tận cùng là tâm trạng thường gặp của các nhân
vật trong truyện ngắn của chị.
Là một đất nước đi lên từ nền văn minh nông nghiệp, văn hóa làng xã trở
thành nét đặc trưng của xã hội Việt Nam. Các thành viên trong xã hội ít nhiều
đều có sự gắn kết bởi nhiều hoạt động sinh hoạt cộng đồng. Quá trình đô thị hóa
diễn ra nhanh chóng, đô thị mọc lên nhiều hơn, nông thôn cũng phát triển theo
hướng đô thị hóa. Theo đó, những sinh hoạt văn hóa cộng đồng dần mất đi, con
người dần mất đi sợi dây kết nối, gắn kết yêu thương. Vì vậy, con người luôn có
cảm giác cô đơn, mất dần đi sợi dây gắn kết. Người ta cảm thấy bơ vơ, lạc lõng
39
ngay khi sống giữa phố phường đô hội tấp nập. Đó là tâm trạng lạc lõng của cô
gái sau ba năm ra nước ngoài nay trở về thành phố thân yêu. Những tưởng sẽ
tìm lại được những kí ức ngọt ngào ngày xưa, được gặp lại những con người
thân quen một thời, được hít thở cái không khí của thành phố một thời gắn bó,
nhưng bao trùm lên tất cả là: “Cơn tủi thân, sự cô độc giữa chốn đông người và
ý thức những điều mất mát, tốt đẹp đã tuột mất trong đời làm cô không đứng dậy
nổi” (Thành phố đi vắng). Cái cảm giác cô độc đến ngộp thở khiến cô không
thể hiểu nổi tại sao lại có những đổi thay, mất mát đến vậy. Có phải nó xuất phát
từ lối sống vô cảm, dửng dưng của con người đô thị hiện đại. Tỉ lệ nghịch với sự
phát triển đi lên của nền kinh tế thị trường lại là sự vơi cạn của tình người ấm
áp. Đó còn là cuộc sống cô đơn, nhạt nhẽo của Quang với những chiều chủ nhật
buồn trong Chủ nhật được xem phim hoạt hình. Sau những bộn bề, lo toan của
công việc thường nhật, những chiều chủ nhật là quãng thời gian con người được
nghỉ ngơi, sum vầy bên gia đình, người thân. Nhưng đó cũng là những khoảnh
khắc mà Quang phải đối diện với chính mình, với sự cô độc trong căn phòng
mười bốn mét vuông ngột ngạt. Quang đã có biết bao chiều chủ nhật buồn,
hoang mang và trống trải nằm lướt qua những chương trình ti vi và vô thức dừng
lại ở chương trình phim hoạt hình. Cảm giác trống rỗng, bơ vơ, trơ trọi khiến
cuộc sống anh trở nên nhàm chán, vô vị.
Đáng sợ hơn, đó là cái cảm giác lạc lõng, không tìm được tiếng nói yêu
thương gắn kết, không tìm được sự đồng cảm chia sẻ ngay trong gia đình mình.
Sống bên cạnh người thân yêu mà vẫn cảm thấy mình cô độc. Ông cậu trong
Nước mắt đàn ông là một người đàn ông có tài, giỏi kiếm tiền nhưng cô độc
trong gia đình dư thừa vật chất. Ông hết lòng cho gia đình nhưng các thành viên
khác lại chẳng hết lòng với ông. Những đứa con chỉ biết đến tiền, tiêu tiền, phá
tiền mà không cần biết tiền ở đâu ra, bố chúng phải làm những gì để có được số
tiền ấy. Một bà vợ ghen tuông, cay nghiệt và chửi chồng như một bà hàng tôm
hàng cá. Cay đắng với cuộc sống gia đình nhưng ông vẫn phải chấp nhận và
40
không thể chối bỏ được vợ con. Truyện ngắn Dĩ vãng cũng là một câu chuyện
buồn. Nhân vật chính là ông Xung- một người lính trở về từ bão tố chiến tranh.
Ông khao khát sự bình yên sau những năm tháng đầy bão tố. Nhưng rồi khi trở
về với cuộc sống đời thường, cuộc sống đầy đủ và tiện nghi hơn, ông lại trở
thành một kẻ cô đơn. Ngôi nhà với 7 căn phòng tiện nghi, không gian đẹp như
chốn bồng lai tiên cảnh nhưng lại lạnh lẽo âm u vô cùng. Vợ bỏ đi, ông sống
một mình. Ông thuê người giúp việc chỉ để nó ngủ, xem tivi, ăn cơm cùng. Còn
trong Của để dành bà Vy cuối cùng cũng chết trong sự mệt mỏi và cô đơn khi
những đứa con luôn cảm thấy mẹ chính là gánh nặng của chúng bởi nơi lạnh
nhất không phải là bắc cực mà là nơi thiếu tình yêu thương.
Đặc biệt trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, người đọc bắt gặp rất
nhiều hình ảnh những người phụ nữ cô đơn. Dễ dàng nhận thấy, nhân vật chính
trong truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ thường là nhân vật nữ. Mỗi nhân
vật một số phận, một cảnh đời khác nhau nhưng họ đều mang trong mình nỗi
trống trải, cô độc. Đó là cô đơn của những người phụ nữ suốt đời kiếm tìm tình
yêu, hạnh phúc và bến đỗ bình yên nhưng rơi vào tuyệt vọng. Đó là câu chuyện
của một người đàn bà trong Người đàn bà ám khói. Vang, nhân vật chính trong
tác phẩm suốt đời sống với một niềm mong ước được làm vợ, làm mẹ, có một
gia đình vẹn nguyên, hạnh phúc. Nhưng bi kịch chồng chất bi kịch, nỗi đau
chồng chất nỗi đau. Vang chẳng được hưởng niềm hạnh phúc của một người vợ
đúng nghĩa bởi cô chỉ là vợ hờ của lão thủ trưởng, và bị lão rũ bỏ trách nhiệm
ngay sau khi lão chán. Đau đớn hơn nữa là cô con gái bé bỏng của Vang cũng
chết. Ngập ngụa trong nỗi cô đơn, tuyệt vọng, Vang đi khóc đám ma thuê mong
có thể khỏa lấp sự cô đơn, buồn tủi. Còn trong Tình yêu ơi, ở đâu? cũng vậy,
Quyên cứ đi tìm mãi, tìm mãi một tình yêu đích thực nhưng tình yêu chẳng đến.
Trải qua ba mối tình Quyên đau đớn nhận ra rằng: “Tại sao đến giờ nàng vẫn cô
đơn, khi mà nàng xinh đẹp, có học, không tật nguyền”. Sau mỗi lần đổ vỡ tình
41
yêu “Nàng lại sống cô độc với một khối tâm tư của cô gái đang tuổi yêu đương
mà không thể giãi bày”.
Không chỉ có những người phụ nữ cô đơn trên hành trình tìm kiếm tình
yêu, hạnh phúc gia đình, thậm chí có những người phụ nữ tưởng như đã có một
gia đình hạnh phúc, sum vầy sung túc đủ đầy về vật chất nhưng vẫn cô đơn. Đó
là hình ảnh của người vợ trong Tân cảng. Chị vốn có một gia đình viên mãn với
hai cậu con trai ngoan ngoãn, một người chồng giàu trách nhiệm. Cuộc sống vật
chất tuy nghèo nàn nhưng gia đình vẫn ngập tràn tiếng cười. Mọi việc bắt đầu
khi anh có hợp đồng làm việc tới Hy Lạp. Cũng từ đó những vật dụng sang
trọng anh gửi về ngày càng nhiều hơn. Những hợp đồng anh kí ngày càng nhiều,
càng lớn. Ngôi nhà họ ở không còn chật trội thiếu thốn như xưa thay vào đó là
căn biệt thự khang trang tiện nghi đầy đủ. Anh cứ ngỡ rằng như vậy là đủ, là
tròn trách nhiệm của người chồng yêu thương vợ con. Nhưng anh không hiểu
rằng thân thể người phụ nữ trẻ vẫn luôn khao khát yêu thương: “Anh không nghe
thấy tiếng thở dài tức ngực của người chưa đến bốn mươi tuổi, da thịt mát lạnh,
thơm tho của sự đầy đủ, nhàn hạ dần đang cần sự yêu chiều ve vuốt. Anh không
kịp thấy chị đợi anh bằng chiếc váy sa tanh bóng mát lịm như miếng thạch mới
mua. Và anh cũng chẳng kịp thấy một lọ hoa chị cắm góc phòng đang dịu dàng
toả hương. Tất cả. Tất cả đều đầy đủ và hoàn thiện. Chỉ đợi có anh. Còn anh.
Anh luôn luôn thấy hài lòng và yên tâm khi săn được những hợp đồng mới.
Không gì sướng bằng chưa xong việc này đã có việc khác. Để khi về nhà, đi vào
qua cánh cửa, bỏ lại xã hội ngoài đường, anh có chị. Có hai thằng bé với một
căn nhà như thiên đường trên mặt đất. Anh tưởng thế là đủ. Đủ lắm cho một gia
đình cho đến khi chị đi”. Chị cứ ngập ngụa trong sự cô đơn như thế cho đến một
ngày chị gặp người đàn không đánh thức những yêu thương trong chị: “Chắc là
từ hôm chị bay ra Hà Nội họp. Một hợp đồng ký thành công với phía đối tác và
chị là người đóng góp không nhỏ. Đêm liên hoan. Chị uống rượu. Ba ly rượu
vang khai vị chua chua. Nhẹ nhàng say lúc nào không biết. Chị lâng lâng tỉnh và
42
thấy mình đang ngồi ghế sau trong một chiếc ôtô sang trọng. Bên cạnh một
chàng người Pháp đẹp trai, lịch lãm. Vô thức nói. Vô thức cười. Vô thức thấy
lòng chộn rộn. Vô thức thấy rạo rực đôi môi. Và tim vô thức đập nhanh. Mọi thứ
đều vô thức. Chắc tại một thứ không vô thức là bản năng đàn bà khao khát trỗi
dậy bên trong. Gặp rượu vô thức. Gặp trời Hà Nội se lạnh vô thức. Gặp những
động chạm thân xác vô thức. Nó bỗng thành ý thức đánh thức chị dậy. Đến khi
chỉ còn chị và người đàn ông đó, mọi thứ như nổ tung ra” (Tân Cảng). Đây trở
thành bài học đắt giá cho nhiều cặp vợ chồng chồng thời hiện đại. Đôi khi họ bị
cuốn vào vòng xoáy của công việc, tiền tài, danh vọng mà quên đi những yêu
thương giản dị đời thường. Đến khi vật chất đủ đầy cũng là lúc họ nhận ra mình
đã không thuộc về nhau, yêu thương đã chết từ lâu. Là một người phụ nữ, Thu
Huệ dễ dàng đồng cảm và thấu hiểu với những cô đơn giằng xé trong tâm hồn
của những người phụ nữ.
Ẩn sau một cuộc sống xa hoa hào nhoáng của xã hội đô thị lại là hình ảnh
của những con người cô đơn đến rã rời. Đi sâu vào tận ngóc ngách tâm hồn của
con người, những trang văn của Nguyễn Thị Thu Huệ đã đem đến cho người đọc
nhiều cảm nhận sâu sắc về cuộc sống con người đô thị hôm nay.
2.2.2. Con người lạnh lùng, vô cảm
Cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từng quan niệm “ Sống trên đời sống cần có
một tấm lòng dù chỉ để gió cuốn đi…”. Tình người, sự yêu thương chính là chất
keo gắn kết con người, giúp con người xích lại gần nhau hơn. Tình yêu thương
cũng là liều thuốc tinh thần chữa lành những vết thương tâm hồn, giúp con
người vượt qua nghịch cảnh, sống người hơn, nhân văn hơn. Trước cách mạng,
trong Chí Phèo của nhà văn Nam Cao, cũng nhờ tình người ấm áp, sự yêu
thương chân thành của Thị Nở mà phần người, phần lương tri còn cất giấu của
Chí Phèo được đánh thức, hồi sinh. Yêu thương gắn bó, trọng tình trọng nghĩa
cũng là phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam bao đời. Ấy vậy mà trong xã
43
hội đô thị hiện đại, khi cuộc sống vật chất ngày càng đủ đầy, phát triển thì con
người ngày càng trở nên lạnh lùng, vô cảm. Với tâm hồn nhạy cảm, Thu Huệ đã
phát hiện ra những đổi thay mất mát đó trong con người hôm nay như chính chị
chia sẻ: “Sống mà như chết, vô cảm với bản thân, với mọi người, cảnh vật xung
quanh. Không ai còn biết ai, không ai quan tâm đến ai và mỉm cười với ai. Tất
cả chỉ trong nhắm, mở mắt, một thành phố đã đi vắng từ lúc nào” (Thành phố
đi vắng)
Vô cảm là khi con người thờ ơ bàng quan với mọi người xung quanh,
không rung động trước cái đẹp, cái Thiện, người ta không cảm thấy xót xa đau
đớn trước nỗi khổ đau của đồng loại, im lặng lạnh lùng trước những bất công
ngang trái, những chướng tai gai mắt ở đời…Trong nhiều truyện ngắn của mình,
Thu Huệ đã nói đến thực trạng đau lòng này của con người đô thị hiện đại. Lối
sống ấy len lỏi vào tận ngóc ngách của đời sống gia đình, là nguyên nhân gây ra
những mất mát, đau đớn, đổ vỡ. Đó là sự thờ ơ, thiếu trách nhiệm, thiếu sự quan
tâm của người mẹ đã đẩy con gái đi vào vết xe đổ của chính mình (Hậu thiên
đường). Khi mẹ chợt nhận ra thì tất cả đã quá muộn: “Bây giờ, khi tôi bốn mươi
tuổi, chợt thấy tại sao lâu nay mình để tuổi thơ của con trôi qua trong nỗi buồn
của sự cô đơn, và hứng chịu nỗi cay đắng của một người đàn bà bị phụ bạc”.
Còn trong Của Cha, của Con những cành vạn niên thanh cũng vì Cha chìm
đắm trong nỗi đau quá khứ, Cha đã không nhận ra con gái đã lớn để cho con
thường xuyên chứng kiến cảnh lão hàng xóm làm chuyện người lớn để cuối
cùng chính Con đã trở thành miếng mồi ngon của hắn. Đó còn là sự vô tâm của
người chồng trước những khát vọng yêu thương chính đáng của vợ trong Tân
cảng. Để rồi khi nhận ra, cũng là lúc tình yêu không còn, hạnh phúc chẳng thể
níu giữ. Là sự lạnh lùng đến tàn nhẫn của những người cha trong Ám ảnh, Một
trăm linh tám cây bằng lăng cuối cùng đẩy chính những đứa con trai của mình
vào vòng tội lỗi. Và cả sự thiếu quan tâm của những đứa con đối với chính cha
mẹ của mình trong Của để dành, Nước mắt đàn ông, Còn lại một vầng trăng…
44
Hãy yêu thương, quan tâm, chia sẻ với nhau nhiều hơn để gia đình trở thành tổ
ấm thực sự, là chốn bình yên con người tìm về trước sóng gió cuộc đời chính là
lời nhắn nhủ mà nhà văn muốn gửi gắm đến chúng ta hôm nay.
Xuất phát từ gia đình, lạnh lùng vô cảm đã trở thành căn bệnh trầm kha của
xã hội. Con người dần mất đi sợi dây kết nối, yêu thương vơi cạn, khái niệm
đồng cảm và thấu hiểu trở thành xa xỉ. Trong tập Thành phố đi vắng, Thu Huệ
nói nhiều đến sự mất mát đổi thay ấy trong đời sống tâm hồn con người hiện đại.
Trong truyện ngắn cùng tên, Thu Huệ kể về câu chuyện của một cô gái sau ba
năm ra nước ngoài nay trở về thành phố thân yêu năm nào. Cảnh vật không đổi
thay, vẫn phố phường, những con đường, hàng cây, nhà hàng, khách sạn…Tất
cả vẫn vẹn nguyên nhắc lại những kỉ niệm còn tươi rói. Cô gặp lại những con
người năm cũ: bác tài xế xe buýt, cô quản lý nhà hàng, ông bác sĩ… Họ vẫn nhớ
cô là ai nhưng sự thân thiện khi xưa thì hầu như đã không còn nữa. Trên nẻo
đường tìm kiếm lại tình người, những tín hiệu cô nhận lại được chỉ là những ánh
mắt sắc lạnh, vô cảm, những động tác lái xe thành thạo như rô bốt của bác lái
xe; là những tiếng trả lời dửng dưng như những cỗ máy của cô quản lý nhà
hàng, “ Dạ”, “Dạ.” và “ Dạ”… Vẫn trong không gian quen thuộc cũ, nhưng cô
nhận ra biết bao điều đổi thay mất mát, không còn nữa sự náo nhiệt, thân thiện
năm nào, giờ đây thành phố “ người vẫn đông, nhưng hết âm thanh như những
diễn viên câm”, “ thành phố như người đông máu, vô cảm dửng dưng”, “Người
ngồi cứng đơ như những bức tượng”. Mọi âm thanh cuộc sống như biến mất.
Đến âm thanh quen thuộc nhất là tiếng người “lào xào” cũng trở thành nỗi khát
khao nhức buốt. Để rồi cuối cùng như không chịu nổi sự lạnh lùng, vô cảm đó
cô gái đã chết: “Mảnh giấy báo nơi ở thường trú của cô: Khu 29, Lô E, số mộ
435, nghĩa trang Bình yên”. Cái chết đầy bất ngờ của cô là tiếng kêu thức tỉnh
con người cần sống yêu thương nhiều hơn. Sự thờ ơ, vô cảm, lạnh lùng và ích kỉ
chính là mảnh đất màu mỡ ươm mầm cho cái ác, cái xấu: “Thành phố đi vắng
là lời cảnh báo một đời sống của vô cảm, ích kỷ và thù hận và gián tiếp dự báo
45
một tội ác kinh hoảng hơn trong tương lai nếu lương tâm con người không được
đánh thức”[53].
2.2.3. Con người tha hóa, biến chất
Cùng với sự chuyển mình của kinh tế- xã hội Việt Nam sau đổi mới, văn
học Việt Nam cũng có một cuộc cách mạng mạnh mẽ. Văn học Việt Nam 1945-
1975 có thể nói đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh thiêng liêng của nó: phục vụ sự
nghiệp cách mạng của toàn dân tộc. Văn chương lúc đó trở thành thứ vũ khí sắc
bén để tuyên truyền cách mạng, ca ngợi cuộc sống chiến đấu của nhân dân ta:
dẫu có chịu nhiều đau thương nhưng vô cùng kiên cường oanh liệt. Với cái nhìn
sử thi, hình ảnh con người hiện lên thật đẹp. Họ là những người lính, những dân
quân, những người lao động mới… đang ngày đêm cống hiến hết sức mình cho
sự nghiệp chung của đất nước. Những con người mang trong mình lí tưởng lớn
“quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Các nhà văn thời kì này khi nhìn nhận con
người thường khám phá ở quan hệ công dân- Tổ quốc, ý thức trách nhiệm của cá
nhân với cộng đồng. Nhưng các nhà văn thời kì đổi mới đã dám nhìn nhận
thẳng vào hiện thực, đi sâu khám phá “con người bên trong con người”. Với cái
nhìn đa chiều, sắc nhọn, những người nghệ sĩ đã khám phá ra cả “phần rồng
phượng và rắn rết” trong mỗi cá nhân. Truyện ngắn Thu Huệ cũng hòa chung
vào dòng tư tưởng ấy. Các nhân vật của chị hiện lên đa sắc diện, tốt có, xấu có,
thanh cao có mà ti tiện xấu xa, bỉ ổi cũng không thiếu.
Đứng trước một xã hội có nhiều tệ nạn, con người nếu như không làm chủ
bản thân, không có bản lĩnh vững vàng sẽ dễ dàng đánh mất đi chính mình. Đó
là hình ảnh những cô cậu thanh niên ra thành phố học, trong cuộc sống đô thành
nhiều thách thức, nhiều người đã trượt dài trên con đường tha hóa. Hoài “thớt
trơ” là một cô sinh viên tỉnh lẻ, thiếu sự quan tâm, uốn nắn, giám sát, dạy dỗ của
cha mẹ, Hoài lao vào những cuộc vui. Dùng tiền bố mẹ gửi lên cho ăn học, Hoài
chơi bời phá phách, uống rượu hút thuốc nổi tiếng toàn trường: “Hoài có thể
46
uống hàng lít rượu trắng không say, hút thuốc lào không mệt mỏi, nhẩy đầm
thâu đêm và đánh đu với những người đàn ông nào chịu được cô” (Xin hãy tin
em). Tương tự như vậy, Dương trong Với tay là đến cũng đánh mất tương lai,
cuộc đời của mình khi thiếu bản lĩnh trước cám dỗ của ma túy. Là một thanh
niên sinh ra ở một miền biển nghèo, Dương từng là niềm tự hào, kiêu hãnh,
niềm hy vọng của cả gia đình. Những mong đi học đại học, giữa chốn phồn hoa
đô hội giúp Dương được mở mày, mở mặt, áo gấm vinh quy nhưng cuối cùng
chính anh không vượt qua được những cám dỗ, cạm bẫy, tệ nạn. Đây thực sự là
những bài học đắt giá cho thế hệ trẻ đương thời: cần phải nghiêm khắc với bản
thân, giữ vững lập trường tư tưởng để có thể trưởng thành trước những va chạm
cám dỗ đầu đời.
Không chỉ vậy, trước vòng xoáy của nền kinh tế thị trường, nhiều người đã
không thể đứng vững trước những cám dỗ vật chất, của tiền tài danh vọng. Vì
tiền bạc, danh vọng con người trở nên tráo trở, lừa lọc (Nước mắt đàn ông); vì
tiền bạc con người sẵn sàng đánh tráo những giá trị tốt đẹp (Không thể kết
thúc); con người bất chấp thủ đoạn, bất chấp đạo đức luân lí để đạt được tham
vọng của bản thân (Thiếu phụ chưa chồng). Truyện ngắn Thiếu phụ chưa
chồng đem đến cho bạn đọc nhiều giá trị nhân sinh sâu sắc. Được sống, được
yêu, được hạnh phúc, được đổi đời đó là khát vọng chính đáng của con người.
Thế nhưng không vì thế mà con người bất chấp luân lí chà đạp nên tình thân,
đạo đức để thỏa mãn dục vọng của bản thân. My là một cô gái thôn quê khoẻ
mạnh, xinh đẹp nhưng ít học luôn ao ước có một cuộc sống xa hoa nơi phố
phường đô hội. Để có thể đạt được mục đích đó, My đã bất chấp tất cả lạnh
lùng, tàn nhẫn, thậm chí đến mức trơ tráo, trơ trẽn, My ngoại tình với anh rể, yêu
cầu chị gái từ bỏ anh rể và tuyên bố giờ “chúng tôi đã yêu nhau”. My chiếm
Dương bằng được cho mình, đẩy chị gái đến cái chết đau đớn. Thế vẫn là chưa
đủ, khi đã có được Dương cô vẫn còn ngoại tình với Hoàng để thỏa mãn dục
vọng khi bụng mang dạ chửa. Kết thúc đáng buồn của My khi sinh ra đứa con dị
47
dạng, Dương bỏ đi, My một mình đối diện với nỗi đau của chính mình chính là
lời cảnh tỉnh cho những cô gái giàu tham vọng và bất chấp thủ đoạn để đạt được
múc đích.
Đáng sợ nhất trong xã hội đô thị hiện đại chính là hiện tượng con người vì
chạy theo những ham muốn dục vọng bản năng mà đánh mất đi nhân cách của
mình. Đó là hình ảnh của những con “yêu râu xanh” đáng khinh bỉ, sẵn sàng chà
đạp, cướp đi cuộc sống và tương lai của những đứa trẻ vô tội. Hai lão hàng xóm
trong Phù Thủy và Của Cha, của Con những cành vạn niên thanh là những
kẻ bỉ ổi như thế. Lợi dụng sự ngây thơ, trong sáng của những đứa trẻ chỉ đáng
tuổi con mình, những gã hàng xóm đã cướp đi đời con gái của chúng. Đó là
hành động đầy thú tính của những kẻ vô liêm sỉ, khoác lên mình vẻ ngoài lịch
lãm, đẹp đẽ nhưng thực chất chỉ là những kẻ mặt người dạ thú đáng kinh tởm.
Đau lòng hơn nữa là những loại người như thế ngày càng nhiều hơn trong xã
hội. Gã đàn ông trong Hậu thiên đường cũng là một thằng Sở Khanh như thế.
Đã có vợ, có con, hắn vẫn lừa gạt một đứa con gái mới lớn, hứa hẹn một thiên
đường hạnh phúc nhưng thực chất đẩy cô gái vào bi kịch cùng quẫn. Hơn thế
hắn còn tìm mọi cách để bòn rút từng đồng, từng hào của con bé. Đó là những
hành động nhơ bẩn đáng bị lên án, trừng trị. Vậy cần phải làm gì đây để bảo vệ
những đứa trẻ ngây thơ, răn đe những tên yêu râu xanh để đem lại cuộc sống
trong sạch lành mạnh hơn. Đó là lời cảnh tỉnh về những vấn đề nhức nhối của xã
hội hôm nay.
Có thể nói, sự tha hóa biến chất của con người là nguy cơ đe dọa cả xã hội.
Nó thể hiện bản lĩnh kém cỏi của con người trước những cám dỗ, ham muốn
dục vọng thấp hèn, đam mê tội lỗi. Đó cũng là nguyên nhân gây ra tội ác, làm
mất trật tự xã hội, gây hoang mang bất an cho lòng người. Con người cần phải
thức tỉnh để cứu lấy chính mình, giữ gìn nhân cách của bản thân, xây dựng một
xã hội nhân văn và lành mạnh. Đó cũng là tiếng lòng đau đáu của một nhà văn
giàu tấm lòng nhân đạo.
48
2.2.4. Con người với khát khao hạnh phúc
Cuộc sống đô thị hiện đại phát triển làm cho đời sống vật chất của con
người ngày càng được nâng cao và cải thiện rõ rệt. Nhưng thực tế cũng cho thấy,
ẩn sau vẻ bề ngoài hào nhoáng của xã hội hôm nay, con người sống cô đơn, lạnh
lùng vô cảm và ngày càng mất đi sự kết nối. Cùng với đó là sự lo âu, là nỗi bất
an về một xã hội thiếu tình người và nhiều mối hiểm nguy, bất trắc. Vì vậy khát
vọng về một cuộc sống tốt đẹp, giàu tình yêu thương, bình yên và hạnh phúc trở
thành khát vọng mãnh liệt của con người. Các nhân vật trong truyện ngắn của
Nguyễn Thị Thu Huệ đều đã trực tiếp hoặc gián tiếp nói lên khát vọng chân
chính ấy.
Trước hết đó là khát vọng hoàn lương, làm lại cuộc đời sau những sai lầm
vấp ngã. Đứng trước những cám dỗ, những tệ nạn, nhiều cá nhân đã đánh mất đi
nhân cách của mình. Với trái tim giàu tình yêu thương, Thu Huệ đã đi sâu vào
thế giới tâm hồn bên trong con người để phát hiện, nâng niu và trân trọng
những khát vọng thầm kín của con người. Nhà văn vẫn tin tưởng rằng bản chất
tốt đẹp vẫn luôn như đốm lửa âm ỉ cháy trong tâm hồn mỗi người. Đó là niềm
mong ước được trở về với cuộc đời sau những lầm lỗi của Dương trong Với tay
là đến. Những hình ảnh tươi đẹp về cha, về mẹ, về vùng biển nghèo mà yên ả,
chan hòa trở thành miền kí ức ngọt ngào trong tâm trí Dương khi anh đang phải
vật vã trong trại cai nghiện. Cuộc sống giản dị, bình yên ấy giờ thành niềm khát
vọng mãnh liệt sau những vấp ngã, sai lầm của một thời tuổi trẻ bồng bột, thiếu
bản lĩnh. Hạnh phúc đôi khi rất giản đơn, nhưng chỉ đến khi tuột khỏi tầm tay
con người mới chợt nhận ra thì đã quá muộn. Đó còn là hình ảnh của Hoài trong
truyện ngắn Xin hãy tin em. Vốn là cô gái ham chơi nổi tiếng nhưng vì tình yêu
Hoài sẵn sàng thay đổi bản thân, từ bỏ những thói hư tật xấu của mình để trở
thành người con gái dịu dàng nữ tính. Cái kết không có hậu của tác phẩm có thể
kiến bạn đọc có nhiều tiếc nuối nhưng câu chuyện cũng đã chuyền đến bạn đọc
49
một thông điệp đầy ý nghĩa: tình yêu có thể cảm hóa con người, làm cho con
người sống Người hơn, nhân văn hơn.
Đó còn là khát vọng về một cuộc sống tốt đẹp, yêu thương, hạnh phúc
cũng được nhà văn gửi gắm qua nhiều truyện ngắn đặc sắc. Đó là mong muốn
về một xã hội không có cái ác, cái xấu bủa vây rình rập (X – Men có mùi
trường đua, Trong lúc ăn một bát phở gia), khi ấy con người tìm được sự bình
an, có thể thong dong dạo phố, uống cà phê, đeo những bộ trang sức mình thích
mà không sợ bọn cướp có trang bị vũ khí. Là niềm khao khát tìm được tiếng nói
tri âm với những người thân (Nước mắt đàn ông, Tân cảng, Phù thủy) để
những mất mát, đổ vỡ, những đau đớn dằn vặt không hiện hữu trong mỗi gia
đình, những yêu thương trở thành sợi dây gắn kết những thành viên trong gia
đình, những nụ cười thay cho những giọt nước mắt chia li đổ vỡ. Hơn tất cả là
niềm khao khát về một xã hội giàu tình thương yêu, tình đời, tình người ấm áp
(Thành phố đi vắng)…
Trong sáng tác của Thu Huệ, chị nói nhiều đến tiếng lòng, khát vọng của
giới mình. Bằng sự đồng cảm Thu Huệ đã nói lên nỗi lòng của những người phụ
nữ. Mỗi người một cảnh ngộ, một số phận nhưng ẩn sâu trong trái tim những
người phụ nữ ấy vẫn là khát vọng được yêu, được hạnh phúc. Trên hành trình tất
tả tìm hạnh phúc ấy, những người phụ nữ nếm trải đủ dư vị của tình yêu, có cả
những giọt nước mắt ngọt ngào, cả những giọt đắng, niềm đau; những hy vọng
đợi chờ, tin yêu, cả những chán chường tuyệt vọng… Quyên trong Tình yêu ơi,
ở đâu? là câu chuyện cảm động về hành trình kiếm tìm hạnh phúc của cô gái tên
Quyên. Quyên luôn khao khát tìm kiếm được người đàn ông đích thực của cuộc
đời mình để dựng xây hạnh phúc. “Tình yêu ơi, ở đâu?” cũng là câu hỏi khắc
khoải chưa có lời giả đáp đối với cô gái đã hai nhăm tuổi. Mối tình đầu của cô
là một nhà thơ nghiện rượu. Cô yêu anh qua những tập thơ của anh, nhưng rồi
cô nhận ra rằng “tình không như là mơ, và người không đẹp như thơ”, họ đã chia
tay. Rồi cô gặp một người đàn ông thứ hai, hắn là kẻ có học, gia đình giàu có
50
nhưng cực kì ích kỉ, gia trưởng, ghen tuông đến mù quáng. Mối tình thứ hai tiếp
tục đổ vỡ. Những tưởng rằng Quyên sẽ tìm được hạnh phúc khi gặp Bình người
đàn ông góa vợ, tốt tính, giàu trách nhiệm nhưng rồi “tình yêu ơi, ở đâu?”, hạnh
phúc vẫn chưa gõ cửa trái tim mình. Quyên không thể trở thành người thừa
trong gia đình anh khi hai đứa con anh không thể sẵn sàng đón nhận một người
phụ nữ khác. Mơ ước bé nhỏ, giản đơn mà trở nên xa vời với Quyên. Thế nhưng
những éo le, sóng gió đó không làm khỏa lấp khát vọng được yêu, được hạnh
phúc của cô. Tương tự như vậy, người thiếu nữ trong Cát đợi luôn hoang mang
trên con đường đi tìm hạnh phúc. Cô vẫn bao nhiêu năm nhang hương cho một
tình yêu qua cố dù biết rằng người ấy vẫn ngày ngày chỉn chu chở vợ con đi làm
mỗi sáng. Rồi anh đã đến- người tình tuyệt vời có đầy ắp những gì cô khiếm
khuyết. Cô ngập tràn sung sướng trong cảm giác hạnh phúc “tôi yêu và được
yêu”. Nhưng cô cũng chẳng bao giờ có được hạnh phúc trọn vẹn, bởi lẽ cô chỉ là
người đến sau. Người đàn bà ngẩn ngơ ngồi với cát, cát mềm mại, bao dung trìu
mến và chị đợi một ngày nào đó tình yêu của mình sẽ quay lại. Trên con đường
ngược xuôi kiếm tìm tình yêu, hạnh phúc, người phụ nữ trong truyện ngắn của
Nguyễn Thị Thu Huệ lúc thất vọng đau đớn, khi cô đơn tuyệt vọng nhưng vượt
lên tất cả họ vẫn luôn hi vọng về một tình yêu trọn vẹn.
Nhìn vào bức tranh đô thị hiện đại trong truyện ngắn Thu Huệ, bạn đọc
không tránh khỏi những hoang mang, lo lắng về một xã hội có quá nhiều mặt
trái, cái ác, cái xấu giăng mắc khắp nơi. Đó là hiện thực Thu Huệ không hề né
tránh. Làm tròn sứ mệnh của một nhà văn hiện thực, Thu Huệ đã ghi lại một
cách chân thực những góc khuất, những gam màu tối của cuộc sống đô thành
hiện đại. Nhưng ẩn sau những trang văn tưởng như lạnh lùng, dửng dưng ấy lại
là một trái tim “nóng”, một tấm lòng luôn đau đáu về những vấn đề nóng hổi của
xã hội. Đọc truyện ngắn của chị, người đọc vẫn cảm nhận được những khao
khát, tin yêu về một cuộc sống tốt đẹp, văn minh hơn được chị gửi gắm qua thế
giới nhân vật của mình. Đó cũng là giá trị nhân văn của những tác phẩm văn học
51
chân chính. Bởi “Chao ôi, nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối,
không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật chỉ có thể là tiếng kêu đau khổ kia,
thoát ra từ những kiếp lầm than”(Nam Cao)
Tiểu kết
Với cái nhìn tả chân sắc sảo, Nguyễn Thị Thu Huệ đã phơi bày bức tranh
hiện thực xã hội hiện đại hôm nay với đầy đủ gam màu sáng tối. Xã hội đô thị
hiện lên là miền đất đô hội, văn minh, phát triển. Nhưng Thu Huệ nhạy cảm hơn
với những tiêu cực, mặt trái của đời sống đô thành. Bức tranh đô thị được tác giả
tái hiện không chỉ từ môi trường gia đình với nhiều giá trị đạo đức bị phá vỡ mà
đó còn là khung cảnh đô thị xô bồ tiềm ẩn biết bao hiểm nguy, tệ nạn. Không hề
né tránh, Thu Huệ đã đem đến cho người đọc nhiều cảm nhận sâu sắc về những
đổ vỡ, mất mát của bức tranh đô thị hiện đại. Cùng với đó, với khả năng đi sâu
khám phá thế giới con người bên trong con người, Nguyễn Thị Thu Huệ cũng tái
hiện chân dung sinh động của con người hiện đại. Sống trong xã hội có nhiều
biến động, con người luôn cảm thấy bất an, cô đơn. Họ cô đơn ngay trong chính
không gian gia đình- nơi mà đáng lẽ con người tìm được sự bình yên, ấm áp, tìm
được chỗ dựa tinh thần vững chắc. Đặc biệt là hình ảnh của những người phụ nữ
luôn khắc khoải trong hành trình kiếm tìm tình yêu và hạnh phúc. Hơn thế, sống
trong một xã hội mà nhiều giá trị truyền thống bị chao đảo, con người chạy theo
những giá trị vật chất thì tình yêu thương trở thành món quà xa xỉ. Con người
thiếu vắng tình cảm, sống thờ ơ, vô cảm, lạnh lùng hơn. Sau tất cả những bi kịch
đổ vỡ ấy, con người luôn khao khát được hạnh phúc, mong muốn về một cuộc
sống giàu tình yêu thương và an bình hơn. Đó cũng là tiếng lòng của nhiều nhân
vật trong truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ. Chính điều đó đã tạo nên giá trị
nhân văn của truyện ngắn Thu Huệ, là lí do vì sao truyện ngắn của chị lại neo
đậu và gây nhiều dư ba trong lòng độc giả.
52
Chương 3.
NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN ĐỀ TÀI ĐÔ THỊ TRONG TRUYỆN
NGẮN NGUYỄN THỊ THU HUỆ
3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
Nói đến nhân vật văn học là nói đến đối tượng được nhà văn thể hiện trong
tác phẩm bằng phương tiện ngôn ngữ. Đối tượng ở đây không chỉ là con người,
mà có thể là các con vật, là cỏ cây, hoa lá, dòng sông, con suối, hay một sự vật,
hiện tượng nào đó trong tự nhiên, xã hội. Nhân vật chính là phương tiện để khái
quát hiện thực.“Chức năng của nhân vật là khái quát những quy luật của cuộc
sống con người, thể hiện những hiểu biết, những ước mơ, kì vọng về con người.
Nhà văn sáng tạo nhân vật là để thể hiện những cá nhân xã hội nhất định và
những quan niệm về các cá nhân đó. Nói cách khác nhân vật là phương tiện
khái quát tính cách, số phận con người và các quan niệm về chúng”[27, tr279].
Không chỉ thế, nhân vật còn là phương tiện để nhà văn bộc lộ tư tưởng, tình
cảm, thái độ của mình đối với từng loại người trong xã hội, đối với hiện thực
được phản ánh. Chính vì thế nhân vật trở thành yếu tố trung tâm để xem xét giá
trị một tác phẩm văn học đồng thời khẳng định được tài năng nghệ thuật của tác
giả.
Chính bởi nhân vật văn học giữ vai trò quyết định nội dung tư tưởng trong
tác phẩm vì vậy nhà văn dành hết bút lực của mình vào việc xây dựng nhân vật.
Có nhiều phương thức thể hiện nhân vật khác nhau như miêu tả nhân vật qua
ngoại hình, qua ngôn ngữ, qua hành động, cử chỉ, hay miêu tả nội tâm…Việc
vận dụng linh hoạt các phương thức thể hiện ấy như thế nào phụ thuộc vào tài
năng cũng như ý đồ nghệ thuật của tác giả trong mỗi tác phẩm.
Qua khảo sát nhiều truyện ngắn viết về đề tài đô thị của Thu Huệ, chúng tôi
nhận thấy tác giả đã vận dụng thành công nhiều phương thức xây dựng nhân vật
53
góp phần thể hiện nội dung tư tưởng tác phẩm đồng thời cho thấy Thu Huệ là
một cây bút nữ giàu tài năng.
3.1.1. Miêu tả nhân vật qua ngoại hình
Ngoại hình là dáng vẻ bên ngoài của nhân vật như trang phục, tác phong,
diện mạo... Ngoại hình là yếu tố quan trọng góp phần biểu hiện nội tâm, tính
cách, phẩm chất, số phận của nhân vật. Ðây cũng chính là sự thống nhất giữa
cái bên ngoài và cái bên trong của con người. Vì vậy, khi tính cách, đời sống
bên trong thay đổi, nhiều nét bên ngoài của nhân vật cũng thay đổi theo. Để làm
nổi bật sự tỉa tót, chải chuốt, giả tạo của Mã Giám Sinh, Nguyễn Du chỉ miêu tả
bằng một câu thơ “Quá niên trạc ngoại tứ tuần/ Mày râu nhẵn nhụi, áo quần
bảnh bao”, hay bản chất của một người đàn bà chuyên buôn phấn bán hoa của
Tú bà cũng được đặc tả “Thoắt trông nhờn nhợt màu da/ Ăn gì to lớn đẫy đà làm
sao”. Sau này, trong văn học hiện đại với ngòi bút trào phúng bậc thầy, Vũ
Trọng Phụng đã xây dựng thành công những bức chân dung biếm họa của tầng
lớp thị dân tư sản Việt Nam những năm ba mươi, mỗi người một vẻ, tất cả hiện
lên sống động như những thước phim quay chậm: cụ cố Hồng háo danh mơ
màng nghĩ mình được mặc áo xô gai, lụ khụ ho khạc mếu máo: “úi kìa con giai
nhớn đã già thế kia kìa”, cháu trai Văn Minh bất nhân, bất hiếu “vò đầu, bứt
tai”, “ đăm đăm chiêu chiêu” lo nghĩ chia gia tài trong đám tang ông nội… Cũng
qua những chi tiết miêu tả chân dung bên ngoài, Nam Cao đã cho thấy sự tha
hóa của Chí Phèo sau khi ra tù: “cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái
mặt thì đen mà rất câng câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”. Như vậy có
thể nói, những nhân vật thành công trong văn học từ xưa đến nay đều được xây
dựng bởi những chi tiết ngoại hình đặc sắc.
Truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ xây dựng được khá nhiều nhân vật
gây được ấn tượng với độc giả bằng ngoại hình. “Chân dung tinh thần” của con
người đô thị phần nào được thể hiện qua ngoại hình nhân vật. Anh nhà thơ - mối
54
đầu của Quyên trong Tình yêu ơi, ở đâu? có “bộ mặt gầy và xanh, môi chàng
thâm lại vì rượu. Những cái râu mọc xiên xẹo, không hàng lối,…tóc rối tung
trên đầu, áo quần xộc xệch”. Với ngoại hình ấy, chàng thi sĩ hiện lên là một
người lôi thôi, luộm thuộm, nghiện rượu, nghiện thuốc. Còn Bình - một anh bộ
đội phục viên lại là người “có khuôn mặt đẹp một cách cứng cỏi, rất đàn ông”
và “giọng anh trầm ấm, chắc nịch. Mái tóc anh lấm tấm bạc. Khuôn mặt trầm
tĩnh, đôi môi rộng, khi cười trông sang trọng và quyến rũ. Nhìn anh, nguời ta có
thể gửi cả lòng tin của mình. Anh bình thản nói chuyện chứ không vồ vập hay
bẻm mép”. Bình hiện lên là một người đàn ông giàu tinh thần trách nhiệm, đầy
bản lĩnh đàn ông, tự tin, tự chủ. Đó là mẫu đàn ông đáng tin cậy, xứng đáng là
trụ cột trong gia đình. Đó cũng là người đàn ông lí tưởng mà Quyên đang kiếm
đợi. Không chỉ là tính cách mà số phận nhân vật cũng phần nào được tái hiện
qua những nét vẽ ngoại hình. Kết cục bi thảm của người bác dâu trong Không
thể kết thúc cũng được miêu tả qua ngoại hình “một người mờ mắt, mất trí nhớ,
tay chân bị tháo cụt từng ngón”. Đó là cái giá phải trả của những con người giả
dối vì chạy theo những giá trị vật chất tầm thường mà chà đạp nên giá trị truyền
thống tốt đẹp bao đời. Hay hình ảnh của Dương trong trại cai nghiện những
ngày cuối đời cũng hiện lên đầy ám ảnh: “Nằm bệt trên giường, toàn thân như
sáp không có xương (…) đôi mắt đục mờ như có một màn sương che phủ”(Với
tay là đến). Đó là kết cục của những thanh niên thiếu bản lĩnh dễ dàng tha hóa
trước những cám dỗ, tệ nạn xã hội. Như vậy thông qua những chi tiết miêu tả
ngoại hình, người đọc cảm nhận được phẩm chất, tính cách, số phận của nhân
vật.
Đặc biệt trong nhiều truyện ngắn của mình, Thu Huệ quan tâm miêu tả vẻ
đẹp ngoại hình của những người phụ nữ. Mỗi câu chuyện là một cuộc đời, mỗi
nhân vật đều có những nét vẽ riêng, thông qua những chi tiết miêu tả ngoại hình,
người đọc cảm nhận được thế giới tâm hồn, tình cảm, ước mơ, khát vọng và
phẩm chất của những người phụ nữ hiện đại. My trong Thiếu phụ chưa chồng
55
có “vẻ đẹp của cô gái thôn quê khỏe mạnh đang tuổi dậy thì…Người My thấp,
chắc lẳn…Khuôn mặt tròn. Hai mắt to. Môi dày và đỏ. Ngực to hông nở. Bà
Ngài bên hàng xóm bảo My có bộ ngực và cái mông giết đàn ông…”. Đó là vẻ
đẹp của một cô gái lẳng lơ, đầy ham muốn dục vọng. Bởi những ham muốn ấy,
My đánh mất đi nhân cách của mình, bất chấp luân thường đạo lí để thỏa mã dục
vọng của bản thân. Còn trong Tân Cảng những khao khát đời sống bản năng
trong sạch của người phụ được miêu tả qua những chi tiết ngoại hình tinh tế:
“Anh không nghe thấy tiếng thở dài tức ngực của người chưa đến bôn mước
tuổi, da thịt mát lạnh, thơm tho của sự đầy đủ, nhàn hạ dần đang cần sự yêu
chiều ve vuốt”. Đó cũng là những nhu cầu chính đáng, lành mạnh của con
người.
Giống như một nhà quay phim tài ba, với góc quay cận cảnh, từng khuôn
mặt thị dân hiện lên sắc nét, sinh động, mỗi người một vẻ. Không chỉ vậy, nhà
văn còn đưa ống kính của mình lên cao để có cái nhìn bao quát, thâu tóm được
bức tranh toàn cảnh về đời sống con người đô thị: “Người ngồi cứng đơ như
những bức tượng. Mỗi khi xe phanh gấp, tượng người như bê tông đó nghiêng
nguyên khối, sau trở về vị trí cũ. Mắt ai cũng nhìn vào một khoảng không trước
mặt…tất cả đều mang khuôn mặt ơ hờ, bình thản” (Thành phố đi vắng). Với
những chi tiết đắt giá hình ảnh con người đô thị lạnh lùng vô cảm như những
bóng ma câm lặng được nhà văn chộp lấy qua những chi tiết miêu tả ngoại hình
sống động. Cuộc sống đô thị tiềm ẩn bao bất trắc, thói hư tật xấu, khiến con
người luôn có cảm giác bất an, hoang mang, lo sợ. Nỗi niềm hoang hoải ấy cũng
hiện lên trên từng khuôn mặt thị dân: “Phía khuất lấp, là một người đàn ông râu
rậm, mặt lì, cắm cúi nhai”,“ Mặt bà cụ xanh lét. Ông cụ thất thần, dáng xiêu
vẹo”,“chúng mặc áo choàng dài gần đầu gối. Hai xe máy không biển số. Thằng
nào khi vào cũng đeo khẩu trang” (Trong lúc ăn một bát phở gia truyền). Bằng
những chi tiết miêu tả ngoại hình có chọn lọc, Nguyễn Thị Thu Huệ đã mang
56
đến cho nhân vật của mình sự sinh động riêng. Điều đó cũng chứng tỏ nỗ lực tìm
tòi, khám phá tạo nên phong cách riêng cho nhà văn.
3.1.2. Miêu tả nhân vật qua hành động
Hành động nhân vật là phương diện đặc biệt quan trọng để thể hiện tính
cách nhân vật vì việc làm của mỗi người là căn cứ quan trọng có ý nghĩa quyết
định nói lên tư cách, lí tưởng, phẩm chất cũng như những đặc điểm thuộc về thế
giới tinh thần của người đó. Hơn nữa, trong các tác phẩm tự sự, tính cách nhân
vật không phải ngay từ đầu đã được hình thành trọn vẹn. Chính hành động có
tác dụng bộc lộ quá trình phát triển của tính cách và thúc đẩy sự diễn biến của hệ
thống cốt truyện. Thông qua các mối quan hệ, sự đối xử giữa các nhân vật trong
những tình huống khác nhau, người đọc có thể xác định được những đặc điểm,
bản chất của nhân vật.
Nguyễn Thị Thu Huệ có biệt tài khiến nhân vật tỏa sáng hoặc tắt lịm hoàn
toàn thông qua một hành động điển hình. Hoài trong Xin hãy tin em là một nhân
vật như thế. Hoài vốn là cô gái bản tính lại ngang tàng, mạnh mẽ, được mệnh
danh là một “cao thủ” có thể “uống hàng lít rượu trắng không say, hút thuốc lào
không mệt mỏi, nhảy đầm thâu đêm và đánh đu được với những người đàn ông
chịu được cô”. Cô nổi tiếng khắp trường và còn lan ra cả khu vực xung quanh.
Khi yêu Thắng, một kĩ sư điện, Hoài đã cố gắng thay đổi hẳn trở thành một
người con gái ngoan hiền. Nhưng chính trong buổi sinh nhật của mẹ người yêu,
Hoài đã không kiểm soát được hành vi của mình: “Hoài lắc lắc, uốn éo mông và
run rẩy thân hình…người Hoài giật đùng đùng, tóc cô rũ rượi, tay chân vung
vẩy…như một cô gái điếm rẻ tiền thỉnh thoảng đến các vũ trường nhử khách…”.
Hành động ấy đã tố cáo bản chất ăn chơi, sa đọa của Hoài, khiến cả người yêu
và gia đình anh sốc nặng. Còn trong Tình yêu ơi, ở đâu? bản chất gia trưởng, vũ
phu và ích kỉ người yêu thứ hai của Quyên cũng được vạch trần qua những hành
động của hắn. Khi Quyên khoe những tấm ảnh chụp thời sinh viên hắn đã nổi
57
điên lên, ghen tuông mù quáng, thậm chí hắn xúc phạm Quyên, giang tay tát
Quyên, lấy tất cả những món đồ hắn đã tặng cô đập tan, xé nát. Hành động thô
bạo thiếu văn hóa ấy cũng xé toang vẻ ngoài có học thức, lột trần bản chất con
người vô liêm sỉ của hắn. Hay Hải trong Một nửa cuộc đời là một người chồng
chu đáo, yêu thương vợ con, hết lòng vì gia đình. Phẩm chất tốt đẹp của người
đàn ông ấy được thể hiện qua hàng loạt những hành động, cử chỉ ân cần, chăm
sóc yêu thương anh dành cho vợ và con gái. Sự giả dối của cô con dâu trưởng
trong Không thể kết thúc lại được bóc trần qua hành động đánh tráo chiếc bình
cổ.... Như vậy tính cách nhân vật được bộc lộ qua những hành động, cử chỉ của
nhân vật trong quan hệ với nhân vật khác, ở những tình huống khác nhau.
Không chỉ góp phần thể hiện tính cách, phẩm chất, hành động cũng là một
phương diện quan thể hiện thế giới nội tâm nhân vật. Thông qua những hành
động, cử chỉ bên ngoài, người đọc cảm nhận được những tâm trạng phức tạp của
con người. Đó là tâm trạng đau đớn của hai anh em khi phải xa nhau trong Tân
Cảng. Những đau đớn, tuyệt vọng của cậu bé khi phải lên máy bay rời xa em
trai được diễn tả qua hàng loạt những hành động: “Nó đi vào giữa hai hàng ghế.
Chăm chăm đếm như không cần biết có ai bên mình. Một. Hai. Ba. Bốn. Và
năm. Nó dừng lại. Bên ô cửa sổ..Thằng anh cứ đứng ở hàng thứ 5 như bị thôi
miên bởi ông béo bụng(..). Thằng anh nhìn mẹ mắt đầy nước.Nó lắc đầu tuyệt
vọng. " Dưới này cơ mà con". Chị lại gọi. Nó vẫn lắc đầu, nhìn người đàn ông
đầy vẻ kinh hãi. Rồi chị nhìn. Nói " Con hẹn với em là ngồi ở đây. Ô cửa số
5(..). Thằng anh vẫn lắc đầu. Nó nhìn mẹ bằng đôi mắt mở to chưa từng thấy
bao giờ. Rồi lại nhìn qua ô cửa đã bị lão béo kéo sập tấm chắn nắng xuống và
đang nhắm mắt ngủ. Thằng anh chồm người qua mọt người khách bên ngoài.
Chồm qua lãi béo. Đấm như điên vào ô cửa tròn đã đóng(...)Thằng anh vừa đấm
vào ô cửa, vừa hét trong những giọt nước mắt: " Bé ơi, có thấy anh không. Anh
đang ở đây này". Còn sự dửng dưng, lạnh lùng vô cảm của bác tài được thể hiện
qua những hành động: “bác tài nào cũng như người máy, thành thạo vài động
58
tác đơn giản, chính xác, lịch sự. Khách quẹt thẻ, im lặng tự vào chỗ ngồi. Khách
trả tiền mặt, bác nhìn thẳng, tay chìa đưa vé, nhận tiền bỏ vào cái hộp nhỏ bên
cạnh. ” (Thành phố đi vắng). Con người giống như những con rô bốt thành thạo
những động tác nhưng không bao giờ biểu lộ xúc cảm, không buồn, không vui,
không gắn kết yêu thương.
Như vậy những hành động việc làm của nhân vật không chỉ góp phần tạo
kịch tính cho câu chuyện, thúc đẩy cốt truyện phát triển mà thông qua đó nhà
văn còn tái hiện chân dung tinh thần, cuộc đời, số phận của các nhân vật. Cũng
thông qua những hành động, việc làm đó, bạn đọc cảm nhận được thói quen sinh
hoạt, nếp sống của con người đô thị hiện đại với bao đổi thay, xáo trộn.
3.1.3. Miêu tả nhân vật qua ngôn ngữ
3.1.3.1. Ngôn ngữ độc thoại
Độc thoại là phát ngôn của nhân vật nói với chính mình, trực tiếp bày tỏ
tâm tư, tình cảm, suy nghĩ bên trong của mình. Đây là thủ pháp nghệ thuật quen
thuộc được nhiều nhà văn, nhà thơ khai thác sử dụng nhằm miêu tả thế giới nội
tâm cũng như tính cách, số phận nhân vật. Trong văn học Việt Nam từ văn học
trung đại đến văn học hiện đại nhiều tác giả cũng đã sử dụng thành công thủ
pháp nghệ thuật này góp phần tạo nên những nhân vật bất hủ như Truyện Kiều
của Nguyễn Du, Chí Phèo của Nam Cao… Kế thừa truyền thống đó, trong
nhiều truyện ngắn của mình Thu Huệ cũng sử dụng triệt để loại ngôn ngữ này
đem lại hiệu quả nghệ thuật cao.
Trong truyện ngắn của Thu Huệ, ngôn ngữ độc thoại xuất hiện nhiều dưới
dạng tự bạch. Tự bạch là nhân vật xưng tôi, tự kể chuyện về mình, trực tiếp bộc
lộ những suy nghĩ, tình cảm, tâm tư thầm kín của chính mình. Có thể thấy kiểu
ngôn ngữ này xuất hiện trong một số truyện ngắn như: Người đi tìm giấc mơ,
Biển ấm, Ám ảnh, Hình bóng cuộc đời…
59
Người đi tìm giấc mơ là lời tự bạch của một cô gái bất hạnh. Sinh ra mà
chưa một lần được gặp cha, chưa một lần gọi tiếng cha, lớn hơn, mẹ cũng bỏ đi
tìm hạnh phúc khác, cô bé bỗng dưng thành một đứa trẻ mồ côi. Điểm tựa tinh
thần cuối cùng là người bà tần tảo. Hai bà cháu nương tựa rau cháo qua ngày với
một cửa hàng sách nhỏ. Những tưởng cô sẽ tìm được hạnh phúc và bến đỗ bình
yên khi có một chàng trai đem lòng yêu mến muốn cưới làm vợ, dù người đó có
bị tật nguyền. Nhưng về nhà chồng cô mới biết gia đình chồng chỉ coi cô như cái
máy đẻ. Chẳng thể sinh con, họ chửi bới hắt hủi, đánh đập cô dã man. Bà chết,
chỗ dựa tinh thần duy nhất không còn, nỗi đau thể xác cùng những giày vò về
tinh thần khiến cô bấn loạn, đi lang thang và sống với giấc mơ không thành của
mình: giấc mơ hạnh phúc. Lời tự bạch của cô gái cho thấy những tâm trạng đau
đớn, những bi kịch cùng niềm khao khát kiếm tìm hạnh phúc của nhân vật.
Ám ảnh cũng là lời tự bạch của Thạnh về cuộc sống gia đình của mình.
Lớn lên trong một gia đình không hạnh phúc, cha là một kẻ gia trưởng, vũ phu
ngoại tình hết với người đàn bà này đến người đàn bà khác, Thạnh- một đứa trẻ
mới lớn chịu nhiều ám ảnh. Ám ảnh về việc làm sai trái của bố, ám ảnh về
những đổ vỡ trong gia đình, ám ảnh về sự hiền từ đến nhu nhược của mẹ để rồi
cậu bé lớn lên luôn mang trong mình nỗi ám ảnh về tội ác. Ám ảnh mình một
ngày đó sẽ giết cha, giết những người đàn bà phá vỡ hạnh phúc gia đình người
khác và bị xử tử…Lời tự bạch của Thạnh cũng đem đến cho người đọc nhiều ám
ảnh, nhiều bài học nhân sinh sâu sắc.
Bên cạnh lời tự bạch, truyện ngắn của Thu Huệ cũng chọn dạng ngôn ngữ
độc thoại nội tâm dưới dạng nhật ký để khám phá thế giới tinh thần bên trong
con người. Trong Hậu thiên đường kiểu ngôn ngữ này đã phát huy tối đa tác
dụng trong việc miêu tả thế giới nội tâm của nhân vật. Những suy nghĩ ngây thơ,
trong trẻo của cô con gái về tình yêu, cuộc sống được gửi gắm qua những trang
nhật kí: “Ngày. Hôm nay đang ngồi trong lớp đợi mưa tạnh, chợt thấy cuối
đường một chị che cái ô đỏ. Đẹp thế không biết…”, “Ngày. Sao mẹ hay về
60
khuya thế. Mình mà như mẹ, mình sẽ lấy chồng”, “Mình thích anh ấy vì mắt anh
ấy đẹp”, “Ngày. Mình nhớ anh ấy quá. Hai ngày không thấy anh ấy đâu. Hay
anh ấy ốm rồi. Đi học về, mình cứ thấy ngơ ngác thế nào ấy. Bỗng nhiên anh ấy
hiện ra ở đầu đường: bé con, mấy ngày vừa rồi anh phải có phi vụ làm ăn. Nhớ
em quá, phải đón em đây. Ối giời ơi, sao mình sung sướng thế. Mình yêu anh ấy
mất rồi. Mẹ bảo cái bọn đàn ông rặt một loạt đểu cả, đừng nên tin ai. Mình thì
thấy ai cũng đáng tin hết, nhất là anh”. Nhật kí trở thành người bạn tri kỉ để cô
bé gửi gắm, giãi bày bao vui buồn, mong ước trong cuộc sống. Thiếu vắng tình
yêu của cha, sự quan tâm của mẹ, tất cả những tâm trạng phức tạp của cô gái
mới lớn gửi tất vào những trang nhật kí. Để rồi, một ngày người mẹ vô tình đọc
được những dòng tâm sự ấy, chị hốt hoảng nhận ra con mình đã lớn. Đau đớn tột
cùng khi chị phát hiện con gái đang đi vào vết xe đổ của mình năm xưa. Bao
nhiêu sự giằng xé, day dứt của người mẹ được diễn tả bằng những lời độc thoại:
“tôi lặng người”, “tôi có cảm giác như mình bỗng hóa thành đá”, “tôi lặng lẽ ra
sân”, “tôi có cảm giác như mình bỗng tan thành nước”, “giống như một người
điên”… Để rồi, cuối cùng chị đã chết trong nỗi uất hận, trong sự ân hận tột cùng
của một người mẹ thương con nhưng quá muộn màng.
Sử dụng ngôn ngữ độc thoại, Thu Huệ đã đi sâu miêu tả được đời sống bên
trong tâm hồn con người khơi dậy những xúc cảm thầm kín nhất, những khát
vọng giấu kín, những nỗi niềm riêng khó có thể giãi bày của con người đô thị
hiện đại. Qua đó Thu Huệ cũng chứng tỏ tài năng am hiểu đời sống tình cảm của
con người cũng như biệt tài miêu tả tâm lí nhân vật. Tất cả góp phần tạo nên
những trang văn giàu xúc cảm, đem đến cho bạn đọc những thông điệp nhân văn
sâu sắc.
61
3.1.3.2. Ngôn ngữ đối thoại
Bên cạnh sử dụng ngôn ngữ độc thoại để thể hiện tính cách, tâm trạng của
nhân vật thì Nguyễn Thị Thu Huệ còn sử dụng ngôn ngữ đối thoại.
Con người đô thị hiện đại mải miết chạy theo vòng xoáy của tiền tài, danh
vọng vì vậy yêu thương con người dành cho nhau ngày càng ít. Trong truyện
ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ, chúng tôi thấy xuất hiện khá nhiều những mẩu
đối thoại ngắn, rời rạc giữa các nhân vật. Con người như chìm vào thế giới của
cá nhân. Người ta không đối xử với nhau cởi mở, hồ hởi, thân thiện như trước
nữa. Tất cả đều kiệm lời tới mức tối đa:
-“Cô có thể ngồi với tôi vài phút, tôi muốn hỏi cô chuyện này”,
-“Dạ”
- “Tôi có việc phải đi xa thành phố ba năm”
- “Dạ”
- “ Hồi trước khi đi, tôi và bạn trai thường ăn ở đây, lúc ấy cô đã làm quản
lý, cô có nhớ tôi không”.
-“ Dạ. Tôi có nhớ chị. Bạn chị người Thụy Điển”.
-“ Đúng rồi”.
Đó là đoạn đối thoại giữa cô gái đi xa sau ba năm trở về thành phố thân
yêu với người quen cũ trong Thành phố đi vắng. Những câu trả lời ngắn như
tiếng của những con rô bốt phát ra từ miệng của cô quản lí nhà hàng đã cho thấy
cuộc sống của con người đô thị, mải miết với công việc, với bộn bề lo toan kiếm
sống, tình yêu thương, sự quan tâm, cởi mở chân thành con người dành cho
nhau ngày càng ít đi.
Suy nghĩ và lối sống của những sinh viên trí thức cũng được phơi bày qua
ngôn ngữ đối thoại giữa Hoài và Thanh:
62
- “Nó vừa ki, vừa Trư như thế mày đánh đu làm gì?
- Nó không ki với tao. Nó làm ăn được toàn đưa tao giữ để chi tiêu.
Thằng này tuy cục súc nhưng được cái thật thà. Chỉ ăn ngủ và vần tao
chứ không để ý con khác. Trong khi các khóa sau mình bao con hơ hớ
ra đấy. Không yêu nó, mày bảo yêu ai?..” (Xin hãy tin em)
Trong Phù Thủy bản chất dâm ô, xấu xa, sự tha hóa biến chất của lão hàng
xóm cũng được bộc lộ qua đoạn đối thoại với đứa trẻ:
“- Tại sao bác cứ nhìn cháu. Nó hỏi
- Cháu bao nhiêu tuổi. Ông ta hỏi và ngồi bên cạnh.
- Mười hai tuổi- Nó trả lời
- Lớn quá. Ngực cháu rất đẹp
- Gì cơ ạ? Nó không hiểu ông ta nói gì.
- Ngực cháu ấy. Nó trắng ngần và phổng phao như ngực thiếu nữ. Chú
chưa thấy ai có bộ ngực như cháu(...)
- Chú sẽ dạy cho cháu hiểu. Cuộc sống tuyệt lắm. Nhà chú cách nhà cháu
cái ngõ, sang đó chú dạy cháu thành người lớn”.
Bộ mặt vô liêm sỉ của kẻ dâm ô đã được phơi bày khi lão hàng xóm gạ gẫm
con bé đáng tuổi con mình. Dù là một người đàn ông lớn tuổi, đã có gia đình
đàng hoàng, nhưng hắn sẵn sàng buông ra những lời tán tỉnh thô thiển, thiếu
văn hóa với một đứa trẻ vị thành niên. Những lời lẽ thô tục ấy như một thứ nước
rửa, phơi bày bộ mặt bỉ ổi của hắn, khiến hắn hiện nguyên hình là một tên yêu
râu xanh đáng khinh bỉ.
Trong truyện ngắn Thiếu phụ chưa chồng sự trơ tráo, ích kỉ của My cũng
được qua những lời nói My nói với chị:
63
- Thôi đi, chuyện sau này chị đừng bàn ra đây, biết đâu tôi không nhằn
được chồng chị trước. Thời của tôi khác thời của chị rồi. Sống như các mẹ, các
chị mà ngớ ngẩn à? Giời ơi, biết có sống đến lúc ấy mà ân với cả hận.
- Thế em muốn gì? Em không nghĩ đến thằng cháu ruột em à, và gia đình
mình nữa. Con người sống lúc nào cũng chỉ có mình với người mình yêu đâu,
có biết bao mối quan hệ?
- Tôi sống với Dương, không cần cưới xin, anh chị cũng chẳng cần bỏ
nhau,chỉ cần viết cho tôi một cái giấy cam kết thôi là đủ.
Tôi cóc cần sống vì ai, tôi vì tôi bởi vì có ai vì tôi đâu.”
Qua lời lẽ táo tợn sống sượng của mình, My bộc lộ là một cô gái ích kỉ đến
tàn nhẫn, chỉ vì ham muốn, dục vọng các nhân mà sẵn sàng chà đạp, bất chấp cả
luân lí đạo đức. Cũng qua đoạn đối thoại này, người đọc cảm nhận được sự nhu
mì, yếu đuối, đau khổ thậm chí có phần bế tắc, bất lực của Hảo khi biết chính
chồng và em gái ruột là những kẻ đâm sau lưng cô. Khác với lối sống ích kỉ chỉ
biết đến mình của My, Hảo là người phụ nữ giàu tình cảm, trân trọng những giá
trị đạo đức truyền thống. Hảo cũng là người từng trải khi chị nhận ra rằng, con
người không chỉ sống với tình yêu mà xung quanh còn có bao mối quan hệ cần
nâng niu giữ gìn, không thể vì tình yêu của bản thân mà chà đạp lên tất cả nhất
là tình cảm gia đình thiêng liêng quý giá.
Như vậy ngôn ngữ trở thành thủ pháp hữu hiệu giúp nhà văn tái hiện chân
dung nhân vật con người đô thị. Bởi lẽ tính cách nhân vật không chỉ bộc lộ qua
hành động cử chỉ, điệu bộ mà còn qua lời nói. Hơn thế thông qua ngôn ngữ,
người đọc cũng cảm nhận được thói quen tư duy, giao tiếp của cả cộng đồng
trong thời kì đô thị hóa.
64
3.2. Không gian- thời gian nghệ thuật nghệ thuật
3.2.1. Không gian nghệ thuật
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, “Không gian nghệ thuật là hình thức bên
trong của hình tượng nghệ thuật, thể hiện tính chỉnh thể của nó” đồng thời “thể
hiện quan niệm về thế giới, chiều sâu cảm thụ của thời gian hay của một giai
đoạn văn học” [11, tr134]. Như vậy không gian nghệ thuật chính là môi trường
sống của nhân vật, là nơi diễn ra các biến cố, sự kiện của câu chuyện. Việc tạo
dựng không gian nghệ thuật như thế nào phụ thuộc vào tài năng và ý đồ nghệ
thuật của nhà văn. Nếu như trong điêu khắc và hội họa, chất liệu đặc trưng để
tạo ra những tác phẩm nghệ thuật là hình khối, đường nét, màu sắc, vì vậy
những người nghệ sĩ chỉ có thể lựa chọn cho mình một không gian tĩnh. Nghĩa
là, trong hội họa và điêu khắc không có sự, vận động phát triển của không gian,
thời gian. Nhưng với chất liệu đặc trưng để xây dựng tác phẩm văn học là ngôn
từ, nên nhà văn có thể dễ dàng đưa người đọc di chuyển đến nhiều không gian,
thời gian khác nhau. Có thể là không gian rộng lớn nhưng cũng có thể là không
gian hẹp, có thể là không gian thực cũng có thể là không gian tâm tưởng mang
nặng tâm trạng của con người. Qua việc khảo sát các truyện ngắn của Thu Huệ
viết về đề tài đô thị, chúng tôi nhận thấy trong các sáng tác của chị xuất hiện
một số kiểu không gian như: Không gian gia đình, không gian căn phòng, không
gian tâm tưởng.
3.2.1.1. Không gian gia đình
Một tỷ lệ lớn truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ chọn không gian gia
đình làm nền cảnh cho câu chuyện. Chúng ta bắt gặp kiểu không gian này trong
nhiều câu chuyện của Thu Huệ như: Sống gửi thác về, Nước mắt đàn ông, Hậu
thiên đường, Phù Thủy, Tân Cảng, Ám ảnh, Của để dành... Những mặt trái
của nền kinh tế thị trường, sự thay đổi quan niệm, giá trị sống của con người
đương đại được phản chiếu trong không gian đô thị thu nhỏ: gia đình.
65
Gia đình vốn là tổ ấm thiêng liêng mà ở đó các thành viên gắn kết yêu
thương, là nơi con người tìm được bến đậu bình yên sau những bão giông của
cuộc đời nhưng trong những ngôi nhà xa hoa lộng lẫy kia biết bao con người vẫn
ngày đêm sống với nỗi cô đơn, giày vò, bi kịch. Đó là nỗi cô đơn buồn tủi của
người phụ nữ trong những đêm dài thiếu vắng bóng chồng; nỗi đau đớn của hai
đứa trẻ khi phải li biệt mỗi đứa một nơi (Tân Cảng); là nỗi đau, sự bất lực của
một người đàn ông không đủ sức níu kéo, gìn giữ hạnh phúc đời mình (Dĩ
Vãng); là sự đau đớn cô đơn của người cha suốt một đời hi sinh cho gia đình
(Nước mắt đàn ông); sự bế tắc của cô con gái khi thiếu vắng tình thương, sự
quan tâm chăm sóc của mẹ để cuối cùng đi vào vết xe đổ của mẹ (Hậu thiên
đường); là sự ngờ vực không hiểu được chính cha mẹ của mình (Phù Thủy); là
nỗi ám ảnh của người con khi chứng kiến thói gia trưởng, trăng hoa của chính
cha mình (Ám ảnh) và cả những xáo động của cuộc sống gia đình trước cơn sốt
kinh tế thị trường (Mi-nu xinh đẹp)… Tái hiện không gian gia đình, Thu Huệ đã
thấy được những tác động ghê gớm của nhịp sống hiện đại, của nền kinh tế thị
trường đối với từng gia đình. Bởi lẽ gia đình chính là tế bào của xã hội. Mọi sự
biến động của xã hội đều ít nhiều tác động đến gia đình.
Chính bởi lẽ con người không tìm được sợi dây gắn kết, tình yêu, hạnh
phúc trong gia đình nên nhiều nhân vật trong truyện ngắn của Thu Huệ đã có
thiên hướng xê dịch thoát khỏi không gian ấy. Đó là hình ảnh của Lan trong Một
nửa cuộc đời. Suốt ngày quanh quẩn trong nhà, bên xó bếp với những công việc
thường nhật của một người mẹ, người vợ, Lan cảm thấy ngột ngạt, nhàm chán,
vô vị. “Ngày nào em cũng thấy mòn đi, mỗi ngày một tí, một tí… Em trở nên đần
độn, trì trệ, quẩn quanh ở xó bếp, xó cửa… Chỉ mươi năm nữa, em thành một cụ
già bốn mươi tuổi, không ai nhận ra em nữa”. Chính vì thế, Lan mong muốn
vượt thoát ra khỏi không gian gia đình để đến một chân trời mới bên người tình,
được nếm trải những ngọt ngào, lãng mạn, bay bổng của tình yêu. Nhưng sau
những xúc cảm thăng hoa giữa biển trời bao la, trở về với không gian quen
66
thuộc, Lan lại thấy day dứt, hối hận. Như vậy sự xê dịch không gian ra khỏi gia
đình chỉ là một phép thử để con người biết trân quý hơn những gì mình đang có
và có ý thức gìn giữ hạnh phúc gia đình.
Gia đình người Việt xưa ít nhiều đều có sự gắn kết với cộng đồng xã hội
theo kiểu như “bán anh em xa, mua láng giềng gần”, hàng xóm “tối lửa tắt đèn
có nhau”, nhưng trong bức tranh đô thị hiện đại, gia đình gần như có sự bức tử
với môi trường xung quanh. Không thấy, không có một sợi dây gắn kết, một mối
quan hệ thân xơ nào được nói đến trong ngôi nhà của vợ chồng Tân- Luyến
trong Sống gửi thác về. Suốt chiều dài tác phẩm, theo chân cuộc đời của Luyến
từ khi lấy chồng, sinh con, rồi chết đi vì bị bạo bệnh, người ta không thấy một
mối quan hệ bạn bè thân quen nào hiện hữu trong gia đình của cô. Quanh năm
suốt tháng, với cái dáng nằm ngủ úp thìa, ngày qua tháng lại, với từng ấy công
việc quen thuộc, từng ấy con người trong gia đình, nhịp sống trôi đi nhịp nhàng
đến buồn tẻ. Đó cũng là lối sống quen thuộc của nhiều gia đình đô thị hiện đại,
nhà nào biết nhà nấy, không ai quan tâm tới ai, không nhà nào can thiệp vào đời
sống riêng của nhà nào.
Có thể nói, không gian gia đình là kiểu không gian xuất hiện nhiều hơn cả
trong truyện ngắn về đề tài đô thị của Nguyễn Thị Thu Huệ. Đây không chỉ là
không gian sống, không gian sinh hoạt, nơi diễn ra những biến cố sự kiện của
câu chuyện mà nó còn là một tín hiệu thẩm mĩ mang nhiều ý nghĩa. Xây dựng
không gia gia đình, Thu Huệ đã chỉ ra cả những tác động tích cực lẫn những hệ
lụy của quá trình đô thị hóa đối với đời sống mỗi gia đình, cái được đi cùng
những cái mất, cái phát triển đi lên đi cùng cả những đổ vỡ. Chính vì vậy mỗi cá
nhân, mỗi gia đình cần phải biết giữ gìn, trân quý những gì mình đang có trước
những biến động, đổi thay hàng ngày của xã hội.
67
3.2.1.2. Không gian căn phòng
Đối lập với những căn biệt thự rộng lớn xa hoa là hình ảnh của những căn
phòng nhỏ hẹp tù túng. Đó là nơi sinh hoạt, là không gian sống, không gian làm
việc của con người đô thị hiện đại. Cùng với sự phát triển chóng mặt của quá
trình đô thị hóa, dân thành thị ngày càng đông đúc hơn. Khát vọng được ra thành
phố, được bám trụ và sinh sống tại những đô thị phồn hoa đã tạo ra sức ép mạnh
mẽ về không gian sống tại những đô thị lớn. Phố chật người đông, cuộc sống trở
nên ngột ngạt, con người ngày càng đoạn tuyệt với thiên nhiên. Những sinh hoạt
văn hóa cộng đồng cũng dần mất đi, con người thu mình trong không gian tù
túng chật chội. “Đó là căn phòng mười ba mét vuông chứa tới mười tám người
và chuẩn bị đón thêm hai ông bà già là thành hai mươi” (Giai nhân). Hay “Căn
phòng mười bốn mét vuông, tầng xép của một khu nhà Pháp cổ, trần cao, sàn
gỗ” của Quang trong Chủ nhật được xem phim hoạt hình. Không gian ấy là nơi
để nhân vật cảm nhận cuộc sống vô vị nhạt nhẽo của mình với những chiều chủ
nhật xem phim hoạt hình. Đó là cảm giác ngộp thở khi “cả tuần ngồi trong căn
phòng chín mét vuông, chung với ba đồng nghiệp, dưới ánh sáng của bốn bóng
đèn nêông, cửa sổ luôn đóng để chống, bụi chống ồn” của cô gái trong Trong
lúc ăn một bát phở Gia truyền. Để rồi cô khao khát có những ngày chủ nhật
thong dong hít khí trời, ăn một bát phở ưa thích, ngồi nhâm nhi một cốc cà phê.
Nhưng rồi lo lắng, bất an bởi những hiểm nguy luôn rình rập cô lại tự nhốt mình
trong “góc phòng mười hai mét vuông, không cửa sổ giữa một chung cư cũ là
lựa chọn duy nhất cho ngày cuối tuần nếu không muốn ra đường và đối mặt với
bọn cướp chuyên nghiệp” có trang bị vũ khí. Còn người đàn bà ba mươi tám tuổi
xinh đẹp chưa chồng trong Giai nhân đã tự giam mình ba ngày quanh quẩn
trong bốn bức tường, dọn dẹp lặt vặt, chờ tiếng chuông điện thoại, tiếng gõ cửa
của một ai đó để nhắc rằng người ta vẫn nhớ đến cô nhưng tuyệt nhiên không
có. Chính trong sự chật hẹp ấy, cô có cơ hội đối diện với chính mình, để cảm
nhận một cách sâu sắc, thấm thía nỗi cô độc của cuộc đời. Trong Thành phố đi
68
vắng, cô gái trở về xứ sở thân yêu của mình sau ba năm xa cách nhưng tất cả
đều vỡ òa trong sự thất vọng bởi cảnh vật vẫn như xưa nhưng tình người đã “đi
vắng”. Cô chọn cho mình không gian là căn phòng khách sạn ngày xưa để cảm
nhận rõ rệt những mất mát, đổi thay của tình đời, tình người: “Ba năm qua rồi,
giờ cô đứng một mình nơi cửa sổ, nhìn xuống đường. Sau lưng cô, trong phòng,
không có những bức phác thảo rải kín mặt giường. Không quần áo bừa bãi vắt
khắp nơi. Không có anh. Không có bia. Mùa hè nhưng lạnh. Giá vẽ mini gập
nguyên dựng góc cửa. Bảng màu và những ống sơn gọn gàng im lặng chân
giường”. Nhốt mình trong căn phòng nhỏ, cô gái đã cảm nhận một cách sâu sắc
những mất mát, đổi thay của cuộc sống phố phường. Cảnh cũ, người xưa, nhưng
mọi thứ xung quanh giờ đã thay đổi, con người trở nên lạnh lùng, vô cảm hơn.
Xây dựng không gian đời tư nhỏ hẹp, biệt lập với không gian đô thị rộng
lớn Thu Huệ càng cho thấy con người cá nhân ngày càng cô đơn, thu mình bởi
họ luôn cảm thấy lo lắng trước những biến động của đời sống xã hội.
3.2.1.3. Không gian tâm tưởng
Khảo sát các truyện ngắn của Thu Huệ, chúng tôi nhận thấy trong tác phẩm
của chị không chỉ xuất hiện không gia đình, không gian căn phòng, nơi diễn ra
những sinh hoạt đời tư, công việc, cuộc sống hằng ngày của con người đô thị,
mà kiểu không gian tâm tưởng cũng xuất hiện khá nhiều. Đó là không gian tâm
trạng chất chứa bao nỗi niềm, tâm tư, ước vọng của con người. Đó có thể là
không gian quá khứ, có thể là không gian của mơ ước, khát vọng.
Khi cuộc sống thực tại gặp nhiều bi kịch, con người thường có thiên hướng
tìm về với quá khứ, với những hoài niệm. Vì vậy kiểu không gian hồi tưởng
cũng là một đặc sắc nghệ thuật xuất hiện trong nhiều truyện ngắn của Thu Huệ.
Đó là những kí ức về tuổi thơ ngọt ngào bên mẹ: “Ngày xưa. Mẹ gánh Dương
một bên, gánh tép một bên, đung đưa, đung đưa từ chợ chiều về. Qua khu chợ.
Qua rặng phi lao. Là biển. Ngày xưa. Lúc mới biết chạy. mẹ hay thả Dương bập
69
bõm bước trên cát, gần với mép sóng…” (Với tay là đến). Vùng biển nghèo, đầy
nắng, đầy gió hiện lên ăm ắp, vơi đầy trong kí ức của Dương. Nơi ấy có bóng
dáng hao gầy của người mẹ tảo tần, có khuôn mặt rạng ngời tin yêu, hy vọng của
cha, nơi ấy có biết bao người dân chài quanh năm rám nắng mà vẫn nặng nghĩa,
nặng tình. Nhưng tất cả chỉ còn trong kí ức, trong hoài niệm, không biết Dương
còn có cơ hội để trở về, để cho gió biển tạt vào da thịt, để hít thở hương vị của
cát, của mùi mồ hôi trên áo mẹ ướt đầm. Khi mà giờ đây, đối lập với không gian
ấy, mình Dương quằn quại đau đớn, vật vã đấu trọi lại những cơn thèm thuốc
trong trại cai nghiện.
Còn trong Thành phố không mùa đông không gian của quá khứ hiện cũng
hiện về trong dòng hoài niệm của nhân vật. Kỉ niệm ùa về trong tâm trí, những
không gian quen thuộc của ngày xưa: “Lúc này đây, tôi lại được hít trong
không gian mát lạnh của mưa, của miền rừng cộng với độ lạnh trong xe cái mùi
hương êm dịu của những hạt ngô rang”. Không gian kí ức gắn liền với những kỉ
niệm ấm áp về gia đình. Nhưng tất cả chỉ còn là hoài niệm, tiếc nuối.
Không chỉ tìm về với không gian hồi tưởng, tìm đến một thế giới khác, thê
giới của những giấc mơ, của khát vọng cũng là cách để con người xoa dịu những
bi kịch trong thực tại. Trong Người đi tìm giấc mơ kiểu không gian tâm tưởng
cũng xuất hiện trở thành tín hiệu thẩm mĩ giàu ý nghĩa. Đó là không gian xuất
hiện trong những giấc mơ của một cô gái chịu quá nhiều bất hạnh. Cuộc đời cô
là một chuỗi những buồn đau, mất mát, thiếu thốn và bi kịch: không có cha, lên
tám tuổi mẹ lại bỏ đi theo người khác, lớn lên lấy một người chồng tật nguyền
và thường xuyên bị gia đình nhà chồng đánh đập… Cuộc sống hiện thực có quá
nhiều bất hạnh đau đớn cô tìm đến những giấc mơ. Giấc mơ được đổi đời, giấc
mơ được làm hoa hậu, giấc mơ được hạnh phúc được lên thiên đường... Đó là
không gian của ước mơ, khát vọng khi đời thực cô chịu qua nhiều đắng cay, tủi
hờn.
70
Mai trong truyện Một đời sống khác luôn bị giày vò bởi căn bệnh đau đầu
quái ác. Sau mỗi giấc mơ, cơn đau đầu lại kéo đến. Cùng với cuộc sống hiện
thực, Mai sống cùng những giấc mơ. Những giấc mơ làm cô đau đớn: “Những
giấc mơ thật ám ảnh. Gần gũi. Cô đã khóc. Đã cãi nhau. Đau khổ. Tức giận. Vui
vẻ”. Giấc mơ đưa Mai về với những kỉ niệm của mối tình đầu:“ Mơ thấy anh
chở mình bằng xe đạp, leo dốc Tam Đảo Mùa đông trời tối. Vắng không bóng
người. Mình buồn ngủ, anh lấy cái khăn buộc lưng mình vào lưng anh, gò mình
leo dốc”. Giấc mơ đưa Mai đến gặp bố, gặp bà, với những kỉ niệm đã qua và cả
những điều sắp đến. Giấc mơ giờ đây cũng trở thành một phần không thể thiếu
trong cuộc sống của cô. Phải chăng những áp lực của cuộc sống hiện đại hôm
nay đang đè nặng lên con người, nó khiến con người ta trở nên ngộp thở, đau
đớn. Nỗi đau âm ỉ ăn sâu vào tiềm thức của con người. Làm thế nào để giải tỏa
những đau đớn và căng thẳng đó. Làm thế nào để con người có một cuộc sống
thật sự thanh thản. Đó cũng là câu hỏi nhức nhối mà nhà văn đặt ra giữa cuộc
sống hiện đại xô bồ.
Như vậy, với cách xây dựng không gian theo dòng tâm trạng, truyện ngắn
Nguyễn Thị Thu Huệ không chỉ đi sâu vào khám phá đời sống tâm lí của con
người mà còn diễn tả được đời sống hiện thực vô cùng phức tạp và luôn biến
động.
3.2.2. Thời gian nghệ thuật
Cũng theo Từ điển thuật ngữ văn học “Thời gian nghệ thuật là hình thức
nội tại của hình tượng nghệ thuật (…) thể hiện sự cảm thụ độc đáo của thời gian
về phương thức tồn tại của con người trong thời gian” [11, tr264]. Mỗi hành
động, sự kiện đều phải xảy ra ở một thời điểm nào đó. Vì vậy, đi liền với không
gian nghệ thuật là thời gian nghệ thuật. Mỗi nhà văn, mỗi thời đại lại có quan
niệm khác nhau về thời gian. Như trong văn học trung đại Việt Nam, các nhà
thơ quan niệm rằng thời gian là tuần hoàn, xuân qua xuân lại lại. Nhưng đến các
71
nhà Thơ Mới, Xuân Diệu lại cho rằng thời gian là tuyến tính, một đi không trở
lại, mỗi khoảnh khắc trôi qua là mất đi mãi mãi. Do được xây dựng bằng ngôn
ngữ nghệ thuật nên thời gian trong tác phẩm dễ dàng biến đổi linh hoạt, có thể là
thời gian kéo dài hàng thế kỉ, cũng có thể chỉ là một khoảnh khắc, có thể trôi qua
rất nhanh, thay đổi đột ngột, gấp gáp, cũng có thể chầm chậm, yên ả như những
thước phim quay chậm. Thời gian có thể được trần thuật cùng chiều với thời
gian tự nhiên, đó là thời gian tuyến tính, nhưng cũng có thể là thời gian đồng
hiện có sự đan cài hòa quện giữa quá khứ, hiện tại, tương lai. Việc miêu tả thời
gian như thế nào, nhanh hay chậm, tự nhiên hay đồng hiện, hồi tưởng… phụ
thuộc vào dụng ý nghệ thuật của nhà văn. Thời gian nghệ thuật cũng là một yếu
tố nghệ thuật góp phần khẳng định tài năng của tác giả cũng như sự thành công
của tác phẩm.
Trong các truyện ngắn của Thu Huệ viết về đề tài đô thị, chúng tôi nhận
thấy có nhiều kiểu thời gian khác nhau. Xin được liệt ra đây và phân tích tác
dụng nghệ thuật của hai kiểu thời gian chúng tôi cho là phổ biến: Thời gian
tuyến tính (thời gian tự nhiên) và thời gian đồng hiện (có sự đan cài quá khứ -
hiện tại - tương lai).
3.2.2.1. Thời gian tuyến tính
Thời gian tuyến tính là thời gian câu chuyện được miêu tả theo trình tự
trước sau. Kiểu thời gian này xuất hiện phổ biến trong văn học truyền thống như
Truyện Kiều, Truyền kì mạn lục… Với thời gian tuyến tính người đọc dễ dàng
nắm bắt diễn biến cốt truyện. Hình tượng nhân vật hiện lên sống động từ lai lịch,
tên tuổi, số phận từ khi sinh ra cho đến khi chết đi. Tuy nhiên kiểu thời gian này
không tạo ra những khúc quanh, ngã rẽ nên chưa tạo nên được sự hấp dẫn, bất
ngờ cho câu chuyện. Khảo sát truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ viết về đề
tài đô thị, chúng tôi nhận thấy nhiều truyện ngắn xuất hiện kiểu thời gian này
như: Sống gửi thác về, Tình yêu ơi, ở đâu? Phù Thủy, Của để dành… Kiểu
72
thời gian này góp một phần không nhỏ trong việc thể hiện cuộc sống, con người
đô thị hiện đại.
Vẫn biết thời gian trôi đi tuần hoàn, cuộc đời con người thì ngắn ngủi, hữu
hạn trong cái vòng quay vô tận của đất trời, nhưng từ xưa cho đến nay nhiều thi
sĩ vẫn ngậm ngùi tiếc nuối bởi quy luật nghiệt ngã đó của thời gian. Bà chúa thơ
Nôm Hồ Xuân Hương từng ngao ngán thốt lên: “Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại/
Mảnh tình san sẻ tí con con”. Sau này, ông Hoàng thơ tình Việt Nam Xuân Diệu
cũng tiếc nuối: “Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua/ Xuân còn non nghĩa
là xuân sẽ già/ …Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn/ Nếu tuổi trẻ chẳng hai
lần thắm lại”. Ta cũng bắt gặp tiếng lòng đồng điệu ấy trong con người đô thị
hiện đại ở nhiều truyện ngắn của Thu Huệ. Nhiều nhân vật của Nguyễn Thị Thu
Huệ cảm nhận thời gian trôi đi nhanh quá, chưa kịp tận hưởng hạnh phúc, chưa
kịp có hạnh phúc, hoặc chưa kịp chuộc lại lỗi lầm thì thời gian đã vụt qua. Đó là
sự trôi chảy không ngừng, một đi không trở lại của thời gian, kéo theo là sự tàn
phai của nhan sắc, sự khắc khoải mong chờ hạnh phúc trọn vẹn nhưng vẫn rơi
vào bi kịch của Quyên trong Tình yêu ơi, ở đâu? Câu chuyện được kể lại theo
dòng thời gian tuyến tính, từ khi Quyên trải qua mối tình đầu với chàng thi sĩ
nhiều mộng mơ, đến anh chàng ích kỉ, vũ phu làm cùng cơ quan với anh trai.
Hai mối tình tan vỡ, thời gian cứ thế qua đi, mùa đông qua, mùa hạ tới, qua cái
thời thiếu nữ nhiều mộng ước, giờ nàng đã hai nhăm. Những tưởng hạnh phúc sẽ
mỉm cười khi nàng gặp Bình, thế nhưng hạnh phúc đến với người ta thật dễ dàng
còn đối với nàng câu hỏi khắc khoải vẫn chỉ là “ Tình yêu ơi, ở đâu?”. Còn cô
gái trong Còn lại một vầng trăng sau khi trải qua biết bao biến cố thăng trầm
trong cuộc đời cô nhận ra rằng: “Thiên nhiên bao la vĩnh cửu. Thiên nhiên tồn
tại với muôn đời”, nhưng “Ôi cuộc đời con người ngắn ngủi quá!”. Để rồi thời
gian qua đi, khi mất đi những điều quý giá, khi cha không còn bên cạnh mình
nữa, cô mới thấy xót xa, ân hận: “Ngày tôi hai mươi tuổi. Tôi có tất cả. Nhưng
tôi không có nước mắt để khóc lúc bố tôi chết. Giờ đây. Hơn mười năm sau. Tôi
73
luôn tràn nước mắt trên mi thương nhớ bố”. Những xót xa, ân hận, day dứt của
cô gái giống như một lời nhắn nhủ, mỗi chúng ta cần phải trân quý những người
thân yêu bên cạnh mình, đừng để khi mất đi rồi mới thấy tiếc nuối thì đã quá
muộn.
Trong cuộc sống thường nhật, đặc biệt trong không gian gia đình, bước đi
của thời gian được đánh dấu bằng những công việc, sinh hoạt hàng ngày. Những
công việc lặp đi lặp lại ấy cùng với bước đi tuần tự của thời gian khiến cuộc
sống của con người trở nên nhàm chán, tẻ nhạt. Truyện ngắn Sống gửi thác về
kể về gia đình của vợ chồng Tân Luyến theo thời gian tuyến tính. Cả cuộc đời
của cô sống tù đọng quẩn quanh trong ngôi nhà đầy đủ tiện nghi nhưng vẫn thật
ngột ngạt bí bách. Dù người cha có đi nhiều nơi, học rộng hiểu nhiều cũng
không làm sao thay đổi được cuộc sống nghèo nàn, buồn tẻ về tinh thần của cô
con gái. Suốt đời cô, sống tại ngôi nhà của mình cùng chồng và cậu con trai tên
Dương. Quanh năm, suốt tháng cuộc sống vẫn trôi đi như thế “Quẩn quanh mãi
với vài ba dáng điệu/ Tới hay lui vẫn từng ấy mặt người” (Huy Cận). Rồi một
ngày Luyến phát hiện ung thư cuộc sống vẫn lặng lẽ trôi đi sống gửi thác về.
Câu chuyện đem đến cho bạn đọc thông điệp có ý nghĩa nhân văn sâu sắc: con
người đừng để những thứ tủn mủn, nhỏ nhặt mà biến cuộc sống của mình trở
nên vô nghĩa nhạt nhẽo.
Sự trôi chảy của dòng thời gian tuyến tính trên những trang văn của Thu Huệ nặng trĩu bao suy tư, chiêm nghiệm, ẩn chứa trong đó cả xúc cảm nhân văn sâu sắc.
3.2.2.2. Thời gian đồng hiện
Thời gian vốn có tính liên tục, một chiều, không thể đảo ngược, từ quá khứ,
đến hiện tại, rồi mới đến tương lai. Tuy nhiên trong thế giới nghệ thuật văn
chương, quá khứ, hiện tại và cả tương lai có thể cùng xuất hiện, đó là hiện tượng
mà người ta gọi là đồng hiện. Trong truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ kiểu
74
thời gian đồng hiện xuất hiện trong nhiều tác phẩm góp phần tái hiện cuộc sống
cũng như con người đô thị hiện đại.
Tân cảng là một câu chuyện đầy xúc động có sự đan xen giữa quá khứ và
hiện tại cùng những dự định tương lại. Quá khứ là những kỉ niệm êm đềm hạnh
phúc, anh và em được ở bên nhau. Khi đó dù gia đình của chúng còn nghèo,
phải ở trong không gian chật chội tù túng của những ngôi nhà tập thể nhưng lúc
nào cũng ngập tràn yêu thương. Còn hiện tại, ngôi nhà to, rộng đầy đủ tiện nghi,
đồ chơi chẳng thiếu thứ gì nhưng lại nhuốm màu li biệt. Cha mẹ li hôn, hai anh
em mỗi người một nơi. Sự đan xen giữa quá khứ và hiện tại đã tạo lên sự lôi
cuốn hấp dẫn cho cốt truyện. Đồng thời số phận, tính cách và những khao khát
của nhân vật dần được bật mí. Cuộc sống đô thị hiên đại ngày càng phát triển
nhưng không tránh được những va chạm, đổ vỡ.
Trong Hậu thiên đường, nhân vật tôi trong sinh nhật lần thứ 16 của con
gái đã kể: “Bây giờ, khi tôi bốn mươi tuổi thấy sao lâu nay để tuổi thơ con trôi
qua trong nỗi buồn sự cô đơn và hứng chịu nỗi cay đắng của người đàn bà bị
phụ bạc. Bỗng nhiên lâu lắm rồi tôi lại thấy phụ bạc nó”. Rồi trong chốc lát chị
nhớ lại quá khứ ngày xưa: “Chỉ có con tôi là khổ. Cái sự sinh ra nó trên đời
cũng vậ. Ngày ấy, khi sung sướng, chúng tôi chỉ nghĩ đến mình. Nhưng khi đau
khổ tôi lại mang nó ra mà soi, mà ngắm , và nhìn nó như chướng ngại vật cản
trở tôi bước trên đường đời”. Bằng việc tái hiện cả quá khứ và cả hiện tại, nhà
văn đã thể hiện được những đau khổ, dằn vặt, sự giày vò giằng xé trong tâm hồn
người mẹ từng có nhiều lầm lỗi.
Còn trong Dĩ Vãng, nhân vật tôi tìm gặp lại vị đội trưởng của mình năm
xưa. Những kí ức về những năm tháng nhập ngũ hiện về trong tâm trí của “tôi”.
Quá khứ chập chờn ẩn hiện đan cài hòa quyện vào nhau. Theo dòng hoài niệm
của nhân vật người đọc lại được trở về với những kí ức của anh, kí ức về vị đội
trưởng nghiêm khắc. Song hành với đó là cuộc sống hiện tại của vị đội trưởng
75
già. Vốn là người lính chinh chiến trải qua bao bão tố của chiến tranh, hôm nay
chú Xung lại phải đối diện với bao sự đổ vỡ, bi kịch gia đình. Vợ bỏ đi, lại về,
lại đi…cứ như thế để lại nỗi đau gặm nhấm trong tâm hồn người đàn ông từng
trải. Nhờ sử dụng thời gian đồng hiện mà người đọc cảm nhận được tính cách
cũng như những bi kịch tinh thần giằng xé của nhân vật.
Với tay là đến cũng có sự đan cài giữa thời gian hoài niệm và cuộc sống
thực tại, cùng những khao khát về tương lai của nhân vật Dương. Kí ức về tuổi
thơ ngọt ngào bên mẹ ở vùng biển nghèo quê hương dội về trong tâm trí của
Dương. Nó giống như dòng suối mát trong lành xoa dịu những đau đớn vật vã
của hiện tại khi Dương phải đối diện với cơn thèm thuốc. Nó cũng nguồn sữa
nuôi dưỡng những ước mơ, khát vọng được trở về với cuộc đời sau những vấp
ngã, lầm lỗi của một thời tuổi trẻ bồng bột. Sự đan cài hòa quyện giữa thời gian
hoài niệm với thời gian thực tại cùng những dự ước về tương lai vừa tạo nên sự
lôi cuốn, bất ngờ thú vị cho câu chuyện, vừa giúp người đọc hiểu hơn về số phận
nhân vật. Cùng với thời gian tuyến tính, thời gian nghệ thuật trở thành tín hiệu
tẩm mĩ giàu ý nghĩa.
Như vậy bằng việc xây dựng những kiểu không gian-thời gian khác nhau
Thu Huệ đã thể hiện được phong cách riêng của mình. Đây cũng là một trong
những yếu tố nghệ thuật hữu hiệu thể hiện bức tranh đô thị muôn màu.
3.3. Ngôn ngữ nghệ thuật
Ngôn ngữ là chất liệu, là phương tiện biểu hiện mang tính đặc trưng của
văn học. Không có ngôn ngữ thì không có tác phẩm văn học. M.Gorki khẳng
định: “Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học”. Ngôn ngữ trong tác phẩm văn
học là ngôn ngữ của đời sống, ngôn ngữ toàn dân nhưng đã được nâng lên thành
ngôn ngữ nghệ thuật. Nó đòi hỏi sự trau chuốt, gọt giũa, tinh luyện của nhà văn
như Maiacopxki đã nói:
Phải phí tốn ngàn cân quặng chữ
76
Mới thu về một chữ mà thôi
Những chữ ấy làm cho rung động
Triệu trái tim trong hàng triệu năm dài
Việc sử dụng ngôn ngữ để phản ánh cuộc sống cũng cho thấy tài năng của
người cầm bút. Để góp phần tạo nên bức tranh hiện thực đô thị đa sắc màu
trong truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ không thể không kẻ đến tài năng sử
dụng ngôn ngữ của nhà văn. Đọc các sáng tác của chị, người đọc cảm nhận được
một lối văn chương mộc mạc, giản dị đời thường, vừa sắc sảo, gai góc, bên cạnh
đó là một Thu Huệ đằm thắm dịu dàng với những trang văn giàu xúc cảm. Tất cả
đều góp phần đem đến cho bạn đọc những xúc cảm thẩm mĩ mạnh mẽ, đồng thời
góp phần tạo nên dấu ấn riêng cho phong cách nghệ thuật của nhà văn.
3.3.1. Ngôn ngữ mộc mạc đời thường, gai góc, sắc cạnh
Khác với ngôn ngữ thơ vừa hàm súc, đa nghĩa, vừa giàu hình tượng, ngôn
ngữ trong truyện ngắn gần gũi đời thường, mộc mạc giản, dị gần với ngôn ngữ
tự nhiên. Truyện ngắn của Thu Huệ sử dụng ngôn ngữ đời thường khá phổ biến.
Đó là lời ăn tiếng nói hằng ngày, những câu văn mang tính khẩu ngữ “Vứt mẹ
cái bằng đại học của cô đi, sử với chả sách. Ông giáo chủ nhiệm tôi năm lớp
mười hôm nọ tôi thấy đi bán sổ số kia kìa, tôi thương hại mua cho vài bộ, thiếu
nước ông ta vái sống tôi.” (Tình yêu ơi, ở đâu?). Ngôn ngữ trần trụi thậm chí có
phần thô nhám ấy đã phơi bầy được bản chất thực dụng của anh trai Quyên
trước cơn sốt kinh tế thị trường. Học hành, bằng cấp, chữ nghĩa sẽ không có
nghĩa lí gì cả nếu con người chẳng thể kiếm tiền. Hay: “Cá chó gì. Tao chỉ tin
em Hoài thôi. Anh chẳng cần cá cũng thắng bởi anh biết em quá”. Thu Huệ
cũng khéo léo sử dụng ngôn ngữ đậm chất địa phương cho một cô gái thôn quê
ra thành phố giúp việc: “Ấy bà biết không? Cháu “nà” có bốn đám hỏi nhưng
cháu “nà” đéo ưng đám nào. Toàn “nà” đồ chó dái”; “Nàm” thử vài việc chả
ra cái gì mà về quê “nại” gặp bọn chó dái. Đéo về nữa. Đéo có tiền tiêu khổ
77
“nắm” (Của để dành). Những thành ngữ, cách nói dân gian cũng xuất hiện
nhiều trong sáng tác của chị: “ nó ăn ốc, mình đổ vỏ. Ở đời chuyện đó thường
lắm” (Nước mắt đàn ông), hay “lọt sàng thì xuống đất rồi chôn luôn, không có
nia nào cả” (Thời gian của mỗi người). Những câu trần thuật ngắn, câu đặc biệt
cũng được sử dụng với mật độ dày đặc “Thế là đi. Như trốn. Như chạy. Như đứa
con chẳng ra gì vừa về nhà thấy bố mẹ nghèo bỏ đi” (Với tay là đến).. Đặc biệt,
điều thú vị là Thu Huệ đã nhanh chóng cập nhập ngôn ngữ hiện đại của nền
kinh tế thị trường làm cho tác phẩm của mình mang hơi thở nóng hổi của cuộc
sống mới “Bên B là chùm khế ngọt, bên A trèo hái mỗi ngày” (Nước mắt đàn
ông). Cũng bằng cách viết này chị đã đưa các nhân vật của mình đến gần hơn
với thực tế đời sống. Chân dung con người đô thị hiện lên sống động, chân thực
mà chúng ta đễ dàng bắt gặp đâu đó ngay giữa cuộc đời. Chính những yếu tố
ngôn ngữ ấy làm cho tác phẩm của Thu Huệ xích lại gần hơn với bạn đọc, đồng
thời phản ánh được những chuyển biến trong tư duy ngôn ngữ của con người
thời đổi mới.
Bên cạnh đó phải kể đến là khả năng sử dụng ngôn từ vô cùng sắc sảo, gai
góc của tác giả. Sự từng trải, vốn hiểu biết sâu rộng về đời sống xã hội con
người cùng tài năng vốn có giúp nhà văn có những nhận xét những câu văn ngắn
gọn mà như điểm đúng huyệt nói lên được thần thái, tính cách của nhân vật. Xưa
kia, Nguyễn Du chỉ với một câu thơ: “Ghế trên ngồi tót sỗ sàng” mà đã vạch
mặt bản chất tráo trở, lưu manh của Mã Giám Sinh thì nay cũng với cách sử
dụng ngôn ngữ tài tình, sắc sảo Nguyễn Thị Thu Huệ đã lột tả được bản chất của
con người đô thị. Bản chất của Hoài “thớt trơ” được miêu tả qua những từ ngữ
sắc sảo: “Hoài tiếp tục rít, càng sau càng ngon lành ngọt ngào. Mặt Hoài như
có sương phủ, mơ màng một vẻ đàng điếm đĩ thõa” (Xin hãy tin em). Chỉ với
một vài câu văn ngắn Thu Huệ đã lột tả được sự ăn chơi, buông thả, đàng điếm
của Hoài. Ngôn ngữ sắc sảo của nhà văn còn thể hiện ở việc nhà văn nói lên
những suy nghĩ mà ít người dám nói bằng những từ ngữ có phần mạnh bạo: “
78
Đàn ông là thế nào? Biết đánh nhau, biết chửi thề, hay biết giúp đỡ người khác?
Thế nào để biết một thằng giống đực là đàn ông hay không đàn ông?” (X-Men
có mùi trường đua)…
Như vậy, khi miêu tả con người cũng như bức tranh đời sống đô thị, Thu
Huệ sử dụng khá dày đặc chất liệu ngôn ngữ tự nhiên. Đó là ngôn ngữ xuất phát
từ lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân. Nhưng sự thông minh, khôn khéo và
tài năng của nhà văn là sử dụng chất liệu ấy một cách đúng lúc, đúng chỗ làm
cho chân dung, cuộc sống con người đô thị hiện lên sinh động chân thực.
3.3.2. Ngôn ngữ đằm thắm, dịu dàng
Bên cạnh một Thu Huệ sắc sảo, gai góc là một Thu Huệ đằm thắm dịu
dàng, giàu chất thơ để hướng vào thế giới nội tâm con người hoặc miêu tả những
bức tranh thiên nhiên trữ tình thơ mộng.
Những tình cảm yêu thương ngọt ngào, những buồn vui, cay đắng, bi kịch
đổ vỡ, những khao khát và cả những hy vọng, tin yêu… trong thế giới nội tâm
con người đô thị được Thu Huệ chạm khắc bằng một thứ ngôn ngữ dịu dàng
giàu xúc cảm. Là một người mẹ Thu Huệ đã có nhiều trang văn thực sự xúc
động thấm đẫm tình mẫu tử:“Chị đứng ở cửa vào.Thằng anh đeo ba lô đứng
bên cạnh. Anh đứng đối diện chị, bế trên tay thằng em đang díp mắt buồn ngủ.
Tay cầm chặt chiếc máy bay. Chị cúi lại gần thằng bé. Rúc khuôn mặt đầy nước
mắt vào cổ, hít một hơi dài như muốn nuốt mùi da thịt thơm tho của nó vào
lòng(…) Chị cúi mặt. Cắn chặt môi. Bất giác chị đưa tay ra nắm lấy tay anh
đang bóp chặt. " Xin lỗi anh. Xin lỗi con trai của mẹ..." (Tân Cảng). Đó là nỗi
đau đớn pha cả chút hối ận của người mẹ khi phải xa đưa con trai bé bỏng của
mình. Bởi chính sự ích kỉ của bản thân, chị đã làm tổn thương trái tim của các
con. Cả những rung động đầu đời, những cảm xúc yêu đương ngọt ngào cũng
được Thu Huệ miêu tả bằng một cách tinh tế: “Mối tình đầu tiên. Thoáng va
chạm, run rẩy đầu tiên. Tất cả tôi gửi gắm nơi anh”; “Người con gái đến tuổi
79
dậy thì có những đụng chạm đầu tiên với một người đàn ông thường bị xúc động
ghê gớm” (Biển ấm). Hay niềm hạnh phúc ngập tràn của cô gái đang yêu và
được yêu: “Cả đất trời bao la đầy ánh sáng này. Không có anh sẽ thành vô
nghĩa. Có anh. Trăng trở nên thần thánh… Tôi yêu cuộc sống này. Yêu đêm nay
quá” (Còn lại một vầng trăng). Với ngôn ngữ đằm thắm trữ tình, Thu Huệ đã
miêu tả tất thảy những biến thái tinh vi, những xúc cảm tinh tế trong tâm hồn
con người.
Đặc biệt, với ngôn ngữ dịu dàng đằm thắm, thiên nhiên trong nhiều truyện
ngắn của chị hiện lên thật thơ mộng trữ tình. Trong Dĩ vãng, tâm hồn của nhân
vật Linh đã có lúc rung lên xúc động trước cảnh đẹp khu vườn của ông Xung,
thủ trưởng cũ: “Bốn góc vườn là bốn cái cột điện. Ánh sáng vàng vàng tỏa tràn
lan trên các lối đi, vườn hoa, tán lá. Đúng là thần tiên. Tôi bỗng run lên vì xúc
động”. Hay khung cảnh của một đêm trăng tuyệt mĩ “Đêm nay. Trăng mười
sáu. Tròn trĩnh và trinh nguyên, vàng rực tưới ánh sáng xuống nước như thể lần
đầu hiển hiện trên đời.” (Cát đợi) “Trăng lên cao và vàng rực góc trời. Ánh
sáng vàng chảy như lụa từ trên trời cao mênh mông gió trải xuống mặt hồ”
(Mùa thu vàng rực rỡ). Đó là khung cảnh êm đềm thơ mộng của thành phố
biển:“Thành phố Tuy Hòa nhỏ nhắn, êm đềm quanh năm vỗ sóng. Thắng thuê
phòng nghỉ sát bên bờ biển, dưới tán xanh mát rượu của một rừng dừa và phi
lao. Làng xóm yên bình. Con người hiền hậu” (Một nửa cuộc đời)… Ẩn sau đó
người đọc cảm nhận được tấm lòng tinh tế, nhạy cảm yêu thiên nhiên, cuộc sống
của nhà văn. Sau cái ồn ào, bụi bặm của của sống đô thành con người vẫn luôn
kháo khát được trở về với thiên nhiên, sống chan hòa với tự nhiên.
Nhịp sống đô thị xô bồ bon chen ồn ã đôi khi làm cho con người trở nên
chai lì cảm xúc. Con người ngày càng quan tâm đến những thực đơn vật chất,
chạy theo vòng xoáy của tiền tài danh vọng, chăm lo cho những nhu cầu vật chất
xa hoa nhiều hơn. Cùng với đó là sự thờ ơ, vô cảm, bàng quan với cuộc sống,
con người xung quanh. Chính những trang văn dịu dàng, đằm thắm thấm đượm
80
tình người, tình yêu với thiên nhiên, cuộc sống của Thu Huệ đã đánh thức những
xúc cảm nhân văn trong tâm hồn con người. Giống như dòng nước trong trẻo
mát lành chất thơ ấy làm cho cuộc sống cân bằng hơn trong xã hội bụi bặm hôm
nay: “Bởi văn chương chính là thứ khí giới thanh ca, đắc lực mà chúng ta có, để
vừa tố cáo và thay đổi cái thế giới giả dối, tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm
phong phú và trong sạch hơn”(Thạch Lam).
3.4. Giọng điệu
Trong Từ điển thuật ngữ văn học, giọng điệu được hiểu là: “Thái độ, tình
cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả
thể hiện trong lời văn qui định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình
cảm, cách cảm thụ xa gần, thân, sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm
biếm (…) Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu
thẩm mỹ của tác giả, có vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong cách nhà văn
và tác dụng truyền cảm cho người đọc (…). Giọng điệu là một phạm trù thẩm
mỹ của tác phẩm văn học” [37, tr112]. Mỗi nhà văn muốn tác phẩm của mình
neo đậu được trong tâm hồn của người đọc thì cần tạo cho mình một phong cách
riêng. Bởi văn chương là lĩnh vực của cái độc đáo, sự lặp lại trong văn học đồng
nghĩa với cái chết. Nguyễn Thị Thu Huệ cũng tạo cho mình một dấu ấn riêng
bằng một chất giọng không trộn lẫn. Nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng khi nghiên
cứu về vấn đề giọng điệu trong tác phẩm của Nguyễn Thị Thu Huệ đã từng nhận
xét: “Nguyễn Thị Thu Huệ là một cây bút linh hoạt trong giọng điệu – lúc bạo
liệt, lúc thật thà, lúc thâm trầm triết lý, lúc đỏng đảnh, lại có lúc dịu dàng đến
bất ngờ” [41]. Đọc truyện ngăn của Thu Huệ, chúng ta nhận thấy sự biến đổi
linh hoạt đa giọng điệu khi thì lạnh lùng dưng dưng, khi lại châm biếm mỉa mai,
lúc lại dịu dàng sâu lắng. Đây cũng là một yếu tố nghệ thuật góp phần không
nhỏ trong việc miêu tả cuộc sống, con người đô thị hiện đại.
81
3.4.1. Giọng dửng dưng, lạnh lùng
Với con mắt tinh nhạy, sắc sảo, Nguyễn Thị Thu Huệ thường nhanh chóng
phát hiện ra những mảng tối, những bất ổn của đời sống con người trong xã hội
hiện đại. Khi đề cập đến những mặt trái, những thói tật xấu xa của con người,
nhà văn thường vạch trần bằng giọng văn lạnh lùng dửng dưng thậm chí là tưng
tửng.
Thu Huệ từng chia sẻ : “Ngày trước, những câu chuyện của đời sống đến
với tôi, và tôi kể lại chúng theo cách nhìn của một người trẻ, trong một xã hội ít
bất an, đâu đó còn nhiều góc bình yên. Bây giờ, đời sống của đám đông, của
những thân phận bị trồi lên trụt xuống quẫy đạp nhằm tồn tại trong những cơn
sóng táp thẳng, khiến tôi chao đảo, buồn bã và đau đớn. Và tôi đã kể những
chuyện qua lăng kính của tôi, những ngày tháng này”[50]. Đi nhiều, hiểu nhiều,
biết nhiều giúp chị có cái nhìn thản nhiên và bản lĩnh hơn trước những vấn đề
phức tạp của đời sống xã hội. Giống như cây đại thụ, khi đã trải qua nhiều
phong ba bão táp nó sẽ kiên cường, mạnh mẽ, vững trãi hơn trước bão tố cuộc
đời. Giờ đây Thu Huệ cũng vậy. Đọc Thành phố đi vắng, người đọc sẽ thấy một
Thu Huệ điềm tĩnh lạnh lùng, cảm xúc của người viết gần như được tiết chế tối
đa, mỗi câu chuyện giống như một bản tường trình của cuộc sống, để bạn đọc tự
nhìn nhận, khám phá và bày tỏ thái độ, tình cảm của mình trước mọi vấn đề của
đời sống. Lối sống thờ ơ, vô cảm trong đô thị hiện đại được Thu Huệ tái hiện
bằng một giọng văn thản nhiên:“Người ngồi cứng đơ như những bức tượng. Mỗi
khi xe phanh gấp, tượng người bê tông đó nghiêng nguyên khối, sau trở về trí
cũ. Mắt ai cũng nhìn vào khoảng trống trước mặt, đem cho người đối diện cảm
giác họ đang suy nghĩ rất sâu về một vấn đề riêng, tất cả đều mang khuôn mặt ơ
hờ, bình thản”(Thành phố đi vắng). Đó là giọng điệu dửng dưng, lạnh lùng khi
X-Men nói đến việc mình đã giết người: “X-Men nhìn xoáy nàng, thì thầm,
nghiêm trang: “Anh giết đấy”,“Không nhớ nhiều thế nào. Mà này, anh phải làm
82
gì hay nói thế nào,em mới chịu tin, là cô gái trôi ngoài biển ấy nhỉ?” (X-Men có
mùi trường đua).
Nhưng ẩn sau những câu chữ tưởng chừng như dửng dưng vô cảm ấy là bao
xót xa của một tâm hồn nhạy cảm trước những biến động của đời sống, của lòng
người. Đúng như Thu Huệ đã tâm sự “Lạnh lùng ở câu chữ, nhưng xa xót trong
tâm can”. Nhà văn vẫn chưa mất hẳn niềm tin vào con người, rải rác ở đâu đó
vẫn còn những người tốt luôn sống vì cộng. Tất cả những trăn trở ưu tư ấy càng
chứng tỏ Thu Huệ là một nhà văn chân chính luôn mong muốn đem văn chương
để phục vụ cuộc sống. Suy cho cùng mọi tác phẩm văn học có giá trị đều không
vượt ra khỏi quy luật Chân- Thiện- Mĩ.
3.4.2. Giọng mỉa mai, châm biếm
Bên cạnh giọng văn lạnh lùng dửng dưng, giọng điệu trong truyện ngắn
Thu Huệ biến đổi linh hoạt thành giọng điệu mỉa mai, châm biếm khi Thu Huệ
viết các truyện ngắn phê phán. Với cái nhìn hiện thực, dân chủ nhà văn đã chỉ ra
tất cả những thói hư tật xấu, những mặt trái của cuộc sống đô thị.
Giọng điệu mỉa mai, châm biếm được Nguyễn Thị Thu Huệ sử dụng để
phơi bày những thói hư tật xấu của con người cùng những mặt trái, nghịc lí trớ
trêu của xã hội. Đó là lối sống tha hóa của những anh cán bộ bề ngoài thì đạo
mạo, lịch lãm nhưng dễ dàng buông thả theo những cuộc vui: “Đi chơi gái nó có
cái hồi hộp riêng, không như đi nhậu, hay mát xa, loanh quanh toàn món quen.
Riêng món này, phải lạ mới bõ cái công hao tâm khổ tứ nói dối, tạo dựng hiện
trường, tốn tiền bạc. Cái gì lười còn châm chước được chứ chơi gái mà lười thì
nhạt lắm” (X-Men có mùi trường đua). Hay là sự giả dối của những kẻ khóc
thuê và thuê khóc trong đám tang: “Cứ mỗi đoàn vào viếng thì tiếng khóc lại rồ
lên. Đau đớn thảm thiết như thể cái kẻ đang nằm im như thóc, teo tóp trong
quan tài mới toe kia là một vĩ nhân đang độ sung sức mới lìa đời, để lại cho
nhân gian những công trình thế kỉ? Chẳng lẽ trong đám ma tôi lại phỉ nhổ.”
83
(Người đàn bà ám khói). Đó còn là lòng tham, sự hiếu kì của con người trong
cuộc sống hiện đại: “Việc cậu tôi trúng độc đắc lan nhanh khắp hang cùng ngõ
hẻm, nhanh hơn tin bão giật cấp mười ba” (Một chuyến đi). Hay sự thương mại
hóa trong các cuộc thi hoa hậu trong (X-Men có mùi trường đua): “Kính thưa
ban giám khảo. Kính thưa các nhà tài trợ quý hiếm –dừng cười - Ấy chết em
nhầm, các nhà tài trợ quý giá, vì nhờ có tài trợ thì chúng em mới có mặt ở đây
hôm nay”…
Tất cả những thói giả dối, bịp bợm, tham lam, ích kỉ, tha hóa biến chất của
con người hiện đại được vạch trần phơi bày sắc nét. Những con người ấy, đâu đó
vẫn hiện hữu quanh ta để rồi đi vào các trang văn của Thu Huệ đầy ám ảnh. Với
cái nhìn thẳng thắn, không né tránh hiện thực Thu Huệ dũng cảm chỉ ra tất thẩy
những thói hư tật xấu ấy không nhằm mạt thị con người mà đó là lời cảnh tỉnh:
mỗi chúng ta cần có bản lĩnh để giữ gìn nhân cách trước những biến động của
đời sống xã hội.
Như vậy có thể nói giọng điệu châm biếm, mỉa mai đã đem đến cho truyện
ngắn phê phán của Thu Huệ một âm hưởng riêng. Tuy nhiên nếu xuất hiện nhiều
nó dễ gây nhàm chán thậm chí là thất vọng bi quan nơi bạn đọc. Bởi lẽ cái ác,
cái xấu luôn song hành tồn tại cùng cái Đẹp, cái Thiện, nếu mỗi nhà văn chỉ đi
khơi sâu phê phán những mặt trái của xã hội đôi khi sẽ gây phản ứng ngược lại
với người đọc, dễ gây hoang mang, chán nản mất niềm tin cho con người. Công
việc của nhà văn không chỉ là lên án phê phán cái ác, cái xấu mà còn phát hiện
ra những vẻ đẹp ở chỗ không ai ngờ tới, tìm ra “hạt ngọc ẩn giấu” bên trong tâm
hồn con người để khơi dậy những xúc cảm thẩm mĩ, hướng con người tới Chân-
Thiện- Mĩ. Nắm bắt được điều đó nên bên cạnh những trang viết có phần sâu
cay, táo tợn đầy mỉa mai người đọc vẫn cảm nhận được một Thu Huệ với chất
giọng đằm thắm, trữ tình, dạt dào cảm xúc tin yêu, tươi vui đến bất ngờ: “Hình
như cô đang mơ. Những người tò mò nhìn thấy đôi lúc cô lại nhoẻn miệng cười”
(Người đi tìm giấc mơ). Hay sự thân thiện, vui vẻ giữa những con người cùng
84
sống trong một cộng đồng xã hội: “Cảm giác của việc chạy xe thật nhanh, rồi
dừng đánh phịch đột ngột làm mọi người dúi dụi, bất ngờ hít sâu mùi của người
bên cạnh. Va đập, hít ngửu nhau xong, cô và anh luôn phá lên cười. Khách trên
xe cũng cười” (Thành phố đi vắng).
Sự linh hoạt ấy không chỉ góp phần tạo nên sự đa giọng điệu trong truyện
ngắn của Thu Huệ mà còn tạo nên sự cân bằng giữa các giọng điệu đem đến cho
bạn đọc nhiều xúc cảm thẩm mĩ, đồng thời giúp nhà văn phản ánh hiện thực đa
diện sâu sắc hơn.
3.4.3. Giọng phân tích, chiêm nghiệm, triết lý
Đây là giọng điệu thường thấy trong các truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu
Huệ đặc biệt trong những truyện ngắn viết về đô thị.
Là một người phụ nữ từng trải, có vốn hiểu biết sâu rộng về đời sống xã hội
Thu Huệ đã có nhiều cảm nhận, chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời, tình yêu, con
người. Những chiêm nghiêm triết lí ấy hiện lên trên từng trang viết làm cho
những tác phẩm của Thu Huệ “đằm hơn”, sâu sắc hơn, gửi gắm đến bạn đọc
nhiều thông điệp nhân sinh thật ý nghĩa.
Thu Huệ có nhiều chiêm nghiệm thú vị, sâu sắc về quy luật của cuộc sống.
Đó là sự ngắn ngủi của kiếp người “Đời người ngắn ngủi lắm.” (Cầu thang).Vì
thế hãy biết nâng niu quý trọng cuộc sống, yêu thương nhiều hơn để cuộc sống
thực sự có giá trị. Con người sống cũng không nên quá tham lam, ích kỉ cầm
được, giữ được thì cũng buông bỏ được :“đừng giữ gì chặt quá. Đừng yêu
thương ai hay đồ vật gì quá. Rồi cũng tuột ra khỏi tay thôi” (Không thể kết
thúc). Ai trong cuộc đời cũng phải trải qua những buồn vui, hỉ, nộ, ái, ố, những
vấp ngã, chướng ngại, thậm chí là nghịch lí: “Sao con người phức tạp thế. Bão
tố và bình yên. Nó là cái gì nhỉ? Bão tố của người này là bình yên của kẻ
khác.”(Dĩ vãng). Vì thế hãy dũng cảm đương đầu và bước tiếp. Cần có bản lĩnh
để vượt qua chính mình và nghịch cảnh. Những đúc kết kinh nghiệm của dân
85
gian cũng được chị gửi gắm qua nhiều tác phẩm. Đó là thuyết nhân quả ở đời
“mọi thứ đều có giá của nó”; “trồng cây gì ăn quả nấy”; “gieo gì gặt nấy” ; “của
đi thay người” (Thiếu phụ chưa chồng, Hậu thiên đường, Phù thủy, Xin hãy
tin em, Chúng ta cần suy nghĩ về chuyện này…). Những bài học nhân sinh sâu
sắc ấy có ý nghĩa cảnh tỉnh sâu sắc đối với con người hôm nay. Bởi lẽ đứng
trước những cám dỗ nếu con người thiếu đi bản lĩnh đánh mất nhân cách của
mình thì cái giá con người phải trả là quá đắt. Cuộc đời mong manh vô thường,
hãy sống sao cho thật ý nghĩa, sống sao để không phải xót xa, ân hận, nuối tiếc.
Sự chiêm nghiệm và triết lý trong tác phẩm của Thu Huệ không chỉ hướng
vào tìm hiểu về cuộc sống mà còn đưa ra những triết lí thâm trầm về con người.
Đó là những triết lý thú vị về con người hiện đại: “Thế nào để biết một thằng
giống đực là đàn ông hay không đàn ông? Không phải ai giống đực cũng là đàn
ông. Giống đực khác. Đàn ông khác. Anh thấy khối cô nàng còn hơn đàn ông.
Nhiều thằng giống đực lèm nhèm hơn đàn bà” (X-Men có mùi trường đua).
Hay “Đàn bà đẹp lại thông minh thì khổ lắm”; “Đa tình lỗi chẳng phải tại đàn
bà. Lỗi ở đàn ông” (Hoàng hôn có màu cỏ úa). Đó là những chiêm nghiệm, mà
chị đã đúc kết từ những cuộc đời, số phận chị đã đi qua, đã trông, đã thấy dù có
thể “ Những điều trông thấy mà đau đớn lòng” nhưng nó là sự thật ở đời. Hơn
thế dưới ngòi bút của Thu Huệ, con người đô thị hiện lên không phải là những
bậc thánh nhân. Họ là những con người bình thường với cả “ rồng phượng và
rắn rết”, có cả phần thanh cao trong sạch lẫn những ham muốn, dục vọng xấu xa
thấp hèn. Đó cũng là cách tiếp cận con người theo tư duy đổi mới của văn học
Việt Nam đương đại.
Bên cạnh đó, Thu Huệ cũng đem đến cho người đọc nhiều triết lí về tình
yêu thâm trầm, sâu sắc. Cô gái (Đêm dịu dàng) trong giây phút đau đớn bẽ bàng
chợt nhận ra sự bỉ ổi của người yêu: “Hóa ra, là như vậy. Tôi cứ tưởng cái gì tôi
cũng biết. Nhưng có một điều tôi không hề biết là người ta có nhiều kiểu thay
lòng đổi dạ, nhiều kiểu bỏ người tình, ngon lành lắm”. Đó cũng là thực trạng
86
cay đắng trong tình yêu thời đô thị hóa. Đó là những mối tình “tình một đêm”,
“ăn bánh trả tiền”… Tình yêu không phải là thứ tình cảm vĩnh cửu như nhiều
người vẫn tôn thờ. Đôi khi, tình yêu nó nhuốm màu nhục cảm, đơn giản chỉ để
thỏa mãn dục vọng của con người, khi người ta chán, người ta sẵn sàng rũ bỏ
nhau. Nhưng bên cạnh đó, Thu Huệ cũng có nhiều trang văn viết về tình yêu hết
sức trong sáng (Sơ-ri đắng). Tình yêu đem đến cho con người nhiều xúc cảm
lãng mạn, nó làm con người yêu đời, yêu cuộc sống, và hạnh phúc hơn: “Ăn
cũng là một hạnh phúc. Ngủ cũng là một hạnh phúc.Yêu cũng là một hạnh
phúc”, khát vọng tình yêu là khát vọng muôn đời của con người giống như thi sĩ
Xuân Diệu từng thốt lên: “Làm sao sống được mà không yêu/ Không nhớ không
thương một kẻ nào?”
Những chiêm nghiệm, triết lí về tình yêu, cuộc sống, con người được Thu
Huệ gửi gắm qua thế giới hình tượng nhân vật sống động vì vậy nó dễ dàng
chạm tới trái tim và cả trí tuệ của người đọc. Những chiêm nghiệm ấy phần nào
được chắt lọc từ chính thực tế cuộc sống, từ những trải nghiệm, kinh nghiệm
sống của một người phụ nữ từng trải. Có thể nói, đây cũng là giọng điệu xuất
hiện trong truyện ngắn nhiều cây bút thời kì đổi mới, nhưng Thu Huệ vẫn tạo
được dấu ấn riêng bởi sự biến đổi linh hoạt, sự đa thanh trong giọng điệu.
Sự khéo léo, tài năng của Thu Huệ là đã biết sử dụng những chất giọng
trên vừa “đúng” mà lại vừa “ trúng”. Thói hư tật xấu, những mặt trái, góc khuất
của cuộc sống đô thị được Thu Huệ nói tới bằng chất giọng lạnh lùng, mỉa mai,
châm biếm nhẹ nhàng mà không kém phần sâu sắc. Nhưng ngay lập tức, Thu
Huệ lại tiết chế cảm xúc, đem đến cho bạn đọc những trang văn nhẹ nhàng, thấm
đẫm chất thơ như dòng suối mát xoa dịu những nhức nhối trong tâm hồn bạn
đọc, gieo vào lòng người những tin yêu, hi vọng. Chính điều đó đã tạo nên sức
hấp dẫn riêng cho những truyện ngắn của Thu Huệ đồng thời khẳng định lối viết
độc đáo, mới lạ của nhà văn.
87
Tiểu kết
“Nếu anh không có giọng riêng, anh khó trở thành nhà văn thực thụ” (Sê-
khốp). Tìm hiểu truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ chúng ta nhận thấy đây
là một cây bút có phong cách nghệ thuật độc đáo, tìm được cho mình một lối đi
riêng, một giọng điệu riêng. Thông qua nghệ thuật xây dựng nhân vật từ ngoại
hình, hành động cử chỉ đến ngôn ngữ đối thoại, độc thoại mà phẩm chất tính
cách cũng như thế giới nội tâm nhân vật hiện lên chân thực, sống động. Từ đó
người đọc hiểu được bức tranh đời sống cũng như chân dung con người đô thị
hiện đại. Thu Huệ cũng đã thành công khi xây dựng cho mình thế giới nghệ
thuật riêng với nhiều kiểu không gian, thời gian khác nhau. Hơn nữa, sức hấp
dẫn của truyện ngắn Thu Huệ còn bởi sự đa dạng, linh hoạt trong giọng điệu trần
thuật. Đọc truyện ngắn của chị chúng ta thấy có lúc chị dùng giọng dửng dưng
lạnh lùng, cũng có lúc lại thấy giọng điệu phân tích, chiêm nghiệm, triết lý, có
khi lại là giọng đằm thắm trữ tình. Những yếu tố nghệ thuật ấy góp phần tạo
nên dấu ấn riêng của nhà văn, khơi gợi ở bạn đọc nhiều xúc cảm thẩm mĩ đồng
thời làm phong phú thêm bức tranh văn xuôi nữ đương đại Việt Nam.
88
KẾT LUẬN
1. Bước vào thời kì đổi mới, quá trình đô thị hóa đã tác động mạnh mẽ đến
đời sống kinh tế - văn hóa xã hội Việt Nam. Văn học Việt Nam cũng có bước
chuyển mình mạnh mẽ. Đề tài đô thị cũng trở thành mảnh đất màu mỡ thu hút
nhiều nhà văn tên tuổi như: Nguyễn Thái Hà, Chu Lai, Tạ Duy Anh, Hồ Anh
Thái, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Bình Phương, Ma Văn Kháng, Đỗ Phấn…
Trong đó phải kể đến nữ nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ.
2. Với ngòi bút tả chân sắc sảo, Thu Huệ đã phanh phui tất cả những góc
khuất, những mảng tối, mặt trái của bức tranh đô thị hiện đại. Ẩn sau vẻ ngoài
cuộc sống hào nhoáng xa hoa, tiềm ẩn trong lòng xã hội là biết bao thói hư tật
xấu, bao tệ nạn chết người. Nhiều giá trị đạo đức truyền thống có nguy cơ chao
đảo và bị đánh tráo. Lòng người hoang mang, cảm giác bất an lo sợ bởi cái ác,
cái xấu hiện diện khắp nơi, tình người cạn kiệt, cộng đồng dần mất đi sợi dây kết
nối gắn kết, yêu thương. Đồng thời với khả năng đi sâu mổ xẻ hình ảnh “con
người bên trong con người”, chân dung con người hiện đại cũng được Thu Huệ
tái hiện một cách sinh động. Hình ảnh con người cô đơn co ro như thiếu áo ấm,
họ sống thờ ơ, lạnh lùng vô cảm hơn. Nhất là đứng trước vòng xoáy của đồng
tiền, của những ham muốn dục vọng nhiều người đã trượt dài trên con đường tha
hóa đánh mất đi nhân cách tốt đẹp của mình. Đồng thời, nhà văn cũng gửi gắm
khát vọng về một cuộc sống bình an, yêu thương gắn kết nhiều hơn qua thế giới
nhân vật của mình. Chỉ ra những tiêu cực, những mất mát, đổi thay ấy trong đời
sống đô thị, Thu Huệ muốn rung lên một hồi chuông cảnh tỉnh: mỗi cá nhân,
mỗi gia đình và cả xã hội cần phải làm gì để xây dựng một cuộc sống văn minh,
nhân đạo. Đó mới thực sự là sự phát triển bền vững trên con đường tiến vào
tương lai của đất nước. Sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế phải đi kèm một đời
sống văn hóa lành mạnh. Cần gìn giữ, trân trọng những giá trị văn hóa truyền
thống tốt đẹp của cha ông. Đây cũng là tiếng nói nhân văn, là đóng góp đáng ghi
89
nhận của truyện ngắn Thu Huệ nói chung, những truyện ngắn viết về đô thị nói
riêng.
3. Tìm hiểu thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ
càng giúp chúng tôi khẳng định thêm đây là một cây bút nữ giàu tài năng. Nghệ
thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, nó đòi hỏi người viết phải có phong cách mới
lạ, thu hút người đọc “khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì
chưa có”. Giữa khu vườn văn học đương đại đang nở rộ nhiều tài năng trẻ, Thu
Huệ vẫn là bông hoa ngát hương để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng độc
giả. Những truyện ngắn của chị đặc biệt là mảng truyện viết về đề tài đô thị gây
ấn tượng mạnh với bạn đọc không chỉ bởi chất đời, chất hiện thực của nó mà
còn bởi nó được xây dựng bằng một văn phong vừa sắc sảo vừa đằm thắm dịu
dàng, sự biến đổi linh hoạt trong giọng điệu, sự đa dạng trong thế giới nghệ
thuật với nhiều kiểu không gian, thời gian…Chính những yếu tố nghệ thuật ấy
góp phần khẳng định phong cách nghệ thuật độc đáo của nhà văn và đưa Thu
Huệ lên vị trí một trong những nhà văn nữ xuất sắc nhất của nền văn học Việt
Nam đương đại. Bởi lẽ đó truyện ngắn của Thu Huệ sẽ còn có sức sống hơn nữa
bởi những giá trị nghệ thuật đích thực của nó.
4. Với phạm vi có hạn, đề tài cũng chỉ dừng lại ở việc khai thác bức tranh
cuộc sống, con người đô thị cùng nghệ thuật biểu hiện trong truyện ngắn
Nguyễn Thị Thu Huệ. Những thú vị nào của truyện ngắn Thu Huệ chưa được
khám phá trong đề tài sẽ là đối tượng nghiên cứu của những đề tài với phạm vi
lớn hơn.
90
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Tuấn Anh (1996), Quá trình văn học đương đại nhìn từ phương diện
thể loại, Tạp chí văn học, (9).
2. Lại Nguyên Ân (2003), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc Gia
Hà Nội.
3. Lại Huy Bắc (1998), Giọng và giọng điệu trong thơ văn hiện đại, Tạp chí
văn học, (9).
4. Kim Dung (1994), Đọc hồi ức Bến trần gian, Tạp chí Văn nghệ Quân
đội, (11).
5. Đoàn Ánh Dương, Vấn đề đô thị trong văn chương Việt Nam hiện đại,
Tạp chí Văn nghệ Quân đội.
6. Đặng Anh Đào (1993), Hình thức mới trong truyện ngắn hôm nay, Tạp
chí Văn học, (3).
7. Phan Cự Đệ (1986), Mấy vấn đề lí luận văn xuôi hiện đại, Tạp chí Văn
học, (5).
8. Trần Thanh Địch (1998), Tìm hiểu truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới.
9. Hà Minh Đức (2003), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục.
10. Nhiều tác giả (1997), Giảng văn văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục.
11. Nhiều tác giả, (2000), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục.
12. Nhiều tác giả (2002), Truyện ngắn bốn cây bút nữ Phan Thị Vàng Anh,
Võ Thị Thảo, Lý Lan, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nxb Văn học.
13. Đặng Thái Hà (2005), Vấn đề sinh thái – đô thị trong văn xuôi Việt
Nam thời đổi mới, Tạp chí Văn nghệ quân đội.
14.Trần Việt Hà (2015), Cảm thức đô thị trong đại tiểu thuyết của Nguyễn
Việt Hà, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Sư Phạm Hà Nội 2.
91
15. Võ Thị Hảo (1996), Truyện ngắn – sự trớ trêu trong khung hẹp, Tạp chí
Diễn đàn Văn hóa văn nghệ Việt Nam, (10).
16. Chu Thị Hiền (2012), Giọng điệu trần thuật trong truyện ngán của các
nhà văn nữ đương đại: Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Ngọc
Tư, Luận văn thạc sĩ Văn học, Trường ĐHSP Hà Nội 2.
17. Trịnh Thị Hiệp (2014) Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ,
Luận văn thạc sĩ Khoa học, Trường Đại học Sư Phạm Thái Nguyên.
18. Phạm Hoa (1993), Đọc sách “Cát đợi” của Nguyễn Thị Thu Huệ, Tạp
chí Văn nghệ Quân đội, (5).
19. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo
dục.
20. Đoàn Thị Đặng Hương (1996), Những ngôi sao nước mắt, Báo Văn
nghệ Trẻ.
21. Đỗ Thanh Hương (2016), Cảm quan đô thị trong tiểu thuyết Việt Nam
đương đại, Luận án tiến sĩ, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Học viện
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
22. Nguyễn Thị Hương (2014), Đề tài đô thị trong tiểu thuyết Đỗ Phấn,
Luận văn thạc sĩ, Đại hoạc Quốc Gia Hà Nội.
23. Hà Thị Hương Lan (2016), Cảm thức đô thị trong tiểu thuyết Số Đỏ của
Vũ Trọng Phụng, Luận văn thạc sĩ, Đại học Khoa học Thái Nguyên.
24. Nguyễn Văn Lưu (1997), Luận chiến văn chương, Nxb Văn học.
25. Phương Lựu (2005), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb
ĐHSP Hà Nội.
26. Phương Lựu (1998), Suy nghĩ về đặc điểm của nữ văn sĩ, Tạp chí Tác
phẩm mới, (3)
92
27. Phương Lựu, Trần Đình Sử và nhiều tác giả (2006), Lí luận văn học,
Nxb Giáo dục.
28. Vũ Thị Tố Nga (2005), Quan niệm nghệ thuật về con người trong
truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, Luận văn thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Trường
Đại học sư phạm Hà Nội.
29. Nguyên Ngọc (1992), Diện mạo riêng của vụ mùa này, Báo Việt Nam,
(7).
30. Vương Trí Nhàn (1998), Sổ tay truyện ngắn, Nxb Hội nhà văn.
31. Vương Trí Nhàn (1996), Phụ nữ và sáng tác văn chương, Tạp chí văn
học, (6).
32. Nguyễn Thị Nhuận (2012), Nhân vật nữ trong truyện ngắn, Võ Thị Hảo,
Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Luận văn thạc sĩ, Trường ĐHSP Hà Nội
2.
33. Hoàng Phê (2005), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.
34. Hồ Phương (1994), Thế hệ thứ ba, Tạp chí Văn nghệ Quân đội.
35. Trần Đình Sử, Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục.
36. Trần Đình Sử (1996), Lí luận phê bình văn học, Nxb Hội nhà văn.
37. Trần Đình Sử (2005), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục.
38. Bùi Việt Thắng (2002), Những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
39. Bùi Việt Thắng (2002), Tứ tử trình làng, Bài giới thiệu cuốn Truyện
bốn cây bút nữ, Nxb Văn học.
40. Bùi Việt Thắng (1994), Năm truyện ngắn dự thi của một cây bút trẻ,
Tạp chí Văn nghệ Quân đội.
93
41.Trần Văn Thắng, Giọng điệu nghệ thuật trong truyện ngắn Việt Nam
thời kì đổ mới (1986-2000), Tạp chí Khoa học ĐHSP TPHCM.
42. Bích Thu (1999), Nam Cao về tác giả và tác phẩm, Nxb Giáo dục.
43. Lý Hoài Thu (2003), “Những truyện ngắn hay”, Tạp chí Văn nghệ
Quân đội, (12).
44. Đỗ Lai Thúy, Văn học đô thị Việt Nam nhìn từ thể loại tiểu thuyết,
Người đô thị.
45. Lê Hương Thủy, Truyện ngắn đương đại về đề tài đô thị, Tạp chí văn
nghệ quân đội, ngày 10/12/2012.
46. Nhật Tuấn (2013), Một thành tựu văn xuôi hiện đại, Báo Văn nghệ,
(10).
47. Thái Thị Hồng Vinh (2010), Vấn đề đô thị trong tiểu thuyết Việt Nam
sau 1986, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Vinh.
48. Hồ Sỹ Vịnh (2002), Thi pháp truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ ,
Báo VN, (35).
49. Từ điển Bách khoa Việt Nam, NXB Hà Nội, 1995
50. Dương Thùy Chi (2013), Nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ: Lạnh lùng câu
chữ, xa xót tâm can, http://baotintuc.vn/van-hoa/nha-van-nguyen-thi-thu-hue-
lanh-lungcau-chu-xa-xot-tam-can-20130711211730593.htm, ngày 19/07/2013.
51. Nguyễn Thị Lê Ngọc, Không gian Hà Nội trong tiểu thuyết của Nguyễn
Việt Hà, http://chuyen-qh.com
52. Nguyễn Toàn (2008), Không lạnh lòng với văn chương,
http://www.tienphong.vn/van-nghe/khong-lanh-long-voi-van-chuong-
145717.tpo, ngày 06/12/2008.
53. Nguyễn Quang Thiều (2013), Báo cáo giải thưởng Hội nhà văn Việt
Nam 2012, http://phebinhvanhoc.com.vn, ngày 03/01/2013.