ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

NGUYỄN THỊ CHINH NƢƠNG

ĐỔI MỚI PHƢƠNG PHÁP SỬ DỤNG TƢ LIỆU HIỆN VẬT VÀO

DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM THỜI KỲ 1946 – 1954

Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM LỊCH SỬ

HÀ NỘI- 2017

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

NGUYỄN THỊ CHINH NƢƠNG

ĐỔI MỚI PHƢƠNG PHÁP SỬ DỤNG TƢ LIỆU HIỆN VẬT VÀO

DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM THỜI KỲ 1946 – 1954

Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM LỊCH SỬ

Chuyên ngành: LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC

(BỘ MÔN LỊCH SỬ)

Mã số: 8 14 01 11

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Lƣơng Quang Hiển

HÀ NỘI- 2017

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành được luận văn này, cho tôi xin tỏ lòng biết ơn chân thành và

sâu sắc nhất đến thầy giáo: TS. Lương Quang Hiển - người đã trực tiếp hướng

dẫn, tận tình chỉ bảo và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình hoàn thành luận văn.

Đồng thời tôi xin chân thành cảm ơn tới khoa Sư phạm và Ban giám hiệu

trường Đại học Giáo dục- Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi được

học tập và nghiên cứu.

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô giáo, các em HS của

trường THPT Ba Vì, THPT Minh Quang (Ba Vì, Hà Nội), THPT Giao Thủy

B (Giao Thủy – Nam Định) đã giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn.

Tôi cũng gửi lời chân thành cảm ơn đến bạn học đại học đã hỗ trợ máy tính

cho tôi trong lúc gặp khó khăn để tôi có thể hoàn thành luận văn này.

Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình và bạn bè đã luôn động viên,

giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu khoa học.

Hà Nội, ngày 28 tháng 10 năm 2017

Học viên

Nguyễn Thị Chinh Nương

i

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

DHLS Dạy học Lịch sử

GD - ĐT Giáo dục và đào tạo

GV Giáo viên

HS HS

THPT Trung học phổ thông

TLHV Tư liệu hiện vật

ii

MỤC LỤC

Lời cảm ơn ......................................................................................................... i

Danh mục chữ viết tắt ....................................................................................... ii

Danh mục bảng.................................................................................................. v

Danh mục biểu đồ ............................................................................................ vi

Danh mục hình ................................................................................................ vii

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

CHƢƠNG 1: .................................................................................................. 10

CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC ĐỔI MỚI PHƢƠNG

PHÁP SỬ DỤNG TLHV VÀO DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAMTHỜI

KỲ 1946 - 1954 Ở TRƢỜNG THPT. .......................................................... 10

1.1. Cơ sở lí luận ............................................................................................ 10

1.1.1. Một số khái niệm ................................................................................... 10

1.2.1. Vai trò, ý nghĩa của việc đổi mới phương pháp sử dụng TLHV trong

dạy học lịch sử ở THPT .................................................................................. 14

1.3.1. Đặc trưng của việc dạy học lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 - 1954 và sự

cần thiết của việc đổi mới phương pháp sử dụng TLHV trong dạy học. ........ 17

1.2. Cơ sở thực tiễn ........................................................................................ 20

1.2.1. Thực trạng sử dụng TLHV lịch sử trong DHLS ở trường THPT ......... 20

1.2.2. Thực trạng đổi mới phương pháp sử dụng TLHV trong DHLS ở trường

THPT ...................................................................................................... 21

Tiểu kết chương 1 ............................................................................................ 34

CHƢƠNG 2:MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỔI MỚI SỬ DỤNG TLHV VÀO

DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM THỜI KỲ 1946 – 1954 Ở TRƢỜNG

THPT. THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM. ......................................................... 35

2.1. Vị trí, mục tiêu, nội dung cơ bản của phần lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946

– 1954 ............................................................................................................ 35

2.1.1. Vị trí ...................................................................................................... 35

2.1.2. Mục tiêu................................................................................................. 36

iii

2.2. Các TLHV cần và có thể khai thác, sử dụng trong dạy học lịch sử Việt

Nam thời kỳ 1946 – 1954 ................................................................................ 43

2.3. Yêu cầu và quy trình sử dụng TLHV vào dạy học lịch sử Việt Nam thời

kỳ 1946 – 1954 ................................................................................................ 60

2.3.1. Yêu cầu .................................................................................................. 61

2.3.2. Quy trình ............................................................................................... 63

2.4. Các biện pháp đổi mới phương pháp sử dụng TLHV vào dạy học lịch sử

Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954 ........................................................................ 64

2.4.1. Sử dụng TLHV để mở đầu định hướng bài học .................................... 64

2.4.2. Xây dựng hồ sơ TLHV và hướng dẫn HS khám phá, nghiên cứu các sự

kiện lịch sử ...................................................................................................... 68

2.4.3. TLHV được xây dưng thành một trang web để hỗ trợ quá trình dạy học

trên lớp và hướng dẫn học ở nhà. .................................................................... 70

2.4.4. Sử dụng TLHV để kiểm tra đánh giá. ................................................... 76

2.5. Thực nghiệm sư phạm .............................................................................. 78

2.5.1. Mục đích thực nghiệm .......................................................................... 78

2.5.2. Quy trình thực nghiệm .......................................................................... 78

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ............................................................... 87

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 91

PHỤ LỤC ....................................................................................................... 94

iv

DANH MỤC BẢNG

Bảng 1.1: Tổng hợp ý kiến của GV về mức độ hiệu quả khi sử dụng tư liệu

hiên vật vào DHLS. (% tính xấp xỉ) ................................................................ 25

Bảng 1.2: Tổng hợp ý kiến của HS về mức độ hiệu quả của việc sử dụng tư

liệu hiên vật vào dạy học ................................................................................. 30

v

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 1.1: Các cách giáo viên sử dụng TLHV khi dạy học ........................ 24

Biểu đồ 1.2. Ý kiến của giáo viên về tác dụng của việc sử dụng TLHV vào

dạy học ............................................................................................................ 25

Biểu đồ 1.3: Những khó khăn của giáo viên khi sử dụng TLHV vào dạy học.

......................................................................................................................... 27

Biểu đồ 1.4. Mức độ sử dụng tưu liệu hiện vật vào dạy học của giáo viên .... 28

Biểu đồ 1.5. Mong muốn của HS khi sử dụng TLHV trong hoạt động học. .. 29

Biểu đồ 1.6. Khó khăn của HS khi học các tiết học có sử dụng TLHV ......... 31

Biểu đồ 2.1. Biểu điểm kiểm tra của lớp thực nghiệm 12A2 ......................... 82

Biểu đồ 2.2. Biểu điểm kiểm tra lớp đối chứng .............................................. 83

vi

DANH MỤC HÌNH

Hình 2.1. Lá cờ “Quyết tử quân” .................................................................... 44

Hình 2.2. Bản chỉ thị “Phải phá tan cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp”

trưng bày trong phần Chiến dịch Việt Bắc Thu – Đông 1947 ........................ 46

Hình 2.3. Bức thư Bác Hồ gửi “Trung đoàn Sông Lô” trưng bày trong phần

Chiến dịch Việt Bắc Thu – Đông 1947 ........................................................... 49

Hình 2.4. Khẩu badôka do cán bộ, công nhân ngành Quân giới Việt Nam sản

xuất năm 1947 ................................................................................................. 51

(nguồn:http://www.btlsqsvn.org.vn) ............................................................... 51

Hình 2.5. Sách "Chính sách ruộng đất của Đảng". ......................................... 53

Hình 2.6. Sách "bổ sung chỉ thị 37 về chính sách ruộng đất của Đảng" Ban

chấo hành Trung Ương Đảng xuất bản năm 1952 .......................................... 54

Hình 2.7. Chiếc cối của Mẹ Việt Nam anh hùng Trương Thị Dư .................. 55

Hình 2.9. Đôi bồ và chiếc đòn gánh này cũng đã góp công trong Chiến dịch 56

Hình 2.10. dép lốp cao su của chiến sĩ Điện Biên .......................................... 57

Hình 2.11. Pháo bộ bội ta đưa vào mặt trận .................................................... 57

Hình 2.12. Súng Cối 81mm của Pháp, bộ đội ta thu ở Điện Biên Phủ năm

1954 ................................................................................................................. 58

Hình 2.12. Súng phun lửa thực dân Pháp dùng ở Biên Biên Phủ ................... 58

Hình 2.13. Mìn nhảy vũ khí Pháp dùng ở Biện Biên ...................................... 59

Hình 2.14. Áo chống đạn của lính Pháp ta thu được ở Điên Biên Phủ .......... 59

Hình 2.15. Mũ sắt của lính Pháp bị ta thu ở chiên dịch Điện Biên Phủ. ........ 60

Hình 2.16. Xe đạp thồ, ông Ma Văn Thắng chở 10 chuyến lương thực với

trọng tải 375-400 kg, vượt đèo dốc phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ ......... 66

Hình 2.17. Guốc chèn pháo của Trung đoàn lựu pháo 45, Đại đoàn 351 tự chế

tạo để chèn bánh pháo (1/1954) ...................................................................... 69

Hình 2.18. Cuốc chim của Đại đội Công binh 83, Trung đoàn 151 ............... 72

Hình 2.19. Dây kéo pháo vượt dốc vào vị trí tập kết của Đại đoàn 351 ......... 74

Hình 2.20. Hình ảnh trang chủ web góc nhìn hiện vật ................................... 75

(nguồn: Chinh Nương) .................................................................................... 75

Hình 2.22. Dây thừng giật cò lựu pháo 105 mm sử dụng trong đợt tấn công

thứ nhất (3/1954). ............................................................................................ 77

vii

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Đất nước ngày càng đi lên và phát triển kéo theo đó là những đòi hỏi về

giáo dục phổ thông phải đào tạo những con người phát triển toàn diện, phục

vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mỗi môn học ở nhà trường phổ

thông với đặc trưng của mình đều phải góp phần đào tạo thế hệ trẻ, trong đó

có môn Lịch sử.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng

sản Việt Nam (Khóa VIII) đã nêu rõ:“Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo

dục – đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy

sáng tạo của người học” [1, tr.41]. Chính vì vậy dạy học lịch sử không chỉ là

cung cấp kiến thức một cách đơn thuần mà còn phải giúp người học phát triển

những kỹ năng những năng lực của bản thân trong quá trình học tập.

Đối với bất cứ nước nào, môn Lịch sử đều có chức năng quan trọng

trong đào tạo năng lực của HS, đào tạo con người có bản sắc dân tộc, có tư

duy độc lập sáng tạo. Riêng đối với Việt Nam, lịch sử càng giữ vai trò cực kỳ

quan trọng gắn liền với sự tồn vong của quốc gia - dân tộc. Đặc trưng của bộ

môn Lịch sử là những tri thức mang tính quá khứ, không thể tri giác một cách

trực tiếp như những tri thức khác.Yêu cầu đặt ra là cần nhìn nhận quá khứ

một cách khách quan, chân thực.Từ lịch sử thấy được quá khứ, thấy được quy

luật của xã hội loài người, soi vào lịch sử để có được tấm gương, rút ra bài

học kinh nghiệm cho cuộc sống hiện tại.Cho đến thời điểm hiện nay, giáo dục

lịch sử cần thiết phải cho HS tự đánh giá các vấn đề lịch sử trên cơ sở những

chứng cứ xác thực. Đó sẽ góp phần nâng cao chất lượng DHLS, làm cho HS

hứng thú và phát huy được khả năng vốn có của mình một cách năng động và

sáng tạo.

Hồ Chí Minh đã viết hai câu thơ mở đầu trong cuốn “Lịch sử nước

ta”(1941):

1

“ Dân ta phải biết sử ta

Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”

Tuy nhiên giai đoạn hiện nay thực trạng dạy học môn Lịch sử trong

trường phổ thông đang là vấn đề thời sự nóng hổi, luôn thu hút sự quan tâm

của xã hội… Trong những năm gần đây, chất lượng môn lịch sử của HS trung

học phổ thông ở nước ta ngày càng giảm sút. Môn lịch sử đang có nguy cơ

mất dần vị thế vốn có của nó,việc dạy học môn lịch sử gặp nhiều khó khăn.

Đó thực sự là những vấn đề đáng báo động do nhiều nguyên nhân khác nhau.

Dạy học là một hoạt động sáng tạo. Không có phương pháp, mô hình nào

là bất biến. Vấn đề HS chán học và “ngại” học bộ môn Lịch sử là do nhiều

nguyên nhân, do từ nhiều phía. Vậy GV phải là người biết tìm ra những

phương pháp mới để tạo cho HS tính chủ động nắm bắt, khai thác kiến thức,

say mê học tập.

Tuy nhiên, một thực tế đang diễn ra với bộ môn Lịch sử, HS tiếp cận với

tri thức lịch sử thông qua sự hiện đại hóa lịch sử, qua lăng kính của GV. Thực

tế cho thấy, HS không mấy mặn mà với phương pháp DHLS này hơn nữa từ

phía HS cho thấy đa phần các em coi môn Lịch sử là môn phụ, học đối phó,

HS không thích học lịch sử, chán học sử, sợ học sử thậm chí ghét nó và có

những hành động phản kháng… Việc đó sẽ trở nên ngày càng nghiêm trọng

hơn, nếu chúng ta không khắc phục được vị trí, vai trò của bộ môn Lịch sử

trong trường THPT và trong xã hội.Để có thể phát huy hết khả năng và nhiệm

vụ của bộ môn trong giáo dục giới trẻ, yêu cầu của xã hội đặt ra với bộ môn

Lịch sử ngày càng cấp thiết.

Xuất phát từ thực trạng việc học tập lịch sử hiện nay, … chúng ta cần

phải có nhận thức mới về bộ môn, về bài học lịch sử. Mỗi một bài học phải

đem đến cho HS niềm say mê học tập, có mong muốn, nhu cầu học tập, phải

đem đến cho HS niềm say mê trong học tập. Nói cách khác, nền giáo dục lịch

sử không đặt nặng trọng tâm vào kiến thức, mà phải đặt trọng tâm vào khơi

dậy đam mê của HS, kích thích tò mò, hứng thú, sáng tạo để các em có thể tự

2

tìm kiếm những gì không chỉ trong phạm vi kiến thức ở nhà trường, mà cả

kiến thức ngoài xã hội, để các em thấy rằng, mỗi ngày đến trường, mỗi một

bài học lịch sử đều có ích. Hơn nữa, một nền giáo dục, một bài học Lịch sử

như vậy không đặt nặng trọng tâm vào việc giúp HS tiếp nhận kiến thức của

bài học mà giúp người học nhận ra những năng lực, trí tuệ của mình.

Trong giảng dạy môn lịch sử lớp 12, giai đoạn kháng chiến chống thực

dân Pháp lần 2 thời kỳ 1946 - 1954 với nhiều sự kiện quan trọng mang dấu ấn

lịch sử. Bằng nhiều phương pháp để giáo viên truyền đạt bài giảng có hiệu

quả, từ trước tới nay giáo viên thường sử dụng phương pháp thuyết trình, phát

vấn, hoạt động nhóm...kết hợp với đồ dùng trực quan như tranh ảnh, lược

đồ,sơ đồ, phim tài liệu... Theo chúng tôi ngoài những phương pháp trên,

chúng ta có thể sử dụng nguồn TLHV vào trong dạy học Lịch sử Việt Nam

phần này.

Việc dạy và học Lịch sử trong trường phổ thông phải dựa trên những sự

kiện có thật, những sự việc đã diễn ra trong quá khứ hoặc những chứng cứ về

sự tồn tại của các sự kiện lịch sử và quá khứ ấy một phần nằm trong nguồn

TLHV.

Việc sử dụng TLHV vào dạy học lịch sử sẽ tạo cho HS hứng thú trong

học tập, góp phần hình thành biểu tượng cho HS và một góc độ nào đó cho

HS là phát triển năng lực giải quyết vấn đề với những câu hỏi xung quanh

hiện vật. Vì thế, mục tiêu của giờ học lịch sử không chỉ cung cấp cho người

học những kiến thức lịch sử mà còn hướng đến sự hào hứng cho HS tự đi tìm

kiến thức ngoài sách giáo khoa.

Xuất phát từ những vấn đề trên chúng tôi chọn đề tài “đổi mới phương

pháp sử dụng TLHV vào dạy học lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954 ở

THPT”.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Nói đến vấn đề sử dụng hay đổi mới phương pháp sử dụng tư liệu lịch sử

vào DHLS thì đã có rất nhiều bài viết, bài nghiên cứu chuyên sâu, tập trung

3

đến vấn đề này. Mặc dù các bài nghiên cứu với mức độ và cách thức khác

nhau nhưng các tác giả đều nhấn mạnh vai trò và đưa ra các biện pháp cụ thể

nhằm sử dụng một cách hiệu quả tư liệu lịch sử vào dạy học lịch sử.

Sử dụng tư liệu lịch sử vào dạy học lịch sử là một đề tài nhận được khá

nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Những vấn đề về việc sử dụng tư

liệu lịch sử nói chung và sử dụng nguồn TLHV nói riêng đã và đang thu hút

được sự quan tâm nghiên cứu của các nhà nghiên cứu trên thế giới và ở Việt

Nam.

2.1. Lịch sử nghiên cứu ở nƣớc ngoài

Có khá nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài xoay

quanh vấn đề sử dụng và đổi mới phương pháp sử dụng tư liệu lịch sử vào

dạy học.

Như cuốn sách Dạy học trong bảo tàng (learning in the museum) của tác

giả George E. Hein, tác giả đề cập khá nhiều vấn đề trong cuốn sách như cách

học tại bảo tàng như thế nào, khai thác lý thuyết từ các tư liệu ở bảo tàng ra

sao, cho đến việc thăm quan kết hợp học tập phải đảm bảo những yếu tố gì

được tác giả trình bày khá kỹ lưỡng trong cuốn sách. Đặc biệt tác giả nhấn

mạnh việc khai thác nguồn TLHV trong bảo tàng và những lưu ý khi sử dụng

nguồn tư liệu này trong DHLS.

Hay công trình nghiên cứu Giảng dạy lịch sử vì lợi ích chung (Teaching

history for commom good) của Barton và Levstik, hai tác giả đã đề cập đến

việc thực hiện dạy những tiết học lịch sử tại các bảo tàng mà nguyên liệu

chính cho những tiết dạy đó chính là tư liệu lịch sử trong bảo tàng đang trưng

bày, thực tế lớp học như vậy sẽ làm cho việc sử dụng nhiều loại tư liệu thực tế

của người học được nâng cao, như vậy không chỉ tốt cho HS ở môn học mà

còn tốt trong đời sống thực tiễn.

Nhắc đến xung quanh vấn đề dạy học với tư liệu lịch sử thì nghiên cứu

History in danger của tác giả Mary Price tác giả đã khẳng định tất cả các nguồn

tài liệu, các bảo tàng (các dịch vụ bảo tàng đang làm công việc tuyệt vời trong

4

việc truyền đạt lịch sử đến với mọi người, đồng thời tác giả cũng nói đến việc

lựa chọn và sắp xếp các tài liệu để sử dụng trong các trường học là tốn kém và

thời gian thay vào đó có thể cho HS đến bảo tàng để học hơn nữa thậm chí có

thể để cho học viên làm việc sản xuất các bộ dụng cụ vật liệu để sử dụng trong

lịch sử theo cách của họ.

2.2. Lịch sử nghiên cứu ở trong nƣớc

Bên cạnh các nghiên cứu, bài viết của các tác giả nước ngoài xung quanh

vấn đề sử dụng tư liệu lịch sử vào dạy học thì cũng đã có rất nhiều nhà nghiên

cứu, học giả của Việt Nam quan tâm đến vấn đề này:

Trong cuốn “Phương pháp luận sử học” của Phan Ngọc Liên (chủ biên),

NXB Đại học Sư phạm Hà Nội, 2011, tác giả đã xác định vị trí, vai trò của tư

liệu trong học tập và nghiên cứu lịch sử.

Tập thể các tác giả cuốn giáo trình “Phương pháp dạy học lịch sử”, tập

II, Phan Ngọc Liên (chủ biên) NXB Đại học Sư phạm Hà Nội, 2010, cũng đề

cập đến vấn đề sử dụng tài liệu tham khảo trong DHLS.Ở đó, có nhắc đến tài

liệu lịch sử và vai trò của nó là dùng để làm dẫn chứng minh họa cho các sự

kiện được trình bày.

Trong cuốn “Đổi mới phương pháp DHLS ở trường phổ thông” do Phan

Ngọc Liên chủ biên, NXB Đại học Sư phạm, 2008, tác giả đã trình bày các

bài viết về việc sử dụng tư liệu trong dạy học lịch sử ở trường THPT. Trong

đó, khẳng định sự cần thiết cần phải sử dụng các tài liệu tham khảo, tư liệu

lịch sử trong quá trình DHLS.

Trong cuốn Bảo tàng, di tích – nơi khơi nguồn cảm hứng dạy và học lịch

sử cho HS phổ thông, do nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam xuất bản năm

2014 của tác giả Nguyễn Thị Kim Thành (chủ biên) có chỉ ra rằng: Thực tiễn

hoạt động của các bảo tàng ở nước ta nói chung, Bảo tàng Lịch sử quốc gia

nói riêng và các bảo tàng trên thế giới đều khẳng định không có con đường

nào tiếp cận với lịch sử, văn hóa, văn minh của mỗi dân tộc nhanh hơn, đầy

5

đủ hơn, chính xác hơn con đường bảo tàng. Mà thứ mang lại sự chính xác đó

chính là tư liệu lịch sử trong bảo tàng.

Cuốn sách Phương pháp dạy học môn Lịch sử ở THPT của hai tác giả

Vũ Quang Hiển, Hoàng Thanh Tú xuất bản năm 2014 tại nhà xuất bản Đại

học Quốc gia Hà Nội đã đề cập đến rất nhiều phương pháp dạy học trong đó

có đề cập đến phương pháp làm việc với tài liệu, tư liệu và đặc biệt nhấn

mạnh về TLHV, một trong những chứng cứ còn lại sâu sắc nhất của lịch sử và

một số lưu ý khi sử dụng loại tư liệu này.

Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục số 10, năm 1997, của hai tác giả Nguyễn

Thị Côi và Nguyễn Văn Phong, trường Đại học Sư Phạm Hà Nội với đề tài

nghiên cứu là Khai thác và sửdụng tài liệu của bảo tàng, nhà truyền thống vào

dạy học Lịch sử dân tộc ở trường phổ thông hai tác giảđã khái quát các hình

thức, phương pháp khai thác, sử dụng tư liệu của bảo tàng Lịch sử đặc biệt là

cách thức khai tác nguồn TLHV được trưng bày tại bảo tàng.

Các công trình nghiên cứu trên đã ít nhiều đề cập đến vấn đề sử dụng

nguồn TLHV vào dạy học lịch sử, những chưa thực sự có nghiên cứu nào đề

cập đến việc sử dụng nguồn TLHV vào dạy học lịch sử Việt Nam thời kỳ

1946 – 1954 ở THPT. Vì vậy, đề tài này sẽ tập trung nghiên cứu, tìm hiểu

thực trạng việc đổi mới phương pháp sử dụng nguồn TLHV vào dạy học và

đề xuất một số biện pháp để sử dụng hiệu quả TLHV trong dạy học lịch sử

Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954 ở trường THPT.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Khảo sát vấn đề sử dụng TLHV trong dạy học lịch sử Việt Nam thời kỳ

1946 – 1954 ở trường THPT, từ đó đề xuất một số biện pháp để đổi mới

phương pháp sử dụng TLHV vào dạy học lịch sử một cách hiệu quả.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Đề tài xác định nhiệm vụ nghiên cứu:

6

- Nghiên cứu tìm hiểu cơ sở lí luận về việc khai thác, sử dụng TLHV vào

DHLS Việt Nam ở trường THPT.

- Nghiên cứu nội dung chương trình sách giáo khoa lớp 12 phần Lịch

sử Việt Nam thời kì 1946-1954, các tài liệu lịch sử ở bảo tàng Cách mạng

Việt Nam, bảo tàng Lịch sự Quân sự Việt Nam và xác định những nội dung

cần đổi mới phương phápsử dụng TLHV vào dạy học lịch sử Việt Nam thời

kỳ 1946 - 1954.

- Khảo sát tình hình dạy học lịch sử Việt Nam lớp 12 - THPT ở một số

trường tại Ba Vì - Hà Nội, điều tra thực trạng của việc đổi mới phương

phápsử dụng TLHV vào dạy học lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 - 1954.

- Đề xuất quy trình, biện pháp đổimới phương phápsử dụng TLHV vào

dạy học lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954 ở trường THPT.

- Thực nghiệm sư phạm các hình thức, biện pháp sử dụng trên làm cơ sở

cho việc rút ra những kết luận khoa học, những đề xuất kiến nghị nhằm sử

dụng hiệu quả nguồn TLHV vào dạy học lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 –

1954.

4. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu

4.1. Phạm vi nghiên cứu

1.4.1. Về nội dung

Đề tài tập trung nghiên cứu phần lịch sử Việt Nam hiện đại thời kỳ

1946-1954.

1.4.2. Về địa bàn kháo sát, thực nghiệm

TLHV lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954 được trưng bày nhiều tại

các bảo tàng ở Việt Nam nhưng do hạn chế thời gian và thực lực nghiên cứu

chúng tôi chỉ tiến hành khảo sát và nghiên cứu tại hai bảo tàng là Lịch sử

Cách mạng Việt Nam (Hoàn Kiếm –Hà Nội) và bảo tàng Lịch sử Quân sự

Việt Nam (Ba Đình – Hà Nội).

Tiến hành khảo sát tại trường THPT Ba Vì, THPT Minh Quang, thực

nghiệm tại trường THPT Giao Thuỷ - Nam Định

7

4.2. Đối tƣơng nghiên cứu

Biện pháp đổi mới phương pháp sử dụng TLHV trong dạy học lịch sử

Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954 ở trường THPT

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Nhóm phƣơng pháp nghiên cứu lý luận

Sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát

hóa tài liệu nhằm xác định các khái niệm công cụ và cơ sở lý luận cho vấn đề

nghiên cứu.

5.2. Nhóm phƣơng pháp nghiên cứu thực tiễn

5.2.1. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi

Mục đích: thu thập thông tin về thực trạng sử dụng TLHV vào dạy học

môn Lịch sử và đề xuất một số biện đưa TLHV vào dạy học lịch sử ở

trườngTHPT

Phương tiện: phiếu hỏi dùng cho GV và HS.

5.2.2. Phương pháp quan sát

Mục đích: Thu thập các biểu hiện sinh động, khách quan về thái độ,

hứng thú cũng như mức độ tham gia hoạt động trong giờ học của HS khi tiết

học có sử dụng một số biện pháp đưa TLHV vào dạy học.

5.2.3. Nhóm phương pháp thống kê toán học

Sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lý các kết quả đã thu

được nhằm đảm bảo sự chính xác, khách quan, khoa học và độ tin cậy cao

6. Giả thuyết nghiên cứu

Nếu tiến hành đổi mới phương pháp sử dụng TLHV trong dạy học lịch

sử Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954 ở THPT theo hướng đề xuất của đề tài sẽ

giúp HS tăng hứng thú học tập, hình thành biểu tượng lịch sử, phát triển các

kỹ năng năng lực của bản thân, từ đó góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy

và học Lịch sử trong trườngTHPT.

7. Đóng góp mới của đề tài

8

- Khẳng định vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc sử dụng nguồn

TLHV trong dạy học lịch sử ở trườngTHPT

- Đánh giá thực trạng việc việc sử dụng TLHV trong dạy học lịch sử ở

trườngTHPT

- Đề xuất một số biện pháp đổi mới phương pháp sử dụng nguồn TLHV

trong dạy học lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954 một cách hiệu quả.

8. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, đề

tài luận văn bao gồm hai chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đổi mới phương pháp sử

dụng TLHV trong dạy học lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 - 1954 ở trường

THPT.

Chương 2: Một số biện pháp đổi mới phương pháp sử dụng TLHV trong

dạy học lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954 ở trường THPT. Thực nghiệm

sư phạm.

9

CHƢƠNG 1:

CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC ĐỔI MỚI PHƢƠNG

PHÁP SỬ DỤNG TLHV VÀO DẠY HỌC LỊCH SỬVIỆT NAM

THỜI KỲ 1946 - 1954 Ở TRƢỜNG THPT.

1.1. Cơ sở lí luận

1.1.1. Một số khái niệm

1.1.1.1. Tư liệu lịch sử

Một trong những vấn đề quan trọng của nghiên cứu lịch sử và DHLS đó

chính là tư liệu lịch sử.Tuy nhiên, liên quan tới khái niệm tư liệu lịch sử vẫn

còn nhiều ý kiến khác nhau.

Theo Từ điển tiếng Việt: “Tài liệu là văn bản giúp cho tìm hiểu một vấn

đề gì: tài liệu học tập, tài liệu tham khảo; tư liệu là tài liệu phục vụ cho việc

nghiên cứu” [27; 1132]. Trong tài liệu lịch sử bao gồm tư liệu lịch sử. Do đó,

ta thấy tư liệu lịch sử thường được trích ra từ trong các tài liệu lịch sử. Nó là

phần quan trọng của tài liệu lịch sử, phục vụ cho quá trình nghiên cứu hay học

tập lịch sử.Tư liệu lịch sử chứa những sự kiện lịch sử, đó chính là cấu tạo cơ

bản của lịch sử.Điều này đã khẳng định vai trò của tư liệu lịch sử hết sức đặc

biệt đối với khoa học lịch sử.

Từ việc phân tích các đặc trưng của bộ môn và những khái niệm có liên

quan trong sách “Phương pháp luận sử học” do Phan Ngọc Liên NXB ĐHSP

Hà Nội, 2008, các tác giả đã đưa ra cách hiểu “tư liệu lịch sử là khâu trung

gian nối liền giữa nhà sử học với các công trình nghiên cứu lịch sử”. “Tư

liệu lịch sử là những di tích của quá khứ, xuất hiện như sản phẩm của quan

hệ xã hội nhất định, mang trong mình những dấu vết của quan hệ ấy, phản

ánh trực tiếp và trừu tượng hóa một mặt hoạt động nào đấy của con người”.

[21;206]

10

Theo quan niệm của triết học thì tư liệu lịch sử là khái niệm phản ánh

đặc tính của hiện vật có thể để thu nhận tri thức của hiện vật khác.

Theo nhà sử học Nga Chi-khơ-mi-rốp cho rằng tư liệu lịch sử là tất cả

những gì còn sót lại của cuộc sống đã trải qua hay Re-ban cho rằng tư liệu

lịch sử là tổng hợp thành quả từ hoạt động nhận thức và thực tiễn của con

người được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng phương diện xã

hội.

Nhà sử học Ba Lan J.iopolski đã viết: Tư liệu luôn là tài sản quý giá nhất

của nhà sử học, không có nó ta không thể là nhà sử học. Và nếu xem một

công trình nghiên cứu lịch sử là một món ăn thì các nguồn tư liệu

chính là những sản phẩm, những gia vị để chế biến nên món ăn đó. Không có

nguồn tư liệu thì lịch sử không thể được viết ra vì nguồn tư liệu lịch sử không

có gì có thể thay thế nó được.

Theo quan niệm xã hội tư liệu lịch sử là một phương tiện để bảo tồn, giữ

gìn, truyền bá tri thức lịch sử.

Xét về mặt lý luận thì có nhiều quan niệm khác nhau về tư liệu lịch sử

nhưng ta có thể hiểu một cách đơn giản như trong từ điển bách khoa toàn thư

có ghi tư liệu lịch sử là nơi lưu giữ các tri thức liên quan đến quá khứ và quan

hệ xã hội của loài người và nó phản ảnh trực tiếp quá khứ. Tư liệu lịch sử vừa

là cơ sở vừa là xuất phát điểm của nhận thức lịch sử.

Theo chúng tôi tư liệu lịch sử là các sự kiện, tài liệu mà mỗi giáo viên

cần phải sưu tầm để tìm hiểu quá trình lịch sử đang học.Tư liệu càng sinh

động, phong phú bao nhiêu thì sự kiện càng cụ thể và càng hay bấy nhiêu.

Trong giảng dạy lịch sử, điều kiện cơ bản nhất để tái tạo hình ảnh quá khứ là

tư liệu lịch sử. Nếu không có nguồn tư liệu phong phú, không cung

cấp được nguồn tư liệu cụ thể chân thực thì dù có vận dụng phương pháp

giảng dạy nào đi chăng nữa cũng không thể đạt hiệu quả mong muốn.

Hiện nay, các nhà sử học thường chia tư liệu lịch sử thành các nhóm: tư

liệu thành văn, tư liệu vật chất, tư liệu truyền miệng dân gian, tư liệu ngôn

11

ngữ, tư liệu dân tộc học, tư liệu phim ảnh, băng ghi hình và tư liệu băng ghi

âm (chiếm vị trí chủ yếu là các tư liệu thành văn).

Một là, tư liệu vật chất (hay còn gọi là tư liệu vật thật).Đây là nguồn tư

liệu duy nhất để nghiên cứu về các thời cổ đại khi chữ viết chưa xuất

hiện.Nguồn tư liệu này mang ý nghĩa rất quan trọng. Đó là những dụng cụ lao

động, đồ dùng sinh hoạt, vũ khí của người xưa, các thành quách nhà cửa...

được các nhà khảo cổ học tìm thấy tại các di chỉ khảo cổ. Đây là nguồn tư liệu

chủ yếu trong thời kì chưa có chữ viết và phản ánh một cách khá trung thực

và khách quan một mặt nào đấy của cuộc sống.

Hai là, tư liệu thành văn (tư liệu chữ viết): Đây là nguồn tư liệu quý,

ngày nay chúng ta có thể dễ dàng thu thập chúng dưới nhiều hình thức khác

nhau. Quan trọng là phải có phương pháp nghiên cứu và xử lí tư liệu.Vì lịch

sử mang tính giai cấp, nên tư liệu lịch sử mang tính chủ quan của tác giả (ảnh

hưởng của tính giai cấp).Khi tìm hiểu về tư liệu lịch sử chữ viết, cần có sự đối

chiếu và xem xét chúng với các tư liệu truyền miệng dân gian để có cái nhìn

toàn diện và chân thực nhất về lịch sử. Ngoài ra, tư liệu chữ viết còn bao gồm

cả những bảng số liệu được thống kê lại từ những ngành liên quan như quân

sự, kinh tế, chính trị, văn hóa giáo dục. Thông qua những bảng thống kê đó

lịch sử được cụ thể hóa.

Nguồn tư liệu thành văn rất phong phú và đa dạng, nên để nghiên cứu

nguồn sử liệu này một cách dễ dàng hơn, người ta thường phân chia thành các

loại khác nhau như: phân chia theo lĩnh vực, phân chia theo ngành, theo đặc

điểm, nguồn gốc…

Ba là, tư liệu hình ảnh: Là loại tư liệu có tính chất đặc biệt, ta có thể tri

giác được hình ảnh lịch sử. Nó giúp ta miêu tả lịch sử một cách sinh động, cụ

thể hơn. Hình ảnh lịch sử có thể có hai trường hợp: một là tranh, ảnh được

chụp, vẽ tại thời điểm xảy ra sự kiện lịch sử. Đây là tư liệu lịch sử gốc; hai là

có thể được dựng lại để chụp… Vì vậy, khi sử dụng chúng ta cần có sự đánh

giá, phân biệt rõ.

12

Bốn là, tư liệu băng ghi âm, ghi hình: Đây là loại tư liệu mới xuất hiện

cùng với xã hội hiện đại. Loại tư liệu này cho phép chúng ta nghe, nhìn hiện

thực lịch sử.Nó ghi lại một cách chân thực và tái hiện gần như đầy đủ các sự

kiện, hiện tượng xảy ra. Tuy nhiên, hiện nay, nguồn tư liệu này rất dễ được xử

lí bằng kĩ thuật công nghệ do đó, khi sử dụng cần lưu ý về tính trung thực,

nguyên bản của nó.

Ngoài ra, còn có loại tư liệu truyền miệng dân gian: bao gồm những

thông tin lịch sử chưa được tập hợp, còn lưu truyền tự nhiên trong dân gian và

có nhiều dị bản khác nhau. Sự tồn tại của các huyền thoại, truyền thuyết, trải

qua nhiều thời kì, đã được bao phủ lên bởi một màu sắc kì bí.

1.1.1.2. Quan điểm về khái niệm Tư liệu hiện vật

Tư liệu lịch sử bao gồm rất nhiều loại tư liệu khác nhau trong đó có

TLHV nằm trong phân loại của tư liệu vật thật (tư liệu vật chất).

Có rất nhiều quan niệm về TLHV được các nhà nghiên cứu lịch sử đưa

ra nhưng chúng ta có thể hiểu TLHV là những vật thực mang trong nó nội

dung phản ánh sự kiện lịch sử, theo từ điển bách khoa toàn thư thì những hiện

vật này có thể được dùng để làm bằng cớ và chứng minh cho sự kiện lịch sử.

Sách giáo khoa lịch sử lớp 6 có đưa ra khái niệm TLHV là những di tích,

những đồ vật của người xưa còn giữ được trong lòng đất hay trên mặt đất.

Chúng tôi xin đưa ra quan điểm của mình về khái niệm TLHV như sau:

TLHV là những vật thực mang theo sự phản ánh về sự kiện lịch sử.

TLHV nói chung và TLHV ở bảo tàng nói riêng là phương tiện trực quan

rất quan trọng góp phần tạo biểu tượng lịch sử chân thực cụ thể, chính xác

cho HS, những TLHV không mang tính lý luận mà rất cụ thể, rõ ràng các sự

kiện, hiện tượng chứng minh sự kiện quan trọng của một đất nước, ở một thời

kỳ nhất định. TLHV ở bảo tàng được sắp xếp có hệ thống theo trình tự thời

gian là phương tiện trực quan giúp HS hình thành tri thức lịch sử. TLHV ở

bảo tàng còn có ý nghĩa giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức sâu rộng cho

13

HS đặc biệt là trong tình hình hiện nay, bảo tàng có ý nghĩa to lớn đối với

việc giáo dục lòng yêu nước cho thế hệ trẻ.

Nguồn TLHV là một nguồn tư liệu khó khai thác đòi hỏi sự hiểu biết sâu

rộng và có cái nhìn tổng quan của người sử dụng nó.Bản thân TLHV là một

nguồn thông tin lịch sử chính xác nhất, không ai có thể thay đổi thông tin mà

hiện vật đấy phản ánh.Nhưng TLHV là nguồn tư liệu khó tiếp cận kể cả là góc

độ của nhà nghiên cứu hay góc độ của giáo viên khi sử dụng nguồn tư liệu

này vào quá trình dạy học vì tư liệu này tự bản thân nó lại không nói lên

những gì nó đang phản ánh thế nên đòi hỏi cách thức tiếp cận cũng khác so

với các nguồn tư liệu lịch sử khác.

Trong luận văn này chúng tôi tìm hiểu TLHV dưới hai góc độ khác

nhau. Thứ nhất là nguồn TLHV mang trong nó tri thức và phản ánh sự kiện

lịch sử, thứ hai là chúng tôi khai thác nội dung mà tư TLHV đó phản ánh dưới

dạng hình ảnh của TLHV chủ yếu đang được trưng bày tại hai bảo tàng là bảo

tàng Cách mạng Việt Nam và bảo tàng Lịch sự Quân sự Việt Nam.

1.2.1. Vai trò, ý nghĩa của việc đổi mới phƣơng pháp sử dụng

TLHV trong dạy học lịch sử ở THPT

1.2.1.1. Vai trò của việc đổi mới phương pháp sử dụng tư liệu hiện vạt

vào dạy học lịch sử ở trường THPT

Tư liệu lịch sử đóng vai trong quan trọng đối với hoạt động DHLS nói

chung và hoạt động DHLS ở trường THPT nói riêng.

Đặc điểm của lịch sử đó là chỉ xảy ra một lần duy nhất trong quá khứ và

không bao giờ lặp lại thế nên chỉ có TLHV mấy tiếp cận gần nhất được với sự

thật lịch sử.

Ví dụ: năm 1954 với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ làm chấn động

cả năm châu cả thế giới đều biết đến chiến thắng này, nhưng đúng với bản

chất của lịch sử thì sự kiện lịch sử đó đã diễn ra trong quá khứ vào đúng thời

gian là năm 1954, đúng không gian là lòng chảo Điện Biên, đúng con người là

những chiến sĩ đã chiến đấu tại đó vào năm 1954 mà người chỉ huy là Đại

14

tướng Võ Nguyễn Giáp. Điều đó không bao giờ lặp lại nữa, ngày nay chúng ta

dựng lại chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, tại lòng chảo Điện Biên với

những nhân chứng của trận chiến năm xưa kể lại nhưng thử hỏi xem có còn

đúng tất cả những chiến sĩ năm xưa đang chiến đấu họ đều có mặt tại đây hay

không, có đúng khoảng thời gian là 1945 hay là đang 2017 còn nữa có còn

Đại tướng của chúng ta ở đó chỉ huy trận đánh nữa hay không? Chính những

điều đó tạo nên một lịch sử không bao giờ có lặp lại ý như nó đã từng xảy ra

ngoài những nhân chứng sống phản ánh phần nào của cuộc chiến năm xưa thì

TLHV chính là những nhân chứng không một lời nói dối của chiến thắng đó

vấn đề ở đây là chúng ta phải khai thác làm sao, sử dụng như thế nào trong

quá trình nghiên cứu đặc biệt là hoạt động DHLS.

Như vậy TLHV là những nhân chứng quan trọng nhất còn tồn tại mãi

mãi cùng sự thật lịch sử nếu chúng ta gìn giữ chúng một cách cẩn thận và

chân trọng nhất.Chúng sẽ là cầu nối giúp cho không chỉ những nhà nghiên

cứu tiếp cận sự thật lịch sử mà còn giúp cho GV, HS trong hoạt động dạy và

học.

TLHV mang trong mình câu chuyện lịch sử về sự kiện lịch sử thế nên

khi sử dụng TLHV lịch sử vào hoạt động DHLS thay vì GV sẽ là người nói

người thuyết trình cho cả buổi học dễ gây nhàm chán thì giáo viên có thể

mang hiện vật đó (nếu có điều kiện) hoặc sử dụng ảnh, phim về TLHV đó để

giới thiệu cho HS, hướng HS vào câu chuyện mà hiện vật đó phán ánh. Khi

mà HS mới tiếp cận với nguồn TLHV có thể sẽ khó khăn cho cả GV và HS

nhưng dần sẽ hình thành thói quen để HS có thể khai thác được nguồn tư liệu

này.Việc đưa ra TLHV vào dạy học GV cần phải hướng dẫn học HS như đây

là hiện vật gì?Nó dùng để làm gì?Trong lịch sử thì vật dụng này đã được ai

dùng và dùng như thế nào?Bằng chính những gợi ý đó dần dần thông qua

TLHV HS sẽ tiếp cận được với sự kiện lịch sử.

Như vậy có thể thấy dù TLHV không tự nói lên sự kiện lịch sử mà bản

thân nó phản ánh nhưng GV và HS có thể tiếp cận được sự kiện lịch sử thông

15

qua TLHV bằng những thông tin tư liệu đó phản ánh đã được những nhà

nghiên cứu tìm hiểu. Vì vậy, có thể nói TLHV là cầu nối giúp hình thành tri

thức lịch sử cho HS trong quá trình dạy học.

Trong hoạt động DHLS không chỉ hiện nay chúng ta mấy đề cập đến

việc sử dụng TLHV vào trong dạy học, vấn đề này không còn là mới nữa đã

được rất nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu. Nhưng, thực tế cho thấy gần như

những tiết học mà GV đưa TLHV vào dạy học còn rất hạn chế không nói đến

những giờ ngoại khóa mà đang đề cập đến những tiết học nội khóa, có may

chăng thì chỉ có một số ít tiết học GV đưa nguồn tư liệu này vào bằng hình

ảnh hay phim tư liệu nhưng GV chưa thực làm cho nguồn tư liệu mình đưa ra

trở nên đắt giá. GV khai thác TLHV khi đưa vào bài học gần như chỉ ở mức

giới thiệu nó là gì?Ở đâu? Mà không nhìn thấy ẩn sâu bên trong TLHV là

những câu chuyện lịch sử chân chính không hề có một ai làm thay đổi được

câu chuyện đó, việc đó vô tình làm cho một nhân chứng lịch sử được đưa ra

giới thiệu trước khán giả mà lại không được nói gì.

Chính vì vậy, đổi mới phương pháp sử dụng TLHV vào dạy học là cấp

thiết.Thay vì GV chỉ đưa TLHV ra giới thiệu như một ví dụ minh họa thì GV

hãy khai thác triệt để nguồn thông tin khi đưa TLHV ra cho HS. GV có thể

thay đổi cách thức sử dụng nó trong bài thay vì đưa nó ra làm ví dụ sau khi

nói xong hoặc nói xong đưa nó ra thì hãy đưa tư liệu ra và định hướng cho HS

tại sao hôm nay cô (thầy) lại đưa ra tư liệu này, nó mang nội dung gì trong bài

học hôm nay hay GV cũng có thể dùng để làm tổng kết kiểm tra đánh giá bài

học của HS sau khi kết thúc tìm hiểu nội dung.

Sự thay đổi cách sử dụng TLHV không chỉ giúp GV chủ động trong việc

dạy mà còn giúp nhớ kiến thức nhanh hơn thông qua hình ảnh TLHV.

1.2.1.2. Ý nghĩa của việc đổi mới phương pháp sử dụng TLHV vào DHLS

ở trường THPT

16

Việc sử dụng TLHV vào dạy học mang ý nghĩa rất to lớn, nó không chỉ

giúp GV giảng dạy như một công cụ hỗ trợ mà nó còn giúp HS tiếp cận kiện

lịch sử bằng tác động từ hình ảnh trực quan.

Đó chỉ là những nét khái quát về ý nghĩa của việc sử dụng TLHV vào

DHLS vậy khi đổi mới phương pháp sử dụng sẽ đem lại ý nghĩa như thế nào.

Việc đổi mới phương pháp sử dụng TLHV sẽ giúp HS tiếp cận được với

sự kiện lịch sử một cách chân thật nhất vì sự kiện lịch sử được phản ánh thông

qua nguồn TLHV không có gì có thể thay thế được nó. Ngoài ra, việc đổi mới

phương pháp sử dụng TLHV trong DHLS cũng góp phần chung vào đổi mới

việc dạy và học môn Lịch sử ở nhà trường THPT hiện nay.

1.3.1. Đặc trưng của việc dạy học lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 - 1954 và

sự cần thiết của việc đổi mới phương pháp sử dụng TLHV trong dạy học.

1.3.1.1. Đặc trưng của việc dạy học lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954

Để đưa ra các đổi mới phương pháp sử dụng TLHV đúng đắn nhằm giúp

HS nắm vững Lịch sử Việt Nam thời kỳ 1945 - 1954 trước hết chúng ta phải

hiểu rõ các đặc trưng của việc dạy học Lịch sử Việt Nam 1945 – 1954.Nằm

trong tiến trình chung của việc DHLS nên việc dạy học Lịch sử Việt Nam giai

đoạn này cũng mang những đặc trưng của việc DHLS nói chung nhưng bên

cạnh đó là những đặc trưng riêng mà chỉ có thời kỳ 1946 – 1954 mới có:

Thứ nhất: Quá trình phát triển của xã hội loài người từ lúc con người và

xã hội hình thành đến nay gọi là Lịch sử. Tất cả những sự vật, hiện tượng lịch

sử mà chúng ta đề cập đến đều là những chuyện đã xảy ra, nó mang tính quá

khứ.Bởi vậy, người ta không thể trực tiếp tiếp xúc, trực tiếp quan sát quá khứ

mà chúng ta chỉ nhận thức chúng gián tiếp thông qua các tài liệu được lưu lại.

Vì vậy trong giảng dạy Lịch sử nói chung và Lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 -

1954 nói riêng thì việc dạy học cần phải tái hiện lại sự kiện lịch sử một cách

rõ ràng, mạch lạc và các sự kiện phải có sự móc nối lẫn nhau vì mọi sự kiện

lịch sử luôn nằm trong một mối quan hệ nhất định để HS có thể hình dung

được lịch sử một cách sinh động nhất.

17

Thứ hai: Đó là tính không lặp lại của Lịch sử. Vì vậy, khi dạy Lịch sử

Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954 với cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực

dân Pháp bùng nổ (19/12/1946) đén việc thực hiện đường lối kháng chiến hản

công sang chủ động tiến công trên chiến trường rồi đi đến chiến thắng lịch sử

Biện Biên Phủ (1954) luôn phải xem xét tính cụ thể về không gian và thời

gian làm nảy sinh sự kiện và hiện tượng đó, để HS có một cái nhìn rõ ràng

nhất về sự kiện đó cả về không gian và thời gian từ đó có thể đánh giá, nhận

xét một sự kiện hay một vấn đề lịch sử một cách xác đáng và khách quan nhất

trong toàn bộ tiến trình lịch sử.

Thứ ba: Lịch sử của mỗi nước, mỗi dân tộc đều có một diện mạo riêng

dó những điều kiện riêng biệt quy định. Mặt khác, các quốc gia, các dân tộc

khác nhau sống trên những khu vực khác nhau, tuy bị tác động bởi những quy

định chung trải quá trình phát triển từ thấp đến cao, đời sống văn hóa con

người ngày càng phong phú, đa dạng nhưng tiến trình phát triển lại không

hoàn toàn giống nhau. Do đó khi trình bày các sự kiện, vấn đề lịch sử Việt

Nam thời kỳ 1946 - 1954 phải cụ thể, và càng cụ thể bao nhiêu thì tính sinh

động hấp dẫn lại càng tăng thêm bấy nhiếu. Lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 -

1954 được chia thành những giai đoạn nhỏ hơn. Từ 1946 – 1948 là giai đoạn

bảo vệ căn cứ địa Việt Bắc, từ 1948 -1953 phát triển chiến tranh du kích, đẩy

mạnh vận động chiến tranh và chiến thắng biên giới, từ 1953 – 1954 tiến hành

tổng tiến công trên toàn miền với đỉnh cao là chiên thắng lịch sử Điện Biên

Phủ.

Thứ tư: Đặc điểm dạy học này của Lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 –

1954 là do tính hệ thống quy định. Khoa học Lịch sử vừa bao gồm các sự

kiện, hiện tượng về cơ sở kinh tế, đấu tranh xã hội vừa bao gồm cả nội dung

kiến thức thượng tầng, tình hình kinh tế sản xuất và quan hệ xã hội…Các nội

dung đó có mối quan hệ khăng khít, phức tạp điều này ddòi hỏi quá trình dạy

học Lịch sử Việt Nam giai đoạn này phải luôn luôn chú ý các mối quan hệ

ngang dọc, trước sau của vấn đề lịch sử cũng như nội tại giữa các mặt chính

18

trị, kinh tế, văn hóa để cũng cấp cho HS cái nhìn hệ thống về các sự kiện,

chính trị tác động đến kinh tế, văn hóa và văn hóa, kinh tế cũng tác động trở

lại đối với nền chính trị.

Đặc trưng thứ năm của dạy học Lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 - 1954

được quy định bởi tính hệ thống giữa “sử” và “luận”. Từ đặc điểm này của tri

thức Lịch sử nó khiến cho qua trình dạy học Lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 -

1954 phải đảm bảo tính hệ thống giữa trình bày sự kiện với giải thích sự kiện

và bình luận sự kiện. Mọi giải thích, bình luận phải xuất phát từ sự kiện lịch

sử cụ thể chính xác đáng tin cậy và không có sự kiện, hiện tượng nào không

đuợc làm sáng tỏ bản chất của sự kiện hiện, tượng đó.

Tóm lại, các đặc trưng của dạy học Lịch sử nói chung và dạy học Lịch

sử Việt Nam thời kỳ 1946 - 1954 là được quy định bởi đặc điểm của tri thức

lịch sử. Từ đó chúng ta đưa ra những biện pháp phù hợp để quá trình dạy học

Lịch sử đạt kết quả cao nhất, HS lĩnh hội được tri thức lịch sử và có cái nhìn

đa chiều về một sự kiện lịch sử trong các mối quan hệ trong cùng một thời

điểm không gian và thời gian.Chính những đặc điểm đó mà đòi hỏi người GV

khi dạy học phải vận dụng các phươngpháp khác nhau trong quá trình dạy

học.

1.3.1.2. Sự cần thiết của việc đổi mới phương pháp sử dụng TLHV trong

dạy học lịch sử

Do những đặc trưng trong dạy học Lịch sử Viêt Nam thời kỳ 1946 -

1954 như vậy ta có thể thấy từng giai đoạn nhỏ trong thời kỳ này là mang nét

lớn khác nhau từ đó sử dụng và đổi mới các sử dụng TLHV vào dạy học lịch

sử càng cần thiết.

Việc GV sử dụng TLHV trong DHLS Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954

không còn mới lạ nhưng trên thực tế liệu việc sử dụng của GV đã thực sự hiệu

quả và mang lại kết quả như mong muốn hay không?Có phải chăng là hiện

nay một số GV vẫn đang sử dụng TLHV vào trong dạy học như một hình

thức báo cáo tổng kết mà chưa chú trọng đến hiệu quả sử dụng nguồn tư liệu

19

này một cách thực tế. Có rất nhiều GV nhận thấy TLHV thực sự có hiệu quả

trong quá trình dạy học nhưng dường như họ vẫn chưa tìm kiếm cách sử dụng

TLHV sao cho hiệu quả như mong muốn chính vì vậy việc đổi mới phương

pháp sử dụng TLHV trong DHLS Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954 là cần thiết

để mang lại những giờ dạy lịch sử thực sự hứng thú với HS khi mang TLHV

ra sử dụng thay vì đưa nó ra như một ví dụ minh họa điển hình.

Trong thời kỳ 1946 – 1954 thì thấy rõ sự phát triển của cách mạng Việt

Nam đi từ bước bị động sang chủ động tiến công. Nếu GV chỉ dùng cách

tường thuật truyền thống ở giai đoạn này thì rất khó để HS có thể trình bày

được cơ bản các sự kiện diễn ra trong thời gian này đặc biệt với các mốc sự

kiện mang tính bước ngoặt chứ chưa nói đến chuyện HS sẽ đánh giá, nhìn

nhận sự kiện, vấn đề lịch sử một cách sắc đáng nhất. Việc đổi mới phương

pháp sử dụng TLHV trong DHLS Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954 không chỉ

tạo hứng thú được cho HS trong quá trình hoạc tậ mà còn thúc đẩy trí tó mò,

tư duy giải quyết vấn đề và cả những lập luận cho những sự kiện, quy luật lịch

sử cho HS được, và cũng chỉ khi đó việc DHLS mấy đạt hiệu quả cũng như

làm tròn trách nhiệm và vị trí của nó trong hệ thống nền giáo dục Việt Nam.

Như vậy, có thể khẳng định việc đổi mới phương pháp sử dụng TLHV

trong DHLS Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954 là đặc biệt cần thiết, nó không chỉ

tạo cho HS một tâm lý tốt trong học tập, đem lại cho HS một khía cạnh mới

để tiếp cận lịch sử mà nó còn tạo động lực thúc đẩy HS phát triển tư duy logic

giải quyết vấn đề từ trong bài học để rồi áp dụng vào thực tế cuộc sống

1.2. Cơ sở thực tiễn

1.2.1. Thực trạng sử dụng TLHV lịch sử trong DHLS ở trường THPT

Môn Lịch sử ở trường phổ thông đóng vai trò quan trọng trong việc

hình thành ý thức, giáo dục nhân cách và hình thành thế giới quan của HS sau

này đó cũng chính là vai trò tó lớn mà môn lịch sử đảm nhận. Nhưng trên

thực tế hiện nay môn lịch sử luôn bị coi là “môn phụ” là môn “học thuộc” đối

với HS. Cũng không thể trách được người học trong vấn đề này vì thực tế cho

20

thấy có rất nhiều GV hiện nay đang tự biến môn lịch sử của mình thành một

môn phụ và học thuộc như thế, có rất nhiều GV lên lớp ngoài kiến thức sách

giáo khoa cung cấp thì gần như không cung cấp cho HS bất kỳ thông tin nào

bên ngoài, điều đó cho thây còn không ít bộ phận GV đang lệ thuộc quá vào

sách giáo khoa mà không trau dồi thêm kiến thức bên ngoài làm cho bài dạy

của chính học đang giết đi nhưng thế hệ HS nhưng mần sống tương lai của đất

nước.

Để khắc phục tình trạng trên có không ít GV đã chủ động trau dồi, đổi

mới phương pháp giảng dạy trong quá trình lên lớp của mình.Điều đó mang

lạiphần nào hiệu quả trên thực tế. Trong những phương pháp đó thì GV

thường xuyên đưa vào bài dạy của mình những thông tin cho HS bằng cách

nguồn tư liệu, tài liệu khác nhau trong đó có TLHV mạc dù chỉ dừng lại ở

mức hình ảnh của hiện vật nhưng đã gópphần tăng hứng thú học tập cho HSh

trong hoạt động dạy học.

Nhận thức được tầm quan trọng của việc sử dụng TLHV vào DHLS

các giáo viên giảng dạy bộ môn Lịch sử trong nhà trường THPT đã có nhiều

phương pháp khác nhau khi sử dụng TLHV trong giảng dạy nhằm tạo và nâng

cao hứng thú học tập cho HS cũng như khai thác tri thức lịch sử một cách

hiệu quả nhất.

Như vậy có thể thấy việc đổi mới phương pháp sử dụng TLHV trong

DHLS ở trường hổ thông cũng đang rất được GV và nhà trường chú

trong.Trên thực tế đã có những phương pháp được GV áp dụng và mang lại

hiệu quả nhất định.

1.2.2. Thực trạng đổi mới phương pháp sử dụng TLHV trong DHLS ở

trường THPT

Để tìm hiểu thực tiễn việc đổi mới phương pháp sử dụng TLHV trong

DHLS nói chung và DHLS Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954 nói riêng ở trường

THPT. Chúng tôi tiến hành khảo sát, phát phiếu hỏi kết hợp phỏng vấn 11

giáo viên phụ trách giảng dạy môn Lịch sử và 214 HS tại trường THPT Minh

21

Quang, THPT Ba Vì (Ba Vì – Hà Nội) và THPT Giao Thủy B (Giao Thủy –

Nam Định). Nội dung điều tra tập chung các vẫn đề như sau:

1.2.2.1. Mục đích , nội dung khảo sát

 Về mục đích: Phiếu khảo sát tập trung vào 2 vấn đề chính:

+ Thứ nhất: Khảo sát về thực trạng đổi mới phương pháp sử dụng tư liệu lịch

sử trong DHLS nói chung và DHLS Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954 nói riêng.

+ Thứ hai: Thông qua khảo sát những thuận lợi và khó khăn trong việc đổi

mới phương pháp sử dụng TLHV trong DHLS thời kỳ 1946 – 1954, từ đó đề

xuất một số biện pháp nhằm đổi mới phương pháp sử dụng TLHV vào DHLS

thời kỳ này.

Việc điều tra khảo sát được tiến hành tại 3 trường THPT Minh Quang,

THPT Ba Vì (Ba Vì – Hà Nội) và THPT Giao Thủy B (Giao Thủy – Nam

Định).

Phương pháp tiến hành : Điều tra bằng phiếu khảo sát đối với cả HS và

giáo viên.

 Về nội dung: Phiếu khảo sát tập trung vào một số vấn đề sau:

- Đối với giáo viên: Phiếu khảo sát tập trung vào việc tìm hiểu

quan niệm của giáo viên về vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng tư liệu hiên vật

và đổi mới phương pháp sử dụng TLHV. Ngoài ra, phiếu khảo sát còn chú ý

đến nội dung, phương pháp và ý nghĩa khi giáo viên dạy học có sử dụng

TLHV, cùng với những thuận lợi và khó khăn khi dạy học tạo có sử dụng

TLHV nói chung và dạy học lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954 nói riêng.

Cuối cùng là những đề xuất của giáo viên về phía nhà trường, phía HS và cả

phía của người giáo viên để việc sử dụng TLHV vào DHLS thực sự hiệu quả.

- Đối với HS: Một số vấn đề mà phiếu khảo sát tập trung đối với HS là:

Ý kiến, quan điểm của HS về đưa TLHVvào da ̣y ho ̣c Li ̣ch sử c ủa giáo viên.

Khảo sát về nội dung, phương pháp hình thức và tính hiệu quả khi giáo viên

tạo hưng thú học tập khi dạy học đối với HS. Bên cạnh đó, thì phiếu khảo sát

cũng tìm hiểu một số khó khăn của HS khi giáo viên sử dụng TLHV trong

22

dạy học Lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 - 1954. Phiếu khảo sát còn tập chúng

vào việc tìm hiểu mức độ yêu thích của HS khi được giáo viên đưa tư liệu

hiên vật vào DHLS Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954. Thông qua đó, lấy ý kiến

đề xuất của HS để việc dử dụng tư liệu hiên vật trong DHLS Việt nam thời kỳ

1946 – 1954 thực sự hiệu quả.

1.2.2.2. Kết quả điều tra khảo sát

Với 214 phiếu hỏi dành cho HS và 11 phiếu dành cho giáo viên được

phát ra và kết quả thu về được 209 phiếu hợp lệ của HS, 11 phiếu của giáo

viên, kết quả khảo sát đã làm rõ được vấn đề được đề cập đến trong mục đích

và nội dung khảo sát, cụ thể là:

 Về phía giáo viên:

- Quan niệm của giáo viên về việc sử dụng TLHV vào DHLS Việt Nam

thời kỳ 1946 - 1954 thì tất cả 7 giáo viên (100%) quan niệm rằng việc đưa tư

liệu hiên vật vào DHLS là rất cần thiết, không giáo viên nào quan niệm việc

đưa TLHV vào DHLS Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954 là không cần thiết. Như

vậy, giáo viên đã đánh giá đúng vai trò về việc đưa tư liệu hiên vật vào

DHLS.

Vấn đề tiếp theo đó là giáo viên thường sử dụng các phương pháp nào

để đưa tư liệu hiên vật vào dạy học thì có tới 4 giáo viên chiếm 36, 36% chọn

đáp án dùng TLHV để giúp người học tạo biểu tượng, trong khi đó có 3 giáo

viên chiếm 27,28% chọn dùng TLHV như một hình ảnh minh hoạ, có 4 giáo

viên chiếm 36,36% là dùng TLHV để định hướng mở đầu bài học, và không

có giáo viên chọn đáp án dùng TLHV để kiểm tranh đánh giá trong giờ học

chiếm 0%.

23

Tạo biểu tượng

Định hướng bài học

kiểm tra, đánh giá

Hình ảnh minh họa

Biểu đồ 1.1: Các cách giáo viên sử dụng TLHV khi dạy học

Khi được hỏi đến câu hỏi là mức độ sử dụng TLHV trên lớp của các thầy

(cô) như thế nào thì kết quả rất ngạc nhiêu có tới 7/11 GV được hỏi cho biết

họ chưa bao giờ sử dụng chiếm gần 63.64 %, có 3 /11 GV thì cho rằng mình ít

khi sử dụng TLHV vào dạy học, còn 1 GV trên tổng số 11 GV được hỏi cho

rằng bản thân mình thỉnh thoảng sử dụng tư liệu hiên vật vào dạy học chiếm

9.08%. Điều này cho thấy trên thực tế tại các trường phổ thông GV vẫn đang

loay hoay không biết hoặc không sử dụng nguồn tư liệu hiên vật vào quá trình

DHLS của mình.

Tuy nhiên, khi được hỏi đến tác dụng của việc đưa tư liệu hiên vật lịch

sử vào dạy học đã nhận được ý kiến rất tích cực từ GV.

Có 3 ý kiến của GV cho rằng khi sử dụng TLHV vào dạy học sẽ giúp tạo

hứng thú học tập cho HS chiếm 27,27%, có 6 ý kiến cho rằng sử dụng TLHV

vào dạy học sẽ góp phần tạo biểu tượng lịch sử học HS chiếm 54,54%, có 2 ý

kiến của Gv cho rằng nếu sử dụng tư liệu hiên vật vào dạy học sẽ giúp rèn

luyện kỹ năng thực hành và tư duy cho HS chiếm 18,18%, và không co sý

kiến nào của Gv cho rằng việc sử dụng tư liệu lịch sử sẽ có tác dụng khắc sâu

và mở rộng kiến thức chiếm 0%.

24

Tạo hứng thú học tậ

Rèn luyện kỹ năng thực hành, tư duy

Khắc sâu và mở rộng kiến thức

Tạo biểu tượng

Biểu đồ 1.2. Ý kiến của giáo viên về tác dụng của việc sử dụng TLHV vào dạy

học

Như vậy qua biểu đồ ta có thể thấy ý kiến của các thầy (cô) có sự chênh

lếch rất là lớn đặc biệt là các thầy (cô) đều cho rằng TLHV khi đưa vào bài

học đều không có tác dụng là khắc sâu và mở rộng kiến thức.

Bảng 1.1: Tổng hợp ý kiến của GV về mức độ hiệu quả khi sử dụng tư liệu

hiên vật vào DHLS. (% tính xấp xỉ)

Tiêu chí

Rất hiệu quả

Hiệu quả

Bình

Ít hiệu quả

Không hiệu

thƣờng

quả

0

Gây hứng thú học

70,7

21

8,3

0

tập cho HS

5

Rèn các kĩ năng thực

40,5

33.8

14,5

0

hành, tư duy cho HS

Khắc

sâu

kiến

44.1

28.3

25.1

2.5

0

thức,mở rộng hiểu

biết cho HS

Tạo biểu tượng cho

82.7

15.6

1.7

0

0

HS

25

Như vậy, thông qua bảng thống kê chúng ta thấy đa số GV đều khẳng

định rằng việc sử dụng TLHV vào dạy học là rất hiệu quả hoặc hiệu qủa tùy

theo tiêu chí. Tỷ lệ phần đa GV đều cho rằng TLHV rất hiệu quả trong việc

tạo biểu tượng lịch ử cho HS và gây hứng thú học tập cho HS. Tuy nhiên, do

câu hỏi có thể chọn nhiều đáp án nên việc sử dụng TLHV vào dạy học đều

được các thầy (cô) đánh giá là hiệu quả đến rất hiệu quả từ việc gây hứng thú

học tậ, rèn luyện kỹ năng thực hành tư duy cho HS, khắc sâu kiến thức, mở

rộng kiến thức cho đến tạo biểu tượng cho HS. Chỉ có số ít GV cho rằng việc

sử dụng TLHV là bình thường. Có 8.3% GV cho rằng việc gây hứng thu cho

HS bằng TLHV là bình thường, có 14,5 % GV cho rằng TLHV chỉ đóng vai

trò bình thường trong việc rèn luyện kỹ năng thực hành, tư duy cho HS, có tới

25,1 % GV cho rằng việc khắc sâu kiến thức và mở rộng kiến thức của TLHV

là hạn chế nên đã đánh giá ở mức độ bình thường, và cũng có 1,7% GV cho

rằng TLHV chỉ đóng vai trò bình thường trong việc tạo biểu tượng lịch sử cho

HS. Ở mức độ thấp hơn là ít hiệu quả có 5% GV cho rằng tư liệu lịch sử thực

sự ít hiệu quả trong việc rèn luyện kỹ năng thực hành và tư duy cho HS, cũng

có 2,5% GV cho rằng tư liệu lịch sử ít hiệu quả trong việc khắc sâu và mở

rộng kiến thức cho HS. Ở mức độ thấp nhất không có % nào GV lựa

chọn.Qua thống kê trên ta thấy, phần đa GV đã phần nào đánh giá đúng tầm

quan trọng của việc sử dụng TLHV và mức độ hiệu quả của nó trong quá

trình hình thành tri thức lịch sử cho HS.

Khi điều tra về những thuận lợi và khó khăn của giáo viên nhận được

sự phản hồi tích cực từ phía thầy (cô):

Về thuận lợi có tới 8 /11 thầy cô cho rằng vật chất trang thiết bị nhà

trường, tài liệu thiết bị, phương tiện dạy học có sẵn là thuận lợi chiếm

72,72%, chỉ có 1/11 GV cho rằng TLHV dễ tìm hiểu chiếm 9,09 % và có

2/11 GV cho rằng thái độ hợp tác học tập của HS là thuận lợi khi sử dụng

TLHV vào dạy học chiếm 18,19%.

26

Tiếp theo là những khó khăn khi sử dụng TLHV vào dạy học có 4 GV

chiếm 36.36% chọn đáp án là khi sử dụng TLHV vào bài học sẽ thì tốn thời

gian để xây dựng vào thực tế bài dạy và tìm hiểu về tư liệu đó, có 18,19%

tương ứng là 2 GV lựa chọn đáp án là nguồn tài liệu về TLHV hạn chế, có 5

giáo viên chiếm 45.45% chọn ý kiến khác và nêu ra ý kiến của mình có hai ý

kiến được GV đề cập đến 1 là do không biết lấy đâu ra nguồn TLHV trừ khi

thực hiện giờ học ngoại khóa, 2 là nguồn TLHV quá khó để khai thác ngay cả

đối với GV chứ không nói HS.

18.19

Tốn thời gian biên soạn và tìm kiếm

Hạn chế nguồn tài liệu về tư liệu hiện vật cho GV

45.45

Ý kiến khác

36.36

Biểu đồ 1.3: Những khó khăn của giáo viên khi sử dụng TLHV vào dạy học.

Từ những khó khăn và thuận lợi được các thầy (cô) đề cập đến thì bên

cạnh đó các giáo viên cũng có một số chia sẻ về đề xuất của bản thân để việc

tạo hứng thú học tập cho HS trong dạy học Lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 -

1954 thực sự hiệu quả. Về phía nhà trường: đa số các thầy (cô) đề nghị hoàn

thiện cơ sở vật chất và nên có các phòng học chức năng của từng môn học để

HS thực sự hiểu bản chất của môn học từ đó yêu thích môn học, về phía giáo

viên thì các thầy (cô) cho rằng giáo viên cần đầu tư hơn nữa trong bài dạy của

mình, cần đổi mới các phương pháp giảng dạy sao cho phù hợp với nhiều đối

tượng HS.

27

 Về phía HS

Kết quả điều tra khảo sát với 209 phiếu thu về hợp lệ đã làm sáng tỏ

một số vấn đề:

Khi được hỏi về mức độ thực hiện sử dụng TLHV vào dạy học lịch sử

của GV thì chỉ có 4,35% trong tổng số 100% HS nói rằng GV rất thường

xuyên sử dụng TLHV vào dạy học lịch sử chiếm 13/209 HS, có tới 42,58%

tương ứng là 89 HS chọn phương án là GV thường xuyên sử dụng tư liệu lịch

sử vào dạy học và có tới 51,19% tương ứng 107 HS nói rằng GV chưa bao

giờ đưa TLHV vào trong giờ học Lịch sử. Như vậy có thể thấy đa số GV sử

dụng TLHV vào dạy học ở một mức độ là chưa bao giờ sử dụng, nhưng cũng

không nhỏ gần một nửa số HS được hỏi cho rằng GV thường xuyên sử dụng

120

100

80

60

40

20

0

thường xuyên

không hiểu bài

rất thường xuyên

TLHV trong giờ dạy học trong học tập.

Biểu đồ 1. 4. Mức độ sử dụng tưu liệu hiện vật vào dạy học của giáo viên

Khi hỏi HS về cách đưa TLHV vào bài giảng thì HS muốn: đưa hình

ảnh hiện vật lên slide để cùng tìm hiểu chiếm 27,75% nghĩa là có tới 58 bạn

chọn phương án này, có 44,97% tướng ứng là 94 HS muốn được xem him về

28

TLHV, có 27,28% HS nói rằng muốn được dùng các website chuyên cung

90

80

70

60

50

40

30

20

10

0

ảnh tư liệu hiện vật

chiếu him về tư liệu hiện vật

website về tư liệu hiện vật

cấp thông tin về cấc TLHV với 57 lượt chọn từ HS.

Biểu đồ 1.5.Mong muốn của HS khi sử dụng TLHV trong hoạt động học.

Thăm dò ý kiến HS về mức độ hứng thú khi GV sử dụng các phương

pháp đổi mới TLHV được kết quả như sau: có 85 HS thấy rất hứng thú chiếm

22,83% khi GV sử dụng các biện pháp đổi mới phương pháp sử dụng TLHV

khi học tập, 97 HS thấy bình thường khi GV sử dụng TLHV vào DHLS

chiếm 50%, có 42 HS cảm thấy không thích khi GVsử dụng nguồn TLHV

vào dạy học chiếm 23,91% và có 3,26% HS nói chưa quen phương pháp dạy

học bằng nguồn TLHV.

29

Bảng 1.2: Tổng hợp ý kiến của HS về mức độ hiệu quả của việc sử dụng tư

liệu hiên vật vào dạy học

Tiêu chí

Rất hiệu quả

Hiệu quả

Bình

Ít hiệu quả

Không hiệu

thƣờng

quả

Gây hứng thú học

42,6

44.1

13,3

0

0

tập cho HS

Rèn các kĩ năng thực

17.4

31.9

37.2

13,5

0

hành, tư duy cho HS

Khắc

sâu

kiến

35,7

57.4

6.9

0

0

thức,mở rộng hiểu

biết cho HS

0

Tạo biểu tượng cho

58.3

35.1

5.9

0.7

HS

Nhìn vào bảng thống kê chúng ta thấy Như vậy, HS đều nhận thức

được rằng việc sử dụng TLHV vào dạy học là rất hiệu quả hoặc hiệu qủa tùy

theo tiêu chí, HS cũng khẳng định rẳng việc đưa tư liệu hiên vật vào dạy học

rất có tác dụng cho việc hình thành biểu tượng lịch sử cho HS. Tỷ lệ phần đa

HS đều cho rằng TLHV rất hiệu quả trong việc tạo biểu tượng lịch sử và gây

hứng thú học tập cho HS. Đa số HS đều thấy tác dụng của việc GV sử dụng

TLHV vào trong dạy học có tới 42,6% HS hứng thú với tiết học được GV đưa

TLHV vào, có 57,4 % HS cho rằng mình khắc sâu và được mở rộng kiến thức

hơn sau khi học những tiết học có sử dụng TLHV. Chỉ có số ít HS cho rằng

việc sử dụng TLHV vào dạy học mang lại tác dụng bình thường đặc biệt với

phần tác dụng rèn luyện kỹ năng thực hành và tư duy có tới 37,2% HS cho

rằng có tác dụng bình thường. Cũng đối với việc rèn luyện kỹ năng thực hành

và tư duy có 13,5% HS cho rằng việc sử dụng TLHV vào dạy học mang lại

tác dụng ít hiệu quả. Đồng với quan điểm ít hiệu quả thì có 0.7% HS cho rằng

TLHV thực sự mang lại ít hiệu quả với việc hình thành biểu tượng lịch

30

sử.Ngoài ra, các HS đều cho rằng sử dụng tư liệu hiên vật trong bài học đều

góp phần nào đó trong việc tạo hứng thú học tậ và khác sâu, mở rông kiến

thức (không có HS chọn đáp án ít hiệu quả và không hiệu quả phần này).Ở

mức độ thấp nhất không có % nào HS lựa chọn. Qua thống kê trên ta thấy,

phần đa HS đã phần nào đánh giá đúng tầm quan trọng của việc sử dụng

TLHV và mức độ hiệu quả của nó trên con đường tiếp cận với tri thức lịch sử.

Thăm dò về một số thuận lợi và khó khăn khi HS sử dụng TLHV vào

bài học đặc biệt là bài học lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954 nhận được

phản hồi của HS như sau:

Đầu tiên là về thuận lợi: có 82 HS cho rằng khi học các tiết học như

vậy sẽ không có tài liệu để tìm hiểu và học tập hơn chiếm 39,23%, có 117 HS

cho rằng khi học các tiết học như vậy sẽ không biết trọng tâm vấn đề bài học

là gì 56%. Và chỉ có 4,77% HS cho rằng học những tiết học như vậy không

hiểu gì cả với số HS chọn là 10 HS, không có HS nêu ra ý kiến cá nhân trong

120

100

80

60

40

20

0

không có tài liệu

không hiểu bài

ý kiến khác

không nắm được nội dung chính

phần này.

Biểu đồ 1.6. Khó khăn của HS khi học các tiết học có sử dụng TLHV

31

Thứ hai về khó khắn của HS khi học những tiết học có sử dụng các

biện pháp tạo hứng thú: chỉ có 9 HS chiếm 9,78% cho rằng không quen với

các phương pháp nên không hiểu bài, 42 HS khác lại cho rằng cơ sở vật chất

nhà trường không đáp ứng được chiếm 45,65%, 30 HS khác trong tổng số 92

em cho rằng khi học các bài học như vậy không xác định được kiến thức

trọng tâm chiếm 32,6% và 11 HS nói lên các khó khăn khác mà chủ yếu là

chưa được học những tiết học như vậy nên chưa biết chiếm 11,9%.

Thăm dò về một số đề xuất của HS về việc sử dụng và đổi mới

phương pháp sử dụng TLHV vào DHLS Việt Nam thời kỳ 1946 - 1954 thực

sự hiệu quả thì phản hổi của HS đa số là không có, một số ít phản hồi về giáo

viên dạy là cần nói ít và cho HS làm nhiều hơn, không nên đọc chép chỉ nên

dạy học nêu vấn đề, đưa ra vấn đề thông qua TLHV để HS tự giải quyết vấn

đề, đề xuất về phía nhà trường thì HS có đề xuất là nên lắp tất cả máy chiếu ở

tất cả các phòng học và tổ chức những cuộc thi tìm hiểu về tư liệu lịch sử đặc

biệt là nguồn TLHV.

1.2.2.3. Kết luận về thực trạng đổi mới phương pháp sử dụng tư liệu

hiên vật vào DHLS Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954 ở trường THPT.

Kết quả khảo sát có thể đi đến kết luận sau:

Cả giáo viên và HS đều nhận thấy vai trò sử dụng và đổi mới phương

pháp sử dụng TLHV vào DHLS Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954. Sau khi tiến

hành khảo sát chúng tôi nhận thấy dù cả GV và HS đang đều có nhận thức hết

sức đúng đắn về việc sử dụng TLHV vào dạy học, tuy nhiên thực tế chứng

minh dù là nhận thức đúng đắn nhưng “vật chất quyết định ý thức”, cả GV và

HS đều lảng tránh những vấn đề khó khăn và chưa thực sự đối mặt với nó. Về

phía GV đã có rất nhiều thầy cô tích cực đưa các biện pháp đổi mới TLHV

vào dạy học như việc khai thác nguồn thông tin từ TLHV, đưa nguồn TLHV

vào để định hướng bài học giúp HS có cái nhìn tổng quan hơn về bài học. Tuy

nhiên, bên cạnh việc đưa nguồn TLHV vào dạy học như vậy còn có nhiều

biện pháp khác cũng đưa được nguồn tư liệu này vào bài học lịch sử.Vậy nên,

32

rất cần có sự áp dụng các biện pháp sử dụng TLHV và trong dạy học một

cách rộng rãi, bên cạnh đó cũng khai thác thêm cách biện pháp mới để đưa

nguồn TLHV vào dạy học một cách hiệu quả nhất có thể.

Qua khảo sát ta thấy HS và GV nhận ra tầm quan trọng của TLHV

trong hoạt động DHLS và cũng thấy tác dụng của nó trong việc giúp HS hình

thành tri thức lịch sử nhưng bên cạnh đó tồn tại quá nhiều khó khăn cho việc

sử dụng cũng như đổi mới TLHV vào DHLS nói chung và DHLS Việt Nam

thời kỳ 1946 – 1954 nói riêng. Nguồn TLHV thì chủ yếu đang nằm tại bảo

tàng, việc thực hiện các chương trình ngoại khóa cho học sinh đến bảo tàng

cũng không phải lúc nào cũng thực hiện được.Khó khăn sẽ mãi còn đấy nếu

chúng ta những người GV vẫn không tìm cách giải quyết chúng.

Theo chúng tôi không chỉ GV mà cả HS cần chủ động hơn nữa với

việc tiếp cận và sử dụng TLHV trong hoạt động dạy và học vì sao vì chúng ta

có thể khắc phục được những khó khăn đó ngay trước mắt bằng công nghệ

bằng sự chịu khó tìm tòi câu chuyện đằng sau hiện vật vô tri vô giác kia. Vấn

đề ở đây sẽ không còn khó khăn nữa nếu chúng ta đứng lên đối mặt với nó.

33

Tiểu kết chƣơng 1

Chương 1 đã tập trung vào một số lí luận và thực tiễn của việc sử dụng

TLHV trong DHLS nói chung và DHLS Việt Nam thời kỳ 1946 -1954 nói

riêng.

Đổi mới phương pháp dạy học nói chung và DHLS nói riêng là yêu cầu

cấp thiết hiện nay của ngành giáo dục. Đổi mới phương pháp dạy học bằng

cách sử dụng TLHV trong dạy học là một trong những định hướng quan trọng

của đổi mới phương pháp DHLS nhằm nâng cao hiệu quả bài học lịch sử.

Tìm hiểu thực trạng DHLS ở trường THPT, thực trạng sử dụng TLHV

trong môn Lịch sử, những khó khăn, trở ngại cũng như những thuận lợi trong

quá trình sử dụng TLHV là một trong những cơ sở quan trọng để thực hiện đề

tài.

Trên đây là cơ sở lý luận và thực tiễn để chúng tối đi đến những biên

pháp đổi mới cách sử dụng TLHV vào DHLS Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954

ở trường THPT.

34

CHƢƠNG 2:

MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỔI MỚI SỬ DỤNG TLHV VÀO DẠY HỌC

LỊCH SỬ VIỆT NAM THỜI KỲ 1946 – 1954 Ở TRƢỜNG THPT.

THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM.

2.1. Vị trí, mục tiêu, nội dung cơ bản của phần lịch sử Việt Nam thời kỳ

1946 – 1954

2.1.1. Vị trí

Lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 - 1954 thuộc chương III “Việt Nam từ

năm 1945 đến năm 1954” nằm trong sách giáo khoa Lịch sử 12, nhà xuất bản

Giáo dục. Đây là giai đoạn có vị trí quan trọng trong toàn bộ tiến trình lịch sử

Việt Nam, nó tiếp nối cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi sau

Cách mạng tháng Tám năm 1945 là giai đoạn tiếp theo của cuộc kháng chiến

chống Pháp lần 2 (1946-1954). Từ năm 1945 sau cách mạng tháng Tám thành

công chưa được bao lâu sau khi đuổi thực dân ra khỏi đất nước thì chúng là ồ

ạt kéo vào nước ta và xâm lược nước ta lần thứ hai. Từ ngày 19/12/1946 sau

khi hát động lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến thì cả nước mà đặc biệt là

nhân dân miền Bắc bắt tay vào cuộc chiến lần thứ hai với thực dân Pháp.

Cuộc kháng chiến của nhân dân ta đi từ bước phát triển này sang bước phát

triển khác đi từ thắng lợi này đến thắng lợi kia, đi từ việc bảo vệ căn cứ địa

Việt Bắc đến phản công giàng thắng lợi, giành thế chủ động trên chiến trường

và đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954.

Khi đi phân tích nội dung từng bài trong chương III này chúng ta sẽ

thấy rõ vị trí, ý nghĩa của thời kỳ 1946 – 1954 này. Từ đó, giúp HS nhận thức

được cuộc đấu tranh gian khổ nhưng oanh liệt của quân và dân ta để làm nên

chiến thắng lịch sử rặng rỡ năm châu, chấn động địa cầu.Phát huy truyền

thống của dân tộc làm nên những chiến thắng vang danh non sông. Học Lịch

sử Việt Nam giai đoạn này sẽ thấy được bức tranh toàn cảnh tội ác kẻ thù và

cũng thấy những chiến công của quân dân ta cùng với ý nghĩa lớn lao của

cuộc kháng chiến toàn dân tộc. HS sẽ thấy được rõ vai trò lãnh đạo của Đảng,

35

của Bác Hồ. Củng cố cho HS khái niệm: cách mạng dân tộc dân chủ nhân

dân; chiến tranh nhân dân; bạo lực cách mạng… Từ đó giáo dục tư tưởng,

tình cảm, thái độ và phẩm chất đạo đức, niềm tin vào Đảng vào nhà nước cho

HS.

2.1.2. Mục tiêu

Đối với chương trình Lịch sử thời kỳ 1946 -1954 ở sách giáo khoa Lịch

sử 12 – Chương trình chuẩn, mục tiêu đặt ra cho học sinh sau khi hoàn thành

chương trình thời kỳ này là:

2.1.2.1. Kiến thức

Giai đoạn Lịch sử Việt Nam 1945 - 1954 trong sách giáo khoa lớp 12

(chương trình chuẩn) được chia thành 4 bài, từ bài 17 đến bài 20. Dạy học

lịch sử Việt Nam giai đoạn này HS sẽ trình bày được cơ bản những âm mưu,

tội ác của đế quốc thực dân Pháp, tay sai và cả sự can thiệp của đế quốc Mĩ

trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam lần thứ 2, Pháp mở rộng các cuộc

tấn công lên căn cứ địa Việt Bắc – trung tâm đầu não của chính phủ ta vào

năm 1947 nhưng không thành công, ta thực hiện chủ trương kháng chiến:

Kháng chiến toàn dân: Là toàn dân kháng chiến, toàn dân đánh giặc

không phân biệt già trẻ, trai gái, mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xã là

một pháo đài. Sở dĩ như vậy là vì:Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, vì

lợi ích toàn dân nên phải do toàn dân tiến hành

Kháng chiến toàn diện: Là kháng chiến trên tất cả các mặt: Quân sự,

chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao…..Vì thực tiển giặc Pháp không những

đánh ta về quân sự mà con phá ta cả về kinh tế, chính trị, văn hóa…Cho nên

ta không những kháng chiến chống Pháp trên mặt trận quân sự mà phải kháng

chiến toàn diện trên tất cả các mặt. Đồng thời kháng chiến toàn diện còn để

phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân.

Kháng chiến trường kỳ (nghĩa là đánh lâu dài): Đây là một chủ trương

vô cùng sáng suốt của Đảng ta, vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác-

36

Lê-nin vào hoàn cảnh nước ta.Ta yếu địch mạnh nên phải đánh lâu dài để

chuyển hóa lực lượng.

Tự lực cánh sinh: Chủ yếu là dựa vào sức mình là chính (sức mạnh của

nhân dân) không trông chờ ỷ lại vào bên ngoài, đồng thời phải tranh thủ sự

viện trợ của quốc tế. Muốn đánh lâu dài thì phải dựa vào sức mình là chính.

Ý nghĩa và tác dụng của đường lối kháng chiến chống Pháp.Toàn bộ

đường lối kháng chiến thấm nhuần tư tưởng chiến tranh nhân dân sâu sắc.Nó

chứng tỏ cuộc kháng chiến của ta là chính nghĩa, nên được nhân dân ủng

hộ.Đường lối kháng chiến có tác dụng dộng viên, dẫn dắt nhân dân ta tiến

hành cuộc kháng chiến dưới sự lãnh đạo của đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh,

dù phải trải qua nhiều hy sinh gian khổ nhưng nhất định sẽ giành thắng lợi.

Đảng và Bác Hồ đã chủ động mở cuộc tấn công lên biên giới vào năm

1950 sau khi Pháp thực hiện xây dựng hành lang Đông – Tây và tăng cường

hệ thống phòng ngự trên đường số 4, chuẩn bị tất công lên Việt Bắc để tìm

kiếm một chiến thắng. Bằng lòng dũng cảm và mưu trí của quân dân ta chiến

dịch biên giới 1950 ta chủ động tiến công đã giành chiến thắng hành lang

Đông – Tây do Pháp thiết lập bị ta chọc thủng, tuyến phòng ngự trên đường

số 4 đổ vỡ ta giàng thế chủ động trên chiến trường từ sau chiến dịch biên giới

1950. Sau khi thất bại ở biên giới 1950 Pháp chọn Biên Biên Phủ làm nơi xây

dựng pháo đài mạnh nhất Đông Dương với sự giúp đỡ và viện trợ của Mĩ. Sau

quá trình chuẩn bị cả về phía ta và địch thì quân ta đã quyết định mở cuộc tiến

công chiến lược Đông – Xuân 1953 – 1954 với đỉnh cao là chiến thắng lịch sử

Biên Biên Phủ (7/5/1954), buộc Pháp phải ngồi vào bàn đàm phán với ta và

ký hiệp định Giơnevơ vào ngày 21/7/1954 buộc Pháp phải rút quân về nước,

lập lại hòa bình ở miền Bắc và cả nước sẽ đi đến tổng tuyển cử vào tháng

7/1956.

Thông qua Lịch sử giai đoạn HS cũng đánh giá được ý nghĩa dân tộc và

thời đại của các chiến dịch Việt Bắc Thu – Đông 1947, chiến dịch biên giới

1950 và chiến dịch Biện Biên Phủ năm 1954 từng bước ta đã hoàn thành cuộc

37

kháng chiến lần 2 chống thực dân Pháp. Từ đó HS cũng đánh giá được vai trò

lãnh đạo của Đảng, nhận thức đúng đắn về cuộc chiến tranh giải phóng dân

tộc, bảo vệ tổ quốc của nhân dân ta.

2.1.2.2. Kỹ năng

Phần Lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 - 1954 rất phong phú về tư liệu

hình ảnh, phim… nếu giáo viên kết hợp đa dạng các phương pháp, phương

tiện dạy học thì sẽ tác động rất lớn tới quá trình phát triển toàn diện của HS.

Thông qua những hình ảnh, phim tư liệu cũng như phương pháp của giáo viên

một phần hiện thực lịch sử sẽ được dựng lại trong trí óc của HS, nó giúp HS

tưởng tượng tốt hơn, phát triển các kỹ năng hình thành khái niệm, biểu tượng

rồi từ đó rút ra quy luật và bài học lịch sử. Ngoài ra HS có thể hình thành

được kỹ năng tư duy độc lập bằng các bài tập phân tích, so sánh, khái quát,

giải thích, đánh giá nhân vật hay sự kiện lịch sử…hình thành kỹ năng thực

hành như vẽ biểu đồ, lược đồ.

Khi sử dụng nguồn TLHV vào dạy học thời kỳ này HS sẽ dần hình

thành kỹ năng khái quát và tổng hợp sự kiện lịch sử bên cạnh đó là kỹ năng so

sánh, đánh giá sự kiện lịch sử, liên hệ giữa các sự kiện lịch sử và giữa điều

được học với thực tế cuộc sống, từ đó rút ra các nhận xét, kết luận, quan điểm

cá nhân.

Rèn luyện tư duy độc lập, sáng tạo, chủ động trong suy nghĩ và có thể

vận dụng các kiến thức, kĩ năng vào thực tế cuộc sống.

Trau dồi các kĩ năng hợp tác làm việc nhóm, kĩ năng thuyết trình, kĩ

năng trình bày một vấn đề lịch sử. Bên cạnh đó khả năng tự học của HS cũng

được nâng cao cùng với quá trình tìm hiểu nguồn TLHV tại nhà.

2.1.2.3. Thái độ

Bản hùng ca bất diệt, kết tinh của truyền thống yêu nước và sức mạnh

dân tộc đó chính là Lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954.

Tội ác xâm lược của thực dân với những chính sách khủng bố, đàn áp

dã man, thảm sát dân thường…gây bao đau thương mất mát cho dân tộc ta

38

đặc biệt là nhân dân miền Nam. Từ đó giáo dục cho HS về tư tưởng, đạo đức,

phê phán chiến tranh, ý thức bảo vệ hòa bình độc lập của dân tộc mình cũng

như tất cả các quốc gia trên thế giới.

Cũng trong giai đoạn Lịch sử này có biết bao tấm gương anh hùng đã

huy sinh quên mình về Tổ quốc những người mẹ, người anh, người chiến sĩ

hiên ngang đứng trước cái chết không hề run sợ… cũng sẽ khơi dậy trong trái

tim HS lòng biêt sơn vô hạn, sự kính phục và noi gương những người anh

hùng đã ngã xuống cho hòa bình của dân tộc. Từ đó HS ý thức trách nhiệm

của bản thaan trong cuộc sống và học tập như thế nào đề xứng đáng với thế hệ

cha anh đi trước.

Không chỉ vậy dạy học Lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954 còn giáo

dục cho HS lòng biêt sơn đối với Đảng, Bác Hồ... HS có quyền tự hào về

truyền thống anh hùng của dân tộc, thấy được trách nhiệm của bản thân đối

với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc hôm nay. Đặc biệt là tình hình biển

đảo Việt Nam hiện nay, những hành động ngang ngược trái với luật biển quốc

tế của Trung Quốc trên vùng thềm lục địa của Việt Nam.

2.1.3. Nội dung

Chương III “Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954” trong sách giáo

khoa Lịch sử 12 đã nêu lên nội dung căn bản của Lịch sử Việt Nam thời kỳ

1946 - 1954 với việc cách mạng Việt Nam trọng tâm nhiệm vụ kháng chiến

chống thực dân Pháp lần 2 với tinh thần “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định

không chịu mấy nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, đêm 19/12/1946, theo

lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng, cả nước đứng lên

kháng chiến. Cuộc kháng chiến toàn quốc bắt đầu. Đường lối kháng chiến của

Đảng ta xác định ngay từ đầu cuộc chiến tranh là: Toàn dân, toàn diện, lâu

dài, dựa vào sức mình là chính.

Từ ngày 19/12/1946 đến chiến thắng Việt Bắc Thu Đông 1947, quân

dân ta đã chặn đánh tiêu hao lực lượng địch, bảo toàn lực lượng rút khỏi thành

phố, phát triển lực lượng, phản công diệt địch trong Chiến dịch Việt Bắc. Sau

39

khi mở rộng được địa bàn chiếm đóng trên cả nước, Thu Đông năm 1947,

Pháp tập trung trên 2 vạn quân mở cuộc tiến công lớn hiệp đồng quân binh

chủng từ nhiều hướng bao vây căn cứ Việt Bắc, tìm diệt quân chủ lực và đầu

não kháng chiến của ta. Ngày 7/10/1947, địch bắt đầu tiến công. Quân địch

theo đường bộ số 3, số 4 và đường thuỷ sông Lô, sông Gấm hình thành thế

bao vây Việt Bắc. Đồng thời, địch cho quân nhảy dù xuống thị xã Bắc Kạn,

chợ Mới, chợ Đồn định diệt các cơ quan đầu não kháng chiến.

Trung ương Đảng và Bộ Tổng chỉ huy ta đã phán đoán âm mưu của

địch nhưng việc nhảy dù xuống địa điểm cụ thể thì chưa lường hết nên lúc

đầu có lúng túng. Sau khi nắm được kế hoạch của địch, ta đã điều chỉnh kế

hoạch tác chiến. Lực lượng ta dùng trong chiến dịch là 10 trung đoàn và 7 tiểu

đoàn bộ binh cùng dân quân du kích tại chổ. Các chiến trường toàn quốc cũng

đẩy mạnh tiến công phối hợp. Trên hướng tiến công đường số 3, số 4 của

địch, quân ta đánh phục kích, tập kích liên tục nhiều trận tiêu hao lực lượng

địch. Bị thiệt hại nặng, địch phải quay lại. Mục tiêu chiến dịch không đạt

được, lại bị thiệt hại nặng và có nguy cơ bị bao vây tiêu diệt nên địch phải rút

lui. Ngày 22/11, quân Pháp bắt đầu rút khỏi Việt Bắc. Dọc đường bị quân ta

phục kích một số trận. Ngày 22/12/1947, chiến dịch kết thúc. Chiến dịch Việt

Bắc kết thúc giành thắng lợi có ý nghĩa chiến lược, đánh bại cuộc tiến công

quy mô lớn của địch, làm phá sản chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của

chúng, bảo vệ cơ quan lãnh đạo, chuyển kháng chiến sang giai đoạn mới.

Sau Chiến dịch Việt Bắc, thực dân Pháp phải chuyển hướng chiến lược

chiến tranh. Từ chiến lược “Đánh nhanh thắng nhanh” phải chuyển sang đánh

lâu dài, thực hiện chính sách “Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người

Việt đánh người Việt”. Từ mở rộng vùng chiếm đóng chuyển sang củng cố

vùng chiếm đóng, từ những cuộc hành quân lớn nhằm tiêu diệt quân chủ lực

của ta chuyển sang nhiều cuộc hành quân nhỏ đánh vào cơ sở kinh tế, chính

trị và diệt từng bộ phận lực lượng vũ trang ta. Chúng ra sức củng cố nguỵ

quyền, phát triển nguỵ quân, tranh thủ viện trợ Mĩ.

40

Về phía ta, sau chiến thắng Việt Bắc, lực lượng vũ trang ta trưởng

thành một bước quan trọng. Chiến tranh du kích phát triển mạnh ở vùng sau

lưng địch cả ở Bắc-Trung Bộ và Nam Bộ; đồng thời, ta chủ trương “Phải từng

bước đẩy vận động chiến tiến tới”. Tháng 6/1950, Thường vụ Trung ương

Đảng quyết định mở Chiến dịch Biên Giới nhằm: tiêu diệt một bộ phận quan

trọng sinh lực địch, khai thông biên giới Việt - Trung, gắn liền với phe xã hội

chủ nghĩa, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc. Ngày 16/9, quân ta nổ

súng đánh Đông Khê (Lạng Sơn) mở màn chiến dịch, sau đó đón đánh diệt 2

binh đoàn quân Pháp đến tăng cường cho Thất Khê sợ bị tiêu diệt, quân Pháp

phải rút chạy khỏi các cứ điểm từ Thất Khê đến Lạng Sơn, quân ta truy kích

diệt thêm một số quân Pháp. Ngày 14/10/1950, ta kết thúc chiến dịch.

Chiến dịch Biên giới làm thay đổi cục diện chiến tranh, giành quyền

chủ động chiến lược trên chiến trường.

Từ năm 1951 đến chiến dịch Điện Biên Phủ, giữ vững quyền chủ động

chiến lược đẩy mạnh tiến công và phản công, giành thắng lợi quyết định, kết

thúc chiến tranh. Sau thất bại ở chiến trường biến giới, thực dân Pháp còn cố

giành lại quyền chủ động chiến lược bằng cách tăng quân, thay tướng, xin

thêm viện trợ Mỹ. Chúng cho xây dựng hệ thống cứ điểm vững chắc, tập

trung giữ chiến trường chính là Bắc Bộ, đồng thời tăng cường càng quét “bình

định” Trung Bộ và Nam Bộ, kết hợp với đánh phá, bao vây kinh tế, chiến

tranh tâm lý với vùng căn cứ kháng chiến.

Về phía ta, chủ trương chung là tiếp tục giữ khí thế chủ động tiến công

liên tục tiêu diệt sinh lực địch, tiến tới giải phóng đồng bằng Bắc Bộ. Hoạt

động quân sự của ta gây cho địch nhiều thiệt hại lớn, Kế hoạch Đờ Lát đờ

Tátxinhi phá sản, và bị triệu hồi. Tháng 5/1953, tướng NaVa được cử sang

làm Tổng chỉ huy quân đội Pháp. NaVa đề ra kế hoạch mới định giành thắng

lợi quân sự có ý nghĩa chiến lược trong vòng 18 tháng làm cơ sở cho một giải

pháp chính trị mở lối thoát danh dự cho Pháp.

41

Nắm chắc âm mưu của địch, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí

Minh quyết định mở cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954 gồm

nhiều chiến dịch trên một số hướng chiến lược, đẩy mạnh chiến tranh du kích,

sẵn sàng tiêu diệt địch khi chúng đánh vào vùng tự do, nhằm đánh bại cố gắng

cao nhất của Pháp-Mỹ.

Và cuối cùng cả ta và Pháp đều chọn Điện Biên Phủ làm nơi quyết

chiến. Tháng 12/1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định mở Chiến

dịch Điện Biên Phủ. Đại tướngVõ Nguyên Giáp được cử làm người chỉ huy

chiến dịch. Kế hoạch lúc đầu ta chủ trương tiến công ào ạt, đánh nhanh, thắng

nhanh nhưng sau khi nắm cụ thể tình hình địch, ta thấy không bảo đảm chắc

thắng nên chuyển sang phương châm “đánh chắc, tiến chắc”. Chiều ngày

13/3/1954, Chiến dịch Điện Biên Phủ mở màn. Sau 3 đợt tiến công, 56 ngày

đêm chiến đấu anh dũng, quyết liệt, mưu trí, sáng tạo, cuối ngày 7/5, quân ta

giải phóng hoàn toàn Điện Biên Phủ. Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng.

Chiến dịch Điện Biên Phủ là một trận quyết chiến chiến lược góp phần

quyết định làm phá sản kế hoạch NaVa và làm sụp đổ ý chí xâm lược của

thực dân Pháp dẫn tới thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp.

Với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ của ta đã buộc Pháp phải thừa

nhận độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổcủa ViệtNam. Chấm

dứt ách thống trị của Pháp gần một thế kỷ: Buộc Pháp phải rút quân về nước.

Mở ra một kỹ nguyên mới trong lịch sử dân tộc: Độc lập tự do và đi lên

chủ nghĩa xã hội. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, thành quả cách mạng

tháng tám được bảo vệ, tạo điều kiện để miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội.

Đối với thế giới.Giáng một đòn mạnh mẽ vào chủ nghĩa thực dân kiểu

cũ, vào tham vọng xâm lược và nô dịch của chủ nghĩa đế quốc, góp phần làm

tan rã hệ thống thuộc địa của chúng.Cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng

dân tộc trên thế giới.Đập tan âm mưu của đế quốc Mỹ muốn thay chân Pháp

độc chiếm Đông Dương để ngăn chặn phong trào giải phóng dân tộc và ảnh

hưởng của chủ nghĩa xã hội ở vùng Đông Nam Á.Chứng minh một chân lý

42

của thời đại: “Trong điều kiện thế giới ngày nay một dân tộc dù đất không

rộng, người không đông, nếu quyết tâm chiến đấu vì độc lập tự do, có đường

lối quân sự chính trị đúng đắn, được quốc tế ủng hộ thì hoàn toàn có khả năng

đánh bại mọi thế lực đế quốc hung bạo.

2.2. Các TLHV cần và có thể khai thác, sử dụng trong dạy học lịch sử

Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954

Như đã đề cập ở phần một số khái niệm, chúng tôi sẽ khai thác và sửu

dụng TLHV này ở dạng vật thật là hình ảnh của TLHV.

Lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954 là thời kỳ rất nhiều các tư liệu

lịch sử đặc biệt là thư liệu hiện vật. Như đã trình bày ở phần phạm vi nghiên

cứu nên chúng tôi đi tìm hiểu cơ bản những tư liệu hiên vật tại hai bảo tàng

Lịch sử Cách mạng Việt Nam và Lịch sự Quân sự Việt Nam chính vì vậy

nguồn TLHV sẽ không được đầy đủ. Sau đây, chúng tôi xin thống kê một số

TLHV cần và có thể sử dụng trong DHLS Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954:

Bài 18: Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc (1945 - 1950)

ta có thể sử dụng và khai thác các tư liệu hiện vật sau:

Một là: Lá cờ "Quyết tử quân”. Đó là một vật chứng về những chiến

công vang dội của Đội Quyết tử quân trong những ngày đầu Toàn quốc kháng

chiến.

43

Hình 2.1. Lá cờ “Quyết tử quân”

(nguồn:http://www.btlsqsvn.org.vn)

Nội dung phản ánh: Lá cờ đỏ sao vàng được khâu tay, hình đuôi nheo,

kích thước 27cm x 39cm nổi bật trên nền vải nỉ đỏ là dòng chữ rắn rỏi thêu

bằng chỉ trắng “Quyết tử quân”. Lá cờ do Ban chỉ huy Liên khu 1 tặng Đội

Quyết tử quân sau chiến công vẻ vang đốt cháy 2 máy bay của quân Pháp tại

sân bay Gia Lâm đêm 16 tháng 1 năm 1947.

Đội Quyết tử quân được thành lập tháng 12 năm 1946 do đồng chí Lê

Giới, đồng chí Nguyễn Giang và đồng chí Ninh chỉ huy, đóng quân ở ven

đường số 5 trong các làng Quán Tần, Lai Rạt, làng Vàng, làng Cam gần sân

bay Gia Lâm. Đội Quyết tử quân được giao nhiệm vụ bí mật đột kích sân bay,

phá hủy máy bay, đốt cháy kho xăng dầu của địch.

Để thực hiện nhiệm vụ phá hoại các cơ sở kho tàng, sân bay của địch

ngay từ thời kỳ chuẩn bị kháng chiến, Phòng Tình báo thuộc Bộ Tổng Tham

44

mưu đã tổ chức cài cắm thêm người tiếp cận với địch, củng cố hộp thư mật,

chuẩn bị cơ sở mật, tổ chức liên lạc bảo đảm tin tức thu được nhanh chóng và

chuyển đi an toàn. Một trong những mục tiêu chiến đấu của ta là sân bay Gia

Lâm, nơi địch bố phòng rất cẩn mật, có số lượng lớn máy bay ở đây. Đồng chí

Nguyên Hồng, một tình báo viên của Hà Nội, đã lọt được vào làm lao công

trong sân bay Gia Lâm. Với bản sơ đồ sân bay do anh vẽ và bổ sung hàng

ngày, thông thuộc đường ra, lối vào, chính anh dẫn Đội Quyết tử quân vào

đánh sân bay Gia Lâm ngay đêm đầu Toàn quốc kháng chiến ngày

19/12/1946 nhưng không thành vì công tác chuẩn bị chưa tốt. Khi chiến sự

xảy ra ở Hà Nội, địch ở Gia Lâm tăng cường tuần tiễu, yếu tố bất ngờ không

còn, ta phải rút lực lượng ra.

Các đồng chí trong Đội không nản lòng, kiên trì chờ đợi, chuẩn bị

nhiều phương án chiến đấu. Lợi dụng đêm tối ngày 16/1/1947, tức 26 tháng

Chạp, giáp Tết Nguyên đán Đinh Hợi, đồng chí Nguyên Hồng đã dẫn đường

cho đội tập kích sân bay Gia Lâm, đốt cháy 2 máy bay của địch. Sau trận

chiến đấu này, Đội Quyết tử quân vô cùng phấn khởi được Ban chỉ huy Liên

khu 1 Hà Nội khen ngợi và tặng cho đội lá cờ “Quyết tử quân”. Đặc biệt Chủ

tịch Hồ Chí Minh đã tặng đội thiệp Chúc mừng năm mới nhân dịp Tết để biểu

thị lòng dũng cảm của các chiến sĩ.

Hai là:Ngày 15/10/1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị

“Phải phá tan cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp”. Tinh thần chỉ thị là

quyết chiến quyết thắng. Chỉ thị trở thành mệnh lệnh hành động và ý chí

quyết tâm chiến đấu của quân và dân ta trên khắp chiến trường Việt Bắc.

45

Hình 2.2. Bản chỉ thị “Phải phá tan cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp”

trưng bày trong phần Chiến dịch Việt Bắc Thu – Đông 1947

(nguồn:http://www.btlsqsvn.org.vn)

Nội dung tư liệu phản ánh: Ngày 15/10/1947, Ban Thường vụ Trung

ương Đảng ra chỉ thị “Phải phá tan cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp”.

Tinh thần chỉ thị là quyết chiến quyết thắng. Chỉ thị trở thành mệnh lệnh hành

động và ý chí quyết tâm chiến đấu của quân và dân ta trên khắp chiến trường

Việt Bắc. Ngày 19/12/1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Quân và

46

dân ta đồng loạt đánh vào các vị trí quân Pháp chiếm đóng, ghìm giữ quân

địch ở Hà Nội và các thành phố, thị xã trên địa bàn cả nước.

Sau hai tháng chiến đấu giằng co quyết liệt với địch, do lực lượng quá

chênh lệnh, để bảo toàn lực lượng kháng chiến lâu dài, đầu năm 1947, Trung

ương Đảng, Chính phủ, Bộ Chỉ huy rời Thủ đô Hà Nội, lên chiến khu Việt

Bắc. Nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến của ta và lực lượng chủ lực

sớm kết thúc chiến tranh, thực dân Pháp quyết định mở cuộc tấn công lớn lên

Việt Bắc.

Sau khi thực dân Pháp cho quân nhảy dù xuống thị xã Bắc Cạn (7/10),

ngày 15/10/1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Phải phá tan

cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp”. Bản chỉ thị của Ban Thường vụ

Trung ương Đảng đã vạch ra cụ thể các vấn đề chuẩn bị cho cuộc phản công

làm thất bại âm mưu của thực dân Pháp.

Chỉ thị xác định: “…Phải đánh thế nào để phá kế hoạch mùa đông của

địch, làm cho địch thua thiệt nặng nề đến nỗi không thể gượng lại được sau

chiến dịch mùa đông này. Phát triển chiến tranh du kích mạnh hơn, vũ trang

nhân dân nhiều hơn, để đối phó với chiến sự ngày một lan rộng và quyết liệt”.

Để từng bước kẻ gãy gọng kìm tấn công lên Việt Bắc của thực dân

Pháp, bản chỉ thị cũng chỉ ra phương pháp đánh địch “tích cực, linh động và

phổ biến”. Phát động phong trào dân quân du kích rộng khắp, vừa phải tập

trung quân chính quy ở những khu vực cơ động để chặn địch. Bản chỉ thị đã

phân tích một cách cụ thể điểm mạnh của ta, điểm yếu của địch để phát huy

thế mạnh của chiến tranh du kích, chiến tranh nhân dân: “Địch đánh ta ở trên,

ta đánh địch ở dưới. Địch đánh ta ở Bắc, ta đánh chúng ở Trung, Nam và

Miên, Lào. Địch xâm phạm căn cứ địa của ta, ta đánh mạnh ngay trong bụng

chúng. Địch đi lại, ta chặt chân, phá đường của chúng. Bộ đội và dân quân du

kích phối hợp, tùy hoàn cảnh, tùy điều kiện mà tiêu hao và tiêu diệt địch. Ta

phải nhè chỗ yếu của địch mà đánh. Địch yếu ở chỗ nào, chúng vận động trên

đường, đằng trước và hai bên sườn hở. Ở chỗ chúng vừa nhảy dù hay đổ bộ

47

chưa kịp đào hào, đắp lũy… Địch còn yếu ở chỗ nhảy xuống và vận động

vùng rừng núi. Ta phải lợi dụng địa hình mà phục kích địch, dụ địch vào sâu

mà tiêu diệt chúng. Đốt phá kho tàng, xí nghiệp của địch triệt những tên việt

gian”.

Bản chỉ thị lịch sử này đã trở thành mệnh lệnh hành động, là ngọn cờ

hiệu triệu toàn quân, toàn dân ta chiến đấu trên khắp chiến trường Việt Bắc, là

cơ sở cho chiến thắng của chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947, làm thay đổi

cục diện cuộc kháng chiến: Ta từ phòng ngự chuyển dần sang thế phản công,

làm thất bại hoàn toàn chiến lược “Đánh nhanh thắng nhanh”, buộc Pháp phải

chuyển sang đánh lâu dài với ta tạo điều kiện đến thắng lợi cuối cùng.

Ba là: Trong tình hính thế trận chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh

giặc với lực lượng vũ trang làm nòng cốt của ta đã phá tan cuộc tiến công thu

đông năm 1947 của giặc Pháp. Đêm 19/12/1947, quân Pháp phải tháo chạy

khỏi chiến trường Việt Bắc. Nêu gương tinh thần chiến đấu quả cảm, linh

hoạt nhạy bén của cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn Sông Lô trong những năm đầu

mới thành lập, ngày 15/1/1948, Bác Hồ đã gửi thư động viên, khích lệ.

48

Hình 2.3. Bức thư Bác Hồ gửi “Trung đoàn Sông Lô” trưng bày trong phần

Chiến dịch Việt Bắc Thu – Đông 1947

(nguồn:http://www.btlsqsvn.org.vn)

Nội dung tư liệu phản ánh như sau: Thế trận chiến tranh nhân dân, toàn

dân đánh giặc với lực lượng vũ trang làm nòng cốt của ta đã phá tan cuộc tiến

công thu đông năm 1947 của giặc Pháp. Đêm 19/12/1947, quân Pháp phải

tháo chạy khỏi chiến trường Việt Bắc.

Nêu gương tinh thần chiến đấu quả cảm, linh hoạt nhạy bén của cán bộ,

chiến sĩ Trung đoàn Sông Lô trong những năm đầu mới thành lập, ngày

15/1/1948, Bác Hồ đã gửi thư động viên, khích lệ. Mở đầu bức thư Người

khen ngợi tinh thần chiến đấu và biểu dương những thành tích mà cán bộ,

chiến sĩ Trung đoàn đã lập được trong trận phục kích địch trên Sông Lô: “Tôi

rất vui lòng trong cuộc tấn công địch vừa rồi, các chú đánh khá, đã diệt được

khá địch, cướp được khá khí giới. Đánh đúng chiến thuật du kích”. Cùng với

49

khen ngợi đơn vị, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ Trung

đoàn cần phát huy truyền thống để lập được nhiều chiến công hơn nữa, tuyệt

đối không được chủ quan, khinh địch. Người căn dặn: “Tôi thay mặt chính

phủ khen ngợi các chú. Nhưng chớ vì thế mà khinh địch, chủ quan kiêu ngạo.

Trái lại, cần phải luôn cố gắng, để lần sau lập được nhiều chiến công to hơn

nữa”.

Bằng văn phong ngắn gọn, xúc tích, mạch lạc, bức thư gửi gắm niềm

tin, truyền lửa ý chí, quyết tâm cho toàn thể cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn Sông

Lô song cũng chứa đựng tình cảm yêu mến, sự quan tâm, gần gũi của lãnh tụ

với cán bộ và chiến sĩ Trung đoàn. Cuối thư Người viết: “Tiếc rằng là đã

không có quà gì gửi cho tất cả mọi anh em chiến sĩ, vậy gửi cho tất cả mọi

người tấm lòng yêu mến. Khuyên các chú sao cho trở nên một bộ đội kiểu

mới. Chào thân ái và quyết thắng”

Bốn là: Khẩu súng badôka (bazooka) do quân giới Việt Nam sản xuất

năm 1947 là một trong những hiện vật tiêu biểu của lịch sử Việt Nam thời kỳ

kháng chiến chống Pháp lần 2, khẩu badôka phản ánh sức sáng tạo, nỗ lực

nghiên cứu của cán bộ, công nhân ngành Quân giới Việt Nam trong giai đoạn

mới thành lập.

50

Hình 2.4. Khẩu badôka do cán bộ, công nhân ngành Quân giới Việt Nam sản

xuất năm 1947

(nguồn:http://www.btlsqsvn.org.vn)

Câu chuyện về tư liệu này: Badôka xuất hiện lần đầu tiên trên thế giới

trong Chiến tranh thế giới lần thứ II, năm 1943, đã trở thành vũ khí đáng sợ

đối với nhiều đơn vị quân đội. Tuy nhiên việc một đất nước vừa thoát khỏi

cảnh thuộc địa và nửa phong kiến như nước ta đã chế tạo thành công loại vũ

khí hiện đại này, thật như huyền thoại và là điều không ngờ của thực dân

Pháp.

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, vũ khí cho lực lượng vũ trang

còn rất thiếu, chỉ có một số đơn vị được trang bị bằng vũ khí thu được của

Bảo an binh và quân Nhật - Pháp. Hai tuần sau ngày nước Việt Nam Dân chủ

cộng hoà ra đời, ngày 15/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh thành

51

lập Phòng Quân giới thuộc Bộ Quốc phòng với nhiệm vụ tìm kiếm, mua đổi

vũ khí, đạn dược, tổ chức cơ sở sản xuất vũ khí cho quân đội.

Năm 1946, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Võ Nguyên Giáp giao nhiệm vụ

cho Chế tạo quân giới Cục, trực tiếp là Xưởng Quân giới Giang Tiên (Thái

Nguyên) nghiên cứu sản xuất súng, đạn chống xe tăng và xe cơ giới. Bộ chỉ

huy Chiến khu 1 giao cho xưởng một khẩu súng badôka 60mm của Mỹ và 2

viên đạn để nghiên cứu và chế tạo. Ngày 20/10/1946, sau khi Hội nghị Phông-

ten-nơ-blô (Fontainebleau) kết thúc, cùng trở về với Chủ tịch Hồ Chí Minh có

nhiều trí thức là người Việt đang làm việc tại Pháp, đặc biệt là kỹ sư Phạm

Quang Lễ, người đã tự học và tích lũy nhiều kinh nghiệm quý báu về sản xuất

vũ khí. Ngày 5/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp bổ nhiệm đồng chí

Phạm Quang Lễ làm Cục trưởng Cục Quân giới và đổi tên là Trần Đại Nghĩa.

Người giải thích: “Một là họ Trần, là họ của danh tướng Trần Hưng Đạo. Hai

là, Đại Nghĩa là nghĩa lớn để chú nhớ đến nhiệm vụ của mình với nhân dân,

với đất nước”.Từ đó cái tên Trần Đại Nghĩa đã gắn với ông trọn đời.

Sau đó, Trần Đại Nghĩa được cử lên xưởng quân giới Giang Tiên, cùng

cán bộ, công nhân nghiên cứu về kỹ thuật chế tạo súng, đạn badôka. Đến

tháng 11/1946, sau một thời gian khẩn trương nghiên cứu, thiết kế, đã chế tạo

được khẩu súng badôka đầu tiên. Tuy nhiên, việc chế tạo đạn chưa thành

công. Đồng chí Trần Đại Nghĩa đã chỉ đạo một nhóm cán bộ kỹ thuật tiếp tục

nghiên cứu.

Ngày 19/12/1946, Toàn quốc kháng chiến bùng nổ, việc nghiên cứu,

chế tạo súng, đạn badôka càng được tiến hành khẩn trương hơn. Tại Ứng Hoà

(Hà Nội), đồng chí Trần Đại Nghĩa trực tiếp chỉ đạo Nha nghiên cứu kỹ thuật

và một tổ cán bộ, công nhân gồm 5 người do đồng chí Phạm Văn Gián làm

Tổ trưởng, nghiên cứu tìm nguyên nhân: “Vì sao đạn nổ mà không đạt sức

xuyên?”.Sau nhiều lần thử nghiệm, anh em đã tìm ra nguyên nhân là thuốc

gợi nổ ở ống nổ (đề-tô) không đúng liều lượng - thuốc nổ lõm không nổ hết

dẫn đến giảm uy lực (tốc độ, nhiệt độ, áp suất...) của luồng xuyên.Sau khi

52

thay đổi liều lượng thuốc nhồi nổ và qua thí nghiệm, nhóm nghiên cứu đã tìm

ra tỷ lệ nhồi thuốc gợi nổ thích hợp. Cuối tháng 2/1947, ngành Quân giới Việt

Nam đã chế tạo được đạn, súng badôka do xưởng Kl (Khu 11) chế tạo theo

mẫu của Cục. Trong lần bắn thử tại Vân Đình (Ứng Hoà, Hà Nội) đạn bắn thử

đạt yêu cầu kỹ thuật tương đương như viên đạn mẫu của Mỹ, viên đạn đã phá

được một mảng tường khá to và lỗ xuyên của đạn vào bức tường đá sâu gần

75cm. Vừa kịp phục vụ cho kháng chiến.

Năm là: Bên cạnh những tư liệu về quân sự thì có những tư liệu hiện

vật thời kỳ này nói lên bộ mặt kinh tế nước ta:

Hình 2.5. Sách "Chính sách ruộng đất của Đảng".

(nguồn: http://www.btlsqsvn.org.vn)

Bài 19: Bước phát triển của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân

Pháp (1951 – 1953)

Bên cạnh việc chuẩn bị kháng chiến về mọi mặt Đảng ta vẫn thực hiện

những chỉ thị cải cách ruộng rất nhằm mang lại lợi ích cho nông dân vào năm

53

1952 với mục tiêu xây dựng một hậu phương vững chắc cho cuộc kháng

chiến lâu dài của nhân dân ta.

Hình 2.6. Sách "bổ sung chỉ thị 37 về chính sách ruộng đất của Đảng" Ban

chấo hành Trung Ương Đảng xuất bản năm 1952

(nguồn:https://www.baomoi.com)

Bài 20: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết thức (1953 –

1954).

Đối với bài này có rất nhiều tư liệu hiện vật cần và có thể sử dụng trong

hoạt động dạy học như sau:

Để nói về sự chuẩn bị của ta cho chiến dịch Biện Biên Phủ có thể

dùng:

Tư liệu Chiếc cối của mẹ Trương Thị Dư hiện đang được trưng bày tại

Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam. Chiếc cối bằng đá, màu xanh đen, có

chày đạp giã, chôn dưới đất, đường kính miệng 41,5cm, đường kính đáy cối

37,5cm, cao 30,5cm. Chiếc cối được mẹ Dư sử dụng để giã gạo phục vụ bộ

đội trong kháng chiến chống Pháp. Mẹ thường giã gạo để chồng gánh gạo

54

theo đoàn dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1953. Nội dung

liên quan đến bài học là phần cuộc tiến công Đông – Xuấn 1953 – 1954 với

những chuẩn bị càng của quân dân ta.

Hình 2.7. Chiếc cối của Mẹ Việt Nam anh hùng Trương Thị Dư

(nguồn:http://www.btlsqsvn.org.vn)

Chiếc xe thồ phổ biến của ta lúc bấy giờ dùng để trở lương thực lên

điện biên với chiếc xe đạp đó anh đã trở được hơn 300kg thóc trên một lần

trở, để nói về sự chuẩn bị của quân dân ta cho chiến dịch Điện Biên Phủ năm

1954 cũng là một tư liệu hiên vật cần dụng trong giai đoạn 1953 – 1954 để nó

lên sức chuyển bị và tinh thần đấu tranh bền bỉ dù gặp những khó khăn thế

nào cũng không lùi bước của nhân dân ta.

55

Hình 2.8. Xe đạp thồ phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ

(nguồn: http://toquoc.vn)

Hình 2.9. Đôi bồ và chiếc đòn gánh này cũng đã góp công trong Chiến dịch

(nguồn: http://www.bqllang.gov.vn)

56

Hình 2.10. dép lốp cao su của chiến sĩ Điện Biên

(Nguồn:http://www.bqllang.gov.vn)

Không chỉ chuẩn bị quân lương sẵn sàng mà phía ta còn chuẩn bị cả vũ

khí để đưa vào chiến trường.

Hình 2.11. Pháo bộ bội ta đưa vào mặt trận

(Nguồn:http://www.bqllang.gov.vn)

Một số loại vũ khí Pháp sử dụng trong trận quyết chiến lịch sử Điện

Biên Phủ bị bộ đội ta thu được.

57

Hình 2.12. Súng Cối 81mm của Pháp, bộ đội ta thu ở Điện Biên Phủ năm

1954

(nguồn: http://toquoc.vn )

Hình 2.12. Súng phun lửa thực dân Pháp dùng ở Biên Biên Phủ

(Nguồn:http://www.bqllang.gov.vn)

58

Hình 2.13. Mìn nhảy vũ khí Pháp dùng ở Biện Biên

(Nguồn:http://www.bqllang.gov.vn)

Hình 2.14. Áo chống đạn của lính Pháp ta thu được ở Điên Biên Phủ

(Nguồn:http://www.bqllang.gov.vn)

Đặc biệt ở chiến dịch Điện Biên Phủ có một TLHV mà GV nên đưa

vào sử dụng, có thể sử dụng hiện vật này để làm kiểm tra đánh giá mức độ

59

nhận thức của HS về bài học cũng như sự hiểu biết của HS về quy luật trong

lịch sử. Đó là:

Hình 2.15. Mũ sắt của lính Pháp bị ta thu ở chiên dịch Điện Biên Phủ.

(Nguồn:http://www.bqllang.gov.vn)

Đứng trên quan điểm của bản thân với đề tài nghiên cứu, chúng tôi đưa

ra một số tư liệu theo chúng tôi là cần và có thể sử dụng được khi DHLS Việt

Nam thời kỳ 1946 – 1954 ở trường THPT.

Tất nhiên trên đây chúng tôi vẫn chưa đưa ra được phương pháp sử

dụng cụ thể đối với từng hiện vật áp dụng vào bài học ra sau, chúng tôi sẽ tiến

hành xây dựng biện pháp cho một số TLHV nhất định để phục vụ thực

nghiệm sự phạm và sẽ mong mang lại sự hiệu quả trên thực tế.

2.3. Yêu cầu và quy trình sử dụng TLHV vào dạy học lịch sử Việt Nam

thời kỳ 1946 – 1954

Sử dụng TLHV cũng như sử dụng một đồ dùng trực quan đều phải có

những yêu cầu và quy trình nhất định: luôn kết hợp sử dụng TLHV với

60

phương pháp khác như dùng lời, miêu tả, kể chuyện, giải thích nhằm làm rõ

nội dung ý nghĩa mà TLHV đó phản ánh. Lựa chọn TLHV phải phù hợp với

mục tiêu, nội dung bài học, phải định hướng cụ thể khi đưa TLHV vào bài

học, hướng dẫn học sinh sử dụng, khai thác TLHV.

2.3.1. Yêu cầu

Thứ nhất, mục đích sử dụng: Các TLHV được sử dụng trong giảng

dạy không phải nhằm cho HS nghiên cứu để trở thành một nhà sử học đúng

nghĩa. TLHV đưa vào trong DHLS ở trường THPT là các tư liệu đã được

kiểm nghiệm chính xác, khoa học lịch sử khẳng định.Mục đích khi cho HS

tiếp cận với các tư liệu này, là để các em có được cái nhìn khách quan không

phụ thuộc vào bất cứ ai, bất cứ luận điểm nào trong các tài liệu viết về vấn đề

lịch sử đó.Các em có thể đưa ra quan điểm riêng của mình về các vấn đề lịch

sử có cơ sở là TLHV.Đồng thời còn nhằm hình thành cho các em cách tiếp

cận tri thức, cách học, bước đầu làm quen với nghiên cứu khoa học. Việc GV

hướng dẫn cho HS tiếp cận và khai thác TLHV trong bài học là việc GV chỉ

ra cho HS con đường ngắn nhất để tiếp cận tri thức, để đưa ra những kết luận

khoa học đúng đắn một cách nhanh nhất và dễ dàng nhất. Đây là mục tiêu

chính về mặt giáo dưỡng của bộ môn lịch sử đặt ra.Và việc sử dụng TLHV

trong dạy học là một biện pháp nhằm nâng cao chất lượng của bộ môn ở

trường THPT.

Thứ hai, TLHV sử dụng trong DHLS cần phải đáp ứng mục tiêu

bài học.GV cần chú ý khi lựa chọn TLHV để sử dụng, cần phải căn cứ vào

mục đích, yêu cầu của bài học và trình độ nhận thức của HS.TLHV sử dụng

trong bài cần có nội dung trọng tâm vào bài học, là những tư liệu cần thiết để

khi nêu lên HS có thể hiểu nội dung lịch sử được phản ánh trong tư liệu đó.

Để đáp ứng được mục tiêu bài học, khi sử dụng TLHV, GV cần phải

xem kỹ nội dung của bài học để tiến hành thẩm định, chọn lọc tư liệu trước

khi sử dụng trên lớp.Có như vậy khi đưa vào sử dụng mới có tính chính xác,

đem lại hiệu quả và đáp ứng được mục tiêu giáo dục, giáo dưỡng và phát triển

61

của bài. Bên cạnh đó, việc GV sử dụng tư liệu có liên quan chặt chẽ với các

sự kiện cơ bản trong bài, vừa sức với HS còn là biện pháp tốt để hướng dẫn

các em tự học ở nhà, góp phần phát huy tính tự giác, tích cực học tập của

mình.

Thứ ba, sử dụng TLHV phải làm nổi bật nội dung cơ bản của bài,

đảm bảo tính khoa học trong nội dung.Trong DHLS, chúng ta không thể

cung cấp hết cho HS mọi kiến thức của khoa học lịch sử mà chỉ có thể làm

cho các em nắm vững những kiến thức cơ bản của bài, là những kiến thức tối

ưu cần thiết cho việc hiểu biết của HS về lịch sử.Để xác định kiến thức trọng

tâm, nội dung cơ bản của bài, GV cần căn cứ vào sơ đồ Đai-ri để thiết kế giáo

án. GV cần căn cứ vào nội dung bài viết trong SGK để lựa chọn TLHV cho

phù hợp. Nhằm làm rõ kiến thức cơ bản của bài, khắc sâu kiến thức cho HS,

tránh việc sử dụng TLHV một cách nặng nề, tràn lan, biến giờ học thành giờ

nghiên cứu tư liệu.

Thứ tƣ, sử dụng TLHV phải đảm bảo tính vừa sức, trình độ và tâm

lí HS. Trong dạy học ở trường THPT, tính vừa sức được thể hiện ở việc GV

lựa chọn nội dung, PPDH và cách tổ chức quá trình nhận thức phù hợp với

từng đối tượng HS. Còn tính vừa sức trong sử dụng TLHV được thể hiện:

- Khối lượng kiến thức trong các TLHV đưa vào sử dụng phải vừa đủ.

GV phải căn cứ vào từng cấp học, lớp học, đặc điểm tâm sinh lý, lứa tuổi

cũng như khả năng tư duy của từng đối tượng, giữa HS trung học cơ sở với

HS THPT, HS ở thành phố với HS ở nông thôn… để xác định nội dung cơ

bản phù hợp với từng đối tượng HS. Sau đó mới lựa chọn các TLHV phù hợp

với từng đối tượng, tránh trường hợp tư liệu quá dễ hay quá khó với trình độ

nhận thức của các em.

- Khi đưa TLHV, tránh đưa những tư liệu bằng tiếng nước ngoài,

những tư liệu khó hiểu phải mất rất nhiều thời gian giải thích và làm cho việc

lĩnh hội kiến thức của HS gặp khó khăn.

62

- Trình bày nội dung TLHV ngắn gọn, súc tích, cụ thể, dễ hiểu, không

rườm rà, quá nhiều tên riêng, tên nước ngoài.

- GV không nên trích dẫn quá nhiều tư liệu lịch sử, phải biết chọn lọc,

phân loại chúng, đưa những tư liệu lịch sử có nội dung liên quan đến nội dung

cơ bản của bài học. Tránh việc trích dẫn quá nhiều tư liệu sẽ làm loãng nội

dung kiến thức của bài học, làm phân tán sự chú ý của HS.

Thứ năm, sử dụng TLHV phải kết hợp nhuần nhuyễn với các

PPDH khác.Trong dạy học nói chung, DHLS nói riêng không có phương

pháp nào là vạn năng. Bởi vậy, khi dạy học phải kết hợp nhiều phương pháp,

biện pháp khác nhau để đạt hiệu quả cao nhất. Nội dung lịch sử rất phong

phú, nhiều loại kiến thức, mỗi loại kiến thức cần có những biện pháp dạy học

phù hợp để đạt kết quả giáo dục tốt nhất. TLHV là một nguồn kiến thức quan

trọng bên cạnh các nguồn kiến thức trong SGK.Vì vậy, khai thác TLHV cũng

là một biện pháp dạy học của GV. Do đó, cần kết hợp nhuần nhuyễn việc sử

dụng TLHV với các PPDH khác.

Khi hướng dẫn HS khai thác các TLHV, GV cần phải kết hợp nhuần nhuyễn

với lời nói sinh động của GV và HS, các đồ dùng trực quan, trao đổi thảo

luận, sử dụng các tài liệu tham khảo khác, cần ứng dụng công nghệ thông tin

trong quá trình khai thác TLHV … để hướng dẫn HS tri giác, tìm hiểu, nghiên

cứu và trả lời các câu hỏi gợi mở mà GV đặt ra. Từ đó, góp phần phát huy

được tối đa vai trò ý nghĩa của việc sử dụng TLHV trong DHLS ở trường

THPT

2.3.2. Quy trình

Một số bước khi sử dụng TLHV là:

Xác định nội dung, mục tiêu bài học và chọn TLHV sao cho phù hợp

việc xác định này là đặc biệt quan trọng nếu không xác định đúng thì việc sử

dụng TLHV vào dạy học không chỉ không mang lại hiệu quả trong bài học mà

còn mang lại hiệu quả ngược đối với bài học vì Gv không xác định được tư

63

liệu đố giải quyết phần nội dung nào trong bài học đáp ứng mục tiêu nào

trong dạy học.

Trước khi cho HS quan sát hay làm việc với nguồn TLHV hoặc hình

ảnh TLHV thì GV phải giao nhiệm vụ cho HS làm những gì, hướng dẫn HS

quan sát, tìm hiểu để HS có thể tự tìm tri thức lịch sử HS khai thác thông tin

chưa đựng bên trong TLHV, có thể có phản biên giữa các nhóm HS sau đó

GV tổng kết.

Sau khi cho HS tìm hiểu và trình bày hiểu biết của mình qua TLHV GV

phải nhận xét mặt được cũng như chưa được để HS rút kin nghiệm cho những

lần sau, nếu có thể GV nên làm mẫu một lần để HS học hỏi.

Và cuối cùng GV lấy TLHV làm kiểm tra, đánh giá trong giờ học để

kiểm tra mức độ tiếp thu bài của học sinh tại lớp.

2.4. Các biện pháp đổi mới phƣơng pháp sử dụng TLHV vào dạy học lịch

sử Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954

2.4.1. Sử dụng TLHV để mở đầu định hướng bài học

Với đặc điểm của bộ môn lịch sử là nhiều sự kiện và kiến thức khó nhớ

nên việc mở đầu bài học đối với môn sử là đặc biệt quan trọng, chỉ khi có

phần mở đầu hấp dẫn giáo viên mấy có thể thu hút HS và lôi cuốn HS vào bài

học.

Trong thực tế giảng dạy có rất nhiều cách mở bài khác nhau có thể đó

là một câu hỏi định hướng dầu bài, một bức tranh định hương hay một đoạn

phim tư liệu ngắn nhằm thu hút sự chú ý, gây tò mò của HS đối với bài học.

Việc sử dụng hiện vật khi mở đầu bài học cũng là một trong những cách để

GV gây tò mò đối với HS trước khi vào bài học.TLHV cũng có thể dùng như

một đồ dùng trực quan trên lớ thông qua các phương tiện kỹ thuật như máy

chiếu, máy tính, video. Khi sử dụng đồ dùng trực quan sẽ giúp cho HS dần

hình thành biểu tượng trong quá trình dạy học nhanh hơn vì theo đúng quy

luật của nhận thức quá trình nhận thức của con người luôn đi từ quá trình tạo

64

biểu tượng lịch sử dẫn đến hình thành khái niệm, rút ra quy luật phát triển và

bài học lịch sử [7;67].

Việc GV sử dụng tư liệu hiện vật vào DHLS không chỉ giúp HS có

bước đầu cho việc tạo biểu tượng lịch sử trong bài mà còn kích thích trí tò mò

của HS điều này giúp cho giáo viên dễ dàng lôi cuốn HS vào bài học của

mình hơn vì nguồn TLHV có hình ảnh cụ thể, chính xác về con người, sự kiện

đã diễn ra trong quá khứ chính vì vậy khi HS tiếp cận được với TLHV sẽ giúp

HS có cái nhìn cũng như có biểu tượng lịch sử một cách chính xác nhất có thể

trong điều kiện lịch sử cụ thể nhất định. Nếu GV có điều kiện để mang TLHV

đến tại lớp thì đó là điều tốt nhất nếu không nguồn tư liệu đó phải được đưa ra

khai thác, sử dụng thông qua công cụ hỗ trợ vì nhưng hình ảnh mà HS thu

nhận được thông qua cái hình ảnh thực tế sẽ giúp HS nhớ tốt hơn, lâu hơn mà

từ đó sẽ dần hình thành biểu tượng và khái niệm lịch sử để tạo nên cơ sở của

sự phát hiện ra quy luật lịch sử sau này.

Tuy nhiên bên cạnh đó khi sử dụng TLHV để định hướng mở đầu bài

học GV cũng cần lưu ý khi đưa hiện vật ra để mở đầu định hướng bài học thì

giáo viên phải khai thác triệt để nội dung tri thức lịch sử mà hiện vật đó mang,

tránh việc đưa ra hiện vật mở đầu bài học sau đó không khai thác hiện vật mà

bỏ quên hiện vật. Khi đã sử dụng thì phải khái thác triệt để chứ không chỉ

trưng bày lên để cho có, và đặc biệt mỗi nội dung của mỗi bài đều có đặc

điểm khác nhau cần phải hết sức lưu ý cẩn thận lựa chọn nguồn TLHV sao

cho phù hợp nhất, tư liệu đó đưa ra sẽ phản ánh nội dung gì trong bài sau khi

học thông qua TLHV đó giúp đạ được mục tiêu nào trong tiến trình dạy học.

Đặc biệt việc dùng TLHV để mở đầu bài học hết sức lưu ý đó là GV đưa ra

hiện vậtcó thể là vật thật hay thông qua công cụ hỗ trợ thì sau khi mở đầu

định hướng xong bài học GV phải quay lại giải quyết vấn đề định hướng đó

trong nội dung giảng dạy tránh việc vừa quên định hướng bài học lại vừa

quên TLHV, GV cũng có thể gợi ý cho HS tìm hiểu nội dung bài học thông

65

qua phần định hướng bằng TLHV và hướng dẫn HS tìm hiểu tư liệu đó nó

phản ánh nội dung nào trong bài học.

Ví dụ: khi GV triển khai quá trình dạy (bài 20) tiết 1 có thể sử dụng

hình ảnh chiếc xe thồ của anh Ma Văn Thắng để định hướng mở bài như sau:

GV sau khi kiểm tra bài cũ thì đưa hình ảnh chiếc xe thồ của anh Ma

Văn Thắng qua phương tiện hỗ trợ và đưa ra cho HS 2 câu hỏi đinh hướng:

Hình 2.16. Xe đạp thồ, ông Ma Văn Thắng chở 10 chuyến lương thực với

trọng tải 375-400 kg, vượt đèo dốc phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ

(nguồn:http://www.btlsqsvn.org.vn)

- 1: Ta đã chuẩn bị những gì cho trận quyết chiến lần này với Pháp –

Mĩ?

- 2: Hình ảnh chiếc xe thồ của anh Ma Văn Thắng có ý nghĩa như thế

nào đối với cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 – 1954 của ta?

66

Để trả lời được hai câu hỏi đó chúng ta sẽ đi tìm hiểu ý nghĩa của chiếc

xe kia – đó chính là một nhân chứng cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta?

Sau đó GV đi vào bài mới.

Sau khi mở đầu và kết thúc phần I, GV chuyển sang phần II và đi vào

mục 1: cuộc tiến công chiến lược dông –Xuân 1953 – 1954, đến nội dung sự

chuẩn bị của quân ta GV phải quay về hình ảnh chiếc xe thồ để fiair thích và

giúp HS khia thác nội dung thông qua hình ảnh.

- Sự chuẩn bị của ta rất kỹ càng, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, vấn

đề cung cấp, tiếp tế được coi là vấn đề khó khăn nhất. Trong điều kiện tiền

tuyến cách xa hậu phương đến 400- 500km, thời tiết khắc nghiệt, địa hình

hiểm trở, đường xá hư hỏng, nhưng ta phải bảo đảm cung cấp một khối lượng

lớn vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm, đồ dùng, thuốc men một cách

nhanh chóng, liên tục. Đặc biệt, việc tiếp tế cần được giữ bí mật tuyệt đối

nhằm tránh địch phát hiện và đánh phá. Tuy nhiên, với tinh thần “Quyết chiến

quyết thắng”, hàng vạn dân công đã được huy động để vận chuyển lương thực

và đạn dược ra trận với phương tiện thô sơ. Một trong những phương tiện vận

chuyển hiệu quả nhất thời điểm đó là chiếc xe đạp thồ. Thực hiện nhiệm vụ

được giao, đầu tháng 1/1954, ông Ma Văn Thắng, Chủ tịch Ủy Ban kháng

chiến hành chính xã Thanh Minh, huyện Thanh Ba (nay thuộc thị xã Phú Thọ)

gia nhập Đoàn dân công phục vụ tiền tuyến.

Với chiếc xe của mình, trung bình mỗi chuyến Anh chỉ chở được 80-

100kg gạo. Trong quá trình vận chuyển, Anh đã có sáng kiến buộc thêm một

đoạn tre nhỏ, dài khoảng 1 mét, gọi là "tay ngai" vào ghi đông để điều khiển;

một đoạn tre cao hơn yên xe khoảng 50cm buộc vào trục yên, vừa giúp giữ

thăng bằng, vừa đẩy xe đi; hàn thêm sắt, buộc thêm gỗ để tăng độ cứng của

khung xe; lấy vải, quần áo cũ, săm cũ lót vào bên trong tăng độ bền của săm,

lốp xe; bổ sung thêm 2 chiếc ghế, một chiếc để dựa xe trong lúc nghỉ chân,

một chiếc để chèn xe khi xuống dốc.Với cách làm này, ông tăng dần khối

lượng lên đến hơn 300 kg/chuyến...

67

Trong phần này GV vừa có thể sử dụng tư liệu cung cấp về sự kiện lịch

sử, sự chuẩn bị của quân dân ta vừa kể một câu chuyện để lôi cuộc HS vào bài

học cũng giáo dục được ý thức, tinh thần dân tộc của nhân ta trong khó khăn

gian khổ mà vẫn có thể vượt qua.

2.4.2. Xây dựng hồ sơ TLHV và hướng dẫn HS khám phá, nghiên cứu các

sự kiện lịch sử

Hồ sơ nhân vật lịch sử một khái niệm không còn lạ với chúng ta nữa.

Hồ sơ TLHV cũng giống như hồ sơ về nhân vật lịch sử.

Việc xây dựng hồ sơ tư liệu dạy học rất cần thiết đối với một giáo viên,

đặc biệt xây dựng hồ sơ TLHV lại càng quan trọng vì khi xây dựng hồ sơ

TLHV sẽ giúp giáo viên chủ động hơn trong quá trình lên lớp của mình. Bài

nào sử dụng TLHV nào ở phần nội dung sự kiện nào và nó có ý nghĩa gì đối

với ngày nay đều được giáo viên chuẩn bị trước khi lên lớp lúc xây dựng hồ

sơ TLHV. GV phải là người chủ động phải là người hướng dẫn HS tìm hiểu

tri thức lịch sử nếu GV không xây dựng cho mình một bộ hồ sơ về TLHV sẽ

là rất thiếu xót vì hầu hết khi DHLS phần lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 –

1954 thì tư liệu còn rất nhiều và được nhiều bảo tàng lưu giữ. Khi GV xây

dựng bộ hồ sơ này sẽ tìm hiều được thêm nhiều điều mà có thể trước đó ngay

chính GV chưa được tiếp cận, khi xây dựng được bộ hồ sơ thì GV càng nắm

vững hơn kiến thức của mình.

Việc xây dựng hồ sơ TLHV không chỉ dừng lại ở việc mục nào nội

dung nào có tư liệu nào mà phải xây dưng cả cách tiếp cận với tư liệu đó,

cách khai thắc tư liệu hiên vật đó là sao cho có hiệu quả và những lưu ý khi sử

dụng đối với từng tư liệu cụ thể ra sao.

Sau khi xây dựng được hồ sơ TLHV thì GV có thể dùng bộ hồ sơ đó để

hướng dẫn HS khám phá tiếp cận sự thật lịch sử bằng những hướng dẫn từ hồ

sơ mà GV cung cấp. HS cũng sẽ chủ động hơn trong hoạt động dạy và học

tiến tới làm chủ tri thức.

68

Ví dụ: khi dạy bài 20: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân

Pháp kết thúc (1953 – 1954).

Hình 2.17. Guốc chèn pháo của Trung đoàn lựu pháo 45, Đại đoàn 351 tự

chế tạo để chèn bánh pháo (1/1954)

(Nguồn: new.zing.vn)

Ta có thể thiết kế hồ sơ TLHV với TLHV dưới đây như sau:

69

Guốc chèn pháo của Trung đoàn lựu pháo 45, Đại đoàn 351 tự chế tạo để chèn bánh pháo (1/1954)

Giới thiệu:Đây là một phương tiện chiến tranh của chúng ta.Nó là dụng cụ mà bộ đội ta dùng đề chèn pháo trong quá trình kéo pháo lên chiến trường Điện Biên Phủ Tác dụng: Sở dĩ ta phải dùng đến dụng cụ này vì đường lên chiến trường rất dốc, pháo nặng, bộ đội kéo rất vất vả vừa kéo vừa đẩy để tiết kiệm sức lực và đảm bảo pháo không lăn xuống dốc. Tấm gương: Tô vĩnh Diện người lấy thần mình thay thế Guốc chèn pháo để kéo pháo lên Điện Biên Phủ. Ý nghĩa: Thể hiện tinh thần dân tộc và ý chí chống giặc ngoại xâm của toàn thể dân tộc ta.

Ở mỗi bài khác nhau chúng ta xây dựng được một hồ sơ tư liệu khác

nhau. Đây là ví dụ về một cách xây dựng hồ sơ TLHV đối với một hiện vật

dùng trong bài 20 sách giáo khoa Lịch sử 12.

2.4.3. TLHV được xây dưng thành một trang web để hỗ trợ quá trình dạy

học trên lớp và hướng dẫn học ở nhà.

Hiện nay, công nghệ thông tin đang bùng nổ, công nghệ thông tin len

lỏi vào mọi lĩnh vực trong đời sống trong đó có cả giáo dục. Thế hệ HS ngày

nay đang ngày càng phụ thuộc vào công nghệ thông tin là không thể chỗi cãi.

Thay vì cố hết sức ngăn cẳn nó thì hãy thử chung sống với nó.

Giới trẻ ngày nay bỏ hàng giờ chỉ để lên mạng xã hội dù không làm gì

vì đó là một thói quen, vậy tại sao chúng ta không thiết kế một trang Web

miễn phí về các TLHV đặc biệt là TLHV của lịch sử Việt Nam thời kỳ 1945 –

1954 cho mọi đối tượng có thể truy cập vào và tìm kiếm thông tin. Bằng

những suy nghĩ đó chúng tôi thiết kế một website đơn giản để cho giới trẻ

thay vì bỏ hàng giờ lướt web theo cách là „‟dạo chơi” thì truy câpj vào

website tìm hiểu thông tin về lịch sử.

70

Chúng tôi tiến hành thiết kế website trên giao diện và phần mềm google

đây là một web site miễn phí, chúng ta có thể dễ dang truy cập nếu được chủ

nhân của web đó liên kết thông qua tài khoản gmail.

Trong web chúng tôi tiến hành thiết kế theo hướng như sau:

Đầu tiên là trang chủ của web: bao gồm phần giới thiệu web, các thức

xem web, truy câp và lấy thông tin.

Thứ hai chúng tôi đi vào xây dưng vị trí của phần lịch sử Việt Nam thời

kỳ 1946 – 1954 lý do chúng tôi chọn phần đó để xây dựng web tư liệu tham

khảo.

Thứ ba là các TLHV có thể dùng, khai thác và tìm hiểu thuộc lịch sử

Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954.

Thứ tư là những đoạn phim ngắn sưu tầm và tự làm của chúng tối về

nhưng TLHV và nhưng nội dung, sự kiện của lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946

– 1954.

Thứ năm chúng tôi đưa ra một số cách khai thác các nguồn TLHV đã

nêu ở phần hai có link dẫn các sự kiện với cách sử dụng.

Và cuối cùng chúng tôi sẽ cho một vài gợi ý để người dùng có thể tham

khảo dùng làm kiểm tra và đánh giá về tri thức lịch sử thông qua TLHV.

Trên đây là cơ bản phần thiết kế web của chúng tôi, việc thiết kế web

của chúng tôi hướng đến không chỉ là những người dùng internet có nhiều

thời gian rảnh mà chúng tôi thiết kế với mục đích đây sẽ là một trang web

đóng vai trò như một công cụ hỗ trợ cho GV và HS trong quá trình dạy học.

GV có thể hướng dẫn HS tìm hiểu sự kiện lịch sử và làm bài tập ở nhà thông

qua trang web, hoặc sử dụng trang web như một nguồn tài liệu tham khảo. Đó

chính là những gì chúng tôi hướng đến khi xây dựng trang web này.

Ví dụ: tại website của google site mang tên Góc nhìn hiện vật, GV giao bài

tập về nhà cho HS là tìm hiểu một đến hai TLHV trong cuộc kháng chiến

chống thực dân Pháp lần 2 của nhân dân ta thể hiện ý chí quyết tâm chiến đấu

của nhân dân ta?

71

HS về nhà có thể chuẩn bị bằng cách truy cập vào google site và tìm

tên Góc nhìn hiện vật để tìm hiện vật được giao theo đúng chủ đề sau đó tìm

hiểu thêm các thông tin mà web cung cấp và cung có thể thử sức mình với

những gợi ý của phần kiểm tra, đánh giá trong web. Đó là những gì chúng tôi

hướng đến khi làm web nó vừa là nơi cung cấp thông tin những cũng là nơi

giúp HS tự kiểm tra, đánh giá mình và hỗ trợ HS làm bài tập về nhà.

Ví dụ: khi dạy bài 20: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân

Pháp kết thúc (1953 – 1954).

Ta có thể xây dựng nguồn TLHV thành một trang web mở giúp GV và

HS trong quá trình học tập và tự học ở nhà như sau:

Hình 2.18. Cuốc chim của Đại đội Công binh 83, Trung đoàn 151

(nguồn: Baohaiquan.vn)

Với hình ảnh này khi xây dựng trang web chúng ta có thể làm như sau:

- Nếu đặt hình ảnh ở phần trang chủ hoặc phần giới thiệu ta có thể giới

thiệu về chiếc cuốc chim này và tác dụng của chiếc cuốc đối với việc ta tiến

lên chiến trường Điện Biên trong muôn vàn khó khăn như thế nào? Tại sao ta

phải sử dụng cuốc chim thay cho chiếc cuốc thường.

72

Đây là hình ảnh chiếc cuốc chim của Đại đội Công binh 83 Trung đoàn

151 dùng để đào đường hầm dìa 47m đặt khối thuốc nổ 960kg tại đồi A1 ngày

6 tháng 5 năm 1954.

- Nếu sử dụng hình ảnh này trong tiến trình bài học thì cần thiết kế web

theo nhiệm vụ và cách triển khai như sau:

Với nhiệm vụ: đây là hình ảnh chiếc cuốc chim của Đại đội Công binh

83 Trung đoàn 151 đã dùng trong quá trình ta chuẩn bị tấn công lên chiến

trường Điện Biên, em hãy giải thích vì sao ta lại phải sử dụng cuốc chim nhỏ

thay thế cho chiếc cuốc thường, nếu coi chiếc cuốc chim như một vũ khí ta

mang lên chiến trường Điện Biên hãy so sánh vũ khí của ta và thực dân Pháp

tại chiến trường điện biên.

- Ở phần tài nguyên của trang web ta có thể cung cấp thêm thông tin về

văn bản cho web như sau: Sở dĩ ta phải dùng cuốc chim thay cho chiếc cuốc

thường là do địa hình đồi núi và ta đào hầm không thể dùng cuốc thường với

cán dài cũng như diện tích tiếp xúc của lưỡi cuốc thường xuống đất là quá lớn

sẽ gây tiếng động không có kẻ địch dễ phát hiện, khi dùng cuốc chim ta có thể

dễ dàng đào trong hầm mà không hạn chế được tiếng động nhất và cuốc chim

diện tích tiếp xúc với đất tuy nhỏ nhưng sâu như vậy khi đòa hầm sẽ nhanh

hơn.

Hoặc ta có thể thêm một số hình ảnh về cách ta chuẩn bị lên chiến

trường Điện Biên để HS khi chuẩn bị bài có cái nhìn so sánh về lực lượng,

phương tiện, vũ khí và tinh thần dân tộc giữa ta và thực dân Pháp.

73

Hình 2.19. Dây kéo pháo vượt dốc vào vị trí tập kết của Đại đoàn 351

(nguồn: Chinh Nương)

- Ở phần đánh giá gợi ý cho GV và HS cách tự đánh giá. Bao nhiêu ý, nội

dung được HS khai thác mà chưa cần vào phần tài nguyên sẽ được tính theo

thang điểm.

74

Hình 2.20. Hình ảnh trang chủ web góc nhìn hiện vật

(nguồn: Chinh Nương)

Hình 2.21. Hình ảnh trang chủ web góc nhìn hiện vật

(nguồn: Chinh Nương)

75

Trên đây là ví dụ hình ảnh trang chủ của web nhằm giới thiệu cho GV

và HS như một nguồn tài liệu tham khảo.

2.4.4. Sử dụng TLHV để kiểm tra đánh giá.

Kiểm tra, đánh giá là một khâu quan trọng trong toàn bộ quá trình dạy

học [7; 209].Với mục đích là đánh giá sự tiến bộ của người học nên kiểm tra,

đánh gia cực kỳ quan trọng trong cả quá trình dạy học.

Theo nghị quyết số 29 của Hội nghị lân thứ 8 Ban Chấp hành Trung

ương Đẳng khóa XI về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục năm 2013 có

nó rất rõ về vấn đề kiểm tra đánh giá như sau: điểm tra, đánh giá phải từng

bước theo các tiêu chí của xã hội và cộng đồng, phối kết hợp kết quả đánh giá

trong khóa trình dạy học với đánh giá cuối kỳ, cuối năm học, đánh gía người

dạy và cho người học tự đánh giá, kết hợp đánh giá nhà trường với đánh giá

xã hội.

Kiêm tra, đánh giá cho cùng là thu thập các thông tin dù là định tình

hay định lượng để phản ánh sự tiến bộ của người học.

Đối với đề tài này chúng tôi chú trọng hơn về việc đánh gia khóa trình

hoc của HS chứ không chú trọng đến đánh giá cuối kỳ, đánh giá tổng kết.

Do đặc điểm của TLHV là nó chỉ phản ánh được một góc nhìn của sự

liện lịch sử nên việc sử dụng TLHV để đánh giá quá trình là hợp lý hơn cả.

Việc đánh gia này không chỉ kết thúc cả một buổi học hay cả một chương học

mất đánh giá mà đánh giá khóa trình với TLHV cho thể thực hiện luôn khi

xây dựng nội dung.

Việc đưa TLHV vào để kiểm tra, đánh giá là một trong những điểm mà

chúng tôi chú trọng trong toàn văn nghiên cứu của mình.

Trên thực tế khi thực nghiệm cho thấy việc đánh gia này có mang lại

hiệu quả nhất định nhưng không đạt như mong muốn. Sau khi thực nghiệm tại

một lớp 12 tại THPT Minh Quang (Ba Vì – Hà nội) cho thây HS cảm thấy

thích thú và hòa hứng khi học bài học có sử dựng TLHV nhưng khi sử dụng

tư liệu đó kiểm tra và đánh giá tại chỗ thì rất ít HS hiểu đúng nội dung tri thức

76

lịch sử và tư liệu đó mang trong mình cho dù đã có sự hướng dẫn của GV.

Nhưng một thành công cho thấy ở thực nghiệm đó là sau khi dùng tư liệu hiện

vật vào dạy học kết thức buổi học có làm bài kiểm tra chất lượng thì lớp đối

chứng và lớp thực nghiệm mang lại kết quả khá khác nhau. HS ở lớ thực

nghiệm nhớ được sự kiện lâu hơn và chi tiết hơn lớp đối chứng.

Việc đưa TLHV vào kiểm tra, đánh giá cũng cần xây dựng riêng một

bảng ma trận cho các dạng đề kiểm tra kiểm tra miệng 15 phút hay kiểm tra

nhanh. Nếu chúng ta làm được như vậy thì việc kiểm tra HS sẽ không con

nặng lý thuyết nữa HS sẽ giảm đi tình trạng học thuộc và thay vào đó là học

hiểu học để tìm hiểu tri thức lịch sử giấu bên trọng TLHV.

Ví dụ: khi dạy bài 20: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết

thúc (1953 – 1954).

Hình 2.22. Dây thừng giật cò lựu pháo 105 mm sử dụng trong đợt tấn công

thứ nhất (3/1954).

(Nguồn: Baohaiquan.vn)

77

GV có thể sử dụng hình ảnh TLHV này để đánh giá nhận thức của học

sinh về quá trình chuẩn bị của ta lên chiến trường Điện Biên cũng như tinh

thần chiến đấu của bộ đội ta trên trận chiến này với câu hỏi như sau:

- Theo em, việc sử dụng dây thừng giật tay trên chiến trường với địa hình đồi

núi như vậy thể hiện tinh thần chiến đấu của chúng ta như thế nào?

HS có thể trả lời theo ý hiểu nhưng phải tóm được các ý sau: với sự

chuẩn bị bằng những gì ta có là phải giật lựu pháo bằng tay chứ không phải tự

động là rất nguy hiểm nhưng bộ đội ta vẫn làm chúng tỏ chúng ta có một tinh

thần chiến đấu mạnh hơn bất kỳ thứ vũ khí hiện đại nào và khẳng định chúng

ta hoàn toàn đánh thắng định trên mật trận tinh thần đó chính là ý nghĩa của

chiến tranh nhân dân.

Nếu HS trả lời được như vậy thông qua TLHV GV hoàn toàn đánh giá

được nhận thức của học sinh qua quá trình học đã tiếp thu được việc ta phải

đối mặt với muôn vàn khó khăn khi lên chiến trường Điện Biên nhưng ta đã

khắc phục khó khăn đó bằng tinh thần dân tộc.

2.5. Thực nghiệm sƣ phạm

2.5.1. Mục đích thực nghiệm

Đổi mới phương pháp sử dụng TLHV vài DHLS Việt Nam thời kỳ

1945 – 1954 là rất cần thiết.Tuy nhiên, vấn đè sử dụng TLHV vào DHLS Việt

Nam thời kỳ 1945 – 1954) vẫn còn có nhiều hạn chế về cả phương pháp và

hình thức tổ chức hoạt động cho HS, để HS chủ động tham gia vào quá trình

học tập – quá trình lĩnh hội kiến thức. Chúng tôi tiến hành thực nghiệm sư

phạm với mục địch kiểm nghiệm trong thực tế tính khả thi việc đổi mới

phương pháp sử dụng TLHV vào DHLS Việt Nam thời kỳ 1946 -1954 tại

trường THPT và chứng minh giả thuyết khoa học của đề tài đã nêu. Kết quả

thực nghiệm sư phạm sẽ là cơ sở để vận dụng đổi mới phương pháp sử dụng

TLHV vào DHLS Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954 trong thực tiễn giảng dạy.

2.5.2. Quy trình thực nghiệm

2.5.2.1. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm

78

Được sự đồng ý của giáo viên bộ môn Lịch sử tại trường THPT Minh

Quang tôi đã tiến hành thực nghiệm tại lớp 12A3 và THPT Ba Vì lớp THPT

Ba Vì tại lớ 12A6, ngoài ra được sự giúp đỡ của đồng nghiệp tôi cũng tiến

hành thực nghiệm cở hai lớp 12B1 và 12A2 tại trường THPT Giao Thủy B

(Nam Định). Đây là lớp học chương trình cơ bản, có lực học trung bình môn

Lịch sử ở mức khá cao. Đây chính là điều kiện thuận lợi để đảm bảo cho giờ

thực nghiệm.

Về địa điểm và thời gian tiến hành thực nghiệm. Buổi dạy thực nghiệm

được tiến hành vào thứ 4 ngày 20 tháng 9 năm 2017 tại lớp 12A6 trường

THPT Ba Vì, buổi chiều tại lớp THPT Minh Quang và lớp 12B1 và 12A2

ngày 25 tháng 10 năm 2017 tại trường THPT Giao Thủy B.

2.3.2.2. Nội dung thực nghiệm

Sau khi tìm hiểu về nội dung chương trình môn Lịch sử lớp 12 tại

trường THPT đặc biệt là lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954, tôi quyết định

thực nghiệm một tiết dạy học vận dụng đổi mới phương pháp sử dụng tư liệu

hiện vatjtaij 3 trường nêu trên.

Tôi tiến hành soạn giáo án thực nghiệm (Phụ lục 4) vận dụng đổi mới

các phương pháp sử dụng tư liệu vào dạy học Bài 18: Những năm đầu cuộc

kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946 – 1950) (tiết 2).

Sau khi giảng xong bài ở lớp thực nghiệm, tôi tiến hành kiểm tra nhanh 8 phút

để đo thái độ học tập cũng như hiệu quả của các biện pháp đã được sử dụng.

Tiêu chuẩn để đánh giá là trả lời đúng 7 câu trắc nghiệm được 10 điểm

mỗi câu 0.7 điểm.

Đáp án cụ thể:

Câu 1 Câu 2 Câu 3 Câu 4 Câu 5 Câu 6 Câu 7

C D D A D B D

2.5.3. kết quả thực nghiệm

Kết quả thực nghiệm được đánh gia dựa trên một số phương diện sau:

79

- Thứ nhất, thông qua quan sát trong giờ học để biết thái độ học tập của HS

- Thứ hai, những nhận xét của giáo viên dự giờ

- Thứ ba, thông qua bài kiểm tra nhanh sau tiết học

 Thứ nhất, thông qua quan sát trong giờ học để biết thái độ học tập của

HS.

Buổi thực nghiệm có đầy đủ HS các lớp tham gia, và nhiệt tình trong giờ

học.

Trong suốt buổi học các HS đều chú ý nghe giảng, chép bài đầy đủ,

tích cực suy nghĩ, hăng hái phát biểu xây dựng bài, có sự chuẩn bị trước

những câu chuyện, bài hát và tình huống liên quan đến nội dụng bài học

Như vậy có thể thấy, thái độ học tập của HS là rất tốt.HS tham gia vào

các hoạt động trong tiết học thực nghiệm.

 Thứ hai, nhận xét của giáo viên dự giờ

Sau khi gửi giáo án thực nghiệm cho giáo viên bộ môn Lịch sử dạy

lớp 12A9, tôi đã nhận được một số nhận xét và góp ý chỉnh sửa của giáo viên

về nội dung và cách vận dụng các biện pháp vào thực tế tiết dạy.

Sau tiết học thực nghiệm, giáo viên có một số nhận xét chung về cả

hai mặt tích cực và hạn chế của tiết học.

Thứ nhất là mặt tích cực của tiết học thực nghiệm:

- Đầu tiên, các biện pháp được vận dụng một cách phù hợp với nội dung

lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 - 1954. Việc đổi mới các phương pháp sử dụng

tư liệu như sử dụng TLHV làm mở đầu bài học, xây dựng hồ sơ TLHV, xây

dựng trang web nhưu một công cụ hỗ trợ và dùng tư liệu hiên vật để kiểm tra,

đánh giá không chỉ giúp cho HS tích lũy thêm kiến thức lịch sử mà còn giúp

HS hình thành và phát huy một số kỹ năng như tư duy tưởng tượng, giải quyết

vấn đề hay cả kỹ năng làm việc nhóm, thuyết trình và tạo biểu tượng lịch sử.

- Thứ hai, đó là tiết học đã thu hút được sự hứng thú, khơi dậy sự tò mò

và khám phá kiến thức của HS thông qua nhưng câu chuyên chưa đựng bên

trọng TLHV. Đây chính là một yếu tố quyết định thành công của tiết học thưc

80

nghiệm. khi vận dụng các biện pháp vào thực tế bài học HS đều hứng thú và

nhiệt tình tham giá, lắng nghe một cách chăm chú.

Bên cạnh một số điểm tích cực thì tiết học thực nghiệm cũng nhận

được một số đóng góp của giáo viên về mặt hạn chế:

- Đầu tiên là về nội dung và công tác chuẩn bị: mặc dù các biện pháp

được vận dụng làm website hay đánh giá, kiểm tra qua tư liệu hiên vật chưa

thực sự kích thích sự sáng tạo và lôi cuốn hoàn toàn sự chú ý của HS vào bài

học.

- Thứ hai, đó là khi sử dụng các biện pháp đó thì HS thực sự sẽ khó khăn

trong việc xác định kiến thức trọng tâm trong bài học.

- Thứ ba, chính là tác phong sư phạm: đối với một giờ dạy học có sử

dụng sự hỗ trợ của công nghệ thông tin và các công cụ hỗ trợ nhưng vẫn chưa

làm chủ được tình hình trên lớp làm cho tiết học hơi căng thẳng…

 Thứ ba, thông qua bài kiểm tra nhanh sau tiết học

Sau khi kết thúc phần giảng dạy, tôi giành 5 phút để HS làm một bài

kiểm tra nhanh, với nội dung là kiểm tra kiến thức cơ bản, trọng tâm của tiết

học mà HS đã tiếp thu được qua tiết học thực nghiệm. Do thực nghiệm lần

đầu thất bại nên chúng tôi tiến hành thực nghiệm lại và mang lại kết quả ở hai

lớp đối trưng và thực nghiệm như sau:

81

Biểu đồ 2.1. Biểu điểm kiểm tra của lớp thực nghiệm 12A2

Nhìn vào biểu điểm của lớp thực nghiệm ta thấy phổ điểm chủ yếu tậ

trung là điểm cao và trung bình khá, điểm trung bình rất ít và có một số HS

điểm thấp hẳn. Như vậy, có thể thấy đề đã kiểm tra đã được mục đích là phân

loại HS nhưng phổ điểm quá lệch nên đề này vẫn được đanh giá là dễ so với

lớp thực nghiệm các phương pháp đổi mới sử dụng TLHV. Mặc dù vậy, cũng

có thể khẳng định phần nào việc đưa TLHV vào dạy học đã có tác dụng với

HS ít nhất là khắc sau kiến thức ngay sau buổi học.

Sau đây là biểu đồ điểm của lớp đối chứng 12B1:

82

Biểu đồ 2.2. Biểu điểm kiểm tra lớp đối chứng

Nhìn biểu điểm và bẳng tính trung bình của lớp đối chứng có thể thấy

điểm lớ đối chứng tuy là điểm phân bố chuẩn hình chuông nhưng tập trung

chủ yếu vào mức điểm cho thấy lớp đối chúng có thành tích kém hơn so với

lớp thực nghiệm, nhưng nhìn chung dạt mức phân bố điểm chuẩn không có gì

đáng lo ngại cả.

2.3.2.4. Kết luận từ thực nghiệm sư phạm

Từ kết quả thực nghiệm sư phạm trên, có thể kết luận rằng, đổi mới

phương pháp sử dụng TLHV vào DHLS Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954 là có

những hiệu quả nhất định. Nếu giáo viên biết cách khai thác và vận dụng hớp

lý các biện pháp kể trên thì hiệu quả bài dạy sẽ được nâng cao trong DHLS

83

đáp ứng được ba mục tiêu: giáo dưỡng, giáo dục và phát triển trong dạy học

Lịch sử.

Một lần nữa chúng ta khẳng định sự cần thiết đổi mới phương pháp sử

dụng tư liệu hiệu vật vào DHLS Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954 ở trường

THPT.Tuy nhiên để việc vận dụng các biện pháp vào thực tế bài dạy một cách

hiệu quả thì giáo viên cần có một sự vận dụng linh hoạt cùng kết hợp sử dụng

các biện pháp khác nhau để đạt được kết quả tốt nhất.

84

Tiểu kết chƣơng 2

Dựa trên cơ sở nghiên cứu cấu trúc chương trình, nội dung chương

trình Lịch sử lớp 12 (chương trình Chuẩn), chúng tôi đã lựa chọn những nội

dung để đổi mới phương pháp sử dụng TLHV vào dạy học, chúng tôi lựa

chọn chương III phần Lịch sử Việt Nam từ năm 1945 đến 1954 như một ví dụ

điển hình.

Trước khi tiến hành xây dựng và sử dụng thực nghiệm TLHV cho

chương III, chúng tôi xác định vị trí, mục tiêu và nội dung kiến thức cơ bản,

xây dựng hệ thống TLHV cho phần kiến thức ở chương này. Qua đó lựa chọn

được những nội dung chi tiết để sử dụng TLHV. Cách thức xây dựng đơn

giản, quy trình sử dụng không phức tạp, TLHVcó thể được sử dụng phổ biến

hơn trong dạy học lịch sử nếu người GV có ý tưởng và vững vàng về kiến

thức chuyên môn, hiểu biết sâu rộng.

Quá trình thực nghiệm sư phạm tại trường THPT đã cho thấy hiệu quả

của việc đổi mớiphương pháp sử dung TLHV trong DHLS Việt Nam thời kỳ

1946 - 1954.

Ở lớp đối chứng tức là lớp không đởi mới phương pháp sử dụng trong

giờ học, không có nhiều HS hứng thú với bài giảng, chưa tích cực và chủ

động tham gia vào hoạt động học tập. Kết quả bài kiểm tra cho dù có phổ

điểm đẹp nhưng chủ yếu là mức điểm trung bình cũng phần nào phản ánh

mức độ tiếp thu bài chưa hiệu quả của lớp đối chứng.

Ở lớp thực nghiệm với việc sử dụng TLHV trong quá trình giảng bài,

HS đã tỏ ra hứng thú và tham gia tích cực vào bài học. Nhiều HS còn chủ

động đặt câu hỏi sau khi nghiên cứu và đề nghị được tiếp cận TLHV thường

xuyên hơn trong các giờ học lịch sử sau cùng với đó, một số em cũng đề nghị

GV giới thiệu một vài bộ thông sử để các em tự tìm hiểu. Kết quả bài kiểm

tra sau giờ học cao hơn hẳn ở lớp đối chứng.

Như vậy, bước đầu có thể khẳng định việc đổi mới phương pháp sử

TLHV vào DHLS Việt Nam thời kỳ 1946 - 1954 đã mang lại hiệu quả DH.

85

Trong quá trình khai thác và sử dụng TLHV tuy còn một số khó khăn, hạn

chế nhưng đây là một việc làm được khuyến khích và nhân rộng trong dạy

học nói chung và DHLS nói riêng.

86

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

Sau quá trình nghiên cứu chúng tôi đi tới những kết luận bước đầu như

sau:

Trong bối cảnh công nghệ thông tin và những thành tựu cách mạng

khoa học kĩ thuật đã thâm nhập và ngày càng chi phối mạnh mẽ tất cả các lĩnh

vực của đời sống xã hội, trong đó có giáo dục đào tạo, đã khiến cho cách tiếp

cận lịch sử có thiên hướng hiện đại hóa các sự kiện, hiện tượng lịch sử nên

việc dạy học Lịch sử muốn đáp ứng được tính khoa học, chính xác nhất thiết

phải bám sát theo các nguồn tư liệu và kết hợp cùng xu hướng vận dụng, tích

hợp công nghệ và các thiết bị dạy học hiện đại để phát huy mạnh mẽ tư duy

sáng tạo, kỹ năng thực hành và hứng thú học tập của HS nhằm nâng cao chất

lượng đào tạo. Khai thác và sử dụng tư liệu hiên vật trong dạy học lịch sử nói

chung và lịch sửViệt Nam thời kỳ 1946 - 1954 là cần thiết và phù hợp với

quan điểm dạy học mới hiện nay.

Việc đổi mới phương pháp sử dụng TLHV trong DH LS lớp 12 sẽ giúp

GV thể hiện được ý tưởng bài dạy của mình. Kết hợp với các phương pháp,

phương tiện, thiết bị phục vụ giảng dạy khác sẽ góp phần tạo hiệu quả cho bài

học. Còn đối với HS, TLHV không chỉ là phương tiện trực quan tạo hứng thú

học tập cho HS mà còn thực hiện thành công nhiệm vụ kích thích sự sáng tạo,

tăng khả năng nhận thức, tư duy và rèn luyện các kĩ năng cần thiết cho HS.

Tuy vậy, trong quá trình đổi mới phương pháp sử dụng TLHV vào

dạy học ở trường THPT, chúng tôi cũng phát hiện một số khó khăn và hạn

chế như sau:

Đối với nhà trường THPT: Một phần lớn trường THPT hiện nay tuy đã

có thư hiện hoặc phòng truyền thống nhưng rất ít trường tạo điều kiện cho HS

tìm hiểu lịch sử hình thành trường thông qua các hiện vật để HS dần làn quen

và tiếp xúc với nguồn tư liệu khi học môn Lịch sử.

Đối với GV: Mặc dù nhận thức rất rõ rằng: sử dụng tư TLHV phục vụ

DHLS sẽ tăng hứng thú và khắc sâu kiến thức cho HS, tránh hiện tượng hiện

87

đại hóa lịch sử, nhưng tư tưởng ngạinghiên cứu, tìm tòi, ngại đổi mới và trình

độ một số GV còn hạn chế... là những rào cản khiến việc khai thác và sử dụng

TLHV trong DHLS gặp không ít những khó khăn.

Qua kết quả thực nghiệm sư phạm ở trường THPT, chúng tôi bước đầu

khẳng định được sự hiệu quả của việc sử dụng TLHV trong DHLS nói chung

và DHLS chương III phần lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954 nói riêng.

HS đã tỏ ra hứng thú với giờ học, tích cực tham gia vào hoạt động nhận thức.

GV dễ dàng triển khai bài dạy theo ý tưởng của mình.

Trên cơ sở kết quả của quá trình nghiên cứu và thực nghiệm, chúng tôi

xin đưa ra một số khuyến nghị sau:

1. Nhà trường phải đóng vai trò tích cực trong quá trình đổi mới

phương pháp dạy học nói chung và phương pháp DHLS nói riêng. Các trường

THPT cần phải đầu tư xây dựng hệ thống Thư viện phong phú, tăng thêm

những đầu sách về tư liệu hiên vật hoặc tăng thêm các chương trình ngoại

khóa vào bảo tàng cho HS có cơ hội tiếp cận nguồn TLHV

2. GV và nghiệp vụ sư phạm của mình là yếu tố đóng vai trò quyết định

tới hiệu quả sử dụng tư liệu vào DHLS do vậy GV nhất thiết phải được đào

tạo cẩn thân ngay từ khi còn học tập ở trường Đại học. Bên cạnh đó, tự bản

thân mỗi GV cần ý thức sâu sắc hơn về việc đổi mới phương pháp dạy học

theo định hướng phát triển năng lực người học và không ngừng trau dồi nâng

cao trình độ chuyên môn của mình.

Mỗi sinh viên sư phạm cần nhận thức được vai trò và trách nhiệm to

lớn của mình trong công cuộc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Bản

thân mỗi sinh viên không những phải thường xuyên thực hành bộ môn, thực

hành sư phạm và thực hành trong cuộc sống mà còn phải nỗ lực tiếp cận với

tư liệu lịch sử. Bởi chỉ khi sinh viên được rèn luyện và tích cực tự rèn luyện

mình trong thời gian ở trường sư phạm thì mới có thể vận dụng các kĩ năng

nghiệp vụ vào dạy học trường THPT. Vì vậy, để không “lúng túng” trước các

tư liệu lịch sử, sinh viên phải tận dụng mọi cơ hội để nghiên cứu tư liệu, biết

88

cách sử dụng, khai thác các tư liệu lịch sử, các nguồn tư liệu phục vụ quá

trình dạy học, hình thành kĩ năng tìm kiếm và khai thác tư liệu. Bên cạnh đó,

sinh viên cần tích cực tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học với chủ đề

về tư liệu lịch sử, hình thành và phát triển các năng lực trong dạy học. Thực

hiện tốt công việc này sẽ giúp sinh viên có được kĩ năng của nhà nghiên cứu

khoa học và cũng là dịp để trình bày và rút kinh nghiệm cho các ý tưởng sư

phạm của mình. Sinh viên sẽ trưởng thành hơn trong cả chuyên môn và

nghiệp vụ.

Vai trò của các trường Sư phạm cũng hết sức quan trọng vì việc đổi

mới PPDH ở trường THPT gắn liền với việc đổi mới phương pháp đào tạo ở

các trường Sư phạm. Các trường sư phạm cần làm tốt công tác giáo dục về

mặt nhận thức.Trong quá trình giảng dạy, bên cạnh việc trang bị cho sinh viên

cơ sở lý luận vững chắc về việc khai thác, xây dựng và sử dụng tư liệu lịch

sử, cần đặc biệt lưu ý đến việc giới thiệu các nguồn tư liệu để sinh viên có thể

tự khai thác, tìm hiểu. Từ đó, sinh viên nghiên cứu, nảy sinh các ý tưởng,

sáng kiến sư phạm giúp cho quá trình dạy học sau này trở nên thú vị và nhẹ

nhàng hơn.

Ngoài ra, HS cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện đổi

mới phương pháp sử dụng TLHV vào dạy học Lịch sử.HS thời nay rất năng

động thế nên việc tiếp cận cái mới đối với các em rất dễ dàng nhất là những

ứng dụng về công nghệ thông tin và áp dụng những thứ mới. Và quan trọng

hơn là HS phải có một tư tưởng đúng đắn trọng việc học đặc biệt đối với môn

Lịch sử, từ đó vun đắp được tình yêu đối với bộ môn Lịch sử và sẽ mở rộng là

tình yêu quê hương, đất nước.

Nói chung cho dù đổi mới như thế nào thì việc đổi mới đó cũng phải

thực sự gắn liền với đổi mới các hoạt động học tập, đổi mới cách tổ chức hoạt

động học tập ở trường phổ thông. Yêu cầu quan trọng nhất của đổi mới hoạt

động dạy học là người học phải là trung tâm của hoạt động, tham gia một

89

cách tích cực vào các hoạt động học tập dưới sự hướng dẫn của GV đặc biệt

là khi chúng ta đang dần đi đến đổi mới cả hệ thống giáo dục.

90

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2011),Luật Giáo dục (đã được sửa đổi bổ

sung năm 2009), NXB Lao động, Hà Nội.

2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006),Ứng dụng công nghệ thông tin trong

dạy học ở trường phổ thông Việt Nam, Hà Nội.

3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2015), Dự thảo chương trình giáo dục phổ

thông tổng thể.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997),Văn kiện hội nghị lần thứ Hai, Ban

chấp hành Trung ương Đảng lần thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

5. Nguyễn Thị Côi (2006), Các con đường, biện pháp nâng cao hiệu quả

dạy học lịch sử ở trường phổ thông, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội.

6. Nguyễn Thị Côi – Nguyễn Quốc Vƣơng, “Kinh nghiệm tiến hành giờ

học Lịch sử của Kato Kimiaki ở trường Phổ thông Nhật Bản”,Tạp chí Giáo

dục, số 290, 2012.

7. Nguyễn Văn Cƣờng (2010), Một số vấn đề chung về ddooori mới

phương pháp dạy học ở trường trung học phổ thông.

8. N.G. Đairi (1973), Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào?, NXB Giáo

dục, Hà Nội.

9. Hội giáo dục Lịch sử (Thuộc Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam)

(1996), Đổi mới việc dạy học Lịch sử lấy “HS là Trung tâm”, Đại học Quốc

gia – Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

10. N.M. Iakovlev(1983), Phương pháp và kĩ thuật lên lớp trong trường

phổ thông tập 1, NXB Giáo dục.

11. Vũ Quang Hiển – Hoàng Thanh Tú (2014), Phương pháp dạy học

môn Lịch sử ở trường phổ thông,NXB Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.

12. I.F. Kharlamôp (1979), Phát huy tính tích cực học tập của HS như thế

nào?, NXB Giáo dục.

13. Phan Ngọc Liên (chủ biên), Nguyễn Thị Côi, Trịnh Đình Tùng

(2012), Phương pháp dạy học Lịch sử, Tập 1, 2. Nxb ĐHSP, Hà Nội.

91

14. Phan Ngọc Liên, Trịnh Đình Tùng (1999), Phát huy tính tích cực của

HS trong dạy học lịch sử ở THCS. Nxb Giáo dục, Hà Nội.

15. Phan Ngọc Liên (chủ biên) (2008), Đổi mới nội dung và phương pháp

dạy học lịch sử ở trường phổ thông. Nxb ĐHSP, Hà Nội.

16. Phan Ngọc Liên (chủ biên), (2013), Sách giáo khoa Lịch sử lớp 12,

chương trình chuẩn.Nxb Giáo dục, Hà Nội.

17. Phan Ngọc Liên, Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị Côi, Trần Vĩnh

Tƣờng (2002), Một số chuyên đề phương pháp dạy học lịch sử, NXB Đại học

Quốc gia.

18. Phan Ngọc Liên (chủ biên) (2003), Phương pháp luận sử học, NXB

Đại học Sư phạm Hà Nội.

19. Phan Ngọc Liên (chủ biên) (2008), Phương pháp dạy học lịch sử tập

1, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội.

20. Phan Ngọc Liên (chủ biên) (2008), Phương pháp dạy học lịch sử

tập2, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội

21. Mai Ngọc Luông (2004),“Đổi mới phương pháp giảng dạy bộ môn

Lịch sửở bậc trung học – một yêu cầu bức thiết hiện nay”, Kỷ yếu hội thảo

Đổi mới phương pháp dạy học ở bậc trung học,Trường Đại học Sư phạm TP.

HCM.

22. A.P.Primacôpxki (1978), “ Phương pháp đọc sách”, NXB Giáo dục.

23. Hà Văn Tấn (2008), Một số vấn đề lí luận sử học, NXB Đại học Quốc

gia Hà Nội.

24. Bùi Thiết (1999), Đối thoại sử học, NXB Thanh niên Hà Nội. Thái

Duy Tuyên (1998), Những vấn đề cơ bản giáo dục học hiện đại, NXB Giáo

dục

25. Phạm Hồng Việt (1992), Nghiên cứu và giảng dạy lịch sử, NXB

Thuận Hóa.

26. Nguyễn Nhƣ Ý (2002),Từ điển tiếng Việt thông dụng. NXB Giáo dục,

Hà Nội

92

27. Lƣơng Ninh, Nguyễn Thị Côi (1988), “Kinh nghiệm Đairi với việc

dạy học môn sử”, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 8.

28. Nghiêm Đình Vỳ (1993), “Vấn đề đổi mới chương trình và nội dung

giảng dạy lịch sử hiện nay”, Tạp chí nghiên cứu Lịch sử, số 3.

* Tài liệu Internet

http://www.btlsqsvn.org.vn/tabid/89/post/4220/Chiec-coi-cua-me-Truong-

Thi-Du.aspx

http://www.btlsqsvn.org.vn/tabid/89/post/4290/Chi-thi-Phai-pha-tan-

cuoc-tan-cong-mua-dong-cua-giac-Phap.aspx

http://www.btlsqsvn.org.vn/tabid/89/post/4192/Xac-tau-chien-Phap-va-

ky-uc-cua-nguoi-Cuu-chien-binh-Song-Lo.aspx

http://www.btlsqsvn.org.vn/tabid/89/post/4148/Buc-thu-gui-Cha-Ho.aspx

http://www.btlsqsvn.org.vn/tabid/89/post/3129/Sung-tieu-lien-cac-chien-

si-Trung-doan-Thu-do-tieu-diet-dich-tai-nha-Xo-va-ngay-6-thang-2-

nam-1947.aspx

93

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Bảng kháo sát giáo viên

PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN GIÁO VIÊN

Kính chào Thầy (Cô)

Để góp phần thực hiện thành công đề tài nghiên cứu” Đổi mới phương

pháp sử dụng tư liệu hiện vật trong dyaj học lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946

– 1954 ở trường trung học phổ thông”, em rất mong nhận được sự giúp đỡ

của các Thầy/Cô. Thông tin thu thập được giữ bí mật và chỉ phục vụ mục đích

nghiên cứu

Em xin chân thành cảm ơn!

Thông tin cá nhân (không bắt buộc)

Họ và tên

Giáo viên trường

Số năm công tác

Hãy đánh dấu X vào ô trống có câu trả lời phù hợp với thầy (Cô)

Câu 1: Theo thầy (cô) việc sử dụng tư liệu hiện vật trong dạy học lịch

sử có cần thiết không?

Rất cần thiết.

Cần thiết

Không cần thiết

Câu 2: Thầy (cô) thường sử dụng tư liệu hiện vật trong bài dạy như

thế nào?

Dùng tư liệu hiện vật để giúp người học tạo biểu tượng.

Dùng tư liệu hiện vật như một hình ảnh minh hoạ.

Dùng tư liệu hiện vật để định hướng mở đầu bài học.

Dùng tư liệu hiện vật để kiểm tranh đánh giá trong giờ học.

94

Câu 3: Trong quá trình dạy học lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954

thầy (cô) có thường xuyên dùng tư liệu hiện vật không?

Thường xuyên

Thỉnh thoảng

Ít khi

Không bao giờ

Câu 4: Theo thầy (cô), việc sử dụng tư liệu hiện vật vào bài học có

tác dụng gì?

Làm cho HS hứng thú học tập hơn

Rèn luyện kỹ năng thực hành, tư duy HS.

Giúp HS khắc sâu hơn bản chất của sự kiện lịch sử.

Tạo biểu tượng cho HS

Câu 5: Theo thầy (cô) mức độ hiểu quả của việc sử dụng tư liệu hiện

vật vào dạy học ra sao?

Mức độ Rất hiệu Hiệu Bình Ít hiệu quả Không

quả quả thƣờng hiệu

quả

Làm cho HS

hứng thú

học tập hơn

Rèn luyện

kỹ năng

thực hành,

tƣ duy HS.

Giúp HS

khắc sâu

hơn bản

chất của sự

95

kiện lịch

sử.

Tạo biểu

tƣợng cho

HS

Câu 6: Thuận lợi và khó khăn của Thầy (cô) khi sử dụng tư liệu hiện

vật trong dạy học lịch sử là:

6.1 Thuận lợi

Được trang bị đầy đủ tài liệu, phương tiện trong dạy học

Kiến thức, các tài liệu thuận lợi trong việc tìm hiểu, liên hệ

Người học hợp tác và cố gắng khi làm việc

Thuận lợi khác: ...................................................................................

6.2 Khó khăn

Tốn nhiều thời gian để biên soạn và tìm tư liệu hiện vật.

Tài liệu tham khảo cho giáo viên để sử dụng tư liệu hiện vật hạn

chế

Khó khăn khác: .................................................................................

Câu 7: Thầy (Cô) có đề xuất gì cho sử dụng tư liệu lịch sử vào dạy

học lịch sử một cách hiệu quả nhất.

Về phía nhà trường: .....................................................................................

.........................................................................................................................

Về phía giáo viên: .........................................................................................

.......................................................................................................................

Xin chân thành cảm ơn quý Thầy (Cô)

96

Phụ lục 2: Bảng khảo sát HS

PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN HS

Các bạn HS thân mến!

Để góp phần thực hiện thành công đề tài nghiên cứu “đổi mới phƣơng

pháp sử dụng tƣ liệu hiện vật trong dạy học lịch sử Việt Nam thời kỳ

1946 – 1954 ở trƣờng trung học phổ thông”, cô rất mong nhận được sự

giúp đỡ của các bạn. Thông tin thu thập được giữ bí mật và chỉ phục vụ mục

đích nghiên cứu.

Chân thành cảm ơn!

Thông tin cá nhân (không bắt buộc):

Họ và tên

Trường:

Bạn đánh dấu X vào câu trả lời phù hợp với

Câu 1: Mức độ hứng thú của bạn đối với môn học Lịch sử nhƣ thế

nào?

z Bình thường

Rất hứng thú

Không hứng thú

Câu 2: Khi học lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954, bạn có đƣợc

giáo viên giới thiệu hoặc giảng về một tƣ liệu hiện vật không? (tƣ liệu

hiện vật là đồ vật, di tích còn lại nằm ở dƣới lòng đất hoặc trên mặt đất)

Thường xuyên

Thình thoảng

Chưa bao giờ

Câu 3: Khi học lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954, bạn có đƣợc giáo

viên giao nhiệm vụ làm việc hoặc tìm hiểu về tƣ liệu hiện vật không?

Thường xuyên

Thỉnh thoảng

Chưa bao giờ

97

Câu 4: Theo bạn, ngoài cách đến bảo tàng để học, còn có cách nào

khác giúp bạn có thể học tập với nguồn tƣ liệu này.

Chụp ảnh tư liệu hiên vật đó chiếu lên slide

Làm phim về tư liệu đó

Xây dựng website chuyên cung cấp thông tin về các tư liệu hiện vật.

Câu 5: Nếu đƣa tƣ liệu hiện vật vào dạy học bạn muốn đƣợc:

Tự tìm hiểu ở nhà không cần hướng dẫn rồi lên thuyết trình

Được giáo viên hướng dẫn và gợi ý rồi thuyết trình

Được cung cấp thông tin về tư liệu trước khi đến lớp

Giáo viên tự trình bày.

Câu 6: Theo bạn, việc sử dụng tƣ liệu hiện vật trong dạy học lịch sử

có tác dụng:

Làm cho HS hứng thú học tập hơn

Giúp HS khắc sâu hơn bản chất của sự kiện lịch sử.

Rèn luyện kỹ năng thực hành và phát triển tư duy người học.

Giúp tạo biểu tượng cho HS

Câu 7: Theo bạn, mức độ hiệu quả khi giáo sử dụng tư liệu hiện vật

vào dạy học như thế nào?

Mức độ Rất hiệu Hiệu Bình Ít hiệu Không

quả quả thƣờng quả hiệu quả

Làm cho

HS hứng

thú học tập

hơn

Rèn luyện

kỹ năng

thực hành,

tƣ duy HS.

98

Giúp HS

khắc sâu

hơn bản

chất của sự

kiện lịch

sử.

Tạo biểu

tƣợng cho

HS

Câu 8: Khi tìm hiểu bài mà giáo viên có sử dụng tƣ liệu hiện vật

trong dạy học bạn thấy khó khăn gì?

Không có tài liệu

Không xác định được kiến thức trọng tâm

Không hiểu

Câu 9: Bạn có đề xuất gì để đƣa nguồn tƣ liệu hiện vật vào dạy học

lịch sử một cách hiệu quả nhất?

…………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………

………………………………

Cảm ơn các bạn !

Phụ lục 3: bài kiểm tra sau thực nghiệm

Bài kiểm tra (5 phút)

Câu 1: Ý kiến nào dưới đây không phải là âm mưu của thực dân Pháp khi tấn

công lên Việt Bác trong Thu – Đông năm 1947?

99

A. Đánh phá căn cứ địa Việt Bắc, tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến,

tiêu diệt bộ đội chủ lực của ta.

B. Giành thắng lợi quân sự, tiến tới thành lập chính phủ bì nhìn, nhanh

chóng kết thúc chiến tranh.

C. Triệt đường liên lạc quốc tế của ta.

D. Cô lập căn cứ địa Việt bắc với các liên khu III, IV.

Câu 2: Ý nghĩa quan trọng nhất của chiến thắng Việt bắc Thu – Đông năm

1947 là:

A. Cuộc phản công lớn đầu tiên của quân dân ta giành thắng lợi.

B. Chứng tỏ sự trưởng thành vượt bậc của quân ta.

C. Chứng tỏ khả năng của quân dân ta có thể đẩy lùi những cuộc tiến công

quân sự lớn của địch.

D. Đánh bại hoàn toàn chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của địch,

buộc chúng phải chuyển sang đánh lâu dài với ta, đưa cuộc kháng chiến

sang giai đoạn mới.

Câu 3: Sau khi thất bại ở Việt Bắc thực dân Pháp thực hiện âm mưu

A. Đánh lâu dài, dùng người Việt trị người Việt.

B. Đánh lâu dài với ta.

C. Dùng nười Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh.

D. Đánh lâu dài, dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi

chiến tranh.

Câu 4: Ý nào dưới đây không phải là thuận lợi của cuộc kháng chiến khi bước

sang năm 1950?

A. Mỹ từng bước can thiệp sâu vào cuộc chiến tranh Đông Dương.

B. Cách mạng Trung Quốc thành công, nước Cộng hoà Nhân dân Trung

Hoa ra đời.

C. Trung Quốc, Liên Xô công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với nước ta.

D. Các nước xã hội chủ nghĩa ông nhận và đặt quan hệ ngoại giao với

nước ta.

100

Câu 5: Ý nào dưới đây không phải nội dung trong kế hoạch Rơve (1950) của

thực dân Pháp?

A. Khoá chặt biên giới Việt – Trung bằng cách tăng cường hệ thống phòng

ngự trên đường số 4.

B. Thiết lập “hành lang Đông – Tây” nhằm cô lập căn cứ địa Việt Bắc.

C. Chuẩn bị một kế hoạch quy mô lớn tấn công lên Việt Bắc lần thứ hai để

nhanh chóng kết thúc chiến tranh.

D. Tăng cường những cuộc hành quân, càn quét bắt người, cướp của.

Câu 6: ý nào sau đâu không phải là mục tiêu khi ta mở chiến dịch Biên giơi?

A. Tiêu diệt bộ phận quan trọng sinh lực địch.

B. Giam chân dịch ở vùng rừng núi, tạo điều kiện cho quân ta mở các đợt

tiến công lớn ở đồng bằng.

C. Mở đường liên lạc với Trung Quốc và thế giới dân chủ.

D. Mở rộng, củng cố căn cứ địa Việt Bắc, tạo điều kiện thuận lợi mới thúc

đẩy cuộc kháng chiến tiến lên.

Câu 7: Ý nghĩa lớn nhất của chiến thắng Biên giới Thu – Đông năm 1950 là:

A. Cuộc tấn công lớn đầu tiên của quan ta giành thắng lợi.

B. Chứng tỏ quân đội ta đã trưởng thành.

C. Chứng minh sự vững chắc cuả căn cứ địa Việt Bắc.

D. Ta giành được thế chủ động trên chiến trường chính, mở ra bước phát

triển mới của cuộc kháng chiến của ta.

Phụ lục 4: Giáo án thực nghiệm

PHẦN HAI LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ NĂM 1919 ĐẾN NĂM 2000

CHƢƠNG III. VIỆT NAM TỪ NĂM 1945 ĐẾN NĂM 1954

BÀI 18: NHỮNG NĂM ĐẦU CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN TOÀN

QUỐC CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1946 - 1950)

101

(tiết 2)

I. Mục tiêu

1.Kiến thức

- Trình bày được âm mưu của Pháp khi tấn công lên căn cứ Việt - Bắc.

- Giải thích được nguyên nhân tại sao Pháp đánh lên Việt Bắc năm

1947. Diễn biến chính, kết quả và ý nghĩa lịch sử của chiến dịch.

- Lý giải nguyên nhân tại sao Đảng ta lại chủ động mở chiến dịch tân

công lên biên giới vào năm 1950.

- Phân tích được ý nghĩa của việc ta chủ động mở chiến dịch biên giới

1950.

2. Về thái độ, tình cảm, tư tưởng:

- Giáo dục lòng căm thù thực dân Pháp.

- Học tập tinh thần yêu nước, ý chí bất khuất của nhân dân trong cuộc

đấu tranh bảo vệ độc lập của Tổ quốc.

- Củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

3. Kỹ năng:

- Củng cố kĩ năng phân tích, đánh giá các sự kiện để rút ra những nhận

định lịch sử.

- Rèn luyện kĩ năng sử dụng tranh, ảnh và lược đồ lịch sử để nhận thức

lịch sử.

II. Chuẩn bị giáo cụ

- Tranh, ảnh các hiện vật về chiếc dịch Việt Bắc 1947, lược đồ liên

quan đến hai chiến dịch Việt Bắc Thu – Đông và Biên giới Thu – Đông….

III. Tiến trình lên lớp

1. Kiểm tra bài cũ.

Nhắc lại cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ thông qua bức ảnh chỉ thị

“Toàn quốc kháng chiến” của Hồ Chí Minh.

2. Bài mới:

102

GV sử dụng máy chiếu, chiếu hình ảnh chiếc xe thồ của anh Ma

Văn Thắng (hình ảnh được chụp tại Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam) và

hình ảnh một máy bay mà Pháp sử dụng trong chiến tranh Việt Nam thời kỳ

này để mở đầu định hướng bài học bằng câu hỏi:

1: Ta đã chuẩn bị như thế nào cho trận quyết chiến của thực dân Pháp.

2: Hình ảnh chiếc xe thồ có ý nghĩa như thế nào đối với cuộc tiến công

chiến lược Đông – Xuân 1953 – 1954 của ta khi Pháp đem rất nhiều loại vũ

khí và phương tiện vận tải tối tân như vậy? (phụ lục)

3. Tiến trình tổ chức dạy - học.

Các hoạt động của thầy và Kiến thức cơ bản cần nắm trò

Hoạt động 1. III – Chiến dịch việt bắc thu –

GV: Đánh lâu dài là chủ đông năm 1947 và việc đẩy mạnh

trương được Đảng xác định trong kháng chiến toàn dân, toàn diện

đường lối kháng chiến chống 1. Chiếc dịch Việt Bắc thu -

Pháp. Vậy, để kháng chiến lâu dài đông năm 1947

ta phải làm gì? Nêu dẫn chứng cụ Âm mưu của Pháp

Pháp tấn công Việt Bắc nhằm thể?

nhanh chóng kết thúc chiến tranh. ? Tại sao khi tản cư khỏi

các thành phố ta lại phá hủy toàn Chủ trương của Đảng

Đảng có chỉ thị “Phải phá tan bộ nhà cửa, đường xá, cầu

cống…? cuộc tấn công mùa đông của giặc

Pháp”. ? Sự chuẩn bị trên có ý

nghĩa như thế nào? (lúc này GV Diễn biến

quay lại hình ảnh định hướng bài - Ngày 7 – 10 – 1947, Pháp huy

học gợi ý học sinh so so sánh jai động 12.000 quân tấn công lên Việt

loại phương tiện vận tải của ta và Bắc

Pháp sử dụng, để làm nổi lên sự - Binh đoàn quân dù chiếm thị

103

thông minh tinh thần hòa bình dân xã Bắc Kạn, Chợ Mới

tộc của nhân dân ta có thể chiến - Bộ binh từ Lạng Sơn theo

thắng mọi kẻ thù. Đường số 4 đánh Cao Bằng, xuống

Bắc Kạn theo Đường số 3, bao vây

Hoạt động 2: Việt Bắc ở phía đông và phía bắc.

GV: Do không thực hiện - Ngày 9 – 10 – 1947, binh đoàn

được âm mưu đánh nhanh thắng bộ binh và lính thủy từ Hà Nội ngược

nhanh, trong khi đang gặp khó sông Hồng và sông Lô lên Chiêm Hóa,

khăn về kinh tế tài chính, sự lên án Tuyên Quang, đánh Đài Thị bao vây

của lực lượng tiến bộ nên Pháp đã Việt Bắc ở phía tây.

thực hiện âm mưu mới. Âm mưu - Trên khắp các mặt trận, quân

dân ta anh dũng chiến đấu, từng bước của Pháp lúc này là gì? vì sao?

Sau khi HS trả lời GV nhận đẩy lùi cuộc tiến công của địch.

xét, đồng thời giúp các em hiểu tại - Tại Bắc Kạn, Chợ Mới địch

sao tấn công lên VB lại nhanh vừa nhảy dù đã bị ta tiêu diệt buộc

chóng kết thúc chiến tranh. Pháp phải rút khỏi Chợ Đồn, Chợ Rã

cuối tháng 11 – 1947.

GV trình bày diễn biến kết - Ở mặt trận hướng đông, quân

hợp bản đồ giúp HS thâý được kế ta phục kích chặn đánh địch trên

hoạch 2 gọng kìm của Pháp: Đường số 4, tiêu biểu là trận phục kích

ở đèo Bông Lau (30 – 10 – 1947). ? Trƣớc âm mƣu kế hoạch

- Ở mặt trận hướng tây, quân trên của Pháp ta đối phó nhƣ thế

dân ta phục kích đánh địch nhiều trận nào?

GV đưa ra hình ảnh TLHV trên sông Lô, nổi bật là trận Đoan

là chiếc dù của Thực dân Pháp để Hùng, Khe Lau, đánh chìm nhiều tàu

HS cùng tìm hiểu nội dung bài chiến, canô của địch.

học. (phụ lục) - Ngày 19 – 12 – 1947, đại bộ

phận quân Pháp rút khỏi Việt Bắc.

- Ta đã lợi dung triệt để địa hình để có thể tiêu diệt nhiều nhất

104

sinh lực địch có thể. Kết quả

Kết quả của chiến dịch là : - Quân dân ta loại khỏi vòng

- Ta diệt hơn 6.000 tên, 16 chiến đấu hơn 6.000 địch, bắn rơi 16

máy bay, 11 tàu chiến và ca nô, máy bay, bắn chìm 11 tàu chiến, canô,

hàng trăm xe quân sự bị phá. phá hủy nhiều phương tiện chiến

- Căn cứ Việt Bắc và cơ tranh.

quan đầu nảo của ta vẫn an toàn, - Cơ quan đầu não kháng chiến

bộ đội trưởng thành uy tín của được bảo toàn.

Chính phủ lên cao. - Bộ đội chủ lực của ta đã

- Ta đánh bại kế hoạch đánh trưởng thành.

nhanh thắng nhanh của Pháp buộc Ý nghĩa

Pháp phải đánh lâu dài với ta. - Với chiến thắng Việt Bắc thu -

đông 1947, cuộc kháng chiến toàn

? Tại sao lúc này Pháp thực quốc chống thực dân Pháp xâm lược

hiện chính sách “dùng người Việt chuyển sang giai đoạn mới

đánh người Việt, lấy chiến tranh - Pháp buộc phải thay đổi chiến

nuôi chiến tranh”? lược chiến tranh ở Đông Dương, từ

“đánh nhanh, thắng nhanh” sang

Hoạt động: “đánh lâu dài”, thực hiện chính sách

? Sau chiến thắng Việt Bắc “dùng người Việt đánh người Việt, lấy

thu – đông Đảng ta có chủ trương chiến tranh nuôi chiến tranh”.

gì để đẩy mạnh kháng chiến toàn 2. Đẩy mạnh kháng chiến toàn

dân toàn diện? dân, toàn diện (Đo ̣c thêm).

GV giải thích: vùng sau

lưng địch, chiến tranh du kích IV – Hoàn cảnh lịch sử mới và

chiến dịch biên giới thu đông năm

? Nêu ý nghĩa của những 1950

chủ trƣơng trên? 1. Hoàn cảnh lịch sử mới của

Củng cố chính quyền vững

105

mạnh, xây dựng hậu phương vững cuộc kháng chiến

chắc chuẩn bị bước vào giai đoạn Thuận lợi

mới của cuộc kháng chiến. - Ngày 1 – 10 – 1949, Cách

mạng Trung Quốc thành công, nước

CHND Trung Hoa ra đời. Hoạt động:

- Tháng 1 – 1950, lần lượt các

nước xã hội chủ nghĩa công nhận và ? Cách mạng TQ thành

đặt quan hệ ngoại giao với nước ta. công ảnh hưởng đến cách mạng

nước ta như thế nào ? Khó khăn

Đầu tiên là TQ rồi đến LX Tháng 5 – 1949, với sự đồng ý

và các nước trong phe XHCN lần của Mĩ, chính phủ Pháp đề ra kế hoạch

lượt công nhận và đặt quan hệ Rơve:

ngoại giao với ta + Pháp tăng cường phòng ngự

trên Đường số 4 nhằm khoá chặt biên ? Việc các nước XHCN

giới Việt – Trung công nhận và đặt quan hệ ngoại

+ Thiết lập “Hành lang Đông- giao với ta có nghĩa gì?

Tây” nhằm cô lập Việt Bắc với liên ? Nội dung kế hhoạch Rơ

khu III, IV. ve?

Với việc giúp Pháp qua kế 2. Chiến dịch Biên giới thu -

hoạch Rơve Mĩ can thiệp ngày đông năm 1950

càng sâu vào cuộc chiến tranh ở Chủ trương ta

Đông Dương Tháng 6 – 1950, Đảng và chính

phủ quyết định mở chiến dịch Biên

giới nhằm: Hoạt động:

- Tiêu diệt một bộ phận quan ? Trƣớc âm mƣu trên của

trọng sinh lực địch.

Pháp Đảng ta có chủ trƣơng gì? Gv giúp HS tìm ra đâu là - Khai thông biên giới Việt –

chủ trương cơ bản nhất Trung

106

GV trình bày diễn biến kết - Mở rộng và củng cố căn cứ địa

hợp bản đồ Việt Bắc.

GV: chỉ bản đồ đồng thời Diễn biến

đặt câu hỏi vì sao ta đánh Đông - Sáng 16 – 9 – 1950, ta tấn

Khê để mở màn chiến dịch. công cụm cứ điểm Đông Khê, mở màn

Đoán được ý định trên nên chiến dịch. Sáng 18 – 9, ta chiếm

ta mai phục chặn đánh địch ở Đông Khê, Đường số 4 bị cắt làm hai

nhiều nơi khiến cho 2 cánh quân Thất Khê bị uy hiếp, Cao Bằng bị cô

này không gặp được nhau lập.

- Pháp một mặt cho quân đánh

lên Thái Nguyên nhằm mục đích giảm

bớt sự chú ý của ta, mặt khác đưa quân

từ Thất Khê lên để chiếm lại Đông

Khê đón quân từ Cao Bằng rút về. ? Kết quả quan trọng nhất

- Trên Đường số 4 quân ta mai của chiến dịch là gì?

phục, chặn đánh địch khiến cho các

cánh quân không gặp được nhau. ? Kết quả trên có đạt được

- Pháp hoản loạn, phải rút chạy. so với mục tiêu đề ra không?

Gv sơ kết bài học Đến 22 – 10 – 1950, Đường 4 được

hoàn toàn giải phóng. HS nghe và ghi chép.

- Tại Thái Nguyên ta cũng đánh

tan cuộc hành quân của địch.

Kết quả

- Ta loại khỏi vòng chiến đấu

hơn 8.000 quân địch giải phóng 1

vùng biên giới Việt-Trung từ Cao

Bằng tới Đình Lập dài 750km, với 35

vạn dân.

107

- Chọc thủng “Hành lang Đông

- Tây” của Pháp, kế hoạch Rơve bị phá

sản. Mở rộng và củng cố căn cứ địa

Việt Bắc.

Ý nghĩa

- Đường liên lạc của ta với các

nước xã hội chủ nghĩa được khai

thông.

- Bộ đội ta trưởng thành.

- Quân đội ta giành được thế

chủ động trên chiến trường chính (Bắc

Bộ).

- Mở ra bước phát triển mới của

cuộc kháng chiến

4. Tổng kết bài học.

GV gợi ý học sinh để học sinh hoàn thành hai câu hỏi đầu tiên ở bài

học, giúp học sinh có ánh nhìn tổng quan về nội dung bài và hình thành tư

duy so sánh bằng các câu hỏi sau:

Bước vào Đông – xuân 1953 – 1954 Pháp – Mỹ phải tìm một -

chiến thắng để kể thúc chiến tranh trong danh dự vì lý do gì?

Theo em, phương tiện vận tải và vũ khí hiện đại có quyết định -

được trước mọi chiến thắng về quân sự hay không. Tại sao?.

5. Dặn dò chuẩn bị bài tiếp theo.

- HS tìm hiểu những hành động của Mỹ chứng tỏ ngày càng nhúng tay

sâu vào chiến tranh Việt Nam nói riêng và chiến tranh Đông dương nói

chung.

108

Phụ lục:

Hình ảnh chiếc xe thồ của anh Ma Văn Thắng.

109

Hình ảnh máy bay Pháp sử dụng trong chiến tranh Việt Nam.

110

111

Dù do Trung đoàn 57, Đại đoàn 304 thu được của Pháp

112