ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
NGUYỄN THỊ CHINH NƢƠNG
ĐỔI MỚI PHƢƠNG PHÁP SỬ DỤNG TƢ LIỆU HIỆN VẬT VÀO
DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM THỜI KỲ 1946 – 1954
Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM LỊCH SỬ
HÀ NỘI- 2017
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
NGUYỄN THỊ CHINH NƢƠNG
ĐỔI MỚI PHƢƠNG PHÁP SỬ DỤNG TƢ LIỆU HIỆN VẬT VÀO
DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM THỜI KỲ 1946 – 1954
Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM LỊCH SỬ
Chuyên ngành: LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC
(BỘ MÔN LỊCH SỬ)
Mã số: 8 14 01 11
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Lƣơng Quang Hiển
HÀ NỘI- 2017
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được luận văn này, cho tôi xin tỏ lòng biết ơn chân thành và
sâu sắc nhất đến thầy giáo: TS. Lương Quang Hiển - người đã trực tiếp hướng
dẫn, tận tình chỉ bảo và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình hoàn thành luận văn.
Đồng thời tôi xin chân thành cảm ơn tới khoa Sư phạm và Ban giám hiệu
trường Đại học Giáo dục- Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi được
học tập và nghiên cứu.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô giáo, các em HS của
trường THPT Ba Vì, THPT Minh Quang (Ba Vì, Hà Nội), THPT Giao Thủy
B (Giao Thủy – Nam Định) đã giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn.
Tôi cũng gửi lời chân thành cảm ơn đến bạn học đại học đã hỗ trợ máy tính
cho tôi trong lúc gặp khó khăn để tôi có thể hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình và bạn bè đã luôn động viên,
giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu khoa học.
Hà Nội, ngày 28 tháng 10 năm 2017
Học viên
Nguyễn Thị Chinh Nương
i
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DHLS Dạy học Lịch sử
GD - ĐT Giáo dục và đào tạo
GV Giáo viên
HS HS
THPT Trung học phổ thông
TLHV Tư liệu hiện vật
ii
MỤC LỤC
Lời cảm ơn ......................................................................................................... i
Danh mục chữ viết tắt ....................................................................................... ii
Danh mục bảng.................................................................................................. v
Danh mục biểu đồ ............................................................................................ vi
Danh mục hình ................................................................................................ vii
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: .................................................................................................. 10
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC ĐỔI MỚI PHƢƠNG
PHÁP SỬ DỤNG TLHV VÀO DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAMTHỜI
KỲ 1946 - 1954 Ở TRƢỜNG THPT. .......................................................... 10
1.1. Cơ sở lí luận ............................................................................................ 10
1.1.1. Một số khái niệm ................................................................................... 10
1.2.1. Vai trò, ý nghĩa của việc đổi mới phương pháp sử dụng TLHV trong
dạy học lịch sử ở THPT .................................................................................. 14
1.3.1. Đặc trưng của việc dạy học lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 - 1954 và sự
cần thiết của việc đổi mới phương pháp sử dụng TLHV trong dạy học. ........ 17
1.2. Cơ sở thực tiễn ........................................................................................ 20
1.2.1. Thực trạng sử dụng TLHV lịch sử trong DHLS ở trường THPT ......... 20
1.2.2. Thực trạng đổi mới phương pháp sử dụng TLHV trong DHLS ở trường
THPT ...................................................................................................... 21
Tiểu kết chương 1 ............................................................................................ 34
CHƢƠNG 2:MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỔI MỚI SỬ DỤNG TLHV VÀO
DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM THỜI KỲ 1946 – 1954 Ở TRƢỜNG
THPT. THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM. ......................................................... 35
2.1. Vị trí, mục tiêu, nội dung cơ bản của phần lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946
– 1954 ............................................................................................................ 35
2.1.1. Vị trí ...................................................................................................... 35
2.1.2. Mục tiêu................................................................................................. 36
iii
2.2. Các TLHV cần và có thể khai thác, sử dụng trong dạy học lịch sử Việt
Nam thời kỳ 1946 – 1954 ................................................................................ 43
2.3. Yêu cầu và quy trình sử dụng TLHV vào dạy học lịch sử Việt Nam thời
kỳ 1946 – 1954 ................................................................................................ 60
2.3.1. Yêu cầu .................................................................................................. 61
2.3.2. Quy trình ............................................................................................... 63
2.4. Các biện pháp đổi mới phương pháp sử dụng TLHV vào dạy học lịch sử
Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954 ........................................................................ 64
2.4.1. Sử dụng TLHV để mở đầu định hướng bài học .................................... 64
2.4.2. Xây dựng hồ sơ TLHV và hướng dẫn HS khám phá, nghiên cứu các sự
kiện lịch sử ...................................................................................................... 68
2.4.3. TLHV được xây dưng thành một trang web để hỗ trợ quá trình dạy học
trên lớp và hướng dẫn học ở nhà. .................................................................... 70
2.4.4. Sử dụng TLHV để kiểm tra đánh giá. ................................................... 76
2.5. Thực nghiệm sư phạm .............................................................................. 78
2.5.1. Mục đích thực nghiệm .......................................................................... 78
2.5.2. Quy trình thực nghiệm .......................................................................... 78
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ............................................................... 87
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 91
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 94
iv
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1: Tổng hợp ý kiến của GV về mức độ hiệu quả khi sử dụng tư liệu
hiên vật vào DHLS. (% tính xấp xỉ) ................................................................ 25
Bảng 1.2: Tổng hợp ý kiến của HS về mức độ hiệu quả của việc sử dụng tư
liệu hiên vật vào dạy học ................................................................................. 30
v
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1.1: Các cách giáo viên sử dụng TLHV khi dạy học ........................ 24
Biểu đồ 1.2. Ý kiến của giáo viên về tác dụng của việc sử dụng TLHV vào
dạy học ............................................................................................................ 25
Biểu đồ 1.3: Những khó khăn của giáo viên khi sử dụng TLHV vào dạy học.
......................................................................................................................... 27
Biểu đồ 1.4. Mức độ sử dụng tưu liệu hiện vật vào dạy học của giáo viên .... 28
Biểu đồ 1.5. Mong muốn của HS khi sử dụng TLHV trong hoạt động học. .. 29
Biểu đồ 1.6. Khó khăn của HS khi học các tiết học có sử dụng TLHV ......... 31
Biểu đồ 2.1. Biểu điểm kiểm tra của lớp thực nghiệm 12A2 ......................... 82
Biểu đồ 2.2. Biểu điểm kiểm tra lớp đối chứng .............................................. 83
vi
DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1. Lá cờ “Quyết tử quân” .................................................................... 44
Hình 2.2. Bản chỉ thị “Phải phá tan cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp”
trưng bày trong phần Chiến dịch Việt Bắc Thu – Đông 1947 ........................ 46
Hình 2.3. Bức thư Bác Hồ gửi “Trung đoàn Sông Lô” trưng bày trong phần
Chiến dịch Việt Bắc Thu – Đông 1947 ........................................................... 49
Hình 2.4. Khẩu badôka do cán bộ, công nhân ngành Quân giới Việt Nam sản
xuất năm 1947 ................................................................................................. 51
(nguồn:http://www.btlsqsvn.org.vn) ............................................................... 51
Hình 2.5. Sách "Chính sách ruộng đất của Đảng". ......................................... 53
Hình 2.6. Sách "bổ sung chỉ thị 37 về chính sách ruộng đất của Đảng" Ban
chấo hành Trung Ương Đảng xuất bản năm 1952 .......................................... 54
Hình 2.7. Chiếc cối của Mẹ Việt Nam anh hùng Trương Thị Dư .................. 55
Hình 2.9. Đôi bồ và chiếc đòn gánh này cũng đã góp công trong Chiến dịch 56
Hình 2.10. dép lốp cao su của chiến sĩ Điện Biên .......................................... 57
Hình 2.11. Pháo bộ bội ta đưa vào mặt trận .................................................... 57
Hình 2.12. Súng Cối 81mm của Pháp, bộ đội ta thu ở Điện Biên Phủ năm
1954 ................................................................................................................. 58
Hình 2.12. Súng phun lửa thực dân Pháp dùng ở Biên Biên Phủ ................... 58
Hình 2.13. Mìn nhảy vũ khí Pháp dùng ở Biện Biên ...................................... 59
Hình 2.14. Áo chống đạn của lính Pháp ta thu được ở Điên Biên Phủ .......... 59
Hình 2.15. Mũ sắt của lính Pháp bị ta thu ở chiên dịch Điện Biên Phủ. ........ 60
Hình 2.16. Xe đạp thồ, ông Ma Văn Thắng chở 10 chuyến lương thực với
trọng tải 375-400 kg, vượt đèo dốc phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ ......... 66
Hình 2.17. Guốc chèn pháo của Trung đoàn lựu pháo 45, Đại đoàn 351 tự chế
tạo để chèn bánh pháo (1/1954) ...................................................................... 69
Hình 2.18. Cuốc chim của Đại đội Công binh 83, Trung đoàn 151 ............... 72
Hình 2.19. Dây kéo pháo vượt dốc vào vị trí tập kết của Đại đoàn 351 ......... 74
Hình 2.20. Hình ảnh trang chủ web góc nhìn hiện vật ................................... 75
(nguồn: Chinh Nương) .................................................................................... 75
Hình 2.22. Dây thừng giật cò lựu pháo 105 mm sử dụng trong đợt tấn công
thứ nhất (3/1954). ............................................................................................ 77
vii
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đất nước ngày càng đi lên và phát triển kéo theo đó là những đòi hỏi về
giáo dục phổ thông phải đào tạo những con người phát triển toàn diện, phục
vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mỗi môn học ở nhà trường phổ
thông với đặc trưng của mình đều phải góp phần đào tạo thế hệ trẻ, trong đó
có môn Lịch sử.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam (Khóa VIII) đã nêu rõ:“Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo
dục – đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy
sáng tạo của người học” [1, tr.41]. Chính vì vậy dạy học lịch sử không chỉ là
cung cấp kiến thức một cách đơn thuần mà còn phải giúp người học phát triển
những kỹ năng những năng lực của bản thân trong quá trình học tập.
Đối với bất cứ nước nào, môn Lịch sử đều có chức năng quan trọng
trong đào tạo năng lực của HS, đào tạo con người có bản sắc dân tộc, có tư
duy độc lập sáng tạo. Riêng đối với Việt Nam, lịch sử càng giữ vai trò cực kỳ
quan trọng gắn liền với sự tồn vong của quốc gia - dân tộc. Đặc trưng của bộ
môn Lịch sử là những tri thức mang tính quá khứ, không thể tri giác một cách
trực tiếp như những tri thức khác.Yêu cầu đặt ra là cần nhìn nhận quá khứ
một cách khách quan, chân thực.Từ lịch sử thấy được quá khứ, thấy được quy
luật của xã hội loài người, soi vào lịch sử để có được tấm gương, rút ra bài
học kinh nghiệm cho cuộc sống hiện tại.Cho đến thời điểm hiện nay, giáo dục
lịch sử cần thiết phải cho HS tự đánh giá các vấn đề lịch sử trên cơ sở những
chứng cứ xác thực. Đó sẽ góp phần nâng cao chất lượng DHLS, làm cho HS
hứng thú và phát huy được khả năng vốn có của mình một cách năng động và
sáng tạo.
Hồ Chí Minh đã viết hai câu thơ mở đầu trong cuốn “Lịch sử nước
ta”(1941):
1
“ Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”
Tuy nhiên giai đoạn hiện nay thực trạng dạy học môn Lịch sử trong
trường phổ thông đang là vấn đề thời sự nóng hổi, luôn thu hút sự quan tâm
của xã hội… Trong những năm gần đây, chất lượng môn lịch sử của HS trung
học phổ thông ở nước ta ngày càng giảm sút. Môn lịch sử đang có nguy cơ
mất dần vị thế vốn có của nó,việc dạy học môn lịch sử gặp nhiều khó khăn.
Đó thực sự là những vấn đề đáng báo động do nhiều nguyên nhân khác nhau.
Dạy học là một hoạt động sáng tạo. Không có phương pháp, mô hình nào
là bất biến. Vấn đề HS chán học và “ngại” học bộ môn Lịch sử là do nhiều
nguyên nhân, do từ nhiều phía. Vậy GV phải là người biết tìm ra những
phương pháp mới để tạo cho HS tính chủ động nắm bắt, khai thác kiến thức,
say mê học tập.
Tuy nhiên, một thực tế đang diễn ra với bộ môn Lịch sử, HS tiếp cận với
tri thức lịch sử thông qua sự hiện đại hóa lịch sử, qua lăng kính của GV. Thực
tế cho thấy, HS không mấy mặn mà với phương pháp DHLS này hơn nữa từ
phía HS cho thấy đa phần các em coi môn Lịch sử là môn phụ, học đối phó,
HS không thích học lịch sử, chán học sử, sợ học sử thậm chí ghét nó và có
những hành động phản kháng… Việc đó sẽ trở nên ngày càng nghiêm trọng
hơn, nếu chúng ta không khắc phục được vị trí, vai trò của bộ môn Lịch sử
trong trường THPT và trong xã hội.Để có thể phát huy hết khả năng và nhiệm
vụ của bộ môn trong giáo dục giới trẻ, yêu cầu của xã hội đặt ra với bộ môn
Lịch sử ngày càng cấp thiết.
Xuất phát từ thực trạng việc học tập lịch sử hiện nay, … chúng ta cần
phải có nhận thức mới về bộ môn, về bài học lịch sử. Mỗi một bài học phải
đem đến cho HS niềm say mê học tập, có mong muốn, nhu cầu học tập, phải
đem đến cho HS niềm say mê trong học tập. Nói cách khác, nền giáo dục lịch
sử không đặt nặng trọng tâm vào kiến thức, mà phải đặt trọng tâm vào khơi
dậy đam mê của HS, kích thích tò mò, hứng thú, sáng tạo để các em có thể tự
2
tìm kiếm những gì không chỉ trong phạm vi kiến thức ở nhà trường, mà cả
kiến thức ngoài xã hội, để các em thấy rằng, mỗi ngày đến trường, mỗi một
bài học lịch sử đều có ích. Hơn nữa, một nền giáo dục, một bài học Lịch sử
như vậy không đặt nặng trọng tâm vào việc giúp HS tiếp nhận kiến thức của
bài học mà giúp người học nhận ra những năng lực, trí tuệ của mình.
Trong giảng dạy môn lịch sử lớp 12, giai đoạn kháng chiến chống thực
dân Pháp lần 2 thời kỳ 1946 - 1954 với nhiều sự kiện quan trọng mang dấu ấn
lịch sử. Bằng nhiều phương pháp để giáo viên truyền đạt bài giảng có hiệu
quả, từ trước tới nay giáo viên thường sử dụng phương pháp thuyết trình, phát
vấn, hoạt động nhóm...kết hợp với đồ dùng trực quan như tranh ảnh, lược
đồ,sơ đồ, phim tài liệu... Theo chúng tôi ngoài những phương pháp trên,
chúng ta có thể sử dụng nguồn TLHV vào trong dạy học Lịch sử Việt Nam
phần này.
Việc dạy và học Lịch sử trong trường phổ thông phải dựa trên những sự
kiện có thật, những sự việc đã diễn ra trong quá khứ hoặc những chứng cứ về
sự tồn tại của các sự kiện lịch sử và quá khứ ấy một phần nằm trong nguồn
TLHV.
Việc sử dụng TLHV vào dạy học lịch sử sẽ tạo cho HS hứng thú trong
học tập, góp phần hình thành biểu tượng cho HS và một góc độ nào đó cho
HS là phát triển năng lực giải quyết vấn đề với những câu hỏi xung quanh
hiện vật. Vì thế, mục tiêu của giờ học lịch sử không chỉ cung cấp cho người
học những kiến thức lịch sử mà còn hướng đến sự hào hứng cho HS tự đi tìm
kiến thức ngoài sách giáo khoa.
Xuất phát từ những vấn đề trên chúng tôi chọn đề tài “đổi mới phương
pháp sử dụng TLHV vào dạy học lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954 ở
THPT”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nói đến vấn đề sử dụng hay đổi mới phương pháp sử dụng tư liệu lịch sử
vào DHLS thì đã có rất nhiều bài viết, bài nghiên cứu chuyên sâu, tập trung
3
đến vấn đề này. Mặc dù các bài nghiên cứu với mức độ và cách thức khác
nhau nhưng các tác giả đều nhấn mạnh vai trò và đưa ra các biện pháp cụ thể
nhằm sử dụng một cách hiệu quả tư liệu lịch sử vào dạy học lịch sử.
Sử dụng tư liệu lịch sử vào dạy học lịch sử là một đề tài nhận được khá
nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Những vấn đề về việc sử dụng tư
liệu lịch sử nói chung và sử dụng nguồn TLHV nói riêng đã và đang thu hút
được sự quan tâm nghiên cứu của các nhà nghiên cứu trên thế giới và ở Việt
Nam.
2.1. Lịch sử nghiên cứu ở nƣớc ngoài
Có khá nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài xoay
quanh vấn đề sử dụng và đổi mới phương pháp sử dụng tư liệu lịch sử vào
dạy học.
Như cuốn sách Dạy học trong bảo tàng (learning in the museum) của tác
giả George E. Hein, tác giả đề cập khá nhiều vấn đề trong cuốn sách như cách
học tại bảo tàng như thế nào, khai thác lý thuyết từ các tư liệu ở bảo tàng ra
sao, cho đến việc thăm quan kết hợp học tập phải đảm bảo những yếu tố gì
được tác giả trình bày khá kỹ lưỡng trong cuốn sách. Đặc biệt tác giả nhấn
mạnh việc khai thác nguồn TLHV trong bảo tàng và những lưu ý khi sử dụng
nguồn tư liệu này trong DHLS.
Hay công trình nghiên cứu Giảng dạy lịch sử vì lợi ích chung (Teaching
history for commom good) của Barton và Levstik, hai tác giả đã đề cập đến
việc thực hiện dạy những tiết học lịch sử tại các bảo tàng mà nguyên liệu
chính cho những tiết dạy đó chính là tư liệu lịch sử trong bảo tàng đang trưng
bày, thực tế lớp học như vậy sẽ làm cho việc sử dụng nhiều loại tư liệu thực tế
của người học được nâng cao, như vậy không chỉ tốt cho HS ở môn học mà
còn tốt trong đời sống thực tiễn.
Nhắc đến xung quanh vấn đề dạy học với tư liệu lịch sử thì nghiên cứu
History in danger của tác giả Mary Price tác giả đã khẳng định tất cả các nguồn
tài liệu, các bảo tàng (các dịch vụ bảo tàng đang làm công việc tuyệt vời trong
4
việc truyền đạt lịch sử đến với mọi người, đồng thời tác giả cũng nói đến việc
lựa chọn và sắp xếp các tài liệu để sử dụng trong các trường học là tốn kém và
thời gian thay vào đó có thể cho HS đến bảo tàng để học hơn nữa thậm chí có
thể để cho học viên làm việc sản xuất các bộ dụng cụ vật liệu để sử dụng trong
lịch sử theo cách của họ.
2.2. Lịch sử nghiên cứu ở trong nƣớc
Bên cạnh các nghiên cứu, bài viết của các tác giả nước ngoài xung quanh
vấn đề sử dụng tư liệu lịch sử vào dạy học thì cũng đã có rất nhiều nhà nghiên
cứu, học giả của Việt Nam quan tâm đến vấn đề này:
Trong cuốn “Phương pháp luận sử học” của Phan Ngọc Liên (chủ biên),
NXB Đại học Sư phạm Hà Nội, 2011, tác giả đã xác định vị trí, vai trò của tư
liệu trong học tập và nghiên cứu lịch sử.
Tập thể các tác giả cuốn giáo trình “Phương pháp dạy học lịch sử”, tập
II, Phan Ngọc Liên (chủ biên) NXB Đại học Sư phạm Hà Nội, 2010, cũng đề
cập đến vấn đề sử dụng tài liệu tham khảo trong DHLS.Ở đó, có nhắc đến tài
liệu lịch sử và vai trò của nó là dùng để làm dẫn chứng minh họa cho các sự
kiện được trình bày.
Trong cuốn “Đổi mới phương pháp DHLS ở trường phổ thông” do Phan
Ngọc Liên chủ biên, NXB Đại học Sư phạm, 2008, tác giả đã trình bày các
bài viết về việc sử dụng tư liệu trong dạy học lịch sử ở trường THPT. Trong
đó, khẳng định sự cần thiết cần phải sử dụng các tài liệu tham khảo, tư liệu
lịch sử trong quá trình DHLS.
Trong cuốn Bảo tàng, di tích – nơi khơi nguồn cảm hứng dạy và học lịch
sử cho HS phổ thông, do nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam xuất bản năm
2014 của tác giả Nguyễn Thị Kim Thành (chủ biên) có chỉ ra rằng: Thực tiễn
hoạt động của các bảo tàng ở nước ta nói chung, Bảo tàng Lịch sử quốc gia
nói riêng và các bảo tàng trên thế giới đều khẳng định không có con đường
nào tiếp cận với lịch sử, văn hóa, văn minh của mỗi dân tộc nhanh hơn, đầy
5
đủ hơn, chính xác hơn con đường bảo tàng. Mà thứ mang lại sự chính xác đó
chính là tư liệu lịch sử trong bảo tàng.
Cuốn sách Phương pháp dạy học môn Lịch sử ở THPT của hai tác giả
Vũ Quang Hiển, Hoàng Thanh Tú xuất bản năm 2014 tại nhà xuất bản Đại
học Quốc gia Hà Nội đã đề cập đến rất nhiều phương pháp dạy học trong đó
có đề cập đến phương pháp làm việc với tài liệu, tư liệu và đặc biệt nhấn
mạnh về TLHV, một trong những chứng cứ còn lại sâu sắc nhất của lịch sử và
một số lưu ý khi sử dụng loại tư liệu này.
Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục số 10, năm 1997, của hai tác giả Nguyễn
Thị Côi và Nguyễn Văn Phong, trường Đại học Sư Phạm Hà Nội với đề tài
nghiên cứu là Khai thác và sửdụng tài liệu của bảo tàng, nhà truyền thống vào
dạy học Lịch sử dân tộc ở trường phổ thông hai tác giảđã khái quát các hình
thức, phương pháp khai thác, sử dụng tư liệu của bảo tàng Lịch sử đặc biệt là
cách thức khai tác nguồn TLHV được trưng bày tại bảo tàng.
Các công trình nghiên cứu trên đã ít nhiều đề cập đến vấn đề sử dụng
nguồn TLHV vào dạy học lịch sử, những chưa thực sự có nghiên cứu nào đề
cập đến việc sử dụng nguồn TLHV vào dạy học lịch sử Việt Nam thời kỳ
1946 – 1954 ở THPT. Vì vậy, đề tài này sẽ tập trung nghiên cứu, tìm hiểu
thực trạng việc đổi mới phương pháp sử dụng nguồn TLHV vào dạy học và
đề xuất một số biện pháp để sử dụng hiệu quả TLHV trong dạy học lịch sử
Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954 ở trường THPT.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Khảo sát vấn đề sử dụng TLHV trong dạy học lịch sử Việt Nam thời kỳ
1946 – 1954 ở trường THPT, từ đó đề xuất một số biện pháp để đổi mới
phương pháp sử dụng TLHV vào dạy học lịch sử một cách hiệu quả.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài xác định nhiệm vụ nghiên cứu:
6
- Nghiên cứu tìm hiểu cơ sở lí luận về việc khai thác, sử dụng TLHV vào
DHLS Việt Nam ở trường THPT.
- Nghiên cứu nội dung chương trình sách giáo khoa lớp 12 phần Lịch
sử Việt Nam thời kì 1946-1954, các tài liệu lịch sử ở bảo tàng Cách mạng
Việt Nam, bảo tàng Lịch sự Quân sự Việt Nam và xác định những nội dung
cần đổi mới phương phápsử dụng TLHV vào dạy học lịch sử Việt Nam thời
kỳ 1946 - 1954.
- Khảo sát tình hình dạy học lịch sử Việt Nam lớp 12 - THPT ở một số
trường tại Ba Vì - Hà Nội, điều tra thực trạng của việc đổi mới phương
phápsử dụng TLHV vào dạy học lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 - 1954.
- Đề xuất quy trình, biện pháp đổimới phương phápsử dụng TLHV vào
dạy học lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954 ở trường THPT.
- Thực nghiệm sư phạm các hình thức, biện pháp sử dụng trên làm cơ sở
cho việc rút ra những kết luận khoa học, những đề xuất kiến nghị nhằm sử
dụng hiệu quả nguồn TLHV vào dạy học lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 –
1954.
4. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu
4.1. Phạm vi nghiên cứu
1.4.1. Về nội dung
Đề tài tập trung nghiên cứu phần lịch sử Việt Nam hiện đại thời kỳ
1946-1954.
1.4.2. Về địa bàn kháo sát, thực nghiệm
TLHV lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954 được trưng bày nhiều tại
các bảo tàng ở Việt Nam nhưng do hạn chế thời gian và thực lực nghiên cứu
chúng tôi chỉ tiến hành khảo sát và nghiên cứu tại hai bảo tàng là Lịch sử
Cách mạng Việt Nam (Hoàn Kiếm –Hà Nội) và bảo tàng Lịch sử Quân sự
Việt Nam (Ba Đình – Hà Nội).
Tiến hành khảo sát tại trường THPT Ba Vì, THPT Minh Quang, thực
nghiệm tại trường THPT Giao Thuỷ - Nam Định
7
4.2. Đối tƣơng nghiên cứu
Biện pháp đổi mới phương pháp sử dụng TLHV trong dạy học lịch sử
Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954 ở trường THPT
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Nhóm phƣơng pháp nghiên cứu lý luận
Sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát
hóa tài liệu nhằm xác định các khái niệm công cụ và cơ sở lý luận cho vấn đề
nghiên cứu.
5.2. Nhóm phƣơng pháp nghiên cứu thực tiễn
5.2.1. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi
Mục đích: thu thập thông tin về thực trạng sử dụng TLHV vào dạy học
môn Lịch sử và đề xuất một số biện đưa TLHV vào dạy học lịch sử ở
trườngTHPT
Phương tiện: phiếu hỏi dùng cho GV và HS.
5.2.2. Phương pháp quan sát
Mục đích: Thu thập các biểu hiện sinh động, khách quan về thái độ,
hứng thú cũng như mức độ tham gia hoạt động trong giờ học của HS khi tiết
học có sử dụng một số biện pháp đưa TLHV vào dạy học.
5.2.3. Nhóm phương pháp thống kê toán học
Sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lý các kết quả đã thu
được nhằm đảm bảo sự chính xác, khách quan, khoa học và độ tin cậy cao
6. Giả thuyết nghiên cứu
Nếu tiến hành đổi mới phương pháp sử dụng TLHV trong dạy học lịch
sử Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954 ở THPT theo hướng đề xuất của đề tài sẽ
giúp HS tăng hứng thú học tập, hình thành biểu tượng lịch sử, phát triển các
kỹ năng năng lực của bản thân, từ đó góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy
và học Lịch sử trong trườngTHPT.
7. Đóng góp mới của đề tài
8
- Khẳng định vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc sử dụng nguồn
TLHV trong dạy học lịch sử ở trườngTHPT
- Đánh giá thực trạng việc việc sử dụng TLHV trong dạy học lịch sử ở
trườngTHPT
- Đề xuất một số biện pháp đổi mới phương pháp sử dụng nguồn TLHV
trong dạy học lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954 một cách hiệu quả.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, đề
tài luận văn bao gồm hai chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đổi mới phương pháp sử
dụng TLHV trong dạy học lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 - 1954 ở trường
THPT.
Chương 2: Một số biện pháp đổi mới phương pháp sử dụng TLHV trong
dạy học lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954 ở trường THPT. Thực nghiệm
sư phạm.
9
CHƢƠNG 1:
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC ĐỔI MỚI PHƢƠNG
PHÁP SỬ DỤNG TLHV VÀO DẠY HỌC LỊCH SỬVIỆT NAM
THỜI KỲ 1946 - 1954 Ở TRƢỜNG THPT.
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Tư liệu lịch sử
Một trong những vấn đề quan trọng của nghiên cứu lịch sử và DHLS đó
chính là tư liệu lịch sử.Tuy nhiên, liên quan tới khái niệm tư liệu lịch sử vẫn
còn nhiều ý kiến khác nhau.
Theo Từ điển tiếng Việt: “Tài liệu là văn bản giúp cho tìm hiểu một vấn
đề gì: tài liệu học tập, tài liệu tham khảo; tư liệu là tài liệu phục vụ cho việc
nghiên cứu” [27; 1132]. Trong tài liệu lịch sử bao gồm tư liệu lịch sử. Do đó,
ta thấy tư liệu lịch sử thường được trích ra từ trong các tài liệu lịch sử. Nó là
phần quan trọng của tài liệu lịch sử, phục vụ cho quá trình nghiên cứu hay học
tập lịch sử.Tư liệu lịch sử chứa những sự kiện lịch sử, đó chính là cấu tạo cơ
bản của lịch sử.Điều này đã khẳng định vai trò của tư liệu lịch sử hết sức đặc
biệt đối với khoa học lịch sử.
Từ việc phân tích các đặc trưng của bộ môn và những khái niệm có liên
quan trong sách “Phương pháp luận sử học” do Phan Ngọc Liên NXB ĐHSP
Hà Nội, 2008, các tác giả đã đưa ra cách hiểu “tư liệu lịch sử là khâu trung
gian nối liền giữa nhà sử học với các công trình nghiên cứu lịch sử”. “Tư
liệu lịch sử là những di tích của quá khứ, xuất hiện như sản phẩm của quan
hệ xã hội nhất định, mang trong mình những dấu vết của quan hệ ấy, phản
ánh trực tiếp và trừu tượng hóa một mặt hoạt động nào đấy của con người”.
[21;206]
10
Theo quan niệm của triết học thì tư liệu lịch sử là khái niệm phản ánh
đặc tính của hiện vật có thể để thu nhận tri thức của hiện vật khác.
Theo nhà sử học Nga Chi-khơ-mi-rốp cho rằng tư liệu lịch sử là tất cả
những gì còn sót lại của cuộc sống đã trải qua hay Re-ban cho rằng tư liệu
lịch sử là tổng hợp thành quả từ hoạt động nhận thức và thực tiễn của con
người được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng phương diện xã
hội.
Nhà sử học Ba Lan J.iopolski đã viết: Tư liệu luôn là tài sản quý giá nhất
của nhà sử học, không có nó ta không thể là nhà sử học. Và nếu xem một
công trình nghiên cứu lịch sử là một món ăn thì các nguồn tư liệu
chính là những sản phẩm, những gia vị để chế biến nên món ăn đó. Không có
nguồn tư liệu thì lịch sử không thể được viết ra vì nguồn tư liệu lịch sử không
có gì có thể thay thế nó được.
Theo quan niệm xã hội tư liệu lịch sử là một phương tiện để bảo tồn, giữ
gìn, truyền bá tri thức lịch sử.
Xét về mặt lý luận thì có nhiều quan niệm khác nhau về tư liệu lịch sử
nhưng ta có thể hiểu một cách đơn giản như trong từ điển bách khoa toàn thư
có ghi tư liệu lịch sử là nơi lưu giữ các tri thức liên quan đến quá khứ và quan
hệ xã hội của loài người và nó phản ảnh trực tiếp quá khứ. Tư liệu lịch sử vừa
là cơ sở vừa là xuất phát điểm của nhận thức lịch sử.
Theo chúng tôi tư liệu lịch sử là các sự kiện, tài liệu mà mỗi giáo viên
cần phải sưu tầm để tìm hiểu quá trình lịch sử đang học.Tư liệu càng sinh
động, phong phú bao nhiêu thì sự kiện càng cụ thể và càng hay bấy nhiêu.
Trong giảng dạy lịch sử, điều kiện cơ bản nhất để tái tạo hình ảnh quá khứ là
tư liệu lịch sử. Nếu không có nguồn tư liệu phong phú, không cung
cấp được nguồn tư liệu cụ thể chân thực thì dù có vận dụng phương pháp
giảng dạy nào đi chăng nữa cũng không thể đạt hiệu quả mong muốn.
Hiện nay, các nhà sử học thường chia tư liệu lịch sử thành các nhóm: tư
liệu thành văn, tư liệu vật chất, tư liệu truyền miệng dân gian, tư liệu ngôn
11
ngữ, tư liệu dân tộc học, tư liệu phim ảnh, băng ghi hình và tư liệu băng ghi
âm (chiếm vị trí chủ yếu là các tư liệu thành văn).
Một là, tư liệu vật chất (hay còn gọi là tư liệu vật thật).Đây là nguồn tư
liệu duy nhất để nghiên cứu về các thời cổ đại khi chữ viết chưa xuất
hiện.Nguồn tư liệu này mang ý nghĩa rất quan trọng. Đó là những dụng cụ lao
động, đồ dùng sinh hoạt, vũ khí của người xưa, các thành quách nhà cửa...
được các nhà khảo cổ học tìm thấy tại các di chỉ khảo cổ. Đây là nguồn tư liệu
chủ yếu trong thời kì chưa có chữ viết và phản ánh một cách khá trung thực
và khách quan một mặt nào đấy của cuộc sống.
Hai là, tư liệu thành văn (tư liệu chữ viết): Đây là nguồn tư liệu quý,
ngày nay chúng ta có thể dễ dàng thu thập chúng dưới nhiều hình thức khác
nhau. Quan trọng là phải có phương pháp nghiên cứu và xử lí tư liệu.Vì lịch
sử mang tính giai cấp, nên tư liệu lịch sử mang tính chủ quan của tác giả (ảnh
hưởng của tính giai cấp).Khi tìm hiểu về tư liệu lịch sử chữ viết, cần có sự đối
chiếu và xem xét chúng với các tư liệu truyền miệng dân gian để có cái nhìn
toàn diện và chân thực nhất về lịch sử. Ngoài ra, tư liệu chữ viết còn bao gồm
cả những bảng số liệu được thống kê lại từ những ngành liên quan như quân
sự, kinh tế, chính trị, văn hóa giáo dục. Thông qua những bảng thống kê đó
lịch sử được cụ thể hóa.
Nguồn tư liệu thành văn rất phong phú và đa dạng, nên để nghiên cứu
nguồn sử liệu này một cách dễ dàng hơn, người ta thường phân chia thành các
loại khác nhau như: phân chia theo lĩnh vực, phân chia theo ngành, theo đặc
điểm, nguồn gốc…
Ba là, tư liệu hình ảnh: Là loại tư liệu có tính chất đặc biệt, ta có thể tri
giác được hình ảnh lịch sử. Nó giúp ta miêu tả lịch sử một cách sinh động, cụ
thể hơn. Hình ảnh lịch sử có thể có hai trường hợp: một là tranh, ảnh được
chụp, vẽ tại thời điểm xảy ra sự kiện lịch sử. Đây là tư liệu lịch sử gốc; hai là
có thể được dựng lại để chụp… Vì vậy, khi sử dụng chúng ta cần có sự đánh
giá, phân biệt rõ.
12
Bốn là, tư liệu băng ghi âm, ghi hình: Đây là loại tư liệu mới xuất hiện
cùng với xã hội hiện đại. Loại tư liệu này cho phép chúng ta nghe, nhìn hiện
thực lịch sử.Nó ghi lại một cách chân thực và tái hiện gần như đầy đủ các sự
kiện, hiện tượng xảy ra. Tuy nhiên, hiện nay, nguồn tư liệu này rất dễ được xử
lí bằng kĩ thuật công nghệ do đó, khi sử dụng cần lưu ý về tính trung thực,
nguyên bản của nó.
Ngoài ra, còn có loại tư liệu truyền miệng dân gian: bao gồm những
thông tin lịch sử chưa được tập hợp, còn lưu truyền tự nhiên trong dân gian và
có nhiều dị bản khác nhau. Sự tồn tại của các huyền thoại, truyền thuyết, trải
qua nhiều thời kì, đã được bao phủ lên bởi một màu sắc kì bí.
1.1.1.2. Quan điểm về khái niệm Tư liệu hiện vật
Tư liệu lịch sử bao gồm rất nhiều loại tư liệu khác nhau trong đó có
TLHV nằm trong phân loại của tư liệu vật thật (tư liệu vật chất).
Có rất nhiều quan niệm về TLHV được các nhà nghiên cứu lịch sử đưa
ra nhưng chúng ta có thể hiểu TLHV là những vật thực mang trong nó nội
dung phản ánh sự kiện lịch sử, theo từ điển bách khoa toàn thư thì những hiện
vật này có thể được dùng để làm bằng cớ và chứng minh cho sự kiện lịch sử.
Sách giáo khoa lịch sử lớp 6 có đưa ra khái niệm TLHV là những di tích,
những đồ vật của người xưa còn giữ được trong lòng đất hay trên mặt đất.
Chúng tôi xin đưa ra quan điểm của mình về khái niệm TLHV như sau:
TLHV là những vật thực mang theo sự phản ánh về sự kiện lịch sử.
TLHV nói chung và TLHV ở bảo tàng nói riêng là phương tiện trực quan
rất quan trọng góp phần tạo biểu tượng lịch sử chân thực cụ thể, chính xác
cho HS, những TLHV không mang tính lý luận mà rất cụ thể, rõ ràng các sự
kiện, hiện tượng chứng minh sự kiện quan trọng của một đất nước, ở một thời
kỳ nhất định. TLHV ở bảo tàng được sắp xếp có hệ thống theo trình tự thời
gian là phương tiện trực quan giúp HS hình thành tri thức lịch sử. TLHV ở
bảo tàng còn có ý nghĩa giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức sâu rộng cho
13
HS đặc biệt là trong tình hình hiện nay, bảo tàng có ý nghĩa to lớn đối với
việc giáo dục lòng yêu nước cho thế hệ trẻ.
Nguồn TLHV là một nguồn tư liệu khó khai thác đòi hỏi sự hiểu biết sâu
rộng và có cái nhìn tổng quan của người sử dụng nó.Bản thân TLHV là một
nguồn thông tin lịch sử chính xác nhất, không ai có thể thay đổi thông tin mà
hiện vật đấy phản ánh.Nhưng TLHV là nguồn tư liệu khó tiếp cận kể cả là góc
độ của nhà nghiên cứu hay góc độ của giáo viên khi sử dụng nguồn tư liệu
này vào quá trình dạy học vì tư liệu này tự bản thân nó lại không nói lên
những gì nó đang phản ánh thế nên đòi hỏi cách thức tiếp cận cũng khác so
với các nguồn tư liệu lịch sử khác.
Trong luận văn này chúng tôi tìm hiểu TLHV dưới hai góc độ khác
nhau. Thứ nhất là nguồn TLHV mang trong nó tri thức và phản ánh sự kiện
lịch sử, thứ hai là chúng tôi khai thác nội dung mà tư TLHV đó phản ánh dưới
dạng hình ảnh của TLHV chủ yếu đang được trưng bày tại hai bảo tàng là bảo
tàng Cách mạng Việt Nam và bảo tàng Lịch sự Quân sự Việt Nam.
1.2.1. Vai trò, ý nghĩa của việc đổi mới phƣơng pháp sử dụng
TLHV trong dạy học lịch sử ở THPT
1.2.1.1. Vai trò của việc đổi mới phương pháp sử dụng tư liệu hiện vạt
vào dạy học lịch sử ở trường THPT
Tư liệu lịch sử đóng vai trong quan trọng đối với hoạt động DHLS nói
chung và hoạt động DHLS ở trường THPT nói riêng.
Đặc điểm của lịch sử đó là chỉ xảy ra một lần duy nhất trong quá khứ và
không bao giờ lặp lại thế nên chỉ có TLHV mấy tiếp cận gần nhất được với sự
thật lịch sử.
Ví dụ: năm 1954 với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ làm chấn động
cả năm châu cả thế giới đều biết đến chiến thắng này, nhưng đúng với bản
chất của lịch sử thì sự kiện lịch sử đó đã diễn ra trong quá khứ vào đúng thời
gian là năm 1954, đúng không gian là lòng chảo Điện Biên, đúng con người là
những chiến sĩ đã chiến đấu tại đó vào năm 1954 mà người chỉ huy là Đại
14
tướng Võ Nguyễn Giáp. Điều đó không bao giờ lặp lại nữa, ngày nay chúng ta
dựng lại chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, tại lòng chảo Điện Biên với
những nhân chứng của trận chiến năm xưa kể lại nhưng thử hỏi xem có còn
đúng tất cả những chiến sĩ năm xưa đang chiến đấu họ đều có mặt tại đây hay
không, có đúng khoảng thời gian là 1945 hay là đang 2017 còn nữa có còn
Đại tướng của chúng ta ở đó chỉ huy trận đánh nữa hay không? Chính những
điều đó tạo nên một lịch sử không bao giờ có lặp lại ý như nó đã từng xảy ra
ngoài những nhân chứng sống phản ánh phần nào của cuộc chiến năm xưa thì
TLHV chính là những nhân chứng không một lời nói dối của chiến thắng đó
vấn đề ở đây là chúng ta phải khai thác làm sao, sử dụng như thế nào trong
quá trình nghiên cứu đặc biệt là hoạt động DHLS.
Như vậy TLHV là những nhân chứng quan trọng nhất còn tồn tại mãi
mãi cùng sự thật lịch sử nếu chúng ta gìn giữ chúng một cách cẩn thận và
chân trọng nhất.Chúng sẽ là cầu nối giúp cho không chỉ những nhà nghiên
cứu tiếp cận sự thật lịch sử mà còn giúp cho GV, HS trong hoạt động dạy và
học.
TLHV mang trong mình câu chuyện lịch sử về sự kiện lịch sử thế nên
khi sử dụng TLHV lịch sử vào hoạt động DHLS thay vì GV sẽ là người nói
người thuyết trình cho cả buổi học dễ gây nhàm chán thì giáo viên có thể
mang hiện vật đó (nếu có điều kiện) hoặc sử dụng ảnh, phim về TLHV đó để
giới thiệu cho HS, hướng HS vào câu chuyện mà hiện vật đó phán ánh. Khi
mà HS mới tiếp cận với nguồn TLHV có thể sẽ khó khăn cho cả GV và HS
nhưng dần sẽ hình thành thói quen để HS có thể khai thác được nguồn tư liệu
này.Việc đưa ra TLHV vào dạy học GV cần phải hướng dẫn học HS như đây
là hiện vật gì?Nó dùng để làm gì?Trong lịch sử thì vật dụng này đã được ai
dùng và dùng như thế nào?Bằng chính những gợi ý đó dần dần thông qua
TLHV HS sẽ tiếp cận được với sự kiện lịch sử.
Như vậy có thể thấy dù TLHV không tự nói lên sự kiện lịch sử mà bản
thân nó phản ánh nhưng GV và HS có thể tiếp cận được sự kiện lịch sử thông
15
qua TLHV bằng những thông tin tư liệu đó phản ánh đã được những nhà
nghiên cứu tìm hiểu. Vì vậy, có thể nói TLHV là cầu nối giúp hình thành tri
thức lịch sử cho HS trong quá trình dạy học.
Trong hoạt động DHLS không chỉ hiện nay chúng ta mấy đề cập đến
việc sử dụng TLHV vào trong dạy học, vấn đề này không còn là mới nữa đã
được rất nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu. Nhưng, thực tế cho thấy gần như
những tiết học mà GV đưa TLHV vào dạy học còn rất hạn chế không nói đến
những giờ ngoại khóa mà đang đề cập đến những tiết học nội khóa, có may
chăng thì chỉ có một số ít tiết học GV đưa nguồn tư liệu này vào bằng hình
ảnh hay phim tư liệu nhưng GV chưa thực làm cho nguồn tư liệu mình đưa ra
trở nên đắt giá. GV khai thác TLHV khi đưa vào bài học gần như chỉ ở mức
giới thiệu nó là gì?Ở đâu? Mà không nhìn thấy ẩn sâu bên trong TLHV là
những câu chuyện lịch sử chân chính không hề có một ai làm thay đổi được
câu chuyện đó, việc đó vô tình làm cho một nhân chứng lịch sử được đưa ra
giới thiệu trước khán giả mà lại không được nói gì.
Chính vì vậy, đổi mới phương pháp sử dụng TLHV vào dạy học là cấp
thiết.Thay vì GV chỉ đưa TLHV ra giới thiệu như một ví dụ minh họa thì GV
hãy khai thác triệt để nguồn thông tin khi đưa TLHV ra cho HS. GV có thể
thay đổi cách thức sử dụng nó trong bài thay vì đưa nó ra làm ví dụ sau khi
nói xong hoặc nói xong đưa nó ra thì hãy đưa tư liệu ra và định hướng cho HS
tại sao hôm nay cô (thầy) lại đưa ra tư liệu này, nó mang nội dung gì trong bài
học hôm nay hay GV cũng có thể dùng để làm tổng kết kiểm tra đánh giá bài
học của HS sau khi kết thúc tìm hiểu nội dung.
Sự thay đổi cách sử dụng TLHV không chỉ giúp GV chủ động trong việc
dạy mà còn giúp nhớ kiến thức nhanh hơn thông qua hình ảnh TLHV.
1.2.1.2. Ý nghĩa của việc đổi mới phương pháp sử dụng TLHV vào DHLS
ở trường THPT
16
Việc sử dụng TLHV vào dạy học mang ý nghĩa rất to lớn, nó không chỉ
giúp GV giảng dạy như một công cụ hỗ trợ mà nó còn giúp HS tiếp cận kiện
lịch sử bằng tác động từ hình ảnh trực quan.
Đó chỉ là những nét khái quát về ý nghĩa của việc sử dụng TLHV vào
DHLS vậy khi đổi mới phương pháp sử dụng sẽ đem lại ý nghĩa như thế nào.
Việc đổi mới phương pháp sử dụng TLHV sẽ giúp HS tiếp cận được với
sự kiện lịch sử một cách chân thật nhất vì sự kiện lịch sử được phản ánh thông
qua nguồn TLHV không có gì có thể thay thế được nó. Ngoài ra, việc đổi mới
phương pháp sử dụng TLHV trong DHLS cũng góp phần chung vào đổi mới
việc dạy và học môn Lịch sử ở nhà trường THPT hiện nay.
1.3.1. Đặc trưng của việc dạy học lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 - 1954 và
sự cần thiết của việc đổi mới phương pháp sử dụng TLHV trong dạy học.
1.3.1.1. Đặc trưng của việc dạy học lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954
Để đưa ra các đổi mới phương pháp sử dụng TLHV đúng đắn nhằm giúp
HS nắm vững Lịch sử Việt Nam thời kỳ 1945 - 1954 trước hết chúng ta phải
hiểu rõ các đặc trưng của việc dạy học Lịch sử Việt Nam 1945 – 1954.Nằm
trong tiến trình chung của việc DHLS nên việc dạy học Lịch sử Việt Nam giai
đoạn này cũng mang những đặc trưng của việc DHLS nói chung nhưng bên
cạnh đó là những đặc trưng riêng mà chỉ có thời kỳ 1946 – 1954 mới có:
Thứ nhất: Quá trình phát triển của xã hội loài người từ lúc con người và
xã hội hình thành đến nay gọi là Lịch sử. Tất cả những sự vật, hiện tượng lịch
sử mà chúng ta đề cập đến đều là những chuyện đã xảy ra, nó mang tính quá
khứ.Bởi vậy, người ta không thể trực tiếp tiếp xúc, trực tiếp quan sát quá khứ
mà chúng ta chỉ nhận thức chúng gián tiếp thông qua các tài liệu được lưu lại.
Vì vậy trong giảng dạy Lịch sử nói chung và Lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 -
1954 nói riêng thì việc dạy học cần phải tái hiện lại sự kiện lịch sử một cách
rõ ràng, mạch lạc và các sự kiện phải có sự móc nối lẫn nhau vì mọi sự kiện
lịch sử luôn nằm trong một mối quan hệ nhất định để HS có thể hình dung
được lịch sử một cách sinh động nhất.
17
Thứ hai: Đó là tính không lặp lại của Lịch sử. Vì vậy, khi dạy Lịch sử
Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954 với cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực
dân Pháp bùng nổ (19/12/1946) đén việc thực hiện đường lối kháng chiến hản
công sang chủ động tiến công trên chiến trường rồi đi đến chiến thắng lịch sử
Biện Biên Phủ (1954) luôn phải xem xét tính cụ thể về không gian và thời
gian làm nảy sinh sự kiện và hiện tượng đó, để HS có một cái nhìn rõ ràng
nhất về sự kiện đó cả về không gian và thời gian từ đó có thể đánh giá, nhận
xét một sự kiện hay một vấn đề lịch sử một cách xác đáng và khách quan nhất
trong toàn bộ tiến trình lịch sử.
Thứ ba: Lịch sử của mỗi nước, mỗi dân tộc đều có một diện mạo riêng
dó những điều kiện riêng biệt quy định. Mặt khác, các quốc gia, các dân tộc
khác nhau sống trên những khu vực khác nhau, tuy bị tác động bởi những quy
định chung trải quá trình phát triển từ thấp đến cao, đời sống văn hóa con
người ngày càng phong phú, đa dạng nhưng tiến trình phát triển lại không
hoàn toàn giống nhau. Do đó khi trình bày các sự kiện, vấn đề lịch sử Việt
Nam thời kỳ 1946 - 1954 phải cụ thể, và càng cụ thể bao nhiêu thì tính sinh
động hấp dẫn lại càng tăng thêm bấy nhiếu. Lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 -
1954 được chia thành những giai đoạn nhỏ hơn. Từ 1946 – 1948 là giai đoạn
bảo vệ căn cứ địa Việt Bắc, từ 1948 -1953 phát triển chiến tranh du kích, đẩy
mạnh vận động chiến tranh và chiến thắng biên giới, từ 1953 – 1954 tiến hành
tổng tiến công trên toàn miền với đỉnh cao là chiên thắng lịch sử Điện Biên
Phủ.
Thứ tư: Đặc điểm dạy học này của Lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 –
1954 là do tính hệ thống quy định. Khoa học Lịch sử vừa bao gồm các sự
kiện, hiện tượng về cơ sở kinh tế, đấu tranh xã hội vừa bao gồm cả nội dung
kiến thức thượng tầng, tình hình kinh tế sản xuất và quan hệ xã hội…Các nội
dung đó có mối quan hệ khăng khít, phức tạp điều này ddòi hỏi quá trình dạy
học Lịch sử Việt Nam giai đoạn này phải luôn luôn chú ý các mối quan hệ
ngang dọc, trước sau của vấn đề lịch sử cũng như nội tại giữa các mặt chính
18
trị, kinh tế, văn hóa để cũng cấp cho HS cái nhìn hệ thống về các sự kiện,
chính trị tác động đến kinh tế, văn hóa và văn hóa, kinh tế cũng tác động trở
lại đối với nền chính trị.
Đặc trưng thứ năm của dạy học Lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 - 1954
được quy định bởi tính hệ thống giữa “sử” và “luận”. Từ đặc điểm này của tri
thức Lịch sử nó khiến cho qua trình dạy học Lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 -
1954 phải đảm bảo tính hệ thống giữa trình bày sự kiện với giải thích sự kiện
và bình luận sự kiện. Mọi giải thích, bình luận phải xuất phát từ sự kiện lịch
sử cụ thể chính xác đáng tin cậy và không có sự kiện, hiện tượng nào không
đuợc làm sáng tỏ bản chất của sự kiện hiện, tượng đó.
Tóm lại, các đặc trưng của dạy học Lịch sử nói chung và dạy học Lịch
sử Việt Nam thời kỳ 1946 - 1954 là được quy định bởi đặc điểm của tri thức
lịch sử. Từ đó chúng ta đưa ra những biện pháp phù hợp để quá trình dạy học
Lịch sử đạt kết quả cao nhất, HS lĩnh hội được tri thức lịch sử và có cái nhìn
đa chiều về một sự kiện lịch sử trong các mối quan hệ trong cùng một thời
điểm không gian và thời gian.Chính những đặc điểm đó mà đòi hỏi người GV
khi dạy học phải vận dụng các phươngpháp khác nhau trong quá trình dạy
học.
1.3.1.2. Sự cần thiết của việc đổi mới phương pháp sử dụng TLHV trong
dạy học lịch sử
Do những đặc trưng trong dạy học Lịch sử Viêt Nam thời kỳ 1946 -
1954 như vậy ta có thể thấy từng giai đoạn nhỏ trong thời kỳ này là mang nét
lớn khác nhau từ đó sử dụng và đổi mới các sử dụng TLHV vào dạy học lịch
sử càng cần thiết.
Việc GV sử dụng TLHV trong DHLS Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954
không còn mới lạ nhưng trên thực tế liệu việc sử dụng của GV đã thực sự hiệu
quả và mang lại kết quả như mong muốn hay không?Có phải chăng là hiện
nay một số GV vẫn đang sử dụng TLHV vào trong dạy học như một hình
thức báo cáo tổng kết mà chưa chú trọng đến hiệu quả sử dụng nguồn tư liệu
19
này một cách thực tế. Có rất nhiều GV nhận thấy TLHV thực sự có hiệu quả
trong quá trình dạy học nhưng dường như họ vẫn chưa tìm kiếm cách sử dụng
TLHV sao cho hiệu quả như mong muốn chính vì vậy việc đổi mới phương
pháp sử dụng TLHV trong DHLS Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954 là cần thiết
để mang lại những giờ dạy lịch sử thực sự hứng thú với HS khi mang TLHV
ra sử dụng thay vì đưa nó ra như một ví dụ minh họa điển hình.
Trong thời kỳ 1946 – 1954 thì thấy rõ sự phát triển của cách mạng Việt
Nam đi từ bước bị động sang chủ động tiến công. Nếu GV chỉ dùng cách
tường thuật truyền thống ở giai đoạn này thì rất khó để HS có thể trình bày
được cơ bản các sự kiện diễn ra trong thời gian này đặc biệt với các mốc sự
kiện mang tính bước ngoặt chứ chưa nói đến chuyện HS sẽ đánh giá, nhìn
nhận sự kiện, vấn đề lịch sử một cách sắc đáng nhất. Việc đổi mới phương
pháp sử dụng TLHV trong DHLS Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954 không chỉ
tạo hứng thú được cho HS trong quá trình hoạc tậ mà còn thúc đẩy trí tó mò,
tư duy giải quyết vấn đề và cả những lập luận cho những sự kiện, quy luật lịch
sử cho HS được, và cũng chỉ khi đó việc DHLS mấy đạt hiệu quả cũng như
làm tròn trách nhiệm và vị trí của nó trong hệ thống nền giáo dục Việt Nam.
Như vậy, có thể khẳng định việc đổi mới phương pháp sử dụng TLHV
trong DHLS Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954 là đặc biệt cần thiết, nó không chỉ
tạo cho HS một tâm lý tốt trong học tập, đem lại cho HS một khía cạnh mới
để tiếp cận lịch sử mà nó còn tạo động lực thúc đẩy HS phát triển tư duy logic
giải quyết vấn đề từ trong bài học để rồi áp dụng vào thực tế cuộc sống
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Thực trạng sử dụng TLHV lịch sử trong DHLS ở trường THPT
Môn Lịch sử ở trường phổ thông đóng vai trò quan trọng trong việc
hình thành ý thức, giáo dục nhân cách và hình thành thế giới quan của HS sau
này đó cũng chính là vai trò tó lớn mà môn lịch sử đảm nhận. Nhưng trên
thực tế hiện nay môn lịch sử luôn bị coi là “môn phụ” là môn “học thuộc” đối
với HS. Cũng không thể trách được người học trong vấn đề này vì thực tế cho
20
thấy có rất nhiều GV hiện nay đang tự biến môn lịch sử của mình thành một
môn phụ và học thuộc như thế, có rất nhiều GV lên lớp ngoài kiến thức sách
giáo khoa cung cấp thì gần như không cung cấp cho HS bất kỳ thông tin nào
bên ngoài, điều đó cho thây còn không ít bộ phận GV đang lệ thuộc quá vào
sách giáo khoa mà không trau dồi thêm kiến thức bên ngoài làm cho bài dạy
của chính học đang giết đi nhưng thế hệ HS nhưng mần sống tương lai của đất
nước.
Để khắc phục tình trạng trên có không ít GV đã chủ động trau dồi, đổi
mới phương pháp giảng dạy trong quá trình lên lớp của mình.Điều đó mang
lạiphần nào hiệu quả trên thực tế. Trong những phương pháp đó thì GV
thường xuyên đưa vào bài dạy của mình những thông tin cho HS bằng cách
nguồn tư liệu, tài liệu khác nhau trong đó có TLHV mạc dù chỉ dừng lại ở
mức hình ảnh của hiện vật nhưng đã gópphần tăng hứng thú học tập cho HSh
trong hoạt động dạy học.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc sử dụng TLHV vào DHLS
các giáo viên giảng dạy bộ môn Lịch sử trong nhà trường THPT đã có nhiều
phương pháp khác nhau khi sử dụng TLHV trong giảng dạy nhằm tạo và nâng
cao hứng thú học tập cho HS cũng như khai thác tri thức lịch sử một cách
hiệu quả nhất.
Như vậy có thể thấy việc đổi mới phương pháp sử dụng TLHV trong
DHLS ở trường hổ thông cũng đang rất được GV và nhà trường chú
trong.Trên thực tế đã có những phương pháp được GV áp dụng và mang lại
hiệu quả nhất định.
1.2.2. Thực trạng đổi mới phương pháp sử dụng TLHV trong DHLS ở
trường THPT
Để tìm hiểu thực tiễn việc đổi mới phương pháp sử dụng TLHV trong
DHLS nói chung và DHLS Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954 nói riêng ở trường
THPT. Chúng tôi tiến hành khảo sát, phát phiếu hỏi kết hợp phỏng vấn 11
giáo viên phụ trách giảng dạy môn Lịch sử và 214 HS tại trường THPT Minh
21
Quang, THPT Ba Vì (Ba Vì – Hà Nội) và THPT Giao Thủy B (Giao Thủy –
Nam Định). Nội dung điều tra tập chung các vẫn đề như sau:
1.2.2.1. Mục đích , nội dung khảo sát
Về mục đích: Phiếu khảo sát tập trung vào 2 vấn đề chính:
+ Thứ nhất: Khảo sát về thực trạng đổi mới phương pháp sử dụng tư liệu lịch
sử trong DHLS nói chung và DHLS Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954 nói riêng.
+ Thứ hai: Thông qua khảo sát những thuận lợi và khó khăn trong việc đổi
mới phương pháp sử dụng TLHV trong DHLS thời kỳ 1946 – 1954, từ đó đề
xuất một số biện pháp nhằm đổi mới phương pháp sử dụng TLHV vào DHLS
thời kỳ này.
Việc điều tra khảo sát được tiến hành tại 3 trường THPT Minh Quang,
THPT Ba Vì (Ba Vì – Hà Nội) và THPT Giao Thủy B (Giao Thủy – Nam
Định).
Phương pháp tiến hành : Điều tra bằng phiếu khảo sát đối với cả HS và
giáo viên.
Về nội dung: Phiếu khảo sát tập trung vào một số vấn đề sau:
- Đối với giáo viên: Phiếu khảo sát tập trung vào việc tìm hiểu
quan niệm của giáo viên về vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng tư liệu hiên vật
và đổi mới phương pháp sử dụng TLHV. Ngoài ra, phiếu khảo sát còn chú ý
đến nội dung, phương pháp và ý nghĩa khi giáo viên dạy học có sử dụng
TLHV, cùng với những thuận lợi và khó khăn khi dạy học tạo có sử dụng
TLHV nói chung và dạy học lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954 nói riêng.
Cuối cùng là những đề xuất của giáo viên về phía nhà trường, phía HS và cả
phía của người giáo viên để việc sử dụng TLHV vào DHLS thực sự hiệu quả.
- Đối với HS: Một số vấn đề mà phiếu khảo sát tập trung đối với HS là:
Ý kiến, quan điểm của HS về đưa TLHVvào da ̣y ho ̣c Li ̣ch sử c ủa giáo viên.
Khảo sát về nội dung, phương pháp hình thức và tính hiệu quả khi giáo viên
tạo hưng thú học tập khi dạy học đối với HS. Bên cạnh đó, thì phiếu khảo sát
cũng tìm hiểu một số khó khăn của HS khi giáo viên sử dụng TLHV trong
22
dạy học Lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 - 1954. Phiếu khảo sát còn tập chúng
vào việc tìm hiểu mức độ yêu thích của HS khi được giáo viên đưa tư liệu
hiên vật vào DHLS Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954. Thông qua đó, lấy ý kiến
đề xuất của HS để việc dử dụng tư liệu hiên vật trong DHLS Việt nam thời kỳ
1946 – 1954 thực sự hiệu quả.
1.2.2.2. Kết quả điều tra khảo sát
Với 214 phiếu hỏi dành cho HS và 11 phiếu dành cho giáo viên được
phát ra và kết quả thu về được 209 phiếu hợp lệ của HS, 11 phiếu của giáo
viên, kết quả khảo sát đã làm rõ được vấn đề được đề cập đến trong mục đích
và nội dung khảo sát, cụ thể là:
Về phía giáo viên:
- Quan niệm của giáo viên về việc sử dụng TLHV vào DHLS Việt Nam
thời kỳ 1946 - 1954 thì tất cả 7 giáo viên (100%) quan niệm rằng việc đưa tư
liệu hiên vật vào DHLS là rất cần thiết, không giáo viên nào quan niệm việc
đưa TLHV vào DHLS Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954 là không cần thiết. Như
vậy, giáo viên đã đánh giá đúng vai trò về việc đưa tư liệu hiên vật vào
DHLS.
Vấn đề tiếp theo đó là giáo viên thường sử dụng các phương pháp nào
để đưa tư liệu hiên vật vào dạy học thì có tới 4 giáo viên chiếm 36, 36% chọn
đáp án dùng TLHV để giúp người học tạo biểu tượng, trong khi đó có 3 giáo
viên chiếm 27,28% chọn dùng TLHV như một hình ảnh minh hoạ, có 4 giáo
viên chiếm 36,36% là dùng TLHV để định hướng mở đầu bài học, và không
có giáo viên chọn đáp án dùng TLHV để kiểm tranh đánh giá trong giờ học
chiếm 0%.
23
Tạo biểu tượng
Định hướng bài học
kiểm tra, đánh giá
Hình ảnh minh họa
Biểu đồ 1.1: Các cách giáo viên sử dụng TLHV khi dạy học
Khi được hỏi đến câu hỏi là mức độ sử dụng TLHV trên lớp của các thầy
(cô) như thế nào thì kết quả rất ngạc nhiêu có tới 7/11 GV được hỏi cho biết
họ chưa bao giờ sử dụng chiếm gần 63.64 %, có 3 /11 GV thì cho rằng mình ít
khi sử dụng TLHV vào dạy học, còn 1 GV trên tổng số 11 GV được hỏi cho
rằng bản thân mình thỉnh thoảng sử dụng tư liệu hiên vật vào dạy học chiếm
9.08%. Điều này cho thấy trên thực tế tại các trường phổ thông GV vẫn đang
loay hoay không biết hoặc không sử dụng nguồn tư liệu hiên vật vào quá trình
DHLS của mình.
Tuy nhiên, khi được hỏi đến tác dụng của việc đưa tư liệu hiên vật lịch
sử vào dạy học đã nhận được ý kiến rất tích cực từ GV.
Có 3 ý kiến của GV cho rằng khi sử dụng TLHV vào dạy học sẽ giúp tạo
hứng thú học tập cho HS chiếm 27,27%, có 6 ý kiến cho rằng sử dụng TLHV
vào dạy học sẽ góp phần tạo biểu tượng lịch sử học HS chiếm 54,54%, có 2 ý
kiến của Gv cho rằng nếu sử dụng tư liệu hiên vật vào dạy học sẽ giúp rèn
luyện kỹ năng thực hành và tư duy cho HS chiếm 18,18%, và không co sý
kiến nào của Gv cho rằng việc sử dụng tư liệu lịch sử sẽ có tác dụng khắc sâu
và mở rộng kiến thức chiếm 0%.
24
Tạo hứng thú học tậ
Rèn luyện kỹ năng thực hành, tư duy
Khắc sâu và mở rộng kiến thức
Tạo biểu tượng
Biểu đồ 1.2. Ý kiến của giáo viên về tác dụng của việc sử dụng TLHV vào dạy
học
Như vậy qua biểu đồ ta có thể thấy ý kiến của các thầy (cô) có sự chênh
lếch rất là lớn đặc biệt là các thầy (cô) đều cho rằng TLHV khi đưa vào bài
học đều không có tác dụng là khắc sâu và mở rộng kiến thức.
Bảng 1.1: Tổng hợp ý kiến của GV về mức độ hiệu quả khi sử dụng tư liệu
hiên vật vào DHLS. (% tính xấp xỉ)
Tiêu chí
Rất hiệu quả
Hiệu quả
Bình
Ít hiệu quả
Không hiệu
thƣờng
quả
0
Gây hứng thú học
70,7
21
8,3
0
tập cho HS
5
Rèn các kĩ năng thực
40,5
33.8
14,5
0
hành, tư duy cho HS
Khắc
sâu
kiến
44.1
28.3
25.1
2.5
0
thức,mở rộng hiểu
biết cho HS
Tạo biểu tượng cho
82.7
15.6
1.7
0
0
HS
25
Như vậy, thông qua bảng thống kê chúng ta thấy đa số GV đều khẳng
định rằng việc sử dụng TLHV vào dạy học là rất hiệu quả hoặc hiệu qủa tùy
theo tiêu chí. Tỷ lệ phần đa GV đều cho rằng TLHV rất hiệu quả trong việc
tạo biểu tượng lịch ử cho HS và gây hứng thú học tập cho HS. Tuy nhiên, do
câu hỏi có thể chọn nhiều đáp án nên việc sử dụng TLHV vào dạy học đều
được các thầy (cô) đánh giá là hiệu quả đến rất hiệu quả từ việc gây hứng thú
học tậ, rèn luyện kỹ năng thực hành tư duy cho HS, khắc sâu kiến thức, mở
rộng kiến thức cho đến tạo biểu tượng cho HS. Chỉ có số ít GV cho rằng việc
sử dụng TLHV là bình thường. Có 8.3% GV cho rằng việc gây hứng thu cho
HS bằng TLHV là bình thường, có 14,5 % GV cho rằng TLHV chỉ đóng vai
trò bình thường trong việc rèn luyện kỹ năng thực hành, tư duy cho HS, có tới
25,1 % GV cho rằng việc khắc sâu kiến thức và mở rộng kiến thức của TLHV
là hạn chế nên đã đánh giá ở mức độ bình thường, và cũng có 1,7% GV cho
rằng TLHV chỉ đóng vai trò bình thường trong việc tạo biểu tượng lịch sử cho
HS. Ở mức độ thấp hơn là ít hiệu quả có 5% GV cho rằng tư liệu lịch sử thực
sự ít hiệu quả trong việc rèn luyện kỹ năng thực hành và tư duy cho HS, cũng
có 2,5% GV cho rằng tư liệu lịch sử ít hiệu quả trong việc khắc sâu và mở
rộng kiến thức cho HS. Ở mức độ thấp nhất không có % nào GV lựa
chọn.Qua thống kê trên ta thấy, phần đa GV đã phần nào đánh giá đúng tầm
quan trọng của việc sử dụng TLHV và mức độ hiệu quả của nó trong quá
trình hình thành tri thức lịch sử cho HS.
Khi điều tra về những thuận lợi và khó khăn của giáo viên nhận được
sự phản hồi tích cực từ phía thầy (cô):
Về thuận lợi có tới 8 /11 thầy cô cho rằng vật chất trang thiết bị nhà
trường, tài liệu thiết bị, phương tiện dạy học có sẵn là thuận lợi chiếm
72,72%, chỉ có 1/11 GV cho rằng TLHV dễ tìm hiểu chiếm 9,09 % và có
2/11 GV cho rằng thái độ hợp tác học tập của HS là thuận lợi khi sử dụng
TLHV vào dạy học chiếm 18,19%.
26
Tiếp theo là những khó khăn khi sử dụng TLHV vào dạy học có 4 GV
chiếm 36.36% chọn đáp án là khi sử dụng TLHV vào bài học sẽ thì tốn thời
gian để xây dựng vào thực tế bài dạy và tìm hiểu về tư liệu đó, có 18,19%
tương ứng là 2 GV lựa chọn đáp án là nguồn tài liệu về TLHV hạn chế, có 5
giáo viên chiếm 45.45% chọn ý kiến khác và nêu ra ý kiến của mình có hai ý
kiến được GV đề cập đến 1 là do không biết lấy đâu ra nguồn TLHV trừ khi
thực hiện giờ học ngoại khóa, 2 là nguồn TLHV quá khó để khai thác ngay cả
đối với GV chứ không nói HS.
18.19
Tốn thời gian biên soạn và tìm kiếm
Hạn chế nguồn tài liệu về tư liệu hiện vật cho GV
45.45
Ý kiến khác
36.36
Biểu đồ 1.3: Những khó khăn của giáo viên khi sử dụng TLHV vào dạy học.
Từ những khó khăn và thuận lợi được các thầy (cô) đề cập đến thì bên
cạnh đó các giáo viên cũng có một số chia sẻ về đề xuất của bản thân để việc
tạo hứng thú học tập cho HS trong dạy học Lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 -
1954 thực sự hiệu quả. Về phía nhà trường: đa số các thầy (cô) đề nghị hoàn
thiện cơ sở vật chất và nên có các phòng học chức năng của từng môn học để
HS thực sự hiểu bản chất của môn học từ đó yêu thích môn học, về phía giáo
viên thì các thầy (cô) cho rằng giáo viên cần đầu tư hơn nữa trong bài dạy của
mình, cần đổi mới các phương pháp giảng dạy sao cho phù hợp với nhiều đối
tượng HS.
27
Về phía HS
Kết quả điều tra khảo sát với 209 phiếu thu về hợp lệ đã làm sáng tỏ
một số vấn đề:
Khi được hỏi về mức độ thực hiện sử dụng TLHV vào dạy học lịch sử
của GV thì chỉ có 4,35% trong tổng số 100% HS nói rằng GV rất thường
xuyên sử dụng TLHV vào dạy học lịch sử chiếm 13/209 HS, có tới 42,58%
tương ứng là 89 HS chọn phương án là GV thường xuyên sử dụng tư liệu lịch
sử vào dạy học và có tới 51,19% tương ứng 107 HS nói rằng GV chưa bao
giờ đưa TLHV vào trong giờ học Lịch sử. Như vậy có thể thấy đa số GV sử
dụng TLHV vào dạy học ở một mức độ là chưa bao giờ sử dụng, nhưng cũng
không nhỏ gần một nửa số HS được hỏi cho rằng GV thường xuyên sử dụng
120
100
80
60
40
20
0
thường xuyên
không hiểu bài
rất thường xuyên
TLHV trong giờ dạy học trong học tập.
Biểu đồ 1. 4. Mức độ sử dụng tưu liệu hiện vật vào dạy học của giáo viên
Khi hỏi HS về cách đưa TLHV vào bài giảng thì HS muốn: đưa hình
ảnh hiện vật lên slide để cùng tìm hiểu chiếm 27,75% nghĩa là có tới 58 bạn
chọn phương án này, có 44,97% tướng ứng là 94 HS muốn được xem him về
28
TLHV, có 27,28% HS nói rằng muốn được dùng các website chuyên cung
90
80
70
60
50
40
30
20
10
0
ảnh tư liệu hiện vật
chiếu him về tư liệu hiện vật
website về tư liệu hiện vật
cấp thông tin về cấc TLHV với 57 lượt chọn từ HS.
Biểu đồ 1.5.Mong muốn của HS khi sử dụng TLHV trong hoạt động học.
Thăm dò ý kiến HS về mức độ hứng thú khi GV sử dụng các phương
pháp đổi mới TLHV được kết quả như sau: có 85 HS thấy rất hứng thú chiếm
22,83% khi GV sử dụng các biện pháp đổi mới phương pháp sử dụng TLHV
khi học tập, 97 HS thấy bình thường khi GV sử dụng TLHV vào DHLS
chiếm 50%, có 42 HS cảm thấy không thích khi GVsử dụng nguồn TLHV
vào dạy học chiếm 23,91% và có 3,26% HS nói chưa quen phương pháp dạy
học bằng nguồn TLHV.
29
Bảng 1.2: Tổng hợp ý kiến của HS về mức độ hiệu quả của việc sử dụng tư
liệu hiên vật vào dạy học
Tiêu chí
Rất hiệu quả
Hiệu quả
Bình
Ít hiệu quả
Không hiệu
thƣờng
quả
Gây hứng thú học
42,6
44.1
13,3
0
0
tập cho HS
Rèn các kĩ năng thực
17.4
31.9
37.2
13,5
0
hành, tư duy cho HS
Khắc
sâu
kiến
35,7
57.4
6.9
0
0
thức,mở rộng hiểu
biết cho HS
0
Tạo biểu tượng cho
58.3
35.1
5.9
0.7
HS
Nhìn vào bảng thống kê chúng ta thấy Như vậy, HS đều nhận thức
được rằng việc sử dụng TLHV vào dạy học là rất hiệu quả hoặc hiệu qủa tùy
theo tiêu chí, HS cũng khẳng định rẳng việc đưa tư liệu hiên vật vào dạy học
rất có tác dụng cho việc hình thành biểu tượng lịch sử cho HS. Tỷ lệ phần đa
HS đều cho rằng TLHV rất hiệu quả trong việc tạo biểu tượng lịch sử và gây
hứng thú học tập cho HS. Đa số HS đều thấy tác dụng của việc GV sử dụng
TLHV vào trong dạy học có tới 42,6% HS hứng thú với tiết học được GV đưa
TLHV vào, có 57,4 % HS cho rằng mình khắc sâu và được mở rộng kiến thức
hơn sau khi học những tiết học có sử dụng TLHV. Chỉ có số ít HS cho rằng
việc sử dụng TLHV vào dạy học mang lại tác dụng bình thường đặc biệt với
phần tác dụng rèn luyện kỹ năng thực hành và tư duy có tới 37,2% HS cho
rằng có tác dụng bình thường. Cũng đối với việc rèn luyện kỹ năng thực hành
và tư duy có 13,5% HS cho rằng việc sử dụng TLHV vào dạy học mang lại
tác dụng ít hiệu quả. Đồng với quan điểm ít hiệu quả thì có 0.7% HS cho rằng
TLHV thực sự mang lại ít hiệu quả với việc hình thành biểu tượng lịch
30
sử.Ngoài ra, các HS đều cho rằng sử dụng tư liệu hiên vật trong bài học đều
góp phần nào đó trong việc tạo hứng thú học tậ và khác sâu, mở rông kiến
thức (không có HS chọn đáp án ít hiệu quả và không hiệu quả phần này).Ở
mức độ thấp nhất không có % nào HS lựa chọn. Qua thống kê trên ta thấy,
phần đa HS đã phần nào đánh giá đúng tầm quan trọng của việc sử dụng
TLHV và mức độ hiệu quả của nó trên con đường tiếp cận với tri thức lịch sử.
Thăm dò về một số thuận lợi và khó khăn khi HS sử dụng TLHV vào
bài học đặc biệt là bài học lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954 nhận được
phản hồi của HS như sau:
Đầu tiên là về thuận lợi: có 82 HS cho rằng khi học các tiết học như
vậy sẽ không có tài liệu để tìm hiểu và học tập hơn chiếm 39,23%, có 117 HS
cho rằng khi học các tiết học như vậy sẽ không biết trọng tâm vấn đề bài học
là gì 56%. Và chỉ có 4,77% HS cho rằng học những tiết học như vậy không
hiểu gì cả với số HS chọn là 10 HS, không có HS nêu ra ý kiến cá nhân trong
120
100
80
60
40
20
0
không có tài liệu
không hiểu bài
ý kiến khác
không nắm được nội dung chính
phần này.
Biểu đồ 1.6. Khó khăn của HS khi học các tiết học có sử dụng TLHV
31
Thứ hai về khó khắn của HS khi học những tiết học có sử dụng các
biện pháp tạo hứng thú: chỉ có 9 HS chiếm 9,78% cho rằng không quen với
các phương pháp nên không hiểu bài, 42 HS khác lại cho rằng cơ sở vật chất
nhà trường không đáp ứng được chiếm 45,65%, 30 HS khác trong tổng số 92
em cho rằng khi học các bài học như vậy không xác định được kiến thức
trọng tâm chiếm 32,6% và 11 HS nói lên các khó khăn khác mà chủ yếu là
chưa được học những tiết học như vậy nên chưa biết chiếm 11,9%.
Thăm dò về một số đề xuất của HS về việc sử dụng và đổi mới
phương pháp sử dụng TLHV vào DHLS Việt Nam thời kỳ 1946 - 1954 thực
sự hiệu quả thì phản hổi của HS đa số là không có, một số ít phản hồi về giáo
viên dạy là cần nói ít và cho HS làm nhiều hơn, không nên đọc chép chỉ nên
dạy học nêu vấn đề, đưa ra vấn đề thông qua TLHV để HS tự giải quyết vấn
đề, đề xuất về phía nhà trường thì HS có đề xuất là nên lắp tất cả máy chiếu ở
tất cả các phòng học và tổ chức những cuộc thi tìm hiểu về tư liệu lịch sử đặc
biệt là nguồn TLHV.
1.2.2.3. Kết luận về thực trạng đổi mới phương pháp sử dụng tư liệu
hiên vật vào DHLS Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954 ở trường THPT.
Kết quả khảo sát có thể đi đến kết luận sau:
Cả giáo viên và HS đều nhận thấy vai trò sử dụng và đổi mới phương
pháp sử dụng TLHV vào DHLS Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954. Sau khi tiến
hành khảo sát chúng tôi nhận thấy dù cả GV và HS đang đều có nhận thức hết
sức đúng đắn về việc sử dụng TLHV vào dạy học, tuy nhiên thực tế chứng
minh dù là nhận thức đúng đắn nhưng “vật chất quyết định ý thức”, cả GV và
HS đều lảng tránh những vấn đề khó khăn và chưa thực sự đối mặt với nó. Về
phía GV đã có rất nhiều thầy cô tích cực đưa các biện pháp đổi mới TLHV
vào dạy học như việc khai thác nguồn thông tin từ TLHV, đưa nguồn TLHV
vào để định hướng bài học giúp HS có cái nhìn tổng quan hơn về bài học. Tuy
nhiên, bên cạnh việc đưa nguồn TLHV vào dạy học như vậy còn có nhiều
biện pháp khác cũng đưa được nguồn tư liệu này vào bài học lịch sử.Vậy nên,
32
rất cần có sự áp dụng các biện pháp sử dụng TLHV và trong dạy học một
cách rộng rãi, bên cạnh đó cũng khai thác thêm cách biện pháp mới để đưa
nguồn TLHV vào dạy học một cách hiệu quả nhất có thể.
Qua khảo sát ta thấy HS và GV nhận ra tầm quan trọng của TLHV
trong hoạt động DHLS và cũng thấy tác dụng của nó trong việc giúp HS hình
thành tri thức lịch sử nhưng bên cạnh đó tồn tại quá nhiều khó khăn cho việc
sử dụng cũng như đổi mới TLHV vào DHLS nói chung và DHLS Việt Nam
thời kỳ 1946 – 1954 nói riêng. Nguồn TLHV thì chủ yếu đang nằm tại bảo
tàng, việc thực hiện các chương trình ngoại khóa cho học sinh đến bảo tàng
cũng không phải lúc nào cũng thực hiện được.Khó khăn sẽ mãi còn đấy nếu
chúng ta những người GV vẫn không tìm cách giải quyết chúng.
Theo chúng tôi không chỉ GV mà cả HS cần chủ động hơn nữa với
việc tiếp cận và sử dụng TLHV trong hoạt động dạy và học vì sao vì chúng ta
có thể khắc phục được những khó khăn đó ngay trước mắt bằng công nghệ
bằng sự chịu khó tìm tòi câu chuyện đằng sau hiện vật vô tri vô giác kia. Vấn
đề ở đây sẽ không còn khó khăn nữa nếu chúng ta đứng lên đối mặt với nó.
33
Tiểu kết chƣơng 1
Chương 1 đã tập trung vào một số lí luận và thực tiễn của việc sử dụng
TLHV trong DHLS nói chung và DHLS Việt Nam thời kỳ 1946 -1954 nói
riêng.
Đổi mới phương pháp dạy học nói chung và DHLS nói riêng là yêu cầu
cấp thiết hiện nay của ngành giáo dục. Đổi mới phương pháp dạy học bằng
cách sử dụng TLHV trong dạy học là một trong những định hướng quan trọng
của đổi mới phương pháp DHLS nhằm nâng cao hiệu quả bài học lịch sử.
Tìm hiểu thực trạng DHLS ở trường THPT, thực trạng sử dụng TLHV
trong môn Lịch sử, những khó khăn, trở ngại cũng như những thuận lợi trong
quá trình sử dụng TLHV là một trong những cơ sở quan trọng để thực hiện đề
tài.
Trên đây là cơ sở lý luận và thực tiễn để chúng tối đi đến những biên
pháp đổi mới cách sử dụng TLHV vào DHLS Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954
ở trường THPT.
34
CHƢƠNG 2:
MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỔI MỚI SỬ DỤNG TLHV VÀO DẠY HỌC
LỊCH SỬ VIỆT NAM THỜI KỲ 1946 – 1954 Ở TRƢỜNG THPT.
THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM.
2.1. Vị trí, mục tiêu, nội dung cơ bản của phần lịch sử Việt Nam thời kỳ
1946 – 1954
2.1.1. Vị trí
Lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 - 1954 thuộc chương III “Việt Nam từ
năm 1945 đến năm 1954” nằm trong sách giáo khoa Lịch sử 12, nhà xuất bản
Giáo dục. Đây là giai đoạn có vị trí quan trọng trong toàn bộ tiến trình lịch sử
Việt Nam, nó tiếp nối cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi sau
Cách mạng tháng Tám năm 1945 là giai đoạn tiếp theo của cuộc kháng chiến
chống Pháp lần 2 (1946-1954). Từ năm 1945 sau cách mạng tháng Tám thành
công chưa được bao lâu sau khi đuổi thực dân ra khỏi đất nước thì chúng là ồ
ạt kéo vào nước ta và xâm lược nước ta lần thứ hai. Từ ngày 19/12/1946 sau
khi hát động lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến thì cả nước mà đặc biệt là
nhân dân miền Bắc bắt tay vào cuộc chiến lần thứ hai với thực dân Pháp.
Cuộc kháng chiến của nhân dân ta đi từ bước phát triển này sang bước phát
triển khác đi từ thắng lợi này đến thắng lợi kia, đi từ việc bảo vệ căn cứ địa
Việt Bắc đến phản công giàng thắng lợi, giành thế chủ động trên chiến trường
và đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954.
Khi đi phân tích nội dung từng bài trong chương III này chúng ta sẽ
thấy rõ vị trí, ý nghĩa của thời kỳ 1946 – 1954 này. Từ đó, giúp HS nhận thức
được cuộc đấu tranh gian khổ nhưng oanh liệt của quân và dân ta để làm nên
chiến thắng lịch sử rặng rỡ năm châu, chấn động địa cầu.Phát huy truyền
thống của dân tộc làm nên những chiến thắng vang danh non sông. Học Lịch
sử Việt Nam giai đoạn này sẽ thấy được bức tranh toàn cảnh tội ác kẻ thù và
cũng thấy những chiến công của quân dân ta cùng với ý nghĩa lớn lao của
cuộc kháng chiến toàn dân tộc. HS sẽ thấy được rõ vai trò lãnh đạo của Đảng,
35
của Bác Hồ. Củng cố cho HS khái niệm: cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân; chiến tranh nhân dân; bạo lực cách mạng… Từ đó giáo dục tư tưởng,
tình cảm, thái độ và phẩm chất đạo đức, niềm tin vào Đảng vào nhà nước cho
HS.
2.1.2. Mục tiêu
Đối với chương trình Lịch sử thời kỳ 1946 -1954 ở sách giáo khoa Lịch
sử 12 – Chương trình chuẩn, mục tiêu đặt ra cho học sinh sau khi hoàn thành
chương trình thời kỳ này là:
2.1.2.1. Kiến thức
Giai đoạn Lịch sử Việt Nam 1945 - 1954 trong sách giáo khoa lớp 12
(chương trình chuẩn) được chia thành 4 bài, từ bài 17 đến bài 20. Dạy học
lịch sử Việt Nam giai đoạn này HS sẽ trình bày được cơ bản những âm mưu,
tội ác của đế quốc thực dân Pháp, tay sai và cả sự can thiệp của đế quốc Mĩ
trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam lần thứ 2, Pháp mở rộng các cuộc
tấn công lên căn cứ địa Việt Bắc – trung tâm đầu não của chính phủ ta vào
năm 1947 nhưng không thành công, ta thực hiện chủ trương kháng chiến:
Kháng chiến toàn dân: Là toàn dân kháng chiến, toàn dân đánh giặc
không phân biệt già trẻ, trai gái, mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xã là
một pháo đài. Sở dĩ như vậy là vì:Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, vì
lợi ích toàn dân nên phải do toàn dân tiến hành
Kháng chiến toàn diện: Là kháng chiến trên tất cả các mặt: Quân sự,
chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao…..Vì thực tiển giặc Pháp không những
đánh ta về quân sự mà con phá ta cả về kinh tế, chính trị, văn hóa…Cho nên
ta không những kháng chiến chống Pháp trên mặt trận quân sự mà phải kháng
chiến toàn diện trên tất cả các mặt. Đồng thời kháng chiến toàn diện còn để
phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân.
Kháng chiến trường kỳ (nghĩa là đánh lâu dài): Đây là một chủ trương
vô cùng sáng suốt của Đảng ta, vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác-
36
Lê-nin vào hoàn cảnh nước ta.Ta yếu địch mạnh nên phải đánh lâu dài để
chuyển hóa lực lượng.
Tự lực cánh sinh: Chủ yếu là dựa vào sức mình là chính (sức mạnh của
nhân dân) không trông chờ ỷ lại vào bên ngoài, đồng thời phải tranh thủ sự
viện trợ của quốc tế. Muốn đánh lâu dài thì phải dựa vào sức mình là chính.
Ý nghĩa và tác dụng của đường lối kháng chiến chống Pháp.Toàn bộ
đường lối kháng chiến thấm nhuần tư tưởng chiến tranh nhân dân sâu sắc.Nó
chứng tỏ cuộc kháng chiến của ta là chính nghĩa, nên được nhân dân ủng
hộ.Đường lối kháng chiến có tác dụng dộng viên, dẫn dắt nhân dân ta tiến
hành cuộc kháng chiến dưới sự lãnh đạo của đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh,
dù phải trải qua nhiều hy sinh gian khổ nhưng nhất định sẽ giành thắng lợi.
Đảng và Bác Hồ đã chủ động mở cuộc tấn công lên biên giới vào năm
1950 sau khi Pháp thực hiện xây dựng hành lang Đông – Tây và tăng cường
hệ thống phòng ngự trên đường số 4, chuẩn bị tất công lên Việt Bắc để tìm
kiếm một chiến thắng. Bằng lòng dũng cảm và mưu trí của quân dân ta chiến
dịch biên giới 1950 ta chủ động tiến công đã giành chiến thắng hành lang
Đông – Tây do Pháp thiết lập bị ta chọc thủng, tuyến phòng ngự trên đường
số 4 đổ vỡ ta giàng thế chủ động trên chiến trường từ sau chiến dịch biên giới
1950. Sau khi thất bại ở biên giới 1950 Pháp chọn Biên Biên Phủ làm nơi xây
dựng pháo đài mạnh nhất Đông Dương với sự giúp đỡ và viện trợ của Mĩ. Sau
quá trình chuẩn bị cả về phía ta và địch thì quân ta đã quyết định mở cuộc tiến
công chiến lược Đông – Xuân 1953 – 1954 với đỉnh cao là chiến thắng lịch sử
Biên Biên Phủ (7/5/1954), buộc Pháp phải ngồi vào bàn đàm phán với ta và
ký hiệp định Giơnevơ vào ngày 21/7/1954 buộc Pháp phải rút quân về nước,
lập lại hòa bình ở miền Bắc và cả nước sẽ đi đến tổng tuyển cử vào tháng
7/1956.
Thông qua Lịch sử giai đoạn HS cũng đánh giá được ý nghĩa dân tộc và
thời đại của các chiến dịch Việt Bắc Thu – Đông 1947, chiến dịch biên giới
1950 và chiến dịch Biện Biên Phủ năm 1954 từng bước ta đã hoàn thành cuộc
37
kháng chiến lần 2 chống thực dân Pháp. Từ đó HS cũng đánh giá được vai trò
lãnh đạo của Đảng, nhận thức đúng đắn về cuộc chiến tranh giải phóng dân
tộc, bảo vệ tổ quốc của nhân dân ta.
2.1.2.2. Kỹ năng
Phần Lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 - 1954 rất phong phú về tư liệu
hình ảnh, phim… nếu giáo viên kết hợp đa dạng các phương pháp, phương
tiện dạy học thì sẽ tác động rất lớn tới quá trình phát triển toàn diện của HS.
Thông qua những hình ảnh, phim tư liệu cũng như phương pháp của giáo viên
một phần hiện thực lịch sử sẽ được dựng lại trong trí óc của HS, nó giúp HS
tưởng tượng tốt hơn, phát triển các kỹ năng hình thành khái niệm, biểu tượng
rồi từ đó rút ra quy luật và bài học lịch sử. Ngoài ra HS có thể hình thành
được kỹ năng tư duy độc lập bằng các bài tập phân tích, so sánh, khái quát,
giải thích, đánh giá nhân vật hay sự kiện lịch sử…hình thành kỹ năng thực
hành như vẽ biểu đồ, lược đồ.
Khi sử dụng nguồn TLHV vào dạy học thời kỳ này HS sẽ dần hình
thành kỹ năng khái quát và tổng hợp sự kiện lịch sử bên cạnh đó là kỹ năng so
sánh, đánh giá sự kiện lịch sử, liên hệ giữa các sự kiện lịch sử và giữa điều
được học với thực tế cuộc sống, từ đó rút ra các nhận xét, kết luận, quan điểm
cá nhân.
Rèn luyện tư duy độc lập, sáng tạo, chủ động trong suy nghĩ và có thể
vận dụng các kiến thức, kĩ năng vào thực tế cuộc sống.
Trau dồi các kĩ năng hợp tác làm việc nhóm, kĩ năng thuyết trình, kĩ
năng trình bày một vấn đề lịch sử. Bên cạnh đó khả năng tự học của HS cũng
được nâng cao cùng với quá trình tìm hiểu nguồn TLHV tại nhà.
2.1.2.3. Thái độ
Bản hùng ca bất diệt, kết tinh của truyền thống yêu nước và sức mạnh
dân tộc đó chính là Lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954.
Tội ác xâm lược của thực dân với những chính sách khủng bố, đàn áp
dã man, thảm sát dân thường…gây bao đau thương mất mát cho dân tộc ta
38
đặc biệt là nhân dân miền Nam. Từ đó giáo dục cho HS về tư tưởng, đạo đức,
phê phán chiến tranh, ý thức bảo vệ hòa bình độc lập của dân tộc mình cũng
như tất cả các quốc gia trên thế giới.
Cũng trong giai đoạn Lịch sử này có biết bao tấm gương anh hùng đã
huy sinh quên mình về Tổ quốc những người mẹ, người anh, người chiến sĩ
hiên ngang đứng trước cái chết không hề run sợ… cũng sẽ khơi dậy trong trái
tim HS lòng biêt sơn vô hạn, sự kính phục và noi gương những người anh
hùng đã ngã xuống cho hòa bình của dân tộc. Từ đó HS ý thức trách nhiệm
của bản thaan trong cuộc sống và học tập như thế nào đề xứng đáng với thế hệ
cha anh đi trước.
Không chỉ vậy dạy học Lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954 còn giáo
dục cho HS lòng biêt sơn đối với Đảng, Bác Hồ... HS có quyền tự hào về
truyền thống anh hùng của dân tộc, thấy được trách nhiệm của bản thân đối
với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc hôm nay. Đặc biệt là tình hình biển
đảo Việt Nam hiện nay, những hành động ngang ngược trái với luật biển quốc
tế của Trung Quốc trên vùng thềm lục địa của Việt Nam.
2.1.3. Nội dung
Chương III “Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954” trong sách giáo
khoa Lịch sử 12 đã nêu lên nội dung căn bản của Lịch sử Việt Nam thời kỳ
1946 - 1954 với việc cách mạng Việt Nam trọng tâm nhiệm vụ kháng chiến
chống thực dân Pháp lần 2 với tinh thần “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định
không chịu mấy nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, đêm 19/12/1946, theo
lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng, cả nước đứng lên
kháng chiến. Cuộc kháng chiến toàn quốc bắt đầu. Đường lối kháng chiến của
Đảng ta xác định ngay từ đầu cuộc chiến tranh là: Toàn dân, toàn diện, lâu
dài, dựa vào sức mình là chính.
Từ ngày 19/12/1946 đến chiến thắng Việt Bắc Thu Đông 1947, quân
dân ta đã chặn đánh tiêu hao lực lượng địch, bảo toàn lực lượng rút khỏi thành
phố, phát triển lực lượng, phản công diệt địch trong Chiến dịch Việt Bắc. Sau
39
khi mở rộng được địa bàn chiếm đóng trên cả nước, Thu Đông năm 1947,
Pháp tập trung trên 2 vạn quân mở cuộc tiến công lớn hiệp đồng quân binh
chủng từ nhiều hướng bao vây căn cứ Việt Bắc, tìm diệt quân chủ lực và đầu
não kháng chiến của ta. Ngày 7/10/1947, địch bắt đầu tiến công. Quân địch
theo đường bộ số 3, số 4 và đường thuỷ sông Lô, sông Gấm hình thành thế
bao vây Việt Bắc. Đồng thời, địch cho quân nhảy dù xuống thị xã Bắc Kạn,
chợ Mới, chợ Đồn định diệt các cơ quan đầu não kháng chiến.
Trung ương Đảng và Bộ Tổng chỉ huy ta đã phán đoán âm mưu của
địch nhưng việc nhảy dù xuống địa điểm cụ thể thì chưa lường hết nên lúc
đầu có lúng túng. Sau khi nắm được kế hoạch của địch, ta đã điều chỉnh kế
hoạch tác chiến. Lực lượng ta dùng trong chiến dịch là 10 trung đoàn và 7 tiểu
đoàn bộ binh cùng dân quân du kích tại chổ. Các chiến trường toàn quốc cũng
đẩy mạnh tiến công phối hợp. Trên hướng tiến công đường số 3, số 4 của
địch, quân ta đánh phục kích, tập kích liên tục nhiều trận tiêu hao lực lượng
địch. Bị thiệt hại nặng, địch phải quay lại. Mục tiêu chiến dịch không đạt
được, lại bị thiệt hại nặng và có nguy cơ bị bao vây tiêu diệt nên địch phải rút
lui. Ngày 22/11, quân Pháp bắt đầu rút khỏi Việt Bắc. Dọc đường bị quân ta
phục kích một số trận. Ngày 22/12/1947, chiến dịch kết thúc. Chiến dịch Việt
Bắc kết thúc giành thắng lợi có ý nghĩa chiến lược, đánh bại cuộc tiến công
quy mô lớn của địch, làm phá sản chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của
chúng, bảo vệ cơ quan lãnh đạo, chuyển kháng chiến sang giai đoạn mới.
Sau Chiến dịch Việt Bắc, thực dân Pháp phải chuyển hướng chiến lược
chiến tranh. Từ chiến lược “Đánh nhanh thắng nhanh” phải chuyển sang đánh
lâu dài, thực hiện chính sách “Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người
Việt đánh người Việt”. Từ mở rộng vùng chiếm đóng chuyển sang củng cố
vùng chiếm đóng, từ những cuộc hành quân lớn nhằm tiêu diệt quân chủ lực
của ta chuyển sang nhiều cuộc hành quân nhỏ đánh vào cơ sở kinh tế, chính
trị và diệt từng bộ phận lực lượng vũ trang ta. Chúng ra sức củng cố nguỵ
quyền, phát triển nguỵ quân, tranh thủ viện trợ Mĩ.
40
Về phía ta, sau chiến thắng Việt Bắc, lực lượng vũ trang ta trưởng
thành một bước quan trọng. Chiến tranh du kích phát triển mạnh ở vùng sau
lưng địch cả ở Bắc-Trung Bộ và Nam Bộ; đồng thời, ta chủ trương “Phải từng
bước đẩy vận động chiến tiến tới”. Tháng 6/1950, Thường vụ Trung ương
Đảng quyết định mở Chiến dịch Biên Giới nhằm: tiêu diệt một bộ phận quan
trọng sinh lực địch, khai thông biên giới Việt - Trung, gắn liền với phe xã hội
chủ nghĩa, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc. Ngày 16/9, quân ta nổ
súng đánh Đông Khê (Lạng Sơn) mở màn chiến dịch, sau đó đón đánh diệt 2
binh đoàn quân Pháp đến tăng cường cho Thất Khê sợ bị tiêu diệt, quân Pháp
phải rút chạy khỏi các cứ điểm từ Thất Khê đến Lạng Sơn, quân ta truy kích
diệt thêm một số quân Pháp. Ngày 14/10/1950, ta kết thúc chiến dịch.
Chiến dịch Biên giới làm thay đổi cục diện chiến tranh, giành quyền
chủ động chiến lược trên chiến trường.
Từ năm 1951 đến chiến dịch Điện Biên Phủ, giữ vững quyền chủ động
chiến lược đẩy mạnh tiến công và phản công, giành thắng lợi quyết định, kết
thúc chiến tranh. Sau thất bại ở chiến trường biến giới, thực dân Pháp còn cố
giành lại quyền chủ động chiến lược bằng cách tăng quân, thay tướng, xin
thêm viện trợ Mỹ. Chúng cho xây dựng hệ thống cứ điểm vững chắc, tập
trung giữ chiến trường chính là Bắc Bộ, đồng thời tăng cường càng quét “bình
định” Trung Bộ và Nam Bộ, kết hợp với đánh phá, bao vây kinh tế, chiến
tranh tâm lý với vùng căn cứ kháng chiến.
Về phía ta, chủ trương chung là tiếp tục giữ khí thế chủ động tiến công
liên tục tiêu diệt sinh lực địch, tiến tới giải phóng đồng bằng Bắc Bộ. Hoạt
động quân sự của ta gây cho địch nhiều thiệt hại lớn, Kế hoạch Đờ Lát đờ
Tátxinhi phá sản, và bị triệu hồi. Tháng 5/1953, tướng NaVa được cử sang
làm Tổng chỉ huy quân đội Pháp. NaVa đề ra kế hoạch mới định giành thắng
lợi quân sự có ý nghĩa chiến lược trong vòng 18 tháng làm cơ sở cho một giải
pháp chính trị mở lối thoát danh dự cho Pháp.
41
Nắm chắc âm mưu của địch, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh quyết định mở cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954 gồm
nhiều chiến dịch trên một số hướng chiến lược, đẩy mạnh chiến tranh du kích,
sẵn sàng tiêu diệt địch khi chúng đánh vào vùng tự do, nhằm đánh bại cố gắng
cao nhất của Pháp-Mỹ.
Và cuối cùng cả ta và Pháp đều chọn Điện Biên Phủ làm nơi quyết
chiến. Tháng 12/1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định mở Chiến
dịch Điện Biên Phủ. Đại tướngVõ Nguyên Giáp được cử làm người chỉ huy
chiến dịch. Kế hoạch lúc đầu ta chủ trương tiến công ào ạt, đánh nhanh, thắng
nhanh nhưng sau khi nắm cụ thể tình hình địch, ta thấy không bảo đảm chắc
thắng nên chuyển sang phương châm “đánh chắc, tiến chắc”. Chiều ngày
13/3/1954, Chiến dịch Điện Biên Phủ mở màn. Sau 3 đợt tiến công, 56 ngày
đêm chiến đấu anh dũng, quyết liệt, mưu trí, sáng tạo, cuối ngày 7/5, quân ta
giải phóng hoàn toàn Điện Biên Phủ. Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng.
Chiến dịch Điện Biên Phủ là một trận quyết chiến chiến lược góp phần
quyết định làm phá sản kế hoạch NaVa và làm sụp đổ ý chí xâm lược của
thực dân Pháp dẫn tới thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp.
Với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ của ta đã buộc Pháp phải thừa
nhận độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổcủa ViệtNam. Chấm
dứt ách thống trị của Pháp gần một thế kỷ: Buộc Pháp phải rút quân về nước.
Mở ra một kỹ nguyên mới trong lịch sử dân tộc: Độc lập tự do và đi lên
chủ nghĩa xã hội. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, thành quả cách mạng
tháng tám được bảo vệ, tạo điều kiện để miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đối với thế giới.Giáng một đòn mạnh mẽ vào chủ nghĩa thực dân kiểu
cũ, vào tham vọng xâm lược và nô dịch của chủ nghĩa đế quốc, góp phần làm
tan rã hệ thống thuộc địa của chúng.Cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng
dân tộc trên thế giới.Đập tan âm mưu của đế quốc Mỹ muốn thay chân Pháp
độc chiếm Đông Dương để ngăn chặn phong trào giải phóng dân tộc và ảnh
hưởng của chủ nghĩa xã hội ở vùng Đông Nam Á.Chứng minh một chân lý
42
của thời đại: “Trong điều kiện thế giới ngày nay một dân tộc dù đất không
rộng, người không đông, nếu quyết tâm chiến đấu vì độc lập tự do, có đường
lối quân sự chính trị đúng đắn, được quốc tế ủng hộ thì hoàn toàn có khả năng
đánh bại mọi thế lực đế quốc hung bạo.
2.2. Các TLHV cần và có thể khai thác, sử dụng trong dạy học lịch sử
Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954
Như đã đề cập ở phần một số khái niệm, chúng tôi sẽ khai thác và sửu
dụng TLHV này ở dạng vật thật là hình ảnh của TLHV.
Lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954 là thời kỳ rất nhiều các tư liệu
lịch sử đặc biệt là thư liệu hiện vật. Như đã trình bày ở phần phạm vi nghiên
cứu nên chúng tôi đi tìm hiểu cơ bản những tư liệu hiên vật tại hai bảo tàng
Lịch sử Cách mạng Việt Nam và Lịch sự Quân sự Việt Nam chính vì vậy
nguồn TLHV sẽ không được đầy đủ. Sau đây, chúng tôi xin thống kê một số
TLHV cần và có thể sử dụng trong DHLS Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954:
Bài 18: Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc (1945 - 1950)
ta có thể sử dụng và khai thác các tư liệu hiện vật sau:
Một là: Lá cờ "Quyết tử quân”. Đó là một vật chứng về những chiến
công vang dội của Đội Quyết tử quân trong những ngày đầu Toàn quốc kháng
chiến.
43
Hình 2.1. Lá cờ “Quyết tử quân”
(nguồn:http://www.btlsqsvn.org.vn)
Nội dung phản ánh: Lá cờ đỏ sao vàng được khâu tay, hình đuôi nheo,
kích thước 27cm x 39cm nổi bật trên nền vải nỉ đỏ là dòng chữ rắn rỏi thêu
bằng chỉ trắng “Quyết tử quân”. Lá cờ do Ban chỉ huy Liên khu 1 tặng Đội
Quyết tử quân sau chiến công vẻ vang đốt cháy 2 máy bay của quân Pháp tại
sân bay Gia Lâm đêm 16 tháng 1 năm 1947.
Đội Quyết tử quân được thành lập tháng 12 năm 1946 do đồng chí Lê
Giới, đồng chí Nguyễn Giang và đồng chí Ninh chỉ huy, đóng quân ở ven
đường số 5 trong các làng Quán Tần, Lai Rạt, làng Vàng, làng Cam gần sân
bay Gia Lâm. Đội Quyết tử quân được giao nhiệm vụ bí mật đột kích sân bay,
phá hủy máy bay, đốt cháy kho xăng dầu của địch.
Để thực hiện nhiệm vụ phá hoại các cơ sở kho tàng, sân bay của địch
ngay từ thời kỳ chuẩn bị kháng chiến, Phòng Tình báo thuộc Bộ Tổng Tham
44
mưu đã tổ chức cài cắm thêm người tiếp cận với địch, củng cố hộp thư mật,
chuẩn bị cơ sở mật, tổ chức liên lạc bảo đảm tin tức thu được nhanh chóng và
chuyển đi an toàn. Một trong những mục tiêu chiến đấu của ta là sân bay Gia
Lâm, nơi địch bố phòng rất cẩn mật, có số lượng lớn máy bay ở đây. Đồng chí
Nguyên Hồng, một tình báo viên của Hà Nội, đã lọt được vào làm lao công
trong sân bay Gia Lâm. Với bản sơ đồ sân bay do anh vẽ và bổ sung hàng
ngày, thông thuộc đường ra, lối vào, chính anh dẫn Đội Quyết tử quân vào
đánh sân bay Gia Lâm ngay đêm đầu Toàn quốc kháng chiến ngày
19/12/1946 nhưng không thành vì công tác chuẩn bị chưa tốt. Khi chiến sự
xảy ra ở Hà Nội, địch ở Gia Lâm tăng cường tuần tiễu, yếu tố bất ngờ không
còn, ta phải rút lực lượng ra.
Các đồng chí trong Đội không nản lòng, kiên trì chờ đợi, chuẩn bị
nhiều phương án chiến đấu. Lợi dụng đêm tối ngày 16/1/1947, tức 26 tháng
Chạp, giáp Tết Nguyên đán Đinh Hợi, đồng chí Nguyên Hồng đã dẫn đường
cho đội tập kích sân bay Gia Lâm, đốt cháy 2 máy bay của địch. Sau trận
chiến đấu này, Đội Quyết tử quân vô cùng phấn khởi được Ban chỉ huy Liên
khu 1 Hà Nội khen ngợi và tặng cho đội lá cờ “Quyết tử quân”. Đặc biệt Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã tặng đội thiệp Chúc mừng năm mới nhân dịp Tết để biểu
thị lòng dũng cảm của các chiến sĩ.
Hai là:Ngày 15/10/1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị
“Phải phá tan cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp”. Tinh thần chỉ thị là
quyết chiến quyết thắng. Chỉ thị trở thành mệnh lệnh hành động và ý chí
quyết tâm chiến đấu của quân và dân ta trên khắp chiến trường Việt Bắc.
45
Hình 2.2. Bản chỉ thị “Phải phá tan cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp”
trưng bày trong phần Chiến dịch Việt Bắc Thu – Đông 1947
(nguồn:http://www.btlsqsvn.org.vn)
Nội dung tư liệu phản ánh: Ngày 15/10/1947, Ban Thường vụ Trung
ương Đảng ra chỉ thị “Phải phá tan cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp”.
Tinh thần chỉ thị là quyết chiến quyết thắng. Chỉ thị trở thành mệnh lệnh hành
động và ý chí quyết tâm chiến đấu của quân và dân ta trên khắp chiến trường
Việt Bắc. Ngày 19/12/1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Quân và
46
dân ta đồng loạt đánh vào các vị trí quân Pháp chiếm đóng, ghìm giữ quân
địch ở Hà Nội và các thành phố, thị xã trên địa bàn cả nước.
Sau hai tháng chiến đấu giằng co quyết liệt với địch, do lực lượng quá
chênh lệnh, để bảo toàn lực lượng kháng chiến lâu dài, đầu năm 1947, Trung
ương Đảng, Chính phủ, Bộ Chỉ huy rời Thủ đô Hà Nội, lên chiến khu Việt
Bắc. Nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến của ta và lực lượng chủ lực
sớm kết thúc chiến tranh, thực dân Pháp quyết định mở cuộc tấn công lớn lên
Việt Bắc.
Sau khi thực dân Pháp cho quân nhảy dù xuống thị xã Bắc Cạn (7/10),
ngày 15/10/1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Phải phá tan
cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp”. Bản chỉ thị của Ban Thường vụ
Trung ương Đảng đã vạch ra cụ thể các vấn đề chuẩn bị cho cuộc phản công
làm thất bại âm mưu của thực dân Pháp.
Chỉ thị xác định: “…Phải đánh thế nào để phá kế hoạch mùa đông của
địch, làm cho địch thua thiệt nặng nề đến nỗi không thể gượng lại được sau
chiến dịch mùa đông này. Phát triển chiến tranh du kích mạnh hơn, vũ trang
nhân dân nhiều hơn, để đối phó với chiến sự ngày một lan rộng và quyết liệt”.
Để từng bước kẻ gãy gọng kìm tấn công lên Việt Bắc của thực dân
Pháp, bản chỉ thị cũng chỉ ra phương pháp đánh địch “tích cực, linh động và
phổ biến”. Phát động phong trào dân quân du kích rộng khắp, vừa phải tập
trung quân chính quy ở những khu vực cơ động để chặn địch. Bản chỉ thị đã
phân tích một cách cụ thể điểm mạnh của ta, điểm yếu của địch để phát huy
thế mạnh của chiến tranh du kích, chiến tranh nhân dân: “Địch đánh ta ở trên,
ta đánh địch ở dưới. Địch đánh ta ở Bắc, ta đánh chúng ở Trung, Nam và
Miên, Lào. Địch xâm phạm căn cứ địa của ta, ta đánh mạnh ngay trong bụng
chúng. Địch đi lại, ta chặt chân, phá đường của chúng. Bộ đội và dân quân du
kích phối hợp, tùy hoàn cảnh, tùy điều kiện mà tiêu hao và tiêu diệt địch. Ta
phải nhè chỗ yếu của địch mà đánh. Địch yếu ở chỗ nào, chúng vận động trên
đường, đằng trước và hai bên sườn hở. Ở chỗ chúng vừa nhảy dù hay đổ bộ
47
chưa kịp đào hào, đắp lũy… Địch còn yếu ở chỗ nhảy xuống và vận động
vùng rừng núi. Ta phải lợi dụng địa hình mà phục kích địch, dụ địch vào sâu
mà tiêu diệt chúng. Đốt phá kho tàng, xí nghiệp của địch triệt những tên việt
gian”.
Bản chỉ thị lịch sử này đã trở thành mệnh lệnh hành động, là ngọn cờ
hiệu triệu toàn quân, toàn dân ta chiến đấu trên khắp chiến trường Việt Bắc, là
cơ sở cho chiến thắng của chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947, làm thay đổi
cục diện cuộc kháng chiến: Ta từ phòng ngự chuyển dần sang thế phản công,
làm thất bại hoàn toàn chiến lược “Đánh nhanh thắng nhanh”, buộc Pháp phải
chuyển sang đánh lâu dài với ta tạo điều kiện đến thắng lợi cuối cùng.
Ba là: Trong tình hính thế trận chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh
giặc với lực lượng vũ trang làm nòng cốt của ta đã phá tan cuộc tiến công thu
đông năm 1947 của giặc Pháp. Đêm 19/12/1947, quân Pháp phải tháo chạy
khỏi chiến trường Việt Bắc. Nêu gương tinh thần chiến đấu quả cảm, linh
hoạt nhạy bén của cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn Sông Lô trong những năm đầu
mới thành lập, ngày 15/1/1948, Bác Hồ đã gửi thư động viên, khích lệ.
48
Hình 2.3. Bức thư Bác Hồ gửi “Trung đoàn Sông Lô” trưng bày trong phần
Chiến dịch Việt Bắc Thu – Đông 1947
(nguồn:http://www.btlsqsvn.org.vn)
Nội dung tư liệu phản ánh như sau: Thế trận chiến tranh nhân dân, toàn
dân đánh giặc với lực lượng vũ trang làm nòng cốt của ta đã phá tan cuộc tiến
công thu đông năm 1947 của giặc Pháp. Đêm 19/12/1947, quân Pháp phải
tháo chạy khỏi chiến trường Việt Bắc.
Nêu gương tinh thần chiến đấu quả cảm, linh hoạt nhạy bén của cán bộ,
chiến sĩ Trung đoàn Sông Lô trong những năm đầu mới thành lập, ngày
15/1/1948, Bác Hồ đã gửi thư động viên, khích lệ. Mở đầu bức thư Người
khen ngợi tinh thần chiến đấu và biểu dương những thành tích mà cán bộ,
chiến sĩ Trung đoàn đã lập được trong trận phục kích địch trên Sông Lô: “Tôi
rất vui lòng trong cuộc tấn công địch vừa rồi, các chú đánh khá, đã diệt được
khá địch, cướp được khá khí giới. Đánh đúng chiến thuật du kích”. Cùng với
49
khen ngợi đơn vị, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ Trung
đoàn cần phát huy truyền thống để lập được nhiều chiến công hơn nữa, tuyệt
đối không được chủ quan, khinh địch. Người căn dặn: “Tôi thay mặt chính
phủ khen ngợi các chú. Nhưng chớ vì thế mà khinh địch, chủ quan kiêu ngạo.
Trái lại, cần phải luôn cố gắng, để lần sau lập được nhiều chiến công to hơn
nữa”.
Bằng văn phong ngắn gọn, xúc tích, mạch lạc, bức thư gửi gắm niềm
tin, truyền lửa ý chí, quyết tâm cho toàn thể cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn Sông
Lô song cũng chứa đựng tình cảm yêu mến, sự quan tâm, gần gũi của lãnh tụ
với cán bộ và chiến sĩ Trung đoàn. Cuối thư Người viết: “Tiếc rằng là đã
không có quà gì gửi cho tất cả mọi anh em chiến sĩ, vậy gửi cho tất cả mọi
người tấm lòng yêu mến. Khuyên các chú sao cho trở nên một bộ đội kiểu
mới. Chào thân ái và quyết thắng”
Bốn là: Khẩu súng badôka (bazooka) do quân giới Việt Nam sản xuất
năm 1947 là một trong những hiện vật tiêu biểu của lịch sử Việt Nam thời kỳ
kháng chiến chống Pháp lần 2, khẩu badôka phản ánh sức sáng tạo, nỗ lực
nghiên cứu của cán bộ, công nhân ngành Quân giới Việt Nam trong giai đoạn
mới thành lập.
50
Hình 2.4. Khẩu badôka do cán bộ, công nhân ngành Quân giới Việt Nam sản
xuất năm 1947
(nguồn:http://www.btlsqsvn.org.vn)
Câu chuyện về tư liệu này: Badôka xuất hiện lần đầu tiên trên thế giới
trong Chiến tranh thế giới lần thứ II, năm 1943, đã trở thành vũ khí đáng sợ
đối với nhiều đơn vị quân đội. Tuy nhiên việc một đất nước vừa thoát khỏi
cảnh thuộc địa và nửa phong kiến như nước ta đã chế tạo thành công loại vũ
khí hiện đại này, thật như huyền thoại và là điều không ngờ của thực dân
Pháp.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, vũ khí cho lực lượng vũ trang
còn rất thiếu, chỉ có một số đơn vị được trang bị bằng vũ khí thu được của
Bảo an binh và quân Nhật - Pháp. Hai tuần sau ngày nước Việt Nam Dân chủ
cộng hoà ra đời, ngày 15/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh thành
51
lập Phòng Quân giới thuộc Bộ Quốc phòng với nhiệm vụ tìm kiếm, mua đổi
vũ khí, đạn dược, tổ chức cơ sở sản xuất vũ khí cho quân đội.
Năm 1946, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Võ Nguyên Giáp giao nhiệm vụ
cho Chế tạo quân giới Cục, trực tiếp là Xưởng Quân giới Giang Tiên (Thái
Nguyên) nghiên cứu sản xuất súng, đạn chống xe tăng và xe cơ giới. Bộ chỉ
huy Chiến khu 1 giao cho xưởng một khẩu súng badôka 60mm của Mỹ và 2
viên đạn để nghiên cứu và chế tạo. Ngày 20/10/1946, sau khi Hội nghị Phông-
ten-nơ-blô (Fontainebleau) kết thúc, cùng trở về với Chủ tịch Hồ Chí Minh có
nhiều trí thức là người Việt đang làm việc tại Pháp, đặc biệt là kỹ sư Phạm
Quang Lễ, người đã tự học và tích lũy nhiều kinh nghiệm quý báu về sản xuất
vũ khí. Ngày 5/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp bổ nhiệm đồng chí
Phạm Quang Lễ làm Cục trưởng Cục Quân giới và đổi tên là Trần Đại Nghĩa.
Người giải thích: “Một là họ Trần, là họ của danh tướng Trần Hưng Đạo. Hai
là, Đại Nghĩa là nghĩa lớn để chú nhớ đến nhiệm vụ của mình với nhân dân,
với đất nước”.Từ đó cái tên Trần Đại Nghĩa đã gắn với ông trọn đời.
Sau đó, Trần Đại Nghĩa được cử lên xưởng quân giới Giang Tiên, cùng
cán bộ, công nhân nghiên cứu về kỹ thuật chế tạo súng, đạn badôka. Đến
tháng 11/1946, sau một thời gian khẩn trương nghiên cứu, thiết kế, đã chế tạo
được khẩu súng badôka đầu tiên. Tuy nhiên, việc chế tạo đạn chưa thành
công. Đồng chí Trần Đại Nghĩa đã chỉ đạo một nhóm cán bộ kỹ thuật tiếp tục
nghiên cứu.
Ngày 19/12/1946, Toàn quốc kháng chiến bùng nổ, việc nghiên cứu,
chế tạo súng, đạn badôka càng được tiến hành khẩn trương hơn. Tại Ứng Hoà
(Hà Nội), đồng chí Trần Đại Nghĩa trực tiếp chỉ đạo Nha nghiên cứu kỹ thuật
và một tổ cán bộ, công nhân gồm 5 người do đồng chí Phạm Văn Gián làm
Tổ trưởng, nghiên cứu tìm nguyên nhân: “Vì sao đạn nổ mà không đạt sức
xuyên?”.Sau nhiều lần thử nghiệm, anh em đã tìm ra nguyên nhân là thuốc
gợi nổ ở ống nổ (đề-tô) không đúng liều lượng - thuốc nổ lõm không nổ hết
dẫn đến giảm uy lực (tốc độ, nhiệt độ, áp suất...) của luồng xuyên.Sau khi
52
thay đổi liều lượng thuốc nhồi nổ và qua thí nghiệm, nhóm nghiên cứu đã tìm
ra tỷ lệ nhồi thuốc gợi nổ thích hợp. Cuối tháng 2/1947, ngành Quân giới Việt
Nam đã chế tạo được đạn, súng badôka do xưởng Kl (Khu 11) chế tạo theo
mẫu của Cục. Trong lần bắn thử tại Vân Đình (Ứng Hoà, Hà Nội) đạn bắn thử
đạt yêu cầu kỹ thuật tương đương như viên đạn mẫu của Mỹ, viên đạn đã phá
được một mảng tường khá to và lỗ xuyên của đạn vào bức tường đá sâu gần
75cm. Vừa kịp phục vụ cho kháng chiến.
Năm là: Bên cạnh những tư liệu về quân sự thì có những tư liệu hiện
vật thời kỳ này nói lên bộ mặt kinh tế nước ta:
Hình 2.5. Sách "Chính sách ruộng đất của Đảng".
(nguồn: http://www.btlsqsvn.org.vn)
Bài 19: Bước phát triển của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân
Pháp (1951 – 1953)
Bên cạnh việc chuẩn bị kháng chiến về mọi mặt Đảng ta vẫn thực hiện
những chỉ thị cải cách ruộng rất nhằm mang lại lợi ích cho nông dân vào năm
53
1952 với mục tiêu xây dựng một hậu phương vững chắc cho cuộc kháng
chiến lâu dài của nhân dân ta.
Hình 2.6. Sách "bổ sung chỉ thị 37 về chính sách ruộng đất của Đảng" Ban
chấo hành Trung Ương Đảng xuất bản năm 1952
(nguồn:https://www.baomoi.com)
Bài 20: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết thức (1953 –
1954).
Đối với bài này có rất nhiều tư liệu hiện vật cần và có thể sử dụng trong
hoạt động dạy học như sau:
Để nói về sự chuẩn bị của ta cho chiến dịch Biện Biên Phủ có thể
dùng:
Tư liệu Chiếc cối của mẹ Trương Thị Dư hiện đang được trưng bày tại
Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam. Chiếc cối bằng đá, màu xanh đen, có
chày đạp giã, chôn dưới đất, đường kính miệng 41,5cm, đường kính đáy cối
37,5cm, cao 30,5cm. Chiếc cối được mẹ Dư sử dụng để giã gạo phục vụ bộ
đội trong kháng chiến chống Pháp. Mẹ thường giã gạo để chồng gánh gạo
54
theo đoàn dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1953. Nội dung
liên quan đến bài học là phần cuộc tiến công Đông – Xuấn 1953 – 1954 với
những chuẩn bị càng của quân dân ta.
Hình 2.7. Chiếc cối của Mẹ Việt Nam anh hùng Trương Thị Dư
(nguồn:http://www.btlsqsvn.org.vn)
Chiếc xe thồ phổ biến của ta lúc bấy giờ dùng để trở lương thực lên
điện biên với chiếc xe đạp đó anh đã trở được hơn 300kg thóc trên một lần
trở, để nói về sự chuẩn bị của quân dân ta cho chiến dịch Điện Biên Phủ năm
1954 cũng là một tư liệu hiên vật cần dụng trong giai đoạn 1953 – 1954 để nó
lên sức chuyển bị và tinh thần đấu tranh bền bỉ dù gặp những khó khăn thế
nào cũng không lùi bước của nhân dân ta.
55
Hình 2.8. Xe đạp thồ phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ
(nguồn: http://toquoc.vn)
Hình 2.9. Đôi bồ và chiếc đòn gánh này cũng đã góp công trong Chiến dịch
(nguồn: http://www.bqllang.gov.vn)
56
Hình 2.10. dép lốp cao su của chiến sĩ Điện Biên
(Nguồn:http://www.bqllang.gov.vn)
Không chỉ chuẩn bị quân lương sẵn sàng mà phía ta còn chuẩn bị cả vũ
khí để đưa vào chiến trường.
Hình 2.11. Pháo bộ bội ta đưa vào mặt trận
(Nguồn:http://www.bqllang.gov.vn)
Một số loại vũ khí Pháp sử dụng trong trận quyết chiến lịch sử Điện
Biên Phủ bị bộ đội ta thu được.
57
Hình 2.12. Súng Cối 81mm của Pháp, bộ đội ta thu ở Điện Biên Phủ năm
1954
(nguồn: http://toquoc.vn )
Hình 2.12. Súng phun lửa thực dân Pháp dùng ở Biên Biên Phủ
(Nguồn:http://www.bqllang.gov.vn)
58
Hình 2.13. Mìn nhảy vũ khí Pháp dùng ở Biện Biên
(Nguồn:http://www.bqllang.gov.vn)
Hình 2.14. Áo chống đạn của lính Pháp ta thu được ở Điên Biên Phủ
(Nguồn:http://www.bqllang.gov.vn)
Đặc biệt ở chiến dịch Điện Biên Phủ có một TLHV mà GV nên đưa
vào sử dụng, có thể sử dụng hiện vật này để làm kiểm tra đánh giá mức độ
59
nhận thức của HS về bài học cũng như sự hiểu biết của HS về quy luật trong
lịch sử. Đó là:
Hình 2.15. Mũ sắt của lính Pháp bị ta thu ở chiên dịch Điện Biên Phủ.
(Nguồn:http://www.bqllang.gov.vn)
Đứng trên quan điểm của bản thân với đề tài nghiên cứu, chúng tôi đưa
ra một số tư liệu theo chúng tôi là cần và có thể sử dụng được khi DHLS Việt
Nam thời kỳ 1946 – 1954 ở trường THPT.
Tất nhiên trên đây chúng tôi vẫn chưa đưa ra được phương pháp sử
dụng cụ thể đối với từng hiện vật áp dụng vào bài học ra sau, chúng tôi sẽ tiến
hành xây dựng biện pháp cho một số TLHV nhất định để phục vụ thực
nghiệm sự phạm và sẽ mong mang lại sự hiệu quả trên thực tế.
2.3. Yêu cầu và quy trình sử dụng TLHV vào dạy học lịch sử Việt Nam
thời kỳ 1946 – 1954
Sử dụng TLHV cũng như sử dụng một đồ dùng trực quan đều phải có
những yêu cầu và quy trình nhất định: luôn kết hợp sử dụng TLHV với
60
phương pháp khác như dùng lời, miêu tả, kể chuyện, giải thích nhằm làm rõ
nội dung ý nghĩa mà TLHV đó phản ánh. Lựa chọn TLHV phải phù hợp với
mục tiêu, nội dung bài học, phải định hướng cụ thể khi đưa TLHV vào bài
học, hướng dẫn học sinh sử dụng, khai thác TLHV.
2.3.1. Yêu cầu
Thứ nhất, mục đích sử dụng: Các TLHV được sử dụng trong giảng
dạy không phải nhằm cho HS nghiên cứu để trở thành một nhà sử học đúng
nghĩa. TLHV đưa vào trong DHLS ở trường THPT là các tư liệu đã được
kiểm nghiệm chính xác, khoa học lịch sử khẳng định.Mục đích khi cho HS
tiếp cận với các tư liệu này, là để các em có được cái nhìn khách quan không
phụ thuộc vào bất cứ ai, bất cứ luận điểm nào trong các tài liệu viết về vấn đề
lịch sử đó.Các em có thể đưa ra quan điểm riêng của mình về các vấn đề lịch
sử có cơ sở là TLHV.Đồng thời còn nhằm hình thành cho các em cách tiếp
cận tri thức, cách học, bước đầu làm quen với nghiên cứu khoa học. Việc GV
hướng dẫn cho HS tiếp cận và khai thác TLHV trong bài học là việc GV chỉ
ra cho HS con đường ngắn nhất để tiếp cận tri thức, để đưa ra những kết luận
khoa học đúng đắn một cách nhanh nhất và dễ dàng nhất. Đây là mục tiêu
chính về mặt giáo dưỡng của bộ môn lịch sử đặt ra.Và việc sử dụng TLHV
trong dạy học là một biện pháp nhằm nâng cao chất lượng của bộ môn ở
trường THPT.
Thứ hai, TLHV sử dụng trong DHLS cần phải đáp ứng mục tiêu
bài học.GV cần chú ý khi lựa chọn TLHV để sử dụng, cần phải căn cứ vào
mục đích, yêu cầu của bài học và trình độ nhận thức của HS.TLHV sử dụng
trong bài cần có nội dung trọng tâm vào bài học, là những tư liệu cần thiết để
khi nêu lên HS có thể hiểu nội dung lịch sử được phản ánh trong tư liệu đó.
Để đáp ứng được mục tiêu bài học, khi sử dụng TLHV, GV cần phải
xem kỹ nội dung của bài học để tiến hành thẩm định, chọn lọc tư liệu trước
khi sử dụng trên lớp.Có như vậy khi đưa vào sử dụng mới có tính chính xác,
đem lại hiệu quả và đáp ứng được mục tiêu giáo dục, giáo dưỡng và phát triển
61
của bài. Bên cạnh đó, việc GV sử dụng tư liệu có liên quan chặt chẽ với các
sự kiện cơ bản trong bài, vừa sức với HS còn là biện pháp tốt để hướng dẫn
các em tự học ở nhà, góp phần phát huy tính tự giác, tích cực học tập của
mình.
Thứ ba, sử dụng TLHV phải làm nổi bật nội dung cơ bản của bài,
đảm bảo tính khoa học trong nội dung.Trong DHLS, chúng ta không thể
cung cấp hết cho HS mọi kiến thức của khoa học lịch sử mà chỉ có thể làm
cho các em nắm vững những kiến thức cơ bản của bài, là những kiến thức tối
ưu cần thiết cho việc hiểu biết của HS về lịch sử.Để xác định kiến thức trọng
tâm, nội dung cơ bản của bài, GV cần căn cứ vào sơ đồ Đai-ri để thiết kế giáo
án. GV cần căn cứ vào nội dung bài viết trong SGK để lựa chọn TLHV cho
phù hợp. Nhằm làm rõ kiến thức cơ bản của bài, khắc sâu kiến thức cho HS,
tránh việc sử dụng TLHV một cách nặng nề, tràn lan, biến giờ học thành giờ
nghiên cứu tư liệu.
Thứ tƣ, sử dụng TLHV phải đảm bảo tính vừa sức, trình độ và tâm
lí HS. Trong dạy học ở trường THPT, tính vừa sức được thể hiện ở việc GV
lựa chọn nội dung, PPDH và cách tổ chức quá trình nhận thức phù hợp với
từng đối tượng HS. Còn tính vừa sức trong sử dụng TLHV được thể hiện:
- Khối lượng kiến thức trong các TLHV đưa vào sử dụng phải vừa đủ.
GV phải căn cứ vào từng cấp học, lớp học, đặc điểm tâm sinh lý, lứa tuổi
cũng như khả năng tư duy của từng đối tượng, giữa HS trung học cơ sở với
HS THPT, HS ở thành phố với HS ở nông thôn… để xác định nội dung cơ
bản phù hợp với từng đối tượng HS. Sau đó mới lựa chọn các TLHV phù hợp
với từng đối tượng, tránh trường hợp tư liệu quá dễ hay quá khó với trình độ
nhận thức của các em.
- Khi đưa TLHV, tránh đưa những tư liệu bằng tiếng nước ngoài,
những tư liệu khó hiểu phải mất rất nhiều thời gian giải thích và làm cho việc
lĩnh hội kiến thức của HS gặp khó khăn.
62
- Trình bày nội dung TLHV ngắn gọn, súc tích, cụ thể, dễ hiểu, không
rườm rà, quá nhiều tên riêng, tên nước ngoài.
- GV không nên trích dẫn quá nhiều tư liệu lịch sử, phải biết chọn lọc,
phân loại chúng, đưa những tư liệu lịch sử có nội dung liên quan đến nội dung
cơ bản của bài học. Tránh việc trích dẫn quá nhiều tư liệu sẽ làm loãng nội
dung kiến thức của bài học, làm phân tán sự chú ý của HS.
Thứ năm, sử dụng TLHV phải kết hợp nhuần nhuyễn với các
PPDH khác.Trong dạy học nói chung, DHLS nói riêng không có phương
pháp nào là vạn năng. Bởi vậy, khi dạy học phải kết hợp nhiều phương pháp,
biện pháp khác nhau để đạt hiệu quả cao nhất. Nội dung lịch sử rất phong
phú, nhiều loại kiến thức, mỗi loại kiến thức cần có những biện pháp dạy học
phù hợp để đạt kết quả giáo dục tốt nhất. TLHV là một nguồn kiến thức quan
trọng bên cạnh các nguồn kiến thức trong SGK.Vì vậy, khai thác TLHV cũng
là một biện pháp dạy học của GV. Do đó, cần kết hợp nhuần nhuyễn việc sử
dụng TLHV với các PPDH khác.
Khi hướng dẫn HS khai thác các TLHV, GV cần phải kết hợp nhuần nhuyễn
với lời nói sinh động của GV và HS, các đồ dùng trực quan, trao đổi thảo
luận, sử dụng các tài liệu tham khảo khác, cần ứng dụng công nghệ thông tin
trong quá trình khai thác TLHV … để hướng dẫn HS tri giác, tìm hiểu, nghiên
cứu và trả lời các câu hỏi gợi mở mà GV đặt ra. Từ đó, góp phần phát huy
được tối đa vai trò ý nghĩa của việc sử dụng TLHV trong DHLS ở trường
THPT
2.3.2. Quy trình
Một số bước khi sử dụng TLHV là:
Xác định nội dung, mục tiêu bài học và chọn TLHV sao cho phù hợp
việc xác định này là đặc biệt quan trọng nếu không xác định đúng thì việc sử
dụng TLHV vào dạy học không chỉ không mang lại hiệu quả trong bài học mà
còn mang lại hiệu quả ngược đối với bài học vì Gv không xác định được tư
63
liệu đố giải quyết phần nội dung nào trong bài học đáp ứng mục tiêu nào
trong dạy học.
Trước khi cho HS quan sát hay làm việc với nguồn TLHV hoặc hình
ảnh TLHV thì GV phải giao nhiệm vụ cho HS làm những gì, hướng dẫn HS
quan sát, tìm hiểu để HS có thể tự tìm tri thức lịch sử HS khai thác thông tin
chưa đựng bên trong TLHV, có thể có phản biên giữa các nhóm HS sau đó
GV tổng kết.
Sau khi cho HS tìm hiểu và trình bày hiểu biết của mình qua TLHV GV
phải nhận xét mặt được cũng như chưa được để HS rút kin nghiệm cho những
lần sau, nếu có thể GV nên làm mẫu một lần để HS học hỏi.
Và cuối cùng GV lấy TLHV làm kiểm tra, đánh giá trong giờ học để
kiểm tra mức độ tiếp thu bài của học sinh tại lớp.
2.4. Các biện pháp đổi mới phƣơng pháp sử dụng TLHV vào dạy học lịch
sử Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954
2.4.1. Sử dụng TLHV để mở đầu định hướng bài học
Với đặc điểm của bộ môn lịch sử là nhiều sự kiện và kiến thức khó nhớ
nên việc mở đầu bài học đối với môn sử là đặc biệt quan trọng, chỉ khi có
phần mở đầu hấp dẫn giáo viên mấy có thể thu hút HS và lôi cuốn HS vào bài
học.
Trong thực tế giảng dạy có rất nhiều cách mở bài khác nhau có thể đó
là một câu hỏi định hướng dầu bài, một bức tranh định hương hay một đoạn
phim tư liệu ngắn nhằm thu hút sự chú ý, gây tò mò của HS đối với bài học.
Việc sử dụng hiện vật khi mở đầu bài học cũng là một trong những cách để
GV gây tò mò đối với HS trước khi vào bài học.TLHV cũng có thể dùng như
một đồ dùng trực quan trên lớ thông qua các phương tiện kỹ thuật như máy
chiếu, máy tính, video. Khi sử dụng đồ dùng trực quan sẽ giúp cho HS dần
hình thành biểu tượng trong quá trình dạy học nhanh hơn vì theo đúng quy
luật của nhận thức quá trình nhận thức của con người luôn đi từ quá trình tạo
64
biểu tượng lịch sử dẫn đến hình thành khái niệm, rút ra quy luật phát triển và
bài học lịch sử [7;67].
Việc GV sử dụng tư liệu hiện vật vào DHLS không chỉ giúp HS có
bước đầu cho việc tạo biểu tượng lịch sử trong bài mà còn kích thích trí tò mò
của HS điều này giúp cho giáo viên dễ dàng lôi cuốn HS vào bài học của
mình hơn vì nguồn TLHV có hình ảnh cụ thể, chính xác về con người, sự kiện
đã diễn ra trong quá khứ chính vì vậy khi HS tiếp cận được với TLHV sẽ giúp
HS có cái nhìn cũng như có biểu tượng lịch sử một cách chính xác nhất có thể
trong điều kiện lịch sử cụ thể nhất định. Nếu GV có điều kiện để mang TLHV
đến tại lớp thì đó là điều tốt nhất nếu không nguồn tư liệu đó phải được đưa ra
khai thác, sử dụng thông qua công cụ hỗ trợ vì nhưng hình ảnh mà HS thu
nhận được thông qua cái hình ảnh thực tế sẽ giúp HS nhớ tốt hơn, lâu hơn mà
từ đó sẽ dần hình thành biểu tượng và khái niệm lịch sử để tạo nên cơ sở của
sự phát hiện ra quy luật lịch sử sau này.
Tuy nhiên bên cạnh đó khi sử dụng TLHV để định hướng mở đầu bài
học GV cũng cần lưu ý khi đưa hiện vật ra để mở đầu định hướng bài học thì
giáo viên phải khai thác triệt để nội dung tri thức lịch sử mà hiện vật đó mang,
tránh việc đưa ra hiện vật mở đầu bài học sau đó không khai thác hiện vật mà
bỏ quên hiện vật. Khi đã sử dụng thì phải khái thác triệt để chứ không chỉ
trưng bày lên để cho có, và đặc biệt mỗi nội dung của mỗi bài đều có đặc
điểm khác nhau cần phải hết sức lưu ý cẩn thận lựa chọn nguồn TLHV sao
cho phù hợp nhất, tư liệu đó đưa ra sẽ phản ánh nội dung gì trong bài sau khi
học thông qua TLHV đó giúp đạ được mục tiêu nào trong tiến trình dạy học.
Đặc biệt việc dùng TLHV để mở đầu bài học hết sức lưu ý đó là GV đưa ra
hiện vậtcó thể là vật thật hay thông qua công cụ hỗ trợ thì sau khi mở đầu
định hướng xong bài học GV phải quay lại giải quyết vấn đề định hướng đó
trong nội dung giảng dạy tránh việc vừa quên định hướng bài học lại vừa
quên TLHV, GV cũng có thể gợi ý cho HS tìm hiểu nội dung bài học thông
65
qua phần định hướng bằng TLHV và hướng dẫn HS tìm hiểu tư liệu đó nó
phản ánh nội dung nào trong bài học.
Ví dụ: khi GV triển khai quá trình dạy (bài 20) tiết 1 có thể sử dụng
hình ảnh chiếc xe thồ của anh Ma Văn Thắng để định hướng mở bài như sau:
GV sau khi kiểm tra bài cũ thì đưa hình ảnh chiếc xe thồ của anh Ma
Văn Thắng qua phương tiện hỗ trợ và đưa ra cho HS 2 câu hỏi đinh hướng:
Hình 2.16. Xe đạp thồ, ông Ma Văn Thắng chở 10 chuyến lương thực với
trọng tải 375-400 kg, vượt đèo dốc phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ
(nguồn:http://www.btlsqsvn.org.vn)
- 1: Ta đã chuẩn bị những gì cho trận quyết chiến lần này với Pháp –
Mĩ?
- 2: Hình ảnh chiếc xe thồ của anh Ma Văn Thắng có ý nghĩa như thế
nào đối với cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 – 1954 của ta?
66
Để trả lời được hai câu hỏi đó chúng ta sẽ đi tìm hiểu ý nghĩa của chiếc
xe kia – đó chính là một nhân chứng cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta?
Sau đó GV đi vào bài mới.
Sau khi mở đầu và kết thúc phần I, GV chuyển sang phần II và đi vào
mục 1: cuộc tiến công chiến lược dông –Xuân 1953 – 1954, đến nội dung sự
chuẩn bị của quân ta GV phải quay về hình ảnh chiếc xe thồ để fiair thích và
giúp HS khia thác nội dung thông qua hình ảnh.
- Sự chuẩn bị của ta rất kỹ càng, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, vấn
đề cung cấp, tiếp tế được coi là vấn đề khó khăn nhất. Trong điều kiện tiền
tuyến cách xa hậu phương đến 400- 500km, thời tiết khắc nghiệt, địa hình
hiểm trở, đường xá hư hỏng, nhưng ta phải bảo đảm cung cấp một khối lượng
lớn vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm, đồ dùng, thuốc men một cách
nhanh chóng, liên tục. Đặc biệt, việc tiếp tế cần được giữ bí mật tuyệt đối
nhằm tránh địch phát hiện và đánh phá. Tuy nhiên, với tinh thần “Quyết chiến
quyết thắng”, hàng vạn dân công đã được huy động để vận chuyển lương thực
và đạn dược ra trận với phương tiện thô sơ. Một trong những phương tiện vận
chuyển hiệu quả nhất thời điểm đó là chiếc xe đạp thồ. Thực hiện nhiệm vụ
được giao, đầu tháng 1/1954, ông Ma Văn Thắng, Chủ tịch Ủy Ban kháng
chiến hành chính xã Thanh Minh, huyện Thanh Ba (nay thuộc thị xã Phú Thọ)
gia nhập Đoàn dân công phục vụ tiền tuyến.
Với chiếc xe của mình, trung bình mỗi chuyến Anh chỉ chở được 80-
100kg gạo. Trong quá trình vận chuyển, Anh đã có sáng kiến buộc thêm một
đoạn tre nhỏ, dài khoảng 1 mét, gọi là "tay ngai" vào ghi đông để điều khiển;
một đoạn tre cao hơn yên xe khoảng 50cm buộc vào trục yên, vừa giúp giữ
thăng bằng, vừa đẩy xe đi; hàn thêm sắt, buộc thêm gỗ để tăng độ cứng của
khung xe; lấy vải, quần áo cũ, săm cũ lót vào bên trong tăng độ bền của săm,
lốp xe; bổ sung thêm 2 chiếc ghế, một chiếc để dựa xe trong lúc nghỉ chân,
một chiếc để chèn xe khi xuống dốc.Với cách làm này, ông tăng dần khối
lượng lên đến hơn 300 kg/chuyến...
67
Trong phần này GV vừa có thể sử dụng tư liệu cung cấp về sự kiện lịch
sử, sự chuẩn bị của quân dân ta vừa kể một câu chuyện để lôi cuộc HS vào bài
học cũng giáo dục được ý thức, tinh thần dân tộc của nhân ta trong khó khăn
gian khổ mà vẫn có thể vượt qua.
2.4.2. Xây dựng hồ sơ TLHV và hướng dẫn HS khám phá, nghiên cứu các
sự kiện lịch sử
Hồ sơ nhân vật lịch sử một khái niệm không còn lạ với chúng ta nữa.
Hồ sơ TLHV cũng giống như hồ sơ về nhân vật lịch sử.
Việc xây dựng hồ sơ tư liệu dạy học rất cần thiết đối với một giáo viên,
đặc biệt xây dựng hồ sơ TLHV lại càng quan trọng vì khi xây dựng hồ sơ
TLHV sẽ giúp giáo viên chủ động hơn trong quá trình lên lớp của mình. Bài
nào sử dụng TLHV nào ở phần nội dung sự kiện nào và nó có ý nghĩa gì đối
với ngày nay đều được giáo viên chuẩn bị trước khi lên lớp lúc xây dựng hồ
sơ TLHV. GV phải là người chủ động phải là người hướng dẫn HS tìm hiểu
tri thức lịch sử nếu GV không xây dựng cho mình một bộ hồ sơ về TLHV sẽ
là rất thiếu xót vì hầu hết khi DHLS phần lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 –
1954 thì tư liệu còn rất nhiều và được nhiều bảo tàng lưu giữ. Khi GV xây
dựng bộ hồ sơ này sẽ tìm hiều được thêm nhiều điều mà có thể trước đó ngay
chính GV chưa được tiếp cận, khi xây dựng được bộ hồ sơ thì GV càng nắm
vững hơn kiến thức của mình.
Việc xây dựng hồ sơ TLHV không chỉ dừng lại ở việc mục nào nội
dung nào có tư liệu nào mà phải xây dưng cả cách tiếp cận với tư liệu đó,
cách khai thắc tư liệu hiên vật đó là sao cho có hiệu quả và những lưu ý khi sử
dụng đối với từng tư liệu cụ thể ra sao.
Sau khi xây dựng được hồ sơ TLHV thì GV có thể dùng bộ hồ sơ đó để
hướng dẫn HS khám phá tiếp cận sự thật lịch sử bằng những hướng dẫn từ hồ
sơ mà GV cung cấp. HS cũng sẽ chủ động hơn trong hoạt động dạy và học
tiến tới làm chủ tri thức.
68
Ví dụ: khi dạy bài 20: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân
Pháp kết thúc (1953 – 1954).
Hình 2.17. Guốc chèn pháo của Trung đoàn lựu pháo 45, Đại đoàn 351 tự
chế tạo để chèn bánh pháo (1/1954)
(Nguồn: new.zing.vn)
Ta có thể thiết kế hồ sơ TLHV với TLHV dưới đây như sau:
69
Guốc chèn pháo của Trung đoàn lựu pháo 45, Đại đoàn 351 tự chế tạo để chèn bánh pháo (1/1954)
Giới thiệu:Đây là một phương tiện chiến tranh của chúng ta.Nó là dụng cụ mà bộ đội ta dùng đề chèn pháo trong quá trình kéo pháo lên chiến trường Điện Biên Phủ Tác dụng: Sở dĩ ta phải dùng đến dụng cụ này vì đường lên chiến trường rất dốc, pháo nặng, bộ đội kéo rất vất vả vừa kéo vừa đẩy để tiết kiệm sức lực và đảm bảo pháo không lăn xuống dốc. Tấm gương: Tô vĩnh Diện người lấy thần mình thay thế Guốc chèn pháo để kéo pháo lên Điện Biên Phủ. Ý nghĩa: Thể hiện tinh thần dân tộc và ý chí chống giặc ngoại xâm của toàn thể dân tộc ta.
Ở mỗi bài khác nhau chúng ta xây dựng được một hồ sơ tư liệu khác
nhau. Đây là ví dụ về một cách xây dựng hồ sơ TLHV đối với một hiện vật
dùng trong bài 20 sách giáo khoa Lịch sử 12.
2.4.3. TLHV được xây dưng thành một trang web để hỗ trợ quá trình dạy
học trên lớp và hướng dẫn học ở nhà.
Hiện nay, công nghệ thông tin đang bùng nổ, công nghệ thông tin len
lỏi vào mọi lĩnh vực trong đời sống trong đó có cả giáo dục. Thế hệ HS ngày
nay đang ngày càng phụ thuộc vào công nghệ thông tin là không thể chỗi cãi.
Thay vì cố hết sức ngăn cẳn nó thì hãy thử chung sống với nó.
Giới trẻ ngày nay bỏ hàng giờ chỉ để lên mạng xã hội dù không làm gì
vì đó là một thói quen, vậy tại sao chúng ta không thiết kế một trang Web
miễn phí về các TLHV đặc biệt là TLHV của lịch sử Việt Nam thời kỳ 1945 –
1954 cho mọi đối tượng có thể truy cập vào và tìm kiếm thông tin. Bằng
những suy nghĩ đó chúng tôi thiết kế một website đơn giản để cho giới trẻ
thay vì bỏ hàng giờ lướt web theo cách là „‟dạo chơi” thì truy câpj vào
website tìm hiểu thông tin về lịch sử.
70
Chúng tôi tiến hành thiết kế website trên giao diện và phần mềm google
đây là một web site miễn phí, chúng ta có thể dễ dang truy cập nếu được chủ
nhân của web đó liên kết thông qua tài khoản gmail.
Trong web chúng tôi tiến hành thiết kế theo hướng như sau:
Đầu tiên là trang chủ của web: bao gồm phần giới thiệu web, các thức
xem web, truy câp và lấy thông tin.
Thứ hai chúng tôi đi vào xây dưng vị trí của phần lịch sử Việt Nam thời
kỳ 1946 – 1954 lý do chúng tôi chọn phần đó để xây dựng web tư liệu tham
khảo.
Thứ ba là các TLHV có thể dùng, khai thác và tìm hiểu thuộc lịch sử
Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954.
Thứ tư là những đoạn phim ngắn sưu tầm và tự làm của chúng tối về
nhưng TLHV và nhưng nội dung, sự kiện của lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946
– 1954.
Thứ năm chúng tôi đưa ra một số cách khai thác các nguồn TLHV đã
nêu ở phần hai có link dẫn các sự kiện với cách sử dụng.
Và cuối cùng chúng tôi sẽ cho một vài gợi ý để người dùng có thể tham
khảo dùng làm kiểm tra và đánh giá về tri thức lịch sử thông qua TLHV.
Trên đây là cơ bản phần thiết kế web của chúng tôi, việc thiết kế web
của chúng tôi hướng đến không chỉ là những người dùng internet có nhiều
thời gian rảnh mà chúng tôi thiết kế với mục đích đây sẽ là một trang web
đóng vai trò như một công cụ hỗ trợ cho GV và HS trong quá trình dạy học.
GV có thể hướng dẫn HS tìm hiểu sự kiện lịch sử và làm bài tập ở nhà thông
qua trang web, hoặc sử dụng trang web như một nguồn tài liệu tham khảo. Đó
chính là những gì chúng tôi hướng đến khi xây dựng trang web này.
Ví dụ: tại website của google site mang tên Góc nhìn hiện vật, GV giao bài
tập về nhà cho HS là tìm hiểu một đến hai TLHV trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp lần 2 của nhân dân ta thể hiện ý chí quyết tâm chiến đấu
của nhân dân ta?
71
HS về nhà có thể chuẩn bị bằng cách truy cập vào google site và tìm
tên Góc nhìn hiện vật để tìm hiện vật được giao theo đúng chủ đề sau đó tìm
hiểu thêm các thông tin mà web cung cấp và cung có thể thử sức mình với
những gợi ý của phần kiểm tra, đánh giá trong web. Đó là những gì chúng tôi
hướng đến khi làm web nó vừa là nơi cung cấp thông tin những cũng là nơi
giúp HS tự kiểm tra, đánh giá mình và hỗ trợ HS làm bài tập về nhà.
Ví dụ: khi dạy bài 20: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân
Pháp kết thúc (1953 – 1954).
Ta có thể xây dựng nguồn TLHV thành một trang web mở giúp GV và
HS trong quá trình học tập và tự học ở nhà như sau:
Hình 2.18. Cuốc chim của Đại đội Công binh 83, Trung đoàn 151
(nguồn: Baohaiquan.vn)
Với hình ảnh này khi xây dựng trang web chúng ta có thể làm như sau:
- Nếu đặt hình ảnh ở phần trang chủ hoặc phần giới thiệu ta có thể giới
thiệu về chiếc cuốc chim này và tác dụng của chiếc cuốc đối với việc ta tiến
lên chiến trường Điện Biên trong muôn vàn khó khăn như thế nào? Tại sao ta
phải sử dụng cuốc chim thay cho chiếc cuốc thường.
72
Đây là hình ảnh chiếc cuốc chim của Đại đội Công binh 83 Trung đoàn
151 dùng để đào đường hầm dìa 47m đặt khối thuốc nổ 960kg tại đồi A1 ngày
6 tháng 5 năm 1954.
- Nếu sử dụng hình ảnh này trong tiến trình bài học thì cần thiết kế web
theo nhiệm vụ và cách triển khai như sau:
Với nhiệm vụ: đây là hình ảnh chiếc cuốc chim của Đại đội Công binh
83 Trung đoàn 151 đã dùng trong quá trình ta chuẩn bị tấn công lên chiến
trường Điện Biên, em hãy giải thích vì sao ta lại phải sử dụng cuốc chim nhỏ
thay thế cho chiếc cuốc thường, nếu coi chiếc cuốc chim như một vũ khí ta
mang lên chiến trường Điện Biên hãy so sánh vũ khí của ta và thực dân Pháp
tại chiến trường điện biên.
- Ở phần tài nguyên của trang web ta có thể cung cấp thêm thông tin về
văn bản cho web như sau: Sở dĩ ta phải dùng cuốc chim thay cho chiếc cuốc
thường là do địa hình đồi núi và ta đào hầm không thể dùng cuốc thường với
cán dài cũng như diện tích tiếp xúc của lưỡi cuốc thường xuống đất là quá lớn
sẽ gây tiếng động không có kẻ địch dễ phát hiện, khi dùng cuốc chim ta có thể
dễ dàng đào trong hầm mà không hạn chế được tiếng động nhất và cuốc chim
diện tích tiếp xúc với đất tuy nhỏ nhưng sâu như vậy khi đòa hầm sẽ nhanh
hơn.
Hoặc ta có thể thêm một số hình ảnh về cách ta chuẩn bị lên chiến
trường Điện Biên để HS khi chuẩn bị bài có cái nhìn so sánh về lực lượng,
phương tiện, vũ khí và tinh thần dân tộc giữa ta và thực dân Pháp.
73
Hình 2.19. Dây kéo pháo vượt dốc vào vị trí tập kết của Đại đoàn 351
(nguồn: Chinh Nương)
- Ở phần đánh giá gợi ý cho GV và HS cách tự đánh giá. Bao nhiêu ý, nội
dung được HS khai thác mà chưa cần vào phần tài nguyên sẽ được tính theo
thang điểm.
74
Hình 2.20. Hình ảnh trang chủ web góc nhìn hiện vật
(nguồn: Chinh Nương)
Hình 2.21. Hình ảnh trang chủ web góc nhìn hiện vật
(nguồn: Chinh Nương)
75
Trên đây là ví dụ hình ảnh trang chủ của web nhằm giới thiệu cho GV
và HS như một nguồn tài liệu tham khảo.
2.4.4. Sử dụng TLHV để kiểm tra đánh giá.
Kiểm tra, đánh giá là một khâu quan trọng trong toàn bộ quá trình dạy
học [7; 209].Với mục đích là đánh giá sự tiến bộ của người học nên kiểm tra,
đánh gia cực kỳ quan trọng trong cả quá trình dạy học.
Theo nghị quyết số 29 của Hội nghị lân thứ 8 Ban Chấp hành Trung
ương Đẳng khóa XI về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục năm 2013 có
nó rất rõ về vấn đề kiểm tra đánh giá như sau: điểm tra, đánh giá phải từng
bước theo các tiêu chí của xã hội và cộng đồng, phối kết hợp kết quả đánh giá
trong khóa trình dạy học với đánh giá cuối kỳ, cuối năm học, đánh gía người
dạy và cho người học tự đánh giá, kết hợp đánh giá nhà trường với đánh giá
xã hội.
Kiêm tra, đánh giá cho cùng là thu thập các thông tin dù là định tình
hay định lượng để phản ánh sự tiến bộ của người học.
Đối với đề tài này chúng tôi chú trọng hơn về việc đánh gia khóa trình
hoc của HS chứ không chú trọng đến đánh giá cuối kỳ, đánh giá tổng kết.
Do đặc điểm của TLHV là nó chỉ phản ánh được một góc nhìn của sự
liện lịch sử nên việc sử dụng TLHV để đánh giá quá trình là hợp lý hơn cả.
Việc đánh gia này không chỉ kết thúc cả một buổi học hay cả một chương học
mất đánh giá mà đánh giá khóa trình với TLHV cho thể thực hiện luôn khi
xây dựng nội dung.
Việc đưa TLHV vào để kiểm tra, đánh giá là một trong những điểm mà
chúng tôi chú trọng trong toàn văn nghiên cứu của mình.
Trên thực tế khi thực nghiệm cho thấy việc đánh gia này có mang lại
hiệu quả nhất định nhưng không đạt như mong muốn. Sau khi thực nghiệm tại
một lớp 12 tại THPT Minh Quang (Ba Vì – Hà nội) cho thây HS cảm thấy
thích thú và hòa hứng khi học bài học có sử dựng TLHV nhưng khi sử dụng
tư liệu đó kiểm tra và đánh giá tại chỗ thì rất ít HS hiểu đúng nội dung tri thức
76
lịch sử và tư liệu đó mang trong mình cho dù đã có sự hướng dẫn của GV.
Nhưng một thành công cho thấy ở thực nghiệm đó là sau khi dùng tư liệu hiện
vật vào dạy học kết thức buổi học có làm bài kiểm tra chất lượng thì lớp đối
chứng và lớp thực nghiệm mang lại kết quả khá khác nhau. HS ở lớ thực
nghiệm nhớ được sự kiện lâu hơn và chi tiết hơn lớp đối chứng.
Việc đưa TLHV vào kiểm tra, đánh giá cũng cần xây dựng riêng một
bảng ma trận cho các dạng đề kiểm tra kiểm tra miệng 15 phút hay kiểm tra
nhanh. Nếu chúng ta làm được như vậy thì việc kiểm tra HS sẽ không con
nặng lý thuyết nữa HS sẽ giảm đi tình trạng học thuộc và thay vào đó là học
hiểu học để tìm hiểu tri thức lịch sử giấu bên trọng TLHV.
Ví dụ: khi dạy bài 20: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết
thúc (1953 – 1954).
Hình 2.22. Dây thừng giật cò lựu pháo 105 mm sử dụng trong đợt tấn công
thứ nhất (3/1954).
(Nguồn: Baohaiquan.vn)
77
GV có thể sử dụng hình ảnh TLHV này để đánh giá nhận thức của học
sinh về quá trình chuẩn bị của ta lên chiến trường Điện Biên cũng như tinh
thần chiến đấu của bộ đội ta trên trận chiến này với câu hỏi như sau:
- Theo em, việc sử dụng dây thừng giật tay trên chiến trường với địa hình đồi
núi như vậy thể hiện tinh thần chiến đấu của chúng ta như thế nào?
HS có thể trả lời theo ý hiểu nhưng phải tóm được các ý sau: với sự
chuẩn bị bằng những gì ta có là phải giật lựu pháo bằng tay chứ không phải tự
động là rất nguy hiểm nhưng bộ đội ta vẫn làm chúng tỏ chúng ta có một tinh
thần chiến đấu mạnh hơn bất kỳ thứ vũ khí hiện đại nào và khẳng định chúng
ta hoàn toàn đánh thắng định trên mật trận tinh thần đó chính là ý nghĩa của
chiến tranh nhân dân.
Nếu HS trả lời được như vậy thông qua TLHV GV hoàn toàn đánh giá
được nhận thức của học sinh qua quá trình học đã tiếp thu được việc ta phải
đối mặt với muôn vàn khó khăn khi lên chiến trường Điện Biên nhưng ta đã
khắc phục khó khăn đó bằng tinh thần dân tộc.
2.5. Thực nghiệm sƣ phạm
2.5.1. Mục đích thực nghiệm
Đổi mới phương pháp sử dụng TLHV vài DHLS Việt Nam thời kỳ
1945 – 1954 là rất cần thiết.Tuy nhiên, vấn đè sử dụng TLHV vào DHLS Việt
Nam thời kỳ 1945 – 1954) vẫn còn có nhiều hạn chế về cả phương pháp và
hình thức tổ chức hoạt động cho HS, để HS chủ động tham gia vào quá trình
học tập – quá trình lĩnh hội kiến thức. Chúng tôi tiến hành thực nghiệm sư
phạm với mục địch kiểm nghiệm trong thực tế tính khả thi việc đổi mới
phương pháp sử dụng TLHV vào DHLS Việt Nam thời kỳ 1946 -1954 tại
trường THPT và chứng minh giả thuyết khoa học của đề tài đã nêu. Kết quả
thực nghiệm sư phạm sẽ là cơ sở để vận dụng đổi mới phương pháp sử dụng
TLHV vào DHLS Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954 trong thực tiễn giảng dạy.
2.5.2. Quy trình thực nghiệm
2.5.2.1. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm
78
Được sự đồng ý của giáo viên bộ môn Lịch sử tại trường THPT Minh
Quang tôi đã tiến hành thực nghiệm tại lớp 12A3 và THPT Ba Vì lớp THPT
Ba Vì tại lớ 12A6, ngoài ra được sự giúp đỡ của đồng nghiệp tôi cũng tiến
hành thực nghiệm cở hai lớp 12B1 và 12A2 tại trường THPT Giao Thủy B
(Nam Định). Đây là lớp học chương trình cơ bản, có lực học trung bình môn
Lịch sử ở mức khá cao. Đây chính là điều kiện thuận lợi để đảm bảo cho giờ
thực nghiệm.
Về địa điểm và thời gian tiến hành thực nghiệm. Buổi dạy thực nghiệm
được tiến hành vào thứ 4 ngày 20 tháng 9 năm 2017 tại lớp 12A6 trường
THPT Ba Vì, buổi chiều tại lớp THPT Minh Quang và lớp 12B1 và 12A2
ngày 25 tháng 10 năm 2017 tại trường THPT Giao Thủy B.
2.3.2.2. Nội dung thực nghiệm
Sau khi tìm hiểu về nội dung chương trình môn Lịch sử lớp 12 tại
trường THPT đặc biệt là lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954, tôi quyết định
thực nghiệm một tiết dạy học vận dụng đổi mới phương pháp sử dụng tư liệu
hiện vatjtaij 3 trường nêu trên.
Tôi tiến hành soạn giáo án thực nghiệm (Phụ lục 4) vận dụng đổi mới
các phương pháp sử dụng tư liệu vào dạy học Bài 18: Những năm đầu cuộc
kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946 – 1950) (tiết 2).
Sau khi giảng xong bài ở lớp thực nghiệm, tôi tiến hành kiểm tra nhanh 8 phút
để đo thái độ học tập cũng như hiệu quả của các biện pháp đã được sử dụng.
Tiêu chuẩn để đánh giá là trả lời đúng 7 câu trắc nghiệm được 10 điểm
mỗi câu 0.7 điểm.
Đáp án cụ thể:
Câu 1 Câu 2 Câu 3 Câu 4 Câu 5 Câu 6 Câu 7
C D D A D B D
2.5.3. kết quả thực nghiệm
Kết quả thực nghiệm được đánh gia dựa trên một số phương diện sau:
79
- Thứ nhất, thông qua quan sát trong giờ học để biết thái độ học tập của HS
- Thứ hai, những nhận xét của giáo viên dự giờ
- Thứ ba, thông qua bài kiểm tra nhanh sau tiết học
Thứ nhất, thông qua quan sát trong giờ học để biết thái độ học tập của
HS.
Buổi thực nghiệm có đầy đủ HS các lớp tham gia, và nhiệt tình trong giờ
học.
Trong suốt buổi học các HS đều chú ý nghe giảng, chép bài đầy đủ,
tích cực suy nghĩ, hăng hái phát biểu xây dựng bài, có sự chuẩn bị trước
những câu chuyện, bài hát và tình huống liên quan đến nội dụng bài học
Như vậy có thể thấy, thái độ học tập của HS là rất tốt.HS tham gia vào
các hoạt động trong tiết học thực nghiệm.
Thứ hai, nhận xét của giáo viên dự giờ
Sau khi gửi giáo án thực nghiệm cho giáo viên bộ môn Lịch sử dạy
lớp 12A9, tôi đã nhận được một số nhận xét và góp ý chỉnh sửa của giáo viên
về nội dung và cách vận dụng các biện pháp vào thực tế tiết dạy.
Sau tiết học thực nghiệm, giáo viên có một số nhận xét chung về cả
hai mặt tích cực và hạn chế của tiết học.
Thứ nhất là mặt tích cực của tiết học thực nghiệm:
- Đầu tiên, các biện pháp được vận dụng một cách phù hợp với nội dung
lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 - 1954. Việc đổi mới các phương pháp sử dụng
tư liệu như sử dụng TLHV làm mở đầu bài học, xây dựng hồ sơ TLHV, xây
dựng trang web nhưu một công cụ hỗ trợ và dùng tư liệu hiên vật để kiểm tra,
đánh giá không chỉ giúp cho HS tích lũy thêm kiến thức lịch sử mà còn giúp
HS hình thành và phát huy một số kỹ năng như tư duy tưởng tượng, giải quyết
vấn đề hay cả kỹ năng làm việc nhóm, thuyết trình và tạo biểu tượng lịch sử.
- Thứ hai, đó là tiết học đã thu hút được sự hứng thú, khơi dậy sự tò mò
và khám phá kiến thức của HS thông qua nhưng câu chuyên chưa đựng bên
trọng TLHV. Đây chính là một yếu tố quyết định thành công của tiết học thưc
80
nghiệm. khi vận dụng các biện pháp vào thực tế bài học HS đều hứng thú và
nhiệt tình tham giá, lắng nghe một cách chăm chú.
Bên cạnh một số điểm tích cực thì tiết học thực nghiệm cũng nhận
được một số đóng góp của giáo viên về mặt hạn chế:
- Đầu tiên là về nội dung và công tác chuẩn bị: mặc dù các biện pháp
được vận dụng làm website hay đánh giá, kiểm tra qua tư liệu hiên vật chưa
thực sự kích thích sự sáng tạo và lôi cuốn hoàn toàn sự chú ý của HS vào bài
học.
- Thứ hai, đó là khi sử dụng các biện pháp đó thì HS thực sự sẽ khó khăn
trong việc xác định kiến thức trọng tâm trong bài học.
- Thứ ba, chính là tác phong sư phạm: đối với một giờ dạy học có sử
dụng sự hỗ trợ của công nghệ thông tin và các công cụ hỗ trợ nhưng vẫn chưa
làm chủ được tình hình trên lớp làm cho tiết học hơi căng thẳng…
Thứ ba, thông qua bài kiểm tra nhanh sau tiết học
Sau khi kết thúc phần giảng dạy, tôi giành 5 phút để HS làm một bài
kiểm tra nhanh, với nội dung là kiểm tra kiến thức cơ bản, trọng tâm của tiết
học mà HS đã tiếp thu được qua tiết học thực nghiệm. Do thực nghiệm lần
đầu thất bại nên chúng tôi tiến hành thực nghiệm lại và mang lại kết quả ở hai
lớp đối trưng và thực nghiệm như sau:
81
Biểu đồ 2.1. Biểu điểm kiểm tra của lớp thực nghiệm 12A2
Nhìn vào biểu điểm của lớp thực nghiệm ta thấy phổ điểm chủ yếu tậ
trung là điểm cao và trung bình khá, điểm trung bình rất ít và có một số HS
điểm thấp hẳn. Như vậy, có thể thấy đề đã kiểm tra đã được mục đích là phân
loại HS nhưng phổ điểm quá lệch nên đề này vẫn được đanh giá là dễ so với
lớp thực nghiệm các phương pháp đổi mới sử dụng TLHV. Mặc dù vậy, cũng
có thể khẳng định phần nào việc đưa TLHV vào dạy học đã có tác dụng với
HS ít nhất là khắc sau kiến thức ngay sau buổi học.
Sau đây là biểu đồ điểm của lớp đối chứng 12B1:
82
Biểu đồ 2.2. Biểu điểm kiểm tra lớp đối chứng
Nhìn biểu điểm và bẳng tính trung bình của lớp đối chứng có thể thấy
điểm lớ đối chứng tuy là điểm phân bố chuẩn hình chuông nhưng tập trung
chủ yếu vào mức điểm cho thấy lớp đối chúng có thành tích kém hơn so với
lớp thực nghiệm, nhưng nhìn chung dạt mức phân bố điểm chuẩn không có gì
đáng lo ngại cả.
2.3.2.4. Kết luận từ thực nghiệm sư phạm
Từ kết quả thực nghiệm sư phạm trên, có thể kết luận rằng, đổi mới
phương pháp sử dụng TLHV vào DHLS Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954 là có
những hiệu quả nhất định. Nếu giáo viên biết cách khai thác và vận dụng hớp
lý các biện pháp kể trên thì hiệu quả bài dạy sẽ được nâng cao trong DHLS
83
đáp ứng được ba mục tiêu: giáo dưỡng, giáo dục và phát triển trong dạy học
Lịch sử.
Một lần nữa chúng ta khẳng định sự cần thiết đổi mới phương pháp sử
dụng tư liệu hiệu vật vào DHLS Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954 ở trường
THPT.Tuy nhiên để việc vận dụng các biện pháp vào thực tế bài dạy một cách
hiệu quả thì giáo viên cần có một sự vận dụng linh hoạt cùng kết hợp sử dụng
các biện pháp khác nhau để đạt được kết quả tốt nhất.
84
Tiểu kết chƣơng 2
Dựa trên cơ sở nghiên cứu cấu trúc chương trình, nội dung chương
trình Lịch sử lớp 12 (chương trình Chuẩn), chúng tôi đã lựa chọn những nội
dung để đổi mới phương pháp sử dụng TLHV vào dạy học, chúng tôi lựa
chọn chương III phần Lịch sử Việt Nam từ năm 1945 đến 1954 như một ví dụ
điển hình.
Trước khi tiến hành xây dựng và sử dụng thực nghiệm TLHV cho
chương III, chúng tôi xác định vị trí, mục tiêu và nội dung kiến thức cơ bản,
xây dựng hệ thống TLHV cho phần kiến thức ở chương này. Qua đó lựa chọn
được những nội dung chi tiết để sử dụng TLHV. Cách thức xây dựng đơn
giản, quy trình sử dụng không phức tạp, TLHVcó thể được sử dụng phổ biến
hơn trong dạy học lịch sử nếu người GV có ý tưởng và vững vàng về kiến
thức chuyên môn, hiểu biết sâu rộng.
Quá trình thực nghiệm sư phạm tại trường THPT đã cho thấy hiệu quả
của việc đổi mớiphương pháp sử dung TLHV trong DHLS Việt Nam thời kỳ
1946 - 1954.
Ở lớp đối chứng tức là lớp không đởi mới phương pháp sử dụng trong
giờ học, không có nhiều HS hứng thú với bài giảng, chưa tích cực và chủ
động tham gia vào hoạt động học tập. Kết quả bài kiểm tra cho dù có phổ
điểm đẹp nhưng chủ yếu là mức điểm trung bình cũng phần nào phản ánh
mức độ tiếp thu bài chưa hiệu quả của lớp đối chứng.
Ở lớp thực nghiệm với việc sử dụng TLHV trong quá trình giảng bài,
HS đã tỏ ra hứng thú và tham gia tích cực vào bài học. Nhiều HS còn chủ
động đặt câu hỏi sau khi nghiên cứu và đề nghị được tiếp cận TLHV thường
xuyên hơn trong các giờ học lịch sử sau cùng với đó, một số em cũng đề nghị
GV giới thiệu một vài bộ thông sử để các em tự tìm hiểu. Kết quả bài kiểm
tra sau giờ học cao hơn hẳn ở lớp đối chứng.
Như vậy, bước đầu có thể khẳng định việc đổi mới phương pháp sử
TLHV vào DHLS Việt Nam thời kỳ 1946 - 1954 đã mang lại hiệu quả DH.
85
Trong quá trình khai thác và sử dụng TLHV tuy còn một số khó khăn, hạn
chế nhưng đây là một việc làm được khuyến khích và nhân rộng trong dạy
học nói chung và DHLS nói riêng.
86
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Sau quá trình nghiên cứu chúng tôi đi tới những kết luận bước đầu như
sau:
Trong bối cảnh công nghệ thông tin và những thành tựu cách mạng
khoa học kĩ thuật đã thâm nhập và ngày càng chi phối mạnh mẽ tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội, trong đó có giáo dục đào tạo, đã khiến cho cách tiếp
cận lịch sử có thiên hướng hiện đại hóa các sự kiện, hiện tượng lịch sử nên
việc dạy học Lịch sử muốn đáp ứng được tính khoa học, chính xác nhất thiết
phải bám sát theo các nguồn tư liệu và kết hợp cùng xu hướng vận dụng, tích
hợp công nghệ và các thiết bị dạy học hiện đại để phát huy mạnh mẽ tư duy
sáng tạo, kỹ năng thực hành và hứng thú học tập của HS nhằm nâng cao chất
lượng đào tạo. Khai thác và sử dụng tư liệu hiên vật trong dạy học lịch sử nói
chung và lịch sửViệt Nam thời kỳ 1946 - 1954 là cần thiết và phù hợp với
quan điểm dạy học mới hiện nay.
Việc đổi mới phương pháp sử dụng TLHV trong DH LS lớp 12 sẽ giúp
GV thể hiện được ý tưởng bài dạy của mình. Kết hợp với các phương pháp,
phương tiện, thiết bị phục vụ giảng dạy khác sẽ góp phần tạo hiệu quả cho bài
học. Còn đối với HS, TLHV không chỉ là phương tiện trực quan tạo hứng thú
học tập cho HS mà còn thực hiện thành công nhiệm vụ kích thích sự sáng tạo,
tăng khả năng nhận thức, tư duy và rèn luyện các kĩ năng cần thiết cho HS.
Tuy vậy, trong quá trình đổi mới phương pháp sử dụng TLHV vào
dạy học ở trường THPT, chúng tôi cũng phát hiện một số khó khăn và hạn
chế như sau:
Đối với nhà trường THPT: Một phần lớn trường THPT hiện nay tuy đã
có thư hiện hoặc phòng truyền thống nhưng rất ít trường tạo điều kiện cho HS
tìm hiểu lịch sử hình thành trường thông qua các hiện vật để HS dần làn quen
và tiếp xúc với nguồn tư liệu khi học môn Lịch sử.
Đối với GV: Mặc dù nhận thức rất rõ rằng: sử dụng tư TLHV phục vụ
DHLS sẽ tăng hứng thú và khắc sâu kiến thức cho HS, tránh hiện tượng hiện
87
đại hóa lịch sử, nhưng tư tưởng ngạinghiên cứu, tìm tòi, ngại đổi mới và trình
độ một số GV còn hạn chế... là những rào cản khiến việc khai thác và sử dụng
TLHV trong DHLS gặp không ít những khó khăn.
Qua kết quả thực nghiệm sư phạm ở trường THPT, chúng tôi bước đầu
khẳng định được sự hiệu quả của việc sử dụng TLHV trong DHLS nói chung
và DHLS chương III phần lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954 nói riêng.
HS đã tỏ ra hứng thú với giờ học, tích cực tham gia vào hoạt động nhận thức.
GV dễ dàng triển khai bài dạy theo ý tưởng của mình.
Trên cơ sở kết quả của quá trình nghiên cứu và thực nghiệm, chúng tôi
xin đưa ra một số khuyến nghị sau:
1. Nhà trường phải đóng vai trò tích cực trong quá trình đổi mới
phương pháp dạy học nói chung và phương pháp DHLS nói riêng. Các trường
THPT cần phải đầu tư xây dựng hệ thống Thư viện phong phú, tăng thêm
những đầu sách về tư liệu hiên vật hoặc tăng thêm các chương trình ngoại
khóa vào bảo tàng cho HS có cơ hội tiếp cận nguồn TLHV
2. GV và nghiệp vụ sư phạm của mình là yếu tố đóng vai trò quyết định
tới hiệu quả sử dụng tư liệu vào DHLS do vậy GV nhất thiết phải được đào
tạo cẩn thân ngay từ khi còn học tập ở trường Đại học. Bên cạnh đó, tự bản
thân mỗi GV cần ý thức sâu sắc hơn về việc đổi mới phương pháp dạy học
theo định hướng phát triển năng lực người học và không ngừng trau dồi nâng
cao trình độ chuyên môn của mình.
Mỗi sinh viên sư phạm cần nhận thức được vai trò và trách nhiệm to
lớn của mình trong công cuộc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Bản
thân mỗi sinh viên không những phải thường xuyên thực hành bộ môn, thực
hành sư phạm và thực hành trong cuộc sống mà còn phải nỗ lực tiếp cận với
tư liệu lịch sử. Bởi chỉ khi sinh viên được rèn luyện và tích cực tự rèn luyện
mình trong thời gian ở trường sư phạm thì mới có thể vận dụng các kĩ năng
nghiệp vụ vào dạy học trường THPT. Vì vậy, để không “lúng túng” trước các
tư liệu lịch sử, sinh viên phải tận dụng mọi cơ hội để nghiên cứu tư liệu, biết
88
cách sử dụng, khai thác các tư liệu lịch sử, các nguồn tư liệu phục vụ quá
trình dạy học, hình thành kĩ năng tìm kiếm và khai thác tư liệu. Bên cạnh đó,
sinh viên cần tích cực tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học với chủ đề
về tư liệu lịch sử, hình thành và phát triển các năng lực trong dạy học. Thực
hiện tốt công việc này sẽ giúp sinh viên có được kĩ năng của nhà nghiên cứu
khoa học và cũng là dịp để trình bày và rút kinh nghiệm cho các ý tưởng sư
phạm của mình. Sinh viên sẽ trưởng thành hơn trong cả chuyên môn và
nghiệp vụ.
Vai trò của các trường Sư phạm cũng hết sức quan trọng vì việc đổi
mới PPDH ở trường THPT gắn liền với việc đổi mới phương pháp đào tạo ở
các trường Sư phạm. Các trường sư phạm cần làm tốt công tác giáo dục về
mặt nhận thức.Trong quá trình giảng dạy, bên cạnh việc trang bị cho sinh viên
cơ sở lý luận vững chắc về việc khai thác, xây dựng và sử dụng tư liệu lịch
sử, cần đặc biệt lưu ý đến việc giới thiệu các nguồn tư liệu để sinh viên có thể
tự khai thác, tìm hiểu. Từ đó, sinh viên nghiên cứu, nảy sinh các ý tưởng,
sáng kiến sư phạm giúp cho quá trình dạy học sau này trở nên thú vị và nhẹ
nhàng hơn.
Ngoài ra, HS cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện đổi
mới phương pháp sử dụng TLHV vào dạy học Lịch sử.HS thời nay rất năng
động thế nên việc tiếp cận cái mới đối với các em rất dễ dàng nhất là những
ứng dụng về công nghệ thông tin và áp dụng những thứ mới. Và quan trọng
hơn là HS phải có một tư tưởng đúng đắn trọng việc học đặc biệt đối với môn
Lịch sử, từ đó vun đắp được tình yêu đối với bộ môn Lịch sử và sẽ mở rộng là
tình yêu quê hương, đất nước.
Nói chung cho dù đổi mới như thế nào thì việc đổi mới đó cũng phải
thực sự gắn liền với đổi mới các hoạt động học tập, đổi mới cách tổ chức hoạt
động học tập ở trường phổ thông. Yêu cầu quan trọng nhất của đổi mới hoạt
động dạy học là người học phải là trung tâm của hoạt động, tham gia một
89
cách tích cực vào các hoạt động học tập dưới sự hướng dẫn của GV đặc biệt
là khi chúng ta đang dần đi đến đổi mới cả hệ thống giáo dục.
90
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2011),Luật Giáo dục (đã được sửa đổi bổ
sung năm 2009), NXB Lao động, Hà Nội.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006),Ứng dụng công nghệ thông tin trong
dạy học ở trường phổ thông Việt Nam, Hà Nội.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2015), Dự thảo chương trình giáo dục phổ
thông tổng thể.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997),Văn kiện hội nghị lần thứ Hai, Ban
chấp hành Trung ương Đảng lần thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Nguyễn Thị Côi (2006), Các con đường, biện pháp nâng cao hiệu quả
dạy học lịch sử ở trường phổ thông, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội.
6. Nguyễn Thị Côi – Nguyễn Quốc Vƣơng, “Kinh nghiệm tiến hành giờ
học Lịch sử của Kato Kimiaki ở trường Phổ thông Nhật Bản”,Tạp chí Giáo
dục, số 290, 2012.
7. Nguyễn Văn Cƣờng (2010), Một số vấn đề chung về ddooori mới
phương pháp dạy học ở trường trung học phổ thông.
8. N.G. Đairi (1973), Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào?, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
9. Hội giáo dục Lịch sử (Thuộc Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam)
(1996), Đổi mới việc dạy học Lịch sử lấy “HS là Trung tâm”, Đại học Quốc
gia – Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
10. N.M. Iakovlev(1983), Phương pháp và kĩ thuật lên lớp trong trường
phổ thông tập 1, NXB Giáo dục.
11. Vũ Quang Hiển – Hoàng Thanh Tú (2014), Phương pháp dạy học
môn Lịch sử ở trường phổ thông,NXB Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
12. I.F. Kharlamôp (1979), Phát huy tính tích cực học tập của HS như thế
nào?, NXB Giáo dục.
13. Phan Ngọc Liên (chủ biên), Nguyễn Thị Côi, Trịnh Đình Tùng
(2012), Phương pháp dạy học Lịch sử, Tập 1, 2. Nxb ĐHSP, Hà Nội.
91
14. Phan Ngọc Liên, Trịnh Đình Tùng (1999), Phát huy tính tích cực của
HS trong dạy học lịch sử ở THCS. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
15. Phan Ngọc Liên (chủ biên) (2008), Đổi mới nội dung và phương pháp
dạy học lịch sử ở trường phổ thông. Nxb ĐHSP, Hà Nội.
16. Phan Ngọc Liên (chủ biên), (2013), Sách giáo khoa Lịch sử lớp 12,
chương trình chuẩn.Nxb Giáo dục, Hà Nội.
17. Phan Ngọc Liên, Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị Côi, Trần Vĩnh
Tƣờng (2002), Một số chuyên đề phương pháp dạy học lịch sử, NXB Đại học
Quốc gia.
18. Phan Ngọc Liên (chủ biên) (2003), Phương pháp luận sử học, NXB
Đại học Sư phạm Hà Nội.
19. Phan Ngọc Liên (chủ biên) (2008), Phương pháp dạy học lịch sử tập
1, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội.
20. Phan Ngọc Liên (chủ biên) (2008), Phương pháp dạy học lịch sử
tập2, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội
21. Mai Ngọc Luông (2004),“Đổi mới phương pháp giảng dạy bộ môn
Lịch sửở bậc trung học – một yêu cầu bức thiết hiện nay”, Kỷ yếu hội thảo
Đổi mới phương pháp dạy học ở bậc trung học,Trường Đại học Sư phạm TP.
HCM.
22. A.P.Primacôpxki (1978), “ Phương pháp đọc sách”, NXB Giáo dục.
23. Hà Văn Tấn (2008), Một số vấn đề lí luận sử học, NXB Đại học Quốc
gia Hà Nội.
24. Bùi Thiết (1999), Đối thoại sử học, NXB Thanh niên Hà Nội. Thái
Duy Tuyên (1998), Những vấn đề cơ bản giáo dục học hiện đại, NXB Giáo
dục
25. Phạm Hồng Việt (1992), Nghiên cứu và giảng dạy lịch sử, NXB
Thuận Hóa.
26. Nguyễn Nhƣ Ý (2002),Từ điển tiếng Việt thông dụng. NXB Giáo dục,
Hà Nội
92
27. Lƣơng Ninh, Nguyễn Thị Côi (1988), “Kinh nghiệm Đairi với việc
dạy học môn sử”, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 8.
28. Nghiêm Đình Vỳ (1993), “Vấn đề đổi mới chương trình và nội dung
giảng dạy lịch sử hiện nay”, Tạp chí nghiên cứu Lịch sử, số 3.
* Tài liệu Internet
http://www.btlsqsvn.org.vn/tabid/89/post/4220/Chiec-coi-cua-me-Truong-
Thi-Du.aspx
http://www.btlsqsvn.org.vn/tabid/89/post/4290/Chi-thi-Phai-pha-tan-
cuoc-tan-cong-mua-dong-cua-giac-Phap.aspx
http://www.btlsqsvn.org.vn/tabid/89/post/4192/Xac-tau-chien-Phap-va-
ky-uc-cua-nguoi-Cuu-chien-binh-Song-Lo.aspx
http://www.btlsqsvn.org.vn/tabid/89/post/4148/Buc-thu-gui-Cha-Ho.aspx
http://www.btlsqsvn.org.vn/tabid/89/post/3129/Sung-tieu-lien-cac-chien-
si-Trung-doan-Thu-do-tieu-diet-dich-tai-nha-Xo-va-ngay-6-thang-2-
nam-1947.aspx
93
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Bảng kháo sát giáo viên
PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN GIÁO VIÊN
Kính chào Thầy (Cô)
Để góp phần thực hiện thành công đề tài nghiên cứu” Đổi mới phương
pháp sử dụng tư liệu hiện vật trong dyaj học lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946
– 1954 ở trường trung học phổ thông”, em rất mong nhận được sự giúp đỡ
của các Thầy/Cô. Thông tin thu thập được giữ bí mật và chỉ phục vụ mục đích
nghiên cứu
Em xin chân thành cảm ơn!
Thông tin cá nhân (không bắt buộc)
Họ và tên
Giáo viên trường
Số năm công tác
Hãy đánh dấu X vào ô trống có câu trả lời phù hợp với thầy (Cô)
Câu 1: Theo thầy (cô) việc sử dụng tư liệu hiện vật trong dạy học lịch
sử có cần thiết không?
Rất cần thiết.
Cần thiết
Không cần thiết
Câu 2: Thầy (cô) thường sử dụng tư liệu hiện vật trong bài dạy như
thế nào?
Dùng tư liệu hiện vật để giúp người học tạo biểu tượng.
Dùng tư liệu hiện vật như một hình ảnh minh hoạ.
Dùng tư liệu hiện vật để định hướng mở đầu bài học.
Dùng tư liệu hiện vật để kiểm tranh đánh giá trong giờ học.
94
Câu 3: Trong quá trình dạy học lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954
thầy (cô) có thường xuyên dùng tư liệu hiện vật không?
Thường xuyên
Thỉnh thoảng
Ít khi
Không bao giờ
Câu 4: Theo thầy (cô), việc sử dụng tư liệu hiện vật vào bài học có
tác dụng gì?
Làm cho HS hứng thú học tập hơn
Rèn luyện kỹ năng thực hành, tư duy HS.
Giúp HS khắc sâu hơn bản chất của sự kiện lịch sử.
Tạo biểu tượng cho HS
Câu 5: Theo thầy (cô) mức độ hiểu quả của việc sử dụng tư liệu hiện
vật vào dạy học ra sao?
Mức độ Rất hiệu Hiệu Bình Ít hiệu quả Không
quả quả thƣờng hiệu
quả
Làm cho HS
hứng thú
học tập hơn
Rèn luyện
kỹ năng
thực hành,
tƣ duy HS.
Giúp HS
khắc sâu
hơn bản
chất của sự
95
kiện lịch
sử.
Tạo biểu
tƣợng cho
HS
Câu 6: Thuận lợi và khó khăn của Thầy (cô) khi sử dụng tư liệu hiện
vật trong dạy học lịch sử là:
6.1 Thuận lợi
Được trang bị đầy đủ tài liệu, phương tiện trong dạy học
Kiến thức, các tài liệu thuận lợi trong việc tìm hiểu, liên hệ
Người học hợp tác và cố gắng khi làm việc
Thuận lợi khác: ...................................................................................
6.2 Khó khăn
Tốn nhiều thời gian để biên soạn và tìm tư liệu hiện vật.
Tài liệu tham khảo cho giáo viên để sử dụng tư liệu hiện vật hạn
chế
Khó khăn khác: .................................................................................
Câu 7: Thầy (Cô) có đề xuất gì cho sử dụng tư liệu lịch sử vào dạy
học lịch sử một cách hiệu quả nhất.
Về phía nhà trường: .....................................................................................
.........................................................................................................................
Về phía giáo viên: .........................................................................................
.......................................................................................................................
Xin chân thành cảm ơn quý Thầy (Cô)
96
Phụ lục 2: Bảng khảo sát HS
PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN HS
Các bạn HS thân mến!
Để góp phần thực hiện thành công đề tài nghiên cứu “đổi mới phƣơng
pháp sử dụng tƣ liệu hiện vật trong dạy học lịch sử Việt Nam thời kỳ
1946 – 1954 ở trƣờng trung học phổ thông”, cô rất mong nhận được sự
giúp đỡ của các bạn. Thông tin thu thập được giữ bí mật và chỉ phục vụ mục
đích nghiên cứu.
Chân thành cảm ơn!
Thông tin cá nhân (không bắt buộc):
Họ và tên
Trường:
Bạn đánh dấu X vào câu trả lời phù hợp với
Câu 1: Mức độ hứng thú của bạn đối với môn học Lịch sử nhƣ thế
nào?
z Bình thường
Rất hứng thú
Không hứng thú
Câu 2: Khi học lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954, bạn có đƣợc
giáo viên giới thiệu hoặc giảng về một tƣ liệu hiện vật không? (tƣ liệu
hiện vật là đồ vật, di tích còn lại nằm ở dƣới lòng đất hoặc trên mặt đất)
Thường xuyên
Thình thoảng
Chưa bao giờ
Câu 3: Khi học lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946 – 1954, bạn có đƣợc giáo
viên giao nhiệm vụ làm việc hoặc tìm hiểu về tƣ liệu hiện vật không?
Thường xuyên
Thỉnh thoảng
Chưa bao giờ
97
Câu 4: Theo bạn, ngoài cách đến bảo tàng để học, còn có cách nào
khác giúp bạn có thể học tập với nguồn tƣ liệu này.
Chụp ảnh tư liệu hiên vật đó chiếu lên slide
Làm phim về tư liệu đó
Xây dựng website chuyên cung cấp thông tin về các tư liệu hiện vật.
Câu 5: Nếu đƣa tƣ liệu hiện vật vào dạy học bạn muốn đƣợc:
Tự tìm hiểu ở nhà không cần hướng dẫn rồi lên thuyết trình
Được giáo viên hướng dẫn và gợi ý rồi thuyết trình
Được cung cấp thông tin về tư liệu trước khi đến lớp
Giáo viên tự trình bày.
Câu 6: Theo bạn, việc sử dụng tƣ liệu hiện vật trong dạy học lịch sử
có tác dụng:
Làm cho HS hứng thú học tập hơn
Giúp HS khắc sâu hơn bản chất của sự kiện lịch sử.
Rèn luyện kỹ năng thực hành và phát triển tư duy người học.
Giúp tạo biểu tượng cho HS
Câu 7: Theo bạn, mức độ hiệu quả khi giáo sử dụng tư liệu hiện vật
vào dạy học như thế nào?
Mức độ Rất hiệu Hiệu Bình Ít hiệu Không
quả quả thƣờng quả hiệu quả
Làm cho
HS hứng
thú học tập
hơn
Rèn luyện
kỹ năng
thực hành,
tƣ duy HS.
98
Giúp HS
khắc sâu
hơn bản
chất của sự
kiện lịch
sử.
Tạo biểu
tƣợng cho
HS
Câu 8: Khi tìm hiểu bài mà giáo viên có sử dụng tƣ liệu hiện vật
trong dạy học bạn thấy khó khăn gì?
Không có tài liệu
Không xác định được kiến thức trọng tâm
Không hiểu
Câu 9: Bạn có đề xuất gì để đƣa nguồn tƣ liệu hiện vật vào dạy học
lịch sử một cách hiệu quả nhất?
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
………………………………
Cảm ơn các bạn !
Phụ lục 3: bài kiểm tra sau thực nghiệm
Bài kiểm tra (5 phút)
Câu 1: Ý kiến nào dưới đây không phải là âm mưu của thực dân Pháp khi tấn
công lên Việt Bác trong Thu – Đông năm 1947?
99
A. Đánh phá căn cứ địa Việt Bắc, tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến,
tiêu diệt bộ đội chủ lực của ta.
B. Giành thắng lợi quân sự, tiến tới thành lập chính phủ bì nhìn, nhanh
chóng kết thúc chiến tranh.
C. Triệt đường liên lạc quốc tế của ta.
D. Cô lập căn cứ địa Việt bắc với các liên khu III, IV.
Câu 2: Ý nghĩa quan trọng nhất của chiến thắng Việt bắc Thu – Đông năm
1947 là:
A. Cuộc phản công lớn đầu tiên của quân dân ta giành thắng lợi.
B. Chứng tỏ sự trưởng thành vượt bậc của quân ta.
C. Chứng tỏ khả năng của quân dân ta có thể đẩy lùi những cuộc tiến công
quân sự lớn của địch.
D. Đánh bại hoàn toàn chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của địch,
buộc chúng phải chuyển sang đánh lâu dài với ta, đưa cuộc kháng chiến
sang giai đoạn mới.
Câu 3: Sau khi thất bại ở Việt Bắc thực dân Pháp thực hiện âm mưu
A. Đánh lâu dài, dùng người Việt trị người Việt.
B. Đánh lâu dài với ta.
C. Dùng nười Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh.
D. Đánh lâu dài, dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi
chiến tranh.
Câu 4: Ý nào dưới đây không phải là thuận lợi của cuộc kháng chiến khi bước
sang năm 1950?
A. Mỹ từng bước can thiệp sâu vào cuộc chiến tranh Đông Dương.
B. Cách mạng Trung Quốc thành công, nước Cộng hoà Nhân dân Trung
Hoa ra đời.
C. Trung Quốc, Liên Xô công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với nước ta.
D. Các nước xã hội chủ nghĩa ông nhận và đặt quan hệ ngoại giao với
nước ta.
100
Câu 5: Ý nào dưới đây không phải nội dung trong kế hoạch Rơve (1950) của
thực dân Pháp?
A. Khoá chặt biên giới Việt – Trung bằng cách tăng cường hệ thống phòng
ngự trên đường số 4.
B. Thiết lập “hành lang Đông – Tây” nhằm cô lập căn cứ địa Việt Bắc.
C. Chuẩn bị một kế hoạch quy mô lớn tấn công lên Việt Bắc lần thứ hai để
nhanh chóng kết thúc chiến tranh.
D. Tăng cường những cuộc hành quân, càn quét bắt người, cướp của.
Câu 6: ý nào sau đâu không phải là mục tiêu khi ta mở chiến dịch Biên giơi?
A. Tiêu diệt bộ phận quan trọng sinh lực địch.
B. Giam chân dịch ở vùng rừng núi, tạo điều kiện cho quân ta mở các đợt
tiến công lớn ở đồng bằng.
C. Mở đường liên lạc với Trung Quốc và thế giới dân chủ.
D. Mở rộng, củng cố căn cứ địa Việt Bắc, tạo điều kiện thuận lợi mới thúc
đẩy cuộc kháng chiến tiến lên.
Câu 7: Ý nghĩa lớn nhất của chiến thắng Biên giới Thu – Đông năm 1950 là:
A. Cuộc tấn công lớn đầu tiên của quan ta giành thắng lợi.
B. Chứng tỏ quân đội ta đã trưởng thành.
C. Chứng minh sự vững chắc cuả căn cứ địa Việt Bắc.
D. Ta giành được thế chủ động trên chiến trường chính, mở ra bước phát
triển mới của cuộc kháng chiến của ta.
Phụ lục 4: Giáo án thực nghiệm
PHẦN HAI LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ NĂM 1919 ĐẾN NĂM 2000
CHƢƠNG III. VIỆT NAM TỪ NĂM 1945 ĐẾN NĂM 1954
BÀI 18: NHỮNG NĂM ĐẦU CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN TOÀN
QUỐC CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1946 - 1950)
101
(tiết 2)
I. Mục tiêu
1.Kiến thức
- Trình bày được âm mưu của Pháp khi tấn công lên căn cứ Việt - Bắc.
- Giải thích được nguyên nhân tại sao Pháp đánh lên Việt Bắc năm
1947. Diễn biến chính, kết quả và ý nghĩa lịch sử của chiến dịch.
- Lý giải nguyên nhân tại sao Đảng ta lại chủ động mở chiến dịch tân
công lên biên giới vào năm 1950.
- Phân tích được ý nghĩa của việc ta chủ động mở chiến dịch biên giới
1950.
2. Về thái độ, tình cảm, tư tưởng:
- Giáo dục lòng căm thù thực dân Pháp.
- Học tập tinh thần yêu nước, ý chí bất khuất của nhân dân trong cuộc
đấu tranh bảo vệ độc lập của Tổ quốc.
- Củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
3. Kỹ năng:
- Củng cố kĩ năng phân tích, đánh giá các sự kiện để rút ra những nhận
định lịch sử.
- Rèn luyện kĩ năng sử dụng tranh, ảnh và lược đồ lịch sử để nhận thức
lịch sử.
II. Chuẩn bị giáo cụ
- Tranh, ảnh các hiện vật về chiếc dịch Việt Bắc 1947, lược đồ liên
quan đến hai chiến dịch Việt Bắc Thu – Đông và Biên giới Thu – Đông….
III. Tiến trình lên lớp
1. Kiểm tra bài cũ.
Nhắc lại cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ thông qua bức ảnh chỉ thị
“Toàn quốc kháng chiến” của Hồ Chí Minh.
2. Bài mới:
102
GV sử dụng máy chiếu, chiếu hình ảnh chiếc xe thồ của anh Ma
Văn Thắng (hình ảnh được chụp tại Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam) và
hình ảnh một máy bay mà Pháp sử dụng trong chiến tranh Việt Nam thời kỳ
này để mở đầu định hướng bài học bằng câu hỏi:
1: Ta đã chuẩn bị như thế nào cho trận quyết chiến của thực dân Pháp.
2: Hình ảnh chiếc xe thồ có ý nghĩa như thế nào đối với cuộc tiến công
chiến lược Đông – Xuân 1953 – 1954 của ta khi Pháp đem rất nhiều loại vũ
khí và phương tiện vận tải tối tân như vậy? (phụ lục)
3. Tiến trình tổ chức dạy - học.
Các hoạt động của thầy và Kiến thức cơ bản cần nắm trò
Hoạt động 1. III – Chiến dịch việt bắc thu –
GV: Đánh lâu dài là chủ đông năm 1947 và việc đẩy mạnh
trương được Đảng xác định trong kháng chiến toàn dân, toàn diện
đường lối kháng chiến chống 1. Chiếc dịch Việt Bắc thu -
Pháp. Vậy, để kháng chiến lâu dài đông năm 1947
ta phải làm gì? Nêu dẫn chứng cụ Âm mưu của Pháp
Pháp tấn công Việt Bắc nhằm thể?
nhanh chóng kết thúc chiến tranh. ? Tại sao khi tản cư khỏi
các thành phố ta lại phá hủy toàn Chủ trương của Đảng
Đảng có chỉ thị “Phải phá tan bộ nhà cửa, đường xá, cầu
cống…? cuộc tấn công mùa đông của giặc
Pháp”. ? Sự chuẩn bị trên có ý
nghĩa như thế nào? (lúc này GV Diễn biến
quay lại hình ảnh định hướng bài - Ngày 7 – 10 – 1947, Pháp huy
học gợi ý học sinh so so sánh jai động 12.000 quân tấn công lên Việt
loại phương tiện vận tải của ta và Bắc
Pháp sử dụng, để làm nổi lên sự - Binh đoàn quân dù chiếm thị
103
thông minh tinh thần hòa bình dân xã Bắc Kạn, Chợ Mới
tộc của nhân dân ta có thể chiến - Bộ binh từ Lạng Sơn theo
thắng mọi kẻ thù. Đường số 4 đánh Cao Bằng, xuống
Bắc Kạn theo Đường số 3, bao vây
Hoạt động 2: Việt Bắc ở phía đông và phía bắc.
GV: Do không thực hiện - Ngày 9 – 10 – 1947, binh đoàn
được âm mưu đánh nhanh thắng bộ binh và lính thủy từ Hà Nội ngược
nhanh, trong khi đang gặp khó sông Hồng và sông Lô lên Chiêm Hóa,
khăn về kinh tế tài chính, sự lên án Tuyên Quang, đánh Đài Thị bao vây
của lực lượng tiến bộ nên Pháp đã Việt Bắc ở phía tây.
thực hiện âm mưu mới. Âm mưu - Trên khắp các mặt trận, quân
dân ta anh dũng chiến đấu, từng bước của Pháp lúc này là gì? vì sao?
Sau khi HS trả lời GV nhận đẩy lùi cuộc tiến công của địch.
xét, đồng thời giúp các em hiểu tại - Tại Bắc Kạn, Chợ Mới địch
sao tấn công lên VB lại nhanh vừa nhảy dù đã bị ta tiêu diệt buộc
chóng kết thúc chiến tranh. Pháp phải rút khỏi Chợ Đồn, Chợ Rã
cuối tháng 11 – 1947.
GV trình bày diễn biến kết - Ở mặt trận hướng đông, quân
hợp bản đồ giúp HS thâý được kế ta phục kích chặn đánh địch trên
hoạch 2 gọng kìm của Pháp: Đường số 4, tiêu biểu là trận phục kích
ở đèo Bông Lau (30 – 10 – 1947). ? Trƣớc âm mƣu kế hoạch
- Ở mặt trận hướng tây, quân trên của Pháp ta đối phó nhƣ thế
dân ta phục kích đánh địch nhiều trận nào?
GV đưa ra hình ảnh TLHV trên sông Lô, nổi bật là trận Đoan
là chiếc dù của Thực dân Pháp để Hùng, Khe Lau, đánh chìm nhiều tàu
HS cùng tìm hiểu nội dung bài chiến, canô của địch.
học. (phụ lục) - Ngày 19 – 12 – 1947, đại bộ
phận quân Pháp rút khỏi Việt Bắc.
- Ta đã lợi dung triệt để địa hình để có thể tiêu diệt nhiều nhất
104
sinh lực địch có thể. Kết quả
Kết quả của chiến dịch là : - Quân dân ta loại khỏi vòng
- Ta diệt hơn 6.000 tên, 16 chiến đấu hơn 6.000 địch, bắn rơi 16
máy bay, 11 tàu chiến và ca nô, máy bay, bắn chìm 11 tàu chiến, canô,
hàng trăm xe quân sự bị phá. phá hủy nhiều phương tiện chiến
- Căn cứ Việt Bắc và cơ tranh.
quan đầu nảo của ta vẫn an toàn, - Cơ quan đầu não kháng chiến
bộ đội trưởng thành uy tín của được bảo toàn.
Chính phủ lên cao. - Bộ đội chủ lực của ta đã
- Ta đánh bại kế hoạch đánh trưởng thành.
nhanh thắng nhanh của Pháp buộc Ý nghĩa
Pháp phải đánh lâu dài với ta. - Với chiến thắng Việt Bắc thu -
đông 1947, cuộc kháng chiến toàn
? Tại sao lúc này Pháp thực quốc chống thực dân Pháp xâm lược
hiện chính sách “dùng người Việt chuyển sang giai đoạn mới
đánh người Việt, lấy chiến tranh - Pháp buộc phải thay đổi chiến
nuôi chiến tranh”? lược chiến tranh ở Đông Dương, từ
“đánh nhanh, thắng nhanh” sang
Hoạt động: “đánh lâu dài”, thực hiện chính sách
? Sau chiến thắng Việt Bắc “dùng người Việt đánh người Việt, lấy
thu – đông Đảng ta có chủ trương chiến tranh nuôi chiến tranh”.
gì để đẩy mạnh kháng chiến toàn 2. Đẩy mạnh kháng chiến toàn
dân toàn diện? dân, toàn diện (Đo ̣c thêm).
GV giải thích: vùng sau
lưng địch, chiến tranh du kích IV – Hoàn cảnh lịch sử mới và
chiến dịch biên giới thu đông năm
? Nêu ý nghĩa của những 1950
chủ trƣơng trên? 1. Hoàn cảnh lịch sử mới của
Củng cố chính quyền vững
105
mạnh, xây dựng hậu phương vững cuộc kháng chiến
chắc chuẩn bị bước vào giai đoạn Thuận lợi
mới của cuộc kháng chiến. - Ngày 1 – 10 – 1949, Cách
mạng Trung Quốc thành công, nước
CHND Trung Hoa ra đời. Hoạt động:
- Tháng 1 – 1950, lần lượt các
nước xã hội chủ nghĩa công nhận và ? Cách mạng TQ thành
đặt quan hệ ngoại giao với nước ta. công ảnh hưởng đến cách mạng
nước ta như thế nào ? Khó khăn
Đầu tiên là TQ rồi đến LX Tháng 5 – 1949, với sự đồng ý
và các nước trong phe XHCN lần của Mĩ, chính phủ Pháp đề ra kế hoạch
lượt công nhận và đặt quan hệ Rơve:
ngoại giao với ta + Pháp tăng cường phòng ngự
trên Đường số 4 nhằm khoá chặt biên ? Việc các nước XHCN
giới Việt – Trung công nhận và đặt quan hệ ngoại
+ Thiết lập “Hành lang Đông- giao với ta có nghĩa gì?
Tây” nhằm cô lập Việt Bắc với liên ? Nội dung kế hhoạch Rơ
khu III, IV. ve?
Với việc giúp Pháp qua kế 2. Chiến dịch Biên giới thu -
hoạch Rơve Mĩ can thiệp ngày đông năm 1950
càng sâu vào cuộc chiến tranh ở Chủ trương ta
Đông Dương Tháng 6 – 1950, Đảng và chính
phủ quyết định mở chiến dịch Biên
giới nhằm: Hoạt động:
- Tiêu diệt một bộ phận quan ? Trƣớc âm mƣu trên của
trọng sinh lực địch.
Pháp Đảng ta có chủ trƣơng gì? Gv giúp HS tìm ra đâu là - Khai thông biên giới Việt –
chủ trương cơ bản nhất Trung
106
GV trình bày diễn biến kết - Mở rộng và củng cố căn cứ địa
hợp bản đồ Việt Bắc.
GV: chỉ bản đồ đồng thời Diễn biến
đặt câu hỏi vì sao ta đánh Đông - Sáng 16 – 9 – 1950, ta tấn
Khê để mở màn chiến dịch. công cụm cứ điểm Đông Khê, mở màn
Đoán được ý định trên nên chiến dịch. Sáng 18 – 9, ta chiếm
ta mai phục chặn đánh địch ở Đông Khê, Đường số 4 bị cắt làm hai
nhiều nơi khiến cho 2 cánh quân Thất Khê bị uy hiếp, Cao Bằng bị cô
này không gặp được nhau lập.
- Pháp một mặt cho quân đánh
lên Thái Nguyên nhằm mục đích giảm
bớt sự chú ý của ta, mặt khác đưa quân
từ Thất Khê lên để chiếm lại Đông
Khê đón quân từ Cao Bằng rút về. ? Kết quả quan trọng nhất
- Trên Đường số 4 quân ta mai của chiến dịch là gì?
phục, chặn đánh địch khiến cho các
cánh quân không gặp được nhau. ? Kết quả trên có đạt được
- Pháp hoản loạn, phải rút chạy. so với mục tiêu đề ra không?
Gv sơ kết bài học Đến 22 – 10 – 1950, Đường 4 được
hoàn toàn giải phóng. HS nghe và ghi chép.
- Tại Thái Nguyên ta cũng đánh
tan cuộc hành quân của địch.
Kết quả
- Ta loại khỏi vòng chiến đấu
hơn 8.000 quân địch giải phóng 1
vùng biên giới Việt-Trung từ Cao
Bằng tới Đình Lập dài 750km, với 35
vạn dân.
107
- Chọc thủng “Hành lang Đông
- Tây” của Pháp, kế hoạch Rơve bị phá
sản. Mở rộng và củng cố căn cứ địa
Việt Bắc.
Ý nghĩa
- Đường liên lạc của ta với các
nước xã hội chủ nghĩa được khai
thông.
- Bộ đội ta trưởng thành.
- Quân đội ta giành được thế
chủ động trên chiến trường chính (Bắc
Bộ).
- Mở ra bước phát triển mới của
cuộc kháng chiến
4. Tổng kết bài học.
GV gợi ý học sinh để học sinh hoàn thành hai câu hỏi đầu tiên ở bài
học, giúp học sinh có ánh nhìn tổng quan về nội dung bài và hình thành tư
duy so sánh bằng các câu hỏi sau:
Bước vào Đông – xuân 1953 – 1954 Pháp – Mỹ phải tìm một -
chiến thắng để kể thúc chiến tranh trong danh dự vì lý do gì?
Theo em, phương tiện vận tải và vũ khí hiện đại có quyết định -
được trước mọi chiến thắng về quân sự hay không. Tại sao?.
5. Dặn dò chuẩn bị bài tiếp theo.
- HS tìm hiểu những hành động của Mỹ chứng tỏ ngày càng nhúng tay
sâu vào chiến tranh Việt Nam nói riêng và chiến tranh Đông dương nói
chung.
108
Phụ lục:
Hình ảnh chiếc xe thồ của anh Ma Văn Thắng.
109
Hình ảnh máy bay Pháp sử dụng trong chiến tranh Việt Nam.
110
111
Dù do Trung đoàn 57, Đại đoàn 304 thu được của Pháp