BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
TRẦN QUỐC DŨNG
TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI) TỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH BÌNH DƯƠNG GIAI ĐOẠN 2010 - 2015
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Tp. Hồ Chí Minh - Năm 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
TRẦN QUỐC DŨNG
Chuyên ngành Mã số
: Kinh tế chính trị : 60310102
TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI) TỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH BÌNH DƯƠNG GIAI ĐOẠN 2010 - 2015
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HOÀNG AN QUỐC
Tp. Hồ Chí Minh - Năm 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn: “TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI) TỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH BÌNH DƯƠNG GIAI ĐOẠN 2010-2015”, là công trình nghiên cứu của chính tác giả, nội dung được đúc kết từ quá trình học tập và nghiên cứu thực tiễn trong thời gian qua, số liệu sử dụng là trung thực và có trích dẫn rõ ràng. Luận văn được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Hoàng An Quốc
Tác giả Luận văn
Trần Quốc Dũng
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Trang
Danh mục các bảng và biểu đồ
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ............................................................................................. 2
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn ................................................................................. 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................................... 4
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................. 4
6. Những đóng góp của luận văn ......................................................................................... 4
7. Kết cấu của luận văn ........................................................................................................ 5
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI ............. 6
1.1. NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN .................................................................................. 6
1.1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ............................................................ 6
1.1.2. Những tác động tích cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển kinh tế -
xã hội .................................................................................................................................... 9
1.1.3. Những tác động tiêu cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài ..................................... 11
1.2. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ NIN VÀ CỦA ĐẢNG, NHÀ
NƯỚC TA VỀ VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ....................... 13
1.2.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lê nin ................................................................. 13
1.2.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước .......................................................................... 14
1.3. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ TỈNH, THÀNH PHỐ
TRONG VIỆC THU HÚT VÀ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI ............................................................................................................................... 16
1.3.1. Kinh nghiệm của Thành phố Hồ Chí Minh .............................................................. 16
1.3.2. Kinh nghiệm của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ............................................................... 20
1.3.3. Kinh nghiệm của tỉnh Đồng Nai .............................................................................. 24
TÓM TẮT CHƯƠNG 1 ..................................................................................................... 28
CHƯƠNG 2: TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐẾN SỰ
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA TỈNH BÌNH DƯƠNG VÀ NHỮNG
VẤN ĐỀ ĐẶT RA ........................................................................................................... 29
2.1. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA TỈNH BÌNH DƯƠNG ............................... 29
2.1.1. Những tiềm năng và lợi thế ...................................................................................... 29
2.1.2. Tình hình phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Bình Dương giai đoạn 2010 – 2015 ... 32
2.2. TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH DƯƠNG GIAI ĐOẠN 2010 -2015. ........................................... 39
2.2.1. Tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài .................................................. 39
2.2.2. Tác động tích cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh Bình Dương ......................................................................................................... 43
2.3. MỘT SỐ TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH DƯƠNG VÀ NGUYÊN NHÂN .................................... 52
2.3.1. Một số hạn chế và tác động tiêu cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài .................... 52
2.3.2. Nguyên nhân đưa tới những hạn chế và tác động tiêu cực của đầu tư trực tiếp
nước ngoài .......................................................................................................................... 55
TÓM TẮT CHƯƠNG 2 ..................................................................................................... 61
CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT
HUY TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA ĐẦU
TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI CỦA
TỈNH BÌNH DƯƠNG..................................................................................................62
3.1. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN .............................................................................. 62
3.1.1.Quan điểm về phát triển kinh tế ................................................................................ 62
3.1.2. Quan điểm về thu hút và nâng cao hiệu quả của đầu tư trực tiếp nước ngoài ........ 63
3.1.3. Quan điểm về giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội do tác động của đầu tư trực
tiếp nước ngoài ................................................................................................................... 65
3.2. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỤC TIÊU ........................................................................ 66
3.2.1. Những phương hướng cơ bản ................................................................................. 66
3.2.2. Những mục tiêu chủ yếu ......................................................................................... 67
3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NHẰM PHÁT HUY TÁC ĐỘNG
TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI (FDI) ....................................................................................................... 69
3.3.1. Hoàn thiện cơ chế, chính sách, quy hoạch, kế hoạch thu hút nguồn vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài ........................................................................................................... 69
3.2.2. Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài ........................................................................................................... 75
3.2.3. Đào tạo và khai thác hiệu quả nguồn nhân lực ....................................................... 78
3.2.4. Phát triển, hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng ....................................................... 80
3.2.5. Tăng cường sự hợp tác, liên kết giữa Bình Dương với các địa phương khác trong
vùng kinh tế trọng điểm phía Nam ..................................................................................... 82
TÓM TẮT CHƯƠNG 3 ..................................................................................................... 85
KẾT LUẬN ........................................................................................................................ 86
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ASEAN : Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á
: Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao BOT
: Hợp đồng chuyển giao BT
CNH, HĐH : Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
ĐT : hệ thống đường tỉnh
EU : Liên minh châu Âu
FDI : Đầu tư trực tiếp nước ngoài
G7 : Các nước công nghiệp phát triển
GDP : Tổng sản phẩm trong nước
KCN : Khu công nghiệp
KT-XH : Kinh tế - Xã hội
NĐ-CP : Nghị định - Chính phủ
NICs : Các nước công nghiệp mới
ODA : Hỗ trợ phát triển chính thức
OECD : Tổ chức hợp tác phát triển kinh tế
SGS : Công ty kiểm toán quốc tế
TBCN : Tư bản chủ nghĩa
TP : Thành phố
TX : Thị xã
UBND : Uỷ ban nhân dân
USD : Đô la Mỹ
WTO : Tổ chức thương mại thế giới
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ
Danh mục bảng
Bảng 1.1: Lợi thế của doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài so với doanh nghiệp
nước tiếp nhận đầu tư……………………………………………………………………………… ................................................................ 9
Danh mục biểu đồ
Biểu đồ 2.1: Giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài ở
Bình Dương qua các năm .......................................................................................................................................................... 46
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đối với bất kỳ một quốc nào, dù là nước phát triển hay đang phát triển đều cần
có đủ nguồn vốn để tạo ra của cải đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Nguồn vốn cho đầu tư phát triển có thể được huy động ở trong nước hoặc từ nước
ngoài. Tuy nhiên nguồn vốn trong nước thường có hạn, nhất là đối với những nước
đang phát triển với tỷ lệ tích luỹ thấp. Vì vậy, nguồn vốn đầu tư nước ngoài ngày
càng giữ vai trò quan trọng.
Đối với Việt Nam, FDI được xác định là nguồn lực quan trọng trong việc thực
hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong những năm qua, FDI
đã đóng góp một phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội, góp phần tăng
thu ngân sách, cải thiện cán cân thanh toán, là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho
công cuộc phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, nâng cao
trình độ kỹ thuật và công nghệ, tiếp thu kinh nghiệm quản lý trong kinh doanh, giải
quyết công ăn việc làm, đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao mức sống cho người lao
động, đưa nền kinh tế nước ta hội nhập với nền kinh tế thế giới,...
Những đóng góp của FDI ở Việt Nam trong những năm qua là vô cùng to lớn,
không thể phủ nhận. Tuy nhiên hoạt động FDI ở Việt Nam cũng có nhiều mặt trái.
Nguồn vốn FDI thường tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực bất động sản, khách sạn,
du lịch … và những ngành sử dụng nhiều lao động mà chưa có một tỷ lệ thích đáng
cho các ngành công nghệ cao và nông nghiệp; Nguồn vốn FDI thường kèm theo
những công nghệ, máy móc, thiết bị lạc hậu đã qua sử dụng; Trong doanh nghiệp
FDI hay xảy ra các vụ việc tranh chấp về lao động, vi phạm hợp đồng lao động, xúc
phạm nhân phẩm người lao động … dẫn đến các cuộc đình công, bãi công. Một số
doanh nghiệp FDI còn gây ra nạn ô nhiễm môi trường nghiêm trọng...
Phát triển bền vững là nhu cầu cấp bách và xu thế tất yếu trong tiến trình phát
triển chung của mỗi quốc gia. Phát triển bền vững là quá trình kết hợp chặt chẽ hài
hòa giữa ba mặt của sự phát triển đó là: sự tăng trưởng kinh tế ổn định; thực hiện tốt
tiến bộ và công bằng của xã hội; khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm tài nguyên
2
thiên nhiên, bảo vệ và nâng cao được chất lượng môi trường sống. Điều này càng có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các trung tâm kinh tế và đô thị lớn của đất nước
– nơi có mật độ dân cư cao, có nhiều lợi thế về phát triển kinh tế, song cũng là nơi
tập trung đa dạng các vấn đề về xã hội và môi trường phức tạp
Bình Dương là một trong số tỉnh thành thu hút vốn đầu tư FDI nhiều nhất cả
nước, bên cạnh những tác động tích cực cũng không tránh khỏi những hậu quả tiêu
cực của FDI. Để có căn cứ xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách phù
hợp, việc nghiên cứu và đánh giá tác động của FDI đến sự phát triển kinh tế - xã hội
trên địa bàn tỉnh trong những năm qua là hết sức cần thiết. Vì vậy, tác giả đã chọn
đề tài: “Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tới sự phát triển kinh
tế - xã hội tỉnh Bình Dương trong giai đoạn 2010 – 2015” làm chủ đề nghiên cứu
của luận văn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI là một chủ đề đã và đang được
sự quan tâm của các nhà khoa học. Đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập tới
vấn đề này trên những cấp độ khác nhau. Có thể kể tới những công trình tiêu biểu
như:
- Đầu tư nước ngoài ở TP. Hồ Chí Minh thời kỳ 1991-2000. Tác giả Nguyễn
Ngọc Thanh, Nguyễn Đình Mai. NXB Tài chính, Hà Nội. 2001
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài với công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
Việt Nam. Tác giả Nguyễn Trọng Xuân. NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 2002
- Tình hình và giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài trong giai
đoạn tới. Tác giả Nguyễn Bích Đạt. Đề tài khoa học cấp Bộ - Bộ kế hoạch đầu tư.
2004
- Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam.
Tác giả Lê Xuân Bá. NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội. 2006
- Bài viết “Đẩy mạnh thu hút FDI vào vùng Đông Nam bộ” của PGS. TS
Nguyễn Minh Tuấn tại Hội thảo khoa học UBND tỉnh Bình Dương – Học viện
Chính trị Hành chính KVII-Đại học kinh tế Tp. HCM, năm 2009.
3
- Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến năng suất lao động và trình độ
công nghệ của Việt Nam. Tác giả GS. TS. Lê Hữu Nghĩa - TS. Lê Văn Chiến, Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội tháng 10/2014
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: "Những giải pháp kinh tế chính trị nhằm
thu hút có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam", Chủ
nhiệm PTS. Nguyễn Khắc Thân (1995).
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Liên kết giữa đầu tư trực tiếp nước
ngoài với đầu tư trong nước tại Việt Nam”, Ths. Lê Thị Hải Vân (2012)
- Bài viết “Các giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội về sử dụng vốn
đầu tư nước ngoài tại thành phố Hồ Chí Minh”. Tác giả GS.TS Dương Thị Bình
Minh, Tạp chí Phát triển kinh tế 8/2009
Các công trình nghiên cứu trên, với những cách tiếp cận khác nhau, đã đề cập
đến nhiều khía cạnh như: Vai trò của FDI đối với công cuộc công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và phát triển kinh tế của Việt Nam; Tình hình thu hút thu hút FDI ở Việt
Nam; Thực trạng thu hút FDI ở TP. Hồ Chí Minh; Những giải pháp nhằm tăng
cường thu hút thu hút FDI ở Việt Nam …Tuy nhiên, có thể nói cho đến nay vẫn
chưa có công trình nào đi sâu phân tích về thực trạng tác động của FDI đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Bình Dương, cũng như đề xuất những
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả nguồn vốn FDI trong điều kiện cụ thể của tỉnh
Bình Dương.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn
Mục tiêu tổng quát của luận văn là: Nghiên cứu những tác động (tích cực và
tiêu cực) của FDI đến sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bình Dương, đề xuất
phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của nguồn vốn FDI trong quá
trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế của tỉnh Bình Dương.
Nhiệm vụ cụ thể của luận văn là:
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của FDI đối với
phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam nói chung và tỉnh Bình Dương nói riêng.
4
- Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng tác động của FDI đến sự phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh Bình Dương, những kết quả đạt được và những hạn chế, bất
cập
- Đề xuất quan đểm, phương hướng và giải pháp nhằm phát huy những tác
động tích cực và hạn chế, khắc phục những hậu quả tiêu cực của FDI đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bình Dương.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lí luận và thực tiễn của
việc tác động nguồn vốn FDI tới sự phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Bình
Dương.
Phạm vi nghiên cứu: Về thời gian, giới hạn trong khoảng thời gian từ năm
2010 đến năm 2015, định hướng đến năm 2020 và 2025; Về không gian, giới hạn
trên địa bàn tỉnh Bình Dương, có sự so sánh với một số địa phương trong Vùng kinh
tế trọng điểm phía Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn tiếp cận vấn đề dưới gốc độ kinh tế chính trị, dựa trên lý luận của
chủ nghĩa Mác - Lê nin và quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước;
đồng thời kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình nghiên cứu khác có liên
quan.
Trong quá trình nghiên cứu tác giả sử dụng phương pháp duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử để khái quát, phân tích và luận giải vấn đề; phương pháp thống
kê, so sánh, hệ thống hóa để thu thập, tính toán, xử lý số liệu
6. Những đóng góp của luận văn
Luận văn đã có những đóng góp chính sau:
- Góp phần làm rõ những vấn đề chủ yếu về lý luận và thực tiễn về đầu tư trực
tiếp nước ngoài FDI ở Việt Nam nói chung và tỉnh Bình Dương nói riêng.
- Đi sâu phân tích, đánh giá được thực trạng tác động của FDI tới sự phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh Bình Dương trong những năm qua.
5
- Xây dựng quan điểm, đề xuất định hướng và các giải pháp nhằm phát huy tác
động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của nguồn vốn FDI trên địa bàn tỉnh
Bình Dương trong thời gian tới
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò và tác động của đầu tư trực
tiếp nước ngoài FDI đối với phát triển kinh tế - xã hội.
Chương 2: Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đến sự phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh Bình Dương và những vấn đề đặt ra.
Chương 3: Quan điểm, phương hướng và giải pháp phát huy tác động tích cực
và hạn chế tác động tiêu cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bình Dương.
6
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI
-----
1.1. NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.1.1. Khái niệm “Đầu tư trực tiếp nước ngoài” (FDI)
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm “Đầu tư trực tiếp nước ngoài”
(FDI).
Theo từ điển bách khoa thì FDI (Foreign Direct Invertment) là hình thức đầu
tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ
sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý
cơ sở sản xuất kinh doanh này.
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO, 1996) đưa ra định nghĩa: FDI xảy ra khi
một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác
(nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Trong phần lớn trường
hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh
doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay được gọi là “công ty
mẹ” và các tài sản được gọi là “công ty con” hay “chi nhánh công ty”.
Theo Tổ chức hợp tác phát triển kinh tế (OECD, 1996), FDI là hoạt động đầu
tư được thực hiện nhằm thiết lập các mối quan hệ kinh tế lâu dài với một doanh
nghiệp, đặc biệt là những khoản đầu tư mang lại khả năng tạo ảnh hưởng đối với
việc quản lý doanh nghiệp nói trên bằng cách thành lập hoặc mở rộng một doanh
nghiệp hoặc một chi nhánh thuộc toàn quyền quản lý của chủ đầu tư, mua lại toàn
bộ doanh nghiệp đã có, tham gia vào một doanh nghiệp mới, cấp tín dụng dài hạn
(trên 5 năm).
Theo Luật đầu tư năm 2005 của Việt Nam thì “Đầu tư trực tiếp là hình thức
đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư” còn “Nhà
đầu tư nước ngoài là tổ chức, cá nhân nước ngoài bỏ vốn để thực hiện hoạt động
7
đầu tư tại Việt Nam”. Theo đó có thể hiểu FDI là hình thức nhà đầu tư nước ngoài
bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư tại Việt Nam.
Theo Luật đầu tư năm 2014 của Việt Nam thì “Đầu tư kinh doanh là việc nhà
đầu tư bỏ vốn đầu tư để thực hiện hoạt động kinh doanh thông qua việc thành lập tổ
chức kinh tế; đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế; đầu
tư theo hình thức hợp đồng hoặc thực hiện dự án đầu tư” còn “Nhà đầu tư nước
ngoài là cá nhân có quốc tịch nước ngoài, tổ chức thành lập theo pháp luật nước
ngoài thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam”
Như vậy, từ các quan điểm đã nêu ở trên, có thể hiểu: Đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) là hình thức nhà đầu tư nước ngoài dịch chuyển tiền, công nghệ, máy
móc…từ nước này sang nước khác đồng thời nắm quyền quản lý, điều hành với
mục đích thu được lợi ích kinh tế từ nước tiếp nhận đầu tư.
*Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Thứ nhất, chủ đầu tư vốn FDI là chủ sở hữu vốn, là một bộ phận của hình
thức chu chuyển vốn quốc tế trong đó chủ đầu tư có quốc tịch nước ngoài, tiến hành
đầu tư tại một nước khác vì vậy nhà đầu tư nước ngoài phải chấp hành luật pháp của
nước tiếp nhận đầu tư. Chủ sở hữu vốn đầu tư trực tiếp tham gia quản lý, điều hành
quá trình sử dụng vốn, có nghĩa vụ và quyền lợi từ hoạt động sản xuất kinh doanh
tương ứng với phần vốn góp đó. Trong trường hợp nhà đầu tư nước ngoài đầu tư
dưới hình thức 100% vốn thì có toàn quyền quyết định, nếu góp vốn thì quyền này
phụ thuộc vào mức độ góp vốn.
Thứ hai, vốn FDI không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của chủ đầu tư
nước ngoài dưới hình thức vốn điều lệ hoặc vốn pháp định mà nó còn bao gồm cả
vốn vay của các nhà đầu tư để triển khai và mở rộng dự án cũng như vốn đầu tư
được trích lại từ lợi nhuận sau thuế từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì
vậy, nước sở tại phải có chính sách về tài chính phù hợp tránh trường hợp một số
nhà đầu tư nước ngoài lợi dụng chỉ đưa một lượng vốn nhỏ vào còn sau đó tiến
hành vay vốn tại nước sở tại để thực hiện đầu tư, mở rộng kinh doanh làm ảnh
hưởng đến mục đích thu hút đầu tư nước ngoài của nước sở tại.
8
Thứ ba, vốn FDI là vốn đầu tư phát triển dài hạn, trực tiếp từ bên nước ngoài
vì vậy đối với nước tiếp nhận đầu tư thì đây chính là nguồn vốn dài hạn bổ sung hết
sức cần thiết trong nền kinh tế. Vốn FDI là dòng vốn quốc tế gắn liền với việc xây
dựng các công trình, nhà máy, chi nhánh sản xuất vì thế thời gian đầu tư dài, lượng
vốn đầu tư lớn, có tính ổn định cao tại nước nhận đầu tư. Khác với đầu tư gián tiếp
nước ngoài, là hình thức đầu tư mà nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn đầu tư đến các
nước khác nhưng không nắm quyền quản lý, điều hành thông qua các công cụ tài
chính như cổ phiếu, trái phiếu… đặc điểm của đầu tư nước ngoài gián tiếp là có thời
gian hoạt động ngắn, biến động bất thường hơn vì đây là hình thức mà nhà đầu tư
nước ngoài thông qua việc mua cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, mà nhà
đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Do tính chất trực tiếp của
hình thức đầu tư này nên vốn FDI ít chịu sự chi phối, ràng buộc của chính phủ so
với các hình thức đầu tư gián tiếp nước ngoài khác, lĩnh vực mà vốn FDI thường
hướng tới là những lĩnh vực mang lại lợi nhuận cao cho nhà đầu tư nước ngoài.
Thứ tư, vốn FDI là hình thức đầu tư trực tiếp của các nhà đầu tư nước ngoài,
họ mang vốn đến nước khác để đầu tư. Vì vậy, khác với các nguồn vốn vay, vốn
FDI tại nước sở tại không phải hoàn trả nợ và cũng không tạo gánh nặng nợ quốc
gia, đây là một ưu điểm so với các hình thức đầu tư nước ngoài khác. Việc mang
vốn từ bên ngoài vào đầu tư tại nước sở tại sẽ tạo thêm nhiều vốn cho đầu tư, nhất
là những nước đang phát triển và vốn này không phải là khoản nợ của quốc gia, sẽ
đảm bảo an ninh tài chính cho quốc gia tiếp nhận vốn tốt hơn nhiều so với các
khoản vốn vay quốc gia khác. Để được gọi là vốn FDI thì phía nhà đầu tư nước
ngoài phải đóng góp một tỷ lệ nhất định, lượng vốn này tùy theo quy định của từng
nước và được thay đổi theo thời gian.
Thứ năm, vốn FDI là hình thức xuất khẩu tư bản nhằm thu lợi nhuận cao và
các nhà đầu tư nước ngoài quyết định về quy mô và sử dụng vốn FDI. Do các nhà
đầu tư nước ngoài luôn hướng tới mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận cao nên có thể gây ra
nhiều thiệt thòi, tổn thất ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia và mục tiêu thu hút vốn của
nước nhận đầu tư.
9
Bảng 1.1: Lợi thế của Doanh nghiệp FDI so với Doanh nghiệp nước tiếp
nhận đầu tư
Mô tả Lợi thế
Có vốn lớn và chi phí vốn thấp hơn so với các doanh nghiệp Vốn trong nước
Trình độ Có trình độ quản trị doanh nghiệp tốt hơn, có khả năng dự báo và
quản lý xác định rủi ro cũng như lợi nhuận tốt hơn
Có công nghệ tiên tiến, có khả năng ứng dụng công nghệ vào sản
Công nghệ xuất, có khả năng phát minh ra công nghệ mới và áp dụng trong
sản xuất
Có khả năng nghiên cứu thị trường, quảng cáo và phân phối sản Marketting phẩm
Mua nguyên Có những ưu đãi trong việc tìm kiếm và mua nguyên vật liệu
vật liệu phục vụ cho quá trình sản xuất
Thoả thuận với Có khả năng đàm phán thoả thuận để được hưởng những ưu đãi
Chính phủ từ phía Chính phủ của nước tiếp nhận đầu tư
Nguồn: (Nguyễn Văn Tuấn, 2005, Đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển
kinh tế Việt Nam, trang 36)
1.1.2. Những tác động tích cực của FDI với phát triển kinh tế - xã hội
Khi xem xét, đánh giá một dự án FDI, với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước
thì cần đánh giá tất cả các lợi ích mà dự án có thể mang lại, kể cả trực tiếp và gián
tiếp. Sau đây là một số lợi ích phổ biến của dự án FDI:
- Thu hút thêm nguồn vốn
Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của kinh tế học vĩ mô Keynes tiêu biểu là mô
hình Harrod-Domar cho rằng nguồn gốc tăng trưởng kinh tế chính là lượng vốn sản
xuất tăng thêm có được từ đầu tư và tiết kiệm của quốc gia. Nhưng nếu GDP/ đầu
người thấp thì khó nâng cao tỷ lệ tiết kiệm để đầu tư. Đây là trở ngại của quốc gia
có thu nhập thấp. Do vậy, hướng khắc phục chính là thu hút thêm nguồn đầu tư từ
10
nước ngoài. Khi tiếp nhận một nhà đầu tư mới sẽ bổ sung thêm nguồn vốn cho đầu
tư phát triển kinh tế - xã hội của nước tiếp nhận, đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư.
- Giải quyết việc làm cho người lao động
Một lợi ích phổ biến khác của FDI là tạo thêm việc làm cho người lao động,
giảm thất nghiệp. Có việc làm đồng nghĩa với có thu nhập, nâng vị thế của người
lao động trong gia đình và ngoài xã hội. Ngoài ra, tạo việc làm giúp nâng cao chất
lượng cuộc sống, hạn chế tiêu cực của xã hội, góp phần xóa đói giảm nghèo và ổn
định xã hội. Vì vậy, tạo việc làm cho người lao động là biện pháp trung tâm của
mọi quốc gia, nó không chỉ giải quyết các vấn đề kinh tế mà còn giải quyết các vấn
đề xã hội.
Mức độ giải quyết việc làm của doanh nghiệp FDI phụ thuộc vào nhiều yếu tố
như: quy mô đầu tư của dự án, ngành nghề hoạt động, trình độ công nghệ và chất
lượng lao động của nước tiếp nhận đầu tư.
- Tăng nguồn thu ngân sách nhà nước từ thuế
FDI đóng góp vào nguồn thu ngân sách của địa phương; ngay cả trong thời
gian nhà đầu tư nước ngoài được hưởng ưu đãi miễn, giảm thuế thì địa phương
cũng có thể tăng thu được từ thuế thu nhập cá nhân do những việc làm mới mà
doanh nghiệp FDI tạo ra và các loại thuế gián thu khác.
- Chuyển giao công nghệ.
Thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp, các nhà đầu tư nước ngoài tiến hành
chuyển giao công nghệ, nhờ đó trình độ công nghệ sản xuất trong nước được cải
thiện. Mặt khác, để đạt được lợi nhuận trong bối cảnh ngày càng cạnh tranh gay gắt,
các nhà đầu tư nước ngoài buộc phải chuyển giao công nghệ và từng bước nâng lên
kỹ thuật hiện đại. Hoạt động chuyển giao công nghệ của doanh nghiệp FDI, một
mặt góp phần tạo ra sản phẩm có chất lượng, mặt khác thúc đẩy các doanh nghiệp
trong nước phải tự đổi mới và cải tiến công nghệ để tồn tại và phát triển.
- Cải thiện kỹ năng lao động.
Các công ty nước ngoài rất chú trọng việc đào tạo, huấn luyện kỹ năng cho
người lao động. Điều này, đã góp phần đào tạo nên một đội ngũ lao động lành nghề
11
và cán bộ quản lý có trình độ hay nói cách khác doanh nghiệp FDI đã làm thay đổi
cơ bản năng lực, kỹ năng lao động và quản trị doanh nghiệp thông qua việc đào tạo,
bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn và quá trình rèn luyện của người lao động trong
công việc hàng ngày.
- Cải thiện tình hình xuất khẩu.
Phần lớn các doanh nghiệp FDI đều chú trọng xuất khẩu, do vậy xuất khẩu của
doanh nghiệp FDI thường chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng kim ngạch xuất
khẩu của địa phương. Với mạng lưới phân phối rộng, doanh nghiệp FDI có thể xuất
khẩu hiệu quả hơn các doanh nghiệp trong nước. Trong trường hợp doanh nghiệp
FDI hoạt động thật sự có hiệu quả, thì nhiều quốc gia có thể xem đây là một hình
thức để gia tăng mức xuất khẩu và cải thiện thu nhập ngoại hối. Bên cạnh đó, với sự
hiện diện của các doanh nghiệp FDI đã khuyến khích, thúc đẩy doanh nghiệp trong
nước thâm nhập ngày càng sâu hơn vào thị trường xuất khẩu.
- Nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước.
FDI tạo ra cơ hội cung cấp nguyên liệu đầu vào cho công ty nước ngoài, đã
thúc đẩy doanh nghiệp trong nước nâng cao chất lượng và độ tin cậy của sản phẩm
làm ra, do đó sẽ trở nên cạnh tranh hơn trên thị trường quốc tế. Ngoài ra, các công
ty nước ngoài thường xuyên đưa ra thị trường sản phẩm mới nên buộc doanh nghiệp
trong nước phải cạnh tranh với loại sản phẩm này. Kết quả là doanh nghiệp trong
nước hoạt động hiệu quả hơn và tạo ra được sản phẩm có chất lượng cao hơn để
cung ứng trên thị trường. (Lê Xuân Bá, 2006, Tác động của FDI tới tăng trưởng
kinh tế ở Việt Nam)
Bên cạnh những lợi ích mà nhà đầu tư nước ngoài mang lại cũng còn tồn tại
song song một số mặt hạn chế trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp tại nước
tiếp nhận đầu tư
1.1.3. Những tác động tiêu cực của FDI
- Tác động xấu đến môi trường sống
FDI giúp tăng trưởng kinh tế nhưng cũng dẫn đến tình trạng môi trường bị suy
thoái, về lâu dài có thể làm ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của quốc gia.
12
Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp FDI vẫn còn vi phạm pháp luật về bảo vệ
môi trường. Đặc biệt là đối với các dự án có mức độ ô nhiễm môi trường cao như:
dệt nhuộm, thuộc da, xi mạ, hóa chất, chế biến củ mì tươi, chăn nuôi gia súc, gia
cầm, giết mổ gia súc…Nguyên nhân là do chi phí đầu tư hệ thống xử lý chất thải
chiếm tỷ lệ vốn lớn nên nhiều doanh nghiệp chưa đầu tư đúng mức, dẫn đến lượng
chất thải thải ra môi trường sau khi được xử lý chưa đạt chuẩn, làm ảnh hưởng đến
môi trường sống xung quanh khu vực, chất lượng nguồn nước giảm sút.
Bên cạnh đó, còn có hiện tượng chuyển các ngành sản xuất ô nhiễm môi
trường từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển thông qua đầu tư nước
ngoài. Nhiều chủ đầu tư đưa những ngành công nghiệp ô nhiễm, sử dụng nhiều tài
nguyên hoặc công nghệ chưa thân thiện với môi trường vào các nước đang phát
triển.
- Chiếm dụng đất đai
Tính đến 12/2011, ở Việt Nam đã có 283 Khu công nghiệp và 15 Khu kinh tế
ven biển được thành lập, chiếm tổng diện tích đất tự nhiên 142.000 ha.
Đặc biệt là các dự án FDI trong lĩnh vực nông nghiệp gần như không có hiệu
quả hoặc hiệu quả không cao, trong khi diện tích được cho thuê là tương đối lớn.
Luật Đất đai số 13/2003/QH11 ngày 26/11/2003 quy định rõ: “trường hợp sử dụng
đất không hiệu quả, đất cho thuê để thực hiện dự án đầu tư mà không được sử dụng
trong thời hạn mười hai tháng liền kể từ ngày giao đất thì bị nhà nước thu hồi đất”.
Quy định thì rất cụ thể, rõ ràng, tuy nhiên trên thực tế khi áp dụng vào xử lý thì gặp
phải sự phản ứng của nhà đầu tư nước ngoài, thế nào là sử dụng đất không hiệu
quả…dẫn đến nhiều dự án nông nghiệp hoạt động cầm chừng nhưng vẫn chưa thu
hồi được đất, gây lãng phí đất đai, trong khi người dân bị thu hồi đất giao cho dự án
thì không có đất sản xuất.
- Thực thi pháp luật nước sở tại không tốt
Còn một số doanh nghiệp thực hiện chưa tốt như đóng bảo hiểm cho người lao
động, ký hợp đồng lao động, trang thiết bị bảo hộ lao động, an toàn vệ sinh lao
động…Các vụ tranh chấp giữa chủ và thợ về tiền công không tăng tương ứng với
13
cường độ lao động và chỉ số tăng giá, tăng giờ làm vượt quá quy định và vẫn còn
một số chủ doanh nghiệp FDI có cách ứng xử thiếu tôn trọng người lao động. Ngoài
ra, do rào cản ngôn ngữ, văn hóa nên khi có tranh chấp xảy ra dễ dẫn đến hành động
quá khích giữa chủ và thợ.
1.2 QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ NIN VÀ CỦA ĐẢNG,
NHÀ NƯỚC TA VỀ VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI.
1.2.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lê nin
Học thuyết kinh tế của chủ nghĩa Mác-Lênin về xuất khẩu tư bản cũng cung
cấp những cơ sở khoa học để hiểu rõ về bản chất của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Theo sự phân tích của V.I.Lênin, sở dĩ cần phải xuất khẩu tư bản vì trong một
số nước TBCN phát triển đã thiếu địa bàn đầu tư có lợi. Trong khi đó ở nhiều nước
thuộc địa, nền kinh tế còn lạc hậu cần tư bản để phát triển kinh tế, đổi mới kỹ thuật,
học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến và mở rộng thị trường, do đó có sự gặp nhau
giữa nước xuất khẩu tư bản và các nước tiếp nhận tư bản.
Theo Lênin, thông qua xuất khẩu tư bản, các nước tư bản thực hiện việc bóc
lột đối với các nước lạc hậu và thường là thuộc địa của nó. Nhưng cũng chính Lênin
đưa ra chính sách “kinh tế mới” đã nói rằng: Những người cộng sản phải biết lợi
dụng những thành tựu kinh tế và khoa học kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản thông qua
hình thức “chủ nghĩa tư bản nhà nước”. Theo quan điểm này nhiều nước đã “chấp
nhận” phần nào sự bóc lột của chủ nghĩa tư bản để phát triển kinh tế như: khai thác
vốn của từng chủ đầu tư nước ngoài. Nhiều nước thiếu vốn trầm trọng nên đối với
hình thức đầu tư trực tiếp không quy định mức đóng góp tối đa của mỗi chủ đầu tư,
thậm chí đóng góp vốn càng nhiều thì càng được hưởng những chính sách ưu đãi về
thuế của nước chủ nhà. FDI giúp tiếp thu công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm quản
lý kinh doanh của các chủ đầu tư nước ngoài. Nhờ đó FDI cho phép nước chủ nhà
có điều kiện khai thác tốt nhất những lợi thế của mình về tài nguyên, vị trí, mặt đất,
mặt nước... Sự cạnh tranh, ganh đua giữa các nhà đầu tư có vốn trong nước và nước
ngoài tạo động lực kích thích sự đổi mới và hoàn thiện trong các nhà doanh nghiệp
và đâu là nhân tố quan trọng đưa nền kinh tế phát triển với tốc độ cao. Các dự án
14
FDI góp phần giải quyết việc làm và nâng cao mức sống của người lao động. Với
những ưu điểm trên FDI giúp cho các nước tiếp nhận phát triển kinh tế nhanh hơn
tự thân vận động hay đi vay vốn để mua lại kỹ thuật của các nước công nghiệp phát
triển.
1.2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước
Cho đến nay, quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về vai trò của đầu
tư nước ngoài nói chung, FDI nói riêng đã có nhiều thay đổi. Những thay đổi này
xuất phát từ thực tiễn của nền kinh tế và do thay đổi về bối cảnh kinh tế trong khu
vực và thế giới. Nếu như trước năm 2000, các doanh nghiệp FDI chưa được coi như
một chủ thể độc lập trong nền kinh tế thì từ Đại hội Đảng lần thứ IX năm 2001 trở
lại đây, khu vực FDI đã được khẳng định là một trong các thành phần cùng tồn tại
trong nền kinh tế.
Đại hội Đảng lần thứ VII (1991) và Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996), tuy
không tách riêng khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thành một “thành phần
kinh tế” trong nền kinh tế nhiều thành phần của Việt Nam, song đã ghi nhận sự hợp
tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước và tư bản nước ngoài, khẳng định khu vực đầu
tư nước ngoài: “có vai trò to lớn trong động viên về vốn, công nghệ, khả năng tổ
chức quản lý...” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1996, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII). Với quan điểm như vậy, chính sách đối với khu vực có vốn FDI
trong thời kỳ này chủ yếu hướng vào việc khuyến khích các nhà đầu tư liên doanh
với các doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam hoạt động trong nhiều lĩnh vực kinh
tế, trừ những lĩnh vực có tầm quan trọng đặc biệt đối với nền kinh tế quốc dân và an
ninh quốc phòng.
Năm 2001, lần đầu tiên khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được công
nhận là một thành phần kinh tế với vai trò “hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội, gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc
làm...” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX). Tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 9 (khoá IX), Đảng Cộng sản Việt
Nam đã đề ra nhiệm vụ “phải tạo chuyển biến cơ bản trong thu hút vốn đầu tư trực
15
tiếp nước ngoài” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2004, Tài liệu của Hội nghị toàn quốc
lần thứ 9 khóa IX).
Theo đó, chính sách thu hút FDI trong thời gian tới sẽ tập trung vào nâng cao
chất lượng FDI vào Việt Nam thông qua việc thu hút mạnh hơn nữa các tập đoàn
xuyên quốc gia đầu tư vào các ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế, đặc biệt
là các lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ nguồn. Thay đổi trong nhận thức và quan
điểm của Đảng và Nhà nước đối với khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là cơ
sở quan trọng để Chính phủ sửa đổi và hoàn thiện các văn bản pháp luật về cơ chế
chính sách thu hút vốn FDI đối với hoạt động của các doanh nghiệp FDI trong
những năm gần đây.
Đảng và Nhà nước có những quan điểm về nâng cao hiệu quả và tăng thu hút
vốn FDI để phát triển kinh tế - xã hội trong những năm tới:
Một là, phải biến những yếu tố ngoại sinh thành yếu tố nội sinh. Khi nói về
việc tranh thủ sự viện trợ quốc tế, Hồ Chí Minh đã từng nhấn mạnh: “Ta phải khéo
dùng cái vốn ấy để bồi bổ lực lượng của ta, phát triển khả năng của ta, nhân dân và
cán bộ ta chớ nên ỷ lại, mà phải tự lực tự cường” (Hồ Chí Minh, 1987, toàn tập, tập
7, trang 289). Muốn vậy phải có các chủ trương chính sách sao cho việc thu hút vốn
nước ngoài góp phần hình thành một nền kinh tế phát triển có hiệu quả.
Việc nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế và vốn đầu tư nước ngoài phải góp
phần khơi dậy và phát huy nội lực. Trên cơ sở phát huy nội lực mà thực hiện nhất
quán lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực bên ngoài.
Hai là, đảm bảo nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi giữa các đối tác nước ngoài
và trong nước. Các nhà đầu tư đưa vốn vào nước ta tất nhiên phải thu nhiều lợi
nhuận hoặc tìm nguyên liệu quý hiếm. Để khuyến khích họ yên tâm và hăng hái
kinh doanh không những cần phải đảm bảo quyền lợi sở hữu hợp pháp của họ mà
còn phải có những ưu đãi để họ thu được lợi nhuận thoả đáng thậm chí lợi nhuận
cao, nhưng phải là lợi nhuận từ phát triển kinh doanh, nâng cao năng suất lao động
và cạnh tranh lành mạnh chứ không phải từ việc lợi dụng thế yếu của các đối tác
trong nước và kể cả sở hữu của luật pháp.
16
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải có những tác động tích cực,
thể hiện ở những mặt cơ bản như: Góp phần khai thác các nguồn lực trong nước để
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững, tăng thu ngân sách nhà nước; Tăng việc làm,
tăng trình độ lành nghề và tăng thu nhập của công nhân; Tiếp thu được những bí
quyết về công nghệ, về kinh doanh, kinh nghiệm quản lý để trong tương lai cán bộ
và công nhân ta có thể tự vận hành những doanh nghiệp mới; Thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu kinh tế trong nước….
Ba là, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công
bằng xã hội. Chỉ quan tâm đến tăng trưởng kinh tế, tạo ra việc làm, tăng thu nhập
của công nhân, tăng thu ngân sách... Chưa hẳn đã có tiến bộ và công bằng xã hội.
Cần nhận thức rằng sự ra đời của các khu công nghiệp gắn với quá trình hình thành
các đô thị, các thị trấn. Việc quản lý đô thị khác với quản lý nông thôn, đòi hỏi cao
hơn về kết cấu hạ tầng, về bảo vệ môi trường, an ninh, về các loại dịch vụ, nhất là
dịch vụ công cộng...
Không chỉ là tổ chức và quản lý những khu dân cư mới mà quan trọng hơn
phải có chương trình xây dựng một đội ngũ công nhân mới mà đa số vừa xuất thân
từ nông dân, từ học sinh hay những người lao động tự do, làm cho họ không chỉ
nâng cao về tay nghề mà cả về ý thức chính trị, lập trường giai cấp công nhân, về
lối sống nhân văn, hiện đại; phòng ngừa và ngăn chặn các tệ nạn xã hội; xây dựng
quan hệ chủ thợ lành mạnh, đảm bảo lợi ích chính đáng của cả hai bên.
1.3. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ TỈNH, THÀNH
PHỐ TRONG VIỆC ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA VỐN ĐẦU TƯ TRỰC
TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.3.1. Kinh nghiệm của Thành phố Hồ Chí Minh
Từ năm 1988 đến 1990 là những năm khởi đầu, FDI chưa có tác dụng rõ rệt
đến tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn TP.HCM. Từ năm 2001 đến nay là thời
kỳ phục hồi hoạt động của FDI ở TP.HCM. Vốn FDI đăng ký trên địa bàn thành
phố năm 2001 là 0,6 tỷ USD tăng gần gấp 3 lần so với năm trước. Từ năm 2005 đến
năm 2014, lượng vốn FDI đăng ký là 36,3 tỷ USD và vốn thực hiện đạt 18,5 tỷ
17
USD. FDI tác động đến cả chiều rộng và chiều sâu của quá trình tăng trưởng tại
TP.HCM
Trong quá trình hoạt động, các dự án FDI ở thành phố Hồ Chí Minh đã góp
phần giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động. Theo thống kê của Sở Lao
động Thương binh - Xã hội TP.HCM thì khu vực có vốn đầu tư nước ngoài hiện
đang là khu vực có mức lương cao nhất và thu hút nhiều lao động, đã tạo việc làm
cho gần 550.000 lao động trực tiếp và vài trăm ngàn lao động gián tiếp (Cục Thống
kê TP.HCM năm 2011, 2012, 2013, 2014).
Tác động quan trọng nhất của FDI trên địa bàn TP.HCM là góp phần làm tăng
hiệu quả kinh tế - xã hội, cân bằng cán cân thanh toán quốc tế, hình thành các định
chế tiền tệ tín dụng đáp ứng các chuẩn mực quốc tế, đóng góp ngày càng nhiều vào
thu ngân sách và góp phần cải thiện môi trường sống xã hội.
Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ở TP.HCM cũng đã góp phần tích cực
vào việc đổi mới, nâng cấp thiết bị, công nghệ, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển. Các dự án có vốn đầu tư lớn (như doanh nghiệp bia, ô tô...) đa số sử dụng
thiết bị hiện đại và công nghệ tiên tiến vì đó là yêu cầu tất yếu để duy trì hoạt động
của chi nhánh trong bối cảnh kinh tế thế giới cạnh tranh gay gắt.
Tuy nhiên, FDI cũng đã có tác động tiêu cực đến một số mặt kinh tế - xã hội ở
TP.HCM:
Một là, hiệu quả kinh tế thu được từ FDI còn thấp. Tuy có những đóng góp
tích cực cho sự phát triển kinh tế tại TP.HCM, nhưng trên thực tế 25 năm qua cho
thấy mức lợi nhuận thu được từ khu vực FDI còn thấp, thậm chí một số doanh
nghiệp còn bị thua lỗ, nhất là các doanh nghiệp liên doanh.
Hai là, mục tiêu hướng về xuất khẩu khi thu hút vốn FDI trong những năm gần
đây mặc dù kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI ở TP.HCM gia tăng về số tuyệt
đối, nhưng nếu xét tỷ trọng kim ngạch xuất nhập khẩu của TP.HCM thì tỷ trọng này
gia tăng không nhiều trong nhiều năm qua.
Ba là, xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI ở TP.HCM chỉ chiếm 40% doanh
thu, còn 60% là tiêu thụ ở thị trường nội địa. Vì thế nhiều mặt hàng tiêu dùng sản
18
xuất trong nước đã đáp ứng được như: nước giải khát, bột giặt... nay thêm các liên
doanh thì phải chia sẻ thị trường mà xu thế lại thuộc về các xí nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài.
Bốn là, một bộ phận công nghệ chuyển giao dưới hình thức thiết bị cũ kỹ, lạc
hậu, hoạt động kém hiệu quả (thiết bị hiện đại chỉ chiếm 10%, trung bình 30% và
60% cũ kỹ lạc hậu).Tuy nhiên, nếu nói về mức độ hiện đại thì đều không phải là
hiện đại bậc nhất, có nghĩa hầu hết công nghệ chuyển giao đều lạc hậu một cách
tương đối.
Năm là, tương tự như sự hạn chế về mức độ hiện đại, công nghệ chuyển giao
có xu hướng là thiếu đồng bộ. Chẳng hạn các liên doanh ô tô, xe máy, điện tử đều
được phân công chuyên môn hoá theo từng công đoạn. Trong đó những bộ phận
quan trọng nhất chứa hàm lượng vốn và kỹ thuật cao như máy của xe máy, xe ô tô
đều được thực hiện ở công ty mẹ. Thực tế hiện nay, công nghệ chuyển giao ở những
ngành này chủ yếu vẫn là lắp ráp.
Sáu là, tình trạng đối tác nước ngoài khai tăng giá thiết bị để tăng tỷ lệ vốn
góp vào liên doanh là khá phổ biến. Một công bố của công ty kiểm toán quốc tế
SGS (Societe General de Surveillance) Thụy Sĩ đã giám định giá thiết bị góp vốn
của phía nước ngoài trong 12 liên doanh thì có 6.112 công ty đã khai khống giá trị
thiết bị với tỷ lệ chênh lệch giá đến 28,4%.
Những hạn chế trên trong thực tiễn thu hút FDI tại TP.HCM là do những
nguyên nhân sau:
Thứ nhất, mặc dù đã có những cải tiến tích cực, song nhìn chung chính sách
điều hành vĩ mô của thành phố vẫn chưa đồng bộ và chưa ổn định. Nhiều lĩnh vực
quan trọng và rất nhạy cảm đối với các nhà đầu tư nước ngoài như: vấn đề thanh
toán ngoại tệ, vấn đề chính sách về đất đai... chưa được giải quyết nhanh chóng.
Mặt khác, về thủ tục hành chính tuy đã có nhiều cải thiện, nhưng những quy định
trong những lĩnh vực như: Hải quan, thuế, xuất nhập cảng còn rườm rà, dễ nảy sinh
tiêu cực và gây phiền hà cho các nhà đầu tư.
19
Thứ hai, công tác xúc tiến đầu tư hiệu quả còn thấp, quy hoạch dài hạn thu hút
vốn đầu tư nước ngoài vẫn còn chậm, kinh phí để tổ chức mạng lưới đại diện và tổ
chức vận động đầu tư quốc tế còn hạn chế. Mạng lưới các công ty tư vấn đầu tư
nước ngoài còn quá ít, trình độ chuyên môn chưa cao, chưa đáp ứng nhu cầu nhiệm
vụ
Thứ ba, thủ tục thẩm định dự án đầu tư nước ngoài và cấp giấy phép đầu tư
còn qua nhiều tầng nấc trung gian, gây phiền hà, mất rất nhiều thời gian. Tuy gần
đây có sự phân cấp nhưng quản lý chưa chặt chẽ và cụ thể, còn lúng túng, một số dự
án đầu tư do trình độ năng lực của các cán bộ thẩm định kém đã làm thiệt hại cho
phía đối tác hoặc một số dự án không có tính khả thi.
Thứ tư, việc triển khai thực hiện giấy phép của doanh nghiệp FDI vẫn còn
nhiều khó khăn vướng mắc, phức tạp, gây phiền hà cho nhà đầu tư. Khi doanh
nghiệp đi vào hoạt động thì lại có rất nhiều ngành, nhiều cấp có thẩm quyền quản
lý, kiểm tra doanh nghiệp nhưng gần như không có cơ quan nào nắm chắc tình hình
hoạt động của doanh nghiệp. Về phía các doanh nghiệp, đa số đều ít nhiều vi phạm
nội dung cấp giấy phép, thậm chí một số doanh nghiệp còn có biểu hiện gian lận
trong kinh doanh hoặc cam kết xuất khẩu để dễ dàng xin giấy phép và sau đó thì
tiêu thụ nội địa, nhưng luật pháp, chính sách của Nhà nước chưa quy định chặt chẽ,
đầy đủ các biện pháp xử lý, chế tài có hiệu quả.
Thứ năm, lực lượng lao động tại TP.HCM làm việc trong khu vực FDI ngày
càng lớn, bên cạnh việc có điều kiện tiếp cận công nghệ mới, phương pháp quản lý
tiên tiến, thu nhập khá cao thì cũng nảy sinh vấn đề mâu thuẫn trong mối quan hệ
chủ thợ, nhiều doanh nghiệp đã trở nên gay gắt mà nguyên nhân chủ yếu là do
cường độ lao động, có thời điểm quá cao nhưng tiền lương và đãi ngộ chưa thoả
đáng. Việc xử lý mâu thuẫn này rất phức tạp, cần phải tuân thủ đúng và đầy đủ pháp
luật hiện hành. Nếu chỉ xuất phát từ lợi ích của người lao động thì nguy cơ người
lao động mất việc hàng loạt ở các doanh nghiệp thực sự khó khăn vì nguyên nhân
khách quan chung hiện nay, nếu ngược lại sẽ đối lập với người lao động, giúp nhà
20
đầu tư nước ngoài có điều kiện sử dụng lao động với cường độ cao hơn, điều này sẽ
trái với bản chất của chế độ XHCN của chúng ta.
1.3.2. Kinh nghiệm của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
Bà Rịa – Vũng Tàu là một trong những địa phương thu hút được lượng vốn
FDI khá cao. Khu vực kinh tế có vốn nước ngoài tương đối phát triển và có vai trò
quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh.
Vốn FDI trở thành một nguồn vốn rất quan trọng trong tổng vốn đầu tư xã
hội thực hiện trên địa bàn tỉnh. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã đóng
góp quan trọng vào tốc độ tăng trưởng kinh tế trừ dầu khí của tỉnh. Tỷ trọng khu
vực FDI trong tổng GDP trừ dầu khí của tỉnh tăng dần qua các năm, từ chỗ chiếm
33,35% năm năm 2007 đã tăng lên chiếm hơn 52% vào năm 2012 và năm 2014 là
53,2%. Từ năm 2007 trở đi, tỷ trọng của khu vực FDI tăng liên tục, từ mức trên
41% năm 2010 lên 57,7% năm 2014.
Tỉnh thu hút FDI vào nhiều ngành khác nhau, nhưng đóng góp của khu vực
FDI nhiều nhất vào cải thiện năng lực sản xuất của ngành công nghiệp trên địa bàn.
Giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực đầu tư nước ngoài chiếm bình quân 65%
trong tổng giá trị ngành này trong giai đoạn 2001-2005. Trong hai năm 2006-2007,
tỷ lệ này đạt bình quân 53%; năm 2014 đạt 66,64%. Với việc hình thành nhiều dự
án quan trọng trong các Khu công nghiệp, sản xuất các sản phẩm chủ lực như: điện,
sắt thép, phân bón, xây dựng cảng…đặc biệt là 02 dự án điện BOT và các dự án
thuộc ngành thép, Bà Rịa – Vũng Tàu trở thành trung tâm điện – thép lớn của Việt
Nam hiện nay. Từ năm 2002, các sản phẩm mới xuất hiện từ khu vực kinh tế FDI
gồm gốm sứ, gạch men,..Từ năm 2004, xuất hiện thêm các sản phẩm từ khu vực
kinh tế FDI, gồm: tháp gió, da thuộc, vải giả da, sắt thép, cơ khí và công nghiệp phụ
trợ ngành dầu khí và công nghiệp nặng.
Trên địa bàn tỉnh có 14 khu công nghiệp với hơn 3.000 doanh nghiệp FDI
đăng ký hoạt động với tổng vốn đăng ký khoảng 21 triệu 929 ngàn USD. Các KCN
thu hút nhiều ngành nghề với dự án thuộc lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tác,
công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp sử dụng nguyên nhiên liệu là khí đốt, gắn liền với
21
phát triển hệ thống cảng và các ngành chế biến nông, lâm, hải sản, dệt may, da giày.
Nhìn chung, các doanh nghiệp FDI trên địa bàn tỉnh là các doanh nghiệp tập trung
nhiều vốn, chủ yếu trong ngành công nghiệp nặng, du lịch và cảng biển. Khu vực
FDI gắn kết với phát triển hệ thống cảng biển nước sâu và các khu công nghiệp, tạo
sự đa dạng về sản phẩm công nghiệp, trong đó xuất hiện một số sản phẩm công
nghiệp mới như sắt thép, tháp gió, phân bón, vật liệu xây dựng…Thông qua khu
vực FDI, nhiều nguồn lực trong nước như lao động, đất đai, tài nguyên khoáng sản
trong phạm vi địa giới của tỉnh được khai thác và sử dụng mang lại hiệu quả kinh tế.
Khu vực FDI cũng đóng góp rất lớn vào kết quả xuất khẩu, chuyển dịch cơ cấu
hàng xuất khẩu và mở rộng thị trường xuất khẩu cho Việt Nam nói chung và doanh
nghiệp trong tỉnh nói riêng.
Không tính dầu khí, xuất khẩu của doanh nghiệp FDI trong giai đoạn 2001-
2005 đạt 181 triệu USD, chiếm 18% tổng giá trị xuất khẩu trên địa bàn tỉnh. Riêng
trong năm 2005, xuất khẩu của khu vực có vốn FDI đã đạt tới 87 triệu USD, chiếm
19% tổng giá trị xuất khẩu của tỉnh . Năm 2014 xuất khẩu của khu vực này đạt
1.723 triệu USD, chiếm 78,2% tổng giá trị xuất khẩu của tỉnh, cao hơn so với tỷ lệ
chung của cả nước là 63%.
Lao động trong khu vực doanh nghiệp FDI có tốc độ tăng tưởng khá ấn tượng,
đạt trung bình 44,2% năm giai đoạn 2010-2014, cao hơn gần 18 lần so với tốc độ
tăng lực lượng lao động của cả tỉnh. Ngành công nghiệp với đóng góp rất cao của
khu vực FDI nhưng chỉ tạo việc làm cho hơn 19% tổng số lao động có việc làm của
tỉnh. Trong khi đó, 33,3% lao động nông nghiệp chỉ đóng góp hơn 4% vào GDP
trên địa bàn. Như vậy, sự phát triển nhanh về quy mô của khu vực FDI chủ yếu sử
dụng lao động địa phương, không gây ra làn sóng thu hút lao động từ các tỉnh khác
đến. Đặc điểm của FDI được thu hút vào tỉnh là tập trung trong ngành công nghiệp
nặng, công nghiệp tập trung vốn, sử dụng ít lao động.
Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động của tỉnh cao hơn so với
mặt bằng chung của cả nước. Lao động đã qua đào tạo tăng mạnh cả về số lượng và
chất lượng, với tốc độ tăng trung bình đạt hơn 11%/năm giai đoạn 2002-2005 và
22
15,2%/năm giai đoạn 2006-2012. Nhờ đó, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo của tỉnh Bà
Rịa – Vũng Tàu đạt khoảng 55% năm 2012, trong khi đó cả nước là 40%, FDI tập
trung vào công nghiệp nặng có ưu điểm là không gây sức ép cho tỉnh về tuyển dụng
lao động phổ thông như tại một số tỉnh, thành trong vùng Đông Nam Bộ như Đồng
Nai, Bình Dương…qua đó hạn chế nhập cư lao động cũng như mâu thuẫn quan hệ
chủ - thợ dẫn đến đình công v.v.. trên địa bàn.
Bên cạnh tạo việc làm trực tiếp trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, FDI còn tạo việc làm gián tiếp trong khu vực dịch vụ, góp phần chuyển dịch
cơ cấu trên địa bàn. Việc làm gián tiếp được tạo ra trong khu vực dịch vụ có tác
động xóa đói giảm nghèo. Một hiệu quả tốt của FDI là khu vực này đã góp phần
khá lớn vào đào tạo trình độ chuyên môn cho người lao động, trước hết là trong lĩnh
vực liên quan đến dầu khí, dịch vụ cảng biển, sản xuất điện, thép và một số ngành
công nghiệp chế biến khác. Một số doanh nghiệp quy mô lớn đưa công nghệ hiện
đại vào sản xuất và có nhu cầu về lao động có kỹ năng quản lý cao cũng tạo môi
trường làm việc văn minh hơn, tạo điều kiện cho chuyển giao kiến thức và kỹ năng
giữa lao động nước ngoài có trình độ cao và lao động Việt Nam.
Hầu hết các dự án đầu tư thứ cấp trong các KCN có phát sinh nước thải công
nghiệp trong quá trình hoạt động đã đầu tư hệ thống xử lý nước thải cục bộ và đã
hoàn tất đấu nối thoát thải vào hệ thộng thu gom về nhà máy xử lý nước thải tập
trung của KCN, ký hợp đồng tái xử lý nước thải với chủ đầu tư hạ tầng. Đối với các
dự án bên ngoài KCN thuộc diện lập báo cáo đánh giá tác động môi trường, hiện đã
có 34/36 dự án lập thủ tục môi trường trước khi đi vào hoạt động, trong đó có 28 dự
án đã đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải, còn lại hầu hết là các dự án du lịch
đang trong giai đoạn xây dựng và thực hiện công tác giải phóng mặt bằng.
Với những kết quả đạt được về thu hút và giải ngân FDI trong những năm
qua, FDI thực sự là một nguồn vốn quan trọng của tỉnh, đóng góp rất lớn vào tăng
trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn, đặc biệt là tăng trưởng ngành công nghiệp. FDI
cũng là động lực chính đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa với tỷ trọng công nghiệp rất cao trong GDP từ đó góp phần tạo ra một
23
số ngành công nghiệp mới có mật độ tập trung cao trên địa bàn ( nhiệt điện, sản
xuất thép). FDI đóng góp lớn vào nguồn thu ngân sách, thúc đẩy phát triển doanh
nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp ngành chế tác có quy mô lớn, sử dụng công nghệ
cao và trình độ quản lý tiên tiến.
Mặc dù hiệu quả của FDI đối với tỉnh qua những mặt được nêu trên là tương
đối khả quan, tuy nhiên đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng
Tàu còn một số hạn chế cần khắc phục.
Thứ nhất, tác động lan tỏa của FDI đối với khu vực kinh tế trong nước (tạo
việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động, nâng cao trình độ đào tạo cho lao động, tăng
thu nhập trực tiếp.. ) từ khu vực FDI còn thấp, mặc dù đóng góp của khu vực này
vào tổng sản phẩm trên địa bàn và khu vực công nghiệp là rất lớn.
Thứ hai, hiệu quả của dòng vốn FDI đối với sự phát triển của các doanh
nghiệp trong nước (thúc đẩy chuyển giao công nghệ, tăng năng suất lao động, hình
thành các cụm ngành công nghiệp…) cón hạn chế, chưa tạo tiền đề vững chắc cho
sự hợp tác, liên kết giữa doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp trong nước
Thứ ba, hạ tầng kỹ thuật của tỉnh cũng chưa phát triển tương xứng với tốc độ
thu hút vốn đầu tư vào địa phương, dẫn tới tiến độ triển khai một số dự án đầu tư tại
các điểm tập trung nhiều dự án bị ảnh hưởng. Ví dụ, đầu tư phát triển hạ tầng cảng
biển chưa đáp ứng được nhu cầu, một số cảng vẫn chưa có giao thông đường bộ kết
nối, hạ tầng về điện, nước thông tin liên lạc còn thiếu. Việc triển khai dự án sau khi
cấp giấy chứng nhận đầu tư vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong công tác bồi thường,
giải phóng mặt bằng.
Thứ tư, hoạt động xúc tiến đầu tư cũng như quảng bá hình ảnh, môi trường
đầu tư của tỉnh chưa mang tính chuyên nghiệp. Trong khi đó, các thông tin trên
Website của UBND tỉnh và các Sở, Ngành liên quan chưa nhiều, thông tin chưa
được cập nhật đầy đủ và kịp thời.
( Sở Kế hoạch và đầu tư Bà rịa – Vũng tàu, 2014, Báo cáo tổng kết tình hình
thu hút FDI trên địa bàn tỉnh)
24
1.3.3. Kinh nghiệm của tỉnh Đồng Nai
Đồng Nai là một trong những tỉnh thu hút được FDI nhiều nhất trong cả nước.
Trong thời gian qua, trong quá trình thực hiện chính sách thu hút FDI ở Đồng Nai
đã cho thấy rằng:
Quá trình đầu tư FDI tại Đồng Nai trong thời gian qua đã tạo những ảnh
hưởng tích cực tới phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Thực tế ở Đồng Nai cho thấy có một số liên doanh thất bại do bất đồng trong
quản lý về phía nước ngoài, trong những năm đầu, chủ đầu tư nước ngoài hầu hết
thuộc các nước NICs và ASEAN với các dự án đầu tư của các doanh nghiệp vừa và
nhỏ. Những năm tiếp theo, dự án đầu tư các nước NICs, ASEAN vẫn tiếp tục phát
triển đồng thời xuất hiện các doanh nghiệp lớn từ Nhật, Mỹ, EU... Hầu hết các dự
án đầu tư công nghiệp đều tập trung vào các khu công nghiệp đã và đang quy
hoạch, tạo sự thuận lợi trong quản lý, xử lý chất thải và đầu tư phát triển cơ sở hạ
tầng điều này tạo khả năng để Đồng Nai chủ động hơn trong việc điều tiết các dự án
đầu tư theo yêu cầu cơ cấu ngành và cơ cấu lãnh thổ.
Về khoa học - công nghệ và môi trường, Đồng Nai là tỉnh thu hút nhiều dự án
công nghiệp, nên việc quản lý môi trường được tỉnh rất chú trọng để thuận lợi trong
việc giám sát môi trường, tỉnh có định hướng các dự án công nghiệp chủ yếu bố trí
vào các KCN đã và đang quy hoạch, chỉ bố trí bên ngoài KCN các loại dự án công
nghiệp sạch nhằm giải quyết lao động tại chỗ, công nghiệp chế biến gắn với vùng
nguyên liệu, các dự án công nghiệp mang tính chất dịch vụ (kho tàng, bến bãi) và
các dự án có tính chất đặc thù cao. Ngoài ra, từng KCN đều có xác định các loại
hình công nghiệp có thể bố trí phù hợp với tính chất loại chất thải để thuận lợi trong
việc đầu tư xử lý. Về phía doanh nghiệp, hầu hết các doanh nghiệp đầu tư nước
ngoài đều lập các báo cáo đánh giá tác động môi trường trình duyệt theo quy định.
Về tình trạng thiết bị và công nghệ, các doanh nghiệp FDI tuy số thiết bị và
công nghệ các dự án FDI tại Đồng Nai ở mức độ trung bình so với các nước trong
khu vực, nhưng nhiều loại thiết bị công nghệ vẫn rất mới mẻ và hữu dụng đối với
nước ta. Hơn nữa, giai đoạn đầu thu hút đầu tư, mục tiêu được quan tâm là giải
25
quyết việc làm cho người lao động, nên một số loại hình doanh nghiệp như (dệt,
giày da, may mặc) không bắt buộc phải cần công nghệ tiên tiến. Công nghệ sử dụng
chỉ cần đảm bảo mục tiêu hợp lý, hiệu quả đối với những yêu cầu, điều kiện của
Đồng Nai.
Về tình hình lao động trong các doanh nghiệp FDI. So sánh với số lượng lao
động ở các thành phần kinh tế khác trên địa bàn tỉnh cho thấy các doanh nghiệp FDI
có vai trò rất quan trọng trong việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động.
Hầu hết các doanh nghiệp FDI đã thực hiện tốt các quy định về tuyển dụng lao
động, có chính sách đối với người lao động phù hợp với bộ luật lao động. Lao động
làm việc trong các doanh nghiệp FDI đều xuất thân từ học sinh, từ lao động nông
nghiệp hoặc lao động phổ thông, nên vẫn còn hạn chế về tác phong công nghiệp, kỹ
thuật lao động hoặc hiểu biết về pháp luật... Do vậy, ngoài việc tập huấn, hướng dẫn
cho nhà đầu tư về bộ luật lao động, các trung tâm dịch vụ việc làm Đồng Nai đã tổ
chức cho người lao động học tập luật lao động trước khi giới thiệu cho các doanh
nghiệp. Khi đình công xảy ra các ngành của tỉnh Đồng Nai đã nhanh chóng phối
hợp xử lý trên cơ sở bảo đảm quyền lợi của người lao động và tôn trọng lợi ích của
doanh nghiệp theo quy định của pháp luật, do đó chỉ có một vụ tranh chấp kéo dài 5
ngày, số còn lại đều không quá 24 giờ.
Đầu tư FDI đã bổ sung nguồn vốn và công nghệ quan trọng cho phát triển.
Trong ngân sách, kinh phí nhà nước dành đầu tư xây dựng cơ bản cho tỉnh hàng
năm không quá 100 tỷ VNĐ, mức kinh phí đầu tư như vậy không thể đáp ứng nhu
cầu vốn đầu tư cho phát triển mặc dù tỉnh đã bổ sung nhiều nguồn vốn khác huy
động trong xã hội với khả năng cao nhất. Do vậy mức vốn đầu tư FDI thực hiện trên
địa bàn tỉnh Đồng Nai trong các năm qua, là rất lớn và có ý nghĩa quan trọng đối
với hoạt động đầu tư cho phát triển ở Đồng Nai bởi nó chiếm tỷ trọng lớn trong cơ
cấu vốn đầu tư. Tỷ trọng vốn FDI đã làm giá trị tài sản cố định mới tăng hàng năm
của khu vực kinh tế nước ngoài lớn hơn khu vực kinh tế trong nước rất nhiều. Số tài
sản tăng thêm từ khu vực kinh tế nước ngoài đã làm thay đổi trình độ và tiềm lực
công nghệ tỉnh Đồng Nai. Điều này được phản ánh rõ nét ở sự phát triển nhiều khu
26
công nghiệp mới có tầm mức vượt qua khu công nghiệp Biên Hòa I, niềm tự hào về
tiềm lực công nghệ của Đồng Nai trước đây. FDI đã thúc đẩy công nghiệp Đồng
Nai phát triển nhanh, góp phần quan trọng vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Đồng Nai theo hướng tích cực, hiện đại. Do lĩnh vực FDI tại Đồng Nai trong thời
gian qua chủ yếu là công nghiệp nên công nghiệp Đồng Nai đạt mức tăng trưởng
nhanh cả về quy mô sản lượng và tốc độ phát triển. Sự phát triển của công nghiệp
đầu tư nước ngoài đã thúc đẩy rất nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
tỉnh Đồng Nai sang cơ cấu hiện đại. FDI đã làm tăng nhanh khối lượng, giá trị sản
phẩm xuất khẩu, từng bước tạo điều kiện để tiếp cận, hội nhập với thị trường, với
kinh tế thế giới. FDI đã tạo công ăn việc làm số lượng lớn lao động Việt Nam, tác
động tích cực đến việc thực hiện chính sách xã hội trên địa bàn. FDI đã góp phần
vào hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam.
Bên cạnh những thành quả lớn đã đạt được từ FDI cũng đã phát sinh một số
vấn đề trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
- Thứ nhất, về phía Việt Nam, tham gia liên doanh chủ yếu là doanh nghiệp
nhà nước, trong đó doanh nghiệp nhà nước ở Trung ương chiếm tỷ trọng lớn. Các
doanh nghiệp Việt Nam góp vốn chủ yếu bằng giá trị quyền sử dụng đất, phần còn
lại góp bằng một số tài sản hiện hữu và một ít tiền mặt. Tỷ trọng góp vốn của các
nhà đầu tư Việt Nam trong liên doanh phổ biến khoảng 30% và đây là một trong
những yếu tố làm hạn chế khả năng quản lý điều hành phía Việt Nam. Do vậy vấn
đề trình độ, kinh nghiệm, bản lĩnh quản lý các thành viên Việt Nam trong Hội đồng
quản trị và Ban Tổng giám đốc liên doanh là rất quan trọng đối với sự tồn tại phát
triển các đơn vị liên doanh.
- Thứ hai, môi trường sinh thái bị ảnh hưởng do việc chuyển dịch công nghiệp
có chất thải độc hại từ các nước phát triển sang các nước có nền kinh tế đang phát
triển là một xu hướng đáng ngại và trở thành hiện thực ở Đồng Nai. Đầu tư xử lý
chất thải khá tốn kém, nên một số nhà đầu tư nước ngoài vì mục tiêu lợi nhuận đã
đầu tư xử lý chưa đồng bộ, chưa triệt để. Công nghiệp tăng nhanh trong khi các
27
KCN chưa có nhà máy xử lý chất thải chung, nên từng lúc từng nơi môi trường bị
ảnh hưởng.
- Thứ ba, thời gian qua một số doanh nghiệp FDI cũng vi phạm một số quy
định lao động như: i) tự ý tuyển dụng lao động không thông qua các cơ quan giới
thiệu việc làm; ii) kéo dài thời gian thử việc hoặc dùng mức lương tối thiểu để trả
lương cho lao động có tay nghề trong thời gian dài; iii) thời gian và cường độ làm
việc căng thẳng, tổ chức làm thêm giờ quá quy định khi chưa có sự thoả thuận của
người lao động; iv) còn tuỳ tiện cho người lao động nghỉ việc hoặc sa thải người lao
động, chấm dứt hợp đồng lao động sai pháp luật; v) ít quan tâm đến việc ký kết bản
thoả thuận lao động tập thể và thành lập Hội đồng hoà giải tranh chấp lao động.
Sự phát triển nhanh các dự án đầu tư và số lượng lao động đã xảy ra nhiều vụ
tranh chấp lao động và đình công chủ yếu là các doanh nghiệp Hàn Quốc, Đài
Loan... Các vụ tranh chấp lao động và đình công xảy ra ở tỉnh Đồng Nai chủ yếu
với mục đích là kinh tế. Hầu hết nội dung kiến nghị của người lao động đưa ra trong
quá trình tranh chấp lao động và đình công là phù hợp với quyền lợi của người lao
động theo Bộ luật lao động quy định.
- Thứ tư, về số lượng các doanh nghiệp Việt Nam có khả năng liên doanh với
nước ngoài trên địa bàn tỉnh Đồng Nai còn rất ít vì các doanh nghiệp có khả năng
liên doanh đã có dự án liên doanh. Chính vì vậy, việc thành lập thêm các doanh
nghiệp liên doanh rất hạn chế trong thời gian qua. Hơn nữa vai trò bên Việt Nam
trong các doanh nghiệp liên doanh ở tỉnh Đồng Nai thường rất khó khăn do hạn chế
về tài chính, năng lực, kinh nghiệm. Sự hạn chế này là nguyên nhân dẫn đến sự đổ
vỡ một số doanh nghiệp liên doanh ở tỉnh Đồng Nai, từ đó tạo ra tâm lý ngần ngại
không ít cho các nhà đầu tư chọn hình thức liên doanh.
- Thứ năm, các cơ quan quản lý chưa kiểm soát đầy đủ thực chất hiệu quả hoạt
động của các doanh nghiệp FDI do thiếu thông tin và do hệ thống pháp luật chưa
hoàn thiện. Các doanh nghiệp FDI thường nâng giá đầu vào, ép giá đầu ra, nhập
nhằng giữa thiết bị cũ và mới, độc quyền về thị trường nước ngoài, độc quyền cung
cấp vật tư nguyên liệu... nên việc lãi thật lỗ giả có cơ sở.
28
TÓM TẮT CHƯƠNG 1
Trong chương 1, luận văn đã làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản như: khái
niệm FDI, đặc điểm của FDI; mối quan hệ giữa FDI với phát triển kinh tế xã hội.
Luận văn cũng đã trình bày các quan điểm của Đảng và Nhà nước về vai trò
của FDI trong phát triển kinh tế - xã hội từ Đại hội Đảng lần thứ VII (1991) đến Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, đồng thời đưa ra những quan điểm về nâng cao
hiệu quả và tăng thu hút vốn FDI để phát triển kinh tế - xã hội trong những năm tới.
Luận văn cũng đã đúc kết một số kinh nghiệm trong thu hút và sử dụng FDI
qua thực tiễn của một số địa phương như TPHCM, Bà rịa – Vũng tàu và Đồng Nai,
nêu thành công cũng như tồn tại, hạn chế của các địa phương này, xem đó là những
bài học tham khảo quý đối với tỉnh Bình Dương
29
CHƯƠNG 2
TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐẾN SỰ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA TỈNH BÌNH DƯƠNG VÀ NHỮNG VẤN
ĐỀ ĐẶT RA
2.1. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA TỈNH BÌNH DƯƠNG
2.1.1. Những tiềm năng và lợi thế
Bình Dương là tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ có diện tích tự nhiên 2.718,5 km2, dân số: 1.873.588 người, phía Bắc giáp tỉnh Bình Phước; phía Nam giáp thành
phố Hồ Chí Minh; phía Đông giáp tỉnh Đồng Nai và phía Tây giáp tỉnh Bình Dương
và thành phố Hồ Chí Minh. Bình Dương có: 1 thành phố (Thủ Dầu Một), 4 thị xã
(Thuận An, Dĩ An, Tân Uyên, Bến Cát) và 4 huyện (Dầu Tiếng, Bàu Bàng, Phú
Giáo và Bắc Tân Uyên) gồm có 91 xã, phường và thị trấn.. Bình Dương có lợi thế
và tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội thể hiện ở những mặt sau:
Bình Dương có vị trí địa lý thuận lợi, là cửa ngõ giao thông kết nối các tỉnh
Tây Nguyên, nước bạn Campuchia, với thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh trong khu
vực và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Trong các tỉnh có chung biên giới với
thành phố Hồ Chí Minh thì Bình Dương có lợi thế phát triển nhất, phía tây có
chung sông Sài Gòn với thành phố Hồ Chí Minh, phía nam là TX. Dĩ An, TX.
Thuận An, TP. Thủ Dầu Một là khu vực phát triển đô thị gắn kết với vùng “lõi” của
Thành phố Hồ Chí Minh. Bình Dương nằm ở vị trí chuyển tiếp và nối các tỉnh phía
Nam dãy Trường Sơn với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, là tỉnh thuộc bình
nguyên có địa hình lượn sóng từ cao xuống thấp dần (10m - 15m so với mặt nước
biển), có hệ thống mặt nước phong phú như sông Sài Gòn, sông Đồng Nai, sông
Bé, sông Thị Tính, hồ thủy lợi Phước Hòa, hồ Dầu Tiếng thuận lợi cho cấp nước
sinh hoạt và công nghiệp. Bình Dương với hệ thống khu, cụm công nghiệp lớn, đa
dạng, phong phú với lượng sản phẩm lớn cần kết nối ra cảng biển bằng đường bộ
thì các khu công nghiệp Bình Dương sẽ kết nối ra cảng biển Thị Vải- Cái Mép (lớn
nhất miền Nam) qua đường cao tốc Mỹ Phước Tân Vạn, đường cao tốc 51 mới đến
cảng Thị Vải - Cái Mép thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Ga Sóng Thần là ga đầu mối
30
quan trọng của vùng TP.HCM kết nối đường sắt Bắc Nam - Campuchia với hệ
thống cảng Logistics rất quan trọng. Hiện nay dự án cảng hàng không quốc tế Long
Thành, tỉnh Đồng Nai có công suất quy hoạch là 100 triệu hành khách/năm là sân
bay lớn nhất nước; từ Bình Dương đến sân bay Long Thành chỉ hơn 30 km được
kết nối với các tuyến cao tốc rất thuận lợi cho phát triển công nghiệp - đô thị Bình
Dương trong tương lai.
Bình Dương có hệ thống giao thông đường bộ thuận tiện, kết nối với các tỉnh
thành Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, các tỉnh phía Bắc và Tây Nam Bộ. Quốc lộ 13
xuất phát từ thành phố Hồ Chí Minh xuyên suốt chiều dài tỉnh Bình Dương, qua
tỉnh Bình Phước đến tận biên giới Việt Nam - Campuchia là trục giao thông Bắc -
Nam quan trọng của tỉnh. Đường ĐT 741 xuất phát từ Thành phố Thủ Dầu Một
theo hướng Bắc - Nam kết nối thị xã Bến Cát, thị xã Tân Uyên, huyện Phú Giáo
đến Bình Phước và các tỉnh Tây Nguyên. Đường ĐT 744, cũng có điểm xuất phát
từ Thành phố Thủ Dầu Một kết nối thị xã Bến Cát, các huyện Bàu Bàng, Dầu Tiếng
và đến tỉnh Bình Dương. Đường Hồ Chí Minh đoạn qua địa bàn tỉnh dài 32km, qua
Bến Cát và Dầu Tiếng là cầu nối giữa các tỉnh Tây Nguyên, Bình Phước, qua Bình
Dương đến các tỉnh Tây Nam Bộ. Quốc lộ 14 và Quốc lộ 1K ở phía Nam tỉnh Bình
Dương, kết nối các tỉnh thành trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam với các tỉnh
phía Bắc và Tây Nam Bộ. Đường Mỹ Phước - Tân Vạn mới xây dựng là tuyến trục
chính kết nối các khu công nghiệp của Bình Dương với Thành phố Hồ Chí Minh và
các tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu.
Cùng với các trục giao thông chính kết nối với thành phố Hồ Chí Minh và các
tỉnh miền Đông, miền Tây Nam Bộ, hệ thống đường bộ kết nối các khu công
nghiệp cũng được đầu tư đồng bộ, hiện đại. Ở khu vực đô thị, các tuyến đường phố,
đường hẻm được nhựa hóa, bê tông hóa. Ở khu vực nông thôn, đường nhựa đều đến
trung tâm xã; nhất là từ khi thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới, nhiều
xã đã hoàn thành nhựa hóa và bê tông hóa các tuyến đường liên ấp, liên xã. Giao
thông thuận tiện là điều kiện hết sức cơ bản để Bình Dương phát triển toàn diện
kinh tế - xã hội.
31
Đối với việc xây dựng các khu công nghiệp, trên cơ sở pháp lý của Nghị
định 192/NĐ-CP (28/12/1994) của Chính phủ về ban hành quy chế khu công
nghiệp và Nghị định 36/NĐ-CP (24/4/1997) về ban hành quy chế khu công nghiệp,
khu chế xuất, khu công nghệ cao, Bình Dương đã sớm định hướng và quyết tâm
xây dựng các khu công nghiệp tập trung với phương châm hạ tầng khu công nghiệp
đi trước một bước, đảm bảo phục vụ và thu hút đầu tư cho các ngành công nghiệp.
Khởi đầu là Khu công nghiệp Bình Đường, Bình Dương đã lần lượt xây dựng các
khu công nghiệp tập trung như Khu công nghiệp Sóng Thần I, Khu công nghiệp
Việt Nam - Singgapore (VSIP I), Khu công nghiệp Việt Hương, Khu công nghiệp
Sóng Thần II ... Đến nay, Bình Dương đã có 29 khu công nghiệp tập trung (tổng
diện tích trên 8.850 ha) và 8 cụm công nghiệp (tổng diện tích trên trên 650 ha), đáp
ứng tốt nhu cầu đầu tư phát triển các ngành công nghiệp cho tất cả các nhà đầu tư
trong nước và nước ngoài.
Hạ tầng kỹ thuật các KCN được xây dựng hoàn chỉnh có thể tiếp nhận các dự
án đầu tư vào các KCN. Bên cạnh đó quỹ đất sạch có thể “sử dụng ngay” với đầy
đủ hạ tầng hoàn chỉnh của các KCN là rất lớn gần 2.800 ha đất có thể cho thuê, diện tích khu đất cho thuê đa dạng từ 1.500 m2 đến 1.000.000 m2 với phương thức
thanh toán linh hoạt.
Giao thông thuận tiện cùng với việc xây dựng các khu công nghiệp tập trung
quy mô lớn, hạ tầng đầy đủ và quỹ đất sạch Bình Dương đã mở ra khả năng thu hút
các luồng vốn đầu tư đa dạng cho phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh.
Cùng với việc xây dựng các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn. Bình Dương
đã thu hút một số lượng lớn lao động nhập cư từ các địa phương khác đến Bình
Dương sinh sống và làm việc. Đến nay dân số Bình Dương khoảng 1,8 triệu người
(trong đó có trên 800 ngàn người lao động nhập cư). Lao động thuộc các thành
phần kinh tế phát triển nhanh về số lượng theo yêu cầu phát triển kinh tế của một
tỉnh công nghiệp. Lực lượng lao động hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, đa
dạng về ngành nghề, trình độ chuyên môn và tay nghề từng bước được nâng lên
đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của nền kinh tế mở và năng động trên địa bàn
32
tỉnh. Người lao động luôn năng động, sáng tạo, nắm bắt nhanh những thay đổi của
thị trường. Với lực lượng lao động dồi dào, giá nhân công rẻ là điều kiện thuận lợi
để các nhà đầu tư lựa chọn để tiến hành các dự án đầu tư, đặc biệt là các dự án cần
nhiều lao động phổ thông.
Với những lợi thế và tiềm năng phát triển như trên Bình Dương đang tạo ra
những cơ hội mới và những điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong và ngoài
nước đến đầu tư phát triển sản xuất.
2.1.2. Tình hình phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Bình Dương giai đoạn
2010 - 2015
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Tỉnh Bình Dương giai đoạn 2010-2014 luôn
đạt trên 12,5%, cụ thể là: năm 2010 tốc độ tăng trưởng đạt 14,5%; năm 2011 đạt
13,9%; năm 2012 đạt 12,5%; năm 2013 đạt 12,8% và năm 2014 đạt 13%. GDP bình
quân đầu người năm 2014 đạt 61,2 triệu đồng, tăng gấp 5 lần so với năm 2005.
Cơ cấu công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp trên địa bàn tỉnh với tỷ trọng
tương ứng: năm 2010 là 63%; 32,6%; và 4,4%; năm 2011 là 62,2% - 33,7% - 4,1%;
năm 2012 là 62% - 34,3% - 3,7%; năm 2013 là 61,4% - 35,3% - 3,3% và năm 2014
là 60% - 37,3% - 2,7%.
Trong năm 2014 tổng thu ngân sách của tỉnh đạt 32.000 tỷ đồng, tổng chi
ngân sách là 11.500 tỷ đồng; trong đó chi đầu tư xây dựng cơ bản là 4.500 tỷ đồng,
thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 1 tỷ 530 triệu USD.
+ Công nghiệp
Công nghiệp tiếp tục là chủ lực, tốc độ tăng trưởng cao, tương đối ổn định,
đúng định hướng, từng bước phát triển theo chiều sâu, tạo động lực cho phát triển
đô thị, dịch vụ, thương mại trên địa bàn. Giá trị sản xuất công nghiệp bình quân
tăng 15,7%; trong đó, khu vực kinh tế trong nước chiếm 31%, khu vực có vốn đầu
tư nước ngoài chiếm 69%.
Các KCN tiếp tục được mở rộng, khai thác có hiệu quả, hạ tầng đồng bộ gắn
với việc phát triển hạ tầng đô thị và dịch vụ chất lượng cao.Trên địa bàn tỉnh hiện
có 29 KCN đang triển khai với tổng diện tích 9.425 ha, trong đó có 26 KCN đã đi
33
vào hoạt động với tỷ lệ lấp đầy 65%. Đồng thời, các cụm công nghiệp cũng được
tiếp tục đầu tư cơ sở hạ tầng, hiện có 6/8 cụm hoạt động với diện tích gần 600 ha và
tỷ lệ lấp đầy 45%.
+ Dịch vụ, Thương mại - Xuất nhập khẩu:
Dịch vụ tiếp tục phát triển khá nhanh, đóng vai trò ngày càng quan trọng
trong phát triển kinh tế nhanh và bền vững của Tỉnh. Chương trình phát triển dịch
vụ chất lượng cao của Tỉnh được triển khai thực hiện đồng bộ,thu hút mọi thành
phần kinh tế, đặc biệt là nguồn vốn FDI. Giá trị dịch vụ tăng bình quân là 20,9%.
Dịch vụ tài chính - tiền tệ phát triển mạnh, đáp ứng cơ bản nhu cầu vốn và
giao dịch trên địa bàn. Từng bước xây dựng, hình thành trung tâm thương mại – tài
chính thành phố mới Bình Dương. Dịch vụ bảo hiểm phát triển đa dạng; dịch vụ
bưu chính, viễn thông, truyền hình thường xuyên được các nhà cung cấp nâng cấp
với nhiều loại hình đáp ứng nhu cầu của người dân và doanh nghiệp.
Dịch vụ Logistics tuy mới khởi đầu nhưng phát triển khá tốt, bước đầu đáp
ứng yêu cầu gắn kết giữa sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp. Hệ thống cảng
sông được mở rộng, đang tiếp tục đầu tư xây dựng một số cảng như Tân Vạn, Bà
Lụa, Thạnh Phước. Vận tải phát triển với nhiều loại hình, đặc biệt đã đưa vào sử
dụng hệ thống xe buýt nhanh công cộng kết nối thành phố Thủ Dầu Một và đô thị
mới Bình Dương theo phương thức văn minh, hiện đại và thân thiện với môi
trường, góp phần đảm bảo nhu cầu đi lại của nhân dân.
Thương mại có bước phát triển mới cả về ngành nghề, tốc độ, cơ cấu và
thành phần kinh tế. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ trên địa bàn
bình quân tăng 23,5%/năm. Kết cấu hạ tầng thương mại hiện đại được tập trung đầu
tư, thu hút được nhiều tập đoàn, doanh nghiệp bán lẻ trong và ngoài nước, làm thay
đổi nhanh chóng bộ mặt đô thị và nông thôn trên địa bàn tỉnh theo hướng văn minh,
hiện đại. Đến nay, toàn tỉnh đã có 07 Trung tâm thương mại, 11 siêu thị, 100 chợ
đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp và người dân trong và ngoài tỉnh.
Xuất khẩu duy trì được mức tăng trưởng cao, bình quân là 19,5%, tiếp tục
xuất siêu, đến năm 2015 kim ngạch xuất khẩu đạt 20,86 triệu USD với những mặt
34
hàng chủ lực như: dệt may, da giày, sản phẩm gỗ, hàng mỹ nghệ, điện – điện tử...
Xuất khẩu tăng ở hầu hết các thị trường trên thế giới, đã xuất khẩu đến trên 230
quốc gia, vùng, lãnh thổ.
Nhập khẩu tăng bình quân 16,9%/năm, đến năm 2015 kim ngạch nhập khẩu
đạt 16 tỷ USD. Hàng hóa nhập khẩu chủ yếu là vật tư nguyên liệu, máy móc phục
vụ sản xuất kinh doanh và hình thành tài sản cố định, đổi mới công nghệ của các
doanh nghiệp.
Hệ thống tổ chức tín dụng ngày càng phát triển, mở rộng mạng lưới đáp ứng
nhu cầu nguồn vốn và giao dịch cho các thành phần kinh tế và người dân; các dịch
vụ thanh toán không dùng tiền mặt, thanh toán liên thông có bước phát triển; nợ xấu
nằm trong giới hạn cho phép. Đến nay, có 55 chi nhánh tổ chức tín dụng, 10 quỹ tín
dụng nhân dân, 144 phòng giao dịch, 613 máy ATM... phục vụ tốt cho nhu cầu giao
dịch, thanh toán của doanh nghiệp và người dân.
Các hoạt động ngoại giao phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, hoạt động hợp
tác hữu nghị với các địa phương và các bên đối tác nước ngoài được mở rộng. Tính
đến nay Bình Dương đã ký kết hợp tác hữu nghị với 8 tỉnh, thành phố nước ngoài
như thành phố Quảng Châu (Trung Quốc), Tỉnh Yamaguchi (Nhật bản), vùng
Emilia - Romagna (Ý), thành phố Eindhoven (Hà Lan)… Công tác đối ngoại nhân
dân có những bước phát triển tích cực; hoàn thiện và đổi mới hoạt động của Liên
hiệp các hội Hữu nghị Tỉnh; các vấn đề liên quan đến yếu tố nước ngoài đều được
giải quyết kịp thời theo đúng quy định của pháp luật Việt Nam và luật pháp quốc tế
góp phần quảng bá, nâng cao hình ảnh và vị thế của Bình Dương đối với bạn bè
trong nước và quốc tế cũng như cộng đồng doanh nghiệp.
+ Nông nghiệp và phát triển nông thôn:
Nông nghiệp tiếp tục phát triển ổn định, giá trị sản xuất nông, lâm, ngư
nghiệp bình quân tăng 4% hàng năm. Chương trình chuyển dịch cơ cấu ngành nông
nghiệp theo hướng phát triển nông nghiệp đô thị, nông nghiệp kỹ thuật cao gắn với
công nghiệp chế biến được triển khai, bước đầu góp phần chuyển dịch cơ cấu ngành
nông nghiệp; hình thành 04 khu nông nghiệp công nghệ cao với diện tích 979 ha,
35
tổng diện tích được ứng dụng khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất đạt trên 860 ha.
Một số đề án, dự án phát triển nông nghiệp đô thị vùng phía Nam của Tỉnh, vùng
ven Suối Cái (TX.Tân Uyên)…đang được tích cực triển khai.
Công nghiệp chế biến nông, lâm và thủy sản từng bước phát triển. Công tác
xúc tiến thương mại trong nông nghiệp được đẩy mạnh với nhiều loại nông sản
được chứng nhận an toàn vệ sinh thực phẩm và chứng nhận nhãn hiệu được đưa vào
hệ thống siêu thị và cửa hàng, góp phần ổn định đời sống nông dân.
Kinh tế khu vực nông thôn phát triển nhanh, đã huy động nhiều nguồn lực
cho đầu tư xây dựng các xã nông thôn mới và đầu tư nâng cấp các xã phát triển lên
phường; bộ mặt nông thôn từng bước đổi mới, đời sống người dân ngày một nâng
cao, thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn đạt 31 triệu đồng/năm.
+ Phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật:
Tỉnh đã đầu tư, xây dựng kết cấu hạ tầng theo hướng đồng bộ, đặc biệt là các
công trình thực hiện các chương trình đột phá. Nhiều công trình hạ tầng quan trọng
đã được hoàn thành góp phần thúc đẩy phát triển KT-XH và đô thị của tỉnh; cơ bản
kết nối với các trung tâm phát triển trong tỉnh và kết nối hệ thống kết cấu hạ tầng
trong vùng.
Hệ thống đường dây tải điện, trạm biến áp được cải tạo, xây dựng mới, chất
lượng cung cấp điện bảo đảm phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng được nâng cao.
Tổng công suất trạm nguồn đến 2015 đạt 2.179 MVA (năm 2010 là 1.518 MVA); tỷ
lệ hộ dân sử dụng điện đạt 99,97%. Hệ thống chiếu sáng, cáp quang trong đô thị
được chỉnh trang, cải tạo, bó kỹ thuật và từng bước được ngầm hóa, đảm bảo cảnh
quan và an toàn.
Hạ tầng cấp - thoát nước được đầu tư đồng bộ, đáp ứng nhu cầu nước sinh
họat và nước cho công nghiệp tại các khu đô thị, khu công nghiệp; đã đưa vào sử
dụng 7 nhà máy nước, nâng tổng số nhà máy nước lên 28 nhà máy, tổng công suất cấp nước đạt 329.500 m3/ngày, tỷ lệ dân số thành thị sử dụng nước sạch đạt 99%.
Các dự án thoát nước ở khu vực đô thị và vùng ven được quan tâm đầu tư xây dựng,
từng bước khắc phục tình trạng ngập cục bộ và ngập úng ở các vùng trũng; đã đầu
36
tư và xây dựng hệ thống thu gom xử lý nước thải sinh hoạt ở thành phố Thủ Dầu
Một và thị xã Thuận An.
+ Quy hoạch, xây dựng đô thị
Công tác quy hoạch phát triển và quy hoạch đô thị được tỉnh quan tâm chỉ
đạo, rà soát, điều chỉnh phù hợp với tình hình phát triển KT-XH của tỉnh; được
Chính phủ đã phê duyệt điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH của tỉnh
đến năm 2025; đã hoàn thiện quy hoạch chung và quy hoạch chi tiết các đô thị, các
xã.
Hạ tầng đô thị được chú trọng đầu tư, huy động hiệu quả nguồn vốn của
nhiều thành phần kinh tế. Khu liên hợp Công nghiệp - Dịch vụ - Đô thị Bình Dương
được hoàn thiện với cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại, đảm bảo kết nối liên hoàn khu
vực và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Trong đó, Khu dịch vụ đô thị diện tích
1.600 ha với Khu trung tâm 1.000 ha đã thu hút được nhiều tập đoàn quốc tế, doanh
nghiệp công nghệ kỹ thuật cao đến đầu tư; một số công trình trọng điểm như trung
tâm đô thị mới, Trung tâm Hành chính Tỉnh, các công trình về dịch vụ, đô thị, giáo
dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao, tôn giáo…. được xây dựng và đi vào hoạt động,
tạo sự lan tỏa và kết nối đến các trung tâm đô thị vệ tinh của tỉnh.
Chỉnh trang đô thị được chú trọng, tỉnh đã tập trung cho việc nâng cấp đô thị
và được Trung ương công nhận thành phố Thủ Dầu Một đạt tiêu chí đô thị loại II;
thị xã Thuận An, Dĩ An đang thực hiện thủ tục đề nghị công nhận đô thị loại III; thị
xã Bến Cát và Tân Uyên được công nhận đạt tiêu chí đô thị loại IV. Không gian đô
thị được phát triển về phía Nam, phía Bắc và Trung tâm với chùm đô thị và đô thị
vệ tinh liên kết chặt chẽ với nhau; hạ tầng kỹ thuật – xã hội được đầu tư đồng bộ, hiện đại. Diện tích nhà ở bình quân đạt 23,5 m2/người; tỷ lệ đô thị hóa đạt 78,6%.
+ Tài nguyên và Môi trường
Công tác quản lý đất đai có nhiều chuyển biến tích cực, minh bạch và hiệu
quả; tập trung tạo quỹ đất sạch phục vụ cho nhu cầu phát triển KT-XH của tỉnh giai
đoạn 2010 – 2015. Công tác quản lý nhà nước về tài nguyên nước, khoáng sản và
ứng phó với biến đổi khí hậu ngày càng đi vào nề nếp.
37
Công tác bảo vệ môi trường được chú trọng, chủ động phòng ngừa và kiểm
soát ô nhiễm; đã tập trung xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và
di dời các cơ sở này ra khỏi khu dân cư, đô thị. Đầu tư trang bị 32 hệ thống quan
trắc nước thải tự động nhằm kiểm soát có hệ thống các nguồn nước thải công
nghiệp. Đến nay, tỷ lệ chất thải rắn được thu gom và xử lý đạt 90%, tỷ lệ chất thải
rắn y tế được thu gom và xử lý đạt 100%.
+ Giáo dục và Đào tạo:
Toàn tỉnh có 516 trường học, tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia là 65%; tỷ lệ
giáo viên đạt trên chuẩn là 63,8%. Tỷ lệ học sinh khá, giỏi các cấp tăng, tỷ lệ học
sinh trúng tuyển vào cao đẳng, đại học năm sau cao hơn năm trước (năm 2011 là
58,2%, năm 2014 là 68,4%).
Các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp phát triển nhanh về
qui mô; hiện trên địa bàn Tỉnh có 08 trường đại học, 06 trường cao đẳng, 17 trường
trung cấp, 46 cơ sở đào tạo nghề, 50 trung tâm ngoại ngữ, tin học; 02 trường đại học
của Tỉnh là Đại học Thủ Dầu Một và Đại học Quốc tế miền Đông không những chỉ
đáp ứng nhu cầu đào tạo nhân lực cho tỉnh mà còn cả ngoài tỉnh.
Công tác dạy nghề gắn với nhu cầu sử dụng lao động của doanh nghiệp ngày
một tốt hơn; tiếp tục duy trì hiệu quả của sàn giao dịch việc làm; hàng năm, đã giải
quyết việc làm cho trên 45.000 lao động, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 70%. Đời
sống người lao động ngày càng được doanh nghiệp và Nhà nước quan tâm hơn, tạo
niềm tin cho người lao gắn bó với doanh nghiệp, các vụ tranh chấp lao động tập thể
và đình công trái pháp luật giảm qua từng năm.
( Ủy Ban nhân dân tỉnh Bình Dương, Báo cáo tình hình kinh tế xã hội quốc
phòng an ninh năm 2010, 2011, 2012, 2013, 2014)
- Về chính sách thu hút và ưu đãi đầu tư:
Bình Dương đã và đang thực hiện chính “trải thảm hoa mời gọi các nhà đầu
tư” nhằm thu hút vốn cho các dự án, KCN trên địa bàn. Nhờ vậy, các mặt kinh tế -
xã hội của tỉnh Bình Dương không ngừng phát triển và luôn đạt tốc độ tăng trưởng
cao. Các chế độ ưu đãi cụ thể là:
38
Thứ nhất, đối với các doanh nghiệp FDI đầu tư ở ngoài KCN, về thuế thu nhập
doanh nghiệp và tiền thuê đất. Với dự án sản xuất, chế biến có tỷ lệ xuất khẩu dưới
50% và thuộc địa bàn thị xã Thủ Dầu Một, thị xã Dĩ An và thị xã Thuận An: thuế
suất thu nhập doanh nghiệp hàng năm bằng 20% thu nhập chịu thuế được áp dụng
trong 10 năm, kể từ khi dự án bắt đầu hoạt động sản xuất kinh doanh và bằng 25%
trong các năm tiếp theo. Doanh nghiệp được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong
02 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 03 năm tiếp theo. Với dự án
sản xuất, chế biến có một trong các điều kiện sau: thuộc danh mục dự án khuyến
khích đầu tư của Chính phủ, đầu tư vào địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn (huyện
Bắc Tân Uyên, Phú Giáo, Dầu Tiếng, Bàu Bàng), chuyển giao không bồi hoàn tài
sản cho Nhà nước Việt Nam sau khi hết thời hạn hoạt động: thuế suất thuế thu nhập
doanh nghiệp hàng năm bằng 10% thu nhập chịu thuế được áp dụng trong 15 năm,
kể từ khi dự án bắt đầu hoạt động sản xuất kinh doanh và bằng 15% trong các năm
tiếp theo. Doanh nghiệp được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 04 năm kể từ
khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 04 năm tiếp theo. Với dự án sản xuất
thuộc danh mục dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư theo quy định của Chính phủ:
thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp hàng năm bằng 10% thu nhập chịu thuế trong
suốt thời gian hoạt động của dự án. Doanh nghiệp được miễn thuế thu nhập trong 04
năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong các năm tiếp theo. Ngoài ra, các
doanh nghiệp còn được miễn trên thuế đất trong thời gian dự án xây dựng cơ bản.
Đối với các dự án trồng rừng, trong thời gian kinh doanh còn được giảm 90% số
tiền thuê đất phải nộp. Các dự án thuộc Khoản 2, 3, 4 còn được miễn tiền thuê đất
trong 07 năm kể từ ngày xây dựng cơ bản hoàn thành và đưa dự án vào hoạt động.
Về thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài: thuế suất chuyển lợi nhuận ra nước ngoài
bằng 3% lợi nhuận chuyển ra nước ngoài đối với: người Việt Nam định cư ở nước
ngoài đầu tư về nước theo quy định của luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Nhà
đầu tư nước ngoài góp vốn pháp định hoặc vấn đề thực hiện hợp đồng hợp tác kinh
doanh từ 10 triệu USD trở lên. Thuế suất chuyển lợi nhuận ra nước ngoài bằng 5%
lợi nhuận chuyển ra nước ngoài đối với nhà đầu tư nước ngoài góp vốn pháp định
39
hoặc vốn để thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh từ 5 triệu USD đến dưới 10
triệu USD và đối với nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các lĩnh vực khám chữa
bệnh, giáo dục - đào tạo, nghiên cứu khoa học. Thuế suất chuyển lợi nhuận ra nước
ngoài bằng 7% đối với các trường hợp còn lại.
Thứ hai, đối với các dự án đầu tư FDI vào các KCN: về thuế thu nhập doanh
nghiệp, với dự án hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ: thuế suất thuế thu nhập doanh
nghiệp trong năm bằng 20% thu nhập chịu thuế. Doanh nghiệp được miễn thuế thu
nhập trong 02 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 5% trong 03 năm tiếp theo.
Với dự án xuất khẩu trên 50% sản phẩm, thuộc danh mục dự án khuyến khích đầu
tư: thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp hàng năm bằng 15% thu nhập chịu thuế.
Doanh nghiệp được miễn thuế thu nhập trong 02 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và
giảm 50% trong 03 năm tiếp theo.
Với dự án thuộc danh mục dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư, dự án thuộc
lĩnh vực khám chữa bệnh, giáo dục - đào tạo và nghiên cứu khoa học, doanh nghiệp
phát triển hạ tầng KCN, KCX, khu công nghệ cao, doanh nghiệp chế xuất: thuế suất
thuế thu nhập doanh nghiệp hàng năm bằng 10% thu nhập chịu thuế. Doanh nghiệp
được miễn thuế thu nhập trong 04 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50%
trong 04 năm tiếp theo. Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài bằng 3% lợi nhuận
chuyển ra nước ngoài. (Nguồn báo cáo tổng kết 25 năm thực hiện thu hút đầu tư
nước ngoài)
2.2 TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH DƯƠNG GIAI ĐOẠN 2010 -2015 VÀ NGUYÊN
NHÂN.
2.2.1. Tình hình thu hút FDI
Tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào tỉnh Bình Dương
trong những năm gần đây đã có những chuyển biến tích cực. Môi trường đầu tư của
tỉnh được cải thiện ngày càng tốt hơn và hướng đến mục tiêu phát triển bền vững.
Các ngành, lĩnh vực tỉnh có lợi thế như công nghiệp điện, điện tử, cơ khí, dược
40
phẩm, hóa chất... được nhiều nhà đầu tư quan tâm, với số lượt đoàn nhà đầu tư đến
tỉnh tăng nhiều so với các năm trước.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một bộ phận kinh tế quan trọng, có quan hệ
hữu cơ với các thành phần kinh tế của tỉnh. Việc thu hút vốn đầu tư để phát triển
kinh tế, đặc biệt trong việc xây dựng và phát triển các khu công nghiệp tập trung
trong thời gian qua đã đạt được một số kết quả đáng kể, đến nay toàn tỉnh có 29 khu
công nghiệp (KCN) với tổng diện tích quy hoạch 9.423 ha, trong đó đã có 26 KCN
đi vào hoạt động với tổng diện tích 8.871 ha. Tổng vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng của 28 KCN đến nay đạt 76% tổng số vốn được duyệt.
Trong 5 năm (2010-2014), thu hút FDI của Bình Dương phát triển với tốc độ
nhanh, đã có thêm 633 dự án FDI với tổng vốn đầu tư 8 tỷ 012 triệu USD. Kết quả
này đã nâng nguồn FDI trên địa bàn tỉnh cuối năm 2014 lên 2.399 dự án với tổng
vốn đăng ký gần 20 tỷ 487 triệu USD của doanh nghiệp đến từ hơn 39 quốc gia và
vùng lãnh thổ. Cùng với tăng nhanh về lượng, thu hút FDI thời gian qua phát triển
theo hướng tăng nhanh về chất và đa dạng về cơ cấu ngành nghề. Đóng góp vào
ngân sách của khu vực đầu tư nước ngoài trong giai đoạn này tăng trưởng đáng kể
(từ 3.176 tỷ đồng năm 2010 lên trên 7.371 tỷ đồng năm 2014) và tỷ trọng bình quân
đạt trên 48,2%.
Riêng năm 2014 toàn tỉnh đã thu hút được 1 tỷ 732 triệu USD đạt 173% kế
hoạch năm, trong đó cấp mới 168 dự án với tổng vốn đầu tư 861,7 triệu USD và
142 dự án tăng vốn đầu tư với vốn đầu tư tăng thêm 871,1 triệu USD, trong đó đầu
tư vào các khu công nghiệp 119 dự án với tổng vốn đầu tư 739,2 triệu USD và 107
dự án điều chỉnh tăng vốn với vốn đầu tư tăng thêm là 792,3 triệu USD.
Sau hơn 26 năm thực hiện việc thu hút đầu tư nước ngoài với việc thực hiện
chính sách “trải thảm đỏ” để mời gọi đầu tư, hiện nay Bình Dương là một trong 5
địa bàn thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài nhất cả nước. Về tình hình thu
hút đầu tư nước ngoài, giai đoạn 1988 - 1993 Bình Dương chỉ thu hút được có 23
dự án FDI với số vốn cũng khá khiêm tốn 110,9 triệu USD. Tuy nhiên từ 1994 thì
thu hút đầu tư nước ngoài ở Bình Dương tăng nhanh với số dự án đăng ký mới chỉ
41
có 21 dự án, nhưng số vốn đăng ký mới là 423,6 triệu USD tăng gần gấp 4 lần giai
đoạn 6 năm trước đó. Và từ 2005 – 2014 tình hình thu hút FDI tăng nhanh và mạnh
cả về số dự án và tổng số vốn với số vốn đăng ký trung bình hàng năm khoảng gần
1,3 tỷ USD. ( Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Bình Dương, Báo cáo tình hình thu hút
vốn FDI trên địa bàn tỉnh giai đoạn 1994 – 2014) ( Xem phụ lục 2.1)
Giai đoạn 2009 – 2010 với cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đã ảnh
hưởng không nhỏ đến tình hình thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam nói chung
và Bình Dương nói riêng. Tuy nhiên từ năm 2011 trở đi tiếp nhận làn sóng đầu tư
nước ngoài thứ hai vào Việt Nam và Bình Dương là một trong những điểm đến ưu
tiên lựa chọn hàng đầu của các nhà đầu tư. Mặc dù vậy giai đoạn này việc thu hút
các dự án vào Bình Dương cũng không ít gặp nhiều khó khăn, do sự cạnh tranh cao
của các địa phương thông qua nhiều cơ chế, chính sách trải thảm đỏ. Tuy nhiên Số
dự án và vốn đăng ký bình quân trên dự án vào Bình Dương đều trên 10 triệu USD/
dự án. (Xem phụ lục 2.2)
Nguồn vốn FDI tại Bình Dương, ngoài việc đóng góp cho ngân sách hàng
nghìn tỷ đồng mỗi năm, còn tạo ra việc làm ổn định cho hơn 500 nghìn lao động.
Nguồn vốn FDI chủ yếu tập trung vào lĩnh vực sản xuất công nghiệp với 92,7% số
dự án và khoảng 71% về vốn đầu tư, nên đã tạo ra giá trị sản xuất công nghiệp cao
và xuất khẩu lớn. Nguồn FDI chiếm gần 81,8% kim ngạch xuất khẩu và chiếm hơn
69,5% tổng giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh, qua đó giúp Bình Dương luôn đạt
giá trị xuất siêu cao.
Lũy kế đến 31 tháng 12 năm 2014, Bình Dương có 2.615 dự án có vốn đầu tư
nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký 20 tỷ 101 triệu USD. Trong đó
đầu tư vào các khu công nghiệp là 1.404 dự án với tổng vốn đầu tư là 12 tỷ 528
triệu USD. Trong những năm gần đây Bình Dương đã thu hút một số dự án với quy
mô vốn lớn đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh bất động sản, có 02 dự án với số vốn
đầu tư trên 1 tỷ USD. ( Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương, Báo cáo tình hình kinh
tế - xã hội, quốc phòng an ninh năm 2014)
42
Trong 06 tháng năm 2015, thu hút được 279,8 triệu USD đạt 62,9% kế hoạch
năm, trong đó số dự án cấp giấy chứng nhận đầu tư mới là 20 dự án với tổng số vốn
đăng ký là 68,59 triệu USD và 16 dự án điều chỉnh tăng vốn với tổng vốn đăng ký
tăng là 111,2 triệu USD, trong đó đầu tư vào các khu công nghiệp 12 dự án với tổng
vốn đầu tư 37,4 triệu USD và 12 dự án điều chỉnh tăng vốn với vốn đầu tư tăng
thêm là 106,2 triệu USD.
( Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Bình Dương, Báo cáo tình hình thu hút vốn đầu
tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh 06 tháng đầu năm 2015)
Đến nay đã có hơn 39 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Bình Dương,
trong đó, xuất hiện ngày càng nhiều các tập đoàn, công ty xuyên quốc gia có năng
lực về tài chính và công nghệ. (Xem Phụ lục 2.3)
Phần lớn các dự án đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh Bình Dương đều được
bố trí vào các khu công nghiệp hoặc cụm quy hoạch phát triển sản xuất công nghiệp
theo đúng quy hoạch.
Công tác thu hút đầu tư nước ngoài gắn liền với việc hình thành các khu công
nghiệp ở Bình Dương đã làm gia tăng đáng kể năng lực sản xuất của các huyện thị, từ
đó, làm thay đổi bộ mặt kinh tế của toàn tỉnh, góp phần cải tạo cơ cấu kinh tế tỉnh
thông qua việc giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vu.
Các khu, cụm công nghiệp đã đầu tư cơ sở hạ tầng, hệ thống xử lý nước thải
theo quy hoạch được phê duyệt, đáp ứng yêu cầu phát triển công nghiệp và định
hướng thu hút đầu tư của tỉnh;
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một bộ phận kinh tế quan trọng, có quan hệ hữu
cơ với các thành phần kinh tế của tỉnh. Việc thu hút vốn đầu tư để phát triển kinh tế,
đặc biệt trong việc xây dựng và phát triển các khu công nghiệp tập trung trong thời
gian qua đã đạt được một số kết quả đáng kể, đến nay toàn tỉnh có 29 khu công
nghiệp với diện tích 9.073 ha và 08 cụm công nghiệp tổng diện tích gần 600 ha; tỷ
lệ lấp kín diện tích cho thuê của các khu công nghiệp đạt 65%, của các cụm công
nghiệp đạt 41%. Việc thu hút đầu tư nước ngoài vào các KCN đạt được một số kết
quả đáng kể thông qua nhiều đợt xúc tiến đầu tư nước ngoài do các công ty phát
43
triển hạ tầng tổ chức, môi trường đầu tư vào các KCN được quảng bá, giới thiệu cho
các nhà đầu tư nước ngoài. Việc xúc tiến đầu tư đã được xây dựng và điều chỉnh
theo hướng tập trung, có trọng điểm ở các thị trường khác nhau như Nhật, Mỹ, EU,
Hàn Quốc, Đài Loan nhằm kêu gọi đầu tư vào các dự án sản xuất trong các KCN
tập trung vào điện, điện tử, cơ khí chính xác và những dự án có hàm lượng công
nghệ cao theo định hướng thu hút đầu tư của tỉnh.
Thu hút FDI đạt hiệu quả cao là tín hiệu đáng phấn khởi vì thành phần kinh tế
này góp phần quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế của tỉnh nhà cũng như tạo
ra giá trị công nghiệp, dịch vụ cao. Hơn nữa, xu hướng gia tăng vào lĩnh vực sản
xuất sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, có khả năng cạnh tranh tốt được các
doanh nghiệp đầu tư mạnh. Điều này phù hợp với định hướng quy hoạch, phát triển
công nghiệp, dịch vụ bền vững của Bình Dương. Thành công trong thu hút FDI của
Bình Dương là kết quả tất yếu của một quá trình phấn đấu. Từ việc phát huy các
yếu tố “thiên thời, địa lợi”, Bình Dương đã chủ động, mạnh dạn chớp lấy thời cơ
nhằm khai thác yếu tố thuận lợi về địa lý, thực hiện tốt cải cách thủ tục hành chính,
tạo môi trường thông thoáng... Chính vì thế đã tạo thương hiệu Bình Dương trong
thu hút đầu tư.
Hiện Bình Dương là một trong những điểm đến hấp dẫn của các doanh nghiệp
Nhật Bản, từ năm 2011 đến nay đã có nhiều tập đoàn Nhật Bản đến tìm hiểu môi
trường đầu tư của tỉnh và đã đầu tư, điển hình như Tập đoàn Tokyu, Tập đoàn
Aeon, Công ty Kiyo Kensetsu Kikai…Việc nhiều công ty, tập đoàn Nhật Bản tiếp
tục chọn lựa Bình Dương để đầu tư là tín hiệu tốt trong thu hút đầu tư. Điều này
cũng chứng tỏ môi trường đầu tư năng động và thuận lợi của tỉnh luôn là điểm đến
hấp dẫn đối với các doanh nghiệp Nhật Bản nói riêng và các nhà đầu tư nước ngoài
nói chung khi chọn lựa địa điểm để triển khai dự án.
2.2.2. Tác động tích cực của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh
Bình Dương
Hiện tại khu vực lao động có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp trên 35% GDP
toàn tỉnh thu hút khoảng trên 500 ngàn lao động. Cơ cấu, quy mô và hình thức đầu
44
tư của các dự án khá thích hợp, đã và đang đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh
tế - xã hội trên nhiều mặt chủ yếu sau:
Trong những năm đầu thời kỳ đổi mới, nguồn vốn đầu tư trong nước hạn chế
thì mức vốn thực hiện khoảng 2 tỷ USD có ý nghĩa quan trọng, tạo điều kiện cho
tỉnh từng bước xây dựng cơ sở ban đầu trong phát triển kinh tế - xã hội. FDI thời
kỳ 1997-2005 chiếm gần 70% tổng vốn đầu tư phát triển thực sự đã trở thành một
trong những động lực quan trọng góp phần phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH ở Bình
Dương. Việc tăng vốn FDI đã tác động tích cực vào tăng trưởng GDP cụ thể như:
tốc độ GDP đã tăng từ 12,5% năm 2010 lên 13,4% năm 2014. Năm 2014, mục tiêu
tăng trưởng GDP của tỉnh Bình Dương là 13%, nhưng đã thực hiện vượt kế hoạch
đạt 13,4% do tăng 25% vốn đầu tư nước ngoài trong năm 2014.
Như vậy, rõ ràng FDI có mối quan hệ chặt chẽ, tác động đến sự tăng trưởng
kinh tế của tỉnh. Hiện khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp 36,22%
GDP toàn tỉnh. ( Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương, Báo cáo tình hình kinh tế xã
hội 2010-2104)
Các dự án hoạt động tập trung ở 3 ngành trong đó nhiều nhất là lĩnh vực công
nghiệp, chiếm 97,17% tổng số dự án và 91,16% số vốn, phân bố trên 24 ngành công
nghiệp chế biến và 2 ngành sản xuất và phân phối điện, ga, khí đốt, nước. Kế đến là
lĩnh vực dịch vụ chiếm 1,6% tổng số dự án, 5,4% tổng số vốn đầu tư, chủ yếu là
dịch vụ văn phòng cho thuê, kho lạnh, vận chuyển hàng hoá... Còn nông nghiệp,
lâm nghiệp mặc dù là khu vực tập trung hơn 70% dân số của tỉnh nhưng chỉ thu hút
0,83% số dự án và chiếm 2,2% trên tổng vốn đầu tư. Cuối cùng là khu vực xây
dựng chiếm tỷ trọng thấp nhất 0,4% tổng vốn đầu tư. (Tỉnh ủy Bình Dương, 2014,
Báo cáo tình hình phát triển các thành phần kinh tế trên địa bàn tỉnh Bình Dương).
- Trong những năm đầu, nhà đầu tư nước ngoài chủ yếu đầu tư vào công
nghiệp chế biến nông, lâm sản dựa trên nguồn nguyên liệu có sẵn của địa phương
như chế biến gỗ, đũa tre, sản phẩm cao su v.v.. còn những năm trở lại đây FDI đã
tập trung nhiều vào ngành công nghiệp kỹ thuật cao như: sản xuất linh kiện điện tử,
phụ tùng ô tô, xe máy, nhựa PVC, kính cao cấp, ti vi, tủ lạnh, v.v.. Nhờ đó, nhiều
45
công nghệ mới kỹ thuật số, cáp quang, hàng điện tử kỹ thuật số v.v.. góp phần nâng
cao trình độ công nghệ của nền kinh tế, tạo ra nhiều sản phẩm có hàm lượng kỹ
thuật cao, đạt tiêu chuẩn quốc tế được minh chứng bằng tố độ tăng trưởng kim
ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp.
- Đến nay trên địa bàn Bình Dương đã có 39 quốc gia và vùng lãnh thổ có
dự án được cấp giấy phép đầu tư như: Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc, Trung
Quốc, Thái Lan… trong đó có nhiều tập đoàn, công ty lớn có tiềm lực về công
nghệ và tài chính. Có một số dự án đầu tư có công nghệ tiên tiến của các nước
thuộc nhóm G7, châu Âu đã bắt đầu tham gia đầu tư như: Mỹ, Nhật, Đức, Hà
Lan… Nhờ có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, khả năng cạnh tranh của sản
phẩm Bình Dương trên thị trường quốc tế đã thật sự khởi sắc. Mặc dù tỷ trọng
của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong xuất khẩu chưa cao, nhưng
đã tạo điều kiện cho nhiều sản phẩm của tỉnh thâm nhập thị trường thế giới, tạo
cơ hội để Bình Dương tiếp nhận những công nghệ mới, phù hợp với nền kinh tế
và việc phát triển nguồn nhân lực.
- Sự phát triển của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không làm
triệt tiêu nội lực mà còn thúc đẩy các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp
dân doanh qua các thời kỳ và các doanh nghiệp trong tỉnh cùng với các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài liên doanh, hợp doanh để phát triển. Sự phát
triển của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng là động lực thôi thúc
doanh nghiệp trong tỉnh tự điều chỉnh, nâng cao hiệu quả quản lý, đầu tư chiều
sâu, quan tâm tới nâng cao chất lượng sản phẩm, xây dựng thương hiệu.
- Kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng
rất nhanh qua các năm. Tổng giá trị hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài đạt bình quân 334 triệu USD/năm. Năm 1997 đạt 85 triệu
USD. Năm 2010 kim ngạch xuất khẩu đạt 4.500 triệu USD chiếm 65.9% tổng giá
trị xuất khẩu. Năm 2014 kim ngạch xuất khẩu đạt 8.309 triệu USD, chiếm 80.35%
tổng giá trị xuất khẩu của tỉnh. Giá trị xuất khẩu của doanh nghiệp vốn đầu tư
nước ngoài chiếm bình quân hàng năm 70% doanh thu. Cơ cấu sản phẩm xuất
46
khẩu chuyển từ nông sản và bán thành phẩm sang các sản phẩm công nghiệp và
tinh chế. Nhờ có sự chuyển giao công nghệ và kỹ năng marketing từ các công ty
nước ngoài nhiều sản phẩm của Bình Dương đã xuất hiện trên thị trường thế
giới.
Biểu đồ 2.1: Giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI ở Bình Dương
qua các năm (nghìn USD)
Nguồn: (UBND tỉnh Bình Dương, Báo cáo tình hình kinh tế xã hội quốc phòng
an ninh năm 2010, 2011, 2012, 2013, 2014)
Các dự án FDI đi vào ổn định với doanh thu ngày càng cao, nộp ngân
sách chiếm tới 25% tăng ngân sách ở Bình Dương. Hiện tại, thu ngân sách từ
khu vực này vẫn tiếp tục tăng cả về giá trị và tỷ trọng. Nếu năm 2010, khu vực
đầu tư nước ngoài đóng góp 161 triệu USD chiếm 15,3% trong tổng thu ngân
sách thì sang năm 2013 số nộp ngân sách của các doanh nghiệp FDI là 261
triệu USD chiếm tỷ trọng 24,8% tăng gấp 1,5 lần so với năm 2010. Tuy nhiên,
sang năm 2014 khu vực đầu tư nước ngoài đóng góp 159 triệu USD, điều này
được lý giải là do sự kiện ngày 01/5/2014 Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải
Dương 981 xâm phạm chủ quyền của Việt Nam. Từ đó dấy lên làn sóng phản
đối Trung Quốc xâm phạm chủ quyền biển đảo Việt Nam, mà đỉnh cao là sự
kiện ngày 13/5/2015 công nhân ở các khu công nghiệp của Bình Dương đã bị
các phần tử phản động kích động dẫn tới đạp phá các nhà máy, xí nghiệp của
các doanh nghiệp Đài Loan, Trung Quốc và các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài khác. Điều này làm cho các doanh nghiệp bị trì trệ trong kinh
47
doanh, gây thiệt hại nhiệm trọng, thậm chí có doanh nghiệp tuyên bố phá sản,
từ đó dẫn đến tỷ lệ đóng góp vào ngân sách của khu vực này giảm xuống đáng
kể. Được sự lãnh đạo, chỉ đạo từ Trung ương đến địa phương, Lãnh đạo tỉnh
Bình Dương đã kịp thời ban hành các chế độ hỗ trợ cho các doanh nghiệp, vì
vậy các doanh nghiệp nghiệp đã từng bước khắc phục được khó khăn và đi vào
sản xuất kinh doanh bình thường. Bên cạnh đó khu vực này còn đóng góp hàng
tỷ đồng cho các chương trình như xoá đói, giảm nghèo, xây nhà tình nghĩa, xây
dựng các công trình phúc lợi, ủng hộ thiên tai, bão lụt… (Xem phụ lục 2.4)
- Các doanh nghiệp FDI đã thu hút trên 500 ngàn lao động trực tiếp, và có
khoảng 100.000 lao động gián tiếp, lao động tham gia trong lĩnh vực xây dựng cơ
bản, sản xuất nguyên vật liệu và các dịch vụ cung ứng... Điều này đã góp phần tạo
nên một thị trường lao động tập trung khá phát triển, không chỉ thu hút lao động ở
địa bàn tỉnh Bình Dương mà còn thu hút lao động từ nhiều địa phương khác trong
cả nước. Đồng thời, FDI cũng đóng góp phần chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, cơ
cấu lao động trong tỉnh theo phát triển nền kinh tế hiện đại: giảm tỷ lệ lao động
trong nông nghiệp, tăng tỷ lệ lao động trong công nghiệp và các ngành dịch vụ FDI.
Tạo động lực thúc đẩy việc nâng cao trình độ của người lao động và đang trong xu
thế các ngành công nghiệp công nghệ cao phát triển, thì đòi hỏi tất yếu là lực lượng
lao động phải nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, từ đó tạo ra đội ngũ cán bộ
quản lý có trình độ cao, công nhân lành nghề, có khả năng tiếp thu và sử dụng công
nghệ tiên tiến. Ngoài ra, cung cách quản lý của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh,
kể cả doanh nghiệp trong nước do gián tiếp chịu sự tác động của khu vực FDI đã
thay đổi và tiến bộ rõ rệt, góp phần tạo ra nhiều cơ hội phát triển trình độ, kỹ năng
cho đội ngũ lao động trẻ. ( Xem phụ lục 2.5)
- Các doanh nghiệp FDI đã có sự quan tâm đến đời sống của công nhân. Có 74
doanh nghiệp FDI, tham gia xây dựng 6.258 phòng cho 20.972 lao động ở không
thu tiền, với số lượng công nhân vào làm việc tại Bình Dương ngày càng đông trên
500 ngàn lao động, việc các doanh nghiệp tham gia xây dựng phòng trọ không lấy
tiền đã giúp cho một lượng lớn công nhân có thu nhập thấp có chỗ ở ổn định. Nhìn
48
thấy được khó khăn của các doanh nghiệp, hơn 6.100 căn hộ nhà ở xã hội dành cho
những người lao động nhập cư đã được tỉnh Bình Dương khởi công xây dựng thêm
vào ngày 31/3/2015 tại phường Định Hòa, thành phố Thủ Dầu Một với mục đích
phục vụ nhu cầu nhà ở đối với đối tượng là những người nhập cư, công nhân lao
động ở các khu công nghiệp lân cận.
- Cùng với sự phát triển của khu vực FDI, một số khu vực sản xuất và cung
ứng sản phẩm dịch vụ cho khu vực này thuộc các thành phần kinh tế khác phát triển
sẽ nâng cao khả năng tạo việc làm cho người lao động. Hiện nay với chính sách
tăng dần tỷ lệ nội địa hoá trong các doanh nghiệp có vốn FDI như công nghiệp chế
tạo ô tô, xe máy, giày da, may mặc, phân phối, tiêu thụ sản phẩm… đã hình thành
một số doanh nghiệp vệ tinh cung cấp các sản phẩm và dịch vụ cho các doanh
nghiệp FDI. Việc hình thành các doanh nghiệp vệ tinh sẽ nảy sinh tuyển dụng thêm
lao động làm giảm tỷ lệ thất nghiệp ở Bình Dương.
- Ngoài xu hướng của các nước trên thế giới là hội nhập để phát triển thì để
thu hút nguồn vốn từ các nhà đầu tư nước ngoài ở Bình Dương luôn phải tự hoàn
thiện hệ thống pháp luật theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo ra sự minh
bạch và bình đẳngcho các nhà đầu tư để cho các nhà đầu tư nước ngoài có thể an
tâm và nhanh chóng triển khai các cơ hội đầu tư. Thực tế cho thấy rằng, với điều
kiện các nhân tố khác không đổi thì cùng là một nước nhưng khi có sự thay đổi về
hành chính và sự minh bạch về môi trường đầu tư được cải thiện thì sẽ thu hút được
nhiều nhà đầu tư nước ngoài hơn.
* Nguyên nhân của những kết quả tích cực
Thứ nhất, thành công trong thu hút FDI ở Bình Dương không phải do tỉnh có
chính sách riêng hay có cơ chế ưu đãi gì đặc biệt cho các nhà đầu tư FDI ngoài
chính sách chung của Đảng, Nhà nước và luật đầu tư nước ngoài quy định mà cái
chính là do Đảng bộ, chính quyền địa phương đã căn cứ vào đặc điểm thực tiễn để
vận dụng sáng tạo mạnh dạn đổi mới tư duy, cách nghĩ và cơ chế hoạt động trong
việc thực hiện chính sách thu hút đầu tư nước ngoài: Phong cách làm việc của hệ
thống các cơ quan Đảng, chính quyền ở Bình Dương đã thực hiện sự tạo ra môi
49
trường thông thoáng, hấp dẫn, thực sự “trải chiếu hoa mời gọi đón các nhà đầu tư”
đến với Bình Dương.
Thứ hai, để quá trình đầu tư của các doanh nghiệp nhận được thuận lợi, tỉnh
Bình Dương coi trọng công tác cải cách thủ tục hành chính, áp dụng cơ chế một cửa
thông qua Sở Kế hoạch Đầu tư và các Sở, ngành có liên quan làm đầu mối giải
quyết các thủ tục. Bộ máy quản lý được định hướng vào việc hỗ trợ doanh nghiệp,
tạo lập môi trường kinh doanh với chi phí thấp. Chính quyền các cấp thường xuyên
quan tâm sâu sát, gần gũi và kịp thời giúp đỡ doanh nghiệp giải quyết mọi vướng
mắc vượt thẩm quyền, tỉnh Bình Dương đề đạt ngay những kiến nghị hoặc trực tiếp
cùng doanh nghiệp ra Hà Nội gặp Chính phủ và các Bộ, ngành, Trung ương có liên
quan để tìm cách giải quyết. Quan hệ giữa chính quyền và doanh nghiệp nhờ đó
ngày càng gần gũi và thân thiện. Ngoài những buổi tiếp xúc đột xuất khi doanh
nghiệp, nhà đầu tư có nhu cầu, những chuyến viếng thăm các doanh nghiệp cũng
được tỉnh tổ chức hàng tuần. Cùng với các chương trình gặp gỡ định kỳ hàng năm
vào dịp cuối năm, tỉnh đều tổ chức ngày doanh nghiệp 31/12 để qua đó doanh
nghiệp có dịp trao đổi, đóng góp về môi trường đầu tư của tỉnh với các cấp lãnh đạo
chính quyền và các cơ quan quản lý chuyên ngành. Nhờ những cách làm nói trên,
các nhà đầu tư đến với Bình Dương đều có được niềm tin được hỗ trợ tốt nhất trong
công việc kinh doanh. Từ niềm tin này các nhà đầu tư trong và ngoài nước tự động
lôi kéo bạn bè, phường hội, tập đoàn của họ đến Bình Dương đầu tư.
Thứ ba, Bình Dương đã sớm hình thành được quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế - xã hội làm căn cứ cho việc chỉ đạo triển khai các chương trình, dự án khi
thu hút FDI có thể sớm đi vào hoạt động và đưa lại hiệu quả phát triển kinh tế - xã
hội của tỉnh, các dự án đầu tư phù hợp với nhu cầu giải quyết những vấn đề kinh tế -
xã hội trên cơ sở các lợi thế của tỉnh. Đặc biệt là kế hoạch xây dựng và xây dựng lại
hệ thống kết cấu hạ tầng các KCN. Đặc điểm của các KCN ở Bình Dương là được
hình thành từ nguồn vốn của nhiều thành phần kinh tế khác nhau như của doanh
nghiệp nhà nước có KCN: Bình Đường, Sóng Thần 1, Mỹ Phước, Bình An. Của
doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, cổ phần có KCN: Sóng Thần 2, Việt Hương
50
1 và 2, Đồng An, Tân Đông Hiệp A và B. Của liên doanh có KCN: Việt Nam -
Singapore v.v.. Song cho dù KCN của thành phần kinh tế nào cũng đều được tỉnh
hỗ trợ, tạo mọi điều kiện cho doanh nghiệp phát huy tính chủ động sáng tạo trong
xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng như điện, nước, mạng lưới thông tin liên
lạc, v.v.. tạo ra. Sự đa dạng, thích hợp và hấp dẫn riêng đối với các loại hình đầu tư
ở các lĩnh vực khác nhau.
Thứ tư, do phát triển KCN, cụm công nghiệp nên tình hình kinh tế, xã hội
của tỉnh Bình Dương những năm gần đây có sự chuyển biến rõ rệt. Trước thực tế
này đòi hỏi tỉnh Bình Dương phải quan tâm đến vấn đề phát triển nguồn nhân
lực, đào tạo đội ngũ công nhân có tay nghề nhằm cung ứng kịp thời lực lượng
lao động giúp các doanh nghiệp có đủ số lượng công nhân để phát triển sản xuất,
phục vụ cho sự phát triển công nghiệp ngày càng đa dạng. Đứng trước nhu cầu
đó, tỉnh có chính sách kết hợp trong việc phát triển kinh tế và đào tạo nguồn
nhân lực thu hút lao động từ các công ty trong tỉnh và ngoài tỉnh vào làm việc ở
các khu công nghiệp. Theo đó mục tiêu của đề án là phấn đấu đến năm 2020 xây
dựng được hai hệ thống dạy nghề: hệ thống dạy nghề đại trà (gồm các trung tâm
dịch vụ việc làm, trường dạy nghề dân lập, trung tâm dạy nghề của các đoàn thể,
các trường cao đẳng, đại học, trung cấp, các doanh nghiệp, các làng nghề truyền
thống có dạy nghề) và hệ thống trường, trung tâm dạy nghề chất lượng cao (gồm
các trường dạy nghề của tỉnh, trường dạy nghề trung ương đóng trên địa bàn
tỉnh, trung tâm dạy nghề chất lượng cao). Từ hai hệ thống đào tạo này, sẽ tăng cơ
hội học nghề cho mọi đối tượng có nhu cầu, từ đó tỉnh sẽ từng bước phổ cập
nghề, đào tạo được nguồn lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao cung
ứng cho thị trường lao động, chủ yếu là các KCN. Đề án quy hoạch mạng lưới cơ
sở dạy nghề của Bình Dương đã đáp ứng nhu cầu bức xúc của xã hội, phù hợp
với chính sách của Đảng và Nhà nước, nhờ vậy công tác đào tạo nghề của địa
phương những năm gần đây đã có bước chuyển mình đáng kể. Công tác quản lý
nhà nước về dạy nghề đã đi vào nề nếp, đội ngũ giáo viên dạy nghề được đào
tạo, bồi dưỡng nâng cao, cơ sở vật chất chương trình, giáo trình được tu sửa,
51
nâng cấp đổi mới từng bước phù hợp với yêu cầu của thực tiễn sản xuất và thị
trường lao động; hoạt động dạy nghề được xã hội hoá với nhiều thành phần tham
gia mở trường và cơ sở dạy nghề, hình thức và ngành nghề đào tạo đa dạng
phong phú, đáp ứng linh hoạt theo nhu cầu của người học.
Thứ năm, trước những bức xúc xảy ra trong quan hệ lao động tại các doanh
nghiệp tỉnh đã tổ chức Hội thảo về đình công, lãng công tự phát, tranh chấp lao
động. Hội thảo đã lấy ý kiến tham gia của các sở, ngành có liên quan và một số
doanh nghiệp về xây dựng quy chế tạm thời, về trách nhiệm phối hợp giải quyết
tranh chấp lao động tại các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. Quy chế đã phân
công trách nhiệm cụ thể của các ngành, các địa phương trong tỉnh và các biện
pháp cùng phối hợp để giải quyết. Để giúp các doanh nghiệp nắm bắt những quy
định mới về lao động, công đoàn nhanh chóng giải quyết những vướng mắc
trong thực hiện pháp luật lao động dễ dàng hơn. Liên đoàn Lao động tỉnh đã phối
hợp đi thăm trực tiếp từ 10-15 doanh nghiệp mỗi tháng. Tuy mới thực hiện
nhưng cho thấy khá hiệu quả và tạo được mối quan hệ tốt đẹp giữa các doanh
nghiệp và các ngành. Bình Dương đã xây dựng và triển khai chương trình “đối
thoại xã hội tại nơi làm việc” cho các doanh nghiệp nhằm mục đích xây dựng
mối quan hệ hợp tác giữa người sử dụng lao động và người lao động, tạo cơ hội
để hai bên hiểu nhau hơn và cùng giải quyết những mâu thuẫn phát sinh ngay từ
ban đầu thông qua thương lượng, đồng thời giúp cho người lao động, tạo cơ hội
để hai bên hiểu nhau hơn và cùng giải quyết những mâu thuẫn phát sinh ngay từ
ban đầu thông qua thương lượng, đồng thời giúp cho người sử dụng hiểu rõ hơn
chức năng, nhiệm vụ của tổ chức công đoàn còn người lao động thì đồng cảm và
cùng góp sức giải quyết chia sẻ những khó khăn với các doanh nghiệp. Để xây
dựng được mối quan hệ lao động giữa người sử dụng lao động và người lao động
ngày càng tốt đẹp hơn, góp phần ổn định trật tự xã hội của địa phương, đưa Bình
Dương là một địa chỉ đáng tin cậy của các nhà đầu tư và người lao động đến lập
nghiệp, ổn định cuộc sống lâu dài. Ngăn ngừa và hạn chế tối đa tình hình tranh
chấp lao động trên địa bàn tỉnh.
52
2.3. MỘT SỐ TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH DƯƠNG GIAI ĐOẠN
2010-2015 VÀ NGUYÊN NHÂN.
2.3.1. Một số hạn chế và tác động tiêu cực của FDI
Bên cạnh những kết quả đạt được, lĩnh vực thu hút và sử dụng vốn FDI
trên địa bàn tỉnh Bình Dương cũng còn một số hạn chế, làm phát sinh những hậu
quả tiêu cực:
- Một là: Chất lượng dự án đầu tư chưa cao và chưa lựa chọn được
những công nghệ cao.
Có những thời điểm việc thu hút FDI tại Bình Dương không có sự chọn
lọc, các dự án FDI thường có công nghệ lạc hậu, máy móc thiết bị cũ kỷ. Việc
chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào tỉnh Bình Dương được thực hiện thông
qua các hợp đồng của địa phương, không được các cơ quan quản lý Nhà nước về
khoa học công nghệ chuẩn y.
Phần lớn các dự án đầu tư công nghiệp thời gian qua chủ yếu là công
nghiệp nhẹ, gia công, thu hồi vốn nhanh nhưng giá trị gia tăng thấp. Công ty
kinh doanh hạ tầng KCN muốn nhanh chóng lấp đầy diện tích cho thuê, nhằm
thu lại chi phí đầu tư và tái đầu tư trong hoạt động kinh doanh cơ sở hạ tầng, qua
đó đảm bảo chỉ tiêu lợi nhuận. Do vậy, trong quá trình xúc tiến, mời gọi dự án
đầu tư vào các KCN, Công ty kinh doanh hạ tầng ít quan tâm đến các chỉ tiêu
như vốn đầu tư, số lao động, trình độ công nghệ, trình độ lao động, hiệu quả dự
án,... nhưng chỉ chú trọng nhiều đến diện tích đất và giá cho thuê của dự án đầu
tư.
Một số doanh nghiệp FDI đã bị phát hiện thủ pháp nâng giá vật tư, máy móc
để nâng giá trị dự án và tăng tỷ lệ góp vốn trong liên doanh, khai khống giá nguyên
nhiên vật liệu đầu vào, tạo giá thành ảo, tạo ra tình trạng “lỗ giả, lãi thật’’ và sử
dụng nó như một biện pháp để tránh đánh thuế chuyển lợi nhuận, thuế nhập khẩu và
53
kiểm soát tỷ giá. Hiện tượng chuyển giá hầu như đều xảy ra đối với các công ty đa
quốc gia, xuất hiện và ngày càng phổ biến tại các doanh nghiệp FDI tại Bình Dương
- Hai là: Cơ cấu nguồn vốn FDI chưa đáp ứng yêu cầu phát triển đồng
bộ
Trong thời gian vừa qua, Bình Dương thường tập trung phát triển trước các
KCN, chưa gắn kết chặt chẽ với đầu tư đồng bộ phát triển đô thị và thương mại
dịch vụ.
Tỉnh chưa thu hút được nhiều dự án FDI đầu tư từ các nước có trình độ
khoa học công nghệ tiên tiến như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, là những
nước có trình độ khoa học công nghệ cao, có năng lực cạnh tranh và trình độ
quản lý kinh tế tốt, có thị phần trên thế giới lớn và ổn định, trong khi đây là một
trong những tiêu chuẩn quan trọng đánh giá chất lượng đầu tư. Công tác xúc tiến
đầu tư vào các quốc gia này còn hạn chế.
Mặt khác, các dự án FDI trong những năm qua chủ yếu đầu tư vào lĩnh vực
công nghiệp, tỷ lệ đầu tư vào lĩnh vực thương mại và dịch vụ còn thấp. Vốn FDI
giữa các khu vực trên địa bàn tỉnh cũng không đồng đều, phần lớn chỉ tập trung ở
các khu vực thị xã và các huyện phía Nam của tỉnh. (Xem phụ lục 2.9)
- Ba là: Các vấn đề an ninh xã hội, thực thi pháp luật chưa được đảm
bảo tốt
Trong những năm gần đây, tình hình tranh chấp lao động nói chung và tình
hình đình công nói riêng ngày càng có chiều hướng gia tăng. Phần lớn các vụ
tranh chấp xảy ra chủ yếu là ở các doanh nghiệp Đài Loan, Hàn Quốc, Trung
Quốc. Đình công tự phát xảy ra trên diện rộng gây bất ổn cho doanh nghiệp và
trật tự an toàn xã hội.
Từ năm 2010 trở về trước xảy ra nhiều nhất các vụ tranh chấp lao động, đình
công, bãi công, trung bình có khoảng 25 vụ mỗi năm, riêng năm 2011 xảy ra tới 27
vụ tăng 11 vụ so với năm 2010. Tất cả những vụ này đều không do công đoàn tổ
chức mà là tự phát và diễn ra nhiều nhất là ở các doanh nghiệp FDI - do người Đài
Loan làm chủ. Có những vụ rất phức tạp với số người tham gia đông, xảy ra xô xát
54
giữa chuyên gia với công nhân. Chẳng hạn đầu năm 2012, tại Công ty TNHH New
Decor đã xảy ra một vụ tranh chấp lao động với 360 công nhân ngừng sản xuất để
yêu cầu doanh nghiệp giải quyết chế độ độc hại, nâng lương, v.v... Theo báo cáo
của Liên đoàn Lao động trong đó có 52 vụ đình công ở các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài, riêng 6 tháng đầu năm 2015 đã có 14 vụ đình công. Như vậy, so
với các tỉnh khác trong cả nước số vụ đình công ở Bình Dương khá lớn, số vụ đình
công có xu hướng năm sau cao hơn năm trước. Đây là tín hiệu xấu trong quan hệ
lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động trong doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài ở Bình Dương.
Điều đáng lưu ý là 100% các vụ đình công đều nổ ra tự phát do một bộ phận
công nhân thực hiện, không tuân thủ đúng theo trình tự của pháp luật. 100% các
cuộc đình công không có vai trò, hướng dẫn, tổ chức của công đoàn cơ sở. Điều này
cho thấy ý thức pháp luật của công nhân trong các doanh nghiệp có vốn FDI chưa
cao và vai trò của công đoàn cơ sở khá mờ nhạt. Hầu hết các cuộc đình công chỉ kết
thúc và chủ doanh nghiệp đáp ứng phần nào yêu sách của công nhân nhờ sự can
thiệp của Liên đoàn Lao động tỉnh. Tuy chưa có doanh nghiệp nào thống kê thiệt
hại do đình công, nhưng các cuộc đình công đều dẫn đến những hậu quả tiêu cực,
làm xấu đi quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động, thiệt
hại cho sản xuất kinh doanh và ảnh hưởng lâu dài đến uy tín của doanh nghiệp.
Về phía người lao động đa số là lao động xuất thân từ nông thôn nên chưa
thích nghi với tác phong môi trường lao động mang tính chất công nghiệp, ý thức tổ
chức kỹ thuật chưa cao. Trình độ học vấn còn hạn chế, thiếu hiểu biết về pháp luật
lao động, về trình tự khiếu nại, tố cáo, đình công, lãng công, nhiều trường hợp
người lao động chấp nhận thiệt thòi về quyền lợi để có việc làm thêm giờ để tăng
thêm thu nhập, chịu đựng đến khi quá mức thì phản ứng, đấu tranh tự phát.
- Bốn là: Phát sinh những hậu quả xấu về môi trường
Việc phát triển công nghiệp một mặt đóng góp vào sự tăng trưởng nhanh
của địa phương, mặt khác có tác động xấu đến môi trường do việc quản lý chất
thải công nghiệp chưa được giải quyết kịp thời. (Xem phụ lục 2.6)
55
Tình trạng ô nhiễm môi trường do các doanh nghiệp FDI gây ra như các
chất thải, nước thải chưa qua xử lý đã thải trực tiếp ra các sông, rạch, làm cho
tình hình ô nhiễm môi trường ngày càng nghiêm trọng hơn, đặc biệt là tình trạng
ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt và ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của
người dân xung quanh, thậm chí có một số khu vực nguồn nước giếng khoan
không thể sử dụng được. Đánh giá về chất lượng xử lý chất thải tại các doanh
nghiệp thì doanh nghiệp có vốn FDI ở trong KCN có hệ thống xử lý chất thải
kém chiếm 5,3%, doanh nghiệp có vốn FDI ở ngoài KCN có hệ thống xử lý chất
thải kém chiếm 20,6% (Xem phụ lục 2.7). Tỉnh cũng chưa có biện pháp xử lý
kiên quyết triệt để, vì e ngại làm ảnh hưởng đến việc thu hút và kêu gọi đầu tư.
Nhiều doanh nghiệp FDI, tuy có đầu tư hệ thống xử lý nhưng không đạt
chuẩn hoặc vì mục đích lợi nhuận nên cố tình xử lý không đạt chuẩn, thiếu trách
nhiệm đối với xã hội. Các doanh nghiệp FDI nằm ngoài các KCN thường không có
hệ thống xử lý nước thải chung. Ngoài nước thải trong quá trình hoạt động của các
doanh nghiệp FDI còn có các khí thải, chủ yếu từ quá trình đốt nhiên liệu dầu vận
hành nồi hơi, lò nung, máy phát điện trong các dây chuyền sản xuất và khí thải do
các phương tiện vận chuyển gây ra. Khí thải chủ yếu chứa các chất ô nhiễm như
bụi, SO2, NOx, CO và các hợp chất hữu cơ bay hơi (VOC). Chất thải rắn của các
doanh nghiệp FDI bao gồm các chất thải rắn trong quá trình sản xuất và chất thải
sinh hoạt của công nhân. Các chất thải rắn nguy hại chủ yếu là các bao bì đựng hoá
chất, chất thải từ quá trình sản xuất sơn, keo và bùn từ hệ thống xử lý nước thải.
Theo kết quả khảo sát của Sở Tài nguyên và Môi trường thì tải lượng chất thải nguy
hại chiếm khoảng 20% chất thải công nghiệp của các KCN. Các chính sách quy
định về môi trường chưa đồng bộ, việc xử phạt thiếu kiên quyết hoặc mức xử
phạt không đủ sức răn đe.
2.3.2. Nguyên nhân đưa tới những hạn chế và tác động tiêu cực của FDI
- Thứ nhất: Công tác vận động xúc tiến FDI còn nhiều hạn chế, chưa đạt
hiệu quả cao
56
Công tác vận động xúc tiến FDI trong thời gian qua chưa được lãnh đạo tỉnh,
lãnh đạo các Sở, ngành quan tâm đúng mức, mặc dù tỉnh Bình Dương đã chủ động
thành lập Trung tâm xúc tiến đầu tư-thương mại và du lịch trực thuộc Ủy ban nhân
dân tỉnh.
Việc xúc tiến đầu tư của tỉnh chưa chuyên nghiệp, chưa hấp dẫn các nhà đầu
tư. Tài liệu tuyên truyền chưa được cập nhật thường xuyên, thông tin chưa được
giới thiệu rộng rãi và kịp thời đến các nhà đầu tư, nội dung chưa đáp ứng nhu cầu.
Danh mục dự án kêu gọi đầu tư chưa thực sự thuyết phục sự quan tâm của các nhà
đầu tư, thông tin chưa cụ thể, chính xác. Chưa khai thác lợi thế của website. Ngôn
ngữ trong các công cụ tuyên truyền chủ yếu là tiếng Việt, tiếng Anh, trong khi đó
một bộ phận lớn các nhà đầu tư đến từ các nước và vùng lãnh thổ sử dụng tiếng
Trung, Nhật, Hàn.
Các cấp chính quyền của tỉnh chưa tạo ra kết nối với các bộ ngành trung ương
trong công tác xúc tiến; chưa có cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị trong
thực hiện nhiệm vụ xúc tiến đầu tư; sự phối hợp giữa các cơ quan của tỉnh và các
doanh nghiệp cũng chưa được chặt chẽ trong việc chuẩn bị thông tin cũng như cung
cấp các thông tin liên quan đến môi trường đầu tư, mặt bằng, thị trường, lao động,
chi phí đầu vào…. Các doanh nghiệp đầu tư hạ tầng trên địa bàn tỉnh tham gia vào
công tác xúc tiến đầu tư còn hạn chế, năng lực để tiếp cận và làm việc với các Nhà
đầu tư nước ngoài còn yếu, chưa chuyên nghiệp.
- Thứ hai: Môi trường đầu tư còn nhiều bất cập, kém hấp dẫn
Do các chính sách pháp luật của nhà nước đang trong giai đoạn hoàn thiện nên
có nhiều thay đổi, văn bản quy phạm pháp luật nhiều nhưng thiếu đồng bộ, thiếu
hướng dẫn chi tiết, một số quy trình thủ tục giữa các ngành thực hiện chưa thống
nhất, rất khó khăn cho địa phương trong việc tổ chức thực hiện. Nguyên tắc bất hồi
tố chưa được thực hiện đầy đủ, nhiều chính sách chủ trương của nhà nước thay đổi
ảnh hưởng bất lợi đến doanh nghiệp. Thủ tục hành chính rườm rà, đặc biệt là các
thủ tục về đất đai, xây dựng, thuế, hải quan, gây ra nhiều khó khăn cho các nhà đầu
tư trong quá trình lập thủ tục và thực hiện dự án.
57
Mặc dù lãnh đạo tỉnh quan tâm và tạo mọi điều kiện thuận lợi để hỗ trợ các
nhà FDI triển khai dự án, nhưng thủ tục đền bù, giải phóng mặt bằng, ký hợp đồng
thuê đất, xin giấy phép xây dựng, giấy phép phòng cháy chữa cháy của dự án đầu tư
cũng chưa tốt. Bên cạnh đó, vẫn còn một số cán bộ công chức có thái độ hách dịch,
nhũng nhiễu, gây phiền hà cho các nhà đầu tư. Đây là một trong những nguyên
nhân làm cho công tác thu hút và kêu gọi FDI vào địa phương trong những năm qua
có phần chựng lại, chưa tương xứng với những tiềm năng và thế mạnh vốn có của
địa phương. Để giải quyết vấn đề này, hàng năm, lãnh đạo Tỉnh uỷ, Ủy ban nhân
dân tỉnh và lãnh đạo các Sở, ngành đều tổ chức đối thoại giữa lãnh đạo tỉnh và
doanh nghiệp để nghe ý kiến, kiến nghị của DN để tháo gỡ kịp thời những khó
khăn, vướng mắc. Tuy nhiên, đây chỉ là phần ngọn trong việc giải quyết thủ tục
hành chính rườm rà tại địa phương. Vấn đề cốt lõi là lãnh đạo tỉnh và các Sở, ngành
tập trung quyết liệt hơn nữa việc hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện các thủ tục hành
chính có liên quan đến dự án.
Việc hình thành nhiều KCN, cụm công nghiệp đã tạo điều kiện thu hút nhiều
dự án đầu tư nước ngoài, nhưng cơ sở hạ tầng trong khu công nghiệp chưa đáp ứng
kịp thời. Nguyên nhân chính là do nguồn vốn đầu tư cơ sở hạ tầng từ ngân sách còn
quá hạn hẹp, cơ chế chính sách huy động các nguồn vốn khác chưa đầy đủ và kịp
thời làm cho các DN chưa mạnh dạn đầu tư.
- Thứ ba: Các dịch vụ phục vụ liên quan đến hoạt động của dự án FDI
chưa đáp ứng kịp yêu cầu
Theo Quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao đã được
chính phủ ban hành, các KCN được thành lập được quy hoạch tách biệt với các
khu dân cư và các khu công thị hiện hữu cũng như khu đô thị mới. Vì vậy nảy
sinh mâu thuẫn giữa hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp FDI với
những vấn đề xã hội, môi trường, đặc biệt là những vấn đề như:
Về chăm sóc y tế: Nền kinh tế thị trường kéo theo sự phân hóa giàu, nghèo
ngày càng tăng, tác động đến nguyên tắc công bằng trong bảo vệ và chăm sóc
sức khỏe nhân dân; người dân ở những xã vùng sâu, vùng xa ở các huyện phía
58
Bắc của Tỉnh vẫn còn nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ y tế chất
lượng cao. Y tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường chỉ đầu tư ở những lĩnh vực,
những địa điểm có khả năng sinh lợi. Những vấn đề trên đòi hỏi Nhà nước phải
quan tâm hơn để đầu tư những cơ sở y tế cần thiết phục vụ nhân dân mà tư nhân
không đầu tư như: bệnh viện lao, tâm thần, ung bướu; phát triển dịch vụ y tế
rộng khắp tại các vùng sâu, vùng xa.
Về giáo dục và đào tạo: Việc đầu tư trường lớp, ngành học mầm non trong
thời gian qua còn nhiều hạn chế, bất cập, tình trạng con em của công nhân lao
động chưa có chỗ gửi học để yên tâm lao động, sản xuất (chủ yếu tập trung ở
phía nam của Tỉnh). Do vậy Nhà nước cần có chủ trương đầu tư và xã hội hóa
mạnh hơn để ngành học này phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu gửi trẻ của nhân
dân.
Về nhà ở: Do dân số cơ học tăng nhanh, việc đầu tư xây dựng nhà ở đảm
bảo đúng quy chuẩn về xây dựng và môi trường chưa đáp ứng kịp nhu cầu. Vì
vậy, một bộ phận người dân, nhất là công nhân xa quê phải sống trong các khu
nhà trọ thiếu tiện nghi và ô nhiễm.
Về văn hoá - xã hội: Đa số người lao động làm việc tại các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài, áp lực công việc luôn căng thẳng, không có thời gian và
điều kiện cho họ tham gia các hoạt động vui chơi giải trí, văn hóa văn nghệ, thể
dục thể thao, sinh hoạt cộng đồng.
- Thứ tư: Nguồn cung ứng lao động còn nhiều khó khăn, bất cập
Hiện tại tỉnh Bình Dương đang thiếu đội ngũ công nhân kỹ thuật có trình độ
tay nghề cao. Do đó, hầu hết các doanh nghiệp FDI, mà đặc biệt là các doanh
nghiệp trong khu công nghiệp, cụm công nghiệp gặp rất nhiều khó khăn trong việc
tuyển dụng đủ nguồn lao động. Vì hiện nay trình độ dân trí của người dân tại địa
phương còn thấp. Do vậy, khi tuyển dụng thì các DN đều phải đào tạo lực lượng lao
động này, làm tốn nhiều thời gian và chi phí của doanh nghiệp.
Chính sách đào tạo lao động của tỉnh vẫn còn nhiều bất cập, thiếu tính thực
tiễn. Quá trình CNH ở các địa phương khác cũng đang diễn ra nhanh chóng, cơ hội
59
tìm kiếm việc làm ở tại các địa phương khác tăng lên. Do vậy, ngày càng khó thu
hút lực lượng lao động ngoài tỉnh đến làm việc, thậm chí nguồn lao động tỉnh Bình
Dương lại chuyển qua các địa phương khác như TP. HCM. Long An và Đồng
Nai...
Mặc dù những năm gần đây công tác dạy nghề đã được lãnh đạo các cấp, các
ngành quan tâm chỉ đạo, đầu tư và nỗ lực đưa ra nhiều chính sách, nhiều cách thực
hiện, song sự chuyển biến vẫn chậm, chưa đáp ứng so với nhu cầu của các KCN,
Bình Dương vẫn đang trong tình trạng thiếu hụt trầm trọng nguồn lao động qua đào
tạo. Sự chuyển dịch cơ cấu lao động không theo kịp tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh
tế đang diễn ra trong tỉnh. Lao động nông thôn giảm nhưng không đáng kể, vẫn
chiếm 35% tổng số lao động toàn tỉnh, hầu hết trình độ văn hoá thấp, không qua đào
tạo nghề. Hàng năm, có hơn 15 ngàn người bước vào tuổi lao động, khoảng 4 nghìn
thanh niên hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về. Trong khi đó, từ năm 2010 trở lại
đây, trung bình mỗi năm tỉnh thu hút khoảng 150 dự án và do sự phát triển của các
doanh nghiệp kéo dài theo nhu cầu của thị trường lao động cần tới khoảng 40.000
lao động mỗi năm.
Thực trạng này đã buộc Bình Dương phải liên kết với một số tỉnh để giải
quyết mâu thuẫn giữa cung và cầu lao động. Tính đến nay, ngoài lượng dân số là
1.000.000 dân, Bình Dương còn có thêm 800.000 dân nhập cư, và số lao động ngoại
tỉnh chiếm khoảng gần 70% trong tất cả các loại hình doanh nghiệp, riêng KCN lao
động ngoại tỉnh chiếm 90%. Bên cạnh nguyên nhân chính nói trên, còn một số
nguyên nhân khác khiến Bình Dương cung cấp quá ít lao động vào làm việc tại các
KCN, đó là do một số doanh nghiệp không tuyển lao động từ 35 tuổi trở lên, do bản
thân lao động Bình Dương không muốn vào làm việc tại các doanh nghiệp, đặc biệt
là các doanh nghiệp dệt may da giầy bởi lương thấp, thời gian làm việc luôn kéo
dài, tác phong công nghiệp gò bó v.v.. hoặc do họ không muốn phải xa nhà.
Mặt khác, kinh tế Bình Dương phát triển nhanh, người dân giàu lên nhờ tiền
đền bù đất và kiếm tiền khá dễ nhờ kinh doanh dịch vụ cho thuê nhà trọ, buôn bán
v.v.. nên không có nhu cầu vào làm việc tại các KCN. Đây cũng là một trong những
60
yếu tốt gây khó khăn trong việc tuyên truyền, vận động người dân tham gia học
nghề. Bên cạnh đó đời sống vật chất, trình độ văn hoá, chuyên môn kỹ thuật của
người lao động thấp kết cấu cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội phát triển chậm, các lĩnh
vực văn hoá, y tế, giáo dục và các lĩnh vực phúc lợi khác không theo kịp với sự phát
triển của công nhân và dân cư, điều đó dẫn đến cuộc sống người lao động càng gặp
thêm khó khăn, nhất là nhà ở.
Do công nhân lao động chủ yếu là ngoài tỉnh xuất thân từ vùng nông thôn,
chỉ quen với làm nông nghiệp, nên trình độ mọi mặt còn hạn chế, nhận thức về
các vấn đề xã hội, chính trị, pháp luật thấp, số lao động chủ yếu được thu nạp
từ lao động giản đơn chưa qua đào tạo nghề, khi được tuyển dụng vào doanh
nghiệp được một số doanh nghiệp đào tạo cấp tốc ngắn hạn còn lại quan sát,
làm theo là chủ yếu, chỉ cần đáp ứng yêu cầu công việc của công nghệ sản xuất
ở doanh nghiệp, nên trình độ tay nghề, kỹ thuật của người lao động rất thấp.
Công tác đào tạo nguồn nhân lực của Tỉnh vẫn còn những bất cập, chưa đáp
ứng yêu cầu phát triển. Rất nhiều lao động chưa qua đào tạo nên năng suất,
chất lượng lao động thấp, dẫn đến thu nhập thấp. (Xem phụ lục 2.8)
61
TÓM TẮT CHƯƠNG 2
Trong chương 2, luận văn tập trung đi sâu nghiên cứu về điều kiện tự nhiên-
kinh tế -xã hội, những tiềm năng và lợi thế của tỉnh Bình Dương trong thu hút đầu
tư trực tiếp nước ngoài, từ đó khẳng định Bình Dương là một trong những địa
phương nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có nhiều lợi thế trong thu
hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Luận văn đã khảo sát, làm rõ tình hình phát triển kinh tế xã hội của tỉnh giai
đoạn 2010- 2015; phân tích, nhận định, đánh giá về những tác động tích cực đối với
sự phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn Tỉnh.
Luận văn cũng chỉ ra một số mặt hạn chế và tác động tiêu cực của FDI, tìm
hiểu nguyên nhân chủ yếu đưa tới những hạn chế và tác động tiêu cực này, làm cơ
sở cho việc đề xuất phương hướng và giải pháp đẩy mạnh việc thu hút và sử dụng
hiệu quả nguồn vốn FDI trên địa bàn tỉnh Bình Dương trong thời gian tới.
62
CHƯƠNG 3
QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY
TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC
CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TỚI SỰ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ -XÃ HỘI CỦA TỈNH BÌNH DƯƠNG
----------
3.1. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN
3.1.1.Quan điểm về phát triển kinh tế
Quán triệt các chủ trương, nghị quyết của Đảng, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân
Tỉnh đã chỉ đạo các các ngành, các cấp trong tỉnh phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng
kinh tế cao và phát triển bền vững trên cơ sở chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
tăng nhanh khu vực dịch vụ, phát triển đô thị hóa, phát triển công nghệ cao; gắn kết
nhanh với hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội vùng Đông Nam Bộ và vùng
Kinh tế trọng điểm phía Nam; giữ vững an ninh chính trị trật tự xã hội, quốc phòng
và bảo vệ môi trường sinh thái có hiệu quả.
Thực hiện chủ trương đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây
dựng Bình Dương cơ bản trở thành một tỉnh công nghiệp vào năm 2020, cần quán
triệt tốt một số quan điểm chủ yếu sau:
- Khai thác tốt tiềm năng, lợi thế của tỉnh; huy động mọi nguồn lực thúc đẩy
kinh tế-xã hội phát triển nhanh, ổn định và bền vững.
- Duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao (10% trở lên); tạo sự chuyển biến
nhanh về chuyển dịch cơ cấu kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đầu
tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội và quá trình đô thị hóa.
- Tập trung phát triển công nghiệp gắn với việc ổn định và nâng cao chất
lượng sản xuất công nghiệp, dịch vụ; gắn kết chặt chẽ và nâng cao chất lượng, hiệu
quả hợp tác phát triển trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam;
- Đẩy mạnh phát triển hạ tầng-kinh tế xã hội, nhất là hạ tầng giao thông, hạ
tầng đô thị, hạ tầng khu, cụm công nghiệp, khu kinh tế cửa khẩu; đẩy mạnh cải cách
63
hành chính và phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, xem đây là các khâu đột phá quan trọng;
- Gắn phát triển kinh tế với đảm bảo an sinh xã hội và bảo vệ môi trường; sử
dụng hợp lý có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Trong giai đoạn 2015 -2025, tiếp tục phát triển các ngành có ưu thế, có giá trị
gia tăng cao để phục vụ nhu cầu trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu; đồng thời nâng
cao năng lực và sức cạnh tranh của doanh nghiệp chủ lực theo hướng đầu tư ra
ngoài tỉnh và ra nước ngoài.
Tiếp tục chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp, dịch vụ và
nông nghiệp. Tập trung nguồn lực phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với
hiện đại hóa và công nghiệp hóa tạo đột phá cho phát triển.
Ưu tiên phát triển một số công trình quan trọng phục vụ con người về giáo
dục, đào tạo, chăm sóc sức khỏe tạo ra sự chuyển biến lớn về an sinh xã hội trên địa
bàn.
Phát triển kinh tế đồng bộ với phát triển xã hội; gắn với quốc phòng - an ninh
để đảm bảo quá trình phát triển được ổn định và bền vững.
3.1.2. Quan điểm về thu hút và nâng cao hiệu quả của FDI
Trong tổng thể chiến lược phát triển kinh tế-xã hội chung của tỉnh, nguồn vốn
FDI có một vị thế, vai trò hết sức quan trọng trong cơ cấu kinh tế của địa phương.
Nhiệm vụ đặt ra là tỉnh Bình Dương cần tiếp tục cải thiện môi trường thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài, tạo sự bình đẳng, minh bạch, ổn định và thông thoáng trong
đầu tư, tạo mọi điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp FDI phát triển sản xuất kinh
doanh có hiệu quả, tạo điều kiện giải quyết việc làm cho lao động nhàn rỗi tại địa
phương, tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn FDI, tỉnh cần phải nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, hoàn thành cơ bản việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
trong các lĩnh vực sản xuất trọng yếu của tỉnh, tăng tỷ lệ lao động đã qua đào tạo có
tay nghề; đồng thời đẩy mạnh phát triển và chuyển giao công nghệ, đặc biệt là việc
hợp tác và chuyển giao công nghệ tiên tiến từ các dự án FDI; khuyến khích phát
64
triển công nghệ cao, chú trọng việc chuyển giao công nghệ, áp dụng công nghệ mới
thông qua các hoạt động hợp tác kinh tế, các hoạt động FDI và các hoạt động
thuơng mại quốc tế
Bình Dương hiện có quỹ đất sạch lớn, hạ tầng đồng bộ hiện đại là những tiền
đề thuận lợi để tiếp tục thu hút mạnh đầu tư, nhất là thu hút đầu tư nước ngoài trong
thời kỳ hậu suy thoái, khủng hoảng. Bình Dương cần xác định mô hình phát triển
theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp; tiếp
tục phát triển mạnh công nghiệp - dịch vụ - đô thị; tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp chủ lực của tỉnh tiếp tục đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng theo hướng đồng bộ,
văn minh và hiện đại.
Tập trung làm tốt công tác quy hoạch phát triển các khu, cụm công nghiệp gắn
với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và nhất là đảm bảo tính phù hợp
với quy hoạch phát triển vùng, nối kết thuận lợi với hạ tầng kỹ thuật của Vùng kinh
tế trọng điểm phía Nam nhằm tạo cơ sở vật chất đồng bộ để thu hút đầu tư của các
doanh nghiệp nước ngoài .
Thực hiện đúng các quy định của Trung ương về quản lý đầu tư nước ngoài
một các linh hoạt; thực hiện tốt các chương trình, đề án cải cách thủ tục nhằm rút
ngắn thời gian thực hiện các thủ tục hành chính, giảm chi phí gia nhập thị trường
của doanh nghiệp. Đảm bảo tính minh bạch, công khai và khả năng tiếp cận thông
tin cho doanh nghiệp như: về quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phát
triển ngành và thông tin về các chủ trương, mục tiêu định hướng mời gọi đầu tư của
tỉnh.
Trong vận động thu hút đầu tư, ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp sạch,
công nghiệp điện tử; máy nông nghiệp; chế biến nông sản; xử lý môi trường và tiết
kiệm năng lượng; sản xuất ô tô và phụ tùng ô tô thành những ngành công nghiệp
chủ lực của nền kinh tế, có giá trị gia tăng cao và năng lực cạnh tranh quốc tế. Hạn
chế thu hút mới các dự án công nghiệp gia công sử dụng nhiều nguyên liệu nhập
khẩu, tiêu hao nhiều năng lượng, tài nguyên và gây ô nhiễm môi trường.
65
3.1.3. Quan điểm về giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội do tác động của
FDI.
Từ quan điểm chỉ tập trung phát triển kinh tế trong giai đoạn đầu, tỉnh cần
chuyển sang tư duy chú trọng phát triển kinh tế gắn liền với thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội, giải quyết tốt các vấn đề xã hội là động lực thúc đẩy phát triển
kinh tế; kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội, bảo đảm vừa đạt được
tăng trưởng kinh tế, vừa giữ được ổn định xã hội. Chú trọng thực hiện tốt các chính
sách xã hội, đồng thời, vận dụng phù hợp với thực tiễn của địa phương, khắc phục
thái độ xem nhẹ các vấn đề xã hội, chú trọng yếu tố con người trong quá trình phát
triển.
Để giải quyết các tác động tiêu cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài Đảng bộ,
chính quyền Tỉnh cần nỗ lực tìm tòi, thử nghiệm nhiều cơ chế, giải pháp giải quyết
những vấn đề bức xúc trong cuộc sống trên cơ sở vừa mang tính nghiêm minh của
luật pháp nhưng cũng không làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các nhà đầu tư nước
ngoài.
- Về vấn đề đình công tại các doanh nghiệp, lãnh đạo Tỉnh cần chỉ đạo tổ chức
công đoàn phát huy vai trò bảo vệ quyền lợi cho người lao động tại các doanh
nghiệp có vấn đầu tư nước ngoài. Hạn chế đến mức thấp nhất khả năng công nhân
bị các thành phần phản động kích động để tổ chức đình công gây ảnh hưởng đến
quá trình sản xuất và kinh doanh của các doanh nghiệp.
- Về vấn đề đào tạo nghề cho công nhân, một mặt Tỉnh cần đẩy mạnh công tác
đào tạo nghề mặt khác chủ động liên hệ với các tỉnh, thành khác trong cả nước để
cung ứng lao động cho tỉnh, đồng thời giải quyết các chế độ phúc lợi xã hội, giáo
dục, y tế cho người lao động để giúp họ an tâm làm việc.
- Về vấn đề nhà ở xã hội cho công nhân có thu nhập thấp. Ủy ban nhân dân
Tỉnh cần ban hành các quy định trình tự, thủ tục, điều kiện và thứ tự ưu tiên trong
việc xét duyệt đối tượng thuê, thuê mua nhà ở xã hội trên địa bàn tỉnh Bình Dương
để công nhân, người lao động có thu nhập thấp và trung bình có cơ hội được sở hữu
căn hộ cho riêng mình.
66
- Các vấn đề phát sinh khác do đầu tư trực tiếp nước ngoài gây ra cần được
lãnh đạo Tỉnh chỉ đạo giải quyết đúng quy định của pháp luật trên tinh thần công
khai, minh bạch và có sức thuyết phục đối với công nhân, người lao động và doanh
nghiệp.
Rút kinh nghiệm từ sự kiện ngày 13/5/2014 lãnh đạo tỉnh Bình Dương cần chủ
động lên kế hoạch, chuẩn bị phương án đối phó kịp thời nếu tình trạng trên nếu có
xảy ra nhằm tạo tâm lý ổn định cho các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các nhà
đầu tư đến tư Trung Quốc và Đài Loan.
3.2. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỤC TIÊU
3.2.1. Những phương hướng cơ bản
Việc xác định phương hướng để nâng cao hiệu quả và hạn chế tác động tiêu
cực của FDI trên địa bàn tỉnh Bình Dương là rất quan trọng và cấp thiết. Cụ thể như
sau:
- Tập trung kêu gọi các dự án FDI có quy mô vốn đầu tư lớn, công nghệ tiến
tiến, các dự án thân thiện với môi trường để đảm bảo cho việc phát triển kinh tế-xã
hội mang tính bền vững.
- Chú trọng phát triển và kêu gọi các dự án FDI đầu tư vào các ngành, lĩnh vực
mũi nhọn cần ưu tiên, phù hợp với điều kiện đặc thù của Tỉnh như công nghệ thông
tin, điện tử, vi điện tử, công nghệ sinh học, cao su, chế biến nông-lâm-thủy sản …
- Khuyến khích thu hút FDI vào ngành công nghiệp phụ trợ nhằm giảm chi phí
đầu vào về nguyên-phụ liệu của các ngành công nghiệp, góp phần nâng cao năng
lực cạnh tranh của sản phẩm sản xuất trong nước.
- Chú trọng thu hút các dự án FDI trong các khu, cụm công nghiệp đã được
thành lập (như Cây Trường (Dầu Tiếng), An Lập (Dầu Tiếng), Lai Hưng (Bàu
Bàng), Vĩnh Hiệp (Phú Giáo), Tân Lập (Bắc Tân Uyên), Bình Mỹ (Bắc Tân Uyên),
Thường Tân (Bắc Tân Uyên).
- Hết sức coi trọng thu hút FDI gắn với nghiên cứu phát triển và chuyển giao
công nghệ, chú trọng công nghệ nguồn từ các nước công nghiệp phát triển như Hoa
Kỳ, EU, Nhật Bản …
67
- Hạn chế hoặc không tiếp nhận các dự án đầu tư hoạt động kém hiệu quả, gây
lãng phí lớn trong việc quản lý và sử dụng đất đai, gây dư luận, bức xúc nhân dân ...
- Thường xuyên kiểm tra những doanh nghiệp nước ngoài có dấu hiệu trốn
thuế, gây ô nhiễm môi trường, không đảm bảo về vệ sinh an toàn lao động…Kịp
thời khen thưởng và tuyên dương các doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh doanh
có hiệu quả, đóng góp vào ngân sách nhà nước cáo và thực hiện tốt các hoạt động vì
cộng đồng xã hội.
3.2.2. Những mục tiêu chủ yếu
Mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của Tỉnh đã được cụ thể hoá thành chỉ tiêu
tăng trưởng kinh tế (GDP) giai đoạn 2016-2020 tăng bình quân hàng năm là 13%
trở lên, trong đó vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thu hút hàng năm khoảng 1- 1,2 tỷ
USD. Phấn đầu đến năm 2025 lắp đầy trên 80% đất các khu công nghiệp trên địa
bàn tỉnh.
Để nâng cao hiệu quả của đầu tư trực tiếp nước ngoài, lãnh đạo tỉnh cũng đưa
ra các mục tiêu cần đạt được trong thời gian tới.
Đến năm 2025, dự kiến toàn tỉnh sẽ có tổng cộng 35 KCN với tổng diện tích
gần 13.764,8 ha tăng thêm 07 khu, gồm: Cây Trường 500 ha (Dầu Tiếng), An Lập
500 ha (Dầu Tiếng), Lai Hưng 1.000 ha (Bàu Bàng), Vĩnh Hiệp 1000 ha (Phú
Giáo), Tân Lập 800 ha (Bắc Tân Uyên), Bình Mỹ 500 ha (Bắc Tân Uyên), Thường
Tân 1.300 ha (Bắc Tân Uyên).
68
Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh Bình Dương tới năm 2020 và
2025
TT Tiêu chí ĐVT 2020 2025
13,6%/ năm
14,2%/ năm
phẩm trong tỉnh 1 % Tổng sản tăng bình quân hàng năm
11.000/ người/ năm
12.000/ người/ năm
2.1%
2,5%
2 GDP bình quân đầu người/năm cuối giai đoạn USD
10.21%
10,81%
% 3
15.15%
15,61%
% 4
% 5
3.15%
1,97%
6 Giá trị sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp tăng bình quân hàng năm Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân hàng năm Giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng bình quân hàng năm Cơ cấu ngành kinh tế trong GDP năm cuối giai đoạn
48.02%
49,03%
- Nông - lâm - thủy sản %
48.83%
49%
- Công nghiệp - Xây dựng %
8.7%
8.9%
- Dịch vụ %
8.9%
9.2%
% 7 Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân hàng năm
% 8 Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tăng bình quân hàng năm
7 Tỷ USD
7.5 Tỷ USD Nguồn: Tỉnh ủy Bình Dương, Chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm
10 Tổng vốn thu hút đầu tư FDI Triệu USD
2025. Bình Dương tháng 12 năm 2014
69
Theo báo cáo của Ủy ban nhân dân tỉnh, trong những năm gần đây, tỷ lệ lao
động qua đào tạo nghề tăng nhanh, năm 2010 là 51%, năm 2014 là 60% và dự kiến
đến năm 2025 là 75%. Đến năm 2025, Bình Dương đã có 12 cơ sở đào tạo đại học,
10 trường cao đẳng, 13 trường trung cấp, 30 cơ sở đào tạo nghề. Sự phát triển giáo
dục tạo điều kiện cho Bình Dương không ngừng nâng cao chất lượng lao động trong
các thành phần kinh tế.
3.3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY TÁC ĐỘNG
TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA ĐẦU TƯ TRỰC
TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI) TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN
NĂM 2025.
3.3.1. Hoàn thiện cơ chế, chính sách, quy hoạch, kế hoạch thu hút nguồn
vốn FDI
Thời gian qua, việc ra đời của Luật Đầu tư chung và các nghị định hướng dẫn
thi hành đã góp phần tạo ra môi trường đầu tư thông thoáng hơn trước, thủ tục hành
chính được công khai, minh bạch. Theo đó, việc phân cấp thẩm quyền cấp Giấy
chứng nhận FDI cho các tỉnh, thành phố, giúp cho các nhà đầu tư nước ngoài
không phải mất nhiều thời gian trong việc hoàn chỉnh hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng
nhận đầu tư cho dự án. Đây là một trong những nỗ lực lớn của các Bộ, ngành Trung
ương trong việc thực hiện chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà
nước trong việc thu hút và kêu gọi FDI.
Tuy nhiên, thời gian qua hầu như ở mỗi địa phương đều có cách làm riêng,
điều này làm cho công tác quản lý Nhà nước về FDI thêm nhiều khó khăn. Thậm
chí, có trường hợp một số địa phương muốn thu hút mạnh các dự án FDI vào địa
phương mình nên đã tự ý “xé rào” bằng cách đưa ra nhiều ưu đãi cho dự án. Nghĩa
là ngoài những ưu đãi chung do Trung ương quy định thì nhà FDI khi đầu tư vào
địa phương đó còn được hưởng thêm những ưu đãi khác về miễn giảm tiền thuê đất,
tiền thuế…vv. Điều này tạo ra một tiền lệ rất nguy hiểm trong việc không tuân thủ
các quy định chung của Nhà nước, dẫn đến tình trạng chạy đua giữa các địa phương
trong cả nước về thu hút FDI. Do đó, Trung ương cần sớm ban hành thông tư hướng
70
dẫn nhằm giúp cho các địa phương hiểu, vận dụng và thực thi văn bản một cách rõ
ràng, chính xác, tránh tình trạng mỗi địa phương hiểu và thực hiện theo cách riêng
của mình.
Cần sớm sửa đổi bổ sung về chế độ tiền lương, thưởng, các khoản phụ cấp.v.v
mà lực lượng lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp FDI được hưởng,
nhằm ngày càng hoàn thiện khung pháp lý về sử dụng lao động, không để cho các
doanh nghiệp FDI lợi dụng sức lao động của công nhân như tình trạng đã và đang
diễn ra trên cả nước nói chung và tỉnh Bình Dương nói riêng. Cụ thể là các Bộ,
ngành Trung ương sớm tham mưu trình Chính phủ sửa đổi, bổ sung các mức xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo vệ môi trường, pháp luật đất
đai theo hướng tăng các mức phạt nặng đối với các hành vi vi phạm này, trong một
số trường hợp cố tình vi phạm hoặc vi phạm mang tính chất tinh vi thì có thể truy
cứu trách nhiệm hình sự. Có như vậy, công tác quản lý Nhà nước về FDI mới có thể
đi vào nề nếp, đảm bảo được tính răn đe và tính thống nhất cao trong công tác quản
lý Nhà nước, nhằm nâng cao hơn nữa ý thức trách nhiệm của các doanh nghiệp FDI
trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, cũng như góp phần nâng cao đạo
đức kinh doanh của chủ doanh nghiệp.
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cần phối hợp chặt chẽ với Công đoàn các
Khu công nghiệp, khu chế xuất, Khu công nghệ cao trên cả nước để kịp thời hướng
dẫn, tháo gỡ những khó khăn trong vấn đề đình công, lãn công của công nhân một
cách tự phát, trực tiếp hoặc gián tiếp đối thoại với chủ doanh nghiệp FDI để tìm ra
những giải pháp thích hợp, hài hòa lợi ích giữa chủ doanh nghiệp và công nhân,
nhằm bảo vệ quyền lợi và lợi ích chính đáng của người lao động, có như vậy mới có
thể kéo giảm tình trạng đình công, lãn công tự phát.
Tóm lại, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến FDI cần phải
sớm được xây dựng và ban hành đồng bộ, thống nhất và kịp thời. Trên cơ sở đó, các
địa phương trong cả nước sẽ hiểu và vận dụng một cách thống nhất và đồng bộ hơn,
làm cho công tác quản lý Nhà nước về FDI ngày càng đi vào nề nếp và ổn định hơn.
71
Đối với tỉnh Bình Dương, cần chú trọng hoàn thiện một số cơ chế, chính
sách sau:
- Kiến nghị Chính phủ rà soát pháp luật, chính sách về đầu tư, kinh doanh để
sửa đổi các nội dung không đồng bộ, thiếu nhất quán, bổ sung các nội dung còn
thiếu; sửa đổi các quy định còn bất cập, chưa rõ ràng liên quan đến thủ tục đầu tư và
kinh doanh.
- Kiến nghị ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực: đầu tư
sản xuất trong khu công nghiệp, công nghệ cao, phát triển nhà ở xã hội và nhà ở cho
người có thu nhập thấp; xây dựng công trình phúc lợi (nhà ở, bệnh viện, trường học,
văn hoá, thể thao) cho người lao động làm việc trong các doanh nghiệp..
- Thực hiện các biện pháp thúc đẩy triển khai sớm các dự án đầu tư giải ngân
vốn đầu tư theo đúng tiến độ đã cam kết; không cấp phép cho các dự án công nghệ
lạc hậu, dự án tác động xấu đến môi trường;
- Thẩm tra kỹ các dự án sử dụng nhiều đất, giao đất có điều kiện theo tiến độ
dự án; cân nhắc về tỷ suất đầu tư/diện tích đất. Tiến hành rà soát các dự án đã cấp
giấy chứng nhận đầu tư trên địa bàn để có hướng xử lý đối với từng loại dự án. Cá
biệt có thể tiến hành thu hồi các dự án không có khả năng triển khai, các dự án ô
nhiễm hoặc có nguy cơ ô nhiễm;
- Phối hợp với các Sở ngành chuyên môn tăng cường công tác kiểm tra, thanh
tra, điều tra để kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật về
bảo vệ môi trường, an toàn vệ sinh thực phẩm và chất thải tại các doanh nghiệp, bảo
đảm sức khỏe cộng đồng.
- Cần thống nhất luật đầu tư nước ngoài và luật đầu tư trong nước, áp dụng
thống nhất chính sách thuế, các loại giá cả dịch vụ (tiền đất, điện, nước, bưu chính
viễn thông, hàng không...) đối với các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Phải
luật hoá quy trình thành lập và hoạt động của các khu công nghiệp. Trong Luật đầu
tư cần quy định cụ thể hơn mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung sinh hoạt của tổ chức
Công đoàn, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và chi bộ Đảng tại các doanh
72
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và quan hệ giữa các tổ chức đó với những người
quản lý doanh nghiệp.
- Triển khai chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhập khẩu công nghệ nguồn, công
nghệ cao, mua thiết kế, thuê chuyên gia trong và ngoài nước thuộc các lĩnh vực ưu
tiên phát triển của tỉnh.
- Cần có chính sách thu hút đầu tư đối với ngành công nghiệp phụ trợ và bổ
sung chế độ ưu đãi đối với các ngành công nghiệp phụ trợ mà trong nước chưa đáp
ứng được, nhằm hạn chế sự lệ thuộc quá nhiều vào các nước khác. Đồng thời cần có
chính sách khuyến khích ưu đãi những dự án đầu tư đồng bộ từ sản xuất nguyên
liệu, linh kiện- sản xuất, lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh. Có những ưu đãi hấp dẫn hơn
đối với những vùng và ngành cần ưu tiên, nhất là vùng sâu, vùng xa, những ngành
công nghiệp chế biến xuất khẩu sử dụng nguyên liệu trong nước và công nghệ cao.
- Kiểm soát các hoạt động chuyển giá và trốn thuế của các nhà đầu tư: Hiện
tượng các nhà đầu tư nước ngoài định giá cao hơn so với giá thị trường quốc tế và
trong nước các thiết bị máy móc, công nghệ và nguyên vật liệu nhập khẩu; đồng
thời định giá thấp hơn giá thị trường đối với các sản phẩm và dịch vụ xuất khẩu
trong nội bộ các Công ty của các tập đoàn xuyên quốc gia là một hiện tượng có thật
và tương đối phổ biến hiện nay. Để góp phần ngăn chặn các hiện tượng trên Bình
Dương cần thường xuyên phối hợp với các tổ chức thuế quan và hải quan để kiểm
tra vấn đề chuyển giao giá cả của các công ty có vốn đầu tư nước ngoài. Đặc biệt là
nâng cao vai trò và năng lực giám sát của lực lượng này tại địa phương. Có biện
pháp khuyến khích khen thưởng những đơn vị làm tốt, kiên quyết xử lý và ngăn
chặn các đơn vị vi phạm theo pháp luật của Việt Nam và các quy định của thông lệ
quốc tế. Kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền mời các công ty giám định quốc tế
tham gia giám định quá trình chuyển gía nếu phát hiện thấy có dấu hiệu vi phạm.
- Cần xây dựng luật khu công nghiệp: KCN ngày càng thể hiện tốt vai trò
trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nhiều địa phương và của cả nước, tuy
nhiên đến nay các văn bản pháp lý liên quan đến KCN chưa được hoàn chỉnh. Luật
Đầu tư là luật cơ bản để thu hút đầu tư và phát triển các KCN, tuy nhiên khi có sự
73
mâu thuẫn giữa Luật Đầu tư và các Luật chuyên ngành, thì phải tuân thủ luật
- Phát huy vai trò của tổ chức Công đoàn tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư
chuyên ngành làm cho hoạt động của KCN ngày càng khó khăn hơn.
nước ngoài. Trên cơ sở phối hợp với chủ doanh nghiệp tổ chức Công đoàn phải thể
hiện trách nhiệm của mình đối với quyền và lợi ích của người lao động trong các
doanh nghiệp. Hạn chế tối đa các trường hợp đình công tập thể gây ảnh hưởng đến
hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới và cải cách thủ tục hành chính gắn với quá trình
phân cấp quản lý Nhà nước nói chung và quản lý đầu tư nói riêng. Thành lập đường
dây nóng tại các cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư nhằm nắm bắt kịp thời, xử lý
những vướng mắc của các nhà đầu tư và khắc phục được tình trạng nhũng nhiễu,
gây phiền hà đối với các nhà đầu tư của một bộ phận cán bộ công chức làm công
việc có liên quan đến đầu tư trực tiếp nuớc ngoài.
Về công tác quy hoạch, kế hoạch trên địa bàn tỉnh Bình Dương, cần:
- Làm tốt công tác xây dựng quy hoạch và quản lý quy hoạch các khu công
nghiệp, cụm công nghiệp, quy hoạch sử dụng đất chi tiết; rà soát điều chỉnh cho phù
hợp và kịp thời đối với các khu công nghiệp đã triển khai; có kế hoạch cụ thể để
thực hiện các quy hoạch đã được duyệt.
- Sớm ban hành một quy hoạch tổng thể của từng vùng tránh việc các địa
phương tự thực hiện quy hoạch cho địa phương mình và chưa gắn kết với vùng gây
lãng phí nguồn lực và không tận dụng hết ưu thế của từng địa phương. Hiện tại các
địa phương ở phía Nam của Tỉnh như Thị xã Dĩ An, Thị xã Thuận An, TP. Thủ Dầu
Một, tỷ lệ lắp kín các khu công nghiệp gần 65%, trong khi các địa phương ở phía
Bắc như Bàu Bàng, Bắc Tân Uyên, Phú Giáo, Dầu Tiếng quỹ đất sạch còn nhiều, cơ
sở hạ tầng từng bước được nâng cao thì việc phát triển các khu, cụm các địa phương
này là cần thiết nhằm phát triển kinh tế của các huyện phía Bắc.
- Lập kế hoạch và tiến hành rà soát các dự án nhà ở xã hội, khu dân cư, tạo
điều kiện thuận lợi cho các chủ đầu tư triển khai dự án theo quy hoạch đảm bảo
thực hiện đúng thiết kế và các điều kiện về mội trường, an toàn lao động. Đồng thời
74
tăng cường thực hiện công tác hậu kiểm theo chức năng thông qua phối hợp thanh
tra, kiểm tra tình hình hoạt động của các dự án có vốn đầu tư nước ngoài trên địa
bàn tỉnh nhằm nắm bắt kịp thời tình hình hoạt động của doanh nghiệp. Vận động
các doanh nghiệp và các chủ đầu tư khu công nghiệp triển khai có hiệu quả chương
trình phát triển nhà ở xã hội cho công nhân trên địa bàn tỉnh.
- Lập kế hoạch và tiến hành di dời các cơ sở ô nhiễm trong khu đô thị, dân cư
vào các khu, cụm công nghiệp. Nhà nước và chủ đầu tư các khu công nghiệp tập
trung phải đầu tư thiết bị hiện đại quản lý chất thải công nghiệp và dân sinh đô thị,
bảo vệ hiệu quả môi trường của tỉnh; Có kế hoạch và biện pháp kiểm soát chặt chẽ
các nguồn ô nhiễm, hạn chế phát sinh các điểm nóng về môi trường; Tăng cường
công tác thanh tra, kiểm tra của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong các
doanh nghiệp FDI đối với quy trình xử lý chất thải; yêu cầu doanh nghiệp FDI trước
khi thành lập phải nêu các phương án biện pháp khắc phục chất thải ra môi trường
bên ngoài và phải được cơ quan thẩm quyền phê duyệt. Tăng cường công tác kiểm
tra của các cơ quan nhà nước đối với việc nhập khẩu các thiết bị dây chuyền công
nghệ, nhằm tránh phải nhập khẩu những máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ
lạc hậu gây ảnh hưởng đến môi trường. Trong thời gian tới cần nghiên cứu để đưa
ra những chế tài xử phạt nghiêm khắc đối với nhà đầu tư nước ngoài vi phạm pháp
luật về bảo vệ môi trường; tăng cường và khuyến khích sử dụng các dự án FDI đối
với hoạt động bảo vệ môi trường như: trồng rừng, đầu tư vào xử lý rác thải và chất
thải công nghệ.
- Thường xuyên giám sát tình hình chấp hành luật lao động của các chủ doanh
nghiệp nhất là các chế độ về lao động, tiền lương, ký kết thoả ước lao động tập
thể… nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động và chủ doanh nghiệp.
Theo sát diễn biến và giải quyết kịp thời các tranh chấp lao động, các vụ việc vi
phạm luật lao động gây ảnh hưởng đến dư luận xã hội và môi trường đầu tư. Việc
giải quyết mối quan hệ chủ thợ ở khu vực hợp tác đầu tư nước ngoài dưới nhiều
hình thức khác nhau là yếu tố quan trọng đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển sản
xuất.
75
3.2.2. Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về thu hút và sử dụng
nguồn vốn FDI.
Để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ mà Đại hội tỉnh Đảng bộ đã đề ra, lãnh đạo
địa phương cần khẩn trương rà soát lại các điều kiện đầu tư, kinh doanh nhằm kiến
nghị cơ quan có thẩm quyền bãi bỏ, sửa đổi bổ sung các điều kiện không còn phù
hợp với điều kiện cụ thể và tình hình thực hiện của tỉnh.
Theo dõi, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư để kịp thời phát hiện và
xử lý những vướng mắc phát sinh; nghiêm túc thực hiện đầy đủ chức năng quản lý
Nhà nuớc về FDI theo quy định của pháp luật về đầu tư và pháp luật chuyên ngành
khác. Đồng thời tuỳ vào điều kiện và tình hình thực tế của địa phương, tỉnh cần chủ
động vận dụng, tổ chức triển khai và giám sát việc thực hiện các chủ trương của
Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước về các vấn đề có liên quan đến FDI sao
cho đạt hiệu quả cao, đảm bảo hài hoà mối quan hệ giữa nhà FDI với lợi ích của địa
phương trong khuôn khổ cho phép của pháp luật trong quá trình phát triển kinh tế-
xã hội bền vững của địa phương, nhằm mục tiêu đưa tỉnh Bình Dương cơ bản trở
thành tỉnh công nhiệp vào năm 2020.
Khẩn trương công bố Danh mục các dự án kêu gọi đầu tư của tỉnh Bình
Dương giai đoạn 2016-2020 và định hướng đến năm 2025 để đăng báo công khai
kêu gọi đầu tư; xây dựng chương trình vận động và xúc tiến FDI, cần chú trọng vào
các ngành công nghiệp phụ trợ của một số ngành chế tạo, lắp ráp xe máy, ôtô, điện,
điện tử, kết cấu hạ tầng xã hội; đồng thời cần chú trọng công tác cập nhật, rà soát và
bổ sung vào Danh mục các dự án kêu gọi đầu tư của tỉnh trong từng giai đoạn, phù
hợp với nhu cầu, quy hoạch phát triển ngành và địa phương.
- Quan tâm hơn nữa hoạt động xúc tiến đầu tư, bởi vì đây là công đoạn đầu
tiên và quan trọng nhất để các nhà đầu tư nước ngoài xem xét, lựa chọn và quyết
định đầu tư hay không. Mặc dù Bình Dương đã chủ động thành lập Trung tâm xúc
tiến đầu tư-thương mại và du lịch, tuy nhiên, nhìn chung các hoạt động xúc tiến đầu
tư hiện nay còn hạn chế nhiều mặt, chất lượng của công tác xúc tiến và kêu gọi FDI
vào địa phương chưa đạt yêu cầu, kinh nghiệm xúc tiến đầu tư còn hạn chế, kinh
76
phí xúc tiến đầu tư hàng năm còn hạn hẹp, đặc biệt là cán bộ làm công tác xúc tiến
và kêu gọi đầu tư trực tiếp nước ngòai còn hạn chế về trình độ nghiệp vụ, ngoại
ngữ, chưa am hiểu về văn hoá của các nước đầu tư.
- Tiếp tục đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành chính theo mô hình một
cửa, công khai các loại hồ sơ, giấy tờ, thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp, đăng
ký cấp giấy chứng nhận đầu tư, nhằm đảm bảo sự thống nhất các quy trình, thủ tục
tại các cơ quan cấp phép đầu tư.
- Thực hiện tốt hơn nữa việc phân cấp quản lý FDI, đặc biệt trong việc cấp
Giấy chứng nhận đầu tư, nhưng phải chú ý tăng cường phối hợp thực hiện kiểm tra,
giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư.
- Tập trung chuẩn bị sẵn sàng mặt bằng cho dự án đầu tư, nghĩa là phải tạo
được quỹ đất đã được đền bù, giải toả; tăng khả năng cung ứng điện, nước sinh hoạt
và phục vụ cho sản xuất, xây dựng hoàn chỉnh và đồng bộ các nhà máy xử lý chất
thải trong các khu công nghiệp, các dịch vụ cung cấp thông tin, khả năng phát triển
ngành công nghiệp dịch vụ phụ trợ như ngân hàng, bảo hiểm...
- Thành lập đường dây nóng tại các cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư nhằm
nắm bắt kịp thời, xử lý những vướng mắc của các nhà đầu tư và khắc phục được
tình trạng nhũng nhiễu, gây phiền hà đối với các nhà đầu tư của một bộ phận cán bộ
công chức làm công việc có liên quan đến đầu tư trực tiếp nuớc ngoài. Đồng thời,
cần phải đề cao tinh thần trách nhiệm cá nhân trong việc xử lý công việc liên quan
đến FDI; đẩy mạnh giáo dục, tuyên truyền, kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm minh
các hành vi nhũng nhiễu đối với các nhà đầu tư của một số cán bộ công chức trong
các cơ quan hành chính Nhà nước các cấp.
- Củng cố tổ chức bộ máy; rà soát, sửa đổi bổ sung chức năng, nhiệm vụ; tiếp
tục đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành chính, trong đó tập trung xây dựng và
đưa trang web mức độ 3 vào sử dụng; duy trì và thực hiện tốt hệ thống quản lý chất
lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2008; kịp thời rà soát, đề nghị sửa đổi bổ
sung hoặc thay thế Bộ thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết theo quy
định pháp luật;
77
- Tiếp tục nâng cao hiệu quả việc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và tình
trạng nhũng nhiễu gây phiền hà đối với nhà đầu tư, doanh nghiệp có vôn đầu tư
nước ngoài. Đề cao tinh thần trách nhiệm cá nhân trong xử lý công việc, thực hành
tiết kiệm, chống lãng phí ở các cơ quan quản lý nhà nước liên quan trong lĩnh vực
đầu tư nước ngoài;
- Thường xuyên tiếp xúc doanh nghiệp để xử lý kịp thời các khó khăn, vướng
mắc trong quá trình thực hiện chính sách và phát luật hiện hành, đảm bảo các dự án
hoạt động hiệu quả, nhằm tiếp tục củng cố lòng tin của các nhà đầu tư đối với môi
trường đầu tư kinh doanh tại tỉnh Bình Dương, tạo hiệu ứng lan tỏa và tác động tích
cực tới nhà đầu tư mới thông qua các nhà đầu tư hiện hữu;
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra theo chức năng và nhiệm vụ của Sở
Kế hoạch và Đầu tư và các Ban quản lý các khu công nghiệp;
- Thực hiện tốt việc phân cấp quản lý nhà nước đối với lĩnh vực đầu tư trực
tiếp nước ngoài, đặc biệt trong việc phê duyệt, cấp Giấy chứng nhận đầu tư, quản lý
hiệu quả các dự án có vốn đầu tư nước ngoài, gắn với việc tăng cường hợp tác, hỗ
trợ, phối hợp hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư.
- Tăng cường công tác quản lý đầu tư, thông qua việc kiểm soát hiệu quả thực
hiện dựa án đầu tư và áp dụng các biện pháp chế tài đối với các dự án không đạt
mục tiêu đề ra (kết quả kinh doanh lỗ lớn, không đảm bảo điều kiện hoạt động liên
tục).
- Có biện pháp quản lý đối với các dự án đầu tư góp bằng tài sản, máy móc
thiết bị theo hướng yêu cầu chủ đầu tư cam kết giá trị tài sản, máy móc thiết bị đem
góp vốn được xác định theo giá thị trường. Đây là cơ sở cho cơ quan thuế điều
chỉnh giá giao dịch trong quá trình quản lý thuế khi có thông tin chính xác.
- Nghiên cứu khi xây dựng, ban hành và triển khai chính sách thuế cần mang
tính lâu dài, ổn định để các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm đầu tư sản xuất kinh
doanh.
- Quan tâm hơn nữa đến chính sách thu hút đầu tư đối với ngành công nghiệp
phụ trợ và bổ sung chế độ ưu đãi đối với các ngành công nghiệp phụ trợ mà trong
78
nước chưa đáp ứng được, nhằm hạn chế sự lệ thuộc quá nhiều vào các nước khác.
Đồng thời cần có chính sách khuyến khích ưu đãi những dự án đầu tư đồng bộ từ
sản xuất nguyên liệu, linh kiện- Sản xuất, lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh.
Lãnh đạo Tỉnh phải thể hiện được tính năng động, sáng tạo của mình trong
quá trình thực hiện các chính sách pháp luật của Nhà nước, nhằm sẵn sàng hợp tác,
hỗ trợ các doanh nghiệp triển khai thực hiện dự án. Mạnh dạn thu hồi giấy chứng
nhận đầu tư đối với những dự án không triển khai theo cam kết về tiến độ thực hiện
dự án đã ghi trong giấy chứng nhận đầu tư.Tăng cường hơn nữa công tác quản lý
Nhà nước về chuyển nhượng dự án giữa các nhà đầu tư nhằm mục đích chính là thu
lợi nhuận từ việc kinh doanh bất động sản mà không chú ý đến việc đầu tư sản xuất
kinh doanh.
Lãnh đạo các địa phươngtrong tỉnh phải chỉ đạo các ngành chức năng, đặc biệt
là cơ quan thuế tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, thanh tra thuế, truy thu và có
hình thức xử phạt thích đáng đối với một số dự án FDI có dấu hiệu trốn thuế, một số
dự án báo cáo lỗ luỹ kế kéo dài nhiều năm. Các Sở, ngành của địa phương cần phát
huy vai trò quản lý Nhà nước của mình trong từng lĩnh vực được phân công cụ thể,
đồng thời cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục để nâng cao hiểu biết về pháp luật
lao động cho người lao động và người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp
FDI nhằm đảm bảo chính sách, pháp luật về lao động và tiền lương được thực hiện
một cách đầy đủ, nghiêm túc hơn.
3.2.3. Đào tạo và khai thác hiệu quả nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao, có khả năng thích ứng với môi
trường làm việc với dây chuyền công nghệ hiện đại là yêu cầu đặt ra để đáp ứng vào
quá trình kêu gọi và thu hút nguồn vốn FDI trong thời gian tới.
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu đào tạo và khai thác có hiệu quả nguồn nhân
lực, Bình Dương cần làm tốt một số công việc cụ thể sau:
- Tập trung huy động các nguồn vốn từ ngân sách Trung ương (Trái phiếu
Chính phủ, Chương trình mục tiêu quốc gia), vốn từ ngân sách địa phương (xổ số
kiến thiết) để đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cho giáo dục đào tạo, dạy nghề,
79
đồng thời đảm bảo yêu cầu chi thường xuyên cho sự nghiệp giáo dục đào tạo, dạy
nghề.
- Cung ứng lao động đáp ứng nhu cầu sử dụng nhân lực của doanh nghiệp và
các nhà đầu tư, đặc biệt lưu ý tới việc đào tạo các ngành nghề hiện đang thiếu hụt
lao động và đào tạo tại các khu vực tập trung các khu công nghiệp, các dự án lớn có
nhu cầu cao về số lượng lao động, chuyển đổi nghề cho nông dân khi bị thu hồi đất
làm dự án đầu tư;
- Đẩy mạnh xã hội hóa, tạo môi trường đầu tư thuận lợi, quy hoạch quỹ đất
sạch, có chính sách ưu đãi để thu hút các thành phần kinh tế trong và ngoài nước
tham gia phát triển mạng lưới cơ sở đào tạo, dạy nghề trên địa bàn; khuyến khích
các tổ chức, cá nhân có điều kiện mở rộng, thành lập mới cơ sở dạy nghề.
- Tăng cường các hoạt động kinh tế đối ngoại và xúc tiến đầu tư, thu hút
nguồn vốn ODA và các nguồn viện trợ khác. Huy động nguồn lực khác của các
doanh nghiệp, của người học, của các nhà đầu tư.
- Xây dựng hoàn thiện chính sách phát triển nguồn nhân lực: chính sách ưu đãi
đầu tư về sử dụng đất đai; chính sách tài chính và sử dụng ngân sách cho phát triển
nguồn nhân lực. Tăng đầu tư từ ngân sách Nhà nước; hàng năm dành kinh phí từ
ngân sách và sử dụng các nguồn khác để đưa cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng ở trong
nước và nước ngoài; chính sách đãi ngộ và thu hút nhân tài để giữ và thu hút nguồn
nhân lực có trình độ cao; chính sách việc làm, bảo hiểm, bảo trợ xã hội.
- Xây dựng và phát triển mạng lưới thông tin thị trường lao động và dịch vụ về
đào tạo, tìm kiếm, giới thiệu việc làm; liên kết giữa cung và cầu lao động; giữa
người lao động, cơ sở đào tạo và cơ sở sử dụng lao động.
- Mở rộng, tăng cường sự phối hợp và hợp tác để phát triển nhân lực: phối hợp
và hợp tác với các cơ quan, tổ chức Trung ương tạo điều kiện về chương trình dạy-
học mới; phối hợp và hợp tác với các trường đại học, các tỉnh bạn trong công tác
đào tạo, tuyển dụng nhân lực; có sự chuyển giao hợp tác về nhân lực giữa các tỉnh
để điều tiết cung cầu lao động trên thị trường lao động, kết hợp giữa đào tạo, dạy
nghề với giải quyết việc làm.
80
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về phát triển nhân lực: nâng cao nhận thức
của các ngành, các cấp và toàn xã hội: cùng với vốn, khoa học – công nghệ, tài
nguyên thì vốn con người là một trong những động lực quan trọng để thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội. Tuyên truyền để người dân nhận thấy con đường nâng cao
trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, kỷ thuật chính là cơ sở giúp người lao động
tìm hoặc tạo việc làm phù hợp có thu nhập cao.
- Khuyến cáo các cơ sở đào tạo phát triển các hình thức đào tạo theo hợp đồng
của doanh nghiệp, đào tạo theo nhu cầu của xã hội; có kế hoạch phát triển đội ngũ
giáo viên, giảng viên và cán bộ quản lý theo hướng chuẩn hóa, đủ về số lượng, đảm
- Tăng cường giáo dục và tuyên truyền pháp luật lao động, đưa pháp luật lao
bảo về chất lượng đáp ứng nhu cầu giảng dạy.
động vào cuộc sống thông qua việc tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra và phổ
biến, tuyên truyền pháp luật lao động cho người lao động và người sử dụng lao
động;
3.2.4. Phát triển, hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng
Hạ tầng có vai trò hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. Để phát
triển, hoàn thiện kết cấu hạ tầng, Bình Dương cần tập trung làm tốt một số công
- Tiếp tục phát huy nguồn lực tại chỗ để xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ và
việc sau:
hiện đại từ các doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh (như Tổng Công ty Đầu tư
và Phát triển công nghiệp - TNHH Một thành viên (Becamex IDC), Tổng Công ty
Lâm sản và xuất nhập khẩu tổng hợp Bình Dương (Genimex Corp), Tổng Công ty
Thương mại Xuất nhập khẩu Thanh Lễ - TNHH MTV). Đồng thời kêu gọi các dự
án đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực xây dựng với trình độ và kỹ thuật hiện đại
nhằm xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng của tỉnh từng bước hiện đại theo xu hướng
- Khai thác các nguồn thu, nhất là các khoản thu về đất đai. Cơ cấu lại nguồn
chung của thế giới.
chi, tập trung vốn cho đầu tư hạ tầng kỹ thuật, nhất là hạ tầng giao thông. Hàng năm
ưu tiên bố trí nguồn vượt thu ngân sách cho đầu tư hạ tầng giao thông. Phấn đấu
81
nguồn vốn cân đối ngân sách tỉnh, huyện chi cho đầu tư tăng bình quân hàng năm
20%; ngân sách tỉnh bố trí 80%, ngân sách huyện, thị xã bố trí 50% cho đầu tư hạ
- Triển khai đầu tư một số dự án có điều kiện, bức xúc, cần thiết phải đầu tư
tầng kỹ thuật, trong đó tập trung cho hạ tầng giao thông và khu, cụm công nghiệp.
theo các hình thức BT, BOT, thí điểm theo hình thức PPP, hình thức biên chỉnh
trang, đổi đất lấy hạ tầng. Bố trí vốn cho dự án đầu tư theo đúng quy hoạch được
duyệt, phù hợp với khả năng nguồn vốn đầu tư; tập trung bố trí vốn cho các công
trình giao thông, đặc biệt là các công trình giao thông cấp bách để phục vụ phát
- Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, đưa quy hoạch vào kế hoạch thực
triển kinh tế-xã hội.
hiện, tổ chức rà soát, sửa đổi, bổ sung và điều chỉnh quy hoạch kết cấu hạ tầng kỹ
thuật, quy hoạch đô thị để có kế hoạch đầu tư và kêu gọi đầu tư đúng hướng. Tăng
cường công tác kiểm tra, giám sát cộng đồng đối với công tác quy hoạch, công khai
- Rà soát, sửa đổi, ban hành kịp thời các văn bản quản lý về đầu tư và xây
các dự án quy hoạch.
dựng của Tỉnh theo chỉ đạo của Trung ương để đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải
ngân nguồn vốn đầu tư, nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Nâng
cao chất lượng công tác quản lý xây dựng ở tất cả các khâu trong quá trình đầu tư
xây dựng, từ quy hoạch, kế hoạch đầu tư phát triển, đến lập, phê duyệt các dự án cụ
- Tăng cường phân cấp trong công tác theo dõi, đánh giá, kiểm tra, giám sát
thể, tổ chức thi công, giám sát, thanh toán, quyết toán công trình.
trong quản lý đầu tư xây dựng cơ bản để kịp thời xử lý các sai phạm phát sinh, nâng
cao hiệu quả quản lý nguồn vốn đầu tư. Áp dụng nghiêm ngặt các chế tài trong
giám sát thi công, nghiệm thu, thanh quyết toán công trình nhằm phát hiện, ngăn
- Huy động mọi nguồn lực từ các cơ quan chuyên môn đến người dân trong
chặn kịp thời các hành vi vi phạm để đảm bảo chất lượng công trình.
tỉnh để tiến hành xử lý ô nhiễm mô trường trên địa bàn tỉnh. Tiếp tục tiến hành xã
hội hóa trong việc thu gom và xử lý chất thải sinh hoạt cũng như chất thải công
82
nghiệp. Ưu tiên cho các dự án đầu tư về xử lý chất thải rắn, hóa chất của các doanh
- Huy động các nguồn vốn trái phiếu Chính phủ, vốn vay, vốn ODA; tích cực
nghiệp trên địa bàn tỉnh.
thực hiện tốt công tác xây dựng nhà ở cho công nhân, người lao động có thu nhập
thấp, khẩn trương hoàn thành nhanh kế hoạch giải ngân vốn để tranh thủ sự hỗ trợ,
của các Bộ, ngành Trung ương đối với nguồn vốn này.
3.2.5. Tăng cường sự hợp tác, liên kết giữa Bình Dương với các địa
phương khác trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
Bình Dương là một trong những tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam,
một trong những khu vực giàu tiềm năng, năng động và phát triển nhất cả nước...
Do đó, để phát triển kinh tế địa phương, Bình Dương cần phải tận dụng lợi thế và
tiềm năng vốn có của địa phương để phát triển liên kết vùng, nhằm mục tiêu tạo
động lực thúc đẩy sự giao thương giữa các địa phương nằm trong vùng kinh tế,
đồng thời tranh thủ sự hỗ trợ tối đa về kinh tế của các tỉnh bạn có tiềm lực mạnh về
kinh tế, nhằm mục tiêu phụ vụ cho việc đầu tư xây dựng hoàn thiện kết cấu hạ tầng,
từng bước tạo bộ mặt khang trang của tỉnh trong việc thu hút và sử dụng đầu tư.
Trong thời gian qua việc hợp tác phát triển với các tỉnh bạn nằm trong vùng
kinh tế trọng điểm phiá Nam được địa phương thực hiện chủ động và năng động
hơn, góp phần nâng cao vị trí của Bình Dương trong thu hút đầu tư. Sự hỗ trợ của
Bộ, ngành Trung ương, sự hợp tác của các tỉnh bạn, sự quan tâm đầu tư của các
doanh nghiệp đối với Bình Dương ngày càng thiết thực hơn. Kế hoạch hợp tác phát
triển kinh tế-xã hội giữa Bình Dương và TP.HCM, Long An, Đồng Nai, Bà Rịa
Vũng Tàu …được triển khai thực hiện.
Nhằm mục tiêu tạo động lực thúc đẩy sự giao thương về kinh tế-văn hoá giữa
các địa phương, đồng thời tranh thủ sự hỗ trợ tối đa về kinh tế của các tỉnh bạn có
tiềm lực mạnh về kinh tế, nhằm mục tiêu phụ vụ cho việc đầu tư xây dựng hoàn
thiện kết cấu hạ tầng, xây dựng công trình y tế, giáo dục, tạo bộ mặt khang trang
của tỉnh trong việc mời gọi và thu hút đầu tư; tỉnh cần tiếp tục tăng cường sự hợp
83
tác, liên kết nhiều hơn nữa với các địa phương khác trong và ngoài nước. Cụ thể
như sau:
Tăng cường liên kết, hợp tác với TP.HCM, Đồng Nai phát triển kết cấu hạ
tầng, giáo dục trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam như:
+ Nâng cao “tĩnh không” cầu Bình Lợi trên sông Sài Gòn và cầu Ghềnh trên
sông Đồng Nai đảm bảo các tàu có tải trọng lớn lưu thông góp phần khai thác hết
công sức các cảng đã đầu tư của tỉnh Bình Dương như cảng Thạnh Phước, An Sơn,
Bạch Đằng, Bà Lụa...
+Triển khai sớm đường cao tốc TP.HCM - Chơn Thành - KPC gắn với cải tạo
nút giao thông Gò Dưa (HCMC) và cầu vượt Sóng Thần.
+Sớm hoàn thành tuyến vành đai 3 và khởi động vành đai 4, hoàn thành tuyến
N2 (đường nhánh HCM) từ Tây Nguyên - Bình Phước đi Đồng Bằng sông Cửu
Long qua huyện Dầu tiếng tỉnh Bình Dương.
+Hoàn thành tuyến Metro Bến Thành - Suối Tiên, kết nối về thành phố mới
Bình Dương và xây dựng Khu đô thị dịch vụ Suối Tiên (TOD).
+ Tiếp tục phối hợp với TP.HCM thực hiện các dự Đại học Quốc gia, dự án
Bến xe miền Đông mới.
+Triển khai cắm mốc các tuyến đường sắt quốc gia qua tỉnh Bình Dương
Chủ động phối hợp chặt chẽ với Trung ương và các tỉnh, đặc biệt là TP.HCM
và tỉnh Đồng Nai trong hoạt động bảo vệ môi trường lưu vực sông Đồng Nai, sông
Sài Gòn để bảo vệ nguồn nước phục vụ cho phát triển của vùng kinh tế trọng điểm
nói chung và Bình Dương nói riêng.
Tiếp tục xây dựng mối liên kết về thị trường lao động, thị trường tiêu thụ sản
phẩm đầu ra cho các doanh nghiệp nhằm tranh thủ mọi nguồn lực để phát triển
trong vùng kinh tế trọng điểm phía nam bao gồm: Thành phố Hồ Chí Minh, Bình
Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Phước, Bình Dương, Long An và Tiền
Giang.
Ở Bình Dương trong khi còn nhiều người lao động chưa có việc làm mà vẫn
phải tuyển dụng cán bộ và công nhân từ nơi khác đến do đào tạo không kịp nhu
84
cầu.Trước mắt cần phải có sự phối hợp giữa Sở Lao động - Thương binh - Xã hội
với các cơ sở đào tạo, các trung tâm dịch vụ tuyển dụng lao động, với các nhà đầu
tư, chủ động nắm nhu cầu về lao động ngay sau khi cấp giấy phép để có kế hoạch
đào tạo đáp ứng nhu cầu đó cả về lượng và chất lượng.Về lâu dài, phải chuẩn bị đào
tạo cán bộ và công nhân cho 10-15 năm sau để có một đội ngũ lao động có kỹ năng,
trí thức cao mới có thể đón được những dòng chảy đầu tư trực tiếp nước ngoài, vì
khi đó lợi thế so sánh sẽ chuyển từ những ngành cần nhiều lao động giản đơn sang
những ngành có hàm lượng công nghệ cao.
Việc thực hiện kế hoạch hợp tác kinh tế-xã hội giữa tỉnh Bình Dương và các
tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phiá Nam sẽ thắt chặt hơn mối quan hệ gắn
bó giữa các địa phương; hỗ trợ lẫn nhau xây dựng và phát triển ở từng địa phương
trong điều kiện mới, điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập. Các ngành, các cấp, các
doanh nghiệp của các địa phương cần có nhiều nỗ lực trong việc triển khai các nội
dung của Chương trình hợp tác, đặc biệt ở các lĩnh vực giao thông, xây dựng và
phát triển khu công nghiệp; lĩnh vực khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo,
thương mại và du lịch, văn hóa xã hội, tài chính ngân hàng,… nhằm mang lại hiệu
quả thiết thực về kinh tế-xã hội, phát huy được một số tiềm năng, lợi thế của các địa
phương góp phần thúc đẩy tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xóa đói, giảm
nghèo và nâng cao đời sống nhân dân.
85
TÓM TẮT CHƯƠNG 3
Trên cơ sở phân tích thực trạng và rút ra những hạn chế của FDI, trong
chương 3 tác giả đã làm rõ các quan điểm về phát triển kinh tế, về thu hút FDI trên
địa bàn tỉnh, quan điểm về giải quyết các vấn đề xã hội do tác động tiêu cực của
FDI, từ đó đề ra những phương hướng cơ bản và mục tiêu cụ thể nhằm nâng cao
hiệu quả của nguồn vốn FDI trên địa bàn tỉnh Bình Dương
Trong chương này tác giả cũng tập trung nghiên cứu và đưa ra các giải pháp
chủ yếu nhằm đẩy mạnh công tác thu hút và sử dụng tốt nguồn vốn FDI tại tỉnh
Bình Dương trong thời gian tới, cụ thể như: 1. Hoàn thiện cơ chế, chính sách, quy
hoạch, kế hoạch thu hút FDI; 2. Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về thu hút
FDI ; 3. Đào tạo và khai thác hiệu quả nguồn nhân lực; 4. Phát triển, hoàn thiện kết
cấu hạ tầng; 5. Tăng cường sự hợp tác, liên kết giữa Bình Dương với các địa
phương khác trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
86
KẾT LUẬN
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã
hội; nâng cao năng lực sản xuất của quốc gia thông qua việc cung cấp về vốn, công
nghệ sản xuất tiên tiến, kỹ năng và trình độ quản lý, nâng cao năng lực cạnh tranh
của nền kinh tế, mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế…
Với lợi thế về vị trí địa lý, nằm kề thành phố Hồ Chí Minh và thuộc vùng kinh
tế trọng điểm phía Nam, cùng với chính sách phát triển hợp lý, trong hai mươi năm
vừa qua Bình Dương đã có những bước phát triển vượt bậc, là điểm sáng về phát
triển kinh tế và thu hút đầu tư của cả nước. Vì thế, từ chỗ là một tỉnh nghèo, phải
dựa vào trợ cấp ngân sách của Trung ương, đến nay Bình Dương đã vươn lên trở
thành một trong năm địa phương có tổng nguồn thu lớn, hỗ trợ một phần cho ngân
sách Trung ương. Từ một tỉnh không nằm trong tam giác phát triển, đến nay Bình
Dương là nhân tố tích cực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trong khu vực kinh tế
trọng điểm phía nam. Có thể nói, Bình Dương đã tận dụng tốt cơ hội “ngoại lực” là
vốn FDI để thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Thành quả ấy phản ánh sự năng
động của tỉnh, vừa biết cách mời gọi, vừa biết giữ chân các nhà đầu tư.
Nhìn vào những thành quả kinh tế-xã hội, về cơ sở hạ tầng..., và vị thế của
Bình Dương trong khu vực kinh tế trọng điểm phía nam, rộng hơn là cả nước thì
mới thấy hết sự nỗ lực của Ðảng bộ, chính quyền và người dân nơi đây. Từ một tỉnh
thuần nông, kinh tế chủ yếu tự cung tự cấp, công nghiệp - dịch vụ gần như trống
vắng, thì nay cơ cấu kinh tế của Bình Dương đảo ngược hoàn toàn, công nghiệp -
dịch vụ chiếm 96,2%, nông nghiệp một thời thống trị, nay chỉ chiếm khiêm tốn
3,8% và đang chuyển sang nông nghiệp kỹ thuật cao. Hàng chục nghìn ha đất hoang
hóa, đất trồng cây một vụ, năng suất thấp, nay được phủ đầy 28 KCN, tám cụm
công nghiệp tập trung, với hơn 3.000 nhà đầu tư nước ngoài. Cũng từ các nhà máy,
xí nghiệp này mà hàng trăm nghìn lao động, công nhân có tay nghề, từ các vùng,
miền trên cả nước hội tụ về, chung tay biến ước mơ CNH, HÐH của Bình Dương và
cả nước sớm thành hiện thực.
87
Bên cạnh những tác động tích cực về mặt kinh tế, nguồn vốn FDI cũng gián
tiếp thúc đẩy đổi mới cơ chế quản lý, cải cách thủ tục hành chính, nâng cấp cơ sở hạ
tầng, kích thích các ngành dịch vụ phát triển. Có thể nói, vốn FDI là nguồn vốn bổ
sung quan trọng nhất cho nhu cầu đầu tư phát triển xã hội và tăng trưởng kinh tế, là
nguồn lực góp phần phục vụ sự nghiệp CNH, HÐH của Bình Dương.
Cơ cấu kinh tế thay đổi, kéo theo cơ sở hạ tầng và đô thị hóa cũng diễn ra
nhanh, làm thay đổi hẳn bộ mặt của Bình Dương. Các KCN tại Bình Dương đã trực
tiếp tạo công ăn việc làm cho hơn hàng trăm nghìn lao động trực tiếp và gián tiếp.
Ðể tái tạo sức lao động và tạo điều kiện cho họ “an cư lạc nghiệp”, ngoài bảo đảm
về tiền lương, tiền thưởng, bảo hiểm, Bình Dương còn chú trọng đầu tư hàng chục nghìn tỷ đồng, xây dựng hàng triệu m2 sàn nhà ở công nhân, nhà ở xã hội, bệnh
viện, trường học, khu vui chơi giải trí phục vụ nhân dân, người lao động. Sự phát
triển của các khu công nghiệp trong tỉnh, đặc biệt là tại các khu vực đô thị như thị
xã Dĩ An, Thuận An, Bến Cát và TP. Thủ Dầu Một đã đóng vai trò quyết định trong
việc thu hút lượng lớn người lao động nhập cư vào tỉnh Bình Dương. Cũng chính
quá trình đô thị hóa nhanh đã khiến cho quá trình chuyển dịch đất đai tại Bình
Dương diễn ra nhanh chóng và hình thành nên nhiều dự án có quy mô lớn, trong đó
tiêu biểu là dự án Thành phố mới Bình Dương.
Mặc dù đã đạt được những kết quả quan trọng nêu trên, song khả năng hấp thụ
nguồn vốn của Bình Dương còn khiêm tốn, chất lượng của nguồn vốn chưa cao,
việc thu hút các dự án đầu tư công nghệ cao còn hạn chế, chuyển giao công nghệ
còn chậm. Còn nhiều doanh nghiệp đầu tư nước ngoài sử dụng công nghệ lạc hậu,
gây ô nhiễm môi trường. Việc sử dụng tài nguyên đất đai, khoáng sản chưa thật sự
hiệu quả. Mối liên kết ngang, dọc giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước chưa
cao, dẫn đến việc phát huy năng lực của nhau còn hạn chế…Sau một quá trình phát
triển kinh tế với tốc độ cao, Bình Dương cũng phải đối mặt với các vấn đề xã hội
mới nảy sinh như: lao động nhập cư, tranh chấp lao động, đình công, lãn công, ô
nhiễm môi trường …...
88
Để phát huy những tác động tích cực và hạn chế những tác động không lành
mạnh của FDI, trước mắt các cấp chính quyền tỉnh Bình Dương cần:
- Thống nhất quan điểm chỉ đạo trong phát triển bền vững, gắn kết chặt chẽ
giữa phát triển nhanh với phát triển bền vững, không chạy đua theo số lượng dự án
FDI mà phải chú trọng từng bước vào chất lượng dự án. Hướng các dự án FDI vào
các khu công nghiệp đã được quy hoạch, hạn chế tiếp nhận các dự án đầu tư ở bên
ngoài khu nhằm khai thác tối đa kết cấu hạ tầng bên trong và bên ngoài khu công
nghiệp. Ngoài ra, cần nâng cao chất lượng thẩm định dự án, Sở Kế hoạch và Đầu tư
phối hợp chặt chẽ với Sở Khoa học và Công nghệ, Sở Tài nguyên-Môi trường và
các đơn vị có liên quan thực hiện tốt khâu thẩm định dự án trước khi tham mưu Ủy
ban nhân dân Tỉnh cấp Giấy chứng nhận đầu tư. Hạn chế và tiến tới không tiếp nhận
các dự án có trình độ sử dụng công nghệ thấp, tác động xấu đến môi trường.
- Tiếp tục đổi mới, cải tiến mạnh phương thức vận động xúc tiến đầu tư thì
mới tranh thủ được nhiều nguồn vốn đầu tư nước ngoài, từ các tập đoàn đa quốc
gia. Theo đó, cần tập trung xác định ngành nghề và khu vực ưu tiên thu hút FDI;
xây dựng chương trình xúc tiến và cơ chế chính sách đầu tư; xây dựng kế hoạch
hành động; đánh giá hiệu quả từng lĩnh vực thu hút FDI cụ thể khi vận động xúc
tiến đầu tư.
- Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, tiếp xúc, hỗ trợ DN trong việc triển
khai dự án đầu tư và tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình hoạt
động. Đối với các dự án chưa đi vào sản xuất kinh doanh thì các Sở, ngành của địa
phương cần quan tâm tìm hiểu các nguyên nhân gây ra ách tắc, để từ đó tập trung
tháo gỡ, nếu có những vấn đề vượt thẩm quyền thì các Sở, ngành phải có trách
nhiệm đề xuất ý kiến của cơ quan mình đối với từng lĩnh vực mà ngành mình phụ
trách, báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh xem xét quyết định.
- Tuyên truyền pháp luật về lao động cho công nhân, đặc biệt là lực lượng lao
động đang làm việc tại các khu công nghiệp, khu kinh tế trên địa bàn tỉnh, nhằm
hạn chế tối đa các cuộc đình công, lãn công bất hợp pháp, tránh để kẻ xấu lợi dụng
gây kích động, dẫn đến đình công, lãn công một cách tự phát làm ảnh hưởng đến
89
quyền lợi của người lao động, của chủ doanh nghiệp và làm ảnh hưởng đến tình
hình an ninh trật tự tại địa phương.
- Tăng cường công tác hậu kiểm sau khi cấp Giấy chứng nhận đầu tư đối với
các dự án FDI sử dụng nhiều lao động như: dự án dệt may; dự án trong lĩnh vực
nông nghiệp; dự án da giày; dự án đầu tư trong lĩnh vực độc hại, ảnh hưởng nghiêm
trọng tới môi trường như: dự án chế biến mủ cao su, chế biến hạt điều, dự án thuộc
da, dự án nhuộm, tái chế phế liệu.
Với những định hướng mang tính đột phá, những bước đi phù hợp nhằm khai
thác có hiệu quả các lợi thế về địa lý kinh tế, tài nguyên và con người của tỉnh, Bình
Dương chắc chắn sẽ trở thành điểm đến đáng tin cậy đối với tất cả các nhà đầu tư
trong và ngoài nước trong thời gian tới./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Quản lý các khu công nghiệp Bình Dương, Báo cáo tình hình hoạt động các
khu công nghiệp năm 2014 – phương hướng nhiệm vụ năm 2015. Bình Dương
tháng 12 năm 2015
2. Cục Thống kê Thành phố Hồ Chí Minh, Niên giám thống kê năm 2014, Thành
phố Hồ Chí Minh, nhà xuất bản Thống kê năm 2014
3. Cục thống kê tỉnh Bình Dương, Niên giám thống kê năm 2014. Nhà xuất bản
Thanh niên tháng 6 năm 2015.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, 1996, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, 2004, Tài liệu của Hội nghị toàn quốc lần thứ 9 khóa
IX
7. Hồ Chí Minh, 1987, toàn tập, tập 7, trang 289
8. Lê Xuân Bá, Tác động của FDI tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, Nhà xuất
bản khoa học kỹ thuật năm 2006.
9. Liên đoàn lao động tỉnh Bình Dương, Báo cáo tình hình giải quyết đình lãng
công trên địa bàn tỉnh. Bình Dương tháng 12 năm 2012.
10. Luật Đất đai số 13/2003/QH11 ngày 26/11/2003
11. Luật đầu tư 67/2014/QH13 (Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2014, có hiệu lực
từ ngày 01/7/2015)
12. Luật đầu tư năm 2005, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà nội
13. Nghị định 192- CP ngày 28/12/1994 của Chính phủ về ban hành quy chế khu
công nghiệp.
14. Nghị định 36/CP ngày 24/4/1997 về ban hành quy chế khu công nghiệp, khu chế
xuất, khu công nghệ cao.
15. Nguyễn Văn Tuấn, Đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển kinh tế Việt Nam.
Nhà xuất bản Tư pháp năm 2005.
16. Sở Kế hoạch và đầu tư Bà Rịa – Vũng Tàu, Báo cáo tổng kết tình hình thu hút
FDI trên địa bàn tỉnh. Bà Rịa – Vũng Tàu tháng 12 năm 2104
17. Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Bình Dương
18. Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Bình Dương, Báo cáo tình hình thu hút vốn đầu tư
nước ngoài trên địa bàn tỉnh 06 tháng đầu năm 2015. Bình Dương tháng 6 năm
2015
19. Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Bình Dương, Báo cáo tình hình thu hút vốn đầu tư
nước ngoài trên địa bàn tỉnh 06 tháng đầu năm 2015. Bình Dương tháng 6 năm
2015
20. Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Bình Dương, Báo cáo tình hình thu hút vốn FDI trên
địa bàn tỉnh giai đoạn 1994 – 2014. Bình Dương tháng 01 năm 2015
21. Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Bình Dương, Báo cáo tình hình triển khai các dự án
ở các khu, cụm công ngiệp trên địa bàn tỉnh. Bình Dương tháng 12 năm 2014
22. Sở Khoa học và công nghệ tỉnh Bình Dương
23. Sở Lao động thương binh và xã hội, Báo cáo tình hình đào tạo nghề năm 2014.
Bình Dương tháng 12 năm 2014
24. Tỉnh ủy Bình Dương, 2014, Báo cáo tình hình phát triển các thành phần kinh tế
trên địa bàn tỉnh Bình Dương. Bình Dương tháng 12 năm 2014
25. Tỉnh ủy Bình Dương, Chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2025. Bình
Dương tháng 12 năm 2014
26. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương, Báo cáo quyết toán ngân sách năm 2010.
Bình Dương tháng 12 năm 2010
27. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương, Báo cáo quyết toán ngân sách năm 2011.
Bình Dương tháng 12 năm 2011
28. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương, Báo cáo quyết toán ngân sách năm 2012.
Bình Dương tháng 12 năm 2012
29. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương, Báo cáo quyết toán ngân sách năm 2013.
Bình Dương tháng 12 năm 2013
30. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương, Báo cáo quyết toán ngân sách năm 2014.
Bình Dương tháng 12 năm 2014
31. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương, Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quốc
phòng an ninh năm 2010. Bình Dương tháng 12 năm 2010
32. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương, Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quốc
phòng an ninh năm 2011. Bình Dương tháng 12 năm 2011
33. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương, Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quốc
phòng an ninh năm 2012. Bình Dương tháng 12 năm 2012
34. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương, Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quốc
phòng an ninh năm 2013. Bình Dương tháng 12 năm 2013
35. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương, Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quốc
phòng an ninh năm 2014. Bình Dương tháng 12 năm 2014
36. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương, Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng
năm 2015. Bình Dương tháng 6 năm 2015
37. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương. Báo cáo tổng kết 25 năm thực hiện thu hút
đầu tư nước ngoài. Bình Dương tháng 9 năm 2012.
38. V.I.Lê Nin, Toàn tập, tập 2, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva năm 1985
39. V.I.Lê Nin, Toàn tập, tập 4, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva năm 1985
40. V.I.Lê Nin, Toàn tập, tập 26, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva năm 1985
41. V.I.Lê Nin, Toàn tập, tập 27, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva năm 1985
PHỤ LỤC
Phụ lục 2.1: Số dự án FDI cấp mới từ năm 2005-2014 của Bình Dương
Tổng vốn đăng ký Năm Số dự án (triệu USD)
2005 188 1.406,69
2006 219 1.723,15
2007 339 2.635,81
2008 218 2.162,60
2009 101 402,12
2010 107 491,40
2011 80 578,38
2012 109 1.591,16
2013 118 560,92
2014 167 850,03
10.970,26 Tổng dự án 1.646
Nguồn: Tổng hợp niên giám thống kê tỉnh Bình Dương
Phụ lục 2.2: Quy mô vốn đăng ký bình quân trên một dự án đầu tư FDI
giai đoạn 2005-2014 ở tỉnh Bình Dương
Năm Số dự Tổng vốn Vốn bình quân/dự án/triệu USD
án đăng ký
188 1.406,69 5,8 2005
219 1.723,15 7,8 2006
339 2.635,81 7,7 2007
218 2.162,60 9,9 2008
101 402,12 3,9 2009
107 491,40 4,5 2010
80 578,38 7,2 2011
109 1.591,16 14,5 2012
118 560,92 4,7 2013
167 850,03 5,09 2014
Nguồn: Tổng hợp niên giám thống kê tỉnh Bình Dương năm 2014
Phụ lục 2.3: Đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép phân theo đối tác
đầu tư chủ yếu (Lũy kế các dự án còn hiệu lực đến ngày 31/12/2014)
Quốc gia Số dự án được Vốn đăng ký
cấp phép (Triệu USD)
Nhật Bản 247 4.173,81
Hàn Quốc 562 2.061,28
Đài Loan 799 4.268,23
Singapore 139 1.544,86
Quần đảo Vigin thuộc Anh 57 653,73
Malaysia 81 1.212,81
Hoa Kỳ 92 731,79
Quần đảo Cay men 9 524,28
Thái Lan 24 343,10
Hà Lan 22 425,24
Bru-nây 22 94,30
Canada 12 79,88
CHND Trung Hoa 147 410,61
Hồng Kông 79 1.246,78
Pháp 27 141,19
Xa-moa 22 123,35
Vương Quốc Anh 10 177,33
10 47,85 Thụy Sỹ
30 111,08 Ôx-trây-li-a
2 8,67 Liên Bang Nga
19 125,28 CHLB Đức
13 45,80 Đan Mạch
2 1,60 Phần Lan
8 80,22 Philippin
7 30,02 Ấn Độ
15 136,58 Ma-ri-ti-us
10 47,31 Indonesia
1 1,53 Italia
8 40,45 Bỉ
3 22,62 Na Uy
5 11,33 New Zealand
9 10,52 Thụy Điển
122 1.077,5 Các nước khác
2.615 20.101,48 Tổng số
Nguồn: Tổng hợp niên giám thống kê tỉnh Bình Dương năm 2014
Phụ lục 2.4: Đóng góp của khu vực FDI vào ngân sách tỉnh
Năm 2010 2011 2012 2013 2014
Nộp NS (triệu 161.22 183.10 195.25 261.23 159.61
VNĐ)
Nguồn: (Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương, Báo cáo quyết toán ngân sách năm
2010, 2011, 2012, 2013, 2014)
Phụ lục 2.5: Một số kết quả hoạt động của các dự án FDI năm 2014 theo
ngành kinh tế trên địa bàn tỉnh Bình Dương
Giá trị xuất Thuế Số lao động Doanh thu khẩu Ngành kinh tế (người) (triệu USD) (triệu USD) (triệu USD)
Nông, lâm nghiệp 23.118 21,30 3,20 1,23
Công nghiệp 323.051 2.977,80 1.349,92 139,25
Xây dựng 50.053 15,54 4,59
Giao thông, vận tải, 45.987 12,40 3,45 bưu điện
Dịch vụ khác 63.204 46,08 0,13 9,2
Tổng số 505.413 3.073,12 1.353,25 159.61
Nguồn: (Cục Thống kê Bình Dương, Niên giám thống kê năm 2014)
Phụ lục 2.6: Tình hình xử lý chất thải của các doanh nghiệp tỉnh Bình
Dương
Hệ thống xử lý chất thải Số đơn
STT Loại hình vị thống Trung Tốt (%) Kém (%) kê bình (%)
1 Doanh nghiệp có vốn đầu tư trong 842 2,4 33,0 64,6 nước
2 Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước 120 34,2 52,5 13,3 ngoài
Tổng cộng 962 6,3 35,4 58,4
Nguồn: (Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Bình Dương)
Phụ lục 2.7: Đánh giá chất lượng xử lý chất thải tại các doanh nghiệp tỉnh
Bình Dương
Hệ thống xử lý chất thải
Số đơn Kém (%) STT Loại hình vị điều Trung Tốt (%) tra bình (%)
1 Doanh nghiệp nằm trong khu 92 30 59 11 công nghiệp
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư 80 8,3 66,7 25 trong nước
- Doanh nghiệp có vốn FDI 12 38,3 56,1 5,3
2 Doanh nghiệp nằm ngoài KCN 833 33,3 56,5 4,2
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư 818 32 65,8 2,2 trong nước
- Doanh nghiệp có vốn FDI 63 30,2 49,2 20,6
Nguồn: (Sở khoa học và công nghệ tỉnh Bình Dương)
Phụ lục 2.8: Cơ cấu số người từ đủ 15 tuổi trở lên có việc làm chia theo
trình độ chuyên môn kỹ thuật ở tỉnh Bình Dương
Trình độ chuyên môn Tỷ lệ (%) Số lao động (người)
Chưa qua đào tạo 67,75 342.461
CNKT không có bằng 10,45 52.819
CNKT có bằng chứng chỉ 7,22 36.536
CNKT có bằng sơ cấp 2,43 12.321
CNKT có bằng THCN 7,99 40.429
CNKT có bằng CĐ, ĐH trở lên 4,12 20.847
Tổng số đơn vị 505.413
Nguồn: (Sở Lao động thương binh và xã hội tỉnh Bình Dương)
Phụ lục 2.9: FDI phân bổ theo vùng lãnh thổ ở Bình Dương
Tên huyện, thị, Số dự án Số vốn đăng ký (triệu USD) STT thành phố
TX. Thuận An 1 778 5.980,56
TX. Dĩ An 2 695 5.342,45
TX. Bến Cát 3 579 4.450,76
TX. Tân Uyên 4 84 645,70
5 TP. Thủ Dầu Một 259 1.990,93
6 Huyện Phú Giáo 34 261,35
7 Huyện Dầu Tiếng 29 222,92
8 Huyện Bàu Bàng 132 1.014,68
9 Huyện Bắc Tân Uyên 25 192,17
Nguồn: ( Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Bình Dương)