BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

TRẦN QUỐC DŨNG

TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI) TỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH BÌNH DƯƠNG GIAI ĐOẠN 2010 - 2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Tp. Hồ Chí Minh - Năm 2015

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

TRẦN QUỐC DŨNG

Chuyên ngành Mã số

: Kinh tế chính trị : 60310102

TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI) TỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH BÌNH DƯƠNG GIAI ĐOẠN 2010 - 2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. HOÀNG AN QUỐC

Tp. Hồ Chí Minh - Năm 2015

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn: “TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI) TỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH BÌNH DƯƠNG GIAI ĐOẠN 2010-2015”, là công trình nghiên cứu của chính tác giả, nội dung được đúc kết từ quá trình học tập và nghiên cứu thực tiễn trong thời gian qua, số liệu sử dụng là trung thực và có trích dẫn rõ ràng. Luận văn được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Hoàng An Quốc

Tác giả Luận văn

Trần Quốc Dũng

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các từ viết tắt

Trang

Danh mục các bảng và biểu đồ

MỞ ĐẦU ............................................................................................................................. 1

1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................................. 1

2. Tình hình nghiên cứu đề tài ............................................................................................. 2

3. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn ................................................................................. 3

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................................... 4

5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................. 4

6. Những đóng góp của luận văn ......................................................................................... 4

7. Kết cấu của luận văn ........................................................................................................ 5

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ

TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI ............. 6

1.1. NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN .................................................................................. 6

1.1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ............................................................ 6

1.1.2. Những tác động tích cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển kinh tế -

xã hội .................................................................................................................................... 9

1.1.3. Những tác động tiêu cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài ..................................... 11

1.2. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ NIN VÀ CỦA ĐẢNG, NHÀ

NƯỚC TA VỀ VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ....................... 13

1.2.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lê nin ................................................................. 13

1.2.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước .......................................................................... 14

1.3. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ TỈNH, THÀNH PHỐ

TRONG VIỆC THU HÚT VÀ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC

NGOÀI ............................................................................................................................... 16

1.3.1. Kinh nghiệm của Thành phố Hồ Chí Minh .............................................................. 16

1.3.2. Kinh nghiệm của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ............................................................... 20

1.3.3. Kinh nghiệm của tỉnh Đồng Nai .............................................................................. 24

TÓM TẮT CHƯƠNG 1 ..................................................................................................... 28

CHƯƠNG 2: TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐẾN SỰ

PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA TỈNH BÌNH DƯƠNG VÀ NHỮNG

VẤN ĐỀ ĐẶT RA ........................................................................................................... 29

2.1. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA TỈNH BÌNH DƯƠNG ............................... 29

2.1.1. Những tiềm năng và lợi thế ...................................................................................... 29

2.1.2. Tình hình phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Bình Dương giai đoạn 2010 – 2015 ... 32

2.2. TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TRÊN

ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH DƯƠNG GIAI ĐOẠN 2010 -2015. ........................................... 39

2.2.1. Tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài .................................................. 39

2.2.2. Tác động tích cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến phát triển kinh tế - xã hội

của tỉnh Bình Dương ......................................................................................................... 43

2.3. MỘT SỐ TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI

TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH DƯƠNG VÀ NGUYÊN NHÂN .................................... 52

2.3.1. Một số hạn chế và tác động tiêu cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài .................... 52

2.3.2. Nguyên nhân đưa tới những hạn chế và tác động tiêu cực của đầu tư trực tiếp

nước ngoài .......................................................................................................................... 55

TÓM TẮT CHƯƠNG 2 ..................................................................................................... 61

CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT

HUY TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA ĐẦU

TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI CỦA

TỈNH BÌNH DƯƠNG..................................................................................................62

3.1. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN .............................................................................. 62

3.1.1.Quan điểm về phát triển kinh tế ................................................................................ 62

3.1.2. Quan điểm về thu hút và nâng cao hiệu quả của đầu tư trực tiếp nước ngoài ........ 63

3.1.3. Quan điểm về giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội do tác động của đầu tư trực

tiếp nước ngoài ................................................................................................................... 65

3.2. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỤC TIÊU ........................................................................ 66

3.2.1. Những phương hướng cơ bản ................................................................................. 66

3.2.2. Những mục tiêu chủ yếu ......................................................................................... 67

3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NHẰM PHÁT HUY TÁC ĐỘNG

TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP

NƯỚC NGOÀI (FDI) ....................................................................................................... 69

3.3.1. Hoàn thiện cơ chế, chính sách, quy hoạch, kế hoạch thu hút nguồn vốn đầu tư

trực tiếp nước ngoài ........................................................................................................... 69

3.2.2. Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư

trực tiếp nước ngoài ........................................................................................................... 75

3.2.3. Đào tạo và khai thác hiệu quả nguồn nhân lực ....................................................... 78

3.2.4. Phát triển, hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng ....................................................... 80

3.2.5. Tăng cường sự hợp tác, liên kết giữa Bình Dương với các địa phương khác trong

vùng kinh tế trọng điểm phía Nam ..................................................................................... 82

TÓM TẮT CHƯƠNG 3 ..................................................................................................... 85

KẾT LUẬN ........................................................................................................................ 86

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ASEAN : Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á

: Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao BOT

: Hợp đồng chuyển giao BT

CNH, HĐH : Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

ĐT : hệ thống đường tỉnh

EU : Liên minh châu Âu

FDI : Đầu tư trực tiếp nước ngoài

G7 : Các nước công nghiệp phát triển

GDP : Tổng sản phẩm trong nước

KCN : Khu công nghiệp

KT-XH : Kinh tế - Xã hội

NĐ-CP : Nghị định - Chính phủ

NICs : Các nước công nghiệp mới

ODA : Hỗ trợ phát triển chính thức

OECD : Tổ chức hợp tác phát triển kinh tế

SGS : Công ty kiểm toán quốc tế

TBCN : Tư bản chủ nghĩa

TP : Thành phố

TX : Thị xã

UBND : Uỷ ban nhân dân

USD : Đô la Mỹ

WTO : Tổ chức thương mại thế giới

XHCN : Xã hội chủ nghĩa

DANH MỤC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ

Danh mục bảng

Bảng 1.1: Lợi thế của doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài so với doanh nghiệp

nước tiếp nhận đầu tư……………………………………………………………………………… ................................................................ 9

Danh mục biểu đồ

Biểu đồ 2.1: Giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài ở

Bình Dương qua các năm .......................................................................................................................................................... 46

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Đối với bất kỳ một quốc nào, dù là nước phát triển hay đang phát triển đều cần

có đủ nguồn vốn để tạo ra của cải đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.

Nguồn vốn cho đầu tư phát triển có thể được huy động ở trong nước hoặc từ nước

ngoài. Tuy nhiên nguồn vốn trong nước thường có hạn, nhất là đối với những nước

đang phát triển với tỷ lệ tích luỹ thấp. Vì vậy, nguồn vốn đầu tư nước ngoài ngày

càng giữ vai trò quan trọng.

Đối với Việt Nam, FDI được xác định là nguồn lực quan trọng trong việc thực

hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong những năm qua, FDI

đã đóng góp một phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội, góp phần tăng

thu ngân sách, cải thiện cán cân thanh toán, là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho

công cuộc phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, nâng cao

trình độ kỹ thuật và công nghệ, tiếp thu kinh nghiệm quản lý trong kinh doanh, giải

quyết công ăn việc làm, đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao mức sống cho người lao

động, đưa nền kinh tế nước ta hội nhập với nền kinh tế thế giới,...

Những đóng góp của FDI ở Việt Nam trong những năm qua là vô cùng to lớn,

không thể phủ nhận. Tuy nhiên hoạt động FDI ở Việt Nam cũng có nhiều mặt trái.

Nguồn vốn FDI thường tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực bất động sản, khách sạn,

du lịch … và những ngành sử dụng nhiều lao động mà chưa có một tỷ lệ thích đáng

cho các ngành công nghệ cao và nông nghiệp; Nguồn vốn FDI thường kèm theo

những công nghệ, máy móc, thiết bị lạc hậu đã qua sử dụng; Trong doanh nghiệp

FDI hay xảy ra các vụ việc tranh chấp về lao động, vi phạm hợp đồng lao động, xúc

phạm nhân phẩm người lao động … dẫn đến các cuộc đình công, bãi công. Một số

doanh nghiệp FDI còn gây ra nạn ô nhiễm môi trường nghiêm trọng...

Phát triển bền vững là nhu cầu cấp bách và xu thế tất yếu trong tiến trình phát

triển chung của mỗi quốc gia. Phát triển bền vững là quá trình kết hợp chặt chẽ hài

hòa giữa ba mặt của sự phát triển đó là: sự tăng trưởng kinh tế ổn định; thực hiện tốt

tiến bộ và công bằng của xã hội; khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm tài nguyên

2

thiên nhiên, bảo vệ và nâng cao được chất lượng môi trường sống. Điều này càng có

ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các trung tâm kinh tế và đô thị lớn của đất nước

– nơi có mật độ dân cư cao, có nhiều lợi thế về phát triển kinh tế, song cũng là nơi

tập trung đa dạng các vấn đề về xã hội và môi trường phức tạp

Bình Dương là một trong số tỉnh thành thu hút vốn đầu tư FDI nhiều nhất cả

nước, bên cạnh những tác động tích cực cũng không tránh khỏi những hậu quả tiêu

cực của FDI. Để có căn cứ xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách phù

hợp, việc nghiên cứu và đánh giá tác động của FDI đến sự phát triển kinh tế - xã hội

trên địa bàn tỉnh trong những năm qua là hết sức cần thiết. Vì vậy, tác giả đã chọn

đề tài: “Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tới sự phát triển kinh

tế - xã hội tỉnh Bình Dương trong giai đoạn 2010 – 2015” làm chủ đề nghiên cứu

của luận văn.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI là một chủ đề đã và đang được

sự quan tâm của các nhà khoa học. Đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập tới

vấn đề này trên những cấp độ khác nhau. Có thể kể tới những công trình tiêu biểu

như:

- Đầu tư nước ngoài ở TP. Hồ Chí Minh thời kỳ 1991-2000. Tác giả Nguyễn

Ngọc Thanh, Nguyễn Đình Mai. NXB Tài chính, Hà Nội. 2001

- Đầu tư trực tiếp nước ngoài với công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở

Việt Nam. Tác giả Nguyễn Trọng Xuân. NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 2002

- Tình hình và giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài trong giai

đoạn tới. Tác giả Nguyễn Bích Đạt. Đề tài khoa học cấp Bộ - Bộ kế hoạch đầu tư.

2004

- Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam.

Tác giả Lê Xuân Bá. NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội. 2006

- Bài viết “Đẩy mạnh thu hút FDI vào vùng Đông Nam bộ” của PGS. TS

Nguyễn Minh Tuấn tại Hội thảo khoa học UBND tỉnh Bình Dương – Học viện

Chính trị Hành chính KVII-Đại học kinh tế Tp. HCM, năm 2009.

3

- Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến năng suất lao động và trình độ

công nghệ của Việt Nam. Tác giả GS. TS. Lê Hữu Nghĩa - TS. Lê Văn Chiến, Nhà

xuất bản Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội tháng 10/2014

- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: "Những giải pháp kinh tế chính trị nhằm

thu hút có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam", Chủ

nhiệm PTS. Nguyễn Khắc Thân (1995).

- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Liên kết giữa đầu tư trực tiếp nước

ngoài với đầu tư trong nước tại Việt Nam”, Ths. Lê Thị Hải Vân (2012)

- Bài viết “Các giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội về sử dụng vốn

đầu tư nước ngoài tại thành phố Hồ Chí Minh”. Tác giả GS.TS Dương Thị Bình

Minh, Tạp chí Phát triển kinh tế 8/2009

Các công trình nghiên cứu trên, với những cách tiếp cận khác nhau, đã đề cập

đến nhiều khía cạnh như: Vai trò của FDI đối với công cuộc công nghiệp hóa, hiện

đại hóa và phát triển kinh tế của Việt Nam; Tình hình thu hút thu hút FDI ở Việt

Nam; Thực trạng thu hút FDI ở TP. Hồ Chí Minh; Những giải pháp nhằm tăng

cường thu hút thu hút FDI ở Việt Nam …Tuy nhiên, có thể nói cho đến nay vẫn

chưa có công trình nào đi sâu phân tích về thực trạng tác động của FDI đối với sự

phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Bình Dương, cũng như đề xuất những

giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả nguồn vốn FDI trong điều kiện cụ thể của tỉnh

Bình Dương.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn

Mục tiêu tổng quát của luận văn là: Nghiên cứu những tác động (tích cực và

tiêu cực) của FDI đến sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bình Dương, đề xuất

phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của nguồn vốn FDI trong quá

trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế của tỉnh Bình Dương.

Nhiệm vụ cụ thể của luận văn là:

- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của FDI đối với

phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam nói chung và tỉnh Bình Dương nói riêng.

4

- Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng tác động của FDI đến sự phát triển

kinh tế - xã hội của tỉnh Bình Dương, những kết quả đạt được và những hạn chế, bất

cập

- Đề xuất quan đểm, phương hướng và giải pháp nhằm phát huy những tác

động tích cực và hạn chế, khắc phục những hậu quả tiêu cực của FDI đối với sự

phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bình Dương.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lí luận và thực tiễn của

việc tác động nguồn vốn FDI tới sự phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Bình

Dương.

Phạm vi nghiên cứu: Về thời gian, giới hạn trong khoảng thời gian từ năm

2010 đến năm 2015, định hướng đến năm 2020 và 2025; Về không gian, giới hạn

trên địa bàn tỉnh Bình Dương, có sự so sánh với một số địa phương trong Vùng kinh

tế trọng điểm phía Nam.

5. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn tiếp cận vấn đề dưới gốc độ kinh tế chính trị, dựa trên lý luận của

chủ nghĩa Mác - Lê nin và quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước;

đồng thời kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình nghiên cứu khác có liên

quan.

Trong quá trình nghiên cứu tác giả sử dụng phương pháp duy vật biện chứng

và duy vật lịch sử để khái quát, phân tích và luận giải vấn đề; phương pháp thống

kê, so sánh, hệ thống hóa để thu thập, tính toán, xử l‎ý số liệu

6. Những đóng góp của luận văn

Luận văn đã có những đóng góp chính sau:

- Góp phần làm rõ những vấn đề chủ yếu về lý luận và thực tiễn về đầu tư trực

tiếp nước ngoài FDI ở Việt Nam nói chung và tỉnh Bình Dương nói riêng.

- Đi sâu phân tích, đánh giá được thực trạng tác động của FDI tới sự phát triển

kinh tế - xã hội của tỉnh Bình Dương trong những năm qua.

5

- Xây dựng quan điểm, đề xuất định hướng và các giải pháp nhằm phát huy tác

động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của nguồn vốn FDI trên địa bàn tỉnh

Bình Dương trong thời gian tới

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3

chương.

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò và tác động của đầu tư trực

tiếp nước ngoài FDI đối với phát triển kinh tế - xã hội.

Chương 2: Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đến sự phát triển

kinh tế - xã hội của tỉnh Bình Dương và những vấn đề đặt ra.

Chương 3: Quan điểm, phương hướng và giải pháp phát huy tác động tích cực

và hạn chế tác động tiêu cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đối với sự phát

triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bình Dương.

6

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA

ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN

KINH TẾ - XÃ HỘI

-----

1.1. NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN

1.1.1. Khái niệm “Đầu tư trực tiếp nước ngoài” (FDI)

Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm “Đầu tư trực tiếp nước ngoài”

(FDI).

Theo từ điển bách khoa thì FDI (Foreign Direct Invertment) là hình thức đầu

tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ

sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý

cơ sở sản xuất kinh doanh này.

Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO, 1996) đưa ra định nghĩa: FDI xảy ra khi

một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác

(nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Trong phần lớn trường

hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh

doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay được gọi là “công ty

mẹ” và các tài sản được gọi là “công ty con” hay “chi nhánh công ty”.

Theo Tổ chức hợp tác phát triển kinh tế (OECD, 1996), FDI là hoạt động đầu

tư được thực hiện nhằm thiết lập các mối quan hệ kinh tế lâu dài với một doanh

nghiệp, đặc biệt là những khoản đầu tư mang lại khả năng tạo ảnh hưởng đối với

việc quản lý doanh nghiệp nói trên bằng cách thành lập hoặc mở rộng một doanh

nghiệp hoặc một chi nhánh thuộc toàn quyền quản lý của chủ đầu tư, mua lại toàn

bộ doanh nghiệp đã có, tham gia vào một doanh nghiệp mới, cấp tín dụng dài hạn

(trên 5 năm).

Theo Luật đầu tư năm 2005 của Việt Nam thì “Đầu tư trực tiếp là hình thức

đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư” còn “Nhà

đầu tư nước ngoài là tổ chức, cá nhân nước ngoài bỏ vốn để thực hiện hoạt động

7

đầu tư tại Việt Nam”. Theo đó có thể hiểu FDI là hình thức nhà đầu tư nước ngoài

bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư tại Việt Nam.

Theo Luật đầu tư năm 2014 của Việt Nam thì “Đầu tư kinh doanh là việc nhà

đầu tư bỏ vốn đầu tư để thực hiện hoạt động kinh doanh thông qua việc thành lập tổ

chức kinh tế; đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế; đầu

tư theo hình thức hợp đồng hoặc thực hiện dự án đầu tư” còn “Nhà đầu tư nước

ngoài là cá nhân có quốc tịch nước ngoài, tổ chức thành lập theo pháp luật nước

ngoài thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam”

Như vậy, từ các quan điểm đã nêu ở trên, có thể hiểu: Đầu tư trực tiếp nước

ngoài (FDI) là hình thức nhà đầu tư nước ngoài dịch chuyển tiền, công nghệ, máy

móc…từ nước này sang nước khác đồng thời nắm quyền quản lý, điều hành với

mục đích thu được lợi ích kinh tế từ nước tiếp nhận đầu tư.

*Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)

Thứ nhất, chủ đầu tư vốn FDI là chủ sở hữu vốn, là một bộ phận của hình

thức chu chuyển vốn quốc tế trong đó chủ đầu tư có quốc tịch nước ngoài, tiến hành

đầu tư tại một nước khác vì vậy nhà đầu tư nước ngoài phải chấp hành luật pháp của

nước tiếp nhận đầu tư. Chủ sở hữu vốn đầu tư trực tiếp tham gia quản lý, điều hành

quá trình sử dụng vốn, có nghĩa vụ và quyền lợi từ hoạt động sản xuất kinh doanh

tương ứng với phần vốn góp đó. Trong trường hợp nhà đầu tư nước ngoài đầu tư

dưới hình thức 100% vốn thì có toàn quyền quyết định, nếu góp vốn thì quyền này

phụ thuộc vào mức độ góp vốn.

Thứ hai, vốn FDI không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của chủ đầu tư

nước ngoài dưới hình thức vốn điều lệ hoặc vốn pháp định mà nó còn bao gồm cả

vốn vay của các nhà đầu tư để triển khai và mở rộng dự án cũng như vốn đầu tư

được trích lại từ lợi nhuận sau thuế từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì

vậy, nước sở tại phải có chính sách về tài chính phù hợp tránh trường hợp một số

nhà đầu tư nước ngoài lợi dụng chỉ đưa một lượng vốn nhỏ vào còn sau đó tiến

hành vay vốn tại nước sở tại để thực hiện đầu tư, mở rộng kinh doanh làm ảnh

hưởng đến mục đích thu hút đầu tư nước ngoài của nước sở tại.

8

Thứ ba, vốn FDI là vốn đầu tư phát triển dài hạn, trực tiếp từ bên nước ngoài

vì vậy đối với nước tiếp nhận đầu tư thì đây chính là nguồn vốn dài hạn bổ sung hết

sức cần thiết trong nền kinh tế. Vốn FDI là dòng vốn quốc tế gắn liền với việc xây

dựng các công trình, nhà máy, chi nhánh sản xuất vì thế thời gian đầu tư dài, lượng

vốn đầu tư lớn, có tính ổn định cao tại nước nhận đầu tư. Khác với đầu tư gián tiếp

nước ngoài, là hình thức đầu tư mà nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn đầu tư đến các

nước khác nhưng không nắm quyền quản lý, điều hành thông qua các công cụ tài

chính như cổ phiếu, trái phiếu… đặc điểm của đầu tư nước ngoài gián tiếp là có thời

gian hoạt động ngắn, biến động bất thường hơn vì đây là hình thức mà nhà đầu tư

nước ngoài thông qua việc mua cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, mà nhà

đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Do tính chất trực tiếp của

hình thức đầu tư này nên vốn FDI ít chịu sự chi phối, ràng buộc của chính phủ so

với các hình thức đầu tư gián tiếp nước ngoài khác, lĩnh vực mà vốn FDI thường

hướng tới là những lĩnh vực mang lại lợi nhuận cao cho nhà đầu tư nước ngoài.

Thứ tư, vốn FDI là hình thức đầu tư trực tiếp của các nhà đầu tư nước ngoài,

họ mang vốn đến nước khác để đầu tư. Vì vậy, khác với các nguồn vốn vay, vốn

FDI tại nước sở tại không phải hoàn trả nợ và cũng không tạo gánh nặng nợ quốc

gia, đây là một ưu điểm so với các hình thức đầu tư nước ngoài khác. Việc mang

vốn từ bên ngoài vào đầu tư tại nước sở tại sẽ tạo thêm nhiều vốn cho đầu tư, nhất

là những nước đang phát triển và vốn này không phải là khoản nợ của quốc gia, sẽ

đảm bảo an ninh tài chính cho quốc gia tiếp nhận vốn tốt hơn nhiều so với các

khoản vốn vay quốc gia khác. Để được gọi là vốn FDI thì phía nhà đầu tư nước

ngoài phải đóng góp một tỷ lệ nhất định, lượng vốn này tùy theo quy định của từng

nước và được thay đổi theo thời gian.

Thứ năm, vốn FDI là hình thức xuất khẩu tư bản nhằm thu lợi nhuận cao và

các nhà đầu tư nước ngoài quyết định về quy mô và sử dụng vốn FDI. Do các nhà

đầu tư nước ngoài luôn hướng tới mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận cao nên có thể gây ra

nhiều thiệt thòi, tổn thất ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia và mục tiêu thu hút vốn của

nước nhận đầu tư.

9

Bảng 1.1: Lợi thế của Doanh nghiệp FDI so với Doanh nghiệp nước tiếp

nhận đầu tư

Mô tả Lợi thế

Có vốn lớn và chi phí vốn thấp hơn so với các doanh nghiệp Vốn trong nước

Trình độ Có trình độ quản trị doanh nghiệp tốt hơn, có khả năng dự báo và

quản lý xác định rủi ro cũng như lợi nhuận tốt hơn

Có công nghệ tiên tiến, có khả năng ứng dụng công nghệ vào sản

Công nghệ xuất, có khả năng phát minh ra công nghệ mới và áp dụng trong

sản xuất

Có khả năng nghiên cứu thị trường, quảng cáo và phân phối sản Marketting phẩm

Mua nguyên Có những ưu đãi trong việc tìm kiếm và mua nguyên vật liệu

vật liệu phục vụ cho quá trình sản xuất

Thoả thuận với Có khả năng đàm phán thoả thuận để được hưởng những ưu đãi

Chính phủ từ phía Chính phủ của nước tiếp nhận đầu tư

Nguồn: (Nguyễn Văn Tuấn, 2005, Đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển

kinh tế Việt Nam, trang 36)

1.1.2. Những tác động tích cực của FDI với phát triển kinh tế - xã hội

Khi xem xét, đánh giá một dự án FDI, với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước

thì cần đánh giá tất cả các lợi ích mà dự án có thể mang lại, kể cả trực tiếp và gián

tiếp. Sau đây là một số lợi ích phổ biến của dự án FDI:

- Thu hút thêm nguồn vốn

Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của kinh tế học vĩ mô Keynes tiêu biểu là mô

hình Harrod-Domar cho rằng nguồn gốc tăng trưởng kinh tế chính là lượng vốn sản

xuất tăng thêm có được từ đầu tư và tiết kiệm của quốc gia. Nhưng nếu GDP/ đầu

người thấp thì khó nâng cao tỷ lệ tiết kiệm để đầu tư. Đây là trở ngại của quốc gia

có thu nhập thấp. Do vậy, hướng khắc phục chính là thu hút thêm nguồn đầu tư từ

10

nước ngoài. Khi tiếp nhận một nhà đầu tư mới sẽ bổ sung thêm nguồn vốn cho đầu

tư phát triển kinh tế - xã hội của nước tiếp nhận, đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư.

- Giải quyết việc làm cho người lao động

Một lợi ích phổ biến khác của FDI là tạo thêm việc làm cho người lao động,

giảm thất nghiệp. Có việc làm đồng nghĩa với có thu nhập, nâng vị thế của người

lao động trong gia đình và ngoài xã hội. Ngoài ra, tạo việc làm giúp nâng cao chất

lượng cuộc sống, hạn chế tiêu cực của xã hội, góp phần xóa đói giảm nghèo và ổn

định xã hội. Vì vậy, tạo việc làm cho người lao động là biện pháp trung tâm của

mọi quốc gia, nó không chỉ giải quyết các vấn đề kinh tế mà còn giải quyết các vấn

đề xã hội.

Mức độ giải quyết việc làm của doanh nghiệp FDI phụ thuộc vào nhiều yếu tố

như: quy mô đầu tư của dự án, ngành nghề hoạt động, trình độ công nghệ và chất

lượng lao động của nước tiếp nhận đầu tư.

- Tăng nguồn thu ngân sách nhà nước từ thuế

FDI đóng góp vào nguồn thu ngân sách của địa phương; ngay cả trong thời

gian nhà đầu tư nước ngoài được hưởng ưu đãi miễn, giảm thuế thì địa phương

cũng có thể tăng thu được từ thuế thu nhập cá nhân do những việc làm mới mà

doanh nghiệp FDI tạo ra và các loại thuế gián thu khác.

- Chuyển giao công nghệ.

Thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp, các nhà đầu tư nước ngoài tiến hành

chuyển giao công nghệ, nhờ đó trình độ công nghệ sản xuất trong nước được cải

thiện. Mặt khác, để đạt được lợi nhuận trong bối cảnh ngày càng cạnh tranh gay gắt,

các nhà đầu tư nước ngoài buộc phải chuyển giao công nghệ và từng bước nâng lên

kỹ thuật hiện đại. Hoạt động chuyển giao công nghệ của doanh nghiệp FDI, một

mặt góp phần tạo ra sản phẩm có chất lượng, mặt khác thúc đẩy các doanh nghiệp

trong nước phải tự đổi mới và cải tiến công nghệ để tồn tại và phát triển.

- Cải thiện kỹ năng lao động.

Các công ty nước ngoài rất chú trọng việc đào tạo, huấn luyện kỹ năng cho

người lao động. Điều này, đã góp phần đào tạo nên một đội ngũ lao động lành nghề

11

và cán bộ quản lý có trình độ hay nói cách khác doanh nghiệp FDI đã làm thay đổi

cơ bản năng lực, kỹ năng lao động và quản trị doanh nghiệp thông qua việc đào tạo,

bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn và quá trình rèn luyện của người lao động trong

công việc hàng ngày.

- Cải thiện tình hình xuất khẩu.

Phần lớn các doanh nghiệp FDI đều chú trọng xuất khẩu, do vậy xuất khẩu của

doanh nghiệp FDI thường chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng kim ngạch xuất

khẩu của địa phương. Với mạng lưới phân phối rộng, doanh nghiệp FDI có thể xuất

khẩu hiệu quả hơn các doanh nghiệp trong nước. Trong trường hợp doanh nghiệp

FDI hoạt động thật sự có hiệu quả, thì nhiều quốc gia có thể xem đây là một hình

thức để gia tăng mức xuất khẩu và cải thiện thu nhập ngoại hối. Bên cạnh đó, với sự

hiện diện của các doanh nghiệp FDI đã khuyến khích, thúc đẩy doanh nghiệp trong

nước thâm nhập ngày càng sâu hơn vào thị trường xuất khẩu.

- Nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước.

FDI tạo ra cơ hội cung cấp nguyên liệu đầu vào cho công ty nước ngoài, đã

thúc đẩy doanh nghiệp trong nước nâng cao chất lượng và độ tin cậy của sản phẩm

làm ra, do đó sẽ trở nên cạnh tranh hơn trên thị trường quốc tế. Ngoài ra, các công

ty nước ngoài thường xuyên đưa ra thị trường sản phẩm mới nên buộc doanh nghiệp

trong nước phải cạnh tranh với loại sản phẩm này. Kết quả là doanh nghiệp trong

nước hoạt động hiệu quả hơn và tạo ra được sản phẩm có chất lượng cao hơn để

cung ứng trên thị trường. (Lê Xuân Bá, 2006, Tác động của FDI tới tăng trưởng

kinh tế ở Việt Nam)

Bên cạnh những lợi ích mà nhà đầu tư nước ngoài mang lại cũng còn tồn tại

song song một số mặt hạn chế trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp tại nước

tiếp nhận đầu tư

1.1.3. Những tác động tiêu cực của FDI

- Tác động xấu đến môi trường sống

FDI giúp tăng trưởng kinh tế nhưng cũng dẫn đến tình trạng môi trường bị suy

thoái, về lâu dài có thể làm ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của quốc gia.

12

Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp FDI vẫn còn vi phạm pháp luật về bảo vệ

môi trường. Đặc biệt là đối với các dự án có mức độ ô nhiễm môi trường cao như:

dệt nhuộm, thuộc da, xi mạ, hóa chất, chế biến củ mì tươi, chăn nuôi gia súc, gia

cầm, giết mổ gia súc…Nguyên nhân là do chi phí đầu tư hệ thống xử lý chất thải

chiếm tỷ lệ vốn lớn nên nhiều doanh nghiệp chưa đầu tư đúng mức, dẫn đến lượng

chất thải thải ra môi trường sau khi được xử lý chưa đạt chuẩn, làm ảnh hưởng đến

môi trường sống xung quanh khu vực, chất lượng nguồn nước giảm sút.

Bên cạnh đó, còn có hiện tượng chuyển các ngành sản xuất ô nhiễm môi

trường từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển thông qua đầu tư nước

ngoài. Nhiều chủ đầu tư đưa những ngành công nghiệp ô nhiễm, sử dụng nhiều tài

nguyên hoặc công nghệ chưa thân thiện với môi trường vào các nước đang phát

triển.

- Chiếm dụng đất đai

Tính đến 12/2011, ở Việt Nam đã có 283 Khu công nghiệp và 15 Khu kinh tế

ven biển được thành lập, chiếm tổng diện tích đất tự nhiên 142.000 ha.

Đặc biệt là các dự án FDI trong lĩnh vực nông nghiệp gần như không có hiệu

quả hoặc hiệu quả không cao, trong khi diện tích được cho thuê là tương đối lớn.

Luật Đất đai số 13/2003/QH11 ngày 26/11/2003 quy định rõ: “trường hợp sử dụng

đất không hiệu quả, đất cho thuê để thực hiện dự án đầu tư mà không được sử dụng

trong thời hạn mười hai tháng liền kể từ ngày giao đất thì bị nhà nước thu hồi đất”.

Quy định thì rất cụ thể, rõ ràng, tuy nhiên trên thực tế khi áp dụng vào xử lý thì gặp

phải sự phản ứng của nhà đầu tư nước ngoài, thế nào là sử dụng đất không hiệu

quả…dẫn đến nhiều dự án nông nghiệp hoạt động cầm chừng nhưng vẫn chưa thu

hồi được đất, gây lãng phí đất đai, trong khi người dân bị thu hồi đất giao cho dự án

thì không có đất sản xuất.

- Thực thi pháp luật nước sở tại không tốt

Còn một số doanh nghiệp thực hiện chưa tốt như đóng bảo hiểm cho người lao

động, ký hợp đồng lao động, trang thiết bị bảo hộ lao động, an toàn vệ sinh lao

động…Các vụ tranh chấp giữa chủ và thợ về tiền công không tăng tương ứng với

13

cường độ lao động và chỉ số tăng giá, tăng giờ làm vượt quá quy định và vẫn còn

một số chủ doanh nghiệp FDI có cách ứng xử thiếu tôn trọng người lao động. Ngoài

ra, do rào cản ngôn ngữ, văn hóa nên khi có tranh chấp xảy ra dễ dẫn đến hành động

quá khích giữa chủ và thợ.

1.2 QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ NIN VÀ CỦA ĐẢNG,

NHÀ NƯỚC TA VỀ VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI.

1.2.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lê nin

Học thuyết kinh tế của chủ nghĩa Mác-Lênin về xuất khẩu tư bản cũng cung

cấp những cơ sở khoa học để hiểu rõ về bản chất của đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Theo sự phân tích của V.I.Lênin, sở dĩ cần phải xuất khẩu tư bản vì trong một

số nước TBCN phát triển đã thiếu địa bàn đầu tư có lợi. Trong khi đó ở nhiều nước

thuộc địa, nền kinh tế còn lạc hậu cần tư bản để phát triển kinh tế, đổi mới kỹ thuật,

học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến và mở rộng thị trường, do đó có sự gặp nhau

giữa nước xuất khẩu tư bản và các nước tiếp nhận tư bản.

Theo Lênin, thông qua xuất khẩu tư bản, các nước tư bản thực hiện việc bóc

lột đối với các nước lạc hậu và thường là thuộc địa của nó. Nhưng cũng chính Lênin

đưa ra chính sách “kinh tế mới” đã nói rằng: Những người cộng sản phải biết lợi

dụng những thành tựu kinh tế và khoa học kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản thông qua

hình thức “chủ nghĩa tư bản nhà nước”. Theo quan điểm này nhiều nước đã “chấp

nhận” phần nào sự bóc lột của chủ nghĩa tư bản để phát triển kinh tế như: khai thác

vốn của từng chủ đầu tư nước ngoài. Nhiều nước thiếu vốn trầm trọng nên đối với

hình thức đầu tư trực tiếp không quy định mức đóng góp tối đa của mỗi chủ đầu tư,

thậm chí đóng góp vốn càng nhiều thì càng được hưởng những chính sách ưu đãi về

thuế của nước chủ nhà. FDI giúp tiếp thu công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm quản

lý kinh doanh của các chủ đầu tư nước ngoài. Nhờ đó FDI cho phép nước chủ nhà

có điều kiện khai thác tốt nhất những lợi thế của mình về tài nguyên, vị trí, mặt đất,

mặt nước... Sự cạnh tranh, ganh đua giữa các nhà đầu tư có vốn trong nước và nước

ngoài tạo động lực kích thích sự đổi mới và hoàn thiện trong các nhà doanh nghiệp

và đâu là nhân tố quan trọng đưa nền kinh tế phát triển với tốc độ cao. Các dự án

14

FDI góp phần giải quyết việc làm và nâng cao mức sống của người lao động. Với

những ưu điểm trên FDI giúp cho các nước tiếp nhận phát triển kinh tế nhanh hơn

tự thân vận động hay đi vay vốn để mua lại kỹ thuật của các nước công nghiệp phát

triển.

1.2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước

Cho đến nay, quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về vai trò của đầu

tư nước ngoài nói chung, FDI nói riêng đã có nhiều thay đổi. Những thay đổi này

xuất phát từ thực tiễn của nền kinh tế và do thay đổi về bối cảnh kinh tế trong khu

vực và thế giới. Nếu như trước năm 2000, các doanh nghiệp FDI chưa được coi như

một chủ thể độc lập trong nền kinh tế thì từ Đại hội Đảng lần thứ IX năm 2001 trở

lại đây, khu vực FDI đã được khẳng định là một trong các thành phần cùng tồn tại

trong nền kinh tế.

Đại hội Đảng lần thứ VII (1991) và Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996), tuy

không tách riêng khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thành một “thành phần

kinh tế” trong nền kinh tế nhiều thành phần của Việt Nam, song đã ghi nhận sự hợp

tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước và tư bản nước ngoài, khẳng định khu vực đầu

tư nước ngoài: “có vai trò to lớn trong động viên về vốn, công nghệ, khả năng tổ

chức quản lý...” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1996, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ VIII). Với quan điểm như vậy, chính sách đối với khu vực có vốn FDI

trong thời kỳ này chủ yếu hướng vào việc khuyến khích các nhà đầu tư liên doanh

với các doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam hoạt động trong nhiều lĩnh vực kinh

tế, trừ những lĩnh vực có tầm quan trọng đặc biệt đối với nền kinh tế quốc dân và an

ninh quốc phòng.

Năm 2001, lần đầu tiên khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được công

nhận là một thành phần kinh tế với vai trò “hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu

hạ tầng kinh tế - xã hội, gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc

làm...” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ IX). Tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 9 (khoá IX), Đảng Cộng sản Việt

Nam đã đề ra nhiệm vụ “phải tạo chuyển biến cơ bản trong thu hút vốn đầu tư trực

15

tiếp nước ngoài” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2004, Tài liệu của Hội nghị toàn quốc

lần thứ 9 khóa IX).

Theo đó, chính sách thu hút FDI trong thời gian tới sẽ tập trung vào nâng cao

chất lượng FDI vào Việt Nam thông qua việc thu hút mạnh hơn nữa các tập đoàn

xuyên quốc gia đầu tư vào các ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế, đặc biệt

là các lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ nguồn. Thay đổi trong nhận thức và quan

điểm của Đảng và Nhà nước đối với khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là cơ

sở quan trọng để Chính phủ sửa đổi và hoàn thiện các văn bản pháp luật về cơ chế

chính sách thu hút vốn FDI đối với hoạt động của các doanh nghiệp FDI trong

những năm gần đây.

Đảng và Nhà nước có những quan điểm về nâng cao hiệu quả và tăng thu hút

vốn FDI để phát triển kinh tế - xã hội trong những năm tới:

Một là, phải biến những yếu tố ngoại sinh thành yếu tố nội sinh. Khi nói về

việc tranh thủ sự viện trợ quốc tế, Hồ Chí Minh đã từng nhấn mạnh: “Ta phải khéo

dùng cái vốn ấy để bồi bổ lực lượng của ta, phát triển khả năng của ta, nhân dân và

cán bộ ta chớ nên ỷ lại, mà phải tự lực tự cường” (Hồ Chí Minh, 1987, toàn tập, tập

7, trang 289). Muốn vậy phải có các chủ trương chính sách sao cho việc thu hút vốn

nước ngoài góp phần hình thành một nền kinh tế phát triển có hiệu quả.

Việc nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế và vốn đầu tư nước ngoài phải góp

phần khơi dậy và phát huy nội lực. Trên cơ sở phát huy nội lực mà thực hiện nhất

quán lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực bên ngoài.

Hai là, đảm bảo nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi giữa các đối tác nước ngoài

và trong nước. Các nhà đầu tư đưa vốn vào nước ta tất nhiên phải thu nhiều lợi

nhuận hoặc tìm nguyên liệu quý hiếm. Để khuyến khích họ yên tâm và hăng hái

kinh doanh không những cần phải đảm bảo quyền lợi sở hữu hợp pháp của họ mà

còn phải có những ưu đãi để họ thu được lợi nhuận thoả đáng thậm chí lợi nhuận

cao, nhưng phải là lợi nhuận từ phát triển kinh doanh, nâng cao năng suất lao động

và cạnh tranh lành mạnh chứ không phải từ việc lợi dụng thế yếu của các đối tác

trong nước và kể cả sở hữu của luật pháp.

16

Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải có những tác động tích cực,

thể hiện ở những mặt cơ bản như: Góp phần khai thác các nguồn lực trong nước để

thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững, tăng thu ngân sách nhà nước; Tăng việc làm,

tăng trình độ lành nghề và tăng thu nhập của công nhân; Tiếp thu được những bí

quyết về công nghệ, về kinh doanh, kinh nghiệm quản lý để trong tương lai cán bộ

và công nhân ta có thể tự vận hành những doanh nghiệp mới; Thúc đẩy chuyển dịch

cơ cấu kinh tế trong nước….

Ba là, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công

bằng xã hội. Chỉ quan tâm đến tăng trưởng kinh tế, tạo ra việc làm, tăng thu nhập

của công nhân, tăng thu ngân sách... Chưa hẳn đã có tiến bộ và công bằng xã hội.

Cần nhận thức rằng sự ra đời của các khu công nghiệp gắn với quá trình hình thành

các đô thị, các thị trấn. Việc quản lý đô thị khác với quản lý nông thôn, đòi hỏi cao

hơn về kết cấu hạ tầng, về bảo vệ môi trường, an ninh, về các loại dịch vụ, nhất là

dịch vụ công cộng...

Không chỉ là tổ chức và quản lý những khu dân cư mới mà quan trọng hơn

phải có chương trình xây dựng một đội ngũ công nhân mới mà đa số vừa xuất thân

từ nông dân, từ học sinh hay những người lao động tự do, làm cho họ không chỉ

nâng cao về tay nghề mà cả về ý thức chính trị, lập trường giai cấp công nhân, về

lối sống nhân văn, hiện đại; phòng ngừa và ngăn chặn các tệ nạn xã hội; xây dựng

quan hệ chủ thợ lành mạnh, đảm bảo lợi ích chính đáng của cả hai bên.

1.3. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ TỈNH, THÀNH

PHỐ TRONG VIỆC ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA VỐN ĐẦU TƯ TRỰC

TIẾP NƯỚC NGOÀI

1.3.1. Kinh nghiệm của Thành phố Hồ Chí Minh

Từ năm 1988 đến 1990 là những năm khởi đầu, FDI chưa có tác dụng rõ rệt

đến tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn TP.HCM. Từ năm 2001 đến nay là thời

kỳ phục hồi hoạt động của FDI ở TP.HCM. Vốn FDI đăng ký trên địa bàn thành

phố năm 2001 là 0,6 tỷ USD tăng gần gấp 3 lần so với năm trước. Từ năm 2005 đến

năm 2014, lượng vốn FDI đăng ký là 36,3 tỷ USD và vốn thực hiện đạt 18,5 tỷ

17

USD. FDI tác động đến cả chiều rộng và chiều sâu của quá trình tăng trưởng tại

TP.HCM

Trong quá trình hoạt động, các dự án FDI ở thành phố Hồ Chí Minh đã góp

phần giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động. Theo thống kê của Sở Lao

động Thương binh - Xã hội TP.HCM thì khu vực có vốn đầu tư nước ngoài hiện

đang là khu vực có mức lương cao nhất và thu hút nhiều lao động, đã tạo việc làm

cho gần 550.000 lao động trực tiếp và vài trăm ngàn lao động gián tiếp (Cục Thống

kê TP.HCM năm 2011, 2012, 2013, 2014).

Tác động quan trọng nhất của FDI trên địa bàn TP.HCM là góp phần làm tăng

hiệu quả kinh tế - xã hội, cân bằng cán cân thanh toán quốc tế, hình thành các định

chế tiền tệ tín dụng đáp ứng các chuẩn mực quốc tế, đóng góp ngày càng nhiều vào

thu ngân sách và góp phần cải thiện môi trường sống xã hội.

Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ở TP.HCM cũng đã góp phần tích cực

vào việc đổi mới, nâng cấp thiết bị, công nghệ, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát

triển. Các dự án có vốn đầu tư lớn (như doanh nghiệp bia, ô tô...) đa số sử dụng

thiết bị hiện đại và công nghệ tiên tiến vì đó là yêu cầu tất yếu để duy trì hoạt động

của chi nhánh trong bối cảnh kinh tế thế giới cạnh tranh gay gắt.

Tuy nhiên, FDI cũng đã có tác động tiêu cực đến một số mặt kinh tế - xã hội ở

TP.HCM:

Một là, hiệu quả kinh tế thu được từ FDI còn thấp. Tuy có những đóng góp

tích cực cho sự phát triển kinh tế tại TP.HCM, nhưng trên thực tế 25 năm qua cho

thấy mức lợi nhuận thu được từ khu vực FDI còn thấp, thậm chí một số doanh

nghiệp còn bị thua lỗ, nhất là các doanh nghiệp liên doanh.

Hai là, mục tiêu hướng về xuất khẩu khi thu hút vốn FDI trong những năm gần

đây mặc dù kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI ở TP.HCM gia tăng về số tuyệt

đối, nhưng nếu xét tỷ trọng kim ngạch xuất nhập khẩu của TP.HCM thì tỷ trọng này

gia tăng không nhiều trong nhiều năm qua.

Ba là, xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI ở TP.HCM chỉ chiếm 40% doanh

thu, còn 60% là tiêu thụ ở thị trường nội địa. Vì thế nhiều mặt hàng tiêu dùng sản

18

xuất trong nước đã đáp ứng được như: nước giải khát, bột giặt... nay thêm các liên

doanh thì phải chia sẻ thị trường mà xu thế lại thuộc về các xí nghiệp có vốn đầu tư

nước ngoài.

Bốn là, một bộ phận công nghệ chuyển giao dưới hình thức thiết bị cũ kỹ, lạc

hậu, hoạt động kém hiệu quả (thiết bị hiện đại chỉ chiếm 10%, trung bình 30% và

60% cũ kỹ lạc hậu).Tuy nhiên, nếu nói về mức độ hiện đại thì đều không phải là

hiện đại bậc nhất, có nghĩa hầu hết công nghệ chuyển giao đều lạc hậu một cách

tương đối.

Năm là, tương tự như sự hạn chế về mức độ hiện đại, công nghệ chuyển giao

có xu hướng là thiếu đồng bộ. Chẳng hạn các liên doanh ô tô, xe máy, điện tử đều

được phân công chuyên môn hoá theo từng công đoạn. Trong đó những bộ phận

quan trọng nhất chứa hàm lượng vốn và kỹ thuật cao như máy của xe máy, xe ô tô

đều được thực hiện ở công ty mẹ. Thực tế hiện nay, công nghệ chuyển giao ở những

ngành này chủ yếu vẫn là lắp ráp.

Sáu là, tình trạng đối tác nước ngoài khai tăng giá thiết bị để tăng tỷ lệ vốn

góp vào liên doanh là khá phổ biến. Một công bố của công ty kiểm toán quốc tế

SGS (Societe General de Surveillance) Thụy Sĩ đã giám định giá thiết bị góp vốn

của phía nước ngoài trong 12 liên doanh thì có 6.112 công ty đã khai khống giá trị

thiết bị với tỷ lệ chênh lệch giá đến 28,4%.

Những hạn chế trên trong thực tiễn thu hút FDI tại TP.HCM là do những

nguyên nhân sau:

Thứ nhất, mặc dù đã có những cải tiến tích cực, song nhìn chung chính sách

điều hành vĩ mô của thành phố vẫn chưa đồng bộ và chưa ổn định. Nhiều lĩnh vực

quan trọng và rất nhạy cảm đối với các nhà đầu tư nước ngoài như: vấn đề thanh

toán ngoại tệ, vấn đề chính sách về đất đai... chưa được giải quyết nhanh chóng.

Mặt khác, về thủ tục hành chính tuy đã có nhiều cải thiện, nhưng những quy định

trong những lĩnh vực như: Hải quan, thuế, xuất nhập cảng còn rườm rà, dễ nảy sinh

tiêu cực và gây phiền hà cho các nhà đầu tư.

19

Thứ hai, công tác xúc tiến đầu tư hiệu quả còn thấp, quy hoạch dài hạn thu hút

vốn đầu tư nước ngoài vẫn còn chậm, kinh phí để tổ chức mạng lưới đại diện và tổ

chức vận động đầu tư quốc tế còn hạn chế. Mạng lưới các công ty tư vấn đầu tư

nước ngoài còn quá ít, trình độ chuyên môn chưa cao, chưa đáp ứng nhu cầu nhiệm

vụ

Thứ ba, thủ tục thẩm định dự án đầu tư nước ngoài và cấp giấy phép đầu tư

còn qua nhiều tầng nấc trung gian, gây phiền hà, mất rất nhiều thời gian. Tuy gần

đây có sự phân cấp nhưng quản lý chưa chặt chẽ và cụ thể, còn lúng túng, một số dự

án đầu tư do trình độ năng lực của các cán bộ thẩm định kém đã làm thiệt hại cho

phía đối tác hoặc một số dự án không có tính khả thi.

Thứ tư, việc triển khai thực hiện giấy phép của doanh nghiệp FDI vẫn còn

nhiều khó khăn vướng mắc, phức tạp, gây phiền hà cho nhà đầu tư. Khi doanh

nghiệp đi vào hoạt động thì lại có rất nhiều ngành, nhiều cấp có thẩm quyền quản

lý, kiểm tra doanh nghiệp nhưng gần như không có cơ quan nào nắm chắc tình hình

hoạt động của doanh nghiệp. Về phía các doanh nghiệp, đa số đều ít nhiều vi phạm

nội dung cấp giấy phép, thậm chí một số doanh nghiệp còn có biểu hiện gian lận

trong kinh doanh hoặc cam kết xuất khẩu để dễ dàng xin giấy phép và sau đó thì

tiêu thụ nội địa, nhưng luật pháp, chính sách của Nhà nước chưa quy định chặt chẽ,

đầy đủ các biện pháp xử lý, chế tài có hiệu quả.

Thứ năm, lực lượng lao động tại TP.HCM làm việc trong khu vực FDI ngày

càng lớn, bên cạnh việc có điều kiện tiếp cận công nghệ mới, phương pháp quản lý

tiên tiến, thu nhập khá cao thì cũng nảy sinh vấn đề mâu thuẫn trong mối quan hệ

chủ thợ, nhiều doanh nghiệp đã trở nên gay gắt mà nguyên nhân chủ yếu là do

cường độ lao động, có thời điểm quá cao nhưng tiền lương và đãi ngộ chưa thoả

đáng. Việc xử lý mâu thuẫn này rất phức tạp, cần phải tuân thủ đúng và đầy đủ pháp

luật hiện hành. Nếu chỉ xuất phát từ lợi ích của người lao động thì nguy cơ người

lao động mất việc hàng loạt ở các doanh nghiệp thực sự khó khăn vì nguyên nhân

khách quan chung hiện nay, nếu ngược lại sẽ đối lập với người lao động, giúp nhà

20

đầu tư nước ngoài có điều kiện sử dụng lao động với cường độ cao hơn, điều này sẽ

trái với bản chất của chế độ XHCN của chúng ta.

1.3.2. Kinh nghiệm của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu

Bà Rịa – Vũng Tàu là một trong những địa phương thu hút được lượng vốn

FDI khá cao. Khu vực kinh tế có vốn nước ngoài tương đối phát triển và có vai trò

quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh.

Vốn FDI trở thành một nguồn vốn rất quan trọng trong tổng vốn đầu tư xã

hội thực hiện trên địa bàn tỉnh. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã đóng

góp quan trọng vào tốc độ tăng trưởng kinh tế trừ dầu khí của tỉnh. Tỷ trọng khu

vực FDI trong tổng GDP trừ dầu khí của tỉnh tăng dần qua các năm, từ chỗ chiếm

33,35% năm năm 2007 đã tăng lên chiếm hơn 52% vào năm 2012 và năm 2014 là

53,2%. Từ năm 2007 trở đi, tỷ trọng của khu vực FDI tăng liên tục, từ mức trên

41% năm 2010 lên 57,7% năm 2014.

Tỉnh thu hút FDI vào nhiều ngành khác nhau, nhưng đóng góp của khu vực

FDI nhiều nhất vào cải thiện năng lực sản xuất của ngành công nghiệp trên địa bàn.

Giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực đầu tư nước ngoài chiếm bình quân 65%

trong tổng giá trị ngành này trong giai đoạn 2001-2005. Trong hai năm 2006-2007,

tỷ lệ này đạt bình quân 53%; năm 2014 đạt 66,64%. Với việc hình thành nhiều dự

án quan trọng trong các Khu công nghiệp, sản xuất các sản phẩm chủ lực như: điện,

sắt thép, phân bón, xây dựng cảng…đặc biệt là 02 dự án điện BOT và các dự án

thuộc ngành thép, Bà Rịa – Vũng Tàu trở thành trung tâm điện – thép lớn của Việt

Nam hiện nay. Từ năm 2002, các sản phẩm mới xuất hiện từ khu vực kinh tế FDI

gồm gốm sứ, gạch men,..Từ năm 2004, xuất hiện thêm các sản phẩm từ khu vực

kinh tế FDI, gồm: tháp gió, da thuộc, vải giả da, sắt thép, cơ khí và công nghiệp phụ

trợ ngành dầu khí và công nghiệp nặng.

Trên địa bàn tỉnh có 14 khu công nghiệp với hơn 3.000 doanh nghiệp FDI

đăng ký hoạt động với tổng vốn đăng ký khoảng 21 triệu 929 ngàn USD. Các KCN

thu hút nhiều ngành nghề với dự án thuộc lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tác,

công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp sử dụng nguyên nhiên liệu là khí đốt, gắn liền với

21

phát triển hệ thống cảng và các ngành chế biến nông, lâm, hải sản, dệt may, da giày.

Nhìn chung, các doanh nghiệp FDI trên địa bàn tỉnh là các doanh nghiệp tập trung

nhiều vốn, chủ yếu trong ngành công nghiệp nặng, du lịch và cảng biển. Khu vực

FDI gắn kết với phát triển hệ thống cảng biển nước sâu và các khu công nghiệp, tạo

sự đa dạng về sản phẩm công nghiệp, trong đó xuất hiện một số sản phẩm công

nghiệp mới như sắt thép, tháp gió, phân bón, vật liệu xây dựng…Thông qua khu

vực FDI, nhiều nguồn lực trong nước như lao động, đất đai, tài nguyên khoáng sản

trong phạm vi địa giới của tỉnh được khai thác và sử dụng mang lại hiệu quả kinh tế.

Khu vực FDI cũng đóng góp rất lớn vào kết quả xuất khẩu, chuyển dịch cơ cấu

hàng xuất khẩu và mở rộng thị trường xuất khẩu cho Việt Nam nói chung và doanh

nghiệp trong tỉnh nói riêng.

Không tính dầu khí, xuất khẩu của doanh nghiệp FDI trong giai đoạn 2001-

2005 đạt 181 triệu USD, chiếm 18% tổng giá trị xuất khẩu trên địa bàn tỉnh. Riêng

trong năm 2005, xuất khẩu của khu vực có vốn FDI đã đạt tới 87 triệu USD, chiếm

19% tổng giá trị xuất khẩu của tỉnh . Năm 2014 xuất khẩu của khu vực này đạt

1.723 triệu USD, chiếm 78,2% tổng giá trị xuất khẩu của tỉnh, cao hơn so với tỷ lệ

chung của cả nước là 63%.

Lao động trong khu vực doanh nghiệp FDI có tốc độ tăng tưởng khá ấn tượng,

đạt trung bình 44,2% năm giai đoạn 2010-2014, cao hơn gần 18 lần so với tốc độ

tăng lực lượng lao động của cả tỉnh. Ngành công nghiệp với đóng góp rất cao của

khu vực FDI nhưng chỉ tạo việc làm cho hơn 19% tổng số lao động có việc làm của

tỉnh. Trong khi đó, 33,3% lao động nông nghiệp chỉ đóng góp hơn 4% vào GDP

trên địa bàn. Như vậy, sự phát triển nhanh về quy mô của khu vực FDI chủ yếu sử

dụng lao động địa phương, không gây ra làn sóng thu hút lao động từ các tỉnh khác

đến. Đặc điểm của FDI được thu hút vào tỉnh là tập trung trong ngành công nghiệp

nặng, công nghiệp tập trung vốn, sử dụng ít lao động.

Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động của tỉnh cao hơn so với

mặt bằng chung của cả nước. Lao động đã qua đào tạo tăng mạnh cả về số lượng và

chất lượng, với tốc độ tăng trung bình đạt hơn 11%/năm giai đoạn 2002-2005 và

22

15,2%/năm giai đoạn 2006-2012. Nhờ đó, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo của tỉnh Bà

Rịa – Vũng Tàu đạt khoảng 55% năm 2012, trong khi đó cả nước là 40%, FDI tập

trung vào công nghiệp nặng có ưu điểm là không gây sức ép cho tỉnh về tuyển dụng

lao động phổ thông như tại một số tỉnh, thành trong vùng Đông Nam Bộ như Đồng

Nai, Bình Dương…qua đó hạn chế nhập cư lao động cũng như mâu thuẫn quan hệ

chủ - thợ dẫn đến đình công v.v.. trên địa bàn.

Bên cạnh tạo việc làm trực tiếp trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước

ngoài, FDI còn tạo việc làm gián tiếp trong khu vực dịch vụ, góp phần chuyển dịch

cơ cấu trên địa bàn. Việc làm gián tiếp được tạo ra trong khu vực dịch vụ có tác

động xóa đói giảm nghèo. Một hiệu quả tốt của FDI là khu vực này đã góp phần

khá lớn vào đào tạo trình độ chuyên môn cho người lao động, trước hết là trong lĩnh

vực liên quan đến dầu khí, dịch vụ cảng biển, sản xuất điện, thép và một số ngành

công nghiệp chế biến khác. Một số doanh nghiệp quy mô lớn đưa công nghệ hiện

đại vào sản xuất và có nhu cầu về lao động có kỹ năng quản lý cao cũng tạo môi

trường làm việc văn minh hơn, tạo điều kiện cho chuyển giao kiến thức và kỹ năng

giữa lao động nước ngoài có trình độ cao và lao động Việt Nam.

Hầu hết các dự án đầu tư thứ cấp trong các KCN có phát sinh nước thải công

nghiệp trong quá trình hoạt động đã đầu tư hệ thống xử lý nước thải cục bộ và đã

hoàn tất đấu nối thoát thải vào hệ thộng thu gom về nhà máy xử lý nước thải tập

trung của KCN, ký hợp đồng tái xử lý nước thải với chủ đầu tư hạ tầng. Đối với các

dự án bên ngoài KCN thuộc diện lập báo cáo đánh giá tác động môi trường, hiện đã

có 34/36 dự án lập thủ tục môi trường trước khi đi vào hoạt động, trong đó có 28 dự

án đã đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải, còn lại hầu hết là các dự án du lịch

đang trong giai đoạn xây dựng và thực hiện công tác giải phóng mặt bằng.

Với những kết quả đạt được về thu hút và giải ngân FDI trong những năm

qua, FDI thực sự là một nguồn vốn quan trọng của tỉnh, đóng góp rất lớn vào tăng

trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn, đặc biệt là tăng trưởng ngành công nghiệp. FDI

cũng là động lực chính đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công

nghiệp hóa với tỷ trọng công nghiệp rất cao trong GDP từ đó góp phần tạo ra một

23

số ngành công nghiệp mới có mật độ tập trung cao trên địa bàn ( nhiệt điện, sản

xuất thép). FDI đóng góp lớn vào nguồn thu ngân sách, thúc đẩy phát triển doanh

nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp ngành chế tác có quy mô lớn, sử dụng công nghệ

cao và trình độ quản lý tiên tiến.

Mặc dù hiệu quả của FDI đối với tỉnh qua những mặt được nêu trên là tương

đối khả quan, tuy nhiên đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng

Tàu còn một số hạn chế cần khắc phục.

Thứ nhất, tác động lan tỏa của FDI đối với khu vực kinh tế trong nước (tạo

việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động, nâng cao trình độ đào tạo cho lao động, tăng

thu nhập trực tiếp.. ) từ khu vực FDI còn thấp, mặc dù đóng góp của khu vực này

vào tổng sản phẩm trên địa bàn và khu vực công nghiệp là rất lớn.

Thứ hai, hiệu quả của dòng vốn FDI đối với sự phát triển của các doanh

nghiệp trong nước (thúc đẩy chuyển giao công nghệ, tăng năng suất lao động, hình

thành các cụm ngành công nghiệp…) cón hạn chế, chưa tạo tiền đề vững chắc cho

sự hợp tác, liên kết giữa doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp trong nước

Thứ ba, hạ tầng kỹ thuật của tỉnh cũng chưa phát triển tương xứng với tốc độ

thu hút vốn đầu tư vào địa phương, dẫn tới tiến độ triển khai một số dự án đầu tư tại

các điểm tập trung nhiều dự án bị ảnh hưởng. Ví dụ, đầu tư phát triển hạ tầng cảng

biển chưa đáp ứng được nhu cầu, một số cảng vẫn chưa có giao thông đường bộ kết

nối, hạ tầng về điện, nước thông tin liên lạc còn thiếu. Việc triển khai dự án sau khi

cấp giấy chứng nhận đầu tư vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong công tác bồi thường,

giải phóng mặt bằng.

Thứ tư, hoạt động xúc tiến đầu tư cũng như quảng bá hình ảnh, môi trường

đầu tư của tỉnh chưa mang tính chuyên nghiệp. Trong khi đó, các thông tin trên

Website của UBND tỉnh và các Sở, Ngành liên quan chưa nhiều, thông tin chưa

được cập nhật đầy đủ và kịp thời.

( Sở Kế hoạch và đầu tư Bà rịa – Vũng tàu, 2014, Báo cáo tổng kết tình hình

thu hút FDI trên địa bàn tỉnh)

24

1.3.3. Kinh nghiệm của tỉnh Đồng Nai

Đồng Nai là một trong những tỉnh thu hút được FDI nhiều nhất trong cả nước.

Trong thời gian qua, trong quá trình thực hiện chính sách thu hút FDI ở Đồng Nai

đã cho thấy rằng:

Quá trình đầu tư FDI tại Đồng Nai trong thời gian qua đã tạo những ảnh

hưởng tích cực tới phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

Thực tế ở Đồng Nai cho thấy có một số liên doanh thất bại do bất đồng trong

quản lý về phía nước ngoài, trong những năm đầu, chủ đầu tư nước ngoài hầu hết

thuộc các nước NICs và ASEAN với các dự án đầu tư của các doanh nghiệp vừa và

nhỏ. Những năm tiếp theo, dự án đầu tư các nước NICs, ASEAN vẫn tiếp tục phát

triển đồng thời xuất hiện các doanh nghiệp lớn từ Nhật, Mỹ, EU... Hầu hết các dự

án đầu tư công nghiệp đều tập trung vào các khu công nghiệp đã và đang quy

hoạch, tạo sự thuận lợi trong quản lý, xử lý chất thải và đầu tư phát triển cơ sở hạ

tầng điều này tạo khả năng để Đồng Nai chủ động hơn trong việc điều tiết các dự án

đầu tư theo yêu cầu cơ cấu ngành và cơ cấu lãnh thổ.

Về khoa học - công nghệ và môi trường, Đồng Nai là tỉnh thu hút nhiều dự án

công nghiệp, nên việc quản lý môi trường được tỉnh rất chú trọng để thuận lợi trong

việc giám sát môi trường, tỉnh có định hướng các dự án công nghiệp chủ yếu bố trí

vào các KCN đã và đang quy hoạch, chỉ bố trí bên ngoài KCN các loại dự án công

nghiệp sạch nhằm giải quyết lao động tại chỗ, công nghiệp chế biến gắn với vùng

nguyên liệu, các dự án công nghiệp mang tính chất dịch vụ (kho tàng, bến bãi) và

các dự án có tính chất đặc thù cao. Ngoài ra, từng KCN đều có xác định các loại

hình công nghiệp có thể bố trí phù hợp với tính chất loại chất thải để thuận lợi trong

việc đầu tư xử lý. Về phía doanh nghiệp, hầu hết các doanh nghiệp đầu tư nước

ngoài đều lập các báo cáo đánh giá tác động môi trường trình duyệt theo quy định.

Về tình trạng thiết bị và công nghệ, các doanh nghiệp FDI tuy số thiết bị và

công nghệ các dự án FDI tại Đồng Nai ở mức độ trung bình so với các nước trong

khu vực, nhưng nhiều loại thiết bị công nghệ vẫn rất mới mẻ và hữu dụng đối với

nước ta. Hơn nữa, giai đoạn đầu thu hút đầu tư, mục tiêu được quan tâm là giải

25

quyết việc làm cho người lao động, nên một số loại hình doanh nghiệp như (dệt,

giày da, may mặc) không bắt buộc phải cần công nghệ tiên tiến. Công nghệ sử dụng

chỉ cần đảm bảo mục tiêu hợp lý, hiệu quả đối với những yêu cầu, điều kiện của

Đồng Nai.

Về tình hình lao động trong các doanh nghiệp FDI. So sánh với số lượng lao

động ở các thành phần kinh tế khác trên địa bàn tỉnh cho thấy các doanh nghiệp FDI

có vai trò rất quan trọng trong việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động.

Hầu hết các doanh nghiệp FDI đã thực hiện tốt các quy định về tuyển dụng lao

động, có chính sách đối với người lao động phù hợp với bộ luật lao động. Lao động

làm việc trong các doanh nghiệp FDI đều xuất thân từ học sinh, từ lao động nông

nghiệp hoặc lao động phổ thông, nên vẫn còn hạn chế về tác phong công nghiệp, kỹ

thuật lao động hoặc hiểu biết về pháp luật... Do vậy, ngoài việc tập huấn, hướng dẫn

cho nhà đầu tư về bộ luật lao động, các trung tâm dịch vụ việc làm Đồng Nai đã tổ

chức cho người lao động học tập luật lao động trước khi giới thiệu cho các doanh

nghiệp. Khi đình công xảy ra các ngành của tỉnh Đồng Nai đã nhanh chóng phối

hợp xử lý trên cơ sở bảo đảm quyền lợi của người lao động và tôn trọng lợi ích của

doanh nghiệp theo quy định của pháp luật, do đó chỉ có một vụ tranh chấp kéo dài 5

ngày, số còn lại đều không quá 24 giờ.

Đầu tư FDI đã bổ sung nguồn vốn và công nghệ quan trọng cho phát triển.

Trong ngân sách, kinh phí nhà nước dành đầu tư xây dựng cơ bản cho tỉnh hàng

năm không quá 100 tỷ VNĐ, mức kinh phí đầu tư như vậy không thể đáp ứng nhu

cầu vốn đầu tư cho phát triển mặc dù tỉnh đã bổ sung nhiều nguồn vốn khác huy

động trong xã hội với khả năng cao nhất. Do vậy mức vốn đầu tư FDI thực hiện trên

địa bàn tỉnh Đồng Nai trong các năm qua, là rất lớn và có ý nghĩa quan trọng đối

với hoạt động đầu tư cho phát triển ở Đồng Nai bởi nó chiếm tỷ trọng lớn trong cơ

cấu vốn đầu tư. Tỷ trọng vốn FDI đã làm giá trị tài sản cố định mới tăng hàng năm

của khu vực kinh tế nước ngoài lớn hơn khu vực kinh tế trong nước rất nhiều. Số tài

sản tăng thêm từ khu vực kinh tế nước ngoài đã làm thay đổi trình độ và tiềm lực

công nghệ tỉnh Đồng Nai. Điều này được phản ánh rõ nét ở sự phát triển nhiều khu

26

công nghiệp mới có tầm mức vượt qua khu công nghiệp Biên Hòa I, niềm tự hào về

tiềm lực công nghệ của Đồng Nai trước đây. FDI đã thúc đẩy công nghiệp Đồng

Nai phát triển nhanh, góp phần quan trọng vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Đồng Nai theo hướng tích cực, hiện đại. Do lĩnh vực FDI tại Đồng Nai trong thời

gian qua chủ yếu là công nghiệp nên công nghiệp Đồng Nai đạt mức tăng trưởng

nhanh cả về quy mô sản lượng và tốc độ phát triển. Sự phát triển của công nghiệp

đầu tư nước ngoài đã thúc đẩy rất nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của

tỉnh Đồng Nai sang cơ cấu hiện đại. FDI đã làm tăng nhanh khối lượng, giá trị sản

phẩm xuất khẩu, từng bước tạo điều kiện để tiếp cận, hội nhập với thị trường, với

kinh tế thế giới. FDI đã tạo công ăn việc làm số lượng lớn lao động Việt Nam, tác

động tích cực đến việc thực hiện chính sách xã hội trên địa bàn. FDI đã góp phần

vào hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam.

Bên cạnh những thành quả lớn đã đạt được từ FDI cũng đã phát sinh một số

vấn đề trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.

- Thứ nhất, về phía Việt Nam, tham gia liên doanh chủ yếu là doanh nghiệp

nhà nước, trong đó doanh nghiệp nhà nước ở Trung ương chiếm tỷ trọng lớn. Các

doanh nghiệp Việt Nam góp vốn chủ yếu bằng giá trị quyền sử dụng đất, phần còn

lại góp bằng một số tài sản hiện hữu và một ít tiền mặt. Tỷ trọng góp vốn của các

nhà đầu tư Việt Nam trong liên doanh phổ biến khoảng 30% và đây là một trong

những yếu tố làm hạn chế khả năng quản lý điều hành phía Việt Nam. Do vậy vấn

đề trình độ, kinh nghiệm, bản lĩnh quản lý các thành viên Việt Nam trong Hội đồng

quản trị và Ban Tổng giám đốc liên doanh là rất quan trọng đối với sự tồn tại phát

triển các đơn vị liên doanh.

- Thứ hai, môi trường sinh thái bị ảnh hưởng do việc chuyển dịch công nghiệp

có chất thải độc hại từ các nước phát triển sang các nước có nền kinh tế đang phát

triển là một xu hướng đáng ngại và trở thành hiện thực ở Đồng Nai. Đầu tư xử lý

chất thải khá tốn kém, nên một số nhà đầu tư nước ngoài vì mục tiêu lợi nhuận đã

đầu tư xử lý chưa đồng bộ, chưa triệt để. Công nghiệp tăng nhanh trong khi các

27

KCN chưa có nhà máy xử lý chất thải chung, nên từng lúc từng nơi môi trường bị

ảnh hưởng.

- Thứ ba, thời gian qua một số doanh nghiệp FDI cũng vi phạm một số quy

định lao động như: i) tự ý tuyển dụng lao động không thông qua các cơ quan giới

thiệu việc làm; ii) kéo dài thời gian thử việc hoặc dùng mức lương tối thiểu để trả

lương cho lao động có tay nghề trong thời gian dài; iii) thời gian và cường độ làm

việc căng thẳng, tổ chức làm thêm giờ quá quy định khi chưa có sự thoả thuận của

người lao động; iv) còn tuỳ tiện cho người lao động nghỉ việc hoặc sa thải người lao

động, chấm dứt hợp đồng lao động sai pháp luật; v) ít quan tâm đến việc ký kết bản

thoả thuận lao động tập thể và thành lập Hội đồng hoà giải tranh chấp lao động.

Sự phát triển nhanh các dự án đầu tư và số lượng lao động đã xảy ra nhiều vụ

tranh chấp lao động và đình công chủ yếu là các doanh nghiệp Hàn Quốc, Đài

Loan... Các vụ tranh chấp lao động và đình công xảy ra ở tỉnh Đồng Nai chủ yếu

với mục đích là kinh tế. Hầu hết nội dung kiến nghị của người lao động đưa ra trong

quá trình tranh chấp lao động và đình công là phù hợp với quyền lợi của người lao

động theo Bộ luật lao động quy định.

- Thứ tư, về số lượng các doanh nghiệp Việt Nam có khả năng liên doanh với

nước ngoài trên địa bàn tỉnh Đồng Nai còn rất ít vì các doanh nghiệp có khả năng

liên doanh đã có dự án liên doanh. Chính vì vậy, việc thành lập thêm các doanh

nghiệp liên doanh rất hạn chế trong thời gian qua. Hơn nữa vai trò bên Việt Nam

trong các doanh nghiệp liên doanh ở tỉnh Đồng Nai thường rất khó khăn do hạn chế

về tài chính, năng lực, kinh nghiệm. Sự hạn chế này là nguyên nhân dẫn đến sự đổ

vỡ một số doanh nghiệp liên doanh ở tỉnh Đồng Nai, từ đó tạo ra tâm lý ngần ngại

không ít cho các nhà đầu tư chọn hình thức liên doanh.

- Thứ năm, các cơ quan quản lý chưa kiểm soát đầy đủ thực chất hiệu quả hoạt

động của các doanh nghiệp FDI do thiếu thông tin và do hệ thống pháp luật chưa

hoàn thiện. Các doanh nghiệp FDI thường nâng giá đầu vào, ép giá đầu ra, nhập

nhằng giữa thiết bị cũ và mới, độc quyền về thị trường nước ngoài, độc quyền cung

cấp vật tư nguyên liệu... nên việc lãi thật lỗ giả có cơ sở.

28

TÓM TẮT CHƯƠNG 1

Trong chương 1, luận văn đã làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản như: khái

niệm FDI, đặc điểm của FDI; mối quan hệ giữa FDI với phát triển kinh tế xã hội.

Luận văn cũng đã trình bày các quan điểm của Đảng và Nhà nước về vai trò

của FDI trong phát triển kinh tế - xã hội từ Đại hội Đảng lần thứ VII (1991) đến Đại

hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, đồng thời đưa ra những quan điểm về nâng cao

hiệu quả và tăng thu hút vốn FDI để phát triển kinh tế - xã hội trong những năm tới.

Luận văn cũng đã đúc kết một số kinh nghiệm trong thu hút và sử dụng FDI

qua thực tiễn của một số địa phương như TPHCM, Bà rịa – Vũng tàu và Đồng Nai,

nêu thành công cũng như tồn tại, hạn chế của các địa phương này, xem đó là những

bài học tham khảo quý đối với tỉnh Bình Dương

29

CHƯƠNG 2

TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐẾN SỰ PHÁT

TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA TỈNH BÌNH DƯƠNG VÀ NHỮNG VẤN

ĐỀ ĐẶT RA

2.1. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA TỈNH BÌNH DƯƠNG

2.1.1. Những tiềm năng và lợi thế

Bình Dương là tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ có diện tích tự nhiên 2.718,5 km2, dân số: 1.873.588 người, phía Bắc giáp tỉnh Bình Phước; phía Nam giáp thành

phố Hồ Chí Minh; phía Đông giáp tỉnh Đồng Nai và phía Tây giáp tỉnh Bình Dương

và thành phố Hồ Chí Minh. Bình Dương có: 1 thành phố (Thủ Dầu Một), 4 thị xã

(Thuận An, Dĩ An, Tân Uyên, Bến Cát) và 4 huyện (Dầu Tiếng, Bàu Bàng, Phú

Giáo và Bắc Tân Uyên) gồm có 91 xã, phường và thị trấn.. Bình Dương có lợi thế

và tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội thể hiện ở những mặt sau:

Bình Dương có vị trí địa lý thuận lợi, là cửa ngõ giao thông kết nối các tỉnh

Tây Nguyên, nước bạn Campuchia, với thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh trong khu

vực và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Trong các tỉnh có chung biên giới với

thành phố Hồ Chí Minh thì Bình Dương có lợi thế phát triển nhất, phía tây có

chung sông Sài Gòn với thành phố Hồ Chí Minh, phía nam là TX. Dĩ An, TX.

Thuận An, TP. Thủ Dầu Một là khu vực phát triển đô thị gắn kết với vùng “lõi” của

Thành phố Hồ Chí Minh. Bình Dương nằm ở vị trí chuyển tiếp và nối các tỉnh phía

Nam dãy Trường Sơn với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, là tỉnh thuộc bình

nguyên có địa hình lượn sóng từ cao xuống thấp dần (10m - 15m so với mặt nước

biển), có hệ thống mặt nước phong phú như sông Sài Gòn, sông Đồng Nai, sông

Bé, sông Thị Tính, hồ thủy lợi Phước Hòa, hồ Dầu Tiếng thuận lợi cho cấp nước

sinh hoạt và công nghiệp. Bình Dương với hệ thống khu, cụm công nghiệp lớn, đa

dạng, phong phú với lượng sản phẩm lớn cần kết nối ra cảng biển bằng đường bộ

thì các khu công nghiệp Bình Dương sẽ kết nối ra cảng biển Thị Vải- Cái Mép (lớn

nhất miền Nam) qua đường cao tốc Mỹ Phước Tân Vạn, đường cao tốc 51 mới đến

cảng Thị Vải - Cái Mép thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Ga Sóng Thần là ga đầu mối

30

quan trọng của vùng TP.HCM kết nối đường sắt Bắc Nam - Campuchia với hệ

thống cảng Logistics rất quan trọng. Hiện nay dự án cảng hàng không quốc tế Long

Thành, tỉnh Đồng Nai có công suất quy hoạch là 100 triệu hành khách/năm là sân

bay lớn nhất nước; từ Bình Dương đến sân bay Long Thành chỉ hơn 30 km được

kết nối với các tuyến cao tốc rất thuận lợi cho phát triển công nghiệp - đô thị Bình

Dương trong tương lai.

Bình Dương có hệ thống giao thông đường bộ thuận tiện, kết nối với các tỉnh

thành Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, các tỉnh phía Bắc và Tây Nam Bộ. Quốc lộ 13

xuất phát từ thành phố Hồ Chí Minh xuyên suốt chiều dài tỉnh Bình Dương, qua

tỉnh Bình Phước đến tận biên giới Việt Nam - Campuchia là trục giao thông Bắc -

Nam quan trọng của tỉnh. Đường ĐT 741 xuất phát từ Thành phố Thủ Dầu Một

theo hướng Bắc - Nam kết nối thị xã Bến Cát, thị xã Tân Uyên, huyện Phú Giáo

đến Bình Phước và các tỉnh Tây Nguyên. Đường ĐT 744, cũng có điểm xuất phát

từ Thành phố Thủ Dầu Một kết nối thị xã Bến Cát, các huyện Bàu Bàng, Dầu Tiếng

và đến tỉnh Bình Dương. Đường Hồ Chí Minh đoạn qua địa bàn tỉnh dài 32km, qua

Bến Cát và Dầu Tiếng là cầu nối giữa các tỉnh Tây Nguyên, Bình Phước, qua Bình

Dương đến các tỉnh Tây Nam Bộ. Quốc lộ 14 và Quốc lộ 1K ở phía Nam tỉnh Bình

Dương, kết nối các tỉnh thành trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam với các tỉnh

phía Bắc và Tây Nam Bộ. Đường Mỹ Phước - Tân Vạn mới xây dựng là tuyến trục

chính kết nối các khu công nghiệp của Bình Dương với Thành phố Hồ Chí Minh và

các tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu.

Cùng với các trục giao thông chính kết nối với thành phố Hồ Chí Minh và các

tỉnh miền Đông, miền Tây Nam Bộ, hệ thống đường bộ kết nối các khu công

nghiệp cũng được đầu tư đồng bộ, hiện đại. Ở khu vực đô thị, các tuyến đường phố,

đường hẻm được nhựa hóa, bê tông hóa. Ở khu vực nông thôn, đường nhựa đều đến

trung tâm xã; nhất là từ khi thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới, nhiều

xã đã hoàn thành nhựa hóa và bê tông hóa các tuyến đường liên ấp, liên xã. Giao

thông thuận tiện là điều kiện hết sức cơ bản để Bình Dương phát triển toàn diện

kinh tế - xã hội.

31

Đối với việc xây dựng các khu công nghiệp, trên cơ sở pháp lý của Nghị

định 192/NĐ-CP (28/12/1994) của Chính phủ về ban hành quy chế khu công

nghiệp và Nghị định 36/NĐ-CP (24/4/1997) về ban hành quy chế khu công nghiệp,

khu chế xuất, khu công nghệ cao, Bình Dương đã sớm định hướng và quyết tâm

xây dựng các khu công nghiệp tập trung với phương châm hạ tầng khu công nghiệp

đi trước một bước, đảm bảo phục vụ và thu hút đầu tư cho các ngành công nghiệp.

Khởi đầu là Khu công nghiệp Bình Đường, Bình Dương đã lần lượt xây dựng các

khu công nghiệp tập trung như Khu công nghiệp Sóng Thần I, Khu công nghiệp

Việt Nam - Singgapore (VSIP I), Khu công nghiệp Việt Hương, Khu công nghiệp

Sóng Thần II ... Đến nay, Bình Dương đã có 29 khu công nghiệp tập trung (tổng

diện tích trên 8.850 ha) và 8 cụm công nghiệp (tổng diện tích trên trên 650 ha), đáp

ứng tốt nhu cầu đầu tư phát triển các ngành công nghiệp cho tất cả các nhà đầu tư

trong nước và nước ngoài.

Hạ tầng kỹ thuật các KCN được xây dựng hoàn chỉnh có thể tiếp nhận các dự

án đầu tư vào các KCN. Bên cạnh đó quỹ đất sạch có thể “sử dụng ngay” với đầy

đủ hạ tầng hoàn chỉnh của các KCN là rất lớn gần 2.800 ha đất có thể cho thuê, diện tích khu đất cho thuê đa dạng từ 1.500 m2 đến 1.000.000 m2 với phương thức

thanh toán linh hoạt.

Giao thông thuận tiện cùng với việc xây dựng các khu công nghiệp tập trung

quy mô lớn, hạ tầng đầy đủ và quỹ đất sạch Bình Dương đã mở ra khả năng thu hút

các luồng vốn đầu tư đa dạng cho phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh.

Cùng với việc xây dựng các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn. Bình Dương

đã thu hút một số lượng lớn lao động nhập cư từ các địa phương khác đến Bình

Dương sinh sống và làm việc. Đến nay dân số Bình Dương khoảng 1,8 triệu người

(trong đó có trên 800 ngàn người lao động nhập cư). Lao động thuộc các thành

phần kinh tế phát triển nhanh về số lượng theo yêu cầu phát triển kinh tế của một

tỉnh công nghiệp. Lực lượng lao động hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, đa

dạng về ngành nghề, trình độ chuyên môn và tay nghề từng bước được nâng lên

đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của nền kinh tế mở và năng động trên địa bàn

32

tỉnh. Người lao động luôn năng động, sáng tạo, nắm bắt nhanh những thay đổi của

thị trường. Với lực lượng lao động dồi dào, giá nhân công rẻ là điều kiện thuận lợi

để các nhà đầu tư lựa chọn để tiến hành các dự án đầu tư, đặc biệt là các dự án cần

nhiều lao động phổ thông.

Với những lợi thế và tiềm năng phát triển như trên Bình Dương đang tạo ra

những cơ hội mới và những điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong và ngoài

nước đến đầu tư phát triển sản xuất.

2.1.2. Tình hình phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Bình Dương giai đoạn

2010 - 2015

Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Tỉnh Bình Dương giai đoạn 2010-2014 luôn

đạt trên 12,5%, cụ thể là: năm 2010 tốc độ tăng trưởng đạt 14,5%; năm 2011 đạt

13,9%; năm 2012 đạt 12,5%; năm 2013 đạt 12,8% và năm 2014 đạt 13%. GDP bình

quân đầu người năm 2014 đạt 61,2 triệu đồng, tăng gấp 5 lần so với năm 2005.

Cơ cấu công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp trên địa bàn tỉnh với tỷ trọng

tương ứng: năm 2010 là 63%; 32,6%; và 4,4%; năm 2011 là 62,2% - 33,7% - 4,1%;

năm 2012 là 62% - 34,3% - 3,7%; năm 2013 là 61,4% - 35,3% - 3,3% và năm 2014

là 60% - 37,3% - 2,7%.

Trong năm 2014 tổng thu ngân sách của tỉnh đạt 32.000 tỷ đồng, tổng chi

ngân sách là 11.500 tỷ đồng; trong đó chi đầu tư xây dựng cơ bản là 4.500 tỷ đồng,

thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 1 tỷ 530 triệu USD.

+ Công nghiệp

Công nghiệp tiếp tục là chủ lực, tốc độ tăng trưởng cao, tương đối ổn định,

đúng định hướng, từng bước phát triển theo chiều sâu, tạo động lực cho phát triển

đô thị, dịch vụ, thương mại trên địa bàn. Giá trị sản xuất công nghiệp bình quân

tăng 15,7%; trong đó, khu vực kinh tế trong nước chiếm 31%, khu vực có vốn đầu

tư nước ngoài chiếm 69%.

Các KCN tiếp tục được mở rộng, khai thác có hiệu quả, hạ tầng đồng bộ gắn

với việc phát triển hạ tầng đô thị và dịch vụ chất lượng cao.Trên địa bàn tỉnh hiện

có 29 KCN đang triển khai với tổng diện tích 9.425 ha, trong đó có 26 KCN đã đi

33

vào hoạt động với tỷ lệ lấp đầy 65%. Đồng thời, các cụm công nghiệp cũng được

tiếp tục đầu tư cơ sở hạ tầng, hiện có 6/8 cụm hoạt động với diện tích gần 600 ha và

tỷ lệ lấp đầy 45%.

+ Dịch vụ, Thương mại - Xuất nhập khẩu:

Dịch vụ tiếp tục phát triển khá nhanh, đóng vai trò ngày càng quan trọng

trong phát triển kinh tế nhanh và bền vững của Tỉnh. Chương trình phát triển dịch

vụ chất lượng cao của Tỉnh được triển khai thực hiện đồng bộ,thu hút mọi thành

phần kinh tế, đặc biệt là nguồn vốn FDI. Giá trị dịch vụ tăng bình quân là 20,9%.

Dịch vụ tài chính - tiền tệ phát triển mạnh, đáp ứng cơ bản nhu cầu vốn và

giao dịch trên địa bàn. Từng bước xây dựng, hình thành trung tâm thương mại – tài

chính thành phố mới Bình Dương. Dịch vụ bảo hiểm phát triển đa dạng; dịch vụ

bưu chính, viễn thông, truyền hình thường xuyên được các nhà cung cấp nâng cấp

với nhiều loại hình đáp ứng nhu cầu của người dân và doanh nghiệp.

Dịch vụ Logistics tuy mới khởi đầu nhưng phát triển khá tốt, bước đầu đáp

ứng yêu cầu gắn kết giữa sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp. Hệ thống cảng

sông được mở rộng, đang tiếp tục đầu tư xây dựng một số cảng như Tân Vạn, Bà

Lụa, Thạnh Phước. Vận tải phát triển với nhiều loại hình, đặc biệt đã đưa vào sử

dụng hệ thống xe buýt nhanh công cộng kết nối thành phố Thủ Dầu Một và đô thị

mới Bình Dương theo phương thức văn minh, hiện đại và thân thiện với môi

trường, góp phần đảm bảo nhu cầu đi lại của nhân dân.

Thương mại có bước phát triển mới cả về ngành nghề, tốc độ, cơ cấu và

thành phần kinh tế. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ trên địa bàn

bình quân tăng 23,5%/năm. Kết cấu hạ tầng thương mại hiện đại được tập trung đầu

tư, thu hút được nhiều tập đoàn, doanh nghiệp bán lẻ trong và ngoài nước, làm thay

đổi nhanh chóng bộ mặt đô thị và nông thôn trên địa bàn tỉnh theo hướng văn minh,

hiện đại. Đến nay, toàn tỉnh đã có 07 Trung tâm thương mại, 11 siêu thị, 100 chợ

đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp và người dân trong và ngoài tỉnh.

Xuất khẩu duy trì được mức tăng trưởng cao, bình quân là 19,5%, tiếp tục

xuất siêu, đến năm 2015 kim ngạch xuất khẩu đạt 20,86 triệu USD với những mặt

34

hàng chủ lực như: dệt may, da giày, sản phẩm gỗ, hàng mỹ nghệ, điện – điện tử...

Xuất khẩu tăng ở hầu hết các thị trường trên thế giới, đã xuất khẩu đến trên 230

quốc gia, vùng, lãnh thổ.

Nhập khẩu tăng bình quân 16,9%/năm, đến năm 2015 kim ngạch nhập khẩu

đạt 16 tỷ USD. Hàng hóa nhập khẩu chủ yếu là vật tư nguyên liệu, máy móc phục

vụ sản xuất kinh doanh và hình thành tài sản cố định, đổi mới công nghệ của các

doanh nghiệp.

Hệ thống tổ chức tín dụng ngày càng phát triển, mở rộng mạng lưới đáp ứng

nhu cầu nguồn vốn và giao dịch cho các thành phần kinh tế và người dân; các dịch

vụ thanh toán không dùng tiền mặt, thanh toán liên thông có bước phát triển; nợ xấu

nằm trong giới hạn cho phép. Đến nay, có 55 chi nhánh tổ chức tín dụng, 10 quỹ tín

dụng nhân dân, 144 phòng giao dịch, 613 máy ATM... phục vụ tốt cho nhu cầu giao

dịch, thanh toán của doanh nghiệp và người dân.

Các hoạt động ngoại giao phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, hoạt động hợp

tác hữu nghị với các địa phương và các bên đối tác nước ngoài được mở rộng. Tính

đến nay Bình Dương đã ký kết hợp tác hữu nghị với 8 tỉnh, thành phố nước ngoài

như thành phố Quảng Châu (Trung Quốc), Tỉnh Yamaguchi (Nhật bản), vùng

Emilia - Romagna (Ý), thành phố Eindhoven (Hà Lan)… Công tác đối ngoại nhân

dân có những bước phát triển tích cực; hoàn thiện và đổi mới hoạt động của Liên

hiệp các hội Hữu nghị Tỉnh; các vấn đề liên quan đến yếu tố nước ngoài đều được

giải quyết kịp thời theo đúng quy định của pháp luật Việt Nam và luật pháp quốc tế

góp phần quảng bá, nâng cao hình ảnh và vị thế của Bình Dương đối với bạn bè

trong nước và quốc tế cũng như cộng đồng doanh nghiệp.

+ Nông nghiệp và phát triển nông thôn:

Nông nghiệp tiếp tục phát triển ổn định, giá trị sản xuất nông, lâm, ngư

nghiệp bình quân tăng 4% hàng năm. Chương trình chuyển dịch cơ cấu ngành nông

nghiệp theo hướng phát triển nông nghiệp đô thị, nông nghiệp kỹ thuật cao gắn với

công nghiệp chế biến được triển khai, bước đầu góp phần chuyển dịch cơ cấu ngành

nông nghiệp; hình thành 04 khu nông nghiệp công nghệ cao với diện tích 979 ha,

35

tổng diện tích được ứng dụng khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất đạt trên 860 ha.

Một số đề án, dự án phát triển nông nghiệp đô thị vùng phía Nam của Tỉnh, vùng

ven Suối Cái (TX.Tân Uyên)…đang được tích cực triển khai.

Công nghiệp chế biến nông, lâm và thủy sản từng bước phát triển. Công tác

xúc tiến thương mại trong nông nghiệp được đẩy mạnh với nhiều loại nông sản

được chứng nhận an toàn vệ sinh thực phẩm và chứng nhận nhãn hiệu được đưa vào

hệ thống siêu thị và cửa hàng, góp phần ổn định đời sống nông dân.

Kinh tế khu vực nông thôn phát triển nhanh, đã huy động nhiều nguồn lực

cho đầu tư xây dựng các xã nông thôn mới và đầu tư nâng cấp các xã phát triển lên

phường; bộ mặt nông thôn từng bước đổi mới, đời sống người dân ngày một nâng

cao, thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn đạt 31 triệu đồng/năm.

+ Phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật:

Tỉnh đã đầu tư, xây dựng kết cấu hạ tầng theo hướng đồng bộ, đặc biệt là các

công trình thực hiện các chương trình đột phá. Nhiều công trình hạ tầng quan trọng

đã được hoàn thành góp phần thúc đẩy phát triển KT-XH và đô thị của tỉnh; cơ bản

kết nối với các trung tâm phát triển trong tỉnh và kết nối hệ thống kết cấu hạ tầng

trong vùng.

Hệ thống đường dây tải điện, trạm biến áp được cải tạo, xây dựng mới, chất

lượng cung cấp điện bảo đảm phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng được nâng cao.

Tổng công suất trạm nguồn đến 2015 đạt 2.179 MVA (năm 2010 là 1.518 MVA); tỷ

lệ hộ dân sử dụng điện đạt 99,97%. Hệ thống chiếu sáng, cáp quang trong đô thị

được chỉnh trang, cải tạo, bó kỹ thuật và từng bước được ngầm hóa, đảm bảo cảnh

quan và an toàn.

Hạ tầng cấp - thoát nước được đầu tư đồng bộ, đáp ứng nhu cầu nước sinh

họat và nước cho công nghiệp tại các khu đô thị, khu công nghiệp; đã đưa vào sử

dụng 7 nhà máy nước, nâng tổng số nhà máy nước lên 28 nhà máy, tổng công suất cấp nước đạt 329.500 m3/ngày, tỷ lệ dân số thành thị sử dụng nước sạch đạt 99%.

Các dự án thoát nước ở khu vực đô thị và vùng ven được quan tâm đầu tư xây dựng,

từng bước khắc phục tình trạng ngập cục bộ và ngập úng ở các vùng trũng; đã đầu

36

tư và xây dựng hệ thống thu gom xử lý nước thải sinh hoạt ở thành phố Thủ Dầu

Một và thị xã Thuận An.

+ Quy hoạch, xây dựng đô thị

Công tác quy hoạch phát triển và quy hoạch đô thị được tỉnh quan tâm chỉ

đạo, rà soát, điều chỉnh phù hợp với tình hình phát triển KT-XH của tỉnh; được

Chính phủ đã phê duyệt điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH của tỉnh

đến năm 2025; đã hoàn thiện quy hoạch chung và quy hoạch chi tiết các đô thị, các

xã.

Hạ tầng đô thị được chú trọng đầu tư, huy động hiệu quả nguồn vốn của

nhiều thành phần kinh tế. Khu liên hợp Công nghiệp - Dịch vụ - Đô thị Bình Dương

được hoàn thiện với cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại, đảm bảo kết nối liên hoàn khu

vực và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Trong đó, Khu dịch vụ đô thị diện tích

1.600 ha với Khu trung tâm 1.000 ha đã thu hút được nhiều tập đoàn quốc tế, doanh

nghiệp công nghệ kỹ thuật cao đến đầu tư; một số công trình trọng điểm như trung

tâm đô thị mới, Trung tâm Hành chính Tỉnh, các công trình về dịch vụ, đô thị, giáo

dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao, tôn giáo…. được xây dựng và đi vào hoạt động,

tạo sự lan tỏa và kết nối đến các trung tâm đô thị vệ tinh của tỉnh.

Chỉnh trang đô thị được chú trọng, tỉnh đã tập trung cho việc nâng cấp đô thị

và được Trung ương công nhận thành phố Thủ Dầu Một đạt tiêu chí đô thị loại II;

thị xã Thuận An, Dĩ An đang thực hiện thủ tục đề nghị công nhận đô thị loại III; thị

xã Bến Cát và Tân Uyên được công nhận đạt tiêu chí đô thị loại IV. Không gian đô

thị được phát triển về phía Nam, phía Bắc và Trung tâm với chùm đô thị và đô thị

vệ tinh liên kết chặt chẽ với nhau; hạ tầng kỹ thuật – xã hội được đầu tư đồng bộ, hiện đại. Diện tích nhà ở bình quân đạt 23,5 m2/người; tỷ lệ đô thị hóa đạt 78,6%.

+ Tài nguyên và Môi trường

Công tác quản lý đất đai có nhiều chuyển biến tích cực, minh bạch và hiệu

quả; tập trung tạo quỹ đất sạch phục vụ cho nhu cầu phát triển KT-XH của tỉnh giai

đoạn 2010 – 2015. Công tác quản lý nhà nước về tài nguyên nước, khoáng sản và

ứng phó với biến đổi khí hậu ngày càng đi vào nề nếp.

37

Công tác bảo vệ môi trường được chú trọng, chủ động phòng ngừa và kiểm

soát ô nhiễm; đã tập trung xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và

di dời các cơ sở này ra khỏi khu dân cư, đô thị. Đầu tư trang bị 32 hệ thống quan

trắc nước thải tự động nhằm kiểm soát có hệ thống các nguồn nước thải công

nghiệp. Đến nay, tỷ lệ chất thải rắn được thu gom và xử lý đạt 90%, tỷ lệ chất thải

rắn y tế được thu gom và xử lý đạt 100%.

+ Giáo dục và Đào tạo:

Toàn tỉnh có 516 trường học, tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia là 65%; tỷ lệ

giáo viên đạt trên chuẩn là 63,8%. Tỷ lệ học sinh khá, giỏi các cấp tăng, tỷ lệ học

sinh trúng tuyển vào cao đẳng, đại học năm sau cao hơn năm trước (năm 2011 là

58,2%, năm 2014 là 68,4%).

Các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp phát triển nhanh về

qui mô; hiện trên địa bàn Tỉnh có 08 trường đại học, 06 trường cao đẳng, 17 trường

trung cấp, 46 cơ sở đào tạo nghề, 50 trung tâm ngoại ngữ, tin học; 02 trường đại học

của Tỉnh là Đại học Thủ Dầu Một và Đại học Quốc tế miền Đông không những chỉ

đáp ứng nhu cầu đào tạo nhân lực cho tỉnh mà còn cả ngoài tỉnh.

Công tác dạy nghề gắn với nhu cầu sử dụng lao động của doanh nghiệp ngày

một tốt hơn; tiếp tục duy trì hiệu quả của sàn giao dịch việc làm; hàng năm, đã giải

quyết việc làm cho trên 45.000 lao động, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 70%. Đời

sống người lao động ngày càng được doanh nghiệp và Nhà nước quan tâm hơn, tạo

niềm tin cho người lao gắn bó với doanh nghiệp, các vụ tranh chấp lao động tập thể

và đình công trái pháp luật giảm qua từng năm.

( Ủy Ban nhân dân tỉnh Bình Dương, Báo cáo tình hình kinh tế xã hội quốc

phòng an ninh năm 2010, 2011, 2012, 2013, 2014)

- Về chính sách thu hút và ưu đãi đầu tư:

Bình Dương đã và đang thực hiện chính “trải thảm hoa mời gọi các nhà đầu

tư” nhằm thu hút vốn cho các dự án, KCN trên địa bàn. Nhờ vậy, các mặt kinh tế -

xã hội của tỉnh Bình Dương không ngừng phát triển và luôn đạt tốc độ tăng trưởng

cao. Các chế độ ưu đãi cụ thể là:

38

Thứ nhất, đối với các doanh nghiệp FDI đầu tư ở ngoài KCN, về thuế thu nhập

doanh nghiệp và tiền thuê đất. Với dự án sản xuất, chế biến có tỷ lệ xuất khẩu dưới

50% và thuộc địa bàn thị xã Thủ Dầu Một, thị xã Dĩ An và thị xã Thuận An: thuế

suất thu nhập doanh nghiệp hàng năm bằng 20% thu nhập chịu thuế được áp dụng

trong 10 năm, kể từ khi dự án bắt đầu hoạt động sản xuất kinh doanh và bằng 25%

trong các năm tiếp theo. Doanh nghiệp được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong

02 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 03 năm tiếp theo. Với dự án

sản xuất, chế biến có một trong các điều kiện sau: thuộc danh mục dự án khuyến

khích đầu tư của Chính phủ, đầu tư vào địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn (huyện

Bắc Tân Uyên, Phú Giáo, Dầu Tiếng, Bàu Bàng), chuyển giao không bồi hoàn tài

sản cho Nhà nước Việt Nam sau khi hết thời hạn hoạt động: thuế suất thuế thu nhập

doanh nghiệp hàng năm bằng 10% thu nhập chịu thuế được áp dụng trong 15 năm,

kể từ khi dự án bắt đầu hoạt động sản xuất kinh doanh và bằng 15% trong các năm

tiếp theo. Doanh nghiệp được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 04 năm kể từ

khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 04 năm tiếp theo. Với dự án sản xuất

thuộc danh mục dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư theo quy định của Chính phủ:

thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp hàng năm bằng 10% thu nhập chịu thuế trong

suốt thời gian hoạt động của dự án. Doanh nghiệp được miễn thuế thu nhập trong 04

năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong các năm tiếp theo. Ngoài ra, các

doanh nghiệp còn được miễn trên thuế đất trong thời gian dự án xây dựng cơ bản.

Đối với các dự án trồng rừng, trong thời gian kinh doanh còn được giảm 90% số

tiền thuê đất phải nộp. Các dự án thuộc Khoản 2, 3, 4 còn được miễn tiền thuê đất

trong 07 năm kể từ ngày xây dựng cơ bản hoàn thành và đưa dự án vào hoạt động.

Về thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài: thuế suất chuyển lợi nhuận ra nước ngoài

bằng 3% lợi nhuận chuyển ra nước ngoài đối với: người Việt Nam định cư ở nước

ngoài đầu tư về nước theo quy định của luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Nhà

đầu tư nước ngoài góp vốn pháp định hoặc vấn đề thực hiện hợp đồng hợp tác kinh

doanh từ 10 triệu USD trở lên. Thuế suất chuyển lợi nhuận ra nước ngoài bằng 5%

lợi nhuận chuyển ra nước ngoài đối với nhà đầu tư nước ngoài góp vốn pháp định

39

hoặc vốn để thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh từ 5 triệu USD đến dưới 10

triệu USD và đối với nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các lĩnh vực khám chữa

bệnh, giáo dục - đào tạo, nghiên cứu khoa học. Thuế suất chuyển lợi nhuận ra nước

ngoài bằng 7% đối với các trường hợp còn lại.

Thứ hai, đối với các dự án đầu tư FDI vào các KCN: về thuế thu nhập doanh

nghiệp, với dự án hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ: thuế suất thuế thu nhập doanh

nghiệp trong năm bằng 20% thu nhập chịu thuế. Doanh nghiệp được miễn thuế thu

nhập trong 02 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 5% trong 03 năm tiếp theo.

Với dự án xuất khẩu trên 50% sản phẩm, thuộc danh mục dự án khuyến khích đầu

tư: thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp hàng năm bằng 15% thu nhập chịu thuế.

Doanh nghiệp được miễn thuế thu nhập trong 02 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và

giảm 50% trong 03 năm tiếp theo.

Với dự án thuộc danh mục dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư, dự án thuộc

lĩnh vực khám chữa bệnh, giáo dục - đào tạo và nghiên cứu khoa học, doanh nghiệp

phát triển hạ tầng KCN, KCX, khu công nghệ cao, doanh nghiệp chế xuất: thuế suất

thuế thu nhập doanh nghiệp hàng năm bằng 10% thu nhập chịu thuế. Doanh nghiệp

được miễn thuế thu nhập trong 04 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50%

trong 04 năm tiếp theo. Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài bằng 3% lợi nhuận

chuyển ra nước ngoài. (Nguồn báo cáo tổng kết 25 năm thực hiện thu hút đầu tư

nước ngoài)

2.2 TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI

TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH DƯƠNG GIAI ĐOẠN 2010 -2015 VÀ NGUYÊN

NHÂN.

2.2.1. Tình hình thu hút FDI

Tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào tỉnh Bình Dương

trong những năm gần đây đã có những chuyển biến tích cực. Môi trường đầu tư của

tỉnh được cải thiện ngày càng tốt hơn và hướng đến mục tiêu phát triển bền vững.

Các ngành, lĩnh vực tỉnh có lợi thế như công nghiệp điện, điện tử, cơ khí, dược

40

phẩm, hóa chất... được nhiều nhà đầu tư quan tâm, với số lượt đoàn nhà đầu tư đến

tỉnh tăng nhiều so với các năm trước.

Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một bộ phận kinh tế quan trọng, có quan hệ

hữu cơ với các thành phần kinh tế của tỉnh. Việc thu hút vốn đầu tư để phát triển

kinh tế, đặc biệt trong việc xây dựng và phát triển các khu công nghiệp tập trung

trong thời gian qua đã đạt được một số kết quả đáng kể, đến nay toàn tỉnh có 29 khu

công nghiệp (KCN) với tổng diện tích quy hoạch 9.423 ha, trong đó đã có 26 KCN

đi vào hoạt động với tổng diện tích 8.871 ha. Tổng vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ

tầng của 28 KCN đến nay đạt 76% tổng số vốn được duyệt.

Trong 5 năm (2010-2014), thu hút FDI của Bình Dương phát triển với tốc độ

nhanh, đã có thêm 633 dự án FDI với tổng vốn đầu tư 8 tỷ 012 triệu USD. Kết quả

này đã nâng nguồn FDI trên địa bàn tỉnh cuối năm 2014 lên 2.399 dự án với tổng

vốn đăng ký gần 20 tỷ 487 triệu USD của doanh nghiệp đến từ hơn 39 quốc gia và

vùng lãnh thổ. Cùng với tăng nhanh về lượng, thu hút FDI thời gian qua phát triển

theo hướng tăng nhanh về chất và đa dạng về cơ cấu ngành nghề. Đóng góp vào

ngân sách của khu vực đầu tư nước ngoài trong giai đoạn này tăng trưởng đáng kể

(từ 3.176 tỷ đồng năm 2010 lên trên 7.371 tỷ đồng năm 2014) và tỷ trọng bình quân

đạt trên 48,2%.

Riêng năm 2014 toàn tỉnh đã thu hút được 1 tỷ 732 triệu USD đạt 173% kế

hoạch năm, trong đó cấp mới 168 dự án với tổng vốn đầu tư 861,7 triệu USD và

142 dự án tăng vốn đầu tư với vốn đầu tư tăng thêm 871,1 triệu USD, trong đó đầu

tư vào các khu công nghiệp 119 dự án với tổng vốn đầu tư 739,2 triệu USD và 107

dự án điều chỉnh tăng vốn với vốn đầu tư tăng thêm là 792,3 triệu USD.

Sau hơn 26 năm thực hiện việc thu hút đầu tư nước ngoài với việc thực hiện

chính sách “trải thảm đỏ” để mời gọi đầu tư, hiện nay Bình Dương là một trong 5

địa bàn thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài nhất cả nước. Về tình hình thu

hút đầu tư nước ngoài, giai đoạn 1988 - 1993 Bình Dương chỉ thu hút được có 23

dự án FDI với số vốn cũng khá khiêm tốn 110,9 triệu USD. Tuy nhiên từ 1994 thì

thu hút đầu tư nước ngoài ở Bình Dương tăng nhanh với số dự án đăng ký mới chỉ

41

có 21 dự án, nhưng số vốn đăng ký mới là 423,6 triệu USD tăng gần gấp 4 lần giai

đoạn 6 năm trước đó. Và từ 2005 – 2014 tình hình thu hút FDI tăng nhanh và mạnh

cả về số dự án và tổng số vốn với số vốn đăng ký trung bình hàng năm khoảng gần

1,3 tỷ USD. ( Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Bình Dương, Báo cáo tình hình thu hút

vốn FDI trên địa bàn tỉnh giai đoạn 1994 – 2014) ( Xem phụ lục 2.1)

Giai đoạn 2009 – 2010 với cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đã ảnh

hưởng không nhỏ đến tình hình thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam nói chung

và Bình Dương nói riêng. Tuy nhiên từ năm 2011 trở đi tiếp nhận làn sóng đầu tư

nước ngoài thứ hai vào Việt Nam và Bình Dương là một trong những điểm đến ưu

tiên lựa chọn hàng đầu của các nhà đầu tư. Mặc dù vậy giai đoạn này việc thu hút

các dự án vào Bình Dương cũng không ít gặp nhiều khó khăn, do sự cạnh tranh cao

của các địa phương thông qua nhiều cơ chế, chính sách trải thảm đỏ. Tuy nhiên Số

dự án và vốn đăng ký bình quân trên dự án vào Bình Dương đều trên 10 triệu USD/

dự án. (Xem phụ lục 2.2)

Nguồn vốn FDI tại Bình Dương, ngoài việc đóng góp cho ngân sách hàng

nghìn tỷ đồng mỗi năm, còn tạo ra việc làm ổn định cho hơn 500 nghìn lao động.

Nguồn vốn FDI chủ yếu tập trung vào lĩnh vực sản xuất công nghiệp với 92,7% số

dự án và khoảng 71% về vốn đầu tư, nên đã tạo ra giá trị sản xuất công nghiệp cao

và xuất khẩu lớn. Nguồn FDI chiếm gần 81,8% kim ngạch xuất khẩu và chiếm hơn

69,5% tổng giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh, qua đó giúp Bình Dương luôn đạt

giá trị xuất siêu cao.

Lũy kế đến 31 tháng 12 năm 2014, Bình Dương có 2.615 dự án có vốn đầu tư

nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký 20 tỷ 101 triệu USD. Trong đó

đầu tư vào các khu công nghiệp là 1.404 dự án với tổng vốn đầu tư là 12 tỷ 528

triệu USD. Trong những năm gần đây Bình Dương đã thu hút một số dự án với quy

mô vốn lớn đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh bất động sản, có 02 dự án với số vốn

đầu tư trên 1 tỷ USD. ( Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương, Báo cáo tình hình kinh

tế - xã hội, quốc phòng an ninh năm 2014)

42

Trong 06 tháng năm 2015, thu hút được 279,8 triệu USD đạt 62,9% kế hoạch

năm, trong đó số dự án cấp giấy chứng nhận đầu tư mới là 20 dự án với tổng số vốn

đăng ký là 68,59 triệu USD và 16 dự án điều chỉnh tăng vốn với tổng vốn đăng ký

tăng là 111,2 triệu USD, trong đó đầu tư vào các khu công nghiệp 12 dự án với tổng

vốn đầu tư 37,4 triệu USD và 12 dự án điều chỉnh tăng vốn với vốn đầu tư tăng

thêm là 106,2 triệu USD.

( Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Bình Dương, Báo cáo tình hình thu hút vốn đầu

tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh 06 tháng đầu năm 2015)

Đến nay đã có hơn 39 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Bình Dương,

trong đó, xuất hiện ngày càng nhiều các tập đoàn, công ty xuyên quốc gia có năng

lực về tài chính và công nghệ. (Xem Phụ lục 2.3)

Phần lớn các dự án đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh Bình Dương đều được

bố trí vào các khu công nghiệp hoặc cụm quy hoạch phát triển sản xuất công nghiệp

theo đúng quy hoạch.

Công tác thu hút đầu tư nước ngoài gắn liền với việc hình thành các khu công

nghiệp ở Bình Dương đã làm gia tăng đáng kể năng lực sản xuất của các huyện thị, từ

đó, làm thay đổi bộ mặt kinh tế của toàn tỉnh, góp phần cải tạo cơ cấu kinh tế tỉnh

thông qua việc giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vu.

Các khu, cụm công nghiệp đã đầu tư cơ sở hạ tầng, hệ thống xử lý nước thải

theo quy hoạch được phê duyệt, đáp ứng yêu cầu phát triển công nghiệp và định

hướng thu hút đầu tư của tỉnh;

Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một bộ phận kinh tế quan trọng, có quan hệ hữu

cơ với các thành phần kinh tế của tỉnh. Việc thu hút vốn đầu tư để phát triển kinh tế,

đặc biệt trong việc xây dựng và phát triển các khu công nghiệp tập trung trong thời

gian qua đã đạt được một số kết quả đáng kể, đến nay toàn tỉnh có 29 khu công

nghiệp với diện tích 9.073 ha và 08 cụm công nghiệp tổng diện tích gần 600 ha; tỷ

lệ lấp kín diện tích cho thuê của các khu công nghiệp đạt 65%, của các cụm công

nghiệp đạt 41%. Việc thu hút đầu tư nước ngoài vào các KCN đạt được một số kết

quả đáng kể thông qua nhiều đợt xúc tiến đầu tư nước ngoài do các công ty phát

43

triển hạ tầng tổ chức, môi trường đầu tư vào các KCN được quảng bá, giới thiệu cho

các nhà đầu tư nước ngoài. Việc xúc tiến đầu tư đã được xây dựng và điều chỉnh

theo hướng tập trung, có trọng điểm ở các thị trường khác nhau như Nhật, Mỹ, EU,

Hàn Quốc, Đài Loan nhằm kêu gọi đầu tư vào các dự án sản xuất trong các KCN

tập trung vào điện, điện tử, cơ khí chính xác và những dự án có hàm lượng công

nghệ cao theo định hướng thu hút đầu tư của tỉnh.

Thu hút FDI đạt hiệu quả cao là tín hiệu đáng phấn khởi vì thành phần kinh tế

này góp phần quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế của tỉnh nhà cũng như tạo

ra giá trị công nghiệp, dịch vụ cao. Hơn nữa, xu hướng gia tăng vào lĩnh vực sản

xuất sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, có khả năng cạnh tranh tốt được các

doanh nghiệp đầu tư mạnh. Điều này phù hợp với định hướng quy hoạch, phát triển

công nghiệp, dịch vụ bền vững của Bình Dương. Thành công trong thu hút FDI của

Bình Dương là kết quả tất yếu của một quá trình phấn đấu. Từ việc phát huy các

yếu tố “thiên thời, địa lợi”, Bình Dương đã chủ động, mạnh dạn chớp lấy thời cơ

nhằm khai thác yếu tố thuận lợi về địa lý, thực hiện tốt cải cách thủ tục hành chính,

tạo môi trường thông thoáng... Chính vì thế đã tạo thương hiệu Bình Dương trong

thu hút đầu tư.

Hiện Bình Dương là một trong những điểm đến hấp dẫn của các doanh nghiệp

Nhật Bản, từ năm 2011 đến nay đã có nhiều tập đoàn Nhật Bản đến tìm hiểu môi

trường đầu tư của tỉnh và đã đầu tư, điển hình như Tập đoàn Tokyu, Tập đoàn

Aeon, Công ty Kiyo Kensetsu Kikai…Việc nhiều công ty, tập đoàn Nhật Bản tiếp

tục chọn lựa Bình Dương để đầu tư là tín hiệu tốt trong thu hút đầu tư. Điều này

cũng chứng tỏ môi trường đầu tư năng động và thuận lợi của tỉnh luôn là điểm đến

hấp dẫn đối với các doanh nghiệp Nhật Bản nói riêng và các nhà đầu tư nước ngoài

nói chung khi chọn lựa địa điểm để triển khai dự án.

2.2.2. Tác động tích cực của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh

Bình Dương

Hiện tại khu vực lao động có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp trên 35% GDP

toàn tỉnh thu hút khoảng trên 500 ngàn lao động. Cơ cấu, quy mô và hình thức đầu

44

tư của các dự án khá thích hợp, đã và đang đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh

tế - xã hội trên nhiều mặt chủ yếu sau:

Trong những năm đầu thời kỳ đổi mới, nguồn vốn đầu tư trong nước hạn chế

thì mức vốn thực hiện khoảng 2 tỷ USD có ý nghĩa quan trọng, tạo điều kiện cho

tỉnh từng bước xây dựng cơ sở ban đầu trong phát triển kinh tế - xã hội. FDI thời

kỳ 1997-2005 chiếm gần 70% tổng vốn đầu tư phát triển thực sự đã trở thành một

trong những động lực quan trọng góp phần phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH ở Bình

Dương. Việc tăng vốn FDI đã tác động tích cực vào tăng trưởng GDP cụ thể như:

tốc độ GDP đã tăng từ 12,5% năm 2010 lên 13,4% năm 2014. Năm 2014, mục tiêu

tăng trưởng GDP của tỉnh Bình Dương là 13%, nhưng đã thực hiện vượt kế hoạch

đạt 13,4% do tăng 25% vốn đầu tư nước ngoài trong năm 2014.

Như vậy, rõ ràng FDI có mối quan hệ chặt chẽ, tác động đến sự tăng trưởng

kinh tế của tỉnh. Hiện khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp 36,22%

GDP toàn tỉnh. ( Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương, Báo cáo tình hình kinh tế xã

hội 2010-2104)

Các dự án hoạt động tập trung ở 3 ngành trong đó nhiều nhất là lĩnh vực công

nghiệp, chiếm 97,17% tổng số dự án và 91,16% số vốn, phân bố trên 24 ngành công

nghiệp chế biến và 2 ngành sản xuất và phân phối điện, ga, khí đốt, nước. Kế đến là

lĩnh vực dịch vụ chiếm 1,6% tổng số dự án, 5,4% tổng số vốn đầu tư, chủ yếu là

dịch vụ văn phòng cho thuê, kho lạnh, vận chuyển hàng hoá... Còn nông nghiệp,

lâm nghiệp mặc dù là khu vực tập trung hơn 70% dân số của tỉnh nhưng chỉ thu hút

0,83% số dự án và chiếm 2,2% trên tổng vốn đầu tư. Cuối cùng là khu vực xây

dựng chiếm tỷ trọng thấp nhất 0,4% tổng vốn đầu tư. (Tỉnh ủy Bình Dương, 2014,

Báo cáo tình hình phát triển các thành phần kinh tế trên địa bàn tỉnh Bình Dương).

- Trong những năm đầu, nhà đầu tư nước ngoài chủ yếu đầu tư vào công

nghiệp chế biến nông, lâm sản dựa trên nguồn nguyên liệu có sẵn của địa phương

như chế biến gỗ, đũa tre, sản phẩm cao su v.v.. còn những năm trở lại đây FDI đã

tập trung nhiều vào ngành công nghiệp kỹ thuật cao như: sản xuất linh kiện điện tử,

phụ tùng ô tô, xe máy, nhựa PVC, kính cao cấp, ti vi, tủ lạnh, v.v.. Nhờ đó, nhiều

45

công nghệ mới kỹ thuật số, cáp quang, hàng điện tử kỹ thuật số v.v.. góp phần nâng

cao trình độ công nghệ của nền kinh tế, tạo ra nhiều sản phẩm có hàm lượng kỹ

thuật cao, đạt tiêu chuẩn quốc tế được minh chứng bằng tố độ tăng trưởng kim

ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp.

- Đến nay trên địa bàn Bình Dương đã có 39 quốc gia và vùng lãnh thổ có

dự án được cấp giấy phép đầu tư như: Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc, Trung

Quốc, Thái Lan… trong đó có nhiều tập đoàn, công ty lớn có tiềm lực về công

nghệ và tài chính. Có một số dự án đầu tư có công nghệ tiên tiến của các nước

thuộc nhóm G7, châu Âu đã bắt đầu tham gia đầu tư như: Mỹ, Nhật, Đức, Hà

Lan… Nhờ có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, khả năng cạnh tranh của sản

phẩm Bình Dương trên thị trường quốc tế đã thật sự khởi sắc. Mặc dù tỷ trọng

của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong xuất khẩu chưa cao, nhưng

đã tạo điều kiện cho nhiều sản phẩm của tỉnh thâm nhập thị trường thế giới, tạo

cơ hội để Bình Dương tiếp nhận những công nghệ mới, phù hợp với nền kinh tế

và việc phát triển nguồn nhân lực.

- Sự phát triển của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không làm

triệt tiêu nội lực mà còn thúc đẩy các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp

dân doanh qua các thời kỳ và các doanh nghiệp trong tỉnh cùng với các doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài liên doanh, hợp doanh để phát triển. Sự phát

triển của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng là động lực thôi thúc

doanh nghiệp trong tỉnh tự điều chỉnh, nâng cao hiệu quả quản lý, đầu tư chiều

sâu, quan tâm tới nâng cao chất lượng sản phẩm, xây dựng thương hiệu.

- Kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng

rất nhanh qua các năm. Tổng giá trị hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn

đầu tư nước ngoài đạt bình quân 334 triệu USD/năm. Năm 1997 đạt 85 triệu

USD. Năm 2010 kim ngạch xuất khẩu đạt 4.500 triệu USD chiếm 65.9% tổng giá

trị xuất khẩu. Năm 2014 kim ngạch xuất khẩu đạt 8.309 triệu USD, chiếm 80.35%

tổng giá trị xuất khẩu của tỉnh. Giá trị xuất khẩu của doanh nghiệp vốn đầu tư

nước ngoài chiếm bình quân hàng năm 70% doanh thu. Cơ cấu sản phẩm xuất

46

khẩu chuyển từ nông sản và bán thành phẩm sang các sản phẩm công nghiệp và

tinh chế. Nhờ có sự chuyển giao công nghệ và kỹ năng marketing từ các công ty

nước ngoài nhiều sản phẩm của Bình Dương đã xuất hiện trên thị trường thế

giới.

Biểu đồ 2.1: Giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI ở Bình Dương

qua các năm (nghìn USD)

Nguồn: (UBND tỉnh Bình Dương, Báo cáo tình hình kinh tế xã hội quốc phòng

an ninh năm 2010, 2011, 2012, 2013, 2014)

Các dự án FDI đi vào ổn định với doanh thu ngày càng cao, nộp ngân

sách chiếm tới 25% tăng ngân sách ở Bình Dương. Hiện tại, thu ngân sách từ

khu vực này vẫn tiếp tục tăng cả về giá trị và tỷ trọng. Nếu năm 2010, khu vực

đầu tư nước ngoài đóng góp 161 triệu USD chiếm 15,3% trong tổng thu ngân

sách thì sang năm 2013 số nộp ngân sách của các doanh nghiệp FDI là 261

triệu USD chiếm tỷ trọng 24,8% tăng gấp 1,5 lần so với năm 2010. Tuy nhiên,

sang năm 2014 khu vực đầu tư nước ngoài đóng góp 159 triệu USD, điều này

được lý giải là do sự kiện ngày 01/5/2014 Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải

Dương 981 xâm phạm chủ quyền của Việt Nam. Từ đó dấy lên làn sóng phản

đối Trung Quốc xâm phạm chủ quyền biển đảo Việt Nam, mà đỉnh cao là sự

kiện ngày 13/5/2015 công nhân ở các khu công nghiệp của Bình Dương đã bị

các phần tử phản động kích động dẫn tới đạp phá các nhà máy, xí nghiệp của

các doanh nghiệp Đài Loan, Trung Quốc và các doanh nghiệp có vốn đầu tư

nước ngoài khác. Điều này làm cho các doanh nghiệp bị trì trệ trong kinh

47

doanh, gây thiệt hại nhiệm trọng, thậm chí có doanh nghiệp tuyên bố phá sản,

từ đó dẫn đến tỷ lệ đóng góp vào ngân sách của khu vực này giảm xuống đáng

kể. Được sự lãnh đạo, chỉ đạo từ Trung ương đến địa phương, Lãnh đạo tỉnh

Bình Dương đã kịp thời ban hành các chế độ hỗ trợ cho các doanh nghiệp, vì

vậy các doanh nghiệp nghiệp đã từng bước khắc phục được khó khăn và đi vào

sản xuất kinh doanh bình thường. Bên cạnh đó khu vực này còn đóng góp hàng

tỷ đồng cho các chương trình như xoá đói, giảm nghèo, xây nhà tình nghĩa, xây

dựng các công trình phúc lợi, ủng hộ thiên tai, bão lụt… (Xem phụ lục 2.4)

- Các doanh nghiệp FDI đã thu hút trên 500 ngàn lao động trực tiếp, và có

khoảng 100.000 lao động gián tiếp, lao động tham gia trong lĩnh vực xây dựng cơ

bản, sản xuất nguyên vật liệu và các dịch vụ cung ứng... Điều này đã góp phần tạo

nên một thị trường lao động tập trung khá phát triển, không chỉ thu hút lao động ở

địa bàn tỉnh Bình Dương mà còn thu hút lao động từ nhiều địa phương khác trong

cả nước. Đồng thời, FDI cũng đóng góp phần chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, cơ

cấu lao động trong tỉnh theo phát triển nền kinh tế hiện đại: giảm tỷ lệ lao động

trong nông nghiệp, tăng tỷ lệ lao động trong công nghiệp và các ngành dịch vụ FDI.

Tạo động lực thúc đẩy việc nâng cao trình độ của người lao động và đang trong xu

thế các ngành công nghiệp công nghệ cao phát triển, thì đòi hỏi tất yếu là lực lượng

lao động phải nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, từ đó tạo ra đội ngũ cán bộ

quản lý có trình độ cao, công nhân lành nghề, có khả năng tiếp thu và sử dụng công

nghệ tiên tiến. Ngoài ra, cung cách quản lý của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh,

kể cả doanh nghiệp trong nước do gián tiếp chịu sự tác động của khu vực FDI đã

thay đổi và tiến bộ rõ rệt, góp phần tạo ra nhiều cơ hội phát triển trình độ, kỹ năng

cho đội ngũ lao động trẻ. ( Xem phụ lục 2.5)

- Các doanh nghiệp FDI đã có sự quan tâm đến đời sống của công nhân. Có 74

doanh nghiệp FDI, tham gia xây dựng 6.258 phòng cho 20.972 lao động ở không

thu tiền, với số lượng công nhân vào làm việc tại Bình Dương ngày càng đông trên

500 ngàn lao động, việc các doanh nghiệp tham gia xây dựng phòng trọ không lấy

tiền đã giúp cho một lượng lớn công nhân có thu nhập thấp có chỗ ở ổn định. Nhìn

48

thấy được khó khăn của các doanh nghiệp, hơn 6.100 căn hộ nhà ở xã hội dành cho

những người lao động nhập cư đã được tỉnh Bình Dương khởi công xây dựng thêm

vào ngày 31/3/2015 tại phường Định Hòa, thành phố Thủ Dầu Một với mục đích

phục vụ nhu cầu nhà ở đối với đối tượng là những người nhập cư, công nhân lao

động ở các khu công nghiệp lân cận.

- Cùng với sự phát triển của khu vực FDI, một số khu vực sản xuất và cung

ứng sản phẩm dịch vụ cho khu vực này thuộc các thành phần kinh tế khác phát triển

sẽ nâng cao khả năng tạo việc làm cho người lao động. Hiện nay với chính sách

tăng dần tỷ lệ nội địa hoá trong các doanh nghiệp có vốn FDI như công nghiệp chế

tạo ô tô, xe máy, giày da, may mặc, phân phối, tiêu thụ sản phẩm… đã hình thành

một số doanh nghiệp vệ tinh cung cấp các sản phẩm và dịch vụ cho các doanh

nghiệp FDI. Việc hình thành các doanh nghiệp vệ tinh sẽ nảy sinh tuyển dụng thêm

lao động làm giảm tỷ lệ thất nghiệp ở Bình Dương.

- Ngoài xu hướng của các nước trên thế giới là hội nhập để phát triển thì để

thu hút nguồn vốn từ các nhà đầu tư nước ngoài ở Bình Dương luôn phải tự hoàn

thiện hệ thống pháp luật theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo ra sự minh

bạch và bình đẳngcho các nhà đầu tư để cho các nhà đầu tư nước ngoài có thể an

tâm và nhanh chóng triển khai các cơ hội đầu tư. Thực tế cho thấy rằng, với điều

kiện các nhân tố khác không đổi thì cùng là một nước nhưng khi có sự thay đổi về

hành chính và sự minh bạch về môi trường đầu tư được cải thiện thì sẽ thu hút được

nhiều nhà đầu tư nước ngoài hơn.

* Nguyên nhân của những kết quả tích cực

Thứ nhất, thành công trong thu hút FDI ở Bình Dương không phải do tỉnh có

chính sách riêng hay có cơ chế ưu đãi gì đặc biệt cho các nhà đầu tư FDI ngoài

chính sách chung của Đảng, Nhà nước và luật đầu tư nước ngoài quy định mà cái

chính là do Đảng bộ, chính quyền địa phương đã căn cứ vào đặc điểm thực tiễn để

vận dụng sáng tạo mạnh dạn đổi mới tư duy, cách nghĩ và cơ chế hoạt động trong

việc thực hiện chính sách thu hút đầu tư nước ngoài: Phong cách làm việc của hệ

thống các cơ quan Đảng, chính quyền ở Bình Dương đã thực hiện sự tạo ra môi

49

trường thông thoáng, hấp dẫn, thực sự “trải chiếu hoa mời gọi đón các nhà đầu tư”

đến với Bình Dương.

Thứ hai, để quá trình đầu tư của các doanh nghiệp nhận được thuận lợi, tỉnh

Bình Dương coi trọng công tác cải cách thủ tục hành chính, áp dụng cơ chế một cửa

thông qua Sở Kế hoạch Đầu tư và các Sở, ngành có liên quan làm đầu mối giải

quyết các thủ tục. Bộ máy quản lý được định hướng vào việc hỗ trợ doanh nghiệp,

tạo lập môi trường kinh doanh với chi phí thấp. Chính quyền các cấp thường xuyên

quan tâm sâu sát, gần gũi và kịp thời giúp đỡ doanh nghiệp giải quyết mọi vướng

mắc vượt thẩm quyền, tỉnh Bình Dương đề đạt ngay những kiến nghị hoặc trực tiếp

cùng doanh nghiệp ra Hà Nội gặp Chính phủ và các Bộ, ngành, Trung ương có liên

quan để tìm cách giải quyết. Quan hệ giữa chính quyền và doanh nghiệp nhờ đó

ngày càng gần gũi và thân thiện. Ngoài những buổi tiếp xúc đột xuất khi doanh

nghiệp, nhà đầu tư có nhu cầu, những chuyến viếng thăm các doanh nghiệp cũng

được tỉnh tổ chức hàng tuần. Cùng với các chương trình gặp gỡ định kỳ hàng năm

vào dịp cuối năm, tỉnh đều tổ chức ngày doanh nghiệp 31/12 để qua đó doanh

nghiệp có dịp trao đổi, đóng góp về môi trường đầu tư của tỉnh với các cấp lãnh đạo

chính quyền và các cơ quan quản lý chuyên ngành. Nhờ những cách làm nói trên,

các nhà đầu tư đến với Bình Dương đều có được niềm tin được hỗ trợ tốt nhất trong

công việc kinh doanh. Từ niềm tin này các nhà đầu tư trong và ngoài nước tự động

lôi kéo bạn bè, phường hội, tập đoàn của họ đến Bình Dương đầu tư.

Thứ ba, Bình Dương đã sớm hình thành được quy hoạch tổng thể phát triển

kinh tế - xã hội làm căn cứ cho việc chỉ đạo triển khai các chương trình, dự án khi

thu hút FDI có thể sớm đi vào hoạt động và đưa lại hiệu quả phát triển kinh tế - xã

hội của tỉnh, các dự án đầu tư phù hợp với nhu cầu giải quyết những vấn đề kinh tế -

xã hội trên cơ sở các lợi thế của tỉnh. Đặc biệt là kế hoạch xây dựng và xây dựng lại

hệ thống kết cấu hạ tầng các KCN. Đặc điểm của các KCN ở Bình Dương là được

hình thành từ nguồn vốn của nhiều thành phần kinh tế khác nhau như của doanh

nghiệp nhà nước có KCN: Bình Đường, Sóng Thần 1, Mỹ Phước, Bình An. Của

doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, cổ phần có KCN: Sóng Thần 2, Việt Hương

50

1 và 2, Đồng An, Tân Đông Hiệp A và B. Của liên doanh có KCN: Việt Nam -

Singapore v.v.. Song cho dù KCN của thành phần kinh tế nào cũng đều được tỉnh

hỗ trợ, tạo mọi điều kiện cho doanh nghiệp phát huy tính chủ động sáng tạo trong

xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng như điện, nước, mạng lưới thông tin liên

lạc, v.v.. tạo ra. Sự đa dạng, thích hợp và hấp dẫn riêng đối với các loại hình đầu tư

ở các lĩnh vực khác nhau.

Thứ tư, do phát triển KCN, cụm công nghiệp nên tình hình kinh tế, xã hội

của tỉnh Bình Dương những năm gần đây có sự chuyển biến rõ rệt. Trước thực tế

này đòi hỏi tỉnh Bình Dương phải quan tâm đến vấn đề phát triển nguồn nhân

lực, đào tạo đội ngũ công nhân có tay nghề nhằm cung ứng kịp thời lực lượng

lao động giúp các doanh nghiệp có đủ số lượng công nhân để phát triển sản xuất,

phục vụ cho sự phát triển công nghiệp ngày càng đa dạng. Đứng trước nhu cầu

đó, tỉnh có chính sách kết hợp trong việc phát triển kinh tế và đào tạo nguồn

nhân lực thu hút lao động từ các công ty trong tỉnh và ngoài tỉnh vào làm việc ở

các khu công nghiệp. Theo đó mục tiêu của đề án là phấn đấu đến năm 2020 xây

dựng được hai hệ thống dạy nghề: hệ thống dạy nghề đại trà (gồm các trung tâm

dịch vụ việc làm, trường dạy nghề dân lập, trung tâm dạy nghề của các đoàn thể,

các trường cao đẳng, đại học, trung cấp, các doanh nghiệp, các làng nghề truyền

thống có dạy nghề) và hệ thống trường, trung tâm dạy nghề chất lượng cao (gồm

các trường dạy nghề của tỉnh, trường dạy nghề trung ương đóng trên địa bàn

tỉnh, trung tâm dạy nghề chất lượng cao). Từ hai hệ thống đào tạo này, sẽ tăng cơ

hội học nghề cho mọi đối tượng có nhu cầu, từ đó tỉnh sẽ từng bước phổ cập

nghề, đào tạo được nguồn lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao cung

ứng cho thị trường lao động, chủ yếu là các KCN. Đề án quy hoạch mạng lưới cơ

sở dạy nghề của Bình Dương đã đáp ứng nhu cầu bức xúc của xã hội, phù hợp

với chính sách của Đảng và Nhà nước, nhờ vậy công tác đào tạo nghề của địa

phương những năm gần đây đã có bước chuyển mình đáng kể. Công tác quản lý

nhà nước về dạy nghề đã đi vào nề nếp, đội ngũ giáo viên dạy nghề được đào

tạo, bồi dưỡng nâng cao, cơ sở vật chất chương trình, giáo trình được tu sửa,

51

nâng cấp đổi mới từng bước phù hợp với yêu cầu của thực tiễn sản xuất và thị

trường lao động; hoạt động dạy nghề được xã hội hoá với nhiều thành phần tham

gia mở trường và cơ sở dạy nghề, hình thức và ngành nghề đào tạo đa dạng

phong phú, đáp ứng linh hoạt theo nhu cầu của người học.

Thứ năm, trước những bức xúc xảy ra trong quan hệ lao động tại các doanh

nghiệp tỉnh đã tổ chức Hội thảo về đình công, lãng công tự phát, tranh chấp lao

động. Hội thảo đã lấy ý kiến tham gia của các sở, ngành có liên quan và một số

doanh nghiệp về xây dựng quy chế tạm thời, về trách nhiệm phối hợp giải quyết

tranh chấp lao động tại các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. Quy chế đã phân

công trách nhiệm cụ thể của các ngành, các địa phương trong tỉnh và các biện

pháp cùng phối hợp để giải quyết. Để giúp các doanh nghiệp nắm bắt những quy

định mới về lao động, công đoàn nhanh chóng giải quyết những vướng mắc

trong thực hiện pháp luật lao động dễ dàng hơn. Liên đoàn Lao động tỉnh đã phối

hợp đi thăm trực tiếp từ 10-15 doanh nghiệp mỗi tháng. Tuy mới thực hiện

nhưng cho thấy khá hiệu quả và tạo được mối quan hệ tốt đẹp giữa các doanh

nghiệp và các ngành. Bình Dương đã xây dựng và triển khai chương trình “đối

thoại xã hội tại nơi làm việc” cho các doanh nghiệp nhằm mục đích xây dựng

mối quan hệ hợp tác giữa người sử dụng lao động và người lao động, tạo cơ hội

để hai bên hiểu nhau hơn và cùng giải quyết những mâu thuẫn phát sinh ngay từ

ban đầu thông qua thương lượng, đồng thời giúp cho người lao động, tạo cơ hội

để hai bên hiểu nhau hơn và cùng giải quyết những mâu thuẫn phát sinh ngay từ

ban đầu thông qua thương lượng, đồng thời giúp cho người sử dụng hiểu rõ hơn

chức năng, nhiệm vụ của tổ chức công đoàn còn người lao động thì đồng cảm và

cùng góp sức giải quyết chia sẻ những khó khăn với các doanh nghiệp. Để xây

dựng được mối quan hệ lao động giữa người sử dụng lao động và người lao động

ngày càng tốt đẹp hơn, góp phần ổn định trật tự xã hội của địa phương, đưa Bình

Dương là một địa chỉ đáng tin cậy của các nhà đầu tư và người lao động đến lập

nghiệp, ổn định cuộc sống lâu dài. Ngăn ngừa và hạn chế tối đa tình hình tranh

chấp lao động trên địa bàn tỉnh.

52

2.3. MỘT SỐ TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP

NƯỚC NGOÀI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH DƯƠNG GIAI ĐOẠN

2010-2015 VÀ NGUYÊN NHÂN.

2.3.1. Một số hạn chế và tác động tiêu cực của FDI

Bên cạnh những kết quả đạt được, lĩnh vực thu hút và sử dụng vốn FDI

trên địa bàn tỉnh Bình Dương cũng còn một số hạn chế, làm phát sinh những hậu

quả tiêu cực:

- Một là: Chất lượng dự án đầu tư chưa cao và chưa lựa chọn được

những công nghệ cao.

Có những thời điểm việc thu hút FDI tại Bình Dương không có sự chọn

lọc, các dự án FDI thường có công nghệ lạc hậu, máy móc thiết bị cũ kỷ. Việc

chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào tỉnh Bình Dương được thực hiện thông

qua các hợp đồng của địa phương, không được các cơ quan quản lý Nhà nước về

khoa học công nghệ chuẩn y.

Phần lớn các dự án đầu tư công nghiệp thời gian qua chủ yếu là công

nghiệp nhẹ, gia công, thu hồi vốn nhanh nhưng giá trị gia tăng thấp. Công ty

kinh doanh hạ tầng KCN muốn nhanh chóng lấp đầy diện tích cho thuê, nhằm

thu lại chi phí đầu tư và tái đầu tư trong hoạt động kinh doanh cơ sở hạ tầng, qua

đó đảm bảo chỉ tiêu lợi nhuận. Do vậy, trong quá trình xúc tiến, mời gọi dự án

đầu tư vào các KCN, Công ty kinh doanh hạ tầng ít quan tâm đến các chỉ tiêu

như vốn đầu tư, số lao động, trình độ công nghệ, trình độ lao động, hiệu quả dự

án,... nhưng chỉ chú trọng nhiều đến diện tích đất và giá cho thuê của dự án đầu

tư.

Một số doanh nghiệp FDI đã bị phát hiện thủ pháp nâng giá vật tư, máy móc

để nâng giá trị dự án và tăng tỷ lệ góp vốn trong liên doanh, khai khống giá nguyên

nhiên vật liệu đầu vào, tạo giá thành ảo, tạo ra tình trạng “lỗ giả, lãi thật’’ và sử

dụng nó như một biện pháp để tránh đánh thuế chuyển lợi nhuận, thuế nhập khẩu và

53

kiểm soát tỷ giá. Hiện tượng chuyển giá hầu như đều xảy ra đối với các công ty đa

quốc gia, xuất hiện và ngày càng phổ biến tại các doanh nghiệp FDI tại Bình Dương

- Hai là: Cơ cấu nguồn vốn FDI chưa đáp ứng yêu cầu phát triển đồng

bộ

Trong thời gian vừa qua, Bình Dương thường tập trung phát triển trước các

KCN, chưa gắn kết chặt chẽ với đầu tư đồng bộ phát triển đô thị và thương mại

dịch vụ.

Tỉnh chưa thu hút được nhiều dự án FDI đầu tư từ các nước có trình độ

khoa học công nghệ tiên tiến như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, là những

nước có trình độ khoa học công nghệ cao, có năng lực cạnh tranh và trình độ

quản lý kinh tế tốt, có thị phần trên thế giới lớn và ổn định, trong khi đây là một

trong những tiêu chuẩn quan trọng đánh giá chất lượng đầu tư. Công tác xúc tiến

đầu tư vào các quốc gia này còn hạn chế.

Mặt khác, các dự án FDI trong những năm qua chủ yếu đầu tư vào lĩnh vực

công nghiệp, tỷ lệ đầu tư vào lĩnh vực thương mại và dịch vụ còn thấp. Vốn FDI

giữa các khu vực trên địa bàn tỉnh cũng không đồng đều, phần lớn chỉ tập trung ở

các khu vực thị xã và các huyện phía Nam của tỉnh. (Xem phụ lục 2.9)

- Ba là: Các vấn đề an ninh xã hội, thực thi pháp luật chưa được đảm

bảo tốt

Trong những năm gần đây, tình hình tranh chấp lao động nói chung và tình

hình đình công nói riêng ngày càng có chiều hướng gia tăng. Phần lớn các vụ

tranh chấp xảy ra chủ yếu là ở các doanh nghiệp Đài Loan, Hàn Quốc, Trung

Quốc. Đình công tự phát xảy ra trên diện rộng gây bất ổn cho doanh nghiệp và

trật tự an toàn xã hội.

Từ năm 2010 trở về trước xảy ra nhiều nhất các vụ tranh chấp lao động, đình

công, bãi công, trung bình có khoảng 25 vụ mỗi năm, riêng năm 2011 xảy ra tới 27

vụ tăng 11 vụ so với năm 2010. Tất cả những vụ này đều không do công đoàn tổ

chức mà là tự phát và diễn ra nhiều nhất là ở các doanh nghiệp FDI - do người Đài

Loan làm chủ. Có những vụ rất phức tạp với số người tham gia đông, xảy ra xô xát

54

giữa chuyên gia với công nhân. Chẳng hạn đầu năm 2012, tại Công ty TNHH New

Decor đã xảy ra một vụ tranh chấp lao động với 360 công nhân ngừng sản xuất để

yêu cầu doanh nghiệp giải quyết chế độ độc hại, nâng lương, v.v... Theo báo cáo

của Liên đoàn Lao động trong đó có 52 vụ đình công ở các doanh nghiệp có vốn

đầu tư nước ngoài, riêng 6 tháng đầu năm 2015 đã có 14 vụ đình công. Như vậy, so

với các tỉnh khác trong cả nước số vụ đình công ở Bình Dương khá lớn, số vụ đình

công có xu hướng năm sau cao hơn năm trước. Đây là tín hiệu xấu trong quan hệ

lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động trong doanh nghiệp có vốn

đầu tư nước ngoài ở Bình Dương.

Điều đáng lưu ý là 100% các vụ đình công đều nổ ra tự phát do một bộ phận

công nhân thực hiện, không tuân thủ đúng theo trình tự của pháp luật. 100% các

cuộc đình công không có vai trò, hướng dẫn, tổ chức của công đoàn cơ sở. Điều này

cho thấy ý thức pháp luật của công nhân trong các doanh nghiệp có vốn FDI chưa

cao và vai trò của công đoàn cơ sở khá mờ nhạt. Hầu hết các cuộc đình công chỉ kết

thúc và chủ doanh nghiệp đáp ứng phần nào yêu sách của công nhân nhờ sự can

thiệp của Liên đoàn Lao động tỉnh. Tuy chưa có doanh nghiệp nào thống kê thiệt

hại do đình công, nhưng các cuộc đình công đều dẫn đến những hậu quả tiêu cực,

làm xấu đi quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động, thiệt

hại cho sản xuất kinh doanh và ảnh hưởng lâu dài đến uy tín của doanh nghiệp.

Về phía người lao động đa số là lao động xuất thân từ nông thôn nên chưa

thích nghi với tác phong môi trường lao động mang tính chất công nghiệp, ý thức tổ

chức kỹ thuật chưa cao. Trình độ học vấn còn hạn chế, thiếu hiểu biết về pháp luật

lao động, về trình tự khiếu nại, tố cáo, đình công, lãng công, nhiều trường hợp

người lao động chấp nhận thiệt thòi về quyền lợi để có việc làm thêm giờ để tăng

thêm thu nhập, chịu đựng đến khi quá mức thì phản ứng, đấu tranh tự phát.

- Bốn là: Phát sinh những hậu quả xấu về môi trường

Việc phát triển công nghiệp một mặt đóng góp vào sự tăng trưởng nhanh

của địa phương, mặt khác có tác động xấu đến môi trường do việc quản lý chất

thải công nghiệp chưa được giải quyết kịp thời. (Xem phụ lục 2.6)

55

Tình trạng ô nhiễm môi trường do các doanh nghiệp FDI gây ra như các

chất thải, nước thải chưa qua xử lý đã thải trực tiếp ra các sông, rạch, làm cho

tình hình ô nhiễm môi trường ngày càng nghiêm trọng hơn, đặc biệt là tình trạng

ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt và ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của

người dân xung quanh, thậm chí có một số khu vực nguồn nước giếng khoan

không thể sử dụng được. Đánh giá về chất lượng xử lý chất thải tại các doanh

nghiệp thì doanh nghiệp có vốn FDI ở trong KCN có hệ thống xử lý chất thải

kém chiếm 5,3%, doanh nghiệp có vốn FDI ở ngoài KCN có hệ thống xử lý chất

thải kém chiếm 20,6% (Xem phụ lục 2.7). Tỉnh cũng chưa có biện pháp xử lý

kiên quyết triệt để, vì e ngại làm ảnh hưởng đến việc thu hút và kêu gọi đầu tư.

Nhiều doanh nghiệp FDI, tuy có đầu tư hệ thống xử lý nhưng không đạt

chuẩn hoặc vì mục đích lợi nhuận nên cố tình xử lý không đạt chuẩn, thiếu trách

nhiệm đối với xã hội. Các doanh nghiệp FDI nằm ngoài các KCN thường không có

hệ thống xử lý nước thải chung. Ngoài nước thải trong quá trình hoạt động của các

doanh nghiệp FDI còn có các khí thải, chủ yếu từ quá trình đốt nhiên liệu dầu vận

hành nồi hơi, lò nung, máy phát điện trong các dây chuyền sản xuất và khí thải do

các phương tiện vận chuyển gây ra. Khí thải chủ yếu chứa các chất ô nhiễm như

bụi, SO2, NOx, CO và các hợp chất hữu cơ bay hơi (VOC). Chất thải rắn của các

doanh nghiệp FDI bao gồm các chất thải rắn trong quá trình sản xuất và chất thải

sinh hoạt của công nhân. Các chất thải rắn nguy hại chủ yếu là các bao bì đựng hoá

chất, chất thải từ quá trình sản xuất sơn, keo và bùn từ hệ thống xử lý nước thải.

Theo kết quả khảo sát của Sở Tài nguyên và Môi trường thì tải lượng chất thải nguy

hại chiếm khoảng 20% chất thải công nghiệp của các KCN. Các chính sách quy

định về môi trường chưa đồng bộ, việc xử phạt thiếu kiên quyết hoặc mức xử

phạt không đủ sức răn đe.

2.3.2. Nguyên nhân đưa tới những hạn chế và tác động tiêu cực của FDI

- Thứ nhất: Công tác vận động xúc tiến FDI còn nhiều hạn chế, chưa đạt

hiệu quả cao

56

Công tác vận động xúc tiến FDI trong thời gian qua chưa được lãnh đạo tỉnh,

lãnh đạo các Sở, ngành quan tâm đúng mức, mặc dù tỉnh Bình Dương đã chủ động

thành lập Trung tâm xúc tiến đầu tư-thương mại và du lịch trực thuộc Ủy ban nhân

dân tỉnh.

Việc xúc tiến đầu tư của tỉnh chưa chuyên nghiệp, chưa hấp dẫn các nhà đầu

tư. Tài liệu tuyên truyền chưa được cập nhật thường xuyên, thông tin chưa được

giới thiệu rộng rãi và kịp thời đến các nhà đầu tư, nội dung chưa đáp ứng nhu cầu.

Danh mục dự án kêu gọi đầu tư chưa thực sự thuyết phục sự quan tâm của các nhà

đầu tư, thông tin chưa cụ thể, chính xác. Chưa khai thác lợi thế của website. Ngôn

ngữ trong các công cụ tuyên truyền chủ yếu là tiếng Việt, tiếng Anh, trong khi đó

một bộ phận lớn các nhà đầu tư đến từ các nước và vùng lãnh thổ sử dụng tiếng

Trung, Nhật, Hàn.

Các cấp chính quyền của tỉnh chưa tạo ra kết nối với các bộ ngành trung ương

trong công tác xúc tiến; chưa có cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị trong

thực hiện nhiệm vụ xúc tiến đầu tư; sự phối hợp giữa các cơ quan của tỉnh và các

doanh nghiệp cũng chưa được chặt chẽ trong việc chuẩn bị thông tin cũng như cung

cấp các thông tin liên quan đến môi trường đầu tư, mặt bằng, thị trường, lao động,

chi phí đầu vào…. Các doanh nghiệp đầu tư hạ tầng trên địa bàn tỉnh tham gia vào

công tác xúc tiến đầu tư còn hạn chế, năng lực để tiếp cận và làm việc với các Nhà

đầu tư nước ngoài còn yếu, chưa chuyên nghiệp.

- Thứ hai: Môi trường đầu tư còn nhiều bất cập, kém hấp dẫn

Do các chính sách pháp luật của nhà nước đang trong giai đoạn hoàn thiện nên

có nhiều thay đổi, văn bản quy phạm pháp luật nhiều nhưng thiếu đồng bộ, thiếu

hướng dẫn chi tiết, một số quy trình thủ tục giữa các ngành thực hiện chưa thống

nhất, rất khó khăn cho địa phương trong việc tổ chức thực hiện. Nguyên tắc bất hồi

tố chưa được thực hiện đầy đủ, nhiều chính sách chủ trương của nhà nước thay đổi

ảnh hưởng bất lợi đến doanh nghiệp. Thủ tục hành chính rườm rà, đặc biệt là các

thủ tục về đất đai, xây dựng, thuế, hải quan, gây ra nhiều khó khăn cho các nhà đầu

tư trong quá trình lập thủ tục và thực hiện dự án.

57

Mặc dù lãnh đạo tỉnh quan tâm và tạo mọi điều kiện thuận lợi để hỗ trợ các

nhà FDI triển khai dự án, nhưng thủ tục đền bù, giải phóng mặt bằng, ký hợp đồng

thuê đất, xin giấy phép xây dựng, giấy phép phòng cháy chữa cháy của dự án đầu tư

cũng chưa tốt. Bên cạnh đó, vẫn còn một số cán bộ công chức có thái độ hách dịch,

nhũng nhiễu, gây phiền hà cho các nhà đầu tư. Đây là một trong những nguyên

nhân làm cho công tác thu hút và kêu gọi FDI vào địa phương trong những năm qua

có phần chựng lại, chưa tương xứng với những tiềm năng và thế mạnh vốn có của

địa phương. Để giải quyết vấn đề này, hàng năm, lãnh đạo Tỉnh uỷ, Ủy ban nhân

dân tỉnh và lãnh đạo các Sở, ngành đều tổ chức đối thoại giữa lãnh đạo tỉnh và

doanh nghiệp để nghe ý kiến, kiến nghị của DN để tháo gỡ kịp thời những khó

khăn, vướng mắc. Tuy nhiên, đây chỉ là phần ngọn trong việc giải quyết thủ tục

hành chính rườm rà tại địa phương. Vấn đề cốt lõi là lãnh đạo tỉnh và các Sở, ngành

tập trung quyết liệt hơn nữa việc hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện các thủ tục hành

chính có liên quan đến dự án.

Việc hình thành nhiều KCN, cụm công nghiệp đã tạo điều kiện thu hút nhiều

dự án đầu tư nước ngoài, nhưng cơ sở hạ tầng trong khu công nghiệp chưa đáp ứng

kịp thời. Nguyên nhân chính là do nguồn vốn đầu tư cơ sở hạ tầng từ ngân sách còn

quá hạn hẹp, cơ chế chính sách huy động các nguồn vốn khác chưa đầy đủ và kịp

thời làm cho các DN chưa mạnh dạn đầu tư.

- Thứ ba: Các dịch vụ phục vụ liên quan đến hoạt động của dự án FDI

chưa đáp ứng kịp yêu cầu

Theo Quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao đã được

chính phủ ban hành, các KCN được thành lập được quy hoạch tách biệt với các

khu dân cư và các khu công thị hiện hữu cũng như khu đô thị mới. Vì vậy nảy

sinh mâu thuẫn giữa hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp FDI với

những vấn đề xã hội, môi trường, đặc biệt là những vấn đề như:

Về chăm sóc y tế: Nền kinh tế thị trường kéo theo sự phân hóa giàu, nghèo

ngày càng tăng, tác động đến nguyên tắc công bằng trong bảo vệ và chăm sóc

sức khỏe nhân dân; người dân ở những xã vùng sâu, vùng xa ở các huyện phía

58

Bắc của Tỉnh vẫn còn nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ y tế chất

lượng cao. Y tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường chỉ đầu tư ở những lĩnh vực,

những địa điểm có khả năng sinh lợi. Những vấn đề trên đòi hỏi Nhà nước phải

quan tâm hơn để đầu tư những cơ sở y tế cần thiết phục vụ nhân dân mà tư nhân

không đầu tư như: bệnh viện lao, tâm thần, ung bướu; phát triển dịch vụ y tế

rộng khắp tại các vùng sâu, vùng xa.

Về giáo dục và đào tạo: Việc đầu tư trường lớp, ngành học mầm non trong

thời gian qua còn nhiều hạn chế, bất cập, tình trạng con em của công nhân lao

động chưa có chỗ gửi học để yên tâm lao động, sản xuất (chủ yếu tập trung ở

phía nam của Tỉnh). Do vậy Nhà nước cần có chủ trương đầu tư và xã hội hóa

mạnh hơn để ngành học này phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu gửi trẻ của nhân

dân.

Về nhà ở: Do dân số cơ học tăng nhanh, việc đầu tư xây dựng nhà ở đảm

bảo đúng quy chuẩn về xây dựng và môi trường chưa đáp ứng kịp nhu cầu. Vì

vậy, một bộ phận người dân, nhất là công nhân xa quê phải sống trong các khu

nhà trọ thiếu tiện nghi và ô nhiễm.

Về văn hoá - xã hội: Đa số người lao động làm việc tại các doanh nghiệp có

vốn đầu tư nước ngoài, áp lực công việc luôn căng thẳng, không có thời gian và

điều kiện cho họ tham gia các hoạt động vui chơi giải trí, văn hóa văn nghệ, thể

dục thể thao, sinh hoạt cộng đồng.

- Thứ tư: Nguồn cung ứng lao động còn nhiều khó khăn, bất cập

Hiện tại tỉnh Bình Dương đang thiếu đội ngũ công nhân kỹ thuật có trình độ

tay nghề cao. Do đó, hầu hết các doanh nghiệp FDI, mà đặc biệt là các doanh

nghiệp trong khu công nghiệp, cụm công nghiệp gặp rất nhiều khó khăn trong việc

tuyển dụng đủ nguồn lao động. Vì hiện nay trình độ dân trí của người dân tại địa

phương còn thấp. Do vậy, khi tuyển dụng thì các DN đều phải đào tạo lực lượng lao

động này, làm tốn nhiều thời gian và chi phí của doanh nghiệp.

Chính sách đào tạo lao động của tỉnh vẫn còn nhiều bất cập, thiếu tính thực

tiễn. Quá trình CNH ở các địa phương khác cũng đang diễn ra nhanh chóng, cơ hội

59

tìm kiếm việc làm ở tại các địa phương khác tăng lên. Do vậy, ngày càng khó thu

hút lực lượng lao động ngoài tỉnh đến làm việc, thậm chí nguồn lao động tỉnh Bình

Dương lại chuyển qua các địa phương khác như TP. HCM. Long An và Đồng

Nai...

Mặc dù những năm gần đây công tác dạy nghề đã được lãnh đạo các cấp, các

ngành quan tâm chỉ đạo, đầu tư và nỗ lực đưa ra nhiều chính sách, nhiều cách thực

hiện, song sự chuyển biến vẫn chậm, chưa đáp ứng so với nhu cầu của các KCN,

Bình Dương vẫn đang trong tình trạng thiếu hụt trầm trọng nguồn lao động qua đào

tạo. Sự chuyển dịch cơ cấu lao động không theo kịp tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh

tế đang diễn ra trong tỉnh. Lao động nông thôn giảm nhưng không đáng kể, vẫn

chiếm 35% tổng số lao động toàn tỉnh, hầu hết trình độ văn hoá thấp, không qua đào

tạo nghề. Hàng năm, có hơn 15 ngàn người bước vào tuổi lao động, khoảng 4 nghìn

thanh niên hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về. Trong khi đó, từ năm 2010 trở lại

đây, trung bình mỗi năm tỉnh thu hút khoảng 150 dự án và do sự phát triển của các

doanh nghiệp kéo dài theo nhu cầu của thị trường lao động cần tới khoảng 40.000

lao động mỗi năm.

Thực trạng này đã buộc Bình Dương phải liên kết với một số tỉnh để giải

quyết mâu thuẫn giữa cung và cầu lao động. Tính đến nay, ngoài lượng dân số là

1.000.000 dân, Bình Dương còn có thêm 800.000 dân nhập cư, và số lao động ngoại

tỉnh chiếm khoảng gần 70% trong tất cả các loại hình doanh nghiệp, riêng KCN lao

động ngoại tỉnh chiếm 90%. Bên cạnh nguyên nhân chính nói trên, còn một số

nguyên nhân khác khiến Bình Dương cung cấp quá ít lao động vào làm việc tại các

KCN, đó là do một số doanh nghiệp không tuyển lao động từ 35 tuổi trở lên, do bản

thân lao động Bình Dương không muốn vào làm việc tại các doanh nghiệp, đặc biệt

là các doanh nghiệp dệt may da giầy bởi lương thấp, thời gian làm việc luôn kéo

dài, tác phong công nghiệp gò bó v.v.. hoặc do họ không muốn phải xa nhà.

Mặt khác, kinh tế Bình Dương phát triển nhanh, người dân giàu lên nhờ tiền

đền bù đất và kiếm tiền khá dễ nhờ kinh doanh dịch vụ cho thuê nhà trọ, buôn bán

v.v.. nên không có nhu cầu vào làm việc tại các KCN. Đây cũng là một trong những

60

yếu tốt gây khó khăn trong việc tuyên truyền, vận động người dân tham gia học

nghề. Bên cạnh đó đời sống vật chất, trình độ văn hoá, chuyên môn kỹ thuật của

người lao động thấp kết cấu cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội phát triển chậm, các lĩnh

vực văn hoá, y tế, giáo dục và các lĩnh vực phúc lợi khác không theo kịp với sự phát

triển của công nhân và dân cư, điều đó dẫn đến cuộc sống người lao động càng gặp

thêm khó khăn, nhất là nhà ở.

Do công nhân lao động chủ yếu là ngoài tỉnh xuất thân từ vùng nông thôn,

chỉ quen với làm nông nghiệp, nên trình độ mọi mặt còn hạn chế, nhận thức về

các vấn đề xã hội, chính trị, pháp luật thấp, số lao động chủ yếu được thu nạp

từ lao động giản đơn chưa qua đào tạo nghề, khi được tuyển dụng vào doanh

nghiệp được một số doanh nghiệp đào tạo cấp tốc ngắn hạn còn lại quan sát,

làm theo là chủ yếu, chỉ cần đáp ứng yêu cầu công việc của công nghệ sản xuất

ở doanh nghiệp, nên trình độ tay nghề, kỹ thuật của người lao động rất thấp.

Công tác đào tạo nguồn nhân lực của Tỉnh vẫn còn những bất cập, chưa đáp

ứng yêu cầu phát triển. Rất nhiều lao động chưa qua đào tạo nên năng suất,

chất lượng lao động thấp, dẫn đến thu nhập thấp. (Xem phụ lục 2.8)

61

TÓM TẮT CHƯƠNG 2

Trong chương 2, luận văn tập trung đi sâu nghiên cứu về điều kiện tự nhiên-

kinh tế -xã hội, những tiềm năng và lợi thế của tỉnh Bình Dương trong thu hút đầu

tư trực tiếp nước ngoài, từ đó khẳng định Bình Dương là một trong những địa

phương nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có nhiều lợi thế trong thu

hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Luận văn đã khảo sát, làm rõ tình hình phát triển kinh tế xã hội của tỉnh giai

đoạn 2010- 2015; phân tích, nhận định, đánh giá về những tác động tích cực đối với

sự phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn Tỉnh.

Luận văn cũng chỉ ra một số mặt hạn chế và tác động tiêu cực của FDI, tìm

hiểu nguyên nhân chủ yếu đưa tới những hạn chế và tác động tiêu cực này, làm cơ

sở cho việc đề xuất phương hướng và giải pháp đẩy mạnh việc thu hút và sử dụng

hiệu quả nguồn vốn FDI trên địa bàn tỉnh Bình Dương trong thời gian tới.

62

CHƯƠNG 3

QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY

TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC

CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TỚI SỰ PHÁT TRIỂN

KINH TẾ -XÃ HỘI CỦA TỈNH BÌNH DƯƠNG

----------

3.1. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN

3.1.1.Quan điểm về phát triển kinh tế

Quán triệt các chủ trương, nghị quyết của Đảng, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân

Tỉnh đã chỉ đạo các các ngành, các cấp trong tỉnh phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng

kinh tế cao và phát triển bền vững trên cơ sở chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng

tăng nhanh khu vực dịch vụ, phát triển đô thị hóa, phát triển công nghệ cao; gắn kết

nhanh với hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội vùng Đông Nam Bộ và vùng

Kinh tế trọng điểm phía Nam; giữ vững an ninh chính trị trật tự xã hội, quốc phòng

và bảo vệ môi trường sinh thái có hiệu quả.

Thực hiện chủ trương đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây

dựng Bình Dương cơ bản trở thành một tỉnh công nghiệp vào năm 2020, cần quán

triệt tốt một số quan điểm chủ yếu sau:

- Khai thác tốt tiềm năng, lợi thế của tỉnh; huy động mọi nguồn lực thúc đẩy

kinh tế-xã hội phát triển nhanh, ổn định và bền vững.

- Duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao (10% trở lên); tạo sự chuyển biến

nhanh về chuyển dịch cơ cấu kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đầu

tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội và quá trình đô thị hóa.

- Tập trung phát triển công nghiệp gắn với việc ổn định và nâng cao chất

lượng sản xuất công nghiệp, dịch vụ; gắn kết chặt chẽ và nâng cao chất lượng, hiệu

quả hợp tác phát triển trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam;

- Đẩy mạnh phát triển hạ tầng-kinh tế xã hội, nhất là hạ tầng giao thông, hạ

tầng đô thị, hạ tầng khu, cụm công nghiệp, khu kinh tế cửa khẩu; đẩy mạnh cải cách

63

hành chính và phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại

hóa, xem đây là các khâu đột phá quan trọng;

- Gắn phát triển kinh tế với đảm bảo an sinh xã hội và bảo vệ môi trường; sử

dụng hợp lý có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên.

Trong giai đoạn 2015 -2025, tiếp tục phát triển các ngành có ưu thế, có giá trị

gia tăng cao để phục vụ nhu cầu trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu; đồng thời nâng

cao năng lực và sức cạnh tranh của doanh nghiệp chủ lực theo hướng đầu tư ra

ngoài tỉnh và ra nước ngoài.

Tiếp tục chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp, dịch vụ và

nông nghiệp. Tập trung nguồn lực phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với

hiện đại hóa và công nghiệp hóa tạo đột phá cho phát triển.

Ưu tiên phát triển một số công trình quan trọng phục vụ con người về giáo

dục, đào tạo, chăm sóc sức khỏe tạo ra sự chuyển biến lớn về an sinh xã hội trên địa

bàn.

Phát triển kinh tế đồng bộ với phát triển xã hội; gắn với quốc phòng - an ninh

để đảm bảo quá trình phát triển được ổn định và bền vững.

3.1.2. Quan điểm về thu hút và nâng cao hiệu quả của FDI

Trong tổng thể chiến lược phát triển kinh tế-xã hội chung của tỉnh, nguồn vốn

FDI có một vị thế, vai trò hết sức quan trọng trong cơ cấu kinh tế của địa phương.

Nhiệm vụ đặt ra là tỉnh Bình Dương cần tiếp tục cải thiện môi trường thu hút đầu tư

trực tiếp nước ngoài, tạo sự bình đẳng, minh bạch, ổn định và thông thoáng trong

đầu tư, tạo mọi điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp FDI phát triển sản xuất kinh

doanh có hiệu quả, tạo điều kiện giải quyết việc làm cho lao động nhàn rỗi tại địa

phương, tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước.

Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn FDI, tỉnh cần phải nâng cao chất lượng

nguồn nhân lực, hoàn thành cơ bản việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao

trong các lĩnh vực sản xuất trọng yếu của tỉnh, tăng tỷ lệ lao động đã qua đào tạo có

tay nghề; đồng thời đẩy mạnh phát triển và chuyển giao công nghệ, đặc biệt là việc

hợp tác và chuyển giao công nghệ tiên tiến từ các dự án FDI; khuyến khích phát

64

triển công nghệ cao, chú trọng việc chuyển giao công nghệ, áp dụng công nghệ mới

thông qua các hoạt động hợp tác kinh tế, các hoạt động FDI và các hoạt động

thuơng mại quốc tế

Bình Dương hiện có quỹ đất sạch lớn, hạ tầng đồng bộ hiện đại là những tiền

đề thuận lợi để tiếp tục thu hút mạnh đầu tư, nhất là thu hút đầu tư nước ngoài trong

thời kỳ hậu suy thoái, khủng hoảng. Bình Dương cần xác định mô hình phát triển

theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp; tiếp

tục phát triển mạnh công nghiệp - dịch vụ - đô thị; tạo điều kiện cho các doanh

nghiệp chủ lực của tỉnh tiếp tục đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng theo hướng đồng bộ,

văn minh và hiện đại.

Tập trung làm tốt công tác quy hoạch phát triển các khu, cụm công nghiệp gắn

với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và nhất là đảm bảo tính phù hợp

với quy hoạch phát triển vùng, nối kết thuận lợi với hạ tầng kỹ thuật của Vùng kinh

tế trọng điểm phía Nam nhằm tạo cơ sở vật chất đồng bộ để thu hút đầu tư của các

doanh nghiệp nước ngoài .

Thực hiện đúng các quy định của Trung ương về quản lý đầu tư nước ngoài

một các linh hoạt; thực hiện tốt các chương trình, đề án cải cách thủ tục nhằm rút

ngắn thời gian thực hiện các thủ tục hành chính, giảm chi phí gia nhập thị trường

của doanh nghiệp. Đảm bảo tính minh bạch, công khai và khả năng tiếp cận thông

tin cho doanh nghiệp như: về quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phát

triển ngành và thông tin về các chủ trương, mục tiêu định hướng mời gọi đầu tư của

tỉnh.

Trong vận động thu hút đầu tư, ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp sạch,

công nghiệp điện tử; máy nông nghiệp; chế biến nông sản; xử lý môi trường và tiết

kiệm năng lượng; sản xuất ô tô và phụ tùng ô tô thành những ngành công nghiệp

chủ lực của nền kinh tế, có giá trị gia tăng cao và năng lực cạnh tranh quốc tế. Hạn

chế thu hút mới các dự án công nghiệp gia công sử dụng nhiều nguyên liệu nhập

khẩu, tiêu hao nhiều năng lượng, tài nguyên và gây ô nhiễm môi trường.

65

3.1.3. Quan điểm về giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội do tác động của

FDI.

Từ quan điểm chỉ tập trung phát triển kinh tế trong giai đoạn đầu, tỉnh cần

chuyển sang tư duy chú trọng phát triển kinh tế gắn liền với thực hiện tiến bộ và

công bằng xã hội, giải quyết tốt các vấn đề xã hội là động lực thúc đẩy phát triển

kinh tế; kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội, bảo đảm vừa đạt được

tăng trưởng kinh tế, vừa giữ được ổn định xã hội. Chú trọng thực hiện tốt các chính

sách xã hội, đồng thời, vận dụng phù hợp với thực tiễn của địa phương, khắc phục

thái độ xem nhẹ các vấn đề xã hội, chú trọng yếu tố con người trong quá trình phát

triển.

Để giải quyết các tác động tiêu cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài Đảng bộ,

chính quyền Tỉnh cần nỗ lực tìm tòi, thử nghiệm nhiều cơ chế, giải pháp giải quyết

những vấn đề bức xúc trong cuộc sống trên cơ sở vừa mang tính nghiêm minh của

luật pháp nhưng cũng không làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các nhà đầu tư nước

ngoài.

- Về vấn đề đình công tại các doanh nghiệp, lãnh đạo Tỉnh cần chỉ đạo tổ chức

công đoàn phát huy vai trò bảo vệ quyền lợi cho người lao động tại các doanh

nghiệp có vấn đầu tư nước ngoài. Hạn chế đến mức thấp nhất khả năng công nhân

bị các thành phần phản động kích động để tổ chức đình công gây ảnh hưởng đến

quá trình sản xuất và kinh doanh của các doanh nghiệp.

- Về vấn đề đào tạo nghề cho công nhân, một mặt Tỉnh cần đẩy mạnh công tác

đào tạo nghề mặt khác chủ động liên hệ với các tỉnh, thành khác trong cả nước để

cung ứng lao động cho tỉnh, đồng thời giải quyết các chế độ phúc lợi xã hội, giáo

dục, y tế cho người lao động để giúp họ an tâm làm việc.

- Về vấn đề nhà ở xã hội cho công nhân có thu nhập thấp. Ủy ban nhân dân

Tỉnh cần ban hành các quy định trình tự, thủ tục, điều kiện và thứ tự ưu tiên trong

việc xét duyệt đối tượng thuê, thuê mua nhà ở xã hội trên địa bàn tỉnh Bình Dương

để công nhân, người lao động có thu nhập thấp và trung bình có cơ hội được sở hữu

căn hộ cho riêng mình.

66

- Các vấn đề phát sinh khác do đầu tư trực tiếp nước ngoài gây ra cần được

lãnh đạo Tỉnh chỉ đạo giải quyết đúng quy định của pháp luật trên tinh thần công

khai, minh bạch và có sức thuyết phục đối với công nhân, người lao động và doanh

nghiệp.

Rút kinh nghiệm từ sự kiện ngày 13/5/2014 lãnh đạo tỉnh Bình Dương cần chủ

động lên kế hoạch, chuẩn bị phương án đối phó kịp thời nếu tình trạng trên nếu có

xảy ra nhằm tạo tâm lý ổn định cho các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các nhà

đầu tư đến tư Trung Quốc và Đài Loan.

3.2. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỤC TIÊU

3.2.1. Những phương hướng cơ bản

Việc xác định phương hướng để nâng cao hiệu quả và hạn chế tác động tiêu

cực của FDI trên địa bàn tỉnh Bình Dương là rất quan trọng và cấp thiết. Cụ thể như

sau:

- Tập trung kêu gọi các dự án FDI có quy mô vốn đầu tư lớn, công nghệ tiến

tiến, các dự án thân thiện với môi trường để đảm bảo cho việc phát triển kinh tế-xã

hội mang tính bền vững.

- Chú trọng phát triển và kêu gọi các dự án FDI đầu tư vào các ngành, lĩnh vực

mũi nhọn cần ưu tiên, phù hợp với điều kiện đặc thù của Tỉnh như công nghệ thông

tin, điện tử, vi điện tử, công nghệ sinh học, cao su, chế biến nông-lâm-thủy sản …

- Khuyến khích thu hút FDI vào ngành công nghiệp phụ trợ nhằm giảm chi phí

đầu vào về nguyên-phụ liệu của các ngành công nghiệp, góp phần nâng cao năng

lực cạnh tranh của sản phẩm sản xuất trong nước.

- Chú trọng thu hút các dự án FDI trong các khu, cụm công nghiệp đã được

thành lập (như Cây Trường (Dầu Tiếng), An Lập (Dầu Tiếng), Lai Hưng (Bàu

Bàng), Vĩnh Hiệp (Phú Giáo), Tân Lập (Bắc Tân Uyên), Bình Mỹ (Bắc Tân Uyên),

Thường Tân (Bắc Tân Uyên).

- Hết sức coi trọng thu hút FDI gắn với nghiên cứu phát triển và chuyển giao

công nghệ, chú trọng công nghệ nguồn từ các nước công nghiệp phát triển như Hoa

Kỳ, EU, Nhật Bản …

67

- Hạn chế hoặc không tiếp nhận các dự án đầu tư hoạt động kém hiệu quả, gây

lãng phí lớn trong việc quản lý và sử dụng đất đai, gây dư luận, bức xúc nhân dân ...

- Thường xuyên kiểm tra những doanh nghiệp nước ngoài có dấu hiệu trốn

thuế, gây ô nhiễm môi trường, không đảm bảo về vệ sinh an toàn lao động…Kịp

thời khen thưởng và tuyên dương các doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh doanh

có hiệu quả, đóng góp vào ngân sách nhà nước cáo và thực hiện tốt các hoạt động vì

cộng đồng xã hội.

3.2.2. Những mục tiêu chủ yếu

Mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của Tỉnh đã được cụ thể hoá thành chỉ tiêu

tăng trưởng kinh tế (GDP) giai đoạn 2016-2020 tăng bình quân hàng năm là 13%

trở lên, trong đó vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thu hút hàng năm khoảng 1- 1,2 tỷ

USD. Phấn đầu đến năm 2025 lắp đầy trên 80% đất các khu công nghiệp trên địa

bàn tỉnh.

Để nâng cao hiệu quả của đầu tư trực tiếp nước ngoài, lãnh đạo tỉnh cũng đưa

ra các mục tiêu cần đạt được trong thời gian tới.

Đến năm 2025, dự kiến toàn tỉnh sẽ có tổng cộng 35 KCN với tổng diện tích

gần 13.764,8 ha tăng thêm 07 khu, gồm: Cây Trường 500 ha (Dầu Tiếng), An Lập

500 ha (Dầu Tiếng), Lai Hưng 1.000 ha (Bàu Bàng), Vĩnh Hiệp 1000 ha (Phú

Giáo), Tân Lập 800 ha (Bắc Tân Uyên), Bình Mỹ 500 ha (Bắc Tân Uyên), Thường

Tân 1.300 ha (Bắc Tân Uyên).

68

Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh Bình Dương tới năm 2020 và

2025

TT Tiêu chí ĐVT 2020 2025

13,6%/ năm

14,2%/ năm

phẩm trong tỉnh 1 % Tổng sản tăng bình quân hàng năm

11.000/ người/ năm

12.000/ người/ năm

2.1%

2,5%

2 GDP bình quân đầu người/năm cuối giai đoạn USD

10.21%

10,81%

% 3

15.15%

15,61%

% 4

% 5

3.15%

1,97%

6 Giá trị sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp tăng bình quân hàng năm Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân hàng năm Giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng bình quân hàng năm Cơ cấu ngành kinh tế trong GDP năm cuối giai đoạn

48.02%

49,03%

- Nông - lâm - thủy sản %

48.83%

49%

- Công nghiệp - Xây dựng %

8.7%

8.9%

- Dịch vụ %

8.9%

9.2%

% 7 Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân hàng năm

% 8 Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tăng bình quân hàng năm

7 Tỷ USD

7.5 Tỷ USD Nguồn: Tỉnh ủy Bình Dương, Chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm

10 Tổng vốn thu hút đầu tư FDI Triệu USD

2025. Bình Dương tháng 12 năm 2014

69

Theo báo cáo của Ủy ban nhân dân tỉnh, trong những năm gần đây, tỷ lệ lao

động qua đào tạo nghề tăng nhanh, năm 2010 là 51%, năm 2014 là 60% và dự kiến

đến năm 2025 là 75%. Đến năm 2025, Bình Dương đã có 12 cơ sở đào tạo đại học,

10 trường cao đẳng, 13 trường trung cấp, 30 cơ sở đào tạo nghề. Sự phát triển giáo

dục tạo điều kiện cho Bình Dương không ngừng nâng cao chất lượng lao động trong

các thành phần kinh tế.

3.3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY TÁC ĐỘNG

TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA ĐẦU TƯ TRỰC

TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI) TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN

NĂM 2025.

3.3.1. Hoàn thiện cơ chế, chính sách, quy hoạch, kế hoạch thu hút nguồn

vốn FDI

Thời gian qua, việc ra đời của Luật Đầu tư chung và các nghị định hướng dẫn

thi hành đã góp phần tạo ra môi trường đầu tư thông thoáng hơn trước, thủ tục hành

chính được công khai, minh bạch. Theo đó, việc phân cấp thẩm quyền cấp Giấy

chứng nhận FDI cho các tỉnh, thành phố, giúp cho các nhà đầu tư nước ngoài

không phải mất nhiều thời gian trong việc hoàn chỉnh hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng

nhận đầu tư cho dự án. Đây là một trong những nỗ lực lớn của các Bộ, ngành Trung

ương trong việc thực hiện chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà

nước trong việc thu hút và kêu gọi FDI.

Tuy nhiên, thời gian qua hầu như ở mỗi địa phương đều có cách làm riêng,

điều này làm cho công tác quản lý Nhà nước về FDI thêm nhiều khó khăn. Thậm

chí, có trường hợp một số địa phương muốn thu hút mạnh các dự án FDI vào địa

phương mình nên đã tự ý “xé rào” bằng cách đưa ra nhiều ưu đãi cho dự án. Nghĩa

là ngoài những ưu đãi chung do Trung ương quy định thì nhà FDI khi đầu tư vào

địa phương đó còn được hưởng thêm những ưu đãi khác về miễn giảm tiền thuê đất,

tiền thuế…vv. Điều này tạo ra một tiền lệ rất nguy hiểm trong việc không tuân thủ

các quy định chung của Nhà nước, dẫn đến tình trạng chạy đua giữa các địa phương

trong cả nước về thu hút FDI. Do đó, Trung ương cần sớm ban hành thông tư hướng

70

dẫn nhằm giúp cho các địa phương hiểu, vận dụng và thực thi văn bản một cách rõ

ràng, chính xác, tránh tình trạng mỗi địa phương hiểu và thực hiện theo cách riêng

của mình.

Cần sớm sửa đổi bổ sung về chế độ tiền lương, thưởng, các khoản phụ cấp.v.v

mà lực lượng lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp FDI được hưởng,

nhằm ngày càng hoàn thiện khung pháp lý về sử dụng lao động, không để cho các

doanh nghiệp FDI lợi dụng sức lao động của công nhân như tình trạng đã và đang

diễn ra trên cả nước nói chung và tỉnh Bình Dương nói riêng. Cụ thể là các Bộ,

ngành Trung ương sớm tham mưu trình Chính phủ sửa đổi, bổ sung các mức xử

phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo vệ môi trường, pháp luật đất

đai theo hướng tăng các mức phạt nặng đối với các hành vi vi phạm này, trong một

số trường hợp cố tình vi phạm hoặc vi phạm mang tính chất tinh vi thì có thể truy

cứu trách nhiệm hình sự. Có như vậy, công tác quản lý Nhà nước về FDI mới có thể

đi vào nề nếp, đảm bảo được tính răn đe và tính thống nhất cao trong công tác quản

lý Nhà nước, nhằm nâng cao hơn nữa ý thức trách nhiệm của các doanh nghiệp FDI

trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, cũng như góp phần nâng cao đạo

đức kinh doanh của chủ doanh nghiệp.

Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cần phối hợp chặt chẽ với Công đoàn các

Khu công nghiệp, khu chế xuất, Khu công nghệ cao trên cả nước để kịp thời hướng

dẫn, tháo gỡ những khó khăn trong vấn đề đình công, lãn công của công nhân một

cách tự phát, trực tiếp hoặc gián tiếp đối thoại với chủ doanh nghiệp FDI để tìm ra

những giải pháp thích hợp, hài hòa lợi ích giữa chủ doanh nghiệp và công nhân,

nhằm bảo vệ quyền lợi và lợi ích chính đáng của người lao động, có như vậy mới có

thể kéo giảm tình trạng đình công, lãn công tự phát.

Tóm lại, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến FDI cần phải

sớm được xây dựng và ban hành đồng bộ, thống nhất và kịp thời. Trên cơ sở đó, các

địa phương trong cả nước sẽ hiểu và vận dụng một cách thống nhất và đồng bộ hơn,

làm cho công tác quản lý Nhà nước về FDI ngày càng đi vào nề nếp và ổn định hơn.

71

Đối với tỉnh Bình Dương, cần chú trọng hoàn thiện một số cơ chế, chính

sách sau:

- Kiến nghị Chính phủ rà soát pháp luật, chính sách về đầu tư, kinh doanh để

sửa đổi các nội dung không đồng bộ, thiếu nhất quán, bổ sung các nội dung còn

thiếu; sửa đổi các quy định còn bất cập, chưa rõ ràng liên quan đến thủ tục đầu tư và

kinh doanh.

- Kiến nghị ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực: đầu tư

sản xuất trong khu công nghiệp, công nghệ cao, phát triển nhà ở xã hội và nhà ở cho

người có thu nhập thấp; xây dựng công trình phúc lợi (nhà ở, bệnh viện, trường học,

văn hoá, thể thao) cho người lao động làm việc trong các doanh nghiệp..

- Thực hiện các biện pháp thúc đẩy triển khai sớm các dự án đầu tư giải ngân

vốn đầu tư theo đúng tiến độ đã cam kết; không cấp phép cho các dự án công nghệ

lạc hậu, dự án tác động xấu đến môi trường;

- Thẩm tra kỹ các dự án sử dụng nhiều đất, giao đất có điều kiện theo tiến độ

dự án; cân nhắc về tỷ suất đầu tư/diện tích đất. Tiến hành rà soát các dự án đã cấp

giấy chứng nhận đầu tư trên địa bàn để có hướng xử lý đối với từng loại dự án. Cá

biệt có thể tiến hành thu hồi các dự án không có khả năng triển khai, các dự án ô

nhiễm hoặc có nguy cơ ô nhiễm;

- Phối hợp với các Sở ngành chuyên môn tăng cường công tác kiểm tra, thanh

tra, điều tra để kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật về

bảo vệ môi trường, an toàn vệ sinh thực phẩm và chất thải tại các doanh nghiệp, bảo

đảm sức khỏe cộng đồng.

- Cần thống nhất luật đầu tư nước ngoài và luật đầu tư trong nước, áp dụng

thống nhất chính sách thuế, các loại giá cả dịch vụ (tiền đất, điện, nước, bưu chính

viễn thông, hàng không...) đối với các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Phải

luật hoá quy trình thành lập và hoạt động của các khu công nghiệp. Trong Luật đầu

tư cần quy định cụ thể hơn mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung sinh hoạt của tổ chức

Công đoàn, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và chi bộ Đảng tại các doanh

72

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và quan hệ giữa các tổ chức đó với những người

quản lý doanh nghiệp.

- Triển khai chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhập khẩu công nghệ nguồn, công

nghệ cao, mua thiết kế, thuê chuyên gia trong và ngoài nước thuộc các lĩnh vực ưu

tiên phát triển của tỉnh.

- Cần có chính sách thu hút đầu tư đối với ngành công nghiệp phụ trợ và bổ

sung chế độ ưu đãi đối với các ngành công nghiệp phụ trợ mà trong nước chưa đáp

ứng được, nhằm hạn chế sự lệ thuộc quá nhiều vào các nước khác. Đồng thời cần có

chính sách khuyến khích ưu đãi những dự án đầu tư đồng bộ từ sản xuất nguyên

liệu, linh kiện- sản xuất, lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh. Có những ưu đãi hấp dẫn hơn

đối với những vùng và ngành cần ưu tiên, nhất là vùng sâu, vùng xa, những ngành

công nghiệp chế biến xuất khẩu sử dụng nguyên liệu trong nước và công nghệ cao.

- Kiểm soát các hoạt động chuyển giá và trốn thuế của các nhà đầu tư: Hiện

tượng các nhà đầu tư nước ngoài định giá cao hơn so với giá thị trường quốc tế và

trong nước các thiết bị máy móc, công nghệ và nguyên vật liệu nhập khẩu; đồng

thời định giá thấp hơn giá thị trường đối với các sản phẩm và dịch vụ xuất khẩu

trong nội bộ các Công ty của các tập đoàn xuyên quốc gia là một hiện tượng có thật

và tương đối phổ biến hiện nay. Để góp phần ngăn chặn các hiện tượng trên Bình

Dương cần thường xuyên phối hợp với các tổ chức thuế quan và hải quan để kiểm

tra vấn đề chuyển giao giá cả của các công ty có vốn đầu tư nước ngoài. Đặc biệt là

nâng cao vai trò và năng lực giám sát của lực lượng này tại địa phương. Có biện

pháp khuyến khích khen thưởng những đơn vị làm tốt, kiên quyết xử lý và ngăn

chặn các đơn vị vi phạm theo pháp luật của Việt Nam và các quy định của thông lệ

quốc tế. Kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền mời các công ty giám định quốc tế

tham gia giám định quá trình chuyển gía nếu phát hiện thấy có dấu hiệu vi phạm.

- Cần xây dựng luật khu công nghiệp: KCN ngày càng thể hiện tốt vai trò

trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nhiều địa phương và của cả nước, tuy

nhiên đến nay các văn bản pháp lý liên quan đến KCN chưa được hoàn chỉnh. Luật

Đầu tư là luật cơ bản để thu hút đầu tư và phát triển các KCN, tuy nhiên khi có sự

73

mâu thuẫn giữa Luật Đầu tư và các Luật chuyên ngành, thì phải tuân thủ luật

- Phát huy vai trò của tổ chức Công đoàn tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư

chuyên ngành làm cho hoạt động của KCN ngày càng khó khăn hơn.

nước ngoài. Trên cơ sở phối hợp với chủ doanh nghiệp tổ chức Công đoàn phải thể

hiện trách nhiệm của mình đối với quyền và lợi ích của người lao động trong các

doanh nghiệp. Hạn chế tối đa các trường hợp đình công tập thể gây ảnh hưởng đến

hoạt động sản xuất kinh doanh.

- Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới và cải cách thủ tục hành chính gắn với quá trình

phân cấp quản lý Nhà nước nói chung và quản lý đầu tư nói riêng. Thành lập đường

dây nóng tại các cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư nhằm nắm bắt kịp thời, xử lý

những vướng mắc của các nhà đầu tư và khắc phục được tình trạng nhũng nhiễu,

gây phiền hà đối với các nhà đầu tư của một bộ phận cán bộ công chức làm công

việc có liên quan đến đầu tư trực tiếp nuớc ngoài.

Về công tác quy hoạch, kế hoạch trên địa bàn tỉnh Bình Dương, cần:

- Làm tốt công tác xây dựng quy hoạch và quản lý quy hoạch các khu công

nghiệp, cụm công nghiệp, quy hoạch sử dụng đất chi tiết; rà soát điều chỉnh cho phù

hợp và kịp thời đối với các khu công nghiệp đã triển khai; có kế hoạch cụ thể để

thực hiện các quy hoạch đã được duyệt.

- Sớm ban hành một quy hoạch tổng thể của từng vùng tránh việc các địa

phương tự thực hiện quy hoạch cho địa phương mình và chưa gắn kết với vùng gây

lãng phí nguồn lực và không tận dụng hết ưu thế của từng địa phương. Hiện tại các

địa phương ở phía Nam của Tỉnh như Thị xã Dĩ An, Thị xã Thuận An, TP. Thủ Dầu

Một, tỷ lệ lắp kín các khu công nghiệp gần 65%, trong khi các địa phương ở phía

Bắc như Bàu Bàng, Bắc Tân Uyên, Phú Giáo, Dầu Tiếng quỹ đất sạch còn nhiều, cơ

sở hạ tầng từng bước được nâng cao thì việc phát triển các khu, cụm các địa phương

này là cần thiết nhằm phát triển kinh tế của các huyện phía Bắc.

- Lập kế hoạch và tiến hành rà soát các dự án nhà ở xã hội, khu dân cư, tạo

điều kiện thuận lợi cho các chủ đầu tư triển khai dự án theo quy hoạch đảm bảo

thực hiện đúng thiết kế và các điều kiện về mội trường, an toàn lao động. Đồng thời

74

tăng cường thực hiện công tác hậu kiểm theo chức năng thông qua phối hợp thanh

tra, kiểm tra tình hình hoạt động của các dự án có vốn đầu tư nước ngoài trên địa

bàn tỉnh nhằm nắm bắt kịp thời tình hình hoạt động của doanh nghiệp. Vận động

các doanh nghiệp và các chủ đầu tư khu công nghiệp triển khai có hiệu quả chương

trình phát triển nhà ở xã hội cho công nhân trên địa bàn tỉnh.

- Lập kế hoạch và tiến hành di dời các cơ sở ô nhiễm trong khu đô thị, dân cư

vào các khu, cụm công nghiệp. Nhà nước và chủ đầu tư các khu công nghiệp tập

trung phải đầu tư thiết bị hiện đại quản lý chất thải công nghiệp và dân sinh đô thị,

bảo vệ hiệu quả môi trường của tỉnh; Có kế hoạch và biện pháp kiểm soát chặt chẽ

các nguồn ô nhiễm, hạn chế phát sinh các điểm nóng về môi trường; Tăng cường

công tác thanh tra, kiểm tra của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong các

doanh nghiệp FDI đối với quy trình xử lý chất thải; yêu cầu doanh nghiệp FDI trước

khi thành lập phải nêu các phương án biện pháp khắc phục chất thải ra môi trường

bên ngoài và phải được cơ quan thẩm quyền phê duyệt. Tăng cường công tác kiểm

tra của các cơ quan nhà nước đối với việc nhập khẩu các thiết bị dây chuyền công

nghệ, nhằm tránh phải nhập khẩu những máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ

lạc hậu gây ảnh hưởng đến môi trường. Trong thời gian tới cần nghiên cứu để đưa

ra những chế tài xử phạt nghiêm khắc đối với nhà đầu tư nước ngoài vi phạm pháp

luật về bảo vệ môi trường; tăng cường và khuyến khích sử dụng các dự án FDI đối

với hoạt động bảo vệ môi trường như: trồng rừng, đầu tư vào xử lý rác thải và chất

thải công nghệ.

- Thường xuyên giám sát tình hình chấp hành luật lao động của các chủ doanh

nghiệp nhất là các chế độ về lao động, tiền lương, ký kết thoả ước lao động tập

thể… nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động và chủ doanh nghiệp.

Theo sát diễn biến và giải quyết kịp thời các tranh chấp lao động, các vụ việc vi

phạm luật lao động gây ảnh hưởng đến dư luận xã hội và môi trường đầu tư. Việc

giải quyết mối quan hệ chủ thợ ở khu vực hợp tác đầu tư nước ngoài dưới nhiều

hình thức khác nhau là yếu tố quan trọng đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển sản

xuất.

75

3.2.2. Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về thu hút và sử dụng

nguồn vốn FDI.

Để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ mà Đại hội tỉnh Đảng bộ đã đề ra, lãnh đạo

địa phương cần khẩn trương rà soát lại các điều kiện đầu tư, kinh doanh nhằm kiến

nghị cơ quan có thẩm quyền bãi bỏ, sửa đổi bổ sung các điều kiện không còn phù

hợp với điều kiện cụ thể và tình hình thực hiện của tỉnh.

Theo dõi, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư để kịp thời phát hiện và

xử lý những vướng mắc phát sinh; nghiêm túc thực hiện đầy đủ chức năng quản lý

Nhà nuớc về FDI theo quy định của pháp luật về đầu tư và pháp luật chuyên ngành

khác. Đồng thời tuỳ vào điều kiện và tình hình thực tế của địa phương, tỉnh cần chủ

động vận dụng, tổ chức triển khai và giám sát việc thực hiện các chủ trương của

Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước về các vấn đề có liên quan đến FDI sao

cho đạt hiệu quả cao, đảm bảo hài hoà mối quan hệ giữa nhà FDI với lợi ích của địa

phương trong khuôn khổ cho phép của pháp luật trong quá trình phát triển kinh tế-

xã hội bền vững của địa phương, nhằm mục tiêu đưa tỉnh Bình Dương cơ bản trở

thành tỉnh công nhiệp vào năm 2020.

Khẩn trương công bố Danh mục các dự án kêu gọi đầu tư của tỉnh Bình

Dương giai đoạn 2016-2020 và định hướng đến năm 2025 để đăng báo công khai

kêu gọi đầu tư; xây dựng chương trình vận động và xúc tiến FDI, cần chú trọng vào

các ngành công nghiệp phụ trợ của một số ngành chế tạo, lắp ráp xe máy, ôtô, điện,

điện tử, kết cấu hạ tầng xã hội; đồng thời cần chú trọng công tác cập nhật, rà soát và

bổ sung vào Danh mục các dự án kêu gọi đầu tư của tỉnh trong từng giai đoạn, phù

hợp với nhu cầu, quy hoạch phát triển ngành và địa phương.

- Quan tâm hơn nữa hoạt động xúc tiến đầu tư, bởi vì đây là công đoạn đầu

tiên và quan trọng nhất để các nhà đầu tư nước ngoài xem xét, lựa chọn và quyết

định đầu tư hay không. Mặc dù Bình Dương đã chủ động thành lập Trung tâm xúc

tiến đầu tư-thương mại và du lịch, tuy nhiên, nhìn chung các hoạt động xúc tiến đầu

tư hiện nay còn hạn chế nhiều mặt, chất lượng của công tác xúc tiến và kêu gọi FDI

vào địa phương chưa đạt yêu cầu, kinh nghiệm xúc tiến đầu tư còn hạn chế, kinh

76

phí xúc tiến đầu tư hàng năm còn hạn hẹp, đặc biệt là cán bộ làm công tác xúc tiến

và kêu gọi đầu tư trực tiếp nước ngòai còn hạn chế về trình độ nghiệp vụ, ngoại

ngữ, chưa am hiểu về văn hoá của các nước đầu tư.

- Tiếp tục đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành chính theo mô hình một

cửa, công khai các loại hồ sơ, giấy tờ, thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp, đăng

ký cấp giấy chứng nhận đầu tư, nhằm đảm bảo sự thống nhất các quy trình, thủ tục

tại các cơ quan cấp phép đầu tư.

- Thực hiện tốt hơn nữa việc phân cấp quản lý FDI, đặc biệt trong việc cấp

Giấy chứng nhận đầu tư, nhưng phải chú ý tăng cường phối hợp thực hiện kiểm tra,

giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư.

- Tập trung chuẩn bị sẵn sàng mặt bằng cho dự án đầu tư, nghĩa là phải tạo

được quỹ đất đã được đền bù, giải toả; tăng khả năng cung ứng điện, nước sinh hoạt

và phục vụ cho sản xuất, xây dựng hoàn chỉnh và đồng bộ các nhà máy xử lý chất

thải trong các khu công nghiệp, các dịch vụ cung cấp thông tin, khả năng phát triển

ngành công nghiệp dịch vụ phụ trợ như ngân hàng, bảo hiểm...

- Thành lập đường dây nóng tại các cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư nhằm

nắm bắt kịp thời, xử lý những vướng mắc của các nhà đầu tư và khắc phục được

tình trạng nhũng nhiễu, gây phiền hà đối với các nhà đầu tư của một bộ phận cán bộ

công chức làm công việc có liên quan đến đầu tư trực tiếp nuớc ngoài. Đồng thời,

cần phải đề cao tinh thần trách nhiệm cá nhân trong việc xử lý công việc liên quan

đến FDI; đẩy mạnh giáo dục, tuyên truyền, kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm minh

các hành vi nhũng nhiễu đối với các nhà đầu tư của một số cán bộ công chức trong

các cơ quan hành chính Nhà nước các cấp.

- Củng cố tổ chức bộ máy; rà soát, sửa đổi bổ sung chức năng, nhiệm vụ; tiếp

tục đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành chính, trong đó tập trung xây dựng và

đưa trang web mức độ 3 vào sử dụng; duy trì và thực hiện tốt hệ thống quản lý chất

lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2008; kịp thời rà soát, đề nghị sửa đổi bổ

sung hoặc thay thế Bộ thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết theo quy

định pháp luật;

77

- Tiếp tục nâng cao hiệu quả việc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và tình

trạng nhũng nhiễu gây phiền hà đối với nhà đầu tư, doanh nghiệp có vôn đầu tư

nước ngoài. Đề cao tinh thần trách nhiệm cá nhân trong xử lý công việc, thực hành

tiết kiệm, chống lãng phí ở các cơ quan quản lý nhà nước liên quan trong lĩnh vực

đầu tư nước ngoài;

- Thường xuyên tiếp xúc doanh nghiệp để xử lý kịp thời các khó khăn, vướng

mắc trong quá trình thực hiện chính sách và phát luật hiện hành, đảm bảo các dự án

hoạt động hiệu quả, nhằm tiếp tục củng cố lòng tin của các nhà đầu tư đối với môi

trường đầu tư kinh doanh tại tỉnh Bình Dương, tạo hiệu ứng lan tỏa và tác động tích

cực tới nhà đầu tư mới thông qua các nhà đầu tư hiện hữu;

- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra theo chức năng và nhiệm vụ của Sở

Kế hoạch và Đầu tư và các Ban quản lý các khu công nghiệp;

- Thực hiện tốt việc phân cấp quản lý nhà nước đối với lĩnh vực đầu tư trực

tiếp nước ngoài, đặc biệt trong việc phê duyệt, cấp Giấy chứng nhận đầu tư, quản lý

hiệu quả các dự án có vốn đầu tư nước ngoài, gắn với việc tăng cường hợp tác, hỗ

trợ, phối hợp hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư.

- Tăng cường công tác quản lý đầu tư, thông qua việc kiểm soát hiệu quả thực

hiện dựa án đầu tư và áp dụng các biện pháp chế tài đối với các dự án không đạt

mục tiêu đề ra (kết quả kinh doanh lỗ lớn, không đảm bảo điều kiện hoạt động liên

tục).

- Có biện pháp quản lý đối với các dự án đầu tư góp bằng tài sản, máy móc

thiết bị theo hướng yêu cầu chủ đầu tư cam kết giá trị tài sản, máy móc thiết bị đem

góp vốn được xác định theo giá thị trường. Đây là cơ sở cho cơ quan thuế điều

chỉnh giá giao dịch trong quá trình quản lý thuế khi có thông tin chính xác.

- Nghiên cứu khi xây dựng, ban hành và triển khai chính sách thuế cần mang

tính lâu dài, ổn định để các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm đầu tư sản xuất kinh

doanh.

- Quan tâm hơn nữa đến chính sách thu hút đầu tư đối với ngành công nghiệp

phụ trợ và bổ sung chế độ ưu đãi đối với các ngành công nghiệp phụ trợ mà trong

78

nước chưa đáp ứng được, nhằm hạn chế sự lệ thuộc quá nhiều vào các nước khác.

Đồng thời cần có chính sách khuyến khích ưu đãi những dự án đầu tư đồng bộ từ

sản xuất nguyên liệu, linh kiện- Sản xuất, lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh.

Lãnh đạo Tỉnh phải thể hiện được tính năng động, sáng tạo của mình trong

quá trình thực hiện các chính sách pháp luật của Nhà nước, nhằm sẵn sàng hợp tác,

hỗ trợ các doanh nghiệp triển khai thực hiện dự án. Mạnh dạn thu hồi giấy chứng

nhận đầu tư đối với những dự án không triển khai theo cam kết về tiến độ thực hiện

dự án đã ghi trong giấy chứng nhận đầu tư.Tăng cường hơn nữa công tác quản lý

Nhà nước về chuyển nhượng dự án giữa các nhà đầu tư nhằm mục đích chính là thu

lợi nhuận từ việc kinh doanh bất động sản mà không chú ý đến việc đầu tư sản xuất

kinh doanh.

Lãnh đạo các địa phươngtrong tỉnh phải chỉ đạo các ngành chức năng, đặc biệt

là cơ quan thuế tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, thanh tra thuế, truy thu và có

hình thức xử phạt thích đáng đối với một số dự án FDI có dấu hiệu trốn thuế, một số

dự án báo cáo lỗ luỹ kế kéo dài nhiều năm. Các Sở, ngành của địa phương cần phát

huy vai trò quản lý Nhà nước của mình trong từng lĩnh vực được phân công cụ thể,

đồng thời cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục để nâng cao hiểu biết về pháp luật

lao động cho người lao động và người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp

FDI nhằm đảm bảo chính sách, pháp luật về lao động và tiền lương được thực hiện

một cách đầy đủ, nghiêm túc hơn.

3.2.3. Đào tạo và khai thác hiệu quả nguồn nhân lực

Nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao, có khả năng thích ứng với môi

trường làm việc với dây chuyền công nghệ hiện đại là yêu cầu đặt ra để đáp ứng vào

quá trình kêu gọi và thu hút nguồn vốn FDI trong thời gian tới.

Để thực hiện thắng lợi mục tiêu đào tạo và khai thác có hiệu quả nguồn nhân

lực, Bình Dương cần làm tốt một số công việc cụ thể sau:

- Tập trung huy động các nguồn vốn từ ngân sách Trung ương (Trái phiếu

Chính phủ, Chương trình mục tiêu quốc gia), vốn từ ngân sách địa phương (xổ số

kiến thiết) để đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cho giáo dục đào tạo, dạy nghề,

79

đồng thời đảm bảo yêu cầu chi thường xuyên cho sự nghiệp giáo dục đào tạo, dạy

nghề.

- Cung ứng lao động đáp ứng nhu cầu sử dụng nhân lực của doanh nghiệp và

các nhà đầu tư, đặc biệt lưu ý tới việc đào tạo các ngành nghề hiện đang thiếu hụt

lao động và đào tạo tại các khu vực tập trung các khu công nghiệp, các dự án lớn có

nhu cầu cao về số lượng lao động, chuyển đổi nghề cho nông dân khi bị thu hồi đất

làm dự án đầu tư;

- Đẩy mạnh xã hội hóa, tạo môi trường đầu tư thuận lợi, quy hoạch quỹ đất

sạch, có chính sách ưu đãi để thu hút các thành phần kinh tế trong và ngoài nước

tham gia phát triển mạng lưới cơ sở đào tạo, dạy nghề trên địa bàn; khuyến khích

các tổ chức, cá nhân có điều kiện mở rộng, thành lập mới cơ sở dạy nghề.

- Tăng cường các hoạt động kinh tế đối ngoại và xúc tiến đầu tư, thu hút

nguồn vốn ODA và các nguồn viện trợ khác. Huy động nguồn lực khác của các

doanh nghiệp, của người học, của các nhà đầu tư.

- Xây dựng hoàn thiện chính sách phát triển nguồn nhân lực: chính sách ưu đãi

đầu tư về sử dụng đất đai; chính sách tài chính và sử dụng ngân sách cho phát triển

nguồn nhân lực. Tăng đầu tư từ ngân sách Nhà nước; hàng năm dành kinh phí từ

ngân sách và sử dụng các nguồn khác để đưa cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng ở trong

nước và nước ngoài; chính sách đãi ngộ và thu hút nhân tài để giữ và thu hút nguồn

nhân lực có trình độ cao; chính sách việc làm, bảo hiểm, bảo trợ xã hội.

- Xây dựng và phát triển mạng lưới thông tin thị trường lao động và dịch vụ về

đào tạo, tìm kiếm, giới thiệu việc làm; liên kết giữa cung và cầu lao động; giữa

người lao động, cơ sở đào tạo và cơ sở sử dụng lao động.

- Mở rộng, tăng cường sự phối hợp và hợp tác để phát triển nhân lực: phối hợp

và hợp tác với các cơ quan, tổ chức Trung ương tạo điều kiện về chương trình dạy-

học mới; phối hợp và hợp tác với các trường đại học, các tỉnh bạn trong công tác

đào tạo, tuyển dụng nhân lực; có sự chuyển giao hợp tác về nhân lực giữa các tỉnh

để điều tiết cung cầu lao động trên thị trường lao động, kết hợp giữa đào tạo, dạy

nghề với giải quyết việc làm.

80

- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về phát triển nhân lực: nâng cao nhận thức

của các ngành, các cấp và toàn xã hội: cùng với vốn, khoa học – công nghệ, tài

nguyên thì vốn con người là một trong những động lực quan trọng để thúc đẩy phát

triển kinh tế - xã hội. Tuyên truyền để người dân nhận thấy con đường nâng cao

trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, kỷ thuật chính là cơ sở giúp người lao động

tìm hoặc tạo việc làm phù hợp có thu nhập cao.

- Khuyến cáo các cơ sở đào tạo phát triển các hình thức đào tạo theo hợp đồng

của doanh nghiệp, đào tạo theo nhu cầu của xã hội; có kế hoạch phát triển đội ngũ

giáo viên, giảng viên và cán bộ quản lý theo hướng chuẩn hóa, đủ về số lượng, đảm

- Tăng cường giáo dục và tuyên truyền pháp luật lao động, đưa pháp luật lao

bảo về chất lượng đáp ứng nhu cầu giảng dạy.

động vào cuộc sống thông qua việc tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra và phổ

biến, tuyên truyền pháp luật lao động cho người lao động và người sử dụng lao

động;

3.2.4. Phát triển, hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng

Hạ tầng có vai trò hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. Để phát

triển, hoàn thiện kết cấu hạ tầng, Bình Dương cần tập trung làm tốt một số công

- Tiếp tục phát huy nguồn lực tại chỗ để xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ và

việc sau:

hiện đại từ các doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh (như Tổng Công ty Đầu tư

và Phát triển công nghiệp - TNHH Một thành viên (Becamex IDC), Tổng Công ty

Lâm sản và xuất nhập khẩu tổng hợp Bình Dương (Genimex Corp), Tổng Công ty

Thương mại Xuất nhập khẩu Thanh Lễ - TNHH MTV). Đồng thời kêu gọi các dự

án đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực xây dựng với trình độ và kỹ thuật hiện đại

nhằm xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng của tỉnh từng bước hiện đại theo xu hướng

- Khai thác các nguồn thu, nhất là các khoản thu về đất đai. Cơ cấu lại nguồn

chung của thế giới.

chi, tập trung vốn cho đầu tư hạ tầng kỹ thuật, nhất là hạ tầng giao thông. Hàng năm

ưu tiên bố trí nguồn vượt thu ngân sách cho đầu tư hạ tầng giao thông. Phấn đấu

81

nguồn vốn cân đối ngân sách tỉnh, huyện chi cho đầu tư tăng bình quân hàng năm

20%; ngân sách tỉnh bố trí 80%, ngân sách huyện, thị xã bố trí 50% cho đầu tư hạ

- Triển khai đầu tư một số dự án có điều kiện, bức xúc, cần thiết phải đầu tư

tầng kỹ thuật, trong đó tập trung cho hạ tầng giao thông và khu, cụm công nghiệp.

theo các hình thức BT, BOT, thí điểm theo hình thức PPP, hình thức biên chỉnh

trang, đổi đất lấy hạ tầng. Bố trí vốn cho dự án đầu tư theo đúng quy hoạch được

duyệt, phù hợp với khả năng nguồn vốn đầu tư; tập trung bố trí vốn cho các công

trình giao thông, đặc biệt là các công trình giao thông cấp bách để phục vụ phát

- Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, đưa quy hoạch vào kế hoạch thực

triển kinh tế-xã hội.

hiện, tổ chức rà soát, sửa đổi, bổ sung và điều chỉnh quy hoạch kết cấu hạ tầng kỹ

thuật, quy hoạch đô thị để có kế hoạch đầu tư và kêu gọi đầu tư đúng hướng. Tăng

cường công tác kiểm tra, giám sát cộng đồng đối với công tác quy hoạch, công khai

- Rà soát, sửa đổi, ban hành kịp thời các văn bản quản lý về đầu tư và xây

các dự án quy hoạch.

dựng của Tỉnh theo chỉ đạo của Trung ương để đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải

ngân nguồn vốn đầu tư, nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Nâng

cao chất lượng công tác quản lý xây dựng ở tất cả các khâu trong quá trình đầu tư

xây dựng, từ quy hoạch, kế hoạch đầu tư phát triển, đến lập, phê duyệt các dự án cụ

- Tăng cường phân cấp trong công tác theo dõi, đánh giá, kiểm tra, giám sát

thể, tổ chức thi công, giám sát, thanh toán, quyết toán công trình.

trong quản lý đầu tư xây dựng cơ bản để kịp thời xử lý các sai phạm phát sinh, nâng

cao hiệu quả quản lý nguồn vốn đầu tư. Áp dụng nghiêm ngặt các chế tài trong

giám sát thi công, nghiệm thu, thanh quyết toán công trình nhằm phát hiện, ngăn

- Huy động mọi nguồn lực từ các cơ quan chuyên môn đến người dân trong

chặn kịp thời các hành vi vi phạm để đảm bảo chất lượng công trình.

tỉnh để tiến hành xử lý ô nhiễm mô trường trên địa bàn tỉnh. Tiếp tục tiến hành xã

hội hóa trong việc thu gom và xử lý chất thải sinh hoạt cũng như chất thải công

82

nghiệp. Ưu tiên cho các dự án đầu tư về xử lý chất thải rắn, hóa chất của các doanh

- Huy động các nguồn vốn trái phiếu Chính phủ, vốn vay, vốn ODA; tích cực

nghiệp trên địa bàn tỉnh.

thực hiện tốt công tác xây dựng nhà ở cho công nhân, người lao động có thu nhập

thấp, khẩn trương hoàn thành nhanh kế hoạch giải ngân vốn để tranh thủ sự hỗ trợ,

của các Bộ, ngành Trung ương đối với nguồn vốn này.

3.2.5. Tăng cường sự hợp tác, liên kết giữa Bình Dương với các địa

phương khác trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.

Bình Dương là một trong những tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam,

một trong những khu vực giàu tiềm năng, năng động và phát triển nhất cả nước...

Do đó, để phát triển kinh tế địa phương, Bình Dương cần phải tận dụng lợi thế và

tiềm năng vốn có của địa phương để phát triển liên kết vùng, nhằm mục tiêu tạo

động lực thúc đẩy sự giao thương giữa các địa phương nằm trong vùng kinh tế,

đồng thời tranh thủ sự hỗ trợ tối đa về kinh tế của các tỉnh bạn có tiềm lực mạnh về

kinh tế, nhằm mục tiêu phụ vụ cho việc đầu tư xây dựng hoàn thiện kết cấu hạ tầng,

từng bước tạo bộ mặt khang trang của tỉnh trong việc thu hút và sử dụng đầu tư.

Trong thời gian qua việc hợp tác phát triển với các tỉnh bạn nằm trong vùng

kinh tế trọng điểm phiá Nam được địa phương thực hiện chủ động và năng động

hơn, góp phần nâng cao vị trí của Bình Dương trong thu hút đầu tư. Sự hỗ trợ của

Bộ, ngành Trung ương, sự hợp tác của các tỉnh bạn, sự quan tâm đầu tư của các

doanh nghiệp đối với Bình Dương ngày càng thiết thực hơn. Kế hoạch hợp tác phát

triển kinh tế-xã hội giữa Bình Dương và TP.HCM, Long An, Đồng Nai, Bà Rịa

Vũng Tàu …được triển khai thực hiện.

Nhằm mục tiêu tạo động lực thúc đẩy sự giao thương về kinh tế-văn hoá giữa

các địa phương, đồng thời tranh thủ sự hỗ trợ tối đa về kinh tế của các tỉnh bạn có

tiềm lực mạnh về kinh tế, nhằm mục tiêu phụ vụ cho việc đầu tư xây dựng hoàn

thiện kết cấu hạ tầng, xây dựng công trình y tế, giáo dục, tạo bộ mặt khang trang

của tỉnh trong việc mời gọi và thu hút đầu tư; tỉnh cần tiếp tục tăng cường sự hợp

83

tác, liên kết nhiều hơn nữa với các địa phương khác trong và ngoài nước. Cụ thể

như sau:

Tăng cường liên kết, hợp tác với TP.HCM, Đồng Nai phát triển kết cấu hạ

tầng, giáo dục trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam như:

+ Nâng cao “tĩnh không” cầu Bình Lợi trên sông Sài Gòn và cầu Ghềnh trên

sông Đồng Nai đảm bảo các tàu có tải trọng lớn lưu thông góp phần khai thác hết

công sức các cảng đã đầu tư của tỉnh Bình Dương như cảng Thạnh Phước, An Sơn,

Bạch Đằng, Bà Lụa...

+Triển khai sớm đường cao tốc TP.HCM - Chơn Thành - KPC gắn với cải tạo

nút giao thông Gò Dưa (HCMC) và cầu vượt Sóng Thần.

+Sớm hoàn thành tuyến vành đai 3 và khởi động vành đai 4, hoàn thành tuyến

N2 (đường nhánh HCM) từ Tây Nguyên - Bình Phước đi Đồng Bằng sông Cửu

Long qua huyện Dầu tiếng tỉnh Bình Dương.

+Hoàn thành tuyến Metro Bến Thành - Suối Tiên, kết nối về thành phố mới

Bình Dương và xây dựng Khu đô thị dịch vụ Suối Tiên (TOD).

+ Tiếp tục phối hợp với TP.HCM thực hiện các dự Đại học Quốc gia, dự án

Bến xe miền Đông mới.

+Triển khai cắm mốc các tuyến đường sắt quốc gia qua tỉnh Bình Dương

Chủ động phối hợp chặt chẽ với Trung ương và các tỉnh, đặc biệt là TP.HCM

và tỉnh Đồng Nai trong hoạt động bảo vệ môi trường lưu vực sông Đồng Nai, sông

Sài Gòn để bảo vệ nguồn nước phục vụ cho phát triển của vùng kinh tế trọng điểm

nói chung và Bình Dương nói riêng.

Tiếp tục xây dựng mối liên kết về thị trường lao động, thị trường tiêu thụ sản

phẩm đầu ra cho các doanh nghiệp nhằm tranh thủ mọi nguồn lực để phát triển

trong vùng kinh tế trọng điểm phía nam bao gồm: Thành phố Hồ Chí Minh, Bình

Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Phước, Bình Dương, Long An và Tiền

Giang.

Ở Bình Dương trong khi còn nhiều người lao động chưa có việc làm mà vẫn

phải tuyển dụng cán bộ và công nhân từ nơi khác đến do đào tạo không kịp nhu

84

cầu.Trước mắt cần phải có sự phối hợp giữa Sở Lao động - Thương binh - Xã hội

với các cơ sở đào tạo, các trung tâm dịch vụ tuyển dụng lao động, với các nhà đầu

tư, chủ động nắm nhu cầu về lao động ngay sau khi cấp giấy phép để có kế hoạch

đào tạo đáp ứng nhu cầu đó cả về lượng và chất lượng.Về lâu dài, phải chuẩn bị đào

tạo cán bộ và công nhân cho 10-15 năm sau để có một đội ngũ lao động có kỹ năng,

trí thức cao mới có thể đón được những dòng chảy đầu tư trực tiếp nước ngoài, vì

khi đó lợi thế so sánh sẽ chuyển từ những ngành cần nhiều lao động giản đơn sang

những ngành có hàm lượng công nghệ cao.

Việc thực hiện kế hoạch hợp tác kinh tế-xã hội giữa tỉnh Bình Dương và các

tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phiá Nam sẽ thắt chặt hơn mối quan hệ gắn

bó giữa các địa phương; hỗ trợ lẫn nhau xây dựng và phát triển ở từng địa phương

trong điều kiện mới, điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập. Các ngành, các cấp, các

doanh nghiệp của các địa phương cần có nhiều nỗ lực trong việc triển khai các nội

dung của Chương trình hợp tác, đặc biệt ở các lĩnh vực giao thông, xây dựng và

phát triển khu công nghiệp; lĩnh vực khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo,

thương mại và du lịch, văn hóa xã hội, tài chính ngân hàng,… nhằm mang lại hiệu

quả thiết thực về kinh tế-xã hội, phát huy được một số tiềm năng, lợi thế của các địa

phương góp phần thúc đẩy tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xóa đói, giảm

nghèo và nâng cao đời sống nhân dân.

85

TÓM TẮT CHƯƠNG 3

Trên cơ sở phân tích thực trạng và rút ra những hạn chế của FDI, trong

chương 3 tác giả đã làm rõ các quan điểm về phát triển kinh tế, về thu hút FDI trên

địa bàn tỉnh, quan điểm về giải quyết các vấn đề xã hội do tác động tiêu cực của

FDI, từ đó đề ra những phương hướng cơ bản và mục tiêu cụ thể nhằm nâng cao

hiệu quả của nguồn vốn FDI trên địa bàn tỉnh Bình Dương

Trong chương này tác giả cũng tập trung nghiên cứu và đưa ra các giải pháp

chủ yếu nhằm đẩy mạnh công tác thu hút và sử dụng tốt nguồn vốn FDI tại tỉnh

Bình Dương trong thời gian tới, cụ thể như: 1. Hoàn thiện cơ chế, chính sách, quy

hoạch, kế hoạch thu hút FDI; 2. Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về thu hút

FDI ; 3. Đào tạo và khai thác hiệu quả nguồn nhân lực; 4. Phát triển, hoàn thiện kết

cấu hạ tầng; 5. Tăng cường sự hợp tác, liên kết giữa Bình Dương với các địa

phương khác trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.

86

KẾT LUẬN

Đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã

hội; nâng cao năng lực sản xuất của quốc gia thông qua việc cung cấp về vốn, công

nghệ sản xuất tiên tiến, kỹ năng và trình độ quản lý, nâng cao năng lực cạnh tranh

của nền kinh tế, mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế…

Với lợi thế về vị trí địa lý, nằm kề thành phố Hồ Chí Minh và thuộc vùng kinh

tế trọng điểm phía Nam, cùng với chính sách phát triển hợp lý, trong hai mươi năm

vừa qua Bình Dương đã có những bước phát triển vượt bậc, là điểm sáng về phát

triển kinh tế và thu hút đầu tư của cả nước. Vì thế, từ chỗ là một tỉnh nghèo, phải

dựa vào trợ cấp ngân sách của Trung ương, đến nay Bình Dương đã vươn lên trở

thành một trong năm địa phương có tổng nguồn thu lớn, hỗ trợ một phần cho ngân

sách Trung ương. Từ một tỉnh không nằm trong tam giác phát triển, đến nay Bình

Dương là nhân tố tích cực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trong khu vực kinh tế

trọng điểm phía nam. Có thể nói, Bình Dương đã tận dụng tốt cơ hội “ngoại lực” là

vốn FDI để thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Thành quả ấy phản ánh sự năng

động của tỉnh, vừa biết cách mời gọi, vừa biết giữ chân các nhà đầu tư.

Nhìn vào những thành quả kinh tế-xã hội, về cơ sở hạ tầng..., và vị thế của

Bình Dương trong khu vực kinh tế trọng điểm phía nam, rộng hơn là cả nước thì

mới thấy hết sự nỗ lực của Ðảng bộ, chính quyền và người dân nơi đây. Từ một tỉnh

thuần nông, kinh tế chủ yếu tự cung tự cấp, công nghiệp - dịch vụ gần như trống

vắng, thì nay cơ cấu kinh tế của Bình Dương đảo ngược hoàn toàn, công nghiệp -

dịch vụ chiếm 96,2%, nông nghiệp một thời thống trị, nay chỉ chiếm khiêm tốn

3,8% và đang chuyển sang nông nghiệp kỹ thuật cao. Hàng chục nghìn ha đất hoang

hóa, đất trồng cây một vụ, năng suất thấp, nay được phủ đầy 28 KCN, tám cụm

công nghiệp tập trung, với hơn 3.000 nhà đầu tư nước ngoài. Cũng từ các nhà máy,

xí nghiệp này mà hàng trăm nghìn lao động, công nhân có tay nghề, từ các vùng,

miền trên cả nước hội tụ về, chung tay biến ước mơ CNH, HÐH của Bình Dương và

cả nước sớm thành hiện thực.

87

Bên cạnh những tác động tích cực về mặt kinh tế, nguồn vốn FDI cũng gián

tiếp thúc đẩy đổi mới cơ chế quản lý, cải cách thủ tục hành chính, nâng cấp cơ sở hạ

tầng, kích thích các ngành dịch vụ phát triển. Có thể nói, vốn FDI là nguồn vốn bổ

sung quan trọng nhất cho nhu cầu đầu tư phát triển xã hội và tăng trưởng kinh tế, là

nguồn lực góp phần phục vụ sự nghiệp CNH, HÐH của Bình Dương.

Cơ cấu kinh tế thay đổi, kéo theo cơ sở hạ tầng và đô thị hóa cũng diễn ra

nhanh, làm thay đổi hẳn bộ mặt của Bình Dương. Các KCN tại Bình Dương đã trực

tiếp tạo công ăn việc làm cho hơn hàng trăm nghìn lao động trực tiếp và gián tiếp.

Ðể tái tạo sức lao động và tạo điều kiện cho họ “an cư lạc nghiệp”, ngoài bảo đảm

về tiền lương, tiền thưởng, bảo hiểm, Bình Dương còn chú trọng đầu tư hàng chục nghìn tỷ đồng, xây dựng hàng triệu m2 sàn nhà ở công nhân, nhà ở xã hội, bệnh

viện, trường học, khu vui chơi giải trí phục vụ nhân dân, người lao động. Sự phát

triển của các khu công nghiệp trong tỉnh, đặc biệt là tại các khu vực đô thị như thị

xã Dĩ An, Thuận An, Bến Cát và TP. Thủ Dầu Một đã đóng vai trò quyết định trong

việc thu hút lượng lớn người lao động nhập cư vào tỉnh Bình Dương. Cũng chính

quá trình đô thị hóa nhanh đã khiến cho quá trình chuyển dịch đất đai tại Bình

Dương diễn ra nhanh chóng và hình thành nên nhiều dự án có quy mô lớn, trong đó

tiêu biểu là dự án Thành phố mới Bình Dương.

Mặc dù đã đạt được những kết quả quan trọng nêu trên, song khả năng hấp thụ

nguồn vốn của Bình Dương còn khiêm tốn, chất lượng của nguồn vốn chưa cao,

việc thu hút các dự án đầu tư công nghệ cao còn hạn chế, chuyển giao công nghệ

còn chậm. Còn nhiều doanh nghiệp đầu tư nước ngoài sử dụng công nghệ lạc hậu,

gây ô nhiễm môi trường. Việc sử dụng tài nguyên đất đai, khoáng sản chưa thật sự

hiệu quả. Mối liên kết ngang, dọc giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước chưa

cao, dẫn đến việc phát huy năng lực của nhau còn hạn chế…Sau một quá trình phát

triển kinh tế với tốc độ cao, Bình Dương cũng phải đối mặt với các vấn đề xã hội

mới nảy sinh như: lao động nhập cư, tranh chấp lao động, đình công, lãn công, ô

nhiễm môi trường …...

88

Để phát huy những tác động tích cực và hạn chế những tác động không lành

mạnh của FDI, trước mắt các cấp chính quyền tỉnh Bình Dương cần:

- Thống nhất quan điểm chỉ đạo trong phát triển bền vững, gắn kết chặt chẽ

giữa phát triển nhanh với phát triển bền vững, không chạy đua theo số lượng dự án

FDI mà phải chú trọng từng bước vào chất lượng dự án. Hướng các dự án FDI vào

các khu công nghiệp đã được quy hoạch, hạn chế tiếp nhận các dự án đầu tư ở bên

ngoài khu nhằm khai thác tối đa kết cấu hạ tầng bên trong và bên ngoài khu công

nghiệp. Ngoài ra, cần nâng cao chất lượng thẩm định dự án, Sở Kế hoạch và Đầu tư

phối hợp chặt chẽ với Sở Khoa học và Công nghệ, Sở Tài nguyên-Môi trường và

các đơn vị có liên quan thực hiện tốt khâu thẩm định dự án trước khi tham mưu Ủy

ban nhân dân Tỉnh cấp Giấy chứng nhận đầu tư. Hạn chế và tiến tới không tiếp nhận

các dự án có trình độ sử dụng công nghệ thấp, tác động xấu đến môi trường.

- Tiếp tục đổi mới, cải tiến mạnh phương thức vận động xúc tiến đầu tư thì

mới tranh thủ được nhiều nguồn vốn đầu tư nước ngoài, từ các tập đoàn đa quốc

gia. Theo đó, cần tập trung xác định ngành nghề và khu vực ưu tiên thu hút FDI;

xây dựng chương trình xúc tiến và cơ chế chính sách đầu tư; xây dựng kế hoạch

hành động; đánh giá hiệu quả từng lĩnh vực thu hút FDI cụ thể khi vận động xúc

tiến đầu tư.

- Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, tiếp xúc, hỗ trợ DN trong việc triển

khai dự án đầu tư và tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình hoạt

động. Đối với các dự án chưa đi vào sản xuất kinh doanh thì các Sở, ngành của địa

phương cần quan tâm tìm hiểu các nguyên nhân gây ra ách tắc, để từ đó tập trung

tháo gỡ, nếu có những vấn đề vượt thẩm quyền thì các Sở, ngành phải có trách

nhiệm đề xuất ý kiến của cơ quan mình đối với từng lĩnh vực mà ngành mình phụ

trách, báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh xem xét quyết định.

- Tuyên truyền pháp luật về lao động cho công nhân, đặc biệt là lực lượng lao

động đang làm việc tại các khu công nghiệp, khu kinh tế trên địa bàn tỉnh, nhằm

hạn chế tối đa các cuộc đình công, lãn công bất hợp pháp, tránh để kẻ xấu lợi dụng

gây kích động, dẫn đến đình công, lãn công một cách tự phát làm ảnh hưởng đến

89

quyền lợi của người lao động, của chủ doanh nghiệp và làm ảnh hưởng đến tình

hình an ninh trật tự tại địa phương.

- Tăng cường công tác hậu kiểm sau khi cấp Giấy chứng nhận đầu tư đối với

các dự án FDI sử dụng nhiều lao động như: dự án dệt may; dự án trong lĩnh vực

nông nghiệp; dự án da giày; dự án đầu tư trong lĩnh vực độc hại, ảnh hưởng nghiêm

trọng tới môi trường như: dự án chế biến mủ cao su, chế biến hạt điều, dự án thuộc

da, dự án nhuộm, tái chế phế liệu.

Với những định hướng mang tính đột phá, những bước đi phù hợp nhằm khai

thác có hiệu quả các lợi thế về địa lý kinh tế, tài nguyên và con người của tỉnh, Bình

Dương chắc chắn sẽ trở thành điểm đến đáng tin cậy đối với tất cả các nhà đầu tư

trong và ngoài nước trong thời gian tới./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Quản lý các khu công nghiệp Bình Dương, Báo cáo tình hình hoạt động các

khu công nghiệp năm 2014 – phương hướng nhiệm vụ năm 2015. Bình Dương

tháng 12 năm 2015

2. Cục Thống kê Thành phố Hồ Chí Minh, Niên giám thống kê năm 2014, Thành

phố Hồ Chí Minh, nhà xuất bản Thống kê năm 2014

3. Cục thống kê tỉnh Bình Dương, Niên giám thống kê năm 2014. Nhà xuất bản

Thanh niên tháng 6 năm 2015.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam, 1996, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

VIII

5. Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX

6. Đảng Cộng sản Việt Nam, 2004, Tài liệu của Hội nghị toàn quốc lần thứ 9 khóa

IX

7. Hồ Chí Minh, 1987, toàn tập, tập 7, trang 289

8. Lê Xuân Bá, Tác động của FDI tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, Nhà xuất

bản khoa học kỹ thuật năm 2006.

9. Liên đoàn lao động tỉnh Bình Dương, Báo cáo tình hình giải quyết đình lãng

công trên địa bàn tỉnh. Bình Dương tháng 12 năm 2012.

10. Luật Đất đai số 13/2003/QH11 ngày 26/11/2003

11. Luật đầu tư 67/2014/QH13 (Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2014, có hiệu lực

từ ngày 01/7/2015)

12. Luật đầu tư năm 2005, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà nội

13. Nghị định 192- CP ngày 28/12/1994 của Chính phủ về ban hành quy chế khu

công nghiệp.

14. Nghị định 36/CP ngày 24/4/1997 về ban hành quy chế khu công nghiệp, khu chế

xuất, khu công nghệ cao.

15. Nguyễn Văn Tuấn, Đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển kinh tế Việt Nam.

Nhà xuất bản Tư pháp năm 2005.

16. Sở Kế hoạch và đầu tư Bà Rịa – Vũng Tàu, Báo cáo tổng kết tình hình thu hút

FDI trên địa bàn tỉnh. Bà Rịa – Vũng Tàu tháng 12 năm 2104

17. Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Bình Dương

18. Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Bình Dương, Báo cáo tình hình thu hút vốn đầu tư

nước ngoài trên địa bàn tỉnh 06 tháng đầu năm 2015. Bình Dương tháng 6 năm

2015

19. Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Bình Dương, Báo cáo tình hình thu hút vốn đầu tư

nước ngoài trên địa bàn tỉnh 06 tháng đầu năm 2015. Bình Dương tháng 6 năm

2015

20. Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Bình Dương, Báo cáo tình hình thu hút vốn FDI trên

địa bàn tỉnh giai đoạn 1994 – 2014. Bình Dương tháng 01 năm 2015

21. Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Bình Dương, Báo cáo tình hình triển khai các dự án

ở các khu, cụm công ngiệp trên địa bàn tỉnh. Bình Dương tháng 12 năm 2014

22. Sở Khoa học và công nghệ tỉnh Bình Dương

23. Sở Lao động thương binh và xã hội, Báo cáo tình hình đào tạo nghề năm 2014.

Bình Dương tháng 12 năm 2014

24. Tỉnh ủy Bình Dương, 2014, Báo cáo tình hình phát triển các thành phần kinh tế

trên địa bàn tỉnh Bình Dương. Bình Dương tháng 12 năm 2014

25. Tỉnh ủy Bình Dương, Chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2025. Bình

Dương tháng 12 năm 2014

26. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương, Báo cáo quyết toán ngân sách năm 2010.

Bình Dương tháng 12 năm 2010

27. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương, Báo cáo quyết toán ngân sách năm 2011.

Bình Dương tháng 12 năm 2011

28. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương, Báo cáo quyết toán ngân sách năm 2012.

Bình Dương tháng 12 năm 2012

29. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương, Báo cáo quyết toán ngân sách năm 2013.

Bình Dương tháng 12 năm 2013

30. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương, Báo cáo quyết toán ngân sách năm 2014.

Bình Dương tháng 12 năm 2014

31. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương, Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quốc

phòng an ninh năm 2010. Bình Dương tháng 12 năm 2010

32. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương, Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quốc

phòng an ninh năm 2011. Bình Dương tháng 12 năm 2011

33. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương, Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quốc

phòng an ninh năm 2012. Bình Dương tháng 12 năm 2012

34. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương, Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quốc

phòng an ninh năm 2013. Bình Dương tháng 12 năm 2013

35. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương, Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quốc

phòng an ninh năm 2014. Bình Dương tháng 12 năm 2014

36. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương, Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng

năm 2015. Bình Dương tháng 6 năm 2015

37. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương. Báo cáo tổng kết 25 năm thực hiện thu hút

đầu tư nước ngoài. Bình Dương tháng 9 năm 2012.

38. V.I.Lê Nin, Toàn tập, tập 2, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva năm 1985

39. V.I.Lê Nin, Toàn tập, tập 4, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva năm 1985

40. V.I.Lê Nin, Toàn tập, tập 26, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva năm 1985

41. V.I.Lê Nin, Toàn tập, tập 27, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva năm 1985

PHỤ LỤC

Phụ lục 2.1: Số dự án FDI cấp mới từ năm 2005-2014 của Bình Dương

Tổng vốn đăng ký Năm Số dự án (triệu USD)

2005 188 1.406,69

2006 219 1.723,15

2007 339 2.635,81

2008 218 2.162,60

2009 101 402,12

2010 107 491,40

2011 80 578,38

2012 109 1.591,16

2013 118 560,92

2014 167 850,03

10.970,26 Tổng dự án 1.646

Nguồn: Tổng hợp niên giám thống kê tỉnh Bình Dương

Phụ lục 2.2: Quy mô vốn đăng ký bình quân trên một dự án đầu tư FDI

giai đoạn 2005-2014 ở tỉnh Bình Dương

Năm Số dự Tổng vốn Vốn bình quân/dự án/triệu USD

án đăng ký

188 1.406,69 5,8 2005

219 1.723,15 7,8 2006

339 2.635,81 7,7 2007

218 2.162,60 9,9 2008

101 402,12 3,9 2009

107 491,40 4,5 2010

80 578,38 7,2 2011

109 1.591,16 14,5 2012

118 560,92 4,7 2013

167 850,03 5,09 2014

Nguồn: Tổng hợp niên giám thống kê tỉnh Bình Dương năm 2014

Phụ lục 2.3: Đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép phân theo đối tác

đầu tư chủ yếu (Lũy kế các dự án còn hiệu lực đến ngày 31/12/2014)

Quốc gia Số dự án được Vốn đăng ký

cấp phép (Triệu USD)

Nhật Bản 247 4.173,81

Hàn Quốc 562 2.061,28

Đài Loan 799 4.268,23

Singapore 139 1.544,86

Quần đảo Vigin thuộc Anh 57 653,73

Malaysia 81 1.212,81

Hoa Kỳ 92 731,79

Quần đảo Cay men 9 524,28

Thái Lan 24 343,10

Hà Lan 22 425,24

Bru-nây 22 94,30

Canada 12 79,88

CHND Trung Hoa 147 410,61

Hồng Kông 79 1.246,78

Pháp 27 141,19

Xa-moa 22 123,35

Vương Quốc Anh 10 177,33

10 47,85 Thụy Sỹ

30 111,08 Ôx-trây-li-a

2 8,67 Liên Bang Nga

19 125,28 CHLB Đức

13 45,80 Đan Mạch

2 1,60 Phần Lan

8 80,22 Philippin

7 30,02 Ấn Độ

15 136,58 Ma-ri-ti-us

10 47,31 Indonesia

1 1,53 Italia

8 40,45 Bỉ

3 22,62 Na Uy

5 11,33 New Zealand

9 10,52 Thụy Điển

122 1.077,5 Các nước khác

2.615 20.101,48 Tổng số

Nguồn: Tổng hợp niên giám thống kê tỉnh Bình Dương năm 2014

Phụ lục 2.4: Đóng góp của khu vực FDI vào ngân sách tỉnh

Năm 2010 2011 2012 2013 2014

Nộp NS (triệu 161.22 183.10 195.25 261.23 159.61

VNĐ)

Nguồn: (Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương, Báo cáo quyết toán ngân sách năm

2010, 2011, 2012, 2013, 2014)

Phụ lục 2.5: Một số kết quả hoạt động của các dự án FDI năm 2014 theo

ngành kinh tế trên địa bàn tỉnh Bình Dương

Giá trị xuất Thuế Số lao động Doanh thu khẩu Ngành kinh tế (người) (triệu USD) (triệu USD) (triệu USD)

Nông, lâm nghiệp 23.118 21,30 3,20 1,23

Công nghiệp 323.051 2.977,80 1.349,92 139,25

Xây dựng 50.053 15,54 4,59

Giao thông, vận tải, 45.987 12,40 3,45 bưu điện

Dịch vụ khác 63.204 46,08 0,13 9,2

Tổng số 505.413 3.073,12 1.353,25 159.61

Nguồn: (Cục Thống kê Bình Dương, Niên giám thống kê năm 2014)

Phụ lục 2.6: Tình hình xử lý chất thải của các doanh nghiệp tỉnh Bình

Dương

Hệ thống xử lý chất thải Số đơn

STT Loại hình vị thống Trung Tốt (%) Kém (%) kê bình (%)

1 Doanh nghiệp có vốn đầu tư trong 842 2,4 33,0 64,6 nước

2 Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước 120 34,2 52,5 13,3 ngoài

Tổng cộng 962 6,3 35,4 58,4

Nguồn: (Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Bình Dương)

Phụ lục 2.7: Đánh giá chất lượng xử lý chất thải tại các doanh nghiệp tỉnh

Bình Dương

Hệ thống xử lý chất thải

Số đơn Kém (%) STT Loại hình vị điều Trung Tốt (%) tra bình (%)

1 Doanh nghiệp nằm trong khu 92 30 59 11 công nghiệp

- Doanh nghiệp có vốn đầu tư 80 8,3 66,7 25 trong nước

- Doanh nghiệp có vốn FDI 12 38,3 56,1 5,3

2 Doanh nghiệp nằm ngoài KCN 833 33,3 56,5 4,2

- Doanh nghiệp có vốn đầu tư 818 32 65,8 2,2 trong nước

- Doanh nghiệp có vốn FDI 63 30,2 49,2 20,6

Nguồn: (Sở khoa học và công nghệ tỉnh Bình Dương)

Phụ lục 2.8: Cơ cấu số người từ đủ 15 tuổi trở lên có việc làm chia theo

trình độ chuyên môn kỹ thuật ở tỉnh Bình Dương

Trình độ chuyên môn Tỷ lệ (%) Số lao động (người)

Chưa qua đào tạo 67,75 342.461

CNKT không có bằng 10,45 52.819

CNKT có bằng chứng chỉ 7,22 36.536

CNKT có bằng sơ cấp 2,43 12.321

CNKT có bằng THCN 7,99 40.429

CNKT có bằng CĐ, ĐH trở lên 4,12 20.847

Tổng số đơn vị 505.413

Nguồn: (Sở Lao động thương binh và xã hội tỉnh Bình Dương)

Phụ lục 2.9: FDI phân bổ theo vùng lãnh thổ ở Bình Dương

Tên huyện, thị, Số dự án Số vốn đăng ký (triệu USD) STT thành phố

TX. Thuận An 1 778 5.980,56

TX. Dĩ An 2 695 5.342,45

TX. Bến Cát 3 579 4.450,76

TX. Tân Uyên 4 84 645,70

5 TP. Thủ Dầu Một 259 1.990,93

6 Huyện Phú Giáo 34 261,35

7 Huyện Dầu Tiếng 29 222,92

8 Huyện Bàu Bàng 132 1.014,68

9 Huyện Bắc Tân Uyên 25 192,17

Nguồn: ( Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Bình Dương)