1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ Tp.HCM ----------------------------
LÊ THỊ MỘNG LOAN
GIÁ TRỊ HỢP LÝ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ CÂN BẰNG GIỮA ĐỘ TIN CẬY VÀ THÍCH HỢP CÁC THÔNG TIN TRÊN BÁO CÁO TÀI CHÍNH CỦA CÁC CÔNG TY TẠI VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP.Hồ Chí Minh – Năm 2013
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ Tp.HCM ---------------------
LÊ THỊ MỘNG LOAN
GIÁ TRỊ HỢP LÝ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ CÂN BẰNG GIỮA ĐỘ TIN CẬY VÀ THÍCH HỢP CÁC THÔNG TIN TRÊN BÁO CÁO TÀI CHÍNH CỦA CÁC CÔNG TY TẠI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Chuyên ngành: Kế toán Mã số: 60340301
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS MAI THỊ HOÀNG MINH
TP.Hồ Chí Minh – Năm 2013
3
LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc
nhất đến PGS.TS Mai Thị Hoàng Minh, người đã tận tình hướng dẫn tôi
trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Tôi cũng xin cảm ơn các Anh/Chị đã đóng góp ý kiến và giúp tôi thu
thập tài liệu cho luận văn này.
Lời cuối cùng, tôi xin cảm ơn Mẹ và cảm ơn Gia đình đã hết sức ủng hộ
và động viên tôi trong suốt thời gian làm luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!
TP. Hồ Chí Minh, tháng 07/2013
Lê Thị Mộng Loan
4
LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của tôi dưới
sự hướng dẫn của Người hướng dẫn khoa học. Tất cả các nguồn tài
liệu tham khảo đã được trình bày đầy đủ. Nội dung của luận văn là
trung thực.
Tác giả luận văn
Lê Thị Mộng Loan
5
MỤC LỤC Mở đầu ............................................................................................................... 1 Chương 1: Những vấn đề cơ bản về giá trị hợp lý .............................................. 11
1.1 .Các mô hình định giá ........................................................................ 11
1.1.1 .Kế toán giá gốc ........................................................................... 11
1.1.2 Kế toán giá theo mức giá chung ................................................... 12
1.1.3 Kế toán giá hiện hành ................................................................... 13
1.1.4 Kế toán giá đầu ra......................................................................... 13
1.1. Sự hình thành giá trị hợp lý .............................................................. 14
1.2.1. Sự hình thành kế toán giá trị hợp lý .............................................. 14
1.2.2. Khái niệm giá trị hợp lý ................................................................ 16
1.2. Những nội dung liên quan đến giá trị hợp lý ......................................... 18
1.3.1. Xác định giá trị hợp lý .................................................................. 18
1.3.1.1 Đối tượng định giá ................................................................. 19
1.3.1.2 Thị trường giao dịch............................................................... 22
1.3.1.3 Các bên tham gia thị trường ................................................... 23
1.3.1.4 Dữ liệu đầu vào ...................................................................... 23
1.3.1.5 Các phương pháp định giá ...................................................... 25
1.3.2. Vấn đề áp dụng kế toán giá trị hợp lý ........................................... 27
1.3.3. Công bố thông tin ......................................................................... 28
1.3.4. Tác động của chuẩn mực kế toán quốc tế IFRs 13- Đo lường giá trị
hợp lý đến các chuẩn mực đã ban hành. ................................................. 30
1.4. Các trường hợp sử dụng giá trị hợp lý ................................................... 30
1.5. Các yêu cầu đặc điểm chất lượng đối với báo cáo tài chính ................... 32
1.6. Lý thuyết tổ chức và thông tin bất cân xứng .......................................... 35
1.7. Kinh nghiệm của một số nước khi áp dụng kế toán giá trị hợp lý ......... 35
1.7.1. Kinh nghiệm của Mỹ .................................................................... 35
1.7.2. Kinh nghiệm của Malaysia ........................................................... 40
1.8. Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam ............................................. 42
6
Chương 2: Thực trạng áp dụng kế toán giá trị hợp lý tại Việt Nam và ảnh hưởng của kế toán giá trị hợp lý đến sự cân bằng giữa độ tin cậy và tính thích hợp của thông tin trên báo cáo tài chính ......................................................................................... 44 2.1. Thực trạng cơ sở pháp lý về kế toán giá trị hợp lý tại Việt Nam ............ 44
2.1.1. Quá trình phát triển và vai trò của giá trị hợp lý tại Việt Nam ....... 44
2.1.2. So sánh những qui định về kế toán giá trị hợp lý trong chuẩn mực kế
toán Việt Nam và chuẩn mực kế toán quốc tế về giá trị hợp lý ............... 47
Thực trạng sử dụng kế giá trị hợp lý tại Việt Nam................................. 48 2.2.
Ảnh hưởng của giá trị hợp lý đến sự cân bằng giữa độ tin cậy và tính thích 2.3.
hợp của các thông tin trên báo cáo tài chính ................................................ 51
2.4. Khảo sát ảnh hưởng của giá trị hợp lý đến sự cân bằng của hai đặc điểm
chất lượng: độ tin cậy và thích hợp của thông tin trên báo cáo tài chính............. 53
2.4.1. Mục đích ...................................................................................... 53
2.4.2. Phương pháp thực hiện ................................................................. 53
2.4.3. Kết quả khảo sát ........................................................................... 54
2.4.4. Đánh giá kết quả khảo sát ............................................................. 57
2.5. Những thuận lợi và khó khăn khi áp dụng kế toán giá trị hợp lý tại Việt
Nam ............................................................................................................ 58
2.5.1. Thuận lợi ...................................................................................... 58
2.5.2. Khó khăn ...................................................................................... 59
Chương 3: Một số kiến nghị định hướng việc sử dụng giá trị hợp lý tại Việt Nam64 3.1. Mục đích kiến nghị ............................................................................... 64
3.2.1. Mở rộng phạm vi sử dụng giá trị hợp lý tại Việt Nam ................... 64
3.2.2. Phù hợp với xu hướng phát triển của thế giới ............................... 64
3.2. Nội dung kiến nghị ............................................................................... 65
3.2.1. Về ngắn hạn ................................................................................. 66
3.2.1.1. Sửa đổi Luật kế toán .................................................... 66
3.2.1.2. Giáo dục về nhận thức ................................................. 66
3.2.1.3. Giải thích rõ các thuật ngữ liên quan đến giá trị hợp lý 66
3.2.1.2.1. Thuật ngữ giá trị hợp lý..................................... 66
7
3.2.1.2.2. Các khái niệm liên quan đến giá trị hợp lý ........ 66
3.2.1.2.3. Phương pháp xác định giá trị hợp lý .................. 68
3.2.1.4. Công bố thông tin về giá trị hợp lý .............................. 68
3.2.1.5. Bổ sung giá trị hợp lý vào chuẩn mực chung (VAS 01)69
3.2.1.6. Điều chỉnh các chuẩn mực hiện hành ........................... 70
3.2.2. Về lâu dài ..................................................................................... 71
3.2.2.1. Ban hành chuẩn mực về công cụ tài chính .............................. 71
3.2.2.2. Hoàn thiện chuẩn mực bất động sản đầu tư ........................... 78
3.2.2.3. Ban hành chuẩn mực kế toán giá trị hợp lý ............................. 79
3.2.2.4. Minh bạch thông tin kinh doanh ............................................. 80
Kết luận ............................................................................................................. 82
8
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
APB:
Acounting Principles Board
Ủy Ban nguyên tắc kế toán
IAS: International Accounting Standard
Chuẩn mực kế toán quốc tế
FAS: Financial Accounting Standard
Chuẩn mực kế toán tài chính
FASB: Financial Accounting System Board
Hội đồng chuẩn mực kế toán
IASB: International Accounting Standard Board
Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế
IFRs: International Financial Reporting Standard
Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế
FRS: Financial Reporting Standard
Chuẩn mực báo cáo tài chính
SEC: Securities and Exchange Commission
Ủy ban chứng khoán
9
DANH MỤC BẢNG BIỀU
Bảng 1.1: Các bước đo lường giá trị hợp lý
Bảng 1.2: Cách thức công ty xác định giá trị hợp lý cho nợ phải trả và công cụ tài
chính mà công ty sở hữu
Bảng 1.3: Xác định giá trị hợp lý dựa vào dữ liệu đầu vào
Bảng 1.4: Phương pháp chọn kỹ thuật định giá
Bảng 1.5: Công bố thông tin đo lường giá trị hợp lý
Bảng 1.6: Khuôn mẫu lý thuyết chung IASB những đặc điểm chất lượng tác động
đến thông tin hữu ích
Bảng 2.1: Kiểm tra mức độ tương quan trong tổng thể
Bảng 2.2: Kiểm tra mức độ tương quan các khoản mục đối với nhà đầu tư
Bảng 2.3: Kiểm tra mức độ tương quan các khoản mục đối với nhân viên kế toán
Bảng 2.4: Kiểm tra mức độ tương quan các khoản mục đối với nhân viên kiểm toán
Bảng 2.5: Kiểm tra mức độ tương quan các khoản mục đối với nhân viên ngân hàng
10
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Danh sách các công ty
Phụ lục 2: Bảng khảo sát mức độ tin cậy và thích hợp của các thông tin trên báo
cáo tài chính đo lường theo giá trị hợp lý
Phụ lục 3: Kiểm tra tính cân bằng giữa độ tin cậy và thích hợp của các khoản mục
đo lường theo giá trị hợp lý
11
MỞ ĐẦU
1.Sự cần thiết của đề tài
Nhiều năm qua, thế giới đã chứng kiến sự hội nhập quốc tế cao trong tất cả lĩnh vực.
Các nhà đầu tư không chỉ đầu tư trong nước mà đã vươn đầu tư ra các nước khác
trên toàn thế giới. Ngoài khó khăn về rào cản pháp lý khi đầu tư ra nước ngoài thì
họ cũng đối mặt với khó khăn về những qui định trong kế toán. Chính sự trở ngại
này làm cho các nhà đầu tư khó tiếp cận với báo cáo tài của nước sở tại. Nắm bắt
những vướng mắc trên thì hệ thống kế toán các nước dần hội tụ tiến đến sử dụng
một hệ thống chung của quốc tế. Các chuẩn mực báo cáo tài chính kế toán hiện nay
ban hành chuyển theo khuynh hướng sử dụng giá trị hợp lý nhiều hơn trong các
chuẩn mực. Thuật ngữ “giá trị hợp lý” xuất hiện rất lâu trong các chuẩn mực quốc
tế cũng như chuẩn mực kế toán riêng của các nước. Mặc dù, tại Việt Nam giá trị
hợp lý cũng được qui định trong chuẩn mực kế toán nhiều năm qua. Tuy nhiên, nó
vẫn còn khá mới mẻ đối với cả người làm kế toán lẫn nhà đầu tư. Chính lí do này
mà tôi chọn đề tài: “GIÁ TRỊ HỢP LÝ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ CÂN BẰNG
GIỮA ĐỘ TIN CẬY VÀ THÍCH HỢP CÁC THÔNG TIN TRÊN BÁO CÁO
TÀI CHÍNH CỦA CÁC CÔNG TY TẠI VIỆT NAM” để làm đề tài luận văn
thạc sỹ của mình.
2.Mục tiêu nghiên cứu
Thông qua tiếp cận chuẩn mực kế toán quốc tế và Việt Nam về giá trị hợp lý, từ đó
luận văn đưa ra một số kiến nghị nhằm định hướng việc sử dụng kế toán giá trị hợp
lý tại Việt Nam.
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn này chỉ nghiên cứu những nội dung liên quan đến kế toán giá trị hợp lý và
ảnh hưởng của nó đến hai đặc điểm chất lượng trên báo cáo tài chính là tính thích
hợp và độ tin cậy. Để thực hiện điều này, luận văn sẽ tiến hành khảo sát báo cáo tài
chính của các công ty cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán TP.HCM 2012
về mức độ sử dụng kế toán giá trị hợp lý trên các BCTC. Đồng thời, phát phiếu
khảo sát để khảo sát nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán, nhà cho vay và cả kế
12
toán (người lập báo cáo tài chính) có tin tưởng rằng các khoản mục trên báo cáo tài
chính trình bày theo giá trị hợp lý có độ tin cậy và thích hợp cho việc ra các quyết
định không.
4. Tổng quan và điểm mới của luận văn
Kế toán giá trị hợp lý: Lời cảnh báo từ vụ Enron
George J. Benston cho rằng: Enron mở rộng sử dụng dữ liệu cấp độ 3 và cấp độ 2
ước tính trong một số trường hợp cho cả báo cáo tài chính sử dụng nội bộ lẫn bên
ngoài. Đồng thời, mô tả các trường hợp Enron sử dụng và sử dụng sai giá trị hợp lý
để giúp kiểm toán viên và người sử dụng báo cáo tài chính nhận thức sâu sắc hơn
vấn đề, đặc biệt là trường hợp công ty sử dụng dữ liệu cấp 2 và 3. Những kế toán và
kiểm toán độc lập có ít kinh nghiệm với dữ liệu cấp độ 3 thì thường sử dụng chiết
khấu dòng tiền và kỹ thuật định giá khác được tạo ra bởi các nhà quản lý hơn là
tham chiếu đến những mức giá của thị trường. Giá thị trường, đặc biệt là dữ liệu đầu
vào cấp độ 2 được Enron sử dụng để định giá các cổ phiếu bị giới hạn, mặc dù trong
nhiều trường hợp họ không được điều chỉnh sự khác nhau giữa cổ phiếu mà họ đang
nắm giữ với cổ phiếu đang giao dịch trên thị trường theo FASB. Giá thị trường còn
được sử dụng bởi các thương nhân Enron trong các mô hình định giá tài chính của
họ theo xu hướng thổi phồng tài sản và thu nhập.
Bài báo mô tả việc Enron sử dụng và lạm dụng dữ liệu cấp 3 trong các hợp đồng
năng lượng, hợp đồng hàng hóa. Đồng thời, lý do tại sao hệ thống kiểm soát nội bộ
và kiểm toán độc lập không phát hiện được.
Thông qua những phân tích trên cho thấy quan điểm của Benston: Báo cáo tài
chính có thể bị phản ánh không đúng thực trạng công ty nếu như công ty sử dụng
giá trị hợp lý để định giá tài sản công ty mà lạm dụng việc sử dụng dữ liệu cấp 3.
Đồng thời, cũng chỉ ra rằng với hệ thống kiểm soát nội bộ yếu kém không phát hiện
ra các sai sót trọng yếu hoặc là có sự thông đồng với các kiểm toán độc lập đã lờ đi
các thông tin có “rủi ro cao”.
13
Mặc dù, ông cho rằng việc xác định kế toán giá trị hợp lý có nguồn gốc nội bộ dựa
trên các kỹ thuật định giá và các ước tính không đáng tin cậy. Nhưng chưa đưa các
giải pháp nhằm hạn chế hoặc cải thiện tình huống trên.
Quan điểm thứ 2: Sự dịch chuyển hợp lý: Khuynh hướng dịch chuyển đến giá trị hợp lý
Nishan Perera nghiên cứu và nhận xét: Báo cáo tài chính cung cấp thông tin cho
nội bộ của doanh nghiệp cũng như các nhà đầu tư. Nó chính là bức ảnh của doanh
nghiệp nhưng đôi khi bức ảnh này quá phức tạp đối với người sử dụng. Bài báo dự
đoán xu hướng sử dụng giá trị hợp lý. Tác giả cho rằng: minh bạch thông tin không
phải là ý tưởng hoàn toàn mới nhưng ảnh hưởng của nó sẽ chỉ phát triển trong
tương lai. Mặt khác, bài viết cũng trình bày khái niệm của giá trị hợp lý và chỉ ra sự
mơ hồ trong định nghĩa cùng với sự phức tạp của các phương pháp đo lường.
Những nguyên tắc kế toán được thừa nhận chung cho rằng khi có những tài sản
giảm giá trong thời gian dài thì công ty sẽ ghi giảm gía trị tài sản, còn khi gia tăng
giá trị thì công ty không ghi nhận trên bảng cân đối kế toán, điều này có nghĩa là
công ty có cơ sở để nhận thấy tài sản gia tăng giá trị nhưng người khác kể cả nhà
đầu tư lại không nhìn thấy vấn đề này.
Một sự di chuyển đến giá trị hợp lý: Người làm kế toán nhận thấy việc làm trên là
hoàn toàn không hợp lý. Làm như vậy tình hình tài chính công ty không minh bạch.
Vì vậy, FASB đã phát hành các chuẩn mực có liên quan đến giá trị hợp lý để ghi
nhận các khoản mục theo giá trị hợp lý dựa trên dữ liệu quan sát được. Điều này,
cũng yêu cầu các nhà quản lý phải làm quen với khái niệm giá trị hợp lý. Mặc dù
việc sử dụng giá trị hợp lý là một sự chọn lựa cho nhiều khoản mục, nhưng giá trị
hợp lý ngày càng được sử dụng nhiều hơn giá gốc.
Vậy thì điều gì là quan trọng cho các doanh nghiệp trong tương lai: các công ty sẽ
đo lường tài sản tài chính kể cả nợ và tài sản theo giá trị hợp lý. Chúng sẽ không
còn giữ một mức giá trong thời gian dài. Mà chúng phải phản ánh theo giá thị
trường khi các báo cáo tài chính được cập nhật. Điều này phù hợp hơn bởi vì phản
ánh giá trị thực sự mà công ty đang có. Đây chính là sự khác biệt giữa giá gốc và
14
giá trị hợp lý. Nhà đầu tư sẽ nhìn thấy sự thay đổi trong tài sản của công ty. Công ty
sẽ phải kiểm tra lại tất cả các tài sản mà nó đang nắm giữ để ghi nhận theo giá trị thị
trường. Việc làm này phải làm cẩn thận vì tất cả các quyết định này sẽ trình bày trên
báo cáo tài chính và qua đó sẽ nhìn thấy phản ứng của các bên liên quan.
Vậy thì đã sẵn sàng hay chưa khi sử dụng giá trị hợp lý? Kế toán là xương sống của
công ty, nhân viên kế toán chính là người phân loại các hoạt động của doanh
nghiệp. Họ sẽ phải phân loại cái gì mà công ty đang sở hữu và đang nợ để định giá
theo giá trị hợp lý. Nhưng không có cái gì tồn tại độc lập trong doanh nghiệp, kế
toán giá trị hợp lý sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp khi nó có hiệu lực.
Nó sẽ làm thay đổi tất cả những gì mà một giáo sư dạy ở trường nổi tiếng nhất nước
dạy. Các giám đốc tài chính phải suy nghĩ kế toán giá trị hợp lý sẽ ảnh hưởng đến
dự toán ngân sách; công ty cần một cấu trúc vốn với bao nhiêu nợ là đủ, hàng ngày
tình hình tài chính này ảnh hưởng đến hoạt động công ty trong tương lai như thế
nào. Các giám đốc điều hành phải lược qua tất cả các chi tiết tốt của hoạt động công
ty để nhìn thấy ảnh hưởng của nó đến sức khỏe của công ty trong tương lai. Đây chỉ
là 2 ví dụ quan trọng khi chuyển sang kế toán giá trị hợp lý.
Với những lập luận trên: Bài báo chỉ ra xu hướng tất yếu của kế toán giá trị hợp
lý. Đồng thời, những thay đổi khi sử dụng kế toán giá trị hợp lý cho cả nhà đầu tư
cũng như người sử dụng báo cáo tài chính nói chung. Có rất nhiều điều lo lắng khi
sử dụng kế toán giá trị hợp lý: Các ước tính rất là khó đạt được, các giả thuyết hành
vi thị trường có thể tác động đến công ty, giá trị thay đổi liên tục yêu cầu phải tái
định giá cùng với tuân thủ các quy định có thể là áp lực lên các nguồn lực của công
ty. Báo cáo tài chính phải liên tục thay đổi để phản ánh tình hình tài chính của công
ty, phản ánh giá trị thực sự. Người sử dụng báo cáo tài chính phải đọc chi tiết hơn
trước đây chỉ xem thu nhập ròng, các tỷ số. Vì các nghiên cứu liên quan sẽ đánh giá
sức mạnh công ty trong tương lai dài. Và phản ứng nhà đầu tư sẽ dựa trên sự thay
đổi giá trị hợp lý của các tài sản.
15
Nói chung, tác giả bài báo đưa ra những ưu điểm cũng như những thách thức đối
với kế toán giá trị hợp lý nhưng chưa có những đề xuất nhằm hạn chế những khó
khăn và thách thức này.
Quan điểm thứ 3:
Khủng hoảng kế toán giá trị hợp lý: Góc nhìn rõ ràng hơn những tranh cãi gần đây về giá trị hợp lý
Christian Laux và Leuz tóm lược có 4 vấn đề gây tranh cãi gần đây về kế toán giá trị
hợp lý:
Thứ nhất, có quá nhiều tranh cãi về giá trị hợp lý chẳng hạn, giá trị
hợp lý có gì mới và khác với giá gốc cũng như những quan điểm khác nhau
về mục đích của giá trị hợp lý.
Thứ hai, có mối quan tâm lớn về việc ghi nhận giá trị của các tài sản
theo giá thị trường trong thời kỳ khủng hoảng tài chính. Bởi vì, chúng tôi
thấy rằng có mối quan hệ giữa nguyên tắc và những quy định cũng như
những nhà quản lý và các nhà đầu tư quan tâm đến phản ứng của thị trường
trong ngắn hạn. Vấn đề này không thể giải quyết thông qua hệ thống kế toán.
Chúng có thể giải quyết một cách hợp lý hơn thông qua điều những quy ước
trong hợp đồng. Tuy nhiên, vấn đề sử dụng giá trị hợp lý theo GAAP US và
IFRs không nhất quán mới là mối quan tâm lớn. Cả hai chuẩn mực này cho
phép có những sai lệch với giá thị trường trong những tình huống không chắc
chắn, chẳng hạn như bán tháo. Chính điều này là nguồn gốc của mọi tranh
cãi.
Thứ ba, vấn đề thực hiện giá trị hợp lý trong thực tế. Ví dụ, có thể là
nhà quản lý phải đối mặt vụ kiện tụng về giá trị hợp lý cho dù nó có thể xác
định phù hợp. Cũng như SEC rất quan tâm khi cho phép các nhà quản lý có
đối xử linh hoạt trong các tình huống tiềm năng (như khủng hoảng tài chính),
họ có thể lợi dụng giá trị hợp lý để tránh các khoản lỗ và tổn thất tài sản.
Chính điều này, gây cho các nhà lập pháp cũng như tổ chức thực thi pháp
16
luật đối mặt với sự cân bằng giữa hiệu ứng lây lan và những suy giảm tức
thời.
Thứ tư, vậy sự quay trở lại sử dụng giá gốc có thể khắc phục vấn đề
không? Bản thân giá gốc cũng có nhiều vấn đề chẳng hạn như khuyến khích
cái gọi là lãi đã thực hiện hay chứng khoán hóa hay bán các tài sản. Câu trả
lời là sự thiếu minh bạch thông tin khi sử dụng giá gốc có thể làm cho tình
hình tài chính của công ty ngày càng tồi tệ hơn. Quan điểm ủng hộ cho rằng
giá trị hợp lý phản ánh những điều kiện hiện tại của thị trường và cung cấp
thông tin kịp thời. Vì vậy, giá trị hợp lý thể hiện sự minh bạch và có những
hành động kịp thời. Quan điểm phản đối giá trị hợp lý cho rằng: tính minh
bạch do giá trị hợp lý cung cấp có thực sự quan trọng?. Họ cho rằng giá trị
hợp lý có thật sự cung cấp thông tin hữu ích hay làm phát sinh những hành vi
sai lệch không mong muốn của các hãng và ngân hàng. Giá trị hợp lý không
phù hợp và tiềm ẩn những sai lệch đối với những tài sản do công ty nắm giữ
lâu dài; chẳng hạn giữ đến ngày đáo hạn, mức giá có thể bị bóp méo do thị
trường không hiệu quả, bởi kỹ thuật định giá không đáng tin cậy. Và giá trị
hợp lý góp phần vào khủng hoảng tài chính mang tính chu kỳ.
Thông qua bài phân tích, Christian Laux và Leuz giúp người đọc khái quát về giá
trị hợp lý: khái niệm, dữ liệu dùng để đo lường giá trị hợp lý. Bên cạnh đó, bài báo
cũng nhận thấy sự không nhất quán khi sử dụng giá trị hợp lý cả IFRs và GAAP
US. Hai nhà phân tích cũng bàn luận về những nhược điểm của giá gốc và giá hợp
lý và cho rằng cần có giải pháp thay thế; giải pháp thay thế sẽ phụ thuộc vào tài sản.
Bài viết cũng nhận ra khó khăn trong thực tế khi sử dụng dữ liệu ở mức 3; mặc dù
chuẩn mực có quy định cụ thể nhưng thật là khó khăn để xác định tình huống nào
cho phép có những sai lệch so với giá thị trường; tình huống nào nó bị lợi dụng bởi
chính người quản lý nhằm giảm tổn thất. Bên cạnh đó, họ cũng đánh giá những khó
khăn cho các nhà lập pháp: Bất cân xứng thông tin làm cho người quản lý có thông
tin tốt hơn nhân viên kiểm toán và SEC. Do đó, người làm luật không biết khi nào
cần có những phản ứng linh hoạt và tình huống nào hạn chế những phản ứng linh
17
hoạt. Giá thị trường dù xác định dễ dàng nhưng rất khó để thực thi. Do đó, giá trị
hợp lý coi như là một giải pháp nhằm giảm bớt bất cân xứng thông tin. Sự khủng
hoảng tài chính có thể do các ngân hàng không đưa các tài sản vào định giá theo cấp
độ 3 nên dẫn đến hiệu ứng lây lan. Và khi nào còn kiện tụng về giá trị hợp lý thì khi
đó các nhà lập pháp sẽ không ngừng phải hoàn thiện khung pháp lý.
Những tranh cãi liên quan đến kế toán giá trị hợp lý theo 2 ông thì có thể giải
quyết bằng cách minh bạch thông tin trên báo cáo tài chính. Nhưng câu hỏi đặt ra
thì liệu công bố thông tin hay minh bạch thông tin có lợi hay có hại?. Bởi vì, một
nghiên cứu của KPMG khi một số ngân hàng công bố các công cụ tài chính vào
năm 2007 là một trong những nguyên nhân gây khủng hoảng 2008. Nhà đầu tư phản
ứng như thế nào với những thông tin khi minh bạch, họ phản ứng ra sao thì vẫn
chưa được giải quyết.
Quan điểm thứ 4:
Tính thích hợp và đáng tin cậy của kế toán giá trị hợp lý trong hệ thống chuẩn
mực báo cáo tài chính quốc tế
TS. Nguyễn Thế Lộc tóm lược lại quá trình hình thành định nghĩa kế toán giá trị
hợp lý trong các chuẩn mực kế toán quốc tế cụ thể, để đi đến một định nghĩa thống
nhất. Kế toán giá trị hợp lý đã chứng tỏ thích hợp trong thông tin nhưng việc sử
dụng các kỹ thuật định giá theo mô hình toán học làm cho thông tin không đáng tin
cậy và đôi lúc gây khó hiểu. Bài viết mở ra hướng nghiên cứu cho độc giả về việc
sử dụng kế toán giá trị hợp lý có đảm bảo yêu cầu các đặc điểm chất lượng thông tin
hay không.
Quan điểm thứ 5:
Dự đoán giá trị hợp lý là cơ hội tốt nhất cho nhà đầu tư
Richard nghiên cứu và cho rằng: Sự khó khăn khi tất cả các công ty chuyển sang sử
dụng giá trị hợp lý. Một vài ví dụ mà Richard đưa ra về tình trạng hỗn loạn khi sử
dụng giá trị hợp lý: các ngân hàng đối xử với khoản lỗ do sự sụt giảm giá trị hợp lý
như là thu nhập đối với kế toán. Bởi vì những quy tắc kế toán giá trị hợp lý cho
phép xử lý các sụt giảm giá trị thị trường của các khoản nợ như là khoản thu nhập.
18
Tuy nhiên, theo quy định của kế toán hiện hành thì giá trị hợp lý của các tài sản
ngân hàng dường như bị bỏ qua. Ví dụ, danh mục cho vay là danh mục tài sản lớn
của ngân hàng ghi nhận theo giá gốc. Tồi tệ hơn sự sụt giảm giá trị hợp lý của
những tài sản của các ngân hàng lại gia tăng doanh thu, thu nhập và giá trị sổ sách.
Kế toán giá trị hợp lý đang là cây cầu thu hẹp khoản cách giữa giá thị trường và giá
trị sổ sách của các tài sản mà công ty đang nắm giữ. Nhưng giá trị hợp lý có hợp lý
hay không hợp lý. Việc ước tính giá trị hợp lý dựa trên những giả định khác nhau có
thể cho các kết quả khác nhau. Có lẽ đây cũng là lý do giải thích tại sao những
nguyên tắc kế toán dần rời bỏ những ước tính kế toán không chắc chắn về giá trị
hợp lý khi cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư. Kế toán theo giá gốc ghi nhận
doanh thu phù hợp với chi phí tạo ra doanh thu, phản ánh được các giao dịch xảy ra
trong quá khứ. Nhà đầu tư sử dụng những thông tin xem như điểm bắt đầu để dự
đoán dòng tiền cũng như dự đoán thu nhập.
Với những quan sát trên, ông cho kết luận: Kế toán hiện hành quy định không nhất
quán giữa 2 mô hình: kế toán giá gốc và kế toán giá trị hợp lý. Họ trung thành với
kế toán giá gốc trong ghi nhận doanh thu và chi phí trong khi đó cho phép ghi nhận
giá hợp lý cho một số điều chỉnh. Kết quả là bảng cân đối kế toán khó mà phản ánh
giá trị tài sản, nợ theo giá trị hợp lý, cũng như báo cáo thu nhập cũng khó phản ánh
khoản thu nhập chắc chắn khi có những điều chỉnh theo giá trị hợp lý. Mục tiêu
quan trọng của kế toán giá trị hợp lý là cung cấp thông tin hữu ích cho nhà đầu tư.
Hệ thống kế toán hiện hành đang thu hẹp khoảng cách mong đợi. Nhà thiết lập luật
pháp nên gắn với mô hình truyền thống nhưng phải giảm bớt các ước tính không
chắc về giá trị hợp lý. Các dữ liệu quan sát và các thông tin tốt nhất nên công bố.
Trong khi đó các nhà đầu tư khôn ngoan khi sử dụng báo cáo tài chính để quyết
định cần có sự thận trọng cao.
Với quan điểm kế thừa các nghiên cứu trên, luận văn sẽ trình bày các vấn đề:
Quá trình hình thành chuẩn mực kế toán quốc tế về giá trị hợp lý.
Kinh nghiệm của một số nước khi áp dụng kế toán giá trị hợp lý.
19
Tìm hiểu lý thuyết tổ chức dẫn đến thông tin bất cân xứng là một
trong những nguyên nhân hình thành nên giá trị hợp lý nhằm giảm bất cân
xứng thông tin.
Các đặc điểm chất lượng của báo cáo tài chính cụ thể, là tính thích
hợp và đáng tin cậy.
Giá trị hợp lý hình thành ở Việt Nam.
Xem xét giá trị hợp lý đã ban hành trong một số chuẩn mực kế toán
Việt Nam.
Khảo sát mức độ sử dụng kế toán giá trị hợp lý ở Việt Nam thông qua
thu thập báo cáo tài chính của các công ty niêm yết trên sở giao dịch TP.
HCM năm 2012.
Đồng thời, khảo sát nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán, nhà cho
vay và cả kế toán (người lập báo cáo tài chính) về tính đáng tin cậy và thích
hợp của những khoản mục trình bày trên báo cáo tài chính theo giá trị hợp lý.
Trên cơ sở các đánh giá trên luận văn sẽ đưa ra các kiến nghị nhằm sử
dụng kế toán giá trị hợp lý tại Việt Nam hiệu quả hơn.
5.Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp phân tích định tính kết hợp với phân tích định
lượng. Tổng quan quá trình hình thành kế toán giá trị hợp lý thông qua phân tích
định tính để đưa ra cái nhìn khái quát về giá trị hợp lý cũng như xem xét các đặc
điểm chất lượng của báo cáo tài chính. Đồng thời, sử dụng phương pháp định lượng
để khảo sát việc vận dụng giá trị hợp lý tại Việt Nam.
6.Bố cục của luận văn:
Luận văn có kết cấu như sau:
- Lời cảm ơn
- Lời cam đoan
- Mục lục
- Mở đầu
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về giá trị hợp lý
20
Chương 2: Thực trạng áp dụng kế toán giá trị hợp lý tại Tp.Hồ Chí Minh và ảnh
hưởng của kế toán giá trị hợp lý đến sự cân bằng giữa độ tin cậy và tính thích hợp
của thông tin trên báo cáo tài chính
Chương 3: Một số kiến nghị định hướng việc sử dụng giá trị hợp lý tại Việt Nam
- Kết luận
- Tài liệu tham khảo
- Phụ lục
21
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về giá trị hợp lý
1.3. Các mô hình định giá
Kế toán đòi hỏi các giao dịch phải được ghi nhận bằng đơn vị tiền tệ, do đó các
khoản mục trên báo cáo tài chính phải được định giá: “Định giá là đo lường các
giao dịch bằng đơn vị tiền tệ” (Vũ Hữu Đức, 2010, trang 28). Vấn đề định giá là
một vấn đề đang được tranh cãi rất nhiều không chỉ những người làm kế toán, các
nhà lập quy kế toán mà còn gây chú ý của nhà lãnh đạo các nước. Bởi lẽ, định giá
làm ảnh hưởng đến lợi nhuận, tình hình tài chính của một công ty. Đặc biệt, trong
bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu, mọi người đổ lỗi lên hệ thống định giá gây
tăng trưởng kinh tế quá nhanh và kết thúc bởi khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Trong
lịch sử phát triển của kế toán có rất nhiều loại giá cùng tồn tại bao gồm: kế toán giá
gốc, kế toán theo mức giá chung, kế tóan giá hiện hành, kế toán giá đầu ra…
1.1.5 Kế toán giá gốc
Kế toán giá gốc dựa trên giá mua vào quá khứ để ghi nhận các giao dịch và lập báo
cáo tài chính. Giá gốc là toàn bộ chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để có được tài sản
tính đến trạng thái sẵn sàng sử dụng.
Ưu điểm:
Đối với chủ sở hữu và chủ nợ thì kế toán giá gốc giúp người đọc đánh giá năng lực
quản lý cũng như trách nhiệm giải trình của người quản lý. So với các phương pháp
đo lường khác, giá gốc được cho là khách quan nên đảm bảo được đặc tính đáng tin
cậy của thông tin trên báo cáo tài chính. Mặt khác, đo lường theo giá gốc sẽ để lại
những dấu vết cho các kiểm toán giúp họ thực hiện các cuộc kiểm toán dễ dàng
hơn.
Nhược điểm:
Kế toán giá gốc ra đời từ lúc ghi sổ kép Pacioli và tới ngày nay vẫn còn được sử
dụng. Tuy nhiên, kế toán giá gốc cũng bộc lộ những nhược điểm nhất định. Kế toán
giá gốc phản ánh sự tăng trưởng của tài sản thuần theo đồng tiền danh nghĩa, không
phản ánh tài sản thuần theo sức mua của đồng tiền. Do đó, dẫn đến nhà quản lý có
thể sai lầm trong chia cổ tức, tức chia cổ tức nhiều hơn lãi thực của công ty. Mặt
22
khác, lợi nhuận tính theo giá gốc không quan tâm đến lợi nhuận kinh tế, tức chi phí
cơ hội không được tính. Kế toán giá gốc được xây dựng dựa trên giả định hoạt động
liên tục nhưng trong bối cảnh toàn cầu hóa thì sáp nhập, khủng hoảng diễn ra
thường xuyên thì giả định này không được đảm bảo chắc chắn. Kế đến, giả định
nguyên tắc phù hợp cũng rất là khó đáp ứng, chẳng hạn như phân bổ chi phí giữa
các kỳ kế toán đôi khi không chính xác.
Theo Sterling nhận xét về giá gốc như sau: “Bản chất giá gốc không phải là nguyên
lý cơ bản của kế toán; nó là thứ phái sinh của nguyên tắc thận trọng”.
1.1.6 Kế toán giá theo mức giá chung
Kế toán theo mức giá chung dựa trên chỉ số giá để điều chỉnh báo cáo tài chính
nhằm loại trừ ảnh hưởng biến động của giá, đặc biệt trong tình hình lạm phát.
Kế toán theo mức giá chung phát triển trong giai đoạn lạm phát gia tăng trên thế
giới vào những năm thuộc thập niên 1960-1970, và hiện nay một số nước có
mức lạm phát cao vẫn còn sử dụng.
Ưu điểm:
Tất cả các khoản mục trên báo cáo tài chính quy về cùng một đơn vị tiền tệ theo
sức mua tại cùng một thời điểm xem xét, do đó giúp tăng khả năng so sánh được
báo cáo tài chính giữa các công ty với nhau. Các kỹ thuật áp dụng để lập báo
cáo tài chính theo mức giá chung tương đối dễ dàng. Đồng thời, kế toán theo
mức giá chung cung cấp thông tin hữu ích cho người quản lý: các khoản mục
lãi/lỗ của khoản mục tiền tệ phản ánh cách thức mà người quản lý đối phó với
lạm phát, các khoản mục phi tiền tệ được điều chỉnh theo sức mua của đồng tiền
phản ánh doanh nghiệp cần có nguồn lực tương ứng để tái tạo chúng và lợi
nhuận đã loại trừ ảnh hưởng của biến động giá sẽ giúp cho doanh nghiệp đánh
giá khả năng tạo ra lợi nhuận chính xác hơn.
Nhược điểm:
Việc dùng một chỉ số để điều chỉnh là không phù hợp vì các tài sản khác nhau có
mức độ lạm phát khác nhau, cũng như các ngành khác nhau chịu ảnh hưởng của lạm
23
phát cũng khác nhau. Mặt khác, việc phân loại khoản mục là tiền tệ và phi tiền tệ
đôi khi gặp khó khăn.
1.1.7 Kế toán giá hiện hành
Kế toán giá hiện hành dùng giá hiện hành hay còn gọi là giá thay thế để lập báo
cáo tài chính và xác định lợi nhuận.
Ưu điểm:
Việc lập báo cáo tài chính dựa trên giá đầu ra giúp cho nhà quản lý xác định được
lãi từ hoạt động kinh doanh, lãi/lỗ do nắm giữ đã thực hiện và lãi/lỗ do nắm giữ
chưa thực hiện.
Nhược điểm:
Đối với các tài sản dài hạn như máy móc, chủ yếu phục vụ cho hoạt động sản xuất
kinh doanh nên việc tăng giá của các tài sản này không có ý nghĩa gì đối với doanh
nghiệp. Mặt khác, có một số tài sản không phải lúc nào cũng có thị trường để xác
định giá trị của chúng.
1.1.8 Kế toán giá đầu ra
Kế toán giá đầu ra dựa trên giá bán trên thị trường để đo lường và đánh giá tình
hình tài chính cũng như kết quả hoạt động của doanh nghiệp.
Ưu điểm:
Kế toán giá đầu ra do dựa trên giá thị trường nên thích hợp với tất cả các đối tượng
trong việc ra quyết định.
Nhược điểm:
Kế toán giá đầu ra sử dụng tiền đề định giá trong trao đổi để định giá. Trong khi,
một bộ phận tài sản của doanh nghiệp là sử dụng để hoạt động. Kế toán giá đầu ra là
tiền đề ra đời một loại giá mới “giá hợp lý”. Giấc mơ của các nhà kinh tế là giá trị
hợp lý của tài sản trừ đi giá trị hợp lý của nợ phải trả sẽ bằng với giá trị hiện hành
của vốn chủ sở hữu nếu như vốn chủ sở hữu được bán trong thị trường mở. Nhưng
đây vẫn chỉ là giấc mơ không bao giờ trở thành sự thật bởi lẽ không phải dễ dàng gì
ước tính được giá trị hợp lý cho tất cả các khoản mục trên báo cáo tài chính. Bên
cạnh đó, một số khoản mục như chi phí nghiên cứu phát triển, kỹ năng của người
24
lao động, danh mục khách hàng… gọi chung là tài sản vô hình của công ty thì vẫn
chưa có một mô hình định giá nào giải quyết triệt để. Mặc dù, giá trị tài sản vô hình
trên đóng góp rất lớn vào việc tạo ra lợi nhuận công ty và chỉ được định giá khi
công ty được bán. Dẫu vậy, sự ra đời của giá trị hợp lý đã mở ra hướng phát triển
mới trong hệ thống định giá của kế toán.
1.4. Sự hình thành giá trị hợp lý
1.2.3. Sự hình thành kế toán giá trị hợp lý
Giá trị hợp lý là một vấn đề nổi bật trong thời gian gần đây. Nó trở thành tiêu
chuẩn đo lường trên báo cáo tài chính (BCTC), đặc biệt cho các khoản mục là
tài sản tài chính và nợ phải trả tài chính. Theo nghiên cứu của Omiros Georgiou và Lisa Jack (2011)1 sự hình thành kế toán giá trị hợp lý có thể chia làm 3 giai
đoạn:
Giai đoạn 1850-1970: Giai đoạn tự phát của giá thị trường
Trước đây, vấn đề định giá trong kế toán quy định rất lỏng lẻo nhưng sau đại
khủng hoảng, giá gốc giữ một vai trò thống trị trong kế toán ở Mỹ vì người ta tin
rằng nó sẽ hạn chế các công ty thổi phồng tài sản. Giá thị trường được bàn đến
trong các nghiên cứu dưới các hình thức giá trị thuần có thể thực hiện, giá hiện
hành, giá đầu ra…
Giai đoạn 1970-1990: Giai đoạn chính thức hình thành giá trị hợp lý
Thời kỳ đầu của giai đoạn này, lạm phát khiến giá thị trường quan tâm. Một
trong giá thị trường được nhắc đến là giá hiện hành được hạch toán để đối phó
với lạm phát.
Đến những năm 1970, một trong những báo cáo kế toán đầu tiên của Hoa Kỳ đề
cập đến sử dụng giá trị hợp lý như là tiêu chuẩn trong đo lường là APB
(Acounting Principles Board) 18. APB 18 trình bày báo cáo tài chính hạch toán
và đo lường các khoản lỗ đầu tư như là yêu cầu ghi nhận khoản lỗ này nếu như
giá trị hợp lý của khoản đầu tư sụt giảm xuống thấp hơn giá trị ghi sổ. Đầu năm
1 Omiros Georgiou và Lisa Jack, 2011. In pursuit of legitimacy: a history behind fair value accounting, 251- 326 pp.
25
1973, APB 29 “kế toán các giao dịch phi tiền tệ” đã đưa ra triển vọng trình bày
giá trị hợp lý cho những giao dịch phi tiền tệ. Cuối những thập niên 1970, FAS
15 “kế toán dành cho chủ nợ và khách nợ để tái cấu trúc nợ xấu” đã đưa ra khái
niệm giá trị hợp lý.
Sang đến thập niên 1980, đo lường giá trị hợp lý cũng được trình bày trong kế
toán các quỹ. Chuẩn mực kế toán quốc tế trong thời gian này cũng ban hành
nhiều chuẩn mực có đề cập đến giá trị hợp lý như: IAS 16 “Bất động sản, nhà
xưởng và máy móc thiết bị”, IAS 17 “thuê tài sản”… Giai đoạn 1990–2005: Giai đoạn phát triển của giá trị hợp lý 2
Trong suốt thập niên 1990, chứng kiến sự bùng nổ của thương mại internet toàn
cầu, quá trình hợp nhất doanh nghiệp diễn ra mạnh mẽ. Tại Hoa kỳ, APB 16
“Hợp nhất kinh doanh” được cập nhật để ghi nhận lợi thế thương mại trong quá
trình hợp nhất cho những tài sản vô hình. Năm 1991, FAS 107 “công bố giá trị
hợp lý cho công cụ phái sinh” yêu cầu công bố giá trị hợp lý của các công cụ
phái sinh. Năm 1999, FAS 115 “kế toán cho chứng khoán nợ và chứng khoán
vốn”, yêu cầu giá trị hợp lý là tiêu chuẩn đo lường cho nhiều loại chứng khoán
nợ và chứng khoán vốn.
Năm 2000, FAS giới thiệu FAS 133 “kế toán công cụ phái sinh và bảo hiểm rủi
ro” yêu cầu ghi nhận các công cụ phái sinh theo giá trị hợp lý. Với sự gia tăng
của nền kinh tế toàn cầu và ngày càng tăng các doanh nghiệp xuyên quốc gia,
nhà đầu tư và người sử dụng khác đòi hỏi có bộ tiêu chuẩn chung cho thông tin
tài chính. Ngày 29/6/2001 Ủy ban chuẩn mực kế toán Hoa kỳ (FASB) phát hành
FAS 141 “Hợp nhất kinh doanh”–tiêu chuẩn đầu tiên của FASB về hợp nhất
kinh doanh yêu cầu: "Một tài sản cố định vô hình được ghi nhận như một tài sản
trừ lợi thế thương mại phát sinh từ giao dịch hoặc bản quyền; nếu không phát
sinh từ giao dịch thì tài sản cố định vô hình được ghi nhận như một tài sản chỉ
khi nó có khả năng được bán, chuyển nhượng, cấp giấy phép, cho thuê hoặc trao
đổi.”
2 Mark L.Zyla, 2010. Fair value measurements, Practical guidance and implementation, 2-8 pp
26
Sau năm 2005, mặc dù việc sử dụng giá trị hợp lý vẫn còn có những tranh cãi.
Tuy nhiên, vào 9/2006 Ủy ban chuẩn mực kế toán Hoa Kỳ (FASB) ban hành
FAS 157 “Đo lường giá trị hợp lý”, hình thành một tiền đề phát triển cho giá trị
hợp lý khi mà nó được tách riêng ra một chuẩn mực để cụ thể hóa việc đo
lường, ghi nhận và công bố các thông tin có liên quan. Năm 2007, FASB tiếp
tục ban hành FAS 159 “sự lựa chọn giá trị hợp lý cho tài sản tài chính và nợ phải
trả tài chính- bao gồm cả sự sửa đổi FAS 115” cho phép các công ty chọn lựa sử
dụng giá trị hợp lý cho các tài sản và nợ phải trả.
Một vấn đề mà FASB nhận thấy từ người sử dụng báo cáo tài chính là họ lo lắng
về sự khác nhau về BCTC của các nước. Với sự gia tăng của nền kinh tế toàn
cầu và ngày càng tăng các doanh nghiệp xuyên quốc gia, nhà đầu tư và người sử
dụng khác đòi hỏi có bộ tiêu chuẩn chung cho thông tin tài chính. Chính vì vậy,
IASB và FASB đã bắt tay với nhau soạn ra bộ chuẩn mực thống nhất. Tháng
5/2011, IASB đã ban hành chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế về giá trị hợp lý
IFRs 13 “Đo lường giá trị hợp lý” có giá trị pháp lý từ 2013. Trong quá trình
IASB soạn thảo IFRs 13 đã cân nhắc lấy FAS 157 như một điểm khởi đầu của
sự thận trọng và nhất quán để hướng dẫn thực hiện với mong muốn có sự hội tụ
cao với GAAP US- Những nguyên tắc kế toán được thừa nhận chung US.
1.2.4. Khái niệm giá trị hợp lý
Một trong những lý do trì hoãn sử dụng giá trị hợp lý khi chuẩn mực kế toán giá
trị hợp lý của Mỹ ban hành FAS 157- Đo lường giá trị hợp lý, là người lập báo
cáo tài chính cảm thấy khó hiểu về giá trị hợp lý. Ngay cả, khái niệm về giá trị
hợp lý trong các chuẩn khác nhau cũng không nhất quán. Chúng ta sơ lược qua
một số khái niệm về giá trị hợp lý được quy định:
Theo FAS 15 “kế toán dành cho chủ nợ và khách nợ để tái cấu trúc nợ xấu” của
chuẩn mực kế toán Hoa Kỳ thì giá trị hợp lý được hiểu như là giá mà người
mua sẵn sàng và người bán sẵn sàng giao dịch mô tả giá thị trường và chiết
khấu dòng tiền trong kế toán khi gặp tình huống khó khăn. Căn cứ vào khái
27
niệm này thì giá trị hợp lý là giá thị trường và nếu có khó khăn về giá thị trường
thì nó chính là dòng tiền chiết khấu.
Theo chuẩn mực kế toán quốc tế IAS 16 “Bất động sản, Nhà xưởng và Máy móc
thiết bị”, được ban hành vào năm 1982. Theo chuẩn mực kế toán này, “giá trị
hợp lý là giá trị tài sản có thể đem trao đổi giữa các bên có hiểu biết, có thiện
chí trong một giao dịch trao đổi ngang giá”. Căn cứ vào định nghĩa này, giá trị
hợp lý là giá trị trao đổi, không phải là giá trị sử dụng.
Định nghĩa giá trị hợp lý được bổ sung trong chuẩn mực kế toán quốc tế số 17
“Thuê Tài sản” ban hành năm 1982. Theo chuẩn mực kế toán này, “giá trị hợp
lý là giá trị tài sản có thể đem trao đổi, hay nợ phải trả được thanh toán giữa
các bên có hiểu biết, có thiện chí trong một giao dịch trao đổi ngang giá”. IAS
17 đề cập đến giá trị hợp lý của cả tài sản và nợ phải trả. Theo đó, giá trị hợp lý
của một khoản nợ phải trả là giá trị thanh toán nợ phải trả. Đây là một khái niệm
liên quan đến “giá trị đầu ra” không phải giá trị trao đổi. Qua các khái niệm trên
cho thấy có sự không nhất quán về định nghĩa giá trị hợp lý của tài sản và nợ
phải trả trong hệ thống chuẩn mực kế toán.
Năm 2012, IASB đã ban hành chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế về giá trị
hợp lý IFRs 13 “Đo lường giá trị hợp lý”, trong đó, giá trị hợp lý được định
nghĩa là “giá trị sẽ nhận được khi bán một tài sản hay giá trị thanh toán để
chuyển giao một khoản nợ phải trả trong một giao dịch thông thường giữa
các bên tham gia thị trường tại ngày đo lường”. Định nghĩa về giá trị hợp lý
trong chuẩn mực này tương tự như định nghĩa giá trị hợp lý được đưa ra trong
chuẩn mực số 157 “Đo lường giá trị hợp lý” của Ủy Ban Kế toán tài chính Hoa
Kỳ (FASB- Financial Accounting Standard Board) ban hành năm 2006. Giá trị
hợp lý chính là giá đầu ra. Giá trị đầu ra có thể được xác định trực tiếp từ thị
trường hay ước tính bằng cách sử dụng các kỹ thuật định giá.
Như vậy, chúng ta nhận thấy rằng những khái niệm về giá trị hợp lý trước đây
có những điểm yếu mà làm cho người lập báo cáo tài chính cảm thấy khó hiểu:
- Nó không cụ thể là người mua hay người bán tài sản.
28
- Cũng không làm rõ về việc cái gì thanh toán, bởi vì không đề cập đến chủ nợ
(tức người đang sở hữu khoản nợ hay là người nhận khoản nợ này).
- Nó cũng không làm rõ cơ sở đo lường (do đơn vị đo lường hay là dựa trên đo
lường của tổ chức khác).
- Thời điểm để xác định giá trị trao đổi tài sản cũng như nợ phải trả.
Trong khi đó, định nghĩa về giá trị hợp lý trong IFRs 13 làm rõ hơn:
- Nó cụ thể giá trị hợp lý là giá mà tổ chức đang bán tài sản.
- Hay chuyển giao một khoản nợ phải trả.
- Làm rõ cơ sở đo lường là giá được đo lường bởi những người tham gia thị
trường chứ không phải của tổ chức.
- Giá trị hợp lý của tài sản hoặc nợ phải trả xác định tại ngày đo lường.
Do đó, tôi cho rằng định nghĩa trong IFRs 13 về giá trị hợp lý là định nghĩa
đầy đủ, rõ ràng và thống nhất hơn so với các định nghĩa khác về giá trị hợp lý trong
các chuẩn mực đã ban hành trước đây. Trong đó:
Giao dịch thông thường là giao dịch mà cho rằng sẵn có trên thị trường vào kỳ trước
của ngày đo lường chú ý đến các hoạt động thông thường và thông lệ đối với các
giao dịch bao gồm các tài sản và nợ phải trả.
Vì vậy, trong phần kế tiếp tôi sẽ trình bày những nội dung liên quan đến giá trị hợp
lý được quy định trong IFRs 13.
1.5. Những nội dung liên quan đến giá trị hợp lý
Trước đây, chúng ta rất tham lam trong việc sử dụng giá trị hợp lý với suy nghĩ
giá trị hợp lý sẽ sử dụng cho tất cả các khoản mục trên báo cáo tài chính. Nhưng
điều này dường như là không thể. Từ đó, các nhà soạn thảo chuẩn mực kế toán
hướng đến giải pháp tối ưu hơn là giá trị hợp lý có thể chỉ áp dụng cho một số
khoản mục trên báo cáo tài chính.
1.3.5. Xác định giá trị hợp lý
Bước đầu tiên trong việc xác định giá trị hợp lý của một khoản mục nào đó sẽ
bắt đầu từ việc xác định đối tượng nào sẽ đo lường theo giá trị hợp lý. Cụ thể,
các bước để đo lường giá trị hợp lý thể hiện qua bảng:
29
Bảng 1.1: Các bước đo lường giá trị hợp lý
Đối tượng định giá
Thị trường giao dịch
Các bên tham gia thị trường
Dữ liệu đầu vào
Phương pháp định giá
1.3.1.1 Đối tượng định giá
Khi xác định giá trị hợp lý của tài sản hay nợ phải trả cần phải chú ý đến những đặc
điểm cụ thể:
Tài sản hay nợ phải trả là chúng thuộc một nhóm-group (ví dụ như đo lường
một nhóm tài sản hay một doanh nghiệp) hoặc chúng là tài sản đơn lẻ-
Standalones (ví dụ công cụ tài chính hay tài sản hoạt động).
Tình trạng của tài sản có còn tốn chi phí để hoàn thành tài sản đó hay không
(như tài sản còn dở dang) hay phải đánh giá tình trạng kỹ thuật của tài sản (
tài sản đã qua sử dụng).
Địa điểm cũng đóng một vai trò quan trọng vì chi phí giao dịch không được
tính vào giá trị hợp lý nhưng chi phí vận chuyển tài sản lại được tính vào giá
trị hợp lý vì nó là thuộc tính của tài sản.
30
Các giới hạn về bán hay sử dụng tài sản hay các rủi ro có liên quan nợ phải
trả: Có những tài sản bị giới hạn về bán dẫn đến bị giới hạn không được lấy
giá ở thị trường (mà ở thị trường đó bị giới hạn không được bán) để đo lường
cho giá trị hợp lý hoặc khoản nợ phải trả có gặp rủi ro về nghĩa vụ không
thực hiện đầy đủ hay không.
Tài sản phi tài chính
Khi xem xét đối tượng đo lường giá trị hợp lý đối với “tài sản phi tài chính” thì
giả định được đưa ra dựa trên tiền đề định giá sử dụng tối ưu (highest and best
use) của các bên tham gia thị trường. Bao gồm: sử dụng tối ưu trong sử dụng và
tối ưu trong trao đổi.
Trong sử dụng: Sử dụng tối ưu trong sử dụng nếu tài sản này cung cấp một
giá trị tối đa cho các bên tham gia thị trường thông qua việc tài sản này sử
dụng kết hợp với các tài sản khác. Tức là tiền đề định giá trong sử dụng được
áp dụng khi các tài sản định giá để sử dụng được cần phải có sự kết hợp với
các tài sản khác-sử dụng như một nhóm. Ví dụ: như các thiết bị sản xuất,
chúng cần có một dây chuyền sản xuất.
Trong trao đổi: Sử dụng tối ưu trong trao đổi nếu như tài sản này cung cấp
giá trị tối đa cho các bên tham gia thị trường trên cơ sở sử dụng đơn lẻ, tức
tài sản này không cần kết hợp với tài sản khác. Ví dụ: như xe tải hoặc bất
động sản đầu tư.
Đối với nợ phải trả và những công cụ tài chính mà doanh nghiệp sở hữu
người ta không sử dụng tiền đề định giá tối ưu mà sử dụng giá niêm yết, thể hiện
qua sơ đồ sau đây:
Bảng 1.2: Cách thức công ty xác định giá trị hợp lý cho nợ phải trả và công
cụ tài chính mà công ty sở hữu
31
Có giá niêm yết cho nợ phải trả và tài sản tài chính đồng nhất hoặc tương tự không?
Có Không
Sử dụng giá niêm yết Công cụ tài chính tương tự nắm giữ bởi công ty khác hay không?
Không Có
Không phải điều chỉnh
Định giá từ quan điểm của những người tham gia thị trường Định giá từ quan điểm của những người tham gia thị trường
Có
Giá niêm yết trong thị trường hoạt động Sử dụng giá niêm yết có điều chỉnh
Không
Sử dụng kỹ thuật định giá
Nguồn: kpmg.com/IFR, First impressions: Fair value measurement, June 2011
Đo lường giá trị hợp lý đối với khoản nợ phải trả thừa nhận rằng nợ phải trả
được chuyển nhượng cho đối tác tham gia thị trường vào ngày đo lường (nợ phải
trả vẫn tiếp tục đối với đối tác và chưa được thanh toán) và rủi ro không thực
hiện nghĩa vụ liên quan đến nợ phải trả là giống nhau giữa trước và sau khi
chuyển nhượng. Rủi ro không thực hiện nghĩa vụ là rủi ro phản ánh rủi ro mà
32
nghĩa vụ không thực hiện đầy đủ và tác động đến giá trị mà tại đó nợ phải trả
được chuyển nhượng.
1.3.1.2 Thị trường giao dịch
Một vấn đề cũng gây tranh cãi không kém khi xác định giá trị hợp lý là tài sản, nợ
phải trả được giao dịch ở nhiều thị trường khác nhau, vậy thì chọn thị trường nào để
đo lường giá trị hợp lý. IFRs 13 xác định thị trường dùng để xác định giá trị hợp lý
là thị trường chính. Thị trường chính là thị trường mà ở đó doanh nghiệp báo cáo có
thể bán được tài sản hay thanh toán nợ phải trả với số lượng lớn nhất và mức độ linh
hoạt của tài sản và nợ phải trả lớn nhất. Nếu trường hợp không có thị trường chính
thì thị trường có nhiều thuận lợi nhất sẽ được chọn. Thị trường có nhiều thuận lợi
nhất là thị trường mà ở đó doanh nghiệp báo cáo sẽ bán được tài sản với giá tối đa
mà có thể nhận được từ tài sản và giá trị tối thiểu sẽ phải thanh toán cho khoản nợ
phải trả khi xem xét chi phí giao dịch trong các trường hợp tương ứng.
Ví dụ: Có một thương nhân buôn bán hàng hóa, anh ta có thể tiếp cận hai thị trường
London và New York. Thông thường, anh ta bán hàng trên thị trường London và
đôi lúc anh ta có thể bán trên thị trường khác. Anh ta chưa bao giờ bán hàng trên thị
trường New York, mặc dù thị trường này có số lượng hàng hóa được bán lớn nhất
và mức độ linh hoạt cho hàng hóa cao nhất. Mức giá trên hai thị trường này như
sau:
London New York
Giá bán mỗi đơn vị 50 52
Chi phí giao dịch 2 6
Chi phí vận chuyển 4 4
Giá bán khởi điểm 44 42
Giá trị hợp lý (FV) 46 48
Trong hai thị trường trên thị trường thì New York là thị trường chính vì thị trường
này có số lượng hàng hóa được bán lớn nhất và mức độ linh hoạt cho hàng hóa cao
nhất, còn thị trường Lon Don là thị trường thuận lợi nhất, là số tiền nhận được lớn
nhất sau khi trừ đi chi phí giao dịch và chi phí vận chuyển.
33
1.3.1.3 Các bên tham gia thị trường
Khi xem xét các bên tham gia thị trường thì chuẩn mực yêu cầu không nhất thiết
phải xác định công ty cụ thể nào là bên tham gia thị trường, bên tham gia cần thỏa
mãn các đặc điểm sau:
Độc lập với đơn vị báo cáo, họ không phải các bên liên quan.
Hiểu biết lẫn nhau, có sự hiểu biết hợp lý về tài sản hay nợ phải trả và giao
dịch được dựa trên thông tin hoàn toàn sẵn có.
Có khả năng tham gia vào giao dịch.
Sẵn sàng tham gia vào giao dịch mà không bị ép buộc hay cưỡng bức.
1.3.1.4 Dữ liệu đầu vào
Trong IFRs 13, chuẩn mực cũng trình bày những rủi ro mà các bên tham gia thị
trường gặp phải khi đo lường giá trị hợp lý: rủi ro vốn có trong các kỹ thuật định giá
(chẳng hạn các mô hình) hoặc rủi ro vốn có của chính các dữ liệu đầu vào cho kỹ
thuật định giá. Bao gồm hai loại dữ liệu đầu vào:
Dữ liệu đầu vào quan sát được: là dữ liệu mà doanh nghiệp báo cáo có thể
đạt được từ một nguồn độc lập với đơn vị báo cáo dựa trên dữ liệu sẵn có
trên thị trường.
Dữ liệu không quan sát được là dữ liệu mà giả định rằng đơn vị báo cáo giả
thuyết rằng các bên tham gia thị trường giả định sẽ sử dụng để định giá tài
sản hay nợ phải trả được phát triển trên cơ sở thông tin tốt nhất sẵn có trên
thị trường trong các tình huống.
Đồng thời, chuẩn mực này cũng đưa ra khái niệm hệ thống cấp bậc giá trị hợp lý mà
ưu tiên các dữ liệu đầu vào cho các kỹ thuật định giá được sử dụng để đo lường giá
trị hợp lý. Cấp bậc giá trị hợp lý được ưu tiên cao nhất là giá tham chiếu trên thị
trường hoạt động (không phải điều chỉnh) đối với các tài sản và nợ phải trả đồng
nhất (mức 1) và thấp nhất là đối với trường hợp sử dụng dữ liệu đầu vào không
quan sát được (mức 3). Dữ liệu đầu vào đáng tin cậy để đo lường giá trị hợp lý là
giá tham chiếu trên thị trường hoạt động. Nếu như những dữ liệu đầu vào không có
34
sẵn thì công ty sẽ tiến hành các kỹ thuật định giá để đo lường giá trị hợp lý sao cho
tối đa dữ liệu quan sát được và tối thiểu các dữ liệu không quan sát. Cụ thể:
Dữ liệu đầu vào mức 1: là giá tham chiếu trong thị trường hoạt động cho
những tài sản và nợ phải trả đồng nhất. Thị trường hoạt động là thị trường mà ở
đó các giao dịch cho tài sản hay nợ phải trả xảy ra thường xuyên và đủ số lượng
để cung cấp thông tin định giá. Giá trị hợp lý là giá tham chiếu.
Dữ liệu đầu vào mức 2: là các dữ liệu khác với mức giá tham chiếu, bao gồm
trong mức 1 mà quan sát được đối với tài sản hay nợ phải trả. Dữ liệu đầu vào
mức 2 bao gồm:
o Giá tham chiếu của các tài sản hay nợ phải trả tương tự trên thị trường hoạt
động.
o Giá tham chiếu của tài sản hay nợ phải trả đồng nhất trên thị trường không
hoạt động.
o Dữ liệu đầu vào khác với giá tham chiếu mà quan sát được đối với tài sản
và nợ phải trả (ví dụ lãi suất và rủi ro tín dụng…)
Dữ liệu đầu vào có thể quan sát này sẽ điều chỉnh phụ thuộc vào các nhân tố đặc
thù của tài sản hay nợ phải trả. Sau khi điều chỉnh thì dữ liệu đầu vào chính là giá
trị hợp lý.
Dữ liệu đầu vào mức 3: Là dữ liệu không quan sát được cho các tài sản và nợ
phải trả, trong một chừng mực nào đó dữ liệu có thể quan sát không sẵn có và
cho phép trong các tình huống mà thị trường hoạt động ít.
35
Bảng 1.3: Xác định giá trị hợp lý dựa vào dữ liệu đầu vào
Có giá tham chiếu trong một thị trường hoạt động cho tài sản hay nợ phải trả đồng nhất hay không?
Không Có
Giá trị hợp lý là giá tham chiếu (mức 1)
Dựa vào giá thị trường thông qua các kỹ thuật định giá * (dùng cho dữ liệu quan sát được + và dữ liệu không quan sát: mức 2 và mức 3)
Không phải điều chỉnh
Sử dụng dữ liệu mức 2 (dữ liệu có thể quan sát mà khác mức 1) Sử dụng dữ liệu mức 3 (dữ liệu không thể quan sát)++
Nguồn: IFRs.com, Guidance: IFRS 13 Fair Value Measurement, 2012. * Kỹ thuật định giá bao gồm: phương pháp thị trường, phương pháp thu nhập,
phương pháp chi phí. + Tối đa sử dụng dữ liệu có thể quan sát có liên quan và tối thiểu việc sử dụng các
dữ liệu không quan sát được. Dữ liệu có thể quan sát bao gồm dữ liệu của thị
trường (giá và những thông tin sẵn có được công bố trên thị trường). ++ Dữ liệu không quan sát bao gồm dữ liệu của chính đơn vị báo cáo mà sẽ được
điều chỉnh nếu như những người tham gia thị trường sử dụng các giả định khác.
1.3.1.5 Các phương pháp định giá
Dữ liệu đầu vào chính là cơ sở cho các bên tham gia thị trường lựa chọn kỹ thuật
định giá phù hợp. Đơn vị báo cáo sẽ lựa chọn kỹ thuật định giá mà phù hợp trong
các tình huống và dữ liệu hiệu quả sẵn có. Có 3 phương pháp tiếp cận: phương pháp
thị trường, phương pháp thu nhập, phương pháp chi phí. Đối với dữ liệu đầu vào
thuộc mức 1 và mức 2 chỉ cần sử dụng phương pháp thị trường. Còn đối với dữ liệu
36
mức 3 là dữ liệu đầu vào không quan sát được thì có thể phối hợp cả 3 phương pháp
trên để lựa chọn kết quả phù hợp nhất.
Phương pháp thị trường: lấy mức giá tham chiếu từ những giao dịch trên thị
trường cho các tài sản và nợ phải trả đồng nhất. Ví dụ thường sử dụng thị
trường đa dạng để so sánh. Phương pháp này sử dụng cho dữ liệu mức 1 thì
không phải điều chỉnh nhưng nếu sử dụng cho dữ liệu mức 2 thì cần có các
điều chỉnh.
Phương pháp thu nhập: là phương pháp chuyển đổi các giá trị tương lai (ví dụ:
các luồng tiền hay thu nhập) về giá trị hiện tại thông qua chiết khấu. Ví dụ:
Chiết khấu dòng tiền/hiện giá dòng tiền, chọn các mô hình định giá hay
phương pháp thu nhập dư ra của nhiều kỳ.
Phương pháp chi phí: Giá trị hợp lý thường được đo lường dựa trên giá trị tài
sản thay thế (tính trên chi phí cần thiết để tạo ra một tài sản tương tự).
Nói chung, IFRs 13 không đề xuất thứ tự ưu tiên phương pháp nào. IFRs 13 chỉ xác
định thứ tự ưu tiên của các dữ liệu đầu vào để sử dụng tham chiếu cho việc định giá.
Về phía doanh nghiệp sẽ tự xác định thứ tự ưu tiên các phương pháp phù hợp.
Trong những trường hợp cần thiết có thể sử dụng kết hợp vài phương pháp. Việc
lựa chọn phương pháp nào là phụ thuộc vào xét đoán của doanh nghiệp. Bảng 1.4: Phương pháp chọn kỹ thuật định giá3
3 Lê Vũ Ngọc Thanh, Luận Văn thạc sĩ “Định hướng về việc sử dụng giá trị hợp lý trong kế toán doanh nghiệp Việt Nam”, 2005.
37
Dữ liệu mức 1 Phương pháp thị trường
Có giá thị trường tham chiếu Giá tham chiếu
Bắt đầu Dữ liệu mức 2 Phương pháp thị trường
Giá tham chiếu đã điều chỉnh
Phương pháp thị trường
Không có giá thị trường tham chiếu hoặc có giá tham chiếu nhưng không xác định mức độ khác biệt
Lựa chọn kết quả đáng tin cậy nhất phù hợp với tiền đề định giá Phương pháp chi phí Dữ liệu mức 3
Phương pháp thu nhập
1.3.6. Vấn đề áp dụng kế toán giá trị hợp lý
Giá trị hợp lý trong khuôn mẫu lý thuyết kế toán được xem như một loại giá
thay thế cho các loại giá khác. IFRs 13 ban hành thiết lập khung đo lường giá trị
38
hợp lý chung cho tất cả các khoản mục, còn việc các khoản tài sản, nợ phải trả
đo lường giá trị hợp lý như thế nào sẽ được quy định chi tiết trong từng IFRs cụ
thể. Tức là khi áp dụng IFRs 13 cần có sự kết hợp với các chuẩn mực quy định
cụ thể về đối tượng đo lường đó. Chẳng hạn, khi đơn vị đo lường giá trị hợp lý
cho các tài sản tài chính cần có sự kết hợp giữa công cụ tài chính sử dụng IAS
39/IFRs 9 và IFRs13, trong đó IFRs 13 quy định tiền đề định giá sử dụng tối ưu
trong trao đổi. Ngược lại đơn vị báo cáo sẽ sử dụng IAS 36 “Tổn thất tài sản”
kết hợp IFRs 13 tiền đề định giá sử dụng tối ưu trong sử dụng cho nhóm tài sản
và nợ phải trả bao gồm dòng tiền được tạo ra từ doanh nghiệp.
1.3.7. Công bố thông tin
Đơn vị báo cáo cần công bố những thông tin liên quan đến những dữ liệu dùng để
đo lường giá trị hợp lý cho người sử dụng đánh giá và đơn vị có đang sử dụng đáng
kể các dữ liệu đầu vào không quan sát để đo lường giá trị hợp lý hay không. Vì dữ
liệu đầu vào không quan sát được là một trong những lý do làm cho giá trị hợp lý đo
lường không đáng tin cậy so với các loại giá khác. Việc công bố nó sẽ giảm thiểu
các rủi ro cho người sử dụng BCTC.
39
Bảng 1.5: Công bố thông tin đo lường giá trị hợp lý
Công bố thông tin
Dữ liệu mức 2 Dữ liệu có thể quan sát khác
Dữ liệu mức 3 Dữ liệu không quan sát được
Dữ liệu mức 1 trong thị trường hoạt động cho tài sản và nợ phải trả
o Đo lường giá trị hợp lý tại ngày báo cáo o Dữ liệu đầu vào thuộc cấp bậc giá trị hợp
lý
o Khoản lãi hoặc lỗ trong kỳ bao gồm: thu nhập (hoặc thay đổi trong tài sản thuần) mà biểu hiện cho lãi hoặc lỗ chưa thực hiện liên quan đến tài sản và nợ phải trả mà đơn vị giữ đến ngày báo cáo và mô tả vị trí của khoản lãi hay lỗ chưa thực hiện này được trình bày trên báo cáo thu nhập.
o Đo lường giá trị hợp lý tại ngày báo cáo o Dữ liệu đầu vào thuộc cấp bậc giá trị hợp lý o Một bảng đối chiếu từ đầu kỳ đến cuối kỳ báo cáo những thay đổi được trình bày một cách riêng biệt trong kỳ và bổ sung sau đây Tổng khoản lãi hoặc lỗ trong kỳ ( thực hiện và chưa thực hiện) phân khúc khoản lãi hoặc lỗ này thuộc thu nhập (hoặc thay đổi của tài sản thuần và mô tả vị trí của khoản lãi hay lỗ đã thực hiện trong thu nhập (hoặc thay đổi tài sản thuần) được trình bày trên báo cáo thu nhập.
Mua, bán, phát hành và thanh toán (ròng)
Có sự dịch chuyển dữ liệu trong và/hoặc
o Chỉ trong báo cáo năm, các kỹ thuật định giá được sử dụng để đo lường giá hợp lý và thảo luận sự thay đổi của các kỹ thuật định giá, nếu có trong suốt kỳ báo cáo
ngoài mức 3 (sự dịch chuyển này là do thay
đổi dữ liệu có thể quan sát)
o Chỉ trong báo cáo năm, các kỹ thuật định giá được sử dụng để đo lường giá hợp lý và thảo luận sự thay đổi của các kỹ thuật định giá, nếu có trong suốt kỳ báo cáo
Nguồn : James P. Catt, 2010. Guide to Fair Value under IFRs, 14 pp.
40
1.3.8. Tác động của chuẩn mực kế toán quốc tế IFRs 13-Đo lường giá trị
hợp lý đến các chuẩn mực đã ban hành.
Khi IFRs 13 có hiệu lực thì rất nhiều chuẩn mực khác sẽ bị chi phối. Bởi IFRs 13 là
chuẩn mực đo lường giá trị hợp lý nền tảng. Trong đó, các chuẩn mực khác nếu cho
phép đo lường giá trị hợp lý thì phải lấy IFRs13 ra tham chiếu:
Chuẩn Tác động đến các chuẩn mực khác
mực
IFRs 1 Trước khi phát hành IFRs 13 thì IFRs 1 quy định đơn vị báo cáo dựa vào khái
Chuẩn niệm giá trị hợp lý trong IFRs1 kết hợp với với bất kỳ một hướng dẫn cụ thể
mực trong các IFRs khác để đo lường giá trị hợp lý cho tài sản hay nợ phải trả. Sau
chung về khi IFRs 13 ban hành thì đơn vị báo cáo dựa vào khái niệm giá trị hợp lý trong
báo cáo IFRs 13 kết hợp với với bất kỳ một hướng dẫn cụ thể trong các IFRs khác để đo
tài chính lường giá trị hợp lý cho tài sản hay nợ phải trả
IFRs 7- Công bố thông tin cho các yêu cầu của IFRs 7 được thay thế bởi IFRs 13. Ví
Công cụ dụ: IFRs 7 yêu cầu “khi có sự chuyển giao lớn giữa dữ liệu giữa mức 1 và mức
tài chính 2 và những lý do gây ra sự chuyển giao dữ liệu” doanh nghiệp phải công bố.
Trong khi đó, IFRs 13 yêu cầu đơn vị phải công bố “khi có bất cứ sự chuyển
giao dữ liệu giữa mức 1 và 2, những lý do gây ra sự chuyển giao giữa các mức
dữ liệu và chính sách của doanh nghiệp xác định khi nào có sự chuyển giao dữ
liệu giữa các mức trong cấp bậc”, cụm từ significant-“lớn” trong IFRs 7 đã bỏ
qua vì nó trừu tượng.
IAS 39- Hầu hết những hướng dẫn về đo lường giá trị hợp lý trong IAS 39 và IFRs 9
Công cụ đều đã bỏ và thay thế bằng IFRs 13. Trước đây, xác định giá trị hợp lý bao gồm
tài chính: chi phí giao dịch, nhưng sau khi ban hành IFRs 13 thì chi phí giao dịch không
Ghi nhận tính vào giá trị hợp lý.
và đo
lường
IAS 16- Hướng dẫn về đo lường giá trị hợp lý trong IAS 16 đã được thay thế bằng IFRs
Bất động 13. Những yêu cầu về công bố giá trị hợp lý trong IFRs 13 chính là sao chụp lại
41
sản, nhà IAS 16. Tuy nhiên, IFRs 13 yêu cầu công bố thêm ngày mà đơn vị báo cáo tiến
xưởng và hành đánh giá lại, tổ chức đánh giá lại có độc lập và giá trị còn lại của các tài
thiết bị sản được ghi nhận theo mô hình giá gốc và thặng dư do đánh giá lại.
IAS 40- IFRs 13 hướng dẫn đo lường giá trị hợp lý tổng quát hơn IAS 40, vì nó liên
Bất động quan đến tất cả các tài sản không chỉ riêng gì bất động sản đầu tư.
sản đầu
tư
IAS 41- Những hướng dẫn về đo lường giá trị hợp lý trong IAS 41 đã bị thay thế bởi
Tài sản IFRs 13. Ví dụ, trong IAS 41 đo lường giá trị hợp lý của gia súc của nông trại là
sinh học giá trong thị trường có liên quan trừ đi chi phí vận chuyển đàn gia súc đến được
thị trường đó. Nhưng trong IFRs 13 thì vị trí và điều kiện của các tài sản sinh
học sẽ được tính trong giá trị hợp lý.
IAS 36- IFRs 13 làm rõ sự khác nhau giữa giá trị hợp lý và giá trị sử dụng.
Tổn thất
tài sản
Nguồn: kpmg.com/IFR, First impressions: Fair value measurement, June 2011.
1.8. Các trường hợp sử dụng giá trị hợp lý
Một trong những lí do khiến giá trị hợp lý vẫn còn xa lạ đối với người sử dụng là do
người sử dụng nhầm tưởng đây là một loại giá mới. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của
David Cairns (2006) thì giá trị hợp lý chỉ là một biến thể của các loại giá mà trước
đây đã được sử dụng trong kế toán. Trong nghiên cứu này, David Cairns đã hệ
thống hóa lại phạm vi sử dụng giá trị hợp lý có 4 trường hợp:
Thứ nhất, đo lường các nghiệp vụ kinh tế phát sinh ban đầu: Thực chất
trường hợp này giá trị hợp lý sử dụng thay cho giá gốc. Ví dụ, trao đổi tài sản thì
bên nhận trao đổi do thiếu thông tin về giá trị của tài sản nhận về nên họ sẽ sử dụng
giá trị hợp lí để ghi nhận tăng tài sản theo giá trị hợp lý.
Thứ hai, sử dụng trong đánh giá sự suy giảm giá trị tài sản: Thực chất giá
trị hợp lý là sự điều chỉnh giá gốc theo nguyên tắc thận trọng. Trong một số tình
42
huống, tài sản của doanh nghiệp bị sụt giá dẫn đến thấp hơn giá gốc (có sự tổn thất)
thì doanh nghiệp sử dụng giá trị hợp lý để điều chỉnh giảm giá trị tài sản.
Thứ ba, phân bổ các số liệu ghi nhận ban đầu của các giao dịch phức tạp
thành các yếu tố hợp thành: trường hợp này giá trị hợp lý cũng được sử dụng để
thay cho giá gốc. Chẳng hạn, phân bổ giá trị của công cụ tài chính phức hợp (trái
phiếu chuyển đổi).
Cuối cùng, đo lường tài sản và nợ phải trả sau ghi nhận ban đầu: Các tài sản
và nợ phải trả được ghi nhận ban đầu theo giá gốc hoặc giá trị hợp lý. Sau đó, định
kỳ chúng được đánh giá lại theo giá trị hợp lý.
Tóm lại, giá hợp trị lý không phải là giá mà khi sử dụng sẽ phủ định các loại giá
khác. Mà nó chỉ sử dụng như một loại giá được sử dụng để bổ sung cho các giá loại
giá khác trong các trường hợp nhất định.
1.9. Các yêu cầu đặc điểm chất lượng đối với báo cáo tài chính
Những thông tin về nguồn lực của doanh nghiệp thường được trình bày trong các
báo cáo tài chính. Những người có lợi ích liên quan đến doanh nghiệp sẽ sử dụng
thông tin từ các báo tài chính để ra quyết định. Theo IASB thì người có lợi ích này
có thể phân loại như sau: cổ đông và cổ đông tiềm năng, nhân viên, chủ nợ, nhà
cung cấp, khách hàng, chính phủ và công chúng. Mỗi một nhóm khi sử dụng BCTC
thì họ có những yêu cầu thông tin khác nhau, rất là khó để có một BCTC mà có thể
đáp ứng yêu cầu cho tất cả nhóm trên. Và khi đó, cổ đông được xem như là một
nhóm quan trọng hơn các nhóm còn lại vì họ chính là người cung cấp vốn cho công
ty hoạt động. Theo nghiên cứu của Grönloh, 2001 thì nếu báo cáo tài chính mà đáp
ứng được yêu cầu của cổ đông thì nó cũng thỏa mãn những nhu cầu của các nhóm
khác. Vì vậy, BCTC nên trình bày những thông tin sao cho đáp ứng được mong đợi
ở mức trung bình của các nhóm trên, tuy nhiên tập trung chủ yếu vào cổ đông. Nhu
cầu thông tin mà cổ đông chủ yếu quan tâm về BCTC chính là sự minh bạch thông
tin. Minh bạch thông tin có thể được cụ thể sang các đặc điểm chất lượng trên
BCTC nhằm đảm bảo thông tin hữu ích cho người sử dụng. Các đặc điểm trong chất
lượng trong khuôn mẫu chung của kế toán quốc tế bao gồm: Thích hợp, đáng tin
43
cậy, có thể so sánh được và có thể hiểu được. Các đặc điểm chất lượng có thể được
hiểu như sau:
Thích hợp: Thông tin hữu ích khi nó thích hợp với nhu cầu đưa ra quyết
định của người sử dụng. Tính thích hợp bao gồm tính dự đoán và tính xác
nhận, hai đặc tính này có quan hệ với nhau.
Đáng tin cậy có nghĩa là thông tin trình bày không có sai sót hoặc có sai
sót nhưng không trọng yếu, đồng thời phản ánh trung thực vấn đề trình
bày. Đáng tin cậy bao gồm: trình bày trung thực, nội dung quan trọng hơn
hình thức, trung lập, thận trọng và đầy đủ.
o Trình bày trung thực: Thông tin đáng tin cậy khi nó phản ánh trung thực
các sự kiện và nghiệp vụ.
o Nội dung quan trọng hơn hình thức: thông tin phải trình bày phù hợp với
bản chất kinh tế chứ không chỉ căn cứ vào hình thức quản lý.
o Trung lập là thông tin trình bày không thiên lệch.
o Thận trọng là việc tăng thêm mức chú ý khi thực hiện một sự xét đoán
khi ước tính trong các điều kiện chưa rõ ràng, sao cho tài sản và thu nhập
không bị thổi phồng, nợ phải trả không bị giấu bớt.
o Đầy đủ: để thông tin đáng tin cậy thì nó cần đầy đủ trong phạm vi trọng
yếu và chi phí.
Có thể so sánh: BCTC chỉ có hữu ích khi người sử dụng có thể so sánh
với năm trước, với doanh nghiệp khác. Do đó, thông tin phải trình bày
nhất quán và nếu có thay đổi thì phải công bố sự thay đổi đó.
Có thể hiểu được: người đọc BCTC giả định là người có kiến thức nhất
định về kinh tế. Những thông tin phức tạp thì cần phải thuyết minh.
Trong các đặc điểm chất lượng trên, có hai đặc điểm thường đem ra so sánh là sự
cân bằng giữa tính thích hợp và tính đáng tin cậy. Sự phát triển của giá trị hợp lý
hiện đang trào lưu trong kế toán bởi giá trị hợp lý cung cấp thông tin hữu ích hơn
nhưng giá trị hợp lý không đáng tin cậy bằng giá gốc. Giá trị hợp lý được xác định
dựa trên tiếp cận thị trường nên nó phản ánh những điều kiện thị trường, nhà đầu tư
44
có thể so sánh giá trị của tài sản mà mình đầu tư ở những thời điểm khác nhau.
Đồng thời, công bố giá trị hợp lý giúp nhà đầu tư có cái nhìn sâu sắc về giá trị thị
trường hiện hành. Tuy nhiên, giá trị hợp lý vẫn còn đang chịu nhiều áp lực từ những
người phản đối khi mà nó có thể không khách quan khi được đo lường bởi chính
các doanh nghiệp báo cáo.
Bảng 1.6: Khuôn mẫu lý thuyết chung IASB những đặc điểm chất lượng tác
Cái gì làm cho thông tin hữu ích?
Thích hợp
Đáng tin cậy
Có thể so sánh
Có thể hiểu
Thông tin có
Thông tin trình bày đầy đủ và trung thực
Thông
tin
Thông tin quan trọng có thể
thể ảnh hưởng
tương
tự và
nhận thức được
đến quyết định
khác nhau giúp
kinh tế
người sử dụng
phân biệt và
đánh giá
Dự
Xác
Trung
Trung
Đầy
Nội dung
Thận
Nhất
Công
Người sử
Người sử dụng
đoán
nhận
thực
lập
đủ
quan trọng
trọng
quán
bố
dụng có
nói chung và có
hơn hình
kiến thức
thể có sự phân
thức
loại
động đến thông tin hữu ích
45
1.10. Lý thuyết tổ chức và thông tin bất cân xứng4
Lý thuyết tổ chức và thông tin bất cân xứng là một vấn đề nổi lên trong thời kỳ
khủng hoảng tài chính. Người sử dụng báo cáo cáo tài chính nghi ngờ những khoản
mục được trình bày theo giá trị hợp lý, vì họ lo sợ có những rủi ro lớn. Những nhà
quản lý thường hoạt động vì lợi ích cá nhân hơn là vì lợi ích của công ty, vì vậy có
thể định giá các tài sản theo quan điểm chủ quan của họ. Chính những nghi ngờ của
người sử dụng báo cáo tài chính đã tạo nên chi phí đại diện. Để giảm thiểu chi phí
đại diện thì báo cáo tài chính cần phải minh bạch. Lý thuyết tổ chức là một nền tảng
hoạt động của công ty vì lợi ích của chính các công ty. Một trong những xung đột
lợi ích đầu tiên được xét đến chính là các cổ đông và nhà quản lý. Hai đối tượng có
thông tin bất cân xứng có thể dẫn đến những rủi ro về mặt đạo đức. Trong mối quan
hệ này, chi phí đại diện có thể phát sinh khi các cổ đông khuyến khích người quản
lý gia tăng giá trị của các cổ đông. Trong khi đó người quản lý vì mục tiêu cá nhân
của mình có thể xung đột lợi ích với cổ đông. Chi phí đại diện này luôn được xét
trong mối quan hệ chi phí-lợi ích, chi phí phải nhỏ hơn lợi ích mang lại. Lý thuyết
tổ chức cho rằng những công ty luôn có mong muốn là trình bày lợi nhuận kiểm
soát được trên BCTC. Do vậy, giá gốc là một nền tảng đảm bảo báo cáo tài chính
thể hiện trách nhiệm giải trình của ban giám đốc khi lập báo cáo. Tuy nhiên, người
sử dụng báo cáo tài chính thì mong muốn thông tin hướng về tương lai để họ có thể
ra quyết định. Vì vậy, cổ đông yêu cầu báo cáo tài chính trình bày theo giá trị hợp
lý sẽ thích hợp hơn.
1.11. Kinh nghiệm của một số nước khi áp dụng kế toán giá trị hợp lý
1.7.3. Kinh nghiệm của Mỹ5
Giá trị hợp lý xuất hiện ở Mỹ và cũng được quốc gia này sử dụng nhiều nhất trong
các chuẩn mực kế toán so với các quốc gia khác. Robert E.JenSen đã khái quát kinh
nghiệm sử dụng giá trị hợp lý thông qua bài viết của mình. Giá gốc được sử dụng
khi giả định doanh nghiệp sẽ hoạt động liên tục nhưng một khi giả định này không
4 Michelle Dirksen, 2011. Fair Value Measurement, IAS 40 vs. Exposure Draft. 5 Robert E.Jensen, 2010. Fair value accounting in the USA, 300-319 pp.
46
còn thì việc sử dụng giá gốc là không phù hợp. Một vài nhà lý luận ủng hộ cho giá
trị hợp lý rằng: “giá trị hợp lý đảm bảo cả hai giả định hoạt động liên tục và không
hoạt động liên tục”. Những chuẩn mực kế toán ở Mỹ (FAS 115 và FAS 133) và
quốc tế (IAS 32 và 39) đã yêu cầu sử dụng giá trị hợp lý cho tài sản tài chính và nợ
phải trả tài chính. Khi lập BCTC, theo FAS 115 “Kế toán các chứng khoán nợ và
chứng khoán vốn-Accounting for Certain Investments in Debt and Equity
Securities” năm 1993, các công ty ở Mỹ phải phân loại công cụ tài chính thành
chứng khoán thương mại, chứng khoán sẵn sàng để bán, chứng khoán giữ đến ngày
đáo hạn. Chứng khoán giữ đến ngày đáo hạn sẽ ghi nhận theo giá gốc. Trong khi đó,
chứng khoán sẵn sàng để bán và chứng khoán thương mại thì được ghi nhận theo
giá thị trường. Tuy nhiên, sự thay đổi giá trị của chứng khoán sẵn sàng để bán do
giá thị trường biến động lại ghi nhận vào thu nhập tổng hợp khác (other
comprehensive income-OCI), tức là điều chỉnh vốn chủ sở hữu; còn lãi hoặc lỗ của
chứng khoán thương mại thì ghi vào báo cáo thu nhập. Bất lợi chính khi điều chỉnh
các khoản mục theo giá trị hợp lý là làm thu nhập biến động rất lớn trên các BCTC
trong khi những tài sản, nợ phải trả này có thể bốc hơi và “không bao giờ” xảy ra
trên thực tế. Ưu điểm của giá trị hợp lý là những tác động của thị trường có thể phản
ánh “tạm thời” vào sổ sách. Một cuộc tranh cãi xảy ra giữa 2 cụm từ “tạm thời” và
“không bao giờ” đã diễn ra trong nhiều thập niên qua. Những nhà phân tích tài
chính-Chartered financial Analysts (CFA) ủng hộ sử dụng kế toán giá trị hợp lý, đã
xuất bản một mô hình báo cáo tài chính mới mà họ tin rằng nó sẽ giúp cho nhà đầu
tư, các nhà phân tích tài chính ra quyết định tốt. Mô hình báo cáo tài chính này đưa
ra 12 nguyên tắc đảm bảo báo cáo tài chính tính thích hợp, rõ ràng, chính xác, dễ
hiểu. Bao gồm:
1. Công ty phải xem xét triển vọng của những nhà đầu tư hiện tại của công ty.
2. Thông tin giá trị hợp lý là những thông tin thích hợp.
3. Việc ghi nhận và công bố thông tin đều dựa trên thông tin thích hợp cho
quyết định của nhà đầu tư hơn là dựa trên thông tin đáng tin cậy.
47
4. Tất cả các giao dịch kinh tế và những sự kiện đã hoàn thành và ghi nhận
chính xác trên báo cáo tài chính.
5. Việc đánh giá sức mạnh (năng lực) của nhà đầu tư dựa trên ngưỡng trọng
yếu.
6. Báo cáo tài chính phải trung lập.
7. Tất cả sự thay đổi trong tài sản thuần phải báo cáo trong một báo cáo riêng
“Sự thay đổi tài sản thuần đối với những cổ đông phổ thông”.
8. Báo cáo sự thay đổi tài sản thuần đối với những cổ đông phổ thông nên ghi
nhận kịp thời tất cả những sự thay đổi của tài sản và nợ phải trả theo giá trị
hợp lý.
9. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cung cấp thông tin cần thiết cho việc phân tích
công ty nên được lập theo Phương pháp trực tiếp.
10. Tất cả những thay đổi tác động đến báo cáo tài chính phải được giải thích
một cách chi tiết.
11. Những khoản mục đặc biệt nên báo cáo theo bản chất hơn là hình thức.
12. Công bố thông tin mà nhà đầu tư yêu cầu để họ hiểu những khoản mục được
ghi nhận thế nào, phương pháp đo lường và công bố các rủi ro.
Với mong muốn các công ty sử dụng giá trị hợp lý Ủy ban chuẩn mực kế toán
Mỹ đã ban hành dự thảo chuẩn mực về sự lựa chọn báo cáo các tài tài sản tài
chính và nợ phải trả tài chính theo giá trị hợp lý vào ngày 25/1/2006. Khi ban
hành dự thảo này, FASB đã quyết định tách dự án ra làm 2 giai đoạn thực hiện.
Giai đoạn 1: cho phép lựa chọn giá trị hợp lý cho những tài sản tài chính và nợ
phải trả tài chính. Kết thúc giai đoạn 1 sẽ ban hành chuẩn mực chính thức.
Giai đoạn 2: sẽ giải quyết lựa chọn giá trị hợp lý cho những tài sản phi tài chính.
Những nguyên tắc kế toán chung được thừa nhận ở Mỹ (GAAP US) sử dụng
những phương pháp đo lường khác nhau cho những tài sản và nợ phải trả khác
nhau làm cho thu nhập của công ty biến động. Với sự ra đời của dự thảo chuẩn
mực về sự lựa chọn sử dụng giá trị hợp lý giảm sự biến động trong thu nhập
bằng cách tạo ra tính nhất quán trong việc sử dụng giá trị hợp lý.
48
Sau đó, ngày 11/5/2006 FASB cập nhật dự thảo đã ban hành ngày 25/1/2006.
Đây là bước tiếp theo của FASB với nỗ lực yêu cầu báo cáo giá trị hợp lý cho tất
cả các khoản mục tài chính; ngoại trừ những tài sản đang phục vụ cho hoạt động
sản xuất hoặc dịch vụ. Một trong những thành phần quan trọng của dự thảo là
chuẩn mực yêu cầu công bố các thông tin khi sử dụng chuẩn mực này: sự chênh
lệch giá trị của tài sản, nợ phải trả khi sử dụng giá trị hợp lý và khi không sử
dụng giá trị hợp lý, những thông tin hiệu quả giúp người sử dụng đánh giá luồng
thu nhập của công ty khi sử dụng giá trị hợp lý, chất lượng thông tin thông qua
thuyết minh các khoản lãi hoặc lỗ khi có sự thay đổi của giá trị hợp lý trên báo
cáo thu nhập.
Thật sự, việc sử dụng dự thảo chuẩn mực này đã tạo ra tính không nhất quán
giữa những công ty tương tự nhau (vì có sự lựa chọn sử dụng hoặc không sử
dụng giá trị hợp lý nên sẽ tạo thu nhập khác nhau giữa các công ty). Tuy nhiên,
nếu không lựa chọn đo lường giá trị hợp lý thì đây là sự cản trở lớn cho những
khu vực khác trong nền kinh tế, đặc biệt là các ngân hàng và các công ty có tài
sản tài chính và nợ phải trả tài chính. Một trong những lý do mà thúc đẩy FASB
đẩy mạnh việc sử dụng giá trị hợp lý cho những công cụ tài chính là vì khi giá trị
của những công cụ này thay đổi nó sẽ phản ánh rủi ro tín dụng. Ví dụ, một nhà
đầu tư mua trái phiếu công ty A, giá trị hợp lý của công ty được tính dựa trên lãi
suất của hợp đồng, lãi suất của dòng tiền, rủi ro của ngành, và những rủi ro cụ
thể mà công ty đang gặp phải. Một công ty được xếp hạng tín dụng AAA thì rủi
ro sẽ ít hơn nếu xếp hạng BBB. Trong khi đó, nếu sử dụng giá gốc thì những rủi
ro tín dụng này sẽ không được phản ánh. Kế toán giá trị hợp lý sẽ làm cho các
ngân hàng khó khăn trong việc định giá cao các khoản cho vay này nếu như
những người đi vay đang gặp rủi ro tín dụng (Những ngân hàng báo cáo không
đúng sự thật các khoản cho vay chưa đến hạn có thể không thu hồi được). Vì
vậy, các ngân hàng phản đối những yêu cầu của giá trị hợp lý. Một trong những
vấn đề mà FASB nhận thấy khi sử dụng dự thảo chuẩn mực kế toán giá trị hợp
lý: sự thay đổi trong giá trị hợp lý của lãi suất hoán đổi là hoàn toàn do sự thay
49
đổi của lãi suất cơ bản. Sự thay đổi trong giá trị hợp lý của trái phiếu là do sự
thay đổi trong lãi suất cơ bản và/hoặc sự thay đổi trong vị trí tín dụng. Điều này
cho thấy sự thay đổi trong giá trị hợp lý của những công cụ tài chính và những
công cụ tài chính phái sinh là sự hỗn hợp tác động của lãi suất cơ bản và rủi ro
tín dụng. Do đó, FASB đã yêu cầu giá trị hợp lý phải điều chỉnh cho tất cả
những rủi ro. Tuy nhiên, các công ty từ chối sử dụng giá trị hợp lý bởi việc ghi
nhận giá trị hợp lý tạo ra thu nhập biến động. Đồng thời, lí do quan trọng hơn là
giá trị hợp lý thường ước tính không đáng tin cậy. Những lí thuyết tập trung
phản đối giá trị hợp lý bởi những than phiền của các ngân hàng về ước tính giá
trị hợp lý. Ví dụ lãi suất hoán đổi là một công cụ phổ biến nhưng không được
giao dịch trên thị trường vì vậy rất phức tạp để xác định giá trị của nó. Dữ liệu
sẵn có của Bloomberg and Reuter có thể giúp xác định tuy nhiên việc ước tính
có thể gây ra phức tạp mà nhiều công ty không hiểu và nếu có hiểu thì thường
hiểu không đúng.
Với khủng hoảng tài chính tại Mỹ năm 2008 buộc FASB phải nới lỏng
những qui định về giá trị hợp lý. Các tài sản của các ngân hàng tại Mỹ phần lớn
là chứng khoán hóa các khoản cho vay mua nhà dưới chuẩn. Khi bong bóng bất
động sản nổ ra, các khoản chứng khoán bốc hơi từng ngày, do thị trường thanh
khoản thấp. Các chứng khoán này có thể bán với giá thấp hơn giá bán tháo. Vào
đỉnh điểm của khủng hoảng tài chính các chứng khoán này dường như không
bán được. Những qui định trong kế toán giá trị hợp lý yêu cầu các công ty định
giá chứng khoán phải xét đến tính thanh khoản của thị trường. Kết quả giá trị
của các chứng khoán này sụt giảm nghiêm trọng, thấp hơn giá trị nội tại của
chúng nếu các ngân hàng sử dụng các mô hình định giá. Tài sản của các ngân
hàng giảm đáng kể, dẫn đến họ không công bố các thông tin liên quan đến giá trị
hợp lý các công cụ tài chính theo chuẩn mực IFRs 7- Công cụ tài chính. Điều
này làm ảnh hưởng đến quyền lợi người sử dụng thông tin dẫn đến FASB và
SEC đã thay đổi những quy định về giá trị hợp lý. Ngày 10/10/2008, FASB ban
hành bổ sung chuẩn mực FAS 157, chuẩn mực kế toán số FAS 157-3 quy định
50
về xác định giá trị hợp lý của các tài sản khi thanh khoản thị trường thấp. Theo
đó giá trị hợp lý của chứng khoán có thể định giá theo báo giá của các công ty
môi giới chứng khoán. Cho dù quy định này có tính đến định giá theo các mô
hình định giá nhưng định giá theo thị trường (Mark-to-Market) vẫn chiếm vai trò
chủ đạo. Và kết quả là Hiệp hội ngân hàng Mỹ (ABA) đã phản đối kịch liệt quy
định này. ABA cho rằng FASB đã làm cho tình hình tồi tệ ngày càng xấu đi với
quy định trình bày giá trị tài sản tài chính của ngân hàng với "giá bán tháo". Tuy
nhiên, vào thời điểm đó Chủ tịch FASB cho rằng việc xác định giá trị hợp lý cần
phải tính đến yếu tố thanh khoản và biến động của thị trường. Cuối cùng, dưới
tác động của rất nhiều phía, bao gồm cả các đối tượng được vận động hành lang,
FASB đã phải thay đổi quy định về kế toán giá trị hợp lý. Theo đó, các doanh
nghiệp, bao gồm cả ngân hàng, được phép định giá tài sản dựa trên các mô hình
định giá do doanh nghiệp tự đưa ra, nhất là trong trường hợp chứng khoán có
tính thanh khoản quá thấp. Một khi nguyên tắc kế toán được nới lỏng như thế,
giới tài chính có thể thở phào nhẹ nhõm vì không còn phải lo chuyện tài sản bốc
hơi từng ngày một khi thị trường chứng khoán sụt giảm mạnh. Trước đây, họ
phải chật vật tìm vốn để bù vào các khoản “trích lập dự phòng giảm giá chứng khoán” nếu không dễ rơi vào tình trạng phá sản.6 Kinh nghiệm của Malaysia7 1.7.4.
Kế toán ở Malaysia có ít chuẩn mực quy định về giá trị hợp lý hơn ở Mỹ,
tuy nhiên họ cũng bắt đầu ban hành một số chuẩn mực liên quan sử dụng giá trị hợp
lý như: FRS 140- Bất động sản đầu tư, FRS 132- Trình bày công cụ tài chính, FRS
39- Ghi nhận và đo lường công cụ tài chính…Mặc dầu vậy, trong phần trình bày
kinh nghiệm của Malaysia về việc sử dụng giá trị hợp lý, Samuel Jebaraj Benjamin
Athi Niskkalan và M.Srikamaladevi Marathamuthu chọn khu vực bất động sản để
nghiên cứu, vì vào thời điểm 2009 chuẩn mực công cụ tài chính vẫn chưa được
thông qua ở Malaysia. Kết quả nghiên cứu thật bất ngờ, trong khi ở Mỹ, khu vực
6 Lê Hoàng Phúc, 29/05/2012. FASB nới lỏng giá trị hợp lý. 7 Samuel Jebaraj Benjamin Athi Niskkalan & M.Srikamaladevi Marathamuthu, 2012. Fair value Accounting and the Global Financial Crsis: The Malaysia Experience, 53-68 pp.
51
châu Âu và láng giềng Singapore chịu sự tác động của khủng hoảng tài chính toàn
cầu thì ở Malaysia các hãng bất động sản báo cáo lãi giá trị hợp lý và tăng giá các
bất động sản. Vẫn chưa có câu trả lời cho sự trái ngược này khi áp dụng những
nguyên tắc kế toán giá trị hợp lý của các công ty bất động sản ở Malaysia. Có 4
phương pháp định giá bất động sản: phương pháp đầu tư, phương pháp chi phí,
phương pháp so sánh, phương pháp chiết khấu dòng tiền.
Phương pháp đầu tư: sử dụng thu nhập bình quân 3 năm mà được vốn hóa sử
dụng lợi tức phù hợp, nếu không điều chỉnh thì kết quả là giá trị hợp lý. Mặc
dù phương pháp này thì phức tạp nhưng thường được sử dụng bởi các công
ty định giá chuyên nghiệp cho việc bán các tài sản hoạt động.
Phương pháp chi phí: sử dụng giá trị của các bất động sản thay thế, sử dụng
giá thị trường. Phương pháp này phù hợp cho bất động sản là đất và nhà (
building). Tuy nhiên phương pháp này có thể tạo ra giá trị cao của những bất
động sản xây dựng cách đây vài năm vì chi phí xây dựng hiện tại đang cao,
nhưng người mua lại chỉ muốn mua những bất động sản mới xây chứ không
muốn mua những bất động sản cũ vì độ an toàn và thẩm mỹ.
Phương pháp so sánh: xem xét doanh thu của những bất động sản tương tự
hoặc thay thế đang giao dịch trên thị trường để định giá. Sử dụng phương
pháp này, phải công bố những thông tin về nhận dạng so sánh, ngày giao
dịch, mô tả những đặc điểm cụ thể của bất động sản.
Phương pháp chiết khấu dòng tiền: định giá bất động sản dựa trên dòng tiền
tương lai tạo ra từ doanh nghiệp. Phương pháp chiết khấu dòng tiền yêu cầu
chiết khấu dòng tiền tương lai với lãi suất phù hợp. Đây là phương pháp tiến
bộ vì lãi suất chiết khấu biểu hiện những rủi ro liên quan đến dòng tiền…
Bốn phương pháp đo lường giá trị hợp lý trên được ban hành bởi Hội đồng
chuẩn mực định giá. Và Hội đồng định giá sử dụng thuật ngữ “giá thị
trường” cho tất cả các chuẩn mực mà không hề sử dụng thuật ngữ “giá trị
hợp lý”, mặc dù thuật ngữ “giá thị trường” của Hội đồng chuẩn mực định giá
52
tương tự như thuật ngữ “giá trị hợp lý” trong chuẩn mực kế toán FRS 140
của Malaysia.
1.8. Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam
Thông qua việc sử dụng giá trị hợp lý của hai nước Mỹ và Malyasia có thể rút ra
những kinh nghiệm cho Việt Nam. Với những lợi ích của việc sử dụng giá trị hợp lý
và xu hướng toàn cầu hóa thì việc sử dụng giá trị hợp lý ở công ty Việt Nam là xu
thế tất yếu. Do đó, Việt Nam sẽ ban hành những chuẩn mực liên quan đến giá trị
hợp lý mang tính chất dự thảo như ở Mỹ, sau đó sẽ điều chỉnh bổ sung dự thảo và
cho ra chuẩn mực chính thức. Đồng thời, việc thực hiện dự thảo này có thể chia ra
nhiều giai đoạn nhỏ để thực hiện. Để đo lường giá trị hợp lý cần có những phương
pháp đo lường thích hợp trong trường hợp thị trường không thanh khoản. Điều quan
trọng là các công ty phải công bố rõ ràng những thông tin liên quan đến các khoản
mục đo lường theo giá trị hợp lý. Bên cạnh đó, chúng ta có thể học tập các phương
pháp đo lường giá trị hợp lý mà Malaysia đã sử dụng cũng như đưa ra khái niệm
thống nhất “giá trị hợp lý” tránh tình trạng sử dụng lẫn lộn “giá thị trường” và “giá
trị hợp lý”.
53
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB) đã ban hành hệ thống chuẩn mực báo
cáo tài chính quốc tế (IFRs) thay thế dần cho chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS),
trong đó giá trị hợp lý là cơ sở định giá được khuyến khích sử dụng. Việc sử dụng
giá trị hợp lý hiện nay còn rất nhiều tranh cãi. Quan điểm ủng hộ cho rằng giá trị
hợp lý cung cấp thông tin thích hợp. Trong bối cảnh kinh tế biến động thường
xuyên thì việc cung cấp thông tin thích hợp giúp cho người sử dụng thông tin ra các
quyết định cần thiết. Quan điểm không ủng hộ giá trị hợp lý cho rằng dù giá trị hợp
lý cung cấp thông tin thích hợp nhưng cơ sở đo lường giá trị hợp lý trong một số
trường hợp không đáng tin cậy. Thật sự, giá trị hợp lý có là nguồn gốc của khủng
hoảng hay không thì vẫn chưa có chứng cứ xác thực. Trong khi đó, tại Malaysia các
công ty bất động sản sử dụng giá trị hợp lý đều kinh doanh có lãi trái ngược với
những gì xảy ra ở Mỹ năm 2008- một loạt công ty bị phá sản khi sử dụng giá trị hợp
lý. Nền kinh tế ngày nay toàn cầu hóa mạnh mẽ tạo ra thông tin bất cân xứng, giá trị
hợp lý sẽ giúp cho người sử dụng thông tin giảm thiểu bất cân xứng này. Thật ra, sự
lo ngại thông tin khi đo lường theo giá trị hợp lý không đảm bảo tính đáng tin cậy
có thể được khắc phục khi mà các thị trường ngày nay phát triển rất mạnh cung cấp
dữ liệu đo lường giá trị hợp lý, đồng thời thông qua việc công bố thông tin thì việc
xác định giá trị hợp lý sẽ đảm bảo độ tin cậy cao. Xu hướng sử dụng giá trị hợp lý
trên thế giới trở thành trào lưu và mang tính tất yếu. Tại Việt Nam giá trị hợp có
được sử dụng rộng rãi không và liệu rằng người sử dụng thông tin có tin rằng có sự
cân bằng giữa tính thích hợp và độ tin cậy của những thông tin khi đo lường theo
giá trị hợp lý. Hai vấn đề này sẽ được giải quyết ở chương 2.
54
Chương 2: Thực trạng áp dụng kế toán giá trị hợp lý tại Việt Nam và ảnh
hưởng của kế toán giá trị hợp lý đến sự cân bằng giữa độ tin cậy và tính thích
hợp của thông tin trên báo cáo tài chính
2.1 Thực trạng cơ sở pháp lý về kế toán giá trị hợp lý tại Việt Nam.
2.5.3. Quá trình phát triển và vai trò của giá trị hợp lý tại Việt Nam
a. Quá trình phát triển giá trị hợp lý trong hệ thống kế toán Việt Nam
Bốn chuẩn mực kế toán đầu tiên của Việt Nam ban hành theo quyết định số
149/2001/QĐ-BTC ngày 31-12-2001: Chuẩn mực số 02- Hàng tồn kho, chuẩn mực
số 03- Tài sản cố định hữu hình, chuẩn mực số 04- Tài sản cố định hữu hình và
chuẩn mực số 14- Doanh thu và thu nhập khác. Khi đó giá trị hợp lý dùng để ghi
nhận giá trị tài sản cố định trong các trường hợp trao đổi, biếu tặng cũng có thể là
dùng để xác định tài sản cố định trong quá trình sáp nhập doanh nghiệp hoặc dùng
để xác định doanh thu. Tiếp đến ngày 31-12-2002 bộ tài chính ban hành 6 chuẩn
mực đợt 2 cũng lần lượt đề cập đến giá trị hợp lý. Giá trị hợp lý còn mở rộng sang
các chuẩn mực ban hành các năm tiếp theo. Để cụ thể thực hiện các chuẩn mực trên
thì các thông tư hướng dẫn như thông tư 161/2007/TT-BTC ngày 31-12-2007,
thông tư 20/2006/TT-BTC thông tư 21/2006/TT-BTC ngày 20-03-2006, …
Chuẩn mực số 3-Tài sản cố định hữu hình 2001
Chuẩn mực số 4-Tài sản cố định vô hình 2001
Chuẩn mực số 14-Doanh thu và thu nhập khác 2001
Chuẩn mực số 1-Chuẩn mực chung 2002
Chuẩn mực số 6-Thuê tài sản 2002
Chuẩn mực số 10-Ảnh hưởng của việc thay đổi tỷ giá hối đoái 2002
Chuẩn mực số 5-Bất động sản đầu tư 2003
Khuôn mẫu lý thuyết kế toán là một trong những nền tảng lý thuyết để ghi nhận
các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Chuẩn mực kế toán Việt Nam VAS 01-Chuẩn
mực chung, xác định việc ghi nhận các nghiệp vụ kinh tế phát sinh là dựa vào giá
gốc, trong trường hợp không có giá gốc thì sẽ sử dụng giá trị hợp lý thay thế.
55
VAS 01 có quy định: “Tài sản phải được ghi nhận theo giá gốc. Giá gốc của tài
sản được tính theo số tiền hoặc tương đương tiền đã trả, phải trả hoặc tính theo
giá trị hợp lý của tài sản đó vào thời điểm tài sản được ghi nhận. Giá gốc của tài
sản không được thay đổi trừ khi có quy định khác trong chuẩn mực kế toán cụ
thể”. Trong các chuẩn mực cụ thể của Việt Nam cũng giống như các quy định
trước đây trong các chuẩn mực kế toán quốc tế về giá trị hợp lý. Định nghĩa giá
trị hợp lý không thống nhất. Cụ thể:
Chuẩn mực 03- Tài sản cố định hữu hình: “Giá trị hợp lý là giá trị tài sản
có thể được trao đổi giữa các bên có đầy đủ hiểu biết trong sự trao đổi
ngang giá”.
Chuẩn mực 14- Doanh thu và thu nhập khác: “Giá trị hợp lý là giá trị tài
sản có thể trao đổi hoặc giá trị một khoản nợ được thanh toán một cách tự
nguyện giữa các bên có đầy đủ hiểu biết trong sự trao đổi ngang giá”.
Trong các chuẩn mực cụ thể định nghĩa về giá trị hợp lý thì chuẩn mực 14 định
nghĩa về giá trị hợp lý được xem là định nghĩa đầy đủ nhất vì đề cập đến cả tài
sản lẫn nợ phải trả. Tuy nhiên, định nghĩa này vẫn còn trừu tượng chưa cụ thể:
Giá trị hợp lý là giá trao đổi hoặc giá thanh toán không cụ thể là giá này
người bán tài sản nhận hoặc người mua tài sản phải trả (hoặc người nợ phải thanh
toán hay người sở hữu khoản nợ nhận được).
Những người tham gia trong trường hợp này là tự nguyện chứ không phải
các bên không liên quan.
Thời điểm xác định giá trị hợp lý cũng không rõ ràng.
Nhìn chung, định nghĩa về giá trị hợp lý đầy đủ nhất trong chuẩn mực kế toán
Việt Nam giống như định nghĩa về giá trị hợp lý trong chuẩn mực kế toán quốc tế
IAS 17- Thuê tài sản. Trong khi đó, IAS 17 ban hành vào năm 1982 chứng tỏ,
chuẩn mực kế toán Việt Nam lạc hậu rất nhiều so với thế giới.
Bên cạnh định nghĩa về giá trị hợp lý thì cách thức xác định giá trị hợp lý cũng
chưa quy định rõ ràng. VAS 04- Tài sản cố định hữu hình có đưa ra cách xác
định giá trị hợp lý. Giá trị hợp lý có thể là (VAS 04 đoạn 24):
56
Giá niêm yết tại thị trường hoạt động.
Giá của nghiệp vụ mua bán tài sản cố định vô hình tương tự.
Cách xác định này giống như dữ liệu đầu vào mức 1 trong IFRs 13, tức là có giá
tham chiếu. Tuy nhiên, trong trường hợp tài sản cố định vô hình mà không đồng
nhất tức là tương tự thì giá trị hợp lý là giá của nghiệp vụ mua bán tài sản tương
tự đó mà không có bất cứ sự điều chỉnh nào thực hiện. Điều này không hợp lý bởi
các tài sản tương tự thì chúng có những đặc điểm không tương đồng do đó giá trị
hợp lý cần phải điều chỉnh. Ngoài ra, đoạn 25, VAS 4: “Nếu không có thị trường
hoạt động cho tài sản thì nguyên giá tài sản cố định vô hình được xác định bằng
khoản tiền mà doanh nghiệp lẽ ra phải trả vào ngày mua tài sản trong điều kiện
nghiệp vụ đó được thực hiện trên cơ sở khách quan dựa trên các thông tin tin cậy
hiện có.”
Như vậy, chúng ta có thể thấy chuẩn mực kế toán Việt Nam cũng đã có nhắc đến
phương pháp xác định giá trị hợp lý dựa trên ước tính (dữ liệu đầu vào không
quan sát được) của doanh nghiệp, trường hợp không có thị trường hoạt động
doanh nghiệp. Dẫu vậy, việc đề cập này còn mờ nhạt chưa rõ ràng.
b. Vai trò của giá trị hợp lý
So với các nước trên thế giới, họ đã sử dụng giá trị trong 4 trường hợp như đã
trình bày ở chương 1. Kế toán giá trị hợp lý ở Việt Nam còn quy định chung
chung chưa cụ thể, chỉ sử dụng giá trị hợp lý cho trường hợp đầu tiên: “xem giá
hợp lý như sự thay thế giá gốc trong trường hợp giá gốc không xác định được”.
Một trong những lý do, giá trị hợp lý có vai trò khiêm tốn như vậy bởi các thị
trường hoạt động cho các tài sản ở Việt Nam chưa phát triển mạnh. Chẳng hạn,
chứng khoán là một trong những tài sản có thị trường hoạt động tạo điều kiện
thuận lợi cho việc xác định giá trị hợp lý nhưng phần lớn các doanh nghiệp ở
Việt Nam vẫn sử dụng giá gốc để ghi nhận ban đầu và vào cuối kỳ, kể cả các
ngân hàng (nơi có hệ thống tổ chức được xem là kiện toàn so với các doanh
nghiệp khác). Một số doanh nghiệp có đánh giá chứng khoán theo giá thị
trường như Vinamilk nhưng cũng chỉ là trình bày cho tài sản tài chính, nợ tài
57
chính vẫn chưa trình bày theo giá trị hợp lý. Hầu hết, các doanh nghiệp cũng
không bắt buộc phải trình bày giá trị hợp lý cho các tài sản.
2.5.4. So sánh những qui định về kế toán giá trị hợp lý trong chuẩn mực
kế toán Việt Nam và chuẩn mực kế toán quốc tế về giá trị hợp lý
Mặc dù, chuẩn mực kế toán Việt Nam ban hành dựa trên chuẩn mực kế toán quốc tế. Nhưng khi ban hành thì đã có một số sửa đổi8:
Khoản mục VAS IAS
Hàng tồn kho - Ghi nhận ban đầu -Giống Việt Nam
theo giá gốc.
- Đánh giá sau ghi
nhận ban đầu theo
giá thấp hơn giữa
giá gốc và giá trị
thuần có thể thực
hiện được
Tài sản cố định -Ghi nhận theo giá gốc -Ghi nhận ban đầu theo giá
-Không cho phép đánh giá gốc
lại trừ khi có quy định của - Cho phép đánh giá lại
nhà nước
- Báo cáo theo giá trị còn
lại (giá gốc trừ hao mòn -Báo cáo theo giá gốc trừ
lũy kế) khấu hao lũy kế trừ lỗ do
giảm giá; hoặc theo giá trị
hợp lý
8 Lê Vũ Ngọc Thanh, 2005. Luận văn thạc sỹ “Định hướng về việc sử dụng giá trị hợp lý trong kế toán doanh nghiệp Việt Nam”.
58
Bất động sản - Ghi nhận ban đầu -Ghi nhận ban đầu theo giá
đầu tư theo giá gốc gốc
- Báo cáo theo giá trị - Báo cáo theo giá gốc trừ
còn lại (giá gốc trừ khấu hao lũy kế trừ lỗ do
hao mòn lũy kế) giảm giá; hoặc theo giá trị
hợp lý
2.6. Thực trạng sử dụng kế toán giá trị hợp lý tại Việt Nam
Để tìm hiểu các báo cáo tài chính hiện nay có sử dụng giá trị cho các khoản mục
trên báo cáo tài chính hay không, người viết tiến hành chọn báo cáo tài chính đã
kiểm toán năm 2012 của 100 công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán
thành phố Hồ Chí Minh (Phụ lục 1). Cách chọn 100 công ty trên được thực hiện
bằng cách chọn theo thứ tự mã chứng khoán trên sở giao dịch thành phố Hồ Chí
Minh.
Sau khi tập hợp và thống kê kết quả khảo sát của các công ty, người viết nhận
thấy, các công ty khảo sát chia làm 2 nhóm:
Nhóm 1: Trình bày tài sản theo giá trị ghi sổ.
Kết quả có 85 công ty không trình bày giá trị hợp lý cho tài sản và nợ phải trả:
Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu thủy sản An Giang, Công ty Cổ phần Xuất nhập
khẩu An Giang, Công ty cổ phần Alphanam, Công ty Cổ phần Bibica, Công ty cổ
phần FPT, Công ty cổ phần Hoàng Anh Gia Lai….
Chẳng hạn, Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu thủy sản An Giang trong phần thuyết
minh công ty trình bày như sau: “Công ty chưa đánh giá giá trị hợp lý của tài sản
tài chính và nợ phải trả tài chính tại ngày kết thúc niên độ do thông tư 210 và các
quy định hiện hành chưa có hướng dẫn cụ thể về việc xác định giá trị hợp lý của
các tài sản tài chính và các công cụ tài chính. Thông tư 210 yêu cầu áp dụng chuẩn
59
mực báo cáo tài chính quốc tế về việc trình bày báo cáo tài chính và thuyết minh
thông tin đối với công cụ tài chính nhưng không đưa ra hướng dẫn tương đương
cho việc ghi nhận và đánh giá công cụ tài chính bao gồm giá trị hợp lý nhằm phù
hợp với chuẩn mực báo cáo tài chính”.
Hoặc cũng có một số công ty có trình bày giá trị hợp lý nhưng chung quy lại cũng là
sổ tại ngày lập báo cáo tài chính do không đủ thông tin xác định giá trị hợp lý”.
giá gốc. Chẳng hạn, công ty cổ phần Alphanam trình bày: “giá trị hợp lý bằng giá trị ghi
Nhóm 2: Trình bày giá trị hợp lý cho tài sản tài chính.
Đồng thời, kết quả khảo sát cũng cho thấy 15 công ty còn lại đã sử dụng giá trị hợp
lý cho tài sản tài chính: Công ty cổ phần Thủy sản Mekong, Công ty cổ phần Xuất
nhập khẩu thủy sản Bến Tre, Công ty cổ phần Đầu tư xây dựng Bình Chánh, ngân
hàng ACB. Tuy nhiên, đối với nợ phải trả tài chính thì các công ty vẫn trình bày
theo giá trị ghi sổ.
Khi trình bày tài sản tài chính theo giá trị hợp lý, các công ty cũng trình bày cơ sở
đo lường giá trị hợp lý. Ví như, ngân hàng ACB, trình bày:
ĐV: triệu đồng
trị So với giá thị Giá thị Dự Giá
ghi sổ trường trường phòng
sách Tăng Giảm
Chứng khoán 304.685 - (248.106) 56.579 (248.106)
vốn niêm yết
Trái phiếu chính 3.860.352 - - 3.860.352 -
phủ
Mặt khác, ngân hàng ACB cũng trình bày cơ sở đo lường giá trị của các chứng
khoán trên như sau:
Giá trị thị trường của chứng khoán vốn niêm yết tại Sàn giao dịch chứng
khoán Hà Nội được tính dựa vào giá bình quân của ngày giao dịch cuối cùng
của năm tại Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội.
60
Giá trị thị trường của chứng khoán vốn niêm yết tại Sàn giao dịch chứng
khoán Thành phố Hồ Chí Minh được tính dựa vào giá đóng cửa của ngày
giao dịch cuối cùng của năm tại Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ
Chí Minh.
Giá trị thị trường của chứng khoán nợ được trình bày bằng giá trị sổ sách do
Ngân hàng không có cơ sở để xác định giá trị thị trường của các chứng
khoán nợ này.
Qua kết quả khảo sát trên, chúng ta nhận thấy rằng dù tại Việt Nam các chuẩn mực
kế toán quy định về việc sử dụng giá trị hợp lý nhưng việc vận dụng vào trong các
công ty vẫn còn ở mức khiêm tốn. Hầu hết, trong phần thuyết minh của các công ty
đều sử dụng giá gốc để ghi nhận giá trị cho các tài sản đang nắm giữ. Khi thông tư
210/2009TT-BTC ban hành có hiệu lực từ 2011 thì một số công ty đã manh nha bắt
đầu sử dụng. Thông tư 210 được áp dụng cho tất cả các đơn vị thuộc mọi lĩnh vực,
mọi thành phần kinh tế tại Việt Nam có các giao dịch liên quan đến công cụ tài
chính. Do công cụ tài chính là định nghĩa rộng, bao trùm nhiều loại hình tài sản và
nợ phải trả tài chính nên việc áp dụng các chuẩn mực sẽ có ảnh hưởng sâu rộng tới
nhiều tổ chức, đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ tài
chính ngân hàng. Tuy nhiên, việc áp dụng còn mang tính hình thức, ví dụ một số
công ty trong phần thuyết minh trình bày cách phân loại các công cụ tài chính theo
cách phân loại như thông tư 210/2009TT-BTC. Sau đó, các công ty này lại thuyết
minh bổ sung:
“Ngân hàng chưa xác định giá trị hợp lý của các khoản mục này do chưa có
hướng dẫn về xác định giá trị hợp lý theo hệ thống chuẩn mực kế toán Việt
Nam cũng như thông tin chưa có đủ”.
Hoặc: “giá trị hợp lý bất động sản đầu tư không được xác định bởi vì công ty
không thực hiện việc định giá. Không có giao dịch gần đây trên thị trường
cho bất động sản tương đồng và nằm cùng địa điểm với bất động sản đầu tư
của công ty”.
61
Đồng thời, người viết cũng nhận thấy rằng, khi áp dụng giá trị hợp lý cho các chứng
khoán các công ty chỉ dừng lại việc ghi nhận giá trị hợp lý, chưa ghi nhận các khoản
lãi hay lỗ do đánh giá lại. Dẫu vậy, các công ty cũng đã thuyết minh phương pháp
các công ty này xác định giá trị hợp lý cho các chứng khoán. Bất động sản đầu tư
thì hầu như vẫn ghi nhận toàn bộ theo giá gốc chưa xác định được giá trị hợp lý.
2.7. Ảnh hưởng của giá trị hợp lý đến sự cân bằng giữa độ tin cậy và tính
thích hợp của các thông tin trên báo cáo tài chính9
Những tranh cãi xung quanh giá trị hợp lý thông thường là tính đáng tin cậy và
thích hợp của thông tin (Christensen and Nikolaev, 2009). Báo cáo tài chính
nên cung cấp những thông tin hữu ích cho nhà đầu tư và những chủ nợ để giúp
cho họ ra những quyết định đầu tư. Những quyết định đầu tư này sẽ tác động
đến phân phối thu nhập cũng như phúc lợi của mọi người trong xã hội. Do đó,
những quyết định phải được dựa trên những thông tin thích hợp, đáng tin cậy và
kịp thời để góp phần phát triển nền kinh tế. Việc cung cấp những thông tin trên
sẽ giúp gia tăng và cải thiện chất lượng những quyết định của nhà đầu tư và
giảm bất cân xứng thông tin. Chọn sử dụng giá trị hợp lý hay giá gốc phụ thuộc
vào nguồn lực và cố gắng của doanh nghiệp chi ra để có được giá trị hợp lý
đáng tin cậy. Trở ngại chính của giá trị hợp lý là độ tin cậy của nó không những
tác động đến những quyết định của người sử dụng mà còn tác động đến những
hợp đồng của họ. Điểm yếu của giá trị hợp lý là làm gia tăng chi phí công ty khi
các nhà quản lý thực hiện hoạt động tái định giá các tài sản. Toàn cầu hóa và sự
phát triển thị trường vốn đã định hình nên các thành phần của báo cáo tài chính
và lợi ích của người sử dụng. Ngày nay, các nhà đầu tư tập trung vào những cơ
hội đầu tư, hiệu quả hoạt động và thu nhập trong tương lai, vì vậy báo cáo lưu
chuyển tiền tệ đã trở thành những báo cáo tài chính quan trọng nhất. Kết quả là,
việc sử dụng liên tục giá gốc trở nên khó khăn vì thông tin của nó không liên
quan đến báo cáo dòng tiền và nó không thể là cơ sở để dự báo của các dòng
9 Bassam Kazmouz, (2010). The Effect of Applying Fair Value on the Financial Statements of UK Leading Companies, 21-26pp.
62
tiền tương lai (Barlev và Haddad, 2003). Giá gốc làm gia tăng chi phí đại diện
bằng cách che giấu các giá trị kinh tế của tài sản và nợ phải trả. Giá gốc góp
phần vào sự thất bại và phá sản của công ty mà nó không phản ánh giá trị kinh
tế. Kết quả là, các công ty có thể vỡ nợ khi việc hoàn trả khoản nợ tùy thuộc
vào hiệu quả hoạt động và tồi tệ hơn là nếu tài sản được định giá quá cao (giá
gốc) so với thị trường và cuối cùng ảnh hưởng đến danh tiếng của công ty.
Bryer (1999) cho rằng giá gốc làm tăng xung đột xã hội. Nhà quản lý có thể
thao túng các báo cáo tài chính và trình bày thông tin hiện tại sai lệch, gia tăng
các xung đột xã hội và ảnh hưởng đến sự phân phối hợp lý thu nhập trong nước.
Barth et al. (2001) cung cấp bằng chứng cho thấy ước tính giá trị hợp lý tương
tự như bất kỳ các ước tính kế toán khác. Những nghiên cứu về giá trị hợp lý
thường được kết hợp bởi kiểm tra độ tin cậy với tính thích hợp của thông tin.
Giá trị hợp lý có tác động tích cực vì nó phản ánh giá thị trường gần nhất khi thị
trường là hoàn hảo và đầy đủ. Nhưng thị trường đôi lúc có những tin đồn, thị
trường không hoạt động, niềm tin và hành vi của những người tham gia thị
trường và các thông tin bất cân xứng mà làm cho nó không hoàn hảo và không
đầy đủ. Foster và Shastri (2010) cho rằng báo cáo tài chính vẫn có thể nhận
được lợi ích của giá gốc nếu sử dụng giá trị hợp lý mà vẫn đảm bảo độ tin cậy
nếu công bố giá trị hợp lý trong thuyết minh. Điều này làm cho chất lượng của
các báo cáo tài chính sẽ được tăng cường nhưng nó sẽ làm cho các công ty tốn
kém hơn và cần nhiều thời gian hơn. Với sự vắng mặt của một thị trường hoạt
động quá trình định giá vốn cổ phần sẽ khó khăn dẫn đến có thể sai sót trong
quá trình đánh giá, làm giảm độ tin cậy của báo cáo tài chính, giảm khả năng
kiểm chứng, tăng tính chủ quan của quá trình đánh giá và gia tăng chi phí đại
diện của công ty (Christensen và Nikolaev, 2009).
Tính thích hợp của giá trị hợp lý được những người sử dụng thông tin chấp
nhận, trong khi đó tính đáng tin cậy vẫn còn đang nghi ngờ. Tại Việt Nam các
thị trường hiện nay đã phát triển cung cấp dữ liệu cho việc định giá giá trị hợp
lý tin cậy hơn. Bên cạnh đó, những văn bản pháp lý quy định về giá trị hợp lý
63
phổ biến hơn so với trước kèm theo những hướng dẫn thực hiện nên độ tin cậy
của các khoản mục trình bày theo giá trị hợp lý được nâng lên. Phần tiếp theo
người viết sẽ thực hiện khảo sát những đối tượng có lợi ích liên quan đến các
công ty tại thành phố Hồ Chí Minh, để xem xét họ có tin rằng có sự cân bằng
giữa độ tin cậy và thích hợp của thông tin trên báo cáo tài chính hay không.?.
2.8. Khảo sát ảnh hưởng của giá trị hợp lý đến sự cân bằng của hai đặc điểm
chất lượng: độ tin cậy và thích hợp của thông tin trên báo cáo tài chính
2.8.1. Mục đích
Ở chương 1, ta thấy có sự tồn tại của sự bất cân xứng thông tin giữa người bên
trong và bên ngoài công ty. Các cổ đông mong muốn người quản lý trình bày
lợi nhuận mà họ có thể kiểm tra được nên giá gốc được sử dụng để thể hiện
trách nhiệm giải trình-Giá gốc đảm bảo thông tin trình bày đáng tin cậy. Trong
khi đó, các cổ đông hay người bên ngoài mong muốn sử dụng thông tin thích
hợp để ra quyết định, do đó thông tin trình bày theo giá trị hợp lý thích hợp
hơn. Thông thường người sử thông tin cho rằng giá trị hợp lý không đáng tin
cậy do dựa trên các kỹ thuật ước tính. Do đó, người viết thực hiện cuộc khảo
sát nhằm kiểm tra rằng: liệu những người có lợi ích liên quan đến công ty có
tin rằng có sự cân bằng giữa 2 đặc điểm chất lượng: tính đáng tin cậy và thích
hợp khi các khoản mục trên báo cáo tài chính trình bày theo giá trị hợp lý.
2.8.2. Phương pháp thực hiện
Để tiến hành khảo sát, người viết tiến hành phát phiếu khảo sát, tập hợp và
thống kê kết quả. Phương pháp khảo sát dựa trên mô hình McCaslin & Stanga (1983)10 có điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam, kết quả khảo sát
trình bày trong phụ lục 3. Năm 1983, McCaslin & Stanga thực hiện nghiên cứu
11 khoản mục trên báo cáo tài chính: lợi nhuận, doanh thu, giá vốn hàng bán
(đo lường theo phương pháp FiFo), giá vốn hàng bán (đo lường theo phương
pháp LiFo), Chi phí khấu hao (theo phương pháp đường thẳng), chi phí khấu
10 McCaslin, T.E., & Stanga, K.G. (1983), Related qualities of useful accounting information. Accounting and business research.
64
hao (theo phương pháp tổng sản lượng), hàng tồn kho ( phương pháp FiFo),
hàng tồn kho (theo phương pháp LiFo), bất động sản đầu tư-nhà xưởng-máy
móc, tài sản thuần cuối năm, thu nhập trên mỗi cổ phiếu. Nghiên cứu của hai
nhà khoa học vận dụng thống kế trong SPSS cho thấy các khoản mục này khi
chuyển từ đo lường theo giá gốc sang đo lường theo đồng đô la người sử dụng
thông tin báo cáo tài chính thấy thông tin tin cậy và hữu ích.
- Đối tượng khảo sát gồm: Nhà đầu tư, kế toán, kiểm toán và nhân viên ngân
hàng.
- Bảng câu hỏi khảo sát gồm 20 câu hỏi (phụ lục 2) gửi đến các đối tượng
khảo sát nhằm xem xét những đối tượng trên khi sử dụng các khoản mục trên
báo cáo tài chính đo lường theo giá trị hợp lý có vừa đảm bảo tính thích hợp
vừa đảm bảo độ tin cậy.
2.8.3. Kết quả khảo sát
Người viết phát 195 phiếu khảo sát kết quả thu được các bảng hợp lệ (trả lời
đầy đủ) gồm: 39 bảng của nhân viên kế toán, 35 bảng của nhà đầu tư, 44 bảng
của các nhân viên ngân hàng và 32 bảng của các kiểm toán viên.
a. Kết quả tổng thể
Kết quả khảo sát cho thấy cả 4 nhóm lợi ích đều cho tương quan dương với
5 loại tài sản khảo sát hay nói cách khác là cả 5 loại tài sản trên nếu trình
bày theo giá trị hợp lý thì thông tin cung cấp đảm bảo tính thích hợp cũng
như độ tin cậy. Trong đó, khoản mục hàng tồn kho có tương quan yếu nhất
(0,076), lợi thế thương mại tương quan mạnh nhất (0.717), độ tương quan
tiếp theo sau lợi thế thương mại là chứng khoán (0.248) và bất động sản
đầu tư (0.228). Với mức độ tương quan khảo sát này cho thấy: dù nhà đầu
tư, nhân viên ngân hàng, kiểm toán viên hay kế toán đều nhận thức rằng đo
lường các khoản mục lợi thế thương mại, bất động sản đầu tư, chứng
khoán, hàng tồn kho hay thương hiệu thì thông tin cung cấp đảm bảo sự
cân bằng chất lượng trong cung cấp thông tin giữa 2 đặc điểm: độ tin cậy
và tính thích hợp.
65
Bảng 2.1: Kiểm tra mức độ tương quan trong tổng thể
Loại tài sản Kendall’s Tau_b Xác suất
Lợi thế thương mại 0.717 0.000
Bất động sản đầu tư 0.228 0.009
Chứng khoán 0.248 0.013
Hàng tồn kho 0.076 0.344
Thương hiệu 0.179 0.16
b. Kết quả đối với nhà đầu tư
Bảng 2.2: Kiểm tra mức độ tương quan các khoản mục đối với nhà đầu
tư
Loại tài sản Kendall’s Tau_b Xác suất
Lợi thế thương mại 0.755 0.000
Bất động sản đầu tư 0.233 0.237
Chứng khoán 0.254 0.245
Hàng tồn kho 0.091 0.705
Thương hiệu 0.326 0.110
Sau khi xem xét mức độ tương quan của tổng thể. Bài viết tiến hành khảo sát nhận
thức của từng nhóm lợi ích đến từng khoản mục trình bày theo giá trị hợp lý. Qua
bảng kết quả, người viết nhận thấy, nhà đầu tư nhận thức khoản mục lợi thế thương
mại trình bày theo giá trị hợp lý vẫn cho tương quan dương cao nhất (0.755). Nhưng
khác với kết quả tổng thể, nhà đầu tư cho rằng sau lợi thế thương mại thì tính cân
bằng giữa độ tin cậy và tính thích hợp là khoản mục thương hiệu (0.326). Khoản
mục hàng tồn kho vẫn cho tương quan yếu nhất (0.091).
c. Kết quả đối với kế toán
Bảng 2.3: Kiểm tra mức độ tương quan các khoản mục đối với nhân
viên kế toán
66
Loại tài sản Kendall’s Tau_b Xác suất
Lợi thế thương mại 0.766 0.000
Bất động sản đầu tư 0.269 0.099
Chứng khoán 0.301 0.107
Hàng tồn kho 0.183 0.346
Thương hiệu 0.411 0.012
Đối với người lập báo cáo tài chính-nhân viên kế toán thì kết quả khảo sát cũng cho
tương tự như đối với nhà đầu tư. Cụ thể: mức độ tương quan lớn nhất vẫn thuộc về
khoản mục lợi thế thương mại (0.766), tiếp đến là khoản mục thương hiệu (0.411),
khoản mục cho tương quan dương thấp nhất vẫn là hàng tồn kho (0.183). Mặc dù,
khoản mục hàng tồn kho cho giá trị thấp nhất trong 5 khoản mục nhưng vẫn cho giá
trị lớn hơn mức 1%.
d. Kết quả đối với kiểm toán
Đối với các kiểm toán viên thì kết quả khảo sát có sự biến động ít nhiều so với 2 đối
tượng trên (nhà đầu tư và nhân viên kế toán). Đối với khoản mục lợi thế thương mại
thì nhận thức của nhân viên kế toán vẫn cho kết quả tương tự như hai đối tượng
trên, độ tương quan cao nhất (0.760). Sự thay đổi nằm ở khoản mục hàng tồn kho,
nếu như trong tương quan của tổng thể khoản mục hàng tồn kho cho độ cân bằng
thấp nhất thì đối với nhân viên kiểm toán độ cân bằng giữa tính thích hợp và độ tin
cậy của khoản mục này (0.275) chỉ thấp hơn lợi thế thương mại. Vị trí thấp nhất
trong nhận thức tương quan lại rơi vào khoản mục thương hiệu (0.121).
Bảng 2.4: Kiểm tra mức độ tương quan các khoản mục đối với
nhân viên kiểm toán
Loại tài sản Kendall’s Tau_b Xác suất
Lợi thế thương mại 0.760 0.000
Bất động sản đầu tư 0.178 0.452
Chứng khoán 0.149 0.568
Hàng tồn kho 0.275 0.124
67
Thương hiệu 0.121 0.410
e. Kết quả đối với nhân viên ngân hàng
Đối với nhóm khảo sát cuối cùng-nhân viên ngân hàng, cân bằng giữa độ tin cậy và
tính thích hợp khi đo lường theo giá trị hợp lý của khoản mục lợi thế thương mại
vẫn cao nhất (0.670). Mức độ tương quan tiếp theo thuộc về khoản mục chứng
khoán (0.231). Các nhân viên ngân hàng nhận thức sự cân bằng của khoản mục
thương hiệu khi đo lường theo giá trị hợp lý là thấp nhất (0.022).
Bảng 2.5: Kiểm tra mức độ tương quan các khoản mục đối với nhân viên ngân
hàng
Loại tài sản Kendall’s Tau_b Xác suất
Lợi thế thương mại 0.670 0.000
Bất động sản đầu tư 0.198 0.171
Chứng khoán 0.231 0,171
Hàng tồn kho 0.035 0.792
Thương hiệu 0.022 0.860
2.8.4. Đánh giá kết quả khảo sát
Qua phân tích ở trên, có những điểm chung trong kết quả khảo sát thông qua
bốn nhóm lợi ích. Thứ nhất, tất cả các nhóm cho rằng tồn tại tương quan
dương của 5 khoản mục: lợi thế thương mại, bất động sản đầu tư, chứng
khoán, hàng tồn kho và thương hiệu khi các khoản mục này chuyển từ đo
lường theo giá gốc sang đo lường theo giá trị hợp lý, tức là thông tin vừa đảm
bảo độ tin cậy vừa đảm bảo tính thích hợp. Thứ hai, trong 5 khoản mục được
khảo sát thì lợi thế thương mại cho kết quả tương quan dương cao nhất cho cả
bốn nhóm lợi ích. Thứ ba, bốn khoản mục còn lại có mức độ tương quan
dương nhưng giá trị sẽ thay đổi giữa các nhóm quan sát.
2.9. Những thuận lợi và khó khăn khi áp dụng kế toán giá trị hợp lý tại Việt
nam
68
2.9.1. Thuận lợi
Sức ép của yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế: Nhiều tập đoàn lớn của Nhà
nước (như PetroViệt Nam) lại gặp không ít khó khăn trong việc huy động
vốn trên thị trường vốn quốc tế. Nguyên nhân chính lại nằm ở các chuẩn
mực báo cáo tài chính. Bởi cho đến nay, những ngành đặc thù như dầu khí,
năng lượng vẫn chưa có một hệ thống chuẩn mực báo cáo tài chính theo
thông lệ quốc tế, khiến nhà đầu tư nước ngoài phải mất nhiều thời gian mới
đánh giá được các chỉ tiêu tài chính cũng như năng lực cạnh tranh của tập
đoàn. Chính điều này đã cản trở tập đoàn tiếp cận với nguồn vốn quốc tế.
Trong khi đó, với việc toàn cầu hóa thì nhu cầu vốn của các công ty ngày
càng tăng lên, cần thu hút nhiều nhà đầu tư quốc tế, thị trường vốn quốc tế.
Tuy nhiên, để làm được điều này các công ty phải sớm sử dụng các chuẩn
mực báo cáo tài chính theo thông lệ quốc tế thì họ mới quan tâm và đánh giá
cao về năng lực tài chính của công ty. Còn chuẩn mực kế toán của Việt Nam
hiện có một số điểm chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, nên nhà đầu tư nước
ngoài mất khá nhiều thời gian để tiếp cận với BCTC của các công ty. Hiện
nay các thị trường vốn quốc tế như Singapore, Hongkong hay New York...
đều yêu cầu các doanh nghiệp muốn huy động vốn từ những thị trường này
phải cung cấp các BCTC theo chuẩn mực IFRs. Chính vì thế, để thu hút
nguồn vốn ngoại một cách thuận lợi, các doanh nghiệp Việt Nam cần sớm áp
dụng các chuẩn mực IFRs. Trong khi các chuẩn mực IFRs chuyển dần sang
giá trị hợp lý thì ở Việt Nam, giá gốc được quy định là một nguyên tắc cơ
bản của kế toán Việt Nam. Vai trò của giá trị hợp lý còn khá mờ nhạt. Sức
ép của yêu cầu hội nhập và cả sức ép của yêu cầu phát triển nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam chỉ ra rằng, để bắt nhịp với sự phát triển toàn cầu thì kế
toán cũng phải thay đổi theo khuynh hướng sử dụng nhiều giá trị hợp lý hơn
để phản ánh biến động của thị trường.
Hệ thống văn bản pháp luật làm nền tảng thực hiện giá trị hợp lý: Bộ Tài
Chính đã ban hành các chuẩn mực liên quan đến giá trị hợp lý, bao gồm định
69
nghĩa về giá trị hợp lý, các trường hợp ghi nhận giá trị hợp lý. Đồng thời,
cũng ban hành các thông tư hướng dẫn các phương pháp đo lường giá trị hợp
lý. Một trong những dấu hiệu lạc quan là khi ban hành Thông tư
210/2009TT-BTC về công cụ tài chính thì một số công ty đã bắt đầu sử dụng
cho niên độ đầu tiên mà thông tư này có hiệu lực.
Nguồn nhân lực: Không thể thiếu con người trong định hướng phát triển giá
trị hợp lý. Rất nhiều công ty định giá độc lập ra đời góp phần tăng chất
lượng kết quả định giá. Đồng hành với sự phát triển của nhu cầu xã hội thì
các trường đại học cũng đào tạo nguồn nhân lực liên quan đến lĩnh vực thẩm
định giá để định giá tài sản các công ty.
Các thị trường giao dịch các tài sản ở Việt Nam cũng phát triển như: thị
trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường nông sản,.., cung
cấp thông tin cho đo lường giá trị hợp lý.
2.9.2. Khó khăn
Qua kết quả khảo sát ở trên, chúng ta thấy rằng có rất ít doanh nghiệp ở Việt Nam
sử dụng giá trị hợp lý trong đo lường. Trong khi đó, các chuẩn mực kế toán quốc tế
chuyển dần sang chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế với khuynh hướng sử dụng
nhiều giá trị hợp lý trong đo lường. Giá trị hợp lý và việc sử dụng giá trị hợp lý ở
Việt Nam tuy đã có những bước khởi đầu nhất định song vẫn mang tính chấp vá,
chưa có một định hướng rõ ràng về việc sử dụng giá trị hợp lý. Điều này thể hiện qua các điểm chủ yếu sau11:
Chưa xác định một cách rõ ràng và nhất quán về tính tất yếu của việc sử
dụng giá trị hợp lý là cơ sở định giá chủ yếu trong kế toán.
Định nghĩa giá trị hợp lý chưa rõ ràng, chưa đầy đủ.
Các quy định về giá trị hợp lý và sử dụng giá trị hợp lý trong kế toán
nằm rải rác trong các chuẩn mực, mang tính chấp vá, thiếu tính hệ thống.
Chưa có hướng dẫn chính thức và thống nhất về phương pháp xác định
giá trị hợp lý trong kế toán.
11 Lê Hoàng Phúc, 29/05/2012. FASB nới lỏng giá trị hợp lý.
70
Giá trị hợp lý sử dụng chủ yếu cho ghi nhận ban đầu, chưa sử dụng để
trình bày các khoản mục sau ghi nhận ban đầu, do đó chưa đạt được mục
đích ghi nhận và trình bày các khoản mục theo những thay đổi của thị
trường.
Bên cạnh sự chưa hoàn chỉnh một hệ thống thị trường hoạt động (active market) ở
Việt Nam, cũng như sự thiếu vắng các quy định và hướng dẫn về giá trị hợp lý và
sử dụng giá trị hợp lý, thì vấn đề đang là một rào cản đáng để ngăn cản sự phát
triển và sử dụng giá trị hợp lý chính là vấn đề về nhận thức, đó là niềm tin vào tính
đáng tin cậy của giá trị hợp lý.
Mặt khác, các quy định về việc xác định giá trị hợp lý là khá cụ thể khi xác định giá
trị của tài sản, nợ phải trả và các chi phí khác liên quan đến hợp nhất kinh doanh.
Tuy nhiên, các quy định này còn chưa phù hợp với thực tiễn vì các giao dịch Hợp
nhất kinh doanh của Việt Nam diễn ra chủ yếu bắt nguồn từ công tác tổ chức, sắp
xếp lại các doanh nghiệp nhà nước. Khác với bản chất hợp nhất kinh doanh của
những nước có nền kinh tế thị trường phát triển, các hoạt động hợp nhất kinh doanh
của doanh nghiệp Việt Nam không mang tính chất thôn tính lẫn nhau. Sự khác biệt
này nhấn mạnh đến công việc định giá doanh nghiệp trong hợp nhất kinh doanh của
Việt Nam những năm gần đây. Tiến trình tổ chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà
nước xuất hiện những trường hợp mua bán, chuyển nhượng, sáp nhập hoặc cổ phần
hoá doanh nghiệp, trong mỗi trường hợp như vậy, kế toán đều phải xác định giá trị
tài sản thuần theo giá trị hợp lý để làm căn cứ ghi sổ. Tuy nhiên, kể từ năm 2011
các vụ M&A (mua bán và sáp nhập) diễn ra với số lượng càng nhiều và quy mô
ngày càng lớn. Các công ty tư vấn, môi giới cho M&A ở Việt Nam còn yếu về năng
lực thực tế liên quan đến các vấn đề trong M&A như luật, tài chính, kiểm toán,
thuế, thẩm định giá, nhân sự. Đặc biệt, Việt Nam chưa có hệ thống các văn bản
12 Tạp chí kế toán, 06/06/2012. Câu chuyện xác định giá trị hợp lý khi hợp nhất.
pháp lý riêng điều chỉnh hoạt động M&A. Hiện vấn đề này đang còn nhiều tồn tại ở Việt Nam, được thể hiện qua hai góc độ sau12:
71
Vấn đề thứ nhất: Căn cứ để các chuyên gia xác định giá trị doanh nghiệp là giá
trị ghi sổ và giá thị trường của các chỉ tiêu trên BCTC. Cả hai căn cứ này hiện
nay cũng chưa đảm bảo độ tin cậy. Bởi vì, tại nhiều Doanh nghiệp, BCTC chỉ
mang tính hình thức, đối phó với các cơ quan quản lý, nhiều hoạt động kinh tế
ngầm không được phản ánh vào sổ sách kế toán. Trường hợp ngược lại, báo cáo
tài chính lại được thổi phồng, phù phép để doanh nghiệp có thể giải ngân hay
vay vốn ngân hàng một cách thuận lợi. Hơn nữa, khái niệm giá thị trường, khái
niệm hàng hoá tương đương còn khá mơ hồ, không rõ ràng, không có một văn
bản pháp luật nào quy định cụ thể. Các chuyên gia định giá khi căn cứ vào giá
thị trường còn mang nặng tính chủ quan. Thậm chí, ngay cả việc xác định giá trị
hiện trạng của từng tài sản là rất khó, rất chung chung. Công việc xác định giá
trị lợi thế kinh doanh như vị trí địa lý, giá trị thương hiệu, tiềm năng phát triển,
uy tín doanh nghiệp… hay quyền sử dụng đất chưa có khung pháp lý rõ ràng
hoặc nếu có cũng chưa phù hợp với điều kiện thị trường thường xuyên biến
động.
Vấn đề thứ hai: Các phương pháp định giá doanh nghiệp như phương pháp tài
sản, phương pháp giá thị trường hay phương pháp so sánh còn chưa được áp
dụng trong quá trình định giá một cách khoa học, nhất quán. Kết quả của các
phương pháp còn mâu thuẫn, chênh lệch còn lớn. Ngày 13/03/2006, Bộ Tài
chính ban hành Thông tư 17/TT/BTC hướng dẫn Nghị định 101/2005 về thẩm
định giá trong đó có quy định cụ thể hơn, rõ ràng hơn các phương pháp định giá
bao gồm: Phương pháp so sánh, phương pháp thu nhập, phương pháp thặng dư,
phương pháp lợi nhuận, phương pháp thẩm định giá theo thông lệ Quốc tế đã
từng bước kiện toàn lại hệ thống pháp luật về thẩm định giá. Tuy nhiên, vấn đề
đặt ra là môi trường pháp luật, môi trường kinh tế chung có hoạt động định giá
chưa đồng bộ, thị trường chứng khoán chưa phát triển, các yếu tố khác của thị
trường rất phức tạp và thường xuyên biến động.
Việc xác định nợ phải trả mới chỉ dừng lại ở việc kiểm tra đối chiếu công nợ
với khách hàng, chưa có một kỹ thuật, một phương pháp riêng nào để xác định
72
đúng giá trị hợp lý các khoản nợ. Hệ thống pháp luật về định giá chưa đầy đủ,
chưa bao quát các hoạt động của nền kinh tế như xác định giá trị quyền sử dụng
đất, tài sản vô hình và các hàng hoá đặc thù. Các tổ chức tham gia vào lĩnh vực
định giá bao gồm: Ban Vật giá, các Trung tâm thẩm định giá của Bộ Tài chính,
các công ty kiểm toán… đều bị đánh giá là mang nặng tính hành chính, lý
thuyết, định giá chưa sát với giá thị trường. Các chuyên gia về thẩm định giá
của Việt Nam còn quá non trẻ trong lĩnh vực này. Việc làm của họ mới chỉ là
những thói quen thông thường chưa mang tính khoa học. Bên cạnh đó, các vi
phạm về đạo đức nghề nghiệp của cán bộ quản lý, của các thẩm định viên về giá
cố tình vi phạm các nguyên tắc về thẩm định giá khi giám định vẫn còn tồn tại.
Hiện tại, chúng ta đang bị thiếu những chuyên gia thực sự có năng lực làm việc,
hiểu biết có tâm huyết với nghề định giá… Quan điểm chi phí-lợi ích đôi lúc
cũng là trở ngại cho việc thực hiện kế toán giá trị hợp lý tại Việt Nam. Vì để đo
lường giá trị hợp lý của các tài sản của công ty, thì chi phí họ bỏ ra thường lớn
hơn lợi ích mang lại.
73
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Các văn bản về giá trị hợp lý tại Việt Nam đã ban hành một thời gian khá lâu,
tuy nhiên thuật ngữ giá trị hợp lý cũng như những quy định về giá trị hợp lý đối
với người sử dụng thông tin vẫn còn khá mới mẻ. Do có sự kế thừa từ chuẩn
mực báo cáo tài chính quốc tế nên những quy định về giá trị hợp lý trong chuẩn
mực kế toán Việt Nam phần lớn có những nét tương đồng với chuẩn mực báo
cáo tài chính quốc tế. Kết quả khảo sát về mức độ sử dụng giá trị hợp lý cho
thấy rằng có rất ít các doanh nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh sử dụng giá trị
hợp lý cho các khoản mục trên báo cáo tài chính. Nếu doanh nghiệp sử dụng giá
trị hợp lý thì số lượng khoản mục sử dụng cũng rất khiêm tốn chỉ có chứng
khoán là định giá theo giá trị hợp lý. Sự tranh cãi về việc sử dụng giá trị hợp lý
thông thường do giá trị hợp lý không đáng tin cậy. Tuy nhiên, khi khảo sát
những người sử dụng thông tin thì người viết nhận thấy rằng, các đối tượng này
tin rằng có sự cân bằng giữa độ tin cậy và thích hợp của các thông tin trên báo
cáo tài chính. Để giá trị hợp lý được sử dụng phổ biến hơn người viết đưa ra
một số kiến nghị ở chương 3 nhằm mở rộng việc sử dụng giá trị hợp lý cũng
như định hướng việc sử dụng giá trị hợp lý sao cho phù hợp với xu hướng quốc
tế.
74
Chương 3: Một số kiến nghị định hướng việc sử dụng giá trị hợp lý tại Việt
Nam
Việc sử dụng giá trị hợp lý cho đến nay cũng có nhiều tranh cãi, giá trị hợp lý có là
nguyên nhân gây khủng hoảng hay không thì vẫn chưa có nghiên cứu nào chứng
minh. Dù kết quả tiêu cực hay tích cực thì những đóng góp của giá trị hợp lý là
không thể phủ nhận. Các công ty sẽ đo lường tài sản tài chính kể cả nợ và tài sản
theo giá trị hợp lý. Chúng sẽ không còn giữ một mức giá trong thời gian dài. Mà
chúng phải phản ánh theo giá thị trường khi các báo cáo tài chính được cập nhật.
Điều này phù hợp hơn bởi vì phản ánh giá trị thực sự mà công ty đang có. Đây
chính là sự khác biệt giữa giá gốc và giá trị hợp lý. Nhà đầu tư sẽ nhìn thấy sự thay
đổi trong tài sản của công ty. Công ty sẽ phải kiểm tra lại tất cả các tài sản mà nó
đang nắm giữ để ghi nhận theo giá trị thị trường. Việc làm này phải làm cẩn thận vì
tất cả các quyết định này sẽ trình bày trên báo cáo tài chính và qua đó sẽ nhìn thấy
phản ứng của các bên liên quan. Bên cạnh đó, thông qua khảo sát chương 2, người
viết cũng nhận thấy các đối tượng sử dụng thông tin cũng như người cung cấp thông
tin tin rằng giá trị hợp lý vừa đảm bảo tính thích hợp cũng như đảm bảo độ tin cậy
của thông tin. Phần này, người viết trình bày những kiến nghị nhằm mở rộng việc
sử dụng giá trị hợp lý tại Việt Nam.
3.3. Mục đích kiến nghị
3.1.1. Mở rộng phạm vi sử dụng giá trị hợp lý tại Việt Nam
Qua khảo sát ở chương 2, chúng ta nhận thấy rằng mức độ sử dụng giá trị hợp lý
tại các công ty Việt Nam vẫn còn rất ít. Việc trình bày các thông tin trên các báo
cáo tài chính theo giá trị hợp lý giảm thiểu được thông tin bất cân xứng cũng
như phản ánh những thay đổi của thị trường trong bối cảnh nền kinh tế luôn diễn
biến phức tạp. Do đó, cần có những định hướng cho việc thực hiện giá trị hợp lý
nhằm mở rộng sử dụng giá trị hợp lý không những ở số lượng công ty mà còn ở
góc độ số lượng các khoản mục trên báo cáo tài chính.
3.1.2. Phù hợp với xu hướng phát triển của thế giới
75
Hiện nay, các chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế chuyển dần sang sử dụng giá
trị hợp lý cho nhiều khoản mục trên báo cáo tài chính. Mặt khác, các thị trường
vốn trên thế giới yêu cầu các công ty sử dụng báo tài chính theo chuẩn mực quốc
tế. Vì vậy, việc sử dụng giá trị hợp lý là xu hướng tất yếu tại Việt Nam. Đồng
thời, những quy định về giá trị hợp lý tại Việt Nam còn khá mờ nhạt và lạc hậu
so với thế giới. Vì vậy, vận dụng giá trị hợp lý tại Việt Nam sẽ góp phần thúc
đẩy kinh tế phát triển thông qua thu hút được nguồn đầu tư trên thị trường vốn
quốc tế, cũng như thu hút nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường Việt Nam.
3.2. Nội dung kiến nghị
Việc sử dụng giá trị hợp lý sẽ cung cấp thông tin thích hợp, các chuẩn mực kế toán
Việt Nam được xây dựng dựa trên chuẩn mực kế toán quốc tế. Để đảm bảo xu thế
hội nhập, đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống kế toán thì các chuẩn mực kế toán
Việt Nam cũng dần sử dụng giá trị hợp lý. Tuy nhiên, Việt Nam đang đối mặt với
những thách thức như:
• Về nhận thức sự hình dung tổng thể vấn đề của các tổ chức lập quy, các đơn
vị kinh tế (bao gồm cả các ngân hàng) và các đối tượng sử dụng báo cáo tài
chính còn nhiều hạn chế.
• Về môi trường kinh doanh các thị trường hoạt động còn hạn chế ví dụ như
các giao dịch công cụ tài chính còn chưa nhiều nếu áp dụng giá trị hợp lý thì
thông tin sẽ có độ tin cậy không cao.
• Về pháp lý Luật kế toán còn xác lập giá gốc vẫn là một nguyên tắc kế toán
của Việt Nam.
• Về tổ chức lập quy sự phối hợp giữa Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính
còn chưa chặt chẽ.
Do đó, để áp dụng giá trị hợp lý tại Việt Nam cần tiến hành nhiều nghiên cứu thấu
đáo về giá trị hợp lý để cung cấp nền tảng lý luận và thực tiễn cho tất cả các bên
liên quan đến quá trình.
Trong bối cảnh đó, không nên đặt mục tiêu giải quyết trọn gói vấn đề. Nên chia vấn
đề thành từng mục tiêu nhỏ để có thể giải quyết từng bước và làm đà cho những
76
bước tiếp theo. Lộ trình thực hiện giá trị hợp lý nên chia theo giai đoạn: ngắn hạn và
dài hạn.
3.2.3. Về ngắn hạn
3.2.1.7. Sửa đổi Luật kế toán
Nền tảng pháp lý của kế toán là Luật kế toán, bên cạnh giá gốc là loại giá sử dụng
cơ bản trong kế toán; luật kế toán nên sửa đổi bổ sung giá trị hợp lý là một loại giá
làm cơ sở đo lường trong kế toán.
3.2.1.8. Giáo dục về nhận thức
Để giá trị hợp lý sử dụng phổ biến thì trước hết các đối tượng có liên quan phải
nhận thức tính hữu ích khi sử dụng nó. Muốn làm được điều này thì cần phải có sự
nhận thức đúng đắn từ các bên liên quan. Do đó, những quy định về giá trị hợp lý từ
các tổ chức lập quy nên đưa vào giáo dục trong nhà trường cho các sinh viên những
đối tượng sau này sẽ là người có nhiệm vụ lập báo cáo tài chính, cũng có thể là
người sử dụng thông tin có liên quan đến giá trị hợp lý. Đồng thời, hội nghề nghiệp
nên có những buổi tập huấn để phổ biến những thông tin về giá trị hợp lý cho các
doanh nghiệp.
3.2.1.9. Giải thích rõ các thuật ngữ liên quan đến giá trị hợp lý
3.2.1.2.4. Thuật ngữ giá trị hợp lý
Trong nhận thức của người sử dụng thông tin kế toán và người làm kế toán có sự
nhầm lẫn giữa giá trị hợp lý và giá thị trường. Do đó, trong các thông tư và chuẩn
mực có liên quan nên nhấn mạnh sự khác nhau giữa hai khái niệm này. Giá trị hợp
lý và giá thị trường đều dựa trên thị trường để xác định. Tuy nhiên, trong trường
hợp không có thị trường hoạt động thì giá thị trường không xác định nhưng giá trị
hợp lý vẫn xác định được nhờ các kỹ thuật ước tính.
3.2.1.2.5. Các khái niệm liên quan đến giá trị hợp lý
Định nghĩa về giá trị hợp lý được nhắc đến nhiều trong các chuẩn mực cụ thể nhưng
không đồng nhất và khó hiểu. Vì vậy, các khái niệm liên quan đến giá trị hợp lý cần
có các giải thích kèm theo ví dụ:
77
Thứ nhất, xác định thị trường để xác định giá trị hợp lý: Thị trường chính và thị
trường thuận lợi.
Xác định thị trường chính của công ty để xác định giá trị hợp lý cho 1 nhóm gồm 10
sản phẩm:
Thị trường Giá Số lượng dự kiến công Tỷ lệ giao dịch của từng thị
ty có thể bán trên thị trường so với cả nước
trường
Hà Nội 152 tỷ 7 sản phẩm 25%
Tp Hồ Chí Minh 150 tỷ 3 sản phẩm 75%
Thị trường thành phố Hồ Chí Minh là thị trường chính vì số lượng giao dịch trên
thị trường này là lớn nhất và là thị trường để xác định giá trị hợp lý.
Nếu không có thị trường chính thì thị trường thuận lợi-có giá tốt nhất sẽ được xét
đến:
Hà Nội Tp Hồ Chí Minh
160 tỷ 161 tỷ Giá có thể bán
(8) tỷ (11) tỷ Chi phí để bán được tài sản
152 tỷ 150 tỷ Giá bán thuần
Trong trường hợp này thì thị trường Hà Nội có giá tốt hơn nên sẽ được chọn để xác
định giá trị hợp lý.
Thứ hai, việc xác định giá trị hợp lý là dựa trên giá các bên tham gia thị trường
không phải dựa vào giá của chính công ty đang có sản phẩm cần định giá. Chẳng
hạn:
Công ty A mua lại công ty B. Công ty B có một khoảnh đất nằm ở vị trí đắc địa gần
một khu trung tâm thương mại có thể phát triển thành khu đô thị mới, hiện đang sử
dụng làm nhà xưởng sản xuất.
Nếu để làm nhà xưởng, giá bán của mảnh đất là 800 tỷ, còn nếu để phát triển thành
dự án đô thị mới thì có thể bán được khoảng 1,000 tỷ. Để triển khai thành dự án đô
thị mới, phải tốn chi phí giải tỏa mặt bằng, di dời nhà xưởng là 100 tỷ.
78
Giá trị hợp lý của mảnh đất là: 900 tỷ-là giá các bên tham gia thị trường định giá.
3.2.1.2.6. Phương pháp xác định giá trị hợp lý
Có 3 phương pháp xác định giá trị hợp lý: phương pháp thị trường, phương pháp
chi phí và phương pháp thu nhập. Mặc dù, IFRs 13 không ưu tiên chọn phương
pháp nào. Tuy nhiên, đối với mức độ thị trường hoạt động thấp như ở Việt Nam
thì khi xác định giá trị hợp lý cần quy định kết hợp nhiều phương pháp xác định
giá trị hợp lý để đảm bảo độ tin cậy của thông tin.
Ví dụ 1: Định giá một thiết bị cũ đã qua sử dụng
Phương pháp thu nhập không áp dụng được vì thiết bị này không tạo ra
thu nhập riêng biệt có thể nhận dạng được.
Phương pháp thị trường cho biết giá của thiết bị đã qua sử dụng từ 42.000
đến 48.000.
Phương pháp chi phí cho biết chi phí để chế tạo một máy tương đương từ
40.000 đến 52.000.
Doanh nghiệp sẽ chọn phương pháp thị trường vì: có sự điều chỉnh ít hơn và
khách quan hơn. Đồng thời, mức độ biến động hẹp hơn.
Ví dụ 2: Định giá một phần mềm tự tạo có được qua mua một nhóm tài sản
Phương pháp thị trường không được sử dụng vì phần mềm được sử dụng kết
hợp những tài sản khác tại đơn vị. Do đó, không có thông tin thị trường về
phần mềm này.
Phương pháp thu nhập dựa trên kỹ thuật chiết khấu dòng tiền cho kết quả là
15 triệu.
Phương pháp chi phí dựa trên chi phí để tạo ra một phần mềm tương tự là 10
triệu.
Doanh nghiệp lựa chọn phương pháp thu nhập vì các bên tham gia thị trường
không thể tạo ra một phần mềm tương tự.
3.2.1.10. Công bố thông tin về giá trị hợp lý
Rất nhiều ý kiến cho rằng khủng hoảng tài chính là do lỗi của giá trị hợp lý. Những
người bảo vệ giá trị hợp lý cho rằng khủng hoảng tài chính không nằm ở giá trị hợp
79
lý mà nằm ở tính minh bạch thông tin. Qua khảo sát ở chương 2, người viết nhận
thấy rằng khoản mục chứng khoán chỉ dừng lại ở việc trình bày theo giá thị trường,
giá gốc và so sánh chênh lệch. Hiện tại, các công ty vẫn chưa trình bày các khoản
lãi/ lỗ ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh như thế nào. Đa số các công ty chỉ sử
dụng dữ liệu đầu vào cấp 1 và cấp 2, còn dữ liệu đầu vào cấp 3 chỉ dừng lại ở việc
tính trung bình giá chứng khoán của 3 công ty. Người sử dụng giá trị hợp lý nhận
thức thông tin đo lường theo giá trị hợp lý thì thích hợp. Tuy nhiên, họ lo ngại tính
đáng tin cậy của thông tin đo lường theo giá trị hợp lý, đặc biệt là dữ liệu đầu vào
cấp 3. Do đó, các công ty cần phải công bố các thông tin để đảm bảo thông tin đáng
tin cậy:
- Dữ liệu đầu vào mức 3 được xác định như thế nào.
- Những tài sản và nợ phải trả sử dụng dữ liệu đầu vào mức 3 tác động đến kết
quả kinh doanh, tính thanh khoản và vốn chủ sở hữu.
- Giá trị tài sản và nợ phải trả đo lường theo mức 3 chiếm bao nhiêu phần trăm
trong tổng tài sản và nợ phải trả đo lường theo giá trị hợp lý.
- Những xét đoán khi phân loại một tài sản, nợ phải trả trong cấp bậc đo lường
giá trị hợp lý.
- Công bố những khoản lãi hoặc lỗ của những tài sản đo lường theo giá trị hợp
lý, những rủi ro tín dụng, giải thích những rủi ro tín dụng… tác động đến
việc định giá và kết quả kinh doanh.
- Những dịch vụ định giá hoặc những nhà môi giới chứng khoán tham gia hỗ
trợ xác định giá trị hợp lý thì cần phải cung cấp các thông tin sau: bản chất,
số tiền của các tài sản, cách phân loại trong dữ liệu đầu vào, số lượng giá
niêm yết sử dụng, hoặc giá niêm yết được sử dụng để điều chỉnh, giá niêm
yết đã được điều chỉnh như thế nào. Mức độ các nhà môi giới và dịch vụ
định giá dựa vào dữ liệu quan sát và không quan sát, thủ tục thực hiện định
giá như thế nào.
3.2.1.11. Bổ sung giá trị hợp lý vào chuẩn mực chung (VAS 01)
80
Hiện nay, chuẩn mực chung Việt Nam (VAS 01) được xem như là khuôn mẫu lý
thuyết kế toán, là cơ sở để xây dựng các chuẩn mực cụ thể. Tuy nhiên, trong chuẩn
mực chung coi giá gốc như một nguyên tắc chính để ghi nhận yếu tố báo cáo tài
chính. Trong trường hợp không có giá gốc thì giá trị hợp lý sẽ được sử dụng để thay
thế. Theo tôi, Chuẩn mực chung nên bổ sung các loại giá khác và nhấn mạnh đến
giá trị hợp lý.
3.2.1.12. Điều chỉnh các chuẩn mực hiện hành
Các chuẩn mực Việt Nam quy định việc ghi nhận các yếu tố báo cáo tài chính theo
giá gốc, trong trường hợp không xác định được giá gốc thì giá trị hợp lý sẽ được sử
dụng để ghi nhận. Còn trong các chuẩn mực kế toán quốc tế thì phân biệt 2 trường
hợp. Trường hợp ghi nhận ban đầu và trình bày sau ghi nhận ban đầu. Trường hợp
ghi nhận ban đầu thì Việt Nam quy định giống như chuẩn mực quốc tế. Trình bày
sau ghi nhận ban đầu thì chuẩn mực kế toán quốc tế chia ra 2 trường hợp để lựa
chọn: Hoặc sử dụng giá gốc trừ khấu hao (nếu có) trừ tổn thất tài sản (nếu có). Hoặc
sử dụng giá trị hợp lý để trình bày các khoản mục. Tuy nhiên, chuẩn mực kế
toán Việt Nam sử dụng giá gốc để ghi nhận ban đầu. Trình bày sau ghi nhận ban
đầu vẫn sử dụng giá gốc dựa trên nguyên tắc thận trọng. Mà giá gốc thì bộc lộ
những nhược điểm là không cung cấp thông tin hữu ích cho các đối tượng sử dụng
thông tin kế toán. Một số khoản mục mà người viết nhận thấy nên trình bày theo giá
trị hợp lý như: công cụ tài chính, bất động sản đầu tư. Đối với công cụ tài chính thì
năm 2009, Bộ tài chính có ban hành thông tư 210 với mục đích là trình bày các
công cụ tài chính theo gía trị hợp lý. Tuy nhiên, thông tư 210 được ban hành trong
tình huống chúng ta phải thực hiện cam kết với Ngân hàng Phát triển châu Á về hội
nhập kế toán, kiểm toán, đây là một điều kiện đi kèm của hiệp định về hỗ trợ khoản
vay. Trước áp lực thực hiện lộ trình của cam kết hội nhập, Bộ Tài chính phải ban
hành Thông tư 210 mang tính công bố việc áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế,
thực chất việc ban hành Thông tư 210 chưa mang tính chất ban hành chuẩn mực.
Thông tư này mới chỉ có hướng dẫn việc trình bày mà chưa có hướng dẫn ghi nhận
(tính toán ra các con số), mà thực tế phải có phương pháp ghi nhận thì mới có thể
81
trình bày được. Chính vì thế, thông tư này có thời gian chờ rất lâu (ban hành năm
2009, nhưng chỉ bắt đầu có hiệu lực từ năm 2011). Do vậy, trong thời gian tới, Việt
Nam cần nghiên cứu ban hành chuẩn mực công cụ tài chính. Mặc khác, các khoản
mục như các khoản đầu tư vào công ty liên doanh, liên kết, công ty con nên trình
bày theo phương pháp vốn chủ sở hữu thay vì trình bày theo giá gốc như hiện nay.
3.2.4. Về lâu dài
Về lâu dài, chúng ta nên đưa giá trị hợp lý trở thành một cách ghi nhận tồn tại
song song với giá gốc trong hệ thống kế toán Việt Nam. Để thực hiện điều này
cần có sự phối hợp từ nhiều phía. Trong đó, tương lai cần ban hành chuẩn mực
đo lường giá trị hợp lý, hoàn chỉnh hệ thống chuẩn mực kế toán áp dụng giá trị
hợp lý làm cơ sở đo lường chủ yếu và từng bước hoàn chỉnh một hệ thống thị
trường hoạt động; đồng bộ và minh bạch hóa hành lang pháp lý về kinh doanh.
3.2.2.1. Ban hành chuẩn mực về công cụ tài chính
Khi thông tư 210 có hiệu lực một số công ty đã trình bày giá trị các chứng khoán
theo giá trị hợp lý. Tuy nhiên, phần lớn các công ty vẫn trình bày chứng khoán theo
giá gốc và giá gốc có lập dự phòng giảm giá. Khi giá chứng khoán lên thì công ty
không phản ánh khoản lãi này vào báo cáo tài chính trong khi thực sự công ty được
hưởng lợi từ việc giá lên, các nhà đầu tư đánh giá công ty hoạt động hiệu quả và
tăng cường đầu tư vốn vào. Ngược lại, khi giá chứng khoán sụt giảm công ty tiến
hành lập dự phòng theo nguyên tắc ghi nhận khoản lỗ trong kỳ không phân biệt
chứng khoán này ngắn hay dài hạn. Trong khi đó, bản chất của khoản đầu tư tài
chính ngắn hạn và dài hạn là rất khác nhau. Việc ghi nhận hết khoản lỗ vào trong kỳ
như vậy làm cho các công ty lỗ nặng, mặc dù kết quả kinh doanh vẫn tăng trưởng
cao và có hiệu quả.
Việc chọn lựa phương pháp ghi chép, hạch toán các khoản công cụ tài chính phải
phù hợp với mục tiêu chung của báo cáo tài chính. Theo khuôn mẫu lý thuyết của
IASB, mục tiêu của báo cáo tài chính là cung cấp thông tin kinh tế tài chính, kết quả
hoạt động kinh doanh của một tổ chức. Các thông tin này là hữu ích đối với phần
82
lớn đối tượng sử dụng trong việc ra các quyết định kinh tế. Với việc phản ánh giá trị
của các khoản công cụ tài chính trong doanh nghiệp theo giá trị hợp lý sẽ giúp kế
toán thực hiện tốt hơn chức năng cung cấp các thông tin thích hợp để hỗ trợ người
sử dụng đánh giá hiệu quả hoạt động của đơn vị. Để việc ghi nhận, hạch toán
nghiệp vụ kinh tế phát sinh liên quan đến các khoản công cụ tài chính được phản
ánh chính xác, hợp lý, góp phần tạo ra thông tin kế toán phù hợp hơn, người viết đề
xuất một số giải pháp cụ thể như sau:
Thứ nhất, phân loại chứng khoán hoạt động trên thị trường nào. Cụ thể, phân
thành 2 nhóm: Chứng khoán giao dịch trên thị trường hoạt động và chứng khoán
giao dịch trên thị trường không hoạt động.
- Đối với công cụ tài chính giao dịch trên thị trường hoạt động thì giá trị hợp
lý sẽ xác định dựa trên giá niêm yết trên thị trường có thể quan sát được của công
cụ tài chính, điều này sẽ đảm bảo thông tin cung cấp một cách đáng tin cậy. Lúc
đó, giá niêm yết sẽ được ưu tiên sử dụng để định giá, kể cả khi doanh nghiệp cho
rằng có các phương pháp khác định giá phù hợp hơn. Tại Việt Nam, thị trường
hoạt động cho các công cụ tài chính là sàn giao dịch chứng khoán thành phố Hồ
Chí Minh (HOSE) và sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX), nơi thường xuyên
diễn ra các giao dịch mua bán theo giá thị trường cho các công cụ tài chính. Ví dụ,
ngày 31/12/200N, giá cổ phiếu của ngân hàng A trên Sở giao dịch chứng khoán
TP. Hồ Chí Minh là 17.000 đồng. Cũng tại thời điểm đó, một tổ chức tư vấn tài
chính độc lập có thể định giá cổ phiếu ngân hàng A với giá 19.000 đồng/cổ phiếu,
dựa trên các yếu tố liên quan đến lợi thế ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh; các dự
án lớn sẽ thu lợi ích kinh tế mà ngân hàng có được trong tương lai gần,… Các nhân
tố này có thể được xem là chính xác, phù hợp và đáng tin cậy. Tuy nhiên, trong
trường hợp này, giá trị hợp lý của cổ phiếu ngân hàng A được ưu tiên xác định theo
giá thị trường là 17.000 đồng. Lý do, với 17.000đồng/cổ phiếu, các bên mua và bên
bán có liên quan đều “sẵn sàng” giao dịch cổ phiếu với hiểu biết đầy đủ trong một
giao dịch được xem là ngang giá. Có một vấn đề phát sinh là có thị trường hoạt
động nhưng lại không xác định được giá niêm yết cho các công cụ tài chính.
83
Nguyên nhân không xác định được giá niêm yết có thể là các công cụ tài chính này
có tính thanh khoản thấp hoặc không tồn tại giá mua, giá bán hoặc giá của một số
giao dịch gần với thời điểm xác định giá trị hợp lý của các công cụ tài chính. Khi
đó giá trị hợp lý của các công cụ tài chính được xác định dựa vào các dữ liệu có thể
thu thập được căn cứ vào dữ liệu thị trường sẵn có như giá của một số giao dịch
gần nhất với thời điểm đo lường giá trị hợp lý hoặc giá của các khoản công cụ tài
chính tương đương trên thị trường. Để đảm bảo độ tin cậy thì các dữ liệu tham
chiếu này phải có nguồn gốc hay được chứng thực từ các dữ liệu thị trường, có thể
thu thập bằng các công cụ tương quan hay các công cụ đo lường khác.
- Đối với công cụ tài chính giao dịch trên thị trường không hoạt động thì số
lượng giao dịch và mức độ giao dịch sụt giảm đáng kể, do đó không tồn tại giá trị
hợp lý tại thời điểm xác định. Vì vậy, để xác định giá trị hợp lý trong trường hợp
này không thể dựa vào giá niêm yết mà dựa vào các kỹ thuật định giá. Mô hình
định giá cho các công cụ tài chính thường sử dụng trong trường hợp này là chiết
khấu dòng tiền hoặc định giá quyền chọn.
Ví dụ, ngày 15/09/200N, Công ty A mua Trái phiếu chính phủ, trị giá 1.500 triệu
đồng, mệnh giá 1 triệu đồng/trái phiếu, kỳ hạn 5 năm, lãi suất 8%/năm. Kỳ trả lãi
hàng năm, tại ngày 15/09 hàng năm. Tại ngày mua, lãi suất thị trường cho công cụ
tương đương có cùng đặc tính là 10%/năm. Công ty A ghi nhận ban đầu khoản đầu
tư mua trái phiếu theo giá trị hợp lý. Nhưng vì khoản đầu tư này được giao dịch trên
thị trường không hoạt động, nên Công ty A sẽ sử dụng phương pháp định giá theo
chiết khấu dòng tiền để xác định giá trị hợp lý của khoản đầu tư này. Giá trị hợp lý
Xác định giá trị hợp lý của khoản công cụ tài chính trên thị trường không hoạt
của khoản công cụ tài chính được tính toán qua bảng số liệu sau:
động (đvt: đồng)
Ngày
Số tiền thu được
Yếu tố chiết khấu
Giá
trị hiện
tại
(1)
(2)
(3)
(4)=(2)x(3)
84
15/09/200N+1
1.500.000.000x8%=
1/(1+10%)1=0,09091
109.090.909
120.000.000
15/09/200N+2
120.000.000
1/(1+10%)2=0,8264
99.173.554
15/09/200N+3
120.000.000
1/(1+10%)3=0,0,7513
90.157.776
15/09/200N+4
120.000.000
1/(1+10%)4=0,6830
81.961.615
15/09/200N+5
1.500.000.000+120.000.000
1/(1+10%)5=0,6209
1.005.892.543
=
1.620.000.000
Giá trị hợp lý
1.386.276.397
Do đó, giá trị hợp lý của trái phiếu trong trường hợp này là: 1.386.276.379 đồng. Vì vậy,
để xác định giá trị hợp lý có thể tóm tắt như sau:
Các khoản đầu tư tài chính
Thị trường hoạt động
Thị trường không hoạt động
Phương pháp định giá
Giá niêm yết
Phương pháp dòng tiền
Giá một số giao dịch gần nhất
Phương pháp định giá quyền chọn
Giá của khoản đầu tư tài chính tương tự
Giá niêm yết công khai trên thị trường giao dịch
Thứ hai, hoàn thiện việc ghi nhận ban đầu đối với các khoản công cụ tài chính
Để tăng cường tính minh bạch của thông tin kế toán, tạo điều kiện tối đa cho việc
giám sát tình hình tài chính và kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, khi
ghi nhận ban đầu, các khoản công cụ tài chính của doanh nghiệp nên được phản ánh
85
theo giá trị hợp lý mà không nên phản ánh theo giá gốc. Để hạch toán một cách phù
hợp các khoản công cụ tài chính, nên chia thành 2 loại:
Loại thứ nhất: các khoản công cụ tài chính ghi nhận theo giá trị hợp lý thông qua lãi
lỗ. Đây thông thường là các khoản công cụ tài chính doanh nghiệp có ý định nắm
giữ dưới 12 tháng, thỏa mãn một trong các điều kiện sau:
- Được phân loại vào nhóm chứng khoán nắm giữ để kinh doanh cho mục đích
thương mại, ví dụ như: được mua hoặc tạo ra chủ yếu cho mục đích bán và mua lại
trong tương lai gần; có bằng chứng về việc kinh doanh các khoản công cụ tài chính
này nhằm mục đích thu lợi ngắn hạn; là một phần của danh mục công cụ tài chính
xác định được có bằng chứng của mô hình thực sự gần đây mang lại lợi nhuận ngắn
hạn cho doanh nghiệp
- Tại thời điểm ghi nhận ban đầu, công ty nên xếp bộ phận công cụ tài chính đó vào
nhóm phản ánh theo giá trị hợp lý thông qua lãi lỗ hoặc báo cáo kết quả hoạt động
kinh doanh.
Đối với các khoản công cụ tài chính được đo lường theo giá trị hợp lý thông qua lãi
lỗ thì chi phí giao dịch, lệ phí, chi phí môi giới,… không được cộng thêm vào giá trị
ghi nhận ban đầu của khoản công cụ tài chính đó. Khoản chênh lệch giữa giá trị hợp
lý và giá gốc được ghi nhận là lãi hoặc lỗ ngay tại thời điểm ghi nhận ban đầu. Với
cách ghi nhận như vậy, thông tin về các khoản công cụ tài chính được trình bày trên
báo cáo tài chính sẽ đáp ứng được các yêu cầu quan trọng về tính thích hợp, tính
đáng tin cậy và có thể so sánh được.
Loại thứ hai: các khoản công cụ tài chính dự kiến nắm giữ đến ngày đáo hạn. Các
khoản công cụ tài chính dự kiến nắm giữ đến ngày đáo hạn là bộ phận tài sản tài
chính doanh nghiệp có ý định nắm giữ trên 12 tháng và có kỳ đáo hạn cố định trong
tương lai. Đối với các khoản đầu tư này, chi phí giao dịch, lệ phí, chi phí môi
giới,…được tính vào giá trị của các khoản công cụ tài chính. Chênh lệch giữa giá trị
hợp lý và giá gốc được cũng được ghi nhận là lãi hoặc lỗ tại thời điểm ghi nhận ban
đầu.
86
Ví dụ, tại ngày 24/09/200N, Công ty A mua 10.000 cổ phiếu XYZ, mệnh giá 10.000
đồng/cổ phiếu. Tổng số tiền phải trả 260.000.000 đồng, trong đó gồm chi phí giao
dịch là 20 triệu đồng. Giả sử cổ phiếu XYZ được giao dịch trên thị trường hoạt
động, xác định được giá trị hợp lý theo giá niêm yết tại ngày 24/09/200N là 20.000
đồng/cổ phiếu. Vậy, tại ngày 24/09/200N, ta có:
Giá gốc của 10.000 cổ phiếu XYZ ( không (260 -20)=240 triệu đồng
gồm chi phí giao dịch)
Giá hợp lý của 10.000 cổ phiếu XYZ 10.000x20.000=200 triệu đồng
Khoản lỗ ban đầu 240-200=40 triệu đồng
Chi phí giao dịch 20 triệu đồng
+ Nếu phân loại cổ phiếu XYZ trên là khoản công cụ tài chính nắm giữ để kinh
doanh cho mục đích thương mại, ghi nhận ban đầu như sau:
Nợ “Chứng khoán kinh doanh” : 200trđ
Nợ “Chi phí kinh doanh chứng khoán” : 20trđ
Nợ “Lỗ kinh doanh chứng khoán” : 40trđ
Có “Tiền” : 260trđ
+ Nếu phân loại cổ phiếu XYZ trên là khoản công cụ tài chính nắm giữ đến ngày
đáo hạn, ghi nhận như sau:
Nợ “Chứng khoán nắm giữ đến ngày đáo hạn” : 220trđ (200 + 20)
Nợ “Lỗ kinh doanh chứng khoán” : 40trđ
Có “Tiền” : 260trđ
Thứ ba, hoàn thiện việc ghi nhận và trình bày các khoản công cụ tài chính trên
báo cáo tài chính tại thời điểm kết thúc kỳ kế toán
Đến cuối kỳ kế toán, sẽ tiến hành ghi nhận chênh lệch phát sinh do sự biến động của
giá trị hợp lý của các khoản công cụ tài chính. Các khoản chênh lệch này phát sinh
do sự thay đổi giá trị hợp lý giữa các thời điểm báo cáo có thể được xử lý theo các
phương án:
87
- Với các khoản công cụ tài chính loại 1, là các khoản công cụ tài chính được ghi
nhận theo giá trị hợp lý thông qua lãi lỗ, phần chênh lệch đó được ghi nhận vào lãi
lỗ chưa thực hiện trên Báo cáo kết quả kinh doanh
Ví dụ, ngày 24/09/200N, khoản đầu tư cổ phiếu của Công ty A được ghi nhận ban
đầu với giá trị hợp lý là 200 triệu đồng. Khoản đầu tư này được phân loại vào nhóm
chứng khoán nắm giữ để kinh doanh cho mục đích thương mại. Đến ngày
31/12/200N, giá trị hợp lý của khoản đầu tư này được xác định là 280 triệu đồng.
Chênh lệch giữa giá trị hợp lý tại thời điểm cuối kỳ và giá ghi sổ trước đó sẽ ghi vào
lãi lỗ chưa thực hiện (Unrealised gain/loss) trên Báo cáo kết quả kinh doanh.
Nợ “Chứng khoán kinh doanh_cổ phiếu”: 80trđ
Có “Lãi lỗ chưa thực hiện”: 80 trđ
- Với các khoản công cụ tài chính loại 2, là các khoản công cụ tài chính dự kiến
nắm giữ đến ngày đáo hạn, phần chênh lệch giá trị hợp lý tại thời điểm cuối kỳ được
ghi nhận tăng hoặc giảm vốn chủ sở hữu trên Bảng cân đối kế toán mà không phản
ánh vào Báo cáo kết quả kinh doanh. Khi đó, việc giảm giá các khoản công cụ tài
chính này sẽ không làm ảnh hưởng đến thu nhập và lợi nhuận của năm tài chính,
nhưng trên Bảng cân đối kế toán, nhà đầu tư có thể thấy năm đó doanh nghiệp có
thể vẫn có lãi nhưng bộ phận tài sản là các khoản công cụ tài chính đã bị hao hụt do
bị tổn thất giảm giá trị. Nhờ đó, doanh nghiệp sẽ hạn chế “lách luật” để không phải
trích lập dự phòng giảm giá công cụ tài chính nhằm đạt được chỉ tiêu lợi nhuận như
mong muốn nhằm thỏa mãn các cổ đông.
Ví dụ, ngày 28/09/200N, một khoản đầu tư trái phiếu của Công ty A được ghi nhận
ban đầu với giá trị là 5 tỷ đồng. Khoản đầu tư này được phân loại vào khoản công
cụ tài chính dự kiến nắm giữ đến ngày đáo hạn. Đến ngày 31/12/200N, giá trị hợp lý
của khoản đầu tư trái phiếu đó được xác định là 4,8 tỷ đồng. Khoản chênh lệch giảm
giữa giá trị hợp lý tại ngày 31/12/200N và giá ghi sổ trước đó là 200trđ, sẽ ghi vào
Quỹ thay đổi giá trị hợp lý (Fair value change fund) trên Bảng cân đối kế toán.
Nợ “Quỹ thay đổi giá trị hợp lý”: 200 trđ
Có “Chứng khoán nắm giữ đến ngày đáo hạn_trái phiếu”: 200trđ
88
Bên cạnh đó, trong trường hợp trích lập dự phòng giảm giá của các khoản công cụ
tài chính được giao dịch trên thị trường UPCOM và thị trường chứng khoán chưa
niêm yết (OTC) với tính thanh khoản và minh bạch thông tin rất thấp. Để tránh hiện
tượng “làm giá” cổ phiếu để không phải trích lập dự phòng, thay vì sử dụng giá
tham chiếu vào ngày cuối cùng của kỳ kế toán, các doanh nghiệp nên sử dụng giá
bình quân đóng cửa của 10 ngày giao dịch liên tiếp liền kề trước đó làm giá tham
chiếu cho các khoản đầu tư này. Trong trường hợp, 3 tháng liền kề trước đó, cổ
phiếu này không có giao dịch, phải áp dụng phương pháp định giá phù hợp đối với
các khoản công cụ tài chính trong từng trường hợp cụ thể.
3.2.2.2. Hoàn thiện chuẩn mực bất động sản đầu tư
IAS 40, bất động sản đầu tư được ghi nhận ban đầu theo giá gốc và doanh nghiệp
được phép lựa chọn một trong hai mô hình ghi nhận giá trị của bất động sản đầu tư
sau khi ghi nhận ban đầu, đó là:
- Mô hình Giá gốc (Cost Model)
- Mô hình Giá trị hợp lý (Fair Value Model)
Và chuẩn mực bất động sản đầu tư Việt Nam (VAS 05) đã chỉ lựa chọn mô hình giá
gốc để ghi nhận giá trị bất động sản đầu tư sau khi ghi nhận ban đầu. Khi áp dụng
mô hình giá trị hợp lý, bất động sản đầu tư được ghi nhận ban đầu theo giá gốc và
được đánh giá lại theo giá trị hợp lý tại thời điểm lập Bảng cân đối kế toán. Chênh
lệch giữa giá gốc và giá trị hợp lý được hạch toán như là một khoản thu nhập/chi
phí trong kỳ kinh doanh. Tuy nhiên, kế toán Việt Nam vẫn áp dụng mô hình giá gốc
cho nên thông tin cung cấp không hợp lý. Chẳng hạn, đối với bất động sản đầu tư là
toà nhà văn phòng cho thuê, được theo dõi theo ba chỉ tiêu là nguyên giá, khấu hao
luỹ kế và giá trị còn lại. Nhưng khi gần kết thúc thời gian hoạt động của toà nhà
theo ước tính ban đầu, giá trị của toà nhà có thể còn cao hơn cả nguyên giá (giá gốc)
ban đầu, do nhiều nguyên nhân như chi phí sửa chữa lớn hàng năm tu bổ toà nhà,
giá đất và giá trị xây lắp tăng cao,... Lúc này giá trị còn lại khi theo dõi theo mô
hình giá gốc sẽ nhỏ hơn rất nhiều so với giá trị thực tế của bất động sản trên thị
trường. Mặt khác, theo nguyên tắc trích khấu hao bằng nguyên giá trừ đi giá trị thu
89
hồi ước tính thì việc trích khấu hao hàng năm đối với bất động sản đầu tư là chưa
hợp lý. Mô hình giá trị hợp lý sẽ khắc phục được những điểm yếu của mô hình giá
gốc. Trước đây, Việt Nam chưa áp dụng mô hình giá trị hợp lý vì thị trường chưa
phát triển. Bên cạnh đó, Việt Nam chưa thiết lập được một thị trường định giá theo
tiêu chuẩn quốc tế được cập nhật hàng ngày như tại các nước phát triển như Mỹ,
Anh. Việc xác định giá trị hợp lý là vô cùng khó khăn. Do đó, căn cứ để áp dụng
mô hình giá trị hợp lý là chưa có. Và nếu áp dụng mô hình này thì có thể dẫn đến
việc các doanh nghiệp dựa vào đó để điều tiết kết quả kinh doanh trong kỳ hoạt
động, ảnh hưởng lớn đến chất lượng của Báo cáo tài chính. Cho nên chỉ cho phép áp
dụng mô hình giá gốc là hợp lý. Mô hình giá gốc đang áp dụng có điểm yếu như đã
đề cập. Để khắc phục điểm yếu này VAS 05 đã yêu cầu về việc trình bày các thông
tin về giá trị hợp lý trong Thuyết minh Báo cáo tài chính, cụ thể VAS 05 yêu cầu
trình bày như sau: Giá trị hợp lý của bất động sản đầu tư tại thời điểm kết thúc niên
độ kế toán, lập báo cáo tài chính. Khi doanh nghiệp không thể xác định được giá trị
hợp lý của bất động sản đầu tư thì doanh nghiệp phải thuyết minh:
- Danh mục bất động sản đầu tư
- Lý do không xác định được giá trị hợp lý của bất động sản đầu tư.
Nhưng thực tế chứng minh việc yêu cầu trình bày như trên là rất khó và có rất ít
doanh nghiệp xác định và trình bày giá trị hợp lý của bất động sản đầu tư.
Hiện nay, với sự ra đời của các sàn giao dịch bất động sản thì việc xác định giá trị
hợp lý sẽ dễ dàng hơn. Do đó, trong thời gian tới, Bộ tài chính nên có hướng dẫn bổ
sung cho việc ghi nhận bất động sản theo giá trị hợp lý sau ghi nhận ban đầu, điều
này sẽ cung cấp thông tin hữu ích hơn cho người sử dụng thông tin.
3.2.2.3. Ban hành chuẩn mực kế toán đo lường giá trị hợp lý
Trong tương lai, chuẩn mực kế toán quốc tế đã ban hành chuẩn mực kế toán về giá
trị hợp lý. Tiền đề thuận lợi cho kế toán Việt Nam vì đã có một khung chuẩn để dựa
vào ban hành chuẩn mực cho phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Trên cơ sở đó,
Việt Nam nên ban hành chuẩn mực kế toán giá trị hợp lý. Tuy nhiên, với mức độ
90
phát triển của các thị trường đo lường tài sản thấp thì chuẩn mực nên nhấn mạnh
phần công bố thông tin để đảm bảo thông tin minh bạch.
3.2.2.4. Minh bạch thông tin kinh doanh
Giá trị hợp lý có cơ sở đo lường chủ yếu dựa vào thị trường, do đó để đảm bảo giá
trị hợp lý có độ tin cậy cao thì một trong những yếu tố góp phần tạo niềm tin cho
công chúng có thể tin tưởng vào số lượng hay tính đầy đủ, toàn diện và chất lượng
của các thông tin trong những bản cáo bạch mà các công ty cung cấp. Nhà nước cần
có những hành lang pháp lý nhằm ngăn chặn trường hợp các bên có lợi ích liên
quan tiếp nhận những thông tin không đầy đủ, sai lệch thông qua cung cấp thông tin
trong các bảng cáo bạch. Đồng thời, đặt ra các trách nhiệm pháp lý cho các bên liên
quan để tăng cường tính tuân thủ. Các chế tài nên quy định cả hình thức phạt tiền và
phạt tù đối với các vi phạm nghiêm trọng của các bên liên quan, bao gồm cả các
đơn vị cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp tham gia vào quá trình này. Chẳng hạn,
yêu cầu các tổ chức chuyên nghiệp tham gia vào quá trình chuẩn bị niêm yết của
một công ty phải tiến hành các soát xét và cung cấp đầy đủ, chính xác các thông tin
được yêu cầu, trong trường hợp vi phạm sẽ phải đối mặt với trách nhiệm dân sự,
thậm chí hình sự, bao gồm từ hình thức phạt hành chính cho đến phạt tù. Những
hình phạt này cũng áp dụng đối với ban lãnh đạo công ty nếu vi phạm là do chính
họ. Để tạo điều kiện cho công chúng đầu tư thẩm định chất lượng thông tin trong
cáo bạch của các công ty niêm yết lần đầu, cơ quan quản lý nên yêu cầu các công ty
này phải đăng tải trên website bản cáo bạch của họ trước khi được phê duyệt.
Đồng thời, tổ chức thị trường theo hướng chuyên biệt hóa các sản phẩm và dịch vụ
cung cấp, với cơ cấu quản trị điều hành thống nhất, minh bạch, chuyên nghiệp, bảo
đảm thị trường hoạt động lành mạnh, vững chắc theo sự giám sát chặt chẽ của nhà
nước. Một số biện pháp để tiến tới sự minh bạch đã như: quy định doanh nghiệp
phải công bố thông tin theo quy mô vốn và tính đại chúng; áp dụng chuẩn mực kế
toán, kiểm toán và báo cáo tài chính theo thông lệ quốc tế với các tổ chức phát
hành; đẩy mạnh công tác thanh tra, giám sát và xử lý vi phạm đối với các hoạt động
liên quan đến phát hành, niêm yết, công bố thông tin, quản trị công ty...
91
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Khi tham gia vào tổ chức thương mại quốc tế, Việt Nam không những phải tuân
theo những qui định của luật pháp quốc tế về kinh doanh, mà còn phải tuân thủ
trong trình bày báo cáo tài chính sẽ giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam thu hút
được vốn trên thị trường quốc tế. Việc nghiên cứu những chuẩn mực quốc tế qui
định về giá trị hợp lý là cơ sở để hoàn thiện và là tiền đề để Việt Nam ban hành
chuẩn mực giá trị hợp lý trong tương lai. Để giá trị hợp lý trở thành một loại giá phổ
biến trong công tác định giá tại Việt Nam thì cần có sự phối hợp chặt chẽ của các
bên: nhà nước, tổ chức nghề nghiệp, trường học và người sử dụng thông tin. Những
kiến nghị trên của người viết nhằm góp phần mở rộng việc sử dụng giá trị hợp lý tại
Việt Nam phù hợp với những qui định của thông lệ quốc tế về giá trị hợp lý.
92
KẾT LUẬN
Định giá đóng vai trò rất quan trọng trong kế toán ảnh hưởng đến tình hình tài
chính công ty. Có nhiều loại giá khác nhau đang được kế toán sử dụng. Trong
đó, giá trị hợp lý đang là xu hướng của thế giới. Mặc dù, khủng hoảng tài chính
xảy ra, người ta đổ lỗi nguyên nhân là do giá trị hợp lý. Tính thích hợp của giá
trị hợp lý được người sử dụng thừa nhận nhưng tính đáng tin cậy thì làm cho
người sử dụng lo lắng. Việc ban hành chuẩn mực kế toán giá trị hợp lý với
những cơ sở lý thuyết và các mô hình định giá của IASB và FASB đã tạo nền
tảng cho việc mở rộng sử dụng giá trị hợp lý.
Tại Việt Nam, giá trị hợp lý đã được sử dụng trong các văn bản pháp luật. Tuy
nhiên, mức độ sử dụng cũng như hiểu về giá trị hợp lý còn rất hạn chế. Thông
qua khảo sát mức độ sử dụng giá trị hợp lý của các doanh nghiệp tại tp. Hồ Chí
Minh, chúng ta thấy số lượng các doanh nghiệp sử dụng giá trị hợp lý còn khiêm
tốn, khoản mục sử dụng giá trị hợp lý còn ít. Dẫu vậy, người sử dụng hợp lý và
người lập báo cáo tài chính đều tin tưởng rằng một số khoản mục nếu sử dụng
giá trị hợp lý thì sẽ đảm bảo cả thông tin thích hợp lẫn tin cậy. Để hội nhập với
thế giới, Việt Nam cần giáo dục nhận thức cho các đối tượng sử dụng thông tin
và người lập báo cáo tài chính vai trò của giá trị hợp lý cũng như ban hành các
hướng dẫn cụ thể liên quan đến giá trị hợp lý.
93
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ tài chính, các quyết định, thông tư số:
Tiếng Việt
- Quyết định số 149/2001/QĐ-BTC ngày 31/12/2001.
- Quyết định số 165/2002/QĐ-BTC ngày 31/12/2002.
- Quyết định số 234/2004/QĐ-BTC ngày 30/12/2003.
- Thông tư số 105/2003/TT-BTC ngày 4/11/2003.
- Thông tư số 23/2005/TT-BTC ngày 30/3/2005.
2. Luật gia Quốc Cường – Hoàng Anh (2008), Hệ thống chuẩn mực kế toán Việt
Nam & văn bản hướng dẫn thực hiện, Nhà xuất bản thống kê.
3. Lê Hoàng Phúc (2012), FASB nới lỏng giá trị hợp lý.
4. Lê Vũ Ngọc Thanh (2005), Định hướng về việc sử dụng giá trị hợp lý trong kế
toán doanh nghiệp Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Đại học Kinh Tế Thành Phố Hồ
Chí Minh.
5. Nguyễn Thế Lộc (2010), Tính thích hợp và đáng tin cậy của kế toán giá trị
hợp lý trong hệ thống chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế, Tạp Chí Phát
Triển và Hội Nhập, số 3.
6. Vũ Hữu Đức (2010), Những vấn đề cơ bản của Lý Thuyết Kế Toán, Nhà xuất
bản lao động.
Tiếng Anh
7. Bassam Kazmouz (2010), The effect of applying fair value on the financial
statement of UK leading companies, 21-26pp.
8. By Richard G. Sloan (2012), Fair-Value Guesswork Is Best Left to Investors.
9. Christian Laux & Christian Leuz (2009), The crisis of fair-value accounting:
Making sense of the recent debate.Accounting, Organizations and Society 34,
826–834pp.
10. David Cairns (2006), The Use of Fair Value in IFRS, Accounting in Europe,
Vol. 3.
94
11. James P. Catt (2010), Guide to Fair Value under IFRS, John Wiley & Son,
Inc.
12. George J. Benston (2006), Fair-value accounting: A cautionary tale from
Enron, Journal of Accounting and Public Policy 25, 465–484pp.
13. Grönloh, H.D., G.J. Kapiteyn and P.S. van den Berg (2001), De jaarrekening van
vastgoedbeleggingsinstellingen, Stichting voor belggings- en vastgoedkunde,
Amsterdam.
14. Mark L.Zyla (2010), Fair value measurements, Practical guidance and
Implementation, John Wiley & Son, Inc.
15. McCaslin, T.E., & Stanga, K.G. (1983), Related qualities of useful accounting
information. Accounting and business research.
16. Michelle Dirksen (2011), Fair Value Measurement, IAS 40 vs. Exposure Draft,
Erasmus University Rotterdam, Master's Thesis.
17. Omiros Georgiou và Lisa Jack (2011), In pursuit of legitimacy: A history
behind fair value accounting, Elsevier Ltd.
18. Samuel Jebaraj Benjamin Athi Niskkalan & M.Srikamaladevi Marathamuthu(
2012), Fair value Accounting and the Global Financial Crsis: The Malaysia
Experience, Jamar Vol.10, 53-68 pp.
Các website
1. http://www.webketoan.vn
2. http://w.w.w.kpmg.com
3. http://w.w.w.vacpa.org.vn
4. http://www.hsx.vn
95
PHỤ LỤC 1
DANH SÁCH CÁC CÔNG TY
1
AAM
CTCP Thủy sản Mekong
2
ABT
CTCP Xuất nhập khẩu Thủy sản Bến Tre
3
ACB
Ngân hàng thương mại cổ phần Á Chấu
4
ACC
Công ty cổ phần bê tông Becamex
5
ACL
Công ty Cổ phần Xuất Nhập Khẩu Thủy Sản Cửu Long An Giang
6
AGD
Công ty cổ phần Gò Đàng
7
AGF
CTCP Xuất nhập khẩu Thủy sản An Giang
8
AGR
CTCP Chứng khoán NH Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam
9
ALP
Công ty Cổ phần Đầu tư Alphanam
10
ANV
Công ty Cổ phần Nam Việt
11
APC
CTCP Chiếu xạ An Phú
12
ASM
Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Sao Mai tỉnh An Giang
13
ASP
Công ty Cổ phần Tập đoàn Dầu khí An Pha
14
ATA
Công ty Cổ phần NTACO
15
AVF
CTCP Việt An
16
BBC
Công ty Cổ phần Bibica
17
BCE
CTCP Xây dựng và Giao thông Bình Dương
18
BCI
CTCP Đầu tư Xây dựng Bình Chánh
19
BGM
CTCP Khai thác và chế biến Khoáng sản Bắc Giang
20
BHS
Công ty Cổ phần Đường Biên Hòa
21
BIC
Tổng CTCP Bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
22
BMC
Công ty Cổ phần Khoáng sản Bình Định
23
BMI
Tổng Công ty Cổ phần Bảo Minh
96
BMP
24
Công ty Cổ phần Nhựa Bình Minh
BRC
25
Công ty Cổ phần Cao su Bến Thành
BSI
26
Công ty Cổ phần Chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
BT6
27
Công ty Cổ phần Beton 6
BTP
28
Công ty Cổ phần Nhiệt điện Bà Rịa
BTT
29
Công ty cổ phần Thương Mại – Dịch vụ Bến Thành
BVH
30
Tập đoàn Bảo Việt
C21
31
Công ty Cổ phần Thế kỷ 21
C32
32
CTCP Đầu tư Xây dựng 3-2
C47
33
Công ty cổ phần xây dựng 47
CCI
34
CTCP đầu tư phát triển công nghiệp thương mại Củ Chi
CCL
35
Công ty Cổ phần Đầu Tư và Phát Triển Đô thị Dầu Khí Cửu Long
CDC
36
CTCP Chương Dương
CIG
37
Công ty Cổ phần COMA18
CII
38
CTCP Đầu tư Hạ tầng Kỹ thuật TP.HCM
CLC
39
Công ty Cổ phần Cát Lợi
CLG
40
CTCP Đầu tư và Phát triển Nhà đất Cotec
CLW
41
CTCP cấp nước Chợ Lớn
CMG
42
Công ty cổ phần tập đoàn công nghệ CMC
CMT
43
CTCP Công nghệ mạng và truyền thông
CMV
44
CTCP Thương nghiệp Cà Mau
CMX
45
CTCP chế biến thủy sản và xuất nhập khẩu Cà Mau
CNG
46
Công ty Cổ phần CNG Việt Nam
CNT
47
CTCP Xây dựng và Kinh doanh Vật tư
COM
48
Công ty Cổ phần Vật tư Xăng Dầu
CSM
49
CTCP Công nghiệp Cao su Miền Nam
CTD
50
Công ty Cổ phần Xây dựng Cotec
D2D
51
CTCP Phát triển Đô thị Công Nghiệp Số 2
DAG
52
CTCP Tập Đoàn Nhựa Đông Á
DCL
53
Công ty Cổ phần Dược phẩm Cửu Long
DCT
54
CTCP Tấm lợp Vật liệu Xây dựng Đồng Nai
97
DDM
55
Công ty Cổ phần Hàng hải Đông Đô
DHA
56
Công ty Cổ phần Hóa An
DHC
57
Công ty Cổ phần Đông hải Bến Tre
DHG
58
CTCP Dược Hậu Giang
DHM
59
CTCP Thương Mại và Khai thác Khoáng sản Dương Hiếu
DIC
60
Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại DIC
DIG
61
Tổng Công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển Xây dựng
DLG
62
CTCP Tập đoàn Đức Long Gia Lai
DMC
63
CTCP Xuất nhập khẩu y tế DOMESCO
DPM
64
Tổng Công ty Phân bón và Hóa chất Dầu khí – CTCP
DPR
65
CTCP Cao su Đồng Phú
DQC
66
Công ty Cổ phần Bóng đèn Điện Quang
DRC
67
Công ty Cổ phần Cao su Đà Nẵng
DRH
68
CTCP Đầu tư Căn Nhà Mơ Ước
DRL
69
CTCP Thủy Điện - Điện lực 3
DSN
70
CTCP công viên nước Đầm Sen
EIB
71
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Xuất Nhập khẩu Việt Nam
ELC
72
CTCP Đầu tư Phát triển Công nghệ Điện tử - Viễn thông
EVE
73
CTCP Everpia Việt Nam
FBT
74
CTCP Xuất nhập khẩu Lâm Thủy sản Bến Tre
FCN
75
CTCP Kỹ Thuật Nền Móng và Công trình Ngầm Fecon
FDC
76
CTCP ngoại thương và phát triển đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh
FDG
77
Công ty cổ phần DOCIMEXCO
FMC
78
Công ty Cổ phần Thực phẩm Sao Ta
FPT
79
Công ty Cổ phần FPT
GAS
80
Tổng Công ty Khí Việt Nam – CTCP
GDT
81
Công ty Cổ phần Chế biến Gỗ Đức Thành
GIL
82
CTCP Sản xuất Kinh doanh Xuất nhập khẩu Bình Thạnh
GMC
83
CTCP Sản xuất Thương mại May Sài Gòn
GMD
84
CTCP Đại lý Liên hiệp Vận chuyển
GSP
85
CTCP Vận tải Sản phẩm Khí Quốc tế
98
GTA
86
Công ty cổ phần Chế biến gỗ Thuận An
GTT
87
CTCP Thuận Thảo
HAG
88
Công Ty Cổ Phần Hoàng Anh Gia Lai
HAI
89
Công ty cổ phần Nông Dược Hai
HAP
90
Công ty Cổ phần Tập đoàn Hapaco
HAS
91
CTCP HACISCO.
HAX
92
Công ty Cổ phần Dịch vụ Ô tô Hàng Xanh
HBC
93
CTCP Xây dựng và Kinh doanh Địa ốc Hòa Bình
HCM
94
CTCP Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh
HDC
95
Công ty cổ phần Phát triển nhà Bà Rịa – Vũng Tàu
HDG
96
Công ty Cổ phần Tập đoàn Hà Đô
HHS
97
Công ty Cổ phần Đầu tư Dịch vụ Hoàng Huy
HLA
98
Công ty Cổ phần Hữu Liên Á Châu
HLG
99
Công ty Cổ phần Tập đoàn Hoàng Long
100
HMC
Công ty Cổ phần Kim khí Thành phố Hồ Chí Minh
99
PHỤ LỤC 2
BẢNG KHẢO SÁT MỨC ĐỘ TIN CẬY VÀ THÍCH HỢP CỦA CÁC THÔNG TIN TRÊN
BÁO CÁO TÀI CHÍNH ĐO LƯỜNG THEO GIÁ TRỊ HỢP LÝ.
Những khái niệm sau đây sẽ cung cấp sự hiểu biết nhất định để bạn hoàn thành bảng câu
hỏi này:
Thích hợp: Thông tin thích hợp khi nó thích hợp với nhu cầu đưa ra quyết định của người
sử dụng, giúp đánh giá tình hình quá khứ và dự đoán được tương lai của công ty.
Đáng tin cậy: có nghĩa là thông tin trình bày không có sai sót hoặc có sai sót nhưng không
trọng yếu (sai sót đáng kể), đồng thời phản ánh trung thực vấn đề trình bày.
Giá gốc: là số tiền bỏ ra để có được tài sản.
Giá trị hợp lý là giá trị được đo lường theo giá thị trường, trong trường hợp khó xác định
giá thị trường thì giá trị hợp lý được xác định theo các mô hình định giá, ví dụ như chiết
khấu dòng tiền thu được từ việc sử dụng tài sản.
Thương hiệu là một loại tài sản vô hình mà doanh nghiệp tạo dựng được qua quá trình hoạt
động của mình. Ví dụ: Thương hiệu IBM, Microsoft,… Vì là tài sản nên doanh nghiệp có
thể sử dụng thương hiệu của mình để sinh lời.
Lợi thế thương mại (Goodwill) cũng là một loại tài sản vô hình, nhưng là một loại tài sản
vô hình đặc biệt, chỉ xuất hiện khi có các nghiệp vụ mua bán, sáp nhập doanh nghiệp
(M&A). Goodwill là phần chênh lệch giữa số tiền mà một doanh nghiệp bỏ ra để mua một
doanh nghiệp khác khi số tiền mua doanh nghiệp với giá trị tài sản thuần của doanh nghiệp
được mua (Tài sản thuần= Tài sản-nợ phải trả).
Ví dụ: Giả sử Microsoft mua lại FPT với giá 1 tỷ USD (giá phí hợp nhất kinh doanh). Toàn
bộ giá trị tài sản hiện có của FPT là 500 triệu USD (cộng tất cả các loại nhà cửa, ô tô, máy
tính, động sản, bất động sản...), giá trị các khoản nợ của FPT là 100 triệu USD. Như vậy
giá trị tài sản thuần của FPT là 400 triệu USD. Khoản chênh lệch giữa giá mà Microsoft
100
bỏ ra mua FPT và giá trị tài sản thuần là 600 triệu USD, đó chính là Goodwill (lợi thế
thương mại)
Phần 1: Những câu hỏi liên quan đến đặc điểm thông tin đáng tin cậy
Xin vui lòng cho biết ý kiến của bạn đối với câu hỏi dưới đây bằng cách cho điểm từ 1 đến
5 tương ứng với mức độ quan trọng như sau:
1: Không tin cậy
2: Có thể tin cậy
3: Tin cậy
4: Khá tin cậy
5: Rất tin cậy
1.Mức độ tin cậy khi lợi thế thương mại được tính bằng cách lấy giá phí hợp nhất kinh
doanh trừ đi giá trị tài sản thuần (tài sản thuần tính theo giá gốc).
Không tin cậy
Có thể tin cậy
Tin cậy
Khá tin cậy Rất tin cậy
1 2 3 4 5
2.Mức độ tin cậy khi lợi thế thương mại được tính bằng cách lấy giá phí hợp nhất kinh
doanh trừ đi giá trị tài sản thuần (tài sản thuần tính theo giá trị hợp lý).
Không tin cậy
Có thể tin cậy
Tin cậy
Khá tin cậy Rất tin cậy
1 2 3 4 5
3.Mức độ tin cậy khi bất động sản đầu tư được tính theo giá gốc.
Không tin cậy
Có thể tin cậy
Tin cậy
Khá tin cậy Rất tin cậy
1 2 3 4 5
4.Mức độ tin cậy khi bất động sản đầu tư được tính theo giá thị trường
Không tin cậy
Có thể tin cậy
Tin cậy
Khá tin cậy Rất tin cậy
1 2 3 4 5
5.Mức độ tin cậy khi chứng khoán được tính theo giá gốc
Không tin cậy
Có thể tin cậy
Tin cậy
Khá tin cậy Rất tin cậy
1 2 3 4 5
101
6.Mức độ tin cậy khi chứng khoán được tính theo giá trên thị trường chứng khoán
Không tin cậy
Có thể tin cậy
Tin cậy
Khá tin cậy Rất tin cậy
1 2 3 4 5
7.Mức độ tin cậy khi hàng tồn kho được tính theo giá gốc
Không tin cậy
Có thể tin cậy
Tin cậy
Khá tin cậy Rất tin cậy
1 2 3 4 5
8.Mức độ tin cậy khi hàng tồn kho được tính theo giá mà nhận được nếu hàng tồn kho
được bán
Không tin cậy
Có thể tin cậy
Tin cậy
Khá tin cậy Rất tin cậy
1 2 3 4 5
9.Mức độ tin cậy khi thương hiệu được tính theo giá gốc
Không tin cậy
Có thể tin cậy
Tin cậy
Khá tin cậy Rất tin cậy
1 2 3 4 5
10.Mức độ tin cậy khi thương hiệu được định giá lại theo giá mà tổ chức định giá độc lập
xác định
Không tin cậy
Có thể tin cậy
Tin cậy
Khá tin cậy Rất tin cậy
1 2 3 4 5
Phần 2 Những câu hỏi liên quan đến đặc điểm thông tin thích hợp cho việc ra quyết định
Xin vui lòng cho biết ý kiến của bạn đối với câu hỏi dưới đây bằng cách cho điểm từ 1 đến
5 tương ứng với mức độ quan trọng như sau:
1: Không thích hợp
2: Có thể thích hợp
3: Thích hợp
4: Khá thích hợp
5: Rất thích hợp
11.Mức độ thích hợp khi lợi thế thương mại được tính bằng cách lấy giá phí hợp nhất kinh
doanh trừ đi giá trị tài sản thuần (tài sản thuần tính theo giá gốc).
Không thích hợp Có thể thích hợp
thích hợp
Khá thích hợp
Rất thích hợp
1 2 3 4
5
102
12.Mức độ thích hợp lợi thế thương mại được tính bằng cách lấy giá phí hợp nhất kinh
doanh trừ đi giá trị tài sản thuần (tài sản thuần tính theo giá trị hợp lý).
Không thích hợp Có thể thích hợp
thích hợp
Khá thích hợp
Rất thích hợp
1 2 3 4
5
13.Mức độ thích hợp khi bất động sản đầu tư được tính theo giá gốc
Không thích hợp Có thể thích hợp
thích hợp
Khá thích hợp
Rất thích hợp
1 2 3 4
5
14.Mức độ thích hợp khi bất động sản đầu tư được tính theo giá thị trường
Không thích hợp Có thể thích hợp
thích hợp
Khá thích hợp
Rất thích hợp
1 2 3 4
5
15.Mức độ thích hợp khi chứng khoán được tính theo giá gốc
Không thích hợp Có thể thích hợp
thích hợp
Khá thích hợp
Rất thích hợp
1 2 3 4
5
16.Mức độ thích hợp khi chứng khoán được tính theo giá trên thị trường chứng khoán
Không thích hợp Có thể thích hợp
thích hợp
Khá thích hợp
Rất thích hợp
1 2 3 4
5
17.Mức độ thích hợp khi hàng tồn kho được tính theo giá gốc
Không thích hợp Có thể thích hợp
thích hợp
Khá thích hợp
Rất thích hợp
1 2 3 4
5
18.Mức độ thích hợp khi hàng tồn kho được tính theo giá mà nhận được nếu hàng tồn kho
được bán
Không thích hợp Có thể thích hợp
thích hợp
Khá thích hợp
Rất thích hợp
1 2 3 4
5
19.Mức độ thích hợp khi thương hiệu được tính theo giá gốc
Không thích hợp Có thể thích hợp
thích hợp
Khá thích hợp
Rất thích hợp
1 2 3 4
5
20.Mức độ thích hợp khi thương hiệu được định giá lại theo giá mà tổ chức định giá độc
lập xác định
Không thích hợp Có thể thích hợp
thích hợp
Khá thích hợp
Rất thích hợp
1 2 3 4
5
103
Thông tin chung: Bạn vui lòng cho biết ngành nghề/ công việc của bạn bằng cách chọn 1
trong 4 lựa chọn sau:
Nhà đầu tư Kế toán
NV ngân hàng Kiểm toán Khác
(Vui lòng ghi rõ bên dưới)
Nghề nghiệp của bạn nếu thuộc nhóm “Khác”:
……………………………………………………………………………
PHỤ LỤC 3
KIỂM TRA TÍNH CÂN BẰNG GIỮA ĐỘ TIN CẬY VÀ THÍCH HỢP
CỦA CÁC KHOẢN MỤC ĐO LƯỜNG THEO GIÁ TRỊ HỢP LÝ
TỔNG THỂ
Lợi thế thương mại
Value Asymp. Std. Errora Approx. Tb Approx.
Sig.
Kendall's tau-b .717 .053 10.449 .000
N 149
Bất động sản đầu tư
Value Asymp. Approx. Tb Approx. Sig.
Std. Errora
Kendall's tau-b .228 .086 2.626 .009
149 N
104
Chứng khoán
Value Asymp. Std. Errora Approx. Tb Approx. Sig.
Kendall's tau-b .248 .096 2.485 .013
N 149
Hàng tồn kho
Value Asymp. Std. Errora Approx. Tb Approx. Sig.
Kendall's tau-b .076 .080 .947 .344
N 149
105
Thương hiệu
Value Asymp. Std. Errora Approx. Approx. Sig.
Tb
Kendall's tau-b .179 .072 2.417 .016
149 N
CÁC ĐỐI TƯỢNG
Lợi thế thương mại
Đối tượng Value Asymp. Std. Errora Approx. Tb Approx. Sig.
.755 .112 4.834 .000 Nhà đầu tư N 35
.766 .101 5.919 .000 Kế toán N 38
Nhân viên ngân .670 .114 5.284 .000
hàng N 44
.760 .063 5.112 .000 Kiểm toán N 32
.717 .053 10.449 .000 Total
N 149
106
Bất động sản đầu tư
Đối tượng Value Std. Approx. Tb Approx. Sig.
Asymp. Errora
.185 1.183 .237 .223 Nhà đầu tư N 35
.161 1.648 .099 .269 Kế toán N 38
.148 1.369 .171 Nhân viên ngân .198
hàng N 44
.232 .752 .452 .178 Kiểm toán N 32
.086 2.626 .009 .228 Total N 149
107
Chứng khoán
Đối tượng Value Asymp. Std. Approx. Tb Approx. Sig.
Errora
.254 .209 1.163 .245 Nhà đầu tư N 35
.301 .174 1.612 .107 Kế toán N 38
Nhân viên ngân .231 .166 1.370 .171
hàng N 44
.149 .254 .571 .568 Kiểm toán N 32
.248 .096 2.485 .013 Total N 149
108
Hàng tồn kho
Đối tượng Value Asymp. Std. Errora Approx. Tb Approx. Sig.
.091 .242 .378 .705 Nhà đầu tư N 35
.183 .197 .942 .346 Kế toán N 38
Nhân viên ngân .035 .134 .264 .792
hàng N 44
.275 .176 1.539 .124 Kiểm toán N 32
.076 .080 .947 .344 Total
N 149
109
Thương hiệu
Value Asymp. Std. Errora Approx. Approx. Sig. Đối tượng
Tb
.326 .184 1.596 .110 Nhà đầu tư 35 N
.411 .146 2.509 .012 Kế toán 38 N
.022 .127 .176 .860 Nhân viên ngân hàng 44 N
.121 .147 .824 .410 Kiểm toán 32 N
.179 .072 2.417 .016 Total
149 N