9 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
NGÔ HƢƠNG LIÊN
I CA
TRONG
(KHẢO SÁT TRÊN ĐỊA BÀN T
)
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Thái Nguyên, 2014 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
NGÔ HƢƠNG LIÊN
TRONG
(KHẢO SÁT TRÊN ĐỊA BÀN T
)
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Phạm Thị Phƣơng Thái
Thái Nguyên, 2014 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
chuyên môn
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều
trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 8 năm 2014
Tác giả luận văn
i
Ngô Hương Liên
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban
Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm – Đại
học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong
suốt quá trình học tập.
Tác giả xin chân thành cảm ơn các cơ quan trên địa bàn tỉ :
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉ , phòng Văn hóa Thông tin
huyệ ; phòng Văn hóa Thông tin huyệ , thư viện tỉ
Nguyên.
Xin cả , Âu Văn Sinh... cùng
gia đình đã nhiệt tình cung cấp thông tin và nhiều tư liệu quý báu.
Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên hướng
dẫn: TS. . Cô luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong suốt
thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đồng
nghiệp đã giúp đỡ, động viên tác giả.
Thái Nguyên, tháng 8 năm 2014
Tác giả luận văn
ii
Ngô Hương Liên
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn........................................................................................................... i
Lời cam đoan ...................................................................................................... ii
Mục lục ..............................................................................................................iii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài .......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................... 7
.................................................................................... 7
................................................................................... 7
6. Phạm vi nghiên cứu ...................................................................................... 7
7. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 8
.......................................................................... 8
ận văn ...................................................................................... 9
....................................................................................................... 10
............... 10
- Nguồn gốc, tên gọi tộc người .. 10 1.1.
.......................................... 14
.................................................................. 14
................................................................................. 15
............................................................................... 18
............................................................................. 20
......................................................................... 20
............................................... 22
1.4. – .......................................... 25
1.4.1. Hát giao duyên – cầu nối của tình yêu con người với ...... 25
........................................... 27
........................................................................................................... 29
... 30 Chƣ
iii
................................................................................. 30
............................................................................ 33
..................................................................................... 33
2.2.2. Hát ứng đáp trong đám cưới .............................................................. 54
........................................................................................................... 60
CA TRONG ĐÁM
CƢỚI ...................................................................... 61
.................................................................................... 61
............................................................................................ 61
............................................................................................... 64
............................................................................. 68
...................................................................... 68
........................................................................ 70
.................................................................... 71
.............................................................................. 74
.......................................................................................... 74
................................................................................................ 81
.................. 83
3.4.1. Thời gian nghệ thuật .......................................................................... 83
3.4.2. Không gian nghệ thuật ....................................................................... 87
: .......................................................................................................... 91
...................................................................................................... 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 95
iv
PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Về phƣơng diện khoa học
.
,
trưng. trung tâm
chính trị, kinh tế của khu Việt Bắc nói riêng, của vùng Đông bắc nói chung,
cửa ngõ giao lưu kinh tế xã hội giữa trung du miền núi với vùng đồng
bằng Bắc Bộ, tỉnh bao gồm 8 dân tộc anh em quần tụ như Dao, Tày, Nùng...
trong đó có Sán Chỉ.
.
Trong .
n
.
Hiện nay, Sình ca trong đám cưới đã được một số nhà nghiên cứu dịch và sưu
tầm. Tuy nhiên, số lượng còn hạn chế và chưa có cái nhìn toàn diện về phương thức
nội dung, nghệ thuật gian .
Từ phương diện trên, chúng tôi đã tiến hành sưu tầm các bài hát
đám cưới và . Từ đó ,
1
khái quát được bản sắc dân tộc và phong tục tập quán của đồng bào.
1.2. Về phƣơng diện thực tiễn
thống của dân tộc thiểu số. Với nét đẹp về văn hóa tinh thần, hát Sình ca
trong nghi lễ đám cưới đã tạo nên sức sống trường tồn, được lưu từ thế
hệ này sang thế hệ khác.
. Đây cũng là điều kiện để gìn giữ,
bảo tồn những giá trị truyền thống của Sán Chỉ đang đứng trước nguy cơ tiếng
hát bị mai một, thất lạc do phương thức lưu truyền.
Qua quá trình thu thập thông tin và điền dã chúng tôi thấy việc lựa chọn
tìm hiểu đề tài “
)” sẽ
hơn qua việc tiếp cận loại hình văn nghệ dân gian - của dân tộc thiểu số
trên ,
–
.
2. Lịch sử vấn đề
Với quá trình lao động và sản xuất lâu đời,
1945 với chính
sách bảo tồn các giá trị văn hóa dân tộc, mới được quan tâm nghiên
cứu, bảo tồn, gìn giữ nay có công trình nghiên cứu Dân
tộc Sán Chay giới thiệu về đời sống tinh thần của
người Cao Lan và Sán Ch qua kho tàng văn hóa, văn nghệ dân gian. Đó là hát
Sình ca (theo tiếng Cao Lan) hoặc Xắng cọ (theo tiếng Sán Chỉ), tác giả nhấn
mạnh: “Ở người S ng cộ hoặc Sắng cộ khá
phổ biến, hầu như xưa kia làng nào cũng hát. Hội hát dân ca Kiên Lao diễn ra
2
vào ngày 18 tháng 2 âm lịch tại đình làng gọi là đình Cống. Trước một, hai
ngày vào hội đã có nhiều khách cũng là người Sán Chí từ Lạng Sơn đến, họ
cùng nhau bàn bạc công việc chuẩn bị cho ngày hội” [8, tr.394]
Dân tộc Cao Lan tập trung phân bố ở các tỉnh như Tuyên Quang, Quảng
Ninh... trong đó hát Sình ca ở Bắc Giang đem đến một nét đặc trưng riêng qua
cuốn Dân ca Cao Lan ở Bắc Giang do Ngô Văn Trụ (chủ biên), nguồn gốc của
tiếng hát Sình ca “có từ rất lâu và nó trở thành một sinh hoạt văn hóa truyền
thống của dân tộc Cao Lan” [36, 109]. Ở đây tác giả đã sử dụng tên gọi là Sịnh
ca và phân chia các bài hát thành các loại khác nhau: “Sịnh ca Thsăn lèn (hát
năm mới), (hát đối đáp hay giao duyên), Sịnh ca tò tàn (hát
đố), Sịnh ca ý (hát chơi, hát trêu ghẹo nhau)” [46, tr.116 – 117]
Đây là lối hát đơn điệu với ca từ phong phú, đa dạng, phản ánh mọi mặt
của đời sống nhiều nhất là giao duyên và tình yêu đôi lứa. Hát Sình ca không đi
cùng âm nhạc và vũ đạo. Âm điệu Sình ca nhấn nhá nên dễ đưa vào câu hát
những sự việc hàng ngày nên được người Sán Chỉ - Cao Lan sử dụng như một
phương tiện giao tiếp và trở thành nét văn hóa đặc sắc, giàu giá trị của hai tộc
người này.
Bài viết Giữ khúc dân ca cho người Sán Chỉ của tác giả Lê Quân trên
báo Công an nhân dân điện tử đăng ngày 08/01/2009 có trích dẫn lời anh Lâm
Văn Cựu (43 tuổi) người Sán Chỉ ở xã Nhược Bản, Bình Lộc, Lạng Sơn: “Dân
Sán Chỉ ở đây tầm tuổi tôi ai mà chả biết hát Sình ca, đã hát nhiều lắm rồi, ở
ngoài rừng, trên nương, đám cưới, đám hỏi, rồi giao lưu thi thố khắp nơi rồi”
[52]. Cũng giống đồng bào Sán Chỉ ở Bình Liêu – Quảng Ninh, ở Lạng Sơn,
người Sán Chỉ hát Sình ca như một hình thức sinh hoạt văn nghệ bình dân
thường ngày và dành cho mọi đối tượng.
Bài Dân ca Cao Lan đăng ngày 7/12/2007 trên báo điện tử Vĩnh Phúc
viết: “Dân ca Cao Lan “có hai loại hình chính: “Sình Ca” (loại hát ban đêm,
tổ chức trong nhà) và “Vèo Ca” (loại hát ban ngày, tổ chức ngoài trời). Dù là
3
Sình Ca hay Vèo Ca thì chủ yếu vẫn mang tình cảm trữ tình, bộc lộ rõ tâm hồn
yêu cuộc sống và khát khao hạnh phúc của lứa đôi tuổi trẻ. Có những trường
hợp một bài, hát ban đêm là Sình Ca, hát ban ngày là Vèo Ca” [54]. Tư liệu
của bài viết được khai thác tại nhóm người Cao Lan sinh tụ ở vùng Lập Thạch
- Vĩnh Phúc.
Bài viết Xã Kim Phú - Tuyên Quang bảo tồn và quảng bá những câu hát
Sình Ca đăng trên báo Tuyên Quang ngày 9/3/2011 có đề cập tới việc thành lập
đội văn nghệ thôn ở xã Kim Phú - Yên Sơn - Tuyên Quang. Theo các thành
viên trong đội văn nghệ cho cho biết: “hát Sình ca là loại hình xướng ca truyền
thống của dân tộc Cao Lan và được lưu truyền từ đời này qua đời khác theo
phương thức truyền miệng. Hát Sình ca bao giờ cũng đi kèm với những điệu
múa uyển chuyển, sinh động mô phỏng lại cảnh sinh hoạt đời thường của người
dân như: đi tra lúa (trong điệu múa khai đèn), đi xúc tép ” [53]. Sự xuất hiện
của vũ điệu trong hát Sình ca ở Tuyên Quang theo tài liệu trên là một điều đặc
biệt bởi hầu hết chương trình nghiên cứu đều đưa ra những kết luận hát Sình ca
là lối hát không nhạc đệm và không vũ đạo. Vũ điệu trong hát Sình ca ở Tuyên
Quang có thể chỉ là một sự cải biến lối hát cổ của đội văn nghệ để phù hợp và
thu hút người xem hơn.
Có thể kết luận, hầu hết trên các địa bàn khác nhau, Sình ca là hình thức
sinh hoạt văn nghệ phổ thông và phù hợp với nhiều đối tượng. Đây là những lời
hát dành phần nhiều những người trẻ tuổi đặc biệt là thanh niên nam nữ và đều
là hình thức hát không nhạc đệm và không nhạc cụ. Có thể khái quát trong
nhận định của Đặng Chí Thông về hát Sình ca: “Giai điệu của nó dễ hát, tiết
tấu cũng không cần đến sự chính xác cao, người ta cũng chỉ cần dựa vào
những câu thơ sẵn có để hát. Sự nhấn nhá theo giai điệu không phức tạp,
không có sự đột biến mà thường lặp lại sau bốn câu. Yếu tố dân dã, dễ hát ấy
đáp ứng tính phổ thông của loại hình” [37, tr.37].
Một điều dễ nhận thấy nữa là ở tất cả các địa bàn cư trú khác nhau nhưng
4
người Sán Chỉ đều tổ chức hát Sình ca trong đám cưới và coi nó là một bộ phận
không thể thiếu trong ngày vui này. Đối với người Sán Chỉ, lễ cưới không bao
giờ và không được phép vắng những câu hát Sình ca.
Để làm cơ sở dẫn nhập vào giải quyết đề tài, chúng tôi đã tìm hiểu, phân
tích một số nghiên cứu có nhắc đến hát Sình ca trong môi trường là lễ cưới. Có
thể nói, những công trình này rất ít và mới ở cấp độ khái quát.
Trong cuốn Dân tộc Sán Chay ở Việt Nam do tác giả Khổng Diễn chủ
biên đã nhắc đến ở trên, tác giả đã nêu ra một vài bằng chứng để minh định vị
trí cho hát Sình ca trong cưới hỏi. Từ việc chọn quan lang, chọn người đi đón
dâu phải là người “biết đối đáp và hát Sình ca giỏi” [8, tr.251]. Trong các bước
tiến hành những khúc hát Sình ca sẽ là quan trọng không thể thiếu để
nhà trai rước cô dâu về: “Hát xin vào cổng, hát xin lên nhà, hát xin dâu trong
đêm nhà trai ở lại nhà gái… ” [5, tr.253].
trong bài viết Tìm hiểu tục cưới xin của người Cao Lan xã Kim
Phú, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang, tác giả Đặng Chí Thông khẳng định:
“Không giống như đám cưới của các dân tộc khác chỉ nặng về nghi lễ đám
cưới, đám cưới của người Cao Lan còn là dịp để các sinh hoạt văn hóa dân
gian diễn ra sinh động trong đó hát Sình ca là nét văn hóa đặc sắc nhất”,
“Trong đêm ngủ lại nhà cô dâu, những người có tuổi sẽ hát trước và suốt đêm đó
nam nữ thanh niên hát không nghỉ” [37].
Tục cưới hỏi mới chỉ được nhắc đến một cách khái lược trong phần Tập
quán cưới xin, sinh đẻ và nuôi con ,
nhằm làm rõ vấn đề “tổ chức xã hội” của người Sán Chay. Thông qua việc mô
tả quá trình diễn ra các nghi thức, các tác giả đã chứng minh sự tương đồng
trong tục cưới của người Cao Lan và Sán Chỉ như công tác chuẩn bị trước hôn
nhân, các bước tiến hành, vai trò của quan lang và những nhân vật trong đoàn
đưa đón dâu, những kiêng kỵ, những hành động mang ý nghĩa tâm linh như thủ
tục “thu hồn”, tục “làm lễ tơ hồng”, “uống rượu tương tư”…, đồng thời cũng
khẳng định những nét dị biệt là rất nhỏ. Sự tương đồng ở mức độ khái quát là
5
điều không thể phủ nhận. Song nếu
.
Nhằm mang đến cái nhìn khái quát về đám cưới của người Sán Chỉ ở
Bắc Giang, tác giả bài viết Tục cưới của người Sán Chỉ ở Sơn Động, Bắc
Giang đã mô tả đám cưới của ngưới Sán Chỉ ở vùng này bao gồm ba bước: Lễ
xin lá số - đặt trầu (Pá lăng lậu), lễ đặt gánh (hối măn) và lễ cưới [56, tr.52].
Tác giả bài viết đã chỉ ra điểm nổi bật trong đám cưới của tộc người này là vai
trò của ông cậu trong việc tìm hiểu và giao tiếp với gia đình cô dâu cho đến
trước lễ cưới.
Một số bài viết khác cũng đề cập đến tộc người Sán Chỉ như:
- Chu Quang Trứ, Trở lại vấn đề nguồn gốc lịch sử người Cao Lan, Tạp
chí Dân tộc, số 45, 1964 [47].
- Nguyễn Nam Tiến, Về mối quan hệ tộc người giữa hai nhóm Cao Lan
và Sán Chỉ, Thông báo Dân tộc học, số 1/1972, tr. 59 – 75 [41].
- Nguyễn Nam Tiến, Về nguồn gốc và quá trình di cư của người Cao
Lan và Sán Chỉ, Thông báo Dân tộc học, số1/1973, tr. 41-57 [42]
- Nguyễn Nam Tiến, Lại bàn về nguồn gốc và quá trình di cư của người
Cao Lan và Sán Chỉ ,trong cuốn Về vấn đề xác định thành phần các dân tộc
thiểu số ở Miền Bắc Việt Nam [39].
Trên cơ sở khoa học, các công trình nghiên cứu trên chưa
trong
.
Dựa vào thực tiễn,
việc tìm hiểu hát Sình
ở tỉnh Thái Nguyên là hết ca trong đám cưới
6
sức cần thiết nhằm
, góp phần bảo tồn, gìn giữ và phát huy nền văn học dân gian vô
cùng quý giá của dân tộc thiểu số này.
3. Đối tƣợng nghiên cứu
-
.
- Nghiên cứu giá trị nội dung và nghệ thuật tiếng hát Sình ca của dân tộc
Sán Chỉ trong nghi lễ đám cưới qua phương thức truyền khẩu và những văn bản
chép tay còn lưu giữ hiện nay.
4. Mục đích
- Sưu tầm và nội dung qua hát Sình ca trong đám
cưới của dân tộc Sán Chỉ ở Thái Nguyên để thấy được sự phong phú, giàu hình
ảnh của các biểu tượng nghệ thuật.
- Giải mã được truyền thống văn hóa của tộc người Sán Chỉ dưới đối
tượng là lời ca trong đám cưới, trên phương diện về n
.
-
–
5.
-
.
-
.
6. Phạm vi nghiên cứu
* Phạm vi tư liệu nghiên cứu:
- Tư liệu đã xuất bản thành sách
7
- Tư liệu trên internet.
- Tư liệu thu thập về tiếng hát trong đám cưới của người Sán Chỉ ở tỉnh
Thái Nguyên qua quá trình điền dã 2014.
* Trong khuôn khổ của luận văn thạc sỹ chúng tôi chỉ tập trung tìm hiểu
“Giá trị nội dung và nghệ thuật lời ca trong đám cưới của người Sán Chỉ (Khảo
sát trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên)”.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng những phương pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp điền dã dân tộc học
Đây là phương pháp chúng tôi sử dụng để thu thập lời ca, tiếng hát trong
đám của người Sán Chỉ ở tỉnh Thái Nguyên.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
Từ kết quả khảo sát, thống kê bước đầu chúng tôi phân tích và tổng hợp
các giá trị nội dung và nghệ thuật về lời ca trong đám cưới của người Sán Chỉ.
- so sánh, đối chiếu
Chúng tôi tiến hành so sánh sự tương đồng và khác biệt giữa nội dung và
nghệ thuật lời ca trong đám cưới của dân tộc Sán Chỉ với một số dân tộc khác
trên địa bàn (như dân tộc Sán Dìu).
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành
Phương pháp này sẽ giúp cho đề tài một cách nhìn đa dạng và nhiều chiều
hơn giữa mối quan hệ văn học và văn hóa. Vốn đó là sự gắn kết mật thiết, tương
trợ, ràng buộc với nhau. Thông qua lời ca của người Sán Chỉ trong đám
cưới ta hiểu thêm về phong tục tập quán, bản sắc của riêng của dân tộc.
8. Đóng góp mới của
- Tìm hiểu một cách có hệ thống lời ca trong đám cưới của người Sán Chỉ
dưới giá trị nội dung và nghệ thuật.
- Sưu tầm một số bài hát còn truyền miệng và lưu giữ trong sách vở.
-
8
.
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
9. của luận văn
KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
9
ười Sán Chỉ
Chƣơng 1
1.1. - Nguồn gốc, tên gọi tộc ngƣời
Tộc người Cao Lan cùng với tộc người Sán Chỉ ( hay Sán Chí hoặc Sán
Chới) được các nhà dân tộc học, dựa trên các tiêu chí có chung ở cả hai tộc
người như nguồn gốc lịch sử, sinh hoạt văn hóa... thống nhất trong tên gọi là
Sán Chay.
Cuốn sách Dân tộc Sán Chay ở Việt Nam do tác giả Khổng Diễn chủ biên
là công trình quy mô nhất nói về tộc người Cao Lan. Theo đó, tộc người này
trước đây sinh tụ ở khu vực Dương Châu, Liêm Châu, Lôi Châu… của tỉnh
Quý Châu, Quảng Đông và Quảng Tây của Trung Quốc. Họ đến Việt Nam vào
khoảng cuối đời Minh, đầu đời Thanh cách đây khoảng 300 – 500 năm.
Nguồn tài liệu nói về tộc người Cao Lan sớm nhất đó là Kiến văn tiểu lục
của Lê Quý Đôn, viết về xứ Tuyên Quang, Lê Quý Đôn coi Cao Lan và Sơn Tử
là 2 trong 7 chủng tộc Man. Một số tài liệu khác như Đại Nam nhất thống chí,
Phong thổ kí Tuyên Quang, Vĩnh Yên, Quảng Yên, Thái Nguyên, Giản chí
người Mán Cao Lan của Bonifacy đều xếp Cao Lan vào nhóm Mán và coi Cao
Lan như những nhóm Mán khác. Sau này, vào những năm 50, 70 của thế kỉ
trước các tác giả như Bùi Đình, Nguyễn Trắc Trĩ... dựa vào những ghi chép sử
liệu cũ cho rằng Cao Lan cũng là Mán như các nhóm Mán khác.
Gần quan điểm với các tác giả trên, các nhà nghiên cứu dân tộc học Lã
Văn Lô, Lê Văn không cho rằng Cao Lan là một nhóm của Mán nhưng có thể
là cùng nguồn gốc với Mán và đã phân hóa thành dân tộc riêng.
Các nhà nghiên cứu đều cho rằng người Cao Lan vốn là gốc Mán có
nguồn gốc từ Trung Quốc, vào cuối đời Minh gặp phải lúc loạn lạc di cư vào
Việt Nam, họ mang theo yếu tố văn hóa Hán, thể hiện ở văn tự còn lưu lại trong
10
những quyển hát Sịnh ca và sách cúng, phát âm theo thổ ngữ Quảng Đông. Khi
vào Việt Nam, tộc người Cao Lan sống xen kẽ với người Tày – Nùng, họ đã
tiếp thu ngôn ngữ, các yếu tố văn hóa của người Tày – Nùng và người Việt đã
làm cho cộng đồng người Cao Lan lai hóa, xa dần tộc người khởi thủy của
mình.
Nhà nghiên cứu văn hóa Chu Quang Trứ phản bác lại ý kiến của một số
nhà dân tộc học Lã Văn Lô, Lê Văn... Ông cho rằng người Cao Lan không phải
là một nhóm của người Mán mà là một tộc người khác hẳn Mán, họ không có
quan hệ máu mủ tổ tiên gì với nhau.
Sau đó một số nhà dân tộc học như Đặng Nghiêm Vạn đưa ra ý kiến
chỉ là một, văn hóa của họ rất gần ngành Tày. Trước khi sang
Việt Nam họ đã ở Quế Châu, Khâm Châu và Dương Châu, đó là địa bàn cư trú
của người Choang và người Mán. Họ di cư sang Việt Nam sau dân tộc khác
nên không có ruộng, phải làm nương theo kiểu du canh du cư. Ở gần người
Mán nên học chịu nhiều ảnh hưởng của văn hóa Mán, dựa vào yếu tố văn hóa
đậm nét của hai tộc người Cao Lan – Sán Chỉ xếp học vào ngôn ngữ Tày –
Thái.
Trong công trình nghiên cứu Các dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang các tác
giả cho rằng người Cao Lan từ phía nam Trung Quốc sang Việt Nam và tới
Tuyên Quang từ lâu đời.
Nhà nghiên cứu dân tộc học Nguyễn Nam Tiến nhìn nhận tộc người Cao
Lan và Sán Chỉ trong dân tộc Sán Chay từ nguồn gốc lịch sử, quá trình di cư,
các vấn đề kinh tế, xã hội chứ không viết về từng nhóm riêng rẽ hoặc Cao Lan,
hoặc Sán Chỉ.
Trong 30 – 40 năm trở lại đây, những công trình nghiên cứu cho rằng
Cao Lan – Sán Chỉ là một dân tộc với tên gọi là Sán Chay tiêu biểu là ý kiến
của nhà nghiên cứu Đặng Nghiêm Vạn. Ông đưa ra nhận định: “Dân tộc Cao
Lan – Sán Chí chỉ là một, chịu ảnh hưởng của văn hóa Việt – Hán và Mán. Nhóm
Cao Lan sang Việt Nam sớm hơn, nay nói thứ tiếng thuộc ngôn ngữ Tày - Thái.
11
Nhưng họ lại ca hát bằng tiếng Sán Chí là thổ ngữ của Hán phương Nam.
Người Cao Lan tự gọi mình là Hờn Chùng (tiếng gọi của bộ phận người
Choang ở Quảng Tây thuộc ngôn ngữ Tày – Thái)”. Dựa vào tiếng nói hiện
nay, vào sự quan hệ, yếu tố văn hóa đậm nét
xếp họ vào ngôn ngữ Tày – Thái.
Qua bài viết Lại bàn về mối quan hệ giữa hai nhóm Cao Lan – Sán Chỉ
tác giả Nguyễn Nam Tiến dựa trên các đặc điểm về sinh hoạt và văn hóa; quan
hệ dòng họ, hôn nhân; ngôn ngữ đã đưa ra quan điểm: “Báo cáo của chúng tôi
là bản tường trình về những kết quả đã đạt được và chứng minh rằng, có thể coi
Cao Lan – Sán Chỉ là một danh mục trong thành phần các dân tộc ở miền Bắc
nước ta” [tr.35]. Theo ông dân tộc Sán Chay là sự hợp nhất của hai nhóm Cao
Lan – Sán Chỉ họ còn có tên tự gọi là Sán Chấy, Sán Chới, Sơn Tử (người ở
rừng) bên cạnh tên Hờn Bạn (người sống ở bản).
Theo cuốn Dân tộc học đại cương của Lê Sỹ Giáo, Sán Chỉ l
nằm trong dân tộc Sán Chay là sự hợp nhất của người Cao
Lan và Sán Chỉ. Như vậy, Sán Chỉ là một tộc người khu biệt với những nhóm
người khác, họ có những đặc trưng văn hóa riêng không thể lẫn với bất kì dân
tộc nào. Chính điều đó đã khiến Sán Chỉ trở nên độc lập dù được xếp chung với
người Cao Lan thành dân tộc Sán Chay trong danh mục các dân tộc Việt Nam.
Trong đề cương dự án Điều tra xác định thành phần các dân tộc ở Việt
Nam của PGS.TS Khổng Diễn được đề cập trong tác phẩm Góp phần nghiên
cứu dân tộc học Việt Nam của GS.TS Phan Hữu Dật cho rằng: “Dân tộc Sán
Chay bao gồm hai nhóm địa phương là Cao Lan, nói tiếng Tày – Thái và Sán
Chỉ nói tiếng Quan Hỏa, nghĩa là một dân tộc nhưng nói hai ngôn ngữ khác
nhau”. Ông khẳng định, vấn đề bảo tồn danh mục 54 dân tộc anh em trên mảnh
đất hình chữ S, nghĩa là không tranh luận về việc có nên hay không nên hợp
nhất hai nhóm người Cao Lan và Sán Chỉ dù họ nói hai thứ ngôn ngữ khác
nhau “Trong trường hợp ngôn ngữ không còn là tiêu chí, dân tộc vẫn đang còn
12
là dân tộc” [7, tr.373].
Tác giả Phan Hữu Dật trong tác phẩm Góp phần nghiên cứu dân tộc học
Việt Nam khi tiến hành phân chia ngữ hệ cũng đã chia Ngữ chi Hán nằm trong
Ngữ hệ Hán – Tạng bao gồm ngôn ngữ các dân tộc Hoa, Sán Dìu, Ngái, bộ
phận Sán Chỉ của dân tộc Sán Chay. Như vậy Sán Chỉ nằm trong ngữ hệ Hán –
Tạng không có một liên quan nào đến Cao Lan nằm trong ngữ hệ Tày – Thái.
Cũng đồng quan điểm với tác giả Phan Hữu Dật, nhà dân tộc học Đặng
Nghiêm Vạn viết: “Dân tộc Cao Lan – Sán Chí chỉ là một. Nhóm Cao Lan sang
Việt Nam sớm hơn, nay nói thứ tiếng thuộc ngôn ngữ Tày – Thái. Nhưng họ lại
ca hát bằng tiếng Sán Chí, là một thứ tiếng thổ ngữ Hán Phương Nam. Hai
nhóm Cao Lan và Sán Chí dù có một số nét văn hóa gần với nhau nhưng có
nguồn gốc từ hai ngữ hệ khác nhau” [48, tr.75]. rong tác phẩm Giáo trình
dân tộc học Đông Dương của A.Bonifacy (xuất bản năm 1919) gọi dân tộc Sán
Chay là Cao Lan hay Son ti.
Nhiều ý kiến không tán đồng quan điểm này và cho rằng Cao Lan – Sán
Chỉ phải là hai dân tộc riêng biệt. Trên thực tế, Cao Lan và Sán Chỉ được phân
biệt bằng tiếng nói. Tiếng Cao Lan gần với ngôn ngữ Tày (nhóm Tày - Thái),
tiếng Sán Ch gần gũi với tiếng Quảng Đông (nhóm Hán Quảng Đông).
Việc gọi –
ứu cũng đã có sự trái
chiều, tiêu biểu đó là nhà nghiên cứu Nguyễn Nam Tiến. Trong những năm
1970 – 1975 khi thực hiện việc xác định thành phần dân tộc, ông chủ trương
xếp hai nhóm này vào một dân tộc như trên đã nêu. Nhưng hơn hai mươi năm
qua, từ nhiều kiểm nghiệm thực tiễn, ông đã thừa nhận việc gộp hai nhóm Cao
13
Lan – Sán Chỉ vào một dân tộc Sán Chay là chưa hợp lí.
).
1.2.1.
Cộng đồng dân tộc Sán Chay ở Thái
. Về thành phần dân tộc tuy vẫn còn một số vấn đề đang được
xem xét lại, song theo công bố chính thức vào tháng 3/1979 của Tổng cục Thống
k đều cùng thuộc một dân tộc đó là dân tộc Sán Chay.
Tại các địa phương ở Thái Nguyên, người Cao Lan có nhiều tên tự gọi
khác nhau: Cao Lan, Hờn Bán, Sán Chấy... trong đó tên tự gọi là Sán Chấy là
phổ biến hơn cả; người Sán Chỉ tự nhận là Sán Chay, Sán Chới... (Sơn Tử -
người ở núi).
Theo kết quả nghiên cứu của các đều là
những cộng đồng mới di cư sang Việt Nam cách đây một vài trăm năm.
Trong Đại Nam nhất thống chí, ở mục “Phong tục tỉnh Thái Nguyên”
, khi đề cập tới người Cao Lan có
ghi: “Mán Cao Lan cứ ba năm một lần thay đổi chỗ ở, không ở chỗ nào nhất
định”[10, tr.15]
Khi đề cập tới người Cao Lan có ghi Mán Cao Lan cứ ba năm một lần thay
đổi chỗ ở, không ở chỗ nào nhất định. Trong nhiều tài liệu cũ đều cho rằng Cao
Lan là người Mán. Ví dụ: Phong thổ ký Tuyên Quang, Vĩnh Yên, Quảng Yên,
Thái Nguyên (Minh đô sử)... cho rằng Cao Lan là mán Sơn Đầu, Mán Quần
Trắng, Mán Đại Bản, Mán Tiểu Bản... Theo những người Cao Lan ở Đoan
Hùng, Phú Thọ, tổ tiên của họ là người ở Bạch Vân Sơn, thuộc Khâm Châu,
Khâm Liêm, (Trung Quốc), đến đời Minh, dưới sự chỉ huy của
thủ lĩnh Ninh Văn Bính, họ di cư sang Việt Nam. Đầu tiên họ đến Hoành Bồ
(Quảng Ninh), sau đó di sang Lạng Sơn. Sau khi Ninh Văn Bính chết tù trưởng
Hoàng Văn Thân đã đưa một bộ phận người Cao Lan, Sán Chấy sang Thái
14
Nguyên sinh sống.
Trong Thông báo khoa học của Tổng hợp, Đặng Nghiêm Vạn cho rằng
Cao Lan – Sán Chỉ là một, chịu ảnh hưởng văn hóa Hán và Mán... Các tác giả
của cuốn sách Các dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang cho rằng người Cao Lan tự
gọi mình là Sán Chấy và từ Thái Nguyên di cư đến được gần 100 năm nay...
Nhà nghiên cứu Nguyễn Nam Tiến, sau khi điều tra ở rất nhiều địa phương,
cũng thống nhất rằng, người Cao Lan, Sán Chỉ từ Trung Quốc di cư sang Việt
Nam cách nay chưa lâu, gia phả của gia đình ông Hoàng Văn Hàm ở thôn Đồng
Gianh, xã Yên Ninh (Phú Lương, Thái Nguyên) có ghi: “Tổ tiên trước đây cư
trú tại xóm Nà Bình, thôn Nà Phong (Khâm Châu, Quảng Đông, Trung Quốc);
gia phả của nhà ông Nịnh Văn Lợi ở thôn Cây Đa, ông Trương Văn Bằng ở
làng Hin (Phấn Mễ, Phú Lương, Thái Nguyên)... đều ghi tổ tiên họ ở Nà Khằn
(Khâm Châu, Quảng Đông, Trung Quốc)”.
-
).
trong (1
Tuyên Quang (
82,78% d (
.
.
1.2.2.
...
15
.
–
sang ở nhà đất và hiện nay nhiều nơi họ đã chuyển sang ở nhà xây gạch, mái
bằng như người Kinh. Nhà ở của họ thường là khung gỗ, tường trình bằng đất
sét trộn lẫn sỏi, đ , hoặc tường xây bằng gạch mộc nay đã có nhiều nhà xây cấp
4 hoặc kiên cố mái bằng. Công việc chuẩn bị trước khi dựng nhà như chuẩn bị
nguyên vật liệu, xem đất, chọn hướng, chọn ngày khởi công, ngày dựng cũng
phải xem và phải là ngà
sàn hay nhà đất, nhà xây gạch, người Sán Chỉ vẫn làm lễ lên nhà mới (Sặn
thắng ooc). Gia chủ tổ chức lễ cúng (Ớn cội) với ý nghĩa cầu an (Cạ slen cội).
Người đàn ông chủ nhà tự cúng lấy, không biết thì phải nhờ thầy.
thường ăn cháo (hặt choóc), dùng gạo nếp, đậu… chế biến thành các loại xôi
đỗ xanh (tàu phàn), xôi cẩm (mố cắm phàn), xôi đỏ (hoong lam phàn
: bánh chưng thường dùng để cúng vào Tết nguyên đán (tài
niên chết ; bánh giầy dùng để cúng chay
tổ (on long), xưa kia người Sán Chí có dùng bánh giầy trong việc cưới hỏi...
các ngày như buồn, vui, thậm chí cả ngày thường. Họ quan niệm rằng “Khách
đến nhà, trước uống trà, sau uống rượu”.
, cúng bái)
(chối tau) luộc đặt lên bàn thờ tổ tiên. Muốn dự trữ
thịt lợn vào dịp
dần, khi thịt lợn người ta lọc mỡ riêng, bóp muối cho vào chum, vại. Người Sán
16
Chí dự trữ bằng cách treo (lạp nhọp) trong dịp tết, thịt đã lọc xương, cắt thành
từng miếng khoảng 1 kg, không rửa nước, ướp muối sau đó để khô và treo
trong buồng, trên bếp.
. Ngoài thịt luộc,
người Sán C (chối kiệt dô), giò thủ (chối táu dô),
giò nầm (tàu màn dô), giò lụa (chặn nhoọc dô), thịt hầm (năm nhọoc)… Một
mâm c 1 đãi thịt lợn luộc, 1 đĩa thịt lợn
quay, 1 đĩa giò lợn, 1 đĩa lòng lợn, 1 bát tiết canh, 1 đĩa thịt gà luộc, 1 bát
xương bung với su hào hoặc đu đủ, 1 bát cây chuối rừng non thái nhỏ nấu với
xương lợn.
, việc
ng
một mâm; thành phần người ngồi chung mâm được bố trí phù hợp theo giới tính,
tuổi tác và địa vị trong xã hội. Trong gia đình, khi ngồi ăn cơm, ăn cỗ có kiêng kỵ
là con dâu không ngồi chung mâm cơm với bố chồng và anh chồng.
g
t
4cm x 4
17
8cm.
(
( (
( ), đeo tai ( ).
.
.
1.2.3.
trong tâm .
.
Trong tôn giáo, 3 tầng trên cùng
là tầng trời, ở đó có các tối thượng thần, cao nhất là Ngọc Hoàng; mặt đất là
tầng trần gian, có muôn loài chúng sinh; âm phủ là thế giới tiếp theo sau cuộc
sống trần gian. Điều này thể hiện qua tranh thờ của họ Thái Thanh, Thượng
Thanh, Ngọc Thanh ... nhiều nơi còn thờ thổ thần tại gia, ma ham.
hiện khá rõ rệt những quan niệ
18
4 đêm. Thường dân quá
cố họ làm nhà xe ba nóc, thầy cúng chết làm nhà xe chín nóc và lầu mênh kênh
cao chín tầng. Trong kênh mênh viết 3 chữ lâu đài điện. Các nghi lễ gia đình
cúng Đình, cúng miếu
nông nghiệp. Lễ diệt sâu bọ (sát choong) vào mồng 2 - 3 âm lịch, tổ chức tại
miếu thờ thâu lộn, lễ cầu mưa (cầu đáo) tiến hành vào những năm hạn hán kéo
dài. Lễ hạ điền tổ chức vào tháng 5, tại sân đình. Tết cơm mới thường tổ chức
vào tháng 9 âm lịch hàng năm.
các
đề tài đấu tranh với thiên nhiên, về lao động sản xuất, về quan hệ xã hội và gia
đình. Nó thể hiện ước vọng của họ trong tình yêu, chinh phục thiên nhiên, ca
ngợi chính nghĩa, đấu tranh chống lại cái ác nhằm có được cuộc sống ấm no,
hạnh phúc. Đó là các câu chuyện: Bắt thiên lôi ăn thịt, Chàng mồ côi, Sự tích
ong mật, Chàng tào an, Quả bầu... Xưa kia trong các ngày lễ, ngày tết, ngày
cưới thường tổ chức hát đối đáp. Hát Sình ca, hoặc Soọng cô
(
.
19
:
,
,
,
[44, tr.134]
Từ giá trị văn học nghệ thuật phong phú trên đã để lại cho kho tàng dân
gian những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật. Nó
đã thể hiện được tư duy sáng tạo, cảm xúc thẩm mỹ của các tác giả dân gian
thông qua nhận thức về thiên nhiên và xã hội.
1.3.
1.3.1.
luôn là mảng đề tài được yêu
thích nhất, bởi
. mang
, v người Tày là câu hát Then, hát Slượn, người Kinh là nh c đến
những điệu quan họ , còn với người Sán Chỉ đó là những khúc hát Sình
ca. Nghiên cứu về tộc người Sán Chỉ, hát Sình ca là một văn hóa
dân gian của tộc người này.
Trong cuốn Dân tộc Sán Chay ở Việt Nam, Khổng Diễn nhận định: “Xưa
kia trong các ngày lễ, ngày tết, ngày cưới thường tổ chức hát. Hát Sình ca (theo
tiếng Cao Lan), hoặc Song cộ (theo tiếng Sán Chí), chỉ những người chưa vợ,
chưa chồng mới tham gia. Tuy nhiên trong đám cưới sau khi nhà trai xin phép
được vào nhà gái (làm mùn, tiếng Cao Lan) thì lúc đó dù đã có vợ (chồng) cũng
vẫn được tham gia đối đáp” [8, tr.385 – 386].
Liêu Chí Trung bài viết “Bài hát dài nhất Việt Nam” và người giữ
hồn cho câu hát Sình ca đã khái quát: “Sình ca (có nơi gọi là Sịnh ca) là một
thể loại dân ca trữ tình, một thể loại văn hóa dân gian phong phú, hấp dẫn đã có
20
từ lâu đời của dân tộc Cao Lan. Ở đó, mỗi bài ca được ghi chép bằng chữ Hán
theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, khi phiên dịch thường được chuyển theo thể lục
bát. Điều thú vị là, nếu các vũ điệu, câu hát của dân tộc thiểu số tồn tại dưới
dạng truyền khẩu là nhằm sử dụng trong nghi lễ tín ngưỡng hoặc ma chay thì
Sình ca là lối hát đối đáp giao duyên, được nam nữ hay tốp nam, nữ hát đối đáp
trong các dịp lễ, tết, hội xuân, trong lao động sản xuất và là biểu hiện ứng xử
tao nhã, đặc trưng của người Cao Lan” [55, tr.37].
Kế thừa quan điểm hiện đại, nhà nghiên cứu Đặng Chí Thông nhận định
“giống như hát đối, hát ví của đồng bao người Kinh ở vùng đồng bằng Bắc Bộ,
hát Sình ca được chia thành từng tốp hát, thường là một bên nam, một bên nữ,
người ở thôn này hát với người ở thôn kia. Những người cao tuổi với nhau hát
để so tài cap thấp còn đám thanh niên thì hát để làm quen nhau, để giao duyên.
Nội dung của hát Sình ca rất phong phú, đề cập đến mọi lĩnh vực của đời sống
” [37, tr.37]
Nghệ nhân Sầm Dừn – một người đặc biệt có tâm huyết với những câu
hát Sình ca của dân tộc mình có nói “Sình ca là lối hát đối đáp (giao duyên)
của dân tộc Cao Lan, tuy không có ghép nhạc nhưng mỗi câu hát ngân lên theo
chất giọng trong trẻo, khi uốn lượn, lúc cao vút nên có sức mạnh lan tỏa và thu
hút mọi người làm cho những trái tim tuổi yêu dễ xích lại gần nhau hơn. Nét
đặc biệt của hát sình ca là chỉ dành cho những người chưa chồng, chưa vợ mới
được hát đối với nhau và dùng Sình ca trong hát đối với trai gái làng khác, khi
phải thi tài trong lễ hội và tỏ tình với người mình yêu, không hát đối với người
cùng họ tộc ” [53, tr.24].
–
, hội ngày xuân,
21
:
của t
. , thanh
.
ột loại hình xướng ca đặc sắc trong kho tàng văn nghệ dân
gian truyền miệng đã được lưu giữ nhiều hàng trăm năm nay của ngườ
Tuy nhiên, chưa có mộ ụ thể và đầy đủ về
ịnh ca, Sình ca, ...
Nhà báo, nhà thơ Lâm Quý đã sưu tầm và biên soạn cuốn sách Truyện cổ
Sán Chay [36, tr.25] với tác phẩm đầu tiên là Kó Lằu Slam cho chúng ta thấy
những giải hồn nhiên, mang đậm chất dân tộc nhưng thấm đượm tình người
về nguồn gốc nhữ .
. Ngày xưa, có nàng Lưu Tam xinh đẹp, mồ côi cha mẹ nên sống
cùng anh trai. Nàng có đôi bàn tay khéo léo có thể dệt lên những tấm vải đủ
màu sắc. Hằng ngày, nàng lên rừng kiếm củi nên đống củi nhà nàng bao giờ
cũng to nhất bản. Đặc biệt hơn cả Lưu Tam có giọng hát hay, trong những ngày
đi kiếm củi nàng còn làm bạn và được các loài chim dạy cho nhiều bài hát. Mỗi
lần nàng cất tiếng hát, hổ báo nghe thấy trở nên hiền lành và các chàng trai
trong bản thì say ngây ngất như đã uống rượi bảy ngày bảy đêm. Khi thấy Lưu
Tam đã đến tuổi lấy chồng, người anh trai bèn gả nàng cho một nhà ở bản bên
cách mấy dãy núi lớn. Trong khi đó, Lưu Tam đã có người yêu nên nàng đau
khổ. Nhưng ý anh đã quyết nàng phải làm theo. Lo sợ tiếng hát của em hay quá
22
làm mê mẩn những chàng trai khác, sẽ bị nhiều người ghen ghét, người anh bèn
lấy cái kéo đưa cho em gái trước khi về nhà chồng và dặn nàng để kéo ở góc
buồng, khi nào kéo mở ra thì nàng mới được nói. Nàng về nhà chồng vẫn chăm
chỉ làm ăn như xưa. Hằng ngày nàng vẫn vào buồng nhìn chiếc kéo, nhưng vì cái
kéo ở góc buồng vẫn không mở ra nên nàng nhớ lời anh vẫn không dám nói.
Người nhà chồng tưởng nàng bị câm nên đang đêm đuổi nàng về nhà mẹ đẻ.
Giữa rừng núi bao la, nghe tiếng chim rừng nàng nhớ lại những ngày đi
lấy củi, được làm bạn và được chim rừng dạy những khúc ca mới, nàng lại cất
tiếng hát. Tiếng hát như những lời kể đầy ai oán của nàng về cuộc đời mình,
trách người anh gia trưởng, trách gia đình chồng ác bạc và như tiếng vọng hỏi
người yêu cũ còn nhớ mình không. Tiếng hát của nàng vang khắp núi rừng, hòa
vời tiếng của chim muông cỏ cây. Nàng hát bao ngày bao đêm liền và chết đi,
hóa thành cây trong rừng,hằng ngày vẫn hát vi vu. Tiếng hát của nàng kỳ diệu
thay, nó làm những người hiền lành đã chết có thể sống lại, những người ác
đang sống nghe nàng hát mà xấu hổ chết vật ra, những người tham lam chia của
cho những người nghèo, những người hiền lành luôn nhận được những điều
may mắn. Nàng được tôn thờ lên làm bà chúa và được con cháu muôn đời sau
tôn thờ nhắc đến như bà tổ của những làn điệu Sình ca – niềm tự hào của người
Sán Chỉ.
t
Lưu Tam. Vì vậy họ học và hát không cần sách như cánh đàn ông mà tự nghe,
tự thuộc, tự sáng tác. Tiếng hát là tâm hồn, lời hát từ trong bụng mà ra. Thông
qua đó càng chứng minh sức sống của những làn điệu Sình ca trong đời sống
của nhân dân Sán Chỉ. Chỉ với tình yêu những làn điệu này, họ mới say mê học
và hát cho dù khó khăn. Với họ hát Sình ca chính là cách để họ dãi bày nỗi lòng
của mình bởi Sình ca nói riêng và dân ca nói chung đều là những khúc hát đi từ
trái tim lên miệng.
Truyền thuyết về nàng Lưu Tam
23
. , truyền thuyết này cũng tồn tại trong kho tàng truyện
của người Cao Lan. Với những tên gọi khác nhau như Slâu Slam, Lưu Ba,
người Sán Chỉ và người Cao Lan đã tôn thờ chung một bà chúa, một vị nữ thần.
Thậm chí, với người Cao Lan, nàng Lưu Tam “được tôn lên thành chúa thơ, có
uy lực ngang với các thần núi, thần sông, thần trời” [27, tr.30]. Dân ca Cao
Lan có đoạn hát dưới đây thể hiện rõ tài năng và sự tôn thờ của họ với bà chúa
Lưu Tam:
Hống trí sắt sợp Slụi sờu sư cứn
Làu Slam pát slụi sờu co lài
Sờu hậy sờu lài slam lộc dì
Sừu háy hù sênh sịnh co quai…
Dịch ý:
Khổng Tử bảy mươi tuổi mới viết sách
Làu Slam tám tuổi đã làm thơ ca.
Viết đi chép lại được ba mươi sáu đêm hát
Ba mươi sáu tập sách hát ví
Truyền lại cho đời sau hát không bao giờ hết [44, tr.29]
Nàng Lưu Tam chính là kết tinh tinh hoa văn hoá văn nghệ dân gian của
hai tộc người Sán Chỉ và Cao Lan. Trải qua hàng nghìn năm tồn tại và phát
triển, trải qua bao cuộc di cư đi tìm cho mình một địa bàn sinh trú, trải qua bao
khó khăn trên chặng đường thiên di, những con người của núi rừng vẫn không
ngừng làm giàu cho đời sống tinh thần củ ời từ rất lâu trong
ý thức mỗi con ngườ , nó chắp cánh cho tâm hồn của những đứa trẻ từ
khi còn nằm trong nôi. Nhưng cho đến nay, xung quanh tên gọi của loại dân ca
truyền thống này có rất nhiều biến âm khác nhau. Theo nhà dân tộc học Khổng
Diễn cuốn Dân tộc Sán Chay ở Việt Nam đã gọi loại dân ca là “Hát Sình ca
(theo tiếng Cao Lan), hoặc Song cộ (theo tiếng Sán Chí)” [8, tr.385].
“
24
ca” [46, tr.28].
”[43, tr.578]
ài viết Giữ khúc dân ca cho người Sán Chỉ của tác giả Lê Quân
“Dân Sán Chỉ ở đây tầm tuổi tôi ai mà chả biết hát Sình ca” [52]
ng nhau ,
nơ ”
, ,
.
– 1.4.
1.4.1. Hát giao duyên – cầu nối của tình yêu con ngƣời với
Có thể khẳng định phương tiện đầu tiên và duy nhất để một đôi trai gái có
thể đến được với nhau là Sình ca. Ngay từ khi sinh ra, các cô bé cậu bé người
Sán Chỉ
g truyền thống của người Sán Chỉ, muốn lấy vợ lấy
chồng bắt buộc phải biết hát Sình ca, có quen được nhau cũng là qua những lời
ca tiếng hát trong buổi giao duyên. Hát Sình ca
25
, đưa hơi
,
, ngân ,
.
:
Chặn sỉ jeng líu nẩy
Chặn sỉ jèng nẹng cặm còng ngặn
Nhặn jéng ngặn cnện còng cọc mảy
Tảy jéng xặn nẹng tạng phốu cnạy
Tạm dịch
Quả thật anh luôn nghĩ tới em
Nghĩ tới em, như nghĩ bạc cùng vàng
Người nghĩ bạc tiền cùng lúa gạo,
Riêng anh chỉ nghĩ sao cưới được nàng [46, tr.131]
...
.
Chặn sỉ jèng líu nẩy
Chặn sỉ jèng nẹng dong sùi vạ
Dong sùi vạ hại tốu cnối lèng
Tảy khối jạm nên sùi mảo cnăm.
Tạm dịch:
Quả thực anh luôn nhớ tới em
26
Quả nhớ em như nhớ hoa sung
Hoa sung nở nơi nơi sáng rực
Anh về ba năm, ngủ chả ngon. [46, tr.131]
gay từ khi tìm hiểu nhau, các chàng trai cô gái đã sử
dụng Sình ca như một thứ ngôn ngữ vừa sâu sắc vừa tế nhị mà không thể tìm
thấy ở bất cứ một câu tỏ tình nào của con người thời buổi hiện đại. Sình ca có
thể ghi lại những khoảnh khắc của tình yêu, những rung động đầu đời của
những chàng trai cô gái trong những tình huống sinh hoạt ngày thường mà vẫn
không kém phần đặc sắc.
Người Sán Chỉ rất coi trọng đời sống tinh thần, họ coi hát Sình ca không
chỉ là một hình thức sinh hoạt quần chúng mà còn đưa Sình ca vào một phần
cuộc đời họ. Nếu không biết Sình ca trong những buổi hát giao duyên, những
người Sán Chỉ yêu nhau không thể đến được với nhau, không thể xây dựng
hạnh phúc, sinh con cái bảo đảm sự phát triển của cộng đồng. Không có Sình
ca, việc giao tiếp giữa con người với con người và giữa con người với thế giới
tâm linh bị hạn chế rất nhiều, tinh thần cố kết cộng đồng cũng vì thế mà giảm
sút đi. Sình ca như một phần tâm hồn của người Sán Chỉ, là viên gạch nền xây
dựng hạnh phúc lứa đôi.
1.4.2.
Xuất phát từ những tình yêu quê hương,
giao hòa tâm hồn mình với cỏ cây, hoa lá... những gì thân thuộc nhất, yêu từ bờ
ruộng, gốc tre, nơi mình đã sinh ra và lớn lên, là cội nguồn của tổ tiên lưu giữ
cộng hưởng, giao từ đời này sang đời khác
hòa với cuộc sống.
Sập nhì nhịt
Vạ vui piệc to hao khôp từi
Vạ hao tắng noông lay cay ề
Tu phóng vui cồng lai quôn ngô
Tạm dịch:
Tháng mười hai
27
Hoa nở trắng rộ đẹp cả vùng
Hoa đẹp cho nàng đến đây nhé
Lòng vui chung cùng đến với ta [49]
Bức tranh của thiên nhiên được tộc người
miêu tả qua những nét phác gợi để người nghe, người đọc cảm nhận
. Nó hiện lên rất gần gũi không chỉ với
m
.
dị, mộc
, gắn bó giữa con người và tự nhiên,
tạo ra trường liên tưởng nơi người nghe, người đọc cảm nhận toàn cảnh một
bức tranh thiên nhiên.
quê hương
đề cao cuộc sống lao động “một nắng hai sương” của người
, họ cùng nhau tham gia sản xuất, tay “cuốc”, tay “cấy”, chăm chỉ
làm lụng và trong lòng
làm ra của cải vật chất cho gia đình. Bởi vậy, dù xuân là mùa vui chơi, trẩy hội
nhưng họ không quên việc đồng áng, nhắc nhở nhau chuyên cần để đáp lại âu
lo của người con gái, người con trai cất lên tiếng hát.
Chấu nghè mâu xin cang cuối tạy
Cac thin khéng họng séng cạ khoăc
Séng cạ xấu dâng séng cạ sap
Ò séng cạ hối sap vu vê.
:
Làm nghề chẳng có tiền, lời nói nhỏ
28
Góc ruộng bỏ hoang cùng nhau cuốc
Cùng nhau nhổ mạ cùng nhau cấy
Cùng nhau đi cấy có lúa thôi [49]
,
.
Tộc tỉnh Thái Nguyên
.
–
. các
bài hát ca truyền thống được lưu truyền bằng sách truyền khẩu, các
nghệ nhân –
.
t. Hát Sình Ca
.
của người dân lao động
.
.
nên, ẩn chứa một sức sống tiềm tàng mãnh liệt
29
.
Chƣơng 2
).
2.1. Nghi đám cƣới
“
. Tục lệ cưới xin của người Sán
Chỉ cũng như các dân tộc khác trải qua nhiều . Xưa kia, hôn nhân nói
chung đều do cha mẹ, bề trên định đoạt. Trai gái có thể tự do tìm hiểu nhau qua
các đám hát ví, hát đối (Sình ca) nhưng đến khi đi đến quyết định hôn nhân thì
phải thông qua bố mẹ và thực hiện nhiều nghi lễ bắt buộc.
Khi gia đình đã ưng thuận chọn cô gái về làm dâu thì bố mẹ của chàng trai
mượn người đi đánh tiếng. Nếu cô gái là người cùng làng thì hai gia đình đã
biết nhau, không phải dò xét nhiều. Nếu cô gái ở làng khác hoặc ở xa, bố mẹ
chàng trai phải nhờ người thân quen tìm hiểu về đức hạnh, tính tình của cô gái
và gia đình của cô ta. Nhà trai nhờ một ông mối (
30
-
duyên thành đôi. Tiếp đó hai bên gia cùng bàn tiếp nghi lễ, lễ vật và cuối
cùng là tiền thách cưới.
Trước hôm đến nhà gái, ông mối và một người đi cùng đến ngủ ở nhà
người quen của cô gái. Sáng hôm sau ông mối mang 4 bát trầu trong bát có hai
quả cau và 2 lá trầu, một tờ tiền đ
lời, nếu nhà gái đồng ý sẽ trao cho tờ giấy đỏ ghi tên ngày, tháng, năm sinh của
cô gái, nhà trai về nhờ thày xem số, xem tuổi của đôi trai gái có hơp nhau
không. Nếu hợp tuổi và không có điều gì trắc trở, nhà trai lại cử ông mối sang
nhà gái xin định ngày ăn hỏi.
.
ễ dạm hỏi, tham dự dạm hỏi
bên nhà trai gồm ông mối, một người gánh đồ và các bậc cao niên. Trong lễ
, hai bên sẽ và quyết định các nội dung như ngày cưới, giờ đón
dâu, tiền bạc và vật phẩm thách cưới của nhà gái… Họ thường tổ chức đám
cưới vào các cặp tháng như
. Xưa kia đồ thách cưới thường gồm bạc trắng 5,2 nén, thịt lợn 120
kg, rượu 120 nậm, vòng tay bạc một đôi, khuyên bạc hoặc vàng một đôi, thắt
lưng lụa một đôi, cau 120 quả và trầu 120 lá…Ở nhiều nơi còn phải có hai
thúng gạo (một nếp, một tẻ), 24 chiếc bánh giầy, một tấm vải dành biếu mẹ của
người con gái. Cũng trong lễ dạm hỏi, nhà gái sẽ đưa cho nhà trai tờ giấy đỏ
ghi đường đi, lối đến để đón dâu. Nếu thách cưới cao quá, nhà trai không lo
được, lễ cưới sẽ bị đình lại.
31
.
, đ
–
.
, n
...
. T
, cho cô dâu
đêm .
. Cô ph
.
...
dâu đi.
,
, c ,
32
.
. Đêm
dâu.
,
.
2.2. đám cƣới
cuộc sống tinh thần phong phú, nó đã đạt
đến độ sâu sắc như máu thịt, ngọt dịu như bát nước chè xanh hàng ngày.
.
2.2.1.
theo đúng nghi lễ
truyền thống. Hai họ ch ngày lành, tháng tốt đưa cô gái về nhà
chồng. Sau thời gian chuẩn bị, đám cưới được diễn ra vui vẻ, nồng ấm với sự
có mặt của đôi bên gia đình, làng xóm, bè bạn đến chúc mừng cho đôi bạn trẻ.
theo
.
33
trai. L .
2.2.1.1.
. Khi đến cửa nhà gái bị chặn lại, b
đến. Lúc này quan lang bên nhà trai liền phải có những câu hát lời để
được đón dâu về.
Noong m
Mâ .
Không [49].
.
,
. C
g . Đ
34
, n
trai ,
thông minh, .
.
nh
.
.
Ết toi chộc chấy mị cong cong
Ết tao chảm thọn hị lan tông
Tạm long dịu sen bèn bỉ cộ
Mạo sen lan tạo nhẹt thòi hông.
Tạm dịch:
Một cành tre có ngọn cong cong
Một dao chặt đứt đem chặn quan lang
Có trầu thì mới được qua
Không trầu thì mai mới được vào. [49]
Khi vào được nhà, mọi người sẽ tiếp tục hát nội dung gắn với mỗi giai
đoạn của lễ cưới. Vào tới nhà, cô dâu sẽ ra tiếp đón anh em họ hàng nhà trai để
mọi người biết mặt. Quan lang làm lễ cúng tổ tiên nhà gái, nhà gái kiểm tra lễ
vật xem có được đầy đủ như đã thỏa thuận hay không, nếu thiếu thì mỗi người
bên nhà trai sẽ bị phạt rượu. Trong giai đoạn này cũng có hát Sình ca, bài hát
đối đáp .
2.2.1.2.
N n Ch
35
t
nó gắn liền với cuộc
sống hằng ngày và là cách duy nhất để gắn kết họ với lực lượng siêu nhiên. Vì
vậy, trong đám cưới việc cúng tế cũng phải được chuẩn bị chu đáo nhất.
không chỉ là sự thừa nhận của cả cộng đồng
mà còn được cả thần linh chứng giám nữa
,
.
. Xen
:
[49]. Sinh
,
, hôm n
.
.
.
36
:
[49].
, tân nương
.
trên. Qua những câu hát, ta còn thấy văn hóa
trong mối quan hệ . Cách ứng xử trên giúp con người ta
hướng tới chân – thiện – mỹ, là vẻ đẹp thanh cao của tâm hồn. Hành vi ứng xử
là thước đo trình độ văn hóa của mỗi người, của cộng đồng. Thế nên, trong
những bài hát ca ngợi tổ tiên, ông bà luôn luôn chứa đựng sự kính trọng, đó là
những thế hệ đi trước đóng góp công lao gìn giữ và phát triển các phong tục tập
quán của đồng bào.
Trong lúc uống rượu hai bên có thể hát
.
Trộn tui lẩy lầu pảng lai tốn
Sỉ păng dản phọc xến thên xai
Lai tốn păng cạ mảo mặt nhăm
Mông păng nhắm chăn chải păng cạ
:
Hàng nghìn cây số bạn đến nhà
Nhà bạn có phúc đón bạn tới
Bạn đến nhà mình rất phấn khởi
37
Mong bạn uống rượu cùng bạn vui. [49]
. C
.
, t
r
.
thiếu gạo, tiền, xôi, gà, lợn... nhưng khôn
.
2.2.1.3.
Hát giao duyên hay còn gọi là hát đối đáp, hát ví diễn ra trong nhiều bối
cảnh khác nhau. Truyền thống văn hóa này gắn liền với những sinh hoạt đời
sống của con người, phần lớn là những sinh hoạt vui chơi giải trí mang âm
hưởng vui vẻ, gần gũi với tính cách dân tộc của đồng bào, thích ca hát, giao du
với bạn bè gần xa. Qua đó thể hiện tình cảm của mình cũng như
truyền cho nhau những kinh nghiệm trong cuộc sống và sản xuất.
, vừa mượt mà như m
, tiếng
hát chân thực, hồn nhiên như xóa đi những cực nhọc của cuộc sống, làm mát
dịu những giọt mồ hôi trên đôi má hồng ,
tiếng hát cứ thế cất lên từ tâm hồn trong trẻo và tình tứ, ý nhị trong mỗi lời ca
. Họ ứng khẩu thành thơ, từ những cảm xúc mong muốn
của mình mà đôi bên giãi bày lòng mình “tức cảnh sinh tình” mượn cảnh để đợi
chờ bạn hát.
:
Nhật tàu sứng tong nhệt tàu hong
Schênh sú quày nình hối na tồng?
Cú lang hênh lù hối dàu dau
38
Schênh sú quày nình nhập schùn chồng
Tạm dịch:
Mặt trời mọc đằng đông, mặt trời đỏ
Hỏi nàng qua làng định về đâu?
Nàng đi qua làng luôn rảo bước
Cho chàng mời nàng vô làng chơi [49]
:
Nhịt tàu sừng tòng nhịt tàu hồng
Hứ nàng mần nình nình hối tòng
Lang su nhập schùn chồng dàu dàu
Tắc phá schun nhắn - slìu mìn hồng.
Tạm dịch:
Mặt trời mọc đằng đông, mặt trời hồng
Chàng hỏi nàng nàng về hướng đông
Chàng mời về chơi ở với làng
Sao người nàng cười, má đỏ tươi [49].
?”,
cô
:
Nình mấy sếch
Mấy sếch lài phòng chực cò
Nình cù cằm chông nình sằn sừng
39
Vui hằn schắt lài phú mờn cò
Tạm dịch:
Nàng không biết
Không biết đến chơi phải hát ví
Còn trong lòng mình cũng sẵn có
Đã hát ví thì thiếu gì ví đâu [49].
N
“
:
Mòi phông chứ nhằn sừng hối schênh
Schênh sú lau tam cò chừng lài
Schênh sú lau tam lài chác chếch
Say quày cò sì sồng hắm hào.
Tạm dịch:
Vậy chúng mình cùng lên mời ví
Mời những Lưu Tam xuống trần ngay
Có những Lưu Tam càng soi sáng
Thì mình hát ví giọng mới hay [49].
Hay như:
Lưu Tam sì lìu dàu thìn lộc
Dàu táu ái nam vùng táy tài
Vùng táy tài phần tào cằm chí
40
Ho cạ dừng mà sập phằn quày
Tạm dịch:
Lưu Tam biết vậy từ thiên xuống
Về đến đất nam vua Nam giỏi
Giành chọn cuộc đời vì muôn dân
Muôn nhà con cháu giỏi tài cao [49].
,
“Mời những Lưu Tam xuống trần
ngay. Có những Lưu Tam càng soi sáng” hay “Lưu Tam biết vậy từ thiên
xuống”.
. Hát mời
thần về chứng giám, thổi hồn vào những câu hát để trai gái ứng tác, điệu hát
hay hơn
... Riêng ở ngoài đường trai gái đối đáp không
bao giờ hát khúc hát mời thần Lưu Tam. Điều đó chứng tỏ sự linh thiêng, quan
niệ về vị thần này
. T
Giành chọn cuộc
đời vì muôn dân. Muôn nhà con cháu giỏi tài cao”.
. Q
.
... r .
Quày tòa cò tàng pệch sáu hai
Màng kìn sênh thìn văn mù phái
Màng kìn sênh thìn văn mù lộc
41
Mần nình chò cú na tìn lài.
Tạm dịch
Vào đến làng ví hãy rửa tay
Nhìn lên trên trời mây đang bay
Nhìn lên trời hay mây xuống đây
Hỏi nàng từ đâu đến nàng chơi [49].
T ,
n
đang bay. Nhìn lên trời hay mây xuống đây”.
Sú nhập nình schùn mấy sếch ốc
Cú sùi schênh si na pù dàu
Ốc mìn pin dàu chênh sàng sử
Thác schắt mình chùn cò cò quài
Tạm dịch
Vào nhà chơi không rõ nhà đâu
Qua suối biết qua ở đoạn nào
Trước làng bao đường biết ngõ đâu
Sinh ra làng chàng ai cũng xinh [49]
.
.
Lằng lài sù nình mộc hứ hối
Càn càn schắt lài tăng lù tàu
Càn càn schắt lài lan lù tàu
42
Mộc hứ dầu dình phồng chắt háo.
Tạm dịch:
Chàng đến khuyên nàng đừng đi nữa
Nhà nhà ra đường đón vào chơi
Nhà nhà ra đường chặn đứng đó
Đi qua chẳng tốt, hãy vào chơi [49].
”
.
,
.
Vềnh cây phong thư về lìu và
Cây quày tắc pao mòi dì nà
Tắc páo nình nà phằng sau tằng
Mộc hứ phòng schùi tú lộc này.
Tạm dịch:
Chàng gửi cho nàng một phong thư
Gửi về thăm nàng cùng mẹ cha
Mong nàng giang tay đón nhận nhé
Chớ để gió thổi mà làm rơi [49]
Lộc hộp hòa lìu lộc hợp quày
Lộc hợp phong bì nàn tắc hài
Su tắc phong thư rềnh cây lài
Tới phong sú này mấy lợi này
Tạm dịch:
Phong thư dán hồng chữ đẹp quá
43
Chỉ mong mong hỡi người gửi cho
Nhận được thư cùng gửi cho nàng
Gió bão có thổi cũng chẳng rơi [49]
.
. K
“Mong nàng giang tay đón nhận nhé.
Chớ để gió thổi mà làm rơi”
hỉ mong mong hỡi người gửi cho. Nhận được thư cùng gửi cho
nàng. Gió bão có thổi cũng chẳng rơi”
.
Nhịt tàu sứ sừng dìu mòi ốc
Mòi lìn pịt nhằn tìu từ tăng
Mòi nhằn dầu slằm công từi cáng
Dầu slằm dầu phóc kịt sềnh sùng.
Tạm dịch:
Mặt trời mọc lên từ nhà nông
Nàng quên người khác chờ chàng nhé
Nàng có tấm lòng chung tiếng nói
Có tâm, có phúc mình kết đôi [49]
,
.
Thìn lộc slằm hào tìm mòi hào
44
Thìn lộc nhằn quài tìu môi quài
Từu dìu lìn nhằn mấy tấy mòi
Nhằn slằm mấy pìn mòi slằm quài.
Tạm dịch:
Trời có tâm đẹp để chàng đi
Trời có xinh đẹp cho nàng ấy
Đất mến con người như trời ấy
Tâm người ta có được như nàng [49]
.
Pun ca hồng líu pun ca quài
Pun ca hồng líu kịt phù sây
Kịt tắc văn sênh văn sềnh sù
Kịt tắc cò sênh pùn cà quài
Tạm dịch:
Thiên hạ lồng duyên, thiên hạ đẹp
Thiên hạ lồng duyên kết duyên tình
Kết lời ví rồi chưa kết thành đôi.
Kết được giọng ví đã quá xinh [49]
.
Sềnh sầu sênh
Sềnh sầu cò sì sềnh sằn sềnh
Cò sì dì hòi mòi dì lài
Mò mật hứ nình tăng va nề
Tạm dịch:
Ngưng lời nhé
Dừng hát giao duyên dừng giọng ví
Lời ví cũng hay nàng cũng đẹp
45
Không gì đối đáp để đón được [49]
Thời gian trôi đi thật nhanh, chẳng mấy chốc trời đã bước sang ngày hôm
sau, đồng thời cũng là lúc các đôi bạn trẻ phải chia tay, chưa trò chuyện được
. Vì vậy, những câu
hát sau như một lời níu giữ nhau, chàng trai đừng đi, cô gái đừng về. Tâm trạng
đó không chỉ biểu hiện trên gương mặt mà được thể hiện rõ nhất ở trong lòng
thông qua tiếng .
:
Lồng hày sláy mìn cằn vần sùi
Hoa sống tam nìn cằn Slày nhừ
Từng sống tam nìn cằn nìm mòi
Sấy hối dăm cà mần kịt sùng
Tạm dịch:
Rồng vươn năm còn thay dòng
Đẹp tốt đến ba năm còn phải thử nhau
Tốt đến ba năm vẫn nhớ nàng
Hẹn về âm cung hãy kết duyên [49].
, ,
, cô
.
:
Chốc nình chốc
46
Chốc nình schắt hối mộc nìn nhằn
Dực sì văn sềnh tình sù cấy
Tảng lùng su cú kịt phồng lằn
Tạm dịch:
Chúc ông chúc
Ra ngoài chớ vội nhận yêu ai
Có lẽ chúng mình hợp duyên số
Để chàng sang nhà xin kết hôn [49].
,
“ ”
.
,
.
. Những cuộc hát có thể diễn ra rất lâu, tiếng hát
chính là cầu nối kéo hai bên nam nữ lạ
. .
.
2.2.1.4.
Đến giờ đón dâu, nhà gái dọn cỗ
ệm, khóc càng nỉ non bao nhiêu
47
thì càng có với cha mẹ bấy nhiêu. Tiếng khóc ấy còn thể hiện rằng từ
đây con gái ra đi sẽ là dâu nhà người, là ma nhà người. Cô dâu bước ra khỏi
ngưỡng cửa, anh trai hay anh họ cõng cô đi ba bước ra khỏi giọt gianh của nhà
gái thì đặt cô dâu xuống. Cô dâu phủ lên đầu hai tấm khăn dài màu đỏ đi từng
bước chậm, nặng nề tỏ sự quyến luyến cha mẹ. Lúc này Sình ca thể hiện nỗi
luyến tiếc cho cuộc gặp gỡ nhanh chóng ở nhà
L
.
:
n [49]
. G
“L . C
.
.
Săt
48
:
[].
.
, đi theo cô dâu ngoài đoàn đón
dâu của nhà trai còn có đoàn dẫn dâu của nhà gái và cả người hát đối đáp. Một
em gái dắt trâu chở của hồi môn, hai người em dì hoặc em cậu khiêng hòm
quần áo, chăn màn, ấm chén... Đoàn đón dâu trở về nhà trai, mỗi khi qua suối
hay giếng trên đường đi thì quan lang lại rắc gạo, tiền giấy, có giữ lại đồng xu để
xin đường, thể hiện cho việc x .
Đến nhà chồng, vào trong nhà cô dâu và chú rể ngoắc tay nhau uống
rượu, chén rượu ấy do quan lang chuẩn bị sẵn cho hai người trên cái bàn nhỏ.
Khi uống xong chén rượu này thì hai người chính thức trở thành vợ chồng.
Trên mâm cỗ không chỉ có rượu mà còn có một ít cơm tẻ, chỗ cơm tẻ ấy sẽ cho
trẻ em ăn như là để phát lộc. Trong lúc này, Sình ca thể hiện cho sự ra mắt đối
với tổ tiên bên nhà chàng trai.
Châu cho
49
[49]
“M
.”
h ,
. H
.
Ngàn pặnh cháy chăn chải cộn lăn
Vốn đệp chong pác phê lòng hang”
Chắn phổn si tong cộn tang nhắm
Cá nổi si tong cọn xặt khăn.
:
[49]
:
.
[49] Nam
50
,
,
”.
người nơi thế tục với ông bà tổ tiên trong một sự kiện mang tính trọng đại của
đời người. Vớ , phong tục cưới hỏi
nhấn mạnh vào giá trị nghệ thuật và cách ứng xử đầy tính nhân bản của con
người thiểu số. Đằng sau những nghi thức phảng phất âm hưởng tôn giáo là sự
ẩn chứa những giá trị tốt đẹp thể hiện chiều sâu suy nghĩ và trình độ thẩm mỹ
của những người nghệ sĩ dân gian.
. V ,
tuy n n
.
Trong suốt quá trình đám cưới nhà trai cử đại diện là quan lang, nhà gái cử
đại diện là các cô phù dâu ra hát Soọng cô. Ở đây ha
hững bài hát này không chỉ xuất hiện ở ngay lần đầu gặp gỡ mà còn
được hát lên trong những lần gặp gỡ tiếp theo của hai họ.
:
[49]
Trước tấm lòng hiếu khách của nhà gái. Quan lang xin cảm tạ tấm thịnh
tình, xin nhận lời mời của nhà gái, chúng tôi xin góp vui.
51
Đại diện nhà gái hát:
:
[49]
Nhà trai tay bưng chén rượu hát tiếp:
Sô háng ết phu, hoi nhon vòng
Len háng nghi phu cun nhon vòng
Choi háng sam phu, chông sênh long long
Sao síu nhọn lòi si thu cong
Chíu si thu cong sút háo chíu
Nhúy ca cán tách – háo nèn diu ly nhot, kít nhít, diu ly sí
Mói nhín, tháy tém sênh ca chíu lay
Tam lói, nap sọi nhúy ca lao thóng
Dịu them – dịu lat – dịu hênh hoong
Nám nhúy kết sông, mong cíu sóng
Mênh nén, siu lám phac va lóng
Tạm dịch:
Bước nhẹ ra cửa ngỏ lời
Nhẹ chân bước một xin người nhận cho
Nén đi nhẹ bước hát hò
Bước ra cửa giữa tổ tiên họ hàng
Chắp tay giới thiệu quan lang
Hôm nay đưa đến rượu ngon, rượu hồng
Nhà gái đưa lại cô nàng xinh đẹp
Nhà trai đã dọn: năm hồng, tháng tiên, giờ quý đón nàng làm dâu
Mui nhin đại diện trầu cau
52
Lễ nghi gánh đến nộp cau thay chàng
Hương vị lễ quý cao sang
Đắng cay từng trải ngọt bùi nhớ lâu
Năm nay hạnh phúc ban đầu
Sang năm có cháu bền lâu đến già [49]
Sang bên nhà trai, hai bên vẫn tiếp tục hát đối với nhau, giờ đây là những
bài hát chúc mừng cô dâu, trách nhiệm của đôi vợ chồng trẻ để gìn giữ hạnh
phúc của mình.
Nám thai nhúy thai sin hanh hốc
Dịu sếnh nhít kíu song món lói
Ki mạn long thói sênh ca chỉu
Sọng théo sênh cô hô loong thói.
Tạm dịch:
Nam nữ trưởng thành xây hạnh phúc
Tình yêu mãi mãi kết thành duyên
Hai họ hôm nay vui tổ chức
Chúc mừng hai họ cùng hai bên [49]
.
Những bài hát trong đám cưới thường được hát ru (hát kép) nên
giọng ca du dương, những bài hát chúc cô dâu mới như trên được hai bên đối
đáp vừa để chúc mừng cô dâu “người người ai nấy cùng chung vui” đồng thời
cũng nói lên những trách nhiệm, bổn phận của cô khi về nhà chồng “hạnh phúc
trăm năm, dưỡng bố mẹ”.
.
Khác với dân tộc Sán , dân tộc Tày cũng có cuộc hát quan lang nhưng
được tiến hành theo trình tự cơ bản như bắt đầu hát căng dây (khên lền), hát trải
53
chiếu (pjoi phục), hát mời rượu, mời trầu (mởi mjầu), hát trình tổ (xiềng trỏ),
hát mời cơm (nai bôm), hát bài tổ (lạ táng) và cuối cùng là hát nộp rể, nộp dâu
(nộp khươi, lùa
.
,
. T
.
,
xin dâu. Đây
.
, .
:
Dâu ngo [49].
Đám cưới kết thúc nhưng dư âm của những câu hát vẫn vang vọng trong
tâm hồn mỗi người, thanh niên mong muốn mình cũng tìm thấy hạnh phúc như
đôi bạn trẻ, còn người già thì hồi lại những kỉ niệm tuyệt diệu đó.
2.2.2. Hát ứng đáp trong đám cƣới
,
mang ,
54
.
Cạnh cú xăn môn còng sọc ọng
Móc cáy nhi dọn cô xặt dăn
Cắm chi xặt môn háu chăm vôi
Chóng pòng trù tám chạc phong lăn
Đi qua c a nhà gặp bạn tới
Chẳng thấy cháu con đi hát ca
Đêm nay nhà bạn mở tiệc rượu
Bè bạn đến chơi thật phong phú [49].
. M
, “
.
Ngổ ọng chốn phổn tắng mạnh côn
Phốn cói dản xây xanh hôn nhân
Sọng tặc cối nhằng xòn cối nổi
Phọc lọc sọng dêm xòn phọc nhin
:
Ông bạn lấy vợ đáng minh quan
Một thời phú quý thành người quan
Sinh ra quý nam lấy quý nữ
Phúc lộc sống thêm thọ trăm năm [49].
.
“Sinh ra quý
nam lấy quý nữ. Phúc lộc sống thêm thọ trăm năm”
55
.
Manh nên
San [49]
luôn .
.
:
Ch
[].
56
. .
.
:
[49]. C
.
qua
.
:
.
:
,
,
Trôn hơi. [46, tr.907]
:
,
,
57
.
:
,
.
,
. [46,tr.908]
“ ”, “Ngưu Lang
, hôm nay
.
Hát theo nghi lễ đám cưới thường là những bài hát viết bằng chữ Hán
được lưu truyền thành sách, đòi hỏi người hát phải học thuộc và hát
theo những bài hát theo mẫu. Đám cưới
còn là không gian cho những ý tưởng về văn hóa. Phong tục cưới hỏi diễn
ra đồng nghĩa với việc mọi người gặp gỡ, giao lưu, mỗi cá nhân trong
cộng đồng gần nhau hơn. Trong hoạt động đó, con người phát huy tối
đa những nét đẹp của văn hóa truyền thống dân tộc
, hát Sình ca là một yế
. Ca hát đem lại không gian nghệ thuật mang tính
cổ truyền và trong đó hình ảnh của tập thể luôn được hiện hữu. Ngoài những
đoạn hát bắt buộc , trai gái có thể tham gia hát
giao lưu với nhau . Q
. Tiếng hát
vui vẻ mà còn là phương thức con người đối thoại với nhau,
trao đối với cộng đồng.
, giá trị tín ngưỡng tâm linh, giá trị cố kết
cộng đồng. Trong đó, giá trị thẩm mỹ được xem là giá trị nền tảng, bước đầu
phản ánh sự nhìn nhận hồn nhiên, bộc trực về cái đẹp từ thuở xa xưa của người
58
dân Sán Chỉ.
,
.
. Trước khi xu
.
, quan hệ làng xóm, địa vị xã hội…
.
Ngoài những đoạn hát bắt buộc
. Chính vì vậy không gian của đám cưới đã kéo con người lại gần nhau hơn,
tại đây mọi người gặp gỡ, giao lưu, trao đổi với nhau. Tiếng hát khiến cho mọi
người không những vui vẻ mà còn là phương thức con người đối thoại với
nhau, thể hiện tình
. Họ gửi gắm những lời thăm hỏi, sẻ chia, tâm tình về cuộc
sống qua lời ca điệu hát. Không gian đám cưới là nơi con người có điều kiện
được gặp gỡ, giao tiếp, tiếng hát lại trở thành côn
59
nhau hơn.
Đ
.
, tươi vui
, ,
.
ng
quan lang,
...
hôm nay.
.
)
dâu
“xin dâu” .
, trao
ca
.
b
60
.
Chƣơng 3
GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT
CA TRONG
ĐÁM CƢỚI
3.1.
3.1.1. Ngô
Để thể hiện tư tưởng của mình xây dựng những
hình tượng nghệ thuật và thổi hồn vào đó giọng điệu, lời văn mang
âm hưởng riêng. Ngôn từ là yếu tố thể hiện rõ rệt nhất
. Do đó, khi
đi sâu tìm hiểu về thì yếu tố ngôn ngữ nghệ thuật cũng là yếu tố quan
trọng và cần thiết . Bởi lẽ, ngôn ngữ nghệ thuật “ vừa là tiếng
nói chân thực, giàu có của đời sống hiện thực, vừa là tiếng nói tình cảm của
con tim đang rung động. Chiều sâu của sức suy nghĩ, tính chất mẫn cảm và tinh
tế của sức sáng tạo, những trạng thái rung động của tâm hồn…tất cả, tất cả chỉ
có thể đến được với người đọc thông qua vai trò của ngôn ngữ.” [11, tr. 412].
, hơ
, chim muông...
.
nhiên .
61
.
:
[49] Nam
, vu
Nám thai nhúy thai sin hanh hốc
Dịu sếnh nhít kíu song món lói
Ki mạn long thói sênh ca chỉu
Sọng théo sênh cô hô loong thói.
Tạm dịch:
Nam nữ trưởng thành xây hạnh phúc
Tình yêu mãi mãi kết thành duyên
Hai họ hôm nay vui tổ chức
Chúc mừng hai họ cùng hai bên [49]
Từ góc độ ngôn ngữ, có thể nhận thấy trong những bài hát đám
cưới ngôn từ trang trọng phù
hợp với tính chất của buổi lễ ,
.
–
62
cô .
:
đâu
Sin [49]
.
:
C [49]
.
n
63
”
, “hoa”, “chim”...
.
,
,
.
chiêm nghiệm những cung bậc cảm xúc của qua
thể thơ . Chất hiện thực của đời sống được
. Sự đan xen hòa quyện giữa
và hiện thực cuộc sống khiến cho mang vẻ đẹp riêng, đó là
ngôn ngữ mang đậm hơi thở của đời sống .
3.1.2.
, thể
thơ được
, .
chọn thể thơ thất ngôn tứ tuyệt
h ca là bởi câu thơ vừa ngắn gọn, dễ hiểu phù hợp với cách thức hát “ứng
tác”. Hơn nữa, bốn câu thơ được sử dụng không dài cũng không quá ngắn giúp
64
người ứng khẩu nhớ được nội dung và trọn vẹn ý tứ cần diễn đạt.
Nhật tàu sứng tong nhệt tàu hong
Schênh sú quày nình hối na tồng
Cú lang hênh lù hối dàu dau
Schênh sú quày nình nhập schùn chồng [49]
, thể thơ không c niêm luật và
nhịp điệu. Tùy theo cảm xúc lúc bâng khâng xao xuyến, khi tha thiết nóng bỏng
mà nhịp 3/4. Ví như:
Nhật tàu sứng tong // nhệt tàu hong
Schênh sú quày nình // hối na tồng
Cú lang hênh lù // hối dàu dau
Schênh sú quày nình // nhập schùn chồng.
Tạm dịch:
Mặt trời mọc đằng đông //, mặt trời đỏ
Hỏi nàng qua làng // định về đâu?
Nàng đi qua làng // luôn rảo bước
Cho chàng mời nàng // vô làng chơi [49]
, ,
.
,
Lưu Tam khi nên
...
65
.
3/ ; 4/3; 4/3; 4/3:
Nình mấy sếch
Mấy sếch lài phòng chực cò
Nình cù cằm chông nình sằn sừng
Vui hằn Schắt lài phú mờn cò
Tạm dịch:
Nàng không biết
Không biết đến chơi phải hát ví
Còn trong lòng mình cũng sẵn có
Đã hát ví thì thiếu gì ví đâu [49].
.
năm :
Nình mấy sếch
Mấy sếch lài phòng chực cò
Nình cù cằm chông nình sằn sừng
Vui hằn schắt lài phú mờn cò
Tạm dịch
Nàng không biết
Không biết đến chơi phải hát ví
Còn trong lòng mình cũng sẵn có
Đã hát ví thì thiếu gì ví đâu [49]
66
:
:
[49].
.
.
:
[49] đ
m “ây”, “ai”, “oi”...
.
y
67
.
.
.
để
góp phần
.
3.2.
3.2.1.
Theo Đinh Trọng Lạc thì “So sánh tu từ là sự đối chiếu hai sự vật (về tính
chất, trạng thái, sự việc) A và B cùng c một dấu hiệu chung nào đó giống
nhau. A là sự vật chưa biết, nhờ qua B mà người đọc biết A hoặc hiểu thêm về
A. So sánh tu từ còn gọi là so sánh hình ảnh, đó là một sự so sánh không đồng
loại, không cùng một phạm trù chung, miễn là có một nét tương đồng nào đó về
mặt nhận thức hay tâm lý” [14, tr.84].
.
68
[46, tr.904] G
Hay như:
,
[46,tr.905]
:
Con sông [46,tr.906]
.
i [46, tr.907].
,
.
.
Người sử dụng so sánh tương đồng, ngang bằng là chính, những
hình ảnh so sánh là hình ảnh rất gần gũi, thân thương với tộc người
trong đời sống hàng ngày cũng như trong tiềm thức của tộc người. Cách so
sánh như vậy phản ánh được những trạng thái tâm lí của chàng trai khi mới bắt
đầu bước ch
.
69
.
3.2.2.
“Cho A là một hình thức ngữ âm, x và y là những ý nghĩa biểu vật. A vốn
là tên gọi của x (tức là x là ý nghĩa biểu vật chính của A). Phương thức ẩn dụ là
phương thức lấy tên gọi A của x để gọi tên y (để biểu thị y), nếu x và y giống
nhau”.[17, tr.43]
, phong thư, hoa cỏ, rừng núi,
chim chóc, trầu cau… rất gần đời sống sinh hoạt hàng ngày và
trong cuộc sống lứa đôi sau này. Những hình ảnh đó mang theo tình cảm, là
chiếc cầu nối hai con tim đến gần nhau hơn.
[46, tr.907]
Hay
[46, tr.908]
–
,
. lên
.
.
, h
70
.
[49]
,
không .
, bởi
hầu hết các bài hát đều được thể hiện trong ý nhị, tình tứ, mang ý nghĩa sâu xa,
đôi lúc còn rất thâm thúy vì vậy mà không ít chàng trai đã phải “gãi đầu, giậm
chân”, còn các cô gái e thẹn, đỏ má. Từ đó, cho thấy biện pháp tu từ này đã tạo
nên dấu ấn, một nét văn hóa không thể phai nhạt trong cộng đồng người Sán .
3.2.3.
Điệp ngữ (còn gọi là lặp) là lặp lại có ý thức những từ ngữ nhằm mục đích
nhấn mạnh ý, mở rộng gây ấn tượng mạnh hoặc gợi ra những cảm xúc trong
lòng người đọc, người nghe [14, tr.17].
Điệp ngữ là một hình thức tu từ có đặc điểm: một từ, cụm từ, câu hoặc
đoạn thơ văn được lặp lại với dụng ý nhấn mạnh hoặc gây ấn tượng cho người
đọc, người nghe [34, tr.13].
.
3.2.3.1. Điệp từ
71
.
:
yên
[49]
Cách thức trùng điệp này là biện pháp tạo nên tính nhịp điệu, tiết tấu cho
khúc hát. Tạo ra một trường giai điệu trải dài, không bổng, không trầm mà nhẹ
nhàng, đều đều diễn tả nh
.
.
3.4.2.2.
Chúng ta thấy rằng: “Thủ pháp điệp hai dòng thơ, ba dòng thơ, điệp cả khổ
thơ tạo nên sự tràn đầy trong mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình, tăng sức
thuyết phục của lí lẽ và tính nhất quán của hình tượng thơ” [34, tr.29].
lối đối đáp nên điệp theo cấu trúc ngữ pháp là phổ biến
nhất. Nhưng các
kê.
72
[49].
ca cứ chuyển tiếp nhau linh hoạt, hài hòa cùng giọng trầm ấm ngân nga vì thế
không gây cảm giác tẻ nhạt, nhàm chán cho người nghe.
.
t
[49].
.
, trai , hứa hẹn
một tình yêu mới sẽ nảy nở. Chàng khôn khéo ướm lòng cô gái qua khúc ca
mượn cảnh ngụ tình.
:
,
73
[46, tr.907].
. ”.
đã diễn tả
rất phong phú, sinh động tâm trạng của nhân vật trữ tình
. Đôi khi câu hai, câu ba
trong bài lặp hết bốn chữ đầu chỉ khác ba chữ cuối, từ đó làm nhấn mạnh thêm
ý tứ, mong ước của bên hát hoặc bên đáp. ở đây không có nghĩa
là lặp lại một cách đơn giản, máy móc mà trái lại để chỉ ra nét nghĩa đã định
hình, là truyền thống vốn có của đồng bào. Bên cạnh đó,
càng cao thể hiện tín , nó làm cho khúc
hát dễ nhớ, dễ thuộc từ đó dễ dàng lưu truyền rộng rãi trong dân gian. Đồng
thời, tạo cho khúc hát trở nên mềm mại, uyển chuyển hơn có thể chuyển tải
được nhiều thông tin, ngữ nghĩa, diễn đạt được ẩn
.
3.3.
3.3.1.
Trong triết học và tâm lý học : “Biểu tượng là hình thức cao nhất
của nhận thức cảm tính được hình thành trên cơ sở cảm giác và tri giác. Nhưng
khác với cảm giác, tri giác, biểu tượng là hình ảnh về sự vật, hiện tượng của thế
giới xung quanh được tái hiện trong óc con người khi tác dụng của sự vật vào
giác quan đã chấm dứt, nhận thức đang từng bước chuyển sang giai đoạn tư
duy trừu tượng”.
Nhìn nhận trên phương diện văn hóa: “Cái mà chúng ta gọi là biểu tượng
là một từ ngữ, một danh từ hay một hình ảnh, ngay cả khi chúng ta quen thuộc
trong đời sống hàng ngày, vẫn chứa đựng những mối liên can, cộng thêm vào ý
74
nghĩa quy ước và hiển nhiên của chúng. Trong biểu tượng có bao hàm một điều
gì đó mơ hồ chưa biết hay bị che dấu đối với chúng ta…” [50, tr.29]. Biểu
tượng là sự mã hóa các giá trị tinh thần của loài người theo suốt chiều dài thời
gian. Ở đó, những người đi sau khám phá và tri nhận được lối tư duy và những
giá trị tinh thần hàm ẩn của những người đi trước, đến lượt họ lại tiếp tục đắp
bồi thêm các lớp nghĩa mới.
3.3.1.1. “ ”
Thiên nhiên đã được hiện hữu như là chủ đề không thể thiếu ở mỗi câu
hát. Nó đã minh chứng cho một không gian nghệ thuật đậm chất trữ tình. Nói
đến trầu là ta liên tưởng ngay đến chuyện ăn hỏi, cưới xin vì “miếng trầu nên
dâu nhà người”, nó là một phong tục cũng như là nét đẹp trong t
.
Trong tâm thức người Việt nói chung luôn gắn trầu – cau thành một cặp để
chỉ sự có đôi, có lứa và hạnh phúc bền chặt.
– cau, họ chặn quan lang ở cửa nhà gái chỉ
khi nhà trai đem trầu cau đến mới được vào để rước dâu về.
Vếch lai tăng nông mần dắt cối
Dắt cối tắng tặc tăng noông hối
Tou tìn leng có cồng dầu phục
Giờ có pặt lạng tìu cấy nời.
Tạm dịch:
Anh đến đón em ngỏ một lời
Một lời để được đón em đi
Đến nơi hai ta cùng hạnh phúc.
Như quả trầu cau để nhớ lâu [49]
75
, “Như quả trầu
cau để nhớ lâu”. Trên b
.
Cay lau cay dịn cay cặm pou
Tặc sâu lay cay quôn pun vạ
Cá lịn cồng hồ hang nhơn sâu
Lau dịn cay xi háy cá lịn.
Tạm dịch:
Nào trầu, nào thuốc, nào kim xuyến
Được mang đến đây trong mâm hoa
Tổ tiên cùng dòng họ chứng giám
Tấm lòng thành son sắt thủy chung [49]
“cau
đỏ trầu xanh thắm môi người”.
Cắm nhật leng pịn vụi cháu diu
Bờn be héc lại trùi cần din
Chau nhộc bay lai mơi hec hach
Păt lạng cồng lau háu săn hong.
Tạm dịch:
Hôm nay hai bên mở tiệc cưới
Bạn bè khách đến ở gần xa
Rượu thịt bày ra mời khách uống
Cau đỏ trầu xanh thắm môi người [49]
76
lên .
Cay pa lạng lau dịp xênh au
Tặc lu quôn au chau hong thim
Moi hec lai seng cạ nhắm chau
Hach hau mieng lau mưng sung túi.
Tạm dịch:
Đây quả cau lá trầu xanh biếc
Được hòa trong chén rượu ngọt ngào
Mời khách đến cùng nhau uống rượu
Thưởng thức miếng trầu mừng đôi lứa [49]
Các bài hát thường xuất hiện hình ảnh trầu cau như là minh chứng cho tình
cảm đôi lứa nên duyên, thắm thiết như miếng trầu đỏ thắm không bao giờ phai
nhạt h “Trầu này trầu tính, trầu tình.
Ăn vào cho đỏ đôi mình, duyên ta”.
Thiu lâu hao chị coong nay hao
Dịp vợt hou pen tou coong cou
Nhạ chơng lạu vếnh hền tou nhật
Seng mờn tời dầu phục quôn long.
Tạm dịch:
Dây trầu không trồng trên đất tốt
Lá mượt mà vươn tận trên cao
Cầm lá trầu anh hẹn giao ước
Sống muôn đời hạnh phúc bên em [49]
23% (17/78)
.
77
.
3.3.1.2. “ ”
.
.
Sâu tặc nông vánh mưng cay tu
Giơ phồng vung phôi hệch coong thin
Giơ nhịt thau hong them tồng tồng
Háy leng có sấy nhăn tặc phuc
Tạm dịch:
Lấy được em anh mừng trong bụng
Như phượng hoàng tung cánh trời cao
Như mặt trời đỏ thêm rực rỡ
Làm tình ta chung thủy mặn nồng [49]
.
:
Phôi cú mờn lú dáng lềnh thau
Phồng vung quay cay páo phóng vụi
Linh có séng iu sệch sung túi
Cắm tăng nhật hao lé sênh hun.
Tạm dịch:
Bay qua muôn dặm rừng đồi núi
Chim phượng về đây báo tin vui
Đôi lứa yêu nhau lên chồng vợ
78
Chỉ đợi ngày đẹp lễ thành hôn [49]
:
Líu hông to kịt sung leng có
Háy phồng vung mai mai séng quôn
Sẹng dầu phúc môu pôu dị muội
Giầu nhây chay thư phồng chịp châu.
Tạm dịch:
Chỉ hồng đã se duyên đôi lứa
Cho loan phượng mãi mãi bên nhau
Sống hạnh phúc không phụ cha mẹ
Cùng sinh con nối dõi tông đường [49]
“chim
phượng về đây báo tin vui. Đôi lứa yêu nhau lên chồng vợ. Chỉ đợi ngày đẹp lễ
thành hôn”
mãi mãi bên nhau”.
P tro 19% (15/78)
.
.
79
[50, tr.744 -746].
.
:
Phồng vung lay póa vờ phóng vui
Nam nui to kịt sung sênh túi
Lắm sâu mui kìn sang cháu diu
Lai tăng lou quay cạ oc mưng.
Tạm dịch:
Chim phượng loan báo tin vui đến
Trai gái đã nên duyên vợ chồng
Sắm sửa vật phẩm cùng lễ cưới
Đến rước dâu về cả nhà vui [49]
:
Au chau mừng mât háy sênh sung
Cồng mưng háy lou giọi lang siền
Lau giọi lang siền cạ oc phúc
Giơ long giơ phồng hau giơ phât.
Tạm dịch:
Chén rượu mừng hạnh phúc đôi lứa
Cùng mừng cho dâu thảo rể hiền
Dâu thảo rể hiền cả nhà phúc
Như loan như phượng đẹp như tranh [49]
.
Có thể nói biểu tượng phượng hoàng
80
. Là phương tiện để chàng trai, cô gái
diễn tả những cung bậc cảm xúc trong tình yêu và là công cụ để người S
giao tiếp với thế giới thần linh, chứng thực cho hôn nh
.
3.3.2.
Theo từ điển thuật ngữ văn học “Kết cấu là một phương tiện cơ bản và tất
yếu của khái quát nghệ thuật. Kết cấu đảm nhận những chức năng rất đa dạng,
bộc lộ tốt chủ đề và tư tưởng tác phẩm ”[34, tr.157].
cùng một hình thức là bài thất ngôn
tứ tuyệt nhưng mỗi bài lại có kiểu kết cấu không giống nhau
.
Kết cấu chính là cách th
thấy việc sử dụng kết cấu đối đáp đã thể hiện tính chất giao duyên, xuất phát từ
hình thức đối thoại trong thực tế, có người nghe t
g vì
một số lý do bên kia chưa trả lời được thì lập tức bên này lại hát tiếp, vừa là để
thể hiện khả năng ứng xử, về sự thông minh nhanh trí của người hát vừa là để
có không gian chuyện trò thân mật, càng gần đến sáng ý thơ càng sâu sắc đòi
hỏi phải có sự ứng tác nhanh chóng và hiểu ý các thành viên của đôi bên. Đây
thực sự là cuộc thi tài, đọ sức của các cặp hát, các đôi hát trong đêm giao duyên.
:
81
:
[49]
:
Sc
[49]
Trong đám cưới, diễn xướng Sình ca tập trung vào một số đối tượng hát
chính. Ngoài quan lang của hai bên gia đình sẽ có hai đội hát đi cùng. Họ đều là
những người hát hay và thuộc nhiều bài hát, có khả năng ứng tác tốt. Tương tự,
nhà trai sẽ cử bốn chàng trai, hai người là họ hàng nhà chú rể và hai người hát
giỏi được mời đi để hát chính.
Nghệ thuật Sình ca thay vì lấy âm nhạc và vũ đạo làm tăng sức hấp dẫn mà
lấy chính những câu hát mộc mạc, lấy giọng hát cao khỏe và ngôn ngữ cảm xúc
trên gương mặt để thu hút mọi người. Điều này vừa tạo nên sự độc đáo, lôi
cuốn trong các khúc hát Sình ca, nhưng đồng thời việc hát những
. Mỗi câu hát Sình ca tái hiện có hồn một
cảnh sinh hoạt vừa mang cái thực tại, gần gũi của đời sống, lại chứa đựng
những ý nghĩa sâu lắng về tình đời, tình người. Hát Sình ca đòi hỏi người hát
phải có giọng tốt, vang và khỏe, phải biết lấy hơi và xử lí hơi sao cho âm phát
ra vang và đều. Mỗi câu vang lên đồng thời mang trong nó cái kỳ vĩ của núi
82
cao, cái thăm thẳm của rừng sâu, cái nhẹ nhàng, tình tứ của lòng người.
3.4.
Trong quá trình sáng tác Sình ca, tác giả dân gian chưa ý thức rõ rệt về hai
phương diện nghệ thuật không gian và thời gian như một phạm trù thi pháp.
Tuy nhiên, qua những lời ca đó chúng ta vẫn cảm nhận được tín hiệu nghệ thuật
trở đi trở lại trong bài hát. Điều đó cho thấy rằng, tiếng hát Sình ca đã phần nào
tự bộc lộ được giá trị nghệ thuật của họ thông qua những sáng tác tưởng như
bình dị, giản đơn ấy.
3.4.1. Thời gian nghệ thuật
Theo Giáo sư Trần Đình Sử thì: “Thời gian nghệ thuật là thời gian mà ta
có thể thể nghiệm được trong tác phẩm nghệ thuật với tính liên tục và độ dài
của nó, với nhịp độ nhanh hay chậm, với chiều thời gian và hiện tại, quá khứ
hay tương lai” [34, tr.61]
Như vậy, chúng ta thấy rằng thời gian nghệ thuật là hệ thống thời gian liên
hệ, nối liền mọi sự vật hiện tượng trong đời sống tự nhiên, cuộc sống. Nói thời
gian nghệ thuật như là thước đo được tính bằng giây, bằng phút, thời gian qua
đi gọi là quá khứ, thời gian hiện hữu ta nói là hiện tại, còn thời gian chưa xảy ra
tức là tương lai. Sự vận động xoay chuyển của vũ trụ tỷ lệ thuận với thời gian
xảy ra. Trong tác phẩm thời gian được thể hiện dưới nhiều hình thức, có khi
thời gian được xảy ra một cách tuyến tính, có khi thời gian được miêu tả bằng
đồng hồ đếm ngược của sự kiện.
3.4.1.1. Thời gian hiện tại
Hát Sình ca là những tác phẩm văn học dân gian của đồng bào dân tộc Sán
Chỉ được cất lên trong đời sống cộng đồng. Nếu lời ca của hát Sình ca là ứng
tác thì nó sẽ luôn luôn được gắn với môi trường và cách thức diễn xướng cụ
thể. Ở đây vai trò của người diễn xướng – người hát rất quan trọng. Do vậy,
thời gian của người hát và thời gian của người thưởng thức (người nghe) cùng
hòa lẫn với thời gian hiện tại của người hát. Vì thế chúng ta có thể thấy rằng
thời gian trong hát Sình ca nói chung và hát Sình ca trong đám cưới nói riêng là
83
thời gian hiện tại. Điều này khác với thời gian trong truyện cổ tích luôn luôn là
thời gian quá khứ phiếm định, thời gian trong truyền thuyết luôn luôn là thời
gian quá khứ xác định.
Hát Sình ca trong đám cưới đặc biệt ở chỗ, ngoài các nhân vật chính (ông
mối, quan lang) thì còn có thêm các đôi trai gái để hát đối đáp giao duyên.
Chính vì vậy dấu hiệu của thời gian diễn xướng hiện tại được biểu hiện qua sự
xuất hiện của các từ mạng tính chất chỉ thời gian như: Hôm nay, ngày mai, đêm
nay, sáng nay...
Hát bài chúc mừng cô dâu mới
Người người ai nấy đều chung vu
Hôm nay ngày tốt nên duyên cưới
Hạnh phúc trăm năm cả cuộc đời
“Hôm nay” là khoảng thời gian hiện thực của đêm hát Sình ca. Đây là
khoảng thời gian mang tính ước lệ, chỉ thời điểm mà chủ thể diễn xướng thể
hiện lời hát. “Hôm nay” là một đêm của hiện tại, là bây giờ nhưng không cụ
thể, có thể hát bất cứ hôm nào. Từ các điểm ước lệ này, chủ thể có thể diễn đạt
mọi điều, mọi chuyện muốn nói cũng như tâm lý của người diễn xướng tại thời
điểm diễn ra cuộc hát
- Hôm nay, ta cùng hát chúc cô dâu, chú rể
- Hôm nay, đưa đến rượu ngon, rượu hồng
- Hôm nay, tưng bừng tiệc rượu cưới...
: canh hai, Hay
canh ba...
.
Nình lài hềnh cù làng ốc táy
Lin va ềnh nhập táu sang tàu
Ềnh nhập sang tàu sùi mấy chực
84
Từi hằm tam kềnh slắm dì dằn.
Tạm dịch:
Nàng vào làng đi qua dưới nhà chàng
Linh tính báo mộng tận đầu giường
Thức suốt ba canh lòng thanh thản.
[49]
.
Nình chộc schênh sàm cù tồng lay
Nhằn nhằn sì sít chốc anh tài
Nhằn nhằn sì siat ênh từ mòi
Tường hàm tam kềnh slắm dì dằn
Tạm dịch:
Mình qua làng chơi mặc áo xanh
Thức trọn tam canh lòng âu sầu [49]
Như vậy, thời gian trong lời ca Sình ca luôn là thời gian diễn xướng tạo
nên nét đặc trưng vốn có của người dân tộc. Mọi cảm xúc của con người thông
qua thời gian đều đậm chất hiện thực, mỗi khi tiếng hát vang lên cũng là lúc
chiều sâu cảm xúc và tâm trạng của con người thể hiện sâu sắc và chân thực
hơn. Đó cũng chính là giá trị nhân văn cao đẹp trong tâm hồn của người Sán
Chỉ chất phác, ngay thẳng, hồn hậu.
3.4.1.2. Thời gian tâm lý
Trong hoàn cảnh diễn xướng của hát Sình ca, các từ ngữ chỉ thời gian
không đơn thuần chỉ thời gian mà còn có tác dụng diễn đạt cảm xúc và những
quá trình tâm lý nảy sinh của những người đang hát và người được nghe hát. Thế
nên mới có chuyện, khi hát tiễn cô dâu ra khỏi nhà với lời dặn dò của ông bà, cha
mẹ, anh, chị em...cô dâu rưng rưng nước mắt khi giờ đây không còn được ở nhà
85
để phụng dưỡng cha mẹ, sống chung cùng anh em trong một nhà nữa.
[49]
hoàn cảnh diễn xướng của hát ,
các từ ngữ chỉ thời gian không đơn thuần chỉ thời gian mà còn có tác dụng diễn
đạt cảm xúc và những quá trình tâm lý nảy sinh của những người đang hát. Thế
nên mới có chuyện, hai bên hát đối đến rưng rưng nước mắt khi phải xa nhau,
nhớ đến nhau từng cử chỉ, lời nói. Đến giờ chia tay không ai nói với ai bịn rịn
khôn tả, cảm xúc cứ đong đầy, trai gái yêu thương nhau càng không muốn chia
tay, tất cả đều đó đều mang lại tâm trạng riêng của từng người.
Sự chảy trôi của thời gian còn được ngầm biểu thị qua các cung bậc tình
cảm của tình yêu đôi lứa gặp nhau rồi xa cách, yêu nhau rồi thành vợ thành
chồng... cảm nhận về thời gian thông qua tiếng gọi của trái tim được diễn giải
cụ thể bằng tâm trạng, cảm xúc của con người, thời gian được đo bằng chiều
dài nỗi nhớ
Phong thư dán hồng chữ đẹp quá
Chỉ mong mong hỡi người gửi cho
Nhận được thư cùng gửi cho nàng
Gió bão có thổi cũng chẳng rơi [49]
Trong những bài , có sự đan xen giữa hai dòng thời gian hiện
thực và thời gian tâm lý. Nó thể hiện ở việc thời gian bị đẩy ngược từ hiện tại
về quá khứ, rồi từ quá khứ đến hiện tại. Trong thực tế khách quan nó như dòng
chảy tuyến tính một đi không trở lại. Điều này còn được thể hiện thông qua
những cảm xúc, tình cảm được chủ thể trữ tình chiêm nghiệm và trải qua.
với thực tại, sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá khứ - hiện tại – tương lai luôn được hiện
hữu trong từng lời ca tiếng hát, đó cũng thể hiện lối sống tinh thần phong phú,
86
là sự kết tinh những giá trị văn hóa lâu đời của đồng bào.
3.4.2. Không gian nghệ thuật
Thế giới nghệ thuật bao gồm hai yếu tố cơ bản đó là không gian và thời
gian nghệ thuật. Khác với thời gian được cân, đo, đong, đếm theo từng khoảnh
khắc thì không gian nghệ thuật lại chứa đựng của môi trường hoạt động, điểm
nhìn. “Không gian nghệ thuật trở thành phương tiện chiếm lĩnh đời sống, đôi khi
mang ý nghĩa biểu tượng nghệ thuật. Là một hiện tượng nghệ thuật, không gian
nghệ thuật là một hình tượng ước lệ mang ý nghĩa cảm xúc tư tưởng” [34, tr.87].
Thông qua việc tìm hiểu không gian nghệ thuật mà chúng ta được tiếp cận
gần hơn quan niệm thẩm mĩ cũng như ý đồ sáng tác của tác giả dân gian.
Không gian trong tiếng hát rất đa dạng, phong phú và được thể hiện rõ
nét nhất trong không gian thiên nhiên và không gian sinh hoạt.
3.4.2.1. Không gian thiên nhiên
Thiên nhiên – con người có tác động tương hỗ lẫn nhau. Con người sống
trong bất kỳ thời đại nào, bất cứ nơi đâu, đời sống văn hóa nào cũng không tách
rời với thiên nhiên. Thiên nhiên vừa rộng lớn nhưng cũng vừa gần gũi với cuộc
sống của đồng bào miền núi là không gian cảnh vật ven rừng, núi đồi, chim
chóc... Những hình ảnh đó rất đỗi quen thuộc và đã trở thành tiềm thức trong
những câu ca trữ tình sâu sắc của dân tộc Sán Chỉ.
R
, nơi phổ biến là rừng
xanh, suối sâu. Vậy nên, các nhân vật trữ tình đã sử dụng biểu tượng này vừa
thể hiện vẻ đẹp của tự nhiên, vừa thông qua tự nhiên để nói lên nỗi khó khăn,
vất vả đối với cuộc sống hàng ngày và trong chuyện tình duyên coi đây là một
thử thách cần lòng quyết tâm, kiên trì của bên chàng, đôi nàng.
Rừng – một tạo hóa của thiên nhiên, nơi gắn bó mật thiết với cuộc sống thể
hiện sự đa chiều trong tình cảm, trường liên tưởng phong phú cho người nghe.
Hầu hết những hình ảnh trong không gian là những hình ảnh quen thuộc ở
87
miền núi. Bởi vì chính họ đã lớn lên, hình ảnh ấy
.
.
:
Hôm nay nàng đến ở rừng thôn
Có những giao duyên với rừng xanh
Nàng ở trong sâu sao mà biết
Chỉ có tâm thì mới ra được chơi [49]
.
:
Vào đến làng ví như rừng xanh
Các quan mà đến cũng an bài
Vua thấy có lẽ còn ngã ngựa
Con quan thất sự thật yên lòng [49]
Tư duy bộc trực, cụ thể gắn liền với mọi sinh hoạt lao động ruộng nương
đã in đậm trong nhiều câu hát Sình ca người Sán Chỉ. Những sự vật – hiện
tượng của thế giới tự nhiên đều có khả năng biến thành người bạn tâm giao,
chứng kiến và chia sẻ những tâm tư trong cuộc sống con người.
Trong tâm thức của người Sán Chỉ, miền núi là nơi con người ở giữa lòng
88
thiên nhiên, hòa vào thiên nhiên. Đứng trước thiên nhiên, con người luôn muốn
, . Bên cạnh đó, hiện thực miền núi
còn tạo cơ sở cho con người có khát vọng được .
Miền núi phía Bắc, nơi người dân Sán Chỉ đã bao đời coi rừng là tâm linh, cội
nguồn văn hoá. Ở đây,
.
3.4.2.2. Không gian hiện thực
Đối với người Sán Chỉ không gian hiện thực gắn liền với địa điểm diễn
xướng như đồi chè, nương rẫy, bên bờ suối, nhà sàn, bếp lửa... mỗi không gian
diễn xướng như vậy lại có những bài ca với những nội dung phù hợp tương ứng.
gái, họ chỉ được hát những khúc h , các cụ già... mà
không được hát những khúc hát về tình yêu đôi lứa. Lời của Sình ca cất lên lúc
nào thì không gian ba chiều như được mở ra. Ở đó mọi người cùng hòa chung
chén rượu ngọt ngào chúc phúc cho cô dâu, chú rể. Chính vì vậy người Sán Chỉ
có hàng ngàn câu hát để vận dụng vào những hoàn cảnh khác nhau, nói về
những vấn đề khác nhau .
[49]
Ngoài những khúc hát bắt buộc mang tính nghi lễ (hát đám cưới), đôi bên
nam nữ hát được phé
, con suối, cảnh núi rừng...
bên trong nhà sàn tạo sự trang nghiêm, ,
89
. Hơn nữa không gian bên trong nhà sàn là không gian của lễ n
đ
.
[49] Không
T , ngoài chức năng giải trí, Sình ca trong đám cưới chính là
những món quà cưới vô giá mang giá trị về mặt lễ nghi. Những bài hát trong
đám cưới được diễn tiến theo các nghi thức cưới hỏi của người Sán Chỉ. Nó là
một hoạt động mang tính bắt buộc và có công dụng nối kết khéo léo các bước
trong tiến trình đám cưới. Đám cưới của người Sán Chỉ thường diễn ra trong
hai, ba ngày . Trong suốt thời gian đó, tiếng
hát Sình ca hầu như không bao giờ ngơi nghỉ. Người Sán Chỉ quan niệm,
cho đôi vợ chồng trẻ.
Cho đến nay, với sự hội nhập của các dân tộc lân cận và địa phương khá
. Chính vì lẽ đó, rất cần khôi phục và bảo tồn những giá trị truyền
thống trong đám cưới nói chung và hát Sình ca đám cưới nói riêng được lưu
truyền trong dân gian.
nghệ thuật. Qua nghiên cứu một số phương diện nghệ thuật như môi trường
diễn xướng, không gian và th
90
.
nên
.
. , , tư
t .
91
.
luôn Trong văn hóa giá trị vật chất và
giá trị tinh thần. Sống trong dòng chảy ,
ý thức cho mình những bản sắc riêng được gìn giữ qua bao đời nay. Xuất phát
từ đời sống nông nghiệp gắn bó với ruộng , núi
rừng, sống vô tư
và lạc quan. Họ hướng tới những điều giản dị, đời thường nhất nhưng
ừ làm quen, ướm hỏi nhau sau đó là yêu nhau, lấy nhau đều
mượn tiếng hát, câu ca , chuyển lời, dẫn lối. ong
dung
sau:
1.
– .
2.
nghi
92
.
,
– –
.
dân tộc Việt Nam. Với phương thức truyền khẩu và ghi chép bằng tay của một
vài cá nhân, gia đình thì ngày ngay tiếng hát này đang dần bị mất đi bản sắc
vốn có của nó. Hơn thế, nhờ có sự giao thoa giữa các dân tộc nên ít nhiều
không còn giữ được bản sắc vốn quý củ
Qua quá trình điền dã, chúng tôi có một vài đề xuấ
:
Thứ nhất
.
Thứ hai, cần kế thừa, phát huy những
Thứ ba
sự truyền nghề và trách nhiệm nối nghiệp tổ tiên. Vấn đề bảo tồn trước hết liên
quan đến nghệ nhân. Do đó cần khen thưởng những nghệ nhân chân chính
93
những người có công bảo lưu từ đời
60 cho nên những người lưu giữ bằng trí nhớ và khả năng
của họ được ví như là kho thư viện sống. Vì vậy, bên cạnh chính sách động
viên cần có sự đầu tư về trang thiết bị như ghi âm, máy ảnh để lưu giữ nguồn tư
liệu này.
Thứ tư
v
, mất mát.
Thứ năm, việc đào tạo thế hệ trẻ để gìn giữ được nền giá trị văn hóa này
cần phải lập ra những lớp học, buổi sinh hoạt với nhiều hình thức và nội dung
phong phú để thu hút các thành viên tham gia.
Với bước đầu tìm hiểu và phân tích, chúng tôi thấy rằng việc bảo tồn, gìn
giữ giá trị
.
94
.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu Tiếng Việt
(2012), Ngh 1.
,
(1983), , Nxb Khoa học xã hội, H. 2.
(2003), 3.
, .
4. Nguyễn Xuân Cần, Ngô Văn Trụ (2003), Dân tộc Sán Dìu ở Bắc Giang,
Nxb Văn hóa dân tộc, H.
(2002), 5.
, Nxb , H.
(1964), i Cao Lan 6.
45, H.
7. Phan Hữu Dật (2004), Góp phần nghiên cứu dân tộc học Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, H.
(2003), , Nxb 8.
, H.
(2004), 9.
, Nxb , H.
(2008), , Nxb 10.
, H.
11. Hà Minh Đức (1974), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Nxb
K , H.
(2000), 12.
, Nxb , H.
(2001), , Nxb , H. 13.
14. Đinh Trọng Lạc (2003) , 99 Phương tiện và Biện pháp Tu Từ Tiếng Việt,
95
Nxb Giáo dục, H.
15. . (2006),
16. , (2009),
Nxb – thông tin, H.
17. , Nxb (2009),
, H.
18. , Nxb Thanh niên, H. (2000),
19. , Nxb , H. (2002).
20. , Nxb (2004),
thông tin, H.
21. (2009),
, H.
22. , Nxb (1989),
K , H.
23. (1985),
Nam, Nxb , H.
24. (1976), – văn nghệ các dân tộc thiểu số, NxbVăn
hóa dân tộc, H.
25. (1983), V
Nam, Nxb , H.
26. (2004), , Nxb , H.
27. Lâm Quý (1991), Kó Lau Slam – Truyện tình thơ Cao Lan, UBNH huyện
Đoan Hùng, Sở Văn hóa thông tin và thể thao Vĩnh Phúc.
28. Lâm Quý (2002), Truyện cổ Sán Chay, Nxb Dân tộc, H.
29. Lâm Quý (2003), Xịnh ca Cao Lan – Đêm hát thứ nhất, Nxb Văn hóa dân
tộc Hà Nội, H .
30. Lâm Quý (2005), Văn hóa các dân tộc thiểu số Vĩnh Phúc, Sở văn hóa
thông tin tỉnh Vĩnh Phúc.
31. (1999),
– –
96
.
32. (1978), , Nxb , H.
33. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Bộ GD & ĐT –
Vụ giáo viên – Hà Nội.
34. Trần Đình Sử (1998), Từ điển thuật ngữ Văn học, Nxb Giáo Dục Hà Nội, H.
35. Tài liệu “Báo cáo: Kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội
năm 2011 và hương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2012” của
Ủy ban nhân dân tỉnh.
36. – (2012), “ –
”
1.
37. Đặng Chí Thông, “Tìm hiểu tục cưới xin của người Cao Lan xã Kim Phú,
huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang”, Tạp chí Văn hóa dân gian số 2/2006.
38. Trần Ngọc Thêm (1997), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục Hà Nội, H.
39. Lâm Tiến (1995), Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, Nxb
Văn hóa dân tộc.
40. Lâm Tiến (1997), Vấn đề truyền thống và hiện đại trong văn học các dân
tộc thiểu số Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu văn học.
41. Nguyễn Nam Tiến, Về mối quan hệ tộc người giữa hai nhóm Cao Lan và
Sán Chỉ, Thông báo Dân tộc học, số 1/1972.
42. Nguyễn Nam Tiến, Về nguồn gốc và quá trình di cư của người Cao Lan và
Sán Chỉ, Thông báo Dân tộc học, số 1/1973.
43. (2009),
gia, H.
44. Tổng tập văn học dân gian các dân tộc thiểu số ở Việt Nam (tập 19 - Dân
ca) (2007), Nxb Khoa học xã hội, H.
45. Trung tâm nghiên cứu quốc học (2001), Bản sắc dân tộc trong văn hóa văn
nghệ, Nxb Văn học, H.
97
46. (2006), Dân ca Cao Lan iang, Nxb , H.
47. ,
45/ 1964.
48. Đặng Nghiêm Vạn (2007), Văn hóa Việt Nam đa tộc người, Nxb Giáo dục, H.
49.
Tài liệu nƣớc ngoài
50. Jean Chevalier, Alain Gheerbrant (2002), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới,
Nxb Đà Nẵng.
Webside
51. , ,
http://dangcongsan.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=30472
&cn_id=629459#, 3/1/2014
52. Lê Quân, Giữ khúc dân ca cho người Sán Chỉ, http://www.cand.com.vn/vi-
VN/vanhoa/2009/1/107377.cand 8/1/2009
53. Quỳnh Nga, Xã Kim Phú - Tuyên Quang bảo tồn và quảng bá những câu
hát Sình Ca, http://www.vietnamtoursinformation.com/index.php
9/3/2011.
54. Sở Văn hóa – Thể thao – Du lịch tỉnh Vĩnh Phúc, Dân ca Cao Lan,
http://123.25.71.110:8086/Channel.aspx?rc=van-nghe-dan-gian
7/12/2007.
55. ,
,
http://web.cema.gov.vn/modules.php?name=Content&op=details&mid=11
7449498, n 19/8/2009
56. http://dulichbacgiang.gov.vn/index.php?option=com_content&view=article
&id=619:tc-ci-ca-ngi-san-chi-&catid=89:vungdatconnguoi&Itemid=111
, 57.
http://nongnghiep.vn/nongnghiepvn/vi-vn/25/75692/phong-su/duyen-phan-
98
voi-sinh-ca.html 23/3/2011.
STT Họ và tên Tuổi Nơi ở
1 Hầu Đức Nhân 52 Trưởng xóm Xóm Đồng Tâm- Phú Lương-
Thái Nguyên
2 85 Đồng Tâm - Phú Lương - Thái Nguyên
3 Trần Thị Thắng Đồng Tâm - Phú Lương - Thái Nguyên 48
4 Lương Văn Tỵ Đồng Tâm - Phú Lương - Thái Nguyên 54
5 Hồ Văn Mạnh Đồng Tâm - Phú Lương - Thái Nguyên 50
6 Âu Thị Chanh Đồng Tâm - Phú Lương - Thái Nguyên 47
6 Lạc Văn Thăng 45 Đồng Tâm - Phú Lương - Thái Nguyên
7 Vương Thị Nguyệt Đồng Tâm - Phú Lương - Thái Nguyên 42
Đồng Tâm - Phú Lương - Thái Nguyên 46 8 Lạc văn Bính
50 9 Nịnh Văn Đức – –
63 10 – –
40 11 Nịnh Văn Thám – guyên –
12 Lương văn Chuyền 34 – –
41 13 Hoàng Văn Đại – –
40 14 Trần Thị Bé – –
55 15 Âu Văn Mạnh – –
39 16 Hồ văn Chương – –
44 17 Ninh Văn Báo – –
17 Trần Văn Thắn 46 Phấn Mễ - Phú Lương - Thái Nguyên
18 Lương Văn Ba 47 Phấn Mễ - Phú Lương - Thái Nguyên
19 Âu Thị Chúc 52 Phấn Mễ - Phú Lương - Thái Nguyên
20 Hồ Thị Thắm 55 Phấn Mễ - Phú Lương - Thái Nguyên
21 Vương Văn Tùng 48 Phấn Mễ - Phú Lương- Thái Nguyên
22 Nịnh Văn Sáu 44 Na Mao- Đại Từ - Thái Nguyên
23 Hoàng Văn Tám 42 Na Mao- Đại Từ - Thái Nguyên
24 Âu Văn Sinh 58 Na Mao- Đại Từ - Thái Nguyên
99
25 Nịnh Văn Phú 57 Na Mao- Đại Từ - Thái Nguyên
1:
hau hông.
.
2:
:
.
3:
100
T
.
4:
Trộn tui lẩy lầu pảng lai tốn
Sỉ păng dản phọc xến thên xai
Lai tốn păng cạ mảo mặt nhăm
Mông păng nhắm chăn chải păng cạ
Hàng nghìn cây số bạn đến nhà
Nhà bạn có phúc đón bạn tới
Bạn đến nhà mình rất phấn khởi
Mong bạn uống rượu cùng bạn vui.
5:
.
:
, ch
.
(Theo ông Hầu Đức Nhân ).
6:
101
sênh sung
:
7:
:
.
8:
Ngàn pặnh cháy chăn chải cộn lăn
Vốn đệp chong pác phê lòng hang
Chắn phổn si tong cộn tang nhắm
Cá nổi si tong cọn xặt khăn.
:
.
102
9 :
.
:
.
10:
Nám thai nhúy thai sin hanh hốc
Dịu sếnh nhít kíu song món lói
Ki mạn long thói sênh ca chỉu
Sọng théo sênh cô hô loong thói.
Tạm dịch:
Nam nữ trưởng thành xây hạnh phúc
Tình yêu mãi mãi kết thành duyên
Hai họ hôm nay vui tổ chức
Chúc mừng hai họ cùng hai bên.
11:
Cạnh cú xăn môn còng sọc ọng
Móc cáy nhi dọn cô xặt dăn
Cắm chi xặt môn háu chăm vôi
Chóng pòng trù tám chạc phong lăn
:
Đi qua của nhà gặp bạn tới
Chẳng thấy cháu con đi hát ca
Đêm nay nhà bạn mở tiệc rượu
103
Bè bạn đến chơi thật phong phú.
12:
Ngổ ọng chốn phổn tắng mạnh côn
Phốn cói dản xây xanh hôn nhân
Sọng tặc cối nhằng xòn cối nổi
Phọc lọc sọng dêm xòn phọc nhin
:
Ông bạn lấy vợ đáng minh quan
Một thời phú quý thành người quan
Sinh ra quý nam lấy quý nữ
Phúc lộc sống thêm thọ trăm năm
13:
:
.
14
104
:
.
)
15
.
B 16
.
.
17
105
.
.
18
.
.
19
ô đong.
:
.
20
106
.
.
21:
Nam nhăm nhăm chăn nam nhăn vôi
.
.
Bài 22
Nhật tàu sứng tong nhệt tàu hong
Schênh sú quày nình hối na tồng
Cú lang hênh lù hối dàu dau
Schênh sú quày nình nhập schùn chồng
Tạm dịch:
Mặt trời mọc đằng đông, mặt trời đỏ
Hỏi nàng qua làng định về đâu?
Nàng đi qua làng luôn rảo bước
Cho chàng mời nàng vô làng chơi.
Bài 23
Nhịt tàu sừng tòng nhịt tàu hồng
107
Hứ nàng mần nình nình hối tòng
Lang su nhập schùn chồng dàu dàu
Tắc phá schun nhắn - slìu mìn hồng.
Tạm dịch:
Mặt trời mọc đằng đông , mặt trời hồng
Chàng hỏi nàng nàng về hướng đông
Chàng mời về chơi ở với làng
Sao người nàng cười, má đỏ tươi.
)
Bài 24
Nình mấy sếch
Mấy sếch lài phòng chực cò
Nình cù cằm chông nình sằn sừng
Vui hằn Schắt lài phú mờn cò
Tạm dịch:
Nàng không biết
Không biết đến chơi phải hát ví
Còn trong lòng mình cũng sẵn có
Đã hát ví thì thiếu gì ví đâu.
Bài 25
Mòi phông chứ nhằn sừng hối Schênh
Schênh sú lau tam cò chừng lài
Schênh sú lau tam lài chác chếch
Say quày cò sì sồng hắm hào.
Tạm dịch:
Vậy chúng mình cùng lên mời ví
Mời những Lưu Tam xuống trần ngay
Có những Lưu tam càng soi sáng
108
Thì mình hát ví giọng mới hay.
Bài 26
Lưu Tam sì lìu dàu thìn lộc
Dàu táu ái nam vùng táy tài
Vùng táy tài phần tào cằm chí
Ho cạ dừng mà sập phằn quày
Tạm dịch:
Lưu Tam biết vậy từ thiên xuống
Về đến đất nam vua Nam giỏi
Giành chọn cuộc đời vì muôn dân
Muôn nhà con cháu giỏi tài cao.
Bài 27
Lằng lài sù nình mộc hứ hối
Càn càn schắt lài tăng lù tàu
Càn càn schắt lài lan lù tàu
Mộc hứ dầu dình phồng Schắt háo.
Tạm dịch:
Chàng đến khuyên nàng đừng đi nữa
Nhà nhà ra đường đón vào chơi
Nhà nhà ra đường chặn đứng đó
Đi qua chẳng tốt – hãy vào chơi.
Bài 28
Sú nhập nình schùn mấy sếch ốc
Cú sùi schênh si na pù dàu
Ốc mìn pin dàu schênh sàng sử
Thác schắt mình schùn cò cò quài
Tạm dịch:
Vào nhà chơi không rõ nhà đâu
109
Qua suối biết qua ở đoạn nào
Trước làng bao đường biết ngõ đâu
Sinh ra làng chàng ai cũng xinh.
Bài 29
Quày tòa cò tàng pệch sáu hai
Màng kìn sênh thìn văn mù phái
Màng kìn sênh thìn văn mù lộc
Mần nình chò cú na tìn lài.
Tạm dịch:
Vào đến làng ví hãy rửa tay
Nhìn lên trên trời mây đang bay
Nhìn lên trời hay mây xuống đây
Hỏi nàng từ đâu đến làng chơi.
Bài 30
Quài tào cò tàng sáo dắt sằn
Cun phầu tắc dữ lài tào àn
Vùng táy tắc chí tì lộc mờ
Cun phần tắc chí nình lộc àn.
Tạm dịch:
Vào đến làng ví như rừng xanh
Các quan mà đến cũng an bài
Vua thấy có lẽ còn ngã ngựa
Con quan thất sự thật yên lòng.
Bài 31
Ốc púi tời tàng chài quàn sáo
Dì chài quàn sáo dì chài lằn
Chài lằn dì tắc lằn dịp hếch
110
Chài quàn tằm chệch cồng nình dằn.
Tạm dịch:
Sau nhà đất rộng trồng cây quản
Vừa trồng cây vừa trồng tràu không
Trồng tr u thì được lá trầu ăn
Trồng quản đan chiếu cùng nàng ngồi chơi.
Bài 32
Cắm nhật nình csùi sàn tàu
Cò nhì scháu schắt nầu san lềnh
Nình chài săm phùng trời mấy văn
Sơi chí cang nhùi schặt lài dềnh
Tạm dịch:
Hôm nay nàng đến ở rừng thôn
Có những giao duyên với rừng xanh
Nàng ở trong sâu sao mà biết
Chỉ có tâm thì mới ra được chơi.
Bài 33
Nình lài hềnh cù làng ốc táy
Lin va ềnh nhập táu sang tàu
Ềnh nhập sang tàu sùi mấy chực
Từi hằm tam kềnh slắm dì dằn.
Tạm dịch:
Nàng vào làng đi qua dưới nhà chàng
Linh tính báo mộng tận đầu giường
Thức suốt ba canh lòng thanh thản
.
Bài 34
Nình chộc schênh sàm cù tồng lay
111
Nhằn nhằn sì sít chốc anh tài
Nhằn nhằn sì siat ênh từ mòi
Tường hàm tam kềnh slắm dì dằn
Tạm dịch:
Mình qua làng chơi mặc áo xanh
Người người x soa tưởng mình tài
soa tưởng em giỏi
Thức trọn tam canh lòng âu sầu.
Bài 35
Vềnh cây phong thư về lìu và
Cây quày tắc pao mòi dì nà
Tắc páo nình nà phằng sau tằng
Mộc hứ phòng schùi tú lộc này.
Tạm dịch:
Chàng gửi cho nàng một phong thư
Gửi về thăm nàng cùng mẹ cha
Mong nàng giang tay đón nhận nhé
Chớ để gió thổi mà làm rơi.
Bài 36
Lộc hộp hòa lìu lộc hợp quày
Lộc hợp phong bì nàn tắc hài
Su tắc phong thư rềnh cây lài
Tới phong sú này mấy lợi này
Tạm dịch:
Phong thư dán hồng chữ đẹp quá
Chỉ mong mong hỡi người gửi cho
Nhận được thư cùng gửi cho nàng
Gió bão có thổi cũng chẳng rơi.
112
uyên)
Bài 37
Thìn cùng lừi
Mùng cù nam sàn chốc dịp schềnh
Chốc dịp dì vùng thìn dì cùng
Han sây mây tắc kịt cào sênh.
Tạm dịch:
Trời đã trưa
Nhìn sang cánh rừng lá nứa xanh
Thấy lá nứa xanh thì đã trưa
Hát mãi chẳng được kết giọng này.
Bài 38
Thìn cùng lừi
Mùng cú nam sàn chốc dịp nùng
Chốc dịp dì nùng thìn dì cùng
Han sây mấy tắc kịt sềnh sùng
Tạm dịch:
Trời đã trưa
Nhìn sang cánh rừng lá nứa vàng
Thấy có nứa vàng trời đã trưa
Hát mãi cũng chẳng được kết duyên tình.
Bài 39
Nhịt tàu sứ sừng dìu mòi ốc
Mòi lìn pịt nhằn tìu từ tăng
Mòi nhằn dầu Slằm công từi cáng
Dầu slằm dầu phóc kịt sềnh sùng.
Tạm dịch:
Mặt trời mọc lên từ nhà nông
113
Nàng quên người khác chờ chàng nhé
Nàng có tấm lòng chung tiếng nói
Có tâm, có phúc mình kết đôi.
Bài 40
Làng sù cồng mòi cang câu tò
Cang líu slịp nhờn nhờn súi tó
Dực sừ quàng nình sú phù líu
Từi sù nình sấy mấy phần lò
Tạm dịch:
Chàng nói cùng nàng nói nhiều quá
Nói hết lệ rơi cay khóe mắt
Thực tâm nàng đã làm dâu rồi
Nghĩ về tâm tư cũng thấy lo.
Bài 41
Thìn lộc slằm hào tìm mòi hào
Thìn lộc nhằn quài tìu môi quài
Từu dìu lìn nhằn mấy tấy mòi
Nhằn slằm mấy pìn mòi slằm quài.
Tạm dịch:
Trời có tâm đẹp để chàng đi
Trời có xinh đẹp cho nàng ấy
Đất mến con người như trời ấy
Tâm người ta có được như nàng.
Bài 42
Pun ca hồng líu pun ca quài
Pun ca hồng líu kịt phù sây
Kịt tắc văn sênh văn sềnh sù
114
Kịt tắc cò sênh pùn cà quài
Tạm dịch:
Thiên hạ lồng duyên, thiên hạ đẹp
Thiên hạ lồng duyên kết duyên tình
Kết lời ví rồi chưa kết thành đôi.
Kết được giọng ví đã quá xinh.
)
Bài 43
Sềnh sầu sênh
Sềnh sầu cò sì sềnh sằn sềnh
Cò sì dì hòi mòi dì lài
Mò mật hứ nình tăng va nề
Tạm dịch:
Ngưng lời nhé
Dừng hát giao duyên dừng giọng ví
Lời ví cũng hay nàng cũng đẹp
Không gì đối đáp để đón được.
Bài 44
Chốc nình chốc
Chốc nình Schắt hối mộc nìn nhằn
Dực sì văn sềnh tình sù cấy
Tảng lùng su cú kịt phồng lằn
Tạm dịch:
Chúc ông chúc
Ra ngoài chớ vội nhận yêu ai
Có lẽ chúng mình hợp duyên số
Để chàng sang nhà xin kết hôn.
Bài 45
Lồng hày sláy mìn cằn vần sùi
115
Hoa sống tam nìn cằn Slày nhừ
Từng sống tam nìn cằn nìm mòi
Sấy hối dăm cà mần kịt sùng
Tạm dịch:
Rồng vươn 4 năm còn thay dòng
Đẹp tốt đến 3 năm còn phải thử nhau
Tốt đến 3 năm vẫn nhớ nàng
Hẹn về âm cung hãy kết duyên.
Bài 46
Schong pệch mộc
Sừng tón pun vằn dài cây phùng
Sừng tón pun vằn dài cây dịp
Mần mòi sú phù dầu cây mùn
Tạm dịch:
Cây thông ơi
Lên đến hương trời chỉ mấy phương
Lên đến hương trời có bao là
Nàng làm dâu nhà người có mấy cửa.
Bài 47
Cay pa lạng lau dịp xênh au
Tặc lu quôn au chau hong thim
Moi hec lai seng cạ nhắm chau
Hach hau mieng lau mưng sung túi.
Tạm dịch:
Đây quả cau lá trầu xanh biếc
Được hòa trong chén rượu ngọt ngào
Mời khách đến cùng nhau uống rượu
Thưởng thức miếng trầu mừng đôi lứa
Bài 48
Vếch lai tăng nông mần dắt cối
116
Dắt cối tắng tặc tăng noông hối
Tou tìn leng có cồng dầu phục
Giờ có pặt lạng tìu cấy nời.
Tạm dịch:
Anh đến đón em ngỏ một lời
Một lời để được đón em đi
Đến nơi hai ta cùng hạnh phúc.
Như quả trầu cau để nhớ lâu.
)
Bài 49
Thiu lâu hao chị coong nay hao
Dịp vợt hou pen tou coong cou
Nhạ chơng lạu vếnh hền tou nhật
Seng mờn tời dầu phục quôn long.
Tạm dịch:
Dây trầu không trồng trên đất tốt
Lá mượt mà vươn tận trên cao
Cầm lá trầu anh hẹn giao ước
Sống muôn đời hạnh phúc bên em.
Bài 50
Cay lau cay dịn cay cặm pou
Tặc sâu lay cay quôn pun vạ
Cá lịn cồng hồ hang nhơn sâu
Lau dịn cay xi háy cá lịn.
Tạm dịch:
Nào trầu nào thuốc nào kim xuyến
Được mang đến đây trong mâm hoa
Tổ tiên cùng dòng họ chứng giám
117
Tấm lòng thành son sắt thủy chung.
Bài 51
Cắm nhật leng pịn vụi cháu diu
Bờn be héc lại trùi cần din
Chau nhộc bay lai mơi hec hach
Păt lạng cồng lau háu săn hong.
Tạm dịch:
Hôm nay hai bên mở tiệc cưới
Bạn bè khách đến ở gần xa
Rượu thịt bày ra mời khách uống
Cau đỏ trầu xanh thắm môi người.
Bài 52
Phôi cú mờn lú dáng lềnh thau
Phồng vung quay cay páo phóng vụi
Linh có séng iu sệch sung túi
Cắm tăng nhật hao lé sênh hun.
Tạm dịch:
Bay qua muôn dặm rừng đồi núi
Chim phượng về đây báo tin vui
Đôi lứa yêu nhau lên chồng vợ
Chỉ đợi ngày đẹp lễ thành hôn
Bài 53
Líu hông to kịt sung leng có
Háy phồng vung mai mai séng quôn
Sẹng dầu phúc môu pôu dị muội
Giầu nhây chay thư phồng chịp châu.
Tạm dịch:
Chỉ hồng đã se duyên đôi lứa
118
Cho loan phượng mãi mãi bên nhau
Sống hạnh phúc không phụ cha mẹ
Cùng sinh con nối dõi tong đường
Bài 54
Phồng vung lay póa vờ phóng vui
Nam nui to kịt sung sênh túi
Lắm sâu mui kìn sang cháu diu
Lai tăng lou quay cạ oc mưng.
Tạm dịch:
Chim phượng loan báo tin vui đến
Trai gái đã nên duyên vợ chồng
Sắm sửa vật phẩm cùng lễ cưới
Đến rước dâu về cả nhà vui
Bài 55
Sâu tặc nông vánh mưng cay tu
Giơ phồng vung phôi hệch coong thin
Giơ nhịt thau hong them tồng tồng
Háy leng có sấy nhăn tặc phuc.
Tạm dịch:
Lấy được em anh mừng trong bụng
Như phượng hoàng tung cánh trời cao
Như mặt trời đỏ thêm rực rỡ
Làm tình ta chung thủy mặn nồng
Bài 56
Au chau mừng mât háy sênh sung
Cồng mưng háy lou giọi lang siền
Lau giọi lang siền cạ oc phúc
119
Giơ long giơ phồng hau giơ phât.
Tạm dịch:
Chén rượu mừng hạnh phúc đôi lứa
Cùng mừng cho dâu thảo rể hiền
Dâu thảo rể hiền cả nhà phúc
Như loan như phượng đẹp như tranh.
Bài 57
Sập nhì nhịt
Vạ vui piệc to hao khôp từi
Vạ hao tắng noông lay cay ề
Tu phóng vui cồng lai quôn ngô
Tạm dịch:
Tháng mười hai
Hoa nở trắng rộ đẹp cả vùng
Hoa đẹp cho nàng đến đây nhé
Lòng vui chung cùng đến với ta.
Bài 58
Hát bài cọ cang quay Hồ chạ
Hồ chại tái lù lận cạ cuc
Chấc tou lấy phụng ta lán phạt
Văn cuc đọc lập séng cạ vui.
Tạm dịch:
Hát bài ca ca ngợi Bác Hồ
Bác Hồ lãnh đạo đại toàn dân
Giặc đến bốn bề đánh tan vỡ
Việt Nam độc lập nhà nhà vui.
Bài 59
Cắm nhật noong lay chùi sạn xun
120
Giâu cai giao duyên quôn sạn xệnh
Noông chùi sắm sạn chấu mật sêch
Họng giầu lăm tờ hắm tăc lay láng.
Tạm dịch:
Hôm nay nàng đến ử rừng thôn
Có những giao duyên với rừng xanh
Nàng ở trong sâu sao mà biết
Chỉ có tâm mới được ra chơi.
Bài 60
Chấu nghè mâu xin cang cuối tạy
Cac thin khéng họng séng cạ khoăc
Séng cạ xấu dâng séng cạ sap
Ò séng cạ hối sap vu vê.
Tạm dịch:
Làm nghề không có tiền lời nói nhỏ
Góc ruộng bỏ hoang cùng nhau cuốc
Cùng nhau nhổ mạ cùng nhau cấy
Nào cùng nhau đi cấy lúa thôi.
121
)
1.
. Ảnh do tác giả đề tài chụp ngày 14/11/2013
122
. Ảnh do tác giả đề tài chụp ngày 14/11/2013
2.
3 . Ảnh do tác giả đề tài chụp ngày 15/11/2013
– .
. Ảnh do tác giả đề tài chụp ngày 15/11/2013
123
– .
. Ảnh do tác giả đề tài
chụp ngày 15/11/2013 – .
. Ảnh do tác giả
124
đề tài chụp ngày 16/11/2013 – .
. Ảnh do tác giả đề tài chụp ngày 16/11/2013
– .
8: . Ảnh do tác giả đề tài chụp ngày 16/11/2013
125
– .
c viên
9: . Ảnh do tác giả đề tài
chụp ngày 9/9/2013
.
126
Ảnh do tác giả đề tài chụp ngày 9/9/2013.
11: . Ảnh do tác giả đề tài
chụp ngày 15/2/2014
12: . Ảnh do tác giả đề tài
127
chụp ngày 15/2/2014
13: . Ảnh do tác giả đề tài
chụp ngày 8/4/2014.
14: Tác giả luận văn đang phỏng vấn
128
. Ảnh chụp ngày 6/3/2014.
15: Tác giả luận văn phỏng vấn , Đồng Tâm,
Phú Lƣơng. Ảnh chụp ngày 10/4/2014
16: Tác giả luận văn phỏng vấn , Na Mao,
129
. Ảnh chụp ngày 15/4/2014.