BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
-----------
NGUYỄN HOÀNG OANH
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP.Hồ Chí Minh - Năm 2010
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
-----------
NGUYỄN HOÀNG OANH
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM
Chuyên ngành : Kinh Tế Tài Chính - Ngân Hàng
Mã số
:
60.31.12
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊ THỊ LANH
TP.Hồ Chí Minh - Năm 2010
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, chưa
công bố tại bất cứ nơi nào. Các số liệu sử dụng trong luận văn này là những thông
tin xác thực và tôi xin chịu mọi trách nhiệm về lời cam đoan của mình
TP, Hồ Chí Minh, ngày 05 tháng 10 năm 2010
Tác giả luận văn
Nguyễn Hoàng Oanh
MỤC LỤC
Trang
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TÍN DỤNG, RỦI RO TÍN DỤNG, QUẢN LÝ RỦI
RO TÍN DỤNG
1.1.TỔNG QUAN VỀ TÍN DỤNG ........................................................................... 01
1.1.1.Khái niệm .................................................................................................... 01
1.1.2.Phân loại tín dụng....................................................................................... 01
1.2.TỔNG QUAN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG............................................................ 02
1.2.1.Rủi ro tín dụng trong bối cảnh hậu khủng hoảng ................................... 02
1.2.2.Phân loại rủi ro tín dụng............................................................................ 02
1.2.3.Nguyên nhân rủi ro tín dụng ..................................................................... 04
1.2.3.1.Nguyên nhân khách quan .................................................................. 04
1.2.3.2 Nguyên nhân chủ quan...................................................................... 06
1.2.4.Hậu quả của rủi ro tín dụng ...................................................................... 07
1.2.4.1.Hậu quả đối với hệ thống ngân hàng thương mại ............................. 07
1.2.4.2.Hậu quả đối với nền kinh tế .............................................................. 09
1.2.5.Các tiêu chí xác định mức độ rủi ro tín dụng .......................................... 09
1.2.5.1.Tỷ lệ nợ quá hạn................................................................................ 09
1.2.5.2.Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ và nợ xấu trên vốn chủ sở hữu ........... 11
1.2.5.3.Hệ số giới hạn huy động vốn ............................................................ 11
1.2.5.4 Hệ số rủi ro tín dụng.......................................................................... 12
1.2.6.Các mô hình đo lường rủi ro tín dụng ...................................................... 12
1.2.6.1.Mô hình 6C ...................................................................................... 12
1.2.6.2.Mô hình điểm số Z (Z - Credit scoring model)................................. 13
1.2.6.3.Hệ thống tính điểm tín dụng ............................................................. 15
1.3.TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG ........................................ 15
1.3.1.Khái niệm quản lý rủi ro tín dụng ............................................................ 15
1.3.2.Nội dung của quản lý rủi ro tín dụng ....................................................... 16
1.3.2.1.Nhận diện các rủi ro tín dụng............................................................ 16
1.3.2.2.Thực hiện đúng các chính sách &quy trình tín dụng ........................ 17
1.3.2.3.Kiểm tra và giám sát tín dụng nhằm kiểm soát rủi ro tín dụng......... 18
1.3.2.4. Phương pháp quản lý rủi ro tín dụng................................................ 19
1.3.3. Các phương pháp tiếp cận rủi ro tín dụng theo Basel ........................... 20
1.3.3.1. Giới thiệu sự hình thành & hoạt động của Basel ............................. 20
1.3.3.2. Tiếp cận rủi ro tín dụng theo Basel I ................................................ 23
1.3.3.3. Tiếp cận rủi ro tín dụng theo Basel II............................................... 24
1.3.3.4. Chuẩn mực an toàn & quản lý rủi ro tín dụng theo Basel II ............ 26
1.4.KINH NGHIỆM QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC NƯỚC& BÀI
HỌC KINH NGHIỆM CHO CÁC NHTM VIỆT NAM................................. 29
1.4.1.Kinh nghiệm quản lý rủi ro tín dụng ở các nước .................................... 29
1.4.2. Bài học kinh nghiệm cho các NHTM Việt Nam...................................... 33
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM
2.1.THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM TRONG CÁC NĂM QUA ............................................................ 36
2.1.1.Thực trạng môi trường hoạt động ngân hàng trong các năm qua ........ 36
2.1.2.Thực trạng hoạt động ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam ......... 39
2.1.2.1.Quy mô tăng vốn............................................................................... 39
2.1.2.2.Tình hình huy động vốn .................................................................... 40
2.2.THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM.................................. 43
2.2.1.Đánh giá rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại cổ phần
Việt Nam trong các năm qua...................................................................... 43
2.2.1.1.Nợ quá hạn ........................................................................................ 43
2.2.1.2.Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ............................................. 45
2.2.1.3.Tỷ lệ nợ xấu trên vốn chủ sở hữu...................................................... 47
2.2.1.4.Hệ số rủi ro tín dụng.......................................................................... 49
2.2.1.5. Hệ số giới hạn huy động .................................................................. 49
2.2.2. Nhận biết rủi ro & khả năng xảy ra rủi ro tín dụng tại các NHTM..... 50
2.2.2.1. Những dấu hiệu báo động sớm liên quan đến hoạt động NH .......... 51
2.2.2.2 Những dấu hiệu báo động sớm liên quan đến hoạt động kinh doanh &
tài chính ......................................................................................................... 52
2.2.2.3. Ví dụ về những dấu hiệu cảnh báo có tác động đến việc quản lý rủi
ro tín dụng ..................................................................................................... 54
2.2.3.Thực trạng áp dụng các mô hình quản lý rủi ro tín dụng tại các ngân
hàng thương mại cổ phần Việt Nam...........................................................56
2.2.4.Đánh giá thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương
mại cổ phần Việt Nam ................................................................................ 58
2.2.5. Đánh giá vận dụng Basel trong việc quản lý rủi ro tín dụng của các
ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam ................................................ 64
2.2.6.Nguyên nhân của các mặt tồn tại trong công tác quản lý rủi ro tín dụng
tại các ngân hàng TMCP Việt Nam .......................................................... 66
2.2.6.1.Nguyên nhân khách quan .................................................................. 66
2.2.6.2.Nguyên nhân chủ quan...................................................................... 71
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG
TẠI CÁC NHTMCP VIỆT NAM
3.1.ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY................................................ 76
3.2.GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG
TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM ............... 80
3.2.1. Giải pháp vĩ mô.......................................................................................... 81
3.2.1.1.Đảm bảo mội trường kinh tế, chính trị, xã hội ổn định .................... 81
3.2.1.2.Hoàn thiện quy trình xử tài sản đảm bảo & rút ngắn thời gian giải
quyết hồ sơ để NH nhanh chóng thu hồi nợ ..................................... 81
3.2.1.3.Nâng cao chất lượng trung tâm thông tin tín dụng NHNN .............. 83
3.2.1.4.Lựa chọn cấp độ độclập tự chủ phù hợp với NHNN thời kỳ mới .... 84
3.2.1.5. Tạo điều kiện để phát triển thị trường mua bán nợ xấu ................... 85
3.2.2.Giải pháp vi mô........................................................................................... 86
3.2.2.1.Nhận diện được các rủi ro có thể xảy ra .......................................... 86
3.2.2.2.Quản lý việc thanh tra, chế độ báo cáo ............................................ 88
3.2.2.3.Trong sạch hóa đội ngũ cán bộ nhân viên ngân hàng ...................... 88
3.2.2.4.Phát triển nguồn nhân lực ................................................................ 89
3.2.2.5.Đầu tư công nghệ quản lý rủi ro....................................................... 89
3.2.2.6. Xây dựng quy trình qủn lý rủi ro phù hợp ...................................... 90
3.2.2.7.Cải cách bộ máy hoạt động nhằm xây dựng sự độc lập giữa chức
năng bán hàng, tác nghiệp& quản lý rủi ro trong NHTM................ 93
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
- CIC: Trung tâm thông tin tín dụng của ngân hàng nhà nước
- NHTMCP: Ngân hàng thương mại cổ phần
- NHTM : Ngân hàng thương mại
- NHNN: Ngân hàng nhà nước
- NHTW: Ngân hàng trung ương
- Vietinbank: Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam
- ACB: Ngân hàng TMCP Á Châu
- Sacombank: Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín
- Eximbank: Ngân hàng TMCP Xuất Nhập Khẩu Việt Nam
- Vietcombank: Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam
- TTTTTD: Trung tâm thông tin tín dụng
- TCTD: Tổ chức tín dụng
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
- Bảng 2.1: Lợi nhuận trước thuế của các ngân hàng (2006-2009)………...trang 37
- Bảng 2.2: Lợi nhuận trước thuế của các ngân hàng các quý năm 2009…..trang 38
- Bảng 2.3: Tình hình huy động vốn của các ngân hàng (2006-2009)……..trang 41
- Bảng 2.4: Tình hình dư nợ của các ngân hàng (2006-2009)……………...trang 43
- Bảng 2.5: Tỷ lệ nợ quá hạn của các ngân hàng (2006-2009)……………..trang 44
- Bảng 2.6: Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ của các ngân hàng (2006-2009)...trang 45
- Bảng 2.7: Vốn chủ sở hữu của các ngân hàng (2006-2009)……………...trang 47
- Bảng 2.8: Tỷ lệ nợ xấu trên vốn chủ sở hữu các ngân hàng (2006-2009)..trang 48
- Bảng 2.9: Hệ số rủi ro tín dụng của các ngân hàng (2006-2009)………. trang 49
- Bảng 2.10: Hệ số giới hạn huy động vốn các ngân hàng (2006-2009)…...trang 49
LỜI MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
- Tín dụng là hoạt động kinh doanh phức tạp nhất so với các hoạt động kinh doanh
khác của NHTM, hoạt động này tuy thu được nhiều lợi nhuận nhưng cũng gặp không ít
rủi ro. Vì vậy, rủi ro tín dụng nếu xảy ra sẽ có tác động rất lớn và ảnh hưởng trực tiếp đến
sự tồn tại và phát triển của mỗi tổ chức tín dụng, cao hơn nó tác động và ảnh hưởng đến
toàn bộ hệ thống ngân hàng và toàn bộ nền kinh tế. Và thực tế cũng chứng minh nền kinh
tế vẫn bị tác động tiêu cực, thậm chí đi đến khủng hoảng nếu hệ thống ngân hàng hoạt
động thiếu kiểm soát, không đánh giá đúng và đủ các dạng rủi ro tiềm ẩn, như trường
hợp ví dụ điển hình là Thái Lan và gần đây là Mỹ.
- Đặc trưng của hệ thống NHTM Việt Nam là tỷ trọng thu nhập và rủi ro từ hoạt
động tín dụng chiếm trên 80% trong tổng hoạt động của ngân hàng. Đặc biệt trong thời
kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, kinh tế phát triển nhanh chóng, hoạt động tín dụng gia tăng
mạnh mẽ, thì rủi ro tín dụng càng phức tạp hơn về nguyên nhân, hình thức và phạm vi tác
động. Do đó, để bảo đảm an toàn tài chính, nâng cao năng lực cạnh tranh, hội nhập kinh
tế quốc tế thành công, NHTM phải có phương pháp quản lý tốt rủi ro tín dụng ngân hàng
- Tôi cho rằng trong giai đoạn hiện nay và thời gian tới, rủi ro tín dụng vẫn tác
động mạnh đến hoạt động của các NHTM nói riêng và nền kinh tế nói chung.Vì vậy, tôi
chọn đề tài “Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng tại các NHTMCP
VN ” làm đề tài nghiên cứu.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Đề tài nghiên cứu giải quyết ba vấn đề sau:
- Làm sáng tỏ các vấn đề cơ bản về cơ sở lý luận trong quản lý rủi ro tín dụng của
các NHTM
- Đánh giá các rủi ro tín dụng và hoạt động quản lý rủi ro tín dụng tại một số ngân
hàng thương mại cổ phần Việt Nam gồm: Vietcombank, ACB, Vietinbank, Sacombank,
Eximbank.Từ đó đưa ra những mặt tích cực cũng như những mặt tồn tại trong công tác
quản lý rủi ro tín dụng.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng có thể áp
dụng trong thực tiễn để nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng tại các NHTMCP VN
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
- Đối tượng nghiên cứu: Vietcombank, ACB, Vietinbank, Sacombank, Eximbank
- Phạm vi nghiên cứu: hoạt động quản lý rủi ro tín dụng của các ngân hàng này
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Sử dụng phương pháp nghiên cứu thống kê, so sánh, phân tích,… từ cơ sở lý
thuyết đến thực tiễn nhằm giải quyết và làm sáng tỏ mục đích đặt ra trong luận văn
5. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN:
Luận văn được chia thành ba chương :
- Chương 1: Tổng quan về tín dụng, rủi ro tín dụng, quản lý rủi ro tín dụng
- Chương 2: Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại các NHTMCP Việt Nam
- Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng tại các NHTMCP
Việt Nam
1/98
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ TÍN DỤNG, RỦI RO TÍN DỤNG, QUẢN LÝ
RỦI RO TÍN DỤNG
1.1. TỔNG QUAN VỀ TÍN DỤNG
1.1.1. Khái niệm
Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay
(ngân hàng & các định chế tài chính khác) & bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp &
các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng
trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô
điều kiện gốc & lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán
Theo quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống Đốc
NHNN thì cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho
khách hàng một khỏan tiền để sử dụng vào một mục đích và thời gian nhất định
theo thỏa thuận với nguyên tắc có hòan trả cả gốc và lãi.
1.1.2. Phân loại tín dụng
Ngân hàng cung cấp nhiều loại tín dụng cho nhiều đối tượng khách hàng khác
nhau. Việc phân loại tín dụng là tiền đề để thiết lập quy trình cho vay thích hợp &
nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng. Trong phạm vi luận văn này, tác giả chỉ
phân loại tín dụng theo một số tiêu chí sau:
- Dựa vào mục đích tín dụng:
+ Cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh
+ Cho vay tiêu dùng cá nhân
+ Cho vay đầu tư tài sản cố định
- Dựa vào thời hạn tín dụng
+ Cho vay ngắn hạn
2/98
+ Cho vay trung hạn
+ Cho vay dài hạn
- Dựa vào mức độ tín nhiệm của khách hàng:
+ Cho vay không tài sản đảm bảo
+ Cho vay có đảm bảo.
1.2. TỔNG QUAN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG
1.2.1. Rủi ro tín dụng trong bối cảnh hậu khủng hoảng
Rủi ro tín dụng là loại rủi ro phát sinh trong quá trình cho vay của ngân hàng,
biểu hiện trên thực tế qua việc khách hàng không trả được nợ hoặc trả nợ không
đúng hạn cho ngân hàng
Trong bối cảnh hậu khủng hoảng, vấn đề được các nhà quản trị quan tâm
nhiều nhất là quản lý rủi ro, đặc biệt là rủi ro về tín dụng. Điều này cũng xuất phát
từ bối cảnh thực tế của việc khủng hoảng của hệ thống tài chính – ngân hàng trong
các năm qua từ việc khủng hoảng kinh tế tại Thái Lan đến cuộc khủng hoảng nợ
dưới chuẩn tại Mỹ đã gióng lên hồi chuông cảnh báo về chất lượng tín dụng buộc
ngân hàng trung ương các nước & hệ thống các ngân hàng thương mại phải xem lại
về chất lượng tín dụng, nâng cao công tác quản lý rủi ro tín dụng từ khâu thẩm định
hồ sơ, xét duyệt cho vay, đến việc quản lý khoản vay. Rủi ro tín dụng không phải là
một loại rủi ro mới phát sinh mà các ngân hàng đã biết đến nó từ lâu nhưng đôi khi
còn xem nhẹ vai trò của nó nên một khi xảy ra khủng hoảng kinh tế hay bất kỳ một
vấn đề nhạy cảm nào đó liên quan đến thị trường tài chính thì rủi ro tín dụng lại
xuất hiện vì nó luôn tiềm ẩn trong các khoản vay. Vì vậy, trong bối cảnh hiện nay
vấn đề rủi ro tín dụng cần thiết phải được chú trọng quan tâm đặc biệt để giúp hệ
thống ngân hàng có thể vượt qua được các cơn bão khủng hoảng tài chính , kinh tế
trong tương lai.
1.2.2. Phân loại rủi ro tín dụng
3/98
Có nhiều tiêu chí để phân loại rủi ro tín dụng, nếu căn cứ vào nguyên nhân
phát sinh, rủi ro tín dụng có thể phân loại thành các rủi ro như sau:
Rủi ro tín dụng bao gồm rủi ro danh mục (Porfolio rish) & rủi ro giao dịch
(Transaction rish):
- Rủi ro danh mục (Porfolio rish): là một hình thức của rủi ro tín dụng
mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của
ngân hàng, được phân chia thành hai loại là rủi ro nội tại và rủi ro tập trung
+ Rủi ro ro nội tại (Intrinsic rish): xuất phát từ các yếu tố, các đặc
điểm riêng có, mang tính riêng biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành,
lĩnh vực kinh tế. Nó xuất phát từ đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn
của khách hàng vay vốn
+ Rủi ro tập trung (Concentration rish) là trường hợp ngân hàng tập
trung vốn cho vay quá nhiều đối với một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh
nghiệp hoạt động trong cùng một ngành, lĩnh vực kinh tế; hoặc trong cùng một
vùng địa lý nhất định; hoặc cùng một loại hình cho vay có rủi ro cao
- Rủi ro giao dịch (Transaction rish): là một hình thức của rủi ro tín
dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và
xét duyệt cho vay, đánh giá khách hàng. Rủi ro giao dịch có ba bộ phận chính là rủi
ro lựa chọn, rủi ro bảo đảm và rủi ro nghiệp vụ.
+ Rủi ro lựa chọn: là rủi ro có liên quan đến quá trình đánh giá và
phân tích tín dụng, khi ngân hàng lựa chọn những phương án vay vốn có hiệu quả
để ra quyết định cho vay.
+ Rủi ro đảm bảo: phát sinh từ các tiêu chuẩn đảm bảo như các điều
khoản trong hợp đồng cho vay, các loại tài sản đảm bảo, chủ thể đảm bảo, hình thức
đảm bảo và mức cho vay trên giá trị của tài sản đảm bảo
+ Rủi ro nghiệp vụ là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay
và hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật
4/98
xử lý các khoản vay có vấn đề.
1.2.3. Nguyên nhân rủi ro tín dụng
Kinh doanh ngân hàng là kinh doanh rủi ro. Nói cách khác, hoạt động ngân
hàng luôn phải đối diện với rủi ro. Vì vậy, nhận diện những nguyên nhân gây ra rủi
ro để ngân hàng có được các giải pháp phòng ngừa hiệu quả và giảm thiệt hại
1.2.3.1. Nguyên nhân khách quan
- Sự biến động của môi trường kinh tế: trong điều kiện thị trường thế giới
biến động không ngừng và thường nằm ngoài dự đoán của giới kinh doanh nên rất
dễ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của người đi vay. Trong khi nền
kinh tế Việt Nam còn phụ thuộc rất lớn vào sản xuât nông nghiệp và công nghiệp
phục vụ nông nghiệp (nuôi trồng, chế biến thực phẩm và nguyên liệu) dầu thô, may
gia công vốn rất nhạy cảm với rủi ro thời tiết và giá cả thế giới nên dễ bị tổn thương
khi thị trường thế giới biến động xấu. Những khó khăn do bị khống chế hạn ngạch
trong ngành dệt may, hay những vụ kiện bán phá giá trong ngành thủy sản…làm
ảnh hưởng trực tiếp đến họat động kinh doanh của các doanh nghiệp nói riêng và
của các ngân hàng cho vay nói chung. Không chỉ xuất khẩu, những mặt hàng nhập
khẩu cũng dễ bị tổn thương không kém. Trong khi nền kinh tế Việt Nam là nền kinh
tế mở xu hướng hội nhập kinh tế thế giới và trong khu vực là hiển nhiên, do đó
trước những biến động của thị trường thế giới, nền kinh tế Việt Nam sẽ không tránh
khỏi bị ảnh hưởng. Do đó hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng ít nhiều bị ảnh
hưởng. Thị trường bất động sản và chứng khoán Việt Nam đang trong tình cảnh khó
khăn, khả năng các khoản nợ đầu tư vào hai thị trường đó khó có thể thu hồi, giá
nhà đất và chứng khoán sụt giảm nghiêm trọng, việc mua bán diễn ra khó khăn hơn,
các khách hàng sẽ không có nguồn trả nợ, đồng thời tỷ lệ tài sản đảm bảo không đủ
đảm bảo cho dư nợ còn lại,… làm cho hàng loạt các nguy cơ tiềm ẩn của rủi ro tín
dụng xuất hiện. Ngoài ra thị trường sắt thép cũng dễ bị tổn thương không kém. Mặt
hàng sắt thép cũng bị ảnh hưởng lớn của giá thép thế giới. Việc tăng giá phôi thép
làm cho một số doanh nghiệp sản xuất thép trong nước phải ngưng sản xuất do chi
5/98
phí giá thành rất cao trong khi không tiêu thụ được sản phẩm. Thị trường này bất ổn
sẽ ảnh hưởng không chỉ đối với khách hàng kinh doanh mặt hàng này mà còn tác
động lên ngân hàng đầu tư cho vay gây ra hàng loạt các rủi ro trong đó có rủi ro tín
dụng
- Sự thiếu quy hoạch thiếu phân bổ đầu tư hợp lý đã dẫn đến khủng hoảng
thừa về đầu tư một số ngành: do nền kinh tế thị trường thị trường tất yếu sẽ dẫn đến
cạnh tranh, các nhà kinh doanh sẽ tìm kiếm ngành nào có lợi nhất để đầu tư và sẽ
rời bỏ những ngành không đem lại lợi nhuận cho họ và do đó có sự chuyển dịch vốn
từ ngành này qua ngành khác và đây cũng là một hiện tượng khách quan. Tuy nhiên
ở nước ta thời gian qua, sự cạnh tranh đã phát triển một cách tự phát, hoàn toàn
không đi kèm với sự quy hoạch hợp lý, hợp tác, phân công lao động, chuyên môn
hoá lao động, sự bất lực trong vai trò của các hiệp hội nghề nghiệp và sự điều tiết vĩ
mô của Nhà nước. Điều này dẫn đến sự gia tăng quá đáng vốn đầu tư vào một số
ngành, dẫn đến khủng hoảng thừa, lãng phí tài nguyên quốc gia.
- Quá trình tự do hóa tài chính, hội nhập quốc tế cũng dẫn đến những hệ quả
tất yếu làm cho nợ xấu gia tăng khi tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt, khiến
hầu hết các doanh nghiệp, những khách hàng thường xuyên của ngân hàng phải đối
mặt với nguy cơ thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của thị trường. Bên cạnh
đó, bản thân sự cạnh tranh giữa các NHTM trong nước và quốc tế trong môi trường
hội nhập kinh tế cũng khiến cho các ngân hàng trong nước gặp phải nguy cơ rủi ro
nợ xấu tăng lên do khách hàng có tiềm lực tài chính lớn đã bị các ngân hàng nước
ngòai thu hút bằng các sản phẩm, dịch vụ mới với nhiều tiện ích hơn.
- Hàng hóa nhập lậu tràn lan: do nước ta có hảng trăm km biên giới đường g
bộ do đó việc buôn bán hàng lậu qua biên giới là không tránh khỏi. Cuộc chiến đấu
với hàng lậu đã kéo dài từ nhiều năm nay, song kết quả hàng lậu vẫn tràn lan tại các
thành phố lớn, làm các doanh nghiệp trong nước và các ngân hàng đầu tư vốn cho
các doanh nghiệp này gặp không ít khó khăn, rủi ro cũng từ đấy phát sinh
6/98
- Môi trường pháp lý chưa thuận lợi: do các chính sách về quản lý kinh tế
thường thay đổi đột ngột dẫn đến việc ra đời các văn bản pháp lý chưa phù hợp làm
ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh tại Việt Nam.
- Bên cạnh đó, thiên tai hỏa hoạn, dịch bệnh, chiến tranh là những rủi ro mà
cả ngân hàng và khách hàng đều không thể lường trước được. Điều này sẽ làm ảnh
hưởng đến nguồn thu nhập và khả năng trả nợ vay của khách hàng
1.2.3.2. Nguyên nhân chủ quan
Nguyên nhân thuộc về phía ngân hàng :
- Chính sách và quy trình cho vay chưa chặt chẽ: Định hướng tín dụng chưa
đạt được tầm chiến lược, chưa triệt để nguyên tắc của thị trường là lợi nhuận và
mức rủi ro có thể chấp nhận đươc, bị cuốn theo hội chứng kinh tế, theo phong trào,
theo khẩu hiệu phát triển kinh tế, tìm mọi cách cạnh tranh, giành giật thị trường ở
các ngành hàng, các nhóm khách hàng mà không nhận thấy rằng ngân hàng mình
không có sở trường trong lĩnh vực này hoặc chưa chuẩn bị đủ tiềm lực đối với
ngành hàng này.
- Kỹ thuật cấp tín dụng chưa hiện đại và đa dạng như việc xác định hạn mức
tín dụng cho khách hàng còn quá đơn giản, thời hạn chưa phù hợp. Công tác quản lý
rủi ro tín dụng và kiểm sóat sau cho vay chưa được chú trọng, chỉ mang tính hình
thức.
- Thiếu thông tin: Ngân hàng chưa xây dựng được hệ thống dữ liệu về khách
hàng một cách đầy đủ, chưa có các kênh kiểm tra chéo thông tin. Việc phân tích tín
dụng và quyết định cho vay hầu như chỉ dựa trên các thông tin từ phía khách hàng
cung cấp, các mối quan hệ cá nhân.
- Chất lượng đội ngũ cán bộ liên quan đến công tác tín dụng chưa cao: Đội
ngũ cán bộ chưa đạt trình độ chuyên môn, không đủ khả năng thẩm định phương án
vay vốn
Nguyên nhân thuộc về phía khách hàng vay vốn
7/98
- Sử dụng vốn vay sai mục đích: Khách hàng cố tình lập các chứng từ, hóa
đơn giả mạo để được vay vốn mà do nhiều lí do ngân hàng không phát hiện được,
để lấy vốn vay sử dụng khác với mục đích đã trình bày trong phương án vay vốn.
Việc sử dụng vốn vay sai mục đích trong nhiều trường hợp là do người vay sẵn
sàng chấp nhận mạo hiểm với kỳ vọng sẽ mang lại lợi nhuận cao, tuy nhiên kết quả
lại không như ý muốn. Cũng có trường hợp khách hàng đã không có khả năng trả
nợ vay tại ngân hàng khác, và cố tình tìm mọi cách vay vốn tại ngân hàng này và
mang đi đảo nợ là nguyên nhân dẫn đến khách hàng không có nguồn trả nợ để thanh
toán nợ đúng hạn và đầy đủ cho ngân hàng.
- Khả năng quản lý kinh doanh kém: khi các doanh nghiệp vay tiền ngân
hàng để mở rộng quy mô kinh doanh, đa phần là tập trung vốn đầu tư vào tài sản vật
chất chứ ít doanh nghiệp nào mạnh dạn đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ
máy giám sát kinh doanh, tài chính, kế toán theo đúng chuẩn mực. Quy mô kinh
doanh phình ra quá to so với tư duy quản lý là nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của
các phương án kinh doanh đầy khả thi mà lẽ ra nó phải thành công trên thực tế.
- Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém thiếu minh bạch: quy mô tài sản,
nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nơ so với vốn tự có cao là đặc điểm chung của hầu hết các
doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài ra, thói quen ghi chép đầy đủ, chính xác, rõ ràng các
sổ sách kế toán vẫn chưa được các doanh nghiệp tuân thủ nghiêm chỉnh và trung
thực. Do vậy, sổ sách kế toán mà các doanh nghiệp cung cấp cho ngân hàng nhiều
khi chỉ mang tính chất hình thức hơn là thực chất. Khi cán bộ ngân hàng lập các bản
phân tích tài chính của doanh nghiệp dựa trên số liệu do các doanh nghiệp cung cấp,
thường thiếu tính thực tế và xác thực. Đây cũng là nguyên nhân vì sao ngân hàng
vẫn luôn xem nặng phần tài sản thế chấp như là chỗ dựa cuối cùng để phòng chống
rủi ro tín dụng.
1.2.4. Hậu quả của rủi ro tín dụng
1.2.4.1. Hậu quả đối với hệ thống NHTM
- Rủi ro tín dụng làm giảm uy tín của NHTM
8/98
Trong xu thế mở cửa và cạnh tranh gay gắt hiện nay, hầu như tất cả các NHTM
Việt Nam đều mở các chi nhánh, phòng giao dịch tại các vùng, địa bàn trên toàn
quốc, và đưa ra những chương trình sản phẩm dịch vụ, phục vụ tốt nhất cho khách
hàng của mình. Hoạt động ngân hàng bao giờ cũng đặt chữ tín lên hàng đầu, hạn
chế tối đa tất cả các thông tin xấu trên các phương tiện truyền thông ảnh hưởng đến
uy tín và hoạt động của ngân hàng. Nếu một NHTM có tỷ lệ nợ xấu trên tổng nợ
lớn, hoặc có những thông tin về việc ngân hàng không thu hồi được nợ hoặc ngân
hàng đó bị NHNN đưa vào diện kiểm soát đặc biệt thì uy tín của ngân hàng đó bị
giảm sút một cách nghiêm trọng. Và sẽ không có cá nhân hoặc tổ chức nào đặt
quan hệ để sử dụng các dịch vụ của ngân hàng đó.
- Rủi ro tín dụng làm giảm khả năng thanh toán của NHTM
Để có nguồn vốn đủ cung cấp tín dụng cho khách hàng thì ngân hàng phải huy
động từ các tổ chức và dân cư hay nói cách khác là ngân hàng vay của tổ chức và
dân cư để tài trợ tín dụng. Nếu rủi ro tín dụng do không thu hồi được nợ xảy ra,
ngân hàng sẽ hạn chế nguồn để thanh toán tiền gửi cho chủ nợ tức là dân cư và các
tổ chức kinh tế khác.
- Rủi ro tín dụng làm giảm lợi nhuận của ngân hàng.
Theo quy định của NHNN, tất cả các khoản nợ xấu ngân hàng đều phải trích dự
phòng, tỷ lệ trích dự phòng tùy theo mức độ nợ xấu và tài sản đảm. Điều này có
nghĩa là, đối với các khoản nợ xấu hơn và có tài sản đảm bảo có độ rủi ro cao hơn
sẽ bị trích dự phòng cao hơn các khoản nợ ít xấu hơn và có tài sản đảm bảo ít rủi ro
hơn. Việc số tiền dự phòng trích càng lớn thì chi phí vốn của ngân hàng càng lớn và
lợi nhuận của ngân hàng sẽ giảm
- Rủi ro tín dụng dẫn đến nguy cơ phá sản ngân hàng
Như trên đã trình bày, rủi ro tín dụng ảnh hưởng đến uy tín, khả năng thanh
khoản và lợi nhuận của ngân hàng. Nếu tỷ trọng này tiếp tục kéo dài và ăn mòn vào
vốn riêng của ngân hàng, con đường đi đến phá sản ngân hàng là tất yếu.
9/98
1.2.4.2. Hậu quả đối với nền kinh tế
Phần lớn các ngân hàng hiện nay đang dùng nguồn vốn ngắn hạn để tài trợ cho
nợ dài hạn, điều này đồng nghĩa với việc thời gian ngân hàng đòi nợ của khách hàng
không thể nhanh bằng thời gian khách hàng đến rút tiền. Như vậy, các ngân hàng
đều phải đối mặt với các rủi ro về tính thanh khỏan tức là rủi ro về sự không tương
thích về kỳ hạn của các khỏan vốn và sử dụng vốn. Một khi rủi ro tín dụng xảy ra
dẫn đến chuyện ảnh hưởng đến uy tín, khả năng thanh toán của ngân hàng, người
dân và tổ chức sẽ kéo đến ào ạt để rút tiền và chấm dứt quan hệ, hoặc cũng có
trường hợp có thông tin thất thiệt về họat động ngân hàng cũng làm ảnh hưởng đến
nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng.
Những ảnh hưởng này lại mang tính dây chuyền. Nếu một NHTM để xảy ra tình
trạng mất tính thanh khoản sẽ gây ra những tác động dây chuyền cho nền kinh tế
như sau:
- Khi khả năng thanh khoản của ngân hàng bị giảm sút, ngân hàng sẽ không
có khả năng tiếp tục tài trợ vốn cho các pháp nhân, thể nhân và phải thu hồi vốn
trước hạn. Như vậy, các đối tượng nhận tài trợ vốn bị ảnh hưởng lớn đến hoạt động
kinh doanh của họ.
- Phản ứng dây chuyền đến các NHTM khác: Khi niềm tin của công chúng
đối với một ngân hàng giảm sút, họ sẽ mất dần lòng tin vào các ngân hàng khác, từ
đó gây ra phản ứng đây chuyền rút vốn tại các ngân hàng khác.
- Phản ứng dây chuyền đến các ngành kinh tế khác: ngân hàng đổ vỡ dẫn đến
nền kinh tế suy thoái, sức mua giảm, thất nghịêp tăng, xã hội mất ổn định.
1.2.5. Các tiêu chí xác định mức độ rủi ro tín dụng
1.2.5.1. Tỷ lệ nợ quá hạn
Dư nợ quá hạn
x 100 % Tỷ lệ nợ quá hạn =
Tổng dư nợ
10/98
Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và / hoặc lãi đã
quá hạn. Nói cách khác, nợ quá hạn là những khoản tín dụng không hoàn trả đúng
hạn, không được phép và không đủ điều kiện để được gia hạn nợ. Để đảm bảo quản
lý chặt chẽ, quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của NHNN quy định
nợ được chia thành 05 nhóm trong đó, và các khoản nợ quá hạn trong hệ thống
NHTM Việt Nam được phân loại theo thời gian và được phân chia theo thời hạn
thành 04 nhóm (từ nhóm 2 đến nhóm 5)
+ Nhóm 1(Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm: các khoản nợ trong hạn mà tổ chức
tín dụng đánh giá là có đủ khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn.
+ Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm: các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày và
các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại
+ Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: các khoản nợ quá hạn từ 90 đến
180 ngày, các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời
hạn đã cơ cấu lại và các khỏan nợ đã được gia hạn từ lần 2 trở đi.
+ Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm: các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360
ngày và các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày
theo thời hạn đã cơ cấu lại.
+ Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:các khoản nợ quá hạn trên
360 ngày, các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý và các khoản nợ đã cơ cấu lại
thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn đã được cơ cấu lại.
Và tương ứng với các nhóm nợ quá hạn trên thì các NHTM phải trích dự
phòng từ lợi nhuận. Tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro tín dụng như sau:
- Nợ nhóm 1: trích lập dự phòng rủi ro 0%
11/98
- Nợ nhóm 2: trích lập dự phòng rủi ro 5%
- Nợ nhóm 3: trích lập dự phòng rủi ro 20%
- Nợ nhóm 4: trích lập dự phòng rủi ro 50%
- Nợ nhóm 5: trích lập dự phòng rủi ro 100%
1.2.5.2. Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ và nợ xấu trên vốn chủ sở hữu
Nợ xấu: là những khoản nợ quá hạn trên 90 ngày mà không đòi được và
không được tái cơ cấu. Tại Việt Nam, nợ xấu bao gồm những khoản nợ quá hạn có
hoặc không thể thu hồi, nợ liên quan đến các vụ án chờ xử lý và những khoản nợ
quá hạn không được Chính Phủ xử lý rủi ro
Nợ xấu (hay nợ có vấn đề, nợ không lành mạnh, nợ khó đòi, nợ không thể đòi,…) là
những khoản nợ mang các đặc trưng :
- Khách hàng đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng khi các cam
kết này đã hết hạn.
- Tình hình tài chính của khách hàng đang và có chiều hướng xấu dẫn đến có
khả năng ngân hàng không thu hồi được cả vốn lẫn lãi.
- Tài sản đảm bảo (thế chấp, cầm cố, bảo lãnh) được đánh giá là giá trị phát
mãi không đủ trang trải nợ gốc và lãi.
Theo Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007, nợ xấu của tổ chức
tín dụng bao gồm các khỏan nợ được xếp từ nhóm 3 đến nhóm 5 bao gồm: nợ dưới
tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ và nợ có khả năng mất vốn
1.2.5.3. Hệ số giới hạn huy động vốn:
Hệ số này đưa ra nhằm mục đích giới hạn mức huy động vốn của ngân hàng để
tránh tình trạng khi ngân hàng huy động vốn quá nhiều vượt quá mức bảo vệ của
vốn tự có làm cho ngân hàng có thể mất khả năng chi trả. Theo pháp lệnh ngân hàng
(ban hành 1990), tổng nguồn vốn huy động của NHTM phải nhỏ hơn hoặc bằng 20
lần vốn tự có. Điều đó có nghĩa là hệ số này phải luôn lớn hơn hoặc bằng 5%
12/98
Vốn tự có
Hệ số giới hạn huy động vốn =
Tổng nguồn vốn huy động
1.2.5.4. Hệ số rủi ro tín dụng
Tổng dư nợ cho vay
Hệ số rủi ro tín dụng =
Tổng tài sản có
Hệ số này cho thấy tỷ trọng của các khoản mục tín dụng trong tài sản có,
khoản mục tín dụng trong tổng tài sản càng lớn thì lợi nhuận sẽ lớn nhưng đồng thời
rủi ro tín dụng cũng rất cao. Thông thường, tổng dư nợ cho vay của ngân hàng được
chia thành 03 nhóm :
- Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng xấu: là những khoản cho
vay có mức độ rủi ro lớn nhưng có thể mang lại thu nhập cao cho ngân hàng. Đây là
khoản tín dụng chiếm tỷ trọng thấp trong tổng dư nợ cho vay của ngân hàng.
- Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng tốt: là những khoản cho
vay có mức độ rủi ro thấp nhưng có thể mang lại thu nhập không cao cho ngân
hàng. Đây là khoản tín dụng cũng chiếm tỷ trọng thấp trong tổng dư nợ cho vay của
ngân hàng.
- Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng trung bình: là những
khoản cho vay có mức độ rủi ro có thể chấp nhận được và thu nhập mang lại cho
ngân hàng là vừa phải.
1.2.6. Các mô hình đo lường rủi ro tín dụng
1.2.6.1. Mô hình 6C
13/98
Để xác định mức độ rủi ro không trả được nợ của khách hàng, ngân hàng thường
phân tích 6 chữ C của khách hàng bao gồm:
-Uy tín người vay (Character): uy tín phản ánh sự chính trực của người đi vay, lịch
sử hoạt động tín dụng và mối quan hệ kinh doanh với ngân hàng trong thời gian qua
để có cơ sở xác định người vay có thiện chí và trả nợ đúng hạn.Cơ bản ngân hàng
muốn thiết lập quan hệ tín dụng với những khách hàng có thiện chí trả nợ tốt.
- Năng lực người vay (Capacity): người đi vay phải có năng lực pháp luật và năng
lực hành vi dân sự, người vay có phải là đại diện hợp pháp của doanh nghiệp.
- Nguồn tiền để trang trải khoản vay (Cashflow): Để đánh giá nguồn trả nợ của
khách hàng, ngân hàng có thể đánh giá thông qua: lịch sử tăng trưởng của khách
hàng về lợi nhuận doanh thu, mức tăng trưởng lợi nhuận cao hay thấp, thu nhập
trong quá khứ cũng như trong hiện tại của người đi vay
- Tài sản đảm bảo (Collateral): Tài sản đảm bảo sẽ bảo vệ quyền lợi cho ngân hàng
trong trường hợp khách hàng không hoàn trả khoản vay đúng hạn và nó là nguồn
thứ hai để trả nợ vay cho ngân hàng
- Các điều kiện – môi trường kinh doanh của người đi vay (Conditions): ngân hàng
phải đánh giá được mặt hàng sản xuất, ngành nghề hoạt độngcủa người vay, xu
hướng sẽ được mở rộng hay thu hẹp,; những điều kiện kinh tế đang thay đổi sẽ ảnh
hưởng như thế nào đối với khoản vay,..
- Kiểm soát (Control): đây là khả năng mà ngân hàng có thể kiểm soát được đối với
người đi vay: kiểm tra mục đích sử dụng vốn, kiểm tra hiệu quả sử dụng vốn
Việc sử dụng mô hình này tương đối đơn giản, song hạn chế của mô hình
này là nó phụ thuộc vào mức độ chính xác của nguồn thông tin thu thập, khả năng
dự báo cũng như trình độ phân tích, đánh giá của nhân viên tín dụng.
1.2.6.2. Mô hình điểm số Z (Z - Credit scoring model):
Mô hình này do E.I.Altman dùng để cho điểm tín dụng đối với các doanh
nghiệp vay vốn. Đại lượng Z dùng làm thước đo tổng hợp để phân loại rủi ro tín
14/98
dụng đối với người vay và phụ thuộc vào: trị số của các chỉ số tài chính của người
vay và tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của
người vay trong quá khứ.
Z = 1,2 X1 + 1,4 X2 + 3,3 X3 + 0,6 X4 + 1,0 X5
Trong đó,
X1 = Hệ số vốn lưu động / tổng tài sản
X2 = Hệ số lãi chưa phân phối / tổng tài sản
X3 = Hệ số lợi nhuận trước thuế và lãi / tổng tài sản
X4 = Hệ số giá trị thị trường của tổng vốn sở hữu / giá trị hạch toán của tổng nợ
X5 = Hệ số doanh thu / tổng tài sản
Trị số Z càng cao, thì người vay có xác suất vỡ nợ càng thấp. Vậy khi trị số
Z thấp hoặc là một số âm sẽ là căn cứ xếp khách hàng vào nhóm có nguy cơ vỡ nợ
cao và bất kỳ công ty nào có điểm số Z < 1.81 phải được xếp vào nhóm có nguy cơ
rủi ro tín dụng cao.
Z < 1,8 : Khách hàng có khả năng rủi ro cao.
Z > 3 : Khách hàng không có khả năng vỡ nợ.
Mô hình này có ưu điểm là kỹ thuật đo lường rủi ro tín dụng tương đối đơn
giản nhưng nó chỉ cho phép phân loại nhóm khách hàng vay có rủi ro và không có
rủi ro. Không có lý do thuyết phục để chứng minh rằng các thông số phản ánh tầm
quan trọng của các chỉ số trong công thức là bất biến. Tương tự như vậy, bản thân
các chỉ số cũng được chọn cũng không phải là bất biến, đặc biệt khi các điều kiện
kinh doanh cũng như điều kiện thị trường tài chính đang thay đổi liên tục.Tuy nhiên
trong thực tế mức độ rủi ro tín dụng tiềm năng của mỗi khách hàng khác nhau từ
mức thấp như chậm trả lãi, không được trả lãi cho đến mức mất hoàn toàn cả vốn và
lãi của khoản vay. Ngoài ra, không tính đến các yếu tố khó định lượng như: điều
15/98
kiện kinh doanh, thị trường thay đổi liên tục, danh tiếng khách hàng, mối quan hệ
lâu dài với ngân hàng, sự biến động của chu kỳ kinh tế
1.2.6.3. Hệ thống tính điểm tín dụng
Hệ thống tính điểm tín dụng giúp đánh giá rủi ro tiềm tàng của từng khỏan tín
dụng dựa trên phương pháp đánh giá bằng thang điểm. Hệ thống tính điểm tín dụng
bao gồm các thông tin định tính và định lượng liên quan đến các khách hàng vay
tiềm năng (hay hiện tại) để tính tóan điểm tổng hợp. Việc cho điểm là dựa trên đánh
giá của cán bộ tín dụng về các chỉ tiêu khác nhau có liên quan đến rủi ro tín dụng.
Điểm tổng hợp được sử dụng để phân nhóm các khỏan vay theo mức độ giảm dần
của rủi ro. Hệ thống tính điểm tín dụng là công cụ quan trọng trong quản lý rủi ro
tín dụng và được sử dụng trong các giai đọan sau của quá trình tín dụng:
- Giai đoạn đánh giá tín dụng: đây là giai đoạn xem xét đánh giá rủi ro tín dụng
từ các đơn vay vốn để từ đó xác định lãi suất, yêu cầu tài sản đảm bảo và hạn mức
tín dụng. Các đơn vay không đáp ứng các yêu cầu sẽ bị từ chối và nhân viên tín
dụng không cần thực hiện thêm một thủ tục nào nữa.
- Giai đoạn quản lý từng khỏan vay thì việc cho điểm một khách hàng khi cho
vay là cơ sở để nhân viên tín dụng có thể đánh giá tình trạng hiện tại của khách
hàng vay.
- Quản lý tòan bộ danh mục cho vay: khi hệ thống cho điểm tín dụng được thực
hiện một cách đầy đủ thì đây sẽ là công cụ cho phép đánh giá chất lượng của tòan
bộ danh mục tín dụng bằng cách phân loại theo điểm tín dụng.
Hiện nay, hầu hết các NHTM đều áp dụng hệ thống chấm điểm tín dụng đặc biệt
là đối với khách hàng doanh nghiệp để xếp loại khách hàng theo nhóm A (AAA,
AA, A), B (BBB, BB, B), C (CCC, CC, C) và D.
1.3. TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG
1.3.1. Khái niệm quản lý rủi ro tín dụng
16/98
Quản lý rủi ro tín dụng là việc sử dụng các công cụ, biện pháp quy trình cần
thiết nhằm kiểm soát & ngăn ngừa các rủi ro tín dụng để góp phần hạn chế tối đa
khả năng xảy ra tổn thất cho các NHTM. Như vậy, xét ở góc độ ngân hàng để đạt
được mục tiêu quản lý rủi ro tín dụng, các ngân hàng chỉ cần né tránh rủi ro thông
qua việc lựa chọn khách hàng với những điều kiện & yêu cầu cao hơn hoặc chỉ lựa
chọn những danh mục đầu tư an toàn & quản lý kiểm soát khách hàng thông qua
các công cụ & quy trình do các NHTM xây dựng. Ở góc độ quản lý nhà nước, quản
lý rủi ro tín dụng có thể được thực hiện thông qua các quy định chặt chẽ về hoạt
động kinh doanh của ngân hàng, khống chế giới hạn hoạt động của ngân hàng trong
vùng được cho là an toàn & hiệu quả.
1.3.2. Nội dung của quản lý rủi ro tín dụng
1.3.2.1. Nhận diện các rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng có thể được phát hiện thông qua những yếu tố tạo nên rủi ro
tín dụng. Các yếu tố tạo nên rủi ro tín dụng được trình bày dưới đây:
- Các khách hàng khác nhau và các ngành nghề khác nhau thể hiện rủi ro
khác nhau
Việc lựa chọn khách hàng mục tiêu và ngành nghề mục tiêu rất quan trọng
đối với chất lượng tài sản. Khả năng tồn tại của bất cứ ngân hàng nào cũng liên
quan rất chặt chẽ với khả năng tồn tại của khách hàng và ngành nghề mà ngân hàng
cấp tín dụng.Trên cơ sở từng tài khỏan riêng biệt có rủi ro tín dụng cao, rủi ro tín
dụng có thể được giảm bớt thông qua các biện pháp như: yêu cầu tăng tài sản thế
chấp và bảo lãnh, giám sát chặt chẽ hơn và yêu cầu tăng thêm vốn đầu tư của chủ sở
hữu. Khi các thông tin tài chính khan hiếm hoặc không đáng tin cậy (điều này rất
phổ biến với hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ) thì việc áp dụng các các biện
pháp đảm bảo này là hết sức cần thiết.
- Các sản phẩm tín dụng khác nhau thể hiện rủi ro khác nhau
Hầu hết hiện nay các ngân hàng cung cấp rất nhiều hình thức tín dụng như
cho vay bằng đồng Việt Nam, vàng, ngoại tệ, cho vay hợp vốn, tài trợ dự án,
17/98
bảolãnh,… Các loại hình tín dụng này hàm chứa các mức độ rủi ro tín dụng khác
nhau. Loại hình tín dụng cần phải phù hợp không chỉ với nhu cầu tín dụng mà còn
với mức độ tin cậy về khả năng trả nợ của người vay. Chỉ những khách hàng có
mức độ tin cậy về khả năng trả nợ cao nhất mới đủ điề kiện được cấp cácloại hình
ín dụng có độ rủi ro cao.
- Rủi ro thanh toán gắn với các công cụ tài chính khác nhau
Rủi ro tín dụng cũng phát sinh đối với các loại công cụ tài chính không phải
là khỏan cho vay như cácgiao dịch ngoại hốivà các giao dịch liên ngân hàng. Rủi ro
của đối tác không trả được nợ vào lúc đáo hạn của một hợp đồng ngoài bảng cân
đối kế toán được hiểu là rủi ro thanh toán. Rủi ro này phát sinh vào thời điểm các
khoản thanh toán bằng các loại tiền tệ khác nhau cần phải được trao đổi giữa các
bên của hợp đồng. đó là rủi ro mà bên đối tác không thanh toán cho ngân hàng sau
khi ngân hàng đã thực hiện thanh toán cho bên đối tác.
- Mức độ tập trung của danh mục tín dụng
Mức độ tập trung của danh mục tín dụng theo các đặc thù riêng trực tiếp ảnh
hưởng đến rủi ro của danh mục tín dụng. Các nhân tố ảnh hưởng tiêu cực đến các
khỏan vay có một đặc điểm nào đó trong danh mục tín dụng có khả năng gây nên
thất thoát trầm trọng hơn nếu ngân hàng có mức độ tập trung cao vào các khỏan vay
có đặc điểm này. Và các ngân hàng có thể hạn chế rủi ro do tập trung trong danh
mục tín dụng bằng cách thường xuyên đánh giá rủi ro trong từng thị trường , trong
từng ngành, từng vị trí địa lý, sản phẩm và hình thức thế chấp, loại tiền tệ và hình
thức đáo hạn. Từ đó, đảm bảo duy trì một danh mục tín dụng đa dạng hóa.
1.3.2.2. Thực hiện theo đúng các chính sách & quy trình tín dụng
Một điều tối quan trọng trong quản lý rủi ro tín dụng là việc thiết kế và thực
hiện các chính sách và quy trình bằng văn bản liên quan đến việc phát hiện, đánh
giá, giám sát và kiểm soát rủi ro tín dụng. Các chính sách tín dụng cần phải lập một
cách rõ ràng, thống nhất với các thông lệ thận trọng trong kinh doanh ngân hàng và
với quy định của nhà nước đồng thời phải phù hợp với bản chất và mức độ phức tạp
18/98
của tùy mỗi ngân hàng để từ đó nhân viên ngân hàng có thể tuân thủ một cách
nghiêm ngặt nhằm hạn chế đến mức thấp nhất cácc rủi ro có thể xảy ra trong quá
trình từ lúc nhận hồ sơ vay cho đến lúc xét duyệt cho vay. Các chính sách và quy
trình được xây dựng và thực hiện phù hợp sẽ cho phép các ngân hàng đạt được
những mục tiêu sau:
+ Duy trì chuẩn mực cấp tín dụng an toàn
+ Giám sát và kiểm soát rủi ro tín dụng tốt
+ Đánh giá đúng những cơ hội kinh doanh mới
+ Phát hiện và quản lý các khỏan tín dụng có vấn đề
1.3.2.3. Kiểm tra và giám sát tín dụng nhằm kiểm soát rủi ro tín
dụng
Khi ngân hàng cho vay khỏan cho vay cần phải được quản lý một cách chủ
động để đảm bảo sẽ được hòan trả. Theo dõi nợ là một trong những trách nhiệm
quan trọng nhất của nhân viên tín dụng. Nhân viên tín dụng có thể sử dụng năm
nguồn thông tin sau đây để giám sát khỏan vay của khách hàng:
- Các phòng ban khác trong ngân hàng có giao dịch với khách hàng vay
- Các nhà cung cấp chính cho khách hàng vay, những người này có thể cho
biết về khả năng thanh toán các chi phí sản xuất kinh doanh của khách
hàng
- Các tổ chức tài chính khác
- Trung tâm tín dụng của NHNN
- Thăm thực địa khách hàng vay: nhân viên tín dụng và ban giám đốc cần
thường xuyên thăm thực địa khách hàng để từ đó xác định được sự tồn tại
và tình trạng thực tế của nhà xưởng, máy móc cũng như những tài sản
đảm bảo khác
19/98
Những thông tin tập hợp được từ những chuyến đi thăm thực địa có thể được
sử dụng lại để kiểm chứng lại chất lượng và tính chính xác của các phân tích tài
chính. Từ đó, ngân hàng mới đề ra các biện pháp nhằm kiểm soát khoản vay
1.3.2.4. Phương pháp quản lý rủi ro tín dụng
Để quản lý tốt các rủi ro tín dụng, các ngân hàng nhất thiết phải tuân thủ các
yêu cầu sau:
- Thực hiện đúng các quy định của pháp luật về cho vay, bảo lãnh,
cho thuê tài chính, chiết khấu, bao thanh toán và bảo đảm tiền vay. Xem xét và
quyết định việc cho vay có bảo đảm bằng tài sản hoặc không có bảo đảm bằng tài
sản, cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay, tránh các vướng mắc
khi xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ vay. Đặc biệt chú trọng thực hiện các giải
pháp nâng cao chất lượng tín dụng, không để nợ xấu gia tăng.
- Phải tăng cường kiểm tra, giám sát việc chấp hành các nguyên tắc,
thủ tục cho vay và cấp tín dụng khác, tránh xảy ra sự cố gây thất thoát tài sản; sắp
xếp lại tổ chức bộ máy, tăng cường công tác đào tạo cán bộ để đáp ứng yêu cầu kinh
doanh ngân hàng trong điều kiện hội nhập quốc tế.
- Xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ phù hợp với hoạt động
kinh doanh, đối tượng khách hàng, tính chất rủi ro của khoản nợ của tổ chức tín
dụng.
- Thực hiện chính sách quản lý rủi ro tín dụng, mô hình giám sát rủi
ro tín dụng, phương pháp xác định và đo lường rủi ro tín dụng có hiệu quả, trong đó
bao gồm cách thức đánh giá về khả năng trả nợ của khách hàng, hợp đồng tín dụng,
các tài sản bảo đảm, khả năng thu hồi nợ và quản lý nợ của các ngân hàng
- Thực hiện các quy định bảo đảm kiểm soát rủi ro và an toàn hoạt
động tín dụng:
+ Xây dựng và thực hiện đồng bộ hệ thống các quy chế, quy
trình nội bộ về quản lý rủi ro; trong đó đặc biệt chú trọng việc xây dựng chính sách
20/98
khách hàng vay vốn, sổ tay tín dụng, quy định về đánh giá, xếp hạng khách hàng
vay, đánh giá chất lượng tín dụng và xử lý các khoản nợ xấu.
+ Mở rộng tín dụng trung và dài hạn ở mức thích hợp, đảm bảo
cân đối thời hạn cho vay với thời hạn của nguồn vốn huy động.
+ Thực hiện đúng quy định về giới hạn cho vay, bảo lãnh,
cho thuê tài chính, bao thanh toán đối với một khách hàng và các tỷ lệ an toàn hoạt
động kinh doanh
- Đối với các trường hợp chây ỳ trả nợ vay, các ngân hàng cần áp
dụng các biện pháp kiên quyết, đúng pháp luật để thu hồi nợ vay, kể cả việc xử lý
tài sản thế chấp, cầm cố và bảo lãnh, khởi kiện lên cơ quan tòa án.
- Phân tán rủi ro trong cho vay: không dồn vốn cho vay quá nhiều đối
với một khách hàng hoặc không tập trung cho vay quá nhiều vào một ngành, lĩnh
vực kinh tế có rủi ro cao.
- Thực hiện tốt việc thẩm định khách hàng và khả năng trả nợ trước
khi quyết định tín dụng.
- Mua bảo hiểm cho các khoản tiền gửi, tiền vay.
- Phải có chính sách tín dụng hợp lý và duy trì các khoản dự phòng để
đối phó với rủi ro.
- Trước khi cho khách hàng vay, ngân hàng phải xem xét các điều
kiện cơ bản như là: Khả năng trả nợ của khách hàng so với mức cho vay; trị giá tài
sản đảm bảo so với mức cho vay; giới hạn tổng dư nợ cho vay một khách hàng, một
nhóm khách hàng có liên quan,..
1.3.3. Các phương pháp tiếp cận rủi ro tín dụng theo Basel
1.3.3.1. Giới thiệu sự hình thành & hoạt động của Basel
Ủy ban Basel được thành lập vào năm 1974 bởi thống đốc ngân hàng trung ương
của nhóm 10 nước (G10). Hiện nay, các thành viên của Ủy ban này gồm các nước: Anh, Bỉ,
21/98
Canada, Đức, Hà Lan, Hoa Kỳ, Luxemembourg, Nhật, Pháp, Tây Ban Nha, Thụy Điển,
Thụy Sỹ và Ý. Các quốc gia được đại diện bởi ngân hàng trung ương hay cơ quan giám sát
hoạt động ngân hàng. Ủy ban này được nhóm họp 4 lần trong một năm. Trong Ủy ban còn
có 25 nhóm kỹ thuật và một số bộ phận khác được nhóm họp thường xuyên để thực hiện
các nội dung công việc của Ủy ban. Hội đồng thư ký của Ủy ban Basel được đề xuất bởi
Ngân hàng Thanh toán Quốc tế ở Basel. Hội đồng thư ký 15 thành viên là những nhà giám
sát hoạt động ngân hàng chuyên nghiệp được biệt phái tạm thời từ các tổ chức tài chính
thành viên. Ủy ban Basel và các tiểu ban sẵn sàng đưa ra những lời tư vấn cho các cơ quan
giám sát hoạt động ngân hàng ở tất cả các nước. Ủy ban Basel không có bất kỳ một cơ quan
giám sát nào và những kết luận của nó không có tính pháp lý và yêu cầu tuân thủ đối với
việc giám sát hoạt động ngân hàng. Thay vào đó, Ủy ban này chỉ xây dựng và công bố
những tiêu chuẩn và những hướng dẫn giám sát rộng rãi, đồng thời giới thiệu các báo cáo
thực tiễn tốt nhất trong kỳ vọng rằng các tổ chức riêng lẻ sẽ áp dụng thông qua những sắp
xếp chi tiết phù hợp nhất cho hệ thống quốc gia của chính họ. Theo cách này, Ủy ban
khuyến khích việc áp dụng cách tiếp cận và các tiêu chuẩn chung mà không cố gắng can
thiệp vào các kỹ thuật giám sát của các nước thành viên. Ủy ban báo cáo cho thống đốc
ngân hàng trung ương hay cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng của nhóm G10
Một mục tiêu quan trọng trong công việc của Ủy ban là thu hẹp khoảng cách
giám sát quốc tế trên hai nguyên lý cơ bản là (1) không ngân hàng nước ngoài nào được
thành lập mà thoát khỏi sự giám sát; và (2) việc giám sát phải tương xứng. Để đạt được mục
tiêu đề ra, từ năm 1975 đến nay, Ủy ban Basel đã ban hành rất nhiều văn bản, tài liệu liên
quan đến vấn đề này. Vào năm 1988, Ủy ban đã quyết định giới thiệu hệ thống đo lường
vốn mà nó được đề cập như là Hiệp ước vốn Basel (the Basel Capital Accord) hay Basel I.
Hệ thống này cung cấp khung đo lường rủi ro tín dụng với tiêu chuẩn vốn tối thiểu là 8%. Từ
năm 1988, Basel I không chỉ được phổ biến trong các quốc gia thành viên mà còn ở hầu hết
các nước khác với các ngân hàng hoạt động quốc tế. Trong nhiều năm qua, Ủy ban Basel đã
dịch chuyển nhanh chóng để đưa ra các tiêu chuẩn giám sát rộng rãi toàn cầu. Qua việc hợp
tác chặt chẽ với nhiều ủy ban giám sát hoạt động.
22/98
Basel II được ban hành vào ngày 26/06/2004. Tài liệu này có thể làm cơ sở cho
các quá trình phê duyệt và xây dựng luật lệ quốc gia về giám sát hoạt động ngân hàng và
cho các ngân hàng hoàn chỉnh sự chuẩn bị của họ cho việc thực hiện các tiêu chuẩn mới.
Tuy nhiên, tình hình thực hiện hiệp ước đã bị đình trệ. Tháng 9 năm 2005, các đại diện của
phía ngân hàng ở Mỹ (bao gồm FED, FDIC, OCC và OTS) đã đề nghị xem xét lại vấn đề áp
dụng Basel 2 ở Mỹ. Việc này làm tiến trình áp dụng chậm đi 12 tháng, chủ yếu là để điều
chỉnh lại cách tính rủi ro thị trường và hiệu ứng không có khả năng chi trả kép (double
default effects). Và sau đó tiến trình này tiếp tục chậm lại đến mãi tháng 11/2007 thì phía
Mỹ mới chính thức chấp nhận áp dụng Basel II. Và tiếp đó là đến năm 2008 thì tất cả ngân
hàng của khối EU mới tiến hành báo cáo về mức độ an toàn vốn (captial adequacy)
theo chuẩn mực Basel mới. Hiệp ước Basel II bao gồm những khuyến nghị về luật và quy
định ngành ngân hàng, được ban hành bởi Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng (Basel
Committee on Banking Supervision - BCBS). Nhìn chung, Basel II là hiệp ước về tiêu
chuẩn an tòan vốn, tăng cường quản trị toàn cầu hóa tài chính cũng như việc khai thác tối đa
tiềm năng lợi nhuận& hạn chế rủi ro. Hiệp ước Basel II đề cập đến các vấn đề chính gồm
những quy định liên quan đến tỷ lệ an tòan vốn tối thiểu, quá trình xem xét giám sát của cơ
quan quản lý & cuối cùng là quy tắc thị trường.
Basel II gồm 3 trụ cột :
- Trụ cột 1: Những yêu cầu vốn tối thiểu: trụ cột 1 liên quan đến việc duy
trì vốn bắt buộc. Lượng vốn duy trì được tính toán theo 3 yếu tố rủi ro chính. Những rủi ro
khác không được coi là có thể lượng hóa hoàn toàn ở bước này
- Trụ cột 2: Quá trình đánh giá, giám sát đề cập về kiểm tra tỷ lệ an
toàn vốn. Trụ cột 2 liên đến việc hoạch định chính sách ngân hàng, cung cấp cho
các nhà họach định chính sách những “công cụ” tốt hơn so với Base I. Trụ cột này
cũng cung cấp một khung giải pháp cho các rủi ro mà ngân hàng đối mặt, như rủi ro
hệ thống, rủi ro chiến lược, rủi ro danh tiếng, rủi ro thanh khoản và rủi ro pháp lý,
mà hiệp ước tổng hợp lại dưới cái tên rủi ro còn lại (residual risk). Có bốn nguyên
tắc để xem xét giám sát:
23/98
+ Ngân hàng nên có một quy trình xác định vốn nội bộ theo
mức rủi ro và chiến lược duy trì các mức vốn khác nhau
+ Các giám sát viên nên xem xét và đánh giá việc sát định mức
độ vốn nội bộ và chiến lược của ngân hàng, cũng như khả năng giám sát và đảm
bảo tuân thủ tỉ lệ vốn tối thiểu
+ Khuyến nghị rằng ngân hàng nên giữ mức vốn cao hơn mức
tối thiểu theo quy định
+ Giám sát viên sẽ tìm cách xâm nhập vào những giai đoạn đầu
tiên để ngăn cản mức vốn giảm xuống dưới mức tối thiểu.
- Trụ cột 3: Kỷ luật thị trường – đề cập đến vấn đề công khai thông tin. Trụ
cột 3 làm gia tăng một cách đáng kể các thông tin mà một ngân hàng phải công bố.
Phần này được thiết kế để cho phép thị trường có một bức tranh hoàn hoản hơn về
rủi ro tổng thể của ngân hàng và cho phép các đối tác của ngân hàng định giá và
tham gia chuyển giao một cách hợp lý
1.3.3.2. Tiếp cận rủi ro tín dụng theo Basel I
Theo phương pháp tiếp cận quản lý rủi ro tín dụng của Basel I, các chuẩn mực
được đưa ra như sau:
* Tiêu chuẩn cấp tín dụng và quy trình giám sát tín dụng (Chuẩn mực 7):
Một phần công việc thiết yếu của hệ thống thanh tra là đánh giá chính sách,
thông lệ và quy trình liên quan đến việc cấp tín dụng, thực hiện đầu tư cũng như
công tác quản lý và danh mục đầu tư hiện tại. Chức năng tín dụng và đầu tư ở các
ngân hàng là khách quan và dựa trên nguyên tắc lành mạnh. Vì vậy việc duy trì
chính sách cho vay, mục đích cho vay và thủ tục cho vay thận trọng với các văn bản
cho vay hợp lý là cần thiết đối với quản lý chức năng cho vay của ngân hàng và
ngân hàng cần phải có một quá trình giám sát quan hệ tín dụng hiện tại của khách
hàng trên cơ sở dữ liệu là nhân tố quan trọng của hệ thống thông tin quản lý, cần phải
được chi tiết danh mục cho vay
24/98
* Đánh giá chất lượng tín dụng & dự phòng rủi ro mất vốn tín dụng (chuẩn mực 8):
Thanh tra ngân hàng cần phải biết rằng ngân hàng thiết lập và duy trì các
chính sách, thói quen và thủ tục phù hợp với việc đánh giá chất lượng tài sản, dự
phòng rủi ro mất vốn tín dụng
Ngân hàng phải xây dựng một quy trình quan sát các khỏan nợ có vấn đề và
chọn lọc các món nợ quá hạn
Khi thực hiện bảo lãnh hoặc nhận vật thế chấp ngân hàng phải có phương
pháp đánh giá uy tín của người bảo lãnh và định giá vật thế chấp
Khi có các khỏan nợ có vấn đề thì ngân hàng tăng cường hoạt động cho vay
trên cơ sở đảm bảo cấp tín dụng và sức mạnh tài chính tổng thể
* Sự tập trung rủi ro & các rủi ro lớn (chuẩn mực 9):
Ngân hàng phải có hệ thống thông tin quản lý, cho phép xác định những
điểm đáng chú ý trong danh mục đầu tư và phải thiết lập giới hạn an tòan để hạn
chế xu hướng ngân hàng tập trung vào các khách hàng đơn lẻ hoặc các nhóm khách
hàng có quan hệ
* Cho vay khách hàng có mối quan hệ (chuẩn mực 10):
Để ngăn ngừa sự lạm dụng phát sinh từ việc cho vay khách hàng có mối
quan hệ, quan hệ vay vốn phải dựa trên nguyên tắc “trong tầm kiểm sóat” như thế
thì việc mở rộng tín dụng được giám sát một cách có hiệu quả, kiểm soát và giảm
thiểu rủi ro.
Giao dịch cho vay khách hàng có mối quan hệ thường gây ra những rủi ro
đặc biệt cho ngân hàng, vì thế nên có sự chấp thuận của Hội đồng quản trị
1.3.3.3. Tiếp cận rủi ro tín dụng theo Basel II:
Có 2 phương pháp tiếp cận để tính toán rủi ro tín dụng của ngân hàng
- Phương án thứ nhất: sẽ đo lường rủi ro tín dụng theo phương pháp tiếp cận
chuẩn hoá được hỗ trợ bởi các đánh giá bên ngoài về tín dụng.
25/98
- Phương án thứ hai: là ngân hàng sử dụng hệ thống đánh giá xếp hạng nội bộ
của mình (IRB).
* Phương pháp tiếp cận chuẩn hoá rủi ro tín dụng:
Phương pháp chuẩn hoá là các ngân hàng phải phân loại các rủi ro tín dụng dựa
trên những đặc điểm có thể quan sát được của rủi ro (ví dụ rủi ro từ một khoản cho
vay công ty hoặc từ một khoản cho vay có tài sản thế chấp là nhà ở). Phương pháp
chuẩn hoá sẽ xếp loại rủi ro cố định cho từng loại rủi ro được giám sát và căn cứ
những đánh giá độ tín nhiệm của bên ngoài để nâng cao độ nhạy của rủi ro
Phương pháp chuẩn hoá có những hướng dẫn sử dụng cho cán bộ kiểm tra, giám
sát để quyết định nguồn đánh giá xếp loại của bên ngoài có phù hợp để có thể áp
dụng cho các ngân hàng hay không? Một đổi mới quan trọng của phương pháp
chuẩn hoá là những khoản vay phải coi là quá hạn nếu xếp loại rủi ro của chúng là
150%, trừ trường hợp ngân hàng đã trích dự phòng rủi ro cho những khoản vay đó.
Khi các ngân hàng mở rộng hàng loạt các sản phẩm phái sinh tín dụng như thế
chấp, bảo lãnh, Basel II coi những công cụ này là những nhân tố là giảm bớt rủi ro tín
dụng. Phương pháp chuẩn hóa mở rộng phạm vi của tài sản thế chấp hợp thức vượt ra
khỏi vấn đề của quốc gia đồng thời đưa ra một số phương pháp đánh giá mức độ
giảm vốn dựa trên rủi ro thị trường của công cụ thế chấp
Phương pháp chuẩn hóa cũng bao gồm việc xử lý cụ thể đối với những rủi ro bán
lẻ. Xếp loại rủi ro của các loại rủi ro trong cho vay có thế chấp nhà ở sẽ ñược giảm
cùng với những loại rủi ro khác của các khoản tín dụng cho các công ty không ñược
xếp loại tín nhiệm. Ngoài ra một số khoản cho vay các công ty vừa và nhỏ có thể
được đưa vào xử lý như rủi ro bán lẻ nếu đáp ứng một số tiêu chí.
Để giúp các ngân hàng và các giám sát viên trong trường hợp không có
nhiều lựa chọn, Ủy ban Basel đã phát triển “phương pháp chuẩn hóa đơn giản” bao
gồm những lựa chọn đơn giản nhất để tính toán các tài sản được xếp loại rủi ro. Các
ngân hàng áp dụng các phương pháp chuẩn hóa đơn giản cần tuân thủ những yêu
cầu kiểm tra, giám sát và kỷ luật thị trường tương ứng với hiệp ước mới của Basel
26/98
* Phương pháp tiếp cận căn cứ vào xếp hạng nội bộ (IRB):
Các ngân hàng phải có đơn vị kiểm soát rủi ro tín dụng độc lập chịu trách nhiệm
thiết kế, thực hiện hoạt ñộng các hệ thống xếp loại nội bộ của mình. Các đơn vị
này phải độc lập về chức năng đối với các bộ phận quản lý phải chịu trách nhiệm
về việc tạo nên những khoản rủi ro tiềm năng. Các lĩnh vực phải kiểm soát gồm:
- Kiểm tra & theo dõi xếp loại nội bộ
- Lập & phân tích các báo cáo tóm lược từ hệ thống xếp loại của
ngân hàng, bao gồm dữ liệu lịch sử về các trường hợp không trả nợ được phân loại
vào thời điểm không trả nợ xảy ra và một năm trước khi xảy ra, phân tích các
biện pháp giảm nhẹ rủi ro, theo dõi xu hướng trong các tiêu chí xếp loại chủ yếu
- Thực hiện các quy trình để thẩm tra xem những định nghĩa xếp
loại có được sử dụng thống nhất ở các phòng, ban và khu vực địa lý hay không;
- Đánh giá và lập hồ sơ mọi thay đổi trong quy trình xế p loại, lý do
thay đổi
- Xem xét các tiêu chí xếp loại để đánh giá xem chúng còn tác dụng
dự báo rủi ro hay không. Những thay đổi của quá trình xếp loại, các tiêu chí hoặc các
thông số xếp loại phải được lập thành văn bản và lưu trữ để các giám sát viên xem xét.
- Đơn vị kiểm soát rủi ro tín dụng phải tích cực tham gia trong việc
phát triển, chọn lọc, thực hiện và xác định giá trị hiệu lực của các mô hình xếp loại,
chịu trách nhiệm kiểm soát và giám sát mọi mô hình ñược sử dụng trong quá trình
xếp loại và chịu trách nhiệm cao nhất về thường xuyên đánh giá và thay đổi các mô
hình xếp loại
1.3.3.4. Chuẩn mực an toàn & quản lý rủi ro tín dụng theo Basel II
* Bảo vệ hệ số an toàn vốn:
Yêu cầu về an toàn vốn buộc ngân hàng phải xác lập hệ số an toàn vốn phù hợp
và cần phải xác định các nhân tố của vốn có khả năng làm giảm lỗ.
27/98
Hiệp định ấn định mức rủi ro đối với các khoản mục tài sản có nội bảng và
ngoại bảng theo các loại rủi ro liên quan, các mức độ này được giản đơn tối đa với 5
tỷ lệ: 0%, 10%, 20%, 50% và 100%.
Hiệp định có yêu cầu về hệ số vốn tối thiểu cho các ngân hàng hoạt động quốc
tế là 4% đối với vốn cấp 1 và 8% đối với tổng vốn(bao gồm vốn cấp 1 và vốn cấp 2)
so với tài sản có rủi ro
* Hoàn thiện quy trình trình cấp tín dụng và giám sát cho vay:
Công việc thiết yếu của hệ thống kiểm soát là đánh giá chính sách, thông lệ và
quy trình liên quan đến việc cấp tín dụng, thực hiện đầu tư cũng như công tác quản
lý tín dụng và danh mục đầu tư hiện tại.
Chức năng tín dụng và đầu tư của ngân hàng là khách quan và dựa trên các
nguyên tắc lành mạnh. Duy trì chính sách cho vay, mục đích vay và thủ tục cho vay
thận trọng với các văn bản cho vay hợp lý là cần thiết đối với chức năng quản lý tín
dụng của ngân hàng. Ngân hàng cần phải có một quá trình giám sát quan hệ tín
dụng hiện tại của khách hàng. Cơ sở dữ liệu là nhân tố quan trọng của hệ thống
thông tin quản lý, cần phải được chi tiết danh mục cho vay.
* Đánh giá chất lượng tài sản và dự phòng rủi ro mất vốn tín dụng:
Ngân hàng phải thiết lập và duy trì các chính sách, thói quen và thủ tục phù hợp
với việc đánh giá chất lượng tài sản, dự phòng rủi ro mất vốn tín dụng. Ngân hàng
cũng phải xây dựng quy trình giám sát các khoản nợ có vấn đề và nợ quá hạn.
Khi thực hiện bảo lãnh hoặc nhận thế chấp, cầm cố, ngân hàng phải có phương
pháp đánh giá uy tín của người bảo lãnh và định giá tài sản đảm bảo. Và khi có các
khoản nợ có vấn đề thì ngân hàng tăng cường hoạt động cho vay trên cơ sở đảm bảo
cấp tín dụng và sức mạnh tài chính tổng thể
* Phân tán rủi ro tín dụng:
Ngân hàng phải có hệ thống thông tin quản lý cho phép xác định những điểm
đáng chú ý trong danh mục đầu tư và phải thiết lập giới hạn an toàn để hạn chế xu
28/98
hướng tập trung vào nhóm khách hàng đơn lẻ hoặc nhóm khách hàng có quan hệ
với nhau. Giao dịch cho vay khách hàng có quan hệ với nhau thường gây ra những
rủi ro đặc biệt cho ngân hàng, do đó nên có sự chấp thuận của Hội đồng quản trị.
* Sử dụng hệ thống đánh giá xếp hạng nội bộ:
Hàng năm, kiểm toán nội bộ hoặc một bộ phận độc lập tương đương phải xem
xét hệ thống đánh giá xếp hạng nội bộ(IRB – internal ratings-based) của ngân hàng
và các hoạt động của nó, bao gồm các hoạt động của chức năng tín dụng và các ước
tính xác suất không trả được nợ(PD – probability of default), không trả nợ do tổn
thất(LGD – loss given default), rủi ro tiềm năng do không trả nợ (EAD – exposure
at default). Các lĩnh vực được xem xét còn bao gồm việc tuân thủ các yêu cầu tối
thiểu đã ban hành.Hệ thống đánh giá xếp hạng nội bộ và các ước tính về sự kiện
không trả nợ và tổn thất phải giữ vai trò quan trọng trong phê duyệt cho vay, quản
lý rủi ro, phân bổ vốn tự có và các chức năng quản trị công ty của các ngân hàng sử
dụng hệ thống này.
* Quy trình xem xét, đánh giá giám sát:
Quá trình xem xét, đánh giá giám sát nhằm không chỉ đảm bảo rằng các ngân
hàng có đủ vốn để hỗ trợ mọi rủi ro trong kinh doanh, mà còn khuyến khích các
ngân hàng phát triển và sử dụng các kỹ thuật quản lý rủi ro tốt hơn.
Quá trình xem xét, đánh giá giám sát ghi nhận trách nhiệm của ban lãnh đạo
ngân hàng trong việc phát triển quá trình đánh giá vốn tự có và đặt ra những mục
tiêu vốn tương xứng với tình hình rủi ro và môi trường kiểm soát của ngân hàng.
Bốn nguyên tắc chủ yếu của đánh giá giám sát bao gồm:
- Nguyên tắc 1: các ngân hàng cần có quá trình đánh giá đủ vốn lien quan
đến tình hình rủi ro & chiến lược duy trì các mức vốn của mình
- Nguyên tắc 2: các giám sát viên phải xem xét đánh giá các quá trình đánh
giá liên quan đến tỷ lệ an toàn vốn của ngân hàng
29/98
- Nguyên tắc 3: các giám sát viên kỳ vọng ngân hàng hoạt động trên mức tỷ
lệ an tòan vốn tối thiểu theo quy định của nhà nước & có thể yêu cầu các ngân hàng
có thể có số vốn vượt mức tối thiểu
- Nguyên tắc 4: các giám sát viên phải tìm cách can thiệp sớm để phòng ngừa
thiếu vốn so với tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu để bù đắp rủi ro& yêu cầu có những
hành động khắc phục kịp thời
* Công khai thông tin:
Các ngân hàng phải có chính sách về công khai thông tin, được Hội đồng quản
trị phê duyệt, chính sách xác định các thông tin cần được công khai và kiểm soát nội
bộ đối với quá trình công khai thông tin. Hơn nữa, các ngân hàng phải thực hiện quá
trình giải quyết tính phù hợp của những thông tin công khai, kể cả việc xác định giá
trị hiệu lực và tần suất xác định. Và những thông tin cần công khai được thể hiện cả
về định tính và định lượng, cho các nội dung: cơ cấu vốn, tỷ lệ an toàn vốn, rủi ro
tín dụng, rủi ro tiềm năng & đánh giá
1.4. KINH NGHIỆM QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC NƯỚC VÀ
BÀI HỌC KINH CHO CÁC NHTM VIỆT NAM
1.4.1. Kinh nghiệm quản lý rủi ro tín dụng tại một số nước trên thế giới
Trong cuộc khủng hoảng tài chính ngân hàng thời kỳ 1997-1998, khởi đầu và
tâm điểm là khu vực châu Á, đã có rất nhiều ngân hàng trong khu vực và trên thế
giới bị phá sản, kể cả những ngân hàng có bề dày hoạt động hàng trăm năm. Ngày
nay, sự kiện nhiều ngân hàng trên thế giới công bố các khoản nợ xấu và thua lỗ
đang được cộng hưởng với tình trạng tiền khủng hoảng tín dụng toàn cầu càng làm
cho bức tranh tài chính thế giới thêm phần ảm đạm.Trước tình hình đó, các ngân
hàng lớn có tầm ảnh hưởng tòan cầu đang tiến hành nhiều biện pháp để sẵn sang đối
phó với khủng hỏang tín dụng thế giới. Sau đây là một số các kinh nghiệm quản lý
rủi ro của một vài nước trên thế giới
* Thái Lan:
30/98
Hệ thống ngân hàng Thái Lan đã có bề dày lịch sử hoạt động hàng trăm năm,
nhưng đứng trước cơn khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á vào năm 1997-1998
vẫn bị chao đảo, các khoản vay khó đòi chiếm tỷ lệ cao, gần 36% trong tổng dư nợ
tại Thái Lan, là một tỷ lệ đáng báo động. Tỷ lệ nợ khó đòi cao ảnh hưởng rất lớn
đến công tác quản lý rủi ro tín dụng mà nguyên nhân sâu xa bắt nguồn từ khủng
hoảng kinh tế, quản lý kém hiệu quả, chưa tuân thủ nghiêm ngặt các vấn đề có tính
nguyên tắc trong hoạt động tín dụng,..
Đứng trước tình hình khó khăn này, chính phủ Thái Lan & các NHTM đã thực
hiện một số biện pháp để giải quyết tình hình khó khăn nhằm tái cấu trúc lại hoạt
động tín dụng:
- Chính phủ thắt chặt các khoản vay khó đòi của hệ thống ngân hàng
bằng cách áp dụng tiêu chuẩn kế toán tiên tiến trên thế giới để xác định lại trị giá
các khoản vay khó đòi.
- Thúc đẩy thành lập các cơ quan xử lý hiệu quả các khoản vay khó đòi
như công ty quản lý nợ ngân hàng, công ty mua bán nợ vay, công ty mua bán tài sản
thế chấp/cầm cố tài sản ngân hàng,… đầu tư tái tạo nguồn vốn cho hệ thống ngân
hàng bằng nguồn tiền từ nguồn ngân sách nhà nước, phát hành trái phiếu hay vay từ
các tổ chức tín dụng quốc tế như IMF, ADB, WB
- Chính phủ từng bước thực hiện mở cửa thúc đẩy tự do hóa tài chính
quốc gia, nới lỏng các quyền sở hữu nước ngoài đối với ngân hàng, cho phép người
nước ngoài nắm giữ tối đa số cổ phần trong thời hạn 10 năm.
- Các NHTM đã thực hiện tuân thủ nghiêm ngặt các vấn đề có tính
nguyên tắc trong tín dụng đặc biệt là về thông tin khách hàng. Cụ thể là khi khách
hàng đến vay vốn, các bộ phận lien quan phải giải đáp được các vấn đề như tư cách
khách hàng vay, thực trạng tài chính, hiệu quả kinh doanh, mục đích khỏan vay,
nguồn trả nợ, kiểm soát mục đích sử dụng vốn thì mới ra quyết định cho vay
- Tách bạch, phân công rõ chức năng các bộ phận và tuân thủ các khâu
trong quá trình giải quyết cho vay bằng cách thực hiện tách bạch các bộ phận như
31/98
tại Siam Commercial Bank cũng đã xây dựng mô hình tổ chức triển khai dịch vụ tín
dụng theo nguyên tắc phân định rõ trách nhiệm của 03 bộ phận: Marketing khách
hàng, bộ phận thẩm định và bộ phận quyết định cho vay. Còn ở Bangkok Bank,
trước đây các bộ phận trong quy trình trình gộp làm một, nay ngân hàng tách hẳn
thanh hai bộ phận độc lập với nhau: bộ phận tiếp nhận và giải quyết hồ sơ và bộ
phận thẩm định. Trong đó, bộ phận thẩm định phải có báo cáo thẩm định tín dụng
gồm: chiến lược và kế hoạch kinh doanhh, báo cáo xếp hạng rủi ro ... Đây là một
thay đổi căn bản của Bangkok Bank nhằm đảm bảo tính độc lập, khách quan trong
quá trình thực thi công việc.
- Các NHTM thực hiện việc phán quyết tín dụng theo thẩm quyền. Theo
đó, các ngân hàng tại Thái Lan quy định việc quyết định tín dụng theo mức tăng
dần: mức phán quyết của một người, một nhóm người, hay hội đồng quản trị. Ví dụ
thẩm quyền phán quyết tín dụng như sau:
+ Khoản vay: > 10 triệu BATH 1 người chịu trách nhiệm
+ Khoản vay: >100 trịêu BATH phải qua 2 người chịu trách nhiệm
+ Khoản vay: > 3 tỷ BATH phải do Hội đồng quản trị ngân hàng
quyết định
- Bên cạnh đó, các NHTM bắt đầu xem trọng việc kiểm tra, giám sát
khoản vay bằng cách tiếp tục thu thập thông tin về khách hàng, có các biện pháp xử
lý kịp thời các tình huống rủi ro xảy ra.
Ngoài những vấn đề quan trọng nói trên, các ngân hàng Thái Lan rất coi trọng
việc cập nhật hiểu biết nghề nghiệp cho nhân viên ngân hàng, liên tục đào tạo theo
từng loại hình công việc, để nâng cao trình độ, kỹ năng đào tạo thực thi nhiệm vụ
độc lập được phân công. Các ngân hàng đều áp dụng sổ tay tín dụng cho các NHTM
được viết rất công phu, rõ ràng, dễ áp dụng, có chính sách cho vay riêng đối với các
lĩnh vực rủi ro cao như kinh doanh bất động sản.
* Mỹ:
32/98
Vụ phá sản của Ngân hàng Lehman Brothers và vụ mua lại Merrill Lynch và
nguy cơ sụp đổ của tập đoàn tài chính bảo hiểm AIG đã làm rung chuyển hệ thống
tài chính Mỹ và tác động của nó làm lung lay thị trường tài chính thế giới. Tất cả
đều được quy kết là do hậu quả của việc cho vay dưới chuẩn của thị trường bất
động sản vì từ nhiều năm qua các Ngân hàng đầu tư Mỹ đã nới lỏng tối đa chính
sách tín dụng cho các công ty và cá nhân mua bất động sản trả chậm. Bắt nguồn từ
việc lo ngại sự sụp đổ của các công ty dotcom sẽ ảnh hưởng mạnh đến nền kinh tế
Mỹ hồi những năm 90, chủ tịch Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) lúc bấy giờ, ông
Alan Greenspan, đã tiến hành chiến dịch cắt giảm lãi suất xuống những mức thấp
kỷ lục để thúc đẩy kinh tế tăng trưởng. Điều đó đã làm nảy sinh ra những dòng vốn
vay giá rẻ và gia tăng một lớn người đi vay tiền. Trên thực tế, vốn vay rẻ sẽ làm mất
đi ý thức phòng ngừa rủi ro của người đi vay vì khi bạn đi vay tiền và sau đó lâm
vào tình trạng khó khăn về tài chính, bạn sẽ dễ dàng trong việc định giá lại tài sản
để tiếp tục một khoản vay mới nhằm chi trả cho các khoản vay mà bạn phải trả. Bên
cạnh đó, việc cung cấp tín dụng dễ dàng như: không cần tài sản thế chấp, tỷ lệ trả
trước rất thấp, chỉ cần có mã số thuế (tax number - những công dân Mỹ, khi đăng ký
thuế thu nhập cá nhân với Cục Thuế Liên Bang sẽ được cấp mỗi người một mã số
thuế trong suốt đời) mặc dù đang trong tình trạng thất nghiệp, hoạt động cho vay
này thực sự không đáp ứng đầy đủ những tiêu chuẩn để được cấp tín dụng nhưng
vẫn được vay đã làm gia tăng rủi ro cho các Ngân hàng.Về phía Ngân hàng, tuy
hình thức cho vay này rủi ro rất lớn, nhưng các Ngân hàng vẫn chấp nhận để đổi lại
một mức lãi suất rất cao. Mặt khác, các công ty tài chính cũng thực hiện hình thức
cho vay này một cách rộng rãi và chuyển rủi ro qua ngân hàng và nhà đầu tư thông
qua một một sản phẩm tài chính gọi là “Mua lại các khỏan nợ hay khoản phải thu”.
Các công ty tài chính bán các khoản phải thu cho ngân hàng với một mức
chiết khấu cao, Ngân hàng hoặc các tổ chức tài chính chuyên biệt (gọi là các SPE)
sẽ chứng khoán hóa các khoản phải thu, nghĩa là phát hành các chứng khoán để vay
tiền với mức lãi suất rất cao. Rõ ràng là rủi ro chồng rủi ro, và đương nhiên là các
chứng khoán có mức độ xếp hạng tín nhiệm càng thấp thì tỷ suất sinh lợi càng cao,
33/98
thậm chí có chứng khoán không được xếp hạng tín nhiệm nhưng vẫn được nhà đầu
tư trên toàn thế giới chấp nhận do lãi suất siêu hạng.
Một lượng vốn đầu tư khổng lồ trên thế giới đã đổ vào thị trường bất động
sản Mỹ và khi thị trường này đóng băng vào giữa năm 2007, các vụ đổ vỡ dây
chuyền đã xảy ra. Các nhà đầu tư bất động sản vay tiền không đủ khả năng trả lãi
vay, bất động sản không bán được, chứng khoán phát hành trên các khoản phải thu
này sụt giá thê thảm, các Ngân hàng không đủ khả năng chi trả các khoản nợ lâm
vào tình trạng phá sản.
Từ cuộc khủng hoảng tín dụng Mỹ, cho thấy nguyên nhân xuất phát phần lớn
từ việc quản lý kiểm soát khoản vay kinh doanh bất động sản và chứng khoán còn
yếu kém, chất lượng tín dụng không được coi trọng, có nhiều khoản cho vay dưới
chuẩn, không thẩm định kỹ trước khi cho vay, sử dụng nguồn huy động ngắn hạn để
đầu tư vào những khoản dài hạn như bất động sản nên không tránh khỏi rủi ro mất
khả năng thanh toán và không thu hồi được nợ. Đó cũng là bài học kinh nghiệm quý
báu cho Việt Nam khi rơi vào tình trạng tương tự.
1.4.2. Bài học kinh nghiệm về quản lý rủi ro tín dụng rút ra cho các
NHTMCP Việt Nam
Từ cuộc khủng hoảng tài chính ở Thái Lan và cuộc khủng hỏang tín dụng
dưới chuẩn của Mỹ với những tác hại của nó, chúng ta có thể rút ra những bài học
rất hữu ích cho hoạt động tín dụng của các NHTM Việt Nam nói chung và hoạt
động cho vay bất động sản nói riêng:
Thứ nhất, cần kiểm soát rủi ro của hoạt động cho vay bất động sản thông
qua tỷ lệ cho vay bất động sản tối đa trên tổng dư nơ. Có thể thấy rằng trong thời
gian qua, hoạt động cho vay bất động sản của các NHTM Việt Nam tuy có chặt chẽ
(vay phải có tài sản thế chấp, có chứng minh thu nhập, và tỷ lệ cho vay bất động sản
không lớn) nhưng vẫn có một số ngân hàng nhỏ xé rào cần phải cảnh báo. Khi thị
trường chứng khoán chựng lại, dòng vốn đầu tư chuyển hướng sang bất động sản có
thể làm gia tăng nguy cơ rủi ro tín dụng. Các Ngân hàng nên tự thiết lập cho mình
34/98
một tỷ lệ cho vay bất động sản tối đa trên tổng dư nợ nhằm tự bảo vệ mình và bảo
vệ cả hệ thống. Bên cạnh đó, các NHTM cần phải có một chính sách tín dụng phù
hợp với các biện pháp quản lý rủi ro tín dụng mà các NHTM Thái Lan như áp dụng
cấp tín dụng theo hạn mức phán quyết từng cấp độ, nhận thức rõ tầm quan trọng của
quản lý rủi ro tín dụng.
Thứ hai, cần có một tổ chức xếp hạng chuyên nghiệp và uy tín trong xếp hạng
tín nhiệm các loại chứng khoán, bao gồm cả chứng khoán vốn và chứng khoán nợ.
Để hạn chế rủi ro cho các nhà đầu tư, cần thiết phải có một tổ chức xếp hạng
chuyên nghiệp và uy tín trong xếp hạng tín nhiệm các loại chứng khoán. Đặc biệt là
trong quá trình phát triển của thị trường tài chính, các sản phẩm phái sinh tín dụng
như chứng khoán hóa các khoản phải thu sẽ xuất hiện trong tương lai vì bên cạnh
yếu tố rủi ro, sản phẩm này vẫn có những lợi ích không thể phủ nhận như cải thiện
dòng tiền của các doanh nghiệp, đẩy nhanh vòng quay các khoản phải thu, chuyên
nghiệp hóa việc thu tiền,…. Việc xếp hạng tín nhiệm sẽ là một kênh thông tin hữu
ích cho các nhà đầu tư về mức độ rủi ro của loại chứng khoán này
Thứ ba, cần lưu ý nguyên tắc của phân tích tín dụng là hướng vào rủi ro thấp
thay vì tiềm năng cao. Đối với hoạt động tín dụng dài hạn như cho vay đầu tư bất
động sản, đòi hỏi các nhà cung cấp tín dụng phải có những phân tích chi tiết hơn và
có tầm chiến lược dài hạn hơn. Phân tích tín dụng trong trường hợp này bao gồm
các dự án vay, dòng tiền và đặc biệt quan trọng là xác định độ lớn của thu nhập ổn
định. Đây là nguồn chủ yếu bảo đảm cho khả năng thanh toán nợ trong dài hạn của
người đi vay
35/98
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Ngân hàng thương mại đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế, là mạch
máu của nền kinh tế và là cầu nối giữa các cá nhân và tổ chức, giữa người cho vay
và người đi vay nhằm góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng trưởng kinh tế. Vì
vậy, các ngân hàng thương mại có chức năng rất đa dạng và cung cấp các sản phẩm
phong phú nhằm đáp ứng các nhu cầu thực tế phát sinh của khách hàng.
Rủi ro tín dụng là một trong các rủi ro của hoạt động ngân hàng, là những rủi ro
phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nó có thể đến từ
những yếu tố khác như thiên tai dịch bệnh, hoặc do từ phía khách hàng vay hay từ
bản thân của các ngân hàng thương mại. Nhưng cho dù các rủi ro đến từ những yếu
tố nào đi nữa thì hậu quả không chỉ ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng mà còn
có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng hơn là làm phá sản các ngân hàng thương mại
thậm chí còn gây ra phản ứng lan truyền làm ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế.Vì
vậy phải chủ động chấp nhận các rủi ro này và tìm cách hạn chế và kiểm soát chúng
ở một mức độ nhất định trong mối tương quan về thu nhập mang lại cũng như việc
phân tích các rủi ro và thực hiện các biện pháp kiểm soát rủi ro dựa trên nguyên tắc
đánh đổi rủi ro với thu nhập là mối quan tâm hàng đầu của các NHTM
Đồng thời, trong chương I cũng nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước
trên thế giới như Thái Lan và Mỹ về quản lý rủi ro tín dụng. Đối với Thái Lan cho
ta thấy được nguyên nhân của các khoản nợ xấu xuất phát từ đâu để có thể học hỏi
phòng tránh và giảm thiểu từ các giải pháp của chính phủ & của các NHTM Thái
Lan.. Riêng đối với Mỹ, nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tín dụng và hàng loạt
các ngân hàng lớn, danh tiếng của Mỹ bị phá sản, là bài học kinh nghiệm vô cùng
quý giá cho việc quản lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam.
36/98
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM
2.1. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI VIỆT NAM TRONG CÁC NĂM QUA
2.1.1. Thực trạng môi trường hoạt động ngân hàng trong các năm qua
- Về chính sách tiền tệ: từ năm 2008 đến nay, và đặc biệt là năm 2008 là một
năm có thể nói là đầy biến cố chưa từng có về lãi suất về tỷ giá, …Chính sách tiền
tệ từ định hướng thắt chặt và linh hoạt nửa đầu năm 2008 chuyển dần sang nới lỏng
một cách thận trọng những tháng cuối năm. Đi cùng với quá trình này là tần suất
điều chỉnh các công cụ điều hành chưa từng có của NHNN tập trung ở các lãi suất
chủ chốt, tỷ lệ dự trữ bắt buộc và biên độ tỷ giá. Đặc biệt ngày 19/05/2008 lãi suất
cơ bản được điều chỉnh lên 12%/năm và lãi suất cơ bản được trả lại đúng chức năng
của nó, trở thành một cơ sở để xác định hành lang pháp lý cho lãi suất cho vay của
các NHTM, thay vì xơ cứng và mờ nhạt trước đó. Cụ thể, ngoài sự điều chỉnh trên,
NHNN chính thức áp cơ chế lãi suất trần trong hoạt động cho vay của các tổ chức
tín dụng (không quá 150% lãi suất cơ bản theo quy định của Bộ luật Dân sự). Từ
thời điểm này, hoạt động cho vay của các các ngân hàng có sự thay đổi căn bản;
khái niệm “lãi suất cho vay tối đa” xuất hiện trên thị trường, đồng nghĩa với những
mức lãi suất cho vay từ 22% - 25%/năm trước đó được loại bỏ cùng với các loại phí
thu thêm, trần lãi suất huy động thỏa thuận giữa các thành viên Hiệp hội Ngân hàng
Việt Nam có từ những năm trước cũng bị xóa bỏ. Sang năm 2009, chính sách tiền tệ
có sự ổn định hơn. Cụ thể NHNN chỉ một lần giảm lãi suất cơ bản từ 8,5% xuống
7%/năm và duy trì đến hết tháng 11 năm 2009 để rồi tăng trở lại 8% từ 1/12/2009
đến thời điểm hiện nay.
- Về lãi suất huy động: Sau năm 2008 biến động và leo thang chưa từng có
trong lịch sử, năm 2009, lãi suất huy động và cho vay Việt Nam đồng cùng ổn định,
theo sự ổn định của lãi suất cơ bản. Tuy nhiên, căng thẳng của lãi suất huy động bắt
37/98
đầu bộc lộ từ giữa năm 2009 khi các ngân hàng thương mại liên tục tăng lãi suất
huy động Việt Nam đồng, tập trung từ các kỳ hạn dài và dồn ép các kỳ hạn ngắn.
Mức lãi suất cao nhất lần lượt tạo các “đỉnh” 9%, 10% và đỉnh điểm lên đến
10,5%/năm. Ngay sau quyết định tăng lãi suất cơ bản từ 7% lên 8% có hiệu lực từ
1/12/2009, các NHTM đồng loạt đẩy lãi suất huy động lên mức cao, một số thành
viên có tới 10,5%/năm (chưa tính các hình thức khuyến mại, cộng thưởng gián
tiếp). Với diễn biến này, NHNN phát thông điệp kiểm tra toàn diện các trường hợp
có lãi suất huy động từ 10,5%/năm trở lên, các thành viên đồng loạt áp tối đa ở mức
10,49%/năm. Diễn biến lãi suất căng thẳng trong nửa cuối năm 2009 một phần phản
ánh khó khăn thanh khoản của hệ thống. Điều này dẫn đến một hệ quả ít thấy là tỷ
lệ lãi biên của các ngân hàng giảm rất mạnh; nếu trong năm 2008 chênh lệch lãi
suất động và cho vay đạt khoảng 3,7%, thì năm 2009 chỉ xoay quanh 1% (đối với
cho vay sản xuất kinh doanh).
- Về lợi nhuận của các NHTM: Năm 2008, ảnh hưởng của khủng hoảng, lạm
phát và lãi suất tăng cao, nhiều ngân hàng không đạt mục tiêu lợi nhuận đề ra từ đầu
năm. Điều này khiến các thành viên thận trọng hơn trong việc xác định mục tiêu lợi
nhuận năm 2009, cũng như từ bối cảnh vẫn còn nhiều khó khăn của nền kinh tế.
Đến tháng 11/2009, nhiều thành viên thông báo đã hoàn thành và vượt mục tiêu lợi
nhuận cả năm, nhưng không đột biến
Bảng 2.1 Lợi nhuận trước thuế của các ngân hàng 2006-2009
2006
(đvt: triệu đồng)
Tên ngân hàng
Vietcombank
Vietinbank
Eximbank
Sacombank
ACB 2007
3.893.668 3.192.119
829.991 1.529.085
628.847
358.587
611.328 1.581.971
687.219 2.126.815 2008
1.618.689
2.436.388
969.232
1.109.927
2.560.580 2009
5.688.271
3.514.391
1.532.786
2.150.451
2.818.300
Nguồn: Báo cáo tài chính 2006 - 2009 của các ngân hàng
Nhìn chung, lợi nhuận các ngân hàng năm 2009 có cải thiện và ổn định trở
lại so với năm khá đặc biệt 2008. Trong năm 2009, do chính sách lãi suất thay đổi
38/98
nên đi kèm theo đó là tốc độ tăng trưởng lợi nhuận của ngân hàng năm 2009 chia
thành hai nửa khá rõ rệt: 6 tháng đầu năm, lợi nhuận các ngân hàng tăng mạnh, xuất
phát từ tăng trưởng tín dụng cao, nhiều thành viên có nguồn thu thuận lợi từ xuất
khẩu vàng và đặc biệt là khoản hoàn nhập dự phòng trong đầu tư tài chính theo đà
phục hồi mạnh của thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, nửa cuối năm, lợi nhuận
nhiều thành viên bắt đầu giảm tốc do lãi suất huy động tăng cao, tỷ lệ lãi biên bị thu
hẹp, tăng trưởng tín dụng chậm lại, khó khăn thanh khoản và thị trường chứng
khoán sụt giảm mạnh trong quý 3 và quý 4/2009 và trong cơ cấu lợi nhuận, đã có sự
chuyển dịch rõ và rộng hơn của nguồn thu từ dịch vụ, thay vì lệ thuộc nguồn thu từ
tín dụng vì hoạt động tín dụng trong quý 3 và quý 4/2009 gần như lỗ hòan tòan do
phải áp dụng lãi suất trần 12%/năm và các NHTM không được thực hiện các hình
thức thu phí khác nhằm làm tăng chi phí đi vay của khách hàng. Trong khi chi phí
huy động vốn tăng do lãi suất huy động tăng vì các NHTM khác thiếu thanh khoản
tạm thời. Do đó, ngân hàng cho vay đối với doanh nghiệp là lỗ do chênh lệch giữa
lãi suất huy động và lãi suất cho vay chỉ xoay quanh mốc 1%/năm. Vì vậy, một số
các NHTM gần như ngưng cho vay và chỉ thực hiện giải ngân đối với các hợp đồng
tín dụng cũ đã ký với khách hàng lớn nhằm duy trì quan hệ với khách hàng.
Bảng 2.2 Lợi nhuận trước thuế của các ngân hàng trong các quý năm 2009
Quý 2
(đvt: triệu đồng)
Tên ngân hàng
Quý 4
1.893.355
Vietcombank
596.271
Vietinbank
369.591
Eximbank
514.907
Sacombank
845.939
ACB
Quý 1
1.459.903 1.469.867
872.592
1.206.289
429.395
381.612
620.394
392.010
868.065
462.547
Quý 3
1.376.707
839.238
352.188
623.140
641.749
Nguồn: báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh các quý năm 2009 các ngân hàng
- Về việc thành lập các ngân hàng mới: sau cả thập kỷ, năm 2008 ghi nhận
những giấy phép lập ngân hàng mới đầu tiên được cấp với 2 thành viên mới chính
thức đi vào hoạt động là Ngân hàng Liên Việt và Ngân hàng Tiên Phong. Sau đó,
NHNN cấp thêm giấy phép mới cho Ngân hàng Bảo Việt. Theo cam kết gia nhập
39/98
WTO, từ 1/4/2007, các ngân hàng nước ngoài được thành lập ngân hàng con 100%
vốn trực thuộc tại Việt Nam. Nhưng phải đến năm 2009, điều này mới chính thức
hiện thực, các ngân hàng ngoại bắt đầu mở rộng tầm ảnh hưởng thực sự. Tập trung
cấp giấy phép từ cuối năm 2008, bước sang năm 2009, hệ thống ngân hàng Việt
Nam bắt đầu đón nhận những ngân hàng 100% vốn ngoại đầu tiên. Những thành
viên mới này được hoạt động đẩy đủ hơn, cạnh tranh toàn diện hơn thay vì phụ
thuộc vào các điều kiện kinh doanh hạn chế trước đó. Trong năm 2009, 5 ngân hàng
đầu tiên của khối này đã nhận giấy phép, thành lập và mở rộng hoạt động, gồm
HSBC, Standard Chartered, ANZ, Shinhan và Hong Leong; trong đó, HSBC và
ANZ đã nhanh chóng khai trương nhiều điểm giao dịch mới. Lợi thế của khối này
và áp lực cạnh tranh đã được đề cập nhiều từ năm 2007 và nay đang dần hiện hữu.
Hiện nay, khối các tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam có 45 chi nhánh của
33 ngân hàng nước ngoài, 5 ngân hàng liên doanh với hơn 20 chi nhánh phụ thuộc,
5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 8 tổ chức tín dụng phi ngân hàng có vốn đầu tư
nước ngoài; ngoài ra còn có 56 văn phòng đại diện của các tổ chức tín dụng khác và
nhóm thành viên này hiện đang hoạt động hiệu quả.
2.1.2. Thực trạng hoạt động NHTMCP Việt Nam
2.1.2.1. Quy mô tăng vốn
Vốn của ngân hàng thể hiện năng lực tài chính, khả năng cạnh tranh. Ngân
hàng có vốn lớn thì khả năng cấp vốn lớn, có thể cải tiến công nghệ, phát triển
mạng lưới và cung cấp những sản phẩm dịch vụ tốt. Tuy nhiên, vốn điều lệ của các
NHTMCP hiện nay rất ít, năng lực tài chính hạn chế. Do đó làm cho tình hình tài
chính của các NHTMCP không lành mạnh, rủi ro hoạt động cao và năng lực cạnh
tranh thấp. Để nâng cao khả năng tài chính cho các ngân hàng, NHNN đã ra nghị
định số 141/2006 NĐ-CP về danh mục mức vốn pháp định cho các tổ chức tín
dụng. Theo đó, mức vốn pháp định áp dụng đến cuối năm 2008 là 1.000 tỷ. Và hiện
nay hầu hết các NHTM đã đạt đến ngưỡng yêu cầu là 1.000 tỷ và đang phấn đấu để
tăng vốn đến năm 2010 là 3.000 tỷ.
40/98
Để đảm bảo an tòan hoạt động, theo định hướng quản lý rủi ro của NHNN,
một trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất là quy mô về vốn mà thước đo cơ bản
nhất chính là hệ số an toàn vốn (vốn tự có/tổng tài sản có rủi ro, Capital Adequacy
Ratio – CAR). Chỉ tiêu này được dùng để xác định khả năng của các ngân hàng trong việc
thanh toán các khoản nợ có thời hạn và việc đối mặt với các rủi ro khác như rủi ro tín dụng,
rủi ro vận hành. Và theo quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN của NHNN yêu cầu các
NHTM phải duy trì hệ số CAR ở mức tối thiểu 8% và có thời gian ân hạn 3 năm
đến cuối năm 2008. Tuy nhiên trên thế giới, hệ số an tòan vốn hiện đang được áp
dụng cho các ngân hàng là 12%
Hệ số CAR càng lớn thì ngân hàng càng ít rủi ro về vốn , và hệ số này càng
thấp thì tỷ lệ rủi ro càng cao. Tuy nhiên, tỷ lệ rủi ro càng cao thì đi kèm với lợi
nhuận hấp dẫn. Đây mới chính là yếu tố hấp dẫn trong quản lý rủi ro bởi vì nhà
quản lý phải cân nhắc trong việc lưạ chọn giải pháp nào. Việc NHNN đưa ra tỷ lệ
an tòan vốn là 8% và ân hạn đến hết năm 2008. Điều đó có nghĩa là từ năm 2009,
các ngân hàng phải duy trì tỷ lệ an toàn vốn là tối thiểu là 8% .
Với quy mô vốn thấp và tỷ lệ an tòan vốn dưới mức thông lệ quốc tế như
hiện nay của các NHTMCP Việt Nam, chúng ta sẽ bị hạn chế về khả năng tín dụng
tài trợ cho hoạt động kinh doanh cũng như gặp rất nhiều cản trở, khó mở rộng phạm
vi hoạt động và công nghệ ngân hàng và càng khó hơn khi cạnh tranh với các ngân
hàng nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam.
2.1.2.2. Tình hình huy động vốn
Trong các năm qua, môi trường kinh tế cùng với nền chính trị ổn định, nền
kinh tế phát triển một cách cơ bản, vững chắc và có chuyển hướng theo chiều sâu.
Sự phát triển của hệ thống ngân hàng đã thúc đẩy thị trường tiền tệ phát triển tạo
môi trường mới và những kênh huy động quan trọng cho phát triển kinh tế. Các tổ
chức tín dụng đã tăng cường huy động vốn thông qua nhiều hình thức và kỳ hạn
khác nhau, mở rộng mạng lưới huy động vốn và sử dụng nhiều hình thức đa dạng
như phát hành trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng. Nguồn vốn huy động của ngân hàng
41/98
bao gồm: tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành kỳ
phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi để huy động vốn, các khoản tiền gửi giữ hộ và
chờ thanh toán, tiền gởi của kho bạc nhà nước (nếu có). Tình hình huy động vốn
của ngân hàng được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2.3 Tình hình huy động vốn các ngân hàng 2006- 2009
(đvt: tỷ đồng)
Tên ngân hàng
Vietcombank
Vietinbank
Eximbank
Sacombank
ACB 2006
152.579
126.625
13.141
34.591
31.782 2007
159.528
151.459
22.915
55.692
59.766 2008
191.916
174.905
32.331
57.964
74.119 2009
207.542
163.215
41.294
61.489
97.369
Nguồn: báo cáo tài chính 2006-2009 của các ngân hàng
Nhìn chung, tình hình huy động vốn qua các năm của các ngân hàng đều
tăng cao . Điều đó cho thấy vốn nhàn rỗi trong dân cư rất lớn. Cũng từ bảng tổng
hợp trên ta cũng thấy rằng Vietcombank là ngân hàng đứng đầu trong số dư huy
động kế đến là Vietinbank. Sau đó mới đến ACB, Sacombank, Eximbank. Điều này
có thể lý giải như sau: do Vietcombank và Vietinbank là 2 ngân hàng TMCP quốc
doanh nên là nơi mở tài khỏan của các tập đoàn, tổng công ty, và kho bạc nhà
nước,… Vì vậy, hai ngân hàng này có số dư huy động rất cao tạo cho họ có được
nguồn vốn lớn nên rất thuận lợi trong việc tăng dư nợ cho vay và tài trợ các dự án
lớn của nền kinh tế. Đây là lợi thế rất lớn của các ngân hàng TMCP quốc doanh.
Còn về nhóm các NHTMCP ngoài quốc doanh như ACB, Sacombank, Eximbank
thì nguồn vốn huy động chủ yếu từ dân cư, các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên số dư
huy động thấp hơn.
Các NHTM với phương châm “đi vay để cho vay” nên đã ngày càng chú trọng
việc đa dạng hóa các hình thức huy động vốn từ không kỳ hạn đến có kỳ hạn, huy
động với lãi suất thả nổi, lãi suất bậc thang,…Tiết kiệm có kèm theo hình thức
khuyến mãi như du lịch, tặng tiền, vàng,.. Đặc biệt năm 2008, NHNN không chế lãi
42/98
suất huy động và lãi suất cho vay không vượt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN
công bố trong từng thời kỳ (điều 476 bộ luật dân sự năm 2005) nên các ngân hàng
(đặc biệt là các ngân hàng nhỏ, thanh khoản kém) tìm mọi cách cạnh tranh để huy
động tiền gởi và kết qủa là mức lãi suất huy động chạm trần lãi suất của NHNN
công bố mà vẫn không tăng được số dư huy động nên các ngân hàng đã đưa ra
nhiều hình thức khuyến mãi rất mạnh tay như tặng vàng, tặng trước lãi suất,…
nhằm tăng lãi suất huy động thu hút vốn nhàn rỗi trong dân cư.
Thị phần huy động vốn của các NHTM ngày càng có khả năng bị thu hẹp do
nền kinh tế Việt Nam sau khi gia nhập WTO đã có nhiều thay đổi theo chiều hướng
tích cực, trong đó thị trường tài chính Việt Nam ngày càng phát triển phong phú, đa
dạng (hình thành đầy đủ các loại hình thị trường: thị trường tiền tệ, thị trường chứng
khoán, thị trường bảo hiểm và các định chế tài chính phi ngân hàng…) theo hướng
hoàn thiện và hòa nhập với thị trường tài chính thế giới làm cho nhà đầu tư có nhiều
kênh đầu tư để lựa chọn và đa dạng hóa danh mục đầu tư nhằm giảm thiểu rủi ro và
đạt lợi nhuận cao nhất. Chính vì lẽ đó mà nguồn vốn nhàn rỗi chảy vào ngân hàng
cũng bị chi phối đáng kể.
Trong thời gian qua, đặc biệt là năm 2008, có sự chạy đua huy động vốn
(cạnh tranh không lành mạnh) giữa các NHTM: chạy đua tăng lãi suất huy động vốn
dẫn đến lãi suất đầu ra tăng gây khó khăn cho nền kinh tế và từ đó làm gia tăng rủi
ro tiềm ẩn trong hoạt động tín dụng kéo theo thu nhập trong hoạt động tín dụng
cũng bị giảm đáng kể.
Cơ cấu nguồn vốn huy động của các NHTM chủ yếu là nguồn vốn ngắn hạn.
nên nó không tạo ra sự ổn định, gây khó khăn cho các ngân hàng khi muốn cho vay
trung, dài hạn. Trong khi đó, lượng khách hàng này rất lớn vì đa số các doanh
nghiệp thiếu vốn, lạc hậu về công nghệ, máy móc thiết bị nên rất muốn vay vốn
trung, dài hạn để đầu tư phát triển máy móc thiết bị, công nghệ hiện đại…
Nhìn chung, từ 2006 đến 2009 thì năm 2008 được xem là năm đầy biến động
nhất về lãi suất huy động. Tuy nhiên, các ngân hàng vẫn duy trì tốt tỷ lệ tăng trưởng
43/98
huy động qua các năm. Điều này chứng tỏ, tiết kiệm ngân hàng là một kênh đầu tư
hấp dẫn của đa số bộ phận dư cư trong việc sử dụng vốn nhàn rỗi.
2.2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM
2.2.1. Đánh giá rủi ro tín dụng tại các NHTMCP Việt Nam trong các
năm qua
2.2.1.1. Nợ quá hạn
Nợ quá hạn là một trong những tiêu chí đo lường mức độ rủi ro tín dụng. Đó
các khỏan nợ quá hạn từ nhóm 2 đến nhóm 5. Nợ quá hạn xảy ra do khách hàng
chậm thanh tóan tiền lãi và vốn khi đến kỳ thu lãi hoặc khi đáo hạn khoản vay. Tỷ
lệ nợ quá hạn càng cao sẽ ảnh hưởng đến tỷ lệ trích lập dự phòng và lợi nhuận của
các NHTM và thể hiện mức độ rủi ro tín dụng lớn. Trong tình hình tăng trưởng tín
dụng như hiện nay thì nợ quá hạn dễ tăng cao do các ngân hàng chạy theo tốc độ
tăng trưởng tín dụng dẫn đến chất lượng tín dụng kém. Việc chạy theo tăng trưởng
tín dụng cũng là áp lực vì tín dụng là mảng mang lại thu nhập có thể lên đến 90%
trong tổng thu nhập mang lại của các ngân hàng. Vì vậy các NHTM luôn đặt nặng
vấn đề tăng trưởng tín dụng lên hàng đầu mà đôi khi vì theo đuổi chính sách lợi
nhuận sẽ dễ đưa đến tình trạng chạy đua để tăng trưởng tín dụng bằng mọi giá.
Bảng 2.4 Tình hình dư nợ của các ngân hàng từ 2006- 2009 (đvt: tỷ đồng)
2006
Tên ngân hàng
Vietcombank
Vietinbank
Eximbank
Sacombank
ACB 70.025
80.152
10.207
14.394
17.015 2007
97.512
102.191
18.452
35.378
31.811 2008
149.729
120.752
21.222
35.009
34.832 2009
189.310
163.121
38.382
74.437
98.554
Nguồn: Báo cáo tài chính năm 2006-2009 của các ngân hàng
Qua bảng tổng hợp trên, ta có thể thấy rằng đối với nhóm NHTMCP quốc
doanh như Vietcombank và Vietinbank thì tốc độ tăng thấp hơn nhóm NHTMCP
ngoài quốc doanh. Đối với nhóm NHTMCP ngoài quốc doanh thì mức độ tăng dư
44/98
nợ qua các năm gần như hơn gấp đôi. Riêng năm 2008, do có nhiều biến động trên
thị trường tài chính nên dẫn đến việc một số ngân hàng tạm ngừng hoặc hạn chế
giải ngân nên tốc độ tăng trưởng tín dụng trong năm 2008 không cao.Và nhìn chung
tốc độ trưởng dư nợ qua các năm của các ngân hàng là khá ổn định. Tuy nhiên tốc
độ tăng trưởng tín dụng cao mang lại nhuận cao nhưng chúng ta vẫn phải quan tâm
đến chất lượng tín dụng. Và chất lượng tín dụng thể hiện rõ qua bảng tổng kết tỷ lệ
nợ quá hạn dưới đây:
Bảng 2.5 Tỷ lệ nợ quá hạn của các ngân hàng từ 2006-2009 (%)
2006 2007 2008 2009
Tên ngân hàng
Vietcombank
Vietinbank
Eximbank
Sacombank
ACB 10,48
6,46
1,60
0,96
1,13 5,34
5,30
1,50
0,38
0,31 5,60
5,10
7,90
0,96
2,03 2,63
1,54
2,40
1,32
1,20
Nguồn: Báo cáo tài chính năm 2006-2009 của các ngân hàng
Nhìn chung, tỷ lệ nợ quá hạn ở các NHTM hiện nay đang có xu hướng giảm.
Tuy nhiên hiện nay, tỷ lệ nợ quá hạn ở các NHTM quốc doanh như Vietcombank và
Vietinbank còn khá cao so với các NHTM ngoài quốc doanh do đối tượng cho vay
của các ngân hàng này là các dự án của các tập đoàn và tổng công ty nhà nước mà
hiện nay các tập đòan hay tổng công ty nhà nước đầu tư dàn trải, sử dụng vốn
không hiệu quả dẫn đến tình trạng chậm trả lãi, vốn nên dễ đưa đến tình trạng nợ
quá hạn. Theo báo cáo của NHNN thì các tập đoàn lớn như: Tập đoàn Dầu khí, Tập
đoàn Điện lực, Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy, Tập đoàn Công nghiệp Than –
Khoáng sản, Tập đoàn Công nghiệp Cao su, Tập đoàn Bưu chính Viễn thông, Tập
đoàn Dệt may là các khách hàng lớn của các NHTMCP quốc doanh và số nợ chủ
yếu của các tập đoàn này chủ yếu là nợ trung dài hạn phục vụ cho các dự án đầu tư
mang tính chiều sâu và các kế hoạch phát triển. Cụ thể, đến 31/12/2008, nợ ngắn
hạn tổ chức tín dụng của nhóm này là 18.846 tỷ đồng, chiếm 15% tổng nợ; nợ trung
và dài hạn là 109.940 tỷ đồng, chiếm 85% tổng nợ. Về chất lượng nợ, tổng nợ quá
hạn của 7 tập đoàn kinh tế đến hết 31/12/2008 là 4.168 tỷ đồng, chiếm 3,24% tổng
45/98
dư nợ của các tập đoàn tại tổ chức tín dụng. Trong đó, nợ có khả năng mất vốn, bao
gồm nợ quá hạn trên 360 ngày, nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trên 180 ngày và nợ
khoanh chờ Chính phủ xử lý (nợ nhóm 5) chiếm 15% tổng số nợ quá hạn. Riêng
Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam có số nợ quá hạn là 3.812 tỷ đồng chiếm
19,17% dư nợ của tập đoàn và chiếm 91,4% tổng số nợ quá hạn của cả 7 tập đoàn.
Và hiện nay do tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu, các tổ chức tín dụng
đã điều chỉnh, cơ cấu lại kỳ hạn nợ nên tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu trên chưa phản ánh
đầy đủ chất lượng nợ của các tập đoàn này.
Đối với nhóm các NHTM ngoài quốc doanh như ACB, Sacombank,.. do tỷ
trọng cho vay các doanh nghiệp nhà nước và các tập đoàn chiếm rất thấp mà họ chủ
yếu tập trung nghiệp vụ ngân hàng bán lẻ nên tỷ lệ nợ quá hạn ở các ngân hàng này
thấp hơn rất nhiều so với các NHTM quốc doanh.
2.2.1.2. Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ
Nợ xấu là những khỏan nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5. Vì vậy, đây là những
khoản nợ có nguy cơ mất vốn cao. Có sự phân hóa rất rõ về tỷ lệ nợ xấu. Nhóm các
NHTM quốc doanh luôn phấn đấu để đạt tỷ lệ này dưới 5%, còn các NHTM cổ
phần ngoài quốc doanh luôn đặt ra chỉ tiêu này dưới 1% vì nợ xấu là những nhóm
nợ có rủi ro rất cao làm ảnh hưởng đến lợi nhuận của các NHTM do tỷ lệ trích dự
phòng cho các khoản vay này.
Bảng 2.6 Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ của các ngân hàng từ 2006-2009 (%)
2006 2007 2008 2009
Tên ngân hàng
Vietcombank
Vietinbank
Eximbank
Sacombank
ACB 2,66
1,41
0,85
0,72
0,19 3,29
1,02
0,88
0,23
0,08 3,48
1,81
4,71
0,60
0,89 2,12
0,60
1,83
0,70
0,98
Nguồn: Báo cáo tài chính các năm 2006-2009 của các ngân hàng
Qua bảng tổng hợp trên, ta có thể thấy tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ vay của
các NHTM có xu hướng giảm qua các năm như Vietcombank hay Vietinbank.
46/98
Riêng nhóm các NHTMCP ngoài quốc doanh luôn duy trì tỷ lệ này khá thấp (dưới
1%) vì nợ xấu ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng tín dụng cũng như thu nhập vì một
khi nợ xấu gia tăng phản ánh chất lượng tín dụng xấu, khả năng quản lý rủi ro tín
dụng kém, năng lực quản lý kém và đi kèm theo đó là việc trích lập dự phòng rất
cao từ đó sẽ ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận của ngân hàng.
Tỷ lệ nợ xấu đến cuối năm 2008 là 4% trên tổng dư nợ của toàn ngành ngân
hàng theo chuẩn kế toán Việt Nam. Đến tháng 9 năm 2009, tỷ lệ nợ xấu của toàn
ngành khoảng 2,75% do sự hỗ trợ từ gói kích cầu của NHNN và dự đóan con số này
vẫn nằm trong kế hoạch của NHNN là kiềm chế nợ xấu dưới 5% trong giai đoạn
2006-2010.
Tuy nhiên, tỷ lệ nợ xấu ở các NHTM quốc doanh thực sự còn cao hơn các
con số trên báo cáo thường niên vì thực tế hiện nay, các ngân hàng quốc doanh vẫn
có nghĩa vụ thực hiện các khoản cho vay chính sách, theo các chương trình phát
triển của chính phủ. Chính phủ còn can thiệp vào thị trường tín dụng sau khi sự cho
vay đã diễn ra hoàn tất bằng cách ra tay cứu vớt các doanh nghiệp Nhà nước hoặc
ngân hàng quốc doanh có vấn đề. Sự cứu giúp của chính phủ có thể ở dưới nhiều
dạng như tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước thua lỗ, nhận các khoản nợ xấu, và cố ý
trì hoãn việc đóng cửa các tổ chức tài chính mất khả năng thanh toán. Vì vậy, các
NHTMCP quốc doanh trở nên “thích” cho vay các doanh nghiệp nhà nước hơn vì
mọi rủi ro hầu như đã được chính phủ bảo lãnh. Và thông lệ như vậy đã làm giảm
nhu cầu cải thiện tính hiệu quả ở các ngân hàng, khuyến khích họ theo đuổi các dự
án cho vay đầy rủi ro..
Hơn nữa, quan hệ truyền thống và dài hạn giữa NHTM quốc doanh và các
doanh nghiệp nhà nước làm cho chi phí giao dịch với các doanh nghiệp nhà nước
nhỏ hơn với doanh nghiệp tư nhân, càng làm tăng thêm xu hướng ngân hàng cho
vay doanh nghiệp nhà nước hơn là doanh nghiệp tư nhân.Vì vậy, số nợ mất khả
năng thanh toán chính của ngân hàng quốc doanh là các doanh nghiệp Nhà nước
chứ không phải các doanh nghiệp tư nhân.
47/98
Sự can thiệp và khuyến khích của chính phủ dẫn đến xu hướng là các doanh
nghiệp nhà nước càng có tính rủi ro cao thì càng được các ngân hàng cho vay nhiều
hơn vì 2 lý do:
+ Thứ nhất, những doanh nghiệp này càng là mối bận tâm của chính phủ,
buộc chính phủ phải tăng cường chỉ đạo các ngân hàng cho vay để cứu vớt, cải tổ
lại chúng.
+ Thứ hai, bản thân các ngân hàng cũng muốn cho các doanh nghiệp này
tiếp tục vay vì nếu rút lui thì các doanh nghiệp này sẽ phá sản, do đó các ngân hàng
mất khả năng thu hồi các món cho vay trước đó.
Đối với các NHTM cổ phần ngoài quốc doanh, tỷ lệ nợ xấu ở các ngân hàng
này rất thấp chứng tỏ họ hoạt động khá hiệu quả. Tuy nhiên theo trào lưu chung, các
ngân hàng này cũng thành lập ra các công ty trực thuộc như công ty xử lý nợ của
Sacombank, ACBA (công ty xử lý nợ của ngân hàng ACB) nhằm bán nợ cho các
công ty này để làm giảm tỷ lệ nợ xấu.
2.2.1.3. Tỷ lệ nợ xấu trên vốn chủ sở hữu
Tỷ lệ nợ xấu trên vốn chủ sở hữu càng cao thì rủi ro càng lớn vì nợ xấu gia
tăng trong khi vốn chủ sở hữu thấp thì khả năng xảy ra rủi ro rất cao. Vì vậy, các
NHTMCP rất chú ý đến vấn đề tăng vốn chủ sở hữu nhằm đảm bảo an toàn trong
hoạt động cho vay, huy động cũng như duy trì các hệ số liên quan đến vốn tự có,
vốn chủ sở hữu theo yêu cầu của NHNN.
Bảng 2.7 Vốn chủ sở hữu các ngân hàng 2006-2009 (đvt: tỷ đồng)
Tên ngân hàng
Vietcombank
Vietinbank
Eximbank
Sacombank
ACB 2006
11.228
5.638
1.947
2.430
1.654 2007
13.551
10.647
6.295
7.350
6.258 2008
13.790
12.336
12.844
7.759
7.766 2009
17.052
16.989
13.950
10.553
10.093
Nguồn: báo cáo tài chính năm 2006-2009 của các ngân hàng
48/98
Khái niệm nợ xấu của Việt Nam tuy áp dụng các chuẩn mực quốc tế nhưng
cách phân loại nợ lại hoàn toàn khác. Việc phân loại nợ chủ yếu dựa vào thời hạn
trả nợ, thiếu các sự đánh giá kết hợp nên không phản ánh đúng thực chất khoản nợ.
Vì vậy, nếu các ngân hàng thực hiện phân loại khách hàng và nợ theo đúng chuẩn
mực quốc tế, thì tỷ lệ nợ xấu sẽ tăng thêm 2 – 3 lần
Đối với các NHTM ngoài quốc doanh, xét về chỉ tiêu tài chính, tốt hơn các
ngân hàng quốc doanh do ít rủi ro nợ vay, huy động vốn cao hơn và tiềm năng lợi
nhuận cao. Khối quốc doanh tuy chiếm thị phần lớn về cho vay, nhưng chú trọng
nhiều vào các doanh nghiệp lớn hay tổng công ty nhà nước. Do vậy, các NHTM
quốc doanh sẽ phải chịu áp lực để hỗ trợ các đối tượng vay nhiều như tổng công ty
nhà nước. Vì vậy, tỷ lệ nợ xấu trên vốn chủ sở hữu của các NHTM quốc doanh rất
cao so với các NHTM ngoài quốc doanh. Đây là một một sự rủi ro tiềm ẩn ảnh
hưởng rất lớn đến vốn chủ sở hữu của các NHTM.Và thật sự các NHTM quốc
doanh nếu không cân nhắc và thận trọng với tỷ lệ nợ xấu thì sẽ gặp nhiều rủi ro
trong việc duy trì vốn chủ sở hữu.
Bảng 2.8 Tỷ lệ nợ xấu trên vốn chủ sở hữu của các ngân hàng từ 2006 – 2009 (%)
2006 2007 2008 2009
Tên ngân hàng
Vietcombank
Vietinbank
Eximbank
Sacombank
ACB 16,57
20,01
4,43
4,28
2,03 23,70
9,79
2,56
1,11
0,42 37,76
17,73
7,79
2,69
3,97 28,01
5,74
5,05
3,24
3,56
Nguồn: báo cáo tài chính của các ngân hàng năm 2006-2009
Ta có thể thấy với tốc độ tăng vốn chủ sở hữu khá cao trong vòng 3 năm từ
2006-2009 cũng là yếu tố làm giảm tỷ lệ nợ xấu trên vốn chủ sở hữu của các ngân
hàng qua các năm. Tín dụng tăng trưởng cao đi kèm với gia tăng vấn đề nợ xấu sẽ
làm dễ dẫn đến rủi ro kinh doanh vì vậy các NHTMCP buộc phải tăng vốn chủ sở
49/98
hữu lên tương ứng và để đạt chuẩn trong khu vực nhằm cạnh tranh với các ngân
hàng nước ngoài.
2.2.1.4. Hệ số rủi ro tín dụng:
Hệ số rủi ro tín dụng của các NHTMCP ở con số tương đối hợp lý. Qua
bảng thống kê hệ số rủi ro tín dụng của một số NHTM, ta có thể thấy tương ứng với
100 đồng của tổng tài sản có thì các NHTMCP cho vay khoảng từ 33 đồng đến 74
đồng. Đây là con số phản ảnh rủi ro tín dụng ở mức độ chấp nhận
Bảng 2.9 Hệ số rủi ro tín dụng của các ngân hàng từ 2006-2009
2006 2007 2008 2009
Tên ngân hàng
Vietcombank
Vietinbank
Eximbank
Sacombank
ACB 0,42
0,59
0,56
0,58
0,38 0,51
0,62
0,55
0,55
0,37 0,68
0,62
0,44
0,51
0,33 0,74
0,66
0,58
0,47
0,57
Nguồn: báo cáo tài chính năm 2006-2009 của các ngân hàng
Từ bảng thống kê trên, ta có thể thấy rằng hệ số rủi ro tín dụng của nhóm
các NHTM quốc doanh có xu hướng cao hơn so với nhóm các NHTM ngoài quốc
doanh. Qua đó, chúng ta có thể thấy rằng các ngân hàng có hệ số rủi ro tín dụng
càng cao thì lợi nhuận càng lớn nhưng đồng thời rủi ro tín dụng cũng rất cao. Vì
vậy, khi các NHTM có sự gia tăng hệ số này qua các năm chứng tỏ các ngân hàng
ngày càng đối diện với nhiều rủi ro hơn, với nhiều thách thức hơn. Điều này buộc
các ngân hàng càng chặt chẽ hơn trong việc quản lý rủi ro tín dụng
2.2.1.5. Hệ số giới hạn huy động vốn:
Bảng 2.10 Hệ số giới hạn huy động vốn (%)
2006 2007 2008 2009
Tên ngân hàng
Vietcombank
Vietinbank
Eximbank
Sacombank
ACB 7.36
5.85
14.82
7.02
5.20 8.50
9.01
27.47
13.20
10.47 7.19
9.48
39.73
13.39
10.48 8.22
10.41
33.79
17.16
10.37
50/98
Nguồn: báo cáo tài chính 2006-2009 của các ngân hàng
Việc huy động vốn của các NHTM cũng bị giới hạn theo pháp lệnh ngân
hàng năm 1990. Theo đó, tổng nguồn vốn huy động của NHTM phải nhỏ hơn hoặc
bằng 20 lần vốn tự có. Hay nói cách khác là hệ số giới hạn huy động vốn của một
ngân hàng phải lớn hơn hoặc bằng 5%. Hệ số này càng nhỏ thì chứng tỏ NHTM huy
động vốn càng vượt con số 20 lần vốn tự có của chính bản thân mình và từ đó có
thể dẫn đến rủi ro mất khả năng chi trả cho khách hàng. Qua bảng tổng hợp trên ta
có thể thấy, các ngân hàng đều đạt chuẩn theo theo định của NHNN đưa ra (lớn hơn
5%) . Điều đó có nghĩa là các ngân hàng đều huy động vốn trong một giới hạn an
toàn (luôn nhỏ hơn 20 lần vốn tự có). Hệ số này càng cao chứng tỏ sự chênh lệch
giữa vốn tự có & vốn huy động càng nhỏ. Ví dụ như so sánh giữa Vietcombank &
Eximbank, ta có thể thấy rằng Việtcombank huy động vốn khá tốt do Vietcombank
được lợi thế là ngân hàng TMCP quốc doanh là nơi có lượng tiền gởi rất lớn của các
doanh nghiệp lớn & bộ tài chính nên hệ số này càng tiến gần về 5% chứng tỏ
Vietcombank huy động vốn xấp xỉ 12 lần vốn tự có của mình. Trong khi Eximbank
chỉ huy động vốn khoảng 3 lần vốn tự có. Nếu vốn huy động chênh lệch không
nhiều với phần vốn tự có thì dễ xảy ra tình trạng thiếu vốn cho vay. Còn nếu chênh
lệch lớn hơn 20 lần thì vượt quá mức bảo vệ của vốn tự có. Từ đó, nếu có các vấn
đề nhảy cảm về thông tin hoặc biến cố xảy ra ngân hàng có thể mất khả năng chi
trả. Vì vậy, NHNN kiểm soát rất chặt chẽ hệ số này. Các NHTM phải báo cáo
thường xuyên theo định kỳ cho NHNN về hệ số này.
2.2.2. Nhận biết rủi ro & xác định khả năng xảy ra rủi ro tín dụng tại
các NHTM
Các khoản tín dụng & nợ có vấn đề sẽ gia tăng khi khách hàng không thể thực
hiện đầy đủ các cam kết hoặc thường xuyên xảy ra việc cố ý không thực hiện cam
kết, vi phạm nghiêm trọng tài chính. Việc đầu tiên và quan trọng nhất trong việc xử
lý những khoản vay có vấn đề chính là nhận biết rủi ro của khỏan vay đó. Bất kỳ
khoản vay nào cũng có thể có rủi ro, việc sớm nhận biết rủi ro và có những biện
51/98
pháp theo dõi nhanh chóng, chuyên nghiệp giúp các rủi ro, tổn thất có thể giảm đến
mức thấp nhất. Mối quan tâm hàng đầu của hầu hết các ngân hàng đó là danh mục
cho vay được bảo đảm an toàn, các ngân hàng thường xuyên bị ru ngủ bởi cảm giác
an tâm sai lầm về một khoản cho vay cụ thể nào đó vì nó “được bảo đảm” hay nói
cách khác là “được thế chấp”. Nếu cho rằng cho vay là rất an toàn vì có bảo đảm mà
không hề băn khoăn đến các loại thế chấp khác nhau, sự thay đổi theo chiều hướng
xấu của nền kinh tế sẽ ảnh hưởng thế nào đến giá trị thế chấp ngân hàng đang nắm
giữ là rất nguy hiểm. Cần phải nhận thức được rằng một khoản tín dụng có thế chấp
giúp ngân hàng quyết định tiếp tục cho vay vì có khả năng thu hồi nợ trong chừng
mực nào đó nhưng không có nghĩa là hoàn toàn được bảo đảm. Những dấu hiệu
cảnh báo sẽ giúp ngân hàng có thể nhận biết và có giải pháp xử lý sớm các vấn đề
một cách hiệu quả.
Trường hợp Công ty Minh Phụng - vụ phá sản lớn nhất thế kỷ 20 của Việt Nam,
hay công ty Bông Bạch Tuyết với khoản nợ quá hạn hơn 6,4 tỷ đồng vẫn chưa trả
được cho ngân hàng, hay Vinashin với các khoản nợ hơn 86.000 tỷ đồng … cho
thấy vấn đề xuất phát từ việc không kiểm soát chặt chẽ quản lý khoản vay, cũng
như việc nhận biết sớm dấu hiệu rủi ro của cán bộ các ngân hàng
2.2.2.1. Những dấu hiệu báo động sớm liên quan đến hoạt động
ngân hàng
Đối với các dấu hiệu báo động sớm liên quan đến hoạt động ngân hàng thì
nhân viên tín dụng là người giám sát theo dõi & phát hiện sớm nhất các thông qua
các biểu hiện sau đây:
- Khách hàng có số dư tài khoản giảm.
- Vay đáo hạn quá nhiều hoặc không theo kế hoạch.
- Phụ thuộc quá nhiều vào vay ngắn hạn.
- Có những thay đổi đáng kể đối với các thời điểm có nhu cầu vay vốn.
- Có sự nhảy vọt trong số lần yêu cầu vay và số tiền vay.
52/98
- Các khoản vay mà nguồn tiền trả nợ phải huy động từ nhiều nơi và không
thể kiểm tra được.
- Các nhà cung cấp hiện tại, tương lai của khách hàng liên lạc với ngân hàng
để hỏi thăm những thông tin về tín dụng của khách nợ.
- Sự xuất hiện của các nhà cho vay tài chính khác, đặc biệt là cho vay có tài
sản thế chấp.
- Thay đổi trong vấn đề về hôn nhân, thái độ đối với ngân hàng hoặc nhân
viên ngân hàng, đặc việt là thái độ bất hợp tác.
- Không thực hiện những nghĩa vụ cá nhân, những cam kết đúng hạn.
- Thay đổi về quản lý, chủ sở hữu hoặc các nhân sự chủ chốt; các nhân sự
chủ chốt qua đời hoặc đau ốm, không có sự kế thừa trong ban lãnh đạo.
- Các vấn đề trước đây đã được giải quyết lại xảy ra.
- Công tác báo cáo và kiểm soát tài chính yếu kém.
- Tham gia vào việc mua lại công ty khác, các ngành kinh doanh mới, mở
rộng kinh doanh đến các vùng địa lý mới, hoặc thêm dây chuyền sản xuất mới.
- Có mong muốn tham gia vào việc kinh doanh rủi ro cao; hoặc thay đổi
công việc kinh doanh.
- Định giá sản phẩm hoặc dịch vụ cao một cách không hợp lý.
- Không chú trọng, ngừng những ngành kinh doanh đem lợi nhuận cơ bản.
- Chần chừ trong hành động khi đối phó với nền kinh tế thị trường có chiều
hướng đi xuống.
- Hoạt động kinh doanh phụ thuộc vào một người và khả năng phát triển của
doanh nghiệp phụ thuộc vào năng lực và sự kiểm soát của một cá nhân đó.
- Có vấn đề về nhân sự
2.2.2.2. Những dấu hiệu báo động sớm liên quan đến hoạt động
kinh doanh & tài chính
53/98
Muốn nhận biết sớm các dấu hiệu này thì nhân viên tín dụng phải thường xuyên
thăm thực địa khách hàng theo định kỳ có thể hàng quý, hàng nửa năm để kiểm tra
tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng & nhận diện sớm một số thay đổi xảy
ra như sau:
- Kết quả tài chính và kiểm soát hoạt động kinh doanh yếu kém.
- Mất những dây chuyền sản xuất chủ lực, quyền được phân phối hoặc
nguồn cung cấp hàng.
- Mất một hay nhiều khách hàng quan trọng có tình hình tài chính lành
mạnh & thay đổi đột ngột số lượng đơn đặt hàng có thể bị hạn chế do hạn chế năng
lực sản xuất hiện tại.
- Bảo trì máy móc thiết bị không đạt chất lượng.
- Trì hoãn việc thay thế các thiết bị máy móc lạc hậu hoặc hiệu quả thấp.
- Có những bằng chứng cho thấy có bán giảm giá hàng tồn kho, duy trì
lượng hàng tồn kho lớn, hoặc các mặt hàng tồn kho không cần thiết.
- Không có bản báo cáo tài chính đúng thời hạn
- Báo cáo tài chính thể hiện: Vòng quay quay hàng tồn kho giảm, lượng
tiền mặt nhận từ khách hàng giảm mạnh, vay dài hạn tăng đột biến, vốn sở hữu thấp
so với các khoản nợ vay,…
- Trong báo cáo lãi lỗ thể hiện: doanh thu bán hàng giảm hoặc tăng đột
biến, chi phí tăng đột biến, lợi nhuận giảm sút, đột biến lỗ do nợ khó đòi, tổng tài
sản tăng đột biến so với doanh thu & lợi nhuận,…
- Thời hạn của các khoản phải thu: có quà nhiều khỏan phải thu không
được thu hồi, có nhiều khoản phải thu từ các công ty có liên quan, nới lỏng các
khỏan phải thu,…
Đối với những dấu hiệu cảnh báo nêu trên thì việc nhận biết sớm vấn đề từ những
dấu hiệu cảnh báo là quan trọng nhất giúp ngân hàng có những kế hoạch hành động
nhanh chóng, hiệu quả, giảm thiểu được rủi ro
54/98
2.2.2.3. Ví dụ điển hình về những dấu hiệu cảnh báo có tác động
đến việc quản lý rủi ro tín dụng.
* Công ty bông Bạch Tuyết
Từ những năm 2004, công ty Bông Bạch Tuyết đã có khá nhiều khó khăn và
thách thức về vốn lưu động, mất cân đối trong thu chi, thị trường tiêu thụ bị mất, hệ
thống phân phối tan rã, máy móc thiết bị không đồng bộ.
Đến năm 2006 thay đổi công ty kiểm toán từ công ty kiểm toán A&C sang
công ty kiểm toán AISC, đây là điểm nhấn quan trọng cần phải chú ý, xem xét đến
của các nhân viên ngân hàng khi thẩm định hồ sơ vay vốn cũng như kiểm soát hồ sơ
sau khi cho vay. Báo cáo tài chính năm 2006 được công bố với khá nhiều nghi vấn,
thay đổi chính sách khấu hao, chế độ kế toán, sau khi điều chỉnh thì lợi nhuận từ lãi
2,2 tỷ đồng xuống lỗ gần 8,4 tỷ đồng.
Trong năm 2007, tình hình công ty ngày càng xấu hơn, thiếu vốn ngày càng
trở nên trầm trọng, không còn tài sản thế chấp để vay vốn, tình hình tài chính không
minh bạch, không phát hành được cổ phiếu tăng vốn, trong khi đó nợ phải trả tăng
cao, nợ phải thu khó đòi cũng nhiều không kém. Thị trường đầu ra không được cải
thiện do đã mất từ trước, nguyên liệu đầu vào tăng làm cho giá vốn hàng bán tăng
đáng kể, có sự thay đổi lớn trong tình hình nhân sự, từ cán bộ quản lý cho đến lãnh
đạo, chỉ trong 1 năm, công ty đã thay Kế toán trưởng, rồi đến Giám đốc sản xuất,
Giám đốc R&D, đặc biệt hơn nữa là thay Tổng giám đốc vào giữa năm 2007.
Những tháng đầu năm 2008, tình hình công ty càng trở nên bi thảm hơn,
người lao động tạo áp lực đình công, công ty khất nợ, để nợ chuyển sang quá hạn tại
ngân hàng Maritime Bank.
Các biến động và những thay đổi lớn của công ty không được ngân hàng
nhận định, phân tích, đánh giá nên mới dẫn đến tình trạng nợ vay của công ty Bông
Bạch Tuyết trở thành nợ quá hạn khó đòi.
Đây là bài học vô cùng bổ ích cho các ngân hàng thương mại trong công tác
quản lý rủi ro tín dụng để không xảy ra tình trạng còn nhiều Bông Bạch Tuyết nữa.
55/98
* Tập đoàn Vinashin
Vinashin (tập đoàn công nghiệp tàu thủy Việt Nam) là một tập đoàn được sự
bảo trợ của chính phủ nhằm phát triển ngành công nghiệp đóng tàu của Việt Nam
nổi tiếng với sự kiện được chính phủ cho vay lại trái phiếu chính phủ đã phát hành
ra thị trường Mỹ với giá trị 750 triệu USD (đáo hạn vào 2012). Hiện nay, Vinashin
đang đứng trước bờ vực phá sản do sử dụng vốn không đúng mục đích & đầu tư dàn
trải với số nợ bao gồm của 200 công ty thành viên lên đến 86.000 tỷ đồng. Chỉ
trong vòng 3 năm, Vinashin đã thanh lập hơn 200 công ty thành viên mà trong đó
có không ít những lĩnh vực chưa hề đụng tới của những người lãnh đạo chủ chốt.
Những khoản vốn lớn lại được liên tục được đổ vào từ nguồn vốn phát hành trái
phiếu chính phủ ra nước ngoài đến các khỏan vay thương mại tại các ngân hàng
nước ngoài, tín dụng trong nước ở BIDV,Vietcombank,.. Trong khi đó, năng lực
quản lý của những người lãnh đạo thì chưa đủ tầm , đầu tư thì dàn trải, sử dụng vốn
không đúng mục đích, đầu tư kém hiệu quả,… & cũng qua 11 cuộc thanh tra, giám
sát , kiểm toán (từ năm 2006 – 2009) nhưng vẫn không chỉ ra được các sai phạm
của tập đoàn này. Và kết quả như ngày hôm nay, Vinashin phải sát nhập một số
công ty thành viên của mình vào tập đoàn dầu khí Việt Nam & tổng công ty hàng
hải Việt Nam để góp phần chia sẻ gánh nặng nợ nần & thực hiện tái cơ cấu lại
Vinashin.
Trong khi đó, về phía các ngân hàng đã cho Vinashin vay như BIDV,
Vietcombank, … phải thực hiện theo chỉ đạo của chính phủ là khoanh nợ & giản nợ
các khỏan vay đối với tập đoàn này. Việc sử dụng vốn không đúng mục đích, đầu tư
dàn trải, ban lãnh đạo không có đủ kinh nghiệm, mất cân đối vốn, tình hình kinh tế
thế giới biến động, khủng hỏang tài chính là một trong những rủi ro ảnh hưởng lớn
đến các khoản vay tại các NHTM. Với giải pháp khoanh nợ & giản nợ thì ở một
giới hạn nào đó cũng đã tăng nguy cơ rủi ro tín dụng cho các ngân hàng.
56/98
Bài học kinh nghiệm cho các ngân hàng là cần thiết phải xem xét các rủi ro,
nhận định tình hình trong từng giai đoạn, từng thời kỳ & trong từng biến cố xảy ra
đối với nền kinh tế.
Từ 2 ví dụ nêu trên cho chúng ta thấy việc nhận diện khả năng xảy ra rủi ro
là rất cần thiết trong hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, trong quá trình cho vay & kiểm
soát rủi ro vẫn còn tồn tại những điểm cần lưu ý & cần thiết phải xử lý, phòng ngừa
2.2.3. Thực trạng áp dụng các mô hình quản lý rủi ro tín dụng tại các
NHTMCP Việt Nam
Mỗi mô hình quản lý rủi ro tín dụng đều có những ưu và nhược điểm, mặt khác các
mô hình này không loại trừ lẫn nhau, nên thông thường các ngân hàng thường kết
hợp sử dụng nhiều mô hình để phân tích đánh giá mức độ rủi ro tín dụng. Trong
điều kiện thực tế ở Việt Nam, các ngân hàng thường sử dụng mô hình 6C để đánh
giá khoản vay từ khâu thẩm định đến việc quản lý, theo dõi, kiểm tra và giám sát
các khoản nợ vay
Yếu tố 1: Thẩm định cho vay: nhìn chung các ngân hàng đều có quy định về
quy trình thẩm định khoản vay bao gồm các yếu tố bản sau đây:
- Thẩm định tính pháp lý: Kiểm tra tư cách pháp nhân, năng lực pháp luật
của khách hàng vay, hồ sơ vay vốn, kiểm tra mục đích vay vốn của khách hàng có
hợp pháp không.
- Thẩm định uy tín của khách hàng vay vốn, năng lực quản lý điều hành của
khách hàng hay là ban quản lý doanh nghiệp: về phẩm chất đạo đức, thiện chí, uy
tín trong giao dịch, năng lực quản lý điều hành, hệ thống kiểm tra - kiểm soát nội
bộ…
- Thẩm định về khả năng tài chánh, năng lực hoạt động: thông qua các chỉ số
như khá năng thanh toán, tỷ trọng vốn tự có, vòng quay hàng tồn kho, hiệu suất sử
dụng tài sản, tỷ suất lợi nhuận…
57/98
- Thẩm định về tính hiệu quả của phương án vay vốn: về khả năng thực hiện
phương án kinh doanh, nguồn cung cấp nguyên vật liệu, thị trường tiêu thụ, về
nguồn vốn tài trợ cho phương án, về vốn vay từ ngân hàng có hợp lý không…
- Thẩm định về nguồn trả nợ: khách hàng dự kiến dùng những nguồn thu nào
để thanh toán nợ gốc và lãi, các nguồn thu này có ổn định không…
- Thẩm định về tài sản thế chấp khoản vay: tài sản thế chấp có thuộc sở hữu hợp
pháp của người vay không, có dễ chuyển nhượng, dễ bán không, có bị hao mòn vô
hình không…
Yếu tố 2: Kiểm tra tín dụng: các ngân hàng hầu hết đều có quy trình tín dụng
riêng để kiểm tra tín dụng, tuy nhiên những nguyên lý chung nhất đang được áp
dụng tại hầu hết các ngân hàng là:
- Tiến hành kiểm tra tất cả các loại tín dụng theo định kỳ nhất định.
- Xây dựng kế hoạch, chương trình, nội dung quá trình kiểm tra một cách thận
trọng và chi tiết, đảm bảo rằng những khía cạnh quan trọng của mỗi khoản tín dụng
đều được kiểm tra, bao gồm:
+ Kế hoạch trả nợ của khách hàng nhằm đảm bảo trả nợ đúng hạn.
+ Chất lượng và điều kiện của tài sản đảm bảo.
+ Tính đầy đủ và hợp lệ của hợp đồng tín dụng, đảm bảo tính hợp pháp để sở
hữu các tài sản khi người vay không trả được nợ.
+ Đánh giá điều kiện tài chính và những kế hoạch kinh doanh của người vay,
trên cơ sở đó xem xét lại nhu cầu tín dụng.
+ Đánh giá xem khoản tín dụng có tuân thủ chính sách cho vay của ngân
hàng.
+ Kiểm tra thường xuyên các khoản tín dụng lớn. Vì chúng có ảnh hưởng rất
lớn tình trạng tài chính của ngân hàng.
58/98
+ Quản lý thường xuyên, chặt chẽ các khoản tín dụng có vấn đề, tăng cường
kiểm tra, giám sát khi phát hiện những dấu hiệu xấu liên quan đến khoản vay.
+ Tăng cường công tác kiểm tra khoản tín dụng khi nền kinh tế có nhiều hướng
đi xuống, hoặc những ngành nghề cho vay có biểu hiện nghiêm trọng trong phát
triển.
Tóm lại, để có thể kiểm soát được rủi ro tín dụng, thì chức năng cho vay của
ngân hàng phải được thực hiện một cách chặt chẽ nhằm tuân thủ chính sách và thực
hành tín dụng của ngân hàng. Ngoài ra, để kiểm soát rủi ro tín dụng, các ngân hàng
thường xây dựng một “chính sách tín dụng” và “Quy trình nghiệp vụ cấp tín dụng”
phù hợp
2.2.4. Đánh giá thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại các NHTMCP
Việt Nam
Hầu hết các NHTM Việt Nam hiện nay đều cũng áp dụng đúng như các mô hình
lý thuyết về quản lý rủi ro tín dụng để nhận diện và phân loại các rủi ro tín dụng, về
việc xây dựng và thực hiện các chính sách tín dụng phù hợp cũng như việc kiểm tra
giám sát tín dụng nhằm kiểm soát rủi ro tín dụng. Tuy nhiên, do đặc trưng cũng như
đặc điểm và mục tiêu mà các ngân hàng theo đuổi khác nhau nên việc kiểm soát rủi
ro tín dụng cũng khác nhau. Ví dụ: Vietcombank hay Vietinbank là các ngân hàng
TMCP nhưng tỷ lệ vốn sở hữu của nhà nước chiếm ưu thế quyết định nên việc cho
vay của các ngân hàng này là cho vay theo chỉ định cho các doanh nghiệp nhà nước,
các tập đòan hoặc cho vay theo các chương trình hỗ trợ của chính phủ nên việc thu
hồi nợ đôi khi cũng rất khó khăn và các khỏan nợ có thể được cơ cấu lại hoặc sau
đó sẽ được xóa nợ. Còn các ngân hàng TMCP như ACB, Eximbank, hay
Sacombank thường không ưu tiên cho vay đối với các doanh nghiệp quốc doanh
hay các tập đòan và tổng công ty mà đối tượng khách hàng của họ là các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh và các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên qua các báo cáo tổng
kết thì tỷ lệ nợ quá hạn ở các ngân hàng này rất thấp vì họ kiểm soát rủi ro tín dụng
khá tốt. Trong đó, có thể nhắc đến ACB là đại diện cho nhóm 3 ngân hàng này với
59/98
chính sách quản lý rủi ro tín dụng mang đậm tính chất là quản lý rủi ro. Điều này
thể hiện rõ nét trong định hướng và chính sách tín dụng của ACB. Chính sách tín
dụng của ACB được xây dựng trong từng thời kỳ có thể thay đổi trong vòng 3
tháng, 6 tháng hoặc 1 năm tùy thuộc vào diễn biến của thị trường tài chính. Vì vậy
nó không mang tính cứng nhắc mà rất linh động và phù hợp theo thời cuộc. Chính
sách tín dụng là nội dung sống còn và là kim chỉ nan trong hoạt động cho vay của
ACB. Trong chính sách tín dụng sẽ hướng dẫn cách xếp loại khách hàng theo các
tiêu chí như ngành nghề kinh doanh, nguồn thu nhập để trả nợ vay, chu kỳ gửi các
báo cáo tài chính cho ACB, vị trí địa lý, thời gian khách hàng quan hệ với ACB, kỳ
hạn vay và loại tiền vay, tỷ lệ cho vay trên tài sản đảm bảo, có phát sinh nợ nhóm 2
và nợ nhóm 3 tại các tổ chức tín dụng khác theo thông tin CIC trong 6 tháng gần
nhất ?,…Từ các tiêu chí này ACB sẽ phân thành 4 nhóm: khách hàng thuộc nhóm
duy trì cấp tín dụng, khách hàng thuộc nhóm cấp tín dụng bình thường, khách hàng
thuộc nhóm hạn chế cấp tín dụng và khách hàng thuộc nhóm không cấp tín dụng.
ACB vẫn cấp tín dụng đối với 4 nhóm khách hàng này theo các mức độ rủi ro khác
nhau và được các ban tín dụng hoặc hội đồng tín dụng quyết định về tỷ lệ cho vay
cũng như kỳ hạn vay. Qua việc xây dựng chính sách tín dụng, ACB đã nhận diện và
phân loại rủi ro ngay trong giai đoạn đầu và có thể hạn chế hoặc kiểm soát và cho
vay đối với một số ngành nghề như nông lâm ngư nghiệp, giao thông vận tải, xây
dựng các công trình có vốn ngân sách nhà nước,… Trong quá trình cho vay, ACB
sẽ kiểm tra mục đích sử dụng vốn của khách hàng có phù hợp với phương án vay
vốn hay không bằng cách yêu cầu khách hàng bổ sung chứng từ chứng minh mục
đích sử dụng vốn trong vòng 30 ngày kể từ ngày giải ngân đối với các khỏan vay có
mục đích tiêu dùng. Còn đối với các khoản vay với mục đích sản xuất kinh doanh
hay đầu tư nhà xưởng và máy móc thiết bị thì ngoài việc bổ sung chứng từ thì ACB
sẽ kiểm tra mục đích sử dung vốn và tình trạng hoạt động định kỳ 3 tháng / lần. Và
khi phát hiện khỏan vay có vấn đề và khách hàng thường xuyên trả nợ không đúng
hạn, ACB sẽ áp dụng các biện pháp để thu hồi nợ trước hạn và có thể xử lý tài sản
đảm bảo nếu khách hàng không đủ khả năng trả nợ.
60/98
Còn đối với các ngân hàng TMCP khác thì việc quản lý rủi ro tín dụng cũng có
những điểm tương đồng nhau từ việc nhận dạng rủi ro cho đến việc kiểm soát rủi ro
đều được cụ thể hóa trong các chính sách tín dụng và quy trình cho vay đối với từng
loại hình cho vay.
Và chúng ta không thể phủ nhận những thành tựu mà các NHTMCP đã đạt được
trong các năm qua từ 2006 đến 2009 về tăng trưởng huy động, dư nợ cho vay, lợi
nhuận, và cũng đồng thời giảm tỷ lệ nợ quá hạn nợ xấu qua các năm cũng như
những đóng góp của họ cho cho việc phát triển kinh tế như tạo nguồn cung vốn cho
sản xuất kinh doanh, cho nhu cầu tiêu dùng và các nguồn vốn cho các dự án lớn,….
Điều đó chứng tỏ các NHTMCP đang từng bước tự hoàn thiện mình trong các nhiều
lĩnh vực mà trong đó nói riêng là lĩnh vực quản lý rủi ro tín dụng
Tuy nhiên, thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại các NHTMCP Việt Nam còn
tồn tại các vấn đề như sau:
* Về mặt nhận diện các rủi ro:
- Danh mục vay hiện tại của các ngân hàng thương mại tiềm ẩn mức độ rủi ro
rất cao đặc biệt là đối với các NHTM quốc doanh:
Đối với các NHTM quốc doanh sau khi xử lý một lượng lớn nợ tồn đọng, tỷ lệ
nợ quá hạn còn rất thấp từ đó ta thấy dường như là chất lượng tín dụng tăng lên rất
nhiều. Tuy nhiên, thực sự danh mục cho vay hiện tại lại đang tiềm ẩn những nguy
cơ rủi ro rất cao vì tín dụng tăng trưởng nóng, nợ cho vay trung, dài hạn chiếm tỷ lệ
cao trong tổng tài sản trong khi nguồn vốn các ngân hàng chủ yếu là ngắn hạn. Tốc
độ tăng tín dụng cao hơn tốc độ tăng trưởng nguồn vốn, có xu hướng trở lại bao cấp
tín dụng. Tín dụng tập trung nhiều cho các doanh nghiệp nhà nước độc quyền hoặc
hoạt động không hiệu quả. Mặc dù số lượng doanh nghiệp nhà nước giảm nhưng tín
dụng cho khu vực kinh tế nhà nước thời gian qua tăng cao hơn tốc độ tăng trưởng
kinh tế. Nợ có mức độ rủi ro cao có xu hướng tăng vì những lý do sau:
61/98
Thứ nhất, thời kỳ kinh tế tăng trưởng, tâm lý tiêu dùng và đầu tư thông
thường có phần mở rộng. Đây là vấn đề mang tính quy luật, phụ thuộc chu kỳ kinh
tế. Tuy nhiên khả năng trả nợ, đặc biệt của các dự án trung, dài hạn sẽ có thể thay
đổi rất nhiều khi chu kỳ kinh tế đến giai đoạn chững lại.
Thứ hai, tín dụng trung, dài hạn tăng trưởng rất nhanh, tập trung vào các dự
án với quy mô rất lớn, phức tạp mà việc thẩm định đòi hỏi trình độ chuyên môn cao,
theo các tiêu chuẩn thị trường thực sự, vượt quá năng lực, kinh nghiệm, khả năng
giám sát của các cán bộ tín dụng
Thứ ba, hiện nay có nhiều khoản vay cho các dự án trung, dài hạn (thời hạn
thậm chí đến hơn 10 năm) lại được thực hiện bằng USD mà không xem xét đầy đủ
đến rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá hay tác động của việc phá bỏ các hàng rào thuế quan,
phi thuế quan khi chúng ta gia nhập AFTA, WTO khi nguyên liệu đầu vào của các
dự án đó là phải nhập khẩu…. Ngay cả tín dụng ngắn hạn cũng tăng trưởng mạnh,
một số ngân hàng có biểu hiện khá dễ dãi trong cho vay, không chấp hành đầy đủ
quy trình, quy chế cho vay, gia hạn nợ sai quy định, che dấu nợ quá hạn. Các khoản
vay được cơ cấu không phù hợp với tính chất của phương án vay, kế hoạch trả nợ
không căn cứ dòng tiền của dự án, phương án sản xuất kinh doanh.
Thứ tư, các ngân hàng thương mại chưa đánh giá được rủi ro danh mục đầu
tư, do các ngân hàng thương mại chưa sử dụng một mô hình xác định rủi ro chuyên
biệt nào, cũng như chưa có số liệu thống kê đầy đủ về độ tin cậy, ... Đây là thiếu sót
quan trọng, vì việc xác định rủi ro cấp độ danh mục đầu tư sẽ là tiêu chí mạnh mẽ
để Hội đồng quản trị/ Ban giám đốc các ngân hàng thương mại có sự phân bổ chỉ
tiêu hợp lý, tránh cho vay những lĩnh vực, ngành nghề có độ rủi ro cao, khả năng
gây tổn thất lớn
- Quản trị danh mục cho vay của ngân hàng chưa được chú trọng đa dạng hoá
62/98
Khi theo đuổi chiến lược phát triển tín dụng phù hợp với thị trường mục tiêu,
cần chú trọng đa dạng hoá danh mục cho vay của từng ngân hàng. Các doanh
nghiệp thuộc cùng ngành hàng, cùng quy mô, vùng lãnh thổ…có thể có tương quan
rủi ro tín dụng cao. Rủi ro tín dụng xảy đến cùng lúc với nhiều khách hàng là một
việc ngân hàng cần hết sức tránh. Quản trị danh mục cho vay cần chỉ ra được với tỷ
suất sinh lời chấp nhận được thì tỷ trọng đầu tư tối ưu vào mỗi ngành, vùng, quy
mô… để rủi ro thấp nhất là bao nhiêu. Tuy nhiên vấn đề này hiện chưa thực sự được
quan tâm.
- Các ngân hàng chưa xây dựng được mô hình lượng hoá rủi ro và xác định mức
cho vay tối đa, tối ưu đối với khách hàng
Hầu hết NHTM đều chưa xây dựng được cho mình một mô hình thích hợp để
lượng hoá mức độ rủi ro của khách hàng, từ đó xác định phần bù rủi ro và giới hạn
tín dụng an toàn tối đa đối với một khách hàng cũng như để trích lập dự phòng rủi
ro. Bản thân hệ thống tính điểm tín dụng hiện đang áp dụng ở một số ngân hàng
cũng chưa có hệ thống phương pháp luận cơ sở. Đo lường rủi ro tín dụng ở Việt
Nam hiện đang rất khó, chưa kể đến thông tin ít chính xác và còn quá nghèo nàn.
Thêm vào đó, thông tin đầu vào vô cùng cần thiết phục vụ việc ra quyết định của
ngân hàng chưa được lưu trữ, thu thập và xử lý hiệu quả. Trung tâm thông tin tín
dụng ngân hàng nhà nước hầu như mới chỉ cung cấp được số liệu dư nợ vay của
các doanh nghiệp, chưa có thông tin phi tài chính, khả năng quản lý của lãnh đạo
doanh nghiệp. Thông tin của các ngân hàng nhiều phải lấy đến từ các nguồn phi
chính thức
- Các ngân hàng khi cho vay còn chủ yếu dựa vào tài sản thế chấp mà ít xem xét
đến các nguồn trả nợ khác.
Kinh tế tăng trưởng cao trong vài năm trở lại đây cùng với giá bất động sản bị
đẩy lên cao ở hầu hết các thành phố lớn đã làm nảy sinh tư tưởng chỉ xem trọng tài
sản thế chấp. Số lượng các khoản vay để mua bất động sản (nhà, đất) cũng tăng.
63/98
Tuy nhiên sẽ rất nguy hiểm nếu nhân viên tín dụng quên đi rằng khoản vay cần
được trả bằng dòng tiền tạo ra bởi dự án sản xuất kinh doanh hoặc các nguồn thu
nhập khác chứ không đơn thuần dựa vào tiền bán tài sản thế chấp. Tài sản thế chấp
chỉ là sự đảm bảo cuối cùng khi phương án kinh doanh của khách hàng gặp rủi ro
ngoài dự kiến mà thôi. Đây cũng là tâm lý thường thấy ở các ngân hàng các nước
đang phát triển. Kinh tế tăng trưởng nóng, lãi suất thấp, giá bất động sản thường bị
đẩy lên quá cao do đầu cơ và vượt quá xa giá trị thực.
Các NHTM Việt Nam hiện nay chủ yếu dựa vào tài sản đảm bảo là bất động sản
để cho vay và xem đây là yếu tố đảm bảo hàng đầu cho khoản vay. Đây là một nhận
định vô cùng sai lầm vì nguồn trả nợ cho khoản vay phải là nguồn thu nhập mà cụ
thể là thu nhập từ sản xuất kinh doanh, phương án sử dụng vốn có hiệu quả hay
không, nguồn trả nợ có ổn định không ? Còn bất động sản chỉ là cứu cánh cuối cùng
mà không nên xem là nguồn trả nợ chính vì trên thực tế việc xử lý tài sản loại này
gặp nhiều khó khăn, thời gian xử lý chậm, làm phát sinh nhiều chi phí
* Về mặt thực hiện các chính sách & quy trình tín dụng:
- Muốn thực hiện tốt các chính sách & quy trình tín dụng thì các NHTM phải
xây dựng cho mình một chính sách & quy trình phù hợp. Tuy nhiên, hầu hết các
ngân hàng đều chưa xây dựng cho mình một chính sách tín dụng khoa học, phù hợp.
Ngoài các hướng dẫn quy chế cho vay của NHNN, hầu hết các NHTM đều chưa có
chính sách tín dụng đầy đủ, bằng văn bản của riêng chính mình mà chỉ là những chỉ
đạo rời rạc, không hệ thống, mang tính tình thế và dường như chưa lượng hóa được
các rủi ro. Một chính sách tín dụng được hoạch định tốt phù hợp quy luật khách
quan là điều kiện tiên quyết để quản trị tốt rủi ro tín dụng của ngân hàng. Chính
sách tín dụng phải thể hiện quan điểm và chiến lược của ngân hàng, trên cơ sở quy
chế cho vay của NHNN, là kim chỉ nam cho hoạt động của tất cả nhân viên và lãnh
đạo ngân hàng trong từng thời kỳ.Trong giai đoạn hiện nay, chính sách tín dụng
càng đặc biệt quan trọng bởi các ngân hàng phải thích ứng với sự phức tạp về môi
64/98
trường pháp lý, môi trường kinh doanh đầy mới mẻ, đối mặt với nhiều thách thức,
thậm chí có những rủi ro trước nay chưa hề lường hoặc quan tâm đến. Chính sách
tín dụng phải làm sao vừa đem lại sự thoả mãn cao nhất cho khách hàng vừa đảm
bảo 2 mục tiêu: Tỷ suất sinh lời cao nhất và mức độ rủi ro chấp nhận được cho ngân
hàng.
* Về mặt kiểm tra giám sát quá trình sử dụng vốn
Việc kiểm tra giám sát quá trình sử dụng vốn chưa triệt để và chặt chẽ: Hiện nay
vấn đề kiểm tra mục đích sử dụng vốn của khách hàng còn chưa triệt để và chặt chẽ
vì một khi khách hàng vay giải ngân xong một khỏan vay (nếu là khỏan vay tiêu
dùng – khách hàng chỉ giải ngân một lần hoặc khách hàng vay với mục đích sản
xuất kinh doanh – giải ngân nhiều lần) và khách hàng phải bổ sung chứng từ chứng
minh mục đích sử dụng vốn. Tuy nhiên, khách hàng không có chứng từ vì khách
hàng sử dụng vốn sai mục đích mà nhân viên tín dụng vẫn tiếp tục đề xuất cho tiếp
tục giải ngân vì áp lực doanh số và dư nợ thì khả năng khách hàng sử dụng vốn sai
mục đích rất cao hoặc nhân viên tín dụng không kiểm tra định kỳ tình hình sản xuất
kinh doanh của khách hàng và chỉ đến khi khách hàng có phát sinh nợ trễ hạn thì họ
mới bắt đầu chú ý đến khỏan vay thì khách hàng có thể mất khả năng thanh toán và
là nguyên nhân dẫn đến nợ quá hạn. Vì vậy, việc kiểm tra và giám sát quá trình sử
dụng vốn của khách hàng là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu để kiểm
soát rủi ro tín dụng. Và khi phát hiện ra khoản vay có dấu hiệu bất ổn thì ngân hàng
mới có thể xử lý kịp thời. Tuy nhiên, nhân viên tín dụng hiện nay thường không
xem trọng quá trình kiểm tra mục đích sử dụng vốn và bổ sung chứng từ vì áp lực
tăng doanh số và dư nợ nên vấn đề giám sát quá trình sử dụng vốn còn chưa chặt
chẽ và triệt để.
2.2.5. Đánh giá việc vận dụng Basel trong việc quản lý rủi ro tín dụng
của các NHTM Việt Nam
65/98
Hiện nay, các NHTMCP đã & đang cố gắng áp dụng những chuẩn mực quốc tế
vào công tác quản lý rủi ro nói chung & rủi ro tín dụng nói riêng. Cụ thể như ACB,
Vietcombank, Eximbank, Sacombank, Vietinbank đều có các chính sách tín dụng,
quy trình tín dụng & sổ tay tín dụng trong đó đều đề cập trực tiếp đến quản lý rủi ro
tín dụng bao gồm từ giai đoạn xét duyệt cho vay đến quản lý khoản vay, phân cấp
bộ máy quản lý tín dụng và tách biệt chức năng giám sát tín dụng độc lập so với các
bộ phận khác. Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng đã xây dựng cho mình một hệ
thống chấm điểm tín dụng & xếp hạng khách hàng & hướng đến sẽ xây dựng hệ
thống này theo chuẩn mực quốc tế mà các tổ chức lớn như Standard & Poor, JP
Morgan,.. dựa trên sự đầu tư & chuyển giao công nghệ
Tuy nhiên, vấn đề yếu kém cơ bản của các NHTM trong việc quản lý rủi ro tín
dụng là đảm bảo an toàn vốn. Theo quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN của NHNN
yêu cầu các NHTM phải duy trì hệ số an toàn vốn ở mức tối thiểu 8% và đây cũng
là yêu cầu cơ bản của Basel I. Tuy nhiên, hiện nay trong các thông tin công bố trong
các báo cáo thường niên, trên các website của các NHTMCP chưa thấy công bố
thông tin này dù các NHTM vẫn thường xuyên tăng vốn tự có trong các năm đặc
biệt là từ 2008 đến nay. Điều đó cho chúng ta thấy các NHTMCP đã cố gắng nhiều
trong việc nâng cao mức độ đảm bảo an tòan vốn. Tuy nhiên, qua tìm hiểu của cá
nhân người viết thì chỉ có một số các NHTMCP lớn như ACB, Vietcombank,
Sacombank,Vietinbank,..mới có con số công bố cụ thể còn phần lớn các NHTMCP
có quy mô nhỏ thì không công bố thông tin này. Đối với nhóm các NHTMCP lớn
này thì hệ số này củng ở mức mà NHNN yêu cầu đạt mức tối thiểu & vẫn chưa đạt
được mức 12% như các nước trên thế giới đang áp dụng. Vì thế mà NHNN đã áp
lực việc tăng vốn tự có của các NHTMCP lên tối thiểu 3.000 tỷ đến hết năm 2010
nhằm tạo áp lực cho các ngân hàng quy mô nhỏ cơ cấu hoạt động hoặc sát nhập để
nâng cao tính cạnh tranh trong giai đoạn mở cửa.
Về công tác quản lý rủi ro tín dụng, theo Basel thì các ngân hàng phải kết hợp
quản lý rủi ro tín dụng với quản lý rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro hoạt
động để làm cho các nguồn lực của ngân hàng không bị phân táncho các mục tiêu
66/98
khác nhau & được sử dụng với hiệu quả tối ưu. Và phần lớn các NHTMCP đã xây
dựng được cho mình hệ thống quản lý rủi ro tổng thể của ngân hàng như quản lý rủi
ro thanh khoản, quản lý rủi ro lãi suất, quản lý rủi ro hoạt động,... nhưng các ngân
hàng hiện nay vẫn chưa kết hợp tốt trong việc quản lý các rủi ro này. Bên cạnh đó,
việc cạnh tranh giữa các ngân hàng trong nước trong việc giành giật thị phần, thể
hiện ở việc mở các phòng giao dịch & chi nhánh, chạy đua lãi suất huy động, chạy
đua thu hút khách hàng vay vốn & sử dụng dịch vụ ngân hàng, … dẫn đến mức độ
cạnh tranh ngày càng gay gắt. Chính việc chạy theo sự cạnh tranh này đã làm cho
các ngân hàng giảm nhẹ các tiêu chuẩn & quy định kiểm soát rủi ro & giảm hiệu
quả của quản lý rủi ro tín dụng của các ngân hàng.
2.2.6. Nguyên nhân của các mặt tồn tại trong công tác quản lý rủi ro tín
dụng tại các NHTMCP Việt Nam
Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại các NHTMCP Việt Nam còn tồn tại
nhiều vấn đề chưa thể giải quyết và thực hiện một cách triệt để và tốt nhất để có thể
đạt được hiệu quả cao trong công tác quản lý rủi ro tín dụng. Nguyên nhân của các
tồn tại trong thực trang quản lý tín dụng hiện nay đến từ rất nhiều phía. Nhưng nhìn
chung, ta có thể tạm chia thành các nhóm nguyên nhân chủ yếu sau đây:
2.2.6.1. Nguyên nhân khách quan
- Môi trường kinh tế xã hội và pháp lý chưa thuận lợi
Nền kinh tế Việt Nam vẫn còn lệ thuộc quá nhiều vào sản xuất nông nghiệp
và công nghiệp phục vụ nông nghiệp (nuôi trồng, chế biến thực phẩm và nguyên
liệu), dầu thô, may gia công,… vốn rất nhạy cảm với rủi ro thời tiết và giá cả thế
giới, nên dễ bị tổn thương khi thị trường thế giới biến động xấu. Là một trung gian
tài chính nên rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng là điều không tránh
khỏi. Đặc biệt, khi nước ta chuyển sang nền kinh tế theo cơ chế thị trường thì rủi ro
trong cho vay lại càng cao. Nhận thức rõ điều này nên vào những năm 90 việc cấp
tín dụng của các NHTM phần lớn đều phải có tài sản thế chấp. Nhưng loại tài sản
được thế chấp lại gần như chỉ áp dụng cho nhà ở và đất đai.
67/98
Về môi trường pháp lý ta có thể thấy rằng luật các tổ chức tín dụng, luật dân sự
,.. và các văn bản hướng dẫn thi hành luật liên quan đến hoạt động ngân hàng đã
được triển khai nhưng còn chậm và chồng chéo gây khó khăn cho các ngân hàng.
Ví dụ: theo khỏan 2 điều 54 Luật các Tổ Chức Tín Dụng có quy định “Trong
trường hợp khách hàng không trả được nợ đến hạn, nếu các bên không có thoả
thuận khác thì tổ chức tín dụng có quyền:
a) Bán tài sản cầm cố để thu hồi nợ; chuyển nhượng, bán tài sản thế chấp để
thu hồi vốn trong một thời hạn nhất định theo quy định của pháp luật;
b) Yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh;
c) Khởi kiện khách hàng vi phạm hợp đồng tín dụng và người bảo lãnh theo
quy định của pháp luật.
Điều này làm cho tình hình tài chính của các NHTM ngày càng khó khăn do nợ
không có nguồn thu hồi lại phải ôm giữ một khối tài sản khổng lồ mà giá trị cứ
giảm dần theo thời gian. Vốn không thu hồi được, trong khi ngân hàng vẫn phải
thanh toán đầy đủ các khoản lãi huy động từ dân cư và các nguồn khác, vẫn phải chi
các hoạt động quản lý, tiền lương,…Đặc biệt, ngân hàng còn phải thêm một khoản
chi phí cho việc trông coi, quản lý, bảo quản,… các tài sản đó, chưa kể nếu tài sản
đó liên quan đến các vụ án thì ngân hàng còn phải mất thêm thời gian, sức lực để
theo đuổi. Yêu cầu bức thiết trước mắt là phải xử lý một cách hiệu quả khối tài sản
thế chấp kia để đủ sức cạnh tranh khi hội nhập. Do vậy, các NHTM đã nỗ lực tìm
mọi biện pháp như ngân hàng tự bán, phối hợp với khách hàng hoặc khách hàng tự
tìm người bán,…Tuy nhiên, quá trình xử lý nợ tồn đọng này chậm và hiệu quả chưa
cao, đặc biệt là việc tổ chức phát mãi tài sản thế chấp, tài sản được giao từ các vụ án
tiến hành rất chậm, thậm chí dậm chân tại chỗ.
Như chúng ta đã thấy, vấn đề xử lý nợ quá hạn để lành mạnh hóa tình hình tài
chính của các NHTM hiện nay là một vấn đề khá bức xúc, tốc độ xử lý chậm, hiệu
quả không cao, trong khi thời gian hội nhập ngày càng rút ngắn. Không phải vì
68/98
Ngân hàng không khẩn trương xử lý mà chính vì trong xử lý còn quá nhiều vướng
mắc, bất cập, chẳng hạn như :
Thứ nhất, trong tổng số nợ xấu của các NHTM quốc doanh có đến 60% là nợ
không trả được của các doanh nghiệp nhà nước. Các khoản nợ này đã được thẩm tra
và nếu xác định do nguyên nhân bất khả kháng thì được Nhà nước cho khoanh hoặc
xóa nợ. Do chưa có nguồn thu nên dù đã đưa ra khỏi dư nợ tín dụng, nhưng các
NHTM này vẫn hạch toán ở khoản nợ phải thu và vẫn là tài sản có của họ. Hoặc
những khoản nợ quá hạn đã được xét cho tạm khoanh nhưng vẫn còn hạch toán ở
tài khoản nợ quá hạn và như vậy vẫn còn nằm trong dư nợ tín dụng. Có thể nói rằng
đây là số tài sản không có thực nhưng họ phải theo dõi, phải hạch toán vào trong
bảng cân đối trong suốt mấy năm cho đến khi nào có nguồn xử lý. Còn đối với số
nợ có tài sản bảo đảm, cụ thể là tài sản thế chấp, thì một khối lượng lớn tài sản thế
chấp liên quan đến các vụ án vẫn chưa được xử lý, hoặc đã xử lý nhưng tiến trình
bàn giao quá chậm nên dẫn đến tình trạng tài sản hư hỏng, xuống cấp. Nếu ngân
hàng muốn bán, khai thác hoặc cho thuê buộc phải sửa chữa, đầu tư thêm. Điều này
làm cho chi phí hoạt động của ngân hàng tăng lên, trong khi giá trị thu hồi từ các tài
sản này chưa chắc đã thu đủ nợ gốc. Mặt khác, các tài sản này có khi do vướng mắc
về hồ sơ, thủ tục,…nên giá bán thực tế đôi khi thấp hơn dự kiến. Ngân hàng vì thế
luôn ở trạng thái bị động.
Thứ hai, giá trị tài sản thế chấp quá lớn (có những tài sản trị giá vài chục tỉ
hay thậm chí hàng trăm tỉ đồng) cũng gây khó khăn cho ngân hàng trong việc thu
hồi nợ, vì ít người có khả năng mua được. Hơn nữa, khi bỏ ra một số tiền quá lớn
mà mua lại tài sản “vỡ nợ” thì sức ép tâm lý không phải dễ dàng vượt qua.
Thứ ba, công tác thi hành án còn chậm vì trong thực tế có nhiều bản án,
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực thi hành và đã có đơn yêu cầu thi hành án của
ngân hàng. Nhưng cơ quan thi hành án vẫn chưa thi hành án với nhiều lý do như
bản án chưa rõ ràng, hoặc lý do này khác. Những trường hợp đó, ngân hàng phải
chờ cơ quan thi hành án làm việc lại với Tòa án. Thời gian chờ đợi này thường kéo
69/98
dài hàng tháng thậm chí nửa năm ngân hàng mới nhận được văn bản trả lời của cơ
quan thi hành án. Những giải pháp cần thiết để có thể hạn chế phát sinh nợ quá hạn
không chỉ phụ thuộc vào những biện pháp từ phía ngân hàng, mà cần có những biện
pháp đồng bộ từ phía Chính phủ. Trong khi chờ đợi, trước mắt các NHTM vẫn phải
nỗ lực xử lý những khoản nợ tồn đọng, trong đó có vấn đề xử lý những khoản nợ
quá hạn có tài sản đảm bảo
Bên cạnh đó việc khách hàng được mở tài khỏan giao dịch cũng như vay vốn
tại nhiều tổ chức tín dụng khác nhau nhằm tạo điều kiện cho khách hàng mở rộng
kinh doanh, nhưng điều này làm cho ngân hàng rất khó kiểm sóat tình hình vay nợ
tại các tổ chức tín dụng khác. Hơn nữa các tổ chức tín dụng thường không mặn mà
lắm trong việc cung cấp thông tin lẫn nhau về lịch sử vay vốn của khách hàng vay
vì mục đích cạnh tranh, và bản thân từng ngân hàng thì hòan tòan không có bất cứ
một chương trình hay chính sách nào kêu gọi liên kết với các ngân hàng trên cùng
địa bàn để hợp tác về việc cung cấp thông tin khách hàng, dẫn tới tình trạng là ngân
hàng gặp rất nhiều khó khăn trong việc thẩm định tín dụng, kiểm tra sử dụng vốn
vay dẫn đến rủi ro xảy ra là tất yếu.
- Thiên tai dịch bệnh thường xuyên xảy ra
Từ năm 2005 đến nay, Việt Nam đối diện với hàng loạt các dịch bệnh như
dịch cúm gia cầm kéo dài nhiều năm liền, dịch lở mồm long móng ở heo…làm ảnh
hưởng không những đến các doanh nghiệp chăn nuôi trực tiếp mà còn ảnh hưởng
đến các doanh nghiệp gián tiếp như các công ty sản xuất thức ăn gia súc, doanh thu
của các doanh nghiệp này giảm hẳn, các doanh nghiệp gặp khó khăn trong vấn đề
thu hồi công nợ, các dự án đầu tư dở dang không có vốn thực hiện tiếp làm ảnh
hưởng đến chất lượng tín dụng của các khoản vay trong hệ thống các ngân hàng
Bên cạnh đó, những tác động mạnh mẽ của các cơn bão lớn, lũ lụt, hàng loạt
doanh nghiệp tại các tỉnh ven biển lâm vào tình trạng phá sản, mất hết cả nguồn vốn
làm ảnh hưởng rất lớn đến tình hình thanh toán công nợ đối với khách hàng. Vấn đề
đặt ra là những ảnh hưởng này lại mang tính dây chuyền, việc các doanh nghiệp tại
70/98
vùng thiên tai bị ảnh hưởng cũng sẽ làm cho hàng loạt các doanh nghiệp tại vùng
không bị thiên tai không thể thu hồi công nợ hay việc kinh doanh giảm sút và hậu
quả là ảnh hưởng đến khả năng trả nợ vay ngân hàng.
- Khách hàng sử dụng vốn sai mục đích
Các nguồn thu từ dự án, phương án sản kinh doanh là nguồn trả nợ đầu tiên
cho ngân hàng. Vì vậy nếu khách hàng sử dụng vốn vay không đúng mục đích ngân
hàng sẽ không kiểm tra, giám sát được nguồn trả nợ dẫn đến nợ không được hòan
trả đúng hạn hoặc bị quá hạn… Ví dụ như khách hàng sử dụng vốn vay ngắn hạn để
đầu tư vào các dự án trung dài hạn hoặc các tài sản cố định khác khi đến hạn trả nợ
ngân hàng, khách hàng sẽ đảo nợ hoặc xin cơ cấu lại thời gian trả nợ, hoặc khi
khách hàng vay vốn kinh doanh với các rủi ro kinh doanh đã được ngân hàng xác
định nhưng khách hàng lại sử dụng vốn vay này để kinh doanh chứng khoán với rủi
ro cao hơn. Điều này sẽ gây ra tổn thất lớn cho ngân hàng trong trường hợp thị
trường chứng khóan suy giảm.
- Khả năng quản lý kinh doanh kém:
Khi các doanh nghiệp vay tiền ngân hàng để mở rộng quy mô kinh doanh, đa
phần là tập trung vốn đầu tư vào tài sản vật chất chứ ít doanh nghiệp nào mạnh dạn
đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ máy giám sát kinh doanh, tài chính, kế
toán theo đúng chuẩn mực. Quy mô kinh doanh phình ra quá to so với tư duy quản
lý là nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của các phương án kinh doanh đầy khả thi mà
lẽ ra nó phải thành công trên thực tế
- Khách hàng cung cấp thông tin thiếu minh bạch
Trong trường hợp khách hàng cố tình lừa đảo ngân hàng thì mức độ rủi ro ngân
hàng gặp phải là rất cao. Khách hàng lừa đảo về tài sản đảm bảo như sử dụng nhiều
giấy sở hữu tài sản khác nhau của cùng một tài sản để vay vốn tại nhiều ngân hàng.
Hoặc các thông tin trên báo cáo tài chính được doanh nghiệp làm đẹp số liệu, không
phản ánh trung thực tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp để được ngân
71/98
hàng đánh giá vào nhóm khách hàng tốt để được hưởng các chính sách ưu đãi khác
như: giảm lãi suất vay, tín chấp
2.2.6.2. Nguyên nhân chủ quan
- Chính sách quản lý rủi ro tín dụng:
Các biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng của các NHTM còn thiếu tính hệ
thống, rời rạc, dường như chỉ tập trung vào phía khách hàng đi vay chưa thể hiện rõ
ràng được chiến lược hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng. Điều này cho thấy tầm
quan trọng của khách hàng trong việc hạn chế rủi ro tín dụng, tuy nhiên cũng cho
thấy các NHTM chưa có quan tâm toàn diện đến các nguyên nhân gây rủi ro tín
dụng khác. Các công cụ đánh giá rủi ro tín dụng vẫn chưa được coi trọng và một số
biện pháp còn mang tính chất tình thế, trong khi các biện pháp còn lại mang tính lâu
dài chỉ mới bắt đầu thực hiện nhưng thay đổi quá đột ngột, thiếu thời gian chuẩn bị
cho khách hàng cũng như bản thân các Ngân hàng.
- Các ngân hàng chạy theo mục đích tăng trưởng tín dụng thuần túy
Hiện nay, hoạt động cho vay trong các ngân hàng vẫn là chủ yếu, chiếm gần
đến 90% tổng tài sản có và một tỷ lệ tương đương trong tổng thu nhập của hệ thống
ngân hàng. Vì vậy khi nhìn vào tốc độ tăng trưởng và lợi nhuận của một số ít ngân
hàng, một quan niệm đã được hình thành đó là kinh doanh ngân hàng luôn đem lại
siêu lợi nhuận. Do vậy, không ít ngân hàng từ mô hình nông thôn được một số
doanh nghiệp lớn hậu thuẫn đã “nâng đời” lên thành thị, kết hợp với một số tập
đoàn kinh tế Nhà nước cũng muốn thành lập ngân hàng hình thành nên phong trào
kinh doanh ngân hàng. Chính vì quan niệm đó kết hợp với những tác nhân về chính
sách tiền tệ nới lỏng như tự do hóa về lãi suất, nới lỏng điều kiện vay vốn đã làm
cho con số tăng trưởng tín dụng tăng tới mức khó tin. Đi kèm với tăng trưởng tín
dụng là nợ xấu. Tuy nhiên, tỷ lệ nợ xấu mặc dù đã được cải thiện song vẫn ở mức
cao và đang có xu hướng tăng lên. Nguyên nhân của tình trạng này do:
72/98
- Thứ nhất, việc cho vay chủ yếu dựa vào tài sản đảm bảo, trong khi thị
trường bất động sản và thị trường hàng hoá chưa phát triển và có nhiều biến động
phức tạp
- Thứ hai, do sức ép cạnh tranh và cơ chế khoán trong kinh doanh dẫn tới
nhiều trường hợp nới lỏng điều kiện vay vốn để giành giật khách hàng, cho vay
không đáp ứng đầy đủ các điều kiện vay vốn. Công tác thẩm định dự án đầu tư cho
vay không tốt, qua loa và có nhiều trường hợp có hành vi gian lận, móc ngoặc
- Thứ ba, nhiều nợ xấu phát sinh do việc chậm cấp ngân sách Nhà nước để
giải ngân cho các dự án, đặc biệt là các dự án xây dựng cơ bản dẫn tới nợ đọng vốn
của ngân hàng.
- Chất lượng nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực nói chung và đội ngũ nhân viên quản lý nghiệp vụ nói riêng
là nhân tố quan trọng quyết định đến năng lực quản lý rủi ro của ngân hàng nói
chung và rủi ro tín dụng nói riêng. Nguồn nhân lực tác động đến năng lực quản lý
rủi ro của ngân hàng bao gồm từ nhận thức đến quan điểm cho đến khả năng chuyên
môn của ban lãnh đạo, đội ngũ nhân viên quản lý rủi ro và toàn bộ nhân viên khác
của ngân hàng.
Trước hết quản lý rủi ro tín dụng chỉ có thể thực hiện tốt xuất phát từ quan
điểm, nhận thức của ban lãnh đạo ngân hàng. Tiếp theo, chất lượng đội ngũ nhân
viên tác nghiệp trực tiếp thực hiện nhận biết, xác định, phân tích các rủi ro tín dụng
nhằm tạo cơ sở cho việc ra quyết định kinh doanh và kiểm soát rủi ro tín dụng. Chất
lượng chuyên môn và ý thức nghề nghiệp của bộ phận này trực tiếp quyết định đến
khả năng quản lý rủi ro tín dụng của các NHTM về sự chính xác, hiệu quả trong
từng nội dung, quy trình quản lý rủi ro tín dụng.
Cuối cùng là chất lượng đội ngũ nhân viên làm việc tại các phòng ban
chuyên môn khác như phòng tín dụng, phòng quản lý rủi ro tín dụng, phòng pháp
chế, phòng nghiên cứu thị trường,.. cũng rất quan trọng bởi vì họ chính là những
người trực tiếp tíến hành các hoạt động kinh doanh mặt đối mặt và chịu đựng các
73/98
tổn thất khi các rủi ro tín dụng xảy ra. Những kỹ năng, kinh nghiệm và ý thức tác
nghiệp của những nhân viên này tác động rất lớn đến đến các hoạt động quản lý rủi
ro cũng như năng lực quản lý rủi ro của các NHTM
- Thiếu kiểm tra & giám sát quá trình sử dụng vốn.
Các ngân hàng thường có thói quen tập trung nhiều công sức cho việc thẩm
định trước khi cho vay mà lơi lỏng quá trình kiểm tra, kiểm soát đồng vốn sau khi
cho vay. Khi ngân hàng cho vay thì khoản cho vay cần phải được quản lý một cách
chủ động để đảm bảo sẽ được hoàn trả. Theo dõi nợ là một trong những trách nhiệm
quan trọng nhất của nhân viên tín dụng nói riêng và của ngân hàng nói chung. Việc
theo dõi hoạt động của khách hàng vay nhằm tuân thủ các điều khoản đề ra trong
hợp đồng tín dụng giữa khách hàng và ngân hàng nhằm tìm ra những cơ hội kinh
doanh mới và mở rộng cơ hội kinh doanh. Tuy nhiên trong thời gian qua các
NHTM chưa thực hiện tốt công tác này. Điều này một phần do yếu tố tâm lý ngại
gây phiền hà cho khách hàng của nhân viên ngân hàng, một phần do hệ thống thông
tin quản lý phục vụ kinh doanh tại các doanh nghiệp quá lạc hậu, không cung cấp
được kịp thời, đầy đủ các thông tin mà NHTM yêu cầu.
- Công tác kiểm tóan nội bộ của ngân hàng chưa thật sự được chú trọng
Kiểm toán nội bộ có điểm mạnh hơn thanh tra NHNN ở tính thời gian vì nó
nhanh chóng, kịp thời ngay khi vừa phát sinh vấn đề và tính sâu sát của người kiểm
tóan viên, do việc kiểm tóan được thực hiện thường xuyên cùng với công việc kinh
doanh. Nhưng trong thời gian trước đây, công việc kiểm tóan nội bộ của các ngân
hàng hầu như chỉ tồn tại trên hình thức. Kiểm tóan nội bộ cần phải được xem như
hệ thống “thắng” của cỗ xe tín dụng. Cỗ xe càng lao đi với vận tốc lớn thì hệ thống
này càng phải an toàn, hiệu quả thì mới tránh cho cỗ xe khỏi đi vào những ngã rẽ rủi
ro vốn luôn luôn tồn tại thường trực trên con đường đi tới.
- Sự hợp tác giữa các NHTM chưa chặt chẽ, vai trò của trung tâm tín dụng ngân
hàng nhà nước (CIC) chưa thực sự hiệu quả
74/98
Kinh doanh ngân hàng là một nghề đặc biệt là huy động vốn để cho vay hay
nói cách khác đi vay để cho vay, do vậy vấn đề rủi ro trong hoạt động tín dụng là
không thể tránh khỏi. Trong khi đó, các ngân hàng chưa hợp tác chặt chẽ với nhau
nhằm hạn chế rủi ro. Sự hợp tác nảy sinh do nhu cầu quản lý rủi ro đối với cùng
một khách hàng khi khách hàng này vay tại nhiều ngân hàng. Trong quản trị tài
chính, khả năng trả nợ của một khách hàng là một con số cụ thể, có giới hạn tối đa
của nó. Nếu do sự thiếu trao đổi thông tin, dẫn đến việc nhiều ngân hàng cùng cho
vay một khách hàng đến mức vượt quá giới hạn tối đa này thì rủi ro chia đều cho tất
cả mà không chừa một ngân hàng nào.
Hiện nay ở Việt Nam chưa có một cơ chế công bố thông tin đầy đủ về doanh
nghiệp và ngân hàng. Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng của NHNN (CIC) đã
hoạt động đã quá một thập niên và đã đạt được những kết quả bước đầu rất đáng
khích lệ trong việc cung cấp thông tin kịp thời về tình hình hoạt động tín dụng
thông qua trang web – CIC. Tuy nhiên, CIC chưa phải là cơ quan định mức tín
nhiệm cá nhân, doanh nghiệp một cách độc lập và hiệu quả, thông tin cung cấp còn
đơn điệu, thiếu cập nhật. Đó cũng là thách thức cho hệ thống ngân hàng trong việc
mở rộng và kiểm soát tín dụng cho nền kinh tế trong điều kiện thiếu một hệ thống
thông tin tương xứng. Nếu các ngân hàng cố gắng chạy theo thành tích, mở rộng tín
dụng trong điều kiện môi trường thông tin không cân xứng thì sẽ gia tăng nguy cơ
nợ xấu cho hệ thống ngân hàng
75/98
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn hội nhập kinh tế khu vực và thế giới với
tình hình kinh tế thế giới đầy biến động như giá cả leo thang, giá vàng, đô la biến
động cũng như giá xăng dầu thế giới tăng kỷ kục hơn so với các trước đây, sự sụp
đổ của thị trường cho vay bất động sản của các ngân hàng Mỹ. Các ngân hàng Việt
Nam cũng sẽ ít nhiều chịu ảnh hưởng từ những biến động này đặc biệt là trong vấn
đề quản lý rủi ro tín dụng. Và chúng ta cũng đã chứng kiến những vấn đề về chạy
đua lãi suất huy động, chạy đua tăng trưởng tín dụng nhằm đạt được lợi nhuận kỳ
vọng. Từ đó ta có thể thấy kiểm soát và quản lý rủi ro tín dụng là hết sức cần thiết.
76/98
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG
TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM
3.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY:
- Cơ hội cho các NHTM Việt Nam trong tiến trình hội nhập
Hội nhập quốc tế thành công sẽ đem lại cho Việt Nam nhiều cơ hội như mở rộng
thị trường, tận dụng những kinh nghiệm quản lý, kế thừa những thành tựu khoa học
của các nước đi trước, tăng khả năng thu hút vốn đầu tư và sự chuyển giao kỹ thuật
công nghệ, nâng vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế. Đối với hệ thống ngân
hàng Việt Nam, thông qua hội nhập quốc tế sẽ nắm bắt được các cơ hội sau:
Thứ nhất, hội nhập kinh tế quốc tế tạo động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới và
cải cách hệ thống ngân hàng Việt Nam, nâng cao năng lực quản lý nhà nước trong
lĩnh vực ngân hàng, tăng cường khả năng tổng hợp, hệ thống tư duy xây dựng các
văn bản pháp luật trong hệ thống ngân hàng, đáp ứng yêu cầu hội nhập và thực hiện
cam kết với hội nhập quốc tế.
Thứ hai, hội nhập quốc tế mở ra cơ hội trao đổi, hợp tác quốc tế giữa các
NHTM trong hoạt động kinh doanh tiền tệ, đề ra giải pháp tăng cường giám sát và
phòng ngừa rủi ro, từ đó nâng cao uy tín và vị thế của hệ thống NHTM Việt Nam
trong các giao dịch quốc tế. Đồng thời, các ngân hàng Việt Nam có điều kiện tranh
thủ vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý và đào tạo đội ngũ cán bộ, phát huy lợi thế
so sánh của mình để theo kịp yêu cầu cạnh tranh quốc tế và mở rộng thị trường ra
nước ngoài.
Thứ ba, hội nhập quốc tế giúp các NHTM Việt Nam tiếp cận và chuyên môn
hoá các nghiệp vụ ngân hàng hiện đại. Chính hội nhập quốc tế cho phép các ngân
hàng nước ngoài tham gia tất cả các dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam buộc các
77/98
NHTM Việt Nam phải chuyên môn hoá sâu hơn về nghiệp vụ ngân hàng, quản trị
ngân hàng, quản trị tài sản nợ, quản trị tài sản có, quản trị rủi ro, cải thiện chất
lượng tín dụng, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn, dịch vụ ngân hàng và phát
triển các dịch vụ ngân hàng mới mà các ngân hàng nước ngoài dự kiến sẽ áp dụng ở
Việt Nam. Hơn nữa, việc mở cửa thị trường cho hàng hoá xuất khẩu Việt Nam cũng
sẽ là một cơ hội tốt để các ngân hàng mở rộng kinh doanh. Các NHTM Việt Nam sẽ
có nhiều cơ hội kinh doanh hơn, có nhiều khách hàng hơn trong lĩnh vực xuất nhập
khẩu
- Thách thức đối với các NHTMCP Việt Nam trong tiến trình hội nhập
Thứ nhất, các NHTMCP Việt Nam ngày càng chịu áp lực trong việc giữ và mở
rộng thị phần của mình ngay trên lãnh thổ Việt Nam. Hiện nay, các NHTMCP phải
chịu áp lực cạnh tranh gay gắt không chỉ bởi các NHTM nước ngoài mà còn phải
chịu áp lực cạnh tranh với các tổ chức tài chính trung gian khác và các định chế tài
chính khác như thị trường chứng khoán, cho thuê tài chính, bảo hiểm,v.v.. Ngoài ra,
việc phải loại bỏ dần những hạn chế đối với NHTM nước ngoài có nghĩa là các
NHTM nước ngoài sẽ từng bước tham gia đầy đủ vào mọi lĩnh vực hoạt động ngân
hàng tại Việt Nam
Thứ hai, cạnh tranh trong việc huy động vốn ngày càng gay gắt. Thực hiện hội
nhập đòi hỏi chúng ta phải thực hiện lộ trình cởi bỏ những hạn chế đối với các ngân
hàng nước ngoài trong việc huy động vốn. Ngày 16.9.2004, NHNN Việt Nam đã
điều chỉnh tỷ lệ huy động tiền gửi VND đối với chi nhánh ngân hàng nước ngoài
hoạt động ở VN từ 25% lên 50%. Việt Nam cũng đang cam kết mở cửa thị trường
dịch vụ tài chính – ngân hàng theo lộ trình nới lỏng dần và tiến tới xoá bỏ các hạn
chế đối với hoạt động ngân hàng. Giai đoạn từ 2001 đến 2010, các ngân hàng Mỹ
sẽ được thành lập các ngân hàng liên doanh với số vốn từ 30% - 49%, tới năm 2010
được thành lập ngân hàng với vốn 100% của Mỹ. Hội nhập ngân hàng đòi hỏi các
NHTMCP Việt Nam phải nhanh chóng tăng quy mô, đầu tư công nghệ, cải tiến
78/98
trình độ quản lý. Công nghệ hiện đại và trình độ quản lý cũng như tiềm lực tài chính
dồi dào của những ngân hàng nước ngoài sẽ là những ưu thế cơ bản tạo ra sức ép
cạnh tranh trong ngành ngân hàng và buộc các ngân hàng Việt Nam phải tăng thêm
vốn, và đầu tư kỹ thuật, cải tiến phương pháp quản trị, hiện đại hoá hệ thống thanh
toán để nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh. ..
Thứ ba, cạnh tranh trong việc cung cấp dịch vụ ngân hàng cũng ngày càng
quyết liệt. Ngày nay, ngoài những nghiệp vụ truyền thống như tín dụng và đầu tư
thì dịch vụ ngân hàng cũng tạo nên sắc thái mới cho ngân hàng trong chiến lược
cạnh tranh vào tạo thị phần cho mình. Do đó, các NHTMCP Việt Nam cũng phải
chịu áp lực tạo nên phong cách văn hoá cho ngân hàng mình, tạo nên phong cách
phục vụ riêng thể hiện nét đặc thù của mình mới hy vọng tạo thế đứng vững chắc
trên thị trường
Thứ tư, cạnh tranh trong việc sử dụng lao động ngày càng gay gắt. Mọi sự thành
công của một doanh nghiệp đều xuất phát từ yếu tố con người. Hiện nay, chế độ đãi
ngộ cho lao động đặc biệt là lao động có trình độ cao ở các NHTMCP Việt Nam
chưa đủ sức thuyết phục để lôi kéo những lao động có trình độ chuyên môn cao.
Hiện tượng chảy máu chất xám là căn bệnh nan y không chỉ đối với ngành tài chính
– ngân hàng mà đối với tất cả các ngành kinh tế ở Việt Nam.
- Định hướng phát triển chung hiện nay:
Thứ nhất: Các ngân hàng phải có chính sách hướng về phát triển và tăng tỷ
trọng dịch vụ, để tránh phụ thuộc quá nhiều vào nguồn thu tín dụng. Chính sách này
vừa phù hợp điều kiện phát triển kinh tế năng động của TPHCM, vừa mang lại cho
ngân hàng nhiều lợi ích: đang dạng hoá hoạt động theo hướng ngân hàng hiện đại,
thu hút khách hàng doanh nghiệp, cung cấp dịch vụ trọn gói, đồng thời kiểm tra
được hoạt động kinh doanh của khách hàng, tăng năng lực cạnh tranh. Một điểm
mạnh của ngân hàng phát triển hoạt động dịch vụ là thu hút được nguồn vốn không
kỳ hạn khá cao, từ đó giảm được chi phí vốn bình quân, lãi suất cho vay hợp lý,
79/98
không bị sa vào các cuộc chạy đua lãi suất. Để đẩy mạnh hoạt động dịch vụ,
NHTMCP cần nghiên cứu và đưa ra nhiều sản phẩm cho khách hàng doanh nghiệp
bên cạnh các hoạt động tín dụng truyền thống: dịch vụ tư vấn và quản lý đầu tư,
ngân hàng điện tử, quản lý tài sản… để phát triển các mảng dịch vụ mới này, ngoài
đầu tư công nghệ hiện đại, ngân hàng còn phải đầu tư vào con người. Đội ngũ nhân
viên trình độ cao, có khả năng sử dụng, tư vấn thành thạo chuyên nghiệp các sản
phẩm dịch vụ mới cho khách hàng.
Thứ hai: Các ngân hàng phải có chính sách khách hàng hướng vào nguồn vốn
thay vì chính sách mở rộng tín dụng để đảm bảo nguồn vốn phát triển bền vững, lãi
suất hợp lý. Vì một khi nền kinh tế phát triển nhanh, nhu cầu về vốn lớn và chưa có
dấu hiệu bất ổn rõ rệt thì đa số các NHTMCP Việt Nam đều mở rộng tín dụng mạnh
mẽ mà ít quan tâm đến nguồn vốn. Một phần do việc vay vốn dễ dàng và lãi suất
thấp trên thị trường liên hàng, hoạt động tín dụng chiếm vai trò chủ đạo trong tổng
hoạt động ngân hàng… Nhưng hiện nay, khi tình hình vốn khó khăn, khả năng
thanh khoản của thị trường địa ốc và chứng khoán kém, chạy đua lãi suất giữa các
ngân hàng làm các ngân hàng thấy rõ tầm quan trọng của chính sách khách hàng
hướng vào nguồn vốn. Bài học kinh nghiệm của các ngân hàng nước ngoài là để có
thanh khoản tốt và nguồn vốn bền vững thì chính sách phải hướng vào nguồn vốn
huy động từ dân cư và các tổ chức kinh tế, đặc biệt là các khách hàng có dòng lưu
chuyển tiền lớn thay vì dựa vào nguồn vốn trên thị trường liên ngân hàng. Đây cũng
chính là khác biệt trong chính sách giữa ngân hàng nước ngoài và NHTMCP trong
nước nói chung. Ngân hàng nước ngoài khi trước 2008 cũng tập trung ưu đãi đối
với khách dư nợ cao và vay trả thường xuyên. Ngược lại, với chính sách ưu tiên
phát triển nguồn vốn, ngân hàng nước ngoài huy động nguồn vốn chi phí thấp và
bền vững từ khách hàng của họ. Kết quả là thời gian qua, khi tình hình lãi suất tăng
cao, nguồn vốn khan hiếm, các NHTMCP trong nước không có đủ nguồn vốn thì
ngân hàng nước ngoài vẫn có nguồn vốn giải ngân cho khách hàng và cho vay lại
trên thị trường liên hàng. Chính sách này có thể không mang lại lợi nhuận cao
nhưng đảm bảo phát triển ổn định và thoả mãn được nhu cầu vay vốn của khách
80/98
hàng, duy trì được mức lãi suất hợp lý, xây dựng được một tỷ lệ hợp lý giữa nguồn
vốn và dư nợ theo tiêu chuẩn quốc tế.
Thứ ba: Các NHTMCP cần có chính sách tín dụng nhằm đạt được mục tiêu
cân bằng giữa tối đa hoá lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro, đảm bảo tăng trưởng và
phát triển bền vững theo thông lệ quốc tế. Xây dựng chính sách khách hàng để có sự
phân hoá rõ rệt giữa các nhóm khách hàng theo các tiêu chí: lịch sử quan hệ, khách
hàng chiến lược, mức độ an toàn vốn vay… để có các ưu đã riêng phù hợp về lãi
suất, phí, chính sách chăm sóc tránh tình trạng cào bằng, áp dụng một chính sách tín
dụng chung cho các loại hình doanh nghiệp với quy mô hoạt động, mức độ hiệu
quả, mục đích sử dụng vốn khác nhau. Mặt khác, áp dụng chính sách lãi vay linh
hoạt vào kỳ hạn, loại tiền, dự án vay vốn, khách hàng. Hoạt động quản lý tín dụng
đảm bảo các tỷ lệ an toàn vốn, cơ cấu tín dụng phù hợp chiến lược khách hàng,
ngành hàng, chính sách quản lý rủi ro, cơ cấu nguồn vốn, đảm bảo mức tăng trưởng
tín dụng phù hợp với năng lực, quản lý, điều hành và trình độ nghiệp vụ của nhân
viên tín dụng.
Thứ tư: Các NHTMCP cần xây dựng danh mục tín dụng phù hợp từng thời
kỳ. Một danh mục tín dụng không hợp lý, thiếu đa dạng, khi xảy ra bất trắc gây
những tổn thất nghiêm trọng cho ngân hàng. Danh mục tín dụng phải đảm bảo các
yếu tố:
+ Đa dạng hoá được ngành nghề, khách hàng vay, yếu tố địa lý và loại hình
cho vay.
+ Phù hợp tình hình kinh tế vĩ mô và điều kiện, xu hướng phát triển của thị
trường hoạt động.
+ Phù hợp quy mô, năng lực và khả năng kiểm soát rủi ro của bản thân ngân
hàng
. + Phù hợp định hướng phát triển và lợi thế so sánh của ngân hàng
3.2. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG
TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM
81/98
Chúng ta thấy rằng quản lý rủi ro tín dụng là hết sức cần thiết đối với các ngân
hàng nói chung và NHTMCP nói riêng. Việc xây dựng các giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng phải được thực hiện trên cơ sở nhận biết và
quản lý tốt các rủi ro thì hiệu quả của công tác quản lý rủi ro tín dụng mới cao. Trên
cơ sở đó, các giải pháp có thể được nêu ra như sau:
3.2.1. Giải pháp vĩ mô:
3.2.1.1. Đảm bảo môi trường kinh tế chính trị xã hội ổn định:
Môi trường kinh tế chính trị xã hội có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động tín
dụng. Trong điều kiện khi Việt Nam hòa nhập vào nền kinh tế thế giới thì cạnh
tranh càng cao, nền kinh tế dễ biến động, doanh nghiệp dễ có nguy cơ mất khả năng
thanh toán, phá sản. Hơn nữa, hiện nay có nhiều ngân hàng mới được thành lập,
trong khi thị trường có hạn nên cạnh tranh ngày càng khốc liệt, từ đó chất lượng tín
dụng ngày càng giảm thấp. Đảm bảo các môi trường này ổn định sẽ giúp cho các
doanh nghiệp cũng như khách hàng hoạt động kinh doanh có hiệu quả hơn, khả
năng hoàn trả nợ vay ngân hàng cao.
Để đảm bảo môi trường ổn định có nhiều cách, trong đó không thể không có sự
can thiệp của Chính phủ như đề ra các quy định về vốn điều lệ, nhân sự,… giảm
thiểu sự thành lập các ngân hàng, nâng cao chất lượng ngân hàng, cũng như điều
tiết nền kinh tế, giảm thiểu những khó khăn do thị trường gây ra tác động lên các
doanh nghiệp
3.2.1.2. Hoàn thiện quy trình xử lý tài sản đảm bảo, rút ngắn thời
gian giải quyết hồ sơ để các ngân hàng nhanh chóng thu hồi
các khoản nợ cần xử lý.
Mặc dù luật và các văn bản có liên quan của Việt Nam quy định Ngân hàng
thương mại có quyền xử lý tài sản đảm bảo nợ vay khi khách hàng không trả được
nợ, tuy nhiên cơ chế pháp lý chưa rõ ràng, đặc biệt là quyền sử dụng đất. Theo Nghị
định 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 của Chính phủ tại điểm 4, điều 34 cho
phép tổ chức tín dụng (TCTD) có quyền xử lý tài sản bảo đảm nói chung và tài sản
82/98
bảo đảm là quyền sử dụng đất nói riêng nếu không đạt được sự thỏa thuận giữa các
bên. Tuy nhiên, Thông tư liên tịch số 03/2001/TTLT-NHNN-BTP-BCA-BTC-
TCĐC giữa Liên bộ Ngân hàng Nhà nước, Bộ tư pháp, Bộ công an, Bộ tài chính,
Tổng cục địa chính ngày 29.4.2001 (sau đây gọi tắt là Thông tư 03) quy định TCTD
không được trực tiếp bán hay được trực tiếp nhận quyền sử dụng đất để thay thế cho
việc thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm. Và theo Khoản 2 – Mục III của thông tư
này, nếu không đạt được sự thỏa thuận của các bên thì TCTD phải đưa ra bán đấu
giá hay khởi kiện ra Tòa: “Trường hợp tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, tài sản
gắn liền với đất không xử lý được theo thoả thuận của các bên trong hợp đồng thì tổ
chức tín dụng đưa tài sản ra bán đấu giá để thu hồi nợ hoặc khởi kiện ra tòa án”.
Việc này gây cản trở cho các ngân hàng thương mại khi xử lý tài sản thế chấp trong
thực tế, việc xử lý thu hồi nợ còn mất nhiều thời gian và qua nhiều khâu đoạn, do:
- Ngân hàng chuyển hồ sơ của tài sản đảm bảo sang Trung tâm bán đấu giá
chuyên trách thuộc Sở tư pháp để xử lý, tuy nhiên tiến độ xử lý quá chậm, mất
nhiều thời gian, thậm chí có nhiều trường hợp tồn đọng không xử lý được. Việc này
do nhiều nguyên nhân, trong đó có một nguyên nhân không thể không nhắc đến là
hoạt động của Trung tâm bán đấu giá kém hiệu quả. Khi đó, không ít trường hợp
ngân hàng có thể phối hợp với người có tài sản đảm bảo để xử lý hoặc tự xử lý
được, nhưng khi tiến hành chuyển quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất
cho người mua, thì các cơ quan chức năng từ chối việc thực hiện công chứng, đăng
bộ,… với lý do quyền sử dụng đất trong trường hợp này phải thông qua Trung tâm
bán đấu giá chuyên trách theo quy định
- Khi xử lý tài sản đảm bảo là quyền sử dụng đất thì các ngân hàng phải xin
phép Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền cho phép bán đấu giá làm cho quy trình
bán đấu giá càng mất nhiều thời gian & thủ tục: phải mất 15 ngày để xin giấy phép
bán đấu giá, 15 ngày tiếp theo thực hiện đăng ký bán đấu giá, 30 ngày niêm yết tài
sản bán đấu giá & 60 ngày tiếp theo là thời gian cấp giấy chứng nhận cho người
mua tài sản
83/98
Công tác thi hành án còn chậm. Trong thực tế có nhiều bản án, quyết định
của Tòa án đã có hiệu lực thi hành và đã có đơn yêu cầu thi hành án của ngân hàng.
Nhưng cơ quan thi hành án vẫn chưa thi hành án với nhiều lý do như bản án chưa rõ
ràng, hoặc lý do khác. Những trường hợp đó, ngân hàng phải chờ cơ quan thi hành
án làm việc lại với Tòa án. Thời gian chờ đợi này thường kéo dài hàng tháng thậm
chí nửa năm ngân hàng mới nhận được văn bản trả lời của cơ quan thi hành án.
Trong nền kinh tế thị trường, đi đôi với sự sinh sôi phát triển các doanh
nghiệp làm ăn hiệu quả là sự phá sản của các doanh nghiệp kinh doanh hoạt động
yếu kém, đào thải trong cạnh tranh là quy luật khách quan, không phụ thuộc vào ý
chí của nhà doanh nghiệp. Ngân hàng thương mại với chức năng trung gian tài
chính, luôn phải gánh chịu những khoản nợ tồn đọng là tất nhiên. Việc áp dụng các
giải pháp khai thác và thanh lý đối với các khoản nợ chuyển quá hạn đều là giải
pháp tác động của ngân hàng lên khách hàng khi mọi việc đã rồi, vì thế ngân hàng
luôn ở trạng thái bị động.
Vì vậy: Để việc xử lý thu hồi nợ được nhanh hơn và giảm thiểu chi phí,
Chính phủ cần hoàn thiện quy trình xử lý tài sản đảm bảo từ khâu đấu giá đến khâu
thi hành án, rút ngắn thời gian giải quyết hồ sơ cũng như khuyến khích giao dịch
thoả thuận đúng luật nhằm giúp các ngân hàng nhanh chóng thu hồi được nợ từ các
tài sản đảm bảo.
3.2.1.3. Nâng cao chất lượng của trung tâm thông tin tín dụng của
ngân hàng nhà nước (CIC)
Một trong những điều kiện cần thiết để thực hiện quản lý rủi ro tốt là hệ thống
thông tin phải đầy đủ, cập nhật, chính xác. Vì vậy, việc hoàn thiện hoạt động của
trung tâm tín dụng là rất cần thiết nên CIC cần chú trọng đổi mới và hiện đại hóa
các trang thiết bị, thiết lập hệ thống sao cho việc thu thập cũng như cung cấp thông
tin tín dụng được thông suốt, kịp thời.
Vì vậy, NHNN cần có những quy định bắt buộc đối với tất cả các tổ chức tín
dụng trong việc khai báo đầy đủ thông tin tín dụng bao gồm thông tin của người đi
84/98
vay, báo cáo tài chính của khách hàng, số tiền vay, tình hình vay trả, tài sản đảm
bảo… vào hệ thống thông tin tín dụng hoặc áp dụng mã số tín dụng đối với các khách
hàng cá nhân… để hỗ trợ các ngân hàng trong việc quản lý rủi ro tín dụng. Mặt
khác, NHNN cần phát triển hệ thống thông tin tín dụng một cách nhanh chóng,
chính xác và phong phú theo hướng: cung cấp đánh giá xếp loại doanh nghiệp dựa
theo nhiều tiêu thức khác nhau như: quy mô, khả năng thanh toán, quan hệ tín dụng,
hiệu quả sản xuất kinh doanh...; thu nhập thêm thông tin qua các tổ chức quốc tế;
tạo lập thông tin trên diện rộng, phối hợp với cơ quan thuế, cơ quan kiểm toán và
UBND tỉnh, thành phố lập mã số nộp thuế của doanh nghiệp để các tổ chức tín dụng
truy cập thông tin được dễ dàng và NHNN cần phải có biện pháp khuyến khích, đi
dần đến quy định bắt buộc các NHTM hợp tác, cung cấp thông tin một cách đầy đủ
cho trung tâm vì hiện nay, các NHTM chưa có sự hợp tác tích cực với CIC chủ yếu
là do muốn giữ bí mật thông tin về khách hàng để cạnh tranh. Thanh tra NHNN nên
kiểm tra việc báo cáo, khai thác thông tin của các ngân hàng, đồng thời có biện
pháp xử lý kiên quyết, kịp thời đối với những ngân hàng vi phạm chế độ báo cáo
thông tin tín dụng.
Bên cạnh đó, NHNN cũng cần có biện pháp tuyên truyền để các ngân hàng hiểu
rõ thêm về quyền lợi và nghĩa vụ trong việc cung cấp và sử dụng thông tin tín dụng.
Đồng thời, NHNN cần quy định chặt chẽ, cụ thể và bắt buộc các tổ chức tín dụng
cung cấp tình hình dư nợ khả năng trả nợ, nợ xấu về CIC, và CIC cũng thông tin về
các khách hàng vay vốn có vấn đề.
3.2.1.4. Lựa chọn cấp độ độc lập tự chủ phù hợp với NHNN thời kỳ
mới.
Hiện tại, NHNN thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt
động ngân hàng; là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và
ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ. Chính phủ là nơi quyết định chính
sách (cả về mục tiêu lẫn chỉ tiêu hoạt động) cũng như can thiệp vào quá trình triển
khai thực thi chính sách tiền tệ. Đây là một trong những nguyên nhân làm hạn chế
85/98
hiệu quả hoạt động của NHTW, nhất là trong việc thực hiện mục tiêu ổn định giá trị
đồng tiền và gây chậm trễ trong chính sách, không phù hợp tình hình thực tế. Vì
vậy, NHNN Việt Nam cần được trao quyền độc lập, tự chủ hơn trong việc đưa ra
các quyết định chính sách mà không có sự can thiệp từ phía các cơ quan nhà nước
hay các áp lực chính trị; đồng thời được quyền kiểm soát tất cả các công cụ có ảnh
hưởng tới các mục tiêu của chính sách tiền tệ, nhất là về vấn đề chống lạm phát, hạn
chế việc tài trợ trực tiếp cho thâm hụt ngân sách của Chính phủ. Bên cạnh đó, cũng
cần trao cho NHNN quyền chủ động quyết định về tài chính, tức là tự chủ về ngân
sách. Có như vậy thì NHNN mới có đủ nguồn lực để thực thi chức năng, nhiệm vụ
một cách có hiệu quả nhất
3.2.1.5. Tạo điều kiện để phát triển thị trường mua bán nợ xấu của
các NHTM
Đối với hoạt động mua bán nợ xấu, hệ thống NHTM có các Công ty Quản lý
nợ và Khai thác tài sản. Tuy nhiên, thị trường mua bán nợ chưa có cơ chế rõ ràng và
một hành lang pháp lý đầy đủ. Tính đến cuối năm 2008, nợ xấu của hệ thống ngân
hàng Việt Nam ở khoảng 43.500 tỷ đồng, chiếm 3,5% tổng dư nợ tín dụng.
Việc mua bán nợ xấu ngân hàng ở Việt Nam hầu như chưa có và nếu có thì
diễn ra rất khó khăn từ việc lập hồ sơ, đưa lên tòa, đến thi hành án rất lằng nhằng,
phức tạp, thậm chí 2 - 3 năm không xong được việc. Sở dĩ việc mua, bán nợ xấu
ngân hàng chưa nhiều trên thị trường là do: Chính phủ vẫn chưa để mắt tới vấn đề
này và chưa cho phép lực lượng nước ngoài tham gia vào thị trường. Mặc dù, khi
nói đến thị trường thì phải bao gồm nhiều đối tượng: trong nước và ngoài nước,
quốc doanh và tư nhân cùng tham gia. Hoạt động này trên thế giới thông suốt là do
những quốc này có một hệ thống pháp lý hoàn hảo và tạo mọi điều kiện thuận lợi
cho thị trường này phát triển như nhân lực có tay nghề cao, cung cấp dịch vụ bài
bản...
Trong thời điểm nền kinh tế đang đối mặt với nhiều khó khăn, Chính phủ
nên dành sự ưu đãi và quan tâm đầu tư cho lĩnh vực mua bán nợ, đặc biệt là mua
86/98
bán nợ xấu ngân hàng: Nhà nước cần đưa ra các cơ chế chính sách rõ ràng, cải tiến
và đơn giản hóa các thủ tục hành chính, giảm bớt chi phí xử lý nợ giữa ngân hàng
và các doanh nghiệp, nhằm làm lành mạnh mạch máu cho nền kinh tế, góp phần
thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam.
Muốn thực hiện tốt các giải pháp này, nhà nước phải đảm bảo thực hiện các điều
kiện sau:
- NHNN nên rà soát lại các văn bản chồng chéo, thiếu đồng bộ, không còn
phù hợp với thực tế để hệ thống các văn bản của ngành mang tính pháp lý cao.
- Có chính sách thích hợp để thị trường chứng khoán, thị trường bất động
sản phát triển ổn định và vững chắc nhằm làm giảm rủi ro do các thị trường đó gây
ra như tính thanh khoản, pháp lý
- Cơ chế, chính sách của Nhà nước nên được đổi mới theo hướng cho phép
ngân hàng áp dụng các thông lệ quốc tế trong việc xác định trước và trích lập dự
phòng rủi ro. Quỹ dự phòng rủi ro hiện được trích theo phân loại nợ và bị đọng: đợi
đến lúc quá hạn, trở thành nợ xấu mới trích, mà không hề tính toán theo mức độ rủi
ro của khoản vay
- Các cơ quan chức năng có thẩm quyền cần tạo điều kiện hỗ trợ ngân hàng
thu hồi nợ, nếu có xảy ra tranh chấp thì sử dụng luật dân sự, không nên hình sự hoá
các quan hệ tín dụng.
3.2.2. Giải pháp vi mô
3.2.2.1. Nhận diện được các rủi ro có thể xảy ra:
Các rủi ro tín dụng có thể xảy ra ở tất cả các ngành nghề kinh doanh trong
đó có một số ngành nghề dễ xảy ra rủi ro như cho vay kinh doanh bất động sản,
kinh doanh chứng khoán, nuôi trồng thủy hải sản,… việc giới hạn cho vay ở một số
ngành nghề nhất định sẽ làm giảm rủi ro tín dụng. Bên cạnh đó, việc đa dạng hóa
danh mục cho vay theo nhiều loại sản phẩm tín dụng khác nhau, theo vùng miền
khác nhau nhằm phân tán các rủi ro có thể xảy ra.
87/98
Trên bình diện tổng thể, để nhận diện được các rủi ro có thể xảy ra dựa vào
tự bản thân mỗi ngân hàng nên xây dựng một hệ thống cảnh báo sớm liên quan đến
các dấu hiệu của khách hàng và thị trường. Để nhận biết và ước lượng tác động của
những dấu hiệu này, đòi hỏi nhân viên tín dụng có trình độ, nhạy bén và phải quan
tâm theo dõi sát tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng. Các yếu tố cần lưu ý
như:
+ Đề nghị gia hạn/ điều chỉnh kỳ hạn nợ nhiều lần với lý do không chính
đáng.
+ Trễ hạn thanh toán lãi, thanh toán nợ gốc không đúng theo hợp đồng.
+ Đề nghị tăng thêm hạn mức/ vay thêm với lý do không chính đáng hoặc
bất chấp lãi suất.
+ Ngành hàng hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc chính sách vĩ mô của
kinh tế nhà nước tác động bất lợi đến hoạt động sản xuất kinh doanh của khách
hàng.
+ Tài sản đảm bảo sụt giảm giá trị/ không đủ tiêu chuẩn
+ Cung cấp hoá đơn tài chính không đầy đủ, không có chứng minh hợp lý
việc sử dụng tiền vay.
+ Trì hoãn hoặc cung cấp báo cáo tài chính có số liệu biến động bất thường
+ Cơ cấu ban lãnh đạo có nhiều thay đổi hoặc phát sinh mâu thuẫn.
+ Khách hàng chờ đợi các khoản thu từ thu nhập bất thường/ huy động khác
chứ không phải nguồn thu từ hoạt động kinh doanh chính.
+ Lảng tránh hoặc trì hoãn các đợt kiểm tra định kỳ hoặt đột xuất của ngân
hàng về tình hình sản xuất kinh doanh mà không có lý do chính đáng.
+ Sử dụng nguồn vốn ngắn hạn đầu tư trung dài hạn hoặc có dấu hiệu đầu tư
vốn vào những lĩnh vực phát triển nóng (nhưng kinh doanh chứng khoán, vàng, bất
động sản )
88/98
+ Có công tác dự báo diễn biến nền kinh tế, của từng ngành lĩnh vực tác
động đến ngân hàng, khách hàng vay vốn. Từ đó đưa ra định hướng, chính sách cụ
thể cho từng ngành, từng lĩnh vực, cấp hạn mức cụ thể để chủ động phòng tránh rủi
ro, tránh những phản ứng quá chậm, gây lúng túng trong công tác quản lý
3.2.2.2. Quản lý việc thanh tra chế độ báo cáo:
Hệ thống quản lý thanh tra giám sát của các ngân hàng thương mại cổ phần
hiện nay vẫn còn coi trọng công tác thanh tra tại chỗ, xem nhẹ công tác thanh tra
giám sát từ xa và kiểm toán nội bộ. Việc giám sát từ xa, kiểm toán nội bộ mục đích
là cung cấp những thông tin cần thiết, tín hiệu cảnh báo nhằm ngăn chặn sớm, phát
hiện kịp thời những sự cố để có hướng khắc phục, phòng ngừa hiệu quả
Muốn thực hiện được tốt vấn đề này, các ngân hàng thương mại cổ phần cần
phải xây dựng, thiết lập đội ngũ kiểm tra giám sát có trình độ, chuyên môn cao,
luôn được đào tạo nghiệp vụ vững chắc và cập nhật mới để nắm bắt kịp thời những
sự cố và kinh nghiệm thực tiễn. Bên cạnh đó phải định kỳ kiểm tra giám sát các
hoạt động của ngân hàng để giảm thiểu được những sai sót có thể xảy ra. Đồng thời
phải thực hiện nghiêm ngặt các chế độ báo cáo, báo cáo hàng tháng, hàng quý đều
đặn, đảm bảo tính chính xác khách quan và minh bạch.
3.2.2.3. Trong sạch hóa đội ngũ cán bộ nhân viên ngân hàng:
Từ trước đến nay, đã có rất nhiều vụ án lừa đảo, chiếm đoạt tài sản, gây hậu
quả nghiêm trọng trong hệ thống ngân hàng mà xuất phát từ cán bộ, nhân viên ngân
hàng như Phạm Nhật Hồng, Nguyễn Lê Việt… Họ lợi dụng sơ hở trong các quy
định, quy trình cấp tín dụng, thông đồng với khách hàng để làm giả giấy tờ rút vốn
ngân hàng, nhận tiền của khách hàng gửi trả nợ ngân hàng khi đến hạn bỏ vào túi
riêng,… gây rủi ro thiệt hại cho ngân hàng.
Do vậy ngân hàng cần phải làm trong sạch hoá đội ngũ cán bộ, nhân viên
bằng nhiều biện pháp như tăng cường công tác quản trị điều hành, kiểm tra kiểm
soát, thực hiện nghiêm túc các quy định, quy trình cấp tín dụng; rà soát chấn chỉnh
89/98
công tác tổ chức cán bộ, chọn người có năng lực, phẩm chất đạo đức tốt bố trí vào
các bộ phận thiết yếu quan trọng, giao dịch trực tiếp với khách hàng.
3.2.2.4. Phát triển nguồn nhân lực:
Yếu tố con người luôn là yếu tố quan trọng nhất quyết định đến sự thành bại
của bất cứ một hoạt động nào trên mọi lĩnh vực. Đối với hoạt động tín dụng thì yếu
tố con người lại càng đóng một vai trò quan trọng, nó quyết định đến chất lượng tín
dụng, chất lượng dịch vụ và hình ảnh của NHTM và từ đó quyết định đến hiệu quả
tín dụng của ngân hàng.
Cần xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý rủi ro tín dụng có kinh nghiệm, kiến
thức, khả năng nhanh nhạy trong xem xét, đánh giá các đề xuất tín dụng. Hướng
dẫn, tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ, trình độ thẩm định
đánh giá các doanh nghiệp và các dự án của doanh nghiệp, chú trọng nghiệp vụ
marketing, kỹ năng bán hàng, thương thảo hợp đồng và văn hoá kinh doanh. Định
kỳ, có những chương trình họp, học tập kinh nghiệm, trao đổi thực tế giữa lãnh đạo
và nhân viên để bổ sung thông tin, kinh nghiệm. Đặc biệt ở bộ phận quản lý rủi ro
phải có một tiêu chuẩn rõ ràng về trình độ, kinh nghiệm thực tế, thời gian trải qua
công tác tại bộ phận quan hệ khách hàng. Kiên quyết loại bỏ, thuyên chuyển sang
bộ phận khác những nhân viên yếu về tư cách đạo đức, thiếu trung thực, những
nhân viên tín dụng thiếu kiến thức chuyên môn nghiệp vụ.
Bên cạnh đó, có chính sách tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ và đề bạt thích hợp
với yêu cầu và trách nhiệm công việc, tổ chức các lớp học, tập huấn, đào tạo và đào
tạo lại. Bổ nhiệm các chức danh khách quan, đúng quy trình, lựa chọn người đủ
năng lực và phẩm chất. Đồng thời, có chính sách rõ ràng và phân quyền cụ thể liên
quan đến cho vay, thu nợ và xử lý nợ (sổ tay tín dụng) để từng nhân viên trong từng
bộ phận hiểu rõ trách nhiệm và quyền hạn của mình.
3.2.2.5. Đầu tư công nghệ quản lý rủi ro
Chú trọng đầu tư công nghệ thông tin nhằm phục vụ cho việc phân tích đánh
giá, đo lường rủi ro. Do số lượng món vay lại khá lớn nên việc quản lý các khoản
90/98
vay của các nhân viên tín dụng gặp nhiều khó khăn. Vì thế, các ngân hàng phải
nâng cao công tác giám sát khoản vay, tăng cường ứng dụng công nghệ tin học
trong hoạt động ngân hàng nhằm cập nhật thường xuyên mọi biến động về các
khoản dư nợ của các khách hàng tại ngân hàng mình trong đó bao gồm việc nâng
cấp hệ thống máy móc tin học, truyền thông thích hợp, đồng thời nâng cao chất
lượng các công cụ đo lường rủi ro và tiếp tục áp dụng các công cụ đo lường rủi ro
mới từ đó giúp ngân hàng có chính sách phòng ngừa kịp thời . Bên cạnh đó,việc đầu
tư công nghệ trong công tác quản lý rủi ro tín dụng nên được tư vấn và thiết kế bởi
một đơn vị cung cấp chuyên nghiệp các giải pháp tài chính. Các NHTM trong nước
đặt hàng các công ty lớn trên thế giới trong việc thiết kế các chương trình riêng để
phân tích, đánh giá rủi ro khoản vay. Công nghệ đem lại kết quả chính xác, khách
quan, giảm thiểu thời gian, công sức cho cán bộ tín dụng khi quản lý số lượng lớn
các khoản vay của các khách hàng
3.2.2.6. Xây dựng quy trình quản lý rủi ro tín dụng phù hợp:
Quy trình quản lý rủi ro tín dụng có bốn giai đoạn cơ bản: khởi đầu và giải ngân;
giám sát và quản lý; thu hồi và xử lý nợ; thẩm định lại rủi ro tín dụng. Mỗi ngân
hàng nên có một quy trình quản lý rủi ro tín dụng cho riêng mình, nhưng vẫn đảm
bảo đầy đủ các giai đoạn. Xây dựng và thực hiện tốt quy trình có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc hạn chế sai sót, rủi ro, nâng cao chất lượng tín dụng.
* Giai đoạn khởi đầu & giải ngân:
Đây là giai đoạn đầu tiên trong quy trình. Giai đoạn này, các ngân hàng thương
mại cần phải làm tốt, làm kỹ ngay từ lúc bắt đầu, cụ thể như việc thu thập thông tin,
thẩm định khách hàng,... trong đó cần chú trọng đến các khâu như:
+ So sánh kết quả xếp hạng khách hàng nội bộ với xếp hạng của các
cơ quan xếp hạng bên ngoài (hiện tại là CIC).
+ Phân tích cơ cấu nợ, mục đích là để xác định những tác động của cơ
cấu nợ đối với nguy cơ vỡ nợ của khách hàng. Nếu cơ cấu nợ không hợp lý và hiệu
quả thì người trả nợ sẽ bị hạ thấp loại xếp hạng.
91/98
Hai khâu này cần phải được tiến hành phối hợp cùng với nhau mới phát
huy được tối đa hiệu quả.
Thẩm định tín dụng mục đích là để hiểu biết về khách hàng, khả năng
sinh lợi, phát hiện và chú trọng rủi ro để từ đó giảm thiểu rủi ro.Thẩm định khách
hàng bao giờ cũng tồn tại mâu thuẫn giữa một bên là thẩm định quá kỹ thì chậm,
khách hàng bỏ đi, với một bên là thẩm định qua loa thì rủi ro cao. Ngân hàng là một
trung gian tài chính nên rủi ro trong hoạt động tín dụng là không thể tránh khỏi,
những nhà quản lý ngân hàng giỏi phải biết chấp nhận rủi ro ở mức có thể chấp
nhận được. Do đó việc thẩm định khách hàng phải luôn tuân thủ theo quy trình đã
được đề ra. Bám sát theo đúng quy trình định sẵn, việc thẩm định sẽ không phải tốn
nhiều thời gian do phải định hướng, mà vẫn có thể đảm bảo giảm thiểu được rủi ro.
Sau khi phân tích, đánh giá, thẩm định khách hàng, hồ sơ được duyệt, các
ngân hàng tiến hành soạn thảo hồ sơ tín dụng mang tính ràng buộc chặt chẽ về mặt
pháp lý và giải ngân.
* Giám sát & quản lý khoản vay:
Trong thời hạn khoản vay, cần phải theo dõi việc sử dụng vốn vay của khách
hàng, việc thực thi các phương án, kế hoạch trả nợ, rà soát bổ sung hồ sơ đầy đủ.
Mục đích là nhằm giúp phát hiện kịp thời nhanh chóng những dấu hiệu cảnh báo
sớm, những nguy cơ rủi ro tiềm ẩn để có biện pháp ngăn chặn, khắc phục, phòng
ngừa. Bên cạnh đó, việc chú trọng giám sát và quản lý sau cho vay, giúp các ngân
hàng gần gũi với khách hàng hơn, nắm bắt kịp thời nhu cầu cũng như những khó
khăn để tư vấn và cùng nhau giải quyết. Muốn thực hiện được, nhân viên ngân hàng
cần phải định kỳ thăm hỏi khách hàng, giám sát tình hình tài chính, đánh giá lại
tiềm lực, khả năng của khách hàng, đồng thời rà soát lại hồ sơ vay, cập nhật tình
hình biến động của thị trường, ngành nghề kinh doanh, những thay đổi dù nhỏ của
khách hàng.
* Thu hồi & xử lý nợ:
Giai đoạn thu hồi & xử lý nợ cũng vô cùng quan trọng. Bên cạnh việc rà soát lại
hồ sơ, nhân viên ngân hàng cũng phải thường xuyên theo dõi việc trả nợ của khách
92/98
hàng. Tiến độ trả nợ một phần đánh giá nên tiềm lực của khách hàng, cũng như thái
độ cộng tác, nguy cơ rủi ro trong tương lai. Nếu việc trả nợ đang tốt, bỗng dưng
chậm lại một vài kỳ, nhưng vẫn thanh toán đủ, nhân viên ngân hàng cần phải tìm
hiểu nguyên nhân, để tìm biện pháp khắc phục, thậm chí có thể giúp ích được cho
khách hàng bằng cách trao đổi với đối tác khách hàng khi cần thiết, tư vấn cho
khách hàng những phương án mới giúp nhanh thu hồi được vốn...Nếu việc trả nợ
thường xuyên chậm và để quá hạn nhiều kỳ, ngoài việc theo dõi, tìm hiểu nguyên
nhân, đôn đốc khách hàng trả nợ, nhân viên ngân hàng cần phải tiến hành rà soát hồ
sơ, thẩm định lại khả năng trả nợ và chuyển qua xử lý nợ.
Việc xử lý nợ cần phải được tiến hành càng sớm càng tốt theo đúng trình tự và
thủ tục, nên có một bộ phận hoặc công ty xử lý nợ riêng biệt để tăng thêm tính
chuyên môn hoá cao và đạt được hiệu quả như ý muốn. Sau khi rà soát thẩm định
lại khoản vay, khả năng trả nợ của khách hàng, nếu khoản vay vẫn còn có khả năng
thu hồi, bộ phận xử lý nợ hoạch định kế hoạch và biện pháp thu hồi; nếu các khoản
vay có nguy cơ mất khả năng thu hồi nợ, bộ phận xử lý nợ sẽ chuẩn bị phương án
xử lý nội bộ, sau đó chuyển hồ sơ sang các cơ quan hữu quan có thẩm quyền thụ lý.
* Thẩm định lại rủi ro tín dụng:
Bên cạnh các giai đoạn trên, việc thẩm định lại rủi ro tín dụng nhằm giúp
cho các ngân hàng xác định được mức độ tổn thất khi vỡ nợ có thể xảy ra để ngăn
ngừa hoặc dùng quỹ dự phòng trích lập, xử lý trước.
Đối với những khoản vay không có bảo đảm, việc đánh giá mức độ tổn
thất khi vỡ nợ phụ thuộc vào giá trị hiệu quả ròng trong bảng cân đối kế toán của
khách hàng, tỷ trọng của tín dụng không bảo đảm/tổng giá trị tín dụng.
Đối với những khoản vay có bảo đảm, việc xác định mức độ tổn thất khi
vỡ nợ được tiến hành theo hai khâu. Một là xác định giá trị của khách hàng, xem xét
tài sản của khách hàng có thể bán đi và có những cách thức tin cậy giúp xác định
giá trị tài sản này hay không. Hai là xác định liệu những tài sản nhất định của khách
93/98
hàng có thể được thanh lý độc lập với nhau hay không khi vỡ nợ, nếu khách hàng
phá sản thì còn lại được những gì?
Việc thẩm định lại rủi ro tín dụng, xác định mức độ thiệt hại khi vỡ nợ
xảy ra, hoặc là hậu quả của việc không trả được nợ để xác định mức độ tổn thất ước
tính là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến mức dự phòng rủi ro mà các ngân hàng
đặt ra. Hoạt động của ngân hàng là phân bổ nguồn vốn kinh tế dựa trên mức độ tổn
thất ước tính nhưng cần chú ý tính toán các khoản vay sao cho có thể bù đắp được
những tổn thất dự kiến và các tổn thất ngoài dự kiến, tức là cần phải tính đến cả các
yếu tố như khả năng vỡ nợ, mức độ tổn thất thực tế khi vỡ nợ và tổn thất thông
thường khi vỡ nợ.
3.2.2.7. Cải cách bộ máy hoạt động nhằm xây dựng sự độc lập giữa
chức năng bán hàng, tác nghiệp và quản lý rủi ro trong
NHTM
Hiện nay mô hình độc lập giữa chức năng bán hàng tác nghiệp và quản lý rủi
ro tín dụng chưa được áp dụng rộng rãi ở các NHTM. Các NHTM quốc doanh hiện
vẫn chưa áp dụng mô hình này. Việc bán hàng, tác nghiệp, và quản lý rủi ro vẫn
chưa thật sự độc lập. Hiện các NHTMCP ngoài quốc doanh đang từng bước áp
dụng mô hình này như ACB, Sacombank. Việc áp dụng mô hình này thể hiện sự
phận công công việc và chuyên môn hóa cho từng bộ phận sẽ giúp các ngân hàng
hạn chế được rủi ro. Việc chuyên môn hóa giữa các bộ phận sẽ giúp cho nhân viên
hiểu rõ công việc mình đang làm nâng cao nghiệp vụ và mang tính chuyên môn hóa
cao.Tránh trường hợp hồ sơ vay chỉ có một bộ phận xử lý từ giai đoạn tiếp thị, bán
hàng đến lúc giải ngân, theo dõi khoản vay và thu nợ vì áp dụng theo mô hình này
dễ gây ra tình trạng quan liêu trong công tác cho vay. Đây cũng là một yêu cầu tất
yếu trong quá trình hội nhập để quản lý tốt các rủi ro bao gồm cả rủi ro tín dụng.
Cải cách bộ máy tín dụng hoạt động theo thông lệ quốc tế về quản lý rủi ro
tín dụng. Tách các chức năng tiếp thị, quan hệ khách hàng, thẩm định rủi ro độc lập,
quyết định tín dụng và quản lý nợ cùng với việc phân định rõ trách nhiệm, quyền
94/98
hạn, đảm bảo tính độc lập, khách quan. Thực hiện sự giám sát và kiểm soát chặt
chẽ, thường xuyên của cán bộ các cấp liên quan tới cấp tín dụng và bộ phận kiểm
tra và giám sát tín dụng độc lập
Bộ phận quan hệ khách hàng (Marketing): chức năng tìm kiếm, tiếp xúc,
khởi tạo quan hệ tín dụng với khách hàng.
Bộ phận quản trị rủi ro tín dụng: thẩm định tín dụng độc lập, giám sát quá
trình thực hiện các quyết định của bộ phận quan hệ khách hàng. Đồng thời, giám sát
quá trình vay vốn, trả nợ của khách hàng, tạo ra được quá trình kiểm tra liên tục sau
khi cho vay. Sau khi xem xét các điều kiện của khách hàng vay, sẽ có trả lời về việc
đồng ý hay không đối với khoản vay.
Bộ phận tác nghiệp: chức năng lưu trữ hồ sơ, nhập máy tính, theo dõi và
quản lý khoản vay theo đúng các yêu cầu, điều kiện đã được xác lập từ bộ phận
quản trị rủi ro tín dụng. Đây có thể cùng là bộ phận quan hệ khách hàng. Để chuyển
đổi được mô hình cấp tín dụng mới này phải giải quyết 3 vấn đề:
Thứ nhất, do mô hình mới ảnh hưởng đến quyền hạn của nhân viên có liên
quan đến quá trình cấp tín dụng. Bây giờ, quyết định cho vay hay không phụ thuộc
vào quyết định của tập thể, các bộ phận độc lập. Đây là một trở lực không nhỏ cho
quá trình chuyển đổi mô hình của các NHTM, vì các bộ phận, con người đã quen
với cách thức hoạt động truyền thống (một nhân viên tín dụng từ tìm kiếm, thẩm
định, giải ngân và thu nợ hoàn tất khoản vay). Để khắc phục được yếu tố này, cần
có sự sắp xếp lại cơ cấu tổ chức liên quan đến bộ phận tín dụng, chuyển đổi về cách
nghĩ, phân định rõ trách nhiệm quyền hạn của từng bộ phận.
Thứ hai, do thiếu thông tin, đặc biệt là thông tin tín dụng, các báo cáo của
doanh nghiệp chưa bắt buộc phải qua kiểm toán. Quy trình mới lại yêu cầu tách
bạch giữa các chức năng, nên nhân viên thẩm định (không trực tiếp tiếp xúc khách
hàng) phải có đầy đủ thông tin để ra quyết định đúng đắn, hợp lý.
95/98
Thứ ba, việc phân định trách nhiệm phải rõ ràng, đặc biệt là trách nhiệm
pháp lý để đảm bảo sợi dây liên kết chặt chẽ, tránh sự e ngại, sợ trách nhiệm trong
quá trình cấp tín dụng, ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng và khách hàng
Ưu điểm của mô hình mới này là sự tách bạch giữa bộ phận tiếp thị và thẩm
định, giúp quyết định cho vay đảm bảo tính chuyên nghiệp, chuyên môn hoá sâu
hơn, mang tính khách quan hơn, tăng cường khả năng giám sát. Từ đó giúp nhận
dạng rủi ro tiềm năng và có biện pháp phòng ngừa thích hợp.
Ví dụ như :
VietinBank đã chuyển đổi mô hình tổ chức bộ máy tín dụng trong toàn hệ
thống với các chức năng độc lập, theo đó chức năng nghiên cứu tham mưu ban hành
chính sách tín dụng được tách biệt với chức năng quản lý khách hàng, thẩm định và
đề xuất tín dụng (Phòng khách hàng); thẩm định rủi ro và quản lý danh mục tín
dụng (phòng Quản lý rủi ro); theo dõi, quản lý các khoản nợ bị suy giảm khả năng
trả nợ (Phòng quản lý nợ có vấn đề); kiểm tra, giám sát tín dụng độc lập (Ban kiểm
tra, kiểm soát nội bộ)
ACB cũng đã thực hiện chuyển đổi mô hình tổ chức cấp tín dụng từ cuối
năm 2008. Theo đó, phòng tín dụng sẽ bao gồm nhân viên quan hệ khách hàng
chuyên quản lý dư nợ và bán hàng, nhân viên phân tích tín dụng là người phân tích
hồ sơ, lập tờ trình và trình cấp phê duyệt tín dụng. Cấp phê duyệt bao gồm ban tín
dụng chi nhánh, ban tín dụng khu vực, ban tín dụng hội sở, và hội đồng tín dụng.
tương ứng với mỗi ban là giới hạn một hạn mức phê duyệt riêng được quy định
trong chính sách tín dụng. Sau khi hồ sơ được phê duyệt cấp tín dụng sẽ được
chuyển sang bộ phận pháp lý chứng từ để thực hiện các thủ tục pháp lý. Cuối cùng
mới chuyển đến bộ phận dịch vụ khách hàng để kiểm soát hồ sơ và giải ngân cho
khách hàng. Theo đó, nhân viên quan hệ khách hàng và nhân viên dịch vụ khách
hàng cùng nhau kiểm tra & giám sát quá trình sử dụng vốn của khách hàng. Hàng
tháng sẽ có trung tâm thu nợ là người đôn đốc nhắc nhở thu nợ. Khi xảy ra nợ quá
96/98
hạn, thì khỏan vay sẽ được chuyển cho công ty xử lý nợ & khai thác thác tài sản
(ACBA) trực thuộc ACB để tiến hành các thủ tục pháp lý để thu hồi nợ.
97/98
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Qua việc phân tích các rủi ro tín dụng đối với các NHTMCP Việt Nam, định
hướng phát triển của hệ thống ngân hàng và những thách thức trong quá trình hoạt
động và hội nhập quốc tế, các NHTM cần phải xây dựng và hoàn thiện những giải
pháp cụ thể để phòng ngừa và kiểm soát rủi ro tín dụng.
Đối với các nguyên nhân chủ quan đến từ phía ngân hàng thì sẽ được phòng
ngừa qua các quy trình nghiệp vụ và kỹ năng kiểm soát. Bên cạnh đó cũng cần sự
hỗ trợ từ phía NHNN thông qua các thông tư, quyết định và nhất là hành lang pháp
lý thông thoáng. Từ đó giúp các NHTMCP Việt Nam ngày càng vững mạnh hơn
trong quá trình chuẩn bị hội nhập vào nền kinh tế khu vực và nền kinh tế quốc tế
hiện nay.
98/98
KẾT LUẬN
Khủng hoảng tài chính của Châu Á năm 1997 bắt nguồn từ Thái Lan, khủng
hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 bắt đầu từ phố Walls của Mỹ. Với cường quốc
tài chính như Mỹ nhưng vẫn lâm vào khủng hoảng trầm trọng do các khoản nợ cho
vay dưới chuẩn vì khả năng đánh giá rủi ro không chính xác, không có kịch bản đối
phó cho trường hợp khủng hoảng toàn diện trong điều kiện kinh tế phát triển không
ngừng, dù đã trải qua nhiều bài học kinh nghiệm, nhưng hoạt động quản lý rủi ro tín
dụng chưa bao giờ là đủ. Với tác động sâu rộng và mạnh mẽ của rủi ro tín dụng, tùy
từng giai đoạn mức độ phát triển, mà các NHTMCP phải luôn củng cố hoàn thiện
công tác quản lý rủi ro tín dụng, để vừa có lợi nhuận vừa đảm bảo an toàn tài chính
cho bản thân
Luận văn đã đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín
dụng, đảm bảo cấp tín dụng chặt chẽ khách quan và khoa học đối với các NHTMCP
Việt Nam, đồng thời kiến nghị chính phủ, NHNN có các giải pháp để tạo điều kiện
cho các NHTMCP tăng cường khả năng quản lý rủi ro tín dụng. Ngoài ra, cần hoàn
thiện các yếu tố như đào tạo nhân sự, phát triển công nghệ, xây dựng hệ thống thu
thập phân tích thông tin… Từng bước hoàn thiện công tác quản lý rủi ro tín dụng để
nâng cao chuẩn an toàn cho bản thân các ngân hàng đảm bảo lợi nhuận, nâng cao
năng lực cạnh tranh. Đây chính là yêu cầu sống còn của hệ thống NHTM Việt Nam
nói chung trong giai đoạn hiện nay.
Với kiến thức đã được thu nhận từ nhà trường, nghiên cứu thực tế, kinh
nghiệm làm việc bản thân và sự hướng dẫn của TS Lê Thị Lanh, tác giả luận văn đã
trình bày vấn đề về giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng tại các
NHTMCP Việt Nam
Chân thành cảm ơn nhà trường, thầy cô đã tận tình hướng dẫn, truyền đạt
kiến thức. Rất mong nhận được sự góp ý của Quý thầy cô, bạn bè để luận văn được
hoàn thiện hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
PGS TS Trần Huy Hoàng (2007), Quản trị ngân hàng thương mại, NXB Lao
Động Xã Hội
2.
PGS TS. Nguyễn Đăng Dờn (2004) , “Tiền tệ ngân hàng”, NXB thống kê
3.
TS Hồ Diệu (2001), Tín dụng ngân hàng, NXB Thống Kê
4.
TS Lê Thị Mận & ThS Hồng Thị Lan Phương, “ Rủi ro tín dụng& quản lý rủi
ro tín dụng của các NHTM tại TP.HCM”, Tạp chí phát triển kinh tế (số 187
tháng 05/2006)
5.
Trần Đình Định. Quản trị rủi ro trong hoạt động ngân hàng theo chuẩn mực,
thông lệ quốc tế & quy định của Việt Nam, NXB Tư Pháp
6.
Bộ luật dân sự 2005 (2008), NXB Chính trị quốc gia
7.
Bùi Duy Hưng, “Bài học kinh nghiệm về đo lường rủi ro tín dụng từ khủng
hoảng nợ dưới chuẩn ở Mỹ”, Tạp chí ngân hàng, (số 18 tháng 9-2008), trang
59-62
8.
Báo cáo tài chính, báo cáo thường niên của ngân hàng ACB, Vietcombank,
Eximbank, Vietinbank, Sacombank các năm 2006 – 2009
9.
Ngân hàng nhà nước Việt Nam (2005), Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN
ngày 22/04/2005 về phân loại nợ, trích lập dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt
động ngân hàng của Tổ chức tín dụng, Hà Nội
10. Các văn bản pháp quy của NHNN về quản lý tín dụng
11.
Thông tin tham khảo trên các website
http://vneconomy.vn
http://www.sbv.gov.vn
http://www.cafef.vn