BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM -----------

NGUYỄN HOÀNG OANH

GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP.Hồ Chí Minh - Năm 2010

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM -----------

NGUYỄN HOÀNG OANH

GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM

Chuyên ngành : Kinh Tế Tài Chính - Ngân Hàng Mã số

:

60.31.12 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. LÊ THỊ LANH

TP.Hồ Chí Minh - Năm 2010

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, chưa

công bố tại bất cứ nơi nào. Các số liệu sử dụng trong luận văn này là những thông

tin xác thực và tôi xin chịu mọi trách nhiệm về lời cam đoan của mình

TP, Hồ Chí Minh, ngày 05 tháng 10 năm 2010

Tác giả luận văn

Nguyễn Hoàng Oanh

MỤC LỤC

Trang

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TÍN DỤNG, RỦI RO TÍN DỤNG, QUẢN LÝ RỦI

RO TÍN DỤNG

1.1.TỔNG QUAN VỀ TÍN DỤNG ........................................................................... 01

1.1.1.Khái niệm .................................................................................................... 01

1.1.2.Phân loại tín dụng....................................................................................... 01

1.2.TỔNG QUAN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG............................................................ 02

1.2.1.Rủi ro tín dụng trong bối cảnh hậu khủng hoảng ................................... 02

1.2.2.Phân loại rủi ro tín dụng............................................................................ 02

1.2.3.Nguyên nhân rủi ro tín dụng ..................................................................... 04

1.2.3.1.Nguyên nhân khách quan .................................................................. 04

1.2.3.2 Nguyên nhân chủ quan...................................................................... 06

1.2.4.Hậu quả của rủi ro tín dụng ...................................................................... 07

1.2.4.1.Hậu quả đối với hệ thống ngân hàng thương mại ............................. 07

1.2.4.2.Hậu quả đối với nền kinh tế .............................................................. 09

1.2.5.Các tiêu chí xác định mức độ rủi ro tín dụng .......................................... 09

1.2.5.1.Tỷ lệ nợ quá hạn................................................................................ 09

1.2.5.2.Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ và nợ xấu trên vốn chủ sở hữu ........... 11

1.2.5.3.Hệ số giới hạn huy động vốn ............................................................ 11

1.2.5.4 Hệ số rủi ro tín dụng.......................................................................... 12

1.2.6.Các mô hình đo lường rủi ro tín dụng ...................................................... 12

1.2.6.1.Mô hình 6C ...................................................................................... 12

1.2.6.2.Mô hình điểm số Z (Z - Credit scoring model)................................. 13

1.2.6.3.Hệ thống tính điểm tín dụng ............................................................. 15

1.3.TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG ........................................ 15

1.3.1.Khái niệm quản lý rủi ro tín dụng ............................................................ 15

1.3.2.Nội dung của quản lý rủi ro tín dụng ....................................................... 16

1.3.2.1.Nhận diện các rủi ro tín dụng............................................................ 16

1.3.2.2.Thực hiện đúng các chính sách &quy trình tín dụng ........................ 17

1.3.2.3.Kiểm tra và giám sát tín dụng nhằm kiểm soát rủi ro tín dụng......... 18

1.3.2.4. Phương pháp quản lý rủi ro tín dụng................................................ 19

1.3.3. Các phương pháp tiếp cận rủi ro tín dụng theo Basel ........................... 20

1.3.3.1. Giới thiệu sự hình thành & hoạt động của Basel ............................. 20

1.3.3.2. Tiếp cận rủi ro tín dụng theo Basel I ................................................ 23

1.3.3.3. Tiếp cận rủi ro tín dụng theo Basel II............................................... 24

1.3.3.4. Chuẩn mực an toàn & quản lý rủi ro tín dụng theo Basel II ............ 26

1.4.KINH NGHIỆM QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC NƯỚC& BÀI

HỌC KINH NGHIỆM CHO CÁC NHTM VIỆT NAM................................. 29

1.4.1.Kinh nghiệm quản lý rủi ro tín dụng ở các nước .................................... 29

1.4.2. Bài học kinh nghiệm cho các NHTM Việt Nam...................................... 33

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC NGÂN

HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM

2.1.THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

VIỆT NAM TRONG CÁC NĂM QUA ............................................................ 36

2.1.1.Thực trạng môi trường hoạt động ngân hàng trong các năm qua ........ 36

2.1.2.Thực trạng hoạt động ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam ......... 39

2.1.2.1.Quy mô tăng vốn............................................................................... 39

2.1.2.2.Tình hình huy động vốn .................................................................... 40

2.2.THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC

NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM.................................. 43

2.2.1.Đánh giá rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại cổ phần

Việt Nam trong các năm qua...................................................................... 43

2.2.1.1.Nợ quá hạn ........................................................................................ 43

2.2.1.2.Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ............................................. 45

2.2.1.3.Tỷ lệ nợ xấu trên vốn chủ sở hữu...................................................... 47

2.2.1.4.Hệ số rủi ro tín dụng.......................................................................... 49

2.2.1.5. Hệ số giới hạn huy động .................................................................. 49

2.2.2. Nhận biết rủi ro & khả năng xảy ra rủi ro tín dụng tại các NHTM..... 50

2.2.2.1. Những dấu hiệu báo động sớm liên quan đến hoạt động NH .......... 51

2.2.2.2 Những dấu hiệu báo động sớm liên quan đến hoạt động kinh doanh &

tài chính ......................................................................................................... 52

2.2.2.3. Ví dụ về những dấu hiệu cảnh báo có tác động đến việc quản lý rủi

ro tín dụng ..................................................................................................... 54

2.2.3.Thực trạng áp dụng các mô hình quản lý rủi ro tín dụng tại các ngân

hàng thương mại cổ phần Việt Nam...........................................................56

2.2.4.Đánh giá thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương

mại cổ phần Việt Nam ................................................................................ 58

2.2.5. Đánh giá vận dụng Basel trong việc quản lý rủi ro tín dụng của các

ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam ................................................ 64

2.2.6.Nguyên nhân của các mặt tồn tại trong công tác quản lý rủi ro tín dụng

tại các ngân hàng TMCP Việt Nam .......................................................... 66

2.2.6.1.Nguyên nhân khách quan .................................................................. 66

2.2.6.2.Nguyên nhân chủ quan...................................................................... 71

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG

TẠI CÁC NHTMCP VIỆT NAM

3.1.ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY................................................ 76

3.2.GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG

TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM ............... 80

3.2.1. Giải pháp vĩ mô.......................................................................................... 81

3.2.1.1.Đảm bảo mội trường kinh tế, chính trị, xã hội ổn định .................... 81

3.2.1.2.Hoàn thiện quy trình xử tài sản đảm bảo & rút ngắn thời gian giải

quyết hồ sơ để NH nhanh chóng thu hồi nợ ..................................... 81

3.2.1.3.Nâng cao chất lượng trung tâm thông tin tín dụng NHNN .............. 83

3.2.1.4.Lựa chọn cấp độ độclập tự chủ phù hợp với NHNN thời kỳ mới .... 84

3.2.1.5. Tạo điều kiện để phát triển thị trường mua bán nợ xấu ................... 85

3.2.2.Giải pháp vi mô........................................................................................... 86

3.2.2.1.Nhận diện được các rủi ro có thể xảy ra .......................................... 86

3.2.2.2.Quản lý việc thanh tra, chế độ báo cáo ............................................ 88

3.2.2.3.Trong sạch hóa đội ngũ cán bộ nhân viên ngân hàng ...................... 88

3.2.2.4.Phát triển nguồn nhân lực ................................................................ 89

3.2.2.5.Đầu tư công nghệ quản lý rủi ro....................................................... 89

3.2.2.6. Xây dựng quy trình qủn lý rủi ro phù hợp ...................................... 90

3.2.2.7.Cải cách bộ máy hoạt động nhằm xây dựng sự độc lập giữa chức

năng bán hàng, tác nghiệp& quản lý rủi ro trong NHTM................ 93

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

- CIC: Trung tâm thông tin tín dụng của ngân hàng nhà nước

- NHTMCP: Ngân hàng thương mại cổ phần

- NHTM : Ngân hàng thương mại

- NHNN: Ngân hàng nhà nước

- NHTW: Ngân hàng trung ương

- Vietinbank: Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam

- ACB: Ngân hàng TMCP Á Châu

- Sacombank: Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín

- Eximbank: Ngân hàng TMCP Xuất Nhập Khẩu Việt Nam

- Vietcombank: Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam

- TTTTTD: Trung tâm thông tin tín dụng

- TCTD: Tổ chức tín dụng

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU - Bảng 2.1: Lợi nhuận trước thuế của các ngân hàng (2006-2009)………...trang 37

- Bảng 2.2: Lợi nhuận trước thuế của các ngân hàng các quý năm 2009…..trang 38

- Bảng 2.3: Tình hình huy động vốn của các ngân hàng (2006-2009)……..trang 41

- Bảng 2.4: Tình hình dư nợ của các ngân hàng (2006-2009)……………...trang 43

- Bảng 2.5: Tỷ lệ nợ quá hạn của các ngân hàng (2006-2009)……………..trang 44

- Bảng 2.6: Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ của các ngân hàng (2006-2009)...trang 45

- Bảng 2.7: Vốn chủ sở hữu của các ngân hàng (2006-2009)……………...trang 47

- Bảng 2.8: Tỷ lệ nợ xấu trên vốn chủ sở hữu các ngân hàng (2006-2009)..trang 48

- Bảng 2.9: Hệ số rủi ro tín dụng của các ngân hàng (2006-2009)………. trang 49

- Bảng 2.10: Hệ số giới hạn huy động vốn các ngân hàng (2006-2009)…...trang 49

LỜI MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:

- Tín dụng là hoạt động kinh doanh phức tạp nhất so với các hoạt động kinh doanh

khác của NHTM, hoạt động này tuy thu được nhiều lợi nhuận nhưng cũng gặp không ít

rủi ro. Vì vậy, rủi ro tín dụng nếu xảy ra sẽ có tác động rất lớn và ảnh hưởng trực tiếp đến

sự tồn tại và phát triển của mỗi tổ chức tín dụng, cao hơn nó tác động và ảnh hưởng đến

toàn bộ hệ thống ngân hàng và toàn bộ nền kinh tế. Và thực tế cũng chứng minh nền kinh

tế vẫn bị tác động tiêu cực, thậm chí đi đến khủng hoảng nếu hệ thống ngân hàng hoạt

động thiếu kiểm soát, không đánh giá đúng và đủ các dạng rủi ro tiềm ẩn, như trường

hợp ví dụ điển hình là Thái Lan và gần đây là Mỹ.

- Đặc trưng của hệ thống NHTM Việt Nam là tỷ trọng thu nhập và rủi ro từ hoạt

động tín dụng chiếm trên 80% trong tổng hoạt động của ngân hàng. Đặc biệt trong thời

kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, kinh tế phát triển nhanh chóng, hoạt động tín dụng gia tăng

mạnh mẽ, thì rủi ro tín dụng càng phức tạp hơn về nguyên nhân, hình thức và phạm vi tác

động. Do đó, để bảo đảm an toàn tài chính, nâng cao năng lực cạnh tranh, hội nhập kinh

tế quốc tế thành công, NHTM phải có phương pháp quản lý tốt rủi ro tín dụng ngân hàng

- Tôi cho rằng trong giai đoạn hiện nay và thời gian tới, rủi ro tín dụng vẫn tác

động mạnh đến hoạt động của các NHTM nói riêng và nền kinh tế nói chung.Vì vậy, tôi

chọn đề tài “Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng tại các NHTMCP

VN ” làm đề tài nghiên cứu.

2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:

Đề tài nghiên cứu giải quyết ba vấn đề sau:

- Làm sáng tỏ các vấn đề cơ bản về cơ sở lý luận trong quản lý rủi ro tín dụng của

các NHTM

- Đánh giá các rủi ro tín dụng và hoạt động quản lý rủi ro tín dụng tại một số ngân

hàng thương mại cổ phần Việt Nam gồm: Vietcombank, ACB, Vietinbank, Sacombank,

Eximbank.Từ đó đưa ra những mặt tích cực cũng như những mặt tồn tại trong công tác

quản lý rủi ro tín dụng.

- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng có thể áp

dụng trong thực tiễn để nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng tại các NHTMCP VN

3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:

- Đối tượng nghiên cứu: Vietcombank, ACB, Vietinbank, Sacombank, Eximbank

- Phạm vi nghiên cứu: hoạt động quản lý rủi ro tín dụng của các ngân hàng này

4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:

Sử dụng phương pháp nghiên cứu thống kê, so sánh, phân tích,… từ cơ sở lý

thuyết đến thực tiễn nhằm giải quyết và làm sáng tỏ mục đích đặt ra trong luận văn

5. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN:

Luận văn được chia thành ba chương :

- Chương 1: Tổng quan về tín dụng, rủi ro tín dụng, quản lý rủi ro tín dụng

- Chương 2: Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại các NHTMCP Việt Nam

- Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng tại các NHTMCP

Việt Nam

1/98

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN VỀ TÍN DỤNG, RỦI RO TÍN DỤNG, QUẢN LÝ

RỦI RO TÍN DỤNG

1.1. TỔNG QUAN VỀ TÍN DỤNG

1.1.1. Khái niệm

Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay

(ngân hàng & các định chế tài chính khác) & bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp &

các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng

trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô

điều kiện gốc & lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán

Theo quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống Đốc

NHNN thì cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho

khách hàng một khỏan tiền để sử dụng vào một mục đích và thời gian nhất định

theo thỏa thuận với nguyên tắc có hòan trả cả gốc và lãi.

1.1.2. Phân loại tín dụng

Ngân hàng cung cấp nhiều loại tín dụng cho nhiều đối tượng khách hàng khác

nhau. Việc phân loại tín dụng là tiền đề để thiết lập quy trình cho vay thích hợp &

nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng. Trong phạm vi luận văn này, tác giả chỉ

phân loại tín dụng theo một số tiêu chí sau:

- Dựa vào mục đích tín dụng:

+ Cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh

+ Cho vay tiêu dùng cá nhân

+ Cho vay đầu tư tài sản cố định

- Dựa vào thời hạn tín dụng

+ Cho vay ngắn hạn

2/98

+ Cho vay trung hạn

+ Cho vay dài hạn

- Dựa vào mức độ tín nhiệm của khách hàng:

+ Cho vay không tài sản đảm bảo

+ Cho vay có đảm bảo.

1.2. TỔNG QUAN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG

1.2.1. Rủi ro tín dụng trong bối cảnh hậu khủng hoảng

Rủi ro tín dụng là loại rủi ro phát sinh trong quá trình cho vay của ngân hàng,

biểu hiện trên thực tế qua việc khách hàng không trả được nợ hoặc trả nợ không

đúng hạn cho ngân hàng

Trong bối cảnh hậu khủng hoảng, vấn đề được các nhà quản trị quan tâm

nhiều nhất là quản lý rủi ro, đặc biệt là rủi ro về tín dụng. Điều này cũng xuất phát

từ bối cảnh thực tế của việc khủng hoảng của hệ thống tài chính – ngân hàng trong

các năm qua từ việc khủng hoảng kinh tế tại Thái Lan đến cuộc khủng hoảng nợ

dưới chuẩn tại Mỹ đã gióng lên hồi chuông cảnh báo về chất lượng tín dụng buộc

ngân hàng trung ương các nước & hệ thống các ngân hàng thương mại phải xem lại

về chất lượng tín dụng, nâng cao công tác quản lý rủi ro tín dụng từ khâu thẩm định

hồ sơ, xét duyệt cho vay, đến việc quản lý khoản vay. Rủi ro tín dụng không phải là

một loại rủi ro mới phát sinh mà các ngân hàng đã biết đến nó từ lâu nhưng đôi khi

còn xem nhẹ vai trò của nó nên một khi xảy ra khủng hoảng kinh tế hay bất kỳ một

vấn đề nhạy cảm nào đó liên quan đến thị trường tài chính thì rủi ro tín dụng lại

xuất hiện vì nó luôn tiềm ẩn trong các khoản vay. Vì vậy, trong bối cảnh hiện nay

vấn đề rủi ro tín dụng cần thiết phải được chú trọng quan tâm đặc biệt để giúp hệ

thống ngân hàng có thể vượt qua được các cơn bão khủng hoảng tài chính , kinh tế

trong tương lai.

1.2.2. Phân loại rủi ro tín dụng

3/98

Có nhiều tiêu chí để phân loại rủi ro tín dụng, nếu căn cứ vào nguyên nhân

phát sinh, rủi ro tín dụng có thể phân loại thành các rủi ro như sau:

Rủi ro tín dụng bao gồm rủi ro danh mục (Porfolio rish) & rủi ro giao dịch

(Transaction rish):

- Rủi ro danh mục (Porfolio rish): là một hình thức của rủi ro tín dụng

mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của

ngân hàng, được phân chia thành hai loại là rủi ro nội tại và rủi ro tập trung

+ Rủi ro ro nội tại (Intrinsic rish): xuất phát từ các yếu tố, các đặc

điểm riêng có, mang tính riêng biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành,

lĩnh vực kinh tế. Nó xuất phát từ đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn

của khách hàng vay vốn

+ Rủi ro tập trung (Concentration rish) là trường hợp ngân hàng tập

trung vốn cho vay quá nhiều đối với một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh

nghiệp hoạt động trong cùng một ngành, lĩnh vực kinh tế; hoặc trong cùng một

vùng địa lý nhất định; hoặc cùng một loại hình cho vay có rủi ro cao

- Rủi ro giao dịch (Transaction rish): là một hình thức của rủi ro tín

dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và

xét duyệt cho vay, đánh giá khách hàng. Rủi ro giao dịch có ba bộ phận chính là rủi

ro lựa chọn, rủi ro bảo đảm và rủi ro nghiệp vụ.

+ Rủi ro lựa chọn: là rủi ro có liên quan đến quá trình đánh giá và

phân tích tín dụng, khi ngân hàng lựa chọn những phương án vay vốn có hiệu quả

để ra quyết định cho vay.

+ Rủi ro đảm bảo: phát sinh từ các tiêu chuẩn đảm bảo như các điều

khoản trong hợp đồng cho vay, các loại tài sản đảm bảo, chủ thể đảm bảo, hình thức

đảm bảo và mức cho vay trên giá trị của tài sản đảm bảo

+ Rủi ro nghiệp vụ là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay

và hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật

4/98

xử lý các khoản vay có vấn đề.

1.2.3. Nguyên nhân rủi ro tín dụng

Kinh doanh ngân hàng là kinh doanh rủi ro. Nói cách khác, hoạt động ngân

hàng luôn phải đối diện với rủi ro. Vì vậy, nhận diện những nguyên nhân gây ra rủi

ro để ngân hàng có được các giải pháp phòng ngừa hiệu quả và giảm thiệt hại

1.2.3.1. Nguyên nhân khách quan

- Sự biến động của môi trường kinh tế: trong điều kiện thị trường thế giới

biến động không ngừng và thường nằm ngoài dự đoán của giới kinh doanh nên rất

dễ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của người đi vay. Trong khi nền

kinh tế Việt Nam còn phụ thuộc rất lớn vào sản xuât nông nghiệp và công nghiệp

phục vụ nông nghiệp (nuôi trồng, chế biến thực phẩm và nguyên liệu) dầu thô, may

gia công vốn rất nhạy cảm với rủi ro thời tiết và giá cả thế giới nên dễ bị tổn thương

khi thị trường thế giới biến động xấu. Những khó khăn do bị khống chế hạn ngạch

trong ngành dệt may, hay những vụ kiện bán phá giá trong ngành thủy sản…làm

ảnh hưởng trực tiếp đến họat động kinh doanh của các doanh nghiệp nói riêng và

của các ngân hàng cho vay nói chung. Không chỉ xuất khẩu, những mặt hàng nhập

khẩu cũng dễ bị tổn thương không kém. Trong khi nền kinh tế Việt Nam là nền kinh

tế mở xu hướng hội nhập kinh tế thế giới và trong khu vực là hiển nhiên, do đó

trước những biến động của thị trường thế giới, nền kinh tế Việt Nam sẽ không tránh

khỏi bị ảnh hưởng. Do đó hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng ít nhiều bị ảnh

hưởng. Thị trường bất động sản và chứng khoán Việt Nam đang trong tình cảnh khó

khăn, khả năng các khoản nợ đầu tư vào hai thị trường đó khó có thể thu hồi, giá

nhà đất và chứng khoán sụt giảm nghiêm trọng, việc mua bán diễn ra khó khăn hơn,

các khách hàng sẽ không có nguồn trả nợ, đồng thời tỷ lệ tài sản đảm bảo không đủ

đảm bảo cho dư nợ còn lại,… làm cho hàng loạt các nguy cơ tiềm ẩn của rủi ro tín

dụng xuất hiện. Ngoài ra thị trường sắt thép cũng dễ bị tổn thương không kém. Mặt

hàng sắt thép cũng bị ảnh hưởng lớn của giá thép thế giới. Việc tăng giá phôi thép

làm cho một số doanh nghiệp sản xuất thép trong nước phải ngưng sản xuất do chi

5/98

phí giá thành rất cao trong khi không tiêu thụ được sản phẩm. Thị trường này bất ổn

sẽ ảnh hưởng không chỉ đối với khách hàng kinh doanh mặt hàng này mà còn tác

động lên ngân hàng đầu tư cho vay gây ra hàng loạt các rủi ro trong đó có rủi ro tín

dụng

- Sự thiếu quy hoạch thiếu phân bổ đầu tư hợp lý đã dẫn đến khủng hoảng

thừa về đầu tư một số ngành: do nền kinh tế thị trường thị trường tất yếu sẽ dẫn đến

cạnh tranh, các nhà kinh doanh sẽ tìm kiếm ngành nào có lợi nhất để đầu tư và sẽ

rời bỏ những ngành không đem lại lợi nhuận cho họ và do đó có sự chuyển dịch vốn

từ ngành này qua ngành khác và đây cũng là một hiện tượng khách quan. Tuy nhiên

ở nước ta thời gian qua, sự cạnh tranh đã phát triển một cách tự phát, hoàn toàn

không đi kèm với sự quy hoạch hợp lý, hợp tác, phân công lao động, chuyên môn

hoá lao động, sự bất lực trong vai trò của các hiệp hội nghề nghiệp và sự điều tiết vĩ

mô của Nhà nước. Điều này dẫn đến sự gia tăng quá đáng vốn đầu tư vào một số

ngành, dẫn đến khủng hoảng thừa, lãng phí tài nguyên quốc gia.

- Quá trình tự do hóa tài chính, hội nhập quốc tế cũng dẫn đến những hệ quả

tất yếu làm cho nợ xấu gia tăng khi tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt, khiến

hầu hết các doanh nghiệp, những khách hàng thường xuyên của ngân hàng phải đối

mặt với nguy cơ thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của thị trường. Bên cạnh

đó, bản thân sự cạnh tranh giữa các NHTM trong nước và quốc tế trong môi trường

hội nhập kinh tế cũng khiến cho các ngân hàng trong nước gặp phải nguy cơ rủi ro

nợ xấu tăng lên do khách hàng có tiềm lực tài chính lớn đã bị các ngân hàng nước

ngòai thu hút bằng các sản phẩm, dịch vụ mới với nhiều tiện ích hơn.

- Hàng hóa nhập lậu tràn lan: do nước ta có hảng trăm km biên giới đường g

bộ do đó việc buôn bán hàng lậu qua biên giới là không tránh khỏi. Cuộc chiến đấu

với hàng lậu đã kéo dài từ nhiều năm nay, song kết quả hàng lậu vẫn tràn lan tại các

thành phố lớn, làm các doanh nghiệp trong nước và các ngân hàng đầu tư vốn cho

các doanh nghiệp này gặp không ít khó khăn, rủi ro cũng từ đấy phát sinh

6/98

- Môi trường pháp lý chưa thuận lợi: do các chính sách về quản lý kinh tế

thường thay đổi đột ngột dẫn đến việc ra đời các văn bản pháp lý chưa phù hợp làm

ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh tại Việt Nam.

- Bên cạnh đó, thiên tai hỏa hoạn, dịch bệnh, chiến tranh là những rủi ro mà

cả ngân hàng và khách hàng đều không thể lường trước được. Điều này sẽ làm ảnh

hưởng đến nguồn thu nhập và khả năng trả nợ vay của khách hàng

1.2.3.2. Nguyên nhân chủ quan

 Nguyên nhân thuộc về phía ngân hàng :

- Chính sách và quy trình cho vay chưa chặt chẽ: Định hướng tín dụng chưa

đạt được tầm chiến lược, chưa triệt để nguyên tắc của thị trường là lợi nhuận và

mức rủi ro có thể chấp nhận đươc, bị cuốn theo hội chứng kinh tế, theo phong trào,

theo khẩu hiệu phát triển kinh tế, tìm mọi cách cạnh tranh, giành giật thị trường ở

các ngành hàng, các nhóm khách hàng mà không nhận thấy rằng ngân hàng mình

không có sở trường trong lĩnh vực này hoặc chưa chuẩn bị đủ tiềm lực đối với

ngành hàng này.

- Kỹ thuật cấp tín dụng chưa hiện đại và đa dạng như việc xác định hạn mức

tín dụng cho khách hàng còn quá đơn giản, thời hạn chưa phù hợp. Công tác quản lý

rủi ro tín dụng và kiểm sóat sau cho vay chưa được chú trọng, chỉ mang tính hình

thức.

- Thiếu thông tin: Ngân hàng chưa xây dựng được hệ thống dữ liệu về khách

hàng một cách đầy đủ, chưa có các kênh kiểm tra chéo thông tin. Việc phân tích tín

dụng và quyết định cho vay hầu như chỉ dựa trên các thông tin từ phía khách hàng

cung cấp, các mối quan hệ cá nhân.

- Chất lượng đội ngũ cán bộ liên quan đến công tác tín dụng chưa cao: Đội

ngũ cán bộ chưa đạt trình độ chuyên môn, không đủ khả năng thẩm định phương án

vay vốn

 Nguyên nhân thuộc về phía khách hàng vay vốn

7/98

- Sử dụng vốn vay sai mục đích: Khách hàng cố tình lập các chứng từ, hóa

đơn giả mạo để được vay vốn mà do nhiều lí do ngân hàng không phát hiện được,

để lấy vốn vay sử dụng khác với mục đích đã trình bày trong phương án vay vốn.

Việc sử dụng vốn vay sai mục đích trong nhiều trường hợp là do người vay sẵn

sàng chấp nhận mạo hiểm với kỳ vọng sẽ mang lại lợi nhuận cao, tuy nhiên kết quả

lại không như ý muốn. Cũng có trường hợp khách hàng đã không có khả năng trả

nợ vay tại ngân hàng khác, và cố tình tìm mọi cách vay vốn tại ngân hàng này và

mang đi đảo nợ là nguyên nhân dẫn đến khách hàng không có nguồn trả nợ để thanh

toán nợ đúng hạn và đầy đủ cho ngân hàng.

- Khả năng quản lý kinh doanh kém: khi các doanh nghiệp vay tiền ngân

hàng để mở rộng quy mô kinh doanh, đa phần là tập trung vốn đầu tư vào tài sản vật

chất chứ ít doanh nghiệp nào mạnh dạn đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ

máy giám sát kinh doanh, tài chính, kế toán theo đúng chuẩn mực. Quy mô kinh

doanh phình ra quá to so với tư duy quản lý là nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của

các phương án kinh doanh đầy khả thi mà lẽ ra nó phải thành công trên thực tế.

- Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém thiếu minh bạch: quy mô tài sản,

nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nơ so với vốn tự có cao là đặc điểm chung của hầu hết các

doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài ra, thói quen ghi chép đầy đủ, chính xác, rõ ràng các

sổ sách kế toán vẫn chưa được các doanh nghiệp tuân thủ nghiêm chỉnh và trung

thực. Do vậy, sổ sách kế toán mà các doanh nghiệp cung cấp cho ngân hàng nhiều

khi chỉ mang tính chất hình thức hơn là thực chất. Khi cán bộ ngân hàng lập các bản

phân tích tài chính của doanh nghiệp dựa trên số liệu do các doanh nghiệp cung cấp,

thường thiếu tính thực tế và xác thực. Đây cũng là nguyên nhân vì sao ngân hàng

vẫn luôn xem nặng phần tài sản thế chấp như là chỗ dựa cuối cùng để phòng chống

rủi ro tín dụng.

1.2.4. Hậu quả của rủi ro tín dụng

1.2.4.1. Hậu quả đối với hệ thống NHTM

- Rủi ro tín dụng làm giảm uy tín của NHTM

8/98

Trong xu thế mở cửa và cạnh tranh gay gắt hiện nay, hầu như tất cả các NHTM

Việt Nam đều mở các chi nhánh, phòng giao dịch tại các vùng, địa bàn trên toàn

quốc, và đưa ra những chương trình sản phẩm dịch vụ, phục vụ tốt nhất cho khách

hàng của mình. Hoạt động ngân hàng bao giờ cũng đặt chữ tín lên hàng đầu, hạn

chế tối đa tất cả các thông tin xấu trên các phương tiện truyền thông ảnh hưởng đến

uy tín và hoạt động của ngân hàng. Nếu một NHTM có tỷ lệ nợ xấu trên tổng nợ

lớn, hoặc có những thông tin về việc ngân hàng không thu hồi được nợ hoặc ngân

hàng đó bị NHNN đưa vào diện kiểm soát đặc biệt thì uy tín của ngân hàng đó bị

giảm sút một cách nghiêm trọng. Và sẽ không có cá nhân hoặc tổ chức nào đặt

quan hệ để sử dụng các dịch vụ của ngân hàng đó.

- Rủi ro tín dụng làm giảm khả năng thanh toán của NHTM

Để có nguồn vốn đủ cung cấp tín dụng cho khách hàng thì ngân hàng phải huy

động từ các tổ chức và dân cư hay nói cách khác là ngân hàng vay của tổ chức và

dân cư để tài trợ tín dụng. Nếu rủi ro tín dụng do không thu hồi được nợ xảy ra,

ngân hàng sẽ hạn chế nguồn để thanh toán tiền gửi cho chủ nợ tức là dân cư và các

tổ chức kinh tế khác.

- Rủi ro tín dụng làm giảm lợi nhuận của ngân hàng.

Theo quy định của NHNN, tất cả các khoản nợ xấu ngân hàng đều phải trích dự

phòng, tỷ lệ trích dự phòng tùy theo mức độ nợ xấu và tài sản đảm. Điều này có

nghĩa là, đối với các khoản nợ xấu hơn và có tài sản đảm bảo có độ rủi ro cao hơn

sẽ bị trích dự phòng cao hơn các khoản nợ ít xấu hơn và có tài sản đảm bảo ít rủi ro

hơn. Việc số tiền dự phòng trích càng lớn thì chi phí vốn của ngân hàng càng lớn và

lợi nhuận của ngân hàng sẽ giảm

- Rủi ro tín dụng dẫn đến nguy cơ phá sản ngân hàng

Như trên đã trình bày, rủi ro tín dụng ảnh hưởng đến uy tín, khả năng thanh

khoản và lợi nhuận của ngân hàng. Nếu tỷ trọng này tiếp tục kéo dài và ăn mòn vào

vốn riêng của ngân hàng, con đường đi đến phá sản ngân hàng là tất yếu.

9/98

1.2.4.2. Hậu quả đối với nền kinh tế

Phần lớn các ngân hàng hiện nay đang dùng nguồn vốn ngắn hạn để tài trợ cho

nợ dài hạn, điều này đồng nghĩa với việc thời gian ngân hàng đòi nợ của khách hàng

không thể nhanh bằng thời gian khách hàng đến rút tiền. Như vậy, các ngân hàng

đều phải đối mặt với các rủi ro về tính thanh khỏan tức là rủi ro về sự không tương

thích về kỳ hạn của các khỏan vốn và sử dụng vốn. Một khi rủi ro tín dụng xảy ra

dẫn đến chuyện ảnh hưởng đến uy tín, khả năng thanh toán của ngân hàng, người

dân và tổ chức sẽ kéo đến ào ạt để rút tiền và chấm dứt quan hệ, hoặc cũng có

trường hợp có thông tin thất thiệt về họat động ngân hàng cũng làm ảnh hưởng đến

nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng.

Những ảnh hưởng này lại mang tính dây chuyền. Nếu một NHTM để xảy ra tình

trạng mất tính thanh khoản sẽ gây ra những tác động dây chuyền cho nền kinh tế

như sau:

- Khi khả năng thanh khoản của ngân hàng bị giảm sút, ngân hàng sẽ không

có khả năng tiếp tục tài trợ vốn cho các pháp nhân, thể nhân và phải thu hồi vốn

trước hạn. Như vậy, các đối tượng nhận tài trợ vốn bị ảnh hưởng lớn đến hoạt động

kinh doanh của họ.

- Phản ứng dây chuyền đến các NHTM khác: Khi niềm tin của công chúng

đối với một ngân hàng giảm sút, họ sẽ mất dần lòng tin vào các ngân hàng khác, từ

đó gây ra phản ứng đây chuyền rút vốn tại các ngân hàng khác.

- Phản ứng dây chuyền đến các ngành kinh tế khác: ngân hàng đổ vỡ dẫn đến

nền kinh tế suy thoái, sức mua giảm, thất nghịêp tăng, xã hội mất ổn định.

1.2.5. Các tiêu chí xác định mức độ rủi ro tín dụng

1.2.5.1. Tỷ lệ nợ quá hạn

Dư nợ quá hạn

x 100 % Tỷ lệ nợ quá hạn =

Tổng dư nợ

10/98

Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và / hoặc lãi đã

quá hạn. Nói cách khác, nợ quá hạn là những khoản tín dụng không hoàn trả đúng

hạn, không được phép và không đủ điều kiện để được gia hạn nợ. Để đảm bảo quản

lý chặt chẽ, quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của NHNN quy định

nợ được chia thành 05 nhóm trong đó, và các khoản nợ quá hạn trong hệ thống

NHTM Việt Nam được phân loại theo thời gian và được phân chia theo thời hạn

thành 04 nhóm (từ nhóm 2 đến nhóm 5)

+ Nhóm 1(Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm: các khoản nợ trong hạn mà tổ chức

tín dụng đánh giá là có đủ khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn.

+ Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm: các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày và

các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại

+ Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: các khoản nợ quá hạn từ 90 đến

180 ngày, các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời

hạn đã cơ cấu lại và các khỏan nợ đã được gia hạn từ lần 2 trở đi.

+ Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm: các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360

ngày và các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày

theo thời hạn đã cơ cấu lại.

+ Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:các khoản nợ quá hạn trên

360 ngày, các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý và các khoản nợ đã cơ cấu lại

thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn đã được cơ cấu lại.

Và tương ứng với các nhóm nợ quá hạn trên thì các NHTM phải trích dự

phòng từ lợi nhuận. Tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro tín dụng như sau:

- Nợ nhóm 1: trích lập dự phòng rủi ro 0%

11/98

- Nợ nhóm 2: trích lập dự phòng rủi ro 5%

- Nợ nhóm 3: trích lập dự phòng rủi ro 20%

- Nợ nhóm 4: trích lập dự phòng rủi ro 50%

- Nợ nhóm 5: trích lập dự phòng rủi ro 100%

1.2.5.2. Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ và nợ xấu trên vốn chủ sở hữu

Nợ xấu: là những khoản nợ quá hạn trên 90 ngày mà không đòi được và

không được tái cơ cấu. Tại Việt Nam, nợ xấu bao gồm những khoản nợ quá hạn có

hoặc không thể thu hồi, nợ liên quan đến các vụ án chờ xử lý và những khoản nợ

quá hạn không được Chính Phủ xử lý rủi ro

Nợ xấu (hay nợ có vấn đề, nợ không lành mạnh, nợ khó đòi, nợ không thể đòi,…) là

những khoản nợ mang các đặc trưng :

- Khách hàng đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng khi các cam

kết này đã hết hạn.

- Tình hình tài chính của khách hàng đang và có chiều hướng xấu dẫn đến có

khả năng ngân hàng không thu hồi được cả vốn lẫn lãi.

- Tài sản đảm bảo (thế chấp, cầm cố, bảo lãnh) được đánh giá là giá trị phát

mãi không đủ trang trải nợ gốc và lãi.

Theo Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007, nợ xấu của tổ chức

tín dụng bao gồm các khỏan nợ được xếp từ nhóm 3 đến nhóm 5 bao gồm: nợ dưới

tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ và nợ có khả năng mất vốn

1.2.5.3. Hệ số giới hạn huy động vốn:

Hệ số này đưa ra nhằm mục đích giới hạn mức huy động vốn của ngân hàng để

tránh tình trạng khi ngân hàng huy động vốn quá nhiều vượt quá mức bảo vệ của

vốn tự có làm cho ngân hàng có thể mất khả năng chi trả. Theo pháp lệnh ngân hàng

(ban hành 1990), tổng nguồn vốn huy động của NHTM phải nhỏ hơn hoặc bằng 20

lần vốn tự có. Điều đó có nghĩa là hệ số này phải luôn lớn hơn hoặc bằng 5%

12/98

Vốn tự có

Hệ số giới hạn huy động vốn =

Tổng nguồn vốn huy động

1.2.5.4. Hệ số rủi ro tín dụng

Tổng dư nợ cho vay

Hệ số rủi ro tín dụng =

Tổng tài sản có

Hệ số này cho thấy tỷ trọng của các khoản mục tín dụng trong tài sản có,

khoản mục tín dụng trong tổng tài sản càng lớn thì lợi nhuận sẽ lớn nhưng đồng thời

rủi ro tín dụng cũng rất cao. Thông thường, tổng dư nợ cho vay của ngân hàng được

chia thành 03 nhóm :

- Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng xấu: là những khoản cho

vay có mức độ rủi ro lớn nhưng có thể mang lại thu nhập cao cho ngân hàng. Đây là

khoản tín dụng chiếm tỷ trọng thấp trong tổng dư nợ cho vay của ngân hàng.

- Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng tốt: là những khoản cho

vay có mức độ rủi ro thấp nhưng có thể mang lại thu nhập không cao cho ngân

hàng. Đây là khoản tín dụng cũng chiếm tỷ trọng thấp trong tổng dư nợ cho vay của

ngân hàng.

- Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng trung bình: là những

khoản cho vay có mức độ rủi ro có thể chấp nhận được và thu nhập mang lại cho

ngân hàng là vừa phải.

1.2.6. Các mô hình đo lường rủi ro tín dụng

1.2.6.1. Mô hình 6C

13/98

Để xác định mức độ rủi ro không trả được nợ của khách hàng, ngân hàng thường

phân tích 6 chữ C của khách hàng bao gồm:

-Uy tín người vay (Character): uy tín phản ánh sự chính trực của người đi vay, lịch

sử hoạt động tín dụng và mối quan hệ kinh doanh với ngân hàng trong thời gian qua

để có cơ sở xác định người vay có thiện chí và trả nợ đúng hạn.Cơ bản ngân hàng

muốn thiết lập quan hệ tín dụng với những khách hàng có thiện chí trả nợ tốt.

- Năng lực người vay (Capacity): người đi vay phải có năng lực pháp luật và năng

lực hành vi dân sự, người vay có phải là đại diện hợp pháp của doanh nghiệp.

- Nguồn tiền để trang trải khoản vay (Cashflow): Để đánh giá nguồn trả nợ của

khách hàng, ngân hàng có thể đánh giá thông qua: lịch sử tăng trưởng của khách

hàng về lợi nhuận doanh thu, mức tăng trưởng lợi nhuận cao hay thấp, thu nhập

trong quá khứ cũng như trong hiện tại của người đi vay

- Tài sản đảm bảo (Collateral): Tài sản đảm bảo sẽ bảo vệ quyền lợi cho ngân hàng

trong trường hợp khách hàng không hoàn trả khoản vay đúng hạn và nó là nguồn

thứ hai để trả nợ vay cho ngân hàng

- Các điều kiện – môi trường kinh doanh của người đi vay (Conditions): ngân hàng

phải đánh giá được mặt hàng sản xuất, ngành nghề hoạt độngcủa người vay, xu

hướng sẽ được mở rộng hay thu hẹp,; những điều kiện kinh tế đang thay đổi sẽ ảnh

hưởng như thế nào đối với khoản vay,..

- Kiểm soát (Control): đây là khả năng mà ngân hàng có thể kiểm soát được đối với

người đi vay: kiểm tra mục đích sử dụng vốn, kiểm tra hiệu quả sử dụng vốn

Việc sử dụng mô hình này tương đối đơn giản, song hạn chế của mô hình

này là nó phụ thuộc vào mức độ chính xác của nguồn thông tin thu thập, khả năng

dự báo cũng như trình độ phân tích, đánh giá của nhân viên tín dụng.

1.2.6.2. Mô hình điểm số Z (Z - Credit scoring model):

Mô hình này do E.I.Altman dùng để cho điểm tín dụng đối với các doanh

nghiệp vay vốn. Đại lượng Z dùng làm thước đo tổng hợp để phân loại rủi ro tín

14/98

dụng đối với người vay và phụ thuộc vào: trị số của các chỉ số tài chính của người

vay và tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của

người vay trong quá khứ.

Z = 1,2 X1 + 1,4 X2 + 3,3 X3 + 0,6 X4 + 1,0 X5

Trong đó,

X1 = Hệ số vốn lưu động / tổng tài sản

X2 = Hệ số lãi chưa phân phối / tổng tài sản

X3 = Hệ số lợi nhuận trước thuế và lãi / tổng tài sản

X4 = Hệ số giá trị thị trường của tổng vốn sở hữu / giá trị hạch toán của tổng nợ

X5 = Hệ số doanh thu / tổng tài sản

Trị số Z càng cao, thì người vay có xác suất vỡ nợ càng thấp. Vậy khi trị số

Z thấp hoặc là một số âm sẽ là căn cứ xếp khách hàng vào nhóm có nguy cơ vỡ nợ

cao và bất kỳ công ty nào có điểm số Z < 1.81 phải được xếp vào nhóm có nguy cơ

rủi ro tín dụng cao.

Z < 1,8 : Khách hàng có khả năng rủi ro cao.

Z > 3 : Khách hàng không có khả năng vỡ nợ.

Mô hình này có ưu điểm là kỹ thuật đo lường rủi ro tín dụng tương đối đơn

giản nhưng nó chỉ cho phép phân loại nhóm khách hàng vay có rủi ro và không có

rủi ro. Không có lý do thuyết phục để chứng minh rằng các thông số phản ánh tầm

quan trọng của các chỉ số trong công thức là bất biến. Tương tự như vậy, bản thân

các chỉ số cũng được chọn cũng không phải là bất biến, đặc biệt khi các điều kiện

kinh doanh cũng như điều kiện thị trường tài chính đang thay đổi liên tục.Tuy nhiên

trong thực tế mức độ rủi ro tín dụng tiềm năng của mỗi khách hàng khác nhau từ

mức thấp như chậm trả lãi, không được trả lãi cho đến mức mất hoàn toàn cả vốn và

lãi của khoản vay. Ngoài ra, không tính đến các yếu tố khó định lượng như: điều

15/98

kiện kinh doanh, thị trường thay đổi liên tục, danh tiếng khách hàng, mối quan hệ

lâu dài với ngân hàng, sự biến động của chu kỳ kinh tế

1.2.6.3. Hệ thống tính điểm tín dụng

Hệ thống tính điểm tín dụng giúp đánh giá rủi ro tiềm tàng của từng khỏan tín

dụng dựa trên phương pháp đánh giá bằng thang điểm. Hệ thống tính điểm tín dụng

bao gồm các thông tin định tính và định lượng liên quan đến các khách hàng vay

tiềm năng (hay hiện tại) để tính tóan điểm tổng hợp. Việc cho điểm là dựa trên đánh

giá của cán bộ tín dụng về các chỉ tiêu khác nhau có liên quan đến rủi ro tín dụng.

Điểm tổng hợp được sử dụng để phân nhóm các khỏan vay theo mức độ giảm dần

của rủi ro. Hệ thống tính điểm tín dụng là công cụ quan trọng trong quản lý rủi ro

tín dụng và được sử dụng trong các giai đọan sau của quá trình tín dụng:

- Giai đoạn đánh giá tín dụng: đây là giai đoạn xem xét đánh giá rủi ro tín dụng

từ các đơn vay vốn để từ đó xác định lãi suất, yêu cầu tài sản đảm bảo và hạn mức

tín dụng. Các đơn vay không đáp ứng các yêu cầu sẽ bị từ chối và nhân viên tín

dụng không cần thực hiện thêm một thủ tục nào nữa.

- Giai đoạn quản lý từng khỏan vay thì việc cho điểm một khách hàng khi cho

vay là cơ sở để nhân viên tín dụng có thể đánh giá tình trạng hiện tại của khách

hàng vay.

- Quản lý tòan bộ danh mục cho vay: khi hệ thống cho điểm tín dụng được thực

hiện một cách đầy đủ thì đây sẽ là công cụ cho phép đánh giá chất lượng của tòan

bộ danh mục tín dụng bằng cách phân loại theo điểm tín dụng.

Hiện nay, hầu hết các NHTM đều áp dụng hệ thống chấm điểm tín dụng đặc biệt

là đối với khách hàng doanh nghiệp để xếp loại khách hàng theo nhóm A (AAA,

AA, A), B (BBB, BB, B), C (CCC, CC, C) và D.

1.3. TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG

1.3.1. Khái niệm quản lý rủi ro tín dụng

16/98

Quản lý rủi ro tín dụng là việc sử dụng các công cụ, biện pháp quy trình cần

thiết nhằm kiểm soát & ngăn ngừa các rủi ro tín dụng để góp phần hạn chế tối đa

khả năng xảy ra tổn thất cho các NHTM. Như vậy, xét ở góc độ ngân hàng để đạt

được mục tiêu quản lý rủi ro tín dụng, các ngân hàng chỉ cần né tránh rủi ro thông

qua việc lựa chọn khách hàng với những điều kiện & yêu cầu cao hơn hoặc chỉ lựa

chọn những danh mục đầu tư an toàn & quản lý kiểm soát khách hàng thông qua

các công cụ & quy trình do các NHTM xây dựng. Ở góc độ quản lý nhà nước, quản

lý rủi ro tín dụng có thể được thực hiện thông qua các quy định chặt chẽ về hoạt

động kinh doanh của ngân hàng, khống chế giới hạn hoạt động của ngân hàng trong

vùng được cho là an toàn & hiệu quả.

1.3.2. Nội dung của quản lý rủi ro tín dụng

1.3.2.1. Nhận diện các rủi ro tín dụng

Rủi ro tín dụng có thể được phát hiện thông qua những yếu tố tạo nên rủi ro

tín dụng. Các yếu tố tạo nên rủi ro tín dụng được trình bày dưới đây:

- Các khách hàng khác nhau và các ngành nghề khác nhau thể hiện rủi ro

khác nhau

Việc lựa chọn khách hàng mục tiêu và ngành nghề mục tiêu rất quan trọng

đối với chất lượng tài sản. Khả năng tồn tại của bất cứ ngân hàng nào cũng liên

quan rất chặt chẽ với khả năng tồn tại của khách hàng và ngành nghề mà ngân hàng

cấp tín dụng.Trên cơ sở từng tài khỏan riêng biệt có rủi ro tín dụng cao, rủi ro tín

dụng có thể được giảm bớt thông qua các biện pháp như: yêu cầu tăng tài sản thế

chấp và bảo lãnh, giám sát chặt chẽ hơn và yêu cầu tăng thêm vốn đầu tư của chủ sở

hữu. Khi các thông tin tài chính khan hiếm hoặc không đáng tin cậy (điều này rất

phổ biến với hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ) thì việc áp dụng các các biện

pháp đảm bảo này là hết sức cần thiết.

- Các sản phẩm tín dụng khác nhau thể hiện rủi ro khác nhau

Hầu hết hiện nay các ngân hàng cung cấp rất nhiều hình thức tín dụng như

cho vay bằng đồng Việt Nam, vàng, ngoại tệ, cho vay hợp vốn, tài trợ dự án,

17/98

bảolãnh,… Các loại hình tín dụng này hàm chứa các mức độ rủi ro tín dụng khác

nhau. Loại hình tín dụng cần phải phù hợp không chỉ với nhu cầu tín dụng mà còn

với mức độ tin cậy về khả năng trả nợ của người vay. Chỉ những khách hàng có

mức độ tin cậy về khả năng trả nợ cao nhất mới đủ điề kiện được cấp cácloại hình

ín dụng có độ rủi ro cao.

- Rủi ro thanh toán gắn với các công cụ tài chính khác nhau

Rủi ro tín dụng cũng phát sinh đối với các loại công cụ tài chính không phải

là khỏan cho vay như cácgiao dịch ngoại hốivà các giao dịch liên ngân hàng. Rủi ro

của đối tác không trả được nợ vào lúc đáo hạn của một hợp đồng ngoài bảng cân

đối kế toán được hiểu là rủi ro thanh toán. Rủi ro này phát sinh vào thời điểm các

khoản thanh toán bằng các loại tiền tệ khác nhau cần phải được trao đổi giữa các

bên của hợp đồng. đó là rủi ro mà bên đối tác không thanh toán cho ngân hàng sau

khi ngân hàng đã thực hiện thanh toán cho bên đối tác.

- Mức độ tập trung của danh mục tín dụng

Mức độ tập trung của danh mục tín dụng theo các đặc thù riêng trực tiếp ảnh

hưởng đến rủi ro của danh mục tín dụng. Các nhân tố ảnh hưởng tiêu cực đến các

khỏan vay có một đặc điểm nào đó trong danh mục tín dụng có khả năng gây nên

thất thoát trầm trọng hơn nếu ngân hàng có mức độ tập trung cao vào các khỏan vay

có đặc điểm này. Và các ngân hàng có thể hạn chế rủi ro do tập trung trong danh

mục tín dụng bằng cách thường xuyên đánh giá rủi ro trong từng thị trường , trong

từng ngành, từng vị trí địa lý, sản phẩm và hình thức thế chấp, loại tiền tệ và hình

thức đáo hạn. Từ đó, đảm bảo duy trì một danh mục tín dụng đa dạng hóa.

1.3.2.2. Thực hiện theo đúng các chính sách & quy trình tín dụng

Một điều tối quan trọng trong quản lý rủi ro tín dụng là việc thiết kế và thực

hiện các chính sách và quy trình bằng văn bản liên quan đến việc phát hiện, đánh

giá, giám sát và kiểm soát rủi ro tín dụng. Các chính sách tín dụng cần phải lập một

cách rõ ràng, thống nhất với các thông lệ thận trọng trong kinh doanh ngân hàng và

với quy định của nhà nước đồng thời phải phù hợp với bản chất và mức độ phức tạp

18/98

của tùy mỗi ngân hàng để từ đó nhân viên ngân hàng có thể tuân thủ một cách

nghiêm ngặt nhằm hạn chế đến mức thấp nhất cácc rủi ro có thể xảy ra trong quá

trình từ lúc nhận hồ sơ vay cho đến lúc xét duyệt cho vay. Các chính sách và quy

trình được xây dựng và thực hiện phù hợp sẽ cho phép các ngân hàng đạt được

những mục tiêu sau:

+ Duy trì chuẩn mực cấp tín dụng an toàn

+ Giám sát và kiểm soát rủi ro tín dụng tốt

+ Đánh giá đúng những cơ hội kinh doanh mới

+ Phát hiện và quản lý các khỏan tín dụng có vấn đề

1.3.2.3. Kiểm tra và giám sát tín dụng nhằm kiểm soát rủi ro tín

dụng

Khi ngân hàng cho vay khỏan cho vay cần phải được quản lý một cách chủ

động để đảm bảo sẽ được hòan trả. Theo dõi nợ là một trong những trách nhiệm

quan trọng nhất của nhân viên tín dụng. Nhân viên tín dụng có thể sử dụng năm

nguồn thông tin sau đây để giám sát khỏan vay của khách hàng:

- Các phòng ban khác trong ngân hàng có giao dịch với khách hàng vay

- Các nhà cung cấp chính cho khách hàng vay, những người này có thể cho

biết về khả năng thanh toán các chi phí sản xuất kinh doanh của khách

hàng

- Các tổ chức tài chính khác

- Trung tâm tín dụng của NHNN

- Thăm thực địa khách hàng vay: nhân viên tín dụng và ban giám đốc cần

thường xuyên thăm thực địa khách hàng để từ đó xác định được sự tồn tại

và tình trạng thực tế của nhà xưởng, máy móc cũng như những tài sản

đảm bảo khác

19/98

Những thông tin tập hợp được từ những chuyến đi thăm thực địa có thể được

sử dụng lại để kiểm chứng lại chất lượng và tính chính xác của các phân tích tài

chính. Từ đó, ngân hàng mới đề ra các biện pháp nhằm kiểm soát khoản vay

1.3.2.4. Phương pháp quản lý rủi ro tín dụng

Để quản lý tốt các rủi ro tín dụng, các ngân hàng nhất thiết phải tuân thủ các

yêu cầu sau:

- Thực hiện đúng các quy định của pháp luật về cho vay, bảo lãnh,

cho thuê tài chính, chiết khấu, bao thanh toán và bảo đảm tiền vay. Xem xét và

quyết định việc cho vay có bảo đảm bằng tài sản hoặc không có bảo đảm bằng tài

sản, cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay, tránh các vướng mắc

khi xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ vay. Đặc biệt chú trọng thực hiện các giải

pháp nâng cao chất lượng tín dụng, không để nợ xấu gia tăng.

- Phải tăng cường kiểm tra, giám sát việc chấp hành các nguyên tắc,

thủ tục cho vay và cấp tín dụng khác, tránh xảy ra sự cố gây thất thoát tài sản; sắp

xếp lại tổ chức bộ máy, tăng cường công tác đào tạo cán bộ để đáp ứng yêu cầu kinh

doanh ngân hàng trong điều kiện hội nhập quốc tế.

- Xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ phù hợp với hoạt động

kinh doanh, đối tượng khách hàng, tính chất rủi ro của khoản nợ của tổ chức tín

dụng.

- Thực hiện chính sách quản lý rủi ro tín dụng, mô hình giám sát rủi

ro tín dụng, phương pháp xác định và đo lường rủi ro tín dụng có hiệu quả, trong đó

bao gồm cách thức đánh giá về khả năng trả nợ của khách hàng, hợp đồng tín dụng,

các tài sản bảo đảm, khả năng thu hồi nợ và quản lý nợ của các ngân hàng

- Thực hiện các quy định bảo đảm kiểm soát rủi ro và an toàn hoạt

động tín dụng:

+ Xây dựng và thực hiện đồng bộ hệ thống các quy chế, quy

trình nội bộ về quản lý rủi ro; trong đó đặc biệt chú trọng việc xây dựng chính sách

20/98

khách hàng vay vốn, sổ tay tín dụng, quy định về đánh giá, xếp hạng khách hàng

vay, đánh giá chất lượng tín dụng và xử lý các khoản nợ xấu.

+ Mở rộng tín dụng trung và dài hạn ở mức thích hợp, đảm bảo

cân đối thời hạn cho vay với thời hạn của nguồn vốn huy động.

+ Thực hiện đúng quy định về giới hạn cho vay, bảo lãnh,

cho thuê tài chính, bao thanh toán đối với một khách hàng và các tỷ lệ an toàn hoạt

động kinh doanh

- Đối với các trường hợp chây ỳ trả nợ vay, các ngân hàng cần áp

dụng các biện pháp kiên quyết, đúng pháp luật để thu hồi nợ vay, kể cả việc xử lý

tài sản thế chấp, cầm cố và bảo lãnh, khởi kiện lên cơ quan tòa án.

- Phân tán rủi ro trong cho vay: không dồn vốn cho vay quá nhiều đối

với một khách hàng hoặc không tập trung cho vay quá nhiều vào một ngành, lĩnh

vực kinh tế có rủi ro cao.

- Thực hiện tốt việc thẩm định khách hàng và khả năng trả nợ trước

khi quyết định tín dụng.

- Mua bảo hiểm cho các khoản tiền gửi, tiền vay.

- Phải có chính sách tín dụng hợp lý và duy trì các khoản dự phòng để

đối phó với rủi ro.

- Trước khi cho khách hàng vay, ngân hàng phải xem xét các điều

kiện cơ bản như là: Khả năng trả nợ của khách hàng so với mức cho vay; trị giá tài

sản đảm bảo so với mức cho vay; giới hạn tổng dư nợ cho vay một khách hàng, một

nhóm khách hàng có liên quan,..

1.3.3. Các phương pháp tiếp cận rủi ro tín dụng theo Basel

1.3.3.1. Giới thiệu sự hình thành & hoạt động của Basel

Ủy ban Basel được thành lập vào năm 1974 bởi thống đốc ngân hàng trung ương

của nhóm 10 nước (G10). Hiện nay, các thành viên của Ủy ban này gồm các nước: Anh, Bỉ,

21/98

Canada, Đức, Hà Lan, Hoa Kỳ, Luxemembourg, Nhật, Pháp, Tây Ban Nha, Thụy Điển,

Thụy Sỹ và Ý. Các quốc gia được đại diện bởi ngân hàng trung ương hay cơ quan giám sát

hoạt động ngân hàng. Ủy ban này được nhóm họp 4 lần trong một năm. Trong Ủy ban còn

có 25 nhóm kỹ thuật và một số bộ phận khác được nhóm họp thường xuyên để thực hiện

các nội dung công việc của Ủy ban. Hội đồng thư ký của Ủy ban Basel được đề xuất bởi

Ngân hàng Thanh toán Quốc tế ở Basel. Hội đồng thư ký 15 thành viên là những nhà giám

sát hoạt động ngân hàng chuyên nghiệp được biệt phái tạm thời từ các tổ chức tài chính

thành viên. Ủy ban Basel và các tiểu ban sẵn sàng đưa ra những lời tư vấn cho các cơ quan

giám sát hoạt động ngân hàng ở tất cả các nước. Ủy ban Basel không có bất kỳ một cơ quan

giám sát nào và những kết luận của nó không có tính pháp lý và yêu cầu tuân thủ đối với

việc giám sát hoạt động ngân hàng. Thay vào đó, Ủy ban này chỉ xây dựng và công bố

những tiêu chuẩn và những hướng dẫn giám sát rộng rãi, đồng thời giới thiệu các báo cáo

thực tiễn tốt nhất trong kỳ vọng rằng các tổ chức riêng lẻ sẽ áp dụng thông qua những sắp

xếp chi tiết phù hợp nhất cho hệ thống quốc gia của chính họ. Theo cách này, Ủy ban

khuyến khích việc áp dụng cách tiếp cận và các tiêu chuẩn chung mà không cố gắng can

thiệp vào các kỹ thuật giám sát của các nước thành viên. Ủy ban báo cáo cho thống đốc

ngân hàng trung ương hay cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng của nhóm G10

Một mục tiêu quan trọng trong công việc của Ủy ban là thu hẹp khoảng cách

giám sát quốc tế trên hai nguyên lý cơ bản là (1) không ngân hàng nước ngoài nào được

thành lập mà thoát khỏi sự giám sát; và (2) việc giám sát phải tương xứng. Để đạt được mục

tiêu đề ra, từ năm 1975 đến nay, Ủy ban Basel đã ban hành rất nhiều văn bản, tài liệu liên

quan đến vấn đề này. Vào năm 1988, Ủy ban đã quyết định giới thiệu hệ thống đo lường

vốn mà nó được đề cập như là Hiệp ước vốn Basel (the Basel Capital Accord) hay Basel I.

Hệ thống này cung cấp khung đo lường rủi ro tín dụng với tiêu chuẩn vốn tối thiểu là 8%. Từ

năm 1988, Basel I không chỉ được phổ biến trong các quốc gia thành viên mà còn ở hầu hết

các nước khác với các ngân hàng hoạt động quốc tế. Trong nhiều năm qua, Ủy ban Basel đã

dịch chuyển nhanh chóng để đưa ra các tiêu chuẩn giám sát rộng rãi toàn cầu. Qua việc hợp

tác chặt chẽ với nhiều ủy ban giám sát hoạt động.

22/98

Basel II được ban hành vào ngày 26/06/2004. Tài liệu này có thể làm cơ sở cho

các quá trình phê duyệt và xây dựng luật lệ quốc gia về giám sát hoạt động ngân hàng và

cho các ngân hàng hoàn chỉnh sự chuẩn bị của họ cho việc thực hiện các tiêu chuẩn mới.

Tuy nhiên, tình hình thực hiện hiệp ước đã bị đình trệ. Tháng 9 năm 2005, các đại diện của

phía ngân hàng ở Mỹ (bao gồm FED, FDIC, OCC và OTS) đã đề nghị xem xét lại vấn đề áp

dụng Basel 2 ở Mỹ. Việc này làm tiến trình áp dụng chậm đi 12 tháng, chủ yếu là để điều

chỉnh lại cách tính rủi ro thị trường và hiệu ứng không có khả năng chi trả kép (double

default effects). Và sau đó tiến trình này tiếp tục chậm lại đến mãi tháng 11/2007 thì phía

Mỹ mới chính thức chấp nhận áp dụng Basel II. Và tiếp đó là đến năm 2008 thì tất cả ngân

hàng của khối EU mới tiến hành báo cáo về mức độ an toàn vốn (captial adequacy)

theo chuẩn mực Basel mới. Hiệp ước Basel II bao gồm những khuyến nghị về luật và quy

định ngành ngân hàng, được ban hành bởi Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng (Basel

Committee on Banking Supervision - BCBS). Nhìn chung, Basel II là hiệp ước về tiêu

chuẩn an tòan vốn, tăng cường quản trị toàn cầu hóa tài chính cũng như việc khai thác tối đa

tiềm năng lợi nhuận& hạn chế rủi ro. Hiệp ước Basel II đề cập đến các vấn đề chính gồm

những quy định liên quan đến tỷ lệ an tòan vốn tối thiểu, quá trình xem xét giám sát của cơ

quan quản lý & cuối cùng là quy tắc thị trường.

Basel II gồm 3 trụ cột :

- Trụ cột 1: Những yêu cầu vốn tối thiểu: trụ cột 1 liên quan đến việc duy

trì vốn bắt buộc. Lượng vốn duy trì được tính toán theo 3 yếu tố rủi ro chính. Những rủi ro

khác không được coi là có thể lượng hóa hoàn toàn ở bước này

- Trụ cột 2: Quá trình đánh giá, giám sát đề cập về kiểm tra tỷ lệ an

toàn vốn. Trụ cột 2 liên đến việc hoạch định chính sách ngân hàng, cung cấp cho

các nhà họach định chính sách những “công cụ” tốt hơn so với Base I. Trụ cột này

cũng cung cấp một khung giải pháp cho các rủi ro mà ngân hàng đối mặt, như rủi ro

hệ thống, rủi ro chiến lược, rủi ro danh tiếng, rủi ro thanh khoản và rủi ro pháp lý,

mà hiệp ước tổng hợp lại dưới cái tên rủi ro còn lại (residual risk). Có bốn nguyên

tắc để xem xét giám sát:

23/98

+ Ngân hàng nên có một quy trình xác định vốn nội bộ theo

mức rủi ro và chiến lược duy trì các mức vốn khác nhau

+ Các giám sát viên nên xem xét và đánh giá việc sát định mức

độ vốn nội bộ và chiến lược của ngân hàng, cũng như khả năng giám sát và đảm

bảo tuân thủ tỉ lệ vốn tối thiểu

+ Khuyến nghị rằng ngân hàng nên giữ mức vốn cao hơn mức

tối thiểu theo quy định

+ Giám sát viên sẽ tìm cách xâm nhập vào những giai đoạn đầu

tiên để ngăn cản mức vốn giảm xuống dưới mức tối thiểu.

- Trụ cột 3: Kỷ luật thị trường – đề cập đến vấn đề công khai thông tin. Trụ

cột 3 làm gia tăng một cách đáng kể các thông tin mà một ngân hàng phải công bố.

Phần này được thiết kế để cho phép thị trường có một bức tranh hoàn hoản hơn về

rủi ro tổng thể của ngân hàng và cho phép các đối tác của ngân hàng định giá và

tham gia chuyển giao một cách hợp lý

1.3.3.2. Tiếp cận rủi ro tín dụng theo Basel I

Theo phương pháp tiếp cận quản lý rủi ro tín dụng của Basel I, các chuẩn mực

được đưa ra như sau:

* Tiêu chuẩn cấp tín dụng và quy trình giám sát tín dụng (Chuẩn mực 7):

Một phần công việc thiết yếu của hệ thống thanh tra là đánh giá chính sách,

thông lệ và quy trình liên quan đến việc cấp tín dụng, thực hiện đầu tư cũng như

công tác quản lý và danh mục đầu tư hiện tại. Chức năng tín dụng và đầu tư ở các

ngân hàng là khách quan và dựa trên nguyên tắc lành mạnh. Vì vậy việc duy trì

chính sách cho vay, mục đích cho vay và thủ tục cho vay thận trọng với các văn bản

cho vay hợp lý là cần thiết đối với quản lý chức năng cho vay của ngân hàng và

ngân hàng cần phải có một quá trình giám sát quan hệ tín dụng hiện tại của khách

hàng trên cơ sở dữ liệu là nhân tố quan trọng của hệ thống thông tin quản lý, cần phải

được chi tiết danh mục cho vay

24/98

* Đánh giá chất lượng tín dụng & dự phòng rủi ro mất vốn tín dụng (chuẩn mực 8):

Thanh tra ngân hàng cần phải biết rằng ngân hàng thiết lập và duy trì các

chính sách, thói quen và thủ tục phù hợp với việc đánh giá chất lượng tài sản, dự

phòng rủi ro mất vốn tín dụng

Ngân hàng phải xây dựng một quy trình quan sát các khỏan nợ có vấn đề và

chọn lọc các món nợ quá hạn

Khi thực hiện bảo lãnh hoặc nhận vật thế chấp ngân hàng phải có phương

pháp đánh giá uy tín của người bảo lãnh và định giá vật thế chấp

Khi có các khỏan nợ có vấn đề thì ngân hàng tăng cường hoạt động cho vay

trên cơ sở đảm bảo cấp tín dụng và sức mạnh tài chính tổng thể

* Sự tập trung rủi ro & các rủi ro lớn (chuẩn mực 9):

Ngân hàng phải có hệ thống thông tin quản lý, cho phép xác định những

điểm đáng chú ý trong danh mục đầu tư và phải thiết lập giới hạn an tòan để hạn

chế xu hướng ngân hàng tập trung vào các khách hàng đơn lẻ hoặc các nhóm khách

hàng có quan hệ

* Cho vay khách hàng có mối quan hệ (chuẩn mực 10):

Để ngăn ngừa sự lạm dụng phát sinh từ việc cho vay khách hàng có mối

quan hệ, quan hệ vay vốn phải dựa trên nguyên tắc “trong tầm kiểm sóat” như thế

thì việc mở rộng tín dụng được giám sát một cách có hiệu quả, kiểm soát và giảm

thiểu rủi ro.

Giao dịch cho vay khách hàng có mối quan hệ thường gây ra những rủi ro

đặc biệt cho ngân hàng, vì thế nên có sự chấp thuận của Hội đồng quản trị

1.3.3.3. Tiếp cận rủi ro tín dụng theo Basel II:

Có 2 phương pháp tiếp cận để tính toán rủi ro tín dụng của ngân hàng

- Phương án thứ nhất: sẽ đo lường rủi ro tín dụng theo phương pháp tiếp cận

chuẩn hoá được hỗ trợ bởi các đánh giá bên ngoài về tín dụng.

25/98

- Phương án thứ hai: là ngân hàng sử dụng hệ thống đánh giá xếp hạng nội bộ

của mình (IRB).

* Phương pháp tiếp cận chuẩn hoá rủi ro tín dụng:

Phương pháp chuẩn hoá là các ngân hàng phải phân loại các rủi ro tín dụng dựa

trên những đặc điểm có thể quan sát được của rủi ro (ví dụ rủi ro từ một khoản cho

vay công ty hoặc từ một khoản cho vay có tài sản thế chấp là nhà ở). Phương pháp

chuẩn hoá sẽ xếp loại rủi ro cố định cho từng loại rủi ro được giám sát và căn cứ

những đánh giá độ tín nhiệm của bên ngoài để nâng cao độ nhạy của rủi ro

Phương pháp chuẩn hoá có những hướng dẫn sử dụng cho cán bộ kiểm tra, giám

sát để quyết định nguồn đánh giá xếp loại của bên ngoài có phù hợp để có thể áp

dụng cho các ngân hàng hay không? Một đổi mới quan trọng của phương pháp

chuẩn hoá là những khoản vay phải coi là quá hạn nếu xếp loại rủi ro của chúng là

150%, trừ trường hợp ngân hàng đã trích dự phòng rủi ro cho những khoản vay đó.

Khi các ngân hàng mở rộng hàng loạt các sản phẩm phái sinh tín dụng như thế

chấp, bảo lãnh, Basel II coi những công cụ này là những nhân tố là giảm bớt rủi ro tín

dụng. Phương pháp chuẩn hóa mở rộng phạm vi của tài sản thế chấp hợp thức vượt ra

khỏi vấn đề của quốc gia đồng thời đưa ra một số phương pháp đánh giá mức độ

giảm vốn dựa trên rủi ro thị trường của công cụ thế chấp

Phương pháp chuẩn hóa cũng bao gồm việc xử lý cụ thể đối với những rủi ro bán

lẻ. Xếp loại rủi ro của các loại rủi ro trong cho vay có thế chấp nhà ở sẽ ñược giảm

cùng với những loại rủi ro khác của các khoản tín dụng cho các công ty không ñược

xếp loại tín nhiệm. Ngoài ra một số khoản cho vay các công ty vừa và nhỏ có thể

được đưa vào xử lý như rủi ro bán lẻ nếu đáp ứng một số tiêu chí.

Để giúp các ngân hàng và các giám sát viên trong trường hợp không có

nhiều lựa chọn, Ủy ban Basel đã phát triển “phương pháp chuẩn hóa đơn giản” bao

gồm những lựa chọn đơn giản nhất để tính toán các tài sản được xếp loại rủi ro. Các

ngân hàng áp dụng các phương pháp chuẩn hóa đơn giản cần tuân thủ những yêu

cầu kiểm tra, giám sát và kỷ luật thị trường tương ứng với hiệp ước mới của Basel

26/98

* Phương pháp tiếp cận căn cứ vào xếp hạng nội bộ (IRB):

Các ngân hàng phải có đơn vị kiểm soát rủi ro tín dụng độc lập chịu trách nhiệm

thiết kế, thực hiện hoạt ñộng các hệ thống xếp loại nội bộ của mình. Các đơn vị

này phải độc lập về chức năng đối với các bộ phận quản lý phải chịu trách nhiệm

về việc tạo nên những khoản rủi ro tiềm năng. Các lĩnh vực phải kiểm soát gồm:

- Kiểm tra & theo dõi xếp loại nội bộ

- Lập & phân tích các báo cáo tóm lược từ hệ thống xếp loại của

ngân hàng, bao gồm dữ liệu lịch sử về các trường hợp không trả nợ được phân loại

vào thời điểm không trả nợ xảy ra và một năm trước khi xảy ra, phân tích các

biện pháp giảm nhẹ rủi ro, theo dõi xu hướng trong các tiêu chí xếp loại chủ yếu

- Thực hiện các quy trình để thẩm tra xem những định nghĩa xếp

loại có được sử dụng thống nhất ở các phòng, ban và khu vực địa lý hay không;

- Đánh giá và lập hồ sơ mọi thay đổi trong quy trình xế p loại, lý do

thay đổi

- Xem xét các tiêu chí xếp loại để đánh giá xem chúng còn tác dụng

dự báo rủi ro hay không. Những thay đổi của quá trình xếp loại, các tiêu chí hoặc các

thông số xếp loại phải được lập thành văn bản và lưu trữ để các giám sát viên xem xét.

- Đơn vị kiểm soát rủi ro tín dụng phải tích cực tham gia trong việc

phát triển, chọn lọc, thực hiện và xác định giá trị hiệu lực của các mô hình xếp loại,

chịu trách nhiệm kiểm soát và giám sát mọi mô hình ñược sử dụng trong quá trình

xếp loại và chịu trách nhiệm cao nhất về thường xuyên đánh giá và thay đổi các mô

hình xếp loại

1.3.3.4. Chuẩn mực an toàn & quản lý rủi ro tín dụng theo Basel II

* Bảo vệ hệ số an toàn vốn:

Yêu cầu về an toàn vốn buộc ngân hàng phải xác lập hệ số an toàn vốn phù hợp

và cần phải xác định các nhân tố của vốn có khả năng làm giảm lỗ.

27/98

Hiệp định ấn định mức rủi ro đối với các khoản mục tài sản có nội bảng và

ngoại bảng theo các loại rủi ro liên quan, các mức độ này được giản đơn tối đa với 5

tỷ lệ: 0%, 10%, 20%, 50% và 100%.

Hiệp định có yêu cầu về hệ số vốn tối thiểu cho các ngân hàng hoạt động quốc

tế là 4% đối với vốn cấp 1 và 8% đối với tổng vốn(bao gồm vốn cấp 1 và vốn cấp 2)

so với tài sản có rủi ro

* Hoàn thiện quy trình trình cấp tín dụng và giám sát cho vay:

Công việc thiết yếu của hệ thống kiểm soát là đánh giá chính sách, thông lệ và

quy trình liên quan đến việc cấp tín dụng, thực hiện đầu tư cũng như công tác quản

lý tín dụng và danh mục đầu tư hiện tại.

Chức năng tín dụng và đầu tư của ngân hàng là khách quan và dựa trên các

nguyên tắc lành mạnh. Duy trì chính sách cho vay, mục đích vay và thủ tục cho vay

thận trọng với các văn bản cho vay hợp lý là cần thiết đối với chức năng quản lý tín

dụng của ngân hàng. Ngân hàng cần phải có một quá trình giám sát quan hệ tín

dụng hiện tại của khách hàng. Cơ sở dữ liệu là nhân tố quan trọng của hệ thống

thông tin quản lý, cần phải được chi tiết danh mục cho vay.

* Đánh giá chất lượng tài sản và dự phòng rủi ro mất vốn tín dụng:

Ngân hàng phải thiết lập và duy trì các chính sách, thói quen và thủ tục phù hợp

với việc đánh giá chất lượng tài sản, dự phòng rủi ro mất vốn tín dụng. Ngân hàng

cũng phải xây dựng quy trình giám sát các khoản nợ có vấn đề và nợ quá hạn.

Khi thực hiện bảo lãnh hoặc nhận thế chấp, cầm cố, ngân hàng phải có phương

pháp đánh giá uy tín của người bảo lãnh và định giá tài sản đảm bảo. Và khi có các

khoản nợ có vấn đề thì ngân hàng tăng cường hoạt động cho vay trên cơ sở đảm bảo

cấp tín dụng và sức mạnh tài chính tổng thể

* Phân tán rủi ro tín dụng:

Ngân hàng phải có hệ thống thông tin quản lý cho phép xác định những điểm

đáng chú ý trong danh mục đầu tư và phải thiết lập giới hạn an toàn để hạn chế xu

28/98

hướng tập trung vào nhóm khách hàng đơn lẻ hoặc nhóm khách hàng có quan hệ

với nhau. Giao dịch cho vay khách hàng có quan hệ với nhau thường gây ra những

rủi ro đặc biệt cho ngân hàng, do đó nên có sự chấp thuận của Hội đồng quản trị.

* Sử dụng hệ thống đánh giá xếp hạng nội bộ:

Hàng năm, kiểm toán nội bộ hoặc một bộ phận độc lập tương đương phải xem

xét hệ thống đánh giá xếp hạng nội bộ(IRB – internal ratings-based) của ngân hàng

và các hoạt động của nó, bao gồm các hoạt động của chức năng tín dụng và các ước

tính xác suất không trả được nợ(PD – probability of default), không trả nợ do tổn

thất(LGD – loss given default), rủi ro tiềm năng do không trả nợ (EAD – exposure

at default). Các lĩnh vực được xem xét còn bao gồm việc tuân thủ các yêu cầu tối

thiểu đã ban hành.Hệ thống đánh giá xếp hạng nội bộ và các ước tính về sự kiện

không trả nợ và tổn thất phải giữ vai trò quan trọng trong phê duyệt cho vay, quản

lý rủi ro, phân bổ vốn tự có và các chức năng quản trị công ty của các ngân hàng sử

dụng hệ thống này.

* Quy trình xem xét, đánh giá giám sát:

Quá trình xem xét, đánh giá giám sát nhằm không chỉ đảm bảo rằng các ngân

hàng có đủ vốn để hỗ trợ mọi rủi ro trong kinh doanh, mà còn khuyến khích các

ngân hàng phát triển và sử dụng các kỹ thuật quản lý rủi ro tốt hơn.

Quá trình xem xét, đánh giá giám sát ghi nhận trách nhiệm của ban lãnh đạo

ngân hàng trong việc phát triển quá trình đánh giá vốn tự có và đặt ra những mục

tiêu vốn tương xứng với tình hình rủi ro và môi trường kiểm soát của ngân hàng.

Bốn nguyên tắc chủ yếu của đánh giá giám sát bao gồm:

- Nguyên tắc 1: các ngân hàng cần có quá trình đánh giá đủ vốn lien quan

đến tình hình rủi ro & chiến lược duy trì các mức vốn của mình

- Nguyên tắc 2: các giám sát viên phải xem xét đánh giá các quá trình đánh

giá liên quan đến tỷ lệ an toàn vốn của ngân hàng

29/98

- Nguyên tắc 3: các giám sát viên kỳ vọng ngân hàng hoạt động trên mức tỷ

lệ an tòan vốn tối thiểu theo quy định của nhà nước & có thể yêu cầu các ngân hàng

có thể có số vốn vượt mức tối thiểu

- Nguyên tắc 4: các giám sát viên phải tìm cách can thiệp sớm để phòng ngừa

thiếu vốn so với tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu để bù đắp rủi ro& yêu cầu có những

hành động khắc phục kịp thời

* Công khai thông tin:

Các ngân hàng phải có chính sách về công khai thông tin, được Hội đồng quản

trị phê duyệt, chính sách xác định các thông tin cần được công khai và kiểm soát nội

bộ đối với quá trình công khai thông tin. Hơn nữa, các ngân hàng phải thực hiện quá

trình giải quyết tính phù hợp của những thông tin công khai, kể cả việc xác định giá

trị hiệu lực và tần suất xác định. Và những thông tin cần công khai được thể hiện cả

về định tính và định lượng, cho các nội dung: cơ cấu vốn, tỷ lệ an toàn vốn, rủi ro

tín dụng, rủi ro tiềm năng & đánh giá

1.4. KINH NGHIỆM QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC NƯỚC VÀ

BÀI HỌC KINH CHO CÁC NHTM VIỆT NAM

1.4.1. Kinh nghiệm quản lý rủi ro tín dụng tại một số nước trên thế giới

Trong cuộc khủng hoảng tài chính ngân hàng thời kỳ 1997-1998, khởi đầu và

tâm điểm là khu vực châu Á, đã có rất nhiều ngân hàng trong khu vực và trên thế

giới bị phá sản, kể cả những ngân hàng có bề dày hoạt động hàng trăm năm. Ngày

nay, sự kiện nhiều ngân hàng trên thế giới công bố các khoản nợ xấu và thua lỗ

đang được cộng hưởng với tình trạng tiền khủng hoảng tín dụng toàn cầu càng làm

cho bức tranh tài chính thế giới thêm phần ảm đạm.Trước tình hình đó, các ngân

hàng lớn có tầm ảnh hưởng tòan cầu đang tiến hành nhiều biện pháp để sẵn sang đối

phó với khủng hỏang tín dụng thế giới. Sau đây là một số các kinh nghiệm quản lý

rủi ro của một vài nước trên thế giới

* Thái Lan:

30/98

Hệ thống ngân hàng Thái Lan đã có bề dày lịch sử hoạt động hàng trăm năm,

nhưng đứng trước cơn khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á vào năm 1997-1998

vẫn bị chao đảo, các khoản vay khó đòi chiếm tỷ lệ cao, gần 36% trong tổng dư nợ

tại Thái Lan, là một tỷ lệ đáng báo động. Tỷ lệ nợ khó đòi cao ảnh hưởng rất lớn

đến công tác quản lý rủi ro tín dụng mà nguyên nhân sâu xa bắt nguồn từ khủng

hoảng kinh tế, quản lý kém hiệu quả, chưa tuân thủ nghiêm ngặt các vấn đề có tính

nguyên tắc trong hoạt động tín dụng,..

Đứng trước tình hình khó khăn này, chính phủ Thái Lan & các NHTM đã thực

hiện một số biện pháp để giải quyết tình hình khó khăn nhằm tái cấu trúc lại hoạt

động tín dụng:

- Chính phủ thắt chặt các khoản vay khó đòi của hệ thống ngân hàng

bằng cách áp dụng tiêu chuẩn kế toán tiên tiến trên thế giới để xác định lại trị giá

các khoản vay khó đòi.

- Thúc đẩy thành lập các cơ quan xử lý hiệu quả các khoản vay khó đòi

như công ty quản lý nợ ngân hàng, công ty mua bán nợ vay, công ty mua bán tài sản

thế chấp/cầm cố tài sản ngân hàng,… đầu tư tái tạo nguồn vốn cho hệ thống ngân

hàng bằng nguồn tiền từ nguồn ngân sách nhà nước, phát hành trái phiếu hay vay từ

các tổ chức tín dụng quốc tế như IMF, ADB, WB

- Chính phủ từng bước thực hiện mở cửa thúc đẩy tự do hóa tài chính

quốc gia, nới lỏng các quyền sở hữu nước ngoài đối với ngân hàng, cho phép người

nước ngoài nắm giữ tối đa số cổ phần trong thời hạn 10 năm.

- Các NHTM đã thực hiện tuân thủ nghiêm ngặt các vấn đề có tính

nguyên tắc trong tín dụng đặc biệt là về thông tin khách hàng. Cụ thể là khi khách

hàng đến vay vốn, các bộ phận lien quan phải giải đáp được các vấn đề như tư cách

khách hàng vay, thực trạng tài chính, hiệu quả kinh doanh, mục đích khỏan vay,

nguồn trả nợ, kiểm soát mục đích sử dụng vốn thì mới ra quyết định cho vay

- Tách bạch, phân công rõ chức năng các bộ phận và tuân thủ các khâu

trong quá trình giải quyết cho vay bằng cách thực hiện tách bạch các bộ phận như

31/98

tại Siam Commercial Bank cũng đã xây dựng mô hình tổ chức triển khai dịch vụ tín

dụng theo nguyên tắc phân định rõ trách nhiệm của 03 bộ phận: Marketing khách

hàng, bộ phận thẩm định và bộ phận quyết định cho vay. Còn ở Bangkok Bank,

trước đây các bộ phận trong quy trình trình gộp làm một, nay ngân hàng tách hẳn

thanh hai bộ phận độc lập với nhau: bộ phận tiếp nhận và giải quyết hồ sơ và bộ

phận thẩm định. Trong đó, bộ phận thẩm định phải có báo cáo thẩm định tín dụng

gồm: chiến lược và kế hoạch kinh doanhh, báo cáo xếp hạng rủi ro ... Đây là một

thay đổi căn bản của Bangkok Bank nhằm đảm bảo tính độc lập, khách quan trong

quá trình thực thi công việc.

- Các NHTM thực hiện việc phán quyết tín dụng theo thẩm quyền. Theo

đó, các ngân hàng tại Thái Lan quy định việc quyết định tín dụng theo mức tăng

dần: mức phán quyết của một người, một nhóm người, hay hội đồng quản trị. Ví dụ

thẩm quyền phán quyết tín dụng như sau:

+ Khoản vay: > 10 triệu BATH 1 người chịu trách nhiệm

+ Khoản vay: >100 trịêu BATH phải qua 2 người chịu trách nhiệm

+ Khoản vay: > 3 tỷ BATH phải do Hội đồng quản trị ngân hàng

quyết định

- Bên cạnh đó, các NHTM bắt đầu xem trọng việc kiểm tra, giám sát

khoản vay bằng cách tiếp tục thu thập thông tin về khách hàng, có các biện pháp xử

lý kịp thời các tình huống rủi ro xảy ra.

Ngoài những vấn đề quan trọng nói trên, các ngân hàng Thái Lan rất coi trọng

việc cập nhật hiểu biết nghề nghiệp cho nhân viên ngân hàng, liên tục đào tạo theo

từng loại hình công việc, để nâng cao trình độ, kỹ năng đào tạo thực thi nhiệm vụ

độc lập được phân công. Các ngân hàng đều áp dụng sổ tay tín dụng cho các NHTM

được viết rất công phu, rõ ràng, dễ áp dụng, có chính sách cho vay riêng đối với các

lĩnh vực rủi ro cao như kinh doanh bất động sản.

* Mỹ:

32/98

Vụ phá sản của Ngân hàng Lehman Brothers và vụ mua lại Merrill Lynch và

nguy cơ sụp đổ của tập đoàn tài chính bảo hiểm AIG đã làm rung chuyển hệ thống

tài chính Mỹ và tác động của nó làm lung lay thị trường tài chính thế giới. Tất cả

đều được quy kết là do hậu quả của việc cho vay dưới chuẩn của thị trường bất

động sản vì từ nhiều năm qua các Ngân hàng đầu tư Mỹ đã nới lỏng tối đa chính

sách tín dụng cho các công ty và cá nhân mua bất động sản trả chậm. Bắt nguồn từ

việc lo ngại sự sụp đổ của các công ty dotcom sẽ ảnh hưởng mạnh đến nền kinh tế

Mỹ hồi những năm 90, chủ tịch Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) lúc bấy giờ, ông

Alan Greenspan, đã tiến hành chiến dịch cắt giảm lãi suất xuống những mức thấp

kỷ lục để thúc đẩy kinh tế tăng trưởng. Điều đó đã làm nảy sinh ra những dòng vốn

vay giá rẻ và gia tăng một lớn người đi vay tiền. Trên thực tế, vốn vay rẻ sẽ làm mất

đi ý thức phòng ngừa rủi ro của người đi vay vì khi bạn đi vay tiền và sau đó lâm

vào tình trạng khó khăn về tài chính, bạn sẽ dễ dàng trong việc định giá lại tài sản

để tiếp tục một khoản vay mới nhằm chi trả cho các khoản vay mà bạn phải trả. Bên

cạnh đó, việc cung cấp tín dụng dễ dàng như: không cần tài sản thế chấp, tỷ lệ trả

trước rất thấp, chỉ cần có mã số thuế (tax number - những công dân Mỹ, khi đăng ký

thuế thu nhập cá nhân với Cục Thuế Liên Bang sẽ được cấp mỗi người một mã số

thuế trong suốt đời) mặc dù đang trong tình trạng thất nghiệp, hoạt động cho vay

này thực sự không đáp ứng đầy đủ những tiêu chuẩn để được cấp tín dụng nhưng

vẫn được vay đã làm gia tăng rủi ro cho các Ngân hàng.Về phía Ngân hàng, tuy

hình thức cho vay này rủi ro rất lớn, nhưng các Ngân hàng vẫn chấp nhận để đổi lại

một mức lãi suất rất cao. Mặt khác, các công ty tài chính cũng thực hiện hình thức

cho vay này một cách rộng rãi và chuyển rủi ro qua ngân hàng và nhà đầu tư thông

qua một một sản phẩm tài chính gọi là “Mua lại các khỏan nợ hay khoản phải thu”.

Các công ty tài chính bán các khoản phải thu cho ngân hàng với một mức

chiết khấu cao, Ngân hàng hoặc các tổ chức tài chính chuyên biệt (gọi là các SPE)

sẽ chứng khoán hóa các khoản phải thu, nghĩa là phát hành các chứng khoán để vay

tiền với mức lãi suất rất cao. Rõ ràng là rủi ro chồng rủi ro, và đương nhiên là các

chứng khoán có mức độ xếp hạng tín nhiệm càng thấp thì tỷ suất sinh lợi càng cao,

33/98

thậm chí có chứng khoán không được xếp hạng tín nhiệm nhưng vẫn được nhà đầu

tư trên toàn thế giới chấp nhận do lãi suất siêu hạng.

Một lượng vốn đầu tư khổng lồ trên thế giới đã đổ vào thị trường bất động

sản Mỹ và khi thị trường này đóng băng vào giữa năm 2007, các vụ đổ vỡ dây

chuyền đã xảy ra. Các nhà đầu tư bất động sản vay tiền không đủ khả năng trả lãi

vay, bất động sản không bán được, chứng khoán phát hành trên các khoản phải thu

này sụt giá thê thảm, các Ngân hàng không đủ khả năng chi trả các khoản nợ lâm

vào tình trạng phá sản.

Từ cuộc khủng hoảng tín dụng Mỹ, cho thấy nguyên nhân xuất phát phần lớn

từ việc quản lý kiểm soát khoản vay kinh doanh bất động sản và chứng khoán còn

yếu kém, chất lượng tín dụng không được coi trọng, có nhiều khoản cho vay dưới

chuẩn, không thẩm định kỹ trước khi cho vay, sử dụng nguồn huy động ngắn hạn để

đầu tư vào những khoản dài hạn như bất động sản nên không tránh khỏi rủi ro mất

khả năng thanh toán và không thu hồi được nợ. Đó cũng là bài học kinh nghiệm quý

báu cho Việt Nam khi rơi vào tình trạng tương tự.

1.4.2. Bài học kinh nghiệm về quản lý rủi ro tín dụng rút ra cho các

NHTMCP Việt Nam

Từ cuộc khủng hoảng tài chính ở Thái Lan và cuộc khủng hỏang tín dụng

dưới chuẩn của Mỹ với những tác hại của nó, chúng ta có thể rút ra những bài học

rất hữu ích cho hoạt động tín dụng của các NHTM Việt Nam nói chung và hoạt

động cho vay bất động sản nói riêng:

Thứ nhất, cần kiểm soát rủi ro của hoạt động cho vay bất động sản thông

qua tỷ lệ cho vay bất động sản tối đa trên tổng dư nơ. Có thể thấy rằng trong thời

gian qua, hoạt động cho vay bất động sản của các NHTM Việt Nam tuy có chặt chẽ

(vay phải có tài sản thế chấp, có chứng minh thu nhập, và tỷ lệ cho vay bất động sản

không lớn) nhưng vẫn có một số ngân hàng nhỏ xé rào cần phải cảnh báo. Khi thị

trường chứng khoán chựng lại, dòng vốn đầu tư chuyển hướng sang bất động sản có

thể làm gia tăng nguy cơ rủi ro tín dụng. Các Ngân hàng nên tự thiết lập cho mình

34/98

một tỷ lệ cho vay bất động sản tối đa trên tổng dư nợ nhằm tự bảo vệ mình và bảo

vệ cả hệ thống. Bên cạnh đó, các NHTM cần phải có một chính sách tín dụng phù

hợp với các biện pháp quản lý rủi ro tín dụng mà các NHTM Thái Lan như áp dụng

cấp tín dụng theo hạn mức phán quyết từng cấp độ, nhận thức rõ tầm quan trọng của

quản lý rủi ro tín dụng.

Thứ hai, cần có một tổ chức xếp hạng chuyên nghiệp và uy tín trong xếp hạng

tín nhiệm các loại chứng khoán, bao gồm cả chứng khoán vốn và chứng khoán nợ.

Để hạn chế rủi ro cho các nhà đầu tư, cần thiết phải có một tổ chức xếp hạng

chuyên nghiệp và uy tín trong xếp hạng tín nhiệm các loại chứng khoán. Đặc biệt là

trong quá trình phát triển của thị trường tài chính, các sản phẩm phái sinh tín dụng

như chứng khoán hóa các khoản phải thu sẽ xuất hiện trong tương lai vì bên cạnh

yếu tố rủi ro, sản phẩm này vẫn có những lợi ích không thể phủ nhận như cải thiện

dòng tiền của các doanh nghiệp, đẩy nhanh vòng quay các khoản phải thu, chuyên

nghiệp hóa việc thu tiền,…. Việc xếp hạng tín nhiệm sẽ là một kênh thông tin hữu

ích cho các nhà đầu tư về mức độ rủi ro của loại chứng khoán này

Thứ ba, cần lưu ý nguyên tắc của phân tích tín dụng là hướng vào rủi ro thấp

thay vì tiềm năng cao. Đối với hoạt động tín dụng dài hạn như cho vay đầu tư bất

động sản, đòi hỏi các nhà cung cấp tín dụng phải có những phân tích chi tiết hơn và

có tầm chiến lược dài hạn hơn. Phân tích tín dụng trong trường hợp này bao gồm

các dự án vay, dòng tiền và đặc biệt quan trọng là xác định độ lớn của thu nhập ổn

định. Đây là nguồn chủ yếu bảo đảm cho khả năng thanh toán nợ trong dài hạn của

người đi vay

35/98

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Ngân hàng thương mại đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế, là mạch

máu của nền kinh tế và là cầu nối giữa các cá nhân và tổ chức, giữa người cho vay

và người đi vay nhằm góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng trưởng kinh tế. Vì

vậy, các ngân hàng thương mại có chức năng rất đa dạng và cung cấp các sản phẩm

phong phú nhằm đáp ứng các nhu cầu thực tế phát sinh của khách hàng.

Rủi ro tín dụng là một trong các rủi ro của hoạt động ngân hàng, là những rủi ro

phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nó có thể đến từ

những yếu tố khác như thiên tai dịch bệnh, hoặc do từ phía khách hàng vay hay từ

bản thân của các ngân hàng thương mại. Nhưng cho dù các rủi ro đến từ những yếu

tố nào đi nữa thì hậu quả không chỉ ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng mà còn

có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng hơn là làm phá sản các ngân hàng thương mại

thậm chí còn gây ra phản ứng lan truyền làm ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế.Vì

vậy phải chủ động chấp nhận các rủi ro này và tìm cách hạn chế và kiểm soát chúng

ở một mức độ nhất định trong mối tương quan về thu nhập mang lại cũng như việc

phân tích các rủi ro và thực hiện các biện pháp kiểm soát rủi ro dựa trên nguyên tắc

đánh đổi rủi ro với thu nhập là mối quan tâm hàng đầu của các NHTM

Đồng thời, trong chương I cũng nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước

trên thế giới như Thái Lan và Mỹ về quản lý rủi ro tín dụng. Đối với Thái Lan cho

ta thấy được nguyên nhân của các khoản nợ xấu xuất phát từ đâu để có thể học hỏi

phòng tránh và giảm thiểu từ các giải pháp của chính phủ & của các NHTM Thái

Lan.. Riêng đối với Mỹ, nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tín dụng và hàng loạt

các ngân hàng lớn, danh tiếng của Mỹ bị phá sản, là bài học kinh nghiệm vô cùng

quý giá cho việc quản lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam.

36/98

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC NGÂN

HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM

2.1. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG

MẠI VIỆT NAM TRONG CÁC NĂM QUA

2.1.1. Thực trạng môi trường hoạt động ngân hàng trong các năm qua

- Về chính sách tiền tệ: từ năm 2008 đến nay, và đặc biệt là năm 2008 là một

năm có thể nói là đầy biến cố chưa từng có về lãi suất về tỷ giá, …Chính sách tiền

tệ từ định hướng thắt chặt và linh hoạt nửa đầu năm 2008 chuyển dần sang nới lỏng

một cách thận trọng những tháng cuối năm. Đi cùng với quá trình này là tần suất

điều chỉnh các công cụ điều hành chưa từng có của NHNN tập trung ở các lãi suất

chủ chốt, tỷ lệ dự trữ bắt buộc và biên độ tỷ giá. Đặc biệt ngày 19/05/2008 lãi suất

cơ bản được điều chỉnh lên 12%/năm và lãi suất cơ bản được trả lại đúng chức năng

của nó, trở thành một cơ sở để xác định hành lang pháp lý cho lãi suất cho vay của

các NHTM, thay vì xơ cứng và mờ nhạt trước đó. Cụ thể, ngoài sự điều chỉnh trên,

NHNN chính thức áp cơ chế lãi suất trần trong hoạt động cho vay của các tổ chức

tín dụng (không quá 150% lãi suất cơ bản theo quy định của Bộ luật Dân sự). Từ

thời điểm này, hoạt động cho vay của các các ngân hàng có sự thay đổi căn bản;

khái niệm “lãi suất cho vay tối đa” xuất hiện trên thị trường, đồng nghĩa với những

mức lãi suất cho vay từ 22% - 25%/năm trước đó được loại bỏ cùng với các loại phí

thu thêm, trần lãi suất huy động thỏa thuận giữa các thành viên Hiệp hội Ngân hàng

Việt Nam có từ những năm trước cũng bị xóa bỏ. Sang năm 2009, chính sách tiền tệ

có sự ổn định hơn. Cụ thể NHNN chỉ một lần giảm lãi suất cơ bản từ 8,5% xuống

7%/năm và duy trì đến hết tháng 11 năm 2009 để rồi tăng trở lại 8% từ 1/12/2009

đến thời điểm hiện nay.

- Về lãi suất huy động: Sau năm 2008 biến động và leo thang chưa từng có

trong lịch sử, năm 2009, lãi suất huy động và cho vay Việt Nam đồng cùng ổn định,

theo sự ổn định của lãi suất cơ bản. Tuy nhiên, căng thẳng của lãi suất huy động bắt

37/98

đầu bộc lộ từ giữa năm 2009 khi các ngân hàng thương mại liên tục tăng lãi suất

huy động Việt Nam đồng, tập trung từ các kỳ hạn dài và dồn ép các kỳ hạn ngắn.

Mức lãi suất cao nhất lần lượt tạo các “đỉnh” 9%, 10% và đỉnh điểm lên đến

10,5%/năm. Ngay sau quyết định tăng lãi suất cơ bản từ 7% lên 8% có hiệu lực từ

1/12/2009, các NHTM đồng loạt đẩy lãi suất huy động lên mức cao, một số thành

viên có tới 10,5%/năm (chưa tính các hình thức khuyến mại, cộng thưởng gián

tiếp). Với diễn biến này, NHNN phát thông điệp kiểm tra toàn diện các trường hợp

có lãi suất huy động từ 10,5%/năm trở lên, các thành viên đồng loạt áp tối đa ở mức

10,49%/năm. Diễn biến lãi suất căng thẳng trong nửa cuối năm 2009 một phần phản

ánh khó khăn thanh khoản của hệ thống. Điều này dẫn đến một hệ quả ít thấy là tỷ

lệ lãi biên của các ngân hàng giảm rất mạnh; nếu trong năm 2008 chênh lệch lãi

suất động và cho vay đạt khoảng 3,7%, thì năm 2009 chỉ xoay quanh 1% (đối với

cho vay sản xuất kinh doanh).

- Về lợi nhuận của các NHTM: Năm 2008, ảnh hưởng của khủng hoảng, lạm

phát và lãi suất tăng cao, nhiều ngân hàng không đạt mục tiêu lợi nhuận đề ra từ đầu

năm. Điều này khiến các thành viên thận trọng hơn trong việc xác định mục tiêu lợi

nhuận năm 2009, cũng như từ bối cảnh vẫn còn nhiều khó khăn của nền kinh tế.

Đến tháng 11/2009, nhiều thành viên thông báo đã hoàn thành và vượt mục tiêu lợi

nhuận cả năm, nhưng không đột biến

Bảng 2.1 Lợi nhuận trước thuế của các ngân hàng 2006-2009

2006

(đvt: triệu đồng) Tên ngân hàng Vietcombank Vietinbank Eximbank Sacombank ACB 2007 3.893.668 3.192.119 829.991 1.529.085 628.847 358.587 611.328 1.581.971 687.219 2.126.815 2008 1.618.689 2.436.388 969.232 1.109.927 2.560.580 2009 5.688.271 3.514.391 1.532.786 2.150.451 2.818.300

Nguồn: Báo cáo tài chính 2006 - 2009 của các ngân hàng

Nhìn chung, lợi nhuận các ngân hàng năm 2009 có cải thiện và ổn định trở

lại so với năm khá đặc biệt 2008. Trong năm 2009, do chính sách lãi suất thay đổi

38/98

nên đi kèm theo đó là tốc độ tăng trưởng lợi nhuận của ngân hàng năm 2009 chia

thành hai nửa khá rõ rệt: 6 tháng đầu năm, lợi nhuận các ngân hàng tăng mạnh, xuất

phát từ tăng trưởng tín dụng cao, nhiều thành viên có nguồn thu thuận lợi từ xuất

khẩu vàng và đặc biệt là khoản hoàn nhập dự phòng trong đầu tư tài chính theo đà

phục hồi mạnh của thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, nửa cuối năm, lợi nhuận

nhiều thành viên bắt đầu giảm tốc do lãi suất huy động tăng cao, tỷ lệ lãi biên bị thu

hẹp, tăng trưởng tín dụng chậm lại, khó khăn thanh khoản và thị trường chứng

khoán sụt giảm mạnh trong quý 3 và quý 4/2009 và trong cơ cấu lợi nhuận, đã có sự

chuyển dịch rõ và rộng hơn của nguồn thu từ dịch vụ, thay vì lệ thuộc nguồn thu từ

tín dụng vì hoạt động tín dụng trong quý 3 và quý 4/2009 gần như lỗ hòan tòan do

phải áp dụng lãi suất trần 12%/năm và các NHTM không được thực hiện các hình

thức thu phí khác nhằm làm tăng chi phí đi vay của khách hàng. Trong khi chi phí

huy động vốn tăng do lãi suất huy động tăng vì các NHTM khác thiếu thanh khoản

tạm thời. Do đó, ngân hàng cho vay đối với doanh nghiệp là lỗ do chênh lệch giữa

lãi suất huy động và lãi suất cho vay chỉ xoay quanh mốc 1%/năm. Vì vậy, một số

các NHTM gần như ngưng cho vay và chỉ thực hiện giải ngân đối với các hợp đồng

tín dụng cũ đã ký với khách hàng lớn nhằm duy trì quan hệ với khách hàng.

Bảng 2.2 Lợi nhuận trước thuế của các ngân hàng trong các quý năm 2009

Quý 2

(đvt: triệu đồng) Tên ngân hàng Quý 4 1.893.355 Vietcombank 596.271 Vietinbank 369.591 Eximbank 514.907 Sacombank 845.939 ACB

Quý 1 1.459.903 1.469.867 872.592 1.206.289 429.395 381.612 620.394 392.010 868.065 462.547

Quý 3 1.376.707 839.238 352.188 623.140 641.749

Nguồn: báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh các quý năm 2009 các ngân hàng

- Về việc thành lập các ngân hàng mới: sau cả thập kỷ, năm 2008 ghi nhận

những giấy phép lập ngân hàng mới đầu tiên được cấp với 2 thành viên mới chính

thức đi vào hoạt động là Ngân hàng Liên Việt và Ngân hàng Tiên Phong. Sau đó,

NHNN cấp thêm giấy phép mới cho Ngân hàng Bảo Việt. Theo cam kết gia nhập

39/98

WTO, từ 1/4/2007, các ngân hàng nước ngoài được thành lập ngân hàng con 100%

vốn trực thuộc tại Việt Nam. Nhưng phải đến năm 2009, điều này mới chính thức

hiện thực, các ngân hàng ngoại bắt đầu mở rộng tầm ảnh hưởng thực sự. Tập trung

cấp giấy phép từ cuối năm 2008, bước sang năm 2009, hệ thống ngân hàng Việt

Nam bắt đầu đón nhận những ngân hàng 100% vốn ngoại đầu tiên. Những thành

viên mới này được hoạt động đẩy đủ hơn, cạnh tranh toàn diện hơn thay vì phụ

thuộc vào các điều kiện kinh doanh hạn chế trước đó. Trong năm 2009, 5 ngân hàng

đầu tiên của khối này đã nhận giấy phép, thành lập và mở rộng hoạt động, gồm

HSBC, Standard Chartered, ANZ, Shinhan và Hong Leong; trong đó, HSBC và

ANZ đã nhanh chóng khai trương nhiều điểm giao dịch mới. Lợi thế của khối này

và áp lực cạnh tranh đã được đề cập nhiều từ năm 2007 và nay đang dần hiện hữu.

Hiện nay, khối các tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam có 45 chi nhánh của

33 ngân hàng nước ngoài, 5 ngân hàng liên doanh với hơn 20 chi nhánh phụ thuộc,

5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 8 tổ chức tín dụng phi ngân hàng có vốn đầu tư

nước ngoài; ngoài ra còn có 56 văn phòng đại diện của các tổ chức tín dụng khác và

nhóm thành viên này hiện đang hoạt động hiệu quả.

2.1.2. Thực trạng hoạt động NHTMCP Việt Nam

2.1.2.1. Quy mô tăng vốn

Vốn của ngân hàng thể hiện năng lực tài chính, khả năng cạnh tranh. Ngân

hàng có vốn lớn thì khả năng cấp vốn lớn, có thể cải tiến công nghệ, phát triển

mạng lưới và cung cấp những sản phẩm dịch vụ tốt. Tuy nhiên, vốn điều lệ của các

NHTMCP hiện nay rất ít, năng lực tài chính hạn chế. Do đó làm cho tình hình tài

chính của các NHTMCP không lành mạnh, rủi ro hoạt động cao và năng lực cạnh

tranh thấp. Để nâng cao khả năng tài chính cho các ngân hàng, NHNN đã ra nghị

định số 141/2006 NĐ-CP về danh mục mức vốn pháp định cho các tổ chức tín

dụng. Theo đó, mức vốn pháp định áp dụng đến cuối năm 2008 là 1.000 tỷ. Và hiện

nay hầu hết các NHTM đã đạt đến ngưỡng yêu cầu là 1.000 tỷ và đang phấn đấu để

tăng vốn đến năm 2010 là 3.000 tỷ.

40/98

Để đảm bảo an tòan hoạt động, theo định hướng quản lý rủi ro của NHNN,

một trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất là quy mô về vốn mà thước đo cơ bản

nhất chính là hệ số an toàn vốn (vốn tự có/tổng tài sản có rủi ro, Capital Adequacy

Ratio – CAR). Chỉ tiêu này được dùng để xác định khả năng của các ngân hàng trong việc

thanh toán các khoản nợ có thời hạn và việc đối mặt với các rủi ro khác như rủi ro tín dụng,

rủi ro vận hành. Và theo quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN của NHNN yêu cầu các

NHTM phải duy trì hệ số CAR ở mức tối thiểu 8% và có thời gian ân hạn 3 năm

đến cuối năm 2008. Tuy nhiên trên thế giới, hệ số an tòan vốn hiện đang được áp

dụng cho các ngân hàng là 12%

Hệ số CAR càng lớn thì ngân hàng càng ít rủi ro về vốn , và hệ số này càng

thấp thì tỷ lệ rủi ro càng cao. Tuy nhiên, tỷ lệ rủi ro càng cao thì đi kèm với lợi

nhuận hấp dẫn. Đây mới chính là yếu tố hấp dẫn trong quản lý rủi ro bởi vì nhà

quản lý phải cân nhắc trong việc lưạ chọn giải pháp nào. Việc NHNN đưa ra tỷ lệ

an tòan vốn là 8% và ân hạn đến hết năm 2008. Điều đó có nghĩa là từ năm 2009,

các ngân hàng phải duy trì tỷ lệ an toàn vốn là tối thiểu là 8% .

Với quy mô vốn thấp và tỷ lệ an tòan vốn dưới mức thông lệ quốc tế như

hiện nay của các NHTMCP Việt Nam, chúng ta sẽ bị hạn chế về khả năng tín dụng

tài trợ cho hoạt động kinh doanh cũng như gặp rất nhiều cản trở, khó mở rộng phạm

vi hoạt động và công nghệ ngân hàng và càng khó hơn khi cạnh tranh với các ngân

hàng nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam.

2.1.2.2. Tình hình huy động vốn

Trong các năm qua, môi trường kinh tế cùng với nền chính trị ổn định, nền

kinh tế phát triển một cách cơ bản, vững chắc và có chuyển hướng theo chiều sâu.

Sự phát triển của hệ thống ngân hàng đã thúc đẩy thị trường tiền tệ phát triển tạo

môi trường mới và những kênh huy động quan trọng cho phát triển kinh tế. Các tổ

chức tín dụng đã tăng cường huy động vốn thông qua nhiều hình thức và kỳ hạn

khác nhau, mở rộng mạng lưới huy động vốn và sử dụng nhiều hình thức đa dạng

như phát hành trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng. Nguồn vốn huy động của ngân hàng

41/98

bao gồm: tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành kỳ

phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi để huy động vốn, các khoản tiền gửi giữ hộ và

chờ thanh toán, tiền gởi của kho bạc nhà nước (nếu có). Tình hình huy động vốn

của ngân hàng được thể hiện qua bảng sau:

Bảng 2.3 Tình hình huy động vốn các ngân hàng 2006- 2009

(đvt: tỷ đồng)

Tên ngân hàng Vietcombank Vietinbank Eximbank Sacombank ACB 2006 152.579 126.625 13.141 34.591 31.782 2007 159.528 151.459 22.915 55.692 59.766 2008 191.916 174.905 32.331 57.964 74.119 2009 207.542 163.215 41.294 61.489 97.369

Nguồn: báo cáo tài chính 2006-2009 của các ngân hàng

Nhìn chung, tình hình huy động vốn qua các năm của các ngân hàng đều

tăng cao . Điều đó cho thấy vốn nhàn rỗi trong dân cư rất lớn. Cũng từ bảng tổng

hợp trên ta cũng thấy rằng Vietcombank là ngân hàng đứng đầu trong số dư huy

động kế đến là Vietinbank. Sau đó mới đến ACB, Sacombank, Eximbank. Điều này

có thể lý giải như sau: do Vietcombank và Vietinbank là 2 ngân hàng TMCP quốc

doanh nên là nơi mở tài khỏan của các tập đoàn, tổng công ty, và kho bạc nhà

nước,… Vì vậy, hai ngân hàng này có số dư huy động rất cao tạo cho họ có được

nguồn vốn lớn nên rất thuận lợi trong việc tăng dư nợ cho vay và tài trợ các dự án

lớn của nền kinh tế. Đây là lợi thế rất lớn của các ngân hàng TMCP quốc doanh.

Còn về nhóm các NHTMCP ngoài quốc doanh như ACB, Sacombank, Eximbank

thì nguồn vốn huy động chủ yếu từ dân cư, các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên số dư

huy động thấp hơn.

Các NHTM với phương châm “đi vay để cho vay” nên đã ngày càng chú trọng

việc đa dạng hóa các hình thức huy động vốn từ không kỳ hạn đến có kỳ hạn, huy

động với lãi suất thả nổi, lãi suất bậc thang,…Tiết kiệm có kèm theo hình thức

khuyến mãi như du lịch, tặng tiền, vàng,.. Đặc biệt năm 2008, NHNN không chế lãi

42/98

suất huy động và lãi suất cho vay không vượt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN

công bố trong từng thời kỳ (điều 476 bộ luật dân sự năm 2005) nên các ngân hàng

(đặc biệt là các ngân hàng nhỏ, thanh khoản kém) tìm mọi cách cạnh tranh để huy

động tiền gởi và kết qủa là mức lãi suất huy động chạm trần lãi suất của NHNN

công bố mà vẫn không tăng được số dư huy động nên các ngân hàng đã đưa ra

nhiều hình thức khuyến mãi rất mạnh tay như tặng vàng, tặng trước lãi suất,…

nhằm tăng lãi suất huy động thu hút vốn nhàn rỗi trong dân cư.

Thị phần huy động vốn của các NHTM ngày càng có khả năng bị thu hẹp do

nền kinh tế Việt Nam sau khi gia nhập WTO đã có nhiều thay đổi theo chiều hướng

tích cực, trong đó thị trường tài chính Việt Nam ngày càng phát triển phong phú, đa

dạng (hình thành đầy đủ các loại hình thị trường: thị trường tiền tệ, thị trường chứng

khoán, thị trường bảo hiểm và các định chế tài chính phi ngân hàng…) theo hướng

hoàn thiện và hòa nhập với thị trường tài chính thế giới làm cho nhà đầu tư có nhiều

kênh đầu tư để lựa chọn và đa dạng hóa danh mục đầu tư nhằm giảm thiểu rủi ro và

đạt lợi nhuận cao nhất. Chính vì lẽ đó mà nguồn vốn nhàn rỗi chảy vào ngân hàng

cũng bị chi phối đáng kể.

Trong thời gian qua, đặc biệt là năm 2008, có sự chạy đua huy động vốn

(cạnh tranh không lành mạnh) giữa các NHTM: chạy đua tăng lãi suất huy động vốn

dẫn đến lãi suất đầu ra tăng gây khó khăn cho nền kinh tế và từ đó làm gia tăng rủi

ro tiềm ẩn trong hoạt động tín dụng kéo theo thu nhập trong hoạt động tín dụng

cũng bị giảm đáng kể.

Cơ cấu nguồn vốn huy động của các NHTM chủ yếu là nguồn vốn ngắn hạn.

nên nó không tạo ra sự ổn định, gây khó khăn cho các ngân hàng khi muốn cho vay

trung, dài hạn. Trong khi đó, lượng khách hàng này rất lớn vì đa số các doanh

nghiệp thiếu vốn, lạc hậu về công nghệ, máy móc thiết bị nên rất muốn vay vốn

trung, dài hạn để đầu tư phát triển máy móc thiết bị, công nghệ hiện đại…

Nhìn chung, từ 2006 đến 2009 thì năm 2008 được xem là năm đầy biến động

nhất về lãi suất huy động. Tuy nhiên, các ngân hàng vẫn duy trì tốt tỷ lệ tăng trưởng

43/98

huy động qua các năm. Điều này chứng tỏ, tiết kiệm ngân hàng là một kênh đầu tư

hấp dẫn của đa số bộ phận dư cư trong việc sử dụng vốn nhàn rỗi.

2.2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI

CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM

2.2.1. Đánh giá rủi ro tín dụng tại các NHTMCP Việt Nam trong các

năm qua

2.2.1.1. Nợ quá hạn

Nợ quá hạn là một trong những tiêu chí đo lường mức độ rủi ro tín dụng. Đó

các khỏan nợ quá hạn từ nhóm 2 đến nhóm 5. Nợ quá hạn xảy ra do khách hàng

chậm thanh tóan tiền lãi và vốn khi đến kỳ thu lãi hoặc khi đáo hạn khoản vay. Tỷ

lệ nợ quá hạn càng cao sẽ ảnh hưởng đến tỷ lệ trích lập dự phòng và lợi nhuận của

các NHTM và thể hiện mức độ rủi ro tín dụng lớn. Trong tình hình tăng trưởng tín

dụng như hiện nay thì nợ quá hạn dễ tăng cao do các ngân hàng chạy theo tốc độ

tăng trưởng tín dụng dẫn đến chất lượng tín dụng kém. Việc chạy theo tăng trưởng

tín dụng cũng là áp lực vì tín dụng là mảng mang lại thu nhập có thể lên đến 90%

trong tổng thu nhập mang lại của các ngân hàng. Vì vậy các NHTM luôn đặt nặng

vấn đề tăng trưởng tín dụng lên hàng đầu mà đôi khi vì theo đuổi chính sách lợi

nhuận sẽ dễ đưa đến tình trạng chạy đua để tăng trưởng tín dụng bằng mọi giá.

Bảng 2.4 Tình hình dư nợ của các ngân hàng từ 2006- 2009 (đvt: tỷ đồng)

2006

Tên ngân hàng Vietcombank Vietinbank Eximbank Sacombank ACB 70.025 80.152 10.207 14.394 17.015 2007 97.512 102.191 18.452 35.378 31.811 2008 149.729 120.752 21.222 35.009 34.832 2009 189.310 163.121 38.382 74.437 98.554

Nguồn: Báo cáo tài chính năm 2006-2009 của các ngân hàng

Qua bảng tổng hợp trên, ta có thể thấy rằng đối với nhóm NHTMCP quốc

doanh như Vietcombank và Vietinbank thì tốc độ tăng thấp hơn nhóm NHTMCP

ngoài quốc doanh. Đối với nhóm NHTMCP ngoài quốc doanh thì mức độ tăng dư

44/98

nợ qua các năm gần như hơn gấp đôi. Riêng năm 2008, do có nhiều biến động trên

thị trường tài chính nên dẫn đến việc một số ngân hàng tạm ngừng hoặc hạn chế

giải ngân nên tốc độ tăng trưởng tín dụng trong năm 2008 không cao.Và nhìn chung

tốc độ trưởng dư nợ qua các năm của các ngân hàng là khá ổn định. Tuy nhiên tốc

độ tăng trưởng tín dụng cao mang lại nhuận cao nhưng chúng ta vẫn phải quan tâm

đến chất lượng tín dụng. Và chất lượng tín dụng thể hiện rõ qua bảng tổng kết tỷ lệ

nợ quá hạn dưới đây:

Bảng 2.5 Tỷ lệ nợ quá hạn của các ngân hàng từ 2006-2009 (%)

2006 2007 2008 2009

Tên ngân hàng Vietcombank Vietinbank Eximbank Sacombank ACB 10,48 6,46 1,60 0,96 1,13 5,34 5,30 1,50 0,38 0,31 5,60 5,10 7,90 0,96 2,03 2,63 1,54 2,40 1,32 1,20

Nguồn: Báo cáo tài chính năm 2006-2009 của các ngân hàng

Nhìn chung, tỷ lệ nợ quá hạn ở các NHTM hiện nay đang có xu hướng giảm.

Tuy nhiên hiện nay, tỷ lệ nợ quá hạn ở các NHTM quốc doanh như Vietcombank và

Vietinbank còn khá cao so với các NHTM ngoài quốc doanh do đối tượng cho vay

của các ngân hàng này là các dự án của các tập đoàn và tổng công ty nhà nước mà

hiện nay các tập đòan hay tổng công ty nhà nước đầu tư dàn trải, sử dụng vốn

không hiệu quả dẫn đến tình trạng chậm trả lãi, vốn nên dễ đưa đến tình trạng nợ

quá hạn. Theo báo cáo của NHNN thì các tập đoàn lớn như: Tập đoàn Dầu khí, Tập

đoàn Điện lực, Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy, Tập đoàn Công nghiệp Than –

Khoáng sản, Tập đoàn Công nghiệp Cao su, Tập đoàn Bưu chính Viễn thông, Tập

đoàn Dệt may là các khách hàng lớn của các NHTMCP quốc doanh và số nợ chủ

yếu của các tập đoàn này chủ yếu là nợ trung dài hạn phục vụ cho các dự án đầu tư

mang tính chiều sâu và các kế hoạch phát triển. Cụ thể, đến 31/12/2008, nợ ngắn

hạn tổ chức tín dụng của nhóm này là 18.846 tỷ đồng, chiếm 15% tổng nợ; nợ trung

và dài hạn là 109.940 tỷ đồng, chiếm 85% tổng nợ. Về chất lượng nợ, tổng nợ quá

hạn của 7 tập đoàn kinh tế đến hết 31/12/2008 là 4.168 tỷ đồng, chiếm 3,24% tổng

45/98

dư nợ của các tập đoàn tại tổ chức tín dụng. Trong đó, nợ có khả năng mất vốn, bao

gồm nợ quá hạn trên 360 ngày, nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trên 180 ngày và nợ

khoanh chờ Chính phủ xử lý (nợ nhóm 5) chiếm 15% tổng số nợ quá hạn. Riêng

Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam có số nợ quá hạn là 3.812 tỷ đồng chiếm

19,17% dư nợ của tập đoàn và chiếm 91,4% tổng số nợ quá hạn của cả 7 tập đoàn.

Và hiện nay do tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu, các tổ chức tín dụng

đã điều chỉnh, cơ cấu lại kỳ hạn nợ nên tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu trên chưa phản ánh

đầy đủ chất lượng nợ của các tập đoàn này.

Đối với nhóm các NHTM ngoài quốc doanh như ACB, Sacombank,.. do tỷ

trọng cho vay các doanh nghiệp nhà nước và các tập đoàn chiếm rất thấp mà họ chủ

yếu tập trung nghiệp vụ ngân hàng bán lẻ nên tỷ lệ nợ quá hạn ở các ngân hàng này

thấp hơn rất nhiều so với các NHTM quốc doanh.

2.2.1.2. Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ

Nợ xấu là những khỏan nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5. Vì vậy, đây là những

khoản nợ có nguy cơ mất vốn cao. Có sự phân hóa rất rõ về tỷ lệ nợ xấu. Nhóm các

NHTM quốc doanh luôn phấn đấu để đạt tỷ lệ này dưới 5%, còn các NHTM cổ

phần ngoài quốc doanh luôn đặt ra chỉ tiêu này dưới 1% vì nợ xấu là những nhóm

nợ có rủi ro rất cao làm ảnh hưởng đến lợi nhuận của các NHTM do tỷ lệ trích dự

phòng cho các khoản vay này.

Bảng 2.6 Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ của các ngân hàng từ 2006-2009 (%)

2006 2007 2008 2009

Tên ngân hàng Vietcombank Vietinbank Eximbank Sacombank ACB 2,66 1,41 0,85 0,72 0,19 3,29 1,02 0,88 0,23 0,08 3,48 1,81 4,71 0,60 0,89 2,12 0,60 1,83 0,70 0,98

Nguồn: Báo cáo tài chính các năm 2006-2009 của các ngân hàng

Qua bảng tổng hợp trên, ta có thể thấy tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ vay của

các NHTM có xu hướng giảm qua các năm như Vietcombank hay Vietinbank.

46/98

Riêng nhóm các NHTMCP ngoài quốc doanh luôn duy trì tỷ lệ này khá thấp (dưới

1%) vì nợ xấu ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng tín dụng cũng như thu nhập vì một

khi nợ xấu gia tăng phản ánh chất lượng tín dụng xấu, khả năng quản lý rủi ro tín

dụng kém, năng lực quản lý kém và đi kèm theo đó là việc trích lập dự phòng rất

cao từ đó sẽ ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận của ngân hàng.

Tỷ lệ nợ xấu đến cuối năm 2008 là 4% trên tổng dư nợ của toàn ngành ngân

hàng theo chuẩn kế toán Việt Nam. Đến tháng 9 năm 2009, tỷ lệ nợ xấu của toàn

ngành khoảng 2,75% do sự hỗ trợ từ gói kích cầu của NHNN và dự đóan con số này

vẫn nằm trong kế hoạch của NHNN là kiềm chế nợ xấu dưới 5% trong giai đoạn

2006-2010.

Tuy nhiên, tỷ lệ nợ xấu ở các NHTM quốc doanh thực sự còn cao hơn các

con số trên báo cáo thường niên vì thực tế hiện nay, các ngân hàng quốc doanh vẫn

có nghĩa vụ thực hiện các khoản cho vay chính sách, theo các chương trình phát

triển của chính phủ. Chính phủ còn can thiệp vào thị trường tín dụng sau khi sự cho

vay đã diễn ra hoàn tất bằng cách ra tay cứu vớt các doanh nghiệp Nhà nước hoặc

ngân hàng quốc doanh có vấn đề. Sự cứu giúp của chính phủ có thể ở dưới nhiều

dạng như tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước thua lỗ, nhận các khoản nợ xấu, và cố ý

trì hoãn việc đóng cửa các tổ chức tài chính mất khả năng thanh toán. Vì vậy, các

NHTMCP quốc doanh trở nên “thích” cho vay các doanh nghiệp nhà nước hơn vì

mọi rủi ro hầu như đã được chính phủ bảo lãnh. Và thông lệ như vậy đã làm giảm

nhu cầu cải thiện tính hiệu quả ở các ngân hàng, khuyến khích họ theo đuổi các dự

án cho vay đầy rủi ro..

Hơn nữa, quan hệ truyền thống và dài hạn giữa NHTM quốc doanh và các

doanh nghiệp nhà nước làm cho chi phí giao dịch với các doanh nghiệp nhà nước

nhỏ hơn với doanh nghiệp tư nhân, càng làm tăng thêm xu hướng ngân hàng cho

vay doanh nghiệp nhà nước hơn là doanh nghiệp tư nhân.Vì vậy, số nợ mất khả

năng thanh toán chính của ngân hàng quốc doanh là các doanh nghiệp Nhà nước

chứ không phải các doanh nghiệp tư nhân.

47/98

Sự can thiệp và khuyến khích của chính phủ dẫn đến xu hướng là các doanh

nghiệp nhà nước càng có tính rủi ro cao thì càng được các ngân hàng cho vay nhiều

hơn vì 2 lý do:

+ Thứ nhất, những doanh nghiệp này càng là mối bận tâm của chính phủ,

buộc chính phủ phải tăng cường chỉ đạo các ngân hàng cho vay để cứu vớt, cải tổ

lại chúng.

+ Thứ hai, bản thân các ngân hàng cũng muốn cho các doanh nghiệp này

tiếp tục vay vì nếu rút lui thì các doanh nghiệp này sẽ phá sản, do đó các ngân hàng

mất khả năng thu hồi các món cho vay trước đó.

Đối với các NHTM cổ phần ngoài quốc doanh, tỷ lệ nợ xấu ở các ngân hàng

này rất thấp chứng tỏ họ hoạt động khá hiệu quả. Tuy nhiên theo trào lưu chung, các

ngân hàng này cũng thành lập ra các công ty trực thuộc như công ty xử lý nợ của

Sacombank, ACBA (công ty xử lý nợ của ngân hàng ACB) nhằm bán nợ cho các

công ty này để làm giảm tỷ lệ nợ xấu.

2.2.1.3. Tỷ lệ nợ xấu trên vốn chủ sở hữu

Tỷ lệ nợ xấu trên vốn chủ sở hữu càng cao thì rủi ro càng lớn vì nợ xấu gia

tăng trong khi vốn chủ sở hữu thấp thì khả năng xảy ra rủi ro rất cao. Vì vậy, các

NHTMCP rất chú ý đến vấn đề tăng vốn chủ sở hữu nhằm đảm bảo an toàn trong

hoạt động cho vay, huy động cũng như duy trì các hệ số liên quan đến vốn tự có,

vốn chủ sở hữu theo yêu cầu của NHNN.

Bảng 2.7 Vốn chủ sở hữu các ngân hàng 2006-2009 (đvt: tỷ đồng)

Tên ngân hàng Vietcombank Vietinbank Eximbank Sacombank ACB 2006 11.228 5.638 1.947 2.430 1.654 2007 13.551 10.647 6.295 7.350 6.258 2008 13.790 12.336 12.844 7.759 7.766 2009 17.052 16.989 13.950 10.553 10.093

Nguồn: báo cáo tài chính năm 2006-2009 của các ngân hàng

48/98

Khái niệm nợ xấu của Việt Nam tuy áp dụng các chuẩn mực quốc tế nhưng

cách phân loại nợ lại hoàn toàn khác. Việc phân loại nợ chủ yếu dựa vào thời hạn

trả nợ, thiếu các sự đánh giá kết hợp nên không phản ánh đúng thực chất khoản nợ.

Vì vậy, nếu các ngân hàng thực hiện phân loại khách hàng và nợ theo đúng chuẩn

mực quốc tế, thì tỷ lệ nợ xấu sẽ tăng thêm 2 – 3 lần

Đối với các NHTM ngoài quốc doanh, xét về chỉ tiêu tài chính, tốt hơn các

ngân hàng quốc doanh do ít rủi ro nợ vay, huy động vốn cao hơn và tiềm năng lợi

nhuận cao. Khối quốc doanh tuy chiếm thị phần lớn về cho vay, nhưng chú trọng

nhiều vào các doanh nghiệp lớn hay tổng công ty nhà nước. Do vậy, các NHTM

quốc doanh sẽ phải chịu áp lực để hỗ trợ các đối tượng vay nhiều như tổng công ty

nhà nước. Vì vậy, tỷ lệ nợ xấu trên vốn chủ sở hữu của các NHTM quốc doanh rất

cao so với các NHTM ngoài quốc doanh. Đây là một một sự rủi ro tiềm ẩn ảnh

hưởng rất lớn đến vốn chủ sở hữu của các NHTM.Và thật sự các NHTM quốc

doanh nếu không cân nhắc và thận trọng với tỷ lệ nợ xấu thì sẽ gặp nhiều rủi ro

trong việc duy trì vốn chủ sở hữu.

Bảng 2.8 Tỷ lệ nợ xấu trên vốn chủ sở hữu của các ngân hàng từ 2006 – 2009 (%)

2006 2007 2008 2009

Tên ngân hàng Vietcombank Vietinbank Eximbank Sacombank ACB 16,57 20,01 4,43 4,28 2,03 23,70 9,79 2,56 1,11 0,42 37,76 17,73 7,79 2,69 3,97 28,01 5,74 5,05 3,24 3,56

Nguồn: báo cáo tài chính của các ngân hàng năm 2006-2009

Ta có thể thấy với tốc độ tăng vốn chủ sở hữu khá cao trong vòng 3 năm từ

2006-2009 cũng là yếu tố làm giảm tỷ lệ nợ xấu trên vốn chủ sở hữu của các ngân

hàng qua các năm. Tín dụng tăng trưởng cao đi kèm với gia tăng vấn đề nợ xấu sẽ

làm dễ dẫn đến rủi ro kinh doanh vì vậy các NHTMCP buộc phải tăng vốn chủ sở

49/98

hữu lên tương ứng và để đạt chuẩn trong khu vực nhằm cạnh tranh với các ngân

hàng nước ngoài.

2.2.1.4. Hệ số rủi ro tín dụng:

Hệ số rủi ro tín dụng của các NHTMCP ở con số tương đối hợp lý. Qua

bảng thống kê hệ số rủi ro tín dụng của một số NHTM, ta có thể thấy tương ứng với

100 đồng của tổng tài sản có thì các NHTMCP cho vay khoảng từ 33 đồng đến 74

đồng. Đây là con số phản ảnh rủi ro tín dụng ở mức độ chấp nhận

Bảng 2.9 Hệ số rủi ro tín dụng của các ngân hàng từ 2006-2009

2006 2007 2008 2009

Tên ngân hàng Vietcombank Vietinbank Eximbank Sacombank ACB 0,42 0,59 0,56 0,58 0,38 0,51 0,62 0,55 0,55 0,37 0,68 0,62 0,44 0,51 0,33 0,74 0,66 0,58 0,47 0,57

Nguồn: báo cáo tài chính năm 2006-2009 của các ngân hàng

Từ bảng thống kê trên, ta có thể thấy rằng hệ số rủi ro tín dụng của nhóm

các NHTM quốc doanh có xu hướng cao hơn so với nhóm các NHTM ngoài quốc

doanh. Qua đó, chúng ta có thể thấy rằng các ngân hàng có hệ số rủi ro tín dụng

càng cao thì lợi nhuận càng lớn nhưng đồng thời rủi ro tín dụng cũng rất cao. Vì

vậy, khi các NHTM có sự gia tăng hệ số này qua các năm chứng tỏ các ngân hàng

ngày càng đối diện với nhiều rủi ro hơn, với nhiều thách thức hơn. Điều này buộc

các ngân hàng càng chặt chẽ hơn trong việc quản lý rủi ro tín dụng

2.2.1.5. Hệ số giới hạn huy động vốn:

Bảng 2.10 Hệ số giới hạn huy động vốn (%)

2006 2007 2008 2009

Tên ngân hàng Vietcombank Vietinbank Eximbank Sacombank ACB 7.36 5.85 14.82 7.02 5.20 8.50 9.01 27.47 13.20 10.47 7.19 9.48 39.73 13.39 10.48 8.22 10.41 33.79 17.16 10.37

50/98

Nguồn: báo cáo tài chính 2006-2009 của các ngân hàng

Việc huy động vốn của các NHTM cũng bị giới hạn theo pháp lệnh ngân

hàng năm 1990. Theo đó, tổng nguồn vốn huy động của NHTM phải nhỏ hơn hoặc

bằng 20 lần vốn tự có. Hay nói cách khác là hệ số giới hạn huy động vốn của một

ngân hàng phải lớn hơn hoặc bằng 5%. Hệ số này càng nhỏ thì chứng tỏ NHTM huy

động vốn càng vượt con số 20 lần vốn tự có của chính bản thân mình và từ đó có

thể dẫn đến rủi ro mất khả năng chi trả cho khách hàng. Qua bảng tổng hợp trên ta

có thể thấy, các ngân hàng đều đạt chuẩn theo theo định của NHNN đưa ra (lớn hơn

5%) . Điều đó có nghĩa là các ngân hàng đều huy động vốn trong một giới hạn an

toàn (luôn nhỏ hơn 20 lần vốn tự có). Hệ số này càng cao chứng tỏ sự chênh lệch

giữa vốn tự có & vốn huy động càng nhỏ. Ví dụ như so sánh giữa Vietcombank &

Eximbank, ta có thể thấy rằng Việtcombank huy động vốn khá tốt do Vietcombank

được lợi thế là ngân hàng TMCP quốc doanh là nơi có lượng tiền gởi rất lớn của các

doanh nghiệp lớn & bộ tài chính nên hệ số này càng tiến gần về 5% chứng tỏ

Vietcombank huy động vốn xấp xỉ 12 lần vốn tự có của mình. Trong khi Eximbank

chỉ huy động vốn khoảng 3 lần vốn tự có. Nếu vốn huy động chênh lệch không

nhiều với phần vốn tự có thì dễ xảy ra tình trạng thiếu vốn cho vay. Còn nếu chênh

lệch lớn hơn 20 lần thì vượt quá mức bảo vệ của vốn tự có. Từ đó, nếu có các vấn

đề nhảy cảm về thông tin hoặc biến cố xảy ra ngân hàng có thể mất khả năng chi

trả. Vì vậy, NHNN kiểm soát rất chặt chẽ hệ số này. Các NHTM phải báo cáo

thường xuyên theo định kỳ cho NHNN về hệ số này.

2.2.2. Nhận biết rủi ro & xác định khả năng xảy ra rủi ro tín dụng tại

các NHTM

Các khoản tín dụng & nợ có vấn đề sẽ gia tăng khi khách hàng không thể thực

hiện đầy đủ các cam kết hoặc thường xuyên xảy ra việc cố ý không thực hiện cam

kết, vi phạm nghiêm trọng tài chính. Việc đầu tiên và quan trọng nhất trong việc xử

lý những khoản vay có vấn đề chính là nhận biết rủi ro của khỏan vay đó. Bất kỳ

khoản vay nào cũng có thể có rủi ro, việc sớm nhận biết rủi ro và có những biện

51/98

pháp theo dõi nhanh chóng, chuyên nghiệp giúp các rủi ro, tổn thất có thể giảm đến

mức thấp nhất. Mối quan tâm hàng đầu của hầu hết các ngân hàng đó là danh mục

cho vay được bảo đảm an toàn, các ngân hàng thường xuyên bị ru ngủ bởi cảm giác

an tâm sai lầm về một khoản cho vay cụ thể nào đó vì nó “được bảo đảm” hay nói

cách khác là “được thế chấp”. Nếu cho rằng cho vay là rất an toàn vì có bảo đảm mà

không hề băn khoăn đến các loại thế chấp khác nhau, sự thay đổi theo chiều hướng

xấu của nền kinh tế sẽ ảnh hưởng thế nào đến giá trị thế chấp ngân hàng đang nắm

giữ là rất nguy hiểm. Cần phải nhận thức được rằng một khoản tín dụng có thế chấp

giúp ngân hàng quyết định tiếp tục cho vay vì có khả năng thu hồi nợ trong chừng

mực nào đó nhưng không có nghĩa là hoàn toàn được bảo đảm. Những dấu hiệu

cảnh báo sẽ giúp ngân hàng có thể nhận biết và có giải pháp xử lý sớm các vấn đề

một cách hiệu quả.

Trường hợp Công ty Minh Phụng - vụ phá sản lớn nhất thế kỷ 20 của Việt Nam,

hay công ty Bông Bạch Tuyết với khoản nợ quá hạn hơn 6,4 tỷ đồng vẫn chưa trả

được cho ngân hàng, hay Vinashin với các khoản nợ hơn 86.000 tỷ đồng … cho

thấy vấn đề xuất phát từ việc không kiểm soát chặt chẽ quản lý khoản vay, cũng

như việc nhận biết sớm dấu hiệu rủi ro của cán bộ các ngân hàng

2.2.2.1. Những dấu hiệu báo động sớm liên quan đến hoạt động

ngân hàng

Đối với các dấu hiệu báo động sớm liên quan đến hoạt động ngân hàng thì

nhân viên tín dụng là người giám sát theo dõi & phát hiện sớm nhất các thông qua

các biểu hiện sau đây:

- Khách hàng có số dư tài khoản giảm.

- Vay đáo hạn quá nhiều hoặc không theo kế hoạch.

- Phụ thuộc quá nhiều vào vay ngắn hạn.

- Có những thay đổi đáng kể đối với các thời điểm có nhu cầu vay vốn.

- Có sự nhảy vọt trong số lần yêu cầu vay và số tiền vay.

52/98

- Các khoản vay mà nguồn tiền trả nợ phải huy động từ nhiều nơi và không

thể kiểm tra được.

- Các nhà cung cấp hiện tại, tương lai của khách hàng liên lạc với ngân hàng

để hỏi thăm những thông tin về tín dụng của khách nợ.

- Sự xuất hiện của các nhà cho vay tài chính khác, đặc biệt là cho vay có tài

sản thế chấp.

- Thay đổi trong vấn đề về hôn nhân, thái độ đối với ngân hàng hoặc nhân

viên ngân hàng, đặc việt là thái độ bất hợp tác.

- Không thực hiện những nghĩa vụ cá nhân, những cam kết đúng hạn.

- Thay đổi về quản lý, chủ sở hữu hoặc các nhân sự chủ chốt; các nhân sự

chủ chốt qua đời hoặc đau ốm, không có sự kế thừa trong ban lãnh đạo.

- Các vấn đề trước đây đã được giải quyết lại xảy ra.

- Công tác báo cáo và kiểm soát tài chính yếu kém.

- Tham gia vào việc mua lại công ty khác, các ngành kinh doanh mới, mở

rộng kinh doanh đến các vùng địa lý mới, hoặc thêm dây chuyền sản xuất mới.

- Có mong muốn tham gia vào việc kinh doanh rủi ro cao; hoặc thay đổi

công việc kinh doanh.

- Định giá sản phẩm hoặc dịch vụ cao một cách không hợp lý.

- Không chú trọng, ngừng những ngành kinh doanh đem lợi nhuận cơ bản.

- Chần chừ trong hành động khi đối phó với nền kinh tế thị trường có chiều

hướng đi xuống.

- Hoạt động kinh doanh phụ thuộc vào một người và khả năng phát triển của

doanh nghiệp phụ thuộc vào năng lực và sự kiểm soát của một cá nhân đó.

- Có vấn đề về nhân sự

2.2.2.2. Những dấu hiệu báo động sớm liên quan đến hoạt động

kinh doanh & tài chính

53/98

Muốn nhận biết sớm các dấu hiệu này thì nhân viên tín dụng phải thường xuyên

thăm thực địa khách hàng theo định kỳ có thể hàng quý, hàng nửa năm để kiểm tra

tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng & nhận diện sớm một số thay đổi xảy

ra như sau:

- Kết quả tài chính và kiểm soát hoạt động kinh doanh yếu kém.

- Mất những dây chuyền sản xuất chủ lực, quyền được phân phối hoặc

nguồn cung cấp hàng.

- Mất một hay nhiều khách hàng quan trọng có tình hình tài chính lành

mạnh & thay đổi đột ngột số lượng đơn đặt hàng có thể bị hạn chế do hạn chế năng

lực sản xuất hiện tại.

- Bảo trì máy móc thiết bị không đạt chất lượng.

- Trì hoãn việc thay thế các thiết bị máy móc lạc hậu hoặc hiệu quả thấp.

- Có những bằng chứng cho thấy có bán giảm giá hàng tồn kho, duy trì

lượng hàng tồn kho lớn, hoặc các mặt hàng tồn kho không cần thiết.

- Không có bản báo cáo tài chính đúng thời hạn

- Báo cáo tài chính thể hiện: Vòng quay quay hàng tồn kho giảm, lượng

tiền mặt nhận từ khách hàng giảm mạnh, vay dài hạn tăng đột biến, vốn sở hữu thấp

so với các khoản nợ vay,…

- Trong báo cáo lãi lỗ thể hiện: doanh thu bán hàng giảm hoặc tăng đột

biến, chi phí tăng đột biến, lợi nhuận giảm sút, đột biến lỗ do nợ khó đòi, tổng tài

sản tăng đột biến so với doanh thu & lợi nhuận,…

- Thời hạn của các khoản phải thu: có quà nhiều khỏan phải thu không

được thu hồi, có nhiều khoản phải thu từ các công ty có liên quan, nới lỏng các

khỏan phải thu,…

Đối với những dấu hiệu cảnh báo nêu trên thì việc nhận biết sớm vấn đề từ những

dấu hiệu cảnh báo là quan trọng nhất giúp ngân hàng có những kế hoạch hành động

nhanh chóng, hiệu quả, giảm thiểu được rủi ro

54/98

2.2.2.3. Ví dụ điển hình về những dấu hiệu cảnh báo có tác động

đến việc quản lý rủi ro tín dụng.

* Công ty bông Bạch Tuyết

Từ những năm 2004, công ty Bông Bạch Tuyết đã có khá nhiều khó khăn và

thách thức về vốn lưu động, mất cân đối trong thu chi, thị trường tiêu thụ bị mất, hệ

thống phân phối tan rã, máy móc thiết bị không đồng bộ.

Đến năm 2006 thay đổi công ty kiểm toán từ công ty kiểm toán A&C sang

công ty kiểm toán AISC, đây là điểm nhấn quan trọng cần phải chú ý, xem xét đến

của các nhân viên ngân hàng khi thẩm định hồ sơ vay vốn cũng như kiểm soát hồ sơ

sau khi cho vay. Báo cáo tài chính năm 2006 được công bố với khá nhiều nghi vấn,

thay đổi chính sách khấu hao, chế độ kế toán, sau khi điều chỉnh thì lợi nhuận từ lãi

2,2 tỷ đồng xuống lỗ gần 8,4 tỷ đồng.

Trong năm 2007, tình hình công ty ngày càng xấu hơn, thiếu vốn ngày càng

trở nên trầm trọng, không còn tài sản thế chấp để vay vốn, tình hình tài chính không

minh bạch, không phát hành được cổ phiếu tăng vốn, trong khi đó nợ phải trả tăng

cao, nợ phải thu khó đòi cũng nhiều không kém. Thị trường đầu ra không được cải

thiện do đã mất từ trước, nguyên liệu đầu vào tăng làm cho giá vốn hàng bán tăng

đáng kể, có sự thay đổi lớn trong tình hình nhân sự, từ cán bộ quản lý cho đến lãnh

đạo, chỉ trong 1 năm, công ty đã thay Kế toán trưởng, rồi đến Giám đốc sản xuất,

Giám đốc R&D, đặc biệt hơn nữa là thay Tổng giám đốc vào giữa năm 2007.

Những tháng đầu năm 2008, tình hình công ty càng trở nên bi thảm hơn,

người lao động tạo áp lực đình công, công ty khất nợ, để nợ chuyển sang quá hạn tại

ngân hàng Maritime Bank.

Các biến động và những thay đổi lớn của công ty không được ngân hàng

nhận định, phân tích, đánh giá nên mới dẫn đến tình trạng nợ vay của công ty Bông

Bạch Tuyết trở thành nợ quá hạn khó đòi.

Đây là bài học vô cùng bổ ích cho các ngân hàng thương mại trong công tác

quản lý rủi ro tín dụng để không xảy ra tình trạng còn nhiều Bông Bạch Tuyết nữa.

55/98

* Tập đoàn Vinashin

Vinashin (tập đoàn công nghiệp tàu thủy Việt Nam) là một tập đoàn được sự

bảo trợ của chính phủ nhằm phát triển ngành công nghiệp đóng tàu của Việt Nam

nổi tiếng với sự kiện được chính phủ cho vay lại trái phiếu chính phủ đã phát hành

ra thị trường Mỹ với giá trị 750 triệu USD (đáo hạn vào 2012). Hiện nay, Vinashin

đang đứng trước bờ vực phá sản do sử dụng vốn không đúng mục đích & đầu tư dàn

trải với số nợ bao gồm của 200 công ty thành viên lên đến 86.000 tỷ đồng. Chỉ

trong vòng 3 năm, Vinashin đã thanh lập hơn 200 công ty thành viên mà trong đó

có không ít những lĩnh vực chưa hề đụng tới của những người lãnh đạo chủ chốt.

Những khoản vốn lớn lại được liên tục được đổ vào từ nguồn vốn phát hành trái

phiếu chính phủ ra nước ngoài đến các khỏan vay thương mại tại các ngân hàng

nước ngoài, tín dụng trong nước ở BIDV,Vietcombank,.. Trong khi đó, năng lực

quản lý của những người lãnh đạo thì chưa đủ tầm , đầu tư thì dàn trải, sử dụng vốn

không đúng mục đích, đầu tư kém hiệu quả,… & cũng qua 11 cuộc thanh tra, giám

sát , kiểm toán (từ năm 2006 – 2009) nhưng vẫn không chỉ ra được các sai phạm

của tập đoàn này. Và kết quả như ngày hôm nay, Vinashin phải sát nhập một số

công ty thành viên của mình vào tập đoàn dầu khí Việt Nam & tổng công ty hàng

hải Việt Nam để góp phần chia sẻ gánh nặng nợ nần & thực hiện tái cơ cấu lại

Vinashin.

Trong khi đó, về phía các ngân hàng đã cho Vinashin vay như BIDV,

Vietcombank, … phải thực hiện theo chỉ đạo của chính phủ là khoanh nợ & giản nợ

các khỏan vay đối với tập đoàn này. Việc sử dụng vốn không đúng mục đích, đầu tư

dàn trải, ban lãnh đạo không có đủ kinh nghiệm, mất cân đối vốn, tình hình kinh tế

thế giới biến động, khủng hỏang tài chính là một trong những rủi ro ảnh hưởng lớn

đến các khoản vay tại các NHTM. Với giải pháp khoanh nợ & giản nợ thì ở một

giới hạn nào đó cũng đã tăng nguy cơ rủi ro tín dụng cho các ngân hàng.

56/98

Bài học kinh nghiệm cho các ngân hàng là cần thiết phải xem xét các rủi ro,

nhận định tình hình trong từng giai đoạn, từng thời kỳ & trong từng biến cố xảy ra

đối với nền kinh tế.

Từ 2 ví dụ nêu trên cho chúng ta thấy việc nhận diện khả năng xảy ra rủi ro

là rất cần thiết trong hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, trong quá trình cho vay & kiểm

soát rủi ro vẫn còn tồn tại những điểm cần lưu ý & cần thiết phải xử lý, phòng ngừa

2.2.3. Thực trạng áp dụng các mô hình quản lý rủi ro tín dụng tại các

NHTMCP Việt Nam

Mỗi mô hình quản lý rủi ro tín dụng đều có những ưu và nhược điểm, mặt khác các

mô hình này không loại trừ lẫn nhau, nên thông thường các ngân hàng thường kết

hợp sử dụng nhiều mô hình để phân tích đánh giá mức độ rủi ro tín dụng. Trong

điều kiện thực tế ở Việt Nam, các ngân hàng thường sử dụng mô hình 6C để đánh

giá khoản vay từ khâu thẩm định đến việc quản lý, theo dõi, kiểm tra và giám sát

các khoản nợ vay

Yếu tố 1: Thẩm định cho vay: nhìn chung các ngân hàng đều có quy định về

quy trình thẩm định khoản vay bao gồm các yếu tố bản sau đây:

- Thẩm định tính pháp lý: Kiểm tra tư cách pháp nhân, năng lực pháp luật

của khách hàng vay, hồ sơ vay vốn, kiểm tra mục đích vay vốn của khách hàng có

hợp pháp không.

- Thẩm định uy tín của khách hàng vay vốn, năng lực quản lý điều hành của

khách hàng hay là ban quản lý doanh nghiệp: về phẩm chất đạo đức, thiện chí, uy

tín trong giao dịch, năng lực quản lý điều hành, hệ thống kiểm tra - kiểm soát nội

bộ…

- Thẩm định về khả năng tài chánh, năng lực hoạt động: thông qua các chỉ số

như khá năng thanh toán, tỷ trọng vốn tự có, vòng quay hàng tồn kho, hiệu suất sử

dụng tài sản, tỷ suất lợi nhuận…

57/98

- Thẩm định về tính hiệu quả của phương án vay vốn: về khả năng thực hiện

phương án kinh doanh, nguồn cung cấp nguyên vật liệu, thị trường tiêu thụ, về

nguồn vốn tài trợ cho phương án, về vốn vay từ ngân hàng có hợp lý không…

- Thẩm định về nguồn trả nợ: khách hàng dự kiến dùng những nguồn thu nào

để thanh toán nợ gốc và lãi, các nguồn thu này có ổn định không…

- Thẩm định về tài sản thế chấp khoản vay: tài sản thế chấp có thuộc sở hữu hợp

pháp của người vay không, có dễ chuyển nhượng, dễ bán không, có bị hao mòn vô

hình không…

Yếu tố 2: Kiểm tra tín dụng: các ngân hàng hầu hết đều có quy trình tín dụng

riêng để kiểm tra tín dụng, tuy nhiên những nguyên lý chung nhất đang được áp

dụng tại hầu hết các ngân hàng là:

- Tiến hành kiểm tra tất cả các loại tín dụng theo định kỳ nhất định.

- Xây dựng kế hoạch, chương trình, nội dung quá trình kiểm tra một cách thận

trọng và chi tiết, đảm bảo rằng những khía cạnh quan trọng của mỗi khoản tín dụng

đều được kiểm tra, bao gồm:

+ Kế hoạch trả nợ của khách hàng nhằm đảm bảo trả nợ đúng hạn.

+ Chất lượng và điều kiện của tài sản đảm bảo.

+ Tính đầy đủ và hợp lệ của hợp đồng tín dụng, đảm bảo tính hợp pháp để sở

hữu các tài sản khi người vay không trả được nợ.

+ Đánh giá điều kiện tài chính và những kế hoạch kinh doanh của người vay,

trên cơ sở đó xem xét lại nhu cầu tín dụng.

+ Đánh giá xem khoản tín dụng có tuân thủ chính sách cho vay của ngân

hàng.

+ Kiểm tra thường xuyên các khoản tín dụng lớn. Vì chúng có ảnh hưởng rất

lớn tình trạng tài chính của ngân hàng.

58/98

+ Quản lý thường xuyên, chặt chẽ các khoản tín dụng có vấn đề, tăng cường

kiểm tra, giám sát khi phát hiện những dấu hiệu xấu liên quan đến khoản vay.

+ Tăng cường công tác kiểm tra khoản tín dụng khi nền kinh tế có nhiều hướng

đi xuống, hoặc những ngành nghề cho vay có biểu hiện nghiêm trọng trong phát

triển.

Tóm lại, để có thể kiểm soát được rủi ro tín dụng, thì chức năng cho vay của

ngân hàng phải được thực hiện một cách chặt chẽ nhằm tuân thủ chính sách và thực

hành tín dụng của ngân hàng. Ngoài ra, để kiểm soát rủi ro tín dụng, các ngân hàng

thường xây dựng một “chính sách tín dụng” và “Quy trình nghiệp vụ cấp tín dụng”

phù hợp

2.2.4. Đánh giá thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại các NHTMCP

Việt Nam

Hầu hết các NHTM Việt Nam hiện nay đều cũng áp dụng đúng như các mô hình

lý thuyết về quản lý rủi ro tín dụng để nhận diện và phân loại các rủi ro tín dụng, về

việc xây dựng và thực hiện các chính sách tín dụng phù hợp cũng như việc kiểm tra

giám sát tín dụng nhằm kiểm soát rủi ro tín dụng. Tuy nhiên, do đặc trưng cũng như

đặc điểm và mục tiêu mà các ngân hàng theo đuổi khác nhau nên việc kiểm soát rủi

ro tín dụng cũng khác nhau. Ví dụ: Vietcombank hay Vietinbank là các ngân hàng

TMCP nhưng tỷ lệ vốn sở hữu của nhà nước chiếm ưu thế quyết định nên việc cho

vay của các ngân hàng này là cho vay theo chỉ định cho các doanh nghiệp nhà nước,

các tập đòan hoặc cho vay theo các chương trình hỗ trợ của chính phủ nên việc thu

hồi nợ đôi khi cũng rất khó khăn và các khỏan nợ có thể được cơ cấu lại hoặc sau

đó sẽ được xóa nợ. Còn các ngân hàng TMCP như ACB, Eximbank, hay

Sacombank thường không ưu tiên cho vay đối với các doanh nghiệp quốc doanh

hay các tập đòan và tổng công ty mà đối tượng khách hàng của họ là các doanh

nghiệp ngoài quốc doanh và các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên qua các báo cáo tổng

kết thì tỷ lệ nợ quá hạn ở các ngân hàng này rất thấp vì họ kiểm soát rủi ro tín dụng

khá tốt. Trong đó, có thể nhắc đến ACB là đại diện cho nhóm 3 ngân hàng này với

59/98

chính sách quản lý rủi ro tín dụng mang đậm tính chất là quản lý rủi ro. Điều này

thể hiện rõ nét trong định hướng và chính sách tín dụng của ACB. Chính sách tín

dụng của ACB được xây dựng trong từng thời kỳ có thể thay đổi trong vòng 3

tháng, 6 tháng hoặc 1 năm tùy thuộc vào diễn biến của thị trường tài chính. Vì vậy

nó không mang tính cứng nhắc mà rất linh động và phù hợp theo thời cuộc. Chính

sách tín dụng là nội dung sống còn và là kim chỉ nan trong hoạt động cho vay của

ACB. Trong chính sách tín dụng sẽ hướng dẫn cách xếp loại khách hàng theo các

tiêu chí như ngành nghề kinh doanh, nguồn thu nhập để trả nợ vay, chu kỳ gửi các

báo cáo tài chính cho ACB, vị trí địa lý, thời gian khách hàng quan hệ với ACB, kỳ

hạn vay và loại tiền vay, tỷ lệ cho vay trên tài sản đảm bảo, có phát sinh nợ nhóm 2

và nợ nhóm 3 tại các tổ chức tín dụng khác theo thông tin CIC trong 6 tháng gần

nhất ?,…Từ các tiêu chí này ACB sẽ phân thành 4 nhóm: khách hàng thuộc nhóm

duy trì cấp tín dụng, khách hàng thuộc nhóm cấp tín dụng bình thường, khách hàng

thuộc nhóm hạn chế cấp tín dụng và khách hàng thuộc nhóm không cấp tín dụng.

ACB vẫn cấp tín dụng đối với 4 nhóm khách hàng này theo các mức độ rủi ro khác

nhau và được các ban tín dụng hoặc hội đồng tín dụng quyết định về tỷ lệ cho vay

cũng như kỳ hạn vay. Qua việc xây dựng chính sách tín dụng, ACB đã nhận diện và

phân loại rủi ro ngay trong giai đoạn đầu và có thể hạn chế hoặc kiểm soát và cho

vay đối với một số ngành nghề như nông lâm ngư nghiệp, giao thông vận tải, xây

dựng các công trình có vốn ngân sách nhà nước,… Trong quá trình cho vay, ACB

sẽ kiểm tra mục đích sử dụng vốn của khách hàng có phù hợp với phương án vay

vốn hay không bằng cách yêu cầu khách hàng bổ sung chứng từ chứng minh mục

đích sử dụng vốn trong vòng 30 ngày kể từ ngày giải ngân đối với các khỏan vay có

mục đích tiêu dùng. Còn đối với các khoản vay với mục đích sản xuất kinh doanh

hay đầu tư nhà xưởng và máy móc thiết bị thì ngoài việc bổ sung chứng từ thì ACB

sẽ kiểm tra mục đích sử dung vốn và tình trạng hoạt động định kỳ 3 tháng / lần. Và

khi phát hiện khỏan vay có vấn đề và khách hàng thường xuyên trả nợ không đúng

hạn, ACB sẽ áp dụng các biện pháp để thu hồi nợ trước hạn và có thể xử lý tài sản

đảm bảo nếu khách hàng không đủ khả năng trả nợ.

60/98

Còn đối với các ngân hàng TMCP khác thì việc quản lý rủi ro tín dụng cũng có

những điểm tương đồng nhau từ việc nhận dạng rủi ro cho đến việc kiểm soát rủi ro

đều được cụ thể hóa trong các chính sách tín dụng và quy trình cho vay đối với từng

loại hình cho vay.

Và chúng ta không thể phủ nhận những thành tựu mà các NHTMCP đã đạt được

trong các năm qua từ 2006 đến 2009 về tăng trưởng huy động, dư nợ cho vay, lợi

nhuận, và cũng đồng thời giảm tỷ lệ nợ quá hạn nợ xấu qua các năm cũng như

những đóng góp của họ cho cho việc phát triển kinh tế như tạo nguồn cung vốn cho

sản xuất kinh doanh, cho nhu cầu tiêu dùng và các nguồn vốn cho các dự án lớn,….

Điều đó chứng tỏ các NHTMCP đang từng bước tự hoàn thiện mình trong các nhiều

lĩnh vực mà trong đó nói riêng là lĩnh vực quản lý rủi ro tín dụng

Tuy nhiên, thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại các NHTMCP Việt Nam còn

tồn tại các vấn đề như sau:

* Về mặt nhận diện các rủi ro:

- Danh mục vay hiện tại của các ngân hàng thương mại tiềm ẩn mức độ rủi ro

rất cao đặc biệt là đối với các NHTM quốc doanh:

Đối với các NHTM quốc doanh sau khi xử lý một lượng lớn nợ tồn đọng, tỷ lệ

nợ quá hạn còn rất thấp từ đó ta thấy dường như là chất lượng tín dụng tăng lên rất

nhiều. Tuy nhiên, thực sự danh mục cho vay hiện tại lại đang tiềm ẩn những nguy

cơ rủi ro rất cao vì tín dụng tăng trưởng nóng, nợ cho vay trung, dài hạn chiếm tỷ lệ

cao trong tổng tài sản trong khi nguồn vốn các ngân hàng chủ yếu là ngắn hạn. Tốc

độ tăng tín dụng cao hơn tốc độ tăng trưởng nguồn vốn, có xu hướng trở lại bao cấp

tín dụng. Tín dụng tập trung nhiều cho các doanh nghiệp nhà nước độc quyền hoặc

hoạt động không hiệu quả. Mặc dù số lượng doanh nghiệp nhà nước giảm nhưng tín

dụng cho khu vực kinh tế nhà nước thời gian qua tăng cao hơn tốc độ tăng trưởng

kinh tế. Nợ có mức độ rủi ro cao có xu hướng tăng vì những lý do sau:

61/98

Thứ nhất, thời kỳ kinh tế tăng trưởng, tâm lý tiêu dùng và đầu tư thông

thường có phần mở rộng. Đây là vấn đề mang tính quy luật, phụ thuộc chu kỳ kinh

tế. Tuy nhiên khả năng trả nợ, đặc biệt của các dự án trung, dài hạn sẽ có thể thay

đổi rất nhiều khi chu kỳ kinh tế đến giai đoạn chững lại.

Thứ hai, tín dụng trung, dài hạn tăng trưởng rất nhanh, tập trung vào các dự

án với quy mô rất lớn, phức tạp mà việc thẩm định đòi hỏi trình độ chuyên môn cao,

theo các tiêu chuẩn thị trường thực sự, vượt quá năng lực, kinh nghiệm, khả năng

giám sát của các cán bộ tín dụng

Thứ ba, hiện nay có nhiều khoản vay cho các dự án trung, dài hạn (thời hạn

thậm chí đến hơn 10 năm) lại được thực hiện bằng USD mà không xem xét đầy đủ

đến rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá hay tác động của việc phá bỏ các hàng rào thuế quan,

phi thuế quan khi chúng ta gia nhập AFTA, WTO khi nguyên liệu đầu vào của các

dự án đó là phải nhập khẩu…. Ngay cả tín dụng ngắn hạn cũng tăng trưởng mạnh,

một số ngân hàng có biểu hiện khá dễ dãi trong cho vay, không chấp hành đầy đủ

quy trình, quy chế cho vay, gia hạn nợ sai quy định, che dấu nợ quá hạn. Các khoản

vay được cơ cấu không phù hợp với tính chất của phương án vay, kế hoạch trả nợ

không căn cứ dòng tiền của dự án, phương án sản xuất kinh doanh.

Thứ tư, các ngân hàng thương mại chưa đánh giá được rủi ro danh mục đầu

tư, do các ngân hàng thương mại chưa sử dụng một mô hình xác định rủi ro chuyên

biệt nào, cũng như chưa có số liệu thống kê đầy đủ về độ tin cậy, ... Đây là thiếu sót

quan trọng, vì việc xác định rủi ro cấp độ danh mục đầu tư sẽ là tiêu chí mạnh mẽ

để Hội đồng quản trị/ Ban giám đốc các ngân hàng thương mại có sự phân bổ chỉ

tiêu hợp lý, tránh cho vay những lĩnh vực, ngành nghề có độ rủi ro cao, khả năng

gây tổn thất lớn

- Quản trị danh mục cho vay của ngân hàng chưa được chú trọng đa dạng hoá

62/98

Khi theo đuổi chiến lược phát triển tín dụng phù hợp với thị trường mục tiêu,

cần chú trọng đa dạng hoá danh mục cho vay của từng ngân hàng. Các doanh

nghiệp thuộc cùng ngành hàng, cùng quy mô, vùng lãnh thổ…có thể có tương quan

rủi ro tín dụng cao. Rủi ro tín dụng xảy đến cùng lúc với nhiều khách hàng là một

việc ngân hàng cần hết sức tránh. Quản trị danh mục cho vay cần chỉ ra được với tỷ

suất sinh lời chấp nhận được thì tỷ trọng đầu tư tối ưu vào mỗi ngành, vùng, quy

mô… để rủi ro thấp nhất là bao nhiêu. Tuy nhiên vấn đề này hiện chưa thực sự được

quan tâm.

- Các ngân hàng chưa xây dựng được mô hình lượng hoá rủi ro và xác định mức

cho vay tối đa, tối ưu đối với khách hàng

Hầu hết NHTM đều chưa xây dựng được cho mình một mô hình thích hợp để

lượng hoá mức độ rủi ro của khách hàng, từ đó xác định phần bù rủi ro và giới hạn

tín dụng an toàn tối đa đối với một khách hàng cũng như để trích lập dự phòng rủi

ro. Bản thân hệ thống tính điểm tín dụng hiện đang áp dụng ở một số ngân hàng

cũng chưa có hệ thống phương pháp luận cơ sở. Đo lường rủi ro tín dụng ở Việt

Nam hiện đang rất khó, chưa kể đến thông tin ít chính xác và còn quá nghèo nàn.

Thêm vào đó, thông tin đầu vào vô cùng cần thiết phục vụ việc ra quyết định của

ngân hàng chưa được lưu trữ, thu thập và xử lý hiệu quả. Trung tâm thông tin tín

dụng ngân hàng nhà nước hầu như mới chỉ cung cấp được số liệu dư nợ vay của

các doanh nghiệp, chưa có thông tin phi tài chính, khả năng quản lý của lãnh đạo

doanh nghiệp. Thông tin của các ngân hàng nhiều phải lấy đến từ các nguồn phi

chính thức

- Các ngân hàng khi cho vay còn chủ yếu dựa vào tài sản thế chấp mà ít xem xét

đến các nguồn trả nợ khác.

Kinh tế tăng trưởng cao trong vài năm trở lại đây cùng với giá bất động sản bị

đẩy lên cao ở hầu hết các thành phố lớn đã làm nảy sinh tư tưởng chỉ xem trọng tài

sản thế chấp. Số lượng các khoản vay để mua bất động sản (nhà, đất) cũng tăng.

63/98

Tuy nhiên sẽ rất nguy hiểm nếu nhân viên tín dụng quên đi rằng khoản vay cần

được trả bằng dòng tiền tạo ra bởi dự án sản xuất kinh doanh hoặc các nguồn thu

nhập khác chứ không đơn thuần dựa vào tiền bán tài sản thế chấp. Tài sản thế chấp

chỉ là sự đảm bảo cuối cùng khi phương án kinh doanh của khách hàng gặp rủi ro

ngoài dự kiến mà thôi. Đây cũng là tâm lý thường thấy ở các ngân hàng các nước

đang phát triển. Kinh tế tăng trưởng nóng, lãi suất thấp, giá bất động sản thường bị

đẩy lên quá cao do đầu cơ và vượt quá xa giá trị thực.

Các NHTM Việt Nam hiện nay chủ yếu dựa vào tài sản đảm bảo là bất động sản

để cho vay và xem đây là yếu tố đảm bảo hàng đầu cho khoản vay. Đây là một nhận

định vô cùng sai lầm vì nguồn trả nợ cho khoản vay phải là nguồn thu nhập mà cụ

thể là thu nhập từ sản xuất kinh doanh, phương án sử dụng vốn có hiệu quả hay

không, nguồn trả nợ có ổn định không ? Còn bất động sản chỉ là cứu cánh cuối cùng

mà không nên xem là nguồn trả nợ chính vì trên thực tế việc xử lý tài sản loại này

gặp nhiều khó khăn, thời gian xử lý chậm, làm phát sinh nhiều chi phí

* Về mặt thực hiện các chính sách & quy trình tín dụng:

- Muốn thực hiện tốt các chính sách & quy trình tín dụng thì các NHTM phải

xây dựng cho mình một chính sách & quy trình phù hợp. Tuy nhiên, hầu hết các

ngân hàng đều chưa xây dựng cho mình một chính sách tín dụng khoa học, phù hợp.

Ngoài các hướng dẫn quy chế cho vay của NHNN, hầu hết các NHTM đều chưa có

chính sách tín dụng đầy đủ, bằng văn bản của riêng chính mình mà chỉ là những chỉ

đạo rời rạc, không hệ thống, mang tính tình thế và dường như chưa lượng hóa được

các rủi ro. Một chính sách tín dụng được hoạch định tốt phù hợp quy luật khách

quan là điều kiện tiên quyết để quản trị tốt rủi ro tín dụng của ngân hàng. Chính

sách tín dụng phải thể hiện quan điểm và chiến lược của ngân hàng, trên cơ sở quy

chế cho vay của NHNN, là kim chỉ nam cho hoạt động của tất cả nhân viên và lãnh

đạo ngân hàng trong từng thời kỳ.Trong giai đoạn hiện nay, chính sách tín dụng

càng đặc biệt quan trọng bởi các ngân hàng phải thích ứng với sự phức tạp về môi

64/98

trường pháp lý, môi trường kinh doanh đầy mới mẻ, đối mặt với nhiều thách thức,

thậm chí có những rủi ro trước nay chưa hề lường hoặc quan tâm đến. Chính sách

tín dụng phải làm sao vừa đem lại sự thoả mãn cao nhất cho khách hàng vừa đảm

bảo 2 mục tiêu: Tỷ suất sinh lời cao nhất và mức độ rủi ro chấp nhận được cho ngân

hàng.

* Về mặt kiểm tra giám sát quá trình sử dụng vốn

Việc kiểm tra giám sát quá trình sử dụng vốn chưa triệt để và chặt chẽ: Hiện nay

vấn đề kiểm tra mục đích sử dụng vốn của khách hàng còn chưa triệt để và chặt chẽ

vì một khi khách hàng vay giải ngân xong một khỏan vay (nếu là khỏan vay tiêu

dùng – khách hàng chỉ giải ngân một lần hoặc khách hàng vay với mục đích sản

xuất kinh doanh – giải ngân nhiều lần) và khách hàng phải bổ sung chứng từ chứng

minh mục đích sử dụng vốn. Tuy nhiên, khách hàng không có chứng từ vì khách

hàng sử dụng vốn sai mục đích mà nhân viên tín dụng vẫn tiếp tục đề xuất cho tiếp

tục giải ngân vì áp lực doanh số và dư nợ thì khả năng khách hàng sử dụng vốn sai

mục đích rất cao hoặc nhân viên tín dụng không kiểm tra định kỳ tình hình sản xuất

kinh doanh của khách hàng và chỉ đến khi khách hàng có phát sinh nợ trễ hạn thì họ

mới bắt đầu chú ý đến khỏan vay thì khách hàng có thể mất khả năng thanh toán và

là nguyên nhân dẫn đến nợ quá hạn. Vì vậy, việc kiểm tra và giám sát quá trình sử

dụng vốn của khách hàng là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu để kiểm

soát rủi ro tín dụng. Và khi phát hiện ra khoản vay có dấu hiệu bất ổn thì ngân hàng

mới có thể xử lý kịp thời. Tuy nhiên, nhân viên tín dụng hiện nay thường không

xem trọng quá trình kiểm tra mục đích sử dụng vốn và bổ sung chứng từ vì áp lực

tăng doanh số và dư nợ nên vấn đề giám sát quá trình sử dụng vốn còn chưa chặt

chẽ và triệt để.

2.2.5. Đánh giá việc vận dụng Basel trong việc quản lý rủi ro tín dụng

của các NHTM Việt Nam

65/98

Hiện nay, các NHTMCP đã & đang cố gắng áp dụng những chuẩn mực quốc tế

vào công tác quản lý rủi ro nói chung & rủi ro tín dụng nói riêng. Cụ thể như ACB,

Vietcombank, Eximbank, Sacombank, Vietinbank đều có các chính sách tín dụng,

quy trình tín dụng & sổ tay tín dụng trong đó đều đề cập trực tiếp đến quản lý rủi ro

tín dụng bao gồm từ giai đoạn xét duyệt cho vay đến quản lý khoản vay, phân cấp

bộ máy quản lý tín dụng và tách biệt chức năng giám sát tín dụng độc lập so với các

bộ phận khác. Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng đã xây dựng cho mình một hệ

thống chấm điểm tín dụng & xếp hạng khách hàng & hướng đến sẽ xây dựng hệ

thống này theo chuẩn mực quốc tế mà các tổ chức lớn như Standard & Poor, JP

Morgan,.. dựa trên sự đầu tư & chuyển giao công nghệ

Tuy nhiên, vấn đề yếu kém cơ bản của các NHTM trong việc quản lý rủi ro tín

dụng là đảm bảo an toàn vốn. Theo quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN của NHNN

yêu cầu các NHTM phải duy trì hệ số an toàn vốn ở mức tối thiểu 8% và đây cũng

là yêu cầu cơ bản của Basel I. Tuy nhiên, hiện nay trong các thông tin công bố trong

các báo cáo thường niên, trên các website của các NHTMCP chưa thấy công bố

thông tin này dù các NHTM vẫn thường xuyên tăng vốn tự có trong các năm đặc

biệt là từ 2008 đến nay. Điều đó cho chúng ta thấy các NHTMCP đã cố gắng nhiều

trong việc nâng cao mức độ đảm bảo an tòan vốn. Tuy nhiên, qua tìm hiểu của cá

nhân người viết thì chỉ có một số các NHTMCP lớn như ACB, Vietcombank,

Sacombank,Vietinbank,..mới có con số công bố cụ thể còn phần lớn các NHTMCP

có quy mô nhỏ thì không công bố thông tin này. Đối với nhóm các NHTMCP lớn

này thì hệ số này củng ở mức mà NHNN yêu cầu đạt mức tối thiểu & vẫn chưa đạt

được mức 12% như các nước trên thế giới đang áp dụng. Vì thế mà NHNN đã áp

lực việc tăng vốn tự có của các NHTMCP lên tối thiểu 3.000 tỷ đến hết năm 2010

nhằm tạo áp lực cho các ngân hàng quy mô nhỏ cơ cấu hoạt động hoặc sát nhập để

nâng cao tính cạnh tranh trong giai đoạn mở cửa.

Về công tác quản lý rủi ro tín dụng, theo Basel thì các ngân hàng phải kết hợp

quản lý rủi ro tín dụng với quản lý rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro hoạt

động để làm cho các nguồn lực của ngân hàng không bị phân táncho các mục tiêu

66/98

khác nhau & được sử dụng với hiệu quả tối ưu. Và phần lớn các NHTMCP đã xây

dựng được cho mình hệ thống quản lý rủi ro tổng thể của ngân hàng như quản lý rủi

ro thanh khoản, quản lý rủi ro lãi suất, quản lý rủi ro hoạt động,... nhưng các ngân

hàng hiện nay vẫn chưa kết hợp tốt trong việc quản lý các rủi ro này. Bên cạnh đó,

việc cạnh tranh giữa các ngân hàng trong nước trong việc giành giật thị phần, thể

hiện ở việc mở các phòng giao dịch & chi nhánh, chạy đua lãi suất huy động, chạy

đua thu hút khách hàng vay vốn & sử dụng dịch vụ ngân hàng, … dẫn đến mức độ

cạnh tranh ngày càng gay gắt. Chính việc chạy theo sự cạnh tranh này đã làm cho

các ngân hàng giảm nhẹ các tiêu chuẩn & quy định kiểm soát rủi ro & giảm hiệu

quả của quản lý rủi ro tín dụng của các ngân hàng.

2.2.6. Nguyên nhân của các mặt tồn tại trong công tác quản lý rủi ro tín

dụng tại các NHTMCP Việt Nam

Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại các NHTMCP Việt Nam còn tồn tại

nhiều vấn đề chưa thể giải quyết và thực hiện một cách triệt để và tốt nhất để có thể

đạt được hiệu quả cao trong công tác quản lý rủi ro tín dụng. Nguyên nhân của các

tồn tại trong thực trang quản lý tín dụng hiện nay đến từ rất nhiều phía. Nhưng nhìn

chung, ta có thể tạm chia thành các nhóm nguyên nhân chủ yếu sau đây:

2.2.6.1. Nguyên nhân khách quan

- Môi trường kinh tế xã hội và pháp lý chưa thuận lợi

Nền kinh tế Việt Nam vẫn còn lệ thuộc quá nhiều vào sản xuất nông nghiệp

và công nghiệp phục vụ nông nghiệp (nuôi trồng, chế biến thực phẩm và nguyên

liệu), dầu thô, may gia công,… vốn rất nhạy cảm với rủi ro thời tiết và giá cả thế

giới, nên dễ bị tổn thương khi thị trường thế giới biến động xấu. Là một trung gian

tài chính nên rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng là điều không tránh

khỏi. Đặc biệt, khi nước ta chuyển sang nền kinh tế theo cơ chế thị trường thì rủi ro

trong cho vay lại càng cao. Nhận thức rõ điều này nên vào những năm 90 việc cấp

tín dụng của các NHTM phần lớn đều phải có tài sản thế chấp. Nhưng loại tài sản

được thế chấp lại gần như chỉ áp dụng cho nhà ở và đất đai.

67/98

Về môi trường pháp lý ta có thể thấy rằng luật các tổ chức tín dụng, luật dân sự

,.. và các văn bản hướng dẫn thi hành luật liên quan đến hoạt động ngân hàng đã

được triển khai nhưng còn chậm và chồng chéo gây khó khăn cho các ngân hàng.

Ví dụ: theo khỏan 2 điều 54 Luật các Tổ Chức Tín Dụng có quy định “Trong

trường hợp khách hàng không trả được nợ đến hạn, nếu các bên không có thoả

thuận khác thì tổ chức tín dụng có quyền:

a) Bán tài sản cầm cố để thu hồi nợ; chuyển nhượng, bán tài sản thế chấp để

thu hồi vốn trong một thời hạn nhất định theo quy định của pháp luật;

b) Yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh;

c) Khởi kiện khách hàng vi phạm hợp đồng tín dụng và người bảo lãnh theo

quy định của pháp luật.

Điều này làm cho tình hình tài chính của các NHTM ngày càng khó khăn do nợ

không có nguồn thu hồi lại phải ôm giữ một khối tài sản khổng lồ mà giá trị cứ

giảm dần theo thời gian. Vốn không thu hồi được, trong khi ngân hàng vẫn phải

thanh toán đầy đủ các khoản lãi huy động từ dân cư và các nguồn khác, vẫn phải chi

các hoạt động quản lý, tiền lương,…Đặc biệt, ngân hàng còn phải thêm một khoản

chi phí cho việc trông coi, quản lý, bảo quản,… các tài sản đó, chưa kể nếu tài sản

đó liên quan đến các vụ án thì ngân hàng còn phải mất thêm thời gian, sức lực để

theo đuổi. Yêu cầu bức thiết trước mắt là phải xử lý một cách hiệu quả khối tài sản

thế chấp kia để đủ sức cạnh tranh khi hội nhập. Do vậy, các NHTM đã nỗ lực tìm

mọi biện pháp như ngân hàng tự bán, phối hợp với khách hàng hoặc khách hàng tự

tìm người bán,…Tuy nhiên, quá trình xử lý nợ tồn đọng này chậm và hiệu quả chưa

cao, đặc biệt là việc tổ chức phát mãi tài sản thế chấp, tài sản được giao từ các vụ án

tiến hành rất chậm, thậm chí dậm chân tại chỗ.

Như chúng ta đã thấy, vấn đề xử lý nợ quá hạn để lành mạnh hóa tình hình tài

chính của các NHTM hiện nay là một vấn đề khá bức xúc, tốc độ xử lý chậm, hiệu

quả không cao, trong khi thời gian hội nhập ngày càng rút ngắn. Không phải vì

68/98

Ngân hàng không khẩn trương xử lý mà chính vì trong xử lý còn quá nhiều vướng

mắc, bất cập, chẳng hạn như :

Thứ nhất, trong tổng số nợ xấu của các NHTM quốc doanh có đến 60% là nợ

không trả được của các doanh nghiệp nhà nước. Các khoản nợ này đã được thẩm tra

và nếu xác định do nguyên nhân bất khả kháng thì được Nhà nước cho khoanh hoặc

xóa nợ. Do chưa có nguồn thu nên dù đã đưa ra khỏi dư nợ tín dụng, nhưng các

NHTM này vẫn hạch toán ở khoản nợ phải thu và vẫn là tài sản có của họ. Hoặc

những khoản nợ quá hạn đã được xét cho tạm khoanh nhưng vẫn còn hạch toán ở

tài khoản nợ quá hạn và như vậy vẫn còn nằm trong dư nợ tín dụng. Có thể nói rằng

đây là số tài sản không có thực nhưng họ phải theo dõi, phải hạch toán vào trong

bảng cân đối trong suốt mấy năm cho đến khi nào có nguồn xử lý. Còn đối với số

nợ có tài sản bảo đảm, cụ thể là tài sản thế chấp, thì một khối lượng lớn tài sản thế

chấp liên quan đến các vụ án vẫn chưa được xử lý, hoặc đã xử lý nhưng tiến trình

bàn giao quá chậm nên dẫn đến tình trạng tài sản hư hỏng, xuống cấp. Nếu ngân

hàng muốn bán, khai thác hoặc cho thuê buộc phải sửa chữa, đầu tư thêm. Điều này

làm cho chi phí hoạt động của ngân hàng tăng lên, trong khi giá trị thu hồi từ các tài

sản này chưa chắc đã thu đủ nợ gốc. Mặt khác, các tài sản này có khi do vướng mắc

về hồ sơ, thủ tục,…nên giá bán thực tế đôi khi thấp hơn dự kiến. Ngân hàng vì thế

luôn ở trạng thái bị động.

Thứ hai, giá trị tài sản thế chấp quá lớn (có những tài sản trị giá vài chục tỉ

hay thậm chí hàng trăm tỉ đồng) cũng gây khó khăn cho ngân hàng trong việc thu

hồi nợ, vì ít người có khả năng mua được. Hơn nữa, khi bỏ ra một số tiền quá lớn

mà mua lại tài sản “vỡ nợ” thì sức ép tâm lý không phải dễ dàng vượt qua.

Thứ ba, công tác thi hành án còn chậm vì trong thực tế có nhiều bản án,

quyết định của Tòa án đã có hiệu lực thi hành và đã có đơn yêu cầu thi hành án của

ngân hàng. Nhưng cơ quan thi hành án vẫn chưa thi hành án với nhiều lý do như

bản án chưa rõ ràng, hoặc lý do này khác. Những trường hợp đó, ngân hàng phải

chờ cơ quan thi hành án làm việc lại với Tòa án. Thời gian chờ đợi này thường kéo

69/98

dài hàng tháng thậm chí nửa năm ngân hàng mới nhận được văn bản trả lời của cơ

quan thi hành án. Những giải pháp cần thiết để có thể hạn chế phát sinh nợ quá hạn

không chỉ phụ thuộc vào những biện pháp từ phía ngân hàng, mà cần có những biện

pháp đồng bộ từ phía Chính phủ. Trong khi chờ đợi, trước mắt các NHTM vẫn phải

nỗ lực xử lý những khoản nợ tồn đọng, trong đó có vấn đề xử lý những khoản nợ

quá hạn có tài sản đảm bảo

Bên cạnh đó việc khách hàng được mở tài khỏan giao dịch cũng như vay vốn

tại nhiều tổ chức tín dụng khác nhau nhằm tạo điều kiện cho khách hàng mở rộng

kinh doanh, nhưng điều này làm cho ngân hàng rất khó kiểm sóat tình hình vay nợ

tại các tổ chức tín dụng khác. Hơn nữa các tổ chức tín dụng thường không mặn mà

lắm trong việc cung cấp thông tin lẫn nhau về lịch sử vay vốn của khách hàng vay

vì mục đích cạnh tranh, và bản thân từng ngân hàng thì hòan tòan không có bất cứ

một chương trình hay chính sách nào kêu gọi liên kết với các ngân hàng trên cùng

địa bàn để hợp tác về việc cung cấp thông tin khách hàng, dẫn tới tình trạng là ngân

hàng gặp rất nhiều khó khăn trong việc thẩm định tín dụng, kiểm tra sử dụng vốn

vay dẫn đến rủi ro xảy ra là tất yếu.

- Thiên tai dịch bệnh thường xuyên xảy ra

Từ năm 2005 đến nay, Việt Nam đối diện với hàng loạt các dịch bệnh như

dịch cúm gia cầm kéo dài nhiều năm liền, dịch lở mồm long móng ở heo…làm ảnh

hưởng không những đến các doanh nghiệp chăn nuôi trực tiếp mà còn ảnh hưởng

đến các doanh nghiệp gián tiếp như các công ty sản xuất thức ăn gia súc, doanh thu

của các doanh nghiệp này giảm hẳn, các doanh nghiệp gặp khó khăn trong vấn đề

thu hồi công nợ, các dự án đầu tư dở dang không có vốn thực hiện tiếp làm ảnh

hưởng đến chất lượng tín dụng của các khoản vay trong hệ thống các ngân hàng

Bên cạnh đó, những tác động mạnh mẽ của các cơn bão lớn, lũ lụt, hàng loạt

doanh nghiệp tại các tỉnh ven biển lâm vào tình trạng phá sản, mất hết cả nguồn vốn

làm ảnh hưởng rất lớn đến tình hình thanh toán công nợ đối với khách hàng. Vấn đề

đặt ra là những ảnh hưởng này lại mang tính dây chuyền, việc các doanh nghiệp tại

70/98

vùng thiên tai bị ảnh hưởng cũng sẽ làm cho hàng loạt các doanh nghiệp tại vùng

không bị thiên tai không thể thu hồi công nợ hay việc kinh doanh giảm sút và hậu

quả là ảnh hưởng đến khả năng trả nợ vay ngân hàng.

- Khách hàng sử dụng vốn sai mục đích

Các nguồn thu từ dự án, phương án sản kinh doanh là nguồn trả nợ đầu tiên

cho ngân hàng. Vì vậy nếu khách hàng sử dụng vốn vay không đúng mục đích ngân

hàng sẽ không kiểm tra, giám sát được nguồn trả nợ dẫn đến nợ không được hòan

trả đúng hạn hoặc bị quá hạn… Ví dụ như khách hàng sử dụng vốn vay ngắn hạn để

đầu tư vào các dự án trung dài hạn hoặc các tài sản cố định khác khi đến hạn trả nợ

ngân hàng, khách hàng sẽ đảo nợ hoặc xin cơ cấu lại thời gian trả nợ, hoặc khi

khách hàng vay vốn kinh doanh với các rủi ro kinh doanh đã được ngân hàng xác

định nhưng khách hàng lại sử dụng vốn vay này để kinh doanh chứng khoán với rủi

ro cao hơn. Điều này sẽ gây ra tổn thất lớn cho ngân hàng trong trường hợp thị

trường chứng khóan suy giảm.

- Khả năng quản lý kinh doanh kém:

Khi các doanh nghiệp vay tiền ngân hàng để mở rộng quy mô kinh doanh, đa

phần là tập trung vốn đầu tư vào tài sản vật chất chứ ít doanh nghiệp nào mạnh dạn

đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ máy giám sát kinh doanh, tài chính, kế

toán theo đúng chuẩn mực. Quy mô kinh doanh phình ra quá to so với tư duy quản

lý là nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của các phương án kinh doanh đầy khả thi mà

lẽ ra nó phải thành công trên thực tế

- Khách hàng cung cấp thông tin thiếu minh bạch

Trong trường hợp khách hàng cố tình lừa đảo ngân hàng thì mức độ rủi ro ngân

hàng gặp phải là rất cao. Khách hàng lừa đảo về tài sản đảm bảo như sử dụng nhiều

giấy sở hữu tài sản khác nhau của cùng một tài sản để vay vốn tại nhiều ngân hàng.

Hoặc các thông tin trên báo cáo tài chính được doanh nghiệp làm đẹp số liệu, không

phản ánh trung thực tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp để được ngân

71/98

hàng đánh giá vào nhóm khách hàng tốt để được hưởng các chính sách ưu đãi khác

như: giảm lãi suất vay, tín chấp

2.2.6.2. Nguyên nhân chủ quan

- Chính sách quản lý rủi ro tín dụng:

Các biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng của các NHTM còn thiếu tính hệ

thống, rời rạc, dường như chỉ tập trung vào phía khách hàng đi vay chưa thể hiện rõ

ràng được chiến lược hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng. Điều này cho thấy tầm

quan trọng của khách hàng trong việc hạn chế rủi ro tín dụng, tuy nhiên cũng cho

thấy các NHTM chưa có quan tâm toàn diện đến các nguyên nhân gây rủi ro tín

dụng khác. Các công cụ đánh giá rủi ro tín dụng vẫn chưa được coi trọng và một số

biện pháp còn mang tính chất tình thế, trong khi các biện pháp còn lại mang tính lâu

dài chỉ mới bắt đầu thực hiện nhưng thay đổi quá đột ngột, thiếu thời gian chuẩn bị

cho khách hàng cũng như bản thân các Ngân hàng.

- Các ngân hàng chạy theo mục đích tăng trưởng tín dụng thuần túy

Hiện nay, hoạt động cho vay trong các ngân hàng vẫn là chủ yếu, chiếm gần

đến 90% tổng tài sản có và một tỷ lệ tương đương trong tổng thu nhập của hệ thống

ngân hàng. Vì vậy khi nhìn vào tốc độ tăng trưởng và lợi nhuận của một số ít ngân

hàng, một quan niệm đã được hình thành đó là kinh doanh ngân hàng luôn đem lại

siêu lợi nhuận. Do vậy, không ít ngân hàng từ mô hình nông thôn được một số

doanh nghiệp lớn hậu thuẫn đã “nâng đời” lên thành thị, kết hợp với một số tập

đoàn kinh tế Nhà nước cũng muốn thành lập ngân hàng hình thành nên phong trào

kinh doanh ngân hàng. Chính vì quan niệm đó kết hợp với những tác nhân về chính

sách tiền tệ nới lỏng như tự do hóa về lãi suất, nới lỏng điều kiện vay vốn đã làm

cho con số tăng trưởng tín dụng tăng tới mức khó tin. Đi kèm với tăng trưởng tín

dụng là nợ xấu. Tuy nhiên, tỷ lệ nợ xấu mặc dù đã được cải thiện song vẫn ở mức

cao và đang có xu hướng tăng lên. Nguyên nhân của tình trạng này do:

72/98

- Thứ nhất, việc cho vay chủ yếu dựa vào tài sản đảm bảo, trong khi thị

trường bất động sản và thị trường hàng hoá chưa phát triển và có nhiều biến động

phức tạp

- Thứ hai, do sức ép cạnh tranh và cơ chế khoán trong kinh doanh dẫn tới

nhiều trường hợp nới lỏng điều kiện vay vốn để giành giật khách hàng, cho vay

không đáp ứng đầy đủ các điều kiện vay vốn. Công tác thẩm định dự án đầu tư cho

vay không tốt, qua loa và có nhiều trường hợp có hành vi gian lận, móc ngoặc

- Thứ ba, nhiều nợ xấu phát sinh do việc chậm cấp ngân sách Nhà nước để

giải ngân cho các dự án, đặc biệt là các dự án xây dựng cơ bản dẫn tới nợ đọng vốn

của ngân hàng.

- Chất lượng nguồn nhân lực

Nguồn nhân lực nói chung và đội ngũ nhân viên quản lý nghiệp vụ nói riêng

là nhân tố quan trọng quyết định đến năng lực quản lý rủi ro của ngân hàng nói

chung và rủi ro tín dụng nói riêng. Nguồn nhân lực tác động đến năng lực quản lý

rủi ro của ngân hàng bao gồm từ nhận thức đến quan điểm cho đến khả năng chuyên

môn của ban lãnh đạo, đội ngũ nhân viên quản lý rủi ro và toàn bộ nhân viên khác

của ngân hàng.

Trước hết quản lý rủi ro tín dụng chỉ có thể thực hiện tốt xuất phát từ quan

điểm, nhận thức của ban lãnh đạo ngân hàng. Tiếp theo, chất lượng đội ngũ nhân

viên tác nghiệp trực tiếp thực hiện nhận biết, xác định, phân tích các rủi ro tín dụng

nhằm tạo cơ sở cho việc ra quyết định kinh doanh và kiểm soát rủi ro tín dụng. Chất

lượng chuyên môn và ý thức nghề nghiệp của bộ phận này trực tiếp quyết định đến

khả năng quản lý rủi ro tín dụng của các NHTM về sự chính xác, hiệu quả trong

từng nội dung, quy trình quản lý rủi ro tín dụng.

Cuối cùng là chất lượng đội ngũ nhân viên làm việc tại các phòng ban

chuyên môn khác như phòng tín dụng, phòng quản lý rủi ro tín dụng, phòng pháp

chế, phòng nghiên cứu thị trường,.. cũng rất quan trọng bởi vì họ chính là những

người trực tiếp tíến hành các hoạt động kinh doanh mặt đối mặt và chịu đựng các

73/98

tổn thất khi các rủi ro tín dụng xảy ra. Những kỹ năng, kinh nghiệm và ý thức tác

nghiệp của những nhân viên này tác động rất lớn đến đến các hoạt động quản lý rủi

ro cũng như năng lực quản lý rủi ro của các NHTM

- Thiếu kiểm tra & giám sát quá trình sử dụng vốn.

Các ngân hàng thường có thói quen tập trung nhiều công sức cho việc thẩm

định trước khi cho vay mà lơi lỏng quá trình kiểm tra, kiểm soát đồng vốn sau khi

cho vay. Khi ngân hàng cho vay thì khoản cho vay cần phải được quản lý một cách

chủ động để đảm bảo sẽ được hoàn trả. Theo dõi nợ là một trong những trách nhiệm

quan trọng nhất của nhân viên tín dụng nói riêng và của ngân hàng nói chung. Việc

theo dõi hoạt động của khách hàng vay nhằm tuân thủ các điều khoản đề ra trong

hợp đồng tín dụng giữa khách hàng và ngân hàng nhằm tìm ra những cơ hội kinh

doanh mới và mở rộng cơ hội kinh doanh. Tuy nhiên trong thời gian qua các

NHTM chưa thực hiện tốt công tác này. Điều này một phần do yếu tố tâm lý ngại

gây phiền hà cho khách hàng của nhân viên ngân hàng, một phần do hệ thống thông

tin quản lý phục vụ kinh doanh tại các doanh nghiệp quá lạc hậu, không cung cấp

được kịp thời, đầy đủ các thông tin mà NHTM yêu cầu.

- Công tác kiểm tóan nội bộ của ngân hàng chưa thật sự được chú trọng

Kiểm toán nội bộ có điểm mạnh hơn thanh tra NHNN ở tính thời gian vì nó

nhanh chóng, kịp thời ngay khi vừa phát sinh vấn đề và tính sâu sát của người kiểm

tóan viên, do việc kiểm tóan được thực hiện thường xuyên cùng với công việc kinh

doanh. Nhưng trong thời gian trước đây, công việc kiểm tóan nội bộ của các ngân

hàng hầu như chỉ tồn tại trên hình thức. Kiểm tóan nội bộ cần phải được xem như

hệ thống “thắng” của cỗ xe tín dụng. Cỗ xe càng lao đi với vận tốc lớn thì hệ thống

này càng phải an toàn, hiệu quả thì mới tránh cho cỗ xe khỏi đi vào những ngã rẽ rủi

ro vốn luôn luôn tồn tại thường trực trên con đường đi tới.

- Sự hợp tác giữa các NHTM chưa chặt chẽ, vai trò của trung tâm tín dụng ngân

hàng nhà nước (CIC) chưa thực sự hiệu quả

74/98

Kinh doanh ngân hàng là một nghề đặc biệt là huy động vốn để cho vay hay

nói cách khác đi vay để cho vay, do vậy vấn đề rủi ro trong hoạt động tín dụng là

không thể tránh khỏi. Trong khi đó, các ngân hàng chưa hợp tác chặt chẽ với nhau

nhằm hạn chế rủi ro. Sự hợp tác nảy sinh do nhu cầu quản lý rủi ro đối với cùng

một khách hàng khi khách hàng này vay tại nhiều ngân hàng. Trong quản trị tài

chính, khả năng trả nợ của một khách hàng là một con số cụ thể, có giới hạn tối đa

của nó. Nếu do sự thiếu trao đổi thông tin, dẫn đến việc nhiều ngân hàng cùng cho

vay một khách hàng đến mức vượt quá giới hạn tối đa này thì rủi ro chia đều cho tất

cả mà không chừa một ngân hàng nào.

Hiện nay ở Việt Nam chưa có một cơ chế công bố thông tin đầy đủ về doanh

nghiệp và ngân hàng. Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng của NHNN (CIC) đã

hoạt động đã quá một thập niên và đã đạt được những kết quả bước đầu rất đáng

khích lệ trong việc cung cấp thông tin kịp thời về tình hình hoạt động tín dụng

thông qua trang web – CIC. Tuy nhiên, CIC chưa phải là cơ quan định mức tín

nhiệm cá nhân, doanh nghiệp một cách độc lập và hiệu quả, thông tin cung cấp còn

đơn điệu, thiếu cập nhật. Đó cũng là thách thức cho hệ thống ngân hàng trong việc

mở rộng và kiểm soát tín dụng cho nền kinh tế trong điều kiện thiếu một hệ thống

thông tin tương xứng. Nếu các ngân hàng cố gắng chạy theo thành tích, mở rộng tín

dụng trong điều kiện môi trường thông tin không cân xứng thì sẽ gia tăng nguy cơ

nợ xấu cho hệ thống ngân hàng

75/98

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn hội nhập kinh tế khu vực và thế giới với

tình hình kinh tế thế giới đầy biến động như giá cả leo thang, giá vàng, đô la biến

động cũng như giá xăng dầu thế giới tăng kỷ kục hơn so với các trước đây, sự sụp

đổ của thị trường cho vay bất động sản của các ngân hàng Mỹ. Các ngân hàng Việt

Nam cũng sẽ ít nhiều chịu ảnh hưởng từ những biến động này đặc biệt là trong vấn

đề quản lý rủi ro tín dụng. Và chúng ta cũng đã chứng kiến những vấn đề về chạy

đua lãi suất huy động, chạy đua tăng trưởng tín dụng nhằm đạt được lợi nhuận kỳ

vọng. Từ đó ta có thể thấy kiểm soát và quản lý rủi ro tín dụng là hết sức cần thiết.

76/98

CHƯƠNG 3

GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG

TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM

3.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG

MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY:

- Cơ hội cho các NHTM Việt Nam trong tiến trình hội nhập

Hội nhập quốc tế thành công sẽ đem lại cho Việt Nam nhiều cơ hội như mở rộng

thị trường, tận dụng những kinh nghiệm quản lý, kế thừa những thành tựu khoa học

của các nước đi trước, tăng khả năng thu hút vốn đầu tư và sự chuyển giao kỹ thuật

công nghệ, nâng vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế. Đối với hệ thống ngân

hàng Việt Nam, thông qua hội nhập quốc tế sẽ nắm bắt được các cơ hội sau:

Thứ nhất, hội nhập kinh tế quốc tế tạo động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới và

cải cách hệ thống ngân hàng Việt Nam, nâng cao năng lực quản lý nhà nước trong

lĩnh vực ngân hàng, tăng cường khả năng tổng hợp, hệ thống tư duy xây dựng các

văn bản pháp luật trong hệ thống ngân hàng, đáp ứng yêu cầu hội nhập và thực hiện

cam kết với hội nhập quốc tế.

Thứ hai, hội nhập quốc tế mở ra cơ hội trao đổi, hợp tác quốc tế giữa các

NHTM trong hoạt động kinh doanh tiền tệ, đề ra giải pháp tăng cường giám sát và

phòng ngừa rủi ro, từ đó nâng cao uy tín và vị thế của hệ thống NHTM Việt Nam

trong các giao dịch quốc tế. Đồng thời, các ngân hàng Việt Nam có điều kiện tranh

thủ vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý và đào tạo đội ngũ cán bộ, phát huy lợi thế

so sánh của mình để theo kịp yêu cầu cạnh tranh quốc tế và mở rộng thị trường ra

nước ngoài.

Thứ ba, hội nhập quốc tế giúp các NHTM Việt Nam tiếp cận và chuyên môn

hoá các nghiệp vụ ngân hàng hiện đại. Chính hội nhập quốc tế cho phép các ngân

hàng nước ngoài tham gia tất cả các dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam buộc các

77/98

NHTM Việt Nam phải chuyên môn hoá sâu hơn về nghiệp vụ ngân hàng, quản trị

ngân hàng, quản trị tài sản nợ, quản trị tài sản có, quản trị rủi ro, cải thiện chất

lượng tín dụng, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn, dịch vụ ngân hàng và phát

triển các dịch vụ ngân hàng mới mà các ngân hàng nước ngoài dự kiến sẽ áp dụng ở

Việt Nam. Hơn nữa, việc mở cửa thị trường cho hàng hoá xuất khẩu Việt Nam cũng

sẽ là một cơ hội tốt để các ngân hàng mở rộng kinh doanh. Các NHTM Việt Nam sẽ

có nhiều cơ hội kinh doanh hơn, có nhiều khách hàng hơn trong lĩnh vực xuất nhập

khẩu

- Thách thức đối với các NHTMCP Việt Nam trong tiến trình hội nhập

Thứ nhất, các NHTMCP Việt Nam ngày càng chịu áp lực trong việc giữ và mở

rộng thị phần của mình ngay trên lãnh thổ Việt Nam. Hiện nay, các NHTMCP phải

chịu áp lực cạnh tranh gay gắt không chỉ bởi các NHTM nước ngoài mà còn phải

chịu áp lực cạnh tranh với các tổ chức tài chính trung gian khác và các định chế tài

chính khác như thị trường chứng khoán, cho thuê tài chính, bảo hiểm,v.v.. Ngoài ra,

việc phải loại bỏ dần những hạn chế đối với NHTM nước ngoài có nghĩa là các

NHTM nước ngoài sẽ từng bước tham gia đầy đủ vào mọi lĩnh vực hoạt động ngân

hàng tại Việt Nam

Thứ hai, cạnh tranh trong việc huy động vốn ngày càng gay gắt. Thực hiện hội

nhập đòi hỏi chúng ta phải thực hiện lộ trình cởi bỏ những hạn chế đối với các ngân

hàng nước ngoài trong việc huy động vốn. Ngày 16.9.2004, NHNN Việt Nam đã

điều chỉnh tỷ lệ huy động tiền gửi VND đối với chi nhánh ngân hàng nước ngoài

hoạt động ở VN từ 25% lên 50%. Việt Nam cũng đang cam kết mở cửa thị trường

dịch vụ tài chính – ngân hàng theo lộ trình nới lỏng dần và tiến tới xoá bỏ các hạn

chế đối với hoạt động ngân hàng. Giai đoạn từ 2001 đến 2010, các ngân hàng Mỹ

sẽ được thành lập các ngân hàng liên doanh với số vốn từ 30% - 49%, tới năm 2010

được thành lập ngân hàng với vốn 100% của Mỹ. Hội nhập ngân hàng đòi hỏi các

NHTMCP Việt Nam phải nhanh chóng tăng quy mô, đầu tư công nghệ, cải tiến

78/98

trình độ quản lý. Công nghệ hiện đại và trình độ quản lý cũng như tiềm lực tài chính

dồi dào của những ngân hàng nước ngoài sẽ là những ưu thế cơ bản tạo ra sức ép

cạnh tranh trong ngành ngân hàng và buộc các ngân hàng Việt Nam phải tăng thêm

vốn, và đầu tư kỹ thuật, cải tiến phương pháp quản trị, hiện đại hoá hệ thống thanh

toán để nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh. ..

Thứ ba, cạnh tranh trong việc cung cấp dịch vụ ngân hàng cũng ngày càng

quyết liệt. Ngày nay, ngoài những nghiệp vụ truyền thống như tín dụng và đầu tư

thì dịch vụ ngân hàng cũng tạo nên sắc thái mới cho ngân hàng trong chiến lược

cạnh tranh vào tạo thị phần cho mình. Do đó, các NHTMCP Việt Nam cũng phải

chịu áp lực tạo nên phong cách văn hoá cho ngân hàng mình, tạo nên phong cách

phục vụ riêng thể hiện nét đặc thù của mình mới hy vọng tạo thế đứng vững chắc

trên thị trường

Thứ tư, cạnh tranh trong việc sử dụng lao động ngày càng gay gắt. Mọi sự thành

công của một doanh nghiệp đều xuất phát từ yếu tố con người. Hiện nay, chế độ đãi

ngộ cho lao động đặc biệt là lao động có trình độ cao ở các NHTMCP Việt Nam

chưa đủ sức thuyết phục để lôi kéo những lao động có trình độ chuyên môn cao.

Hiện tượng chảy máu chất xám là căn bệnh nan y không chỉ đối với ngành tài chính

– ngân hàng mà đối với tất cả các ngành kinh tế ở Việt Nam.

- Định hướng phát triển chung hiện nay:

Thứ nhất: Các ngân hàng phải có chính sách hướng về phát triển và tăng tỷ

trọng dịch vụ, để tránh phụ thuộc quá nhiều vào nguồn thu tín dụng. Chính sách này

vừa phù hợp điều kiện phát triển kinh tế năng động của TPHCM, vừa mang lại cho

ngân hàng nhiều lợi ích: đang dạng hoá hoạt động theo hướng ngân hàng hiện đại,

thu hút khách hàng doanh nghiệp, cung cấp dịch vụ trọn gói, đồng thời kiểm tra

được hoạt động kinh doanh của khách hàng, tăng năng lực cạnh tranh. Một điểm

mạnh của ngân hàng phát triển hoạt động dịch vụ là thu hút được nguồn vốn không

kỳ hạn khá cao, từ đó giảm được chi phí vốn bình quân, lãi suất cho vay hợp lý,

79/98

không bị sa vào các cuộc chạy đua lãi suất. Để đẩy mạnh hoạt động dịch vụ,

NHTMCP cần nghiên cứu và đưa ra nhiều sản phẩm cho khách hàng doanh nghiệp

bên cạnh các hoạt động tín dụng truyền thống: dịch vụ tư vấn và quản lý đầu tư,

ngân hàng điện tử, quản lý tài sản… để phát triển các mảng dịch vụ mới này, ngoài

đầu tư công nghệ hiện đại, ngân hàng còn phải đầu tư vào con người. Đội ngũ nhân

viên trình độ cao, có khả năng sử dụng, tư vấn thành thạo chuyên nghiệp các sản

phẩm dịch vụ mới cho khách hàng.

Thứ hai: Các ngân hàng phải có chính sách khách hàng hướng vào nguồn vốn

thay vì chính sách mở rộng tín dụng để đảm bảo nguồn vốn phát triển bền vững, lãi

suất hợp lý. Vì một khi nền kinh tế phát triển nhanh, nhu cầu về vốn lớn và chưa có

dấu hiệu bất ổn rõ rệt thì đa số các NHTMCP Việt Nam đều mở rộng tín dụng mạnh

mẽ mà ít quan tâm đến nguồn vốn. Một phần do việc vay vốn dễ dàng và lãi suất

thấp trên thị trường liên hàng, hoạt động tín dụng chiếm vai trò chủ đạo trong tổng

hoạt động ngân hàng… Nhưng hiện nay, khi tình hình vốn khó khăn, khả năng

thanh khoản của thị trường địa ốc và chứng khoán kém, chạy đua lãi suất giữa các

ngân hàng làm các ngân hàng thấy rõ tầm quan trọng của chính sách khách hàng

hướng vào nguồn vốn. Bài học kinh nghiệm của các ngân hàng nước ngoài là để có

thanh khoản tốt và nguồn vốn bền vững thì chính sách phải hướng vào nguồn vốn

huy động từ dân cư và các tổ chức kinh tế, đặc biệt là các khách hàng có dòng lưu

chuyển tiền lớn thay vì dựa vào nguồn vốn trên thị trường liên ngân hàng. Đây cũng

chính là khác biệt trong chính sách giữa ngân hàng nước ngoài và NHTMCP trong

nước nói chung. Ngân hàng nước ngoài khi trước 2008 cũng tập trung ưu đãi đối

với khách dư nợ cao và vay trả thường xuyên. Ngược lại, với chính sách ưu tiên

phát triển nguồn vốn, ngân hàng nước ngoài huy động nguồn vốn chi phí thấp và

bền vững từ khách hàng của họ. Kết quả là thời gian qua, khi tình hình lãi suất tăng

cao, nguồn vốn khan hiếm, các NHTMCP trong nước không có đủ nguồn vốn thì

ngân hàng nước ngoài vẫn có nguồn vốn giải ngân cho khách hàng và cho vay lại

trên thị trường liên hàng. Chính sách này có thể không mang lại lợi nhuận cao

nhưng đảm bảo phát triển ổn định và thoả mãn được nhu cầu vay vốn của khách

80/98

hàng, duy trì được mức lãi suất hợp lý, xây dựng được một tỷ lệ hợp lý giữa nguồn

vốn và dư nợ theo tiêu chuẩn quốc tế.

Thứ ba: Các NHTMCP cần có chính sách tín dụng nhằm đạt được mục tiêu

cân bằng giữa tối đa hoá lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro, đảm bảo tăng trưởng và

phát triển bền vững theo thông lệ quốc tế. Xây dựng chính sách khách hàng để có sự

phân hoá rõ rệt giữa các nhóm khách hàng theo các tiêu chí: lịch sử quan hệ, khách

hàng chiến lược, mức độ an toàn vốn vay… để có các ưu đã riêng phù hợp về lãi

suất, phí, chính sách chăm sóc tránh tình trạng cào bằng, áp dụng một chính sách tín

dụng chung cho các loại hình doanh nghiệp với quy mô hoạt động, mức độ hiệu

quả, mục đích sử dụng vốn khác nhau. Mặt khác, áp dụng chính sách lãi vay linh

hoạt vào kỳ hạn, loại tiền, dự án vay vốn, khách hàng. Hoạt động quản lý tín dụng

đảm bảo các tỷ lệ an toàn vốn, cơ cấu tín dụng phù hợp chiến lược khách hàng,

ngành hàng, chính sách quản lý rủi ro, cơ cấu nguồn vốn, đảm bảo mức tăng trưởng

tín dụng phù hợp với năng lực, quản lý, điều hành và trình độ nghiệp vụ của nhân

viên tín dụng.

Thứ tư: Các NHTMCP cần xây dựng danh mục tín dụng phù hợp từng thời

kỳ. Một danh mục tín dụng không hợp lý, thiếu đa dạng, khi xảy ra bất trắc gây

những tổn thất nghiêm trọng cho ngân hàng. Danh mục tín dụng phải đảm bảo các

yếu tố:

+ Đa dạng hoá được ngành nghề, khách hàng vay, yếu tố địa lý và loại hình

cho vay.

+ Phù hợp tình hình kinh tế vĩ mô và điều kiện, xu hướng phát triển của thị

trường hoạt động.

+ Phù hợp quy mô, năng lực và khả năng kiểm soát rủi ro của bản thân ngân

hàng

. + Phù hợp định hướng phát triển và lợi thế so sánh của ngân hàng

3.2. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG

TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM

81/98

Chúng ta thấy rằng quản lý rủi ro tín dụng là hết sức cần thiết đối với các ngân

hàng nói chung và NHTMCP nói riêng. Việc xây dựng các giải pháp nhằm nâng

cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng phải được thực hiện trên cơ sở nhận biết và

quản lý tốt các rủi ro thì hiệu quả của công tác quản lý rủi ro tín dụng mới cao. Trên

cơ sở đó, các giải pháp có thể được nêu ra như sau:

3.2.1. Giải pháp vĩ mô:

3.2.1.1. Đảm bảo môi trường kinh tế chính trị xã hội ổn định:

Môi trường kinh tế chính trị xã hội có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động tín

dụng. Trong điều kiện khi Việt Nam hòa nhập vào nền kinh tế thế giới thì cạnh

tranh càng cao, nền kinh tế dễ biến động, doanh nghiệp dễ có nguy cơ mất khả năng

thanh toán, phá sản. Hơn nữa, hiện nay có nhiều ngân hàng mới được thành lập,

trong khi thị trường có hạn nên cạnh tranh ngày càng khốc liệt, từ đó chất lượng tín

dụng ngày càng giảm thấp. Đảm bảo các môi trường này ổn định sẽ giúp cho các

doanh nghiệp cũng như khách hàng hoạt động kinh doanh có hiệu quả hơn, khả

năng hoàn trả nợ vay ngân hàng cao.

Để đảm bảo môi trường ổn định có nhiều cách, trong đó không thể không có sự

can thiệp của Chính phủ như đề ra các quy định về vốn điều lệ, nhân sự,… giảm

thiểu sự thành lập các ngân hàng, nâng cao chất lượng ngân hàng, cũng như điều

tiết nền kinh tế, giảm thiểu những khó khăn do thị trường gây ra tác động lên các

doanh nghiệp

3.2.1.2. Hoàn thiện quy trình xử lý tài sản đảm bảo, rút ngắn thời

gian giải quyết hồ sơ để các ngân hàng nhanh chóng thu hồi

các khoản nợ cần xử lý.

Mặc dù luật và các văn bản có liên quan của Việt Nam quy định Ngân hàng

thương mại có quyền xử lý tài sản đảm bảo nợ vay khi khách hàng không trả được

nợ, tuy nhiên cơ chế pháp lý chưa rõ ràng, đặc biệt là quyền sử dụng đất. Theo Nghị

định 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 của Chính phủ tại điểm 4, điều 34 cho

phép tổ chức tín dụng (TCTD) có quyền xử lý tài sản bảo đảm nói chung và tài sản

82/98

bảo đảm là quyền sử dụng đất nói riêng nếu không đạt được sự thỏa thuận giữa các

bên. Tuy nhiên, Thông tư liên tịch số 03/2001/TTLT-NHNN-BTP-BCA-BTC-

TCĐC giữa Liên bộ Ngân hàng Nhà nước, Bộ tư pháp, Bộ công an, Bộ tài chính,

Tổng cục địa chính ngày 29.4.2001 (sau đây gọi tắt là Thông tư 03) quy định TCTD

không được trực tiếp bán hay được trực tiếp nhận quyền sử dụng đất để thay thế cho

việc thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm. Và theo Khoản 2 – Mục III của thông tư

này, nếu không đạt được sự thỏa thuận của các bên thì TCTD phải đưa ra bán đấu

giá hay khởi kiện ra Tòa: “Trường hợp tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, tài sản

gắn liền với đất không xử lý được theo thoả thuận của các bên trong hợp đồng thì tổ

chức tín dụng đưa tài sản ra bán đấu giá để thu hồi nợ hoặc khởi kiện ra tòa án”.

Việc này gây cản trở cho các ngân hàng thương mại khi xử lý tài sản thế chấp trong

thực tế, việc xử lý thu hồi nợ còn mất nhiều thời gian và qua nhiều khâu đoạn, do:

- Ngân hàng chuyển hồ sơ của tài sản đảm bảo sang Trung tâm bán đấu giá

chuyên trách thuộc Sở tư pháp để xử lý, tuy nhiên tiến độ xử lý quá chậm, mất

nhiều thời gian, thậm chí có nhiều trường hợp tồn đọng không xử lý được. Việc này

do nhiều nguyên nhân, trong đó có một nguyên nhân không thể không nhắc đến là

hoạt động của Trung tâm bán đấu giá kém hiệu quả. Khi đó, không ít trường hợp

ngân hàng có thể phối hợp với người có tài sản đảm bảo để xử lý hoặc tự xử lý

được, nhưng khi tiến hành chuyển quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất

cho người mua, thì các cơ quan chức năng từ chối việc thực hiện công chứng, đăng

bộ,… với lý do quyền sử dụng đất trong trường hợp này phải thông qua Trung tâm

bán đấu giá chuyên trách theo quy định

- Khi xử lý tài sản đảm bảo là quyền sử dụng đất thì các ngân hàng phải xin

phép Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền cho phép bán đấu giá làm cho quy trình

bán đấu giá càng mất nhiều thời gian & thủ tục: phải mất 15 ngày để xin giấy phép

bán đấu giá, 15 ngày tiếp theo thực hiện đăng ký bán đấu giá, 30 ngày niêm yết tài

sản bán đấu giá & 60 ngày tiếp theo là thời gian cấp giấy chứng nhận cho người

mua tài sản

83/98

Công tác thi hành án còn chậm. Trong thực tế có nhiều bản án, quyết định

của Tòa án đã có hiệu lực thi hành và đã có đơn yêu cầu thi hành án của ngân hàng.

Nhưng cơ quan thi hành án vẫn chưa thi hành án với nhiều lý do như bản án chưa rõ

ràng, hoặc lý do khác. Những trường hợp đó, ngân hàng phải chờ cơ quan thi hành

án làm việc lại với Tòa án. Thời gian chờ đợi này thường kéo dài hàng tháng thậm

chí nửa năm ngân hàng mới nhận được văn bản trả lời của cơ quan thi hành án.

Trong nền kinh tế thị trường, đi đôi với sự sinh sôi phát triển các doanh

nghiệp làm ăn hiệu quả là sự phá sản của các doanh nghiệp kinh doanh hoạt động

yếu kém, đào thải trong cạnh tranh là quy luật khách quan, không phụ thuộc vào ý

chí của nhà doanh nghiệp. Ngân hàng thương mại với chức năng trung gian tài

chính, luôn phải gánh chịu những khoản nợ tồn đọng là tất nhiên. Việc áp dụng các

giải pháp khai thác và thanh lý đối với các khoản nợ chuyển quá hạn đều là giải

pháp tác động của ngân hàng lên khách hàng khi mọi việc đã rồi, vì thế ngân hàng

luôn ở trạng thái bị động.

Vì vậy: Để việc xử lý thu hồi nợ được nhanh hơn và giảm thiểu chi phí,

Chính phủ cần hoàn thiện quy trình xử lý tài sản đảm bảo từ khâu đấu giá đến khâu

thi hành án, rút ngắn thời gian giải quyết hồ sơ cũng như khuyến khích giao dịch

thoả thuận đúng luật nhằm giúp các ngân hàng nhanh chóng thu hồi được nợ từ các

tài sản đảm bảo.

3.2.1.3. Nâng cao chất lượng của trung tâm thông tin tín dụng của

ngân hàng nhà nước (CIC)

Một trong những điều kiện cần thiết để thực hiện quản lý rủi ro tốt là hệ thống

thông tin phải đầy đủ, cập nhật, chính xác. Vì vậy, việc hoàn thiện hoạt động của

trung tâm tín dụng là rất cần thiết nên CIC cần chú trọng đổi mới và hiện đại hóa

các trang thiết bị, thiết lập hệ thống sao cho việc thu thập cũng như cung cấp thông

tin tín dụng được thông suốt, kịp thời.

Vì vậy, NHNN cần có những quy định bắt buộc đối với tất cả các tổ chức tín

dụng trong việc khai báo đầy đủ thông tin tín dụng bao gồm thông tin của người đi

84/98

vay, báo cáo tài chính của khách hàng, số tiền vay, tình hình vay trả, tài sản đảm

bảo… vào hệ thống thông tin tín dụng hoặc áp dụng mã số tín dụng đối với các khách

hàng cá nhân… để hỗ trợ các ngân hàng trong việc quản lý rủi ro tín dụng. Mặt

khác, NHNN cần phát triển hệ thống thông tin tín dụng một cách nhanh chóng,

chính xác và phong phú theo hướng: cung cấp đánh giá xếp loại doanh nghiệp dựa

theo nhiều tiêu thức khác nhau như: quy mô, khả năng thanh toán, quan hệ tín dụng,

hiệu quả sản xuất kinh doanh...; thu nhập thêm thông tin qua các tổ chức quốc tế;

tạo lập thông tin trên diện rộng, phối hợp với cơ quan thuế, cơ quan kiểm toán và

UBND tỉnh, thành phố lập mã số nộp thuế của doanh nghiệp để các tổ chức tín dụng

truy cập thông tin được dễ dàng và NHNN cần phải có biện pháp khuyến khích, đi

dần đến quy định bắt buộc các NHTM hợp tác, cung cấp thông tin một cách đầy đủ

cho trung tâm vì hiện nay, các NHTM chưa có sự hợp tác tích cực với CIC chủ yếu

là do muốn giữ bí mật thông tin về khách hàng để cạnh tranh. Thanh tra NHNN nên

kiểm tra việc báo cáo, khai thác thông tin của các ngân hàng, đồng thời có biện

pháp xử lý kiên quyết, kịp thời đối với những ngân hàng vi phạm chế độ báo cáo

thông tin tín dụng.

Bên cạnh đó, NHNN cũng cần có biện pháp tuyên truyền để các ngân hàng hiểu

rõ thêm về quyền lợi và nghĩa vụ trong việc cung cấp và sử dụng thông tin tín dụng.

Đồng thời, NHNN cần quy định chặt chẽ, cụ thể và bắt buộc các tổ chức tín dụng

cung cấp tình hình dư nợ khả năng trả nợ, nợ xấu về CIC, và CIC cũng thông tin về

các khách hàng vay vốn có vấn đề.

3.2.1.4. Lựa chọn cấp độ độc lập tự chủ phù hợp với NHNN thời kỳ

mới.

Hiện tại, NHNN thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt

động ngân hàng; là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và

ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ. Chính phủ là nơi quyết định chính

sách (cả về mục tiêu lẫn chỉ tiêu hoạt động) cũng như can thiệp vào quá trình triển

khai thực thi chính sách tiền tệ. Đây là một trong những nguyên nhân làm hạn chế

85/98

hiệu quả hoạt động của NHTW, nhất là trong việc thực hiện mục tiêu ổn định giá trị

đồng tiền và gây chậm trễ trong chính sách, không phù hợp tình hình thực tế. Vì

vậy, NHNN Việt Nam cần được trao quyền độc lập, tự chủ hơn trong việc đưa ra

các quyết định chính sách mà không có sự can thiệp từ phía các cơ quan nhà nước

hay các áp lực chính trị; đồng thời được quyền kiểm soát tất cả các công cụ có ảnh

hưởng tới các mục tiêu của chính sách tiền tệ, nhất là về vấn đề chống lạm phát, hạn

chế việc tài trợ trực tiếp cho thâm hụt ngân sách của Chính phủ. Bên cạnh đó, cũng

cần trao cho NHNN quyền chủ động quyết định về tài chính, tức là tự chủ về ngân

sách. Có như vậy thì NHNN mới có đủ nguồn lực để thực thi chức năng, nhiệm vụ

một cách có hiệu quả nhất

3.2.1.5. Tạo điều kiện để phát triển thị trường mua bán nợ xấu của

các NHTM

Đối với hoạt động mua bán nợ xấu, hệ thống NHTM có các Công ty Quản lý

nợ và Khai thác tài sản. Tuy nhiên, thị trường mua bán nợ chưa có cơ chế rõ ràng và

một hành lang pháp lý đầy đủ. Tính đến cuối năm 2008, nợ xấu của hệ thống ngân

hàng Việt Nam ở khoảng 43.500 tỷ đồng, chiếm 3,5% tổng dư nợ tín dụng.

Việc mua bán nợ xấu ngân hàng ở Việt Nam hầu như chưa có và nếu có thì

diễn ra rất khó khăn từ việc lập hồ sơ, đưa lên tòa, đến thi hành án rất lằng nhằng,

phức tạp, thậm chí 2 - 3 năm không xong được việc. Sở dĩ việc mua, bán nợ xấu

ngân hàng chưa nhiều trên thị trường là do: Chính phủ vẫn chưa để mắt tới vấn đề

này và chưa cho phép lực lượng nước ngoài tham gia vào thị trường. Mặc dù, khi

nói đến thị trường thì phải bao gồm nhiều đối tượng: trong nước và ngoài nước,

quốc doanh và tư nhân cùng tham gia. Hoạt động này trên thế giới thông suốt là do

những quốc này có một hệ thống pháp lý hoàn hảo và tạo mọi điều kiện thuận lợi

cho thị trường này phát triển như nhân lực có tay nghề cao, cung cấp dịch vụ bài

bản...

Trong thời điểm nền kinh tế đang đối mặt với nhiều khó khăn, Chính phủ

nên dành sự ưu đãi và quan tâm đầu tư cho lĩnh vực mua bán nợ, đặc biệt là mua

86/98

bán nợ xấu ngân hàng: Nhà nước cần đưa ra các cơ chế chính sách rõ ràng, cải tiến

và đơn giản hóa các thủ tục hành chính, giảm bớt chi phí xử lý nợ giữa ngân hàng

và các doanh nghiệp, nhằm làm lành mạnh mạch máu cho nền kinh tế, góp phần

thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam.

Muốn thực hiện tốt các giải pháp này, nhà nước phải đảm bảo thực hiện các điều

kiện sau:

- NHNN nên rà soát lại các văn bản chồng chéo, thiếu đồng bộ, không còn

phù hợp với thực tế để hệ thống các văn bản của ngành mang tính pháp lý cao.

- Có chính sách thích hợp để thị trường chứng khoán, thị trường bất động

sản phát triển ổn định và vững chắc nhằm làm giảm rủi ro do các thị trường đó gây

ra như tính thanh khoản, pháp lý

- Cơ chế, chính sách của Nhà nước nên được đổi mới theo hướng cho phép

ngân hàng áp dụng các thông lệ quốc tế trong việc xác định trước và trích lập dự

phòng rủi ro. Quỹ dự phòng rủi ro hiện được trích theo phân loại nợ và bị đọng: đợi

đến lúc quá hạn, trở thành nợ xấu mới trích, mà không hề tính toán theo mức độ rủi

ro của khoản vay

- Các cơ quan chức năng có thẩm quyền cần tạo điều kiện hỗ trợ ngân hàng

thu hồi nợ, nếu có xảy ra tranh chấp thì sử dụng luật dân sự, không nên hình sự hoá

các quan hệ tín dụng.

3.2.2. Giải pháp vi mô

3.2.2.1. Nhận diện được các rủi ro có thể xảy ra:

Các rủi ro tín dụng có thể xảy ra ở tất cả các ngành nghề kinh doanh trong

đó có một số ngành nghề dễ xảy ra rủi ro như cho vay kinh doanh bất động sản,

kinh doanh chứng khoán, nuôi trồng thủy hải sản,… việc giới hạn cho vay ở một số

ngành nghề nhất định sẽ làm giảm rủi ro tín dụng. Bên cạnh đó, việc đa dạng hóa

danh mục cho vay theo nhiều loại sản phẩm tín dụng khác nhau, theo vùng miền

khác nhau nhằm phân tán các rủi ro có thể xảy ra.

87/98

Trên bình diện tổng thể, để nhận diện được các rủi ro có thể xảy ra dựa vào

tự bản thân mỗi ngân hàng nên xây dựng một hệ thống cảnh báo sớm liên quan đến

các dấu hiệu của khách hàng và thị trường. Để nhận biết và ước lượng tác động của

những dấu hiệu này, đòi hỏi nhân viên tín dụng có trình độ, nhạy bén và phải quan

tâm theo dõi sát tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng. Các yếu tố cần lưu ý

như:

+ Đề nghị gia hạn/ điều chỉnh kỳ hạn nợ nhiều lần với lý do không chính

đáng.

+ Trễ hạn thanh toán lãi, thanh toán nợ gốc không đúng theo hợp đồng.

+ Đề nghị tăng thêm hạn mức/ vay thêm với lý do không chính đáng hoặc

bất chấp lãi suất.

+ Ngành hàng hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc chính sách vĩ mô của

kinh tế nhà nước tác động bất lợi đến hoạt động sản xuất kinh doanh của khách

hàng.

+ Tài sản đảm bảo sụt giảm giá trị/ không đủ tiêu chuẩn

+ Cung cấp hoá đơn tài chính không đầy đủ, không có chứng minh hợp lý

việc sử dụng tiền vay.

+ Trì hoãn hoặc cung cấp báo cáo tài chính có số liệu biến động bất thường

+ Cơ cấu ban lãnh đạo có nhiều thay đổi hoặc phát sinh mâu thuẫn.

+ Khách hàng chờ đợi các khoản thu từ thu nhập bất thường/ huy động khác

chứ không phải nguồn thu từ hoạt động kinh doanh chính.

+ Lảng tránh hoặc trì hoãn các đợt kiểm tra định kỳ hoặt đột xuất của ngân

hàng về tình hình sản xuất kinh doanh mà không có lý do chính đáng.

+ Sử dụng nguồn vốn ngắn hạn đầu tư trung dài hạn hoặc có dấu hiệu đầu tư

vốn vào những lĩnh vực phát triển nóng (nhưng kinh doanh chứng khoán, vàng, bất

động sản )

88/98

+ Có công tác dự báo diễn biến nền kinh tế, của từng ngành lĩnh vực tác

động đến ngân hàng, khách hàng vay vốn. Từ đó đưa ra định hướng, chính sách cụ

thể cho từng ngành, từng lĩnh vực, cấp hạn mức cụ thể để chủ động phòng tránh rủi

ro, tránh những phản ứng quá chậm, gây lúng túng trong công tác quản lý

3.2.2.2. Quản lý việc thanh tra chế độ báo cáo:

Hệ thống quản lý thanh tra giám sát của các ngân hàng thương mại cổ phần

hiện nay vẫn còn coi trọng công tác thanh tra tại chỗ, xem nhẹ công tác thanh tra

giám sát từ xa và kiểm toán nội bộ. Việc giám sát từ xa, kiểm toán nội bộ mục đích

là cung cấp những thông tin cần thiết, tín hiệu cảnh báo nhằm ngăn chặn sớm, phát

hiện kịp thời những sự cố để có hướng khắc phục, phòng ngừa hiệu quả

Muốn thực hiện được tốt vấn đề này, các ngân hàng thương mại cổ phần cần

phải xây dựng, thiết lập đội ngũ kiểm tra giám sát có trình độ, chuyên môn cao,

luôn được đào tạo nghiệp vụ vững chắc và cập nhật mới để nắm bắt kịp thời những

sự cố và kinh nghiệm thực tiễn. Bên cạnh đó phải định kỳ kiểm tra giám sát các

hoạt động của ngân hàng để giảm thiểu được những sai sót có thể xảy ra. Đồng thời

phải thực hiện nghiêm ngặt các chế độ báo cáo, báo cáo hàng tháng, hàng quý đều

đặn, đảm bảo tính chính xác khách quan và minh bạch.

3.2.2.3. Trong sạch hóa đội ngũ cán bộ nhân viên ngân hàng:

Từ trước đến nay, đã có rất nhiều vụ án lừa đảo, chiếm đoạt tài sản, gây hậu

quả nghiêm trọng trong hệ thống ngân hàng mà xuất phát từ cán bộ, nhân viên ngân

hàng như Phạm Nhật Hồng, Nguyễn Lê Việt… Họ lợi dụng sơ hở trong các quy

định, quy trình cấp tín dụng, thông đồng với khách hàng để làm giả giấy tờ rút vốn

ngân hàng, nhận tiền của khách hàng gửi trả nợ ngân hàng khi đến hạn bỏ vào túi

riêng,… gây rủi ro thiệt hại cho ngân hàng.

Do vậy ngân hàng cần phải làm trong sạch hoá đội ngũ cán bộ, nhân viên

bằng nhiều biện pháp như tăng cường công tác quản trị điều hành, kiểm tra kiểm

soát, thực hiện nghiêm túc các quy định, quy trình cấp tín dụng; rà soát chấn chỉnh

89/98

công tác tổ chức cán bộ, chọn người có năng lực, phẩm chất đạo đức tốt bố trí vào

các bộ phận thiết yếu quan trọng, giao dịch trực tiếp với khách hàng.

3.2.2.4. Phát triển nguồn nhân lực:

Yếu tố con người luôn là yếu tố quan trọng nhất quyết định đến sự thành bại

của bất cứ một hoạt động nào trên mọi lĩnh vực. Đối với hoạt động tín dụng thì yếu

tố con người lại càng đóng một vai trò quan trọng, nó quyết định đến chất lượng tín

dụng, chất lượng dịch vụ và hình ảnh của NHTM và từ đó quyết định đến hiệu quả

tín dụng của ngân hàng.

Cần xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý rủi ro tín dụng có kinh nghiệm, kiến

thức, khả năng nhanh nhạy trong xem xét, đánh giá các đề xuất tín dụng. Hướng

dẫn, tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ, trình độ thẩm định

đánh giá các doanh nghiệp và các dự án của doanh nghiệp, chú trọng nghiệp vụ

marketing, kỹ năng bán hàng, thương thảo hợp đồng và văn hoá kinh doanh. Định

kỳ, có những chương trình họp, học tập kinh nghiệm, trao đổi thực tế giữa lãnh đạo

và nhân viên để bổ sung thông tin, kinh nghiệm. Đặc biệt ở bộ phận quản lý rủi ro

phải có một tiêu chuẩn rõ ràng về trình độ, kinh nghiệm thực tế, thời gian trải qua

công tác tại bộ phận quan hệ khách hàng. Kiên quyết loại bỏ, thuyên chuyển sang

bộ phận khác những nhân viên yếu về tư cách đạo đức, thiếu trung thực, những

nhân viên tín dụng thiếu kiến thức chuyên môn nghiệp vụ.

Bên cạnh đó, có chính sách tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ và đề bạt thích hợp

với yêu cầu và trách nhiệm công việc, tổ chức các lớp học, tập huấn, đào tạo và đào

tạo lại. Bổ nhiệm các chức danh khách quan, đúng quy trình, lựa chọn người đủ

năng lực và phẩm chất. Đồng thời, có chính sách rõ ràng và phân quyền cụ thể liên

quan đến cho vay, thu nợ và xử lý nợ (sổ tay tín dụng) để từng nhân viên trong từng

bộ phận hiểu rõ trách nhiệm và quyền hạn của mình.

3.2.2.5. Đầu tư công nghệ quản lý rủi ro

Chú trọng đầu tư công nghệ thông tin nhằm phục vụ cho việc phân tích đánh

giá, đo lường rủi ro. Do số lượng món vay lại khá lớn nên việc quản lý các khoản

90/98

vay của các nhân viên tín dụng gặp nhiều khó khăn. Vì thế, các ngân hàng phải

nâng cao công tác giám sát khoản vay, tăng cường ứng dụng công nghệ tin học

trong hoạt động ngân hàng nhằm cập nhật thường xuyên mọi biến động về các

khoản dư nợ của các khách hàng tại ngân hàng mình trong đó bao gồm việc nâng

cấp hệ thống máy móc tin học, truyền thông thích hợp, đồng thời nâng cao chất

lượng các công cụ đo lường rủi ro và tiếp tục áp dụng các công cụ đo lường rủi ro

mới từ đó giúp ngân hàng có chính sách phòng ngừa kịp thời . Bên cạnh đó,việc đầu

tư công nghệ trong công tác quản lý rủi ro tín dụng nên được tư vấn và thiết kế bởi

một đơn vị cung cấp chuyên nghiệp các giải pháp tài chính. Các NHTM trong nước

đặt hàng các công ty lớn trên thế giới trong việc thiết kế các chương trình riêng để

phân tích, đánh giá rủi ro khoản vay. Công nghệ đem lại kết quả chính xác, khách

quan, giảm thiểu thời gian, công sức cho cán bộ tín dụng khi quản lý số lượng lớn

các khoản vay của các khách hàng

3.2.2.6. Xây dựng quy trình quản lý rủi ro tín dụng phù hợp:

Quy trình quản lý rủi ro tín dụng có bốn giai đoạn cơ bản: khởi đầu và giải ngân;

giám sát và quản lý; thu hồi và xử lý nợ; thẩm định lại rủi ro tín dụng. Mỗi ngân

hàng nên có một quy trình quản lý rủi ro tín dụng cho riêng mình, nhưng vẫn đảm

bảo đầy đủ các giai đoạn. Xây dựng và thực hiện tốt quy trình có ý nghĩa rất quan

trọng trong việc hạn chế sai sót, rủi ro, nâng cao chất lượng tín dụng.

* Giai đoạn khởi đầu & giải ngân:

Đây là giai đoạn đầu tiên trong quy trình. Giai đoạn này, các ngân hàng thương

mại cần phải làm tốt, làm kỹ ngay từ lúc bắt đầu, cụ thể như việc thu thập thông tin,

thẩm định khách hàng,... trong đó cần chú trọng đến các khâu như:

+ So sánh kết quả xếp hạng khách hàng nội bộ với xếp hạng của các

cơ quan xếp hạng bên ngoài (hiện tại là CIC).

+ Phân tích cơ cấu nợ, mục đích là để xác định những tác động của cơ

cấu nợ đối với nguy cơ vỡ nợ của khách hàng. Nếu cơ cấu nợ không hợp lý và hiệu

quả thì người trả nợ sẽ bị hạ thấp loại xếp hạng.

91/98

Hai khâu này cần phải được tiến hành phối hợp cùng với nhau mới phát

huy được tối đa hiệu quả.

Thẩm định tín dụng mục đích là để hiểu biết về khách hàng, khả năng

sinh lợi, phát hiện và chú trọng rủi ro để từ đó giảm thiểu rủi ro.Thẩm định khách

hàng bao giờ cũng tồn tại mâu thuẫn giữa một bên là thẩm định quá kỹ thì chậm,

khách hàng bỏ đi, với một bên là thẩm định qua loa thì rủi ro cao. Ngân hàng là một

trung gian tài chính nên rủi ro trong hoạt động tín dụng là không thể tránh khỏi,

những nhà quản lý ngân hàng giỏi phải biết chấp nhận rủi ro ở mức có thể chấp

nhận được. Do đó việc thẩm định khách hàng phải luôn tuân thủ theo quy trình đã

được đề ra. Bám sát theo đúng quy trình định sẵn, việc thẩm định sẽ không phải tốn

nhiều thời gian do phải định hướng, mà vẫn có thể đảm bảo giảm thiểu được rủi ro.

Sau khi phân tích, đánh giá, thẩm định khách hàng, hồ sơ được duyệt, các

ngân hàng tiến hành soạn thảo hồ sơ tín dụng mang tính ràng buộc chặt chẽ về mặt

pháp lý và giải ngân.

* Giám sát & quản lý khoản vay:

Trong thời hạn khoản vay, cần phải theo dõi việc sử dụng vốn vay của khách

hàng, việc thực thi các phương án, kế hoạch trả nợ, rà soát bổ sung hồ sơ đầy đủ.

Mục đích là nhằm giúp phát hiện kịp thời nhanh chóng những dấu hiệu cảnh báo

sớm, những nguy cơ rủi ro tiềm ẩn để có biện pháp ngăn chặn, khắc phục, phòng

ngừa. Bên cạnh đó, việc chú trọng giám sát và quản lý sau cho vay, giúp các ngân

hàng gần gũi với khách hàng hơn, nắm bắt kịp thời nhu cầu cũng như những khó

khăn để tư vấn và cùng nhau giải quyết. Muốn thực hiện được, nhân viên ngân hàng

cần phải định kỳ thăm hỏi khách hàng, giám sát tình hình tài chính, đánh giá lại

tiềm lực, khả năng của khách hàng, đồng thời rà soát lại hồ sơ vay, cập nhật tình

hình biến động của thị trường, ngành nghề kinh doanh, những thay đổi dù nhỏ của

khách hàng.

* Thu hồi & xử lý nợ:

Giai đoạn thu hồi & xử lý nợ cũng vô cùng quan trọng. Bên cạnh việc rà soát lại

hồ sơ, nhân viên ngân hàng cũng phải thường xuyên theo dõi việc trả nợ của khách

92/98

hàng. Tiến độ trả nợ một phần đánh giá nên tiềm lực của khách hàng, cũng như thái

độ cộng tác, nguy cơ rủi ro trong tương lai. Nếu việc trả nợ đang tốt, bỗng dưng

chậm lại một vài kỳ, nhưng vẫn thanh toán đủ, nhân viên ngân hàng cần phải tìm

hiểu nguyên nhân, để tìm biện pháp khắc phục, thậm chí có thể giúp ích được cho

khách hàng bằng cách trao đổi với đối tác khách hàng khi cần thiết, tư vấn cho

khách hàng những phương án mới giúp nhanh thu hồi được vốn...Nếu việc trả nợ

thường xuyên chậm và để quá hạn nhiều kỳ, ngoài việc theo dõi, tìm hiểu nguyên

nhân, đôn đốc khách hàng trả nợ, nhân viên ngân hàng cần phải tiến hành rà soát hồ

sơ, thẩm định lại khả năng trả nợ và chuyển qua xử lý nợ.

Việc xử lý nợ cần phải được tiến hành càng sớm càng tốt theo đúng trình tự và

thủ tục, nên có một bộ phận hoặc công ty xử lý nợ riêng biệt để tăng thêm tính

chuyên môn hoá cao và đạt được hiệu quả như ý muốn. Sau khi rà soát thẩm định

lại khoản vay, khả năng trả nợ của khách hàng, nếu khoản vay vẫn còn có khả năng

thu hồi, bộ phận xử lý nợ hoạch định kế hoạch và biện pháp thu hồi; nếu các khoản

vay có nguy cơ mất khả năng thu hồi nợ, bộ phận xử lý nợ sẽ chuẩn bị phương án

xử lý nội bộ, sau đó chuyển hồ sơ sang các cơ quan hữu quan có thẩm quyền thụ lý.

* Thẩm định lại rủi ro tín dụng:

Bên cạnh các giai đoạn trên, việc thẩm định lại rủi ro tín dụng nhằm giúp

cho các ngân hàng xác định được mức độ tổn thất khi vỡ nợ có thể xảy ra để ngăn

ngừa hoặc dùng quỹ dự phòng trích lập, xử lý trước.

Đối với những khoản vay không có bảo đảm, việc đánh giá mức độ tổn

thất khi vỡ nợ phụ thuộc vào giá trị hiệu quả ròng trong bảng cân đối kế toán của

khách hàng, tỷ trọng của tín dụng không bảo đảm/tổng giá trị tín dụng.

Đối với những khoản vay có bảo đảm, việc xác định mức độ tổn thất khi

vỡ nợ được tiến hành theo hai khâu. Một là xác định giá trị của khách hàng, xem xét

tài sản của khách hàng có thể bán đi và có những cách thức tin cậy giúp xác định

giá trị tài sản này hay không. Hai là xác định liệu những tài sản nhất định của khách

93/98

hàng có thể được thanh lý độc lập với nhau hay không khi vỡ nợ, nếu khách hàng

phá sản thì còn lại được những gì?

Việc thẩm định lại rủi ro tín dụng, xác định mức độ thiệt hại khi vỡ nợ

xảy ra, hoặc là hậu quả của việc không trả được nợ để xác định mức độ tổn thất ước

tính là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến mức dự phòng rủi ro mà các ngân hàng

đặt ra. Hoạt động của ngân hàng là phân bổ nguồn vốn kinh tế dựa trên mức độ tổn

thất ước tính nhưng cần chú ý tính toán các khoản vay sao cho có thể bù đắp được

những tổn thất dự kiến và các tổn thất ngoài dự kiến, tức là cần phải tính đến cả các

yếu tố như khả năng vỡ nợ, mức độ tổn thất thực tế khi vỡ nợ và tổn thất thông

thường khi vỡ nợ.

3.2.2.7. Cải cách bộ máy hoạt động nhằm xây dựng sự độc lập giữa

chức năng bán hàng, tác nghiệp và quản lý rủi ro trong

NHTM

Hiện nay mô hình độc lập giữa chức năng bán hàng tác nghiệp và quản lý rủi

ro tín dụng chưa được áp dụng rộng rãi ở các NHTM. Các NHTM quốc doanh hiện

vẫn chưa áp dụng mô hình này. Việc bán hàng, tác nghiệp, và quản lý rủi ro vẫn

chưa thật sự độc lập. Hiện các NHTMCP ngoài quốc doanh đang từng bước áp

dụng mô hình này như ACB, Sacombank. Việc áp dụng mô hình này thể hiện sự

phận công công việc và chuyên môn hóa cho từng bộ phận sẽ giúp các ngân hàng

hạn chế được rủi ro. Việc chuyên môn hóa giữa các bộ phận sẽ giúp cho nhân viên

hiểu rõ công việc mình đang làm nâng cao nghiệp vụ và mang tính chuyên môn hóa

cao.Tránh trường hợp hồ sơ vay chỉ có một bộ phận xử lý từ giai đoạn tiếp thị, bán

hàng đến lúc giải ngân, theo dõi khoản vay và thu nợ vì áp dụng theo mô hình này

dễ gây ra tình trạng quan liêu trong công tác cho vay. Đây cũng là một yêu cầu tất

yếu trong quá trình hội nhập để quản lý tốt các rủi ro bao gồm cả rủi ro tín dụng.

Cải cách bộ máy tín dụng hoạt động theo thông lệ quốc tế về quản lý rủi ro

tín dụng. Tách các chức năng tiếp thị, quan hệ khách hàng, thẩm định rủi ro độc lập,

quyết định tín dụng và quản lý nợ cùng với việc phân định rõ trách nhiệm, quyền

94/98

hạn, đảm bảo tính độc lập, khách quan. Thực hiện sự giám sát và kiểm soát chặt

chẽ, thường xuyên của cán bộ các cấp liên quan tới cấp tín dụng và bộ phận kiểm

tra và giám sát tín dụng độc lập

Bộ phận quan hệ khách hàng (Marketing): chức năng tìm kiếm, tiếp xúc,

khởi tạo quan hệ tín dụng với khách hàng.

Bộ phận quản trị rủi ro tín dụng: thẩm định tín dụng độc lập, giám sát quá

trình thực hiện các quyết định của bộ phận quan hệ khách hàng. Đồng thời, giám sát

quá trình vay vốn, trả nợ của khách hàng, tạo ra được quá trình kiểm tra liên tục sau

khi cho vay. Sau khi xem xét các điều kiện của khách hàng vay, sẽ có trả lời về việc

đồng ý hay không đối với khoản vay.

Bộ phận tác nghiệp: chức năng lưu trữ hồ sơ, nhập máy tính, theo dõi và

quản lý khoản vay theo đúng các yêu cầu, điều kiện đã được xác lập từ bộ phận

quản trị rủi ro tín dụng. Đây có thể cùng là bộ phận quan hệ khách hàng. Để chuyển

đổi được mô hình cấp tín dụng mới này phải giải quyết 3 vấn đề:

Thứ nhất, do mô hình mới ảnh hưởng đến quyền hạn của nhân viên có liên

quan đến quá trình cấp tín dụng. Bây giờ, quyết định cho vay hay không phụ thuộc

vào quyết định của tập thể, các bộ phận độc lập. Đây là một trở lực không nhỏ cho

quá trình chuyển đổi mô hình của các NHTM, vì các bộ phận, con người đã quen

với cách thức hoạt động truyền thống (một nhân viên tín dụng từ tìm kiếm, thẩm

định, giải ngân và thu nợ hoàn tất khoản vay). Để khắc phục được yếu tố này, cần

có sự sắp xếp lại cơ cấu tổ chức liên quan đến bộ phận tín dụng, chuyển đổi về cách

nghĩ, phân định rõ trách nhiệm quyền hạn của từng bộ phận.

Thứ hai, do thiếu thông tin, đặc biệt là thông tin tín dụng, các báo cáo của

doanh nghiệp chưa bắt buộc phải qua kiểm toán. Quy trình mới lại yêu cầu tách

bạch giữa các chức năng, nên nhân viên thẩm định (không trực tiếp tiếp xúc khách

hàng) phải có đầy đủ thông tin để ra quyết định đúng đắn, hợp lý.

95/98

Thứ ba, việc phân định trách nhiệm phải rõ ràng, đặc biệt là trách nhiệm

pháp lý để đảm bảo sợi dây liên kết chặt chẽ, tránh sự e ngại, sợ trách nhiệm trong

quá trình cấp tín dụng, ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng và khách hàng

Ưu điểm của mô hình mới này là sự tách bạch giữa bộ phận tiếp thị và thẩm

định, giúp quyết định cho vay đảm bảo tính chuyên nghiệp, chuyên môn hoá sâu

hơn, mang tính khách quan hơn, tăng cường khả năng giám sát. Từ đó giúp nhận

dạng rủi ro tiềm năng và có biện pháp phòng ngừa thích hợp.

Ví dụ như :

VietinBank đã chuyển đổi mô hình tổ chức bộ máy tín dụng trong toàn hệ

thống với các chức năng độc lập, theo đó chức năng nghiên cứu tham mưu ban hành

chính sách tín dụng được tách biệt với chức năng quản lý khách hàng, thẩm định và

đề xuất tín dụng (Phòng khách hàng); thẩm định rủi ro và quản lý danh mục tín

dụng (phòng Quản lý rủi ro); theo dõi, quản lý các khoản nợ bị suy giảm khả năng

trả nợ (Phòng quản lý nợ có vấn đề); kiểm tra, giám sát tín dụng độc lập (Ban kiểm

tra, kiểm soát nội bộ)

ACB cũng đã thực hiện chuyển đổi mô hình tổ chức cấp tín dụng từ cuối

năm 2008. Theo đó, phòng tín dụng sẽ bao gồm nhân viên quan hệ khách hàng

chuyên quản lý dư nợ và bán hàng, nhân viên phân tích tín dụng là người phân tích

hồ sơ, lập tờ trình và trình cấp phê duyệt tín dụng. Cấp phê duyệt bao gồm ban tín

dụng chi nhánh, ban tín dụng khu vực, ban tín dụng hội sở, và hội đồng tín dụng.

tương ứng với mỗi ban là giới hạn một hạn mức phê duyệt riêng được quy định

trong chính sách tín dụng. Sau khi hồ sơ được phê duyệt cấp tín dụng sẽ được

chuyển sang bộ phận pháp lý chứng từ để thực hiện các thủ tục pháp lý. Cuối cùng

mới chuyển đến bộ phận dịch vụ khách hàng để kiểm soát hồ sơ và giải ngân cho

khách hàng. Theo đó, nhân viên quan hệ khách hàng và nhân viên dịch vụ khách

hàng cùng nhau kiểm tra & giám sát quá trình sử dụng vốn của khách hàng. Hàng

tháng sẽ có trung tâm thu nợ là người đôn đốc nhắc nhở thu nợ. Khi xảy ra nợ quá

96/98

hạn, thì khỏan vay sẽ được chuyển cho công ty xử lý nợ & khai thác thác tài sản

(ACBA) trực thuộc ACB để tiến hành các thủ tục pháp lý để thu hồi nợ.

97/98

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Qua việc phân tích các rủi ro tín dụng đối với các NHTMCP Việt Nam, định

hướng phát triển của hệ thống ngân hàng và những thách thức trong quá trình hoạt

động và hội nhập quốc tế, các NHTM cần phải xây dựng và hoàn thiện những giải

pháp cụ thể để phòng ngừa và kiểm soát rủi ro tín dụng.

Đối với các nguyên nhân chủ quan đến từ phía ngân hàng thì sẽ được phòng

ngừa qua các quy trình nghiệp vụ và kỹ năng kiểm soát. Bên cạnh đó cũng cần sự

hỗ trợ từ phía NHNN thông qua các thông tư, quyết định và nhất là hành lang pháp

lý thông thoáng. Từ đó giúp các NHTMCP Việt Nam ngày càng vững mạnh hơn

trong quá trình chuẩn bị hội nhập vào nền kinh tế khu vực và nền kinh tế quốc tế

hiện nay.

98/98

KẾT LUẬN

Khủng hoảng tài chính của Châu Á năm 1997 bắt nguồn từ Thái Lan, khủng

hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 bắt đầu từ phố Walls của Mỹ. Với cường quốc

tài chính như Mỹ nhưng vẫn lâm vào khủng hoảng trầm trọng do các khoản nợ cho

vay dưới chuẩn vì khả năng đánh giá rủi ro không chính xác, không có kịch bản đối

phó cho trường hợp khủng hoảng toàn diện trong điều kiện kinh tế phát triển không

ngừng, dù đã trải qua nhiều bài học kinh nghiệm, nhưng hoạt động quản lý rủi ro tín

dụng chưa bao giờ là đủ. Với tác động sâu rộng và mạnh mẽ của rủi ro tín dụng, tùy

từng giai đoạn mức độ phát triển, mà các NHTMCP phải luôn củng cố hoàn thiện

công tác quản lý rủi ro tín dụng, để vừa có lợi nhuận vừa đảm bảo an toàn tài chính

cho bản thân

Luận văn đã đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín

dụng, đảm bảo cấp tín dụng chặt chẽ khách quan và khoa học đối với các NHTMCP

Việt Nam, đồng thời kiến nghị chính phủ, NHNN có các giải pháp để tạo điều kiện

cho các NHTMCP tăng cường khả năng quản lý rủi ro tín dụng. Ngoài ra, cần hoàn

thiện các yếu tố như đào tạo nhân sự, phát triển công nghệ, xây dựng hệ thống thu

thập phân tích thông tin… Từng bước hoàn thiện công tác quản lý rủi ro tín dụng để

nâng cao chuẩn an toàn cho bản thân các ngân hàng đảm bảo lợi nhuận, nâng cao

năng lực cạnh tranh. Đây chính là yêu cầu sống còn của hệ thống NHTM Việt Nam

nói chung trong giai đoạn hiện nay.

Với kiến thức đã được thu nhận từ nhà trường, nghiên cứu thực tế, kinh

nghiệm làm việc bản thân và sự hướng dẫn của TS Lê Thị Lanh, tác giả luận văn đã

trình bày vấn đề về giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng tại các

NHTMCP Việt Nam

Chân thành cảm ơn nhà trường, thầy cô đã tận tình hướng dẫn, truyền đạt

kiến thức. Rất mong nhận được sự góp ý của Quý thầy cô, bạn bè để luận văn được

hoàn thiện hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.

PGS TS Trần Huy Hoàng (2007), Quản trị ngân hàng thương mại, NXB Lao

Động Xã Hội

2.

PGS TS. Nguyễn Đăng Dờn (2004) , “Tiền tệ ngân hàng”, NXB thống kê

3.

TS Hồ Diệu (2001), Tín dụng ngân hàng, NXB Thống Kê

4.

TS Lê Thị Mận & ThS Hồng Thị Lan Phương, “ Rủi ro tín dụng& quản lý rủi

ro tín dụng của các NHTM tại TP.HCM”, Tạp chí phát triển kinh tế (số 187

tháng 05/2006)

5.

Trần Đình Định. Quản trị rủi ro trong hoạt động ngân hàng theo chuẩn mực,

thông lệ quốc tế & quy định của Việt Nam, NXB Tư Pháp

6.

Bộ luật dân sự 2005 (2008), NXB Chính trị quốc gia

7.

Bùi Duy Hưng, “Bài học kinh nghiệm về đo lường rủi ro tín dụng từ khủng

hoảng nợ dưới chuẩn ở Mỹ”, Tạp chí ngân hàng, (số 18 tháng 9-2008), trang

59-62

8.

Báo cáo tài chính, báo cáo thường niên của ngân hàng ACB, Vietcombank,

Eximbank, Vietinbank, Sacombank các năm 2006 – 2009

9.

Ngân hàng nhà nước Việt Nam (2005), Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN

ngày 22/04/2005 về phân loại nợ, trích lập dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt

động ngân hàng của Tổ chức tín dụng, Hà Nội

10. Các văn bản pháp quy của NHNN về quản lý tín dụng

11.

Thông tin tham khảo trên các website

http://vneconomy.vn http://www.sbv.gov.vn http://www.cafef.vn