ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
ĐINH THỊ THÚY HÒA
GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở HÀ TĨNH
luËn v¨n th¹c sÜ kinh tÕ chÝnh trÞ
Hµ néi - 2009
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
ĐINH THỊ THÚY HÒA
GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở HÀ TĨNH
Chuyên ngành : Kinh tế chính trị
Mã số : 60 31 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Anh Tài
Hµ néi - 2009
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VẤN ĐỀ 7
GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
1.1. Một số khái niệm về lao động, việc làm, thất nghiệp và thị 7
trường lao động
1.1.1. Một số khái niệm về lao động và thị trường lao động 7
1.1.2. Một số khái niệm về việc làm và thất nghiệp 12
1.2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và vấn đề giải quyết việc làm 18
1.2.1. Một số khái niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa 18
1.2.2. Tác động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến vấn đề giải 19
quyết việc làm
1.2.3. Vai trò của giải quyết việc làm trong quá trình công nghiệp 29
hóa, hiện đại hóa
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến giải quyết việc làm 30
1.3.1. Tài nguyên thiên nhiên 30
1.3.2. Dân số và tỷ lệ tăng dân số 31
1.3.3. Khoa học - công nghệ 31
1.3.4. Sự phát triển của thị trường hàng hóa sức lao động 33
1.3.5. Chính sách giải quyết việc làm của Đảng và Nhà nước 36
Chương 2: GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG 38
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở TỈNH HÀ TĨNH
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của Hà Tĩnh 38
2.1.1. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên đối với phát triển 38
kinh tế - xã hội của tỉnh
2.1.2. Đặc điểm kinh tế 42
2.1.3. Đặc điểm về dân số, dân cư 43
44
2.1.4. Đánh giá những thuận lợi và khó khăn của tỉnh Hà Tĩnh trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội gắn liền với công nghiệp hóa, hiện đại hóa
2.2. 46
Thực trạng giải quyết việc làm ở Hà Tĩnh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
2.2.1. Khái quát về quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hà Tĩnh 46
2.2.2. Thực trạng giải quyết việc làm của Hà Tĩnh trong quá trình 56
công nghiệp hóa, hiện đại hóa
2.2.3. Đánh giá những kết quả đạt được và những hạn chế 75
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM GIẢI QUYẾT 79
VIỆC LÀM Ở HÀ TĨNH TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA GIAI ĐOẠN 2008 - 2013
3.1. Quan điểm về giải quyết việc làm ở Hà Tĩnh trong quá trình 79
công nghiệp hóa, hiện đại hóa giai đoạn 2008 - 2013
79
3.1.1. Giải quyết việc làm phải lấy những người có nhu cầu việc làm là trọng tâm, trọng điểm, là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và toàn xã hội
3.1.2. Sử dụng nguồn lao động phải trên cơ sở nâng cao chất lượng 80
lao động
3.1.3. Giải quyết việc làm trên cơ sở phát triển kinh tế 80
3.1.4. Giải quyết việc làm phải đảm bảo sự kết hợp thống nhất giữa 82
phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội
82
3.2. Mục tiêu và phương hướng giải quyết việc làm ở Hà Tĩnh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa giai đoạn 2008 - 2013
3.2.1. Mục tiêu 82
3.2.2. Phương hướng giải quyết việc làm cho người lao động ở Hà 84
Tĩnh giai đoạn 2008-2013
3.3. Những giải pháp chủ yếu để giải quyết việc làm có hiệu quả ở 87
tỉnh Hà Tĩnh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
3.3.1. Nhóm giải pháp về dân số và kế hoạch hóa gia đình (giảm sức 88
ép về cung lao động)
90
3.3.2. Nhóm giải pháp về phát triển dạy nghề và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua việc đào tạo chuyên môn cho người lao động nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng lao động có tay nghề. Đào tạo nghề gắn liền với nhu cầu xã hội
3.3.3. Nhóm giải pháp tăng cầu lao động 96
3.3.4. Hoàn thiện kết cấu hạ tầng tạo điều kiện cho phát triển kinh tế - 102
xã hội để mở rộng việc làm
3.3.5. Đẩy mạnh việc xuất khẩu lao động 103
106
3.3.6. Khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế, phù hợp với bối cảnh và điều kiện ở tỉnh Hà Tĩnh, ưu tiên phát triển những ngành nghề mới, sử dụng nhiều lao động có tay nghề
3.3.7. Nâng cao hiệu quả thị trường lao động 106
3.3.8. Di dân kinh tế mới 108
3.4. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lao 109
động ở Hà Tĩnh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
3.4.1. Đối với tỉnh Hà Tĩnh 109
3.4.2. Đối với Chính phủ 112
3.4.3. Đối với các Bộ, ban ngành khác 114
KẾT LUẬN
115
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
117
DANH MỤC CÁC BẢNG
Tên bảng Trang
Số hiệu bảng
1.1 Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta 22
2.1 Xuất phát điểm của Hà Tĩnh năm 2005 48
2.2 Tốc độ tăng trưởng bỡnh quõn GDP thời kỳ 2000-2008 50
2.3 Tỡnh hỡnh huy động nguồn vốn đầu tư 55
2.4 Số lượng lao động trong độ tuổi (giai đoạn 2005-2008) 56
2.5 57
Cơ cấu GDP và cơ cấu lao động theo ngành giai đoạn 2006-2008
2.6 58
Tỡnh hỡnh lao động trong độ tuổi phõn theo khu vực giai đoạn 2004-2007
2.7 Cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế giai đoạn 2004 - 2007 58
2.8 64
Kết quả thực hiện chớnh sỏch cho vay vốn giải quyết việc làm giai đoạn 2004 - 2008
2.9 65
Số lao động cú việc làm phõn theo nhúm tuổi giai đoạn 2004-2008
2.10 66
Số lao động có việc làm phân theo thành phần kinh tế giai đoạn 2004- 2007
2.11 68
Số lao động cú việc làm phõn theo khu vực và nhúm kinh tế giai đoạn 2004 - 2007
2.12 Kết quả xuất khẩu lao động giai đoạn 2004-2008 71
2.13 72
Thất nghiệp và thiếu việc làm phân theo nhóm tuổi giai đoạn 2004-2008
2.14 73
Thất nghiệp và thiếu việc làm theo thành phần kinh tế giai đoạn 2004-2008
2.15 74
Thất nghiệp và thiếu việc làm phõn theo khu vực giai đoạn 2004-2008
3.1 Chỉ tiêu kế hoạch hóa gia đình năm 2010 88
3.2 Nõng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề 91
96 3.3 Mục tiờu mở rộng cỏc thành phần kinh tế tới năm 2013
3.4 Số lượng lao động đi xuất khẩu lao động 103
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Tên biểu đồ Trang
Số hiệu biểu đồ
2.1 Tốc độ tăng trưởng bỡnh quõn GDP thời kỳ 2000 - 2008 50
2.2 65
Số lao động có việc làm phân theo nhóm tuổi giai đoạn 2004-2008
2.3 67
Số lao động cú việc làm phõn theo thành phần kinh tế (2004- 2007)
2.4 70
Số lao động cú việc làm phõn theo ngành giai đoạn 2004 - 2007
2.5 72
Thất nghiệp và thiếu việc làm phân theo nhóm tuổi giai đoạn 2004-2008
2.6 73
Thất nghiệp và thiếu việc làm theo thành phần kinh tế giai đoạn 2004-2008
3.1 Nõng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề 91
3.2 Giá trị GDP của các ngành năm 2010 97
3.3 Số lượng lao động đi xuất khẩu lao động 103
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Tên sơ đồ Trang
Số hiệu sơ đồ
29 1.1
Tỏc động của cụng nghiệp húa, hiện đại húa đến phỏt triển kinh tế - xó hội
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc làm luôn được coi là một vấn đề kinh tế - xã hội sống còn của
toàn nhân loại, là nhu cầu chính đáng của mỗi công dân, là mối quan tâm
hàng đầu đối với bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, chính vì vậy, tạo việc làm
đầy đủ cho người lao động luôn được coi là vấn đề ưu tiên hàng đầu trong
chính sách phát triển của mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Việt Nam là quốc gia nghèo, điểm xuất phát thấp, có nền kinh tế
chậm phát triển và phải chịu nhiều hậu quả chiến tranh. Trong cơ cấu kinh tế
xã hội, nông thôn là chủ yếu, chiếm gần 74,37% dân số và 75,6% lực lượng
lao động toàn xã hội [20, tr. 16]. Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào, cơ cấu
dân số trẻ, nhưng lại bị hạn chế bởi trình độ lao động thấp, kỹ năng làm việc
chưa chuyên nghiệp, chưa đáp ứng được yêu cầu lao động cao, đa số là lao động
chưa qua đào tạo. Tình hình gia tăng dân số hiện nay cũng là vấn đề đáng báo
động với tỷ lệ tăng dân số là 2,1%, với tỷ lệ như vậy mỗi năm dân số của nước ta
sẽ tăng thêm bằng 1 tỉnh [11, tr. 20]. Trong điều kiện đó, vấn đề giải quyết
việc làm cho người lao động đang trở nên hết sức nan giải với sự diễn biến
phức tạp của tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm, đây là yếu tố làm cản trở
quá trình vận động và phát triển đất nước. Bởi vậy, việc giải quyết việc làm cho
người lao động là một trong những chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà
nước ta trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước góp phần quan
trọng trong việc tăng trưởng kinh tế, giữ vững an ninh trật tự, an toàn xã hội, như
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã nêu rõ: "Giải quyết việc làm
là một chính sách xã hội cơ bản. Bằng nhiều biện pháp, tạo ra nhiều việc làm
mới, tăng quỹ thời gian lao động được sử dụng, nhất là trong nông nghiệp,
nông thôn. Các thành phần kinh tế mở mang các ngành nghề, cơ sở sản xuất,
dịch vụ có khả năng sử dụng nhiều lao động. Chăm lo cải thiện điều kiện làm
việc, đảm bảo an toàn và vệ sinh lao động…" [10, tr. 104].
1
Trong văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tiếp
tục khẳng định: "Chú trọng đào tạo nghề, tạo việc làm cho nông dân và cho
lao động nông thôn, nhất là các vùng nhà nước thu hồi đất để xây dựng kết
cấu hạ tầng và phát triển các cơ sở phi nông nghiệp. Đẩy mạnh chuyển dịch
cơ cấu lao động nông thôn, giảm nhanh tỷ trọng lao động làm nông nghiệp,
tăng tỷ trọng lao động làm công nghiệp và dịch vụ. Tạo điều kiện cho lao
động nông thôn có việc làm…" [10, tr. 110].
Hà Tĩnh là một tỉnh thuộc khu vực Bắc Trung Bộ, có điều kiện tự
nhiên khó khăn, các yếu tố phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội còn hạn
chế, trong đó hạn chế về mặt chất lượng lao động đang là một trở ngại không
nhỏ đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Với chất lượng lao động
thấp, phần lớn lao động chưa được qua đào tạo và sự đầu tư cho đào tạo
nguồn nhân lực chưa đúng mức đã làm cho vấn đề giải quyết việc làm ở Hà
Tĩnh gặp không ít khó khăn. Bên cạnh đó, tốc độ phát triển dân số nhanh, mật
độ dân số phân bố không đồng đều, có những khu vực khá cao như ở thành
phố Hà Tĩnh, các thị trấn, khu trung tâm, cũng có những khu vực lại rất thấp
như khu vực miền núi. Thu nhập bình quân đầu người thấp, ngành nghề dịch
vụ kém phát triển, cơ sở vật chất kỹ thuật còn thiếu thốn đã và đang làm nảy
sinh những mâu thuẫn gay gắt giữa cung và cầu về lao động khiến cho vấn đề
việc làm có thêm nhiều bức xúc đòi hỏi phải nhanh chóng giải quyết.
Hà Tĩnh cũng như các tỉnh khác, đang trong quá trình tiến hành việc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa với những cơ hội được mở rộng và thách thức
cũng ngày càng lớn. Kinh nghiệm cho thấy khi tiến hành công nghiệp hóa,
hiện đại hóa sẽ có hiện tượng vừa thừa, vừa thiếu về lao động: Thừa những
lao động có trình độ, chuyên môn, tay nghề không đáp ứng được yêu cầu
công việc, thiếu những lao động lành nghề, có trình độ cao. Có những ngành
sẽ tăng nhu cầu sử dụng lao động, nhưng cũng có lĩnh vực sẽ giảm lực lượng
lao động do áp dụng khoa học kỹ thuật, cơ giới hóa vào trong quá trình sản
xuất kinh doanh. Vấn đề ở đây là yếu tố chất lượng lao động. Chính vì vậy
2
giải quyết bài toán về lao động cho Hà Tĩnh trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa là vô cùng quan trọng và cần thiết. Xuất phát từ thực tiễn đó, tác
giả chọn đề tài: "Giải quyết việc làm trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở Hà Tĩnh" là đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp thạc sĩ chuyên
ngành kinh tế chính trị của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Giải quyết việc làm cho người lao động luôn là vấn đề quan trọng mà
bất kỳ quốc gia nào cũng đều quan tâm. Đặc biệt hơn, đối với những quốc gia
đang phát triển như Việt Nam nói chung và tỉnh Hà Tĩnh nói riêng, việc làm
là một vấn đề hết sức khó khăn. Hà Tĩnh đang tiến hành đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, do đó giải quyết việc làm là vấn đề ưu tiên. Đã có nhiều
công trình nghiên cứu về vấn đề việc làm trong bối cảnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa trong nước cũng như ngoài nước như:
- Chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam, của TS. Nguyễn Hữu Dũng
và TS. Trần Hữu Thung (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.
- Thực trạng thất nghiệp và gia tăng đói nghèo ở nông thôn hiện nay,
của PGS.TS Phí Văn Đậu, Đại học Nông nghiệp I.
- Một số giải pháp giải quyết việc làm trong quá trình chuyển sang
nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, của Trần Tuấn Anh, luận văn thạc
sĩ, Khoa Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, 1997.
- Sử dụng nguồn lao động và việc làm, của Trần Đình Hoan và Lê
Mạnh Khoa, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991.
- Điều tra về lao động và việc làm ở Việt Nam, do Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội phối hợp Tổng cục Thống kê triển khai hàng năm (từ
1996 đến nay).
- Hội thảo về lao động, việc làm, do Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế
Trung ương tổ chức.
3
Ngoài ra, còn có một số bài viết về giải quyết việc làm trong điều kiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa được đăng tải trên các sách báo, tạp chí khoa
học như:
- Ảnh hưởng của nền kinh tế tri thức với vấn đề giải quyết việc làm ở
Việt Nam của GS.TS Đỗ Thế Tùng, Tạp chí Lao động và Công đoàn, 2002.
- Vấn đề lao động và việc làm ở Việt Nam từ đổi mới đến nay, của các
tác giả: GS.TS Phạm Đức Thành, PGS.TS Phạm Quý Thọ, ThS. Thang Mạnh
Hợp, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, 2003.
- Ảnh hưởng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong việc sắp xếp
việc làm ở Việt Nam hiện hay, của PGS.TS Phan Thanh Phố, Tạp chí Nông
nghiệp, số 29/2007.
Nhìn chung, những công trình nghiên cứu trên chưa nghiên cứu một
cách hệ thống tình hình giải quyết việc làm trong điều kiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Tỉnh Hà Tĩnh hàng năm đều có báo cáo về tình hình giải quyết
việc làm; điều tra lao động và việc làm hàng năm của Sở Lao động Thương
binh và Xã hội tỉnh; báo cáo về kết quả tăng trưởng kinh tế, báo cáo về tình
hình đầu tư, về tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, cho đến
nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu nào có tính chất khoa học, hệ
thống về vấn đề giải quyết việc làm ở Hà Tĩnh trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nhằm đưa ra những giải pháp để sử dụng hợp lý, có hiệu quả
nguồn lao động dư thừa ở Hà Tĩnh hiện nay. Thông qua luận văn "Giải quyết
việc làm trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hà Tĩnh", tác giả
hi vọng sẽ tìm ra được những câu trả lời trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở hệ thống hóa về mặt lý luận các vấn đề về việc làm, giải
quyết việc làm, thị trường việc làm, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và thông
qua việc thống kê, phân tích, đánh giá thực trạng nguồn nhân lực và nhu cầu
4
sử dụng lao động ở Hà Tĩnh, luận văn đề xuất những giải pháp và kiến nghị
nhằm giải quyết việc làm cho người lao động ở Hà Tĩnh trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa giai đoạn 2008 - 2013.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về lao động, việc làm,
thất nghiệp, công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Tìm hiểu, phân tích những nhân tố tác động đến giải quyết việc làm.
- Phân tích, đánh giá thực trạng nguồn nhân lực và nhu cầu sử dụng
lao động ở Hà Tĩnh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm giải quyết có hiệu
quả vấn đề việc làm cho người lao động ở tỉnh Hà Tĩnh trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn 2008 đến năm 2013.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng nguồn nhân lực và tình hình giải quyết việc
làm ở tỉnh Hà Tĩnh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng nguồn nhân lực và tình hình sử
dụng lao động ở tỉnh Hà Tĩnh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
giai đoạn 2005 -2008. Hướng giải quyết việc làm trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa giai đoạn 2008-2013.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử kết
hợp các phương pháp tổng hợp, phân tích, chứng minh, thống kê, lôgic, đối
chiếu, so sánh để làm sáng tỏ vấn đề.
5
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn
- Khảo sát và đưa ra những số liệu chính xác, có hệ thống về kết quả
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, về giải quyết việc làm, giảm thất nghiệp của
các thành phần kinh tế từ ở Hà Tĩnh từ năm 2005, số liệu dự báo về nhu cầu
cung cầu lao động đến năm 2013.
- Phân tích, tổng hợp, đánh giá một cách có hệ thống thực trạng
nguồn nhân lực, nhu cầu sử dụng lao động và việc giải quyết việc làm ở tỉnh
Hà Tĩnh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2013.
- Đề xuất những giải pháp có tính khả thi nhằm từng bước thúc đẩy
hiệu quả giải quyết việc làm ở Hà Tĩnh trong những năm tới (đến năm 2013).
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vấn đề giải quyết
việc làm trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Chương 2: Thực trạng giải quyết việc làm trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở Hà Tĩnh.
Chương 3: Một số giải pháp cơ bản giải quyết việc làm ở Hà Tĩnh
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa giai đoạn 2008 - 2013.
6
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ VẤN ĐỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM TRONG QUÁ TRÌNH
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ LAO ĐỘNG, VIỆC LÀM, THẤT NGHIỆP VÀ THỊ
TRƢỜNG LAO ĐỘNG
1.1.1. Một số khái niệm về lao động và thị trƣờng lao động
1.1.1.1. Một số khái niệm về lao động
* Lao động
Khái niệm về lao động có nhiều cách tiếp cận khác nhau nhưng suy
đến cùng, lao động là hoạt động đặc thù của con người, là ranh giới để phân
biệt con người với con vật. Bởi vì, khác với loài vật, lao động của con người
là hoạt động có mục đích, có ý thức tác động vào thế giới tự nhiên nhằm cải
biến những vật thể của tự nhiên thành sản phẩm phục vụ cho nhu cầu đời sống
của con người. Theo C.Mác: "Lao động trước hết là một quá trình diễn ra
giữa con người và tự nhiên, một quá trình trong đó bằng hoạt động của chính
mình, con người làm trung gian, điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ
và tự nhiên" [13, tr. 164].
Ph. Ăngghen viết: "Khẳng định rằng lao động là nguồn gốc của mọi của
cải. Lao động đúng là như vậy, khi đi đôi với giới tự nhiên là cung cấp những vật
liệu cho lao động đem biến thành của cải. Nhưng lao động còn là một cái gì vô
cùng lớn lao hơn thế nữa, lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời
sống loài người, và như thế đến một mức mà trên một ý nghĩa nào đó, chúng
ta phải nói: Lao động đã sáng tạo ra bản thân loài người" [13, tr. 641].
Như vậy, có thể nói lao động là hoạt động có mục đích, có ý thức của
con người. Trong quá trình lao động, con người vận dụng sức lực tiềm tàng
7
trong thân thể của mình, sử dụng công cụ lao động để tác động vào đối tượng
lao động nhằm biến đổi nó phù hợp với nhu cầu của mình. Nói cách khác,
trong bất kỳ nền sản xuất xã hội nào, lao động bao giờ cũng là điều kiện để
tồn tại và phát triển của xã hội.
* Lực lượng lao động
Trên thế giới có nhiều quan niệm khác nhau về lực lượng lao động.
Từ điển thuật ngữ Pháp (1997-1985): Lực lượng lao động là số lượng
và chất lượng những người lao động được quy đổi theo các tiêu chuẩn trung
bình về khả năng lao động có thể sử dụng được.
Theo Tổ chức lao động Quốc tế: Lực lượng lao động là một bộ phận
dân số trong độ tuổi quy định, thực tế có tham gia lao động và những người
không có việc làm đang tích cực tìm kiếm việc làm.
Theo thuật ngữ về lĩnh vực lao động của Bộ Lao động - Thương binh
và Xã hội thì lực lượng lao động là những người đủ 15 tuổi trở lên có việc
làm và những người thất nghiệp. Lực lượng lao động đồng nghĩa với dân số
hoạt động kinh tế; lực lượng lao động là bộ phận hoạt động của nguồn lao động.
Từ những quan niệm của các nhà nghiên cứu trên thế giới và Việt
Nam, chúng ta có quan niệm về lực lượng lao động như sau: Lực lượng lao
động bao gồm toàn bộ những người từ đủ 15 tuổi trở lên đang có việc làm
hoặc không có việc làm, nhưng có nhu cầu làm việc và sẵn sàng làm việc.
* Nguồn lao động
Nguồn lao động và lực lượng lao động là những khái niệm có ý nghĩa
quan trọng làm cơ sở cho việc tính toán cân đối lao động, việc làm trong xã hội.
Theo giáo trình Kinh tế phát triển của Trường Đại học Kinh tế Quốc
dân (2005) đưa ra khái niệm: "Nguồn lao động là bộ phận dân số trong độ
tuổi lao động theo quy định của pháp luật có khả năng lao động, có nguyện
vọng tham gia lao động và những người ngoài độ tuổi lao động (trên độ tuổi
lao động) đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân".
8
Mỗi một nước khác nhau đều có những quy định riêng về độ tuổi lao
động, thậm chí khác nhau theo từng giai đoạn của mỗi nước. Sự khác biệt đó
tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế. Ở nước ta, theo quy định của Bộ
Luật lao động (năm 2002), độ tuổi lao động đối với nam là từ 15-60 và nữ là
từ 15-55 tuổi.
Nguồn lao động luôn được xem xét trên hai mặt: Số lượng và chất lượng.
Số lượng lao động: Là toàn bộ những người trong độ tuổi lao động có
khả năng lao động gồm: dân số đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và dân số trong độ
tuổi lao động có khả năng lao động nhưng đang thất nghiệp, đang đi học, đang
làm công việc nội trợ trong gia đình, không có nhu cầu việc làm và những
người thuộc tình trạng khác (bao gồm cả những người nghỉ hưu trước tuổi).
Chất lượng lao động: Về cơ bản đánh giá ở trình độ chuyên môn, tay
nghề (trí lực) và sức khỏe (thể lực) của người lao động.
1.1.1.2. Khái niệm về thị trường lao động
Từ khi nước ta chuyển sang vận hành theo nền kinh tế thị trường,
thuật ngữ "Thị trường lao động" đã được nhiều nhà nghiên cứu đề cập và đưa
ra những khái niệm khác nhau. Mỗi định nghĩa nhấn mạnh vào một phương
diện nào đó của thị trường này.
Tổng quan khoa học đề tài cấp bộ (2003-2004), Thị trường lao động
Việt Nam thực trạng và giải pháp - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,
đưa ra khái niệm:
Thị trường lao động là một bộ phận của hệ thống thị trường, trong đó
diễn ra quá trình trao đổi giữa một bên là người lao động tự do và một bên là
người có nhu cầu sử dụng lao động. Sự trao đổi này được thỏa thuận trên cơ sở
các mối quan hệ lao động như tiền công, tiền lương, điều kiện việc làm, bảo
hiểm xã hội… thông qua một hợp đồng lao động bằng văn bản hoặc bằng miệng.
Giáo trình của Khoa Kinh tế lao động, Trường Đại học Kinh tế quốc
dân cũng đưa ra một số khái niệm về thị trường lao động như sau:
9
Là một không gian trao đổi tiến tới thỏa thuận giữa người sở hữu sức
lao động và người cần có sức lao động để sử dụng.
Là mối quan hệ xã hội giữa người lao động có thể tìm được việc làm
để có thu nhập và người sử dụng lao động để thuê được công nhân bằng cách
trả công để tiến hành sản xuất kinh doanh.
Là toàn bộ những quan hệ kinh tế hình thành trong lĩnh vực thuê mướn
lao động.
Theo Tổ chức lao động Quốc tế: Thị trường lao động là thị trường trong
đó các dịch vụ lao động được mua và bán thông qua một quá trình để xác định
mức độ có việc làm của lao động cũng như mức độ tiền lương và tiền công.
Tuy có nhiều cách định nghĩa khác nhau nhưng các nhà nghiên cứu
đều thống nhất với nhau về nội dung cơ bản để hình thành nên thị trường lao
động, đó là: Không gian, người cần bán sức lao động, người cần mua sức lao
động, giá cả sức lao động và những ràng buộc giữa các bên về nội dung này.
Và cũng từ những quan điểm đó, thị trường lao động được biểu hiện là: Biểu
hiện quan hệ lao động diễn ra giữa một bên là người lao động và một bên là
người sử dụng lao động, dựa trên các nguyên tắc thỏa thuận, thông qua các
hợp đồng lao động.
Các yếu tố cấu thành thị trường lao động có thể khái quát thành 4
nhóm gồm: Cung lao động; cầu lao động; giá cả sức lao động (tiền lương, tiền
công); thể chế, tổ chức và hệ thống công cụ của thị trường lao động.
* Cung về lao động
Là lực lượng lao động xã hội, là toàn bộ những người trong và ngoài
độ tuổi lao động.
Số lượng cung lao động có thể xem xét hai khía cạnh.
Cung thực tế lao động: Bao gồm tất cả những người trong độ tuổi lao
động đang làm việc và những người thất nghiệp, cung thực tế về lao động
chính là lực lượng lao động xã hội hay dân số hoạt động kinh tế.
10
Cung tiềm năng về lao động: Bao gồm tất cả những người trong độ tuổi
lao động và những người thất nghiệp, những người trong độ tuổi lao động có
khả năng lao động đang đi học, đang làm công việc nội trợ trong gia đình
mình hoặc không có nhu cầu làm việc.
* Cầu về lao động
Là khả năng thuê mướn lao động trên thị trường lao động với các mức
tiền lương, tiền công tương ứng.
Cũng như cung về lao động, cầu về lao động cũng phải được xem xét
trên hai khía cạnh: Cầu thực tế và cầu tiềm năng.
Cầu thực tế về lao động: Là nhu cầu thực tế cần sử dụng lao động tại
một thời điểm nhất định.
Cầu thực tế về lao động = Chỗ việc làm cũ được duy trì + Chỗ việc
làm bị trống + Chỗ việc làm mới.
Chỗ việc làm trống: Là chỗ làm việc đã từng sử dụng lao động, nay
không có lao động làm việc và đang có nhu cầu sử dụng lao động.
Chỗ làm việc mới: Là chỗ làm việc mới xuất hiện và đang có nhu cầu
sử dụng lao động.
Cầu tiềm năng lao động: Là số lao động tương ứng với tổng số chỗ
việc làm có được, sau khi đã tính đến các yếu tố ảnh hưởng đến tạo việc làm
trong tương lai như vốn, đất đai, tư liệu sản xuất, công nghệ, chính trị, xã hội.
Cầu tiềm năng = cầu thực tế + số chỗ làm việc sẽ được tạo ra trong
tương lai.
* Quan hệ cung, cầu lao động
Thể hiện trên ba trạng thái: Trạng thái cân bằng cung cầu - cầu lao
động, trạng thái rối loạn cân bằng cung cầu lao động và trạng thái cân bằng
mới. Trong thị trường sức lao động, quy luật cung - cầu thể hiện khá rõ. Nếu
mức tiền công quá cao thì có hiện tượng cung lao động lớn hơn cầu về lao
11
động. Nghĩa là số người muốn đi làm việc sẽ lớn hơn số người tìm được việc
làm ở mức tiền công này.
Cung, cầu lao động là hai vế của thị trường lao động, sử dụng nguồn
lao động có hiệu quả, hoặc tận dụng nguồn lao động chỉ có thể đạt được khi
cân bằng cung - cầu lao động được duy trì ở một mức độ nhất định. Mỗi vế
cầu - cung lao động luôn luôn biến đổi theo những nguyên nhân riêng của
chúng và do tác động tương hỗ giữa chúng.
Trong các biện pháp tác động tới tương quan cầu - cung lao động thì
tiền công có tác động mạnh và trực tiếp nhất.
1.1.2. Một số khái niệm về việc làm và thất nghiệp
1.1.2.1. Khái niệm về việc làm
Việc làm là mối quan tâm số một của người lao động và giải quyết việc
làm là công việc quan trọng của tất cả các quốc gia. Cuộc sống của bản thân và
gia đình người lao động phụ thuộc rất lớn vào việc làm của họ. Sự tồn tại và phát
triển của mỗi quốc gia cũng gắn liền với tính hiệu quả của chính sách giải quyết
việc làm. Với tầm quan trọng như vậy, việc làm được nghiên cứu dưới nhiều góc
độ khác nhau như kinh tế, xã hội học, lịch sử... Khi nghiên cứu dưới góc độ lịch
sử thì việc làm liên quan đến phương thức lao động kiếm sống của con người
và xã hội loài người. Các nhà kinh tế coi sức lao động thông qua quá trình
thực hiện việc làm của người lao động là yếu tố quan trọng của đầu vào sản
xuất và xem xét vấn đề thu nhập của người lao động từ việc làm.
Ở Việt Nam trước đây, trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu
bao cấp, người lao động được coi là có việc làm và được xã hội thừa nhận,
trân trọng là người làm việc trong thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa (quốc
doanh, tập thể). Theo cơ chế đó, xã hội không thừa nhận việc làm ở các thành
phần kinh tế khác và cũng không thừa nhận thiếu việc làm, thất nghiệp…
Ngày nay, các quan niệm về việc làm đã được hiểu rộng hơn, đúng
đắn và khoa học hơn. Đó là các hoạt động của con người nhằm tạo ra thu
12
nhập, mà không bị pháp luật cấm. Điều 13, chương II, Bộ luật Lao động nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: "Mọi hoạt động lao động tạo
ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm".
Theo quan niệm trên, việc làm là các hoạt động lao động được hiểu
như sau:
- Làm các công việc để nhận tiền công, tiền lương hoặc hiện vật cho
công việc đó.
- Làm những công việc tự làm mang lại lợi ích cho bản thân hoặc tạo
ra thu nhập cho gia đình, cho cộng đồng, kể cả những công việc không được
trả công bằng hiện vật.
Như vậy, một hoạt động được coi là việc làm cần thỏa mãn hai điều kiện:
Một là, hoạt động đó phải có ích và tạo ra thu nhập cho người lao
động và các thành viên trong gia đình.
Hai là, người lao động được tự do hành nghề, hoạt động đó không bị
pháp luật cấm. Điều này chỉ rõ tính pháp lý của việc làm.
Hai điều kiện trên có quan hệ chặt chẽ với nhau, là điều kiện cần và đủ
của một hoạt động được thừa nhận là việc làm. Quan niệm đó đã góp phần mở
rộng quan niệm về việc làm, khi đa số lao động đương thời chỉ muốn chen
chân vào trong các doanh nghiệp, cơ quan nhà nước. Về mặt khoa học, quan
điểm của Bộ Luật lao động đã nêu đầy đủ yếu tố cơ bản nhất của việc làm.
1.1.2.2. Khái niệm về thiếu việc làm
Theo Tổ chức lao động Quốc tế, người thiếu việc làm là người trong
tuần lễ tham khảo có số giờ làm việc dưới mức quy định chuẩn cho người có
đủ việc làm và có nhu cầu có thêm việc làm.
Theo một số chuyên gia về chính sách lao động, việc làm thì cho rằng:
Người thiếu việc làm là những người đang làm việc có mức thu nhập dưới mức
lương tối thiểu và họ có nhu cầu làm thêm. TS. Trần Thị Thu đưa ra khái niệm:
13
"Thiếu việc làm còn được gọi là bán thất nghiệp hoặc thất nghiệp trá hình là hiện
tượng người lao động có việc làm ít hơn mức mà mình mong muốn" [11, tr. 17].
Từ khái niệm người thiếu việc làm trên có thể hiểu như sau: Người
thiếu việc làm là người lao động đang có việc làm nhưng họ làm việc không
hết thời gian theo pháp luật quy định hoặc làm những công việc mà tiền lương
thấp không đáp ứng đủ nhu cầu cuộc sống, họ muốn tìm việc làm thêm để bổ
sung thu nhập.
Tổ chức lao động Quốc tế cũng khuyến nghị các nước dùng khái niệm
người thiếu việc làm hữu hình (dạng nhìn thấy được) và dạng người thiếu việc
làm vô hình (khó xác định).
Thiếu việc làm hữu hình: là khái niệm để chỉ hiện tượng người lao
động làm việc có thời gian ít hơn thường lệ, họ không đủ việc làm, đang tìm
thêm việc làm và sẵn sàng để làm việc.
Thiếu việc làm vô hình: Là những người có đủ việc làm, làm đủ thời
gian thậm chí nhiều thời gian hơn mức bình thường nhưng thu nhập thấp.
Nguyên nhân của tình trạng này là do tay nghề hoặc kỹ năng của người lao
động thấp không sử dụng hết khả năng hiện có hoặc do điều kiện lao động tồi,
tổ chức lao động kém. Thước đo khái niệm thiếu việc làm vô hình là mức thu
nhập thấp hơn mức lương tối thiểu.
* Nguyên nhân thiếu việc làm:
- Do nền kinh tế chậm phát triển, diện tích đất nông nghiệp bình quân
đầu người thấp và giảm dần do đô thị hóa.
- Do lực lượng lao động tăng quá nhanh, trong khi đó số chỗ làm việc
mới tạo ra quá ít, do trình độ chuyên môn kỹ thuật, tay nghề của người lao
động còn thấp kém.
- Do tính chất thời vụ, thời tiết khí hậu, do chính sách đầu tư chưa hợp
lý, sản phẩm sản xuất ra không tiêu thụ được.
14
1.1.2.3. Khái niệm về thất nghiệp
Theo khái niệm của Tổ chức Lao động Quốc tế, thất nghiệp (theo nghĩa
chung nhất) là tình trạng tồn tại khi một số người trong độ tuổi lao động muốn
có việc làm nhưng không thể tìm được việc làm ở mức tiền công nhất định.
Người thất nghiệp là người trong độ tuổi lao động có khả năng lao
động, không có việc làm và đang có nhu cầu tìm việc làm.
Cũng có quan điểm cho rằng: Thất nghiệp là hiện tượng gồm những
phần mất thu nhập, do không có khả năng tìm được việc làm trong khi họ còn
trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, muốn tìm việc làm và đã đăng
ký ở cơ quan môi giới về lao động nhưng chưa được giải quyết.
Như vậy, những người thất nghiệp tất yếu họ phải thuộc lực lượng lao
động hay dân số hoạt động kinh tế. Một người thất nghiệp phải có 3 tiêu chuẩn:
+ Đang mong muốn và tìm việc làm
+ Có khả năng làm việc
+ Hiện đang chưa có việc làm
Với cách hiểu như trên, không phải bất kỳ ai có sức lao động nhưng
chưa làm việc đều được coi là thất nghiệp. Do đó, một tiêu thức quan trọng để
xem xét một người được coi là thất nghiệp thì phải biết được người đó có
muốn đi làm hay không. Bởi lẽ, trên thực tế nhiều người có sức khỏe, có nghề
nghiệp song không có nhu cầu làm việc, họ sống chủ yếu dựa vào "nguồn dự
trữ" như kế thừa của bố mẹ, nguồn tài trợ.
* Phân loại thất nghiệp
- Xét về nguồn gốc thất nghiệp có thể chia thành:
Thất nghiệp tự nhiên: Là loại thất nghiệp khi có một tỷ lệ nhất định số
lao động ở trong tình trạng không có việc làm.
Thất nghiệp tạm thời: Là loại thất nghiệp phát sinh do sự di chuyển
không ngừng của lao động giữa các vùng, giữa các loại công việc hoặc giữa
các giai đoạn khác nhau của cuộc sống.
15
Thất nghiệp cơ cấu: Là loại thất nghiệp xảy ra khi có sự mất cân đối
giữa cầu - cung lao động trong một ngành hoặc một vùng nào đó.
Thất nghiệp chu kỳ: Là loại thất nghiệp xảy ra do giảm sút giá trị tổng
sản lượng của nền kinh tế. Trong giai đoạn suy thoái của chu kỳ kinh doanh,
tổng giá trị sản xuất giảm dần, hầu hết các nhà sản xuất giảm sản lượng cầu
đối với các đầu vào, trong đó có lao động. Đối với loại thất nghiệp này, những
chính sách nhằm khuyến khích tăng cầu thường mang lại kết quả tích cực.
- Xét về tính chủ động của người lao động, thất nghiệp có thể chia thành:
+ Thất nghiệp hữu hình, bao gồm:
Thất nghiệp tự nguyện: Là loại thất nghiệp mà ở mức tiền công nào đó
người lao động không muốn làm việc vì lý do cá nhân nào đó (di chuyển, sinh
con). Thất nghiệp loại này thường gắn với thất nghiệp tạm thời.
Thất nghiệp không tự nguyện: Là loại thất nghiệp mà ở mức tiền công
nào đó người lao động chấp nhận nhưng vẫn không được làm việc do kinh tế
suy thoái, cung lớn hơn cầu về lao động.
Ngoài thất nghiệp hữu hình (thất nghiệp tự nguyện và không tự nguyện)
còn tồn tại thất nghiệp trá hình:
+ Thất nghiệp trá hình: Là hiện tượng xuất hiện khi người lao động
được sử dụng ở dưới mức khả năng mà bình thường người lao động sẵn sàng
làm việc. Hiện tượng này xảy ra khi năng suất lao động của một ngành nào đó
thấp. Thất nghiệp loại này thường gắn với việc sử dụng không hết thời gian
lao động.
- Xét theo hình thức thất nghiệp có thể chia thành:
+ Thất nghiệp theo giới tính: Là loại thất nghiệp của lao động nam
(hoặc nữ)
+ Thất nghiệp chia theo lứa tuổi: Là loại thất nghiệp của một lứa tuổi
nào đó trong tổng số lực lượng lao động.
16
+ Thất nghiệp chia theo vùng lãnh thổ: Là hiện tượng thất nghiệp xảy
ra thuộc vùng lãnh thổ (thành thị, nông thôn, đồng bằng, miền núi..)
+ Thất nghiệp chia theo ngành nghề: Là loại thất nghiệp xảy ra ở một
ngành nghề nào đó.
Ngoài các loại thất nghiệp nêu trên, người ta có thể chia thất nghiệp
theo dân tộc, chủng tộc, tôn giáo...
1.1.2.4. Khái niệm giải quyết việc làm
Giải quyết việc làm là khái niệm chỉ việc tạo ra các cơ hội để người
lao động có việc làm và tăng thu nhập, phù hợp với lợi ích của bản thân, gia
đình, cộng đồng và xã hội.
Như vậy, giải quyết việc làm là nhằm khai thác triệt để tiềm năng của
một con người, nhằm đạt được việc làm hợp lý và việc làm có hiệu quả.
Chính vì vậy, giải quyết việc làm phù hợp có ý nghĩa hết sức quan trọng đối
với người lao động ở chỗ tạo cơ hội cho họ thực hiện được quyền và nghĩa vụ
của mình. Trong đó, có quyền cơ bản nhất là quyền được làm việc nhằm nuôi
sống bản thân và gia đình góp phần xây dựng quê hương, đất nước.
* Giải quyết việc làm có thể được hiểu ở một số khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, tạo ra số lượng và chất lượng tư liệu sản xuất. Số lượng và
chất lượng tư liệu sản xuất phụ thuộc vào vốn đầu tư, tiến bộ khoa học - kỹ
thuật áp dụng trong sản xuất và khả năng quản lý, sử dụng đối với các tư liệu
sản xuất đó.
Thứ hai, tạo ra số lượng và chất lượng sức lao động. Số lượng lao động
phụ thuộc vào quy mô, tốc độ tăng dân số, các quy định về độ tuổi lao động và
sự di chuyển của lao động. Chất lượng lao động phụ thuộc vào sự phát triển
của giáo dục đào tạo, y tế, thể dục thể thao và chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
Thứ ba, thực hiện các giải pháp để duy trì việc làm ổn định và đạt hiệu
quả cao, các giải pháp về quản lý thị trường, kỹ thuật… nhằm nâng cao hiệu
quả của việc làm.
17
Chỉ khi nào trên thị trường người lao động và người sử dụng lao động
gặp gỡ và tiến hành trao đổi thì khi đó việc làm được hình thành. Giải quyết
việc làm cần phải được xem xét cả phía người lao động, người sử dụng lao
động và vai trò của nhà nước.
Vì vậy, giải quyết việc làm là tổng thể các biện pháp, chính sách kinh
tế, xã hội từ vi mô tác động đến người lao động có thể có việc làm.
1.2. CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VÀ VẤN ĐỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
1.2.1. Một số khái niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Cho đến nay vẫn còn có rất nhiều cách diễn đạt khác nhau về Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Năm 1963, Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên
hợp quốc (UNID) đã đưa ra định nghĩa: "Công nghiệp hóa là quá trình phát
triển kinh tế, trong quá trình này một bộ phận ngày càng tăng các nguồn của
cải quốc dân được động viên để phát triển cơ cấu kinh tế nhiều ngành ở trong
nước với kỹ thuật hiện đại. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế này là một bộ phận
chế biến luôn thay đổi để sản xuất ra những tư liệu sản xuất và hàng tiêu
dùng, có khả năng đảm bảo cho toàn bộ nền kinh tế xã hội" [6, tr. 37].
Ở nước ta trong những năm gần đây khi bàn về công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, các quan điểm đều thống nhất: Công nghiệp hóa của các nước diễn ra
có sự khác nhau về cách thức nhưng đều có một điểm chung công nghiệp hóa,
hiện đại hóa là quá trình biến một nước có nền kinh tế lạc hậu thành một nước
công nghiệp.
Tại Hội nghị Ban Chấp hành trung ương lần thứ 7 khóa VI và Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra khái niệm về
công nghiệp hóa, hiện đại hóa như sau: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá
trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ
quản lý kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng sức lao
động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với
18
công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát
triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học- công nghệ, tạo ra năng suất lao
động xã hội cao.
Cũng theo quan điểm của Đảng ta về công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì:
Việt Nam với xuất phát điểm rất thấp, từ một nước nông nghiệp lạc
hậu, với trình độ quản lý thấp kém đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa nên Đảng ta đã xác định công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở nước ta là nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội.
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ trên
toàn cầu, quá trình hội nhập Kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa đang ảnh hưởng
đến toàn bộ các quốc gia trên thế giới, trong bối cảnh đó Việt Nam phải nhanh
chóng xác định ý nghĩa, mục tiêu, tăng cường sức cạnh tranh trong mọi mặt
dựa trên thế mạnh của mình, muốn làm được điều này chỉ bằng con đường
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam
mang tính đặc thù khác với các nước khác đó là công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn liền với đặc tính chủ nghĩa xã hội.
1.2.2. Tác động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến vấn đề giải
quyết việc làm
Không thể phủ nhận vai trò của công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong
sự phát triển kinh tế xã hội. Với mỗi quốc gia không có con đường nào khác
để thoát khỏi đói nghèo bằng con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tùy
theo tính chất, đặc điểm của từng địa phương, từng quốc gia mà công nghiệp
hóa, hiện đại hóa diễn ra như thế nào, vào thời điểm nào, hình thức và mức độ
ra sao.
Có thể hiểu một cách đơn giản công nghiệp hóa, hiện đại hóa là đưa
những tiến bộ của khoa học, kỹ thuật vào các lĩnh vực trong đời sống xã hội
để tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả kinh tế, thúc đẩy quá trình sản xuất,
19
tiêu dùng phát triển, nâng cao đời sống xã hội. Nhưng bên cạnh những tác
động tích cực cũng có nhiều mặt trái nảy sinh trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa như: Vấn đề ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái và
đặc biệt là vấn đề việc làm. Khi lao động máy móc thay thế lao động thủ công
thì một lượng lớn lao động sẽ mất việc làm hoặc không phù hợp, không đáp
ứng được với yêu cầu của công việc mới, tức là đã làm gia tăng tình trạng vừa
thừa, vừa thiếu lao động, thị trường lao động có phân loại rõ ràng về tính chất
lao động, yêu cầu công việc và khả năng đáp ứng. Điều này đặt từng địa
phương, từng quốc gia rơi vào tình trạng tưởng chừng như mâu thuẫn khi phải
đưa công nghiệp hóa, hiện đại hóa vào để phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời
lại phải khắc phục những mặt trái của công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội. Có thể nêu ra sự ảnh hưởng của công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đến vấn đề giải quyết việc làm như sau.
1.2.2.1. Tác động tới sự dịch chuyển dân cư và lao động
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa là con đường phát triển của
mọi quốc gia trên thế giới. Thực tiễn phát triển của nhiều quốc gia cho thấy,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa là nhân tố quyết định làm thay đổi căn
bản phương thức sản xuất, chuyển nền kinh tế từ sản xuất nông nghiệp truyền
thống sang phương thức sản xuất mới hiện đại. Quá trình đó đã làm thu hẹp xã hội
nông thôn, từ đó làm cho dân cư và lao động của khu vực nông thôn giảm xuống.
Ở nước ta trong những năm qua trên khắp các vùng miền của đất
nước, nhiều khu công nghiệp, khu đô thị mới được xây dựng, hệ thống kết cấu
hạ tầng được nâng cấp xây mới ngày càng đồng bộ và hiện đại. Nhờ đó, bộ
mặt kinh tế - xã hội của đất nước thay đổi nhanh chóng theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Việc thu hồi đất bao gồm cả đất ở và đất nông nghiệp cho
xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội dẫn
đến đất cho sản xuất - kinh doanh của người dân ở khu vực nông thôn bị thu
hẹp, phải thay đổi chỗ ở và điều kiện sống. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và
20
Đầu tư, tính đến năm 2006 cả nước có 139 khu công nghiệp được thành lập
với tổng diện tích là 29,4 nghìn ha" [5, tr. 8]. Theo các chuyên gia kinh tế thì
cứ một ha đất nông nghiệp bị chuyển đổi sang mục đích sản xuất nông nghiệp
sẽ làm cho 2 đến 3 ha đất nông nghiệp xung quanh mất chức năng phục vụ
sản xuất nông nghiệp. Quá trình thu hẹp diện tích đất nông nghiệp sẽ tăng
nhanh chóng cùng với tốc độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đồng thời với nó
là cơ cấu dân cư có xu hướng chuyển từ đại bộ phận sống ở nông thôn sang
sống ở thành thị ngày một đông hơn. Năm 1999, dân số thành thị chiếm
23,56% tổng dân số cả nước, sẽ đạt 33-34% vào năm 2010, và dự báo năm
2020 sẽ có 50 - 60% số dân sống ở đô thị [3, tr. 14].
Mặt khác, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn làm cho chất
lượng nguồn lao động cũng có sự di chuyển mạnh mẽ, trong đó lao động có
trình độ chuyên môn chủ yếu tập trung ở khu vực thành thị. Theo kết quả điều
tra của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội công bố tháng 10 năm 2002 thì
tỷ lệ lao động chưa biết chữ ở nông thôn cao gấp 6 lần thành thị, trong khi đó,
lao động ở thành thị có trình độ trung học phổ thông trở lên cao gấp 8 lần
nông thôn và tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật ở thành thị là
44,6%, ở nông thôn là 11,89% [4, tr. 121].
Như vậy, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã làm cho dân cư
và lao động có sự di chuyển cả về số lượng và chất lượng theo xu hướng dân
cư và lao động ở khu vực đô thị ngày càng tăng còn ở khu vực nông thôn
ngày càng giảm.
1.2.2.2. Tác động đến cơ cấu việc làm
Theo tiến trình đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đẩy mạnh sự
phát triển của nền kinh tế nhiều thành phần, việc xây dựng các khu công
nghiệp, khu đô thị sẽ góp phần quan trọng phát triển các cơ sở sản xuất - kinh
doanh và dịch vụ, nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài, các trung tâm thương mại và dịch vụ, từ đó sẽ làm
21
thay đổi mạnh mẽ cơ cấu kinh tế theo xu hướng: Tỷ trọng của ngành công
nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng dần, tỷ trọng ngành nông nghiệp ngày càng
giảm. Trong đó, nông nghiệp giảm về giá trị tương đối, nhưng vẫn tăng lên về
giá trị tuyệt đối trong cơ cấu GDP của cả nước. Công nghiệp và dịch vụ sẽ
tăng lên nhanh chóng cả về giá trị tương đối và tuyệt đối.
(cid:7)1997(cid:7)25,77(cid:7)32,08(cid:7)42,15(cid:7)(cid:7)1998(cid:7)25,78(cid:7)32,49(cid:7)41,73(cid:7)(cid:7)1999(cid:7)25,43
1997
Bảng 1.1: Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta
T ỷ tr ọn g nô ng ng hi ệp tr on g G D P ( % )
T ỷ tr ọ n g dị c h v ụ tr o n g G D P ( % )
T ỷ tr ọn g cô ng ng hi ệp và xâ y d ự ng tr on g G D P ( % )
40,08
19 99
25 ,4 3
3 4, 4 9
38,74
20 00
24 ,5 3
3 6, 7 3
38,63
20 01
23 ,2
3 8,
22
4 1 3
38,48
20 02
23 ,0 3
3 8, 4 9
38,22
20 03
21 ,8 3
3 9, 5 9
38,20
20 04
21 ,7 0
4 0, 1 0
38,10
20 05
20 ,9 0
4 1, 0
42 - 43
20 10
16 - 17
4 0 - 4 1
50,0
20 20
10 ,0
4 0
Nguồn: [11].
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế tất yếu sẽ làm chuyển dịch cơ cấu việc
làm theo hướng cơ cấu việc làm ở khu vực công nghiệp và dịch vụ ngày càng
tăng và việc làm ở khu vực nông nghiệp ngày càng giảm. Theo số liệu thống
kê thì năm 2000 nước ta có khoảng 70% lao động làm việc trong lĩnh vực
nông nghiệp, đến năm 2007 số lao động trong các ngành nghề nông, lâm, ngư
nghiệp còn 56,8%.
Mặt khác, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn làm cho nội bộ
các ngành, các lĩnh vực kinh tế cũng có sự biến đổi về cơ cấu, về quy mô,
trình độ công nghệ với chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế ngày càng
cao. Sự biến đổi cơ cấu này cũng làm chuyển dịch cơ cấu lao động và việc
23
làm theo xu hướng việc làm và lao động giản đơn ngày càng giảm. Điều này
diễn ra trong từng ngành, từng lĩnh vực và từng địa phương.
1.2.2.3. Tác động đến cung về lao động
Sự tác động của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến cung về
lao động có thể nói rất phức tạp, nó không chỉ tác động đến số lượng mà còn
tác động đến cả chất lượng của nguồn lao động được cung ứng. Nhưng một
điều rất dễ nhận thấy là quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ làm giảm
dư thừa về lao động có trình độ chuyên môn tay nghề do sự phát triển của các
ngành công nghiệp và dịch vụ, từ đó đã thu hút được một số lượng lớn lao
động đã qua đào tạo, có trình độ chuyên môn tay nghề, thậm chí ngay trong
ngành nông, lâm, ngư nghiệp cũng đòi hỏi phải có lao động lành nghề do áp
dụng máy móc, khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại vào quá trình sản xuất.
Mặt khác, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng làm tăng cung
lao động giản đơn do:
Thứ nhất, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa không có nhu cầu
lớn đối với lao động giản đơn, chưa qua đào tạo.
Với việc áp dụng máy móc, khoa học công nghệ hiện đại vào tất cả
các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và dịch vụ trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nhằm nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, tất yếu sẽ đòi
hỏi một lực lượng lao động có trình độ chuyên môn tay nghề cao. Nhưng ở
nước ta tỷ lệ lao động qua đào tạo, nhất là đào tạo nghề còn thấp, chỉ bằng 1/3
các nước công nghiệp mới (NIC, NIE). Ngoài ra, còn chưa kể chất lượng đào
tạo nghề còn thấp và cơ cấu ngành nghề đào tạo chưa gắn với yêu cầu của quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đặt ra. Đây cũng là nguyên nhân làm cho
cung lao động giản đơn tăng lên nhanh chóng.
Thứ hai, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa tất yếu sẽ dẫn đến
thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, kết cấu hạ tầng kinh
24
tế - xã hội phục vụ lợi ích quốc gia, từ đó làm cho người lao động trong lĩnh
vực nông nghiệp bị thu hồi đất rơi vào tình trạng thất nghiệp.
Thực tế cho thấy, đất bị thu hồi để xây dựng khu công nghiệp, khu đô
thị, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội trong thời gian qua ở các địa phương chủ
yếu là đất nông nghiệp. Nói cách khác, những người bị mất đất chủ yếu là
nông dân, do vậy đã ảnh hưởng lớn đến việc làm của họ. Bởi với họ, đất đai là
tư liệu sản xuất chủ yếu không thể thay thế được trong quá trình lao động. Vì
thế, khi mất tư liệu sản xuất này, người nông dân mặc nhiên trở thành người
thất nghiệp. Từ đó giải quyết việc làm cho người nông dân trở thành vấn đề
bức xúc nhất của việc thu hồi đất.
Song việc chuyển những người nông dân bị thu hồi đất sang làm công
nghiệp và dịch vụ lại là một vấn đề hết sức khó khăn. Bởi đa phần họ là những
người lao động giản đơn theo kiểu cha truyền con nối, chưa qua đào tạo nghề.
Do vậy khi bị thu hồi đất nhiều người đã rơi vào tình trạng thất nghiệp.
Thứ ba, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông
thôn bằng việc áp dụng máy móc, khoa học công nghệ hiện đại vào sản xuất
đã làm cho năng suất lao động nông nghiệp tăng lên, do vậy cũng làm cho lao
động ở khu vực này có sự dôi dư.
Nước ta có khoảng 70% lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp.
Và mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta là đến năm 2010 hoàn thành công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn nhằm thay đổi bộ mặt nông
nghiệp, nông thôn ở nước ta và làm cho người nông dân thoát khỏi tình trạng
"con trâu đi trước, cái cày theo sau", " bán mặt cho đất bán lưng cho trời", thì
việc áp dụng máy móc, khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất là một tất yếu.
Nhưng việc áp dụng máy móc, công nghệ tiên tiến vào sản xuất nông
nghiệp sẽ làm cho số lao động nông nghiệp ngày càng dôi dư. Bởi thực tế ở
nước ta chỉ có hơn 9 triệu nhưng sử dụng tới 70% lực lượng lao động, tương
đương khoảng 30 triệu lao động. Điều nay là rất bất hợp lý so với các nước
25
công nghiệp phát triển và các nước công nghiệp mới, họ chỉ cần từ 1-5%
lực lượng lao động làm việc trong ngành nông nghiệp nhưng cũng đủ đáp
ứng nhu cầu lao động của khu vực này thậm chí còn trở thành cường quốc
trong lĩnh vực xuất khẩu nông sản. Chính vì vậy, theo xu hướng chung đó
thì lực lượng lao động trong nông nghiệp của nước ta sẽ ngày càng giảm, từ
đó làm cho nguồn cung lao động do dôi dư từ khu vực nông nghiệp sẽ tăng
lên nhanh chóng.
Tuy vậy, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa tác động đến cung
lao động ở nước ta hiện nay dễ nhận thấy nhất đó là làm tăng cung lao động
giản đơn do số lao động nông thôn bị mất việc bởi thu hồi đất nông nghiệp.
Theo dự báo của Tổng cục Thống kê thì tổng diện tích đất dự kiến sẽ bị thu
hồi giai đoạn 2006 đến năm 2010 sẽ là 331.430 ha [2, tr. 211]. Và nếu theo
cách tính của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thì 1 ha đất bị thu hồi
bình quân sẽ làm cho 13 lao động bị mất việc. Đồng thời, theo số liệu của
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân điều tra thời gian qua là tổng diện tích đất
bị thu hồi có 58% là đất nông nghiệp, thì giai đoạn từ 2006 - 2010, tổng diện
tích đất nông nghiệp sẽ bị thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô
thị, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phục vụ lợi ích quốc gia là 192.212 ha.
Như vậy, số lao động nông thôn mất việc do lấy đất nông nghiệp giai đoạn
2006 - 2010 sẽ là 2.498.756 người [8, tr. 211-212]. Đây là con số không nhỏ
tác động đến cung lao động giản đơn.
1.2.2.4. Tác động đến cầu về lao động
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991), Đảng ta đã đề ra
đường lối "đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa" đất nước. Với đường lối
đúng đắn đó, chúng ta đã từng bước vượt qua khó khăn, thử thách và đạt được
những thành tựu "có ý nghĩa lịch sử". Do vậy, có thể khẳng định rằng, quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ làm tăng cầu về lao động, đặc biệt là
lao động đã qua đào tạo. Nhờ tăng trưởng cao đã tạo việc làm làm cho người
lao động. Theo số liệu thống kê: kể từ năm 2001 đến nay, tốc độ tăng trưởng
26
sản phẩm trong nước (GDP) của Việt Nam liên tục duy trì ở mức tương đối
cao, đạt bình quân 7,5% thời kỳ 2001 - 2005, năm 2006 đạt 8,2%; năm 2007
đạt 8,5%. Thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài cũng tăng mạnh, năm 2007
đạt trên 20 tỷ USD; các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển mạnh, năm 2007
có hơn 35.000 doanh nghiệp mới thành lập. Đây chính là những động lực chủ
yếu để thực hiện chiến lược việc làm, tạo nhiều việc làm bền vững và ổn định
cho người lao động từ đó góp phần kích cầu về lao động cho người lao động,
riêng năm 2007 chúng ta đã tạo việc làm mới cho 1,68 triệu lao động [44].
Theo Thời báo kinh tế Việt Nam, số ra ngày 18 - 19/ 4/ 2008, thì năm
2007 là năm mà cung - cầu lao động có sự chênh lớn. Trong đó, cầu lao động
tăng 7097 điểm (tăng 67% so với năm trước). Trong khi đó, cung lao động chỉ
tăng thêm 22% so với năm 2006. Điều đó cũng phần nào phản ánh bức tranh
cung - cầu lao động tại Việt Nam. Tuy nhiên, cán cân cung - cầu lao động đang
lệch chỉ đối với lao động có chất lượng và tay nghề cao. Nguyên nhân thì có
nhiều trong đó có sự phát triển kinh tế vượt bậc của đất nước: Việt Nam đã
gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), đầu tư nước ngoài cả trực tiếp
lẫn gián tiếp đều tăng nhanh chóng, đặc biệt là sự có mặt của nhiều tập đoàn
kinh tế lớn hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao như: Intel, Canon, Hồng
Hải, v.v... Những yếu tố trên tạo ra sự tăng mạnh về cầu lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật. Do vậy, nếu chúng ta không đáp ứng được nhu cầu lớn
về nguồn nhân lực này thì có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của các doanh
nghiệp nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung, thậm chí có thể ảnh hưởng
đến việc thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam trong những năm tiếp theo.
Để giải quyết vấn đề này theo tác giả, về phía doanh nghiệp cần phải
chủ động đầu tư hơn nữa đến nguồn nhân lực, chủ động trong công tác đào
tạo nhân viên, tạo ra một môi trường làm việc tốt. Doanh nghiệp có thể hợp
tác với các trường đại học, lựa chọn và đào tạo nhân lực ngay còn là sinh viên
hoặc đưa ra nhu cầu nhân lực trong tương lai. Còn về phía nhà nước, ngoài
việc tiếp tục tăng đầu tư vào giáo dục đào tạo thì phải có chính sách khuyến
27
khích mọi chủ thể trong nên kinh tế tham gia vào hoạt động đào tạo nguồn
nhân lực chất lượng cao.
Tuy nhiên, chúng ta phải nhận thấy rằng, quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa không phải làm tăng cầu với tất cả lao động mà nó chủ yếu làm
tăng cầu đối với lao động đã qua đào tạo, lao động có trình độ chuyên môn
tay nghề cao và điều này càng rõ nét hơn khi quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa diễn ra theo chiều sâu. Còn đối với lao động giản đơn thì sự tăng cầu
này không đáng kể, thậm chí còn làm tăng cung về lao động giản đơn mà theo
dự tính giai đoạn 2006 - 2010 là khoảng 2,5 triệu lao động do quá trình thu
hồi đất để phát triển các khu công nghiệp, khu đô thị, kết cấu hạ tầng kinh tế -
xã hội [12, tr. 12-13].
Tóm lại, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa góp phần to lớn trong
việc giải quyết việc làm, hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp cho người lao động. Tuy nhiên,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa chủ yếu làm tăng cầu đối với lao động đã qua đào
tạo, có trình độ chuyên môn…, đồng thời lại làm tăng cung đối với lao động
giản đơn, nhất là lao động trong nông nghiệp do bị thu hồi đất. Do vậy, để
giải quyết việc làm dưới tác động của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
thì giải pháp cơ bản nhất là đẩy mạnh quá trình đào tạo nghề cho người lao động.
1.2.2.5. Ảnh hưởng tích cực
- Thay đổi cục diện về phương thức sản xuất, thay thế dần phương thức
sản xuất thủ công, lạc hậu, kém hiệu quả bằng phương thức sản xuất hiện đại, có
sự tham gia của máy móc thiết bị hiện đại năng suất, hiệu quả cao hơn. Điều này
đồng nghĩa với việc sức lao động của con người sẽ được giải phóng, thay vào
đó là máy móc, thiết bị với những ưu điểm vượt trội mà sức người không thể
làm được nhằm tăng năng suất lao động, nâng cao đời sống, kinh tế - xã hội.
- Những ứng dụng của khoa học công nghệ vào các mặt của đời sống
xã hội sẽ giải phóng sức lao động của con người. Con người dần làm chủ,
chinh phục được thiên nhiên, nâng cao hiểu biết về thế giới nhân sinh quan.
28
Những ứng dụng của thành tựu khoa học công nghệ đã làm được những việc
mà con người không thể làm được: Khám phá vũ trụ, khám phá đại dương…,
dựa trên việc ứng dụng vào mọi mặt đời sống xã hội, con người đã dần chinh
phục được thế giới, hiểu và làm chủ được tự nhiên. Chinh phục thiên nhiên
phục vụ lại con người. Điều này đồng nghĩa với việc gia tăng cơ hội việc làm
cho một bộ phận con người, tạo ra được nhiều công ăn, việc làm hơn.
- Tạo ra nhiều cơ hội phát triển cho các tổ chức, cá nhân trong việc
nâng cao hiệu quả công việc thông qua ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật
vào các mặt trong đời sống xã hội: Các cá nhân và tổ chức có thể đưa các ứng
dụng khoa học kỹ thuật vào các mặt đời sống xã hội, nhằm khai thác lợi thế
và nâng cao được hiệu quả đầu tư của mình. Đây cũng là yếu tố kích cầu lao
động, sẽ hình thành nên một thị trường lao động mới.
- Tạo ra nhiều việc làm mới: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm nâng
cao năng suất lao động, nâng cao hiệu quả công việc. Việc nghiên cứu và đưa
những thành tựu khoa học công nghệ vào mọi mặt trong đời sống xã hội đã góp
phần làm gia tăng thêm việc làm thông qua việc bán được nhiều sản phẩm,
khuyến khích đầu tư, kích thích tiêu dùng với những sản phẩm ngày càng tiện
ích và phù hợp với nhu cầu con người. Thị trường lao động sẽ có nhiều cơ hội
cho các ngành nghề lĩnh vực mới.
1.2.2.6. Ảnh hưởng tiêu cực
- Làm gia tăng tình trạng ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái:
Việc đưa công nghệ cao, hiện đại vào các lĩnh vực trong đời sống xã hội đã
làm thay đổi cơ bản phương thức sản xuất, xuất hiện tình trạng khai thác cạn
kiệt tài nguyên môi trường dẫn đến sự phá vỡ cân bằng sinh thái. Một bộ phận
người lao động sống dựa vào thiên nhiên sẽ bị mất tư liệu sản xuất.
- Làm gia tăng tình trạng thất nghiệp, những lao động không có tay
nghề, lao động giản đơn, lao động có trình độ thấp sẽ không đáp ứng được
yêu cầu công việc mới. Một bộ phận không nhỏ lao động sẽ bị mất việc làm
29
khi đưa máy móc thiết bị khoa học vào thay thế sức lao động của con người.
Đối với một nhà quản lý, họ sẽ biết cách cắt giảm chi phí thông qua cắt giảm
nhân công có lao động trình độ thấp, bằng hình thức đưa máy móc thiết bị,
công nghệ cao vào quá trình sản xuất để tạo ra năng suất lao động cao hơn, hạ
giá thành sản phẩm, tăng tính cạnh tranh. Đây là hiện tượng vừa thừa, vừa
thiếu lao động, thừa lao động có tay nghề thấp, thiếu lao động có tay nghề,
chuyên môn cao đáp ứng được yêu cầu công việc mới.
- Làm gia tăng sự phân hóa giàu nghèo trong mỗi quốc gia, những
quốc gia có nền tảng về kinh tế, khoa học kỹ thuật càng đẩy mạnh việc xuất
khẩu công nghệ sang các nước nghèo lạc hậu và thu về ngoại tệ. Điều này
đồng nghĩa với việc phân cấp về lao động giữa các quốc gia có nền khoa học,
kỹ thuật hiện đại với các quốc gia có nền khoa học thấp.
1.2.3. Vai trò của giải quyết việc làm trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa
Như đã phân tích ở trên, việc làm là một vấn đề xã hội vô cùng quan
trọng của mỗi quốc gia, mỗi địa phương và của từng cá nhân, nó gắn liền với
cuộc sống, với sự ổn định và phát triển xã hội. Giải quyết việc làm là một
nhiệm vụ lớn của mỗi quốc gia, mỗi địa phương. Công nghiệp hóa, hiện đại
hóa là nhiệm vụ tất yếu của mỗi quốc gia, mỗi địa phương trong việc thúc đẩy
nền kinh tế phát triển. Bên cạnh những mặt tích cực còn nhiều vấn đề phát
sinh, một trong những vấn đề đó là tình trạng dư thừa lao động, tình trạng vừa
thiếu, vừa thừa lao động, thiếu lao động có chuyên môn phù hợp đáp ứng
được yêu cầu công việc, thừa lao động không có trình độ, không có tay nghề.
Nếu một xã hội mà số người thất nghiệp cao thì sẽ dẫn đến mất ổn định về
kinh tế, mất ổn định về an ninh, trật tự xã hội. Đây là vấn đề tưởng chừng như
Phát triển kinh tế - xã hội
Tích cực
Kìm hãm
mâu thuẫn với nhau, điều này được mô phỏng ở sơ đồ:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Tiêu cực
Gia tăng tình trạng thất nghiệp, ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái
30
Sơ đồ 1.1: Tác động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đến phát triển kinh tế - xã hội
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa để phát triển kinh tế, xã hội thất
nghiệp cao, hoặc không phù hợp với công việc nảy sinh nhiều vấn đề tiêu
cực, tệ nạn….Do vậy ý nghĩa của việc giải quyết việc làm trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa là vô cùng quan trọng.
1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
1.3.1. Tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên thiên nhiên là một trong các nguồn lực cơ bản của quá trình
sản xuất vì nó vừa là đối tượng lao động, vừa là tư liệu lao động, là cơ sở quan
trọng hàng đầu của sản xuất vật chất, tạo ra việc làm cho người lao động.
Tài nguyên thiên nhiên của một quốc gia bao gồm tất cả những gì có
trong vùng trời, vùng biển, trên mặt đất, trong lòng đất, khí hậu, thời tiết, vị
trí địa lý,… đều có tác động đến sự phát triển, từ đó có ảnh hưởng lớn đến vấn
đề giải quyết việc làm cho người lao động. Thực tiễn đã chứng minh rằng, ở
quốc gia nào hoặc vùng nào có tài nguyên thiên nhiên thuận lợi thì ở đó có
điều kiện thuận lợi hơn đối với vấn đề giải quyết việc làm và cơ cấu việc làm,
ngành nghề cũng đa dạng và phong phú hơn.
Việt Nam có tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng, do vậy đã tạo
điều kiện thuận lợi cho vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động, góp
phần tích cực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân.
Tuy nhiên, do tốc độ gia tăng dân số trong quá khứ quá nhanh nên số người
31
bước vào độ tuổi lao động ngày càng nhiều. Hiện nay nước ta có khoảng trên
40 triệu lao động và hàng năm số người bước vào độ tuổi lao động khoảng
1,3 đến 1,5 triệu người, do vậy tốc độ tạo việc làm không thể tăng kịp với
tốc độ gia tăng của nguồn lao động. Vì vậy, vấn đề đặt ra hiện nay đòi hỏi
phải phát huy và khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên cùng với
các nguồn lực khác như vốn, lao động, công nghệ,… để tạo ra nhiều việc làm
mới cho người lao động, đảm bảo cho nền kinh tế tiếp tục phát triển nhanh và
bền vững.
1.3.2. Dân số và tỷ lệ tăng dân số
Dân số, lao động và việc làm là những vấn đề có quan hệ chặt chẽ với
nhau. Mức gia tăng dân số càng nhanh thì nguồn lao động trong tương lai tăng
cũng càng nhanh; đồng thời nó sẽ tạo áp lực lớn đến giải quyết việc làm dưới
nhiều khía cạnh khác nhau. Gia tăng dân số nhanh sẽ buộc xã hội phải chi tiêu
nhiều hơn cho các mục đích tiêu dùng, ít đầu tư cho sản xuất, phát triển nhất
là cho phát triển nguồn nhân lực, do đó, cơ hội để tìm việc làm càng gặp khó
khăn, đồng thời nó cũng sẽ tác động ngược lại với quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, bởi thiếu nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển, đặc biệt là
nguồn lao động chất lượng cao. Khi xem xét mức độ biến động dân số của
nước ta những năm gần cho thấy: "Tốc độ gia tăng dân số hàng năm vẫn tăng
1,3%/năm, đến giữa năm 2003, dân số cả nước đã lên đến gần 81 triệu người,
hàng năm có khoảng 1,5 triệu thanh niên tham gia vào lực lược lao động xã
hội" [4, tr. 25]. Đây là một sức ép lớn đối với vấn đề giải quyết việc làm ở
nước ta hiện nay.
Nước ta từ khi thực hiện đường lối đổi mới đã đạt được nhiều thành
tựu trong vấn đề giải quyết việc làm. Tuy nhiên, do tốc độ gia tăng dân số
trong quá khứ quá nhanh nên số người bước vào độ tuổi lao động ngày càng
nhiều do đó, tốc độ tạo việc làm càng không kịp với tốc độ gia tăng của nguồn
lao động. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê thì tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực
thành thị ở nước ta năm 1996 là 5,88% và năm 2003 là 5,78%, còn tỷ lệ thời
32
gian làm việc được sử dụng của lao động ở nông thôn năm 1996 là 72,28%,
đến năm 2003 là 77,66% [9, tr. 23-24]. Đây chính là bài toán mà chúng ta cần
giải quyết để tạo ra sự phát triển bền vững của đất nước.
1.3.3. Khoa học - công nghệ
Tiến bộ khoa học công nghệ sẽ làm tăng việc làm cho lao động phức
tạp và ngược lại, làm giảm việc làm đối với lao động giản đơn. Điều này đã
được C.Mác dự báo: "Đến một giai đoạn nào đó, guồng máy có thể thay thế
công nhân. Như thế, ở đây một phương thức lao động nào đó trực tiếp chuyển
từ người công nhân sang tư bản dưới dạng máy móc" [13, tr. 368]. Do vậy,
theo đà phát triển của khoa học công nghệ, việc tạo ra của cải thực sự sẽ trở
nên ít phụ thuộc vào thời gian lao động và số lượng lao động đã chi phí mà
chúng phụ thuộc vào trình độ chung của khoa học và vào tiến bộ của kỹ thuật,
hay phụ thuộc vào việc ứng dụng khoa học ấy vào sản xuất.
Ngày nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều nhấn mạnh đến
nguồn lực con người trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Nhờ sự tiến
bộ của khoa học công nghệ mà phần tỷ lệ lao động chân tay kết tinh vào sản
phẩm ngày một giảm rõ rệt, hàm lượng lao động "chất xám" kết tinh vào sản
phẩm ngày càng cao. Theo dự báo "đến năm 2010 phần tỷ lệ lao động chân
tay trong sản phẩm chỉ còn 1/10" [12, tr. 31]. Điều này đã được C.Mác khẳng
định: "Nhưng theo đà phát triển của đại công nghiệp, việc tạo ra của cải thực
tế trở nên ít phụ thuộc vào thời gian lao động và vào số lượng lao động đã chi
phí… mà đúng ra, chúng phụ thuộc vào tình độ chung của khoa học và vào sự
tiến bộ của kỹ thuật, hay là phụ thuộc vào việc ứng dụng khoa học ấy vào sản
xuất" [13, tr. 368].
Như vậy, sự phát triển của khoa học công nghệ mang lại nhiều cơ hội
để người lao động tạo ra việc làm, phát huy khả năng cống hiến của mình cho
xã hội, đồng thời cũng tạo ra không ít thách thức. Kinh nghiệm của các nước
phát triển cho thấy, việc phổ biến các phương tiện tự động hóa sẽ làm cho các
33
nước có nguồn lao động giản đơn và dư thừa nhưng thiếu lao động phức tạp,
có kỹ thuật cao như Việt Nam hiện nay bị mất dần ưu thế. Xu hướng hiện nay
là tăng lao động phức tạp có kỹ thuật cao, giảm lao động giản đơn. Như vậy,
trong xã hội hiện đại, chất lượng nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng trong
quá trình tìm kiếm việc làm. Do đó, nếu không lường trước được xu thế này
của sự phát triển khoa học công nghệ sẽ dẫn đến tình trạng mất cân đối trong
nguồn nhân lực. Hiện nay, ngay cả nước Mỹ vẫn còn thừa khoảng 10 triệu
chỗ làm việc và cũng có hơn 2 triệu người thất nghiệp nhưng không thể bố trí
được việc làm vì không phù hợp với yêu cầu kỹ thuật" [20, tr. 18]. Do vậy, xu
hướng chắc chắn xảy ra khi phát triển khoa học công nghệ là sự gia tăng thất
nghiệp của lao động giản đơn.
Ngày nay, khoa học - công nghệ phát triển như vũ bão, khoa học đã
trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Vì vậy, nó đòi hỏi phải có một nguồn
lao động có chất lượng cao. Ở nước ta trong những năm gần đây cho thấy,
nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, có
công nghệ tiên tiến cũng không tuyển dụng đủ lao động vì tỷ lệ lao động qua
đào tạo vẫn còn thấp. Theo số liệu của Hội nghị Trung ương sáu, khóa IX của
Đảng thì số lao động đã qua đào tạo năm 2000 mới đạt gần 20%. Do vậy, cùng
với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì việc nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực nói chung là giải pháp cơ bản và cấp bách để hạn chế
thất nghiệp, đồng thời cũng là giải pháp hữu hiệu để thực hiện thành công sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.3.4. Sự phát triển của thị trƣờng hàng hóa sức lao động
Thị trường hàng hóa sức lao động là toàn bộ các quan hệ kinh tế hình
thành trong lĩnh vực thuê mướn lao động. Trên thị trường lao động, mức cung
- cầu về lao động ảnh hưởng tới tiền công lao động và sự thay đổi tiền công
cũng ảnh hưởng tới cung, cầu về lao động.
34
Đối tượng tham gia thị trường lao động bao gồm những người thuê
mướn và đang sử dụng sức lao động của người khác và những người có nhu
cầu làm thuê hoặc đang làm việc cho những người khác bằng sức lao động
của mình để nhận được một khoản tiền công. Khi nghiên cứu thị trường lao
động dưới góc độ việc làm thì nội dung quan trọng nhất là quan hệ cung - cầu
về lao động.
* Quan hệ cung - cầu về lao động chịu sự tác động của nhiều nhiều tố,
trong đó có một số yếu tố cơ bản sau:
- Khả năng mở rộng cầu về lao động. Yếu tố này phụ thuộc vào tốc độ
phát triển kinh tế, vào mô hình và cơ cấu kinh tế. Nhìn chung, tốc độ phát
triển kinh tế càng cao thì khả năng giải quyết việc làm càng lớn, đặc biệt là sự
phát triển của các ngành sử dụng nhiều lao động, phát triển các vùng mà trước
hết là các vùng nông thôn có nhiều tiềm năng thu hút lao động, phát triển các
thành phần kinh tế và sự đan xen giữa các thành phần kinh tế, phát triển đa
dạng các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh và mối liên hệ giữa chúng,
mở rộng không gian kinh tế trong và ngoài nước…
- Sự phát triển của nguồn lao động: Sự cung ứng sức lao động vào
thị trường lao động hàng năm, sự tồn động của lao động chưa có việc làm
(thất nghiệp)...
- Sự phù hợp giữa cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động về không gian và
thời gian, đặc biệt là sự phù hợp của chất lượng lao động đối với nhu cầu của
thị trường.
- Khả năng tổ chức thị trường lao động, đặc biệt là sự phát triển của
các tổ chức xúc tiến và dịch vụ việc làm…
Ở nước ta hiện nay, quan hệ cung - cầu về lao động có một số đặc
trưng sau:
Một là, trên phạm vi cả nước, cung về lao động lớn hơn cầu về lao
động và tình trạng này được dự báo sẽ tiếp tục kéo dài trong những năm tới
35
dẫn đến sức ép rất lớn về việc làm. Ở đây xét đến khả năng phát triển việc làm
còn rất hạn chế mặc dù tiềm năng còn lớn nhưng chúng ta lại thiếu vốn đầu
tư, cơ cấu kinh tế chuyển dịch vẫn còn chậm và gặp khó khăn.
Hai là, cung lớn hơn cầu về lao động còn được xem xét về mặt tăng
cung lao động với tỷ lệ cao, hàng năm số người tham gia vào lực lượng lao
động có từ 1,2 đến 1,5 triệu người.
Ba là, lao động nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn, đến nay vẫn chiếm gần
60% và theo mục tiêu của Đảng ta thì đến năm 2010 số lao động nông nghiệp
vẫn chiếm 50% lao động xã hội [20, tr. 189] và tỷ lệ thời gian làm việc được sử
dụng của lao động nông thôn đến 2003 vẫn thấp, chỉ chiếm 77,66% [20, tr. 24].
Số lao động này sẽ tự do di chuyển ra thành phố hoặc khu công nghiệp tập
trung để tìm kiếm việc làm, từ đó làm cho cung về lao động trên thị trường
càng lớn.
Bốn là, sự không phù hợp giữa kỹ năng, trình độ của người lao động
với cơ hội việc làm do cầu lao động và sản xuất thay đổi. Đây được coi là đặc
trưng cơ bản nhất của quan hệ cung - cầu về lao động ở nước ta, từ đó dẫn đến
tình trạng "thất nghiệp cơ cấu", tính đến năm 2000 số lao động qua đào tạo
mới đạt gần 20%. Trong đó, cơ cấu trình độ đào tạo của đội ngũ lao động tính
theo tỷ lệ giữa lao động có trình độ đại học, trung học chuyên nghiệp và công
nhân kỹ thuật là: 1: 1,75: 2,3 [20, tr. 153]. Đó vẫn là một cơ cấu bất hợp lý từ
đó dẫn đến tình trạng "thừa thầy, thiếu thợ", làm "trái ngành, trái nghề".
Trong khi đó, chúng ta đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nên rất cần một đội ngũ lao động có trình độ cao trong một số lĩnh vực
áp dụng công nghệ mới, lĩnh vực tài chính, ngân hàng… trong khi chúng ta
lại dư thừa đội ngũ lao động giản đơn và số lao động này sẽ tiếp tục gia tăng
do chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đặc biệt là chuyển đổi từ nông nghiệp sang
công nghiệp.
* Sự phát triển của hoạt động xuất khẩu lao động
36
Vấn đề giải quyết việc làm, giảm thiểu thất nghiệp về thực chất là giải
quyết mối quan hệ giữa cung - cầu về lao động trên thị trường lao động. Theo
nghĩa đó, xuất khẩu lao động là hướng đi quan trọng vừa tăng cầu lao động,
giải quyết việc làm cho người lao động, vừa tạo ra nguồn thu nhập cho người
lao động và tăng thu ngân sách nhà nước; vừa nâng cao trình độ tay nghề cho
người lao động và tiếp thu khoa học tiên tiến của nhân loại, vừa mở rộng giao
lưu kinh tế.
Do vậy, ngày nay xuất khẩu lao động được các quốc gia có tình trạng
dư thừa lao động coi là một hướng quan trọng để giải quyết việc làm cho
người lao động. Ví dụ, "năm 1998, số người lao động của Philíppin làm việc
tại nước ngoài là 4 triệu người; năm 1995, lượng kiều hối quan kênh chính
thức về Philíppin là trên 4 tỷ USD" [1, tr. 232]. Con số này đối với Trung
Quốc còn lớn hơn nhiều.
Ở nước ta, từ năm 1998 đến nay, công tác xuất khẩu lao động đã đạt
được một số kết quả đáng kể, số lượng lao động xuất khẩu đã tăng dần hàng
năm và đang có xu hướng gia tăng. Chúng ta đã mở ra nhiều thị trường mới
có khả năng xuất khẩu lớn như: Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Malayxia,
các nước Trung Đông… và theo mục tiêu đề ra của Bộ Lao động -Thương
binh và Xã hội thì năm 2008 nước ta xuất khẩu 85.000 lao động.
Tuy nhiên, công tác xuất khẩu lao động vẫn chưa tương xứng với tiềm
năng lao động của đất nước, do vậy, sức ép về lao động và việc làm vẫn hết
sức cấp bách. Do vậy, trong thời gian tới chúng ta phải đẩy mạnh hơn nữa
công tác xuất khẩu lao động, phát triển và mở rộng hơn nữa thị trường lao
động để góp phần giải quyết sự bất cân đối giữa cung và cầu về lao động, đáp
ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân.
1.3.5. Chính sách giải quyết việc làm của Đảng và Nhà nƣớc
Đảng và Nhà nước ta đã có bước ngoặt trong nhận thức, quan niệm và
chủ trương về tạo việc làm, từ chỗ chỉ thừa nhận việc làm trong thành phần
37
kinh tế xã hội chủ nghĩa (quốc doanh, tập thể) đến quan niệm được ghi rõ ở
Điều 13, Chương II - Bộ luật Lao động: Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn
thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm. Điều này còn
được thể hiện rõ trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của
Đảng: Khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi công dân, mọi nhà đầu tư mở
mang ngành nghề, tạo nhiều việc làm cho người lao động. Mọi công dân đều
được tự do hành nghề, thuê mướn công nhân theo pháp luật. Phát triển dịch vụ
việc làm. Tiếp tục phân bổ lại dân cư trên địa bàn có tính chiến lược về kinh tế,
an ninh quốc phòng. Mở rộng kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu. Giảm đáng
kể tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn. Và đến Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã thừa nhận: Đảng viên được làm kinh tế tư
nhân... Đây được coi là "chốt chặn" cuối cùng đối với việc mở rộng khả năng tạo
việc làm cho người lao động.
Để giải quyết việc làm cho người lao động, vấn đề quan trọng nhất là
Đảng và Nhà nước phải tạo ra các điều kiện và môi trường thuận lợi để người
lao động tự tạo việc làm trong cơ chế thị trường thông qua những chính sách
cụ thể nhằm phát huy các nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội. Có thể có
rất nhiều chính sách tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc làm, hợp thành
một hệ thống chính sách hoàn chỉnh có quan hệ qua lại hướng vào phát triển
cả cung và cầu, đồng thời làm cho cung và cầu phù hợp với nhau nhằm hạ đến
mức thấp nhất tỷ lệ thất nghiệp, góp phần nâng cao thu nhập cho người lao
động, cải thiện đời sống nhân dân.
38
Chƣơng 2
GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM TRONG QUÁ TRÌNH
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở TỈNH HÀ TĨNH
2.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ, XÃ HỘI CỦA HÀ TĨNH
Hà Tĩnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ, tọa độ địa lý: 17o54’ - 18o38’ vĩ độ Bắc, 105o11’- 106o36’ kinh độ Đông. Phía Bắc giáp tỉnh Nghệ An, phía
Nam giáp tỉnh Quảng Bình, phía Tây giáp tỉnh Bôlikhămxay và Khăm Muộn
của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào (với 145 km biên giới quốc gia) và phía
Đông giáp biển Đông với chiều dài bờ biển hơn 137 km, diện tích tự nhiên 6.018,97 km2.
Hà Tĩnh có vị trí đặc biệt quan trọng không chỉ với cả nước, mà còn
với nước bạn Lào và vùng Đông Bắc của Thái Lan. Hà Tĩnh là cầu nối của hai
miền Nam, Bắc và điểm đầu mối giao thông quan trọng trên trục hành lang
Đông - Tây, với các tuyến giao thông huyết mạch đi qua: đó là quốc lộ 1A,
đường sắt, đường Hồ Chí Minh, đường biển (trục giao thông Bắc, Nam); quốc
lộ 8 và quốc lộ 12 (trục hành lang Đông - Tây).
2.1.1. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên đối với phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh
2.1.1.1. Tài nguyên đất
Diện tích tự nhiên (chưa tính diện tích triều kiệt) của Hà Tĩnh là 6.018,97 km2, bằng 1,8% tổng diện tích cả nước (theo số liệu kiểm kê đất năm
2007 đã được chính quyền địa phương (xã, huyện) và các ngành thống nhất,
đang trình Bộ tài nguyên và môi trường phê duyệt, tổng diện tích tự nhiên
toàn tỉnh là 602.564,37 ha, trong đó đất nông nghiệp 461.968,11 ha; đất phi
nông nghiệp 76.448,11 ha; đất chưa sử dụng 64.148,15 ha. Diện tích đã đưa
vào sử dụng 536.779,03 ha, bằng 89,2% diện tích đất tự nhiên. Trong đó, đất
39
đã đưa vào sử dụng sản xuất nông-lâm-ngư-diêm nghiệp là 465.349,34 ha; đất
được sử dụng vào các mục đích phi nông nghiệp là 71.429,83. Diện tích đất
chưa sử dụng còn khá lớn, (bằng 10,82% diện tích đất tự nhiên), trong đó đất
đồi 44.959,63 ha, đất bằng 17.432,09 ha, núi đá không có rừng cây 2.725,89 ha.
Diện tích đất bằng chưa sử dụng chủ yếu tập trung ở các dải cát ven biển từ
Nghi Xuân đến Kỳ Anh và các vùng bãi ven sông thuộc các huyện Hương Sơn,
Hương Khê, Đức Thọ, còn lại phân bố rải rác ở các huyện. Khả năng có thể
khai thác đưa vào sử dụng sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp và phi nông nghiệp
khoảng 30% diện tích đất bằng chưa sử dụng. Đất đồi núi chưa sử dụng tập
trung chủ yếu tại các huyện Kỳ Anh, Hương Khê, Hương Sơn... có thể khai
thác sử dụng trong sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp khoảng 45%. Diện tích
núi đá không có rừng cây chiếm 0,45% diện tích tự nhiên, tập trung chủ yếu ở
các xã Hương Trạch (Hương Khê), Can Lộc, Thạch Hà, có khả năng sử dụng
vào khai thác nguyên vật liệu cho xây dựng.
2.1.1.2. Tài nguyên nước
Hà Tĩnh có nguồn nước mặt khá phong phú nhờ hệ thống sông, suối, hồ, đập dày đặc, với 266 hồ chứa có tổng dung tích trên 600 triệu m3, phục vụ
tưới cho 47.737 ha/ vụ và cung cấp nước sinh hoạt cho dân. Hiện nay, Hà Tĩnh đang xây dựng 02 hồ chứa nước có trữ lượng 808 triệu m3 (thủy lợi Sông Trí
và Ngàn Trươi Cẩm Trang) phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và công
nghiệp. Tuy vậy, nước mặt có trữ lượng lớn nhưng lại phân bố không đều
giữa các tháng trong năm nên gây một số khó khăn cho sản xuất.
Bên cạnh đó, Hà Tĩnh có nguồn nước khoáng ở Sơn Kim - huyện Hương
Khê có chất lượng tốt và trữ lượng lớn nhất, thuộc khu kinh tế cửa khẩu quốc tế
Cầu Treo.
2.1.1.3. Tài nguyên rừng và động thực vật
Rừng tự nhiên 164,978 ha, phân bố ở vùng núi cao, trữ lượng gỗ trên 20 triệu m3. Rừng trồng phần lớn là thông nhựa, hiện có 18.000 ha trong đó có
40
trên 7.000 ha có khả năng khai thác. Thực vật rừng đa dạng, có trên 86 họ và 500
loài gỗ, có nhiều loài gỗ quý như lim, sến, táu, đinh, gụ, pơmu… và nhiều loài
thú quý hiếm như sao la, mang lớn, hổ, báo, hươu đen, dê sừng thẳng, trĩ, gà lôi
và các loài bò sát khác. Đặc biệt có Vườn quốc gia Vũ Quang rộng 52.882 ha và
Khu Bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ rộng 21.759 ha thuộc rừng đặc dụng.
Ngoài ra, hệ sinh thái rừng ngập mặn ven biển khá phong phú, có
nhiều loại động vật thủy sinh có giá trị kinh tế cao.
2.1.1.4. Tài nguyên biển
Hà Tĩnh có bờ biển dài 137 km với ngư trường rộng lớn với 60 loài
hải sản có giá trị kinh tế cao, trữ lượng trên 90.000 tấn/năm là lợi thế để phát
triển toàn diện ngành hải sản, từ đánh bắt, nuôi trồng và phát triển khu công
nghiệp chế biến xuất khẩu. Bốn cửa sông chính (cửa Hội, cửa Sót, cửa
Nhượng, cửa Khẩu) và nhiều cửa lạch tạo ra diện tích mặt nước lợ gần 6.000 ha
phù hợp phát triển nuôi tôm, cua, trồng rau câu… Đồng thời, bờ biển cùng
với nhiều cửa sông rất thuận lợi trong phát triển ngành giao thông - vận tải
(thích hợp để xây dựng các bến cá, cảng cá như: cảng nước sâu Vũng Áng -
Sơn Dương, cảng Xuân Hải); nhiều bãi ngang, bờ thoải, cát mịn với nhiều bãi
tắm đẹp thuận lợi cho phát triển ngành du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng (biển
Thiên Cầm, biển Xuân Thành..). Ngoài ra, hệ thống sông suối với diện tích
trên 12.000 ha có thể cung cấp nước ngọt cho sinh hoạt và nuôi trồng thủy sản.
2.1.1.5. Tài nguyên khoáng sản
Hà Tĩnh có tiềm năng rất lớn về khoáng sản, đã được Nhà nước đưa
vào chiến lược để khai thác như:
- Mỏ sắt Thạch Khê - Thạch Hải có trữ lượng 544 triệu tấn và các mỏ
ở các huyện Hương Khê, Hương Sơn, Vũ Quang, Đức Thọ (chiếm 60% trữ
lượng cả nước); mỏ thiếc Sơn Kim với 500.000 tấn.
- Mỏ Titan (nguồn tài nguyên hiếm) phân bố dọc bờ biển từ Nghi Xuân
đến Kỳ Anh, trữ lượng khoảng 4,6 triệu tấn (chiếm hơn 1/3 trữ lượng của cả
41
nước). Từ năm 1991 đến nay đã khai thác và xuất khẩu khoảng 700 nghìn tấn
Ilmenite, góp phần tạo nguồn thu ngân sách cho tỉnh, giải quyết việc làm cho
lao động địa phương.
- Ngoài ra, còn có mỏ vàng dạng sa khoáng, chì, kẽm; nguyên liệu
gốm sứ, thủy tinh, đá granit, các mỏ thạch anh, dolomite, quắc zít, cát xây
dựng, sét (làm gạch theo công nghệ lò tuynel), than đá, photphorit có trữ
lượng khá lớn.
2.1.1.6. Tài nguyên du lịch, tự nhiên và nhân văn
Từ góc độ tiềm năng, Hà Tĩnh tương đối giàu tài nguyên du lịch: có
tiềm năng di sản văn hóa phong phú, đa dạng, có giá trị và mang bản sắc
riêng, độc đáo. Con người Hà Tĩnh cần cù, thông minh, hiếu học, có truyền
thống cách mạng... có nhiều người thành đạt và nổi tiếng trong nước và thế
giới, có thể kêu gọi góp phần tham gia xây dựng quê hương.
Hà Tĩnh có các điểm du lịch đặc sắc về sinh thái, lịch sử, văn hóa như
Vườn quốc gia Vũ Quang, khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ; các danh thắng
như đền Lê Khôi, chùa Hương Tích, đền Nguyễn Bích Châu, Thiên Tượng,
Chân Tiên, thác Vũ Môn, Hoành Sơn quan; di tích gắn với chiến công vẻ
vang của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước như Ngã ba
Đồng Lộc... Hà Tĩnh có khoảng 400 di tích, trong đó có 67 di tích đã được
Nhà nước xếp hạng, 111 di tích cấp tỉnh, hàng năm được tu bổ, tôn tạo. Hà
Tĩnh hiện có nhiều bãi tắm đẹp đang được khai thác như: Thiên Cầm, Xuân
Thành, Thạch Hải, Đèo Con, Chân Tiên… và những đặc sản như: Nhung
Hươu, Cam bù (Hương Sơn), bưởi Phúc Trạch (Hương Khê), nước mắm Cẩm
Nhượng (Cẩm Xuyên)…Hà Tĩnh cũng là điểm du lịch quan trọng trên tuyến
du lịch xuyên Việt (đầu mối giao cắt trên các tuyến Bắc - Nam, Tây - Đông).
2.1.1.7. Tài nguyên khí hậu
Nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, khí hậu của Hà Tĩnh chịu ảnh
hưởng của đới khí hậu này. Ngoài ra, Hà Tĩnh còn chịu ảnh hưởng của khí
42
hậu chuyển tiếp của miền Bắc và miền Nam, với đặc trưng khí hậu nhiệt đới
điển hình của miền Nam và có một mùa đông giá lạnh của miền Bắc. Hàng
năm, Hà Tĩnh có hai mùa rõ rệt:
- Mùa mưa: Có nhiều bão lụt, kéo dài từ tháng 8 đến tháng 11, lượng
mưa trung bình cao (trên 2.000 mm); do vậy, lũ lụt thường xẩy ra vào tháng 8
đến tháng 10 hàng năm.
Mùa khô: Từ tháng 12 năm trước đến tháng 7 năm sau. Đây là mùa
nắng gắt, có gió Tây nam thổi từ Lào khô, nóng, lượng bốc hơi lớn, gây hạn
hán nghiêm trọng. Do đó, việc xây dựng các công trình thủy lợi để giữ nước
có một ý nghĩa quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
2.1.2. Đặc điểm kinh tế
Trong những năm qua, cùng với sự quan tâm, giúp đỡ to lớn và có
hiệu quả của Trung ương, các Bộ, ngành, tỉnh Hà Tĩnh đã nỗ lực phấn đấu
giành được kết quả khá toàn diện trên các lĩnh vực: Tốc độ tăng trưởng
kinh tế bình quân giai đoạn 2004-2007 đạt trên 9,4%, trong đó năm 2006
đạt 9,52% và năm 2007 đạt 10,5%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng
tích cực: Công nghiệp - xây dựng đạt 23,36%; thương mại - dịch vụ 34,27%;
nông - lâm - ngư nghiệp 42,37%; sản lượng lương thực bình quân hàng năm
đạt gần 50 vạn tấn, lương thực bình quân đầu người đạt 390 kg/năm; thu ngân
sách nội địa đạt 700 tỷ đồng; Thu nhập bình quân đầu người đạt 5,4 triệu
đồng/năm; Kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng hàng năm trên 20% [34, tr. 5].
Nhìn chung, trong khoảng hơn một thập kỷ qua, kinh tế của Hà Tĩnh
có xu hướng tăng rõ rệt, giai đoạn sau cao hơn giai đoạn trước, cao hơn trung
bình cả nước, nhưng thấp hơn so Nghệ An.
Mặt khác, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực tuy còn
chậm: tăng dần tỷ trọng công nghiệp - xây dựng; giảm nông - lâm - ngư
nghiệp; ổn định thương mại - dịch vụ.
43
Hà Tĩnh đang tập trung các nguồn lực đầu tư cơ sở hạ tầng cho hai
khu kinh tế:
- Khu kinh tế Vũng Áng thuộc huyện Kỳ Anh cách thành phố Hà Tĩnh
60 km về phía Nam, được thành lập theo Quyết định số 72/2006/QĐ-TTg của
Thủ tướng Chính phủ với diện tích 22.,781 ha, được chia thành 5 khu chức
năng chính: Khu cảng biển và dịch vụ hậu cảng; khu công nghiệp nặng luyện
kim; khu đô thị; khu du lịch, dịch vụ; khu phi thuế quan.
Trong khu kinh tế có cụm cảng nước sâu Vũng Áng, Sơn Dương cho
phép tàu có tải trọng đến 30 vạn tấn cập cảng. Từ Khu kinh tế theo quốc lộ
1A, 8A, 12A và đường Hồ Chí Minh qua cửa khẩu Cầu Treo, cửa khẩu Chalo
sang Lào và các tỉnh Đông Bắc Thái Lan là cửa ngõ thuận lợi ra các hải phận
quốc tế thuộc các nước Đông Á, Nam Á, Bắc Mỹ, Châu Âu... Cơ chế đầu tư
vào khu kinh tế Vũng Áng thông thoáng và thuận lợi.
- Khu Kinh tế cửa khẩu quốc tế Cầu Treo được thành lập theo Quyết
định 162/2007/QĐ-TTg ngày 19/10/2007 của Thủ tướng Chính phủ. Là khu
vực có ranh giới địa lý xác định thuộc lãnh thổ và chủ quyền quốc gia nhưng
có không gian kinh tế - thương mại riêng biệt, bao gồm: thị trấn Tây Sơn và
các xã Sơn Kim 1, Sơn Kim 2 và Sơn Tây thuộc huyện Hương Sơn, chung
đường biên giới với Lào, cách thành phố Hà Tĩnh 75km, cách cửa khẩu bản
Peng (Thái Lan) 220km, có quốc lộ 8A đi qua.
Khu kinh tế cửa khẩu Cầu Treo được quy hoạch phát triển theo các
khu chức năng gồm: Khu vực cửa khẩu quốc tế Cầu Treo, khu thương mại du
lịch sinh thái Nước Sốt, Khu đô thị Tây Sơn, Khu thương mại - công nghiệp.
2.1.3. Đặc điểm về dân số, dân cƣ
Về mặt hành chính: Đến nay Hà Tĩnh có 12 đơn vị hành chính cấp
huyện, trong đó có 10 huyện, 01 thành phố (thành phố Hà Tĩnh), 01 thị xã (thị
xã Hồng Lĩnh) với 262 xã, phường, thị trấn. Theo thống kê sơ bộ, dân số Hà
Tĩnh năm 2005 là 1.296.833 người, bằng 1,6% dân số cả nước (tỷ lệ nam, nữ
44
là 49,57% và 50,43%). Mật độ dân số trung bình 213 người/km2, cao hơn trung bình toàn vùng Bắc Trung Bộ (203 người/km2) nhưng thấp hơn trung bình cả nước (246 người/km2).
Dân cư phân bố không đồng đều (số người/km2): Thị xã Hà Tĩnh 1.410,
Thị xã Hồng Lĩnh 618, huyện Đức Thọ 579, Can Lộc 479, Thạch Hà 457,
Nghi Xuân 452, Cẩm Xuyên 243, Kỳ Anh 161, Hương Sơn 114, Hương Khê 82,
Vũ Quang 52. Có thể thấy, dân cư tập trung cao ở khu vực đồng bằng phía
đông bắc tỉnh, còn dọc đường Hồ Chí Minh mật độ dân cư thấp. Thành phố Hà Tĩnh có mật độ dân số 1.395 người/km2, trong khi huyện Vũ Quang chỉ có 51 người/km2.
Cơ cấu dân số nông thôn và thành thị: dân số nông thôn chiếm gần
90%; dân số thành thị chiếm hơn 10%. Với tỷ lệ này mức độ đô thị hóa của
Hà Tĩnh là thấp so với trung bình cả nước (25%). Năm 2007, dân số Hà Tĩnh
có 1.280.549 nghìn người trong đó dân số nông thôn chiếm khoảng 88% (cả
nước là 72,9%).
2.1.4. Đánh giá những thuận lợi và khó khăn của tỉnh Hà Tĩnh
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội gắn liền với công nghiệp hóa,
hiện đại hóa
2.1.4.1. Những thuận lợi
- Hà Tĩnh nằm trên nút giao thông quan trọng của vùng Bắc Trung Bộ
và khu vực (Việt Nam - Lào - Đông Bắc Thái Lan): Tuyến đường sắt Bắc -
Nam, các tuyến đường bộ Bắc - Nam và Đông - Tây, có hệ thống cảng biển
thuận lợi.
- Hà Tĩnh có nguồn nhân lực dồi dào, có trí lực và thể lực; người dân
Hà Tĩnh cần cù, hiếu học, sáng tạo trong lao động và có tính cộng đồng cao.
- Hà Tĩnh hội đủ ba thế mạnh: Rừng và đất lâm nghiệp; đồng bằng đã
gần như chủ động nước tưới tiêu; biển và ven biển. Các nguồn tài nguyên vô
45
giá này sẽ không bị mất đi và nếu được đầu tư khai thác đúng mức, hợp lý sẽ
đem lại nguồn lợi vô cùng to lớn.
- Hà Tĩnh có nguồn khoáng sản phong phú và đa dạng; đặc biệt mỏ sắt
Thạch Khê, các mỏ Titan, các mỏ nguyên liệu cho sản xuất vật liệu xây dựng
có trữ lượng lớn, là nguồn tài nguyên quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội.
Các dự án thủy lợi cung cấp đủ nước phát triển nông và công nghiệp - gần
Trung tâm điều hành lưới điện quốc gia.
- Hà Tĩnh có nhiều tiềm năng du lịch, nếu đầu tư, khai thác tốt sẽ góp
phần to lớn vào phát triển kinh tế - xã hội tỉnh nhà.
- Nghị quyết 39-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 16/8/2004 về phát
triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và
duyên hải Trung Bộ đến năm 2010; Quyết định số 113/2005/QĐ-TTg ngày
20/5/2005 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành chương trình hành động của
Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 39/NQ-TW của Bộ Chính trị: Theo đó, trong
thời kỳ tới nhiều dự án trọng điểm quốc gia sẽ được triển khai tại Hà Tĩnh. Hệ quả
thu hút và sức lan tỏa của các dự án này rất lớn, là động lực thúc đẩy các ngành
kinh tế phụ trợ cùng phát triển, tạo sự tăng trưởng đột phá cho kinh tế Hà Tĩnh.
- Các chính sách thu hút đầu tư thông thoáng của tỉnh và của Trung
ương, xu hướng hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu cũng sẽ đem đến nhiều
cơ hội để phát triển.
2.1.4.2. Những thách thức và khó khăn
- Điểm xuất phát kinh tế của Hà Tĩnh còn thấp, GDP bình quân đầu
người năm 2005 chưa bằng 50% so với trung bình cả nước, thu ngân sách trên
địa bàn chỉ mới đáp ứng khoảng 30% nhu cầu chi. Hà Tĩnh là tỉnh tụt hậu về
kinh tế và có nguy cơ tụt hậu ngày càng xa, vì mức tăng trưởng kinh tế chậm
hơn trung bình vùng Bắc Trung Bộ. Những năm qua, Hà Tĩnh đã có nhiều giải
pháp trong xóa đói giảm nghèo, đạt được kết quả khá tốt; tuy vậy, nguy cơ tái
nghèo của nhân dân vùng sâu, vùng xa có thể diễn ra và ở mức độ cao hơn.
46
- Xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế là tất yếu và diễn ra tốc độ nhanh;
toàn cầu hóa nền kinh tế sẽ tạo ra nhiều cơ hội để phát triển, nhưng cũng đầy
rẫy những nguy cơ và thách thức; trong khi hầu hết các doanh nghiệp, các cơ
sở sản xuất trên địa bàn tỉnh chưa có năng lực để hội nhập, các sản phẩm chưa
có thương hiệu hoặc có nhưng thương hiệu chưa có uy tín, sức cạnh tranh kém.
- Đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế (cả vĩ mô và vi mô), cán bộ kỹ thuật
thuộc các ngành của Hà Tĩnh hiện nay vừa thiếu lại vừa yếu; lao động chưa
qua đào tạo chiếm tỷ lệ cao, hệ thống trường đào tạo nghề phát triển chậm,
chất lượng đào tạo chưa cao. Người lao động của Hà Tĩnh thường có thói
quen chịu khổ mà không chịu khó, thỏa mãn hoặc cam chịu, chưa thể hiện
được bản lĩnh trên thương trường, do chưa quen làm lớn.
- Hà Tĩnh có khí hậu, thời tiết tương đối khắc nghiệt (nắng nóng, bão
lụt...), gây bất lợi cho nhiều ngành sản xuất, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp
và đánh bắt nuôi trồng thủy sản.
- Hà Tĩnh xa các trung tâm kinh tế, hạ tầng kỹ thuật chưa được đầu tư
đồng bộ, sức thu hút đầu tư từ bên ngoài thấp. Nhu cầu vốn đầu tư cho phát
triển lớn, nhà nước chưa có đầu tư đúng mức để tạo nền tảng cho phát triển
kinh tế trên địa bàn.
- Dân số Hà Tĩnh không cao, thu nhập còn thấp nên sức mua tại địa
bàn yếu. Việc phát triển công nghiệp tập trung phải hướng ngoại.
2.2. THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM Ở HÀ TĨNH TRONG QUÁ TRÌNH
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
2.2.1. Khái quát về quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hà Tĩnh
2.2.1.1. Mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hà Tĩnh
* Khi Hà Tĩnh tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tỉnh đã xác
định được những mục tiêu cụ thể:
- Giai đoạn đầu (đến năm 1996): Tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại
hóa theo dạng thí điểm vào một số ngành, lĩnh vực cơ bản như: Công nghiệp
47
nặng, điện tử, nông nghiệp: Đưa máy móc, dây chuyền sản xuất vào trong lĩnh
vực chế biến nông sản, thực phẩm.
- Giai đoạn 1996-2001: Đây là giai đoạn có tính đột phá trong việc
đưa những ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ vào các lĩnh vực kinh tế,
xã hội của tỉnh.
- Giai đoạn 2001-2006: Tiếp tục nghiên cứu đưa ứng dụng khoa học,
kỹ thuật vào các lĩnh vực: Bưu chính viễn thông, xây dựng cơ bản, công
nghiệp khai khoáng, điện tử, điện lạnh…
- Giai đoạn 2006-2010: Đây là giai đoạn mang quyết định cho kế
hoạch công nghiệp hóa, hiện đại hóa, với những mục tiêu đã đề ra trong báo
cáo Quốc hội tháng 7 năm 2008 của Ủy ban nhân dân tỉnh.
* Nội dung, tiến trình Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Hà Tĩnh
- Công nghiệp hóa theo từng giai đoạn, từng thời kỳ, từng địa phương,
không áp dụng máy móc mà vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm của các
đơn vị đi trước để phát huy những ưu điểm, hạn chế những khuyết điểm.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong tất cả các ngành, nghề, lĩnh vực
của đời sống kinh tế xã hội. Gắn liền với đặc điểm của từng địa phương mà
tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa như thế nào.
- Tiến hành công nghiệp hóa song song với việc giải quyết các vấn đề
phát sinh như ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái, mất việc làm…
2.2.1.2. Kết quả công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hà Tĩnh trong thời
gian qua
* Quy mô, tốc độ tăng trưởng
Hà Tĩnh là tỉnh nghèo so với các tỉnh khác vùng Bắc Trung Bộ và cả
nước, có điểm xuất phát thấp (xem bảng 2.1).
Điểm xuất phát kinh tế của Hà Tĩnh còn thấp, GDP bình quân đầu
người năm 2005 chưa bằng 50% so với trung bình cả nước, thu ngân sách trên
48
địa bàn chỉ mới đáp ứng khoảng 30% nhu cầu chi. Hà Tĩnh là tỉnh tụt hậu về
kinh tế và có nguy cơ tụt hậu ngày càng xa, vì mức tăng trưởng kinh tế chậm
hơn trung bình vùng Bắc Trung Bộ.
Bảng 2.1: Xuất phát điểm của Hà Tĩnh năm 2005
Năm 2005
Chỉ tiêu
Đơn vị
Hà Tĩnh Nghệ An Cả nƣớc
Dân số
100 người
1.289
3.031
83.120
Chỉ số phát triển con người
Hệ số
0.723
0.719
0.696
23/61
26/61
Xếp hạng so cả nước
tỷ đồng
4104,0
10.292,2
393.031
GDP theo giá SS 1994
Tốc độ tăng GDP (bình quân 2001-2005):
%
8,85
10,25
7,51
%
4,5
4,79
3,83
- Nông, lâm, ngư nghiệp
%
19,2
21,6
10,25
- Công nghiệp - xây dựng
%
8,9
8,95
6,96
- Dịch vụ
tỷ đồng
5.990,7
16.919,3
837.900
GDP giá hiện hành
%
100
100
100
Cơ cấu GDP:
%
43,2
34,2
20,9
- Nông, lâm, ngư nghiệp
%
22,4
30,4
41,0
- Công nghiệp - xây dựng
%
34,4
35,4
38,1
- Dịch vụ
1000 đồng
4.645
5.600
10.080
GDP/người, giá thực tế
%
46,1
55,6
100
GDP/người so cả nước
Tr.USD
40,4
120
32.400
Giá trị xuất khẩu
USD
31,36
39,5
389,1
Giá trị xuất khẩu/người
103 tấn
486,8
Sản lượng lương thực có hạt
1040,7
39.500
Nguồn: [16].
Năm 2006, GDP tính theo giá thực tế đạt 7.033,6 tỷ đồng, bình quân
đầu người đạt 5,4 triệu đồng (bằng 47,2% bình quân đầu người của cả nước),
năm 2007 đạt 8.198,6 tỷ đồng, bình quân đầu người đạt 6,4 triệu đồng, (bằng
47,7% bình quân đầu người của cả nước). Trong vùng Bắc Trung Bộ, GDP của
Hà Tĩnh chỉ lớn hơn tỉnh Quảng Bình, nhưng nhỏ hơn nhiều so Thanh Hóa và
49
Nghệ An: GDP của Hà Tĩnh chỉ chiếm khoảng 0,7% GDP cả nước, trong khi
tỷ trọng tương ứng của Thanh Hóa là 2,9% Nghệ An 2,2%, Quảng Bình là
0,46%. Tốc độ tăng GDP của Hà Tĩnh trung bình giai đoạn 1996-2000 đạt
7,06%/năm, trung bình 2001-2005 là 8,9%, năm 2006 là 9,52%, năm 2007 đạt
10,5%. Công nghiệp - xây dựng có tốc độ tăng nhanh nhất, từ 9,8%/năm (giai
đoạn 1996-2000) lên 19,2% (giai đoạn 2001-2005). Nông - lâm - ngư nghiệp
tăng trung bình khoảng 4,5%/năm trong cả hai giai đoạn 1996-2000 và 2001-
2005 nhưng trong từng năm có những biến động nhất định: Một phần do giảm
diện tích đất, chuyển sử dụng xây dựng các khu, cụm công nghiệp, khu kinh
tế; một phần do phụ thuộc thiên nhiên và một số yếu tố khác. Năm 2007, GDP
nông-lâm-ngư nghiệp giảm 1,3% do ảnh hưởng của bão, lũ. Dịch vụ tăng khá
ổn định ở mức trung bình 10% - 10,5%/năm trong cả hai giai đoạn 1996-2000
và 2001-2005 và hai năm 2006-2007 tăng bình quân trên 11%/năm.
Trong 06 tháng đầu năm 2009, tốc độ tăng trưởng đạt 6.13%, trong đó
công nghiệp - xây dựng tăng 7,25%; nông - lâm - ngư nghiệp tăng 3,1%; dịch
vụ tăng 9,4%.
* Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm mục tiêu tổng quát đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng đưa nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp hiện đại đến năm 2020. Nghị quyết của Đảng tập trung vào nội dung
chuyển dịch cơ cấu theo khu vực và theo ngành với các mục tiêu cụ thể.
Ngay khi xác định con đường phát triển của tỉnh theo hướng Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, tỉnh Hà Tĩnh đã quan tâm đến vấn đề chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, xem đó là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt trong các ngành, các lĩnh
vực sản xuất và hoạt động dịch vụ. Kinh tế đạt được mức tăng trên chủ yếu do
dịch chuyển cơ cấu đúng hướng, dẫn đến tăng năng suất lao động, tăng việc làm
ở cả ba khu vực. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng các
50
ngành công nghiệp, dịch vụ, giảm dần tỷ trọng ngành nông - lâm - ngư nghiệp
và chuyển dịch khá nhanh so với vùng Bắc Trung bộ và cả nước.
Bảng 2.2: Tốc độ tăng trưởng bình quân GDP thời kỳ 2000-2008
(Đơn vị: %)
Trong đó
Chỉ tiêu
2000-2003
2003-2006
2006-2008
Toàn bộ GDP
6.3
5.9
9.6
Nông - Lâm - Ngư nghiệp
4.2
1.6
5.1
Công nghiệp - Xây dựng
15.1
9.7
26.3
Dịch vụ
8.2
6.1
16.2
Nguồn: [16].
Biểu đồ 2.1: Tốc độ tăng trưởng bình quân GDP thời kỳ 2000 - 2008
Qua bảng trên ta thấy, cơ cấu kinh tế chuyển dịch rõ nét theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ngành công nghiệp - xây dựng tăng tỷ trọng từ
9,7% giai đoạn 2000-2003 lên 26,3% giai đoạn 2006-2008, tỷ trọng ngành
nông - lâm - ngư nghiệp lại có xu hướng tăng chậm lại. Ngành dịch vụ cũng
tăng tương đối nhanh từ 8,2% giai đoạn 2003-2006 lên 16,2% giai đoạn 2006-
2008. Điều này thể hiện rõ rệt sự thay đổi cơ cấu kinh tế với sự điều chỉnh theo
hướng tăng hiệu quả, khai thác được thế mạnh của từng vùng trong tỉnh, Dịch
vụ là ngành phát triển khá sôi động với nhiều loại hình ngày càng được mở
51
rộng, thu hút được số lượng lao động tương đối với mức thu nhập khá so với
các ngành khác.
* Hiện trạng phát triển các ngành
- Nông - lâm - ngư nghiệp vẫn là ngành sản xuất chính: Trong những
năm qua, nông - lâm - ngư nghiệp vẫn là ngành sản xuất chính, góp phần quan
trọng trong phát triển kinh tế - xã hội và ổn định đời sống nhân dân trong tỉnh.
Năm 2005, GDP nông nghiệp là 2.548 tỷ đồng (giá hiện hành) chiếm 42,5%
tổng GDP cả tỉnh (cao hơn so trung bình vùng Bắc Trung bộ (2,27 lần),
nhưng thấp hơn so với trung bình cả nước (3,11 lần).
- Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - xây dựng cơ bản: công nghiệp
khai thác tăng trưởng nhanh, công nghiệp chế biến tăng không ổn định, chưa
có sản phẩm hàng hóa lớn.
Tỉnh Hà Tĩnh có nhiều tiềm năng phát triển công nghiệp, nhưng xuất
phát điểm (quy mô và trình độ phát triển) của công nghiệp Hà Tĩnh còn tương
đối thấp. Năm 2005, giá trị tăng của công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên
địa bàn đạt 887 tỷ đồng (giá thực tế), thấp so với các tỉnh lân cận. Năm 2006,
giá trị sản xuất công nghiệp đạt 1.164,15 tỷ đồng (giá cố định 1994), tăng
17,3% so với năm 2005. Năm 2007, giá trị sản xuất công nghiệp đạt 1.390 tỷ
đồng, đạt 99% kế hoạch và tăng 22% so với năm 2006. Năm 2008, giá trị sản
xuất công nghiệp theo giá cố định 1994 đạt 1.667 tỷ đồng, tăng 18,5% so với
năm 2007. Sáu tháng đầu năm 2009, giá trị sản xuất công nghiệp đạt 756,8 tỷ
đồng, tăng 7,05% so với cùng kỳ năm 2008, đạt 32% kế hoạch năm 2008. Như
vậy, trong giai đoạn 2005-2009, giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công
nghiệp - xây dựng cơ bản có xu hướng tăng dần, song nhìn một cách tổng thể thì
quy mô phát triển còn hạn hẹp.
Do hạn chế về quy mô, nên mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế cao,
nhưng đóng góp của ngành vào phát triển kinh tế chung và giải quyết việc
làm vẫn còn khiêm tốn. Năm 2005, giá trị tăng công nghiệp xây dựng chiếm
52
khoảng 22,54% GDP toàn tỉnh, giải quyết việc làm cho 32.483 người (làm
việc trong 13.383 cơ sở sản xuất công nghiệp), chiếm 5,16% lao động đang
hoạt động trong các ngành kinh tế toàn tỉnh. Đến năm 2007, công nghiệp -
xây dựng đạt 23,4%, giải quyết việc làm cho 6,9% lao động đang hoạt động
trong các ngành kinh tế toàn tỉnh.
Tăng trưởng công nghiệp - xây dựng tương đối cao (trên 14%) trong
thời kỳ 1991-2007 nhưng không ổn định: Giai đoạn 1991-1995 đạt 17,23%;
đến giai đoạn 2001-2007 tăng trên 25%/năm, do môi trường đầu tư sản xuất
kinh doanh thuận lợi, một số xí nghiệp được cổ phần hóa, sản xuất phát triển
và có một số cơ sở sản xuất mới đi vào hoạt động.
Thời kỳ 2000-2007, cơ cấu công nghiệp - xây dựng trong tỉnh đã có
những chuyển biến tích cực. Năm 2000 chỉ chiếm 13,5% tổng GDP toàn tỉnh,
2005 tăng lên 22,5% và đến năm 2007 đạt 23,4%.
Trong các phân ngành công nghiệp, công nghiệp điện có xu hướng
tăng, phù hợp với yêu cầu phát triển của sản xuất và nhu cầu phục vụ đời
sống. Công nghiệp khai thác phát triển tương đối ổn định và thường chiếm
1/3 giá trị gia tăng công nghiệp, hướng vào khai thác quặng Titan, khai thác
vàng. Công nghiệp chế biến chủ yếu là chế biến dăm gỗ, sản xuất vật liệu xây
dựng, thủy sản...
Mặc dù, xu thế tăng của công nghiệp chế biến trong tỷ trọng GDP chưa
thật tích cực, nhưng công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp của tỉnh phát triển
đúng hướng, dựa trên các thế mạnh về tài nguyên và lao động. Công nghiệp
trong nước chiếm tỷ trọng lớn, trên 90%, trong đó công nghiệp quốc doanh
chiếm 43,7%; trên địa bàn tỉnh chưa có các doanh nghiệp trung ương với quy
mô lớn như các tỉnh khác. Vì vậy, đóng góp của công nghiệp vào thu ngân
sách trên địa bàn còn rất nhỏ. Năm 2005, tổng thu của các doanh nghiệp quốc
doanh và ngoài quốc doanh đạt 173,25 tỷ đồng, bằng 6,7% tổng thu ngân sách
trên địa bàn. Năm 2008, tổng thu của các doanh nghiệp quốc doanh và ngoài
quốc doanh đạt 1,452 tỷ đồng.
53
Nhiều dự án công nghiệp trọng điểm đang được triển khai một cách
tích cực:
+ Dự án khai thác mỏ sắt Thạch Khê: Tổng mức đầu tư của dự án gần
3.498 tỷ đồng, song công tác đền bù, giải phóng mặt bằng khai thác mỏ sắt
gặp nhiều khó khăn, hiện tại mới thực hiện chi trả 10,7 tỷ đồng. Tổng vốn huy
động từ các cổ đông của Hội đồng quản trị dự án khai thác mỏ sắt Thạch Khê
đạt 182,7 tỷ đồng. Hiện nay, Công ty sắt Thạch Khê đang thẩm định hồ sơ
thiết kế bóc đất tầng phủ để phê duyệt và tiến hành chỉ định thầu thi công, tiến
hành các bước lập hồ sơ mời thầu quốc tế để tiến hành đấu thầu, lựa chọn các
nhà tư vấn lập thiết kế thi công khai thác mỏ.
+ Dự án Năng lượng nông thôn II: Dự án triển khai thực hiện từ năm
2004 nhưng đến tháng 05/2007 mới chính thức khởi công. Tổng mức đầu tư
355 tỷ đồng, quy mô triển khai ở 97 xã thuộc 8 huyện. Đến tháng 06/2009,
ban quản lý dự án đã tiến hành nghiệm thu bàn giao đóng điện 41/97 xã.
+ Dự án Khu liên hợp gang thép và cảng Sơn Dương của Tập đoàn
Formosa: Công suất giai đoạn 1: 7,5 triệu tấn/năm, giai đoạn 2 nâng lên 15 triệu
tấn/năm. Tập đoàn đã tổ chức lễ khởi công dự án đầu tư xây dựng khu liên
hợp gang thép và cảng Sơn Dương Formosa - Hà Tĩnh vào tháng 07/2008, đã
làm xong lễ động thổ san lấp mặt bằng vào 01/06/2009.
+ Dự án bia Sài Gòn Hà Tĩnh: Tính đến 06/2009, tổng kinh phí từ
ngân sách nhà nước tỉnh Hà Tĩnh thực hiện cho việc đền bù, giải phòng mặt
bằng, san lấp mặt bằng…là hơn 14,6 tỷ đồng; hiện đã san lấp mặt bằng gần
2/3 khối lượng.
+ Dự án Nhiệt điện Vũng Áng I: Đã hoàn thành thủ tục chuyển nhượng
từ chủ đầu tư Lilama sang chủ đầu tư mới là Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt
Nam (có hiệu lực từ ngày 27/04/2009), hiện đang hoàn thiện mặt bằng, bãi thi
công, nhà điều hành (đạt 60%), dự kiến tháng 09/2009 khởi công xây dựng
nhà máy chính.
54
+ Dự án Trung tâm thương mại Hà Tĩnh: Hiện tại Trung tâm thương
mại đang tiến hành xây dựng và sửa chữa nội thất cho phù hợp với thiết kế
của công ty. Dự kiến cuối năm 2009, Trung tâm thương mại sẽ đưa vào sử dụng.
+ Dự án sản xuất que hàn của Tổng công ty LILAMA: Đã khánh thành
đưa vào sản xuất quý 04/2008, dây chuyền hoạt động tốt, sản lượng bình quân
3 tấn/ca/ngày.
+ Dự án thủy điện Hương Sơn: Thi công xây dựng nhà máy thủy điện
đạt 34% khối lượng công việc; các công đoạn khác mới đạt khoảng 45-50%
khối lượng công việc.
+ Dự án thủy điện Hố Hô: Đến nay công trình đang tập trung hoàn
thành nước rút các hạng mục chính, phụ để tiến hành chạy thử phát điện vào
cuối năm 2009.
+ Dự án nhà máy sản xuất phôi thép tại Vũng Áng: dự kiến đạt
250.000 tấn/năm của Công ty cổ phần gang thép Hà Tĩnh. Tổng mức đầu tư
1.045 tỷ đồng. Hiện nay, Công ty đã thực hiện hoàn thành 95% khối lượng công
đoạn luyện gang và khoảng 45% khối lượng công đoạn luyện thép. Dự kiến
đến 09/2009, công đoạn luyện gang sẽ chính thức đi vào sản xuất thử nghiệm.
- Dịch vụ: Thương mại đang trên đà phát triển, du lịch phát triển chậm,
chưa tương xứng với tiềm năng.
+ Thương mại tỉnh Hà Tĩnh đã có bước phát triển khá, nhịp độ tăng
trưởng cao, có đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh, nhưng còn
nhiều hạn chế bởi sản xuất hàng hóa tại chỗ chậm phát triển và sức mua của dân
cư còn thấp. Một số mặt hàng xuất khẩu của Hà Tĩnh có thị trường khá ổn
định, sức cạnh tranh khá, do dựa vào lợi thế về tài nguyên như quặng titan,
lạc, tôm đông lạnh, mực đông lạnh, gỗ ván dăm. Tuy vậy, chưa hình thành
được thương hiệu cho các sản phẩm xuất khẩu.
Năm 2000 có 16.548 lao động làm thương mại dịch vụ, bằng 2,86%
tổng số lao động toàn tỉnh. Năm 2005 có 31.542 lao động, chiếm 5% tổng số
lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế.
55
Bên cạnh những kết quả nêu trên, lĩnh vực thương mại còn bộc lộ một
số hạn chế như: Thiếu chiến lược thị trường, đồng thời còn thiếu các sản
phẩm dịch vụ mang bản sắc riêng, khả năng cạnh tranh còn yếu, chất lượng
dịch vụ chưa tương xứng với giá cả, chưa thuận lợi cho khách hàng; số lượng
doanh nghiệp làm thương nghiệp tuy lớn, nhưng chủ yếu là các doanh nghiệp
vừa và nhỏ, vòng quay vốn còn thấp, hiệu quả kinh tế chưa cao.
+ Du lịch
Trên địa bàn Hà Tĩnh đã hình thành một số điểm du lịch nổi tiếng; cơ
sở hạ tầng du lịch ngày càng được tăng cường, số nhà nghỉ, khách sạn, nhà
hàng ở các khu du lịch tăng về số lượng và chất lượng. Trong những năm qua,
du lịch Hà Tĩnh đã tạo được hình ảnh bước đầu. Công tác quảng bá du lịch
được chú trọng, số lượt khách du lịch trong và ngoài nước cũng như doanh
thu tăng khá, nhưng còn thiếu chiến lược du lịch rõ ràng nên chưa phát huy
được lợi thế của ngành.
* Thu hút đầu tư
Bảng 2.3: Tình hình huy động nguồn vốn đầu tư
Nguồn huy động
Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008
06 tháng đầu năm 2009
1.661,248 2.596,645 3.360,078 3.559,875 3.664,484
Tổng nguồn vốn đầu tư phát triển (tỷ đồng) - Vốn nhà nước (%) - Vốn ngoài QD (%) - Vốn FDI (%)
64,52 21.16 14.32
63,20 23,67 13,13
61,30 26,98 11,72
53,4 38 8,6
64,19 36,62 4,19
Nguồn: [35, 37, 39, 41, 42].
+ Trong những năm gần đây, tổng nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế -
xã hội ở Hà Tĩnh liên tục tăng: Năm 2005 chỉ đạt 1.661,248 tỷ đồng, đến năm
2008 đạt 3.559,875 tỷ đồng. Đặc biệt, trong 06 tháng đầu năm 2009, tổng nguồn
vốn đầu tư phát triển đạt 3.664,484 tỳ đồng, nhiều hơn cả năm 2008 và gấp
2,2 lần năm 2005. Trên cơ sở nguồn vốn đầu tư phát triển, các công trình trọng
điểm đã được triển khai đúng tiến độ như: mỏ sắt Thạch Khê, hạ tầng khu kinh
56
tế Vũng Áng... Điều này cũng cho thấy Tỉnh Hà Tĩnh đã đẩy mạnh việc huy
động tối đa các nguồn vốn đầu tư cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, xây
dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ cho yêu cầu phát triển, xóa đói giảm nghèo.
+ Nhìn chung, vốn đầu tư phát triển trên địa bàn Hà tĩnh chủ yếu là
vốn huy động trong nước; vốn đầu tư nước ngoài còn ít. Vốn đầu tư của nhà
nước (vay, ngân sách nhà nước, tự có và vốn khác) chiếm tỷ trọng khá lớn
trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội: năm 2005 đạt 64,52%, năm 2008 đạt 53,4%.
Tuy nhiên, vốn đầu tư của nhà nước có xu hướng giảm dần trong những năm
qua. Nguồn vốn đầu tư ngoài quốc doanh có xu hướng tăng nhanh: Năm 2005
chiếm tỷ trọng 21,16%, năm 2008 là 38% và 06 tháng đầu năm 2009 đạt
36,62%. Nguồn vốn FDI đầu tư vào Hà Tĩnh không đáng kể: Năm 2005 là
14,32%, tới năm 2008 giảm xuống còn 8,6%. Có thể nhận thấy, hệ thống các
chính sách khuyến khích, thu hút đầu tư của tỉnh Hà Tĩnh chưa đồng bộ, hiệu
quả hoạt động xúc tiến đầu tư còn hạn chế. Điều này dẫn tới, việc huy động
các nguồn vốn, nhất là vốn trong doanh nghiệp và dân cư cho đầu tư phát
triển đạt hiệu quả chưa cao; các dự án đầu tư vào Hà Tĩnh còn ít, nhất là các
dự án đầu tư nước ngoài.
2.2.2. Thực trạng giải quyết việc làm của Hà Tĩnh trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa
2.2.2.1. Thực trạng nguồn lao động ở tỉnh Hà Tĩnh
* Số lượng lao động
Bảng 2.4: Số lượng lao động trong độ tuổi (giai đoạn 2005-2008)
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
2008
Dân số (người)
1.296.833
1.293.336
1.280.549
1.298.047
Số lao động trong độ tuổi (người)
647.916
668.572
691.391
712.000
Tỷ lệ số lao động trong độ tuổi so với dân số (%)
49,96
51,69
53,99
54,85
Nguồn: [16].
57
Qua bảng số liệu cho thấy, số lao động trong độ tuổi tăng dần qua các năm
từ 2005-2008. Nếu năm 2005, số lao động trong độ tuổi là 647.916 người, chiếm
49,96% thì đến năm 2008 số lao động trong độ tuổi là 712.000 người, chiếm gần
55% dân số. Có thể thấy, số lượng lao động tăng tỷ lệ thuận với sự gia tăng dân số
qua các năm.
* Cơ cấu lao động
- Cơ cấu lao động theo ngành
Bảng 2.5: Cơ cấu GDP và cơ cấu lao động theo ngành
giai đoạn 2006-2008
(Đơn vị: %)
2005
2008
Ngành
Lao động
Lao động
GDP
GDP
43,47
81,8
42,37
77,3
Nông nghiệp
22,76
6,9
23,36
7,5
Công nghiệp - xây dựng
33,77
11,3
34,27
15,2
Dịch vụ
Nguồn: [24].
Cơ cấu lao động giữa các ngành trong nền kinh tế có sự phân biệt rõ
rệt. Năm 2006, phần lớn lao động tập trung trong ngành nông nghiệp (81,8%),
trong khi lao động trong công nghiệp - xây dựng và dịch vụ chỉ chiếm chưa
đầy 20% tổng số lao động trong độ tuổi tham gia hoạt động kinh tế. Đến
năm 2008, tỷ lệ lao động thay đổi theo xu hướng tăng lao động trong công
nghiệp - xây dựng (7,5%) và dịch vụ (15,2%), song mức tăng này chưa cao so
với nông nghiệp.
Bên cạnh đó, cơ cấu lao động sơ với cơ cấu kinh tế cũng có sự chênh
lệch khá lớn. Năm 2006, tỷ trọng lao động nông - lâm - ngư nghiệp chiếm gần
81,8% trong tổng số, nhưng GDP nông - lâm - ngư nghiệp chỉ có 43,47%.
Năm 2008, GDP và lao động trong nông nghiệp giảm xuống, song vẫn giữ sự
chênh lệch khá cao với 42,37% (GDP) trong khi lao động là 77,3%.
58
- Cơ cấu lao động theo khu vực
Bảng 2.6: Tình hình lao động trong độ tuổi phân theo khu vực giai đoạn 2004-2007
2004
2005
2006
2007
Tổng số lao động trong độ tuổi (người)
629.266
647.916
668.572
691.391
68015
68.015
70.561
72816
+ Thành thị (người)
10,51
10,50
10,55
10,53
Tỷ lệ (%)
+ Nông thôn (người)
563116
598.011
598.011
618.575
89,49
89,45
89,45
89,47
Tỷ lệ (%)
Nguồn: [16].
Qua bảng số liệu cho thấy, cơ cấu lao động theo khu vực có sự không cân
đối giữa khu vực thành thị và nông thôn. Lao động trong độ tuổi chủ yếu tập trung
ở khu vực nông thôn, đây là một tiềm lực lớn cho quá trình thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa khu vực nông nghiệp và nông thôn trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên,
lực lượng lao động ở nông thôn và có xu hướng giảm dần qua các năm. Trong khi
đó, lực lượng lao động ở khu vực thành thị có xu hướng tăng, song mức tăng chưa
ổn định. Nguyên nhân là trong những năm gần đây, việc đô thị hóa ngày càng
được mở rộng, do đó lao động nông thôn có xu hướng chuyển ra thị xã, thị trấn.
- Cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế
Bảng 2.7: Cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế giai đoạn 2004 - 2007
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
2004
2005
2006
2007
636125
624419
Người
Tổng số
613524
600781
Người
Nhà nước
53536
53203
53294
534102
% so với tổng số
%
8.41%
8.23%
8.167%
8.829%
Ngoài nhà nước
Người
567828
570649
587024
632013
% so với tổng số
%
89.20%
88.28%
89.96%
95.65%
Nước ngoài
Người
1591
1919
2140
2210
% so với tổng số
%
0.25%
0.3%
0.33%
0.33%
Khác
Người
13624
20648
26145
29574
% so với tổng số
%
2.14%
3.19%
4.01%
4.48%
Nguồn: [16].
59
Có thể thấy, cơ cấu lao động có sự chênh lệch khá lớn giữa các thành
phần kinh tế. Lao động chủ yếu tập trung ở khu vực ngoài nhà nước và liên
tục tăng trong các năm (năm 2004: 89,2%; năm 2007: 95,65%). Trong khi đó,
lao động ở khu vực nước ngoài chiếm tỷ lệ rất ít và mức tăng hầu như không
đáng kể (năm 2004: 0,25%, năm 2007: 0,33%). Lao động ở khu vực nhà nước
chiếm tỷ trọng khá thấp và tăng ít qua các năm (do tinh giảm biên chế, sắp
xếp lại khu vực nhà nước). Còn lao động ở khu vực khác chiếm tỷ trọng khá
thấp tuy có sự tăng đều qua các năm.
* Chất lượng lao động
Trình độ văn hóa của lực lượng lao động Hà Tĩnh là khá cao và đã có
những chuyển biến tích cực trong những năm gần đây. Từ tháng 12/2002, Hà
Tĩnh là tỉnh thứ 12 đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ
tuổi, là tỉnh thứ 14 của cả nước đạt chuẩn quốc gia về phổ cập Trung học cơ
sở. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp Trung học phổ thông năm 2007 - 2008 đạt
89,7%, cao nhất so với các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ. Năm 2007, Hà Tĩnh có
7.029 em đậu vào các trường đại học, cao đẳng.
Bên cạnh đó, tổng số cơ sở dạy nghề tham gia đào tạo nguồn nhân lực
cho tỉnh và tạo nguồn xuất khẩu lao động có 33 đơn vị, trong đó có 01 trường
cao đẳng nghề và 01 phân hiệu, 6 trường trung cấp nghề, 11 trung tâm dạy
nghề, 3 trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp có tham gia đào
tạo nghề, 11 trung tâm kỹ thuật, hướng nghiệp dạy nghề huyện, thành phố, thị
xã. Quy mô đào tạo nghề hàng năm trên 24.000 ngàn người, trong đó đào tạo
nghề phục vụ cho công tác xuất khẩu lao động 4.500-5.000 người/năm, chiếm
70-75% tổng số người đi làm việc nước ngoài [40, tr. 5].
Tuy nhiên, lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật của
Hà Tĩnh vẫn còn thấp. Năm 2004, tỷ lệ lao động không có trình độ chuyên
môn kỹ thuật, chưa được đào tạo chính thống của Hà Tĩnh là 80%, trong khi
chỉ số này của cả nước là 75%. Tỷ lệ lao động qua đào tạo dưới mọi hình thức
chỉ khoảng 20%, thấp hơn so trung bình cả nước (25%). Đến 08/2008, lao
60
động đã qua đào tạo là 20,5%, còn lại là lao động phổ thông [38, tr. 7]. Điều
đó cho thấy, chất lượng lao động của Hà Tĩnh chưa thực sự đáp ứng được nhu
cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, đồng thời ảnh hưởng tới việc đẩy
mạnh phát triển công nghiệp, dịch vụ, khai thác những thế mạnh của tỉnh để
giải quyết việc làm, nâng cao đời sống của nhân dân.
2.2.2.2. Các chính sách giải quyết việc làm của Hà Tĩnh trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Các chính sách việc làm của nước ta trong quá trình vận hành nền
kinh tế thị trường đã không ngừng được hoàn thiện và bổ sung, ngày càng phù
hợp và phát huy được tác dụng to lớn trong việc tạo mới việc làm. Trong hệ
thống chính sách chung đó có những chính sách: Gắn liền chính sách kinh tế
vĩ mô với giải quyết việc làm; chính sách giải quyết việc làm theo Quyết định
120/HĐBT; chính sách tạo việc làm thông qua các chương trình mục tiêu;
chính sách tạo việc làm thông qua phát triển xuất khẩu lao động; chính sách
phát triển hệ thống trung tâm giới thiệu việc làm…
Cũng như các tỉnh khác, việc xác định tầm quan trọng của việc làm
đối với sự phát triển kinh tế xã hội là vô cùng quan trọng, lãnh đạo tỉnh Hà
Tĩnh cũng đã xây dựng được các chiến lược giải quyết việc làm cho nhân dân
Hà Tĩnh được thể hiện ở các mặt sau:
* Phát triển kinh tế xã hội nhằm tạo việc làm mới
Trên cơ sở thế mạnh về tiềm năng nguồn lực, tỉnh đã lấy nông - lâm -
ngư nghiệp và chế biến nông - lâm - thủy hải sản làm mục tiêu ổn định và tăng
trưởng kinh tế; bên cạnh đó tỉnh Hà Tĩnh tăng cường đầu tư phát triển các ngành
công nghiệp và dịch vụ, đặc biệt đã và đang tập trung nguồn lực cho phát triển
các khu công nghiệp trọng điểm của tỉnh như khu công nghiệp Vũng Áng, mỏ
sắt Thạch Khê và coi đây là những ngành mũi nhọn trong thời gian tới, góp
phần quan trọng vào giải quyết việc làm, phát triển kinh tế - xã hội. Trong thời
gian qua, giải pháp này là kênh chủ yếu tạo ra việc làm và qua đó giải quyết việc
làm cho người lao động, hàng năm tạo ra trên dưới 80% chỗ việc làm mới.
61
* Về chính sách đào tạo và định hướng nghề nghiệp
Hà Tĩnh là tỉnh có đặc điểm dân cư phân bổ không tập trung, kinh tế
phát triển ở mức độ trung bình, việc định hướng nghề nghiệp cho người lao động
được chú trọng, các chương trình hướng nghiệp được đưa vào chương trình phổ
thông, tỉnh cũng đã mở ra nhiều trường, nhiều trung tâm giới thiệu việc làm,
trung tâm dạy nghề với mục tiêu trang bị cho người lao động có một nghề
nghiệp tốt, với mục tiêu là sớm đưa Hà Tĩnh ra khỏi tỉnh nghèo. Đặc biệt, để
phát triển Khu Kinh tế Vũng Áng và các khu Công nghiệp, tỉnh Hà Tĩnh đã
ban hành chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư (Quyết định số 16/2007/QĐ-UBND
ngày 27 tháng 04 năm 2007), trong đó nhấn mạnh về hỗ trợ đào tạo nguồn nhân
lực. Đối với các khóa đào tạo để nâng cao trình độ cho cán bộ quản lý doanh
nghiệp như: Quản trị doanh nghiệp; lập chiến lược kinh doanh; quản lý kỹ thuật;
quản lý nguồn nhân lực; tài chính kế toán; kỹ năng đàm phán, ký kết hợp
đồng; kỹ năng lãnh đạo thuyết trình; quản lý chất lượng sản phẩm; ứng dụng
công nghệ thông tin; phát triển sản phẩm mới; phát triển thị trường mới, được
hỗ trợ tối đa không quá 01 triệu đồng/ người/khóa. Đối với các khóa đào tạo
để nâng cao tay nghề cho cán bộ, công nhân viên của doanh nghiệp: Ủy ban
nhân dân tỉnh khuyến khích các nhà đầu tư tiếp nhận lao động địa phương đã
được qua đào tạo qua các cơ sở dạy nghề. Trường hợp lao động địa phương
đã được tiếp nhận nhưng chưa được đào tạo hoặc ngành nghề đào tạo chưa
phù hợp với yêu cầu sử dụng của dự án, nếu nhà đầu tư cần đào tạo, đào tạo
lại tại các cơ sở dạy nghề của tỉnh thì được hỗ trợ kinh phí như sau:
- Dự án sử dụng thường xuyên từ 50 lao động trở lên, được hỗ trợ
50% kinh phí đào tạo nhưng tối đa không quá 01 triệu đồng/ người/khóa.
- Dự án sử dụng thường xuyên từ 20 đến 49 lao động được hỗ trợ 50%
kinh phí đào tạo nhưng tối đa không quá 700 ngàn đồng/ người/khóa.
* Xuất khẩu lao động
Xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế - xã hội, góp phần phát
triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ
62
tay nghề cho người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước và tăng
cường quan hệ hợp tác giữa nước ta với các nước. Đối với tỉnh Hà Tĩnh, xuất
khẩu lao động có tác dụng quan trọng góp phần xóa đói, giảm nghèo, nâng
cao đời sống nhân dân, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phân công lại lao động,
xây dựng nông thôn mới, ổn định tình hình chính trị ở cơ sở.
Trong những năm qua, được sự quan tâm, chỉ đạo của lãnh đạo tỉnh
Hà Tĩnh, công tác xuất khẩu lao động đã thu được những kết quả khá, số
lượng lao động xuất khẩu ngày càng tăng, chất lượng tốt hơn, thị trường mở
rộng; các đơn vị làm nhiệm vụ xuất khẩu lao động được củng cố, tăng cường
và phát triển. Tỉnh Hà Tĩnh đã thành lập Ban chỉ đạo xuất khẩu lao động,
xây dựng quy chế hoạt động, chương trình kế hoạch và giao chỉ tiêu tuyển
dụng lao động đi làm việc nước ngoài cho các công ty xuất khẩu lao động
trực tiếp và các huyện, thị xã, thành phố; phân công các ngành, đoàn thể
chịu trách nhiệm theo dõi, quản lý các địa phương, đơn vị về công tác xuất
khẩu lao động. Đồng thời, tỉnh Hà Tĩnh cũng đã chỉ đạo các huyện, thành
phố, thị xã kiện toàn Ban Chỉ đạo xuất khẩu lao động cấp huyện và cấp xã.
Chỉ đạo các ngành: công an, y tế giải quyết kịp thời thủ tục cấp hộ chiếu,
khám sức khỏe; ngành Ngân hàng thực hiện tốt việc cho vay vốn hỗ trợ xuất
khẩu lao động.
Bên cạnh đó, tỉnh Hà Tĩnh đã kịp thời ban hành các chỉ thị của tỉnh về
tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy đảng, chính quyển đối với công tác xuất khẩu
lao động như: Chỉ thị số 44/CT-TU ngày 03/12/2003 và Chỉ thị số 29/CT-TU
ngày 13/05/200/ củ Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo
đối với công tác xuất khẩu lao động. Mặt khác, ban hành cơ chế, chính sách của
địa phương về hỗ trợ xuất khẩu lao động như: Chính sách "Tạm thời chưa thu
thuế giá trị gia tăng đối với các Trung tâm dịch vụ việc làm"; chính sách hỗ trợ
kinh phí 100.000đ/người cho lao động đi làm việc nước ngoài. Đặc biệt, đầu
năm 2009, Ủy ban nhân dân tỉnh đã có Quyết định số 05/2009/QĐ/UBND-TM
ngày 06/03/2009 về việc ban hành một số cơ chế chính sách ưu đãi xuất khẩu,
63
trong đó có các chính sách hỗ trợ xuất khẩu lao động: hỗ trợ các xã, phường,
thị trấn 10 triệu đồng/xã để điều tra cung cầu lao động hàng năm; hỗ trợ kinh
phí các doanh nghiệp xuất khẩu lao động trực tiếp trên địa bàn khai thác, mở
rộng thêm thị trường mới; hỗ trợ người lao động kinh phí đào tạo định hướng
xuất khẩu 300 ngàn đồng/người; hỗ trợ cấp bù chênh lệch lãi suất tiền vay cho
người lao động vay vốn ở các ngân hàng.
* Di dân kinh tế mới nội tỉnh
Dự án về di dân phát triển kinh tế mới góp phần điều hòa dân số, làm
giảm mật độ dân số quá đông ở vùng đồng bằng, ven biển và di chuyển tới
vùng đất rộng, người thưa có khả năng phát triển sản xuất kinh doanh (Hương
Sơn, Hương Khê, Vũ Quang, các xã Tây Kỳ Anh)
Mục tiêu của tỉnh là trong giai đoạn 2005-2008 di dân bình quân hàng
năm 100 hộ với khoảng 200 lao động. Để đạt được điều đó trong thời gian
qua Hà Tĩnh đã quan tâm, chỉ đạo và đưa ra các chính sách nhằm hỗ trợ cho
những hộ di dân để họ ổn định cuộc sống, như đầu tư xây dựng và nâng cấp
cơ sở hạ tầng, hỗ trợ kinh phí ban đầu và kinh phí mua sắm các dụng cụ sản
xuất kinh doanh. Đồng thời, đầy mạnh công tác nghiên cứu và cung cấp các
giống cây con phù hợp với thổ nhưỡng nơi họ di dân đến, cung cấp kinh
nghiệm, hướng dẫn bà con cách thức canh tác nhằm đạt được hiệu quả kinh
tế cao.
* Chính sách cho vay vốn giải quyết việc làm
Thực hiện chính sách giải quyết việc làm theo Quyết định 120/HĐBT
của Chính phủ, tỉnh Hà Tĩnh đã cung cấp các món vay nhỏ, lãi suất thấp để trợ
giúp triển khai các dự án tạo nhiều việc làm, thu hút lao động trên cơ sở Tổng
nguồn vốn Quỹ quốc gia giải quyết việc làm tỉnh Hà Tĩnh. Qua thực tế nhiều
năm cho thấy, đây là một trong những nhân tố để đa dạng hóa phát triển ngành
nghề tạo việc làm, đồng thời nó cũng là một tác nhân để khai thác nội lực, khả
năng tiềm ẩn trong nhân dân.
64
Bảng 2.8: Kết quả thực hiện chính sách cho vay vốn giải quyết việc làm giai đoạn 2004 - 2008
2004
2005
2006
2007
2008
Đơn vị tính
40.920 47.721 52.521 57.120 62.621
Tổng nguồn vốn Quỹ quốc gia giải quyết việc làm tỉnh Hà Tĩnh
Triệu đồng
Dự án
941
737
1769
1968
2051
Số dự án được duyệt cho vay vốn trong năm
Số tiền được duyệt cho vay trong năm
14.396 12.850 21.015 23.271 26.813
Triệu đồng
Số lao động được giải quyết việc làm Người 3.748
3.925
4.120
4.250
6.325
Nguồn: [35].
Trong giai đoạn từ 2004 - 2008, Tổng nguồn vốn Quỹ quốc gia giải
quyết việc làm tỉnh Hà Tĩnh liên tục tăng, từ 40.920 triệu đồng (năm 2004) lên đến 62.621 triệu đồng (năm 2008). Trên cơ sở đó, số dự án được duyệt cho vay vốn và số tiền được duyệt cho vay trong năm, số lao động được giải quyết việc làm có tốc độ tăng khá ổn định. Nếu năm 2004 số dự án được
duyệt cho vay vốn trong năm đạt 941 dự án thì đến năm 2008 con số này lên tới 2051 dự án, với số tiền được duyệt cho vay trong năm là 26.813 triệu đồng (năm 2004 là 14.396 triệu đồng), số lao động được giải quyết việc làm là 6.325 người (năm 2004 là 3748 người).
Để thực hiện được các kết quả kể trên, trong thời gian qua, tỉnh Hà Tĩnh đã huy động các nguồn lực từ ngân sách của Chính phủ cấp, từ sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, từ nội lực trong tỉnh; đồng thời nâng cao chất lượng các dự án vay vốn và đặc biệt ưu tiên những dự án có hiệu quả; tăng cường
kiểm tra, kiểm soát tránh thất thoát và sử dụng vốn sai mục đích..
2.2.2.3. Thực trạng việc làm và thất nghiệp, thiếu việc làm ở Hà Tĩnh
thời gian qua
* Thực trạng giải quyết việc làm trong thời gian qua
Trong thời gian qua, với sự quyết tâm giải quyết việc làm cho người lao động thông qua các biện pháp, tỉnh Hà Tĩnh đã đạt được những thành tựu đáng kể, cụ thể như sau:
65
- Lao động có việc làm phân theo nhóm tuổi
Bảng 2.9: Số lao động có việc làm phân theo nhóm tuổi giai đoạn 2004-2008
Năm
Tổng số
15-24
25-34
55-59
60+
Chia theo nhóm tuổi 45-54
35-44
636001
98860
124586
178861
134085
48015
51594
2004
100
15.544%
19.589%
28.123% 21.083% 7.550%
8.112%
636579
98959
124711
179041
134220
48063
51585
2005
100
15.545%
19.591%
28.125% 21.085% 7.550%
8.103%
646419
100507
126662
181842
136320
48815
52273
2006
100
15.548%
19.594%
28.131% 21.088% 7.552%
8.087%
669581
109587
128987
189871
139210
49685
52241
2007
100
16.367%
19.264%
28.357% 20.791% 7.420%
7.802%
699124
120891
130145
191201
142100
51241
52601
2008
100
17.292%
18.615%
27.349% 20.325% 7.329%
7.524%
Số người % so với tổng số Số người % so với tổng số Số người % so với tổng số Số người % so với tổng số Số người % so với tổng số
Nguồn: [18].
Biểu đồ 2.2: Số lao động có việc làm phân theo nhóm tuổi
giai đoạn 2004-2008
66
Qua bảng phân tích ta thấy, quy mô, tỷ lệ gia tăng số lao động có
việc làm trong độ tuổi lao động rất hợp lý. Số lượng lao động có việc làm
của Hà Tĩnh tăng dần trong những năm gần đây, năm 2004 có 636.001 lao
động có việc làm, năm 2008 có 699.124 lao động có việc làm, tăng 63.123
lao động. Lực lượng lao động chủ yếu gia tăng trong độ tuổi từ 15-44, đặc
biệt là nhóm tuổi 15-34. Tỷ lệ lao động có việc làm trong độ tuổi 60+ ngày
càng giảm bình quân 5,8%. Điều này cho thấy, số lao động có việc làm ở Hà
Tĩnh chủ yếu tập trung vào lực lượng lao động trẻ. Lực lượng lao động trẻ
có sức khỏe, sự nhanh nhẹn trong tiếp cận công việc song kinh nghiệm, trình
độ chuyên môn kỹ thuật còn hạn chế. Do đó, tỉnh Hà Tĩnh đã tập trung đào
tạo chuyên môn và định hướng nghề nghiệp cho lực lượng lao động trẻ
thông qua các trung tâm đào tạo nghề, trung tâm giới thiệu việc làm. Trên cơ
sở nâng cao chất lượng lao động, Hà Tĩnh đã tạo ra nhiều việc làm cho lực
lượng lao động trẻ của tỉnh, biến lực lượng lao động trẻ thành thế mạnh
nguồn lao động của tỉnh.
- Lao động có việc làm phân theo thành phần kinh tế
Bảng 2.10: Số lao động có việc làm phân theo thành phần kinh tế
giai đoạn 2004- 2007
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
2007
Đơn vị tính
Người
636579
646419
652524
Tổng số
660781
Nhà nước
Người
53536
53203
53294
534102
% so với tổng số
%
8.41%
8.23%
8.167%
8.829%
Ngoài nhà nước
Người
567828
570649
587024
632013
% so với tổng số
%
89.20%
88.28%
89.96%
95.65%
1919
2140
2210
Nước ngoài
Người
1591
0.3%
0.33%
0.33%
% so với tổng số
%
0.25%
20648
26145
29574
Khác
Người
13624
3.19%
4.01%
4.48%
% so với tổng số
%
2.14%
Nguồn: [25, 28].
67
Biểu đồ 2.3: Số lao động có việc làm phân theo thành phần kinh tế (2004- 2007)
Qua bảng trên cho thấy lao động có việc làm ở Hà Tĩnh chủ yếu tập
trung vào thành phần kinh tế ngoài nhà nước. Năm 2004 là 567.828 người,
chiếm 89,2% và năm 2007 tăng lên 632.013 người, chiếm 95,65%. Tốc độ tăng
nhanh của thành phần kinh tế ngoài nhà nước cho thấy chủ trương phát triển
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần của Hà Tĩnh đã thực sự mở ra những khả
năng to lớn để phát huy mọi tiềm năng, giải phóng triệt để hơn sức sản xuất.
Thông qua đó, nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh ngoài quốc doanh hoạt động có
hiệu quả, kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại phát triển phong phú, đa dạng
trong các lĩnh vực, góp phần giải quyết việc làm tại chỗ cho người lao động.
Trong khi đó, lao động có việc làm trong thành phần kinh tế nhà nước
và nước ngoài tuy có xu hướng tăng đều nhưng vẫn chiếm tỷ lệ thấp. Năm
2004, lao động có việc làm trong thành phần kinh tế nhà nước là 8,41%, trong
thành phần kinh tế nước ngoài là 0,25% và năm 2007 tăng lên không đáng kể
với nhà nước là 8,82% và nước ngoài là 0,33%. Điều này phản ảnh thành
phần kinh tế nhà nước chưa tạo được nhiều chỗ làm việc mới; thành phần
kinh tế nước ngoài có gia tăng dần đều nhưng chưa đột phá, có thể nguyên
nhân do lao động chưa đáp ứng được yêu cầu công việc.
- Lao động có việc làm phân theo khu vực và ngành kinh tế
68
69
+ Lao động có việc làm theo khu vực
Qua bảng phân tích trên ta thấy: Lao động có việc làm ở Hà Tĩnh tập
trung chủ yếu ở khu vực nông thôn, năm 2005 là 582.919 người, chiếm hơn
90%, năm 2007 là 603.986, chiếm 99,91%. Vấn đề giải quyết việc làm cho lao
động ở nông thôn Hà Tĩnh luôn danh được sự quan tâm của chính quyền tỉnh
và được tổ chức thực hiện dưới nhiều hình thức, với nhiều chính sách cụ thể
như: phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn, hình thành và cho vay
vốn tạo việc làm từ quỹ quốc gia và giải quyết việc làm; thực hiện các chương
trình mục tiêu như: di dân, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp; mở các
trung tâm đào tạo và giải quyết việc làm, hợp tác lao động quốc tế… Do đó,
trong những năm qua tỉnh Hà Tĩnh đã tạo ra nhiều việc làm mới cho lao động
(số liệu di dân). Tuy nhiên, nhìn chung lao động ở nông thôn vẫn là sức ép lớn
đối với nền kinh tế của tỉnh. Khu vực nông thôn đang thiếu nghiêm trọng
những lao động có chuyên môn kỹ thuật, có tay nghề; phần lớn lao động chưa
qua đào tạo nên gây khó khăn trong tạo việc làm ở khu vực này.
Trong khi đó, lao động ở khu vực thành thị chiếm tỷ lệ khá thấp (năm
2005 là 9,82% và 2007 là 0,91%). Ngoài lực lượng lao động tại chỗ, hàng
năm có một lực lượng lao động đáng kể từ các vùng nông thôn vào các khu
công nghiệp, đô thị tìm kiếm việc làm, đặc biệt là trong bối cảnh Hà Tĩnh đẩy
mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Lao động nông thôn vào khu
vực thành thị tìm việc và làm việc với nhiều dạng khác nhau và có xu hướng
ngày càng tăng, một số vào theo mùa vụ nông nhàn trong nông nghiệp, một số
khác tìm việc làm và làm việc thường xuyên trong năm. Để giải quyết việc
làm cho lao động ở khu vực thành thị, Hà Tĩnh đã có chủ trương phát triển
mạnh các khu công nghiệp, các dự án trọng điểm; đồng thời chuyển đổi cơ
chế, sắp xếp, tinh giảm biên chế trong các cơ quan hành chính sự nghiệp.
Tuy vậy, lao động ở khu vực thành thị vẫn tồn tại sự chưa phù hợp
giữa cơ cấu nguồn lao động với cơ cấu việc làm, thể hiện sự vừa thừa, vừa
thiếu lao động. Hiện tại, khi các khu công nghiệp và vùng kinh tế trọng điểm
của tỉnh đi vào hoạt động thì việc tuyển dụng lao động vào làm việc cũng rất
70
khó khăn do thiếu lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật, tay nghề hoặc
do lao động bị hạn chế về ngoại ngữ, vi tính…
+ Lao động có việc làm theo ngành kinh tế Đơn vị tính: người
Biểu đồ 2.4: Số lao động có việc làm phân theo ngành giai đoạn 2004 - 2007
Cơ cấu việc làm phân bố không đồng đều ở các ngành kinh tế, chủ yếu
tập trung vào nông nghiệp, trong khi công nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ trọng thấp.
Ở khu vực thành thị: số người có việc làm trong lĩnh vực nông lâm - ngư nghiệp
còn chiếm tỷ lệ tương đối cao so với tổng số lao động có việc làm trong khu vực;
lao động trong lĩnh vực công nghiệp chiếm tỷ lệ thấp; lao động trong lĩnh vực
dịch vụ chiếm tỷ trọng ương đối cao. Còn ở khu vực nông thôn, lao động chủ
yếu tập trung vào lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp. lao động làm việc trong các
ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ lệ rất thấp: công nghiệp - xây dựng
Tuy nhiên, trong những năm gần đây lao động có việc làm ở Hà Tĩnh
đang có xu hướng thay đổi theo hướng tích cực: giảm dần tỷ trọng lao động
làm việc ở khu vực nông thôn, lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp; tăng dần tỷ
trọng lao động làm việc ở khu vực thành thị và trong lĩnh vực công nghiệp -
xây dựng, dịch vụ. Có thể nói, đây là diễn biến rất tốt, phản ánh tình hình phát
triển kinh tế - xã hội của Hà Tĩnh theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Tình hình xuất khẩu lao động của Hà Tĩnh từ năm 2004 đến nay
Tính từ năm 2004 đến 2008, toàn tỉnh đã có hơn 38 ngàn lượt người
đi xuất khẩu lao động (bình quân hàng năm trên 6 ngàn người), hiện đang có
71
xấp xỉ 20 ngàn người làm việc ở nhiều nước và vùng lãnh thổ trên thế giới,
mỗi năm chuyển về nước khoảng 45-50 triệu USD, tương đương với 800 tỷ
đồng Việt Nam; đã xuất hiện nhiều mô hình mới, cách làm có hiệu quả.
Bảng 2.12: Kết quả xuất khẩu lao động giai đoạn 2004-2008
Đơn vị tính: người
Tổng số
Đài Loan
Hàn Quốc
Chia theo thị trƣờng
2004
5.942
1.940
845
156
1.908
1.093
2005
5.030
1.150
643
179
2.749
309
2006
6.125
504
736
180
4.155
550
2007
6.450
928
873
209
3.064
1.376
2008
6.125
1.220
1101
274
1.683
1.847
5.742
4.198
998
13.559
5175
Tổng cộng 29.672
Nguồn: [17, 40].
Số doanh nghiệp được Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cấp giấy
phép xuất khẩu lao động trực tiếp có 04 đơn vị: Công ty cổ phần phát triển công
nghiệp và xây lắp thương mại; công ty cổ phần Việt Hà; công ty đầu tư xuất
khẩu lao động thuộc Tổng công ty Khoáng sản và Thương mại; công ty cổ phần
Vạn Xuân VIVAXAN. Số đơn vị được cấp phép làm nhiệm vụ dịch vụ tạo
nguồn và cung ứng lao động cho các đơn vị xuất khẩu lao động trực tiếp: 12
đơn vị (gồm các trường, trung tâm dạy nghề, trung tâm dịch vụ, giới thiệu
việc làm). Ngoài ra còn có khoảng 25-30 doanh nghiệp xuất khẩu lao động
của trung ương và ngoại tỉnh tham gia tuyển chọn lao động trên địa bàn tỉnh.
Từ năm 2007-2009 toàn tỉnh đã đưa được 15.075 lượt người đi xuất
khẩu lao động. Trong đó, Đài Loan: 2.764 lượt người, Malaysia: 5.002 lượt người
* Thực trạng thất nghiệp và thiếu việc làm của Hà Tỉnh trong thời
gian qua
- Thực trạng thất nghiệp và thiếu việc làm phân theo nhóm tuổi
72
Với sự quyết tâm của toàn tỉnh trong việc giải quyết việc làm đã đạt
được những thành tựu đáng kể được phân tích ở trên, tuy nhiên tỷ lệ thất nghiệp
và thiếu việc làm cũng còn đáng kể, cụ thể được thể hiện ở sự phân tích sau:
Bảng 2.13: Thất nghiệp và thiếu việc làm phân theo nhóm tuổi giai đoạn 2004-2008
Chia theo nhóm tuổi
Năm
Tổng số
15-24
25-34
35-44
45-54
55-59
Số người
8077
5112
2350
283
202
130
2004
tỷ lệ (%)
100
63.291%
29.095%
3.504%
2.501%
1.610%
Số người
8352
5262
2389
309
217
175
2005
tỷ lệ (%)
100
63.003%
28.604%
3.700%
2.598%
2.095%
Số người
8632
5505
2566
302
208
51
2006
tỷ lệ (%)
100
63.774%
29.727%
3.499%
2.410%
0.591%
Số người
9235
5874
2785
301
212
63
2007
tỷ lệ (%)
100
63.606%
30.157%
3.259%
2.296%
0.682%
Số người
9555
5989
2987
299
221
59
2008
tỷ lệ (%)
100
62.679%
31.261%
3.129%
2.313%
0.617%
Số ngƣời
8770
5548.4
2615.4
298.8
212
95.6
tỷ lệ (%)
100
63.271% 29.769%
3.418%
2.423%
1.119%
Trung bình 5 năm
Nguồn: [29].
Biểu đồ 2.5: Thất nghiệp và thiếu việc làm phân theo nhóm tuổi giai đoạn 2004-2008
73
Qua bảng trên ta thấy tính hình thất nghiệp ở Hà Tĩnh chủ yếu tập trung
vào lao động trong độ tuổi từ 15-24, chiếm bình quân 63,271%, độ tuổi từ 25-34
chiếm bình quân là gần 30%. Xu hướng thất nghiệp có chiều hướng giảm dần
trong những năm gần đây trong độ tuổi 15-24, đây là một tín hiệu đáng mừng
trong việc tạo việc làm mới. Năm 2004 tỷ lệ thất nghiệp ở độ tuổi 15- 24 chiếm
63,3% đến năm 2008 tỷ lệ này đã giảm xuống 62,67%, tỷ lệ thất nghiệp trong độ
tuổi 25-34 đã có xu hướng tăng từ 29,09% (năm 2004) tăng lên 31,26% (năm
2008), tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi 35- 44 lại giảm từ 3,5% năm 2004 xuống
còn 3,2% năm 2008. Với tỷ lệ tăng giảm trong vòng 5 năm cũng không có biến
động lớn chỉ dao động trong khoảng từ 1- 2%, điều này cho thấy tình hình ổn định
về phát triển dân số và việc tạo mới việc làm trong những năm qua tương đối tốt.
- Thất nghiệp và thiếu việc làm phân theo thành phần kinh tế giai
đoạn 2004-2008
Bảng 2.14: Thất nghiệp và thiếu việc làm theo thành phần kinh tế
giai đoạn 2004-2008
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
2004
2005
2006
2007
2008
Tổng số
Người
8077
8352
8626
8740
8894
Nhà nước
Người
235
237
260
269
259
% so với tổng số
2.909%
2.838%
3.014%
3.078%
2.912%
%
Ngoài nhà nước
Người
7467
7681
7865
7794
7854
% so với tổng số
92.45%
91.97%
91.18%
89.18%
88.31%
%
Nước ngoài
Người
23
28
27
29
31
% so với tổng số
0.28%
0.34%
0.31%
0.33%
0.35%
%
Khác
Người
352
406
474
451
481
% so với tổng số
4.36%
4.86%
5.50%
5.16%
5.41%
%
Nguồn: [29].
74
Biểu đồ 2.6: Thất nghiệp và thiếu việc làm theo thành phần kinh tế giai đoạn 2004-2008
Qua bảng trên ta thấy tình hình thất nghiệp theo thành phần kinh tế
quá chênh lệch giữa các thành phần kinh tế, con số thất nghiệp chung có chiều
hướng gia tăng, năm 2004 là 8077 người đến năm 2008 là 8894 người, con số
này không tăng nhiều nhưng để giải quyết lâu dài cần có những kế hoạch
chiến lược cụ thể trong việc ổn định dân số và tăng việc làm cho những người
trong độ tuổi lao động. Tỷ lệ thất nghiệp trong khu vực kinh tế nhà nước,
nước ngoài, và thành phần khác tương đối ổn định, tăng giảm không đáng kể,
số lao động dao động chủ yếu trong thành phần kinh tế ngoài nhà nước, có sự
gia tăng đáng kể, năm 2004 là 7467 (chiếm 92,45%) đến năm 2008 là 7854
(chiếm 88,31%). Tuy số % có giảm nhưng số tuyệt đối lại tăng, do cơ cấu thất
nghiệp trong các thành phần kinh tế thay đổi nhiều.
- Thất nghiệp và thiếu việc làm phân theo khu vực
Bảng 2.15: Thất nghiệp và thiếu việc làm phân theo khu vực
giai đoạn 2004-2008
(Đơn vị tính: %)
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
2007
2008
3,92
4,78
4,07
3,75
3,54
Tỷ lệ lao động thất nghiệp ở khu vực thành thị
12,46
13,32
12,81
12,35
11,5
Tỷ lệ lao động thiếu việc làm ở khu vực nông thôn
75
Nguồn: [29].
Qua bảng số liệu cho thấy, tỷ lệ lao động thất nghiệp ở khu vực thành
thị tương đối thấp hơn so với tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn. Tỷ lệ lao động
thiếu việc làm ở nông thôn cao gần gấp 3 lần tỷ lệ lao động thất nghiệp ở khu
vực thành thị. Điều đó cũng cho thấy ở thành thị, quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa diễn ra nhanh và mạnh mẽ hơn so với nông thôn, thúc đẩy kinh tế
ở khu vực thành thị phát triển và tạo ra nhiều việc làm cho người lao động.
Trong khi đó, công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nông thôn diễn ra chậm hơn và
gặp không ít rào cản của nền sản xuất nông nghiệp trì trệ trong việc áp dụng
khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại và phương thức sản xuất tiên tiến vào
quá trình sản xuất. Do đó, trong những năm gần đây, rất nhiều lao động ở khu
vực nông thôn đã di cư ra thành thị kiếm việc làm. Bên cạnh đó, tỷ lệ thất
nghiệp ở thành thị và nông thôn có xu hướng giảm dần qua các năm. Đó cũng
là kết quả của việc tích cực thực hiện các chính sách giải quyết việc làm của
tỉnh Hà Tĩnh trong thời gian qua
2.2.3. Đánh giá những kết quả đạt đƣợc và những hạn chế
2.2.3.1. Những kết quả đạt được
Nhìn lại quá trình xây dựng và phát triển, Đảng bộ và nhân dân tỉnh
Hà Tĩnh đã từng bước đi lên và tự khẳng định mình trong việc phát triển kinh
tế xã hội và nâng cao đời sống nhân dân. Thắng lợi có ý nghĩa tổng quát nhất
là kinh tế Hà Tĩnh phát triển với tốc độ cao và khá bền vững. Tổng sản phẩm
trong tỉnh tạo ra hàng năm tăng liên tục, bình quân mỗi năm tăng 12,4%. Cơ
cấu kinh tế đã và đang chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
từng bước nâng cao hiệu quả trong sản xuất kinh doanh, kinh tế phát triển liên
tục trong những năm qua đã tạo điều kiện để giải quyết việc làm, từng bước
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho mọi tầng lớp dân cư trong tỉnh.
Những kết quả của tỉnh Hà Tĩnh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa cụ thể sau:
76
* Nhận thức, quan niệm của người lao động về việc làm đã được thay
đổi cơ bản. Người lao động đã tự chủ trong việc tự tạo việc làm cho mình và
cho người khác trong các thành phần kinh tế. Người lao động được khuyến
khích đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo mở việc làm.
* Chương trình giải quyết việc làm được triển khai thực hiện có kết quả
với sự quan tâm của các ngành các cấp, sự hưởng ứng tích cực của các tổ chức,
đoàn thể và mọi tầng lớp dân cư. Kết quả là tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị đã giảm
từ 7,52% (1996) xuống còn 3,08% (2006) [19]. Và đã nâng hệ số sử dụng thời
gian lao động ở khu vực nông thôn từ 75,6% (1997) lên 82,6% (2006).
* Đã phát triển và đa dạng hóa các hình thức sản xuất kinh doanh tạo
nhiều việc làm mới cho người lao động của tỉnh như: Kinh tế cá thể, kinh tế
hộ gia đình, doanh nghiệp vừa và nhỏ, khôi phục và phát triển làng nghề
truyền thống, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
* Công tác giải quyết việc làm gắn đã gắn với việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và cơ cấu lao động. Cơ cấu lao động đã chuyển biến theo chiều hướng
tích cực: tỷ trọng lao động trong nông nghiệp giảm dần, tỷ trọng lao động
trong công nghiệp và dịch vụ tăng lên rõ rệt. Mặt khác, tỷ lệ lao động qua đào
tạo cũng tăng lên nhanh chóng năm 2007 đã đạt 34,5%.
* Công tác đào tạo nghề cho người lao động đã được chú trọng làm
cho chất lượng nguồn lao động đã dần được nâng cao.
* Công tác đầu tư vốn tín dụng cho người nghèo, giúp các hộ nghèo
ổn định và cải thiện đời sống, giải quyết thêm việc làm và việc làm mới cho
người lao động. Đồng thời các tổ chức đoàn thể quần chúng như: Hội phụ nữ,
hội cựu chiến binh, hội nông dân, đoàn thanh niên… cũng đã phát huy được
vai trò tích cực trong việc tạo mở nhiều việc làm cho người lao động thông
qua các hoạt động cho vay vốn, phổ biến kinh nghiệm sản xuất, chuyển giao
kỹ thuật, công nghệ…
Tóm lại, trong 10 năm qua thực hiện đường lối đổi mới đúng đắn của
Đảng, cơ chế chính sách phù hợp của Nhà nước, Hà Tĩnh đã tạo ra được sự
77
chuyển dịch chuyển biến cơ bản về nhận thức, phương thức tạo mở việc làm,
đã huy động được mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển việc và tạo việc làm.
Chương trình giải quyết việc làm đã được triển khai thực hiện có kết quả với
sự quan tâm của các ngành, các cấp, các tổ chức đoàn thể, nhờ vậy đã giảm
được thất nghiệp, tăng việc làm và bước đầu chuyển dịch cơ cấu và chất
lượng lao động theo hướng tích cực.
2.2.3.2. Những hạn chế tồn tại
* Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị vẫn còn cao chiếm 3,8% và hệ số sử
dụng thời gian lao động ở nông thôn cũng chỉ đạt 82,6% (2006). Vì vậy tình
trạng không có việc làm và thiếu việc làm ở cả hai khu vực thành thị và nông
thôn là rất lớn.
* Cơ cấu lao động mất cân đối nghiêm trọng trong đó: rất thiếu lao
động có chuyên môn kỹ thuật đã qua đào tạo, thừa lao động phổ thông và các
ngành khoa học xã hội và nhân văn, ngành sư phạm… Vì vậy gây nên tình
trạng vừa thừa lại vừa thiếu. Thực tế cho thấy số người không có việc làm ở Hà
Tĩnh hầu hết là lao động phổ thông, không có trình độ chuyên môn kỹ thuật.
* Công tác đào tạo nghề cho người lao động chưa được đầu tư đúng
mức về chương trình, mục tiêu đào tạo cũng như cơ sở vật chất, trang thiết bị
dạy nghề và đội ngũ giáo viên… Do vậy chất lượng đào tạo còn thấp chưa đáp
ứng được yêu cầu của thị trường sức lao động, dẫn đến tình trạng không chỉ
thừa lao động phổ thông mà còn thừa cả lao động ngay sau khi đã được đào tạo.
* Còn thiếu những chính sách kinh tế đủ mạnh để thu hút đầu tư, khai
thác được mọi nguồn lực để phát triển kinh tế, tạo mở việc làm.
Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại
Thứ nhất: mâu thuẫn giữa cung và cầu lao động:
+ Cung lao động không phù hợp với cầu lao động về số lượng. Nguồn
cung về số lượng lao động của tỉnh hiện nay là khá lớn và có xu hướng tiếp
tục tăng trong nhiều năm tới, ước tính mỗi năm có từ 1,1 - 1,2 vạn người bước
78
vào tuổi lao động. Trong khi đó khả năng giải quyết việc làm còn hạn hẹp, có
xu hướng tăng chậm hơn. Quy mô và tốc độ tăng không tương xứng với nhau
làm cho quan hệ cung - cầu về lao động ngày càng mất cân đối nghiêm trọng.
+ Cung lao động không phù hợp với cầu về lao động, về chất lượng và
cơ cấu. Trong khi nguồn cung về lao động của tỉnh hiện nay chủ yếu là lao
động không có chuyên môn kỹ thuật chiếm 65,5% lực lượng lao động thì cầu
về lao động lại đang đòi hỏi lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật là chủ
yếu. Do đó, dẫn đến một thực tế hiện nay là trong khi hàng chục nghìn người
không có chuyên môn kỹ thuật không tìm được việc làm thì ở một số ngành
nghề và nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh đang thiếu lao động kỹ thuật và trình
độ chuyên môn phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh. Những hạn chế về
chất lượng lao động dẫn đến hậu quả vừa thừa lại vừa thiếu lao động làm cho
tỷ lệ thất nghiệp tăng lên trở thành lực cản đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội của tỉnh.
Về cơ cấu đào tạo và cơ cấu phân bố nguồn lao động cũng nhiều bất
hợp lý. Nền kinh tế ở nước ta nói chung và ở Hà Tĩnh nói riêng đang thiếu
trầm trọng những công nhân lành nghề và lao động kỹ thuật thừa tương đối
sinh viên đại học, cao đẳng nhất là ở các ngành khoa học xã hội, ngành sư
phạm… Nguyên nhân của tình trạng này là do cơ cấu đào tạo không hợp lý,
dẫn đến "thừa thầy thiếu thợ". Mặt khác, chúng ta chưa có chính sách khuyến
khích dạy nghề và học nghề, chậm định hướng đổi mới lĩnh vực dạy nghề phù
hợp với thị trường lao động.
Thứ hai: Vấn đề giải quyết việc làm có liên quan mật thiết đến chiến
lược phát triển kinh tế của tỉnh, trong khi các cấp ủy và chính quyền tỉnh chưa
xây dựng được chiến lược phát triển kinh tế phù hợp để khai thác triệt để các
nguồn lực sẵn có để thúc đẩy kinh tế phát triển như: không có sự quan tâm,
đầu tư tới khu vực phía nam của tỉnh, quá chú trọng đến các ngành nghề ưu
tiên đầu tư như điện, điện tử, cơ khí chính xác… trong khi lao động của tỉnh
chủ yếu chưa qua đào tạo. Vì vậy vấn đề giải quyết việc làm cho người lao
động gặp nhiều khó khăn.
79
Thứ ba: Hiệu quả hoạt động của hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm
và sàn giao dịch việc làm của tỉnh còn thấp, chưa phát huy được vai trò trung
gian giữa người tuyển dụng và người lao động.
Thứ tư: Quản lý nhà nước về lao động và việc làm còn nhiều yếu kém,
cơ chế phối hợp giữa các ngành, các cấp chưa đồng bộ, nhiều đầu mối, nhiều
khâu trung gian rất khó khăn trong chỉ đạo, trong tổ chức thực hiện, trong
triển khai giám sát… nên hiệu quả giải quyết việc làm còn thấp.
80
Chƣơng 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
Ở HÀ TĨNH TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
GIAI ĐOẠN 2008 - 2013
3.1. QUAN ĐIỂM VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM Ở HÀ TĨNH TRONG QUÁ TRÌNH
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA GIAI ĐOẠN 2008 - 2013
3.1.1. Giải quyết việc làm phải lấy những ngƣời có nhu cầu việc
làm là trọng tâm, trọng điểm, là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và
toàn xã hội
Với những chính sách vĩ mô mà Đảng ta đưa ra trong văn kiện Đại
hội Đảng lần thứ VI, trong đó có nhiều nhóm giải pháp cơ bản gắn liền với
những giai đoạn khác nhau, đặc biệt những giải pháp này được đặt trong bối
cảnh đất nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Với quan
điểm tạo và tìm việc làm không phải nhiệm vụ của riêng ai, đây là nhiệm vụ
thường xuyên của các cấp lãnh đạo trong việc hoạch định và xây dựng chủ
trương, đường lối, chính sách, khái niệm về việc làm phải được hiểu là công
việc chính đáng, mang lại nguồn thu nhập hợp pháp, ích lợi cho cộng đồng,
trong mọi thành phần kinh tế khác nhau. Nhà nước có trách nhiệm định
hướng, tổ chức quản lý, tạo ra môi trường và các tiền đề để phát triển nơi
làm việc, khuyến khích bảo trợ người lao động tự tạo việc làm, xây dựng
chiến lược, chương trình kế hoạch và dự án giải quyết việc làm trong từng
thời kỳ, từng giai đoạn.
Với mỗi cá nhân trong xã hội, tìm việc làm là trách nhiệm của chính
bản thân mình, mỗi người phải tự tích cực học hỏi, tìm kiếm cơ hội nghề
nghiệp ở mọi lúc, mọi nơi. Phải xác định rằng việc làm là sự sống của mỗi
người, tránh hiện tượng tâm lý ỷ lại, trông chờ vào nhà nước.
81
3.1.2. Sử dụng nguồn lao động phải trên cơ sở nâng cao chất lƣợng
lao động
Nước ta vẫn được biết đến là nơi có nguồn lao động dồi dào về số
lượng và điều này đã dẫn đến việc giá nhân công tương đối rẻ hơn so với các
nước khác, Tuy nhiên điều đó về lâu dài là không tốt và cho thấy chúng ta
chưa chú trọng đến chất lượng nguồn lao động. Nếu với số lượng lao động
được coi là trẻ, khỏe đó kết hợp cùng với có tay nghề thì sẽ tạo ra được động
lực phát triển, là một trong những yếu tố quyết định sự tăng trưởng và phát
triển của nền kinh tế.
Hà Tĩnh đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, việc thay
đổi cơ cấu về lao động (tăng chất lượng lao động thay cho tăng số lượng lao
động) là nhiệm vụ trọng tâm. Đối với mỗi người lao động cần phải trang bị cho
họ một nghề cơ bản, chuyên sâu. Việc này đặt ra cho các cấp lãnh đạo nhiệm
vụ nghiên cứu, khảo sát, đánh giá và đưa ra phương án nâng cao chất lượng
lao động từ đó có biện pháp hướng nghiệp, dạy nghề một cách hiệu quả hơn.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hiểu theo nghĩa thông thường là sự
thay thế về phương thức sản xuất, từ thủ công, đơn sơ sang máy móc, công
nghệ cao, lao động có tay nghề sẽ dần thay thế lao động thủ công, đơn sơ. Do
đó, phải tránh hiện tượng vừa thiếu về lao động có tay nghề và thừa lao động
không có tay nghề, thủ công, đơn điệu. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng lao
động để làm chủ được công nghệ, sử dụng được máy móc thiết bị là nhiệm vụ
vô cùng quan trọng, cấp bách đối với tỉnh Hà Tĩnh hiện nay.
3.1.3. Giải quyết việc làm trên cơ sở phát triển kinh tế
Lịch sử đã chứng minh được mối quan hệ biện chứng giữa giải quyết
việc làm với phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Nguồn gốc của cải vật
chất, giá trị thặng dư đều do lao động làm ra. Kinh tế phát triển, xã hội ổn
định là cơ sở để nâng cao chất lượng nguồn lao động, tạo ra được nhiều việc
làm mới hơn. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình phát triển tất yếu của
mỗi xã hội, thể hiện một giai đoạn mới phát triển hơn giai đoạn cũ, nhưng
cũng đòi hỏi sự tương thích về yêu cầu nhân lực đáp ứng.
82
Tạo việc làm phải gắn chặt với các chương trình phát triển kinh tế - xã
hội. Việc tạo việc làm và sử dụng lao động phải dựa trên xu thế phát triển của
xã hội, tránh việc đào tạo dàn trải, không có định hướng, không có kế hoạch,
dư thừa lãng phí.
- Để đảm bảo tốc độ phát triển của nền kinh tế, cần phải định hướng
lựa chọn những ngành nghề, lĩnh vực có tính chất mũi nhọn, công nghệ cao,
sử dụng lao động có kỹ thuật là tạo đà cho phát triển kinh tế. Bên cạnh việc
định hướng cho lực lượng lao động có tay nghề cũng cần chú trọng đến lực
lượng lao động có tay nghề thấp hoặc không có nghề (chiếm tỷ lệ tương đối
cao), bằng cách khuyến khích những doanh nghiệp tạo được nhiều việc làm
cho các đối tượng lao động, khôi phục những ngành nghề truyền thống sử
dụng lao động tại chỗ.
- Phát triển kinh tế xã hội phải mang tính hài hòa, tạo ra sự chuyển
biến tích cực giữa các thành phần kinh tế, các ngành, đa dạng hóa các lĩnh
vực sản xuất kinh doanh. Việc này đòi hỏi phải có một cơ cấu lao động phù
hợp với cơ cấu kinh tế cả về số lượng và chất lượng. Một nền kinh tế phát
triển thì nhu cầu và khả năng tạo việc làm cho người lao động cũng tăng lên ở
mọi lĩnh vực sản xuất và kinh doanh, từ đó dần hình thành nên thị trường lao
động theo đúng nghĩa, thống nhất và linh hoạt. Đối với một thị trường lao
động, việc cung cấp thông tin về cung cầu lao động là vô cùng quan trọng;
đồng thời cần có một hệ thống về luật pháp hoàn chỉnh để bảo vệ quyền lợi cả
hai bên trong việc cung và cầu lao động, một xã hội giàu mạnh là tập hợp của
những cá thể giàu mạnh trong một môi trường bình đẳng, công bằng. Trong
đó, đặc biệt coi trọng việc làm giàu chính đáng của các tập thể, cá nhân.
- Giải quyết việc làm phải hướng vào mục tiêu chống thất nghiệp,
khắc phục tình trạng thiếu việc làm và nâng cao hiệu quả việc làm, tăng thu
nhập. Về mặt kinh tế giảm thất nghiệp cũng có nghĩa là giảm sự lãng phí
nguồn nhân lực, về mặt xã hội thì nó góp phần làm ổn định xã hội, chống các
hành vi tiêu cực nảy sinh do thất nghiệp.
83
3.1.4. Giải quyết việc làm phải đảm bảo sự kết hợp thống nhất
giữa phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội
Cũng như phân tích ở trên, phát triển kinh tế phải phù hợp với giải
quyết các vấn đề xã hội, đây cũng là mối quan hệ biện chứng, có mối quan hệ
mật thiết, có tính quy luật với nhau. Giải quyết được các vấn đề về kinh tế là
tiền đề để phát triển một xã hội, không thể có một xã hội ổn định khi nền kinh
tế không ổn định; tuy nhiên lịch sử cũng đã chứng minh, nếu phát triển kinh tế
quá nhanh (phát triển nóng) thì cũng không tốt, do vậy mọi giải pháp hay chính
sách kinh tế đều mang tính chất và ý nghĩa xã hội. Đối tượng tác động của nó
là xã hội và con người. Cũng như vậy, không có một giải pháp hay chính sách
xã hội nào lại không dựa trên những cơ sở vật chất, kinh tế thực thi.
Các vấn đề xã hội góp phần làm kích thích hoặc hạn chế phát triển
kinh tế, một xã hội không ổn định thì việc phát triển kinh tế là tương đối khó
khăn, không đồng nhất.
3.2. MỤC TIÊU VÀ PHƢƠNG HƢỚNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM Ở HÀ TĨNH TRONG
QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA GIAI ĐOẠN 2008 - 2013
Căn cứ vào đặc điểm về nguồn lực tài nguyên thiên nhiên, dân số,
kinh tế, xã hội, giáo dục, môi trường trong và ngoài nước, những kinh nghiệm
được đúc rút từ vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động ở một số tỉnh
trong nước và một số quốc gia, tỉnh Hà Tĩnh đã đặt ra được mục tiêu và
phương hướng giải quyết việc làm trong thời gian tới. Những mục tiêu này
gắn liền trong bối cảnh Hà Tĩnh đang đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, từng bước đưa Hà Tĩnh thoát khỏi tỉnh nghèo, do đó Hà Tĩnh
cần phải đạt được một số mục tiêu và giải pháp như sau:
3.2.1. Mục tiêu
3.2.1.1. Mục tiêu chung
Tiếp tục đẩy mạnh việc công nghiệp hóa, hiện đại hóa vào tất cả các
lĩnh vực trong đời sống kinh tế, xã hội, gắn phát triển kinh tế với việc giải
84
quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo mang tính bền vững, đặc biệt là ở vùng
nông thôn, miền núi có nền kinh tế khó khăn; xây dựng nền sản xuất hàng
hóa phát triển toàn diện, góp phần tạo nhiều việc làm cho người lao động,
đảm bảo dân chủ, công bằng, tiến bộ xã hội, ổn định chính trị, quốc phòng
an ninh vững mạnh, từ đó tạo tiền đề cho việc xóa đói giảm nghèo lâu dài và
bền vững.
3.2.1.2. Mục tiêu cụ thể đến 2013
Tạo việc làm mới bình quân hàng năm từ 35 - 45 nghìn lao động,
trong đó:
- Tạo việc làm tại chỗ thông qua phát triển kinh tế, xã hội, phát triển
mở rộng các khu công nghiệp tập trung, thực hiện chính sách ưu đãi để thu
hút đầu tư,
- Đưa lao động đi làm việc ở ngoại tỉnh: Bình quân từ 5 - 7 nghìn
người/năm.
- Xuất khẩu lao động đi nước ngoài, từ 5 - 6 nghìn người.
- Nâng cao chất lượng lao động thông qua việc hướng nghiệp, dạy
nghề, đào tạo và đào tạo lại 25 - 30% số lao động vào năm 2010.
- Nâng cao tỷ trọng lao động trong công nghiệp và tiểu thủ công
nghiệp, thương mại, dịch vụ từ 25,48% năm 2005 lên 50% vào năm 2010.
- Giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp, nông thôn từ 80% năm 2005
xuống 40% vào năm 2010.
- Giảm tỷ lệ lao động thất nghiệp ở thành thị từ 3,75% năm 2005
xuống 3.2% năm 2010.
- Tăng thời gian sử dụng thời gian lao động hữu ích trong nông nghiệp
nông thôn từ 84,47% năm 2005 lên 87% năm 2010.
- Đảm bảo thực hiện tốt pháp luật lao động và các chính sách cho
người lao động, hài hòa lợi ích nhà nước, doanh nghiệp và người lao động
85
3.2.2. Phƣơng hƣớng giải quyết việc làm cho ngƣời lao động ở Hà
Tĩnh giai đoạn 2008-2013
Với những phân tích ở trên, trong thời gian tới, một mặt Hà Tĩnh vẫn
tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; mặt khác phải xây dựng
những kế hoạch giải quyết việc làm cho người lao động trong từng giai đoạn:
ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Các chính sách việc làm ở tỉnh Hà Tĩnh thể
hiện ở các hướng sau đây.
3.2.2.1. Phát triển các thành phần kinh tế tạo điều kiện mở rộng
việc làm
Đại hội Tỉnh Đảng bộ lần thứ 16 đã đề ra những chủ trương phát triển
kinh tế: Tập trung mọi nguồn lực tạo bước phát triển đột phá và bền vững về
công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, đẩy mạnh tiến trình đô thị hóa, tiếp tục
phát triển nông nghiệp, nông thôn toàn diện theo hướng sản xuất hàng hóa,
đẩy mạnh việc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao hiệu quả các hoạt
động thương mại, du lịch, dịch vụ và tài chính, chủ động tích cực hội nhập
kinh tế khu vực và quốc tế. Tạo điều kiện tối đa cho các thành phần kinh tế
phát triển, kêu gọi xã hội hóa đầu tư, đặc biệt là những lĩnh vực có thể tạo
thêm nhiều việc làm mới, chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho phù hợp với đặc
điểm từng vùng, từng khu vực, giảm tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ sinh, tỷ lệ đói
nghèo. Hoàn thiện dần hệ thống cơ sở hạ tầng, thúc đẩy tiến độ một số dự án
quan trọng, nâng cao hiệu quả giáo dục, định hướng nghề nghiệp, khoa học,
công nghệ theo hướng Công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nâng cao chất lượng,
quy mô của các đơn vị dạy nghề, hướng nghiệp, các trung tâm giới thiệu việc
làm. Thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, giảm dần các tệ nạn xã hội.
3.2.2.2. Mở rộng hợp tác quốc tế - xuất khẩu lao động
Việc làm và giải quyết việc là vấn đề chung của mỗi xã hội, mỗi vùng,
mỗi quốc gia, khu vực đều có những đặc điểm riêng, căn cứ vào đó sẽ có
những phương án giải quyết tối ưu nhất. Hà Tĩnh là một tỉnh có những tiềm
năng và lợi thế để phát triển kinh tế rất cao, đang trong quá trình công nghiệp
86
hóa, hiện đại hóa, nhưng số lượng người thất nghiệp tương đối cao, điều này
cho thấy những cách thức và biện pháp giải quyết vấn đề này chưa hiệu quả.
Trong những năm vừa qua, tỉnh cũng đã đưa ra được nhiều hướng giải quyết,
trong đó có việc tổ chức, mở rộng hợp tác quốc tế đưa lao động đi xuất khẩu ở
nước ngoài.
Khi Hà Tĩnh đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì có một bộ
phận nhân lực bị mất việc làm do bị mất đất, mất công cụ sản xuất, hoặc
không đáp ứng được yêu cầu của công việc mới. Hà Tĩnh là tỉnh có nguồn lao
động trẻ, nhưng bị hạn chế nhiều về trình độ và kinh nghiệm làm việc, thiếu
nguồn thông tin chính thống trong việc xuất khẩu lao động; mặt khác chính
quyền cũng chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc tổ chức, chưa quản lý một
cách có hiệu quả hệ thống thông tin, dẫn đến cung và cầu không gặp nhau.
Trong thời gian tới, Hà Tĩnh cần coi trọng việc xuất khẩu lao động
ngoài nước và ngoài địa bàn của tỉnh. Để làm tốt được việc này, Hà Tĩnh cần
phải xây dựng chiến lược về dân số, về đào tạo, hướng nghiệp cụ thể; cần
xây dựng một hệ thống thông tin chuẩn, nâng cao hiệu quả quản lý trong
lĩnh vực này. Với yêu cầu người lao động có tay nghề, trình độ chuyên môn,
tác phong làm việc, ý thức chấp hành kỷ luật, Hà Tĩnh cũng cần có chính
sách hỗ trợ lao động đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài bằng hình thức cho
vay tiền lãi suất thấp…
3.2.2.3. Phát triển nguồn nhân lực có trình độ đáp ứng yêu cầu đa
dạng công việc
Đây là một thách thức không chỉ của Hà Tĩnh mà của tất cả các tỉnh
trong cả nước, để giải quyết được việc này cần phải có một chủ trương chính
sách đầu tư đúng đắn. Trong bối cảnh Hà Tĩnh đang đẩy mạnh việc Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa thì yêu cầu về lao động có tay nghề, trình độ là một
tất yếu. Kinh nghiệm của các nước cho thấy để giải quyết được việc này phải
mất từ 3 - 10 năm. Nhưng hiệu quả của việc này thì rất cao, một lao động có
trình độ làm việc có hiệu quả cao gấp nhiều lần lao động không có trình độ.
87
3.2.2.4. Xây dựng chính sách phù hợp, hoàn thiện và mở thêm các
đơn vị đào tạo, giới thiệu việc làm, hướng nghiệp, dạy nghề
Như đã phân tích ở trên, một trong những nguyên nhân của việc thất
nghiệp, thiếu việc làm là cung và cầu chưa gặp nhau. Hà Tĩnh cần phải có
những chính sách phù hợp trong việc quy hoạch các khu kinh tế theo điều
kiện của từng vùng nhằm phát huy tối đa lợi thế của vùng đó. Chính sách dân
số phải làm quyết liệt, không để tăng dân số cao, khuyến khích các thành
phần kinh tế phát triển để tạo thêm nhiều việc làm, có chính sách hỗ trợ trong
việc xuất khẩu lao động.
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống các cơ sở đào tạo, hướng nghiệp,
dạy nghề, giới thiệu việc làm, khuyến khích xã hội hóa trong lĩnh vực này.
Tuy nhiên đây là một lĩnh vực nhạy cảm, xảy ra nhiều vấn đề như lừa đảo,
cần phải có sự giám sát của chính quyền. Hiện tại, Hà Tĩnh có khoảng hơn
500 đơn vị, tổ chức hoạt động trong lĩnh vực này, trong thời gian vừa qua hệ
thống này cũng đã phát huy được hiệu quả, nhưng cũng cần được hoàn thiện
thêm để hoạt động ngày một tốt hơn.
- Cơ chế chính sách, chủ trương cũng là một vấn đề vô cùng quan
trọng, đó là cơ sở để triển khai thực hiện các chính sách cụ thể. Nếu một cơ
chế đúng có những tác động tích cực đến việc giải quyết vấn đề, ngược lại
một cơ chế không đúng sẽ làm ảnh hưởng tiêu cực đến toàn dân. Vấn đề giải
quyết việc làm không phải nhiệm vụ của riêng ai nên rất cần có sự chỉ đạo
đúng đắn.
Để đáp ứng nguồn nhân lực cho các chương trình mục tiêu kinh tế - xã
hội của tỉnh và cá c chương trì nh , dự á n trọ ng điể m củ a Trung ương trên đị a
bàn, số lao động qua đào tạo nghề tăng bình quân hàng năm phải đạ t trên
20.000 người; Nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo đến năm 2010 đạt 40% trong
đó lao động qua đào tạo nghề đạt 25% cụ thể:
- Năm 2008 đào tạo, bồi dưỡng 25.000 người, trong đó Cao đẳng
nghề, Trung cấp nghề: 4.500 người, Sơ cấp nghề 20.500 người;
88
- Năm 2009 đào tạo, bồi dưỡng 22.000 người, trong đó Cao đẳng
nghề, Trung cấp nghề: 5.500 người, Sơ cấp nghề 16.500 người;
- Năm 2010 đào tạo, bồi dưỡng 20.000 người, trong đó Cao đẳng
nghề, Trung cấp nghề: 7.500 người, Sơ cấp nghề 12.500 người;
- Năm 2015 dự kiến đào tạo cho 20.000 người, trong đó: Cao Đẳng
nghề, Trung cấp nghề 12.000 người, sơ cấp nghề 8.000 người;
Năm 2020 dự kiến đào tạo cho 21.000 người, trong đó: Cao Đẳng
nghề, Trung cấp nghề 15.000 người, sơ cấp nghề 6.000 người.
3.2.2.5. Xây dựng chính sách phát triển và thu hút nguồn nhân lực
Qua phân tích ở trên cho thấy, việc phân bố nhân lực không đồng đều
giữa các vùng miền, lực lượng lao động tập trung chủ yếu ở khu vực nông
thôn, lao động trong khu vực hành chính còn cao, nhân lực có trình độ để đáp
ứng nhu cầu công việc không nhiều. Thực tế cho thấy, người dân Hà Tĩnh cần
cù chịu khó, ham học hỏi, nhưng tư duy kinh tế còn lạc hậu, bảo thủ, phần lớn
số lượng người được đào tạo bài bản, có trình độ cao không về tỉnh làm việc
mà đi làm việc ở nơi khác có điều kiện tốt hơn. Điều này dẫn đến Hà Tĩnh
thiếu một đội ngũ nhân lực có trình độ cao, những nhà quản lý giỏi. Trong khi
Hà Tĩnh đang đẩy mạnh việc công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì đây sẽ là một
hạn chế, điều này đặt ra vấn đề cho các nhà lãnh đạo, hoạch định chính sách
của tỉnh Hà Tĩnh cần phải suy nghĩ để có chính sách, biện pháp hỗ trợ, kêu
gọi nhân tài về làm việc ở tỉnh.
3.3. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CÓ HIỆU QUẢ
Ở TỈNH HÀ TĨNH TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
Qua phân tích ở trên, để giải quyết được vấn đề việc làm trong điều
kiện Công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Hà Tĩnh cần phải có những giải pháp cụ
thể, cơ bản như giảm sức ép về cung lao động, tăng cường lao đồng có chất
lượng có trình độ, xây dựng cơ chế chính sách để kích thích cầu lao động...
cụ thể:
89
3.3.1. Nhóm giải pháp về dân số và kế hoạch hóa gia đình (giảm sức
ép về cung lao động)
Đây là vấn đề không chỉ riêng của Hà Tĩnh mà của mỗi quốc gia đang
phát triển, sự mất cân bằng về cung cầu lao động là một thách thức trong việc
phát triển kinh tế, xã hội. Hà Tĩnh cần đưa ra những mục tiêu và biện pháp để
giải quyết vấn đề này.
3.3.1.1. Mục tiêu
- Duy trì và giảm tỷ lệ sinh, đặc biệt là tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên ở
vùng sâu, vùng xa, vùng biển, vùng hạn chế về nhận thức, nhằm đạt mức sinh
thay thế bình quân trên toàn tỉnh vào năm 2007. Từng bước giải quyết vấn đề
quy mô dân số, cơ cấu dân số và phân bố dân cư phù hợp với sự phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh vào năm 2010.
- Nâng cao chất lượng dân số về thể chất và trí tuệ, góp phần phấn đấu
đạt chỉ số phát triển con người (HDI) ở mức trung bình tiên tiến trên thế giới
vào năm 2010 đạt 0,7 - 0,75 điểm.
Một số chỉ tiêu kế hoạch hóa gia đình cần đạt được vào năm 2010
Bảng 3.1: Chỉ tiêu kế hoạch hóa gia đình năm 2010
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
- Tỷ suất sinh thô
13,12%
- Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên
0,862%
- Tổng tỷ suất sinh (trung bình của một bà mẹ)
2,1 con/bà mẹ
- Tỷ kệ các cặp vợ chồng sử dụng các biện pháp tránh thai
78%
0,7-0,75 điểm
- Chỉ số phát triển con người
71 tuổi
- Tuổi thọ trung bình
Nguồn: [31].
3.3.1.2. Giải pháp
* Nâng cao năng lực lãnh đạo và quản lý
- Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền đối với
công tác dân số qua việc ban hành các nghị quyết, chỉ thị, văn bản quy phạm
90
pháp luật khác, cần phải có những chế tài mạnh để ngăn chặn tình trạng sinh
con thứ ba trở lên. Đưa ra những mục tiêu và cách làm cụ thể, phù hợp với đặc
điểm của mỗi địa phương, mỗi ngành. Các chỉ tiêu về dân số cần được lồng
ghép vào các kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế, xã hội ở các ngành, các
địa phương, coi đây là một tiêu chí để đánh giá việc hoàn thành nhiệm vụ và thi
đua của mỗi địa phương, mỗi huyện, mỗi xã.
- Phải quan tâm, sát sao hơn nữa về vấn đề dân số một số khu vực:
Nông thôn, miền núi, vùng kém phát triển...
- Nâng cao nhận thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ làm công tác
dân số từ xã đến tỉnh, nâng cao chất lượng cán bộ, đào tạo và bồi dưỡng cán
bộ dân số theo hướng chuyên trách.
- Thực hiện đầy đủ cơ chế quản lý theo ngành, lãnh thổ, xây dựng kế
hoạch từ dưới lên theo chương trình mục tiêu để các địa phương chủ động bố
trí, huy động nguồn nhân lực, điều hành kế hoạch phù hợp với đặc điểm, điều
kiện của từng địa phương theo mục tiêu chung.
* Tăng cường truyền thông giáo dục
Đây là một trong những giải pháp cơ bản nhằm đưa những thông tin
có ích về công tác dân số đến toàn dân, thay đổi nhận thức và hiểu biết của
nhân dân về công tác dân số kế hoạch hóa gia đình: Thay đổi quan niệm về
sinh con trai, con gái, về việc sinh con thứ ba trở lên, thông tin về các biện
pháp tránh thai, đưa các thông tin về giới tính và bình đẳng giới vào tuyên
truyền trong nhà trường. Mở rộng và nâng cao chất lượng các hình thức giáo
dục dân số, sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình.
* Phát triển đa dạng và nâng cao hơn nữa chất lượng của các cơ sở
chăm sóc sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình
Nghiên cứu, lựa chọn các mô hình cung ứng dịch vụ thích hợp với
từng địa phương, từng nhóm đối tượng, chú trọng đào tạo nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, trang bị đầy đủ các phương tiện,
thiết bị hiện đại đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của công tác dân số kế
hoạch hóa gia đình.
91
* Nâng cao trình độ dân trí, tăng cường vai trò của gia đình và thực
hiện bình đẳng giới nhằm góp phần nâng cao chất lượng dân số về thể chất
và tinh thần
- Tạo môi trường thuận lợi cho việc nâng cao trình độ dân trí thông qua
việc tạo điều kiện để mọi người dân tiếp cận được với các thông tin khoa học, kỹ
thuật và công nghệ tiên tiến trong và ngoài nước, giải pháp này cần có sự quan
tâm của lãnh đạo và sự vào cuộc của toàn thể xã hội. Tất cả các cá nhân phải ý
thức trong việc này. Phát triển quy mô và nâng cao chất lượng trong giáo dục
phổ thông, các trường đào tạo và dạy nghề để nâng cao trình độ học vấn, trình độ
chuyên môn kỹ thuật,những hiểu biết về văn hóa- xã hội của mọi người.
- Tạo môi trường pháp lý để đảm bảo bình đẳng giới. Tuyên truyền
hiểu biết cho mọi người dân về quyền con người, quyền bình đẳng, thay đổi
cách nhận thức tư duy về quan niệm con trai, con gái, trọng nam khinh nữ.
* Phải có kế hoạch để tăng cường về chất lượng và số lượng đội ngũ
cán bộ làm công tác dân số kế hoạch hóa gia đình, có kinh phí để thực hiện
công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình
Để tuyên truyền và thực hiện được công tác kế hoạch hóa gia đình cần
có đội ngũ cán bộ chuyên trách đủ về số lượng từ cơ sở đến trung ương, đáp
ứng được về mặt chất lượng, cần phải có đủ kinh phí để thực hiện được việc
này: chi trả cho đội ngũ cán bộ làm công tác dân số, chi trả cho việc tuyên
truyền thông tin… các nguồn kinh phí để thực hiện được công việc này phải
được lấy từ nhiều nguồn: Trung ương cấp, trích ngân sách của địa phương,
viện trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
3.3.2. Nhóm giải pháp về phát triển dạy nghề và nâng cao chất
lƣợng nguồn nhân lực thông qua việc đào tạo chuyên môn cho ngƣời lao
động nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng lao động có tay nghề. Đào tạo nghề
gắn liền với nhu cầu xã hội
3.3.2.1. Nhiệm vụ, mục tiêu
Trong giai đoạn 2008-2013 tập trung rà soát, đánh giá số lượng, hiệu
quả của các cơ sở đào tạo, dạy nghề trên cơ sở đó xây dựng phương án quy
92
hoạch mạng lưới cơ sở đào tạo nghề phù hợp với yêu cầu phát triển nguồn
nhân lực của từng ngành, địa phương, vùng kinh tế. Tăng quy mô và chất
lượng đào tạo của các ngành nghề, cán bộ phục vụ cho công tác đào tạo dạy
nghề. Ưu tiên cho các ngành nghề sử dụng lao động địa phương, những ngành
nghề truyền thống. Căn cứ vào đặc điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa của
từng vùng để đào tạo đúng người, đúng việc, trách đào tạo tràn lan dẫn đến
tình trạng vừa thừa vừa thiếu rất lãng phí. Tăng cường đào tạo công nhân lành
nghề đáp ứng yêu cầu công việc cho các khu công nghiệp, khu chế xuất: Khu
công nghiệp Vũng Áng, khai thác mỏ sắt Thạch Khê, khu liên hiệp cán thép,
nhà máy nhiệt điện Vũng Áng, thủy điện Ngàn Trươi. Để đáp ứng nguồn nhân
lực cho các chương trình dự án trên, thì số lao động qua đào tạo nghề tăng
bình quân hàng năm phải là 2000-3000 người. Nâng tỷ lệ lao động qua đào
tạo nghề đến năm 2010 đạt 23-25%, cụ thể như sau:
Bảng 3.2: Nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề
Đào tạo dài hạn (ngƣời)
Đào tạo nghề, ngắn hạn (ngƣời)
Năm
7500
25.000
2008
8200
28.000
2009
10.000
32.000
2010
Nguồn: [40].
Biểu đồ 3.1: Nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề
Phát triển nhanh quy mô và chất lượng các cơ sở đào tạo nghề. Xây
dựng cơ chế xã hội hóa đào tạo, tạo điều kiện để các thành phần trong xã hội
93
có thể tham gia phát triển dạy nghề. Phấn đấu mỗi quận, huyện trung tâm có
từ 2-5 cơ sở đào tạo, dạy nghề có uy tín. Ưu tiên thành lập các cơ sở dạy nghề
ngoài công lập, vùng núi, vùng kinh tế khó khăn.
Căn cứ trên định hướng phát triển của tỉnh Hà Tĩnh trong việc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, đào tạo nghề phải mang tính định hướng, có ưu tiên.
Phấn đấu đến năm 2010 có 55 cơ sở dạy nghề: Trong đó có 14 trường Cao
đẳng và trung cấp dạy nghề (công lập 10 trường, ngoài công lập 04 trường);
05 trường Cao đẳng và Trung học chuyên nghiệp có dạy nghề; 28 trung tâm
dạy nghề (20 trung tâm công lập và 8 ngoài công lập); có 20 trung tâm dịch
vụ việc làm (10 trung tâm công lập và 10 trung tâm ngoài công lập). Xây
dựng hệ thống các cơ sở vệ tinh cho các trường, các trung tâm để đáp ứng
thông tin cung cầu trong việc đào tạo, dạy nghề, giới thiệu việc làm. Khôi
phục các ngành nghề truyền thống: các làng, xã có làng nghề truyền thống có
hiệu quả cần được khôi phục và phát triển vì đây là hướng giải quyết công
việc cho các đối tượng trong thời kỳ nông nhàn.
3.3.2.2. Các giải pháp
Để thực hiện được những nhiệm vụ và mục tiêu đã nêu ở trên, trong bối
cảnh nền kinh tế cả nước đang hội nhập, Hà Tĩnh đang trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, tỉnh Hà Tĩnh phải tiến hành các giải pháp đồng bộ sau đây:
* Có cơ chế chính sách ưu tiên, khuyến khích những cơ sở đào tạo dạy
nghề, giới thiệu việc làm…;củng cố, sắp xếp lại các cơ sở dạy nghề trên toàn tỉnh
- Cơ chế, chính sách
Tỉnh Hà Tĩnh phải có cơ chế để tạo điều kiện khuyến khích những cơ
sở đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho nhân dân; lập phương án khảo sát,
điều tra nhu cầu học nghề căn cứ vào định hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa của tỉnh. Trên cơ sở những kết quả đó, tỉnh Hà Tĩnh phải xây dựng kế
hoạch chiến lược đào tạo nghề trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn theo
hướng: từng bước quy mô, hiện đại, đa dạng, chất lượng, định hướng sát nhu
cầu phát triển về thị trường lao động trong và ngoài nước.
94
+ Thực hiện và áp dụng cơ chế chính sách theo hướng thu hút đầu tư
tạo điều kiện cho các cơ sở dạy nghề phát triển ổn định lâu dài, bền vững có
định hướng trên cơ sở chiến lược phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh như:
Chính sách ưu tiên ngân sách nhà nước cho dạy nghề, chính sách huy động
vốn và tín dụng, chính sách ưu tiên cho thuê đất, miễn thu thuế. Áp dụng bình
đẳng các chính sách giữa các cơ sở dạy nghề, giới thiệu việc làm trong và
ngoài công lập. Chính sách hỗ trợ tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động
có cơ hội học nghề và tìm kiếm việc làm. Mạnh dạn tạo cơ chế mở trong đào
tạo nghề chất lượng cao gắn với tạo và tìm kiếm việc làm, xuất khẩu lao động
trong và ngoài nước.
+ Thực hiện chính sách khuyến khích và động viên các nhà quản lý có
kinh nghiệm, giáo viên giỏi, thợ lành nghề, các nghệ nhân tham gia hoạt động
ở các cơ sở đào tạo nghề. Chính sách hỗ trợ cấp học phí hoặc học bổng cho
học sinh, sinh viên là những đối tượng chính sách, những vùng kinh tế khó
khăn, những người nghèo, những vùng tái định cư, bộ đội xuất ngũ…
+ Tổ chức thường xuyên các phong trào thi đua lao động, tay nghề
giỏi, giáo viên giỏi. Có chính sách động viên khen thưởng thỏa đáng và tôn
vinh kịp thời những người đạt tiêu chuẩn thợ giỏi, giáo viên giỏi các cấp.
- Củng cố, sắp xếp lại các cơ sở dạy nghề
+ Xây dựng, nâng cấp thêm một số trường nghề trọng điểm mới:
Trường dạy nghề kỹ thuật Việt Đức lên thành trường cao đẳng nghề; Trung
tâm dạy nghề Hà Tĩnh thành trường trung cấp nghề. Các trung tâm dạy nghề,
giới thiệu việc làm cho các đối tượng trong đó có người tàn tật. Trung tâm kỹ
thuật hướng nghiệp dạy nghề ở các huyện: Cẩm Xuyên, Can Lộc, Hương Sơn,
Thạch Hà, Đức Thọ và Hương Khê thành các trung tâm dạy nghề trọng điểm.
Đầu tư xây dựng Trường Kỹ nghệ Hà Tĩnh, Trung tâm dạy nghề và giới thiệu
việc làm cho người tàn tật ở Hà Tĩnh theo đề án đã được phê duyệt. Xúc tiến
nhanh việc thành lập đề án xây dựng và thẩm định thành lập trường nghề
huyện Kỳ Anh và trường dạy nghề huyện Can Lộc.
95
+ Quy hoạch mạng lưới dạy nghề ở các vùng kinh tế trọng điểm, các
khu công nghiệp. Các huyện thị xã đều phải xây dựng các trung tâm dạy nghề
cấp huyện. Khuyến khích và tạo điều kiện để xã hội hóa trong việc thành lập
trường, cơ sở đào tạo và dạy nghề ngoài công lập, đặc biệt là ở các địa
phương miền núi, vùng kinh tế khó khăn. Quy hoạch mạng lưới cơ sở dạy
nghề trên cơ sở chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh, đặc biệt là phải
bám sát vào chủ trương hiện đại hóa, công nghiệp hóa của tỉnh. Bám sát vào
sự chuyển dịch cơ cấu lao động giữa các vùng kinh tế, nhu cầu nhân lực lao
động của các vùng kinh tế mở, khu công nghiệp. Đa dạng các loại hình đào
tạo nghề và liên thông ở 3 cấp: Cao đẳng nghề, trung cấp nghề, sơ cấp nghề,
đào tạo tại chỗ, liên kết đào tạo…
* Tăng cường cơ sở vật chất, bổ sung thiết bị dạy nghề
Căn cứ vào định hướng dạy nghề của Tỉnh trong điều kiện phát triển
nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất, làng nghề…, cần tập trung nâng cấp các
trường dạy nghề cấp tỉnh, các trung tâm dạy nghề cấp huyện, xây dựng và
phát triển các cơ sở dạy nghề trọng điểm. Tranh thủ sự đầu tư, hỗ trợ của Nhà
nước, đồng thời cần huy động mọi nguồn lực xã hội hóa trong việc dạy nghề,
đầu tư cơ sở vật chất trang thiết bị, đổi mới trang thiết bị, đồ dùng, phương tiện
dạy nghề. Phối hợp với các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất để sử dụng trang
thiết bị công nghệ kỹ thuật dạy và thực tập nghề. Đẩy nhanh việc đưa công
nghệ thông tin, công nghệ tự động hóa và trợ giúp giảng dạy của giáo viên và
học tập của học sinh. Có kế hoạch đầu tư ngân sách xây dựng cơ sở vật chất,
trang thiết bị dạy nghề phù hợp, đủ về số lượng và đảm bảo về chất lượng.
* Tăng cường về số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ, giáo viên
Căn cứ theo kế hoạch, định hướng phát triển các cơ sở đào tạo nghề,
trên cơ sở đội ngũ cán bộ, giáo viên hiện có, phải tiến hành đánh giá, phân
loại để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, đảm bảo cơ cấu, cán
bộ, giáo viên. Tập trung bồi dưỡng chuyên môn, nâng cao trình độ chính trị,
ngoại ngữ, tin học, nghiệp vụ và kỹ năng sư phạm. Cập nhật kiến thức kỹ
thuật, công nghệ mới cho đội ngũ giáo viên dạy nghề. Chọn lọc những giáo
96
viên có đáp ứng đủ yêu cầu công việc, nếu không đáp ứng được thì sắp xếp
tinh giảm biên chế. Mạnh dạn đổi mới lãnh đạo và đội ngũ giáo viên, có cơ
chế, chính sách thu hút giáo viên giỏi, có kinh nghiệm, nghệ nhân, thợ giỏi,
cán bộ quản lý ở các cơ sở dạy nghề. Nâng cao hiệu quả công tác, trình độ
chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ sư phạm. Thu hút cán bộ có trình độ chuyên
môn tốt làm kiêm nhiệm, đáp ứng dần yêu cầu đào tạo trong bối cảnh cả tỉnh
đang chuyển dịch sang công nghiệp dịch vụ.
* Tăng cường quản lý nhà nước về đào tạo nghề, giới thiệu việc làm
Trong những năm qua, hiệu quả của các cơ sở đào tạo nghề, giới thiệu
việc làm là rất cao, bên cạnh đó cũng có rất nhiều vấn đề phát sinh trong quá
trình triển khai việc đào tạo nghề và giới thiệu việc làm như lừa đảo, không
minh bạch.
- Ngành Lao động - Thương binh và Xã hội phải phối hợp với các cơ
quan chức năng liên quan hướng dẫn chỉ đạo, thanh - kiểm tra việc thực hiện
công tác đào tạo nghề để kịp thời chấn chỉnh những tồn tại, giúp các cơ sở
dạy nghề từng bước khắc phục khó khăn để thực hiện tốt chương trình dạy
nghề hàng năm. Phòng Nội vụ- Lao động - Thương binh và Xã hội huyện, thị
xã bố trí cán bộ theo dõi, quản lý công tác đào tạo nghề và có trách nhiệm
giúp Ủy ban nhân dân huyện thực hiện các chức năng quản lý nhà nước và
đào tạo nghề trên địa bàn địa phương. Phân cấp quản lý hoạt động dạy nghề
theo hướng tăng quyền chủ động, trách nhiệm của địa phương và các cơ sở
dạy nghề nhất là các đơn vị cấp huyện và ngoài công lập.
- Nắm chắc tình hình hoạt động đào tạo nghề thông qua việc thực hiện
các chính sách, chế độ, điều lệ, quy chế hoạt động, nội dung chương trình,
chất lượng đào tạo. Nhân rộng các điển hình tiên tiến dạy tốt, học tốt để thi
đua học tập, phát hiện các quy định chưa hợp lý về đào tạo nghề để đề nghị bổ
sung, sửa đổi. Tăng cường hợp tác trong lĩnh vực đào tạo nghề giữa các
trường đào tạo nghề, các cơ sở dạy nghề trong tỉnh, và các cơ sở đào tạo nghề
ngoài tỉnh. Mở rộng khả năng hợp tác quốc tế về đào tạo và dạy nghề. Tăng
cường tính định hướng, liên thông giữa các bậc đào tạo nghề. Tranh thủ sự
97
giúp đỡ của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; Tổng cục dạy nghề, các tổ
chức kinh tế, xã hội; tiếp nhận các dự án đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất kỹ
thuật, các dự án hỗ trợ kỹ thuật cho các cơ sở dạy nghề trong tỉnh.
- Nghiên cứu, điều tra khảo sát nhu cầu lao động của từng ngành nghề,
từng địa phương, từng khu vực, gắn đào tạo với thực tiễn, với nhu cầu xã hội,
tránh trường hợp đào tạo tràn lan, không thực tế, gây lãng phí.
3.3.3. Nhóm giải pháp tăng cầu lao động
3.3.3.1. Tạo cơ chế, chính sách khuyến khích các thành phần kinh
tế phát triển, đặc biệt là những ngành nghề có thể tạo ra được nhiều việc
làm, phù hợp với tình hình của vùng, của địa phương
Tỉnh Hà Tĩnh cần phải có cơ chế, chính sách phù hợp với từng vùng,
từng địa phương để khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển với mục
tiêu là tạo ra được nhiều việc làm cho người lao động, không phân biệt các
thành phần kinh tế. Kết quả những năm vừa qua cho thấy, tỷ lệ số người có
việc làm ở khu vực ngoài quốc doanh chiếm 73%, và theo hướng tăng lên từ 2
- 4% năm. Đây là một hướng rất tốt, giảm sức ép cho nhà nước về kinh phí,
quản lý và các vấn đề khác của người lao động.
* Mục tiêu: Tỉnh Hà Tĩnh cần đưa ra mục tiêu từ năm đến năm 2013
với những số liệu cụ thể trong việc mở rộng các thành phần kinh tế phát triển
như sau:
Bảng 3.3: Mục tiêu mở rộng các thành phần kinh tế tới năm 2013
Năm
Số doanh nghiệp nhà nƣớc (%) Số doanh nghiệp ngoài quốc doanh (%)
2009
25,4
74,6
2010
24,7
75,3
2011
23,5
76,5
2012
22,8
77,2
2013
21,5
78,5
Nguồn: [32].
98
Qua bảng thống kê trên ta thấy, xu hướng chuyển dịch cơ cấu thành
phần kinh tế sẽ chuyển từ quốc doanh sang ngoài quốc doanh, tuy vẫn còn
chậm vì tính đặc thù của tỉnh là chưa có nhiều khu kinh tế, khu chế xuất, khu
công nghiệp. Số lượng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh sẽ chiếm tỷ trọng
lớn trong việc giải quyết việc làm cho người lao động.
* Giải pháp
Để thực hiện được các mục tiêu trên, tỉnh Hà Tĩnh cần phải có những
giải pháp cụ thể như sau:
- Có cơ chế khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào tỉnh: Ưu
đãi về vị trí, về tài chính, thuế suất, cơ sở hạ tầng.
- Giảm bớt các thủ tục hành chính trong việc quản lý doanh nghiệp.
- Tăng cường quảng bá thông tin kêu gọi đầu tư trên các phương tiện
thông tin trong và ngoài nước.
3.3.3.2. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm tạo việc làm cho người lao động
Thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải chú ý mục tiêu nâng cao tỷ
trọng lao động trong các ngành công nghiệp, dịch vụ, giảm tỷ trọng lao động
trong các ngành nông lâm, ngư nghiệp. Từ đó từng bước phân công lại lao
động, tạo thêm nhiều việc làm mới, phù hợp.
* Mục tiêu: Phấn đấu đến năm 2010 cơ cấu GDP của tỉnh như sau:
Biểu đồ 3.2: Giá trị GDP của các ngành năm 2010
99
Lao động trong các ngành được phân bổ như sau: Nâng tỷ trọng lao động
trong công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, thương mại - dịch vụ từ 24,48%
năm 2005 lên 50% năm 2010; giảm tỷ lệ lao động trong ngành Nông - Lâm -
Ngư nghiệp từ 74,52% năm 2005 xuống 50% vào năm 2010, trong đó giảm tỷ
trọng lao động trong nông nghiệp nông thôn từ 80% năm 2005 xuống 40%
năm 2010. Phấn đấu mỗi năm giải quyết việc làm cho khoảng 3 vạn lao động.
* Giải pháp
Trên cơ sở những mục tiêu đã đề ra tỉnh phải có những giải pháp cụ
thể đối với từng ngành trong từng thời điểm như sau:
- Đối với ngành công nghiệp - xây dựng
+ Tập trung mọi nguồn lực tiếp tục xây dựng, triển khai các khu công
nghiệp trọng điểm như khu kinh tế Vũng Áng, khu công nghiệp Gia Lách, khu
công nghiệp Nam Hồng Lĩnh và các cụm công nghiệp, làng nghề. Đặc biệt là
tích cực chuẩn bị các điều kiện để sớm triển khai dự án khai thác mỏ sắt Thạch
Khê, xây dựng khu liên hiệp hợp luyện thép và nhà máy nhiệt điện Vũng Áng.
+ Chú trọng khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp mà tỉnh
có tiềm năng lợi thế như: Công nghiệp Khai khoáng và chế biến khoáng sản
(than Hương Khê, OxitTitan, Thiếc Sơn Kim). Đẩy nhanh công nghiệp sản
xuất vật liệu xây dựng (Cát Thạch Vĩnh làm thủy tinh, đá Granít Hồng
Lĩnh…). Để đáp ứng nhu cầu xây dựng ngày càng nhiều trong tỉnh và hướng
tới có thể xuất khẩu ra các tỉnh lân cận và nước ngoài.
+ Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong các ngành nghề, lĩnh vực, áp
dụng những tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào các mặt trong đời sống xã hội. Lấy
công nghiệp chế biến nông lâm hải sản làm mũi nhọn trong thời gian trước
mắt. Những năm tới cần đầu tư hiện đại hóa công nghệ nhằm nâng cao chất
lượng sản phẩm để có khả năng đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của
nhân dân trong tỉnh và xuất khẩu. Cụ thể:
Xây dựng nhà máy Chè đảm bảo nhu cầu của nội tỉnh và xuất khẩu
với công suất khoảng 1000tấn/ năm.
100
Xây dựng nhà máy Đường (công suất 1000 tấn mía/ngày), nhằm giải
quyết nhu cầu tại chỗ việc làm cho lao động trong tỉnh, đồng thời sử dụng
hiệu quả vùng đất có khả năng trồng mía hiện chưa được khai thác nhiều.
Nhà máy chế biến thịt với công suất 200tấn/năm để từng bước chuyển
dịch cơ cấu chăn nuôi cung cấp cho nhu cầu sử dụng của tỉnh và xuất khẩu,
đồng thời giải quyết được một số lượng việc làm, khuyến khích nông dân
chăn nuôi có hệ thống, đưa tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào trong chăn nuôi để
phát huy hiệu quả cao nhất.
Đầu tư nâng cao nhà máy ươm tơ tằm lên 1000 tấn tơ/năm, tiến tới
xây dựng nhà máy dệt từ tơ để xuất khẩu.
Nâng cấp nhà máy chế biến gỗ và nhựa thông, gỗ là thế mạnh của tỉnh
nhưng việc khai thác và sử dụng còn chủ yếu ở dạng thô nên hiệu quả chưa cao.
Xây dựng nhà máy chế biến bột giấy và các loại giấy.
Nâng cao chất lượng và sản lượng chế biến những sản phẩm lâm sản
như mật ong, hoa quả (Hà Tĩnh có những đặc sản như Bưởi Phúc Trạch, Cam
Hương Sơn, Hồng Thạch Hà…).
Đầu tư những phương tiện hiện đại, nâng cấp hơn nữa hiệu quả hoạt
động của các nhà máy chế biến hải sản. Đồng thời, trang bị thêm năng lực để
đánh bắt hải sản, chủ động nguồn nguyên liệu cho các nhà máy.
Phát triển các làng nghề truyền thống như: Mộc Đức Bình - Đức Thọ,
Thảm Xuân Hộ i- Nghi Xuân, Rèn Trung Lương - Hồng Lĩnh, chiếu cói
Ngèn- Can Lộc…
- Đối với ngành nông - lâm - ngư nghiệp
Chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp theo
hướng sản xuất hàng hóa gắn với phát huy hiệu quả và tiềm năng lợi thế của
từng địa phương, từng vùng.
+ Nông nghiệp
Tăng cường ứng dụng những tiến bộ khoa học, kỹ thuật công nghệ, nhất
là công nghệ tạo năng suất cao, về giống, về chế biến và bảo quản sản phẩm.
101
Phát triển chăn nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, quy hoạch
thành cụm, vùng tập trung, xây dựng mô hình trang trại, đồng thời kết hợp với
chăn nuôi hộ gia đình. Nâng tỷ trọng giá trị sản xuất chăn nuôi trong nông
nghiệp đạt trên 45%, Chú trọng tăng các đàn gia súc lấy thịt, phòng chống các
loại bệnh, nhất là những loại bệnh dịch có xu hướng bùng phát trong những
năm gần đây như lở mồm, long móng, H5N1…
Cần có các chính sách cho vay, ưu đãi đối với các hộ nông dân nghèo
ở vùng sâu, vùng xa.
Đẩy mạnh nâng cấp cơ sở hạ tầng ở nông thôn như: hệ thống giao
thông, thủy lợi…
Phát triển hình thức tín dụng ở nông thôn, tăng cường vai trò của các
doanh nghiệp quốc doanh trong việc cung ứng giống, thuốc trừ sâu và các
biện pháp khoa học, kỹ thuật khác, đồng thời làm đầu mối cho việc tiêu thụ
sản phẩm.
+ Lâm nghiệp
Tăng cường quản lý, bảo vệ tu bổ rừng tự nhiên để tăng vốn rừng, chú
trọng phát triển rừng phòng hộ, rừng đầu nguồn nhằm đảm bảo hệ sinh thái và
phòng chống xói mòn. Xây dựng và phục hồi một số rừng quý có giá trị cao
như lim, gụ…, quy hoạch phát triển, trồng rừng phải đặt trong sự hài hòa lợi ích
của quốc gia, nghiêm cấm mọi hành vi phá hoại, tránh việc khai thác ồ ạt, không
khoa học dẫn đến hiện tượng chảy máu rừng và những hậu quả xấu xảy ra.
Xây dựng hệ thống nhà máy khai thác, chế biến các sản phẩm lâm nghiệp
một cách khoa học, tận dụng được nhân công và những sản phẩm từ rừng.
Xây dựng hệ thống văn bản pháp quy hoàn thiện hơn trong việc quy trách
nhiệm, quyền hạn, nghĩa vụ của ngành kiểm lâm, có biện pháp khuyến khích
người trồng rừng để nâng cao hiệu quả công tác khai thác, bảo vệ và trồng rừng.
Thực hiện chính sách giao khoán rừng cho nông dân, chính phủ hỗ trợ
và có những cơ chế khuyến khích nông dân nhận đất trồng rừng, tự bảo vệ và
bàn giao lại cho nhà nước sau một thời gian nhất định, thực hiện được vấn đề
102
này là giải quyết được cả vấn đề lao động việc làm cho một bộ phận không
nhỏ đồng thời gắn liền được trách nhiệm và nghĩa vụ trong công tác chăm
sóc, bảo vệ rừng của từng người dân.
+ Ngư nghiệp
Hà Tĩnh là tỉnh có bờ biển kéo suốt chiều dài của tỉnh, thủy sản là
nguồn mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho tỉnh, có số lượng lớn lao động làm
việc trong lĩnh vực này. Vì vậy tỉnh cần đầu tư việc đánh bắt, nuôi trồng và
chế biến một cách đồng bộ.
Với những tiến bộ của khoa học kỹ thuật, những phương pháp,
phương tiến tiên tiến được áp dụng và đưa vào khai thác triệt để trong lĩnh
vực này, tỉnh phải có phương án hỗ trợ ngư dân, từng bước nâng cao cơ sở vật
chất, hiện đại hóa phương tiện khai thác đảm bảo khai thác tốt các vùng xa
khơi. Đầu tư cho các đội tàu có thể khai thác xa bờ, dài ngày.
Khai thác tối đa diện tích mặt nước trên cơ sở bảo vệ môi trường,
khuyến khích người dân nuôi trồng hải, đặc sản như tôm, cua.. để cung cấp
nguyên liệu cho ngành chế biến xuất khẩu.
Xây dựng hệ thống sản xuất giống, đáp ứng nhu cầu của việc nuôi
trồng thủy hải sản. Xây dựng các cơ sở dịch vụ như cầu cảng, bến cá, chợ đầu
mối hải sản, củng cố và phát triển thêm hệ thống cơ sở đóng tàu phục vụ cho
công tác chế biến và khai thác.
- Đối với ngành dịch vụ
Với đặc điểm Hà Tĩnh là tỉnh có nhiều tiềm năng du lịch, thương mại
nhưng chưa khai thác được, trong bối cảnh tỉnh đang tiến hành công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, việc gia tăng các ngành dịch vụ có ý nghĩa quan trọng trong
việc thúc đẩy và thu hút đầu tư. Tỉnh phải mở rộng và đa dạng hóa các loại
hình thương mại, xây dựng các trung tâm thương mại, khai thác hệ thống
trung tâm thương mại đã có sẵn. Tập trung vào một số mặt hàng thiết yếu có
ảnh hưởng lớn đến đời sống của nhân dân. Tăng cường giao lưu buôn bán với
các tỉnh lân cận trong nước và một số tỉnh giáp biên giới như Lào, Thái Lan.
103
Tiếp tục đầu tư, nâng cấp, hoàn thiện kết cấu hạ tầng các khu du lịch,
nghỉ mát, nghỉ dưỡng, danh lam thắng cảnh như bãi tắm Thiên Cầm, rừng
nguyên sinh Vũ Quang… các di tích lịch sử, văn hóa, đền thờ ông Hoàng
Mười, Chùa Hương Tích… để thu hút khách đến thăm quan du lịch.
Có cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp trong tỉnh mở rộng liên kết,
hợp tác với các công ty, doanh nghiệp ở ngoài tỉnh để phát triển du lịch, dịch
vụ. Liên kết với các công ty để tổ chức các tour du lịch trong nước và quốc tế,
liên kết đầu tư các loại hình nhà hàng, khách sạn đồng thời hoàn thiện cơ sở
hạ tầng, phát triển các loại hình dịch vụ khác như hàng không, thông tin liên
lạc để phát triển ngành du lịch một cách đồng bộ và có hiệu quả cao.
3.3.4. Hoàn thiện kết cấu hạ tầng tạo điều kiện cho phát triển kinh
tế - xã hội để mở rộng việc làm
Trong điều kiện tỉnh Hà Tĩnh đang đẩy nhanh việc công nghiệp hóa,
hiện đại hóa trong tất cả các lĩnh vực thì việc đẩy nhanh, cải tạo mở rộng hệ
thống cơ sở hạ tầng như đường giao thông, hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống
cấp điện cho nông nghiệp nông thôn, phục vụ chi sinh hoạt và sản xuất là rất cần
thiết. Mở mang thêm những ngành nghề mới phi nông nghiệp ở nông thôn.
Nâng cấp hệ thống thủy lợi, đê điều vừa để bảo vệ tổn thất do thiên tai, vừa
đáp ứng nhu cầu sản xuất, tạo việc làm cho người lao động. Đồng thời tiếp tục
đẩy nhanh triển khai chương trình phát triển giao thông nông thôn.
Tập trung xây dựng, nâng cấp hệ thống giao thông kết nối các vùng
kinh tế trọng điểm, các khu đô thị, nhất là hệ thống giao thông phục vụ cho dự
án khai thác mỏ sắt Thạch Khê và xây dựng khu liên hợp luyện thép, đầu tư
xây dựng cảng nước sâu Vũng Áng và các cảng chuyên dùng.
Tập trung xây dựng và củng cố một số công trình thủy lợi trọng điểm
đáp ứng nguồn nước sinh hoạt, phục vụ các ngành sản xuất nông nghiệp, nuôi
trồng thủy hải sản, phục vụ các khu công nghiệp và bảo vệ môi trường sinh
thái như Hồ Kẻ Gỗ, hồ Bộc Nguyên, Thủy lợi, thủy điện Ngàn Trươi, hồ Cẩm
Trang, hồ chứa nước thượng nguồn Sông Trí…
104
3.3.5. Đẩy mạnh việc xuất khẩu lao động
Khi tiến hành việc công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ có một bộ phận
người lao động không có việc làm hoặc thất nghiệp. Song song với các chính
sách khác, xuất khẩu lao động là một hướng quan trọng trong kế việc giải
quyết việc làm, xuất khẩu lao động ra các tỉnh ngoài và xuất khẩu lao động
quốc tế. Trong năm qua, nền kinh tế thế giới bị ảnh hưởng nặng nề của khủng
hoảng kinh tế toàn cầu nên việc xuất khẩu lao động gặp nhiều khó khăn. Tỉnh
Hà Tĩnh quyết tâm đề ra những mục tiêu và giải pháp như sau:
3.3.5.1. Mục tiêu
Phấn đấu đến năm 2010 có khoảng 25-30 nghìn lượt người đi xuất khẩu
lao động ở nước ngoài, trong đó mỗi năm bình quân có khoảng 5-6 nghìn người:
Bảng 3.4: Số lượng lao động đi xuất khẩu lao động
Số lƣợng đi xuất khẩu (ngƣời)
Ghi chú
Năm
2005
5651
2006
6102
2007
6004
2008
5981
2009
6200
2010
5500
Khủng hoảng kinh tế toàn cầu
Nguồn: [23].
Biểu đồ 3.3: Số lượng lao động đi xuất khẩu lao động
105
3.3.5.2. Giải pháp thực hiện
Thực hiện tốt chủ trương của Đảng và Nhà nước về đẩy mạnh xuất
khẩu lao động và chuyên gia theo tinh thần chỉ thị 41 của Bộ Chính trị, Nghị
định 39, Nghị định 81 của Chính phủ, Thông tư 22 của Bộ Lao động Thương
binh Xã hội, Nghị quyết 02, chỉ thị 44 của Tỉnh ủy, Chỉ thị 18 của Ủy ban
nhân dân tỉnh, để đạt được các mục tiêu trên, các ngành, các cấp, các tổ chức
đoàn thể quần chúng, các địa phương và các đơn vị làm nhiệm vụ xuất khẩu
lao động và dịch vụ cần thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:
* Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách về xuất
khẩu lao động. Tạo nguồn và giới thiệu người có ý thức, tổ chức, kỷ luật,
chấp hành tốt các quy định của pháp luật để tham gia dự tuyển đi làm việc ở
nước ngoài. Phối hợp với các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu lao động trực
tiếp tuyển lao động tại địa phương. Xác định trách nhiệm của gia đình, người
lao động để lao động thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ được quy định trong hợp
đồng đã ký với doanh nghiệp nước ngoài, tránh những vấn đề tiêu cực xảy ra
như đã xảy ra trong thời gian vừa qua: lừa đảo, tranh chấp, hủy hợp đồng...
* Tập trung chỉ đạo 3 đơn vị được phép tuyển lao động trực tiếp thực
hiện tốt chức năng tuyển lao động và xuất khẩu lao động: Công ty Cổ phần
phát triển Công nghiệp - Xây lắp và Thương mại Hà Tĩnh, Công ty Khoáng
sản và thương mại Hà Tĩnh, Công ty Việt Hà.
* Tăng cường công tác quảng bá cung ứng lao động ra thị trường các
nước đặc biệt là những thị trường truyền thống và thị trường mới như Nhật
Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Mỹ….để tìm kiếm hợp đồng cung ứng lao động.
* Chấn chỉnh củng cố các đơn vị làm dịch vụ xuất khẩu lao động có
đủ khả năng tìm và cung cấp nguồn cung ứng việc làm từ các nước mới, đồng
thời giữ nguồn việc làm truyền thống.
* Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục tạo nguồn để người lao
động đăng ký theo nguyện vọng và khả năng của họ. Các huyện, thị xã triển
khai khẩn trương và hiệu quả hơn về xây dựng đề án xuất khẩu lao động.
106
* Các đơn vị quản lý hành chính nhà nước như Công an, Y tế, Ngân
hàng tạo điều kiện để các tổ chức cá nhân có thể thực hiện tốt việc xuất khẩu
lao động và đi lao động, đặc biệt là ngân hàng phải có chính sách hỗ trợ, tạo
điều kiện cho người lao động được vay vốn ưu đãi phục vụ cho việc đi lao
động xuất khẩu nước ngoài.
* Các đơn vị xuất khẩu lao động và dịch vụ cần chủ động xây dựng kế
hoạch tìm thị trường cử cán bộ giám sát việc thực hiện của các tổ chức cá
nhân, đưa ra mức phí phù hợp.
* Sở Lao động - Thương binh - Xã hội đôn đốc kiểm tra các đơn vị
xuất khẩu lao động trực tiếp và dịch vụ xuất khẩu lao động để thực hiện tốt công
tác xuất khẩu lao động, thanh tra, kiểm tra việc xuất khẩu lao động tại các cơ sở,
địa phương, phát hiện và xử lý các hành vi, vi phạm liên quan đến xuất khẩu lao
động tại các địa phương. Tham mưu trình Ủy ban nhân dân tỉnh triển khai
Nghị định 81/2003/LĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành Bộ luật Lao động về người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài và
Thông tư 22 của Bộ Lao động - Thương binh - Xã hội hướng dẫn thực hiện
Nghị định 81 và Thông tư liên tịch số 107/2003/TTL-BTC-BLĐTBXH ngày
7 tháng 11 năm 2003 của Bộ Tài chính, Bộ Lao động - Thương binh - Xã hội
về việc hướng dẫn thực hiện chế độ tài chính đối với người lao động và doanh
nghiệp đưa lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.
* Khuyến khích sự tham gia và phối kết hợp của các tổ chức đoàn thể
trong xã hội trong việc tuyên truyền các thông tin liên quan đến việc xuất
khẩu lao động. Tuyên truyền các chính sách chủ trương của Nhà nước về xuất
khẩu lao động trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên ở các cơ sở, từng
gia đình người lao động. Giảm bớt vai trò trung gian trong việc tổ chức đi xuất
khẩu lao động, đưa các thông tin chính xác kịp thời đến từng người lao động.
* Quan tâm và tạo điều kiện cho người lao động ở các vùng khó khăn,
vùng nghèo, vùng sâu, vùng xa bằng các biện pháp thiết thực như hỗ trợ kinh
phí, cho vay ưu đãi…
107
* Tăng cường vai trò thanh kiểm tra các hoạt động xuất khẩu lao động
tại các doanh nghiệp, địa phương, phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi sai
phạm trong lĩnh vực này.
3.3.6. Khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế, phù hợp
với bối cảnh và điều kiện ở tỉnh Hà Tĩnh, ƣu tiên phát triển những ngành
nghề mới, sử dụng nhiều lao động có tay nghề
Các thành phần kinh tế cần phải được tạo điều kiện và khuyến khích
phát triển, đặc biệt là những thành phần kinh tế tạo ra được nhiều việc làm, ưu
tiên việc làm tại chỗ. Những ngành nghề truyền thống cần được khôi phục. ưu
tiên phát triển những ngành nghề mới, sử dụng lao động có tay nghề.
3.3.7. Nâng cao hiệu quả thị trƣờng lao động
Như đã phân tích ở trên, thị trường lao động là nơi gặp nhau giữa cung
và cầu lao động để xác định một mục tiêu trên cơ sở giá lao động được thỏa
thuận. Vai trò của thị trường lao động là rất quan trọng trong việc làm cầu nối
cho 2 bên cung và cầu lao động, để người cần việc có thể cần người có việc.
Thực tế trong những năm qua thị trường này chưa được coi trọng, hiệu quả
hoạt động của thị trường này chưa cao, còn rất nhiều hạn chế, bất cập. Các
thông tin trên thị trường lao động còn thiếu, chưa chuyên nghiệp và không kịp
thời, chưa chính xác, vẫn còn xảy ra tình trạng gian dối, lừa đảo người lao động
của một số cơ sở. Việc nâng cao hiệu quả thị trường lao động là rất cần thiết.
3.3.7.1. Mục tiêu
* Nâng cao vai trò, trách nhiệm quản lý của các cấp lãnh đạo, các đơn
vị, cơ sở có hoạt động trong lĩnh vực cung ứng thông tin việc làm.
* Nâng cao khả năng cạnh tranh của thị trường lao động trong tỉnh đối
với thị trường lao động trong và ngoài nước. Phát triển đồng bộ các yếu tố
trong thị trường lao động theo quy luật khách quan, lành mạnh và ổn định.
* Cung cấp một hệ thống thông tin nhiều chiều về việc cung ứng và sử
dụng việc làm, xây dựng một mạng lưới thông tin, coi việc này là một nhiệm
vụ của các địa phương trong việc phát triển kinh tế - xã hội.
108
3.3.7.2. Giải pháp
Trên cơ sở những mục tiêu đã nêu ở trên, tỉnh Hà Tĩnh cần phải có
những giải pháp cơ bản để thực hiện:
* Các cơ quan có thẩm quyền tăng cường kiểm tra, giám sát và có cơ
chế buộc các đơn vị, cá nhân có hoạt động thuê mướn lao động dưới bất kỳ
hình thức nào đều phải thực hiện nghiêm túc quy định của pháp luật: Phải có
hợp đồng, đóng bảo hiểm, có các quyền lợi đối với người lao động.
* Tiếp tục cải cách hành chính, tăng cường vai trò lãnh đạo của các đơn
vị được giao nhiệm vụ liên quan, tăng cường phân cấp, nâng cao trách nhiệm của
lãnh đạo địa phương, ngành, đơn vị, từng nhà quản lý lao động. Đơn giản hóa
việc làm các thủ tục cấp phép cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
* Có chính sách ưu đãi, thu hút nhân lực cho phát triển sản xuất kinh
doanh, nhất là những ngành, khu vực có thể thu hút nhiều lao động như chính
sách thu hút nguồn nhân lực có chất lượng cao cho các ngành kinh tế mũi
nhọn đang chuyển đổi theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Có chính
sách chuyển dịch cơ cấu lao động tùy theo đặc điểm của mỗi vùng, miền.
* Tăng cường quan hệ ngoại giao nhằm mở rộng và phát triển thị
trường lao động ngoài tỉnh và nước ngoài. Căn cứ vào lợi thế của mỗi khu
vực để có những chính sách hỗ trợ phù hợp. Tạo cơ chế thu hút nhiều chuyên
gia giỏi về công tác tại tỉnh. Chú trọng chất lượng lao động bằng cách tăng
cường đào tạo, đào tạo lại các kiến thức cần thiết: Ngoại ngữ, tin học, kỹ năng
làm việc, tác phong, thói quen làm việc cho phù hợp với sự phát triển kinh tế
xã hội của từng vùng, từng giai đoạn.
* Phát triển và nâng cấp các hệ, các cơ sở đào tạo, dạy nghề ở các cấp
độ khác nhau. Chuyển từ đào tạo trình độ thấp lên trình độ cao, nắm bắt được
xu thế phát triển kinh tế, xã hội của từng ngành, từng địa phương, gắn với
công nghiệp hóa hiện đại hóa để có định hướng trong việc đào tạo. Đặc biệt
hướng tới việc cung cấp lao động có trình độ cho thị trường xuất khẩu.
* Hoàn thiện hơn nữa vai trò của thị trường lao động.
109
* Xây dựng, quy hoạch một cách có hệ thống, có tổ chức các cơ sở
giới thiệu việc làm theo hướng trực tuyến. Xây dựng hệ thống thông tin chính
xác, minh bạch các vấn đề có liên quan đến thị trường lao động, Phát triển đa
dạng hóa các kênh giao dịch, đặc biệt chú trọng đến kênh quảng bá trên
Internet. Tiến hành các hội chợ việc làm, tạo điều kiện cho cung và cầu lao
động gặp nhau.
3.3.8. Di dân kinh tế mới
Với đặc điểm của Hà Tĩnh là tỉnh có diện tích đất đai tương đối lớn
(158.000ha), có hệ thống rừng núi, có hệ thống cây công nghiệp, cây ăn quả;
diện tích chưa được sử dụng, khai thác còn rất lớn. Trong những năm qua, Hà
Tĩnh cũng đã thực hiện chính sách di chuyển một bộ phận dân số vào những
khu kinh tế mới để xây dựng cuộc sống mới, với mục đích phân bổ lại, điều
hòa được dân số, vùng kinh tế, tài nguyên; giải quyết được vấn đề việc làm
một cách có hiệu quả cao.
3.3.8.1. Mục tiêu
Hà Tĩnh đặt ra mục tiêu, đến năm 2010, số lượng di dân khoảng 500-
850 hộ, tương đương với 1000-1100 lao động lên sinh sống và xây dựng vùng
kinh tế mới; chủ yếu di dân từ những vùng đông đúc như Thành phố Hà Tĩnh,
các trung tâm, các huyện lỵ có dân số cao đến các vùng kinh tế mới, có nguồn
tài nguyên phong phú, chưa khai thác như Hương Sơn, Hương Khê, Vũ Quang,
Tây Kỳ Anh.
3.3.8.2. Nhiệm vụ, giải pháp
Để đạt được các mục tiêu trên, tỉnh Hà Tĩnh cần đạt thực hiện các
nhiệm vụ cơ bản sau:
* Có các chính sách hợp lý, phù hợp với đặc điểm của từng vùng kinh
tế mới, phù hợp với lợi ích của những gia đình di dân. Có chính sách ưu tiêu
cho đồng bào miền núi trong việc định canh, định cư. Đẩy mạnh việc phát
triển chương trình 135 (chương trình phát triển kinh tế, xã hội các xã đặc biệt
khó khăn vùng đồng bào dân tộc, miền núi, biên giới, hải đảo và vùng sâu
110
vùng xa). Mục đích để những người đã đi hoặc có ý định đi lên vùng kinh tế
mới yên tâm.
* Đầu tư cải tạo tốt hơn nữa hệ thống cơ sở hạ tầng như giao thông,
thủy lợi, điện đường, trường trạm các khu vực kinh tế mới, tạo điều kiện tối
đa cho bà con lên sinh sống có điều kiện tốt nhất.
* Thực hiện tốt chính sách định canh, định cư, chính sách đãi ngộ, đào
tạo bồi dưỡng cán bộ cho vùng kinh tế mới.
* Thực hiện tốt chính sách giao quyền chủ động khai thác đất đai,
quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình, khuyến khích và tạo điều kiện phát
triển các trung tâm thương mại, hệ thống thông tin liên lạc. Mở rộng giao lưu
buôn bán hàng hóa, tạo ra thị trường ổn định tiêu thụ hàng hóa nông sản cho
đồng bào miền núi.
* Thành lập các trung tâm nghiên cứu giống cây trồng, lựa chọn các
phương thức thâm canh tăng vụ, ứng dụng khoa học, kỹ thuật trong việc chăn
nuôi, trồng trọt. Nghiên cứu đưa các giống cây, con có năng suất cao, phù hợp
với đặc điểm của từng loại đất đai, khí hậu, thổ nhưỡng, đồng thời cải tạo
được đất, chống xói mòn, bảo vệ môi trường tốt.
3.4. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
NGUỒN LAO ĐỘNG Ở HÀ TĨNH TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA
Trên cơ sở phân tích những thực trạng, đặc điểm của tỉnh Hà tĩnh về
việc làm trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tác giả đã có một số
những kiến nghị để giải quyết tốt vấn đề việc làm trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đối với từng cấp, từng ngành, cá nhân như sau.
3.4.1. Đối với tỉnh Hà Tĩnh
* Xây dựng, hoàn thiện thêm hệ thống văn bản pháp quy kèm theo các
chế tài quy định các vấn đề trong lĩnh vực quy hoạch lao động, giải quyết việc
làm, xuất khẩu lao động.
111
* Có kế hoạch rõ ràng trong từng giai đoạn đối với việc quy hoạch,
phát triển, đưa công nghiệp hóa, hiện đại hóa vào từng ngành, nghề, lĩnh vực.
Trên cơ sở đó có chủ trương, chính sách đào tạo, quy hoạch lao động từng
vùng, từng miền, từng khu vực gắn liền, thiết thực với việc quy hoạch công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong các vùng, lĩnh vực. Đưa ra yêu cầu cụ thể đối
với lao động trong các lĩnh vực, trong các giai đoạn. Xây dựng kế hoạch cung
cấp nguồn nhân lực với các trình độ khác nhau trên cơ sở yêu cầu của công
việc. Kế hoạch được xây dựng với các thời kỳ: Ngắn hạn, trung hạn, dài hạn.
* Khi tỉnh Hà Tĩnh đẩy mạnh việc công nghiệp hóa hiện đại hóa thì sẽ
có hiện tượng lao động vừa thừa, vừa thiếu. Thừa những lao động không đáp
ứng được yêu cầu công việc mới, thiếu những lao động có tay nghề cao, có
trình độ, chuyên môn tốt. Do vậy tỉnh Hà Tĩnh phải có kế hoạch trong việc
đào tạo bổ sung, đào tạo lại, có kế hoạch giải quyết những lao động dôi dư do
bị ảnh hưởng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
* Quy hoạch lại mạng lưới đào tạo, giao nhiệm vụ cụ thể gắn liền với
trách nhiệm và quyền lợi của mỗi cơ sở. Tiếp tục mở rộng hệ thống cơ sở giáo
dục từ cấp tỉnh, cấp huyện đến cấn cơ sở, đáp ứng nhu cầu đa dạng của người
lao động cũng như của các đơn vị sử dụng lao động. Tăng cường việc giáo
dục định hướng, hướng nghiệp cho các cấp học phổ thông.
* Có chính sách thu hút người tài, người có trình độ về công tác tại
tỉnh, xây dựng phương án tiền lương phù hợp với mục đích đảm bảo cuộc
sống cho người lao động, cho các cán bộ công tác trong lĩnh vực việc làm.
* Có chính sách hỗ trợ về kinh phí như cho vay ưu đãi để học nghề,
học ngoại ngữ đi xuất khẩu lao động. Khuyến khích đi xuất khẩu lao động.
* Đẩy mạnh phát triển đa dạng các thành phần kinh tế, xây dựng cơ
chế, chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc phát triển sản xuất, thương
mại, tạo điều kiện kích thích sản xuất phát triển sẽ tạo ra được nhiều việc làm.
* Tăng cường thanh kiểm tra các cơ sở đào tạo, giới thiệu việc làm, có
hình thức xử phạt thích đáng nếu phát hiện ra các sai phạm của các cá nhân,
112
cơ sở. Đồng thời cũng có những khen ngợi, biểu dương những cá nhân, tập
thể có thành tích trong việc giải quyết việc làm cho người lao động.
* Có chính sách hỗ trợ kinh phí tập huấn trong việc xóa đói giảm
nghèo cho nhân dân. Từng cá nhân trong tỉnh phải ý thức rõ ràng về trách
nhiệm, quyền lợi của mình trong việc tìm việc làm, học hỏi, và nâng cao trình
độ đáp ứng yêu cầu công việc ngày càng cao. Tăng cường tuyên truyền những
thông tin có ích trong việc mở rộng sản xuất, đa dạng hóa các ngành nghề,
lĩnh vực kinh doanh.
* Tập trung huy động mọi nguồn lực, chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ các
dự án phục vụ dự án trọng điểm: Giải phóng mặt bằng và xây dựng khu tái
định cư, hệ thống giao thông, điện, nước, công nghệ thông tin đến chân hàng
rào các Khu Kinh tế Vũng Áng, Khu Kinh tế cửa khẩu quốc tế Cầu Treo, thủy
lợi Ngàn Trươi - Cẩm Trang, đường Nam cầu Cày - Cầu Thạch Đồng, đường
nối quốc lộ 1A - mỏ sắt Thạch Khê; đường ven biển Thạch Khê - Vũng Áng…
* Giải quyết dứt điểm các khó khăn, vướng mắc và tạo điều kiện
thuận lợi cho các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh đi vào hoạt động theo kế
hoạch. Đẩy nhanh công tác bồi thường, giải phóng, bàn giao mặt bằng và tiến
độ các dự án: Khai thác mỏ sắt Thạch Khê, Hệ thống thủy lợi Ngàn Trươi -
Cẩm Trang, Khu Liên hợp luyện thép và Cảng Sơn Dương…
* Tập trung hoàn thành và phê duyệt một số quy hoạch trọng điểm
như: Điều chỉnh quy hoạch chung, chi tiết khu kinh tế Vũng Áng; quy hoạch
tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020; rà soát, điều chỉnh bổ sung
quy hoạch nông nghiệp nông thôn đến 2010, định hướng 2020; quy hoạch sử
dụng đất đai, bảo vệ phát triển rừng đến năm 2020; quy hoạch phát triển mạng
lưới xăng dầu; quy hoạch phát triển mạng lưới y tế đến năm 2010 và tầm nhìn
đến năm 2020...
* Triển khai Đề án nông nghiệp, nông thôn, nông dân theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương
lần thứ 7. Tập trung cao cho công tác phòng chống cháy rừng, kiên quyết
113
ngăn chặn tình trạng chặt phá rừng, buôn bán, vận chuyển lâm sản trái phép;
tổ chức diễn tập các phương án và chủ động trong phòng chống, khắc phục
hậu quả bão lụt. Đẩy mạnh công tác khuyến ngư, nâng cao chất lượng sản xuất,
dịch vụ cung ứng giống thủy sản, phòng ngừa dịch bệnh cho thủy sản nuôi.
* Quan tâm việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, xây dựng các
cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Phát triển mạnh mẽ thương mại, du lịch
và dịch vụ. Triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 về chiến
lược biển đến 2020. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
* Tập trung cải cách hành chính trên các lĩnh vực; Rà soát, điều chỉnh,
bổ sung các chính sách khuyến khích, ưu đãi đầu tư. Cải thiện môi trường đầu
tư gắn với đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư, tập trung vào khu kinh tế Vũng
Áng, khu kinh tế cửa khẩu quốc tế Cầu Treo, thành phố Hà Tĩnh, thị xã
Hồng Lĩnh...
* Bảo đảm các vấn đề an sinh xã hội, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa,
vùng nghèo. Triển khai Đề án nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho nhân
dân, đề án nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; tích cực lồng ghép các
chương trình, dự án và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn giải quyết việc
làm, xóa đói giảm nghèo, phấn đấu giảm 4% hộ nghèo. Tăng cường triển khai
thực hiện xã hội hóa các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao, dạy
nghề theo tinh thần Nghị quyết 05 ngày 18/4/2006 của Chính phủ. Quan tâm
công tác môi trường, xử lý rác thải, nước thải, chất thải độc hại, vệ sinh an
toàn thực phẩm.
* Tăng cường quốc phòng, an ninh; giải quyết có hiệu quả các vụ việc
mâu thuẫn, khiếu nại, tố cáo; đấu tranh kiên quyết với tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí; tích cực phòng, chống các tai nạn, tệ nạn xã hội.
3.4.2. Đối với Chính phủ
* Chính phủ cần có kế hoạch chi tiết, cụ thể trong việc quy hoạch phát
triển kinh tế - xã hội đối với tỉnh Hà Tĩnh, trên cơ sở đó tỉnh sẽ triển khai theo
kế hoạch đã được phê duyệt.
114
* Vì Hà Tĩnh là một tỉnh nghèo nên Chính phủ phải có chính sách ưu
đãi đối với tỉnh Hà Tĩnh trong việc đầu tư, phát triển kinh tế - xã hội. Tuyên
truyền kêu gọi đầu tư ở tầm vĩ mô trong và ngoài nước. Đưa các dự án đầu tư
có tính chất cơ bản về tỉnh để góp phần kích thích đầu tư, xóa đói giảm nghèo.
* Chỉ đạo sâu sát việc xây dựng các khu kinh tế mới, các khu kinh tế
trọng điểm như Vũng Áng, Thiên Cầm. Ưu tiên cấp vốn đầu tư trong việc
nâng cấp cải tạo hệ thống cơ sở hạ tầng, các cơ sở trung tâm đào tạo.
Một số lĩnh vực kêu gọi đầu tư ở tỉnh Hà Tĩnh
Để giúp tỉnh thực hiện có hiệu quả các mục tiêu, giải pháp nêu trên,
tạo bước đột phá mới về phát triển kinh tế - xã hội, đề nghị các Tập đoàn kinh
tế, các Tổng Công ty tiếp tục quan tâm, đầu tư vào Hà Tĩnh trên một số ngành
kinh tế cụ thể như sau:
- Về công nghiệp,
Bao gồm: Công nghiệp chế biến (chế biến hải sản, nông sản, súc sản,
chế biến quặng); công nghiệp cơ điện, điện tử (sản xuất thiết bị điện, điện
lạnh, dây dẫn, sản xuất linh kiện và lắp ráp đồ điện dân dụng, phát triển công
nghệ phần mềm); công nghiệp hóa chất (phân bón, sơn, thuốc chữa bệnh, sản
xuất nhựa cứng phục vụ các nhu cầu về trang trí, nội thất; vật liệu xây dựng
cao cấp; dụng cụ y tế); công nghiệp cơ khí, (lắp ráp máy móc phục vụ sản xuất
công nghiệp; đóng, sửa chữa tàu biển, phương tiện vận tải, đầu tư xây dựng
và khai thác cảng biển, cảng hàng không…); công nghiệp dệt, may, da, giày,
bao gồm: Nhà máy liên hiệp dệt, cọc sợi, sản xuất giày, da phục vụ xuất khẩu.
- Về dịch vụ
Đầu tư xây dựng các khu nghỉ mát, vui chơi, dưỡng bệnh tại các bãi
tắm Thiên Cầm, Xuân Thành, Đèo con, Nước Sốt, Kẻ Gỗ… Xây dựng các
Trung tâm thương mại, siêu thị tại Thành phố Hà Tĩnh, thị xã Hồng Lĩnh,
Khu Kinh tế cửa khẩu quốc tế Cầu Treo, Khu Kinh tế Vũng Áng. Phát triển
các dịch vụ tài chính ngân hàng, bảo hiểm, tư vấn, thông tin, viễn thông...
115
- Về nông nghiệp
Phát triển các vùng cây ăn quả đặc sản phục vụ chế biến xuất khẩu;
nuôi trồng thủy sản các loại…
3.4.3. Đối với các Bộ, ban ngành khác
* Tạo điều kiện cho tỉnh Hà Tĩnh trong việc đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, tăng cường việc trao đổi kinh nghiệm trong việc phát triển
kinh tế, giải quyết việc làm giúp Hà Tĩnh sớm thoát khỏi tỉnh nghèo.
* Tăng cường trao đổi lao động căn cứ vào lợi thế và đặc điểm của
từng ngành, từng lĩnh vực, từng nghề. Tạo điều kiện trong việc dạy nghề, đào
tạo, đào tạo lại lao động. Có những chính sách hỗ trợ thiết thực trong việc dạy
nghề và tạo việc làm mới cho lao động.
* Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ưu tiên bố trí nguồn vốn đầu
tư, nâng cấp trường Dạy nghề kỹ thuật Việt Đức thành trường Cao Đẳng; trường
kỹ nghệ Hà Tĩnh thành trường dạy nghề trọng điểm, thành lập thêm nhiều
trung tâm dạy nghề, trong đó có trung tâm dạy nghề cho người khuyết tật theo
Quyết định số 1321 của Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh. Quan tâm đầu tư
ngưồn vốn cho các trung tâm dạy nghề ở các vùng sâu vùng xa, miền núi.
* Bổ sung thêm nguồn vốn vay quỹ quốc gia giải quyết việc làm, hỗ
trợ kinh phí, tăng cường nhân lực cho những người làm việc chuyên trách
trong lĩnh vực đào tạo, giới thiệu việc làm.
116
KẾT LUẬN
Xu hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa là tất yếu trong xã hội, căn
cứ theo đặc điểm của từng tỉnh, từng địa phương có thể áp dụng theo mức độ
như thế nào, vào thời điểm nào, trong lĩnh vực nào. Công nghiệp hóa, hiện đại
hóa với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội nhanh chóng, nhưng bên cạnh đó
cũng có những vấn đề cần phải giải quyết như ô nhiễm môi trường, mất cân
bằng sinh thái, vấn đề việc làm... Giải quyết việc làm luôn là vấn đề lớn của
mọi quốc gia, là thách thức trong việc phát triển kinh tế xã hội, giải quyết việc
làm đặt trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa lại càng là vấn đề lớn.
Tỉnh Hà Tĩnh đã xác định rõ quan điểm phát triển kinh tế - xã hội
không có con đường nào khác là phải công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đây là
điều kiện tiên quyết đối với các tỉnh muốn thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu tiến
lên văn minh, hiện đại. Để thực hiện được công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cần
phải có những bước đi và giải pháp phù hợp với đặc điểm của tỉnh, không nên
áp dụng máy móc các địa phương khác, Hà Tĩnh là một tỉnh đi sau về công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nên cũng được kế thừa những kinh nghiệm của
những địa phương đi trước. Với đặc điểm là một tỉnh nghèo, lạc hậu, Hà Tĩnh
cũng đã lường được những khó khăn khi tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại
hóa như: vấn đề ô nhiễm môi trường, vấn đề giải quyết việc làm cho người
lao động... Luận văn với đề tài "Giải quyết việc làm trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hà Tĩnh" đã có những đóng góp nhất định:
1. Khảo sát được thực trạng, mức độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa của
Hà Tĩnh trong thời gian qua, những khó khăn, thuận lợi, thách thức, những
vấn đề cần phải giải quyết, rút kinh nghiệm. Đưa ra được những phân tích sự
ảnh hưởng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với các lĩnh vực trong đời
sống kinh tế, xã hội, những vấn đề phát sinh như vấn đề ô nhiễm môi trường,
vấn đề việc làm cho người lao động, định hướng thêm trong việc đưa công
nghiệp hóa, hiện đại hóa vào các lĩnh vực trong từng thời điểm.
117
2. Tiếp cận, phân tích có tính lý luận về vấn đề việc làm, thị trường
lao động giải quyết việc làm, thất nghiệp... Luận văn hệ thống được các khái
niệm trên trên cơ sở phân tích đặc điểm văn hóa, kinh tế, xã hội của tỉnh Hà
Tĩnh. Luận văn đưa ra được những giải pháp mang tính thực tiễn cao trong
việc giải quyết việc làm gắn liền với công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
3. Đưa ra được những số liệu chính xác về công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, sự ảnh hưởng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến đời sống nhân dân.
Những số liệu về dân số, việc làm, thất nghiệp, cơ cấu nền kinh tế của Hà
Tĩnh. Đây là cơ sở để đưa ra những chính sách phù hợp giải quyết việc làm
của người lao động Hà Tĩnh.
4. Đưa ra được những đánh giá về nguyên nhân, những tồn tại, khó
khăn của một số chính sách trong vấn đề giải quyết việc làm của tỉnh Hà
Tĩnh. Những kiến nghị xuất phát từ thực tiễn của tỉnh Hà Tĩnh trong vấn đề
giải quyết việc làm. Với mục tiêu giải quyết được mâu thuẫn giữa phát triển
kinh tế với giải quyết việc làm là một bài toán khó của nhiều quốc gia, nhiều
địa phương.
Để hoàn thành luận văn, tác giả đã có nhiều cố gắng trong việc tìm
kiếm và hệ thống tài liệu liên quan. Đây là vấn đề không mới nhưng khó đối
với tất cả các quốc gia nói chung và đối với tỉnh Hà Tĩnh nói riêng nên cũng
không tránh khỏi những hạn chế, sai sót. Tác giả xin được sự góp ý chân thành
của các thầy cô giáo, các bạn.
Những kết quả ban đầu mà luận văn đã đạt được thể hiện sự cố gắng
trong nghiên cứu, sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô giáo, các nhà khoa học,
bạn bè; đặc biệt là TS. Trần Anh Tài, giáo viên hướng dẫn đã nhiệt tình chỉ
bảo trong việc hoàn thành luận văn này.
118
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Hòa Bình (2000), "Giải pháp nào cho tình trạng thiếu việc làm ở
nông thôn hiện nay", Con số và sự kiện, (3), tr. 21-24.
2. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2001), Thực trạng lao động- việc
làm ở Việt Nam 2000, NXB Lao động- xã hội, Hà Nội.
3. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2005), Thực trạng lao động- việc
làm ở Việt Nam (2001-2005), Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.
4. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2006), Số liệu thống kê lao động
và việc làm ở Việt Nam (2001-2006), Nxb Lao động- xã hội, Hà Nội.
5. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2006), Quy hoạch tổng thể phát triển các ngành
công nghiệp Việt Nam theo các vùng lãnh thổ đến năm 2010, Hà Nội.
6. Chính phủ (2006), Quyết định số 72/2006/QĐ-TTg ngày 03/4 của Thủ
tướng Chính phủ về việc thành lập và ban hành Quy chế hoạt động
của khu kinh tế Vũng Áng, tỉnh Hà Tĩnh, Hà Nội.
7. Trần Văn Chử (2002), "Xuất khẩu lao động và giải quyết việc làm ở Việt
Nam", Kinh tế và phát triển, (57), tr. 18-22.
8. Nguyễn Hữu Dũng, Trần Hữu Trung (1997), Về chính sách giải quyết việc
làm ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 16/8 của
Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng,
an ninh vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ đến năm 2010,
Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Đinh Đăng Định (2004), Một số vấn đề về lao động, việc làm và đời sống
người lao động ở Việt Nam hiện nay, Nxb Lao động, Hà Nội.
119
12. Nguyễn Đại Đồng (2006), "Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm
2006-2010: Mục tiêu và giải pháp", Lao động và xã hội, (292), tr. 12-13.
13. C. Mác - Ph. Ănghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
14. Nguyễn Bá Ngọc, Trần Văn Hoan (2002), Toàn cầu hóa: cơ hội và thách
thức đối với người lao động Việt Nam, Nxb Lao động- xã hội, Hà Nội.
15. Lê Đức Quyết (2002), Một số chính sách quốc gia về việc làm và xóa đói
giảm nghèo, Nxb Lao động, Hà Nội.
16. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Tĩnh (2001), Chiến lược dân số
Hà Tĩnh 2001-2010, Hà Tĩnh.
17. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Tĩnh (2006), Báo cáo lao động
đi xuất khẩu tại các đơn vị từ 1999-2006, Hà Tĩnh.
18. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Tĩnh (2006), Báo cáo kết quả
thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo- việc làm Hà Tĩnh giai đoạn
2001-2005 và phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ giai đoạn 2006-
2010, Hà Tĩnh.
19. Sở Công thương Hà Tĩnh (2008), Báo cáo tình hình phát triển công
nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và thương mại dịch vụ - công tác quản
lý nhà nước năm 2008, Hà Tĩnh.
20. Phạm Đức Thành, Phạm Quý Thọ, Thang Mạnh Hợp (2003), "Vấn đề lao
động, việc làm ở Việt Nam từ đổi mới đến nay", Kinh tế và phát
triển, (76), tr. 11-13.
21. Tỉnh ủy Hà Tĩnh (2006), Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lần
thứ XVI, Hà Tĩnh.
22. Tỉnh ủy Hà Tĩnh (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh
lần thứ XVI (tháng 01/2006), Hà Tĩnh.
23. Tỉnh ủy Hà Tĩnh (2008), Chỉ thị của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tăng
cường lãnh đạo, chỉ đạo với công tác xuất khẩu lao động, Hà Tĩnh.
120
24. Thái Ngọc Tịnh (2002), Những giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc
làm ở nông thôn Hà Tĩnh, Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Kinh tế
Quốc dân, Hà Nội.
25. Tổng cục Thống kê (2006), Niên giám thống kê Hà Tĩnh (2002 - 2006),
Nxb Thống kê, Hà Nội.
26. Tổng cục Thống kê (2006), Niên giám thống kê Hà Tĩnh 2005, Nxb Thống
kê, Hà Nội.
27. Tổng cục Thống kê (2007), Niên giám thống kê Hà Tĩnh 2006, Nxb Thống
kê, Hà Nội.
28. Tổng cục Thống kê (2008), Niên giám thống kê Hà Tĩnh 2007, Nxb Thống
kê, Hà Nội.
29. Tổng cục Thống kê (2009), Niên giám thống kê Hà Tĩnh 2008, Nxb Thống
kê, Hà Nội.
30. Đỗ Thế Tùng (2003) , "Ảnh hưởng của nền kinh tế tri thức với vấn đề giải
quyết việc làm ở Việt Nam", Lao động và công đoàn, (06), tr. 17-19.
31. Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (1997), Phương hướng cơ bản về quy
hoạch tổng thể kinh tế - xã hội Hà Tĩnh thời kỳ 1996-2010, Hà Tĩnh.
32. Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (2005), Quyết định số 2448QĐ/UB-CN về
việc phê duyệt nội dung và dự toán kinh phí quy hoạch công nghiệp -
tiểu thủ công nghiệp tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn 2006-2015 và tầm nhìn
đến 2020, Hà Tĩnh.
33. Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (2006), Quy hoạch công nghiệp Hà Tĩnh
giai đoạn 2006-2015, tầm nhìn 2020, Hà Tĩnh.
34. Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (2006), Quy hoạch phát triển kinh tế - xã
hội tỉnh Hà Tĩnh thời kỳ 2006-2020, Hà Tĩnh.
35. Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (2006), Báo cáo tình hình thực hiện kế
hoạch kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh năm 2005; mục tiêu,
nhiệm vụ và giải pháp phát triển năm 2006, Hà Tĩnh.
121
36. Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (2007), Quyết định về việc quy định một số
chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư vào Khu kinh tế Vũng Áng và các
khu công nghiệp của tỉnh Hà Tĩnh, Hà Tĩnh.
37. Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (2007), Báo cáo tình hình thực hiện kế
hoạch kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh năm 2006; mục tiêu,
nhiệm vụ và giải pháp phát triển năm 2007, Hà Tĩnh.
38. Ủy ban nhân tỉnh Hà Tĩnh (2008), Báo cáo một số tiềm năng, lợi thế và
tóm tắt tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội của tỉnh Hà Tĩnh
trong thời gian qua, Hà Tĩnh.
39. Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (2008), Báo cáo tình hình thực hiện kế
hoạch kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh năm 2007; mục tiêu,
nhiệm vụ và giải pháp phát triển năm 2008, Hà Tĩnh.
40. Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (2009), Báo cáo tình hình thực hiện công
tác xuất khẩu lao động giai đoạn 2007-2009, Hà Tĩnh.
41. Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (2009), Báo cáo tình hình thực hiện kế
hoạch kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh năm 2008; mục tiêu,
nhiệm vụ và giải pháp phát triển năm 2009, Hà Tĩnh.
42. Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (2009), Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh 6 tháng đầu năm 2009;
mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp phát triển 6 tháng cuối năm 2009,
Hà Tĩnh.
TRANG WEB
43. www.hatinh.gov.vn (Trang thông tin điện tử tỉnh Hà Tĩnh).
44. www.molisa.gov.vn (Trang thông tin điện tử của Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội).
45. www.mot.gov.vn (Trang thông tin điện tử của Bộ Công thương).
122