ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM



HOÀNG THỊ LAN HƯƠNG

GIAI THOẠI VỀ CÁC TÁC GIA VĂN HỌC

VIỆT NAM

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã ngành: 60.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Hằng Phương

THÁI NGUYÊN - NĂM 2016

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn: “Giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam” là

do bản thân tôi thực hiện. Các số liệu, kết quả trong luận văn là trung thực. Nếu sai

sự thật tôi xin chịu trách nhiệm.

Thái Nguyên, tháng 6 năm 2016

Tác giả

Hoàng Thị Lan Hương

XÁC NHẬN CỦA KHOA XÁC NHẬN CỦA NGƯỜI HƯỚNG

CHUYÊN MÔN DẪN KHOA HỌC

PGS. TS Nguyễn Hằng Phương

i

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

LỜI CẢM ƠN

Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS. Nguyễn Hằng Phương

người thầy đã tận tình giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành

luận văn.

Em xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo, Khoa Sau Đại học,

khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên, các thầy cô giáo

trường Đại học Sư phạm Hà Nội, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Viện

Văn học đã giúp em hoàn thành khóa học.

Xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã quan tâm giúp đỡ, động viên tôi

trong thời gian học tập và nghiên cứu.

Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn các thầy cô đã đọc và chỉ ra những

thành công cũng như hạn chế của luận văn.

Thái Nguyên, tháng 6 năm 2016

Tác giả

Hoàng Thị Lan Hương

ii

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

MỤC LỤC

Trang

LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................... i

LỜI CẢM ƠN ................................................................................................................ ii

MỤC LỤC .................................................................................................................... iii

MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1

1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................ 1

2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 2

3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................. 5

4. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................ 6

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 6

6. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 6

7. Đóng góp của luận văn .............................................................................. 7

8. Cấu trúc luận văn ...................................................................................... 7

Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN, THỰC TẾ VÀ CÁC TIÊU CHÍ NHẬN DIỆN

THỂ LOẠI ...................................................................................................................... 8

1.1. Giai thoại và các tiêu chí nhận diện thể loại .......................................... 8

1.1.1. Khái niệm giai thoại ............................................................................ 8

1.1.2. Các tiêu chí nhận diện thể loại .......................................................... 14

1.2. Vấn đề phân loại giai thoại .................................................................. 27

1.3. Thực tế lưu truyền giai thoại trong đời sống hiện nay ......................... 29

Chương 2 NỘI DUNG CỦA GIAI THOẠI VỀ CÁC TÁC GIA VĂN HỌC

VIỆT NAM .................................................................................................................. 34

2.1. Đả kích, châm biếm tầng lớp có chức sắc, địa vị trong xã hội phong

kiến .............................................................................................................. 34

2.2. Thể hiện tinh thần dân tộc, yêu nước, thương dân ............................... 42

2.3. Phác họa chân dung đời thường của các tác gia .................................. 53

iii

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Chương 3 NGHỆ THUẬT CỦA GIAI THOẠI VỀ CÁC TÁC GIA VĂN

HỌC VIỆT NAM ........................................................................................................ 65

3.1. Kết cấu, cốt truyện ............................................................................... 65

3.2. Nhân vật ............................................................................................... 71

3.3. Một số biện pháp nghệ thuật ................................................................ 75

3.3.1. Chơi chữ ............................................................................................ 76

3.3.2. Phóng đại ........................................................................................... 83

3.3.3. Hư cấu ............................................................................................... 87

KẾT LUẬN ................................................................................................................. 92

TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 96

PHỤ LỤC..................................................................................................................... 99

iv

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, bên cạnh những thể loại lớn

đã hình thành, vận động và phát triển lâu đời như: thần thoại, truyền thuyết, truyện

cổ tích, ca dao, truyện cười,…giai thoại là một thể loại mới được quan tâm, chú ý

qua không ít các công trình sưu tầm, tuyển chọn có giá trị trong thời gian gần đây.

Tuy nhiên, trên phương diện lý thuyết, thể loại này vẫn chưa được đào sâu, soi sáng

một cách kì cùng. Đó là chưa kể đến những ý kiến, quan điểm học thuật trái chiều

nhau. Tất cả những biểu hiện ấy khiến thể loại này chưa thể tồn tại trong trạng thái

rõ ràng nhất có thể. Nhưng theo một số nhà nghiên cứu uy tín về văn học ở Việt

Nam như Kiều Thu Hoạch, Trần Thanh Mại, Hoàng Ngọc Phách…thì giai thoại

chính là một thể loại văn học dân gian độc lập, có vị trí riêng.

Giá trị nội dung và những đặc sắc nghệ thuật của thể loại giai thoại đã được

một số tác giả chỉ ra nhưng còn sơ sài và các tác giả chưa thực sự đi sâu vào phân

tích và khẳng định đây là một trong những thể loại góp phần tạo nên diện mạo

phong phú, đa dạng cho kho tàng văn học dân gian. Điều này khiến cho ấn tượng về

giai thoại trong lòng người đọc mờ nhạt đi nhiều so với thực tế tiếp nhận.

1.2. Trong thời gian gần đây, việc giảng dạy văn học dân gian cho sinh viên

chuyên ngành văn học ở trường đại học, cao đẳng rất được quan tâm. Ngoài những

thể loại văn học dân gian đã quen thuộc như: thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ

tích, vè, câu đố, ca dao, dân ca…..thì việc đưa một thể loại còn mới mẻ vào học tập,

nghiên cứu là rất cần thiết. Nó góp phần mở thêm một hướng đi mới trong hoạt

động giảng dạy và nghiên cứu khoa học.

Bằng việc thực hiện luận văn, chúng tôi góp phần phục vụ kịp thời công tác

giảng dạy cho sinh viên chuyên ngành Ngữ văn tại Trường Cao đẳng Sư phạm Thái

Nguyên và đóng góp ít nhiều tư liệu tham khảo cho những người quan tâm nghiên

cứu về thể loại văn học này.

Xuất phát từ nhận thức trên, luận văn đặt nhiệm vụ khảo sát, hệ thống lại

những ý kiến đã nêu về giai thoại và đặc biệt chú trọng đi sâu nghiên cứu giá trị

nội dung, nghệ thuật của một bộ phận giai thoại. Với những lí do nêu trên,

1

chúng tôi lựa chọn đề tài “Giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam”. Từ đó,

luận văn góp một tiếng nói nhỏ vào việc nghiên cứu thể loại giai thoại và góp

phần khắc phục một khoảng trống đáng tiếc trong đời sống nghiên cứu văn học

dân gian Việt Nam.

2. Lịch sử vấn đề

2.1. Về vấn đề thể loại, giai thoại là đối tượng nghiên cứu khá mới mẻ của

văn học dân gian và cả văn học thành văn. Tuy số lượng giai thoại khá phổ biến

nhưng về lý thuyết thể loại nó còn ít được chú ý. Các công trình nghiên cứu ban đầu

mới quan tâm đến vấn đề định nghĩa tên gọi thể loại và các công trình có tính chất

sưu tầm vẫn chiếm đa số.

Học giả uyên bác người Nga V. Japropp xem giai thoại như một tiểu loại của

cổ tích sinh hoạt: “Nói về cổ tích sinh hoạt hay truyện cổ tích hiện thực, cần phải đề

cập tới vấn đề giai thoại. Theo ý chúng tôi, nó không phải là một loại hình riêng của

sáng tác dân gian, khác biệt với loại truyện cổ tích đoản thiên về con người” [40].

Nghiên cứu kĩ càng hơn nữa những truyện cổ tích sinh hoạt về con người, thì có thể

khẳng định được rằng trong folklore không có ranh giới giữa truyện cổ tích sinh

hoạt về con người và truyện giai thoại. Có chăng thì cũng “chỉ có thể xếp giai thoại

thành một tiểu loại riêng trong truyện cổ tích sinh hoạt” [40].

Cùng quan điểm với V. Ja Propp, Guxep cũng xem giai thoại như một thể loại

văn học dân gian, nhưng ông tách hẳn nó ra khỏi cổ tích sinh hoạt và định nghĩa như

sau: “Chúng tôi tách giai thoại ra khỏi cổ tích sinh hoạt và cổ tích trào phúng (loại này dĩ

nhiên có thể mang những yếu tố giai thoại), vì nó có một số đặc điểm cho phép nó như

một thể loại độc lập. Chúng tôi gọi giai thoại là tác phẩm tự sự trào phúng hoặc hài hước,

được xây dựng trên một tình tiết có sự tăng tiến đến điểm cao, biểu hiện rõ rệt và kết thúc

bất ngờ” [40]. Như vậy, nguyên nhân khiến Guxep tách giai thoại ra khỏi cổ tích là tính

trào phúng và hài hước của nó. Soi chiếu định nghĩa ấy vào tình hình giai thoại Việt

Nam, có thể thấy, tác giả thiên về giai thoại trào phúng, hài hước với tính cách tiểu loại

hơn là bản thân thể loại giai thoại trong hình hài của một thể loại độc lập.

Theo nhà nghiên cứu Võ Phúc Châu, “ở Trung Quốc, thuật ngữ giai thoại

xuất hiện ngay từ thời Đường - Tống nhưng chưa thấy ai luận bàn gì về thể loại. Ở

2

Nga, những năm 60 của thế kỷ XX, lý thuyết giai thoại mới được giới folklore học

quan tâm” [40]. Còn ở Việt Nam, thuật ngữ này chỉ được chính thức sử dụng từ

1965, qua tập sách Giai thoại văn học Việt Nam của nhóm soạn giả Hoàng Ngọc

Phách, Kiều Thu Hoạch.

Khi giới thiệu cuốn Giai thoại văn học, năm 1965 Trần Thanh Mại là người

đầu tiên xác định vị trí của giai thoại. Ông cho rằng: “… trừ một số cá biệt, nói

chung thì giai thoại văn học không thuộc phạm vi văn học dân gian” [24, tr. 7]. Bởi

theo ông, hầu hết các mẩu chuyện giai thoại đó đều phải do “các nhà chữ nghĩa sáng

tác” [24, tr. 7].

Năm 1988, nhà xuất bản Văn học đã giới thuyết khái niệm giai thoại văn học

khi tái bản cuốn Giai thoại văn học nói trên. Nhưng cuốn sách chỉ nhấn mạnh khái

niệm giai thoại văn học và vị trí của nó trong văn học dân tộc như cầu nối giữa văn

học dân gian - văn học viết mà hơi nhòe tính chất thể loại, không xác định nó là văn

học dân gian hay văn học bác học.

Đến năm 1994, Vũ Ngọc Khánh trong cuốn Kho tàng giai thoại Việt Nam coi

giai thoại văn học như các tác phẩm văn học thế giới nhưng không phủ nhận rằng

nó có nguồn gốc bác học và đã được dân gian hóa.

Trong cuốn Từ điển Văn học do nhà xuất bản Thế giới phát hành năm 2004,

các tác giả đã bước đầu định nghĩa giai thoại và cho rằng đây là một thể loại độc

lập. Tuy nhiên, bản thân định nghĩa về giai thoại mà cuốn từ điển nêu vẫn còn mâu

thuẫn khi nhấn mạnh “Nó thuộc văn chương bác học” [49, tr. 220].

Cho đến nay, qua một số công trình nghiên cứu về folklore, bản chất của giai

thoại, nhìn chung, đã được xác định. Có thể kể đến một số công trình của các tác giả

như: Kiều Thu Hoạch, Hoàng Ngọc Phách…

Nếu ở phương Tây, giai thoại là những mẩu chuyện thiên về trào phúng, hài hước

để đề cao tư duy duy lí; thì ở phương Đông, nội hàm đó có thể mở rộng sang cả những

câu chuyện hết sức nghiêm túc về các nhân vật nổi tiếng được khúc xạ qua tình cảm yêu

mến, ngưỡng mộ vô tận của cộng đồng - tức tư duy duy cảm. Đó không chỉ là những câu

chuyện dí dỏm, vui tươi mà còn là những câu chuyện đẹp. Do đó, giai thoại Việt Nam

nói riêng và giai thoại phương Đông nói chung, ngoài tính hài còn mang cả tính nghiêm

3

trang, cẩn trọng, hay thậm chí là những câu chuyện nhuốm màu bi ai. Nói như Vũ Ngọc

Khánh, đối với người phương Đông, giai thoại “là cuốn sổ biên niên của cuộc sống, là

người bạn thường xuyên của con người và của các sự kiện lịch sử xã hội” [19, tr. 10].

Như vậy, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề khái niệm thể loại văn

học dân gian này và bước đầu, các nhà nghiên cứu đã đi đến khẳng định giai thoại là

một thể loại văn học, tồn tại một cách độc lập với các thể loại văn học dân gian khác

và có giá trị riêng. Song, việc đi vào tìm hiểu bản chất thể loại và những giá trị cụ

thể của nó còn ít và chưa thực sự hệ thống.

2.2. Về vấn đề phân loại, trong bài viết Giai thoại - một thể loại văn học dân

gian, tác giả Nguyễn Thị Bích Hà đã tạm chia giai thoại thành các bộ phận sau:

- Giai thoại văn học

- Giai thoại danh nhân

- Giai thoại cười

Tuy nhiên, tác giả Nguyễn Thị Bích Hà cũng khẳng định, cách chia này mới

chỉ là “tạm thời, chưa thực sự nhất quán” [10]. Tác giả cũng chưa đề cập đến việc

phân tích giá trị nội dung cũng như nghệ thuật của các bộ phận nói trên.

Vũ Ngọc Khánh lại đề nghị “chia giai thoại làm ba nhóm: giai thoại văn học,

giai thoại lịch sử, giai thoại Folklore” [19, tr. 34].

- Giai thoại văn học: là những câu chuyện hoàn toàn là chuyện sáng tạo và

chuyện những người sáng tạo trong địa hạt văn chương học thuật.

- Giai thoại lịch sử: là những câu chuyện khác liên quan với những sự kiện,

những nhân vật hoạt động trong các chính trường, có liên hệ chặt chẽ với tiến trình

tồn vong của đất nước.

- Giai thoại folklore: là các mẩu chuyện về những tài năng thợ thêu, thợ

chạm, những nghệ nhân, nghệ sĩ tuồng chèo, hội họa, điêu khắc, diễn xướng,… gây

được những thú vị, bất ngờ; các mẩu chuyện làm nền cho những thành ngữ, phương

ngôn, vẫn thường được nhân dân truyền tụng để biểu lộ niềm tin, tự hào về con

người, quê hương, dòng họ,…

Trong Tổng tập văn học dân gian người Việt, tập 11: Giai thoại văn học Việt

Nam, tác giả Kiều Thu Hoạch đã chỉ rõ về cách phân loại giai thoại thường thấy:

4

Giai thoại văn chương, Giai thoại văn nghệ, Giai thoại văn nghệ dân gian, Giai thoại

làng Nho, Giai thoại phụ nữ, Giai thoại folklore, Giai thoại xứ Lạng, Giai thoại

Thăng Long… Đây là cách phân loại, sắp xếp có phần tùy tiện, chưa có tiêu chí rõ

ràng. Chỉ có thể coi đó là sự phân loại tạm thời để công bố, chưa thể coi là sự phân

loại khoa học. Xem xét cụ thể, tác giả chia giai thoại thành hai tiểu loại: giai thoại

lịch sử và giai thoại văn học. Trong tiểu loại giai thoại văn học, tác giả đã sưu tầm

và giới thiệu 442 giai thoại, trong đó 358 giai thoại về tác gia văn học và 84 giai

thoại khuyết danh. Tác giả cũng đã phác ra được một số nét cơ bản về nội dung tư

tưởng của thể loại giai thoại nói chung như: gây cười; châm biếm, đả kích những lố

bịch, cái phi lí trong xã hội; phản ánh tinh thần dân tộc, tinh thần yêu nước… nhưng

tác giả chưa có sự phân tích cụ thể, chi tiết.

Trong cuốn Giai thoại văn học Việt Nam, Kiều Thu Hoạch cũng đã liệt kê

các giai thoại về các danh nhân: Đào Duy Từ, Nguyễn Văn Giai, Cao Bá Quát,

Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Quốc Trinh, Nhữ Bá Sĩ, Khương Công Phụ….

Qua việc tìm hiểu về những công trình nghiên cứu về thể loại giai thoại văn

học, chúng tôi thấy, các tác giả, các nhà nghiên cứu mới chỉ tập trung chú ý tới việc

khẳng định giai thoại là một thể loại văn học tồn tại độc lập và có giá trị riêng so với

các thể loại văn học dân gian khác và sưu tầm những giai thoại lưu truyền trong dân

gian. Về vấn đề giá trị nội dung, nghệ thuật của thể loại này, các tác giả mới bước

đầu đưa ra những nét cơ bản của thể loại nói chung mà chưa đi sâu vào tìm hiểu,

phân tích từng tiểu loại để có cái nhìn toàn diện hơn về giai thoại.

Tiếp thu ý kiến của những nhà nghiên cứu đi trước, trong bối cảnh nghiên

cứu có ít nhiều thuận lợi, chúng tôi sẽ tập trung vào khảo sát bộ phận Giai thoại về

các tác gia văn học Việt Nam. Chúng tôi nhận thấy, đây là một hướng nghiên cứu

vừa có giá trị khoa học, vừa có tính thời sự, vừa có ý nghĩa thực tiễn,.

3. Mục đích nghiên cứu

Luận văn đặt mục đích khảo sát giá trị nội dung và nghệ thuật của bộ phận

Giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam, từ đó khẳng định đời sống thể loại, thấy

được những đóng góp của giai thoại vào diện mạo văn học dân gian Việt Nam.

5

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

Chọn luận văn Giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam, chúng tôi được

kế thừa thành tựu của những người đi trước, trên cơ sở đó góp một phần vào việc

khẳng định vị trí của thể loại trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam. Chúng tôi

bước đầu đặt ra cho mình những nhiệm vụ cụ thể sau:

- Xác định khái niệm thuật ngữ giai thoại, cách phân loại, trình bày một số tiêu

chí nhận diện thể loại, chỉ ra đời sống của giai thoại trong xã hội hiện nay.

- Hệ thống hóa bộ phận Giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam. Xác định giá

trị nội dung, nghệ thuật của bộ phận này và giá trị của nó đối với đời sống văn học, đời

sống xã hội.

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là Giai thoại về các tác gia văn

học Việt Nam.

Phạm vi tư liệu nghiên cứu của luận văn là bộ phận Giai thoại về các tác gia

văn học Việt Nam đã được sưu tầm. Trong điều kiện và thời gian thực tế, chúng tôi

sẽ sưu tầm thêm các giai thoại về các tác gia trong đời sống dân gian.

Luận văn chủ yếu đi vào tìm hiểu giá trị nội dung, nghệ thuật của bộ phận

Giai thoại các tác gia văn học Việt Nam và bước đầu khảo sát các đặc trưng thể loại

của giai thoại.

6. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn vận dụng tổng hợp một số phương pháp nghiên cứu sau:

Phương pháp thống kê: Dựa trên hệ thống tư liệu đã được các nhà nghiên

cứu sưu tầm, biên soạn, luận văn thống kê giai thoại về các tác gia văn học Việt

Nam để tiện lợi cho việc soi sáng giá trị nội dung và nghệ thuật mà luận văn đã nêu.

Phương pháp điền dã văn học: Ngoài những tư liệu đã được các nhà nghiên

cứu sưu tầm và đã được xuất bản, chúng tôi còn sử dụng phương pháp điền dã văn

học để gặp gỡ với những nhà văn, nhà thơ, những người trực tiếp liên quan đến các

tác gia để khẳng định tính xác thực của các giai thoại và mở rộng phạm vi tư liệu

nghiên cứu.

Phương pháp phân tích - tổng hợp: Luận văn sử dụng phương pháp này để

phân tích cụ thể các giai thoại. Trên cơ sở đó, luận văn tổng hợp vấn đề, rút ra

6

những đánh giá, nhận xét về giá trị nội dung và nghệ thuật của bộ phận Giai thoại

về các tác gia văn học Việt Nam.

Phương pháp so sánh: Luận văn cũng sử dụng phương pháp so sánh những

giai thoại cùng một đề tài, so sánh bộ phận Giai thoại về các tác gia văn học Việt

Nam với các bộ phận giai thoại khác và những thể loại văn học dân gian gần gũi để

làm nổi bật giá trị nội dung, nghệ thuật của nó.

Phương pháp phân tích văn bản văn học dân gian: để làm nổi bật lên giá

trị nội dung cũng như các đặc sắc nghệ thuật của giai thoại về các tác gia văn học

Việt Nam.

Phương pháp nghiên cứu văn hóa học liên ngành: Để nhìn nhận, đánh giá,

soi sáng bản chất thể loại giai thoại nói chung và bộ phận Giai thoại về các tác gia

văn học Việt Nam nói riêng trong cái nhìn tổng thể, toàn diện với bối cảnh xã hội,

văn hóa, văn học.

7. Đóng góp của luận văn

Từ việc tổng hợp, hệ thống lại các định nghĩa, cách phân loại giai thoại, chỉ

ra các tiêu chí nhận diện thể loại cũng như đời sống của giai thoại trong xã hội hiện

nay và đi vào phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật của bộ phận Giai thoại về các

tác gia văn học Việt Nam, luận văn góp phần tìm hiểu các bộ phận giai thoại khác

nói riêng và thể loại giai thoại nói chung.

Qua đó, luận văn đóng góp vào việc khẳng định vị trí độc lập và giá trị đặc

sắc của thể loại văn học dân gian này.

8. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lí luận, thực tế và các tiêu chí nhận diện thể loại

Chương 2: Nội dung của Giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam

Chương 3: Nghệ thuật của Giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam

Ngoài ra, luận văn còn có phần Phụ lục:

Phụ lục 1: Một số giai thoại về các tác gia tác giả luận văn sưu tầm

Phụ lục 2: Bảng thống kê các tác gia và một số giai thoại về các tác gia

văn học Việt Nam.

7

Chương 1

CƠ SỞ LÍ LUẬN, THỰC TẾ VÀ CÁC TIÊU CHÍ NHẬN DIỆN THỂ LOẠI

1.1. Giai thoại và các tiêu chí nhận diện thể loại

1.1.1. Khái niệm giai thoại

Giai thoại vốn là một thuật ngữ gốc Hán, giai có nghĩa là hay, đẹp, thoại là

câu chuyện kể. Như vậy, giai thoại là câu chuyện kể hay, đẹp.

Theo N.D.Tamarchenko, “giai thoại (“Anekdotos”, gốc Hy Lạp, có nghĩa là

“không công bố”) có hai nét nghĩa: Nét nghĩa thứ nhất: Câu chuyện lưu truyền rộng

rãi trong dân gian, thuật lại một cách ngôn lí thú, một cảnh độc đáo, hay một trang

tiểu sử riêng tư của một nhân vật lịch sử. Nét nghĩa thứ hai: Thể tự sự cỡ nhỏ nửa

truyền miệng, bán văn học, đặc điểm nổi bật của nó là mô tả các nhân vật hành

động một cách hàm súc, sơ lược, tập trung vào một tình huống được suy ngẫm lại,

đánh giá lại bằng cách thay đổi hoàn toàn điểm nhìn (“point”, bước ngoặt, đột biến). Ở

cả phía đối tượng của sự kể (đời sống riêng tư của nhân vật lịch sử, tức là nhân vật quan

phương, hoặc một trường hợp nào đó rút ra từ đời sống của những người bình thường),

lẫn ở phía chức năng, tức là ở cả hai ý nghĩa của thuật ngữ, giai thoại là thể loại không

chính thức: vì thế, truyện kể bao giờ cũng mang tính phi văn học, nó là thứ “văn học rỉ

tai, bí mật” (E. Kurganov), đòi hỏi người kể và người nghe phải có nhãn quan tương

đồng (J. Hein) và sự “tâm đầu ý hợp”, tin tưởng lẫn nhau trong giao tiếp” [30].

Theo nghĩa thứ nhất, thuật ngữ có gốc gác từ cuốn Mật sử của Procopius

Caesarensis (một tác phẩm còn đang có nhiều tranh cãi, được viết vào những năm

550) và xưa kia, Từ điển tiếng Anh (1775) của Samuel Johnson từng giải thích với ý

nghĩa như vậy: “Giai thoại là câu chuyện chưa được công bố”, có nghĩa, đó là

chuyện riêng tư của nhân vật quan phương. Thời Pushkin, giai thoại cũng được hiểu

như vậy. Những câu chuyện về kì sự, vô thường của các nhân vật nổi tiếng do

chứng nhân kể lại theo kiểu như thế đầy ắp các Hồi kí giai đoạn thế kỉ XVIII – XX.

Hiển nhiên là giai thoại có quan hệ đặc biệt với văn học, một mặt, từ hoạt động

truyền miệng của nó, cũng như từ giác độ bản quyền mang tính tập thể. Mặt khác,

nhiều tuyển tập giai thoại hết sức nổi tiếng (ở Nga, từ thế kỉ XVIII) và được sử

8

dụng trong các văn bản văn học rộng rãi tới mức khiến chúng không còn là thể loại

dân gian thuần tuý. Việc giai thoại thiên về lối kết cấu xâu chuỗi - hoặc là xoay

quanh các nhân vật nào đó, hoặc là những đặc điểm dân tộc nổi bật của các nhân vật

hành động - nói lên tính tự sự của nó.

Trong quá trình phát triển lịch sử, theo ý kiến chung, giai thoại có quan hệ

mật thiết với truyện khôi hài, cổ tích sinh hoạt có nội dung trào lộng, ngụ ngôn, trào

phúng và truyện cổ có kết cấu theo kiểu tăng cấp. Truyện kể tăng cấp (thường dưới

dạng giản lược) và điểm “point” kết thúc đã biến giai thoại thành nguồn cội của tiểu

thuyết - ở cả thời Phục hưng, lẫn sau này, trong sáng tác của A. Chekhov (Cái chết

của viên công chức), hay H. Henry (The Cop and the Anthem).

Năm 1988, nhà xuất bản Văn học đã giới thuyết khái niệm giai thoại văn

học khi tái bản cuốn Giai thoại văn học nói trên. Sách viết: “Giai thoại văn học

là những giai thoại riêng về các nhà văn, những nhân vật có tên tuổi trong xã

hội hoặc đông đảo những người yêu thích thơ văn và sáng tác thơ văn nói

chung. Như vậy giai thoại văn học là một loại văn chương vừa có tính chất bác

học lại vừa có tính chất truyền miệng mang trong cổt cách của nó nhiều nét dân

tộc độc đáo đầy sức hấp dẫn” [24, tr. 5]. Theo chúng tôi, giới thuyết này chỉ

nhấn mạnh khái niệm giai thoại văn học và vị trí của nó trong văn học dân tộc

như cầu nối giữa văn học dân gian - văn học mà hơi nhòe tính chất thể loại,

cũng không xác định nó là văn học dân gian hay văn học bác học.

Năm 1994, Vũ Ngọc Khánh trong cuốn Kho tàng giai thoại Việt Nam lại

thiên về nhận định giai thoại thuộc văn học dân gian khi ông cho rằng: “… Những

câu thơ, câu đối ở đây có vẻ giàu chữ nghĩa, điển tích như ở văn chương bác học,

song điều bắt buộc là phải vận dụng theo phong cách dân gian, lấy chất liệu và cả

biện pháp quen thuộc của ca dao, câu đố…tác phẩm văn học bác học được xem như

tác phẩm dân gian và có thể sống trong quần chúng…” [18, tr. 7]. Như vậy, Vũ

Ngọc Khánh coi giai thoại văn học như các tác phẩm văn học dân gian nhưng

không phủ nhận rằng nó có nguồn gốc bác học và đã được dân gian hóa.

Trong cuốn Từ điển Văn học do nhà xuất bản Thế giới phát hành năm 2004,

giai thoại được định nghĩa như sau: “Một thể loại chuyện kể truyền miệng, lưu

9

truyền chủ yếu trong giới nhà văn và lớp công chúng ưa thích thơ văn, nhất là

những người có hiểu biết Hán học và văn chương chữ Hán. Thuật ngữ giai thoại

được mượn từ Trung Hoa. Mỗi giai thoại là một truyện kể ngắn gọn, lý thú, xoay

quanh những nhân vật có thực, thường là những danh nhân… Giai thoại văn học

thường không phân giới rõ rệt với truyền thuyết, truyền kỳ; có những mảng giai

thoại xuất hiện thời kỳ sau lại gần với tiếu lâm. Tuy vậy giai thoại vẫn mang tính

độc lập như một thể loại độc đáo; nó thuộc về văn chương bác học, gắn với sinh

hoạt văn học thành văn, nhưng lại tồn tại dưới dạng truyền miệng, tức là dạng thức

tồn tại của các truyện kể dân gian” [49, tr. 119]. Định nghĩa giai thoại trên có phần

mâu thuẫn. Một mặt nó đã khẳng định “Giai thoại là một thể loại chuyện kể truyền

miệng” (tức nó thuộc văn học dân gian), nhưng lại nêu thêm “Nó thuộc về văn

chương bác học, gắn với sinh hoạt văn học thành văn”. Như vậy, tác giả muốn coi

giai thoại là một thể loại văn chương, điều mà Trần Thanh Mại đã có lần đề cập.

Tuy nhiên, bản thân tác giả mục từ này cũng chưa nhận thức rõ giai thoại thuộc văn

học dân gian hay văn học thành văn, khi thì tác giả coi nó là “một thể loại của

truyện kể truyền miệng” khi lại nhấn mạnh “Nó thuộc văn chương bác học”.

Trong cuốn sách Văn học dân gian người Việt, góc nhìn thể loại ở bài Thể

loại giai thoại, Kiều Thu Hoạch cũng định nghĩa: “Giai thoại vốn là một thuật ngữ

gốc Hán, giai có nghĩa là hay, đẹp, thoại là câu chuyện kể. Như vậy giai thoại là câu

chuyện kể hay, đẹp… Tuy nhiên, giai thoại không phải là câu chuyện, mẩu chuyện

kể bình thường, mà đó phải là những câu chuyện hay, lý thú, gợi được những khoái

cảm thẩm mĩ” [16, tr. 18]. Định nghĩa này của ông không khác các nhà nghiên cứu

trước đây, song ông đã đưa ra nhiều phân tích, nhận xét có giá trị về giai thoại. Theo

Kiều Thu Hoạch thì những tài liệu sách báo có sưu tầm và giới thiệu giai thoại khá

nhiều và rải rác khoảng từ những năm 30 đến 45 của thế kỉ trước, nhưng phải đến

năm 1965 mới có một cuốn sách sưu tầm giai thoại chính thức ra đời là cuốn Giai

thoại văn học Việt Nam của Hoàng Ngọc Phách và Kiều Thu Hoạch.

Từ những ý kiến khác nhau của các nhà nghiên cứu, câu hỏi đặt ra là giai

thoại có phải là một thể loại văn học dân gian hay không?

10

Văn học dân gian là những sáng tác folklore và đặc trưng của các sáng tác

dân gian là:

- Tính truyền miệng

- Tính tập thể

- Tính nguyên hợp và đa chức năng

- Tính dị bản.

Xem xét lần lượt các đặc trưng này, chúng tôi nhận thấy giai thoại hoàn toàn

thỏa mãn. Giai thoại là các sáng tác truyền miệng, truyền miệng cả về sáng tác và

lưu truyền. Nói đến tính truyền miệng và tính tập thể của văn học dân gian, chúng

tôi nhận thấy vấn đề chính của hai đặc trưng này là vấn đề người sáng tác. Có người

sáng tác thì tác phẩm dân gian mới ra đời, mới được truyền miệng và thỏa mãn các

đặc trưng khác. Trong giai thoại thường xuất hiện những câu đối, những bài thơ văn

bác học của các học giả, tác gia nổi tiếng. Nếu vin vào cớ giai thoại là những sáng

tác của người có chữ nghĩa mà cho rằng nó thuộc văn chương bác học thì chưa hẳn

là hoàn toàn chính xác. Trong văn học dân gian Việt Nam, ca dao, tục ngữ chính là

những câu có xen những từ Hán, điển cố Hán, thậm chí có những câu toàn chữ Hán.

Những câu như thế không thể xem là do người nông dân hoàn toàn không biết chữ

Hán sáng tác. Đó hẳn là những sáng tác của những anh đồ quê, những nho sĩ thủa

hàn vi hoặc những lúc rảnh việc công. Đó là một thực tế lịch sử - nét đặc thù của

văn hóa, văn học dân gian truyền thống Việt Nam. Còn về mặt lý luận, dường như

giới nghiên cứu folklore hiện nay trên thế giới cũng không đồng tình với quan điểm

một thời cho rằng sáng tác folklore chỉ là của người lao động, của người mù chữ.

Trần Quốc Vượng cũng đã từng dẫn một câu nói của một nhà nghiên cứu folklore

người Pháp: “Cái gì không phải là chính thống thì là dân gian”. Đúng như vậy, khi

Nguyễn Trãi sáng tác một cách nghiêm túc những bài thơ chữ Hán, thơ Quốc âm

bằng chữ Nôm thì đó là những tác phẩm chính thống, là văn chương bác học.

Nhưng khi ông sáng tác đùa chơi, hoặc người kể chuyện gán cho ông sáng tác đùa

chơi bài “Hỏi cô bán chiếu” thì đó lại là sáng tác phi chính thống, nó không nghiêm

túc, nó chính là dân gian. Cũng vậy, khi Phan Bội Châu viết bài “Hải ngoại huyết

11

thư” thì đó là sáng tác bác học. Nhưng lúc ông còn là chàng trai trẻ ở quê nhà, đi hát

ví phường vải, hát đáp lại bên gái câu hát:

“Các em là phận nữ nhi

Một Đan Chu cũng đủ, hỏi mần chi những tám người?” [16, tr. 68].

thì đó là câu hát đùa nghịch, không phải là sáng tác chính thống, quan phương, đó chính

là tác phẩm văn học dân gian. Hoặc nữa, khi Bác Hồ sáng tác những bài thơ chữ Hán

trong Nhật kí trong tù thì đó là những sáng tác chính thống, thể hiện ý chí cách mạng của

Người. Còn khi Bác làm thơ vui trả chữ nữ sĩ Hằng Phương:

“Cảm ơn bà biếu gói cam

Nhận thì không đúng, từ làm sao đây

Ăn quả nhớ kẻ trồng cây

Phải chăng khổ tận đến ngày cam lai”

thì đó đã gần với ranh giới của văn học dân gian.

Người sáng tác văn học, văn hóa dân gian trong những trường hợp này đều là

những người biết chữ. Vậy, với cách nhìn nhận này, rõ ràng, giai thoại là các sáng

tác dân gian, là folklore, và đương nhiên, nó phải là một thể loại nằm trong loại hình

tự sự dân gian. Chính vì vậy, Guxép đã coi giai thoại như một thể loại độc lập.

Trong phạm vi luận văn, chúng tôi đồng ý với nhận định này của Guxép.

Một vấn đề nữa cần làm sáng tỏ là tính dị bản của giai thoại văn học. Tuy

phần lớn các giai thoại văn học cổ truyền đều đã được ghi chép trong các văn bản,

song đây là thể loại vốn được sáng tác và lưu truyền bằng miệng, cho nên chúng ta

sẽ không lấy làm lạ khi thấy cùng một mẫu kể giai thoại, cùng một bài thơ hoặc câu

đối, lại có nhiều dị bản khác nhau. Thậm chí, có cả những trường hợp thơ hoặc câu

đối, hoặc cốt truyện vốn ở trong kho tàng giai thoại Trung Quốc cũng được du nhập

và diễn biến thành giai thoại văn học Việt Nam.

Dưới đây là khảo sát của chúng tôi ở một số dị bản trong kho tàng các giai

thoại văn học quen thuộc.

Sách Chuyện đời xưa của Trương Vĩnh Kí, Sài Gòn, 1866, kể chuyện về mối

quan hệ giữa ông Hoàng Hồng Bảo, anh cùng cha khác mẹ với Tự Đức nối ngôi.

12

“Hồng Bảo âm mưu lật đổ, việc bại lộ, phải tự tử… Trong bữa tiệc ăn mừng

nhân dẹp được loạn Hồng Bảo, vua Tự Đức đang nhai chẳng may cắn phải lưỡi, vua

bèn bảo các quan cùng vịnh thơ “Răng cắn lưỡi” để mua vui.

Bấy giờ, ông Nguyễn Đăng Hành làm bài thơ rằng:

Tớ sinh ngươi chửa ra đời

Ngươi sinh sau tớ tớ thời làm anh

Hôm nay ăn uống ngon lành

Mối tình cốt nhục sao đành hại nhau.

Tự Đức tức giận vì bị châm chọc chuyện Hồng Bảo, sai lôi tác giả bài thơ ra

ngoài Ngọ Môn đánh cho ba chục roi, sau đó, để tỏ ra biết trọng nhân tài, vì thơ

hay, lại truyền thưởng cho tác giả vàng bạc”.

Đến sách Kho tàng giai thoại Việt Nam, Vũ Ngọc Khánh (1994) lại theo sách

Giai thoại làng Nho (1996) ghi nhân vật làm bài thơ đó là Nguyễn Hàm Ninh (1807

– 1867), thơ có sai biệt một đôi chỗ. Cũng theo Vũ Ngọc Khánh, thì còn có một dị

bản nữa, ở vùng Thừa Thiên, cho là Trần Văn Kỷ làm thơ nói về việc vua Quang

Trung cũng phải cắn lưỡi, ám chỉ việc vây hãm thành Quy Nhơn của Nguyễn Nhạc.

Cũng có thể kể thêm một dẫn chứng khác mà quá trình biến dị khá lí thú. Đó

là giai thoại văn học về Trạng nguyên Nguyễn Hiền đời Trần. Sách Chuyện khôi hài

của Trương Vĩnh Ký, Sài Gòn, 1882, ở chuyện Câu đối có chí khí kể rằng: “Ông

huyện kia đi dọc đường gặp một thằng con nít đi học về. Thấy bộ mặt đứa bé sáng

láng, bảnh lảnh mới kêu mà ra câu hỏi rằng:

Tự là chữ, cất giằng đầu, chữ tử là con, con nhà ai đó?

Đứa học trò chí khí đối lại liền:

Vu là chưng, cất ngang lưng, chữ đinh là đứa, đứa hỏi ta chi?

Ông huyện nghe biết đứa có chí lớn, bèn nói sau nó sẽ làm nên sự nghiệp.

Mà thiệt như vậy chẳng sai”.

Đến sách Đại Nam kỳ nhân liệt truyện, bản dịch của Tô Linh Thảo, Quảng Thịnh,

Hà Nội, 1930 và sách Văn đàn bảo giám thì nhân vật phiếm chỉ là đứa học trò, đã được

lịch sử hóa thành Trạng Hiền, đậu Trạng nguyên năm 12 tuổi, người đời Trần Thái Tông,

13

có quên quán cụ thể, làng Hà Dương, huyện Thượng Nguyên, phủ Thiên Trường, xứ

Sơn Nam. Hai câu có sai dị chút ít, không đáng kể.

Cần phải nói thêm rằng, tính dị bản ở giai thoại không hoàn toàn giống như

tính dị bản của một số thể loại khác như truyện cổ tích, hoặc truyện Nôm bình

dân… Nếu như ở truyện cổ tích, truyện Nôm bình dân thường có những biến dị về

tình tiết, cốt truyện để tạo nên dị bản/bản khác, thì ở giai thoại văn học hiếm thấy sự

biến dị như thế. Ở giai thoại văn học, thường vẫn là câu chuyện kể xung quanh câu

đối ấy, bài thơ ấy nhưng lại được lịch sử hóa, địa phương hóa để gán ghép cho nhân

vật này hoặc nhân vật khác mà thôi. Như vậy, nếu theo lý thuyết folklore thì sự gán

ghép ấy chưa hẳn đã tạo cho giai thoại văn học những dị bản/bản khác theo đúng

nghĩa chặt chẽ của nó. Tuy nhiên, theo tác giả Kiều Thu Hoạch thì tính dị bản ở đây

“có thể xem là đặc trưng của văn học dân gian” [16, tr. 29].

Như vậy, với những lý luận và dẫn chứng trên đây, chúng tôi bước đầu

khẳng định giai thoại có đầy đủ những đặc trưng của một thể loại văn học dân gian.

Qua việc nghiên cứu, xem xét những ý kiến khác nhau của các nhà nghiên

cứu văn học dân gian, trong phạm vi luận văn, chúng tôi đồng ý với ý kiến của nhà

nghiên cứu Kiều Thu Hoạch trình bày trong cuốn Giai thoại văn học Việt Nam, Nhà

xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004: Giai thoại chính là một thể loại văn học

dân gian. Chúng tôi nhận thấy, giai thoại có đầy đủ những đặc trưng của văn học

dân gian, nó có khả năng đứng độc lập thành một thể loại riêng.

1.1.2. Các tiêu chí nhận diện thể loại

Giai thoại là các sáng tác folklore, là văn học dân gian mà các tác giả

nước ngoài có người còn gọi rõ là giai thoại dân gian. Đúng như luận điểm của

Guxep, ở thể loại giai thoại, nhiều khi rất gần với các thể loại văn học dân gian

khác như truyện cười, truyền thuyết… Ở Trung Quốc, người ta có thể dễ dàng

tìm thấy những mẩu truyện giai thoại nằm rải rác trong những pho truyện cười

được sưu tầm từ thời Tam Quốc cho tới tận cuối đời Thanh. Ở ta, cũng có tình

hình tương tự. Có một số truyện cười nhằm chế giễu những nho sĩ làm thơ dở

mà hay khoe chữ, như loại thơ “con cóc” hoặc chế giễu những ông đồ dốt, như

loại “Ai trồng cây đất bể Đông…” thì để vào truyện cười cũng được mà xếp

14

vào giai thoại cũng không sai. Điều dễ thấy là những giai thoại văn học xung

quanh bài thơ, câu đối khuyết danh hoặc những nhân vật phiếm chỉ thường có

những nét gần gũi với thể loại truyện cười nhiều hơn. Có lẽ cũng vì thế mà

trước đây, nhiều nhà sưu tập truyện cười dân gian đã không quan tâm lắm đên

sự phân biệt này. Như vậy, nếu đã khẳng định giai thoại là một thể loại văn

học, có vị trí, chỗ đứng riêng thì nhất định chúng ta phải có hệ thống các tiêu

chí rõ ràng, cụ thể để nhận diện nó.

1.1.2.1. Quy mô tác phẩm ngắn gọn, tình huống lý thú, hấp dẫn

Giai thoại thường phải hết sức ngắn gọn. Một giai thoại hấp dẫn cần phải có

lời kể, lời thoại thật ngắn gọn. Đây là yếu tố làm tăng kịch tính và độ căng cho câu

chuyện. Theo khảo sát hơn 1000 giai thoại, chúng tôi thấy quy mô tác phẩm ngắn

gọn là đặc điểm của thể loại này. Giai thoại ngắn nhất có quy mô vài chục từ, giai

thoại dài nhất là vài chục trang kể về cuộc sống đời thường của các tác gia. Chúng

tôi mới chỉ xác định quy mô ngắn gọn là đặc điểm của giai thoại mà chưa khẳng

định rằng đây là đặc trưng, bởi vì, bản thân các thể loại văn học dân gian khác cũng

có thể có đặc điểm này (như truyện cười, truyện ngụ ngôn), phải nhìn nhận khách

quan trong cái nhìn so sánh cụ thể.

Các thể loại tự sự dân gian khác như thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ

tích… không có nhu cầu kể ngắn gọn như giai thoại. Lấy ví dụ về thể loại truyền

thuyết: Cốt truyện truyền thuyết lại xoay quanh nhiều nhân vật, thậm chí có truyện

có hai hệ thống nhân vật đối lập nhau như Truyện An Dương Vương: Một bên là An

Dương Vương, Mỵ Châu, thần Kim Quy; một bên là Triệu Đà, Trọng Thủy, con

tinh Gà Trắng. Kết cấu truyền thuyết có hai loại: loại cốt truyện đơn và loại cốt

truyện xâu chuỗi. Chẳng hạn như Truyền thuyết về Lê Lợi gồm những chuỗi tập

trung nói về người anh hùng Lê Lợi. Nó không chỉ có một mà là rất nhiều truyện.

Chính kết cấu và cốt truyện truyền thuyết đã khiến cho quy mô của thể loại này

không thể ngắn gọn. Hay như truyện cổ tích, quy mô của thể loại này cũng tương

đối dài. Truyện cổ tích thường được xây dựng theo một số sơ đồ chung nhất định.

Cơ sở để xác lập sơ đồ kết cấu truyện cổ tích là những hành động của nhân vật

chính. Có thể phác thảo sơ đồ kết cấu của truyện cổ tích thần kì dân tộc Việt như

15

sau. Phần đầu: nhân vật chính xuất hiện. Phần giữa: cuộc phiêu lưu của nhân vật

chính trong “thế giới cổ tích”. Phần kết: Đổi đời hay là sự thay đổi số phận trong

“thế giới cổ tích”. Như vậy, ở hai thể loại có vẻ “dài hơi” này của văn học dân gian,

chúng tôi thấy rõ sự khác biệt với giai thoại về quy mô tác phẩm.

Tiếp tục so sánh với truyện ngụ ngôn và truyện cười - hai thể loại có quy mô

tác phẩm tương đối ngắn. Kết cấu của truyện ngụ ngôn chỉ nêu ra một hoàn cảnh,

một tình huống, trong đó diễn ra một hành động của một hoặc một vài nhân vật,

nhằm minh hoa cho một điều răn dạy nào đó. Xung đột không có quá trình hình

thành, nó chỉ diễn ra trong một hành động. Đặc trưng này tạo nên kiểu kết cấu tiêu

biểu một màn kịch của truyện ngụ ngôn. Nó gần giống như quy tắc “tam duy nhất”

của kịch cổ điển. Theo La Phôngten, truyện ngụ ngôn gồm phần xác (câu chuyện)

và phần hồn (điều răn dạy). Có đôi khi điều răn dạy được diễn tả thành lời, tức là

dựa theo quan niệm của La Phôngten thì phần “hồn” được “hiện ra” bên ngoài xác.

Như vậy, tuy quy mô truyện ngụ ngôn ngắn gọn nhưng rõ ràng không thể nhầm lẫn

với giai thoại được, chỉ còn lại truyện cười là thể loại cần xem xét kĩ trong cái nhìn

so sánh với giai thoại.

Như đã nói ở phần trên, giữa truyện cười và giai thoại có sự giao thoa nhưng

không có nghĩa là không thể xóa ranh giới giữa chúng. Cả hai thể loại đều có quy

mô tác phẩm ngắn gọn, có độ căng kịch tính. Vậy, dựa vào đâu để phân biệt chúng?

Một truyện cười sở dĩ được gọi là truyện cười là do tính gây cười tạo nên. Một giai

thoại sở dĩ được gọi là giai thoại vì có tính lý thú. Đương nhiên, nói như thế không

có nghĩa là tuyệt nhiên giai thoại không có tiếng cười mà đó là cái cười thầm, cười

mỉm chứ không phải cười vang, cười sảng khoái, cười rộ như truyện cười. Guxép

nói tình huống lý thú chính là đặc trưng của giai thoại. Hay nói cách khác, đó chính

là kịch tính, dẫn câu chuyện tới chỗ thắt nút, rồi bất ngờ mở nút, dẫn người nghe tới

một khoái cảm thẩm mĩ cao độ, đầy hứng thú.

Có thể lấy ví dụ cho đặc trưng này:

Sách Kho tàng giai thoại Việt Nam của Vũ Ngọc Khánh có giai thoại như sau:

16

“Một buổi trưa hè, trời vừa tạnh mưa, Tú Xương đứng ngóng sang nhà đối

diện, thấy cô Nghĩa nhà hàng xóm đang rửa dưa trong cái thau đồng , bất giác đọc

lên mấy câu:

Ước gì ta hóa ra dưa

Để cho người tắm nước mưa chậu đồng

Ước gì ta hóa ra hồng

Để cho người bế, người bồng trên tay” [19, tr. 46].

Phải thừa nhận bài thơ rất dí dỏm, rất hay. Nhưng mấy lời trên chỉ có thể

xem như một tiểu dẫn về hoàn cảnh sáng tác bài thơ, chứ chưa được xem là một giai

thoại vì nó thiếu kịch tính. Hơn nữa, thông thường, đã gọi là giai thoại thì phải có

đối thoại, đặc trưng này sẽ nói thêm ở phần sau. Ở đây mới chỉ thấy Tú Xương làm

thơ đùa chơi, mà chưa thấy cô hàng xóm đáp trả thế nào. Do đó, mới chỉ có giai mà

chưa có thoại.

Bây giờ, hãy xem xét một giai thoại có chứa tình huống lý thú. Đó là giai

thoại “Nhờ râu mà thoát đòn”:

“Tiến sĩ Từ Ô về thăm quê Thanh Miện, Hải Dương. Nghe nói Tri huyện

Thanh Miện hách dịch lắm, ai đi qua cổng huyện cũng phải “hạ mã”, xuống ngựa,

xuống cáng, không thì phải đánh đòn. Ông nghè Từ Ô liền mượn một con bò cưỡi

qua, nghênh ngang không chịu xuống. Lính bắt ông vào trình quan huyện. Ông khai

là thầy đồ già đi dạy học ở xa mới về nên không biết lệ, và lệ quan chỉ bắt xuống

ngựa, chứ có bắt xuống bò đâu. Quan huyện nghe nói trôi chảy, bèn bảo lẽ ra phải

đánh đòn, nhưng nể cái bộ râu của ông - ý nói già cả, nên tha, tuy vậy phải đối một

câu đối để tạ ơn. Rồi hắn đọc một câu rằng:

- Huyện quan Thanh Miện kiến vô lễ nhi dục công.

Nghĩa là: Quan huyện Thanh Miện thấy kẻ vô lễ nên muốn đánh.

Ông nghè Từ Ô nghe tri huyện nói “nể bộ râu” liền ứng khẩu đối lại:

- Tiến sĩ Từ Ô hạnh hữu tu nhi đắc thoát.

Nghĩa là: Tiến sĩ Từ Ô may nhờ có râu mà thoát đòn.

Quan huyện nghe đối, biết đó là tướng công Trần Văn Trứ, đại thần ở trong

triều, sợ toát mồ hôi, sụp lạy xin tha tội” [19, tr. 168].

17

Câu đối thú vị ở chỗ “nhờ râu mà thoát đòn”. Tình tiết câu chuyện giàu kịch

tính, tạo được bất ngờ cho người nghe. Một giai thoại văn học thế là khá trọn vẹn,

có giai và có thoại.

Qua dẫn chứng ở trên, chúng tôi thấy, tính lý thú chính là linh hồn của giai

thoại văn học. Thiếu tính lý thú, câu chuyện không còn hấp dẫn người nghe nữa.

Theo nhà nghiên cứu Lã Nguyên, giai thoại thiên về lối kết cấu xâu chuỗi -

hoặc là xoay quanh các nhân vật nào đó, hoặc là những đặc điểm dân tộc nổi bật của

các nhân vật hành động - nói lên tính tự sự của nó. Chức năng làm nổi bật tính hai

mặt của tình huống truyện kể rốt cuộc quyết định toàn bộ tổ hợp đặc trưng thể

loại giai thoại, bao gồm cả tính hàm súc trong việc mô tả các sự kiện một cách khách

quan. Thoạt đầu, nhân vật giai thoại được đặt ở vị thế bình thường, ai cũng biết rõ, về

sau diễn ra sự thay đổi hoàn toàn trong việc tiếp nhận và đánh giá nó, tức là xuất hiện

đột biến di chuyển về phía cái đặc biệt mới mẻ, khác lạ: điểm nhìn mới đối với tình

huống ban đầu hoá ra hoàn toàn hợp qui luật. Thời gian để nhân vật từ vị thế bình

thường đến đột biến rất ngắn, chỉ trong một khoảnh khắc của lời nói. Điều đó khiến

cho câu chuyện trở nên bất ngờ, gây hứng thú với người nghe, người đọc.

Như vậy, tiêu chí đầu tiên để nhận diện thể loại giai thoại chính là quy mô

của các tác phẩm thuộc thể loại này ngắn gọn, tình huống thoại lý thú, hấp dẫn đưa

người đọc đến điểm đột biến, khiến câu chuyện hấp dẫn, lý thú. Chính yếu tố lý thú

này là cái thu hút người đọc, làm cho thể loại vừa có “giai”, vừa có “thoại”.

1.1.2.2. Lời thoại giàu trí tuệ, dí dỏm

Giai thoại bắt buộc phải có lời thoại, tức có đối đáp giữa các nhân vật.

Không có lời thoại, câu chuyện dù thú vị đến đâu cũng không thể thành giai thoại.

Đặc điểm này có tính khu biệt giai thoại với các thể loại văn học dân gian khác.

Trong khi đó, không ít truyền thuyết, truyện cổ tích rất hấp dẫn mà chẳng cần có lời

thoại nào. Có giai thoại tần suất xuất hiện lời thoại chiếm phần lớn dung lượng chữ

của cả giai thoại. Chúng ta lấy một số ví dụ sau đây:

“Khoảng cuối đời Trần, có Bảng Nhãn Lê Hiến Phủ người làng Chính An,

huyện Đông Triều, tỉnh Hải Dương làm quan tới chức Đại học sĩ, là người rất trung

thực, không sợ cường quyền.

18

Tương truyền, khi Hồ Quý Ly đang chuyên quyền, thường ngày đến làm

việc ở nhà chính sự đường vẫn ngồi trên một chiếc ghế đen. Lê Hiến Phủ thấy

vậy liền cự rằng:

- Nay ông dám ngồi ghế đen, rồi nữa ngai vàng ông cũng ngồi à?

Hồ Quý Ly gật gù đáp:

- Xin ông hãy đổi cái bụng dạ ấy đi.

Hiến Phủ không hề sợ, cứng cỏi trả lời rằng:

- Bụng dạ trời sinh, sao có thể đổi được!

Đoạn ngâm mấy câu thơ rằng:

Ngã tâm phỉ thạch

Bất khả chuyển giã

Ngã tâm phỉ tịch

Bất khả quyển giã.

Nghĩa là:

Lòng ta chẳng phải hòn đá;

Không thể chuyển vần được!

Lòng ta chẳng phải chiếc chiếu,

Không thể cuốn tròn được.

Rồi lại nói: “Lòng ta như thế đấy”.

Quý Ly nghe nói giận lắm nhưng vẫn lẳng lặng không nói gì cả.

Sau đó, Hiến Phủ tâu với vua, vua càng tin dùng hơn và phong cho chức

Hiến gián đại phu. Ít lâu sau Hiến Phủ cùng với vua tìm cách trừ Quý Ly, sai một

người môn khách giấu mũi nhọn trong tay áo để ám sát, song việc không thành, ông

bị Quý Ly đem giết.

Trước khi hành hình, ông vẫn ung dung đọc bài thơ cảm khái, có câu rằng:

Thốn nhẫn trừ tàn thiên địa bạch

Nhất tâm báo quốc quỷ thần tri.

Tạm dịch thơ:

Tấc nhọn trừ gian trời đất biết

Tấm lòng đền nước quỷ thần hay.

19

Nhà vua nghe tin rất thương xót ông, ban cho cỗ áo quan bằng gỗ quý và

truyền chôn cất chu đáo” [19, tr. 211].

Giai thoại thường đề cao chất trí tuệ của lời thoại. Một giai thoại được xem là

hay cần phải có lời thoại hay, giàu chất trí tuệ (riêng ở giai thoại văn học, thủ pháp

chơi chữ còn được xem là dấu hiệu đặc trưng của tiểu loại). Chính đặc trưng này

giúp giai thoại đạt được tính lý thú.

Lấy ví dụ về giai thoại “Ăn hai đấu học hai canh” sau để thấy rõ tính trí tuệ

trong lời thoại:

“Lê Nại người đời Lê, quê ở làng Mộ Trạch, Hải Dương là học trò nghèo mà

học giỏi, được thượng thư Vũ Quỳnh người đồng ấp thương mến, cho ở rể nuôi cho

ăn học. Lúc đầu, Nại chẳng chịu học hành, mà cũng chẳng mó đến việc gì. Vũ Quỳnh

lấy làm lạ, liền đến hỏi ông bố Lê Nại thì đươc biết Nại ăn rất khỏe, chắc là ăn chưa

đủ no. Vũ Quỳnh về nhà, sai dọn cơm riêng cho Nại ăn. Cho ăn một đấu, học đến tối.

Cho ăn một đấu năm lẻ, học đến trống canh ba. Cho ăn một đấu tám lẻ, học đến trông

canh tư. Sau định mức cho ăn hai đấu. Từ đấy, Nại học thâu đêm suốt sáng. Lúc bố

vợ thử tài học, bảo làm thơ. Nại chẳng cần nghĩ, đọc ngay bài thơ vui rằng:

Mộ Trạch tiên sinh

Ăn khỏe nổi danh

Mười tám bát cơm

Mười hai bát canh

Đỗ đầu khoa bảng

Tên trội quần anh

Chứa vào càng lớn

Nở ra càng phình” [19, tr. 143].

Trong thực tế, cũng có những người ăn khỏe như Lê Nại. Rõ ràng, ở đây, tác

giả dân gian đã khoa trương, khiến tình huống giai thoại thêm hấp dẫn, gây hứng

thú cho người nghe. Cách nói khoa trương ở đây đã tạo nên chất trí tuệ trong lời

thoại. Tình tiết ông bố vợ cho chàng rể ăn cũng mang tính chất hài hước, thú vị,

giàu kịch tính. Cho ăn một đấu học đến tối. Rồi tăng dần, đến định mức hai đấu thì

học thâu đêm suốt sáng.

20

Giai thoại thường pha giọng dí dỏm, hài hước, phê phán. Giọng điệu này gắn

bó chặt chẽ với nội dung phản ánh của nó. Sở dĩ giai thoại có giọng kể này là vì lời

thoại tác phẩm luôn có tính trí tuệ nên nếu người kể kể với giọng đều đều, không rõ

ngữ điệu, thiếu dí dỏm sẽ mất đi cái lý thú, cái “thần” của câu chuyện. Lấy ví dụ về

giai thoại “Đầu nhà sư móm” sẽ rõ hơn về đặc điểm này.

“Nhà sư nọ là người không có đạo hạnh, nhân dân không kính trọng. Sư rụng

hết răng cửa thành ra móm, lại nuôi một chú tiểu ngọng líu. Thật là một tình huống

hài hước. không khác gì cảnh trong câu ca dao hài:

Chồng què lấy vợ kiễng chân

Nuôi được thằng ở đứt gân cũng què.

Nguyễn Khuyến đến thăm sư, làm đôi câu đối đùa:

Phất phất phóng phong phan, pháp pháp phi phù, phù phụng phật

Căn căn canh cổ kệ, cao ca kỷ cứu, cứu cùng kinh.

Nghĩa là:

Phất phới phóng phan bay, phù phép phá bùa, bùa phụng phật

Khề khà ca kệ cổ, nghêu ngao nghiền ngẫm, ngẫm ngầm kinh.

Chỗ thú vị của câu đối là ở âm đọc, câu trên nghe có giọng phều phào của

người móm, còn câu dưới nghe ngúc ngắc, cứng quèo như giọng của người ngọng.

Sư biết Nguyễn Khuyến trêu chọc, cũng bực, nhưng vì câu đối tài tình quá, nên sư

tỏ ra hết sức kinh ngạc và kính phục, chỉ cười mà không trách cứ gì” [19, tr. 230]

Ở các thể loại dân gian khác, như truyền thuyết, “truyền thuyết luôn mang

giọng điệu trang trọng, thành kính, phù hợp với thái độ đánh giá lịch sử” [47, tr.

95]. Những từ ngữ sau đây thường hiện diện trong truyền thuyết nhưng không bao

giờ thấy trong giai thoại: “để ghi nhớ tấm lòng nhân hậu…; để ghi nhớ câu chuyện

thương tâm…; nhân dân trong vùng rất thương nhớ…; …nhưng tên tuổi ông được

lưu danh muôn đời trong lịch sử, trên bia miệng…”. Chúng tôi so sánh như vậy để

thấy được rằng lời thoại, ngôn ngữ của giai thoại rất di dỏm, nó có những đặc trưng

riêng biệt, có màu sắc riêng với các thể loại dân gian khác.

Do đặc điểm của kết cấu giai thoại (kết cấu có dáng dấp một màn kịch), đối

thoại đóng vai trò quan trọng trong lời văn kể chuyện. Có thể hình dung lời văn kể

21

chuyện gồm hai phần: phần đối thoại là “tiêu điểm” của hành động và diễn hóa

hành động của nhân vật, còn phần còn lại của lời văn kể chuyện là những chỉ dẫn về

hoàn cảnh và diễn hóa của hoàn cảnh. Có thể nói, trong giai thoại, đối thoại lời nói

của nhân vật đóng vai trò chính trong việc thể hiện tính cách của nhân vật. Do đó,

đây cũng là chỗ kết tinh những nét đặc sắc của ngôn ngữ giai thoại: tính chất giản dị

và tự nhiên, sinh động và sắc bén…trong đó, tất nhiên, nét nổi bật là tính chất hài

hước, thú vị, lý thú, chắt lọc từ nguồn khẩu ngữ dân gian. Điều này góp phần làm

nổi bật tính trí tuệ của lời thoại.

Ví dụ về thoại “Bảo một đằng, làm một nẻo” sau đây:

“Đó là khoảng năm 1908, trước tết Nguyên Đán mấy hôm. Một học trò cũ

đến thăm cụ Tam Nguyên. Sau khi ân cần hỏi thăm gia đình, sức khoẻ, Cụ mới hỏi

đến nghề nghiệp và công việc làm ăn. Khách lễ phép thưa:

- Mười năm trước con đã có phúc đến ăn mày cửa thầy được ít chữ nghĩa.

Nhưng rồi thời thế đổi thay, vì sinh kế con phải xoay sang đường tân học.

Nay con đang làm thông sự tại tòa sứ một tỉnh miền trong.

Cụ Tam lắng nghe chăm chú, khách tiếp:

- Thưa thầy, bấy lâu xa cách, nay được về nghỉ tết, con ghé thăm thầy... Lòng

thành, con có chút quà mọn biếu thầy gọi là chúc tết, xin Thầy nhận cho. Anh ta đặt

gói quà lên sập.

- Anh lại có quà cho ta nữa ư? Cảm ơn anh, thầy xin...

Cụ đưa tay rờ rẫm bên phải, không thấy. Khách thưa:

- Thưa thầy bên này kia ạ!

Cụ đưa tay bên trái, lại cũng không thấy. Khách đẩy gói quà tận tay cụ. Bỗng

cụ bật cười, nói mà như đọc:

- Hay thật là hay đáo để! Bảo một đàng, quàng một nẻo!

Thầy trò cùng cười. Nhưng bỗng nhiên người học trò im bặt, sượng sùng vì chợt

hiểu, câu nói hồn nhiên kia không phải cụ chỉ có ý đùa về sự mù lòa, lẩm cẩm, mà còn

hàm ý: Thầy dạy anh một đàng, nay anh quàng một nẻo, anh đi làm việc cho Tây.

Trầm ngâm một lát, Cụ tiếp, giọng xa xôi, buồn bã:

- Thôi thế thì thôi cũng được! Phi đằng nọ, tắc đằng kia!

22

Khách lặng người vì cảm động. Anh ta hiểu nỗi lòng ngao ngán của thầy

trước thế cuộc, cũng như thái độ khoan dung nhân hậu của thầy” [19, tr.233].

Chắc hẳn, anh học trò sẽ không bao giờ quên lời nói tự nhiên mà thành câu

đối thâm trầm này:

- Hay thật là hay đáo để! Bảo một đàng, quàng một nẻo!

- Thôi thế thì thôi cũng được! Phi đằng nọ, tắc đằng kia!

Lời văn kể chuyện của thoại trên có mấy nét đáng chú ý:

Thứ nhất, lời kể đậm đà chất dân gian, chất khẩu ngữ. Đặc điểm này khá gần

gũi với truyện cười dân gian. Để đả kích và răn dạy anh học trò, Nguyễn Khuyến đã

không dài dòng mà dùng thành ngữ và cách nói đậm chất khẩu ngữ: “bảo một đàng,

quàng một nẻo”, “phi đằng nọ, tắc đằng kía”, “thôi thế thì thôi”.

Thứ hai, chỉ cần xâu chuỗi những từ ngữ đặc tả hành vi của nhân vật trong

lời văn kể chuyện, cũng đủ thấy hiện lên sống động không chỉ một tình huống lý

thú mà cả diễn hóa của nó: thầy dạy trò điều hay, lẽ phải nhưng trò lại làm ngược

lại những đạo đức ấy - đi làm việc cho Tây, trò về thăm thầy - thầy răn dạy, trò

sượng sùng.

Ở phần này, chúng tôi xác định, lời thoại trí tuệ, dí dỏm là một trong những

tiêu chí nhận diện thể loại giai thoại. Tiêu chí này có liên quan chặt chẽ đến nội

dung, nghệ thuật cũng như nhân vật chính của giai thoại. Những nội dung này sẽ

làm rõ hơn ở phần sau của luận văn.

1.1.2.3. Đời thường hóa nhân vật

Giai thoại chỉ tập trung kể chuyện sinh hoạt đời thường, chuyện “thâm cung

bí sử” của những nhân vật vốn nổi tiếng. Một giai thoại, dù đã có tình huống lý thú,

lời thoại lý thú nhưng nếu được gán vào một nhân vật nổi tiếng thì tính lý thú của

nó càng tăng thêm bội phần. Không ít giai thoại văn học đã được lịch sử hóa, có lẽ

cũng từ quan niệm này. Còn đó, giai thoại về các hoàng tử con vua Gia Long:

Nguyễn Phúc Phổ ngổ ngáo, Nguyễn Phúc Đài tham lam, Nguyễn Phúc Quân xấc

xược … Rồi chuyện các đại thần: tướng Lê Văn Quân chết rồi vẫn bị đánh 100 gậy,

23

Tả quân Lê Văn Duyệt bị san mộ, Tham tri Nguyễn Tri Phương bị vua nghiêm phê,

Tiến sĩ Phan Thanh Giản bảy lần bị trách phạt…

Riêng tiêu chí này, chúng tôi so sánh nhân vật giai thoại với nhân vật truyền

thuyết để thấy rõ sự khác biệt. Sở dĩ chúng tôi lựa chọn truyền thuyết vì đây là thể

loại cũng kể về những nhân vật có thật trong lịch sử, song khác với xu hướng miêu

tả hoàn toàn trái ngược. Trong truyền thuyết, ngoài những anh hùng dân tộc như

Trương Định, Thiên Hộ Dương, Nguyễn Trung Trực, Thủ Khoa Huân … tác phẩm

có thể chỉ kể về những người xuất thân bình thường hoặc vô danh. Đơn cử, đó là

chuyện mười tám nghĩa binh phò Trương Định, chuyện ông lực điền Phòng Biểu -

tướng tài của Thiên Hộ Dương, chuyện Bà Điều, Bà Đỏ - nghĩa quân thân tín của

Nguyễn Trung Trực, chuyện tướng cướp hoàn lương Sáu Hải - người đánh mõ trung

thành của Thủ Khoa Huân… Điều này, với giai thoại là hiếm thấy.

Về cách miêu tả, giai thoại thường đưa cuộc đời nhân vật đi từ chỗ bí ẩn trở

về gần gũi với mọi người. Nó có xu hướng kéo nhân vật xuống đời thường. Lấy ví

dụ những giai thoại về cuộc đời Từ Dũ - bậc mẫu nghi thiên hạ những lời nói, việc

làm hàng ngày lại bình dị, rất đời thường.

Chuyện kể rằng, từ lúc vào cung làm vợ hoàng tử Miên Tông rồi sau này trở

thành hoàng quý phi của vua Thiệu Trị, hay lúc là Từ Dũ Thái hậu, bà Từ Dũ vẫn

luôn là người sống giản dị, khiêm tốn, kính trên nhường dưới cho dù luôn được vua

sủng ái, cuộc sống đầy đủ. Điều khiến bà bất bình nhất là sự ăn chơi vô độ, xa hoa,

phung phí. Bà vẫn thường dạy các cung phi trong hậu cung: Tất cả những gì chúng

ta được hưởng đều là mồ hôi của dân. Nếu lãng phí đã không ích gì mà lại đáng

tiếc, sao bằng lưu lại để triều đình dùng cho việc nước. Nói là làm, tất cả những

gấm vóc, châu ngọc, lụa là được ban tặng, bà đều giao nộp vào kho, tuyệt nhiên

không dùng đến. Bà chỉ có vài bộ xiêm y để thay đi thay lại. Có lần vua Tự Đức đến

thăm, thấy xiêm áo mẹ mặc vải đã sờn, liền ngỏ ý may cho bà áo mới, nhưng bà

kiên quyết chối từ. Hoàng Thái hậu Từ Dũ tiết kiệm đến nỗi chính các cung nữ hầu

cận bà cũng phải kinh ngạc. Bà quan niệm hạt gạo là hạt ngọc trời ban nên không

bao giờ được phép lãng phí. Có lần thấy cung nữ ở cung Gia Thọ đổ cơm nguội

24

xuống dưới rãnh nước, bà bắt nhặt lên, đem rửa thật sạch rồi đem hấp lại và đích

thân ăn chỗ cơm đó trước sự hổ thẹn của xung quanh. Thời vua Thiệu Trị còn sống,

có lần vào cung thăm bà, vua thấy bà dùng chiếc quạt nan tre đã sờn rách, chiếc bát

ăn cơm bà dùng cũng có vết rạn, vua bèn sai người đổi cái khác nhưng bà không

cho. Bà nói: Đổi cái mới để lâu nó cũng cũ đi, vậy thì cứ để lại cái cũ. Ngay cả

những cây nến trong hậu cung cháy hết, còn lại mẩu thừa, cung nữ thường vứt đi,

Từ Dũ Thái hậu cũng bắt gom lại để dành, dồn vào nấu thành cây nến khác. Bà

thường nói với các cung nữ: Ta tự thấy không làm gì có ích cho nước nhà, sao lại

cậy thế là mẹ vua để ăn tiêu xa xỉ. Một sợi tơ, một hạt hạo đều là máu mỡ của dân,

tuyệt không được coi thường mà hoang phí? Sinh thời, làm việc gì, tiêu đồng tiền gì

dù là nhỏ nhất, Từ Dũ Thái hậu cũng nghĩ đến dân. Dịp lễ mừng thọ bà, bà thường

lấy lý do nhân dân còn nghèo, thiên tai mất mùa, đói ăn mà từ chối lời đề nghị tổ

chức mừng thọ của vua. Là người yêu nước thương dân, Từ Dũ Thái hậu đã đứng ra

xin vua miễn thuế cho dân. Nhân dân biết ơn đã làm một bài vè dài 700 câu để ca

ngợi tấm lòng nhân đức của Từ Dũ Thái hậu.

Hay như Nguyễn Trãi - một danh nhân văn hóa, một nhà thơ lỗi lạc trong

lịch sử dân tộc. Ông đã được lịch sử, truyền thuyết ca ngợi, tôn thờ nhưng những

mẩu giai thoại về cuộc đời ông đã giúp người đọc hình dung ra một Nguyễn Trãi

cũng bình dân, đời thường như bao người dân khác, cũng có ái, ố, hỉ, nộ, yêu

ghét… Giai thoại “Câu thơ nên nghĩa” dưới đây giúp chúng ta phần nào thấy

được chân dung ấy:

“Sau kháng chiến Bình Ngô. Một buổi chiều từ triều trở về, qua Hồ Tây trời

xâm xẩm, Nguyễn Trãi gặp một cô gái đi bán chiếu rong. Rung động trước vẻ đẹp

tuyệt trần của cô gái, tâm hồn thi sĩ bỗng nhiên lên tiếng:

Nàng ở đâu ta bán chiếu rong?

Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn?

Xuân thu chừng độ bao nhiêu tuổi

Đã có chồng chưa, được mấy con?

Người con gái nhìn thẳng vào vị đại thần, tình tứ đung đưa cặp mắt lá răm:

25

Thiếp ở Tây Hồ bán chiếu gon

Nỗi chi ông hỏi hết hay còn?

Xuân xanh vừa độ trăng tròn lẻ

Chồng còn chưa có, hỏi chi con?

Nguyễn Trãi thấy đối đáp trôi chảy, trong lòng xốn xang. Hỏi tên biết

nàng là Thị Lộ, quê làng chiếu Hải Triều, Thái Bình, mới đem về cưới làm vợ.

Vua Thái Tông cảm vì sắc, phục vì tài hay chữ, phong là Nữ học sĩ, thường thư-

ờng cho vào nơi cung cấm, dạy các cung phi. Nguyễn Thị Lộ là người vợ tâm

đắc nhất của Nguyễn Trãi” [19, tr. 156].

Ngược lại, truyền thuyết đưa nhân vật đi từ chỗ bình thường hóa thành thiêng

liêng, bất tử. Nó theo xu hướng nâng nhân vật lên ngưỡng đề cao, tôn thờ. Điều này

hoàn toàn ngược lại với giai thoại. Đó chính là điểm khu biệt cho thể loại này với

truyền thuyết. Ví dụ, chuyện ông Dương Văn Hạnh, phó xã trưởng đất Lý Nhơn, vì

giấu tung tích Trương Định mà bị chặt đầu nên nhân dân tôn thành Ông thần không

đầu; chuyện Bà Bầy, vì ủng hộ nghĩa quân Thiên Hộ Dương mà bị giặc bắt tra tấn,

hãm hiếp đến chết nên được nhân dân thương tiếc, lấy tên bà đặt cho một vàm sông

- vàm Bà Bầy …

“Giai thoại luôn gắn với không gian, thời gian sinh hoạt đời thường, hàng

ngày. Còn truyền thuyết luôn gắn với không gian thiêng, thời gian thiêng, liên quan

đến vận mệnh nhân vật và dân tộc. Trong truyền thuyết, cho dù một vàm sông, con

rạch bình thường cũng gắn liền với công đức, sự hy sinh dũng liệt của những người

yêu nước (vàm Hổ Cứ, vàm Bà Bầy, rạch Nàng Hai, Vũng Linh,…)” [47, tr. 95].

Các tình tiết, sự kiện, cho dù gần với sinh hoạt đời thường cũng gắn liền với một

thời khắc lịch sử nào đó, có ý nghĩa đặc biệt trong cuộc đời nhân vật lịch sử.

So sánh như vậy để thấy rõ rằng cùng viết về một đối tượng là nhân vật có

thật trong lịch sử nhưng ở những thể loại khác nhau thì hướng khai thác cũng khác

nhau. Nếu như truyền thuyết hướng vào cái phi thường của nhân vật thì giai thoại

lại đi sâu vào cái đời thường. Một thể loại khiến người đọc, người nghe có thái độ

ngưỡng vọng, ngợi ca, còn một thể loại lại nhằm mục đích giúp người đọc biết xoay

quanh cuộc sống sinh hoạt, tình cảm, đời tư của chính những con người phi thường

26

ấy. Xu hướng đời thường hóa nhân vật kéo nhân vân vật đến với độc giả gần gũi

hơn, cung cấp một cái nhìn toàn diện, đầy đủ về nhân vật.

Ở đây, chúng tôi bước đầu xác định các tiêu chí để nhận diện thể loại giai

thoại. Theo chúng tôi, phải có sự tổng hợp, liên kết các tiêu chí trên với nhau thì

mới có cái nhìn toàn diện, chính xác cao về việc nhận diện thể loại giai thoại.

1.2. Vấn đề phân loại giai thoại

Về cơ bản, văn học dân gian có thể phân loại thành 3 loại: loại tự sự, loại trữ

tình và kịch. Vậy, giai thoại được xếp vào loại nào trong đó?

Giai thoại là đối tượng nghiên cứu khá mới mẻ của văn học dân gian và cả

văn học thành văn. Tuy được một bộ phận nghiên cứu công nhận là một thể loại

nhưng lý thuyết về nó còn ít được chú ý.

Về vấn đề phân loại giai thoại, Guxép đã nhận xét: “Các tiểu loại giai thoại

chưa được phân hóa rõ rệt”. Qua quá trình sưu tầm giai thoại ở nước ta từ trước đến

nay, chúng tôi thấy tình trạng tương tự. Mặc dù, người ta có thể phân loại giai thoại

thành nhiều chủng loại khác nhau: Giai thoại văn chương, Giai thoại văn nghệ, Giai

thoại văn nghệ dân gian, Giai thoại làng Nho, Giai thoại phụ nữ, Giai thoại folklore,

Giai thoại xứ Lạng, Giai thoại Thăng Long… Nhưng thực ra, đó chỉ là sự sắp xếp,

phân loại có phần tùy tiện, chưa có tiêu chí rõ ràng. Chỉ có thể coi đó là sự phân loại

tạm thời, để công bố, chưa thể coi đó là sự phân loại khoa học.

Nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Bích Hà trên cơ sở tìm hiểu các giai thoại qua một

số tư liệu đã được chính thức xuất bản, đã chia giai thoại thành các bộ phận sau:

- Giai thoại văn học

- Giai thoại danh nhân

- Giai thoại cười

Giai thoại văn học được hiểu là những mẩu chuyện về các nhà văn, hoặc

những người yêu thích thơ văn và sáng tác thơ văn.Nó khiến ta hiểu các nhà văn

hoặc các sáng tác văn chương của họ một cách đầy đủ và sâu sắc hơn. Chẳng hạn

những mẩu chuyển về Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn

Tuân, Xuân Diệu…

27

Giai thoại danh nhân là những mẩu chuyện kể xung quanh những nhân vật

nổi tiếng trong nhiều lĩnh vực khác nhau, khiến cho ta hiểu họ một cách sinh động

và giàu nhân văn hơn. Chẳng hạn, chuyện kể Nguyễn Hiền, Lê Quý Đôn, Lương

Thế Vinh, Lê Hữu Trác…

Giai thoại cười là những mẩu chuyện xoay quanh một nhân vật chuyên gây

cười. Từ đó thể hiện trí tuệ dân gian và tính chất xã hội của truyện. Những truyện

này giống truyện tiếu lâm ở một số tình tiết gây cười, nhưng khác tiếu lâm ở chỗ nó

có một nhân vật trung tâm, đây đồng thời là nhân vật gây cười chứ không phải là

đối tượng của tiếng cười. Trong khi ở truyện tiếu lâm thì nhân vật gây cười đồng

thời chính là đối tượng của tiếng cười. Truyện Trạng Quỳnh, Xiển Ngộ, Bác Ba

Phi…thuộc loại truyện này. Tuy nhiên, nhà nghiên cứu cũng chỉ rõ, cách chia này

mới chỉ là tạm thời.

Vũ Ngọc Khánh, người đã từng sưu tầm, biên soạn nhiều chủng loại giai

thoại và đã công bố cả một bộ Kho tàng giai thoại Việt Nam đồ sộ cũng tỏ ra có

những băn khoăn trong việc phân loại giai thoại. Theo ông, “thu thập kho tàng giai

thoại cũng gặp một số khó khăn trong sự phân biệt tính chất” [19, tr.12]. Bởi vì giữa

các tiểu loại có sự giao thoa, xen kẽ lẫn nhau. Chẳng hạn như các danh nhân như

Lương Thế Vinh, Lê Quý Đôn…cũng đồng thời là những người có tài văn chương,

thơ phú. Xếp những thoại xung quanh các vị ấy vào loại nào cũng khó. Hay như giai

thoại đi sứ, nên xem nó là giai thoại lịch sử hay giai thoại văn chương? Đúng ra thì

việc đi sứ thuộc hiện tượng lịch sử nhưng hầu hết các cuộc giao thiệp đều xoay

quanh những chuyện đối đáp thử tài, mà hay nhất vẫn là những tác phẩm văn học.

Trường hợp kể chuyện đi sứ dồi dào nhất có lẽ là trường hợp của Mạc Đĩnh Chi thì

toàn câu đối và câu đối.

Nhà nghiên cứu Kiều Thu Hoạch xếp giai thoại vào loại tự sự dân gian và

chia thành hai tiểu loại. Đó là: giai thoại văn học và giai thoại lịch sử. Trong từng

tiểu loại, lại có thể chia thành các nhóm nhỏ.

- Giai thoại văn học có thể chia thành:

+ Nhóm Giai thoại về các tác gia

+ Nhóm Giai thoại về các sáng tác văn học khuyết danh, vô danh.

28

- Giai thoại lịch sử có thể có các nhóm:

+ Nhóm Giai thoại về các danh nhân lịch sử, danh nhân văn hóa

+ Nhóm Giai thoại đi sứ.

Tuy nhiên, xem xét từ các tư liệu cụ thể thì lý thú nhất, hay nhất và nhiều nhất

về số lượng vẫn là các giai thoại văn học. Còn giai thoại lịch sử vừa “không mấy hấp

dẫn” (Kiều Thu Hoạch), lại không nhiều về số lượng (trừ nhóm giai thoại đi sứ - thực

ra những thoại hay, lý thú đều là những thoại gắn với nhiều câu thơ văn).

Như vậy, có rất nhiều ý kiến khác nhau về việc phân loại giai thoại. Mỗi nhà

nghiên cứu đều có những quan điểm hết sức hợp lý khi phân chia và mỗi cách lại có

những ưu điểm riêng. Khi tiến hành khảo sát và nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy ý

kiến của nhà nghiên cứu Kiều Thu Hoạch khá hợp lý. Trong phạm vi luận văn,

chúng tôi lựa chọn theo cách phân loại này để tiến hành khảo sát một bộ phận nhỏ

trong đó.

1.3. Thực tế lưu truyền giai thoại trong đời sống hiện nay

Trong loại hình tự sự dân gian ở nước ta, thể loại giai thoại mặc dù đã được

chú ý qua không ít các công trình sưu tầm, tuyển chọn có giá trị trong thời gian gần

đây, tuy nhiên, trên phương diện lý thuyết, thể loại này vẫn chưa được đào sâu, soi

sáng một cách kì cùng. Đó là chưa kể đến những ý kiến, quan điểm học thuật trái

chiều nhau. Tất cả những biểu hiện ấy khiến giai thoại chưa thể tồn tại trong trạng

thái rõ ràng nhất có thể.

Đó là vấn đề nghiên cứu lý thuyết, còn trong đời sống hiện nay, giai thoại có

sức sống như thế nào?

Thực tế cho thấy nhu cầu nói và được người khác nghe nói là không thể thiếu

đối với mỗi người trong giao tiếp. Giai thoại là những câu chuyện hay, hấp dẫn, lý

thú được kể truyền miệng. Trong đời sống hiện nay, các giai thoại có sức sống của

riêng nó, khiến nó không hề bị thui chột mà ngày càng phong phú, đặc sắc hơn. Mỗi

giới, mỗi ngành nghề lại có những thoại của riêng mình và được truyền tai nhau.

Chẳng hạn như giới nghệ sĩ hiện nay vẫn kể cho nhau nghe những câu chuyện “bất

hủ” về thủy tổ của nghề hay về các nghệ sĩ có tên tuổi trong nghề. Ví dụ như thoại

29

về tổ nghề sân khấu: Ở xã Điện Minh (Điện Bàn, Quảng Nam). Nơi đây có một làng

tên Xướng An, mà theo chiết tự có nghĩa là “nơi yên ổn của giới xướng ca vô loài”,

gồm cả ca kỹ, ăn xin… Chuyện kể rằng, dân làng này vào Nam cùng thời với Đào

Duy Từ (1572 - 1634), người đã “vượt biên” vào Đàng trong năm Ất Dậu (1627), là

một ông tổ của sân khấu. Hàng năm, vào dịp cúng thành hoàng, dân làng Xướng An

đi qua các làng kế cận để xin đồ ăn thức uống về làm lễ vật, ấy là cách nhắc nhớ

truyền thống ca kỹ, ăn xin của mình, dù làng bây giờ đã khá giả. Riêng dịp rằm

tháng 8 này, người ta kể rằng vẫn có nghệ sĩ hát tuồng đến đây cúng tổ; vào đêm

khuya, thi thoảng vẫn có người cúng len lén, họ phải che giấu thân phận vì chẳng

muốn người khác biết đến công việc của mình. Theo nhiều cao niên trong làng,

nghệ sĩ, ăn xin…cùng tổ nghề với nhau, cùng phận bên lề xã hội, nghèo hèn như

nhau…nên phải bình đẳng với nhau, không phân biệt cao thấp, coi nhau như một

nhà. Qua năm tháng, dù nếp cũ vẫn được giữ, nhưng quan niệm về tổ nghề sân khấu

thì có những biến cải và bổ túc. Ngoài những vị thuộc về “cửu huyền thất tổ”, có

tính tương truyền, mỗi ngành lại truy tôn thêm tổ nghề, thường là nghệ sĩ khai sinh

hoặc vĩ đại. Ví dụ Phạm Thị Trân là tổ nghề hát chèo; ông Làng, Liêm Thu Tâm,

Đào Duy Từ, Đào Tấn… tổ hát tuồng; Trần Quốc Đĩnh tổ hát xẩm; Tống Hữu Định,

Cao Văn Lầu… tổ hát cải lương.

Không chỉ như vậy, các thoại này còn được nâng lên thành một nét văn hóa

tâm linh. Giới nghệ sĩ còn truyền nhau nhiều trường hợp vì không kính trọng tổ

nghề mà thân bại danh liệt. Gần như hậu trường sân khấu hát bội, cải lương, kịch

nói nào cũng có một bàn thờ tổ, với vài tượng thờ nhỏ…

Hay như các giai thoại lịch sử thì vẫn có một vị trí, một sức sống mãnh liệt

trong lòng nhân dân. Bên cạnh các truyền thuyết, các di tích, đền chùa miếu mạo,

người ta vẫn kể cho nhau nghe các thoại xung quanh cuộc đời và sự nghiệp của các

nhân vật lịch sử khiến cho người nghe có ấn tượng không thể phai mờ về chiến

công của họ. Ví dụ như giai thoại “Cây thị ăn thề” kể về Lê Lợi: “Trong một lần

đánh nhau với giặc Minh, bị giặc ráo riết truy lùng, Lê Lợi đã liền chạy vào ẩn mình

trong hốc cây. Lúc bấy giờ, giặc Minh cho chó săn và lính đuổi theo, vừa đến gốc

thị, quân địch đoán chắc Lê Lợi đang ẩn nấp ở đó nên binh lính đã dùng gươm giáo

30

xỉa liên tục vào cây. Lê Lợi đã lựa tránh những mũi giáo đâm chạm vào mình thì

bỗng nhiên có con cáo từ trên cây thị xuất hiện và chạy ra ngoài, trong bóng tối giặc

nhầm tưởng là có người chạy nên đã cho chó và lính đuổi theo. Nhờ vậy mà Lê Lợi

đã có thể trốn thoát. Tại đây, ông gặp nghĩa quân Cốc Sơn do Nguyễn Tuấn Thiện

lãnh đạo nhân dân trong vùng đứng lên chống giặc Minh. Ngay từ lần đầu gặp gỡ,

hai người đã có cùng chung chí hướng, tiếng nói chung, quyết định kết hợp lực

lượng cùng giết ngựa trắng uống máu, cắt tóc ăn thề, kết nghĩa tình anh em ngay

dưới gốc cây thị cổ thụ này.

Kể từ đó, người dân trong vùng gọi đây là “cây thị ăn thề” hay “gốc thị sử

tích”. Bốn câu thơ vẫn được người dân lưu truyền để ghi nhớ giai thoại này:

Cắt tóc, giết ngựa trắng

Dưới gốc thị thề nguyền

Nguyện đồng tâm đồng chí

Phá giặc xây cơ đồ”.

Giai thoại này được truyền từ người này sang người khác, từ đời này sang

đời khác. Cứ thế, 700 năm đã trôi qua những gần như không một ai ở khu vực này

là không biết đến, không tự hào về câu chuyện và người anh hùng của dân tộc.

Có thể nói, mặc dù chưa được đào sâu, soi sáng một cách kì cùng về vấn đề

thể loại nhưng giai thoại vẫn tồn tại trong đời sống với sức sống rất mãnh liệt.

Trong quá trình sưu tầm, điền dã, tìm tư liệu phục vụ cho luận văn, chúng tôi

được tiếp xúc với một số nhân vật, có nhà văn, nhà thơ, nhà giáo, có các sinh viên

đại học, học viên cao học… Khi được hỏi về các giai thoại xung quanh các nhà thơ,

nhà văn, các danh nhân nổi tiếng mà họ biết thì điều đầu tiên chúng tôi nhận thấy là

thái độ thích thú của họ khi kể về các câu chuyện mà họ được chứng kiến, được

biết, được nghe. Sinh viên Nguyễn Thị Hòa (K52, khoa Ngữ Văn, Đại học Sư phạm

Hà Nội) cho biết: “Ở trên lớp, khi được nghe các thầy cô kể về giai thoại xung

quanh các tác gia văn học, các bạn sinh viên rất hào hứng. Những câu chuyện đó

giúp chúng tôi hiểu thêm về các nhà văn, nhà thơ và làm cho bài học hay hơn,

chúng tôi nhớ bài lâu hơn. Khi về nhà, các bạn còn kể lại, bình luận cho nhau nghe

về các giai thoại ấy”. Còn với các giáo viên phổ thông, việc sưu tầm giai thoại xung

31

quanh bài giảng của mình sẽ “giúp bài giảng hay hơn, học sinh hứng thú hơn, đạt

hiệu quả dạy học tốt hơn” (Cô giáo Vũ Thị Thùy Linh, Trần Thị Tuyết - Trường

Trung học phổ thông Gang Thép, Thái Nguyên chia sẻ). Thậm chí, đối với các giáo

viên dạy các môn khoa học tự nhiên thì giai thoại về các nhà toán học, hóa học, vật

lý cũng được “tận dụng” để làm cho bài giảng của mình thêm hấp dẫn, sinh động.

Ngay cả đối với các nhà văn, nhà thơ, khi được hỏi về các câu chuyện về

chính mình thì họ cũng rất vui vẻ kể lại. Thoại đó có thể có thật, có thể do ai đó “hư

cấu”. Điều quan trọng mà chúng tôi muốn khẳng định ở đây là: Trong đời sống hiện

nay, giai thoại có một đời sống rất phong phú. Nó không hề bị mất đi cùng với thời

gian mà vẫn tồn tại trong lòng dân gian với sức sống mãnh liệt. Đó chính là tín hiệu

đáng mừng cho nền văn học Việt Nam nói chung và văn học dân gian nói riêng.

* Tiểu kết

Giai thoại là đối tượng còn khá mới mẻ của các nhà nghiên cứu văn học. Có

rất nhiều ý kiến trái chiều nhau về loại hình này. Có người không công nhận nó là

một thể loại văn học có chỗ đứng độc lập, riêng biệt. Có người lại đi vào khẳng định

vị trí của thể loại này. Ngay cả vấn đề xác định, phân loại các tiểu loại của giai thoại

cũng xuất hiện nhiều ý kiến khác nhau. Tuy nhiên, với mong muốn đi sâu vào khám

phá những phong phú, đặc sắc của một bộ phận văn học khá độc đáo trong kho tàng

văn học dân tộc, chúng tôi đồng ý với ý kiến của một số nhà nghiên cứu như Kiều

Thu Hoạch, Hoàng Ngọc Phách, Trần Thanh Mại…khẳng định giai thoại là một thể

loại văn học dân gian. Chúng tôi cũng bước đầu xác định một số tiêu chí để nhận

diện thể loại này, đó là: quy mô tác phẩm ngắn gọn, tình huống truyện lý thú, hấp

dẫn; lời thoại giàu tính trí tuệ, dí dỏm; nhân vật được đời thường hóa. Việc nhận

diện thể loại giai thoại cũng không căn cứ vào một tiêu chí cụ thể nào mà phải xem

xét trong sự tổng hòa các tiêu chí mà chúng tôi đã trình bày ở trên. Khi trình bày về

các tiêu chí nhận diện thể loại, chúng tôi cũng đi so sánh các tiêu chí đó với một số

thể loại văn học dân gian khác để có cái nhìn khách quan, chính xác.

Có rất nhiều giai thoại thuộc các lĩnh vực khác nhau: lịch sử, xã hội, văn

nghệ - văn học…nên việc phân loại giai thoại cũng gặp không ít khó khăn. Trong

các công trình nghiên cứu khác nhau, một số nhà nghiên cứu đã có cách phân loại

32

của riêng mình. Mỗi cách phân loại đều dựa trên những cơ sở lý luận riêng. Tuy

nhiên, các nhà nghiên cứu cũng nhận định rằng những cách phân chia đó mới chỉ là

tạm thời, chưa thực sự chính xác. Trong phạm vi luận văn, chúng tôi lựa chọn cách

phân loại của nhà nghiên cứu Kiều Thu Hoạch làm cơ sở để tiến hành đi sâu vào

phân tích một tiểu loại nhỏ: Giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam.

Mặc dù vấn đề nghiên cứu thể loại giai thoại còn nhiều ý kiến trái chiều nhau

nhưng đời sống dân gian của thể loại này rất phong phú. Trong quá trình làm luận

văn, chúng tôi nhận thấy giai thoại tồn tại ở nhiều lĩnh vực và được lưu truyền ở

nhiều người, nhiều nơi. Việc lưu truyền và thái độ tiếp nhận của mọi người với các

thoại cũng khá tích cực.

Hy vọng rằng những vấn đề lý luận và thực tế mà chúng tôi đề cập ở chương

1 của luận văn sẽ giúp người đọc, người nghiên cứu có được cái nhìn toàn diện hơn

về thể loại văn học lý thú này. Đó cũng chính là cơ sở để chúng tôi tiếp tục đi vào

chương 2 và chương 3 của luận văn - tìm hiểu giá trị nội dung, nghệ thuật của một

bộ phận giai thoại cụ thể: Giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam.

33

Chương 2

NỘI DUNG CỦA GIAI THOẠI VỀ CÁC TÁC GIA

VĂN HỌC VIỆT NAM

Theo tác giả Kiều Thu Hoạch, giai thoại văn học chia thành hai bộ phận: giai

thoại về các tác gia, các nhân vật có tên tuổi lai lịch cụ thể và giai thoại xung quanh

các nhân vật vô danh, phiếm chỉ, như kiểu thầy đồ, anh học trò, cô hàng nước, ông

quan… Trong phạm vi chương 2 của luận văn, chúng tôi tiến hành tìm hiểu và

khảo sát giá trị nội dung của bộ phận Giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam.

2.1. Đả kích, châm biếm tầng lớp có chức sắc, địa vị trong xã hội phong kiến

Trong lịch sử xã hội phong kiến Việt Nam có những giai đoạn khủng hoảng

trầm trọng, mục nát đến gốc rễ. Bối cảnh đó đã xuất hiện không ít bọn quan lại, nho

sĩ dốt, nhờ có đồng tiền mà trở thành quan. Điều đó khiến không ít nhà văn, nhà thơ

chân chính phải đau đớn, xót xa. Giai thoại về một số tác gia văn học Việt Nam đã

làm rõ hình ảnh tầng lớp có chức sắc, địa vị trong xã hội đương thời. Bộ mặt thật

của chúng được các tác gia, bằng tài năng của mình, phơi bày một cách vừa khéo

léo vừa chân thực. Qua đó, hiện lên trong mỗi giai thoại không chỉ là bản chất thực

sự của mỗi cá nhân đối tượng bị châm biếm, đả kích mà còn là cả một tầng lớp, một

bộ phận trong xã hội rối ren, mục ruỗng.

Tiêu biểu phải kể đến các giai thoại xung quanh nữ sĩ Hồ Xuân Hương. Bà

sống vào giai đoạn cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19, nữ thi sĩ lớn lên trong giai đoạn

đất nước có những bất ổn về chính trị và xã hội - thời kỳ cuộc nổi dậy Tây Sơn và

một cuộc nội chiến kéo dài ba thập kỷ dẫn tới Nguyễn Ánh đoạt được chính quyền

và bắt đầu triều đại nhà Nguyễn. Chính những thay đổi này cùng với tư tưởng

"trọng nam khinh nữ" thời phong kiến đã có ảnh hưởng lớn tới đề tài sáng tác của

Hồ Xuân Hương. Bà là người phụ nữ có tài, một hiện tượng đặc biệt trong thơ ca

thời kì trung đại. Những giai thoại xung quanh bà nhằm đả kích chế độ đương thời

và phê phán những thói hư tật xấu của những kẻ đạo đức giả, gồm cả các nhà sư và

những thầy đồ dốt. Hãy đọc thoại “Mảnh tình xẻ đôi” dưới đây: “Hồ Xuân Hương

vốn nổi tiếng tài hoa, lại hay bày ra các cuộc xướng hoạ văn thơ ở trong nhà để làm

vui, nên khách khứa thường lui tới nhà bà rất đông. Trong số đó những khách yêu

34

chuộng văn chương mà đến thì cũng có; song hạng khách vô công rỗi nghề vì tò mò

mà đến, hoặc vì sĩ diện hão mà đến cũng không phải là hiếm. Một hôm, có một

công tử con quan, học hành thì dốt nát nhưng áo quần lúc nào cũng bảnh bao đến

chơi nhà Xuân Hương. Xuân Hương lúc ấy đang bận ở nhà trong, vả cũng đã biết

đó là một anh chàng tầm thường không muốn tiếp, bèn cho cô Nhài ra mời trầu; cơi

trầu có quả cau bổ đôi kèm theo mảnh giấy đề hai câu thơ như sau:

Mảnh tình ví xẻ làm đôi được,

Mảnh để trong nhà, mảnh đệ ra!

Chàng công tử xem thơ xong, chừng liệu sức mình không đối chọi nổi, bỏ cả

trầu không dám ăn, lặng lẽ chuồn về luôn.

Nhưng được mấy hôm, không hiểu tiếc rẻ như thế nào, người ta lại thấy

chàng công tử ấy dẫn xác đến.

Lần này, Xuân Hương lại sai cô Nhài bưng cơi trầu ra mời. Chàng công tử

giơ tay định nhót miếng trầu ăn, chẳng ngờ lại thấy có mảnh giấy với bài thơ tứ

tuyệt rằng:

Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi,

Này của Xuân Hương đã quệt rồi.

Có phải duyên nhau thì thắm lại,

Đừng xanh như lá, bạc như vôi!

Chàng công tử đọc đi đọc lại mãi, mà vẫn chẳng hiểu ý tứ thế nào. Sau nghĩ

kỹ mấy chữ “Này của Xuân Hương đã quệt rồi” cảm thấy lờ mờ rằng mình bị xỏ,

nhưng lại lúng túng mãi chẳng biết đường hoạ.

Thế là lần thứ hai, chàng công tử tốt mã ấy lại đành bỏ trầu, chuồn thẳng.

Nghe đâu, từ đấy cậu cả không còn dám lai vãng tới cửa nhà Xuân Hương nữa”

[16, tr. 259].

Đối tượng bị châm biếm ở đây có thể là một cậu công tử con quan, nhà giàu

nhưng dốt nát. Cậu công tử trên không “tự lượng sức mình” mà tìm đến nữ sĩ họ

Hồ. Câu chuyện chỉ có lời thơ của Xuân Hương mà không hề có một câu nào của

cậu ta. Hạng người như thế không thiếu trong xã hội đương thời. Với cá tính và tài

năng của mình, nữ sĩ họ Hồ đã đả kích thành công hạng người đó.

35

Hay như giai thoại dưới đây:

“Đang lững thững từ chùa Trấn Quốc về Cổ Nguyệt đường thì nghe có tiếng

lơi lả, chòng ghẹo ở phía sau, biết rõ căn bệnh ăn không nên đọi, nói chẳng thành

lời của các thầy khóa, Xuân Hương lẳng lặng men theo men hồ, đến sát chân núi

Nùng, cạnh nhà, mới dùng lời sắc như dao để cắt đuôi:

- Chả mấy khi được gặp các thầy, em xin đọc hầu các thầy một bài nhé:

Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ

Lại đây chị dạy phép làm thơ

Ong non ngứa nọc châm hoa rữa

Dê con buồn sừng húc dậu thưa.

Nghe khẩu khí biết ngay là Hồ Xuân Hương, các thầy ngượng chín cả người.

Tưởng đánh trống qua cửa nhà trời, ai ngờ sấm dội, mưa chan... gẫy cả dùi, vỡ cả

trống. Tứ, ngũ túc dúm hết lại, suýt thì lộn cổ xuống hồ. Chờ cho Xuân Hương tung

tăng vào hẳn trong nhà, các thầy mới dám xiêu vẹo bước. Thật chẳng cái dại nào

giống cái dại nào. Đã ngứa nọc, buồn sừng lại gặp phải dậu thưa, hoa rữa, gỡ chẳng

ra lại còn bị cười lỡm đến thối nọc, gẫy sừng” [16, tr.263].

Ở thoại trên mới chỉ là hạng công tử bột nhà giàu, ngu dốt bị đả kích thì

giai thoại này châm biếm, đả kích, vạch trần sâu cay hơn lớp thầy khóa - những kẻ

được coi là có học thức, giỏi chữ nghĩa trong xã hội đương thời. Xã hội Việt Nam

giai đoạn từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XIX bị khủng hoảng trầm trọng. Kinh tế suy

thoái, các mặt khác đều xuống cấp về mặt chất lượng, đặc biệt là giáo dục, thi cử.

Mặc dù giáo dục vẫn, thi cử vẫn được duy trì liên tục nhưng số lượng những người

có tài năng thực sự rất ít. Đa số hạng thầy khóa đều là những kẻ có tiền, học dốt

lại thêm phẩm chất cũng suy vi. Khi gặp người phụ nữ cá tính, dám “một mình

vén váy lội qua xã hội phong kiến” như Hồ Xuân Hương thì tất cả bị “lộ” cái tài

năng thực. Tiếng cười châm biếm cất lên, đâm thẳng vào hạng “ong non, dê cỏn”

như nữ sĩ họ Hồ gọi.

Ngoài hai thoại trên còn có các giai thoại khác về bà chúa thơ Nôm cùng nội

dung này như: Ham tìm chỗ ấy, Ấy ái uông, Cặc bần - ghe Phú….

36

Bên cạnh những giai thoại xoay quanh cuộc đời và cá tính, tài năng của Hồ

Xuân Hương còn phải kể đến những thoại về Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát…

Những tác gia này cũng là những người có tấm lòng với dân, với nước. Với cá tính

mạnh mẽ, tài năng thực sự, họ nhìn thẳng vào hạng nho sĩ dốt nát để châm biếm

không khoan nhượng. Kể đến Nguyễn Công Trứ là một tác gia tiêu biểu. Nguyễn

Công Trứ là một nhà quân sự, một nhà kinh tế và một nhà thơ lỗi lạc trong lịch sử

Việt Nam cận đại. Ngay từ thuở còn hàn vi ông đã nuôi lý tưởng giúp đời, lập công

danh, sự nghiệp:

Làm trai đứng ở trong trời đất

Phải có danh gì với núi sông.

Nguyễn Công Trứ là người có tài. Là một người của hành động, trải qua

nhiều thăng trầm, ông hiểu sâu sắc nhân tình thế thái đương thời. Đọc các thoại

xoay quanh cuộc đời ông, chúng ta sẽ càng thấy rõ cái sâu sắc của con người tài

năng, cá tính này: “Gần làng Uy Viễn của Nguyễn Công Trứ có một ngôi chùa, vị

sư trụ trì ở đây là người tài cao học rộng nhưng rất kiêu ngạo, hiếu thắng. Ông này

thường tự cho mình là nhất thiên hạ, xem thường cả Nho Củng vốn từ lâu đã nổi

tiếng thần đồng khắp vùng. Biết vậy, Nho Củng cũng hiếu thắng tìm dịp gặp thử tài

cao thấp. Nhân một hôm rảnh học từ tỉnh thành về thăm nhà, Nho Củng bèn tìm tới

chùa nọ chơi. Đến nơi, thấy ngoài sân trong điện không có ai, Củng lại đang khát

nên đi thẳng vào bếp chùa để tìm nước uống, thì gặp sư trụ trì đang lúi húi bên bếp.

Quay lại nhìn người lạ, vị sư buông ra một câu không mấy hiếu khách:

Khách khứa kể chi ông núc bếp

Cậu Củng nhìn quanh, thấy một cái vại (đồ bằng sành dùng để muối cà hay

dưa) ở góc bếp, liền ứng khẩu đối lại:

Trai chay mà có vại cà sư?

Câu này thực ra được nói lên rất vô tình, nhưng vị sư kia lại cho rằng Nho

Củng thâm ý châm biếm mình có tư tình với bà vãi, nên chắp tay nhìn lên tượng

Phật đọc một câu như thanh minh cho sự đứng đắn của mình:

Xin chứng minh cho, Nam mô A Di Đà Phật.

Nho Củng chỉ vào cái kiềng trên bếp và cất tiếng đối lại:

37

Có giám sát đó, Đông Trù Tư mệnh Táo quân!

Đông trù Tư mệnh Táo quân là thần coi bếp, cầm giữ bản mệnh của gia chủ.

Bên mời Phật, bên nhờ thần ra minh chứng, quả thực là hay; lại “Đông” đối

với “Nam”, “Quân” đối với “Phật” thì thật là tài!

Đến đây thì vị sư vừa tức vừa hoảng, không ngờ gặp phải đối thủ trẻ tuổi mà

cao cường đến vậy, liền hạ một chiêu cuối cùng, vừa vỗ ngực ta đây vừa hăm doạ

đối thủ:

Thuộc ba mươi sáu quyển kinh, chẳng thiên địa thánh thần nhưng khác tục!

Nho Củng cũng quyết định tung một đòn hạ gục:

Hay tám vạn tư mặc kệ, không quân thần phụ tử đếch ra người!

Tới đây vị sư đành nín thinh, chấp nhận thua cuộc, từ đó không dám cao ngạo

nữa” [16, tr. 288].

Lại có người kể, chuyện chưa dừng ở đấy. Nho Củng đắc thắng ra về, nhưng

vừa bước đến giữa sân thì hai con chó nhà chùa xổ ra cắn, cắn quyết liệt như thể trả

thù cho chủ vậy. May có chú tiểu ngăn mãi mới được. Nho Củng dừng lại nhìn

quanh chùa rồi ngâm hai câu như một lời nhắn gửi:

Bụt cũng hiền lành, sư cũng khá,

Còn hai con chó chửa từ bi.

Giai thoại trên không hướng vào những nho sĩ đương thời nhưng cũng cần nói

thêm vào giai đoạn thế kỉ XVIII – XIX, xã hội rối ren, tầng lớp sư sãi có người xấu,

kẻ tốt, có vị chưa “tu” đúng “chuẩn mực”. Thoại trên vừa chạm đến tầng lớp đó,

vừa đả kích vào thói “sính” chữ nghĩa của một bộ phận không nhỏ.

Đương thời, các nhà Nho, thầy khóa là những người được xem là hay chữ,

hiểu biết trong xã hội. Nhưng một bộ phận không nhỏ trong số ấy lại ít quan tâm

đến vấn đề xã hội, thịnh suy của đất nước. Họ chỉ lo nghĩ cho bản thân, cho mục

đích cầu danh lợi hay phục vụ cho những thú vui. Nguyễn Công Trứ - với cái tài và

cái “ngông” của mình đã đánh thẳng vào đối tượng ấy.

“Một lần Cụ đang cưỡi bò rong ruổi chơi theo con đường thiên lí thì gặp một

toán các thầy cử tân khoa đang trên đường trẩy kinh thi hội, cười nói rôm rả, ai cũng

38

đua nhau khoe tài học tầm chương trích cú của mình. Cụ cưỡi bò đi cùng các thầy

một quãng dài, nghe các thầy nói chán rồi liền cất tiếng bắt chuyện làm quen, nói:

- Lão nghe các thầy từ nãy đến giờ trổ tài văn thơ thật sướng lỗ tai. Tình cờ

hôm nọ lão có nghe lỏm được một đoạn văn có lẽ là của một danh sĩ, bây giờ xin

đọc các thầy nghe rồi nhờ các thầy luận giải giùm cho lão với nhé.

Các thầy cử đang muốn trổ tài ta đây, thấy có dịp liền tranh nhau nói:

- Được thôi, cụ cứ đọc đi, có gì chúng tôi sẽ nói cho cụ biết.

Nguyễn Công Trứ ngồi trên lưng bò tủm mỉm cười rồi đọc một mạch:

"Sông Nhĩ Hà sâu ba mươi sáu thước, chim ăn chim béo, cá không ăn, cá bay

về núi Hồng Sơn. Nhớ thuở xa vua Thần Nông giá sắt, vua Đế Thuấn canh vân.

Cùng quăng, cùng quẳng, cùng quằng, tổng bất ngoại bò vàng chi liếm lá!...”.

Các thầy cử nghe xong, không ai bảo ai đều khen là văn kêu ý lạ; nhưng bình

giải cho rõ ràng cụ thể thì các thầy đều tịt mít. Đọc xong, Cụ Trứ xin phép dừng lại

cho bò ăn cỏ và ôm bụng cười, để các thầy suốt quãng đường cứ bàn luận mãi mà

vẫn không ai hiểu nghĩa ý đoạn văn là ra sao, xuất xứ từ đâu ra mà chưa ai từng

được nghe tới” [16, tr.293].

Một câu đố tự nghĩ ra, không đầu không cuối khiến các thầy cử tân khoa rơi

vào thế “bí”. Như vậy là đủ để Cụ biết trình độ, tài học của các thầy đến đâu. Nụ

cười châm biếm bật ra nhưng cũng thật xót xa cho một thời kì mà nền giáo dục, thi

cử xuống cấp nghiêm trọng. Hơn nữa, cái mà tác gia này gửi gắm đằng sau thoại đó

là lời nhắc nhở đến các bậc tự nhận mình là “hay chữ” trong thiên hạ đương thời

rằng hãy quan tâm đến số phận đất nước, vận mệnh dân tộc. Đó mới là vấn đề đáng

quan tâm lúc này.

Giai thoại “Thơ Bồ Tiên” sau đây là một trong những thoại tiêu biểu hướng

đến châm biếm, đả kích bọn quan lại phong kiến khoảng cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ

XX. Chúng lừa bịp nhân dân bằng giọng điệu xảo trá và bị nhà thơ của làng quê

Việt Nam vạch trần:

“Một viên quan to, có con trai được bổ tri huyện Thanh Liêm, Hà Nam (gần

huyện của Nguyễn Khuyến). Anh này do nhờ vào quyền thế của bố, lại khéo chạy

chọt với Tây nên được bổ chân tri huyện ấy. Khi nhận chức, bề ngoài anh ta tỏ vẻ

39

một viên quan thanh liêm, hiền hậu; nhưng kỳ thực là một tay ăn tiền kín đáo đồng

thời làm mật thám cho Pháp để đàn áp phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc.

Nhưng anh ta lại hay bày trò thi thơ, để lừa bịp nhân dân về uy đức của mình. Một

lần anh ta tổ chức kỳ thi thơ hàng huyện, ra đề thi là "Bồ tiên thi" (thơ roi cỏ bồ),

lấy vần "bồ" đề thi có ý nói về việc ông quan thương dân, trong khi răn bảo dân chỉ

dùng roi cỏ bồ, vì roi cỏ bồ mềm mại, đánh không đau...

Câu chuyện đồn đến tai Nguyễn Khuyến. Ông thấy chướng tai gai mắt, bèn

gửi tới cho viên quan một bài thơ như sau:

Chú huyện Thanh Liêm khéo vẽ trò

Bồ tiên mà lại lấy vần bồ

Nghênh ngang võng lọng nhờ ông sứ

Ngọng nghẹ văn chương giở giọng Ngô!

Bồ chứa miệng dân chừng bật cạp,

Tiên là ý chú muốn nhiều xu

Từ vàng sao chẳng luôn từ bạc,

Không khéo mà roi nó phết cho” [19, tr. 230].

Nguyễn Khuyến không hề sợ hãi mà nhằm thẳng vào đối tượng là tên huyện

Thanh Liêm để công kích. Giọng điệu lừa bịp nhân dân của hắn bị nhà thơ Yên Đổ

nhìn thấu tận tâm can.

Nghiên cứu các giai thoại về nội dung đả kích, châm biếm quan lại, tay sai,

chúng tôi thấy có không ít thoại xoay quanh cuộc đời Nghè Tân. Những thoại này

đọc lên khiến người đọc, người nghe thấy vô cùng lý thú. Nghè Tân tên thật là

Nguyễn Quý Tân, hiệu Đỉnh Trai, biệt hiệu là Tản Tiên Đình cư sỹ, người làng

Thượng Cốc, xã Gia Khánh, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Nguyễn Quý Tân sinh

năm 1811 trong một gia đình nhà nho nghèo; từ nhỏ đã có tiếng thông minh, học

giỏi và tài thơ văn. Năm 29 tuổi, Nguyễn Quý Tân đỗ thi Hương, đến năm Thiệu Trị

thứ hai (1842) đậu Tam giáp Tiến sỹ nên dân gian thường gọi là Nghè Tân. Bình

sinh, Nghè Tân có tính phóng túng, tự do, không chịu sống luồn cúi vì danh lợi và

chán ghét cảnh sống trong vòng cương toả của mũ mão cân đai. Sau khi thi đỗ,

được bổ nhiệm là tri phủ, ông chỉ làm có vài tháng rồi xin từ chức, đi ngao du sơn

40

thuỷ và xướng hoạ cùng bạn thơ. Sau đó một thời gian ông lại được vua vời vào

kinh, phong chức Thanh tra lục tỉnh Bắc kỳ... Tương truyền cuối thời Thiệu Trị

(1840 - 1847) Nguyễn Quý Tân được triệu vào kinh làm quan ở bộ, sau lại được

bổ làm chức thanh tra quan lại ở Bắc kỳ, nhưng không được bao lâu ông lấy cớ

ốm đau xin cáo về. Thời kỳ làm thanh tra, ông thường mặc giả học trò nghèo để

dễ điều tra tình hình tham quan ô lại. Người ta kể chuyện ngay hồi còn đi học

Nghè Tân đã tỏ ra khinh ghét chế độ quan trường. “Một hôm nhằm ngày rằm

Trung thu, các quan đầu tỉnh Hải Dương rủ nhau cùng vợ con hầu cận ra phố

xem nhân dân phá cỗ linh đình, lính tráng hò hét dẹp đường om sòm, các ngọn

roi quất vào đầu dân kêu vun vút. Nghè Tân có mặt ở đó tức lắm, ông không chịu

tránh đường cho quan đi. Lính bắt lại cho quan định tội. Nghè Tân nói mình là

học trò nghèo mải xem chiếc đèn kéo quân đẹp quá, nên không biết quan đến.

Một viên quan bảo:

- À, có phải anh là học trò mải xem đèn kéo quân thì anh hãy làm một bài thơ

vịnh đèn kéo quân đi. Hay thì các quan lớn tha, dở thì phải đánh đòn.

Nghè Tân vâng lời, nghĩ chốc lát, rồi đọc:

Một lũ ăn mày, một lũ quan

Quanh đi quẩn lại cũng một đoàn

Đến khi dầu hết đèn thôi cháy

Chẳng thấy ăn mày, chẳng thấy quan.

Các quan nghe xong thơ đều bầm gan tím mặt nhưng không biết chê vào đâu

được, đành phải bấm bụng để Nghè Tân đi” [16, tr. 338].

Thoại trên khiến người đọc, người nghe vừa thấy được bản chất bóc lột, áp

bức nhân dân của bọn quan lại vừa cảm thấy sung sướng khi Nghè Tân trừng trị bọn

chúng bằng thơ vịnh của mình. Bài thơ mà Nghè Tân “tức cảnh” làm vừa có hình

ảnh rất thực của đèn kéo quân vừa xuất hiện bộ mặt bọn quan lại. Chính vì thế, bọn

quan, mặc dù “bầm gan tím mặt” nhưng cũng phải chịu trước cái tài của ông. Tiếng

cười bật lên lý thú, hả hê…

Trong quá trình làm luận văn, chúng tôi đã tiến hành khảo sát trên 358 giai

thoại về các tác gia văn học Việt Nam giai đoạn từ trước thế kỉ XX về trước. Chúng

41

tôi nhận thấy nội dung châm biếm, đả kích tầng lớp chức sắc, có địa vị trong xã hội

đương thời chiếm 93%. Qua nội dung này, chúng ta không chỉ thấy được nội dung

châm biếm, đả kích sâu cay mà còn thấy được cái cười đầy xót xa ở một số thời kì

lịch sử mà dân tộc ta đã trải qua và tài năng, tấm lòng của các tác gia luôn nặng lòng

với đất nước.

2.2. Thể hiện tinh thần dân tộc, yêu nước, thương dân

Nhà nghiên cứu Cao Huy Đỉnh nhận xét: “Giai thoại thể hiện lòng tự hào

dân tộc và những nguyện vọng dân chủ của nhân dân. Giai cấp phong kiến càng

suy tàn thì hệ thống quan liêu càng cồng kềnh, sa đọa…”. Nhìn lại suốt chiều dài

lịch sử Việt Nam, đặc biệt giai đoạn phong kiến suy tàn và giai đoạn thực dân

nửa phong kiến, lòng tự hào dân tộc của bộ phận các tác gia văn học được thể

hiện rõ hơn bao giờ hết. Với tài năng, tấm lòng yêu nước của mình, các tác gia

đã nhìn thẳng vào những vấn đề nhức nhối, vào bọn quan lại, tay sai phản động

để đả kích, vạch trần. Xung quanh các tác gia chân chính này luôn có những

thoại rất hay, rất đẹp. Phải kể đến một số tên tuổi như: Nguyễn Công Trứ, Cao

Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Đình Chiểu, Tú Xương….Không chỉ vậy,

yêu nước còn thể hiện ở tinh thần tự hào về những giá trị văn hóa tốt đẹp của

dân tộc. Bộ phận giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam thể hiện những nội

dung này khá rõ.

Trong văn học Việt Nam, những nhà thơ lớn đều là những nhà thơ dân tộc.

Nhưng nơi Nguyễn Khuyến, chữ “dân tộc” thật gần gũi, thích hợp, và sáng chói hơn

cả. Dù ông không có bản văn hùng tráng như “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi,

những bài thơ trau chuốt như Bà huyện Thanh Quan, hay nhiều bài thơ đạo lý răn

đời như Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nhưng nơi Nguyễn Khuyến, có một tấm lòng lai láng

với cảnh vật non sông, chan chứa sự thông cảm với dân lành, đề cao tình bạn rạng

ngời, và nhất là một lòng yêu nước sâu sa. Những giai thoại xoay quanh cuộc đời và

sự nghiệp thơ ca của ông đều thể hiện tấm lòng ấy.

Nguyễn Khuyến sống chan hoà với nông dân, người ta kể: khi ông đi dạo

trong làng, gặp những cụ già, ông đã dừng lại mở cơi trầu, mời họ ăn và chuyện trò

thật đằm thắm. Điều đó chứng tỏ Nguyễn Khuyến có một tâm hồn thật bình dân. Và

42

văn học sử cho ta thấy: chưa có một quan lớn tổng đốc nào lại đi làm câu đối, câu

phúng điếu cho người láng giềng, bà thông gia, anh thợ rèn, chị thợ nhuộm, chị

hàng thịt như Nguyễn Khuyến. Những câu thật đẹp, thật hay, và cũng chứa đầy tình

cảm, đôi khi có chút hài hước bên trong, như câu đối cho chị vợ anh hàng thịt để

treo trong nhà:

Tứ thời bát tiết canh chung thuỷ

Ngạn liễu đôi bồ dục điểm trang.

Dịch:

Bốn mùa, tám tiết bền chung thuỷ

Dặm liễu, gò bồ, muốn điểm trang.

Hai câu thơ nói lên sự thông cảm với nỗi lòng người goá phụ, nhưng cũng có

những hình ảnh phù hợp với nghề nghiệp của cặp vợ chồng:"bát tiết canh, đôi bồ

dục". Thật là hóm hỉnh, sâu sa.

Quả thật, trước kia cũng có những nhà thơ tả cảnh nông thôn, nhưng vẫn còn

ít nhiều xa lạ với phong cảnh Việt Nam. Sau này, tuy có những thi sĩ như Đoàn Văn

Cừ, Bàng Bá Lân, Nguyễn Bính, Anh Thơ đã vẽ ra nhiều nét đẹp làng quê và tâm

tình người nông thôn nhưng tấm lòng họ dành cho làng xóm và thân phận tối tăm

của người dân quê, thật không thể so sánh được với Nguyễn Khuyến. Chỉ có ít nhà

văn sau này như Ngô Tất Tố với Tắt đèn, Nguyễn Công Hoan với Bước đường cùng

là có thể thấy và mô tả được như ông, nhưng đó là văn xuôi và là cái nhìn của mấy

chục năm sau. Có thể nói rằng: trước và sau đó, chưa có nhà thơ nào có bức tranh

sinh động về làng nước và chan chứa với mối cảm thông với đời sống cực nhọc của

dân, qua đó để lại ấn tượng sâu đậm cho đời, bằng nhà thơ Nguyễn Khuyến. Ông là

một nhà thơ, một nhà yêu nước có tâm, có tài, có trách nhiệm với đất nước. Mặc dù

đã về sống cảnh điền viên nhưng nhà thơ vẫn canh cánh trong lòng tấm chân tình

với dân tộc. Thời đại Nguyễn Khuyến sống là một xã hội mà vua quan đều như

"phường chèo", dù có danh vị tiến sĩ như ông thì cũng chỉ như là "tiến sĩ giấy".

Dưới ách đô hộ của thực dân và phong kiến, cái nghèo khổ như một màn đêm bao

trùm đất nước, trừ số ít người ngay chính, chỉ có những kẻ ăn mảnh, đi đêm với

thực dân như quan kinh lược Bắc Kỳ Hoàng Cao Khải, Tổng đốc Vũ Văn Báo, quan

43

tuần Tiên Khoán, quan huyện Thanh Liêm, ông tổng Cóc mới trở nên giàu nhờ vơ

vét của dân. Thương dân, Nguyễn Khuyến bênh họ bằng cái cười để các quan lại bỏ

thói bợ đỡ các quan Tây, bớt hà hiếp dân lành:

Có tiền việc ấy mà xong nhỉ

Ngày trước làm quan cũng thế a?

(Vịnh Kiều bán mình)

Cùng với Nguyễn Khuyến, có không ít tác gia đương thời có tâm, có tình với đất

nước. Và chúng ta không thể không kể đến Nguyễn Đình Chiểu, nhà thơ Nam Bộ

“thà đui mà giữ đạo nhà”. Khái niệm yêu nước rất rộng. Yêu nước không chỉ là căm

thù giặc, chiến đấu với kẻ thù mà còn là việc tự hào về văn hóa của dân tộc. Câu

chuyện giản dị dưới đây là một minh chứng cho điều đó.

Giai thoại kể rằng: “Trong những ngày Nguyễn Đình Chiểu về sống tại Ba Tri,

Phan Văn Trị - vừa là bạn thơ, vừa là bạn đồng tâm, đồng chí hay lui tới đàm đạo

về thời cuộc, về vận mệnh của đất nước. Biết tính bạn thích ăn mắm đồng, nên cụ

Đồ Chiểu bảo người nhà, trong mâm cơm phải có món mắm ngon. Câu chuyện

đang rôm rả giữa bữa cơm, thì cụ Đồ nhắc đến Tôn Thọ Tường. Cụ Trị bĩu môi

nói: Thằng Tường theo Tây được chức quan lớn, vì vậy có người bảo nó khôn, còn

tôi như vậy thiên hạ bảo tôi là khùng. Anh thấy đó, khùng thì khùng, chớ "Di, tề

nào khứng giúp Châu". Nghe xong, Nguyễn Đình Chiểu đặt chén xuống bàn, cười

khẩy, nói:

- Thằng Tường theo Tây, đã quen món cơm Tây, chắc nó không ăn mắm được

như bọn mình rồi.

Cụ Trị tán thành:

- Phải rồi ! Hễ còn biết ăn mắm sống, thì không phải là Tây”.

Thế ra quan điểm dân tộc, yêu nước, cũng gắn liền với chén mắm cổ truyền –

món ăn dân dã của nhân dân nước Việt.

Hay một thoại kể rằng: Bọn thực dân Pháp rất xảo quyệt, chúng biết Nguyễn

Đình Chiểu có uy tín lớn trong dân nên tìm cách mua chuộc ông. Tên Misen Pông

sông (Michel Ponchon), Tỉnh trưởng Bến Tre mấy lần đến gặp Nguyễn Đình Chiểu.

Hắn giả vờ xin ông nhuận sắc cho tập thơ Lục Vân Tiên mà hắn cho là một tác phẩm

44

rất đáng trân trọng. Hắn tỏ ý muốn cấp tiền cho ông lúc tuổi già, lần cuối cùng hắn

đặt vấn đề trả lại đất đai cũ nơi quê nhà của ông ở Gia Định mà chúng đã chiếm

đoạt. Những lần gặp gỡ và đối diện với tên Pông sông, Nguyễn Đình Chiểu đã tỏ

thái độ dứt khoát, khảng khái từ chối mọi đề nghị của kẻ thù. Ông đã thẳng thừng

trả lời Pôngsông : “Nước chung đã mất, đất riêng còn có được sao?”. Cuối cùng,

Pôngsông hỏi ông muốn gì? Ông nói: Muốn được làm lễ tế nghĩa quân lục tỉnh trận

vong, những người vì nước quên mình mà ông rất kính phục. Được viên Tỉnh

trưởng chấp thuận, tại chợ Đập (chợ Ba Tri ngày nay), Nguyễn Đình Chiểu đã cùng

với nhân dân công khai tổ chức trọng thể lễ tế nghĩa sĩ lục tỉnh trận vong. Bài “Văn

tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh” do ông sáng tác và đọc tại buổi lễ làm cho hàng ngàn

người có mặt xúc động không cầm được nước mắt. Buổi lễ đã gây ấn tượng sâu sắc

trong nhân dân về “Khúc ca của những người anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên

ngang” và đã trở thành sự kiện có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với nhân dân ở nhiều nơi

trong vùng kể từ khi giặc Pháp hoàn thành việc chiếm đóng Nam Kỳ lục tỉnh.

Rõ ràng là với ngôi sao sáng của văn học Việt Nam, tuy mù lòa nhưng tinh thần

yêu nước vẫn không hề vơi cạn. Nhà thơ sẵn sàng đối diện trước kẻ thù để khảng

khái đòi quyền được khóc thương cho những con người anh hùng đã ngã xuống cho

dân tộc.

Ngoài một số thoại về các nhà văn, nhà thơ kể trên qua khảo sát, chúng tôi

còn thấy không ít các thoại về các vị vua, vị quan lại trong triều đình cũng cho thấy

nội dung yêu nước, tự hào dân tộc, thương dân. Những giai thoại xoay quanh các vị

này không nhằm mục đích đả kích vào bọn quan lại, tay sai phản động ở trong nước

mà chủ yếu hướng vào đối tượng ngoại quốc, khẳng định vị thế của đất nước. Đó là

các câu chuyện về Đỗ Thuận, Mạc Đĩnh Chi…

Giai thoại “Tay lái đò hay chữ” sau đây là ví dụ điển hình cho tinh thần dân

tộc của một nhà thơ, đồng thời là một vị quan lớn: “Đời vua Lê Đại Hành (980 -

1005) có sư Đỗ Thuận là người học rộng thơ hay, am hiểu việc đời, giúp nhà vua có

công lao lớn, nhưng mỗi lần nhà vua định phong chức cho thì sư đều không nhận.

Vì thế, Lê Đại Hành càng kính trọng, nhà vua thường chỉ gọi là Đỗ pháp sư chứ

không gọi tên thật. Khoảng năm Thiên Phúc thứ tám (987), vua nhà Tống sai quốc

45

tử giám bác sĩ là Lý Giác sang sứ Việt Nam. Vua Lê Đại Hành bèn sai sứ Thuận giả

làm người chèo đò ra đón sứ ở bên bờ sông Sách Giang, Lý Giác vốn là một tay

sính thơ khi ngồi đò nhân trông thấy xa xa trên mặt nước có hai con ngỗng trời, liền

ngâm hai câu thơ rằng:

Nga nga lưỡng nga nga,

Ngưỡng diện hướng thiên nha

Dịch:

Ngỗng ngỗng hai con ngỗng

Chân trời nghển cổ trông.

Sư Thuận nghe xong tay vẫn chèo nhịp nhàng, miệng tươi tắn nối vần ngâm

tiếp hai câu cho thành một bài tứ tuyệt:

Bạch mao phô lục thủy

Hồng trạo bãi thanh ba.

Dịch:

Lông trắng phơi nước biếc,

Sóng xanh quậy chèo hồng.

Thấy một tay lái đò mà cũng hay chữ như vậy, Lý Giác hết sức kinh ngạc và

cảm phục.

Về sau, vua nhà Tống còn sai Lý Giác sang sứ Giao Châu một lần nữa. Lúc

về, Lý Giác có tặng sư Thuận một bài thơ lưu biệt trong đó có hai câu:

Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu,

Khê đàm ba tĩnh kiến thiềm thu.

Dịch:

Ngoài trời còn có trời nên chiếu,

Sóng lặng khe đầm rọi mảnh thu.

Sư Thuận đưa bài thơ cho Lê Đại Hành. Vua triệu sư Khuông Việt vào giải

thích hộ. Khuông Việt nói: "Đây là sứ Trung Hoa tỏ ý kính trọng bệ hạ cũng ngang

với hoàng đế của ông ta". Vua hài lòng lắm, liền sai sư Khuông Việt làm một bài ca

tiễn Lý Giác. Bài ca làm theo điệu "Tống vương lang qui" như sau:

Trường quang phong hảo cẩm phàm trương,

46

Giao vọng thần tiên phục đế hương

Vạn trùng sơn thùy thiệp thương lương

Cửu thiên qui lộ trường,

Nhân tình thảm thiết, đốt ly thương.

Phan luyến sứ tình lang,

Nguyện tương thâm ý vị Nam cương,

Phân minh báo ngã hoàng.

Dịch:

Trời lạnh gió tốt cánh buồm trương,

Ngùi ngóng người tiên lại đế hương

Muôn trùng non nước sóng mênh mang

Chín trời thăm thẳm dặm trường

Nhìn chén biệt ly tình thảm thương

Vin xe sứ lòng vấn vương,

Xin đem thâm ý vì Nam cương

Phân minh báo thánh hoàng” [16, tr. 49].

Chỉ một vài câu thơ mà Sư Thuận đã khiến cho sứ giả của một nước lớn phải

ngả đầu kính phục trước tài năng của nhân dân Đại Việt nhỏ bé. Đó chính là tinh

thần tự tôn của dân tộc ở thời kì hào khí Đông A anh hùng.

Ở nội dung này, không thể không kể đến một số thoại đi sứ của các nhà thơ,

nhà văn. Chính trong hoàn cảnh đối mặt với ngoại bang, tài năng, trí tuệ của các tác

gia được bộc lộ rõ ràng hơn bao giờ hết. Ở bộ phận giai thoại này, không thể không

kể đến các câu chuyện về Mạc Đĩnh Chi đi sứ.

Theo khảo sát, chúng tôi thấy có 19 thoại (chưa kể dị bản) xoay quanh việc

Mạc Đĩnh Chi đi sứ. Mạc Đĩnh Chi (1272 – 1346), người xã Lũng Động, huyện Chí

Linh, nay là thôn Lũng động, xã Nam Tân, huyện Nam Sách, tỉnh hải Dương. Ông

thông minh hơn người, nhưng tướng mạo xấu xí. Hoạt động và tài năng văn chương

của ông đã để lại nhiều giai thoại nổi tiếng.

“Năm Hưng Long thứ 16 (1308), Mạc Ðĩnh Chi sang sứ nhà Nguyên, ông có

hẹn ngày ấy ngày nọ thì phái bộ sẽ đến cửa ải để viên quan nhà Nguyên mở cửa

47

đón. Chẳng may hôm lên đường gặp phải mưa gió, thành ra sai hẹn. Lúc tới nơi thì

trời tối, cửa ải đã đóng. Mạc Ðĩnh Chi nói mãi, người Nguyên cũng không chịu cho

qua. Sau họ vứt từ trên ải xuống một vế câu đối, bảo hễ đối được thì mở cửa ải:

Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan.

Nghĩa là:

Qua cửa quan chậm, cửa quan đóng, mời khách qua đường qua cửa quan.

Thật là một câu đối hiểm hóc, trong có mười một chữ mà riêng chữ “quan” nhắc lại

tới bốn lần. Chữ “quá” nhắc lại 3 lần. Mạc Ðĩnh Chi cảm thấy rất khó đối, nhưng

nếu im lặng thì e mất thể diện. Ông bèn nhân cái chuyện khó đối ấy, ứng khẩu đọc

lên một câu rằng:

Xuất đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối

Nghĩa là:

Ra câu đối dễ, đối câu đối khó, xin tiên sinh đối trước.

Tưởng đã bí, thế mà lại hoá ra có một câu đối hay. Người Nguyên phải chịu

Mạc Ðĩnh Chi là có tài ứng biến, liền tức tốc mở cửa ải để ông đi” [16, tr. 75].

Trong tình huống này, giả sử, Mạc Đĩnh Chi không đối được thì sao? Cái

trước mắt là bọn lính nhà Nguyên sẽ không chịu mở cửa ải, đoàn sứ của ta phải

quay lại nhưng điều quan trọng hơn là thể diện của một quốc gia, một dân tộc sẽ bị

mất trong “tích tắc”. Nếu không phải là một tài năng xuất chúng thì vị thế của đất

nước sẽ bị ngoại bang cười chê.

Sang bên nhà Nguyên đi sứ, không ít lần, Mạc Đĩnh Chi bị bọn người nhà

Nguyên đưa vào tình huống thử thách. Chúng luôn coi mình là đứng đầu thiên hạ,

coi khinh dân tộc Đại Việt nhỏ bé của chúng ta. Nhưng hết lần này đến lần khác,

chúng đều phải ngả mũ kính phục. Thoại “Trăng là sao, cung là đạn” lại một lần

nữa khiến ngoại bang phương Bắc không khỏi khâm phục con dân của nước Đại

Việt: “Mạc Ðĩnh Chi sang sứ Triều Nguyễn, lúc vào bệ kiến, vua Nguyên muốn thử

tài văn chương của Trạng và cũng muốn dò tiết khí của viên bồi thần bằng một câu

đối. Vua Nguyên đọc:

Nhật hoả vân yên, bạch đán thiêu tàn ngọc thỏ.

Nghĩa là:

48

Mặt trời vừa lửa, mây là khói, ban ngày đốt cháy vừng trăng.

Mạc Ðỉnh Chi biết là Vua Nguyên kiêu hãnh, tự xem mình là mặt trời, và coi

Việt Nam như là mặt trăng, ban ngày nhất định phải bị mặt trời thôn tính, ông bèn

ứng khẩu đối ngay:

Nguyệt cung linh đạn, hoàng hôn xạ lạc kim ô

Nghĩa là:

Trăng là cung; sao là đạn, chiếu tối bắn rơi mặt trời

Câu ra đã giỏi mà câu đối lại còn tài hơn. Vua Nguyên nghe đối biết mình đã

bị trả miếng rất đau, nhưng cũng hết sức kính phục Mạc Ðĩnh Chi, bèn thưởng cho

Trạng Việt Nam rượu ngon và rất nhiều vàng lụa” [16, tr. 76].

Như vậy, với tài đối đáp chữ nghĩa tài giỏi, mẫn tiệp, ông không chỉ được

vua quan nhà Nguyên khâm phục, trọng thưởng khác hẳn lệ thường mà thực sự đã

làm rạng danh đất nước. Trong chùm giai thoại đi sứ của họ Mạc, còn rất nhiều

thoại khác như: Chim chích - ếch ộp, Lưỡng quốc trạng nguyên, Chỉ có hai người,

Bốn chữ nhất, Ruột vuông…cũng thể hiện thành công nội dung này. Cùng với Mạc

Đĩnh Chi, có không ít các tác gia khác cũng làm rạng danh thể diện của quốc gia,

dân tộc qua những thoại đi sứ như nhân vật dưới đây: “Đương thời, tài thơ văn ứng

đáp của Nguyễn Tông Quai lẫy lừng hai nước Việt Nam, Trung Quốc. Chuyến đi sứ

lần thứ nhất, khi xướng họa thơ văn, các nho sĩ nhà Minh đã nghiêng mình thán

phục là tài thơ của sứ thần họ Nguyễn đáng sánh ngang với các bậc đại gia thời

Đường, Tống. Đi sứ về, Nguyễn Tông Quai bị bọn hoạn quan ganh ghét dèm pha

nhưng khi bàn đến việc cử người lo nhiệm kì công sứ mới thì triều đình Lê - Trịnh

lại thấy khó có thể chọn ai ngoài Nguyễn Tông Quai làm chánh sứ.

Khi đến Yên Kinh (thủ đô nhà Thanh) gặp lại những gương mặt năm xưa, có

viên quan nhà Thanh đã hỏi móc rằng:

- An Nam hết nhân tài rồi hay sao mà lần công sứ nào cũng thấy cử ông đến vậy?

Nguyễn Tông Quai thản nhiên đáp:

- Ở nước tôi thường vẫn quan niệm đi sứ là một sự đầy ải nên mỗi lần cử

người đi sứ, triều đình lại tổ chức thi thơ. Khi bình xong, thơ của người nào dở nhất

49

thì buộc phải làm chánh sứ để dẫn đoàn sứ bộ lên đường. Tôi vốn kém sở trường về

thơ nên hai lần thi đều bị xếp hạng bét, thành thử phải đi sứ cả hai lần.

Các quan Trung Quốc biết là bị hố, nhưng đành ngậm miệng phục tài biện

bác của sứ thần Đại Việt” [16, tr. 180].

Thoại “Bài thơ đem lại quốc thể” về nhân vật Võ Huy Tấn cũng có nội dung

tương tự, thậm chí có vị sứ thần còn phải đánh đổi mạng sống của mình vì danh dự

của quốc gia, dân tộc (Nguyễn Biểu). Về tác gia - nhà thơ, vị anh hùng dân tộc này,

“Nghĩa sĩ truyện” chép rằng: “Khi tới trước quân Trương Phụ, bọn giặc bắt ngài lạy.

Ngài đứng trơ không nhúc nhích. Nhân thế giặc đặt tiệc thết, nấu một đầu người mà

mời, cốt để cho rõ ý ngài. Ngài tức thì lấy đũa khoét hai mắt, hoà với dấm mà nuốt”.

Trong bản chép tay kèm ở trong gia phả họ Nguyễn có thêm: “Lúc bày tiệc ra ngài

cười mà nói: “Đã mấy lúc người Nam lại được ăn đầu người Bắc”. Trương Phụ cảm

phục đối xử tử tế rồi cho ông về. Nhân đó Phụ hỏi viên hàng thần Phan Liêu:

“Nguyễn Biểu là người thế nào?” Liêu vốn có hiềm khích với ông bèn nói: “Người

ấy là hào kiệt của nước Nam, ngài muốn lấy nước Nam mà không có người này thì

việc thành sao được”. Phụ sai người đuổi theo bắt ông lại hòng uy hiếp mua chuộc

nhưng khi Nguyễn Biểu bị dẫn đến trước dinh, Trương Phụ bắt ông lạy ông vẫn

đứng thẳng không hề run sợ. Ông nói: “Ta là tôi vua phương Nam, ngươi là tôi vua

đất bắc, là bề tôi cả sao lại bắt nhau quỳ được?”. Phụ mắng ông vô lễ ông bèn vạch

âm mưu và tội ác của giặc. Phụ tức giận sai quân đưa ông ra trói dưới cầu Yên Quốc

(tức cầu Lam, một nhánh sông Lam chảy giữa hai làn Vệ Chánh và Quang Dụ xưa)

cho nước lên dìm chết. Ông lấy móng tay vạch vào cột cầu 8 chữ: “Thất nguyệt, sơ

nhất nhật, Nguyễn Biểu tử” (ngày mồng 1 tháng 7 Nguyễn Biểu chết). Trương Phụ

giết ông nhưng phải ngầm kính phục cho đưa thi hài về Bình Hồ an táng. Vua Trùng

Quang được tin ông tử tiết hết sức thương xót sai làm văn Dụ tế, nhà sư chùa Yên

Quốc cũng soạn bài tụng, làm lễ cầu siêu cho ông”. Nguyễn Biểu vị sứ giả can

trường của dân tộc đã hy sinh anh dũng trong cuộc kháng chiến chống xâm lược nhà

Minh. Tiết tháo của Nguyễn Biểu thật là lẫm liệt, trước giặc giữ lòng chỉ nghĩ đến

vua, trước vận suy của nước vẫn làm rạng danh quốc thể.

50

Qua các thoại đi sứ của các tác gia tài năng, khí chất, tiết tháo, chúng tôi

nhận thấy, bằng thơ văn của mình, các tác gia - nhà chính trị đã khiến ngoại bang

phải nể sợ. Đó chính là một “đòn ngoại giao” của ông cha ta trong lịch sử dựng

nước và giữ nước.

Yêu nước không chỉ là sự khẳng định vị thế của đất nước, dân tộc trước một

đất nước khác mà còn là việc quan tâm dìu dắt, nâng đỡ nhân dân. Có những thời kì

phong kiến, đất nước ta cực kì hưng thịnh, đời sống nhân dân no ấm, thái bình. Làm

được điều đó phải kể đến công lao và tấm lòng bao la của các vị vua.

Lê Thánh Tông chính là một vị vua như thế. Các giai thoại xoay quanh nhân

vật này đã giúp người đọc, người nghe thấy được chân dung của vị vua yêu dân như

con này. Lê Thánh Tông (1442 - 1497), là Hoàng đế thứ 5 của triều đại nhà Hậu

Lê nước Đại Việt. Lê Thánh Tông được cho là có tư chất thông minh, học vấn uyên

bắc, giỏi về xử lí chính trị và cả về văn học, nghệ thuật. Dưới thời đại của ông, Đại

Việt phát triển rực rỡ về mọi mặt từ kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, quân sự và

trở thành một cường quốc, cũng như đã khiến Quân chủ chuyên chế Việt Nam đạt

đến đỉnh cao vàng sơn. Lê Thánh Tông đồng thời còn là một nhà thơ và phê bình

văn học, vừa sáng tác văn thơ, vừa nghiên cứu, phê bình. Tương truyền cứ đến ngày

giáp Tết, Lê Thánh Tông thường ăn mặc giả thường dân, vi hành xem dân chúng

chuẩn bị đón năm mới ra sao. Gặp một căn nhà tồi tàn, không có câu đối dán ngoài

cửa, ông hỏi vì sao? Gia chủ thưa: Thân phận nghèo, lại làm nghề hèn hạ không

dám xin chữ ai cả. Lại hỏi: nghề gì? Thưa: hót phân. Lê Thánh Tông bảo đem giấy

ra, ông cho chữ. Chủ nhà mừng luống cuống. Lê Thánh Tông bảo người theo hầu

lấy nghiêm mài mực và viết ngay đôi câu đối nét chữ bay bướm rất đẹp nổi bật trên

giấy hồng điều:

Thân ỷ nhất nhung y, năng đảm thế gian nan sự

Thủ trì tam xích kiếm, tận thu thiên hạ nhân tâm.

Nghĩa là:

Mình mặc chiếc áo võ (chiếc áo giáp nhiều mảnh kim loại chồng lên nhau na

ná như áo tơi của người hót phân) thường gánh vác sự khó khăn trong thế gian.

51

Tay cầm thanh gươm dài ba thước (ám chỉ dụng cụ hành nghề của chủ nhà)

thu hết lòng người trong thiên hạ (nhân tâm nghĩa bóng là lòng người, nghĩa đen là

từ lòng người mà ra - phân).

Câu đối tết về gia cảnh người hót phân đọc lên không thấy tầm thường mà

mường tượng như ông quan võ, khẩu khí rất đế vương. Nhưng điều quan trọng

hơn là vị vua này đã có hành động khiến nhân dân cảm phục vì tấm lòng yêu dân

như con.

Thoại về Lê Thánh Tông cũng kể những chuyện tương tự: “Khi đến một ngôi

nhà khác cũng không thấy câu đối tết, ông hỏi gia chủ làm nghề gì? Thưa: thợ

nhuộm vải. Lại bảo người ta lấy giấy, và viết giúp câu đối:

Thiên hạ thanh hoàng, gian ngã thủ

Triều trung chu tử, tổng ngô môn.

Nghĩa là: Các thứ xanh, vàng trong thiên hạ đều do tay ta (theo sự mê tín

xưa: trời xanh là cảnh thái bình, trời vàng là cảnh loạn lạc - nên còn hiểu sự thái

bình hay loạn ly trong thiên hạ đều do tay ta làm ra cả). Các thứ đỏ, tía trong triều

đình cũng đều từ cửa nhà ta mà ra.

Còn có một lần khác Lê Thánh Tông làm giúp câu đối tết cho một bà lão bán

hàng trầu, nước, nhưng ông làm nôm:

Nếp giầu quen thói hình cơi, con cháu nương nhờ vì ấm

Việc nước ra tay chuyên bát, bắc nam đâu đấy lại hàng.

Đôi câu đối nói lên được hiện vật của một hàng nước giầu (cau), cơi (trầu),

ấm, nước: bát, hàng (quán)... nhưng mang đậu khẩu khí đế vương - cứ như là đang

trị quốc, bình thiên hạ vậy”.

Giai thoại này cùng với một số thoại khác (Câu đối nhà thợ nhuộm, Câu đối

nhà hàng nước…) khá độc đáo. Điều độc đáo ở Lê Thánh Tông ít ông vua có được

là khi làm thơ về những nhân vật tận cùng của xã hội (người ăn mày, làm mõ...) đọc

lên vẫn không thấy bị rẻ rúng và vẫn toát lên khẩu khí bậc vương giả. Qua đó,

người đọc nhận ra tấm lòng bao la của bậc đế vương.

Như vậy, qua khảo sát bộ phận giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam,

chúng tôi thấy nội dung thể hiện tinh thần yêu nước được thể hiện khá rõ ràng. Các

52

tác gia đều là những nhà văn, nhà thơ, nhà chính trị có tài năng, có tâm huyết với

nhân dân, với đất nước, với dân tộc. Cho dù ở vị trí nào đi nữa, họ vẫn luôn canh

cánh tấm lòng với dân chúng. Việc đả kích, châm biếm bọn quan lại, tay sai hướng

vào bộ phận thật, giả dối, áp bức, bóc lột của những kẻ “phụ mẫu” nhưng lại “rút

ruột” chính con dân của mình. Việc khẳng định vị thế dân tộc với ngoại quốc đã làm

rạng danh non sông, khiến đất nước ta tuy nhỏ nhưng không hề bé. Tài năng, cá

tính, tấm lòng của các tác gia sẽ còn sống mãi với thời gian, với non sông, đất nước.

2.3. Phác họa chân dung đời thường của các tác gia

Bên cạnh việc thể hiện tinh thần yêu nước và việc châm biếm, đả kích

những thói hư, tật xấu, những hạng nho sĩ rởm trong xã hội thì giai thoại về các

tác gia văn học Việt Nam còn cho người nghe, người đọc biết được những chân

dung đời thường của các nhà văn, nhà thơ, các nhà chính trị…mà vốn chỉ được

biết đến qua tác phẩm của họ. Đó có thể là những đức tính, thói quen tốt, nhưng

cũng có thể là những tật xấu. Bộ phận giai thoại này khiến người nghe, người đọc

cảm thấy thích thú và không khỏi ngạc nhiên, bất ngờ về những đức tính tốt đẹp

cũng như những thói quen, thói tật hết sức đời thường đó.

Tác gia là khái niệm dành cho những tác giả có tài năng lớn, có tên tuổi, đã

có những công trình đóng góp giá trị lớn ở một mảng, một lĩnh vực nào đó. Việc

định nghĩa tác gia như vậy để giúp chúng tôi thấy được rằng bộ phận giai thoại này

chủ yếu xoay quanh những câu chuyện về cuộc đời và sự nghiệp của những người

có tài năng lớn. Cũng chính bởi có tài năng xuất chúng mà không ít các nhà văn,

nhà thơ, các tác gia bị mắc một “căn bệnh” gọi là “kiêu ngạo”. Trong số các tác gia

chúng tôi tiến hành khảo sát, Lê Quý Đôn là một người bị mắc “căn bệnh” này. Lê

Quý Đôn sinh ngày 2/8/1726 mất ngày 14/4 năm Giáp Thìn (11/6/1784). Ông là con

tiến sĩ Lê Phú Thứ, quê ở huyện Diên Hà ( nay thuộc thôn Phú Hiếu, xã Độc Lập,

huyện Hưng Hà) tỉnh Thái Bình, nổi tiếng thần đồng, có trí nhớ lạ lùng, tài ứng đối

mau lẹ, 14 tuổi đã học được hầu hết các bộ sách của Nho học. Năm 18 tuổi đỗ giải

Nguyên (đứng đầu kỳ thi Hương). Sau đó đỗ đầu các kỳ thi Hội và thi Đình (còn

gọi là Hội nguyên và Đình nguyên). Chính vì có một tiểu sử như thế nên Lê Quý

53

Đôn rất tự mãn về tài năng của mình. Và cũng vì điều đó, ông đã bị không ít lần

phải “tẽn tò”.

“Chuyện kể, sau khi thi đỗ, ông liền cho treo ngay trước ngõ tấm biển với

hàng chữ:

Thiên hạ nghi nhất tự lai vấn

Nghĩa là:

Ai không hiểu chữ gì thì hãy đến mà hỏi.

Một hôm, Lê Quý Đôn đi dự đám khao ở đâu đó. Sau khi đã cỗ bàn xong,

đang ngổi uống nước, xỉa tăm, chợt có ông lão đến gặp và hỏi rằng:

- Lão mới nghe được một câu đố chữ, song ngu dốt nghĩ mãi không ra. Nay

may gặp quan Bảng là người học rộng, biết nhiều, mong được quan Bảng giảng

giùm cho.

Được Lê Quý Đôn nhận lời, ông lão bèn đọc bốn câu sau đây:

Hạ bất khả hạ

Thượng bất khả thượng

Chỉ nghi tại hạ

Bất khả tại thượng.

Nghĩa là:

Dưới không thể dưới

Trên không thể trên

Chỉ nên ở dưới

Không thể ở trên.

Lê Quý Đôn nghĩ mãi không ra. Sau đành chịu. Bấy giờ ông lão mới tủm tỉm

rằng: “Có người mách lão đó là chữ Nhất đấy. Nhưng chẳng biết có đúng không,

nhờ quan Bảng thử xem xem”. Lê Quý Đôn lấy tay vạch xuống bàn thì đúng là thế.

Ông rất khâm phục trí khôn của dân gian. Ngẩng mặt lên nhìn thì không thấy ông

lão đâu nữa. Lê Quý Đôn bất giác thẹn đỏ mặt. Nghe nói từ đó, ông Bảng Đôn bớt

tự phụ dăm bầy phần” [16, tr. 205].

Có giai thoại còn kể rằng: “Một lần Lê Quý Đôn đến cầu siêu ở ngôi chùa

làng. Nhà sư thấy ông thì mừng rỡ mà rằng:

54

- Quan Bảng vừa tới, may mắn sao. Bần tăng có điều muốn nhờ quan chỉ

giáo. Chả là đứa tiểu đồng của bần tăng nghe người nào đó đó, về hỏi, nhưng bần

tăng nghĩ không ra, nên đành theo lời quan bảng dạy "Nghi nhất tự lai vấn". Câu đố

thế này, xin quan chỉ cho:

Hạ bất khả hạ. Thượng bất khả thượng.

Chỉ nghi tại hạ. Bất khả tại thượng.

Nghĩa là: Dưới không thể dưới. Trên không thể trên. Đúng nên ở dưới.

Không thể ở trên.

Lê Quý Đôn nghĩ mãi không ra. Đúng lúc ấy chú tiểu chạy từ ngoài vào thưa

với sư phụ là cậu đã giải được. Lê Quý Đôn giục chú tiểu nói thử xem, thì mới hay

đó là chữ "nhất" (một). Đúng là trong chữ "hạ" (dưới), thì chữ "nhất" ở trên chứ

không thể viết dưới. Trong chữ "thượng" thì chữ "nhất" nằm dưới và chữ "bất", chữ

"khả" thì chữ "nhất" lại ngồi trên.

Lê Quý Đôn biết nhà sư đã lấy ngay chữ "Nhất tự lai vấn" ông treo trước ngõ

để nhạo. Ông tự nhủ thì ra thiên hạ còn nhiều người giỏi hơn mình liền về nhà sai

người cất tấm bảng” [16, tr. 206].

Qua hai thoại, điều mà người đọc thấy rõ là các tác gia nổi tiếng bên cạnh tài

năng xuất chúng còn có thói tật. Nhưng điều quan trọng là cách cư xử của của các

vị ấy sau mỗi bài học đó. Với Lê Quý Đôn, sau hai lần trên, ông bỏ tính kiêu ngạo,

chăm chú nghiên cứu, học hành, giúp đời, trở thành một ông quan tài năng nhiều

mặt, một thiên tài khoa học lớn nhất Việt Nam thời phong kiến.

Cũng giống như Lê Quý Đôn, Cao Bá Quát cũng bị mắc “căn bệnh” này.

Ông vốn là một nhà thơ nổi danh ở giữa thế kỷ 19 trong lịch sử văn học Việt Nam.

Người đương thời phong ông làm "Thánh Quát" (Thánh văn chương). Cao Bá Quát

là người cao ngạo, đã từng tuyên bố như sau: “Trong thiên hạ có 4 bồ chữ: Một

mình tôi giữ hết 2 bồ. Anh tôi Bá Đạt và bạn tôi Nguyễn Văn Siêu giữ một bồ. Còn

một bồ phân phát cho thiên hạ!”. Cũng vì tính tự phụ chữ nghĩa mà Quát đã bị một

bài học. Khi còn làm quan hành tẩu, nghe đồn “Mạc Vân thi xã” (tổ chức của các

danh sĩ tầm cỡ ở kinh thành thường họp nhau xướng họa thi ca) có nhiều danh sĩ

làm thơ hay nhưng Quát nghe đọc xong một số bài thơ thì ngâm trước mặt mọi

người hai câu thơ rằng:

55

Ngán cho cái mũi vô duyên

Câu thơ thi xã con thuyền Nghệ An.

Cố ý chê thơ của thi xã “khắm” như thuyền chở mắm của Nghệ An, không

ngửi được. Chuyện hai câu thơ đó của Quát đã khiến những người biết chuyện hết

sức bất bình trước thói kiêu ngạo của ông. “Đến hồi cụ thân sinh Quát mất, mọi

người đem câu đối đến nhưng Quát bĩu môi chê dở. Trong số đó có một cụ già mà

Cao Bá Quát không quen. Cụ tự giới thiệu lai lịch: Cháu còn nhỏ, chứ lão là bạn

thân với cha cháu từ xưa. Nhưng vì nhà nghèo, đường xa, lại tuổi già sức yếu nên ít

đi lại thăm hỏi nhau. Nay nghe tin cha cháu mất, lão đến để có câu đối viếng. Lão

run tay, cháu hãy lấy giấy bút, lão đọc, nhờ cháu viết hộ. Cao Bá Quát lấy giấy bút.

Cụ bèn đọc: "chi". Ông Quát không biết nên viết chữ "chi" nào bởi trong tiếng Hán

có nhiều chữ "chi" viết khác nhau. Ông đành cầm bút chờ cụ già đọc tiếp xem sao.

Cụ lại đọc "chi". Cao Bá Quát thấy lạ, liền hỏi:

- Bẩm, "chi" nào ạ?

Cụ thở than rằng:

- Đến chữ "chi" cũng không biết viết, sao bảo anh có hai bồ chữ trong thiên

hạ kia mà?

Cao Bá Quát ngượng chín cả người. Bây giờ cụ già mới đọc luôn hai vế đối:

Chi chi tam thập niên dư, xích huyện hồng châu kiên thượng tại

Tại tại số thiên lý ngoại, đào hoa lưu thủy tử hà chỉ.

Nghĩa là:

Cách hơn ba chục năm, xích huyện hồng châu nay vẫn đó.

Xa ngoài mấy ngàn dặm, đào hoa lưu thủy bác về đâủ.

Thấy câu đối hay, lạ, Cao Bá Quát và cả các nho sĩ đến viếng đều kinh ngạc.

Lạy xong, cụ già chống gậy ra về. Cao Bá Quát mời mãi nhưng cụ không

chịu nán lại. Bởi thế nên sau này không ai biết ông cụ hay chữ đó tên là gì, còn Cao

Bá Quát vẫn bàng hoàng như chưa tỉnh cơn mơ” [16, tr. 317].

Đọc các giai thoại trên về Lê Quý Đôn và Cao Bá Quát, chúng ta thấy được

chân dung hết sức chân thật về họ. Ngoài việc các tác gia này có tài năng, có tấm

lòng với nhân dân, với đất nước thì bản thân họ cũng có những thói tật như bao

56

người khác. Những thoại này có nội dung giáo dục, châm biếm nhẹ nhàng tính

kiêu ngạo của một số tác gia. Ngoài ra, còn có thể kể đến một số thoại khác như:

Con cò lặn lội bờ sông, Chữ nhất không biết…cũng xoay quanh thói xấu của các

tác gia này.

Ngoài việc giáo dục nhẹ nhàng về tính tự phụ chữ nghĩa, giai thoại xoay

quanh cuộc đời các tác gia còn chỉ rõ tính cách, cách ứng xử của các nhà văn, nhà

thơ, các tác gia nổi tiếng trong cuộc sống hàng ngày. Từ trước đến nay, bạn đọc văn

chương mới chỉ biết đến tài năng, tên tuổi của các tác gia qua những tác phẩm của

họ mà chưa hề biết cách họ sống, ăn ở, cư xử trong đời thường ra sao. Đọc các thoại

về họ, người đọc thấy sao mà các tác gia gần gũi đến thế và bản thân mỗi nhà tác

gia luôn hiện diện trong những hình bóng của những người xung quanh. Với nội

dung này, chúng tôi chủ yếu tiến hành khảo sát bộ phận giai thoại xoay quanh các

tác gia xuất hiện trong khoảng từ đầu thế kỉ XX trở lại. Vì sao lại có sự phân biệt

như thế? Nguyên nhân là do bộ phận giai thoại về các tác gia văn học trước giai

đoạn này chủ yếu là các vị quan lại, nhà thơ, nhà chính trị thời kì phong kiến. Thời

đại và cuộc sống cách xa chúng ta. Những mẩu chuyện còn lưu lại chủ yếu phản ánh

xung quanh các vấn đề thời sự, có tính chất quốc gia, dân tộc. Trong quá trình khảo

sát, hầu như chúng tôi không tìm thấy thoại nào tập trung nói về thói quen đời

thường của họ. Hơn nữa, nội dung giai thoại về họ chủ yếu đã được khảo sát, phân

tích nội dung ở phần trên của chương.

Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, chúng ta không thể không kể tới

Nguyễn Tuân - cây bút tài hoa vào bậc nhất. Nguyễn Tuân “ngông” trong tác phẩm

của mình, không chỉ vậy, ông còn “ngông” trong cuộc sống hàng ngày. Có điều,

“cái ngông” này của ông rất “đáng yêu”, khiến người đọc giai thoại bật cười thích

thú trước một Nguyễn đời thường, cá tính đến vậy.

“Sinh thời, nhà văn Nguyễn Tuân có thói quen đến uống bia ở quầy bia Cổ

Tân. Bấy giờ bia còn là loại hiếm nên đôi khi nhà văn cũng phải xếp hàng như mọi

người và bởi vậy mà ông được chứng kiến không ít cảnh “chen ngang”. Lần ấy, nhà

văn già rất ngạc nhiên khi thấy một chú bé - tay xách một cái can to - ở đâu bỗng

chạy đến, lách vào đứng ngay trước mặt ông. Nhà văn nắm lấy vai chú bé, hỏi ngay:

57

- Này, cháu làm gì thế?

Đứa bé ngước mắt nhìn ông già rồi trả lời hết sức thản nhiên:

- Thưa bác, cháu xếp hàng mua bia cho bố cháu.

- Thế thì... - nhà văn già cúi xuống đứa bé - cháu hãy nhìn kỹ bác đây này:

Bác già rồi. Đầu bác hói, tóc bác bạc, cằm bác có râu. Nhớ chưa?

- Dạ thưa bác, cháu nhớ rồi. - Lần này đứa bé trả lời có vẻ ngần ngại. Song

nó vẫn băn khoăn - Nhưng thưa bác, nhớ thế để làm gì ạ?

Nhà văn già điềm nhiên trả lời:

- À, để rồi ngày mai nhỡ bác có đến sau thì nhớ cho bác “chen ngang” với nhé.

Đứa bé im lặng, đỏ bừng mặt... Hình như nó đã hiểu” [41, tr. 20].

Lời dặn dò, nhắc nhở một đứa trẻ thôi nhưng cụ Nguyễn đã khiến thằng bé

hiểu chuyện. Thế đấy, các nhà văn không chỉ “văn” trên sách vở, trong tác phẩm mà

còn “văn” ngay trong cuộc sống đời thường. Bài học mà Nguyễn Tuân dạy cậu bé

kia không chỉ là chuyện chữ nghĩa mà còn là cách cư xử văn hóa.

Theo các tài liệu sưu tầm được, có khoảng 20 giai thoại về cây bút tài hoa

này. Hiện lên trước mắt chúng ta không chỉ là một con người khéo léo, uyên bác mà

còn là một cụ Nguyễn cực kì khó tính “dọa” người yêu cô con gái “chạy mất dép”,

ông kĩ tính đến mức chỉ vợ ông mới “chiều” đúng thức ăn, thức uống của ông dùng

hàng ngày. Nhà văn Kim Lân - người bạn thân thiết của Nguyễn Tuân đã đưa ra lời

"kết" thật chí lý: "Vì chỉ thích cái đẹp, yêu cái đẹp, luôn đi tìm cái đẹp, nên Nguyễn

Tuân không thể chấp nhận được cái không đẹp trong quan hệ giữa người với người.

Chính vì thế, cái ngang ngạnh, thẳng thắn, đốp chát và thâm thúy, nhiều khi đến

nghiệt ngã của ông chẳng qua cũng là do không thể chấp nhận sự tầm thường, nịnh

bợ, xấu xa của con người. Nhà văn lão thành, tác giả truyện ngắn nổi tiếng Làng

cũng thật thà thổ lộ: “Lúc đầu, tôi tự nghĩ rằng mình chẳng bao giờ dám làm bạn với

ông này, trừ khi ông đến tôi thôi. Vì đến với ông không đúng lúc, mà ông ấy nổi

máu lên, ông đuổi mình, thì thật chẳng ra thể thống nào!”. Đúng như lời ông, cái

ông nhà văn “khó tính” Nguyễn Tuân khi nổi nóng, thì chẳng chừa một ai. Bên cạnh

đó, Nguyễn Tuân lại là người cực kỳ sợ ma. Khi ông cùng Kim Lân sang công tác ở

Bulgaria, mỗi người được cấp một căn phòng riêng, nhưng ông sợ ma không dám

58

ngủ một mình. Ông đòi Kim Lân sang ngủ chung một phòng với ông cho bằng

được. Nhờ vậy, Kim Lân phát hiện ở Nguyễn Tuân một thứ bệnh rất lạ: suốt thời

gian ở Bulgaria, đêm nào cũng như đêm nào, cứ đến độ một giờ sáng là Nguyễn

Tuân thức dậy bật đèn sáng trưng, đi đi lại lại ngẫm nghĩ, giở sách ra đọc. Sau đó,

ông lại mở rượu ra uống, vừa uống vừa đọc sách. Rồi lại mở tất cả vali quần áo ra

nheo mắt ngắm nghía, xếp đi xếp lại cả chục lần. Mãi gần bốn giờ sáng, vừa tàn bữa

rượu thì ông mới chịu đi ngủ. Một giấc ngủ ngon lành mới thật sự đến với nhà văn.

Kim Lân bật cười, nhỏ giọng với tôi: “Khổ lắm anh ạ! Lúc mình cần ngủ thì ông ấy

thức, lúc mình thức thì ông lại ngủ khì. Mà lạ lắm nhé! Nó như thành một thứ bệnh,

rất giống như ma ấy, đêm nào cũng như đêm nào”. Đọc những thoại này, ai dám

bảo đó là Nguyễn Tuân của sách vở, văn chương, là tác giả của những câu chuyện

“Chùa Đàn”, “Tàn đèn dầu lạc”…ma quái?

Các nhà văn, nhà thơ vốn rất đĩnh đạc khi xuất hiện trước công chúng nhưng

có ai biết rằng đằng sau đó là chân dung “xuề xòa” có phần “bê bối” của họ. Nhà

văn Nguyên Hồng chính là một con người như thế. Nhà văn Nguyên Hồng (1918 -

1982) là người nghiện rượu và cũng sành chọn rượu. Với Nguyên Hồng, mồi nhắm

rượu không quan trọng mà rượu ngon mới quan trọng. Chả có thế, mấy năm đầu

thập kỷ 70 của thế kỷ trước, khi còn phụ trách lớp bồi dưỡng những người viết văn

trẻ ở Quảng Bá (Quảng An, Hà Nội), lần ấy, chừng đã 10 giờ đêm, nhà văn Nguyễn

Đình Thi đến phòng Nguyên Hồng trao đổi công việc của lớp, khi đẩy cửa vào nhà

thì bắt gặp nhà văn Nguyên Hồng đang một mình nhắm rượu với...cơm nguội. Về

việc sành rượu, không thể không kể đến nhạc sĩ Văn Cao. Cũng như Nguyên Hồng,

Văn Cao thích uống rượu và sành rượu đến mức chỉ cần uống một chén là biết rượu

đó được mua ở đâu. Quay lại với Nguyên Hồng, những thoại quanh chuyện nghiện

rượu của nhà văn rất nhiều và không ít người biết. Nhưng mỗi khi không có rượu

bên cạnh, khi ông sáng tác văn chương thì lại “cực kì” say mê. Vợ của nhà văn kể

rằng, để kéo Nguyên Hồng ra khỏi những ngày “đóng đai lấy chõng mà viết”, bà đã

phải nghĩ ra việc biến nhà văn thành người bán khế. Cứ chốc chốc, bọn trẻ trong

xóm lại chạy vào mua khế trong vườn nhà bà và bà lại “sai” ông cầm sào ra vườn

lấy khế cho chúng. Mỗi khi như thế, nhà văn của chúng ta lại hồ hởi, vui vẻ quây

59

quần, cười đùa với lũ trẻ. Đó chính là chân dung chân thực của một nhà văn nổi

tiếng mà rất đỗi thân thương.

Xuân Diệu - ông hoàng thơ tình, nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới

vốn chỉ được biết đến qua những tác phẩm để đời. Trên sách vở, người ta mới thấy

một Xuân Diệu rất Tây, rất hiện đại mà không biết được ông còn là người rất quý

trọng thời gian. Điều đó không chỉ được thể hiện trong những vần thơ: “Mau lên

chứ, vội vàng lên đi chứ” mà còn ở ngay trong đời thực. Chuyện kể rằng: Những

lần đến thăm Xuân Diệu, nhà thơ Trần Ninh Hồ thường để ý thấy ông hay rút từ

một bao thuốc lá nguyên khi thì một điếu, lúc thì hai điếu, đặt lên chiếc đĩa trước

mặt khách (mà ít khi là cả bao). Dường như đoán được ý nghĩ của nhà thơ trẻ

(không ngờ một nhà thơ lớn mà lại ki đến vậy), khi tiễn Trần Ninh Hồ ra cổng,

Xuân Diệu dúi bao thuốc vào túi anh, nói nhỏ:

- Anh cho em bao thuốc về mà hút.

Rồi ông phân giải:

- Anh là người rất quý thời giờ. Thời giờ nó cũng như tấm vải vậy. Để

nguyên mấy mét thì may được sơ mi, áo dài, mà cũng ngần ấy vải, đem cắt nhỏ ra

thì chỉ may được mùi soa. Sở dĩ anh không đặt cả bao thuốc ra đấy vì đó là chủ ý

của anh. Một điếu có nghĩa là khách chỉ nên ngồi 5 phút thôi. Mà hai điếu thì có

nghĩa là 10 phút. Anh đặt cả bao ra đấy, nhỡ có người sẵn thuốc ngồi dai thì sao.

Thuốc thì anh không thiếu, nhưng anh thiếu thời gian. Bây giờ anh đã sắp đến cái

tuổi "cổ lai hy" rồi còn gì.

Cái cách mà Xuân Diệu tính toán khiến người ta thấy sao ông “chi li” đến

thế. Nhưng cái mà ông hoàng thơ tình “chi li, tính toán” ở đây là thời gian. Thi sĩ sợ

sẽ không có đủ thời giờ để ông sống, tận hưởng cuộc sống này như chính trong

những vần thơ của ông: “Nhanh lên chứ, vội vàng lên đi chứ”. Và nỗi sợ, sự lo lắng

này không chỉ ở thơ mà còn ở đời.

Nói về chân dung các tác gia trong cuộc sống đời thường, không thể không

kể đến chuyện ăn uống của họ. Ở thoại phía trên đã kể về chuyện uống của Nguyên

Hồng, còn chuyện ăn của các nhà văn, nhà thơ thì có lẽ còn phải kể “dài hơi”.

60

Xuân Diệu và Huy Cận là đôi bạn thân thiết. Hai người ở cạnh nhau giống

như hai cực trái dấu. Mỗi người một tính cách nhưng có lẽ, cũng chính vì thế mà họ

thân nhau. Ngay cái nết ăn của hai nhà thơ cũng mỗi người một kiểu. Nếu như

Xuân Diệu ăn để bảo vệ sức khoẻ, ăn như nhiệm vụ nạp năng lượng sản xuất thì

Huy Cận ăn hồn nhiên hơn nhiều. ăn vì thấy thích ăn, muốn ăn. Nhìn ông ăn mà

thấy yêu ông, yêu đời. Lần đi Hồng Gai ấy, lúc trở về Hà Nội, ghé một quán phở

mậu dịch sơ tán dọc đường, Huy Cận tươi cười hỏi cô bán phở đang thái tảng thịt

chín: Cô thái thịt rất khéo, cô có muốn tôi đọc thơ cô nghe không? Cô mậu dịch

viên lúng túng không biết trả lời sao. Thấy cái ô tô và dáng điệu phục phịch của

Huy Cận thì cô biết đây là một "ông to". Hồi ấy chỉ "ông to" mới ngồi xe bốn chỗ

và mới có thể béo được. Nhưng "ông to" mà xuề xoà như ông này thì chắc cô chưa

gặp, hơn nữa lại còn chuyện đọc thơ. Thấy cô bán phở chỉ cười cười không dám nói

gì, Huy Cận nói thêm, vẫn giọng tếu táo: Thế cô có nhận ra tôi không đã, tôi là Huy

Cận, cô đi học đã học thơ Huy Cận chưa? Tôi sẽ đọc thơ tặng cô, nhưng cô phải cho

bát phở Huy Cận nhiều thịt. Cô gái không biết có nhớ thơ Huy Cận đã học ở trường

không, nhưng cô nhìn ông nhà thơ đã thân tình và quý mến hơn, chí ít tác phong của

ông làm cô thấy dễ mến, dễ thân. Cô chỉ vâng, vâng nho nhỏ và tay vẫn thái thịt.

những lát thịt mỏng như xếp vào nhau bên lưỡi dao dưới tay cô. Bất ngờ Huy Cận

rón tay, nhấc lên một lát thịt mỏng, ông ngửa cổ, thả nó vào miệng, ngon lành như

trẻ nhỏ. Hay một giai thoại khác kể chuyện ông ăn bánh kem, ông uống bia cùng

với mọi người, như mọi người. Nhưng ông ăn kẹo thì hơi lạ: ông cho kẹo vào

miệng, một cái, hai cái rồi bốc lạc rang, hớp cả nắm, nhai cùng. Mọi người tò mò

nhìn ông. Ông nói nhỏ: Tôi chế tạo kẹo Nuga. Kẹo Nuga là loại kẹo mềm có lạc, thì

ông trộn kẹo với lạc mà nhai cùng. Quả là sáng kiến. Ở tuổi ấy, ở cương vị ấy mà

còn nghĩ ra cách ăn kẹo cho thấy ngon như con trẻ. Cử chỉ hồn nhiên ấy, ngỡ như

chứng kiến một giai thoại về một nhà thơ dân gian cổ xưa, không hề thấy dấu vết

nào của ông Thứ trưởng long trọng thời bấy giờ.

Cũng về cái nết ăn của các tác gia, trong số các nhà văn, phải kể đến Lê Lựu.

Lê Lựu là nhà văn đương đại có rất nhiều giai thoại. Những câu chuyện về anh được

bè bạn, anh em kể liên tu bất tận trong các cuộc nhậu. Họ bàn về anh với đủ mọi

61

góc độ, từ đi đứng, trang phục cho đến cả việc sinh hoạt thường ngày. Đặc biệt là

cái "nết ăn" của ông nhà văn nổi tiếng đã từng chu du nhiều nước trên thế giới này.

Có một nhà báo viết về Lê Lựu đã phán một câu xanh rờn: "Lê Lựu ăn được tất cả

các vật có cánh chỉ trừ... máy bay và ăn tất cả các vật có chân chỉ trừ... bàn ghế".

Nói thế có phần hơi quá nhưng quả thật, Lê Lựu là người rất xuề xoà trong ăn uống.

Anh xơi được mọi thứ, bất kể đó là món gì, nếu có người ăn được là anh xơi tuốt.

Món Lê Lựu khoái khẩu nhất phải kể đến đậu phụ luộc hoặc lướt ván chấm mắm

tôm. Không hiểu từ đâu và từ bao giờ, trong giới anh em văn chương đã truyền nhau

câu "thành ngữ": "Phi đậu phụ bất thành... Lê Lựu". Dù đi ăn ở bất cứ đâu, quán

cơm bụi vỉa hè, khách sạn 5 sao hay nhà bè bạn, anh em, Lê Lựu thường chăm

chắm vào đĩa đậu phụ. Anh khoái ăn đậu phụ đến mức khi nghi bị tiểu đường, bác sĩ

khuyên ăn kiêng và nên ăn nhiều đậu phụ thì anh tủm tỉm: "Tưởng khuyên gì chứ

khuyên ăn đậu phụ với tớ là thừa". Có lần tôi về quê anh, nơi có món đậu phụ phủ

Khoái khá nổi tiếng, anh gắp cho tôi đầy bát khiến tôi nhìn các món khác mà tiếc

ngẩn, tiếc ngơ. Tuy là người dễ ăn nhưng Lê Lựu không thích những món thuộc

hàng cao lương mỹ vị, đặc biệt là bơ sữa và các kiểu ăn tây. Một lần tháp tùng Chủ

tịch phòng Thương mại Công nghiệp Việt Nam đi công tác, được bố trí ở khách sạn

5 sao, ăn ở mấy trăm USD/ngày, Lê Lựu rất chán và...tiếc: "Giá nó cứ cho mình ăn

cơm canh cua, đậu phụ rồi...đưa cho ít tiền tiêu vặt thì có phải tốt không. Đằng

này...". Lần ấy về, anh gầy đi mấy ký. Và vừa về đến Hà Nội, anh đã gọi tôi đi ăn

bún mắm tôm, đậu phụ. Anh ăn một cách miệt mài, cần mẫn và say mê. Ăn xong,

buông bát, vớ tờ giấy ăn lau xoẹt hai bên mép rồi ngửa mặt kêu lên: "Ngon, ngon

thật. Sao bọn khách sạn nó ngu thế, không đưa món này vào thực đơn nhỉ?". Khi đã

là ông Tổng Giám đốc Trung tâm Văn hóa doanh nhân, nghĩa là đã có ô tô riêng, trụ

sở riêng và cả đoàn người giúp việc, Lê Lựu vẫn không bỏ được cái cách ăn đã

ngấm vào máu thịt. Mỗi lần đến thăm anh, vẫn thấy trên mặt bàn vị Tổng Giám đốc

bát thịt nấu lõm bõm, màu sền sệt vàng nổi lều bều bên trên vài miếng mỡ. Và cạnh

đó là một bát mắm tôm chấm dở vẫn còn vương vài sợi bún, mấy hạt chanh, dăm

miếng ớt cùng với mấy chiếc lá kinh giới, tía tô. Đọc những thoại như thế, chúng tôi

thấy hiện lên chân dung hết sức chân thực về nhà văn “Thời xa vắng”. Cũng

62

chuyện ăn của các tác gia, có thể kể ra rất nhiều như chuyện nhà thơ Quang Dũng

“có cái bụng ăn không biết no” khi Nguyễn Tuân mới ăn được một bát xôi thì nhà

thơ Tây Tiến đã “xơi” đến 8 bát, Tản Đà có “nết ăn” rất thanh tao, Nguyễn Bính ví

“cái hộp bánh quy” như “cái hộp tình”…

Đọc giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam, người đọc dễ dàng thấy

được chân dung của họ đời thường giản dị như bao người khác. Các tác gia tuy nổi

tiếng là thế nhưng cái nết ăn, nết chơi, nết ở khiến người đọc các thoại cảm thấy bất

ngờ vì nó quá đỗi bình dị, “giống người thường”. Điều đó khiến cho người đọc cảm

thấy sự gần gũi, quen thuộc, kéo khoảng cách giữa nhà văn và bạn đọc lại gần hơn.

* Tiểu kết

Với việc khảo sát nội dung của giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam,

chúng tôi thấy đây là bộ phận chứa đựng giá trị hết sức phong phú. Về căn bản,

chúng tôi tạm chia bộ phận giai thoại này thành hai chặng: chặng thứ nhất, từ

khoảng đầu thế kỉ XX trở về trước; chặng thứ hai, từ khoảng đầu thế kỉ XX trở về

sau. Ở chặng thứ nhất, các thoại chủ yếu tập trung vào đả kích, châm biếm những

cái lố bịch trong xã hội phong kiến đương thời như: bọn nho sĩ, thi sĩ dốt nhưng hay

khoe chữ, bọn quan lại tham lam, áp bức, lừa gạt nhân dân. Đó là những kẻ có chức

sắc, địa vị xã hội, được hưởng đầy đủ cả một nền giáo dục Nho học nhưng do đạo

đức suy đồi, do học hành “không đến nơi đến chốn” hoặc “cái chữ” mua được bằng

đồng tiền, quyền lực nên chỉ là chữ “rởm”. Những thoại về nội dung này xoay

quanh các nhân vật là các nhà thơ đồng thời là nhà chính trị, vị quan có tài năng, có

trí tuệ mẫn tiệp, có phẩm chất đạo đức tốt đẹp, chân chính, có tấm lòng yêu thương

con người như: Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Lê Quý Đôn, Lương Thế Vinh,

Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Khuyến, Tú Xương… Từ nội dung đả kích, châm biếm đó

bật lên tiếng cười lý thú. Không chỉ thế, đằng sau những tiếng cười ấy là cả một nỗi

xót xa về những giai đoạn lịch sử suy thoái về đạo học, đạo làm quan mà dân tộc

phải trải qua. Cũng qua bộ phận giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam, tinh

thần yêu nước, tự hào dân tộc của các tác gia cũng được sáng rõ. Các tác gia ấy có

thể là một vị vua, một viên quan hay một nhà thơ lui khỏi quan trường về vui cảnh

sống nhàn. Chúng tôi thấy được ở họ một tấm lòng yêu thương nhân dân bao la. Lo

63

lắng, chăm chút cho đời sống của trăm họ. Đó chính là yêu nước. Và cho dù phải

đối mặt với bọn quan lại, tay sai phản động trong nước hay với ngoại bang thì họ

vẫn luôn khảng khái, khẳng định tài năng của mình và vị thế của một đất nước Đại

Việt tuy “nhỏ” nhưng không hề “bé”.

Ở chặng thứ hai, chúng tôi thấy rõ được chân dung đời thường của các nhà

văn, nhà thơ nổi tiếng trong nền văn học mà chúng ta vốn chỉ được biết qua những

sáng tác của họ. Đó có thể là thói xấu tự mãn, kiêu ngạo về tài năng, trí tuệ của

mình; đó cũng là những nét tính cách rất bình dị, gần gũi như bao người xung

quanh, là nết ăn, nết ở, nết chơi… Những giai thoại này khiến người đọc, người

nghe đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác và cảm thấy thích thú, quen thuộc. Từ đó,

chân dung các tác gia hiện lên chân thực, gần gũi.

Tuy nhiên, trong phạm vi ngắn gọn của chương 2 luận văn, chúng tôi chưa

thể khảo sát, tìm hiểu được hết tất cả các nội dung xoay quanh bộ phận giai thoại về

các tác gia văn học Việt Nam. Những nội dung trên đây chỉ là những nét chính nhất,

cơ bản nhất về tiểu loại giai thoại này.

64

Chương 3

NGHỆ THUẬT CỦA GIAI THOẠI VỀ CÁC TÁC GIA

VĂN HỌC VIỆT NAM

Nằm trong thể loại giai thoại, tiểu loại Giai thoại về các tác gia văn học Việt

Nam có một vị trí khá đặc biệt. Có thể coi đây là bộ phận hay nhất, có số lượng

phong phú nhất của giai thoại. Khi tìm hiểu nghệ thuật của bộ phận này, chúng tôi

thấy những giá trị khá đặc sắc, độc đáo về kết cấu, cốt truyện, nhân vật, biện pháp

nghệ thuật.

3.1. Kết cấu, cốt truyện

Một tác phẩm văn học, dù dung lượng lớn hay nhỏ cũng đều là những chỉnh

thể nghệ thuật, bao gồm nhiều yếu tố, bộ phận... Tất cả những yếu tố, bộ phận đó

được nhà văn sắp xếp, tổ chức theo một trật tự, hệ thống nào đó nhằm biểu hiện một

nội dung nghệ thuật nhất định...gọi là kết cấu. Nói cách khác, kết cấu là “toàn bộ tổ

chức nghệ thuật sinh động, phức tạp của tác phẩm văn học” [11, tr. 156].

Kết cấu là yếu tố tất yếu của mọi tác phẩm. Nếu khái niệm cốt truyện nhằm

chỉ sự liên kết những sự kiện, hành động, biến cố...trong tác phẩm tự sự và kịch thì

kết cấu là một khái niệm rộng hơn nhiều. Cần có sự phân biệt giữa kết cấu và bố

cục. Bố cục là sự sắp xếp các phần, các chương, các đoạn, các khổ thơ... Ðây chỉ là

sự tổ chức hình thức bên ngoài của tác phẩm. Nói cách khác bố cục mới chỉ là kết

cấu bề mặt của tác phẩm. Thuật ngữ kết cấu rộng và phức tạp hơn nhiều. Bên cạnh

việc tổ chức, sắp xếp các yếu tố của tác phẩm, kết cấu còn “bao hàm sự liên kết bên

trong, những mối liên hệ qua lại giữa các yếu tố thuộc về nội dung và hình thức của

tác phẩm, trong đó có cả yếu tố của bố cục” [11, tr. 156]. Kết cấu có nhiệm vụ góp

phần thể hiện chủ đề và tư tưởng của tác phẩm. Trong lao động sáng tạo văn học, có

thể coi chủ đề tư tưởng là mục tiêu nhằm hướng tới của nhà văn trong quá trình phát

hiện và xây dựng kết cấu.

Kết cấu của giai thoại chỉ nêu ra một hoàn cảnh, một tình huống, trong đó

diễn ra một hành động của một hoặc một vài nhân vật, nhằm minh họa cho một nội

dung nào đó. Xung đột không có quá trình hình thành, nó chỉ diễn ra trong một

65

hành động. Đặc trưng này tạo nên kiểu kết cấu tiêu biểu một màn kịch của giai

thoại. Nó gần giống như quy tắc “tam duy nhất” của kịch cổ điển.

Nét đặc trưng của kiểu kết cấu này:

- Tình huống, hoàn cảnh được chỉ dẫn cụ thể.

- Nhân vật được miêu tả sắc nét.

- Đối thoại hoặc độc thoại hàm súc, hành động diễn ra mau lẹ.

Có thể nói, giai thoại nói chung và giai thoại về các tác gia văn học Việt

Nam nói riêng có dung lượng về cơ bản là ngắn gọn. Nhìn chung, về kết cấu của bộ

phận giai thoại này thường được kể theo mẫu kể thống nhất:

- Sơ lược lai lịch nhân vật

- Nội dung truyện

- Lời dẫn truyện, đủ gợi cho người đọc thấy được chỗ lý thú của tình tiết

thoại, hoặc lối chơi chữ trong thơ văn đối đáp

- Lời kết thúc truyện.

Với dung lượng ngắn gọn, mẫu kể theo kết cấu nói trên giúp người nghe,

người đọc thấy được ngay đối tượng mà tác giả dân gian muốn nói tới là ai, nói về

việc gì và tình huống lý thú ra sao. Kết cấu này giúp câu chuyện dễ hiểu, không dài

dòng, không mất thời gian vào những nội dung thừa như những thể loại dân gian

khác. Hãy xem giai thoại “Cô hàng nước hay chữ” là một ví dụ tiêu biểu:

Phần sơ lược lai lịch nhân vật: “Trong các nhà thơ nữ của mọi thời đại, nữ sĩ

Đoàn Thị Điểm được xem là người tài sắc vẹn toàn. Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm sinh năm

1705, hiệu Hồng Hà, quê ở làng Hiến Phạm, xã Giai Phạm, huyện Văn Giang, tỉnh

Hưng Yên”. Đây là phần mở đầu của thoại.

Phần nội dung truyện: “Năm đó có đoàn Sứ bộ Mãn Thanh sang. Trong số

những người bán hàng trên đường Sứ bộ Tàu đi qua có cô Điểm và chú bé Trần

Quang Trạch, con trai của ông Hoàng giáp Trần Danh Ninh, mới hơn 10 tuổi mà đã

giỏi văn thơ ứng đối. Sứ bộ Tàu hống hách, thấy có cô bán hàng xinh đẹp thì nói

đùa một câu:

Nam phương nhất thốn thổ, bất tri kỷ nhân canh

Dịch:

66

Phương Nam có một tấc đất, không biết bao nhiêu người cày.

Cô Điểm đứng đó liền đáp lại rằng:

Bắc quốc đại trượng phu, giai do thử đồ xuất.

Dịch:

Nước Tàu phương Bắc các bậc đại phu đều bởi đường ấy mà ra.

Phần này vừa có nhiệm vụ thắt nút tình huống và đưa câu chuyện lên đến

đỉnh điểm, cao trào vào chỗ lý thú nhất. Câu nói của viên sứ Tàu có ý trêu ghẹo cô

bán hàng và đẩy câu chuyện vào hoàn cảnh lý thú. Một cô bán hàng liệu có đối đáp

được lời lẽ của tên sứ Tàu hống hách kia không?

Phần lời dẫn truyện: “Hai câu đối trên, nếu giải nghĩa thanh thì đối nhau rất

thanh, giải nghĩa tục thì đối nhau rất tục, vì chữ “đồ” được hiểu theo nghĩa tục của

dân gian là chỉ vào cái “ấy” của phụ nữ”. Đây có thể xem là phần cởi nút, ý nghĩa

của tình huống thoại được giải đáp. Phần này, lời dẫn truyện được trình bày cụ thể,

chi tiết vì phần lớn các thoại đều có các câu đối, bài thơ bằng tiếng Hán nên không

phải ai cũng hiểu rõ ngay khi mới đọc. Sau lời giải đáp, tiếng cười bật ra khiến

người đọc, người nghe cảm thấy thích thú.

Lời kết thúc truyện: “Sứ bộ Tàu nói bỡn để hạ nhục cô bán hàng, nào dè cô

lanh trí trả lời đích đáng, đem cái nhục trả lại, làm cho họ hổ thẹn rút lui, phục,

không còn dám bỡn cợt gái nước Nam nữa”.

Với kết cấu như vậy, người đọc, người nghe có thể dễ dàng nhận ra chủ đề,

tư tưởng của thoại là nhằm ca ngợi tài năng, trí tuệ của Hồng Hà nữ sĩ và thể hiện

tinh thần tự hào dân tộc, đả kích bọn ngoại bang hống hách. Hầu hết các giai thoại

về các tác gia đều được kể theo cấu trúc này. Trong chùm giai thoại về một tác gia

cụ thể nào đó, ở thoại đầu tiên, phần tiểu sử, lai lịch của nhân vật sẽ được giới thiệu,

làm rõ. Ở các thoại sau chỉ kể phần nội dung chính, lời dẫn truyện và lời kết thúc.

Bộ phận giai thoại này còn có kiểu kết cấu theo hai tuyến nhân vật đối lập.

Đây là kiểu kết cấu có dáng dấp một màn kịch. Nhân vật thoại đối đáp với nhau để

tạo nên tình huống lý thú. Lối kết cấu này được sử dụng nhiều trong văn học cổ.

Nhà văn xây dựng hai tuyến nhân vật chính diện và phản diện đối lập nhau về lí

tưởng, chính kiến, đạo đức, hành động... Một bên đại diện cho lực lượng chính

67

nghĩa, cái đẹp, chân lí. Một bên thì ngược lại. Hai lực lượng này đấu tranh không

khoan nhượng với nhau và thường kết thúc với thắng lợi của lực lượng chính nghĩa.

Lối kết cấu này gần gũi với thể loại truyện cổ tích và truyện Nôm. Nó có tác dụng

làm nổi rõ chủ đề tư tưởng thông qua so sánh, đối chiếu giữa hai tuyến nhân vật đối

lập. Tuy nhiên, nếu như ở truyện cổ tích và truyện Nôm có sự phân biệt khá rạch ròi

giữa thiện và ác nhiều khi dẫn đến lí tưởng hóa hiện thực thì hai tuyến nhân vật của

giai thoại về các tác gia không rạch ròi như vậy mà đôi khi nó chỉ là sự phân biệt

giữa một bên là tác gia có tài, có tâm và một bên là bộ phận bất tài nhưng thích

khoe khoang, thích tỏ ra là tài giỏi; hay một bên là tác gia tự mãn về tài năng,

chữ nghĩa và một bên là người vô danh muốn nhắc nhở về thói kiêu căng

ấy…Hình thức kết cấu theo hai tuyến nhân vật đôi khi được trình bày không phải

là sự đối lập mà là hai tuyến song song, làm cơ sở để đối chiếu và hỗ trợ cho

nhau. Ở đây mỗi tuyến tập hợp những kiểu người gần gũi với nhau về hoàn cảnh

sống, về tính cách, đạo đức... Các tuyến nhân vật ứng đối nhau làm bật lên nội

dung hấp dẫn của tình huống. Điều này chúng tôi có thể thấy rõ qua các nội dung

đã trình bày ở chương 2 luận văn. Chẳng hạn, chúng ta có thể sắp xếp hai tuyến

nhân vật như sau: một bên là các tác gia - các vị quan đi sứ như Mạc Đĩnh Chi,

Nguyễn Biểu…có tài năng, khí chất, lòng yêu nước, tinh thần dân tộc; một bên là

bọn vua quan ngoại bang luôn “lăm le” hạ nhục quốc thể của ta. Hay một bên là

các tác gia như Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Hồ Xuân Hương…có cá tính

mạnh mẽ, sẵn sàng dùng trí tuệ của mình để đả kích bọn nho sĩ, quan lại dốt nát

mà hay khoe chữ… Sự giống nhau, tương tự nhau ở mỗi tuyến nhân vật làm cho

kết cấu của giai thoại về các tác gia khá cân đối. Nó làm cơ sở để hỗ trợ, nâng

tình huống truyện trở nên hấp dẫn, thú vị. Đó chính là tác dụng của kết cấu nghệ

thuật với nội dung của bộ phận giai thoại này.

Cốt truyện không phải là yếu tố tất yếu cho mọi loại tác phẩm văn học mà

chỉ tồn tại trong những tác phẩm thuộc loại tự sự (tiểu thuyết, truyện vừa, truyện

ngắn, truyện thơ...), kí và các tác phẩm kịch.

“Cốt truyện là một hệ thống cụ thể những sự kiện, biến cố, hành động trong

tác phẩm tự sự và tác phẩm kịch thể hiện mối quan hệ qua lại giữa các tính cách

68

trong một hoàn cảnh xã hội nhất định nhằm thể hiện chủ đề, tư tưởng của tác

phẩm” [11, tr. 19].

Nếu kết cấu chỉ là cái khung thì cốt truyện đã là một hệ thống biến cố, sự

kiện cụ thể để diễn đạt cái khung ấy. Cốt truyện là sườn truyện đã được chi tiết hóa,

hình tượng hóa một cách cụ thể, sinh động qua một chủ thể sáng tạo. Có thể nói cốt

truyện là một cái gì độc đáo, không lặp lại, gắn bó trực tiếp với những yếu tố khác

làm cho tác phẩm văn học trở thành một chỉnh thể nghệ thuật.

Cốt truyện của các thể loại văn học dân gian thường theo một trong các kiểu

sau: kết cấu theo mạch thẳng, kết cấu theo ba bậc tăng cấp và kiểu kết cấu đồng quy.

Cốt truyện của giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam thường được kể

theo đường thẳng, ngắn gọn, hàm súc, giàu sức biểu hiện và mang những nét đặc

trưng riêng biệt. Đó là kiểu cốt truyện là những mẩu, những mảnh nhỏ lẻ theo chân

từng nhân vật, từng tác gia. Truyện nhưng chỉ có một tình huống, qua đó làm nổi

bật lên nội dung, tư tưởng.

Ví dụ về thoại dưới đây:

“Cụ Nguyễn Khuyến (Tam nguyên Yên Đổ) mặc dù đã rời quan trường từ

mùa thi 1892; song, là quan đại thần, lại đỗ Đại Khoa (3 lần đỗ đầu) với hàm Tổng

đốc Tam Tuyên (Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang) dù cụ đã cáo quan trên đường

đi nhậm chức vì lý do "đau mắt”, cũng được triệu về Hà Nội bái yết nhà vua và dự

lễ. Tất cả các quan khi bái yết nhà vua đều phải tuân theo nghi lễ của triều đình,

nghĩa là phải quỳ lạy (phủ phục) và hô "vạn tuế”, đến lượt cụ Tam Nguyên thật trớ

trêu cho cụ bởi bà Chánh phi vợ của Thành Thái là con gái tiến sĩ Nguyễn Trọng

Hợp (người làng Kim Lũ, Thanh Trì, Hà Đông, làm tới chức Văn minh điện Đại

học sĩ, hàm chánh nhất phẩm, dân địa phương thường gọi là Nghè Lử hoặc Văn

Minh Lử), trước đây đã đính ước với con trai cả của cụ là Nguyễn Hoan đỗ Phó

bảng, sau vì một lý do nào đó nên không thành. Nay nếu buộc phải thực hiện nghi lễ

(điều đó là bình thường theo lễ vua - tôi), nhưng nếu lễ vua mà không lễ vợ vua là

không ổn, mà lễ vợ vua hóa ra cụ phải lễ con dâu trượt của mình, sẽ là trò cười và

hơn thế không thể không có những bình nghị chẳng hay ho gì, ảnh hưởng đến uy tín

nhà nho Đại khoa như cụ.

69

Đem theo sĩ khí của nho sĩ Bắc Hà, cụ bái yết nhà vua và chỉ vái 2 cái, không

quỳ lạy như các vị khác, việc làm như vậy là phạm tội "khi quân” tức là khinh vua,

có thể bị chém đầu! Có lẽ nhà vua biết uẩn khúc này nên thông cảm chỉ quở trách

nhẹ, còn cụ Tam Nguyên thưa:

- Muôn tâu Hoàng Thượng, thần giờ chỉ như một con trâu già, xin đức Khâm

thượng khai ân!

Nhà vua mỉm cười. Song, để giữ phép vua, phép nước và cũng là để giữ

uy tín của triều đình. Hơn thế nhà vua còn biết tài ứng khẩu thành thi của cụ nên

truyền thánh chỉ:

- Vậy khanh hãy làm bài thơ "Vịnh trâu già”, nếu hay trẫm miễn tội.

Cụ ung dung đọc bài thơ theo Đường luật thất ngôn bát cú "Vịnh trâu già”

như sau:

Một nắm xương khô một nắm da,

Bao nhiêu các ách đã từng qua.

Đuôi khom biếng vẫy Điền Đan hỏa,

Tai nặng buồn nghe Ninh Tử Ca.

Sớm thả Vườn Đào chơi đủng đỉnh,

Tối về thôn Hạnh thở nghi nga.

Có người toan giết tô chuồng mới,

Ơn đức vua Tề lại được tha” [19, tr. 58].

Bài thơ "xuất khẩu” trên quả là tài tình hiếm có, rất đúng niêm luật, sát đầu

đề dù đó là đề tài khó. Hay hơn ở chỗ cụ đã ví mình, một vị quan lại không còn mẫn

cán với triều đình như xưa, nay chỉ như một con trâu già, trâu phế canh không còn

tác dụng gì với nhà nông nữa. Bởi nay chỉ còn có da bọc xương do cả đời kéo cày

mắc ách, làm lụng vất vả, ăn giả làm thật như trong "Lục súc tranh công” đã tả…

Rõ ràng, thoại này chỉ là một mẩu vụn kể về chuyện cụ Tam nguyên vào

triều và đối đáp thơ văn với nhà vua. Đọc lên, người đọc thấy được cái tài của cụ.

Cùng với thoại này là các mẩu vụn khác xoay quanh Nguyễn Khuyến, tạo nên một

chùm giai thoại về bức chân dung của cụ Tam nguyên. Có thoại kể chuyện ông đối

đáp với một tên quan bán nước, có thoại kể chuyện cụ đả kích một me Tây, thoại

70

khác lại kể về việc nhà thơ làm câu đối châm biếm một nhà sư… Những mẩu thoại

này tập hợp lại với nhau khiến cho chân dung về tác gia hiện lên chân thực, rõ ràng,

tạo tình huống lý thú, hấp dẫn. Có thể nói, mỗi thoại là một mẩu, một mảnh vụn rất

nhỏ trong cuộc sống đời thường của các tác gia. Kiểu cốt truyện này cũng chính là

nguyên nhân dẫn đến dung lượng, quy mô tác phẩm giai thoại cơ bản là ngắn gọn,

tình huống thoại tập trung và rất “chất” - vì nếu tình huống thoại không “chất” thì sẽ

không thể tạo nên tính hấp dẫn cho thể loại. Không phải ở bất cứ thể loại nào, cốt

truyện cũng được “lượm nhặt” từ những mảnh vụn trong đời sống như giai thoại.

Có thể nói, kết cấu và cốt truyện của giai thoại về các tác gia văn học Việt

Nam về cơ bản là ngắn gọn, từng phần rõ ràng, cụ thể. Nó luôn chỉ xoay quanh một

tình huống nhất định và tập trung vào làm nổi bật tình huống đó, đẩy nó đi đến cao

trào, tạo hứng thú, hấp dẫn cho người đọc, người nghe thoại.

3.2. Nhân vật

“Nhân vật văn học là con người được nhà văn miêu tả trong tác phẩm bằng

phương tiện văn học” [11, tr. 235]. Những con người này có thể được miêu tả kỹ

hay sơ lược, sinh động hay không rõ nét, xuất hiện một hay nhiều lần, thường xuyên

hay từng lúc, giữ vai trò quan trọng nhiều, ít hoặc không ảnh hưởng nhiều lắm đối

với tác phẩm. Nhân vật văn học có thể là con người có tên (như Tấm Cám, Thúy

Vân, Thúy Kiều, Từ Hải, Kim Trọng...), có thể là những người không có tên (như

thằng bán tơ, viên quan, mụ quản gia...) hay có thể là một đại từ nhân xưng nào đó

(như một số nhân vật xưng tôi trong các truyện ngắn, tiểu thuyết hiện đại, như

“mình” - “ta” trong ca dao...). Khái niệm con người này cũng cần được hiểu một

cách rộng rãi trên hai phương diện. Về số lượng, “hầu hết các tác phẩm từ văn học

dân gian đến văn học hiện đại đều tập trung miêu tả số phận của con người. Về chất

lượng, dù nhà văn miêu tả thần linh, ma quỉ, đồ vật...nhưng lại gán cho nó những

phẩm chất của con người” [11, tr. 235]. Nhân vật văn học có chức năng khái quát

những tính cách, hiện thực cuộc sống và thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc

đời. Khi xây dựng nhân vật, nhà văn có mục đích gán liền nó với những vấn đề mà

nhà văn muốn đề cập đến trong tác phẩm. Vì vậy, tìm hiểu nhân vật trong tác phẩm,

71

bên cạnh việc xác định những nét tính cách của nó, cần nhận ra những vấn đề của

hiện thực và quan niệm của nhà văn mà nhân vật muốn thể hiện.

Nhân vật truyện cười dân gian chỉ xuất hiện trong một tình huống nhất định.

Nhân vật giai thoại tuy cũng xuất hiện trong tình huống nhất định nhưng ở bộ phận

giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam, nhân vật có bề dày về tiểu sử. Đọc

những thoại thuộc bộ phận này, chúng tôi thấy rõ được đây đều là những nhân vật

có tên tuổi rõ ràng, lai lịch cụ thể. Đó có thể là một nhà thơ, một nhà văn, một vị

vua, vị quan có tài văn chương được lưu danh trong lịch sử. Mở đầu chùm giai thoại

về Mạc Đĩnh Chi, tác giả dân gian giới thiệu: “Mạc Đĩnh Chi, tự là Tiết Phu, người

làng Lũng Động, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, sống vào khoảng đầu thế kỷ

XIV, không rõ năm sinh và mất. Ông thi đậu Trạng Nguyên vào đời vua Trần Anh

Tông và làm quan đến chức Thượng Thư, phẩm chất liêm khiết và được nhân dân

yêu mến”. Hay như chủm giai thoại về Nguyễn Khuyến: “Cụ Nguyễn Khuyến quê ở

làng Vị Hạ, nay thuộc xã Trung Lương, Bình Lục, Hà Nam. Cụ là người nuôi chí

học hành để giúp dân giúp nước và đã đạt đến vinh dự cao nhất trong nghiệp thi cử

khi đỗ đầu cả ba kỳ thi (Hương, Hội, Đình). Tuy nhiên, đỗ đạt rồi ra làm quan cụ

mới thấy chán ngán thế sự khi thực dân Pháp thì đang lấn chiếm dần dần đất nước

còn triều đình Huế thì hèn nhát cam chịu. Bởi thế làm quan đúng 10 năm, cụ cáo

quan về quê nhà dạy học, ngâm thơ. Sống vui vầy giữa xóm làng, cụ nhiều lần viết

đại tự, cho câu đối bà con lối xóm. Điều đó là chuyện bình thường đối với một

người khoa danh như cụ. Tuy nhiên, điều đặc biệt là mỗi lần cho chữ, cho câu đối

của cụ là một giai thoại kỳ thú”. Đọc những nội dung đó, tiểu sử, lai lịch nhân vật

hiện ra rõ ràng. Đó chính là điểm nhân vật giia thoại về các tác gia khác với nhân

vật truyện cười. Ngoài những tác gia đã quá quen thuộc như Nguyễn Khuyến,

Lương Thế Vinh, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Công Trứ…còn có

những tác gia khác “ít” được biết đến hơn được nhà nghiên cứu Kiều Thu Hoạch

sưu tầm trong công trình của mình như: Vũ Công Tể, Hà Hồng Huân, Vũ Huy Tấn,

La Ngạn… Qua việc đọc, nghe giai thoại về họ, người nghe, người đọc có thể nắm

được tiểu sử của họ một cách rõ ràng, vì nó đã được trình bày khá rõ trong phần mở

đầu của mỗi giai thoại.

72

Nếu như nhân vật truyện cười biểu lộ một hành vi ứng xử trái lẽ thường

trong một tình huống bình thường thì nhân vật giai thoại về các tác gia lại biểu lộ

cách ứng xử độc đáo, khác người trong một tình huống bình thường.

Hãy xem Cao Bá Quát trong thoại “Bịa thơ tài hơn vua” dưới đây ứng xử thế

nào: “Tự Đức vốn là ông vua sính thơ và hay khoe thơ mình. Nghĩ được câu thơ, bài

thơ nào thường vẫn đem đọc cho quần thần nghe và lấy làm tự đắc lắm. Một hôm

sau buổi chầu, Tự Đức nói với các quan:

- Đêm qua trẫm nằm mơ làm được hai câu thơ thật kỳ lạ, để trẫm đọc cho các

khanh nghe!

Rồi đọc luôn:

Viên trung oanh chuyển “khề khà” ngữ,

Dã ngoại đào hoa “lấm tấm” khai.

Các quan nghe xong đều lấy làm lạ vì chưa hề được nghe lối thơ vừa chữ vừa

nôm ấy bao giờ, nhất là những chữ “khề khà”, “lấm tấm” nghe thật thú vị. Còn Cao

Bá Quát lúc bấy giờ cũng có mặt ở đấy, thì vẫn thản nhiên mà tâu rằng:

- Tâu bệ hạ, tưởng gì chứ hai câu ấy thì từ hồi còn để chỏm đi học, thần đã

được nghe rồi ạ! Thần được nghe cả bài tám câu kia, nếu bệ hạ cho phép, thần xin

đọc lại tất cả.

Tự Đức đang hí hửng về mấy câu thơ dở chữ dở nôm rất độc đáo của mình,

không dè lại bị Quát giội cho một gáo nước lạnh thì tức lắm, vì rõ ràng hai câu thơ

đó chính ông ta nghĩ ra. Tuy nhiên, ông ta vẫn cố trấn tĩnh bảo Quát đọc cho nghe

cả bài thơ, với thâm ý nếu không đọc được thì sẽ trị cái tội khi quân cho hả

giận. Còn đình thần cũng bực tức là Quát dám cả gan xúc phạm đến vua, và họ đang

chờ một trận lôi đình; ông nọ lấm lét nhìn ông kia, không khí triều đình trở nên

căng thẳng, nặng nề khác thường. Quát bình thản suy nghĩ một lát như để nhớ lại

một bài thơ lâu ngày không nhìn đến, rồi cất giọng sang sảng ngâm rằng:

Bảo mã tây phương "huếch hoác" lai,

"Huênh hoang" nhân tự thác đề hồi.

Viên trung oanh chuyển "khề khà" ngữ,

Dã ngoại đào hoa "lấm tấm" khai.

73

Xuân nhật bất văn sương "lộp bộp",

Thu thiên chỉ kiến vũ "bài nhài".

"Khù khờ" thi cú đa nhân thức,

"Khệnh khạng" tương lai vấn tú tài.

Nghĩa là:

Ngựa báu từ phương tây huếch hoác lại

Người huênh hoang nhờ cậy dìu về

Trong vườn oanh hót giọng khề khà

Ngoài đồng hoa đào nở lấm tấm

Ngày xuân chẳng nghe tiếng sương rơi lộp bộp

Tiết thu chỉ thấy mưa bài nhài

Tứ thơ khù khờ đã nhiều người biết

Lại còn khệnh khạng mang đến hỏi bậc tú tài!

Bài thơ vừa đọc dứt, cả đình thần hoang mang nhìn nhau, còn Tự Đức thì

biết đích là Cao Bá Quát chơi xỏ mình, nhất là 2 câu cuối, nhưng cũng rất sửng sốt

và hết sức thán phục. Vua sai lấy chè và quế ban cho Quát và bắt Quát phải thú thật

là đã bịa thêm sáu câu” [16, tr. 311].

Tình huống ở đây là một vị vua - đứng đầu triều đình, đất nước - “sính” chữ,

đang tự đắc về tài làm thơ của mình. Trong tình huống ấy, với thói thường thì một

vị quan sẽ tung hô, “nịnh bợ” vua nhưng Cao Bá Quát thì không như vậy. Ông vốn

là một con người có cá tính mạnh mẽ và rất kiêu ngạo. Với cá tính đó, ông không

thể làm ngơ trước một tình huống mà ông cho là “tức cười”, kệch cỡm như vậy.

Cách ứng xử của ông thật khác người.

Hay một giai thoại khác “nhẹ nhàng” hơn về nhà văn Nguyễn Tuân: “Con

gái nhà văn Nguyễn Tuân hẹn người yêu đến nhà để bố gặp mặt. Lần đầu tiên ra

mắt bố vợ tương lai, Anh chàng chỉ sợ muộn giờ nên nhảy ba bước một làm chiếc

cầu thang gỗ cũ kỹ rung lên bần bật. Đến cửa, anh vừa thở, vừa gõ cửa. Người ra

mở cửa chính là nhà văn Nguyễn Tuân, ông liếc nhìn anh chàng từ đầu đến chân, rồi

lẳng lặng đi vào, vừa đi vừa thủng thẳng: “Đi với đứng, cứ rầm rầm như thằng ăn

cướp!”. Lần sau đến nhà, anh rút kinh nghiệm đi thật sớm, bước lên cầu thang nhẹ

74

nhàng, hầu như không gây ra tiếng động. Anh sẽ sàng gõ cửa. Người mở cửa lại là

nhà văn Nguyễn Tuân. Ông lại liếc xéo anh từ đầu đến chân rồi lẳng lặng đi vào,

vừa đi vừa lẩm bẩm: “Đi với đứng, cứ rón ra rón rén như thằng ăn trộm!”. Nghe nói

sau lần ấy, anh chàng sợ không dám đến nữa” [41, tr.65]. Nguyễn Tuân khó tính,

điều này hẳn ai yêu quý ông đều biết nhưng khó tính đến mức “kiểu gì cũng bắt bẻ

được” thế này thì quả thực là khiến người khác...sợ. Đọc những thoại kiểu này,

người đọc sẽ vừa bất ngờ, vừa bật cười thích thú trước cách ứng xử của các nhà văn,

nhà thơ. Cũng có khi, đằng sau cái bất ngờ đó là tấm lòng với nhân dân, đất nước

như nội dung đã trình bày ở chương 2 luận văn. Chính điều đó khiến cho nhân vật

của giai thoại khác với nhân vật truyện cười.

Nhân vật của giai thoại về các tác gia được phân thành hai loại: các tác

gia là cá nhà văn, nhà thơ nổi tiếng và đối tượng mà các tác gia hướng tới. Đối

tượng mà các tác gia hướng tới có thể là nhân vật bị đả kích, bị châm biếm; có

thể là nhân vật được ngợi ca - là cơ sở để tác gia thể hiện cá tính, tài năng và

nguyện vọng của mình.

Có thể nói, nhân vật của giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam đều có

tên tuổi, lai lịch, tiểu sử rõ ràng, cụ thể. Đó là những con người ứng xử với phong

cách đời thường trước một sự việc, một đối tượng làm cơ sở tạo nên tình huống lý

thú cho thoại. Cho dù là một nhà văn, nhà thơ, nhà chính trị nhưng họ xuất hiện

trong giai thoại không phải ở phương diện lịch sử mà là ở phương diện cuộc sống.

Người đọc, người nghe không chỉ thấy cái tài mà còn thấy cái tâm, cái giản dị, “xuề

xòa”, tính cách của những nhân vật nổi tiếng mà ta hằng ngưỡng mộ.

3.3. Một số biện pháp nghệ thuật

Ngoài một số đặc điểm nghệ thuật đặc sắc như: kết cấu - cốt truyện, nhân vật

của giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam vừa đề cập ở trên và các đặc trưng

nghệ thuật chung của thể loại giai thoại đã nói đến ở chương 1 của luận văn, chúng

tôi còn nhận thấy bộ phận giai thoại này còn chứa đựng một số thủ pháp nghệ thuật

riêng làm nên đặc sắc cho chúng.

75

3.3.1. Chơi chữ

Chơi chữ là một nghệ thuật độc đáo trong ngôn ngữ nói chung và trong

Tiếng Việt nói riêng. Có nhiều định nghĩa, khái niệm, … giải thích vấn đề này, xin

được nêu một số ý kiến như sau:

Từ điển Tiếng Việt giải thích: “Chơi chữ là lợi dụng hiện tượng đồng âm, đa

nghĩa,…trong ngôn ngữ nhằm gây một tác dụng nhất định (như bóng gió, châm

biếm, hài hước,…) trong lời nói” [33, tr.15].

Từ điển thuật ngữ văn học gọi chơi chữ là “lộng ngữ” [11, tr.61] và giải thích

là một biện pháp tu từ có đặc điểm “người sáng tác sử dụng những chỗ giống nhau

về ngữ âm, ngữ nghĩa, văn tự, văn cảnh để tạo ra sự bất ngờ thú vị trong cách hiểu,

trong dòng liên tưởng của người, người nghe" [11, tr.61]. Các hình thức của lộng

ngữ rất phong phú, trong đó có: nói lái, dùng từ đồng âm hoặc gần âm, dùng từ gần

nghĩa, tách một từ thành các từ khác nhau (có thể xem đây là hình thức của nghệ

thuật chơi chữ). Các tác giả trong quyển từ điển này cho rằng: nhìn chung các lộng

ngữ đều mang tính hài hước, thường được sử dụng trong văn thơ trào phúng (có thể

xem đây là tác dụng của nghệ thuật chơi chữ).

Tác giả Hữu Đạt thì xem chơi chữ là một đặc điểm độc đáo của ngôn ngữ thơ

Việt Nam và nêu định nghĩa: “Chơi chữ là một biện pháp tu từ nghệ thuật dựa vào

những khả năng tiềm tàng của ngôn ngữ, vận dụng linh hoạt đơn vị cơ bản của tu từ

học (là chữ hoặc tiếng) đặt nó trong mối quan hệ nhiều chiều, nhiều phía với các

đơn vị cùng bậc và khác bậc, nhằm khai thác tính chất nước đôi của các đơn vị ngôn

ngữ dựa vào sự hiện diện của văn cảnh” [7, tr.10].

Có thể xem chơi chữ là nét đặc thù của tiểu loại giai thoại về các tác gia. Bởi

vì, hầu hết các tác gia đều là những nhà văn, nhà thơ, nhà chính trị có tài thơ văn.

Mỗi giai thoại đều có chứa ít nhất một hoặc một vài câu đối, câu thơ hoặc câu nói

có chứa nội dung hàm chứa sâu xa nội dung mà tác gia muốn truyền đạt. Và cũng

chính điều đó tạo nên sự độc đáo cho bộ phận giai thoại này.

Giai thoại về Nghè Tân là một ví dụ điển hình. “Truyện kể rằng, có một

ông quan đã nhiều tuổi mới đẻ được một đứa con trai, mở tiệc ăn mừng. Nghè

Tân được mời đến dự, ông chỉ cắm cổ chén tỳ tỳ, chẳng mừng, chẳng nói gì

76

hết. Ai cũng lấy làm lạ. Lúc khách ra về, chủ vào buồng thì thấy bài thơ Nôm

dán ở cửa buồng như sau:

Mừng ông nay mới đẻ con trai

Thực giống con nhà chả giống ai

Mong cho chóng lớn mà ăn cướp.

Chủ nhà đoán là thơ xỏ của Nghè Tân. Sáng hôm sau cho người mời Nghè

Tân đến. Cả quan ông, quan bà xúm vào trách. Nghè Tân mới cười, sau đó mới

phân bua rằng vì chưa nghĩ được câu kết hay, nên phải nghĩ thêm cho thật hay. Rồi

ông lấy bút mực điền nốt câu cuối như sau:

Cướp lấy khôi nguyên kẻo nữa hoài!

Bài thơ hóa ra hay quá. Lời chúc mừng như thế còn gì hơn nữa. Cả hai vợ

chồng quan đều sung sướng, hớn hở, giữ Nghè Tân ở lại đánh chén phè phỡn bữa

nữa rồi mới cho về” [16, tr. 336].

Tình huống hay, lý thú là do thành công của nghệ thuật chơi chữ. Câu thơ bỏ

lửng “ăn cướp” đẩy kịch tính lên cao điểm. Đến khi hạ chốt “cướp lấy khôi nguyên”

thì cái nút thắt đã bật tung, quan ông, quan bà thở phào nhẹ nhõm, chủ khách ai nấy

đều vui vẻ. Ở thoại này, tình huống “giai”, gắn hết với bài thơ “giai”, tạo thành một

giai thoại mẫu mực về lối chơi chữ.

Thoại “Trên dưới đều chó” cũng là một giai thoại kết hợp tình huống “giai”

với lối chơi chữ “giai”: “Truyện kể về hai vị quan trong triều cãi nhau, rồi đánh

nhau. Lúc vua Tự Đức phân xử, biết Cao Bá Quát chứng kiến cảnh đó, nên bắt Quát

làm nhân chứng viết tờ khai. Được dịp, Quát viết bài thơ sau:

Trước Quát không biết

Sau Quát chẳng hay

Nửa chừng Quát đến

Quát thấy thế này:

Bàn trên chửi “chó”

Bàn dưới cũng “chó”

Trên dưới đều “chó”

Rồi choảng nhau luôn

77

Thần can chẳng bỏ

Thần thấy thế nguy

Thần hoảng thần chuồn.

Tự Đức đọc tờ khai, biết Quát có ý xược, đã mược lối chơi chữ “thượng hạ

giai cẩu” để chửi suốt lượt từ trên xuống dưới, mà cả vua cũng trong số đó. Nhưng

đó là ý ngầm hiểu, còn cái nghĩa hiển ngôn thì chỉ là “Bàn trên bàn dưới đều chửi

chó”. Vì thế, Tự Đức dù tức tím mặt cũng không bắt bẻ Quát được” [16, tr.334].

Trong bộ phận giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam có rất nhiều kiểu chơi

chữ, chúng tôi có thể kể thêm một số kiểu chơi chữ khác trong các thoại như sau:

Thoại “Chi chi giã” kể về Tư Hồng - một me Tây nổi tiếng Hà Thành hồi đầu

thế kỉ XX. “Nhân chạy cho mình được hàm “Tứ phẩm nghi nhân”, hàm ngang với

chức quan Án sát tỉnh, lại chạy cho bố đẻ hàm “Hàn lâm thị độc”. Thế là có giàu, lại

có sang. Tư Hồng về làng khao vọng linh đình. Nguyễn Khuyến được mời dự, ông

cáo bệnh không đi, cho người mang đến ba chữ “chi chi giã” để đề vào bức hoành

phi và đôi câu đối Nôm:

Có tàn có tán có hương án thờ vua, danh giá lẫy lừng hăm sau tỉnh

Nào biển nào cờ nào sắc phong cho cụ, chị em hồ dễ mấy lăm người.

Các quan khách đến dự tiệc đều xúm đến xem văn chương Tam nguyên Yên

Đổ, những không ai hiểu “chi chi giã” là gì. Chỉ có một ông đốc học, tình cờ đọc lái

lại thành “cha cha đĩ” nên hiểu được lối chơi chữ của Yên Đổ. Còn câu đối Nôm, vì

nôm na dễ hiểu nên ai cũng khen hay, cho rằng ca tụng như thế là hết lời. Nhưng

cũng chỉ có ông đốc học nọ là biết, đó cũng là mọt kiểu chơi chữ rất thâm thúy. Bởi

vế câu đối trên chỉ là một phần của câu tục ngữ “Làm đĩ có tàn có tán có hương án

thờ vua”. Hóa ra Nguyễn Khuyến đã chửi xỏ chứ không phải là ca ngợi. Rồi học

theo cụ Yên Đổ, ông đóc học cũng mừng cha con Tư Hồng một câu đối Nôm rằng:

Ngũ phẩm sắc phong hàm cụ lớn

Ngàn năm công đức của bà to.

Mọi người cũng trầm trồ khen hai câu này. Mà bố con Tư Hồng thấy câu

đối nôm na dễ hiểu cũng thích lắm. Song họ đâu có biết là ông đốc học cũng

chơi chữ. Đây là lối song quan ngữ, tức dùng chữ nước đôi, hai nghĩa. “Hàm cụ

78

lớn” nghĩa là phẩm hàm của cụ to lớn, mà cũng có nghĩa là quai hàm cụ to, loại

hàm bạnh ra. Còn “của bà to” thì cũng có thể hiểu theo nghĩa tục, nghĩa là “cái

kia” của bà to. “Quai hàm cụ lớn” mà đối với “cái kia” của bà to thì thật quá

xược, quá xỏ xiên” [16, tr.49].

Có thể kể đến một thoại khác, cũng nhờ nghệ thuật chơi chữ, cuộc đối đáp

giữa hai nhân vật trở nên hết sức sinh động, tạo thành tình huống có kịch tính thú vị.

Đó là giai thoại “Vả bây giờ”:

“Ở vùng nọ có một cô gái đẹp mà có tài ăn nói, mở một quán nước bên

đường để kén chồng. Các cậu cống anh đồ nghe tin kéo đến rất đông. Chàng nào

cũng hăm hở tưởng mười mươi là chiếm được người đẹp; nhưng khi đến hăm hở

chừng nào thì khi về lại tiu nghỉu chừng nấy, vì chưa có ai địch lại được mồm mép

chua ngoa đáo để của cô gái. Nhưng rồi vỏ quýt dày thì có móng tay nhọn. Một

hôm, có một nho sinh nọ, chẳng biết là định đến thử tài hay là tình cờ qua đường

vào quán nghỉ chân. Cô gái quen như mọi bận, lại giở cái giọng "đàn chị" ra để trêu

chọc, nhưng thò ra câu nào đều bị anh chàng đập lại chan chát, thành ra cô ta đã có

phần nao núng. Cuối cùng, cô ta bèn đọc một câu:

Khen cho con... mắt tinh đời!

Anh hùng đoán giữa trần ai mới già.

Khi đọc cô nhấn mạnh ba tiếng khen cho con, nghỉ một tí rồi mới đọc nốt ba

tiếng sau thành câu thơ có nghĩa: "Bà khen cho con đấy con ạ! Vì con cũng có cặp

mắt tinh đời đấy". Nho sinh vốn là một thanh niên nhanh trí, thấy cô gái nhấn mạnh

ba tiếng khen cho con thì đã hiểu ngay cái ý xỏ xiên của cô ta, anh ta bèn "tương kế

tựu kế", đọc ngay một câu trong Truyện Kiều như sau:

Vả bây giờ... mới thấy đây,

Mà lòng đã chắc những ngày một hai.

Nhưng lúc đọc anh ta dằn mạnh ba tiếng “vả bây giờ”, cũng nghỉ một tí mới

đọc tiếp ba tiếng sau, thành thử câu thơ lại có nghĩa là: "Cô nói hỗn với tôi thì tôi vả

cho bây giờ, để cho cô thấy tôi đây là người như thế nào".

Cô gái là người tinh tế, thấy nho sinh nọ trả lời mình cũng bằng một câu

Kiều với ý nghĩa hóm hỉnh như vậy thì vừa phục vừa thẹn, mặt đỏ au lên, và lặng

thinh ngồi mân mê tà áo chẳng biết trả lời ra sao nữa” [16, tr. 50].

79

Ở giai thoại này, thơ là thơ Kiều nhưng người kể đã khéo lựa chọn và đặt

đúng chỗ, đúng nhân vật, trong tình huống đối chọi giữa hai bên. Câu chuyện do

vậy đã gợi được hứng thú cho người nghe.

Cùng với nội dung châm biếm, đả kích bọn quan lại áp bức, bóc lột nhân dân

như đã trình bày ở chương 2, biện pháp chơi chữ là một trong những phương tiện

giúp thể hiện thành công nội dung này, tạo tình huống văn học lý thú. Giai thoại

“Giễu lệnh cấm quần không đáy” là một ví dụ tiêu biểu.

“Phan Văn Ái quê ở làng Đồng Tỉnh, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên,

sinh năm 1850, mất năm 1898. Ông đỗ Phó bảng khoa Canh Thìn, niên hiệu Tự

Đức thứ 33 (1880), tính tình phóng khoáng hay thơ, làm biên tập trong tờ Đồng

Văn nhật báo. Lúc Phan Văn Ái còn đi học, một hôm đang ngồi đàm luận thơ

phú với các bạn, thì người ta cho biết mới có lệnh nhắc lại dụ cấm "quần không

đáy" của Minh Mệnh. Số là thời Minh Mệnh, đã có lệnh bắt phụ nữ miền Bắc

đang quen mặc váy phải mặc quần. Nhiều buổi chợ thường có quan quân canh

gác, ai mặc quần thì được cho vào chợ, ai mặc váy thì phải đuổi về. Vì thế nhân

dân phản ứng, mới có câu ca dao:

Tháng tám có chiếu vua ra,

Cấm quần không đáy người ta hãi hùng.

Không đi thì chợ không đông,

Đi thì phải mượn quần chồng sao đang.

Bữa ấy các bạn học được tin lại cấm mặc váy thì đều cười, bảo Phan Văn Ái

thử phú đắc câu ca dao trên xem sao. Ái vui miệng đọc ngay hai câu thơ rằng:

Vắng thiếp bõ phen cho cháo ế

Thương chàng chịu tiếng nấu canh suông.

Nhà thơ dùng toàn chữ và điển trong ca dao, tục ngữ. Câu thơ thứ nhất là lấy

ở câu ca dao nói về việc bán hàng ngày mưa:

Ngán thay buổi chợ ngày mưa,

Cho cháo tôi ế, cho dưa tôi nồng,

Câu thơ thứ 2 lấy ở câu tục ngữ:

Nấu canh suông, ở truồng mà nấu.

80

Cả hai câu có nghĩa là: Nếu buổi chợ vắng thiếp (vì mặc váy nên không

được vào) thì hàng ở chợ sẽ bị ế. Nhưng nếu mượn quần của chàng để đi chợ,

thì chàng lại phải ở truồng (hai vợ chồng nghèo). Thật là mỉa mai sâu sắc. Các

bạn học vốn đã phục tài "phú đắc" của Ái, nghe hai câu thơ lại càng thêm phần

kính nể” [16, tr.383].

Có thể nói, cách chơi chữ trong giai thoại muôn hình vạn trạng, hết sức

phong phú, đa dạng và là biện pháp nghệ thuật rất quan trọng của giai thoại về

các tác gia. Có thể liệt kê ra các kiểu chơi chữ như: lối nói lái, đọc nhấn âm,

nói nhại thổ âm, biến âm Hán thành âm Nôm, âm Quốc ngữ hết sức tài tình. Ví

dụ như thủ pháp nhại giọng, nhại thổ âm trong thoại sau cũng tạo được hiệu

quả hài hước rất cao: “Mấy thầy đồ vùng Nghi Xuân đang vui chuyện, Nguyễn

Xuân Ôn ghé qua, cười và xen vào:

- Các thầy quả là thông kim, bác cổ. Vậy xin các thầy giảng cho, trong câu ca

dao "Bò đen húc lộn bò vàng", con nào đực, con nào cái?

Các thầy cười to:

- Cụ hỏi lẩn thẩn thế. Câu hát của mục đồng là "Bò đen húc lộn bò vàng/Hai

con húc chắc đâm quàng xuống sông", là hát cho vui, làm gì có chuyện phân biệt

con nào đực con nào cái!

Nguyễn Xuân Ôn đứng dậy:

- Ấy thế mà có phân biệt đấy. Các thầy đọc kỹ đi.

- Mấy thầy thay nhau đọc to lên mấy lần. Chả là giọng Nghi Lộc dấu nặng

đọc thành dấu huyền thì đúng con bò đen húc “cái ấy” của con bò vàng . Quả nhiên,

bò đen là bò đực và bò vàng là bò cái thật!” [16, tr. 341].

Hoặc trong các giai thoại, có câu đối chữ Hán nhưng đọc lên lại như chữ

Quốc ngữ, cũng là một lối chơi chữ thú vị. Trường hợp giai thoại về cụ Bùi Bằng

Đoàn là như thế. Thoại kể rằng: “Hồi đó, cụ đang làm tri phủ Thái Bình, biết tiếng

cụ hay chữ, có người xin cụ câu đôi câu đối để mừng anh lính đi Tây hồi thế chiến

1914 - 1918 về, được vua ban hàm bát phẩm. Cụ Bùi đã có đôi câu đối như sau:

Tiếp tiệp hoan hoàn, tê ư tư sắc tứ

Binh bình thoái thoại, hát ô hô huyền hồ.

81

Nghĩa là:

Nhận tin thắng trận mừng trở lại nhà, bước tới đó được ban sắc.

Việc binh đã yên quay về kể chuyện, reo ô hô treo cái cung”.

Đây có thể coi là kiểu chơi chữ vô cùng đặc sắc và rất dân gian của giai

thoại về các tác gia.

Khảo sát hơn 1.000 giai thoại về các tác gia, đặc biệt là bộ phận về các tác

gia từ đầu thế kỉ XX trở về trước, chúng tôi nhận thấy 96% các thoại đều có nghệ

thuật chơi chữ. Các kiểu chơi chữ cũng muôn hình vạn trạng, phong phú, đặc sắc

vô cùng. Nói như vậy không có nghĩa là đối với các thoại giai đoạn từ đầu thế kỉ

XX trở về sau không có nghệ thuật chơi chữ. Chỉ có điều, ở giai đoạn sau này, với

đối tượng nhân vật tác gia là các nhà văn hiện đại, sử dụng chữ Quốc ngữ thay cho

chữ Nho thì thủ pháp này không sâu sắc, “thâm Nho” mà chỉ có tác dụng làm bật

lên tiếng cười vui vẻ, sảng khoái kiểu như thoại “Chơi chữ” sau: “Nhà văn Nguyên

Hồng nhà ở gần một trường Tiểu học ấp Cầu Đen. Một lần, thầy giáo đưa các em có

năng khiếu văn vào thăm nhà của nhà văn. Được học sinh đến thăm, ông vui lắm,

chẳng những mang kẹo bánh ra mời, mà còn ra vườn hái khế vào thết các em. Vì là

lần đầu gặp nhà văn nên các em học sinh rụt rè, e ngại, chẳng em nào đụng đến đĩa

quả. Nguyên Hồng vân vê chòm râu và hỏi:

- Lớp các cháu đang học gọi là lớp gì nhỉ?

- Thưa ông, lớp năng khiếu văn ạ!

Ông nheo mắt cười:

- Các cháu thử đánh vần lớp năng khiếu gì nào?

- Dạ, lớp năng khiếu Vờ… ăn… văn ạ!

Nhà văn cười sảng khoái:

- Thấy chưa. Các cháu ăn bánh kẹo và khế tự nhiên đi. Đừng vờ… ăn

nữa” [41, tr.61].

Thoại này làm bật lên tiếng cười vui vẻ, sảng khoái của câu chữ lý thú. So

sánh nghệ thuật chơi chữ trong các thoại thuộc giai đoạn trước và sau đầu thế kỉ

XX, chúng tôi thấy sự khác biệt. Nếu như ở các thoại thuộc giai đoạn trước, chơi

chữ được thể hiện với muôn hình vạn trạng và đặc biệt sâu sắc, “thâm Nho” thì ở

82

giai đoạn sau, chơi chữ chỉ đơn giản là cách nói vui mà ai cũng nhận ra, cũng hiểu.

Thoại trên về Nguyên Hồng là một ví dụ tiêu biểu cho sự khác biệt này. Nguyên

nhân của nó xuất phát từ vấn đề thời đại, từ bối cảnh lịch sử - xã hội của nhân vật

giai thoại sống. Trước đó, các tác gia được hưởng một nền giáo dục của đạo Nho,

chữ Hán nên các kiểu chơi chữ rất phong phú và rất sâu sắc. Đặc biệt, bối cảnh xã

hội phong kiến với nhiều vấn đề bức xúc khiến hình thức của nghệ thuật ngôn ngữ

này cũng đa dạng theo. Còn với các nhà văn, nhà thơ thuộc giai đoạn sau, họ không

còn “hưởng” nền giáo dục Nho giáo nữa mà hiện đại hơn, cùng với các vấn đề thời

đại thay đổi nên chơi chữ ít khi được sử dụng và nếu có thì hình thức cũng đơn

giản, dễ hiểu. Đó cũng chính là nguyên nhân khi tiến hành khảo sát và tìm hiểu về

biện pháp nghệ thuật của bộ phận giai thoại về các tác gia, chúng tôi chú trọng hơn

vào bộ phận thoại giai đoạn từ đầu thế kỉ XX trở về trước.

Có thể nói, đây chính là biện pháp nghệ thuật đặc trưng, tiêu biểu cho giai

thoại về các tác gia văn học Việt Nam. Với biện pháp này, nội dung của các thoại,

mục đích của các tác gia được truyền tải vừa đúng, vừa hay, vừa độc đáo. Tính chất

châm biếm, đả kích hay ca ngợi, khẳng định sâu đậm tạo nên sự hứng thú, hấp dẫn

người đọc, người nghe thoại.

3.3.2. Phóng đại

“Phóng đại là phép tu từ nói quá mức, quy mô, tính chất của sự vật, hiện

tượng được miêu tả để nhấn mạnh, gây ấn tượng, tăng sức biểu cảm. Phóng đại còn

được gọi là ngoa dụ, nói quá, thậm xưng, khoa trương” [11, tr. 67].

Truyện châm biếm phải phóng đại thì nội dung châm biếm mới bộc lộ rõ.

.Đối với truyện cười phóng đại có tác dụng gây cười. Đối với tục ngữ phóng đại

giúp tô đậm, nhấn mạnh nét bản chất của sự vật hiện tượng, đối với sử thi, truyện cổ

tích, phóng đại là biện pháp nghệ thuật cơ bản nhằm lý tưởng hóa nhân vật anh

hùng, đối với giai thoại phóng đại có mục đích ca tụng nhân vật có tài năng, đả kích

nhân vật bị châm biếm - nó vừa làm nổi rõ cái thật như là mặt trái của hành vi nhân

vật (nhờ cường điệu nét bản chất), vừa làm nổi rõ cái giả như là mặt phải của hành

vi ấy (nhờ phép tương phản), khiến cho mâu thuẫn trong hành vi tác động mạnh mẽ

vào nhận thức, vào ý tưởng của người nghe, người đọc truyện.

83

Giai thoại về Lê Quý Đôn là một mẫu kể khá đậm yếu tố khoa trương, phóng

đại. Truyện kể rằng lúc còn là học trò, có lần Lê Quý Đôn tìm hộ một phú ông bản

văn tự ghi nợ, do đó phải đọc cả bó văn tự để lục tìm. Sau, phú ông bị cháy nhà, bó

văn tự cháy sạch. Thế mà lúc ấy Lê Quý Đôn đã hiển đạt làm quan trong triều, vẫn

nhớ lại tất cả số văn tự ấy. Nhờ thế, phú ông không bị mất nợ. Chúa Trịnh nghe tin,

liền đưa cho Lê Quý Đôn một cuốn quan lịch (lịch nhà nước soạn và ban hành).

Ông chỉ liếc qua rồi đọc lại không sót một chữ. Chúa vô cùng ngạc nhiên về trí nhớ

kì lạ của ông… Hay giai thoại kể về Lê Quý Đôn đi sứ nhà Thanh. Sau khi thăm

phòng để sách quý của một tú tài người Trung Quốc, lúc về nước, Lê Quý Đôn viết

lại toàn bộ những pho sách quý đó để dùng.

Ở mẫu giai thoại này về Lê Quý Đôn, thủ pháp khoa trương, phóng đại được

tận dụng tối đa. Cho dù trí nhớ của nhân vật này có siêu việt đến đâu cũng không

thể trong một thời gian rất ngắn có thể nhớ hết được một lượng sách lớn như vậy.

Tác giả dân gian đã lý tưởng hóa cao độ nhân vật khiến người đọc, người nghe phải

trầm trồ, kinh ngạc.

Tương tự câu chuyện trên, trí nhớ siêu việt của Nguyễn Đăng Cảo cũng được

phóng đại lên. Đọc thoại “Trả sách không mua”, tính chất khoa trương cũng được

thấy rõ. Nguyễn Đăng Cảo vì không đủ tiền mua nên đã mượn người buôn rất nhiều

sách. Mang về nhà, ông đọc năm, sáu ngày và sau đó, mỗi khi ai cần đọc sách gì thì

ông viết sách đó cho. Tất nhiên, không phủ nhận tài trí của vị trạng nguyên này

nhưng trí nhớ đến mức siêu việt như trên thì có lẽ đó là cách nói quá của người kể

thể hiện sự yêu quý, trân trọng vị trạng nguyên của dân tộc.

Trong số các tác gia được giai thoại lưu truyền, kể chuyện, có không ít người

ngoài tài năng văn chương còn có những khả năng đặc biệt khác. Họ được phong

làm Trạng. Trạng ăn Lê Như Hổ là một người như thế. Lê Như Hổ sinh năm 1511,

mất năm 1581 tại làng Tiên Châu, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên, nay là thôn Lê

Như Hổ, xã Hồng Nam, thị xã Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên. Thi đỗ Tiến sĩ năm

Quang Hoà thứ nhất đời vua Mạc Phúc Hải. Ông làm quan đến chức Thượng thư,

được phong hàm Thiếu bảo, tước Tuấn quận công, rồi về trí sĩ, thọ đến 72 tuổi.

Người ta còn truyền nhau câu ca về nết ăn của ông:

84

“Ăn khỏe nổi danh

Mười tám bát cơm

Mười hai bát canh”

Hay có một giai thoại kể rằng: “Hồi ấy ở một làng gần đấy, nhân tiết xuân có

mở hội đánh vật hàng năm. Năm nào, Lê Như Hổ cũng đến phá giải. Đô vật nào

thấy ông cũng đều chịu thua, vì ông ta mạnh như hổ, không ai sánh kịp (vì thế mới

có tên Như Hổ). Võ đã giỏi, văn ông lại haỵ Từ ngày được bố mẹ vợ cho ăn no, Lê

như Hổ học hành tấn tới một cách lạ kỳ. Năm ba mươi tuổi, văn ông đã lừng lẫy hết

cả vùng Hưng Yên, sang đến Thái Bình, Nam Định. Ông đỗ tiến sĩ trong thời

Quang Hòa nhà Mạc. Bấy giờ có một người đỗ đồng khóa với Lê Như Hổ, tên là

Nguyễn Thanh, người huyện Hoàng Hóa, tỉnh thanh Hóa. Một hôm, Nguyễn Thanh

nói với Lê Như Hổ về nhà của mình:

- Nhờ trời, tôi cũng khá, chẳng giàu có gì nhưng ăn cả đời chưa hết.

Lê Như Hổ nói:

- Cả gia tài của bác, may ra chỉ đủ cho tôi ăn vài tháng.

Nguyễn Thanh nghe thấy nói thế, cho là Lê Như Hổ đùa giai, bèn nói:

- Bác khinh tôi quá. Cả gia tài tôi như thế mà bác bảo chỉ đủ cho bác ăn ba

tháng. Bác không sợ mang tiếng nói dóc sao?

- Dóc hay không, chẳng cần nói lôi thôi làm gì? Hôm nào bác thử mời tôi ăn

một bữa xem sao.

Thấy Lê Như Hổ thách như vậy Nguyễn Thanh mời liền.

Lê Như Hổ một hôm đến nhà Nguyễn Thanh thực nhưng chẳng may hôm ấy

Thanh lại có việc quan vắng nhà.

Như Hổ đi thẳng vào nhà nói với vợ Nguyễn Thanh:

- Tôi với quan Nghè đây là bạn tâm giao, hôn nay có việc qua đây vào thăm

bác và nhờ bữa cơm.

- Bà vợ Nguyễn Thanh ân cần tiếp rước, một mặt gọi gia đình đầy tớ làm

heo làm gà, một mặt hỏi Lê Như Hổ có bao nhiêu quân lính để liệu đầu người

mà thổi nấu.

Lê Như Hổ nói:

85

- Thưa phu nhân, không có bao nhiêu, chỉ có độ hơn ba mươi người.

Bà Nguyễn Thanh sai làm ba mươi heo, dọn bảy tám mâm cỗ ra mời Lê Như Hổ

dùng cơm, nhưng đợi mãi cũng chẳng thấy quân lính nào vào ăn cả. Lê Như Hổ

cười mà bảo:

- Ối chao, họ không tới thì mặc, để tôi ăn cả cũng được.

Nói rồi ông ngồi ăn hết cả bảy tám mây cỗ, chỉ một lát thì làm bay hết cả

mấy nồi hai mươi cơm, hai con heo, mấy mâm xôi, còn gà vịt, rau cải không thèm

kể. Ăn xong, Lê Như Hổ từ tạ ra về” [19, tr.112].

Như Hổ ăn khỏe thực, lịch sử còn có chỗ ghi rõ về điều này. Nhưng ăn

như trong thoại trên thì quả thực là phóng đại, nói quá lên. Biệt danh “trạng ăn”

cứ thế được người này truyền tài người kia và qua mỗi lần truyền miệng lại

phóng đại lên một mức độ cao hơn. Đó cũng chính là một trong những đặc

trưng của văn học dân gian.

Nghệ thuật phóng đại thường chỉ được dùng trong những thể loại có mục

đích châm biếm, đả kích hay gây cười, tạo sự thú vị, hấp dẫn cho câu chuyện. Với

đặc trưng là tình huống truyện lý thú, tạo sự bất ngờ cho người đọc, người nghe,

giai thoại nói chung và bộ phận giai thoại về các tác gia nói riêng đã tạo được sức

lôi cuốn cho người tiếp nhận nhờ việc phóng đại một hoặc một vài chi tiết nào đó về

nhân vật thoại. Mục đích của nghệ thuật này là nhằm cường điệu tài năng của các

tác gia, tạo sự thích thú và lôi cuốn, truyền tải thành công nội dung của câu chuyện.

Cùng với kết cấu, cốt truyện của giai thoại về các tác gia cũng góp phần tạo

nên cái đẹp, cái hay cho các thoại. Đó là kiểu cốt truyện là những mẩu, những mảnh

vụn được kể theo đường thẳng. Những mẩu, những mảnh vụn này là những câu

chuyện kể về cách ứng xử của các tác gia trong đời sống hàng ngày. Nhiều mẩu,

nhiều mảnh sẽ tạo ra cho người đọc bức chân dung cụ thể, đầy đủ diện mạo, cá tính

về các nhà văn, nhà thơ. Cốt truyện này luôn chỉ xoay quanh một tình huống và tập

trung làm nổi bật tình huống đó. Có thể nói, chính kiểu kết cấu và cốt truyện này

của giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam đã góp phần không nhỏ để tạo ra tình

huống lý thú, hấp dẫn, lô cuốn người đọc, người nghe.

86

Về nhân vật, nhân vật giai thoại về các tác gia có lai lịch, tên tuổi, tiểu sử rõ

ràng, cụ thể. Đó là những con người có thật trong lịch sử nhưng lại không nhìn dưới

đôi mắt phi thường hóa, thần tượng hóa như ở truyền thuyết mà nhìn bằng nhãn

quan đời thường, cách ứng xử đời thường. Về các thủ pháp nghệ thuật, bộ phận giai

thoại này có một số đặc sắc rất riêng như: thủ pháp phóng đại, chơi chữ, hư cấu.

Các thủ pháp này có chức năng hỗ trợ nội dung thoại, đẩy tình huống thoại lên mức

lý thú cao nhất và khẳng định tài năng của các tác gia.

3.3.3. Hư cấu

Hư cấu là phương thức xây dựng hình tượng điển hình qua việc sáng tạo ra

những giá trị mới, những yếu tố mới, như sự kiện, cảnh vật, nhân vật trong một tác

phẩm theo sự tưởng tượng của tác giả. Đây là một yếu tố không thể thiếu của sáng

tác văn học nghệ thuật. Văn học nghệ thuật bắt nguồn từ cuộc sống nhưng không

sao chép nguyên nó. Từ những chất liệu thực tế, nghệ sĩ tổ chức, nhào nặn, sáng tạo

ra những hình tượng nghệ thuật sinh động, rõ nét và điển hình hơn, tuy thuộc chủ đề

của tác phẩm.

Đối với giai thoại về các tác gia, hầu hết các nhân vật là có thật. Họ là “các

nhà văn, nhà thơ, nhà khoa bảng” như ý kiến của Trần Thanh Mại. Thế nhưng

truyện kể về các nhà văn thơ, nhà khoa bảng trong giai thoại lại không hoàn toàn là

sự thật trăm phần trăm. Ngay cả những nhân vật có tên tuổi cụ thể như Hồ Xuân

Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương…chẳng hạn, thì những giai thoại về họ cũng

được hư cấu rất nhiều, chẳng những hư cấu về tình tiết câu chuyện, mà nhiều trường

hợp thơ văn của họ cũng bị hư cấu, gán ghép theo câu chuyện kể. Có thể dễ dàng

lấy một vài ví dụ. Chẳng hạn như Hồ Xuân Hương, nữ thi sĩ nổi tiếng trong văn học

trung đại Việt Nam, người được lưu truyền với rất nhiều giai thoại thì câu hỏi đặt ra

là liệu rằng có thật hay không một Hồ Xuân Hương? Theo giáo sư Hoàng Xuân Hãn

kể lại: “Khi tìm kiếm tài liệu về Hồ Xuân Hương, tôi lục trong các báo ở Việt Nam,

từ năm 1954 trở đi có chừng 7 - 8 báo văn học có nói đến Hồ Xuân Hương, nhưng

cũng chỉ bâng quơ chuyện thơ Hồ Xuân Hương tục hay không tục, chứ không đả

động đến đời sống của bà. Duy chỉ có ông Trần Thanh Mại tình cờ đọc những sách

của trường Viễn Đông Bác Cổ để lại có bài tựa sách của một người ký tên là Nham

87

Giác Tốn Phong. Bài tựa đó nói đến một cuốn sách tên là Lưu Hương ký của Hồ

Xuân Hương. Sau bài tựa ấy có những bài thơ của ông Tốn Phong tặng Hồ Xuân

Hương. Ông Trần Thanh Mại mới nghĩ rằng nếu tìm được Lưu Hương ký sẽ biết

thêm về Hồ Xuân Hương. Chuyện này vào khoảng 1963, ông Trần Thanh Mại đã

kể lại trong Tạp chí Văn học. Sau đó, ông Trần Thanh Mại loan báo muốn tìm

cuốn Lưu Hương ký và ông nhận được lá thư của một cử nhân (không rõ tên)

thông báo đã gửi biếu cuốn Lưu Hương ký cách thời điểm đó 8 - 9 năm. Từ lúc

ấy, ông TrầnThanh Mại mới bắt đầu khảo cứu Lưu Hương ký…”. Năm 1988,

giáo sư Tạ Trọng Hiệp, trong một chuyến công tác ở Hà Nội, đã được giáo sư

Hoàng Xuân Hãn uỷ thác việc xin chụp lại hoặc chép lại Lưu Hương ký. Khi giáo

sư Hiệp đến Viện Văn học là nơi có chức năng bảo tồn bản Lưu Hương ký quý

báu đó thì không tìm ra. Các chuyên gia về văn học cổ Việt Nam đều cho biết

cuốn ấy đã mất rồi…Nói như vậy có nghĩa là cho dù có rất nhiều tài liệu khác

nhau, nhiều giai thoại khác nhau về nữ sĩ họ Hồ nhưng câu hỏi có đúng là có một

Hồ Xuân Hương hay không thì vẫn còn là một ẩn số và chùm giai thoại kia là về

Hồ Xuân Hương hay là do sáng tác hoặc giả là về một người con gái vô danh

đương thời? Hoặc như nhân vật Chiêu Hổ trong chùm giai thoại về Chiêu Hổ -

Hồ Xuân Hương. Ít ra cho đến những năm 50 của thế kỉ XX, người ta vẫn cho

Chiêu Hổ, tức Phạm Đình Hổ (1768 - 1839), một tác gia văn học nổi tiếng cuối

thời Lê đầu thời Nguyễn. Nhưng mấy thập kỉ gần đây, giới nghiên cứu đã cho đó

chỉ là sự gán ghép, không đúng sự thật [25, tr.27]. Ngay mấy bài thơ đối đáp

giữa Hồ Xuân Hương và Chiêu Hổ cũng có dấu vết cho thấy đó chỉ là hư cấu,

gán ghép, chứ không phải sáng tác đích thực của tác giả. Chẳng hạn như bài

tương truyền là của Chiêu Hổ họa lại Hồ Xuân Hương sau đây:

Này ông tỉnh, này ông say

Này ông ghẹo nguyệt giữa ban ngày

Hang hầm ví bẵng không ai mó

Sao có hầm con bỗng trốc tay.

Đây là một trong ba bài xướng họa giữa hai người mà các văn bản đều có

chép. Song cũng nhiều văn bản không khẳng định như thế. Ví dụ bản của Landes

88

ghi chép năm 1893, thì lời kể giai thoại bấy giờ chỉ nói đó là thơ họa của một người

con trai, tức một nhân vật phiếm chỉ, chứ không gán cho Chiêu Hổ.

Có thể kể thêm về nhân vật Trạng Quỳnh. Trạng Quỳnh có phải là nhân vật

có thật trong lịch sử không? Trước đây, người ta vẫn thường đồng nhất Trạng

Quỳnh với Nguyễn Quỳnh. Nhưng liệu nhân vật Trạng Quỳnh có liên quan đến

Nguyễn Quỳnh, tức Cống Quỳnh (1677 - 1748) đời Hậu Lê? Và liệu Nguyễn

Quỳnh, Cống Quỳnh có phải là khởi hình lịch sử, là nguyên mẫu của Trạng Quỳnh

dân gian? Đó là những vấn đề gây tranh luận trong giới nghiên cứu nhiều năm nay.

Hay như nhân vật Nguyễn Xiển - được coi là một nhà thơ, người có khá

nhiều giai thoại đả kích bọn quan lại, cường hào - cũng là trường hợp tương tự.

Nguyễn Xiển là ai? Có thật trong lịch sử không? Có một số tài liệu viết rằng: Xiển

Bột hay Xiển Ngộ là một nhân vật dân gian được cho là có thật, tên là Nguyễn

Xiển, sống ở cuối thời phong kiến của Việt Nam, tại làng Hoằng Bột, nay là

xã Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa. Ông được cho là hậu duệ của Trạng

Quỳnh (chắt của Trạng Quỳnh), tương truyền khi mới sinh ra, Xiển mặt vuông chữ

điền, tai to như tai phật, mồm rộng, mắt sáng. Người ta gọi Xiển là Xiển Bột vì quê

Xiển ở làng Hoằng Bột, ông sống bằng nghề làm thuốc. Xiển Bột nổi tiếng trong

dân gian vì những câu chuyện cười dí dỏm, châm chiếm đã kích vào những thói xấu

của xã hội, những quan lại, cường hào chuyên hiếp đáp dân lành. Những câu

chuyện hài hước được kể lại cho thấy ông không những trừng trị bằng trí tuệ đối với

các đối tượng quan lại, cường hào mà thậm chí còn hí lộng đến cả người lãnh đạo

cao nhất là nhà vua. Tuy nhiên, những tài liệu viết như vậy lại không hề có một căn

cứ cụ thể, chính xác nào. Nó chỉ là sự tương truyền trong dân gian. Nói về nguồn

gốc của nhân vật, ngay cả Trạng Quỳnh được cho là cụ của Nguyễn Xiển cũng chưa

đi đến thống nhất về sự có thật của nhân vật. Cho nên, nhân vật này có thể được coi

là một đối tượng được dân gian hư cấu tạo nên.

Như vậy, rõ ràng, tính hư cấu là một đặc trưng, một thủ pháp nghệ thuật có

tính phổ quát của giai thoại về các tác gia. Và như vậy, chúng ta không nên quá phụ

thuộc vào sự thực lịch sử để đòi hỏi tính chân thực của bộ phận văn học này.

89

* Tiểu kết:

Nói tóm lại, mỗi thể loại văn học đều có những đặc sắc rất riêng về nghệ

thuật. Chính những đặc sắc nghệ thuật ấy tạo nên nét riêng, vẻ riêng cho thể loại ấy.

Tuy mới bước đầu khẳng định giai thoại là một thể loại độc lập, có vị trí riêng trong

nền văn học nhưng trong chương 3 này, chúng tôi đã chỉ ra những nét độc đáo trong

một tiểu loại của giai thoại: giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam. Trong phạm

vi của chương, chúng tôi mới đề cập đến các đặc trưng nghệ thuật về kết cấu, nhân

vật và một số biện pháp nghệ thuật.

Về kết cấu, phần lớn giai thoại về các tác gia có kết cấu ngắn gọn theo một

mẫu khá thống nhất: sơ lược lai lịch nhân vật, nội dung truyện, lời dẫn truyện và lời

kết thúc. Kết cấu này giúp người tiếp nhận dễ dàng bám sát nội dung và hiểu được

điều mà thoại muốn hướng tới, muốn phản ánh. Bộ phận giai thoại này còn được kết

cấu theo hai tuyến nhân vật đối lập. Tuy nhiên, sự đối lập này chưa hẳn rõ ràng như

hai tuyến thiện và ác trong truyện cổ tích và truyện Nôm mà nó chỉ là sự đối chiếu

song song nhằm hỗ trợ nhau làm nổi bật tình huống lý thú của thoại.

Cùng với kết cấu, cốt truyện của giai thoại về các tác gia cũng góp phần tạo

nên cái đẹp, cái hay cho các thoại. Đó là kiểu cốt truyện là những mẩu, những mảnh

vụn được kể theo đường thẳng. Những mẩu, những mảnh vụn này là những câu

chuyện kể về cách ứng xử của các tác gia trong đời sống hàng ngày. Nhiều mẩu,

nhiều mảnh sẽ tạo ra cho người đọc bức chân dung cụ thể, đầy đủ diện mạo, cá tính

về các nhà văn, nhà thơ. Cốt truyện này luôn chỉ xoay quanh một tình huống và tập

trung làm nổi bật tình huống đó. Có thể nói, chính kiểu kết cấu và cốt truyện này

của giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam đã góp phần không nhỏ để tạo ra tình

huống lý thú, hấp dẫn, lôi cuốn người đọc, người nghe.

Về nhân vật, nhân vật giai thoại về các tác gia có lai lịch, tên tuổi, tiểu sử rõ

ràng, cụ thể. Đó là những con người có thật trong lịch sử nhưng lại không nhìn dưới

đôi mắt phi thường hóa, thần tượng hóa như ở truyền thuyết mà nhìn bằng nhãn

quan đời thường, cách ứng xử đời thường. Các thoại không tập trung miêu tả hình

dáng, diện mạo bề ngoài của nhân vật mà đi sâu vào cá tính, tính cách, hành động

90

của họ. Chính bằng nhãn quan và cách miêu tả ấy, chân dung các tác gia hiện lên cụ

thể, rõ ràng và sinh động.

Về các biện pháp nghệ thuật, bộ phận giai thoại này có một số đặc sắc rất

riêng như: chơi chữ, phóng đại, hư cấu. Trong đó, chơi chữ là biện pháp nghệ thuật

được coi là đặc trưng, tiêu biểu. Chơi chữ xuất hiện trong các thoại với muôn hình

vạn trạng: lối nói lái, đọc nhấn âm, nói nhại thổ âm, biến âm Hán thành âm Nôm,

âm Quốc ngữ... Cũng cần phải nói thêm, nghệ thuật chơi chữ trong giai thoại về các

tác gia văn học Việt Nam giai đoạn đầu thế kỉ XX trở về trước đa dạng, phong phú

và sâu sắc hơn so với giai thoại giai đoạn từ đầu thế kỉ XX trở về sau – mà nguyên

nhân chính là do vấn đề thời đại. Cùng với chơi chữ, phóng đại và hư cấu có chức

năng hỗ trợ nội dung thoại, đẩy tình huống thoại lên mức sinh động, lý thú, hấp dẫn

nhất và khẳng định tài năng của các tác gia.

91

KẾT LUẬN

1. Giai thoại là một thể loại văn học vốn đã tồn tại từ lâu trong kho tàng văn

học dân gian Việt Nam, song, từ trước đến nay, người ta mới chỉ mặc nhiên sự tồn

tại của các thoại mà chưa thực sự đi vào khẳng định nó là một thể loại văn học có vị

trí độc lập, có giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc. Từ một số công trình nghiên

cứu đã xuất bản của các nhà nghiên cứu văn học như Kiều Thu Hoạch, Trần Thanh

Mại, Hoàng Ngọc Phách,…chúng tôi đã bước đầu đề cập đến giai thoại với tư cách

là một thể loại văn học. Về vấn đề phân loại, có nhiều ý kiến phân chia khác nhau

nhưng hầu hết các cách phân loại của các tác giả đều dựa vào nội dung của các

thoại. Trong phạm vi luận văn, chúng tôi đồng ý theo cách phân loại của nhà nghiên

cứu Kiều Thu Hoạch đã trình bày trong một số công trình: Giai thoại gồm: giai

thoại lịch sử và giai thoại văn học. Trong mỗi bộ phận lại có các tiểu loại khác.

Từ cơ sở đó, chúng tôi đi vào việc chỉ ra các tiêu chí nhận diện thể loại. Để nhận

diện một tác phẩm văn học dân gian thuộc thể loại giai thoại phải căn cứ vào các

tiêu chí về quy mô tác phẩm, lời thoại và nhân vật thoại.

Khi đi xem xét một tác phẩm văn học dân gian để nhận diện thể loại phải có

sự tổng hòa các tiêu chí trên, không xem xét riêng lẽ một tiêu chí cụ thể nào, vì dễ

dẫn đến nhìn nhận thể loại sai lầm.

Mặc dù còn khá nhiều ý kiến trái chiều về vấn đề thể loại, song giai thoại có

sức sống khá mãnh liệt trong đời sống hiện nay. Giai thoại tồn tại ở nhiều ngành,

nhiều nghề khác nhau. Mỗi lĩnh vực xã hội lại có những giai thoại của riêng mình.

Người ta truyền tai nhau, kể cho nhau nghe, sưu tầm nó khiến cho các giai thoại

không hề bị mai một mà có tính chất lan tỏa. Ngay cả đối với những nhân vật chính

trong các thoại cũng cảm thấy vô cùng thích thú khi được nghe người khác kể về

mình (cho dù thoại đó đúng hay không đúng).

2. Có thể nói, giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam là bộ phận có số

lượng lớn, chứa đựng nội dung khá phong phú, hấp dẫn, có giá trị đặc sắc nhất trong

thể loại giai thoại.

Giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam châm biếm, đả kích bọn nho sĩ,

thi sĩ dốt nát, rởm đời mà hay khoe chữ (chủ yếu là các thoại viết về các tác gia từ

92

khoảng đầu thế kỉ XX trở về trước). Những thoại này đánh thẳng vào tầng lớp được

cho là hay chữ, có tiền, có quyền lực trong những giai đoạn khác nhau của đất nước,

đặc biệt là giai đoạn xã hội phong kiến suy vi, rối ren, đạo học, đạo làm quan, làm

người bị đồng tiền chi phối, làm biến chất. Đọc các thoại, người đọc như thấy được

phần nào diện mạo của xã hội Việt Nam ở các thời kì, giai đoạn khác nhau với bức

chân dung hết sức chân thực, sinh động, cụ thể. Các câu chuyện thú vị xoay quanh

các tác gia của văn học dân tộc còn cho thấy tấm lòng bao la, yêu dân như con của

một số vị quan, vị vua anh minh như Lê Thánh Tông, Nguyễn Khuyến… Bộ phận

giai thoại này hướng vào bọn ngoại bang (chủ yếu là bọn ngoại bang phương Bắc)

qua các thoại đi sứ, đối đáp với sứ thần nước khác…để khẳng định vị thế, lòng kiêu

hãnh, tự hào dân tộc của một đất nước tuy nhỏ nhưng không hề bé. Qua đó, người

đọc, người nghe không chỉ thấy được tài năng, trí tuệ, cá tính của các tác gia dân tộc

mà còn nhận ra cái tâm, tấm lòng hết mình vì hạnh phúc của nhân dân, của dân tộc.

Họ vui khi thấy nhân dân ấm no, hạnh phúc và đau đớn, xót xa trước tình cảnh đất

nước còn nhiều bất cập, suy vi.. Ngoài ra, bộ phận giai thoại này còn phản ánh thói

tật, tính cách, nếp sống, nếp sinh hoạt, cách cư xử rất đời thường của các nhà văn,

nhà thơ nổi tiếng (chủ yếu là các nhà văn, nhà thơ từ khoảng đầu thế kỉ XX trở về

sau). Vì có tài năng hơn người nên một số tác gia bị mắc “căn bệnh” kiêu ngạo,

“hợm” chữ (như Cao Bá Quát, Lê Quý Đôn…). Các thoại về nội dung này có giá trị

giáo dục, châm biếm nhẹ nhàng và cho chúng ta cái nhìn hai chiều đầy đủ về họ.

Qua những mẩu chuyện đời thường, hình ảnh các nhà văn, nhà thơ được hiện lên

sinh động, thú vị và rất gần gũi với tính cách, cách cư xử, nói chuyện, ăn

uống…giống như bao người bình thường khác. Đó là bức chân dung gần gũi, đáng

yêu của những người mà vốn chỉ được biết qua tác phẩm của họ. Điều đó khiến cho

người đọc, người nghe thoại thích thú, đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác.

3. Về giá trị nghệ thuật, giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam chủ yếu

xoay quanh các câu chuyện về tài năng thơ văn của các nhà thơ, nhà văn, nhà chính

trị có tài năng nên nó có những đặc điểm nghệ thuật khá đặc sắc.

Với dung lượng ngắn gọn, mẫu kể theo kết cấu nói trên giúp người nghe,

người đọc thấy được ngay đối tượng mà tác giả dân gian muốn nói tới là ai, nói về

93

việc gì và tình huống lý thú ra sao. Kết cấu này giúp câu chuyện dễ hiểu, không dài

dòng, không mất thời gian vào những nội dung thừa như những thể loại dân gian

khác. Các giai thoại thuộc bộ phận này còn được kết cấu theo hai tuyến nhân vật rõ

ràng. Hình thức kết cấu theo hai tuyến nhân vật này đôi khi được trình bày đối lập

nhưng cũng có lúc là hai tuyến song song, làm cơ sở để đối chiếu và hỗ trợ cho

nhau. Ở đây mỗi tuyến tập hợp những kiểu người gần gũi với nhau về hoàn cảnh

sống, về tính cách, đạo đức... Các tuyến nhân vật ứng đối nhau làm bật lên nội dung

hấp dẫn của tình huống.

Cốt truyện là những mẩu, những mảnh vụn được kể theo đường thẳng.

Những mẩu, những mảnh vụn này là những câu chuyện kể về cách ứng xử của các

tác gia trong đời sống hàng ngày. Nhiều mẩu, nhiều mảnh sẽ tạo ra cho người đọc

bức chân dung cụ thể, đầy đủ diện mạo, cá tính về các nhà văn, nhà thơ. Cốt truyện

này luôn chỉ xoay quanh một tình huống và tập trung làm nổi bật tình huống đó. Có

thể nói, chính kiểu kết cấu và cốt truyện này của giai thoại về các tác gia văn học

Việt Nam đã góp phần không nhỏ để tạo ra tình huống lý thú, hấp dẫn, lôi cuốn

người đọc, người nghe.

Nhân vật trong giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam có bề dày về tiểu

sử, lai lịch cụ thể, rõ ràng. Đây là đặc điểm để phân biệt giai thoại với truyện cười -

thể loại văn học dân gian rất dễ nhầm lẫn với giai thoại. Nếu như nhân vật truyện

cười biểu lộ một hành vi ứng xử trái lẽ thường trong một tình huống bình thường thì

nhân vật giai thoại về các tác gia lại biểu lộ cách ứng xử độc đáo, khác người trong

một tình huống bình thường.

Ngoài ra, bộ phận giai thoại này còn sử dụng một số biện pháp nghệ thuật

đặc trưng như: chơi chữ, hư cấu, phóng đại... Các thủ pháp này thể hiện trong các

bài thơ, câu đối ở các thoại và hầu như thoại nào cũng có chúng. Đặc biệt là nghệ

thuật chơi chữ. Đây được coi là biện pháp tiêu biểu, đặc trưng của giai thoại về các

tác gia văn học Việt Nam. Vì nhân vật chính là các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng nên

nghệ thuật chơi chữ rất đa dạng, phong phú và tài tình. Phóng đại, hư cấu được vận

dụng như là một biện pháp làm tăng tính hấp dẫn của thoại, gây lý thú cho người

đọc, người nghe. Chính nhờ sử dụng thành công các nghệ thuật trên mà tình huống

94

lý thú của thoại được bật lên một cách thú vị, hấp dẫn, khiến thoại có giá trị nội

dung sâu sắc và các tác gia đạt được mục đích của mình trong từng câu chuyện.

4. Giai thoại là một thể loại văn học có số lượng phong phú và chứa đựng

những giá trị đặc sắc về nội dung và nghệ thuật. Trong phạm vi luận văn, chúng tôi

mới chỉ khảo sát và đi vào phân tích được một tiểu loại nhỏ trong thể loại giai thoại

nói chung. Việc đi sâu nghiên cứu các bộ phận giai thoại khác sẽ góp phần vào việc

khẳng định vị trí và giá trị của thể loại văn học này. Hi vọng rằng những nội dung

mà luận văn này đưa ra sẽ phần nào gợi mở cho các nhà nghiên cứu, những người

quan tâm, yêu mến văn học dân gian tiếp tục đi sâu và mở rộng nghiên cứu thể loại

văn học độc đáo, hấp dẫn này.

95

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Vũ Hồng An (2013), Giai thoại anh hùng đất Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

2. Lại Nguyên Ân (1995), Từ điển văn học Việt Nam, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

3. Ngô Vĩnh Bình (1991), Thanh Tịnh qua giai thoại, Nxb Quân đội nhân dân,

Hà Nội.

4. Bùi Hạnh Cẩn (1995), Hồ Xuân Hương thơ chữ Hán, chữ Nôm và giai thoại, Nxb

Văn hóa thông tin, Hà Nội..

5. Lê Dân (2015), Văn học dân gian cái hay, vẻ đẹp, Nxb Dân trí, Hà Nội.

6. Lê Tiến Dũng (2009), Nhà văn và phong cách, Nxb Đại học Quốc gia thành phố

Hồ Chí Minh.

7. Hữu Đạt (1996), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

8. Cao Huy Đỉnh (2007), Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, Nxb Khoa

học Xã hội, Hà Nội.

9. Phan Huy Đông (2013), Giai thoại về Tổ nội – Tổ ngoại của đại thi hào Nguyễn

Du, Nxb Văn học, Hà Nội.

10. Nguyễn Thị Bích Hà (2013), Giai thoại - một thể loại văn học dân gian,

, xem 12/9/2015.

11. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử (2001), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

12. Phan Thư Hiền (2008), Giai thoại Nguyễn Công Trứ, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

13. Phan Thư Hiền, Phan Hồng Lam (2011), Giai thoại về các bậc tiền nhân mê hát

ca trù và những đào nương lưu danh sử sách, Nxb Thời đại, Hà Nội.

14. Hoàng Ngọc Hiến (1992), Năm bài giảng về thể loại, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

15. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (2007), Từ điển

văn học, Nxb Thế giới, Hà Nội.

16. Kiều Thu Hoạch (2004), Tổng tập văn học dân gian Việt Nam, tập 11: Giai thoại

văn học Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

17. Kiều Thu Hoạch (chủ biên) (2014), Giai thoại văn học Việt Nam, Nxb Khoa học

xã hội, quý III, Hà Nội.

18. Vũ Ngọc Khánh (1999), Tiếp cận kho tàng folklore Việt Nam, Nxb Văn hóa dân

tộc, Hà Nội.

96

19. Vũ Ngọc Khánh (2011), Kho tàng giai thoại Việt Nam, Nxb Văn hóa thông

tin, Hà Nội.

20. Tường Khang (2010), Giai thoại dân gian Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

21. Hoàng Khôi, Hoàng Đình Thi (1978), 101 giai thoại về phụ nữ Việt Nam,

Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

22. Đinh Trọng Lạc (1995), 99 phương tiện và biện pháp tu từ Tiếng Việt, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

23. Trần Mạnh Linh, Thiện Kế (1989), Giai thoại về bút tre Ngô Quang Nam, Sở

Văn hóa và thể thao tỉnh Vĩnh Phú, Vĩnh Phú.

24. Trần Thanh Mại (1965), Giai thoại văn học, Nxb Văn hóa thông tin.

25. Nguyễn Đăng Mạnh (1979), Nhà văn tư tưởng và phong cách, Nxb Tác phẩm

mới, Hà Nội.

26. Vũ Nam (1991), Giai thoại Nguyễn Bính, Nxb Lao động, Hà Nội.

27. Vũ Nam (1999), Thơ và giai thoại Nguyễn Bính, Nxb Lao động, Hà Nội.

28. Bùi Văn Nguyên, Nguyễn Ngọc Côn, Nguyễn Nghĩa Dân, Lý Hữu Tấn, Đỗ Bình

Trị, Lê Trí Viễn (2000), Lịch sử Văn học Việt Nam, tập I, phần I, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

29. Hà Đình Nguyên (2014), Chuyện tình nghệ sĩ, Nxb Trẻ, Hà Nội.

30. Lã Nguyên (2014), Giai thoại, https://languyensp.wordpress.com/2014, xem

ngày 30/01/2016.

31. Lãng Nhân (1992), Giai thoại làng Nho, Nxb Văn nghệ, tp. Hồ Chí Minh.

32. Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch (1988), Giai thoại văn học Việt Nam, Nxb

Văn học, Hà Nội.

33. Vũ Ngọc Phan (1977), Những bước tìm hiểu văn học dân gian Việt Nam, Tạp

chí Văn hóa, số 6.

34. Hoàng Phê (2000), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

35. Nguyễn Hằng Phương (2011), Tiếp cận theo thể loại - hướng đi tích cực của văn

học dân gian Việt Nam (số 10), Tạp chí Nghiên cứu văn học.

36. Trần Huy Phương (2000), Lê Quý Đôn cuộc đời và giai thoại, Nxb Văn hóa dân

tộc, Hà Nội.

97

37. Lê Chí Quế, Võ Quang Nhơn, Nguyễn Hùng Vĩ (2001), Văn học dân gian Việt

Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

38. Phạm Đan Quế (2011), Giai thoại & sấm ký Trạng Trình, Nxb Văn nghệ, tp. Hồ

Chí Minh.

39. Nguyễn Khắc Thuần (2013), Việt Sử giai thoại, tập 7, Nxb Giáo dục Việt Nam,

tp. Hồ Chí Minh.

40. Nguyễn Văn Thương (2015), Giai thoại – đặc điểm và bản chất thể loại,

http://vannghiep.vn/giai-thoai-dac-diem-va-ban-chat-the-loai, xem ngày

18/12/2015.

41. Đào Thái Tôn (1993), Thơ Hồ Xuân Hương từ cội nguồn vào thế tục, Nxb Giáo dục.

42. Vũ Anh Tuấn, Nguyễn Xuân Lạc (1995), Giảng văn văn học dân gian Việt Nam,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

43. Xuân Tùng (1999), Giai thoại làng văn Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

44. Hoàng Tiến Tựu (1997), Mấy vấn đề về phương pháp giảng dạy và nghiên cứu

văn học dân gian, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

45. Kiều Văn (2012), Giai thoại lịch sử Việt Nam, tập 1, Nxb Tổng hợp, tp. Hồ Chí Minh.

46. Kiều Văn (2015) Giai thoại văn học dân gian Việt Nam, tập 1, Nxb Tổng hợp,

tp. Hồ Chí Minh.

47. Bình luận văn học – Niên giám (2005), Nxb Văn Hóa Sài Gòn & Hội nghiên

cứu – Giảng dạy Văn học tp. Hồ Chí Minh.

48. Thông báo Văn hóa dân gian 2002 (2002), Đại học Quốc gia, Hà Nội.

49. Nhiều tác giả (2004), Từ điển văn học, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

50. Các tài liệu khác.

98

PHỤ LỤC

1. MỘT SỐ GIAI THOẠI VỀ CÁC TÁC GIA TÁC GIẢ LUẬN VĂN SƯU

TẦM

1.1. Giai thoại về Trần Đăng Khoa

Theo lời kể của giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh, nhà thơ Trần Đăng Khoa từ bộ

dạng, cách nói năng (lẫn lộn n với l), đến thói quen ăn uống đều đặc nông dân: chỉ

thích món thịt lợn kho, cá kho, rau muống luộc, lòng lợn chấm mắm tôm, không

thích thịt bò, gà vịt, hải sản, không thích bia… Khi Trần Đăng Khoa đã lấy vợ,Trần

Đăng Mạnh có được mời tới dự. Ngay hôm cưới, Lê Lựu, bạn chí cốt của Khoa, vẫn

không tin Khoa có thể “làm ăn được gì”. Anh nói với Lê Lựu ngay ở tiệc cưới như

thế. Nhưng vợ Khoa có mang và sinh con gái. Khoa được thể nói “phét”: “Mình

từng rắc con nhiều nơi, con rơi con vãi của mình nay đã lớn, có thể bồ bịch với Trần

Đăng Xuyền được”. Khoa nói với Nguyễn Đăng Mạnh hôm ấy ở Cần Thơ, có mặt

Trần Đăng Xuyền. Khoa bây giờ là tay khôn ngoan có tiếng, đối đáp rất sắc sảo.

Khoa là quân sư quạt mo của Hữu Thỉnh. Trong ban chấp hành Hội nhà văn khoá 7,

Vàng Anh hay gây sự với Hữu Thỉnh. Khoa là người đứng ra gỡ bí cho Hữu

Thỉnh. Theo chỗ giáo sư Mạnh biết, Khoa còn là quân sư quạt mo cho Lê Lựu nữa

trong việc điều hành tổ chức Văn hoá doanh nhân. Hai “tay” nông dân này hợp

nhau trên mọi phương diện.

(Ghi theo lời kể của Nguyễn Thị Thùy, K50, khoa Ngữ văn, Đại học Sư

phạm Hà Nội)

1.2. Giai thoại về Nguyễn Khải

Theo lời kể của Nguyễn Đăng Mạnh: Nguyễn Khải khác hẳn Nguyên Ngọc.

Thiết thực, không phiêu lưu mạo hiểm, không muốn chết, không muốn đi tù. Anh tự

nhận luôn là thằng hèn cho người ta khỏi phải bàn tán lôi thôi.

Sau cuộc hội nghị nhà văn đảng viên, bản đề cương của Nguyên Ngọc bị Tố

Hữu “đánh”, Nguyễn Khải vốn nhất trí với Nguyên Ngọc trong vụ này nên sợ quá.

Anh nói thẳng với Nguyên Ngọc: “Tao nhát lắm chưa đánh đã khai. Cho tao chạy đi

thôi mày thông cảm đừng khai tao ra nhé”.

Nguyễn Khải rất thiết thực và tỉnh táo vậy mà cũng có lúc mê muội. Nguyễn

Đăng Mạnh gọi là dại – ông đã viết như thế về Nguyễn Khải trong bài Dại khôn

Nguyễn Khải. Mới biết cái danh cái lợi cũng dễ mê hoặc lắm. Hồi được gọi ra Hà

Nội để chuẩn bị Đại hội nhà văn lần thứ tư (Trần Độ Nguyễn Văn Hạnh dự định sắp

đặt Nguyễn Khải - Nguyên Ngọc làm chánh phó Thư kí Hội Nhà văn). Nguyễn

Khải xem ra cũng hăng hái lắm. Anh nói với Nguyễn Đăng Mạnh y như là sẽ làm

Tổng thư ký đến nơi: Anh phẩy tay: “Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên thì phế cả đi!

Còn về lý luận phê bình thì anh phụ trách cho tôi. Nhưng ta phải khôn khéo, đổi

mới nhưng phải khôn khéo. Trần Độ cứng quá cứ “ỉa” ra đấy cho người ta phải dọn.

Chính trị ghê gớm lắm không đùa được đâu! Nếu cần quỳ xuống lậy ta cũng phải

quỳ”. Trong bài viết về Nguyễn Khải tôi có nhắc đến chi tiết này cho là một cái dại

của anh và hạ một câu: “Bây giờ nghĩ lại xấu hổ chết được!”. Nguyễn Đăng Mạnh

tưởng bị Nguyễn Khải giận, hoá ra anh lại thích thú. Thích vì thấy hiểu mình quá.

Có một cô nghiên cứu sinh tên là Tuyết Nga làm luận án về Nguyễn Khải. Cô tìm

gặp nhà văn để tìm hiểu. Anh đưa cô xem bài viết của Nguyễn Đăng Mạnh nói là cứ

đọc bài này là hiểu anh. Và anh cầm bài viết đọc luôn cho cô ta nghe. Đến chỗ “Bây

giờ nghĩ lại xấu hổ chết đi được!” anh đỏ bừng mặt và cười hô hố.

(Ghi theo lời kể của cô giáo Phạm Thị Xanh - Đại học Quảng Nam)

1.3. Giai thoại về Nguyễn Tuân

Nhà văn Nguyễn Khải nhiều lần nói, Nguyễn Tuân là người sướng nhất:

ngông nghênh, khinh bạc, chẳng trọng ai, chỉ trọng mình, vậy mà đi đâu cũng

được chiều chuộng, đón rước, nể trọng. Lại có người tự nguyện điếu đóm, phục

vụ tận tình.

Nguyên Ngọc có lần cùng sang Liên Xô với Nguyễn Tuân. Họ ở Lêningrát

vào đúng dịp tuyết đầu mùa. Người ta biết Nguyễn Tuân rất thích xem tuyết rơi, nên

dành cho ông một căn phòng rất thuận tiện để ngắm tuyết (về nước, ông có viết một

bài đăng trên Văn nghệ gọi là Lêningrat, tuyết đầu mùa). Năm sau Nguyễn Tuân lại

sang Liên Xô. Đến Mạc Tư Khoa đúng vào dịp tuyết đầu mùa. Người ta lại đưa ông

về đúng cái căn phòng năm trước ở Lêningrát để xem tuyết rơi. Theo Nguyên Ngọc,

ở Liên Xô, Nguyễn Tuân được coi như một thượng khách. Lại có một anh tên là

Marian, chuyên dịch Nguyễn Tuân sang tiếng Nga. Trong nhà mình, Marian chỉ

treo độc một bức chân dung Nguyễn Tuân.

Nguyễn Khải kể với tôi chuyện này: Sau 1975, có lần Nguyễn Tuân vào Sài

Gòn. Ông bị khớp nặng, nằm liệt trên lầu. Trịnh Công Sơn ngày nào cũng tự nguyện

lo chuyện ăn uống theo khẩu vị Nguyễn Tuân: nấu cơm niêu đất ăn với cá bống kho

tiêu là món Nguyễn Tuân thích.

Ở tầng dưới thì Nguyễn Khải và Nguyễn Thành Long đóng vai tiếp

khách cho Nguyễn Tuân. Ai đến thăm thì lên báo cáo xem ông có tiếp không.

Nhiều người ông không tiếp, phải để quà đấy đi về. Có một lần Marian lúc ấy

đang ở Sài Gòn, đến thăm. Nguyễn Khải và Nguyễn Thành Long nghĩ là trường

hợp này không phải báo cáo, cứ cho lên luôn. Marian hôm ấy lại dắt theo một

tay Liên Xô nữa. Nguyễn Khải cứ thấy ông mắng Marian xơi xơi: “Sao mày lại

đưa thằng ấy lên!”. Khải nói: “Lần đầu thấy một thằng “tiểu quốc” mắng một

thằng “đại quốc”, nghĩ cũng mát ruột”.

Nguyễn Minh Châu cũng cho Nguyễn Tuân là sướng. Sau 1975, Hội An có

tổ chức một cuộc kỷ niệm gì đó, mời Nguyễn Tuân vào viết cho một bài. Lúc ấy

Nguyễn Khải và Nguyễn Minh Châu đang ở Đà Nẵng, muốn có xe vào Hội An

chơi, bèn bịa chuyện cần một ôtô vào trước để sửa soạn đón Nguyễn Tuân hôm sau

vào. Thế là được cấp luôn một chuyến xe. Thực ra bịa thế thôi chứ có sửa soạn gì

đâu! Nguyễn Tuân vào đã có xe riêng, một mình một xe. Hồi ấy chuyện xe cộ

không sẵn như bây giờ.

Nghe nói, ngày xưa, Nguyễn Tuân chơi cô đầu cũng rất sang. Thường “bồ

bịch” với đào hát nổi tiếng hoặc bà chủ nhà hát. Không phải “bao” gái mà lại được

gái “bao”. Hồi kháng chiến chống Pháp, ở chiến khu Việt Bắc, ông được cô đào hát

nhân tình nào đó gửi vàng từ Hà Nội ra cho ông tiêu.

Nguyễn Khải kể lại một chuyện ông cho là lạ: Ấy là ngày làm lễ bế giảng

trường Nguyễn Du khoá một long trọng lắm. Quan khách đến dự rất đông. Có đủ bộ

trưởng, thứ trưởng, trung ương uỷ viên và các nhà văn có tên tuổi ở Hà Nội. Anh

điều khiển buổi lễ, giới thiệu lần lượt các đại biểu. Giới thiệu ai thì người ta cũng

chỉ ngồi vỗ tay tại chỗ thôi.

Nguyễn Tuân đến muộn. Không hiểu sao, cả hội trường không ai bảo ai,

cùng đứng dậy vỗ tay dài. Vì thiên hạ vốn trọng người tài chăng? Nguyễn Tuân

đúng là một cái tài. Nhưng người tài đâu chỉ có Nguyễn Tuân? Xuân Diệu, Huy

Cận, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi… không tài à? Nguyễn Khải cho Nguyễn

Tuân được trọng vì vừa có tài vừa có nhân cách. Nhưng giữ được nhân cách đâu có

dễ. Cái nghèo, cái đói, cái sợ (sợ cấp trên) khiến người ta khó giữ được nhân cách,

tuy biết thế là hèn. Vì thế, người có nhân cách càng hiếm, càng quý. Cho nên có

một người như Nguyễn Tuân là rất sang cho giới nhà văn.

(Ghi theo lời kể của cô giáo Phạm Thị Xanh - Đại học Quảng Nam)

1.4. Giai thoại về Nguyễn Đăng Mạnh

Giới nhà văn vẫn thường bảo nhau: Cụ Mạnh là người sướng. Cụ nghệ sĩ từ

trong máu. Cụ làm việc quần quật. Chơi cũng tới bến. Cụ là người “được sống”.

Chẳng như mấy đồng chí cán bộ giảng dạy và nghiên cứu khác, làm hùng hục, chỉ

biết làm thôi, chứ có được sống là mấy. Thế nhưng týp người như cụ cũng nhiều hệ

lụy. Người tài thì hay được ngưỡng mộ. Giai thoại kể rằng: Có lần cô học viên cao

học xinh đẹp đến nhà, khi ra về, thầy lưu luyến tiễn em ra tận cổng. Cô ta nhìn mắt

trước mắt sau không thấy có ai, bèn vừa nói cho em hôn thầy cái vừa quàng tay vít

đầu thầy lại hôn chùn chụt. Thầy để im xem sao. Rồi hình như thầy cũng…không

chối từ thì phải. Bỗng trên cao có giọng nói đầy quyền uy dội xuống: “Anh Mạnh ơi

anh Mạnh!...”. Thầy sực tỉnh. Hóa ra lúc ấy cô nhà đang đứng trên balcon tầng ba

dọi xuống. Nghe đâu sau cú ấy chiến tranh lạnh hơi bị kéo dài! Hãi quá! Một lần vui

chuyện, hỏi giai thoại có thật không, thầy tủm tỉm, rồi bảo thật đấy, cô ấy tên là…

mình vẫn nhớ…Tôi bình luận: Thầy thế là hạnh phúc rồi!... Lúc học hành sinh viên,

cao học, nghiên cứu sinh, cụ giúp. Đến bây giờ già nửa đời người rồi, có nhiều việc

vẫn nhờ cụ giúp.

(Ghi theo lời kể của thầy Văn Giá, nguyên Chủ nhiệm Khoa Sáng tác - Lý

luận - Phê bình, Trường Đại học Văn Hóa)

1.5. Giai thoại về Nguyễn Đình Thi

Theo lời kể của nhà văn Nguyễn Đình Chính, con trai nhà thơ Nguyễn Đình

Thi: “Có một ông bố như Nguyễn Đình Thi, cũng mệt lắm chứ! Mười người yêu

ông ấy thì chắc cũng yêu tôi. Nhưng mười người ghét ông ấy cũng sẽ từng ấy người

ghét tôi. Mà tôi còn nói thẳng với ông là con sợ rằng người ghét bố còn nhiều hơn

người yêu bố! Có những người tôi chẳng quen biết gì, khi gặp tôi thái độ rất hằn

học, hóa ra là họ ghét ông Thi”. Có thể nói thẳng là áp lực của các ông bố thành

danh như Nguyễn Đình Thi đè lên con cháu nhiều hơn là cơ hội. “Tôi nói thật, nếu

tôi không phải con ông Thi, mà con một nông dân nào đó thì có khi lại được lăng-xê

lên tận đẩu đâu ấy chứ!”.

Theo như con trai ông thì nhà thơ là người nhẫn nhịn và cả nể với phụ nữ

lắm. Ông chiều chuộng họ và nhường họ mọi điều có thể. Sau này, nhà thơ có một

mối tình lớn với một nữ thi sĩ nổi tiếng. Hai người có hai tính cách quyết liệt và

khác hẳn nhau. Nữ thi sĩ nồng nàn mãnh liệt và sẵn sàng làm bất cứ điều gì vì tình

yêu của mình. Mà tình cảm đôi khi cũng không khớp nhau chứ.

Cuối đời, Nguyễn Đình Thi thú nhận rằng mối tình lớn nhất của ông lại là

mối tình với một nhà thơ cộng sản Pháp, Madeleine Riffaud. Hai người gặp nhau

năm 1952 ở Ba Lan, trong Đại hội Sinh viên Thanh niên thế giới. Bà đã từng sang

Việt Nam và đi vào chiến trường sống cùng bộ đội để viết cuốn Ba tháng trong căn

cứ rừng rậm về đời sống của quân giải phóng. Bà được gọi với cái tên Việt Nam

trìu mến là “Chị Tám” và là em kết nghĩa của cố Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh.

Nhà thơ đã viết nhiều thơ tặng bà, trong đó có những câu thơ rất lấp lánh:

Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh

Soi sáng đường chiến sĩ giữa đèo mây

Ngọn lửa nhớ ai mà hồng đêm lạnh

Sưởi ấm lòng chiến sĩ giữa ngàn cây.

Hai người trao đổi cả trăm bức thư cho nhau. Trong di cảo của nhà thơ chỉ có

bản thảo và những bức thư của mối tình ấy. Mặc dù yêu nhiều vậy như nhà thơ chỉ

có ba người con với người vợ đầu tiên. Có lần nhà thơ đã thắp hương trước bàn thờ

vợ và khấn rằng: “Bà ghê lắm, không cho tôi thêm một đứa con nào cả”. Một thời,

trong làng văn chương hay đùa nhau rằng cứ ai lông mày rậm, mắt đen thì đích thị

là con Nguyễn Đình Thi. Trước khi chết, nhà thơ mời luật sư đến, viết di chúc

khẳng định rằng ông chỉ có ba người con với người vợ đầu tiên. Nhưng nghe đâu,

sau khi ông mất, thỉnh thoảng vẫn có người tìm đến nhà Nguyễn Đình Chính để

nhận anh em và đòi chia của cải!

(Theo lời kể của Trần Văn Hải – một bạn đọc thân thiết của nhà văn Nguyễn

Đình Chính)

1.6. Giai thoại về Xuân Quỳnh

Theo lời kể của Lưu Tuấn Anh, con trai đầu của nữ sĩ Xuân Quỳnh với nghệ

sĩ viôlông Lưu Tuấn thì Xuân Quỳnh là hình mẫu lý tưởng: “Mẹ tôi và bác gái tôi,

Đông Mai luôn nỗ lực để đi tìm cho bố tôi một người vợ. Còn bố tôi thì yêu em Lưu

Quỳnh Thơ có khi còn hơn cả yêu tôi. Bố tôi suốt ngày sửa dây đàn cho em ấy.

Ngày em ấy mất, bố tôi khóc ròng mấy ngày liền. Dù bố mẹ tôi chia tay nhưng chưa

một ngày nào mẹ tôi để tôi cảm thấy mình bị thiệt thòi tình cảm. Tôi vẫn nhớ, hồi

tôi học đại học năm thứ 3, mẹ tôi cho tôi mấy đồng để tiêu hoặc đi chơi với bạn gái.

Một hôm, mẹ tôi giặt quần bò cho tôi vẫn thấy tiền trong túi quần, bà lo lắm, đi hỏi

khắp bạn bè tôi: "Thằng cu nhà cô có vấn đề gì không mà không thấy tiêu tiền,

không thấy có bạn gái!". Thời ấy, tôi ngố lắm, chỉ thích đi bắn chim, câu cá trộm

(cười) chứ cũng biết yêu đương gì. Tiền mẹ cho thì không tiêu, nhưng hôm thèm ăn

dưa hấu, tôi và Minh Vũ đi mua một quả dưa hấu, hai thằng ăn hết vèo. Ăn xong

không đi nổi vì no quá… Đấy, mẹ tôi luôn trăn trở cho con những cái nhỏ nhặt thế.

Đôi khi tôi nghĩ, mẹ tôi yêu con và hy sinh cho con nhiều quá. Mẹ tôi gần như

không có thời gian để nghỉ ngơi. Có lần, tôi đi học về, thấy mẹ đang xách nước từ

tầng 1 lên tầng 3, đến giữa chừng phải dừng lại ở cầu thang thở vì mệt. Tôi đã giành

lấy mà xách đỡ cho mẹ. Nhưng tính mẹ thế, thương con và dành thời gian cho con

học nên một mình mẹ làm hết. Tay mẹ chai đi vì xách nước. Dù làm cho con tất cả

nhưng không bao giờ mẹ kể công, hồi bé thế này thế kia. Hồi ấy ai chả nghèo, chả

khổ, nhưng chưa bao giờ tôi thấy mẹ than nghèo, kể khổ. Bà có cách giải quyết

riêng của mình để các con yên tâm, thoải mái nhất khi ở gần bà”.

(Ghi theo lời kể của Hoàng Long Nhật – Sinh viên Học viện âm nhạc

Việt Nam)

1.7. Giai thoại về Quang Dũng

Nhà thơ Yên Thao kể: “Quang Dũng là nhà thơ rất có cá tính nên giai thoại

về ông khá nhiều.. Đi công tác với Quang Dũng có cái khổ là anh hay la cà. Hồi

kháng chiến, đi qua vùng núi thấy một gia đình có cái võng kiểu đồng bằng, anh

liền sà ngay vào: “Hay quá! Lâu lắm tôi không được nằm kiểu võng này, ông bà chủ

cho nằm nhờ một tý nhé!”. Thế rồi anh nằm thư giãn, thoải mái, ngó nghiêng căn

nhà người ta, tôi thì phải ngồi trò chuyện xã giao với chủ nhà. Quang Dũng là người

rất vệ sinh. Ngủ đâu lúc dậy cũng cố xin bằng được nước đã đun sôi mới súc miệng,

đánh răng. Một lần, chúng tôi làm thịt vịt, Quang Dũng thấy bát nước suýt không

đậy, sợ ruồi, anh lột miếng vải bọc mũ đậy lên. Ai ngờ gặp hơi nước nóng, miếng

vải mềm nhẽo, thấm hết vào bát nước suýt, hòa tan bao bụi đường. Khi ăn, chúng

tôi để ý, Quang Dũng vẫn húp ngon lành, không kiêng kỵ gì”.

Yên Thao kể tiếp: Quang Dũng sáng tác bài hát duy nhất trong đời ông, mở

đầu có câu: “Ba Vì mờ cao… làn sương chiều buông xuống…”, chính Huy Du và

Canh Thân đã ghi âm giúp Quang Dũng. Trong khi đó, nhạc sĩ Huy Du cũng sáng

tác bài hát Về Ba Vì, mở đầu có câu: “Làng tôi xưa dưới chân Ba Vì…”.

Vào thời điểm chưa Đổi mới, một lần Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam

phát bài hát của Quang Dũng nhưng lại giới thiệu của Huy Du. Quang Dũng biết

chuyện, anh không bực gì mà lại bảo: “Thôi thì con mình đẻ ra không nuôi được,

người khác nuôi, nó vẫn số sống là được!”.

Nhà thơ Trần Lê Văn thì góp một chuyện khác: “Cuộc đời ông Quang Dũng

thì nhiều cái lạ lắm! Thơ thì bi hùng mà đời thì “bi hài”. Ông có một thanh kiếm

Nhật, thỉnh thoảng lại đem ra múa, dáng hùng dũng như một tráng sĩ thời Xuân

Thu. Một hôm, tôi đến chơi thấy ông đang chẻ một thanh tre để… vót que tăm. Tôi

liền tức cảnh: “Anh hùng mài kiếm vót que tăm!”. Người hùng như vậy mà rất nhát,

nhất là nhát về chữ nghĩa. Ông ấy viết một câu thơ về người bạn đã hy sinh: “Anh

nằm xương trắng mười năm”, sau thấy có người phê: tả cuộc chiến ghê rợn quá!

Ông sợ, lại đổi thành “sương trắng”.

Quang Dũng giỏi võ hay không thì không rõ, nhưng đã có lần ông phải dụng

võ với một tên lưu manh. Một chiều mùa đông, ở một phố vắng, Quang Dũng vắt

chiếc áo khoác ngoài trên tay, rẽ vào nhà vệ sinh công cộng. Ông để ý thấy một kẻ

khả nghi theo sát ông. Tên này cũng bước vào nhà vệ sinh. Do đã đề phòng sẵn nên

khi tay kia giơ tay giật chiếc áo khoác ở tay trái ông, ông liền xòe bàn tay phải xỉa

vào mặt hắn. Thế mà hắn gục ngay xuống. Ông hoảng, đi như chạy ra ngoài,

không dám ngoảnh lại. Trần Lê Văn có hỏi: “Cú đánh ấy hẳn là miếng võ có tên?

Đó là miếng gì vậy?, Ông trả lời: “Ờ, có chứ! Đâu như miếng song chỉ cầm long,

nhưng lúc ấy hoảng lên, tôi cứ xòe tay phóng bừa, ai còn đếm hai ngón hay năm

ngón nữa!”.

(Ghi theo lời kể của cô giáo Vũ Thị Thuỳ Linh - Trường THPT Gang Thép,

Thái Nguyên)

1.8. Giai thoại về Lưu Trọng Lư

Lưu Trọng Lư có 8 người con. Ngoài tên khai sinh, ông đặt thêm những cái

tên: Nu, Na, Nông… cho dễ nhớ. Nhưng khi dắt con đi khám bệnh, nghe bác sĩ hỏi

tên đứa nhỏ, nhà thơ luống cuống không sao nhớ nổi, đành phải quay lại hỏi con:

"Mi tên chi?", khiến cả phòng khám cười rộ lên.

Một lần, Lưu Trọng Lư cùng vợ đi tàu hỏa vào Nha Trang. Tới ga, ông lập

cập bước xuống, bỏ mặc bà trên tàu ngồi đợi. May mà rồi hai vợ chồng cũng gặp

nhau trên bãi biển.

Lần khác, trong buổi khai mạc cuộc họp Ban Văn nghệ Đông Bích (Nghệ

An): Hôm ấy, vì quên bản báo cáo ở nhà, thi nhân họ Lưu phải dựa vào sổ tay mà

nói vo. Nhưng rồi, phát biểu nửa chừng, ông chợt rời bục diễn giả, tiến sát tới hàng

ghế đại biểu, cứ thế thân mật hỏi chuyện hết người này người kia. Phải nửa giờ sau

ông mới nhớ tới nhiệm vụ của mình và quay trở lại bàn làm việc.

(Ghi theo lời kể của cô giáo Phạm Thị Xanh - Đại học Quảng Nam)

2. PHỤ LỤC 2

BẢNG THỐNG KÊ CÁC TÁC GIA VÀ MỘT SỐ GIAI THOẠI VỀ CÁC

TÁC GIA VĂN HỌC VIỆT NAM

Số thứ tự Tên tác gia văn học Việt Nam Tên giai thoại

1 2 3 4 Đỗ Thuận Lý Công Uẩn Nguyễn Hiền Lê Văn Hưu

5 6 7 8 9 10 11 12 13 Mạc Đĩnh Chi Đoàn Nhữ Hài Hồ Tông Thốc Trần Nguyên Đán Lê Hiến Phủ Hồ Qúy Ly Nguyễn Biểu Nguyễn Trãi Trịnh Thiết Tường

14 15 Lê Thánh Tông Nguyễn Toàn An

16 17 18 19 20 21 22 Lương Thế Vinh Nguyễn Nghi Nguyễn Giản Thanh Lê Nại Phùng Khắc Khoan Nguyễn Bỉnh Khiêm Đào Duy Từ

23 24 25 26 27 Nguyễn Đăng Cảo Nguyễn Đăng Đạo Lương Hữu Khánh Vũ Duệ Nguyễn Qúy Đức Tay lái đò hay chữ Bị trói vẫn làm thơ Trạng nguyên về học lễ Đối hay được thưởng dùi sách Hoa sen trong giếng ngọc, Bốn chữ nhất, Chỉ có hai người, ruột vuông, Trăng là cung sao là đạn, Chưa biết mèo nào cắn mỉu nào, Chim chích - ếch ộp, Cười ông quan hai vợ… Ngự sử miệng còn hoi sữa Đọc thơ chê Hạng Võ Gửi trứng cho ác Lòng ta không phải đá Câu thơ kì lạ Thơ của người nghĩa sĩ Câu thơ nên nghĩa To đầu mà dại Câu thơ nên nghĩa, Câu đối nhà thợ nhuộm, Hồn bướm mơ tiên, Câu đối nhà hang nước, Câu đối người hót phân Anh lính với hội Tao Đàn Sư sử sứ phụ phù phu, Thánh quân minh đế, Ông trạng thả diều, Khiêng võng quan huyện. Câu thơ học từ dân dã Trạng Me đè trạng Ngọt ăn hai đấu học hai canh Thơ vịnh trai Tựa ngai vàng Bài thơ khuyên chúa Sãi Ếch ngồi đáy giếng, Phong nguyệt vô biên, Làm bài hát kiếm rượu thịt Làm thơ vặn lại thần Ăn khỏe thơ tài Thơ nằm co Nối thơ thời Hồng Đức

Đoàn Thị Điểm Nguyễn Tông Khuê Đặng Trần Côn Vũ Công Tể Nguyễn Công Hoàn 28 29 30 31 32

Lê Qúy Đôn Trần Văn Trứ Ngô Thì Sĩ Phạm Nguyễn Du Nguyễn Hữu Cầu 33 34 35 36 37

Trạng Quỳnh Nguyễn Hòe 38 39

Trần Danh Án Nguyễn Thiếp 40 41

Quang Trung Phạm Thái 42 43

Hồ Xuân Hương 44

Nguyễn Du Bà huyện Thanh Quan Đỗ Cao Mại 45 46 47

Nguyễn Công Trứ 48

Nguyễn Văn Siêu 49

Cao Bá Quát Đỗ Minh Tâm 50 51

Nguyễn Qúi Tân Rắn trắng rồng vàng Bét thơ phải đi sứ Trẻ con mới học biết gì Văn rỗng như bụng trống Quan chủ khảo nhận dốt Ba sông bốn mắt, Chữ nhất không biết, Thư mượn áo hồ cừu, Cái cò lặn lội bờ song, Chép lại văn tự cháy. Này hi hi Cái vạ văn chương Thơ nắn nhị đào Đánh nhau bằng cả câu đối Miệng nhà sang, đồ nhà khó, Thơ tức cảnh mót lúa Một thí sinh bướng bỉnh Tiến sĩ triều Lê, khăn triều Nguyễn Bài thơ leo đèo Bia nghè lại dựng trên tòa muôn gian Vịnh tranh tố nữ Đọc thơ chữa thẹn, Đánh trống qua cửa nhà sấm, Âý ái uông, Ham tìm chỗ ấy, Cặn Bần – ghe Phú, Cuộc đấu thơ nghịch ngợm… Câu thơ bỏ lửng, Chiêu Bảy và cô Cúc Cho Thị Đào đi lấy chồng Thơ kết án con vịt Được tha phạt vì câu thơ hóm, Bài thơ trách nữ thần, Đối chọi với sư, Thơ tạ Long thần, Anh hùng đè xuống dưới. Siêu đất siêu đồng, Cót két thẩn thơ Bịa thơ tài hơn vua, Khí phách ngang tàn, Một bọc sinh đôi, Một thầy một cô một chó cái, Trên dưới đều chó, Tự tiện chữa thơ vua, Một câu đối một hoàn cảnh. Thơ trả lời người bạn giàu Thơ vịnh đèn kéo quân, Phó cối đề thơ, Gà câu đối cho trò, Thơ mừng 52

Nguyễn Xuân Ôn Nguyễn Hữu Khanh Trần Tích Phiên Nguyễn Thiện Kế Xiển Ngộ Phan Văn Ái Nguyễn Đình Chiểu Vũ Duy Thanh Tự Đức Phan Đình Phùng Ông Ích Khiêm Hoàng Phan Thái Phan Văn Trị 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65

Nguyễn Khuyến Trần Bích San Vũ Phạm Hàm Kỳ Đồng Lê Trọng Đôn 66 67 68 69 70

Phan Bội Châu Huỳnh Thúc Kháng 71 72

Tản Đà Nguyễn Kinh 73 74

bạn đẻ con trai, Thơ vịnh cái điếu, Thơ của người mần đơn Câu đối đến Thia Thia, Bò đen bò vàng, Đầy tớ làm gia sư, Nam nhi cốt ở tài Hoa xưa ong cũ Dịch thơ đùa tếu, Mặc thằng nghe Thơ khên tri phủ tài nịnh Tổng đốc cay mũi Giễu lệnh cấm quần không đáy Trâu bò trê lóc Chín nghìn bạn Thơ vịnh muỗi Họa thơ tỏ chí quyết chiến Hai cẳng đối một đầu Bài phú tức cảnh cô gái đẹp Thơ con mèo Thơ Bồ tiên, Chi chi giã, Cho chữ thờ, Hỏi thăm bạn măt cướp, Lo trước thiên hạ, Câu đối khóc anh thợ rèn, Quan chẳng quan thì dân, Một phút hóa tram năm, Kỉ niệm vô giá, Gặp chó, Tạ người cho hoa trà, Đùa nhà sư móm Một đạo hai đường Vừa đánh cờ vừa làm thơ Bài thơ để lộ ki Bài phú mười roi mười lạng Hai hồn thơ lớn gặp nhau, Trời xanh còn hãm anh hung, Câu hát đoán tên, Mặc ai khanh tướng công hầu, Thơ tặng người cùng cảnh, Một cũng đủ rồi. Tấn sĩ là cài gì Người tình nhân không quen biết, Rau sắng chùa Hương, Lên bà khó lắm em ơi, Thơ khóc nhầm Bài thơ gỡ thể diện Gía quan giáo thụ bằng hai cân lợn, Thơ chửi chó Câu văn ngỗ ngược Tình sâu nghĩa đầy Thi dịch thơ, Cậu bé thầy dùi Ông lão kéo xe góp chuyện văn Ngô Tất Tố Nguyễn Cảnh Lâm Nguyễn Ái Quốc Nguyễn Bính Nguyễn Công Hoan 75 76 77 78 79

Nhất Linh Vân Đài Tú Mỡ Nguyên Hồng Nguyễn Tuân 80 81 82 83 84

Xuân Diệu 85

chương Tai mắt Tự lực văn đoàn Từ câu đối thành bài thơ Người đẹp tri âm Chơi chữ Cho bác chen ngang với Không tiếc thuốc lá, chỉ tiếc thời gian Câu đối chữ Hán đọc theo vần quốc ngữ Thơ phú Đào Mộng Giác Gà câu đối cho chàng rể Thơ hay xiêu lòng tiểu thư Bùi Bằng Đoàn Phan Châu Trinh Nguyễn Huy Lượng Vương Toán 86 87 88 89