ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
HOÀNG THỊ LAN HƯƠNG
GIAI THOẠI VỀ CÁC TÁC GIA VĂN HỌC
VIỆT NAM
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã ngành: 60.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Hằng Phương
THÁI NGUYÊN - NĂM 2016
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn: “Giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam” là
do bản thân tôi thực hiện. Các số liệu, kết quả trong luận văn là trung thực. Nếu sai
sự thật tôi xin chịu trách nhiệm.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2016
Tác giả
Hoàng Thị Lan Hương
XÁC NHẬN CỦA KHOA XÁC NHẬN CỦA NGƯỜI HƯỚNG
CHUYÊN MÔN DẪN KHOA HỌC
PGS. TS Nguyễn Hằng Phương
i
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS. Nguyễn Hằng Phương
người thầy đã tận tình giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành
luận văn.
Em xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo, Khoa Sau Đại học,
khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên, các thầy cô giáo
trường Đại học Sư phạm Hà Nội, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Viện
Văn học đã giúp em hoàn thành khóa học.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã quan tâm giúp đỡ, động viên tôi
trong thời gian học tập và nghiên cứu.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn các thầy cô đã đọc và chỉ ra những
thành công cũng như hạn chế của luận văn.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2016
Tác giả
Hoàng Thị Lan Hương
ii
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................................ ii
MỤC LỤC .................................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................. 5
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................ 6
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 6
6. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 6
7. Đóng góp của luận văn .............................................................................. 7
8. Cấu trúc luận văn ...................................................................................... 7
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN, THỰC TẾ VÀ CÁC TIÊU CHÍ NHẬN DIỆN
THỂ LOẠI ...................................................................................................................... 8
1.1. Giai thoại và các tiêu chí nhận diện thể loại .......................................... 8
1.1.1. Khái niệm giai thoại ............................................................................ 8
1.1.2. Các tiêu chí nhận diện thể loại .......................................................... 14
1.2. Vấn đề phân loại giai thoại .................................................................. 27
1.3. Thực tế lưu truyền giai thoại trong đời sống hiện nay ......................... 29
Chương 2 NỘI DUNG CỦA GIAI THOẠI VỀ CÁC TÁC GIA VĂN HỌC
VIỆT NAM .................................................................................................................. 34
2.1. Đả kích, châm biếm tầng lớp có chức sắc, địa vị trong xã hội phong
kiến .............................................................................................................. 34
2.2. Thể hiện tinh thần dân tộc, yêu nước, thương dân ............................... 42
2.3. Phác họa chân dung đời thường của các tác gia .................................. 53
iii
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Chương 3 NGHỆ THUẬT CỦA GIAI THOẠI VỀ CÁC TÁC GIA VĂN
HỌC VIỆT NAM ........................................................................................................ 65
3.1. Kết cấu, cốt truyện ............................................................................... 65
3.2. Nhân vật ............................................................................................... 71
3.3. Một số biện pháp nghệ thuật ................................................................ 75
3.3.1. Chơi chữ ............................................................................................ 76
3.3.2. Phóng đại ........................................................................................... 83
3.3.3. Hư cấu ............................................................................................... 87
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 96
PHỤ LỤC..................................................................................................................... 99
iv
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, bên cạnh những thể loại lớn
đã hình thành, vận động và phát triển lâu đời như: thần thoại, truyền thuyết, truyện
cổ tích, ca dao, truyện cười,…giai thoại là một thể loại mới được quan tâm, chú ý
qua không ít các công trình sưu tầm, tuyển chọn có giá trị trong thời gian gần đây.
Tuy nhiên, trên phương diện lý thuyết, thể loại này vẫn chưa được đào sâu, soi sáng
một cách kì cùng. Đó là chưa kể đến những ý kiến, quan điểm học thuật trái chiều
nhau. Tất cả những biểu hiện ấy khiến thể loại này chưa thể tồn tại trong trạng thái
rõ ràng nhất có thể. Nhưng theo một số nhà nghiên cứu uy tín về văn học ở Việt
Nam như Kiều Thu Hoạch, Trần Thanh Mại, Hoàng Ngọc Phách…thì giai thoại
chính là một thể loại văn học dân gian độc lập, có vị trí riêng.
Giá trị nội dung và những đặc sắc nghệ thuật của thể loại giai thoại đã được
một số tác giả chỉ ra nhưng còn sơ sài và các tác giả chưa thực sự đi sâu vào phân
tích và khẳng định đây là một trong những thể loại góp phần tạo nên diện mạo
phong phú, đa dạng cho kho tàng văn học dân gian. Điều này khiến cho ấn tượng về
giai thoại trong lòng người đọc mờ nhạt đi nhiều so với thực tế tiếp nhận.
1.2. Trong thời gian gần đây, việc giảng dạy văn học dân gian cho sinh viên
chuyên ngành văn học ở trường đại học, cao đẳng rất được quan tâm. Ngoài những
thể loại văn học dân gian đã quen thuộc như: thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ
tích, vè, câu đố, ca dao, dân ca…..thì việc đưa một thể loại còn mới mẻ vào học tập,
nghiên cứu là rất cần thiết. Nó góp phần mở thêm một hướng đi mới trong hoạt
động giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
Bằng việc thực hiện luận văn, chúng tôi góp phần phục vụ kịp thời công tác
giảng dạy cho sinh viên chuyên ngành Ngữ văn tại Trường Cao đẳng Sư phạm Thái
Nguyên và đóng góp ít nhiều tư liệu tham khảo cho những người quan tâm nghiên
cứu về thể loại văn học này.
Xuất phát từ nhận thức trên, luận văn đặt nhiệm vụ khảo sát, hệ thống lại
những ý kiến đã nêu về giai thoại và đặc biệt chú trọng đi sâu nghiên cứu giá trị
nội dung, nghệ thuật của một bộ phận giai thoại. Với những lí do nêu trên,
1
chúng tôi lựa chọn đề tài “Giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam”. Từ đó,
luận văn góp một tiếng nói nhỏ vào việc nghiên cứu thể loại giai thoại và góp
phần khắc phục một khoảng trống đáng tiếc trong đời sống nghiên cứu văn học
dân gian Việt Nam.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Về vấn đề thể loại, giai thoại là đối tượng nghiên cứu khá mới mẻ của
văn học dân gian và cả văn học thành văn. Tuy số lượng giai thoại khá phổ biến
nhưng về lý thuyết thể loại nó còn ít được chú ý. Các công trình nghiên cứu ban đầu
mới quan tâm đến vấn đề định nghĩa tên gọi thể loại và các công trình có tính chất
sưu tầm vẫn chiếm đa số.
Học giả uyên bác người Nga V. Japropp xem giai thoại như một tiểu loại của
cổ tích sinh hoạt: “Nói về cổ tích sinh hoạt hay truyện cổ tích hiện thực, cần phải đề
cập tới vấn đề giai thoại. Theo ý chúng tôi, nó không phải là một loại hình riêng của
sáng tác dân gian, khác biệt với loại truyện cổ tích đoản thiên về con người” [40].
Nghiên cứu kĩ càng hơn nữa những truyện cổ tích sinh hoạt về con người, thì có thể
khẳng định được rằng trong folklore không có ranh giới giữa truyện cổ tích sinh
hoạt về con người và truyện giai thoại. Có chăng thì cũng “chỉ có thể xếp giai thoại
thành một tiểu loại riêng trong truyện cổ tích sinh hoạt” [40].
Cùng quan điểm với V. Ja Propp, Guxep cũng xem giai thoại như một thể loại
văn học dân gian, nhưng ông tách hẳn nó ra khỏi cổ tích sinh hoạt và định nghĩa như
sau: “Chúng tôi tách giai thoại ra khỏi cổ tích sinh hoạt và cổ tích trào phúng (loại này dĩ
nhiên có thể mang những yếu tố giai thoại), vì nó có một số đặc điểm cho phép nó như
một thể loại độc lập. Chúng tôi gọi giai thoại là tác phẩm tự sự trào phúng hoặc hài hước,
được xây dựng trên một tình tiết có sự tăng tiến đến điểm cao, biểu hiện rõ rệt và kết thúc
bất ngờ” [40]. Như vậy, nguyên nhân khiến Guxep tách giai thoại ra khỏi cổ tích là tính
trào phúng và hài hước của nó. Soi chiếu định nghĩa ấy vào tình hình giai thoại Việt
Nam, có thể thấy, tác giả thiên về giai thoại trào phúng, hài hước với tính cách tiểu loại
hơn là bản thân thể loại giai thoại trong hình hài của một thể loại độc lập.
Theo nhà nghiên cứu Võ Phúc Châu, “ở Trung Quốc, thuật ngữ giai thoại
xuất hiện ngay từ thời Đường - Tống nhưng chưa thấy ai luận bàn gì về thể loại. Ở
2
Nga, những năm 60 của thế kỷ XX, lý thuyết giai thoại mới được giới folklore học
quan tâm” [40]. Còn ở Việt Nam, thuật ngữ này chỉ được chính thức sử dụng từ
1965, qua tập sách Giai thoại văn học Việt Nam của nhóm soạn giả Hoàng Ngọc
Phách, Kiều Thu Hoạch.
Khi giới thiệu cuốn Giai thoại văn học, năm 1965 Trần Thanh Mại là người
đầu tiên xác định vị trí của giai thoại. Ông cho rằng: “… trừ một số cá biệt, nói
chung thì giai thoại văn học không thuộc phạm vi văn học dân gian” [24, tr. 7]. Bởi
theo ông, hầu hết các mẩu chuyện giai thoại đó đều phải do “các nhà chữ nghĩa sáng
tác” [24, tr. 7].
Năm 1988, nhà xuất bản Văn học đã giới thuyết khái niệm giai thoại văn học
khi tái bản cuốn Giai thoại văn học nói trên. Nhưng cuốn sách chỉ nhấn mạnh khái
niệm giai thoại văn học và vị trí của nó trong văn học dân tộc như cầu nối giữa văn
học dân gian - văn học viết mà hơi nhòe tính chất thể loại, không xác định nó là văn
học dân gian hay văn học bác học.
Đến năm 1994, Vũ Ngọc Khánh trong cuốn Kho tàng giai thoại Việt Nam coi
giai thoại văn học như các tác phẩm văn học thế giới nhưng không phủ nhận rằng
nó có nguồn gốc bác học và đã được dân gian hóa.
Trong cuốn Từ điển Văn học do nhà xuất bản Thế giới phát hành năm 2004,
các tác giả đã bước đầu định nghĩa giai thoại và cho rằng đây là một thể loại độc
lập. Tuy nhiên, bản thân định nghĩa về giai thoại mà cuốn từ điển nêu vẫn còn mâu
thuẫn khi nhấn mạnh “Nó thuộc văn chương bác học” [49, tr. 220].
Cho đến nay, qua một số công trình nghiên cứu về folklore, bản chất của giai
thoại, nhìn chung, đã được xác định. Có thể kể đến một số công trình của các tác giả
như: Kiều Thu Hoạch, Hoàng Ngọc Phách…
Nếu ở phương Tây, giai thoại là những mẩu chuyện thiên về trào phúng, hài hước
để đề cao tư duy duy lí; thì ở phương Đông, nội hàm đó có thể mở rộng sang cả những
câu chuyện hết sức nghiêm túc về các nhân vật nổi tiếng được khúc xạ qua tình cảm yêu
mến, ngưỡng mộ vô tận của cộng đồng - tức tư duy duy cảm. Đó không chỉ là những câu
chuyện dí dỏm, vui tươi mà còn là những câu chuyện đẹp. Do đó, giai thoại Việt Nam
nói riêng và giai thoại phương Đông nói chung, ngoài tính hài còn mang cả tính nghiêm
3
trang, cẩn trọng, hay thậm chí là những câu chuyện nhuốm màu bi ai. Nói như Vũ Ngọc
Khánh, đối với người phương Đông, giai thoại “là cuốn sổ biên niên của cuộc sống, là
người bạn thường xuyên của con người và của các sự kiện lịch sử xã hội” [19, tr. 10].
Như vậy, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề khái niệm thể loại văn
học dân gian này và bước đầu, các nhà nghiên cứu đã đi đến khẳng định giai thoại là
một thể loại văn học, tồn tại một cách độc lập với các thể loại văn học dân gian khác
và có giá trị riêng. Song, việc đi vào tìm hiểu bản chất thể loại và những giá trị cụ
thể của nó còn ít và chưa thực sự hệ thống.
2.2. Về vấn đề phân loại, trong bài viết Giai thoại - một thể loại văn học dân
gian, tác giả Nguyễn Thị Bích Hà đã tạm chia giai thoại thành các bộ phận sau:
- Giai thoại văn học
- Giai thoại danh nhân
- Giai thoại cười
Tuy nhiên, tác giả Nguyễn Thị Bích Hà cũng khẳng định, cách chia này mới
chỉ là “tạm thời, chưa thực sự nhất quán” [10]. Tác giả cũng chưa đề cập đến việc
phân tích giá trị nội dung cũng như nghệ thuật của các bộ phận nói trên.
Vũ Ngọc Khánh lại đề nghị “chia giai thoại làm ba nhóm: giai thoại văn học,
giai thoại lịch sử, giai thoại Folklore” [19, tr. 34].
- Giai thoại văn học: là những câu chuyện hoàn toàn là chuyện sáng tạo và
chuyện những người sáng tạo trong địa hạt văn chương học thuật.
- Giai thoại lịch sử: là những câu chuyện khác liên quan với những sự kiện,
những nhân vật hoạt động trong các chính trường, có liên hệ chặt chẽ với tiến trình
tồn vong của đất nước.
- Giai thoại folklore: là các mẩu chuyện về những tài năng thợ thêu, thợ
chạm, những nghệ nhân, nghệ sĩ tuồng chèo, hội họa, điêu khắc, diễn xướng,… gây
được những thú vị, bất ngờ; các mẩu chuyện làm nền cho những thành ngữ, phương
ngôn, vẫn thường được nhân dân truyền tụng để biểu lộ niềm tin, tự hào về con
người, quê hương, dòng họ,…
Trong Tổng tập văn học dân gian người Việt, tập 11: Giai thoại văn học Việt
Nam, tác giả Kiều Thu Hoạch đã chỉ rõ về cách phân loại giai thoại thường thấy:
4
Giai thoại văn chương, Giai thoại văn nghệ, Giai thoại văn nghệ dân gian, Giai thoại
làng Nho, Giai thoại phụ nữ, Giai thoại folklore, Giai thoại xứ Lạng, Giai thoại
Thăng Long… Đây là cách phân loại, sắp xếp có phần tùy tiện, chưa có tiêu chí rõ
ràng. Chỉ có thể coi đó là sự phân loại tạm thời để công bố, chưa thể coi là sự phân
loại khoa học. Xem xét cụ thể, tác giả chia giai thoại thành hai tiểu loại: giai thoại
lịch sử và giai thoại văn học. Trong tiểu loại giai thoại văn học, tác giả đã sưu tầm
và giới thiệu 442 giai thoại, trong đó 358 giai thoại về tác gia văn học và 84 giai
thoại khuyết danh. Tác giả cũng đã phác ra được một số nét cơ bản về nội dung tư
tưởng của thể loại giai thoại nói chung như: gây cười; châm biếm, đả kích những lố
bịch, cái phi lí trong xã hội; phản ánh tinh thần dân tộc, tinh thần yêu nước… nhưng
tác giả chưa có sự phân tích cụ thể, chi tiết.
Trong cuốn Giai thoại văn học Việt Nam, Kiều Thu Hoạch cũng đã liệt kê
các giai thoại về các danh nhân: Đào Duy Từ, Nguyễn Văn Giai, Cao Bá Quát,
Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Quốc Trinh, Nhữ Bá Sĩ, Khương Công Phụ….
Qua việc tìm hiểu về những công trình nghiên cứu về thể loại giai thoại văn
học, chúng tôi thấy, các tác giả, các nhà nghiên cứu mới chỉ tập trung chú ý tới việc
khẳng định giai thoại là một thể loại văn học tồn tại độc lập và có giá trị riêng so với
các thể loại văn học dân gian khác và sưu tầm những giai thoại lưu truyền trong dân
gian. Về vấn đề giá trị nội dung, nghệ thuật của thể loại này, các tác giả mới bước
đầu đưa ra những nét cơ bản của thể loại nói chung mà chưa đi sâu vào tìm hiểu,
phân tích từng tiểu loại để có cái nhìn toàn diện hơn về giai thoại.
Tiếp thu ý kiến của những nhà nghiên cứu đi trước, trong bối cảnh nghiên
cứu có ít nhiều thuận lợi, chúng tôi sẽ tập trung vào khảo sát bộ phận Giai thoại về
các tác gia văn học Việt Nam. Chúng tôi nhận thấy, đây là một hướng nghiên cứu
vừa có giá trị khoa học, vừa có tính thời sự, vừa có ý nghĩa thực tiễn,.
3. Mục đích nghiên cứu
Luận văn đặt mục đích khảo sát giá trị nội dung và nghệ thuật của bộ phận
Giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam, từ đó khẳng định đời sống thể loại, thấy
được những đóng góp của giai thoại vào diện mạo văn học dân gian Việt Nam.
5
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Chọn luận văn Giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam, chúng tôi được
kế thừa thành tựu của những người đi trước, trên cơ sở đó góp một phần vào việc
khẳng định vị trí của thể loại trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam. Chúng tôi
bước đầu đặt ra cho mình những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Xác định khái niệm thuật ngữ giai thoại, cách phân loại, trình bày một số tiêu
chí nhận diện thể loại, chỉ ra đời sống của giai thoại trong xã hội hiện nay.
- Hệ thống hóa bộ phận Giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam. Xác định giá
trị nội dung, nghệ thuật của bộ phận này và giá trị của nó đối với đời sống văn học, đời
sống xã hội.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là Giai thoại về các tác gia văn
học Việt Nam.
Phạm vi tư liệu nghiên cứu của luận văn là bộ phận Giai thoại về các tác gia
văn học Việt Nam đã được sưu tầm. Trong điều kiện và thời gian thực tế, chúng tôi
sẽ sưu tầm thêm các giai thoại về các tác gia trong đời sống dân gian.
Luận văn chủ yếu đi vào tìm hiểu giá trị nội dung, nghệ thuật của bộ phận
Giai thoại các tác gia văn học Việt Nam và bước đầu khảo sát các đặc trưng thể loại
của giai thoại.
6. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng tổng hợp một số phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp thống kê: Dựa trên hệ thống tư liệu đã được các nhà nghiên
cứu sưu tầm, biên soạn, luận văn thống kê giai thoại về các tác gia văn học Việt
Nam để tiện lợi cho việc soi sáng giá trị nội dung và nghệ thuật mà luận văn đã nêu.
Phương pháp điền dã văn học: Ngoài những tư liệu đã được các nhà nghiên
cứu sưu tầm và đã được xuất bản, chúng tôi còn sử dụng phương pháp điền dã văn
học để gặp gỡ với những nhà văn, nhà thơ, những người trực tiếp liên quan đến các
tác gia để khẳng định tính xác thực của các giai thoại và mở rộng phạm vi tư liệu
nghiên cứu.
Phương pháp phân tích - tổng hợp: Luận văn sử dụng phương pháp này để
phân tích cụ thể các giai thoại. Trên cơ sở đó, luận văn tổng hợp vấn đề, rút ra
6
những đánh giá, nhận xét về giá trị nội dung và nghệ thuật của bộ phận Giai thoại
về các tác gia văn học Việt Nam.
Phương pháp so sánh: Luận văn cũng sử dụng phương pháp so sánh những
giai thoại cùng một đề tài, so sánh bộ phận Giai thoại về các tác gia văn học Việt
Nam với các bộ phận giai thoại khác và những thể loại văn học dân gian gần gũi để
làm nổi bật giá trị nội dung, nghệ thuật của nó.
Phương pháp phân tích văn bản văn học dân gian: để làm nổi bật lên giá
trị nội dung cũng như các đặc sắc nghệ thuật của giai thoại về các tác gia văn học
Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu văn hóa học liên ngành: Để nhìn nhận, đánh giá,
soi sáng bản chất thể loại giai thoại nói chung và bộ phận Giai thoại về các tác gia
văn học Việt Nam nói riêng trong cái nhìn tổng thể, toàn diện với bối cảnh xã hội,
văn hóa, văn học.
7. Đóng góp của luận văn
Từ việc tổng hợp, hệ thống lại các định nghĩa, cách phân loại giai thoại, chỉ
ra các tiêu chí nhận diện thể loại cũng như đời sống của giai thoại trong xã hội hiện
nay và đi vào phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật của bộ phận Giai thoại về các
tác gia văn học Việt Nam, luận văn góp phần tìm hiểu các bộ phận giai thoại khác
nói riêng và thể loại giai thoại nói chung.
Qua đó, luận văn đóng góp vào việc khẳng định vị trí độc lập và giá trị đặc
sắc của thể loại văn học dân gian này.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận, thực tế và các tiêu chí nhận diện thể loại
Chương 2: Nội dung của Giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam
Chương 3: Nghệ thuật của Giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam
Ngoài ra, luận văn còn có phần Phụ lục:
Phụ lục 1: Một số giai thoại về các tác gia tác giả luận văn sưu tầm
Phụ lục 2: Bảng thống kê các tác gia và một số giai thoại về các tác gia
văn học Việt Nam.
7
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN, THỰC TẾ VÀ CÁC TIÊU CHÍ NHẬN DIỆN THỂ LOẠI
1.1. Giai thoại và các tiêu chí nhận diện thể loại
1.1.1. Khái niệm giai thoại
Giai thoại vốn là một thuật ngữ gốc Hán, giai có nghĩa là hay, đẹp, thoại là
câu chuyện kể. Như vậy, giai thoại là câu chuyện kể hay, đẹp.
Theo N.D.Tamarchenko, “giai thoại (“Anekdotos”, gốc Hy Lạp, có nghĩa là
“không công bố”) có hai nét nghĩa: Nét nghĩa thứ nhất: Câu chuyện lưu truyền rộng
rãi trong dân gian, thuật lại một cách ngôn lí thú, một cảnh độc đáo, hay một trang
tiểu sử riêng tư của một nhân vật lịch sử. Nét nghĩa thứ hai: Thể tự sự cỡ nhỏ nửa
truyền miệng, bán văn học, đặc điểm nổi bật của nó là mô tả các nhân vật hành
động một cách hàm súc, sơ lược, tập trung vào một tình huống được suy ngẫm lại,
đánh giá lại bằng cách thay đổi hoàn toàn điểm nhìn (“point”, bước ngoặt, đột biến). Ở
cả phía đối tượng của sự kể (đời sống riêng tư của nhân vật lịch sử, tức là nhân vật quan
phương, hoặc một trường hợp nào đó rút ra từ đời sống của những người bình thường),
lẫn ở phía chức năng, tức là ở cả hai ý nghĩa của thuật ngữ, giai thoại là thể loại không
chính thức: vì thế, truyện kể bao giờ cũng mang tính phi văn học, nó là thứ “văn học rỉ
tai, bí mật” (E. Kurganov), đòi hỏi người kể và người nghe phải có nhãn quan tương
đồng (J. Hein) và sự “tâm đầu ý hợp”, tin tưởng lẫn nhau trong giao tiếp” [30].
Theo nghĩa thứ nhất, thuật ngữ có gốc gác từ cuốn Mật sử của Procopius
Caesarensis (một tác phẩm còn đang có nhiều tranh cãi, được viết vào những năm
550) và xưa kia, Từ điển tiếng Anh (1775) của Samuel Johnson từng giải thích với ý
nghĩa như vậy: “Giai thoại là câu chuyện chưa được công bố”, có nghĩa, đó là
chuyện riêng tư của nhân vật quan phương. Thời Pushkin, giai thoại cũng được hiểu
như vậy. Những câu chuyện về kì sự, vô thường của các nhân vật nổi tiếng do
chứng nhân kể lại theo kiểu như thế đầy ắp các Hồi kí giai đoạn thế kỉ XVIII – XX.
Hiển nhiên là giai thoại có quan hệ đặc biệt với văn học, một mặt, từ hoạt động
truyền miệng của nó, cũng như từ giác độ bản quyền mang tính tập thể. Mặt khác,
nhiều tuyển tập giai thoại hết sức nổi tiếng (ở Nga, từ thế kỉ XVIII) và được sử
8
dụng trong các văn bản văn học rộng rãi tới mức khiến chúng không còn là thể loại
dân gian thuần tuý. Việc giai thoại thiên về lối kết cấu xâu chuỗi - hoặc là xoay
quanh các nhân vật nào đó, hoặc là những đặc điểm dân tộc nổi bật của các nhân vật
hành động - nói lên tính tự sự của nó.
Trong quá trình phát triển lịch sử, theo ý kiến chung, giai thoại có quan hệ
mật thiết với truyện khôi hài, cổ tích sinh hoạt có nội dung trào lộng, ngụ ngôn, trào
phúng và truyện cổ có kết cấu theo kiểu tăng cấp. Truyện kể tăng cấp (thường dưới
dạng giản lược) và điểm “point” kết thúc đã biến giai thoại thành nguồn cội của tiểu
thuyết - ở cả thời Phục hưng, lẫn sau này, trong sáng tác của A. Chekhov (Cái chết
của viên công chức), hay H. Henry (The Cop and the Anthem).
Năm 1988, nhà xuất bản Văn học đã giới thuyết khái niệm giai thoại văn
học khi tái bản cuốn Giai thoại văn học nói trên. Sách viết: “Giai thoại văn học
là những giai thoại riêng về các nhà văn, những nhân vật có tên tuổi trong xã
hội hoặc đông đảo những người yêu thích thơ văn và sáng tác thơ văn nói
chung. Như vậy giai thoại văn học là một loại văn chương vừa có tính chất bác
học lại vừa có tính chất truyền miệng mang trong cổt cách của nó nhiều nét dân
tộc độc đáo đầy sức hấp dẫn” [24, tr. 5]. Theo chúng tôi, giới thuyết này chỉ
nhấn mạnh khái niệm giai thoại văn học và vị trí của nó trong văn học dân tộc
như cầu nối giữa văn học dân gian - văn học mà hơi nhòe tính chất thể loại,
cũng không xác định nó là văn học dân gian hay văn học bác học.
Năm 1994, Vũ Ngọc Khánh trong cuốn Kho tàng giai thoại Việt Nam lại
thiên về nhận định giai thoại thuộc văn học dân gian khi ông cho rằng: “… Những
câu thơ, câu đối ở đây có vẻ giàu chữ nghĩa, điển tích như ở văn chương bác học,
song điều bắt buộc là phải vận dụng theo phong cách dân gian, lấy chất liệu và cả
biện pháp quen thuộc của ca dao, câu đố…tác phẩm văn học bác học được xem như
tác phẩm dân gian và có thể sống trong quần chúng…” [18, tr. 7]. Như vậy, Vũ
Ngọc Khánh coi giai thoại văn học như các tác phẩm văn học dân gian nhưng
không phủ nhận rằng nó có nguồn gốc bác học và đã được dân gian hóa.
Trong cuốn Từ điển Văn học do nhà xuất bản Thế giới phát hành năm 2004,
giai thoại được định nghĩa như sau: “Một thể loại chuyện kể truyền miệng, lưu
9
truyền chủ yếu trong giới nhà văn và lớp công chúng ưa thích thơ văn, nhất là
những người có hiểu biết Hán học và văn chương chữ Hán. Thuật ngữ giai thoại
được mượn từ Trung Hoa. Mỗi giai thoại là một truyện kể ngắn gọn, lý thú, xoay
quanh những nhân vật có thực, thường là những danh nhân… Giai thoại văn học
thường không phân giới rõ rệt với truyền thuyết, truyền kỳ; có những mảng giai
thoại xuất hiện thời kỳ sau lại gần với tiếu lâm. Tuy vậy giai thoại vẫn mang tính
độc lập như một thể loại độc đáo; nó thuộc về văn chương bác học, gắn với sinh
hoạt văn học thành văn, nhưng lại tồn tại dưới dạng truyền miệng, tức là dạng thức
tồn tại của các truyện kể dân gian” [49, tr. 119]. Định nghĩa giai thoại trên có phần
mâu thuẫn. Một mặt nó đã khẳng định “Giai thoại là một thể loại chuyện kể truyền
miệng” (tức nó thuộc văn học dân gian), nhưng lại nêu thêm “Nó thuộc về văn
chương bác học, gắn với sinh hoạt văn học thành văn”. Như vậy, tác giả muốn coi
giai thoại là một thể loại văn chương, điều mà Trần Thanh Mại đã có lần đề cập.
Tuy nhiên, bản thân tác giả mục từ này cũng chưa nhận thức rõ giai thoại thuộc văn
học dân gian hay văn học thành văn, khi thì tác giả coi nó là “một thể loại của
truyện kể truyền miệng” khi lại nhấn mạnh “Nó thuộc văn chương bác học”.
Trong cuốn sách Văn học dân gian người Việt, góc nhìn thể loại ở bài Thể
loại giai thoại, Kiều Thu Hoạch cũng định nghĩa: “Giai thoại vốn là một thuật ngữ
gốc Hán, giai có nghĩa là hay, đẹp, thoại là câu chuyện kể. Như vậy giai thoại là câu
chuyện kể hay, đẹp… Tuy nhiên, giai thoại không phải là câu chuyện, mẩu chuyện
kể bình thường, mà đó phải là những câu chuyện hay, lý thú, gợi được những khoái
cảm thẩm mĩ” [16, tr. 18]. Định nghĩa này của ông không khác các nhà nghiên cứu
trước đây, song ông đã đưa ra nhiều phân tích, nhận xét có giá trị về giai thoại. Theo
Kiều Thu Hoạch thì những tài liệu sách báo có sưu tầm và giới thiệu giai thoại khá
nhiều và rải rác khoảng từ những năm 30 đến 45 của thế kỉ trước, nhưng phải đến
năm 1965 mới có một cuốn sách sưu tầm giai thoại chính thức ra đời là cuốn Giai
thoại văn học Việt Nam của Hoàng Ngọc Phách và Kiều Thu Hoạch.
Từ những ý kiến khác nhau của các nhà nghiên cứu, câu hỏi đặt ra là giai
thoại có phải là một thể loại văn học dân gian hay không?
10
Văn học dân gian là những sáng tác folklore và đặc trưng của các sáng tác
dân gian là:
- Tính truyền miệng
- Tính tập thể
- Tính nguyên hợp và đa chức năng
- Tính dị bản.
Xem xét lần lượt các đặc trưng này, chúng tôi nhận thấy giai thoại hoàn toàn
thỏa mãn. Giai thoại là các sáng tác truyền miệng, truyền miệng cả về sáng tác và
lưu truyền. Nói đến tính truyền miệng và tính tập thể của văn học dân gian, chúng
tôi nhận thấy vấn đề chính của hai đặc trưng này là vấn đề người sáng tác. Có người
sáng tác thì tác phẩm dân gian mới ra đời, mới được truyền miệng và thỏa mãn các
đặc trưng khác. Trong giai thoại thường xuất hiện những câu đối, những bài thơ văn
bác học của các học giả, tác gia nổi tiếng. Nếu vin vào cớ giai thoại là những sáng
tác của người có chữ nghĩa mà cho rằng nó thuộc văn chương bác học thì chưa hẳn
là hoàn toàn chính xác. Trong văn học dân gian Việt Nam, ca dao, tục ngữ chính là
những câu có xen những từ Hán, điển cố Hán, thậm chí có những câu toàn chữ Hán.
Những câu như thế không thể xem là do người nông dân hoàn toàn không biết chữ
Hán sáng tác. Đó hẳn là những sáng tác của những anh đồ quê, những nho sĩ thủa
hàn vi hoặc những lúc rảnh việc công. Đó là một thực tế lịch sử - nét đặc thù của
văn hóa, văn học dân gian truyền thống Việt Nam. Còn về mặt lý luận, dường như
giới nghiên cứu folklore hiện nay trên thế giới cũng không đồng tình với quan điểm
một thời cho rằng sáng tác folklore chỉ là của người lao động, của người mù chữ.
Trần Quốc Vượng cũng đã từng dẫn một câu nói của một nhà nghiên cứu folklore
người Pháp: “Cái gì không phải là chính thống thì là dân gian”. Đúng như vậy, khi
Nguyễn Trãi sáng tác một cách nghiêm túc những bài thơ chữ Hán, thơ Quốc âm
bằng chữ Nôm thì đó là những tác phẩm chính thống, là văn chương bác học.
Nhưng khi ông sáng tác đùa chơi, hoặc người kể chuyện gán cho ông sáng tác đùa
chơi bài “Hỏi cô bán chiếu” thì đó lại là sáng tác phi chính thống, nó không nghiêm
túc, nó chính là dân gian. Cũng vậy, khi Phan Bội Châu viết bài “Hải ngoại huyết
11
thư” thì đó là sáng tác bác học. Nhưng lúc ông còn là chàng trai trẻ ở quê nhà, đi hát
ví phường vải, hát đáp lại bên gái câu hát:
“Các em là phận nữ nhi
Một Đan Chu cũng đủ, hỏi mần chi những tám người?” [16, tr. 68].
thì đó là câu hát đùa nghịch, không phải là sáng tác chính thống, quan phương, đó chính
là tác phẩm văn học dân gian. Hoặc nữa, khi Bác Hồ sáng tác những bài thơ chữ Hán
trong Nhật kí trong tù thì đó là những sáng tác chính thống, thể hiện ý chí cách mạng của
Người. Còn khi Bác làm thơ vui trả chữ nữ sĩ Hằng Phương:
“Cảm ơn bà biếu gói cam
Nhận thì không đúng, từ làm sao đây
Ăn quả nhớ kẻ trồng cây
Phải chăng khổ tận đến ngày cam lai”
thì đó đã gần với ranh giới của văn học dân gian.
Người sáng tác văn học, văn hóa dân gian trong những trường hợp này đều là
những người biết chữ. Vậy, với cách nhìn nhận này, rõ ràng, giai thoại là các sáng
tác dân gian, là folklore, và đương nhiên, nó phải là một thể loại nằm trong loại hình
tự sự dân gian. Chính vì vậy, Guxép đã coi giai thoại như một thể loại độc lập.
Trong phạm vi luận văn, chúng tôi đồng ý với nhận định này của Guxép.
Một vấn đề nữa cần làm sáng tỏ là tính dị bản của giai thoại văn học. Tuy
phần lớn các giai thoại văn học cổ truyền đều đã được ghi chép trong các văn bản,
song đây là thể loại vốn được sáng tác và lưu truyền bằng miệng, cho nên chúng ta
sẽ không lấy làm lạ khi thấy cùng một mẫu kể giai thoại, cùng một bài thơ hoặc câu
đối, lại có nhiều dị bản khác nhau. Thậm chí, có cả những trường hợp thơ hoặc câu
đối, hoặc cốt truyện vốn ở trong kho tàng giai thoại Trung Quốc cũng được du nhập
và diễn biến thành giai thoại văn học Việt Nam.
Dưới đây là khảo sát của chúng tôi ở một số dị bản trong kho tàng các giai
thoại văn học quen thuộc.
Sách Chuyện đời xưa của Trương Vĩnh Kí, Sài Gòn, 1866, kể chuyện về mối
quan hệ giữa ông Hoàng Hồng Bảo, anh cùng cha khác mẹ với Tự Đức nối ngôi.
12
“Hồng Bảo âm mưu lật đổ, việc bại lộ, phải tự tử… Trong bữa tiệc ăn mừng
nhân dẹp được loạn Hồng Bảo, vua Tự Đức đang nhai chẳng may cắn phải lưỡi, vua
bèn bảo các quan cùng vịnh thơ “Răng cắn lưỡi” để mua vui.
Bấy giờ, ông Nguyễn Đăng Hành làm bài thơ rằng:
Tớ sinh ngươi chửa ra đời
Ngươi sinh sau tớ tớ thời làm anh
Hôm nay ăn uống ngon lành
Mối tình cốt nhục sao đành hại nhau.
Tự Đức tức giận vì bị châm chọc chuyện Hồng Bảo, sai lôi tác giả bài thơ ra
ngoài Ngọ Môn đánh cho ba chục roi, sau đó, để tỏ ra biết trọng nhân tài, vì thơ
hay, lại truyền thưởng cho tác giả vàng bạc”.
Đến sách Kho tàng giai thoại Việt Nam, Vũ Ngọc Khánh (1994) lại theo sách
Giai thoại làng Nho (1996) ghi nhân vật làm bài thơ đó là Nguyễn Hàm Ninh (1807
– 1867), thơ có sai biệt một đôi chỗ. Cũng theo Vũ Ngọc Khánh, thì còn có một dị
bản nữa, ở vùng Thừa Thiên, cho là Trần Văn Kỷ làm thơ nói về việc vua Quang
Trung cũng phải cắn lưỡi, ám chỉ việc vây hãm thành Quy Nhơn của Nguyễn Nhạc.
Cũng có thể kể thêm một dẫn chứng khác mà quá trình biến dị khá lí thú. Đó
là giai thoại văn học về Trạng nguyên Nguyễn Hiền đời Trần. Sách Chuyện khôi hài
của Trương Vĩnh Ký, Sài Gòn, 1882, ở chuyện Câu đối có chí khí kể rằng: “Ông
huyện kia đi dọc đường gặp một thằng con nít đi học về. Thấy bộ mặt đứa bé sáng
láng, bảnh lảnh mới kêu mà ra câu hỏi rằng:
Tự là chữ, cất giằng đầu, chữ tử là con, con nhà ai đó?
Đứa học trò chí khí đối lại liền:
Vu là chưng, cất ngang lưng, chữ đinh là đứa, đứa hỏi ta chi?
Ông huyện nghe biết đứa có chí lớn, bèn nói sau nó sẽ làm nên sự nghiệp.
Mà thiệt như vậy chẳng sai”.
Đến sách Đại Nam kỳ nhân liệt truyện, bản dịch của Tô Linh Thảo, Quảng Thịnh,
Hà Nội, 1930 và sách Văn đàn bảo giám thì nhân vật phiếm chỉ là đứa học trò, đã được
lịch sử hóa thành Trạng Hiền, đậu Trạng nguyên năm 12 tuổi, người đời Trần Thái Tông,
13
có quên quán cụ thể, làng Hà Dương, huyện Thượng Nguyên, phủ Thiên Trường, xứ
Sơn Nam. Hai câu có sai dị chút ít, không đáng kể.
Cần phải nói thêm rằng, tính dị bản ở giai thoại không hoàn toàn giống như
tính dị bản của một số thể loại khác như truyện cổ tích, hoặc truyện Nôm bình
dân… Nếu như ở truyện cổ tích, truyện Nôm bình dân thường có những biến dị về
tình tiết, cốt truyện để tạo nên dị bản/bản khác, thì ở giai thoại văn học hiếm thấy sự
biến dị như thế. Ở giai thoại văn học, thường vẫn là câu chuyện kể xung quanh câu
đối ấy, bài thơ ấy nhưng lại được lịch sử hóa, địa phương hóa để gán ghép cho nhân
vật này hoặc nhân vật khác mà thôi. Như vậy, nếu theo lý thuyết folklore thì sự gán
ghép ấy chưa hẳn đã tạo cho giai thoại văn học những dị bản/bản khác theo đúng
nghĩa chặt chẽ của nó. Tuy nhiên, theo tác giả Kiều Thu Hoạch thì tính dị bản ở đây
“có thể xem là đặc trưng của văn học dân gian” [16, tr. 29].
Như vậy, với những lý luận và dẫn chứng trên đây, chúng tôi bước đầu
khẳng định giai thoại có đầy đủ những đặc trưng của một thể loại văn học dân gian.
Qua việc nghiên cứu, xem xét những ý kiến khác nhau của các nhà nghiên
cứu văn học dân gian, trong phạm vi luận văn, chúng tôi đồng ý với ý kiến của nhà
nghiên cứu Kiều Thu Hoạch trình bày trong cuốn Giai thoại văn học Việt Nam, Nhà
xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004: Giai thoại chính là một thể loại văn học
dân gian. Chúng tôi nhận thấy, giai thoại có đầy đủ những đặc trưng của văn học
dân gian, nó có khả năng đứng độc lập thành một thể loại riêng.
1.1.2. Các tiêu chí nhận diện thể loại
Giai thoại là các sáng tác folklore, là văn học dân gian mà các tác giả
nước ngoài có người còn gọi rõ là giai thoại dân gian. Đúng như luận điểm của
Guxep, ở thể loại giai thoại, nhiều khi rất gần với các thể loại văn học dân gian
khác như truyện cười, truyền thuyết… Ở Trung Quốc, người ta có thể dễ dàng
tìm thấy những mẩu truyện giai thoại nằm rải rác trong những pho truyện cười
được sưu tầm từ thời Tam Quốc cho tới tận cuối đời Thanh. Ở ta, cũng có tình
hình tương tự. Có một số truyện cười nhằm chế giễu những nho sĩ làm thơ dở
mà hay khoe chữ, như loại thơ “con cóc” hoặc chế giễu những ông đồ dốt, như
loại “Ai trồng cây đất bể Đông…” thì để vào truyện cười cũng được mà xếp
14
vào giai thoại cũng không sai. Điều dễ thấy là những giai thoại văn học xung
quanh bài thơ, câu đối khuyết danh hoặc những nhân vật phiếm chỉ thường có
những nét gần gũi với thể loại truyện cười nhiều hơn. Có lẽ cũng vì thế mà
trước đây, nhiều nhà sưu tập truyện cười dân gian đã không quan tâm lắm đên
sự phân biệt này. Như vậy, nếu đã khẳng định giai thoại là một thể loại văn
học, có vị trí, chỗ đứng riêng thì nhất định chúng ta phải có hệ thống các tiêu
chí rõ ràng, cụ thể để nhận diện nó.
1.1.2.1. Quy mô tác phẩm ngắn gọn, tình huống lý thú, hấp dẫn
Giai thoại thường phải hết sức ngắn gọn. Một giai thoại hấp dẫn cần phải có
lời kể, lời thoại thật ngắn gọn. Đây là yếu tố làm tăng kịch tính và độ căng cho câu
chuyện. Theo khảo sát hơn 1000 giai thoại, chúng tôi thấy quy mô tác phẩm ngắn
gọn là đặc điểm của thể loại này. Giai thoại ngắn nhất có quy mô vài chục từ, giai
thoại dài nhất là vài chục trang kể về cuộc sống đời thường của các tác gia. Chúng
tôi mới chỉ xác định quy mô ngắn gọn là đặc điểm của giai thoại mà chưa khẳng
định rằng đây là đặc trưng, bởi vì, bản thân các thể loại văn học dân gian khác cũng
có thể có đặc điểm này (như truyện cười, truyện ngụ ngôn), phải nhìn nhận khách
quan trong cái nhìn so sánh cụ thể.
Các thể loại tự sự dân gian khác như thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ
tích… không có nhu cầu kể ngắn gọn như giai thoại. Lấy ví dụ về thể loại truyền
thuyết: Cốt truyện truyền thuyết lại xoay quanh nhiều nhân vật, thậm chí có truyện
có hai hệ thống nhân vật đối lập nhau như Truyện An Dương Vương: Một bên là An
Dương Vương, Mỵ Châu, thần Kim Quy; một bên là Triệu Đà, Trọng Thủy, con
tinh Gà Trắng. Kết cấu truyền thuyết có hai loại: loại cốt truyện đơn và loại cốt
truyện xâu chuỗi. Chẳng hạn như Truyền thuyết về Lê Lợi gồm những chuỗi tập
trung nói về người anh hùng Lê Lợi. Nó không chỉ có một mà là rất nhiều truyện.
Chính kết cấu và cốt truyện truyền thuyết đã khiến cho quy mô của thể loại này
không thể ngắn gọn. Hay như truyện cổ tích, quy mô của thể loại này cũng tương
đối dài. Truyện cổ tích thường được xây dựng theo một số sơ đồ chung nhất định.
Cơ sở để xác lập sơ đồ kết cấu truyện cổ tích là những hành động của nhân vật
chính. Có thể phác thảo sơ đồ kết cấu của truyện cổ tích thần kì dân tộc Việt như
15
sau. Phần đầu: nhân vật chính xuất hiện. Phần giữa: cuộc phiêu lưu của nhân vật
chính trong “thế giới cổ tích”. Phần kết: Đổi đời hay là sự thay đổi số phận trong
“thế giới cổ tích”. Như vậy, ở hai thể loại có vẻ “dài hơi” này của văn học dân gian,
chúng tôi thấy rõ sự khác biệt với giai thoại về quy mô tác phẩm.
Tiếp tục so sánh với truyện ngụ ngôn và truyện cười - hai thể loại có quy mô
tác phẩm tương đối ngắn. Kết cấu của truyện ngụ ngôn chỉ nêu ra một hoàn cảnh,
một tình huống, trong đó diễn ra một hành động của một hoặc một vài nhân vật,
nhằm minh hoa cho một điều răn dạy nào đó. Xung đột không có quá trình hình
thành, nó chỉ diễn ra trong một hành động. Đặc trưng này tạo nên kiểu kết cấu tiêu
biểu một màn kịch của truyện ngụ ngôn. Nó gần giống như quy tắc “tam duy nhất”
của kịch cổ điển. Theo La Phôngten, truyện ngụ ngôn gồm phần xác (câu chuyện)
và phần hồn (điều răn dạy). Có đôi khi điều răn dạy được diễn tả thành lời, tức là
dựa theo quan niệm của La Phôngten thì phần “hồn” được “hiện ra” bên ngoài xác.
Như vậy, tuy quy mô truyện ngụ ngôn ngắn gọn nhưng rõ ràng không thể nhầm lẫn
với giai thoại được, chỉ còn lại truyện cười là thể loại cần xem xét kĩ trong cái nhìn
so sánh với giai thoại.
Như đã nói ở phần trên, giữa truyện cười và giai thoại có sự giao thoa nhưng
không có nghĩa là không thể xóa ranh giới giữa chúng. Cả hai thể loại đều có quy
mô tác phẩm ngắn gọn, có độ căng kịch tính. Vậy, dựa vào đâu để phân biệt chúng?
Một truyện cười sở dĩ được gọi là truyện cười là do tính gây cười tạo nên. Một giai
thoại sở dĩ được gọi là giai thoại vì có tính lý thú. Đương nhiên, nói như thế không
có nghĩa là tuyệt nhiên giai thoại không có tiếng cười mà đó là cái cười thầm, cười
mỉm chứ không phải cười vang, cười sảng khoái, cười rộ như truyện cười. Guxép
nói tình huống lý thú chính là đặc trưng của giai thoại. Hay nói cách khác, đó chính
là kịch tính, dẫn câu chuyện tới chỗ thắt nút, rồi bất ngờ mở nút, dẫn người nghe tới
một khoái cảm thẩm mĩ cao độ, đầy hứng thú.
Có thể lấy ví dụ cho đặc trưng này:
Sách Kho tàng giai thoại Việt Nam của Vũ Ngọc Khánh có giai thoại như sau:
16
“Một buổi trưa hè, trời vừa tạnh mưa, Tú Xương đứng ngóng sang nhà đối
diện, thấy cô Nghĩa nhà hàng xóm đang rửa dưa trong cái thau đồng , bất giác đọc
lên mấy câu:
Ước gì ta hóa ra dưa
Để cho người tắm nước mưa chậu đồng
Ước gì ta hóa ra hồng
Để cho người bế, người bồng trên tay” [19, tr. 46].
Phải thừa nhận bài thơ rất dí dỏm, rất hay. Nhưng mấy lời trên chỉ có thể
xem như một tiểu dẫn về hoàn cảnh sáng tác bài thơ, chứ chưa được xem là một giai
thoại vì nó thiếu kịch tính. Hơn nữa, thông thường, đã gọi là giai thoại thì phải có
đối thoại, đặc trưng này sẽ nói thêm ở phần sau. Ở đây mới chỉ thấy Tú Xương làm
thơ đùa chơi, mà chưa thấy cô hàng xóm đáp trả thế nào. Do đó, mới chỉ có giai mà
chưa có thoại.
Bây giờ, hãy xem xét một giai thoại có chứa tình huống lý thú. Đó là giai
thoại “Nhờ râu mà thoát đòn”:
“Tiến sĩ Từ Ô về thăm quê Thanh Miện, Hải Dương. Nghe nói Tri huyện
Thanh Miện hách dịch lắm, ai đi qua cổng huyện cũng phải “hạ mã”, xuống ngựa,
xuống cáng, không thì phải đánh đòn. Ông nghè Từ Ô liền mượn một con bò cưỡi
qua, nghênh ngang không chịu xuống. Lính bắt ông vào trình quan huyện. Ông khai
là thầy đồ già đi dạy học ở xa mới về nên không biết lệ, và lệ quan chỉ bắt xuống
ngựa, chứ có bắt xuống bò đâu. Quan huyện nghe nói trôi chảy, bèn bảo lẽ ra phải
đánh đòn, nhưng nể cái bộ râu của ông - ý nói già cả, nên tha, tuy vậy phải đối một
câu đối để tạ ơn. Rồi hắn đọc một câu rằng:
- Huyện quan Thanh Miện kiến vô lễ nhi dục công.
Nghĩa là: Quan huyện Thanh Miện thấy kẻ vô lễ nên muốn đánh.
Ông nghè Từ Ô nghe tri huyện nói “nể bộ râu” liền ứng khẩu đối lại:
- Tiến sĩ Từ Ô hạnh hữu tu nhi đắc thoát.
Nghĩa là: Tiến sĩ Từ Ô may nhờ có râu mà thoát đòn.
Quan huyện nghe đối, biết đó là tướng công Trần Văn Trứ, đại thần ở trong
triều, sợ toát mồ hôi, sụp lạy xin tha tội” [19, tr. 168].
17
Câu đối thú vị ở chỗ “nhờ râu mà thoát đòn”. Tình tiết câu chuyện giàu kịch
tính, tạo được bất ngờ cho người nghe. Một giai thoại văn học thế là khá trọn vẹn,
có giai và có thoại.
Qua dẫn chứng ở trên, chúng tôi thấy, tính lý thú chính là linh hồn của giai
thoại văn học. Thiếu tính lý thú, câu chuyện không còn hấp dẫn người nghe nữa.
Theo nhà nghiên cứu Lã Nguyên, giai thoại thiên về lối kết cấu xâu chuỗi -
hoặc là xoay quanh các nhân vật nào đó, hoặc là những đặc điểm dân tộc nổi bật của
các nhân vật hành động - nói lên tính tự sự của nó. Chức năng làm nổi bật tính hai
mặt của tình huống truyện kể rốt cuộc quyết định toàn bộ tổ hợp đặc trưng thể
loại giai thoại, bao gồm cả tính hàm súc trong việc mô tả các sự kiện một cách khách
quan. Thoạt đầu, nhân vật giai thoại được đặt ở vị thế bình thường, ai cũng biết rõ, về
sau diễn ra sự thay đổi hoàn toàn trong việc tiếp nhận và đánh giá nó, tức là xuất hiện
đột biến di chuyển về phía cái đặc biệt mới mẻ, khác lạ: điểm nhìn mới đối với tình
huống ban đầu hoá ra hoàn toàn hợp qui luật. Thời gian để nhân vật từ vị thế bình
thường đến đột biến rất ngắn, chỉ trong một khoảnh khắc của lời nói. Điều đó khiến
cho câu chuyện trở nên bất ngờ, gây hứng thú với người nghe, người đọc.
Như vậy, tiêu chí đầu tiên để nhận diện thể loại giai thoại chính là quy mô
của các tác phẩm thuộc thể loại này ngắn gọn, tình huống thoại lý thú, hấp dẫn đưa
người đọc đến điểm đột biến, khiến câu chuyện hấp dẫn, lý thú. Chính yếu tố lý thú
này là cái thu hút người đọc, làm cho thể loại vừa có “giai”, vừa có “thoại”.
1.1.2.2. Lời thoại giàu trí tuệ, dí dỏm
Giai thoại bắt buộc phải có lời thoại, tức có đối đáp giữa các nhân vật.
Không có lời thoại, câu chuyện dù thú vị đến đâu cũng không thể thành giai thoại.
Đặc điểm này có tính khu biệt giai thoại với các thể loại văn học dân gian khác.
Trong khi đó, không ít truyền thuyết, truyện cổ tích rất hấp dẫn mà chẳng cần có lời
thoại nào. Có giai thoại tần suất xuất hiện lời thoại chiếm phần lớn dung lượng chữ
của cả giai thoại. Chúng ta lấy một số ví dụ sau đây:
“Khoảng cuối đời Trần, có Bảng Nhãn Lê Hiến Phủ người làng Chính An,
huyện Đông Triều, tỉnh Hải Dương làm quan tới chức Đại học sĩ, là người rất trung
thực, không sợ cường quyền.
18
Tương truyền, khi Hồ Quý Ly đang chuyên quyền, thường ngày đến làm
việc ở nhà chính sự đường vẫn ngồi trên một chiếc ghế đen. Lê Hiến Phủ thấy
vậy liền cự rằng:
- Nay ông dám ngồi ghế đen, rồi nữa ngai vàng ông cũng ngồi à?
Hồ Quý Ly gật gù đáp:
- Xin ông hãy đổi cái bụng dạ ấy đi.
Hiến Phủ không hề sợ, cứng cỏi trả lời rằng:
- Bụng dạ trời sinh, sao có thể đổi được!
Đoạn ngâm mấy câu thơ rằng:
Ngã tâm phỉ thạch
Bất khả chuyển giã
Ngã tâm phỉ tịch
Bất khả quyển giã.
Nghĩa là:
Lòng ta chẳng phải hòn đá;
Không thể chuyển vần được!
Lòng ta chẳng phải chiếc chiếu,
Không thể cuốn tròn được.
Rồi lại nói: “Lòng ta như thế đấy”.
Quý Ly nghe nói giận lắm nhưng vẫn lẳng lặng không nói gì cả.
Sau đó, Hiến Phủ tâu với vua, vua càng tin dùng hơn và phong cho chức
Hiến gián đại phu. Ít lâu sau Hiến Phủ cùng với vua tìm cách trừ Quý Ly, sai một
người môn khách giấu mũi nhọn trong tay áo để ám sát, song việc không thành, ông
bị Quý Ly đem giết.
Trước khi hành hình, ông vẫn ung dung đọc bài thơ cảm khái, có câu rằng:
Thốn nhẫn trừ tàn thiên địa bạch
Nhất tâm báo quốc quỷ thần tri.
Tạm dịch thơ:
Tấc nhọn trừ gian trời đất biết
Tấm lòng đền nước quỷ thần hay.
19
Nhà vua nghe tin rất thương xót ông, ban cho cỗ áo quan bằng gỗ quý và
truyền chôn cất chu đáo” [19, tr. 211].
Giai thoại thường đề cao chất trí tuệ của lời thoại. Một giai thoại được xem là
hay cần phải có lời thoại hay, giàu chất trí tuệ (riêng ở giai thoại văn học, thủ pháp
chơi chữ còn được xem là dấu hiệu đặc trưng của tiểu loại). Chính đặc trưng này
giúp giai thoại đạt được tính lý thú.
Lấy ví dụ về giai thoại “Ăn hai đấu học hai canh” sau để thấy rõ tính trí tuệ
trong lời thoại:
“Lê Nại người đời Lê, quê ở làng Mộ Trạch, Hải Dương là học trò nghèo mà
học giỏi, được thượng thư Vũ Quỳnh người đồng ấp thương mến, cho ở rể nuôi cho
ăn học. Lúc đầu, Nại chẳng chịu học hành, mà cũng chẳng mó đến việc gì. Vũ Quỳnh
lấy làm lạ, liền đến hỏi ông bố Lê Nại thì đươc biết Nại ăn rất khỏe, chắc là ăn chưa
đủ no. Vũ Quỳnh về nhà, sai dọn cơm riêng cho Nại ăn. Cho ăn một đấu, học đến tối.
Cho ăn một đấu năm lẻ, học đến trống canh ba. Cho ăn một đấu tám lẻ, học đến trông
canh tư. Sau định mức cho ăn hai đấu. Từ đấy, Nại học thâu đêm suốt sáng. Lúc bố
vợ thử tài học, bảo làm thơ. Nại chẳng cần nghĩ, đọc ngay bài thơ vui rằng:
Mộ Trạch tiên sinh
Ăn khỏe nổi danh
Mười tám bát cơm
Mười hai bát canh
Đỗ đầu khoa bảng
Tên trội quần anh
Chứa vào càng lớn
Nở ra càng phình” [19, tr. 143].
Trong thực tế, cũng có những người ăn khỏe như Lê Nại. Rõ ràng, ở đây, tác
giả dân gian đã khoa trương, khiến tình huống giai thoại thêm hấp dẫn, gây hứng
thú cho người nghe. Cách nói khoa trương ở đây đã tạo nên chất trí tuệ trong lời
thoại. Tình tiết ông bố vợ cho chàng rể ăn cũng mang tính chất hài hước, thú vị,
giàu kịch tính. Cho ăn một đấu học đến tối. Rồi tăng dần, đến định mức hai đấu thì
học thâu đêm suốt sáng.
20
Giai thoại thường pha giọng dí dỏm, hài hước, phê phán. Giọng điệu này gắn
bó chặt chẽ với nội dung phản ánh của nó. Sở dĩ giai thoại có giọng kể này là vì lời
thoại tác phẩm luôn có tính trí tuệ nên nếu người kể kể với giọng đều đều, không rõ
ngữ điệu, thiếu dí dỏm sẽ mất đi cái lý thú, cái “thần” của câu chuyện. Lấy ví dụ về
giai thoại “Đầu nhà sư móm” sẽ rõ hơn về đặc điểm này.
“Nhà sư nọ là người không có đạo hạnh, nhân dân không kính trọng. Sư rụng
hết răng cửa thành ra móm, lại nuôi một chú tiểu ngọng líu. Thật là một tình huống
hài hước. không khác gì cảnh trong câu ca dao hài:
Chồng què lấy vợ kiễng chân
Nuôi được thằng ở đứt gân cũng què.
Nguyễn Khuyến đến thăm sư, làm đôi câu đối đùa:
Phất phất phóng phong phan, pháp pháp phi phù, phù phụng phật
Căn căn canh cổ kệ, cao ca kỷ cứu, cứu cùng kinh.
Nghĩa là:
Phất phới phóng phan bay, phù phép phá bùa, bùa phụng phật
Khề khà ca kệ cổ, nghêu ngao nghiền ngẫm, ngẫm ngầm kinh.
Chỗ thú vị của câu đối là ở âm đọc, câu trên nghe có giọng phều phào của
người móm, còn câu dưới nghe ngúc ngắc, cứng quèo như giọng của người ngọng.
Sư biết Nguyễn Khuyến trêu chọc, cũng bực, nhưng vì câu đối tài tình quá, nên sư
tỏ ra hết sức kinh ngạc và kính phục, chỉ cười mà không trách cứ gì” [19, tr. 230]
Ở các thể loại dân gian khác, như truyền thuyết, “truyền thuyết luôn mang
giọng điệu trang trọng, thành kính, phù hợp với thái độ đánh giá lịch sử” [47, tr.
95]. Những từ ngữ sau đây thường hiện diện trong truyền thuyết nhưng không bao
giờ thấy trong giai thoại: “để ghi nhớ tấm lòng nhân hậu…; để ghi nhớ câu chuyện
thương tâm…; nhân dân trong vùng rất thương nhớ…; …nhưng tên tuổi ông được
lưu danh muôn đời trong lịch sử, trên bia miệng…”. Chúng tôi so sánh như vậy để
thấy được rằng lời thoại, ngôn ngữ của giai thoại rất di dỏm, nó có những đặc trưng
riêng biệt, có màu sắc riêng với các thể loại dân gian khác.
Do đặc điểm của kết cấu giai thoại (kết cấu có dáng dấp một màn kịch), đối
thoại đóng vai trò quan trọng trong lời văn kể chuyện. Có thể hình dung lời văn kể
21
chuyện gồm hai phần: phần đối thoại là “tiêu điểm” của hành động và diễn hóa
hành động của nhân vật, còn phần còn lại của lời văn kể chuyện là những chỉ dẫn về
hoàn cảnh và diễn hóa của hoàn cảnh. Có thể nói, trong giai thoại, đối thoại lời nói
của nhân vật đóng vai trò chính trong việc thể hiện tính cách của nhân vật. Do đó,
đây cũng là chỗ kết tinh những nét đặc sắc của ngôn ngữ giai thoại: tính chất giản dị
và tự nhiên, sinh động và sắc bén…trong đó, tất nhiên, nét nổi bật là tính chất hài
hước, thú vị, lý thú, chắt lọc từ nguồn khẩu ngữ dân gian. Điều này góp phần làm
nổi bật tính trí tuệ của lời thoại.
Ví dụ về thoại “Bảo một đằng, làm một nẻo” sau đây:
“Đó là khoảng năm 1908, trước tết Nguyên Đán mấy hôm. Một học trò cũ
đến thăm cụ Tam Nguyên. Sau khi ân cần hỏi thăm gia đình, sức khoẻ, Cụ mới hỏi
đến nghề nghiệp và công việc làm ăn. Khách lễ phép thưa:
- Mười năm trước con đã có phúc đến ăn mày cửa thầy được ít chữ nghĩa.
Nhưng rồi thời thế đổi thay, vì sinh kế con phải xoay sang đường tân học.
Nay con đang làm thông sự tại tòa sứ một tỉnh miền trong.
Cụ Tam lắng nghe chăm chú, khách tiếp:
- Thưa thầy, bấy lâu xa cách, nay được về nghỉ tết, con ghé thăm thầy... Lòng
thành, con có chút quà mọn biếu thầy gọi là chúc tết, xin Thầy nhận cho. Anh ta đặt
gói quà lên sập.
- Anh lại có quà cho ta nữa ư? Cảm ơn anh, thầy xin...
Cụ đưa tay rờ rẫm bên phải, không thấy. Khách thưa:
- Thưa thầy bên này kia ạ!
Cụ đưa tay bên trái, lại cũng không thấy. Khách đẩy gói quà tận tay cụ. Bỗng
cụ bật cười, nói mà như đọc:
- Hay thật là hay đáo để! Bảo một đàng, quàng một nẻo!
Thầy trò cùng cười. Nhưng bỗng nhiên người học trò im bặt, sượng sùng vì chợt
hiểu, câu nói hồn nhiên kia không phải cụ chỉ có ý đùa về sự mù lòa, lẩm cẩm, mà còn
hàm ý: Thầy dạy anh một đàng, nay anh quàng một nẻo, anh đi làm việc cho Tây.
Trầm ngâm một lát, Cụ tiếp, giọng xa xôi, buồn bã:
- Thôi thế thì thôi cũng được! Phi đằng nọ, tắc đằng kia!
22
Khách lặng người vì cảm động. Anh ta hiểu nỗi lòng ngao ngán của thầy
trước thế cuộc, cũng như thái độ khoan dung nhân hậu của thầy” [19, tr.233].
Chắc hẳn, anh học trò sẽ không bao giờ quên lời nói tự nhiên mà thành câu
đối thâm trầm này:
- Hay thật là hay đáo để! Bảo một đàng, quàng một nẻo!
- Thôi thế thì thôi cũng được! Phi đằng nọ, tắc đằng kia!
Lời văn kể chuyện của thoại trên có mấy nét đáng chú ý:
Thứ nhất, lời kể đậm đà chất dân gian, chất khẩu ngữ. Đặc điểm này khá gần
gũi với truyện cười dân gian. Để đả kích và răn dạy anh học trò, Nguyễn Khuyến đã
không dài dòng mà dùng thành ngữ và cách nói đậm chất khẩu ngữ: “bảo một đàng,
quàng một nẻo”, “phi đằng nọ, tắc đằng kía”, “thôi thế thì thôi”.
Thứ hai, chỉ cần xâu chuỗi những từ ngữ đặc tả hành vi của nhân vật trong
lời văn kể chuyện, cũng đủ thấy hiện lên sống động không chỉ một tình huống lý
thú mà cả diễn hóa của nó: thầy dạy trò điều hay, lẽ phải nhưng trò lại làm ngược
lại những đạo đức ấy - đi làm việc cho Tây, trò về thăm thầy - thầy răn dạy, trò
sượng sùng.
Ở phần này, chúng tôi xác định, lời thoại trí tuệ, dí dỏm là một trong những
tiêu chí nhận diện thể loại giai thoại. Tiêu chí này có liên quan chặt chẽ đến nội
dung, nghệ thuật cũng như nhân vật chính của giai thoại. Những nội dung này sẽ
làm rõ hơn ở phần sau của luận văn.
1.1.2.3. Đời thường hóa nhân vật
Giai thoại chỉ tập trung kể chuyện sinh hoạt đời thường, chuyện “thâm cung
bí sử” của những nhân vật vốn nổi tiếng. Một giai thoại, dù đã có tình huống lý thú,
lời thoại lý thú nhưng nếu được gán vào một nhân vật nổi tiếng thì tính lý thú của
nó càng tăng thêm bội phần. Không ít giai thoại văn học đã được lịch sử hóa, có lẽ
cũng từ quan niệm này. Còn đó, giai thoại về các hoàng tử con vua Gia Long:
Nguyễn Phúc Phổ ngổ ngáo, Nguyễn Phúc Đài tham lam, Nguyễn Phúc Quân xấc
xược … Rồi chuyện các đại thần: tướng Lê Văn Quân chết rồi vẫn bị đánh 100 gậy,
23
Tả quân Lê Văn Duyệt bị san mộ, Tham tri Nguyễn Tri Phương bị vua nghiêm phê,
Tiến sĩ Phan Thanh Giản bảy lần bị trách phạt…
Riêng tiêu chí này, chúng tôi so sánh nhân vật giai thoại với nhân vật truyền
thuyết để thấy rõ sự khác biệt. Sở dĩ chúng tôi lựa chọn truyền thuyết vì đây là thể
loại cũng kể về những nhân vật có thật trong lịch sử, song khác với xu hướng miêu
tả hoàn toàn trái ngược. Trong truyền thuyết, ngoài những anh hùng dân tộc như
Trương Định, Thiên Hộ Dương, Nguyễn Trung Trực, Thủ Khoa Huân … tác phẩm
có thể chỉ kể về những người xuất thân bình thường hoặc vô danh. Đơn cử, đó là
chuyện mười tám nghĩa binh phò Trương Định, chuyện ông lực điền Phòng Biểu -
tướng tài của Thiên Hộ Dương, chuyện Bà Điều, Bà Đỏ - nghĩa quân thân tín của
Nguyễn Trung Trực, chuyện tướng cướp hoàn lương Sáu Hải - người đánh mõ trung
thành của Thủ Khoa Huân… Điều này, với giai thoại là hiếm thấy.
Về cách miêu tả, giai thoại thường đưa cuộc đời nhân vật đi từ chỗ bí ẩn trở
về gần gũi với mọi người. Nó có xu hướng kéo nhân vật xuống đời thường. Lấy ví
dụ những giai thoại về cuộc đời Từ Dũ - bậc mẫu nghi thiên hạ những lời nói, việc
làm hàng ngày lại bình dị, rất đời thường.
Chuyện kể rằng, từ lúc vào cung làm vợ hoàng tử Miên Tông rồi sau này trở
thành hoàng quý phi của vua Thiệu Trị, hay lúc là Từ Dũ Thái hậu, bà Từ Dũ vẫn
luôn là người sống giản dị, khiêm tốn, kính trên nhường dưới cho dù luôn được vua
sủng ái, cuộc sống đầy đủ. Điều khiến bà bất bình nhất là sự ăn chơi vô độ, xa hoa,
phung phí. Bà vẫn thường dạy các cung phi trong hậu cung: Tất cả những gì chúng
ta được hưởng đều là mồ hôi của dân. Nếu lãng phí đã không ích gì mà lại đáng
tiếc, sao bằng lưu lại để triều đình dùng cho việc nước. Nói là làm, tất cả những
gấm vóc, châu ngọc, lụa là được ban tặng, bà đều giao nộp vào kho, tuyệt nhiên
không dùng đến. Bà chỉ có vài bộ xiêm y để thay đi thay lại. Có lần vua Tự Đức đến
thăm, thấy xiêm áo mẹ mặc vải đã sờn, liền ngỏ ý may cho bà áo mới, nhưng bà
kiên quyết chối từ. Hoàng Thái hậu Từ Dũ tiết kiệm đến nỗi chính các cung nữ hầu
cận bà cũng phải kinh ngạc. Bà quan niệm hạt gạo là hạt ngọc trời ban nên không
bao giờ được phép lãng phí. Có lần thấy cung nữ ở cung Gia Thọ đổ cơm nguội
24
xuống dưới rãnh nước, bà bắt nhặt lên, đem rửa thật sạch rồi đem hấp lại và đích
thân ăn chỗ cơm đó trước sự hổ thẹn của xung quanh. Thời vua Thiệu Trị còn sống,
có lần vào cung thăm bà, vua thấy bà dùng chiếc quạt nan tre đã sờn rách, chiếc bát
ăn cơm bà dùng cũng có vết rạn, vua bèn sai người đổi cái khác nhưng bà không
cho. Bà nói: Đổi cái mới để lâu nó cũng cũ đi, vậy thì cứ để lại cái cũ. Ngay cả
những cây nến trong hậu cung cháy hết, còn lại mẩu thừa, cung nữ thường vứt đi,
Từ Dũ Thái hậu cũng bắt gom lại để dành, dồn vào nấu thành cây nến khác. Bà
thường nói với các cung nữ: Ta tự thấy không làm gì có ích cho nước nhà, sao lại
cậy thế là mẹ vua để ăn tiêu xa xỉ. Một sợi tơ, một hạt hạo đều là máu mỡ của dân,
tuyệt không được coi thường mà hoang phí? Sinh thời, làm việc gì, tiêu đồng tiền gì
dù là nhỏ nhất, Từ Dũ Thái hậu cũng nghĩ đến dân. Dịp lễ mừng thọ bà, bà thường
lấy lý do nhân dân còn nghèo, thiên tai mất mùa, đói ăn mà từ chối lời đề nghị tổ
chức mừng thọ của vua. Là người yêu nước thương dân, Từ Dũ Thái hậu đã đứng ra
xin vua miễn thuế cho dân. Nhân dân biết ơn đã làm một bài vè dài 700 câu để ca
ngợi tấm lòng nhân đức của Từ Dũ Thái hậu.
Hay như Nguyễn Trãi - một danh nhân văn hóa, một nhà thơ lỗi lạc trong
lịch sử dân tộc. Ông đã được lịch sử, truyền thuyết ca ngợi, tôn thờ nhưng những
mẩu giai thoại về cuộc đời ông đã giúp người đọc hình dung ra một Nguyễn Trãi
cũng bình dân, đời thường như bao người dân khác, cũng có ái, ố, hỉ, nộ, yêu
ghét… Giai thoại “Câu thơ nên nghĩa” dưới đây giúp chúng ta phần nào thấy
được chân dung ấy:
“Sau kháng chiến Bình Ngô. Một buổi chiều từ triều trở về, qua Hồ Tây trời
xâm xẩm, Nguyễn Trãi gặp một cô gái đi bán chiếu rong. Rung động trước vẻ đẹp
tuyệt trần của cô gái, tâm hồn thi sĩ bỗng nhiên lên tiếng:
Nàng ở đâu ta bán chiếu rong?
Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn?
Xuân thu chừng độ bao nhiêu tuổi
Đã có chồng chưa, được mấy con?
Người con gái nhìn thẳng vào vị đại thần, tình tứ đung đưa cặp mắt lá răm:
25
Thiếp ở Tây Hồ bán chiếu gon
Nỗi chi ông hỏi hết hay còn?
Xuân xanh vừa độ trăng tròn lẻ
Chồng còn chưa có, hỏi chi con?
Nguyễn Trãi thấy đối đáp trôi chảy, trong lòng xốn xang. Hỏi tên biết
nàng là Thị Lộ, quê làng chiếu Hải Triều, Thái Bình, mới đem về cưới làm vợ.
Vua Thái Tông cảm vì sắc, phục vì tài hay chữ, phong là Nữ học sĩ, thường thư-
ờng cho vào nơi cung cấm, dạy các cung phi. Nguyễn Thị Lộ là người vợ tâm
đắc nhất của Nguyễn Trãi” [19, tr. 156].
Ngược lại, truyền thuyết đưa nhân vật đi từ chỗ bình thường hóa thành thiêng
liêng, bất tử. Nó theo xu hướng nâng nhân vật lên ngưỡng đề cao, tôn thờ. Điều này
hoàn toàn ngược lại với giai thoại. Đó chính là điểm khu biệt cho thể loại này với
truyền thuyết. Ví dụ, chuyện ông Dương Văn Hạnh, phó xã trưởng đất Lý Nhơn, vì
giấu tung tích Trương Định mà bị chặt đầu nên nhân dân tôn thành Ông thần không
đầu; chuyện Bà Bầy, vì ủng hộ nghĩa quân Thiên Hộ Dương mà bị giặc bắt tra tấn,
hãm hiếp đến chết nên được nhân dân thương tiếc, lấy tên bà đặt cho một vàm sông
- vàm Bà Bầy …
“Giai thoại luôn gắn với không gian, thời gian sinh hoạt đời thường, hàng
ngày. Còn truyền thuyết luôn gắn với không gian thiêng, thời gian thiêng, liên quan
đến vận mệnh nhân vật và dân tộc. Trong truyền thuyết, cho dù một vàm sông, con
rạch bình thường cũng gắn liền với công đức, sự hy sinh dũng liệt của những người
yêu nước (vàm Hổ Cứ, vàm Bà Bầy, rạch Nàng Hai, Vũng Linh,…)” [47, tr. 95].
Các tình tiết, sự kiện, cho dù gần với sinh hoạt đời thường cũng gắn liền với một
thời khắc lịch sử nào đó, có ý nghĩa đặc biệt trong cuộc đời nhân vật lịch sử.
So sánh như vậy để thấy rõ rằng cùng viết về một đối tượng là nhân vật có
thật trong lịch sử nhưng ở những thể loại khác nhau thì hướng khai thác cũng khác
nhau. Nếu như truyền thuyết hướng vào cái phi thường của nhân vật thì giai thoại
lại đi sâu vào cái đời thường. Một thể loại khiến người đọc, người nghe có thái độ
ngưỡng vọng, ngợi ca, còn một thể loại lại nhằm mục đích giúp người đọc biết xoay
quanh cuộc sống sinh hoạt, tình cảm, đời tư của chính những con người phi thường
26
ấy. Xu hướng đời thường hóa nhân vật kéo nhân vân vật đến với độc giả gần gũi
hơn, cung cấp một cái nhìn toàn diện, đầy đủ về nhân vật.
Ở đây, chúng tôi bước đầu xác định các tiêu chí để nhận diện thể loại giai
thoại. Theo chúng tôi, phải có sự tổng hợp, liên kết các tiêu chí trên với nhau thì
mới có cái nhìn toàn diện, chính xác cao về việc nhận diện thể loại giai thoại.
1.2. Vấn đề phân loại giai thoại
Về cơ bản, văn học dân gian có thể phân loại thành 3 loại: loại tự sự, loại trữ
tình và kịch. Vậy, giai thoại được xếp vào loại nào trong đó?
Giai thoại là đối tượng nghiên cứu khá mới mẻ của văn học dân gian và cả
văn học thành văn. Tuy được một bộ phận nghiên cứu công nhận là một thể loại
nhưng lý thuyết về nó còn ít được chú ý.
Về vấn đề phân loại giai thoại, Guxép đã nhận xét: “Các tiểu loại giai thoại
chưa được phân hóa rõ rệt”. Qua quá trình sưu tầm giai thoại ở nước ta từ trước đến
nay, chúng tôi thấy tình trạng tương tự. Mặc dù, người ta có thể phân loại giai thoại
thành nhiều chủng loại khác nhau: Giai thoại văn chương, Giai thoại văn nghệ, Giai
thoại văn nghệ dân gian, Giai thoại làng Nho, Giai thoại phụ nữ, Giai thoại folklore,
Giai thoại xứ Lạng, Giai thoại Thăng Long… Nhưng thực ra, đó chỉ là sự sắp xếp,
phân loại có phần tùy tiện, chưa có tiêu chí rõ ràng. Chỉ có thể coi đó là sự phân loại
tạm thời, để công bố, chưa thể coi đó là sự phân loại khoa học.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Bích Hà trên cơ sở tìm hiểu các giai thoại qua một
số tư liệu đã được chính thức xuất bản, đã chia giai thoại thành các bộ phận sau:
- Giai thoại văn học
- Giai thoại danh nhân
- Giai thoại cười
Giai thoại văn học được hiểu là những mẩu chuyện về các nhà văn, hoặc
những người yêu thích thơ văn và sáng tác thơ văn.Nó khiến ta hiểu các nhà văn
hoặc các sáng tác văn chương của họ một cách đầy đủ và sâu sắc hơn. Chẳng hạn
những mẩu chuyển về Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn
Tuân, Xuân Diệu…
27
Giai thoại danh nhân là những mẩu chuyện kể xung quanh những nhân vật
nổi tiếng trong nhiều lĩnh vực khác nhau, khiến cho ta hiểu họ một cách sinh động
và giàu nhân văn hơn. Chẳng hạn, chuyện kể Nguyễn Hiền, Lê Quý Đôn, Lương
Thế Vinh, Lê Hữu Trác…
Giai thoại cười là những mẩu chuyện xoay quanh một nhân vật chuyên gây
cười. Từ đó thể hiện trí tuệ dân gian và tính chất xã hội của truyện. Những truyện
này giống truyện tiếu lâm ở một số tình tiết gây cười, nhưng khác tiếu lâm ở chỗ nó
có một nhân vật trung tâm, đây đồng thời là nhân vật gây cười chứ không phải là
đối tượng của tiếng cười. Trong khi ở truyện tiếu lâm thì nhân vật gây cười đồng
thời chính là đối tượng của tiếng cười. Truyện Trạng Quỳnh, Xiển Ngộ, Bác Ba
Phi…thuộc loại truyện này. Tuy nhiên, nhà nghiên cứu cũng chỉ rõ, cách chia này
mới chỉ là tạm thời.
Vũ Ngọc Khánh, người đã từng sưu tầm, biên soạn nhiều chủng loại giai
thoại và đã công bố cả một bộ Kho tàng giai thoại Việt Nam đồ sộ cũng tỏ ra có
những băn khoăn trong việc phân loại giai thoại. Theo ông, “thu thập kho tàng giai
thoại cũng gặp một số khó khăn trong sự phân biệt tính chất” [19, tr.12]. Bởi vì giữa
các tiểu loại có sự giao thoa, xen kẽ lẫn nhau. Chẳng hạn như các danh nhân như
Lương Thế Vinh, Lê Quý Đôn…cũng đồng thời là những người có tài văn chương,
thơ phú. Xếp những thoại xung quanh các vị ấy vào loại nào cũng khó. Hay như giai
thoại đi sứ, nên xem nó là giai thoại lịch sử hay giai thoại văn chương? Đúng ra thì
việc đi sứ thuộc hiện tượng lịch sử nhưng hầu hết các cuộc giao thiệp đều xoay
quanh những chuyện đối đáp thử tài, mà hay nhất vẫn là những tác phẩm văn học.
Trường hợp kể chuyện đi sứ dồi dào nhất có lẽ là trường hợp của Mạc Đĩnh Chi thì
toàn câu đối và câu đối.
Nhà nghiên cứu Kiều Thu Hoạch xếp giai thoại vào loại tự sự dân gian và
chia thành hai tiểu loại. Đó là: giai thoại văn học và giai thoại lịch sử. Trong từng
tiểu loại, lại có thể chia thành các nhóm nhỏ.
- Giai thoại văn học có thể chia thành:
+ Nhóm Giai thoại về các tác gia
+ Nhóm Giai thoại về các sáng tác văn học khuyết danh, vô danh.
28
- Giai thoại lịch sử có thể có các nhóm:
+ Nhóm Giai thoại về các danh nhân lịch sử, danh nhân văn hóa
+ Nhóm Giai thoại đi sứ.
Tuy nhiên, xem xét từ các tư liệu cụ thể thì lý thú nhất, hay nhất và nhiều nhất
về số lượng vẫn là các giai thoại văn học. Còn giai thoại lịch sử vừa “không mấy hấp
dẫn” (Kiều Thu Hoạch), lại không nhiều về số lượng (trừ nhóm giai thoại đi sứ - thực
ra những thoại hay, lý thú đều là những thoại gắn với nhiều câu thơ văn).
Như vậy, có rất nhiều ý kiến khác nhau về việc phân loại giai thoại. Mỗi nhà
nghiên cứu đều có những quan điểm hết sức hợp lý khi phân chia và mỗi cách lại có
những ưu điểm riêng. Khi tiến hành khảo sát và nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy ý
kiến của nhà nghiên cứu Kiều Thu Hoạch khá hợp lý. Trong phạm vi luận văn,
chúng tôi lựa chọn theo cách phân loại này để tiến hành khảo sát một bộ phận nhỏ
trong đó.
1.3. Thực tế lưu truyền giai thoại trong đời sống hiện nay
Trong loại hình tự sự dân gian ở nước ta, thể loại giai thoại mặc dù đã được
chú ý qua không ít các công trình sưu tầm, tuyển chọn có giá trị trong thời gian gần
đây, tuy nhiên, trên phương diện lý thuyết, thể loại này vẫn chưa được đào sâu, soi
sáng một cách kì cùng. Đó là chưa kể đến những ý kiến, quan điểm học thuật trái
chiều nhau. Tất cả những biểu hiện ấy khiến giai thoại chưa thể tồn tại trong trạng
thái rõ ràng nhất có thể.
Đó là vấn đề nghiên cứu lý thuyết, còn trong đời sống hiện nay, giai thoại có
sức sống như thế nào?
Thực tế cho thấy nhu cầu nói và được người khác nghe nói là không thể thiếu
đối với mỗi người trong giao tiếp. Giai thoại là những câu chuyện hay, hấp dẫn, lý
thú được kể truyền miệng. Trong đời sống hiện nay, các giai thoại có sức sống của
riêng nó, khiến nó không hề bị thui chột mà ngày càng phong phú, đặc sắc hơn. Mỗi
giới, mỗi ngành nghề lại có những thoại của riêng mình và được truyền tai nhau.
Chẳng hạn như giới nghệ sĩ hiện nay vẫn kể cho nhau nghe những câu chuyện “bất
hủ” về thủy tổ của nghề hay về các nghệ sĩ có tên tuổi trong nghề. Ví dụ như thoại
29
về tổ nghề sân khấu: Ở xã Điện Minh (Điện Bàn, Quảng Nam). Nơi đây có một làng
tên Xướng An, mà theo chiết tự có nghĩa là “nơi yên ổn của giới xướng ca vô loài”,
gồm cả ca kỹ, ăn xin… Chuyện kể rằng, dân làng này vào Nam cùng thời với Đào
Duy Từ (1572 - 1634), người đã “vượt biên” vào Đàng trong năm Ất Dậu (1627), là
một ông tổ của sân khấu. Hàng năm, vào dịp cúng thành hoàng, dân làng Xướng An
đi qua các làng kế cận để xin đồ ăn thức uống về làm lễ vật, ấy là cách nhắc nhớ
truyền thống ca kỹ, ăn xin của mình, dù làng bây giờ đã khá giả. Riêng dịp rằm
tháng 8 này, người ta kể rằng vẫn có nghệ sĩ hát tuồng đến đây cúng tổ; vào đêm
khuya, thi thoảng vẫn có người cúng len lén, họ phải che giấu thân phận vì chẳng
muốn người khác biết đến công việc của mình. Theo nhiều cao niên trong làng,
nghệ sĩ, ăn xin…cùng tổ nghề với nhau, cùng phận bên lề xã hội, nghèo hèn như
nhau…nên phải bình đẳng với nhau, không phân biệt cao thấp, coi nhau như một
nhà. Qua năm tháng, dù nếp cũ vẫn được giữ, nhưng quan niệm về tổ nghề sân khấu
thì có những biến cải và bổ túc. Ngoài những vị thuộc về “cửu huyền thất tổ”, có
tính tương truyền, mỗi ngành lại truy tôn thêm tổ nghề, thường là nghệ sĩ khai sinh
hoặc vĩ đại. Ví dụ Phạm Thị Trân là tổ nghề hát chèo; ông Làng, Liêm Thu Tâm,
Đào Duy Từ, Đào Tấn… tổ hát tuồng; Trần Quốc Đĩnh tổ hát xẩm; Tống Hữu Định,
Cao Văn Lầu… tổ hát cải lương.
Không chỉ như vậy, các thoại này còn được nâng lên thành một nét văn hóa
tâm linh. Giới nghệ sĩ còn truyền nhau nhiều trường hợp vì không kính trọng tổ
nghề mà thân bại danh liệt. Gần như hậu trường sân khấu hát bội, cải lương, kịch
nói nào cũng có một bàn thờ tổ, với vài tượng thờ nhỏ…
Hay như các giai thoại lịch sử thì vẫn có một vị trí, một sức sống mãnh liệt
trong lòng nhân dân. Bên cạnh các truyền thuyết, các di tích, đền chùa miếu mạo,
người ta vẫn kể cho nhau nghe các thoại xung quanh cuộc đời và sự nghiệp của các
nhân vật lịch sử khiến cho người nghe có ấn tượng không thể phai mờ về chiến
công của họ. Ví dụ như giai thoại “Cây thị ăn thề” kể về Lê Lợi: “Trong một lần
đánh nhau với giặc Minh, bị giặc ráo riết truy lùng, Lê Lợi đã liền chạy vào ẩn mình
trong hốc cây. Lúc bấy giờ, giặc Minh cho chó săn và lính đuổi theo, vừa đến gốc
thị, quân địch đoán chắc Lê Lợi đang ẩn nấp ở đó nên binh lính đã dùng gươm giáo
30
xỉa liên tục vào cây. Lê Lợi đã lựa tránh những mũi giáo đâm chạm vào mình thì
bỗng nhiên có con cáo từ trên cây thị xuất hiện và chạy ra ngoài, trong bóng tối giặc
nhầm tưởng là có người chạy nên đã cho chó và lính đuổi theo. Nhờ vậy mà Lê Lợi
đã có thể trốn thoát. Tại đây, ông gặp nghĩa quân Cốc Sơn do Nguyễn Tuấn Thiện
lãnh đạo nhân dân trong vùng đứng lên chống giặc Minh. Ngay từ lần đầu gặp gỡ,
hai người đã có cùng chung chí hướng, tiếng nói chung, quyết định kết hợp lực
lượng cùng giết ngựa trắng uống máu, cắt tóc ăn thề, kết nghĩa tình anh em ngay
dưới gốc cây thị cổ thụ này.
Kể từ đó, người dân trong vùng gọi đây là “cây thị ăn thề” hay “gốc thị sử
tích”. Bốn câu thơ vẫn được người dân lưu truyền để ghi nhớ giai thoại này:
Cắt tóc, giết ngựa trắng
Dưới gốc thị thề nguyền
Nguyện đồng tâm đồng chí
Phá giặc xây cơ đồ”.
Giai thoại này được truyền từ người này sang người khác, từ đời này sang
đời khác. Cứ thế, 700 năm đã trôi qua những gần như không một ai ở khu vực này
là không biết đến, không tự hào về câu chuyện và người anh hùng của dân tộc.
Có thể nói, mặc dù chưa được đào sâu, soi sáng một cách kì cùng về vấn đề
thể loại nhưng giai thoại vẫn tồn tại trong đời sống với sức sống rất mãnh liệt.
Trong quá trình sưu tầm, điền dã, tìm tư liệu phục vụ cho luận văn, chúng tôi
được tiếp xúc với một số nhân vật, có nhà văn, nhà thơ, nhà giáo, có các sinh viên
đại học, học viên cao học… Khi được hỏi về các giai thoại xung quanh các nhà thơ,
nhà văn, các danh nhân nổi tiếng mà họ biết thì điều đầu tiên chúng tôi nhận thấy là
thái độ thích thú của họ khi kể về các câu chuyện mà họ được chứng kiến, được
biết, được nghe. Sinh viên Nguyễn Thị Hòa (K52, khoa Ngữ Văn, Đại học Sư phạm
Hà Nội) cho biết: “Ở trên lớp, khi được nghe các thầy cô kể về giai thoại xung
quanh các tác gia văn học, các bạn sinh viên rất hào hứng. Những câu chuyện đó
giúp chúng tôi hiểu thêm về các nhà văn, nhà thơ và làm cho bài học hay hơn,
chúng tôi nhớ bài lâu hơn. Khi về nhà, các bạn còn kể lại, bình luận cho nhau nghe
về các giai thoại ấy”. Còn với các giáo viên phổ thông, việc sưu tầm giai thoại xung
31
quanh bài giảng của mình sẽ “giúp bài giảng hay hơn, học sinh hứng thú hơn, đạt
hiệu quả dạy học tốt hơn” (Cô giáo Vũ Thị Thùy Linh, Trần Thị Tuyết - Trường
Trung học phổ thông Gang Thép, Thái Nguyên chia sẻ). Thậm chí, đối với các giáo
viên dạy các môn khoa học tự nhiên thì giai thoại về các nhà toán học, hóa học, vật
lý cũng được “tận dụng” để làm cho bài giảng của mình thêm hấp dẫn, sinh động.
Ngay cả đối với các nhà văn, nhà thơ, khi được hỏi về các câu chuyện về
chính mình thì họ cũng rất vui vẻ kể lại. Thoại đó có thể có thật, có thể do ai đó “hư
cấu”. Điều quan trọng mà chúng tôi muốn khẳng định ở đây là: Trong đời sống hiện
nay, giai thoại có một đời sống rất phong phú. Nó không hề bị mất đi cùng với thời
gian mà vẫn tồn tại trong lòng dân gian với sức sống mãnh liệt. Đó chính là tín hiệu
đáng mừng cho nền văn học Việt Nam nói chung và văn học dân gian nói riêng.
* Tiểu kết
Giai thoại là đối tượng còn khá mới mẻ của các nhà nghiên cứu văn học. Có
rất nhiều ý kiến trái chiều nhau về loại hình này. Có người không công nhận nó là
một thể loại văn học có chỗ đứng độc lập, riêng biệt. Có người lại đi vào khẳng định
vị trí của thể loại này. Ngay cả vấn đề xác định, phân loại các tiểu loại của giai thoại
cũng xuất hiện nhiều ý kiến khác nhau. Tuy nhiên, với mong muốn đi sâu vào khám
phá những phong phú, đặc sắc của một bộ phận văn học khá độc đáo trong kho tàng
văn học dân tộc, chúng tôi đồng ý với ý kiến của một số nhà nghiên cứu như Kiều
Thu Hoạch, Hoàng Ngọc Phách, Trần Thanh Mại…khẳng định giai thoại là một thể
loại văn học dân gian. Chúng tôi cũng bước đầu xác định một số tiêu chí để nhận
diện thể loại này, đó là: quy mô tác phẩm ngắn gọn, tình huống truyện lý thú, hấp
dẫn; lời thoại giàu tính trí tuệ, dí dỏm; nhân vật được đời thường hóa. Việc nhận
diện thể loại giai thoại cũng không căn cứ vào một tiêu chí cụ thể nào mà phải xem
xét trong sự tổng hòa các tiêu chí mà chúng tôi đã trình bày ở trên. Khi trình bày về
các tiêu chí nhận diện thể loại, chúng tôi cũng đi so sánh các tiêu chí đó với một số
thể loại văn học dân gian khác để có cái nhìn khách quan, chính xác.
Có rất nhiều giai thoại thuộc các lĩnh vực khác nhau: lịch sử, xã hội, văn
nghệ - văn học…nên việc phân loại giai thoại cũng gặp không ít khó khăn. Trong
các công trình nghiên cứu khác nhau, một số nhà nghiên cứu đã có cách phân loại
32
của riêng mình. Mỗi cách phân loại đều dựa trên những cơ sở lý luận riêng. Tuy
nhiên, các nhà nghiên cứu cũng nhận định rằng những cách phân chia đó mới chỉ là
tạm thời, chưa thực sự chính xác. Trong phạm vi luận văn, chúng tôi lựa chọn cách
phân loại của nhà nghiên cứu Kiều Thu Hoạch làm cơ sở để tiến hành đi sâu vào
phân tích một tiểu loại nhỏ: Giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam.
Mặc dù vấn đề nghiên cứu thể loại giai thoại còn nhiều ý kiến trái chiều nhau
nhưng đời sống dân gian của thể loại này rất phong phú. Trong quá trình làm luận
văn, chúng tôi nhận thấy giai thoại tồn tại ở nhiều lĩnh vực và được lưu truyền ở
nhiều người, nhiều nơi. Việc lưu truyền và thái độ tiếp nhận của mọi người với các
thoại cũng khá tích cực.
Hy vọng rằng những vấn đề lý luận và thực tế mà chúng tôi đề cập ở chương
1 của luận văn sẽ giúp người đọc, người nghiên cứu có được cái nhìn toàn diện hơn
về thể loại văn học lý thú này. Đó cũng chính là cơ sở để chúng tôi tiếp tục đi vào
chương 2 và chương 3 của luận văn - tìm hiểu giá trị nội dung, nghệ thuật của một
bộ phận giai thoại cụ thể: Giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam.
33
Chương 2
NỘI DUNG CỦA GIAI THOẠI VỀ CÁC TÁC GIA
VĂN HỌC VIỆT NAM
Theo tác giả Kiều Thu Hoạch, giai thoại văn học chia thành hai bộ phận: giai
thoại về các tác gia, các nhân vật có tên tuổi lai lịch cụ thể và giai thoại xung quanh
các nhân vật vô danh, phiếm chỉ, như kiểu thầy đồ, anh học trò, cô hàng nước, ông
quan… Trong phạm vi chương 2 của luận văn, chúng tôi tiến hành tìm hiểu và
khảo sát giá trị nội dung của bộ phận Giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam.
2.1. Đả kích, châm biếm tầng lớp có chức sắc, địa vị trong xã hội phong kiến
Trong lịch sử xã hội phong kiến Việt Nam có những giai đoạn khủng hoảng
trầm trọng, mục nát đến gốc rễ. Bối cảnh đó đã xuất hiện không ít bọn quan lại, nho
sĩ dốt, nhờ có đồng tiền mà trở thành quan. Điều đó khiến không ít nhà văn, nhà thơ
chân chính phải đau đớn, xót xa. Giai thoại về một số tác gia văn học Việt Nam đã
làm rõ hình ảnh tầng lớp có chức sắc, địa vị trong xã hội đương thời. Bộ mặt thật
của chúng được các tác gia, bằng tài năng của mình, phơi bày một cách vừa khéo
léo vừa chân thực. Qua đó, hiện lên trong mỗi giai thoại không chỉ là bản chất thực
sự của mỗi cá nhân đối tượng bị châm biếm, đả kích mà còn là cả một tầng lớp, một
bộ phận trong xã hội rối ren, mục ruỗng.
Tiêu biểu phải kể đến các giai thoại xung quanh nữ sĩ Hồ Xuân Hương. Bà
sống vào giai đoạn cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19, nữ thi sĩ lớn lên trong giai đoạn
đất nước có những bất ổn về chính trị và xã hội - thời kỳ cuộc nổi dậy Tây Sơn và
một cuộc nội chiến kéo dài ba thập kỷ dẫn tới Nguyễn Ánh đoạt được chính quyền
và bắt đầu triều đại nhà Nguyễn. Chính những thay đổi này cùng với tư tưởng
"trọng nam khinh nữ" thời phong kiến đã có ảnh hưởng lớn tới đề tài sáng tác của
Hồ Xuân Hương. Bà là người phụ nữ có tài, một hiện tượng đặc biệt trong thơ ca
thời kì trung đại. Những giai thoại xung quanh bà nhằm đả kích chế độ đương thời
và phê phán những thói hư tật xấu của những kẻ đạo đức giả, gồm cả các nhà sư và
những thầy đồ dốt. Hãy đọc thoại “Mảnh tình xẻ đôi” dưới đây: “Hồ Xuân Hương
vốn nổi tiếng tài hoa, lại hay bày ra các cuộc xướng hoạ văn thơ ở trong nhà để làm
vui, nên khách khứa thường lui tới nhà bà rất đông. Trong số đó những khách yêu
34
chuộng văn chương mà đến thì cũng có; song hạng khách vô công rỗi nghề vì tò mò
mà đến, hoặc vì sĩ diện hão mà đến cũng không phải là hiếm. Một hôm, có một
công tử con quan, học hành thì dốt nát nhưng áo quần lúc nào cũng bảnh bao đến
chơi nhà Xuân Hương. Xuân Hương lúc ấy đang bận ở nhà trong, vả cũng đã biết
đó là một anh chàng tầm thường không muốn tiếp, bèn cho cô Nhài ra mời trầu; cơi
trầu có quả cau bổ đôi kèm theo mảnh giấy đề hai câu thơ như sau:
Mảnh tình ví xẻ làm đôi được,
Mảnh để trong nhà, mảnh đệ ra!
Chàng công tử xem thơ xong, chừng liệu sức mình không đối chọi nổi, bỏ cả
trầu không dám ăn, lặng lẽ chuồn về luôn.
Nhưng được mấy hôm, không hiểu tiếc rẻ như thế nào, người ta lại thấy
chàng công tử ấy dẫn xác đến.
Lần này, Xuân Hương lại sai cô Nhài bưng cơi trầu ra mời. Chàng công tử
giơ tay định nhót miếng trầu ăn, chẳng ngờ lại thấy có mảnh giấy với bài thơ tứ
tuyệt rằng:
Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi,
Này của Xuân Hương đã quệt rồi.
Có phải duyên nhau thì thắm lại,
Đừng xanh như lá, bạc như vôi!
Chàng công tử đọc đi đọc lại mãi, mà vẫn chẳng hiểu ý tứ thế nào. Sau nghĩ
kỹ mấy chữ “Này của Xuân Hương đã quệt rồi” cảm thấy lờ mờ rằng mình bị xỏ,
nhưng lại lúng túng mãi chẳng biết đường hoạ.
Thế là lần thứ hai, chàng công tử tốt mã ấy lại đành bỏ trầu, chuồn thẳng.
Nghe đâu, từ đấy cậu cả không còn dám lai vãng tới cửa nhà Xuân Hương nữa”
[16, tr. 259].
Đối tượng bị châm biếm ở đây có thể là một cậu công tử con quan, nhà giàu
nhưng dốt nát. Cậu công tử trên không “tự lượng sức mình” mà tìm đến nữ sĩ họ
Hồ. Câu chuyện chỉ có lời thơ của Xuân Hương mà không hề có một câu nào của
cậu ta. Hạng người như thế không thiếu trong xã hội đương thời. Với cá tính và tài
năng của mình, nữ sĩ họ Hồ đã đả kích thành công hạng người đó.
35
Hay như giai thoại dưới đây:
“Đang lững thững từ chùa Trấn Quốc về Cổ Nguyệt đường thì nghe có tiếng
lơi lả, chòng ghẹo ở phía sau, biết rõ căn bệnh ăn không nên đọi, nói chẳng thành
lời của các thầy khóa, Xuân Hương lẳng lặng men theo men hồ, đến sát chân núi
Nùng, cạnh nhà, mới dùng lời sắc như dao để cắt đuôi:
- Chả mấy khi được gặp các thầy, em xin đọc hầu các thầy một bài nhé:
Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ
Lại đây chị dạy phép làm thơ
Ong non ngứa nọc châm hoa rữa
Dê con buồn sừng húc dậu thưa.
Nghe khẩu khí biết ngay là Hồ Xuân Hương, các thầy ngượng chín cả người.
Tưởng đánh trống qua cửa nhà trời, ai ngờ sấm dội, mưa chan... gẫy cả dùi, vỡ cả
trống. Tứ, ngũ túc dúm hết lại, suýt thì lộn cổ xuống hồ. Chờ cho Xuân Hương tung
tăng vào hẳn trong nhà, các thầy mới dám xiêu vẹo bước. Thật chẳng cái dại nào
giống cái dại nào. Đã ngứa nọc, buồn sừng lại gặp phải dậu thưa, hoa rữa, gỡ chẳng
ra lại còn bị cười lỡm đến thối nọc, gẫy sừng” [16, tr.263].
Ở thoại trên mới chỉ là hạng công tử bột nhà giàu, ngu dốt bị đả kích thì
giai thoại này châm biếm, đả kích, vạch trần sâu cay hơn lớp thầy khóa - những kẻ
được coi là có học thức, giỏi chữ nghĩa trong xã hội đương thời. Xã hội Việt Nam
giai đoạn từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XIX bị khủng hoảng trầm trọng. Kinh tế suy
thoái, các mặt khác đều xuống cấp về mặt chất lượng, đặc biệt là giáo dục, thi cử.
Mặc dù giáo dục vẫn, thi cử vẫn được duy trì liên tục nhưng số lượng những người
có tài năng thực sự rất ít. Đa số hạng thầy khóa đều là những kẻ có tiền, học dốt
lại thêm phẩm chất cũng suy vi. Khi gặp người phụ nữ cá tính, dám “một mình
vén váy lội qua xã hội phong kiến” như Hồ Xuân Hương thì tất cả bị “lộ” cái tài
năng thực. Tiếng cười châm biếm cất lên, đâm thẳng vào hạng “ong non, dê cỏn”
như nữ sĩ họ Hồ gọi.
Ngoài hai thoại trên còn có các giai thoại khác về bà chúa thơ Nôm cùng nội
dung này như: Ham tìm chỗ ấy, Ấy ái uông, Cặc bần - ghe Phú….
36
Bên cạnh những giai thoại xoay quanh cuộc đời và cá tính, tài năng của Hồ
Xuân Hương còn phải kể đến những thoại về Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát…
Những tác gia này cũng là những người có tấm lòng với dân, với nước. Với cá tính
mạnh mẽ, tài năng thực sự, họ nhìn thẳng vào hạng nho sĩ dốt nát để châm biếm
không khoan nhượng. Kể đến Nguyễn Công Trứ là một tác gia tiêu biểu. Nguyễn
Công Trứ là một nhà quân sự, một nhà kinh tế và một nhà thơ lỗi lạc trong lịch sử
Việt Nam cận đại. Ngay từ thuở còn hàn vi ông đã nuôi lý tưởng giúp đời, lập công
danh, sự nghiệp:
Làm trai đứng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông.
Nguyễn Công Trứ là người có tài. Là một người của hành động, trải qua
nhiều thăng trầm, ông hiểu sâu sắc nhân tình thế thái đương thời. Đọc các thoại
xoay quanh cuộc đời ông, chúng ta sẽ càng thấy rõ cái sâu sắc của con người tài
năng, cá tính này: “Gần làng Uy Viễn của Nguyễn Công Trứ có một ngôi chùa, vị
sư trụ trì ở đây là người tài cao học rộng nhưng rất kiêu ngạo, hiếu thắng. Ông này
thường tự cho mình là nhất thiên hạ, xem thường cả Nho Củng vốn từ lâu đã nổi
tiếng thần đồng khắp vùng. Biết vậy, Nho Củng cũng hiếu thắng tìm dịp gặp thử tài
cao thấp. Nhân một hôm rảnh học từ tỉnh thành về thăm nhà, Nho Củng bèn tìm tới
chùa nọ chơi. Đến nơi, thấy ngoài sân trong điện không có ai, Củng lại đang khát
nên đi thẳng vào bếp chùa để tìm nước uống, thì gặp sư trụ trì đang lúi húi bên bếp.
Quay lại nhìn người lạ, vị sư buông ra một câu không mấy hiếu khách:
Khách khứa kể chi ông núc bếp
Cậu Củng nhìn quanh, thấy một cái vại (đồ bằng sành dùng để muối cà hay
dưa) ở góc bếp, liền ứng khẩu đối lại:
Trai chay mà có vại cà sư?
Câu này thực ra được nói lên rất vô tình, nhưng vị sư kia lại cho rằng Nho
Củng thâm ý châm biếm mình có tư tình với bà vãi, nên chắp tay nhìn lên tượng
Phật đọc một câu như thanh minh cho sự đứng đắn của mình:
Xin chứng minh cho, Nam mô A Di Đà Phật.
Nho Củng chỉ vào cái kiềng trên bếp và cất tiếng đối lại:
37
Có giám sát đó, Đông Trù Tư mệnh Táo quân!
Đông trù Tư mệnh Táo quân là thần coi bếp, cầm giữ bản mệnh của gia chủ.
Bên mời Phật, bên nhờ thần ra minh chứng, quả thực là hay; lại “Đông” đối
với “Nam”, “Quân” đối với “Phật” thì thật là tài!
Đến đây thì vị sư vừa tức vừa hoảng, không ngờ gặp phải đối thủ trẻ tuổi mà
cao cường đến vậy, liền hạ một chiêu cuối cùng, vừa vỗ ngực ta đây vừa hăm doạ
đối thủ:
Thuộc ba mươi sáu quyển kinh, chẳng thiên địa thánh thần nhưng khác tục!
Nho Củng cũng quyết định tung một đòn hạ gục:
Hay tám vạn tư mặc kệ, không quân thần phụ tử đếch ra người!
Tới đây vị sư đành nín thinh, chấp nhận thua cuộc, từ đó không dám cao ngạo
nữa” [16, tr. 288].
Lại có người kể, chuyện chưa dừng ở đấy. Nho Củng đắc thắng ra về, nhưng
vừa bước đến giữa sân thì hai con chó nhà chùa xổ ra cắn, cắn quyết liệt như thể trả
thù cho chủ vậy. May có chú tiểu ngăn mãi mới được. Nho Củng dừng lại nhìn
quanh chùa rồi ngâm hai câu như một lời nhắn gửi:
Bụt cũng hiền lành, sư cũng khá,
Còn hai con chó chửa từ bi.
Giai thoại trên không hướng vào những nho sĩ đương thời nhưng cũng cần nói
thêm vào giai đoạn thế kỉ XVIII – XIX, xã hội rối ren, tầng lớp sư sãi có người xấu,
kẻ tốt, có vị chưa “tu” đúng “chuẩn mực”. Thoại trên vừa chạm đến tầng lớp đó,
vừa đả kích vào thói “sính” chữ nghĩa của một bộ phận không nhỏ.
Đương thời, các nhà Nho, thầy khóa là những người được xem là hay chữ,
hiểu biết trong xã hội. Nhưng một bộ phận không nhỏ trong số ấy lại ít quan tâm
đến vấn đề xã hội, thịnh suy của đất nước. Họ chỉ lo nghĩ cho bản thân, cho mục
đích cầu danh lợi hay phục vụ cho những thú vui. Nguyễn Công Trứ - với cái tài và
cái “ngông” của mình đã đánh thẳng vào đối tượng ấy.
“Một lần Cụ đang cưỡi bò rong ruổi chơi theo con đường thiên lí thì gặp một
toán các thầy cử tân khoa đang trên đường trẩy kinh thi hội, cười nói rôm rả, ai cũng
38
đua nhau khoe tài học tầm chương trích cú của mình. Cụ cưỡi bò đi cùng các thầy
một quãng dài, nghe các thầy nói chán rồi liền cất tiếng bắt chuyện làm quen, nói:
- Lão nghe các thầy từ nãy đến giờ trổ tài văn thơ thật sướng lỗ tai. Tình cờ
hôm nọ lão có nghe lỏm được một đoạn văn có lẽ là của một danh sĩ, bây giờ xin
đọc các thầy nghe rồi nhờ các thầy luận giải giùm cho lão với nhé.
Các thầy cử đang muốn trổ tài ta đây, thấy có dịp liền tranh nhau nói:
- Được thôi, cụ cứ đọc đi, có gì chúng tôi sẽ nói cho cụ biết.
Nguyễn Công Trứ ngồi trên lưng bò tủm mỉm cười rồi đọc một mạch:
"Sông Nhĩ Hà sâu ba mươi sáu thước, chim ăn chim béo, cá không ăn, cá bay
về núi Hồng Sơn. Nhớ thuở xa vua Thần Nông giá sắt, vua Đế Thuấn canh vân.
Cùng quăng, cùng quẳng, cùng quằng, tổng bất ngoại bò vàng chi liếm lá!...”.
Các thầy cử nghe xong, không ai bảo ai đều khen là văn kêu ý lạ; nhưng bình
giải cho rõ ràng cụ thể thì các thầy đều tịt mít. Đọc xong, Cụ Trứ xin phép dừng lại
cho bò ăn cỏ và ôm bụng cười, để các thầy suốt quãng đường cứ bàn luận mãi mà
vẫn không ai hiểu nghĩa ý đoạn văn là ra sao, xuất xứ từ đâu ra mà chưa ai từng
được nghe tới” [16, tr.293].
Một câu đố tự nghĩ ra, không đầu không cuối khiến các thầy cử tân khoa rơi
vào thế “bí”. Như vậy là đủ để Cụ biết trình độ, tài học của các thầy đến đâu. Nụ
cười châm biếm bật ra nhưng cũng thật xót xa cho một thời kì mà nền giáo dục, thi
cử xuống cấp nghiêm trọng. Hơn nữa, cái mà tác gia này gửi gắm đằng sau thoại đó
là lời nhắc nhở đến các bậc tự nhận mình là “hay chữ” trong thiên hạ đương thời
rằng hãy quan tâm đến số phận đất nước, vận mệnh dân tộc. Đó mới là vấn đề đáng
quan tâm lúc này.
Giai thoại “Thơ Bồ Tiên” sau đây là một trong những thoại tiêu biểu hướng
đến châm biếm, đả kích bọn quan lại phong kiến khoảng cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ
XX. Chúng lừa bịp nhân dân bằng giọng điệu xảo trá và bị nhà thơ của làng quê
Việt Nam vạch trần:
“Một viên quan to, có con trai được bổ tri huyện Thanh Liêm, Hà Nam (gần
huyện của Nguyễn Khuyến). Anh này do nhờ vào quyền thế của bố, lại khéo chạy
chọt với Tây nên được bổ chân tri huyện ấy. Khi nhận chức, bề ngoài anh ta tỏ vẻ
39
một viên quan thanh liêm, hiền hậu; nhưng kỳ thực là một tay ăn tiền kín đáo đồng
thời làm mật thám cho Pháp để đàn áp phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc.
Nhưng anh ta lại hay bày trò thi thơ, để lừa bịp nhân dân về uy đức của mình. Một
lần anh ta tổ chức kỳ thi thơ hàng huyện, ra đề thi là "Bồ tiên thi" (thơ roi cỏ bồ),
lấy vần "bồ" đề thi có ý nói về việc ông quan thương dân, trong khi răn bảo dân chỉ
dùng roi cỏ bồ, vì roi cỏ bồ mềm mại, đánh không đau...
Câu chuyện đồn đến tai Nguyễn Khuyến. Ông thấy chướng tai gai mắt, bèn
gửi tới cho viên quan một bài thơ như sau:
Chú huyện Thanh Liêm khéo vẽ trò
Bồ tiên mà lại lấy vần bồ
Nghênh ngang võng lọng nhờ ông sứ
Ngọng nghẹ văn chương giở giọng Ngô!
Bồ chứa miệng dân chừng bật cạp,
Tiên là ý chú muốn nhiều xu
Từ vàng sao chẳng luôn từ bạc,
Không khéo mà roi nó phết cho” [19, tr. 230].
Nguyễn Khuyến không hề sợ hãi mà nhằm thẳng vào đối tượng là tên huyện
Thanh Liêm để công kích. Giọng điệu lừa bịp nhân dân của hắn bị nhà thơ Yên Đổ
nhìn thấu tận tâm can.
Nghiên cứu các giai thoại về nội dung đả kích, châm biếm quan lại, tay sai,
chúng tôi thấy có không ít thoại xoay quanh cuộc đời Nghè Tân. Những thoại này
đọc lên khiến người đọc, người nghe thấy vô cùng lý thú. Nghè Tân tên thật là
Nguyễn Quý Tân, hiệu Đỉnh Trai, biệt hiệu là Tản Tiên Đình cư sỹ, người làng
Thượng Cốc, xã Gia Khánh, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Nguyễn Quý Tân sinh
năm 1811 trong một gia đình nhà nho nghèo; từ nhỏ đã có tiếng thông minh, học
giỏi và tài thơ văn. Năm 29 tuổi, Nguyễn Quý Tân đỗ thi Hương, đến năm Thiệu Trị
thứ hai (1842) đậu Tam giáp Tiến sỹ nên dân gian thường gọi là Nghè Tân. Bình
sinh, Nghè Tân có tính phóng túng, tự do, không chịu sống luồn cúi vì danh lợi và
chán ghét cảnh sống trong vòng cương toả của mũ mão cân đai. Sau khi thi đỗ,
được bổ nhiệm là tri phủ, ông chỉ làm có vài tháng rồi xin từ chức, đi ngao du sơn
40
thuỷ và xướng hoạ cùng bạn thơ. Sau đó một thời gian ông lại được vua vời vào
kinh, phong chức Thanh tra lục tỉnh Bắc kỳ... Tương truyền cuối thời Thiệu Trị
(1840 - 1847) Nguyễn Quý Tân được triệu vào kinh làm quan ở bộ, sau lại được
bổ làm chức thanh tra quan lại ở Bắc kỳ, nhưng không được bao lâu ông lấy cớ
ốm đau xin cáo về. Thời kỳ làm thanh tra, ông thường mặc giả học trò nghèo để
dễ điều tra tình hình tham quan ô lại. Người ta kể chuyện ngay hồi còn đi học
Nghè Tân đã tỏ ra khinh ghét chế độ quan trường. “Một hôm nhằm ngày rằm
Trung thu, các quan đầu tỉnh Hải Dương rủ nhau cùng vợ con hầu cận ra phố
xem nhân dân phá cỗ linh đình, lính tráng hò hét dẹp đường om sòm, các ngọn
roi quất vào đầu dân kêu vun vút. Nghè Tân có mặt ở đó tức lắm, ông không chịu
tránh đường cho quan đi. Lính bắt lại cho quan định tội. Nghè Tân nói mình là
học trò nghèo mải xem chiếc đèn kéo quân đẹp quá, nên không biết quan đến.
Một viên quan bảo:
- À, có phải anh là học trò mải xem đèn kéo quân thì anh hãy làm một bài thơ
vịnh đèn kéo quân đi. Hay thì các quan lớn tha, dở thì phải đánh đòn.
Nghè Tân vâng lời, nghĩ chốc lát, rồi đọc:
Một lũ ăn mày, một lũ quan
Quanh đi quẩn lại cũng một đoàn
Đến khi dầu hết đèn thôi cháy
Chẳng thấy ăn mày, chẳng thấy quan.
Các quan nghe xong thơ đều bầm gan tím mặt nhưng không biết chê vào đâu
được, đành phải bấm bụng để Nghè Tân đi” [16, tr. 338].
Thoại trên khiến người đọc, người nghe vừa thấy được bản chất bóc lột, áp
bức nhân dân của bọn quan lại vừa cảm thấy sung sướng khi Nghè Tân trừng trị bọn
chúng bằng thơ vịnh của mình. Bài thơ mà Nghè Tân “tức cảnh” làm vừa có hình
ảnh rất thực của đèn kéo quân vừa xuất hiện bộ mặt bọn quan lại. Chính vì thế, bọn
quan, mặc dù “bầm gan tím mặt” nhưng cũng phải chịu trước cái tài của ông. Tiếng
cười bật lên lý thú, hả hê…
Trong quá trình làm luận văn, chúng tôi đã tiến hành khảo sát trên 358 giai
thoại về các tác gia văn học Việt Nam giai đoạn từ trước thế kỉ XX về trước. Chúng
41
tôi nhận thấy nội dung châm biếm, đả kích tầng lớp chức sắc, có địa vị trong xã hội
đương thời chiếm 93%. Qua nội dung này, chúng ta không chỉ thấy được nội dung
châm biếm, đả kích sâu cay mà còn thấy được cái cười đầy xót xa ở một số thời kì
lịch sử mà dân tộc ta đã trải qua và tài năng, tấm lòng của các tác gia luôn nặng lòng
với đất nước.
2.2. Thể hiện tinh thần dân tộc, yêu nước, thương dân
Nhà nghiên cứu Cao Huy Đỉnh nhận xét: “Giai thoại thể hiện lòng tự hào
dân tộc và những nguyện vọng dân chủ của nhân dân. Giai cấp phong kiến càng
suy tàn thì hệ thống quan liêu càng cồng kềnh, sa đọa…”. Nhìn lại suốt chiều dài
lịch sử Việt Nam, đặc biệt giai đoạn phong kiến suy tàn và giai đoạn thực dân
nửa phong kiến, lòng tự hào dân tộc của bộ phận các tác gia văn học được thể
hiện rõ hơn bao giờ hết. Với tài năng, tấm lòng yêu nước của mình, các tác gia
đã nhìn thẳng vào những vấn đề nhức nhối, vào bọn quan lại, tay sai phản động
để đả kích, vạch trần. Xung quanh các tác gia chân chính này luôn có những
thoại rất hay, rất đẹp. Phải kể đến một số tên tuổi như: Nguyễn Công Trứ, Cao
Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Đình Chiểu, Tú Xương….Không chỉ vậy,
yêu nước còn thể hiện ở tinh thần tự hào về những giá trị văn hóa tốt đẹp của
dân tộc. Bộ phận giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam thể hiện những nội
dung này khá rõ.
Trong văn học Việt Nam, những nhà thơ lớn đều là những nhà thơ dân tộc.
Nhưng nơi Nguyễn Khuyến, chữ “dân tộc” thật gần gũi, thích hợp, và sáng chói hơn
cả. Dù ông không có bản văn hùng tráng như “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi,
những bài thơ trau chuốt như Bà huyện Thanh Quan, hay nhiều bài thơ đạo lý răn
đời như Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nhưng nơi Nguyễn Khuyến, có một tấm lòng lai láng
với cảnh vật non sông, chan chứa sự thông cảm với dân lành, đề cao tình bạn rạng
ngời, và nhất là một lòng yêu nước sâu sa. Những giai thoại xoay quanh cuộc đời và
sự nghiệp thơ ca của ông đều thể hiện tấm lòng ấy.
Nguyễn Khuyến sống chan hoà với nông dân, người ta kể: khi ông đi dạo
trong làng, gặp những cụ già, ông đã dừng lại mở cơi trầu, mời họ ăn và chuyện trò
thật đằm thắm. Điều đó chứng tỏ Nguyễn Khuyến có một tâm hồn thật bình dân. Và
42
văn học sử cho ta thấy: chưa có một quan lớn tổng đốc nào lại đi làm câu đối, câu
phúng điếu cho người láng giềng, bà thông gia, anh thợ rèn, chị thợ nhuộm, chị
hàng thịt như Nguyễn Khuyến. Những câu thật đẹp, thật hay, và cũng chứa đầy tình
cảm, đôi khi có chút hài hước bên trong, như câu đối cho chị vợ anh hàng thịt để
treo trong nhà:
Tứ thời bát tiết canh chung thuỷ
Ngạn liễu đôi bồ dục điểm trang.
Dịch:
Bốn mùa, tám tiết bền chung thuỷ
Dặm liễu, gò bồ, muốn điểm trang.
Hai câu thơ nói lên sự thông cảm với nỗi lòng người goá phụ, nhưng cũng có
những hình ảnh phù hợp với nghề nghiệp của cặp vợ chồng:"bát tiết canh, đôi bồ
dục". Thật là hóm hỉnh, sâu sa.
Quả thật, trước kia cũng có những nhà thơ tả cảnh nông thôn, nhưng vẫn còn
ít nhiều xa lạ với phong cảnh Việt Nam. Sau này, tuy có những thi sĩ như Đoàn Văn
Cừ, Bàng Bá Lân, Nguyễn Bính, Anh Thơ đã vẽ ra nhiều nét đẹp làng quê và tâm
tình người nông thôn nhưng tấm lòng họ dành cho làng xóm và thân phận tối tăm
của người dân quê, thật không thể so sánh được với Nguyễn Khuyến. Chỉ có ít nhà
văn sau này như Ngô Tất Tố với Tắt đèn, Nguyễn Công Hoan với Bước đường cùng
là có thể thấy và mô tả được như ông, nhưng đó là văn xuôi và là cái nhìn của mấy
chục năm sau. Có thể nói rằng: trước và sau đó, chưa có nhà thơ nào có bức tranh
sinh động về làng nước và chan chứa với mối cảm thông với đời sống cực nhọc của
dân, qua đó để lại ấn tượng sâu đậm cho đời, bằng nhà thơ Nguyễn Khuyến. Ông là
một nhà thơ, một nhà yêu nước có tâm, có tài, có trách nhiệm với đất nước. Mặc dù
đã về sống cảnh điền viên nhưng nhà thơ vẫn canh cánh trong lòng tấm chân tình
với dân tộc. Thời đại Nguyễn Khuyến sống là một xã hội mà vua quan đều như
"phường chèo", dù có danh vị tiến sĩ như ông thì cũng chỉ như là "tiến sĩ giấy".
Dưới ách đô hộ của thực dân và phong kiến, cái nghèo khổ như một màn đêm bao
trùm đất nước, trừ số ít người ngay chính, chỉ có những kẻ ăn mảnh, đi đêm với
thực dân như quan kinh lược Bắc Kỳ Hoàng Cao Khải, Tổng đốc Vũ Văn Báo, quan
43
tuần Tiên Khoán, quan huyện Thanh Liêm, ông tổng Cóc mới trở nên giàu nhờ vơ
vét của dân. Thương dân, Nguyễn Khuyến bênh họ bằng cái cười để các quan lại bỏ
thói bợ đỡ các quan Tây, bớt hà hiếp dân lành:
Có tiền việc ấy mà xong nhỉ
Ngày trước làm quan cũng thế a?
(Vịnh Kiều bán mình)
Cùng với Nguyễn Khuyến, có không ít tác gia đương thời có tâm, có tình với đất
nước. Và chúng ta không thể không kể đến Nguyễn Đình Chiểu, nhà thơ Nam Bộ
“thà đui mà giữ đạo nhà”. Khái niệm yêu nước rất rộng. Yêu nước không chỉ là căm
thù giặc, chiến đấu với kẻ thù mà còn là việc tự hào về văn hóa của dân tộc. Câu
chuyện giản dị dưới đây là một minh chứng cho điều đó.
Giai thoại kể rằng: “Trong những ngày Nguyễn Đình Chiểu về sống tại Ba Tri,
Phan Văn Trị - vừa là bạn thơ, vừa là bạn đồng tâm, đồng chí hay lui tới đàm đạo
về thời cuộc, về vận mệnh của đất nước. Biết tính bạn thích ăn mắm đồng, nên cụ
Đồ Chiểu bảo người nhà, trong mâm cơm phải có món mắm ngon. Câu chuyện
đang rôm rả giữa bữa cơm, thì cụ Đồ nhắc đến Tôn Thọ Tường. Cụ Trị bĩu môi
nói: Thằng Tường theo Tây được chức quan lớn, vì vậy có người bảo nó khôn, còn
tôi như vậy thiên hạ bảo tôi là khùng. Anh thấy đó, khùng thì khùng, chớ "Di, tề
nào khứng giúp Châu". Nghe xong, Nguyễn Đình Chiểu đặt chén xuống bàn, cười
khẩy, nói:
- Thằng Tường theo Tây, đã quen món cơm Tây, chắc nó không ăn mắm được
như bọn mình rồi.
Cụ Trị tán thành:
- Phải rồi ! Hễ còn biết ăn mắm sống, thì không phải là Tây”.
Thế ra quan điểm dân tộc, yêu nước, cũng gắn liền với chén mắm cổ truyền –
món ăn dân dã của nhân dân nước Việt.
Hay một thoại kể rằng: Bọn thực dân Pháp rất xảo quyệt, chúng biết Nguyễn
Đình Chiểu có uy tín lớn trong dân nên tìm cách mua chuộc ông. Tên Misen Pông
sông (Michel Ponchon), Tỉnh trưởng Bến Tre mấy lần đến gặp Nguyễn Đình Chiểu.
Hắn giả vờ xin ông nhuận sắc cho tập thơ Lục Vân Tiên mà hắn cho là một tác phẩm
44
rất đáng trân trọng. Hắn tỏ ý muốn cấp tiền cho ông lúc tuổi già, lần cuối cùng hắn
đặt vấn đề trả lại đất đai cũ nơi quê nhà của ông ở Gia Định mà chúng đã chiếm
đoạt. Những lần gặp gỡ và đối diện với tên Pông sông, Nguyễn Đình Chiểu đã tỏ
thái độ dứt khoát, khảng khái từ chối mọi đề nghị của kẻ thù. Ông đã thẳng thừng
trả lời Pôngsông : “Nước chung đã mất, đất riêng còn có được sao?”. Cuối cùng,
Pôngsông hỏi ông muốn gì? Ông nói: Muốn được làm lễ tế nghĩa quân lục tỉnh trận
vong, những người vì nước quên mình mà ông rất kính phục. Được viên Tỉnh
trưởng chấp thuận, tại chợ Đập (chợ Ba Tri ngày nay), Nguyễn Đình Chiểu đã cùng
với nhân dân công khai tổ chức trọng thể lễ tế nghĩa sĩ lục tỉnh trận vong. Bài “Văn
tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh” do ông sáng tác và đọc tại buổi lễ làm cho hàng ngàn
người có mặt xúc động không cầm được nước mắt. Buổi lễ đã gây ấn tượng sâu sắc
trong nhân dân về “Khúc ca của những người anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên
ngang” và đã trở thành sự kiện có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với nhân dân ở nhiều nơi
trong vùng kể từ khi giặc Pháp hoàn thành việc chiếm đóng Nam Kỳ lục tỉnh.
Rõ ràng là với ngôi sao sáng của văn học Việt Nam, tuy mù lòa nhưng tinh thần
yêu nước vẫn không hề vơi cạn. Nhà thơ sẵn sàng đối diện trước kẻ thù để khảng
khái đòi quyền được khóc thương cho những con người anh hùng đã ngã xuống cho
dân tộc.
Ngoài một số thoại về các nhà văn, nhà thơ kể trên qua khảo sát, chúng tôi
còn thấy không ít các thoại về các vị vua, vị quan lại trong triều đình cũng cho thấy
nội dung yêu nước, tự hào dân tộc, thương dân. Những giai thoại xoay quanh các vị
này không nhằm mục đích đả kích vào bọn quan lại, tay sai phản động ở trong nước
mà chủ yếu hướng vào đối tượng ngoại quốc, khẳng định vị thế của đất nước. Đó là
các câu chuyện về Đỗ Thuận, Mạc Đĩnh Chi…
Giai thoại “Tay lái đò hay chữ” sau đây là ví dụ điển hình cho tinh thần dân
tộc của một nhà thơ, đồng thời là một vị quan lớn: “Đời vua Lê Đại Hành (980 -
1005) có sư Đỗ Thuận là người học rộng thơ hay, am hiểu việc đời, giúp nhà vua có
công lao lớn, nhưng mỗi lần nhà vua định phong chức cho thì sư đều không nhận.
Vì thế, Lê Đại Hành càng kính trọng, nhà vua thường chỉ gọi là Đỗ pháp sư chứ
không gọi tên thật. Khoảng năm Thiên Phúc thứ tám (987), vua nhà Tống sai quốc
45
tử giám bác sĩ là Lý Giác sang sứ Việt Nam. Vua Lê Đại Hành bèn sai sứ Thuận giả
làm người chèo đò ra đón sứ ở bên bờ sông Sách Giang, Lý Giác vốn là một tay
sính thơ khi ngồi đò nhân trông thấy xa xa trên mặt nước có hai con ngỗng trời, liền
ngâm hai câu thơ rằng:
Nga nga lưỡng nga nga,
Ngưỡng diện hướng thiên nha
Dịch:
Ngỗng ngỗng hai con ngỗng
Chân trời nghển cổ trông.
Sư Thuận nghe xong tay vẫn chèo nhịp nhàng, miệng tươi tắn nối vần ngâm
tiếp hai câu cho thành một bài tứ tuyệt:
Bạch mao phô lục thủy
Hồng trạo bãi thanh ba.
Dịch:
Lông trắng phơi nước biếc,
Sóng xanh quậy chèo hồng.
Thấy một tay lái đò mà cũng hay chữ như vậy, Lý Giác hết sức kinh ngạc và
cảm phục.
Về sau, vua nhà Tống còn sai Lý Giác sang sứ Giao Châu một lần nữa. Lúc
về, Lý Giác có tặng sư Thuận một bài thơ lưu biệt trong đó có hai câu:
Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu,
Khê đàm ba tĩnh kiến thiềm thu.
Dịch:
Ngoài trời còn có trời nên chiếu,
Sóng lặng khe đầm rọi mảnh thu.
Sư Thuận đưa bài thơ cho Lê Đại Hành. Vua triệu sư Khuông Việt vào giải
thích hộ. Khuông Việt nói: "Đây là sứ Trung Hoa tỏ ý kính trọng bệ hạ cũng ngang
với hoàng đế của ông ta". Vua hài lòng lắm, liền sai sư Khuông Việt làm một bài ca
tiễn Lý Giác. Bài ca làm theo điệu "Tống vương lang qui" như sau:
Trường quang phong hảo cẩm phàm trương,
46
Giao vọng thần tiên phục đế hương
Vạn trùng sơn thùy thiệp thương lương
Cửu thiên qui lộ trường,
Nhân tình thảm thiết, đốt ly thương.
Phan luyến sứ tình lang,
Nguyện tương thâm ý vị Nam cương,
Phân minh báo ngã hoàng.
Dịch:
Trời lạnh gió tốt cánh buồm trương,
Ngùi ngóng người tiên lại đế hương
Muôn trùng non nước sóng mênh mang
Chín trời thăm thẳm dặm trường
Nhìn chén biệt ly tình thảm thương
Vin xe sứ lòng vấn vương,
Xin đem thâm ý vì Nam cương
Phân minh báo thánh hoàng” [16, tr. 49].
Chỉ một vài câu thơ mà Sư Thuận đã khiến cho sứ giả của một nước lớn phải
ngả đầu kính phục trước tài năng của nhân dân Đại Việt nhỏ bé. Đó chính là tinh
thần tự tôn của dân tộc ở thời kì hào khí Đông A anh hùng.
Ở nội dung này, không thể không kể đến một số thoại đi sứ của các nhà thơ,
nhà văn. Chính trong hoàn cảnh đối mặt với ngoại bang, tài năng, trí tuệ của các tác
gia được bộc lộ rõ ràng hơn bao giờ hết. Ở bộ phận giai thoại này, không thể không
kể đến các câu chuyện về Mạc Đĩnh Chi đi sứ.
Theo khảo sát, chúng tôi thấy có 19 thoại (chưa kể dị bản) xoay quanh việc
Mạc Đĩnh Chi đi sứ. Mạc Đĩnh Chi (1272 – 1346), người xã Lũng Động, huyện Chí
Linh, nay là thôn Lũng động, xã Nam Tân, huyện Nam Sách, tỉnh hải Dương. Ông
thông minh hơn người, nhưng tướng mạo xấu xí. Hoạt động và tài năng văn chương
của ông đã để lại nhiều giai thoại nổi tiếng.
“Năm Hưng Long thứ 16 (1308), Mạc Ðĩnh Chi sang sứ nhà Nguyên, ông có
hẹn ngày ấy ngày nọ thì phái bộ sẽ đến cửa ải để viên quan nhà Nguyên mở cửa
47
đón. Chẳng may hôm lên đường gặp phải mưa gió, thành ra sai hẹn. Lúc tới nơi thì
trời tối, cửa ải đã đóng. Mạc Ðĩnh Chi nói mãi, người Nguyên cũng không chịu cho
qua. Sau họ vứt từ trên ải xuống một vế câu đối, bảo hễ đối được thì mở cửa ải:
Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan.
Nghĩa là:
Qua cửa quan chậm, cửa quan đóng, mời khách qua đường qua cửa quan.
Thật là một câu đối hiểm hóc, trong có mười một chữ mà riêng chữ “quan” nhắc lại
tới bốn lần. Chữ “quá” nhắc lại 3 lần. Mạc Ðĩnh Chi cảm thấy rất khó đối, nhưng
nếu im lặng thì e mất thể diện. Ông bèn nhân cái chuyện khó đối ấy, ứng khẩu đọc
lên một câu rằng:
Xuất đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối
Nghĩa là:
Ra câu đối dễ, đối câu đối khó, xin tiên sinh đối trước.
Tưởng đã bí, thế mà lại hoá ra có một câu đối hay. Người Nguyên phải chịu
Mạc Ðĩnh Chi là có tài ứng biến, liền tức tốc mở cửa ải để ông đi” [16, tr. 75].
Trong tình huống này, giả sử, Mạc Đĩnh Chi không đối được thì sao? Cái
trước mắt là bọn lính nhà Nguyên sẽ không chịu mở cửa ải, đoàn sứ của ta phải
quay lại nhưng điều quan trọng hơn là thể diện của một quốc gia, một dân tộc sẽ bị
mất trong “tích tắc”. Nếu không phải là một tài năng xuất chúng thì vị thế của đất
nước sẽ bị ngoại bang cười chê.
Sang bên nhà Nguyên đi sứ, không ít lần, Mạc Đĩnh Chi bị bọn người nhà
Nguyên đưa vào tình huống thử thách. Chúng luôn coi mình là đứng đầu thiên hạ,
coi khinh dân tộc Đại Việt nhỏ bé của chúng ta. Nhưng hết lần này đến lần khác,
chúng đều phải ngả mũ kính phục. Thoại “Trăng là sao, cung là đạn” lại một lần
nữa khiến ngoại bang phương Bắc không khỏi khâm phục con dân của nước Đại
Việt: “Mạc Ðĩnh Chi sang sứ Triều Nguyễn, lúc vào bệ kiến, vua Nguyên muốn thử
tài văn chương của Trạng và cũng muốn dò tiết khí của viên bồi thần bằng một câu
đối. Vua Nguyên đọc:
Nhật hoả vân yên, bạch đán thiêu tàn ngọc thỏ.
Nghĩa là:
48
Mặt trời vừa lửa, mây là khói, ban ngày đốt cháy vừng trăng.
Mạc Ðỉnh Chi biết là Vua Nguyên kiêu hãnh, tự xem mình là mặt trời, và coi
Việt Nam như là mặt trăng, ban ngày nhất định phải bị mặt trời thôn tính, ông bèn
ứng khẩu đối ngay:
Nguyệt cung linh đạn, hoàng hôn xạ lạc kim ô
Nghĩa là:
Trăng là cung; sao là đạn, chiếu tối bắn rơi mặt trời
Câu ra đã giỏi mà câu đối lại còn tài hơn. Vua Nguyên nghe đối biết mình đã
bị trả miếng rất đau, nhưng cũng hết sức kính phục Mạc Ðĩnh Chi, bèn thưởng cho
Trạng Việt Nam rượu ngon và rất nhiều vàng lụa” [16, tr. 76].
Như vậy, với tài đối đáp chữ nghĩa tài giỏi, mẫn tiệp, ông không chỉ được
vua quan nhà Nguyên khâm phục, trọng thưởng khác hẳn lệ thường mà thực sự đã
làm rạng danh đất nước. Trong chùm giai thoại đi sứ của họ Mạc, còn rất nhiều
thoại khác như: Chim chích - ếch ộp, Lưỡng quốc trạng nguyên, Chỉ có hai người,
Bốn chữ nhất, Ruột vuông…cũng thể hiện thành công nội dung này. Cùng với Mạc
Đĩnh Chi, có không ít các tác gia khác cũng làm rạng danh thể diện của quốc gia,
dân tộc qua những thoại đi sứ như nhân vật dưới đây: “Đương thời, tài thơ văn ứng
đáp của Nguyễn Tông Quai lẫy lừng hai nước Việt Nam, Trung Quốc. Chuyến đi sứ
lần thứ nhất, khi xướng họa thơ văn, các nho sĩ nhà Minh đã nghiêng mình thán
phục là tài thơ của sứ thần họ Nguyễn đáng sánh ngang với các bậc đại gia thời
Đường, Tống. Đi sứ về, Nguyễn Tông Quai bị bọn hoạn quan ganh ghét dèm pha
nhưng khi bàn đến việc cử người lo nhiệm kì công sứ mới thì triều đình Lê - Trịnh
lại thấy khó có thể chọn ai ngoài Nguyễn Tông Quai làm chánh sứ.
Khi đến Yên Kinh (thủ đô nhà Thanh) gặp lại những gương mặt năm xưa, có
viên quan nhà Thanh đã hỏi móc rằng:
- An Nam hết nhân tài rồi hay sao mà lần công sứ nào cũng thấy cử ông đến vậy?
Nguyễn Tông Quai thản nhiên đáp:
- Ở nước tôi thường vẫn quan niệm đi sứ là một sự đầy ải nên mỗi lần cử
người đi sứ, triều đình lại tổ chức thi thơ. Khi bình xong, thơ của người nào dở nhất
49
thì buộc phải làm chánh sứ để dẫn đoàn sứ bộ lên đường. Tôi vốn kém sở trường về
thơ nên hai lần thi đều bị xếp hạng bét, thành thử phải đi sứ cả hai lần.
Các quan Trung Quốc biết là bị hố, nhưng đành ngậm miệng phục tài biện
bác của sứ thần Đại Việt” [16, tr. 180].
Thoại “Bài thơ đem lại quốc thể” về nhân vật Võ Huy Tấn cũng có nội dung
tương tự, thậm chí có vị sứ thần còn phải đánh đổi mạng sống của mình vì danh dự
của quốc gia, dân tộc (Nguyễn Biểu). Về tác gia - nhà thơ, vị anh hùng dân tộc này,
“Nghĩa sĩ truyện” chép rằng: “Khi tới trước quân Trương Phụ, bọn giặc bắt ngài lạy.
Ngài đứng trơ không nhúc nhích. Nhân thế giặc đặt tiệc thết, nấu một đầu người mà
mời, cốt để cho rõ ý ngài. Ngài tức thì lấy đũa khoét hai mắt, hoà với dấm mà nuốt”.
Trong bản chép tay kèm ở trong gia phả họ Nguyễn có thêm: “Lúc bày tiệc ra ngài
cười mà nói: “Đã mấy lúc người Nam lại được ăn đầu người Bắc”. Trương Phụ cảm
phục đối xử tử tế rồi cho ông về. Nhân đó Phụ hỏi viên hàng thần Phan Liêu:
“Nguyễn Biểu là người thế nào?” Liêu vốn có hiềm khích với ông bèn nói: “Người
ấy là hào kiệt của nước Nam, ngài muốn lấy nước Nam mà không có người này thì
việc thành sao được”. Phụ sai người đuổi theo bắt ông lại hòng uy hiếp mua chuộc
nhưng khi Nguyễn Biểu bị dẫn đến trước dinh, Trương Phụ bắt ông lạy ông vẫn
đứng thẳng không hề run sợ. Ông nói: “Ta là tôi vua phương Nam, ngươi là tôi vua
đất bắc, là bề tôi cả sao lại bắt nhau quỳ được?”. Phụ mắng ông vô lễ ông bèn vạch
âm mưu và tội ác của giặc. Phụ tức giận sai quân đưa ông ra trói dưới cầu Yên Quốc
(tức cầu Lam, một nhánh sông Lam chảy giữa hai làn Vệ Chánh và Quang Dụ xưa)
cho nước lên dìm chết. Ông lấy móng tay vạch vào cột cầu 8 chữ: “Thất nguyệt, sơ
nhất nhật, Nguyễn Biểu tử” (ngày mồng 1 tháng 7 Nguyễn Biểu chết). Trương Phụ
giết ông nhưng phải ngầm kính phục cho đưa thi hài về Bình Hồ an táng. Vua Trùng
Quang được tin ông tử tiết hết sức thương xót sai làm văn Dụ tế, nhà sư chùa Yên
Quốc cũng soạn bài tụng, làm lễ cầu siêu cho ông”. Nguyễn Biểu vị sứ giả can
trường của dân tộc đã hy sinh anh dũng trong cuộc kháng chiến chống xâm lược nhà
Minh. Tiết tháo của Nguyễn Biểu thật là lẫm liệt, trước giặc giữ lòng chỉ nghĩ đến
vua, trước vận suy của nước vẫn làm rạng danh quốc thể.
50
Qua các thoại đi sứ của các tác gia tài năng, khí chất, tiết tháo, chúng tôi
nhận thấy, bằng thơ văn của mình, các tác gia - nhà chính trị đã khiến ngoại bang
phải nể sợ. Đó chính là một “đòn ngoại giao” của ông cha ta trong lịch sử dựng
nước và giữ nước.
Yêu nước không chỉ là sự khẳng định vị thế của đất nước, dân tộc trước một
đất nước khác mà còn là việc quan tâm dìu dắt, nâng đỡ nhân dân. Có những thời kì
phong kiến, đất nước ta cực kì hưng thịnh, đời sống nhân dân no ấm, thái bình. Làm
được điều đó phải kể đến công lao và tấm lòng bao la của các vị vua.
Lê Thánh Tông chính là một vị vua như thế. Các giai thoại xoay quanh nhân
vật này đã giúp người đọc, người nghe thấy được chân dung của vị vua yêu dân như
con này. Lê Thánh Tông (1442 - 1497), là Hoàng đế thứ 5 của triều đại nhà Hậu
Lê nước Đại Việt. Lê Thánh Tông được cho là có tư chất thông minh, học vấn uyên
bắc, giỏi về xử lí chính trị và cả về văn học, nghệ thuật. Dưới thời đại của ông, Đại
Việt phát triển rực rỡ về mọi mặt từ kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, quân sự và
trở thành một cường quốc, cũng như đã khiến Quân chủ chuyên chế Việt Nam đạt
đến đỉnh cao vàng sơn. Lê Thánh Tông đồng thời còn là một nhà thơ và phê bình
văn học, vừa sáng tác văn thơ, vừa nghiên cứu, phê bình. Tương truyền cứ đến ngày
giáp Tết, Lê Thánh Tông thường ăn mặc giả thường dân, vi hành xem dân chúng
chuẩn bị đón năm mới ra sao. Gặp một căn nhà tồi tàn, không có câu đối dán ngoài
cửa, ông hỏi vì sao? Gia chủ thưa: Thân phận nghèo, lại làm nghề hèn hạ không
dám xin chữ ai cả. Lại hỏi: nghề gì? Thưa: hót phân. Lê Thánh Tông bảo đem giấy
ra, ông cho chữ. Chủ nhà mừng luống cuống. Lê Thánh Tông bảo người theo hầu
lấy nghiêm mài mực và viết ngay đôi câu đối nét chữ bay bướm rất đẹp nổi bật trên
giấy hồng điều:
Thân ỷ nhất nhung y, năng đảm thế gian nan sự
Thủ trì tam xích kiếm, tận thu thiên hạ nhân tâm.
Nghĩa là:
Mình mặc chiếc áo võ (chiếc áo giáp nhiều mảnh kim loại chồng lên nhau na
ná như áo tơi của người hót phân) thường gánh vác sự khó khăn trong thế gian.
51
Tay cầm thanh gươm dài ba thước (ám chỉ dụng cụ hành nghề của chủ nhà)
thu hết lòng người trong thiên hạ (nhân tâm nghĩa bóng là lòng người, nghĩa đen là
từ lòng người mà ra - phân).
Câu đối tết về gia cảnh người hót phân đọc lên không thấy tầm thường mà
mường tượng như ông quan võ, khẩu khí rất đế vương. Nhưng điều quan trọng
hơn là vị vua này đã có hành động khiến nhân dân cảm phục vì tấm lòng yêu dân
như con.
Thoại về Lê Thánh Tông cũng kể những chuyện tương tự: “Khi đến một ngôi
nhà khác cũng không thấy câu đối tết, ông hỏi gia chủ làm nghề gì? Thưa: thợ
nhuộm vải. Lại bảo người ta lấy giấy, và viết giúp câu đối:
Thiên hạ thanh hoàng, gian ngã thủ
Triều trung chu tử, tổng ngô môn.
Nghĩa là: Các thứ xanh, vàng trong thiên hạ đều do tay ta (theo sự mê tín
xưa: trời xanh là cảnh thái bình, trời vàng là cảnh loạn lạc - nên còn hiểu sự thái
bình hay loạn ly trong thiên hạ đều do tay ta làm ra cả). Các thứ đỏ, tía trong triều
đình cũng đều từ cửa nhà ta mà ra.
Còn có một lần khác Lê Thánh Tông làm giúp câu đối tết cho một bà lão bán
hàng trầu, nước, nhưng ông làm nôm:
Nếp giầu quen thói hình cơi, con cháu nương nhờ vì ấm
Việc nước ra tay chuyên bát, bắc nam đâu đấy lại hàng.
Đôi câu đối nói lên được hiện vật của một hàng nước giầu (cau), cơi (trầu),
ấm, nước: bát, hàng (quán)... nhưng mang đậu khẩu khí đế vương - cứ như là đang
trị quốc, bình thiên hạ vậy”.
Giai thoại này cùng với một số thoại khác (Câu đối nhà thợ nhuộm, Câu đối
nhà hàng nước…) khá độc đáo. Điều độc đáo ở Lê Thánh Tông ít ông vua có được
là khi làm thơ về những nhân vật tận cùng của xã hội (người ăn mày, làm mõ...) đọc
lên vẫn không thấy bị rẻ rúng và vẫn toát lên khẩu khí bậc vương giả. Qua đó,
người đọc nhận ra tấm lòng bao la của bậc đế vương.
Như vậy, qua khảo sát bộ phận giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam,
chúng tôi thấy nội dung thể hiện tinh thần yêu nước được thể hiện khá rõ ràng. Các
52
tác gia đều là những nhà văn, nhà thơ, nhà chính trị có tài năng, có tâm huyết với
nhân dân, với đất nước, với dân tộc. Cho dù ở vị trí nào đi nữa, họ vẫn luôn canh
cánh tấm lòng với dân chúng. Việc đả kích, châm biếm bọn quan lại, tay sai hướng
vào bộ phận thật, giả dối, áp bức, bóc lột của những kẻ “phụ mẫu” nhưng lại “rút
ruột” chính con dân của mình. Việc khẳng định vị thế dân tộc với ngoại quốc đã làm
rạng danh non sông, khiến đất nước ta tuy nhỏ nhưng không hề bé. Tài năng, cá
tính, tấm lòng của các tác gia sẽ còn sống mãi với thời gian, với non sông, đất nước.
2.3. Phác họa chân dung đời thường của các tác gia
Bên cạnh việc thể hiện tinh thần yêu nước và việc châm biếm, đả kích
những thói hư, tật xấu, những hạng nho sĩ rởm trong xã hội thì giai thoại về các
tác gia văn học Việt Nam còn cho người nghe, người đọc biết được những chân
dung đời thường của các nhà văn, nhà thơ, các nhà chính trị…mà vốn chỉ được
biết đến qua tác phẩm của họ. Đó có thể là những đức tính, thói quen tốt, nhưng
cũng có thể là những tật xấu. Bộ phận giai thoại này khiến người nghe, người đọc
cảm thấy thích thú và không khỏi ngạc nhiên, bất ngờ về những đức tính tốt đẹp
cũng như những thói quen, thói tật hết sức đời thường đó.
Tác gia là khái niệm dành cho những tác giả có tài năng lớn, có tên tuổi, đã
có những công trình đóng góp giá trị lớn ở một mảng, một lĩnh vực nào đó. Việc
định nghĩa tác gia như vậy để giúp chúng tôi thấy được rằng bộ phận giai thoại này
chủ yếu xoay quanh những câu chuyện về cuộc đời và sự nghiệp của những người
có tài năng lớn. Cũng chính bởi có tài năng xuất chúng mà không ít các nhà văn,
nhà thơ, các tác gia bị mắc một “căn bệnh” gọi là “kiêu ngạo”. Trong số các tác gia
chúng tôi tiến hành khảo sát, Lê Quý Đôn là một người bị mắc “căn bệnh” này. Lê
Quý Đôn sinh ngày 2/8/1726 mất ngày 14/4 năm Giáp Thìn (11/6/1784). Ông là con
tiến sĩ Lê Phú Thứ, quê ở huyện Diên Hà ( nay thuộc thôn Phú Hiếu, xã Độc Lập,
huyện Hưng Hà) tỉnh Thái Bình, nổi tiếng thần đồng, có trí nhớ lạ lùng, tài ứng đối
mau lẹ, 14 tuổi đã học được hầu hết các bộ sách của Nho học. Năm 18 tuổi đỗ giải
Nguyên (đứng đầu kỳ thi Hương). Sau đó đỗ đầu các kỳ thi Hội và thi Đình (còn
gọi là Hội nguyên và Đình nguyên). Chính vì có một tiểu sử như thế nên Lê Quý
53
Đôn rất tự mãn về tài năng của mình. Và cũng vì điều đó, ông đã bị không ít lần
phải “tẽn tò”.
“Chuyện kể, sau khi thi đỗ, ông liền cho treo ngay trước ngõ tấm biển với
hàng chữ:
Thiên hạ nghi nhất tự lai vấn
Nghĩa là:
Ai không hiểu chữ gì thì hãy đến mà hỏi.
Một hôm, Lê Quý Đôn đi dự đám khao ở đâu đó. Sau khi đã cỗ bàn xong,
đang ngổi uống nước, xỉa tăm, chợt có ông lão đến gặp và hỏi rằng:
- Lão mới nghe được một câu đố chữ, song ngu dốt nghĩ mãi không ra. Nay
may gặp quan Bảng là người học rộng, biết nhiều, mong được quan Bảng giảng
giùm cho.
Được Lê Quý Đôn nhận lời, ông lão bèn đọc bốn câu sau đây:
Hạ bất khả hạ
Thượng bất khả thượng
Chỉ nghi tại hạ
Bất khả tại thượng.
Nghĩa là:
Dưới không thể dưới
Trên không thể trên
Chỉ nên ở dưới
Không thể ở trên.
Lê Quý Đôn nghĩ mãi không ra. Sau đành chịu. Bấy giờ ông lão mới tủm tỉm
rằng: “Có người mách lão đó là chữ Nhất đấy. Nhưng chẳng biết có đúng không,
nhờ quan Bảng thử xem xem”. Lê Quý Đôn lấy tay vạch xuống bàn thì đúng là thế.
Ông rất khâm phục trí khôn của dân gian. Ngẩng mặt lên nhìn thì không thấy ông
lão đâu nữa. Lê Quý Đôn bất giác thẹn đỏ mặt. Nghe nói từ đó, ông Bảng Đôn bớt
tự phụ dăm bầy phần” [16, tr. 205].
Có giai thoại còn kể rằng: “Một lần Lê Quý Đôn đến cầu siêu ở ngôi chùa
làng. Nhà sư thấy ông thì mừng rỡ mà rằng:
54
- Quan Bảng vừa tới, may mắn sao. Bần tăng có điều muốn nhờ quan chỉ
giáo. Chả là đứa tiểu đồng của bần tăng nghe người nào đó đó, về hỏi, nhưng bần
tăng nghĩ không ra, nên đành theo lời quan bảng dạy "Nghi nhất tự lai vấn". Câu đố
thế này, xin quan chỉ cho:
Hạ bất khả hạ. Thượng bất khả thượng.
Chỉ nghi tại hạ. Bất khả tại thượng.
Nghĩa là: Dưới không thể dưới. Trên không thể trên. Đúng nên ở dưới.
Không thể ở trên.
Lê Quý Đôn nghĩ mãi không ra. Đúng lúc ấy chú tiểu chạy từ ngoài vào thưa
với sư phụ là cậu đã giải được. Lê Quý Đôn giục chú tiểu nói thử xem, thì mới hay
đó là chữ "nhất" (một). Đúng là trong chữ "hạ" (dưới), thì chữ "nhất" ở trên chứ
không thể viết dưới. Trong chữ "thượng" thì chữ "nhất" nằm dưới và chữ "bất", chữ
"khả" thì chữ "nhất" lại ngồi trên.
Lê Quý Đôn biết nhà sư đã lấy ngay chữ "Nhất tự lai vấn" ông treo trước ngõ
để nhạo. Ông tự nhủ thì ra thiên hạ còn nhiều người giỏi hơn mình liền về nhà sai
người cất tấm bảng” [16, tr. 206].
Qua hai thoại, điều mà người đọc thấy rõ là các tác gia nổi tiếng bên cạnh tài
năng xuất chúng còn có thói tật. Nhưng điều quan trọng là cách cư xử của của các
vị ấy sau mỗi bài học đó. Với Lê Quý Đôn, sau hai lần trên, ông bỏ tính kiêu ngạo,
chăm chú nghiên cứu, học hành, giúp đời, trở thành một ông quan tài năng nhiều
mặt, một thiên tài khoa học lớn nhất Việt Nam thời phong kiến.
Cũng giống như Lê Quý Đôn, Cao Bá Quát cũng bị mắc “căn bệnh” này.
Ông vốn là một nhà thơ nổi danh ở giữa thế kỷ 19 trong lịch sử văn học Việt Nam.
Người đương thời phong ông làm "Thánh Quát" (Thánh văn chương). Cao Bá Quát
là người cao ngạo, đã từng tuyên bố như sau: “Trong thiên hạ có 4 bồ chữ: Một
mình tôi giữ hết 2 bồ. Anh tôi Bá Đạt và bạn tôi Nguyễn Văn Siêu giữ một bồ. Còn
một bồ phân phát cho thiên hạ!”. Cũng vì tính tự phụ chữ nghĩa mà Quát đã bị một
bài học. Khi còn làm quan hành tẩu, nghe đồn “Mạc Vân thi xã” (tổ chức của các
danh sĩ tầm cỡ ở kinh thành thường họp nhau xướng họa thi ca) có nhiều danh sĩ
làm thơ hay nhưng Quát nghe đọc xong một số bài thơ thì ngâm trước mặt mọi
người hai câu thơ rằng:
55
Ngán cho cái mũi vô duyên
Câu thơ thi xã con thuyền Nghệ An.
Cố ý chê thơ của thi xã “khắm” như thuyền chở mắm của Nghệ An, không
ngửi được. Chuyện hai câu thơ đó của Quát đã khiến những người biết chuyện hết
sức bất bình trước thói kiêu ngạo của ông. “Đến hồi cụ thân sinh Quát mất, mọi
người đem câu đối đến nhưng Quát bĩu môi chê dở. Trong số đó có một cụ già mà
Cao Bá Quát không quen. Cụ tự giới thiệu lai lịch: Cháu còn nhỏ, chứ lão là bạn
thân với cha cháu từ xưa. Nhưng vì nhà nghèo, đường xa, lại tuổi già sức yếu nên ít
đi lại thăm hỏi nhau. Nay nghe tin cha cháu mất, lão đến để có câu đối viếng. Lão
run tay, cháu hãy lấy giấy bút, lão đọc, nhờ cháu viết hộ. Cao Bá Quát lấy giấy bút.
Cụ bèn đọc: "chi". Ông Quát không biết nên viết chữ "chi" nào bởi trong tiếng Hán
có nhiều chữ "chi" viết khác nhau. Ông đành cầm bút chờ cụ già đọc tiếp xem sao.
Cụ lại đọc "chi". Cao Bá Quát thấy lạ, liền hỏi:
- Bẩm, "chi" nào ạ?
Cụ thở than rằng:
- Đến chữ "chi" cũng không biết viết, sao bảo anh có hai bồ chữ trong thiên
hạ kia mà?
Cao Bá Quát ngượng chín cả người. Bây giờ cụ già mới đọc luôn hai vế đối:
Chi chi tam thập niên dư, xích huyện hồng châu kiên thượng tại
Tại tại số thiên lý ngoại, đào hoa lưu thủy tử hà chỉ.
Nghĩa là:
Cách hơn ba chục năm, xích huyện hồng châu nay vẫn đó.
Xa ngoài mấy ngàn dặm, đào hoa lưu thủy bác về đâủ.
Thấy câu đối hay, lạ, Cao Bá Quát và cả các nho sĩ đến viếng đều kinh ngạc.
Lạy xong, cụ già chống gậy ra về. Cao Bá Quát mời mãi nhưng cụ không
chịu nán lại. Bởi thế nên sau này không ai biết ông cụ hay chữ đó tên là gì, còn Cao
Bá Quát vẫn bàng hoàng như chưa tỉnh cơn mơ” [16, tr. 317].
Đọc các giai thoại trên về Lê Quý Đôn và Cao Bá Quát, chúng ta thấy được
chân dung hết sức chân thật về họ. Ngoài việc các tác gia này có tài năng, có tấm
lòng với nhân dân, với đất nước thì bản thân họ cũng có những thói tật như bao
56
người khác. Những thoại này có nội dung giáo dục, châm biếm nhẹ nhàng tính
kiêu ngạo của một số tác gia. Ngoài ra, còn có thể kể đến một số thoại khác như:
Con cò lặn lội bờ sông, Chữ nhất không biết…cũng xoay quanh thói xấu của các
tác gia này.
Ngoài việc giáo dục nhẹ nhàng về tính tự phụ chữ nghĩa, giai thoại xoay
quanh cuộc đời các tác gia còn chỉ rõ tính cách, cách ứng xử của các nhà văn, nhà
thơ, các tác gia nổi tiếng trong cuộc sống hàng ngày. Từ trước đến nay, bạn đọc văn
chương mới chỉ biết đến tài năng, tên tuổi của các tác gia qua những tác phẩm của
họ mà chưa hề biết cách họ sống, ăn ở, cư xử trong đời thường ra sao. Đọc các thoại
về họ, người đọc thấy sao mà các tác gia gần gũi đến thế và bản thân mỗi nhà tác
gia luôn hiện diện trong những hình bóng của những người xung quanh. Với nội
dung này, chúng tôi chủ yếu tiến hành khảo sát bộ phận giai thoại xoay quanh các
tác gia xuất hiện trong khoảng từ đầu thế kỉ XX trở lại. Vì sao lại có sự phân biệt
như thế? Nguyên nhân là do bộ phận giai thoại về các tác gia văn học trước giai
đoạn này chủ yếu là các vị quan lại, nhà thơ, nhà chính trị thời kì phong kiến. Thời
đại và cuộc sống cách xa chúng ta. Những mẩu chuyện còn lưu lại chủ yếu phản ánh
xung quanh các vấn đề thời sự, có tính chất quốc gia, dân tộc. Trong quá trình khảo
sát, hầu như chúng tôi không tìm thấy thoại nào tập trung nói về thói quen đời
thường của họ. Hơn nữa, nội dung giai thoại về họ chủ yếu đã được khảo sát, phân
tích nội dung ở phần trên của chương.
Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, chúng ta không thể không kể tới
Nguyễn Tuân - cây bút tài hoa vào bậc nhất. Nguyễn Tuân “ngông” trong tác phẩm
của mình, không chỉ vậy, ông còn “ngông” trong cuộc sống hàng ngày. Có điều,
“cái ngông” này của ông rất “đáng yêu”, khiến người đọc giai thoại bật cười thích
thú trước một Nguyễn đời thường, cá tính đến vậy.
“Sinh thời, nhà văn Nguyễn Tuân có thói quen đến uống bia ở quầy bia Cổ
Tân. Bấy giờ bia còn là loại hiếm nên đôi khi nhà văn cũng phải xếp hàng như mọi
người và bởi vậy mà ông được chứng kiến không ít cảnh “chen ngang”. Lần ấy, nhà
văn già rất ngạc nhiên khi thấy một chú bé - tay xách một cái can to - ở đâu bỗng
chạy đến, lách vào đứng ngay trước mặt ông. Nhà văn nắm lấy vai chú bé, hỏi ngay:
57
- Này, cháu làm gì thế?
Đứa bé ngước mắt nhìn ông già rồi trả lời hết sức thản nhiên:
- Thưa bác, cháu xếp hàng mua bia cho bố cháu.
- Thế thì... - nhà văn già cúi xuống đứa bé - cháu hãy nhìn kỹ bác đây này:
Bác già rồi. Đầu bác hói, tóc bác bạc, cằm bác có râu. Nhớ chưa?
- Dạ thưa bác, cháu nhớ rồi. - Lần này đứa bé trả lời có vẻ ngần ngại. Song
nó vẫn băn khoăn - Nhưng thưa bác, nhớ thế để làm gì ạ?
Nhà văn già điềm nhiên trả lời:
- À, để rồi ngày mai nhỡ bác có đến sau thì nhớ cho bác “chen ngang” với nhé.
Đứa bé im lặng, đỏ bừng mặt... Hình như nó đã hiểu” [41, tr. 20].
Lời dặn dò, nhắc nhở một đứa trẻ thôi nhưng cụ Nguyễn đã khiến thằng bé
hiểu chuyện. Thế đấy, các nhà văn không chỉ “văn” trên sách vở, trong tác phẩm mà
còn “văn” ngay trong cuộc sống đời thường. Bài học mà Nguyễn Tuân dạy cậu bé
kia không chỉ là chuyện chữ nghĩa mà còn là cách cư xử văn hóa.
Theo các tài liệu sưu tầm được, có khoảng 20 giai thoại về cây bút tài hoa
này. Hiện lên trước mắt chúng ta không chỉ là một con người khéo léo, uyên bác mà
còn là một cụ Nguyễn cực kì khó tính “dọa” người yêu cô con gái “chạy mất dép”,
ông kĩ tính đến mức chỉ vợ ông mới “chiều” đúng thức ăn, thức uống của ông dùng
hàng ngày. Nhà văn Kim Lân - người bạn thân thiết của Nguyễn Tuân đã đưa ra lời
"kết" thật chí lý: "Vì chỉ thích cái đẹp, yêu cái đẹp, luôn đi tìm cái đẹp, nên Nguyễn
Tuân không thể chấp nhận được cái không đẹp trong quan hệ giữa người với người.
Chính vì thế, cái ngang ngạnh, thẳng thắn, đốp chát và thâm thúy, nhiều khi đến
nghiệt ngã của ông chẳng qua cũng là do không thể chấp nhận sự tầm thường, nịnh
bợ, xấu xa của con người. Nhà văn lão thành, tác giả truyện ngắn nổi tiếng Làng
cũng thật thà thổ lộ: “Lúc đầu, tôi tự nghĩ rằng mình chẳng bao giờ dám làm bạn với
ông này, trừ khi ông đến tôi thôi. Vì đến với ông không đúng lúc, mà ông ấy nổi
máu lên, ông đuổi mình, thì thật chẳng ra thể thống nào!”. Đúng như lời ông, cái
ông nhà văn “khó tính” Nguyễn Tuân khi nổi nóng, thì chẳng chừa một ai. Bên cạnh
đó, Nguyễn Tuân lại là người cực kỳ sợ ma. Khi ông cùng Kim Lân sang công tác ở
Bulgaria, mỗi người được cấp một căn phòng riêng, nhưng ông sợ ma không dám
58
ngủ một mình. Ông đòi Kim Lân sang ngủ chung một phòng với ông cho bằng
được. Nhờ vậy, Kim Lân phát hiện ở Nguyễn Tuân một thứ bệnh rất lạ: suốt thời
gian ở Bulgaria, đêm nào cũng như đêm nào, cứ đến độ một giờ sáng là Nguyễn
Tuân thức dậy bật đèn sáng trưng, đi đi lại lại ngẫm nghĩ, giở sách ra đọc. Sau đó,
ông lại mở rượu ra uống, vừa uống vừa đọc sách. Rồi lại mở tất cả vali quần áo ra
nheo mắt ngắm nghía, xếp đi xếp lại cả chục lần. Mãi gần bốn giờ sáng, vừa tàn bữa
rượu thì ông mới chịu đi ngủ. Một giấc ngủ ngon lành mới thật sự đến với nhà văn.
Kim Lân bật cười, nhỏ giọng với tôi: “Khổ lắm anh ạ! Lúc mình cần ngủ thì ông ấy
thức, lúc mình thức thì ông lại ngủ khì. Mà lạ lắm nhé! Nó như thành một thứ bệnh,
rất giống như ma ấy, đêm nào cũng như đêm nào”. Đọc những thoại này, ai dám
bảo đó là Nguyễn Tuân của sách vở, văn chương, là tác giả của những câu chuyện
“Chùa Đàn”, “Tàn đèn dầu lạc”…ma quái?
Các nhà văn, nhà thơ vốn rất đĩnh đạc khi xuất hiện trước công chúng nhưng
có ai biết rằng đằng sau đó là chân dung “xuề xòa” có phần “bê bối” của họ. Nhà
văn Nguyên Hồng chính là một con người như thế. Nhà văn Nguyên Hồng (1918 -
1982) là người nghiện rượu và cũng sành chọn rượu. Với Nguyên Hồng, mồi nhắm
rượu không quan trọng mà rượu ngon mới quan trọng. Chả có thế, mấy năm đầu
thập kỷ 70 của thế kỷ trước, khi còn phụ trách lớp bồi dưỡng những người viết văn
trẻ ở Quảng Bá (Quảng An, Hà Nội), lần ấy, chừng đã 10 giờ đêm, nhà văn Nguyễn
Đình Thi đến phòng Nguyên Hồng trao đổi công việc của lớp, khi đẩy cửa vào nhà
thì bắt gặp nhà văn Nguyên Hồng đang một mình nhắm rượu với...cơm nguội. Về
việc sành rượu, không thể không kể đến nhạc sĩ Văn Cao. Cũng như Nguyên Hồng,
Văn Cao thích uống rượu và sành rượu đến mức chỉ cần uống một chén là biết rượu
đó được mua ở đâu. Quay lại với Nguyên Hồng, những thoại quanh chuyện nghiện
rượu của nhà văn rất nhiều và không ít người biết. Nhưng mỗi khi không có rượu
bên cạnh, khi ông sáng tác văn chương thì lại “cực kì” say mê. Vợ của nhà văn kể
rằng, để kéo Nguyên Hồng ra khỏi những ngày “đóng đai lấy chõng mà viết”, bà đã
phải nghĩ ra việc biến nhà văn thành người bán khế. Cứ chốc chốc, bọn trẻ trong
xóm lại chạy vào mua khế trong vườn nhà bà và bà lại “sai” ông cầm sào ra vườn
lấy khế cho chúng. Mỗi khi như thế, nhà văn của chúng ta lại hồ hởi, vui vẻ quây
59
quần, cười đùa với lũ trẻ. Đó chính là chân dung chân thực của một nhà văn nổi
tiếng mà rất đỗi thân thương.
Xuân Diệu - ông hoàng thơ tình, nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới
vốn chỉ được biết đến qua những tác phẩm để đời. Trên sách vở, người ta mới thấy
một Xuân Diệu rất Tây, rất hiện đại mà không biết được ông còn là người rất quý
trọng thời gian. Điều đó không chỉ được thể hiện trong những vần thơ: “Mau lên
chứ, vội vàng lên đi chứ” mà còn ở ngay trong đời thực. Chuyện kể rằng: Những
lần đến thăm Xuân Diệu, nhà thơ Trần Ninh Hồ thường để ý thấy ông hay rút từ
một bao thuốc lá nguyên khi thì một điếu, lúc thì hai điếu, đặt lên chiếc đĩa trước
mặt khách (mà ít khi là cả bao). Dường như đoán được ý nghĩ của nhà thơ trẻ
(không ngờ một nhà thơ lớn mà lại ki đến vậy), khi tiễn Trần Ninh Hồ ra cổng,
Xuân Diệu dúi bao thuốc vào túi anh, nói nhỏ:
- Anh cho em bao thuốc về mà hút.
Rồi ông phân giải:
- Anh là người rất quý thời giờ. Thời giờ nó cũng như tấm vải vậy. Để
nguyên mấy mét thì may được sơ mi, áo dài, mà cũng ngần ấy vải, đem cắt nhỏ ra
thì chỉ may được mùi soa. Sở dĩ anh không đặt cả bao thuốc ra đấy vì đó là chủ ý
của anh. Một điếu có nghĩa là khách chỉ nên ngồi 5 phút thôi. Mà hai điếu thì có
nghĩa là 10 phút. Anh đặt cả bao ra đấy, nhỡ có người sẵn thuốc ngồi dai thì sao.
Thuốc thì anh không thiếu, nhưng anh thiếu thời gian. Bây giờ anh đã sắp đến cái
tuổi "cổ lai hy" rồi còn gì.
Cái cách mà Xuân Diệu tính toán khiến người ta thấy sao ông “chi li” đến
thế. Nhưng cái mà ông hoàng thơ tình “chi li, tính toán” ở đây là thời gian. Thi sĩ sợ
sẽ không có đủ thời giờ để ông sống, tận hưởng cuộc sống này như chính trong
những vần thơ của ông: “Nhanh lên chứ, vội vàng lên đi chứ”. Và nỗi sợ, sự lo lắng
này không chỉ ở thơ mà còn ở đời.
Nói về chân dung các tác gia trong cuộc sống đời thường, không thể không
kể đến chuyện ăn uống của họ. Ở thoại phía trên đã kể về chuyện uống của Nguyên
Hồng, còn chuyện ăn của các nhà văn, nhà thơ thì có lẽ còn phải kể “dài hơi”.
60
Xuân Diệu và Huy Cận là đôi bạn thân thiết. Hai người ở cạnh nhau giống
như hai cực trái dấu. Mỗi người một tính cách nhưng có lẽ, cũng chính vì thế mà họ
thân nhau. Ngay cái nết ăn của hai nhà thơ cũng mỗi người một kiểu. Nếu như
Xuân Diệu ăn để bảo vệ sức khoẻ, ăn như nhiệm vụ nạp năng lượng sản xuất thì
Huy Cận ăn hồn nhiên hơn nhiều. ăn vì thấy thích ăn, muốn ăn. Nhìn ông ăn mà
thấy yêu ông, yêu đời. Lần đi Hồng Gai ấy, lúc trở về Hà Nội, ghé một quán phở
mậu dịch sơ tán dọc đường, Huy Cận tươi cười hỏi cô bán phở đang thái tảng thịt
chín: Cô thái thịt rất khéo, cô có muốn tôi đọc thơ cô nghe không? Cô mậu dịch
viên lúng túng không biết trả lời sao. Thấy cái ô tô và dáng điệu phục phịch của
Huy Cận thì cô biết đây là một "ông to". Hồi ấy chỉ "ông to" mới ngồi xe bốn chỗ
và mới có thể béo được. Nhưng "ông to" mà xuề xoà như ông này thì chắc cô chưa
gặp, hơn nữa lại còn chuyện đọc thơ. Thấy cô bán phở chỉ cười cười không dám nói
gì, Huy Cận nói thêm, vẫn giọng tếu táo: Thế cô có nhận ra tôi không đã, tôi là Huy
Cận, cô đi học đã học thơ Huy Cận chưa? Tôi sẽ đọc thơ tặng cô, nhưng cô phải cho
bát phở Huy Cận nhiều thịt. Cô gái không biết có nhớ thơ Huy Cận đã học ở trường
không, nhưng cô nhìn ông nhà thơ đã thân tình và quý mến hơn, chí ít tác phong của
ông làm cô thấy dễ mến, dễ thân. Cô chỉ vâng, vâng nho nhỏ và tay vẫn thái thịt.
những lát thịt mỏng như xếp vào nhau bên lưỡi dao dưới tay cô. Bất ngờ Huy Cận
rón tay, nhấc lên một lát thịt mỏng, ông ngửa cổ, thả nó vào miệng, ngon lành như
trẻ nhỏ. Hay một giai thoại khác kể chuyện ông ăn bánh kem, ông uống bia cùng
với mọi người, như mọi người. Nhưng ông ăn kẹo thì hơi lạ: ông cho kẹo vào
miệng, một cái, hai cái rồi bốc lạc rang, hớp cả nắm, nhai cùng. Mọi người tò mò
nhìn ông. Ông nói nhỏ: Tôi chế tạo kẹo Nuga. Kẹo Nuga là loại kẹo mềm có lạc, thì
ông trộn kẹo với lạc mà nhai cùng. Quả là sáng kiến. Ở tuổi ấy, ở cương vị ấy mà
còn nghĩ ra cách ăn kẹo cho thấy ngon như con trẻ. Cử chỉ hồn nhiên ấy, ngỡ như
chứng kiến một giai thoại về một nhà thơ dân gian cổ xưa, không hề thấy dấu vết
nào của ông Thứ trưởng long trọng thời bấy giờ.
Cũng về cái nết ăn của các tác gia, trong số các nhà văn, phải kể đến Lê Lựu.
Lê Lựu là nhà văn đương đại có rất nhiều giai thoại. Những câu chuyện về anh được
bè bạn, anh em kể liên tu bất tận trong các cuộc nhậu. Họ bàn về anh với đủ mọi
61
góc độ, từ đi đứng, trang phục cho đến cả việc sinh hoạt thường ngày. Đặc biệt là
cái "nết ăn" của ông nhà văn nổi tiếng đã từng chu du nhiều nước trên thế giới này.
Có một nhà báo viết về Lê Lựu đã phán một câu xanh rờn: "Lê Lựu ăn được tất cả
các vật có cánh chỉ trừ... máy bay và ăn tất cả các vật có chân chỉ trừ... bàn ghế".
Nói thế có phần hơi quá nhưng quả thật, Lê Lựu là người rất xuề xoà trong ăn uống.
Anh xơi được mọi thứ, bất kể đó là món gì, nếu có người ăn được là anh xơi tuốt.
Món Lê Lựu khoái khẩu nhất phải kể đến đậu phụ luộc hoặc lướt ván chấm mắm
tôm. Không hiểu từ đâu và từ bao giờ, trong giới anh em văn chương đã truyền nhau
câu "thành ngữ": "Phi đậu phụ bất thành... Lê Lựu". Dù đi ăn ở bất cứ đâu, quán
cơm bụi vỉa hè, khách sạn 5 sao hay nhà bè bạn, anh em, Lê Lựu thường chăm
chắm vào đĩa đậu phụ. Anh khoái ăn đậu phụ đến mức khi nghi bị tiểu đường, bác sĩ
khuyên ăn kiêng và nên ăn nhiều đậu phụ thì anh tủm tỉm: "Tưởng khuyên gì chứ
khuyên ăn đậu phụ với tớ là thừa". Có lần tôi về quê anh, nơi có món đậu phụ phủ
Khoái khá nổi tiếng, anh gắp cho tôi đầy bát khiến tôi nhìn các món khác mà tiếc
ngẩn, tiếc ngơ. Tuy là người dễ ăn nhưng Lê Lựu không thích những món thuộc
hàng cao lương mỹ vị, đặc biệt là bơ sữa và các kiểu ăn tây. Một lần tháp tùng Chủ
tịch phòng Thương mại Công nghiệp Việt Nam đi công tác, được bố trí ở khách sạn
5 sao, ăn ở mấy trăm USD/ngày, Lê Lựu rất chán và...tiếc: "Giá nó cứ cho mình ăn
cơm canh cua, đậu phụ rồi...đưa cho ít tiền tiêu vặt thì có phải tốt không. Đằng
này...". Lần ấy về, anh gầy đi mấy ký. Và vừa về đến Hà Nội, anh đã gọi tôi đi ăn
bún mắm tôm, đậu phụ. Anh ăn một cách miệt mài, cần mẫn và say mê. Ăn xong,
buông bát, vớ tờ giấy ăn lau xoẹt hai bên mép rồi ngửa mặt kêu lên: "Ngon, ngon
thật. Sao bọn khách sạn nó ngu thế, không đưa món này vào thực đơn nhỉ?". Khi đã
là ông Tổng Giám đốc Trung tâm Văn hóa doanh nhân, nghĩa là đã có ô tô riêng, trụ
sở riêng và cả đoàn người giúp việc, Lê Lựu vẫn không bỏ được cái cách ăn đã
ngấm vào máu thịt. Mỗi lần đến thăm anh, vẫn thấy trên mặt bàn vị Tổng Giám đốc
bát thịt nấu lõm bõm, màu sền sệt vàng nổi lều bều bên trên vài miếng mỡ. Và cạnh
đó là một bát mắm tôm chấm dở vẫn còn vương vài sợi bún, mấy hạt chanh, dăm
miếng ớt cùng với mấy chiếc lá kinh giới, tía tô. Đọc những thoại như thế, chúng tôi
thấy hiện lên chân dung hết sức chân thực về nhà văn “Thời xa vắng”. Cũng
62
chuyện ăn của các tác gia, có thể kể ra rất nhiều như chuyện nhà thơ Quang Dũng
“có cái bụng ăn không biết no” khi Nguyễn Tuân mới ăn được một bát xôi thì nhà
thơ Tây Tiến đã “xơi” đến 8 bát, Tản Đà có “nết ăn” rất thanh tao, Nguyễn Bính ví
“cái hộp bánh quy” như “cái hộp tình”…
Đọc giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam, người đọc dễ dàng thấy
được chân dung của họ đời thường giản dị như bao người khác. Các tác gia tuy nổi
tiếng là thế nhưng cái nết ăn, nết chơi, nết ở khiến người đọc các thoại cảm thấy bất
ngờ vì nó quá đỗi bình dị, “giống người thường”. Điều đó khiến cho người đọc cảm
thấy sự gần gũi, quen thuộc, kéo khoảng cách giữa nhà văn và bạn đọc lại gần hơn.
* Tiểu kết
Với việc khảo sát nội dung của giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam,
chúng tôi thấy đây là bộ phận chứa đựng giá trị hết sức phong phú. Về căn bản,
chúng tôi tạm chia bộ phận giai thoại này thành hai chặng: chặng thứ nhất, từ
khoảng đầu thế kỉ XX trở về trước; chặng thứ hai, từ khoảng đầu thế kỉ XX trở về
sau. Ở chặng thứ nhất, các thoại chủ yếu tập trung vào đả kích, châm biếm những
cái lố bịch trong xã hội phong kiến đương thời như: bọn nho sĩ, thi sĩ dốt nhưng hay
khoe chữ, bọn quan lại tham lam, áp bức, lừa gạt nhân dân. Đó là những kẻ có chức
sắc, địa vị xã hội, được hưởng đầy đủ cả một nền giáo dục Nho học nhưng do đạo
đức suy đồi, do học hành “không đến nơi đến chốn” hoặc “cái chữ” mua được bằng
đồng tiền, quyền lực nên chỉ là chữ “rởm”. Những thoại về nội dung này xoay
quanh các nhân vật là các nhà thơ đồng thời là nhà chính trị, vị quan có tài năng, có
trí tuệ mẫn tiệp, có phẩm chất đạo đức tốt đẹp, chân chính, có tấm lòng yêu thương
con người như: Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Lê Quý Đôn, Lương Thế Vinh,
Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Khuyến, Tú Xương… Từ nội dung đả kích, châm biếm đó
bật lên tiếng cười lý thú. Không chỉ thế, đằng sau những tiếng cười ấy là cả một nỗi
xót xa về những giai đoạn lịch sử suy thoái về đạo học, đạo làm quan mà dân tộc
phải trải qua. Cũng qua bộ phận giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam, tinh
thần yêu nước, tự hào dân tộc của các tác gia cũng được sáng rõ. Các tác gia ấy có
thể là một vị vua, một viên quan hay một nhà thơ lui khỏi quan trường về vui cảnh
sống nhàn. Chúng tôi thấy được ở họ một tấm lòng yêu thương nhân dân bao la. Lo
63
lắng, chăm chút cho đời sống của trăm họ. Đó chính là yêu nước. Và cho dù phải
đối mặt với bọn quan lại, tay sai phản động trong nước hay với ngoại bang thì họ
vẫn luôn khảng khái, khẳng định tài năng của mình và vị thế của một đất nước Đại
Việt tuy “nhỏ” nhưng không hề “bé”.
Ở chặng thứ hai, chúng tôi thấy rõ được chân dung đời thường của các nhà
văn, nhà thơ nổi tiếng trong nền văn học mà chúng ta vốn chỉ được biết qua những
sáng tác của họ. Đó có thể là thói xấu tự mãn, kiêu ngạo về tài năng, trí tuệ của
mình; đó cũng là những nét tính cách rất bình dị, gần gũi như bao người xung
quanh, là nết ăn, nết ở, nết chơi… Những giai thoại này khiến người đọc, người
nghe đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác và cảm thấy thích thú, quen thuộc. Từ đó,
chân dung các tác gia hiện lên chân thực, gần gũi.
Tuy nhiên, trong phạm vi ngắn gọn của chương 2 luận văn, chúng tôi chưa
thể khảo sát, tìm hiểu được hết tất cả các nội dung xoay quanh bộ phận giai thoại về
các tác gia văn học Việt Nam. Những nội dung trên đây chỉ là những nét chính nhất,
cơ bản nhất về tiểu loại giai thoại này.
64
Chương 3
NGHỆ THUẬT CỦA GIAI THOẠI VỀ CÁC TÁC GIA
VĂN HỌC VIỆT NAM
Nằm trong thể loại giai thoại, tiểu loại Giai thoại về các tác gia văn học Việt
Nam có một vị trí khá đặc biệt. Có thể coi đây là bộ phận hay nhất, có số lượng
phong phú nhất của giai thoại. Khi tìm hiểu nghệ thuật của bộ phận này, chúng tôi
thấy những giá trị khá đặc sắc, độc đáo về kết cấu, cốt truyện, nhân vật, biện pháp
nghệ thuật.
3.1. Kết cấu, cốt truyện
Một tác phẩm văn học, dù dung lượng lớn hay nhỏ cũng đều là những chỉnh
thể nghệ thuật, bao gồm nhiều yếu tố, bộ phận... Tất cả những yếu tố, bộ phận đó
được nhà văn sắp xếp, tổ chức theo một trật tự, hệ thống nào đó nhằm biểu hiện một
nội dung nghệ thuật nhất định...gọi là kết cấu. Nói cách khác, kết cấu là “toàn bộ tổ
chức nghệ thuật sinh động, phức tạp của tác phẩm văn học” [11, tr. 156].
Kết cấu là yếu tố tất yếu của mọi tác phẩm. Nếu khái niệm cốt truyện nhằm
chỉ sự liên kết những sự kiện, hành động, biến cố...trong tác phẩm tự sự và kịch thì
kết cấu là một khái niệm rộng hơn nhiều. Cần có sự phân biệt giữa kết cấu và bố
cục. Bố cục là sự sắp xếp các phần, các chương, các đoạn, các khổ thơ... Ðây chỉ là
sự tổ chức hình thức bên ngoài của tác phẩm. Nói cách khác bố cục mới chỉ là kết
cấu bề mặt của tác phẩm. Thuật ngữ kết cấu rộng và phức tạp hơn nhiều. Bên cạnh
việc tổ chức, sắp xếp các yếu tố của tác phẩm, kết cấu còn “bao hàm sự liên kết bên
trong, những mối liên hệ qua lại giữa các yếu tố thuộc về nội dung và hình thức của
tác phẩm, trong đó có cả yếu tố của bố cục” [11, tr. 156]. Kết cấu có nhiệm vụ góp
phần thể hiện chủ đề và tư tưởng của tác phẩm. Trong lao động sáng tạo văn học, có
thể coi chủ đề tư tưởng là mục tiêu nhằm hướng tới của nhà văn trong quá trình phát
hiện và xây dựng kết cấu.
Kết cấu của giai thoại chỉ nêu ra một hoàn cảnh, một tình huống, trong đó
diễn ra một hành động của một hoặc một vài nhân vật, nhằm minh họa cho một nội
dung nào đó. Xung đột không có quá trình hình thành, nó chỉ diễn ra trong một
65
hành động. Đặc trưng này tạo nên kiểu kết cấu tiêu biểu một màn kịch của giai
thoại. Nó gần giống như quy tắc “tam duy nhất” của kịch cổ điển.
Nét đặc trưng của kiểu kết cấu này:
- Tình huống, hoàn cảnh được chỉ dẫn cụ thể.
- Nhân vật được miêu tả sắc nét.
- Đối thoại hoặc độc thoại hàm súc, hành động diễn ra mau lẹ.
Có thể nói, giai thoại nói chung và giai thoại về các tác gia văn học Việt
Nam nói riêng có dung lượng về cơ bản là ngắn gọn. Nhìn chung, về kết cấu của bộ
phận giai thoại này thường được kể theo mẫu kể thống nhất:
- Sơ lược lai lịch nhân vật
- Nội dung truyện
- Lời dẫn truyện, đủ gợi cho người đọc thấy được chỗ lý thú của tình tiết
thoại, hoặc lối chơi chữ trong thơ văn đối đáp
- Lời kết thúc truyện.
Với dung lượng ngắn gọn, mẫu kể theo kết cấu nói trên giúp người nghe,
người đọc thấy được ngay đối tượng mà tác giả dân gian muốn nói tới là ai, nói về
việc gì và tình huống lý thú ra sao. Kết cấu này giúp câu chuyện dễ hiểu, không dài
dòng, không mất thời gian vào những nội dung thừa như những thể loại dân gian
khác. Hãy xem giai thoại “Cô hàng nước hay chữ” là một ví dụ tiêu biểu:
Phần sơ lược lai lịch nhân vật: “Trong các nhà thơ nữ của mọi thời đại, nữ sĩ
Đoàn Thị Điểm được xem là người tài sắc vẹn toàn. Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm sinh năm
1705, hiệu Hồng Hà, quê ở làng Hiến Phạm, xã Giai Phạm, huyện Văn Giang, tỉnh
Hưng Yên”. Đây là phần mở đầu của thoại.
Phần nội dung truyện: “Năm đó có đoàn Sứ bộ Mãn Thanh sang. Trong số
những người bán hàng trên đường Sứ bộ Tàu đi qua có cô Điểm và chú bé Trần
Quang Trạch, con trai của ông Hoàng giáp Trần Danh Ninh, mới hơn 10 tuổi mà đã
giỏi văn thơ ứng đối. Sứ bộ Tàu hống hách, thấy có cô bán hàng xinh đẹp thì nói
đùa một câu:
Nam phương nhất thốn thổ, bất tri kỷ nhân canh
Dịch:
66
Phương Nam có một tấc đất, không biết bao nhiêu người cày.
Cô Điểm đứng đó liền đáp lại rằng:
Bắc quốc đại trượng phu, giai do thử đồ xuất.
Dịch:
Nước Tàu phương Bắc các bậc đại phu đều bởi đường ấy mà ra.
Phần này vừa có nhiệm vụ thắt nút tình huống và đưa câu chuyện lên đến
đỉnh điểm, cao trào vào chỗ lý thú nhất. Câu nói của viên sứ Tàu có ý trêu ghẹo cô
bán hàng và đẩy câu chuyện vào hoàn cảnh lý thú. Một cô bán hàng liệu có đối đáp
được lời lẽ của tên sứ Tàu hống hách kia không?
Phần lời dẫn truyện: “Hai câu đối trên, nếu giải nghĩa thanh thì đối nhau rất
thanh, giải nghĩa tục thì đối nhau rất tục, vì chữ “đồ” được hiểu theo nghĩa tục của
dân gian là chỉ vào cái “ấy” của phụ nữ”. Đây có thể xem là phần cởi nút, ý nghĩa
của tình huống thoại được giải đáp. Phần này, lời dẫn truyện được trình bày cụ thể,
chi tiết vì phần lớn các thoại đều có các câu đối, bài thơ bằng tiếng Hán nên không
phải ai cũng hiểu rõ ngay khi mới đọc. Sau lời giải đáp, tiếng cười bật ra khiến
người đọc, người nghe cảm thấy thích thú.
Lời kết thúc truyện: “Sứ bộ Tàu nói bỡn để hạ nhục cô bán hàng, nào dè cô
lanh trí trả lời đích đáng, đem cái nhục trả lại, làm cho họ hổ thẹn rút lui, phục,
không còn dám bỡn cợt gái nước Nam nữa”.
Với kết cấu như vậy, người đọc, người nghe có thể dễ dàng nhận ra chủ đề,
tư tưởng của thoại là nhằm ca ngợi tài năng, trí tuệ của Hồng Hà nữ sĩ và thể hiện
tinh thần tự hào dân tộc, đả kích bọn ngoại bang hống hách. Hầu hết các giai thoại
về các tác gia đều được kể theo cấu trúc này. Trong chùm giai thoại về một tác gia
cụ thể nào đó, ở thoại đầu tiên, phần tiểu sử, lai lịch của nhân vật sẽ được giới thiệu,
làm rõ. Ở các thoại sau chỉ kể phần nội dung chính, lời dẫn truyện và lời kết thúc.
Bộ phận giai thoại này còn có kiểu kết cấu theo hai tuyến nhân vật đối lập.
Đây là kiểu kết cấu có dáng dấp một màn kịch. Nhân vật thoại đối đáp với nhau để
tạo nên tình huống lý thú. Lối kết cấu này được sử dụng nhiều trong văn học cổ.
Nhà văn xây dựng hai tuyến nhân vật chính diện và phản diện đối lập nhau về lí
tưởng, chính kiến, đạo đức, hành động... Một bên đại diện cho lực lượng chính
67
nghĩa, cái đẹp, chân lí. Một bên thì ngược lại. Hai lực lượng này đấu tranh không
khoan nhượng với nhau và thường kết thúc với thắng lợi của lực lượng chính nghĩa.
Lối kết cấu này gần gũi với thể loại truyện cổ tích và truyện Nôm. Nó có tác dụng
làm nổi rõ chủ đề tư tưởng thông qua so sánh, đối chiếu giữa hai tuyến nhân vật đối
lập. Tuy nhiên, nếu như ở truyện cổ tích và truyện Nôm có sự phân biệt khá rạch ròi
giữa thiện và ác nhiều khi dẫn đến lí tưởng hóa hiện thực thì hai tuyến nhân vật của
giai thoại về các tác gia không rạch ròi như vậy mà đôi khi nó chỉ là sự phân biệt
giữa một bên là tác gia có tài, có tâm và một bên là bộ phận bất tài nhưng thích
khoe khoang, thích tỏ ra là tài giỏi; hay một bên là tác gia tự mãn về tài năng,
chữ nghĩa và một bên là người vô danh muốn nhắc nhở về thói kiêu căng
ấy…Hình thức kết cấu theo hai tuyến nhân vật đôi khi được trình bày không phải
là sự đối lập mà là hai tuyến song song, làm cơ sở để đối chiếu và hỗ trợ cho
nhau. Ở đây mỗi tuyến tập hợp những kiểu người gần gũi với nhau về hoàn cảnh
sống, về tính cách, đạo đức... Các tuyến nhân vật ứng đối nhau làm bật lên nội
dung hấp dẫn của tình huống. Điều này chúng tôi có thể thấy rõ qua các nội dung
đã trình bày ở chương 2 luận văn. Chẳng hạn, chúng ta có thể sắp xếp hai tuyến
nhân vật như sau: một bên là các tác gia - các vị quan đi sứ như Mạc Đĩnh Chi,
Nguyễn Biểu…có tài năng, khí chất, lòng yêu nước, tinh thần dân tộc; một bên là
bọn vua quan ngoại bang luôn “lăm le” hạ nhục quốc thể của ta. Hay một bên là
các tác gia như Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Hồ Xuân Hương…có cá tính
mạnh mẽ, sẵn sàng dùng trí tuệ của mình để đả kích bọn nho sĩ, quan lại dốt nát
mà hay khoe chữ… Sự giống nhau, tương tự nhau ở mỗi tuyến nhân vật làm cho
kết cấu của giai thoại về các tác gia khá cân đối. Nó làm cơ sở để hỗ trợ, nâng
tình huống truyện trở nên hấp dẫn, thú vị. Đó chính là tác dụng của kết cấu nghệ
thuật với nội dung của bộ phận giai thoại này.
Cốt truyện không phải là yếu tố tất yếu cho mọi loại tác phẩm văn học mà
chỉ tồn tại trong những tác phẩm thuộc loại tự sự (tiểu thuyết, truyện vừa, truyện
ngắn, truyện thơ...), kí và các tác phẩm kịch.
“Cốt truyện là một hệ thống cụ thể những sự kiện, biến cố, hành động trong
tác phẩm tự sự và tác phẩm kịch thể hiện mối quan hệ qua lại giữa các tính cách
68
trong một hoàn cảnh xã hội nhất định nhằm thể hiện chủ đề, tư tưởng của tác
phẩm” [11, tr. 19].
Nếu kết cấu chỉ là cái khung thì cốt truyện đã là một hệ thống biến cố, sự
kiện cụ thể để diễn đạt cái khung ấy. Cốt truyện là sườn truyện đã được chi tiết hóa,
hình tượng hóa một cách cụ thể, sinh động qua một chủ thể sáng tạo. Có thể nói cốt
truyện là một cái gì độc đáo, không lặp lại, gắn bó trực tiếp với những yếu tố khác
làm cho tác phẩm văn học trở thành một chỉnh thể nghệ thuật.
Cốt truyện của các thể loại văn học dân gian thường theo một trong các kiểu
sau: kết cấu theo mạch thẳng, kết cấu theo ba bậc tăng cấp và kiểu kết cấu đồng quy.
Cốt truyện của giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam thường được kể
theo đường thẳng, ngắn gọn, hàm súc, giàu sức biểu hiện và mang những nét đặc
trưng riêng biệt. Đó là kiểu cốt truyện là những mẩu, những mảnh nhỏ lẻ theo chân
từng nhân vật, từng tác gia. Truyện nhưng chỉ có một tình huống, qua đó làm nổi
bật lên nội dung, tư tưởng.
Ví dụ về thoại dưới đây:
“Cụ Nguyễn Khuyến (Tam nguyên Yên Đổ) mặc dù đã rời quan trường từ
mùa thi 1892; song, là quan đại thần, lại đỗ Đại Khoa (3 lần đỗ đầu) với hàm Tổng
đốc Tam Tuyên (Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang) dù cụ đã cáo quan trên đường
đi nhậm chức vì lý do "đau mắt”, cũng được triệu về Hà Nội bái yết nhà vua và dự
lễ. Tất cả các quan khi bái yết nhà vua đều phải tuân theo nghi lễ của triều đình,
nghĩa là phải quỳ lạy (phủ phục) và hô "vạn tuế”, đến lượt cụ Tam Nguyên thật trớ
trêu cho cụ bởi bà Chánh phi vợ của Thành Thái là con gái tiến sĩ Nguyễn Trọng
Hợp (người làng Kim Lũ, Thanh Trì, Hà Đông, làm tới chức Văn minh điện Đại
học sĩ, hàm chánh nhất phẩm, dân địa phương thường gọi là Nghè Lử hoặc Văn
Minh Lử), trước đây đã đính ước với con trai cả của cụ là Nguyễn Hoan đỗ Phó
bảng, sau vì một lý do nào đó nên không thành. Nay nếu buộc phải thực hiện nghi lễ
(điều đó là bình thường theo lễ vua - tôi), nhưng nếu lễ vua mà không lễ vợ vua là
không ổn, mà lễ vợ vua hóa ra cụ phải lễ con dâu trượt của mình, sẽ là trò cười và
hơn thế không thể không có những bình nghị chẳng hay ho gì, ảnh hưởng đến uy tín
nhà nho Đại khoa như cụ.
69
Đem theo sĩ khí của nho sĩ Bắc Hà, cụ bái yết nhà vua và chỉ vái 2 cái, không
quỳ lạy như các vị khác, việc làm như vậy là phạm tội "khi quân” tức là khinh vua,
có thể bị chém đầu! Có lẽ nhà vua biết uẩn khúc này nên thông cảm chỉ quở trách
nhẹ, còn cụ Tam Nguyên thưa:
- Muôn tâu Hoàng Thượng, thần giờ chỉ như một con trâu già, xin đức Khâm
thượng khai ân!
Nhà vua mỉm cười. Song, để giữ phép vua, phép nước và cũng là để giữ
uy tín của triều đình. Hơn thế nhà vua còn biết tài ứng khẩu thành thi của cụ nên
truyền thánh chỉ:
- Vậy khanh hãy làm bài thơ "Vịnh trâu già”, nếu hay trẫm miễn tội.
Cụ ung dung đọc bài thơ theo Đường luật thất ngôn bát cú "Vịnh trâu già”
như sau:
Một nắm xương khô một nắm da,
Bao nhiêu các ách đã từng qua.
Đuôi khom biếng vẫy Điền Đan hỏa,
Tai nặng buồn nghe Ninh Tử Ca.
Sớm thả Vườn Đào chơi đủng đỉnh,
Tối về thôn Hạnh thở nghi nga.
Có người toan giết tô chuồng mới,
Ơn đức vua Tề lại được tha” [19, tr. 58].
Bài thơ "xuất khẩu” trên quả là tài tình hiếm có, rất đúng niêm luật, sát đầu
đề dù đó là đề tài khó. Hay hơn ở chỗ cụ đã ví mình, một vị quan lại không còn mẫn
cán với triều đình như xưa, nay chỉ như một con trâu già, trâu phế canh không còn
tác dụng gì với nhà nông nữa. Bởi nay chỉ còn có da bọc xương do cả đời kéo cày
mắc ách, làm lụng vất vả, ăn giả làm thật như trong "Lục súc tranh công” đã tả…
Rõ ràng, thoại này chỉ là một mẩu vụn kể về chuyện cụ Tam nguyên vào
triều và đối đáp thơ văn với nhà vua. Đọc lên, người đọc thấy được cái tài của cụ.
Cùng với thoại này là các mẩu vụn khác xoay quanh Nguyễn Khuyến, tạo nên một
chùm giai thoại về bức chân dung của cụ Tam nguyên. Có thoại kể chuyện ông đối
đáp với một tên quan bán nước, có thoại kể chuyện cụ đả kích một me Tây, thoại
70
khác lại kể về việc nhà thơ làm câu đối châm biếm một nhà sư… Những mẩu thoại
này tập hợp lại với nhau khiến cho chân dung về tác gia hiện lên chân thực, rõ ràng,
tạo tình huống lý thú, hấp dẫn. Có thể nói, mỗi thoại là một mẩu, một mảnh vụn rất
nhỏ trong cuộc sống đời thường của các tác gia. Kiểu cốt truyện này cũng chính là
nguyên nhân dẫn đến dung lượng, quy mô tác phẩm giai thoại cơ bản là ngắn gọn,
tình huống thoại tập trung và rất “chất” - vì nếu tình huống thoại không “chất” thì sẽ
không thể tạo nên tính hấp dẫn cho thể loại. Không phải ở bất cứ thể loại nào, cốt
truyện cũng được “lượm nhặt” từ những mảnh vụn trong đời sống như giai thoại.
Có thể nói, kết cấu và cốt truyện của giai thoại về các tác gia văn học Việt
Nam về cơ bản là ngắn gọn, từng phần rõ ràng, cụ thể. Nó luôn chỉ xoay quanh một
tình huống nhất định và tập trung vào làm nổi bật tình huống đó, đẩy nó đi đến cao
trào, tạo hứng thú, hấp dẫn cho người đọc, người nghe thoại.
3.2. Nhân vật
“Nhân vật văn học là con người được nhà văn miêu tả trong tác phẩm bằng
phương tiện văn học” [11, tr. 235]. Những con người này có thể được miêu tả kỹ
hay sơ lược, sinh động hay không rõ nét, xuất hiện một hay nhiều lần, thường xuyên
hay từng lúc, giữ vai trò quan trọng nhiều, ít hoặc không ảnh hưởng nhiều lắm đối
với tác phẩm. Nhân vật văn học có thể là con người có tên (như Tấm Cám, Thúy
Vân, Thúy Kiều, Từ Hải, Kim Trọng...), có thể là những người không có tên (như
thằng bán tơ, viên quan, mụ quản gia...) hay có thể là một đại từ nhân xưng nào đó
(như một số nhân vật xưng tôi trong các truyện ngắn, tiểu thuyết hiện đại, như
“mình” - “ta” trong ca dao...). Khái niệm con người này cũng cần được hiểu một
cách rộng rãi trên hai phương diện. Về số lượng, “hầu hết các tác phẩm từ văn học
dân gian đến văn học hiện đại đều tập trung miêu tả số phận của con người. Về chất
lượng, dù nhà văn miêu tả thần linh, ma quỉ, đồ vật...nhưng lại gán cho nó những
phẩm chất của con người” [11, tr. 235]. Nhân vật văn học có chức năng khái quát
những tính cách, hiện thực cuộc sống và thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc
đời. Khi xây dựng nhân vật, nhà văn có mục đích gán liền nó với những vấn đề mà
nhà văn muốn đề cập đến trong tác phẩm. Vì vậy, tìm hiểu nhân vật trong tác phẩm,
71
bên cạnh việc xác định những nét tính cách của nó, cần nhận ra những vấn đề của
hiện thực và quan niệm của nhà văn mà nhân vật muốn thể hiện.
Nhân vật truyện cười dân gian chỉ xuất hiện trong một tình huống nhất định.
Nhân vật giai thoại tuy cũng xuất hiện trong tình huống nhất định nhưng ở bộ phận
giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam, nhân vật có bề dày về tiểu sử. Đọc
những thoại thuộc bộ phận này, chúng tôi thấy rõ được đây đều là những nhân vật
có tên tuổi rõ ràng, lai lịch cụ thể. Đó có thể là một nhà thơ, một nhà văn, một vị
vua, vị quan có tài văn chương được lưu danh trong lịch sử. Mở đầu chùm giai thoại
về Mạc Đĩnh Chi, tác giả dân gian giới thiệu: “Mạc Đĩnh Chi, tự là Tiết Phu, người
làng Lũng Động, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, sống vào khoảng đầu thế kỷ
XIV, không rõ năm sinh và mất. Ông thi đậu Trạng Nguyên vào đời vua Trần Anh
Tông và làm quan đến chức Thượng Thư, phẩm chất liêm khiết và được nhân dân
yêu mến”. Hay như chủm giai thoại về Nguyễn Khuyến: “Cụ Nguyễn Khuyến quê ở
làng Vị Hạ, nay thuộc xã Trung Lương, Bình Lục, Hà Nam. Cụ là người nuôi chí
học hành để giúp dân giúp nước và đã đạt đến vinh dự cao nhất trong nghiệp thi cử
khi đỗ đầu cả ba kỳ thi (Hương, Hội, Đình). Tuy nhiên, đỗ đạt rồi ra làm quan cụ
mới thấy chán ngán thế sự khi thực dân Pháp thì đang lấn chiếm dần dần đất nước
còn triều đình Huế thì hèn nhát cam chịu. Bởi thế làm quan đúng 10 năm, cụ cáo
quan về quê nhà dạy học, ngâm thơ. Sống vui vầy giữa xóm làng, cụ nhiều lần viết
đại tự, cho câu đối bà con lối xóm. Điều đó là chuyện bình thường đối với một
người khoa danh như cụ. Tuy nhiên, điều đặc biệt là mỗi lần cho chữ, cho câu đối
của cụ là một giai thoại kỳ thú”. Đọc những nội dung đó, tiểu sử, lai lịch nhân vật
hiện ra rõ ràng. Đó chính là điểm nhân vật giia thoại về các tác gia khác với nhân
vật truyện cười. Ngoài những tác gia đã quá quen thuộc như Nguyễn Khuyến,
Lương Thế Vinh, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Công Trứ…còn có
những tác gia khác “ít” được biết đến hơn được nhà nghiên cứu Kiều Thu Hoạch
sưu tầm trong công trình của mình như: Vũ Công Tể, Hà Hồng Huân, Vũ Huy Tấn,
La Ngạn… Qua việc đọc, nghe giai thoại về họ, người nghe, người đọc có thể nắm
được tiểu sử của họ một cách rõ ràng, vì nó đã được trình bày khá rõ trong phần mở
đầu của mỗi giai thoại.
72
Nếu như nhân vật truyện cười biểu lộ một hành vi ứng xử trái lẽ thường
trong một tình huống bình thường thì nhân vật giai thoại về các tác gia lại biểu lộ
cách ứng xử độc đáo, khác người trong một tình huống bình thường.
Hãy xem Cao Bá Quát trong thoại “Bịa thơ tài hơn vua” dưới đây ứng xử thế
nào: “Tự Đức vốn là ông vua sính thơ và hay khoe thơ mình. Nghĩ được câu thơ, bài
thơ nào thường vẫn đem đọc cho quần thần nghe và lấy làm tự đắc lắm. Một hôm
sau buổi chầu, Tự Đức nói với các quan:
- Đêm qua trẫm nằm mơ làm được hai câu thơ thật kỳ lạ, để trẫm đọc cho các
khanh nghe!
Rồi đọc luôn:
Viên trung oanh chuyển “khề khà” ngữ,
Dã ngoại đào hoa “lấm tấm” khai.
Các quan nghe xong đều lấy làm lạ vì chưa hề được nghe lối thơ vừa chữ vừa
nôm ấy bao giờ, nhất là những chữ “khề khà”, “lấm tấm” nghe thật thú vị. Còn Cao
Bá Quát lúc bấy giờ cũng có mặt ở đấy, thì vẫn thản nhiên mà tâu rằng:
- Tâu bệ hạ, tưởng gì chứ hai câu ấy thì từ hồi còn để chỏm đi học, thần đã
được nghe rồi ạ! Thần được nghe cả bài tám câu kia, nếu bệ hạ cho phép, thần xin
đọc lại tất cả.
Tự Đức đang hí hửng về mấy câu thơ dở chữ dở nôm rất độc đáo của mình,
không dè lại bị Quát giội cho một gáo nước lạnh thì tức lắm, vì rõ ràng hai câu thơ
đó chính ông ta nghĩ ra. Tuy nhiên, ông ta vẫn cố trấn tĩnh bảo Quát đọc cho nghe
cả bài thơ, với thâm ý nếu không đọc được thì sẽ trị cái tội khi quân cho hả
giận. Còn đình thần cũng bực tức là Quát dám cả gan xúc phạm đến vua, và họ đang
chờ một trận lôi đình; ông nọ lấm lét nhìn ông kia, không khí triều đình trở nên
căng thẳng, nặng nề khác thường. Quát bình thản suy nghĩ một lát như để nhớ lại
một bài thơ lâu ngày không nhìn đến, rồi cất giọng sang sảng ngâm rằng:
Bảo mã tây phương "huếch hoác" lai,
"Huênh hoang" nhân tự thác đề hồi.
Viên trung oanh chuyển "khề khà" ngữ,
Dã ngoại đào hoa "lấm tấm" khai.
73
Xuân nhật bất văn sương "lộp bộp",
Thu thiên chỉ kiến vũ "bài nhài".
"Khù khờ" thi cú đa nhân thức,
"Khệnh khạng" tương lai vấn tú tài.
Nghĩa là:
Ngựa báu từ phương tây huếch hoác lại
Người huênh hoang nhờ cậy dìu về
Trong vườn oanh hót giọng khề khà
Ngoài đồng hoa đào nở lấm tấm
Ngày xuân chẳng nghe tiếng sương rơi lộp bộp
Tiết thu chỉ thấy mưa bài nhài
Tứ thơ khù khờ đã nhiều người biết
Lại còn khệnh khạng mang đến hỏi bậc tú tài!
Bài thơ vừa đọc dứt, cả đình thần hoang mang nhìn nhau, còn Tự Đức thì
biết đích là Cao Bá Quát chơi xỏ mình, nhất là 2 câu cuối, nhưng cũng rất sửng sốt
và hết sức thán phục. Vua sai lấy chè và quế ban cho Quát và bắt Quát phải thú thật
là đã bịa thêm sáu câu” [16, tr. 311].
Tình huống ở đây là một vị vua - đứng đầu triều đình, đất nước - “sính” chữ,
đang tự đắc về tài làm thơ của mình. Trong tình huống ấy, với thói thường thì một
vị quan sẽ tung hô, “nịnh bợ” vua nhưng Cao Bá Quát thì không như vậy. Ông vốn
là một con người có cá tính mạnh mẽ và rất kiêu ngạo. Với cá tính đó, ông không
thể làm ngơ trước một tình huống mà ông cho là “tức cười”, kệch cỡm như vậy.
Cách ứng xử của ông thật khác người.
Hay một giai thoại khác “nhẹ nhàng” hơn về nhà văn Nguyễn Tuân: “Con
gái nhà văn Nguyễn Tuân hẹn người yêu đến nhà để bố gặp mặt. Lần đầu tiên ra
mắt bố vợ tương lai, Anh chàng chỉ sợ muộn giờ nên nhảy ba bước một làm chiếc
cầu thang gỗ cũ kỹ rung lên bần bật. Đến cửa, anh vừa thở, vừa gõ cửa. Người ra
mở cửa chính là nhà văn Nguyễn Tuân, ông liếc nhìn anh chàng từ đầu đến chân, rồi
lẳng lặng đi vào, vừa đi vừa thủng thẳng: “Đi với đứng, cứ rầm rầm như thằng ăn
cướp!”. Lần sau đến nhà, anh rút kinh nghiệm đi thật sớm, bước lên cầu thang nhẹ
74
nhàng, hầu như không gây ra tiếng động. Anh sẽ sàng gõ cửa. Người mở cửa lại là
nhà văn Nguyễn Tuân. Ông lại liếc xéo anh từ đầu đến chân rồi lẳng lặng đi vào,
vừa đi vừa lẩm bẩm: “Đi với đứng, cứ rón ra rón rén như thằng ăn trộm!”. Nghe nói
sau lần ấy, anh chàng sợ không dám đến nữa” [41, tr.65]. Nguyễn Tuân khó tính,
điều này hẳn ai yêu quý ông đều biết nhưng khó tính đến mức “kiểu gì cũng bắt bẻ
được” thế này thì quả thực là khiến người khác...sợ. Đọc những thoại kiểu này,
người đọc sẽ vừa bất ngờ, vừa bật cười thích thú trước cách ứng xử của các nhà văn,
nhà thơ. Cũng có khi, đằng sau cái bất ngờ đó là tấm lòng với nhân dân, đất nước
như nội dung đã trình bày ở chương 2 luận văn. Chính điều đó khiến cho nhân vật
của giai thoại khác với nhân vật truyện cười.
Nhân vật của giai thoại về các tác gia được phân thành hai loại: các tác
gia là cá nhà văn, nhà thơ nổi tiếng và đối tượng mà các tác gia hướng tới. Đối
tượng mà các tác gia hướng tới có thể là nhân vật bị đả kích, bị châm biếm; có
thể là nhân vật được ngợi ca - là cơ sở để tác gia thể hiện cá tính, tài năng và
nguyện vọng của mình.
Có thể nói, nhân vật của giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam đều có
tên tuổi, lai lịch, tiểu sử rõ ràng, cụ thể. Đó là những con người ứng xử với phong
cách đời thường trước một sự việc, một đối tượng làm cơ sở tạo nên tình huống lý
thú cho thoại. Cho dù là một nhà văn, nhà thơ, nhà chính trị nhưng họ xuất hiện
trong giai thoại không phải ở phương diện lịch sử mà là ở phương diện cuộc sống.
Người đọc, người nghe không chỉ thấy cái tài mà còn thấy cái tâm, cái giản dị, “xuề
xòa”, tính cách của những nhân vật nổi tiếng mà ta hằng ngưỡng mộ.
3.3. Một số biện pháp nghệ thuật
Ngoài một số đặc điểm nghệ thuật đặc sắc như: kết cấu - cốt truyện, nhân vật
của giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam vừa đề cập ở trên và các đặc trưng
nghệ thuật chung của thể loại giai thoại đã nói đến ở chương 1 của luận văn, chúng
tôi còn nhận thấy bộ phận giai thoại này còn chứa đựng một số thủ pháp nghệ thuật
riêng làm nên đặc sắc cho chúng.
75
3.3.1. Chơi chữ
Chơi chữ là một nghệ thuật độc đáo trong ngôn ngữ nói chung và trong
Tiếng Việt nói riêng. Có nhiều định nghĩa, khái niệm, … giải thích vấn đề này, xin
được nêu một số ý kiến như sau:
Từ điển Tiếng Việt giải thích: “Chơi chữ là lợi dụng hiện tượng đồng âm, đa
nghĩa,…trong ngôn ngữ nhằm gây một tác dụng nhất định (như bóng gió, châm
biếm, hài hước,…) trong lời nói” [33, tr.15].
Từ điển thuật ngữ văn học gọi chơi chữ là “lộng ngữ” [11, tr.61] và giải thích
là một biện pháp tu từ có đặc điểm “người sáng tác sử dụng những chỗ giống nhau
về ngữ âm, ngữ nghĩa, văn tự, văn cảnh để tạo ra sự bất ngờ thú vị trong cách hiểu,
trong dòng liên tưởng của người, người nghe" [11, tr.61]. Các hình thức của lộng
ngữ rất phong phú, trong đó có: nói lái, dùng từ đồng âm hoặc gần âm, dùng từ gần
nghĩa, tách một từ thành các từ khác nhau (có thể xem đây là hình thức của nghệ
thuật chơi chữ). Các tác giả trong quyển từ điển này cho rằng: nhìn chung các lộng
ngữ đều mang tính hài hước, thường được sử dụng trong văn thơ trào phúng (có thể
xem đây là tác dụng của nghệ thuật chơi chữ).
Tác giả Hữu Đạt thì xem chơi chữ là một đặc điểm độc đáo của ngôn ngữ thơ
Việt Nam và nêu định nghĩa: “Chơi chữ là một biện pháp tu từ nghệ thuật dựa vào
những khả năng tiềm tàng của ngôn ngữ, vận dụng linh hoạt đơn vị cơ bản của tu từ
học (là chữ hoặc tiếng) đặt nó trong mối quan hệ nhiều chiều, nhiều phía với các
đơn vị cùng bậc và khác bậc, nhằm khai thác tính chất nước đôi của các đơn vị ngôn
ngữ dựa vào sự hiện diện của văn cảnh” [7, tr.10].
Có thể xem chơi chữ là nét đặc thù của tiểu loại giai thoại về các tác gia. Bởi
vì, hầu hết các tác gia đều là những nhà văn, nhà thơ, nhà chính trị có tài thơ văn.
Mỗi giai thoại đều có chứa ít nhất một hoặc một vài câu đối, câu thơ hoặc câu nói
có chứa nội dung hàm chứa sâu xa nội dung mà tác gia muốn truyền đạt. Và cũng
chính điều đó tạo nên sự độc đáo cho bộ phận giai thoại này.
Giai thoại về Nghè Tân là một ví dụ điển hình. “Truyện kể rằng, có một
ông quan đã nhiều tuổi mới đẻ được một đứa con trai, mở tiệc ăn mừng. Nghè
Tân được mời đến dự, ông chỉ cắm cổ chén tỳ tỳ, chẳng mừng, chẳng nói gì
76
hết. Ai cũng lấy làm lạ. Lúc khách ra về, chủ vào buồng thì thấy bài thơ Nôm
dán ở cửa buồng như sau:
Mừng ông nay mới đẻ con trai
Thực giống con nhà chả giống ai
Mong cho chóng lớn mà ăn cướp.
Chủ nhà đoán là thơ xỏ của Nghè Tân. Sáng hôm sau cho người mời Nghè
Tân đến. Cả quan ông, quan bà xúm vào trách. Nghè Tân mới cười, sau đó mới
phân bua rằng vì chưa nghĩ được câu kết hay, nên phải nghĩ thêm cho thật hay. Rồi
ông lấy bút mực điền nốt câu cuối như sau:
Cướp lấy khôi nguyên kẻo nữa hoài!
Bài thơ hóa ra hay quá. Lời chúc mừng như thế còn gì hơn nữa. Cả hai vợ
chồng quan đều sung sướng, hớn hở, giữ Nghè Tân ở lại đánh chén phè phỡn bữa
nữa rồi mới cho về” [16, tr. 336].
Tình huống hay, lý thú là do thành công của nghệ thuật chơi chữ. Câu thơ bỏ
lửng “ăn cướp” đẩy kịch tính lên cao điểm. Đến khi hạ chốt “cướp lấy khôi nguyên”
thì cái nút thắt đã bật tung, quan ông, quan bà thở phào nhẹ nhõm, chủ khách ai nấy
đều vui vẻ. Ở thoại này, tình huống “giai”, gắn hết với bài thơ “giai”, tạo thành một
giai thoại mẫu mực về lối chơi chữ.
Thoại “Trên dưới đều chó” cũng là một giai thoại kết hợp tình huống “giai”
với lối chơi chữ “giai”: “Truyện kể về hai vị quan trong triều cãi nhau, rồi đánh
nhau. Lúc vua Tự Đức phân xử, biết Cao Bá Quát chứng kiến cảnh đó, nên bắt Quát
làm nhân chứng viết tờ khai. Được dịp, Quát viết bài thơ sau:
Trước Quát không biết
Sau Quát chẳng hay
Nửa chừng Quát đến
Quát thấy thế này:
Bàn trên chửi “chó”
Bàn dưới cũng “chó”
Trên dưới đều “chó”
Rồi choảng nhau luôn
77
Thần can chẳng bỏ
Thần thấy thế nguy
Thần hoảng thần chuồn.
Tự Đức đọc tờ khai, biết Quát có ý xược, đã mược lối chơi chữ “thượng hạ
giai cẩu” để chửi suốt lượt từ trên xuống dưới, mà cả vua cũng trong số đó. Nhưng
đó là ý ngầm hiểu, còn cái nghĩa hiển ngôn thì chỉ là “Bàn trên bàn dưới đều chửi
chó”. Vì thế, Tự Đức dù tức tím mặt cũng không bắt bẻ Quát được” [16, tr.334].
Trong bộ phận giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam có rất nhiều kiểu chơi
chữ, chúng tôi có thể kể thêm một số kiểu chơi chữ khác trong các thoại như sau:
Thoại “Chi chi giã” kể về Tư Hồng - một me Tây nổi tiếng Hà Thành hồi đầu
thế kỉ XX. “Nhân chạy cho mình được hàm “Tứ phẩm nghi nhân”, hàm ngang với
chức quan Án sát tỉnh, lại chạy cho bố đẻ hàm “Hàn lâm thị độc”. Thế là có giàu, lại
có sang. Tư Hồng về làng khao vọng linh đình. Nguyễn Khuyến được mời dự, ông
cáo bệnh không đi, cho người mang đến ba chữ “chi chi giã” để đề vào bức hoành
phi và đôi câu đối Nôm:
Có tàn có tán có hương án thờ vua, danh giá lẫy lừng hăm sau tỉnh
Nào biển nào cờ nào sắc phong cho cụ, chị em hồ dễ mấy lăm người.
Các quan khách đến dự tiệc đều xúm đến xem văn chương Tam nguyên Yên
Đổ, những không ai hiểu “chi chi giã” là gì. Chỉ có một ông đốc học, tình cờ đọc lái
lại thành “cha cha đĩ” nên hiểu được lối chơi chữ của Yên Đổ. Còn câu đối Nôm, vì
nôm na dễ hiểu nên ai cũng khen hay, cho rằng ca tụng như thế là hết lời. Nhưng
cũng chỉ có ông đốc học nọ là biết, đó cũng là mọt kiểu chơi chữ rất thâm thúy. Bởi
vế câu đối trên chỉ là một phần của câu tục ngữ “Làm đĩ có tàn có tán có hương án
thờ vua”. Hóa ra Nguyễn Khuyến đã chửi xỏ chứ không phải là ca ngợi. Rồi học
theo cụ Yên Đổ, ông đóc học cũng mừng cha con Tư Hồng một câu đối Nôm rằng:
Ngũ phẩm sắc phong hàm cụ lớn
Ngàn năm công đức của bà to.
Mọi người cũng trầm trồ khen hai câu này. Mà bố con Tư Hồng thấy câu
đối nôm na dễ hiểu cũng thích lắm. Song họ đâu có biết là ông đốc học cũng
chơi chữ. Đây là lối song quan ngữ, tức dùng chữ nước đôi, hai nghĩa. “Hàm cụ
78
lớn” nghĩa là phẩm hàm của cụ to lớn, mà cũng có nghĩa là quai hàm cụ to, loại
hàm bạnh ra. Còn “của bà to” thì cũng có thể hiểu theo nghĩa tục, nghĩa là “cái
kia” của bà to. “Quai hàm cụ lớn” mà đối với “cái kia” của bà to thì thật quá
xược, quá xỏ xiên” [16, tr.49].
Có thể kể đến một thoại khác, cũng nhờ nghệ thuật chơi chữ, cuộc đối đáp
giữa hai nhân vật trở nên hết sức sinh động, tạo thành tình huống có kịch tính thú vị.
Đó là giai thoại “Vả bây giờ”:
“Ở vùng nọ có một cô gái đẹp mà có tài ăn nói, mở một quán nước bên
đường để kén chồng. Các cậu cống anh đồ nghe tin kéo đến rất đông. Chàng nào
cũng hăm hở tưởng mười mươi là chiếm được người đẹp; nhưng khi đến hăm hở
chừng nào thì khi về lại tiu nghỉu chừng nấy, vì chưa có ai địch lại được mồm mép
chua ngoa đáo để của cô gái. Nhưng rồi vỏ quýt dày thì có móng tay nhọn. Một
hôm, có một nho sinh nọ, chẳng biết là định đến thử tài hay là tình cờ qua đường
vào quán nghỉ chân. Cô gái quen như mọi bận, lại giở cái giọng "đàn chị" ra để trêu
chọc, nhưng thò ra câu nào đều bị anh chàng đập lại chan chát, thành ra cô ta đã có
phần nao núng. Cuối cùng, cô ta bèn đọc một câu:
Khen cho con... mắt tinh đời!
Anh hùng đoán giữa trần ai mới già.
Khi đọc cô nhấn mạnh ba tiếng khen cho con, nghỉ một tí rồi mới đọc nốt ba
tiếng sau thành câu thơ có nghĩa: "Bà khen cho con đấy con ạ! Vì con cũng có cặp
mắt tinh đời đấy". Nho sinh vốn là một thanh niên nhanh trí, thấy cô gái nhấn mạnh
ba tiếng khen cho con thì đã hiểu ngay cái ý xỏ xiên của cô ta, anh ta bèn "tương kế
tựu kế", đọc ngay một câu trong Truyện Kiều như sau:
Vả bây giờ... mới thấy đây,
Mà lòng đã chắc những ngày một hai.
Nhưng lúc đọc anh ta dằn mạnh ba tiếng “vả bây giờ”, cũng nghỉ một tí mới
đọc tiếp ba tiếng sau, thành thử câu thơ lại có nghĩa là: "Cô nói hỗn với tôi thì tôi vả
cho bây giờ, để cho cô thấy tôi đây là người như thế nào".
Cô gái là người tinh tế, thấy nho sinh nọ trả lời mình cũng bằng một câu
Kiều với ý nghĩa hóm hỉnh như vậy thì vừa phục vừa thẹn, mặt đỏ au lên, và lặng
thinh ngồi mân mê tà áo chẳng biết trả lời ra sao nữa” [16, tr. 50].
79
Ở giai thoại này, thơ là thơ Kiều nhưng người kể đã khéo lựa chọn và đặt
đúng chỗ, đúng nhân vật, trong tình huống đối chọi giữa hai bên. Câu chuyện do
vậy đã gợi được hứng thú cho người nghe.
Cùng với nội dung châm biếm, đả kích bọn quan lại áp bức, bóc lột nhân dân
như đã trình bày ở chương 2, biện pháp chơi chữ là một trong những phương tiện
giúp thể hiện thành công nội dung này, tạo tình huống văn học lý thú. Giai thoại
“Giễu lệnh cấm quần không đáy” là một ví dụ tiêu biểu.
“Phan Văn Ái quê ở làng Đồng Tỉnh, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên,
sinh năm 1850, mất năm 1898. Ông đỗ Phó bảng khoa Canh Thìn, niên hiệu Tự
Đức thứ 33 (1880), tính tình phóng khoáng hay thơ, làm biên tập trong tờ Đồng
Văn nhật báo. Lúc Phan Văn Ái còn đi học, một hôm đang ngồi đàm luận thơ
phú với các bạn, thì người ta cho biết mới có lệnh nhắc lại dụ cấm "quần không
đáy" của Minh Mệnh. Số là thời Minh Mệnh, đã có lệnh bắt phụ nữ miền Bắc
đang quen mặc váy phải mặc quần. Nhiều buổi chợ thường có quan quân canh
gác, ai mặc quần thì được cho vào chợ, ai mặc váy thì phải đuổi về. Vì thế nhân
dân phản ứng, mới có câu ca dao:
Tháng tám có chiếu vua ra,
Cấm quần không đáy người ta hãi hùng.
Không đi thì chợ không đông,
Đi thì phải mượn quần chồng sao đang.
Bữa ấy các bạn học được tin lại cấm mặc váy thì đều cười, bảo Phan Văn Ái
thử phú đắc câu ca dao trên xem sao. Ái vui miệng đọc ngay hai câu thơ rằng:
Vắng thiếp bõ phen cho cháo ế
Thương chàng chịu tiếng nấu canh suông.
Nhà thơ dùng toàn chữ và điển trong ca dao, tục ngữ. Câu thơ thứ nhất là lấy
ở câu ca dao nói về việc bán hàng ngày mưa:
Ngán thay buổi chợ ngày mưa,
Cho cháo tôi ế, cho dưa tôi nồng,
Câu thơ thứ 2 lấy ở câu tục ngữ:
Nấu canh suông, ở truồng mà nấu.
80
Cả hai câu có nghĩa là: Nếu buổi chợ vắng thiếp (vì mặc váy nên không
được vào) thì hàng ở chợ sẽ bị ế. Nhưng nếu mượn quần của chàng để đi chợ,
thì chàng lại phải ở truồng (hai vợ chồng nghèo). Thật là mỉa mai sâu sắc. Các
bạn học vốn đã phục tài "phú đắc" của Ái, nghe hai câu thơ lại càng thêm phần
kính nể” [16, tr.383].
Có thể nói, cách chơi chữ trong giai thoại muôn hình vạn trạng, hết sức
phong phú, đa dạng và là biện pháp nghệ thuật rất quan trọng của giai thoại về
các tác gia. Có thể liệt kê ra các kiểu chơi chữ như: lối nói lái, đọc nhấn âm,
nói nhại thổ âm, biến âm Hán thành âm Nôm, âm Quốc ngữ hết sức tài tình. Ví
dụ như thủ pháp nhại giọng, nhại thổ âm trong thoại sau cũng tạo được hiệu
quả hài hước rất cao: “Mấy thầy đồ vùng Nghi Xuân đang vui chuyện, Nguyễn
Xuân Ôn ghé qua, cười và xen vào:
- Các thầy quả là thông kim, bác cổ. Vậy xin các thầy giảng cho, trong câu ca
dao "Bò đen húc lộn bò vàng", con nào đực, con nào cái?
Các thầy cười to:
- Cụ hỏi lẩn thẩn thế. Câu hát của mục đồng là "Bò đen húc lộn bò vàng/Hai
con húc chắc đâm quàng xuống sông", là hát cho vui, làm gì có chuyện phân biệt
con nào đực con nào cái!
Nguyễn Xuân Ôn đứng dậy:
- Ấy thế mà có phân biệt đấy. Các thầy đọc kỹ đi.
- Mấy thầy thay nhau đọc to lên mấy lần. Chả là giọng Nghi Lộc dấu nặng
đọc thành dấu huyền thì đúng con bò đen húc “cái ấy” của con bò vàng . Quả nhiên,
bò đen là bò đực và bò vàng là bò cái thật!” [16, tr. 341].
Hoặc trong các giai thoại, có câu đối chữ Hán nhưng đọc lên lại như chữ
Quốc ngữ, cũng là một lối chơi chữ thú vị. Trường hợp giai thoại về cụ Bùi Bằng
Đoàn là như thế. Thoại kể rằng: “Hồi đó, cụ đang làm tri phủ Thái Bình, biết tiếng
cụ hay chữ, có người xin cụ câu đôi câu đối để mừng anh lính đi Tây hồi thế chiến
1914 - 1918 về, được vua ban hàm bát phẩm. Cụ Bùi đã có đôi câu đối như sau:
Tiếp tiệp hoan hoàn, tê ư tư sắc tứ
Binh bình thoái thoại, hát ô hô huyền hồ.
81
Nghĩa là:
Nhận tin thắng trận mừng trở lại nhà, bước tới đó được ban sắc.
Việc binh đã yên quay về kể chuyện, reo ô hô treo cái cung”.
Đây có thể coi là kiểu chơi chữ vô cùng đặc sắc và rất dân gian của giai
thoại về các tác gia.
Khảo sát hơn 1.000 giai thoại về các tác gia, đặc biệt là bộ phận về các tác
gia từ đầu thế kỉ XX trở về trước, chúng tôi nhận thấy 96% các thoại đều có nghệ
thuật chơi chữ. Các kiểu chơi chữ cũng muôn hình vạn trạng, phong phú, đặc sắc
vô cùng. Nói như vậy không có nghĩa là đối với các thoại giai đoạn từ đầu thế kỉ
XX trở về sau không có nghệ thuật chơi chữ. Chỉ có điều, ở giai đoạn sau này, với
đối tượng nhân vật tác gia là các nhà văn hiện đại, sử dụng chữ Quốc ngữ thay cho
chữ Nho thì thủ pháp này không sâu sắc, “thâm Nho” mà chỉ có tác dụng làm bật
lên tiếng cười vui vẻ, sảng khoái kiểu như thoại “Chơi chữ” sau: “Nhà văn Nguyên
Hồng nhà ở gần một trường Tiểu học ấp Cầu Đen. Một lần, thầy giáo đưa các em có
năng khiếu văn vào thăm nhà của nhà văn. Được học sinh đến thăm, ông vui lắm,
chẳng những mang kẹo bánh ra mời, mà còn ra vườn hái khế vào thết các em. Vì là
lần đầu gặp nhà văn nên các em học sinh rụt rè, e ngại, chẳng em nào đụng đến đĩa
quả. Nguyên Hồng vân vê chòm râu và hỏi:
- Lớp các cháu đang học gọi là lớp gì nhỉ?
- Thưa ông, lớp năng khiếu văn ạ!
Ông nheo mắt cười:
- Các cháu thử đánh vần lớp năng khiếu gì nào?
- Dạ, lớp năng khiếu Vờ… ăn… văn ạ!
Nhà văn cười sảng khoái:
- Thấy chưa. Các cháu ăn bánh kẹo và khế tự nhiên đi. Đừng vờ… ăn
nữa” [41, tr.61].
Thoại này làm bật lên tiếng cười vui vẻ, sảng khoái của câu chữ lý thú. So
sánh nghệ thuật chơi chữ trong các thoại thuộc giai đoạn trước và sau đầu thế kỉ
XX, chúng tôi thấy sự khác biệt. Nếu như ở các thoại thuộc giai đoạn trước, chơi
chữ được thể hiện với muôn hình vạn trạng và đặc biệt sâu sắc, “thâm Nho” thì ở
82
giai đoạn sau, chơi chữ chỉ đơn giản là cách nói vui mà ai cũng nhận ra, cũng hiểu.
Thoại trên về Nguyên Hồng là một ví dụ tiêu biểu cho sự khác biệt này. Nguyên
nhân của nó xuất phát từ vấn đề thời đại, từ bối cảnh lịch sử - xã hội của nhân vật
giai thoại sống. Trước đó, các tác gia được hưởng một nền giáo dục của đạo Nho,
chữ Hán nên các kiểu chơi chữ rất phong phú và rất sâu sắc. Đặc biệt, bối cảnh xã
hội phong kiến với nhiều vấn đề bức xúc khiến hình thức của nghệ thuật ngôn ngữ
này cũng đa dạng theo. Còn với các nhà văn, nhà thơ thuộc giai đoạn sau, họ không
còn “hưởng” nền giáo dục Nho giáo nữa mà hiện đại hơn, cùng với các vấn đề thời
đại thay đổi nên chơi chữ ít khi được sử dụng và nếu có thì hình thức cũng đơn
giản, dễ hiểu. Đó cũng chính là nguyên nhân khi tiến hành khảo sát và tìm hiểu về
biện pháp nghệ thuật của bộ phận giai thoại về các tác gia, chúng tôi chú trọng hơn
vào bộ phận thoại giai đoạn từ đầu thế kỉ XX trở về trước.
Có thể nói, đây chính là biện pháp nghệ thuật đặc trưng, tiêu biểu cho giai
thoại về các tác gia văn học Việt Nam. Với biện pháp này, nội dung của các thoại,
mục đích của các tác gia được truyền tải vừa đúng, vừa hay, vừa độc đáo. Tính chất
châm biếm, đả kích hay ca ngợi, khẳng định sâu đậm tạo nên sự hứng thú, hấp dẫn
người đọc, người nghe thoại.
3.3.2. Phóng đại
“Phóng đại là phép tu từ nói quá mức, quy mô, tính chất của sự vật, hiện
tượng được miêu tả để nhấn mạnh, gây ấn tượng, tăng sức biểu cảm. Phóng đại còn
được gọi là ngoa dụ, nói quá, thậm xưng, khoa trương” [11, tr. 67].
Truyện châm biếm phải phóng đại thì nội dung châm biếm mới bộc lộ rõ.
.Đối với truyện cười phóng đại có tác dụng gây cười. Đối với tục ngữ phóng đại
giúp tô đậm, nhấn mạnh nét bản chất của sự vật hiện tượng, đối với sử thi, truyện cổ
tích, phóng đại là biện pháp nghệ thuật cơ bản nhằm lý tưởng hóa nhân vật anh
hùng, đối với giai thoại phóng đại có mục đích ca tụng nhân vật có tài năng, đả kích
nhân vật bị châm biếm - nó vừa làm nổi rõ cái thật như là mặt trái của hành vi nhân
vật (nhờ cường điệu nét bản chất), vừa làm nổi rõ cái giả như là mặt phải của hành
vi ấy (nhờ phép tương phản), khiến cho mâu thuẫn trong hành vi tác động mạnh mẽ
vào nhận thức, vào ý tưởng của người nghe, người đọc truyện.
83
Giai thoại về Lê Quý Đôn là một mẫu kể khá đậm yếu tố khoa trương, phóng
đại. Truyện kể rằng lúc còn là học trò, có lần Lê Quý Đôn tìm hộ một phú ông bản
văn tự ghi nợ, do đó phải đọc cả bó văn tự để lục tìm. Sau, phú ông bị cháy nhà, bó
văn tự cháy sạch. Thế mà lúc ấy Lê Quý Đôn đã hiển đạt làm quan trong triều, vẫn
nhớ lại tất cả số văn tự ấy. Nhờ thế, phú ông không bị mất nợ. Chúa Trịnh nghe tin,
liền đưa cho Lê Quý Đôn một cuốn quan lịch (lịch nhà nước soạn và ban hành).
Ông chỉ liếc qua rồi đọc lại không sót một chữ. Chúa vô cùng ngạc nhiên về trí nhớ
kì lạ của ông… Hay giai thoại kể về Lê Quý Đôn đi sứ nhà Thanh. Sau khi thăm
phòng để sách quý của một tú tài người Trung Quốc, lúc về nước, Lê Quý Đôn viết
lại toàn bộ những pho sách quý đó để dùng.
Ở mẫu giai thoại này về Lê Quý Đôn, thủ pháp khoa trương, phóng đại được
tận dụng tối đa. Cho dù trí nhớ của nhân vật này có siêu việt đến đâu cũng không
thể trong một thời gian rất ngắn có thể nhớ hết được một lượng sách lớn như vậy.
Tác giả dân gian đã lý tưởng hóa cao độ nhân vật khiến người đọc, người nghe phải
trầm trồ, kinh ngạc.
Tương tự câu chuyện trên, trí nhớ siêu việt của Nguyễn Đăng Cảo cũng được
phóng đại lên. Đọc thoại “Trả sách không mua”, tính chất khoa trương cũng được
thấy rõ. Nguyễn Đăng Cảo vì không đủ tiền mua nên đã mượn người buôn rất nhiều
sách. Mang về nhà, ông đọc năm, sáu ngày và sau đó, mỗi khi ai cần đọc sách gì thì
ông viết sách đó cho. Tất nhiên, không phủ nhận tài trí của vị trạng nguyên này
nhưng trí nhớ đến mức siêu việt như trên thì có lẽ đó là cách nói quá của người kể
thể hiện sự yêu quý, trân trọng vị trạng nguyên của dân tộc.
Trong số các tác gia được giai thoại lưu truyền, kể chuyện, có không ít người
ngoài tài năng văn chương còn có những khả năng đặc biệt khác. Họ được phong
làm Trạng. Trạng ăn Lê Như Hổ là một người như thế. Lê Như Hổ sinh năm 1511,
mất năm 1581 tại làng Tiên Châu, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên, nay là thôn Lê
Như Hổ, xã Hồng Nam, thị xã Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên. Thi đỗ Tiến sĩ năm
Quang Hoà thứ nhất đời vua Mạc Phúc Hải. Ông làm quan đến chức Thượng thư,
được phong hàm Thiếu bảo, tước Tuấn quận công, rồi về trí sĩ, thọ đến 72 tuổi.
Người ta còn truyền nhau câu ca về nết ăn của ông:
84
“Ăn khỏe nổi danh
Mười tám bát cơm
Mười hai bát canh”
Hay có một giai thoại kể rằng: “Hồi ấy ở một làng gần đấy, nhân tiết xuân có
mở hội đánh vật hàng năm. Năm nào, Lê Như Hổ cũng đến phá giải. Đô vật nào
thấy ông cũng đều chịu thua, vì ông ta mạnh như hổ, không ai sánh kịp (vì thế mới
có tên Như Hổ). Võ đã giỏi, văn ông lại haỵ Từ ngày được bố mẹ vợ cho ăn no, Lê
như Hổ học hành tấn tới một cách lạ kỳ. Năm ba mươi tuổi, văn ông đã lừng lẫy hết
cả vùng Hưng Yên, sang đến Thái Bình, Nam Định. Ông đỗ tiến sĩ trong thời
Quang Hòa nhà Mạc. Bấy giờ có một người đỗ đồng khóa với Lê Như Hổ, tên là
Nguyễn Thanh, người huyện Hoàng Hóa, tỉnh thanh Hóa. Một hôm, Nguyễn Thanh
nói với Lê Như Hổ về nhà của mình:
- Nhờ trời, tôi cũng khá, chẳng giàu có gì nhưng ăn cả đời chưa hết.
Lê Như Hổ nói:
- Cả gia tài của bác, may ra chỉ đủ cho tôi ăn vài tháng.
Nguyễn Thanh nghe thấy nói thế, cho là Lê Như Hổ đùa giai, bèn nói:
- Bác khinh tôi quá. Cả gia tài tôi như thế mà bác bảo chỉ đủ cho bác ăn ba
tháng. Bác không sợ mang tiếng nói dóc sao?
- Dóc hay không, chẳng cần nói lôi thôi làm gì? Hôm nào bác thử mời tôi ăn
một bữa xem sao.
Thấy Lê Như Hổ thách như vậy Nguyễn Thanh mời liền.
Lê Như Hổ một hôm đến nhà Nguyễn Thanh thực nhưng chẳng may hôm ấy
Thanh lại có việc quan vắng nhà.
Như Hổ đi thẳng vào nhà nói với vợ Nguyễn Thanh:
- Tôi với quan Nghè đây là bạn tâm giao, hôn nay có việc qua đây vào thăm
bác và nhờ bữa cơm.
- Bà vợ Nguyễn Thanh ân cần tiếp rước, một mặt gọi gia đình đầy tớ làm
heo làm gà, một mặt hỏi Lê Như Hổ có bao nhiêu quân lính để liệu đầu người
mà thổi nấu.
Lê Như Hổ nói:
85
- Thưa phu nhân, không có bao nhiêu, chỉ có độ hơn ba mươi người.
Bà Nguyễn Thanh sai làm ba mươi heo, dọn bảy tám mâm cỗ ra mời Lê Như Hổ
dùng cơm, nhưng đợi mãi cũng chẳng thấy quân lính nào vào ăn cả. Lê Như Hổ
cười mà bảo:
- Ối chao, họ không tới thì mặc, để tôi ăn cả cũng được.
Nói rồi ông ngồi ăn hết cả bảy tám mây cỗ, chỉ một lát thì làm bay hết cả
mấy nồi hai mươi cơm, hai con heo, mấy mâm xôi, còn gà vịt, rau cải không thèm
kể. Ăn xong, Lê Như Hổ từ tạ ra về” [19, tr.112].
Như Hổ ăn khỏe thực, lịch sử còn có chỗ ghi rõ về điều này. Nhưng ăn
như trong thoại trên thì quả thực là phóng đại, nói quá lên. Biệt danh “trạng ăn”
cứ thế được người này truyền tài người kia và qua mỗi lần truyền miệng lại
phóng đại lên một mức độ cao hơn. Đó cũng chính là một trong những đặc
trưng của văn học dân gian.
Nghệ thuật phóng đại thường chỉ được dùng trong những thể loại có mục
đích châm biếm, đả kích hay gây cười, tạo sự thú vị, hấp dẫn cho câu chuyện. Với
đặc trưng là tình huống truyện lý thú, tạo sự bất ngờ cho người đọc, người nghe,
giai thoại nói chung và bộ phận giai thoại về các tác gia nói riêng đã tạo được sức
lôi cuốn cho người tiếp nhận nhờ việc phóng đại một hoặc một vài chi tiết nào đó về
nhân vật thoại. Mục đích của nghệ thuật này là nhằm cường điệu tài năng của các
tác gia, tạo sự thích thú và lôi cuốn, truyền tải thành công nội dung của câu chuyện.
Cùng với kết cấu, cốt truyện của giai thoại về các tác gia cũng góp phần tạo
nên cái đẹp, cái hay cho các thoại. Đó là kiểu cốt truyện là những mẩu, những mảnh
vụn được kể theo đường thẳng. Những mẩu, những mảnh vụn này là những câu
chuyện kể về cách ứng xử của các tác gia trong đời sống hàng ngày. Nhiều mẩu,
nhiều mảnh sẽ tạo ra cho người đọc bức chân dung cụ thể, đầy đủ diện mạo, cá tính
về các nhà văn, nhà thơ. Cốt truyện này luôn chỉ xoay quanh một tình huống và tập
trung làm nổi bật tình huống đó. Có thể nói, chính kiểu kết cấu và cốt truyện này
của giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam đã góp phần không nhỏ để tạo ra tình
huống lý thú, hấp dẫn, lô cuốn người đọc, người nghe.
86
Về nhân vật, nhân vật giai thoại về các tác gia có lai lịch, tên tuổi, tiểu sử rõ
ràng, cụ thể. Đó là những con người có thật trong lịch sử nhưng lại không nhìn dưới
đôi mắt phi thường hóa, thần tượng hóa như ở truyền thuyết mà nhìn bằng nhãn
quan đời thường, cách ứng xử đời thường. Về các thủ pháp nghệ thuật, bộ phận giai
thoại này có một số đặc sắc rất riêng như: thủ pháp phóng đại, chơi chữ, hư cấu.
Các thủ pháp này có chức năng hỗ trợ nội dung thoại, đẩy tình huống thoại lên mức
lý thú cao nhất và khẳng định tài năng của các tác gia.
3.3.3. Hư cấu
Hư cấu là phương thức xây dựng hình tượng điển hình qua việc sáng tạo ra
những giá trị mới, những yếu tố mới, như sự kiện, cảnh vật, nhân vật trong một tác
phẩm theo sự tưởng tượng của tác giả. Đây là một yếu tố không thể thiếu của sáng
tác văn học nghệ thuật. Văn học nghệ thuật bắt nguồn từ cuộc sống nhưng không
sao chép nguyên nó. Từ những chất liệu thực tế, nghệ sĩ tổ chức, nhào nặn, sáng tạo
ra những hình tượng nghệ thuật sinh động, rõ nét và điển hình hơn, tuy thuộc chủ đề
của tác phẩm.
Đối với giai thoại về các tác gia, hầu hết các nhân vật là có thật. Họ là “các
nhà văn, nhà thơ, nhà khoa bảng” như ý kiến của Trần Thanh Mại. Thế nhưng
truyện kể về các nhà văn thơ, nhà khoa bảng trong giai thoại lại không hoàn toàn là
sự thật trăm phần trăm. Ngay cả những nhân vật có tên tuổi cụ thể như Hồ Xuân
Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương…chẳng hạn, thì những giai thoại về họ cũng
được hư cấu rất nhiều, chẳng những hư cấu về tình tiết câu chuyện, mà nhiều trường
hợp thơ văn của họ cũng bị hư cấu, gán ghép theo câu chuyện kể. Có thể dễ dàng
lấy một vài ví dụ. Chẳng hạn như Hồ Xuân Hương, nữ thi sĩ nổi tiếng trong văn học
trung đại Việt Nam, người được lưu truyền với rất nhiều giai thoại thì câu hỏi đặt ra
là liệu rằng có thật hay không một Hồ Xuân Hương? Theo giáo sư Hoàng Xuân Hãn
kể lại: “Khi tìm kiếm tài liệu về Hồ Xuân Hương, tôi lục trong các báo ở Việt Nam,
từ năm 1954 trở đi có chừng 7 - 8 báo văn học có nói đến Hồ Xuân Hương, nhưng
cũng chỉ bâng quơ chuyện thơ Hồ Xuân Hương tục hay không tục, chứ không đả
động đến đời sống của bà. Duy chỉ có ông Trần Thanh Mại tình cờ đọc những sách
của trường Viễn Đông Bác Cổ để lại có bài tựa sách của một người ký tên là Nham
87
Giác Tốn Phong. Bài tựa đó nói đến một cuốn sách tên là Lưu Hương ký của Hồ
Xuân Hương. Sau bài tựa ấy có những bài thơ của ông Tốn Phong tặng Hồ Xuân
Hương. Ông Trần Thanh Mại mới nghĩ rằng nếu tìm được Lưu Hương ký sẽ biết
thêm về Hồ Xuân Hương. Chuyện này vào khoảng 1963, ông Trần Thanh Mại đã
kể lại trong Tạp chí Văn học. Sau đó, ông Trần Thanh Mại loan báo muốn tìm
cuốn Lưu Hương ký và ông nhận được lá thư của một cử nhân (không rõ tên)
thông báo đã gửi biếu cuốn Lưu Hương ký cách thời điểm đó 8 - 9 năm. Từ lúc
ấy, ông TrầnThanh Mại mới bắt đầu khảo cứu Lưu Hương ký…”. Năm 1988,
giáo sư Tạ Trọng Hiệp, trong một chuyến công tác ở Hà Nội, đã được giáo sư
Hoàng Xuân Hãn uỷ thác việc xin chụp lại hoặc chép lại Lưu Hương ký. Khi giáo
sư Hiệp đến Viện Văn học là nơi có chức năng bảo tồn bản Lưu Hương ký quý
báu đó thì không tìm ra. Các chuyên gia về văn học cổ Việt Nam đều cho biết
cuốn ấy đã mất rồi…Nói như vậy có nghĩa là cho dù có rất nhiều tài liệu khác
nhau, nhiều giai thoại khác nhau về nữ sĩ họ Hồ nhưng câu hỏi có đúng là có một
Hồ Xuân Hương hay không thì vẫn còn là một ẩn số và chùm giai thoại kia là về
Hồ Xuân Hương hay là do sáng tác hoặc giả là về một người con gái vô danh
đương thời? Hoặc như nhân vật Chiêu Hổ trong chùm giai thoại về Chiêu Hổ -
Hồ Xuân Hương. Ít ra cho đến những năm 50 của thế kỉ XX, người ta vẫn cho
Chiêu Hổ, tức Phạm Đình Hổ (1768 - 1839), một tác gia văn học nổi tiếng cuối
thời Lê đầu thời Nguyễn. Nhưng mấy thập kỉ gần đây, giới nghiên cứu đã cho đó
chỉ là sự gán ghép, không đúng sự thật [25, tr.27]. Ngay mấy bài thơ đối đáp
giữa Hồ Xuân Hương và Chiêu Hổ cũng có dấu vết cho thấy đó chỉ là hư cấu,
gán ghép, chứ không phải sáng tác đích thực của tác giả. Chẳng hạn như bài
tương truyền là của Chiêu Hổ họa lại Hồ Xuân Hương sau đây:
Này ông tỉnh, này ông say
Này ông ghẹo nguyệt giữa ban ngày
Hang hầm ví bẵng không ai mó
Sao có hầm con bỗng trốc tay.
Đây là một trong ba bài xướng họa giữa hai người mà các văn bản đều có
chép. Song cũng nhiều văn bản không khẳng định như thế. Ví dụ bản của Landes
88
ghi chép năm 1893, thì lời kể giai thoại bấy giờ chỉ nói đó là thơ họa của một người
con trai, tức một nhân vật phiếm chỉ, chứ không gán cho Chiêu Hổ.
Có thể kể thêm về nhân vật Trạng Quỳnh. Trạng Quỳnh có phải là nhân vật
có thật trong lịch sử không? Trước đây, người ta vẫn thường đồng nhất Trạng
Quỳnh với Nguyễn Quỳnh. Nhưng liệu nhân vật Trạng Quỳnh có liên quan đến
Nguyễn Quỳnh, tức Cống Quỳnh (1677 - 1748) đời Hậu Lê? Và liệu Nguyễn
Quỳnh, Cống Quỳnh có phải là khởi hình lịch sử, là nguyên mẫu của Trạng Quỳnh
dân gian? Đó là những vấn đề gây tranh luận trong giới nghiên cứu nhiều năm nay.
Hay như nhân vật Nguyễn Xiển - được coi là một nhà thơ, người có khá
nhiều giai thoại đả kích bọn quan lại, cường hào - cũng là trường hợp tương tự.
Nguyễn Xiển là ai? Có thật trong lịch sử không? Có một số tài liệu viết rằng: Xiển
Bột hay Xiển Ngộ là một nhân vật dân gian được cho là có thật, tên là Nguyễn
Xiển, sống ở cuối thời phong kiến của Việt Nam, tại làng Hoằng Bột, nay là
xã Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa. Ông được cho là hậu duệ của Trạng
Quỳnh (chắt của Trạng Quỳnh), tương truyền khi mới sinh ra, Xiển mặt vuông chữ
điền, tai to như tai phật, mồm rộng, mắt sáng. Người ta gọi Xiển là Xiển Bột vì quê
Xiển ở làng Hoằng Bột, ông sống bằng nghề làm thuốc. Xiển Bột nổi tiếng trong
dân gian vì những câu chuyện cười dí dỏm, châm chiếm đã kích vào những thói xấu
của xã hội, những quan lại, cường hào chuyên hiếp đáp dân lành. Những câu
chuyện hài hước được kể lại cho thấy ông không những trừng trị bằng trí tuệ đối với
các đối tượng quan lại, cường hào mà thậm chí còn hí lộng đến cả người lãnh đạo
cao nhất là nhà vua. Tuy nhiên, những tài liệu viết như vậy lại không hề có một căn
cứ cụ thể, chính xác nào. Nó chỉ là sự tương truyền trong dân gian. Nói về nguồn
gốc của nhân vật, ngay cả Trạng Quỳnh được cho là cụ của Nguyễn Xiển cũng chưa
đi đến thống nhất về sự có thật của nhân vật. Cho nên, nhân vật này có thể được coi
là một đối tượng được dân gian hư cấu tạo nên.
Như vậy, rõ ràng, tính hư cấu là một đặc trưng, một thủ pháp nghệ thuật có
tính phổ quát của giai thoại về các tác gia. Và như vậy, chúng ta không nên quá phụ
thuộc vào sự thực lịch sử để đòi hỏi tính chân thực của bộ phận văn học này.
89
* Tiểu kết:
Nói tóm lại, mỗi thể loại văn học đều có những đặc sắc rất riêng về nghệ
thuật. Chính những đặc sắc nghệ thuật ấy tạo nên nét riêng, vẻ riêng cho thể loại ấy.
Tuy mới bước đầu khẳng định giai thoại là một thể loại độc lập, có vị trí riêng trong
nền văn học nhưng trong chương 3 này, chúng tôi đã chỉ ra những nét độc đáo trong
một tiểu loại của giai thoại: giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam. Trong phạm
vi của chương, chúng tôi mới đề cập đến các đặc trưng nghệ thuật về kết cấu, nhân
vật và một số biện pháp nghệ thuật.
Về kết cấu, phần lớn giai thoại về các tác gia có kết cấu ngắn gọn theo một
mẫu khá thống nhất: sơ lược lai lịch nhân vật, nội dung truyện, lời dẫn truyện và lời
kết thúc. Kết cấu này giúp người tiếp nhận dễ dàng bám sát nội dung và hiểu được
điều mà thoại muốn hướng tới, muốn phản ánh. Bộ phận giai thoại này còn được kết
cấu theo hai tuyến nhân vật đối lập. Tuy nhiên, sự đối lập này chưa hẳn rõ ràng như
hai tuyến thiện và ác trong truyện cổ tích và truyện Nôm mà nó chỉ là sự đối chiếu
song song nhằm hỗ trợ nhau làm nổi bật tình huống lý thú của thoại.
Cùng với kết cấu, cốt truyện của giai thoại về các tác gia cũng góp phần tạo
nên cái đẹp, cái hay cho các thoại. Đó là kiểu cốt truyện là những mẩu, những mảnh
vụn được kể theo đường thẳng. Những mẩu, những mảnh vụn này là những câu
chuyện kể về cách ứng xử của các tác gia trong đời sống hàng ngày. Nhiều mẩu,
nhiều mảnh sẽ tạo ra cho người đọc bức chân dung cụ thể, đầy đủ diện mạo, cá tính
về các nhà văn, nhà thơ. Cốt truyện này luôn chỉ xoay quanh một tình huống và tập
trung làm nổi bật tình huống đó. Có thể nói, chính kiểu kết cấu và cốt truyện này
của giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam đã góp phần không nhỏ để tạo ra tình
huống lý thú, hấp dẫn, lôi cuốn người đọc, người nghe.
Về nhân vật, nhân vật giai thoại về các tác gia có lai lịch, tên tuổi, tiểu sử rõ
ràng, cụ thể. Đó là những con người có thật trong lịch sử nhưng lại không nhìn dưới
đôi mắt phi thường hóa, thần tượng hóa như ở truyền thuyết mà nhìn bằng nhãn
quan đời thường, cách ứng xử đời thường. Các thoại không tập trung miêu tả hình
dáng, diện mạo bề ngoài của nhân vật mà đi sâu vào cá tính, tính cách, hành động
90
của họ. Chính bằng nhãn quan và cách miêu tả ấy, chân dung các tác gia hiện lên cụ
thể, rõ ràng và sinh động.
Về các biện pháp nghệ thuật, bộ phận giai thoại này có một số đặc sắc rất
riêng như: chơi chữ, phóng đại, hư cấu. Trong đó, chơi chữ là biện pháp nghệ thuật
được coi là đặc trưng, tiêu biểu. Chơi chữ xuất hiện trong các thoại với muôn hình
vạn trạng: lối nói lái, đọc nhấn âm, nói nhại thổ âm, biến âm Hán thành âm Nôm,
âm Quốc ngữ... Cũng cần phải nói thêm, nghệ thuật chơi chữ trong giai thoại về các
tác gia văn học Việt Nam giai đoạn đầu thế kỉ XX trở về trước đa dạng, phong phú
và sâu sắc hơn so với giai thoại giai đoạn từ đầu thế kỉ XX trở về sau – mà nguyên
nhân chính là do vấn đề thời đại. Cùng với chơi chữ, phóng đại và hư cấu có chức
năng hỗ trợ nội dung thoại, đẩy tình huống thoại lên mức sinh động, lý thú, hấp dẫn
nhất và khẳng định tài năng của các tác gia.
91
KẾT LUẬN
1. Giai thoại là một thể loại văn học vốn đã tồn tại từ lâu trong kho tàng văn
học dân gian Việt Nam, song, từ trước đến nay, người ta mới chỉ mặc nhiên sự tồn
tại của các thoại mà chưa thực sự đi vào khẳng định nó là một thể loại văn học có vị
trí độc lập, có giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc. Từ một số công trình nghiên
cứu đã xuất bản của các nhà nghiên cứu văn học như Kiều Thu Hoạch, Trần Thanh
Mại, Hoàng Ngọc Phách,…chúng tôi đã bước đầu đề cập đến giai thoại với tư cách
là một thể loại văn học. Về vấn đề phân loại, có nhiều ý kiến phân chia khác nhau
nhưng hầu hết các cách phân loại của các tác giả đều dựa vào nội dung của các
thoại. Trong phạm vi luận văn, chúng tôi đồng ý theo cách phân loại của nhà nghiên
cứu Kiều Thu Hoạch đã trình bày trong một số công trình: Giai thoại gồm: giai
thoại lịch sử và giai thoại văn học. Trong mỗi bộ phận lại có các tiểu loại khác.
Từ cơ sở đó, chúng tôi đi vào việc chỉ ra các tiêu chí nhận diện thể loại. Để nhận
diện một tác phẩm văn học dân gian thuộc thể loại giai thoại phải căn cứ vào các
tiêu chí về quy mô tác phẩm, lời thoại và nhân vật thoại.
Khi đi xem xét một tác phẩm văn học dân gian để nhận diện thể loại phải có
sự tổng hòa các tiêu chí trên, không xem xét riêng lẽ một tiêu chí cụ thể nào, vì dễ
dẫn đến nhìn nhận thể loại sai lầm.
Mặc dù còn khá nhiều ý kiến trái chiều về vấn đề thể loại, song giai thoại có
sức sống khá mãnh liệt trong đời sống hiện nay. Giai thoại tồn tại ở nhiều ngành,
nhiều nghề khác nhau. Mỗi lĩnh vực xã hội lại có những giai thoại của riêng mình.
Người ta truyền tai nhau, kể cho nhau nghe, sưu tầm nó khiến cho các giai thoại
không hề bị mai một mà có tính chất lan tỏa. Ngay cả đối với những nhân vật chính
trong các thoại cũng cảm thấy vô cùng thích thú khi được nghe người khác kể về
mình (cho dù thoại đó đúng hay không đúng).
2. Có thể nói, giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam là bộ phận có số
lượng lớn, chứa đựng nội dung khá phong phú, hấp dẫn, có giá trị đặc sắc nhất trong
thể loại giai thoại.
Giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam châm biếm, đả kích bọn nho sĩ,
thi sĩ dốt nát, rởm đời mà hay khoe chữ (chủ yếu là các thoại viết về các tác gia từ
92
khoảng đầu thế kỉ XX trở về trước). Những thoại này đánh thẳng vào tầng lớp được
cho là hay chữ, có tiền, có quyền lực trong những giai đoạn khác nhau của đất nước,
đặc biệt là giai đoạn xã hội phong kiến suy vi, rối ren, đạo học, đạo làm quan, làm
người bị đồng tiền chi phối, làm biến chất. Đọc các thoại, người đọc như thấy được
phần nào diện mạo của xã hội Việt Nam ở các thời kì, giai đoạn khác nhau với bức
chân dung hết sức chân thực, sinh động, cụ thể. Các câu chuyện thú vị xoay quanh
các tác gia của văn học dân tộc còn cho thấy tấm lòng bao la, yêu dân như con của
một số vị quan, vị vua anh minh như Lê Thánh Tông, Nguyễn Khuyến… Bộ phận
giai thoại này hướng vào bọn ngoại bang (chủ yếu là bọn ngoại bang phương Bắc)
qua các thoại đi sứ, đối đáp với sứ thần nước khác…để khẳng định vị thế, lòng kiêu
hãnh, tự hào dân tộc của một đất nước tuy nhỏ nhưng không hề bé. Qua đó, người
đọc, người nghe không chỉ thấy được tài năng, trí tuệ, cá tính của các tác gia dân tộc
mà còn nhận ra cái tâm, tấm lòng hết mình vì hạnh phúc của nhân dân, của dân tộc.
Họ vui khi thấy nhân dân ấm no, hạnh phúc và đau đớn, xót xa trước tình cảnh đất
nước còn nhiều bất cập, suy vi.. Ngoài ra, bộ phận giai thoại này còn phản ánh thói
tật, tính cách, nếp sống, nếp sinh hoạt, cách cư xử rất đời thường của các nhà văn,
nhà thơ nổi tiếng (chủ yếu là các nhà văn, nhà thơ từ khoảng đầu thế kỉ XX trở về
sau). Vì có tài năng hơn người nên một số tác gia bị mắc “căn bệnh” kiêu ngạo,
“hợm” chữ (như Cao Bá Quát, Lê Quý Đôn…). Các thoại về nội dung này có giá trị
giáo dục, châm biếm nhẹ nhàng và cho chúng ta cái nhìn hai chiều đầy đủ về họ.
Qua những mẩu chuyện đời thường, hình ảnh các nhà văn, nhà thơ được hiện lên
sinh động, thú vị và rất gần gũi với tính cách, cách cư xử, nói chuyện, ăn
uống…giống như bao người bình thường khác. Đó là bức chân dung gần gũi, đáng
yêu của những người mà vốn chỉ được biết qua tác phẩm của họ. Điều đó khiến cho
người đọc, người nghe thoại thích thú, đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác.
3. Về giá trị nghệ thuật, giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam chủ yếu
xoay quanh các câu chuyện về tài năng thơ văn của các nhà thơ, nhà văn, nhà chính
trị có tài năng nên nó có những đặc điểm nghệ thuật khá đặc sắc.
Với dung lượng ngắn gọn, mẫu kể theo kết cấu nói trên giúp người nghe,
người đọc thấy được ngay đối tượng mà tác giả dân gian muốn nói tới là ai, nói về
93
việc gì và tình huống lý thú ra sao. Kết cấu này giúp câu chuyện dễ hiểu, không dài
dòng, không mất thời gian vào những nội dung thừa như những thể loại dân gian
khác. Các giai thoại thuộc bộ phận này còn được kết cấu theo hai tuyến nhân vật rõ
ràng. Hình thức kết cấu theo hai tuyến nhân vật này đôi khi được trình bày đối lập
nhưng cũng có lúc là hai tuyến song song, làm cơ sở để đối chiếu và hỗ trợ cho
nhau. Ở đây mỗi tuyến tập hợp những kiểu người gần gũi với nhau về hoàn cảnh
sống, về tính cách, đạo đức... Các tuyến nhân vật ứng đối nhau làm bật lên nội dung
hấp dẫn của tình huống.
Cốt truyện là những mẩu, những mảnh vụn được kể theo đường thẳng.
Những mẩu, những mảnh vụn này là những câu chuyện kể về cách ứng xử của các
tác gia trong đời sống hàng ngày. Nhiều mẩu, nhiều mảnh sẽ tạo ra cho người đọc
bức chân dung cụ thể, đầy đủ diện mạo, cá tính về các nhà văn, nhà thơ. Cốt truyện
này luôn chỉ xoay quanh một tình huống và tập trung làm nổi bật tình huống đó. Có
thể nói, chính kiểu kết cấu và cốt truyện này của giai thoại về các tác gia văn học
Việt Nam đã góp phần không nhỏ để tạo ra tình huống lý thú, hấp dẫn, lôi cuốn
người đọc, người nghe.
Nhân vật trong giai thoại về các tác gia văn học Việt Nam có bề dày về tiểu
sử, lai lịch cụ thể, rõ ràng. Đây là đặc điểm để phân biệt giai thoại với truyện cười -
thể loại văn học dân gian rất dễ nhầm lẫn với giai thoại. Nếu như nhân vật truyện
cười biểu lộ một hành vi ứng xử trái lẽ thường trong một tình huống bình thường thì
nhân vật giai thoại về các tác gia lại biểu lộ cách ứng xử độc đáo, khác người trong
một tình huống bình thường.
Ngoài ra, bộ phận giai thoại này còn sử dụng một số biện pháp nghệ thuật
đặc trưng như: chơi chữ, hư cấu, phóng đại... Các thủ pháp này thể hiện trong các
bài thơ, câu đối ở các thoại và hầu như thoại nào cũng có chúng. Đặc biệt là nghệ
thuật chơi chữ. Đây được coi là biện pháp tiêu biểu, đặc trưng của giai thoại về các
tác gia văn học Việt Nam. Vì nhân vật chính là các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng nên
nghệ thuật chơi chữ rất đa dạng, phong phú và tài tình. Phóng đại, hư cấu được vận
dụng như là một biện pháp làm tăng tính hấp dẫn của thoại, gây lý thú cho người
đọc, người nghe. Chính nhờ sử dụng thành công các nghệ thuật trên mà tình huống
94
lý thú của thoại được bật lên một cách thú vị, hấp dẫn, khiến thoại có giá trị nội
dung sâu sắc và các tác gia đạt được mục đích của mình trong từng câu chuyện.
4. Giai thoại là một thể loại văn học có số lượng phong phú và chứa đựng
những giá trị đặc sắc về nội dung và nghệ thuật. Trong phạm vi luận văn, chúng tôi
mới chỉ khảo sát và đi vào phân tích được một tiểu loại nhỏ trong thể loại giai thoại
nói chung. Việc đi sâu nghiên cứu các bộ phận giai thoại khác sẽ góp phần vào việc
khẳng định vị trí và giá trị của thể loại văn học này. Hi vọng rằng những nội dung
mà luận văn này đưa ra sẽ phần nào gợi mở cho các nhà nghiên cứu, những người
quan tâm, yêu mến văn học dân gian tiếp tục đi sâu và mở rộng nghiên cứu thể loại
văn học độc đáo, hấp dẫn này.
95
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Hồng An (2013), Giai thoại anh hùng đất Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
2. Lại Nguyên Ân (1995), Từ điển văn học Việt Nam, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
3. Ngô Vĩnh Bình (1991), Thanh Tịnh qua giai thoại, Nxb Quân đội nhân dân,
Hà Nội.
4. Bùi Hạnh Cẩn (1995), Hồ Xuân Hương thơ chữ Hán, chữ Nôm và giai thoại, Nxb
Văn hóa thông tin, Hà Nội..
5. Lê Dân (2015), Văn học dân gian cái hay, vẻ đẹp, Nxb Dân trí, Hà Nội.
6. Lê Tiến Dũng (2009), Nhà văn và phong cách, Nxb Đại học Quốc gia thành phố
Hồ Chí Minh.
7. Hữu Đạt (1996), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
8. Cao Huy Đỉnh (2007), Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
9. Phan Huy Đông (2013), Giai thoại về Tổ nội – Tổ ngoại của đại thi hào Nguyễn
Du, Nxb Văn học, Hà Nội.
10. Nguyễn Thị Bích Hà (2013), Giai thoại - một thể loại văn học dân gian,
11. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử (2001), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
12. Phan Thư Hiền (2008), Giai thoại Nguyễn Công Trứ, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
13. Phan Thư Hiền, Phan Hồng Lam (2011), Giai thoại về các bậc tiền nhân mê hát
ca trù và những đào nương lưu danh sử sách, Nxb Thời đại, Hà Nội.
14. Hoàng Ngọc Hiến (1992), Năm bài giảng về thể loại, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
15. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (2007), Từ điển
văn học, Nxb Thế giới, Hà Nội.
16. Kiều Thu Hoạch (2004), Tổng tập văn học dân gian Việt Nam, tập 11: Giai thoại
văn học Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
17. Kiều Thu Hoạch (chủ biên) (2014), Giai thoại văn học Việt Nam, Nxb Khoa học
xã hội, quý III, Hà Nội.
18. Vũ Ngọc Khánh (1999), Tiếp cận kho tàng folklore Việt Nam, Nxb Văn hóa dân
tộc, Hà Nội.
96
19. Vũ Ngọc Khánh (2011), Kho tàng giai thoại Việt Nam, Nxb Văn hóa thông
tin, Hà Nội.
20. Tường Khang (2010), Giai thoại dân gian Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
21. Hoàng Khôi, Hoàng Đình Thi (1978), 101 giai thoại về phụ nữ Việt Nam,
Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
22. Đinh Trọng Lạc (1995), 99 phương tiện và biện pháp tu từ Tiếng Việt, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
23. Trần Mạnh Linh, Thiện Kế (1989), Giai thoại về bút tre Ngô Quang Nam, Sở
Văn hóa và thể thao tỉnh Vĩnh Phú, Vĩnh Phú.
24. Trần Thanh Mại (1965), Giai thoại văn học, Nxb Văn hóa thông tin.
25. Nguyễn Đăng Mạnh (1979), Nhà văn tư tưởng và phong cách, Nxb Tác phẩm
mới, Hà Nội.
26. Vũ Nam (1991), Giai thoại Nguyễn Bính, Nxb Lao động, Hà Nội.
27. Vũ Nam (1999), Thơ và giai thoại Nguyễn Bính, Nxb Lao động, Hà Nội.
28. Bùi Văn Nguyên, Nguyễn Ngọc Côn, Nguyễn Nghĩa Dân, Lý Hữu Tấn, Đỗ Bình
Trị, Lê Trí Viễn (2000), Lịch sử Văn học Việt Nam, tập I, phần I, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
29. Hà Đình Nguyên (2014), Chuyện tình nghệ sĩ, Nxb Trẻ, Hà Nội.
30. Lã Nguyên (2014), Giai thoại, https://languyensp.wordpress.com/2014, xem
ngày 30/01/2016.
31. Lãng Nhân (1992), Giai thoại làng Nho, Nxb Văn nghệ, tp. Hồ Chí Minh.
32. Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch (1988), Giai thoại văn học Việt Nam, Nxb
Văn học, Hà Nội.
33. Vũ Ngọc Phan (1977), Những bước tìm hiểu văn học dân gian Việt Nam, Tạp
chí Văn hóa, số 6.
34. Hoàng Phê (2000), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
35. Nguyễn Hằng Phương (2011), Tiếp cận theo thể loại - hướng đi tích cực của văn
học dân gian Việt Nam (số 10), Tạp chí Nghiên cứu văn học.
36. Trần Huy Phương (2000), Lê Quý Đôn cuộc đời và giai thoại, Nxb Văn hóa dân
tộc, Hà Nội.
97
37. Lê Chí Quế, Võ Quang Nhơn, Nguyễn Hùng Vĩ (2001), Văn học dân gian Việt
Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
38. Phạm Đan Quế (2011), Giai thoại & sấm ký Trạng Trình, Nxb Văn nghệ, tp. Hồ
Chí Minh.
39. Nguyễn Khắc Thuần (2013), Việt Sử giai thoại, tập 7, Nxb Giáo dục Việt Nam,
tp. Hồ Chí Minh.
40. Nguyễn Văn Thương (2015), Giai thoại – đặc điểm và bản chất thể loại,
http://vannghiep.vn/giai-thoai-dac-diem-va-ban-chat-the-loai, xem ngày
18/12/2015.
41. Đào Thái Tôn (1993), Thơ Hồ Xuân Hương từ cội nguồn vào thế tục, Nxb Giáo dục.
42. Vũ Anh Tuấn, Nguyễn Xuân Lạc (1995), Giảng văn văn học dân gian Việt Nam,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
43. Xuân Tùng (1999), Giai thoại làng văn Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
44. Hoàng Tiến Tựu (1997), Mấy vấn đề về phương pháp giảng dạy và nghiên cứu
văn học dân gian, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
45. Kiều Văn (2012), Giai thoại lịch sử Việt Nam, tập 1, Nxb Tổng hợp, tp. Hồ Chí Minh.
46. Kiều Văn (2015) Giai thoại văn học dân gian Việt Nam, tập 1, Nxb Tổng hợp,
tp. Hồ Chí Minh.
47. Bình luận văn học – Niên giám (2005), Nxb Văn Hóa Sài Gòn & Hội nghiên
cứu – Giảng dạy Văn học tp. Hồ Chí Minh.
48. Thông báo Văn hóa dân gian 2002 (2002), Đại học Quốc gia, Hà Nội.
49. Nhiều tác giả (2004), Từ điển văn học, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
50. Các tài liệu khác.
98
PHỤ LỤC
1. MỘT SỐ GIAI THOẠI VỀ CÁC TÁC GIA TÁC GIẢ LUẬN VĂN SƯU
TẦM
1.1. Giai thoại về Trần Đăng Khoa
Theo lời kể của giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh, nhà thơ Trần Đăng Khoa từ bộ
dạng, cách nói năng (lẫn lộn n với l), đến thói quen ăn uống đều đặc nông dân: chỉ
thích món thịt lợn kho, cá kho, rau muống luộc, lòng lợn chấm mắm tôm, không
thích thịt bò, gà vịt, hải sản, không thích bia… Khi Trần Đăng Khoa đã lấy vợ,Trần
Đăng Mạnh có được mời tới dự. Ngay hôm cưới, Lê Lựu, bạn chí cốt của Khoa, vẫn
không tin Khoa có thể “làm ăn được gì”. Anh nói với Lê Lựu ngay ở tiệc cưới như
thế. Nhưng vợ Khoa có mang và sinh con gái. Khoa được thể nói “phét”: “Mình
từng rắc con nhiều nơi, con rơi con vãi của mình nay đã lớn, có thể bồ bịch với Trần
Đăng Xuyền được”. Khoa nói với Nguyễn Đăng Mạnh hôm ấy ở Cần Thơ, có mặt
Trần Đăng Xuyền. Khoa bây giờ là tay khôn ngoan có tiếng, đối đáp rất sắc sảo.
Khoa là quân sư quạt mo của Hữu Thỉnh. Trong ban chấp hành Hội nhà văn khoá 7,
Vàng Anh hay gây sự với Hữu Thỉnh. Khoa là người đứng ra gỡ bí cho Hữu
Thỉnh. Theo chỗ giáo sư Mạnh biết, Khoa còn là quân sư quạt mo cho Lê Lựu nữa
trong việc điều hành tổ chức Văn hoá doanh nhân. Hai “tay” nông dân này hợp
nhau trên mọi phương diện.
(Ghi theo lời kể của Nguyễn Thị Thùy, K50, khoa Ngữ văn, Đại học Sư
phạm Hà Nội)
1.2. Giai thoại về Nguyễn Khải
Theo lời kể của Nguyễn Đăng Mạnh: Nguyễn Khải khác hẳn Nguyên Ngọc.
Thiết thực, không phiêu lưu mạo hiểm, không muốn chết, không muốn đi tù. Anh tự
nhận luôn là thằng hèn cho người ta khỏi phải bàn tán lôi thôi.
Sau cuộc hội nghị nhà văn đảng viên, bản đề cương của Nguyên Ngọc bị Tố
Hữu “đánh”, Nguyễn Khải vốn nhất trí với Nguyên Ngọc trong vụ này nên sợ quá.
Anh nói thẳng với Nguyên Ngọc: “Tao nhát lắm chưa đánh đã khai. Cho tao chạy đi
thôi mày thông cảm đừng khai tao ra nhé”.
Nguyễn Khải rất thiết thực và tỉnh táo vậy mà cũng có lúc mê muội. Nguyễn
Đăng Mạnh gọi là dại – ông đã viết như thế về Nguyễn Khải trong bài Dại khôn
Nguyễn Khải. Mới biết cái danh cái lợi cũng dễ mê hoặc lắm. Hồi được gọi ra Hà
Nội để chuẩn bị Đại hội nhà văn lần thứ tư (Trần Độ Nguyễn Văn Hạnh dự định sắp
đặt Nguyễn Khải - Nguyên Ngọc làm chánh phó Thư kí Hội Nhà văn). Nguyễn
Khải xem ra cũng hăng hái lắm. Anh nói với Nguyễn Đăng Mạnh y như là sẽ làm
Tổng thư ký đến nơi: Anh phẩy tay: “Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên thì phế cả đi!
Còn về lý luận phê bình thì anh phụ trách cho tôi. Nhưng ta phải khôn khéo, đổi
mới nhưng phải khôn khéo. Trần Độ cứng quá cứ “ỉa” ra đấy cho người ta phải dọn.
Chính trị ghê gớm lắm không đùa được đâu! Nếu cần quỳ xuống lậy ta cũng phải
quỳ”. Trong bài viết về Nguyễn Khải tôi có nhắc đến chi tiết này cho là một cái dại
của anh và hạ một câu: “Bây giờ nghĩ lại xấu hổ chết được!”. Nguyễn Đăng Mạnh
tưởng bị Nguyễn Khải giận, hoá ra anh lại thích thú. Thích vì thấy hiểu mình quá.
Có một cô nghiên cứu sinh tên là Tuyết Nga làm luận án về Nguyễn Khải. Cô tìm
gặp nhà văn để tìm hiểu. Anh đưa cô xem bài viết của Nguyễn Đăng Mạnh nói là cứ
đọc bài này là hiểu anh. Và anh cầm bài viết đọc luôn cho cô ta nghe. Đến chỗ “Bây
giờ nghĩ lại xấu hổ chết đi được!” anh đỏ bừng mặt và cười hô hố.
(Ghi theo lời kể của cô giáo Phạm Thị Xanh - Đại học Quảng Nam)
1.3. Giai thoại về Nguyễn Tuân
Nhà văn Nguyễn Khải nhiều lần nói, Nguyễn Tuân là người sướng nhất:
ngông nghênh, khinh bạc, chẳng trọng ai, chỉ trọng mình, vậy mà đi đâu cũng
được chiều chuộng, đón rước, nể trọng. Lại có người tự nguyện điếu đóm, phục
vụ tận tình.
Nguyên Ngọc có lần cùng sang Liên Xô với Nguyễn Tuân. Họ ở Lêningrát
vào đúng dịp tuyết đầu mùa. Người ta biết Nguyễn Tuân rất thích xem tuyết rơi, nên
dành cho ông một căn phòng rất thuận tiện để ngắm tuyết (về nước, ông có viết một
bài đăng trên Văn nghệ gọi là Lêningrat, tuyết đầu mùa). Năm sau Nguyễn Tuân lại
sang Liên Xô. Đến Mạc Tư Khoa đúng vào dịp tuyết đầu mùa. Người ta lại đưa ông
về đúng cái căn phòng năm trước ở Lêningrát để xem tuyết rơi. Theo Nguyên Ngọc,
ở Liên Xô, Nguyễn Tuân được coi như một thượng khách. Lại có một anh tên là
Marian, chuyên dịch Nguyễn Tuân sang tiếng Nga. Trong nhà mình, Marian chỉ
treo độc một bức chân dung Nguyễn Tuân.
Nguyễn Khải kể với tôi chuyện này: Sau 1975, có lần Nguyễn Tuân vào Sài
Gòn. Ông bị khớp nặng, nằm liệt trên lầu. Trịnh Công Sơn ngày nào cũng tự nguyện
lo chuyện ăn uống theo khẩu vị Nguyễn Tuân: nấu cơm niêu đất ăn với cá bống kho
tiêu là món Nguyễn Tuân thích.
Ở tầng dưới thì Nguyễn Khải và Nguyễn Thành Long đóng vai tiếp
khách cho Nguyễn Tuân. Ai đến thăm thì lên báo cáo xem ông có tiếp không.
Nhiều người ông không tiếp, phải để quà đấy đi về. Có một lần Marian lúc ấy
đang ở Sài Gòn, đến thăm. Nguyễn Khải và Nguyễn Thành Long nghĩ là trường
hợp này không phải báo cáo, cứ cho lên luôn. Marian hôm ấy lại dắt theo một
tay Liên Xô nữa. Nguyễn Khải cứ thấy ông mắng Marian xơi xơi: “Sao mày lại
đưa thằng ấy lên!”. Khải nói: “Lần đầu thấy một thằng “tiểu quốc” mắng một
thằng “đại quốc”, nghĩ cũng mát ruột”.
Nguyễn Minh Châu cũng cho Nguyễn Tuân là sướng. Sau 1975, Hội An có
tổ chức một cuộc kỷ niệm gì đó, mời Nguyễn Tuân vào viết cho một bài. Lúc ấy
Nguyễn Khải và Nguyễn Minh Châu đang ở Đà Nẵng, muốn có xe vào Hội An
chơi, bèn bịa chuyện cần một ôtô vào trước để sửa soạn đón Nguyễn Tuân hôm sau
vào. Thế là được cấp luôn một chuyến xe. Thực ra bịa thế thôi chứ có sửa soạn gì
đâu! Nguyễn Tuân vào đã có xe riêng, một mình một xe. Hồi ấy chuyện xe cộ
không sẵn như bây giờ.
Nghe nói, ngày xưa, Nguyễn Tuân chơi cô đầu cũng rất sang. Thường “bồ
bịch” với đào hát nổi tiếng hoặc bà chủ nhà hát. Không phải “bao” gái mà lại được
gái “bao”. Hồi kháng chiến chống Pháp, ở chiến khu Việt Bắc, ông được cô đào hát
nhân tình nào đó gửi vàng từ Hà Nội ra cho ông tiêu.
Nguyễn Khải kể lại một chuyện ông cho là lạ: Ấy là ngày làm lễ bế giảng
trường Nguyễn Du khoá một long trọng lắm. Quan khách đến dự rất đông. Có đủ bộ
trưởng, thứ trưởng, trung ương uỷ viên và các nhà văn có tên tuổi ở Hà Nội. Anh
điều khiển buổi lễ, giới thiệu lần lượt các đại biểu. Giới thiệu ai thì người ta cũng
chỉ ngồi vỗ tay tại chỗ thôi.
Nguyễn Tuân đến muộn. Không hiểu sao, cả hội trường không ai bảo ai,
cùng đứng dậy vỗ tay dài. Vì thiên hạ vốn trọng người tài chăng? Nguyễn Tuân
đúng là một cái tài. Nhưng người tài đâu chỉ có Nguyễn Tuân? Xuân Diệu, Huy
Cận, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi… không tài à? Nguyễn Khải cho Nguyễn
Tuân được trọng vì vừa có tài vừa có nhân cách. Nhưng giữ được nhân cách đâu có
dễ. Cái nghèo, cái đói, cái sợ (sợ cấp trên) khiến người ta khó giữ được nhân cách,
tuy biết thế là hèn. Vì thế, người có nhân cách càng hiếm, càng quý. Cho nên có
một người như Nguyễn Tuân là rất sang cho giới nhà văn.
(Ghi theo lời kể của cô giáo Phạm Thị Xanh - Đại học Quảng Nam)
1.4. Giai thoại về Nguyễn Đăng Mạnh
Giới nhà văn vẫn thường bảo nhau: Cụ Mạnh là người sướng. Cụ nghệ sĩ từ
trong máu. Cụ làm việc quần quật. Chơi cũng tới bến. Cụ là người “được sống”.
Chẳng như mấy đồng chí cán bộ giảng dạy và nghiên cứu khác, làm hùng hục, chỉ
biết làm thôi, chứ có được sống là mấy. Thế nhưng týp người như cụ cũng nhiều hệ
lụy. Người tài thì hay được ngưỡng mộ. Giai thoại kể rằng: Có lần cô học viên cao
học xinh đẹp đến nhà, khi ra về, thầy lưu luyến tiễn em ra tận cổng. Cô ta nhìn mắt
trước mắt sau không thấy có ai, bèn vừa nói cho em hôn thầy cái vừa quàng tay vít
đầu thầy lại hôn chùn chụt. Thầy để im xem sao. Rồi hình như thầy cũng…không
chối từ thì phải. Bỗng trên cao có giọng nói đầy quyền uy dội xuống: “Anh Mạnh ơi
anh Mạnh!...”. Thầy sực tỉnh. Hóa ra lúc ấy cô nhà đang đứng trên balcon tầng ba
dọi xuống. Nghe đâu sau cú ấy chiến tranh lạnh hơi bị kéo dài! Hãi quá! Một lần vui
chuyện, hỏi giai thoại có thật không, thầy tủm tỉm, rồi bảo thật đấy, cô ấy tên là…
mình vẫn nhớ…Tôi bình luận: Thầy thế là hạnh phúc rồi!... Lúc học hành sinh viên,
cao học, nghiên cứu sinh, cụ giúp. Đến bây giờ già nửa đời người rồi, có nhiều việc
vẫn nhờ cụ giúp.
(Ghi theo lời kể của thầy Văn Giá, nguyên Chủ nhiệm Khoa Sáng tác - Lý
luận - Phê bình, Trường Đại học Văn Hóa)
1.5. Giai thoại về Nguyễn Đình Thi
Theo lời kể của nhà văn Nguyễn Đình Chính, con trai nhà thơ Nguyễn Đình
Thi: “Có một ông bố như Nguyễn Đình Thi, cũng mệt lắm chứ! Mười người yêu
ông ấy thì chắc cũng yêu tôi. Nhưng mười người ghét ông ấy cũng sẽ từng ấy người
ghét tôi. Mà tôi còn nói thẳng với ông là con sợ rằng người ghét bố còn nhiều hơn
người yêu bố! Có những người tôi chẳng quen biết gì, khi gặp tôi thái độ rất hằn
học, hóa ra là họ ghét ông Thi”. Có thể nói thẳng là áp lực của các ông bố thành
danh như Nguyễn Đình Thi đè lên con cháu nhiều hơn là cơ hội. “Tôi nói thật, nếu
tôi không phải con ông Thi, mà con một nông dân nào đó thì có khi lại được lăng-xê
lên tận đẩu đâu ấy chứ!”.
Theo như con trai ông thì nhà thơ là người nhẫn nhịn và cả nể với phụ nữ
lắm. Ông chiều chuộng họ và nhường họ mọi điều có thể. Sau này, nhà thơ có một
mối tình lớn với một nữ thi sĩ nổi tiếng. Hai người có hai tính cách quyết liệt và
khác hẳn nhau. Nữ thi sĩ nồng nàn mãnh liệt và sẵn sàng làm bất cứ điều gì vì tình
yêu của mình. Mà tình cảm đôi khi cũng không khớp nhau chứ.
Cuối đời, Nguyễn Đình Thi thú nhận rằng mối tình lớn nhất của ông lại là
mối tình với một nhà thơ cộng sản Pháp, Madeleine Riffaud. Hai người gặp nhau
năm 1952 ở Ba Lan, trong Đại hội Sinh viên Thanh niên thế giới. Bà đã từng sang
Việt Nam và đi vào chiến trường sống cùng bộ đội để viết cuốn Ba tháng trong căn
cứ rừng rậm về đời sống của quân giải phóng. Bà được gọi với cái tên Việt Nam
trìu mến là “Chị Tám” và là em kết nghĩa của cố Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh.
Nhà thơ đã viết nhiều thơ tặng bà, trong đó có những câu thơ rất lấp lánh:
Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh
Soi sáng đường chiến sĩ giữa đèo mây
Ngọn lửa nhớ ai mà hồng đêm lạnh
Sưởi ấm lòng chiến sĩ giữa ngàn cây.
Hai người trao đổi cả trăm bức thư cho nhau. Trong di cảo của nhà thơ chỉ có
bản thảo và những bức thư của mối tình ấy. Mặc dù yêu nhiều vậy như nhà thơ chỉ
có ba người con với người vợ đầu tiên. Có lần nhà thơ đã thắp hương trước bàn thờ
vợ và khấn rằng: “Bà ghê lắm, không cho tôi thêm một đứa con nào cả”. Một thời,
trong làng văn chương hay đùa nhau rằng cứ ai lông mày rậm, mắt đen thì đích thị
là con Nguyễn Đình Thi. Trước khi chết, nhà thơ mời luật sư đến, viết di chúc
khẳng định rằng ông chỉ có ba người con với người vợ đầu tiên. Nhưng nghe đâu,
sau khi ông mất, thỉnh thoảng vẫn có người tìm đến nhà Nguyễn Đình Chính để
nhận anh em và đòi chia của cải!
(Theo lời kể của Trần Văn Hải – một bạn đọc thân thiết của nhà văn Nguyễn
Đình Chính)
1.6. Giai thoại về Xuân Quỳnh
Theo lời kể của Lưu Tuấn Anh, con trai đầu của nữ sĩ Xuân Quỳnh với nghệ
sĩ viôlông Lưu Tuấn thì Xuân Quỳnh là hình mẫu lý tưởng: “Mẹ tôi và bác gái tôi,
Đông Mai luôn nỗ lực để đi tìm cho bố tôi một người vợ. Còn bố tôi thì yêu em Lưu
Quỳnh Thơ có khi còn hơn cả yêu tôi. Bố tôi suốt ngày sửa dây đàn cho em ấy.
Ngày em ấy mất, bố tôi khóc ròng mấy ngày liền. Dù bố mẹ tôi chia tay nhưng chưa
một ngày nào mẹ tôi để tôi cảm thấy mình bị thiệt thòi tình cảm. Tôi vẫn nhớ, hồi
tôi học đại học năm thứ 3, mẹ tôi cho tôi mấy đồng để tiêu hoặc đi chơi với bạn gái.
Một hôm, mẹ tôi giặt quần bò cho tôi vẫn thấy tiền trong túi quần, bà lo lắm, đi hỏi
khắp bạn bè tôi: "Thằng cu nhà cô có vấn đề gì không mà không thấy tiêu tiền,
không thấy có bạn gái!". Thời ấy, tôi ngố lắm, chỉ thích đi bắn chim, câu cá trộm
(cười) chứ cũng biết yêu đương gì. Tiền mẹ cho thì không tiêu, nhưng hôm thèm ăn
dưa hấu, tôi và Minh Vũ đi mua một quả dưa hấu, hai thằng ăn hết vèo. Ăn xong
không đi nổi vì no quá… Đấy, mẹ tôi luôn trăn trở cho con những cái nhỏ nhặt thế.
Đôi khi tôi nghĩ, mẹ tôi yêu con và hy sinh cho con nhiều quá. Mẹ tôi gần như
không có thời gian để nghỉ ngơi. Có lần, tôi đi học về, thấy mẹ đang xách nước từ
tầng 1 lên tầng 3, đến giữa chừng phải dừng lại ở cầu thang thở vì mệt. Tôi đã giành
lấy mà xách đỡ cho mẹ. Nhưng tính mẹ thế, thương con và dành thời gian cho con
học nên một mình mẹ làm hết. Tay mẹ chai đi vì xách nước. Dù làm cho con tất cả
nhưng không bao giờ mẹ kể công, hồi bé thế này thế kia. Hồi ấy ai chả nghèo, chả
khổ, nhưng chưa bao giờ tôi thấy mẹ than nghèo, kể khổ. Bà có cách giải quyết
riêng của mình để các con yên tâm, thoải mái nhất khi ở gần bà”.
(Ghi theo lời kể của Hoàng Long Nhật – Sinh viên Học viện âm nhạc
Việt Nam)
1.7. Giai thoại về Quang Dũng
Nhà thơ Yên Thao kể: “Quang Dũng là nhà thơ rất có cá tính nên giai thoại
về ông khá nhiều.. Đi công tác với Quang Dũng có cái khổ là anh hay la cà. Hồi
kháng chiến, đi qua vùng núi thấy một gia đình có cái võng kiểu đồng bằng, anh
liền sà ngay vào: “Hay quá! Lâu lắm tôi không được nằm kiểu võng này, ông bà chủ
cho nằm nhờ một tý nhé!”. Thế rồi anh nằm thư giãn, thoải mái, ngó nghiêng căn
nhà người ta, tôi thì phải ngồi trò chuyện xã giao với chủ nhà. Quang Dũng là người
rất vệ sinh. Ngủ đâu lúc dậy cũng cố xin bằng được nước đã đun sôi mới súc miệng,
đánh răng. Một lần, chúng tôi làm thịt vịt, Quang Dũng thấy bát nước suýt không
đậy, sợ ruồi, anh lột miếng vải bọc mũ đậy lên. Ai ngờ gặp hơi nước nóng, miếng
vải mềm nhẽo, thấm hết vào bát nước suýt, hòa tan bao bụi đường. Khi ăn, chúng
tôi để ý, Quang Dũng vẫn húp ngon lành, không kiêng kỵ gì”.
Yên Thao kể tiếp: Quang Dũng sáng tác bài hát duy nhất trong đời ông, mở
đầu có câu: “Ba Vì mờ cao… làn sương chiều buông xuống…”, chính Huy Du và
Canh Thân đã ghi âm giúp Quang Dũng. Trong khi đó, nhạc sĩ Huy Du cũng sáng
tác bài hát Về Ba Vì, mở đầu có câu: “Làng tôi xưa dưới chân Ba Vì…”.
Vào thời điểm chưa Đổi mới, một lần Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam
phát bài hát của Quang Dũng nhưng lại giới thiệu của Huy Du. Quang Dũng biết
chuyện, anh không bực gì mà lại bảo: “Thôi thì con mình đẻ ra không nuôi được,
người khác nuôi, nó vẫn số sống là được!”.
Nhà thơ Trần Lê Văn thì góp một chuyện khác: “Cuộc đời ông Quang Dũng
thì nhiều cái lạ lắm! Thơ thì bi hùng mà đời thì “bi hài”. Ông có một thanh kiếm
Nhật, thỉnh thoảng lại đem ra múa, dáng hùng dũng như một tráng sĩ thời Xuân
Thu. Một hôm, tôi đến chơi thấy ông đang chẻ một thanh tre để… vót que tăm. Tôi
liền tức cảnh: “Anh hùng mài kiếm vót que tăm!”. Người hùng như vậy mà rất nhát,
nhất là nhát về chữ nghĩa. Ông ấy viết một câu thơ về người bạn đã hy sinh: “Anh
nằm xương trắng mười năm”, sau thấy có người phê: tả cuộc chiến ghê rợn quá!
Ông sợ, lại đổi thành “sương trắng”.
Quang Dũng giỏi võ hay không thì không rõ, nhưng đã có lần ông phải dụng
võ với một tên lưu manh. Một chiều mùa đông, ở một phố vắng, Quang Dũng vắt
chiếc áo khoác ngoài trên tay, rẽ vào nhà vệ sinh công cộng. Ông để ý thấy một kẻ
khả nghi theo sát ông. Tên này cũng bước vào nhà vệ sinh. Do đã đề phòng sẵn nên
khi tay kia giơ tay giật chiếc áo khoác ở tay trái ông, ông liền xòe bàn tay phải xỉa
vào mặt hắn. Thế mà hắn gục ngay xuống. Ông hoảng, đi như chạy ra ngoài,
không dám ngoảnh lại. Trần Lê Văn có hỏi: “Cú đánh ấy hẳn là miếng võ có tên?
Đó là miếng gì vậy?, Ông trả lời: “Ờ, có chứ! Đâu như miếng song chỉ cầm long,
nhưng lúc ấy hoảng lên, tôi cứ xòe tay phóng bừa, ai còn đếm hai ngón hay năm
ngón nữa!”.
(Ghi theo lời kể của cô giáo Vũ Thị Thuỳ Linh - Trường THPT Gang Thép,
Thái Nguyên)
1.8. Giai thoại về Lưu Trọng Lư
Lưu Trọng Lư có 8 người con. Ngoài tên khai sinh, ông đặt thêm những cái
tên: Nu, Na, Nông… cho dễ nhớ. Nhưng khi dắt con đi khám bệnh, nghe bác sĩ hỏi
tên đứa nhỏ, nhà thơ luống cuống không sao nhớ nổi, đành phải quay lại hỏi con:
"Mi tên chi?", khiến cả phòng khám cười rộ lên.
Một lần, Lưu Trọng Lư cùng vợ đi tàu hỏa vào Nha Trang. Tới ga, ông lập
cập bước xuống, bỏ mặc bà trên tàu ngồi đợi. May mà rồi hai vợ chồng cũng gặp
nhau trên bãi biển.
Lần khác, trong buổi khai mạc cuộc họp Ban Văn nghệ Đông Bích (Nghệ
An): Hôm ấy, vì quên bản báo cáo ở nhà, thi nhân họ Lưu phải dựa vào sổ tay mà
nói vo. Nhưng rồi, phát biểu nửa chừng, ông chợt rời bục diễn giả, tiến sát tới hàng
ghế đại biểu, cứ thế thân mật hỏi chuyện hết người này người kia. Phải nửa giờ sau
ông mới nhớ tới nhiệm vụ của mình và quay trở lại bàn làm việc.
(Ghi theo lời kể của cô giáo Phạm Thị Xanh - Đại học Quảng Nam)
2. PHỤ LỤC 2
BẢNG THỐNG KÊ CÁC TÁC GIA VÀ MỘT SỐ GIAI THOẠI VỀ CÁC
TÁC GIA VĂN HỌC VIỆT NAM
Số thứ tự Tên tác gia văn học Việt Nam Tên giai thoại
1 2 3 4 Đỗ Thuận Lý Công Uẩn Nguyễn Hiền Lê Văn Hưu
5 6 7 8 9 10 11 12 13 Mạc Đĩnh Chi Đoàn Nhữ Hài Hồ Tông Thốc Trần Nguyên Đán Lê Hiến Phủ Hồ Qúy Ly Nguyễn Biểu Nguyễn Trãi Trịnh Thiết Tường
14 15 Lê Thánh Tông Nguyễn Toàn An
16 17 18 19 20 21 22 Lương Thế Vinh Nguyễn Nghi Nguyễn Giản Thanh Lê Nại Phùng Khắc Khoan Nguyễn Bỉnh Khiêm Đào Duy Từ
23 24 25 26 27 Nguyễn Đăng Cảo Nguyễn Đăng Đạo Lương Hữu Khánh Vũ Duệ Nguyễn Qúy Đức Tay lái đò hay chữ Bị trói vẫn làm thơ Trạng nguyên về học lễ Đối hay được thưởng dùi sách Hoa sen trong giếng ngọc, Bốn chữ nhất, Chỉ có hai người, ruột vuông, Trăng là cung sao là đạn, Chưa biết mèo nào cắn mỉu nào, Chim chích - ếch ộp, Cười ông quan hai vợ… Ngự sử miệng còn hoi sữa Đọc thơ chê Hạng Võ Gửi trứng cho ác Lòng ta không phải đá Câu thơ kì lạ Thơ của người nghĩa sĩ Câu thơ nên nghĩa To đầu mà dại Câu thơ nên nghĩa, Câu đối nhà thợ nhuộm, Hồn bướm mơ tiên, Câu đối nhà hang nước, Câu đối người hót phân Anh lính với hội Tao Đàn Sư sử sứ phụ phù phu, Thánh quân minh đế, Ông trạng thả diều, Khiêng võng quan huyện. Câu thơ học từ dân dã Trạng Me đè trạng Ngọt ăn hai đấu học hai canh Thơ vịnh trai Tựa ngai vàng Bài thơ khuyên chúa Sãi Ếch ngồi đáy giếng, Phong nguyệt vô biên, Làm bài hát kiếm rượu thịt Làm thơ vặn lại thần Ăn khỏe thơ tài Thơ nằm co Nối thơ thời Hồng Đức
Đoàn Thị Điểm Nguyễn Tông Khuê Đặng Trần Côn Vũ Công Tể Nguyễn Công Hoàn 28 29 30 31 32
Lê Qúy Đôn Trần Văn Trứ Ngô Thì Sĩ Phạm Nguyễn Du Nguyễn Hữu Cầu 33 34 35 36 37
Trạng Quỳnh Nguyễn Hòe 38 39
Trần Danh Án Nguyễn Thiếp 40 41
Quang Trung Phạm Thái 42 43
Hồ Xuân Hương 44
Nguyễn Du Bà huyện Thanh Quan Đỗ Cao Mại 45 46 47
Nguyễn Công Trứ 48
Nguyễn Văn Siêu 49
Cao Bá Quát Đỗ Minh Tâm 50 51
Nguyễn Qúi Tân Rắn trắng rồng vàng Bét thơ phải đi sứ Trẻ con mới học biết gì Văn rỗng như bụng trống Quan chủ khảo nhận dốt Ba sông bốn mắt, Chữ nhất không biết, Thư mượn áo hồ cừu, Cái cò lặn lội bờ song, Chép lại văn tự cháy. Này hi hi Cái vạ văn chương Thơ nắn nhị đào Đánh nhau bằng cả câu đối Miệng nhà sang, đồ nhà khó, Thơ tức cảnh mót lúa Một thí sinh bướng bỉnh Tiến sĩ triều Lê, khăn triều Nguyễn Bài thơ leo đèo Bia nghè lại dựng trên tòa muôn gian Vịnh tranh tố nữ Đọc thơ chữa thẹn, Đánh trống qua cửa nhà sấm, Âý ái uông, Ham tìm chỗ ấy, Cặn Bần – ghe Phú, Cuộc đấu thơ nghịch ngợm… Câu thơ bỏ lửng, Chiêu Bảy và cô Cúc Cho Thị Đào đi lấy chồng Thơ kết án con vịt Được tha phạt vì câu thơ hóm, Bài thơ trách nữ thần, Đối chọi với sư, Thơ tạ Long thần, Anh hùng đè xuống dưới. Siêu đất siêu đồng, Cót két thẩn thơ Bịa thơ tài hơn vua, Khí phách ngang tàn, Một bọc sinh đôi, Một thầy một cô một chó cái, Trên dưới đều chó, Tự tiện chữa thơ vua, Một câu đối một hoàn cảnh. Thơ trả lời người bạn giàu Thơ vịnh đèn kéo quân, Phó cối đề thơ, Gà câu đối cho trò, Thơ mừng 52
Nguyễn Xuân Ôn Nguyễn Hữu Khanh Trần Tích Phiên Nguyễn Thiện Kế Xiển Ngộ Phan Văn Ái Nguyễn Đình Chiểu Vũ Duy Thanh Tự Đức Phan Đình Phùng Ông Ích Khiêm Hoàng Phan Thái Phan Văn Trị 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65
Nguyễn Khuyến Trần Bích San Vũ Phạm Hàm Kỳ Đồng Lê Trọng Đôn 66 67 68 69 70
Phan Bội Châu Huỳnh Thúc Kháng 71 72
Tản Đà Nguyễn Kinh 73 74
bạn đẻ con trai, Thơ vịnh cái điếu, Thơ của người mần đơn Câu đối đến Thia Thia, Bò đen bò vàng, Đầy tớ làm gia sư, Nam nhi cốt ở tài Hoa xưa ong cũ Dịch thơ đùa tếu, Mặc thằng nghe Thơ khên tri phủ tài nịnh Tổng đốc cay mũi Giễu lệnh cấm quần không đáy Trâu bò trê lóc Chín nghìn bạn Thơ vịnh muỗi Họa thơ tỏ chí quyết chiến Hai cẳng đối một đầu Bài phú tức cảnh cô gái đẹp Thơ con mèo Thơ Bồ tiên, Chi chi giã, Cho chữ thờ, Hỏi thăm bạn măt cướp, Lo trước thiên hạ, Câu đối khóc anh thợ rèn, Quan chẳng quan thì dân, Một phút hóa tram năm, Kỉ niệm vô giá, Gặp chó, Tạ người cho hoa trà, Đùa nhà sư móm Một đạo hai đường Vừa đánh cờ vừa làm thơ Bài thơ để lộ ki Bài phú mười roi mười lạng Hai hồn thơ lớn gặp nhau, Trời xanh còn hãm anh hung, Câu hát đoán tên, Mặc ai khanh tướng công hầu, Thơ tặng người cùng cảnh, Một cũng đủ rồi. Tấn sĩ là cài gì Người tình nhân không quen biết, Rau sắng chùa Hương, Lên bà khó lắm em ơi, Thơ khóc nhầm Bài thơ gỡ thể diện Gía quan giáo thụ bằng hai cân lợn, Thơ chửi chó Câu văn ngỗ ngược Tình sâu nghĩa đầy Thi dịch thơ, Cậu bé thầy dùi Ông lão kéo xe góp chuyện văn Ngô Tất Tố Nguyễn Cảnh Lâm Nguyễn Ái Quốc Nguyễn Bính Nguyễn Công Hoan 75 76 77 78 79
Nhất Linh Vân Đài Tú Mỡ Nguyên Hồng Nguyễn Tuân 80 81 82 83 84
Xuân Diệu 85
chương Tai mắt Tự lực văn đoàn Từ câu đối thành bài thơ Người đẹp tri âm Chơi chữ Cho bác chen ngang với Không tiếc thuốc lá, chỉ tiếc thời gian Câu đối chữ Hán đọc theo vần quốc ngữ Thơ phú Đào Mộng Giác Gà câu đối cho chàng rể Thơ hay xiêu lòng tiểu thư Bùi Bằng Đoàn Phan Châu Trinh Nguyễn Huy Lượng Vương Toán 86 87 88 89