BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Thu Thủy

THỰC TRẠNG PHỐI HỢP GIỮA GIÁO VIÊN

VÀ PHỤ HUYNH TRONG VIỆC GIÁO DỤC

KỸ NĂNG TỰ PHỤC VỤ CHO TRẺ

MẪU GIÁO 3 – 4 TUỔI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2020

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Thu Thủy

THỰC TRẠNG PHỐI HỢP GIỮA GIÁO VIÊN

VÀ PHỤ HUYNH TRONG VIỆC GIÁO DỤC

KỸ NĂNG TỰ PHỤC VỤ CHO TRẺ

MẪU GIÁO 3 – 4 TUỔI

Chuyên ngành : Giáo dục học (Giáo dục Mầm non)

Mã số

: 8140101

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. LÊ XUÂN HỒNG

Thành phố Hồ Chí Minh – 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn “Thực trạng phối hợp giữa giáo viên và phụ huynh

trong việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi” là sản phẩm

quá trình nghiên cứu của tôi.

Các số liệu, kết quả trong luận văn là đúng sự thật và chưa có ai công bố trong

bất kỳ công trình nào.

LỜI CẢM ƠN

Trong khi thực hiện đề tài “Thực trạng phối hợp giữa giáo viên và phụ huynh

trong việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi”, tôi đã nhận

được rất nhiều sự động viên, giúp đỡ của nhiều cá nhân và tập thể cùng với sự nổ

lực của bản thân để hoàn thành luận văn này.

Trước hết, tôi xin chân thành cám ơn Ban giám hiệu Trường Đại học Sư phạm

Thành phố Hồ Chí Minh cùng quý Thầy Cô giảng dạy tôi trong suốt 2 năm học.

Những kiến thức và phương pháp Thầy Cô truyền đạt là nền tảng quan trọng để

giúp tôi hoàn thành luận văn. Đồng thời tôi xin cám ơn các Thầy Cô Phòng Sau đại

học và Thư viện của trường đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập. Đặc biệt tôi

xin gửi lời cám ơn và bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến Cô TS. Lê Xuân Hồng đã

tận tình quan tâm, hướng dẫn nghiên cứu và động viên tôi hoàn thành luận văn này.

Tôi cũng chân thành cám ơn Ban giám hiệu và tập thể giáo viên mầm non ở

4 trường mầm non công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh: mầm non Hoa Sen và

mầm non Hoa Thiên Lý 1 (huyện Bình Chánh), mầm non Thiên Đức (huyện Hóc

Môn), mầm non 19/5 Thành Phố (Quận 1) và một số giáo viên mầm non đang công

tác tại nhóm lớp mẫu giáo 3 – 4 tuổi tại Thành phố Hồ Chí Minh đã giúp đỡ và tạo

mọi điều kiện cho tôi trong suốt quá trình khảo sát, quan sát, phỏng vấn để hoàn

thành luận văn.

Cuối cùng, tôi gửi lời cám ơn sâu sắc đến gia đình và các bạn học viên khóa

28 đã luôn ủng hộ, động viên và khích lệ, tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá

trình nghiên cứu.

Tác giả

Nguyễn Thị Thu Thủy

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Lời cám ơn

Mục lục

Danh mục chữ viết tắt

Danh mục các bảng

Danh mục các biểu đồ

PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1

Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ PHỐI HỢP GIỮA GIÁO VIÊN VÀ PHỤ

HUYNH TRONG VIỆC GIÁO DỤC KỸ NĂNG TỰ PHỤC

VỤ CHO TRẺ MẪU GIÁO 3 – 4 TUỔI ........................................... 8

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................... 8

1.1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài ..................................................... 8

1.1.2. Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam ...................................................... 11

1.2. Lý luận về sự phối hợp giữa giáo viên và phụ huynh ........................................ 15

1.2.1. Giáo viên .................................................................................................... 15

1.2.2. Phụ huynh ................................................................................................... 17

1.2.3. Phối hợp ...................................................................................................... 21

1.2.4. Mục đích của việc phối hợp giữa giáo viên và phụ huynh trong giáo

dục trẻ mầm non……………. ................................................................... 22

1.2.5. Nội dung, hình thức, phương pháp phối hợp giữa giáo viên và phụ

huynh trong giáo dục trẻ mầm non ............................................................ 23

1.2.6. Các nguyên tắc phối hợp giữa giáo viên và phụ huynh trong chăm sóc

– giáo dục trẻ mầm non ............................................................................. 26

1.2.7. Xây dựng mối quan hệ giữa giáo viên và phụ huynh ................................. 27

1.2.8. Yếu tố ảnh hưởng đến sự phối hợp giữa giáo viên và phụ huynh trong

việc giáo dục trẻ mầm non......................................................................... 28

1.3. Lý luận về giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi ................ 30

1.3.1. Khái niệm giáo dục kỹ năng ....................................................................... 30

1.3.2. Khái niệm giáo dục kỹ năng tự phục vụ ..................................................... 32

1.3.3. Nội dung giáo dục kỹ năng tự phục vụ của trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi .......... 35

1.3.4. Sự hình thành kỹ năng tự phục vụ của trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi .................. 36

1.3.5. Những điều kiện để hình thành kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo

3 – 4 tuổi……………….. .......................................................................... 37

1.3.6. Các nhóm phương pháp giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo

3 – 4 tuổi…… ............................................................................................ 38

1.3.7. Yếu tố ảnh hưởng đến việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu

giáo 3 – 4 tuổi……. .................................................................................. 39

1.4. Lý luận về sự phối hợp giữa giáo viên và phụ huynh trong việc giáo dục kỹ

năng tự phục vụ cho trẻ .................................................................................... 42

1.5. Đặc điểm tâm lí lứa tuổi mẫu giáo 3 – 4 tuổi .................................................... 43

1.6. Tiêu chí đánh giá kỹ năng tự phục vụ của trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi .................... 46

Tiểu kết chương 1 ..................................................................................................... 51

Chương 2. THỰC TRẠNG PHỐI HỢP GIỮA GIÁO VIÊN VÀ PHỤ

HUYNH TRONG VIỆC GIÁO DỤC KỸ NĂNG TỰ PHỤC

VỤ CHO TRẺ MẪU GIÁO 3 – 4 TUỔI ........................................ 52

2.1. Khái quát về quá trình nghiên cứu điều tra thực trạng ...................................... 52

2.1.1. Mục đích khảo sát thực trạng ..................................................................... 52

2.1.2. Nhiệm vụ khảo sát ...................................................................................... 52

2.1.3. Phương pháp và đối tượng khảo sát ........................................................... 52

2.1.4. Vài nét về cơ sở khảo sát ............................................................................ 54

2.1.5. Khách thể khảo sát ..................................................................................... 54

2.2. Kết quả khảo sát thực trạng phối hợp giữa GVMN và PH trong việc giáo

dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi ở một số trường mầm

non .................................................................................................................... 60

2.2.1. Thực trạng nhận thức của GVMN, CBQL, PH về giáo dục kỹ năng tự

phục vụ và sự hình thành và phát triển kỹ năng tự phục vụ cho trẻ .......... 60

2.2.2. Thực trạng nhận thức về sự cần thiết và mục đích của việc phối hợp

giữa GVMN và PH trong việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ

MG 3 – 4 tuổi ............................................................................................ 63

2.2.3. Thực trạng sử dụng những hình thức phối hợp giữa GVMN và PH

trong việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi ........ 66

2.2.4. Thực trạng GVMN, CBQL, PH sử dụng những cách, những phương

pháp để giáo dục kỹ năng tự phục vụ của trẻ tại trường và gia đình ......... 72

2.2.5. Đánh giá mức độ thực hiện các kỹ năng tự phục vụ của trẻ mẫu giáo ...... 77

3 – 4 tuổi của GVMN, CBQL và PH ................................................................... 77

2.2.6. Những nguyên nhân trẻ thực hiện tốt và chưa tốt các kỹ năng tự phục

vụ của trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi ................................................................... 87

2.2.7. Thực trạng giao tiếp, trao đổi giữa GVMN và PH về giáo dục kỹ năng

tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi ...................................................... 91

2.2.8. Những khó khăn về phía GVMN và PH trong việc phối hợp để giáo

dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ ................................................................. 98

2.3. Đề xuất một số biện pháp nâng cao phối hợp giữa GV và PH trong việc

giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi .............................. 102

2.3.1. Cơ sở đề xuất biện pháp ........................................................................... 102

2.3.2. Một số biện pháp nâng cao phối hợp giữa GV và PH trong việc giáo

dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi ............................... 102

2.3.3 . Kết quả khảo nghiệm tính khả thi của một số biện pháp đã đề xuất ....... 116

Tiểu kết chương 2 ................................................................................................... 120

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .............................................................................. 122

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 127

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt của nội dung viết tắt Nội dung viết tắt

BP : Biện pháp

CBQL : Cán bộ quản lí

ĐT : Điện thoại

GDMN : Giáo dục mầm non

GV : Giáo viên

GVMN : Giáo viên mầm non

KN : Kỹ năng

MN : Mầm non

MG : Mẫu giáo

PH : Phụ huynh

SH : Sinh hoạt

SL : Số lượng

: TP.HCM Thành phố Hồ Chí Minh

TL : Tỉ lệ %

TPV : Tự phục vụ

TC : Tổng cộng

& : Và

XH : Xã hội

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Phương pháp và đối tượng khảo sát ......................................................... 54

Bảng 2.2. Một số đặc điểm về phía giáo viên mầm non (N=124) ............................ 55

Bảng 2.3. Một số đặc điểm về phụ huynh của trẻ .................................................... 58

Bảng 2.4. Thực trạng nhận thức của CBQL, GVMN và PH về mục đích của

việc phối hợp để giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo

3 – 4 tuổi .................................................................................................. 65

Bảng 2.5. Thực trạng sử dụng những hình thức phối hợp giữa GVMN và PH

trong việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi ...... 66

Bảng 2.6. Thực trạng CBQL và GVMN sử dụng những cách giáo dục kỹ năng

tự phục vụ cho trẻ tại trường ................................................................... 72

Bảng 2.7. Thực trạng đánh giá mức độ thực hiện các kỹ năng tự phục vụ của

trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi từ của GVMN, CBQL và PH ............................. 77

Bảng 2.8. Những nguyên nhân trẻ thực hiện chưa tốt các kỹ năng tự phục vụ

của trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi ...................................................................... 88

Bảng 2.9. Những khó khăn của GVMN trong việc phối hợp với PH để giáo

dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ ............................................................... 98

Bảng 2.10. Kết quả khảo nghiệm tính khả thi của các biện pháp đề xuất .............. 117

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 2.1. Trình độ chuyên môn của giáo viên mầm non ..................................... 55 Biểu đồ 2.2. Trình độ chuyên môn của cán bộ quản lí ............................................. 56 Biểu đồ 2.3. Thâm niên công tác quản lí của cán bộ quản lí .................................... 57 Biểu đồ 2.4. Trình độ học vấn của phụ huynh .......................................................... 59 Biểu đồ 2.5. Thực trạng nhận thức của GVMN, CBQL, PH về giáo dục KN

TPV ..................................................................................................... 61

Biểu đồ 2.6. Thực trạng nhận thức của GVMN, CBQL, PH về sự hình thành và

phát triển KN TPV cho trẻ .................................................................. 62

Biểu đồ 2.7. Thực trạng nhận thức về sự cần thiết của việc phối hợp giữa

GVMN và PH trong việc giáo dục KN TPV cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi ............................................................................................. 63

Biểu đồ 2.8. Thực trạng GVMN, CBQL và PH sử dụng những phương pháp để

giáo dục KN TPV cho trẻ tại trường và gia đình ................................ 76 Biểu đồ 2.9. Kết quả quan sát các KN TPV của trẻ ở trường MN tại TP.HCM ...... 79 Biểu đồ 2.10. Thực trạng đánh giá của PH về kỹ năng quan trọng và không

quan trọng đối với trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi .......................................... 85

Biểu đồ 2.11. Những nguyên nhân trẻ thực hiện tốt các KN TPV của trẻ mẫu

giáo 3 – 4 tuổi ..................................................................................... 87

Biểu đồ 2.12. Thực trạng PH trao đổi ý kiến với GVMN trong việc giáo dục KN

TPV cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi ......................................................... 91

Biểu đồ 2.13. Thực trạng những phương án xử lí tình huống của GVMN và CBQL khi PH than phiền về những khuyết điểm của con mình trong KN TPV ..................................................................................... 92

Biểu đồ 2.14. Phụ huynh làm gì khi GVMN trao đổi với PH về việc giáo dục

KN TPV cho trẻ .................................................................................. 93

Biểu đồ 2.15. Những nguyên nhân mà GVMN ngại trao đổi với PH, khi thấy trẻ

chưa thực hiện được một số KN TPV ................................................. 94

Biểu đồ 2.16. Những nguyên nhân mà PH ngại trao đổi với GVMN, khi thấy trẻ

chưa thực hiện được một số KN TPV ................................................. 96

Biểu đồ 2.17. Những khó khăn của PH trong việc phối hợp với GVMN để giáo

dục KN TPV cho trẻ ........................................................................... 99 Biểu đồ 2.18. So sánh tính khả thi của các biện pháp đề xuất ................................ 118 Biểu đồ 2.19. So sánh tính rất khả thi của các biện pháp đề xuất .......................... 119

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trẻ mầm non được xem là thế hệ tương lai của đất nước và giáo dục trẻ không

chỉ chịu tác động trực tiếp từ nhà trường, giáo viên mà còn có giáo dục từ gia đình,

phụ huynh. Vì gia đình, phụ huynh là nơi trẻ được sinh ra và được tiếp xúc đầu tiên,

nơi trẻ được gần gũi và chứa đầy tình yêu thương, góp phần hình thành nhân cách.

Cho nên môi trường và cách giáo dục từ gia đình, phụ huynh sẽ ảnh hưởng rất nhiều

đến trẻ, việc phụ huynh chăm sóc – giáo dục trẻ không chỉ là công việc riêng tư mà

còn là trách nhiệm đạo đức và nghĩa vụ công dân của người làm cha mẹ. Điều đó,

có thể khẳng định: “Giáo dục gia đình là một bộ phận hữu cơ của sự nghiệp giáo

dục chung” (Nguyễn Thị Sinh Thảo, 2013).

Luật Giáo dục (2005) đã nêu trách nhiệm của nhà trường là chủ động phối hợp

với gia đình để thực hiện mục tiêu, nguyên lí giáo dục, và trách nhiệm của gia đình

là tạo điều kiện cho con em được học tập tốt, được tham gia các hoạt động và phối

hợp cùng nhà trường nâng cao hiệu quả giáo dục. Ngoài ra, trong luật bảo vệ chăm

sóc và giáo dục trẻ em (2012) đã nêu nhà trường và các cở sở giáo dục phải có trách

nhiệm thực hiện giáo dục trẻ đồng thời chủ động phối hợp chặt chẽ với gia đình để

nâng cao hiệu quả giáo dục (Quốc hội, 2012). Chương trình GDMN (2017) đã đưa

ra cần phối hợp chặt chẽ giữa cơ sở giáo dục mầm non với gia đình và cộng đồng để

chăm sóc giáo dục trẻ tốt nhất (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2017). Việc phối hợp giữa

gia đình, phụ huynh và nhà trường, giáo viên là điều cần thiết và quan trọng giúp

quá trình chăm sóc – giáo dục trẻ được thống nhất về nội dung và phương pháp, góp

phần nâng cao chất lượng giáo dục. Trẻ mầm non được xem là thế hệ tương lai của

đất nước, do vậy nhà trường và gia đình cần giáo dục tốt cho trẻ, không chỉ cũng

cấp những kiến thức mà còn giúp trẻ hình thành các kỹ năng sống cho bản thân,

giúp trẻ độc lập trong mọi hoạt động. Giai đoạn trẻ bắt đầu tách mình ra khỏi người

khác và có ý thức về khả năng của chính mình. Trẻ biết so sánh mình với người lớn

và mong muốn được làm người lớn, những công việc của người lớn, tính tự lập bắt

đầu xuất hiện, trẻ có nhu cầu thực hiện những hành động độc lập theo ý muốn của

bản thân để khẳng định chính mình. Giai đoạn này rất thích hợp cho việc giáo dục

2

những kỹ năng tự phục vụ cho trẻ và kỹ năng tự phục vụ là một trong những kỹ

năng sống rất quan trọng trong cuộc sống của mỗi trẻ và là nội dung không thể thiếu

trong chương trình GDMN. Theo tác giả Vũ Hoàng Vân (2017) kỹ năng tự phục vụ

là biểu hiện về khả năng trẻ có thể làm những việc đơn giản trong cuộc sống: Xúc

ăn, mặc quần áo, chải tóc, đi giày dép… hoặc giúp đỡ người lớn một số công việc

trong cuộc sống hàng ngày. Maria Montessori đã từng nói “Điều cốt yếu của sự tự

lập là có thể tự làm việc gì đó cho mình. Những trải nghiệm ấy không chỉ là trò

chơi. Đó là việc trẻ phải làm để trưởng thành” do đó người lớn cần nên để trẻ tự

lập, làm những công việc để phục vụ cho chính mình, điều đó giúp trẻ trở nên độc

lập, tự tin và trưởng thành hơn trong cuộc sống (Tim Seldin, 2015).

Nhà tâm lí học nổi tiếng Maslow đã từng nói: “Thất bại, đối với trẻ con, chưa

hẳn đã là chuyện xấu, điều cốt yếu là thái độ của chúng khi đối mặt với thất bại”.

Trong cả đời người của con trẻ không thể nào tránh khỏi những việc khó khăn, thất

bại vì thế bậc phụ huynh, cha mẹ cần tạo điều kiện và bồi dưỡng cho con những khả

năng tự lập, để có thể đối mặt và giải quyết vấn đề, từ đó giúp trẻ bước ra khỏi vòng

tay của cha mẹ (Trần Hân, 2013). Tuy nhiên, thực tế ngày nay còn nhiều trẻ thụ

động, hay ỷ lại vào người lớn, chưa có thể làm những công việc nhỏ để phục vụ bản

thân, đa phần do người lớn cưng chiều nghĩ trẻ còn nhỏ nên sẽ không làm được,

không tin vào khả năng của trẻ, sợ trẻ làm sai hoặc do không đủ kiên nhẫn để chờ

đợi trẻ làm, với mong muốn tiết kiệm thời gian nên người lớn thường làm hộ trẻ

mọi việc. Nhưng đáng ra những công việc đó trẻ phải được làm để phục vụ cho nhu

cầu của bản thân. Từ đó, cho thấy việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ là rất

cần thiết, để chuẩn bị hành trang cho trẻ vào bậc học phổ thông, về phía nhà trường

giáo viên đã giáo dục cho trẻ một số kỹ năng tự phục vụ ở các độ tuổi. Tuy nhiên,

hiện nay việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ chưa chú trọng nên chưa đồng bộ

giữa giáo viên và phụ huynh, nên hiệu quả giáo dục chưa cao, phụ huynh chưa quan

tâm nhiều đến việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ ở trẻ, cũng như chưa nhận thức

được những lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài của việc phối hợp với giáo viên, nhà

trường để nâng cao hiệu quả giáo dục và hiện nay còn ít đề tài nghiên cứu đến lĩnh

vực này.

3

Xuất phát từ những lí do trên tôi quyết định chọn đề tài “Thực trạng phối hợp

giữa giáo viên và phụ huynh trong việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu

giáo 3 – 4 tuổi” làm đề tài nghiên cứu.

2. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu cơ sở lý luận và khảo sát thực trạng phối hợp giữa giáo viên và

phụ huynh trong việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi. Trên

cơ sở đó đề xuất một số biện pháp phối hợp có hiệu quả giữa giáo viên và phụ

huynh trong việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi.

3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu

3.1. Khách thể nghiên cứu

Hoạt động phối hợp giữa giáo viên và phụ huynh trong việc giáo dục kỹ năng

tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi.

3.2. Đối tượng nghiên cứu

Thực trạng phối hợp giữa giáo viên và phụ huynh trong việc giáo dục kỹ năng

tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi.

4. Giả thuyết nghiên cứu

Sự phối hợp giữa giáo viên và phụ huynh trong việc giáo dục kỹ năng tự phục

vụ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi chưa được chú trọng. Nếu nghiên cứu các cơ sở lý

luận và khảo sát, phân tích đúng thực trạng thì người nghiên cứu sẽ có cơ sở đề xuất

một số biện pháp phối hợp giữa giáo viên và phụ huynh trong việc giáo dục kỹ năng

tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu

Hệ thống hóa cơ sở lý luận về sự phối hợp giữa giáo viên và phụ huynh trong

việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi.

Khảo sát và đánh giá thực trạng sự phối hợp giữa giáo viên và phụ huynh

trong việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi.

Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả phối hợp giữa giáo viên và

phụ huynh trong việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi.

4

6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu

6.1. Giới hạn về nội dung nghiên cứu

Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng sự phối hợp giữa giáo viên và phụ

huynh trong việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi ở một số

trường mầm non tại Thành phố Hồ Chí Minh.

6.2. Giới hạn về phạm vi nghiên cứu

Đề tài tiến hành nghiên cứu tại 20 trường mầm non công lập và tư thục tại

Thành phố Hồ Chí Minh. Trong đó công lập gồm có 11 trường (MN Hoa Sen – MN

Hoa Thiên Lý – MN Hoa Thiên Lý 1 – MN 30/4 – Hoa Phượng 1 ở huyện Bình

Chánh, MN Hoàng Yến ở quận Thủ Đức, MN 14 – MN Bàu Cát ở quận Tân Bình,

MN Hoa Lan – MN Hoa Hồng ở quận Tân Phú), MN 19/5 Thành Phố ở quận 1 và

tại 9 trường tư thục (MN Mầm Xanh – MN Bình Minh ở huyện Bình Chánh, MN

Nhật Mỹ – MN Thiên Đức – MN Khai Trí ở huyện Hóc Môn, MN Minh Quang –

MN Hoa Mai 2 ở quận 12, MN Vinschool ở quận Bình Thạnh), MN Mai Khôi ở

quận Gò Vấp.

- 124 giáo viên mầm non đang công tác chăm sóc – giáo dục tại nhóm lớp

mẫu giáo 3 – 4 tuổi.

- 39 cán bộ quản lí đang quản lí tại các trường mầm non tư thục và công

lập tại Thành phố Hồ Chí Minh.

- 254 phụ huynh có con đang học tại nhóm lớp mẫu giáo 3 – 4 tuổi ở một

số trường mầm non trên tại Thành phố Hồ Chí Minh.

- Quan sát tại 8 nhóm lớp mẫu giáo 3 – 4 tuổi, tại 4 trường mầm non tư

thục và công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh.

7. Phương pháp nghiên cứu

7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận

Tham khảo các công trình nghiên cứu, báo, sách, tạp chí chuyên ngành về các

vấn đề liên quan đến sự phối hợp giữa nhà trường, giáo viên và gia đình, phụ huynh

trong việc chăm sóc – giáo dục trẻ và giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ. Từ đó hệ

thống và khái quát hóa các khái niệm công cụ làm cơ sở lý luận cho đề tài nghiên

cứu.

5

7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn

7.2.1. Phương pháp quan sát

Mục đích: Để thu thập thêm thông tin và tìm hiểu thực trạng sự phối hợp giữa

giáo viên và phụ huynh trong giáo dục kỹ năng tự phục vụ và đánh giá các kỹ năng

tự phục vụ của trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi.

Nội dung quan sát: Sự chuẩn bị của giáo viên mầm non, các biện pháp giáo

viên sử dụng trong việc phối hợp với phụ huynh, ghi nhận lại quá trình trao đổi,

phối hợp giữa giáo viên và phụ huynh trong các giờ đón – trả trẻ. Quan sát các kỹ

năng tự phục vụ của trẻ trong giờ sinh hoạt hằng ngày của trẻ.

Mẫu quan sát: Quan sát giờ sinh hoạt trong ngày của trẻ ở 8 nhóm lớp mẫu

giáo 3 – 4 tuổi: 2 lớp ở trường mầm non Hoa Sen, 2 lớp ở trường mầm non Hoa

Thiên Lý 1, 2 lớp ở trường mầm non 19/5 Thành Phố và 2 lớp ở trường mầm non

Thiên Đức.

7.2.2. Phương pháp phỏng vấn

Mục đích: Thu thập thông tin để chứng minh giả thuyết nghiên cứu.

Nội dung: Thực trạng phối hợp giữa giáo viên và phụ huynh trong việc giáo

dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi. Tìm hiểu những nguyên nhân

dẫn đến trẻ chưa thực hiện tốt những kỹ năng tự phục vụ. Giáo viên có sử dụng

mạng xã hội để trao đổi với phụ huynh hay không và những mong muốn của phụ

huynh khi cho trẻ học tại trường mầm non và những đánh giá của phụ huynh về các

kỹ năng tự phục vụ của trẻ.

Cách thực hiện: Phương pháp đàm thoại được thực hiện lần lượt với từng cá

nhân giáo viên mầm non và phụ huynh của trẻ.

Đối tượng: Một số giáo viên mầm non đang công tác tại nhóm lớp mẫu giáo

3 – 4 tuổi và phụ huynh có con đang học tại nhóm lớp mẫu giáo 3 – 4 tuổi tại trường

mầm non.

7.2.3. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi

Mục đích điều tra: Nhằm tìm hiểu thực trạng phối hợp giữa giáo viên và phụ

huynh trong việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi và thực

trạng nhận thức của giáo viên mầm non, cán bộ quản lí, phụ huynh về giáo dục kỹ

6

năng tự phục vụ. Những khó khăn ảnh hưởng đến việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ

cho trẻ.

Nội dung điều tra thể hiện trong phiếu hỏi bao gồm:

 Thực trạng nhận thức của giáo viên mầm non, cán bộ quản lí, phụ huynh về

giáo dục kỹ năng tự phục vụ cũng như tính cần thiết và mục đích của việc

phối hợp giữa giáo viên mầm non và phụ huynh trong việc giáo dục kỹ

năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi.

 Thực trạng sử dụng những hình thức, phương pháp phối hợp trong việc giáo

dục kỹ năng tự phục vụ và những đánh giá của giáo viên mầm non, cán bộ

quản lí, phụ huynh về sự phối hợp cũng như mức độ thực hiện các kỹ năng

tự phục vụ của trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi.

 Thực trạng giao tiếp, trao đổi giữa giáo viên mầm non và phụ huynh, cũng

như những nguyên nhân ảnh hưởng đến việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ

cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi.

 Những khó khăn về phía giáo viên mầm non và phụ huynh trong việc phối

hợp để giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ.

 Thực trạng lập kế hoạch giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ của giáo viên

mầm non và cán bộ quản lí.

 Những đề xuất của giáo viên mầm non, cán bộ quản lí, phụ huynh nhằm

nâng cao hiệu quả phối hợp giữa giáo viên với phụ huynh trong việc giáo

dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ.

Mẫu điều tra:

 124 giáo viên mầm non đang chăm sóc – giáo dục trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi.

 254 phụ huynh có con đang học tại nhóm lớp mẫu giáo 3 – 4 tuổi.

 39 cán bộ quản lí đang quản lí tại các trường mầm non tại Thành phố Hồ

Chí Minh.

 Cách thực hiện: Phát bảng hỏi cho từng giáo viên mầm non đang công tác

tại nhóm lớp mẫu giáo 3 – 4 tuổi, cán bộ quản lí tại các trường mầm non,

7

phụ huynh có con đang học tại nhóm lớp mẫu giáo 3 – 4 tuổi ở các trường

mầm non tại Thành phố Hồ Chí Minh, sau đó thu hồi và tổng hợp đánh giá.

7.2.4. Phương pháp nghiên cứu hồ sơ

Mục đích: Nhằm tìm hiểu thực trạng lập kế hoạch giáo dục kỹ năng tự phục vụ

cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi của giáo viên mầm non và những nhận xét đánh giá của

giáo viên và phụ huynh về kỹ năng tự phục vụ của trẻ.

Nội dung: Nghiên cứu các kế hoạch năm/tháng/sổ bé ngoan của giáo viên

mầm non tại lớp mẫu giáo 3 – 4 tuổi.

7.2.5. Phương pháp thống kê toán học

Sử dụng phần mềm Excel để tính toán các số liệu điều tra sau khi thu thập

được từ việc nghiên cứu thực trạng.

8. Những đóng góp của luận văn

Hệ thống các cơ sở lí luận về hoạt động phối hợp giữa giáo viên và phụ huynh

trong việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ.

Làm rõ thực trạng phối hợp giữa giáo viên và phụ huynh trong việc giáo dục

kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi ở một số trường mầm non tại Thành

phố Hồ Chí Minh.

Đề xuất một số biện pháp phối hợp nhằm nâng cao hiệu quả phối hợp giữa

giáo viên và phụ huynh trong việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo

3 – 4 tuổi.

Xây dựng một số tài liệu tuyên truyền và các bước giáo dục kỹ năng tự phục

vụ cho trẻ mẫu giáo.

8

PHẦN NỘI DUNG

Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ PHỐI HỢP GIỮA GIÁO VIÊN VÀ PHỤ

HUYNH TRONG VIỆC GIÁO DỤC KỸ NĂNG TỰ PHỤC VỤ CHO TRẺ

MẪU GIÁO 3 – 4 TUỔI

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

1.1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài

Năm 1979 nhà tâm lý học người Mỹ Urie Bronfenbrenner, đã xây dựng lý

thuyết hệ sinh thái để giải thích những phẩm chất vốn có của một đứa trẻ và những

ảnh hưởng của môi trường đến sự phát triển. Ông tin rằng sự phát triển của một cá

nhân sẽ bị tác động bởi mọi thứ xảy ra xung quanh trong môi trường sống của nó và

ông đã đưa ra những ảnh hưởng của môi trường sống đối với sự phát triển của trẻ:

Hệ vi mô (Microsystem) là lớp môi trường nhỏ nhất và gần với trẻ nhất từ gia đình,

người chăm sóc trẻ, thầy cô giáo và bạn cùng trang lứa, trường học, khu vui chơi…

Hệ tương tác (Mesosystem) là sự liên hệ, phối hợp giữa các nhân tố trong hệ vi mô,

đặc biệt là mối liên hệ giữa các trải nghiệm trong gia đình và trường học. Hệ ngoại

vi (Exosystem) là môi trường rộng hơn, liên quan tới cộng đồng lớn mà trẻ đang

sinh sống. Hệ vĩ mô (Macrosystem) là lớp ngoài cùng bao gồm các nhân tố như: Các

khuôn mẫu hành vi, niềm tin, các giá trị văn hóa, phong tục tập quán của dân tộc…

Hệ thời gian (Chronosystem) là chu trình phát triển của cả cuộc đời cá nhân qua các

sự kiện, các giai đoạn chuyển tiếp… đều có tác động trực tiếp đến quá trình phát

triển của trẻ. Ông cho rằng quá trình phát triển của mỗi cá nhân điều có sự tương tác

với các hệ thống ở trên. Qua đó cho thấy rằng môi trường xung quanh có ảnh hưởng

rất nhiều đến sự phát triển của trẻ, đặc biệt là gia đình và người chăm sóc trẻ là nhân

tố tác động và tạo ra ảnh hưởng trực tiếp đến trẻ nhiều nhất. Vì thế việc giáo dục trẻ

không chỉ có ở nhà trường, GV mà còn phải có sự chung tay, hợp tác, phối hợp

cùng với gia đình để giáo dục trẻ.

Xu thế xã hội hóa GDMN ở nước Nga đã thể hiện rất rõ, giữa gia đình, nhà

trường MN và các lực lượng xã hội cần có sự phối hợp chặt chẽ trong công tác

GDMN (Nguyễn Thị Hòa, 2011).

9

Tác giả Pirchio, Tritrini, Passiatore, Taeschner (2013) cho rằng: “Công tác

phối hợp giữa giáo viên mầm non và cha mẹ trẻ là một công tác quan trọng và

không thể thiếu trong quá trình giáo dục trẻ”.

Santiago Nieto Martí (2017) cho rằng: “Mối quan hệ giữa gia đình và nhà

trường không được hiểu là những ảnh hưởng riêng biệt mà là những ảnh hưởng

chồng chéo”. Điều này nhấn mạnh sự liên quan của sự phối hợp và làm việc tập thể

của các ông bố, bà mẹ và GV. Nhà trường và gia đình khác nhau về các loại hình và

hình thức tương tác, chiến lược dạy/học, mô hình giao tiếp và tổ chức quan hệ của

họ… Và chúng ta phải hiểu chúng như là sự thay đổi nguồn kích thích khác nhau

của sự phát triển.

A.X. Ma-ca-ren-cô cho rằng: “Để giải quyết một cách có kết quả nhiệm vụ

giáo dục thế hệ trẻ, gia đình, nhà trường và các đoàn thể xã hội phải phối hợp hoạt

động một cách chặt chẽ”. Việc thống nhất giữa gia đình, các bậc PH cũng như nhà

trường và các đoàn thể xã hội, sẽ cung cấp những điều kiện thuận lợi để tiến hành

giáo dục trẻ một cách có hiệu quả. Cho nên nghĩa vụ của các bậc PH, cha mẹ trẻ là

phải tích cực chủ động giúp đỡ, chung tay cùng GV để giúp trẻ phát triển một cách

toàn diện hơn (A.M. BAC-ĐI-AN, 1977).

Bộ giáo dục Virginia ở Hoa Kỳ 2002 (Virginia Department of Education).

Trong bối cảnh cải cách giáo dục, các gia đình có nhiều đóng góp cho giáo dục con

cái của mình. Nhưng để tối ưu hóa những đóng góp của gia đình, trước tiên các nhà

giáo dục phải phát triển mối quan hệ đối tác hiệu quả giữa gia đình và nhà trường.

Trong quan hệ đối tác đó đầu vào của cả gia đình và trường học đều có giá trị và

trọng tâm là những gì cả PH và nhà giáo dục có thể làm để thúc đẩy việc học tập

của học sinh. Sự tham gia của gia đình vào giáo dục không phải là một khái niệm

mới. Trong nhiều năm, các nhà giáo dục đã đặc biệt tin tưởng vào giá trị sự tham

gia của PH, và các bậc PH đã tham gia với các trường học để giúp con cái của họ

học hỏi tiềm năng.

Trong chương trình HighScope (2019) của Mỹ trong mối quan hệ đối tác, thì

người GV phối hợp với PH và các thành viên khác trong gia đình để thúc đẩy việc

học của trẻ em. GV cung cấp thông tin về chương trình giảng dạy và học tập sớm,

10

mời các thành viên gia đình tham gia vào các hoạt động trong lớp và hội thảo PH,

thảo luận về sự tiến bộ của trẻ em và chia sẻ ý tưởng để mở rộng việc học trên lớp

và ở nhà. Do đó, các GV báo cáo rằng PH sẽ hiểu rõ hơn về cách con cái họ phát

triển và học tập. Ngoài ra, trong chương trình HighScope trẻ được tham gia các hoạt

động nhóm nhỏ và lớn, hỗ trợ dọn dẹp cùng nhau, phát triển những KN TPV, trẻ có

thể tự lập tự chăm sóc bản thân mình.

Trong báo cáo gửi UNESCO của Ủy ban Quốc tế về giáo dục thế kỷ XXI, đã

đưa ra vấn đề gia đình và nhà trường phối hợp nâng cao thành tích học tập của học

sinh ở Philippine. Một thí nghiệm đầu tiên về chương trình giáo dục mới này ở một

tập thể ở tỉnh Leyte và một khu dân ở thành phố Quezon, Metro Manila. Chương

trình có tính đổi mới công nhận cha mẹ là những người thầy giáo của con cái mình

và cần tăng cường sự hợp tác của họ với những nhà giáo chuyên nghiệp. Chương

trình này được nhóm cha mẹ và GV chỉ đạo ở tất cả các trường học. GV và hiệu

trưởng được trang bị những KN quản lí như xây dựng cơ cấu hợp tác có hiệu quả,

cách thức cùng người khác đưa ra quyết định cũng như KN trao đổi giữa GV và cha

mẹ, và giữa GV với học sinh. Tại các cuộc thảo luận, các bậc cha mẹ được tư vấn

về cách thức giáo dục con mình và có một cuộc hội thảo có sự tham gia của cha mẹ

và con cái. Các bậc cha mẹ đã bị lôi cuốn vào các quá trình dạy học. GV hướng dẫn

các bậc cha mẹ giúp con mình làm những bài tập về nhà/ở trường. Cha mẹ còn giúp

GV điều khiển các lớp học, nhà trường yêu cầu cha mẹ quan sát hành vi của con

mình trong lớp học cũng như các phương pháp dạy học. Những nhận xét và gợi ý

của cha mẹ được đưa ra thảo luận tại các cuộc họp giữa GV và cha mẹ học sinh, qua

đó những biện pháp cụ thể được mọi người thông qua. Và sau khi áp dụng chương

trình này dựa vào thành tích học tập và việc giảm được một số lượng lớn học sinh

bỏ học, chương trình sau đó được áp dụng ở tất cả mọi nơi khác trên đất nước

Philippin và chúng đạt được những kết quả tốt (Jacques Delors, 2002).

Nhìn chung các nghiên cứu ở nước ngoài đều cho thấy tầm quan trọng của sự

phối hợp giữa nhà trường, GV và gia đình, PH trong việc chăm sóc và giáo dục trẻ.

Trong đó, cho thấy GV đóng vai trò chủ động trong hoạt động phối hợp, PH sẽ là

người tích cực tham gia, chung tay hỗ trợ cùng GV để đạt được mục đích giáo dục.

11

Và điều quan trọng để cả GV và PH cùng hợp tác lâu dài, cần tạo ra mối quan hệ tốt

đẹp, để cả hai tin tưởng và tích cực cùng nhau phối hợp.

1.1.2. Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam

Theo Luật Giáo dục Việt Nam (2005) thông tư số 07/VBHN-VPQH đã nêu rõ

trách nhiệm của nhà trường là chủ động phối hợp với gia đình và xã hội để thực

hiện mục tiêu, nguyên lí giáo dục. Ngược lại trách nhiệm của gia đình, cha mẹ hoặc

người giám hộ có trách nhiệm nuôi dưỡng, giáo dục và chăm sóc, tạo điều kiện cho

con em được học tập, rèn luyện tham gia các hoạt động của nhà trường, người lớn

có trách nhiệm giáo dục, làm gương cho con em, cùng nhà trường nâng cao chất

lượng hiệu quả giáo dục (Quốc Hội, 2005).

Điều lệ trường MN (2015) thông tư số 04/VBHN-BGDĐT, đã nêu nhiệm vụ

và quyền hạn của trường MN, trường MG, nhà trẻ, nhóm trẻ, lớp MG độc lập là

phối hợp với gia đình, tổ chức và cá nhân để thực hiện hoạt động nuôi dưỡng, chăm

sóc – giáo dục trẻ. Năm 2018 Bộ Giáo dục & Đào tạo đã đưa ra chuẩn nghề nghiệp

GVMN thông tư số 26/2018/TT – BGDĐT, đã nêu sự phối hợp của GVMN với cha

mẹ hoặc người giám hộ trẻ em và cộng đồng để nâng cao chất lượng nuôi dưỡng,

chăm sóc, giáo dục trẻ em và được thể hiện ở 3 mức độ: Đạt – khá – tốt.

Trong lĩnh vực phát triển thể chất của trẻ MG 3 – 4 tuổi, chương trình GDMN

(2017) cũng đã đưa ra nội dung tập trẻ làm một số việc tự phục vụ trong sinh hoạt

như: Làm quen cách đánh răng, lau mặt, tập rửa tay bằng xà phòng. Với kết quả

mong đợi trẻ thực hiện được một số việc đơn giản với sự giúp đỡ của người lớn:

Rửa tay, lau mặt, súc miệng, tháo tất, cởi quần áo… và khi thực hiện chương trình

cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ sở GDMN với gia đình và cộng đồng để chăm

sóc giáo dục trẻ tốt nhất.

Theo tác giả Phạm Thị Châu (2008) cho rằng“Gia đình là một lực lượng quan

trọng góp phần tạo nên chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ trong trường mầm non”

do đó Ban giám hiệu nhà trường thường xuyên chỉ đạo giáo viên chủ động phối hợp

với gia đình nhằm tạo mối quan hệ hai chiều mật thiết, chặt chẽ để thống nhất về

mục tiêu, nội dung, phương pháp, xây dựng môi trường giáo dục thống nhất, nhằm

thực hiện mục tiêu GDMN.

12

Tác giả Trần Ngọc Tuấn (2015) trên bài báo giáo dục TP.HCM, với bài viết

“Vai trò của phụ huynh” tác giả cho rằng nhà trường, xã hội và gia đình là các yếu

tố tác động đến sự hình thành nhân cách của trẻ. Trong đó gia đình, PH đóng vai trò

quan trọng ảnh hưởng trực tiếp nhiều nhất đến trẻ. Do vậy trong giáo dục trẻ luôn

đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường và gia đình, PH. Tác giả cho

rằng thực tế hiện nay PH chưa nhận thấy được tầm quan trọng của việc phối hợp với

nhà trường để giáo dục trẻ, dẫn đến nhiều cuộc họp PH chưa phát huy hết vai trò,

tác dụng của mối liên hệ từ nhà trường và gia đình. Cuộc họp chủ yếu được triển

khai từ một phía GV, các bậc PH dường như không có sự đóng góp ý kiến, cũng

như những nhận xét, ít thấy trao đổi, bàn luận về việc học của con em mình.

Năm 2015 tác giả Huỳnh Lâm Anh Chương đã nghiên cứu đề tài “Biện pháp

quản lí sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình trong công tác giáo dục kỹ năng

sống cho trẻ học sinh tiểu học Thành phố Hồ Chí Minh”. Tác giả đã đưa ra các

nghiên cứu trên thế giới đã tập trung nhiều đến vai trò và tác động của GV hoặc

người huấn luyện mà chưa nghiên cứu nhiều về vai trò và tác động của cha mẹ học

sinh đối với quá trình hình thành kỹ năng sống cho học sinh cũng như sự phối hợp

giữa nhà trường và gia đình trong công tác này.

Tác giả Thanh Thanh (2018) trên một bài báo viết về chủ đề “Cảm xúc về một

phiên họp phụ huynh ở lớp mầm non”. Tác giả cho rằng: Giáo dục luôn đề cao vai

trò của “chân kiềng” vững chắc giữa gia đình – nhà trường và xã hội và mối quan

hệ này được thắt chặt bằng những phiên họp cha mẹ học sinh trong năm.

Năm 2013 trong Module 40 của tác giả Nguyễn Thị Sinh Thảo cũng nói về

vấn đề phối hợp giữa nhà trường với gia đình để giáo dục trẻ MN. Module này giúp

người đọc hiểu rõ hơn về sự phối hợp giữa nhà trường với gia đình và có ý nghĩa

quan trọng đối với chất lượng giáo dục trẻ. Kết quả chăm sóc – giáo dục trẻ có đạt

kết quả cao hay không còn phụ thuộc phần lớn vào việc phối hợp chung tay cùng

nhau chia sẻ trách nhiệm giữa nhà trường và gia đình. Ngoài ra, tác giả đã đưa ra

mục đích, nội dung, phương pháp, hình thức hoạt động phối hợp giữa gia đình và

nhà trường và có thể lập kế hoạch, tổ chức các hoạt động phối hợp giữa nhà trường

và gia đình trong chăm sóc giáo dục trẻ.

13

Năm 2017 tác giả Nguyễn Thị Dư đã nghiên cứu “Kỹ năng phối hợp của giáo

viên mầm non với phụ huynh trong chăm sóc, giáo dục trẻ”, được đăng trên tạp chí

giáo dục, trường cao đẳng Sư phạm Bắc Ninh. Theo tác giả đối với lứa tuổi MN, PH

cần phối hợp với nhà trường để theo dõi và chăm sóc trẻ tốt hơn về: Chế độ ăn

uống, sinh hoạt hằng ngày của trẻ, cũng như dạy cho trẻ các hành vi, thói quen tốt,

giáo dục tình yêu thương đối với những người xung quanh. Từ vấn đề đó, người

làm công tác chăm sóc – giáo dục trẻ cần phải biết làm những gì và phối hợp với

PH như thế nào để giáo dục trẻ mang lại kết quả cao.

Tác giả Hoàng Hải Quế (2018) cho rằng “Mối quan hệ nhà trường, gia đình

và xã hội có tầm quan trọng lớn trong việc nâng cao chất lượng giáo dục và phát

triển cộng đồng, đây là mối quan hệ tác động qua lại”, việc chăm sóc và giáo dục

trẻ nhằm phát triển nhân cách là một quá trình lâu dài và liên tục và chúng diễn ra ở

nhiều môi trường khác nhau. Vì thế việc chăm sóc, giáo dục nói chung và giáo dục

trẻ mầm non nói riêng luôn đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ từ gia đình, PH và xã hội.

Trong bài phát biểu của Bác Hồ tại Hội nghị cán bộ Đảng trong ngành giáo

dục tháng 6/1957. Bác Hồ đã chỉ ra “Giáo dục trong nhà trường chỉ là một phần,

cần có sự giáo dục ngoài xã hội và trong gia đình để giúp cho việc giáo dục trong

nhà trường được tốt hơn. Giáo dục trong nhà trường dù tốt đến mấy, nhưng thiếu

giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thi kết quả cũng không hoàn toàn”. Sự phối

hợp chặt chẽ 3 môi trường gia đình, nhà trường và xã hội góp phần đảm bảo sự

thống nhất trong nhận thức cũng như trong các hoạt động, để giúp nội dung giáo

dục cùng một hướng, một mục đích, một tác động tổ hợp, đồng tâm tạo nên sức

mạnh kích thích, thúc đẩy quá trình phát triển nhân cách của trẻ, tránh sự tách rời và

mâu thuẫn trong cách giáo dục. Sự phối hợp gia đình, nhà trường, xã hội có thể diễn

ra dưới nhiều hình thức và tất cả các lực lượng giáo dục trẻ phải phát huy tinh thần

trách nhiệm, chủ động tạo ra những mối quan hệ phối hợp vì mục tiêu giáo dục giúp

trẻ phát triển và đào tạo ra những thế hệ trẻ góp phần hình thành những công dân có

ích cho xã hội đất nước (Hoàng Hải Quế, 2018).

Năm 2018 trong quyển “Hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình GDMN

mẫu giáo bé (3 – 4 tuổi)” tác giả Lê Thu Hương, Trần Thị Ngọc Trâm và Lê Thị

14

Ánh Tuyết đã nêu: Việc chăm sóc – giáo dục trẻ được chia sẻ trách nhiệm giữa gia

đình, nhà giáo dục và cộng đồng. Trường MN chia sẻ trách nhiệm với gia đình và

cộng đồng để thúc đẩy và tạo điều kiện tối ưu cho việc chăm sóc – giáo dục trẻ.

Tác giả Nguyễn Ánh Tuyết (2005) trong quyển“Giáo dục mầm non những vấn

đề lí luận và thực tiễn” đã nêu: Để sự kết hợp có hiệu quả GVMN và PH, cha mẹ

trẻ nên thường xuyên liên hệ với nhau để trao đổi về mục tiêu, nội dung, phương

pháp chăm sóc – giáo dục trẻ, đồng thời thông tin cho nhau biết về những đặc điểm,

những biến đổi về tính tình, khả năng cũng như sức khỏe của trẻ cùng với những

biện pháp chăm sóc và giáo dục cụ thể.

Những nghiên cứu về giáo dục kỹ năng tự phục vụ

Năm 2013 tác giả Hương Thủy đã đăng trên báo giáo dục TP.HCM với nội

dung “Giúp trẻ hình thành kỹ năng tự phục vụ”, tác giả cho rằng: “Tự phục vụ bản

thân là một trong những kỹ năng quan trọng thúc đẩy trẻ hoàn thiện mình một cách

tốt nhất. Và đó là cơ hội vàng để giúp trẻ nhanh chóng khôn lớn và trưởng thành

hơn trong cuộc sống”.

Năm 2017 tác giả Vũ Hoàng Vân với đề tài “Giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho

trẻ mầm non theo phương pháp giáo dục Montessori”, tạp chí giáo dục số đặc biệt.

Tác giả cho rằng KN TPV ở trẻ MN là một trong những kỹ năng rất cần thiết và

quan trọng đối với cuộc sống của mỗi đứa trẻ. Trẻ có thể tự mình làm những công

việc đơn giản như: Tự xúc ăn, mặc quần áo, mang giày dép, chải tóc… Và tác giả

cũng đã nêu ra được những nguyên nhân của thực trạng, làm cản trở việc giáo dục

KN TPV ở trẻ, đó chính là xuất phát từ gia đình, PH của trẻ.

Như vậy, từ những cơ sở lí luận trên có thể thấy rằng để giáo dục trẻ mang lại

hiệu quả cao thì cần phải có sự phối hợp giữa nhà trường, GV với gia đình, PH của

trẻ. Để thống nhất về mục tiêu, nội dung cũng như các phương pháp giáo dục, xây

dựng môi trường giáo dục thống nhất, nhằm thực hiện mục tiêu GDMN. Ngoài ra,

còn thể hiện tinh thần trách nhiệm của PH trong việc phối hợp chung tay cùng với

GV để chăm sóc – giáo dục trẻ, góp phần tạo mối quan hệ hai chiều mật thiết, chặt

chẽ với nhau.

15

1.2. Lý luận về sự phối hợp giữa giáo viên và phụ huynh

1.2.1. Giáo viên

a. Khái niệm

Giáo viên (Teachers) là những người được tham gia chương trình đào tạo để

trở thành giáo viên (Nayor, 2016). Các chuyên gia giáo dục của Reggio Emilia nhìn

nhận rằng: GV là bạn đồng hành, người nuôi dưỡng và người hướng dẫn (Louise

Boyd Cadwell, 2018). Muốn trở thành một GV đòi hỏi cá nhân phải trải qua một

một chương trình đào tạo về sư phạm, được cung cấp những kiến thức chuyên môn

và những kỹ năng và cũng như đạo đức của nghề nghiệp. GV không chỉ là người

thầy truyền đạt cho học sinh những kiến thức và kỹ năng mà còn có thể thay thế cha

mẹ chăm sóc khi đau ốm, giúp hòa giải trong các cuộc xung đột, những tình huống

khó khăn trong trường lớp…

Theo đề tài nghiên cứu GV giáo dục trẻ MG 3 – 4 tuổi nên được xem là

GVMN. Ở các nước phát triển rất quan tâm đến GDMN nên họ đầu tư rất mạnh cho

GDMN. Vì các nhà tâm lí học, giáo dục học đã coi giáo dục tiền học đường (là

GDMN ở nước ta) có một vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp giáo dục thế hệ

trẻ. Nên việc đào tạo người nuôi dạy trẻ (GVMN) được tiến hành hết sức công phu.

Ở Anh để trở thành người nuôi dạy trẻ sinh viên phải trải qua ít nhất 5 hay 6 năm

đại học, ở Nhật Bản sinh viên phải lấy đủ hơn 40 chứng chỉ khoa học, đặc biệt là

khoa học về sự phát triển của trẻ em, sinh viên phải nắm giỏi lý thuyết đồng thời

phải giỏi về thực hành và có các kỹ năng nuôi dạy trẻ (Nguyễn Ánh Tuyết, 2005). Ở

Việt Nam, để trở thành một GVMN cần phải tốt nghiệp các bậc học chuyên môn (từ

trung cấp, cao đẳng, đại học). Tuy nhiên, năm 2018 trong luật giáo dục Việt Nam,

đang được đề xuất nâng chuẩn GVMN trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên. Thông

tư số 26/2018/TT-BGDĐT quy định về chuẩn nghề nghiệp GVMN. Cho thấy

GVMN không chỉ đòi hỏi về mặt chuyên môn mà còn phải tuân thủ các quy định,

rèn luyện đạo đức, tạo dựng phong cách nhà giáo, nắm vững chuyên môn và thường

xuyên cập nhật nâng cao trình độ chuyên môn, xây dựng môi trường giáo dục an

toàn lành mạnh thân thiện, phát triển mối quan hệ hợp tác giữa nhà trường với gia

đình và cộng đồng, biết sử dụng ngoại ngữ (hoặc tiếng dân tộc), ứng dụng công

16

nghệ thông tin và khả năng nghệ thuật. Từ đó, góp phần nâng cao chất lượng trình

độ chuyên môn và kỹ năng chăm sóc giáo dục trẻ cho GVMN. Nghề GVMN là

nghề đòi hỏi lòng yêu thương nghề và yêu thương trẻ, người thầy không chỉ dạy cho

trẻ mà còn phải chăm sóc, dỗ dành yêu thương con trẻ và phải biết kiềm chế cảm

xúc của bản thân.

Như vậy, giáo viên mầm non được hiểu là người đang làm việc tại các cơ sở

giáo dục mầm non, đảm nhận công tác chăm sóc và giáo dục trẻ dưới 6 tuổi. (Bùi

Nữ Mai Hoa, 2018).

b. Vai trò, nhiệm vụ của giáo viên mầm non

GVMN là người tổ chức hướng các hoạt động giáo dục cho trẻ, tạo cơ hội, tạo

những tình huống, sự tin tưởng và kích thích trẻ tham gia vào các hoạt động tìm tòi

khám phá thế giới xung quanh. Giúp trẻ chủ động, tích cực tham gia vào các hoạt

động, trải nghiệm các tình huống trong cuộc sống và làm giàu vốn kinh nghiệm của

mình (Nguyễn Thị Hòa, 2011). GVMN tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ khám phá

theo chủ đề, hoạt động với các dự án ngắn và dài hạn, chỉ dẫn các kinh nghiệm về

kết nối, các khám phá mở và cách xử lý vấn đề. GVMN lắng nghe và quan sát trẻ

một cách tỉ mỉ từ đó lên kế hoạch giáo dục trẻ. GV đặt câu hỏi, tìm ra ý tưởng của

trẻ, các giả thuyết trẻ đưa ra và mở ra những cơ hội cho sự khám phá và học hỏi của

trẻ. Ngoài ra, giáo viên được xem là nhà nghiên cứu, các GV được làm việc theo

nhóm duy trì mối quan hệ hợp tác với đồng nghiệp và những nhân viên khác; họ

tham gia vào những cuộc thảo luận. Những cuộc trao đổi này đóng vai trò như

những buổi tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng sư phạm cho GV. GV chuẩn bị tài liệu để

cùng làm việc với trẻ và trẻ cũng là những nhà nghiên cứu nhỏ tuổi (Louise Boyd

Cadwell, 2018).

John Dewey tin rằng: “GV không chỉ đơn thuần tham gia vào việc đào tạo

những con người cá nhân mà còn góp phần vào việc xây dựng đời sống xã hội tốt

đẹp hơn. Theo ông điều quan trọng là các GV phải quan sát trẻ và xác định từ

những quan sát ấy xem trẻ quan tâm và đã sẵn sàng cho những loại trải nghiệm nào”

(Carol Garhart Mooney, 2016).

17

Theo tác giả Phạm Thị Châu (2008) để phát huy vai trò của nghề giáo, người

GVMN phải thực hiện các nhiệm vụ sau:

- Chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ theo mục tiêu GDMN, thực hiện đầy đủ

và có chất lượng chương trình chăm sóc GDMN.

- Chủ động phối hợp chặt chẽ với gia đình trẻ trong việc chăm sóc nuôi

dưỡng, giáo dục trẻ và tuyên truyền hướng dẫn kiến thức khoa học nuôi dạy

trẻ cho các bậc PH.

- Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân, các quy định của pháp luật và

điều lệ trường MN, tích cực tham gia các hoạt động xã hội.

- Luôn giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của nhà giáo, tôn trọng, đối xử

công bằng với trẻ, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của trẻ em, bảo

vệ an toàn tuyệt đối tính mạng của trẻ.

- Làm đồ chơi, đồ dùng dạy học, biết bảo quản và sử dụng tốt trang thiết bị

tài sản chung của nhóm lớp.

- Đoàn kết và có trách nhiệm xây dựng tập thể không ngừng tiến bộ.

- Không ngừng rèn luyện đạo đức, học tập văn hóa, bồi dưỡng chuyên môn

nghiệp vụ để nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục trẻ.

- Thực hiện các quyết định của Hiệu trưởng, chịu sự kiểm tra của hiệu trưởng

và các cấp quản lí giáo dục.

Các nhiệm vụ của người GVMN có liên quan chặt chẽ với nhau, tác động qua

lại, bổ sung cho nhau và được tiến hành thống nhất trong quá trình chăm sóc giáo

dục trẻ.

Như vậy, GVMN có vai trò nhiệm vụ quan trọng trong việc chăm sóc và giáo

dục trẻ theo chương trình GDMN. GV cần quan sát, tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ

khám phá, phát triển tiềm năng của bản thân. Ngoài ra, GVMN là người chủ động

phối hợp chặt chẽ với gia đình, PH trẻ trong việc chăm sóc nuôi dưỡng – giáo dục

trẻ và tuyên truyền hướng dẫn kiến thức khoa học nuôi dạy trẻ cho các bậc PH.

1.2.2. Phụ huynh

a. Khái niệm

Theo từ điển triết học (2002) thì “Gia đình là một đơn vị xã hội (nhóm nhỏ xã

18

hội), hình thức tổ chức quan trọng nhất của sinh hoạt cá nhân, dựa trên hôn nhân và

quan hệ huyết thống, tức là quan hệ giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa

anh chị em và những người thân khác cùng chung sống và có kinh tế chung”.

Theo từ điển tâm lý của Nguyễn Khắc Viện thì “Gia đình gồm bố mẹ, con và có

hoặc không có một số người khác nữa ở trong một nhà” (Bộ giáo dục và đào tạo

Trung tâm nghiên cứu GDMN, 2001).

Theo Bùi Ngọc Sơn (2008) “Gia đình là tế bào hợp thành đời sống xã hội, là tổ

chức cở sở đầu tiên đối với đời sống của mỗi cá nhân, là một nhóm tâm lí tình cảm

xã hội đặc thù được xây dựng trên cơ sở hôn nhân tạo nên quan hệ máu mủ, ruột thịt

và quan hệ tình cảm, trách nhiệm thiêng liêng đã gắn bó các thành viên lại với nhau

bằng sợi dây liên hệ thường xuyên, lâu dài, suốt đời”.

Dưới góc độ xã hội học, “Gia đình được xem là một nhóm nhỏ xã hội, gắn bó

với nhau bằng quan hệ hôn nhân và huyết thống, thường gồm vợ chồng, cha mẹ và

con cái. Hoặc gia đình là nhóm người cùng chung sống với nhau dưới một mái nhà

có quan hệ hôn nhân, huyết thống và nền kinh tế chung”. Ngoài ra, theo Hồ Ngọc

Đại cho rằng “Gia đình là một khái niệm mới được hình thành từ 3 thành phần, gồm

những đại lượng khác tên là bố (B) mẹ (M) và con cái (C) và ông gọi đó là tam giác

gia đình” (An Thị Ngọc Trinh, Lê Ngọc Dũng & Nguyễn Nguyên Bình, 2010).

Như vậy, có thể hiểu PH, cha mẹ trẻ là những thành viên trong gia đình có quan

hệ huyết thống và có trách nhiệm, nghĩa vụ chăm sóc – giáo dục trẻ.

Phụ huynh (Parents) theo từ điển tiếng việt thì:“Phụ huynh là người có trách

nhiệm trong gia đình đối với việc giáo dục con em”.

Tóm lại, trong phạm vi nghiên cứu PH được hiểu là “Phụ huynh là cha mẹ hoặc

người giám hộ thay mặt, đại diện cho gia đình trực tiếp chăm sóc – giáo dục trẻ”.

b. Vai trò, nhiệm vụ của gia đình, phụ huynh

Theo luật giáo dục (2005) PH, cha mẹ trẻ là người có trách nhiệm nuôi dưỡng,

giáo dục và chăm sóc, tạo điều kiện cho con em được học tập, rèn luyện tham gia

các hoạt động xã hội của nhà trường.

Nhóm tác giả Trần Thị Tuyết Oanh, Phạm Khắc Chương, Phạm Viết Vượng,

Nguyễn Văn Diện & Lê Tràng Định (2008) cho rằng môi trường gia đình là cơ sở

19

đầu tiên có vị trí quan trọng và ý nghĩa lớn lao đối với quá trình hình thành và phát

triển nhân cách, đó là môi trường gắn bó trong suốt cuộc đời của mỗi cá nhân. PH,

cha mẹ sẽ là người thầy giáo đầu tiên giáo dục con cái mình những phẩm chất nhân

cách cơ bản (gốc) làm nền tảng cho quá trình phát triển toàn diện về đạo đức, trí

lực, thể lực, thẫm mĩ, lao động theo các yêu cầu của xã hội. Giáo dục từ gia đình có

những mặt mạnh, tích cực là mang tính xúc cảm cao, gắn bó với quan hệ ruột thịt,

máu mủ nên có khả năng cảm hóa rất lớn.

Theo tác giả Phạm Thị Châu (2008) đối với trẻ thơ, gia đình là môi trường

thuận lợi nhất để hình thành và phát triển nhân cách. Giáo dục gia đình là giáo dục

bằng tình cảm huyết thống, với những ưu thế riêng không một tổ chức xã hội nào

thay thế được. Vì vậy, giáo dục gia đình trở thành một bộ phận quan trọng, gắn bó

hữu cơ trong sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ nói chung và giáo dục trẻ MN nói riêng.

Nguyễn Thị Sinh Thảo (2013) đã khẳng định: “Giáo dục gia đình là một bộ

phận hữu cơ của sự nghiệp giáo dục chung”. Vì tác giả cho rằng gia đình là tế bào

tự nhiên của xã hội, là một cuộc sống môi trường xã hội vi mô. Gia đình có ý nghĩa

đặc biệt, có vai trò quan trọng đối với sự sống và phát triển của trẻ, là môi trường

đảm bảo sự giáo dục và truyền lại cho trẻ những giá trị văn hóa truyền thống, có

tính xúc cảm cao, linh hoạt, thiết thực, thích ứng nhanh. Và môi trường gia đình ảnh

hưởng rất lớn đến sự phát triển nhân cách của trẻ.

Tác giả Hoàng Hải Quế (2018) những truyền thống, nếp sống của gia đình sẽ

ảnh hưởng sâu sắc đến nhân cách của trẻ em. Gia đình là nơi trẻ được nuôi dưỡng

và giáo dục góp phần hình thành, phát triển và bồi đắp nhân cách cho trẻ và là cầu

nối của trẻ với nhà trường và xã hội.

Theo tác giả Hoàng Thị Thu Hương (Module MN 12 – 2014) để phát triển khả

năng tự tin, tự lập cho trẻ gia đình, PH nói riêng và xã hội nói chung cần tạo điều

kiện, phát huy khả năng của trẻ, thường xuyên khen ngợi, khuyến khích động viên

trẻ thực hiện, giúp trẻ phát triển khỏe mạnh, thông minh tự tin và sáng tạo.

Trần Thị Cẩm (2001) đã cho rằng những đứa trẻ từ bụng mẹ sinh ra, nơi đầu

tiên trẻ được tiếp xúc với môi trường văn hóa và xã hội là gia đình. Cho nên gia

đình giữ một vai trò quan trọng đối với sự phát triển nhân cách của trẻ, và quyết

20

định trong sự thích nghi, sự nhập cuộc xã hội của trẻ. Vì thế cần trang bị cho trẻ một

nền tảng tâm lí, một nhân cách phong phú và vững vàng. Gia đình, PH cung cấp cho

trẻ những kiến thức cơ bản để giúp trẻ tiến công vào xã hội và đồng thời dạy cho trẻ

những chuẩn mực và quy tắc xã hội, những thói quen lao động, sự yêu thương lẫn

nhau,… Từ đó, giúp cho trẻ ứng dụng vào trong thực tiễn khi trẻ đến trường hoặc

ngoài xã hội, ở từng giai đoạn lứa tuổi.

Trong điều 64 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992 đã

viết: “Cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con thành những công dân tốt”. Giáo dục từ

gia đình, PH có ảnh hưởng lâu dài, toàn diện đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi

cá nhân trong suốt cuộc đời, đặc biệt đối với trẻ MN. Gia đình, PH lại có vai trò ý

nghĩa quan trọng, có thể nói gia đình là trường học đầu tiên của trẻ và PH là người

thầy đầu tiên của trẻ, giúp trẻ tiếp thu được những kinh nghiệm sống đầu tiên về thế

giới xung quanh và những kỹ năng thói quen sống trong xã hội (Bộ giáo dục và đào

tạo trung tâm nghiên cứu GDMN, 2001).

Santiago Nieto Martí (2017) cho rằng giáo dục trong gia đình có tính liên tục

theo thời gian hơn, nhưng chúng khá bất thường. PH và GV không chỉ chia sẻ cùng

một nền văn hóa cho trẻ mà còn có chức năng chăm sóc – giáo dục chúng. Báo cáo

năm 1975 của FOESSA nói rằng thiếu GDMN là hình thức phân biệt và phân biệt

đối xử. Nó đã được quan sát thấy rằng kinh nghiệm của một số PH thực hiện các

hoạt động để chuẩn bị cho trẻ bắt đầu đi học mang lại cho trẻ cảm giác an toàn, các

kiến thức và kỹ năng giúp trẻ hòa nhập tốt hơn ở trường và cơ hội thành công cao

hơn. Gia đình đóng một vai trò quan trọng trong mức độ thành tích của học sinh và

những nỗ lực cải thiện kết quả của học sinh, sẽ hiệu quả hơn nhiều nếu được các gia

đình hưởng ứng đồng hành và hỗ trợ.

Theo tác giả Nguyễn Thị Dư (2017) môi trường sống xung quanh ảnh hưởng

rất nhiều đến sự phát triển nhân cách của trẻ. Tác giả cho rằng để mang lại hiệu quả

giáo dục cao thì gia đình, PH và nhà trường, GV cần có sự phối hợp với nhau.

Theo Spaggiari PH được xem là bạn đồng hành. Sự tham gia của PH, bố mẹ

dưới nhiều hình thức đóng vai trò tích cực trong kinh nghiệm học tập của con trẻ,

những ý tưởng và các kỹ năng mà trẻ nhận được từ gia đình. Quan trọng hơn là sự

21

phối hợp giữa gia đình và nhà trường tạo ra sự đồng thuận trong phương thức giáo

dục mới, khiến sự tham gia của PH, bố mẹ không trở thành áp lực đối với GV, mà

là bản chất của sự đồng điệu và là sự giao thoa của minh triết (Louise Boyd

Cadwell, 2018).

Ở rất nhiều quốc gia, chăm sóc con là thiên chức của cha mẹ, họ cần giúp con

mặc quần áo, đúc cơm cho con, còn phải nhẹ nhàng khuyên bảo con đi ngủ…

Nhưng ở Mỹ PH, cha mẹ lại cho rằng việc ăn, mặc, ngủ là việc của con, con phải tự

hoàn thành, như thế mới có lợi trong việc bồi dưỡng khả năng tự chăm sóc bản thân,

từ đó trẻ mới đứng vững được trong xã hội khi trưởng thành. PH ở Mỹ thường bồi

dưỡng ý thức tự lập cho con từ rất sớm, thường tạo điều kiện cơ hội cho trẻ tự làm,

PH rất ít khi giúp đỡ. Khi con có thể làm được các việc, PH sẽ sử dụng chiến thuật

“việc con con làm”…họ luôn để trẻ tự làm và luôn tin tưởng ở trẻ. Họ thường nhấn

mạnh đến tính độc lập “việc mình mình làm”, chỉ có như thế mới rèn luyện được

tính không ỷ lại, không dựa dẫm vào người khác, một người độc lập trong xã hội và

có khả năng sinh tồn độc lập, tiến lên phía trước bằng chính nổ lực bản thân mình

(Trần Hân, 2013).

Từ những quan điểm trên có thể thấy gia đình, PH, cha mẹ là nơi trẻ được tiếp

xúc và là người giáo dục đầu tiên, có vị trí quan trọng và ý nghĩa sâu sắc đối với quá

trình hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Các mối quan hệ ruột thịt từ gia

đình, PH, cha mẹ có những mặt mạnh tích cực là mang tính xúc cảm cao, nên có

khả năng cảm hóa rất lớn đến trẻ. Vì thế gia đình, PH cha mẹ cần tăng cường sự

phối hợp chặt chẽ với nhà trường, GV để góp phần vào việc nâng cao chất lượng và

hiệu quả giáo dục trẻ.

1.2.3. Phối hợp

Theo từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học (2010) thì “Phối hợp là cùng

hành động, hoạt động hỗ trợ lẫn nhau”.

Trong Tiếng Anh phối hợp được hiểu là “Collaboration”, theo bách khoa toàn

thư Wikipedia thì: “Collaboration” là quá trình hai hoặc nhiều người hoặc tổ

chức làm việc cùng nhau để hoàn thành một nhiệm vụ hoặc đạt được mục tiêu.

22

Theo hai tác giả Claiborne & Lawson (2005) cho rằng phối hợp là một dạng

hoạt động tập thể để cùng quyết định và giải quyết các vấn đề. Theo quan niệm trên,

hành động phối hợp được diễn ra trong môi trường tập thể (từ hai cá thể trở lên)

cùng suy nghĩ và cùng quyết định để giải quyết sự việc. Nếu như 2 tác giả trên nhấn

mạnh đến khía cạnh hoạt động mang tính tập thể, liên kết với nhau để có quyết định

chung thì Nayor (2016) lại cho rằng phối hợp là sự tương tác để thảo luận, chia sẻ

trách nhiệm trong việc thực hiện các chương trình. Tác giả Nayor lại tập trung vào

việc chia sẻ trách nhiệm khi phối hợp. Như vậy, rõ ràng phối hợp không dừng lại ở

khía cạnh hoạt động mang tính tập thể mà còn là sự phân chia trách nhiệm trong

công việc. Phối hợp là hoạt động mang tính đồng bộ dưới sự nỗ lực của các thành

viên để cùng nhau chia sẻ, xây dựng và giải quyết một vấn đề (Bùi Nữ Mai Hoa,

2018).

Theo tác giả Huỳnh Lâm Anh Chương (2015) thì “Phối hợp là hoạt động cùng

nhau của hai hay nhiều cá nhân, tổ chức để hỗ trợ cho nhau thực hiện một công việc

chung”. Trong quá trình phối hợp, mỗi bên cần nhận thức rõ mục đích phối hợp, nội

dung và cách thức phối hợp, nhiệm vụ của mỗi bên và các điều kiện cần thiết để sự

phối hợp nhịp nhàng và đạt mục đích đã đề ra. Để phối hợp hiệu quả, mỗi bên cần ý

thức mục đích phối hợp, nhiệm vụ riêng của mình và nhiệm vụ chung, nội dung và

hình thức phối hợp, các điều kiện phối hợp.

Như vậy, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài chúng tôi hiểu “Phối hợp là

hoạt động cùng nhau, hỗ trợ nhau của hai hay nhiều cá nhân, tổ chức để cùng thực

hiện một nhiệm vụ chung”.

1.2.4. Mục đích của việc phối hợp giữa giáo viên và phụ huynh trong giáo

dục trẻ mầm non

- Nhằm tuyên truyền, phổ biến kiến thức giáo dục trẻ MN đến PH trẻ.

- Phối hợp với PH trẻ nhằm để thống nhất về nội dung và phương pháp giáo

dục trẻ.

- Phối hợp giữa GV và PH nhằm góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc –

giáo dục trẻ và PH cùng thực hiện giáo dục theo chương trình GDMN giúp

trẻ phát triển toàn diện theo các lĩnh vực phát triển.

23

- Nhằm nâng cao trách nhiệm của PH trong việc chăm sóc – giáo dục trẻ và

tăng cường mối quan hệ tốt đẹp giữa GV và PH. Từ đó, có được sự ủng hộ,

giúp đỡ của PH đối với các hoạt động giáo dục của GV và nhà trường

(Nguyễn Sinh Thảo, 2013).

1.2.5. Nội dung, hình thức, phương pháp phối hợp giữa giáo viên và phụ

huynh trong giáo dục trẻ mầm non

a. Nội dung

Dựa trên nội dung phối hợp giữa nhà trường và gia đình trong giáo dục trẻ MN

của tác giả Nguyễn Thị Sinh Thảo trong Module MN 40 (2013) chúng tôi đưa ra nội

dung phối hợp giữa GV và PH trong giáo dục trẻ như sau:

GV và PH phối hợp giáo dục trẻ theo chương trình GDMN. Bao gồm:

- Phối hợp giáo dục trẻ theo mục tiêu chương trình GDMN: Mục tiêu phát

triển về các mặt: Thể chất, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm – xã hội.

- Phối hợp giáo dục trẻ theo nội dung chương trình GDMN:

 Về thể chất: Phát triển vận động và giáo dục dinh dưỡng – sức khỏe.

 Về ngôn ngữ: Nghe, nói và làm quen với sách, làm quen với việc đọc,

viết.

 Về nhận thức: Tập luyện phối hợp các giác quan, dạy trẻ khám phá khoa

học, khám phá xã hội và làm quen với một số khái niệm sơ đẳng về toán.

 Về tình cảm – kỹ năng xã hội: Dạy trẻ biết ý thức về bản thân, nhận biết

một số trạng thái cảm xúc, thể hiện mối quan hệ với con người và sự vật

xung quanh, biết và thực hiện một số hành vi văn hóa, biết bảo vệ môi

trường xung quanh, thực hiện các quy định đơn giản trong giao tiếp ở gia

đình, trường lớp và cộng đồng.

- Phối hợp giáo dục trẻ theo phương pháp của chương trình GDMN. Có 5

nhóm phương pháp sau:

 Phương pháp thực hành, trải nghiệm.

 Phương pháp trực quan – minh họa.

 Phương pháp dùng lời nói.

24

 Phương pháp giáo dục bằng tình cảm và khích lệ.

 Phương pháp nêu gương – đánh giá.

- Phối hợp giáo dục trẻ theo hình thức giáo dục của chương trình GDMN.

Các hoạt động giáo dục được tổ chức tùy vào mục đích, nội dung mà tổ

chức hình thức giáo dục cho phù hợp. Có thể tổ chức trong các dịp lễ, hội

cũng như các sự kiện liên quan đến trẻ MN: Tết trung thu, ngày hội đến

trường, tết cổ truyền, Tết thiếu nhi, ngày 8/3, sinh nhật... Có thể tổ chức

hoạt động ở trong lớp học hoặc ngoài trời và có thể thực hiện theo cá

nhân hoặc theo từng nhóm/lớp.

- Phối hợp đánh giá trẻ theo thang đánh giá của chương trình GDMN. Kết

quả giáo dục và chất lượng giáo dục của trẻ, được kiểm chứng bằng kết

quả mong đợi và có thể kết hợp với chuẩn phát triển 5 tuổi. Việc đánh giá

này giúp cho GV có thể điều chỉnh nội dung giáo dục cho phù hợp với

khả năng của trẻ, tránh làm chậm sự phát triển của trẻ.

Phối hợp giữa GV và PH trong kiểm tra, đánh giá việc thực hiện chương trình

GDMN.

- Kiểm tra và đánh giá những nội dung sau:

 Kiểm tra kế hoạch chăm sóc – giáo dục của GV đứng lớp

 Nội dung, phương pháp giáo dục.

 Môi trường cơ sở vật chất, trang thiết bị đồ dùng đồ chơi của trường lớp.

 PH đóng góp ý kiến về thái độ, tác phong sư phạm của GV.

 PH đóng góp ý kiến về cách giáo dục trong trường MN có tương đồng

với cách giáo dục tại gia đình của PH không và ngược lại. Nếu chưa có

sự thống nhất từ hai phía thì GV và PH cần trao đổi với nhau để đi đến

thống nhất.

Phối hợp về vấn đề PH tham gia xây dựng cơ sở vật chất cho trường:

- Đóng góp về tài chính.

- Đóng góp bằng vật chất có sẵn của gia đình, PH.

- Đóng góp bằng công lao động.

25

b. Hình thức

Theo tác giả Phạm Thị Châu (2008) gồm có các hình thức xây dựng sự phối

hợp giữa GV và PH như sau:

- Trao đổi trực tiếp với PH thông qua giờ đón và trả trẻ.

- Tổ chức các cuộc họp định kỳ với PH, để thông báo cho PH những công

việc cũng như thảo luận về những nội dung cần chỉnh sửa hoặc những

khó khăn từ phía PH trong quá trình phối hợp để giáo dục cho trẻ.

- Qua bảng thông báo hoặc qua góc tuyên truyền của nhà trường/ở nhóm

lớp. Thông tin tuyên truyền đến PH các kiến thức chăm sóc – giáo dục

trẻ. Những nội dung mà PH cần phối hợp với GV trong việc giáo dục cho

trẻ.

- Tổ chức đến thăm hỏi PH, gia đình của trẻ.

- Tổ chức những buổi sinh hoạt, chuyên đề về giáo dục trẻ và mời PH tham

gia.

- Tổ chức các hoạt động tham quan cho trẻ, đồng thời mời PH tham gia

cùng với trẻ vào một số hoạt động ở trường/lớp.

- Thông qua các hội thi của trường/lớp mời PH tham gia cùng với trẻ.

- Trao đổi thông qua sổ bé ngoan/sổ liên lạc.

- Hòm thư cha mẹ, PH

- Liên hệ với PH qua số ĐT, email, mạng xã hội…

- Thông qua hội PH học sinh.

- Tuyên truyền vận động PH thông qua các phương tiện thông tin đại

chúng.

c. Phương pháp

Phương pháp trao đổi, tọa đàm: Dùng lời nói để trao đổi nói chuyện trực tiếp

với PH về vấn đề giáo dục trẻ. Có thể thực hiện trong cuộc họp PH hay trao đổi

thường xuyên hằng ngày trong giờ đón – trả trẻ. Khi trao đổi tọa đàm với PH, GV

phải khéo léo nhẹ nhàng và biết cách thuyết phục PH để đạt được mục đích phối

hợp.

26

Phương pháp tuyên truyền: Nhằm tuyên truyền phổ biến kiến thức và tăng

cường mối quan hệ gắn kết giữa GVMN và PH trong giáo dục trẻ, qua tờ rơi, panô,

áp phích quảng cáo, tranh poster, phương tiện thông tin đại chúng… Và nội dung

bài tuyên truyền nên ngắn gọn, xúc tích nói rõ về mục đích, có hình ảnh kèm theo

để nhấn mạnh nội dung giúp PH dễ nhớ.

Phương pháp thực hành: Là tổ chức cho PH tham gia trực tiếp vào các hoạt

động của nhà trường/lớp học để thực hiện phối hợp giáo dục trẻ. Với phương pháp

này cần phải lên kế hoạch nội dung cụ thể và dự kiến tham gia trước khi đề nghị PH

phối hợp.

Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Sử dụng những kết quả và bài học kinh

nghiệm rút ra từ những hoạt động phối hợp của nhà trường, GV với gia đình, PH

cũng như với cộng đồng và các tổ chức xã hội của chính trường mình và những kinh

nghiệm của các nơi khác. Từ những kinh nghiệm đó, GV đề ra những cách làm cụ

thể cho từng hoạt động một cách phù hợp hơn. Khi thực hiện phương pháp này GV

không nên rập khuôn máy móc theo kinh nghiệm đã có, mà cần có những thay đổi

linh hoạt cho phù hợp với đặc điểm của trường/lớp (Nguyễn Sinh Thảo, 2013).

1.2.6. Nguyên tắc phối hợp giữa giáo viên và phụ huynh trong chăm sóc –

giáo dục trẻ mầm non

Theo nhóm tác giả Đào Thanh Âm, Trịnh Dân, Nguyễn Thị Hòa & Đinh Văn

Vang (2005), để tạo sự tin tưởng và thu hút sự tham gia của PH vào các hoạt động

chăm sóc – giáo dục trẻ tại trường/lớp thì GVMN cần phải:

- GVMN luôn lắng nghe ý kiến của PH trẻ và chủ động xây dựng các mối

quan hệ tốt với PH.

- Sẵn sàng tư vấn cho PH những kiến thức về chăm sóc – giáo dục trẻ.

- Thông tin đầy đủ cho PH về chương trình chăm sóc – giáo dục trẻ ở

trường/lớp có thể thông qua cuộc họp, bảng thông báo, góc trao đổi với

PH.

- Nếu trẻ lần đầu đến trường, GVMN cần trao đổi với PH cụ thể về chế độ

sinh hoạt của trường/lớp. Thời gian đầu có thể cho PH vào cùng với trẻ,

để cho trẻ làm quen với lớp và các bạn.

27

- GV thống nhất với PH về những nội quy, các hình thức và biện pháp giáo

dục để nhằm phối hợp giữa PH và GV để chăm sóc – giáo dục trẻ.

- Trong quá trình phối hợp với PH, GV cần dựa vào điều kiện và hoàn cảnh

từng gia đình để có hình thức phối hợp phù hợp và mang lại hiệu quả cao.

- Thường xuyên thông tin đến gia đình, PH về sự phát triển của trẻ. Từ đó,

có thể điều chỉnh bổ sung nội dung, phương pháp cho phù hợp với đặc

điểm của trẻ.

- Khi lập kế hoạch tuần, tháng GV cần đưa nội dung phối hợp với PH vào

kế hoạch và nêu ra những yêu cầu cụ thể về vấn đề cần phối hợp với PH.

Những yêu cầu này có thể thông báo trực tiếp cho PH trong giờ đón – trả

trẻ, sổ bé ngoan/sổ liên lạc hoặc ở bảng thông báo, góc tuyên truyền.

- GV cần có những đánh giá, nhận xét về hoạt động phối hợp với PH

(những gì đã thực hiện và chưa thực hiện được, những khó khăn của PH

trong quá trình phối hợp và từ đó tìm ra những hướng giải quyết).

1.2.7. Xây dựng mối quan hệ giữa giáo viên và phụ huynh

Theo tác giả Phạm Thị Châu để giáo dục trẻ một cách đồng bộ và mang lại

hiệu quả cao, đòi hỏi nhà trường cần xây dựng mối quan hệ tốt trong sự phối hợp

chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường. Trong đó GV được xem là người tác động

trực tiếp đến trẻ và PH là người hỗ trợ nên GV cần tạo ra môi trường giáo dục thuận

lợi cho sự hình thành và phát triển của trẻ. Từ đó, giúp cho PH phát huy được thế

mạnh của mình trong việc chăm sóc – giáo dục trẻ.

Sự phối hợp nhà trường và gia đình, đặc biệt là giữa GV và PH cần phải được

tiến hành sớm ngay từ khi trẻ mới đến trường. Để tránh tình trạng mâu thuẫn về tư

tưởng giáo dục “Trống đánh xuôi kèn thổi ngược” làm hạn chế hiệu quả giáo dục.

Hơn thế nữa việc phối hợp này cần được duy trì thường xuyên trong suốt quá trình

trẻ học tại trường MN. GVMN là người chịu trách nhiệm chính trong sự phối hợp

với PH, đòi hỏi GV phải chủ động, tích cực trong suốt quá trình thực hiện, cũng như

cần tìm hiểu về điều kiện, hoàn cảnh gia đình của từng trẻ để có hình thức phối hợp

cho phù hợp.

Trong việc phối hợp với PH của trẻ, GVMN cần giúp cho PH nắm được mục

28

tiêu, nội dung và phương pháp chăm sóc giáo dục của lớp mình, cũng như sẵn sàng

giải đáp thắc mắc, tư vấn giúp đỡ cho PH những phương pháp giáo dục tại nhà và

những quy định chung của nhà trường khi phối hợp với PH. GV cần lắng nghe, tiếp

thu những đóng góp ý kiến từ phía PH, để có thể điều chỉnh nội dung giáo dục cho

phù hợp, cần quan sát theo dõi ghi nhận lại quá trình hoạt động của từng trẻ, thông

báo cho PH về tiến độ và đặc điểm của trẻ để được sự quan tâm chăm sóc nhiều hơn

từ gia đình. Về phía PH cần tạo môi trường tốt để trẻ được thực hiện những nội

dung ở trường yêu cầu, không nên quá cưng chiều trẻ. Gia đình cần có những quy

định chung, thường xuyên bên trẻ, quan tâm trẻ nhiều hơn và giúp trẻ được tự lập,

PH cần tiếp thu và vận dụng những tri thức khoa học vào chăm sóc – giáo dục trẻ

(Phạm Thị Châu, 2008).

1.2.8. Yếu tố ảnh hưởng đến sự phối hợp giữa giáo viên và phụ huynh trong

việc giáo dục trẻ mầm non

Theo đề tài nghiên cứu của Tạ Thị Thanh An (2013) tác giả đã đưa ra trong

việc phối hợp giữa nhà trường và gia đình có những yếu tố thuận lợi và khó khăn.

Trong đó, có thể thấy người chủ động phối hợp trực tiếp là GVMN và người tham

gia vào hoạt động phối hợp là PH của trẻ.

a. Về phía nhà trường, giáo viên mầm non

Tích cực:

Sự quan tâm chỉ đạo của Ban giám hiệu nhà trường đối với hoạt động phối

hợp với PH để giáo dục trẻ. Đội ngũ GVMN có trình độ chuyên môn nghiệp vụ.

Tiêu cực:

Chưa có sự nhận thức đồng bộ của lực lượng giáo dục trong hoạt động phối

hợp, quản lý phối hợp chưa đi vào đồng bộ.

GV chưa thể hiện rõ vai trò nòng cốt khi phối hợp với PH trẻ. GV và CBQL

hỗ trợ tư vấn phổ biến thông tin phối hợp cho PH chưa đầy đủ kịp thời. Ngoài ra, sỉ

số trẻ trong lớp đông nên khó khăn trong việc trao đổi, phối hợp với PH.

b. Về phía gia đình, phụ huynh

Tích cực:

PH những người trực tiếp chăm sóc – giáo dục trẻ chủ yếu là ba mẹ, có trình

29

độ, kiến thức để chăm sóc – giáo dục trẻ, sẵn sàng tích cực trong hoạt động phối

hợp với GV và nhà trường để giáo dục trẻ. Ngoài ra, gia đình, PH chỉ có từ 1 đến 2

con, sẽ có thời gian trong việc phối hợp với GV.

Tiêu cực:

Nhận thức của gia đình, PH về sự cần thiết của việc phối hợp với GVMN để

giáo dục cho trẻ còn chưa cao. Cách giáo dục tại gia đình của PH và giáo dục tại

trường của GVMN chưa thống nhất. Nên gây khó khăn cho việc giáo dục trẻ. Quan

niệm của PH cho rằng trẻ còn nhỏ nên chỉ cần được GV chăm sóc tốt về mặt sức

khỏe là chủ yếu.

Sự phối hợp giữa PH và GVMN chưa thường xuyên. Mối quan hệ giữa PH và

GVMN chưa tốt, nên còn ngại trao đổi và sợ mất lòng GV. Ngoài ra, còn có một số

PH còn giao phó trách nhiệm giáo dục trẻ cho nhà trường, GVMN.

Theo tác giả Nguyễn Ánh Tuyết (2005) cho rằng: “Văn hóa gia đình là một

môi trường đặc biệt rất phù hợp với sự phát triển của trẻ thơ”. Có thể nói văn hóa

gia đình là môi trường an toàn và phong phú, trong đó trẻ được nuôi dưỡng và dạy

dỗ theo một phương thức đặc biệt – Phương thức gia đình – khác với phương thức

nhà trường. Như vậy, có thể thấy nếu gia đình có nền văn hóa tiến bộ môi trường tốt

thì sẽ giúp cho trẻ lĩnh hội những tri thức văn hóa tốt từ những thành viên trong gia

đình, đặc biệt là người mẹ, và gia đình sẽ quan tâm nhiều hơn về việc học của con

cái tại trường và có thể phối hợp cùng với nhà trường, GV trong việc giáo dục trẻ.

Tuy nhiên, nếu là gia đình cổ truyền thường là một môi trường khép kín, ít có điều

kiện để tiếp xúc rộng rãi với đời sống xã hội. Người mẹ và những thành viên khác

trong gia đình ít được trang bị những kiến thức khoa học về chăm sóc – giáo dục trẻ

nên thường mang tính chất kinh nghiệm chủ nghĩa, tính chất tùy tiện và một số tập

tục lạc hậu chi phối nhất là ở nông thôn và miền núi. Từ đó, cho thấy những gia

đình này thường chỉ quan tâm với việc chăm sóc trẻ và việc giáo dục trẻ là nhiệm

vụ của nhà trường và GVMN. Nên họ thường không quan tâm đến phối hợp cùng

với nhà trường, GV để chăm sóc giáo dục trẻ.

Tác giả Shakenova năm 2017 đã cho thấy những ảnh hưởng đến hoạt động

phối hợp của GV đó là: Thời gian và sự bất đồng quan niệm kết quả phải đạt được.

30

Về thời gian GV cảm thấy mình không đủ thời gian để trao đổi, chia sẻ với PH của

trẻ, vì ở trường quá nhiều công việc phải làm và cần giải quyết, công việc ở trường

và ở nhà đều quá tải đối với họ. Ngoài ra, còn có sự bất đồng quan niệm kết quả

phải đạt được trong hoạt động phối hợp này giữa GVMN và người quản lý.

Ngoài ra, năm 2018 tác giả Hoàng Quế Hải thì lại cho rằng, ngày nay đời sống

vật chất của các gia đình ngày càng được nâng cao chất lượng nên các bậc PH, cha

mẹ đã bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến việc học của con mình. Cũng như công tác

chỉ đạo của ngành giáo dục đối với hoạt động phối hợp đã có nhiều định hướng đổi

mới, nên cao chất lượng giáo dục cho trẻ, điều này góp phần nâng cao chất lượng

giáo dục trẻ. Bên cạnh đó, hoạt động phối hợp cũng gặp những khó khăn như: Một

số PH nhận thức còn hạn chế nên không quan tâm tới việc học của con tại trường

cũng việc như giáo dục con tại gia đình, và mối quan hệ giữa gia đình nhà trường và

xã hội còn mờ nhạt (Bùi Nữ Mai Hoa, 2018).

Như vậy, có thể thấy có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến việc phối hợp giữa GV và

PH trong việc giáo dục trẻ. Trong đó, cần phát huy những yếu tố tích cực và khắc

phục những yếu tố tiêu cực để giúp cho quá trình phối hợp đạt hiệu quả.

1.3. Lý luận về giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi

1.3.1. Khái niệm giáo dục kỹ năng

a. Khái niệm giáo dục

Theo tác giả Hà Thế Ngữ (2001) thì “Giáo dục là quá trình đào tạo con người

một cách có mục đích, nhằm chuẩn bị con người tham gia vào đời sống xã hội, tham

gia lao động sản xuất, bằng cách tổ chức việc truyền thụ và lĩnh hội những kinh

nghiệm lịch sử – xã hội của loài người”.

Theo nhóm tác giả Trần Thị Tuyết Oanh, Phạm Khắc Chương, Phạm Viết

Vượng, Bùi Minh Hiền, Nguyễn Ngọc Bảo, Bùi Văn Quân, Phan Hồng Vinh & Từ

Đức Văn (2008) thì:

“Giáo dục theo nghĩa rộng là quá trình tác động có mục đích, có tổ chức, có

kế hoạch, có nội dung và bằng phương pháp khoa học của nhà giáo dục tới người

được giáo dục trong các cơ quan giáo dục, nhằm hình thành nhân cách cho họ”.

31

“Giáo dục theo nghĩa hẹp là quá trình hình thành cho người được giáo dục lý

tưởng, động cơ, tình cảm, niềm tin, những nét tính cách của nhân cách, những hành

vi, thói quen cư xử đúng đắn trong xã tính hội thông qua việc tổ chức cho họ các

hoạt động và giao lưu”.

Theo tác giả A.M. BAC-ĐI-AN (1977) thì “Giáo dục là tác động có mục đích

và có hệ thống của người làm công việc giáo dục vào ý thức và hành vi của trẻ em

để hình thành cho trẻ em thế giới quan, quan điểm, kỹ năng và thói quen nhất định”.

Theo tác giả T.A. ILINA (1978) trong giáo dục học thì “Giáo dục là sự hình

thành con người dưới ảnh hưởng của những tác động có mục đích của nhà giáo dục

trong quá trình dạy học và giáo dục trong hệ thống các cơ quan dạy học và giáo

dục”.

b. Khái niệm kỹ năng

Trong tiếng anh, kỹ năng được dịch là “Skill”. Từ điển Oxford định nghĩa

skill “Là khả năng tìm ra giải pháp cho một vấn đề nào đó và có được nhờ rèn

luyện” (Corsini.R, 1999).

Tác giả Nguyễn Hữu Nghĩa, Triệu Xuân Quýnh & Bùi Ngọc Oánh (1994) đã

đưa ra: “Kỹ năng hành động được hình thành là do sự bắt chước trên cơ sở của tri

thức mà có, chúng đòi hỏi sự tham gia thường xuyên của ý thức, sự tập trung chú ý,

cần tiêu tốn nhiều năng lượng của cơ thể”.

Theo K.K.Platonov và G.G.Golubev (1996) thì “Kỹ năng là năng lực của con

người thực hiện công việc có kết quả với chất lượng cần thiết trong những điều kiện

mới và trong khoảng thời gian tương ứng”.

Theo Từ điển Giáo dục học, kỹ năng là “ Khả năng thực hiện đúng hành động,

hoạt động phù hợp với những mục tiêu và điều kiện cụ thể tiến hành hành động ấy

cho dù đó là hành động cụ thể hay hành động trí tuệ” (Bùi Hiền, 2009).

Theo từ điển tâm lí học của tác giả Vũ Dũng (2012) thì “Kỹ năng là năng lực

vận dụng có hiệu quả những kinh nghiệm, những tri thức về phương thức hành động

đã được chủ thể lĩnh hội để thực hiện những nhiệm vụ tương ứng phù hợp với điều

kiện thực tiễn”.

Theo nhóm tác giả Huỳnh Văn Sơn, Hồ Văn Liên, Bùi Hồng Quân, Mai Mỹ

32

Hạnh, Nguyễn Vĩnh Khương (2012) thì:“Kỹ năng là khả năng thực hiện có kết quả

một hành động nào đó bằng cách vận dụng những tri thức, những kinh nghiệm đã

có để hành động phù hợp với những điều kiện cho phép. Kỹ năng không chỉ đơn

thuần về mặt kỹ thuật của hành động, mà còn là biểu hiện năng lực của con người”.

Từ những khái niệm trên, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài khái niệm giáo dục

kỹ năng là tác động có mục đích, có hệ thống để hình thành một hành động nào đó.

1.3.2. Khái niệm giáo dục kỹ năng tự phục vụ

a. Khái niệm kỹ năng sống

Kỹ năng sống rất cần thiết cho cuộc sống của mỗi con người và chúng được

hình thành từ khi còn bé đến khi trưởng thành. Đối với trẻ MN kỹ năng sống rất

quan trọng, cung cấp cho trẻ những cách ứng xử trong các tình huống khác nhau để

bảo vệ bản thân. Việc giáo dục những kỹ năng sống góp phần vào việc thay đổi

những hành vi tiêu cực của trẻ, góp phần nâng cao nhận thức và ý thức của bản

thân. Hiện nay, có nhiều khái niệm khác nhau về kỹ năng sống.

Theo những nghiên cứu của UNESCO (Tổ chức Giáo dục – Khoa học – Văn

hóa liên hợp quốc) cho rằng: “Kỹ năng sống là năng lực cá nhân giúp cho việc thực

hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hằng ngày” (Huỳnh Văn Sơn,

2009).

Kỹ năng sống như là năng lực tâm lí – xã hội thể hiện khả năng ứng phó một cách có

hiệu quả với những yêu cầu và thách thức của cuộc sống. Kỹ năng sống còn được xem

như khả năng duy trì trạng thái khỏe mạnh và mặt tinh thần biểu hiện qua các hành vi

phù hợp khi tích cực tương tác với người khác, với người xung quanh cũng như với

nền văn hóa xã hội. Kỹ năng sống được hình thành chủ yếu dựa trên những kỹ năng về

mặt tinh thần trong đó những kỹ năng này thể hiện vai trò điều tiết cuộc sống làm cho

những kỹ năng hoạt động hay những kỹ năng thể chất cũng được thực thi một cách có

hiệu quả (Huỳnh Văn Sơn, 2009).

Theo WHO 1993 (Tổ chức Y tế Thế giới) thì:

33

Ngoài ra, theo UNICEF (Quỹ cứu trợ Nhi đồng liên hợp quốc) đã nhận định:

“Kỹ năng sống là những hành vi cụ thể thể hiện khả năng chuyển đổi kiến thức và

thái độ thành hành động thích ứng trong cuộc sống. Kỹ năng sống phải dựa trên

nhận thức, thái độ và chuyển biến thành hành vi như một yêu cầu liên hoàn và có

hướng đích” (Huỳnh Văn Sơn, 2009).

Theo tác giả Xkomni cho rằng: “Kỹ năng sống là khả năng con người thực

hiện những hành vi thích ứng với thách thức và những đòi hỏi của cuộc sống. Kỹ

năng sống thể hiện năng lực sống của con người trong cuộc sống cá nhân và các

mối quan hệ xã hội” (Huỳnh Văn Sơn, 2009).

Theo quan niệm của nhóm tác giả Huỳnh Văn Sơn, Hồ Văn Liên, Bùi Hồng

Quân, Mai Mỹ Hạnh &Nguyễn Vĩnh Khương (2012) thì “Kỹ năng sống là những kỹ

năng tâm lí – xã hội cơ bản giúp cho cá nhân tồn tại và thích ứng trong cuộc sống.

Những kỹ năng này còn được xem như một hiểu hiện quan trọng của khả năng tâm

lí – xã hội giúp cho cá nhân thể hiện được chính mình cũng như tạo ra những nội

lực cần thiết để giải quyết những vấn đề trong cuộc sống và phát triển”.

Tác giả Trương Thị Hoa Bích Dung (2012) đã nêu: Đối với trẻ MN trong 6

năm đầu đời (0 – 6 tuổi), việc hình thành một số kỹ năng, kỹ xảo, tri thức và những

kinh nghiệm vững chắc cũng như một số thói quen, những chuẩn mực đạo đức để

trẻ có thể cư xử trong cuộc sống hằng ngày. Vì vậy, nội dung giáo dục kỹ năng sống

cho trẻ cần nhắm đến mục tiêu phát triển, nuôi dưỡng và hình thành những kỹ năng

sống tích cực, giúp trẻ cân bằng cuộc sống trên 4 lĩnh vực nền tảng: Thể trạng, tâm

hồn, trí tuệ và tinh thần. Với mục tiêu đó, tác giả đã xác định 8 kỹ năng sống cơ bản

quan trọng mà trẻ cần được rèn luyện trong giao đoạn từ 1 – 6 tuổi bao gồm: KN

giao tiếp, KN thích nghi, KN khám phá thế giới xung quanh, KN tự chăm sóc bản

thân (KN TPV), KN tạo niềm vui, KN tự bảo vệ, KN làm việc đội nhóm, KN giải

quyết vấn đề. Trong đó KN tự chăm sóc bản thân hay còn gọi là KN TPV gồm có

các KN như: KN tự xúc ăn, tự mặc quần áo, tự chăm lo vệ sinh cá nhân…Như vậy,

KN TPV là một trong những KN năng sống cần thiết của trẻ MN.

b. Khái niệm kỹ năng tự phục vụ

Theo từ điển Tiếng Việt thì “Tự phục vụ là tự mình làm lấy những việc phục

34

vụ cho nhu cầu sinh hoạt hằng ngày của mình, không cần có người giúp, có người

phục vụ” (Hoàng Phê, 2010).

Trong tiếng anh tự phục vụ được hiểu là “Self-service” theo bách khoa toàn

thư Wikipedia thì “Self-service” có nghĩa là thực hành phục vụ bản thân.

Kỹ năng tự chăm sóc cũng được hiểu là kỹ năng tự phục vụ ở trẻ. Môt bài viết

về kỹ năng tự chăm sóc “Self Care Skills” của Trung tâm Kid Sense Child

Development tại thành phố Adelaide, Nam Úc cho rằng: “Kỹ năng tự chăm sóc là

những công việc hàng ngày được thực hiện để trẻ sẵn sàng tham gia các hoạt động

cuộc sống, bao gồm: Mặc quần áo, ăn uống, làm sạch răng”. Chúng thường được

gọi là các hoạt động của cuộc sống hàng ngày (ADL's). Mặc dù những hoạt động đó

thường được hỗ trợ bởi người lớn, nhưng trẻ em sẽ phát triển tính độc lập khi chúng

trưởng thành.

Theo tác giả Nguyễn Thị Hòa “KN TPV là năng lực của một cá nhân, được sử

dụng nhằm thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày nhằm chăm sóc cho bản

thân như tắm rửa, ăn uống... Tác giả cho rằng người có KN TPV là người có nhận

thức và KN trong các hoạt động tự phục vụ bản thân (Đỗ Thị Bắc, 2015).

Theo tác giả Lê Thu Hương thì “KN TPV là năng lực hay là khả năng chuyên

biệt của một cá nhân về một hoặc nhiều khía cạnh nào đó được sử dụng để giải

quyết tình huống hay công việc phục vụ cho chính mình như tự nấu ăn, tự giặt quần

áo” (Đỗ Thị Bắc, 2015).

Theo tác giả Vũ Hoàng Vân (2017) thì: “KN TPV của trẻ MN là một trong

những KN rất quan trọng trong cuộc sống của mỗi trẻ. KN TPV là biểu hiện về khả

năng trẻ tự mình có thể làm những việc đơn giản trong cuộc sống: Xúc ăn, mặc

quần áo, chải tóc, đi giày, dép… hoặc giúp đỡ người lớn một số công việc trong

cuộc sống hàng ngày”.

Theo tác giả Lê Thị Lan Anh (2018) KN TPV bản thân bao gồm những KN trẻ

có thể làm để phục vụ nhu cầu của bản thân mình như: Tự lấy cơm, tự xúc ăn, tự lấy

giường đi ngủ, tự lau miệng, đi vệ sinh, tự chuẩn bị quần áo, đồ dùng…Tự thực

hiện công việc cá nhân, tự giải quyết những vấn đề nhỏ của bản than... Đây được

xem là một trong những kỹ năng sống rất cần thiết mà PH nên dạy cho con trẻ ngay

35

từ khi còn nhỏ để hình thành những thói quen và lối sống tốt đẹp cho trẻ.

Như vậy, từ khái niệm giáo dục kỹ năng và những khái niệm về tự phục vụ ở

trên, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, khái niệm “Giáo dục kỹ năng tự phục vụ

được hiểu là tác động đến trẻ có mục đích, có hệ thống để hình thành những kỹ

năng tự phục vụ phù hợp với độ tuổi”.

1.3.3. Nội dung giáo dục kỹ năng tự phục vụ của trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi

Theo chương trình GDMN (2017) thông tư số 01/VBHN-BGDĐT những KN

TPV cần được hình thành ở trẻ MG 3 – 4 tuổi là trẻ tập làm một số việc tự phục vụ

trong sinh hoạt như: Làm quen cách đánh răng, lau mặt, tập rửa tay bằng xà phòng.

Tuy nhiên, nhận thấy trong chương trình ở độ tuổi 24 – 36 tháng về lĩnh vực thể

chất, giáo dục dinh dưỡng và sức khỏe có nội dung cho trẻ làm quen với một số việc

tự phục vụ, giữ gìn sức khỏe như: Tự xúc cơm, uống nước, mặc quần áo, đi dép, đi

vệ sinh, cởi quần áo khi bị bẩn, bị ướt, chuẩn bị chỗ ngủ, tập đi vệ sinh đúng nơi

quy định, tập một số thao tác đơn giản trong rửa tay, lau mặt. Như vậy, có thể thấy

lứa tuổi 24 – 36 tháng trẻ đã được làm quen và tập làm các KN TPV, nên đến khi trẻ

lên lớp MG 3 – 4 tuổi thì trẻ đã biết thực hiện và cũng như làm tốt các KN TPV trên

để phục vụ bản thân (Bộ giáo dục và đào tạo, 2017).

Theo nhóm tác giả Lê Thu Hương, Trần Thị Ngọc Trâm và Lê Thị Ánh Tuyết

(2018), trong quyển “Hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình giáo dục mầm

non, mẫu giáo bé (3 – 4 tuổi)” cũng đã đưa ra các KN TPV mà trẻ có thể thực hiện

trong sinh hoạt hằng ngày như: Cất đồ chơi; sắp xếp đồ dùng đồ chơi gọn gàng;

ngăn nắp đúng nơi quy định; mặc quần áo (tự cởi/mặc quần áo và có sự hổ trợ của

người lớn: gài/mở khuy áo, cài/tháo thắt lưng, buộc dây, kéo phéc-mơ-tuya); đi giày

dép; cất giày dép đúng nơi quy định; xắn tay áo; rửa tay bằng xà phòng; lau mặt;

xếp bát, thìa, ghế vào nơi quy định; tự xúc ăn; tự cất dọn đồ sau khi ăn; lấy nước

uống; lau miệng; lau tay; tự đi vệ sinh khi có nhu cầu; súc miệng chải răng sau khi

ăn; lấy gối, chăn chuẩn bị chỗ ngủ và cất gối, xếp chăn, chiếu sau khi ngủ dậy; sử

dụng khăn mùi soa chùi mũi; rót nước; múc nước.

Theo quyển “Nuôi dạy con theo phương pháp Montessori” của Tim Seldin

Chủ tịch Quỹ Montessori do tác giả Thanh Loan dịch (2015) đã nêu trẻ có thể tự

36

làm một số KN TPV như: Tự mặc và cởi quần áo, đội mũ, mang tất (vớ), mang

giày/dép, mặc áo khoác, cài khuy, cất giày/dép đúng trật tự, rót nước uống, tự xúc

thức ăn, rửa tay bằng xà phòng, lau mặt, đánh răng, chải tóc, tắm rửa, mở và khóa

vòi nước, tự đi vệ sinh (đại tiện – tiểu tiện) và xả nước sau khi đi vệ sinh, chuẩn bị

bữa ăn phụ, sắp xếp đồ chơi ngắn nắp và trật tự (lấy đồ và cất đồ đúng nơi ban đầu

đã lấy), có thể chuẩn bị chổ ngủ, gấp chăn và sắp xếp lại giường ngủ và có thể phụ

người lớn làm một số công việc đơn giản như: lau khô bát dĩa, rửa bát đĩa, đánh

giày, quét nhà, tưới cây…

Theo nhóm tác giả Yatagai Masaaki, Kato Toshiko, Fujishima Taeko,

Okamoto Michiko, Yotoriyama Noriko, Ueno Michiko từ Nhật Bản (2019) cũng đã

đưa ra những nội dung giáo dục KN TPV cho trẻ như: Tự xúc ăn (cách cầm giữ

được bát và cách cầm thìa xúc thức ăn và cơm, sử dụng đũa trong khi ăn, cách ăn

không bị rơi vãi), mặc và cởi quần áo, cài cúc áo, tự đi vệ sinh (tiểu tiện – đại tiện)

và dạy trẻ cách lau chùi và rửa tay sao khi đi vệ sinh, mang và cởi tất, mang và cởi

giày, đội và bỏ mũ, gấp và thu dọn quần áo thay ra, xắn tay áo lên, vặn vòi nước,

rửa tay với nước, rửa tay với xà phòng, lau tay bằng khăn (lau bàn tay – cánh tay),

đánh răng, súc miệng, lau mặt, lau cổ, rửa mặt bằng nước, chải tóc, xỉ mũi và lau

nước mũi, tự xoa xà phòng lên đầu để gội đầu, tự cầm cốc uống.

Như vậy, từ những nội dung giáo dục KN TPV cho trẻ ở trên và trong phạm vi

nghiên cứu của đề tài, cũng như trong quá trình quan sát tại một số nhóm lớp MG

3 – 4 tuổi tại các trường MN tại TP.HCM chúng tôi lựa chọn các KN TPV sau: Tự

xúc ăn, mang giày/dép, đi vệ sinh, mặc quần áo, lấy nước uống, rửa tay với xà

phòng, lau mặt (bằng khăn), chuẩn bị chỗ ngủ, lấy và cất đồ dùng đồ chơi, để làm

nội dung nghiên cứu.

1.3.4. Sự hình thành kỹ năng tự phục vụ của trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi

Theo tác giả Lê Bích Ngọc (Module 39 – 2013) quá trình hình thành kỹ năng

sống cho trẻ MN gồm có 3 bước. Như vậy, đối với KN TPV của trẻ MN cũng sẽ có

3 bước tương tự như sau:

Quan sát

Thực hành thường xuyên

Bắt chước/tập làm

37

Bước 1: Quan sát. Bước này giúp trẻ có biểu tượng về mục đích, phương tiện

và cách thức hành động. Nên cung cấp cho trẻ nhiều cơ hội để quan sát. Bước này

cho trẻ quan sát trên mẫu thực, có thể là do người lớn làm mẫu hoặc trên tranh ảnh.

Và người lớn giải thích cho trẻ biết ý nghĩa của KN đó, và phương tiện được sử

dụng và cách thức hành động khi trẻ quan sát. Tuy nhiên, với bước này nếu trẻ quan

sát vội vàng, chưa chính xác, sai sót hoặc chưa đầy đủ thì người lớn có thể cho trẻ

quan sát lại.

Bước 2: Bắt chước/tập thử. Bước này giúp cho trẻ được trải nghiệm, được

làm. Cần lưu ý bước này trẻ hay bắt chước làm theo nên những điều xấu cũng có thể

học theo, làm theo. Nên người lớn khi tập KN TPV cho trẻ cần quan tâm nhiều hơn.

Bước 3: Thực hành thường xuyên. Bước này giúp cho trẻ có cơ hội thực hiện

tập luyện KN TPV nhiều lần và thường xuyên hơn. Người lớn cần cho trẻ tập luyện

ở mọi lúc mọi nơi trong giờ sinh hoạt hằng ngày của trẻ ở trường và ở nhà.

Những bước KN ở trên không thực hiện thứ tự mà đan xen vào nhau. Nếu trẻ

chưa bắt chước/tập được thì cho trẻ quan sát lại và khi trẻ thực hành chưa tốt các

KN TPV thì cho trẻ tập lại. Trong quá trình giúp trẻ hình thành KN TPV người lớn

không nên nóng vội, la mắng, phạt trẻ, cần kiên nhẫn, kiên trì tập luyện cho trẻ vì

trẻ còn nhỏ nên việc sai sót là điều không thể tránh khỏi và đó được xem là những

trải nghiệm của trẻ, luôn tạo mọi điều kiện thể cho trẻ được quan sát và bắt bước và

làm theo những KN TPV tốt ở mọi lúc mọi nơi.

1.3.5. Những điều kiện để hình thành kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo

3 – 4 tuổi

Từ sơ đồ các bước hình thành KN TPV cho trẻ, ta sẽ thấy được những điều

kiện để hình thành KN TPV cho trẻ MN như sau:

38

Thứ nhất, muốn có được KN ở trẻ cần có sự tương tác với những người xung

quanh trẻ như: Ông bà, cha mẹ, anh chị, cô giáo... và cả bạn bè cùng tuổi có KN

thành thạo hơn. Những thành viên trên sẽ là tấm gương cho trẻ quan sát và bắt bước

làm theo, cho nên những thành viên trên cần thống nhất với nhau về yêu cầu và

cách hướng dẫn trẻ làm. Từ đó, trẻ có thể được quan sát, bắt chước và được hướng

dẫn làm theo.

Thứ hai, để hình thành các KN TPV người lớn cần cho trẻ được trải nghiệm,

bắt chước tập làm thử bằng chính những hoạt động hằng ngày của mình như: Tự

mặc quần áo, mang giày dép, xúc cơm ăn, lấy nước uống…Từ đó, trẻ cảm nhận

được cách làm và có thể tự làm để phục vụ cho bản thân.

Thứ ba, nếu việc tập trẻ làm thôi vẫn chưa đủ, người lớn cần tạo điều kiện để

trẻ được thực hành tập luyện thường xuyên, lặp đi lặp lại nhiều lần trong giờ sinh

hoạt hằng ngày các KN TPV, để giúp cho các KN được cũng cố và thành thạo hơn.

Tuy nhiên, để giáo dục KN TPV cho trẻ mang lại hiệu quả cao, người lớn cần

chuẩn bị cho trẻ những cơ sở vật chất phù hợp với các KN và đảm bảo an toàn vệ

sinh và phù hợp với độ tuổi. Ví dụ: Muốn trẻ có kỹ năng mặc áo thì người lớn cần

chuẩn bị cho trẻ áo phông đơn giản như: Áo cổ tròn (cổ vừa không quá nhỏ), áo có

mặt trước – sau dễ phân biệt (mặt trước có hình – mặt sau không có hình), áo hơi

rộng không quá ôm, không quá dài để trẻ dễ dàng mặc vào, không gian thì thông

thoáng, sạch sẽ, đủ rộng. Ngoài ra, người lớn cần hiểu để hình thành một KN cho

trẻ thì phải cần có thời gian đủ dài, để trẻ được tập đi tập lại nhiều lần thì mới có thể

hình thành được KN đó. Cho nên người lớn không nên nóng vội, hối thúc trẻ hay

làm hộ giúp rẻ. (Lê Bích Ngọc, 2013)

Và cuối cùng việc trẻ có thể làm tốt được những KN, để có thể tự phục vụ cho

bản thân mình là kết quả của việc hình thành KN TPV cho trẻ.

1.3.6. Các nhóm phương pháp giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu

giáo 3 – 4 tuổi

Nhóm phương pháp trực quan bao gồm các phương pháp: Làm mẫu, làm cùng

(kèm cặp), làm gương. Những phương pháp này giúp trẻ quan sát, bắt chước/tập

thử, thực hành thường xuyên những KN cần hình thành.

39

Nhóm phương pháp dùng lời bao gồm các phương pháp: Trò chuyện, giảng

giải ngắn. Những phương pháp này giúp trẻ huy động tối đa những kinh nghiệm đã

có, giải thích và khích lệ trẻ vui vẻ, hào hứng hơn khi thực hiện các KN TPV.

Nhóm phương pháp thực hành bao gồm các phương pháp: Trải nghiệm, trò

chơi, giao việc. Những phương pháp này giúp trẻ bắt chước, tập thử và tích cực thực

hành thường xuyên các KN TPV (Lê Bích Ngọc, 2013).

1.3.7. Yếu tố ảnh hưởng đến việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu

giáo 3 – 4 tuổi

Theo tác giả Đào Thị Chi Hà (2018) trong đề tài nghiên cứu của mình tác giả

cũng đã đưa ra những yếu tố ảnh hưởng đến việc quản lí hoạt động và giáo dục kỹ

năng sống cho trẻ mẫu giáo. Trong đó, tác giả cũng đã đưa ra những yếu tố ảnh

hưởng là từ: Gia đình, Hiệu trưởng và các nhà quản lí, GVMN, trẻ MN và các yếu

tố về môi trường, cơ sở vật chất. Trong phạm vi đề tài nghiên cứu chúng tôi đưa ra

3 yếu tố ảnh hưởng đến việc giáo dục KN TPV của trẻ như sau:

a. Về phía gia đình, phụ huynh

Gia đình được xem là môi trường giáo dục quan trọng và quyết định đối với sự

hình thành và phát triển nhân cách con người. Đặc biệt đối với lứa tuổi MN thì gia

đình có vai trò trực tiếp quyết định hiệu quả giáo dục. Vì bản thân PH, cha mẹ vừa

là người sinh ra trẻ, vừa là nhà giáo dục nên sức mạnh giáo dục rất lớn và là môi

trường giáo dục đặc biệt đối với trẻ. Chính vì vậy gia đình, PH ảnh hưởng rất lớn

đến việc giáo dục KN TPV cho trẻ như: Quan điểm của gia đình, PH trẻ về trường

tư thục và giáo dục KN cho trẻ, sẽ ảnh hưởng lớn tới chất lượng các hoạt động giáo

dục, với một số quan niệm sai lệch của một số các bậc PH là trẻ học trường tư thục

là trông trẻ, và đến trường tư thục là được yêu cầu về chăm sóc là chủ yếu, các hoạt

động khác các bậc PH hầu hết không quan tâm. Ngoài ra, sự nhận thức của PH về

tầm quan trọng và cần thiết của việc giáo dục KN TPV cho trẻ, sự phối hợp của gia

đình, PH với nhà trường, GV trong việc giáo dục KN TPV cũng như sự quan tâm

của gia đình, PH trẻ về vấn đề KN TPV những yếu tố trên sẽ ảnh hưởng nhiều đến

việc giáo dục và phát triển KN TPV cho trẻ.

40

Tác giả Trần Thị Cẩm (2001) cho rằng gia đình là môi trường giáo dục quan

trọng đối với trẻ. Nếu gia đình có sự đầm ấm, hòa thuận, vui vẻ, các thành viên

trong gia đình thương yêu lẫn nhau, có nếp sống lành mạnh, trật tự, kỷ luật, tự giác,

lao động xã hội, thực hiện thường xuyên các giá trị văn hóa và đạo đức của xã hội,

có sự gương mẫu của bậc PH, cha mẹ điều này sẽ góp phần cho việc giáo dục con

cái trong gia đình. Trong thực tế thường có 3 trường hợp mà trẻ thiếu thốn sự giáo

dục từ gia đình là: Gia đình vắng mặt (phần đông những trẻ sống lang thang ngoài

lề xã hội, trẻ phạm pháp, bị bỏ rơi) hay gia đình thường mâu thuẫn về mặt tình cảm

(trẻ thường bị rối loạn cảm xúc từ rất sớm) hoặc những gia đình có đầy đủ cha mẹ

nhưng hoàn cảnh gia đình không thuận lợi, cha mẹ không đủ khả năng, điều kiện để

giáo dục con cái.

Trần Hân (2013) đã đưa ra khó khăn trong giáo dục trẻ là do còn nhiều bậc

PH, cha mẹ quan niệm vì con còn nhỏ chưa biết gì nên vẫn cần sự bảo vệ và chăm

sóc của gia đình, như vậy trong cuộc sống sau này con trẻ sẽ ít phạm phải sai lầm

hơn, và cũng sẽ tránh khỏi tổn thương và thất bại. Tuy nhiên, nếu việc bảo vệ trẻ ở

mọi lúc mọi nơi sẽ không có lợi chút nào đối với sự phát triển của trẻ sau này. Vì trẻ

sẽ vẫn còn mãi trong vòng tay của ba mẹ, dựa dẫm vào ba mẹ, trẻ sẽ không có

những khoảng trời riêng của mình và khó khăn trong việc đưa ra quyết định và phát

triển tính tự lập.

Năm 2017 đề tài nghiên cứu Vũ Hoàng Vân về vấn đề giáo dục KN TPV cho

trẻ MN. Tác giả đã đưa ra những khó khăn từ phía gia đình, PH với tâm lí e ngại

của PH, nghĩ con trẻ còn nhỏ nên chưa thể tự làm mọi thứ, hơn nữa với tâm lí sợ trẻ

làm sai, PH không đủ thời gian và kiên nhẫn để chờ đợi trẻ làm… Từ đó, dẫn đến

tình trạng người lớn hay làm hộ giúp trẻ trong tất cả các hoạt động, mà đáng lẽ

những hoạt động đó trẻ có thể tự làm được để phục vụ bản thân mình.

PH chưa trao đổi, phối hợp với GV, nên chưa thống nhất về nội dung và

phương pháp để giáo dục KN TPV cho trẻ.

Ngoài ra, còn các yếu tố khác như: Điều kiện cơ sở vật chất của từng gia đình,

gia đình hạt nhân. Những gia đình nhiều thế hệ, có văn hóa truyền thống sẽ ảnh

hưởng đến việc giáo dục trẻ, gia đình này thường có quan niệm trẻ còn nhỏ nên cần

41

chăm sóc về mặt sức khỏe là chủ yếu nên cưng chiều trẻ, không tập cho trẻ làm mà

thường làm hộ giúp trẻ như: Đúc cơm cho trẻ ăn, mặc quần áo, mang giày/dép cho

trẻ...

b. Về phía nhà trường, giáo viên mầm non

Về phía nhà trường:

Nhận thức của Ban giám hiệu nhà trường về vai trò của hoạt động giáo dục

KN TPV vụ cho trẻ.

Năng lực, trình độ quản lý của Ban giám hiệu nhà trường đối với hoạt động

giáo dục KN TPV cho trẻ.

Tinh thần trách nhiệm, lòng nhiệt tình của Ban giám hiệu nhà trường đối với

hoạt động giáo dục KN TPV cho trẻ.

Vốn tri thức và kinh nghiệm của Ban giám hiệu nhà trường.

Sự chỉ đạo đúng hướng và tạo điều kiện về tinh thần và vật chất cho GV trong

trường MN.

Về phía giáo viên mầm non:

GVMN được xem là lực lượng chính trực tiếp tổ chức hoạt động giáo dục và

rèn luyện KN cho trẻ. Để KN của trẻ được hình thành và phát triển nhanh chóng

phụ thuộc nhiều vào người GVMN. Vì vậy, nếu người GVMN được trang bị đầy đủ

kiến thức, được đào tạo và bồi dưỡng các tri thức và kỹ năng sẽ có ảnh hưởng rất

lớn đến việc tổ chức các hoạt động giáo dục KN TPV của trường/lớp.

Nhận thức của GVMN về giáo dục KN TPV cho trẻ như: Nhận thức về sự cần

thiết của việc giáo dục KN TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi. Những hiểu biết của GV về

hoạt động giáo dục KN TPV cho trẻ (nội dung, hình thức, cách tổ chức và phương

pháp giáo dục KN TPV cho trẻ). Ngoài ra, kinh nghiệm và trình độ năng lực của

GVMN đóng vai trò rất lớn trong việc nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục KN

TPV cho trẻ.

Ý thức làm việc của GV chi phối hoạt động giáo dục KN TPV. Nếu GV có ý

thức làm việc tốt, có trách nhiệm với công việc thì GV sẽ giáo dục tốt các KN TPV

cho trẻ và giúp cho các KN đó được hình thành và phát triển tốt hơn. Yếu tố khác

thuộc về GVMN như: Lòng yêu nghề (yêu công việc giáo dục và chăm sóc trẻ) và

42

yêu trẻ của bản thân GV. Đời sống vật chất của người GVMN hiện nay với thu nhập

và chất lượng cuộc sống cũng là một yếu tố ảnh hưởng rất nhiều đến công việc của

GVMN trong nhà trường. Nếu xã hội và Nhà nước tạo đầy đủ các điều kiện vật chất

đảm bảo cuộc sống của GVMN thì sẽ giúp GVMN yên tâm làm việc và hiệu quả

của người giáo dục sẽ tốt hơn. Sỉ số trẻ trong lớp cũng đóng vai trò quan trọng trong

việc giáo dục KN TPV cho trẻ. Ngoài ra, sự phối hợp giữa GVMN với gia đình, PH

sẽ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục cho trẻ (Đào Thị Chi Hà, 2018).

c. Về phía trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi:

Đặc điểm lứa tuổi MG 3 – 4 tuổi, trẻ bướng bỉnh không nghe lời, thích làm

theo ý của bản thân hay làm trái ý người lớn nên gây khó khăn cho PH và GV trong

việc giáo dục KN TPV cho trẻ. Tuy nhiên, điều đó cho thấy tính tự lập của trẻ phát

sinh, ở trẻ chuyển từ hành vi bộc phát sang hành vi mang tính xã hội, cũng là quá

trình hình thành động cơ của hành vi. Trẻ có ý thức về bản thân và biết so sánh với

người khác và mong muốn được giống như người lớn và làm những công việc của

người lớn như: Tự xúc cơm ăn, tự rửa tay… Do đó, nhà trường, GVMN và PH cần

nắm bắt những đặc điểm tâm lí ở độ tuổi này để tổ chức các hoạt động giáo dục KN

TPV và tạo điều kiện cho trẻ được tập luyện thường xuyên, thực hành ở mọi lúc

mọi nơi (Trương Thị Hoa Bích Dung, 2012).

1.4. Lý luận về sự phối hợp giữa giáo viên và phụ huynh trong việc giáo dục kỹ

năng tự phục vụ cho trẻ

Dựa trên những nội dung của tác giả Huỳnh Lâm Anh Chương (2015) về sự

phối hợp để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ và từ những khái niệm trên, chúng tôi

hiểu giáo dục KN TPV cho trẻ là hoạt động giáo dục cần thiết đối với trẻ MN. Trẻ

có thể tự làm lấy những công việc cơ bản để phục vụ cho nhu cầu cần thiết của bản

thân như: Tự mặc quần áo, mang giày dép, tự xúc ăn… Và việc giáo dục này không

chỉ chịu tác động trực tiếp từ các nhà giáo dục, đặc biệt là GVMN mà còn từ quan

điểm chăm sóc nuôi dạy từ các bậc PH. Để đạt được hiệu quả trong việc giáo dục

KN TPV cho trẻ, cần quan tâm đến 2 nhân tố tác động trực tiếp đến trẻ đó là PH và

GV, cho nên vai trò của GV và PH cũng như sự phối hợp giữa hai bên là rất cần

thiết và quan trọng. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài có thể định nghĩa như sau:

43

Sự phối hợp giữa giáo viên và phụ huynh trong việc giáo dục kỹ năng tự

phục vụ cho trẻ được hiểu là giáo viên và phụ huynh hành động cùng nhau nhận

thức, phối hợp đồng hành hỗ trợ lẫn nhau kiểm tra, đánh giá kỹ năng của trẻ để

cùng thực hiện nhiệm vụ chung là giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ.

Trong hoạt động ở trường MN GVMN sẽ là người chủ động phối hợp với PH

và PH là người tham gia hưởng ứng, góp sức, góp phần làm cho quá trình giáo dục

đạt hiệu quả.

1.5. Đặc điểm tâm lí lứa tuổi mẫu giáo 3 – 4 tuổi

Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi tìm hiểu về một số đặc điểm

như sau:

Theo nghiên cứu của N.G. Morazôvaia đã chỉ ra rằng trẻ MG bé tiếp thu các

hành động riêng lẻ của người lớn một cách bắt chước, mặc dù chúng tỏ ra tự lập

như “tự tôi làm được”. Còn trẻ MG lớn qua sự chỉ dẫn của người lớn lại muốn biết

cần phải làm như thế nào, bằng cách nào, cần phải có những vận động như thế nào

để thu được kết quả tốt mà không cần sự giúp đỡ của người lớn (A.A.

LIUBLINXKAIA, 1977).

Trẻ 3 – 4 tuổi và vào năm sau đó, tính tự tập của trẻ phát sinh, trẻ muốn làm

một mình và không muốn ai giúp mình, tính tình trẻ hay hờn giận, hay nói hoặc có

hành vi làm ngược lại với người khác. Giai đoạn này các trẻ thường không vâng lời

nên ba mẹ thường hay than vãn là trẻ khó dạy dỗ (Trần Thị Cẩm, 2001). Trẻ em

thời kỳ MG luôn có những biến đổi căn bản trong hành vi. Đó là quá trình chuyển

từ hành vi bộc phát sang hành vi mang tính xã hội; cũng chính là quá trình hình

thành động cơ của hành vi. Tuy nhiên, ở lứa tuổi MG bé thì bước chuyển này cũng

ở vào thời điểm khởi đầu. Phần nhiều hành động của trẻ MG bé còn giống với trẻ ấu

nhi (Trương Thị Hoa Bích Dung, 2012). Khi trẻ thực hiện hành động thường là do

theo ý muốn chủ quan của trẻ nên trẻ không ý thức được tại sao mình hành động

như thế này thế kia. Tuy nhiên, dần dần ở trẻ có sự biến đổi, làm nảy sinh động cơ ở

trẻ nhưng lúc đầu động cơ của trẻ còn mờ nhạt chưa rõ ràng. Điều này được thể hiện

rõ trong hoạt động vui chơi, trẻ mong muốn được giống người lớn, nguyện vọng

này biến thành động cơ ở trẻ, trẻ tham gia vào trò chơi đóng vai hóa thân mình vào

44

thành người lớn, quá trình chơi thúc đẩy hành vi của trẻ. Động cơ ở trẻ chính là trò

chơi làm cho trẻ vui, cảm thấy hào hứng, thích thú với nó, chứ không phải chơi để

mang về kết quả nào đó. Ở cuối tuổi MG bé xuất hiện hành vi mang tính xã hội, trẻ

biết quan tâm đến mọi người xung quanh như: Ba mẹ, cô giáo, bạn bè… Do đó, cần

có sự quan tâm giáo dục từ người lớn để giúp trẻ phát triển tốt cho các giai đoạn

tiếp theo.

Ý thức về bản thân của trẻ cuối tuổi ấu nhi còn hết sức mờ nhạt và bị pha trộn

thêm tính chất mơ hồ, do đó trẻ còn chưa phân biệt được một cách rõ rệt đâu là

mình và đâu là người khác. Nhiều đứa trẻ vào tuổi ấy vẫn chưa biết mình lên mấy

tuổi, con cái nhà ai, thậm chí không biết cả mình là con trai hay con gái nữa

(Nguyễn Ánh Tuyết, Nguyễn Thị Như Mai & Đinh Thị Kim Thoa, 2007). Nhưng

dần đến tuổi MG bé trẻ được tiếp xúc nhiều hơn với thế giới xung quanh và khám

phá ra nhiều mối quan hệ muôn màu muôn vẻ giữa người với người trong xã hội.

Tuổi lên 3 trẻ tách mình ra khỏi người khác, có ý thức về bản thân, biết so

sánh với người khác và với mong muốn được giống như người lớn, được làm những

công việc của người lớn. Trẻ mong muốn được độc lập, tự mình làm không muốn

can thiệp của người khác nên trẻ thường nói “con tự xúc cơm”, “con tự đi vệ sinh”,

“con tự rửa tay”… Điều này thật đáng mừng cho con trẻ, tuy nhiên cũng đi cùng với

là sự bướng bỉnh của trẻ, trẻ hay làm theo ý thích của mình, đứa trẻ tự quyết định tất

cả. Do đó thời điểm này tính ích kỷ của trẻ dần được hình thành, trẻ muốn giành hết

đồ chơi mà mình thích về cho bản thân không quan tâm đến những người xung

quanh mình. Ngoài ra, trẻ còn hay làm những việc mà người lớn không cho phép,

hay cấm đoán. Ví dụ như: Mẹ bảo giờ chuẩn bị ăn cơm con không được lấy đồ chơi

ra chơi, thì trẻ lại mang đồ chơi ra chơi, khi mẹ la thì lại khóc thét lên và không chịu

dẹp đồ chơi. Những người trong gia đình, càng yêu thương trẻ chiều chuộng trẻ thì

trẻ hay tỏ ra bướng bỉnh, không nghe lời. Có thể thấy tính độc lập ở trẻ phát triển

mạnh mẽ, đòi hỏi người lớn cần có những hiểu biết tích cực để giúp trẻ vượt qua

giai đoạn khủng hoảng này. Nếu người lớn biết tôn trọng tính độc lập của trẻ và có

thể giúp trẻ hình thành các kỹ năng sống đơn giản để phục vụ bản thân mình như:

Tự mặc quần áo, mang giày dép,… để tự phục vụ bản thân và làm một số công việc

45

nhỏ phụ giúp ba mẹ, thầy cô. Điều này đòi hỏi sự hiểu biết, sự khéo léo từ các bậc

PH cũng như GVMN vừa có thể giúp trẻ vui vẻ vì thỏa mãn nhu cầu làm người lớn

của bản thân, vừa học và làm được những công việc nhỏ, góp phần hình thành

những KN cơ bản cho trẻ, tính độc lập của trẻ vẫn phát triển và theo hướng tích cực

(Trương Thị Hoa Bích Dung, 2012).

Theo G.YUXUCÔVA trẻ ở 3 tuổi để hình thành những thói quen hay KN

TPV cần rất nhiều thời gian và những thói quen, KN này cũng dễ dàng mất đi nếu

trẻ không được luyện tập thường xuyên. Vì vậy việc tập luyện các KN không chỉ ở

trường MN mà còn cả ở nhà. GVMN cần tổ chức các buổi sinh hoạt, hội thảo để

thảo luận với PH để nắm bắt hoàn cảnh gia đình, đặc điểm riêng của trẻ, từ đó để

cùng thống nhất xây dựng nhiệm vụ, nội dung, phương pháp giáo dục, cùng với sự

phối hợp chặt chẽ từ cả hai, để rèn luyện và giúp trẻ hình thành những KN TPV một

cách vững chắc ở gia đình và ở trường (Nguyễn Thị Thanh Hương, 2006).

46

1.6. Tiêu chí đánh giá kỹ năng tự phục vụ của trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi

Bảng 1.1. Các tiêu chí đánh giá kỹ năng tự phục vụ của trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi

Mức độ Các KN

TPV Tốt Trung bình Chưa tốt

-Trẻ tự xúc ăn -Trẻ tự xúc ăn -Trẻ có tự xúc ăn 1. Xúc ăn

-Cầm muỗng đúng -Cầm muỗng có lúc nhưng đa phần

(ngón trỏ và ngón cái đúng, lúc chưa đúng phải có sự hỗ trợ

của tay phải hoặc tay -Còn rơi vãi ít trên từ Cô

trái cầm cán muỗng) bàn -Còn rơi vãi

một tay cầm muỗng -Thao tác thực hiện nhiều

xúc ăn và tay còn lại còn chậm -Cầm muỗng

cầm giữ chén. -Có sự giúp đỡ từ Cô không đúng

-Không rơi vãi -Hoặc trẻ xúc ăn thao -Thao tác xúc ăn

-Thao tác thực hiện tác nhanh nhưng cầm còn rất chậm

nhanh muỗng không đúng.

-Không có sự giúp đỡ Không bị rơi vãi, hoặc

từ Cô rơi vãi ít. Không có sự

hỗ trợ từ Cô

-Trẻ phân biệt được -Trẻ chưa phân biệt rõ -Trẻ không phân 2. Mang

dép trái – dép phải và dép trái – dép phải, lúc biệt được dép giày/dép

tự vào mang đúng đúng – lúc sai. Mang trái – dép phải đúng

-Mang 1 lần đúng, dép vào được. -Luôn mang sai 2. Mang

không có sai -Mang sai cô nhắc nhở -Cô có nhắc nhở giày/dép

trẻ sửa sai được (sai 1 nhưng không đúng

sửa sai được lần)

(hoặc nhắc nhở

sửa sai từ 2 lần

trở lên)

-Trẻ biết đi vệ sinh -Trẻ biết đi vệ sinh khi -Trẻ không kiểm 3. Đi vệ

khi có nhu cầu có nhu cầu soát được việc tự sinh

-Biết và kéo được -Biết và kéo được đi vệ sinh theo

47

Mức độ Các KN

TPV Tốt Trung bình Chưa tốt

quần trước và sau khi quần trước và sau khi nhu cầu.

đi vệ sinh, thao tác đi vệ sinh, thao tác -Thường tè dầm

nhanh, không để còn chậm, còn vướn trong lớp.

quần bị ướt vếu, để quần còn bị -Phải cần sự hỗ

- Ngồi xuống ở giữ ướt. trợ từ bỉm.

bồn cầu. Và đi vệ -Ngồi xuống bồn cầu

sinh theo đúng giới còn hơi lệch. Đi vệ

tính. sinh theo đúng giới

-Trẻ nhấn nút/gạt dội tính.

nước và rửa tay sau -Trẻ không nhấn/gạt

khi đi vệ sinh (có sự được nút dội nước và

nhắc nhở từ Cô) không rửa tay sau khi

-Rửa tay sau khi đi vệ đi vệ sinh (dù có sự

sinh. nhắc nhở từ Cô)

-Phân biệt được mặt -Phân biệt được mặt -Không phân 4. Mặc

trước – sau, mặc trước – sau, mặc được biệt được mặt quần

được quần thao tác quần thao tác làm còn trước – sau, mặc

thực hiện nhanh và chậm, còn vướn vếu, thường sai. 4. Mặc

mặc đúng. mặc đúng, thỉnh -Mặc không kéo quần

-Biết chỉnh kéo quần thoảng mặc sai khi cô quần lên được

ngay ngắn nhắc nhở hướng dẫn phải có sự giúp

-Mặc 1 lần đúng trẻ sửa sai mặc được. đỡ từ Cô

(dưới sự hướng dẫn (Sửa sai 1 lần) -Cô hướng dẫn

của Cô) -Chưa biết chỉnh kéo hơn 2 lần nhưng

quần ngay ngắn, còn trẻ không mặc

lệch được

(dưới sự hướng dẫn

của Cô)

48

Mức độ Các KN

TPV Tốt Trung bình Chưa tốt

-Phân biệt được mặt -Phân biệt được mặt -Không phân 5. Mặc áo

trước – sau, mặc trước – sau, mặc được biệt được mặt

được áo, thao tác áo, thao tác làm còn trước – sau, mặc

thực hiện nhanh và chậm, khi xỏ cổ áo và thường sai.

mặc đúng. xỏ tay vào còn vướn -Mặc không xỏ

-Biết chỉnh kéo áo vếu, mặc áo đúng, cổ áo và tay áo

ngay ngắn thỉnh thoảng mặc sai vào được phải có

-Mặc 1 lần đúng khi cô nhắc nhở sự giúp đỡ từ Cô

(dưới sự hướng dẫn hướng dẫn trẻ sửa sai -Cô hướng dẫn

của Cô) mặc được. (Sửa sai 1 hơn 2 lần nhưng

trẻ không mặc lần)

-Chưa biết chỉnh kéo được

áo ngay ngắn, còn

lệch

(dưới sự hướng dẫn

của Cô)

-Biết tự lấy nước -Biết tự lấy nước uống -Trẻ cầm ly/cốc 6. Lấy

uống khi có nhu cầu khi có nhu cầu lúc đúng lúc sai. nước uống

-Cầm ly/cốc đúng -Cầm ly/cốc lúc đúng Không nhấn/bóp

cách (Nếu ly/cốc lúc sai. (cầm ly/cốc rót được nước

không có quai cầm chưa chắc tay thỉnh hoặc rót nước

thì 1 tay phải/trái cầm thoảng bị rớt ly) thường bị đổ ra

phía dưới giữ ly/cốc -Biết đưa ly/cốc đến ngoài. (Cô phải

– Nếu ly/cốc có quai vòi nước rồi nhấn/bóp giúp đỡ)

cầm tay thì 1 tay nút để nước chảy -Cầm ly/cốc

phải/trái cầm giữ xuống. Rót nước còn uống nước còn

quai. Và tay còn lại đổ ra ngoài ít (thỉnh đổ ra ngoài

bóp/nhấn nút để lấy thoảng) nhiều, làm ướt

nước). Đưa ly/cốc -Thao tác lấy nước áo.

49

Mức độ Các KN

TPV Tốt Trung bình Chưa tốt

đến vòi nước sao cho còn chậm

vòi nước nằm ở phía -Khi uống nước, cầm

bên trong của ly/cốc. ly/cốc đưa lên miệng

rồi nhấn/bóp nút để uống còn đổ ra bên

nước chảy xuống. ngoài ít

-Thao tác thực hiện -Rót nhiều lượng nước

nhanh. Không làm rớt uống, nhưng không

ly/cốc và đổ nước ra uống hết

bên ngoài.

-Biết rót lượng nước

uống vừa đủ

-Trẻ tự rửa tay theo 6 -Trẻ rửa tay bỏ bước, -Trẻ rửa sơ sài 7. Rửa tay

bước (các bước chỉ thực hiện được 4,5 chỉ được 1,2,3 bằng xà

2,3,4,5 có thể thực bước trong 6 bước. bước. phòng.

hiện đảo lộn không -Cô có nhắc nhở, -Hoặc chỉ rửa 7. Rửa tay

theo thứ tự) dưới sự hướng dẫn nhưng trẻ với nước. bằng xà

giám sát nhắc nhở vẫn bỏ bước không -Hoặc trẻ rửa tay phòng

của Cô thực hiện còn chưa sạch,

-Rửa tay sạch hết xà -Rửa tay sạch hết xà còn xà phòng.

phòng phòng

-Trẻ tự lau mặt theo 5 -Trẻ tự lau mặt nhưng -Trẻ tự lau mặt 8. Lau mặt

bước chỉ làm được 3,4 nhưng chỉ làm

-Biết nhích khăn để bước. Cô có nhắc nhở được 1,2 bước.

lau các vị trí trên mặt, trẻ làm theo các bước, Cô có nhắc nhở

không lau lại chỗ nhưng trẻ vẫn bỏ bước trẻ làm theo các

khăn dơ -Biết nhích khăn để bước nhưng trẻ

(dưới sự nhắc nhở lau một vài vị trí trên vẫn bỏ bước.

hướng dẫn của Cô) mặt, thỉnh thoảng lau -Hoặc trẻ cầm

lại chỗ khăn dơ khăn và lau từ

50

Mức độ Các KN

TPV Tốt Trung bình Chưa tốt

trán kéo xuống

dưới càm. Hoặc

cầm khăn chà

xung quanh hết

mặt. Lau 1 chỗ

trên mặt

-Trẻ không

nhích khăn lau

được. Lau lại

chỗ dơ

-Trẻ tự lấy gối, và -Trẻ tự lấy gối, và -Trẻ lấy được 9. Chuẩn bị

lấy nệm/giường/ không lấy được nệm/ gối, nhưng chỗ ngủ

chiếu…mang đến chỗ giường/chiếu… không lấy được (lấy gối,

ngủ. -Thao tác còn chậm, nệm/giường/ nệm/chiếu/

-Thao tác nhanh cầm đồ còn hay bị rơi chiếu… phụ cô lấy

(dưới sự hướng dẫn xuống đất (dưới sự (mặc dù có sự giường

của Cô) hướng dẫn của Cô) chỉ dẫn của Cô) ngủ…)

-Trẻ lấy được đồ và -Trẻ lấy được đồ và -Trẻ không lấy 10. Lấy và

cất đồ dùng đúng nơi cất đồ thỉnh thoảng được đồ và cất đồ (đồ

quy định, nơi ban đầu còn nhầm chỗ (có sự không cất được dùng, đồ

trẻ lấy (có sự nhắc nhắc nhở của Cô) đồ đúng nơi quy chơi sau

định nhở của Cô) khi sử

-Hoặc chỉ lấy dụng và

được đồ và sau khi

không cất được chơi)

đồ đúng nơi quy

định (có sự nhắc

nhở của Cô)

51

Tiểu kết chương 1

Từ những nghiên cứu về cơ sở lí luận chúng tôi đã đưa ra được một số khái

niệm cơ bản liên quan đến đề tài như:

Phối hợp là hoạt động cùng nhau, hỗ trợ nhau của hai hay nhiều cá nhân, tổ

chức để cùng thực hiện một nhiệm vụ chung.

Giáo dục kỹ năng tự phục vụ là tác động đến trẻ có mục đích, có hệ thống để

hình thành những kỹ năng tự phục vụ phù hợp với độ tuổi.

Sự phối hợp giữa giáo viên và phụ huynh trong việc giáo dục kỹ năng tự phục

vụ cho trẻ được hiểu là giáo viên và phụ huynh hành động cùng nhau nhận thức,

phối hợp đồng hành hỗ trợ lẫn nhau kiểm tra, đánh giá kỹ năng của trẻ để cùng thực

hiện nhiệm vụ chung là giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ.

Quá trình hình thành KN TPV cho trẻ thể hiện theo 3 bước: Quan sát, bắt

chước/tập thử, thực hành thường xuyên. Các bước này có thể thực hiện không theo

thứ tự mà đan xen vào nhau. Những điều kiện để hình thành KN TPV cho trẻ (trẻ

cần có sự tương tác với những người xung quanh – trẻ được trải nghiệm – trẻ được

thực hành tập luyện thường xuyên, lặp đi lặp lại nhiều lần trong giờ sinh hoạt hằng

ngày – người lớn chuẩn bị cơ sở vật chất phù hợp tạo điều kiện cho trẻ thực hiện).

Vai trò nhiệm vụ của GVMN và PH trong việc chăm sóc – giáo dục trẻ

(GVMN là người chủ động, tổ chức, hướng dẫn. PH là người tham gia, hỗ trợ), các

hình thức, nội dung, phương pháp nguyên tắc phối hợp. Các nhóm phương pháp

giáo dục KN TPV (phương pháp trực quan, phương pháp dùng lời, phương pháp

thực hành). Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phối hợp giữa GV và PH và yếu tố ảnh

hưởng đến việc giáo dục KN TPV cho trẻ MG. Cách xây dựng mối quan hệ giữa

GV và PH, các đặc điểm tâm lí lứa tuổi MG 3-4 tuổi. Để đánh giá mức độ thực hiện

các KN TPV của trẻ MG 3 – 4 tuổi chúng tôi đã đưa ra các tiêu chí để đánh giá.

Dựa vào những cơ sở lý luận trên là nền tảng để chúng tôi tìm hiểu thực trạng

phối hợp giữa GV và PH trong việc giáo dục KN TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi. Từ

đó, chúng tôi đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả phối hợp giữa GV và

PH trong việc giáo dục KN TPV cho trẻ.

52

Chương 2. THỰC TRẠNG PHỐI HỢP GIỮA GIÁO VIÊN

VÀ PHỤ HUYNH TRONG VIỆC GIÁO DỤC KỸ NĂNG TỰ

PHỤC VỤ CHO TRẺ MẪU GIÁO 3 – 4 TUỔI

2.1. Khái quát về quá trình nghiên cứu điều tra thực trạng

2.1.1. Mục đích khảo sát thực trạng

Nhằm thu thập rộng rãi các thông tin, nhận thức, quan điểm và phương pháp

phối hợp giáo dục KN TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi giữa GV và PH để từ đó phát

hiện các vấn đề cần giải quyết, xác định tính phổ biến, nguyên nhân.

2.1.2. Nhiệm vụ khảo sát

Tìm hiểu thực trạng sự phối hợp giữa GVMN và PH trong việc giáo dục KN

TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi (những khó khăn ảnh hưởng đến việc phối hợp và biện

pháp phối hợp giáo dục KN TPV).

Tìm hiểu nhận thức của GVMN và PH về giáo dục KN TPV, những phương

pháp mà GVMN và PH sử dụng để giáo dục KN TPV trẻ MG 3 – 4 tuổi.

2.1.3. Phương pháp và đối tượng khảo sát

2.1.3.1. Phương pháp khảo sát

Để đánh giá khách quan thực trạng phối hợp giữa GVMN và PH trong việc

giáo dục KN TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi ở một số trường MN tại TP.HCM, đề tài sử

dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu sau: phương pháp quan sát, phương

pháp điều tra bằng phiếu hỏi, phương pháp phỏng vấn, phương pháp nghiên cứu hồ

sơ.

a. Phương pháp quan sát

Dựa vào biên bản quan sát tiến hành quan sát hoạt động của GVMN, trẻ và PH

tại 8 nhóm lớp mầm tại 4 trường MN: 2 lớp Mầm trường MN Hoa Sen, 2 lớp Mầm

trường MN Hoa Thiên Lý 1, 2 lớp Mầm trường MN Thiên Đức và 2 lớp Mầm

trường MN 19/5 Thành Phố. Quan sát để nắm đặc điểm, thực trạng hình thành các

KN TPV cho trẻ và nắm những diễn biến tương đối phổ biến trong hoạt động phối

hợp giáo dục giữa GV và PH. Nhằm đánh giá hoạt động phối hợp của GVMN và

PH trong việc giáo dục KN TPV cho trẻ.

53

b. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi

Phiếu thăm dò ý kiến dành cho 124 GVMN, 39 CBQL, 254 PH phiếu được sử

dụng nhằm tìm hiểu thực trạng phối hợp giữa GV và PH trong việc giáo dục KN

TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi. Trong đó, phiếu hỏi dành cho CBQL và GVMN gồm

13 câu và phiếu hỏi dành cho PH gồm 15 câu. Nhằm thu thập thông tin về khả năng,

cơ hội và những khó khăn của GVMN, PH trong việc giáo dục KN TPV cho trẻ.

Từ đó, dùng kết quả quan sát và ứng dụng cơ sở lý luận để tìm nguyên nhân khó

khăn và định hướng biện pháp phối hợp GV – PH trong giáo dục KN TPV.

c. Phương pháp phỏng vấn

Sử dụng hệ thống câu hỏi gồm 4 câu dành cho 48 GVMN và 77 PH. Nhằm thu

thập thông tin về khả năng, cơ hội và những khó khăn của GVMN, PH trong việc

giáo dục KN TPV cho trẻ.

d. Phương pháp nghiên cứu hồ sơ

Chúng tôi nghiên cứu các kế hoạch năm, kế hoạch tháng của trường/lớp, để

tìm hiểu về nội dung phối hợp và nội dung giáo dục KN TPV cho trẻ, các hình thức,

phương pháp mà GVMN sử dụng để phối hợp và giáo dục các KN TPV.

2.1.3.2. Đối tưởng khảo sát

Đối tượng khảo sát gồm: 124 GVMN đang công tác tại nhóm lớp MG 3 – 4

tuổi và 39 CBQL và 254 PH tại 20 trường MN công lập và tư thục tại TP.HCM.

Trong đó MN công lập gồm có 11 trường (MN Hoa Sen – MN Hoa Thiên Lý – MN

Hoa Thiên Lý 1 – MN 30/4 – Hoa Phượng 1 ở huyện Bình Chánh, MN Hoàng Yến

ở quận Thủ Đức, MN 14 – MN Bàu Cát ở quận Tân Bình, MN Hoa Lan – MN Hoa

Hồng ở quận Tân Phú), MN 19/5 Thành phố ở Quận 1 và tại 9 trường MN Tư Thục

(MN Mầm Xanh – MN Bình Minh ở huyện Bình Chánh, MN Nhật Mỹ – MN Thiên

Đức – MN Khai Trí ở huyện Hóc Môn, MN Minh Quang – MN Hoa Mai 2 ở Quận

12, MN Vinschool ở quận Bình Thạnh, MN Mai Khôi ở quận Gò Vấp).

54

Bảng 2.1. Phương pháp và đối tượng khảo sát

STT Phương pháp khảo sát Đối tượng khảo sát

1 Quan sát tại 8 lớp MG 3 – 4 tuổi Quan sát trong các giờ sinh hoạt hằng ngày của trẻ Quan sát giờ đón – trả trẻ

2 Phiếu thăm dò ý kiến dành cho GVMN, CBQL, PH

3 Phỏng vấn GVMN, PH

124 GVMN, 39 CBQL, 254 PH tại các nhóm lớp MG 3 – 4 tuổi tại 20 trường MN trên địa bàn TP.HCM 48 GVMN tại 1 số trường MN tại TP.HCM 77 PH tại các trường MN tại TP.HCM

4 Phân tích kế hoạch GD KNTPV Một số nhóm lớp MG 3 – 4 tuổi tại các trường MN tại TP.HCM

Thời gian khảo sát từ 1/3/2019 – 24/5/2019

2.1.4. Vài nét về cơ sở khảo sát

Việc khảo sát thực trạng phối hợp giữa GV và PH trong việc giáo dục KN

TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi được tiến hành tại 4 trường MN tại TP.HCM: MN Hoa

Sen, MN Hoa Thiên Lý 1, MN 19/5 Thành Phố, MN Thiên Đức. Trong đó, có 2

trường MN công lập đạt chuẩn Quốc gia gồm: MN Hoa Thiên Lý 1 – huyện Bình

Chánh và MN 19/5 Thành Phố – Quận 1 và có 1 trường tư thục MN Thiên Đức –

huyện Hóc Môn được thành lập trên 15 năm. Và trường MN Hoa Sen – huyện Bình

Chánh được thành lập được 4 năm.

2.1.5. Khách thể khảo sát

Chúng tôi tiến hành phát phiếu thăm dò ý kiến với 124 GVMN, 39 CBQL và

254 PH tại 20 trường MN công lập và tư thục trên địa bàn TP.HCM.

CBQL số phiếu phát ra là 42, số phiếu thu vào 40 trong đó có 1 phiếu không

hợp lệ, nên số phiếu đạt yêu cầu là 39 phiếu.

GVMN số phiếu phát ra là 131, số phiếu thu vào 126 trong đó có 2 phiếu

không hợp lệ, nên số phiếu đạt yêu cầu là 124 phiếu.

PH số phiếu phát ra là 300, số phiếu thu vào 277 trong đó có 23 phiếu không

hợp lệ, nên số phiếu đạt yêu cầu là 254 phiếu.

55

Trung cấp , 31.50%

Đại học, 45.90%

Cao đẳng, 22.60%

 Khách thể khảo sát: Giáo viên mầm non (Số lượng: 124 người)

Biểu đồ 2.1. Trình độ chuyên môn của giáo viên mầm non

Qua kết quả khảo sát từ biểu đồ 2.1 nhận thấy trình độ chuyên môn các

GVMN đang công tác tại nhóm lớp MG 3 – 4 tuổi ở trình độ đại học chiếm tỉ lệ cao

nhất có đến 45.9%, trung cấp chiếm 31.5% và trình độ cao đẳng chiếm tỉ lệ thấp

nhất chỉ 22.60%. Điều này cho thấy nhiều GVMN đã nâng cao trình độ chuyên môn

của mình để đáp ứng nhu cầu thực tiễn và sẽ thuận lợi cho việc nắm bắt được những

nội dung, phương pháp về sự phối hợp với PH cũng như những lợi ích và cách giáo

dục KN TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi.

Bảng 2.2. Một số đặc điểm về phía giáo viên mầm non (N=124)

1.Thâm niên công tác tại trường MN SL TL

Dưới 5 năm 67 54

Từ 5 – 10 năm 37 29.8

Trên 10 năm 20 16.2

2. Số năm GV công tác tại nhóm trẻ MG 3 – 4 tuổi Từ 1–3 năm SL 76 TL 61.3

Từ 4–6 năm 24 19.4

Từ 7–9 năm 9 7.3

Trên 9 năm 15 12

3. Sỉ số trẻ tại nhóm lớp MG 3 – 4 tuổi SL TL

Từ 15–25 trẻ 17 13.7

Từ 26–35 trẻ 59 47.6

Từ 36–45 trẻ 48 38.7

56

Kết quả khảo sát từ bảng 2.2 cho thấy thâm niên công tác của GVMN, chiếm

đa số dưới 5 năm công tác và chiếm tỉ lệ cao nhất 54.0%, còn thâm niên trên 10

năm thì lại chiếm tỉ lệ thấp nhất chỉ có 16.2%. Điều này nhận thấy đội ngũ GVMN

đa phần tuổi nghề còn trẻ chỉ mới vào nghề được vài năm nên kinh nghiệm trong

nghề chưa nhiều. Tuy nhiên, khi chúng tôi khảo sát thêm về số năm mà các GV

công tác tại nhóm MG 3 – 4 tuổi, kết quả cho thấy hầu hết các GVMN chỉ công tác

được từ 1 đến 3 năm và chiếm tỉ lệ cao nhất 61.3%. Với thời gian công tác trên 7

năm thì chiếm tỉ lệ thấp, như vậy có thể thấy còn nhiều GV chưa có nhiều kinh

nghiệm trong công tác chăm sóc – giáo dục trẻ tại nhóm lớp MG 3 – 4 tuổi. Điều

này có thể ảnh hưởng đến việc giáo dục KN TPV cho trẻ cũng như cách giao tiếp

với PH và nhờ PH phối hợp cùng nhau để giáo dục trẻ.

Từ bảng 2.2 cho thấy sỉ số trẻ tại các nhóm lớp MG 3 – 4 tuổi ở một số

trường MN hầu hết có sỉ số trẻ đông đều trên 25 trẻ trong một lớp với 2 Cô chủ

nhiệm chiếm tỉ lệ cao, thể hiện rõ hơn khi lớp có sỉ số từ 36 – 45 trẻ chiếm tỉ lệ khá

cao đến 38.7%. Với sỉ số trên sẽ ảnh hưởng đến việc giáo dục KN TPV cho trẻ tại

lớp, vì số lượng trẻ quá đông GV sẽ không có nhiều thời gian để dạy kỹ từng KN

TPV cho từng trẻ, sẽ dẫn đến việc GV hay dạy lướt qua để kịp thời gian trong lớp,

và còn ảnh hưởng đến việc phối hợp với từng PH để cùng nhau giáo dục KN TPV

cho từng trẻ.

Cao đẳng

Đại học

Đang học sau Đại học

Sau Đại học

10.3%

23.1%

10%

56.4%

 Khách thể khảo sát: Cán bộ quản lí (Số lượng: 39 người)

Biểu đồ 2.2. Trình độ chuyên môn của Cán bộ quản lí

57

Dựa vào biểu đồ 2.2 ta thấy trình độ chuyên môn của CBQL chiếm cao nhất ở

trình độ Đại học với tỉ lệ 56.4%, và trình độ sau Đại học và đang học sau Đại học

cũng có tỉ lệ khoảng 10%. Điều này cho thấy các CBQL đã được bồi dưỡng và nâng

cao về trình độ chuyên môn cũng như công tác quản lí cho nên các CBQL có thể

tiếp nhận và nhận thức đúng về giáo dục KN TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi, từ đó có

những biện pháp để GV phối hợp cùng với PH để giúp trẻ phát triển tốt các KN

TPV tại trường cũng như tại gia đình. Tuy nhiên, ở trình độ Cao đẳng vẫn còn khá

nhiều chiếm 23.1% nhận thấy nhóm khảo sát là CBQL của các trường MN tư thục

là chủ yếu, với đối tượng này cần được nâng cao trình độ chuyên môn cũng như

công tác quản lí nhiều hơn, để giúp cho GVMN nắm vững các nội dung giáo dục và

Dưới 5 năm, 23.10%

Trên 10 năm, 64.10%

Từ 5-10 năm, 12.80%

những biện pháp, hình thức phối hợp cùng PH chăm sóc – giáo dục trẻ.

Biểu đồ 2.3. Thâm niên công tác quản lí của Cán bộ quản lí

Từ biểu đồ 2.3 cho thấy thâm niên công tác quản lí của các CBQL đa số đều có

thâm niên quản lí trên 10 năm chiếm tỉ lệ cao nhất đến 64.1%. Với nhiều kinh

nghiệm trong công tác quản lí, CBQL đã có nhận thức đúng về việc giáo dục KN

TPV cho trẻ và việc giáo dục KN cho trẻ cần xuất phát từ 2 phía giữa GV và PH,

điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc tập huấn GV về cách giáo dục KN TPV

cho trẻ và cách phối hợp, giao tiếp với PH.

58

 Khách thể khảo sát: Phụ huynh (Số lượng: 254 người)

Bảng 2.3. Một số đặc điểm về phụ huynh của trẻ

Đặc điểm về phụ huynh của trẻ SL TL

Dưới 25 tuổi 13 5.1

Từ 25 – 34 tuổi 136 53.5 Tuổi

Từ 35 – 49 tuổi 100 39.4

Trên 50 tuổi 5 2

Nam 76 29.9 Giới tính Nữ 178 70.1

Ông/bà 7 2.8

Cha/mẹ 237 93.3

Cô/dì/chú/bác 5 2 Quan hệ với trẻ Anh/chị 3 1.2

Người chăm sóc trẻ 2 0.8

Từ 1 – 2 trẻ 204 80.3 Số người con trong gia đình Trên 2 trẻ 50 19.7

CB – CNV 102 40.2

Kinh doanh 53 20.9

Nghề nghiệp Làm thuê 34 13.4

Nội trợ 39 15.4

Khác 26 10.2

Từ bảng 2.3 một số đặc điểm về phụ huynh của trẻ ta thấy:

Xét về mặc tuổi tác của PH kết quả cho thấy đa số các PH đều có độ tuổi từ 25

tuổi trở lên chiếm đa số. Trong đó độ tuổi từ 25 – 34 tuổi chiếm tỉ lệ cao nhất là

53.5%, kế đến là độ tuổi từ 35 – 49 tuổi. PH dưới 25 tuổi chiếm tỉ lệ thấp hơn chỉ

chiếm 5.1%. Nhìn chung PH đã có kinh nghiệm trong việc chăm sóc trẻ cho nên sẽ

thuận lợi khi GVMN trao đổi hướng dẫn để cùng nhau giáo dục KN TPV cho trẻ.

Xét về giới tính của PH nhận thấy có sự chênh lệch nhiều giữa 2 giới tính, đa

phần PH nữ thường quan tâm chăm sóc trẻ nhiều hơn chiếm tỉ lệ 70.1%. Kết quả

khảo sát về mối quan hệ với trẻ cho thấy chủ yếu trẻ được chung sống với cha/ mẹ

59

tại gia đình chiếm tỉ lệ đến 93.3%, và tỉ lệ thấp nhất là ở với ông/ bà , Cô/ dì/ chú/

bác, anh/ chị và người chăm sóc trẻ. Ngoài ra, số người con trong gia đình thì cho

thấy đa phần có từ 1 – 2 trẻ chiếm tỉ lệ cao nhất 80.3% điều này sẽ thuận lợi khi PH

nhận thấy được tầm quan trọng của việc giáo dục KN TPV, PH sẽ có thời gian cho

việc giáo dục trẻ tại nhà và phối hợp cùng với GV để giúp cho trẻ phát triển tốt hơn.

Tuy nhiên, nếu PH chưa nhận đúng về lợi ích của việc giáo dục KN TPV cho trẻ ở

độ tuổi MG 3 – 4 tuổi thì việc GV phối hợp với PH để giáo dục KN cho trẻ lại gây

khó khăn, vì các bậc PH đều cho rằng con trẻ của mình con nhỏ nên thường cưng

chiều và làm hộ giúp trẻ những công việc mà trẻ có thể tự làm để phục vụ bản thân

điều này dẫn đến hạn chế sự hình thành và phát triển các KN TPV cho trẻ.

Tính chất nghề nghiệp của PH cũng ảnh hưởng đến việc phối hợp giáo dục

KN TPV cho trẻ. Kết quả khảo sát cho thấy đa phần PH đều là CB – CNV chiếm tỉ

lệ cao nhất đến 40.2%, ngoài ra còn các ngành nghề chiếm tỉ lệ thấp hơn như: Kinh

doanh, làm thuê, nội trợ và các ngành nghề khác. Nhìn chung PH của trẻ đa phần

thuộc ở nhiều ngành nghề khác nhau, đều này cũng ảnh hưởng nhiều đến việc phối

hợp và giáo dục trẻ tại gia đình. Khi phỏng vấn một số PH có nhiều PH cho rằng do

quá bận trong công việc nên ít quan tâm đến giáo dục KN TPV cho trẻ tại nhà, cũng

như không có thời gian để trao đổi phối hợp với GV chủ yếu là trẻ học ở trường Cô

dạy. Như vậy, có thể thấy còn nhiều PH giao phó trách nhiệm giáo dục trẻ cho GV

120

98

100

80

60

49

35

33

31

40

20

8

0

Trung cấp

Cao đẳng

Đại học

Sau đại học

THCS (Cấp II)

THPT (Cấp III)

tại lớp, nên dẫn đến việc phối hợp giữa GV và PH còn hạn chế.

Biểu đồ 2.4. Trình độ học vấn của phụ huynh

Từ biểu đồ 2.4 ta thấy trình độ học vấn của PH đa số ở trình độ đại học có

98/254 chiếm 38.6%, và trình độ sau đại học cũng có 8/254 chiếm 3.1%. Nhìn

60

chung có thể thấy đa phần PH của trẻ có trình độ tri thức, đều này sẽ thuận lợi cho

GV khi tác động về mặt nhận thức cho PH về những vấn đề về giáo dục KN TPV từ

đó PH có thể nắm bắt và cùng nhau phối hợp để giúp trẻ phát triển hơn.

2.2. Kết quả khảo sát thực trạng phối hợp giữa GVMN và PH trong việc giáo

dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi ở một số trường mầm non

- Nhận thức của GVMN, CBQL, PH về giáo dục KN TPV và sự hình thành và

phát triển KN TPV cho trẻ.

- Thực trạng nhận thức về sự cần thiết và mục đích của việc phối hợp giữa

GVMN và PH trong việc giáo dục KN TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi.

- Thực trạng sử dụng những hình thức phối hợp giữa GVMN và PH trong việc

giáo giáo dục KN TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi.

- Thực trạng GVMN, PH sử dụng những cách, những phương pháp để giáo dục

KN TPV của trẻ tại trường và gia đình.

- Đánh giá mức độ thực hiện các KN TPV của trẻ MG 3 – 4 tuổi từ GVMN,

CBQL và PH.

- Đánh giá của PH về những KN quan trọng và không quan trọng đối với trẻ

MG 3 – 4 tuổi.

- Những nguyên nhân dẫn đến việc trẻ thực hiện tốt và chưa tốt các KN TPV

của trẻ MG 3 – 4 tuổi.

- Thực trạng giao tiếp, trao đổi giữa GVMN và PH về giáo dục KN TPV cho

trẻ.

- Những khó khăn về phía GVMN, PH trong việc phối hợp để giáo dục KN

TPV cho trẻ.

- Thực trạng lập kế hoạch giáo dục KN TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi của GVMN

và CBQL.

2.2.1. Thực trạng nhận thức của GVMN, CBQL, PH về giáo dục kỹ năng

tự phục vụ và sự hình thành và phát triển kỹ năng tự phục vụ cho trẻ

Đáp án 1: Là khả năng trẻ có thể tự làm những việc đơn giản trong cuộc

sống như: tự xúc ăn, mặc quần áo, mang giày dép…

61

Đáp án 2: Là quá trình tác động đến trẻ có mục đích, có hệ thống để hình

thành những kỹ năng tự phục vụ phù hợp với độ tuổi

Đáp án 3: Là giáo dục những kỹ năng để trẻ có thể tự phục vụ bản thân mình

Đáp án 4: Là trẻ tự phục vụ tự mình làm lấy những việc phục vụ cho nhu cầu

sinh hoạt hằng ngày của mình, không cần có người giúp, có người phục vụ.

69.20%

70.00%

60.00%

50.00%

41.10%

CBQL

Đáp án 5: Ý kiến khác…

%

39%

40.00%

30.60%

GVMN

ệ l ỉ

29.90%

30.00%

T

PH

17.30%

20.00%

15.30%

12.80%

12.90%

13.80%

10.30%

7.70%

10.00%

0%

0%

0%

0.00%

Đáp án 1 Đáp án 2 Đáp án 3 Đáp án 4 Đáp án 5

Biểu đồ 2.5. Thực trạng nhận thức của GVMN, CBQL, PH về giáo dục

kỹ năng tự phục vụ

Từ biểu đồ 2.5 kết quả cho thấy với câu hỏi khảo sát “Giáo dục kỹ năng tự

phục vụ cho trẻ là gì?” Kết quả cho thấy đáp án 2 có nhiều sự lựa chọn nhiều nhất,

trong đó GVMN chiếm 41.1%, CBQL chiếm 69.2%, PH chiếm 39%. Ngoài ra, các

đáp án 1, đáp án 3, đáp án 4 vẫn có sự lựa chọn từ CBQL, GVMN và PH nhưng

chiếm tỉ lệ % thấp. Với đáp án 5 “Ý kiến khác” nhận thấy cả 3 đối tượng đều không

có ý kiến khác. Nhìn chung về việc lựa chọn đáp án đúng cho khái niệm giáo dục

KN TPV cho trẻ thì cả 3 đối tượng đều đa phần đã chọn đúng. Tuy nhiên, khi chúng

tôi trao đổi trực tiếp với PH thì nhận được nhiều câu trả lời là: Chưa biết nhiều về

những KN TPV của trẻ (19 người cùng ý kiến), khi trao đổi với GVMN thì được

biết các Cô có biết về KN TPV này ở độ tuổi lớp MG 3 – 4 tuổi nhưng thấy không

quan trọng nên ít quan tâm đến, nên cũng ít khi trao đổi với PH. Như vậy, có thể

thấy GVMN và CBQL đã có nhận thức về giáo dục KN TPV cho trẻ và còn nhiều

PH chưa có nhiều hiểu biết về giáo dục KN TPV cho trẻ. Thể hiện rõ hơn khi chúng

62

tôi phỏng vấn một số PH về những mong muốn của PH khi cho con trẻ học tại

trường MN, nhận thấy còn nhiều PH chưa biết và cũng như chưa quan tâm về giáo

dục KN TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi. Kết quả cho thấy đa phần các bậc PH đều

mong muốn con trẻ khi đi học sẽ ngoan hơn có 30/77 PH đưa ra ý kiến và chiếm số

lượng cao nhất. Ngoài ra, có một số mong muốn khác như: Trẻ hòa đồng với bạn bè

và mọi người xung quanh (có 16 PH ý kiến), trẻ vui vẻ (8 PH ý kiến), khỏe mạnh

(11 PH ý kiến), học hỏi nhiều điều từ Cô (13 PH ý kiến), học giỏi thông minh (11

PH ý kiến) và các ý kiến khác cũng được nhiều PH mong muốn như: Ăn ngon, ngủ

được, biết vâng lời, có nề nếp, được Cô chăm sóc tốt cũng được nhiều PH mong

muốn. Như vậy, cho thấy đa phần các bậc PH còn chưa quan tâm nhiều đến giáo

dục KN TPV cho trẻ, nên kết quả phỏng vấn cho thấy chỉ có 10 PH mong muốn trẻ

hình thành tính tự lập để trẻ tự lo cho bản thân của mình. Từ đó, dẫn đến việc phối

77.4%

73.6%

80.00%

64.1%

70.00%

60.00%

50.00%

40.00%

23.1%

30.00%

20.2%

18.5%

20.00%

10.2%

3.5%

3.9%

2.6%

10.00%

1.6%

0.5%

0.80%

0.0%

0.0%

0.00%

Ý kiến khác….

Quan sát – làm giỏi – quên

Quan sát – bắt chước/tập làm theo – làm giỏi

Chưa biết – quan sát – bắt chước/tập làm theo – làm giỏi

Chưa biết – quan sát – bắt chước/tập làm theo – được thực hành thường xuyên – làm giỏi

CBQL

GVMN

PH

hợp giữa GVMN với PH còn gặp nhiều khó khăn chưa có sự đồng bộ từ 2 phía.

Biểu đồ 2.6. Thực trạng nhận thức của GVMN, CBQL, PH về sự hình thành

và phát triển kỹ năng tự phục vụ cho trẻ

Từ biểu đồ 2.6 cho thấy CBQL, GVMN, PH lựa chọn nhiều nhất ở đáp án

“Chưa biết – quan sát – bắt chước/tập làm theo – được thực hành thường xuyên –

làm giỏi” cho sự hình thành và phát triển KN TPV cho trẻ, cả 3 đối tượng chiếm tỉ

63

lệ cao nhất đều trên 64%, trong đó GVMN chiếm 77.4%, CBQL chiếm 64.1% và

PH chiếm 73.6%. Kết quả còn cho thấy với đáp án “Chưa biết – quan sát – bắt

chước/tập làm theo – làm giỏi” cũng được nhiều sự đồng ý đều chiếm tỉ lệ trên 18%

và đáp án 2 và đáp án 4 chiếm tỉ lệ thấp hơn. Ngoài ra, còn có 1 “Ý kiến khác” từ

PH của trẻ: “Trẻ quan sát bắt chước làm theo sau đó 2,3 ngày sau trẻ quên – sau đó

trẻ làm lại được – làm giỏi”. Như vậy ở 3 đối tượng đã có nhận thức tương đối tốt

về sự hình thành và phát triển KN TPV của trẻ. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều GVMN,

CBQL, PH chưa biết để hình thành KN TPV cần phải cho trẻ thực hành thường

xuyên, nên nhiều GVMN còn làm hộ trẻ ở một số KN. Khi chúng tôi trao đổi với

nhiều PH thì đa số nhận được câu trả lời: Thấy bé đi học cũng biết làm một số kỹ

năng rồi, nên về nhà cũng hay làm dùm cho bé, làm cho nhanh để tiết kiệm thời

gian. Điều này cho thấy còn nhiều PH chưa có nhận thức rõ về sự hình thành KN

TPV cho trẻ, nên hay làm hộ giúp trẻ.

2.2.2. Thực trạng nhận thức về sự cần thiết và mục đích của việc phối hợp

giữa GVMN và PH trong việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3

83.10%

90.00%

74.40%

75.60%

80.00%

70.00%

60.00%

50.00%

40.00%

23.10%

22.40%

30.00%

20.00%

14.50%

2.50%

2.40%

2%

10.00%

0%

0%

0%

0.00%

Rất cần thiết

Không cần thiết

Cần thiết CBQL

Bình thường PH

GVMN

– 4 tuổi

Biểu đồ 2.7. Thực trạng nhận thức về sự cần thiết của việc phối hợp giữa

GVMN và PH trong việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ

cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi

Từ biểu đồ 2.7 kết quả khảo sát cho thấy cả 3 đối tượng đều cho rằng sự phối

hợp giữa GVMN và PH trong việc giáo dục KN TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi là rất

64

cần thiết. Trong đó CBQL chiếm 74.4%, GVMN chiếm 83.1% và PH chiếm 75.6%

và ở mức độ không cần thiết thì không có sự lựa chọn nào đạt tỉ lệ là 0%. Từ đó,

cho thấy nhận thức của GVMN, CBQL và PH việc phối hợp để giáo dục KN TPV

cho trẻ MG 3-4 tuổi là việc rất cần thiết. Tuy nhiên, thực tế khi chúng tôi thực hiện

phỏng vấn 48 GVMN về việc Cô có thường trao đổi với PH để giáo dục KN TPV

cho trẻ thì kết quả nhận thấy có 5/48 GV không trao đổi với lí do là thấy bé còn nhỏ,

bé thực hiện như vậy là tốt rồi và KN TPV ở trẻ cũng ít quan tâm thường quan tâm

trao đổi về sức khỏe và việc học của bé, có 39/48 GV trao đổi nhưng chỉ ở mức độ

thỉnh thoảng, ít khi. Và chỉ có 4/48 GV trao đổi thường xuyên. Ngoài ra,về phía PH

chúng tôi cũng tiến hành phỏng vấn 77 PH với câu hỏi tương tự chúng tôi nhận

được kết quả có 53/77 PH không trao đổi với GV vì cho rằng bé còn nhỏ không ép

trẻ làm (6 người ý kiến), bé thực hiện như thế là tốt rồi (15 người ý kiến), vì chưa

biết nhiều về những KN TPV ở trẻ (19 người ý kiến), KN TPV cũng không quan

trọng đối với trẻ (7 người ý kiến), không có thời gian, vì thấy Cô bận nên ngại trao

đổi và vì KN TPV của bé ít quan tâm, thường trao đổi về tình hình học tập của bé,

hôm nay có ngoan không, giỏi không, có ăn được không với lí do này có rất nhiều

người cùng ý kiến có 36/77 PH có câu trả lời giống nhau. Và có 24/77 PH có trao

đổi với GV để giáo dục KN TPV cho trẻ nhưng chỉ ở mức độ thỉnh thoảng, ít khi.

Ngoài ra, khi chúng tôi khảo sát thăm dò ý kiến của CBQL về vấn đề đôn đốc

GVMN phối hợp với PH trong việc giáo dục KN TPV cho trẻ. Kết quả khảo sát cho

thấy nhiều CBQL lựa chọn là có thường xuyên đôn đốc GVMN thực hiện. Tuy

nhiên, khi quan sát và trao đổi với một số GVMN tại trường MN, chúng tôi nhận

thấy CBQL chưa quan tâm nhiều đến việc giáo dục KN TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi,

CBQL chưa có hỗ trợ, hướng dẫn đôn đốc GV về vấn đề này, có nhiều GV trả lời là

ở trường ít quan tâm đến KN TPV thường quan tâm đến vấn đề giáo dục trẻ về kiến

thức nhiều hơn.

Từ đó, cho thấy GVMN, CBQL cũng như PH chưa có nhận thức tốt về sự cần

thiết của việc giáo dục KN TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi. Nên việc phối hợp cùng

nhau để giáo dục KN TPV cho trẻ còn hạn chế.

65

Bảng 2.4. Thực trạng nhận thức của CBQL, GVMN và PH về mục đích

của việc phối hợp để giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi

Mức độ

Mục đích của việc phối hợp để giáo dục

Không

Đồng ý

Phân vân

KN TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi

đồng ý

TL SL TL

SL

TL

SL

38

CBQL

97.4

1

2.6

0

0

GVMN

123

99.2

1

0.8

0

0

1. Để trẻ có KN TPV tốt

PH

244

96.1

8

3.1

2

0.8

CBQL

36

92.3

3

7.7

0

0

2. Có sự thống nhất về nội dung

GVMN

118

95.2

6

4.8

0

0

các KN cần giáo dục cho trẻ

PH

223

87.8

29

11.4

2

0.8

59.0

23

CBQL

11

28.2

5

12.8

3. Để hỗ trợ, bù trừ giữa GVMN

68.5

85

GVMN

29

23.4

10

8.1

và PH trong việc giáo dục trẻ

PH

209

82.3

34

13.4

11

4.3

27

4

10.3

69.2

8

20.5

CBQL

4. Luân phiên trách nhiệm giữa

86

69.4

27

21.8

11

8.9

GVMN

nhà trường và gia đình

200

78.7

34

13.4

20

7.9

PH

Từ bảng 2.4 cho thấy nhận thức của CBQL, GVMN và PH ở 4 mục đích trên

đều chiếm tỉ lệ cao từ 59% trở lên, trong đó với mục đích thứ nhất “Để trẻ có kỹ

năng tự phục vụ tốt” được nhiều sự đồng ý nhiều nhất từ GVMN, CBQL và PH

chiếm tỉ lệ trên 96%. Mục đích thứ hai “Có sự thống nhất về nội dung các kỹ năng

cần giáo dục cho trẻ” cũng được nhiều sự đồng ý ở 3 đối tượng và đều chiếm trên

87%. Ngoài ra, mục đích thứ ba và mục đích thứ tư của việc phối hợp cũng được

nhiều sự đồng ý và chiếm tỉ lệ cao từ 59% trở lên và tỉ lệ % ở mức độ phân vân vẫn

còn chiếm khoảng ¼ nhận thấy tỉ lệ % ở mức độ không đồng ý ở 2 mục đích này

chiếm tỉ lệ cao hơn so với 2 mục đích trên. Tuy nhiên, khi tiến hành phỏng vấn PH

về việc giáo dục KN TPV cho trẻ ở nhà, có nhiều PH cho rằng: Trẻ biết được những

KN TPV là do ở trường Cô dạy cho trẻ, vì ở nhà ba mẹ không biết những KN TPV

66

này, cũng như không có nhiều thời gian dành cho trẻ. Từ kết quả thực trạng nhận

thấy vẫn còn nhiều PH giao trách nhiệm giáo dục trẻ cho nhà trường, GVMN nên

chưa có sự hỗ trợ, luân phiên nhau để cùng nhau giáo dục trẻ.

Như vậy, nhìn chung các mục đích trên chúng tôi nhận thấy GVMN, CBQL và

PH đã biết được về các mục đích của việc phối hợp để giáo dục KN TPV cho trẻ

MG 3 – 4 tuổi. Tuy nhiên còn nhiều PH chưa thấy rõ được tầm quan trọng của việc

giáo dục KN TPV cho trẻ 3 – 4 tuổi, nên PH còn chưa quan tâm nhiều đến việc phối

hợp để cùng nhau giáo dục KN TPV cho trẻ, dẫn đến việc giáo dục KN TPV cho trẻ

xuất phát chủ yếu từ phía nhà trường, giáo viên.

2.2.3. Thực trạng sử dụng những hình thức phối hợp giữa GVMN và PH

trong việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi

Bảng 2.5. Thực trạng sử dụng những hình thức phối hợp giữa GVMN và

PH trong việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi

Mức độ Hình thức phối hợp giữa GVMN Thường Thỉnh Không và PH trong việc giáo dục KN TPV xuyên thoảng thực hiện cho trẻ MG 3 – 4 tuổi SL TL SL TL SL TL

1. Trao đổi trực tiếp với PH

qua giờ đón và trả trẻ CBQL GVMN PH 74.4 29 108 87.1 154 60.6 10 16 94 25.6 12.9 37 0 0 6 0 0 2.4

CBQL 12 30.8 23 59 10.3 4 2. Trao đổi với PH qua cuộc

79 4 họp định kỳ

GVMN PH 41 79 33.1 3.2 63.7 31.1 143 56.3 32 12.6

3. Xây dựng góc tuyên CBQL 32 82.1 7 17.9 0 0

truyền, bảng tin, tờ rơi thông 0 0 GVMN 101 81.5 23 18.5

tin đến cho PH tại nhóm lớp PH 118 46.5 106 41.7 30 11.8

4. Mời PH tham gia vào các 3 7.7 CBQL 17 43.6 19 48.7

hoạt động lễ hội và hoạt động 4 3.2 GVMN 58 46.8 62 50

của cô và trẻ trong trường/lớp PH 69 27.2 132 52 53 20.9

67

Mức độ Hình thức phối hợp giữa GVMN Thường Thỉnh Không và PH trong việc giáo dục KN TPV xuyên thoảng thực hiện cho trẻ MG 3 – 4 tuổi SL TL SL TL SL TL

CBQL 34 87.2 5 12.8 0 0 5. Thông qua sổ bé ngoan/sổ

liên lạc GVMN PH 105 84.7 176 69.3 19 75 15.3 29.5 0 3 0 1.2

6. Trao đổi qua mạng xã hội

như: Zalo, facebook, email…

7. Trao đổi qua điện thoại 19 53 82 19 63

19 49

CBQL GVMN PH CBQL GVMN PH CBQL GVMN PH 7 33 80 11 45 63 4 35 43 48.7 13 33.3 17.9 42.7 38 30.6 26.6 32.3 92 36.2 31.5 48.7 23.1 9 28.2 36.3 50.8 16 12.9 24.8 131 51.6 60 23.6 48.7 16 10.3 41 39.5 40 32.3 28.2 16.9 108 42.5 103 40.6 8. Mời PH tham gia các buổi chuyên đề về tâm lí trẻ MN cũng như những phương pháp giáo dục KN cho trẻ

Từ bảng 2.5 kết quả khảo sát thực trạng sử dụng những hình thức phối hợp

giữa GVMN và PH trong việc giáo giáo dục KN TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi ở 3 đối

tượng GVMN, CBQL và PH nhận thấy:

Hình thức “Trao đổi trực tiếp với PH qua giờ đón và trả trẻ” ở mức độ

thường xuyên chiếm tỉ lệ cao nhất đều chiếm trên 60% ở 3 đối tượng CBQL,

GVMN và PH. Tuy nhiên, khi chúng tôi tiến hành phỏng vấn 2 nhóm đối tượng

GVMN và PH của trẻ nhận được kết quả khác so với kết quả khảo sát nhận thấy

GVMN và PH rất ít trao đổi với nhau về KN TPV, hầu hết đa số họ đều trao đổi với

nhau về tình hình sức khỏe, về ăn uống và tình hình học của bé, học có ngoan

không và thường trao đổi trực tiếp qua giờ đón – trả trẻ và việc giáo dục KN TPV

chưa được chú trọng nên rất ít trao đổi với nhau.

Hình thức “Trao đổi với PH qua cuộc họp định kỳ” kết quả cho thấy cả 3 đối

tượng chiếm tỉ lệ cao ở mức độ thỉnh thoảng đều trên 56% và mức độ không thực

hiện trao đổi cũng chiếm tỉ lệ khá nhiều đa số là PH chiếm đến 12.6%. Như vậy,

cho thấy hình thức này cũng được thực hiện nhưng chỉ thỉnh thoảng. Khi thực hiện

68

phỏng vấn GV cho thấy có một số GV trao đổi với PH về các KN TPV ở cuộc họp

đầu năm. Nhưng đa số thường trao đổi về các KN như: Tự xúc ăn, tự thay quần áo,

tự lấy nước uống, một số bước về rửa tay, lau mặt mà cô dạy cho bé và có nhờ PH

giúp đỡ cho bé làm ở nhà là chủ yếu. Nhận thấy hình thức này vẫn được sử dụng

nhưng chưa phổ biến rộng rãi, dẫn đến nhiều PH còn chưa nắm được những nội

dung giáo dục KN TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi.

Hình thức “Xây dựng góc tuyên truyền, bảng tin, tờ rơi thông tin đến cho PH

tại nhóm lớp” ở mức độ thường xuyên cho thấy tỉ lệ % ở GVMN và CBQL có tỉ lệ

cao gần tương đồng nhau đều chiếm trên 81% , trong đó ở GVMN (chiếm 81.5%)

và CBQL (chiếm 82.1%). Tuy nhiên, ở PH thì lại chiếm tỉ lệ thấp hơn chỉ đạt

46.5%, các tỉ lệ phần % của 3 đối tượng chưa có sự tương đồng nhau. Điều này cho

thấy GVMN và CBQL thì họ thường sử dụng hình thức này để phối hợp với PH

bằng cách cho PH xem thông tin từ bảng tin, phát những tờ rơi đến PH. Nhưng việc

phối hợp này vẫn chưa đạt hiệu quả do còn nhiều PH chưa quan tâm nhiều đến góc

tuyên truyền bảng tin và những tờ rơi thể hiện rõ ở kết quả khảo sát PH ở mức độ

thỉnh thoảng chiếm đến 41.7% và mức không thực hiện chiếm 11.8% còn ở CBQL

và GVMN thì đều có thực hiện. Khi chúng tôi quan sát và trao đổi với GV và một

số PH tại các nhóm lớp, chúng tôi nhận thấy còn nhiều GV chưa quan tâm nhiều

đến giáo dục KN TPV của trẻ MG 3 – 4 tuổi nên khi thực hiện còn mang tính hình

thức, nội dung còn sơ sài, chưa nhấn mạnh rõ về tầm quan trọng, những lợi ích và

cách giáo dục KN TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi đến PH và cũng chưa chủ động

thường xuyên trao đổi nhắc nhở PH xem bảng tin, tờ rơi và cũng như trao đổi về

tình hình KN của trẻ và nhờ PH tạo điều kiện để cho trẻ tự làm các KN TPV tại gia

đình. Nên còn nhiều PH chưa hiểu rõ vấn đề và chưa có sự quan tâm đến việc phối

hợp để giáo dục KN TPV. Như vậy, để hình thức này đạt hiệu quả hơn đòi hỏi

CBQL và GVMN cần đưa ra những nội dung tuyên truyền về KN TPV cụ thể hơn ở

từng KN của trẻ, thường xuyên trao đổi, nhắc nhở, hướng dẫn PH các bước để dạy

từng KN TPV cho trẻ, thường xuyên theo dõi và giải đáp những thắc mắc cho PH

để PH giáo dục trẻ tại nhà, và cũng như luôn tạo điều kiện cho trẻ làm ở mọi lúc

mọi nơi.

69

Hình thức “Mời PH tham gia vào các hoạt động lễ hội và hoạt động của Cô

và trẻ trong trường” ở mức độ thỉnh thoảng chiếm tỉ lệ cao đều trên 48% ở 3 đối

tượng. CBQL và PH chiếm tỉ lệ khá cao ở mức độ thường xuyên và có tỉ lệ gần

tương đồng nhau, còn PH thì ngược lại chiếm tỉ lệ thấp hơn chỉ gần bằng ½ của

CBQL và GVMN. Kết quả còn cho thấy nhiều PH không thực hiện phối hợp ở hình

thức này có đến 20.9% PH lựa chọn. Nhìn chung, cho thấy ở PH chưa có sự tương

đồng với GVMN và CBQL trong việc phối hợp nên việc phối hợp cùng nhau còn

hạn chế, chưa đạt hiệu quả cao. Khi trao đổi với một số PH thì chúng tôi nhận được

đề xuất: Nhà trường, giáo viên cần tổ chức một số buổi cho PH vào trong trường để

tham dự các giờ học KN của trẻ để PH biết những nội dung mà trẻ học cũng như

cách dạy của GVMN tại lớp. Như vậy, nhận thấy việc thực hiện hình thức này vẫn

chưa được thực hiện phổ biến và thường xuyên ở các trường MN tại TP.HCM, để

thực hiện hình thức này hiệu quả hơn, đòi hỏi CBQL và GVMN cần có những nội

dung hấp dẫn mang tính cá nhân và tập thể, để cho toàn bộ các trẻ được tham gia.

Hình thức “Thông qua sổ bé ngoan/sổ liên lạc” kết quả khảo sát ở 3 nhóm đối

tượng CBQL, GVMN và PH nhận thấy kết quả ở 2 nhóm đối tượng CBQL và

GVMN chiếm tỉ lệ cao gần tương đồng nhau chiếm trên 84% điều này cho thấy ở 2

nhóm đối tượng này vẫn hay sử dụng hình thức phối hợp này tại trường MN và

nhóm lớp của mình, ở PH thì thấp hơn chỉ chiếm 69.3%. Nhận thấy mức độ thỉnh

thoảng của hình thức này cũng chiếm tỉ lệ đáng kể trong đó PH chiếm tỉ lệ cao nhất

29.5%. Trong quá trình trao đổi trực tiếp với GVMN và PH khi chúng tôi đề cập

đến hình thức trao đổi để giáo dục KN TPV “Thông qua sổ bé ngoan/ sổ liên lạc”

cho trẻ thì cả 2 GVMN và PH đều trả lời là: Rất ít khi trao đổi với nhau về KN TPV

thường trao đổi nhận xét tháng này bé có ngoan không, vì cũng ít quan tâm đến các

KN TPV ở trẻ MG 3 – 4 tuổi. Như vậy, hình thức này vẫn chưa được sử dụng

thường xuyên để trao đổi về KN TPV của trẻ.

Hiện nay, mạng xã hội đang phát triển rất mạnh mẽ và chúng cũng đã được sử

dụng nhiều trong các bậc học khác nhau, để giúp cho việc phối hợp giữa nhà trường

với PH dễ dàng hơn, thông tin đến nhanh hơn và tiện lợi hơn. Tuy nhiên, đối với

ngành GDMN vẫn chưa được sử dụng rộng rãi để phối hợp cùng nhau giúp cho việc

70

chăm sóc – giáo dục trẻ tốt hơn. Khi chúng tôi thực hiện khảo sát về hình thức

“Trao đổi qua mạng xã hội như: Zalo, facebook, email…” để giáo dục KN TPV

cho trẻ MG 3 – 4 tuổi kết quả cho thấy việc sử dụng hình thức này chỉ ở mức độ

thỉnh thoảng và nhìn chung mức độ không thực hiện ở 3 đối tượng đều chiếm tỉ lệ

% cao hơn mức độ thường xuyên thể hiện rõ việc sử hình thức này để phối hợp với

nhau thì còn ít sử dụng. Minh chứng rõ hơn khi chúng tôi tiếp cận phỏng vấn 48

GVMN hiện tại công tác tại một số trường MN tại TP.HCM về việc sử dụng mạng

xã hội để phối hợp trao đổi với PH thì có 40/48 GVMN trả lời là không sử dụng

mạng xã hội, trong đó có 8/48 GVMN có sử dụng, nhưng chỉ ở mức độ thỉnh thoảng

nhắn tin cá nhân qua zalo/facebook cho PH nhưng chỉ thường nhắn tin trao đổi về

tình hình sức khỏe và học tập của trẻ. Trong đó có 1 GVMN tại trường MN tư thục

có trao đổi với chúng tôi là: Cô có trao đổi qua hình thức này, Cô thường sẽ quay

clip, chụp hình lại và gửi cho PH về sự tiến bộ của trẻ như KN tự xúc ăn, tự thay

quần áo, tự mang giày/dép sau đó gửi qua zalo/facebook và nói về sự tiến bộ của

trẻ khi học ở trường và nhờ PH giúp cho bé tập làm ở nhà. Như vậy, chúng ta có

thể thấy việc GVMN trao đổi với PH qua mạng xã hội về KN TPV của trẻ gần như

không sử dụng, chỉ 1 GVMN sử dụng và trao đổi về vấn đề KN TPV của trẻ, chiếm

tỉ lệ phần trăm rất ít. Vì đa phần GVMN và PH chỉ trao đổi về những tình hình sức

khỏe, không nhấn mạnh gì về những KN TPV của trẻ đã và chưa thực hiện được để

cùng nhau phối hợp. Khi chúng tôi hỏi lí do tại sao Cô không sử dụng mạng xã hội

thì có rất nhiều lí do như: Vì PH ít sử dụng, việc trao đổi qua mạng xã hội sợ PH sẽ

không hiểu được hết vấn đề của Cô nên sợ đổ lỗi cho GV, có nhiều bất cập sợ ảnh

hướng đến PH khác nếu làm nhóm group, sợ ảnh hưởng đến riêng tư cá nhân của

GV, vì không có nhiều thời gian ở nhà nên thường trao đổi trực tiếp khi Cô có ở

trường hoặc gọi điện thoại khi cần thiết, vì luật an ninh mạng nên cũng ít sử dụng

mạng xã hội để chia sẻ thông tin, sợ ảnh hưởng đến riêng tư của trẻ. Trong đó lí do:

Vì tình chất công việc của ngành MN nên ít sử dụng điện thoại trong giờ làm việc

nên ít khi sử dụng mạng xã hội để phối hợp với PH, với lí do này rất được nhiều GV

đưa ra ý kiến giống nhau có đến 16/48 GVMN cùng chung 1 ý kiến này. Ngoài ra, lí

do chiếm số lượng người đồng ý nhiều nhất là: GV thường trao đổi trực tiếp với PH

71

qua giờ đón – trả trẻ nên cũng ít trao đổi qua mạng xã hội. Và chúng tôi nhận thấy

còn 1 lí do khác chính là vì: GVMN và PH chưa quan tâm nhiều đến giáo dục KN

TPV nên việc dạy KN cũng chưa chú rọng đối với trẻ nên cũng ít khi trao đổi. (có

14 ý kiến giống nhau). Ngoài ra, có 2 GVMN tại trường MN công lập tại huyện

Bình Chánh Cô tại lớp đã trao đổi với chúng tôi, hình thức này Cô đã từng sử dụng

tại lớp nhưng nhận thấy nó không đạt hiệu quả nên không sử dụng nữa. Như vậy,

nhận thấy hình thức sử dụng mạng xã hội để trao đổi phối hợp với nhau để giáo dục

KN TPV cho trẻ còn chưa được sử dụng rộng rãi và sử dụng chưa đúng cách nên

chưa đạt hiệu quả.

Hình thức “Trao đổi qua điện thoại” chúng tôi nhận được kết quả chiếm tỉ lệ

cao nhất ở mức độ thỉnh thoảng, cả 3 đối tượng đều chiếm trên 48%, và ở mức độ

không thực hiện chiếm nhiều tỉ lệ đáng kể. Khi thực hiện phỏng vấn chúng tôi nhận

thấy chỉ có 1/44 GVMN có trao đổi qua điện thoại. Nhưng chỉ trao đổi khi cần thiết

như về sức khỏe của trẻ còn về KN TPV thì không có trao đổi, vì tính chất công

việc cũng hạn chế sử dụng điện thoại. Như vậy, việc trao đổi qua điện thoại để phối

hợp giáo dục KN TPV cho trẻ thực tế ở một số trường MN chưa được sử dụng

nhiều.

Để giúp cho PH hiểu rõ hơn về nội dung và phương pháp để dạy những KN

TPV cho trẻ MG thì nhà trường có thể sử dụng hình thức phối hợp “Mời PH tham

gia các buổi chuyên đề về tâm lí trẻ MN cũng như những phương pháp giáo dục kỹ

năng cho trẻ” thực tế khảo sát về hình thức này chúng tôi nhận thấy tỉ lệ % ở mức

độ thỉnh thoảng và mức độ không thực hiện gần bằng nhau, cho thấy với hình thức

này chỉ đang thực hiện ở mức thỉnh thoảng ít khi thực hiện.

Nhìn chung, các hình thức phối hợp trên vẫn chưa được sử dụng ở trường MN,

riêng hình thức trao đổi trực tiếp qua giờ đón – trả trẻ và thông qua sổ liên lạc/sổ bé

ngoan thì thực tế hiện nay được sử dụng nhiều và cả 3 đối tượng đều có tỉ lệ gần

nhau thể hiện những hình thức này có đồng bộ từ GVMN, CBQL và PH. Tuy nhiên,

việc trao đổi giữa GV với PH về KN TPV để giáo dục cho trẻ thì còn rất ít.

72

2.2.4. Thực trạng GVMN, CBQL, PH sử dụng những cách, những phương

pháp để giáo dục kỹ năng tự phục vụ của trẻ tại trường và gia đình

Bảng 2.6. Thực trạng CBQL và GVMN sử dụng những cách giáo dục kỹ

năng tự phục vụ cho trẻ tại trường

CBQL GVMN NỘI DUNG SL TL SL TL

Tuần 87.2 113 91.1 34 1. Lập kế hoạch Tháng 84.6 93 75.0 33 giáo dục theo Năm 82.1 76 61.3 32

Giờ học 84.6 100 80.6 33 2.Tổ chức môi Giờ sinh hoạt 89.7 118 95.2 35 trường giáo dục Trò chơi 69.2 82 66.1 27

Bảng tin 97.4 114 91.9 38

Mạng xã hội (zalo, facebook, 3.Tuyên truyền 13 33.3 39 31.5 email…)

21 Hình ảnh, poster, tờ bướm... 53.8 37 29.8

Quan sát 82.1 102 82.3 32 4. Kiểm tra,

đánh giá kết quả Thực hành 94.9 95 76.6 37

của trẻ Đàm thoại 53.8 61 49.2 21

Từ bảng 2.6 cho thấy thực trạng CBQL và GVMN sử dụng những cách giáo

dục KN TPV cho trẻ tại trường MN là:

Thứ nhất, lập kế hoạch giáo dục theo (tuần/tháng/năm) với nội dung này

chúng tôi nhận được kết quả từ phiếu thăm dò ý kiến là ở CBQL chiếm tỉ lệ cao trên

82%, còn với GVMN thì kế hoạch tuần thì chiếm tỉ lệ cao nhất chiếm 91.1% còn tỉ

lệ thấp nhất ở kế hoạch năm chỉ chiếm 61.3%. Điều này cho chúng ta thấy việc lập

kế hoạch giáo dục là nhiệm vụ của mỗi GVMN và CBQL, tuy nhiên dựa vào kết

quả khảo sát cho thấy vẫn còn một số GVMN và CBQL vẫn chưa thực hiện tốt

nhiệm vụ của mình vẫn còn tỉ lệ % chưa lập kế hoạch, tác động đến việc chăm sóc –

giáo dục trẻ. Khi chúng tôi nghiên cứu hồ sơ kế hoạch giáo dục của một số trường

73

MN tại TP.HCM về việc lập kế hoạch giáo dục KN TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi.

Chúng tôi nhận thấy trong kế hoạch của các trường ở độ tuổi MG 3 – 4 tuổi đều có

nội dung về giáo dục KN TPV nhưng nội dung vẫn còn ít chưa thể hiện nhiều hoạt

động để giáo dục KN TPV cho trẻ chủ yếu là các KN như: Rửa tay, lau mặt, cởi tất,

rửa tay bằng xà phòng, tự đi vệ sinh và chỉ có 1 trường MN cập đến nội dụng giáo

dục trẻ tự chuẩn bị chỗ ngủ như lấy gối, nệm. Thứ hai, tổ chức môi trường giáo dục

(giờ học – giờ sinh hoạt – trò chơi) chúng tôi thu được kết quả ở GVMN và CBQL

ở giờ học và giờ sinh hoạt đều trên 80% và mức chênh lệch nhau thấp, còn trò chơi

chiếm tỉ lệ % thấp hơn cao nhất chỉ đạt 69.2% ở CBQL. Nhận thấy tổ chức môi

trường giáo dục KN TPV thì giờ sinh hoạt được nhiều sự đồng tình về phía GVMN

và CBQL. Tuy nhiên, khi quan sát và trao đổi với một số GVMN tại lớp nhận thấy

GV thường cho trẻ thực hiện một số KN TPV như: KN xúc ăn, mang giày dép, dọn

chén bát sau khi ăn, mặc quần, lấy nước uống, đi vệ sinh, rửa tay, lau mặt… chủ yếu

chỉ qua giờ sinh hoạt hằng ngày, không có giờ học cụ thể về các KN này. Ngoài ra,

khi xem kế hoạch giáo dục của các lớp, chúng tôi nhận thấy GV không có tổ chức

hoạt động giáo dục và các trò chơi về KN TPV cho trẻ, trong khi ở lựa chọn nội

dung này lại được nhiều GV và CBQL chiếm tỉ lệ cao đều trên 66%. Như vậy, kết

quả khảo sát ở nội dung tổ chức giờ học và trò chơi chưa được đúng với thực tế.

Nhiều CBQL và GVMN cho rằng để giáo dục KN TPV cho trẻ cần tuyên

truyền cho mọi người xung quanh biết về những lợi ích và cách giáo dục KN TPV

như: Thông qua bảng tin, mạng xã hội (zalo, facebook, email…), hình ảnh poster, tờ

bướm… Trong quá trình chúng tôi khảo sát kết quả cho thấy tuyên truyền qua bảng

tin chiếm tỉ lệ cao nhất ở GVMN (91.9%) và CBQL (97.4%), khi chúng tôi quan sát

tại bảng tin của trường/lớp chúng tôi thấy bảng tin chưa có nhiều nội dung về giáo

dục KN TPV cho trẻ ở độ tuổi MG 3 – 4 tuổi, chỉ có một vài KN như: KN rửa tay,

lau mặt… nội dung là hình ảnh, thông tin về các bước rửa tay, lau mặt. Tuy nhiên,

ngoài ra có một số hình ảnh về hoạt động hằng ngày của trẻ, có các KN TPV nhưng

GV chưa nhấn mạnh nội dung giáo dục KN TPV cho trẻ, chưa có những câu khẩu

hiệu để tác động đến nhận thức của PH và cùng nhau phối hợp thực hiện. Khi phỏng

vấn PH “Anh/chị thường trao đổi với GVMN về KN TPV bằng cách nào?” kết quả

74

từ PH đều trao đổi trực tiếp qua giờ đón – trả trẻ, “Khi hỏi PH có thường xem và

trao đổi qua bảng tin với GV không?” kết quả trả lời từ PH đều trả lời là không, vì

thấy GV cũng ít khi ghi các KN TPV lên bảng tin, và có một số PH khác thì trả lời

cũng ít khi để ý đến vì Cô cũng không nhắc nhở xem. Từ đó, cho thấy PH chưa chú

ý nhiều đến việc xem bảng tin nên việc tuyên truyền qua bảng tin chưa đạt hiệu quả

cao. Như vậy, để đạt hiệu quả hơn GV cần đưa ra nhiều nội dung về giáo dục KN

TPV của trẻ MG 3 – 4 tuổi và nhấn mạnh hơn các KN của trẻ, cần đưa ra những câu

khẩu hiệu về giáo dục KN TPV tuyên truyền đến PH. Ngoài ra, thường xuyên chủ

động nhắc nhở PH xem bảng tin về các bước giáo dục KN TPV cho trẻ, từ đó nhờ

PH phối hợp để giáo dục cho trẻ tại nhà.

Tuyên truyền qua mạng xã hội (zalo, facebook, email…) thì được CBQL và

GVMN đánh giá ở mức tương đối thấp chỉ chiếm khoảng 1/3 và cả 2 có tỉ lệ % gần

bằng nhau, cho thấy cả 2 đối tượng đều ít sử dụng hình thức này để tuyên truyền về

giáo dục KN TPV cho trẻ. Thể hiện rõ hơn khi chúng tôi phỏng vấn GVMN “Cô có

sử dụng mạng xã hội để trao đổi, phối hợp với PH về giáo dục KN TPV cho trẻ

không? Vì sao?” kết quả có đến 40/48 GVMN trả lời là không. Và đưa ra một số lí

do như: Vì “PH và GV cũng ít khi quan tâm đến KN TPV của trẻ” (14 người),

“Thường trao đổi trực tiếp giờ đón – trả trẻ là chủ yếu” (31 người), “ Tính chất

công việc nên ít sử dụng điện thoại trong lớp học” (16 người). Từ quan sát và

phỏng vấn GVMN tại một số trường MN chúng tôi nhận thấy đa phần các trường

đều chưa có sử dụng phổ biến hình thức này, do nhiều trường còn quy định đối với

GVMN là hạn chế sử dụng điện thoại trong giờ làm việc, có cả những trường không

cho số điện thoại của GV chủ nhiệm cho PH biết, nếu có vấn đề gì thì gọi điện thoại

liên lạc với trường, trường sẽ liên hệ với GV tại lớp. Ngoài ra, còn có một số lí do

khác từ phía GVMN như: PH sử dụng mạng xã hội, việc trao đổi qua mạng xã hội

sợ PH sẽ không hiểu rõ hết vấn đề của Cô và sợ PH sẽ đỗ lỗi cho mình, sợ ảnh

hưởng đến riêng tư cá nhân của bản thân, ở nhà không có nhiều thời gian nên chủ

yếu trao đổi khi ở trường, do có luật an ninh mạng nên sợ ảnh hưởng đến riêng tư

của trẻ. Như vậy, nhìn chung việc tuyên truyền qua mạng xã hội hiện nay vẫn chưa

được sử dụng rộng rãi vì một số nguyên nhân chủ quan và khách quan.

75

Tuyên truyền qua những hình ảnh poster, tờ bướm… cũng được nhiều CBQL

đánh giá cao chiếm 53.8% và GVMN thì thấp hơn chỉ chiếm 29.8%. Kết quả khảo

sát cho thấy cả 2 đối tượng có sự chênh lệch đáng kể về nội dung này, nhiều CBQL

cho rằng cách này đang được sử dụng tại trường nên được nhiều sự lựa chọn, còn

GVMN chiếm tỉ lệ % thấp hơn gần bằng ½ tỉ lệ % của CBQL. Cho thấy cả 2 chưa

có sự thống nhất với nhau về cách tuyên truyền để giáo dục KN TPV cho trẻ. Khi

chúng tôi trao đổi và quan sát lớp, nhận thấy có một số hình ảnh về KN TPV như:

Hình ảnh về quy trình các bước rửa tay, lau mặt, còn về poster và tờ bướm khi hỏi

GV thì được biết ở trường không có làm về KN TPV, chỉ có làm về một số vấn đề

khác về sức khỏe và một số giờ học của trẻ. Như vậy, cho thấy việc giáo dục KN

TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi vẫn chưa được quan tâm nhiều về phía GVMN và

CBQL nên việc phối hợp giữa GVMN và PH giáo dục KN TPV chưa được phối

hợp rộng rãi.

Việc kiểm tra đánh giá kết quả của trẻ thông qua: Quan sát, thực hành, đàm

thoại, trong đó việc đánh giá bằng “Thực hành” chiếm tỉ lệ cao nhất cả GVMN và

CBQL đều chiếm trên 75%, việc đánh giá bằng “Quan sát” được nhiều sự lựa chọn

từ CBQL và GVMN cả 2 có tỉ lệ phần % gần bằng nhau và chênh lệch nhau chỉ

0.2% có sự tương đồng nhau và tỉ lệ % thấp nhất là “Đàm thoại” cả 2 đối tượng đều

dưới 54%. Thực tế, khi trao đổi với GVMN về việc đánh giá các KN TPV của trẻ,

chúng tôi nhận thấy đa phần GV đều sử dụng phương pháp quan sát. Như vậy, thực

trạng hiện nay việc đánh giá KN TPV của trẻ ở một số trường MN đều dựa vào

quan sát trẻ là chủ yếu, còn thực hành và đàm thoại ít được sử dụng.

Nhìn chung từ những kết quả khảo sát trên cho thấy CBQL và GVMN có lập

kế hoạch giáo dục KN TPV nhưng nội dung còn sơ sài, chưa đa dạng các KN TPV

ở trẻ MG 3 – 4 tuổi, việc giáo dục KN TPV đa số đều đưa vào giờ sinh hoạt, các

GVMN chưa đưa nhiều vào giờ học và trò chơi. Các GVMN thường tuyên truyền

qua bảng tin là chủ yếu, nhưng chưa đạt hiệu quả vì GV chưa thường xuyên nhắc

nhở, trao đổi với PH về giáo dục KN TPV cho trẻ tại gia đình và việc kiểm tra đánh

giá các KN TPV của trẻ chủ yếu thông qua quan sát.

89.7%

79.8%

72.4%

69.4%

67.3%

62.2%

59.0%

58.1%

48.7%

38.5%

25.6%

24.8%

22.8%

17.7%

15.3%

2.6%

0.8%

0.4%

100.00% 90.00% 80.00% 70.00% 60.00% 50.00% 40.00% 30.00% 20.00% 10.00% 0.00%

Làm mẫu Kèm cặp (làm

Ý kiến khác

cùng)

Chỉ dẫn nhắc nhở

Nhận xét, đánh giá

Lặp lại nhiều lần trong sinh hoạt hằng ngày

CBQL

GVMN

PH

76

Biểu đồ 2.8. Thực trạng GVMN, CBQL và PH sử dụng những phương pháp

để giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ tại trường và gia đình

Từ biểu đồ 2.8 kết quả khảo sát cho thấy thực trạng GVMN, CBQL và PH sử

dụng những phương pháp để giáo dục KN TPV cho trẻ tại trường và gia đình. Với 3

phương pháp làm mẫu, chỉ dẫn nhắc nhở và lặp lại nhiều lần trong sinh hoạt hằng

ngày ở 3 đối tượng khảo sát đều chiếm tỉ lệ cao trên 48%, trong đó phương pháp lặp

lại nhiều lần trong sinh hoạt hằng ngày chiếm tỉ lệ % cao nhất trong các phương

pháp còn lại và đều trên 67%. Cho thấy ở 3 đối tượng đã có nhận thức về phương

pháp, cách giáo dục KN TPV cho trẻ. Tuy nhiên, thực tế khi phỏng vấn PH cho thấy

còn nhiều PH cưng chiều trẻ, nên ở nhà khi thấy trẻ bướng bỉnh nhỏng nhẻo không

chịu làm, làm chậm, hoặc cho rằng trẻ còn nhỏ không làm được nên thường làm hộ

giúp trẻ. Khi tiếp cận quan sát trong lớp và trao đổi với GV tại lớp nhận thấy GV có

tạo điều kiện cho các trẻ thực hiện một số KN trong giờ sinh hoạt hằng ngày như:

Xúc ăn, đi vệ sinh, rửa tay, lau mặt, mặc quần áo…Tuy nhiên nhưng do thời gian có

hạn, sỉ số lớp đông, trẻ lười biếng không chịu làm và một số trẻ thì không làm được,

làm chậm nên GV cũng thường làm hộ giúp trẻ để làm cho nhanh tiết kiệm thời

gian. Như vậy, cho thấy GVMN và PH vẫn còn làm thay giúp trẻ làm hạn chế sự

hình thành các KN TPV cho trẻ.

Với phương pháp kèm cặp (làm cùng) nhận thấy tỉ lệ % thấp, trong đó GVMN

thấp nhất chỉ 17.7%. Nhiều GVMN, CBQL cho rằng do trẻ trong lớp đông mà trong

lớp chỉ có hai GV nên cũng ít khi kèm cặp trẻ làm vì không có nhiều thời gian. PH

77

cho rằng họ không có nhiều thời gian ở nhà thường để trẻ tự làm có sai thì sửa hoặc

làm hộ cho trẻ. Ngoài ra, sử dụng phương pháp nhận xét, đánh giá chiếm tỉ lệ %

thấp cho thấy ở CBQL, GVMN chưa chú trọng nhiều đến việc đánh giá các KN

TPV của trẻ, chủ yếu đánh giá dựa vào kết quả mong đợi của chương trình giáo dục

mầm non. Ở PH chưa biết và chưa quan tâm nhiều đến các KN TPV nên vẫn còn

chưa rõ cách giáo dục, cách đánh giá các KN TPV của con trẻ. Như vậy, nhận thấy

2 phương pháp này vẫn chưa sử dụng nhiều ở ba đối tượng. Ngoài ra, còn có 3 ý

kiến khác ở 3 đối tượng chiếm tỉ lệ % thấp nhất. Với CBQL một ý kiến “Hướng dẫn

làm mẫu – thực hành – nhận xét – khen ngợi, khuyến khích trẻ thực hiện”, GVMN

một ý kiến “Khuyến khích khen ngợi trẻ” và PH một ý kiến “Làm mẫu – thực hành

– khen thưởng” với 3 ý kiến trên nhận thấy cả 3 đối tượng đã có nhìn nhận đúng về

cách giáo dục các KN TPV cho trẻ.

Như vậy CBQL, GVMN và PH đã có sử dụng một số phương pháp để giáo

dục KN TPV cho trẻ và có những đóng góp ý kiến về cách giáo dục cho trẻ. Tuy

nhiên, do một số nguyên nhân về đặc điểm của trẻ cũng như tính chất công việc nên

việc cho trẻ thực hiện nhiều KN TPV còn hạn chế.

2.2.5. Đánh giá mức độ thực hiện các kỹ năng tự phục vụ của trẻ mẫu giáo

3 – 4 tuổi của GVMN, CBQL và PH

Bảng 2.7. Thực trạng đánh giá mức độ thực hiện các kỹ năng tự phục vụ

của trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi từ của GVMN, CBQL và PH

Mức độ Đối Các KN TPV Trung Chưa tượng Tốt TL TL TL bình tốt

18 1388 46.2 32.9 CBQL GVMN 38.5 15 2210 52.4 6 619 15.4 14.7 1. Xúc ăn

PH 105 41.3 110 43.3 39 15.4

CBQL 17 43.6 18 46.2 4 10.3

GVMN 2659 63.1 1236 29.3 322 7.6 2. Mang giày/dép

PH 155 61.0 81 31.9 18 7.1

78

Mức độ Đối Các KN TPV Trung Chưa tượng Tốt TL TL TL bình tốt

CBQL 27 69.2 8 20.5 4 10.3

GVMN 3150 74.7 796 18.9 271 6.4 3. Đi vệ sinh

22 8.7 PH 158 62.2 74 29.1

4 10.3 CBQL 17 43.6 18 46.2

GVMN 2913 69.1 945 22.4 359 8.5 4. Mặc quần

37 14.6 PH 131 51.6 86 33.9

15 38.5 CBQL 7 17.9 17 43.6

GVMN 2028 48.1 1284 30.4 905 21.5 5. Mặc áo

80 31.5 PH 87 34.3 87 34.3

3 7.7 CBQL 29 74.4 7 17.9

4.1 GVMN 3469 82.3 576 13.7 172 6. Lấy nước uống

16 6.3 PH 164 64.6 74 29.1

3 7.7 CBQL 21 53.8 15 38.5

6.5 GVMN 3094 73.4 848 20.1 275 7. Rửa tay bằng xà phòng 32 12.6 PH 139 54.7 83 32.7

5 12.8 CBQL 19 48.7 15 38.5

GVMN 3031 71.9 869 20.6 317 7.5 8. Lau mặt

32 12.6 PH 123 48.4 99 39.0

7 17.9 CBQL 13 33.3 19 48.7

GVMN 2973 70.5 888 21.1 356 8.4

9. Chuẩn bị chỗ ngủ (lấy gối, nệm/chiếu/ giường ngủ…) 53 20.9 PH 101 39.8 100 39.4

6 15.4 CBQL 19 48.7 14 35.9 10. Lấy và cất đồ (đồ GVMN 3229 76.6 756 17.9 232 5.5 dùng, đồ chơi sau khi

sử dụng và sau khi PH 101 39.8 93 36.6 60 23.6 chơi)

Lấy và cất đồ dùng Chuẩn bị chỗ ngủ Lau mặt Rửa tay bằng xà phòng Lấy nước uống Mặc áo Mặc quần Đi vệ sinh Mang giày dép đúng Xúc ăn

50

100

150

200

250

0

Xúc ăn

Mặc áo

Lau mặt

Đi vệ sinh

Mặc quần

Lấy nước uống

Rửa tay bằng xà phòng

Chuẩn bị chỗ ngủ

Lấy và cất đồ dùng

Chưa tốt Trung bình Tốt

57 90 111

12 94 152

36 117 105

81 102 75

20 48 190

91 65 102

101 84 73

21 196 41

18 49 191

Mang giày dép đúng 23 79 156

79

Biểu đồ 2.9. Kết quả quan sát các kỹ năng tự phục vụ của trẻ ở trường mầm

non tại TP.HCM

Từ bảng 2.7 và biểu đồ 2.9 cho thấy được thực trạng đánh giá mức độ thực

hiện các KN TPV của trẻ MG 3 – 4 tuổi từ GVMN, CBQL và PH và kết quả chúng

tôi quan sát như sau:

Kỹ năng xúc ăn được GVMN và PH đánh giá ở mức độ tốt chiếm tỉ lệ khá

cao trong đó GVMN 52.4% và PH 41.3%, CBQL có tỉ lệ thấp hơn là 38.5%. Tuy

nhiên, khi quan sát ngẫu nhiên các nhóm lớp MG 3 – 4 tuổi, kết quả cho thấy ở mức

độ Tốt chỉ đạt 43%, với tỉ lệ % này gần bằng với tỉ lệ % của PH đánh giá trẻ, và

thấp hơn so với tỉ lệ % của GVMN và cao hơn so với tỉ lệ % của CBQL đánh giá

KN xúc ăn của trẻ. Ở mức độ chưa tốt ở 3 đối tượng vẫn chiếm tỉ lệ % gần bằng

nhau dao động từ 14.7% đến 15.4%, kết quả quan sát của chúng tôi cho thấy số

lượng trẻ thực hiện chưa tốt lên đến 22.1%. Như vậy, kết quả đánh giá của GVMN,

CBQL và PH còn chưa đúng với thực tế quan sát, vì còn nhiều trẻ còn cầm muỗng

sai, ăn còn rơi vãi, thao tác còn chậm và còn nhờ vào sự giúp đỡ của GV tại lớp. Vì

thế PH, GVMN, CBQL cần quan tâm phối hợp và tạo điều kiện cho trẻ được tập

luyện thường xuyên để hình thành kỹ năng xúc ăn cho trẻ.

80

Kỹ năng mang giày/dép đúng ở mức độ tốt kết quả cho thấy tỉ lệ % đánh

giá của GVMN và PH có sự chênh lệch không đáng kể với kết quả quan sát

(60.5%), ở CBQL chưa đánh giá đúng với thực tế của trẻ nên chỉ đánh giá KN này

chỉ đạt 43.6%. Điều đó cho thấy việc đánh giá KN này của GVMN và PH đối với

trẻ tương đối đúng với thực tế khả năng của trẻ, còn CBQL thì chưa đúng chênh

lệch đến 16.9% so với kết quả quan sát. Ở mức độ chưa tốt của KN này chúng tôi

có được kết quả quan sát là 8.9% và kết quả đánh giá của PH 7.1%, GVMN 7.6%

và CBQL 10.3%. Như vậy GVMN, PH và CBQL còn chưa đánh giá đúng khả năng

thực tế của trẻ, nhìn chung ở KN này đa số các trẻ thực hiện được ở mức tốt và mức

trung bình là chủ yếu. Tuy nhiên, vẫn còn một số trẻ mang dép chưa đúng, mang

ngược dép phải có sự nhắc nhở sửa sai từ Cô, và vẫn có trẻ dù đã nhắc nhở vài lần

nhưng vẫn không mang được. Vì thế để trẻ thực hiện tốt KN này rất cần sự hỗ trợ

giúp đỡ từ phía gia đình trẻ, GV cần trao đổi và hướng dẫn PH cách giáo dục KN

mang giày dép đúng cho trẻ tại nhà.

Kỹ năng đi vệ sinh ở mức độ tốt được GVMN, CBQL và PH đều đánh giá

cao hơn so với kết quả chúng tôi quan sát. Kết quả quan sát chỉ đạt 58.9% trong khi

đó cả 3 đối tượng đều đánh giá trên 62%. Kết quả quan sát ở mức độ trung bình là

36.4% nhận thấy kết quả này cao hơn có sự chênh lệch đáng kể so với kết quả đánh

giá của ba đối tượng. Ngoài ra, ở mức độ chưa tốt thì kết quả đánh giá của 3 đối

tượng đạt từ 6.4% đến 10.3%, còn kết quả quan sát chỉ đạt 4.7%. Quan sát cho thấy

có nhiều trẻ biết tự đi vệ sinh theo nhu cầu, nhưng đa phần còn nhiều trẻ còn chưa

biết dội nước và quên dội nước phải đợi Cô nhắc nhở nhiều lần, và nhiều trẻ đi vệ

sinh còn bị ướt quần. Như vậy, cho thấy việc đánh giá của CBQL, GVMN và PH ở

KN này chưa đúng với khả năng thực tế của trẻ, vẫn còn nhiều trẻ thực hiện chưa

tốt.

Kỹ năng mặc quần ở mức độ tốt với kết quả quan sát đạt được 40.7% và so

sánh với kết quả đánh giá của 3 đối tượng thì nhận thấy đều thấp hơn, trong đó

CBQL (43.6%) có độ chênh lệch thấp nhất so với kết quả quan sát là 2.9%. Ở mức

độ trung bình nhận thấy kết quả đánh giá của GVMN, CBQL và PH có sự chênh

lệch đáng kể, tỉ lệ % của CBQL gần bằng với tỉ lệ % kết quả quan sát có độ chênh

81

lệch thấp chỉ 0.9%. Ở mức độ chưa tốt kết quả quan sát cho thấy có 14% các trẻ

thực hiện chưa tốt ở KN này, khi quan sát trẻ tại các nhóm lớp chúng tôi thấy còn

nhiều trẻ mặc quần sai, chưa phân biệt được mặt trước mặt sau và cần sự giúp đỡ từ

Cô, nhận thấy tỉ lệ % này gần bằng với tỉ lệ % đánh giá của PH là 14.6% độ chênh

lệch thấp chỉ 0.6%. Như vậy GVMN, CBQL và PH đã đánh giá tương đối về khả

năng của trẻ ở KN mặc quần.

Kỹ năng mặc áo ở mức độ tốt GVMN (48.1%) và PH (34.3%) đánh giá cao

hơn so với kết quả quan sát (29.1%), còn CBQL (17.9%) thì đánh giá thấp hơn. Ở

mức độ trung bình GVMN và PH có kết quả gần giống nhau độ chênh lệch giữa 2

đối tượng chỉ 3.9%, còn CBQL thì cao hơn 4.1% so với kết quả quan sát. Ở 2 mức

độ trên nhận thấy GVMN và PH có những đánh giá về trẻ giống nhau ở KN tự mặc

áo này. Ở mức độ chưa tốt kết quả quan sát đạt tỉ lệ tương đối cao chiếm 31.4%

điều này cho thấy vẫn còn nhiều trẻ chưa thực hiện tốt KN này, khi quan sát trẻ tại

lớp nhận thấy đa phần các trẻ đều chưa mặc được áo và cần sự giúp đỡ từ Cô, nhiều

trẻ còn mặc sai do chưa phân biệt mặt trước – sau, trái – phải. Khi chúng tôi tiến

hành quan sát 8 nhóm lớp Mầm (giai đoạn cuối năm) ở 4 trường MN tại TP.HCM

tôi nhận thấy có 3 trường MN các Cô còn giúp đỡ trẻ rất nhiều trong việc mặc áo.

Khi chúng tôi hỏi đến các Cô đều có câu trả lời giống nhau: “KN này khó nên trẻ

còn chưa làm được, nên phải giúp trẻ làm cho nhanh”. Ngoài ra, có một trường

MN Công lập tại Quận 1 đa phần các trẻ thực hiện ở mức tốt và trung bình ở KN

này, chúng tôi thấy Cô có tạo điều kiện chỉ dẫn nhắc nhở trẻ tự mặc và cho trẻ làm

Cô chỉ hỗ trợ, hướng dẫn khi cần thiết. Khi trao đổi với một Cô Hiệu trưởng chuyên

môn tại trường MN tư thục về KN mặc áo, Cô cho biết: “Cô không biết trẻ lớp mầm

có thể thực hiện được KN mặc áo này, nghĩ là lớp Chồi mới cho thực hiện KN này,

nên hiện tại bên trường các trẻ lớp mầm vẫn còn nhờ sự giúp đỡ từ Cô khi mặc áo.

Cô sẽ rút kinh nghiệm và lập kế hoạch cho năm tới có KN này”. Khi trao đổi với

một số GVMN và PH của trẻ tại lớp về KN này họ đều cho rằng: “KN này khó đối

với trẻ, vì trẻ còn nhỏ sẽ khó làm được nên thường làm giúp cho trẻ. Như vậy, từ

kết quả khảo sát, quan sát và trao đổi với một số PH, GVMN và CBQL cho thấy

KN này ở độ tuổi MG 3 – 4 tuổi trẻ có thể thực hiện được. Tuy nhiên, thực trạng

82

hiện nay người lớn vẫn còn cho rằng KN này trẻ chưa thực hiện được vì còn nhỏ

nên chưa tạo môi trường, điều kiện để cho trẻ có thể thực hiện, điều đó dẫn đến

nhiều trẻ còn chưa thực hiện tốt KN tự mặc áo này.

Kỹ năng lấy nước uống ở mức độ tốt kết quả quan sát là 73.6% so sánh với

kết quả đánh giá của CBQL (74.4%) nhận thấy tỉ lệ % gần bằng nhau chênh lệch chỉ

0.8%, cho thấy việc đánh giá của CBQL ở mức độ này gần đúng với thực tế của trẻ,

còn GVMN và PH có tỉ lệ % chênh lệch đáng kể hơn. Ở mức độ trung bình nhận

thấy đánh giá của CBQL (17.9%) và kết quả mà chúng tôi quan sát (18.6%) có tỉ lệ

gần bằng nhau chênh lệch nhau chỉ 0.7%. Ở KN này chúng tôi thấy các trẻ đa phần

thực hiện ở mức tốt và trung bình là chủ yếu, chỉ còn một số trẻ thực hiện còn chưa

tốt, do các trẻ cầm ly sai, rót nước và uống nước còn đổ ra ngoài, nên tỉ lệ % các trẻ

thực hiện chưa tốt chiếm tỉ lệ rất thấp. Như vậy, có thể nhận thấy KN này đa số các

trẻ thực hiện rất tốt, việc đánh giá của PH, GVMN còn chưa đúng với kết quả mà

chúng tôi quan sát, còn CBQL thì đã có những đánh giá đúng về KN tự lấy nước

uống của trẻ.

Kỹ năng rửa tay bằng xà phòng ở mức độ tốt nhận thấy kết quả đánh giá

của CBQL, GVMN và PH đều cao hơn so với kết quả quan sát (39.5%), trong đó

CBQL và PH có tỉ lệ gần bằng nhau, và GVMN có tỉ lệ cao nhất chiếm đến 73.4%.

Ở mức độ trung bình nhận thấy CBQL và PH thì chiếm tỉ lệ cao hơn so với kết quả

quan sát, chỉ có đánh giá của GVMN thì lại thấp hơn so với kết quả quan sát

(25.2%). Ở mức độ chưa tốt thì cả 3 đối tượng đều đánh giá ở tỉ lệ thấp chỉ 12.6%

trở lại. Tuy nhiên, kết quả chúng tôi quan sát lại chiếm tỉ lệ % khá đáng kể là

35.3%, tỉ lệ này cho thấy vẫn còn nhiều trẻ thực hiện chưa tốt, phần lớn là do trẻ rửa

tay bỏ các bước, chỉ rửa sơ sài, rửa còn chưa sạch, chỉ rửa với nước… Nhưng lại

được GVMN, CBQL và PH đánh giá mức độ tốt rất cao, điều này cho thấy GVMN,

CBQL và PH còn chưa quan tâm nhiều đến các bước rửa tay của trẻ, nên việc đánh

giá KN này vẫn còn chủ quan, sơ sài, qua loa chưa đúng với thực tiễn.

Kỹ năng lau mặt chúng tôi quan sát và nhận thấy có 28.3% trẻ thực hiện ở

mức độ tốt, kết quả này thấp hơn nhiều chỉ bằng ½ so với tỉ lệ % đánh giá của 3 đối

tượng. Trong đó, GVMN đánh giá trẻ thực hiện ở mức tốt tới 71.9% thể hiện

83

GVMN đánh giá cao về khả năng của trẻ ở KN này. Ở mức độ chưa tốt kết quả

quan sát chiếm tỉ lệ khá cao 39.1% và cao hơn tỉ lệ % đánh giá của 3 đối tượng.

Như vậy, cho thấy việc đánh giá của GVMN, CBQL, PH đối với KN lau mặt thì

đánh giá chưa đúng với thực tế, vì còn nhiều trẻ thực hiện chưa tốt, đánh giá trẻ còn

chủ quan, chưa có tiêu chí để đánh giá cụ thể. Khi quan sát chúng tôi thấy còn nhiều

trẻ lau mặt bỏ bước, chỉ lau một vài vị trí trên khuôn mặt, không biết nhích khăn, đa

phần cầm khăn và lau lại chỗ cũ. Khi trao đổi với Cô giáo tại lớp về việc đánh giá

KN lau mặt cho trẻ thì Cô cho rằng: Trẻ tự cầm khăn lau là được rồi, không cần

phải đủ các bước. Khi chúng tôi hỏi thêm KN này Cô đã dạy cho trẻ chưa, các Cô

đa phần trả lời: Các bước lau mặt này đã dạy cho trẻ từ học đầu năm học rồi. Từ

đó, chúng ta có thể nhận thấy các Cô đã dạy cho các trẻ từ đầu năm và giai đoạn

chúng tôi tiến hành quan sát là giai đoạn cuối năm. Tuy vậy KN lau mặt này của trẻ

vẫn còn chiếm tỉ lệ % chưa tốt ở mức cao. Điều này cho thấy các Cô còn chưa quan

tâm nhiều đến KN lau mặt của trẻ, Cô để trẻ tự làm theo ý trẻ, Cô chưa có sự quan

sát, nhắc nhở, kèm cặp các trẻ làm theo các bước. Từ đó dẫn đến thực trạng hiện

nay vẫn còn nhiều trẻ chưa thực hiện chưa tốt KN này.

Kỹ năng chuẩn bị chỗ ngủ (lấy gối, nệm/chiếu/phụ cô lấy giường ngủ…)

theo kết quả quan sát chúng tôi nhận thấy đa số các trẻ chỉ đạt ở mức độ trung bình

chiếm đến 76%. Tuy nhiên, đánh giá của GVMN ở KN này thì cho kết quả ngược

lại, đa số các Cô đánh giá trẻ tại lớp ở mức độ tốt chiếm tỉ lệ cao đến 70.5%. Còn

CBQL và PH cũng cho rằng trẻ thực hiện tốt ở KN này nên tỉ lệ % ở mức độ tốt

cũng chiếm khá cao. Khi quan sát tại lớp cho thấy các trẻ chủ yếu tự lấy được gối,

còn chăn/chiếu/nệm/giường nhỏ thì Cô vẫn là người làm hộ giúp trẻ. Khi trao đổi

các Cô tại lớp đều cho rằng: Các bé còn nhỏ, bé còn chưa làm được nên Cô làm cho

nhanh và các bé làm lâu tốn nhiều thời gian và các câu trả lời của PH cũng gần

tương tự. Khi thực hiện quan sát thực tế chúng tôi nhận thấy có một trường MN tại

Quận 1 TP.HCM các trẻ đều làm rất tốt KN chuẩn bị chỗ ngủ, các trẻ có thể tự đi

lấy gối và nệm của mình mang đến chỗ ngủ và Cô là người giúp trẻ sắp xếp chỗ

nằm. Khi trao đổi với GV tại lớp các Cô cho biết: KN này các Cô đã bắt đầu dạy

cho trẻ từ đầu năm học, chỉ dẫn cho trẻ làm từ từ, nên bây giờ trẻ làm rất tốt. Điều

84

này cho thấy trẻ MG 3 – 4 tuổi đều có thể làm được KN này nhưng đa số các Cô và

PH chưa tạo điều kiện nhiều cho các trẻ thực hiện KN này tại lớp và gia đình. Như

vậy, cho thấy cả 3 đối tượng đều đánh giá chưa đúng ở khả năng của trẻ ở KN này,

vì CBQL, GVMN và PH còn cho rằng KN này khó đối với trẻ MG 3 – 4 tuổi nên

chủ yếu dạy cho trẻ lấy gối còn việc lấy nệm/chiếu/giường thì chưa dạy nhiều cho

trẻ. Ngoài ra, còn có một số GV cho rằng trẻ làm lâu và mất nhiều thời gian, nên Cô

làm giúp cho nhanh. Từ những điều trên dẫn đến GV thường làm hộ cho trẻ và chưa

có sự phối hợp với PH để giúp trẻ thực hiện tốt hơn và cũng như chưa biết cách tổ

chức cho trẻ thực hiện.

Kỹ năng lấy đồ và cất đồ (đồ dùng, đồ chơi sau khi sử dụng và sau khi chơi)

mức độ tốt kết quả quan sát 74% gần bằng kết quả đánh giá của GVMN (76.6%) và

chênh lệch nhau chỉ 2.6%, còn CBQL và PH thì đánh giá thấp hơn. Ở mức độ trung

bình và mức độ chưa tốt nhận thấy kết quả quan sát gần bằng với đánh giá của

GVMN mức chênh lệch thấp, còn 2 đối tượng còn lại thì mức độ đánh giá chiếm tỉ

lệ % cao hơn. KN này cho thấy GVMN có đánh giá gần đúng với thực tế khả năng

của trẻ, cho thấy GV có tạo điều kiện cho trẻ thực hiện. Khi nghiên cứu kế hoạch

vui chơi của lớp chúng tôi nhận thấy GVMN có rèn cho trẻ KN lấy và dọn dẹp đồ

chơi sau khi chơi đúng nơi quy định, chính vì điều này khi chơi các trẻ đều được

thực hiện nhiều lần trong ngày. Khi trao đổi với PH cho thấy khi ở nhà PH còn cưng

chiều trẻ, trẻ bướng không chịu dọn dẹp đồ chơi thì PH thường làm dùm trẻ, PH

chưa dạy cho trẻ cách dọn dep đồ chơi tại nhà, thường chỉ nhắc nhở con dẹp đồ chơi

vào đâu đó là thôi, các món đồ chơi lộn xộn chưa có sắp xếp theo trật tự. Nên khi

đánh giá khả năng của con em mình nhiều PH cho rằng trẻ còn chưa tốt, nhưng thực

tế các trẻ đã được thực hiện tương đối tốt khi ở lớp học nhờ sự giáo dục của Cô từ

đầu năm.

Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu và quan sát thực tế ở một số trường mầm

non tại TP.HCM. Khi quan sát các KN TPV của trẻ tại 8 nhóm lớp, nhận thấy các

GVMN đều bỏ qua KN đánh răng của trẻ, các Cô không nhắc nhở trẻ thực hiện

đánh răng, trong có 2 nhóm lớp Cô có nhắc nhở trẻ tự súc miệng bằng nước. Từ đó

85

cho thấy KN đánh răng ở trẻ vẫn chưa được các trường/lớp quan tâm và chú trọng,

dẫn đến còn nhiều trẻ chưa thực hiện tốt KN này.

Từ những KN TPV ở trên nhận thấy GVMN, CBQL và PH còn đánh giá chưa

đúng về khả năng thực tế của trẻ và chưa quan tâm nhiều đến việc giáo dục KN

TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi. Điều đó dẫn đến việc phối hợp giữa GVMN và PH

trong việc giáo dục các KN trên còn gặp nhiều hạn chế, nên còn nhiều trẻ thực hiện

chưa tốt.

2.2.6. Đánh giá của PH về những kỹ năng quan trọng và không quan

125

76 75

138

61

125

31

155

KN TPV không quan trọng

178 184

KN TPV quan trọng

214

169

190 190

21 21 14 19 15 18 16

Chuẩn bị chỗ ngủ Dọn dẹp chén bát sau khi ăn Sắp xếp quần áo bỏ vào balo Lấy khăn lau mặt Rửa tay bằng xà phòng Lấy nước uống Đi vệ sinh Mặc áo Mặc quần Mang giày dép đúng Xúc ăn

221

0

50

100

150

200

250

trọng đối với trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi

Biểu đồ 2.10. Thực trạng đánh giá của PH về kỹ năng quan trọng và không

quan trọng đối với trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi

Từ biểu đồ 2.10 cho thấy có nhiều KN TPV mà PH đánh giá là quan trọng và

chiếm tỉ lệ trên 70% như: KN xúc ăn có 221/254 PH lựa chọn nhiều nhất chiếm đến

87%, KN đi vệ sinh có 214/254 PH chiếm 84.3%, KN mang giày dép và KN tự mặc

quần có 190/254 PH tỉ lệ % bằng nhau là 74.8%. KN lấy và cất đồ 189/254 PH

chiếm 74.4%, KN lấy nước uống có 184/254 PH chiếm 72.4% và KN rửa tay bằng

xà phòng có 178/254 PH chiếm 70.1% và các KN TPV còn lại cũng được đánh giá

tương đối quan trọng. Trong đó có 2 KN chuẩn bị chỗ ngủ và KN sắp xếp quần áo

bỏ vào balo có sự lựa chọn giống nhau 125/254 PH và chiếm tỉ lệ % thấp nhất

49.2%. Như vậy, 2 KN này được xem là 2 KN chưa quan trọng. Ngoài ra, khi chúng

tôi phỏng vấn GV về những KN TPV thường trao đổi với PH thì được biết là: KN tự

86

xúc ăn, mặc áo, mặc quần, tự đi vệ sinh và rửa tay trong đó KN tự xúc ăn được trao

đổi nhiều nhất. Vì GV cho rằng những KN đó quan trọng đối với trẻ nếu trẻ không

tự xúc ăn được, không ăn được sẽ ảnh hướng đến sức khỏe của trẻ. Như vậy, có thể

thấy việc đánh giá KN quan trọng nhất của PH và GVMN có sự giống nhau, đều đó

cho thấy PH và GV thường quan tâm nhiều đến KN này, còn các KN khác vẫn chưa

được chú trọng nhiều, dẫn đến các KN TPV còn lại trẻ chưa có điều kiện để thực

hiện.

Khi khảo sát thực trạng cho thấy những KN TPV mà PH đánh giá là không

quan trọng: KN chuẩn bị chỗ ngủ có 76/254 PH chiếm tỉ lệ cao nhất 29.9%, KN tự

dọn dẹp chén bát sau khi ăn có 75/254 PH chiếm tỉ lệ 29.5%, KN sắp xếp quần áo

bỏ vào balo 61/254 PH chiếm tỉ lệ 24%, KN lấy khăn lau mặt 31/254 PH chiếm tỉ lệ

12.2% và các KN TPV còn lại đều ở tỉ lệ thấp dưới 9%. Khi trao đổi với một số PH

nhiều PH cho rằng 4 KN trên không quan trọng vì trẻ còn nhỏ nên khó thực hiện

được, sợ trẻ làm không được, làm sai, tốn nhiều thời gian nên PH làm giúp cho trẻ

khi ở nhà. Và trong quá trình phát phiếu khảo sát chúng tôi thu được kết quả có

15/254 PH không có câu trả lời cho câu hỏi này. Điều này cho thấy vẫn còn một số

PH vẫn chưa biết được KN TPV nào là quan trọng đối với trẻ. Nhìn chung các KN

TPV ở trên, trẻ ở độ tuổi MG 3 – 4 tuổi đều có thể thực hiện được, tuy nhiên PH thì

cho rằng các KN TPV này khó và do trẻ còn nhỏ nên chưa thực hiện được. Từ đó,

có thể thấy PH chưa có nhận thức rõ về tầm quan trọng của các KN TPV đối với trẻ

MG 3 – 4 tuổi, và chưa đánh giá đúng về khả năng của trẻ, nên vẫn chưa giáo dục

KN TPV cho trẻ tại gia đình, chưa tạo điều kiện cũng như phối hợp cùng với Cô để

giáo dục cho trẻ.

87

2.2.7. Những nguyên nhân trẻ thực hiện tốt và chưa tốt các kỹ năng tự phục

79.9%

79%

75%

74.4%

80.00%

64.1%

62.2%

60.50%

56.4%

60.00%

44.5%

33.3%

40.00%

28.2%

13.7%

20.00%

10.2%

5.1%

2.4%

2.0%

0.00%

Ý kiến khác

Cô giáo có giáo dục trẻ

Trẻ bắt chước lẫn nhau

CBQL

PH quan tâm, tạo điều kiện cho con trẻ của mình.

Nhà trường có lập kế hoạch GD KN TPV cho trẻ

GVMN

PH

Hoàn cảnh gia đình (khó khăn anh em đông… nên trẻ phải tự làm)

vụ của trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi

Biểu đồ 2.11. Những nguyên nhân trẻ thực hiện tốt các kỹ năng tự phục vụ của

trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi

Từ biểu đồ 2.11 cho ta thấy được những nguyên nhân mà trẻ thực hiện tốt các

KN TPV trong đó nguyên nhân được nhiều GVMN, CBQL và PH lựa chọn là: Cô

giáo có giáo dục trẻ với tỉ lệ % ở 3 đối tượng đều cao trên 74%, trong đó tỉ lệ % của

GVMN và PH gần bằng nhau và chệch lệch chỉ 0.9%, cho thấy cả 3 đối tượng đều

đề cao tầm quan trọng của GVMN trong việc giáo dục KN TPV. Với nguyên nhân

do: Phụ huynh quan tâm tạo điều kiện cho con trẻ của mình được nhiều sự lựa chọn

từ 3 đối tượng và chiếm tỉ lệ cao nhất ở GVMN có đến 75%. Như vậy cho thấy

nhiều GVMN cho rằng để trẻ thực hiện tốt các KN TPV không chỉ từ phía Cô giáo

dục trẻ mà còn cần PH quan tâm và tạo điều kiện cho trẻ, tỉ lệ % ở PH chiếm 62.2%

cũng không chênh lệch nhiều so với tỉ lệ % của GVMN cho thấy PH đã hiểu được

để việc giáo dục KN TPV cho trẻ không chỉ từ GVMN mà còn có sự giáo dục từ gia

đình. Ngoài ra, còn có nguyên nhân khác như: Trẻ bắt chước lẫn nhau ở cả 3 đối

tượng chiếm tỉ lệ % khá cao đều chiếm trên 30% và dưới 60.5%. Hoàn cảnh gia

đình (gia đình khó khăn, anh em đông… nên trẻ phải tự làm) cũng là một trong

những nguyên nhân tác động đến việc giáo dục KN TPV nhưng chỉ chiếm tỉ lệ %

thấp dao động từ 10% đến 28.2%. Nhiều CBQL cho rằng việc trẻ thực hiện tốt các

88

KN TPV là do nhà trường có lập kế hoạch giáo dục KN TPV cho trẻ chiếm tỉ lệ đến

64.1%. Tuy nhiên, có những ý kiến đóng góp khác từ phía CBQL, GV và PH như:

Do khả năng của từng trẻ, và nguyên nhân được nhiều người đưa ra ý kiến nhất là

do có sự phối hợp giữa GV và gia đình của trẻ. Nhìn chung, chúng ta có thể thấy có

nhiều nguyên nhân dẫn đến việc trẻ thực hiện tốt các KN TPV nhưng trong đó điều

mà chúng ta thấy rõ nhất là sự quan tâm giáo dục về phía PH và GV, và cả 2 đối

tượng này cần có sự phối hợp đồng bộ để có thể hỗ trợ, giúp đỡ cùng nhau thực hiện

mục tiêu giáo dục KN TPV cho trẻ.

Từ các phiếu thăm dò ý kiến cũng như khi trao đổi phỏng vấn trực tiếp GVMN

và PH, CBQL chúng tôi có kết quả thực trạng như sau:

Bảng 2.8. Những nguyên nhân trẻ thực hiện chưa tốt các kỹ năng tự phục

vụ của trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi

Nguyên nhân trẻ thực hiện chưa tốt các KN TPV từ phía CBQL SL

1. 1. Phụ huynh chưa quan tâm nhiều đến trẻ 4

2. 2. Phụ huynh còn cưng chiều bé ở nhà, nên thường làm hộ trẻ, chưa tạo 11

điều kiện để trẻ thực hành

3. 3. Do khả năng tiếp thu của bé còn chậm 5

4. 4. Phụ huynh chưa trao đổi nhiều với giáo viên khi trẻ ở nhà 2

Nguyên nhân trẻ thực hiện chưa tốt các KN TPV từ phía GVMN SL

1. Do ở nhà có người giúp việc nên làm hết mọi việc cho bé 2

2. Do ở nhà PH không tập cho bé làm, hay làm cho bé 21

3. Thời gian ở trường có hạn nên Cô hay làm dùm bé để kịp thời gian 3

4. Do đặc điểm khả năng của từng bé, tiếp thu nhanh – chậm 25

5. Do ở nhà PH cưng chiều bé, nên thường làm hộ cho bé 32

6. Do PH muốn bé ăn hết suất nên thường đúc cho bé 1

7. Do PH thấy bé còn nhỏ nên PH thường làm cho con. 2

8. Do PH thấy bé làm vụng về, hay đổ, làm lâu nên làm dùm cho con 3

9. Do bé lười biếng không chịu làm 8

10. Chưa có sự phối hợp từ PH và GV 12

11. Do độ tuổi của bé còn nhỏ 2

12. Do bé chưa đủ tháng tuổi 3

13. Do bé không tập trung chú ý 4

89

Nguyên nhân trẻ thực hiện chưa tốt các KN TPV từ phía CBQL SL

14. Do cảm xúc của bé, lúc thì làm lúc thì không làm 2

15. Do quần áo chật hoặc quá hiện đại nên trẻ khó để mặc 1

16. Trẻ chưa biết cách làm 1

17. Do số trẻ trong lớp quá đông nên Cô hay dạy lướt qua, chưa kỹ 3

18. Do trẻ chưa được làm thường xuyên 8

19. Do cách dạy ở trường và ở nhà khác nhau 1

20. Do bé mới đi học nên chưa học hết các kỹ năng ở trường dạy 2

21. Do PH ít quan tâm đến KN TPV của trẻ 1

Nguyên nhân trẻ thực hiện chưa tốt các KN TPV từ phía PH SL

1. Vì các bé còn nhỏ 14

2. Gia đình cưng chiều, nuông chiều bé, không để bé tự lập, làm hộ bé 30

3. Do gia đình chưa tạo điều kiện cho bé rèn luyện 1

4. Phụ huynh không để tâm nhiều đến con em 1

5. Do độ tuổi này bé còn rất ham chơi nên trẻ chưa chú ý và học hỏi nên 5

khó tập kỹ năng cho trẻ

21

6. Ở nhà trẻ nhỏng nhẻo, bướng bỉnh, lười biếng không nghe lời ba mẹ nên trẻ không chịu làm, thích thì làm không thích thì không làm

7. Do số lượng bé đông nên Cô không kiểm soát dạy hết được cho bé 1

8. Cô giáo chưa tạo điều kiện cho trẻ 1

9. Chưa có sự phối hợp giữa giáo viên và phụ huynh 2

10. Trẻ còn nhút nhát nên không chịu làm 1

11. Chưa có sự thống nhất cách giáo dục giữa gia đình và nhà trường 1

12. Ba mẹ không có nhiều thời gian để cho bé làm, thấy bé làm lâu, nên 9

làm dùm cho nhanh

13. Do đặc điểm của bé tiếp thu nhanh – chậm 4

14. Do bé mới vào học 2

15. Do ở nhà ba mẹ không dạy cho bé, chủ yếu là ở trường dạy 3

Từ bảng 2.8 kết quả khảo sát cho thấy có nhiều nguyên nhân dẫn đến trẻ MG 3 – 4

tuổi chưa thực hiện tốt các KN TPV như:

Về phía CBQL cho rằng: PH chưa quan tâm nhiều đến trẻ, khả năng tiếp thu

của trẻ còn chậm, PH chưa trao đổi nhiều với GV khi trẻ ở nhà và nguyên nhân

90

được nhiều CBQL ý kiến là do PH còn cưng chiều trẻ ở nhà, nên thường làm hộ trẻ,

chưa tạo điều kiện để trẻ thực hành. Điều này cho thấy thực tế giữa PH và nhà

trường chưa có sự phối hợp cùng nhau để giáo dục KN TPV cho trẻ.

Về phía GVMN cho rằng: Ở nhà có người giúp việc nên làm hết mọi việc cho

trẻ, do thời gian ở trường có hạn nên Cô hay làm dùm cho trẻ để kịp thời gian, do

PH muốn trẻ ăn hết suất nên thường đúc cho trẻ, do PH thấy trẻ còn nhỏ, làm vụng

về, hay đổ, làm lâu nên làm dùm cho con, trẻ chưa đủ tháng tuổi, trẻ không tập

trung chú ý, do cảm xúc của trẻ lúc thì làm lúc thì không làm, trẻ không biết cách

làm, sỉ số trẻ trong lớp quá đông nên Cô dạy lướt qua chưa kỹ, cho PH ít quan tâm

đến KN TPV của trẻ, trẻ mới đi học nên chưa học hết các kỹ năng ở trường dạy và

do cách dạy ở trường và ở nhà khác nhau. Trong đó các nguyên nhân được nhiều

GVMN có cùng ý kiến giống nhau nhiều nhất là do: Đặc điểm của từng trẻ có bé

tiếp thu nhanh – chậm khác nhau, PH còn cưng chiều trẻ, không tập cho trẻ làm,

thường làm cho hộ trẻ, nên trẻ chưa được tập luyện thường xuyên, trẻ lười biếng

không chịu làm, chưa có sự phối hợp từ phía GV và PH. Như vậy, từ kết quả khảo

sát này cho thấy ở GV và PH vẫn chưa có sự phối hợp cùng nhau để giáo dục KN

TPV cho trẻ.

Về phía PH cho rằng: Do đặc điểm tiếp thu của từng trẻ, trẻ mới vào học, ở

nhà ba mẹ không dạy cho trẻ chủ yếu là Cô dạy ở trường, PH không quan tâm nhiều

đến con trẻ, gia đình chưa tạo điều kiện cho trẻ rèn luyện, GV chưa tạo điều kiện

cho trẻ do số lượng các trẻ trong lớp quá đông nên Cô không kiểm soát dạy được

hết cho các trẻ, chưa có sự phối hợp giữa GV và PH và chưa có sự thống nhất về

cách giáo dục giữ gia đình và nhà trường. Ngoài ra, còn có các nguyên nhân được

nhiều ý kiến từ phía PH như: Do trẻ còn nhỏ ham chơi, chưa chú ý, ba mẹ không có

nhiều thời gian để cho trẻ làm thấy trẻ làm lâu nên làm dùm cho nhanh, ở nhà ba mẹ

cưng chiều trẻ nên làm hộ giúp trẻ không để trẻ tự lập, trẻ bướng bỉnh, lười biếng,

không nghe lười ba mẹ, hiếu động hoặc nhút nhát không chịu làm thích thì làm

không thích thì không làm. Như vậy, thực trạng khảo sát cho thấy PH đã biết được

những nguyên nhân dẫn đến hạn chế phát triển KN TPV cho trẻ.

91

Từ các nguyên nhân mà GVMN, CBQL và PH đưa ra trong đó chúng tôi nhận

thấy nguyên nhân được nhiều người ý kiến nhất là do: PH còn cưng chiều bé, không

tập cho bé làm, thường làm cho hộ bé, nên trẻ chưa được tập luyện thường xuyên,

tùy vào đặc điểm của từng trẻ tiếp thu nhanh – chậm, và trẻ bướng bỉnh, lười biếng

không nghe lời người lớn trẻ không chịu làm và ngoài ra còn do chưa có sự phối

hợp từ phía PH và GV. Những nguyên nhân này sẽ ảnh hưởng rất lớn đối với sự

giáo dục và phát triển KN TPV cho trẻ. Do vậy nhà giáo dục cũng như PH cần nắm

được những nguyên nhân này để có sự phối hợp, hỗ trợ cùng nhau để giáo dục trẻ

phát triển tốt hơn.

2.2.8. Thực trạng giao tiếp, trao đổi giữa GVMN và PH về giáo dục kỹ

2.40%

4.70%

100%

46.00%

80%

59.10%

Không có

60%

40%

Thỉnh thoảng Thường xuyên

51.60%

36.20%

20%

0%

GVMN

PH

năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi

Biểu đồ 2.12. Thực trạng PH trao đổi ý kiến với GVMN trong việc giáo dục

kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi

Từ biểu đồ 2.12 cho thấy nhiều GVMN đánh giá rằng PH có thường xuyên

trao đổi với họ trong việc giáo dục KN TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi và chiếm tỉ lệ

cao 51.6%. Tuy nhiên kết quả khảo sát từ PH thì cho thấy PH thỉnh thoảng mới trao

đổi với GVMN về vấn đề giáo dục KN TPV của trẻ thể hiện rõ ở mức độ thường

xuyên chỉ đạt 36.2%, và ở mức độ thỉnh thoảng thì lại chiếm tỉ lệ cao hơn đến

59.1%. Tuy nhiên, khi chúng tôi trao đổi với PH thì chúng tôi nhận thấy có 53/77

PH không trao đổi với GVMN về việc giáo dục KN TPV cho trẻ, có 24/77 PH có

trao đổi với GV nhưng chỉ ở mức độ thỉnh thoảng. Ngoài ra, kết quả còn cho thấy

vẫn có trường hợp PH không trao đổi với GVMN về giáo dục KN TPV thể hiện rõ

GVMN chiếm 2.4% và PH chiếm 4.7%. Nhìn chung ở PH và GVMN chiếm tỉ lệ

92

cao ở mức trao đổi thường xuyên và thỉnh thoảng, điều này cho thấy PH còn ít trao

đổi với GVMN về giáo dục KN TPV, do PH chưa quan tâm và chưa biết nhiều đến

các KN TPV ở trẻ, nên PH thường trao đổi về tình hình sức khỏe, học tập của trẻ là

chủ yếu, điều này làm cho việc phát triển KN TPV ở trẻ còn hạn chế, dẫn đến việc

87.1%

69.2%

61.5%

46.2%

46.8%

46.0%

CBQL

GVMN

10.3%

90.00% 80.00% 70.00% 60.00% 50.00% 40.00% 30.00% 20.00% 10.00% 0.00%

0.0%

1.6%

4.0%

2.6%

4.8%

GV lắng nghe chia sẻ của PH

Chia sẻ, an ủi, động viên PH

Hứa hẹn cùng với PH giúp đỡ trẻ

Bênh vực trẻ

Ý kiến khác

GV lắng nghe và mỉm cười phớt lờ cho qua.

phối hợp giữa PH và GVMN chưa được thường xuyên.

Biểu đồ 2.13. Thực trạng những phương án xử lí tình huống của GVMN và

CBQL khi PH than phiền về những khuyết điểm của con mình trong

kỹ năng tự phục vụ

Từ biểu đồ 2.13 cho thấy CBQL và GVMN đã lựa chọn những phương án xử

lí tình huống khi có PH than phiền về khuyết điểm của trẻ trong KN TPV cả hai đối

tượng lựa chọn nhiều nhất ở phương án “GV lắng nghe chia sẻ của phụ huynh” cả 2

đều chiếm tỉ lệ trên 69% và cao nhất trong các phương án còn lại. Với phương án

“Chia sẻ, an ủi, động viên phụ huynh” và “Hứa hẹn cùng với phụ huynh giúp đỡ

trẻ”, 2 phương án này GVMN và CBQL lựa chọn nhiều và chiếm tỉ lệ đều trên

46%. Điều này cho thấy GVMN và CBQL đã có nhận thức đúng để giúp trẻ tiến bộ

hơn trong các KN TPV. Tuy nhiên, kết quả còn cho thấy vẫn còn CBQL và GVMN

bênh vực trẻ khi PH than phiền về trẻ GV chiếm đến 4% và CBQL chiếm 10.3%.

Ngoài ra, còn có GVMN có lắng nghe ý kiến từ PH nhưng chỉ mỉm cười phớt lờ cho

qua thể hiện rõ có 1.6%, điều này cho thấy vẫn còn một số GVMN vẫn chưa nhận

93

thức được tầm quan trọng của việc giáo dục KN TPV cho trẻ. Ngoài những phương

án trên về phía GVMN còn đề xuất một số ý kiến khác như: GV kết hợp với PH để

rèn KN TPV cho trẻ, GV thường xuyên trao đổi về tình hình của trẻ để cả hai bên có

sự thống nhất về việc giáo dục trẻ, GV cùng PH đưa ra những biện pháp để khắc

phục những khuyến điểm để giúp trẻ thực hành tốt KN TPV. Về phía CBQL thì có

một ý kiến khác là: GV sẽ lắng nghe chia sẻ của PH, hứa hẹn với PH và nhờ GV tại

lớp giúp đỡ trẻ tốt hơn. Như vậy, nhìn chung những phương án xử lý tình huống

của GVMN và CBQL lựa chọn đều tốt, góp phần vào việc tạo mối quan hệ tích cực

tạo niềm tin với PH, từ đó có thể trao đổi phối hợp nhờ PH giúp đỡ, giáo dục và tạo

250

200

197

186

150

100

50

6

1

11

8

0

Im lặng

Chú ý lắng nghe và tiếp thu

Không lắng nghe, phớt lờ cho qua

E ngại giao tiếp nên cho qua

Lắng nghe và mỉm cười cho qua, xem như không cần thiết

Sẵn sàng trao đổi với GVMN khi có những thắc mắc về con trẻ

điều kiện cho trẻ thực hiện các KN TPV tại gia đình.

Biểu đồ 2.14. Phụ huynh làm gì khi GVMN trao đổi với phụ huynh về việc

giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ

Từ biểu đồ 2.14 cho thấy khi GVMN trao đổi với PH về việc giáo dục KN

TPV cho trẻ thì có 186/254 PH lựa chọn ý kiến 1 “Chú ý lắng nghe và tiếp thu”

chiếm tỉ lệ cao 73.2%, và ý kiến 6 “Sẵn sàng trao đổi với GVMN khi có những thắc

mắc về con trẻ” có đến 197/254 PH lựa chọn chiếm tỉ lệ cao nhất đến 77.6%. Với 2

ý kiến trên được PH lựa chọn nhiều nhất, điều này cho thấy PH đã có cách ứng xử

giao tiếp tốt với GV, từ đó GV có thể sẵn sàng trao đổi thông báo về tình hình của

trẻ. Tuy nhiên, trong các ý kiến còn lại nhận thấy vẫn còn một số PH còn im lặng (tỉ

lệ 2.4%), và còn e ngại giao tiếp với GV nên cho qua (tỉ lệ 4.3%) và điều này cho

thấy PH vẫn còn ngại khi giao tiếp với GV, chưa sẵn lòng để trao đổi và chia sẻ với

94

GV. Khi chúng tôi phỏng vấn với PH về vấn đề trên và nhận được câu trả lời từ 4

PH: “Vì ngại trao đổi nên ít khi trao đổi với Cô” điều này dẫn đến việc GV khó tiếp

cận PH để trao đổi nhiều hơn về tình hình KN TPV của trẻ. Ngoài ra, vẫn còn nhiều

PH chưa quan tâm nhiều đến KN TPV của trẻ nên khi GV trao đổi thì “PH có lắng

nghe và mỉm cười cho qua xem như không cần thiết” được thể hiện rõ khi có 8 PH

lựa chọn (chiếm tỉ lệ 3.1%). Khi phỏng vấn có 7 PH cho rằng vì “Trẻ còn nhỏ nên

KN này cũng không quan trọng đối với trẻ”. Như vậy, từ những ý kiến trên từ PH

chúng tôi nhận thấy vẫn còn nhiều PH còn e ngại khi giao tiếp với GV và chưa có

nhận thức về lợi ích của việc giáo dục KN TPV cho trẻ, dẫn đến khó khăn trong

việc GV trao đổi để phối hợp cùng PH để giáo dục KN TPV, làm cho việc giáo dục

KN vẫn còn xuất phát từ một phía, chưa có sự đồng bộ từ hai bên, nên còn nhiều trẻ

Ý kiến khác

12.90% 5.10%

Không thấy sự cần thiết phải cho PH biết

10.50% 12.80%

16.10%

Không có thời gian

GVMN

28.20%

CBQL

33.10%

Không muốn nói về khuyết điểm của trẻ

46.20%

Sợ PH đỗ lỗi cho mình

13.70% 17.90%

60.50%

Ngại mất lòng PH

66.70%

chưa thực hiện tốt một số KN TPV.

Biểu đồ 2.15. Những nguyên nhân GVMN ngại trao đổi với PH, khi thấy trẻ

chưa thực hiện được một số kỹ năng tự phục vụ

Từ biểu đồ 2.15 cho thấy còn nhiều GVMN ngại trao đổi với PH mặc dù khi

thấy trẻ chưa thực hiện được một số KN TPV và xuất phát từ nhiều nguyên nhân

khác nhau. Trong đó có hai nguyên nhân được CBQL và GVMN lựa chọn nhiều

nhất là: “Ngại mất lòng PH” (chiếm tỉ lệ trên 60%) và “Không muốn nói về khuyết

điểm của trẻ” (chiếm tỉ lệ trên 33%). Điều này dẫn đến việc giáo dục KN TPV cho

trẻ chỉ xuất phát một phía từ nhà trường, lớp học vẫn chưa có sự phối hợp từ phía

gia đình, cha mẹ trẻ. Nên gia đình còn chưa biết về những lợi ích của giáo dục KN

TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi và chưa nắm rõ được khả năng của trẻ, chưa biết những

95

KN mà trẻ đã học, KN làm tốt và chưa tốt. Vì vậy nhiều PH còn cho rằng trẻ còn

nhỏ nên chưa thể làm được những KN TPV nên hay làm thay cho trẻ. Ngoài ra,

CBQL và GVMN còn cho rằng: “Sợ PH đỗ lỗi cho mình” chiếm tỉ lệ trên 13%, và

họ cho rằng GVMN “Không có thời gian” để trao đổi với PH cả 2 đối tượng chiếm

tỉ lệ trên 16%, và nguyên nhân “Không thấy sự cần thiết phải cho phụ huynh biết”

chiếm tỉ lệ cả hai trên 10%. Với 3 nguyên nhân trên cho thấy thực trạng hiện nay

còn nhiều GVMN chưa quan chú trọng đến KN TPV của trẻ MG 3 – 4 tuổi, nên

xem việc trao đổi với PH để giúp trẻ thực hiện tốt các KN TPV là điều không cần

thiết nên không cần cho PH biết. Tuy nhiên, còn cho thấy GVMN chưa có nhiều

kinh nghiệm trong việc giao tiếp với PH để phối hợp giáo dục KN TPV cho trẻ, nên

GV còn sợ PH đỗ lỗi cho mình và làm mất lòng PH. Như vậy, từ những nguyên

nhân trên đã làm hạn chế việc phối hợp giữa GVMN và PH trong việc giáo dục KN

TPV cho trẻ, nên thực trạng hiện nay còn nhiều trẻ vẫn chưa làm tốt một số KN

TPV. Ngoài ra còn có những ý kiến khác từ phía CBQL và GVMN (chiếm tỉ lệ lần

lượt là 5.1% và 12.9%), CBQL có 2 ý kiến khác là “Do không thấy phụ huynh phối

hợp cùng cô nên ngại trao đổi” và “PH bênh vực trẻ”. Về phía GVMN có 16 ý

kiến khác là “Do PH còn cưng chiều trẻ, không muốn trẻ tự phục vụ nên việc giáo

viên chia sẻ trao đổi với PH cảm thấy không cần thiết”, “PH không hợp tác”, “PH

không quan tâm đến việc giáo dục KN TPV cho trẻ”, “Do người đón trẻ thường là

ông bà, người giúp việc, cô chú, anh chị… ba mẹ thường ít đưa đón trẻ” và có 7

GVMN ý kiến “Không ngại trao đổi, sẵn sàng lắng nghe PH trao đổi”. Nhìn chung

tất cả các nguyên nhân trên nhận thấy thực tế hiện nay còn nhiều GVMN còn chưa

sẵn sàng giao tiếp, trao đổi thường xuyên với PH để phối hợp giáo dục KN TPV cho

trẻ và chưa có nhiều kinh nghiệm để phối hợp với PH, cho nên khi PH tỏ ra không

phối hợp thì GV chấp nhận điều đó ở trẻ, GV ngại trao đổi những lần tiếp theo với

PH. Như vậy, việc GV phối hợp với PH để giáo dục KN TPV cho trẻ vẫn còn nhiều

gặp nhiều khó khăn, nên việc giáo dục chỉ xuất phát từ phía nhà trường, lớp học là

chủ yếu.

150

100

50

82

106

63

42

0

35

46

18

Ngại mất lòng GV

Ý kiến khác

Không có thời gian

Sợ GV đỗ lỗi cho mình

Không trả lời đáp án

Không muốn nói về khuyết điểm của trẻ

Không thấy sự cần thiết phải cho GV biết

96

Biểu đồ 2.16. Những nguyên nhân PH ngại trao đổi với GVMN,

khi thấy trẻ chưa thực hiện được một số kỹ năng tự phục vụ

Từ biểu đồ 2.16 cho thấy có nhiều nguyên nhân PH ngại trao đổi với GVMN

mặc dù thấy trẻ chưa thực hiện được một số KN TPV. Trong đó, nhiều PH cho rằng

“PH không có thời gian” ý kiến này được nhiều PH lựa chọn nhất có đến 106/254

PH chiếm đến 41.7% với ý kiến này thể hiện nhiều PH vẫn cho rằng mình bận rộn

nên không có thời gian để trao đổi với Cô về KN TPV của trẻ. Nhưng khi chúng tôi

phỏng vấn ngẫu nhiên một số PH về vấn đề: PH có thường trao đổi với GV về việc

giáo dục KN TPV cho trẻ không? Nếu không tại sao?. Với câu hỏi này có 36/77 PH

trả lời là có trao đổi, nhưng không trao đổi về KN TPV của trẻ vì: Bé còn nhỏ nên

KN cũng ít khi quan tâm, thường trao đổi về tình hình của bé hôm nay học giỏi

không, có ngoan và có ăn uống được không. Điều này cho thấy PH vẫn có thời gian

trao đổi với GV nhưng do chưa biết cũng như quan tâm nhiều đến KN TPV ở trẻ

MG 3 – 4 tuổi nên vẫn chưa trao đổi thường xuyên với GV về KN TPV của trẻ.

Ngoài ra, còn nhiều lí do khác như “PH ngại mất lòng GV” (chiếm tỉ lệ 32.3%),

“Sợ GV đỗ lỗi cho mình” (chiếm tỉ lệ 16.5%), với 2 nguyên nhân này cho ta thấy

PH vẫn còn e ngại khi giao tiếp với GV, chưa có mối quan hệ tốt nên PH sợ mất

lòng GV nên PH vẫn chưa thật sự tin tưởng và chia sẻ với GV về tình hình của trẻ

khi ở nhà. Có nhiều PH “Không muốn nói về khuyết điểm của trẻ”(chiếm tỉ lệ

97

24.8%) và họ cảm thấy “Không thấy sự cần thiết phải cho GV biết” (chiếm tỉ lệ

13.8%) điều này ta thấy được thực tế nhiều PH còn cưng chiều trẻ, bênh vực trẻ nên

thường không muốn nói về khuyết điểm của trẻ, mặc dù thấy trẻ thực hiện chưa tốt

một số KN TPV và PH cảm thấy điều đó là bình thường, không cần thiết vì trẻ còn

nhỏ lớn lên trẻ sẽ biết. Ngoài ra, có 46/254 ý kiến khác từ phía PH (chiếm tỉ lệ

18.1%), trong đó có 42 ý kiến của PH cho rằng là họ “Không ngại trao đổi với GV”

và 4 ý kiến là “Do trẻ còn nhỏ nên từ từ tập cho trẻ” với ý kiến trên cho thấy vẫn có

một số PH không ngại trao đổi với Cô về tình hình của trẻ, họ có sẵn sàng chia sẻ

cùng với Cô và nhờ Cô giúp đỡ. Tuy nhiên, một số PH vẫn còn cho rằng trẻ còn nhỏ

nên từ từ tập cho trẻ nên không cần trao đổi với GV, với quan điểm này dẫn đến PH

thường làm hộ giúp trẻ nên chưa tạo nhiều môi trường để trẻ được thực hiện thường

xuyên. Ngoài các ý kiến trên, chúng tôi thu thập được có 18 PH (chiếm tỉ lệ 7.1%)

không trả lời đáp án ở câu hỏi này. Điều này cho thấy PH vẫn còn chưa xác định rõ

được những nguyên nhân mà họ ngại trao đổi với GVMN.

Nhìn chung từ các nguyên nhân cho thấy còn nhiều PH ngại trao đổi với

GVMN, khi quan sát biểu đồ 2.15 và biểu đồ 2.16 nhận thấy cả PH và GV đều có

điểm chung là ngại giao tiếp, ngại trao đổi, sợ mất lòng nhau, sợ đổ lỗi cho mình,

không muốn nói về những khuyết điểm của trẻ và xem việc đó cũng không cần thiết

đối với trẻ. Từ đó, cho thấy thực tế ở 2 đối tượng này còn ngại giao tiếp với nhau,

nên thực trạng cho thấy còn nhiều trẻ chưa thực hiện tốt một số KN TPV mặc dù

các trẻ đã ở giai đoạn cuối năm của lớp MG 3 – 4 tuổi. Như vậy, để cho trẻ thực

hiện tốt các KN TPV đòi hỏi cả 2 phải cùng nhau tăng cường trao đổi những nội

dung và cách giáo dục các KN TPV để cùng nhau phối hợp đồng bộ giúp trẻ tốt

hơn. Ngoài ra, nhà trường cần bồi dưỡng KN giao tiếp với PH cho GVMN, để GV

chủ động hơn khi giao tiếp sẵn sàng trao đổi, lắng nghe, tận tình chia sẻ và giải đáp

thắc mắc cho PH, tạo sự thân thiện cũng như niềm tin cho PH, để PH hiểu rõ và

cùng nhau phối hợp.

98

2.2.9. Những khó khăn về phía GVMN và PH trong việc phối hợp để giáo dục

kỹ năng tự phục vụ cho trẻ

Bảng 2.9. Những khó khăn của GVMN trong việc phối hợp với PH để

giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ

Những khó khăn

Đồng ý

Mức độ Phân vân Không đồng ý SL TL SL TL SL TL 20.5 26 66.7 12.8 8 5 CBQL 1. PH không có thời gian

cũng như điều kiện để phối 88 71 19 15.3 17 13.7 GVMN hợp

24 61.5 5 12.8 10 25.6 CBQL 2. Cách giáo dục giữa PH và

GV không thống nhất GVMN 74 59.7 28 22.6 22 17.7

26 66.7 4 10.3 9 23.1 CBQL 3. PH phối hợp chưa thường

xuyên GVMN 89 71.8 20 16.1 15 12.1

11 28.2 12 30.8 16 41 4. PH ngại giao tiếp với GV 54 45 36.3 12 9.7 CBQL GVMN 67

22 56.4 5 12.8 12 30.8 CBQL 5. PH giao hết trách nhiệm

80 64.5 28 22.6 16 12.9 giáo dục trẻ cho GV GVMN

6. PH không hợp tác, bất 9 23.1 11 28.2 19 48.7 CBQL

đồng quan điểm, không cảm 61 49.2 38 30.6 25 20.2 GVMN thông.

17 43.6 9 23.1 13 33.3 7. PH đòi hỏi những yêu cầu CBQL

cao ở trẻ. Và không nhận 8.1 GVMN 82 66.1 32 25.8 10 thức đúng về khả năng của trẻ

Phân vân

Không đồng ý

Đồng ý

40.90%

33.50%

GVMN chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc phối hợp với PH để giáo dục kỹ năng cho trẻ.

25.60%

GV còn e ngại giao tiếp với PH

35.40% 36.60%

28.00%

GV phối hợp chưa thường xuyên

24.80% 27.20%

48.00%

35.00%

Do cách giáo dục giữa GVMN và PH không thống nhất

32.30% 32.70%

10.30%

16.50%

Do GV công việc nhiều áp lực, không có nhiều thời gian

73.20%

99

Biểu đồ 2.17. Những khó khăn của PH trong việc phối hợp với GVMN

để giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ

Để giáo dục KN TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi đạt hiệu quả cao đòi hỏi cần phải

sự phối hợp giữa GVMN và PH. Tuy nhiên, việc phối hợp còn gặp nhiều khó khăn

từ bảng 2.9 cho thấy CBQL và GVMN đã cho rằng những khó khăn từ phía PH là

do: “PH không có thời gian cũng như điều kiện để phối hợp” được đồng ý nhiều

nhất ở hai đối tượng và chiếm tỉ lệ % đều trên 66%, chính vì suy nghĩ của GV như

thế nên GV chưa trao đổi nhiều với PH. Khi khảo sát PH về những khó khăn của

PH trong việc phối hợp với GVMN thì nhiều PH cho rằng “GV công việc nhiều áp

lực, không có nhiều thời gian” được nhiều đồng ý chiếm tỉ lệ 73.2%. Như vậy ta có

thể thấy giữa GVMN, CBQL và PH đều có lựa chọn gần giống nhau và chiếm tỉ lệ

gần bằng nhau. Cả ba đối tượng đều đưa ra khó khăn là không có thời gian, nên dẫn

đến việc GVMN và PH chưa thường xuyên trao đổi với nhau về giáo dục KN TPV

của trẻ MG 3 – 4 tuổi.

“Việc GV và PH chưa phối hợp chưa thường xuyên” là một trong những khó

khăn được nhiều lựa chọn từ phía CBQL, GVMN và PH và chiếm tỉ lệ % khá cao,

trong đó ở mức độ đồng ý thì CBQL 66.7% , GVMN 71.8% còn ở PH chiếm 48% tỉ

lệ này chênh lệch nhiều so với GVMN và CBQL. Cho thấy giữa GVMN và PH

chưa có nhận thức giống nhau về việc cần phối hợp thường xuyên để giáo dục KN

TPV cho trẻ tốt hơn. Tuy nhiên ở khó khăn này về phía lựa chọn từ PH vẫn còn

100

nhiều phân vân và không đồng ý tổng cả 2 mức độ chiếm đến 52%, cho thấy rõ còn

nhiều PH chưa biết việc phối hợp giáo dục KN TPV cho trẻ phải thường xuyên thì

mới có hiệu quả.

“Cách giáo dục giữa PH và GV không thống nhất” nội dung này được sự

đồng ý từ phía CBQL và GVMN chiếm tỉ lệ cao đều trên 59%, cả 2 cho rằng cách

giáo dục của PH tại gia đình nếu không thống nhất với cách giáo dục của Cô sẽ ảnh

hưởng nhiều đến việc phát triển KN TPV cho trẻ. Tuy nhiên, ở nội dung này nhiều

PH lựa chọn ở mức độ phân vân và không đồng ý là chủ yếu và chiếm tỉ lệ cao nhất

ở mức độ không đồng ý có đến 35%. Từ đó, nhận thấy nhiều PH chưa nhận thức rõ

được về cách giáo dục giữa GV và PH cần phải có sự thống nhất thì mới đạt hiệu

quả. Nên thực trạng hiện nay còn nhiều GV gặp khó khăn khi phối hợp với PH để

thống nhất nội dung giáo dục trẻ.

“PH ngại giao tiếp với GV” nguyên nhân này được nhiều sự đồng ý từ phía

GVMN chiếm tỉ lệ 54%, GV cho rằng PH còn chưa trao đổi phối hợp với Cô là do

còn e ngại giao tiếp. Tuy nhiên CBQL ở mức độ không đồng ý chiếm đến 41% và

phân vân chiếm 30.8%. CBQL cho rằng PH không e ngại giao tiếp với GV. Kết quả

khảo sát ở biểu đồ cho thấy nhiều PH cho rằng GV còn e ngại giao tiếp trao đổi với

mình thể hiện rõ ở mức độ đồng ý chiếm 28% và mức độ phân vân chiếm 36.6%.

Từ đó, thấy rõ còn nhiều PH và GV cho rằng khó khăn trong việc phối hợp với nhau

là do còn e ngại giao tiếp với nhau. Vì vậy GVMN cần nâng cao kỹ năng giao tiếp,

tăng cường trao đổi thường xuyên với PH, nhằm tạo sự thân thiện, niềm tin cho PH.

Nhiều CBQL và GV còn cho rằng: “PH giao hết trách nhiệm giáo dục trẻ cho

GV” với nội dung trên được CBQL và GVMN đồng ý cả 2 chiếm trên 56% cho

thấy PH chưa quan tâm nhiều đến việc giáo dục KN TPV cho trẻ tại nhà, thường

giao các việc dạy trẻ cho GVMN và nhà trường. Khi chúng tôi phỏng vấn PH

“Anh/chị có muốn phối hợp với GV để giáo dục KN TPV cho trẻ không? Nếu có.

Anh/chị sẽ phối hợp như thế nào với GV”. Với câu trả lời có 49/77 PH muốn với

phối hợp, trong đó 16 ý kiến giống nhau từ PH là “Nhờ Cô giáo giúp đỡ và dạy cho

trẻ nhiều hơn” cho thấy PH chưa quan tâm nhiều đến việc giáo dục trẻ tại gia đình.

Như vậy, sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến việc phối hợp cùng với GVMN để giáo dục

101

KN TPV cho trẻ.

Ngoài ra, những khó khăn khác từ PH là “PH không hợp tác, bất đồng quan

điểm, không cảm thông”, được nhiều đồng ý từ GVMN chiếm đến 49.2% còn

CBQL không đồng ý chiếm tỉ lệ đến 48.7% cho thấy ở nội dung này chưa có cả 2

chưa có quan điểm giống nhau. Khi chúng tôi phỏng vấn GV “PH có sẵn lòng phối

hợp với Cô để giáo dục KN TPV cho trẻ không? Vì sao?”. Kết quả nhận được có

26/48 GVMN trả lời là PH chưa sẵn lòng. “Vì thấy PH cũng lắng nghe tiếp thu,

nhưng rồi cho qua chưa thấy sự phối hợp từ PH”(14 PH), “PH cũng có lắng nghe

tiếp thu, có hứa hẹn sẽ tập cho trẻ làm ở nhà, nhưng rồi cũng cho qua, chưa thấy sự

phối hợp” (9 PH), ngoài ra còn một số PH còn bênh vực trẻ khi GV trao đổi góp ý

và có một vài PH có tập cho trẻ làm, nhưng được vài ngày sau đó lại làm giúp cho

trẻ. Như vậy, việc giáo dục KN TPV cho trẻ vẫn chưa có sự phối hợp nhiều từ PH,

PH xem trẻ còn nhỏ, còn cưng chiều trẻ và chưa nhận thức được tầm quan trọng của

các KN TPV nên dẫn đến PH chưa hợp tác với GV. Và có nhiều “PH đòi hỏi những

yêu cầu cao ở trẻ và không nhận thức đúng về khả năng của trẻ” được nhiều đồng ý

từ GVMN và CBQL đều chiếm tỉ lệ trên 43%, cho thấy vẫn có một số PH đòi hỏi ở

trẻ nhưng lại không có sự phối hợp với GVMN.

“GVMN chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc phối hợp với PH để giáo dục

kỹ năng cho trẻ” kết quả khảo sát cho thấy có nhiều PH không đồng ý với nội dung

này chiếm đến 40.9%. Tuy nhiên, khi phỏng vấn GVMN chúng tôi nhận được câu

trả lời gần giống nhau từ một số GV: “Có trao đổi với PH về trẻ và nhờ PH giúp đỡ

nhưng không thấy PH thực hiện, thấy trẻ cũng không tiến bộ, có trao đổi mà PH

cũng vậy, nên cũng đành chấp nhận, không biết làm sao nữa”. Điều đó cho thấy

vẫn còn một số GV chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc trao đổi cũng như phối

hợp với PH để giáo dục KN TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi, nên GV thường chấp nhận

thực tế của trẻ.

Như vậy, nhìn chung bảng 2.9 và biểu đồ 2.17 cho thấy những khó khăn của

GVMN và PH trong việc phối hợp cùng nhau để giáo dục trẻ và là cơ sở cần xem

xét để đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả phối hợp giữa GVMN với

PH trẻ trong việc giáo dục KN TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi. Với những kết quả phân

102

tích như trên đã làm rõ thực trạng về những khó khăn về phía GV và PH tác động

đến hiệu quả phối hợp giữa GVMN với PH. Vì vậy, để giải quyết thực trạng cần có

các biện pháp phát huy hết các yếu tố thuận lợi và giảm bớt các yếu tố gây khó khăn

từ các lực lượng phối hợp để tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho việc phối hợp đạt

hiệu quả cao hơn.

2.3. Đề xuất một số biện pháp nâng cao phối hợp giữa GV và PH trong việc

giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi

2.3.1. Cơ sở đề xuất biện pháp

Căn cứ vào những cơ sở lí luận đã trình bày ở chương I và chúng tôi quan tâm

nhiều đến các vấn đề về sự phối hợp giữa GV và PH trong việc giáo dục KN TPV

cho trẻ MG 3 – 4 tuổi như: Nội dung, phương pháp, hình thức từ đó làm cơ sở cho

việc đề xuất các biện pháp.

Dựa vào kết quả thực trạng phối hợp giữa GV và PH trong việc giáo dục KN

TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi ở một số trường MN tại TP.HCM cho thấy mức độ phối

hợp giữa GV và PH và kết quả KN TPV của trẻ chưa cao. Do đó rất cần các biện

pháp tác động để nâng cao hiệu quả phối hợp giữa GV với PH để giáo dục KN TPV

cho trẻ MG 3 – 4 tuổi.

Từ những cơ sở trên chúng tôi nhận thấy việc đề xuất một số biện pháp để

nâng cao hiệu quả phối hợp giữa GV với PH để giáo dục KN TPV cho trẻ MG 3 – 4

tuổi là điều rất cần thiết.

2.3.2. Một số biện pháp nâng cao phối hợp giữa GV và PH trong việc giáo dục

kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi

Biện pháp 1: Giáo viên tổ chức các hoạt động giáo dục kỹ năng tự phục

vụ và mời phụ huynh tham gia

a. Mục đích: Nhằm giúp PH hiểu rõ hơn về những nội dung, hình thức và cách

giáo dục của Cô tại lớp. PH biết được khả năng của con em mình đã làm được tốt

hay chưa tốt ở những KN TPV nào và tham gia cùng với trẻ để thực hiện KN TPV

tại lớp. Từ đó PH hỗ trợ phối hợp cùng với GV để giúp trẻ tiến bộ hơn.

b. Thời gian thực hiện: Những KN TPV trên chúng tôi chia làm 2 học kỳ. Mỗi

học kỳ sẽ gồm 4 – 6 KN (tùy vào tiến độ của từng lớp mà các lớp sẽ có kế hoạch

103

giáo dục khác nhau). Một học kỳ sẽ mời PH vào 2,3 lần vào tham gia cùng trẻ. Tùy

vào kế hoạch của các Cô và sắp xếp thời gian chính xác để mời PH.

c. Cách tiến hành:

Ví dụ: Cô tổ chức các hoạt động giáo dục KN TPV như sau:

- Hoạt động: Giáo dục kĩ năng tự phục vụ

-Thời gian bắt đầu: 8h00 . PH ngồi dự giờ dạy của Cô.

Hoạt động 1: Giáo dục kỹ năng rửa tay

Cô kể chuyện cho trẻ nghe về câu chuyện sáng tạo về “Sóc con bị ốm”, câu

chuyện kể về bạn sóc ham chơi, không chịu nghe lời mẹ vệ sinh đôi tay của mình

trước khi ăn, để tay bẩn ăn nên bạn sóc đã bị ốm.  Từ đó rút ra các con chúng ta

phải nên rửa tay sạch sẽ trước khi ăn. Sau đó cô hướng dẫn 6 bước về rửa tay cho

các trẻ. (Quy trình rửa tay 6 bước cho trẻ mầm non của Bộ y tế), (Cô giáo còn lại sẽ

phát cho PH tờ bướm có ghi 6 bước rửa tay và có hình ảnh để cho PH nắm bắt nội

dụng dạy cho trẻ). Cô làm mẫu các trẻ xem, Cô đưa hình ảnh của các bước rửa tay,

Cô làm và chỉ vào từng hình phân tích từng thao tác, các trẻ quan sát lắng nghe làm

theo Cô từng bước. Cô quan sát các trẻ làm, trẻ nào làm chưa đúng thì chỉnh sửa

cho trẻ. Cô mời một số trẻ đứng lên và thực hiện các thao tác rửa tay, có sự hướng

dẫn và nhắc nhở của Cô. Sau đó, Cô mời từng trẻ vào rửa tay (Cô đã chuẩn bị sẵn:

xà phòng và bồn nước sạch sẽ sẵn) và Cô mời PH của từng trẻ vào quan sát trẻ rửa

tay và hướng dẫn, nhắc nhở con em mình thực hiện theo các bước rửa tay. Một Cô

quản lí lớp và Cô còn lại ở phía trong quan sát trẻ và PH để hỗ trợ khi cần thiết. Cô

quan sát các trẻ làm được các bước theo sự hướng dẫn, hỗ trợ của PH thì cho các trẻ

và PH vào bên trong, và cho các trẻ khác vào thay phiên thực hiện.

Hoạt động 2: Giáo dục kỹ năng xúc ăn

Cô cho các trẻ ngồi vào bàn, Cô tạo hình huống các trẻ rửa tay rất giỏi nên

Cô sẽ thưởng cho các bạn bánh, mỗi bạn sẽ dùng muỗng xúc bánh ăn. Cô hướng

dẫn các trẻ KN xúc ăn. Cô chỉ trẻ cách cầm muỗng đúng cách, cách cầm chén khi

xúc thức ăn và cách khi đưa thức ăn vào miệng. Nếu thức ăn rơi ra bàn thì nhặt thức

ăn rơi bỏ vào đĩa đựng thức ăn rơi. (Cô có sử dụng đồ dùng: muỗng, chén/bát, đĩa).

Cô làm mẫu. Sau đó Cô làm lại từng thao tác vừa làm vừa hướng dẫn làm chậm cho

104

trẻ quan sát. Cô cho trẻ thực hiện từng thao tác trên muỗng và chén/bát, Cô và PH

cùng quan sát chỉnh sửa cho trẻ. Sau đó Cô phát cho các trẻ ăn và nhờ PH tham gia

cùng trẻ, quan sát, nhắc nhở chỉ dẫn trẻ xúc ăn đúng thao tác (không làm hộ trẻ).

Sau khi ăn xong Cô nhắc nhở các trẻ cất chén/bát, Cô đứng gần chỗ để chén/bát

nhắc nhở trẻ để chén/bát và muỗng vào đúng vị trí (1 bên để chén/bát – 1 bên để

muỗng) PH quan sát và nhắc nhở con em mình thực hiện.

Hoạt động 3: Giáo dục kỹ năng lấy nước uống

Sau khi các trẻ vào bàn ngồi, Cô hướng dẫn các trẻ cách cầm ly/cốc và tự lấy

nước uống. Các trẻ phải lấy đúng ly/cốc của mình (có ký hiệu riêng), xếp hàng, cầm

ly/cốc đúng cách và bấm/nhấn nút để lấy nước, nên bấm/nhấn nhẹ không quá mạnh

nước sẽ văng ra ngoài, lấy đủ nước uống (Cô có thể kẻ vạch), không để nước tràn ra

ngoài. Khi uống xong ly/cốc để vào trong thùng/xô đựng ly/cốc. Cô cho từng trẻ

xếp hàng vào lấy nước uống cho PH quan sát và nhắc nhở hướng dẫn con em của

mình khi thực hiện.

Điều kiện: Phòng óc sạch sẽ thông thoáng, bàn ghế đầy đủ cho số lượng PH

và trẻ. Trang bị đầy đủ một số tờ bướm, giấy, bút và một số đồ dùng trực quan minh

họa… Chuẩn bị đồ dùng đầy đủ để cho trẻ được tham gia thực hiện.

Và một số kỹ năng còn lại có thể gửi về cho PH để nhờ PH phối hợp giáo dục

tại gia đình như:

 Kỹ năng mang giày/dép đúng

Bước 1: Người lớn sử dụng phương pháp làm mẫu và hướng dẫn trẻ thực hiện

mang giày/dép cho đúng, hướng dẫn trẻ phân biệt giày/dép trái – phải có thể thông

qua ký hiệu trên dép.

- Một số cách giúp trẻ phân biệt giày/dép trái – phải để mang đúng.

Cách 1: Trên giày/dép của trẻ có hình con mèo hoặc con vật nào đó, ta có thể dựa

vào hình có sẵn trên giày/dép của trẻ, nếu hình 2 con mèo đang nhìn mặt nhau là

con mang đúng và ngược lại là sai.

105

Mang đúng

Mang sai

Cách 2: Nếu giày/dép của trẻ không có ký hiệu gì để dễ phân biệt giày/dép trái –

phải thì chúng ta có thể cắt đôi miếng sticker hoặc một hình ảnh trẻ thích, 1 nửa trái

dán vào giày/dép trái, 1 nửa phải dán vào giày/dép phải ở vị trí mép trong của 2 bàn

chân. Khi trẻ đặt giày/dép đúng, 2 nửa miếng sẽ tạo thành hình ảnh trẻ thích. Nếu

đặt sai sẽ không tạo ra hình ảnh đúng. Người lớn nên cho con được lựa chọn những

hình ảnh mà con yêu thích để con dễ nhận diện dễ dàng hơn.

Cách 3: Người lớn có thể dùng bút vẽ kí hiệu mũi tên thay cho miếng dán. 2 mũi

tên hướng vào nhau là đúng, ngược lại là sai.

Cách 4: Người lớn có thể vẽ 1 hình ở ngoài giày/dép tương ứng vị trí 2 ngón chân

cái, chỉ cần đặt giày/dép sao cho 2 hình chạm vào nhau là trẻ sẽ xỏ chân đúng.

Cách 5: Sử dụng bút đánh dấu hoặc vẽ tay một hình như: Một chấm lớn/hình con

vật trên đế giày của trẻ. Vẽ 1 nửa hình dạng hoặc 1 nửa con vật trong mỗi chiếc

giày/dép để toàn bộ hình dạng/hình ảnh khi kết hợp với nhau đúng thì tạo thành 1

106

hình hoàn chỉnh. Hoặc có thể vẽ mặt cười ở bên ngoài đế giày/dép của trẻ và mang

đúng là khi 2 đế giày cạnh nhau và tạo thành hình mặt cười.

Cách 6: Ghim đôi giày lại với nhau. Có thể sử dụng cho giày có đế mềm/mờ, ủng

đi mưa mà trẻ không thể nhìn thấy đế bên trong, hoặc cho giày có đế thấp. Có thể sử

dụng ghim/kẹp để ghim theo từng đôi lại với nhau, chúng ta có thể đặt lại đôi giày

sau khi trẻ tháo chúng ra và gắn chúng lại với nhau để giày bên trái và bên phải.

Cách này có thể thực hiện được ở trường/ở nhà. Cách này sẽ giúp trẻ dễ dàng mang

giày đúng hơn.

Người lớn làm hướng dẫn chậm rãi, rõ ràng, chỉ dẫn ân cần để trẻ quan sát được

trọn vẹn.

Bước 2: Sau khi trẻ phân biệt được giày/dép trái – phải, thì cho trẻ 1 chân xỏ

vào giày/dép cùng bên và 1 chân còn lại xỏ vào chiếc còn lại.

 Cho trẻ thực hiện bắt chước làm theo cách mà người lớn đã hướng dẫn. Quan sát

và hướng dẫn trẻ làm. Nếu trẻ làm sai – người lớn cần động viên trẻ tự sửa sai.

Nếu trẻ thực hiện đúng – người lớn cần khen ngợi, khuyến khích trẻ.

 Cần cho trẻ thực hành thường xuyên trong ngày, có thể buổi sáng trẻ tự mang

giày/dép để đi học hoặc trẻ sẽ tự mang khi đi ra ngoài, cho trẻ tự làm ở mọi lúc

mọi nơi, người lớn nhắc nhở trẻ thực hiện không làm thay trẻ.

107

 Kỹ năng đi vệ sinh

Trẻ MG 3 – 4 tuổi đa phần các trẻ có thể đi vệ sinh theo nhu cầu của mình, tuy

nhiên việc đi vệ sinh của trẻ vẫn còn phụ thuộc vào người lớn và có sự nhắc nhở

thường xuyên như: Cởi quần, mặc quần, đi đúng nơi quy định và nhấn/gạt dội nước

sau khi đi vệ sinh. Như vậy, người lớn cần giáo dục và hướng dẫn trẻ thực hiện tại

gia đình/ở trường nhiều hơn, để trẻ có thể tự thực hiện thành thạo hơn.

Để tập trẻ tự lập trong việc đi vệ sinh một cách dễ dàng hơn người lớn cần

chuẩn bị cho trẻ: Mặc quần hơi rộng, lưng thun, không quá dài để cho trẻ dễ dàng

khi cởi ra và mặc vào, kéo quần lên. Ghế để leo lên bệ xí (nếu bệ xí cao) và bệ xí

nhỏ cho trẻ.

Ở kỹ năng này người lớn cần làm mẫu, hướng dẫn kèm cặp trẻ đi vệ sinh từ từ,

thường xuyên nhắc nhở trẻ thực hiện để trẻ được tập luyện thường xuyên.

Bước 1: Kéo quần xuống đến đầu gối.

Bước 2: Ngồi xuống vào giữa bồn cầu. Thường bồn cầu ở gia đình thường cao

và to hơn khi ở trường nên người lớn cần chuẩn bị 1 chiếc ghế nhỏ để trẻ dễ dàng

leo lên và sử dụng thêm thiết bị hỗ trợ đi vệ sinh dành cho trẻ. Sau đó chỉ trẻ cách

vịn để không bị té ngã. Người lớn chỉ trẻ cách đi vệ sinh theo đúng giới tính bạn trai

(đi đại tiện – ngồi lên bồn cầu, đi tiểu tiện – đi tư thế đứng – đứng sát gần bồn cầu

chú ý để nước tiểu không văng ra ngoài), bạn gái (đi đại tiện và tiểu tiện đều ngồi

lên bồn cầu – ngồi ở giữa).

Bước 3: Khi đã đi xong, đứng dậy (vịn bước xuống ghế) kéo quần lên, chỉnh

sửa quần ngay ngắn. (Nếu đi đại tiện thì gọi Cô giúp đỡ lau đít).

Bước 4: Nhấn nút/gạt nước để dội nước.

Bước 5: Rửa tay với xà phòng sau khi đi vệ sinh

- Khi trẻ thực hiện được các bước người lớn nên khen ngợi, khuyến khích trẻ.

Ví dụ: Con yêu của ba/mẹ giỏi quá, mẹ rất tự hào về con.

- Nếu trẻ không làm được thì động viên trẻ, hướng dẫn và làm cùng trẻ.

Ví dụ: Con đã cố gắng rồi, con đã biết tự kéo quần của mình xuống, ba/mẹ rất

tự hào vì con biết ngồi trên bệ xí nhà vệ sinh.

108

Lưu ý: Khi trẻ mới thực hiện các trẻ chưa thành thạo người lớn nên quan sát,

nhắc nhở, hướng dẫn trẻ, để tránh một số tai nạn rủi ro có thể xảy ra ở trẻ như:

Trượt, té, ngã, ướt quần, ướt mình … Khi thấy trẻ thực hiện tốt, người lớn có thể

cho trẻ tự đi một mình và không cần sự giám sát của người lớn. (Shoji Masako,

2018)

 Kỹ năng mặc quần

Cách 1: Dành cho trẻ mới bắt đầu.

Người lớn làm mẫu từng bước cho trẻ xem, sau đó cho trẻ thực hiện, vừa làm

vừa hướng dẫn, kèm cặp làm cùng trẻ.

Bước 1: Trẻ cầm quần và quan sát, phân biệt được mặt trước – mặt sau quần.

(Người lớn chỉ cho trẻ mặt trước có hình – mặt sau không có hình hoặc có túi). Sau

đó, cho trẻ cầm quần trải thẳng ra sàn sao cho mặt trước quần ở trên.

Bước 2: Ngồi xuống trước cạp quần.

Bước 3: Ngồi, dùng 2 tay cầm cạp quần và xỏ một chân vào ống quần cùng bên.

Sau đó xỏ tiếp chân tiếp theo vào ống quần còn lại (hoặc có thể xỏ 2 chân cùng một

lúc).

Bước 4: Ngồi và dùng 2 tay kéo quần lên cho đến khi trẻ thấy bàn chân của mình

thò ra. Sau đó đứng dậy 2 tay kéo quần lên đến ngay thắt lưng.

Bước 5: Dùng tay kéo khóa quần, cài khuy quần hoặc bấm khuy quần (bước này

khó người lớn có thể hỗ trợ và giúp trẻ thực hiện từ từ). Chỉnh sửa quần ngay ngắn

Cách 2: Dành cho trẻ đứng vững

Người lớn làm mẫu từng bước cho trẻ xem, sau đó cho trẻ thực hiện, vừa làm

người lớn vừa hướng dẫn, kèm cặp làm cùng trẻ.

Bước 1: Trẻ đứng vững, 2 tay cầm cạp quần phân biệt mặt trước – mặt sau (mặt

trước có hình – mặt sau không có hình hoặc có túi). Sau đó để mặt trước của quần

hướng về phía trước.

Bước 2: Trẻ đứng vững, 2 tay cầm quần và xỏ 1 chân vào ống cùng bên, và xỏ 1

ống tiếp theo vào ống quần còn lại.

Bước 3: Dùng 2 tay nắm cạp quần kéo lên đến ngay thắt lưng.

109

Bước 4: Dùng tay kéo khóa quần, cài khuy quần hoặc bấm khuy quần (bước này

khó người lớn có thể hỗ trợ và giúp trẻ thực hiện từ từ). Chỉnh sửa quần ngay ngắn.

Lưu ý:

Khi chọn quần cho trẻ, người lớn nên chọn quần rộng, lưng thun và quần có

mặt trước – sau rõ ràng để trẻ dễ phân biệt. (Ví dụ: Người lớn có thể chọn quần

thun, lưng thun, ống rộng, không quá dài và phía trước quần có hình con vật – phía

sau không có hình hoặc có thể là 2 túi to ở phía sau… để trẻ dễ phân biệt và dễ

mặc).

Khi mới thực hiện chưa thành thạo người lớn nên quan sát, nhắc nhở, hướng

dẫn trẻ khi cần thiết, để tránh té, ngã gây ra cảm giác khó chịu cho trẻ. Khi thấy trẻ

thực hiện tốt, người lớn có thể cho trẻ tự làm một mình và không cần sự giám sát

của người lớn.

- Khi trẻ thực hiện được các bước người lớn nên khen ngợi, khuyến khích trẻ.

Ví dụ: Con yêu của ba/mẹ giỏi quá,rất tuyệt ba/mẹ rất tự hào về con.

- Nếu trẻ không làm được thì động viên trẻ, hướng dẫn trẻ làm lại hoặc làm cùng

trẻ.

Ví dụ: Con đã cố gắng rồi, con giỏi lắm! con đã biết phân biệt mặt trước – mặt

sau quần của mình, ba/mẹ rất yêu con và tự hào về con, Cố lên lần sau thực hiện

tốt hơn con nhé!

 Kỹ năng mặc áo

Người lớn làm mẫu từng bước cho trẻ xem, sau đó cho trẻ thực hiện, vừa làm

vừa hướng dẫn, kèm cặp làm cùng trẻ.

Cách 1: Chui đầu vào trước

Bước 1: Trẻ đứng, 2 tay cầm áo lên và quan sát. Chỉ trẻ phân biệt được mặt trước

– mặt sau của áo (mặt trước áo thường có hình hoặc có nút cài để nhận biết). Sau

đó, 2 tay cầm vạt áo sao cho mặt trước của áo úp xuống sàn (nền nhà).

Bước 2: Hai tay cầm áo và chui đầu vào cổ áo. Sau đó kéo cổ áo qua đầu mình.

Bước 3: Một tay giữ áo, 1 tay xỏ vào tay áo cùng bên. Và xỏ tiếp tay áo còn lại

vào tay cùng bên.

Lưu ý: Khi xỏ tay vào áo cần để ý mặt trước của áo đã đúng chưa.

110

Bước 4: Hai tay nắm kéo áo xuống qua bụng. Chỉnh sửa áo ngay ngắn.

Cách 2: Xỏ 2 tay vào trước

Bước 1: Trẻ đứng, 2 tay cầm áo lên và quan sát. Chỉ trẻ phân biệt được mặt

trước – mặt sau của áo (mặt trước áo thường có hình hoặc có nút cài để nhận

biết). Sau đó, 2 tay cầm vạt áo sao cho mặt trước của áo úp xuống sàn (nền nhà).

Bước 2: Hai tay cầm áo, nắm kéo áo xỏ 2 tay vào 2 tay áo. (Lưu ý khi xỏ tay

vào áo cần để ý mặt trước của áo đã đúng chưa)

Bước 3: Hai tay cầm áo và chui đầu vào cổ áo. Sau đó kéo cổ áo qua đầu

mình.

Bước 4: Hai tay nắm kéo áo xuống qua bụng. Chỉnh sửa áo ngay ngắn.

Lưu ý:

Khi chọn áo cho trẻ, người lớn nên chọn áo thun đơn giản, có hình phía trước

áo, phom hơi rộng, không có cúc cài để trẻ dễ phân biệt và thực hiện. (Ví dụ: Người

lớn có thể chọn áo thun hơi rộng và có hình đơn giản phía trước áo, phía sau không

có hình).

Khi trẻ mới thực hiện còn nhiều khó khăn người lớn nên quan sát, nhắc nhở,

hướng dẫn trẻ khi cần thiết, để tránh một số vấn đề có thể xảy ra ở trẻ như: Vướn

vếu tóc, hoặc bông tai của trẻ gây ra cảm giác khó chịu cho trẻ. Khi thấy trẻ thực

hiện tốt, người lớn có thể cho trẻ tự làm một mình và chỉ cần sự giám sát và động

viên của người lớn.

- Khi trẻ thực hiện được các bước người lớn nên khen ngợi, khuyến khích trẻ.

Ví dụ: Con yêu của ba/mẹ giỏi quá, rất tuyệt ! ba/mẹ rất tự hào về con ba mẹ sẽ

thưởng cho con vì hôm nay con rất giỏi.

- Nếu trẻ không làm được thì động viên trẻ, hướng dẫn và làm cùng trẻ.

Ví dụ: Con của ba/mẹ rất giỏi, hôm nay con đã có thể tự phân biệt mặt trước –

mặt sau của áo và con có thể tự xỏ tay vào mặc áo, tuy vẫn còn hơi chậm

nhưng con cố gắng lên nhé! Con sẽ làm tốt được mà!.

 Kỹ năng lau mặt

Người lớn làm mẫu từng bước cho trẻ xem, sau đó cho trẻ thực hiện, trẻ vừa

làm người lớn vừa hướng dẫn, kèm cặp làm cùng trẻ, chỉ dẫn từng bước.

111

Đầu tiên, cho trẻ rửa tay thật sạch, phần khăn lau cũng phải được giặt sạch sẽ,

đảm bảo vệ sinh. Người lớn hướng dẫn trẻ trải khăn lên trên 2 lòng bàn tay của

mình, hơi thụt vào bên trong cổ tay một chút. (Nếu trẻ chưa làm được, người lớn hỗ

trợ hướng dẫn và chỉnh sửa khăn cho trẻ).

Bước 1: Trẻ dùng 2 ngón trỏ bàn tay của mình luồn vào khăn, lau 2 mắt từ ngoài

vào trong.

Bước 2: Tiếp tục nhích khăn lên, chọn vùng còn sạch để lau sống mũi. Sau đó,

nhích khăn lên để lau miệng và nhích khăn lên chỗ sạch để lau cằm.

Bước 3: Gấp đôi khăn lại, 1 nữa của khăn lau 1 bên má và trán phải, nữa còn lại

thì lau bên má và trán bên trái (có thể lau má trái trước cũng được).

Bước 4: Tiếp tục, bắt đầu gấp đôi khăn lại tiếp, để lau phần sau gáy và cổ.

Bước 5: Cuối cùng, gấp đôi khăn lại lau phần tai và vành tai.

Lưu ý:

Nếu lau lỗ mũi và lỗ tai thì 2 bộ phận này dùng góc khăn lau để lau.

Cần đảm bảo da mặt trẻ luôn được tiếp xúc với phần khăn sạch. Nên việc

nhích vị trí khăn, gấp khăn phải quan sát và làm đúng, tránh dùng phần khăn đã lau

trước đó lau lại trên mặt trẻ.

 Kỹ năng chuẩn bị chỗ ngủ (lấy gối, lấy nệm/chiếu/phụ cô lấy giường

ngủ…)

Chuẩn bị: Gối nhỏ của trẻ, tấm nệm/chiếu/giường nhỏ cho trẻ.

Người lớn làm mẫu từng bước cho trẻ xem, sau đó cho trẻ thực hiện, vừa làm

vừa hướng dẫn, kèm cặp làm cùng trẻ, chỉ dẫn từng bước.

Bước 1: Hướng dẫn trẻ dùng 2 tay cầm lấy nệm/chiếu/giường mang ra chỗ cần

nằm, ở nhà người lớn có thể chuẩn bị cho trẻ 1 tấm nệm mỏng/tấm thảm mỏng. Ở

trường thường sẽ có giường cho trẻ nằm ngủ. Nếu hơi to và nặng có thể chỉ trẻ cầm

bằng 2 tay và kéo.

Bước 2: Trẻ đặt nệm/chiếu/giường xuống chỗ gần nằm. Người lớn chỉ dẫn trẻ

(phân biệt mặt trên – dưới) và cách trải nệm/chiếu ra sàn, dùng tay chỉnh sửa lại cho

ngay (phần chỉnh này hơi khó so với trẻ, nên người lớn cần kèm cặp làm cùng trẻ

chỉ dẫn trẻ từ từ mới làm được).

112

Bước 3: Trẻ lấy gối. Người lớn hướng dẫn trẻ lấy đúng gối của mình (có ký

hiệu riêng trên gối) và cầm lấy gối bằng 2 tay. Sau đó mang đến và 2 tay cầm đặt

nhẹ gối xuống. Đặt ở phía trên nệm/chiếu/giường sau đó nằm xuống.

Sau khi trẻ ngủ dậy người lớn nhắc nhở, hướng dẫn trẻ tự dọn dẹp chỗ ngủ của

mình, hướng dẫn trẻ cầm nệm/chiếu/giường và gối bằng 2 tay và mang đến chỗ ban

đầu mà mình đã lấy. (Nếu là chiếu/tấm trải mỏng thì người lớn hướng dẫn trẻ cuốn

lại, gấp lại cho gọn rồi mới mang đến). Người lớn quan sát, nhắc nhở đồng thời khi

trẻ mang đến thì người lớn sắp xếp lại cho gọn gàng. Nhắc nhở trẻ quan sát khi

người lớn làm.

 Kỹ năng lấy và cất đồ dùng, đồ chơi sau khi sử dụng và sau khi chơi

1. Người lớn cố định vị trí đồ chơi

Người lớn sẽ phải bỏ đi một số đồ chơi không cần thiết của trẻ. Người lớn hãy

quan sát xem những món đồ nào con trẻ thường bỏ bê ít chơi, không chạm vào

trong một tuần và cất nó đi. Những đồ chơi trẻ thường xuyên chơi, người lớn hãy

đặt chúng trên kệ, mỗi vật ở một vị trí rõ ràng và kệ đặt đồ không quá nhiều thứ,

không lộn xộn, rối rắm.

Người lớn chỉ dẫn cho trẻ những khu vực để từng loại đồ chơi, và yêu cầu trẻ

khi chơi xong nhớ đặt đúng lại vị trí ban đầu mà con đã lấy.

2. Làm gương cho trẻ

Nếu người lớn muốn trẻ tự dọn dẹp đồ chơi, cách tốt nhất chính người lớn hãy

làm gương cho trẻ. Hãy cùng trẻ dọn đồ chơi sau khi chơi từ khi trẻ còn nhỏ. Lúc

đầu, người lớn có thể phải thực hiện một mình, nhưng dần dần người lớn có thể

nhường lại công việc cho trẻ, khuyến khích trẻ tự dọn dẹp đồ chơi. Trẻ thường thích

dọn đồ chơi nếu đó là công việc cùng làm với người lớn như: Ba/mẹ, cô giáo hơn là

một nhiệm vụ bị ép buộc. Đồng thời người lớn thường xuyên nhắc nhở trẻ dọn dẹp

đồ chơi để đúng nơi quy định.

3. Đặt quy định rõ ràng

Người lớn hãy đặt ra một số quy định cho trẻ về việc dọn dẹp đồ chơi. Tiếp

đó, luôn thực hiện quy định đó để trẻ thấy được tính chất quan trọng của yêu cầu.

Người lớn cần thể hiện rõ cho trẻ biết, có được phép để đồ chơi bừa bãi qua đêm

113

không hay phải dọn tại một thời điểm. Tuy nhiên, hãy đặt ra ít quy định mà tập

trung vào việc kiên định thực thi.

Ví dụ: Người lớn có thể quy định, dặn dò trẻ trước khi chơi phải cam kết sau

khi chơi xong thì phải dọn dẹp đồ chơi đúng nơi quy định. Nếu không lần sau sẽ

không được chơi.

4. Biến việc dọn dẹp thành trò chơi

Người lớn cũng có thể biến việc dọn dẹp thành một trò chơi. Người lớn thử áp

dụng những trò chơi đơn giản như: Đố trẻ cất hết đồ chơi màu đỏ vào giỏ hoặc cất

hết miếng ghép hình vào xô… Có thể trẻ sẽ dọn dẹp trong sự vui vẻ và dần dần

nhanh chóng hình thành thói quen dọn dẹp sau khi chơi cho trẻ.

5. Cho trẻ thấy những kết quả tích cực sau khi dọn đồ

Người lớn hãy đưa ra yêu cầu trẻ dọn đồ và kèm theo kết quả tích cực để tạo

động lực thúc đẩy trẻ thực hiện. Điều này giúp trẻ chuyển đổi tinh thần chơi sang

những công việc tiếp theo, tạo sự háo hức mong đợi.

Ví dụ: Thay vì nói “Sẽ không đi chơi cho đến khi đồ chơi của con chưa được

dọn sạch”, người lớn có thể nói: “Sau khi con cất đồ chơi xong, chúng ta có thể đi

chơi cùng với nhau…”.

6. Chờ đến khi trẻ nghỉ chơi

Không ai thích bị gián đoạn khi đang tập trung, trẻ cũng vậy. Người lớn hãy

cố gắng đợi cho đến khi trẻ dừng chơi để yêu cầu chúng dọn dẹp. Trẻ thường dọn

dẹp sau khi nghỉ chơi nhanh hơn khi đang chơi và bị người lớn nhắc nhở dọn dẹp.

Nếu buộc phải gián đoạn giờ chơi của trẻ, hãy giúp đỡ trẻ dọn dẹp đồ chơi.

Lưu ý chung: Đối với một số trẻ đã học tại trường nhưng vẫn chưa thực hiện

được thì người lớn cần hướng dẫn lại các bước và cho trẻ thực hiện lại từng bước

cho trẻ nhớ. Đối với trẻ đã thực hiện được một vài bước, còn quên, thì người lớn

cần quan sát xem trẻ còn thiếu bước nào, chưa tốt ở bước nào thì người lớn nhắc

nhở, chỉ dẫn trẻ làm cho tốt hơn. Và luôn luôn tạo điều kiện, khuyến khích động

viên trẻ để trẻ được thực hiện ở mọi lúc mọi nơi. (Tú Anh, 2019)

114

Biện pháp 2: Giáo viên tăng cường tuyên truyền về lợi ích cũng như cách

giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi

a. Mục đích: Tuyên truyền những lợi ích trước mắt và lâu dài về KN TPV cho

trẻ MG 3 – 4 tuổi đến PH và giúp cho PH có nhận thức tốt hơn, cùng phối hợp để

giáo dục KN TPV cho trẻ tại gia đình. Đồng thời, tuyên truyền một số cách giáo dục

KN TPV cho trẻ tại gia đình.

b. Tiến hành: GVMN tăng cường chia sẻ những thông tin về giáo dục KN

TPV và lợi ích khi trẻ thực hiện được các KN TPV lên bảng tin của lớp bằng những

hình ảnh, tài liệu, những tờ poster, tờ bướm có hình ảnh và chữ, gửi về cho PH xem

và các câu khẩu hiệu về KN TPV ngắn gọn nhưng xúc tích dễ hiểu, dễ nhớ để PH

dễ nhớ và phối hợp thực hiện.

Các câu khẩu hiệu:

 “Con đường đi đến sự trưởng thành của mỗi đứa trẻ bắt đầu từ sự tự lập của

bản thân”

 “Hãy giúp trẻ được tự lập bằng cách cho trẻ tự thực hiện những kỹ năng để

phục vụ bản thân”

 “Gia đình, nhà trường sẽ là nơi giúp trẻ trưởng thành nếu chúng ta xây dựng

cho trẻ một môi trường giàu tính tự lập”

 “Giáo dục kỹ năng tự phục vụ được xem là bước đầu tiên cho thấy sự trưởng

thành của mỗi đứa trẻ”.

 “Kỹ năng tự phục vụ là những kỹ năng cần thiết và quan trọng của mỗi đứa

trẻ, giúp trẻ được độc lập, tự tin và phát triển năng lực của bản thân”.

 “Hãy yêu thương trẻ bằng cách cho chúng được tự lập và trải nghiệm”

 “Hãy giúp bé phát triển bằng cách để chúng tự làm những kỹ năng tự phục

vụ trong khả năng của chính mình”

 “Những kỹ năng tự phục vụ sẽ được phát triển mạnh mẽ nếu có sự phối hợp

giữa phụ huynh và nhà trường”

Một số tài liệu tuyên truyền: Xem ở phần phụ lục 12

Một số hình thức tuyên truyền:

115

 GV tuyên truyền lên bảng thông báo, bảng tin của lớp, của trường (hình ảnh,

poster, clip… ).

 GV chủ động trao đổi trực tiếp thường xuyên với PH về tình hình của trẻ.

 GV tuyên truyền qua cuộc họp, sổ bé ngoan.

 GV tuyên truyền qua loa phát thanh trong nhà trường.

 GV mời PH đến tham gia cùng trẻ.

Biện pháp 3: Giáo viên thường xuyên trao đổi trực tiếp với phụ huynh về

tình hình giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ và cách giáo dục trẻ tại nhà

a. Mục đích: Theo dõi tình hình PH giáo dục KN TPV cho trẻ tại gia đình, từ

đó nắm bắt được những KN nào trẻ thực hiện chưa tốt, những nguyên nhân dẫn đến

trẻ chưa thực hiện tốt. Để GVMN có những cách giáo dục cho phù hợp và hướng

dẫn, nhắc nhở PH phối hợp cùng nhau giáo dục KN TPV cho trẻ tại gia đình.

b. Tiến hành:

GVMN thường xuyên trao đổi trực tiếp với PH qua giờ đón – trả trẻ hoặc trao

đổi qua mạng xã hội, điện thoại… về tình hình KN TPV của trẻ tại lớp.

Ví dụ: Trẻ làm tốt KN mặc quần nhưng KN mặc áo thì còn chưa tốt, trẻ còn

nhầm lẫn khi phân biệt mặt trước – mặt sau của áo, còn khó khăn khi mặc áo vào,

còn vướn tay áo, cổ áo. Nhờ PH giúp về nhà cần chuẩn bị cho con áo thun có hình

ảnh đơn giản dễ phân biệt, hơi rộng, và PH chỉ trẻ phân biệt mặt trước – sau của áo

(mặt trước có hình – mặt sau không có, hoặc mặt sau có mạc ngay cổ áo – mặt trước

áo không có). Sau đó, chỉ trẻ cách tròng áo vào theo các bước, vừa làm vừa hướng

dẫn trẻ, PH nên cho trẻ làm thường xuyên ở mọi lúc mọi nơi, không làm hộ trẻ chỉ

hổ trợ hướng dẫn trẻ. PH có gặp khó khăn hay thắc mắc gì thì trao đổi với Cô để Cô

giúp đỡ.

Sau đó, GV trao đổi với PH để nắm tình hình khi PH dạy cho trẻ ở nhà. Những

khó khăn và thuận lợi trong quá trình PH dạy cho trẻ tại nhà.

Ví dụ: Khi dạy cho trẻ PH có gặp khó khăn gì không? ( Nếu có. Thì khó khăn

đó là gì?). KN đó trẻ làm được không? (Nếu không. Thì PH nghĩ là tại sao trẻ nhà

mình không làm được? PH đã dạy KN đó ở nhà cho trẻ như thế nào? Trẻ đã làm ra

sao? Chưa được ở bước nào?). (Nếu có. Ở nhà PH đã dạy KN đó cho trẻ như thế

116

nào? Và cho trẻ làm khi nào, ở đâu?)...Từ đó, GV nắm được những khó khăn của

PH và tìm cách giúp PH khắc phục khi dạy KN TPV cho trẻ tại nhà.

GVMN luôn là người chủ động trao đổi trực tiếp với PH về tình hình các KN

TPV của trẻ. Hướng dẫn PH làm mẫu các bước, cách quan sát trẻ và kèm cặp lúc trẻ

làm. Thường xuyên nhắc nhở PH kiên nhẫn để trẻ tự làm, khuyến khích động viên

để trẻ tự làm hằng ngày ở mọi lúc mọi nơi, không vội vàng làm thay trẻ. GV động

viên PH cùng nhau cố gắng phối hợp để giáo dục KN cho trẻ tốt hơn.

GVMN cần có thái độ vui vẻ, ân cần, nhiệt tình, không ngại giao tiếp và sẵn

sàng lắng nghe và giải đáp những thắc mắc cho PH. Từ đó, tạo niềm tin cho PH để

cùng nhau thực hiện phối hợp để giáo dục KN TPV cho trẻ.

2.3.3 . Kết quả khảo nghiệm tính khả thi của một số biện pháp đã đề xuất

2.3.3.1. Mục đích khảo nghiệm

Khảo nghiệm một số biện pháp nâng cao phối hợp giữa GV với PH trong việc

giáo dục KN TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi ở một số trường MN nhằm kiểm nghiệm

tính khả thi và rất khả thi của các biện pháp đề xuất trong phạm vi của đề tài nghiên

cứu.

2.3.3.2. Nội dung khảo nghiệm

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng phối hợp giữa GV và PH trong

việc giáo dục KN TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi, chúng tôi đề xuất các biện pháp cơ

bản như sau:

Biện pháp 1: Giáo viên tổ chức các hoạt động giáo dục kỹ năng tự phục vụ và

mời phụ huynh tham gia

Biện pháp 2: Giáo viên tăng cường tuyên truyền về lợi ích cũng như cách giáo

dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi

Biện pháp 3: Giáo viên thường xuyên trao đổi trực tiếp với phụ huynh về tình

hình giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ và cách giáo dục trẻ tại nhà

Để tìm hiểu tính khả thi của biện pháp, chúng tôi tiến hành khảo sát thăm dò ý

kiến của 27 CBQL, 93 GVMN và 89 PH về tính khả thi của các biện pháp nâng cao

phối hợp giữa GV với PH trong việc giáo dục KN TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi, bằng

117

cách gửi phiếu thăm dò ý kiến về các biện pháp trên cho CBQL, GVMN và PH. Sau

đó, thu thập các phiếu tổng hợp và phân tích kết quả của các biện pháp.

2.3.3.3. Kết quả khảo nghiệm các biện pháp

Bảng khảo sát tính khả thi của 3 biện pháp đề xuất trong phạm vi nghiên cứu

của đề tài.

Đối tượng khảo sát bao gồm: 27 CBQL, 93 GVMN, 89 PH.

Bảng 2.10. Kết quả khảo nghiệm tính khả thi của các biện pháp đề xuất

Mức độ

Rất khả Ít khả thi Khả thi CÁC BIỆN PHÁP thi

SL TL SL TL SL TL

CBQL 1 3.7 18 66.7 8 29.6 BP1: GV tổ chức các hoạt động

giáo dục KN TPV và mời PH GVMN 17 18.3 64 68.8 12 12.9

tham gia PH 12 13.5 45 50.6 32 35.9

BP2: GV tăng cường tuyên CBQL 0 16 59.3 11 40.7 0

truyền về lợi ích cũng như cách GVMN 2.2 54 58.1 37 39.7 2 giáo dục KN TPV cho trẻ MG

PH 1.1 43 48.3 45 50.6 1 3 – 4 tuổi

BP3: GV thường xuyên trao đổi CBQL 0 17 63 10 37 0

trực tiếp với PH về tình hình GVMN 7.5 47 50.5 39 42 7 giáo dục KN TPV cho trẻ và

PH 0 38 42.7 51 57.3 0 cách giáo dục trẻ tại nhà

Từ bảng 2.10 kết quả thăm dò lấy ý kiến từ CBQL, GVMN và PH về tính khả

thi của các biện pháp đã đề xuất, nhận thấy điểm đánh giá tỉ lệ % của các biện pháp

trên đều được đánh giá ở mức độ từ khả thi đến rất khả thi.

Biện pháp 1: “Giáo viên tổ chức các hoạt động giáo dục kỹ năng tự phục vụ

và mời phụ huynh tham gia” được 3 nhóm khảo sát đánh giá có tính khả thi cao,

được thể hiện rõ ở biểu đồ 2.18 , trong đó CBQL 66.7%, GVMN 68.8% và PH

118

50.6%. Điều này cho thấy đúng với thực trạng ở chương II, nhiều PH vẫn còn chưa

nắm rõ những nội dung, cũng như cách giáo dục KN TPV của Cô tại trường, nên

cần được tham gia vào các hoạt động giáo dục KN TPV của lớp. Tỉ lệ % tính khả

thi ở 3 đối tượng tương đối cao đều trên 50% và độ chênh lệch với nhau thấp, cho

thấy cả 3 đối tượng đều có cùng chung mong muốn.

Biện pháp 2 “Giáo viên tăng cường tuyên truyền về lợi ích cũng như cách

giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi” ở mức rất khả thi chiếm

tỉ lệ % cao CBQL 40.7%, GVMN 39.7%, PH 50.6%. Với biện pháp 3 “Giáo viên

thường xuyên trao đổi trực tiếp với phụ huynh về tình hình giáo dục kỹ năng tự

phục vụ cho trẻ và cách giáo dục trẻ tại nhà” ở mức rất khả thi cũng chiếm tỉ lệ %

cao CBQL 37%, GVMN 42% và PH 57.3%. Với 2 biện pháp này được nhiều sự lựa

chọn từ phía CBQL, GVMN, PH và đa số đều ở mức độ khả thi và rất khả thi cao

thể hiện rõ ở biểu đồ 2.18 và biểu đồ 2.19. Kết quả cho thấy 2 biện pháp này phù

hợp với thực trạng hiện nay, nhiều GVMN và PH thường sử dụng hình thức này để

trao đổi thông tin với nhau. Tuy nhiên, việc trao đổi về giáo dục KN TPV cho trẻ thì

chưa được chú trọng nên việc phối hợp cùng nhau để giáo dục KN TPV, chưa đạt

hiệu quả. Vì thế với 2 biện pháp này GVMN có thể sử dụng để nâng cao sự phối

hợp với PH bằng cách tăng cường tuyên truyền đến PH những thông tin về lợi ích,

cách giáo dục KN TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi, để giúp cho PH có nhận thức tốt về

giáo dục KN TPV ở trẻ, đồng thời cùng nhau phối hợp với GVMN để giáo dục trẻ

80.00%

68.80%

66.70%

70.00%

63%

59.30%

58.10%

60.00%

50.60%

50.50%

48.30%

50.00%

42.70%

40.00%

30.00%

20.00%

10.00%

0.00%

Biện pháp 1

Biện pháp 2

Biện pháp 3

CBQL

GVMN

PH

tốt hơn và 3 biện pháp nêu trên được thể hiện qua biểu đồ sau:

Biểu đồ 2.18. So sánh tính khả thi của các biện pháp đề xuất

80.00%

57.30%

60.00%

50.60%

42%

40.70%

39.70%

37%

35.90%

40.00%

29.60%

12.90%

20.00%

0.00%

Biện pháp 1

Biện pháp 2

Biện pháp 3

CBQL

GVMN

PH

119

Biểu đồ 2.19. So sánh tính rất khả thi của các biện pháp đề xuất

Như vậy, nhìn chung cả 3 biện pháp chúng tôi đề xuất đều được CBQL,

GVMN, PH đánh giá cao ở 2 mức độ khả thi và rất khả thi, với 3 biện pháp trên có

mối quan hệ hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình GVMN phối hợp với PH để giáo dục

KN TPV cho trẻ. Tuy nhiên, GVMN cần sử dụng linh hoạt 3 biện pháp tương ứng

với điều kiện và thời gian thích hợp. Nhận thấy các biện pháp này có thể vận dụng

vào trong thực tiễn đáp ứng được nhu cầu nâng cao hiệu quả phối hợp giữa GV và

PH trong việc giáo dục KN TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi ở một số trường MN tại

TP.HCM. Từ đó chứng minh đề tài có ý nghĩa đối với thực tiễn và giải quyết được

nhiệm vụ của đề tài đã đặt ra.

120

Tiểu kết chương 2

Qua khảo sát thực trạng phối hợp giữa GV và PH trong việc giáo dục KN TPV

cho trẻ MG 3 – 4 tuổi ở một số trường MN tại TP.HCM. Chúng tôi nhận thấy

CBQL, GVMN, PH đã có nhận thức đúng về khái niệm giáo dục KN TPV, sự hình

thành và phát triển của KN TPV, mục đích cũng như về sự cần thiết của việc phối

hợp cùng nhau để giáo dục KN TPV cho trẻ. Tuy nhiên, thực tế còn nhiều PH và

GVMN chưa quan tâm nhiều đến việc giáo dục KN TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi, nên

việc trao đổi và phối hợp với nhau còn hạn chế. Điều này do nhiều nguyên nhân từ

phía PH và GV như: Về phía PH chưa thấy được tầm quan trọng của việc giáo dục

KN TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi. Nên ở gia đình PH còn cưng chiều trẻ và cho rằng

trẻ còn nhỏ chưa làm được nên thường làm hộ giúp trẻ các KN TPV, dẫn đến trẻ

chưa có điều kiện tập luyện thường xuyên, nhiều PH chưa đánh giá đúng khả năng

thực tế của con trẻ và cho rằng khi lớn lên trẻ sẽ biết, nên cứ từ từ không dạy trẻ

làm. Ngoài ra, còn có một số PH chưa biết được các KN TPV cần thiết ở độ tuổi

này, cũng như cách giáo dục các KN TPV cho trẻ, nên chưa tạo cơ hội cho trẻ làm

tại gia đình. Về phía GVMN thì còn nhiều GV cho rằng trẻ MG 3 – 4 tuổi còn nhỏ,

nên chưa quan tâm nhiều đến việc phát triển các KN TPV. Nên thường dạy sơ sài,

chưa đưa vào tiết dạy cụ thể và ít khi trao đổi với PH của trẻ, dẫn đến nhiều GV còn

hạn chế trong việc trao đổi phối hợp với PH để hướng dẫn cách giáo dục KN TPV

cho trẻ tại nhà. Ngoài ra, trong quá trình giáo dục KN KTV cho trẻ, nhiều PH và

GV cho rằng đặc điểm của trẻ cũng ảnh hưởng nhiều đến khả năng tiếp thu và thực

hiện.

Đây là cơ sở thực tiễn để chúng tôi có thể dựa vào làm căn cứ cho việc xây

dựng và đề xuất một số biện pháp giúp nâng cao hiệu quả phối hợp giữa GV và PH

trong việc giáo dục KN TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi, để khắc phục những mặt khó

khăn và phát huy những mặt tốt từ GVMN và PH.

Căn cứ vào cơ sở lý luận của đề tài và kết quả nghiên cứu thực trạng phối hợp

giữa GVvà PH trong việc giáo dục KN TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi ở một số trường

MN tại TP.HCM, đồng thời dựa trên kết quả khảo sát thăm dò ý kiến của CBQL,

GVMN và PH về tính khả thi của các biện pháp mà chúng tôi đã đề xuất, nhận thấy

121

kết quả 3 biện pháp mà chúng tôi đưa ra đều có tính khả thi và rất khả thi cao và có

thể vận dụng vào trong thực tiễn:

Biện pháp 1: Giáo viên tổ chức các hoạt động giáo dục kỹ năng tự phục vụ và

mời phụ huynh tham gia

Biện pháp 2: Giáo viên tăng cường tuyên truyền về lợi ích cũng như cách giáo

dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi

Biện pháp 3: Giáo viên thường xuyên trao đổi trực tiếp với phụ huynh về tình

hình giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ và cách giáo dục trẻ tại nhà

Các biện pháp chúng tôi đưa ra được trình bày rõ ràng về nội dung cũng như

cách thức thực hiện để giúp GVMN có thể vận dụng vào trong thực tiễn. Các biện

pháp có mối quan hệ mật thiết với nhau nên khi tổ chức thực hiện các biện pháp cần

thực hiện một cách đồng bộ thì mới bảo đảm tính khả thi và nâng cao hiệu quả phối

hợp giữa GV và PH trong việc giáo dục KN TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi ở trường

MN. Tuy nhiên, nhà trường và GVMN cần sử dụng linh hoạt ở các biện pháp để

tương ứng với điều kiện và thời gian thích hợp.

122

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

1. Kết luận

Hoạt động phối hợp giữa GV và PH trong việc chăm sóc – giáo dục trẻ nói

chung và giáo dục KN TPV cho trẻ nói riêng, được xem là hoạt động không thể

thiếu trong quá trình giáo dục trẻ MN. Việc GVMN phối hợp với PH nhằm tạo mối

quan hệ hai chiều, tương tác hỗ trợ lẫn nhau, cũng như thống nhất với nhau về nội

dung, phương pháp giáo dục KN TPV cho trẻ để cùng nhau mang lại những lợi ích

tốt nhất cho sự phát triển của trẻ.

Trên kết quả nghiên cứu lý luận, thực tiễn và khảo nghiệm các biện pháp nâng

cao hiệu quả phối hợp giữa GV và PH trong việc giáo dục KN TPV cho trẻ MG 3 –

4 tuổi chúng tôi rút ra được kết luận sau:

Từ những vấn đề lý luận trên chúng tôi xây dựng khái niệm: Giáo dục kỹ năng

tự phục vụ là tác động đến trẻ có mục đích, có hệ thống để hình thành những kỹ

năng tự phục vụ phù hợp với độ tuổi.

Sự phối hợp giữa giáo viên và phụ huynh trong việc giáo dục kỹ năng tự phục

vụ cho trẻ được hiểu là giáo viên và phụ huynh hành động cùng nhau nhận thức,

phối hợp đồng hành hỗ trợ lẫn nhau kiểm tra, đánh giá kỹ năng của trẻ để cùng

thực hiện nhiệm vụ chung là giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ.

Phần lý luận chương I đã trình bày các vấn đề liên quan đến sự phối hợp, đặc

biệt là việc phối hợp giữa GV và PH. Đồng thời đề tài đã nêu rõ các khái niệm liên

quan đến đề tài, cũng như những ảnh hưởng của giáo dục gia đình và tầm quan

trọng của hoạt động phối hợp giữa GV và PH trong việc giáo dục KN TPV cho trẻ

MG 3 – 4 tuổi. Ngoài ra, còn cho thấy được vai trò, nhiệm vụ của GVMN và PH

trong hoạt động phối hợp để cùng nhau giáo dục KN TPV cho trẻ, trong đó GVMN

là người chủ động phối hợp và PH là người tham gia tích cực vào hoạt động. Những

yếu tố ảnh hưởng đến việc phối hợp và việc giáo dục KN TPV cho trẻ.

Phần chương II khảo sát và nghiên cứu thực trạng ở một số trường MN tại

TP.HCM chúng tôi nhận thấy đa phần CBQL, GVMN, PH đã có nhận thức đúng về

khái niệm, quá trình hình thành và phát triển của giáo dục KN TPV, sự cần thiết và

mục đích của việc phối hợp cùng nhau để giáo dục KN TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi.

123

Những nguyên nhân dẫn đến việc trẻ thực hiện tốt và chưa tốt các KN TPV. Việc sử

dụng những hình thức phối hợp, những phương pháp giáo dục KN TPV cho trẻ tại

gia đình và tại trường từ phía 3 đối tượng khảo sát. Đồng thời còn cho thấy được

những đánh giá từ phía CBQL, GVMN và PH về khả năng thực hiện các KN TPV

của trẻ. Những điều trên là cơ sở vững chắc cho việc thực hiện hoạt động phối hợp

giữa GVMN và PH. Nhận thấy 3 hình thức phối hợp được cả 3 đối tượng đánh giá

cao đó là: Hình thức trao đổi trực tiếp qua giờ đón – trả trẻ, thông qua sổ liên lạc/sổ

bé ngoan, xây dựng góc tuyên truyền bảng tin tờ rơi thông tin đến phụ huynh tại

nhóm lớp.

Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề cần quan tâm như: Kết quả thực trạng cho

thấy việc trao đổi và việc phối hợp giữa GVMN và PH về giáo dục KN TPV cho trẻ

hiện nay chưa cao, chỉ ở mức độ thỉnh thoảng. Nhận thấy đa phần PH và GVMN ít

quan tâm đến những KN TPV của trẻ MG 3 – 4 tuổi, vì họ thường quan tâm đến

tình hình sức khỏe, việc ăn uống và học tập của trẻ là chủ yếu. Một số GVMN còn e

ngại giao tiếp với PH khi nói về những khuyết điểm của trẻ, cũng như thiếu sự khéo

léo trong việc trao đổi và nhờ PH phối hợp giúp đỡ trẻ. Cho nên việc phối hợp giữa

GVMN và PH còn chưa có sự tương tác qua lại, chủ yếu từ phía GVMN chủ động

trao đổi trực tiếp qua giờ đón – trả trẻ và qua sổ liên lạc/sổ bé ngoan. Do đó, chúng

tôi cho rằng cần phải có những biện pháp tác động phù hợp để nâng cao hiệu quả

phối hợp giữa GVMN và PH trong việc giáo dục KN TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi

bao gồm:

Biện pháp 1: Giáo viên tổ chức các hoạt động giáo dục kỹ năng tự phục vụ và

mời phụ huynh tham gia

Biện pháp 2: Giáo viên tăng cường tuyên truyền về lợi ích cũng như cách giáo

dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi

Biện pháp 3: Giáo viên thường xuyên trao đổi trực tiếp với phụ huynh về tình

hình giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ và cách giáo dục trẻ tại nhà

Kết quả khảo nghiệm lấy ý kiến của 27 CBQL, 93 GVMN và 89 PH về các

biện pháp đã đề xuất, nhận được kết quả 3 biện pháp đều đạt tính khả thi và rất khả

thi cao, cho thấy sự đồng tình của 3 đối tượng khảo sát và tính khả thi có thể vận

124

dụng vào trong thực tiễn để nâng cao hiệu quả phối hợp giữa GVMN và PH trong

việc giáo dục KN TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi. Chúng tôi nhận thấy các biện pháp

trên có mối quan hệ tác động qua lại với nhau nên khi vận dụng vào thực tiễn cần

phối hợp đồng bộ để mang lại hiệu quả cao. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện

các biện pháp sẽ không tránh khỏi những khó khăn đòi hỏi người CBQLvà GVMN

cần khéo léo và linh hoạt.

2. Kiến nghị

2.1. Đối với trường sư phạm đào tạo ngành giáo dục mầm non

Nghiên cứu và đào tạo thêm môn học “Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm

non” và môn học “Kỹ năng phối hợp giữa giáo viên mầm non và phụ huynh trong

quá trình chăm sóc – giáo dục trẻ mầm non” cho các sinh viên chuyên ngành giáo

dục mầm non bao gồm các hệ trung cấp, cao đẳng và đại học và môn học thể hiện

được nội dung lý thuyết và thực hành. Các sinh viên học sẽ được tham gia thực tế ở

trường MN như: Quan sát các hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho trẻ từ GVMN

và quan sát hoạt động trao đổi, giao tiếp và phối hợp giữa GVMN và PH. Từ đó, có

thể cung cấp cho sinh viên những kiến thức và kinh nghiệm để có thể làm chủ, tự

tin hơn khi trao đổi, cũng như giải quyết các tình huống với PH, khi bắt đầu trở

thành một GVMN.

Nên biên soạn và xuất bản tuyển tập “Cách giáo dục các kỹ năng tự phục vụ

cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi ở tại trường và gia đình”, và tuyển tập “Những kỹ năng

phối hợp giữa giáo viên mầm non và phụ huynh để giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho

trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi” để tăng nguồn tài liệu tham khảo cho GVMN.

2.2. Đối với cấp quản lí giáo dục mầm non

Sở GD & ĐT và Phòng GDMN cần quan tâm, chỉ đạo chặt chẽ tổ chức các

khóa học ngắn hạn hoặc các lớp chuyên đề, hội thảo, tọa đàm về việc “Nâng cao

hiệu quả phối hợp giữa nhà trường/giáo viên với gia đình/phụ huynh trong việc

giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi”, cho CBQL, GVMN và

PH cùng tham dự nhằm nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc phối hợp,

những cách phối hợp cùng nhau và những cách giáo dục KN TPV cho trẻ tại trường

125

và gia đình. Ngoài ra, CBQL và GVMN cần được bồi dưỡng các kỹ năng giao tiếp,

ứng xử và xử lý tình huống khi trao đổi với PH.

Tăng cường tổ chức tuyên truyền những hữu ích về việc giáo dục kỹ năng

sống cho trẻ MN, cũng như những lợi ích của việc phối hợp giữa nhà trường và gia

đình trong giáo dục kỹ năng sống cho trẻ nhằm giúp trẻ phát triển tốt hơn, qua các

phương tiện truyền thông đại chúng.

2.3. Đối với Ban giám hiệu nhà trường mầm non

Ban giám hiệu nhà trường cần động viên, theo dõi và kiểm tra việc tổ chức các

hoạt động giáo dục KN TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi và thường xuyên nhắc nhở

GVMN theo dõi sự phát triển các KN TPV của trẻ và thường xuyên trao đổi với PH

về tình hình của trẻ tại lớp, từ đó hướng dẫn PH giáo dục trẻ tại và nhà nhờ PH phối

hợp.

Bồi dưỡng cho đội ngũ GVMN về những kiến thức và kỹ năng khi phối hợp

với PH. Nhắc nhở GVMN luôn niềm nở, ân cần lắng nghe những đóng góp ý kiến

từ PH, tạo niềm tin và sự tin tưởng cho PH, từ đó xây dựng mối quan hệ tốt đẹp

giữa gia đình và nhà trường.

Tạo sự liên kết giữa GVMN và PH thông qua các cuộc họp, hội PH, hoặc các

buổi lễ hội, tham quan du lịch…

2.4. Đối với giáo viên mầm non

GVMN là người trực tiếp chăm sóc và giáo dục trẻ và là người phối hợp với

PH trong việc giáo dục KN TPV cho trẻ. Do đó, GV cần tích cực chủ động trong

việc bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn của bản thân, đồng thời có nhận thức

đúng đắn về những lợi ích của viêc giáo dục KN TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi, cũng

như vai trò của mình trong việc phối hợp với PH để giáo dục KN TPV cho trẻ. GV

cần thường xuyên chủ động chia sẻ kinh nghiệm và tư vấn cho PH những nội dung

và cách giáo dục những KN TPV cho trẻ tại gia đình.

Cần bồi dưỡng thêm các kỹ năng giao tiếp, ứng xử và xử lý tình huống khi

phối hợp với PH, nhằm nâng cao hiệu quả phối hợp.

Mỗi trẻ sẽ có những đặc điểm khác nhau, cũng như mỗi gia đình có những

điều kiện và hoàn cảnh khác nhau, nên khi phối hợp với PH, GVMN cần tìm hiểu rõ

126

và cảm thông, để có các biện pháp phối hợp cũng như cách trao đổi cho phù hợp.

GVMN luôn tôn trọng sự khác biệt ở mỗi cá nhân trẻ, không ép buộc trẻ. Sẵn sàng

lắng nghe tiếp thu ý kiến, tạo mối quan hệ tốt đẹp với PH.

2.5. Đối với phụ huynh

Cần nhận thức được những lợi ích của việc giáo dục KN TPV cho trẻ MG 3 –

4 tuổi, cũng như nhận thức rõ vai trò và trách nhiệm của mình trong việc phối hợp

với nhà trường và GVMN để chăm sóc – giáo dục trẻ, đặc biệt là giáo dục KN TPV

cho trẻ MG 3 – 4 tuổi.

Tăng cường chia sẻ và trao đổi với GVMN, CBQL về giáo dục KN TPV cũng

như hoạt động chăm sóc – giáo dục trẻ (trao đổi trực tiếp qua giờ đón – trả trẻ, sổ

liên lạc/sổ bé ngoan, cuộc họp, hộp thư, tờ bướm, mạng xã hội…) nhằm thiết lập

mối quan hệ tốt với GVMN và nhà trường.

Tích cực tham gia các hoạt động giáo dục, buổi chuyên đề, tọa đàm, cuộc họp

về giáo dục KN TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi do nhà trường và lớp học tổ chức. Cũng

như giáo dục con trẻ tại gia đình theo sự hướng dẫn của chuyên gia hoặc GVMN tại

lớp.

Thường xuyên theo dõi bảng tin, những thông báo, tờ rơi, clip hình ảnh tuyên

truyền từ lớp học/nhà trường, quan sát sự tiến bộ của con trẻ và trao đổi với GVMN

tại lớp về những KN TPV đã tốt và chưa tốt, những khó khăn khi giáo dục trẻ từ đó

nhờ GVMN hỗ trợ hướng dẫn giáo dục trẻ.

Luôn tôn trọng và tin tưởng vào cách chăm sóc – giáo dục của GVMN và nhà

trường nói chung và cách giáo dục KN TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi nói riêng. PH sẵn

sàng lắng nghe tiếp thu những ý kiến đóng góp từ GVMN và nhà trường.

2.6. Đối với người nghiên cứu

Tiếp tục xây dựng và thực nghiệm các biện pháp đã đề xuất, cụ thể hơn cho

các nội dung sao cho phù hợp với thực trạng và điều kiện thực tiễn ở địa phương.

Đồng thời, phát triển đề tài nghiên cứu theo chiều sâu hơn nhằm giúp GVMN và PH

nâng cao hiệu quả phối hợp trong việc giáo dục KN TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi.

127

TÀI LIỆU THAM KHẢO

A.A.LIUBLINXKAIA. (1978). Tâm lí học trẻ em (tập I). Nxb Sở Giáo dục

TP.HCM.

A.M. BAC-ĐI-AN. (1977). Giáo dục các con trong gia đình. Hà Nội: Nxb

Kim Đồng.

An Thị Ngọc Trinh, Lê Ngọc Dũng & Nguyễn Nguyên Bình. (2010). Xây

dựng văn hóa gia đình ở Việt Nam hiện nay. Hồ Chí Minh: Nxb Đại học Sư phạm

TP.HCM.

Bách khoa toàn thư Wikipedia. Retrieved from:

https://en.wikipedia.org/wiki/Self-service (ngày truy cập 14/2/2019).

Bộ Giáo dục và Đào tạo Trung tâm nghiên cứu giáo dục mầm non. (2001).

Một số điểm phát triển của trẻ em từ 0 – 6 tuổi và mục tiêu nội dung chăm sóc –

giáo dục trẻ ở lứa tuổi mầm non. Hà Nội: Nxb Viện Khoa học Giáo dục Hà Nội.

Bộ giáo dục và đào tạo. (2015). Điều lệ trường mầm non.

Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2017). Chương trình giáo dục mầm non. Hà Nội:

Nxb Giáo dục Việt Nam.

Bộ giáo dục và đào tạo. (2018). Chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non.

Bùi Hiền. (2009). Từ điển giáo dục học. Hà Nội: Nxb Từ điển Bách khoa.

Bùi Nữ Mai Hoa. (2018). Thực trạng công tác phối hợp giữa giáo viên mầm

non với cha mẹ trẻ tại quận 12 Thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn Thạc sĩ khoa học

giáo dục. Chuyên ngành Giáo dục học (Mầm non), Trường Đại học Sư phạm

TP.HCM.

Bùi Ngọc Sơn. (2008). Phương pháp giáo dục con trẻ trong gia đình. Nxb

Giáo dục.

Carol Garhart Mooney. (2016). Các lý thuyết về trẻ em của Dewey,

Montessori, Erikson, Piaget và Vygotsky. Nxb Lao động. Người dịch: Nguyễn Bảo

Trung.

Corsini.R .(1999). The dictionary of psychology. New York.

Chương trình giáo dục Highscope. (2019). Nhận từ: https://highscope.org/our-

practice/preschool-curriculum/ (Ngày cập nhật: 22/1/2019).

128

Đào Thanh Âm, Trịnh Dân, Nguyễn Thị Hòa & Đinh Văn Vang. (2005). Giáo

dục học mầm non (Tập II). Nxb Đại học Sư phạm.

Đào Thị Chi Hà. (2018). Quản lí hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5 –

6 tuổi ở các trường mầm non tư thục. Luận án Tiến sĩ Quản lí giáo dục. Viện Hàn

lâm. Khoa học Xã hội Việt Nam. Học viện Khoa học Xã hội.

Đỗ Thị Bắc. (2015). Giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo bé ở

trường mầm non Thành phố Thái Nguyên. Luận văn Thạc sĩ khoa học giáo dục.

Chuyên ngành Giáo dục học (mầm non). Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên.

Hà Thế Ngữ. (2001). Giáo dục học một số vấn đề lý luận và thực tiễn. Hà Nội:

Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội.

Hoàng Hải Quế. (2018). Phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong

chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non. Tạp chí Giáo dục Số đặc biệt (kỳ 1 tháng 5/2018).

Trường Cao đẳng Sư phạm Nghệ An.

Hoàng Phê. (Chủ biên – 2010). Từ điển Tiếng Việt. Nxb Từ điển Bách khoa.

Hoàng Thị Thu Hương. (2014). Module 12 Tư vấn cho các bậc cha mẹ về

chăm sóc, giáo dục trẻ từ 3 – 6 tuổi. Tài liệu bồi dưỡng phát triển năng lực nghề

nghiệp giáo viên, nâng cao năng lực hướng dẫn và tư vấn giáo dục của giáo viên.

Nxb Giáo dục Việt Nam & Nxb Đại học Sư phạm.

Huỳnh Lâm Anh Chương. (2015). Biện pháp quản lí sự phối hợp giữa nhà

trường và gia đình trong công tác giáo dục kỹ năng sống cho trẻ học sinh tiểu học

Thành phố Hồ Chí Minh. Đề tài nghiên cứu khoa học và công nghệ cấp cơ sở.

TP.HCM.

Huỳnh Văn Sơn, Hồ Văn Liên, Bùi Hồng Quân, Mai Mỹ Hạnh & Nguyễn

Vĩnh Khương. (2012). Phát triển kĩ năng mềm cho sinh viên Đại học Sư phạm. Nxb

Giáo dục Việt Nam.

Huỳnh Văn Sơn. (2009). Nhập môn kỹ năng sống. Hà Nội: Nxb Giáo dục.

Hương Thủy. (2013). Giúp trẻ hình thành kỹ năng tự phục vụ. Báo giáo dục

TP.HCM.https://www.giaoduc.edu.vn/giup-tre-hinh-thanh-ky-nang-tu-phuc-vu.htm.

129

Jacques Delors. (2002). Học tập: Một kho báu tiềm ẩn. Báo cáo gửi UNESCO

của Ủy ban Quốc tế về giáo dục thế kỷ XXI. Nxb Giáo dục. Người dịch: Trịnh Đức

Thắng.

Lê Bích Ngọc. (2013). Module 39 Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non.

Tài liệu bồi dưỡng phát triển năng lực nghề nghiệp giáo viên, phát triển năng lực tổ

chức các hoạt động giáo dục của giáo viên (tr. 9-50). Nxb Giáo dục Việt Nam &

Nxb Đại học Sư phạm.

Lê Thị Lan Anh. (2018). Kỹ năng tự phục vụ của trẻ mầm non. Nhận từ:

https://lethilananh.vn/ky-nang-tu-phuc-vu-cua-tre-mam-non/.

Lê Thu Hương, Trần Thị Ngọc Trâm & Lê Thị Ánh Tuyết. (2018). Hướng dẫn

tổ chức thực hiện chương trình giáo dục mầm non mẫu giáo bé (3 – 4 tuổi). Nxb

Giáo dục Việt Nam.

Louise Boyd Cadwell. (2018). Phương pháp giáo dục Reggio Emilia. Nxb Lao

động. Người dịch: An Vi.

Nayor.G.K.A.P.K.S. (2016). Teacher - Parent Collaboration In Two Primary

Schools‘ Special Education Integrated Programmes: Application Of Epstein‘s

Framework, Thesis Submitted In Fulfillment Of The Requirements For The Degree

Of Doctor Of Philosophy, Faculty Of Education University Of Malaya Kuala

Lumpur .

Nguyễn Ánh Tuyết, Nguyễn Thị Như Mai & Đinh Thị Kim Thoa. (2007). Tâm

lí học trẻ em lứa tuổi mầm non (từ lọt lòng đến 6 tuổi). Nxb Đại học Sư phạm.

Nguyễn Ánh Tuyết. (2005). Giáo dục mầm non những vấn đề lí luận và thực

tiễn. Nxb Đại học Sư phạm.

Nguyễn Hữu Nghĩa, Triệu Xuân Quýnh & Bùi Ngọc Oánh. (1994). Tâm lí học

Tập một. Nxb Trường Đại học Sư phạm TP.HCM.

Nguyễn Thị Dư. (2017). Kỹ năng phối hợp của giáo viên mầm non với phụ

huynh trong chăm sóc, giáo dục trẻ. Tạp chí Giáo dục số đặc biệt (kỳ 1 tháng

10/2017). Trường Cao đẳng Sư phạm Bắc Ninh.

Nguyễn Thị Hòa. (2011). Giáo trình Giáo dục học mầm non. Nxb Đại học Sư

phạm.

130

Nguyễn Thị Sinh Thảo. (2013). Module MN 40 Phối hợp với gia đình để giáo

dục trẻ mầm non. Tài liệu bồi dưỡng phát triển năng lực nghề nghiệp giáo viên,

Tăng cường năng lực quản lí lớp/ trường của giáo viên (tr.123). Nxb Giáo dục Việt

Nam và Đại học Sư phạm.

Nguyễn Thị Thanh Hương. (2006). Tuyển tập các bài viết về giáo dục mầm

non. Nxb Giáo dục.

Pirchino, S., Tritrini, C., Passiatore, Y., Taeschner, T. (2013). The Role of the

Relationship between Parents and Educators for Child Behaviour and Wellbeing.

International Journal about Parents in Education, Vol. 7, No. 2, 145-155.

Platonov K.K. ,Golubev G.G. (1996). A comprehensive Dictionary Of

Psychological and Psychoanalytical Term. New York.

Phạm Thị Châu. (2008). Giáo trình quản lí giáo dục mầm non (dành cho hệ

cao đẳng sư phạm mầm non). Nxb Giáo dục.

Quốc Hội. (2012). Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em. Hà Nội: Nxb Lao

động.

Quốc Hội. (2005). Luật Giáo dục Việt Nam. Nxb Chính trị Quốc gia.

Santiago Nieto Martí. (2017). The Subject of Family Education in Spanish

Educational Research. Journal of Health Education Research & Development.

Retrieved from: https://www.omicsonline.org/open-access/the-subject-of-family-

education-in-spanish-educational-research-2380-5439-1000233.php?aid=94340.

Shakenova. L (2017). The Theoretical Framework of Teacher Collaboration.

Khazar Journal of Humanities and Social Sciences. Volume 20 № 2 2017, 34-48.

T.A. ILINA. (1978). Giáo dục học (tập 1). Nxb Giáo dục.

Tạ Thị Thanh An. (2013). Thực trạng quản lý hoạt động phối hợp giữa nhà

trường và gia đình ở các trường mầm non quận 3 Thành phố Hồ Chí Minh. Luận

văn thạc sĩ. Chuyên ngành Quản lý giáo dục. Trường Đại học Sư phạm TP.HCM.

Từ điển triết học. (2002). Nxb Văn hóa Thông tin Hà Nội.

Tim Seldin. (2015). Nuôi dạy con theo phương pháp Montessori. Nxb Dân trí.

Người dịch: Thanh Loan.

131

Thanh Thanh. (2018). Báo dân trí. Cảm xúc về một phiên họp phụ huynh ở lớp

mầm non. Nhận từ: https://dantri.com.vn/giao-duc-khuyen-hoc/cam-xuc-ve-mot-

phien-hop-phu-huynh-o-lop-mam-non-20180902083759211.htm

Trần Hân. (2013). Phương pháp giáo dục con của người Mỹ giúp bé tự lập

trưởng thành. Nxb Hồng Bàng.

Trần Ngọc Tuấn (2015). Vai trò của phụ huynh. Báo giáo dục TP.HCM. Nhận

từ: https://www.giaoduc.edu.vn/vai-tro-cua-phu-huynh.htm .

Trần Thị Cẩm. (2001). Hiểu tâm lý trẻ để giáo dục con. Nxb Văn hóa Thông

tin.

Trần Thị Tuyết Oanh, Phạm Khắc Chương, Phạm Viết Vượng, Bùi Minh

Hiền, Nguyễn Ngọc Bảo, Bùi Văn Quân, Phan Hồng Vinh & Từ Đức Văn. (2008).

Giáo trình Giáo dục học tập 1. Nxb Đại học Sư phạm.

Trần Thị Tuyết Oanh, Phạm Khắc Chương, Phạm Viết Vượng, Nguyễn Văn

Diện & Lê Tràng Định. (2008). Giáo trình Giáo dục học tập 2. Nxb Đại học Sư

phạm.

Trung tâm Kid Sense Child Development tại thành phố Adelaide, Nam Úc.

Retrieved from: https://childdevelopment.com.au/areas-of-concern/self-care/self-

care-skills/( ngày truy cập 14/2/2019).

Trương Thị Hoa Bích Dung. (2012). Hướng dẫn và rèn luyện kỹ năng sống

cho trẻ mầm non. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

Tú Anh. (2019). Sáu cách dạy trẻ tự dọn đồ chơi theo phương pháp

Montessori. Báo Giáo dục. Nhận từ: https://vnexpress.net/sau-cach-day-tre-tu-don-

do-choi-theo-phuong-phap-montessori-3927034.html.

Urie Bronfenbrenner. (2019). The Psychology Notes HQ. Retrieved from:

https://www.psychologynoteshq.com/bronfenbrenner-ecological-theory/

Viện Ngôn ngữ học. (2010). Từ điển Tiếng Việt. Nxb Từ điển Bách khoa.

Virginia Department of Education. (2002). Relationships for Children’s Learn

Collaborative Family – School Beliefs and Practices. Office of Student Services,

Office of Special Education. Retrieved from:

132

http://www.doe.virginia.gov/support/student_family/family-

school_relationships/collaborative_family-school_relationships.pdf.

Vũ Dũng. (2012). Từ điển thuật ngữ tâm lí học. Hà Nội: Nxb Từ điển Bách

khoa.

Vũ Hoàng Vân. (2017). Giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mầm non theo

phương pháp giáo dục Montessori. Tạp chí Giáo dục Số đặc biệt kỳ 2 tháng 8/2017,

trang 66.

Yatagai Masaaki, Kato Toshiko, Fujishima Taeko, Okamoto Michiko,

Yotoriyama Noriko, Ueno Michiko. (2019). Giúp con tự lập từ 0 – 6 tuổi. Nxb Kim

Đồng. Người dịch: Nguyễn Quốc Vương.

PL1

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Phiếu thăm dò ý kiến (Dành cho cán bộ quản lí)

Phụ lục 2: Phiếu thăm dò ý kiến (Dành cho giáo viên mầm non)

Phụ lục 3: Phiếu thăm dò ý kiến (Dành cho phụ huynh)

Phụ lục 4: Bảng quan sát

Phụ lục 5: Câu hỏi phỏng vấn (Dành cho giáo viên mầm non)

Phụ lục 6: Câu hỏi phỏng vấn (Dành cho phụ huynh)

Phụ lục 7: Kết quả quan sát thực trạng ở các nhóm lớp MG 3 – 4 tuổi tại các trường

MN tại TP.HCM

Phụ lục 8: Tổng hợp ý kiến phỏng vấn giáo viên mầm non (48 GVMN)

Phụ lục 9: Tổng hợp ý kiến phỏng vấn phụ huynh (77 PH)

Phụ lục 10: Phiếu khảo sát các biện pháp (Dành cho GVMN, CBQL)

Phụ lục 11: Phiếu khảo sát các biện pháp (Dành cho phụ huynh)

Phụ lục 12: Một số tài liệu tuyên truyền

Phụ lục 13: Một số hình ảnh khi khảo sát về KN TPV của trẻ tại trường MN

PL2

PHỤ LỤC 1

PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN

(Dành cho Cán bộ quản lí)

Kính chào quý Thầy Cô thân mến!

Để có những thông tin khách quan, trung thực về vấn đề “Thực trạng phối

hợp giữa giáo viên và phụ huynh trong việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ

mẫu giáo 3 – 4 tuổi”. Chúng tôi mong quý Thầy Cô đóng góp những ý kiến riêng

theo tình hình thực tế tại trường mình đang công tác, khi thực hiện những yêu cầu

trong nội dung phiếu khảo sát. Chúng tôi cam kết những thông tin trên được bảo

mật hoàn toàn và chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu khoa học tại trường ĐH Sư

Phạm TP.HCM, tuyệt đối không ảnh hưởng đến quý Thầy Cô và trường MN.

Xin trân trọng cám ơn sự hợp tác, giúp đỡ nhiệt tình từ quý Thầy Cô!

Nội dung viết tắt:

GVMN : Giáo viên mầm non PH: Phụ huynh

MN: Mầm non GV: Giáo viên

A. PHẦN THÔNG TIN (đánh dấu X vào ô đã chọn)

1. Quý Thầy Cô đang công tác ở khối trường nào?

□ Trường MN công lập □ Trường MN tư thục

2. Thâm niên công tác quản lí ở trường MN

Dưới 5 năm 5 – 10 năm Trên 10 năm

3. Trình độ chuyên môn

Sau đại học Đang học sau đại học

Đại học Cao đẳng

B. PHẦN CÂU HỎI (đánh dấu X vào ô đã chọn)

1. Theo Thầy Cô, giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ là gì? (chọn 1 đáp án đúng

nhất)

Là khả năng trẻ có thể tự làm những việc đơn giản trong cuộc sống như: Tự xúc

ăn, mặc quần áo, mang giày dép…

Là quá trình tác động đến trẻ có mục đích, có hệ thống để hình thành những kỹ

năng tự phục vụ phù hợp với độ tuổi.

PL3

Là giáo dục những kỹ năng để trẻ có thể tự phục vụ bản thân mình

Là trẻ tự phục vụ tự mình làm lấy những việc phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt

hằng ngày của mình, không cần có người giúp, có người phục vụ.

Ý kiến khác

………………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………..

2. Theo Thầy Cô, sự phối hợp giữa GVMN và PH trong việc giáo dục kỹ năng tự

phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi là? (chọn 1 đáp án đúng nhất)

Rất cần thiết Cần thiết Bình thường Không cần thiết

3. Theo Thầy Cô, những kỹ năng nào trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi thực hiện tốt và chưa

tốt (đánh dấu X vào các cột mức độ đã chọn)

Mức độ Các kỹ năng tự phục vụ Tốt Trung bình Chưa tốt

1. Xúc ăn

2. Mang giày/dép đúng

3. Đi vệ sinh

4. Mặc quần

5. Mặc áo

6. Lấy nước uống

7. Rửa tay bằng xà phòng

8. Lau mặt

9. Chuẩn bị chỗ ngủ (lấy gối, lấy

nệm/chiếu/phụ cô lấy giường ngủ…)

10. Lấy và cất đồ (đồ dùng, đồ chơi sau

khi sử dụng và sau khi chơi)

4. Theo Thầy Cô, vì sao trẻ thực hiện tốt các kỹ năng tự phục vụ (đánh dấu X vào

đáp án – có thể có nhiều lựa chọn)

Hoàn cảnh gia đình (gia đình khó khăn, anh em đông… nên trẻ phải tự làm)

PH quan tâm, tạo điều kiện cho con trẻ của mình.

PL4

Cô giáo có giáo dục trẻ

Trẻ bắt chước lẫn nhau

Nhà trường có lập kế hoạch giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ

Ý kiến khác

………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………

5. GVMN đã sử dụng những phương pháp nào để giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho

trẻ tại trường?

Làm mẫu Kèm cặp (làm cùng) Chỉ dẫn nhắc nhở

Nhận xét, đánh giá

Lặp lại nhiều lần trong sinh hoạt hằng ngày

Ý kiến khác

………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………

6. Theo Thầy Cô, vì sao GVMN cần phối hợp với PH trong việc giáo dục kỹ năng

tự phục vụ cho trẻ? (đánh dấu X vào ô đã chọn theo các mức độ)

Nội dung Đồng ý Phân Không

vân đồng ý

• Để trẻ có kỹ năng tự phục vụ tốt

• Có sự thống nhất về nội dung các kỹ

năng cần giáo dục cho trẻ

• Để hỗ trợ, bù trừ giữa GV và PH trong

việc giáo dục trẻ

• Luân phiên trách nhiệm giữa GV và PH

7. Ở trường Thầy Cô đã làm gì để giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ (đánh dấu X

vào ô đã chọn, có thể chọn nhiều đáp án)

Tuần

 Lập kế hoạch giáo dục theo Tháng

Năm

PL5

Giờ học

 Tổ chức môi trường giáo dục Giờ sinh hoạt

Trò chơi

Bảng tin

 Tuyên truyền Mạng xã hội (zalo, facebook, email…)

Hình ảnh, Poster, tờ rơi…

Quan sát

 Kiểm tra đánh giá, kết quả của trẻ Thực hành

Đàm thoại

Ý kiến khác:

………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………

8. Theo Thầy Cô, sự hình thành và phát triển kỹ năng tự phục vụ ở trẻ như thế nào?

(đánh dấu X vào 1 đáp án đúng nhất)

Chưa biết – quan sát – bắt chước/tập làm theo – được thực hành thường xuyên –

làm giỏi

Quan sát – làm giỏi – quên

Chưa biết – quan sát – bắt chước/tập làm theo – làm giỏi

Quan sát – bắt chước/tập làm theo – làm giỏi

Ý kiến khác

………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………

PL6

9. Những hình thức phối hợp giữa GVMN và PH trong việc giáo dục kỹ năng tự

phục vụ cho trẻ? (đánh dấu X vào các mức độ đã chọn)

Mức độ thực hiện

Hình thức phối hợp Không Thỉnh Thường

thực hiện thoảng xuyên

1. Trao đổi trực tiếp với PH qua giờ đón

và trả trẻ

2. Trao đổi với PH qua cuộc họp định kỳ

3. Xây dựng góc tuyên truyền, bảng tin,

tờ rơi thông tin đến cho PH tại nhóm lớp

4. Mời PH tham gia vào các hoạt động lễ

hội và hoạt động của Cô và trẻ trong

trường

5. Thông qua sổ bé ngoan/sổ liên lạc

6. Trao đổi qua mạng xã hội như: Zalo,

Facebook, Email…

7. Trao đổi qua điện thoại

8. Mời PH tham gia các buổi chuyên đề

về tâm lí trẻ MN cũng như những phương

pháp giáo dục kỹ năng cho trẻ

10. Ban giám hiệu có đôn đốc, tạo điều kiện để GVMN phối hợp với PH trong việc

giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ? (đánh dấu X vào 1 đáp án đã chọn)

Thường xuyên Thỉnh thoảng Không có

11. Thầy Cô sẽ làm gì khi PH than phiền về những khuyết điểm của trẻ trong kỹ

năng tự phục vụ? (đánh dấu X vào đáp án đã chọn, được chọn nhiều đáp án)

GV lắng nghe chia sẻ của PH

Chia sẻ, an ủi, động viên PH

Hứa hẹn cùng với PH giúp đỡ trẻ

Bênh vực trẻ

PL7

GV lắng nghe và mỉm cười phớt lờ cho qua.

Ý kiến khác

………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………

12. Theo Thầy Cô, vì sao GVMN ngại trao đổi với PH, khi thấy trẻ chưa thực hiện

được một số kỹ năng tự phục vụ? (đánh dấu X vào đáp án đã chọn, được chọn

nhiều đáp án)

Ngại mất lòng PH

Sợ PH đỗ lỗi cho mình

Không muốn nói về khuyết điểm của trẻ

Không có thời gian

Không thấy sự cần thiết phải cho PH biết

□ Ý kiến khác

……………………………………………………………………………………….

13. Theo Thầy Cô, những khó khăn của GVMN trong việc phối hợp với PH để giáo

dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ?

Đồng Phân Không Những khó khăn ý vân đồng ý

1.PH không có thời gian cũng như điều kiện để phối

hợp

2.Cách giáo dục giữa PH và GV không thống nhất

3.PH việc phối hợp chưa thường xuyên

4. PH ngại giao tiếp với GV

5.PH giao hết trách nhiệm giáo dục trẻ cho GV

6.PH không hợp tác, bất đồng quan điểm, không cảm

thông.

7.PH đòi hỏi những yêu cầu cao ở trẻ. Và không nhận

thức đúng về khả năng của trẻ

PL8

□ Ý kiến khác

………………………………………………….....................................................

………………………………………………………………………………………

14. Hiện nay nhà trường, GVMN đã sử dụng những biện pháp nào để phối hợp với

gia đình, PH để giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ?

…………………………………………………...........................................................

………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………….

15. Theo Thầy Cô, cần có những biện pháp nào để nâng cao sự phối hợp giữa

GVMN và PH trong việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ?

………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………

Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của quý Thầy Cô!

Chúc quý Thầy Cô nhiều sức khỏe, hạnh phúc và thành công!

PL9

PHỤ LỤC 2

PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN

(Dành cho Giáo viên mầm non)

Kính chào quý Thầy Cô thân mến!

Để có những thông tin khách quan, trung thực về vấn đề “Thực trạng phối

hợp giữa giáo viên và phụ huynh trong việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ

mẫu giáo 3 – 4 tuổi”. Chúng tôi mong quý Thầy Cô đóng góp những ý kiến riêng

theo tình hình thực tế của trẻ ở nhóm lớp mình đang phụ trách, khi thực hiện những

yêu cầu trong nội dung phiếu khảo sát. Chúng tôi cam kết những thông tin trên được

bảo mật hoàn toàn và chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu khoa học tại trường ĐH

Sư Phạm TP.HCM, tuyệt đối không ảnh hưởng đến quý Thầy Cô và trường MN.

Xin trân trọng cám ơn sự hợp tác, giúp đỡ nhiệt tình từ quý Thầy Cô!

Nội dung viết tắt:

GVMN : Giáo viên mầm non PH: Phụ huynh

MN: Mầm non GV: Giáo viên

A. PHẦN THÔNG TIN (điền thông tin và đánh dấu X vào ô đã chọn)

1. Số năm quý Thầy Cô công tác ở nhóm lớp mẫu giáo 3 – 4 tuổi

□ Từ 1 – 3 năm □ Từ 4 – 6 năm □ Từ 7 – 9 năm □ Trên 9 năm

2. Sỉ số trẻ tại nhóm lớp mẫu giáo 3 – 4 tuổi

□ Từ 15 – 25 trẻ □ Từ 26 – 35 trẻ □ Từ 36 – 46 trẻ

3. Quý Thầy Cô đang công tác ở khối trường nào?

□ Trường MN công lập □ Trường MN tư thục

4. Thâm niên công tác ở trường MN

Dưới 5 năm Từ 5 – 10 năm Trên 10 năm

5. Trình độ chuyên môn

Sau đại học Đại học Cao đẳng Trung cấp

B. PHẦN CÂU HỎI (điền thông tin và đánh dấu X vào ô đã chọn)

1. Theo Thầy Cô, giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ là gì? (chọn 1 đáp án đúng

nhất)

PL10

Là khả năng trẻ có thể tự làm những việc đơn giản trong cuộc sống như: Tự xúc

ăn, mặc quần áo, mang giày dép…

Là quá trình tác động đến trẻ có mục đích, có hệ thống để hình thành những kỹ

năng tự phục vụ phù hợp với độ tuổi.

Là giáo dục những kỹ năng để trẻ có thể tự phục vụ bản thân mình

Là trẻ tự phục vụ tự mình làm lấy những việc phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt

hằng ngày của mình, không cần có người giúp, có người phục vụ.

Ý kiến khác

………………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………..

2. Theo Thầy Cô, sự phối hợp giữa GVMN và PH trong việc giáo dục kỹ năng tự

phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi là? (chọn 1 đáp án đúng nhất)

Rất cần thiết Cần thiết Bình thường Không cần thiết

3. Theo Thầy Cô, những kỹ năng nào trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi thực hiện tốt và chưa

tốt (Ghi rõ số lượng vào cột mức độ đã chọn)

Mức độ Các kỹ năng tự phục vụ Tốt Trung bình Chưa tốt

1. Xúc ăn

2. Mang giày/dép đúng

3. Đi vệ sinh

4. Mặc quần

5. Mặc áo

6. Lấy nước uống

7. Rửa tay bằng xà phòng

8. Lau mặt

9. Chuẩn bị chỗ ngủ (lấy gối, lấy

nệm/chiếu/phụ cô lấy giường ngủ…)

10. Lấy và cất đồ (đồ dùng, đồ chơi sau

khi sử dụng và sau khi chơi)

PL11

4. Theo Thầy Cô, vì sao trẻ thực hiện tốt các kỹ năng tự phục vụ (đánh dấu X vào

đáp án – có thể có nhiều lựa chọn)

Hoàn cảnh gia đình (gia đình khó khăn, anh em đông… nên trẻ phải tự làm)

PH quan tâm, tạo điều kiện cho con trẻ của mình.

Cô giáo có giáo dục trẻ

Trẻ bắt chước lẫn nhau

Nhà trường có lập kế hoạch giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ

Ý kiến khác

………………………………………………………………………………………5.

Thầy Cô đã sử dụng những phương pháp nào để giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho

trẻ tại trường?

Làm mẫu Kèm cặp (làm cùng) Chỉ dẫn nhắc nhở

Nhận xét, đánh giá

Lặp lại nhiều lần trong sinh hoạt hằng ngày

Ý kiến khác

………………………………………………………………………………………

6. Theo Thầy Cô, vì sao GVMN cần phối hợp với PH trong việc giáo dục kỹ năng

tự phục vụ cho trẻ? (đánh dấu X vào ô đã chọn theo các mức độ)

Nội dung Đồng ý Phân Không

vân đồng ý

• Để trẻ có kỹ năng tự phục vụ tốt

• Có sự thống nhất về nội dung các kỹ

năng cần giáo dục cho trẻ

• Để hỗ trợ, bù trừ giữa GV và PH trong

việc giáo dục trẻ

• Luân phiên trách nhiệm giữa GV và PH

PL12

7. Ở trường Thầy Cô đã làm gì để giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ (đánh dấu X

vào ô đã chọn, có thể chọn nhiều đáp án)

Tuần

 Lập kế hoạch giáo dục theo Tháng

Năm

Giờ học

 Tổ chức môi trường giáo dục Giờ sinh hoạt

Trò chơi

Bảng tin

 Tuyên truyền Mạng xã hội (zalo, facebook, email…)

Hình ảnh, Poster, tờ rơi…

Quan sát

 Kiểm tra đánh giá, kết quả của trẻ Thực hành

Đàm thoại

Ý kiến khác:

………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………

8. Theo Thầy Cô, sự hình thành và phát triển kỹ năng tự phục vụ ở trẻ như thế nào?

(đánh dấu X vào 1 đáp án đúng nhất)

Chưa biết – quan sát – bắt chước/tập làm theo – được thực hành thường xuyên –

làm giỏi

Quan sát – làm giỏi – quên

Chưa biết – quan sát – bắt chước/tập làm theo – làm giỏi

Quan sát – bắt chước/tập làm theo – làm giỏi

Ý kiến khác

………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………

PL13

9. Những hình thức phối hợp giữa GVMN và PH trong việc giáo dục kỹ năng tự

phục vụ cho trẻ? (đánh dấu X vào các mức độ đã chọn)

Mức độ thực hiện

Hình thức phối hợp Không Thỉnh Thường

thực hiện thoảng xuyên

1. Trao đổi trực tiếp với PH qua giờ đón

và trả trẻ

2. Trao đổi với PH qua cuộc họp định kỳ

3. Xây dựng góc tuyên truyền, bảng tin,

tờ rơi thông tin đến cho PH tại nhóm lớp

4. Mời PH tham gia vào các hoạt động lễ

hội và hoạt động của cô và trẻ trong

trường

5. Thông qua sổ bé ngoan/sổ liên lạc

6. Trao đổi qua mạng xã hội như: Zalo,

Facebook, Email…

7. Trao đổi qua điện thoại

8. Mời PH tham gia các buổi chuyên đề

về tâm lí trẻ MN cũng như những phương

pháp giáo dục kỹ năng cho trẻ

10. Thầy Cô sẽ làm gì khi PH than phiền về những khuyết điểm của trẻ trong kỹ

năng tự phục vụ? (đánh dấu X vào đáp án đã chọn, được chọn nhiều đáp án)

GV lắng nghe chia sẻ của PH

Chia sẻ, an ủi, động viên PH

Hứa hẹn cùng với PH giúp đỡ trẻ

Bênh vực trẻ

GV lắng nghe và mỉm cười phớt lờ cho qua.

Ý kiến khác

PL14

………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………

11. Theo Thầy Cô, vì sao GVMN ngại trao đổi với PH, khi thấy trẻ chưa thực hiện

được một số kỹ năng tự phục vụ? (đánh dấu X vào đáp án đã chọn, được chọn

nhiều đáp án)

Ngại mất lòng PH

Sợ PH đỗ lỗi cho mình

Không muốn nói về khuyết điểm của trẻ

Không có thời gian

Không thấy sự cần thiết phải cho PH biết

□ Ý kiến khác

……………………………………………………………………………………….

……………………………………………………………………………………….

12. Theo Thầy Cô, những khó khăn của GVMN trong việc phối hợp với PH để giáo

dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ?

Đồng Phân Không Những khó khăn ý vân đồng ý

1. PH không có thời gian cũng như điều kiện để phối

hợp

2. Cách giáo dục giữa PH và GV không thống nhất

3. PH việc phối hợp chưa thường xuyên

4. PH ngại giao tiếp với GV

5. PH giao hết trách nhiệm giáo dục trẻ cho GV

6. PH không hợp tác, bất đồng quan điểm, không cảm

thông.

7. PH đòi hỏi những yêu cầu cao ở trẻ. Và không nhận

thức đúng về khả năng của trẻ

PL15

□ Ý kiến khác

………………………………………………….....................................................

………………………………………………………………………………………

13. Theo Thầy Cô, cần có những biện pháp nào để nâng cao sự phối hợp giữa

GVMN và PH trong việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ?

………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………

Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của quý Thầy Cô!

Chúc quý Thầy Cô nhiều sức khỏe, hạnh phúc và thành công!

PL16

PHỤ LỤC 3

PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN

(Dành cho Phụ huynh)

Kính chào quý phụ huynh thân mến!

Để có những thông tin khách quan, trung thực về vấn đề “Thực trạng phối hợp

giữa giáo viên và phụ huynh trong việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu

giáo 3 – 4 tuổi”. Chúng tôi mong quý phụ huynh đóng góp những ý kiến riêng theo

tình hình thực tế của trẻ khi thực hiện những yêu cầu trong nội dung phiếu khảo sát.

Chúng tôi cam kết những thông tin trên được bảo mật hoàn toàn và chỉ phục vụ cho

mục đích nghiên cứu khoa học tại trường ĐH Sư Phạm TP.HCM, tuyệt đối không

ảnh hưởng đến trẻ, quý phụ huynh và trường MN.

Xin trân trọng cám ơn sự hợp tác, giúp đỡ nhiệt tình từ quý phụ huynh!

Nội dung viết tắt:

GVMN : Giáo viên mầm non PH: Phụ huynh

MN: Mầm non GV: Giáo viên

CB-CNV: Cán bộ - Công nhân viên

A. PHẦN THÔNG TIN (đánh dấu X vào đáp án đã chọn)

1. Độ tuổi của quý PH?

□ Dưới 25 tuổi □ 25 – 34 tuổi □ 35 – 49 tuổi □ 50 – 60 tuổi □ Trên 60 tuổi

2. Giới tính: □ Nam □ Nữ

3. Trình độ học vấn?

□ THCS (cấp II) □ THPT (cấp III) □ Trung cấp

□ Cao Đẳng □ Đại học □ Sau Đại học

4. Nghề nghiệp?

□ CB-CNV □ Kinh doanh □ Làm thuê □ Nội trợ □ Khác

5. Quan hệ với trẻ?

□ Ông/bà □ Cha/mẹ □ Cô/dì/chú/bác

□ Anh/chị □ Người chăm sóc trẻ ở gia đình

6. Quý PH có mấy người con?

□ 1 đến 2 bé □ Trên 2 bé

PL17

B. PHẦN CÂU HỎI (điền thông tin và đánh dấu X vào đáp án đã chọn)

1. Theo PH, giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ là gì? (chọn 1 đáp án đúng nhất)

Là khả năng trẻ có thể tự làm những việc đơn giản trong cuộc sống như: Tự xúc

ăn, mặc quần áo, mang giày dép…

Là quá trình tác động đến trẻ có mục đích, có hệ thống để hình thành những kỹ

năng tự phục vụ phù hợp với độ tuổi.

Là giáo dục những kỹ năng để trẻ có thể tự phục vụ bản thân mình

Là trẻ tự phục vụ tự mình làm lấy những việc phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt

hằng ngày của mình, không cần có người giúp, có người phục vụ.

Ý kiến khác

………………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………..

2. Theo PH, sự phối hợp giữa GVMN và PH trong việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ

cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi là? (chọn 1 đáp án đúng nhất)

Rất cần thiết Cần thiết Bình thường Không cần thiết

3. Theo PH, trẻ của mình đã thực hiện được những kỹ năng tự phục vụ nào và mức

độ ra sao? (đánh dấu X vào 1 cột mức độ đã chọn)

Mức độ Các kỹ năng tự phục vụ Tốt Trung bình Chưa tốt

1. Xúc ăn

2. Mang giày/dép đúng

3. Đi vệ sinh

4. Mặc quần

5. Mặc áo

6. Lấy nước uống

7. Rửa tay bằng xà phòng

8. Lau mặt

9. Chuẩn bị chỗ ngủ (lấy gối, lấy

nệm/chiếu/phụ cô lấy giường ngủ…)

PL18

Mức độ Các kỹ năng tự phục vụ Tốt Trung bình Chưa tốt

10. Lấy và cất đồ (đồ dùng, đồ chơi sau

khi sử dụng và sau khi chơi)

4. Theo PH, vì sao trẻ thực hiện tốt các kỹ năng tự phục vụ? (đánh dấu X vào đáp

án – có thể có nhiều lựa chọn)

Hoàn cảnh gia đình (gia đình khó khăn, anh em đông… nên trẻ phải tự làm)

PH quan tâm, tạo điều kiện cho con trẻ của mình

Cô giáo có giáo dục trẻ

Trẻ bắt chước lẫn nhau

Nhà trường có lập kế hoạch giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ

Ý kiến khác

………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………

5. Theo PH những kỹ năng nào quan trọng đối với trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi? (đánh

dấu X vào đáp án đã chọn – được chọn nhiều đáp án)

Xúc ăn Mang giày/dép đúng Mặc quần

Mặc áo Đi vệ sinh Lấy nước uống

Rửa tay bằng xà phòng Lau mặt Sắp xếp quần áo bỏ vào balo

Dọn dẹp chén bát sau khi ăn

Chuẩn bị chỗ ngủ (lấy gối, lấy nệm/chiếu/phụ lấy giường ngủ…)

Lấy và cất đồ (đồ dùng, đồ chơi sau khi sử dụng và sau khi chơi)

6. Theo PH những kỹ năng nào không quan trọng đối với trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi?

(đánh dấu X vào đáp án đã chọn – được chọn nhiều đáp án)

Xúc ăn Mang giày/dép đúng Mặc quần

Mặc áo Đi vệ sinh Lấy nước uống

Rửa tay bằng xà phòng Lau mặt Sắp xếp quần áo bỏ vào balo

Dọn dẹp chén bát sau khi ăn

Chuẩn bị chỗ ngủ (lấy gối, lấy nệm/chiếu/phụ lấy giường ngủ…)

PL19

Lấy và cất đồ (đồ dùng, đồ chơi sau khi sử dụng và sau khi chơi)

7. Theo PH, sự hình thành và phát triển kỹ năng tự phục vụ ở trẻ như thế nào? (đánh

dấu X vào 1 đáp án đúng nhất)

Chưa biết – quan sát – bắt chước/tập làm theo – được thực hành thường xuyên –

làm giỏi

Quan sát – làm giỏi – quên

Chưa biết – quan sát – bắt chước/tập làm theo – làm giỏi

Quan sát – bắt chước/tập làm theo – làm giỏi

Ý kiến khác

………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………

8. PH đã sử dụng những cách nào để giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ tại gia

đình? (đánh dấu X vào đáp án đã chọn – được chọn nhiều đáp án)

Làm mẫu Kèm cặp (làm cùng) Chỉ dẫn nhắc nhở

Nhận xét, đánh giá

Lặp lại nhiều lần trong sinh hoạt hằng ngày

Ý kiến khác

………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………

9. Theo PH, vì sao PH cần phối hợp với GVMN trong việc giáo dục kỹ năng tự

phục vụ cho trẻ? (đánh dấu X vào ô đã chọn theo các mức độ)

Nội dung Đồng ý Phân Không

vân đồng ý

• Để trẻ có kỹ năng tự phục vụ tốt

• Có sự thống nhất về nội dung các kỹ

năng cần giáo dục cho trẻ

• Để hỗ trợ, bù trừ giữa GV và PH trong

việc giáo dục trẻ

• Luân phiên trách nhiệm giữa GV và PH

PL20

10. Những hình thức phối hợp giữa GVMN và PH trong việc giáo dục kỹ năng tự

phục vụ cho trẻ? (đánh dấu X vào các mức độ đã chọn)

Mức độ thực hiện

Hình thức phối hợp Không Thỉnh Thường

thực hiện thoảng xuyên

1. Trao đổi trực tiếp với PH qua giờ đón

và trả trẻ

2. Trao đổi với PH qua cuộc họp định kỳ

3. Xây dựng góc tuyên truyền, bảng tin,

tờ rơi thông tin đến cho PH tại nhóm lớp

4. Mời PH tham gia vào các hoạt động lễ

hội và hoạt động của cô và trẻ trong

trường

5. Thông qua sổ bé ngoan/sổ liên lạc

6. Trao đổi qua mạng xã hội như: Zalo,

Facebook, Email…

7. Trao đổi qua điện thoại

8. Mời PH tham gia các buổi chuyên đề

về tâm lí trẻ MN cũng như những phương

pháp giáo dục kỹ năng cho trẻ

11. PH có trao đổi ý kiến với GVMN trong việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho

trẻ? (đánh dấu X vào 1 đáp án đã chọn)

Thường xuyên Thỉnh thoảng Không bao giờ

12. PH làm gì khi GVMN trao đổi với PH về việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho

trẻ? (đánh dấu X vào đáp án đã chọn – được chọn nhiều đáp án)

Chú ý lắng nghe và tiếp thu Im lặng

Không lắng nghe, phớt lờ cho qua E ngại giao tiếp nên cho qua

Lắng nghe và mỉm cười cho qua, xem như không cần thiết

Sẵn sàng trao đổi với GVMN khi có những thắc mắc về con trẻ

PL21

13. Vì sao PH ngại trao đổi với GVMN khi thấy con trẻ chưa thực hiện được một

vài kỹ năng tự phục vụ? (đánh dấu X vào đáp án đã chọn – được chọn nhiều đáp

án)

Ngại mất lòng GV

Sợ GV đỗ lỗi cho mình

Không muốn nói về khuyết điểm của trẻ

Không có thời gian

Không thấy sự cần thiết phải cho GV biết

□ Ý kiến khác

…………………………………………………........................................................

……………………………………………………………………………………….

14. GVMN có trao đổi ý kiến với PH trong việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho

trẻ? (đánh dấu X vào 1 đáp án đã chọn)

Thường xuyên Thỉnh thoảng Không có

15. Theo PH, về phía GVMN còn có những khó khăn nào ảnh hưởng đến việc phối

hợp với PH để giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ? (đánh dấu X vào các mức độ

đã chọn)

Những khó khăn từ phía GVMN Đồng ý Phân Không

vân đồng ý

1. Do GV công việc nhiều áp lực, không có nhiều

thời gian

2. Cách giáo dục giữa GV và PH không thống nhất

3. GV phối hợp chưa thường xuyên

4. GV còn e ngại giao tiếp với PH

5. GV chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc phối

hợp với PH để giáo dục kỹ năng cho trẻ.

□ Ý kiến khác

…………………………………………………...........................................................

PL22

16. Theo PH, cần có những biện pháp nào để nâng cao sự phối hợp giữa GVMN và

PH trong việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ?

………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………

Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của quý phụ huynh!

Chúc quý phụ huynh nhiều sức khỏe, hạnh phúc và thành công!

PL23

PHỤ LỤC 4

BẢNG QUAN SÁT

I/ PHẦN THÔNG TIN

Trường mầm non: ………………………………………………………………….

Lớp: ………………………………..Số lượng trẻ:………………………………...

Địa điểm quan sát: ………………………………………......................................

Thời gian: …………………………………………………………………………..

Số lượng Cô trong lớp:……………………………………………………………..

Cô giáo chủ nhiệm:…………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………

II/ PHẦN NỘI DUNG

Thời HĐ của GV về HĐ của trẻ về HĐ của PH về phối Ghi

gian giáo dục KN KN TPV hợp với GV giáo dục chú

TPV KN TPV

………… ……………… ……………… ................................... ………

……........ ……………… ……………… ................................... ……….

............... ……………… ……………… ................................... .............

………… ……………… ……………… ................................... .............

………… ……………… ……………… ................................... .............

………… ……………… ……………… ................................... .............

………… ……………… ……………… ………………….…. .............

………… ……………… ……………… …………………….. .............

………… ……………… ……………… …………………….. .............

………… ……………… ……………… …………………….. .............

………… ……………… ……………… …………………….. .............

………… ……………… ……………… …………………….. .............

………… ………………. ……………… ……………………... .............

PL24

PHỤ LỤC 5

CÂU HỎI PHỎNG VẤN

(Dành cho giáo viên mầm non)

I. THÔNG TIN CÁ NHÂN

Họ và tên:………………………………………………………………………..

Thâm niên: ………………………… Trình độ chuyên môn: ………………….

Số năm công tác tại nhóm lớp 3 – 4 tuổi: ………………………………………

II. CÂU HỎI PHỎNG VẤN

Câu 1: Theo Thầy Cô, vì sao có một số trẻ chưa thực hiện tốt những kỹ năng tự

phục vụ?

(Do đặc điểm của trẻ, gia đình, chưa được tập luyện thường xuyên….)

Câu 2: Thầy Cô có thường trao đổi với phụ huynh về giáo dục kỹ năng tự phục vụ

cho trẻ không?

- Nếu không. Vì sao?

- Nếu có. Thầy Cô thường bàn bạc với phụ huynh về những nội dung gì? Và

Thầy Cô thường trao đổi với phụ huynh bằng cách nào?

Câu 3 : Theo Thầy Cô, phụ huynh có sẵn lòng phối hợp với GVMN để giáo dục kỹ

năng tự phục vụ cho trẻ không?

- Nếu không. Vì sao?

- Nếu có. Và phụ huynh đã làm gì?

Câu 4: Thầy Cô có sử dụng mạng xã hội để trao đổi, phối hợp với phụ huynh về

giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ không?

- Nếu không. Tại sao?

- Nếu có. Thường sử dụng mạng xã hội nào?

Chân thành cảm ơn quý Thầy Cô!

Chúc quý Thầy Cô nhiều sức khỏe và luôn hạnh phúc!

PL25

PHỤ LỤC 6

CÂU HỎI PHỎNG VẤN

(Dành cho phụ huynh)

I. THÔNG TIN CÁ NHÂN

Phụ huynh của trẻ: ………………………………………………………

Giới tính: …………………………………………………………………

II. CÂU HỎI PHỎNG VẤN

Câu 1: Khi cho trẻ học tại trường anh/chị mong muốn nhất điều gì?

(Được GVMN làm mọi việc giúp trẻ và chăm sóc toàn diện cho trẻ, vui vẻ, khỏe

mạnh và an toàn, được GVMN cưng chiều tối đa, tự lập, biết làm 1 số việc vừa

sức….)

Câu 2: Con của anh/chị đã thực hiện tốt kỹ năng tự phục vụ chưa?

- Nếu chưa tốt. Những kỹ năng nào mà con anh/chị thực hiện chưa tốt? Theo

anh/chị nguyên nhân tại sao dẫn đến trẻ thực hiện chưa tốt?

- Nếu tốt. Anh/chị đã làm cách nào để giúp trẻ thực hiện tốt các kỹ năng tự phục

vụ?

Câu 3: Anh/chị có muốn phối hợp với GVMN để rèn luyện những kỹ năng tự phục

vụ cho trẻ không?

- Nếu không. Vì sao?

- Nếu có. Theo anh/chị sẽ phối hợp như thế nào?

Câu 4: Anh/chị có thường trao đổi với GVMN về việc giáo dục những kỹ năng tự

phục vụ cho trẻ?

- Nếu không. Tại sao?

- Nếu có. Anh/chị thường trao đổi với GVMN bằng cách nào?

Xin chân thành cảm ơn sự hợp tác, giúp đỡ từ quý phụ huynh!

Chúc quý phụ huynh nhiều sức khỏe và luôn hạnh phúc!

PL26

PHỤ LỤC 7

KẾT QUẢ QUAN SÁT THỰC TRẠNG Ở CÁC NHÓM LỚP MẪU GIÁO

3 – 4 TUỔI TẠI CÁC TRƯỜNG MN TẠI TP.HCM

Bảng 1. Kết quả quan sát các KN TPV của trẻ ở lớp MG 3 – 4 tuổi tại trường

MN Hoa Sen (Bình Chánh, TP.HCM)

Mức độ Các kỹ năng tự phục vụ

Mầm 1 (M1): 24 trẻ Trung Chưa Tốt Mầm 2 (M2): 23 trẻ bình tốt

1. Xúc ăn M1 11 6 7

M2 9 7 7

2. Mang giày/dép đúng M1 13 8 3

M2 9 11 3

3. Đi vệ sinh M1 10 12 2

M2 14 8 1

4. Mặc quần M1 7 11 6

M2 6 13 4

5. Mặc áo M1 4 12 8

M2 5 9 9

6. Lấy nước uống M1 12 10 2

M2 12 8 3

7. Rửa tay bằng xà phòng M1 10 10 4

M2 13 8 2

8. Lau mặt M1 9 8 7

M2 10 6 7

9. Chuẩn bị chỗ ngủ (lấy gối, lấy M1 0 22 2

nệm/chiếu/phụ cô lấy giường ngủ…) M2 0 20 3

10. Lấy và cất đồ (đồ dùng, đồ chơi sau khi M1 20 3 1

sử dụng và sau khi chơi) M2 17 4 2

PL27

Bảng 2. Kết quả quan sát các KN TPV của trẻ ở lớp MG 3 – 4 tuổi tại trường

MN Hoa Thiên Lý 1 (Bình Chánh, TP.HCM)

Mức độ Các kỹ năng tự phục vụ

Mầm 1 (M1): 37 trẻ Trung Chưa Tốt Mầm 2 (M2): 33 trẻ bình tốt

M1 14 16 7 1. Xúc ăn

M2 17 9 7

M1 18 14 5 2. Mang giày/dép đúng

M2 20 10 3

M1 23 13 1 3. Đi vệ sinh

M2 19 12 2

M1 11 18 8 4. Mặc quần

M2 14 12 7

M1 8 10 19 5. Mặc áo

M2 9 14 10

M1 27 6 4 6. Lấy nước uống

M2 30 2 1

M1 18 11 8 7. Rửa tay bằng xà phòng

M2 19 8 6

M1 16 9 12 8. Lau mặt

M2 9 15 9

M1 0 32 5 9. Chuẩn bị chỗ ngủ (lấy gối, lấy

nệm/chiếu/phụ cô lấy giường ngủ…) M2 0 31 2

M1 27 7 3 10. Lấy và cất đồ (đồ dùng, đồ chơi sau khi

sử dụng và sau khi chơi) M2 19 10 4

PL28

Bảng 3. Kết quả quan sát các KN TPV của trẻ ở lớp MG 3 – 4 tuổi tại trường

MN Thiên Đức (Hóc Môn, TP.HCM)

Các kỹ năng tự phục vụ Mức độ

Mầm 1 (M1): 37 trẻ Trung Chưa Tốt Mầm 2 (M2): 38 trẻ bình tốt

M1 12 16 9 1. Xúc ăn

M2 15 17 6

M1 19 14 4 2. Mang giày/dép đúng

M2 19 17 2

M1 20 15 2 3. Đi vệ sinh

M2 17 19 2

M1 11 23 3 4. Mặc quần

M2 10 24 4

M1 5 17 15 5. Mặc áo

M2 8 20 10

M1 30 5 2 6. Lấy nước uống

M2 28 7 3

M1 11 14 12 7. Rửa tay bằng xà phòng

M2 15 10 13

M1 6 17 14 8. Lau mặt

M2 8 18 12

M1 0 35 2 9. Chuẩn bị chỗ ngủ (lấy gối, lấy

nệm/chiếu/phụ cô lấy giường ngủ…) M2 0 35 3

M1 25 7 5 10. Lấy và cất đồ (đồ dùng, đồ chơi sau khi sử

dụng và sau khi chơi) M2 30 7 1

PL29

Bảng 4. Kết quả quan sát các KN TPV của trẻ ở lớp MG 3 – 4 tuổi tại trường

MN 19/5 Thành Phố (Quận 1, TP.HCM)

Mức độ Các kỹ năng tự phục vụ

Mầm 4 (M4): 35 trẻ Trung Chưa Tốt Mầm 5 (M5): 31 trẻ bình tốt

12 10 M4 13 1. Xúc ăn

M5 20 7 4

M4 30 3 2 2. Mang giày/dép đúng

M5 28 2 1

M4 25 9 1 3. Đi vệ sinh

M5 24 6 1

M4 24 9 2 4. Mặc quần

M5 22 7 2

M4 18 11 6 5. Mặc áo

M5 18 9 4

M4 27 5 3 6. Lấy nước uống

M5 24 5 2

M4 7 16 12 7. Rửa tay bằng xà phòng

M5 9 14 8

M4 9 7 9 8. Lau mặt

M5 6 4 21

M4 19 13 3 9. Chuẩn bị chỗ ngủ (lấy gối, lấy

nệm/chiếu/phụ cô lấy giường ngủ…) M5 22 8 1

M4 26 7 2 10. Lấy và cất đồ (đồ dùng, đồ chơi sau khi

sử dụng và sau khi chơi) M5 27 4 0

PL30

Bảng 5. Điểm tổng cộng và tỉ lệ % các KN TPV ở 8 nhóm lớp MG 3 – 4 tuổi tại

4 trường MN tại TP.HCM (N=258 trẻ)

Mức độ

Các kỹ năng tự phục vụ Trung Chưa Tốt bình tốt

90 57 111 TC 1. Xúc ăn

34.9 22.1 43 TL

79 23 156 TC 2. Mang giày/dép đúng

30.6 8.9 60.5 TL

94 12 152 TC 3. Đi vệ sinh

36.4 4.7 58.9 TL

117 36 105 TC 4. Mặc quần

45.3 14.0 40.7 TL

102 81 75 TC 5. Mặc áo

39.5 31.4 29.1 TL

48 20 190 TC 6. Lấy nước uống

18.6 7.8 73.6 TL

65 91 102 TC 7. Rửa tay bằng xà phòng

25.2 35.3 39.5 TL

84 101 73 TC 8. Lau mặt

32.6 39.1 28.3 TL

196 21 41 TC 9. Chuẩn bị chỗ ngủ (lấy gối, lấy

nệm/chiếu/phụ cô lấy giường ngủ…) 76.0 8.1 15.9 TL

49 18 191 TC 10. Lấy và cất đồ (đồ dùng, đồ chơi sau

khi sử dụng và sau khi chơi) 19.0 7.0 74.0 TL

PL31

PHỤ LỤC 8

Tổng hợp ý kiến phỏng vấn giáo viên mầm non

(48 GVMN)

Nội dung câu Nội dung trả lời SL hỏi

Câu 1: Theo Do ở nhà PH không tập cho bé làm, hay làm cho bé 21

Thầy Cô, vì sao Do thời gian ở trường có hạn nên Cô hay làm dùm 3 có một số trẻ cho bé để kịp thời gian

chưa thực hiện Do đặc điểm khả năng của từng bé, tiếp thu nhanh – 21 tốt những kỹ chậm

năng tự phục vụ? Do ở nhà PH cưng chiều bé, nên thường làm hộ cho 25 bé

Do PH muốn bé ăn hết suất nên thường đúc cho bé 1

Do PH thấy bé còn nhỏ nên PH thường làm cho con. 2

Do PH thấy bé làm vụng về, hay đổ, làm lâu nên làm 3 dùm cho con

Do bé lười biếng không chịu làm 8

Chưa có sự phối hợp từ PH và GV 12

Do độ tuổi của bé còn nhỏ 2

Do bé chưa đủ tháng tuổi 3

Do bé không tập trung chú ý 4

Do cảm xúc của bé, lúc thì làm lúc thì không làm 2

Do quần áo chật hoặc quá hiện đại nên trẻ khó để mặc 1

Trẻ chưa biết cách làm 1

Do số trẻ trong lớp quá đông nên Cô hay dạy lướt 3 qua, chưa kỹ

Do trẻ chưa được làm thường xuyên 1

Do cách dạy ở trường và ở nhà khác nhau 1

Do bé mới đi học nên chưa học hết các kỹ năng ở 2

PL32

Nội dung câu Nội dung trả lời SL hỏi

trường dạy

Do PH ít quan tâm đến KN TPV của trẻ 1

Câu 2: Thầy Cô 5 - Không trao đổi.

có thường trao - Vì thấy bé thực hiện như vậy là tốt rồi 1

đổi với phụ - Vì ít quan tâm đến KN TPV thường trao đổi về tình 4

huynh về giáo hình sức khỏe và việc học của bé, học có ngoan

dục kỹ năng tự không, có giỏi không

phục vụ cho trẻ - Vì bé còn nhỏ 1

không?

Nếu không. Vì

sao?

Nếu có. Thầy Cô - Có. Nhưng thỉnh thoảng 39

thường bàn bạc - Có. Thường xuyên 4

với phụ huynh về -Nội dung trao đổi:

những nội dung + KN xúc ăn 39

gì? Và Thầy Cô +KN đi vệ sinh 13

thường trao đổi +KN mặc quần 22

với phụ huynh +KN mặc áo 24

bằng cách nào? +KN lau mặt 6

+KN rửa tay bằng xà phòng 8

+KN lấy nước uống 3

+ Tự lấy và cất đồ 2

+KN mang giày/dép đúng 3

Trao đổi trực tiếp qua giờ đón – trả trẻ 43

Trao đổi qua bảng tuyên truyền đến PH về các KN ở 6 trẻ

Họp đầu năm có trao đổi với PH 6

Sổ liên lạc/sổ bé ngoan 4

PL33

Nội dung câu Nội dung trả lời SL hỏi

Câu 3 : Theo 26 - Chưa sẵn lòng

Thầy Cô, phụ PH lắng nghe đồng ý gật đầu tiếp thu ý kiến nhưng 14 huynh có sẵn chưa thấy sự phối hợp từ PH, cho qua

lòng phối hợp PH có lắng nghe tiếp thu, có hứa hẹn sẽ giúp bé làm ở 9 với GVMN để nhà, nhưng rồi cho qua chưa thấy sự phối hợp từ PH

giáo dục kỹ năng PH lắng nghe tiếp thu ý kiến và nhờ Cô giúp đỡ dạy 1 tự phục vụ cho cho bé

trẻ không? PH bênh vực trẻ 4

-Nếu không. Vì PH có lắng nghe tiếp thu có cho bé làm, nhưng vài 2 sao? ngày lại làm giúp cho bé

Do PH bận rộn, không có nhiều thời gian dạy cho bé 3

Do PH cưng chiều bé, nên làm hộ cho bé hết và PH 2 không có thời gian để chờ đợi bé làm

-Nếu có. Và Phụ - Có sẵn lòng. 22

huynh đã làm gì? PH lắng nghe tiếp thu, ý kiến của GV và hứa hẹn sẽ 10 tập cho bé làm

PH có lắng nghe, tiếp thu và có cho bé tập làm ở nhà 13

PH có lắng nghe, tiếp thu và hỏi Cô làm cách nào để 6 dạy cho bé

PH trao đổi với GV về sự tiến bộ của bé 5

Câu 4: Thầy Cô - Không 40

có sử dụng mạng Vì PH và GV cũng ít quan tâm đến KN TPV của bé. 14

xã hội để trao Vì thường trao đổi trực tiếp giờ đón – trả trẻ là chủ 31 đổi, phối hợp với yếu

phụ huynh về Vì việc nhắn tin trao đổi qua MXH sợ PH sẽ không 2 giáo dục kỹ năng hiểu được hết vấn đề của Cô

tự phục vụ cho Vì GV thường trao đổi với PH về tình hình sức khỏe, 3 trẻ không? ăn uống của bé trong ngày hôm đó là chủ yếu

PL34

Nội dung câu Nội dung trả lời SL hỏi

Nếu không. Tại Vì ít PH sài mạng xã hội 5

sao? Vì đã từng sử dụng nhưng không thấy hiệu quả. 1

Do có nhiều bất cập và ảnh hưởng đến các phụ huynh 1 khác

Vì PH cũng ít khi sử dụng, có gì là trao đổi trực tiếp 1 với PH, nếu có gì gấp thì gọi ĐT trực tiếp cho PH

Vì sợ ảnh hưởng đến riêng tư cá nhân của GV 2

Vì PH không có nhiều thời gian 1

Vì trao đổi qua ĐT khi cần thiết 1

Vì tính chất công việc ít sử dụng ĐT 16

Vì sợ PH không hiểu được nội dung vấn đề sẽ đổ lỗi 1 cho GV

Vì trao đổi trực tiếp sẽ hay hơn, PH sẽ hiểu được vấn 2 đề hơn

Vì luật an ninh mạng nên cũng ít khi sử dụng MXH 2 để chia sẻ thông tin

Vì sợ ảnh hưởng đến riêng tư của trẻ 1

Vì về nhà GV cũng bận rộn công việc gia đình nên 1 chủ yếu là trao đổi trực tiếp khi ở trường

Nếu có. Thường - Có . Thỉnh thoảng ít khi 8

sử dụng mạng xã -Nhắn tin cá nhân qua zalo, facebook 8

hội nào? -Có gửi hình, quay clip về sự tiến bộ của trẻ cho PH 1

xem

-Sử dụng zalo, facebook. Chỉ một số PH nhắn tin hỏi

thăm về tình hình sức khỏe của bé, hoặc có ý kiến gì 7

thì nhắn tin cho cô, cũng ít khi hỏi về kỹ năng của bé

PL35

PHỤ LỤC 9

Tổng hợp ý kiến phỏng vấn phụ huynh (77 PH)

Nội dung câu hỏi Nội dung trả lời SL

Giới tính Nam 28

Nữ 49

Câu 1: Khi cho trẻ Bé ngoan hơn 30

học tại trường Bé biết tự lập, tự lo cho bản thân 10

anh/chị mong Hòa đồng với bạn bè và mọi người xung quanh 16

muốn nhất điều Vui vẻ 8

gì? Khỏe mạnh 11

Bé tăng cân 1

Có bạn bè 2

Va chạm trong cuộc sống 1

Ăn được, ngủ được 5

Được Cô chăm sóc tốt cho bé 6

Cho bé học một số KN giao tiếp cộng đồng 1

Học hỏi nhiều điều từ Cô 13

Có nơi để giữ bé 2

Cho bé phát triển ngôn ngữ, nói nhiều hơn 2

Ăn ngon, ăn tốt 7

Bé vâng lời 8

Dạy cho bé biết xếp hình 1

Bé biết tự mặc quần áo 1

Thích nghi với môi trường 2

Không có khóc 1

Cho bé có nề nếp 6

Lễ phép 7

Học giỏi, thông minh 11

Nhanh nhẹn, lanh lợi 3

Ăn uống phù hợp với chế độ của nhà trường 2

Tới tuổi cho bé đi học thôi 1

PL36

Nội dung câu hỏi Nội dung trả lời SL

Chuẩn bị vào lớp 1 1

Biết nhiều thứ 4

Biết làm Toán 1

Câu 2: Con của Chưa tốt. 37

anh/chị đã thực -KN xúc ăn 17

hiện tốt kỹ năng -KN dọn dẹp đồ chơi 14

tự phục vụ chưa? -KN lau mặt 9

Nếu chưa tốt. -KN mặc quần 17

Những kỹ năng -KN mặc áo 28

nào mà con -KN rửa tay bằng xà phòng 13

anh/chị thực hiện -KN chuẩn bị chỗ ngủ 11

chưa tốt? -KN đi vệ sinh 7

Theo anh/chị -KN mang giày/dép đúng 5

nguyên nhân tại Nguyên nhân:

sao dẫn đến trẻ -Bé còn nhỏ 11

thực hiện chưa -Bé lười biếng, bướng bỉnh, hiếu động không chịu 15

tốt? làm, thích thì làm, không thích thì không làm

-Ở nhà ba mẹ thường cưng chiều bé làm hộ giúp 21

cho bé

- Ham chơi 4

-Ba mẹ không có nhiều thời gian để cho bé làm, 9

thấy bé làm lâu, nên làm dùm cho nhanh

-Do đặc điểm của bé tiếp thu chậm 4

-Do bé mới vào học 2

-Ở nhà ba mẹ không dạy cho bé, chủ yếu là ở 3

trường dạy thôi

Nếu tốt. Anh/chị -Tốt 40

đã làm cách nào Ở nhà có tập cho bé làm, kêu bé làm 19

để giúp trẻ thực Ở nhà có dạy cho bé, nhắc nhở chỉ dẫn tập cho bé 10

hiện tốt các kỹ làm

PL37

Nội dung câu hỏi Nội dung trả lời SL

năng tự phục vụ? Có cho bé làm tại nhà, khi bé làm sai có sửa sai 2

cho bé

Không có cách. Thường ở nhà không có dạy bé, 4

thường làm hộ cho bé.

Ở nhà không có dạy cho bé, chủ yếu là bé học ở 8

trường

Ở nhà không có dạy cho bé, chủ yếu là bé bắt 6

chước người lớn, bạn bè

Thấy bé tự làm, làm được nên để cho bé tự làm 8

Câu 3: Anh/chị có -Không muốn 28

muốn phối hợp Vì thấy bé thực hiện như vậy là tốt rồi 16

với GVMN để rèn Vì thấy bé bướng bỉnh PH kêu bé làm bé không 5

luyện những kỹ chịu làm

năng TPV cho trẻ Vì bé bị bệnh nên PH không dám ép trẻ, la mắn 1

không? trẻ

Nếu không. Vì Vì bé còn nhỏ nên không ép trẻ, như vậy được rồi 10

sao? khi lớn từ từ bé sẽ biết

Vì không có nhiều thời gian 7

-Có muốn 49

Nếu có. Theo Ở nhà sẽ tập cho bé tự làm những KN đó 11 anh/chị sẽ phối Ở nhà sẽ cho bé tự làm và trao đổi với Cô tại lớp 9 hợp như thế nào? Trao đổi với Cô và tình hình của bé ở nhà, nhờ Cô 7

giúp đỡ

Không biết làm thế nào 9

Nhờ Cô giúp đỡ dạy và chỉ cho bé nhiều hơn 16

PH cho rằng GV và PH khó mà phối hợp 1

Cô giáo và PH cùng nhau chỉ và nhắc nhở cho bé 12

làm

GV cần có những bài tập, giao cho bé làm tại nhà. 1

Vì PH không biết GV đã dạy những KN nào cho

bé và cần rèn những KN nào

PL38

Nội dung câu hỏi Nội dung trả lời SL

Cùng hợp tác với GV để giúp bé thực hiện tốt 1

Muốn có của 1 buổi để PH được vào trong lớp 1

quan sát các bé làm, để biết cách mà trường dạy

cho bé, để PH biết mà hổ trợ để dạy cho bé

Muốn có các buổi họp PH về GD KN để giáo viên 1

hướng dẫn cách GD KN cho trẻ tại nhà

PH trao đổi với GV và GV cần trao đổi với PH và 1

trao đổi qua sổ liên lạc để PH biết hơn về tình

hình của bé

Câu 4: Anh/chị có -Không trao đổi. 53

thường trao đổi Vì KN của bé ít quan tâm. Thường trao đổi về 36 với GVMN về tình hình học tập của bé, hôm nay có ngoan việc giáo dục không, giỏi không, có ăn được không. những kỹ năng tự Vì chưa biết nhiều về những KN TPV ở trên 19 phục vụ cho trẻ? Vì thấy bé thực hiện như vậy là tốt rồi 15

Vì bé còn nhỏ nên không ép trẻ làm 6 Nếu không. Tại Vì không có thời gian 8 sao?. Ngại trao đổi nên ít khi trao đổi với cô 4

Vì trẻ còn nhỏ KN cũng không quan trọng đối với 7

trẻ

Vì thấy Cô bận nên ngại trao đổi 2

Nếu có. Anh/chị -Có. Thỉnh thoảng. 24

thường trao đổi Trao đổi trực tiếp giờ đón – trả trẻ 24

với GVMN bằng Trao đổi qua ĐT 1

cách nào? Trao đổi nhắn tin qua zalo 4

Viết giấy gửi cho Cô 1

PL39

PHỤ LỤC 10

PHIẾU KHẢO SÁT CÁC BIỆN PHÁP

(Dành cho GVMN, CBQL)

Kính chào quý Thầy Cô!

Sau thời gian chúng tôi tiến hành khảo sát: Thực trạng phối hợp giữa giáo viên

và phụ huynh trong việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi ở

một số trường MN tại TP.HCM. Qua đó, chúng tôi xin đề xuất một số biện pháp sau

đây nhằm nâng cao hiệu quả phối hợp giữa giáo viên và phụ huynh trong việc giáo

dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi.

Rất mong quý Thầy Cô dành chút thời gian quý báu cho biết ý kiến về tính

khả thi của một số biện pháp sau.

Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác giúp đỡ của quý Thầy Cô!

Nội dung khảo sát gồm có 3 biện pháp. Theo quý Thầy Cô, những biện pháp nào

khả thi, giúp nâng cao hiệu quả phối hợp giữa giáo viên và phụ huynh trong việc

giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi.

Chữ viết tắt:

KN TPV: Kỹ năng tự phục vụ GV: Giáo viên MG: Mẫu giáo

PH: Phụ huynh GD : Giáo dục

Mời quý Thầy Cô dành chút thời gian đọc kỹ chi tiết từng biện pháp và

đánh dấu X vào 1 trong 3 ô, “Ít khả thi – Khả thi – Rất khả thi” của từng biện

pháp.

Chức vụ hiện tại: Giáo viên Cán bộ quản lí

PL40

Mức độ

Các biện pháp giúp nâng cao hiệu quả phối hợp giữa Ít Rất Khả GV và PH trong việc giáo dục KN TPV cho trẻ khả khả thi MG 3 – 4 tuổi thi thi

Biện pháp 1: GV tổ chức các hoạt động giáo dục KN

TPV và mời PH tham gia

Mục đích: nhằm giúp PH hiểu rõ hơn về những nội dung,

hình thức và cách GD của Cô tại lớp. PH biết được khả

năng của con em mình đã làm được tốt hay chưa tốt ở

những KN TPV nào và tham gia cùng với trẻ để thực hiện

KN TPV tại lớp. Từ đó PH hỗ trợ phối hợp cùng với Cô để

giúp trẻ tiến bộ hơn.

Thời gian thực hiện:

- Những KN TPV trên có thể chia làm 2 học kỳ. Mỗi học

kỳ sẽ gồm 4 – 6 KN (tùy vào tiến độ của từng lớp mà các

lớp sẽ có kế hoạch GD khác nhau). Một học kỳ sẽ mời PH

vào 2,3 lần vào tham gia cùng trẻ. Tùy vào kế hoạch của

các Cô và sắp xếp thời gian chính xác để mời PH.

- Thời gian bắt đầu: 8h00 . PH ngồi dự giờ dạy của Cô.

Nội dung:

Ví dụ: Cô tổ chức các hoạt động GD KN TPV như sau:

 Hoạt động 1: Giáo dục KN rửa tay.

 Hoạt động 2: Giáo dục KN xúc ăn.

 Hoạt động 3: Giáo dục KN lấy nước uống ….

Trẻ được Cô hướng dẫn các bước, trẻ được quan sát và bắt

chước làm theo Cô, PH quan sát và nhắc nhở, làm cùng con

em mình.

Ngoài ra, các KN TPV còn lại có thể gửi về cho PH để nhờ

PH phối hợp giáo dục tại gia đình…(có tài liệu, hình ảnh –

xem thêm ở phần tài liệu tuyên truyền).

PL41

Biện pháp 2: GV tăng cường tuyên truyền về lợi ích Ít Khả Rất

cũng như cách GD KN TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi khả thi khả

Mục đích: Tuyên truyền những lợi ích trước mắt và lâu dài thi thi

về KN TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi đến PH và mọi người

xung quanh, để mọi người có nhận thức tốt hơn trong việc

phối hợp cùng nhau để GD KN TPV cho trẻ. Và một số

cách GD KN TPV cho trẻ tại gia đình đồng thời cùng nhau

phối hợp để GD KN TPV cho trẻ.

Nội dung: Nhà trường, GVMN tăng cường chia sẻ những

thông tin về việc GD KN TPV và lợi ích khi trẻ thực hiện

được các KN TPV lên bảng tin của trường, lớp bằng những

hình ảnh, tài liệu hoặc những tờ poster, tờ bướm có hình

ảnh và chữ, gửi về cho PH xem hoặc cần tạo ra các câu

khẩu hiệu về KN TPV ngắn gọn nhưng xúc tích dễ hiểu, dễ

nhớ để PH dễ nhớ và phối hợp thực hiện. (có tài liệu tuyên

truyền cụ thể)…

- Hình thức tuyên truyền:

 Tuyên truyền lên bảng thông báo, bản tin của lớp/trường

(hình ảnh, poster, clip…)

 GV chủ động trao đổi trực tiếp thường xuyên với PH về

tình hình của trẻ

 Cuộc họp PH, sổ bé ngoan

 Tuyên truyền qua loa phát thanh trong nhà trường

 Mời PH đến tham gia cùng với trẻ

Biện pháp 3: GV thường xuyên trao đổi trực tiếp đến Ít Khả Rất

PH về tình hình KN TPV của trẻ và cách GD trẻ tại nhà khả thi khả

- Mục đích: Theo dõi tình hình của trẻ tại gia đình để nắm bắt thi thi

những KN TPV nào mà trẻ thực hiện chưa tốt để GV và PH

cùng nhau phối hợp để giúp trẻ tốt hơn và đồng thời hướng

dẫn, nhắc nhở PH cách GD KN TPV cho trẻ tại gia đình.

Nội dung: Biện pháp này có thể thực hiện trao đổi trực tiếp

PL42

qua giờ đón – trả trẻ hoặc trao đổi qua mạng XH, điện

thoại… GVMN là người chủ động trao đổi thông báo với

PH về tình hình các KN TPV của trẻ tốt hay chưa tốt. Từ

đó, GVMN hướng dẫn cho PH rõ hơn về cách GD KN

TPV.

Ví dụ: Trẻ chưa tốt về KN rửa tay GV hướng dẫn cho PH về

các bước rửa tay, hướng dẫn PH làm mẫu, quan sát và

kèm cặp lúc trẻ làm. Kiên nhẫn để trẻ tự làm, nhắc nhở trẻ

tự làm thường xuyên.

- GV thường xuyên trao đổi, thăm hỏi PH để nắm tình

hình tiến bộ của trẻ, và những khó khăn/thuận lợi của

PH trong việc GD KN TPV cho trẻ tại nhà. Từ đó, động

viên PH, giúp PH khắc phục khó khăn, nhờ PH cố gắng

dạy cho trẻ tại nhà và cùng nhau phối hợp cho trẻ tốt

hơn.

- GV luôn là người chủ động trao đổi với PH, hướng dẫn

PH cách GD KN TPV cho trẻ tại nhà.

- GVMN cần có thái độ vui vẻ, ân cần, nhiệt tình, không

ngại giao tiếp và sẵn sàng lắng nghe và giải đáp những

thắc mắc cho PH, từ đó tạo niềm tin cho PH để cùng

nhau thực hiện phối hợp để GD KN TPV cho trẻ.

Xin chân thành cám ơn quý Thầy Cô!

Kính chúc quý Thầy Cô vui vẻ và hạnh phúc!

PL43

PHỤ LỤC 11

PHIẾU KHẢO SÁT CÁC BIỆN PHÁP

(Dành cho Phụ huynh)

Kính chào quý phụ huynh!

Sau thời gian chúng tôi tiến hành khảo sát: Thực trạng phối hợp giữa giáo viên

và phụ huynh trong việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi ở

một số trường MN tại TP.HCM. Qua đó, chúng tôi xin đề xuất một số biện pháp sau

đây nhằm nâng cao hiệu quả phối hợp giữa giáo viên và phụ huynh trong việc giáo

dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi.

Rất mong quý phụ huynh dành chút thời gian quý báu cho biết ý kiến về tính

khả thi của một số biện pháp sau.

Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác giúp đỡ của quý phụ huynh!

Nội dung khảo sát gồm có 3 biện pháp. Theo quý phụ huynh, những biện pháp

nào khả thi, giúp nâng cao hiệu quả phối hợp giữa giáo viên và phụ huynh trong

việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi.

Chữ viết tắt:

KN TPV: Kỹ năng tự phục vụ GV: Giáo viên MG: Mẫu giáo

PH: Phụ huynh GD : Giáo dục

Mời quý phụ huynh dành chút thời gian đọc kỹ chi tiết từng biện pháp và

đánh dấu X vào 1 trong 3 ô, “Ít khả thi – Khả thi – Rất khả thi” của từng biện

pháp.

PL44

Mức độ

Các biện pháp giúp nâng cao hiệu quả phối hợp giữa GV Ít Rất Khả và PH trong việc giáo dục KN TPV cho trẻ khả khả thi MG 3 – 4 tuổi thi thi

Biện pháp 1: GV tổ chức các hoạt động giáo dục KN TPV

và mời PH tham gia

Mục đích: nhằm giúp PH hiểu rõ hơn về những nội dung,

hình thức và cách GD của Cô tại lớp. PH biết được khả năng

của con em mình đã làm được tốt hay chưa tốt ở những KN

TPV nào và tham gia cùng với trẻ để thực hiện KN TPV tại

lớp. Từ đó PH hỗ trợ phối hợp cùng với Cô để giúp trẻ tiến

bộ hơn.

Thời gian thực hiện:

- Những KN TPV trên có thể chia làm 2 học kỳ. Mỗi học kỳ

sẽ gồm 4 – 6 KN (tùy vào tiến độ của từng lớp mà các lớp sẽ

có kế hoạch GD khác nhau). Một học kỳ sẽ mời PH vào 2,3

lần vào tham gia cùng trẻ. Tùy vào kế hoạch của các Cô và

sắp xếp thời gian chính xác để mời PH.

- Thời gian bắt đầu: 8h00 . PH ngồi dự giờ dạy của Cô.

Nội dung:

Ví dụ: Cô tổ chức các hoạt động GD KN TPV như sau:

 Hoạt động 1: Giáo dục KN rửa tay.

 Hoạt động 2: Giáo dục KN xúc ăn.

 Hoạt động 3: Giáo dục KN lấy nước uống ….

Trẻ được Cô hướng dẫn các bước, trẻ được quan sát và bắt

chước làm theo Cô, PH quan sát và nhắc nhở, làm cùng con

em mình.

Ngoài ra, các KN TPV còn lại có thể gửi về cho PH để nhờ

PH phối hợp GD tại gia đình…(có tài liệu, hình ảnh – xem

thêm ở phần tài liệu tuyên truyền).

PL45

Biện pháp 2: GV tăng cường tuyên truyền về lợi ích cũng Ít Khả Rất

như cách GD KN TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi khả thi khả

Mục đích: Tuyên truyền những lợi ích trước mắt và lâu dài thi thi

về KN TPV cho trẻ MG 3 – 4 tuổi đến PH và mọi người

xung quanh, để mọi người có nhận thức tốt hơn trong việc

phối hợp cùng nhau để GD KN TPV cho trẻ. Và một số cách

GD KN TPV cho trẻ tại gia đình đồng thời cùng nhau phối

hợp để GD KN TPV cho trẻ.

Nội dung: Nhà trường, GVMN tăng cường chia sẻ những

thông tin về việc GD KN TPV và lợi ích khi trẻ thực hiện

được các KN TPV lên bảng tin của trường, lớp bằng những

hình ảnh, tài liệu hoặc những tờ poster, tờ bướm có hình ảnh

và chữ, gửi về cho PH xem hoặc cần tạo ra các câu khẩu hiệu

về KN TPV ngắn gọn nhưng xúc tích dễ hiểu, dễ nhớ để PH

dễ nhớ và phối hợp thực hiện. (có tài liệu tuyên truyền cụ

thể)…

- Hình thức tuyên truyền:

 Tuyên truyền lên bảng thông báo, bản tin của lớp/trường

(hình ảnh, poster, clip…)

 GV chủ động trao đổi trực tiếp thường xuyên với PH về

tình hình của trẻ

 Cuộc họp PH, sổ bé ngoan

 Tuyên truyền qua loa phát thanh trong nhà trường

 Mời PH đến tham gia cùng với trẻ

Biện pháp 3: GV thường xuyên trao đổi trực tiếp đến PH Ít Khả Rất

về tình hình KN TPV của trẻ và cách GD trẻ tại nhà khả thi khả

- Mục đích: Theo dõi tình hình của trẻ tại gia đình để nắm bắt thi thi

những KN TPV nào mà trẻ thực hiện chưa tốt để GV và PH

cùng nhau phối hợp để giúp trẻ tốt hơn và đồng thời hướng

dẫn, nhắc nhở PH cách GD KN TPV cho trẻ tại gia đình.

Nội dung: Biện pháp này có thể thực hiện trao đổi trực tiếp

PL46

qua giờ đón – trả trẻ hoặc trao đổi qua mạng XH, điện

thoại… GVMN là người chủ động trao đổi thông báo với PH

về tình hình các KN TPV của trẻ tốt hay chưa tốt. Từ đó,

GVMN hướng dẫn cho PH rõ hơn về cách GD KN TPV.

Ví dụ: Trẻ chưa tốt về KN rửa tay GV hướng dẫn cho PH về

các bước rửa tay, hướng dẫn PH làm mẫu, quan sát và kèm

cặp lúc trẻ làm. Kiên nhẫn để trẻ tự làm, nhắc nhở trẻ tự

làm thường xuyên.

- GV thường xuyên trao đổi, thăm hỏi PH để nắm tình hình

tiến bộ của trẻ, và những khó khăn/thuận lợi của PH

trong việc giáo dục KN TPV cho trẻ tại nhà. Từ đó, động

viên PH, giúp PH khắc phục khó khăn, nhờ PH cố gắng

dạy cho trẻ tại nhà và cùng nhau phối hợp cho trẻ tốt hơn.

- GV luôn là người chủ động trao đổi với PH, hướng dẫn

PH cách GD KN TPV cho trẻ tại nhà.

- GVMN cần có thái độ vui vẻ, ân cần, nhiệt tình, không

ngại giao tiếp và sẵn sàng lắng nghe và giải đáp những

thắc mắc cho PH, từ đó tạo niềm tin cho PH để cùng

nhau thực hiện phối hợp để giáo dục KN TPV cho trẻ.

Xin chân thành cám ơn quý phụ huynh!

Kính chúc quý phụ huynh vui vẻ và hạnh phúc!

PL47

PHỤ LỤC 12

MỘT SỐ TÀI LIỆU TUYÊN TRUYỀN

Từ những cơ sở lí luận, kết quả thực trạng và cũng như tham khảo một số nội

dung từ sách báo, các trang web, video trên youtube… chúng tôi lựa chọn và đưa ra

một số tài liệu tuyên truyền như sau:

TÀI LIỆU 1

Kính thưa quý phụ huynh!

Như quý phụ huynh đã biết, việc quan trọng nhất trong gia đình là nuôi dạy

con cái trưởng thành. Từ 0 – 6 tuổi là giai đoạn vàng để giúp trẻ hình thành nhân

cách. Con cái chúng ta chỉ lớn lên có một lần, tuổi thơ của các con không thể quay

trở lại. Vì vậy, kính mong quý phụ huynh dành nhiều thời gian để giáo dục con cái,

giúp các con học hỏi được nhiều kỹ năng sống, đạo đức tốt và những kiến thức thật

vững chắc. Được như vậy thì con cái của chúng ta mới có thể trở thành người con

ngoan, hiếu thảo và trở thành người có ích cho xã hội.

Từ 2 – 3 tuổi là giai đoạn các con đặc biệt rất thích được làm những công

việc của người lớn, mong muốn được tự lập và trở thành người lớn như: Tự xúc ăn,

tự mang giày/dép, tư thay quần áo, tự mang balo, chuẩn bị chỗ ngủ, xếp bàn ghế

phụ cô, dọn dẹp sau khi ăn... Như vậy, các bậc phụ huynh nên tạo điều kiện cho con

em mình được tự làm những công việc tự phục vụ tại gia đình, giúp cho trẻ được tập

luyện thường xuyên và hình thành kỹ năng tự phục vụ cho trẻ. Vì khi con cái còn

nhỏ mà chúng ta không cho các con cơ hội được làm thì khi con cái lớn lên, trẻ

chưa có những kỹ năng tự phục vụ tốt dẫn đến con chưa tự lập, lười biếng hay ỷ lại

vào người lớn. Lúc đó chúng ta rất khó để thay đổi sự lười biếng và ỷ lại của các

con. Sau đây là 12 lợi ích của việc rèn cho con các kỹ năng tự phục vụ.

PL48

Rất mong quý phụ huynh cùng nhau hợp tác

Để cùng nhau giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ!

TÀI LIỆU 2

Kính thưa quý phụ huynh!

Định hướng giáo dục của nhà trường luôn mong muốn con trẻ không chỉ được

học hỏi những kiến thức mà còn phải học các kỹ năng sống để giúp các con có thể

tự lập, tự tin, làm chủ được bản thân. Để việc giáo dục con cái thực sự hiệu quả, để

các con có thể “học đi đôi với hành” thì không thể thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa

gia đình và nhà trường, giữa phụ huynh và các Cô, giữa cha và mẹ.

Kính mong phụ huynh cùng các Cô cùng nhau phối hợp, làm gương để dạy dỗ

và nhắc nhở các con trẻ trong việc thực hiện các kỹ năng tự phục vụ.

Trong đó, kỹ năng tự phục vụ là một trong những kỹ năng sống của trẻ.

Có 3 bước để hình thành kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mầm non, bao gồm:

Thực hành thường xuyên

Quan sát

Bắt chước/tập thử

T th

Như vậy, để hình thành kỹ năng tự phục vụ cho trẻ đòi hỏi chúng ta phải cho

trẻ quan sát trên mẫu thực, tranh ảnh hoặc quan sát làm mẫu của người lớn. Trẻ bắt

đầu bắt chước tập làm theo, do vậy khi người lớn làm mẫu hạn chế nói quá nhiều,

PL49

mẫu phải chuẩn, ngắn gọn và dễ hiểu. Và để kỹ năng đó được hình thành người lớn

cần cho trẻ thực hành thường xuyên, ở mọi lúc mọi nơi trong giờ sinh hoạt của trẻ.

Khi ở nhà, kính mong quý phụ huynh ở nhà làm gương cho trẻ, thường xuyên

nhắc nhở, hướng dẫn, kèm cặp và giao việc cho trẻ. Để trẻ thường xuyên được thực

hành các kỹ năng tự phục vụ phù hợp với độ tuổi như: KN mang giày/dép đúng,

mặc quần áo, đi vệ sinh, rửa tay bằng xà phòng, lau mặt, xúc ăn, lấy nước uống

nước, chuẩn bị chỗ ngủ (lấy gối, mền/nệm/chiếu…), tự lấy và cất đồ chơi sau khi sử

dụng…

PL50

Để việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ đạt hiệu quả cao, không thể nào

thiếu sự giúp đỡ chung tay từ quý phụ huynh. Nhà trường và giáo viên rất mong sự

quan tâm, phối hợp giúp đỡ từ phía phụ huynh.

Rất mong quý phụ huynh ở nhà thường xuyên cho trẻ được thực hành tại gia

đình, nhắc nhở và hướng dẫn trẻ thực hiện, đặc biệt không nên làm hộ trẻ. Để giúp

hình thành tính tự lập ở trẻ và giúp trẻ phát triển các kỹ năng tự phục vụ. Đồng thời,

rất mong quý phụ huynh thường xuyên quan sát, theo dõi con trẻ và trao đổi với

giáo viên tại lớp về tình hình của trẻ khi giáo dục tại gia đình, để giáo viên nắm bắt

được tình hình, những khó khăn/thuận lợi của quý phụ huynh khi giáo dục trẻ tại

nhà. Từ đó, có những nội dung, hình thức và biện pháp phù hợp để giúp cho việc

phối hợp trở nên đồng bộ và đạt hiệu quả giáo dục.

TÀI LIỆU 3

MỘT SỐ CÁCH GIÁO DỤC KỸ NĂNG TỰ PHỤC VỤ CHO TRẺ

MẪU GIÁO 3 – 4 TUỔI TẠI GIA ĐÌNH, Ở TRƯỜNG

 KỸ NĂNG XÚC ĂN

Trước khi dạy trẻ xúc ăn, người lớn dùng một cái muỗng tự xúc thức ăn của

mình để làm mẫu cho trẻ, cho trẻ thấy được niềm vui của người tự xúc ăn và cách

thức xúc đồ ăn. Đồng thời hướng dẫn trẻ cách ngồi, cách cầm muỗng đúc vào

miệng, khi ăn thì phải nhai kỹ, từ tốn.

Bước 1: Người lớn sử dụng phương pháp làm mẫu, kèm cặp làm cùng và

hướng dẫn trẻ cách cầm muỗng cho đúng, trẻ có thể cầm bằng tay phải/tay trái đều

được, nhưng các ngón tay cầm muỗng phải đúng (ngón trỏ và ngón cái cầm cán

muỗng) tay này cầm muỗng thì tay kia cầm giữ chén. Tay cầm muỗng xúc ăn, xúc

vừa đủ, không quá đầy sẽ dễ bị đổ ra ngoài.

Bước 2: Tay cầm muỗng đưa thức ăn vào miệng, tay còn lại cầm giữ chén.

Bước 3: Khi thức ăn trong chén/bát gần hết, muốn xúc thức ăn thì tay cầm giữ

chén hơi nghiên để xúc thức ăn dễ hơn. Khi thức ăn rơi vãi ra bàn thì hướng dẫn trẻ

nhặt thức ăn bỏ vào đĩa đựng thức ăn rơi.

PL51

Lưu ý:

 Cần tạo bầu không khí vui tươi, khen ngợi, động viên, khuyến khích trẻ tự

xúc ăn.

 Cho trẻ thực hành thường xuyên trong giờ ăn và tự xúc ăn ở mọi lúc mọi nơi,

người lớn chỉ nhắc nhở, kèm cặp trẻ thực hiện không làm hộ giúp trẻ.

 Người lớn khi hướng dẫn cần chậm rãi, rõ ràng, chỉ dẫn ân cần để trẻ quan

sát được trọn vẹn, đồng thời cần giải thích cho trẻ tại sao phải làm như vậy.

 Người lớn không nên nóng vội, sốt ruột, sợ trẻ bẩn, cần kiên trì giúp trẻ thực

hiện và chờ đợi trẻ xúc ăn. Cần nghiêm khắc với trẻ nếu trẻ xúc thức ăn rồi

ném thức ăn hay muỗng.

 KỸ NĂNG MANG GIÀY/DÉP ĐÚNG

Bước 1: Người lớn sử dụng phương pháp làm mẫu và hướng dẫn trẻ thực hiện

mang giày/dép cho đúng, hướng dẫn trẻ phân biệt giày/dép trái – phải có thể thông

qua ký hiệu trên dép.

- Một số cách giúp trẻ phân biệt giày/dép trái – phải để mang đúng.

Cách 1: Trên giày/dép của trẻ có hình con mèo hoặc con vật nào đó, ta có thể dựa

vào hình có sẵn trên giày/dép của trẻ, nếu hình 2 con mèo đang nhìn mặt nhau là

con mang đúng và ngược lại là sai.

Mang đúng Mang sai

Cách 2: Nếu giày/dép của trẻ không có ký hiệu gì để dễ phân biệt giày/dép trái –

phải thì chúng ta có thể cắt đôi miếng sticker hoặc một hình ảnh trẻ thích, 1 nửa trái

dán vào giày/dép trái, 1 nửa phải dán vào giày/dép phải ở vị trí mép trong của 2 bàn

chân. Khi trẻ đặt giày/dép đúng, 2 nửa miếng sẽ tạo thành hình ảnh trẻ thích. Nếu

đặt sai sẽ không tạo ra hình ảnh đúng. Người lớn nên cho con được lựa chọn những

hình ảnh mà con yêu thích để con dễ nhận diện dễ dàng hơn.

PL52

Cách 3: Người lớn có thể dùng bút vẽ kí hiệu mũi tên thay cho miếng dán. 2 mũi

tên hướng vào nhau là đúng, ngược lại là sai.

Cách 4: Người lớn có thể vẽ 1 hình ở ngoài giày/dép tương ứng vị trí 2 ngón chân

cái, chỉ cần đặt giày/dép sao cho 2 hình chạm vào nhau là trẻ sẽ xỏ chân đúng.

Cách 5: Sử dụng bút đánh dấu hoặc vẽ tay một hình như: Một chấm lớn/hình con

vật trên đế giày của trẻ. Vẽ 1 nửa hình dạng hoặc 1 nửa con vật trong mỗi chiếc

giày/dép để toàn bộ hình dạng/hình ảnh khi kết hợp với nhau đúng thì tạo thành 1

hình hoàn chỉnh. Hoặc có thể vẽ mặt cười ở bên ngoài đế giày/dép của trẻ và mang

đúng là khi 2 đế giày cạnh nhau và tạo thành hình mặt cười.

PL53

Cách 6: Ghim đôi giày lại với nhau. Có thể sử dụng cho giày có đế mềm/mờ, ủng

đi mưa mà trẻ không thể nhìn thấy đế bên trong, hoặc cho giày có đế thấp. Có thể sử

dụng ghim/kẹp để ghim theo từng đôi lại với nhau, chúng ta có thể đặt lại đôi giày

sau khi trẻ tháo chúng ra và gắn chúng lại với nhau để giày bên trái và bên phải.

Cách này có thể thực hiện được ở trường/ở nhà. Cách này sẽ giúp trẻ dễ dàng mang

giày đúng hơn.

Người lớn làm hướng dẫn chậm rãi, rõ ràng, chỉ dẫn ân cần để trẻ quan sát được

trọn vẹn.

Bước 2: Sau khi trẻ phân biệt được giày/dép trái – phải, thì 1 chân xỏ vào

giày/dép cùng bên và 1 chân còn lại xỏ vào chiếc còn lại.

Cho trẻ thực hiện bắt chước làm theo cách mà người lớn đã hướng dẫn. Quan

sát và hướng dẫn trẻ làm. Nếu trẻ làm sai – người lớn cần động viên trẻ tự sửa sai.

Nếu trẻ thực hiện đúng – người lớn cần khen ngợi, khuyến khích trẻ.

Cho trẻ thực hành thường xuyên trong ngày, có thể buổi sáng trẻ tự mang

giày/dép để đi học hoặc trẻ sẽ tự mang khi đi ra ngoài, cho trẻ tự làm ở mọi lúc mọi

nơi, người lớn nhắc nhở trẻ thực hiện không làm thay trẻ.

 KỸ NĂNG ĐI VỆ SINH

Trẻ MG 3 – 4 tuổi đa phần các trẻ có thể đi vệ sinh theo nhu cầu của mình, tuy

nhiên việc đi vệ sinh của trẻ vẫn còn phụ thuộc vào người lớn và có sự nhắc nhở

thường xuyên như: Cởi quần, mặc quần, đi đúng nơi quy định và nhấn/gạt dội nước

sau khi đi vệ sinh. Như vậy, người lớn cần giáo dục và hướng dẫn trẻ thực hiện tại

gia đình/ở trường nhiều hơn, để trẻ có thể tự thực hiện thành thạo hơn.

PL54

Để tập trẻ tự lập trong việc đi vệ sinh một cách dễ dàng hơn người lớn cần

chuẩn bị cho trẻ: Mặc quần hơi rộng, lưng thun, không quá dài để cho trẻ dễ dàng

khi cởi ra và mặc vào, kéo quần lên. Ghế để leo lên bệ xí (nếu bệ xí cao) và bệ xí

nhỏ cho trẻ.

Ở kỹ năng này người lớn cần làm mẫu, hướng dẫn kèm cặp trẻ đi vệ sinh từ từ,

thường xuyên nhắc nhở trẻ thực hiện để trẻ được tập luyện thường xuyên.

Bước 1: Kéo quần xuống đến đầu gối.

Bước 2: Ngồi xuống vào giữa bồn cầu. Thường bồn cầu ở gia đình thường cao

và to hơn khi ở trường nên người lớn cần chuẩn bị 1 chiếc ghế nhỏ để trẻ dễ dàng

leo lên và sử dụng thêm thiết bị hỗ trợ đi vệ sinh dành cho trẻ. Sau đó chỉ trẻ cách

vịn để không bị té ngã. Người lớn chỉ trẻ cách đi vệ sinh theo đúng giới tính bạn trai

(đi đại tiện – ngồi lên bồn cầu, đi tiểu tiện – đi tư thế đứng – đứng sát gần bồn cầu

chú ý để nước tiểu không văng ra ngoài), bạn gái (đi đại tiện và tiểu tiện đều ngồi

lên bồn cầu – ngồi ở giữa).

Bước 3: Khi đã đi xong, đứng dậy (vịn bước xuống ghế) kéo quần lên, chỉnh

sửa quần ngay ngắn. (Nếu đi đại tiện thì gọi Cô giúp đỡ lau đít).

Bước 4: Nhấn nút/gạt nước để dội nước.

Bước 5: Rửa tay với xà phòng sau khi đi vệ sinh.

- Khi trẻ thực hiện được các bước người lớn nên khen ngợi, khuyến khích trẻ.

Ví dụ: Con yêu của ba/mẹ giỏi quá, mẹ rất tự hào về con.

- Nếu trẻ không làm được thì động viên trẻ, hướng dẫn và làm cùng trẻ.

Ví dụ: Con đã cố gắng rồi, con đã biết tự kéo quần của mình xuống, ba/mẹ rất

tự hào vì con biết ngồi trên bệ xí nhà vệ sinh.

Lưu ý: Khi trẻ mới thực hiện các trẻ chưa thành thạo người lớn nên quan sát,

nhắc nhở, hướng dẫn trẻ, để tránh một số tai nạn rủi ro có thể xảy ra ở trẻ như:

PL55

Trượt, té, ngã, ướt quần, ướt mình … Khi thấy trẻ thực hiện tốt, người lớn có thể

cho trẻ tự đi một mình và không cần sự giám sát của người lớn. (Shoji Masako,

2018)

 KỸ NĂNG MẶC QUẦN

Cách 1: Dành cho trẻ mới bắt đầu.

Người lớn làm mẫu từng bước cho trẻ xem, sau đó cho trẻ thực hiện, vừa làm

vừa hướng dẫn, kèm cặp làm cùng trẻ.

Bước 1: Trẻ cầm quần và quan sát, phân biệt được mặt trước – mặt sau quần.

(Người lớn chỉ cho trẻ mặt trước có hình – mặt sau không có hình hoặc có túi). Sau

đó, cho trẻ cầm quần trải thẳng ra sàn sao cho mặt trước quần ở trên.

Bước 2: Ngồi xuống trước cạp quần.

Bước 3: Ngồi, dùng 2 tay cầm cạp quần và xỏ một chân vào ống quần cùng

bên. Sau đó xỏ tiếp chân tiếp theo vào ống quần còn lại (hoặc có thể xỏ 2 chân cùng

một lúc).

Bước 4: Ngồi và dùng 2 tay kéo quần lên cho đến khi trẻ thấy bàn chân của

mình thò ra. Sau đó đứng dậy 2 tay kéo quần lên đến ngay thắt lưng.

Bước 5: Dùng tay kéo khóa quần, cài khuy quần hoặc bấm khuy quần (bước

này khó người lớn có thể hỗ trợ và giúp trẻ thực hiện từ từ). Chỉnh sửa quần ngay

ngắn

Cách 2: Dành cho trẻ đứng vững

Người lớn làm mẫu từng bước cho trẻ xem, sau đó cho trẻ thực hiện, vừa làm

người lớn vừa hướng dẫn, kèm cặp làm cùng trẻ.

Bước 1: Trẻ đứng vững, 2 tay cầm cạp quần phân biệt mặt trước – mặt sau

(mặt trước có hình – mặt sau không có hình hoặc có túi). Sau đó để mặt trước của

quần hướng về phía trước.

Bước 2: Trẻ đứng vững, 2 tay cầm quần và xỏ 1 chân vào ống cùng bên, và xỏ

1 ống tiếp theo vào ống quần còn lại.

Bước 3: Dùng 2 tay nắm cạp quần kéo lên đến ngay thắt lưng.

PL56

Bước 4: Dùng tay kéo khóa quần, cài khuy quần hoặc bấm khuy quần (bước

này khó người lớn có thể hỗ trợ và giúp trẻ thực hiện từ từ). Chỉnh sửa quần ngay

ngắn.

Lưu ý: Khi chọn quần cho trẻ, người lớn nên chọn quần rộng, lưng thun và

quần có mặt trước – sau rõ ràng để trẻ dễ phân biệt. (Ví dụ: Người lớn có thể chọn

quần thun, lưng thun, ống rộng, không quá dài và phía trước quần có hình con vật –

phía sau không có hình hoặc có thể là 2 túi to ở phía sau… để trẻ dễ phân biệt và dễ

mặc).

- Khi trẻ thực hiện được các bước người lớn nên khen ngợi, khuyến khích trẻ.

Ví dụ: Con yêu của ba/mẹ giỏi quá,rất tuyệt ba/mẹ rất tự hào về con.

- Nếu trẻ không làm được thì động viên trẻ, hướng dẫn trẻ làm lại hoặc làm cùng

trẻ.

Ví dụ: Con đã cố gắng rồi, con giỏi lắm! con đã biết phân biệt mặt trước – mặt

sau quần của mình, ba/mẹ rất yêu con và tự hào về con, Cố lên lần sau thực hiện

tốt hơn con nhé!

Lưu ý: Khi mới thực hiện chưa thành thạo người lớn nên quan sát, nhắc

nhở, hướng dẫn trẻ khi cần thiết, để tránh té, ngã gây ra cảm giác khó chịu cho

trẻ. Khi thấy trẻ thực hiện tốt, người lớn có thể cho trẻ tự làm một mình và

không cần sự giám sát của người lớn.

 KỸ NĂNG MẶC ÁO

Người lớn làm mẫu từng bước cho trẻ xem, sau đó cho trẻ thực hiện, vừa làm

vừa hướng dẫn, kèm cặp làm cùng trẻ.

Cách 1: Chui đầu vào trước

Bước 1: Trẻ đứng, 2 tay cầm áo lên và quan sát. Chỉ trẻ phân biệt được mặt

trước – mặt sau của áo (mặt trước áo thường có hình hoặc có nút cài để nhận biết).

Sau đó, 2 tay cầm vạt áo sao cho mặt trước của áo úp xuống sàn (nền nhà).

Bước 2: Hai tay cầm áo và chui đầu vào cổ áo. Sau đó kéo cổ áo qua đầu

mình.

Bước 3: Một tay giữ áo, 1 tay xỏ vào tay áo cùng bên. Và xỏ tiếp tay áo còn lại

vào tay cùng bên.

PL57

Lưu ý: Khi xỏ tay vào áo cần để ý mặt trước của áo đã đúng chưa.

Bước 4: Hai tay nắm kéo áo xuống qua bụng. Chỉnh sửa áo ngay ngắn.

Cách 2: Xỏ 2 tay vào trước

Bước 1: Trẻ đứng, 2 tay cầm áo lên và quan sát. Chỉ trẻ phân biệt được mặt

trước – mặt sau của áo (mặt trước áo thường có hình hoặc có nút cài để nhận biết).

Sau đó, 2 tay cầm vạt áo sao cho mặt trước của áo úp xuống sàn (nền nhà).

Bước 2: Hai tay cầm áo, nắm kéo áo xỏ 2 tay vào 2 tay áo. (Lưu ý khi xỏ tay

vào áo cần để ý mặt trước của áo đã đúng chưa)

Bước 3: Hai tay cầm áo và chui đầu vào cổ áo. Sau đó kéo cổ áo qua đầu

mình.

Bước 4: Hai tay nắm kéo áo xuống qua bụng. Chỉnh sửa áo ngay ngắn.

Lưu ý: Khi chọn áo cho trẻ, người lớn nên chọn áo thun đơn giản, có hình phía

trước áo, phom hơi rộng, không có cúc cài để trẻ dễ phân biệt và thực hiện. (Ví dụ:

Người lớn có thể chọn áo thun hơi rộng và có hình đơn giản phía trước áo, phía sau

không có hình).

- Khi trẻ thực hiện được các bước người lớn nên khen ngợi, khuyến khích trẻ.

Ví dụ: Con yêu của ba/mẹ giỏi quá, rất tuyệt ! ba/mẹ rất tự hào về con ba mẹ sẽ

thưởng cho con vì hôm nay con rất giỏi.

- Nếu trẻ không làm được thì động viên trẻ, hướng dẫn và làm cùng trẻ.

Ví dụ: Con của ba/mẹ rất giỏi, hôm nay con đã có thể tự phân biệt mặt trước –

mặt sau của áo và con có thể tự xỏ tay vào mặc áo, tuy vẫn còn hơi chậm

nhưng con cố gắng lên nhé! Con sẽ làm tốt được mà!.

Lưu ý: Khi trẻ mới thực hiện còn nhiều khó khăn người lớn nên quan sát, nhắc

nhở, hướng dẫn trẻ khi cần thiết, để tránh một số vấn đề có thể xảy ra ở trẻ như:

Vướn vếu tóc, hoặc bông tai của trẻ gây ra cảm giác khó chịu cho trẻ. Khi thấy trẻ

thực hiện tốt, người lớn có thể cho trẻ tự làm một mình và chỉ cần sự giám sát và

động viên của người lớn.

 KỸ NĂNG LAU MẶT

Người lớn làm mẫu từng bước cho trẻ xem, sau đó cho trẻ thực hiện, trẻ vừa

làm người lớn vừa hướng dẫn, kèm cặp làm cùng trẻ, chỉ dẫn từng bước.

PL58

Đầu tiên, cho trẻ rửa tay thật sạch, phần khăn lau cũng phải được giặt sạch sẽ,

đảm bảo vệ sinh. Người lớn hướng dẫn trẻ trải khăn lên trên 2 lòng bàn tay của

mình, hơi thụt vào bên trong cổ tay một chút. (Nếu trẻ chưa làm được, người lớn hỗ

trợ hướng dẫn và chỉnh sửa khăn cho trẻ)

Bước 1: Trẻ dùng 2 ngón trỏ bàn tay của mình luồn vào khăn, lau 2 mắt từ

ngoài vào trong.

Bước 2: Tiếp tục nhích khăn lên, chọn vùng còn sạch để lau sống mũi. Sau đó,

nhích khăn lên để lau miệng và nhích khăn lên chỗ sạch để lau cằm.

Bước 3: Gấp đôi khăn lại, một nữa của khăn lau một bên má phải, nữa còn lại

thì lau bên má trái (có thể lau má trái trước cũng được).

Bước 4: Tiếp tục, bắt đầu gấp đôi khăn lại tiếp, để lau phần sau gáy và cổ.

Bước 5: Cuối cùng, gấp đôi khăn lại lau phần tai và vành tai.

Lưu ý:

 Nếu lau lỗ mũi và lỗ tai thì 2 bộ phận này dùng góc khăn lau để lau.

 Cần đảm bảo da mặt trẻ luôn được tiếp xúc với phần khăn sạch. Nên việc

nhích vị trí khăn, gấp khăn phải quan sát và làm đúng, tránh dùng phần khăn

đã lau trước đó lau lại trên mặt trẻ.

 KỸ NĂNG CHUẨN BỊ CHỖ NGỦ (LẤY GỐI, LẤY NỆM/CHIẾU/PHỤ

CÔ LẤY GIƯỜNG NGỦ…)

Chuẩn bị: Gối nhỏ của trẻ, tấm nệm/chiếu/giường nhỏ cho trẻ.

Người lớn làm mẫu từng bước cho trẻ xem, sau đó cho trẻ thực hiện, vừa làm

vừa hướng dẫn, kèm cặp làm cùng trẻ, chỉ dẫn từng bước.

Bước 1: Hướng dẫn trẻ dùng 2 tay cầm lấy nệm/chiếu/giường mang ra chỗ

cần nằm, ở nhà người lớn có thể chuẩn bị cho trẻ 1 tấm nệm mỏng/tấm thảm

mỏng. Ở trường thường sẽ có giường cho trẻ nằm ngủ. Nếu hơi to và nặng có thể

chỉ trẻ cầm bằng 2 tay và kéo.

Bước 2: Trẻ đặt nệm/chiếu/giường xuống chỗ gần nằm. Người lớn chỉ dẫn

trẻ (phân biệt mặt trên – dưới) và cách trải nệm/chiếu ra sàn, dùng tay chỉnh sửa

lại cho ngay (phần chỉnh này hơi khó so với trẻ, nên người lớn cần kèm cặp làm

cùng trẻ chỉ dẫn trẻ từ từ mới làm được).

PL59

Bước 3: Trẻ lấy gối. Người lớn hướng dẫn trẻ lấy đúng gối của mình (có

ký hiệu riêng trên gối) và cầm lấy gối bằng 2 tay. Sau đó mang đến và 2 tay cầm

đặt nhẹ gối xuống. Đặt ở phía trên nệm/chiếu/giường sau đó nằm xuống.

Sau khi trẻ ngủ dậy người lớn nhắc nhở, hướng dẫn trẻ tự dọn dẹp chỗ ngủ của

mình, hướng dẫn trẻ cầm nệm/chiếu/giường và gối bằng 2 tay và mang đến chỗ ban

đầu mà mình đã lấy. (Nếu là chiếu/tấm trải mỏng thì người lớn hướng dẫn trẻ cuốn

lại, gấp lại cho gọn rồi mới mang đến). Người lớn quan sát, nhắc nhở đồng thời khi

trẻ mang đến thì người lớn sắp xếp lại cho gọn gàng. Nhắc nhở trẻ quan sát khi

người lớn làm.

 KỸ NĂNG LẤY VÀ CẤT ĐỒ DÙNG, ĐỒ CHƠI SAU KHI SỬ DỤNG VÀ

SAU KHI CHƠI

1. Người lớn cố định vị trí đồ chơi

Người lớn sẽ phải bỏ đi một số đồ chơi không cần thiết của trẻ. Người lớn hãy

quan sát xem những món đồ nào con trẻ thường bỏ bê ít chơi, không chạm vào

trong một tuần và cất nó đi. Những đồ chơi trẻ thường xuyên chơi, người lớn hãy

đặt chúng trên kệ, mỗi vật ở một vị trí rõ ràng và kệ đặt đồ không quá nhiều thứ,

không lộn xộn, rối rắm.

Người lớn chỉ dẫn cho trẻ những khu vực để từng loại đồ chơi, và yêu cầu trẻ

khi chơi xong nhớ đặt đúng lại vị trí ban đầu mà con đã lấy.

2. Làm gương cho trẻ

Nếu người lớn muốn trẻ tự dọn dẹp đồ chơi, cách tốt nhất chính người lớn hãy

làm gương cho trẻ. Hãy cùng trẻ dọn đồ chơi sau khi chơi từ khi trẻ còn nhỏ. Lúc

đầu, người lớn có thể phải thực hiện một mình, nhưng dần dần người lớn có thể

nhường lại công việc cho trẻ, khuyến khích trẻ tự dọn dẹp đồ chơi. Trẻ thường thích

dọn đồ chơi nếu đó là công việc cùng làm với người lớn như: Ba/mẹ, cô giáo hơn là

một nhiệm vụ bị ép buộc. Đồng thời người lớn thường xuyên nhắc nhở trẻ dọn dẹp

đồ chơi để đúng nơi quy định.

3. Đặt quy định rõ ràng

Người lớn hãy đặt ra một số quy định cho trẻ về việc dọn dẹp đồ chơi. Tiếp

đó, luôn thực hiện quy định đó để trẻ thấy được tính chất quan trọng của yêu cầu.

PL60

Người lớn cần thể hiện rõ cho trẻ biết, có được phép để đồ chơi bừa bãi qua đêm

không hay phải dọn tại một thời điểm. Tuy nhiên, hãy đặt ra ít quy định mà tập

trung vào việc kiên định thực thi.

Ví dụ: Người lớn có thể quy định, dặn dò trẻ trước khi chơi phải cam kết sau

khi chơi xong thì phải dọn dẹp đồ chơi đúng nơi quy định. Nếu không lần sau sẽ

không được chơi.

4. Biến việc dọn dẹp thành trò chơi

Người lớn cũng có thể biến việc dọn dẹp thành một trò chơi. Người lớn thử áp

dụng những trò chơi đơn giản như: Đố trẻ cất hết đồ chơi màu đỏ vào giỏ hoặc cất

hết miếng ghép hình vào xô… Có thể trẻ sẽ dọn dẹp trong sự vui vẻ và dần dần

nhanh chóng hình thành thói quen dọn dẹp sau khi chơi cho trẻ.

5. Cho trẻ thấy những kết quả tích cực sau khi dọn đồ

Người lớn hãy đưa ra yêu cầu trẻ dọn đồ và kèm theo kết quả tích cực để tạo

động lực thúc đẩy trẻ thực hiện. Điều này giúp trẻ chuyển đổi tinh thần chơi sang

những công việc tiếp theo, tạo sự háo hức mong đợi.

Ví dụ: Thay vì nói “Sẽ không đi chơi cho đến khi đồ chơi của con chưa được

dọn sạch”, người lớn có thể nói: “Sau khi con cất đồ chơi xong, chúng ta có thể đi

chơi cùng với nhau…”.

6. Chờ đến khi trẻ nghỉ chơi

Không ai thích bị gián đoạn khi đang tập trung, trẻ cũng vậy. Người lớn hãy

cố gắng đợi cho đến khi trẻ dừng chơi để yêu cầu chúng dọn dẹp. Trẻ thường dọn

dẹp sau khi nghỉ chơi nhanh hơn khi đang chơi và bị người lớn nhắc nhở dọn dẹp.

Nếu buộc phải gián đoạn giờ chơi của trẻ, hãy giúp đỡ trẻ dọn dẹp đồ chơi.

Lưu ý chung: Đối với một số trẻ đã học tại trường nhưng vẫn chưa thực hiện

được thì người lớn cần hướng dẫn lại các bước và cho trẻ thực hiện lại từng bước

cho trẻ nhớ. Đối với trẻ đã thực hiện được một vài bước, còn quên, thì người lớn

cần quan sát xem trẻ còn thiếu bước nào, chưa tốt ở bước nào thì người lớn nhắc

nhở, chỉ dẫn trẻ làm cho tốt hơn. Và luôn luôn tạo điều kiện, khuyến khích động

viên trẻ để trẻ được thực hiện ở mọi lúc mọi nơi (Tú Anh, 2019).

PL61

 KỸ NĂNG LẤY NƯỚC UỐNG

Trẻ lấy nước uống có thể từ bình nước suối, bình nước có quai, tách trà…

Người lớn có thể hướng dẫn trẻ thực hiện tại gia đình/ở trường.

 Hướng dẫn trẻ lấy nước uống từ bình nước suối

Chuẩn bị: Bình nước suối có vòi bấm/nhấn, ly/cốc nhựa có quai (các ly/cốc ở

trường có ký hiệu riêng của từng trẻ), thùng hoặc xô đựng ly/cốc đã uống.

Người lớn làm mẫu từng bước cho trẻ xem, sau đó cho trẻ thực hiện, vừa làm

vừa hướng dẫn, kèm cặp làm cùng trẻ.

Bước 1: Hướng dẫn các trẻ cách cầm ly/cốc và lấy đúng ly/cốc của mình dựa

trên ký hiệu trên ly/cốc.

Bước 2: Tay trẻ cầm ly/cốc và xếp thành hàng dọc để lấy nước.

Bước 3: Đến chỗ lấy nước, 1 tay cầm ly/cốc đưa vào vòi nước và 1 tay còn lại

thì nhấn/bấm nút bình nước suối để nước chảy ra. Đưa ly/cốc vào sát bên trong vòi

nước. Nên bấm/nhấn nhẹ không quá mạnh tránh nước văng ra ngoài sàn, và lấy

nước đủ uống (Cô có thể kẻ vạch hoặc nhắc nhở trẻ rót nước khoảng nữa ly/cốc),

rót nước vừa đủ uống, không để nước tràn ra ngoài.

Bước 4: Tay cầm ly/cốc đưa vào miệng để uống, hơi nghiên ly/cốc khi uống

và nhắc nhở trẻ uống từ từ, để không bị đổ nước ra ngoài làm ướt sàn, ướt áo của

mình và cầm chắc tay để ly/cốc không bị rơi xuống sàn.

Bước 5: Khi uống nước xong, ly/cốc để vào trong thùng hoặc xô đựng ly/cốc.

 Hướng dẫn trẻ lấy nước uống từ bình nước nhỏ có quai cầm

Chuẩn bị: 1 bình nước nhỏ bằng nhựa có chứa 1 ít nước uống và 1 cái ly/cốc

bằng nhựa, cả 2 đều có quai cầm, để trẻ có thể dễ dàng cầm hơn và 1 cái bàn thấp

vừa tầm với trẻ.

Người lớn làm mẫu từng bước cho trẻ xem, sau đó cho trẻ thực hiện, vừa làm

vừa hướng dẫn, kèm cặp làm cùng trẻ.

Bước 1: Hướng dẫn trẻ nhấc bình nước lên bằng 2 tay, dùng 1 tay cầm quai

bình nước và nên khuyến khích trẻ tay còn lại đỡ phần đáy bình để dễ bê hơn. Đối

với người lớn thì bê đồ vật bằng 2 tay là không cần thiết nhưng trẻ nhỏ còn hạn chế

trong việc điều chỉnh lực tay và bàn tay còn yếu, do đó nên dùng 2 tay để tránh đổ

PL62

vỡ, dần dần những lần tiếp theo khi trẻ đã thành thạo và bàn tay chắc chắn hơn thì

có thể cho trẻ tập bê bình nước bằng 1 tay.

Bước 2: Để vòi bình nước kề vào miệng ly/cốc và từ từ nghiêng bình đến khi

nước trút từ từ vào ly/cốc và không bị đổ ra ngoài. Nên sử dụng một chiếc ly/cốc

trong suốt để rót nước trẻ có thể quan sát lượng nước trẻ đổ vào. Nhắc nhở trẻ

không rót quá nhiều sẽ bị đổ ra ngoài, có thể rót khoảng nữa ly/cốc.

Bước 3: Khi trẻ đã đổ nước vào ly/cốc thì nhắc nhở trẻ cầm ly/cốc đúng cách.

Người lớn nhắc nhở trẻ rót vừa đủ không nên rót quá nhiều, vì sẽ uống không hết.

Hoặc người lớn có thể làm mẫu rót nước để uống trẻ sẽ quan sát và học theo.

Bước 4: Tay cầm ly/cốc đưa vào miệng và hơi nghiên ly/cốc khi uống và nhắc

nhở trẻ uống từ từ, để không bị đổ nước ra ngoài làm ướt sàn, ướt áo của mình và

cầm chắc tay không để bị rơi ly/cốc xuống sàn.

Lưu ý:

 Người lớn cần cho trẻ tập tự lấy nước uống thường xuyên trong giờ sinh hoạt

hằng ngày của trẻ như: Tự lấy nước uống khi có nhu cầu hoặc lấy nước cho

ba mẹ/cô giáo uống sau mỗi bữa ăn hoặc khi ba mẹ/cô giáo khát nước, giúp

trẻ thực hành thường xuyên để trẻ làm thành thạo hơn.

 Thường xuyên nhắc nhở, giao nhiệm vụ, khuyến khích, động viên, khen ngợi

trẻ thường xuyên để giúp trẻ thực hiện nhiều hơn.

 Luôn luôn tạo bầu không khí vui vẻ cho trẻ thực hiện không áp đặt, la mắng

trẻ.

 KỸ NĂNG RỬA TAY BẰNG XÀ PHÒNG

Trẻ MN cần rửa tay khi: Sau khi đi vệ sinh, trước và sau khi ăn, khi bỏ rác, khi

chạm vào động vật & vật nuôi, khi bàn tay bị bẩn…

Người lớn làm mẫu từng bước cho trẻ xem, sau đó cho trẻ thực hiện vừa làm

người lớn vừa hướng dẫn, kèm cặp làm cùng trẻ, chỉ dẫn từng bước.

Chuẩn bị: Vòi rửa, xà phòng, khăn lau

PL63

(Quy trình rửa tay 6 bước cho trẻ mầm non của Bộ y tế)

*Lưu ý:

 Người lớn thường xuyên nhắc nhở, khuyến khích, động viên, khen ngợi trẻ

thường xuyên để giúp trẻ thực hiện nhiều hơn.

 Luôn luôn tạo bầu không khí vui vẻ, tâm thế thoải mái cho trẻ thực hiện

không áp đặt, la mắng trẻ.

 Cần để cho trẻ thực hiện từ từ các bước không nên nóng vội làm thay trẻ hay

làm nhanh bỏ qua các bước.

 Chọn những loại xà phòng có khả năng kháng khuẩn và thân thiện với da

nhạy cảm để trẻ rửa tay, vì trên thị trường có rất nhiều loại khác nhau.

 Người lớn cần hướng dẫn trẻ tạo bọt xà phòng trên cả 2 mặt của tay, cổ tay

và giữa các ngón tay. Vùng xung quanh móng tay cũng cần được vệ sinh

sạch sẽ vì đây là nơi vi khuẩn ẩn nấp rất nhiều.

 Thời gian để thực hiện các bước rửa tay cho trẻ mầm non tối thiểu là 1 phút.

 Ngoài ra, người lớn có thể cho trẻ xem những video trên mạng xã hội về giáo

dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non có quy trình các bước rửa tay. Để trẻ

quan sát và nắm được các bước rửa tay, đồng thời biết được lợi ích của việc

rửa tay, và trẻ phải cần rửa tay thật sạch trước và sau khi ăn, sau khi chơi.

PL64

TÀI LIỆU 4

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO KỸ NĂNG TỰ PHỤC VỤ CHO TRẺ

- Người lớn cần hướng dẫn, làm mẫu, kèm cặp làm cùng, chỉ dẫn nhắc nhở trẻ thực

hiện và cần dạy trẻ càng sớm càng tốt và ở mọi lúc mọi nơi.

- Người lớn luôn tạo điều kiện để trẻ được thực hành tập luyện thường xuyên để

hình thành thói quen. Không nên làm thay trẻ, ở trường cũng như ở nhà cần phân

công việc cụ thể cho trẻ làm. Cần giải thích cho trẻ hiểu rằng mỗi người đều có

trách nhiệm với công việc của mình và tự làm để phục vụ bản thân.

- Người lớn là một tấm gương để trẻ quan sát và noi theo, nên người lớn cần thực

hiện thường xuyên và thực hiện đúng. Người lớn cần có tinh thần tự lập cao và luôn

sắp xếp nhà cửa một cách gọn gàng, ngăn nắp. Khi trẻ đang làm công việc được

giao, người lớn cũng nên làm công việc của mình, để trẻ có cảm giác “công bằng”

và mỗi người trong gia đình đều có vai trò quan trọng như nhau.

- Ngoài những kỹ năng tự phục vụ ở trên người lớn có thể dạy trẻ quét nhà, lau nhà,

tưới cây hay trông em, nhặt rau…Khi giao việc cho trẻ một công việc, trẻ sẽ thấy

mình là người quan trọng trong gia đình và có trách nhiệm thực hiện công việc một

cách tốt hơn.

- Người lớn khen thưởng, khích lệ, động viên khuyến khích công nhận trẻ đã hoàn

thành công việc nào đó và đưa ra những lời nhận xét tích cực sau mỗi việc mà trẻ đã

làm.

- Khi trẻ mắc lỗi hay lười biếng trong quá trình rèn luyện các kỹ năng tự phục vụ,

người lớn nên động viên, khuyên bảo và uốn nắn trẻ bằng những lời nhẹ nhàng,

không nên la mắng, ép buộc trẻ làm tạo tâm lý tiêu cực khi trẻ còn nhỏ. Ngược lại,

nên khuyến khích và khen thưởng với những thành quả của trẻ, để trẻ biết hài lòng

và yêu thích những công việc được giao.

Như vậy, để giúp trẻ phát triển tốt các kỹ năng tự phục vụ rất mong được sự

hợp tác, chung tay nhiệt tình từ phía gia đình và phụ huynh để giúp cho con em

ngày càng phát triển hơn, giỏi hơn, ngoan hơn và độc lập hơn.

PL65

TÀI LIỆU 5

MỘT SỐ CÂU KHẨU HIỆU TUYÊN TRUYỀN ĐẾN

GIA ĐÌNH, PHỤ HUYNH

 “Con đường đi đến sự trưởng thành của mỗi đứa trẻ bắt đầu từ sự tự lập của

bản thân”

 “Hãy giúp trẻ được tự lập bằng cách cho trẻ tự thực hiện những kỹ năng để

phục vụ bản thân”

 “Gia đình, nhà trường sẽ là nơi giúp trẻ trưởng thành nếu chúng ta xây dựng

cho trẻ một môi trường giàu tính tự lập”

 “Giáo dục kỹ năng tự phục vụ được xem là bước đầu tiên cho thấy sự trưởng

thành của mỗi đứa trẻ”.

 “Kỹ năng tự phục vụ là những kỹ năng cần thiết và quan trọng của mỗi đứa

trẻ, giúp trẻ được độc lập, tự tin và phát triển năng lực của bản thân”.

 “Hãy yêu thương trẻ bằng cách cho chúng được tự lập và trải nghiệm”

 “Hãy giúp bé phát triển bằng cách để chúng tự làm những kỹ năng tự phục vụ

trong khả năng của chính mình”

 “Những kỹ năng tự phục vụ sẽ được phát triển mạnh mẽ nếu có sự phối hợp

giữa phụ huynh và nhà trường”

PL66

TÀI LIỆU 6

MỘT SỐ HÌNH ẢNH TUYÊN TRUYỀN

1. Hình ảnh về phối hợp

PL67

2. Hình ảnh về các kỹ năng tự phục vụ

 Kỹ năng rửa tay bằng xà phòng

(Theo các bước rửa tay dành cho trẻ mầm non của Bộ y tế)

PL68

 Kỹ năng lau mặt

Trong quá trình trẻ thực hiện kỹ năng lau mặt bằng khăn, khi thấy trẻ thực

hiện tốt các bước đơn giản ở trên giáo viên/phụ huynh có thể hướng dẫn trẻ thêm

các bước như nhúng khăn vào nước sạch để vò khăn và vắt khăn cho ráo nước để

lau mặt sạch theo các bước và sau đó thì vò khăn sạch vắt hết nước rồi phơi khăn

lên giá.

(Tham khảo nguồn tài liệu mamnon.com và bộ tranh hướng dẫn trẻ KN TPV tự làm

một số việc đơn giản của Nxb giáo dục Việt Nam)

PL69

 Kỹ năng mặc áo

Khi dạy kỹ năng này cho trẻ, người lớn có thể cho trẻ ngồi (trên ghế/trên sàn

nhà) hoặc đứng.

Khi mới tập cho trẻ mặc áo, người lớn cần chuẩn bị cho trẻ áo phông tròng

đầu, áo có 2 mặt dễ phân biệt, hơi rộng, không quá dài, cổ áo không quá nhỏ.

PL70

Khi trẻ có thể mặc áo phông đơn giản, người lớn có thể dạy cho trẻ cách mặc áo

khoác theo các bước sau:

Để trẻ có thể mặc một số áo khó hơn như áo có nhiều khuy cài ở trước người lớn

cần hướng dẫn trẻ cách cài khuy áo, có thể thông qua giờ học, giờ chơi…

(Tham khảo youtube và bộ tranh hướng dẫn trẻ KN TPV tự làm một số việc đơn

giản của Nxb giáo dục Việt Nam)

PL71

 Kỹ năng mặc quần

Khi dạy kỹ năng này cho trẻ, người lớn có thể cho trẻ ngồi (trên ghế/trên sàn

nhà) hoặc đứng.

Khi mới tập người lớn cần chuẩn bị cho trẻ quần lưng thun đơn giản, có 2 mặt

dễ phân biệt, hơi rộng, không quá dài.

PL72

 Kỹ năng đi vệ sinh

Các bước hướng dẫn trẻ đi vệ sinh

Đối với trẻ mẫu giáo nhưng chưa bỏ tã, người lớn có thể quan sát một số

biểu hiện của trẻ, để giúp trẻ sẵn sàng bỏ tã. Sau đó, người lớn có thể dạy trẻ,

kèm cặp làm cùng trẻ từng bước đi vệ sinh, nhẹ nhàng giúp trẻ thực hiện để trẻ

cảm thấy mình đã làm được và khen ngợi, khuyến khích động viên trẻ thực hiện

thường xuyên.

PL73

PL74

 Kỹ năng chuẩn bị chỗ ngủ và dọn dẹp chỗ ngủ

Khi ở gia đình hoặc khi học ở trường phụ huynh/giáo viên cần hướng dẫn trẻ

chuẩn bị chỗ ngủ cho mình như: Lấy gối, lấy chăn/chiếu/giường… Và hướng dẫn

dọn dẹp sau khi ngủ dậy như: Gấp chăn, cuốn chiếu, mang giường đi dẹp…

Tới giờ ăn, ở trường/gia đình người lớn có thể hướng dẫn trẻ chuẩn bị giờ ăn

cho mình như: Lấy muỗng, chén/bát, khăn giấy, đĩa đựng cơm rơi, ghế… Trong giờ

ăn biết tự xúc ăn, ăn không để rơi vãi nhiều ra ngoài. Và biết dọn dẹp sau khi ăn

như: Cất chén/bát, muỗng đúng nơi quy định và thu dọn bàn ghế của mình sau khi

ăn.

PL75

 Kỹ năng mang giày/dép đúng

Khi trẻ tập mang lần đầu, người lớn cần chọn cho trẻ những đôi dép đơn giản

và dễ xỏ chân vào và dễ phân biệt dép trái – phải.

Để giúp trẻ phân biệt đúng giày/dép trái –phải người lớn có thể thực hiện theo

một số cách sau:

Khi trẻ mang được dép đúng, người lớn có thể hướng dẫn cho trẻ mang một số

loại giày/dép khó hơn như: Dép có quai hậu, giày bệt, giày bata, giày ống…

PL76

 Kỹ năng rót nước

PL77

Ngoài ra, trường/lớp có thể sưu tầm hoặc tạo ra các clip về lợi ích cũng như

cách giáo dục các kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi. Và trình chiếu

cho phụ huynh và trẻ xem bằng tivi lớn của trường/tivi của từng lớp vào giờ đón trẻ

và trả trẻ, hoặc có thể thông qua loa của trường để phụ huynh hiểu rõ hơn về kỹ

năng tự phục vụ.

Một số hình thức tuyên truyền

- Tuyên truyền lên bảng thông báo, bảng tin của lớp/trường (hình ảnh, poster,

clip…).

- Trao đổi trực tiếp thường xuyên với phụ huynh về tình hình của trẻ.

- Thông qua cuộc họp, sổ bé ngoan.

- Tuyên truyền thông qua loa phát thanh trong nhà trường.

- Mời phụ huynh đến trường/lớp tham gia cùng với trẻ.

- Tổ chức các buổi chuyên đề về giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo

và mời phụ huynh tham dự

PL78

Một số clip, video giáo dục/tuyên truyền

 Kỹ năng rửa tay:

https://www.youtube.com/watch?v=L01oh9wusSE

https://www.youtube.com/watch?v=hbcEdy2uqm8

https://www.youtube.com/watch?v=M4D3p6tg42I

PL79

 Kỹ năng đi vệ sinh:

https://www.youtube.com/watch?v=Hr0K7niFDXk

https://www.youtube.com/watch?v=PI7SrB3PvCU

https://www.youtube.com/watch?v=6GhlMVwVdxw

PL80

https://www.youtube.com/watch?v=Gkb2iClpFK4

 Kỹ năng mặc áo:

https://www.youtube.com/watch?v=WWNlgvtYcEs

 Kỹ năng mặc quần:

https://www.youtube.com/watch?v=oMae4XZnxTw&t=44s

 Kỹ năng mang giày/dép đúng:

https://www.youtube.com/watch?v=iT_x

PHỤ LỤC 13

Một số hình ảnh khảo sát về các kỹ năng tự phục vụ của trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi

tại trường mầm non, TP.HCM

Một số hình ảnh khảo sát về các kỹ năng tự phục vụ của trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi tại trường mầm non, TP.HCM

Một số hình ảnh khảo sát về các kỹ năng tự phục vụ của trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi

tại trường mầm non, TP.HCM

Một số hình ảnh khảo sát về các kỹ năng tự phục vụ của trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi

tại trường mầm non, TP.HCM