VIỆN HÀN LÂM HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LEE DONG KOAN

TÌNH HÌNH GIÁO DỤC SONG NGỮ

Ở GIA ĐÌNH HÀN-VIỆT TẠI HÀN QUỐC

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

HÀ NỘI, 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LEE DONG KOAN

TÌNH HÌNH GIÁO DỤC SONG NGỮ

Ở GIA ĐÌNH HÀN-VIỆT TẠI HÀN QUỐC

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học

Mã số: 8 22 90 20

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC :

GS. TS. NGUYỄN VĂN KHANG

HÀ NỘI, 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của

riêng tôi. Ngoài phần trích dẫn đã nêu cụ thể trong từng chương, mục,

các kết quả nghiên cứu trong luận văn là hoàn toàn xác thực và chưa

từng được công bố bởi bất cứ tác giả nào.

Tác giả luận văn

Lee Dong Koan

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ............................................................................................ 1

Chương 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT ........................................................ 14

1.1. Một số vấn đề về đào tạo song ngữ .............................................. 20

1.2. Giới thiệu gia đình đa văn hóa ở Hàn Quốc hiện nay ................... 24

Chương 2. THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO SONG NGỮ CHO CÁC GIA

ĐÌNH ĐA VĂN HÓA HÀN-VIỆT TẠI HÀN QUỐC(QUA PHỎNG

VẤN) ................................................................................................. 31

2.1. Cách thức thu thập tư liệu về thực trạng đào tạo song ngữ đối với

các gia đình đa văn hóa Hàn-Việt ....................................................... 31

2.2. Những thách thức, khó khăn của đào tạo song ngữ ở gia đình đa

văn hóa Hàn-Việt ............................................................................... 32

2.3. Nhũng dấu hiệu tích cực đối với đào tạo song ngữ trong tương lại ở

các gia đình đa văn hóa Hàn-Việt ....................................................... 42

Chương 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT ĐỐI VỚI VIỆC ĐÀO

TẠO SONG NGỮ Ở CÁC GIA ĐÌNH ĐA VĂN HÓA TẠI HÀN QUỐC

.......................................................................................................... 49

3.1.Về thời gian đào tạo tiếng Việt ..................................................... 49

3.2. Về chương trình và nội dung đào tạo ........................................... 50

3.3. Về chất lượng giáo viên ............................................................... 51

3.4. Về chính sách .............................................................................. 52

KẾT LUẬN ........................................................................................ 55

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................. 58

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Suốt chiều dài lịch sử phát triển hàng nghìn năm, Hàn quốc là

một quốc gia khá thuần nhất, hôn nhân thường khép kín, đặc biệt là

chưa có nhiều kinh nghiệm sống chung với các dân tộc khác. Ngày nay

cùng với sự phát triển của xã hội, sự hội nhập, giao lưu kinh tế cũng

như toàn cầu hóa làm cho số lượng người lao động nước ngoài, người

nhập cư theo diện kết hôn đã làm thay đổi cục diện bức tranh về sắc tộc

của Hàn Quốc.

Bắt đầu từ sau những năm 1990, cùng với sự phát triển nhanh về

kinh tế và sự giao lưu hội nhập quốc tế, Hàn quốc đã bắt đầu đón nhận

người nước ngoài đến với cộng đồng của mình làm việc. Cùng với thời

gian số lượng người nước ngoài ở Hàn quốc ngày càng tăng, đặc biệt là

phụ nữ nhập cư theo diện kết hôn và con cái của các gia đình đa văn

hóa tăng rất mạnh đồng thời tiếp tục gia tăng hơn trong thời gian gần

đây. Có thể nói, Hàn Quốc đã trở thành một quốc gia đa văn hóa đích

thực, với các thành viên xuất thân từ nhiều nền văn hóa khác nhau.

Điều này tạo nên sự phong phú và đa dạng về văn hóa và sắc tộc. Tuy

nhiên, điều này cũng đưa Hàn Quốc phải đương đầu với rất nhiều khó

khăn. Bởi một xã hội đa văn hóa thì sẽ không thể tránh khỏi những

xung đột, mâu thuẫn về văn hóa ứng xử, về ngôn ngữ, về thói quen sinh

hoạt của những cư dân cấu thành nên nó. Sẽ có nhiều vấn đề phức tạp

xuất hiện như chưa từng xảy ra trước đó trong xã hội truyền thống.

Trong bối cảnh các gia đình đa văn hóa ngày càng tăng nhanh,

đường biên giới giữa các thành viên trong gia đình đa văn hóa ngày

càng bị xóa nhòa. Hàn Quốc đang tận dụng tốt tính đa dạng này trên cả

1

nội dung và tinh thần để xây dựng một cường quốc đa văn hóa, góp

phần khẳng định thương hiệu quốc gia trên phạm vi toàn cầu. Chính vì

thế mà chính phủ Hàn quốc đã thay đổi hàng loạt các chính sách, pháp

luật nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội hướng đến một xã hội

đa văn hóa cùng sinh sống hòa bình. Và một trong những chính sách mà

chính phủ Hàn Quốc ưu tiên phát triển trước tiên đó là chính sách phát

triển ngôn ngữ cho các thành viên trong gia đình đa văn hóa, tập trung

nhất vào đối tượng là trẻ em. Bao gồm cả tiếng Hàn quốc và tiếng mẹ

đẻ, nhằm giúp họ nhanh chóng hòa nhập được với cuộc sống ở nơi đây.

Tuy nhiên, những chính sách phát triển ngôn ngữ này của Chính phủ

cũng gặp không ít khó khăn bởi rất nhiều nguyên nhân. Và Hàn quốc

cũng đang từng bước để phá vỡ những rào cản đó.

Chính sách đào tạo ngôn ngữ của Hàn Quốc cũng liên tục được

điều chỉnh cho phù hợp với tình hình có thực tế. Trong thời gian gần

đây chính phủ đã ban hành thêm một số chính sách đào tạo song ngữ

dành cho các thanh thiếu niên của các gia đình đa văn hóa có khả năng

nói cả tiếng Hàn và tiếng mẹ đẻ, chẳng hạn như tổ chức các kỳ cuộc thi

song ngữ. Điều đó nhằm khuyến khích cho thế hệ trẻ của các gia đình

này tích cực học ngôn ngữ để giúp họ được phát triển hoàn thiện hơn,

khi được tương tác với cả bố và mẹ.

Theo số liệu thống kê của Bộ Hành chính nội vụ Hàn Quốc,

người nhập cư theo diện kết hôn ở Hàn Quốc người Trung Quốc chiếm

tỉ lệ lớn nhất. Với hơn 20% của tổng số các gia đình đa văn hóa. Sau đó

là người nhập cư từ Việt Nam với khoảng 16%. Ngoài ra còn có bộ

phận thiểu số đến từ Philippines, Đông Âu, Tây Âu…. Đây chính là lý

do tôi chọn đề tài “Nghiên cứu về giáo dục song ngữ của các gia đình

đa văn hóa Hàn - Việt tại Hàn Quốc”. Với mong muốn thông qua nỗ

2

lực tìm hiểu và nghiên cứu của mình để có thể lý giải được những khó

khăn cũng như rào cản của người phụ nữ Việt Nam trong quá trình học

tiếng Hàn quốc cũng như dạy con em mình tiếng mẹ đẻ. Đặc biệt là sự

tham gia của người di cư Việt Nam trong quá trình đào tạo song ngữ

như thế nào. Để từ đó chúng tôi muốn đề xuất những kiến nghị, giải

pháp mới cho phù hợp với chính sách đào tạo song ngữ của Hàn Quốc

hiện nay.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

2.1. Nghiên cứu tại Hàn Quốc

Nghiên cứu về đào tạo song ngữ trong các gia đình đa văn hóa ở

Hàn Quốc khá ít. Các nghiên cứu về thực tế đào tạo song ngữ cho trẻ

em của các gia đình đa văn hóa chủ yếu tập trung vào việc xác định các

rào cản đối với đào tạo song ngữ của trẻ em trong gia đình di dân kết

hôn1, điều này đã được thực hiện để xác minh tính hiệu quả của sự hỗ

trợ của các tổ chức quốc gia và nâng cao nhận thức về sự cần thiết và

tầm quan trọng của hỗ trợ đào tạo song ngữ và nhấn mạnh rằng cần hỗ

trợ chính sách.

Lee Chang-Deok(2010) trình bày cơ sở lý luận về hỗ trợ đào tạo

song ngữ ở Hàn Quốc, xem xét khái niệm và lịch sử của đào tạo song

ngữ, gợi ý đào tạo song ngữ bao gồm học sinh phổ thông, giáo viên

song ngữ và giáo viên đào tạo đa văn hóa. Đặc biệt, nó chỉ ra môi

trường đào tạo song ngữ yếu kém trong trường học.2

1Hong Jong-Myeong(2012), “Nghiên cứu phân tích chiến lược học tiếng Hàn danh cho du học sinh đến từ Việt Nam”, Ngữ văn luận tập, Tập 71, 407-432 2Lee Chang-Deok(2010), “Đào tạo song ngữ dành cho xã hội đa văn hóa Hàn Quốc”, Hiệp hội nghiên cứu về đào tạo đa văn hóa Hàn Quốc

3

Won In-Sook(2012)3 và Jang Myeong-Lim(2012)4 đã lưu ý tầm

quan trọng của đào tạo song ngữ ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ ở chỗ đó là

thời gian ngôn ngữ được hình thành như một công cụ giao tiếp đầu

tiên sau khi sinh trong các gia đình đa văn hóa. Các chương trình đào

tạo song ngữ bằng tiếng Hàn và tiếng Việt đã được tìm thấy có tác

động tích cực đến sự tự tin của người mẹ, lòng tự trọng của trẻ sơ sinh

và mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái. Điều này dẫn đến việc xác

định tầm quan trọng của đào tạo song ngữ cho trẻ em của các gia đình

đa văn hóa.

Ngoài ra, nghiên cứu về trải nghiệm song ngữ của các gia đình

đa văn hóa trong các chương trình hỗ trợ sử dụng truyện cổ tích truyền

thống đã làm tăng sự quan tâm của con cái đối với ngôn ngữ mẹ đẻ và

ngôn ngữ mẹ đẻ nói tự nhiên trong cuộc sống hàng ngày.5 Nghiên cứu

cho thấy rằng giao tiếp cảm xúc với trẻ em được cung cấp và trẻ em có

cơ hội học văn hóa và ngôn ngữ của đất nước mẹ cho thấy cần có sự

hỗ trợ tích cực cho việc đào tạo song ngữ của trẻ em từ các gia đình đa

văn hóa.6

Khi nói chuyện với trẻ em thông qua ngôn ngữ mẹ đẻ của chúng,

những người nhập cư kết hôn có thể làm sâu sắc cuộc trò chuyện của họ

và mở rộng sự đồng cảm của họ, và thanh niên đa văn hóa học ngôn

3Won In-Sook(2012), “Ảnh hưởng của các chương trình song ngữ của trẻ em trong các gia đình đa văn hóa đối với lòng tự trọng và mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái”Giáo dục Mầm non, Nghiên cứu về Quản trị chăm sóc trẻ em, Tập 16, Số 1: 87-105 4Jang Myeong-Lim, Jang Hye-Jin, Lee Se-Won(2012), “Ứng dụng thử nghiệm và giám sát các chương trình song ngữ dành cho những cha mẹ của các gia đình và trẻ sơ sinh đa văn hóa(Bản báo cáo nghiên cứu, 02/01/2011), Seoul:, Sở nghiên cứu chính sách chăm sóc trẻ em, Viện phát triển đào tạo Hàn Quốc 5Lee Seung-Sook, Kwak Seung-Ju(2013), “Khám phá kinh nghiệm song ngữ của trẻ sơ sinh trong các gia đình đa văn hóa: Tập trung vào sự hỗ trợ phát triển ngôn ngữ bản địa”, tuyển tập luận văn Giáo dục Mầm non, Tập 17(4), 249-378 6Cho Seung-Seok, Kim Hee-Soon(2013), “Nghiên cứu về đào tạo song ngữ của trẻ em được các bà mẹ đa văn hóa trải nghiệm”, Tạp chí của Hiệp hội công nghệ giữa Công nghiệp và Học tập Hàn Quốc, Tập 14(11), 5549~5558

4

ngữ mẹ đẻ của họ để tăng sự hiểu biết và niềm tự hào về đất nước mẹ

của họ. Nó cũng có thể thay đổi các mối quan hệ gia đình chưa được

liên lạc.7

Nghiên cứu của Hwang Jin-Young(2012) đã so sánh các trường

hợp Hàn Quốc và nước ngoài trong đào tạo song ngữ và chính sách đào

tạo, và kiểm tra nhận thức chung về đào tạo đa văn hóa của những

người nhập cư hôn nhân Hàn Quốc. Theo khảo sát, những người nhập

cư kết hôn đã chọn đào tạo văn hóa song ngữ cho người Hàn Quốc cũng

như đào tạo nhận thức đa văn hóa cho người Hàn Quốc cũng như đào

tạo ngôn ngữ Hàn Quốc là chính sách đào tạo cấp bách nhất.8

Cho Young-Dal Cho (2007) nhấn mạnh sự cần thiết của giáo viên

và trường học để nâng cao nhận thức chung về đào tạo song ngữ.9 Bộ

Gia đình và Phụ nữ Hàn Quốc phân tích hiện trạng đào tạo tại các

trường học và các trung tâm hỗ trợ gia đình đa văn hóa và đưa ra các đề

xuất để cải thiện đào tạo song ngữ.10

Các nghiên cứu và báo cáo ở trên có ý nghĩa trong đó họ kiểm tra

đào tạo song ngữ của trẻ em từ các gia đình đa văn hóa và đưa ra các

câu hỏi cụ thể dựa trên chúng. Nó cho thấy rằng sự quan tâm nghiêm

túc trong đào tạo song ngữ cho các gia đình đa văn hóa đang gia tăng.

Tuy nhiên, đối với các đề xuất chính sách, trước tiên phải hiểu rõ

về lĩnh vực thực tế hiện tại. Nhưng đó không phải là phỏng vấn bằng 7Shin Yun-Jin(2010), “Thích ứng khó khăn và mối quan hệ ngang hàng của trẻ em từ các gia đình đa văn hóa”, Luận văn thạc sĩ, Đại học Daegu

8Hwang Jin-Young(2012), “Nghiên cứu về đào tạo song ngữ trong xã hội đa văn hóa Hàn Quốc”, Luận văn tiến sĩ, Đại học Jeon-Nam 9Cho Young-Dal, Yun Hui-Cheol, Park Sang-Cheol(2007), “Nghiên cứu về tình trạng đào tạo trẻ em trong các gia đình đa văn hóa ở Hàn Quốc”, Nghiên cứu và thực tiễn đào tạo, Tập 71 10Bộ Gia đình và Phụ nữ Hàn Quốc, “Nghiên cứu về kế hoạch cải thiện và thực thể của đào tạo song ngữ,” 2013

5

tiếng Hàn hay dạy song ngữ, mà là hướng hỗ trợ những gì cần thiết để

học ngôn ngữ của một bà mẹ nước ngoài để tăng cường hiệu quả của

chính sách đồng hóa ở Hàn Quốc.

2.2. Nghiên cứu tại Việt Nam

Ở Việt Nam, trước và trong thập niên 70 của thế kỷ 20, các nhà

nghiên cứu và giảng dạy ngôn ngữ học chủ yếu nghiên cứu về tiếp xúc

ngôn ngữ, về các trạng thái song ngữ các dân tộc với tiếng Việt theo

hướng xã hội học ngôn ngữ. Năm 1983, Phan Ngọc và Phạm Đức

Dương cho công bố cuốn “tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông Nam Á” gồm 2

phần: 1) Lý luận đại cương về tiếp xúc ngôn ngữ và việc tiếp xúc ngôn

ngữ ở Đông Nam Á. 2) Ba thời kỳ tiếp xúc của tiếng Việt: với các ngôn

ngữ Đông Nam Á để hình thành tiếng Việt; với các ngôn ngữ Hán và

Ấn để hình thành ngôn ngữ quốc gia Đại Việt; với các ngôn ngữ Pháp

và châu Âu để hiện đại hóa tiếng Việt.11 Đây là công trình quan trọng

mở đầu cho việc nghiên cứu tiếp xúc ngôn ngữ ở Việt Nam. Từ năm

1995 trở lại đây, xuất hiện một số công trình nghiên cứu những vấn đề

song ngữ và đa ngữ ở Việt Nam với các nhà nghiên cứu có tên tuổi

trong giới ngôn ngữ học Việt Nam như Nguyễn Văn Khang1213; về lịch

sử tộc người thông qua các hiện tượng song ngữ của Nguyễn Văn Lợi14;

11Phạm Đức Dương, Phan Ngọc(1983), “Tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông Nam Á: Những vấn đề lịch sử văn hóa Đông Nam Á”, Viện Đông Nam Á 12Nguyễn Văn Khang(2003), “Kế hoạch hóa ngôn ngữ - Ngôn ngữ học xã hội vĩ mô”, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội 13Nguyễn Văn Khang(2007), “Từ ngoại lai trong tiếng Việt”, Nxb Khoa học Xã họi, Ha Nội 14Nguyễn Văn Lợi(1999), “Một số vấn đề về chính sách ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay, Dân tộc học”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 3/1999

6

nên vấn đề song ngữ và đa ngữ ở tầm vĩ mô của Nguyễn Văn Lợi15 và

Lý Toàn Thắng.16

Bên cạnh những công trình chủ yếu đề cập tới vấn đề lý thuyết

có liên quan nhiều tới chính sách ngôn ngữ kể trên, đã xuất hiện một số

bài viết về thực trạng song ngữ Anh-Việt, Pháp-Việt, song ngữ Hmông-

Việt của một số nhà nghiên cứu.

Cho đến nay, những nghiên cứu về tiếp xúc ngôn ngữ và trạng

thái song ngữ Anh, Pháp, Trung, Nga – Việt còn tản mạn và chưa có

công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống.

2.3. Đào tạo song ngữ trong các gia đình đa văn hóa Hàn-Việt

tại Hàn Quốc.

Để cung cấp đào tạo song ngữ cho các gia đình đa văn hóa của

học sinh trường tiểu học và trường trung học, Bộ đào tạo Hàn Quốc đã

phát triển một chương trình bồi dưỡng giáo viên song ngữ ở Seoul và

Gyeonggi-do và đưa họ vào các trường tiểu học và trường trung học

cho phụ nữ nhập cư có bằng cử nhân từ năm 2009.17 Phụ nữ nhập cư đã

kết hôn được chỉ định đến trường làm người dạy song ngữ bằng cách

hoàn thành các chương trình giảng dạy, chuyên ngành và bài tập, kinh

nghiệm văn hóa, song ngữ và tư vấn.18 Hệ thống giáo viên song ngữ đã

được mở rộng trên toàn quốc kể từ năm 2013. Giáo viên song ngữ dạy

học sinh gia đình đa văn hóa trong các gia đình đa văn hóa, đào tạo

quốc tế và ngoại ngữ, cũng như học sinh song ngữ trong các trường

15Nguyễn Văn Lợi(2000), “Một số vấn đề về chính sách ngôn ngữ ở các quốc gia đa dân tọc”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 1/2000 16Lý Toàn Thắng, Nguyễn Văn Lợi(2001), “Về sự phát triển của ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong thế kì 20”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 2/2001 17Jeon Ui-Hee(2009), “Một nghiên cứu về mối quan hệ giữa đào tạo dinh dưỡng ở trường mẫu giáo và tiểu học”, Luận văn thạc sĩ, Đại học Kon-Kuk 18Lee Hyeon-Yi(2013), “Nghiên cứu và phân tích về vai trò của người dạy song ngữ”, Luận văn thạc sĩ, Viện cao học giáo dục, Đại học Giáo dục Quốc gia Seoul

7

học.19 Chương trình đào tạo người dạy song ngữ, được Bộ Đào tạo hỗ

trợ, nhằm mục đích đào tạo ngôn ngữ và văn hóa của phụ huynh bằng

cách đào tạo các gia đình đa văn hóa như những người hướng dẫn song

ngữ thông qua một số sở đào tạo. Từ năm 2010, nó đã được mở rộng

đến các trường mẫu giáo. Khi xem xét tỷ lệ các quốc gia từ các gia đình

đa văn hóa trong khu vực tài phán, bảy ngôn ngữ đã được chọn, chủ yếu

là chương trình đào tạo tiếng Trung, tiếng Nhật, tiếng Việt và tiếng

Nga. Kể từ đó, sở đào tạo thành phố Kwang-Ju(2014)20 và sở đào tạo

thành phố Seoul(2015)21 đã thúc đẩy cải thiện hiệu quả đào tạo đa văn

hóa của trường, và chuyển sang đào tạo liên văn hóa và hoạt động thí

điểm của các lớp học song ngữ. Sở đào tạo thành phố Kwang-Ju đã xem

xét các vấn đề trong chương trình giảng dạy đa văn hóa của các trường

học địa phương và chỉ ra rằng đào tạo song ngữ hầu như không có đào

tạo hệ thống do thiếu cơ sở hạ tầng đào tạo. Trong nỗ lực cải thiện điểm

này, năm 2018, bộ gia đình và phụ nữ Hàn Quốc cung cấp thông tin về

cuộc sống ở Hàn Quốc và đào tạo trẻ em, được phát triển bằng nhiều

ngôn ngữ khác nhau, trên trang web Da-nu-ri. Nó cung cấp một cơ sở

dữ liệu để khuyến khích sự tham gia và tham gia vào các lĩnh vực khác

nhau của xã hội đòi hỏi song ngữ. Thật đáng khích lệ khi thấy nhận

thức ngày càng tăng về tầm quan trọng của đào tạo song ngữ đối với

con cái đa văn hóa và tăng hỗ trợ chính sách. Tuy nhiên, nó vẫn được

tìm thấy trong lĩnh vực thực tế rằng các vấn đề khác nhau vẫn không

thể được xác định bằng cách điều tra đơn giản.

19Kim Hyun-Ju(2011), “Nghiên cứu trường hợp cụ thể trong đào tạo của người dạy song ngữ tại trường tiểu học”, Luận văn thạc sĩ, Viện cao học giáo dục, Đại học Giáo dục Quốc gia Seoul 20Sở giáo dục thành phố Kwang-Ju tại Hàn Quốc, 2014 21Sở giáo dục thành phố Seoul tại Hàn Quốc, 2015

8

Đầu tiên, điều quan trọng là phải nhận ra rằng có một thái độ hỗ

trợ phân biệt đối xử tùy thuộc vào quốc gia mà song ngữ là của quốc

gia nào. Thái độ của gia đình bên người Hàn đối với tiếng mẹ đẻ của

những người nhập cư hôn nhân nữ đã rất kỳ thị. Vợ chồng và các thành

viên gia đình Hàn Quốc ủng hộ việc sử dụng tiếng mẹ đẻ của những

người nhập cư từ hôn nhân từ các quốc gia nói ngôn ngữ lớn như tiếng

Anh và tiếng Nhật, nhưng không được hỗ trợ bởi tiếng mẹ đẻ của các

quốc gia nói tiếng thiểu số.

Ngoài ra, không đủ để nói rằng chương trình đang được thực

hiện trong lĩnh vực trường học có một nền đào tạo kép thích hợp.

Không chỉ có rất ít giờ hoạt động ngoại khóa, mà số lượng trường còn

ít và gặp khó khăn trong việc tiếp nhận và cung cấp giáo viên. Ví dụ,

đào tạo song ngữ tại các trường học, trung tâm hỗ trợ gia đình đa văn

hóa và NGO có thể mất 1-2 tiếng một tuần. Ở mức độ này, hiệu quả

của việc học song ngữ là không đủ cho mục đích tham gia vào đào tạo

song ngữ.

Đó cũng là một tình huống mâu thuẫn trong lĩnh vực giảng dạy

song ngữ. Ví dụ, người Hàn Quốc là nhân viên hỗ trợ cho người hướng

dẫn. Có những vấn đề như giới thiệu các chuyên gia hành chính, những

người thiếu hiểu biết văn hóa đáng kể về các quốc gia khác, điều này

phải được đặt ra trước các chuyên gia đào tạo về đào tạo song ngữ. Tiếp

thu một ngôn ngữ cũng bao gồm sự hiểu biết về văn hóa, vì vậy đầu vào

của các chuyên gia cho sự hiểu biết văn hóa nên được xem xét. Tuy

nhiên, rất khó để thu hút người dạy chuyên nghiệp trên toàn quốc do

ngân sách không đủ. Do đó, những gì bạn có thể học như một người

hướng dẫn chỉ là một phần thông tin về đào tạo ngôn ngữ chung, chẳng

hạn như làm thế nào để tập trung và quan tâm đến trẻ em trong lớp hoặc

9

phân phối thời gian khoa học. Mặt khác, các tổ chức phi chính phủ,

không phải trường học, mời sinh viên nước ngoài từ nhiều quốc gia

khác nhau dưới danh nghĩa đào tạo hiểu văn hóa, và thực hiện các bài

học rời rạc và đôi khi thay thế nội dung của đào tạo song ngữ. Trẻ em

trải nghiệm những cảnh mâu thuẫn trong đó chúng phải đối mặt với các

tình huống trong đó học sinh nước ngoài không thể hiểu nội dung của

lớp học.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận văn này là tìm ra những khó khăn

và những rào cản mà phụ nữ nhập cư Việt Nam phải đối mặt trong việc

đào tạo song ngữ trong gia đình; tìm hiểu những thuận lợi và khó khăn

mà mẹ Việt Nam gặp phải từ góc độ ngôn ngữ hay có nguyên nhân từ

ngôn ngữ. Luận văn cũng tìm hiểu về chương trình đào tạo song ngữ

cho đối tượng là gia đình đa văn hóa. Từ đó, luận văn góp phần vào vấn

đề đào tạo song ngữ ở Hàn Quốc cho các đối tượng nhập cư nói chung,

người Việt Nam nói riêng.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích trên, luận văn sẽ tập trung giải quyết

những nhiệm vụ chủ yếu sau đây:

- Nghiên cứu lý thuyết đào tạo song ngữ.

- Khảo sát đào tạo song ngữ trong các gia đình đa văn hóa để tìm ra

những khó khăn và thuận lợi của mẹ Việt Nam trong quá trình tham gia

đào tạo ngôn ngữ cho con em mình. Tìm hiểu những yếu tố chi phối

10

đến việc học tiếng Hàn Quốc của người của bố hoặc mẹ và dạy tiếng

Việt đối với con cái.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Trong phạm vi của luận văn này, đối tượng nghiên cứu của

chúng tôi là các thành viên trong các gia đình đa văn hóa Vi ệt-Hàn tại

Hàn Quốc. Chính là phụ nữ Việt nam đã kết hôn với người Hàn Quốc

tại các lớp học văn hóa hoặc lớp tiếng Hàn ở các trung tâm đa văn hóa

của Hàn Quốc, tại một số thành phố lớn như Seoul, Kwang-Ju, Dae-

Jeon, An-San và Po-Hang.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Chúng tôi chủ yếu tiến hành phỏng vấn và khảo sát những người

phụ nữ Việt Nam nhập cư theo diện kết hôn, hiện đang sống và làm

việc tại Hàn Quốc từ 5 năm trở lên. Họ đều đã có con đang trong độ

tuổi tập nói hoặc đã đi học tiểu học.

4.3. Tư liệu nghiên cứu

Nguồn tư liệu nghiên cứu chủ yếu của luận văn được lấy trong

các cuốn sách của một số tác giả người Hàn Quốc và Việt nam. Bên

cạnh đó còn có một số bài viết, luận văn, luận án của các nhà nghiên

cứu quan tâm đến vấn đề đào tạo song ngữ nói chung và của Hàn-Việt

nói riêng. Ngoài ra, chúng tôi còn tham khảo các bài viết trên trang báo

điện tử của Hàn quốc và Việt Nam được Bộ Thông tin và Truyền thông

cấp phép.

11

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Trong phạm vi luận văn này chúng tôi sẽ chủ yếu áp dụng một số

phương pháp nghiên cứu sau:

- Phương pháp phỏng vấn trực tiếp, thông qua các cuộc gặp trực tiếp

với những người phụ nữ Việt Nam đã kết hôn với người Hàn. Bên cạnh

đó còn có phỏng vấn bổ sung đã được thực hiện thông qua các tin nhắn

SNS trên mạng internet chẳng hạn như face-book, Kakao-talk và Zalo.

- Phương pháp thống kê, phân tích: Phương pháp này giúp chúng tôi có

thể tìm hiểu được những khó khăn và thách thức cũng như những thuận

lợi trong việc đào tạo song ngữ đối với gia đình đa văn hóa Việt-Hàn.

Tìm ra những yếu tố chi phối và ảnh hưởng nhiều nhất, quyết định tới

việc thành công trong việc đào tạo song ngữ trong các gia đình này.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1.Về lí luận

Luận văn này tập trung nghiên cứu cách đào tạo song ngữ đang

diễn ra trong các gia đình đa văn hóa ở Hàn Quốc. Và ý nghĩa của việc

họ đào tạo con cái thông qua song ngữ. Từ đó cho thấy đào tạo ngôn

ngữ đóng vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của các gia đình

đa văn hóa nói chung. Nó là chìa khóa mở ra thế giới mới, thế giới của

hạnh phúc và thành công của mỗi con người.

6.2.Về thực tiễn

Thông qua việc nghiên cứu cách đào tạo song ngữ đang diễn ra

trong các gia đình đa văn hóa ở Hàn Quốc và những khó khăn đối với

những người nhập cư theo diện kết hôn phải đối mặt cũng như hiệu quả

của chương trình đào tạo. Để từ đó đề ra những giải pháp góp phần thúc

12

đẩy cho chương trình đào tạo song ngữ trong các gia đình đa văn hóa

được hoàn thiện hơn, hiệu quả hơn.

7. Kết cấu của luận văn

Luận văn ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham

khảo, Phu lục, được cấu trúc thành 3 chương:

Chương 1. Cơ sở lí thuyết của luận văn

Chương 2. Thực trạng đào tạo song ngữ cho các gia đình đa văn

hóa Hàn-Việt tại Hàn Quốc (Qua Phỏng Vấn)

Chương 3. Kiến nghị về định hướng và các giải pháp để nâng cao

hiệu quả đào tạo song ngữ trong các gia đình đa văn hóa Hàn-Việt.

13

Chương 1

CƠ SỞ LÝ THUYẾT

1.1. Khái niệm và một số vấn đề về song ngữ

1.1.1. Khái niệm song ngữ

Song ngữ(Bilingual) được hiểu là việc sử dụng song song hai

ngôn ngữ. Người sử dụng song ngữ tức là người có thể sử dụng hai

ngôn ngữ song song trong cuộc sống hàng ngày bao gồm: nghe, nói,

đọc, viết và hơn thế nữa là có thể cảm nhận bằng cả hai ngôn ngữ đó.

Phần lớn, những người sử dụng song ngữ thường có kiến thức ngôn ngữ

và năng lực ngôn ngữ thứ nhất – hay còn được gọi là tiếng mẹ đẻ hơn

ngôn ngữ thứ hai. Tuy nhiên, cũng có phần không nhỏ, có thể sử dụng

cả hai thứ tiếng song song bằng nhau; điều này xảy ra với những người

không có tiếng mẹ đẻ(SWONAL – Speaker Without A Native

Language). Những người không có tiếng mẹ đẻ là những cá nhân bị

thay đổi ngôn ngữ liên tục khi còn bé do quá trình đi chuyển hoặc do sự

kết hôn giữa các dân tộc khác nhau tạo nên.

1.1.2. Hiện tượng song ngữ

Hiện tượng song ngữ(Bilingualism) là hiện tượng một người, một

khu vực hay một dân tộc sử dụng song song hai ngôn ngữ cùng một lúc.

Như vậy, có thể thấy rằng hiện tượng song ngữ có thể chia thành hiện

tượng song ngữ cá thể và hiện tượng song ngữ xã hội.

Hiện tượng song ngữ và chế độ song ngữ là hai khái niệm hoàn

toàn khác nhau. Hiện tượng song ngữ là hiện tượng cộng đồng ngôn

ngữ hoặc một bộ phận thành viên cùng sử dụng hai ngôn ngữ, còn chế

độ song ngữ là quy định về việc sử dụng ngôn ngữ; nói cách khác, chế

14

độ song ngữ chính là chính sách về đào tạo song ngữ tại một khu vực,

lãnh thổ hay quốc gia.

Hiện tượng song ngữ xuất hiện do các lý do khác nhau như: vấn

đề đào tạo song ngữ, sự cộng cư giữa các dân tộc, mối quan hệ giữa các

ngôn ngữ về loại hình, cội nguồn,... Như vậy, hiện tượng song ngữ là

hệ quả tất yếu dưới tác động của hàng loạt các nhân tố kể trên. Trong

đó nổi lên một số nguyên nhân chính như:

Nguyên nhân đầu tiên kể đến là sự cộng cư của những người nói

các ngôn ngữ khác nhau. Những người dùng ngôn ngữ khác nhau nhưng

lại cùng chung sống với nhau trên cùng một lãnh thổ. Hiện tượng cộng

cư do nhiều lý do nhưng lý do quan trọng nhất là xuất phát từ tình trạng

di dân từ vùng lãnh thổ này sang vùng lãnh thổ khác. Lịch sử cho thấy,

hiện tượng di dân do nguyên nhân về kinh tế, chiến tranh hay chính trị.

Chẳng hạn, trong suốt thế kỷ XX đều có sự di dân của người Việt ra

nước ngoài, tại nước ngoài dù muốn hay không người Việt cũng sống

trong môi trường song ngữ tiếng Việt- tiếng của nước sở tại.

Việt Nam có đến 54 dân tộc thiểu số cùng chung sống với nhau,

không biệt lập mà xen kẽ trải dài từ Bắc đến Nam. Theo số liệu điều tra

năm 2009, ở các tỉnh miền núi phía Bắc có tới 20 trong số 107 các

huyện có từ 10 dân tộc trở lên cùng sinh sống. Đa số các xã có từ 3 - 4

dân tộc cùng cư trú. Số xã có duy nhất một dân tộc cư trú chỉ chiếm

khoảng 2,7%. Chính đặc điểm này đã khiến cho trạng thái song ngữ ở

Việt Nam trở nên rất đa dạng.

Nguyên nhân thứ hai chính là sự thay đổi về chính trị trong các

quốc gia đa dân tộc cũng tạo nên trạng thái song ngữ. Ví dụ: Liên Xô

(cũ) trước đây là một quốc gia đa dân tộc, đa ngôn ngữ, tiếng Nga được

15

coi là ngôn ngữ giao tiếp chung giữa các dân tộc. Tại các nước Cộng

hòa, bên cạnh tiếng Nga là ngôn ngữ quốc gia, các ngôn ngữ dân tộc

vẫn được sử dụng trong giao tiếp. Chính sách này đã tạo nên một trạng

thái song ngữ bằng sự phân bố chức năng giữa tiếng Nga và tiếng dân

tộc khá đa dạng. Tuy nhiên từ tháng 8/1991, sau khi Liên Xô bị tan rã,

tình hình song ngữ đã phát triển theo chiều hướng rất phức tạp do các

nước Cộng hòa vùng Ban Tích tách ra thành quốc gia độc lập và theo

đó, vị thế của các ngôn ngữ vốn là ngôn ngữ dân tộc thiểu số đã thay

đổi, lại “trở thành ngôn ngữ quốc gia độc lập”, còn tiếng Nga trở thành

ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở các nước Cộng hòa này.

Nguyên nhân thứ ba chính là do chính sách song ngữ trong các

cộng đồng dân tộc. Như đã biết, đào tạo song ngữ là để tạo nên trạng

thái song ngữ cá nhân. Tuy nhiên, một số cá nhân không thể nào làm

nên xã hội song ngữ. Chính vì thế, đào tạo song ngữ cộng đồng đang

đẩy nhanh để tạo ra sự phát triển song ngữ xã hội. Hiện tượng này có

thể nhận thấy ở chính sách đào tạo ngoại ngữ của một số quốc gia.22 Ví

dụ, việc dạy tiếng Anh, Nga, Pháp, Hán,... trong các trường phổ thông

và đại học ở Việt Nam đã tạo nên một trạng thái song ngữ tiếng Việt -

tiếng nước ngoài. Hiện tượng song ngữ xã hội nhờ đào tạo có thể thấy

rõ ở các vùng dân tộc thiểu số. Do nhu cầu giao tiếp và nhu cầu của

cuộc sống, người dân tộc thiểu số đều có quyền lợi và nghĩa vụ học

ngôn ngữ giao tiếp chung - tiếng Việt. Vì thế, hiện tượng song ngữ

tiếng Việt - tiếng dân tộc thiểu số xuất hiện

22Hoàng Quốc (2015), “Đào tạo ngôn ngữ trong trường phổ thông vùng dân tộc Khmer (An Giang)”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 5. tr. 29

16

1.1.3. Một số vấn đề về song ngữ

Khi nói về song ngữ, người ta chỉ tập trung vào các cá nhân song

ngữ với mục đích là làm sao để một người nào đó có thể học và sử dụng

một ngôn ngữ khác ngoài tiếng mẹ đẻ. Về sau, dưới sự phát triển của

khoa học ngôn ngữ, sự ra đời của chuyên ngành ngôn ngữ học xã hội,

khái niệm song ngữ được mở rộng và đặt ra một số vấn đề sau:

Thứ nhất, thuật ngữ đa ngữ (multilingualism) xuất hiện khi xu

hướng người biết không chỉ hai ngôn ngữ ngày càng tăng. Dù vậy, theo

thói quen, người ta sử dụng thuật ngữ song ngữ hoặc thuật ngữ đa ngữ

cho cùng hiện tượng vừa nêu. Như vậy, sử dụng song ngữ cũng chính là

sử dụng đa ngữ (chứ không phải theo nghĩa đen “song” là “hai”) và khi

sử dụng đa ngữ cũng chính là song ngữ (bilingualism).

Thứ hai, song ngữ không chỉ tồn tại riêng lẻ ở một cá nhân.

Chính vì thế, khi nói đến song ngữ là nhằm đến song ngữ trong một

cộng đồng. Ở đó, các cá nhân song ngữ sử dụng những ngôn ngữ mà họ

biết để trao đổi thông tin, giao tiếp với nhau, các ngôn ngữ trong cộng

đồng có thể tương tác với nhau, tạo nên hiện tượng song ngữ xã hội.

Bởi thế, song ngữ xã hội có thể hiểu “là hiện tượng sử dụng hai hay

trên hai ngôn ngữ của người song ngữ trong xã hội song ngữ”23 Tức là

hai hay trên hai ngôn ngữ cùng hành chức trong một cộng đồng người.

Cộng đồng song ngữ có thể là một nhóm người, một quốc gia, một khu

vực hoặc thậm chí là cả thế giới.

Thứ ba, yếu tố quan trọng nhất liên quan đến song ngữ xã hội là

nhất định phải có người song ngữ. Có thể hiểu người song ngữ là người

có khả năng sử dụng luân phiên hai hoặc trên hai ngôn ngữ, “là nắm 23Nguyễn Văn Khang (1999), Ngôn ngữ học xã hội những vấn đề cơ bản, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. tr.38

17

một cách có hiệu quả hai hoặc trên hai ngôn ngữ”24 Theo Fishman,J.A

(1996), song ngữ là phản ánh sự biết cách nói năng trong giao tiếp nhờ

vào phương tiện của hơn một ngôn ngữ. Như vậy, thế nào là “biết” -

năng lực song ngữ của người song ngữ? Hiện tại, có hai quan niệm như

sau:

Nếu năng lực sử dụng ngôn ngữ của người song ngữ thành thạo

đến mức họ có thể sử dụng hai ngôn ngữ thuần thục như nhau, nghĩa là

họ có thể tư duy mà không cần phải qua khâu phiên dịch, kiểu người

song ngữ này gọi là người song ngữ hoàn toàn hay người song ngữ đầy

đủ. Tuy nhiên, trên thực tế, những người thuộc loại song ngữ hoàn toàn

rất hiếm bởi việc nắm vững hoàn toàn hai ngôn ngữ như nhau là rất ít

gặp. Kể cả người đơn ngữ (ngôn ngữ thứ nhất đồng thời là tiếng mẹ đẻ)

cũng chưa chắc nắm vững hoàn hảo toàn bộ vốn từ với mọi phong cách

giao tiếp. Theo Gai Xingzhi (1997), chỉ có những trẻ em sinh ra ở môi

trường song ngữ thì mới có hi vọng là người song ngữ hoàn toàn. Vì

vậy, có thể coi đây là song ngữ lí tưởng và những song ngữ thuộc loại

này là song ngữ lí tưởng.

Ngoài kiểu người song ngữ hoàn toàn thì bên cạnh đó còn có

kiểu người song ngữ không hoàn toàn hay người song ngữ bộ phận. Họ

là những người ngoài biết tiếng mẹ đẻ có thể biết thêm ngôn ngữ khác ở

mức độ đủ để trao đổi với một lĩnh vực nào đó mà họ quan tâm. Ví dụ,

người nghiên cứu ngôn ngữ có thể sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp xung

quanh nội dung chuyên môn về ngôn ngữ mà họ nghiên cứu. Đây là

kiểu song ngữ phổ biến ở các quốc gia đa dân tộc, đa ngôn ngữ trên thế

24Nguyễn Văn Khang (1999), Ngôn ngữ học xã hội những vấn đề cơ bản, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. tr.24

18

giới. Với cách hiểu này, việc nghiên cứu song ngữ cũng như những vấn

đề liên quan đến song ngữ được mở rộng hơn, đặt ra nhiều vấn đề hơn.

Thứ tư, khi nói đến hiện tượng song ngữ, là nói đến một ngôn

ngữ gọi là “ngôn ngữ thứ nhất” và nói đến ngôn ngữ thứ nhất, người ta

sẽ nghĩ ngay đó là tiếng mẹ đẻ (mother tongue). Vậy, thế nào là tiếng

mẹ đẻ? Hiểu đơn giản, tiếng mẹ đẻ là thứ tiếng của cha mẹ mình, của

dân tộc mình. Tuy nhiên, trên thực tế lại không đơn giản như vậy. Ví

dụ, một đôi vợ chồng người Việt sinh con ở Trung Quốc và đứa trẻ đó

ngay từ khi sinh đã học nói tiếng Trung Quốc, lớn lên chỉ biết sử dụng

tiếng Trung Quốc để giao tiếp mà không hề biết tiếng Việt thì tiếng mẹ

đẻ của nó là tiếng Việt hay tiếng Trung Quốc? Một ví dụ khác, một

người đàn ông Trung Quốc kết hôn với người phụ nữ là người dân tộc

Khmer ở Việt Nam và đứa trẻ sinh ra chỉ biết nói tiếng Việt (không biết

nói tiếng mẹ đẻ của cha mẹ là tiếng Trung Quốc và tiếng Khmer). Sau

đó, cả gia đình chuyển sang sống ở Anh và dần quên hẳn tiếng Việt.

Vậy, tiếng mẹ đẻ của đứa trẻ này là tiếng Trung Quốc, tiếng Khmer,

tiếng Việt hay tiếng Anh? Các ví dụ trên cho ta thấy tính phức tạp của

khái niệm tiếng mẹ đẻ. Chính vì thế, hiện nay có những quan niệm khác

nhau về tiếng mẹ đẻ.

- “Tiếng mẹ đẻ” được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp.

Theo nghĩa rộng thì bất kì thứ tiếng nào mà không có truyền

thống chữ viết thì đều được coi máy móc là phương ngữ của một ngôn

ngữ địa phương và đứa trẻ nói thứ ngôn ngữ địa phương nhóm nhỏ chă

có chữ viết đó lập tức sẽ được coi là tiếng mẹ đẻ của nó (cho dù đứa trẻ

ấy không biết nhiều lắm về ngôn ngữ này).

19

Theo nghĩa hẹp, tiếng mẹ đẻ là tiếng nói dùng chung trong gia

đình (bất kỳ trình độ phát triển của thứ tiếng nói ấy như thế nào). Đây

là cách nhìn nhận tiếng mẹ đẻ từ tình hình ngôn ngữ ở Ấn Độ - một

quốc gia có tới 200 ngôn ngữ được xếp loại (còn thực tế có khoảng

1.652 ngôn ngữ và phương ngữ). Ấn Độ là quốc gia có lập trường đa

nguyên về đào tạo song ngữ, vì thế cần phải có một khái niệm mang

tính tác nghiệp về tiếng mẹ đẻ.

1.2. Khái niệm và một số vấn đề về đào tạo song ngữ

Song ngữ là một hiện tượng của hai hay nhiều hơn hai ngôn ngữ

ở một người hay một tập thể người sinh sống trên một địa bàn có đặc

điểm riêng về mặt xã hội văn hóa.25

1.2.1. Khái niệm về đào tạo song ngữ

Thuật ngữ đào tạo song ngữ bắt đầu xuất hiện vào những năm 60

của thế kỷ 20 như một phương pháp đào tạo cho các sinh viên không

phải là người bản ngữ và được sử dụng như một ngôn ngữ thứ hai bên

cạnh tiếng mẹ đẻ. Ở Việt Nam, Nguyễn Quốc Hùng trong chia sẻ về

dạy và học tiếng Anh cũng nêu rõ quan điểm về đào tạo song ngữ:

“Nhiều trường học dạy tất cả các môn bằng tiếng Việt và thêm vài môn

tiếng Anh và họ gọi đó là song ngữ. Như thế là không đúng. Song ngữ

nghĩa là tiếng Anh và tiếng Việt phải bổ trợ cho nhau phát triển về mặt

ngôn ngữ. Một số môn dạy bằng tiếng Anh, một số dạy bằng tiếng Việt,

và một số bằng cả hai thứ tiếng”. Nếu theo như quan điểm của Nguyễn

Quốc Hùng, việc đào tạo song ngữ không chỉ là tập trung vào ngôn ngữ

thứ hai mà đồng thời vẫn phải trau dồi tiếng mẹ để để hai thứ tiếng này

bổ trợ cho nhau. 25Trần Trí Dõi (1999), Nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số Việt Nam. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.12

20

Chuyên gia đào tạo song ngữ người Canada W.F. Mackey và M.

Siguan người Tây Ban Nha đã đưa ra định nghĩa về đào tạo song ngữ

như sau: “Đào tạo song ngữ là chỉ hệ thống đào tạo lấy hai ngôn ngữ

làm phương tiện giảng dạy, trong đó một ngôn ngữ thứ nhất của học

sinh”26, đồng thời cũng đưa ra các phạm vi giới hạn cho định nghĩa này

- Nếu chỉ sử dụng một ngôn ngữ mà ngôn ngữ này không phải là

ngôn ngữ thứ nhất của học sinh, điều này không thể coi là đào tạo song

ngữ.

- Hệ thống trường học không được chính nhà nước tại quốc gia

đó coi là hệ thống song ngữ, nhưng trên thực tế học sinh phải tiếp nhận

song ngữ để trờ thành người thạo ngoại ngữ thì vẫn được công nhận là

hệ thống đào tạo song ngữ.

- Trong giáo trình đào tạo của hệ thống đào tạo song ngữ, có cả

chương trình giảng dạy ngôn ngữ khác thì cũng không thể coi là đào tạo

song ngữ.

Xã hội không ngừng phát triển, giao lưu quốc tế ngày càng mở

rộng, người song ngữ, hiện tượng song ngữ xuất hiện ngày càng nhiều.

Đây chính là xu thế tất yếu của xã hội trong quá trình hội nhập và phát

triển và là vấn đề được đặt ra đối với mọi quốc gia khi đưa ra các chính

sách ngôn ngữ để đảm bảo sự hài hòa xã hội và bắt kịp với thời đại

mới.

1.2.2. Một số vấn đề về đào tạo song ngữ

1.2.2.1. Các mô hình đào tạo song ngữ

26W.F. Mackey và M. Siguan, “Đại cương về đào tạo song ngữ”, Tây Ban Nha – Canada tr.3.

21

Có nhiều mô hình đào tạo song ngữ trên thế giới, tùy vào mục

đích và mức độ sử dụng ngôn ngữ thứ nhất và ngôn ngữ thứ hai để có

thể áp dụng vào tình hình thực tế của mỗi quốc gia của mỗi dân tộc.

Theo Baker C. (2008) có 4 mô hình đào tạo song ngữ phổ biến trên thế

như sau:

Mô hình đào tạo song ngữ chuyển tiếp (Transition bilingual

education model) là mô hình sử dụng tiếng mẹ đẻ làm ngôn ngữ giảng

dạy ban đầu để trẻ không bỏ lại các môn học khác khi học tiếng phổ

thông. Mục đích của mô hình này giúp trẻ chuyển tiếp sang lớp học chỉ

dùng tiếng phổ thông của học sinh đa số.

Mô hình đào tạo song ngữ hai chiều (Dual bilingual education

model) là mô hình giúp trẻ nói tiếng phổ thông là ngôn ngữ thứ hai hay

tiếng mẹ đẻ để trở thành người có năng lực sử dụng tốt hai ngôn ngữ.

Mục đích chính của mô hình này giúp trẻ trở thành những cá nhân song

ngữ văn hóa.

Chương trình ngôn ngữ đôi (Dual Language Program) là mô hình

đào tạo song ngữ mà học sinh có thể được học theo hai cách khác nhau:

Thứ nhất các môn có nội dung học bằng ngôn ngữ thứ hai đòi hỏi giáo

viên song ngữ hiểu được những câu hỏi mà học sinh hỏi bằng ngôn ngữ

thứ nhất nhưng phải trả lời bằng ngôn ngữ thứ hai. Thứ hai các giờ học

tiếng đối với ngôn ngữ thứ nhất giúp các em nâng cao kỹ năng viết và

các kỹ năng tư duy bậc cao bằng tiếng mẹ đẻ sau đó các kỹ năng này sẽ

được chuyển sang tiếng phổ thông. Mục đích của mô hình này là thông

qua kỹ năng sử dụng tiếng mẹ đẻ làm cầu nối giúp trẻ chuyển sang kỹ

năng sử dụng ngôn ngữ thứ hai.

22

Mô hình đào tạo song ngữ phát triển (Developmental Bilingual

Education) là mô hình giảng dạy bằng tiếng mẹ đẻ của trẻ trong thời

gian khá dài, bên cạnh đó giảng kèm theo bằng tiếng phổ thông nhằm

mục đích phát triển năng lực song ngữ ở cả hai thứ tiếng.

1.2.2.2. “Đào tạo song ngữ” và “Nhà trường song ngữ”

Trong nhà trường nước Anh, chỉ cần trong trường có một nửa

môn học bằng tiếng Anh thì gọi là nhà trường song ngữ. Ở Canada,

những trường học cho trẻ em nói tiếng Pháp mà toàn bộ môn học dùng

tiếng Anh để giảng thì gọi là trường song ngũ. Ở Liên Xô trước đay,

ngoài tiếng Nga ra, toàn bộ môn học dùng tiếng Anh để dạy thì gọi là

trường song ngữ. Còn ở Mĩ, trường coi tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai

trong dạy học thì gọi là trường song ngũ, ví dụ, trường giáo hội hoặc

trường dân tộc cuối tuần.

Tình hình song ngữ khác nhau hoàn toàn về loại hình đều được

quy mù mờ là trường song ngữ. Khái niệm nay còn thực sự mơ hồ: có

thực sự dùng song ngữ hay không? Rõ ràng hai khái niệm “đào tạo song

ngữ” và “nhà trường song ngữ” cần phải xem xét cẩn thận.

Loại hình đào tạo đa ngữ loại hình đơn giản mà hoàn chỉnh. Sự

phân bố các ngôn ngữ trong cả quá trính học, bao gồm thời gian và

không gian(gia đình, nhà trường, địa phương và nhà nước). Có các mô

hình lên lớp như sau ngôn ngữ dạy học(đơn ngữ hoặc song ngữ): duy

trì; chuyển di(văn hóa du nhập vả chủ nghĩa thống nhất dân tộc); quá

độ(tiệm tiến và đột biến). Mỗi phương thức đều tồn tại trong đó hai mối

quan hệ: mối quan hệ giữa nhà trường với gia đình và mối quan hệ giữa

nhà trường và mỗi trường xã họi(địa phương hoặc cả nuốc). Năm loại

quan hệ gia đình-môi trường và 9 loại quan hệ nhà trường-môi trường

23

cùng với mô thức lên lớp đã bao trùm các loại hình về lí luận. Nó cung

cấp một khung chung.

Điều này liên quan đến tiêu chuẩn về đào tạo song ngữ.

Xuất phát từ sự phân bố ngôn ngữ để xem xét, bao gồm; 1) hành

vì song ngữ gia đình; 2) môn học trong nhà trường; 3) cộng đồng trong

một nước hay trong vùng miền lân cận; 4) địa vị tự thân của ngôn ngữ.

Nói cách khác, đào tạo song ngữ là hiện tượng của bốn mặt này.

1.3. Giới thiệu gia đình đa văn hóa ở Hàn Quốc hiện nay

Hàn Quốc là một đất nước chỉ có một dân tộc thuần nhất trong

suốt chiều dài hàng nghìn năm lịch sử dựng nước. Tuy nhiên, ngày nay

cùng với sự phát triển xã hội và sự hội nhập giao lưu kinh tế với thế

giới đã làm cho số lượng người lao động nước ngoài, người nhập cư

theo diện kết hôn ngày càng tăng. Các gia đình hôn nhân quốc tế đã liên

tục được mở rộng và thay đổi đến mức chóng mặt. Các gia đình đa văn

hóa tại Hàn quốc không còn xa lạ. Hiện nay, số lượng người nước ngoài

ở lại Hàn Quốc sinh sống và làm việc trong một thời gian dài là khoảng

1,46 triệu vào năm 2015 và 1,53 triệu vào năm 2016 và xu hướng ngày

càng tăng hơn nữa. Theo khảo sát gia đình đa văn hóa toàn quốc Hàn

Quốc năm 2015, số lượng gia đình đa văn hóa ước tính là 278,036 hộ

gia đình, đã tăng 4,3% so với năm 2012.27

Theo Bộ Đào tạo Hàn Quốc(2015), trẻ em mẫu giáo của các gia

đình đa văn hóa là 120,000, chiếm 60% tổng số con cái của các gia đình

đa văn hóa. Số lượng học sinh đa văn hóa đi học tiểu học trong tương

lai sẽ tiếp tục tăng. Trong khi dân số học phổ thông ở Hàn Quốc đang

27Tài liệu của Cục thống kê quốc gia Hàn Quốc “Hiện trạng cư dân người nước ngoài tại chính quyền địa phương.” 2017, 11

24

giảm 2-3% mỗi năm, số lượng sinh viên trong gia đình đa văn hóa đang

tăng 20% mỗi năm. Vào cuối những năm 2000, số lượng con cái của

các gia đình đa văn hóa đã tăng lên nhanh chóng do hôn nhân qu ốc tế.

Số lượng con cái của các gia đình đa văn hóa là 44,258 trong năm 2007,

đã tăng hơn bốn lần lên tới 207,693 trong năm 2015, và dự kiến sẽ tăng

liên tục. Hầu hết con cái trong các gia đình đa văn hóa bắt đầu cuộc

sống chung với con cái trong gia đình người Hàn ở trường mẫu giáo

hoặc trường học. Số lượng học sinh từ các gia đình đa văn hóa vào mẫu

giáo hoặc trường học nhanh chóng tăng lên 109,387 học sinh vào năm

2017, tăng lên 10,3% so với năm trước và chiếm 1,9% tổng số học

sinh.28

Do sự mở rộng của các gia đình đa văn hóa, con cái trong các gia

đình đa văn hóa không còn được coi là người lạ hay tầng lớp đặc biệt

trong xã hội Hàn Quốc. Do đó, đào tạo dành cho con cái trong đa văn

hóa không còn là vấn đề đặc biệt và ngoại lệ. Tầm quan trọng của việc

mở rộng của các gia đình đa văn hóa cần được tìm thấy không chỉ ở số

lượng gia tăng trong nước, mà còn ở sự gia tăng các tác động tích cực

và tiêu cực của các khía cạnh văn hóa xã hội đa dạng. Điều này cũng

đặt ra rất nhiều thách thức cho Chính phủ Hàn Quốc trong việc xây

dựng và hoạch định chính sách về đào tạo trong các gia đình đa văn hóa

để họ có cuộc sống bình đẳng và hướng đến sự phát triển toàn diện cho

thế hệ trẻ ở Hàn Quốc trong tương lai.

Theo thống kê trong vòng 5 năm từ 2012 đến 2016 có 128,640

người kết hôn quốc tế và số vụ ly hôn là 50,853. Số người kết hôn vào

năm 2016 là 20,591 và năm 2017 là 20,835 người. Nhưng đồng thời với

số lượng kết hôn ấy thì số vụ ly hôn khá nhiều. Cuộc khảo sát được 28Thống kê của Bộ Giáo dục Hàn Quốc, 2017

25

thực hiện khoảng 7,700 số vụ trong năm 2016 và 7,100 số vụ trong năm

2017.29 Mặc dù họ không ly hôn, nhưng hầu hết những người nhập cư

kết hôn phải đối mặt với nhiều xung đột đa dạng trong điều kiện khi

sống và nuôi con cái ở Hàn Quốc mà không thích nghi với ngôn ngữ và

văn hóa Hàn Quốc. Đặc biệt họ thiếu khả năng nói tiếng Hàn, gây ra

các vấn đề như vấn đề giao tiếp với vợ (chồng), con cái và các thành

viên trong gia đình, đặc biệt là những xung đột do sự khác biệt văn hóa.

Có thể nói ngôn ngữ là một yếu tố quan trọng gây ra xung đột và cũng

làm sâu sắc thêm xung độtgiữa hai nền văn hóa.

Do nhận thấy tầm quan trọng của đào tạo ngôn ngữ mà Chính

phủ Hàn Quốc ngay lập tức xây dựng các chương trình đào tạo để hỗ

trợ dạy tiếng Hàn Quốc dành cho người di cư kết hôn. Các trung tâm đa

văn hóa ở mỗi khu vực vận hành các chương trình đa dạng chẳng hạn

như ngôn ngữ Hàn Quốc và văn hóa Hàn Quốc. Sự hỗ trợ này nhằm tạo

điều kiện cho các mẹ là người Việt Nam tại Hàn quốc nắm được những

kiến thức cơ bản về văn hóa, pháp luật và phong tục tập quán ở Hàn

quốc để từ đó dần thích nghi và xây dựng cuộc sống lâu dài ở nơi đây.

Tuy nhiên, trên thực tế không dễ để sử dụng một ngôn ngữ nước ngoài

như ngôn ngữ mẹ đẻ mà được học sau khi trưởng thành. Hơn nữa những

người nhập cư hôn nhân sẽ dễ dàng truyền đạt suy nghĩ và cảm xúc của

họ hơn khi họ nói chuyện với con cái bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của họ, vì

vậy họ có thể nói chuyện lâu hơn và mở rộng sự đồng cảm của họ. Khi

những con cái trong các gia đình đa văn hóa học ngôn ngữ mẹ đẻ của

chúng, sự hiểu biết và sự quan tâm của chúng đối với đất nước của mẹ

29Tài liệu của Cục thống kê quốc gia Hàn Quốc,“Thống kê hôn nhân và ly hôn vào năm 2017.” 2018, 3

26

chúng được thể hiện trong sự tôn trọng và niềm tự hào của chúng đối

với người mẹ và cả đất nước của mẹ nữa.30

Giao tiếp với con cái bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của họ có thể truyền

đạt cảm giác an toàn và tự tin cho con con cái. Tuy nhiên khi nuôi dạy

con cái tại Hàn Quốc, có nhiều người nhập cư mà họ quyết định không

sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ của họ. Do đó, con cái của các gia đình đa văn

hóa sẽ trưởng thành trong một môi trường mà cha mẹ di cư sẽ sử dụng

song ngữ, cho dù họ pha trộn ngôn ngữ mẹ đẻ và tiếng Hàn hoặc cố

gắng không sử dụng nó vào mục đích khác trong cuộc sống.

Nhận thấy tình trạng này ở Hàn Quốc, trung tâm hỗ trợ gia đình

đa văn hóa, các tập đoàn và tổ chức phi chính phủ gần đây đã giới thiệu

các chương trình hỗ trợ đào tạo song ngữ trong các gia đình đa văn hóa.

Bộ tư pháp và bộ gia đình và phụ nữ Hàn Quốc cung cấp chính sách

cho con cái từ các gia đình đa văn hóa sống ở Hàn Quốc để nhận được

đào tạo song ngữ liên quan đến ngôn ngữ mẹ đẻ của họ và được chính

quyền địa phương bắt buộc thực hiện.

Các trường cũng cung cấp các môn học đa văn hóa để giúp con

cái trong các gia đình đa văn hóa tìm hiểu về văn hóa và ngôn ngữ của

đất nước của cha mẹ chúng. Tuy nhiên vẫn chưa đủ để nói rằng có một

nền đào tạo song ngữ phù hợp. Cho đến nay, đào tạo song ngữ ở Hàn

Quốc có thể được coi là đào tạo song ngữ cho người bản ngữ Hàn

Quốc. Hơn nữa, chỉ có một vài trường cung cấp đào tạo song ngữ và họ

đang gặp khó khăn trong việc cung cấp giáo viên và tài liệu giảng dạy.

30Shin Yun-Jin(2010), “Thích ứng khó khăn và mối quan hệ ngang hàng của trẻ em từ các gia đình đa văn hóa”, Luận văn thạc sĩ, Đại học Daegu Cho Seung-Seok, Kim Hee-Soon(2013), “Nghiên cứu về đào tạo song ngữ của trẻ em được các bà mẹ đa văn hóa trải nghiệm”, Tạp chí của Hiệp hội công nghệ giữa Công nghiệp và Học tập Hàn Quốc, Tập 14(11), 5549~5558

27

Cũng không có nghiên cứu chuyên nghiệp về điều này. Để tìm và đề

xuất những cách mà con cái của các gia đình đa văn hóa có thể học và

sử dụng song ngữ một cách tự nhiên, trước tiên cần phân tích xem liệu

song ngữ có thực sự được dạy trong lĩnh vực này hay không. Nói cách

khác, cần hiểu trước về thực tế của đào tạo song ngữ trong gia đình và

môi trường xung quanh.

Thông qua chương trình đào tạo song ngữ, chính phủ Hàn quốc

cũng nhấn mạnh để những người mẹ(người chồng) hiểu rằng họ chính

là những nhân viên quan trọng nhất trong việc đào tạo song ngữ ở

những gia đình đa văn hóa. Họ là người quyết định chính đến sự thành

công của chương trình đào tạo và là người truyền cảm hứng và niềm tự

hào về quê hương Việt Nam cũng như tình yêu với tiếng Việt.

28

Tiểu kết chương 1

Trong đào tạo song ngữ, Việt Nam có thể nói là đi trước Hàn

Quốc. Trước hết, Việt Nam là một quốc gia đa văn hóa, và vì ngôn ngữ

khác nhau, nền tảng cơ bản cho đào tạo song ngữ được thiết lập tốt.

Ngoài ra còn có rất nhiều dữ liệu về động lực, mục đích và bí quyết

giảng dạy ngôn ngữ hiệu quả giữa tiếng Việt và tiếng dân tộc thiểu số.

Hàn Quốc có một khái niệm mạnh mẽ về một quốc gia duy nhất

và một ngôn ngữ duy nhất cho đến những năm 2000, vì vậy không lâu

sau đó, khái niệm đa văn hóa được đưa ra. Do đó, khái niệm đào tạo đa

văn hóa chưa phổ biến. Trước đây, đào tạo cho người lao động nhập cư

và phụ nữ nhập cư đã được thực hiện chủ yếu ở Gyeonggi-do và nhiều

thành phố lớn nơi người di cư kết hôn có nhiều lao động nhập cư nước

ngoài. Điều này không gì khác ngoài đào tạo đa văn hóa cho người lao

động nhập cư và phụ nữ nhập cư để hiểu văn hóa Hàn Quốc.

Tuy nhiên, trong vòng 10 năm qua, con cái của phụ nữ di cư lớn

lên trở thành học sinh cấp hai và sinh viên đại học, mở rộng phạm vi

đào tạo cho con cái của các gia đình đa văn hóa. Do đó, đào tạo cho

người nhập cư và đào tạo về đào tạo song ngữ cho trẻ em và bản sắc

của các gia đình đa văn hóa đã được cung cấp. Và khi tư duy của người

Hàn mở ra, đào tạo đa văn hóa ở Hàn Quốc đang chuyển từ đào tạo cho

người di cư sang đơn phương hiểu văn hóa Hàn Quốc, sang đào tạo cho

người Hàn Quốc để hiểu văn hóa và ngôn ngữ của họ. Để tạo điều kiện

cho điều này, các cơ quan chính phủ đang tích cực điều hành nhiều

chương trình đào tạo cho các gia đình đa văn hóa.

Trước đây, đào tạo đa văn hóa tập trung quanh Hoa Kỳ, Trung

Quốc và Nhật Bản. Tuy nhiên, khi số lượng lao động nhập cư và người

29

nhập cư kết hôn ở Việt Nam tăng lên và con cái họ lớn lên để được đào

tạo công cộng ở Hàn Quốc, đào tạo cho trẻ em của các gia đình đa văn

hóa Hàn-Việt ở trường trở thành một phần lớn trong đào tạo đa văn hóa

của Bộ Đào tạo Hàn Quốc. Ngoài ra, các tổ chức đào tạo liên kết với

chính quyền địa phương ở mỗi khu vực trước tiên cung cấp đào tạo cho

việc định cư của phụ nữ nhập cư Việt Nam, sau đó đào tạo họ cho phụ

nữ nhập cư Việt Nam tiếp theo. Giáo dục ngôn ngữ cho trẻ em là một

phần quan trọng của chương trình đào tạo. Đó là vào những ngày đầu,

những đứa trẻ của gia đình đa văn hóa của Hàn-Việt ở lại thời điểm họ

hiểu Hàn Quốc và Việt Nam cùng một lúc.

30

Chương 2

THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO SONG NGỮ

CHO CÁC GIA ĐÌNH ĐA VĂN HÓA HÀN-VIỆT

TẠI HÀN QUỐC (QUA PHỎNG VẤN)

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, đường biên giới giữa các nước

ngày càng bị xóa nhòa. Chính vì thế mà việc giao lưu giữa các quốc gia

đang phát triển rất mạnh như hiện nay thì Hàn Quốc trở thành quốc gia

đa văn hóa là điều hết sức bình thường. Chính vì lẽ đó, mà chính phủ

Hàn quốc cũng có cơ hội để học hỏi thêm về những chính sách, pháp

luật cũng như kinh nghiệm xây dựng những gia đình đa văn hóa từ các

nước khác để hướng tới xây dựng một xã hội đa văn hóa cùng sinh sống

hòa bình và xây dựng đất nước Hàn quốc phát triển bền vững. Và giờ

đây Chính phủ Hàn quốc đang nỗ lực hết sức để xây dựng nên một thế

giới thu nhỏ trong lòng quốc gia.

2.1. Cách thức thu thập tư liệu về thực trạng đào tạo song ngữ

đối với các gia đình đa văn hóa Hàn-Việt

Vào mùa hè năm 2018 và 2019 chúng tôi đã đến gặp và phỏng

vấn trực tiếp khoảng 40 phụ nữ nhập cư Việt Nam đã kết hôn trong các

lớp văn hóa Hàn Quốc và lớp học tiếng Hàn ở một số thành phố chẳng

hạn như Seoul, Kwang-Ju, Dae-Jeon, An-San và Po-Hang. Hầu hết

những người mà chúng tôi gặp này là phụ nữ nhập cư Việt Nam đang

học tiếng Hàn hoặc các nhân viên làm việc tại các trung tâm đa văn hóa

ở Hàn Quốc.

Trong các cuộc phỏng vấn sâu đối với 17 phụ nữ di cư theo hôn

nhân Việt Nam nhằm muốn tìm hiểu những khó khăn, thách thức cũng

31

như những thay đổi và ý nghĩa của việc đào tạo song ngữ của các gia

đình đa văn hóa Hàn-Việt.

Theo kết quả phỏng vấn, để sống ở Hàn Quốc những khó khăn

mà phụ nữ nhập cư Việt Nam phải đối mặt trong việc cung cấp đào tạo

song ngữ có liên quan đến ngoại vi của người nước ngoài, hơn nũa chú

trọng đến tiếng Hàn là thực tế hơn tiếng Việt. Mặt khác đôi khi việc

đào tạo song ngữ bị chồng hoặc mẹ chồng từ chối. Điều này vô cùng

quan trọng và đã ảnh hưởng rất nhiều đến sự đào tạo tiếng mẹ đẻ, nó

gây cản trở và phá vỡ khả năng học tập và sự phát triển ngôn ngữ mẹ đẻ

đối với con cái.

Mặc dù gặp những khó khăn này, nhưng phụ nữ nhập cư Việt

Nam cũng vẫn chú ý đến việc đào tạo song ngữ cho con vì mối quan hệ

của mẹ với con, sự tự tin của phụ nữ nhập cư Việt Nam là một người

mẹ, lòng tự trọng như một gia đình đa văn hóa và khả năng thực tế của

một ngôn ngữ nước ngoài có giá trị kinh tế.

Chính phủ Hàn Quốc đã nghiên cứu và xây dựng chính sách đào

tạo song ngữ cho gia đình đa văn hóa Hàn Quốc-Việt Nam với mục

đích phát triển một cách có hệ thống thông qua chương trình giảng dạy

chuyên nghiệp để có thời gian bền vững và hiệu quả hơn.

2.2. Những thách thức, khó khăn của đào tạo song ngữ ở gia

đình đa văn hóa Hàn-Việt

Chúng tôi đã gặp trực tiếp và phỏng vấn 40 người phụ nữ Việt

nam di cư sang Hàn Quốc theo diện kết hôn. Trong đó có 17 phụ nữ

Việt Nam đã được phỏng vấn sâu. Người được phỏng vấn chủ yếu là

người nhập cư hôn nhân Việt Nam đã sống và làm việc tại Hàn Quốc từ

5 năm trở lên, có trình độ tiếng Hàn trung cấp và đã có con trong độ

32

tuổi từ 3 tuổi trở lên. Các cuộc phỏng vấn được thực hiện trong lớp học

sau bài giảng, và thường kéo dài khoảng 20 phút trong hai ngày. Sau

khi phỏng vấn trực tiếp, khi trở về Việt Nam để có thêm tư liệu viết

Luận văn tôi còn tiếp tục phỏng vấn bằng cả tiếng Việt và tiếng Hàn,

thông qua các tin nhắn SNS trên mạng internet chẳng hặn như face-

book, Kakao-talk và Zalo. Các cuộc phỏng vấn được thực hiện trên

những gì họ trải nghiệm khi họ giao tiếp với con cái và các gia đình bên

chồng và mối quan hệ gia đình và sự phát triển của con cái họ đã thay

đổi như thế nào kể từ khi học song ngữ.

Những người nhập cư hôn nhân Việt Nam đã nói về những ký ức

đặc biệt của họ về những gì họ trải qua khi giao tiếp với con cái bằng

ngôn ngữ mẹ đẻ của họ. Trong số đó, các câu hỏi đã được hỏi về cách

phát triển của con cái thông qua đào tạo song ngữ đã thay đổi và cách

nhận biết chúng. Đặc biệt, hầu hết những người được phỏng vấn đều

gặp khó khăn trong việc dạy con cái họ song ngữ. Câu hỏi cụ thể là

những khó khăn là gì và chúng được nhận thức như thế nào. Nhà nghiên

cứu hỏi rằng khi họ nuôi con cái mình chỉ bằng tiếng Han hoặc chỉ

tiếng Việt hoặc cả hai ngôn ngữ thì kinh nghiệm vấn đề gì. Hơn nữa thì

nhà nghiên cứu cũng bổ sung câu hỏi về hình ảnh của Việt Nam trong

tình hình31 Hàn Quốc có tác động tích cực đến đào tạo song ngữ của các

gia đình đa văn hóa hay đã thay đổi nhận thức về song ngữ.

Các cuộc phỏng vấn chủ yếu được thực hiện bằng tiếng Hàn,

ngôn ngữ mẻ đẻ của nhà nghiên cứu. Do đó, nghiên cứu này thừa nhận

rằng nghiên cứu này có phần hạn chế, không dễ để giải thích ở một mức

31 Mặc dù khó có thể gợi ý rằng hình ảnh của Việt Nam đang được cải thiện tích cực hơn, nhưng nội dung về ẩm thực Việt Nam, thông tin du lịch, phát triển kinh tế, v.v ... gần đây đã tăng lên trên các phương tiện truyền thông Hàn Quốc. Trong các chương trình giải trí khác nhau, Việt Nam được giới thiệu trực tiếp và gián tiếp. Năm 2016, TvN đã sản xuất và phát sóng một bộ phim truyền hình 12 phần tập trung vào ẩm thực Việt Nam.

33

độ nào đó. Tuổi của người tham gia phỏng vấn, số con cái và độ tuổi

con cái, và khả năng nói tiếng Hàn được đưa ra tại phụ lục khi kết thúc

nghiên cứu này.

Qua quá trình phỏng vấn chúng tôi thấy phần lớn phụ nữ Việt

nam trong các gia đình đa văn hóa cho rằng: Con cái họ sẽ sử dụng

tiếng Hàn như tiếng mẹ đẻ và tiếng mẹ đẻ của họ không có giá trị thực

tế trong xã hội Hàn Quốc. Trên hết, họ muốn các con cái mình nói tiếng

Hàn giỏi như người Hàn Quốc. Họ cũng coi trọng các giá trị ngôn ngữ

thực tế trong xã hội Hàn Quốc hơn các giá trị ngôn ngữ tương tác của

bà mẹ và con cái. Trong bối cảnh này, những khó khăn mà phụ nữ di cư

kết hôn gặp phải trong đào tạo song ngữ dành cho con cái từ các gia

đình đa văn hóa có thể được tóm tắt như sau: ánh mắt ngoại vi, ngôn

ngữ thiết yếu của Hàn Quốc là tiếng Hàn, tiếng Việt là không thực tế ở

Hàn Quốc, thái độ không thân thiện của người thân, bao gồm mẹ chồng

và lo lắng về việc ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của con cái.

2.2.1. Ánh mắt ngoại vi

Điều đáng chú ý trong những khó khăn mà những người tham gia

phỏng vấn cảm thấy trong đào tạo song ngữ của con cái họ cho rằng các

vấn đề trong nhà thực sự bắt đàu từ ngoài nhà. Các nghiên cứu hiện tại

về việc sử dụng tiếng mẹ đẻ của những người nhập cư đã kết hôn cũng

chỉ ra những trở ngại đối với đào tạo song ngữ là môi trường ngôn ngữ

trung tâm của tiếng Hàn và thiếu nhận thức của gia đình và xã hội32, các

bà mẹ của các gia đình đa văn hóa cho biết họ cảm thấy lo lắng về việc

con cái họ trải qua sự phân biệt đối xử và định kiến mà chúng trải qua

32Hong Jong-Myeong(2012), “Nghiên cứu phân tích chiến lược học tiếng Hàn danh cho du học sinh đến từ Việt Nam”, Ngữ văn luận tập, Tập 71, 407-432

34

do nhận thức tiêu cực của các gia đình đa văn hóa và người nước ngoài

trong xã hội Hàn Quốc.33 Thật vậy, các cuộc phỏng vấn được thực hiện

trong nghiên cứu này đã có thể đối mặt với những trở ngại này. Tuy

nhiên, có một khó khăn có thể tìm thấy chi tiết hơn mà không thể gọi

đơn giản là ‘nhận thức tiêu cực của gia đình và xã hội’. Nhiều người

được tham gia phỏng vấn đã có kinh nghiệm chỉ sử dụng tiếng Hàn chứ

không sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ. Họ sinh con trong tình huống khó nói

tiếng Hàn, mặc dù gặp khó khăn trong giao tiếp với người khác, nhưng

họ chỉ sử dụng ‘tiếng Hàn cho con cái’.

“Tôi suy nghĩ là con cái mình phải hiểu tiếng Hàn mà. Tôi đã

biêu hiện được rất nhiều từ TV. Trẻ em Việt Nam không hiểu tiếng Hàn

ở trường mẫu giáo, vì vậy chúng bị giáo viên mắng và trêu chọc bạn bè.

Tôi đã căng thẳng trong khi xem chương trình TV đó, vì vậy tôi nghĩ là

mình nên học tiếng Hàn.”(Thảo, 28 tuổi)

“Tôi luôn lo lắng rằng nếu tôi cứ nói tiếng Việt tiếp tục cho con

cái tôi, thì con cái tôi sẽ đi học mẫu giáo trong trạng thái như không thể

nói tiếng Hàn vì vậy sẽ bị bắt nạt.Thế thì tôi đã không nói được tiếng

Việt nhiều với con cái mình.”(Phương, 27 tuổi)

“Đây là Hàn Quốc. Vì vậy tất cả trẻ con đều phải đi học tiểu học

đến trường Hàn Quốc mà. Chắc là có người không nói nhưng mà suy

nghĩ rằng học sinh ấy không thể nói tiếng Hàn tốt vì mẹ là người Việt

Nam mà.”(Trang, 29 tuổi)

33Kang Sun-Ja, Son Su-Min(2011), “Nhận thức về sự hài lòng của hôn nhân và nuôi dưỡng con cái trong hôn nhân quốc tế Phụ nữ có trẻ con : Tập trung vào nghiên cứu trường hợp của 4 phụ nữ di cư đã kết hôn”, Nghiên cứu giáo dục mầm non mở, 16(6), 161-188

35

Trong một số trường hợp, các bà mẹ không thể nghĩ đến việc sử

dụng tiếng mẹ đẻ của họ cùng với con cái mình. Điều này là bởi vì khi

họ có một đứa con và bắt đầu nuôi nó, thì chỉ có thể nhận được sự giúp

đỡ từ các bà mẹ Hàn Quốc xung quanh họ. Đó là lý do tại sao họ “tất

nhiên”sử dụng ngôn ngữ tiếng Hàn. Tức là, trong một môi trường mà

các gia đình có một nền tảng ngôn ngữ duy nhất thống trị, sự độc đáo

của một gia đình nền song ngữ thậm chí không được công nhận.

“Tôi đã sinh con đầu tiên và không biết cách nuôi con. Lúc đó,

khi tôi nhìn xung quanh, thì thấy các bà mẹ Hàn Quốc đang trực tiếp

nuôi con cái hoặc nhìn vào TV. Tôi không thể nhờ người Việt giúp đỡ.

Thế thì tôi chỉ nói tiếng Hàn thôi.”(Trang, 29 tuổi)

2.2.2.Vai trò thiết yếu của tiếng Hàn trong xã hội Hàn Quốc

Một trong những mối quan tâm lớn nhất của phụ nữ di cư đã kết

hôn sống ở Hàn Quốc và nuôi con là con cái họsống ở Hàn Quốc sẽ khó

khăn do con cái họ không thể nói tiếng Hàn. Một mặt, chúng ta có thể

hiểu được những lo lắng của các bà mẹ của các gia đình đa văn hóa

Hàn-Việt trong bối cảnh tầm quan trọng của kỹ năng ngôn ngữ địa

phương trôi chảy và tầm quan trọng của các giá trị ngôn ngữ thực tế

trong xã hội Hàn Quốc. Những mối quan tâm và lo lắng như này làm

người nhập cư kết hôn, tự nhiên ngăn chặn sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ của

họ và khiến họ nói tiếng Hàn nhiều hơn.

Phụ nữ di cư đã kết hôn từ Việt Nam coi trọng giá trị của tiếng

Hàn vì con cái họ sống ở Hàn Quốc. Họ không đánh giá cao tiếng Hàn

về giá trị ngôn ngữ hoặc ưu thế của nó với tiếng Việttrên phạm vi quốc

tế. Thay vào đó, họ nhấn mạnh rằng sự thành thạo ngôn ngữ địa phương

36

thông thạo ngày nay sẽ hữu ích hơn và ngay tại đây, như thể hiện trong

cuộc phỏng vấn sau đây.

“Đây là Hàn Quốc, chứ không phải Việt Nam. Vì mọi người đều

là người Hàn Quốc, nên con cái tôi phải nói tiếng Hàn giỏi. Nếu sống ở

Việt Nam, người ấy phải theo văn hóa Việt Nam và tiếng Việt. Và nếu

sống ở Hàn Quốc, người ấy phải theo văn hóa Hàn Quốc và tiếng Hàn

để sống tốt không gặp khó khăn .”(Phương, 27 tuổi)

“Chồng tôi, bố của con tôi là người Hàn Quốc mà. Gia đình tôi

đang sống ở Hàn Quốc. Tất nhiên, con cái mình phải biết tiếng Hàn

100%. Nếu biết nhiều tiếng Việt, thì họ không biết nhiều tiếng Hàn. Kết

quá là gặp khó khăn nhiều để sống ở Hàn quốc ổn định. Gia đình tôi

sống ở Hàn Quốc chứ không phải Việt Nam.”(Thảo, 28 tuổi)

“Tôi muốn giúp con cái tôi cảm thầy dễ dàng, vì tôi quá khó điều

chỉnh ở Hàn Quốc. Vì vậy, tôi hy vọng là con cái tôi sẽ học được nhiều

hơn và nói tiếng Hàn tốt hơn.” (Xuân, 26 tuổi)

Như có thể đọc trong cuộc phỏng vấn ở trên, tôi nghĩ rằng việc

thích nghi tại Hàn Quốc với tư cách như một phụ nữ nhập cư Việt Nam

phản ánh kinh nghiệm gần gũi với cuộc đấu tranh để sinh tồn và đây là

sự háo hức không được tiếp tục cho con cái của bản thân mình.

Những người nhập cư kết hôn tin rằng học tập và sử dụng thành

thạo tiếng Hàn là điều cần thiết bởi vì con cái họ sống ở Hàn Quốc. Ưu

tiên là sử dụng tiếng Hàn, ngôn ngữ địa phương, thay vì giá trị của

tiếng Hàn. Hơn nữa họ cũng mong muốn con cái họ nói tiếng Hàn như

người Hàn Quốc.

“Nếu chúng tôi lấy chồng người Hoa Kỳ vá sống ở Hoa Kỳ, thì

chúng tôi phải nói tiếng Anh trước. Sau đó chúng tôi nói tiếng Việt.

37

Nhưng mà vì tôi lấy chồng người Hàn và sống a Hàn Quốc, thì tôi nói

tiếng Hàn chứ.”(Xuân, 26 tuổi)

Nhiều người được phỏng vấn cũng nhấn mạnh rằng ngôn ngữ cơ

bản là tiếng Hàn, từ việc giao tiếp với người khác sau khi con cái vào

trường. Đồng thời, họ nhấn mạnh rằng đào tạo tiếng Việt không nên bị

xáo trộn đào tạo tiếng Hàn.

“Vì con cái tôi cuối cùng cũng đi học ở Hàn Quốc mà. Nếu sống

ở đây, thì phải nói tiếng Hàn chứ. Nếu tôi dạy tiếng Việt, thì con cái tôi

sẽ không thể sử dụng nó. Mặc dù con cái tôi đi ra ngoài và gặp người

Hàn nhưng mà không thể nói tiếng Việt.”(Trang, 29 tuổi)

Họ nhận ra rằng việc sử dụng và học tiếng Hàn trôi chảy là điều

cần thiết và thiết thực hơn trong cuộc sống của con cái họ bởi vì con cái

họ hiện đang sống và cần sống như người địa phương ở Hàn Quốc thay

vì đánh giá hình ảnh tích cực hoặc công nhận lợi thế so sánh quốc tế.

Vì vậy, họ muốn con cái họ có bản sắc với tư cách người Hàn.

2.2.3.Ngôn ngữ mẹ đẻ và sự không ưa thích của mẹ chồng

Người được phỏng vấn có kinh nghiệm chung trong việc sử dụng

ngôn ngữ mẹ đẻ của họ với con cái, gây ra mâu thuẫn giữa các thành

viên trong gia đình, khiến việc sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ của họ trở nên

khó khăn. Đặc biệt là trong hoàn cảnh sống cùng bố mẹ, những khó

khăn như vậy càng được tăng cường. Tuy nhiên, khi bắt đầu cuộc

phỏng vấn, nhiều câu chuyện trong số này không được kể. Điều này

không chỉ vì phụ nữ Việt Nam không muốn nói xấu về gia đình mà còn

vì mối quan hệ của họ với mẹ chồng là một yếu tố quan trọng trong

cuộc sống ở Hàn Quốc. Trước hết, mẹ chồng nên được tôn trọng vì họ

là người lớn tuổi. Khi một phụ nữ di cư không biết rõ về văn hóa Hàn

38

Quốc, mẹ chồng đã hành động như một người hướng dẫn. Hơn nữa phụ

nữ di cư biết rằng ngay cả trong mối quan hệ người Hàn Quốc thì mẹ

chồng là một người mạnh mẽ giữ quyền lực. Do đó, phụ nữ di cư nói

rằng nếu bố mẹ chồng phản đối việc họ sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, thì

không có lựa chọn nào khác.

“Chồng và bố mẹ chồng tôi phản đối. Họ nói là vì con cái tôi

sinh ra ở Hàn Quốc, nên con cái tôi phải biết tiếng Hàn trước vànếu tôi

dạy hai ngôn ngữ, thì con cái tôi không thể phát âm tiếng Hàn đúng. Vì

vầy, tôi buộc phải tiếp tục nói tiếng Hàn. Bây giờ khi tôi nói tiếng Việt

cho con cái tôi, thì con cái tôi yêu cầu tôi nói tiếng Hàn.”(Xuân, 26

tuổi)

“Khi tôi dạy tiếng Việt cho con, mẹ chồng tôi rất tức giận. Mẹ

chồng tôi đã nói to là cho dù mọi người xung quanh nói gì thì cừ nói

tiếng Hàn đi.”(Huyền, 34 tuổi)

“Đầu tiên thì tôi cũng không có tự tin. Khi mẹ chồng hỏi tôi nói

gì với con, tôi không thể trả lời bằng tiếng Hàn mà. Mẹ chồng tôi nói

với những người hàng xóm rằng con dâu nói những điều lạ, nên tôi

không nói tiếng Việt. Tôi sống với bố mẹ chồng và có rất nhiều mâu

thuẫn, nhưng chồng tôi không hiểu hay giúp tôi. Chồng tôi không có

trái tim chăm sóc con cái chúng ta. Khi con cái vào mẫu giáo, chồng tôi

nói với tôi rằng tôi không nên nói tiếng Việt và tiếp tục nói tiếng Hàn

để khả năng tiếng Hàn của con cái tôi sẽ cải thiện nhanh

chóng.”(Trang, 29 tuổi)

Khi các thành viên gia đình bên chồng hoặc chồng lo lắng về

việc con cái họ sử dụng tiếng Việt, thìnhững phụ nữ hôn nhântừ Việt

Nam gặp khó khăn để sử dụng ngôn ngữ mẹ để. Vì mẹ chồng và gia

39

đình gần gũi không hiểu tiếng Việt nên họ trở nên thụ động. Đó là lý do

tại sao những người nhập cư kết hôn đã giới hạn ngôn ngữ mẹ đẻ của

họ. Dù sự phản đối của gia đình, cũng không dễ để một người nhập cư

kết hôn giải thoát bản thân khỏi sự lo lắng này. Nếu xem các chương

trình về người nước ngoài thông thông qua TV, thì người nào cũng xem

những biểu hiện khó xử về những người đến từ các quốc gia châu Á.

Những điều này ảnh hưởng cho người di cư hôn nhân tránh ngôn ngữ

mẹ đẻ của họ. Mặt khác, có nhiều tình huống người nước ngoài có thể

nói tiếng Hàn trôi chảy và được sao chép như được ca ngợi. Do đó, họ

chọn tiếng Hàn trong khi tránh tiếng Việt nuôi con cái mình.

“Tôi không bao giờ sử dụng tiếng Việt ở nhà. Vì phải sống với

bố mẹ. Lúc đó, tôi bảo họ học tiếng Việt sau nhưng người lớn ở nhà

không thích. Vì vậy, tôi đã không làm điều đó.”(An, 30 tuổi)

Trên thực tế người ta thường thấy người Hàn Quốc nói tiếng Anh

tự nhiên trên khắp các đường phố nhộn nhịp của Hàn Quốc và cha mẹ

Hàn Quốc gặp gỡ trong cuộc sống hàng ngày rất tự hào về việc con cái

họ tiếp thu ngôn ngữ song ngữ ở các nước Tây Âu. Thật đáng tiếc rằng

phụ nữ di cư hôn nhân đến từ Việt Nam không sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ

của họ.

2.2.4. Sự lo ngại đối với ngôn ngữ của thế hệ sau

Vì cả người nhập cư kết hôn và con cái của họ đều quen sử dụng

tiếng Hàn, nên rất khó để tiếp tục sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ của họ. Các

bà mẹ không biết cách tiếp cận bản thân, thái độ của con cái họ không

hợp tác và sử dụng tiếng Việt ngôn ngữ mẹ đẻ chỉ là hy vọng tạm thời

cho các bà mẹ trong tình huống thời gian ngắn do cuộc sống học đường

và đời sống xã hội của họ.

40

Đào tạo song ngữ phải bắt đầu ở độ tuổi trẻ hơn để có được ngôn

ngữ tự do. Tuy nhiên, họ nói rằng đã ngừng đào tạo song ngữ vì lo lắng

về sự kém phát triển học tập của con cái mình và rất khó để bắt đầu lại.

“Khi con cái tôi còn trẻ, tôi chỉ nói được tiếng Hàn và bây giờ tôi

muốn dạy tiếng Việt, nhưng tôi rất tức giận vì con tôi không hiểu tiếng

Việt. Vì vậy, tôi đã quen với tiếng Hàn.”(Trang, 29 tuổi)

Các bà mẹ gia đình đa văn hóa đã nhận thức rằng họ thấy lo ngại

về khả năng phát triển ngôn ngữ kém của trẻ hoặc khả năng học tập

kém bằng cách sử dụng cả tiếng Hàn và tiếng mẹ đẻ của người mẹ. Họ

cũng lo lắng rằng con cái của họ sẽ có tác động tiêu cực đến việc học

tiếng Hàn của họ và có tác động tiêu cực đến cảm xúc của họ.

“Bạn tôi là người Hàn Quốc nên tôi nói tiếng Hàn. Tuy nhiên, vì

con cái tôi vẫn còn nhỏ, nên không biết tiếng Hàn. Khi tôi dạy tiếng

Việt cho con, con cái tôi khó khăn để học hai ngôn ngữ cùng nhau. Mặc

dù tôi muốn dạy nó nhưng tôi không thể dạy nó vì con tôi vẫn gặp khó

khăn.”(Hiên, 28 tuổi)

“Con cái tôi bị căng thẳng khi tôi nói tiếng Hàn và tiếng Việt với

nhau. Khi tôi nói tiếng Việt, con cái tôi hét lên và từ chối.”(Hà, 29 tuổi)

Nhận thức tiêu cực của các bà mẹ từ các gia đình đa văn hóa về

tiếng mẹ đẻ của họ đã được chứng minh là có thái độ tiêu cực đối với

con cái mình về ngôn ngữ mẹ đẻ của mẹ. Nói cách khác, các bà mẹ của

các gia đình đa văn hóa nghĩ rằng ngôn ngữ mẹ đẻ của họ có thể gây

căng thẳng cho con cái họ. Điều này tiết lộ rằng các bà mẹ gia đình đa

văn hóa đã không dạy tiếng mẹ đẻ vì họ không nghĩ rằng tiếng mẹ đẻ

của họ có ích cho con cái họ.

41

2.3. Những dấu hiệu tích cực đối với đào tạo song ngữ trong

tương lại ở các gia đình đa văn hóa Hàn-Việt

Như đã đề xuất trong chương trước, phụ nữ di cư hôn nhân Việt

Nam đã gặp nhiều khó khăn trong việc đào tạo song ngữ cho con cái

của họ. Và mặc dù những khó khăn này vẫn còn tồn tại, các chính sách

gần đây đã được đề xuất, với nhận thức ngày càng tăng về sự cần thiết

và tầm quan trọng của người di cư đối với ngôn ngữ bản địa của họ.

Ngoài ra, sự thay đổi trong việc gặp phải tình cảm và mối quan tâm

thuận lợi đối với Việt Nam tại Hàn Quốc và các dấu hiệu trao đổi ngày

càng chặt chẽ hơn về các khía cạnh kinh tế, ngoại giao và văn hóa giữa

các quốc gia dường như đang ảnh hưởng đến đào tạo song ngữ trong

các gia đình đa văn hóa, chúng tôi đưa ra những kiến nghị sau đây:

2.3.1. Thiết lập mối quan hệ với các thành viên trong gia đình

ngoại

Lý do tại sao những người nhập cư kết hôn quan tâm đến năng

lực song ngữ của con cái họ trong hoàn cảnh khó khăn có liên quan sâu

sắc đến mối quan hệ của họ với con cái với một nền tảng hơi khác với

người Hàn Quốc. Khi con cái mình đến thăm nhà ngoại bên Việt Nam

hoặc nói chuyện bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của mẹ, chẳng hạn như gọi điện

thoại với họ hàng gia đình ngoại, họ hy vọng rằng con cái mình sẽ có

thể nói chuyện trực tiếp với gia đình bên Việt nam, hơn nữa mong

muốn mối quan hệ với gia đình bên mẹ trở nên ngày càng sâu sắc. Điều

này thể hiện trong một số mong muốn ở một số phụ nữ Việt Nam thông

qua các cuộc phỏng vấn.

“Tôi là người Việt Nam. Vì vậy, tôi nghĩ rằng con cái tôi phải

học tiếng Hàn trước, nhưng chúng cũng cần học tiếng Việt. Vì con cái

42

tôi phải về Việt Nam để gặp gia đình họ hàng bên mẹ. Điều quan trọng

là có thể nói chuyện mà không có mẹ.” (Mai, 27 tuổi)

“Nếu con tôi có thể nói tiếng Việt, thì có thể nói chuyện với mẹ

bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của mẹ và không cảm thấy cô đơn hoặc xa khi

con tôi đến nhà ngoại.” (Hà, 29 tuổi)

“Con tôi có thể nói tiếng Việt, nên thường gọi điệnthoại đến bà

ngoài và cậu bên Việt Nam. Và khi con tôi gọi cho tôi, tôi rất vui vì con

tôi gọi tôi rằng “mẹ” bằng tiếng Việt.” (An, 30 tuổi)

“Tôi nghĩ rằng con cái tôi cần biết không chỉ mẹ mà còn cả ông

ngoại, dì, chú, bác sống ở Việt Nam. Nếu con tôi không biết tiếng Việt,

không thể nói chuyện với gia đình họ hàng nhà ngoại. Hơn nữa thì,

ngay cả khi đi thăm nhà ngoại nhưng mà nếu không có mẹ, thì con tôi

không chơi cùng với anh chị em tôi mà.” (Vân, 29 tuổi)

Như đã đề cập ở trên, phụ nữ di cư kết hôn nghĩ rằng việc học

tiếng Việt của con cái từ trẻ con là điểm khởi đầu quý giá cho sự phát

triển các mối quan hệ và tầm quan trọng của các giá trị gia đình, bao

gồm nhà ngoại bên Việt Nam. Thông qua đào tạo song ngữ, họ không

chỉ hy vọng rằng con cái sẽ duy trì mối quan hệ gần gũi hơn với mẹ của

chúng, mà còn mong muốn sẽ tăng sự hiểu biết và thân thiện với văn

hóa của đất nước mẹ chúng, Việt Nam.

2.3.2. Nâng cao niềm tự hào với tư cách một gia đình đa văn hóa

Những người nhập cư hôn nhân thường có kinh nghiệm sự tự tin

thấp do thiếu kỹ năng tiếng Hàn. Tuy nhiên, khi họ thấy con mình nhận

ra mẹ mình bằng cách học ngôn ngữ mẹ đẻ, họ nói rằng lòng tự trọng

của mình đã tăng lên. Và có thể tìm thấy rằng họ mong muốn con cái

43

mình được sống ổn định như một gia đình đa văn hóa trong phần của

chương trình giảng dạy song ngữ.

“Tôi nghe nói rằng khi con tôi đi học mẫu giáo và nói tiếng Việt,

bạn bè con tôi nhìn thấy con tôi bằng ánh mắt ngưỡng mộ vì con tôi có

thể nói được ngoại ngữ.” (Mai, 27 tuổi)

“Con tôi vẫn còn nhỏ và chưa nói chuyện với ai bên ngoài,

nhưng tôi cảm thấy sung sướng thật sự khi con tôi có thể hiểu và nói

chuyện với ông bà ngoại bằng điện thoại và nói chuyện một cách tự

nhiên.” (Trinh, 29 tuổi)

“Con tôi tự hào rằng mình là người Việt Nam. Trong kỳ nghỉ

đông, tôi mời bạn bè người Han của con tôi đến nhà tôi để cùng tìm

hiểu văn hóa Việt Nam và tiếng Việt.” (Dung, 30 tuổi)

Như các cuộc phỏng vấn ở trên cho thấy, phụ nữ nhập cư Việt

Nam có niềm tin mãnh liệt vào việc nuôi dạy ngôn ngữ mẹ đẻ của họ,

cho thấy họ là người Việt Nam, sống tự hào và tự hào về tiếng Việt và

văn hóa. Do đó, họ đã thể hiện thái độ tích cực hơn và con cái họ cũng

bắt đầu quan tâm đến tiếng Việt.

2.3.3. Kỳ vọng về giá trị tiềm năng của song ngữ

Một số người được phỏng vấn nói rằng ngay cả không nói được

ngôn ngữ mẹ đẻ đầu tiên ở nhà, họ bắt đầu xem xét giá trị của song ngữ

và bắt đầu quan tâm đến đào tạo song ngữ.

“Nếu bây giờ con tôi học tiếng Việt và sau đó đến Việt Nam và

học tiếng Việt rất nhiều ở đất nước của mẹ, thật dễ dàng để tìm việc và

đi làm. Bởi vì hiện tại có rất nhiều công ty Hàn Quốctiến xuất đến Việt

Nam, nên con tôi có thể làm phiên dịch và làm việc ở cả hai nước. Còn

44

tôi chắc là con tôi có thể sẽ tìm thấy nhiều cơ hội và công việc thoải

mái hơn ở Hàn Quốc.” (Vân, 29 tuổi)

“Nếu sau này con tôi trưởng thành, thì có thể làm gì đó ở Hàn

Quốc, nhưng nếu không thì cũng có thể làm gì đó ở Việt Nam, tôi nghĩ

là bất cứ điều gì cũng được cho con tôi.” (Dung, 30 tuổi)

“Những người nhập cư kết hôn tin rằng bằng cách sử dụng tiếng

Việt trong tương lai, những con cái của họ sẽ có thể mang lại lợi ích

cho con cái về kinh tế trong tương lai. Họ có thái độ rất tích cực về đào

tạo song ngữ. Cũng cho thấy rằng song ngữ của con cái được coi là có

giá trị. Nói cách khác, họ thấy rằng khả năng nói tiếng Việt của con cái

họ có thể là một phương tiện giúp chúng có một công việc tốt hoặc

kiếm tiền trong tương lai.

2.3.4. Thay đổi thái độ của các gia đình tham gia chương trình

hỗ trợ đào tạo song ngữ

Cũng có những người được phỏng vấn chia sẻ kinh nghiệm rằng

thái độ của gia đình chồng đã có sự thay đổithái độ từ tiêu cực sang thái

độ tích cực sau khi con cái của gia đình đa văn hóa trực tiếp tham gia

đào tạo song ngữ. Ngoài hiệu quả của đào tạo song ngữ, thái độ của gia

đình đối với sử dụng tiếng Việt đã được thay đổi theo hướng tích cực

bằng cách khám phá giá trị của song ngữ và chứng kiến sự phát triển

song ngữ của con cái họ.

Lúc đầu tiên, mẹ chồng tôi nói với tôi rằng đừng nói tiếng Việt.

Nhưng ngày nay, suy nghĩ của mẹ chồng đã được thay đổi rất nhiều.

Hiện tại sự nói tiếng Việt có lợi ích cho con cái, nên tôi và cảm thấy tự

tin, vì vậy ngày nay mẹ chồng không phản đối nữa về việc dạy tiếng

Việt cho con tôi.” (Vân, 29 tuổi)

45

“Chồng tôi nói với con rằng nếu con gặp người Việt Nam, có thể

nói tiếng Việt được còn nếu gặp người Hàn, cũng có thể nói tiếng Hàn

được. Tôi sống với mẹ chồng. Bây giờ tôi có thể nói chuyện với con

bằng tiếng Việt trước mặt mẹ chồng. Cả gia đình mong muốn con tôi

nói tiếng Việt tốt.” (An, 30 tuổi)

Theo kinh nghiệm của những người tham gia phỏng vấn, ảnh

hưởng quan trọng của chương trình hỗ trợ cho đào tạo song ngữ không

chỉ dành cho con cái mà còn sự thay đổi trong nhận thức của các thành

viên trong gia đình. Việc tham gia vào các chương trình đào tạo chuyên

nghiệp và thực tế, đặc biệt là các chương trình do chính phủ tài trợ với

sự hỗ trợ của tổ chức trong không gian chính thức, có thể giúp trẻ con

đa văn hóa tìm thấy những tác động và ý nghĩa tích cực hơn trong đào

tạo song ngữ

46

Tiểu kết chương 2

Trong Chương 2, kết quả và phân tích khảo sát cho nghiên cứu

này đã được phân tích. Nghiên cứu này tập trung vào những khó khăn

và thay đổi trong đào tạo song ngữ ở các gia đình đa văn hóa Hàn-Việt

và phỏng vấn phụ nữ di cư đã kết hôn bằng cách quan sát sự tham gia

của quá trình đào tạo song ngữ. Những khó khăn mà phụ nữ di cư Việt

Nam phải đối mặt trong việc cung cấp đào tạo song ngữ bao gồm quan

điểm của người ngoại, điều kiện coi trọng nhiều hơn đến tiếng Hàn,

tương đối có tính thực dụng hơn so với tiếng Việt để sống ở Hàn Quốc

và vị trí khó vượt qua sự từ chối của mẹ chồng hoặc chồng và lo lắng

về sự ảnh hưởng tiểu cực phát triển ngôn ngữ, khả năng học tập và sự

tình cảm của con cái. Mặc dù có những khó khăn này, một số gia đình

đa văn hóa cũng chú ý đến việc đào tạo song ngữ cho con cái vì sự hình

thành mối quan hệ của con cái cùng với nhà ngoại bên Việt Nam, sự cải

thiện mối quan hệ của con cái cùng với bạn bè người Hàn, sự tăng lên

tự tin với tư cách gia đình đa văn hóa và tính thực tiễn của năng lực

ngoại ngữ được tiềm tàng giá trị kinh tế.

Ngay cả trong những hạn chế này, rõ ràng rằng trong suy nghĩ

của những người nhập cư hôn nhân, mẹ Việt Nam tôi phải dạy tiếng

Việt bản địa của bản thân mình. Bản sắc của trẻ em là một người Hàn

Quốc sống ở Hàn Quốc, và vì gia đình của mẹ họ là người Việt Nam,

đồng thời, họ muốn có một mối quan hệ tình cảm như một người Việt

Nam. Khi xem xét sự gia tăng nhanh chóng của các gia đình đa văn hóa

trong xã hội Hàn Quốc, trẻ em không giấu mình là người Việt Nam, và

con cái họ thể hiện sự quan tâm nhiều hơn đến tiếng Việt và đào tạo

song ngữ trong gia đình của chúng được tăng cường.

47

Nó cũng đã được xác nhận rằng ý thức của người dân Hàn Quốc

đang trở nên cởi mở hơn. Khi nhận thức của mẹ chồng và chồng họ

thay đổi dần dần, tôi thấy rằng một số gia đình khuyến khích con cái họ

dạy tiếng mẹ đẻ. Điều này có thể hiểu được rằng không chỉ có tác dụng

của đào tạo song ngữ, mà còn có nghĩa là thái độ của gia đình đối với

người Việt Nam được thay đổi theo hướng tích cực bằng cách khám phá

giá trị của song ngữ và chứng kiến sự phát triển song ngữ của con cái

họ.

48

Chương 3

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT

ĐỐI VỚI VIỆC ĐÀO TẠO SONG NGỮ Ở CÁC GIA ĐÌNH ĐA

VĂN HÓA TẠI HÀN QUỐC

Thông qua việc phân tích kết quả nghiên cứu, tôi muốn tóm tắt

những vấn đề sau sẽ được cải thiện để phát triển các chính sách hỗ trợ

đào tạo song ngữ của các gia đình đa văn hóa Hàn – Việt bao gồm các

vấn đề sau đây:

3.1. Về thời gian đào tạo tiếng Việt

Các chương trình đào tạo song ngữ, chẳng hạn như các chương

trình được cung cấp tại trường học, trung tâm hỗ trợ gia đình đa văn

hóa và NGO, không nhất quán ở các thời điểm khác nhau. Hơn nữa

chúng thường được thiết lập với thời gian rất ngắn để học ngôn ngữ

hiệu quả. Đối với những đứa trẻ không đăng ký đào tạo ngôn ngữ ở mỗi

cơ quan, các bà mẹ của các gia đình đa văn hóa thành lập một cộng

đồng để tăng chi phí của chính họ và đưa một giáo viên dạy song ngữ.

Ngay cả trong những trường hợp này, thời gian học thường không đủ.

“Lớp học quá ngắn. Mỗi tuần 1 lần, đứa trẻ học tiếng Việt trong

1 tiếng. Sẽ học được gì trong 1 tiếng? Chỉ có 1 giáo viên và nếu trẻ em

chiến đấu trong khi học, chỉ mất 30 phút để giải quyết.”(Mai, 27 tuổi)

“1 tiếng mỗi tuần là một thời gian thực sự ngắn để học. Trẻ con

cần xem lại với mẹ ở nhà để cải thiện tiếng Việt của họ. Nếu giáo viên

chỉ dạy 1tiếng mỗi tuần và trẻ con không xem lại gì thì không có hiệu

quả.”(An, 30 tuổi)

49

Trong quá trình thể hiện một ngôn ngữ, thời gian học tập là yếu

tố quan trọng nhất. Một thời gian ngắn chỉ1 lần mỗi tuần không đủ để

tiếp thu được một vài từ vựng cơ bản.

3.2. Về chương trình và nội dung đào tạo

Những kinh nghiệm được đề cập bởi những người được phỏng

vấn trong nghiên cứu này đã khẳng định rằng thật khó để nói rằng một

tổ chức thực sự cung cấp đào tạo song ngữ ở Hàn Quốc điều hành một

chương trình giảng dạy với một chương trình giảng dạy có hệ thống.

Trong những năm gần đây, các trường đã cố gắng phát triển sách

giáo khoa và các lớp hỗ trợ cho đào tạo song ngữ, và các trung tâm hỗ

trợ gia đình đa văn hóa và các NGO đang cố gắng mở rộng các chương

trình liên quan. Tuy nhiên, những nỗ lực này vẫn dựa trên nội dung đào

tạo hạn chế và không liên kết chúng với một chương trình giảng dạy có

hệ thống và nhất quán. Chẳng hạn, sách giáo khoa đã phát triển có thể

không được viết bởi các chuyên gia Việt Nam, không phù hợp với độ

tuổi của đối tượng và các người dạy khác nhau tiến hành với các nội

dung và phương pháp theo một cách khác.

Việc thiếu chuyên môn trong tiến trình giảng dạy hoặc phương

pháp giảng dạy không chỉ do thiếu nội dung. Trong tình huống người

hướng dẫn chuẩn bị nội dung phù hợp cho người tham gia vào thời

điểm đó mà không có chương trình giảng dạy được thiết lập, năng lực

của người hướng dẫn quan trọng hơn nhưng tính chuyên nghiệp của

người hướng dẫn không được đảm bảo.

“Hiện tại không có sách giáo khoa được thiết lập. Đó là một cuốn

sách giáo khoa được làm bởi một thư ký tại một NGO, và nó không phù

50

hợp với trẻ em. Trẻ em cần học từ vựng trước và không cần phải học

ngữ pháp trước. Bạn sẽ có thể nói trước.”(Mai, 27 tuổi)

“Giáo viên trung tâm không có sách, chỉ cần sao chép bảng chữ

cái… Không có sách giáo khoa. Mặc dùtôi muốn xem lại lần sau, nhưng

không có sách giáo khoa, nên không có gì để làm.” (An, 30 tuổi)

Do đó, các trung tâm đa văn hóa và tổ chức phi chính phủ đã tiếp

tục thúc đẩy đào tạo song ngữ phát triển sách giáo khoa và tài liệu đào

tạo của riêng họ và thực hiện các chương trình dựa trên chúng. Tuy

nhiên, cần phải tiếp tục phágt triển và hỗ trợ các chương trình dành cho

người tham gia để thúc đẩy năng lực song ngữ.

3.3. Về chất lượng giáo viên

Trước khi đào tạo thông qua cơ quan, điều quan trọng nhất là

môi trường ngôn ngữ hàng ngày trong nhà. Bởi vì đào tạo song ngữ đòi

hỏi nhiều cách tiếp cận đa dạng, nếu nó vận hành như một nền đào tạo

ngoại ngữ đơn giản, sẽ có giới hạn để đạt được mục đích của nó. Người

được phỏng vấn cũng nhận ra rằng các bà mẹ đóng một vai trò quan

trọng nhất trong đào tạo song ngữ.

“Trẻ con học ở trung tâm khoảng 30 phút, nhưng ở nhà với mẹ

khoảng 4 tiếng vào ban đêm. Vào cuối tuần thì đi chơi với mẹ, thường

thì trẻ con cùng với mẹ mà.”(Mai, 27 tuổi)

“Trẻ con có một nền đào tạo song ngữ ở trường hoặc ở trung

tâm, nhưng hiếm khi đến một lớp học song ngữ. Sự tham gia lớp học

mỗi tuần 1 lần không hiệu quả lắm. Giáo viên tốt nhất là mẹ chứ, vì mẹ

dành nhiều thời gian cho con cái mình.”(Phương 28 tuổi)

51

“Tôi đã nhớ tất cả những từ vựng đã học ngày hôm nay. Nhưng

hãy quên nó vào tuần tới. Đó là một điều tốt để nhớ khi mẹ bạn lặp đi

lặp lại ở nhà. Học ngoại ngữ là nhưvậy mà. Nếu không lặp lại, hãy quên

nó đi.”(Hoa, 30 tuổi)

Để bổ sung cho đào tạo trong các tổ chức ít hiệu quả trong một

thời gian hạn chế, phụ nữ di cư kết hôn có thể xem lại nội dung với con

cái, chơi ở nhà hoặc đọc truyện cổ tích. Tuy nhiên, họ thường không

biết những cách cụ thể để cải thiện kỹ năng ngôn ngữ mẹ đẻ của con cái

họ.

Họ luôn có câu hỏi chẳng hạn như mình có thể dạy phương pháp

này không vàcách này có phù hợp hay không.

“Lần đầu tiên đọc bằng tiếng Việt, dịch nghĩa sau này sang tiếng

Hàn và giải thích ý nghĩa bằng tiếng Hàn. Tôi không biết có giúp được

gì không, nhưng tôi nói được cả hai ngôn ngữ.”(Hoa, 30 tuổi)

Vì có mong muốn dạy cho con cái bằng tiếng mẹ đẻ của họ, nên

các chương trình và chính sách nên được thiết lập để hỗ trợ các bà mẹ

với tư cách những người trung gian đào tạo có thể thực hiện các hướng

đào tạo song ngữ để có thể giúp đào tạo hiệu quả.

3.4. Về chính sách

Cải tiến cấp bách nhất trong đào tạo song ngữ tại Hàn Quốc là

thiết lập kế hoạch tiếp nhận người dạy chất lượng cao. Mặc dù các

chương trình đào tạo song ngữ đã được thiết lập, nhưng rất khó để cung

cấp người hướng dẫn vận hành chúng liên tục và chuyên nghiệp. Ngoài

ra, ngay cả khi một người dạy được mời một cách khó khăn, giao tiếp

tiếng Hàn không được suôn sẻ, hoặc một trung tâm đa văn hóa hoặc

NGO khó mời các giáo viên chuyên nghiệp hơn do vấn đề ngân sách.

52

Đó là lý do tại sao giáo viên thường kém trong giảng dạy và giao tiếp

với học sinh. Vì vậy một số người tham gia của phỏng vấn sau đó chia

sẻ các ví dụ sau đây:

“Trẻ con thường không hiểu tiếng Hàn mà giáo viên nói. Trình

độ tiếng Hàn của trẻ con thấp, nhưng trình độ tiếng Hàn của giáo viên

không phải là điều dành cho trẻ con có thể dễ dàng hiểu được.(Mai, 27

tuổi)

“Giáo viên không thể giải thích ngữ pháp tiếng Việt cho dễ dàng.

Nếu quen thuộc với ngữ pháp tiếng Việt, giáo viên có thể giải thích các

động từ ở đâu và tân ngữ nằm ở đâu. Giáo viên không biết ngữ pháp và

không thể giải thích nó cho dễ hiểu.”(Vân, 29 tuổi)

Các tổ chức cung cấp một loạt các chương trình đào tạo người

dạy. Tuy nhiên, các tình huống mâu thuẫn trong hiện trường thực tế

không dễ dàng được cải thiện. Tính chuyên nghiệp của các tiêu chí để

đánh giá trình độ của người dạy mời hoặc phái cử thì phải được tăng

cường trước tiên.

53

Tiểu kết chương 3

Nhu cầu đào tạo song ngữ trong một gia đình đa văn hóaHàn-

Việt ở Hàn Quốc là một vấn đề quan trọng trong lĩnh vực đào tạo song

ngữ đã xuất hiện trong những thập kỷ gần đây. Ở cấp độ của chính phủ

Hàn Quốc, con cái của các gia đình đa văn hóa nên được hưởng các

quyền mà họ xứng đáng là nhân dân của Hàn Quốc và chịu trách nhiệm

cung cấp cho họ. Đối với mục đích này, nó là khẩn cấp để cung cấp các

chính sách, chương trình và nội dung đào tạo khác nhau. Đầu tiên, một

thời gian ổn định phải được bảo đảm. Tuy nhiên, hầu hết đào tạo song

ngữ Hàn-Việt bị hạn chế vì nó không thuộc về các lớp học thông

thường và bao gồm việc học sau giờ học xảy ra sau giờ học.

Còn chương trình, nội dung, và các vấn đề giáo viên của đào tạo

công cộng cần phải được đề cập rõ ràng. Mặc dù tiếng Việt đã được dạy

liên tục kể từ khi sử dụng tiếng Việt làm ngoại ngữ thứ hai cho Kỳ thi

Toán Đại học 2013, nhưng chỉ có một trường trung học ở quốc gia nơi

dạy ngoại ngữ chính thức.

Hiện nay, các chương trình đào tạo được vận hành bởi các trung

tâm hỗ trợ gia đình đa văn hóa và tổ chức phi chính phủ của chính

quyền địa phương, nhưng chúng không được thực hiện trong một

chương trình giảng dạy có hệ thống và nhất quán. Ngoài ra, các chương

trình đào tạo người dạy đa dạng được thiết lập, nhưng tình huống mâu

thuẫn xuất hiện trong hiện trạng hoạt động thực tế không dễ dàng được

cải thiện. Tính chuyên nghiệp của các tiêu chí để đánh giá trình độ và

trình độ của người hướng dẫn sẽ được mời và gửi đi trước tiên cần

được tăng cường.

54

KẾT LUẬN

Mặc dù thuật ngữ "xã hội đa văn hóa" đã không còn xa lạ trong

một thời gian dài, nhưng trong các gia đình đa văn hóa Hàn-Việt, ngôn

ngữ của phụ nữ nhập cư kết hôn thường không được khuyến khích vì

ngôn ngữ thiểu số và có nhiều tình huống đã buộc phải chỉ sử dụng

tiếng Hàn. Tuy nhiên, do sự gia tăng về số lượng trẻ em trong các gia

đình đa văn hóa, sự thay đổi trong nhận thức của Hàn Quốc về Việt

Nam và việc mở rộng hỗ trợ chính sách làm thay đổi nhận thức chung

về sự cần thiết và tầm quan trọng của đào tạo song ngữ trong các gia

đình đa văn hóa, đã tác động đến những dấu hiệu của sự thay đổi trong

đào tạo song ngữ.

Các đề xuất chính sách thông qua phân tích kết quả thu được từ

cuộc phỏng vấn như sau:

Đầu tiên, đào tạo song ngữ trong gia đình đa văn hóa Hàn-Việt

nên được phát triển nội dung đào tạo một cách có hệ thống thông qua

chương trình giảng dạy chuyên ngành để có thời gian phù hợp và hiệu

quả hơn.

Thứ hai, cần có thể cung cấp cho các bà mẹ của phụ nữ di cư hôn

nhân, nhân viên quan trọng nhất của đào tạo song ngữ, với thông tin họ

đang tìm kiếm với tư cách một trung gian đào tạo.

Thứ ba, một giải pháp nên được đưa ra để giải quyết vấn đề mở

rộng ngân sách và cung cấp người dạy chất lượng cao bằng cách khắc

phục các tình huống không hiệu quả đã xảy ra ở nhiều nơi do thiếu

ngân sách.

55

Tất nhiên, không giống như các nước phương Tây mà những

người đã trải qua quá trình chuyển đổi lâu dài sang một xã hội nhập cư,

chính sách hỗ trợ cho các gia đình đa văn hóa đã được đề xuất kịp thời

ngay cả khi xã hội Hàn Quốc đã nhanh chóng chuyển đổi thành một xã

hội đa văn hóa. Việc thành lập một số trung tâm đa văn hóa và thiết lập

các chính sách khác nhau trong một thời gian tương đối ngắn nên được

đánh giá cao. Tuy nhiên, vì họ Hàn Quốc đã bước vào một xã hội đa

văn hóa, thì cần áp dụng các chính sách thực tế hơn khi con cái của các

gia đình đa văn hóa hiện là thành viên của cùng một cộng đồng. Hỗ trợ

đào tạo song ngữ cho trẻ em của các gia đình đa văn hóa có thể giúp họ

trở thành thành viên của xã hội Hàn Quốc, điều này có thể góp phần rất

lớn trong việc giải quyết các xung đột xã hội và phân biệt đối xử.

Bằng cách cung cấp môi trường tốt hơn để học song ngữ cho con

cái của các gia đình đa văn hóa, họ có thể đánh thức niềm tự hào về các

kỹ năng hiểu đa văn hóa của họ, và các kỹ năng song ngữ của họ có thể

góp phần hiểu sâu hơn và giải quyết xung đột trong xã hội cũng như cá

nhân chúng ta. Bầu không khí trong đó có một mối quan tâm ngày càng

tăng trong xã hội nhiều mặt về tầm quan trọng của việc tạo ra một môi

trường đào tạo song ngữ trong các xã hội đa văn hóa đang khuyến khích

ở chỗ nó làm giảm sự cứng nhắc của các chính sách đa văn hóa hiện có.

Trong đào tạo song ngữ, sự sẵn sàng và nỗ lực thực sự của người

phụ nữ di cư đã kết hôn và sự hỗ trợ của các thành viên gia đình là vô

cùng quan trọng. Do đó, hy vọng rằng những chương trình đào tạo gia

đình để tạo ra một môi trường song ngữ trong gia đình sẽ được thực

hiện trong một trung tâm hỗ trợ đa văn hóa hoặc trường học. Cũng cần

có sự hợp tác của các chủ thể khác nhau để truyền bá những tác động

56

tích cực của đào tạo song ngữ trong đào tạo công cộng, cũng như những

thay đổi tích cực được tìm thấy ở cấp độ cá nhân và gia đình.

Khi xã hội hóa hình như cha mẹ khuyến khích và đào tạo song

ngữ có thể được, những con cái của gia đình đa văn hóa có thể tiếp thu

tích cực với mẹ và tăng cường mối quan hệ với mẹ. Do đó, tôi hy vọng

rằng các chính sách và hỗ trợ hiệu quả hơn cho đào tạo song ngữ được

mở rộng để giúp cho các mẹ trong gia đình đa văn hóa hình thành bản

sắc tích cực và ảnh hưởng tích cực đến thái độ làm cha mẹ của họ, cũng

có thể giúp cho con cái xây dựng các mối quan hệ xã hội.

57

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Trí Dõi (1999), Nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số

Việt Nam. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

2. Phạm Đức Dương, Phan Ngọc (1983), “Tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông

Nam Á: Những vấn đề lịch sử văn hóa Đong Nam Á”, Viện Đông

Nam Á

3. Đinh Văn Đức, Nguyễn Văn Chính, Đinh Kiều Châu (2016),

“Ngôn ngữ học ứng dụng” Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

4. Nguyễn Thiện Giáp (2006), “Chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam qua

các thời kỳ”, Nxb Ngôn ngữ, Ha Nội

5. Nguyễn Văn Khang (1999), Ngôn ngữ học xã hội những vấn đề cơ

bản, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

6. Nguyễn Văn Khang (2003), “Kế hoạch hóa ngôn ngữ - Ngôn ngữ

học xã hội vĩ mô”, Nxb Khoa học Xã họi, Ha Nội

7. Nguyễn Văn Khang (2007), “Từ ngoại lai trong tiếng Việ”, Nxb

Khoa học Xã hội, Ha Nội

8. Nguyễn Văn Lợi (1999), “Một số vấn đề về chính sách ngôn ngữ

dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay, Dân tộc học”, Tạp chí Ngôn

ngữ, số 3/1999

9. Nguyễn Văn Lợi (2000), “Một số vấn đề về chính sách ngôn ngữ ở

các quốc gia đa dân tọc”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 1/2000

10. Hoàng Quốc (2015), “Đào tạo ngôn ngữ trong trường phổ thông

vùng dân tộc Khmer (An Giang)”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 5.

11. Lý Toàn Thắng, Nguyễn Văn Lợi (2001), “Về sự phát triển của

ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong thế kì 20”, Tạp chí

Ngôn ngữ, số 2/2001

58

12. Bộ Gia đình và Phụ nữ Hàn Quốc, “Nghiên cứu về kế hoạch cải

thiện và thực thể của đào tạo song ngữ,” 2013

13. Cho Seung-Seok, Kim Hee-Soon (2013), “Nghiên cứu về đào tạo

song ngữ của trẻ em được các bà mẹ đa văn hóa trải nghiệm”, Tạp

chí của Hiệp hội công nghệ giữa Công nghiệp và Học tập Hàn

Quốc, Tập 14(11), 5549~5558

14. Cho Young-Dal, Yun Hui-Cheol, Park Sang-Cheol (2007),

“Nghiên cứu về tình trạng đào tạo trẻ em trong các gia đình đa văn

hóa ở Hàn Quốc”, Nghiên cứu và thực tiễn đào tạo, Tập 71

15. Cục thống kê quốc gia Hàn Quốc, 2015

16. Hong Jong-Myeong (2012), “Nghiên cứu phân tích chiến lược học

tiếng Hàn danh cho du học sinh đến từ Việt Nam”, Ngữ văn luận

tập, Tập 71, 407-432

17. Hwang Jin-Young (2012), “Nghiên cứu về đào tạo song ngữ trong

xã hội đa văn hóa Hàn Quốc”, Luận văn tiến sĩ, Đại học Jeon-Nam

18. Jang Myeong-Lim, Jang Hye-Jin, Lee Se-Won (2012), “Ứng dụng

thử nghiệm và giám sát các chương trình song ngữ dành cho những

cha mẹ của các gia đình và trẻ sơ sinh đa văn hóa(Bản báo cáo

nghiên cứu, 02/01/2011), Seoul:, Sở nghiên cứu chính sách chăm

sóc trẻ em, Viện phát triển đào tạo Hàn Quốc

19. Jeon Hong-Ju, Bae So-Young, Kwak Geum-Ju (2008), “Thực tế và

ý nghĩa của hỗ trợ đào tạo cho trẻ em trong các gia đình nhập cư đã

kết hôn: Tập trung vào trường hợp của các bà mẹ Philippines và

Nhật Bản”, Gia đình và Văn hóa, Tập 29(3), 161-186

20. Jeon Ui-Hee (2009), “Một nghiên cứu về mối quan hệ giữa đào tạo

dinh dưỡng ở trường mẫu giáo và tiểu học”, Luận văn thạc sĩ, Đại

học Kon-Kuk

59

21. Kang Sun-Ja, Son Su-Min (2011), “Nhận thức về sự hài lòng của

hôn nhân và nuôi dưỡng con cái trong hôn nhân quốc tế Phụ nữ có

trẻ con : Tập trung vào nghiên cứu trường hợp của 4 phụ nữ di cư

đã kết hôn”, Nghiên cứu đào tạo mầm non mở, 16(6), 161-188

22. Kim Hyun-Ju (2011), “Nghiên cứu trường hợp cụ thể trong đào

tạo của người dạy song ngữ tại trường tiểu học”, Luận văn thạc sĩ,

Viện cao học đào tạo, Đại học Giáo dục Quốc gia Seoul

23. Ko Eun (2006), “Tiêu chí giá trị và ý nghĩa thực nghiệm về ngôn

ngữ bản địa của cha mẹ của trẻ con đang sử dụng song ngữ”,

Nghiên cứu ngôn ngữ trị liệu, Tập 15, số 3: 143-162

24. Kwon Sun-Hee (2009), “Sự cần thiết của đào tạo song ngữ và đề

xuất chính sách cho các gia đình đa văn hóa”, Nghiên cứu giáo dục

học quốc ngữ, Tập 34, 57-115

25. Lee Chang-Deok (2010), “Đào tạo song ngữ dành cho xã hội đa

văn hóa Hàn Quốc”, Hiệp hội nghiên cứu về đào tạo đa văn hóa

Hàn Quốc

26. Lee Hyeon-Yi (2013), “Nghiên cứu và phân tích về vai trò của

người dạy song ngữ”, Luận văn thạc sĩ, Viện cao học giáo dục, Đại

học Giáo dục Quốc gia Seoul

27. Lee Seung-Sook, Kwak Seung-Ju (2013), “Khám phá kinh nghiệm

song ngữ của trẻ sơ sinh trong các gia đình đa văn hóa: Tập trung

vào sự hỗ trợ phát triển ngôn ngữ bản địa”, tuyển tập luận văn

Giáo dục Mầm non, tập 17(4), 249-378

28. Shin Seung-Hye (2011), “Nghiên cứu về ảnh hưởng của môi

trường trẻ em đa văn hóa đối với việc học tiếng Anh”, Luận văn

thạc sĩ, Viện cao học giáo dục, Đại học ngoại ngữ Hankuk.

29. Shin Yun-Jin (2010), “Thích ứng khó khăn và mối quan hệ ngang

60

hàng của trẻ em từ các gia đình đa văn hóa”, Luận văn thạc sĩ, Đại

học Daegu

30. Sở giáo dục thành phố Kwang-Ju tại Hàn Quốc, 2014

31. Tài liệu của sở giáo dục thành phố Seoul tại Hàn Quốc, 2015

32. Tài liệu của Bộ Y tế và Phúc lợi Hàn Quốc, 2017, tháng 3

33. Tài liệu của Cục thống kê quốc gia Hàn Quốc, “Hiện trạng cư dân

người nước ngoài tại Chính quyền địa phương.” 2017, 11

34. Tài liệu của Cục thống kê quốc gia Hàn Quốc, “Thống kê hôn nhân

và ly hôn vào năm 2017.” 2018, 3

35. Tài liệu thống kê của Bộ Gia đình và Phụ nữ Hàn Quốc, 2016

36. Thống kê của Bộ Giáo dục Hàn Quốc, 2017

37. W.F. Mackey và M. Siguan, “Đại cương về đào tạo song ngữ”, Tây

Ban Nha – Canada

38. Won In-Sook (2012), “Ảnh hưởng của các chương trình song ngữ

của trẻ em trong các gia đình đa văn hóa đối với lòng tự trọng và

mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái” Giáo dục Mầm non, Nghiên

cứu về Quản trị chăm sóc trẻ em, Tập 16, Số 1: 87-105

61

PHỤ LỤC

Danh sách người tham gia phỏng vấn

Con cái(độ tuổi) Độ tuổi

Người tham gia (tên giả) 1. Phượng 2. Thảo 27 28 Thời gian lưu trú tại Hàn Quốc 7 năm 8 năm Khả năng ngôn ngữ tiếng hàn trung cấp trung cấp

27 3. Mai 8 năm trung cấp

30 4. Hoa 10 năm trung cấp

29 5. Trang 9 năm trung cấp

29 6. Hồng 9 năm trung cấp

30 7. An 10 năm trung cấp

31 8. Lê 10 năm trung cấp

35 9. Thành 14 năm trung cấp

34 10. Huyền 9 năm trung cấp

29 26 29 11. Trinh 12. Xuân 13. Vân 10 năm 7 năm 9 năm trung cấp trung cấp trung cấp

32 14. Anh 11 năm trung cấp

30 15. Dung 10 năm trung cấp

29 16. Hà 8 năm trung cấp con gái(6 tuổi) con gái(8 tuổi) con trai(7 tuổi), con gái(3 tuổi) con trai(10 tuổi), con gái(5 tuổi) con gái(8 tuổi), con gái(3 tuổi) con trai(8 tuổi) con trai(9 tuổi), con gái(5 tuổi) con gái(9 tuổi), con gái(4 tuổi) con gái(12 tuổi), con gái(6 tuổi) con trai(8 tuổi), con gái(3 tuổi) con trai(8 tuổi) con trai(6 tuổi) con gái(8 tuổi) con trai(9 tuổi), con gái(5 tuổi) con trai(10 tuổi), con trai(6 tuổi) con trai(7 tuổi), con trai(3 tuổi)

28 17. Hiên 8 năm trung cấp con gái(7 tuổi) con trai(4 tuổi)

62