BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ___________
Nguyễn Thị Thanh Tâm VẬN DỤNG QUAN HỆ TÍCH HỢP GIỮA TIẾP NHẬN VÀ TẠO LẬP VĂN BẢN ĐỂ RÈN LUYỆN KỸ NĂNG LÀM VĂN NGHỊ LUẬN CHO HỌC SINH THPT
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2011
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ___________
Nguyễn Thị Thanh Tâm VẬN DỤNG QUAN HỆ TÍCH HỢP
GIỮA TIẾP NHẬN VÀ TẠO LẬP VĂN BẢN ĐỂ RÈN LUYỆN KỸ NĂNG LÀM VĂN NGHỊ LUẬN CHO HỌC SINH THPT
: Lý luận và phương pháp dạy học Ngữ văn
Chuyên ngành Mã số : 60 14 10
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN THANH BÌNH
Thành phố Hồ Chí Minh – 2011
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, trước hết tôi xin chân thành cảm ơn
TS.Trần Thanh Bình đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong quá trình
làm luận văn.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến khoa Ngữ văn, Phòng KHCN & SĐH
trường ĐHSP TP. HCM đã có những hướng dẫn cụ thể và tạo điều kiện giúp
tôi hoàn thành luận văn.
Đồng thời, tôi xin cảm ơn các thầy cô giáo ở một số trường THPT đã có
những góp ý, đánh giá, trả lời phỏng vấn và nhận xét chân tình về những vấn
đề của luận văn.
Cảm ơn gia đình, bạn bè và người thân đã luôn ủng hộ, chia sẻ, động
viên và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn.
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TIẾP NHẬN VĂN HỌC VÀ TẠO LẬP
VĂN BẢN TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG ............................................................................................................ 5
1.1. Tiếp nhận văn học ................................................................................... 5
1.1.1. Khái niệm ......................................................................................... 5
1.1.2. Vị trí của môn Văn trong chương trình Ngữ văn THPT .................. 7
1.1.3. Thực trạng về dạy học tiếp nhận văn bản văn học trong nhà trường
THPT hiện nay ............................................................................................ 8
1.2. Tạo lập văn bản ..................................................................................... 13
1.2.1. Khái niệm ....................................................................................... 13
1.2.2. Vị trí của phân môn Làm văn trong chương trình Ngữ văn THPT 14
1.2.3. Thực trạng về dạy học tạo lập văn bản trong nhà trường THPT hiện
nay ................................................................................................... 16
1.3. Mối quan hệ giữa tiếp nhận và tạo lập trong dạy học Làm văn ........... 25
1.3.1. Khái niệm “mẫu” trong dạy học Làm văn ...................................... 25
1.3.2. Phương pháp khai thác “mẫu” trong dạy học Làm văn ................. 27
Chương 2: VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ GIỮA TIẾP NHẬN VÀ TẠO
LẬP VĂN BẢN ĐỂ RÈN LUYỆN KĨ NĂNG LÀM VĂN NGHỊ LUẬN
CHO HỌC SINH THPT ............................................................................... 30
2.1. Về văn bản nghị luận ............................................................................ 30
2.1.1. Khái niệm văn nghị luận................................................................. 30
2.1.2. Đặc trưng văn nghị luận ................................................................ 31
2.1.3. Văn nghị luận trong chương trình Ngữ văn (phần Làm văn) THPT32
2.2. Phương pháp dạy học tiếp nhận văn bản nghị luận .............................. 35
2.2.1. Tiếp nhận cách xác định và triển khai luận điểm ........................... 35
2.2.2. Tiếp nhận cách vận dụng kết hợp các thao tác lập luận ................. 44
2.2.3. Tiếp nhận cách vận dụng ngôn ngữ nghị luận trong văn nghị luận 62
2.2.4. Tiếp nhận cách vận dụng kết hợp các phương thức biểu đạt trong văn
nghị luận ........................................................................................ 67
2.3. Phương pháp dạy học tạo lập văn bản nghị luận .................................. 71
2.3.1. Rèn luyện kĩ năng xác định và triển khai luận điểm ...................... 71
2.3.2. Rèn luyện kĩ năng vận dụng kết hợp các thao tác lập luận ............ 77
2.3.3. Rèn luyện kĩ năng vận dụng ngôn ngữ trong văn nghị luận .......... 97
2.3.4. Rèn luyện kĩ năng vận dụng kết hợp các phương thức biểu đạt trong
văn nghị luận ................................................................................... 99
Chương 3: THỰC NGHIỆM ...................................................................... 103
3.1. Ý kiến đánh giá của tổ chuyên môn .................................................... 103
3.2. Thiết kế thể nghiệm giáo án giảng dạy tiếp nhận văn bản nghị luận . 107
KẾT LUẬN .................................................................................................. 126
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 128
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 133
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CCGD : cải cách giáo dục
THPT : Trung học phổ thông
THCS : Trung học cơ cở
SGK : Sách giáo khoa
HS : Học sinh
GV : Giáo viên
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lí luận dạy học hiện đại, dạy học tích hợp được xem như một giải
pháp tích cực nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa thời lượng dạy học quá ít với khối
lượng kiến thức ngày càng tăng nhanh. Hơn nữa, dạy học tích hợp cũng phù hợp với
quan niệm mới về quá trình học tập nhằm góp phần hình thành và phát triển ở học
sinh năng lực liên kết các kiến thức độc lập để vận dụng thích hợp nhất vào thực tiễn.
Dạy học tích hợp đã trở thành một xu thế dạy học hiện đại bên cạnh các
xu thế dạy học theo dự án, dạy học giải quyết vấn đề, dạy học phân hóa, dạy học
tương tác…
Ở nước ta trong thời gian gần đây, vấn đề xây dựng môn học tích hợp
với những mức độ khác nhau đã được quan tâm nghiên cứu và áp dụng vào nhà
trường phổ thông từ các cấp Tiểu học, Trung học cơ sở và hiện nay là Trung học phổ
thông. Chương trình Trung học phổ thông, môn Ngữ văn, năm 2007 đã ghi rõ: “Lấy
quan điểm tích hợp làm nguyên tắc chỉ đạo để tổ chức nội dung chương trình, biên
soạn sách giáo khoa và lựa chọn các phương pháp giảng dạy”; theo đó, chương trình
Ngữ văn là sự tích hợp giữa ba phần Văn học, Tiếng Việt và Làm văn (không gọi là
ba phân môn với ý nghĩa là những môn học riêng rẽ như quan niệm trước đây).
Theo quan niệm hiện nay, dạy học văn trong nhà trường là dạy học sinh
tiếp nhận các kiểu văn bản; dạy học làm văn là dạy học sinh tạo lập văn bản. Thực tế
cho thấy hai hoạt động tiếp nhận và tạo lập văn bản có mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó
với nhau trong suốt quá trình dạy học Văn. Dạy học tiếp nhận cung cấp cho học sinh
phương pháp, cách thức, kĩ năng giải mã văn bản; đồng thời những văn bản được giải
mã, đến lượt mình, sẽ trở thành “mẫu” tiêu biểu để hướng dẫn học sinh tạo lập những
văn bản tương ứng. Ngược lại, dạy học tạo lập văn bản cung cấp cho học sinh
phương pháp, cách thức, kĩ năng mã hoá văn bản; đồng thời, qua việc tự mình tạo lập
văn bản, học sinh sẽ hiểu biết rõ hơn về công việc giải mã những văn bản tương ứng.
Trong tất cả các kiểu văn bản, văn bản nghị luận là loại văn bản thể hiện mối quan hệ
rõ nhất và có sự tương đồng lớn nhất giữa thao tác tiếp nhận và tạo lập.
Từ những vấn đề nêu trên, chúng tôi chọn đề tài “Vận dụng quan hệ
tích hợp giữa tiếp nhận và tạo lập văn bản để rèn luyện kĩ năng làm văn nghị
luận cho học sinh THPT” để nghiên cứu với hi vọng sẽ đóng góp thêm một cách
tiếp cận trong việc nâng cao chất lượng dạy học làm văn ở nhà trường phổ thông hiện
nay.
2. Lịch sử vấn đề
Đề tài của chúng tôi liên quan đến các công trình nghiên cứu thuộc hai
mảng chính sau: 1. Các công trình nghiên cứu về tiếp nhận văn học; và 2. Các công
trình nghiên cứu về tạo lập văn bản.
Các công trình nghiên cứu tiếp nhận văn học có thể chia thành hai nhóm
chính:
a) Tiếp nhận văn học dưới góc độ lí luận văn học: Phương Lựu, Tiếp
nhận văn học, NXB Giáo dục, 1997; Nguyễn Thanh Hùng, Đọc và tiếp nhận văn
chương, NXB Giáo dục, 2002; Trần Đình Sử, Lí luận và phê bình văn học, NXB
Giáo dục, 2008; Trương Đăng Dung, Tác phẩm văn học như là quá trình, NXB Khoa
học xã hội, 2004 v.v.
b) Tiếp nhận văn học dưới góc độ lí luận và phương pháp dạy học văn:
Nguyễn Đức Ân, Một số vấn đề về dạy học giảng văn, NXB TPHCM, 1996; Đặng
Hiển, Dạy văn Học văn, NXB Giáo dục, 2003; Trần Đình Sử, Đọc văn, học văn;
Nguyễn Viết Chữ, Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương theo loại thể, NXB
ĐHSP, 2006; Nguyễn Thanh Hùng, Hiểu văn dạy văn, NXB Giáo dục, 2002; Phan
Trọng Luận, Thiết kế bài học tác phẩm văn chương ở nhà trường phổ thông (tập 1,2),
NXB Giáo dục, 2007 –v.v.
Các công trình nghiên cứu về tạo lập văn bản có thể chia thành hai nhóm
chính:
a) Tạo lập văn bản dưới góc độ lí thuyết kí hiệu học: M.B. Khrapchenco,
Sáng tạo nghệ thuật, hiện thực, con người, NXB Khoa học xã hội, 1984; Hoàng
Trinh, Kí hiệu học, NXB Khoa học xã hội, 1982; R. Jakobson, Thi học và ngôn ngữ
học, NXB Văn học, 2008 v.v.
b) Tạo lập văn bản dưới góc độ lí thuyết làm văn: Lê A, Một số vấn đề
về dạy và học làm văn, Trường ĐHSP Hà Nội I; Lương Duy Cán, Rèn luyện kĩ năng
làm văn, NXB Giáo dục; Đỗ Ngọc Thống, Làm văn từ lý thuyết đến thức hành, NXB
Giáo dục, 1997; Đỗ Ngọc Thống, Nguyễn Thành Thi, Phạm Minh Diệu, Làm văn,
NXB ĐHSP, 2008; Trần Đình Sử, Đổi mới dạy học làm văn ở trường THPT, Tạp chí
Văn học và Tuổi trẻ, số 8, 2003; Mai Thị Kiều Phượng, Giáo trình phương pháp dạy
và học làm văn –v.v.
Tuy nhiên cho đến nay, hầu như vẫn chưa có một công trình nghiên cứu
chuyên sâu nào khai thác khả năng tích hợp giữa hai hoạt động tiếp nhận và tạo lập
văn bản để đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng dạy học làm văn nói chung,
dạy học làm văn nghị luận nói riêng trong nhà trường phổ thông. Vì vậy, hướng
nghiên cứu mà chúng tôi lựa chọn mặc dù được kế thừa rất nhiều từ những công trình
nghiên cứu trước nhưng vẫn là một hướng nghiên cứu khá mới mẻ, mang tính thời sự
và có tính ứng dụng cao trong thực tiễn dạy học làm văn ở trường phổ thông.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài hướng vào việc tìm hiểu phương pháp tạo lập văn bản nghị luận,
song vì tạo lập có mối quan hệ với tiếp nhận nên đối tượng nghiên cứu của luận văn
vừa là phương pháp dạy tạo lập vừa là các văn bản tác phẩm thuộc kiểu văn bản nghị
luận.
Với khả năng và điều kiện cho phép, chúng tôi giới hạn phạm vi nghiên
cứu phương pháp dạy làm văn nghị luận ở trường trung học phổ thông dựa trên quan
hệ tiếp nhận và tạo lập trong chương trình Làm văn 11 (Ban cơ bản) và xem đây như
một bước khởi đầu để nghiên cứu khả năng tích hợp đối với các kiểu loại văn bản
khác trong dạy học văn.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp như
sau:
* Phương pháp hệ thống
Phương pháp này cho phép chúng ta tìm hiểu vấn đề nghiên cứu một
cách toàn diện từ việc dạy học ngữ văn theo hướng tích hợp trong nhà trường phổ
thông hiện nay đến mối quan hệ giữa hai hoạt động tạo lập và hoạt động tiếp nhận đối
với văn bản nghị luận, đồng thời đề ra phương pháp tích hợp hai hoạt động này trong
dạy học làm văn nghị luận.
* Phương pháp thực nghiệm
Luận văn áp dụng phương pháp thực nghiệm giảng dạy để kiểm nghiệm
khả năng tích hợp hai hoạt động tiếp nhận và tạo lập trong giờ dạy làm văn nghị luận.
* Các phương pháp khác
Ngoài hai phương pháp nêu trên, trong quá trình thực hiện đề tài, chúng
tôi còn vận dụng một số phương pháp khác như: phương pháp miêu tả, phương pháp
phân tích, tổng hợp…
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
* Ý nghĩa khoa học
- Làm sáng tỏ mối quan hệ giữa tiếp nhận văn bản và tạo lập văn bản
- Mở ra một hướng tiếp cận mới cho việc hoàn thiện lí thuyết làm văn.
* Ý nghĩa thực tiễn
- Luận văn bước đầu xây dựng quy trình vận dụng quan điểm tích hợp giờ dạy
đọc hiểu văn bản với giờ dạy làm văn nghị luận cụ thể ở trường THPT .
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TIẾP NHẬN VĂN HỌC
VÀ TẠO LẬP VĂN BẢN TRONG CHƯƠNG TRÌNH
NGỮ VĂN TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Tiếp nhận văn học
1.1.1. Khái niệm
Tiếp nhận văn học là một khái niệm xuất phát từ trường phái Mỹ học
tiếp nhận, thể hiện quan điểm mới mẻ của Lý thuyết tiếp nhận với hai vị chủ soái là
Hans Robert Jauss và Wolfgan Iser. Trong việc làm nổi bật vai trò của người đọc
tham gia tích cực vào việc tìm hiểu, khám phá thế giới nghệ thuật kì diệu của văn
chương, “tiếp nhận văn học là hoạt động tích cực của cảm giác, tâm trí người đọc
nhằm biến văn bản thành thế giới nghệ thuật trong tâm trí mình.” [5, tr.2]. Trên cơ
sở phát triển quan điểm truyền thống về tác dụng của văn học và đặc biệt là về sức
mạnh thẩm mỹ của tác phẩm văn học, công trình Lịch sử văn học như là sự khiêu
khích đối với lý luận văn học (1970) của Jauss đã đưa ra một quan niệm mới mẻ về
lịch sử văn học, phê phán “chủ nghĩa khách quan lịch sử” theo quan điểm thực chứng
– một quan điểm lấy những hiện tượng văn học sắp xếp theo trình tự thời gian và cho
đó là lịch sử văn học. Theo quan điểm của Jauss, lịch sử văn học phải là lịch sử của
tiếp nhận văn học, nghĩa là lịch sử văn học phải bao gồm cả lịch sử tiếp nhận tác
phẩm của người đọc. Thực ra, luận điểm mới này bắt nguồn từ luận điểm mới về tác
phẩm văn học – tác phẩm văn học không chỉ là văn bản của nhà văn mà văn bản ấy
phải được người đọc tiếp nhận: tác phẩm chỉ hình thành trong và qua sự tiếp nhận
của người đọc. Xét về mặt lịch sử, vấn đề này đã từng được các nhà lý luận tư tưởng
văn học cổ Trung Quốc bàn luận rất nhiều; Arixtote cũng gián tiếp đề cập đến trong
công trình “Nghệ thuật thơ ca” qua tác dụng “thanh lọc” của tác phẩm đối với
người tiếp nhận. Đến thế kỷ XVII, Friedrich Schlegel nói đến tiếp nhận văn học trong
sự thừa nhận có mối quan hệ giữa các bậc tiền bối với những thế hệ sau của mình.
Ông cho rằng tác phẩm có mối quan hệ với người đọc đương thời thì nghĩa là nó sống.
Và đến những năm 20 thế kỷ XX, khi Lênin nghiên cứu tỉ mỉ Lep Tolstoi, ông không
chỉ đặt vấn đề giải thích những tác phẩm bằng những tiền đề khách quan và chủ quan
(thời đại, tư tưởng, tình cảm, tài năng nhà văn…) – tức sự hình thành tác phẩm – mà
còn hết sức chú ý đến tác dụng của những tác phẩm này đối với đương thời và về sau,
cũng tức là đề cập đến số phận và sự vận động của nó qua các môi trường xã hội và
trong sự phát triển của lịch sử. Lenin tập trung chủ yếu vào việc làm sáng tỏ mối
quan hệ giữa tác phẩm Tolstoi với thời đại của ông, với tâm tư, nguyện vọng của
quần chúng và sự nghiệp cách mạng của họ. Nghĩa là Lenin thừa nhận sự tồn tại quan
trọng của người tiếp nhận đối với tác phẩm văn học. Như vậy vai trò, vị trí của người
đọc đối với sáng tạo văn học là không thể phủ nhận. Tiếp nhận văn học được ví như
một cây cầu mà ở đó nhu cầu và lợi ích giữa nhà văn và người đọc cùng gặp gỡ và
cũng là nơi đối thoại của hai nhân tố này.
Nếu tác giả là chủ thể sáng tạo văn học thì tác phẩm là phương tiện
truyền bá văn học và người đọc là chủ thể tiếp nhận văn học. Trong quá trình sáng tác,
ý đồ sáng tác của nhà văn đều xuất phát từ một bạn đọc, một công chúng giả định.
Không có người đọc, không có công chúng thì những cố gắng của tác giả, mọi giá trị
của tác phẩm cũng trở nên vô nghĩa. Đó có thể là một công chúng tiếp nhận tác phẩm
mà tác giả mong mỏi sau khi tác phẩm ra đời, có thể là một công chúng tưởng tượng
tồn tại trong quá trình sáng tác, theo dõi từng bước sáng tạo của nhà văn. V. Hugo đã
từng nói rằng ông luôn cảm thấy có một bạn đọc nào đó đứng sau lưng mà chăm chú
đọc từng câu, từng dòng chữ của ông. Điều này làm nhà văn phải dồn hết tâm huyết,
năng lực mà đánh vật với câu chữ, sự kiện, nhân vật, hình tượng… để hình thành nên
tác phẩm. Nhưng để đem lại cho tác phẩm một đời sống thật thì phải cần đến bạn đọc
hiện thực trong cuộc sống. Nhờ sự tiếp nhận của người đọc, tác phẩm mới đi đến
khâu hoàn thành cuối cùng của nó. Nếu không có độc giả, tác phẩm chỉ là một văn
bản với những con chữ khô khan. Khi chưa đọc – tiếp nhận, văn bản chỉ là một vật,
một khách thể nhưng khi trải qua quá trình tiếp nhận thì khách thể đó dần biến mất,
sách vẫn còn đó nhưng đồng thời lại biến mất để nhường chỗ cho thế giới hình tượng,
văn bản văn học từ thế giới bên ngoài chuyển vào bên trong người đọc; đến lượt mình
người đọc sẽ hoá thân vào nhân vật trong tác phẩm. Nói cách khác, bằng trí tưởng
tượng, kinh nghiệm sống, vốn văn hóa và bằng cả tâm hồn mình, người đọc dần
khám phá ý nghĩa của từng câu chữ, cảm nhận sức sống của từng hình ảnh, hình
tượng, nhân vật, dõi theo diễn biến của câu chuyện, làm cho tác phẩm từ một văn bản
khô khan biến thành một thế giới sống động, đầy cuốn hút.
Hiểu một cách khái quát, “tiếp nhận văn học là quá trình người đọc hoà
mình vào văn bản tác phẩm, rung động với nó, vừa đắm chìm trong thế giới nghệ
thuật được dựng lên bằng ngôn từ của nhà văn, vừa tỉnh táo lắng nghe tiếng nói của
tác giả, thưởng thức cái hay, cái đẹp, tài nghệ của người nghệ sĩ sáng tạo” [35,
tr.188].
1.1.2. Vị trí của môn Văn trong chương trình Ngữ văn THPT
Văn học là tấm gương soi sáng lịch sử của dân tộc Việt Nam ta trong
quá trình đấu tranh gian khổ và bền bỉ để từng bước giải phóng và xây dựng đất nước,
là một môn học góp phần xây dựng, bồi đắp, vun trồng cho thế hệ trẻ những hiểu biết
cơ bản về các giá trị cao quý, truyền thống văn hoá mà ông cha ta để lại, giúp các em
có ý thức trau dồi những phẩm chất, năng lực, tư tưởng, tình cảm và phát triển nhân
cách.
“Bất cứ ở đâu, trong bất cứ thời đại nào, văn học nghệ thuật cũng là
một vũ khí tư tưởng cực kì sắc bén” (Phạm Văn Đồng). Vì thế, dạy Văn đã không còn
là công việc riêng của nhà giáo và nhà trường. Nó trực tiếp liên quan đến “chiến lược
con người, đến sinh mệnh của xã hội” và cả đời sống văn học của xã hội.
Trong những năm gần đây, vấn đề dạy học Văn trong nhà trường phổ
thông ngày càng được quan tâm nhiều hơn. “Giảng văn trong nhà trường đóng một
vai trò hết sức quan trọng trong việc hình thành tư tưởng và tâm hồn cho các công
dân trẻ tuổi nước ta” [15, tr.1].
Môn Văn có vai trò cung cấp cho học sinh những hiểu biết về thế giới
bên ngoài, xã hội và con người. Hiểu biết thế giới bên ngoài để hiểu chính bản thân
mình. “Nhận thức để tự nhận thức” là vì vậy. Tác phẩm văn chương chứa đựng trong
nó nguồn tri thức vô cùng phong phú. Dạy Văn là dạy cho học sinh nhận ra trong tác
phẩm văn chương nguồn tri thức vô cùng đa dạng phong phú, hấp dẫn và bổ ích đó để
góp phần giúp cho thế giới tinh thần, trí tuệ của học sinh giàu có hơn, phong phú và
tinh tế hơn; dạy Văn là “dạy sống, dạy người, dạy mở mang trí tuệ”.
Tuy nhiên, một tác phẩm văn chương chỉ có thể tác động đến học sinh
khi nào tác phẩm đó được tiếp nhận thông qua cảm xúc rung động và những hoạt
động tâm lí nghệ thuật của bản thân chủ thể học sinh. Học Văn không phải chỉ học
kiến thức. Học Văn để nâng cao trình độ thẩm mỹ, phát triển tâm hồn tình cảm của
học sinh. Trình độ, tình cảm không chỉ là tiền đề đạo đức cao cả cho tính tích cực
hoạt động mà còn là sự tăng cường nhận thức và tư duy khoa học. Học Văn để biết
nhạy cảm trước cái đẹp của thiên nhiên, của con người, của cuộc đời gắn liền với ý
thức và khát vọng vươn lên cái đẹp, cái cao thượng, bảo vệ cái đẹp và sáng tạo cái
đẹp. Một Truyện Kiều của Nguyễn Du sẽ mang vào tâm hồn các em lòng nhân ái
cùng ý thức nhân cách cao cả, một Từ ấy của Tố Hữu có khả năng bồi dưỡng lí tưởng
sống đẹp đẽ nơi thế hệ trẻ, những câu thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm có thể
thức dậy lòng tự hào dân tộc của thanh niên ngày nay…Vì vậy, các tác phẩm văn học
đóng vai trò rất lớn trong việc hình thành và phát triển kĩ năng sống cho học sinh.
Học Văn để học sinh tự ý thức về bản thân mình, để sống có nhân cách hơn, trong
sạch hơn, cao thượng hơn, bản lĩnh hơn. Mục đích cao nhất của học văn, bên cạnh
kiến thức, là học sinh có khả năng tự giải quyết các vấn đề cũng như những bài toán
cuộc đời của chính mình.
1.1.3. Thực trạng về dạy học tiếp nhận văn bản văn học trong nhà trường
THPT hiện nay
Văn học vừa là một khoa học vừa là một nghệ thuật. Do vậy, một tác
phẩm văn chương chỉ có thể tác động đến học sinh khi nào tác phẩm đó được tiếp
nhận thông qua cảm xúc rung động và những hoạt động tâm lí nghệ thuật của bản
thân chủ thể. Bản chất của quá trình dạy học tiếp nhận văn chương là một quá trình
mang tính chất hai mặt, đó là quá trình tiếp nhận tích cực độc đáo của người học và
quá trình tổ chức tiếp nhận của người giáo viên.
Từ những vấn đề về bản chất của quá trình dạy học tiếp nhận văn học
nêu trên, để đánh giá một cách toàn diện thực trạng dạy học tiếp nhận văn bản văn
học trong nhà trường, chúng ta cần xem xét đến cả ba yếu tố: giáo viên, học sinh và
sách giáo khoa (SGK).
1.1.3.1. Về phía giáo viên
Muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy, lấy “Học” làm trung tâm
thay vì lấy “Dạy” làm trung tâm. Người học – đối tượng của hoạt động “Dạy”, đồng
thời cũng là chủ thể của hoạt động học phải được cuốn hút vào các hoạt động học tập
do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó học sinh tự lực khám phá những điều
mình chưa rõ, chưa có chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức đã được giáo
viện sắp đặt sẵn.
Trong dạy học tiếp nhận văn bản văn học, người giáo viên là người tổ
chức và điều khiển quá trình tiếp nhận sao cho quá trình đó diễn ra phù hợp với đặc
điểm nhận thức bộ môn và điều kiện sư phạm. Tính chất phức hợp của quá trình tiếp
nhận văn học đòi hỏi người giáo viên không những có các tri thức khác nhau về quá
trình tiếp nhận, phân tích, đánh giá các hiện tượng văn học, mà còn có khả năng nhìn
thấy ở học sinh những cảm xúc tinh tế thường ẩn kín, khả năng quan sát và phản ứng
nhạy bén đối với những biểu hiện tản mạn và lệch lạc trong cảm thụ và tư duy văn
học ở học sinh.
Cần phải hiểu rằng, dạy tiếp nhận văn bản văn học không dừng lại ở việc
giảng giải ý nghĩa mà còn phải dạy học sinh cách tiếp nhận ý nghĩa văn bản văn học
đó, đây mới chính là mục tiêu cuối cùng trong dạy học văn. Tiếp nhận văn học trong
nhà trường lại không giống với tiếp nhận văn học ngoài xã hội, do đó, vai trò tổ chức,
hướng dẫn của giáo viên trong việc dạy cách thức tiếp nhận là hết sức quan trọng.
Tuy nhiên, có một thực trạng đáng lo ngại của việc dạy học văn trong nhà trường
hiện nay là “sự khủng hoảng về nội dung, chất lượng và phương pháp” (Phan Trọng
Luận). Đã một thời gian dài, chúng ta xem học sinh là “bình chứa”, là “người nhận
hàng”, còn giáo viên đóng vai trò là một “người gói hàng, giao hàng”, là người “rót
kiến thức vào bình”, sức ì của lối dạy kinh viện, giáo điều vẫn còn đè nặng lên chất
lượng dạy học văn trong nhà trường. Văn chương là địa hạt của cảm thụ thẩm mỹ,
thuộc về cảm xúc, tâm hồn nên nhiều khi đã tạo ra một ảo giác bao che cho sự chậm
trễ và cũ kĩ về phương pháp. Một vài động tác cải tiến giờ dạy văn của một số giáo
viên vẫn hoàn toàn dựa vào kinh nghiệm, đề cao khuynh hướng kinh nghiệm chủ
nghĩa dẫn đến chỗ bế tắc trong đổi mới phương pháp dạy học. Qua khảo sát của các
nhà nghiên cứu phương pháp giảng dạy văn học ở nhà trường phổ thông, có thể thấy
được cái số phận “thăng trầm” của phương pháp giảng văn. Suốt một thời gian dài,
người giáo viên trong giờ văn giữ vai trò trung tâm của lớp học, hoạt động của thầy
chiếm đến 75% so với trò chỉ là 25 %. Chỉ có thầy được sử dụng lời nói của mình để
giảng giải và nói lên những cảm nghĩ của mình về tác phẩm. Thầy có thể áp đặt cho
trò những gì mình muốn, mình biết và cũng là để thoả mãn nhu cầu nghệ thuật của
chính mình. Vì vậy, mối quan hệ ba chiều giữa giáo viên – nhà văn – học sinh không
được thiết lập, thầy trở thành nhân vật độc thoại trên bục giảng, tự nói với mình nhiều
hơn là nói với trò. Từ đó, giờ dạy tiếp nhận văn học cho học sinh trở thành giờ độc
thoại của giáo viên mang khuynh hướng áp đặt, cung cấp kiến thức sẵn có, thậm chí
chuyển sang khuynh hướng xã hội học dung tục, dẫn đến tình trạng “thầy chán dạy,
trò chán học môn văn”.
Hiện nay, khi chúng ta đang đẩy mạnh việc đổi mới phương pháp trong
giáo dục nói chung, trong dạy học văn nói riêng, đa số giáo viên đã có sự thay đổi
nhận thức về quá trình dạy học văn, về vai trò của người học và vị trí của người dạy,
về bản chất của dạy học tiếp nhận văn bản văn học, và bước đầu đã có sự đổi mới về
phương pháp theo hướng phát huy tính tích cực của trò với phương châm “lấy học
sinh làm trung tâm”. Tuy nhiên, trong giờ dạy tiếp nhận văn học vẫn còn tồn tại thực
trạng thầy độc thoại, trò thụ động. Các biện pháp phát huy tính tích cực của trò chỉ
phản ánh nhu cầu, khát vọng của thầy và trò là muốn “thoát khỏi” hệ phương pháp
dạy học cổ truyền đã kiềm chế khả năng sáng tạo của thầy và trò từ trước đến nay. Vì
vậy, nhìn chung khuynh hướng “phát huy tính tích cực” của trò vẫn là khuynh hướng
mang tính chất áp đặt của thầy, chứ chưa phải là khuynh hướng xem “từng cá thể -
trò là chủ thể tiếp nhận – sáng tạo” trong giờ dạy tiếp nhận văn bản văn học ở nhà
trường hiện nay.
1.1.3.2. Về phía học sinh
Trong quá trình dạy học tiếp nhận văn chương, không thể không coi
trọng quá trình tiếp nhận văn bản văn học của chính chủ thể học sinh. Đó là quá trình
hết sức phức tạp, bao gồm hoạt động ngôn ngữ, tâm lí, văn học và sư phạm nhằm bồi
dưỡng kiến thức và phương pháp nhận thức khoa học, phát triển năng lực đánh giá,
thể nghiệm, thưởng thức nghệ thuật văn chương kết hợp với việc hình thành và phát
triển kĩ năng văn học cho học sinh. Chú trọng đầy đủ mối quan hệ giữa giảng dạy,
nhận thức và tiếp nhận sẽ góp phần làm cho quá trình lĩnh hội văn chương ở học sinh
diễn ra hợp quy luật. Đó chính là bản chất của quá trfình dạy học tiếp nhận văn bản
văn học trong nhà trường THPT.
Một thời gian dài trong giờ dạy tiếp nhận văn học ở nhà trường phổ
thông, học sinh chỉ ngồi yên nghe giảng và ghi chép lời thầy, sau đó học thuộc lòng
bài giảng của thầy và trả bài – hay thực chất là trả lại bài – cho thầy. Điều này dẫn
đến một hệ quả nghiêm trọng trong giờ dạy tạo lập văn bản. Đáng lẽ, theo quy luật
tiếp nhận văn học, có bao nhiêu bạn đọc – học sinh thì có bấy nhiêu “tác phẩm” ra
đời trong sự hình dung tưởng tượng phong phú của các em; nhưng thực tế lại ngược
lại, do thói quen thụ động, ỷ lại vào bài giảng của thầy, vào tài liệu tham khảo nên cả
lớp, cả khối, thậm chí cả trường đều có chung một suy nghĩ, một cảm nhận về một tác
phẩm văn học. Thậm chí ngay khi giáo viên đã chủ động đổi mới phương pháp dạy
học hướng vào phát huy tính tự tin, tích cực, chủ động của trò nhưng trò vẫn giữ thói
quen học tập thụ động, ỷ lại, ngồi chờ.
Mặt khác, xã hội hiện đại với nhiều phương tiện thông tin đã vô tình làm
mất dần thói quen đọc sách học sinh, dẫn đến việc các em không nhận thức được vai
trò quan trọng của bạn đọc trong tiếp nhận văn học. Từ đó dẫn đến hiện tượng phổ
biến trong nhà trường phổ thông hiện nay là học sinh ngại đọc tác phẩm, không nắm
cốt truyện, không nhớ nhận vật hay bỏ qua các chi tiết…mà báo chí và dư luận xã hội
gần đây phản ảnh. Chẳng hạn như có học sinh không phân biệt được hai nhân vật Bá
Kiến và thống lý Pá Tra thuộc tác phẩm nào, không nhớ được vấn đề sức sống tiềm
tàng của nhân vật Mị (Vợ chồng A Phủ) được thể hiện qua các chi tiết nào…, rốt cục
khi làm bài thì “râu ông này cắm cằm bà kia”, thậm chí còn lẫn lộn sang tiểu thuyết
võ hiệp Kim Dung, gây nên biết bao chuyện dở khóc dở cười, bao bức xúc trong dư
luận xã hội.
1.1.3.3. Về SGK – phần Văn học
Môn học Ngữ văn ở trường THPT theo SGK mới gồm hai chương trình:
Chương trình cơ bản và Chương trình nâng cao. Chương trình cơ bản đáp ứng cho
học sinh nắm vững nội dung môn học để có thể hoàn thành chương trình và tốt
nghiệp THPT. Chương trình nâng cao ngoài những nội dung có trong Chương trình
cơ bản còn có thêm một số yêu cầu và nội dung nâng cao nhằm phân hoá và đáp ứng
nhu cầu cho học sinh thi đại học các ngành thuộc ban Khoa học xã hội và nhân văn.
Với sự phân hoá như vậy nên mặt bằng chung cả nước phần lớn (khoảng
80%) học sinh lựa chọn sử dụng SGK Chương trình cơ bản.
Tên môn học cũng đã có sự thay đổi, trước đây môn Văn gồm ba phân
môn: Giảng văn, Tiếng Việt và Làm văn, tương ứng với ba bộ sách là: Văn học,
Tiếng Việt, Làm văn được biên soạn một cách độc lập, riêng lẻ và mối liên hệ phân
môn giữa chúng khá mờ nhạt. Nay theo chương trình mới, môn học này được gọi là
Ngữ văn và SGK cũng chỉ gói gọn trong một cuốn sách cho cả ba phân môn. Có thể
thấy, sự thay đổi này là sự thống nhất và kế thừa môn Ngữ văn THCS thành một
chỉnh thể thống nhất, bảo đảm tính liên môn, đồng bộ và nhất quán từ thấp đến cao.
Xuất phát từ việc nhận thức đúng về bản chất và vị trí của môn Ngữ văn
trong nhà trường nên chương trình SGK mới nhấn mạnh đến cả ba phương diện về tri
thức khoa học xã hội và nhân văn, về kĩ năng và về giáo dục tình cảm nhân văn thẩm
mĩ. Mối quan hệ hữu cơ giữa hiểu biết, kĩ năng và thái độ như ba chân kiềng của
chương trình nhìn chung là đã được coi trọng. Do đó, chương trình Ngữ văn lớp 10,
11 và 12 không chỉ chọn các sáng tác văn chương nghệ thuật mà còn tăng cường nghị
luận xã hội, nghị luận văn học, văn bản nhật dụng. Văn nghị luận cũng như văn nhật
dụng có ý nghĩa quan trọng trong việc chuẩn bị cho học sinh đi vào cuộc sống.
Về cấu trúc bài học, chương trình văn học chỉnh lí hợp nhất năm 2000
thường chỉ có ba phần: Tiểu dẫn, Văn bản và Hướng dẫn học bài. Trong khi đó, bài
học ở chương trình Ngữ văn gồm sáu phần: Kết quả cần đạt, Tiểu dẫn, Văn bản,
Hướng dẫn học bài, Ghi nhớ, Luyện tập. Cấu trúc bài học vừa hướng tới yêu cầu toàn
diện, vừa xác định trọng tâm, vừa cung cấp kiến thức, vừa rèn luyện kĩ năng.
Mặt hạn chế lớn nhất khá rõ của chương trình ngữ văn trước đây là
khoảng cách giữa chương trình với đời sống xã hội và văn học quá lớn. Chúng ta đã
dừng lại quá lâu ở mốc thời gian 1975 trong khi đời sống xã hội, văn học đã có nhiều
biến chuyển từ sau năm 1975, nhất là từ sau năm 1986. Để khắc phục nhược điểm đó,
chương trình Ngữ văn mới đã mở rộng đến sau năm 1975 với một số tác phẩm và tác
giả như Nguyễn Minh Châu với Chiếc thuyền ngoài xa, Ma Văn Kháng với Mùa lá
rụng trong vườn, Nguyễn Khải với Một người Hà Nội, Hoàng Phủ Ngọc Tường với
Ai đã đặt tên cho dòng sông, Thanh Thảo với Đàn ghi ta của Lorca, Nguyễn Duy
với Đò lèn…
Cấu tạo chương trình Ngữ văn, nhất là ở phần Văn học đã chú ý coi
trọng sự phát triển của loại thể. Trên tinh thần coi trọng sự phát triển của loại thể
trong lịch sử phát triển văn học, các văn bản văn học được sắp xếp theo cụm loại thể
như truyện dân gian, truyện trung đại và hiện đại – thơ, phú, văn tế trung đại – thơ
hiện đại – kịch dân gian, kịch cổ điển, kịch hiện đại – nghị luận dân gian, nghị luận
trung đại và nghị luận hiện đại. Chương trình trong SGK Ngữ văn mới hướng chủ
yếu vào đọc văn, vào tri thức về tác phẩm, về thể loại chứ không phải văn học sử.
Thông qua quá trình đọc văn bản, phân tích văn bản để bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm
cho học sinh, đồng thời rèn luyện kĩ năng đọc – hiểu văn bản, hình thành và phát triển
ở học sinh năng lực ứng dụng những điều đã học vào cuộc sống.
1.2. Tạo lập văn bản
1.2.1. Khái niệm
Hiểu một cách khái quát, tạo lập văn bản là vận dụng tổng hợp các tri
thức văn học, qui luật ngôn ngữ và các kĩ năng làm văn để xây dựng một văn bản (nói
và viết) hoàn chỉnh, nhằm đạt hiệu quả giao tiếp cao nhất. Những kĩ năng làm văn
được vận dụng như tìm hiểu và phân tích đề, tìm ý và lập dàn bài, kĩ năng xây dựng
đoạn văn, kĩ năng diễn đạt, lập luận, triển khai ý…
Trong nhà trường phổ thông, dạy học các kĩ năng tạo lập văn bản là
nhiệm vụ của phân môn Làm văn – “một phân môn khó trong nhà trường phổ thông,
một phân môn thực hành sáng tạo trên cơ sở một vốn tri thức khoa học nhất định,
đặc biệt là khoa học xã hội và những hiểu biết về thực tế đời sống” [52, tr.3]. Nằm
trong sự liên hệ chặt chẽ với Văn và Tiếng Việt, phân môn Làm văn được xem là một
môn học thực hành tổng hợp tất cả những năng lực và kiến thức về Văn và Tiếng Việt
của học sinh. “Trước hết, để viết được một bài văn hoàn chỉnh (dù ở thể loại miêu tả,
kể chuyện hay ở thể loại nghị luận văn học, nghị luận chính trị - xã hội…), học sinh
bao giờ cũng phải cùng một lúc huy động hàng loạt những kiến thức đã được trang bị
của mình về ngôn ngữ (bao gồm tất cả các năng lực sử dụng các đơn vị ngôn ngữ và
các quan hệ ngữ pháp), về tư duy (bao gồm tất cả các khả năng: phân tích, tổng hợp,
khái quát, phán đoán, suy luận…) và về cả quan điểm, lập trường của các quá trình
nhận thức và đánh giá” [9, tr.4]. “Làm văn là phần thực hành của môn Văn học và
Tiếng Việt, song song và tương ứng với phần học Văn. Học đi đôi với làm, học để
làm cũng là phương châm giáo dục xưa nay, bởi thế học Văn phải đi đôi với làm văn,
đó là lẽ dĩ nhiên…kết quả của làm chứng minh cho kết quả của học” [50, tr.85]. Hiểu
theo các quan điểm trên thì dạy học tạo lập văn bản chính là dạy các thao tác thực
hành, mục đích của dạy học làm văn cũng chính là mục đích cuối cùng và là mục tiêu
cao nhất của dạy học văn. Từ đó có thể thấy tính chất liên môn rất chặt chẽ của ba
phân môn Tiếng Việt, Làm văn và Văn học trong bộ môn Ngữ văn. Bên cạnh hệ
thống bài tập rèn luyện các thao tác lập luận, các kĩ năng phân tích đề, lập ý, khai
triển ý, diễn đạt… thì các bài tập rèn luyện phân tích văn bản mẫu- những văn bản
văn học mẫu mực của giờ dạy tiếp nhận được tích hợp sử dụng trong giờ dạy tạo lập-
cũng đóng vai trò không nhỏ trong việc hình thành kĩ năng làm văn cho học sinh. Đó
cũng là tinh thần và quan điểm dạy học làm văn được thể hiện trong chương trình
SGK Ngữ văn hiện hành.
1.2.2. Vị trí của phân môn Làm văn trong chương trình Ngữ văn THPT
“Trong yêu cầu đào tạo năng lực nghe, nói, đọc, viết cho học sinh phổ
thông, bộ phận tạo lập văn bản (làm văn) có một vai trò, vị trí cực kì quan trọng với
môn Văn học, Tiếng Việt. Năng lực nói, viết không chỉ phản ánh năng lực nghe, đọc
mà còn phản ánh năng lực tư duy, cảm xúc, năng lực thuyết phục nói chung của một
con người. Năng lực đó có vai trò quan trọng đối với sự thành đạt của một con người
trong cuộc đời” [63, tr.56].
Phân môn Làm văn trong nhà trường THPT qua nhiều thời kì với những
quan niệm, mục tiêu khác nhau đã có những cách nhìn nhận không giống nhau. Từ
trước cải cách giáo dục (CCGD), Làm văn gắn liền với Văn và được coi là một bộ
phận của môn Văn. Làm văn được quan niệm là phần rèn luyện cho học sinh tập làm
những văn bản trong lĩnh vực văn học, những loại văn bản thông dụng khác chưa
được chú ý tới. Xuất phát từ quan niệm truyền thống cho rằng phần kiến thức và kĩ
năng liên quan đến văn bản được đặt trong môn Tiếng Việt (Ngữ pháp văn bản), từ
CCGD tới nay, Làm văn được coi là một phần của Tiếng Việt. “Dạy Làm văn và
Tiếng Việt được quan niệm như dạy kiến thức cơ bản, cung cấp những phương tiện,
những cơ sở để học tốt cả những môn khác. Dạy Làm văn không phải chỉ là dạy văn
bản văn chương mà còn phải rèn luyện cho học sinh biết xây dựng các loại văn bản
thông dụng. Cách quan niệm như vậy đã có tác động tích cực tới việc soạn thảo
chương trình, biên soạn SGK và nội dung cũng như phương pháp giảng dạy, học tập
trong nhà trường. Dạy Làm văn được hiểu là dạy xây dựng văn bản – đơn vị tột cùng
trong hệ thống các đơn vị ngôn ngữ - Vì vậy Làm văn gắn với tiếng hơn với văn. Đơn
vị tột cùng này sẽ được miêu tả kĩ về mặt hệ thống – cấu trúc trong phần tiếng. Còn
trong Làm văn, học sinh được cung cấp những kiến thức và kĩ năng, được rèn luyện
các cách thức, bước đi để có thể nhanh chóng đến được với đơn vị tột cùng ấy” [1,
tr.186].
Đến chương trình mới, xuất phát từ quan niệm cho rằng, công việc chủ
yếu của Làm văn là tạo lập các loại văn bản, chương trình Ngữ văn mới từ Trung học
cơ sở đến Trung học phổ thông chủ trương chuyển phần này sang Làm văn. Cũng
trên tinh thần kế thừa chương trình CCGD, Làm văn được xây dựng theo nguyên tắc
tích hợp, là một trong hai trục tích hợp của quá trình dạy học văn:tiếp nhận văn bản
và tạo lập văn bản. “Đấy không phải là hai phân môn Văn học và Làm văn mà là hai
hoạt động chính cần tập trung hình thành và rèn luyện cho học sinh trong môn học
Ngữ văn. Tất cả tri thức và kĩ năng của cả ba phân môn Văn học, Tiếng Việt, Làm
văn đều được tích hợp trong hai trục này. Đọc văn cũng cần trang bị kiến thức tiếng
Việt, văn học và văn hoá nghệ thuật khác cũng cần trang bị như là những kiến thức
cần thiết để tạo lập văn bản” [77, tr.10].
Cho đến nay, việc xác định vị trí của phân môn Làm văn vẫn chưa được
giới thuyết thực sự rõ ràng: nó là một phân môn độc lập hay là một bộ phận của phân
môn Tiếng Việt, hay là phần thực hành tổng hợp của cả hai môn Văn học và Tiếng
Việt? Tuy cách nhìn nhận về phân môn Làm văn trong nhà trường có nhiều thay đổi
theo thời gian nhưng nhìn chung, phân môn Làm văn vẫn thống nhất được xem là
môn học thực hành tổng hợp của tất cả các kiến thức thuộc lĩnh vực văn học và xã hội,
tất cả các kĩ năng giao tiếp, các quy tắc ngôn ngữ để tạo lập một văn bản hoàn chỉnh.
Làm văn không phải chỉ là một hoạt động tái hiện lại những tri thức đã có của học
sinh mà chủ yếu là quá trình sáng tạo phát hiện thêm những điều mới mẻ của cả giáo
viên và học sinh. Làm văn cũng là đỉnh cao nhất của kĩ năng vận dụng ngôn từ, tạo
lập văn bản, là sự thể hiện tinh tế, chân thực nhất những vấn đề thuộc cảm xúc, tư
tưởng, tình cảm, thị hiếu thẩm mĩ của người viết – học sinh.
1.2.3. Thực trạng về dạy học tạo lập văn bản trong nhà trường THPT
hiện nay
Tương tự như phân môn Văn học, muốn xem xét, đánh giá một cách
toàn diện thực trạng dạy học làm văn trong nhà trường chúng ta phải chú trọng đến cả
ba yếu tố: giáo viên, học sinh và SGK. Giữa chúng có mối quan hệ ảnh hưởng qua lại
với nhau và trực tiếp tác động đến chất lượng dạy học bộ môn Ngữ văn.
1.2.3.1 . Về phía giáo viên
Ở phương diện này, chúng ta không thể phủ nhận công sức to lớn của
đội ngũ đông đảo những “kỹ sư tâm hồn” – nhà giáo có nhiệt huyết và không ngại
khó khăn để từng bước nâng cao chất lượng dạy học bộ môn văn trong nhà trường
phổ thông. Tuy nhiên, trong thực tế dạy học văn hiện nay, xung quanh vấn đề dạy học
phân môn Làm văn vẫn còn tồn tại khá nhiều vướng mắc. Ở đợt thay sách giáo khoa
lần này, mặc dù chúng ta đã thay đổi nhận thức về vị trí của phân môn Làm văn và có
nhiều cải tiến trong sự điều chỉnh dung lượng cũng như thời lượng của Làm văn
nhưng hầu như phân môn được quan tâm nhiều nhất vẫn là Giảng văn, phân môn ít
được chú ý nhất là Làm văn. Học sinh quay lưng lai nhiều nhất cũng chỉ với phân
môn Làm văn. Phải thừa nhận rằng đây là phân môn còn nhiều mắc mớ nhất. “Ai đã
quan tâm đến tình hình học văn trong các trường trung học phổ thông đều thừa nhận
rằng, tập làm văn đang là một trong những vấn đề nhức nhối nhất. Rõ ràng là phân
môn này đang đứng trước một loạt sự nghịch thường. Cái phân môn chắc phải coi là
có lịch sử lâu đời trong các môn học, cái phân môn đáng lẽ phải tích luỹ được nhiều
kinh nghiệm nhất và thành quả vào lúc này hoá ra lại ít ỏi và mong manh cũng vào
bậc nhất. Và trong bộ môn Văn, nhũng nguyên tắc dạy học văn đúng đắn như gắn với
đời sống, phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh…tưởng đâu phải tìm
mảnh đất gieo trồng thích hợp nhất nơi tập làm văn thì lại mới chỉ được bàn luận và
thực hiện nhiều trong các khu vực giảng văn. Lại nữa, tập làm văn, các phân nhóm
kết tinh đầy đủ hơn cả nguyên lí học đi đôi với hành và phân môn bộc lộ rõ nét hơn
cả nhân cách học sinh thì cũng lại là phân môn đang chịu bạc bẽo…” [29, tr.746].
Trong khi đó, nhiều thầy cô lại bỏ hẳn tiết học Làm văn hoặc có dạy thì
cũng qua loa, sơ sài, ít có sự đầu tư đúng mức cho một phân môn được xem là có vị
trí quan trọng trong việc đánh giá kết quả cả quá trình học tập môn Ngữ văn của học
sinh. Phần lớn, giáo viên chỉ “độc diễn”, hoặc thầy đọc trò chép. “Giờ trả bài có một
vị trí và ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc dạy học tập làm văn. Tuy vậy trong
thực tế ít được giáo viên và học sinh chú ý. Học sinh thường chỉ quan tâm đến việc
xem kết quả bài viết điểm số của mình, ít chú ý đến việc nhận ra yêu cầu của bài,
những lỗi cần tránh và những hạn chế mà bài viết của mình mắc phải. Do nhiều
nguyên nhân trong đó có nguyên nhân chấm bài của học sinh không kĩ, một số giáo
viên cũng ít chú ý tới nội dung và cách thức tiến hành giờ trả bài. Vì thế với nhiều
giáo viên, giờ trả bài thường chỉ đơn giản là trả lại bài đã chấm điểm cho học sinh
với vài nhận xét đại khái, qua loa, chiếu lệ. Nhìn chung giờ trả bài ít có hiệu quả”
[77, tr.145]. Thực trạng này rơi vào nhiều nhất ở lớp 12, khi mà áp lực về kiến thức
văn học để thi Tốt nghiệp đè nặng lên giáo viên và cả học sinh. Không chỉ giờ trả bài
mà các giờ học làm văn khác cũng mang tính chất chiếu lệ, miễn cưỡng mà ngay
chính giáo viên cũng xác nhận thực tế đáng lo ngại này. Mặc dù chương trình SGK
mới đã có nhiều thay đổi cơ bản theo hướng tích hợp, giảm tải, tăng thực hành và vận
dụng, gắn bài học với thực tế nhưng nhìn chung hiệu quả, chất lượng của dạy học
Làm văn ở nhà trường phổ thông hiện nay vẫn còn rất thấp.
Các trường học vẫn đang tồn tại một thực trạng đáng báo động là giáo
viên dạy làm văn nhưng không không khuyến khích những sáng tạo, cá tính, ý tưởng
riêng của học sinh, mà chỉ cố gắng đi theo những hướng dẫn mang tính khuôn mẫu
trong sách giáo khoa, sách giáo viên của Bộ…Điều này dẫn tới một hệ luỵ đáng lo
ngại hơn là một số giáo viên không đánh giá đúng những ý kiến sáng tạo rất riêng học
sinh. Trong khi chúng ta biết rằng bản thân môn Làm văn có điểm khác biệt với các
môn khác: Làm văn không những là quá trình sáng tạo lại những kiến thức đi trước
(dưới sự điều khiển của giáo viên và sự chiếm lĩnh của học sinh) mà còn chủ yếu là
quá trình chủ động sáng tạo, phát hiện thêm nhiều điều mới mẻ, riêng biệt của người
viết. Bên cạnh đó, chúng ta vấp phải một nghịch lí là dùng kết quả bài viết để đánh
giá kết quả của cả quá trình học tập môn Ngữ văn của học sinh nhưng lại chỉ lo nhồi
nhét kiến thức Văn học mà không chú ý tới việc rèn luyện cho các em kĩ năng xử lí
những kiến thức ấy cho đúng với yêu cầu của làm văn. Học sinh của chúng ta tuy có
khả năng cảm thụ văn học tốt nhưng không được trang bị những kĩ năng xây dựng, tổ
chức văn bản nên rốt cuộc thành phẩm – bài văn do các em tạo ra cũng chỉ mang tính
tái hiện, nhắc lại kiến thức cũ kĩ mà không có gì sáng tạo mới mẻ.
Theo chúng tôi, những hạn chế này trước hết xuất phát từ việc giáo viên
chúng ta vẫn chưa nhận thức được hết vai trò, tầm quan trọng của phân môn Làm văn
trong dạy học bộ môn Ngữ văn. Lâu nay, chúng ta vẫn giữ quan niệm cho rằng các
em học sinh từ bậc THCS đã được học và rèn luyện thuần thục tất cả các kĩ năng làm
văn, lên bậc học THPT dạy làm văn chỉ nhằm củng cố, mở rộng, nâng cao nên nếu
không dạy làm văn thì các em vẫn có thể viết được một bài văn. Nguyên nhân này
cũng lại xuất phát từ việc dạy học ở các trường sư phạm, giờ học cho phân môn
Phương pháp dạy học Làm văn chỉ chiếm tỉ lệ rất ít (khoảng 2 đến 3 đơn vị học trình
trong toàn bộ khoá học), giáo trình, tài liệu tham khảo cho phương pháp dạy học làm
văn thiếu trầm trọng. Trong khi đó, giáo trình chính dùng cho sinh viên sư phạm Ngữ
văn đối với phân môn Làm văn là “Phương pháp dạy học tiếng Việt” nhưng làm văn
cũng chỉ chiếm dung lượng khiêm tốn trong toàn bộ cuốn sách. Đồng thời, phân bố
chương trình đối với môn học phương pháp dạy học Ngữ văn ở trường sư phạm vẫn
còn nhiều bất cập. “Môn phương pháp dạy học văn chương là một môn khoa học ứng
dụng và thực nghiệm. Nhưng nhà trường đại học sư phạm cũng như các cuốn giáo
trình, các bài giảng trên giảng đường chưa bao giờ đặt các vấn đề ứng dụng và thực
nghiệm như là những nội dung khoa học và nghiêm túc. Mặt khác, “môn phương
pháp sư phạm” này lại chỉ được bố trí dạy ở năm thứ ba và thứ tư, là những sinh viên
sắp ra trường. Vì thế, người sinh viên không có thì giờ để nghiên cứu, đọc tài liệu,
luyện tập những thao tác sư phhạm cần thiết” [85, tr.145]. Thậm chí ngay cả chương
trình đào tạo ở bậc sau đại học chuyên ngành phương pháp dạy học Văn thì số
chuyên đề dành cho phương pháp dạy học làm văn cũng rất ít ỏi (chỉ 1 chuyên đề với
45 tiết). Số công trình nghiên cứu trong lĩnh vực làm văn cũng hiếm hoi, các nhà
nghiên cứu phương pháp cũng hầu như ít đề cập tới làm văn… Từ đó dẫn đến việc
thầy cô ít chú ý hoặc xem nhẹ vai trò của phân môn làm văn trong giờ dạy Ngữ văn.
Ngoài ra, thực trạng này đối với môn Ngữ văn nói chung và Làm văn nói
riêng còn xuất phát từ tâm lí, quan niệm xã hội bấy lâu nay. Cùng với nó là tâm lí
ngại khó của phần đông giáo viên chúng ta nên phân môn được quan tâm nhiều nhất
vẫn là đọc hiểu văn bản tác phẩm, phân môn ít được chú ý nhất là Làm văn.
Từ những thực trạng nêu trên có thể thấy cần phải làm thay đổi nhận
thức trong giáo viên về vị trí, vao trò quan trọng của phân môn Làm văn. Chúng ta
không thể ỷ lại, càng không thể vin vào sự khó khăn của môn học, vào sự thiếu thốn
của tài liệu mà xem nhẹ, lơ là môn học, ảnh hưởng đến chất lượng dạy học môn Ngữ
văn. Bởi lẽ, môn Làm văn với tính chất là môn học thực hành tổng hợp và đòi hỏi
tính sáng tạo nên kết quả của nó tuỳ thuộc rất lớn vào trình độ và chất lượng của
người giáo viên.
1.2.3.2. Về phía học sinh
Những năm gần đây, tỉ lệ môn Văn ở các kì thi đại học và cao đẳng đạt
rất thấp. Không có năm nào mà chúng ta không “sưu tầm” được những câu văn
“cười ra nước mắt” từ bài làm của thí sinh. Vấn đề này đã trở thành một thực trạng
rất đáng lo ngại cho số phận của bộ môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông.
Học sinh tạo lập các kiểu văn bản thường là máy móc, rập khuôn, sáo
mòn hoặc xào xáo các bài văn mẫu dẫn đến kiến thức lủng củng, diễn đạt lan man,
“râu ông này cắm cằm bà kia”, chưa nói đến một hiện tượng rất phổ biến là khi viết
văn, các em mắc cả những lỗi thông thường về cách diễn đạt, viết câu, dùng từ, sai
chính tả… Và thực tế là dù các em đã học tốt phần Văn, Tiếng Việt nhưng các em
vẫn rất yếu về năng lực và kĩ năng tạo lập văn bản. Vì vậy, kết quả học tập chung của
toàn bộ môn Ngữ văn khó đạt được kết quả như mong đợi. Trong kì thi Đại học năm
2011 vừa qua, nhìn vào điểm số mà các trường Đại học công bố, có thể nhận thấy số
thí sinh đạt điểm khá, giỏi ở môn văn là rất ít.
Ngay khi giáo viên đã chủ động thay đổi phương pháp giảng dạy đối với
phân môn Làm văn nhưng vẫn chưa có sức tác động đến học sinh, ngay cả bộ phận
học sinh khá, giỏi văn vẫn chịu sức ì của lối học thuộc, sao chép, đối phó. Một thực tế
dễ thấy nhất là trong giờ trả bài viết, khi thầy cô dành nhiều thời gian cho việc nhận
xét, sửa lỗi thì các em lại không quan tâm mà chỉ mong chờ điểm số; còn giờ thực
hành các em cũng chỉ thực hiện một cách đối phó, chiếu lệ: “Lúc đầu, tôi rất bực
mình về cách lập luận yếu kém của nhiều học sinh cấp III. Nếu viết lại những câu văn,
đoạn văn kiểu như vậy dễ đến vài trăm trang. Nhưng dần dần, tôi cũng đành chấp
nhận ấy là những ví dụ về cách diễn đạt của học trò cách đây gần chục năm. Bây giờ
mới thật là thê thảm. Mỗi khi chấm bài của học trò, quả là dở khóc dở cười.”
[VietNamnet, 15/9/2006, Người dạy văn kể về văn học trò]
1.2.3.3. Về SGK – phần Làm văn
Với quan niệm tách rời, độc lập giữa ba phân môn Đọc văn, Làm văn và
Tiếng Việt, bộ SGK Văn hợp nhất năm 2000 gồm ba cuốn riêng biệt: Văn học, Tiếng
Việt và Làm văn. Theo quan niệm như trên, ba cuốn sách được biên soạn độc lập,
không có mối quan hệ liên môn nên không thể tích hợp được kiến thức trong học tập
cũng như giảng dạy.
Đến nay, SGK chương trình Cải cách giáo dục hợp nhất năm 2000 đã
kết thúc vai trò sứ mệnh của mình và được thay thế bằng bộ sách Ngữ văn mới. Tuy
nhiên, khi xem xét đánh giá cần khách quan, bởi lẽ bộ sách là một tiền đề quan trọng
để biên soạn bộ SGK mới và cũng là một căn cứ quan trọng để có thể đánh giá đúng
vai trò của SGK mới trong mối quan hệ với chương trình cải cách trước đó.
Có thể nhận thấy, chương trình SGK Làm văn cũ quá nặng về lí thuyết
mà xem nhẹ phần thực hành, không gây được hứng thú, dẫn đến tâm lí chiếu lệ, qua
loa, đối phó trong thái độ học tập của các em. Hệ thống ngữ liệu minh họa cho lí
thuyết lại xa lạ, vừa mất thời gian tìm hiểu lại không tích hợp được với những kiến
thức đã học ở phần Văn học và Tiếng Việt. Vả lại, chương trình lại nặng về lý thuyết
các kiểu bài văn nghị luận, trong đó thiên về nghị luận văn học nhiều. “Trong chương
trình văn nghị luận ở cấp III, nghị luận văn học chiếm một vị trí đặc biệt: ngoài một
số tiết lí thuyết chung cho văn nghị luận, còn lại tỉ lệ giờ lí thuyết nghị luận xã hội so
với nghị luận văn học quá thấp (4/21 tiết cho sách của trường Đại học sư phạm Hà
Nội I và 6/22 tiết cho sách của Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học thành phố Hồ
Chí Minh). Như vậy, dạy và học làm văn ở cấp THPT chủ yếu dạy và học làm văn
nghị luận văn học” [48, tr.9].
“Chương trình làm văn THPT hiện nay chỉ tập trung vào văn nghị luận.
Lớp 10 tập trung dạy văn nghị luận nói chung và nghị luận xã hội. Từ lớp 11 đến lớp
12 chủ yếu chỉ học nghị luận văn học, phân tích, bình giảng, bình luận một số tác
phẩm văn học trong chương trình văn học của lớp 11, 12. Đây là một cấu tạo sai lầm
làm cho từ năm 1990 đến nay học sinh tú tài không biết làm văn nghị luận xã hội,
không có thói quen suy nghĩ và diễn đạt ý nghĩ về các vấn đề của cuộc sống xung
quanh mà chỉ chú tâm vào một số bài văn có sẵn và do đó việc sao chép trong các kì
thi là dễ dàng nhất” [63, tr.57].
Theo quan niệm truyền thống, các kiểu bài văn nghị luận được chia theo
thao tác tư duy. Kết quả là chương trình đã phân chia văn nghị luận thành khá nhiều
các kiểu bài nhỏ như: chứng minh, phân tích, giải thích, bình giảng, bình luận…Việc
chia nhỏ kiểu bài như vậy là không cần thiết và gây khó khăn cho cả học sinh và giáo
viên trong việc phân biệt dạng bài. Bởi lẽ một bài văn nghị luận đòi hỏi người viết
phải vận dụng kết hợp nhuần nhuyễn các thao tác tư duy nêu trên chứ không thể tách
rời một cách chi li, máy móc như vậy.
Mặt khác, chương trình còn có sự trùng lắp kiến thức giữa các khối lớp.
Chẳng hạn như sự trùng lặp không cần thiết mảng kiến thức ở lớp 10 và lớp 12 về ba
kĩ năng cơ bản: tìm hiểu đề, lập dàn bài và xây dựng đoạn. Ở lớp 10, học sinh đã
được biết đến kiểu bài nghị luận xã hội thì đến lớp 12 lại có bình luận xã hội mà nội
dung lí thuyết cũng khẳng định: “Trong nhà trường bình luận xã hội là kiểu bài nghị
luận đòi hỏi học sinh bộc lộ sự hiểu biết và bày tỏ lập trường công dân trước một số
vấn đề xã hội” [65, tr.154]. Ở chương trình Làm văn 12 lại chia ra thêm hai kiểu bài
là Bình giảng văn học và Bình luận văn học, gây phức tạp, rối rắm cho học sinh.
Chính vì sự trùng lắp kiến thức và nặng về lí thuyết kiểu bài nên giờ học tạo lập văn
bản trở nên khô khan và nhàm chán, thiếu vận dụng, ít gắn với thực tiễn.
Song, nói như vậy không có nghĩa là phủ định sạch trơn những mặt tích
cực của chương trình và SGK cải cách giáo dục, bởi đó là công sức và tâm huyết của
các nhà giáo, nhà nghiên cứu văn học Việt Nam. Nó đã hoàn thành tốt vai trò và
nhiệm vụ thống nhất hệ giáo dục phổ thông trong cả nước và trở thành nền tảng để
biên soạn bộ SGK mới. Thực tế cho thấy sự lạc hậu của chương trình SGK cũng đồng
thời là dấu hiệu phát triển của thời đại nên đây cũng là một tất yếu của quá trình phát
triển không ngừng.
Trước đây, Làm văn được tách riêng thành một môn học và theo đó
được viết thành một quyển riêng. Hiện nay, Làm văn được xem là một hợp phần của
môn Ngữ văn trong mối quan hệ liên môn với Tiếng Việt và Văn học, tạo nên một bộ
môn thống nhất là Ngữ văn theo tinh thần tích hợp. Chương trình được xây dựng dựa
trên sự thống nhất về mục tiêu hình thành kĩ năng nghe, nói, đọc, viết thành thạo bằng
tiếng Việt cho học sinh. Năng lực mà học sinh có được ở phần Văn học (năng lực và
tiếp nhận văn học), Tiếng Việt (năng lực giao tiếp bằng tiếng Việt) tạo điều kiện trực
tiếp để đạt đến mục tiêu quan trọng nhất của Làm văn nói riêng, của bộ môn Ngữ văn
nói chung: tạo lập văn bản đạt kết quả cao trong giao tiếp. Hơn nữa, việc học tốt
những tri thức, kĩ năng tạo lập văn bản không chỉ giúp cho việc viết các văn bản mà
còn soi sáng cho việc đọc – hiểu, tiếp nhận văn bản và nâng cao năng lực sử dụng
tiếng Việt.
Nhìn chung, chương trình SGK mới, phần làm văn có nhiều thay đổi tích
cực. Sự phân hóa giữa Chương trình cơ bản và Chương trình nâng cao đã giúp phân
hóa được năng lực, nhu cầu cũng như sở thích của từng đối tượng học sinh.
“Chương trình làm văn trước đây chia nhỏ và phân biệt các kiểu bài
một cách khá máy móc, khô cứng. Làm văn mới chủ trương dạy cho học sinh năng
lực vận dụng các thao tác làm văn một cách linh hoạt, sáng tạo” [77, tr.41]. Không
dựa vào các thao tác nghị luận để chia nhỏ văn nghị luận ra nhiều loại: chứng minh,
phân tích, bình giảng, bình luận… như chương trình Cải cách giáo dục đã làm,
chương trình mới căn cứ vào phương thức biểu đạt để chia ra sáu kiểu văn bản: tự sự,
miêu tả, biểu cảm, thuyết minh, nghị luận và văn bản hành chính – công vụ. Bởi lẽ,
trên thực tế không có một bài nghị luận nào chỉ sử dụng một thao tác nghị luận và
ngược lại, một thao tác nghị luận cũng không thể sử dụng cho nhiều kiểu bài nghị
luận khác nhau. Không đồng nhất các thao tác nghị luận với kiểu bài vừa phù hợp với
thực tế viết văn lại vừa tạo điều kiện để luyện tập cho học sinh sử dụng các thao tác
đó trong suốt cả quá trình học văn nghị luận ở THCS và THPT. Hơn thế nữa, chương
trình làm văn mới trong khi phân biệt sáu loại văn bản theo phương thức biểu đạt thì
cũng hướng học sinh chú ý vào sự kết hợp đan xen giữa chúng, chẳng hạn như trong
văn bản tự sự có biểu cảm và miêu tả, trong văn thuyết minh có cả tự sự, biểu cảm và
miêu tả; hoặc khi học các thao tác nghị luận thì SGK mới cũng có bài học luyện tập
vận dụng kết hợp các thao tác ấy để học sinh thấy được sự liên hệ, đan xen giữa các
thao tác cũng như các phương thức biểu đạt trong văn nghị luận. Tiếp nối chương
trình lớp 11, chương trình làm văn 12 tiếp tục mở rộng, nâng cao cho học sinh khi
giúp các em tiếp cận những dạng đề bài cụ thể như nghị luận về tư tưởng đạo lí, về
một vấn đề văn học, một trích đoạn văn xuôi…như một khâu chuẩn bị tốt cho các em
bước vào các kì thi quan trọng. Mặt khác, chượng trình SGK mới đã có sự điều chỉnh
cân đối lại tỉ lệ Nghị luận xã hội và Nghị luận văn học theo hướng tăng dần dạng bài
nghị luận xã hội. “Điều quan trọng là chương trình Ngữ văn mới đã điều chỉnh tăng
cường văn nghị luận xã hội, cả ở phần đọc văn và làm văn nhằm cân đối hai loại văn
nghị luận” [77, tr.41].
Quan điểm tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh được khẳng định
trong chương trình không chỉ thể hiện ở nội dung mà còn ở phương pháp dạy học. Xu
hướng dạy học làm văn gắn liền với thực tiễn đời sống thông quan các kiểu văn bản,
các đề văn mở đã có tác dụng kích thích hứng thú và suy nghĩ độc lập của học sinh.
Khác với SGK Cải cách giáo dục, SGK mới không trình bày theo kiểu giải thích
minh họa và cung cấp sẵn nội dung kiến thức mà chủ yếu là theo con đường quy nạp,
học sinh bằng việc hoàn thành nhiệm vụ trong hệ thống hoạt động dạy và học đã
được thiết kế để tự mình phát hiện ra tri thức, nắm chắc cách thức hoạt động mà từ đó
chiếm lĩnh tri thức và hình thành kĩ năng, phương pháp cho bản thân.
Bên cạnh đó, việc đổi mới cách dạy và học Làm văn theo hướng tích
hợp với Văn học và Tiếng Việt vừa phù hợp với xu hướng dạy học hiện đại, vừa thể
hiện đúng đặc trưng bản chất của một môn học thực hành tổng hợp. Các đề văn cũng
gắn liền với các tác phẩm được học trong phần Văn học, các đề nghị luận xã hội cũng
cố gắng dựa vào các tác phẩm để học sinh bày tỏ ý kiến của mình về các vấn đề mà
xã hội hiện nay đang đặt ra. Do đó, cách thức ra đề văn cũng được đổi mới nhằm tạo
điều kiện cho học sinh độc lập suy nghĩ và thoải mái viết ra những suy nghĩ, quan
niệm tích cực (hoặc tiêu cực) để kịp thời uốn nắn, phát triển tư duy cho học sinh chứ
không phải gò bó các em theo những khuôn phép, định hướng có sẵn. Theo đó, đề
văn chủ yếu chỉ nêu vấn đề suy nghĩ, học sinh sẽ tự mình xác định hướng giải quyết
về kiểu bài nghị luận, về thao tác nghị luận cũng như tự do trình bày ý kiến, quan
niệm đồng tình hay phản bác với vấn đề mà đề bài nêu ra.
Đổi mới nội dung, phương pháp, đổi mới cách ra đề, chương trình mới
cũng yêu cầu đổi mới cách kiểm tra, đánh giá. Chương trình SGK mới quan niệm
kiểm tra, đánh giá là một khâu quan trọng trong toàn bộ quá trình dạy và học. Nội
dung kiểm tra, đánh giá phải có tính chất tổng hợp, kết hợp Làm văn với Văn học và
Tiếng Việt. Kết quả kiểm tra không chỉ qua các bài thi mà còn bằng các hoạt động
học tập ở lớp cũng như ở nhà của học sinh.
Với những thay đổi như trên, chương trình SGK mới đã quán triệt mục
tiêu giáo dục toàn diện: tư tưởng, đạo đức lối sống; học vấn kiến thức phổ thông, hiểu
biết kĩ thuật và hướng nghiệp; kĩ năng học tập và vận dụng kiến thức; về thể chất và
xúc cảm thẩm mỹ. Tuy vậy, chương mình làm văn THPT ở SGK mới cũng chỉ mới
được áp dụng, đưa vào giảng dạy trong thời gian ngắn nên hiệu quả cũng như thực tế
ứng dụng của nó trong đời sống thực tiễn vẫn cần tiếp tục khảo sát, xem xét trong
môt thời gian dài nữa mới có thể đưa ra một sự đánh giá toàn diện và chính xác.
1.3. Mối quan hệ giữa tiếp nhận và tạo lập trong dạy học Làm văn
Thực tế cho thấy hai hoạt động tiếp nhận và tạo lập trong dạy học Ngữ
văn có một mẫu số chung, đó là văn bản. Vì vậy, tiếp nhận văn bản và tạo lập văn bản
có mối quan hệ chặt chẽ và gắn bó với nhau trong suốt quá trình dạy học Văn. Dạy
học tiếp nhận cung cấp cho học sinh phương pháp, cách thức, kĩ năng giải mã văn
bản; đồng thời những văn bản được giải mã, đến lượt mình, sẽ trở thành “mẫu” tiêu
biểu để hướng dẫn học sinh tạo lập những văn bản tương ứng. Ngược lại, dạy học tạo
lập văn bản cung cấp cho học sinh phương pháp, cách thức, kĩ năng mã hoá văn bản;
đồng thời, qua việc tự mình tạo lập văn bản, học sinh sẽ hiểu biết rõ hơn về công việc
giải mã những văn bản tương ứng.
1.3.1. Khái niệm “mẫu” trong dạy học Làm văn
“Mẫu trong Làm văn được xem là một phương tiện giúp cho học sinh
mắt thấy, tai nghe, riêng trong một số thể loại văn bản Làm văn nhất định thì ngoài
phương tiện mắt thấy, tai nghe, học sinh có thể sử dụng phương tiện tay sờ. Tất cả để
nhằm vào mục đích giúp cho học sinh tận mắt, tận tai một cách tường minh mẫu mà
các em cần làm theo hoặc bắt chước theo.” [55, tr.455]
Phương pháp khai thác mẫu cũng được xem như một phương pháp điển
hình trong dạy học tiếng Việt. Cơ sở của phương pháp này dựa trên sự quan sát, tri
giác và bắt chước có ý thức. Điều này cũng xuất phát từ nguyên lí nhận thức trong
triết học: từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực
tiễn, đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lí, nhận thức hiện thực
khách quan. Quá trình học tập ngôn ngữ của con người gắn liền với quá trình “bắt
chước”, học tập các mẫu lời nói của người khác trong hoạt động giao tiếp. Vì vậy,
mô phỏng cũng là phương tiện rèn luyện và hình thành các kĩ năng tạo lập văn bản
nói chung và văn bản làm văn nói riêng. Tuy nhiên chúng ta cần phân biệt những
cách bắt chước như sau:
- Thứ nhất là sự bắt chước vô thức không cố ý của người viết
- Thứ hai là sự bắt chước cố ý sao chép một cách máy móc, thiếu tính sáng
tạo
- Thứ ba là sự học tập mẫu có ý thức theo tinh thần của phương pháp rèn
luyện theo mẫu mang tính sáng tạo
Thực trạng dạy học Làm văn hiện nay ít có cách bắt chước thứ ba, mặc
dù giáo viên đã có ý thức về phương pháp dạy học Làm văn theo mẫu nhưng hầu như
vẫn rơi vào cách bắt chước thứ hai. Vì vậy, khi đặt đến vấn đề dạy và học làm văn
theo mẫu thì nhiều người lấy làm e ngại. Chúng ta cần có cách hiểu đúng và nhìn
nhận thật khách quan đối với phương pháp phân tích và làm theo mẫu trong Làm văn.
Thiết nghĩ, tính tiêu cực của phương pháp khai thác mẫu nằm ở người sử dụng nhiều
hơn. Hạn chế của vần đề mẫu thể hiện ở chỗ mẫu vốn là của người khác, không phải
cách nói, cách nghĩ, cách viết của bản thân người viết. Hơn nữa nhiều khi mẫu lại là
cái mang tính hoàn hảo đến mức học sinh khó có thể bắt chước được. Như vậy, nếu
nhìn vấn đề ở khía cạnh này thì việc dạy học Làm văn theo phương pháp khai thác
mẫu quả thật là có những điểm hạn chế nhất định.
Song, nhìn từ góc độ tích cực, việc dạy học Làm văn theo mẫu rất cần
thiết và cũng không hề làm thủ tiêu tính năng động của người học. Hơn nữa, trong
thực tế giảng dạy, có những vấn đề truyền thụ cho học sinh không thể không dùng
mẫu với tính chất như “trăm nghe không bằng một thấy”. Giá trị của phương pháp
dạy và học viết văn theo mẫu được nhấn mạnh như những giáo cụ trực quan hay
những văn bản mẫu được quan sát bằng thị giác hay đọc nhẩm, nghĩ thầm hoặc bằng
thính giác thông qua phương pháp đọc. Trong giờ dạy Làm văn, nhất là trong cấu trúc
bài học của chương trình mới, mẫu được sử dụng như một phương tiện hữu hiệu để
học sinh bằng con đường quy nạp có thể tự phát hiện tri thức và hình thành kĩ năng
tạo lập một mẫu - văn bản hoàn chỉnh của chính mình. Do vậy, giáo viên chỉ sử dụng
lời nói thông báo, diễn giải các vấn đề lí thuyết mà không minh họa bằng một văn
bản mẫu cụ thể, sinh động đang tồn tại để người học làm văn có thể tường tận mắt
thấy tai nghe thì chắc chắn rằng hiệu quả giờ dạy tạo lập sẽ rất thấp.
Hơn nữa, mẫu có tác dụng định hướng, làm cơ sở vững chắc cho việc
hình thành khái niệm và kĩ năng thực hành tạo lập để học sinh có thể làm theo. Khi
các em đã làm đúng được như mẫu hoặc gần giống mẫu về cái chung, cái khái quát
thì lúc đó, sản phẩm – văn bản cụ thể tương tự được tạo ra ấy là của chính các em chứ
không phải của ai khác. Như vậy, nhìn từ góc độ tích cực này, việc dạy và học tạo lập
văn bản theo phương pháp khai thác mẫu vẫn rất cần thiết và cũng không làm thủ tiêu
tính năng động, sáng tạo của học sinh. Quan trọng là chúng ta sử dụng mẫu như thế
nào, làm sao để phương pháp này phát huy hết tính tích cực của nó.
1.3.2. Phương pháp khai thác “mẫu” trong dạy học Làm văn
Phương pháp khai thác mẫu hay còn gọi là phương pháp phân tích và
làm theo mẫu, đây là một phương pháp điển hình rất quan trọng đối với hoạt động
tiếp nhận văn bản bao gồm cả đọc, hiểu và cảm thụ và có ảnh hưởng trực tiếp đến
hoạt động tạo lập văn bản bao gồm cả hiểu, cảm thụ và viết.
Phương pháp dạy và học rèn luyện, phân tích làm theo mẫu trong Làm
văn là phương pháp thông qua những mẫu – văn bản cụ thể về lời nói hoặc mô hình
lời nói trong thực hành Làm văn nói và những mẫu cụ thể về từ ngữ, câu, đoạn văn,
văn bản trong thực hành Làm văn viết. Trong đó, giáo viên hướng dẫn học sinh tìm
hiểu đặc điểm của mẫu, cơ chế tạo mẫu cũng như hướng dẫn học sinh biết cách tạo ra
những văn bản nói và văn bản viết theo định hướng chung của mẫu.
Để thực hiện phương pháp khai thác mẫu trong dạy học Làm văn, việc
lựa chọn sử dụng mẫu phải hết sức thận trọng. Bởi lẽ, phương pháp mẫu trong làm
văn không chỉ thường đi kèm với phương pháp quy nạp mà còn đặc biệt gắn với
phương pháp diễn dịch. Nghĩa là văn bản mẫu không chỉ đáp ứng được các dữ kiện
cần thiết để giúp hình thành tri thức mà còn phải đáp ứng được nhiều yêu cầu về nội
dung cũng như hình thức mà giáo viên sử dụng để phân tích mẫu, dẫn mẫu nhằm
minh họa cho khái niệm để học sinh bắt chước thực hành và tạo lập ra những mẫu cụ
thể tương tự. Cho nên, mẫu lí tưởng nhất là mẫu đáp ứng được nhiều dữ kiện để hình
thành khái niệm lí thuyết về mặt nội dung tư tưởng, tình cảm, giá trị thẩm mĩ, giá trị
văn học…cũng như hình thành kĩ năng tạo lập cho học sinh. Cụ thể, mẫu phải đảm
bảo những yêu cầu như sau:
- Thứ nhất, mẫu được giới thiệu cần phải đảm bảo tính chính xác, tính tư
tưởng;
- Thứ hai, mẫu phải có sự lôi cuốn, hấp dẫn để kích thích hứng thú và sáng
tạo cho học sinh khi tạo lập theo mẫu;
- Thứ ba, mẫu phải ngắn gọn, dễ quan sát;
- Thứ tư, mẫu phải bảo đảm tính thẩm mỹ, bảo đảm cho việc giáo dục học
sinh biết nhìn nhận, đánh giá và thưởng thức cái đẹp một cách đúng đắn;
- Thứ năm, mẫu phải phù hợp với tâm lí lứa tuổi, với đối tượng nhận thức,
với từng trường hợp cụ thể…
Để dạy và học Làm văn theo phương pháp khai thác mẫu, giáo viên có
thể tiến hành các bước như sau:
Như đã khẳng định, điều kiện tiên quyết để áp dụng phương pháp này là
người dạy phải lựa chọn các mẫu lời nói, mẫu văn bản, mẫu hành động lời nói…có
chứa đựng hiện tượng ngôn ngữ cần tìm hiểu. Đây là thao tác vô cùng quan trọng của
người dạy Làm văn. Sau đó, giáo viên cung cấp và giới thiệu các mẫu đó cho học
sinh. Và cuối cùng là giáo viên sẽ hướng dẫn học sinh phân tích mẫu để học sinh
nhận biết các bộ phận tạo thành mẫu và đặc điểm của mẫu. Việc phân tích mẫu phải
thỏa mãn những yêu cầu hiểu sau đây:
- Một là phân tích mẫu để học sinh hiểu;
- Hai là giúp học sinh nắm vững cơ chế tạo mẫu;
- Ba là giúp học sinh mô phỏng mẫu để sáng tạo cái mới tương tự, dựa trên
cơ sở của việc bắt chước mẫu;
- Cuối cùng là kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm về sản phẩm tiếp nhận
hoặc sản sinh lời nói thông qua hoạt động rèn luyện theo mẫu của giáo viên
và học sinh.
Như vậy, phương pháp khai thác mẫu có những ưu điểm như: quá trình
nhận thức và sản sinh lời nói, phát ngôn, ngôn bản (ngôn ngữ nói) hay câu, văn bản
(ngôn ngữ viết) theo mẫu sẽ tiết kiệm được rất nhiều thời gian trong giảng dạy và học
tập. Hơn nữa, các sản phẩm tiếp nhận và sản sinh dựa theo mẫu thường mang tính
chuẩn xác cao. Song, nếu không cẩn thận khi sử dụng phương pháp này sẽ rất dễ rơi
vào tâm lí phụ thuộc vào mẫu, hạn chế sự sáng tạo của người học.
Tóm lại, dạy học Làm văn (tạo lập văn bản) cần dựa vào kết quả của dạy
học tiếp nhận; chỉ như vậy dạy học Làm văn mới có kết quả, và việc tích hợp giữa
Văn học – Làm văn mới có con đường cụ thể để hiện thực hóa. Theo đó, phương
pháp được sử dụng cũng chính là những phương pháp đặc thù trong dạy học Làm văn
như: phương pháp khai thác mẫu, làm theo mẫu và sáng tạo từ mẫu. “Mẫu” được sử
dụng ở đây chính là những văn bản tác phẩm văn học được giảng dạy trong
chương trình Ngữ văn THPT.
Chương 2: VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ GIỮA TIẾP NHẬN VÀ
TẠO LẬP VĂN BẢN ĐỂ RÈN LUYỆN KĨ NĂNG
LÀM VĂN NGHỊ LUẬN CHO HỌC SINH THPT
2.1. Về văn bản nghị luận
2.1.1. Khái niệm văn nghị luận
“Văn nghị luận là loại văn chương nghị sự, luận chứng, phân tích lí lẽ.
Nó là tên gọi chung một thể loại văn vận dụng các hình thức tư duy lôgic như khái
niệm, phán đoán, suy lí và thông qua việc nêu sự thực, trình bày lí lẽ, phân biệt đúng
sai để tiến hành phân tích luận chứng khoa học đối với khách quan và quy luật bản
chất của sự vật, từ đó nhằm biểu đạt tư tưởng, chủ trương, ý kiến, quan điểm của tác
giả.” [60, tr.7]
Về mặt nội dung, văn nghị luận thường “Viết về những vấn đề nóng
bỏng thuộc nhiều lĩnh vực đời sống khác nhau: chính trị, kinh tế, triết học, văn hóa …
Mục đích của văn nghị luận là bàn bạc, thảo luận, phê phán hay truyền bá tức thời
một tư tưởng, một quan điểm nào đó nhằm phục vụ trực tiếp cho lợi ích của một tầng
lớp, một giai cấp nhất định…Đặc trưng cơ bản của văn nghị luận là tính chất luận
thuyết – khác với văn học nghệ thuật, văn chương nghị luận luận trình bày tư tưởng
và thuyết phục người đọc chủ yếu bằng lập luận, lí lẽ…” (Từ điển thuật ngữ văn học).
Văn nghị luận là một trong nhiều thể loại văn chương có lịch sử từ rất
lâu đời. Ở Trung Hoa, văn nghị luận đã xuất hiện từ thời Khổng Tử (551 – 479 TCN).
Văn nghị luận từ khi ra đời đã có giá trị và tác dụng hết sức to lớn trong đời sống văn
hóa xã hội. “Nêu sự thực, trình bày lí lẽ đã trở thành hoạt động xã hội ngày càng phổ
biến, ngày càng quan trọng trong đời sống chúng ta. Họp thảo luận phải thuyết lí,
làm báo cáo phải thuyết lí, viết xã luận phải thuyết lí, soạn sách giáo khoa cũng phải
thuyết lí…Tóm lại, phàm là ở những chỗ phải động não, phàm là ở những nơi phải
biện hộ cho mình, thuyết phục người khác, không thể không thuyết lí”[60, tr.7]. Muốn
hoàn thành nhiệm vụ thuyết lí đó, ngoài cách phát biểu bằng miệng, chủ yếu phải viết
thành văn bản nghị luận. Ở nước ta, văn nghị luận cũng là một thể loại có truyền
thống lâu đời, nó không chỉ có ý nghĩa đối với những vấn đề lớn lao của đất nước,
thời đại như công cuộc giữ nước và dựng nước, canh tân đất nước mà còn rất gần gũi
và có ý nghĩa trong đời sống công dân hiện nay. Có thể kể từ Chiếu dời đô (1010)
của Lí Công Uẩn, Hịch tướng sĩ (1285) của Trần Quốc Tuấn cho đến Bình Ngô đại
cáo (1428) của Nguyễn Trãi, từ bài tựa sách Trích diễm thi tập (1479) của Hoàng
Đức Lương, Chiếu cầu hiền (1788) của Ngô Thì Nhậm đến bản điều trần Xin lập
khoa luật (1867) của Nguyễn Trường Tộ, Chiếu cần vương (1885)…Đặc biệt đến
thế kỉ XX, văn nghị luận càng phát triển mạnh mẽ hơn, đó là áng văn nghị luận bất hủ
Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh cùng với tên tuổi của các nhà chính luận xuất
sắc như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế, Phạm
Văn Đồng, Hoài Thanh, Xuân Diệu, Chế Lan Viên…
Có thể nói, văn nghị luận là thể văn phản ánh rõ nhất đời sống tinh thần,
tư tưởng, ý chí và khát vọng của cả một dân tộc. Không những vậy, văn nghị luận còn
phản ánh nhận thức thẩm mĩ của dân tộc ta về văn chương, nghệ thuật với trình độ
phát triển ngày càng mạnh mẽ, đa dạng và phong phú hơn bao giờ hết.
Nói một cách khái quát, văn nghị luận là một thể loại nhằm phát biểu tư
tưởng, tình cảm, thái độ, quan điểm của người viết một cách trực tiếp về văn học
hoặc chính trị, đạo đức, lối sống,… nhưng lại được trình bày bằng một thứ ngôn ngữ
trong sáng, hùng hồn, với những lập luận chặt chẽ, mạch lạc, giàu sức thuyết phục.
2.1.2. Đặc trưng văn nghị luận
Đặc trưng chủ yếu của văn nghị luận biểu hiện ở ba mặt chủ yếu sau:
tính triết lí sâu sắc, tính biện luận mạnh mẽ, tính thuyết phục lớn lao.
Thứ nhất, về tính triết lí sâu sắc, bất kể bài văn nghị luận nào cũng đều
trình bày lí lẽ. Nêu ra lí lẽ, giải thích rõ lí lẽ, tuyên truyền lí lẽ chính là mục đích của
văn nghị luận. Song, lí lẽ trong văn nghị luận còn phải trình bày cho sâu sắc, thiết
thực để có thể vạch ra bản chất của sự vật, sự việc. Vì vậy, tính triết lí sâu sắc là một
đặc trưng quan trọng của văn nghị luận.
Thứ hai, về tính biện luận mạnh mẽ, lí lẽ trong bài văn nghị luận phải
đúng đắn, khoa học, thế nhưng nó không thể tự rõ ràng, tự biểu hiện. Muốn hiểu được
lí lẽ, làm rõ lí lẽ, phát huy lí lẽ thì cần phải biện luận, phải trình bày, phải chứng minh.
Bởi vậy, tính biện luận đã trở thành một đặc trưng quan trọng của văn nghị luận. Biện
luận là lập luận dựa trên sự phân tích, tổng hợp, giảng giải, đi sâu vào những lí lẽ
chưa được nhận thức rõ. Tính biện luận mạnh mẽ của bài văn nghị luận thể hiện một
tư duy chặt chẽ, lôgic, lí lẽ sắc bén.
Thứ ba, về tính thuyết phục lớn lao, đặc trưng này chỉ rõ bất cứ bài văn
nghị luận nào cũng đều giành thắng lợi bằng lí lẽ, chinh phục người khác không
những bằng lí lẽ mà còn bằng tình cảm, cảm xúc của người viết. Tình và lí song song
thu hút và gợi mở, khiến người ta chấp nhận sự thuyết phục của lí lẽ, có được sự gợi
mở của ánh sáng chân lí. Chính vì vậy, ta nói: Văn nghị luận lấy cái đích là thuyết
phục người đọc, người nghe.
2.1.3. Văn nghị luận trong chương trình Ngữ văn (phần Làm văn) THPT
Trước đây do quan niệm phiến diện về văn học nên nhiều người cho
rằng văn chương chỉ bao gồm những sáng tác bằng tưởng tượng, hư cấu mà ít nghĩ
đến văn nghị luận. Hoặc có nghĩ đến thì lại cho rằng văn nghị luận là thể loại thường
đề cập đến những tư tưởng cao siêu, trừu tượng, lập luận khó, diễn đạt khô nên không
hấp dẫn. Do vậy mà văn chương nghị luận rất ít được đưa vào chương trình phổ
thông. Chỉ có một vài tác phẩm nghị luận trung đại (Sông núi nước Nam, Hịch
tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo) và rất ít tác phẩm nghị luận hiện đại (Tuyên ngôn độc
lập) được đưa vào dạy trong chương trình THCS và cả THPT. Mảng văn chương
nghị luận này còn rất nghèo về đề tài, chưa phong phú về thể loại.
Trong quá trình dạy, giáo viên lại thường chỉ chú ý khai thác nội dung
làm toát lên những quan điểm, tư tưởng của tác giả mà ít chú ý đến vẻ đẹp về hình
thức nghệ thuật của các tác phẩm. Vì thế, việc dạy học các tác phẩm nghị luận thường
khô, không hấp dẫn đối với học sinh nên dẫn đến tình trạng học sinh chán học cũng là
điều dễ hiểu.
Vì văn nghị luận có vai trò và ý nghĩa to lớn trong đời sống cộng đồng
nên trong nhà trường trung học phổ thông hiện nay, cụm văn bản nghị luận được
tuyển chọn dạy trong chương trình Ngữ văn rất phong phú về đề tài và đa dạng về thể
loại: Có tác phẩm nói về những vấn đề lớn lao của dân tộc, thời đại như tinh thần, ý
chí của cha ông trong công cuộc dựng nước và giữ nước (Bình Ngô đại cáo của
Nguyễn Trãi, Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh Chiếu cầu hiền của Ngô Thì
Nhậm, Xin lập khoa luật của Nguyễn Trường Tộ, Hiền tài là nguyên khí quốc gia),
hoặc có tác phẩm phản ánh nhận thức thẩm mỹ của dân tộc và nhân loại, phản ánh về
văn chương nghệ thuật bằng những bài nghị luận súc tích, tài hoa, uyên bác (Trích
diễm thi tập của Hoàng Đức Lương, Một thời đại trong thi ca của Hoài Thanh,
Nguyễn Đình Chiểu – ngôi sao sáng trên bầu trời văn nghệ dân tộc của Phạm Văn
Đồng), lại có những tác phẩm bàn luận về các vần đề hết sức gần gũi trong đời sống
hằng ngày như luận về phép học (Về luận lí xã hội ở nước ta của Phan Châu Trinh,
Bàn về thơ của Nguyễn Đình Thi)…
Nhưng dạy văn nghị luận trong nhà trường THPT không dừng lại ở việc
dạy nội dung hay hình thức nghệ thuật của tác phẩm mà thực chất là phải dạy học
sinh cách xây dựng, tạo lập một văn bản nghị luận thông thường mà các em có thể bắt
gặp và sử dụng trong đời sống hằng ngày. Có thể nói, mỗi loại văn có một vẻ đẹp
riêng. Nếu như văn miêu tả, biểu cảm chỉ qua một số từ ngữ mà lột tả và làm sống
dậy trước mắt người đọc thần thái của sự vật, sự việc… thì văn nghị luận lại tiêu biểu
cho cách nói chặt chẽ, hùng hồn, giàu sức thuyết phục. Và trên thực tế thì văn nghị
luận cũng là thể văn gần gũi và cần thiết hơn cả đối với cuộc sống hằng ngày của mỗi
người. Bởi lẽ, trong cuộc sống hay công việc, ai cũng cần phải đưa ra những tư tưởng,
quan điểm, chủ kiến riêng. Do đó, khi muốn thuyết phục người đọc, người nghe về
một tư tưởng, quan điểm nào đó thì người viết, người nói phải sử dụng dẫn chứng và
lí lẽ để giải thích, chứng minh, bình luận, phân tích…chúng ta có phương thức lập
luận và văn bản nghị luận. Văn nghị luận là sản phẩm của tư duy lôgic, giúp cho việc
phát triển tư duy và nhận thức trừu tượng, lí tính, khoa học trước những vấn đề đặt ra
trong cuộc sống.
Trong chương trình Ngữ văn THPT, so với năm loại văn bản: miêu tả, tự
sự, biểu cảm, thuyết minh, hành chính – công vụ thì học sinh chủ yếu được trang bị
những kiến thức và rèn luyện kĩ năng tạo lập văn bản nghị luận.
Trong chương trình làm văn CCGD trước đây, cả ba khối lớp 10,11,12
chỉ học về văn nghị luận. “Đến cuối cấp II và lên cấp III, chương trình quy định chủ
yếu học và tập làm văn nghị luận” [48, tr.9], “Chương trình làm văn THPT hiện nay
chỉ tập trung vào văn nghị luận” [63, tr.57], “THPT trọng tâm làm văn và học làm
văn nghị luận” [63, tr.59]. Ở chương trình mới, nhất là ở lớp 11, toàn bộ chương
trình làm văn là học về văn nghị luận. Từ đó có thể thấy được sức ảnh hưởng và tầm
quan trọng của văn nghị luận trong cả chương trình cũ và chương trình mới. “Dạy
học làm văn nghị luận là một công việc, một yêu cầu trọng yếu của việc học văn
trong nhà trường” [49, tr.145].
Điều này trước hết xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lí của học sinh ở bậc
THPT, các em học sinh lứa tuổi này đã bắt đầu hình thành nhân sinh quan, mong
muốn trình bày, lí giải những vấn đề trong cuộc sống bằng chính quan niệm riêng,
bằng chủ kiến của mình. Do đó, tư duy lôgic cũng phát triển đến một mức độ nhất
định. “Sự phát triển của tư duy trừu tượng trong những năm đó diễn ra một cách đặc
biệt mạnh mẽ và đôi lúc át hẳn cảm xúc và cách nhìn hình tượng của học sinh…dẫn
học sinh đến chỗ lí giải được cấu tứ của tác giả và nội dung tư tưởng – nghệ thuật
của tác phẩm một cách sâu sắc hơn” [56, tr.77]. Học sinh khi làm văn nghị luận phải
gắn liền với hai mặt: tư duy – ngôn ngữ; một mặt, phải suy nghĩ để tìm kiếm cho bài
văn của mình các ý tưởng phong phú, mặt khác phải lựa chọn ngôn ngữ diễn đạt, làm
cho bài văn không những có ý tưởng dồi dào mà còn có lời văn trong sáng, mạch lạc,
giàu sức thuyết phục, thể hiện được tình, ý của người viết một cách rõ ràng.
Học văn nghị luận không chỉ xuất phát từ việc rèn luyện thuần thục kĩ
năng ngôn ngữ và cảm thụ văn chương. Mục đích của dạy làm văn nghị luận còn là
xây dựng cho học sinh phương pháp tư duy đúng đắn để hình thành ở các em nhân
sinh quan tiến bộ và thế giới quan khoa học.
Ngoài ra, việc dạy làm văn nghị luận còn xuất phát từ nhu cầu thực tiễn,
thiết thực của giáo dục và đời sống. Bởi lẽ, dù muốn hay không thì trong bất cứ lĩnh
vực nào cũng cần sử dụng những thao tác lập luận của văn nghị luận. Văn nghị luận
khi đi vào cuộc sống lại trở nên vô cùng phong phú, đa dạng, thâm nhập vào tất cả
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và có vai trò hướng dẫn, thúc đẩy hoạt động thực
tiễn của con người, đòi hỏi những lập luận chặt chẽ, mạch lạc, giàu sức thuyết phục
qua những bằng chứng cụ thể, xác thực – những điều mà học sinh đã được rèn luyện
từ trên ghế nhà trường, từ đó hình thành một khả năng sử dụng ngôn ngữ linh hoạt và
một tư duy lôgic sắc sảo, nhạy bén – những điều mà các em sẽ mang theo trong suốt
cuộc đời khi rời ghế nhà trường.
Điều đó rất phù hợp với quan điểm dạy học mới là làm thế nào để khi
không còn ngồi trên ghế nhà trường mà các em vẫn có thể tự học, học suốt đời và vận
dụng tốt những điều đã học vào cuộc sống, biết cách đưa ra chủ kiến, quan điểm,
nhận xét, đánh giá một cách thuyết phục và hiệu quả trước mọi vấn đề trong cuộc
sống, công việc.
Như vậy, chương trình Ngữ văn ở nhà trường phổ thông hiện nay, ở cả
phần tiếp nhận văn bản và tạo lập văn bản, đã phản ánh rõ sự chuyển biến nhận thức
về vị trí, vai trò của văn chương nghị luận trong đời sống con người. Vấn đề là chúng
ta sẽ sử dụng những thay đổi tích cực của chương trình như thế nào để đạt được
những mục tiêu về dạy tiếp nhận và tạo lập một văn bản nghị luận cho học sinh một
cách hiệu quả nhất.
2.2. Phương pháp dạy học tiếp nhận văn bản nghị luận
2.2.1. Tiếp nhận cách xác định và triển khai luận điểm
2.2.1.1. Tiếp nhận luận điểm trong văn nghị luận
Mỗi bài văn nghị luận là một đề xuất ý kiến, nhận định, quan điểm, tư
tưởng của người viết trước một vấn đề của văn học hay cuộc sống. Vẻ đẹp của văn
nghị luận trên phương diện này chính là chất trí tuệ, chất trí tuệ của bài văn thể hiện ở
hệ thống luận điểm. “Người ta, trong quá trình trình này lí lẽ hoặc làm bài văn nghị
luận, luôn rất coi trọng luận điểm…” [60, tr.26]. Xét ở góc độ tác giả, luận điểm
chính là tư tưởng, quan điểm, nhận định, chủ trương đánh giá của người viết đối với
vần đề cần thuyết phục và làm sáng tỏ trong bài văn nghị luận. Xét ở góc độ bài văn,
luận điểm là tư tưởng trung tâm của bài văn, thể hiện rõ sự tán thành hay phản đối đối
với vấn đề nghị luận. Xem xét từ mối quan hệ giữa ba yếu tố, luận điểm chính là gốc
rễ, là linh hồn của bài văn. Nó vừa là điểm xuất phát vừa là điểm kết, có tác dụng như
một cương lĩnh trong toàn bài.
Luận điểm của bài văn nghị luận thường được thể hiện dưới hình thức
những tiêu đề của bài văn, những câu văn ngắn gọn có tính chất khẳng định hay phủ
định, ví dụ như:
- Nguyễn Đình Chiểu – ngôi sao sáng trong văn nghệ dân tộc
- Một phương diện của thiên tài Nguyễn Du : Từ Hải
- Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình
- Xuân Diệu – nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới
- Nhân dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước
- Làm sao có thể sống thiếu bạn bè
- Không phải cái gì óng ánh cũng là vàng
Một bài văn nghị luận bao giờ cũng có luận điểm trung tâm, nó được ví
như một chiếc đinh để người ta treo toàn bộ chiếc áo là bài văn nghị luận trên đó. Tuy
nhiên, có luận điểm chưa phải là yếu tố quyết định để có được một bài văn nghị luận
hay mà điều quan trọng làm nên một bài văn nghị luận hay là ở sự chính xác, tập
trung, sáng rõ, sâu sắc, mới mẻ và độc đáo của luận điểm đó. Luận điểm mới mẻ, sâu
sắc và độc đáo không tự nhiên mà có, nó đòi hỏi người viết phải xuất phát từ cuộc
sống thực tế và kho tàng tư tưởng đạo lí của dân tộc và nhân loại.
Khi viết Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay từ đầu bản
tuyên ngôn đã trích dẫn những lời văn hùng hồn từ hai bản tuyên ngôn của Pháp và
Mĩ, đồng thời cũng là tư tưởng sâu sắc của nhân loại về quyền sống của con người:
“dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Từ những “lẽ
phải không ai chối cãi được” đó, Hồ Chí Minh đã dùng phép suy luận để “suy rộng
ra”: “tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có
quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Đồng thời, từ chính lời lẽ của tổ tiên
người Pháp và Mĩ, Người đã lật ngược lại vấn đề: “ Thế mà hơn 80 năm nay, bọn
thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp nước ta, áp bức
đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa”. Việc trích
dẫn để suy rộng ra: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, từ đó nhấn
mạnh quan điểm: “dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự
do” và cách đặt vấn đề, dẫn dắt, chỉ ra mâu thuẫn giữa lời nói và hành động của bọn
thực dân, từ đó đưa ra luận điểm có tính chất kết tội: “Hành động của chúng trái hẳn
với nhân đạo và chính nghĩa” chính là Người đã nêu lên luận điểm một cách mới mẻ
và độc đáo.
Một trong những thủ pháp để tìm ra những luận điểm sâu sắc, mới mẻ là
người viết thường đặt ngược lại vấn đề, liên hệ, so sánh hoặc nhìn vấn đề ở nhiều góc
độ khác nhau để phát hiện ra những khía cạnh mà người đi trước chưa nhìn thấy.
Chẳng hạn như khi viết về Nguyễn Đình Chiểu, một ngôi sao sáng trên bầu trời văn
nghệ, Phạm Văn Đồng đã phát biểu một luận điểm hiển nhiên nhưng đầy bất ngờ và
mới mẻ: “Trên trời có những vì sao có ánh sáng khác thường, nhưng con mắt của
chúng ta phải chăm chú nhìn thì mới thấy và càng nhìn thì càng thấy sáng. Văn thơ
của Nguyễn Đình Chiểu cũng vậy”.
Để tìm ra được luận điểm với những ý mới, ý riêng, mới mẻ, sâu sắc là
công việc quyết định nhất và tất nhiên cũng là công việc khó khăn nhất đối với người
viết văn nghị luận. Điều này cũng có nghĩa là khi tiếp nhận một bài văn nghị luận hay
phải tìm ra và đánh giá được các luận điểm mới mẻ, độc đáo của người viết. Thấy
được điều đó cũng chính là thấy được vẻ đẹp của bài văn nghị luận.
Văn nghị luận thuyết phục người đọc bằng lập luận lôgic chặt chẽ. Cái
hay, cái đẹp của bài văn nghị luận cũng là ở chỗ đó. Có luận điểm mới mẻ, độc đáo là
hết sức quan trọng nhưng để bài văn có sức thuyết phục cao thì riêng luận điểm chưa
đủ. Việc phát hiện ra các luận điểm hay trong bài văn nghị luận là quan trọng, nhưng
quan trọng hơn là phân tích được cách trình bày, triển khai hợp lí các luận điểm đó,
nghĩa là phải nhấn mạnh đến vai trò của lập luận trong văn nghị luận. Một bài văn
nghị luận thường có một luận điểm trung tâm và có một hệ thống luận điểm bộ phận
nhằm triển khai luận điểm trung tâm theo những cách lập luận cụ thể. Như vậy, luận
điểm là nội dung còn lập luận là hình thức diễn đạt nội dung đó.
Có thể nói, lập luận là dùng những lí lẽ và dẫn chứng để làm sáng tỏ một
vấn đề, một quan điểm, một tư tưởng để người đọc hiểu, tin và đồng tình với mình.
Lập luận chính là đặc trưng quan trọng của văn nghị luận, thể hiện năng lực suy lí,
năng lực thuyết phục của người viết, đồng thời cũng là yếu tố quan trọng tạo nên sự
lôgic, chính xác, sắc bén và tính nghệ thuật cho bài văn nghị luận. Lập luận trong bài
văn nghị luận vì thế thường có màu sắc đối thoại, tranh biện. Phạm Văn Đồng đã viết
đoạn văn nghị luận ca ngợi Nguyễn Trãi, một anh hùng của dân tộc như sau:
“ Nguyễn Mộng Tuân, một người bạn của Nguyễn Trãi, đã ca ngợi
Nguyễn Trãi như sau: “Gió thanh hây hẩy gác vàng, người như một ông tiên ở trong
tòa ngọc, cái tài làm hay, làm đẹp cho nước, từ xưa chưa có bao giờ…”. Nguyễn Trãi
không phải là một ông tiên, Nguyễn Trãi là người đầu đội trời Việt Nam, tâm hồn
lộng gió của thời đại lúc bấy giờ, thông cảm sâu xa với nỗi lòng nhân dân lúc bấy giờ,
suốt đời tận tụy cho một lí tưởng cao quý…”.
Từ đó mới thấy rằng để viết được một bài văn nghị luận hay là rất khó.
Trong hàng loạt những yếu tố quyết định chất lượng của một bài văn nghị luận, có
những yếu tố quan trọng đóng vai trò là bộ khung, giường cột cho bài văn có hình hài
và đứng vững. Luận điểm và cách lập luận trong bài văn nghị luận là những yếu tố
như thế. Thiếu các yếu tố này, bài nghị luận sẽ sụp đổ hoàn toàn.
2.2.1.2.Tiếp nhận cách triển khai luận điểm trong văn nghị luận
Trong giờ dạy tiếp nhận văn bản nghị luận, giáo viên không chỉ làm rõ
nội dung tư tưởng của văn bản mà còn giúp học sinh nhận ra vẻ đẹp trong lập luận
của văn bản đó. Vẻ đẹp trong luận luận của một văn bản nghị luận trước hết thể hiện
ở luận điểm – linh hồn của bài băn. Vì vậy, thông qua các giờ dạy tiếp nhận văn bản
nghị luận, có thể rèn luyện kỹ năng xác định luận điểm cho học sinh.
* Trong chương trình Ngữ văn lớp 10 (ban cơ bản), học sinh được tiếp
xúc với tác phẩm nghị luận trung đại: Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Trong quá
trình tìm hiểu bài cáo, giáo viên cần đặt vấn đề để giúp học sinh nhận ra luận điểm
sâu sắc và mới mẻ của bài cáo qua hệ thống câu hỏi như sau:
- Trong đoạn 1, luận đề chính nghĩa được nêu cao bao gồm
mấy luận điểm chủ yếu? Đó là những luận điểm nào?
- Phân tích cách triển khai hệ thống luận điểm đó? Từ đó,
nhận xét vị trí và vai trò của đoạn mở đầu trong toàn bài cáo?
Trong đoạn mở đầu, luận đề chính nghĩa được nêu cao bao gồm hai luận
điểm: luận điểm 1 – Tư tưởng nhân nghĩa, yên dân, trừ bạo và luận điểm 2 – Chân lí
khách quan về độc lập chủ quyền của nước Đại Việt. Đầu tiên với luận điểm 1, cống
hiến quan trọng nhất của Nguyễn Trãi là ở chỗ phát trển tư tưởng đó theo hướng tích
cực, tiến bộ và mới mẻ. Nguyễn Trãi đã khái quát sâu sắc chân lí nhân nghĩa của
nước Đại Việt thế kỉ XV: Nhân nghĩa gắn với yên dân, nhân nghĩa là chống xâm
lược. Có vậy mới bóc trần luận điệu gian trá của giặc Minh (phù Trần diệt Hồ giúp
An Nam). Từ đó khẳng định cuộc chiến của ta là chính nghĩa, giặc xâm lược cướp
nước ta là hành động phi nghĩa. Tiếp theo, ở luận điểm 2, tác giả tiếp tục khẳng định
chân lí khách quan về độc lập chủ quyền của nước Đại Việt: dân tộc ta hoàn toàn có
quyền độc lập, chủ quyền, có lịch sử riêng, văn hoá riêng, không thiếu người tài giỏi,
hoàn toàn có thể sánh với Trung Quốc về nhiều mặt. Đó là chân lí hiển nhiên, vốn có
lâu đời. Như vậy, có thể thấy đoạn mở đầu có vị trí và vai trò hết sức quan trọng đối
với toàn bộ nội dung bài cáo. Nguyễn Trãi đã nêu cao luận đề chính nghĩa làm nền,
làm tư tưởng cốt lõi, chỗ dựa và sức mạnh tinh thần cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn,
cho mười năm chiến đấu gian nan và thắng lợi vẻ vang của cuộc khởi nghĩa.
* Ở lớp 11, với tác phẩm nghị luận Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm,
giáo viên có thể hướng dẫn học sinh xác định luận điểm của bài bằng hệ thống câu
hỏi:
- Để đi đến kết luận mang ý nghĩa điểm tựa cho lập luận:
Hiền tài cần phải phụng sự cho đời mới là đúng ý trời, tác giả đã xuất
phát từ luận điểm gì?
- Cách triển khai luận điểm này có cho anh / chị thấy được
sự khéo léo trong cách thức thuyết phục của tác giả bài chiếu?
- Luận điểm đó có tác dụng như thế nào đối với bài văn
nghị luận?
Trong tác phẩm nghị luận Chiếu cầu hiền, để đi đến kết luận mang ý
nghĩa điểm tựa cho lập luận: Hiền tài cần phải phụng sự cho đời mới là đúng ý trời,
tác giả đã xuất phát từ luận điểm mang tính chất khẳng định: “Người hiền xuất hiện
ở đời, thì như ngôi sao sáng trên trời cao”. Mở đầu văn bản, Chiếu cầu hiền đã bắt
đầu bằng việc khẳng định rất rõ ràng và trên trọng vai trò của những người có tài, có
đức. Tác giả so sánh người hiền giống như ngôi sao sáng trên bầu trời. Luận điểm
mở đầu là một cách tác giả bài chiếu cho giới sĩ phu Bắc Hà thấy rõ hoàng đế Quang
Trung tuy xuất thân từ áo vải cờ đào mà có tầm suy nghĩ và tư tưởng chiêu hiền đãi
sĩ như tất cả các vị vua và những triều đại trước đây, phần nào xoá đi tâm lí nghi
ngờ, chờ đợi của những bậc hiền tài. Ngay sau lời so sánh đánh giá cao người có tài
có đức, tác giả đã khéo léo dẫn ra một quy luật của tinh tú là chầu về sao Bắc Đẩu –
ngôi sao tượng trưng cho thiên tử. Để từ đó đi đến một kết luận hợp lẽ là “người
hiền ắt làm sứ giả cho thiên tử”. Sự khẳng định còn mạnh mẽ hơn khi tác giả đặt ra
giả thiết để từ đó phủ nhận thái độ quay lưng lại với thời cuộc chính là trái với ý trời,
đi ngược lại với quy luật hợp lẽ xưa nay: “Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp,
có tài mà không được đời dùng, thì đó không phải là ý trời sinh ra người hiền vậy”.
Những hình ảnh được rút ra từ Luận ngữ - cuốn sách kinh điển của nhà Nho – rõ
ràng sẽ có một sức thuyết phục rất cao đối với giới sĩ phu Bắc Hà trong bối cảnh đó.
* Ở lớp 12, học sinh được học hai tác phẩm nghị luận mẫu mực, đó là
tác phẩm Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh và Nguyễn Đình Chiểu – ngôi sao
sáng trong văn nghệ của dân tộc của Phạm Văn Đồng. Tác giả của hai văn bản
nghị luận này đều đưa ra những luận điểm sâu sắc và mới mẻ, có thể trở thành một
mẫu tiêu biểu cho tính độc đáo, mới mẻ và sâu sắc của luận điểm trong văn bản nghị
luận.
Với tác phẩm Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh, giáo viên có thể
hướng dẫn học sinh phân tích tính mới mẻ của luận điểm bằng những câu hỏi:
- Khép lại phần mở đầu của bản tuyên ngôn, Hồ Chí Minh đã khẳng định
chân lí về quyền tự do độc lập dân tộc bằng luận điểm sâu sắc, mới mẻ
nào?
- Để đưa ra luận điểm có tính chất quyết liệt và đanh thép như vậy, tác giả
đã lập luận khéo léo như thế nào?
- Đặt trong chỉnh thể của bản tuyên ngôn, luận điểm đó có vai trò như thế
nào đối với mạch lập luận?
Khép lại phần mở đầu, Hồ Chí Minh khẳng định chân lí về quyền tự do
độc lập dân tộc bằng một luận điểm đanh thép, chắc gọn: “Đó là những lẽ phải
không ai chối cãi được”. Lẽ phải mà tác giả nêu trong phần mở đầu không có gì khác
là quyền bình đẳng, quyền sống tự do, sung sướng, hạnh phúc của mỗi một cá nhân,
mỗi một dân tộc. Bởi thế Hồ Chí Minh đã lựa chọn cách tiếp cận chân lí mà tác giả
gọi là lẽ phải đó bằng cách trích dẫn những tác phẩm bất hủ, được ra đời và thử thách
qua các cuộc cách mạng lớn trên thế giới. Đó là các bản Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ
năm 1776, Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1791. Đồng thời với
việc lựa chọn trích dẫn, tác giả còn dùng phép suy luận tương đồng để bổ sung những
điểm mới cho lẽ phải mà mình muốn khẳng định và thuyết phục. Trong hai bản tuyên
ngôn của Pháp và Mĩ, quyền bình đẳng, tự do, hạnh phúc được khẳng định và bảo vệ
cho từng cá nhân cụ thể. Hồ Chí Minh “suy rộng ra” để thấy “tất cả các dân tộc trên
thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và
quyền tự do”. Cách đặt vấn đề của Bác rất khéo léo và kiên quyết. Khéo léo ở chỗ đã
thể hiện sự tôn trọng chân lí và lẽ phải của chính người Pháp và người Mĩ. Kiên
quyết ở chỗ muốn nhắc họ đừng phản bội lại lí tưởng cao cả mà tổ tiên họ đã dựng
nên, đừng chà đạp lên chân lí mà nhân loại đã thừa nhận.
Khép lại phần mở đầu bằng một luận điểm kiên quyết và đanh thép như
vậy - “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được” - hàm chứa những dụng ý sâu
xa của người viết tuyên ngôn. Trong chỉnh thể bài văn, đây là một cái chốt quan trọng
của mạch lập luận. Nó khẳng định những điều được trích dẫn và những “suy rộng ra”
ở phía trên là lẽ phải, là chân lí. Nó trở thành tiêu chí chung thống nhất trước khi mỗi
bên trình bày biện luận của mình. Và phải có một tường thành lí luận vững chắc,
sừng sững như vậy dựng lên, những điều được nói đến ở phía sau mới có sức nặng
thuyết phục và giá trị pháp lí. Với việc triển khai luận điểm bằng một lập luận chặt
chẽ, lôgic, Bác đã xác định được một lẽ phải từ những chân lí của lịch sử làm cơ sở
cho bản Tuyên ngôn độc lập và khẳng định được quyền tự do độc lập của dân tộc
Việt Nam bằng chính những lời lẽ của tổ tiên người Pháp và người Mĩ.
Với văn bản nghị luận Nguyễn Đình Chiểu – ngôi sao sáng trong văn
nghệ của dân tộc của Phạm Văn Đồng, giáo viên có thể dẫn dắt học sinh tìm hiểu
tính mới mẻ của luận điểm như sau:
- Trong văn bản, luận điểm xuất phát cũng là luận điểm bao trùm bài viết
được thể hiện trong hai câu văn: “Trên trời có những vì sao có ánh sáng
khác thường, nhưng con mắt của chúng ta phải chăm chú nhìn thì mới
thấy và càng nhìn thì càng thấy sáng. Văn thơ của Nguyễn Đình Chiểu
cũng vậy”. Anh / chị hãy giải thích rõ luận điểm và cho biết vì sao nhiều
nhà nghiên cứu đều cho rằng đây là cách nhìn khoa học, mới mẻ và sâu
sắc của Phạm Văn Đồng về thơ văn Nguyễn Đình Chiểu?
- Để làm rõ quan điểm mới mẻ và sâu sắc của mình về thơ văn Nguyễn
Đình Chiểu, tác giả bài viết đã triển khai luận điểm đó như thế nào trong
suốt toàn bộ văn bản?
- Có ý kiến cho rằng cách sắp xếp các luận điểm của bài viết chưa hợp lí
bởi luận điểm 3 đáng lẽ phải được trình bày trước luận điểm 2 và phải
được trình bày kĩ hơn luận điểm 2, nhưng ở đây Phạm Văn Đồng đã đảo
ngược trật tự các luận điểm thay vì phải tập trung viết về Lục Vân Tiên –
“một tác phẩm lớn” thì ông lại viết rất kĩ về mảng thơ văn yêu nước cho
ngoại xâm. Anh / chị có đồng tình với ý kiến trên không? Vì sao?
- Từ cách triển khai luận điểm của Phạm Văn Đồng, chúng ta rút ra được
bài học gì cho mình khi viết văn nói chung và văn nghị luận nói riêng?
Ngay phần mở đầu văn bản, tác giả đã đưa ra cách nhìn mới mẻ, sâu
sắc về Nguyễn Đình Chiểu: “Trên trời có những vì sao có ánh sáng khác thường,
nhưng con mắt của chúng ta phải chăm chú nhìn thì mới thấy và càng nhìn thì càng
thấy sáng. Văn thơ của Nguyễn Đình Chiểu cũng vậy”. Trong luận điểm này, tác giả
đã so sánh liên tưởng văn chương Nguyễn Đình Chiểu như “những vì sao có ánh
sáng khác thường” nghĩa là Nguyễn Đình Chiểu là một hiện tượng văn học độc đáo,
thơ văn ông có vẻ đẹp riêng không dễ gì nhận ra.; vì vậy phải “chăm chú nhìn thì
mới thấy”, phải cố gắng tìm hiểu và tìm hiểu kĩ, phải kiên trì nghiên cứu thì mới
cảm nhận được vẻ đẹp riêng của nó; và “càng nhìn thì càng thấy sáng”, càng
nghiên cứu sâu, càng tìm hiểu kĩ ta sẽ àng thấy được cái hay của nó và càng khám
phá được những vẻ đẹp mới. Như vậy, so với thói quen đánh giá thơ văn cụ Đồ
Chiểu trước đó – chỉ dựa vào hình thức nghệ thuật trau chuốt, lời văn trang nhã, hoa
mĩ, thì đây là cách tiếp cận vấn đề mới và sâu sắc. Đồng thời, cách nêu vấn đề mới
mẻ này còn đóng vai trò định hướng cho việc nghiên cứu, tiếp cận thơ văn Nguyễn
Đình Chiểu: cần có cách nhìn mới mẻ, sâu sắc, khao học và hợp lí.
Để làm rõ quan điểm mới mẻ và sâu sắc của mình về thơ văn Nguyễn
Đình Chiểu, tác giả bài viết đã triển khai luận điểm trong phần mở đầu thành một hệ
thống luận điểm ở phần nội dung của bài nghị luận như sau:
- “Ánh sáng khác thường” trong cuộc đời và quan niệm văn chương của
Nguyễn Đình Chiểu.
- “Ánh sáng khác thường” trong thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu.
- “Ánh sáng khác thường” trong truyện thơ Lục Vân Tiên.
Khép lại bài viết, tác giả kết luận, đánh giá vị trí của Nguyễn Đình
Chiểu trong nền văn học dân tộc, khẳng định những giá trị vượt thời gian của thơ
văn Đồ Chiểu: “Tóm lại, Nguyễn Đình Chiểu là một người chí sĩ yêu nước, một nhà
thơ lớn của nước ta. Đời sống và sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu là một tấm
gương sáng, nêu cao địa vị và tác dụng của văn học, nghệ thuật, nêu cao sứ mạng
của người chiến sĩ trên mặt trận văn hoá và tư tưởng”.
Về ý kiến cho rằng cách sắp xếp các luận điểm của bài viết chưa hợp lí,
nếu đặt bài viết trên vào sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu thì quả thật luận
điểm 3 phải được trình bày trước luận điểm 2 vì tác phẩm Lục Vân Tiên được sáng
tác trước khi thực dân Pháp xâm lược nước ta (1858). Mặt khác, nếu so về tầm vóc,
chất lượng tác phẩm và mức độ ảnh hưởng trong độc giả Nam Bộ thì truyện thơ Lục
Vân Tiên hơn hẳn các tác phẩm thơ văn yêu nước chống Pháp của Nguyễn Đình
Chiểu sau này. Tuy nhiên cần phải đặt bài viết trong hoàn cảnh ra đời của nó –
những năm tháng chiến đấu ác liệt chống đế quốc Mĩ của nhân dân Nam Bộ nói
riêng và cả nước nói chung – để hiểu dụng ý và mục đích của Phạm Văn Đồng khi
viết bài nghị luận này. Ngoài việc đánh giá thơ văn Nguyễn Đình Chiểu từ góc độ
của một bạn đọc, Phạm Văn Đồng còn xuất phát từ chỗ đứng và nhãn quan của một
nhà chính trị đang tham gia lãnh đạo đất nước tiến hành cuộc kháng chiến vĩ đại để
khẳng định và phát huy sức mạnh của văn học nghệ thuật, của thơ văn Đồ Chiểu đối
với sự nghiệp cách mạng của dân tộc trong thời đại mới. Với Phạm Văn Đồng, đây
là cách huy động nội lực từ quá khứ, tiếp thêm sức mạnh từ truyền thống ông cha
nhằm nhân lên sức mạnh cho toàn dân tộc trong cuộc chiến đấu hôm nay. Và đó là lí
do vì sao tác giả đã có cách lập luận như vậy.
Với một bố cục rõ ràng như thế, bước đầu ta có thể nhận xét về lập luận
của bài viết, một lập luận chặt chẽ, lôgíc, các luận điểm đều bám sát vào vấn đề
trung tâm của bài viết mà phần mở đầu đã nêu ra. Đây cũng chính là những yêu cầu
đặt ra khi chúng ta viết một bài văn nói chung và bài văn nghị luận nói riêng. Mặt
khác, từ cách triển khai luận điểm của Phạm Văn Đồng, học sinh có thể rút ra bài
học cho việc viết văn, làm văn của mình: mục đích viết sẽ quyết định nội dung viết
và cách viết cũng như mục đích nghị luận sẽ quyết định cách sắp xếp các luận điểm
và mức độ lớn nhỏ của các luận điểm.
2.2.2. Tiếp nhận cách vận dụng kết hợp các thao tác lập luận
2.2.2.1. Các thao tác lập luận trong văn nghị luận
Chúng ta đã biết, để tạo lập một văn bản, người viết có thể sử dụng
những phương thức biểu đạt khác nhau, tương ứng với mỗi phương thức biểu đạt gắn
với một kiểu tư duy là một loại văn bản với những đặc điểm riêng. Trong văn nghị
luận, để thuyết phục người đọc, người nghe, đòi hỏi người viết phải soi chiếu vấn đề
từ nhiều góc độ. Với mỗi góc độ soi chiếu, người viết phải thực hiện những thao tác
nghị luận cụ thể như giải thích, chứng minh, phân tích, so sánh, bình luận, bác
bỏ…Tác giả có thể lập luận bằng cách diễn dịch, quy nạp, song hành. Hoặc lập luận
tương phản như trong Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh, hay lập luận bằng cách
nêu câu hỏi như trong Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo, hay có thể dùng lối lập
luận móc xích như Khổng Tử khi bàn về thuyết chính danh hay lập luận theo lối phản
đề như Hoài Thanh nói về bi kịch tâm hồn của các nhà thơ mới…
Ngoài việc ôn tập và nâng cao các thao tác lập luận đã học ở THCS như
giải thích và chứng minh, Chương trình làm văn ở THPT giới thiệu một số thao tác
lập luận mới có nội dung đa dạng, phong phú, khó và phức tạp hơn. Đó là các thao
tác: lập luận phân tích, lập luận so sánh, lập luận bác bỏ, lập luận bình luận. Đây
là những thao tác hết sức quan trọng trong việc viết một bài văn nghị luận. Chúng
được vận dụng thường xuyên ở những bài viết có yêu cầu cao, tạo nên chất lượng của
bài văn nghị luận. Vì thế, sách Ngữ văn 11 (cơ bản và nâng cao) đã tập trung dạy học
các thao tác này với yêu cầu khá hoàn chỉnh.
- Phân tích là một kiểu lập luận nhằm làm rõ một ý kiến, một
kết luận về một hiện tượng hoặc một vấn đề bằng cách dùng thao tác phân
tích chia ý kiến, kết luận ấy ra thành từng mặt, từng phần để có thể xem xét
một cách tường tận, kĩ lưỡng.
- So sánh là một kiểu lập luận nhằm làm rõ một ý kiến, một
kết luận về một hiện tượng hoặc một vấn đề bằng cách dùng thao tác so
sánh để xem xét một cách tường tận, kĩ lưỡng những điểm chung và điểm
riêng, những chỗ giống nhau và khác nhau so với các hiện tượng hoặc vấn
đề có liên quan được đem ra so sánh.
- Bác bỏ là một kiểu lập luận nhằm phủ nhận một ý kiến, một
kết luận về một hiện tượng, một vấn đề bằng cách dùng thao tác bác bỏ để
chỉ ra một cách rõ ràng, tường tận, thấu đáo những sự vô lí, sai lầm của nó,
qua đó giúp người đọc (người nghe) nhìn nhận hiện tượng, vấn đề một cách
đúng đắn, xác thực hơn.
- Bình luận là một kiểu lập luận nhằm đề xuất và thuyết phục
người đọc (người nghe) tán đồng với ý kiến đánh giá, bàn bạc của mình về
một hiện tượng (vấn đề) trong đời sống hoặc trong văn học.
Các thao tác lập luận nêu trên thường được triển khai theo hai hình thức
diễn dịch và quy nạp, trong đó, diễn dịch là đi từ những tiền đề chung đến những
trường hợp cụ thể, còn quy nạp là xuất phát từ sự phân tích so sánh những sự việc cá
biệt để đi đến khái quát chung. Tuy nhiên, nếu trong văn chương hư cấu thường có sự
kết hợp của nhiều phương thức biểu đạt (tự sự, miêu tả, biểu cảm) thì trong văn
chương nghị luận cũng thường có sự kết hợp nhiều thao tác lập luận trong cùng một
tác phẩm. Thực tế cho thấy, không có một bài văn nghị luận nào chỉ sử dụng duy nhất
một thao tác lập luận, chúng thường kết hợp với nhau một cách nhuần nhuyễn. Chẳng
hạn như, mô hình “tổng – phân – hợp” trong đoạn văn chính là sự kết hợp của hai
hình thức diễn dịch và quy nạp, của hai thao tác phân tích và tổng hợp, trong đó,
người viết xuất phát từ những tiền đề đưa ra đã được chứng minh, giải thích, phân
tích để rút ra những nhận xét, đánh giá khái quát về ý nghĩa giá trị của vấn đề.
Một điều cần lưu ý là không phải bất kì văn bản nghị luận nào cũng huy
động tất cả các thao tác lập luận. Tùy thuộc vào vấn đề, tùy thuộc vào đối tượng tiếp
nhận, tùy thuộc vào người viết giả định mà có thể chọn một số thao tác nhất định.
Chẳng hạn như, khi vấn đề đưa ra đã là một chân lí được thừa nhận thì có thể không
cần đến thao tác giải thích; một đoạn văn vẫn có thể chỉ triển khai theo một thao tác
diễn dịch hoặc quy nạp; hoặc với người viết và người đọc đã có sự am hiểu nhất định
về vấn đề được đưa ra thì có thể không cần giải thích, chứng minh mà cần đi sâu vào
phân tích, tổng hợp. Vì vậy, trong một đoạn văn nghị luận, một bài văn nghị luận, sẽ
có một hoặc hai thao tác chính có vai trò nòng cốt tạo nên mạch lập luận. Bên cạnh
đó, không chỉ có các thao tác lập luận được sử dụng trong văn nghị luận mà nhiều
khi cả những yếu tố miêu tả, tự sự, biểu cảm… cũng rất cần được người viết đưa vào
để bài văn nghị luận vừa có sự chặt chẽ, lôgic trong tư duy, vừa có được sự sinh động,
hấp dẫn và giàu hình tượng, đem lại sự thuyết phục cả về lí trí và tình cảm đối với
người đọc, người nghe.
Văn nghị luận là loại văn của tư duy khái niệm, lôgic. Một bài văn nghị
luận hay đòi hỏi ý tứ mạch lạc, sáng sủa; lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, đảm bảo tính
chính xác và giàu sức thuyết phục. Để đạt được yêu cầu đó, người viết cần nắm vững
và biết huy động, vận dụng kết hợp các thao tác lập luận để triển khai vấn đề. Điều
này chứng tỏ sức hấp dẫn và vẻ đẹp của bài văn nghị luận không chỉ ở chiều sâu tư
tưởng mà còn ở nghệ thuật lập luận của người viết.
2.2.2.2. Tiếp nhận cách vận dụng kết hợp các thao tác lập luận trong
văn nghị luận
Như trên đã nêu, trong thực tế không có một bài văn nghị luận nào chỉ
sử dụng một thao tác lập luận mà bao giờ cũng kết hợp các thao tác khác nhau, trong
đó có một vài thao tác chính. Tuy vậy, để rèn luyện kĩ năng cho học sinh, cần tách ra
từng thao tác để thực hành luyện tập, nhưng khi viết bài, bao giờ người viết cũng phải
kết hợp nhiều thao tác lập luận. Do đó, bên cạnh các bài học thao tác lập luận riêng
bao giờ cũng có các bài yêu cầu học sinh kết hợp các thao tác lập luận. Chương trình
làm văn 11 tập trung vào việc rèn luyện các thao tác lập luận riêng: phân tích, so sánh,
bác bỏ, bình luận. Chương trình làm văn 12 sẽ dành khá nhiều thời gian để luyện tập
kĩ năng kết hợp các thao tác lập luận trong bài văn nghị luận. Ở mỗi thao tác lập luận,
giáo viên có thể vận dụng mối quan hệ giữa tiếp nhận và tạo lập trong văn nghị luận
để rèn luyện kĩ năng phân tích cho học sinh với các phương pháp đặc thù như: Quan
sát mẫu, phân tích và nhận xét mẫu, tập xây dựng theo mẫu, sáng tạo từ mẫu.
a. Thao tác lập luận phân tích
Là một trong những thao tác được vận dụng thường xuyên ở nhiều lĩnh
vực của cuộc sống, thao tác phân tích giúp con người đi sâu vào hiện tượng, sự việc
nhằm tìm hiểu, khám phá và nhận biết bản chất của sự vật, hiện tượng đó. Như vậy,
thao tác này là một thao tác của tư duy nói chung chứ không phải riêng cho một lĩnh
vực nào.
Lâu nay trong việc dạy học làm văn, Chương trình và SGK coi thao tác
này là một kiểu bài: phân tích tác phẩm văn học, phân tích nhân vật, phân tích một
vấn đề văn học sử hoặc lí luận văn học. Quan niệm này dễ dẫn đến cách hiểu hạn hẹp
về thao tác phân tích, và do đó không phát huy được kĩ năng phân tích, năng lực phân
tích do thao tác này ở nhiều lĩnh vực khác của người học. Chương trình và SGK mới
chủ trương dạy thao tác này như một thao tác chung, hình thành và rèn luyện kĩ năng
này cho học sinh một cách đa dạng, phong phú và toàn diện hơn.
Để dạy thao tác lập luận phân tích cho học sinh, cần bắt đầu bằng việc
đưa ra một văn bản nghị luận trong đó thao tác phân tích được sử dụng một cách nổi
bật (mẫu), sau đó yêu cầu học sinh đọc, quan sát, để tự nhận ra đặc điểm nổi bật của
văn bản theo câu hỏi của giáo viên. Song, công việc này có thể được tích hợp giảng
dạy trong giờ dạy tiếp nhận văn bản văn nghị luận. Chẳng hạn như văn bản Tựa
“Trích diễm thi tập” của Hoàng Đức Lương:
“Thơ văn khônglưu truyền hết ở đời là vì nhiều lý do:
Đối với thơ văn, cổ nhân ví như khoái chá, ví như gấm vóc; khoái chá là
vị rất ngon trên đời, gấm vóc là màu rất đẹp trên đời, phàm người có miệng, có mắt,
ai cũng quý trọng mà không vứt bỏ khinh thường. Đến như văn thơ, thì lại là sắc đẹp
ngoài cả sắc đẹp, vị ngon ngoài vả vị ngon, không thể đem mắt tầm thường mà xem,
miệng tầm thường mà nếm được. Chỉ thi nhân là có thể xem mà biết được sắc đẹp, ăn
mà biết được vị ngon ấy thôi. Đấy là lí do thứ nhất làm cho thơ văn không lưu truyền
hết ở trên đời.
Nước ta từ nhà Lí, nhà Trần dựng nước đến nay, vẫn có tiếng là nước
văn hiến, những bậc thi nhân, tài tử đều đem sở trường của mình thổ lộ ra lời nói, lẽ
nào không có người hay? Nhưng bậc danh nho làm quan to ở trong quán, các, hoặc
vì bận việc không rỗi thì giờ để biên tập, còn viên quan nhàn tản chức thấp cùng
những người phải lận đận về khoa trường,thì đều không để ý đến. Đấy là lí do thứ hai
làm cho thơ văn không lưu truyền hết ở trên đời.
Thỉnh thoảng, cũng có người thích thơ văn, nhưng lại ngại vì công việc
nặng nề, tài lực kém cỏi, nên đều làm được nửa chừng rồi lại bỏ dở. Đấy là lí do thứ
ba làm cho thơ văn không lưu truyền hết ở trên đời.
Sách vở về đời Lí-Trần phần nhiều chỉ thấy công việc nhà chùa là được
lưu hành, như thế đâu phải vì lòng tôn sùng Nho học không sâu sắc bằng tôn sùng
Phật học, mà chỉ vì nhà chùa không ngăn cấm, cho nên sách được khắc vào ván để
truyền mãi lại đời sau, còn như thơ văn, nếu chưa được lệnh vua, không dám khắc
ván lưu hành. Đấy là lí do thứ tư làm cho thơ văn không lưu truyền hết ở trên đời.
Vì bốn lí do kể trên bó buộc, trải qua mấy triều đại lâu dài, dẫn đến
những vật bền như đá, như vàng, lại được quỷ thần phù hộ, cũng còn tan nát trôi
chìm. Huống chi bản thảo sót lại, tờ giấy mỏng manh để trong cái níp cái hòm, trải
qua mấy lần binh lửa, thì còn giữ mãi thế nào được mà không rách nát tan tành?”
- Luận điểm ở đoạn 1 tác giả nêu lên là gì?
- Tác giả chọn cách lập luận nào để làm sáng tỏ vấn đề cần nghị luận?
Qua quan sát và phân tích mẫu, hãy rút ra tác dụng và đặc điểm của thao
tác lập luận phân tích trong bài văn nghị luận?
Luận điểm ở đoạn 1 tác giả nêu lên là: Nguyên nhân làm cho thơ văn
không lưu truyền hết ở đời. Để triển khai luận điểm này, tác giả sử dụng phương
pháp lập luận phân tích, chia nhỏ vấn đề thành nhiều mặt để xem xét tường tận và
thấu đáo. Qua quan sát và phân tích mẫu, có thể rút ra tác dụng và đặc điểm của thao
tác lập luận phân tích:
Thứ nhất, về tác dụng, bằng thao tác phân tích luận điểm ra thành nhiều
luận cứ cụ thể về các mặt khác nhau, tác giả đã lí giải được bản chất của vấn đề cần
nghị luận. Luận điểm trên được phân tích và triển khai thành bốn nguyên nhân:
- Chỉ có thi nhân mới thấy được cái hay, cái đẹp của thơ ca
- Người có học, người làm quan thì vì bận việc hoặc không quan tâm đến thơ
văn
- Người yêu thích sưu tầm thơ văn thì lại không đủ năng lực, trình độ, tính
kiên trì
- Nhà nước không khuyến khích, sự phá huỷ của chiến tranh và thời gian đối
với sách vở
Qua bốn nguyên nhân, có thể thấy sở dĩ tác giả mở đầu bằng luận điểm
trên – cũng chính là luận điểm quan trọng nhất của bài tựa, là bởi ông muốn nhấn
mạnh việc làm sưu tầm, biên soạn cuốn sách là xuất phát từ yêu cầu cấp thiết của
thực tế chứ không chỉ từ sở thích cá nhân và đó là một công việc khó khăn vất vả
nhưng nhất định phải làm.
Thứ hai, về đặc điểm, có thể thấy đặc điểm của thao tác phân tích là chia
một sự vật, sự việc, vấn đề…ra thành các phần nhỏ để xem xét cặn kẽ, chi tiết nhằm
mục đích nhận thức đươc chúng một cách đúng đắn, sâu sắc hơn. Ở văn bản nghị
luận trên, tác giả đã làm công việc phân tích, nhưng không phải cứ phân tích là có
ngay được một lập luận phân tích. Để có một lập luận phân tích, tác giả bài viết còn
phải tiến hành lập luận, nghĩa là phải dùng thao tác phân tích để tổ chức, gắn kết các
lí lẽ và dẫn chứng để làm sáng tỏ cho luận điểm.
Cũng cần chú ý là phân tích phải gắn với tổng hợp và khái quát để đảm
bảo nhận thức toàn bộ đối tượng trong chỉnh thể của nó. Bởi vậy, phân tích phải dẫn
đến nhận định, đánh giá toàn bộ đối tượng. Phân tích cũng không bao giờ tách biệt
khỏi các thao tác khác như giải thích, chứng minh…
b. Thao tác lập luận so sánh
Cũng như thao tác lập luận phân tích, thao tác lập luận so sánh là một
thao tác tư duy thường được sử dụng trong quá trình viết văn nghị luận nói chung. Và
vì vậy, cũng không nên quan niệm có một kiểu bài nghị luận so sánh như trước nữa.
So sánh là thao tác đối chiếu một đối tượng với các đối tượng khác để tìm ra những
điểm khác nhau cũng như những điểm tương đồng giữa chúng với nhau, trên cơ sở đó
nhận thức sâu sắc và làm nổi bật đối tượng cần nghị luận.
Đây là một trong những thao tác lập luận được vận dụng rất nhiều trong
giao tiếp (nói và viết). Tuy vậy, trong chương trình và SGK cũ, thao tác lập luận này
vì bị đồng nhất với một kiểu bài văn nghị luận nên chưa được học và ít được rèn
luyện. SGK Ngữ văn 11 coi đây là một bài học quan trọng, nhằm bước đầu cung cấp
cho học sinh những hiểu biết chung về thao tác lập luận này, chú ý để luyện tập thực
hành, vận dụng trong đọc văn, đặc biệt là trong việc viết bài văn nghị luận.
Mục tiêu của bài học, về mặt lí thuyết, là giúp học sinh hiểu rõ những
vấn đề của thao tác lập luận so sánh như: So sánh là gì? Tại sao người ta phải so
sánh? Có loại so sánh nào? Yêu cầu của so sánh? Về mặt thực hành, các bài tập
trong phần Luyện tập chủ yếu yêu cầu học sinh nhận diện, chỉ ra cách so sánh và
những nhận xét đánh giá của tác giả qua một đoạn văn nghị luận cụ thể.
Tương tự như thao tác lập luận phân tích, giáo viên có thể tích hợp giảng
dạy thao tác này trong giờ dạy tiếp nhận văn bản nghị luận, bằng việc lưu ý học sinh
xem xét một văn bản nghị luận trong đó thao tác lập luận so sánh được sử dụng một
cách nổi bật (mẫu), sau đó yêu cầu học sinh đọc, quan sát, để tự nhận ra đặc điểm nổi
bật của thao tác so sánh trong văn bản theo câu hỏi của giáo viên:
“Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.”
(Bình Ngô đại cáo – Ngữ văn 10)
- Xác định đối tượng được so sánh và đối tượng so sánh?
- Để so sánh, tác giả đã dựa vào những tiêu chí so sánh nào?
- Phân tích mục đích so sánh trong đoạn trích?
- Từ những nhận xét nêu trên, hãy cho biết thế nào là thao tác lập luận so
sánh?
Mục đích và yêu cầu của thao tác lập luận so sánh? -
Trong đoạn văn bản nghị luận trên, đối tượng được so sánh là “nước Đại
Việt ta”, đối tượng so sánh là nhà nước phong kiến Trung Hoa. Tác giả đã so sánh
Bắc – Nam về các mặt: văn hóa – phong tục, địa lí, lịch sử, hào kiệt – hiền tài. Sự so
sánh nhằm mục đích tìm ra sự giống nhau để làm rõ điều mà Nguyễn Trãi muốn
khẳng định hùng hồn, mạnh mẽ là nước Đại Việt ta hoàn toàn xứng đáng đứng ngang
bằng, hiên ngang bên nhà nước phong kiến Trung Hoa. Xét về văn hiến, cương vực,
phong tục, lịch sử, chúng ta không hề có mặt nào thua kém Trung Hoa. Muốn thế,
thao tác lập luận chủ yếu được sử dụng ở đây phải là so sánh tương đồng. Nếu
Nguyễn Trãi có nói tới sự khác biệt giữa Bắc và Nam, giữa Hán, Đường, Tống,
Nguyên của Trung Quốc với Triệu, Đinh. Lí, Trần của Việt Nam, nhưng đằng sau,
bên trong những cái khác nhau, thực chất vẫn là cái giống: chúng ta vẫn có đầy đủ
những gì họ có, và vì thế, chúng ta có quyền tồn tại độc lập bên cạnh họ. Hai câu sau
cũng có nói về sự khác biệt (Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau - Song hào kiệt đời
nào cũng có), nhưng điều cơ bản được đề cập tới vẫn là sự tương đồng.
Từ việc quan sát, phân tích đoạn văn bản nghị luận mẫu trên, học sinh có
thể rút ra những bài học về thao tác lập luận so sánh.
Trước hết, khi dạy bài này cần lưu ý học sinh phân biệt thao tác lập luận
so sánh trong Làm văn với hai loại so sánh lôgic và so sánh tu từ trong Tiếng Việt. So
sánh lôgic là những so sánh giúp người ta hình dung ra sự vật một cách dễ dàng hơn
bằng việc lấy một sự vật làm tiêu chí rồi từ đó so với sự vật khác. Ví dụ: Tôi cao như
anh – so sánh bằng nhau; Tôi thấp hơn anh – so sánh hơn kém. So sánh tu từ là
những so sánh mang tính nghệ thuật. Những so sánh này tạo nên cách nói bất ngờ,
cách thể hiện độc đáo và có hiệu quả diễn đạt cao, chẳng hạn như Bác viết:
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa”
Còn so sánh trong Làm văn lại có khác, nó được xem như một thao tác
lập luận nhằm đối chiếu hai hay nhiều sự vật, hoặc là các mặt trong cùng một sự vật.
So sánh để chỉ ra những nét giống nhau gọi là so sánh tương đồng. So sánh để chỉ ra
sự khác biệt, đối chọi gọi là so sánh tương phản. Với mục đích và tính chất như thế,
so sánh giúp người viết văn nghị luận triển khai và phát triển luận điểm một cách
thuận lợi và nổi bật hơn. Như vậy, trong khuôn khổ một thao tác lập luận, sự so sánh
không nhằm mục đích làm cho sự vật trở nên dễ hình dung, dễ tưởng tượng hơn, hay
khiến cho lời nói đẹp hơn. Trong thao tác lập luận so sánh, sự so sánh phải phục vụ
cho lập luận. Mục đích cuối cùng của sự so sánh trong một thao tác lập luận so sánh,
do đó, chỉ có thể làm sáng rõ một ý kiến, một nhận định của người viết trước vấn đề
hay hiện tượng được đưa ra bàn luận.
Về yêu cầu, khi lập luận so sánh phải luôn dựa trên cùng một tiêu chí.
Nếu khác tiêu chí thì sự so sánh sẽ trở nên khập khiễng, thiếu sức thuyết phục, từ đó
dễ dẫn đến những nhận xét và đánh giá sai lệch. Liên hệ, so sánh thường đi đôi với
nhận xét, đánh giá thì sự liên hệ, so sánh mới trở nên sâu sắc. Ngược lại, nhận xét,
đánh giá phải dựa trên liên hệ, đối chiếu, so sánh thì mới có cơ sở, có sức thuyết phục.
c. Thao tác lập luận bác bỏ
Lâu nay, trong chương trình và SGK Làm văn, thao tác lập luận bác bỏ ít
được quan tâm cả về lí thuyết lẫn thực hành. Đó là một điều bất hợp lí. Bởi lẽ, bản
chất của nghị luận là đối thoại, tranh biện. Đứng trước một vấn đề, có thể có nhiều ý
kiến, quan niệm khác nhau. Có quan niệm, ý kiến đúng đắn, khoa học; cũng có những
quan niệm, ý kiến không chính xác hoặc không hoàn toàn chính xác, khoa học. Người
viết văn nghị luận do đó cần có khả năng phát hiện ra ý kiến, quan niệm mà mình cho
là thoả đáng để bàn bạc, tranh luận và bác bỏ. Có như vậy lập luận mới có giá trị sâu
sắc và có tính thuyết phục cao.
Tương tự như các thao tác khác, cần đưa ra một số văn bản nghị luận
mẫu trong đó thao tác lập luận bác bỏ được sử dụng một cách nổi bật (mẫu), sau đó
yêu cầu học sinh đọc, quan sát, để tự nhận ra đặc điểm nổi bật của văn bản theo câu
hỏi của giáo viên. Thao tác này có thể được tích hợp giảng dạy trong giờ dạy tiếp
nhận văn bản nghị luận. Chẳng hạn như đoạn trích văn bản nghị luận Chiếu cầu hiền
(chương trình Ngữ văn 11):
a.“Nay trẫm đang ghé chiếu lắng nghe, ngày đêm mong mỏi, nhưng
những người học rộng tài cao chưa thấy có ai tìm đến. Hay trẫm ít đức không đáng
để phò tá chăng? Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu chăng?
Kìa như, trời còn tăm tối, thì đấng quân tử phải trổ tài. Nay đương ở
buổi đầu đại định, công việc vừa mới mở ra. Kỉ cương nơi triều chính còn nhiều
khiếm khuyết, công việc ngoài biên đương phải lo toan. Dân còn nhọc mệt chưa lại
sức, mà đức hóa của trẫm chưa kịp nhuần thấm khắp nơi. Trẫm nơm nớp lo lắng,
ngày một ngày hai vạn việc nảy sinh. Nghĩ cho kĩ thì thấy rằng: Một cái cột không thể
đỡ nổi một căn nhà lớn, mưu lược một người không thể dựng nghiệp trị bình. Suy đi
tính lại trong vòm trời này, cứ cái ấp mười nhà ắt phải có người trung thành tín
nghĩa. Huống chi nay trên dải đất văn hiến rộng lớn như thế này, há trong đó lại
không có lấy một người tài danh nào ra phò giúp cho chính quyền buổi ban đầu của
trẫm hay sao?”
- Trong đoạn trích nghị luận trên, vấn đề nào bị bác bỏ?
- Tác giả đã bác bỏ bằng cách nào? Nhận xét cách lập luận của tác giả?
Trong đoạn trích trên, vấn đề cần bác bỏ là: văn sĩ Bắc Hà cho Quang
Trung là người nông dân áo vải, không học rộng, tài cao nên chần chừ chưa ra giúp
nước. Vì thế, ngay từ đầu đoạn trích, tác giả đã liên tiếp đặt ra hai câu hỏi trúng với
suy nghĩ và tâm trạng của sĩ phu Bắc Hà: “Hay trẫm ít đức không đáng để phò tá
chăng? Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu chăng?”. Liền đó, tác
giả đưa ra hàng loạt những khó khăn của triều đại mới: kỉ cương nơi triều chính còn
nhiều khiếm khuyết, công việc ngoài biên đương phải lo toan. Dân còn nhọc mệt
chưa lại sức, mà đức hóa của nhà vua chưa kịp nhuần thấm khắp nơi… Có lẽ nào
hiền tài lại khoanh tay ngồi nhìn không chịu giúp vua giúp nước? Mặt khác, việc
nhận thức được những khó khăn trước mắt này, vua Quang Trung chứng minh cho
quần thần, văn võ bá quan và các bậc danh sĩ hiền tài biết được con mắt nhìn xa trông
rộng của mình. Đây cũng là cách ngầm phản bác (ngầm bác bỏ) điều cho rằng vua
Quang Trung là một nông dân áo vải, kết hợp với câu hỏi tu từ ở cuối đoạn mà câu
trả lời từ phía đối tượng hướng tới của bài chiếu chỉ có thể là tự nhận ra những cách
ứng xử chưa hợp lí của mình. Hỏi mà ràng buộc, hỏi mà đồng thời cũng chỉ ra con
đường để thay đổi. Bởi lẽ, “trẫm ít đức” hay “thời đổ nát” đều không phải là những
gì diễn ra trong thực tế. Cho nên chỉ có một con đường duy nhất và hợp lí là đem tài
năng ra phục vụ triều đại mới. Cách lập luận đầy sức gợi khi tác giả dùng hình ảnh
“một cái cột không thể đỡ nổi một căn nhà lớn” và nêu ra một thực tế “mưu lược một
người không thể dựng nghiệp trị bình”. Đây thực sự là chân lí xưa nay. Cách lập luận
rõ ràng làm cho lí lẽ sâu sắc, mạnh mẽ, đầy hào khí nhưng cũng hết sức dân chủ, cởi
mở. Cuối cùng, nhà vua mới khích lệ các danh sĩ và hiền tài: “Suy đi tính lại trong
vòm trời này, cứ cái ấp mười nhà ắt phải có người trung thành tín nghĩa. Huống chi
nay trên dải đất văn hiến rộng lớn như thế này, há trong đó lại không có lấy một
người tài danh nào ra phò giúp cho chính quyền buổi ban đầu của trẫm hay sao?”
d. Thao tác lập luận bình luận
Bình luận trong chương trình và SGK làm văn trước đây được coi là một
kiểu bài mang tính tổng hợp cao. Tức là có sự kết hợp rất nhiều “kiểu bài” khác như
giải thích, chứng minh, phân tích,… trong bài bình luận. Nhưng theo quan niệm mới,
không có một kiểu văn bản nào chỉ dùng một phương thức biểu đạt. Cũng như thế,
trong văn nghị luận không có một văn bản nào chỉ dùng một thao tác lập luận. Điều
đó có nghĩa là, bài văn nghị luận nào cũng sẽ là bài văn tổng hợp như bình luận.
Chính vì thế bình luận chỉ nên coi là một thao tác lập luận và đồng đẳng với các thao
tác khác.
Để tích hợp kiến thức với giờ dạy tiếp nhận văn bản nghị luận, giáo viên
yêu cầu học sinh xem xét đoạn trích Xin lập khoa luật trong chương trình Ngữ văn 11
và trả lời các câu hỏi:
- Trong đoạn trích, tác giả có làm công việc nhận định, đánh giá đúng –
sai, hay – dở không? Có bàn bạc sâu rộng vấn đề được nói đến hay
không? Nếu có thì đích cuối cùng của các lời nhận định, đánh giá, bàn
bạc đó là gì?
- Từ sự phân tích đó, hãy cho biết thế nào là thao tác lập luận bình luận?
Mục đích và yêu cầu của bình luận là gì?
- Phải lập luận bình luận như thế nào để thuyết phục người đọc (người
nghe) tán đồng với ý kiến đánh giá và bàn luận của mình?
- Tại sao có thể khẳng định rằng con người hôm nay cần biết bình luận,
dám bình luận và do đó, phải nắm vững kĩ năng bình luận?
Đoạn trích Xin lập khoa luật là ý kiến bàn luận về một vấn đề có ý nghĩa
trọng đại đang được đặt ra vào thời ấy: Có nên lập ra khoa luật hay không? Trong bài
viết của mình, Nguyễn Trường Tộ đã giới thiệu việc thực hành luật ở các nước
phương Tây. Đấy là cách đề cao luật pháp, sự cần thiết của luật pháp đối với đời sống
con người. Tác giả có ý thức tranh biện với quan niệm cho rằng việc lập khoa luật là
không cần thiết. Tác giả phê phán đạo Nho “chỉ nói suông trên giấy, không làm cũng
chẳng bị ai phạt, có làm cũng chẳng được ai thưởng. Bởi vậy xưa nay học đã nhiều
mà mấy ai đổi được tâm tính, sửa được lỗi lầm”. Như vậy, tác giả đã nêu ra vấn đề
đúng – sai của đời sống, Tác giả đã bàn bạc rất sâu: “Nếu bảo luật lệ chỉ tốt cho việc
cai trị chứ không có đạo đức tinh vi thế thì không biết rằng trái luật là tội, giữ đúng
luật là đức. Nếu tận dụng cái lẽ công bằng trong luật mà xử sự thì mọi quyền pháp
đều là đạo đức”. Đích cuối cùng của các lời nhận định, đánh giá, bàn bạc đó là sự
thiết tha mong mỏi của tác giả trong việc thuyết phục vua Nguyễn cần phải lập khoa
luật, nếu muốn trị nước trên cơ sở công bằng, đạo đức chứ không chỉ nói suông trên
giấy về lễ nghĩa hay trung hiếu.
Trên cơ sở phân tích mẫu, có thể kết luận: đoạn trích Xin lập khoa luật
là một văn bản lập luận bình luận tiêu biểu. Từ đó, học sinh có thể rút ra bài học về
thao tác lập luận bình luận.
Bình luận là một thao tác lập luận của văn nghị luận. Mục đích của lập
luận bình luận là nhằm bàn bạc và đánh giá đúng sai, thật giả, hay dở, lợi hại của các
hiện tượng, sự vật; các chủ trương, chính sách; các tư tưởng, đạo lí; các thành tựu và
sản phẩm của con người… Cũng như các thao tác lập luận khác, bình luận có đối
tượng rất rộng rãi: bình luận thời sự, bình luận văn học (tức phê bình văn học), trả lời
phỏng vấn, trao đổi ý kiến. Bình luận cũng có mối quan hệ và sự kết hợp chặt chẽ với
các thao tác lập luận. Trong bình luận có phân tích, giải thích, chứng minh, bác bỏ, so
sánh và ngược lại trong phân tích hoặc bác bỏ, so sánh… cũng rất cần bình luận.
Yêu cầu của thao tác này là ý kiến đưa ra bình luận phải thực sự thuyết
phục, lôi cuốn người đọc, người nghe. Muốn thế thì người bình luận không thể không
nắm vững cách tổ chức luận cứ, luận điểm nhằm đạt tới mục đích mà mình đã đặt ra
khi quyết định tham gia bình luận, nghĩa là không thể không nắm vững kĩ năng bình
luận. Mặt khác, bình luận thường mang tính chất chủ quan, cho nên dễ rơi vào cực
đoan, không phải lời bình luận nào cũng đúng và có sức thuyết phục cao. Muốn bình
luận tốt cần phải tôn trọng sự thật, có lí tưởng tiến bộ, có tư tưởng dân chủ và nhân
văn. SGK đã nêu các điểm rất cơ bản cần chú ý khi bình luận:
- Xác định rõ đối tượng khi bình luận: trả lời câu hỏi bình luận về cái gì.
Ví dụ bình luận về một hiện tượng trong đời sống, một ý kiến, một nhân vật văn học,
một truyện ngắn, bài thơ,…
- Giới thiệu đối tượng bình luận: muốn cho người đọc biết bình luận cái
gì, người bình luận phải gọi tên đối tượng bình luận, trình bày hiện tượng, trích dẫn ý
kiến, giới thiệu tác phẩm văn học hay nhân vật văn học.
- Đề xuất ý kiến bình luận. Đây là nội dung chính của thao tác bình luận.
Cần vận dụng các thao tác khác như phân tích, giải thích, chứng minh, so sánh, bác
bỏ để chỉ ra cái đúng, cái sai, vì sao đúng, vì sao sai của đối tượng được bình luận.
Nếu hiện tượng có ý nghĩa tốt thì biểu dương, có mặt chưa tốt thì phê phán. Khen hay
chê, biểu dương hay phê phán đề phải có lí lẽ. Phải phân tích, đánh giá theo tiêu chí
nhất định thì bình luận mới có sức thuyết phục.
Trong cuộc sống hằng ngày, con người rất hay gặp từ bình luận, và rất
hay làm công việc được gọi là bình luận. Thế nhưng, nhiều học sinh còn chưa thấy
bình luận và lập luận bình luận là một hoạt động có nguồn gốc từ chính cuộc đời.
Chúng ta đang sống trong một thời đại văn minh, dân chủ, mọi người đầu có quyền
và có trách nhiệm tham gia giải quyết các vấn đề trong xã hội. Con người trong một
thời đại như thế phải dám và phải có khả năng tham gia bình luận, để trở thành người
có ích cho cuộc sống.
e. Luyện tập vận dụng kết hợp các thao tác lập luận
Như đã nói, trên thực tế không có một bài văn nghị luận nào chỉ sử dụng
một thao tác lập luận mà bao giờ cũng có sự kết hợp các thao tác khác nhau, trong đó
có một vài thao tác chính. Để chứng minh, rất cần phải giải thích, so sánh và ngược
lại. Để bình luận, rất cần phải phân tích, giải thích, chứng minh, so sánh, bác bỏ để
chỉ ra cái đúng, cái sai, vì sao đúng, vì sao sai của đối tượng được bình luận. Vì vậy,
mục tiêu đặt ra khi vận dụng mối quan hệ giữa tiếp nhận và tạo lập để rèn kĩ năng lập
luận trong văn nghị luận là học sinh phải có ý thức và biết cách vận dụng kết hợp
nhiều thao tác lập luận khi thực hành tạo lập một bài văn nghị luận.
Mục tiêu này được chú ý thực hiện ở cả hai chương trình Ngữ văn 11 và
12. Để rèn kĩ năng vận dụng kết hợp các thao tác lập luận trong văn nghị luận, cần
phải có một quá trình học tập nghiêm túc và hiệu quả ở các bài học rèn luyện các kĩ
năng lập luận riêng lẻ: giải thích, chứng minh, phân tích, so sánh, bác bỏ, bình
luận… Luyện tập vận dụng kết hợp các thao tác lập luận trong văn nghị luận cũng
yêu cầu học sinh thực hành hai dạng bài tập: bài tập nhận diện (quan sát mẫu, phân
tích mẫu) và bài tập tạo lập (thực hành theo mẫu và sáng tạo từ mẫu).
Về bài tập nhận diện, để tích hợp kiến thức với giờ dạy tiếp nhận văn
bản nghị luận, yêu cầu học sinh xem xét đoạn trích Về luân lí xã hội ở nước ta của
Phan Châu Trinh (Ngữ văn 11) và trả lời các câu hỏi:
“1. Xã hội luân lí thật trong nước ta tuyệt nhiên không ai biết đến, so với
quốc gia luân lí thì người mình còn dốt nát hơn nhiều. Một tiếng bè bạn không thể
thay cho xã hội luân lí được, cho nên không cần cắt nghĩa làm gì.
Tuy trong sách Nho có câu: “Sửa nhà trị nước rồi mới yên thiên hạ”.
Hai chữ thiên hạ đó tức là xã hội. Ngày nay những kẻ học ra làm quan cũng võ vẽ
nhắc đến hai chữ đó nhưng chỉ làm trò cười cho kẻ thức giả đấy thôi. Cái chủ ý bình
thiên hạ mất đi đã từ lâu rồi.
2. Cái xã hội chủ nghĩa bên Âu châu rất thịnh hành như thế, đã phóng
đại ra như thế, thế mà người bên ta thì điềm nhiên như kẻ ngủ không biết gì là gì.
Thương hại thay! Người nước ta không hiểu cái nghĩa vụ loài người ăn ở với loài
người đã đành, đến cái nghĩa vụ mỗi người trong nước cũng chưa hiểu gì cả. Bên
Pháp, mỗi khi người có quyền thế, hoặc chính phủ, lấy sức mạnh mà đè nén quyền lợi
riêng của một người hay của một hội nào, thì người ta hoặc kêu nài, hoặc chống cự,
hoặc thị oai, vận dụng kì cho đến được công bình mới nghe.
Vì sao mà người ta làm được như thế? Là vì người ta có đoàn thể, có
công đức biết giũ lợi chung vậy. Họ nghĩ rằng nếu nay để cho người có quyền lực đè
nén người này thì mai ắt cũng lấy quyền lực ấy để đè nén mình, cho nên phải hiệp
nhau lại phòng ngừa trước. Người ta có ăn học biết xét kĩ thấy xa như thế, còn người
nước mình thì sao? Người mình thì phải ai tai nấy, ai chết mặc ai! Đi đường gặp
người bị tai nạn, gặp người yếu bị kẻ mạnh bắt nạt cũng ngơ mắt đi qua, hình như
người bị nạn khốn ấy không can thiệp gì đến mình.
Đã biết sống thì phải bênh vực nhau, ông cha mình ngày xưa cũng đã
hiểu đến. Cho nên mới có câu: “Không ai bẻ đũa cả nắm” và “Nhiều tay làm nên
bộp”. Thế thì dân tộc Việt Nam này hồi cổ sơ cũng biết đoàn thể, biết công ích, cũng
góp gió làm bão, giụm cây làm rừng, không đến nỗi trơ trọi, lơ láo, sợ sệt, ù lì như
ngày nay.
Dân không biết đoàn thể, không trọng công ích là bởi ba bốn trăm năm
trở về đây, bọn học trò trong nước mắc ham quyền tước, ham bả vinh hoa của các
triều vua mà sinh ra giả dối nịnh hót, chỉ biết có vua mà chẳng biết có dân. Bọn ấy
muốn giữ túi tham mình được đầy mãi, địa vị của mình được vững mãi, bèn kiếm
cách thiết pháp luật, phá tan tành đoàn thể của quốc dân.
Dẫu trôi nổi, dẫu cực khổ thế nào mặc lòng, miễn là có kẻ mang đai đội
mũ ngất ngưởng ngồi trên, có kẻ áo rộng khăn đen lúc nhúc lạy dưới, trăm nghìn
năm như thế cũng xong! Dân khôn mà chi! Dân ngu mà chi! Dân lợi mà chi! Dân hại
mà chi! Dân càng nô lệ, ngôi vua càng lâu dài, bọn quan lại càng phú quý! Chẳng
những thế mà thôi, “ một người làm quan một nhà có phước”, dầu tham, dầu nhũng,
dầu vơ vét, dầu rút tỉa của dân thế nào cũng không ai bình phẩm; dầu lấy lúa của
dân mua vườn sắm ruộng, xây nhà làm cửa cũng không ai chê bai. Người ngoài thì
khen đắc thời, người nhà thì dựa hơi quan, khiến những kẻ ham mồi phú quý không
đua chen vào đám quan trường sao được. Quan lại đời xưa đời nay của ta là thế!
Luân lí của bọn thượng lưu – tôi không gọi bọn ấy là thượng lưu, tôi chỉ mượn hai
chữ thượng lưu nói cho anh em dễ hiểu mà thôi - ở nước ta là thế đấy!
Ngày xưa thì bọn ấy là bọn Nho học đã đổ được cái bằng cử nhân, tiến
sĩ, ngày nay thì bọn ấy là bọn Tây học đã được cái chức kkí lục thông ngôn; có khi
bồi bếp dựa vào thân thế của chủ cũng ra làm quan nữa. Những bọn quan lại đã nói
ở trên này chỉ còn một tiếng chỉ đúng hơn là lũ ăn cướp có giấy phép vậy.
Những kẻ ở vườn thấy quan sang, quan quyền cũng bén mùi làm quan.
Nào lo cho quan, nào lót cho lại, nào chạy ngược nào chạy xui, dầu cố ruộng dầu
bán trâu cũng vui lòng, chỉ cần được lấy một chức xã trưởng hoặc cai tổng, đặng
ngồi trên, đặng ăn trước, đặng hống hách thì mới thôi. Những kẻ như thế mà không
ai khen chê, không ai khinh bỉ, thật cũng lạ thay! Thương ôi! Làng có một trăm dân
mà người này đối với kẻ kia đều ngó theo sức mạnh, không có một chút gì gọi là đạo
đức là luân lí cả. Đó là nói người trong một làng đối với nhau, chỉ như thế đối với
dân kiều cư kí ngụ thì lại càng hà khắc hơn nữa. Ôi! Một dân tộc như thế thì tư tưởng
cách mạng nảy nở trong óc chúng làm sao được! Xã hội chủ nghĩa trong nước Việt
Nam ta không có là cũng vì thế.
3. Nay muốn một ngày kia nước Việt Nam được tự do độc lập thì trước
hết dân Việt Nam phải có đoàn thể đã. Mà muốn có đoàn thể thì có chi hay hơn là
truyền bá xã hội chủ nghĩa trong dân Việt Nam này.”
- Hãy cho biết các thao tác lập luận được sử dụng trong văn bản?
- Các thao tác lập luận kết hợp với nhau như thế nào để làm sáng tỏ vấn
đề?
- Các thao tác có mặt trong đoạn trích có vai trò ngang nhau không? Nếu
không thì thao tác nào đóng vai trò thao tác chính?
- Vì sao tác giả lại chọn thao tác đó làm thao tác lập luận chính?
- Những thao tác còn lại có vai trò như thế nào trong đoạn trích?
Trong đoạn trích, vấn đề được bàn đến là việc gây dựng nền luân lí xã
hội ở nước ta. Để làm sáng tỏ vấn đề, tác giả đoạn trích sử dụng các thao tác lập luận
sau:
Trước hết, tác giả sử dụng thao tác lập luận bác bỏ: “Tuy trong sách
Nho có câu: “Sửa nhà trị nước rồi mới yên thiên hạ”. Hai chữ thiên hạ đó tức là xã
hội. Ngày nay những kẻ học ra làm quan cũng võ vẽ nhắc đến hai chữ đó nhưng chỉ
làm trò cười cho kẻ thức giả đấy thôi. Cái chủ ý bình thiên hạ mất đi đã từ lâu rồi”.
Với thao tác lập luận bác bỏ, tác giả đã chỉ ra quan niệm Nho gia (tề gia, trị quốc,
bình thiên hạ) đã bị hiểu sai: bình thiên hạ theo nguyên lí Khổng – Mạnh đã bị hiểu
lệch đi, thậm chí xuyên tạc là cai trị xã hội, là đè nén mọi người đem lại quyền lợi
cho cá nhân. Thật ra bình thiên hạ theo nguyên lí Khổng – Mạnh có điểm tương đồng
với tư tưởng về cách mạng thế giới, về việc xây dựng nền luân lí xã hội đang được cổ
vũ ở các nước phương Tây hiện thời, đó là góp phần làm cho xã hội, mọi người an cư
lạc nghiệp, ấm no, hạnh phúc.
Sau đó, tác giả sử dụng thao tác lập luận so sánh kết hợp phân tích:
“Cái xã hội chủ nghĩa bên Âu châu rất thịnh hành như thế, đã phóng đại ra như thế,
thế mà người bên ta thì điềm nhiên như kẻ ngủ không biết gì là gì. Thương hại thay!
Người nước ta không hiểu cái nghĩa vụ loài người ăn ở với loài người đã đành, đến
cái nghĩa vụ mỗi người trong nước cũng chưa hiểu gì cả. Bên Pháp, mỗi khi người có
quyền thế, hoặc chính phủ, lấy sức mạnh mà đè nén quyền lợi riêng của một người
hay của một hội nào, thì người ta hoặc kêu nài, hoặc chống cự, hoặc thị oai, vận
dụng kì cho đến được công bình mới nghe”. Với việc so sánh, phân tích hai nền luân
lí xã hội Đông (nước ta) và Tây (Châu Âu – Pháp), tác giả nêu lên quan niệm của
mình về luân lí xã hội: là nghĩa vụ trong quan hệ cộng đồng xã hội, giữa người với
người, ở trong một nước và giữa nước này với nước khác.
Cuối cùng, tác giả sử dụng thao tác lập luận bình luận: “Thương ôi!
Làng có một trăm dân mà người này đối với kẻ kia đều ngó theo sức mạnh, không có
một chút gì gọi là đạo đức là luân lí cả. Đó là nói người trong một làng đối với nhau,
chỉ như thế đối với dân kiều cư kí ngụ thì lại càng hà khắc hơn nữa. Ôi! Một dân tộc
như thế thì tư tưởng cách mạng nảy nở trong óc chúng làm sao được! Xã hội chủ
nghĩa trong nước Việt Nam ta không có là cũng vì thế”. Sau khi phân tích thực trạng
về đạo đức luân lí của nước ta, tác giả đưa ra một lời bình luận sâu sắc: với thực trạng
ấy thì dân ta làm sao có thể có tư tưởng cách mạng. Và tinh thần dân chủ, xã hội chủ
nghĩa, tinh thần đoàn thể, ý thức cộng đồng ở nước ta làm sao có được.
Như vậy, sự kết hợp các thao tác lập luận bác bỏ, so sánh, phân tích,
bình luận đã tạo nên mạch lập luận chặt chẽ cho đoạn trích theo hướng: diễn giải –
giải pháp – kết luận. Bố cục ba phần mạch lạc, rõ ràng như vậy đã tạo điều kiện để
người đọc (người nghe) dễ tiếp nhận, thuyết phục và đồng lòng chung sức với mong
muốn, ý đồ của nhà cách mạng.
Tuy nhiên, trong bốn thao tác được sử dụng trong đoạn trích, chỉ có thao
tác bình luận là giữ vai trò thao tác chính. Các thao tác còn lại giữ vai trò hỗ trợ. Sở
dĩ có sự lựa chọn sử dụng như vậy là vì bình luận là thao tác lập luận gần gũi nhất với
mục đích nghị luận mà người viết đặt ra. Bởi đây là đoạn trích được viết chủ yếu
không phải để phân chia, để so sánh đối chiếu, càng không phải để phản bác ai, mà là
để đưa ra quan điểm, ý kiến đánh giá, bàn bạc riêng của Phan Châu Trinh về vấn đề
gây dựng nền luân lí xã hội ở nước ta.
Các thao tác còn lại tuy không phải là thao tác chính nhưng vẫn có một
vai trò không nhỏ. Nhờ có phân tích, so sánh, bác bỏ mà ý kiến bình luận của tác giả
trở nên rõ ràng, cụ thể và giàu sức thuyết phục và có tính đấu tranh hơn. Có thể nói,
các thao tác đó đã phục vụ đắc lực cho thao tác chính. Vì vậy, từ sự phân tích nêu
trên cho phép ta rút ra kết luận: đoạn trích đã có sự kết hợp thành công các thao tác
lập luận để làm sáng tỏ vấn đề nghị luận.
2.2.3. Tiếp nhận cách vận dụng ngôn ngữ nghị luận trong văn nghị luận
2.2.3.1. Ngôn ngữ nghị luận trong văn nghị luận
Ngôn ngữ của bài văn nghị luận bao gồm cách dùng từ, đặt câu và sử
dụng giọng văn nghị luận phù hợp. Xuất phát từ đặc điểm của thể loại, văn nghị luận
ít dùng câu văn mô tả, trần thuật mà chủ yếu là dùng loại câu khẳng định và phủ định
với nội dung hầu hết là các phán đoán hoặc những câu nhận xét, đánh giá sâu sắc.
Yêu cầu của ngôn ngữ nghị luận còn ở cách sử dụng từ ngữ (bao gồm việc lựa chọn
từ ngữ, sử dụng các phép tư từ) đúng và trong sáng. Chẳng hạn như những lời mở đầu
đanh thép trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Chúng ta muốn hòa bình. Chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta
càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần
nữa.
Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước,
nhất định không chịu làm nô lệ!”
Giọng điệu, sắc thái tranh luận trong các đoạn văn nghị luận khiến cho
những ý kiến mà tác giả đưa ra vừa đạt được chiều sâu tư tưởng, vừa có độ sắc sảo
của tư duy. Đoạn trích trong bài Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn) có thể được coi là
một chuẩn mực về diễn đạt trong văn nghị luận:
“… Như vậy, chẳng những thái ấp của ta mãi mãi vững bền, mà bổng
lộc của các ngươi cũng đời đời được hưởng thụ; chẳng những gia quyến của ta được
êm ấm gối chăn, mà vợ con các ngươi cũng được bách niên giai lão;chẳng những
tông miếu của ta sẽ được muôn đời tế lễ, mà tổ tông các ngươi cũng được thờ cúng
quanh năm; chẳng những thân ta kiếp này đắc chí, mà đến các ngươi trăm năm về
sau tiếng vẫn lưu truyền; chẳng những danh hiệu ta không bị mai một, mà tên họ các
ngươi cũng sử sách lưu thơm. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi không muốn vui vẻ, phỏng
có được không?”
2.2.3.2. Tiếp nhận cách vận dụng ngôn ngữ nghị luận trong văn nghị
luận
Để tích hợp rèn luyện cách kết hợp các kiểu câu trong văn nghị luận,
trong giờ dạy tiếp nhận văn bản nghị luận, giáo viên có thể yêu cầu học sinh xem xét
kĩ đoạn trích văn bản nghị luận Chiếu cầu hiền – Ngô Thời Nhậm (chương trình Ngữ
văn 11):
“Nay trẫm đang ghé chiếu lắng nghe, ngày đêm mong mỏi, nhưng những
người học rộng tài cao chưa thấy có ai tìm đến. Hay trẫm ít đức không đáng để phò
tá chăng? Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu chăng?
Kìa như, trời còn tăm tối, thì đấng quân tử phải trổ tài. Nay đương ở
buổi đầu đại định, công việc vừa mới mở ra. Kỉ cương nơi triều chính còn nhiều
khiếm khuyết, công việc ngoài biên đương phải lo toan. Dân còn nhọc mệt chưa lại
sức, mà đức hóa của trẫm chưa kịp nhuần thấm khắp nơi. Trẫm nơm nớp lo lắng,
ngày một ngày hai vạn việc nảy sinh. Nghĩ cho kĩ thì thấy rằng: Một cái cột không thể
đỡ nổi một căn nhà lớn, mưu lược một người không thể dựng nghiệp trị bình. Suy đi
tính lại trong vòm trời này, cứ cái ấp mười nhà ắt phải có người trung thành tín
nghĩa. Huống chi nay trên dải đất văn hiến rộng lớn như thế này, há trong đó lại
không có lấy một người tài danh nào ra phò giúp cho chính quyền buổi ban đầu của
trẫm hay sao?”
- Nhận xét cách sử dụng, kết hợp các kiểu câu của đoạn văn trên và chỉ ra
hiệu quả diễn đạt của cách sử dụng đó?
- Vì sao trong đoạn văn nghị luận nên sử dụng, kết hợp nhiều kiểu câu
khác nhau?
- Vì sao trong bài văn nghị luận nên sử dụng một số phép tu từ cú pháp?
Các phép tu từ cú pháp thường được sừ dụng trong văn nghị luận là
những phép tư từ nào? Hiệu quả của việc sử dụng chúng trong văn nghị
luận?
Đoạn văn nghị luận trên sử dụng linh hoạt nhiều kiểu câu như:
Câu khẳng định: “Suy đi tính lại trong vòm trời này, cứ cái ấp mười
nhà ắt phải có người trung thành tín nghĩa.”
Câu hỏi tu từ: “Hay trẫm ít đức không đáng để phò tá chăng? Hay
đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu chăng?”
Câu ngắn : “Trẫm nơm nớp lo lắng, ngày một ngày hai vạn việc nảy
sinh..” đan xen câu dài: “Huống chi nay trên dải đất văn hiến rộng lớn như thế này,
há trong đó lại không có lấy một người tài danh nào ra phò giúp cho chính quyền
buổi ban đầu của trẫm hay sao?”
Do đó, đoạn văn phong phú và giàu cảm xúc hơn. Đặc biệt, khép lại
đoạn văn là những câu hỏi tu từ mà câu trả lời từ phía đối tượng hướng tới của bài
chiếu chỉ có thể là tự nhận ra những cách ứng xử chưa hợp lí của mình. Hỏi mà ràng
buộc, hỏi mà đồng thời chỉ ra con đường để thay đổi. Bởi lẽ, “trẫm ít đức” hay “thời
đổ nát” đều không phải là những gì đang được thể hiện trong thực tế. Cho nên chỉ có
một con đường duy nhất và hợp lí là đem tài năng ra phục vụ triều đại mới.
Hiệu quả lập luận của đoạn trích còn bởi các phép tu từ cú pháp. Các
phép tư từ thường được sử dụng là: câu hỏi tu từ, tách câu, lặp mô hình câu… Đoạn
văn bản trên có các phép tư từ: câu hỏi tu từ: “Huống chi nay trên dải đất văn hiến
rộng lớn như thế này, há trong đó lại không có lấy một người tài danh nào ra phò
giúp cho chính quyền buổi ban đầu của trẫm hay sao?”; và phép tu từ lặp cú pháp:
“Một cái cột không thể đỡ nổi một căn nhà lớn, mưu lược một người không thể dựng
nghiệp trị bình.”. Đoạn văn còn sử dụng những câu văn miêu tả giàu hình ảnh: “một
cái cột không đỡ nổi một căn nhà lớn” để thể hiện rõ thái độ “cầu hiền” của người
xuống chiếu.
Từ sự phân tích trên, có thể thấy, câu văn cũng như cuộc đời, cuộc đời
luôn thay đổi thì câu văn cũng phải thay đổi để góp phần diễn đạt chính xác, tinh tế
những biến thái trong đời sống tình cảm của con người. Chẳng có ai cứ lặp đi lặp lại
chỉ một cách diễn đạt, chẳng hạn: “Con bò đang đi. Con bò dừng lại. Con bò ngẩng
đầu lên. Con bò rống ò ò…”. Những mẫu câu mà môn Ngữ pháp có thể thống kê
được, cho dù là có tập hợp trong một cuốn sách dày cỡ nghìn trang thì, xét cho cùng,
vẫn chẳng “bõ bèn” gì so với những biến thể của câu đang “trôi nổi” trong cuộc đời
vô cùng đa dạng, phong phú và phức tạp với tất cả những cung bậc tình cảm, cảm xúc
của con người.
Tóm lại, khi viết bài văn nói chung, bài văn nghị luận nói riêng, chúng ta
cần sử dụng kết hợp một cách linh hoạt nhiều kiểu câu khác nhau để góp phần làm
phong phú, sinh động cách diễn đạt những ý tưởng vốn khô khan, trừu tượng để giúp
cho người đọc có hứng thú tiếp nhận và dễ bị thuyết phục hơn. Có những cách diễn
đạt không sai, nhưng nếu cứ lặp đi lặp lại quá mức sẽ gây ra cảm giác đơn điệu,
nghèo nàn, nhàm chán. Đó là điều mà người viết văn nghị luận nên tránh.
Để tích hợp rèn luyện cách sử dụng từ ngữ và giọng điệu phù hợp ở bài
văn nghị luận, trong giờ dạy tiếp nhận văn bản nghị luận Hiền tài là nguyên khí của
quốc gia (chương trình Ngữ văn 10), giáo viên yêu cầu học sinh xem xét kĩ đoạn văn
sau và trả lời các câu hỏi mang tính tích hợp:
“Hiền tài là nguyên khí của đất nước. Nguyên khí thịnh thì thế nước
mạnh và vươn cao; nguyên khí suy thì thế nước yếu mà xuống thấp. Bởi lẽ đó các bậc
thánh đế minh vương không ai không coi việc gây dựng nhân tài, tuyển chọn kẻ sĩ,
bồi đắp nguyên khí làm việc quan trọng hàng đầu. Kẻ sĩ đối với nước nhà quan trọng
như vậy, cho nên cái ý tôn sùng không biết thế nào là cùng. Không những yêu
chuộng ban cấp khoa danh lại tôn sùng trao cho tước trật, ơn ban rất nhiều vẫn có
thể là chưa đủ. Không những đề tên ở Tháp Nhạn, còn ban danh hiệu trên bảng
vàng”.
- Nhận xét cách sử dụng từ ngữ và giọng điệu trong đoạn văn nghị luận
trên? Những từ ngữ được gạch chân có vai trò như thế nào trong văn
bản?
- Văn nghị luận yêu cầu như thế nào về cách sử dụng từ ngữ và giọng
điệu?
Trong đoạn trích văn bản nghị luận Hiền tài là nguyên khí của quốc gia,
tác giả sử dụng từ ngữ chuẩn mực và trang trọng: “Hiền tài là nguyên khí của đất
nước”, “các bậc thánh đế minh vương”, “nhân tài, kẻ sĩ, khoa danh, danh hiệu, tước
trật, bảng vàng…”, kết hợp với giọng văn trang trọng, nghiêm túc, mang ý nghĩa
khẳng định thể hiện thái độ tôn trọng nhân tài của người viết. Tác dụng của cách sử
dụng từ ngữ và giọng điệu trên giúp người đọc (người nghe) thấy được tầm quan
trọng của người hiền tài đối với sự sống còn và phát triển của đất nước, đồng thời
thấy được ý nghĩa của những việc làm thể hiện sự quan tâm của các bậc thánh đế
minh vương đối với hiền tài.
Do nhu cầu lập luận, văn nghị luận thường xuyên phải vận dụng hệ
thống từ lập luận. Những từ ngữ được gạch chân trong văn bản trên có vai trò quan
trọng là liên kết, xâu chuỗi các ý, các vế, các đoạn nghị luận để tạo nên tính chặt chẽ
trong lập luận của bài văn. Bên cạnh hệ thống từ lập luận, văn nghị luận còn huy
động từ ngữ hình tượng và biểu cảm nhằm làm tăng vẻ hấp dẫn, lôi cuốn, vừa giàu
sức thuyết phục luận lí vừa giàu hình ảnh, sức biểu cảm cho bài văn nghị luận.
Từ quan sát mẫu, phân tích mẫu, học sinh rút ra được bài học về yêu cầu
sử dụng từ ngữ và giọng điệu trong văn nghị luận:
Về cách dùng từ ngữ, người viết văn nghị luận cần chú ý lựa chọn từ
ngữ chính xác, phù hợp với vấn đề cần nghị luận, dùng từ đúng nghĩa, đúng chuẩn
mực, đúng phong cách; tránh dùng từ lạc phong cách hoặc những từ ngữ sáo rỗng,
cầu kì. Mỗi thuật ngữ chỉ nên hiểu theo một cách nhất định, mỗi khái niệm được biểu
đạt bằng một thuật ngữ. Việc thay đổi nội dung thuật ngữ phải được thông báo rõ cho
người đọc, chẳng hạn như đoạn trích văn bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh:
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ
những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được
sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.
Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mĩ.
Suy rộng ra, câu nói ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra
bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.”
Từ những nội dung đã tìm hiểu, có thể thấy, giọng điệu cơ bản của lời
văn nghị luận là trang trọng, nghiêm túc nhưng ở các phần trong bài văn có thể thay
đổi sao cho phù hợp với nội dung cụ thể. Tính trang trọng, nghiêm túc thể hiện ở việc
dùng từ ngữ chuẩn mực, ở việc viết câu mạch lạc, ở thái độ tôn trọng người đọc
(người nghe). Mặt khác, người viết vẫn có quyền sử dụng một số biện pháp tu từ từ
vựng, tu từ cú pháp trong những trường hợp cụ thể để tạo nên sức hấp dẫn cho văn
bản nghị luận.
2.2.4. Tiếp nhận cách vận dụng kết hợp các phương thức biểu đạt trong
văn nghị luận
2.2.4.1. Các phương thức biểu đạt trong văn nghị luận
Văn nghị luận được làm nên bằng sức mạnh chủ yếu là lí trí của người
làm văn, với mục đích chủ yếu là tác động vào lí trí của người cần được thuyết phục.
Song, tính thuyết phục của văn nghị luận không chỉ ở hệ thống lập luận logic mà còn
bởi yếu tố tình cảm của người viết. Do đó, các yếu tố biểu cảm, tự sự và miêu tả là
những yếu tố không thể thiếu trong bài văn nghị luận.
Biểu cảm là một hoạt động nhằm bộc lộ tình cảm của người viết (người
nói) nhằm tác động vào tình cảm của người đọc (người nghe). Biểu cảm là một yếu tố
không thể thiếu vì trong thực tế, tình cảm và lí trí con người hoàn toàn không đối lập
nhau, mà trái lại bổ trợ, hòa hợp nhau. Ánh sáng của trí tuệ giúp tình cảm thêm vững
bền và sâu sắc. Ngược lại, tình cảm, đến lượt mình, lại có thể giúp cho những điều
được lí trí nêu ra có thêm sức lay động, cảm hóa lòng người. Mặt khác, những bài văn
nghị luận đạt đến trình độ mẫu mực luôn luôn là những bài văn được viết (nói) ra
không chỉ bằng sự sáng suốt, mạch lạc, chặt chẽ của trí tuệ mà còn bằng tất cả nhiệt
tình, tha thiết của tâm hồn. Đối với người đọc (người nghe), một bài văn nghị luận
hay là khi bài văn đó không chỉ làm đầu óc mình sáng tỏ mà còn làm cho trái tim
mình rung động. Từ đó, có thể thấy biểu cảm là một yếu tố không thể thiếu để làm
nên một bài văn nghị luận có hiệu quả thuyết phục cao.
Ngoài ra, trong thực tế giao tiếp, các yếu tố tự sự, miêu tả và nghị luận
không phải bao giờ cũng tách bạch nhau. Trong văn nghị luận, các yếu tố này hoàn
toàn có khả năng kết hợp với yếu tố nghị luận để giúp cho hoạt động nghị luận đạt
hiệu quả thuyết phục cao. Rất nhiều khi, chỉ do thiếu một sự kể lại (hay tả lại) cần
thiết mà nội dung nghị luận sẽ trở nên không cụ thể, không sáng tỏ, khiến người đọc
(người nghe) thấy khó, thậm chí không thể nào tiếp nhận (vì không rõ, không hiểu
hoặc không tin).
Kỹ năng vận dụng kết hợp các phương thức biểu đạt trong văn nghị luận
được giảng dạy ở đơn vị bài học Luyện tập vận dụng kết hợp các phương thức biểu
đạt trong bài văn nghị luận trong chương trình Ngữ văn 11. Đây là bài học rèn luyện
tổng hợp việc vận dụng các phương thức biểu đạt trong quá trình taọ lập văn bản nghị
luận. Học sinh đã nắm được cách vận dụng kết hợp các phương thức biểu đạt trong
quá trình học Ngữ văn ở THCS. Bài học này nhằm củng cố và nâng cao kĩ năng đó,
giúp các em chủ động hơn khi trình bày những vấn đề phức tạp, đòi hỏi phải có sự
linh hoạt, uyển chuyển trong việc vận dụng các phương thức biểu đạt.
2.2.4.2. Tiếp nhận cách vận dụng kết hợp các phương thức biểu đạt
trong văn nghị luận
Tương tự như các kĩ năng trên, trong giờ dạy tiếp nhận văn bản nghị
luận, để tích hợp rèn kĩ năng vận dụng kết hợp các phương thức biểu đạt trong văn
nghị luận, giáo viên cũng yêu cầu học sinh xem xét văn bản và trả lời các câu hỏi
mang tính tích hợp kiến thức giữa tiếp nhận và tạo lập. Chẳng hạn như đoạn trích văn
bản nghị luận Xin lập khoa luật – Phan Châu Trinh (chương trình Ngữ văn 11):
“Vì sao mà người ta làm được như thế? Là vì người ta có đoàn thể, có
công đức biết giữ lợi chung vậy. Họ nghĩ rằng nếu nay để cho người có quyền lực đè
nén người này thì mai ắt cũng lấy quyền lực ấy để đè nén mình, cho nên phải hiệp
nhau lại phòng ngừa trước. Người ta có ăn học biết xét kĩ thấy xa như thế, còn người
nước mình thì sao? Người mình thì phải ai tai nấy, ai chết mặc ai! Đi đường gặp
người bị tai nạn, gặp người yếu bị kẻ mạnh bắt nạt cũng ngơ mắt đi qua, hình như
người bị nạn khốn ấy không can thiệp gì đến mình.
Đã biết sống thì phải bênh vực nhau, ông cha mình ngày xưa cũng đã
hiểu đến. Cho nên mới có câu: “Không ai bẻ đũa cả nắm” và “Nhiều tay làm nên
bộp”. Thế thì dân tộc Việt Nam này hồi cổ sơ cũng biết đoàn thể, biết công ích, cũng
góp gió làm bão, giụm cây làm rừng, không đến nỗi trơ trọi, lơ láo, sợ sệt, ù lì như
ngày nay.
Dân không biết đoàn thể, không trọng công ích là bởi ba bốn trăm năm
trở về đây, bọn học trò trong nước mắc ham quyền tước, ham bả vinh hoa của các
triều vua mà sinh ra giả dối nịnh hót, chỉ biết có vua mà chẳng biết có dân. Bọn ấy
muốn giữ túi tham mình được đầy mãi, địa vị của mình được vững mãi, bèn kiếm
cách thiết pháp luật, phá tan tành đoàn thể của quốc dân.
Dẫu trôi nổi, dẫu cực khổ thế nào mặc lòng, miễn là có kẻ mang đai đội
mũ ngất ngưởng ngồi trên, có kẻ áo rộng khăn đen lúc nhúc lạy dưới, trăm nghìn
năm như thế cũng xong! Dân khôn mà chi! Dân ngu mà chi! Dân lợi mà chi! Dân hại
mà chi! Dân càng nô lệ, ngôi vua càng lâu dài, bọn quan lại càng phú quý! Chẳng
những thế mà thôi, “ một người làm quan một nhà có phước”, dầu tham, dầu nhũng,
dầu vơ vét, dầu rút tỉa của dân thế nào cũng không ai bình phẩm; dầu lấy lúa của
dân mua vườn sắm ruộng, xây nhà làm cửa cũng không ai chê bai.”
- Tác giả văn bản nghị luận trên đã vận dụng kết hợp các phương thức
biểu đạt tự sự, miêu tả và biểu cảm như thế nào để tăng tính thuyết phục
cho mạch lập luận?
- Để việc vận dụng các phương thức biểu đạt đó thực sự có tác dụng nâng
cao hiệu quả nghị luận, chúng ta cần chú ý những điều gì?
Tính biểu cảm trong văn bản nghị luận trên được tạo nên bởi liên tiếp
các câu hỏi nghi vấn, câu cảm thán được đặt ra: “Vì sao mà người ta làm được như
thế?”, “Người ta có ăn học biết xét kĩ thấy xa như thế, còn người nước mình thì
sao?”, “! Dân khôn mà chi! Dân ngu mà chi! Dân lợi mà chi! Dân hại mà chi! Dân
càng nô lệ, ngôi vua càng lâu dài, bọn quan lại càng phú quý!”… Các yếu tố tự sự:
“Người mình thì phải ai tai nấy, ai chết mặc ai! Đi đường gặp người bị tai nạn, gặp
người yếu bị kẻ mạnh bắt nạt cũng ngơ mắt đi qua, hình như người bị nạn khốn ấy
không can thiệp gì đến mình” kết hợp với những dòng miêu tả: “Thế thì dân tộc Việt
Nam này hồi cổ sơ cũng biết đoàn thể, biết công ích, cũng góp gió làm bão, giụm cây
làm rừng, không đến nỗi trơ trọi, lơ láo, sợ sệt, ù lì như ngày nay” , “Dẫu trôi nổi,
dẫu cực khổ thế nào mặc lòng, miễn là có kẻ mang đai đội mũ ngất ngưởng ngồi trên,
có kẻ áo rộng khăn đen lúc nhúc lạy dưới, trăm nghìn năm như thế cũng xong!” thể
hiện tâm trạng vừa đau xót vừa mỉa mai, vừa cảm thông nỗi khổ của dân vừa châm
biếm bọn quan lại phong kiến và chính quyền thực dân phong kiến. Sự kết hợp các
yếu tố biểu cảm, tự sự và miêu tả trong bài văn nghị luận trên đã có sức tác động
mạnh mẽ vào lí trí và tình cảm của người đọc (người nghe) về nguyên nhân dẫn đến
vấn đề dân không biết đến đoàn thể, không trọng công ích, không hiểu luân lí xã hội.
Trong một bài văn, yếu tố biểu cảm thường biểu hiện rõ nhất ở những từ
ngữ chỉ cảm xúc, ở những câu cảm thán, ở giọng văn nghị luận. Muốn biểu cảm,
trước hết phải có cảm xúc thật sự để biểu lộ. Cảm xúc ấy phải chân thành, nếu không
sẽ không chinh phục được người đọc (người nghe). Vì vậy, sự cảm xúc phải chân thật,
tránh đưa vào bài văn những cảm xúc sáo rỗng. Hoặc chỉ chú ý đến yếu tố biểu cảm
mà quên rằng, đã là văn nghị luận thì vai trò nghị luận bao giờ cũng là chính yếu.
Yếu tố biểu cảm chỉ cần thiết và có giá trị khi nó giúp cho sự nghị luận đạt được hiệu
quả thuyết phục hơn. Vì thế, nhất thiết không để cho yếu tố biểu cảm tách rời khỏi
quá trình nghị luận, cản trở mạch nghị luận hay lấn át vai trò nghị luận của bài văn.
Tương tự như yếu tố biểu cảm, các yếu tố tự sự và miêu tả chỉ đóng vai
trò phụ trợ trong bài văn nghị luận. Ở đó, tự sự và miêu tả không được tách biệt khỏi
quá trình nghị luận, càng không thể làm mờ nhạt vai trò của nghị luận. Công việc tự
sự và miêu tả trong nghị luận chỉ có ý nghĩa khi chúng thực sự xuất phát từ nhu cầu
nghị luận, và nhờ chúng mà nội dung nghị luận trở nên rõ ràng hơn. Nói cách khác, ở
một bài văn nghị luận, các yếu tố tự sự và miêu tả được coi là hay không chỉ vì bản
thân những lời tự sự và miêu tả đó hay, mà vì chúng giúp cho sự nghị luận trở nên
hay hơn nữa.
Tóm lại, nếu được sử dụng hợp lí và khéo léo, các yếu tố tự sự, miêu tả
và biểu cảm có thể làm cho bài văn nghị luận trở nên đặc sắc, có sức thuyết phục, hấp
dẫn; từ đó, hiệu quả nghị luận được nâng cao.
2.3. Phương pháp dạy học tạo lập văn bản nghị luận
2.3.1. Rèn luyện kĩ năng xác định và triển khai luận điểm
Trong giờ dạy tạo lập văn bản nghị luận, học sinh được rèn luyện kĩ
năng xác định, triển khai luận điểm và kĩ năng lập luận ở các đơn vị bài học trong
chương trình Ngữ văn 10 và 11 (ban cơ bản).
* Ở lớp 10, kĩ năng xác định, triển khai luận điểm và kĩ năng lập luận
được rèn luyện cho học sinh ở hai bài: 1) Lập dàn ý bài văn nghị luận, 2) Lập luận
trong văn nghị luận.
1) Trong bài Lập dàn ý bài văn nghị luận, ngoài mục tiêu giúp học sinh
nắm được tác dụng của việc lập dàn ý và cách thức lập dàn ý bài văn nghị luận, thông
qua việc giúp học sinh lập được dàn ý cho một đề văn nghị luận cụ thể mà rèn luyện
kĩ năng xác định và triển khai luận điểm cho bài văn nghị luận. Dàn ý bài văn nghị
luận là hệ thống ý – hệ thống luận điểm, luận cứ được sắp xếp theo một trật tự nhất
định. Bài học gồm hai mục: mục 1 – Tác dụng của việc lập dàn ý, mục 2 – Cách lập
dàn ý bài văn nghị luận.
Ở mục 1 – Tác dụng của việc lập dàn ý, có thể dùng một tác phẩm nghị
luận đã học trong chương trình, chẳng hạn như văn bản nghị luận Hiền tài là nguyên
khí của quốc gia của Thân Nhân Trung trong chương trình Ngữ văn 10 có thể xem
là một mẫu tiêu biểu để giáo viên có thể đưa ra một hệ thống câu hỏi giúp học sinh
nhận thức được vai trò vô cùng quan trọng của việc sắp xếp hệ thống luận điểm, luận
cứ theo một trật tự hợp lí:
- Xác định hệ thống luận điểm trong văn bản? Luận điểm nào quan trọng
nhất? Vì sao? Tác giả đã phát triển luận điểm này như thế nào?
- Nhận xét cách lập luận của bài văn?
Bài văn được triển khai theo hệ thống gồm ba luận điểm: luận điểm 1 –
Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, luận điểm 2 – Những việc đã làm của các thánh
đế minh vương đối với hiền tài, luận điểm 3 – Ý nghĩa của việc khắc bia tiến sĩ. Trong
đó, luận điểm 1 là gốc, là cơ sở, nói lên tầm quan trọng và ý nghĩa của hiền tài đối với
đất nước. Tác giả đã phát triển luận điểm này bằng cách lập luận theo kiểu diễn dịch,
sử dụng thao tác so sánh đối lập để thấy chân lí hiển nhiên: mối quan hệ giữa hiền tài
với sự thịnh suy của đất nước, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh rồi lên cao và
ngược lại, nguyên khí suy thì thế nước yếu rồi xuống thấp.
Tính chặt chẽ, mạch lạc của bài văn thể hiện qua cách sắp xếp các luận
điểm theo một trật tự hợp lí: Tầm quan trọng của hiền tài – Khuyến khích phát triển
hiền tài – Những việc đã làm của các thánh đế minh vương đối với hiền tài – Những
việc đang làm và sẽ làm (khắc bia tiến sĩ) – Ý nghĩa, tác dụng của việc khắc bia tiến
sĩ.
Ở mục 2 – Cách lập dàn ý bài văn nghị luận, lập dàn ý bao gồm hai
khâu: tìm ý cho bài văn và lập dàn ý. Khâu tìm ý bao gồm ba bước: xác định luận đề,
xác định các luận điểm, tìm luận cứ cho các luận điểm. Ở mục này, giáo viên có thể
tích hợp kiến thức với bài học Hiền tài là nguyên khí của quốc gia đã học trong giờ
dạy tiếp nhận văn bản cũng như tích hợp kiến thức ở mục 1 để ra một đề văn và yêu
cầu học sinh thực hiện công việc tìm ý: xác định luận đề, hệ thống luận điểm và luận
cứ cho đề văn:
Bày tỏ ý kiến của mình về vấn đề mà tác giả Thân Nhân Trung đã nêu
trong Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba – 1442:
“Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước
mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp”.
Anh (chị) hãy lập dàn ý cho đề văn nghị luận trên.
2) Trong bài Lập luận trong văn nghị luận, củng cố, luyện tập và nâng
cao kiến thức và kĩ năng lập luận chính là đặc điểm của bài học này. Quan trọng nhất
của bài học là tìm luận điểm, luận cứ và vận dụng phương pháp lập luận phù hợp để
đạt kết quả nghị luận. Bài học gồm hai mục: mục 1 – Khái niệm về lập luận trong bài
văn nghị luận, mục 2 – Cách xây dựng lập luận. Trong đó, trọng tâm bài học là mục
2 – Cách xây dựng lập luận.
Ở mục 1 – Khái niệm về lập luận trong bài văn nghị luận, ngoài đoạn
văn bản trích trong Lại dụ Vương Thông – Quân trung từ mệnh tập của Nguyễn Trãi,
giáo viên có thể sử dụng hệ thống câu hỏi phân tích cách lập luận của tác phẩm nghị
luận trung đại Bình Ngô đại cáo như đã trình bày trong Giờ dạy tiếp nhận văn bản
nghị luận của nội dung Rèn kĩ năng xác định và triển khai luận điểm trong văn nghị
luận để giúp học sinh ôn lại khái niệm lập luận:
- Hệ thống luận điểm mà tác giả sử dụng để triển khai toàn bộ nội dung
bài cáo?
- Nhận xét cách lập luận trong bài cáo?
- Thế nào là lập luận trong văn nghị luận?
Lôgic lập luận của Nguyễn Trãi trong Bình Ngô đại cáo thể hiện ngay
trong bố cục của bài cáo. Phần đầu – luận điểm 1: nêu lên nguyên lí chính nghĩa để
làm chỗ dựa, làm căn cứ xác đáng để triển khai toàn bộ nội dung bài cáo: “Việc nhân
nghĩa cốt ở yên dân – Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”. Phần hai – luận điểm 2: dựa
trên lập trường nhân nghĩa ở phần đầu để chứng minh, tố cáo tội ác của giặc Minh:
“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà – Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa …Nướng dân
đen trên ngọn lửa hung tàn – Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”. Phần ba – luận
điểm 3: dẫn đến lẽ tất yếu bão khởi nghĩa sẽ nổi lên: “Núi Lam Sơn dấy nghĩa – Chốn
hoang dã nương mình – Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
– Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”. Phần kết – luận
điểm 4: tuyên bố chiến thắng, kỉ nguyên độc lập dân tộc được mở ra: “Kiền khôn bĩ
rồi lại thái – Nhật nguyệt hối rồi lại minh – Muôn thuở nền thái bình vững chắc –
Nghìn thu vết nhục nhã sạch làu”.
Từ bố cục chặt chẽ, mạch lạc, lập luận lôgíc nêu trên của bài cáo, giáo
viên có thể hướng dẫn học sinh có thể đưa ra một khái niệm về lập luận: Lập luận là
đưa ra các lí lẽ, dẫn chứng, dẫn dắt người nghe (đọc) đến kết luận; nói cách khác, đó
là cách vận dụng luận chứng để làm sáng tỏ luận điểm trong bài văn nghị luận.
Yêu cầu của mục 2 – Cách xây dựng lập luận là xác định luận điểm, tìm
luận cứ và lựa chọn phương pháp lập luận. Ở mục này, trong phần Lựa chọn phương
pháp lập luận, giáo viên có thể yêu cầu học sinh tìm ra phương pháp lập luận trong
hai ngữ liệu: đoạn văn bản Lại dụ Vương Thông và Hiền tài là nguyên khí của quốc
gia trong chương trình giảng dạy tiếp nhận văn bản nghị luận.
Đối với đoạn văn bản Lại dụ Vương Thông: phương pháp lập luận là
diễn dịch và quan hệ nhân quả:
“Người dùng binh giỏi là ở chỗ biết xét thời thế mà thôi. Được thời có
thế thì biến mất làm còn, hoá nhỏ thành lớn. Mất thời không thế thì mạnh quay thành
yếu, yên chuyển làm nguy, chỉ như khoảng trở bàn tay mà thôi. Nay các ông không rõ
thời thế, lại trang sức bằng những lời dối trá, thế chẳng phải là kẻ thất phu hèn kém
ư? Sao đủ để cùng nói việc binh được.”
Đối với đoạn văn bản Hiền tài là nguyên khí của quốc gia: phương pháp
lập luận là diễn dịch và so sánh đối lập:
“Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước
mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp.”
* Ở lớp 11, kĩ năng xác định, triển khai luận điểm và kĩ năng lập luận
được rèn luyện cho học sinh ở bài học: Phân tích đề, lập dàn ý bài văn nghị luận.
Bài học này bao gồm hai yêu cầu trọng tâm: giúp học sinh nắm được
cách thức phân tích đề văn nghị luận và biết cách lập dàn ý cho bài văn nghị luận.
Như vậy, bài học này cũng nhằm củng cố, nâng cao kĩ năng phân tích đề và xác định
luận điểm, triển khai luận điểm mà học sinh đã học ở các lớp dưới.
Bài học gồm hai phần: mục 1 – Phân tích đề và mục 2 – Lập dàn ý. Ở cả
hai đề mục của bài, để kiểm tra khả năng phân tích đề và xác định – triển khai luận
điểm, giáo viên có thể ra một số đề văn yêu cầu học sinh thực hành hai kĩ năng nêu
trên.
- Đề 1: Từ Tựa “Trích diễm thi tập” (Hoàng Đức Lương – chương trình
Ngữ văn 10), nghĩ về việc giữ gìn và phát huy những tinh hoa văn học
của dân tộc ta.
- Đề 2: Tâm sự của Hồ Xuân Hương trong bài thơ Tự tình (bài II).
- Đề 3: Về một vẻ đẹp của bài thơ Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến.
Bước 1: giáo viên yêu cầu học sinh thực hiện thao tác phân tích đề dựa
vào những câu hỏi sau:
- Trong những đề văn trên, đề nào có định hướng có định hướng cụ thể,
đề nào đòi hỏi người viết phải tự xác định hướng triển khai?
- Vấn đề (luận đề) cần nghị luận của mỗi đề là gì?
Trong những đề văn trên, đề 1 là đề có định hướng cụ thể, bao gồm vấn
đề cần nghị luận, mục đích nghị luận và thao tác lập luận; đề 2 và đề 3 không có định
hướng cụ thể, đòi hỏi người viết phải tự xác định hướng triển khai về mục đích nghị
luận và các thao tác lập luận. Vấn đề cần nghị luận của đề 1: việc giữ gìn và phát huy
tinh hoa văn học của dân tộc, của đề 2: tâm sự và diễn biến tâm trạng của Hồ Xuân
Hương trong bài thơ Tự tình (bài II), của đề 3: một vẻ đẹp của bài thơ Câu cá mùa
thu của Nguyễn Khuyến ( vẻ đẹp mùa thu, tâm trạng của nhà thơ, vẻ đẹp ngôn ngữ…)
Bước 2: giáo viên yêu cầu học sinh thực hiện thao tác lập dàn ý dựa vào
kết quả phân tích đề ở trên:
- Từ nội dung của đề, bước đầu có thể xác định hệ thống luận điểm cần
nghị luận để làm sáng tỏ luận đề không? Cụ thể đó là những luận điểm
nào?
- Dựa vào kết quả phân tích đề, anh (chị) hãy lập dàn ý cho một trong các
đề văn trên?
Từ nội dung của đề, bước đầu chúng ta có thể xác định hệ thống luận
điểm cần nghị luận để làm sáng tỏ luận đề. Chẳng hạn như ở đề 2, dựa vào bài học ở
phần Văn học có thể xác định tâm sự và diễn biến tâm trạng của nhà thơ, mỗi nét tâm
trạng có thể coi như một luận điểm của bài viết: luận điểm 1 – Tâm trạng cô đơn,
trống vắng trước vũ trụ và tủi hổ, bẽ bàng trước cuộc đời; luận điểm 2 – Nỗi xót xa,
cay đắng cho duyên phận dở dang, lỡ làng; luận điểm 3 – Sự phẫn uất và phản kháng;
luận điểm 4 – Nỗi ngán ngẩm, buông xuôi trước số phận éo le, ngang trái.
Dựa vào kết quả phân tích đề, chẳng hạn như ở đề 1, có thể lập dàn ý
theo ba thao tác như sau:
1) Xác lập luận điểm: dựa vào nội dung bài học ở phần Văn học của văn bản nghị
luận Tựa “Trích diễm thi tập” có thể xác định các luận điểm của bài viết như sau:
- Quan điểm của Hoàng Đức Lương về việc thơ văn không lưu truyền hết ở
đời
- Thái độ, tình cảm của Hoàng Đức Lương đối với di sản văn hoá của ông
cha ta
- Suy nghĩ của bản thân về việc giữ gìn và phát huy những tinh hoa văn học
của dân tộc
2) Xác lập luận cứ: có thể xác lập những luận cứ làm sáng tỏ cho từng luận điểm
trên như sau:
- Với luận điểm 1: Quan điểm của Hoàng Đức Lương về việc thơ văn không
lưu truyền hết ở đời
+ Lí do thơ văn không lưu truyền hết ở đời
+ Nguyên nhân sưu tầm, tuyển chọn thơ văn
- Với luận điểm 2: Thái độ, tình cảm của Hoàng Đức Lương đối với di sản
văn hoá của ông cha ta
+ Tình cảm yêu quý, trân trọng di sản văn học của ông cha
+ Đau xót trước thực trạng di sản quý báu bị tản mát, huỷ hoại, đắm
chìm trong quên lãng của người đời
- Với luận điểm 3: Suy nghĩ của bản thân về việc giữ gìn và phát huy những
tinh hoa văn học của dân tộc
+ Tự hào, trân trọng di sản văn học dân tộc của ông cha
+ Thực trạng bảo tồn và phát huy di sản văn học hiện nay
+ Ý thức trách nhiệm của thế hệ trẻ về việc giữ gìn và phát huy di sản
văn học nói riêng và nền văn hiến nói chung của dân tộc
3) Từ hai thao tác trên, giáo viên hướng dẫn học sinh nhận thức được vai trò của
việc lập dàn ý và đặc điểm của luận điểm như sau:
Lập dàn ý là sắp xếp các luận điểm, luận cứ theo trình tự lôgíc. Lập dàn
ý giúp người viết không bỏ sót những ý quan trọng, đồng thời loại bỏ được những ý
không cần thiết. Biết cách sắp xếp hệ thống luận điểm, luận cứ mạch lạc, lôgíc có thể
giúp người viết tạo lập văn bản nghị luận dễ dàng hơn, nhanh hơn và hay hơn. Hệ
thống luận điểm, luận cứ đưa vào dàn ý phải đạt được các yêu cầu:
- Chính xác (luận điểm, luận cứ phải phù hợp với lẽ phải và sự thật)
- Phù hợp (các luận phải phù hợp với yêu cầu giải quyết vấn đề, các luận cứ
phải phù hợp với luận điểm, làm rõ cho luận điểm)
- Đầy đủ (các luận điểm phải giải quyết đầy đủ vấn đề được đặt ra, các luận
cứ phải đủ làm căn cứ vững chắc cho luận điểm)
- Tiêu biểu (các luận điểm, luận cứ phải được chọn lọc kĩ càng để các ý trong
bài xác đáng, giàu sức thuyết phục).
Tóm lại, kĩ năng xác định và triển khai luận điểm không chỉ được rèn
luyện trong giờ dạy tạo lập văn bản nghị luận mà từ mối quan hệ giữa tiếp nhận và
tạo lập trong văn nghị luận, kĩ năng quan trọng này còn được rèn ngay cả trong giờ
dạy tiếp nhận văn bản văn học. Đối với giờ dạy tiếp nhận văn bản nghị luận, luận
điểm trong các tác phẩm nghị luận sẽ trở thành một mẫu điển hình để giúp các em
nhận ra cách thức xây dựng và triển khai luận điểm của tác giả khi tạo lập một bài
văn nghị luận. Đối với giờ dạy tạo lập văn bản nghị luận, trong khi thực hành rèn kĩ
năng xác định và triển khai luận điểm, học sinh cũng nhận ra vai trò, vị trí của luận
điểm trong bài văn nghị luận cũng như đặc điểm thể loại của văn nghị luận.
2.3.2. Rèn luyện kĩ năng vận dụng kết hợp các thao tác lập luận
a. Thao tác lập luận phân tích
Thao tác lập luận phân tích trong chương trình làm văn 11 được giảng
dạy ở hai đơn vị bài học: Thao tác lập luận phân tích và Luyện tập thao tác lập luận
phân tích.
Trong giờ dạy tạo lập, để rèn kĩ năng vận dụng thao tác lập luận phân
tích, giáo viên yêu cầu học sinh thực hành hai dạng bài tập: bài tập nhận diện và bài
tập thực hành tạo lập.
Về bài tập nhận diện, giáo viên yêu cầu học sinh xem xét và phân tích
cách thức lập luận trong đoạn văn bản nghị luận sau:
“Nhưng trong xã hội này, bẩn thỉu và bần tiện thì có lẽ không ai bằng
Sở Khanh. Trong các nghề bất chính ngày xưa, có một cái nghề rất tồi tàn là nghề
sống bám các thanh lâu, nghề làm chồng hờ của gái điếm. Nhưng trong cái bọn tồi
tàn ấy cũng rất ít ai tồi tàn như Sở Khanh. Sở Khanh vờ làm nhà nho, làm hiệp khách
và Sở Khanh vờ yêu để kiếm chác, để đánh lừa một người con gái. Người ấy lại là
người vì hiếu thảo mà rơi vào chốn lầu xanh, lại là người đã tỏ ra rất tin, rất đội ơn
Sở Khanh. Và Sở Khanh lừa người ta là để người ta bị đánh đập tơi bời, bị ném vào
kiếp lầu xanh không cách gì cưỡng lại. Cho nên lúc Tú Bà đuổi tới nơi và Sở Khanh
rẽ dây cương biến mất, tâm lí của bất kì ai, dầu hiền lành đến mấy, khi đọc tới đó là:
giá có cách gì tóm được Sở Khanh thì cái việc đầu tiên là phải đánh cho một trận.
Nhưng cái tàn nhẫn và vô liêm sỉ của Sở Khanh không phải chỉ có thế. Hắn còn đi xa
hơn nữa. Sau đó, hắn còn dẫn mặt mo đến, mắng át Kiều và toan đánh Kiều nữa. Cái
trò lừa bịp và lừa bịp xong là trở mặt này lại không phải là chuyện ngẫu nhiên,
chuyện một lần. Theo Mã Kiều thì cái chuyện này hắn diễn ra không biết lần thứ mấy,
hắn đã thành tay nổi tiếng bạc tình. Nhân vật Sở Khanh hoàn thành bức tranh về các
nhà chứa. Nó là cái mức cao nhất của tình hình đồi bại trong xã hội này.”
Trong đoạn trích lập luận nêu trên, tác giả nêu ra vấn đề: trong xã hội
này, bẩn thỉu và bần tiện thì có lẽ không ai bằng Sở Khanh. Ý chủ đề trên đã được
triển khai bằng thao tác lập luận phân tích để chia tách nhận định trên thành các phần,
các yếu tố:
- Sở Khanh thuộc vào số những kẻ sống bằng nghề bám vào các nhà chứa.
- Nhưng Sở Khanh tồi tàn hơn những kẻ cùng nghề ở sự giả dối, đội lốt nhà
nho, hiệp khách để lừa gạt.
- Người bị Sở Khanh lửa gạt lại là Thúy Kiều, người con gái hiếu thảo, dã
hết lòng tin hắn, đội ơn hắn.
- Và Sở Khanh lừa gạt Kiều là để nàng càng khổ nhục hơn.
- Đã thế, hắn còn vác mặt mo trở lại, mắng Kiều và định đánh Kiều.
Các lí lẽ ở các phần, các yếu tố trên được tổ chức, sắp xếp một cách hợp
lí theo trình tự tăng tiến, từ biểu hiện ở mức độ thấp nhất đến biểu hiện ở mức độ cao
nhất, khiến cho luận điểm cuối cùng trở nên hoàn toàn sáng tỏ. Nhờ có sự xem xét
cặn kẽ, chi tiết các thành phần, các yếu tố đó, tác giả mới có đủ căn cứ thuyết phục để
đưa ra một nhận định cụ thể, sâu sắc: Sở Khanh là sự thể hiện ở mức cao nhất thực tế
đồi bại của xã hội phong kiến suy tàn.
Tiếp theo, để rèn khả năng sáng tạo trong thực hành thao tác lập luận
phân tích, giáo viên có thể yêu cầu học sinh nhận diện, phân tích cách thức lập luận
trong đoạn văn nghị luận mẫu như sau:
“Đối với những vấn đề chưa giải quyết, sẽ có nhiều ý kiến, nhiều giả
thuyết khác nhau. Sẽ có tranh luận, có trao đổi. Không tranh luận, không trao đổi,
không có khoa học. Không có gì nguy hiểm bằng là không bao giờ được nghe một ý
kiến khác ý của mình. Nghe mà phải tôn trọng, dù điều ấy có thể làm sụp đổ bao
nhiêu suy nghĩ mà mình đã công phu xây dựng lên. Chỉ muốn nghe những người nhất
trí với mình, những điều thuận tai là một thái độ phản khoa học. Vì vậy, khoa học
không chỉ lấy uy quyền mà giải quyết, óc khoa học nhất định phải đi đôi với óc dân
chủ. Một người khoa học bao giờ cũng hành động và suy nghĩ theo hai chiều hướng
trái ngược nhau. Trong hành động thì tinh thần tổ chức kỉ luật rất cao, chính vì biết
rõ quan hệ chặt chẽ giữa ý kiến và hành động, biết rõ ý kiến là cơ sở của hành động,
không thể vì chủ quan mà gây nên tai hoạ cho người khác và xã hội. Nhưng khi suy
nghĩ thì hoàn toàn giữ quyền độc lập và cố gằng tìm hiểu ý kiến của người khác. Nếu
chưa được thuyết phục và nếu đủ lí để nghĩ rằng ý của mình đúng hơn, thì dù có phải
tranh luận với bất kì ai, có khi bị cả một số đông phản đối vẫn bảo vệ lấy ý riêng.
Khoa học phải đi đôi với dũng khí”.
Luận điểm chính trong đoạn trích trên: Nhà khoa học phải có óc dân chủ
và dũng khí. Luận điểm được phân chia thành hai bộ phận: (1) nhà khoa học phải có
óc dân chủ, (2) nhà khoa học phải có dũng khí. Để thuyết phục người đọc rằng nhà
khoa học phải có óc dân chủ, đầu tiên tác giả mở đầu lập luận của mình bằng cách
nêu lên một sự thật: “Đối với những vấn đề chưa giải quyết, sẽ có nhiều ý kiến, nhiều
giả thuyết khác nhau”, do đó phải có tranh luận, trao đổi. Tác giả tiếp tục phân tích
các mối nguy hại khi nhà khoa học, trong tranh luận, không biết nghe những ý kiến
khác mình. Từ đó, tác giả rút ra kết luận: “óc khoa học nhất định phải đi đôi với óc
dân chủ”. Như vậy, tác giả không chỉ chia tách vấn đề thành nhiều mặt mà thông qua
thao tác lập luận phân tích, tác giả còn cắt nghĩa, bình giá vấn đề, phân tích hai mặt
khác nhau của mối quan hệ giữa hành động và suy nghĩ của nhà khoa học, từ đó làm
sáng tỏ vấn đề về dân chủ và dũng khí của nhà khoa học.
Từ việc phân tích hai đoạn văn bản nghị luận mẫu trên, học sinh có thể
rút ra cho mình bài học về cách thực hiện thao tác lập luận phân tích:
- Phân tích căn cứ vào quan hệ nội bộ của đối tượng
- Phân tích theo các mối quan hệ nguyên nhân – kết quả, quan hệ giữa đối
tượng với các đối tượng liên quan, phân tích theo sự đánh giá chủ quan của
người lập luận.
- Mỗi lần phân chia, người viết chỉ được dùng một, và chỉ một, căn cứ thống
nhất. Đó phải là các căn cứ giúp người đọc nhận rõ các bản chất, các quan
hệ cơ bản của hiện tượng (vấn đề).
- Các ý nhỏ được chia ra phải nằm trong ý lớn và không được chồng chéo lên
nhau.
- Sau khi chia nhỏ luận điểm để xem xét kĩ càng, người viết cần phải tổng
hợp những điều đã phân tích lại để đưa ra một ý kiến chung sâu sắc, mới mẻ
hơn so với nhận xét ban đầu.
Về bài tập thực hành tạo lập, sau khi quan sát mẫu, phân tích mẫu, học
sinh đã hiểu thế nào là thao tác lập luận phân tích, cách thực hiện thao tác lập luận
phân tích, giáo viên yêu cầu học sinh thực hành tạo lập với yêu cầu thấp (giống mẫu).
Cuối cùng yêu cầu học sinh sáng tạo theo ý tưởng của cá nhân, dựa trên các đặc điểm
và yêu cầu của thao tác lập luận phân tích. Yêu cầu này chủ yếu được thực hiện trong
bài Luyện tập thao tác lập luận phân tích, có thể ra một đề văn và yêu cầu học sinh
thực hành tạo lập văn bản nghị luận bằng thao tác lập luận phân tích:
Tự ti và tự phụ là hai thái độ trái ngược nhau nhưng đều ảnh hưởng
không tốt đến kết quả học tập và công tác. Anh (chị) hãy phân tích hai căn bệnh
trên.
Từ đề văn trên, việc luyện tập có thể tiến hành theo các bước:
Bước 1, học sinh xác định rõ luận điểm cần làm sáng tỏ trong đề bài
trên: Ảnh hưởng xấu của hai căn bệnh tự ti và tự phụ đến kết quả học tập và công tác.
Bước 2, học sinh tập sử dụng thao tác phân tích để chia nhỏ luận điểm
thành các phần, các mặt để xem xét. Luận điểm trên có thể được phân chia thành các
luận cứ: phân tích căn bệnh tự ti, phân tích căn bệnh tự phụ, mối quan hệ giữa hai căn
bệnh tự ti và tự phụ, cách khắc phục hai căn bệnh đó để có một thái độ sống hợp lí.
Sau đó, học sinh tiếp tục dùng thao tác phân tích để phân chia mỗi phần
trên thành các khía cạnh nhỏ hơn:
- Thái độ tự ti
+ Giải thích khái niệm tự ti, phân biệt tự ti với khiêm tốn
+ Những biểu hiện của thái độ tự ti
+ Tác hại của căn bệnh tự ti
- Thái độ tự phụ
+ Giải thích khái niệm tự phụ, phân biệt tự phụ với tự tin
+ Những biểu hiện của thái độ tự phụ
+ Tác hại của căn bệnh tự phụ
- Mối quan hệ giữa căn bệnh tự ti và tự phụ
Bước 3, học sinh sau khi đã phân chia luận điểm thành nhiều mặt và
nhiều ý nhỏ hơn, cần rút ra những kết luận sâu hơn về tác hại của hai căn bệnh này:
Thời nào, các căn bệnh tự ti và tự phụ cũng đều gây ra ảnh hưởng xấu, nhưng chưa
bao giờ các căn bệnh ấy lại có nhiều tác hại như trong thời đại hiện nay. Do đó, mỗi
cá nhân chúng ta cần đánh giá đúng bản thân để phát huy mặt mạnh, hạn chế và khắc
phục mặt yếu.
Bước 4, yêu cầu học sinh diễn đạt các nội dung trên thành lời văn hoàn
chỉnh, sử dụng thao tác lập luận phân tích một cách sáng tạo xuất phát từ việc phân
tích những mẫu văn bản nghị luận tiêu biểu, từ đặc điểm và yêu cầu của thao tác lập
luận phân tích. Sự sáng tạo thể hiện ở cách thức phân tích không chỉ bó hẹp trong một
hướng là đi sâu chia tách đối tượng ra thành nhiều bộ phận để xem xét mà còn có thể
vận dụng các cách phân tích khác như phân tích bằng cách nêu định nghĩa, chỉ ra
nguyên nhân – kết quả, giảng giải, cắt nghĩa, bình giá…Hoặc, phân tích không chỉ là
sự phân chia các yếu tố của bản thân đối tượng mà cũng cần phải phân tích theo
nhiều mối quan hệ khác, đặc biệt là phân tích mối quan hệ của bản thân đối tượng với
các yếu tố nằm ngoài đối tượng nhưng có liên quan đến đối tượng để nhận thức đối
tượng thêm sâu sắc. Chẳng hạn như trong đề văn nêu trên, luận điểm Ảnh hưởng xấu
của hai căn bệnh tự ti và tự phụ được phân tích bằng cách nêu định nghĩa và được đặt
trong mối quan hệ với hai đức tính khiêm tốn và tự tin để nhận thức sâu sắc hơn bản
chất của tự ti và tự phụ.
Sau khi học sinh đã nắm được cách thức tiến hành thao tác lập luận phân
tích, yêu cầu học sinh tự thực hành luyện tập thao tác phân tích qua một số bài tập
nâng cao như:
Dùng thao tác lập luận phân tích để viết đoạn văn cho các vấn đề sau:
- Về nghị luận xã hội: Viết đoạn văn bàn về hai chữ “hạnh phúc”.
- Về tác phẩm thơ: Viết đoạn văn phân tích một hình ảnh, một câu thơ hoặc
đoạn thơ mà anh (chị) yêu thích.
- Về tác phẩm văn xuôi: Viết đoạn văn phân tích một hình ảnh, nhân vật hoặc
các yếu tố nghệ thuật đặc sắc trong một tác phẩm văn xuôi mà anh (chị)
yêu thích.
Có thể tham khảo cách dùng thao tác lập luận phân tích để triển khai
đoạn văn ở đề nghị luận xã hội như sau:
“Có người cho rằng, hạnh phúc là một cái gì đó rất xa vời, nhưng thật
ra… Hạnh phúc, đôi khi thật đơn giản chỉ là một bữa cơm nho nhỏ do bố và con làm
“đạo diễn” để tặng mẹ nhân ngày sinh nhật. Bữa cơm ấy, có lẽ chưa “hoàn thiện”,
cơm có thể khét, canh có thể hơi nhạt…nhưng mẹ lại cảm thấy rất ngon, bởi giờ đây
mẹ đang cảm nhận được thế nào là hạnh phúc. Hạnh phúc, đôi khi thật đơn giản chỉ
là một bông hoa hồng nhỏ của cô học trò nghèo tặng cô giáo cũ nhân Ngày nhà giáo
Việt Nam. Không xa xỉ, cũng không cầu kì mà lại ấm áp đến kì lạ. Cô giáo nhận bông
hồng và nở một nụ cười, nụ cười tươi vui, rực rỡ như bông hồng ấy. Mắt cô ứa lệ… vì
cô đang cảm nhận được niềm tự hào và hạnh phúc của nghề trồng người. Vậy đấy,
hạnh phúc đôi khi thậ đơn giản, đơn giản đến nỗi chúng ta có thể bỏ qua nó lúc nào
không hay.” [59, tr.26]
Trong quá trình luyện tập thao tác lập luận phân tích cho học sinh, cần
lưu ý các em không nhầm lẫn phân tích trong tư cách một thao tác lập luận với các
dạng phân tích khác. Sự phân chia, chẻ tách trong lập luận là để nhằm làm sáng tỏ
một luận điểm chứ không chỉ nhằm để nhận thức một sự vật hay sự việc nói chung.
Do đó, trong quá trình lập luận, học sinh phải luôn nhớ mình đang tập trung làm sáng
tỏ luận điểm nào. Lập luận phân tích ở đây được làm nên bởi một chuỗi các thao tác,
được thiết lập theo một thứ tự, một quy trình chặt chẽ. Vì vậy học sinh cần tuân thủ
nghiêm ngặt quy trình ấy trước khi có những sáng tạo riêng.
b. Thao tác lập luận so sánh
Thao tác lập luận so sánh được giảng dạy trong chương trình SGK Ngữ
văn 11 bao gồm hai đơn vị bài học: Thao tác lập luận so sánh và Luyện tập thao tác
lập luận so sánh.
Trong giờ dạy tạo lập, giáo viên yêu cầu học sinh luyện tập, thực hành
tạo lập làm theo mẫu và sáng tạo từ mẫu, dựa trên đặc điểm và yêu cầu của thao tác
lập luận so sánh. Trong phần Luyện tập, giáo viên có thể đưa ra hai dạng bài tập: bài
tập nhận diện và bài tập tạo lập.
Về dạng bài tập nhận diện, yêu cầu học sinh phân tích cách sử dụng thao
tác lập luận so sánh trong các đoạn trích nghị luận sau:
“Yêu người, đó là một truyền thống cũ. “Chinh phụ ngâm”, “Cung oán
ngâm khúc” đã nói đến con người. Nhưng dù sao cũng là mới bàn đến một hạng
người. Với “Kiều”, Nguyễn Du đã nói đến cả xã hội người. Với “Chiêu hồn” thì cả
loài người được bàn đến […]. “Chiêu hồn”, con người trong cái chết. “Chiêu hồn”,
con người trong từng giới, từng loài, “mười loài là những loài nào”với những nét
cộng đồng phổ biến, điển hình của tửng loài một”. […]
Tôi muốn nói đến bài văn “Chiêu hồn”, một tác phẩm có một không hai
trong nền văn học chúng ta. (Nghĩ mà xem, trước “Chiêu hồn” chưa hề có bài văn
nào đem cái “run rẩy mới” ấy vào văn học. Sau “Chiêu hồn” lại càng không). Nếu
“Truyện Kiều” nâng cao lịch sử thơ ca, thì “Chiêu hồn” đã mở rộng địa dư của nó
qua một vùng xưa nay ít ai động tới: cõi chết”.
Tác giả Chế Lan Viên đã đối chiếu Văn chiêu hồn của Nguyễn Du với
một loạt tác phẩm văn chương khác. Trong trường hợp này, đối tượng được so sánh
là bài Văn chiêu hồn, còn đối tượng được đem ra để so sánh là các tác phẩm Chinh
phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, Truyện Kiều. Sự so sánh nhằm mục đích tìm ra
những nét giống nhau, và nhất là những nét khác nhau giữa Văn chiêu hồn với những
tác phẩm được đưa ra làm đối tượng so sánh:
- Giống nhau: cùng thể hiện lòng yêu thương đối với con người.
- Khác nhau: chỉ riêng Văn chiêu hồn bàn đến cả loài người trong một vùng
địa dư “xưa nay ít ai động đến” là cõi chết.
Từ việc so sánh đối tượng phản ánh của Văn chiêu hồn với các tác phẩm
khác, tác giả trong đoạn văn nghị luận trên đã đưa ra một nhận định sâu sắc: “Nghĩ
mà xem, trước “Chiêu hồn” chưa hề có bài văn nào đem cái “run rẩy mới” ấy vào
văn học. Sau “Chiêu hồn” lại càng không”.
Song, có phải cứ làm công việc so sánh là có ngay được một lập luận so
sánh hay không? Để có một lập luận so sánh, người viết dĩ nhiên phải làm công việc
so sánh. Không có sự so sánh, không thể có lập luận so sánh. Nhưng để hình thành
được một lập luận so sánh, người viết còn phải tiến hành lập luận, nghĩa là phải dùng
so sánh làm cách thức chủ yếu để tổ chức, gắn kết các lí lẽ và dẫn chứng, nhằm làm
sáng tỏ cho luận điểm. Chẳng hạn như ở đoạn trích nghị luận mẫu trên, đấy là đoạn
trích được lập luận để làm sáng tỏ luận điểm về sự đặc sắc của bài Văn chiêu hồn
trong niềm rung động run rẩy về thân phận con người. Như trên đã phân tích, luận
điểm ấy được làm sáng tỏ bằng cách so sánh Văn chiêu hồn với các kiết tác cũng nói
về niềm thương cảm xót xa cho những kiếp người. Các lí lẽ so sánh, nhất là sự khác
nhau, đã được tổ chức, sắp xếp thật rõ ràng, hợp lí, giàu sức thuyết phục:
- Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc mới bàn đến một hạng người,
Truyện Kiều đã nói đến cả xã hội người, nhưng phải tới Văn chiêu hồn ta
mới thấy niềm xót xa thương cảm cho cả loài người.
- Các tác phẩm khác chỉ nói về con người trong cõi sống, chỉ Văn chiêu hồn
mới động đến con người trong cõi chết.
Nhờ thế, luận điểm cuối cùng càng trở nên sáng tỏ, mới mẻ và lí thú:
“Nếu “Truyện Kiều” nâng cao lịch sử thơ ca, thì “Chiêu hồn” đã mở rộng địa dư
của nó qua một vùng xưa nay ít ai động tới: cõi chết”. Vậy, đoạn trích đúng là một
mẫu lập luận so sánh điển hình.
Về dạng bài tập thực hành tạo lập theo mẫu, có thể yêu cầu học sinh
dùng thao tác so sánh (tương đồng hoặc tương phản) để phát triển các ý kiến sau
thành đoạn văn nghị luận hoàn chỉnh:
- Đọc cuốn sách hay cũng như trò chuyện với người bạn thông minh.
- Đọc cuốn sách hay đối với trí tuệ giống như thể dục đối với cơ thể.
Hoặc dạng bài tập nâng cao hơn, là yêu cầu học sinh dùng thao tác lập
luận so sánh để viết bài văn ngghị luận so sánh ý tưởng trong hai bài thơ sau:
Kiếp sau xin chớ làm người,
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.
Giữa trời vách đá cheo leo,
Ai mà chịu rét thời trèo với thông.
(Vịnh cây thông – Nguyễn Công Trứ)
Kiếp sau xin chớ làm người,
Làm đôi chim nhạn tung trời mà bay.
Mịt mù bể nước non mây,
Bụi hồng trông thẳm như ngày chưa sa.
(Hơn nhau một chén rượu mời – Nguyễn Khắc Hiếu)
Trong hai bài thơ trên, ngoài những dị biệt, một chỗ gặp nhau giữa hai
nhà thơ trên là: một ý thơ chán đời, muốn đổi kiếp. Ý thơ đó cùng được thể hiện bằng
thơ lục bát với giọng điệu giống nhau, lời lẽ tương tự. Hai tác giả cùng đi từ một khởi
điểm: chối bỏ thân phận làm người. Ý thơ đó cùng được thể hiện trong một câu độc
nhất của hai bài thơ: “Kiếp sau xin chớ làm người”.
Cái khác nhau của hai tác giả là ở ước vọng kiếp sau:
- Ước vọng của Nguyễn Công Trứ: “Làm cây thông đứng giữa trời mà reo”.
Cây thông tượng trưng cho người quân tử, nó biệt lập với cái tầm thường,
luôn giữ đức độ, chí khí oai hùng giữa trời đất. Tác giả đã chán ghét cái tầm
thường, bon chen, xu nịnh, nhơ bẩn của phần đông nhân quần xã hội. Phản
ứng của Nguyễn Công Trứ vẫn là một phản ứng của lí trí, nhà thơ vẫn chưa
hoàn toàn chán đời, hãy còn muốn trở lại “làm cây thông để tự chứng minh
với đời”.
- Ước vọng của Nguyễn Khắc Hiếu: “Làm đôi chim nhạn tung trời mà bay”.
Điều nhà thơ sợ nhất ở thế gian là sự cô độc. Vì vậy, ông muốn một lúc làm
đôi chim nhạn để có bạn tâm tình cùng bay tung trời. Ý thơ thể hiện tính
chất lãng mạn trong ước vọng của nhà thơ núi Tản sông Đà, nói khác đi, đó
là một phản ứng hoàn toàn của tình cảm, một ước vọn hoàn toàn của tâm
tình. Nhà thơ muốn hoàn toàn dứt bỏ cuộc đời và đã giải thoát là ra đi trọn
vẹn, chẳng còn vương víu, luyến tiếc, mãi mãi tưởng chẳng bao giờ sa
xuống nữa.
- Như vậy, hai bài thơ là hai ước vọng trả lời vào hai mặt lí trí và tình cảm
của con người.
Tóm lại, qua nhiều dạng bài tập thực hành dựa trên mối quan hệ giữa
tiếp nhận và tạo lập trong văn nghị luận, học sinh sẽ bước đầu nắm được cách thức
tiến hành thao tác lập luận so sánh trong một bài văn nghị luận, nhận thức được vai
trò của thao tác này trong bài văn nghị luận, từ đó hình thành thói quen so sánh và lập
luận so sánh khi viết một bài văn nghị luận. Cũng hết sức lưu ý không vì mục đích ca
ngợi (hay phê phán) đối tượng mà quá hạ thấp (hoặc đề cao) các đối tượng dùng để
so sánh. Thái độ cực đoan, thiếu trung thực và thiếu khoa học đó chỉ làm cho người
đọc nhận thức sai đối tượng và tai hại hơn nữa là thiếu niềm tin vào lập luận của
người viết.
c. Thao tác lập luận bác bỏ
Cũng như các bài học về thao tác lập luận trong Ngữ văn 11, nội dung
bài học thao tác lập luận bác bỏ gồm hai bài học: Thao tác lập luận bác bỏ và Luyện
tập thao tác lập luận bác bỏ.
Trong giờ dạy tạo lập, giáo viên có thể yêu cầu học sinh thực hành hai
dạng bài tập: bài tập nhận diện và bài tập tạo lập.
Về dạng bài tập nhận diện, để làm rõ hơn các yêu cầu và cách thức lập
luận bác bỏ, giáo viên yêu cầu học sinh nhắc lại những kiến thức đã học về cách lập
luận bác bỏ trong giờ dạy tiếp nhận văn bản Chiếu cầu hiền, sau đó đưa ra một số
văn bản yêu cầu học sinh phân tích cách bác bỏ:
a.”Kìa như, trời còn tăm tối, thì đấng quân tử phải trổ tài. Nay đương ở
buổi đầu đại định, công việc vừa mới mở ra. Kỉ cương nơi triều chính còn nhiều
khiếm khuyết, công việc ngoài biên đương phải lo toan. Dân còn nhọc mệt chưa lại
sức, mà đức hóa của trẫm chưa kịp nhuần thấm khắp nơi. Trẫm nơm nớp lo lắng,
ngày một ngày hai vạn việc nảy sinh. Nghĩ cho kĩ thì thấy rằng: Một cái cột không thể
đỡ nổi một căn nhà lớn, mưu lược một người không thể dựng nghiệp trị bình. Suy đi
tính lại trong vòm trời này, cứ cái ấp mười nhà ắt phải có người trung thành tín
nghĩa. Huống chi nay trên dải đất văn hiến rộng lớn như thế này, há trong đó lại
không có lấy một người tài danh nào ra phò giúp cho chính quyền buổi ban đầu của
trẫm hay sao?”
b. “Nhiều đồng bào chúng ta, để biện minh việc từ bỏ tiếng mẹ đẻ, đã
than phiền rằng tiếng nước mình nghèo nàn. Lời trách cứ này không có cơ sở nào cả.
Họ chỉ biết những từ thông dụng của ngôn ngữ và còn nghèo những từ An Nam hơn
bất cứ người phụ nữ và nông dân An Nam nào. Ngôn ngữ của Nguyễn Du nghèo hay
giàu?
Vì sao người An Nam có thể dịch những tác phẩm của Trung Quốc sang
nước mình, mà lại không thể viết những tác phẩm tương tự?
Phải quy lỗi cho sự nghèo nàn của ngôn ngữ hay sự bất tài của con
người?”.
c. “Có người bảo: Tôi hút, tôi bị bệnh, mặc tôi!
Xin đáp lại: Hút thuốc là quyền của anh, nhưng anh không có quyền đầu
độc những người ở gần anh. Anh uống rượu say mèm, anh làm anh chịu. Nhưng hút
thuốc thì người gần anh cũng hít phải luồng khói độc. Điều này hang nghìn công
trình nghiên cứu đã chứng minh rất rõ.
Vợ con, những người làm việc cùng phòng với những người nghiện
thuốc cũng bị nhiệm độc, cũng đau tim mạch, viêm phế quản, cũng bị ung thư. Anh có
quyền hút, nhưng có mặt người khác, xin mời anh ra ngoài sân, ngoài hành lang mà
hút.
Tội nghiệp thay những cái thai còn nằm trong bụng mẹ, chỉ vì có người
hút thuốc ngồi cạnh mẹ mà thai bị nhiễm độc, rồi mẹ đẻ non, con sinh ra đã suy yếu.
Hút thuốc cạnh một người đàn bà có thai quả là một tội ác.
Bố và anh hút, chú bác hút không những đầu độc con em mà còn nêu
gương xấu…”
- Trong các đoạn trích trên, tác giả có làm công việc bác bỏ không? Vì
sao?
- Nhưng có phải bất cứ một công việc bác bỏ nào cũng có thể được coi là
một lập luận bác bỏ hay không? Vì sao?
- Từ những phân tích trên, hãy cho biết thế nào là thao tác lập luận bác
bỏ?
- Yêu cầu và cách thức của thao tác lập luận bác bỏ?
Từ việc quan sát mẫu, phân tích mẫu, có thể thấy các đoạn trích đều nêu
ra những cái sai: trong đoạn trích (a) là quan niệm của sĩ phu Bắc Hà cho rằng vua
Quang Trung là nông dân áo vải, không học rộng tài cao, nên chần chừ chưa ra giúp
nước; trong đoạn trích (b) là ý kiến cho rằng tiếng Việt ta nghèo nàn; còn trong đoạn
trích (c) là quan niệm việc hút thuốc lá và bị bệnh là chuyện riêng của cá nhân, không
liên quan đến ai. Các đoạn trích đều vạch rõ những ý kiến ấy sai ở chỗ nào (hoặc
không đúng với chân lí hoặc không phù hợp với sự thật). Các đoạn trích đều bày tỏ
thái độ phản đối, kiên quyết không thừa nhận những ý kiến, quan niệm sai trái đó. Từ
đó cho thấy, tác giả các đoạn trích đều đã làm công việc bác bỏ.
Để có một lập luận bác bỏ, người viết dĩ nhiên cũng phải làm công việc
bác bỏ, không có sự bác bỏ không thể có lập luận bác bỏ. Song, để hình thành một lập
luận bác bỏ, người viết còn phải tiến hành lập luận, nghĩa là phải gắn kết các lí lẽ và
dẫn chứng nhằm làm sáng tỏ cái đúng, đánh đổ cái sai. Chẳng hạn như ở đoạn trích
(c), đây là đoạn trích nhằm bác bỏ một quan niệm sai lầm: quan niệm việc hút thuốc
lá và bị bệnh là chuyện riêng của cá nhân, không liên quan đến ai. Tác giả đã vạch rõ
sự sai lầm ấy bằng một loạt luận cứ được rút ra từ những cơ sở khoa học chắc chắn
(hút thuốc là đầu độc những người xung quanh, làm ảnh hưởng đến nòi giống). Các lí
lẽ trên đã được tổ chức, sắp xếp một cách rõ ràng, chặt chẽ, đầy sức thuyết phục để
làm nổi bật luận điểm: hút thuốc không chỉ gây hại cho riêng người hút. Cách lập
luận ấy làm cho quan niệm: “tôi hút, tôi bị bệnh, mặc tôi!” không thể đứng vững.
Mục đích bác bỏ đã hoàn thành. Đoạn trích trên đúng là một lập luận bác bỏ tiêu biểu.
Về yêu cầu của thao tác lập luận bác bỏ, có thể thấy rằng bác bỏ một ý
kiến nào đó không đơn giản là tuyên bố ý kiến đó sai, mà phải lập luận đầy đủ để
chứng minh nó sai thì mới thuyết phục được người nghe, người đọc. Muốn bác bỏ
một ý kiến sai, trước hết hãy trích dẫn ý kiến đó một cách đầy đủ, khách quan, trung
thực. Sau đó, người viết phải làm sáng tỏ hai phương diện: ý kiến ấy sai ở chỗ nào và
vì sao như thế là sai. Trong thực tế, cái đúng, cái sai nhiều khi không tồn tại tách biệt
nhau. Trong các ý kiến, có ý kiến đúng, có ý kiến sai; có ý kiến mặt này đúng nhưng
mặt kia sai, trường hợp này đúng, trường hợp kia sai. Vì vậy, khi vận dụng thao tác
bác bỏ, cần có sự cân nhắc, phân tích từng mặt để tránh tình trạng khẳng định chung
chung, tràn lan hay bác bỏ, phủ nhận tất cả.
Về cách thức sử dụng thao tác bác bỏ, từ việc phân tích ba đoạn trích
nghị luận mẫu trên, có thể thấy thao tác lập luận bác bỏ được thực hiện bằng nhiều
cách:
Trực tiếp bác bỏ luận điểm, tức là vạch ra cái sai của bản thân luận điểm.
Trong đoạn trích (a), tác giả đã trực tiếp bác bỏ quan điểm của các sĩ phu Bắc Hà là
không đúng với thực tế (như đã trình bày ở phần trước). Trong đoạn trích (b), tác giả
trực tiếp bác bỏ luận điểm “tiếng nước mình nghèo nàn” bằng một câu văn: “Lời
trách cứ này là không có cơ sở nào cả”, sau đó tác giả chứng minh rằng luận điểm
này là không đúng với sự thật bằng cách dùng thực tế để bác bỏ (ngôn ngữ trong dân
gian, trong sáng tác của Nguyễn Du, trong các áng văn mà người Việt dịch từ những
tác phẩm Trung Quốc đều giàu đẹp).
Bác bỏ cách lập luận, tức là vạch ra sự mâu thuẫn, không nhất quán, phi
logic trong lập luận của đối phương, chỉ ra sự đổi thay, đánh tráo khái niệm trong quá
trình lập luận. Tác giả đoạn trích (c) chứng minh rằng không thể từ chỗ “tôi hút, tôi
bị bệnh” mà suy ra kết luận “mặc tôi”. Bởi anh có quyền hút, và do đó, cũng “có
quyền” mắc bệnh. Nhưng vẫn không thể mặc anh, vì đây không phải là việc “anh làm
anh chịu”, mà là việc anh làm nhưng quá nhiều người phải chịu hậu quả nặng nề.
Cách lập luận đã sai, luận điểm không thể đúng.
Ngoài ra, còn có cách bác bỏ luận cứ, tức là vạch ra tính chất sai lầm,
giả tạo trong lí lẽ và dẫn chứng được sử dụng. Chẳng hạn như đoạn văn sau:
“Khởi đầu chương IV, nói về cá tính Nguyễn Du ta đọc thấy: “Trước hết
ta phải ghi điều nhận xét quan trọng này: Nguyễn Du là một con bệnh thần kinh” rồi
xa một chút ít: “… một cảnh đêm thu, trong một túp lều dưới một ngọn đồi, thi sĩ
đang quằn quại trên giường bệnh, vì bệnh thần kinh của mình”. Ta tự hỏi: Tác giả
căn cứ vào đâu mà biết như vậy rằng Nguyễn Du mắc bệnh thần kinh, một thứ “bệnh
thần kinh không có sự tổn thương về khí quan”? Căn cứ vào những chứng ngôn mà
người đồng thời với Nguyễn Du, hay vào những di bút của thi sĩ? Không thế đâu. Về
di bút của Nguyễn Du, tác giả có dẫn mấy câu trích bài “Mạn hứng”, bài “U cư”
nhưng những câu đó chỉ nói rằng Nguyễn Du mắc bệnh thôi, chứ không nói là mắc
bệnh thần kinh. Pa-xcan cũng là người mang bệnh, mà tư tưởng ông vẫn sáng suốt và
khỏe mạnh phi thường. Tác giả đã căn cứ vào cái khiếu ảo giác của Nguyễn Du, biểu
thị ra ở bài “Văn tế thập loại chúng sinh” và mấy bài thơ khác nữa. Tác giả cho rằng
Nguyễn Du đã trông thấy ma quỷ thực (ở bài “Lam giang”) chứ không phải thấy
chúng ttrong tưởng tượng. Căn cứ vào mấy bài thơ mà quyết đoán rằng người làm ra
nó mắc bệnh loạn thần kinh đến nỗi luôn luôn trông thấy ảo hình, đã là một sự quá
bạo. Gia dĩ tác giả lại không đem bằng chứng nào khác nữa để bênh vực thuyết của
ông ngoài cái lòng tin quả quyết của ông… Để chứng rằng một người trông thấy ma
quỷ thực mà dẫn mấy câu tựa như: “Dĩ ngạn băng bạo hồi – Hồng đào kiến kì quỷ”,
thì lối lập luận ấy có khoa học không? Nếu không có bằng chứng gì khác mấy bài thơ
tả sự sợ hãi và sầu muộn của Nguyễn Du, thì cái mà tác giả bảo là ảo giác
(hallucinations), ta cho là tưởng tượng của nghệ sĩ. Có những thi sĩ Anh Cát Lợi, Na
Uy, Đan Mạch thường sẵn thứ tưởng tượng kì dị, có khi quái dị ấy. Thiết tưởng một
người ban ngày trông thấy ma quỷ, ban đêm trông thấy âm hồn, tất phải là một người
có bộ thần kinh rối loạn và khủng hoảng tới cực độ và người ấy không tài nào có
được cái nghệ thuật minh mẫn của kẻ tạo ra “Truyện Kiều”.
Trong đoạn trích trên, tác giả chứng minh rằng luận điểm “Nguyễn Du là
một con bệnh thần kinh” đã được xây dựng trên những luận cứ sai lầm (các bài thơ
được dẫn chỉ khẳng định Nguyễn Du mắc bệnh chứ không chứ không khẳng định ông
mắc bệnh thần kinh, mà người mắc bệnh – như trường hợp của Pa-xcan cho thấy – tư
tưởng vẫn có thể sáng suốt và khỏe mạnh; cho rằng nhà thơ thấy ma quỷ thực là “một
sự quá bạo”, vì đó chỉ là tưởng tượng của người nghệ sĩ). Những luận cứ trên đã
không vững, luận điểm tất phải đổ theo.
Các cách bác bỏ trên đây tách ra để phân tích cho dễ thấy, trong thực tế,
chúng liên kết với nhau. Mục đích của bác bỏ là bảo vệ chân lí, xác nhận sự thật. Nếu
xa rời mục đích chân lí thì sự bác bỏ trở thành ngụy biện, vô bổ và có hại. Do đó, bác
bỏ là một phương pháp không thể thiếu trên con đường đi tìm chân lí, tranh đấu cho
chân lí. Và vì vậy, thao tác lập luận bác bỏ là một thao tác quan trọng trong bài văn
nghị luận.
Về dạng bài tập thực hành tạo lập, yêu cầu học sinh chọn một trong hai
thành ngữ sau nhằm bác bỏ ý cũ và tìm ý mới:
- Múa rìu qua mắt thợ
- Bới lông tìm vết
Hoặc có thể yêu cầu học sinh lập một dàn ý bác bỏ những luận điểm sau:
- “Chỉ có vào đại học thì cuộc đời mới có tương lai”
- “Có tiền thì có hạnh phúc”
Ở các dạng bài tập trên, giáo viên yêu cầu học sinh sử dụng các cách bác
bỏ đã học: bác bỏ luận điểm, luận cứ và cách lập luận.
Chẳng hạn như ở đề văn: “Có tiền thì có hạnh phúc”, cách thức bác bỏ
là trực tiếp bác bỏ luận điểm bằng lí lẽ và dẫn chứng trái ngược để chứng minh tính
sai lầm của luận điểm. Có thể tham khảo đoạn văn nghị luận sau:
“Trong cuộc sống, không phải lúc nào có tiền cũng có hạnh phúc. Đồng
bạc đâm toạc tờ giấy (Tục ngữ). Hoàng kim hắc nhân tâm (Cổ ngữ). Quan lại tham
nhũng, cán bộ tham nhũng mà giàu có, mà xài sang, đối với loại người này, tiền tài
đã làm cho họ bị sa đọa, thử hỏi họ có thật sự hạnh phúc khi bị mọi người coi khinh,
bị pháp luật trừng trị? Những vụ trọng án chạy chức, chạy quyền từng làm ồn ào dư
luận một thời, dù có mờ đi theo thời gian, nhưng tất cả đều nói lên một sự thật: tiền
tài không song hành cùng hạnh phúc. Càng hám danh, hám lợi, tham lam bạc tiền thì
càng bất hạnh. Đó là bài học không của riêng ai.” [60, tr.23]
Như vậy, từ các dạng bài tập phong phú như trên, giáo viên nên lưu ý
học sinh tùy theo tính chất đúng sai của các ý kiến mà vận dụng lập luận bác bỏ cho
thích hợp và nêu ra kết luận thỏa đáng. Nói quá hoặc nói chưa tới là tự biến ý kiến
của mình thành đối tượng để người khác phê phán, bác bỏ. Bác bỏ là cách lập luận để
làm sáng rõ sự thật và chân lí, tự nó cũng phải phù hợp với chân lí. Vì vậy, bác bỏ
phải được thực hiện một cách trung thực, có mức độ và đúng quy cách.
d. Thao tác lập luận bình luận
Tương tự như các bài học về thao tác lập luận trong Ngữ văn 11, nội
dung bài học thao tác lập luận bình luận gồm hai bài học: Thao tác lập luận bình luận
và Luyện tập thao tác lập luận bình luận.
Trong giờ dạy tạo lập, có thể yêu cầu học sinh thực hành hai dạng bài
tập: bài tập nhận diện và bài tập tạo lập.
Về bài tập nhận diện, yêu cầu học sinh xác định đối tượng, nội dung và
cách bình luận trong văn bản sau:
“Bàn về truyện thầy bói xem voi
Thầy bói xem voi là một biểu tượng rất hay về những người nhận thức
chủ quan, phiến diện. Thầy bói mắt kém đã là biểu tượng về người có khả năng quan
sát hạn chế. Đã thế, phương pháp nhận thức của các thầy còn hạn chế hơn. Thầy nào
cũng căn cứ vào bộ phận con voi do tự tay mình sờ soạng mà biết, rồi cho đó là toàn
bộ con voi. Các thầy không biết sự vật, hiện tượng là những thể toàn vẹn có nhiều bộ
phận liên quan nhau. Đã thế, các thầy còn phạm một sai lầm tày đình: các thầy muốn
dùng vũ lực để giải quyết câu chuyện chân lí. Thật nực cười, đã chủ quan, phiến diện
như thế thì dù có đánh nhau toạc đầu chảy máu, thậm chí có giết chết nhau cũng vẫn
không thể tìm ra sự thật về con voi! Để hiểu được sự thật, người ta cần có phương
pháp nhận thức đúng đắn chứ không cần đến vũ lực.”
Về bài tập thực hành tạo lập, yêu cầu học sinh chọn một trong các đề
văn sau và viết một đoạn văn bình luận:
1/ Nêu suy nghĩ của anh (chị) đối với quan niệm:
“Trông lên thì chẳng bằng ai
Trông xuống thì thấy chẳng ai bằng mình”
2/ Một số bạn còn ít tuổi đã bắt chước hút thuốc. Khi được nhắc nhở, các
bạn ấy nói: “Thuốc lá có hại, nhưng cũng có thể có mặt lợi nào đó. Nếu không thế thì
xưa nay những ai hút thuốc đều làm chuyện vô bổ cả hay sao?”. Anh (chị) hãy viết
đoạn văn bình luận quan niệm đó.
3/ Trong một bài báo có câu: “Đằng sau tất cả những người đàn ông
thành công đều có một người phụ nữ dám hi sinh”. Hãy viết đoạn văn bình luận ý
kiến đó.
4/ Sau khi đọc và suy nghĩ kĩ về đoạn trích Xin lập khoa luật, anh (chị)
thấy mình còn có thể bình luận gì thêm về vai trò của pháp luật và của việc giáo dục
pháp luật trong xã hội?
5/ Bình luận ý kiến sau của nhà văn Thạch Lam: “Văn chương là một
thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một thế
giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được trong sạch và phong phú hơn”.
Đối với các đề văn trên, người viết có thể bình luận bằng nhiều cách.
Nhưng dù theo cách nào thì người bình luận cũng phải đạt được các yêu cầu:
- Trình bày rõ ràng, trung thực hiện tượng (vấn đề) được bình luận
- Đề xuất và chứng tỏ được ý kiến nhận định, đánh giá của mình là xác đáng.
- Có những lời bàn luận sâu rộng về chủ đề bình luận.
Chẳng hạn như ở đề 5, có thể tham khảo cách bình luận trong đoạn văn
nghị luận sau:
“Thạch Lam, qua ý kiến trên đã khẳng định và đề cao thiên chức cao
quý của nhà văn là sáng tạo nên những tác phẩm có giá trị: “làm cho lòng người
được trong sạch và phong phú hơn”. Thật vậy, văn học làm cho con người sống đẹp
hơn, phong phú hơn, tâm hồn trong sáng hơn, mở rộng đến mọi chân trời. Văn học,
đặc biệt là thơ ca – tiếng nói tình cảm, với một thứ nngôn ngữ trau chuốt và hình
tượng có khả năng phát hiện và diễn tả sự bí ẩn, huyền diệu và vô tận của cõi tâm
linh, của tính cách và số phận con người. Văn chương là món ăn tinh thần sang trọng,
giúp cho con người chiếm lĩnh vẻ đẹp thiên nhiên, sống sâu sắc hơn qua những điều
nhà văn nói tới, để “từ một con người đến với những con người”. Văn chương đích
thực giúp người đọc “tự đối thoại”, tự nhận thức về mình, hoàn thiện nhân cách của
chính mình. Văn chương chân chính “làm cho người gần người hơn”, đã nhân đạo
hóa con người.” [60, tr.155]
Từ các bài tập nhận diện và thực hành tạo lập nêu trên, có thể bác bỏ
quan niệm cho rằng bình luận chẳng qua chỉ là sự kết hợp giữa hai kiểu lập luận giải
thích và chứng minh. Bởi lẽ, bình luận không phải là giải thích, không để chứng minh,
cũng không phải là sự kết hợp giữa giải thích và chứng minh. Sự khác nhau là ở mục
đích. Mục đích của giải thích là giúp người đọc (người nghe) hiểu được nhận định
được nêu, còn mục đích của chứng minh là giúp họ tin rằng nhận định ấy là có căn cứ
trong sự thật (hay lẽ phải). Sự giải thích, do đó, phải hướng về những người còn chưa
hiểu, còn sự chứng minh lại hướng về những người còn chưa rõ, chưa tin. Trong khi
ấy, mục đích cuối cùng của bình luận lại là giúp người nghe (người đọc) đánh giá
hiện tượng (vấn đề) được chính xác, toàn diện, công bằng và bàn luận cùng họ về
những ý nghĩa sâu rộng có thể rút ra từ hiện tượng (vấn đề) đó, bằng những ý kiến
chặt chẽ, sắc sảo và mới mẻ của riêng mình. Xét về bản chất, lập luận bình luận là để
dành cho những người đã biết, đã có ý kiến về một hiện tượng (vấn đề) nào đó,
nhưng ý kiến của họ còn khác với ý kiến của người bình luận.
Vì thế, yêu cầu cao nhất của hoạt động bình luận không phải là dễ hiểu
(đó là yêu cầu của giải thích), hay có nhiều dẫn chứng phong phú, đáng tin cậy (đó là
yêu cầu của chứng minh). Trôi chảy, hấp dẫn, giàu nhiệt tình thuyết phục, giàu tính
đấu tranh cho quan điểm, ý kiến đúng đắn, đó mới là những phẩm chất thích hợp với
văn bình luận.
e. Rèn luyện kĩ năng vận dụng kết hợp các thao tác lập luận
Kĩ năng vận dụng kết hợp các thao tác lập luận là mục đích cuối cùng
của việc dạy học các thao tác lập luận riêng lẻ. Kĩ năng này được chú trọng thực hiện
ở cả hai chương trình Ngữ văn 11 và 12.
Về bài tập thực hành tạo lập, ngoài các bài tập được trình bày trong SGK,
giáo viên có thể cho đề bài: “Bàn về sự nôn nóng” và yêu cầu học sinh lập dàn ý và
cho biết có thể vận dụng những thao tác lập luận nào để viết thành văn bản nghị luận.
Với bài tập trên, yêu cầu học sinh tiến hành luyện tập theo các bước:
1/ Bước thứ nhất: Xác định chủ đề
- Chủ đề bài văn: bàn về sự nôn nóng
2/ Bước thứ hai: Lập dàn ý và xác định các thao tác lập luận
- Mở bài: Nôn nóng là một trạng thái tâm lí không ổn định có ở không ít
người và nó thường gây hậu quả tiêu cực.
- Thân bài:
+ Phân tích trạng thái tâm lí nôn nóng
+ Phân tích nguyên nhân dẫn đến trạng thái tâm lí nôn nóng
+ So sánh trạng thái tâm lí nôn nóng với trạng thái tâm lí điềm đạm
+ Phân tích hậu quả của trạng thái tâm lí nôn nóng
+ Bình luận, đánh giá, đưa ra giải pháp khắc phục tâm lí nôn nóng
- Kết bài: Bài học sâu sắc về hậu quả tiêu cực của trạng thái tâm lí nôn nóng
3/ Bước thứ ba: Thực hành tạo lập
- Diễn đạt các ý đã tìm được thành một (hoặc một số) đoạn văn có liên
kết chặt chẽ và thể hiện rõ phong cách ngôn ngữ chính luận.
- Đọc đoạn văn đã viết trước lớp, sửa chữa lại theo góp ý của tập thể
nhằm nâng cao chất lượng của bài văn.
Tóm lại, qua các bài tập nhận diện và thực hành tạo lập như trên, học
sinh vừa củng cố các kiến thức và kĩ năng cơ bản về các thao tác lập luận đã học, vừa
rèn kĩ năng vận dụng kết hợp các thao tác lập luận đã học để viết được một văn bản
nghị luận về một hiện tượng, vấn đề gần gũi, quen thuộc trong đời sống hoặc trong
văn học.
2.3.3. Rèn luyện kĩ năng vận dụng ngôn ngữ trong văn nghị luận
Kĩ năng vận dụng ngôn ngữ trong văn nghị luận được chú ý rèn luyện ở
chương trình Ngữ văn – phần làm văn lớp 12, với mục tiêu giúp học sinh biết cách
tránh các lỗi về dùng từ, viết câu, sử dụng giọng điệu không phù hợp với chuẩn mực
diễn đạt của bài văn nghị luận; nâng cao kĩ năng vận dụng những cách diễn đạt khác
nhau để trình bày vấn đề nghị luận một cách linh hoạt, sáng tạo.
Về dạng bài tập nhận diện, để tích hợp kiến thức với giờ dạy tiếp nhận
để rèn luyện kĩ năng sử dụng từ ngữ, kĩ năng sử dụng kết hợp các kiểu câu và giọng
điệu phù hợp trong văn nghị luận, giáo viên yêu cầu học sinh xem xét, đối sánh hai
đoạn văn nghị luận thuộc hai lĩnh vực khác nhau, phân tích rõ những đặc điểm trong
cách sử dụng từ ngữ, sử dụng kết hợp các kiểu câu, biểu hiện giọng điệu của lời văn:
(1) “Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do,
bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng
trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa.
Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút ttự do dân
chủ nào.
Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lặp ba chế độ khác
nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản
dân tộc ta đoàn kết.
Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết
những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta
trong những bể máu.
Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân.
Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược. ”
(Hồ Chí Minh, Tuyên ngôn độc lập)
(2) “Trong tình cảnh ấy, những lời thơ, ý thơ của Hàn Mặc Tử, những
bài thơ mà anh thích gọi là “thơ điên, thơ loạn”, thực ra không điên loạn chút nào!
Những bài thơ đọc nghe như là “kinh dị” thực ra không kinh dị chút nào. Trái lại đó
là những bài thơ, văn thể hiện một sức sống phi thường, thể hiện một lòng ham sống
vô biên, thể hiện một ước mơ rất chi là “con người”: ước mơ được sống khi ý thức
được rằng mình sắp chết, đang chết. Hơn nữa vì ý thức được mình sắp chết cho nên
phải “sống gấp”, sống… bằng thơ:
Tôi muốn hồn trào ra đầu ngọn bút
Mỗi lời thơ đều dính não cân ta”
(Nguyễn Minh Vỹ, Con người Hàn Mặc Tử qua thơ anh)
- Đối tượng nghị luận và nội dung cụ thể của hai đoạn trích trên khác
nhau nhưng giọng điệu trong lời văn có điểm gì tương đồng? Ngoài điểm tương
đồng đó, giọng điệu trong từng đoạn trích có những nét gì đặc trưng riêng biệt?
- Cơ sở chủ yếu tạo nên sự khác biệt về giọng điệu của lời văn trong
những đoạn trích trên là gì?
- Chỉ rõ cách sử dụng từ ngữ hoặc cách sử dụng kết hợp các kiểu câu,
các phép tu từ từ vựng hoặc cú pháp có vai trò chủ yếu trong việc biểu hiện giọng
điệu của từng đoạn trích?
Hai đoạn văn nghị luận trên có sự khác nhau về đối tượng và nội dung
cụ thể: đoạn (1) tố cáo tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân ta, đoạn (2) nhận
xét về giá trị tư tưởng của thơ Hàn Mặc Tử; nhưng giọng điệu trong lời văn giống
nhau ở sự trang trọng, hùng hồn, mang ý nghĩa khẳng định. Ngoài điểm tương đồng
đó, giọng điệu trong từng đoạn văn có những nét riêng biệt:
- Đoạn (1): Thái độ căm thù chi phối giọng điệu
- Đoạn (2): Thái độ trân trọng tài năng chi phối giọng điệu
Cơ sở tạo nên sự khác biệt về giọng điệu giữa hai đoạn (1) và (2) là:
- Quan hệ giữa người viết với đối tượng nghị luận, nội dung nghị luận (kẻ thù
/ đồng nghiệp)
- Phạm vi ảnh hưởng của văn bản nghị luận (tầm thế giới / trong giới nghiên
cứu, phê bình của một cộng đồng)
- Mục đích của văn bản nghị luận (luận chiến chính trị / trao đổi học thuật)
Do đó, cách sử dụng từ ngữ của hai đoạn (nhất là cách xưng hô) của hai
đoạn khác nhau, cách sử dụng các kiểu câu khác nhau, đặc biệt là ở đoạn văn (1) sử
dụng tu từ cú pháp (lặp mô hình câu) với mật độ cao: “Chúng thi hành… Chúng lập
ba chế độ… Chúng lặp ra nhà tù… Chúng thẳng tay chém giết… Chúng tắm các cuộc
khởi nghĩa… Chúng ràng buộc… Chúng dùng thuốc phiện…”.
Về bài tập thực hành tạo lập, yêu cầu học sinh chọn một trong các đề
văn sau và viết thành một bài văn nghị luận ngắn gọn có sử dụng từ ngữ nghị luận,
các kiểu câu nghị luận và giọng điệu nghị luận phù hợp:
1/ Suy nghĩ của anh (chị) về việc lựa chọn nghề nghiệp của thanh niên
hiện nay.
2/ Một số bạn trẻ hiện nay cho rằng: “Trước hết là phải sống cho mình”.
Theo anh (chị), trách nhiệm với bản thân khác với tính vị kỉ như thế nào?
3/ “Giá trị của con người không ở chân lí mà người đó sở hữu hoặc cho
rằng mình sở hữu, mà ở nỗi gian khó chân thành người đó nhận lãnh trong khi đi tìm
chân lí” (Lét-xinh). Từ câu nói trên, anh (chị) suy nghĩ gì về những thành công và
thất bại trong hành trình tìm kiếm những giá trị cao đẹp của đời sống con người?
Đây là bài học củng cố, rèn luyện tổng hợp các kĩ năng diễn đạt trong văn
nghị luận. Học sinh được củng cố các kĩ năng này qua hệ thống các bài học trong
toàn bộ chương trình phổ thông. Bài học này có tính chất khái quát, tổng kết lại
những vấn đề về kĩ năng diễn đạt trong văn nghị luận để giúp học sinh có định hướng
rõ ràng hơn, có khả năng chủ động hơn trong các bài làm văn.
2.3.4. Rèn luyện kĩ năng vận dụng kết hợp các phương thức biểu đạt
trong văn nghị luận
Kĩ năng này được chú ý rèn luyện ở chương trình Ngữ văn – phần làm
văn 12 với đơn vị bài học: Luyện tập vận dụng kết hợp các phương thức biểu đạt
trong bài văn nghị luận, với mục tiêu giúp học sinh thấy được sự cần thiết phải vận
dụng kết hợp các phương thức biểu đạt tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh trong
bài văn nghị luận; bước đầu nắm được cách vận dụng kết hợp các phương thức đó
trong một đoạn, một bài văn nghị luận.
Sau khi quan sát mẫu, phân tích mẫu – được tích hợp thực hiện trong giờ
dạy tiếp nhận, trong giờ dạy tạo lập, giáo viên cũng yêu cầu học sinh thực hiện hai
dạng bài tập: bài tập nhận diện và bài tập thực hành tạo lập.
Về bài tập nhận diện, có thể yêu cầu học sinh xem xét và phân tích cách
vận dụng kết hợp các phương thức biểu đạt trong các văn bản nghị luận đã học như
Bình Ngô đại cáo, Hịch tướng sĩ, Chiếu cầu hiền, Xin lập khoa luật, Một thời đại
trong thi ca, Tuyên ngôn độc lập…
Về bài tập thực hành tạo lập theo mẫu và sáng tạo từ mẫu, yêu cầu học
sinh vận dụng những gì đã học để tiến hành tạo lập một văn bản nghị luận có đề tài
liên quan đến một vấn đề thời sự đang đặt ra một cách bức thiết trong đời sống như:
- Chủ đề 1: Trái đất sẽ ra sao nếu thiếu đi màu xanh của những cánh rừng?
- Chủ đề 2: Thanh niên, học sinh làm gi để góp phần giảm thiểu tai nạn giao
thông?
- Chủ đề 3: An toàn, vệ sinh thực phẩm
- Chủ đề 4: Gia đình trong thời hiện đại
Giáo viên có thể tổ chức cho học sinh thảo luận, trình bày về cách lựa
chọn và phối hợp các phương thức biểu đạt, tiến hành theo các bước:
- Bước 1: Học sinh lựa chọn 1 trong các vấn đề trên để xác định các phương
thức biểu đạt có thể phối hợp khi trình bày nội dung cụ thể của các chủ đề
này.
- Bước 2: Học sinh thảo luận nhóm về những nội dung cơ bản cần triển khai
khi trình bày vấn đề và cách lựa chọn, vận dụng các phương thức biểu đạt
phù hợp với những nội dung này.
- Bước 3: Học sinh cử đại diện nhóm trình bày tóm tắt kết quả thảo luận
nhóm: những nội dung chính cần triển khai và các phương thức biểu đạt có
thể sử dụng phối hợp để biểu đạt những nội dung này.
- Bước 4: Học sinh thực hành tạo lập, chọn một luận điểm và triển khai thành
một đoạn văn nghị luận, trong đó có vận dụng kết hợp các phương thức
biểu đạt phù hợp.
Chẳng hạn như với chủ đề 1: Trái đất sẽ ra sao nếu thiếu đi màu xanh
của những cánh rừng?, có những nội dung chính cần triển khai như sau:
+ Rừng mang lại những lợi ích gì?
+ Hiện nay rừng bị tàn phá ra sao?
+ Những nguyên nhân nào khiến rừng bị tàn phá?
+ Những hậu quả to lớn do rừng bị tàn phá là gì?
+ Cần phải làm gì để cứu lấy rừng?
+ Những suy nghĩ và tình cảm của bản thân người viết trước cảnh rừng
bị tàn phá và ước mơ về tương lai của rừng như thế nào?
Khi triển khai nội dung về những lợi ích của rừng, xuất phát từ nhu cầu
và nội dung nghị luận, người viết chắc chắn phải vận dụng kết hợp phương thức
thuyết minh để làm sáng tỏ những lợi ích về kinh tế, văn hóa, môi trường và sức khỏe
mà rừng mang lại cho con người. Hoặc khi triển khai nội dung thực trạng và hậu quả
khi rừng bị tàn phá, phải sử dụng kết hợp phương thức tự sự và miêu tả; hoặc sử dụng
phương thức biểu cảm khi phát biểu những suy nghĩ và tình cảm của bản thân người
viết trước cảnh rừng bị tàn phá.
Trên cơ sở các bài tập nhận diện và thực hành tạo lập như trên, giáo viên
cần hướng dẫn để các em nắm vững vấn đề: Việc kết hợp các phương thức biểu đạt
trong bài văn nghị luận do yêu cầu của đề tài, của bản thân nội dung cần trình bày đòi
hỏi, cần phối hợp hài hòa các phương thức biểu đạt để việc trình bày đề tài đảm bảo
thông tin cơ bản, rõ ràng, sinh động và thuyết phục.
Bài Luyện tập vận dụng kết hợp các phương thức biểu đạt trong bài văn
nghị luận – chương trình Ngữ văn 12, là bài học rèn luyện tổng hợp việc vận dụng
các phương thức biểu đạt trong quá trình tạo lập văn bản, nhất là văn bản nghị luận.
Học sinh đã nắm được cách vận dụng kết hợp các phương thức biểu đạt trong quá
trình học Ngữ văn ở THCS. Bài học này nhằm củng cố và nâng cao kĩ năng đó, giúp
học sinh chủ động hơn khi trình bày những vấn đề phức tạp, đòi hỏi phải có sự linh
hoạt, uyển chuyển trong việc vận dụng các phương thức biểu đạt.
Tóm lại, trong quy trình vận dụng quan điểm tích hợp giờ dạy đọc hiểu
văn bản với giờ dạy làm văn nghị luận cụ thể ở trường THPT như đã trình bày ở trên,
phương pháp được sử dụng chủ yếu là phương pháp khai thác “mẫu” trong Làm văn.
“Mẫu” được sử dụng ở đây hầu hết là các văn bản tác phẩm nghị luận được giảng dạy
trong chương trình Ngữ văn THPT trải dài ở ba cấp lớp 10, 11, 12. Phương pháp khai
thác “mẫu” giúp vạch ra một quy trình rèn luyện kĩ năng lập luận cụ thể với các bước:
- Một là phân tích mẫu để học sinh hiểu;
- Hai là giúp học sinh nắm vững cơ chế tạo mẫu;
- Ba là giúp học sinh mô phỏng mẫu để sáng tạo cái mới tương tự, dựa trên
cơ sở của việc bắt chước mẫu;
- Cuối cùng là kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm về sản phẩm tiếp nhận
hoặc sản sinh lời nói thông qua hoạt động rèn luyện theo mẫu của giáo viên
và học sinh.
Và tất nhiên là phương pháp khai thác “mẫu” trong dạy Làm văn phải
được vận dụng theo hướng tích cực hóa, nghĩa là không cung cấp cho HS ngay các
kết quả có sẵn mà phải thông qua thực hành, phân tích, suy nghĩ, trao đổi và tự rút ra
kết luận.
Chương 3: THỰC NGHIỆM
3.1. Ý kiến đánh giá của tổ chuyên môn
Để đánh giá vấn đề vận dụng mối quan hệ giữa tiếp nhận và tạo lập văn
bản để rèn luyện các kĩ năng tạo lập văn bản nghị luận cho học sinh THPT, luận văn
đã tiến hành khảo sát lấy ý kiến giáo viên tổ bộ môn Văn của các trường: THPT Bùi
Thị Xuân, THPT Thủ Đức, THPT Sao Việt và bước đầu nhận được những kết quả
như sau:
Tiêu chí đánh giá Đồng ý
Đánh giá về KHẢ NĂNG LẬP LUẬN TRONG LÀM VĂN
NGHỊ LUẬN CỦA HỌC SINH
0% - Khả năng lập luận trong làm văn nghị luận của học sinh hiện
nay là TỐT
5% - Khả năng lập luận trong làm văn nghị luận của học sinh hiện
nay là KHÁ
30,5% - Khả năng lập luận trong làm văn nghị luận của học sinh hiện
nay là TRUNG BÌNH
64,5% - Khả năng lập luận trong làm văn nghị luận của học sinh hiện
nay là YẾU
Đánh giá về TÌNH HÌNH DẠY HỌC LÀM VĂN
NGHỊ LUẬN CỦA GIÁO VIÊN
80,3% - Dạy làm văn nghị luận còn gặp những khó khăn vì học sinh
bị hổng kiến thức từ cấp dưới, yếu và thiếu kĩ năng viết văn
nghị luận
94,8% - Dạy làm văn nghị luận còn gặp những khó khăn vì thời
lượng phân phối cho phân môn làm văn và cho từng tiết dạy
còn quá ít
78,8% - Dạy làm văn nghị luận còn gặp những khó khăn vì tính tích
hợp giữa các phân môn Văn học – Làm văn – Tiếng Việt chưa
được chú ý vận dụng hiệu quả
- Dạy làm văn nghị luận còn gặp những khó khăn vì chương 80%
trình SGK còn nặng nề, kiến thức hàn lâm, nặng về lí thuyết, ít
tính thực tiễn
Đánh giá về VIỆC VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ
GIỮA TIẾP NHẬN VÀ TẠO LẬP VĂN BẢN ĐỂ RÈN
KĨ NĂNG LÀM VĂN NGHỊ LUẬN CHO HỌC SINH
- Việc vận dụng mối quan hệ giữa tiếp nhận và tạo lập văn
bản để rèn các kĩ năng làm văn nghị luận cho học sinh THPT
hiện nay:
68,5% + Rất quan trọng, rất cần thiết
28,5% + Quan trọng, cần thiết
3% + Không quan trọng, không cần thiết
- Vấn đề vận dụng mối quan hệ giữa tiếp nhận và tạo lập văn
bản để rèn các kĩ năng làm văn nghị luận cho học sinh THPT
có khả năng ứng dụng vào thực tiễn dạy học Văn hiện nay:
+ Khả năng ứng dụng cao
60,7% + Khả năng ứng dụng chưa cao
35,5% + Không có khả năng ứng dụng
3,8% - Để vận dụng mối quan hệ giữa tiếp nhận và tạo lập văn bản
để rèn các kĩ năng làm văn nghị luận cho học sinh THPT, cần
có những yêu cầu:
+ Trang bị đầy đủ cho giáo viên SGK, SGV, tài liệu
tham khảo có khả năng áp dụng, thực hành cao 65,7% + Thay đổi cách đánh giá hoạt động dạy – học của giáo
viên và học sinh 95%
+ Thay đổi cách nghĩ về phương pháp khai thác “mẫu”
70,6% trong dạy học làm văn
+ Tăng thời lượng dạy làm văn trên lớp
75% + Không nặng về truyền thụ kiến thức mà chủ yếu dạy
cho học sinh cách học, cách vận dụng tri thức tiếp nhận 78,8% vào thực hành tạo lập văn bản nghị luận
- Cần rút kinh nghiệm về vấn đề nào cho việc vận dụng mối
quan hệ giữa tiếp nhận và tạo lập văn bản để rèn các kĩ năng
làm văn nghị luận cho học sinh THPT:
+ Chương trình SGK cần biên soạn hệ thống, đảm bảo 78% khả năng tích hợp cao giữa tiếp nhận và tạo lập, nhất là
đối với văn bản nghị luận
+ Đổi mới cách ra đề, kiểm tra, đánh giá 80,2%
+ Có tài liệu hướng dẫn kĩ về phương pháp vận dụng
mối quan hệ giữa tiếp nhận và tạo lập văn bản để rèn các
kĩ năng làm văn nghị luận cho học sinh THPT 85,5%
+ Tăng thời lượng dạy thực hành tạo lập văn bản
+ Chú trọng dạy cho học sinh phương pháp, cách thức 75%
vận dụng tri thức tiếp nhận văn bản văn học để tạo lập
80% một văn bản tương tự
Từ kết quả khảo sát trên, có thể thấy đa số GV đều đánh giá khả năng
lập luận trong làm văn nghị luận của HS hiện nay còn rất kém: 95% GV đánh giá
trình độ lập luận của HS hiện nay chỉ ở mức trung bình - yếu. Các khó khăn mà GV
thường gặp phải khi dạy làm văn nghị luận là: chương trình SGK còn nặng nề, kiến
thức hàn lâm, nặng về lí thuyết, ít tính thực tiễn (80%), học sinh bị hổng kiến thức từ
cấp dưới, yếu và thiếu kĩ năng viết văn nghị luận (80,3%), thời lượng phân phối cho
phân môn làm văn và cho từng tiết dạy còn quá ít (94,8%), tính tích hợp giữa các
phân môn Văn học – Làm văn – Tiếng Việt chưa được chú ý vận dụng hiệu quả
(78,8%).
Cũng chính vì vậy, có đến khoảng 97% GV cho rằng vấn đề vận dụng
mối quan hệ giữa tiếp nhận và tạo lập văn bản để rèn kĩ năng làm văn nghị luận cho
học sinh THPT hiện nay là rất quan trọng và rất cần thiết, có khả năng ứng dụng cao
trong vào thực tiễn dạy học văn hiện nay. Xuất phát từ thực tế dạy học làm văn nghị
luận của bản thân, các giáo viên đều thống nhất một số yêu cầu và kinh nghiệm cần
rút ra khi vận dụng mối quan hệ giữa tiếp nhận và tạo lập văn bản để rèn kĩ năng làm
văn nghị luận cho học sinh THPT hiện nay: chương trình SGK cần biên soạn hệ
thống, đảm bảo khả năng tích hợp cao giữa tiếp nhận và tạo lập, nhất là đối với văn
bản nghị luận (78%), có tài liệu hướng dẫn kĩ về phương pháp vận dụng mối quan hệ
giữa tiếp nhận và tạo lập văn bản để rèn các kĩ năng làm văn nghị luận cho học sinh
THPT (85,5%), tăng thời lượng dạy học làm văn trên lớp (75%), đổi mới cách ra đề,
kiểm tra, đánh giá (80,2%), thay đổi cách nghĩ về phương pháp khai thác “mẫu” trong
dạy học làm văn (70,6%), không nặng về truyền thụ kiến thức mà chủ yếu dạy cho
học sinh cách học, cách vận dụng tri thức tiếp nhận vào thực hành tạo lập văn bản
nghị luận (78,8%).
Qua kết quả khảo sát về vai trò, tác dụng của vấn đề vận dụng mối quan
hệ giữa tiếp nhận và tạo lập văn bản để rèn luyện kĩ năng làm văn nghị luận cho học
sinh, có thể khẳng định nếu HS được trang bị đầy đủ kiến thức và kĩ năng tạo lập
(bao gồm cách lập luận, thao tác lập luận, cách diễn đạt…) qua các giờ dạy tiếp nhận
lẫn tạo lập văn bản nghị luận, các em sẽ có thể tự mình thực hành tạo lập được một
văn bản nghị luận tương tự và khả năng lập luận của các em sẽ được nâng cao. Vì vậy,
một lần nữa chúng ta lại thấy được sự cần thiết phải rèn kĩ năng nghị luận cho HS.
Một trong những con đường nhanh nhất và hiệu quả nhất chính là vận dụng quan hệ
tích hợp giữa tiếp nhận và tạo lập đối với văn bản nghị luận. Song, cũng cần phải
thấy rằng là chúng ta sẽ bắt đầu con đường này từ một mặt bằng chất lượng về kĩ
năng lập luận rất thấp (64,5% GV đánh giá khả năng lập luận trong làm văn nghị luận
của HS hiện nay là YẾU). Vì thế, rèn luyện kĩ năng làm văn nghị luận cho HS THPT
hiện nay là một vấn đề rất cấp bách và không kém phần khó khăn, phức tạp. Theo
chúng tôi, để thực hiện thành công con đường này, phải xác định và xây dựng cho
được một hệ thống lý thuyết và phương pháp vận dụng hiệu quả, đặc biệt phải đề ra
được một quy trình với các thao tác cụ thể về việc vận dụng tri thức tiếp nhận văn
bản nghị luận vào thực hành tạo lập một văn bản nghị luận tương tự hoặc hay hơn
văn bản “mẫu” mà các em đã học được trong giờ tiếp nhận văn bản nghị luận.
3.2. Thiết kế thể nghiệm giáo án giảng dạy tiếp nhận văn bản nghị luận
BÀI: TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
(Chương trình Ngữ văn 12)
A/ Những điểm cần chú ý
I/ Mục tiêu
- Kiến thức:
+ Thấy được ý nghĩa to lớn và giá trị nhiều mặt của bản Tuyên ngôn
Độc lập cùng vẻ đẹp tư tưởng và tâm hồn của tác giả.
+ Qua việc tiếp nhận tác phẩm, giúp học sinh nắm vững tri thức về thể
loại văn nghị luận.
- Kĩ năng:
+ Cách tiếp nhận thể loại văn nghị luận
+ Tích hợp rèn các kĩ năng lập luận trong văn nghị luận
- Thái độ:
+ Trân trọng, tự hào đối với nền độc lập, tự do của dân tộc
+ Nhận ra tầm quan trọng của nghệ thuật lập luận trong bài văn nghị
luận
II/ Phương pháp
- Nêu vấn đề
- Gợi mở
- Thảo luận nhóm
III/ Phương tiện
- Sách giáo khoa, sách giáo viên, tài liệu tham khảo
IV/ Phần yêu cầu học sinh chuẩn bị
Để tiếp nhận tốt văn bản Tuyên ngôn Độc lập, học sinh cần ôn lại những
kiến thức cũng như các kĩ năng, thao tác lập luận trong văn nghị luận đã học ở lớp 11:
- Về thể loại văn nghị luận
- Luận điểm và triển khai luận điểm
- Các thao tác lập luận: phân tích, so sánh, bình luận, bác bỏ, diễn dịch…
- Diễn đạt trong văn nghị luận: ngôn ngữ, giọng điệu…
B/ Tiến trình bài dạy
ĐỊNH HƯỚNG CỦA GIÁO VIÊN HOẠT ĐỘNG CỦA HỌC SINH
I/ TÌM HIỂU TIỂU DẪN I/ TÌM HIỂU CHUNG:
1/ Hoạt động 1: HS tự đọc và tóm tắt, 1/ Hoàn cảnh sáng tác: (SGK)
2/ Giá trị lịch sử và giá trị văn học: gạch chân nội dung chính trong
(SGK) phần Tiểu dẫn
2/ Hoạt động 2: Tìm hiểu đối tượng 3/ Mục đích và đối tượng hướng tới:
và mục đích nghị luận a/ Viết cho ai? – đối tượng hướng tới
- GV đặt câu hỏi: của bản Tuyên ngôn:
(?): “Viết cho ai?”, “Viết để làm - Nhân dân Việt Nam
gì?”, từ đó mới quyết định “Viết cái - Nhân dân trên toàn thế giới
gì?” và “Viết như thế nào?” – đó là - Thực dân và đế quốc xâm lược
điều Hồ Chí Minh luôn quan tâm trước b/ Viết để làm gì? – mục đích của
khi đặt bút viết. Căn cứ vào Tiểu dẫn, bản Tuyên ngôn
anh (chị) hãy cho biết Bác đã trả lời - Tuyên bố xóa bỏ chế độ thực
như thế nào về hai câu hỏi đầu tiên khi dân phong kiến
Người soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc - Khẳng định quyền tự chủ và vị
lập? thế bình đẳng của dân tộc trên toàn thế
- HS dựa vào SGK trả lời… giới
- Bẻ gãy những luận điệu xảo trá
của kẻ thù đang dã tâm nô dịch đất
nước ta - GV đặt câu hỏi hướng dẫn học sinh
thấy được tầm quan trọng của việc xác
định đối tượng và mục đích nghị luận
trong tạo lập:
(?): Vậy, từ việc trả lời các câu
hỏi trên, chúng ta học được bài học gì
cho mình khi chuẩn bị viết một bài văn
nghị luận?
- HS suy nghĩ rút ra bài học cho việc
viết bài văn nghị luận của mình:
Khi tạo lập một văn bản nghị
luận, mục đích nghị luận sẽ
quyết định nội dung viết và cách
viết – cách sắp xếp các luận
điểm và mức độ lớn nhỏ của các
luận điểm. II/ ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN:
II/ HƯỚNG DẪN TIẾP NHẬN VĂN
1/ Giọng văn nghị luận BẢN, KẾT HỢP RÈN KĨ NĂNG
- Phần đầu: trang trọng NGHỊ LUẬN
- Phần nội dung: đanh thép, 1/ Hoạt động 1: GV hướng dẫn HS
hùng hồn cách đọc:
- Phần kết: trang trọng, hùng đọc với giọng trang trọng, khúc
chiết, rõ ràng, có âm vang biện
Tăng tính thuyết phục
2/ Hoạt động 2: HS đọc văn bản
Tuyên ngôn độc lập
3/ Hoạt động 3: Tìm hiểu giọng văn
nghị luận
- GV đặt câu hỏi:
(?): Nhận xét giọng điệu của văn
bản? Tác dụng của giọng điệu ấy đối
với bài văn nghị luận?
- HS thảo luận và trả lời:
Phần đầu văn bản có giọng điệu
trang trọng khi bàn về quyền
bình đẳng, hạnh phúc của con
người; phần nội dung có giọng
điệu hùng hồn, đanh thép để tô
đậm tội ác của thực dân Pháp;
phần tuyên ngôn và tuyên bố
cuối cùng có giọng trang trọng,
hùng biện. Sự đa dạng trong sắc
thái, giọng điệu của văn bản đã
góp phần làm tăng tính thuyết
phục, đạt được mục đích đề ra
của bản Tuyên ngôn.
2/ Bố cục, mạch lập luận
4/ Hoạt động 4: Tìm hiểu mạch lập a/ Bố cục: 3 phần
- Phần mở đầu: (“Hỡi đồng luận
- GV đặt câu hỏi: bào…không ai chối cãi được”): Mọi
(?): Trình bày bố cục văn bản và người, mọi dân tộc trên thế giới đều có
phát biểu nội dung của mỗi phần? quyền bình đẳng, quyền sống, quyền tự
- HS dựa vào văn bản trả lời… do.
- GV hướng dẫn HS tìm hiểu sâu bố - Phần nội dung: (“Thế
cục của mạch lập luận: mà…phải được độc lập”): Tội ác của
(?): Từ việc tìm hiểu nội dung thực dân Pháp và quá trình nhân dân ta
từng phần của bản Tuyên ngôn như nổi dậy giành chính quyền.
- Phần kết: (còn lại): Lời tuyên trên, theo anh (chị), có thể thay đổi trật
ngôn và tuyên bố độc lập. tự các phần trên mà vẫn đạt tới cái
đích cảu văn bản một cách hiệu quả
nhất không?
- HS thảo luận để chỉ ra giá trị của
mạch lập luận:
Mục đích của bản Tuyên ngôn
không phải chỉ để tuyên bố mà
còn nhằm đánh vào kẻ thù, bẻ
gãy luận điệu xảo trá của kẻ thù.
Vì lẽ đó, bản Tuyên ngôn trước
hết phải xác định cơ sở pháp lí,
điểm tựa vững chắc, thuyết phục
cho mạch lập luận ngay từ phần
mở đầu. Đây sẽ là căn cứ thống
nhất để vạch tội kẻ thù, chỉ ra
tính chất phi nghĩa của chúng,
đồng thời cũng là cơ sở để
khẳng định tính chính nghĩa
thuận theo “lẽ phải” của ta. Từ b/ Mạch lập luận:
- Mạch lập luận lôgic chặt chẽ: từ đó mới đanh thép hùng hồn
cơ sở lí luận đối chiếu vào thực tiễn, khẳng định xóa bỏ chế độ quân
rút ra kết luận phù hợp, đích đáng chủ, tuyên bố thoát hẳn quan hệ
không thể không công nhận. thực dân với Pháp.
lập luận thuyết phục Mạch
người đọc ở tính lôgic chặt chẽ:
từ cơ sở lí luận đối chiếu vào
thực tiễn, rút ra kết luận phù
hợp, đích đáng không thể không
công nhận.
- GV bổ sung thêm: Cách lập luận như
trên chúng ta từng bắt gặp trong tác
phẩm nghị luận “thiên cổ hùng văn”
Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi).
Trước khi lời đại cáo cất lên, điểm tựa
lí luận quán xuyến được tác giả đặt ra
là: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân –
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”, từ
nguyên lí chung đó mà kết tội giặc
Minh: “Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn
kế - Gây binh kết oán trải hai mươi
năm” và tuyên bố độc lập.
5/ Hoạt động 5: Tìm hiểu nội dung 3/ Phần mở đầu – Cơ sở pháp lí và
và cách lập luận trong phần mở đầu chính nghĩa của bản Tuyên ngôn
của bản Tuyên ngôn
- HS: Đọc lại phần mở đầu
- GV đặt câu hỏi:
(?): Khép lại phần mở đầu, Hồ - “Lẽ phải”: quyền bình đẳng,
Chí Minh khẳng định: “Đó là những lẽ quyền sống tự do, quyền sung sướng,
phải không ai chối cãi được”. “Lẽ hạnh phúc của mỗi một cá nhân, mỗi
phải” mà Bác muốn nói đến ở đây là một dân tộc
gì? Người đã chỉ ra và khẳng định lẽ Chân lí khách quan, đúng đắn.
phải đó bằng cách thức nào? Tại sao
ngay trong phần mở đầu, tác giả đã
chốt lại bằng một câu văn đanh thép và
quyết liệt như vậy?
- HS thảo luận và trả lời câu hỏi dưới
sự hướng dẫn, gợi mở của GV…
- GV hướng dẫn HS mở rộng phân tích
cách lập luận:
+ Tác giả đã lựa chọn cách tiếp - Tiếp cận chân lí bằng cách
trích dẫn hai câu nói nổi tiếng trong hai cận chân lí mà tác giả gọi là “lẽ phải”
bản tuyên ngôn nổi tiếng của nhân loại: đó bằng cách trích dẫn những tác
phẩm bất hủ, được ra đời và thử thách + Tuyên ngôn Độc lập của
qua các cuộc cách mạng lớn trên thế nước Mĩ (1776)
giới. + Tuyên ngôn về Dân quyền
và Nhân quyền của nước Pháp (1791) Chiến thuật: “gậy ông đập lưng
ông”: dùng lí lẽ của đối thủ để Vừa khéo léo vừa kiên quyết
bác bỏ chính đối thủ.
Hai bản tuyên ngôn được lựa
chọn trích dẫn đã trở thành hàng
rào pháp lí vừa khéo léo, mềm
mỏng, vừa kiên quyết, cứng cỏi.
Cách lập luận khéo léo ở chỗ
Bác không những trích dẫn
tuyên ngôn của họ mà Người còn
trân trọng đánh giá đó là những
điều “bất hủ”. Song, cứng cỏi,
kiên quyết khi chốt lại bằng một
câu văn đanh thép: “Đó là
những lẽ phải không ai chối cãi
được”.
+ Chốt lại bằng câu văn đanh
thép, quyết liệt “Đó là những lẽ phải
không ai chối cãi được”:
- Với lập luận chặt chẽ, đanh Câu văn được tách thành một
đoạn riêng. Cụm từ “không ai thép, Bác đã xác định được một lẽ phải
chối cãi được” làm cho câu văn từ những chân lí của lịch sử làm cơ sở
mang tính tranh biện, luận pháp lí và chính nghĩa cho bản Tuyên
chiến. ngôn Độc lập, và khẳng định được
quyền tự do và độc lập của dân tộc Trong chỉnh thể bài văn, đây là
cái chốt quan trọng của mạch Việt Nam bằng chính những lời lẽ của
lập luận. Nó khẳng định những tổ tiên người Pháp và người Mĩ.
điều được nói ở phía trên là
chân lí đúng đắn, tạo nên một
tường thành lí luận vững chắc
cho bản Tuyên ngôn.
+ Đồng thời với việc lựa chọn
trích dẫn, tác giả còn dùng thao tác lập
luận so sánh tương đồng (phép suy
luận tương đồng) tạo mối liên hệ so
sánh giữa Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ,
Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền
của Cách mạng Pháp với Tuyên ngôn
Độc lập của ta: “Suy rộng ra…”.
Không chỉ dân tộc ta có quyền
độc lập, tự do như các dân tộc
đó mà Tuyên ngôn độc lập của
ta cũng có giá trị pháp lí như
tuyên ngôn của họ.
Đặt 3 bản tuyên ngôn, 3 cuộc
cách mạng, 3 nền độc lập ngang
hàng nhau thể hiện niềm tự hào
dân tộc và khẳng định được tư
thế của dân tộc Việt Nam trên
thế giới.
4/ Phần nội dung – Cơ sở thực tế của 6/ Hoạt động 6: Tìm hiểu cách lập
bản Tuyên ngôn luận trong phần nội dung của bản
a/ Tố cáo tội ác của thực dân Pháp Tuyên ngôn
- Bản Tuyên ngôn đã vạch trần - GV đặt câu hỏi:
bản chất thực dân xảo quyệt, tàn bạo và (?): Tác giả đã vạch rõ những
man rợ bằng những lí lẽ xác đáng và sự tội ác nào thực dân Pháp gieo rắc trên
thật lịch sử không thể chối cãi được: đất nước ta hơn suốt 80 năm qua?
- HS dựa vào văn bản trả lời… + Với luận điệu “khai hóa
(?): Tác giả đã lập luận như thế văn minh” nhưng thật chất:
nào để làm nổi bật những tội ác đó và • Về chính trị: tước đoạt quyền tự
tăng cường sức mạnh tố cáo? do, thi hành luật pháp dã man,
- HS thảo luận, chỉ ra nghệ thuật lập dùng chính sách “chia để trị”,
luận: “tắm các cuộc khởi nghĩa của ta
+ Thao tác lập luận so sánh trong bể máu”…
tương phản được sử dụng để nhấn • Về kinh tế: “bóc lột dân ta đến
mạnh tội ác của thực dân Pháp. Người xương tủy”, “cướp không ruộng
Pháp được hưởng những quyền lợi cụ đất, hầm mỏ, nguyên liệu”,
thể từ Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân “khiến dân ta nghèo nàn, thiếu
quyền của họ, thế mà cũng với “những thốn, dân ta xơ xác, tiêu điều”…
quyền ấy”, họ lại bắt người Việt Nam + Mang danh “bảo hộ” nhưng
phải chịu cảnh nô lệ, tù đày, chết chóc. thực chất:
Cho nên, “hành dộng của chúng trái • Trong 5 năm, bán nước ta hai lần
hẳn với nhân đạo và chính nghĩa”. cho Nhật
+ Biện pháp liệt kê, tăng cấp • Thẳng tay khủng bố người Việt
được sử dụng hữu hiệu trong việc vạch Nam yêu nước
ra những tội ác về mọi mặt mà Pháp • Không đáp ứng liên minh cùng
nhân danh “bảo hộ” để biến người dân Việt Minh chống Nhật
Việt Nam thành nô lệ. Mỗi ý liệt kê lại • Tội ác tày trời của Pháp và Nhật
được tách ra thành những đoạn văn khiến hơn hai triệu đồng bào ta
riêng biệt để tô đậm ấn tượng về tội ác chết đói
của giặc. Đoạn văn tố cáo hùng hồn, đanh
+ Hệ thống từ ngữ nghị luận: dã thép tội ác mọi mặt của giặc đối
man, thẳng tay, bể máu, ngu dân, với nhân dân ta một cách súc
xương tủy, cướp không, tàn nhẫn, quỳ tích, đầy sức thuyết phục.
gối… giúp tăng cường hiệu quả diễn
đạt và sức tố cáo cho bài văn nghị
luận. Hai chữ “Thế mà” không chỉ là
từ nối liên kết đoạn mà còn làm nổi bật
mối quan hệ tương phản giữa lí lẽ tốt
đẹp và những hành động trắng trợn
của giặc.
+ Kết hợp giữa những đoạn văn
ngắn, trùng điệp, liệt kê là những đoạn
văn dài ghi mốc thời gian cụ thể theo
diễn tiến khi tác giả kể tội hai lần bán
nước ta của thực dân Pháp cho phát xít
Nhật.
b/ Cuộc đấu tranh chính nghĩa của
- GV đặt câu hỏi: dân tộc ta
(?): Lấy “lẽ phải” làm tiền đề - Trước ngày 9 – 3, Việt Minh
cho mọi lập luận, tác giả đã nêu bật đã nhiều lần kêu gọi người Pháp liên
minh chống Nhật. Như vậy, Việt Minh quá trình nổi dậy giành chính quyền
của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của quả thực đã cùng chiến tuyến với phe
Mặt trận Việt Minh như thế nào? đồng minh đẩy lùi thảm họa phát xít
- HS dựa vào văn bản để tóm tắt, tái trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
hiện… - Việt Minh giữ thái độ khoan
hồng, nhân đạo đối với người Pháp:
giúp họ chạy qua biên giới, cứu họ ra
khỏi nhà giam Nhật, bảo vệ tính mạng,
tài sản cho họ.
- Việt Minh đã lãnh đạo cả nước
giành chính quyền, lập nên nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa khi Nhật đầu
hàng Đồng minh.
- GV dẫn dắt, yêu cầu: c/ Phủ định chế độ thuộc địa, chế độ
(?): Tất cả những điều được đề thực dân Pháp và khẳng định quyền
cập trong phần nội dung của bản tự do của dân tộc
Tuyên ngôn đầu là “sự thật”. Sự thật - Phủ định dứt khoát và triệt để
về tội ác chính trị, kinh tế của thực dân mọi đặc quyền, đặc lợi của thực dân
Pháp. Sự thật về việc “bảo hộ” của Pháp đối với đất nước Việt Nam.
Pháp ở Đông Dương. Sự thật về vai trò - Khẳng định mạnh mẽ quyền
và hoạt động của Việt Minh lãnh đạo độc lập, tự do của dân tộc.
nhân dân giành chính quyền.
Nhưng có một “sự thật” được
láy đi láy lại hai lần trước khi lời tuyên
ngôn và tuyên bố cuối cùng đươc cất
lên.
Theo anh (chị), tại sao nhà văn
lại chủ ý điệp đi nhấn lại “sự thật” ấy
mà không phải là những bằng chứng
hùng hồn khác?
- HS thảo luận, trả lời
+ Nội dung của “sự thật” đó là:
từ mùa thu 1940, nước ta là thuộc địa
của Nhật chứ không phải thuộc địa của
Pháp nữa; dân ta lấy lại nước từ tay
Nhật chứ không phải từ tay Pháp.
+ Gắn với hoàn cảnh sáng tác,
mục đích và đối tượng hướng tới của
bản Tuyên ngôn, “sự thật” này có vai
trò bẻ gãy mọi luận điệu xảo trá của kẻ
thù trước dư luận thế giới. Không có
điều gì mạnh mẽ và giàu sức thuyết
phục như những bằng chứng hùng hồn
phơi bày hiển hiện. Vậy hãy để cho “sự
thật” lên tiếng bóc trần bộ mặt tráo trở
của kẻ thù. Chúng là kẻ đầu hàng, là
người bỏ chạy trước phát xít Nhật,
cũng có nghĩa chúng là người quay
lưng lại với Đồng minh trong cuộc tấn
công phe phát xít. Vậy chúng còn cách
gì để để tuyên bố quay trở lại Đông
Dương? Từ đó, bản Tuyên ngôn tạo
được sự thuyết phục mạnh mẽ đối với
Đồng minh và nhân dân thế giới ủng
hộ nền độc lập của Việt Nam.
+ Chỉ bằng 9 từ: “Pháp chạy,
Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị” rất
ngắn gọn, bản Tuyên ngôn đã chỉ ra
những thắng lợi của dân tộc Việt Nam:
đánh đổ chế độ thực dân, phát xít và
bọn phong kiến tay sai để dành độc
lập.
5/ Phần kết – Lời tuyên bố độc lập 7/ Hoạt động 7: Tìm hiểu cách lập
- Lời tuyên bố thể hiện lí lẽ đanh luận trong lời tuyên bố độc lập
thép, vững vàng của Hồ Chủ tịch về - GV đặt câu hỏi:
độc lâp, tự do của dân tộc: (?): Tác giả đã phát biểu lời
+ Về mặt pháp lí: có quyền hưởng tự tuyên ngôn và tuyên bố cuối cùng như
do độc lập thế nào?
+ Về mặt thực tế: dự thật đã trở thành - HS dựa vào văn bản trả lời…
nước tự do độc lập Với cách diễn đạt rõ ràng, hùng
+ Ý chí quyết tâm bảo vệ nền độc lập hồn, đanh thép, lời tuyên ngôn
tự do bằng bất cứ giá nào và tuyên bố cuối cùng được láy
đi láy lại nhiều lần kèm theo
những lí lẽ thuyết phục đã thâu
tóm tinh thần, tư tưởng, nguyện
vọng của dân tộc Việt Nam quyết
giữ vững nền độc lập tự do ấy.
III/ TỔNG KẾT
Tuyên ngôn Độc lập là văn kiện
lịch sử tuyên bố trước quốc dân và
đồng bào thế giới về việc chấm dứt chế
độ thực dân, phong kiến ở nước ta,
đánh dấu kỉ nguyên độc lập, tự do của
nước Việt Nam mới.
8/ Hoạt động 8: Củng cố tri thức thể
loại văn nghị luận IV/ CỦNG CỐ
- GV đặt câu hỏi:
(?): Tuyên ngôn Độc lập không
chỉ là một văn kiên lịch sử vô giá mà Tuyên ngôn Độc lập không
còn là một áng văn chính luận mẫu chỉ là một văn kiên lịch sử vô giá mà
mực của mọi thời đại. Anh (chị) hãy còn là một áng văn chính luận mẫu
chỉ ra giá trị văn chương của tác mực của mọi thời đại: lập luận chặt
phẩm? chẽ, lí lẽ đanh thép, ngôn ngữ hùng
- HS thảo luận, trả lời: hồn, vừa tố cáo mạnh mẽ tội ác của
+ Hệ thống lập luận chặt chẽ, thực dân Pháp, ngăn chặn âm mưu tái
đanh thép, giàu sức thuyết phục: chiếm nước ta của các thế lực thù địch
và cơ hội, vừa bộc lộ tình cảm yêu • Bố cục, mạch lập luận hợp lí,
nước, thương dân và khát vọng độc lập, lôgic: (1) Phần đầu, nêu nguyên
tự do cháy bỏng cuả tác giả và toàn dân lí phổ quát, đây cũng là luận
tộc. điểm nền tảng; (2) Phần tiếp
theo, triển khai luận điểm bằng
thực tế; (3) Phần cuối, luận điểm
kết luận, tuyên bố độc lập.
• Thao tác lập luận phân tích kết
hợp so sánh tương đồng và
tương phản để nhấn mạnh tội ác
của thực dân Pháp và khẳng
định chủ quyền độc lập của dân
tộc ta.
• Thủ pháp “gậy ông đập lưng
ông”, dùng lí lẽ của đối thủ để
bác bỏ chính đối thủ ấy.
+ Diễn đạt rõ ràng, ngôn ngữ
hùng hồn:
• Hệ thống từ ngữ nghị luận: Thế
mà…; Bởi thế cho nên, chúng
tôi…; Vì những lẽ trên, chúng
tôi…; Tuy vậy…
• Kết hợp các kiểu câu: câu khẳng
định, câu trần thuật, câu cảm
thán; câu ngắn đan xen câu dài;
đặc biệt là thủ pháp điệp cấu
trúc câu được sử dụng liên tiếp:
“Sự thật là từ mùa thu… Sự thật
là dân ta…”, “Một dân tộc đã
gan góc chống ách nô lệ…, môt
dân tộc đã gan góc đứng về…,
dân tộc đó phải được tự do! Dân
tộc đó phải được độc lập!”.
• Giọng điệu khi trang trọng khi
hùng hồn, đanh thép
+ Kết hợp các phương thức biểu
đạt: tự sự, miêu tả và đặc biệt là yếu tố
biểu cảm.
• Phía sau những lập luận chặt
chẽ, sắc sảo, mang tính đối
thoại, xác định giá trị pháp lí
của chủ quyền dân tộc, là dòng
cảm xúc, tình cảm của người viết
Tuyên ngôn. Mỗi dòng chữ là
niềm tự hào khi sánh cách mạng
dân tộc với các cuộc cách mạng
lớn trên thế giới. Mỗi dòng chữ
là niểm hạnh phúc vô biên khi
đất nước được tự do, độc lập.
Lời tuyên bố cuối cùng của bản
Tuyên ngôn là sự kết tinh quyết
tâm, ý chí của toàn dân được
điệp đi nhấn lại như một lời thề
sắt đá: “Toàn thể dân tộc Việt
Nam quyết đem tất cả tinh thần
và lực lượng, tính mạng và của
cải để giữ vững quyền tự do, độc
lập ấy.
Và như vậy, sức thuyết phục của
áng văn nghị luận đối với người
đọc không chỉ ở hệ thống lập
luận chặt chẽ, sắc sảo mà còn ở
tình cảm chan chứa, sâu sắc của
người viết.
Về vị trí, yêu cầu của giờ học theo quy định của chương trình, SGK Ngữ
văn 12 có quy định đơn vị học tập về giờ dạy tiếp nhận văn bản Tuyên ngôn Độc lập
như sau:
- Giúp học sinh thấy được giá trị nhiều mặt và ý nghĩa to lớn của bản
Tuyên ngôn Độc lập.
- Hiểu vẻ đẹp tư tưởng và tâm hồn tác giả qua bản Tuyên ngôn Độc lập.
Như vậy, theo quy định của chương trình, mục tiêu của giờ học này là
giúp học sinh nắm vững kiến thức về mặt nội dung, giá trị tư tưởng của văn bản. Xuất
phát từ yêu cầu đổi mới giờ dạy tiếp nhận văn bản văn học, dạy theo đặc điểm thể
loại văn bản, dựa trên mối quan hệ chặt chẽ giữa tiếp nhận và tạo lập đối với văn bản
nghị luận, yêu cầu và mục tiêu của bài học không dừng lại ở việc cung cấp kiến thức
về nội dung mà còn có thể qua văn bản nghị luận Tuyên ngôn Độc lập tích hợp rèn
luyện các kĩ năng lập luận trong văn bản nghị luận. Từ đó, giáo án thể nghiệm xác
định thêm một số yêu cầu về kiến thức và kĩ năng như sau:
- Qua việc tiếp nhận tác phẩm, giúp học sinh nắm vững tri thức về thể
loại văn nghị luận, từ đó biết cách tiếp nhận thể loại văn nghị luận.
- Tích hợp rèn các kĩ năng lập luận trong văn nghị luận: luận điểm và
triển khai luận điểm, vận dụng kết hợp các thao tác lập luận, diễn đạt trong văn nghị
luận, vận dụng kết hợp các phương thức biểu đạt…
Mục tiêu này được thể hiện cụ thể và rõ nét trong nội dung bài giảng của
giáo án thể nghiệm.
Về nội dung bài giảng, giáo án thể nghiệm vừa đáp ứng được các mục
tiêu về nội dung, kiến thức theo quy định của chương trình, vừa vận dụng được
nguyên lí tích hợp trong dạy học, sử dụng văn bản như một “mẫu” tiêu biểu để rèn
luyện kĩ năng thực hành tạo lập văn bản nghị luận cho học sinh. Hướng đến hai mặt
kiến thức và kĩ năng, tiếp nhận và tạo lập, giáo án thể hiện sự đổi mới theo tinh thần
tích hợp – một yêu cầu bức thiết trong dạy học hiện đại.
Về nội dung cụ thể, ở mỗi phần của bài học, bên cạnh hệ thống câu hỏi
khai thác giá trị nội dung văn bản, giáo án đều có ý thức hướng đến rèn luyện kĩ năng
thực hành tạo lập văn bản nghị luận qua hệ thống câu hỏi phân tích ngữ liệu:
- Hoạt động 2: Tìm hiểu đối tượng và mục đích nghị luận
(?): “Viết cho ai?”, “Viết để làm gì?”, từ đó mới quyết định “Viết cái gì?” và
“Viết như thế nào?” – đó là điều Hồ Chí Minh luôn quan tâm trước khi đặt bút viết.
Căn cứ vào Tiểu dẫn, anh (chị) hãy cho biết Bác đã trả lời như thế nào về hai câu hỏi
đầu tiên khi Người soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập?
(?): Vậy, từ việc trả lời các câu hỏi trên, chúng ta học được bài học gì cho
- Hoạt động 3: Tìm hiểu giọng văn nghị luận
mình khi chuẩn bị viết một bài văn nghị luận?
(?): Nhận xét giọng điệu của văn bản? Tác dụng của giọng điệu ấy đối với bài
văn nghị luận?
- Hoạt động 4: Tìm hiểu mạch lập luận
(?): Từ việc tìm hiểu nội dung từng phần của bản Tuyên ngôn như trên, theo
anh (chị), có thể thay đổi trật tự các phần trên mà vẫn đạt tới cái đích cảu văn bản
- Hoạt động 5: Tìm hiểu nội dung và cách lập luận trong phần mở đầu
một cách hiệu quả nhất không?
của bản Tuyên ngôn
(?): Khép lại phần mở đầu, Hồ Chí Minh khẳng định: “Đó là những lẽ phải
không ai chối cãi được”. “Lẽ phải” mà Bác muốn nói đến ở đây là gì? Người đã chỉ
ra và khẳng định lẽ phải đó bằng cách thức nào? Tại sao ngay trong phần mở đầu,
tác giả đã chốt lại bằng một câu văn đanh thép và quyết liệt như vậy?
- Hoạt động 6: Tìm hiểu cách lập luận trong phần nội dung của bản
Tuyên ngôn
(?): Tác giả đã lập luận như thế nào để làm nổi bật những tội ác đó và tăng
cường sức mạnh tố cáo?
(?): Tất cả những điều được đề cập trong phần nội dung của bản Tuyên ngôn
đầu là “sự thật”. Sự thật về tội ác chính trị, kinh tế của thực dân Pháp. Sự thật về
việc “bảo hộ” của Pháp ở Đông Dương. Sự thật về vai trò và hoạt động của Việt
Minh lãnh đạo nhân dân giành chính quyền.
Nhưng có một “sự thật” được láy đi láy lại hai lần trước khi lời tuyên ngôn và
tuyên bố cuối cùng được cất lên.
Theo anh (chị), tại sao nhà văn lại chủ ý điệp đi nhấn lại “sự thật” ấy mà
không phải là những bằng chứng hùng hồn khác?
- Hoạt động 7: Tìm hiểu cách lập luận trong lời tuyên bố độc lập
(?): Tác giả đã lập luận như thế nào trong lời tuyên ngôn và tuyên bố cuối
- Hoạt động 8: Củng cố tri thức thể loại văn nghị luận
cùng?
(?): Tuyên ngôn Độc lập không chỉ là một văn kiện lịch sử vô giá mà còn là
một áng văn chính luận mẫu mực của mọi thời đại. Anh (chị) hãy chỉ ra giá trị văn
chương của tác phẩm?
Hệ thống câu hỏi trên đây có tác dụng giúp học sinh tự phân tích, lí giải
cách lập luận lôgic, chặt chẽ của văn bản, qua đó, học sinh học được cách triển khai
hệ thống luận điểm của bản Tuyên ngôn, cách sử dụng kết hợp các thao tác nghị luận
phân tích và so sánh, cách diễn đạt – sử dụng từ ngữ, câu văn và giọng văn nghị luận,
cách vận dụng kết hợp các phương thức biểu đạt tự sự, miêu tả và biểu cảm… để tạo
nên tính thuyết phục mạnh mẽ cho văn bản nghị luận. Để đạt được yêu cầu trên, đòi
hỏi học sinh phải có sự chuẩn bị trước ở nhà các kiến thức đã học ở lớp dưới về lý
thuyết làm văn nghị luận và tri thức thể loại văn nghị luận. Những kiến thức và kĩ
năng nghị luận mà các em tích lũy được trong giờ học tiếp nhận văn bản Tuyên ngôn
Độc lập sẽ là nền tảng để các em thực hành rèn luyện tạo lập một văn bản nghị luận.
Thật khó có thể thiết kế được những giờ học mẫu. Xuất phát từ sự đổi
mới phương pháp và quan điểm dạy học, giáo án thiết kế thể nghiệm Tuyên ngôn
Đôc lập chỉ là một hướng xây dựng giáo án theo tinh thần tích hợp, đảm bảo mối
quan hệ liên môn giữa các phân môn của chương trình Ngữ văn. Không cần đến
những bài văn mẫu mà chính những tác phẩm văn học sẽ là một “mẫu” tốt nhất, đáng
tin cậy nhất để rèn luyện kĩ năng làm văn cho học sinh, vừa tiết kiệm thời gian lại vừa
mang lại hiệu quả cho cả giờ dạy tiếp nhận văn học lẫn giờ dạy tạo lập văn bản.
KẾT LUẬN
Trong các thể loại văn bản, văn nghị luận là loại văn bản tiêu biểu thể
hiện rõ nhất năng lực văn học của học sinh trong nhà trường THPT. Để có thể tạo lập
được một văn bản nghị luận, học sinh trước hết phải được trang bị tốt các tri thức
cũng như kĩ năng làm văn nghị luận cơ bản. Điều làm nên sức sống của một văn bản
nghị luận là sự chặt chẽ, lôgic trong mạch lập luận, vì vậy, trong các tri thức, kĩ năng
cơ bản cần có thì kĩ năng lập luận (bao gồm cách triển khai hệ thống luận điểm, các
thao tác nghị luận, cách diễn đạt trong văn nghị luận) là một kĩ năng hết sức quan
trọng, thiết yếu cần rèn luyện cho HS ngay từ đầu.
Đề tài luận văn đi từ việc phân tích mối quan hệ giữa tiếp nhận văn bản
và tạo lập văn bản, khẳng định việc sử dụng các văn bản tác phẩm nghị luận trong giờ
dạy tiếp nhận như một văn bản “mẫu” chuẩn mực nhất, tốt nhất để giúp rèn kĩ năng
làm văn nghị luận cho học sinh THPT hiện nay. Bởi lẽ, một bài văn như một bài tập
lớn, cần phải được rèn luyện qua một quá trình luyện tập thực hành nhiều kĩ năng
mới có thể xây dựng được một văn bản hoàn chỉnh, đạt yêu cầu. Các kĩ năng làm văn
không chỉ được hình thành trong giờ dạy tạo lập mà còn được tích hợp thực hiện
bằng việc phân tích các tác phẩm nghị luận tiêu biểu trong giờ dạy tiếp nhận văn bản
văn học. Từ đó, luận văn bước đầu xây dựng quy trình vận dụng quan điểm tích hợp
giờ dạy đọc hiểu văn bản với giờ dạy làm văn nghị luận cụ thể ở trường THPT. Trên
thực tế, những đề xuất trong luận văn về phương pháp, quy trình vận dụng mối quan
hệ giữa tiếp nhận và tạo lập văn bản để rèn kĩ năng làm văn nghị luận cho HS THPT
vẫn chưa được thực hiện rộng rãi mà đang ở giai đoạn nghiên cứu, khảo sát thử
nghiệm, vì vậy chúng tôi rất mong nhận được sự góp ý, nhận xét, bổ sung từ nhiều
người để có thể xây dựng hoàn chỉnh một quy trình tốt nhất về việc vận dụng quan
điểm tích hợp giờ dạy đọc hiểu văn bản với giờ dạy làm văn nghị luận cụ thể ở
trường THPT.
Song, điều làm chúng tôi băn khoăn khi thực hiện đề tài này là làm thế
nào để GV lẫn HS thay đổi quan điểm về phương pháp dạy học làm văn theo “mẫu”,
nhất là trong thực trạng “chép văn mẫu” của HS hiện nay. Vì vậy, khi đụng chạm tới
những vấn đề “mẫu”, chẳng hạn như: theo mẫu, dẫn mẫu, lấy mẫu, phân tích mẫu…
nhiều người lấy làm e ngại. Tuy nhiên trong làm văn, quan sát mẫu, phân tích và
nhận xét mẫu, tập xây dựng theo mẫu, sáng tạo từ mẫu… lại chính là các phương
pháp đặc thù. Là sự thể hiện của phương châm trăm nghe không bằng một thấy,
“mẫu” trong làm văn được giáo viên sử dụng trong giờ dạy có giá trị như những
“giáo cụ trực quan” để hình thành tri thức cũng như kĩ năng làm văn cho HS. Mặt
khác, “mẫu” này lại là những văn bản tác phẩm nghị luận mẫu mực được giảng dạy
trong chương trình Ngữ văn THPT. Như vậy, có thay đổi cách nghĩ về phương pháp
khai thác “mẫu” trong làm văn mới có thể thấy được quan hệ tích hợp giữa tiếp nhận
và tạo lập đối với văn bản nghị luận, và vận dụng tốt mối quan hệ này trong việc rèn
luyện kĩ năng thực hành tạo lập văn bản nghị luận cho HS THPT hiện nay. Theo
chúng tôi, trong bối cảnh tri thức nhân loại phát triển như vũ bão thì đây là một trong
những con đường tiết kiệm thời gian mà mang lại hiệu quả cao trong dạy học làm văn.
Đi theo con đường này, giáo viên phải hết sức chú ý nguyên tắc tích hợp
và dạy học liên phân môn trong dạy làm văn nói riêng và bộ môn Ngữ văn nói chung.
Đề cao và ưu tiên cho thực hành, luyện tập: thị phạm, làm theo và sáng tạo. Hơn nữa,
cần lập ra một kế hoạch lâu dài cho quá trình rèn kĩ năng làm văn dựa trên quan hệ
tích hợp giữa tiếp nhận và tạo lập văn bản nghị luận.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê A (chủ biên) (1997), Phương pháp dạy học Tiếng Việt, NXB Giáo dục.
2. Lê A (chủ biên), Nguyễn Trí, (2001), Làm văn, NXB Giáo dục.
3. Nguyễn Đức Ân, (1996), Một số vấn đề về dạy học giảng văn, TPHCM.
4. Nguyễn Đức Ân, (1997), Dạy học giảng văn ở nhà trường trung học phổ thông,
NXB Tổng hợp Đồng Nai.
5. Nguyễn Đức Ân, (2009), Bài giảng chuyên đề: Lý thuyết tiếp nhận với việc dạy
học tác phẩm văn chương ở trường THPT, TP HCM.
6. Nguyễn Trọng Báu, Nguyễn Quang Ninh, trần Ngọc Thêm (2000), Ngữ pháp
văn bản và việc dạy làm văn, NXB Giáo dục.
7. Trần Thanh Bình (1983), “Về mối quan hệ giữa ngôn ngữ học và môn học
tiếng Việt – làm văn”, Đại học và THCN, số 4.
8. Trần Thanh Bình (1985), “Bàn thêm một số vấn đề của nguyên tắc dạy tiếng
Việt”, Đại học và THCN, số 3
9. Trần Thanh Bình (1986), “Về một hướng gắn bó ngữ pháp với tập văn”, Tập
san Giáo dục cấp III, số 1.
10. Lương Duy Cán, Rèn luyện kĩ năng làm văn, NXB Giáo dục.
11. Đỗ Hữu Châu, Lê A, Nguyễn Quang Ninh, Cao Đức Tiến (1994), Tiếng Việt –
Làm văn 10 (Bồi dưỡng chuyên ban), Vụ giáo viên.
12. Tạ Phong Châu, Nguyễn Quang Lưu, Nguyễn Quốc Túy (1982), Tài liệu tham
khảo hướng dẫn giảng dạy tập làm văn THPT cấp III, NXB Giáo dục.
13. Nguyễn Viết Chữ, (2006), Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương theo
loại thể, NXB ĐHSP, Hà Nội.
14. Trương Đăng Dung, (2004), Tác phẩm văn học như là quá trình, NXB Khoa
học xã hội.
15. Phạm Văn Đồng, (1973), “Dạy văn là một quá trình rèn luyện toàn diện”, Tạp
chí Nghiên cứu giáo dục, số 28.
16. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1995), Lý luận văn học vấn đề và suy
nghĩ, NXB Giáo dục.
17. Đặng Hiển, (2006), Dạy văn học văn, NXB ĐHSP TP.HCM.
18. Đỗ Kim Hồi (1997), Nghĩ từ công việc dạy văn, NXB Giáo dục, Hà Nội.
19. Đỗ Kim Hồi (1986), “Vài ý nghĩ xung quanh vấn đề kiểu bài văn nghị luận”,
Tập san Giáo dục cấp III, số 1.
20. Nguyễn Thanh Hùng (1992), “Sự tồn tại của phương pháp dạy học là cụ thể”,
Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, số 2.
21. Nguyễn Thanh Hùng, (2002), Hiểu văn dạy văn, NXB Giáo dục.
22. Nguyễn Thanh Hùng, (2002), Đọc và tiếp nhận văn chương, NXB Giaó Dục.
23. Hà Thúc Hoan (2006), Làm văn nghị luận lý thuyết và thực hành, NXB Huế -
Thuận Hóa.
24. Hà Thúc Hoan (2003), Tiếng Việt thực hành, NXB Tổng hợp TPHCM.
25. Hà Thúc Hoan, Tiếng Việt - Làm văn (Tóm tắt giáo trình), Trường ĐHSP
TP.HCM.
26. L.Fkhalamôp (1978), Phát huy tính tích cực học tập của học sinh cho các môn
học, ĐHCT.
27. M.B. Khrapchenco,(1984)Sáng tạo nghệ thuật, hiện thực, con người, NXB
Khoa học xã hội。
28. Phan Trọng Luận (2006), “Đề văn và câu chuyện thi cử”, Văn nghệ trẻ, số 29.
29. Phan Trọng Luận (2005), Phan Trọng Luận – Tuyển tập, NXB Giáo Dục.
30. Phan Trọng Luận (2003), Văn chương – Bạn đọc – Sáng tạo, NXB ĐHQG Hà
Nội.
31. Phan Trọng Luận (2000), Phương pháp dạy học Văn, NXB Giáo dục.
32. Phan Trọng Luận (1969), Rèn kuyện tư duy qua giảng dạy Văn học, NXB Giáo
dục.
33. Phan Trọng Luận (1978), Con đường nâng cao hiệu quả dạy văn – Tài liệu bồi
dưỡng GVVH cấp III miền Nam, NXB Giáo dục.
34. Phan Trọng Luận (1995), “Chặng đường 40 năm của chuyên ngành PPGD
Văn”, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, số 2.
35. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên) (2007), Ngữ văn 12 (T1, T2)- cơ bản, (SGV),
NXB Giáo dục.
36. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên) (2007), Ngữ văn 12 (T1, T2)- cơ bản, (SGK),
NXB Giáo dục.
37. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên) (2007), Ngữ văn 11 (T1, T2)- cơ bản, (SGV),
NXB Giáo dục.
38. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên) (2007), Ngữ văn 11 (T1, T2)- cơ bản, (SGK),
NXB Giáo dục.
39. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên) (2007), Ngữ văn 10 (T1, T2)- cơ bản, (SGV),
NXB Giáo dục.
40. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên) (2007), Ngữ văn 10 (T1, T2)- cơ bản, (SGK),
NXB Giáo dục.
41. Phan Trọng Luận (Chủ biên) (2007), Bài tập Ngữ văn 10 (T1, T2)- cơ bản,
NXB Giáo dục.
42. Phan Trọng Luận (Chủ biên) (2007), Bài tập Ngữ văn 11 (T1, T2)- cơ bản,
NXB Giáo dục
43. Phan Trọng Luận (Chủ biên) (2007), Bài tập Ngữ văn 12 (T1, T2)- cơ bản,
NXB Giáo dục
44. Phan Trọng Luận (Chủ biên) (2000), Làm văn 11, NXB Giáo dục.
45. Phan Trọng Luận (Chủ biên) (2000), Làm văn 11 (SGV), NXB Giáo dục.
46. Phan Trọng Luận (Chủ biên) (2000), Dàn bài Tập làm văn 11 (SGV), NXB
Giáo dục.
47. Phương Lựu, (1997), Tiếp nhận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
48. Nguyễn Đăng Mạnh (Chủ biên), Đỗ Ngọc Thống, Lưu Đức Hạnh (1995),
Muốn viết được bài văn hay, NXB Giáo dục.
49. Nhiều tác giả (2007), Kỷ yếu Hội thảo khoa học dạy học Ngữ văn ở trường PT
theo chương trình và SGK mới, NXB Nghệ An.
50. Nhiều tác giả (2001), Đổi mới phương pháp dạy học Văn – Tiếng Việt ở trường
phổ thông, NXB ĐHQG Hà Nội.
51. Nhiều tác giả (2006), Nâng cao kỹ năng làm bài văn nghị luận, NXB Giáo dục.
52. Những bài văn đạt giải quốc gia học sinh giỏi THPT (2006), NXB Giáo dục.
53. Hoàng Phê (Chủ biên) (1994), Từ điển Tiếng Việt, Nxb KHXH – Trung tâm từ
điển học.
54. Nguyễn Khắc Phục (2007), “Nền móng giáo dục chính là niềm tin”, báo Tuổi
trẻ, số 3/9.
55. Mai Thị Kiều Phượng, (2009), Giáo trình phương pháp dạy học làm văn, NXB
ĐHQG, Hà Nội.
56. Rez, Z .la (1983) Phương pháp luận văn học, NXB Giáo dục.
57. R. Jakobson, (2008)Thi học và ngôn ngữ học, NXB Văn học。
58. Lê Xuân Soan (2007), Rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn, NXB ĐHQG TPHCM.
59. Tạ Thanh Sơn, Lê Bảo Châu, Thái Thành Vinh, (2010), Những bài văn nghị
luận đặc sắc, NXB ĐHQG Hà Nội.
60. Nguyễn Quốc Siêu (2001), Kỹ năng làm văn nghị luận phổ thông, NXB Giáo
dục.
61. Trần Đình Sử, (2008), Lí luận và phê bình văn học, NXB Giáo dục.
62. Trần Đình Sử (2003), “Đổi mới dạy học làm văn ở trường THPT”, Tạp chí
Văn học và Tuổi trẻ (số 8).
63. Trần Đình Sử (2001), “Về vấn đề dạy làm văn (Tạo lập văn bản trong chương
trình, SGK Tiếng Việt, Làm văn ở trường PT (từ lớp 1 – lớp12))”, Tạp chí
Ngôn ngữ, số 16.
64. Trần Đình Sử (1998), “Môn văn thực trạng và giải pháp”, báo Văn nghệ, số 7.
65. Trần Đình Sử (Chủ biên), (2006), Làm văn 12, NXB Giáo dục.
66. Trần Đình Sử (Chủ biên), (2006), Dàn bài tập làm văn 12, NXB Giáo dục.
67. Trần Đình Sử (Chủ biên) (2006), Làm văn 12 (SGV), NXB Giáo dục.
68. Trần Đình Sử (Tổng chủ biên) (2007), Ngữ văn 12 (T1, T2)- nâng cao, (SGV),
NXB Giáo dục.
69. Trần Đình Sử (Tổng chủ biên) (2007), Ngữ văn 12 (T1, T2)- nâng cao, (SGK),
NXB Giáo dục.
70. Trần Đình Sử (Tổng chủ biên) (2007), Ngữ văn 11 (T1, T2)- nâng cao, (SGV),
NXB Giáo dục.
71. Trần Đình Sử (Tổng chủ biên) (2007), Ngữ văn 11 (T1, T2)- nâng cao, (SGK),
NXB Giáo dục.
72. Trần Đình Sử (Tổng chủ biên) (2007), Ngữ văn 10 (T1, T2)- nâng cao, (SGV),
NXB Giáo dục.
73. Trần Đình Sử (Tổng chủ biên) (2007), Ngữ văn 10 (T1, T2)- nâng cao, (SGK),
NXB Giáo dục.
74. Tài liệu bồi dưỡng dạy SGK Làm văn 10, 11, 12, (1990, 1991, 1992), Vụ Giáo
viên, NXB Giáo dục.
75. Thủy Thanh (lược ghi) (2008), “Những câu văn “kinh dzị”, báo Thanh niên, số
164
76. Đỗ Ngọc Thống (2001), “Đề văn nghị luận”, Văn học và tuổi trẻ, số 11.
77. Đỗ Ngọc Thống (2006), Tìm hiểu chương trình và SGK Ngữ văn THPT, NXB
Giáo dục.
78. Đỗ Ngọc Thống (1997), Làm văn từ lý thuyết đến thực hành, NXB Giáo dục.
79. Đỗ Ngọc Thống (2006), Tài liệu cho chuyên đề, Tài liệu lưu hành nội bộ.
80. Đỗ Ngọc Thống (chủ biên), (2007), Hệ thống đề mở Ngữ văn 10, NXB GD,
Hà Nội.
81. Đỗ Ngọc Thống (chủ biên), (2007), Hệ thống đề mở Ngữ văn 11, NXB GD,
Hà Nội.
82. Đỗ Ngọc Thống, Nguyễn Thành Thi, Phạm Minh Diệu, (2008),Làm văn,
NXB ĐHSP, Hà Nội.
83. Hà Bình Trị (2002), “Thực trạng dạy học Ngữ văn ở THPT”, Tạp chí Giáo dục,
số 10.
84. Hoàng Trinh, (1982)Kí hiệu học, NXB Khoa học xã hội。
85. Trịnh Xuân Vũ (2000), Văn chương và phương pháp giảng dạy văn chương,
NXB ĐHQG TPHCM.
PHỤ LỤC
PHIẾU PHỎNG VẤN GIÁO VIÊN
(Về việc vận dụng mối quan hệ giữa tiếp nhận và tạo lập văn bản
để rèn các kĩ năng làm văn nghị luận cho học sinh THPT)
Kính gửi: Thầy / Cô:..........................................................................................
Dạy lớp: .............................................. Trường:
Xin quý thầy / cô vui lòng giúp chúng tôi khảo sát và trả lời các câu hỏi bên
dưới:
- Đối với câu hỏi đã có sẵn các phương án trả lời, thầy / cô hãy đánh dấu x vào
một hoặc nhiều ô vuông mà thầy cô cho là phù hợp.
- Đối với câu hỏi chưa có phương án trả lời, thầy / cô vui lòng viết ngắn gọn ý
kiến của mình vào phần để trống sau câu hỏi.
• Về việc vận dụng mối quan hệ giữa tiếp nhận và tạo lập văn bản để rèn
các kĩ năng làm văn nghị luận cho học sinh THPT
Theo quan niệm hiện nay, dạy học văn trong nhà trường là dạy học sinh tiếp
nhận các kiểu văn bản; dạy học làm văn là dạy học sinh tạo lập văn bản. Thực tế cho
thấy hai hoạt động tiếp nhận và tạo lập văn bản có mối quan hệ chặt chẽ và gắn bó
với nhau trong suốt quá trình dạy học Văn. Dạy học tiếp nhận cung cấp cho học sinh
phương pháp, cách thức, kĩ năng giải mã văn bản; đồng thời những văn bản được giải
mã, đến lượt mình, sẽ trở thành “mẫu” tiêu biểu để hướng dẫn học sinh tạo lập những
văn bản tương ứng. Ngược lại, dạy học tạo lập văn bản cung cấp cho học sinh
phương pháp, cách thức, kĩ năng mã hoá văn bản; đồng thời, qua việc tự mình tạo lập
văn bản, học sinh sẽ hiểu biết rõ hơn về công việc giải mã những văn bản tương ứng.
Trong tất cả các kiểu văn bản, văn bản nghị luận là loại văn bản thể hiện mối quan hệ
rõ nhất và có sự tương đồng lớn nhất giữa thao tác tiếp nhận và tạo lập.
CÂU HỎI
1/ Theo thầy / cô, khả năng lập luận trong làm văn nghị luận của học sinh
THPT hiện nay là
□Tốt □Khá □Trung bình □Yếu
2/ Dạy học làm văn nghị luận, thầy / cô còn gặp phải những khó khăn gì?
□ Học sinh bị hổng kiến thức từ cấp dưới, yếu và thiếu kĩ năng viết văn nghị
luận
□ Thời lượng phân phối cho phân môn làm văn và cho từng tiết dạy còn quá ít
□ Tính tích hợp giữa các phân môn Văn học – Làm văn – Tiếng Việt chưa
được chú ý vận dụng hiệu quả
□ Chương trình SGK còn nặng nề, kiến thức hàn lâm, nặng về lí thuyết, ít tính
thực tiễn
Những khó khăn khác: .......................................................................................
............................................................................................................................
...........................................................................................................................
3/ Thầy / cô suy nghĩ như thế nào về vai trò, sự cần thiết của việc vận dụng
mối quan hệ giữa tiếp nhận và tạo lập văn bản để rèn các kĩ năng làm văn nghị
luận cho học sinh THPT hiện nay?
□ Rất quan trọng, rất cần thiết
□ Quan trọng, cần thiết
□ Không quan trọng, không cần thiết
4/ Theo thầy / cô, vấn đề vận dụng mối quan hệ giữa tiếp nhận và tạo lập văn
bản để rèn các kĩ năng làm văn nghị luận cho học sinh THPT có khả năng ứng
dụng như thế nào vào thực tiễn dạy học Văn hiện nay?
□ Khả năng ứng dụng cao
□ Khả năng ứng dụng chưa cao
□ Không có khả năng ứng dụng
5/ Theo thầy / cô, để vận dụng mối quan hệ giữa tiếp nhận và tạo lập văn bản
để rèn các kĩ năng làm văn nghị luận cho học sinh THPT, cần có những yêu cầu
gì?
□ Trang bị đầy đủ cho giáo viên SGK, SGV, tài liệu tham khảo có khả năng áp
dụng, thực hành cao
□ Thay đổi cách đánh giá hoạt động dạy – học của giáo viên và học sinh
□ Thay đổi cách nghĩ về phương pháp khai thác“mẫu” trong dạy học làm văn
□ Tăng thời lượng dạy làm văn trên lớp
□ Không nặng về truyền thụ kiến thức mà chủ yếu dạy cho học sinh cách học,
cách vận dụng tri thức tiếp nhận vào thực hành tạo lập văn bản nghị luận
6/ Theo thầy / cô, cần rút kinh nghiệm về vấn đề nào cho việc vận dụng mối
quan hệ giữa tiếp nhận và tạo lập văn bản để rèn các kĩ năng làm văn nghị luận
cho học sinh THPT ?
□ Chương trình SGK cần biên soạn hệ thống, đảm bảo khả năng tích hợp cao
giữa tiếp nhận và tạo lập, nhất là đối với văn bản nghị luận
□ Đổi mới cách ra đề, kiểm tra, đánh giá
□ Có tài liệu hướng dẫn kĩ về phương pháp vận dụng mối quan hệ giữa tiếp
nhận và tạo lập văn bản để rèn các kĩ năng làm văn nghị luận cho học sinh THPT
□ Tăng thời lượng dạy thực hành tạo lập văn bản trên lớp
□ Chú trọng dạy cho học sinh phương pháp, cách thức vận dụng tri thức tiếp
nhận văn bản văn học để tạo lập một văn bản tương tự
Những kinh nghiệm khác: ..................................................................................
............................................................................................................................
............................................................................................................................
Xin trân trọng cảm ơn quý thầy / cô.