ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG LAN
HÀ NỘI TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN HUY TƯỞNG:
TRƯỜNG HỢP SỐNG MÃI VỚI THỦ ĐÔ
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HOÁ VIỆT NAM
THÁI NGUYÊN - 2017
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG LAN
HÀ NỘI TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN HUY TƯỞNG:
TRƯỜNG HỢP SỐNG MÃI VỚI THỦ ĐÔ
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số: 60 22 01 21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HOÁ VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP
THÁI NGUYÊN - 2017
i
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến
PGS.TS. Nguyễn Đăng Điệp - người đã tận tình hướng dẫn, động viên, tạo
điều kiện tốt nhất cho tôi trong quá trình thực hiện luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa Ngữ Văn, phòng Đào
tạo trường Đại học Khoa học Thái Nguyên đã dạy dỗ, tạo điều kiện cho tôi
trong quá trình học tập.
Xin cảm ơn sự quan tâm và ủng hộ của gia đình, bạn bè. Đó chính là
nguồn động viên tinh thần rất lớn để tôi theo đuổi và hoàn thành luận văn này.
Học viên
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG LAN
ii
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 1
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu ................................................................ 8
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ......................................................... 8
5. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................... 9
6. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 9
7. Cấu trúc của luận văn .................................................................................... 9
Chương 1. ĐỀ TÀI HÀ NỘI TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM VÀ
TRONG SÁNG TÁC NGUYỄN HUY TƯỞNG ........................................ 10
1.1. Hà Nội trong văn học Việt Nam .............................................................. 10
1.1.1. Hà Nội trong văn học trung đại ............................................................. 10
1.1.2. Hà Nội trong văn học từ thế kỉ XX đến nay ......................................... 13
1.2. Hà Nội trong sinh quyển nghệ thuật Nguyễn Huy Tưởng ....................... 19
1.2.1. Hà Nội trong quá khứ xa ....................................................................... 19
1.2.2. Hà Nội trong quá khứ gần ..................................................................... 25
1.3. Các nhân tố tạo nên cảm hứng về đề tài Hà Nội trong sáng tác
Nguyễn Huy Tưởng......................................................................................... 26
1.3.1. Thời đại ................................................................................................. 26
1.3.2. Quê hương ............................................................................................. 28
1.3.3. Gia đình ................................................................................................. 31
1.3.4. Con người Nguyễn Huy Tưởng ............................................................ 32
Chương 2. HÀ NỘI HÀO HÙNG VÀ HÀO HOA TRONG SỐNG
MÃI VỚI THỦ ĐÔ ....................................................................................... 35
2.1. Hà Nội hào hùng ...................................................................................... 35
2.1.1. Ý chí quyết tâm bảo vệ đất nước .......................................................... 35
2.1.2. Tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” ...................................... 42
2.1.3. Tinh thần dũng cảm chiến đấu gắn với truyền thống giữ nước của
Hà Nội nghìn năm ........................................................................................... 51
iii
2.2. Hà Nội hào hoa ......................................................................................... 56
2.2.1. Một Hà Nội thanh lịch .......................................................................... 56
2.2.2. Một Hà Nội tinh tế, giàu chất thơ ......................................................... 59
2.3. Hà Nội - sự thấm quyện giữa lịch sử và văn hóa ..................................... 67
2.3.1. Chiều sâu lịch sử Hà Nội ...................................................................... 67
2.3.2. Những dấu ấn văn hóa Hà Nội trong Sống mãi với thủ đô .................. 68
Chương 3. MỘT SỐ ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT ....................................... 76
3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ................................................................. 76
3.1.1. Kiểu nhân vật tư tưởng .......................................................................... 76
3.1.2. Kiểu nhân vật đám đông ....................................................................... 82
3.2. Ngôn ngữ .................................................................................................. 89
3.2.1. Ngôn ngữ trang nghiêm ........................................................................ 89
3.2.2. Ngôn ngữ giàu chất thơ ......................................................................... 91
3.3. Giọng điệu ................................................................................................ 94
3.3.1. Giọng hào hùng, bi tráng ....................................................................... 94
3.3.2. Giọng trân trọng, ngợi ca ...................................................................... 98
KẾT LUẬN .................................................................................................. 100
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 102
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Thăng Long - Hà Nội là kinh đô của nhiều vương triều phong kiến
trong lịch sử Việt Nam, là kinh đô cổ kính nhất vùng Đông Nam Á, nơi vua
Lý Thái Tổ nhận định là “Kinh sư bậc nhất của muôn đời”. Nơi đây hội tụ
“hồn thiêng sông núi” với những tinh hoa, văn hóa của người Việt. Miền đất
có bề dày lịch sử hơn một nghìn năm, có truyền thống văn hóa đa dạng và
giàu bản sắc, kết tinh văn minh Việt Nam. Cho nên Hà Nội có một vị trí quan
trọng trong văn học Việt Nam từ xưa đến nay. Ở thời đại nào vẻ đẹp về đất và
người Hà Nội cũng rất quyến rũ. Đó là một nguồn cảm hứng bất tận của nhiều
văn nghệ sĩ trong đó có Nguyễn Huy Tưởng.
1.2. Có thể nói Nguyễn Huy Tưởng là nhà văn sinh ra ở Hà Nội, suốt
một đời gắn bó với Hà Nội nên ông có nhiều kỉ niệm và kiến thức uyên bác về
lịch sử mảnh đất Thăng Long ngàn năm văn hiến. Chính vì vậy những trang
viết về Hà Nội của ông luôn thể hiện cái nhìn sâu sắc, độc đáo. Hà Nội hiện
hình trong nhiều thể loại: văn xuôi, kịch, tùy bút, nhật ký,... Ở tất cả các sáng
tác về Hà Nội, Nguyễn Huy Tưởng cố gắng làm nổi bật cốt cách hào hoa,
phẩm chất hào hùng của đất và người Hà Nội. Trong đó, Sống mãi với thủ đô
là tác phẩm tiêu biểu, gắn với Hà Nội những năm đầu kháng chiến chống
Pháp. Đây là một trong những tác phẩm làm nên sự nghiệp văn học của ông.
1.3. Với mong muốn làm sáng tỏ hơn nữa những phát hiện mới mẻ của
Nguyễn Huy Tưởng về Hà Nội, chúng tôi lựa chọn đề tài “Hà Nội trong sáng
tác của Nguyễn Huy Tưởng: trường hợp Sống mãi với thủ đô”.
2. Lịch sử vấn đề
Nguyễn Huy Tưởng là một nhà văn lớn trên văn đàn Việt Nam, do vậy
đã có nhiều nhà khoa học, nhiều độc giả yêu mến nhà văn đi sâu nghiên cứu,
tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông. Có thể kể đến các nhà
khoa học như Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Trần Đình Sử, Phong Lê, Nguyễn
2
Bích Thu,… hay các nhà văn nổi tiếng đã có những nhận xét, đánh giá về các
sự nghiệp văn học của ông như: Tô Hoài, Nguyễn Tuân, Anh Đức, Kim Lân,
Nguyên Hồng, Xuân Diệu, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu,…
Công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu khá kỹ lưỡng, công phu, toàn
diện về Nguyễn Huy Tưởng là chuyên luận của Phan Cự Đệ và Hà Minh Đức
mang tên “Nguyễn Huy Tưởng (1912 - 1960)” xuất bản năm 1966, chuyên
luận đã nghiên cứu sâu về toàn bộ sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng
với cả thành tựu lẫn hạn chế trong phong cách sáng tác của nhà văn. Các tác
giả đã đi sâu nghiên cứu chặng đường sáng tác cả trước và sau cách mạng,
đặc biệt ở hai thể loại: tiểu thuyết và kịch, đồng thời khẳng định những đóng
góp to lớn của Nguyễn Huy Tưởng đối với nền văn học Việt Nam hiện đại.
Gần đây, nhà nghiên cứu Bích Thu và Tôn Thảo Miên đã chọn lọc,
tổng hợp và biên soạn các bài tiểu luận nghiên cứu về cả tác giả và tác phẩm
trên nhiều phương diện của giới nghiên cứu, phê bình, sáng tác, của bạn bè
và người thân tác giả, để cho ra đời cuốn “Nguyễn Huy Tưởng về tác gia và
tác phẩm” (xuất bản năm 2000) - Một công trình khá công phu, rất có ý
nghĩa, chứa đựng nhiều thông tin về con người cũng như sự nghiệp sáng tác
của nhà văn, là nguồn tư liệu tham khảo rất hữu ích cho những độc giả muốn
tìm hiểu về Nguyễn Huy Tưởng.
Ngoài ra còn có các bài viết trên tạp chí khoa học chuyên ngành,
những đề tài luận án, luận văn được thực hiện trong thời gian gần đây.
Sau khi tham khảo các nguồn tư liệu quý báu và có ý nghĩa trên, chúng
tôi xin chọn lọc một số ý kiến và phân loại như sau:
2.1. Đánh giá về đề tài Thăng Long - Hà Nội trong sáng tác Nguyễn Huy Tưởng
Là một người bạn thân thiết của Nguyễn Huy Tưởng, chứng kiến quá
trình sáng tác của nhà văn, Tô Hoài thấy rõ được sự thích thú, say mê, những
ấp ủ của Nguyễn Huy Tưởng với đề tài Thăng Long, Hà Nội. Ông cho rằng
hầu hết các sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng đều ít nhiều có “bóng dáng” của
Hà Nội, ý thức và tình cảm với Hà Nội là thứ “tự nhiên” trong con người nhà
3
văn: “Trong hai mươi năm cầm bút, Nguyễn Huy Tưởng đã sáng tác nhiều thể
loại văn xuôi, nhiều đề tài khác nhau. Nhưng, với anh, đề tài Hà Nội vẫn là
tiềm lực sức sống liên tục trong tất cả các giai đoạn và là những tác phẩm
chính của Nguyễn Huy Tưởng; Ở mỗi trang văn Nguyễn Huy Tưởng, chúng ta
đều có thể gặp được bóng dáng của Cổ Loa, của Thăng Long, của Hà Nội”;
“Là cây bút sử thi hết sức hùng tráng, Hà Nội của Nguyễn Huy Tưởng bao
giờ cũng cực kì hùng vĩ, ngay từ những tác phẩm ban đầu” [7, 67].
Khi tìm hiểu quá trình Nguyễn Huy Tưởng sáng tác tiểu thuyết Sống
mãi với thủ đô, Phong Lê cũng chỉ ra mối quan tâm đặc biệt của Nguyễn Huy
Tưởng về mảnh đất “rồng bay”, đáng chủ ý là khoảng thời gian những năm
kháng chiến chống Pháp: “Miêu tả về quá khứ, Nguyễn Huy Tưởng chỉ quan
tâm đến một loạt đề tài về cố đô Thăng Long, về thủ đô Hà Nội (…) Có lẽ
không ai không biết đến niềm thiết tha của Nguyễn Huy Tưởng về đề tài thủ
đô kháng chiến. Anh ấp ủ nó mười mấy năm dài” [32, 285]
Nhà văn Kim Lân đánh giá cao những hiểu biết sâu rộng, những kiến
thức uyên bác về Hà Nội của Nguyễn Huy Tưởng và trong những câu chuyện
của họ, Nguyễn Huy Tưởng thường chỉ xoay quanh đề tài Hà Nội - quê hương
yêu dấu của nhà văn: “Nguyễn Huy Tưởng biết nhiều về Hà Nôi. Hà Nội mới,
Hà Nội cũ, Hà Nội kháng chiến và Hà Nội những năm xa xưa thời Lê, thời
Trịnh... Mỗi lần đi dạo trên các hè phố với anh, tôi thường được nghe anh kể
chuyện Hà Nội. Đi đến một góc đường nào, phố nào anh cũng có chuyện để
nói. Tôi có cảm giác như anh gắn bó với thủ đô Hà Nội từng mỗi bước chân…
Tôi không thể sao nhớ được những chuyện anh kể về Hà Nội, chỉ biết rằng
anh hiểu biết và gắn bó với Hà Nội vô cùng” [32,151].
Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã từng bị lôi cuốn bởi các sáng tác về Hà
Nội của Nguyễn Huy Tưởng, ông đánh giá cao tài năng nghệ thuật của một
cây bút yêu nghề: “Những cái tên sách gợi lên hình ảnh một cái đài tưởng
niệm bằng ngôn ngữ, một vòng nguyệt quế từ bàn tay nhà văn Nguyễn Huy
Tưởng đặt lên trán những trai thanh, gái lịch của Hà Nội rất giàu lòng yêu
nước” [32,636].
4
Theo Đoàn Trọng Huy: “Đề tài Hà Nội xưa và nay chiếm vị trí quan
trọng trong sáng tác, trở thành một cảm hứng đặc biệt như nét phong cách
riêng của ông”.
Hai tác giả Bích Thu và Tôn Thảo Miên cũng đồng quan điểm với
nhiều nhà nghiên cứu khác khi cho rằng Nguyễn Huy Tưởng gắn bó, am hiểu
sâu rộng về Hà Nội và luôn có một tình yêu tha thiết dành cho quê hương
mình, những trải nghiệm cuộc đời là nền tảng giúp nhà văn có cảm hứng đặc
biệt dành cho mảnh đất Thăng Long: “Kinh thành Thăng Long, thủ đô Hà Nội
xưa và nay thấm trong từng trang văn của Nguyễn Huy Tưởng nhưng Thăng
Long - Hà Nội là trái tim của tổ quốc nên trong sáng tác của nhà văn, thánh
địa Thăng Long, Hà Nội đã vượt qua giới hạn của chính nó hòa nhập vào hồn
thiêng đất nước” [32,13]. “Một phần đáng kể của tiểu thuyết lịch sử liên quan
tới thủ đô. Với một nhà văn hiểu biết sâu rộng về Hà Nội, Nguyễn Huy Tưởng
đã tìm thấy mảnh đất riêng của mình, bằng những liên tưởng đối chiếu giữa
kiến thức trong sách vở với những trải nghiệm trong cuộc đời” [32,20].
Như vậy có thể thấy, viết về Hà Nội là niềm say mê, là tâm huyết suốt
một đời cầm bút của Nguyễn Huy Tưởng. Trên mảnh đất này, nhà văn không
chỉ thể hiện được vốn kiến thức, những hiểu biết sâu và rộng của mình về lịch
sử - văn hóa của Thủ đô mà sâu xa hơn, đó là tình yêu quê hương, đất nước,
con người Việt Nam từ xưa đến nay.
2.2. Đánh giá về tiểu thuyết Sống mãi với thủ đô
Nguyễn Huy Tưởng nảy ra ý định viết về đề tài Trung đoàn Thủ đô vào
những ngày cuối tháng hai năm 1957, nghĩa là viết về cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp của Liên khu Một đã lùi về dĩ vãng hơn mười năm trời.
Tác phẩm không đơn thuần là tái hiện lại cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp của Trung đoàn thủ đô mà rộng hơn là ông muốn tái hiện một Hà Nội
hào hùng trong chiến đấu. Hơn ba năm trời miệt mài nghĩ và viết về cuốn
sách tâm huyết này, ý định của ông là viết về sáu mươi ngày đêm kháng chiến
của quân dân Thủ đô nhưng ông mới chỉ dừng lại ở năm trăm trang của tập
5
một, mới chỉ dừng lại ở hai ngày đầu của cuộc kháng chiến. Thật tiếc vì tác
phẩm còn dang dở thì tác giả đã phải ra đi vì bạo bệnh. Nhưng tài năng của
ông đã được khẳng định qua nhiều tác phẩm sống mãi với thời gian, trong đó
có Sống mãi với thủ đô. Giờ đây ông có một vị trí xứng đáng trong nền văn
học Việt Nam hiện đại, trong lòng độc giả nhiều thế hệ. Mặc dù Sống mãi với
thủ đô chưa thực sự trọn vẹn nhưng theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, các
đồng nghiệp thì tác phẩm đã đạt được những thành công nhất định.
Nguyễn Tuân trong lời bạt của cuốn tiểu thuyết đã dành nhiều lời ca ngợi
cho Sống mãi với thủ đô. Đây là một trong không nhiều tác phẩm viết về Hà Nội
đúng với tâm hồn của nó, đúng với cái “khí hậu, khí tượng của thủ đô”, đặc biệt
nó chứa đựng “cái tình của một con người văn sĩ thủ đô”: “Đọc lại những tiểu
thuyết lịch sử, kể cả Sống mãi với thủ đô, người đọc vẫn gây gây mùi khói vấn
vương ngàn năm Thăng Long chốn cũ”; “Tôi coi tiểu thuyết này như một bức
tranh có nhiều đức tính truyền cảm mà tôi chỉ mong được làm một người thợ mộc
cố tìm cho tác giả nó một bộ khung tương xứng bằng gỗ tốt, gỗ quý”.
Trong bài viết “Nhà văn Hà Nội Nguyễn Huy Tưởng” đăng trên tạp chí văn
học số 1 - năm 1985, Tô Hoài đã kể lại những hoạt động cách mạng, hoạt động xã
hội của Nguyễn Huy Tưởng khi còn là thanh niên, đồng thời Tô Hoài cũng cho
người đọc thấy được sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng luôn gắn liền với
mảnh đất Thăng Long - Hà Nội từ sáng tác đầu tay đến tác phẩm cuối cùng. Nhà
văn Tô Hoài cho rằng khi viết Sống mãi với thủ đô, ngòi bút Nguyễn Huy Tưởng
rất sung sức “ như tay đô vật vào gióng còn đương múa vờn ” [5,73], cho nên ông
đã để lại một cuốn tiểu thuyết xuất sắc viết về Hà Nội kháng chiến.
Phong Lê cho rằng viết về Hà Nội thời kì kháng Pháp nhưng tác phẩm
của Nguyễn Huy Tưởng có nhiều nét riêng, độc đáo, bởi nhà văn có đôi mắt
quan sát sắc sảo và am hiểu rất sâu sắc về mảnh đất và người Hà Nội, cùng
với tài năng nghệ thuật, sự lao động miệt mài, Nguyễn Huy Tưởng đã cho ra
đời một cuốn tiểu thuyết giá trị:
6
“Niềm quan tâm và sự thông hiểu cặn kẽ của Nguyễn Huy Tưởng về
cuộc sống, về thái độ và diễn biến tâm trạng của lớp quần chúng trung gian
Hà Nội đó đã đem đến cho thiên truyện một giá trị hiện thực nhất định. Nhờ ở
năng khiếu quan sát có tài, Nguyễn Huy Tưởng đã nắm được những đặc điểm
riêng của cuộc kháng chiến ở Hà Nội, để gợi lên một thứ không khí riêng,
không khí Hà Nội, cho thiên truyện của mình” ; “Trong quá trình sáng tác của
Nguyễn Huy Tưởng, Sống mãi với thủ đô là một cái mốc lớn đánh dấu những
đổi thay về chất lượng” [32,292]. “Sống mãi với thủ đô biểu hiện quá trình đi
đến hoàn thiện những gì tốt đẹp nhất, những gì là của riêng mình trong phong
cách nghệ thuật của Nguyễn Huy Tưởng” [22, 302]; “Chất lượng nghệ thuật và
trữ lượng những suy nghĩ, tìm kiếm nơi Nguyễn Huy Tưởng dường như dồn lại
vào hai đầu mút của cuộc hành trình, với khởi đầu là Vũ Như Tô và kết thúc là
Sống mãi với thủ đô” [23,7]
Tiếp cận cuốn tiểu thuyết trên phương diện nghệ thuật, nhà phê bình
văn học Như Phong nhận xét: “Với tác phẩm cuối cùng này, anh đã tự đổi
mới trong phương pháp nghệ thuật của mình” [32,21].
Nhà văn Kim Lân đánh giá cao cuốn tiểu thuyết cùng với tài năng nghệ
thuật của Nguyễn Huy Tưởng: “Nó có cái đường bệ chín chắn của một tác
phẩm vào tầm cỡ lớn. Được dựng lên bằng một cây bút có nghề, có mực
thước, có sự thận trọng công phu tìm tòi suy nghĩ, có tấm lòng yêu dấu và
chân thành” [30,158].
Nguyễn Khải cũng rất hứng thú và say mê những trang viết về thủ đô,
bởi cuốn tiểu thuyết đã vẽ lên một bức tranh tuyệt đẹp về một Hà Nội trong
những ngày khói lửa, bom đạn: “Tôi tin rằng chúng ta, những người đã trải
qua cuộc kháng chiến chín năm, và lớp người lớn lên trong hòa bình sau này
sẽ cám ơn nhà văn ở nhiều trang tuyệt đẹp về những ngày thủ đô chuẩn bị
kháng chiến và hai đêm đầu tiên của cuộc chiến đấu đầy ác liệt ấy”
7
Trong bài viết “Nguyễn Huy Tưởng - nhà văn tiên phong tài năng” -
phát biểu tại buổi hội thảo “Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng từ khởi nguồn Dục
Tú - Đông Anh”, Đoàn Trọng Huy đã nhắc đến người thanh niên yêu nước
Nguyễn Huy Tưởng với những khát khao sáng tạo nghệ thuật, sự lao động
nghệ thuật nghiêm túc đã giúp nhà văn có được những tác phẩm sống mãi với
thời gian. Nhận xét về “Sống mãi với thủ đô”, Đoàn Trọng Huy đặc biệt chú ý
đến phong cách nghệ thuật độc đáo thể hiện cá tính sáng tạo của nhà văn. Đó
là sự kết hợp giữa cảm hứng sử thi và lãng mạn anh hùng: “Nguyễn Huy
Tưởng còn thành công đặc sắc trên lĩnh vực văn xuôi với tư cách nhà tiểu
thuyết hiện đại mang xu hướng sử thi với tác phẩm quy mô Sống mãi với thủ
đô vào cuối đời. Ở lĩnh vực này, ông là nhà văn có tay nghề và đổi mới mạnh
dạn” [17,98].
Đánh giá về giá trị nghệ thuật của tiểu thuyết, Bích Thu và Tôn Thảo
Miên cho rằng: “Đặc biệt trong Sống mãi với thủ đô, tiểu thuyết đánh dấu
trình độ trưởng thành của nghệ thuật tiểu thuyết hiện đại, cảm hứng lịch sử
và dân tộc hòa quyện không khí bi tráng của sử thi, với thế giới nhân vật
đông đảo, nhiều dáng vẻ mang tâm trạng, nỗi niềm riêng đã hấp dẫn và lôi cuốn
người đọc từ sự kiện này đến biến cố khác, vừa hiện thực vừa lãng mạn” [32,13].
Nghiên cứu về Nguyễn Huy Tưởng cũng đã có một số luận án, luận
văn tìm hiểu như đề tài “Phong cách nghệ thuật Nguyễn Huy Tưởng” - đề
tài luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Huy Phòng, hay đề tài “Cảm hứng
lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng” luận văn thạc sĩ của tác giả
Nguyễn Thị Phương Thoa, “Đề tài lịch sử và cách mạng trong kịch của
Nguyễn Huy Tưởng” luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Thu Trang.
Các công trình nghiên cứu cũng đã chỉ ra được phong cách nghệ thuật
Nguyễn Huy Tưởng, những đóng góp to lớn của nhà văn đối với nền văn
học nước nhà đặc biệt ở thể loại tiểu thuyết.
8
Trên đây là những nhận xét rất có ý nghĩa và giá trị đối với đề tài mà
người viết đang thực hiện.Nhìn chung các bài viết, công trình nghiên cứu về
sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng mới đi sâu về cảm hứng lịch sử, đề tài lịch
sử, phong cách nghệ thuật Nguyễn Huy Tưởng, có một số bài viết, công trình
có tiếp cận sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng ở đề tài về Hà Nội song mới chỉ
là sự tổng hợp, giới thiệu khái quát các tác phẩm có liên quan đến đề tài Hà
Nội, chưa khai thác sâu về giá trị nội dung và hình thức nghệ thuật ở một tác
phẩm cụ thể. Cho nên chúng tôi với mong muốn làm sáng tỏ hơn nữa những
cảm nhận mới mẻ của Nguyễn Huy Tưởng về Hà Nội đã lựa chọn tiểu thuyết
Sống mãi với thủ đô để phân tích.
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đề tài Hà Nội trong tiểu thuyết Sống mãi với thủ đô
3.2. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn tập trung tìm hiểu cái nhìn độc đáo, mới mẻ của Nguyễn Huy
Tưởng về Hà Nội giai đoạn nửa đầu thế kỉ XX, từ đó khẳng định những đóng
góp to lớn của tác giả trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục tiêu trên, luận văn sẽ khai thác sâu về đề tài thủ đô Hà Nội
trong một tác phẩm cụ thể, mong muốn sẽ góp phần khắc họa đầy đủ và chân
thực hơn vẻ đẹp của thủ đô Hà Nội thế kỉ XX.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Ở đề tài này, chúng tôi có sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp hệ thống: Người viết sử dụng phương pháp hệ thống
trong quá trình nghiên cứu để có một cái nhìn hệ thống về đề tài Hà Nội của
Nguyễn Huy Tưởng trong văn học Việt Nam hiện đại.
9
- Phương pháp phân tích tác phẩm: Được sử dụng xuyên suốt luận văn
nhằm phân tích dẫn chứng trong văn bản từ đó đi vào đánh giá, nhận xét, đưa
ra các nhận định ở các phần, các chương.
- Tiếp cận thi pháp học và tự sự học: chúng tôi vận dụng kiến thức thi
pháp học và tự sự học để tìm hiểu về hình thức nghệ thuật và nội dung của
tác phẩm.
- Phương pháp xã hội học: được dùng để làm rõ sự tác động cũng như
ảnh hưởng của bối cảnh thời đại, hoàn cảnh xã hội đối với quá trình sáng tác
tác phẩm.
Những phương pháp này sẽ được chúng tôi vận dụng linh hoạt trong
quá trình nghiên cứu.
5. Phạm vi nghiên cứu
- Tiểu thuyết Sống mãi với thủ đô
- Để làm sáng tỏ hơn vẻ đẹp Hà Nội trong tiểu thuyết Sống mãi với thủ
đô chúng tôi tiến hành khảo sát thêm những tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng
và của các nhà văn cùng thời về đề tài Hà Nội.
6. Đóng góp của luận văn
Thông qua luận văn chúng tôi muốn khẳng định những đóng góp to lớn
trong sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Huy Tưởng đối với đề tài về Thủ đô Hà
Nội, tác phẩm đã góp phần làm đầy thêm vẻ đẹp của Hà Nội thế kỉ XX. Hy vọng
luận văn sẽ là tài liệu tham khảo có ý nghĩa cho học sinh, sinh viên, giáo viên các
trường phổ thông khi tìm hiểu sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn triển
khai làm ba chương
Chương 1: Đề tài Hà Nội trong Văn học Việt Nam và trong sáng
tác Nguyễn Huy Tưởng
Chương 2: Hà Nội hào hùng và hào hoa trong Sống mãi với Thủ đô
Chương 3: Một số đặc sắc nghệ thuật
10
Chương 1
ĐỀ TÀI HÀ NỘI TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM
VÀ TRONG SÁNG TÁC NGUYỄN HUY TƯỞNG
1.1. Hà Nội trong văn học Việt Nam
1.1.1. Hà Nội trong văn học trung đại
Với bề dày lịch sử hơn một nghìn năm của mảnh đất Thăng Long - Hà
Nội thì tương ứng với nó cũng là lịch sử của hơn một nghìn năm văn học
Thăng Long - Hà Nội. Ở thời kì nào văn học Thăng Long - Hà Nội cũng nổi
bật hai đặc điểm cơ bản đó là chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa nhân đạo.
Ở mảng văn xuôi, bao gồm các thể loại ký - tản văn, tiểu thuyết, truyện
ngắn, dù tồn tại dưới loại hình nào thì văn học về đề tài Thăng Long - Hà Nội
cũng phát triển rực rỡ trong suốt chiều dài ngàn năm văn hiến.
Suốt thời Lý - Trần, những tác phẩm tự sự viết về Thăng Long - Hà Nội
chủ yếu là những tác phẩm mang chức năng hành chính và nghi lễ tôn giáo.
Ta có thể nhắc đến một số tác phẩm tiêu biểu trong thời kì này như: Việt điện
u linh của Lý Tế Xuyên, Thiền uyển tập anh, Thánh đăng ngữ lục, Tam tổ
thực lục ( khuyết danh), Lĩnh Nam chích quái của Trần Thế Pháp. Những tác
phẩm trên hầu hết mang chức năng lễ nghi tôn giáo, mang dấu ấn huyền thoại
dân gian song đều dành nhiều trang viết cho mảnh đất Thăng Long. Đó là
hình ảnh các vị thần trong Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên có 27 truyện kể
về các vị thần linh được thờ ở Việt Nam, gồm các vua chúa (nhân quân), bề
tôi trung liệt (nhân thần), thần sông, thần núi (hạo khí anh linh); trong Lĩnh
Nam chích quái là một tập truyện thần thoại cổ, mang nhiều biểu tượng của
triết lý và tâm linh Việt Nam. Đa số các nhân vật trong Lĩnh Nam chích quái
là thần thoại-Lạc Long Quân Âu Cơ, Tiên Dung Chử Đồng Tử, Trọng Thuỷ
Mỵ Châu, Tháng Gióng Phù Đổng Thiên Vương,…; Nhiều tác phẩm kể về
các anh hùng dân tộc, các vị vua tài đức (Thánh đăng ngữ lục là một tập sách
thuật lại hành trạng tu tập của năm vị vua đời Trần, trong đó, lịch sử của vua
11
Trần Thái Tông và Trần Nhân Tông được ghi chép đầy đủ), các nhân sĩ trí
thức hay các tăng đồ tôn giáo xuất chúng (trong Thiền uyển tập anh - đây là
một cuốn sách cổ của Phật giáo Việt Nam ghi lại các tông phái thiền học và
sự tích các vị Thiền sư nổi tiếng vào cuối thời Bắc thuộc cho đến thời Đinh,
Lê, Lý, một số ít vị lớp sau còn sống đến đầu thời Trần. Tam tổ thực lục - cuốn
sách nói về tiểu sử của ba vị tổ thiền phái Trúc Lâm Yên Tử gồm Sơ Tổ Trúc Lâm
(1258-1308), Nhị Tổ Huyền Quang (1284-1330) và Tam Tổ Pháp Loa (1254-
1334), được biên soạn vào thời Trần.
Thời Hồng Đức (1460 - 1497), hoàn cảnh dân tộc có những thay đổi
lớn, dẫn đến có những biến chuyển trong cảm quan nghệ thuật về con người
trong văn học. Dưới thời vua Lê Thánh Tông, đất nước phát triển rực rỡ, hưng
thịnh về mọi mặt từ kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, quân sự và mở rộng
đáng kể lãnh thổ của mình, đây là thời kì nước Đại Việt trở thành một cường
quốc trong khu vực Đông Nam Á, ở thời kì này vai trò, vị trí của con người
được đề cao. Chính vì vậy trong văn học hình thành quan niệm về con người
cá nhân, nâng cao vị trí, vai trò của con người. Ta có thể kể đến văn bia đề tên
các tiến sĩ trải suốt từ thời Hồng Đức, đã ghi lại các kì thi quan trọng bậc nhất
từng diễn ra tại đất Thăng Long cũng như sự đề cao, bồi dưỡng nhân tài của
quốc gia dưới thời vua Lê Thánh Tông.
Sau thời Hồng Đức, giai cấp phong kiến suy tàn, đất nước rơi vào
khủng hoảng, bị chia cắt, vì chiến tranh phong kiến diễn ra ác liệt và kéo dài,
quyền sống của con người bị bóp nghẹt, nhân dân điêu đứng, khổ cực. Vì vậy
văn học giai đoạn này đi sâu vào khuynh hướng thể hiện con người và thế tục.
Tiêu biểu là các tác phẩm Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ, Truyền kì tân
phả của Đoàn Thị Điểm,… Qua tác phẩm Truyền kì mạn lục, Nguyễn Dữ đã
cất lên tiếng nói phản kháng mạnh mẽ hiện thực xã hội Việt Nam thế kỉ XVI.
Trong hoàn cảnh xã hội ấy, văn học chính là mảnh đất thuận lợi để các tác giả
bày tỏ những ước mơ, lý tưởng thẩm mĩ của mình. Do thái độ bất mãn tước
hiện thực xã hội đương thời, tác phẩm Truyền kì mạn lục đã phản ánh khá
12
nhiều vấn đề của xã hội: vạch trần chế độ chính trị đen tối, hủ bại, bộ mặt xã hội
rốn ren nhiều tệ nạn, đả kích hôn quân, bạo chúa, tham quan lại nhũng, đồi phong
bại tục, đồng thời cất lên tiếng nói đòi quyền sống, quyền hạnh phúc của con
người trong tình yêu trai gái, tình cảm vợ chồng, hạnh phúc lứa đôi…
Trong Truyền kì tân phả của Đoàn Thị Điểm, cuốn sách ghi chép
những truyện linh dị và những truyện gặp gỡ được xây dựng từ những nhân
vật có thật trong lịch sử hoặc theo truyền thuyết dân gian, đều có ý thức đề
cao người phụ nữ. Đó là các truyện: Hải khẩu linh từ (Đền thiêng cửa biển),
Vân Cát thần nữ (Thần nữ Vân Cát), An Ấp liệt nữ (Liệt nữ ở An Ấp), Bích
Câu kỳ ngộ (Cuộc gặp gỡ kỳ lạ ở Bích Câu), Nghĩa khuyển khuất miêu (Chó
khôn chịu nhịn mèo) và Hoành Sơn tiên cục (Cuộc cờ tiên trên núi Hoành
Sơn). Tuy nhiên nổi bật hơn cả là truyện “Hải khẩu linh từ” (Đền thiêng cửa
biển), tác giả hướng đến tái tạo hình tượng người phụ nữ tài sắc đất cố đô -nữ
thần Chế Thống, tức Nguyễn Thị Bích Châu, cung phi của vua Trần Duệ
Tông đã hi sinh thân mình để nhà vua được an toàn đưa chiến thuyền vào
đánh quân Chiêm Thành. Cái chết tự nguyện của nàng Bích Châu là kết quả
của một sự suy nghĩ lâu dài về vận mệnh đất nước, dân tộc và hình tượng của
nàng còn có ý nghĩa tố cáo cuộc chiến tranh phi nghĩa. Tác phẩm này được
đánh giá là thành công hơn cả của Đoàn Thị Điểm.
Đến thế kỉ XVIII - XIX, đời sống xã hội có nhiều biến động, đây là giai
đoạn khủng hoảng, suy vong trầm trọng của chế độ phong kiến Việt Nam và
nhà văn đã phản ánh sự biến động ấy vào văn học nghệ thuật một cách sinh
động. Cho nên thời kì này là giai đoạn phát triển rực rỡ nhất của nền văn học
dân tộc trong suốt thời kỳ phong kiến. Vấn đề trung tâm của văn học giai đoạn
này là vấn đề số phận con người trong chế độ phong kiến suy tàn. Các tác
phẩm văn xuôi đã phản ánh sâu sắc một Thăng Long dâu bể, có cả mặt trái nơi
cung vua phủ chúa, nhà quan, phố chợ và cả hào khí một thời chiến trận.
Khuynh hướng chủ đạo của văn học giai đoạn này tố cáo hiện thực và nhân đạo
chủ nghĩa. Các nhà văn mang trong mình ý thức cá nhân và phản ánh thời cuộc
13
bằng cái nhìn thế sự. Tiêu biểu là các tác phẩm Tang thương ngẫu lục của
Phạm Đình Hổ - Nguyễn Án, Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ, Thượng
kinh ký sự của Lê Hữu Trác, Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô Gia Văn Phái.
Hoàng Lê nhất thống chí là cuốn tiểu thuyết lịch sử chương hổi, ghi lại một
giai đoạn lịch sử với bao biến cố dữ dội từ khi Trịnh Sâm lên ngôi Chúa đến khi
Gia Long chiếm Bắc Hà (1768 - 1802): loạn kiêu binh, triều Lê - Trịnh sụp đổ,
Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh, Gia Long lật đổ triều đại Tây Sơn. Đây chính là
giai đoạn rất nhiều biến động trong lịch sử Việt Nam. Tập ký kể lại cuộc hành
trình từ quê nhà Nghệ Tĩnh của ông về kinh thành Thăng Long để chữa bệnh cho
chúa Trịnh ở phủ Chúa, vì chúa đã biết tiếng tăm lừng lẫy của một đại danh y.
Nhiều trang viết mô tả quang cảnh kinh kỳ, nhất là trong phủ chúa Trịnh, nơi lắm
xa hoa và quyền uy. Tác giả thuật lại những điều tai nghe mắt thấy trong xã hội
hiện lên rất phong phú và sống động. Tuy nhiên, đằng sau những biến đổi sâu sắc
của xã hội, ta vẫn nhận thấy một hình ảnh Thăng Long hào hoa, thanh lịch.
1.1.2. Hà Nội trong văn học từ thế kỉ XX đến nay
Ðầu thế kỉ XX thực dân Pháp cơ bản đã thực hiện xong công cuộc bình
định trên đất nước ta và chuyển sang khai thác thuộc địa, xây dựng trật tự
mới. Cùng với các cuộc khai thác thuộc địa có quy mô lớn, xã hội Việt Nam
mới có sự phân hóa đáng kể. Lúc này nền văn hóa phương Tây đã được du
nhập vào Việt Nam ồ ạt, trong phạm vi cả nước. Trong bối cảnh ấy, chúng ta
hội nhập với văn hóa Pháp và văn minh Âu Tây, từng bước hòa nhập vào văn
hóa thế giới. Hà Nội được trả về vị trí xứng đáng là trái tim của cả nước, là
trung tâm văn hóa chính trị của đất nước. Đặc biệt sự xuất hiện của tổ chức
Tự lực văn đoàn đã làm nên cả một thời đại văn học, thúc đẩy một bộ phận
văn xuôi hội nhập với nền văn học hiện đại thế giới. Trong bối cảnh chung,
các tác giả Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Huy Tưởng,
Tô Hoài đã có những tác phẩm xuất sắc về đề tài Hà Nội và đứng vào đội ngũ
các tác gia hàng đầu của nền văn học hiện đại.
14
Trong hai mươi năm đầu thế kỉ XX, xu hướng của các nhà văn đi vào
phản ánh trực diện cuộc sống và con người Hà Nội. Văn học giai đoạn này
hình thành hai khuynh hướng rõ nét là khuynh hướng lãng mạn và khuynh
hướng hiện thực.
Ở khuynh hướng lãng mạn, các nhà văn viết về Hà Nội với cái nhìn sâu
sắc về những thay đổi tinh vi trong tâm hồn, tình cảm, tâm trạng của con người.
Người đọc có thể cảm nhận được rõ thông qua các tiểu thuyết thuộc nhóm các
tác giả Tự lực văn đoàn như Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, Nửa chừng xuân
của Khái Hưng. Ở thể loại truyện ngắn Hoa vông vang của Đỗ Tốn, Hoa tigôn
của Thanh Châu, Ba, Thả thia lia của Đỗ Đức Thu. Đặc biệt là hai tác giả
Thạch Lam và Nguyễn Tuân - hai cây bút đương thời tiêu biểu nhất cho thái độ
trân trọng, nâng niu những nét văn hóa đặc trưng của Hà Nội cổ xưa.
Nhìn lại nội dung tập sách, có điều lý thú là các nhân vật chính
trong Tố Tâm đều mang cốt cách Hà Nội khá rõ. Quê họ ở đâu không biết,
nhưng họ lớn lên ở đây, và sống với không khí chung quanh một cách rất hoà
hợp. Năm 1973, trong bài viết nhân dịp Hoàng Ngọc Phách qua đời, nhà phê
bình Vũ Ngọc Phan cho biết: “Những nhân vật trong Tố Tâm đều phảng phất
giống những thanh niên Hà Nội năm xưa ấy. Tố Tâm “nền” lắm. Cô là con
nhà gia giáo, nên bao giờ cũng đi xe sắt - tức xe kéo bánh sắt - chứ không bao
giờ đi xe cao su như bọn me tây. Cô rất diện nhưng cũng chỉ diện tới mức bịt
khăn lụa đen, thứ khăn mốt nhất thời bấy giờ”. Đây có lẽ là một trong những
lần ít ỏi hình ảnh con người Hà Nội được miêu tả kỹ đến như thế!
Tản văn Hà Nội băm sáu phố phường của Thạch Lam được đánh giá là
một cuốn bút ký dành riêng cho vẻ đẹp Hà Nội. Vẻ đẹp ấy thể hiện ở nhiều
khía cạnh. Bắt đầu bằng việc giới thiệu các tấm biển ở các cửa hàng Hà Nội,
rồi Thạch Lam nói về lối kiến trúc riêng của các nhà cũ Hà Nội. Trong đó nhà
văn dành phần lớn số trang viết về nét văn hoá ẩm thực của người dân Hà
thành, đặc biệt là các loại quà Hà Nội. Đây là những trang viết đặc sắc nhất
của ngòi bút Thạch Lam. Thạch Lam lần lượt điểm qua tất cả những thức quà
15
hiện thời của đất Thăng Long văn vật. Từ bún chả, bánh cuốn Thanh Trì, ngô
bung, xôi cho đến phở, bún ốc, bún bung, bánh cốm, bánh khảo, kẹo lạc, chè
chén, bánh đậu, cốm… Qua những trang viết ấy, ta thấy một Hà Nội cổ kính,
ngàn năm văn hiến, tinh tế và thanh lịch, nhã nhặn mà thanh tao. Hà Nội trong
sáng tác của Thạch Lam hiện lên quả là “một thành phố rất nhiều vẻ đẹp”,
đúng như lời nhà văn nhận xét. Không chỉ xoay quanh chủ đề ẩm thực,
trong Hà Nội băm sáu phố phường, Thạch Lam còn thể hiện tình yêu Hà Nội
qua nỗi trăn trở về sự đổi thay của vùng đất này. Dường như nó đang mất dần
đi những giá trị xưa cũ.
Viết Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân tìm về những nét đẹp đẽ của
thời quá vãng để hoài niệm và tái tạo lại. Nguyễn Tuân, người sinh ra và lớn
lên trong môi trường nho giáo, thất vọng bởi cuộc sống trong xã hội "kim khí"
xô bồ, thường tìm về những giá trị cũ. Bóng dáng Hà Nội trong tác phẩm của
Nguyễn Tuân là những thú chơi của các bậc tao nhân mặc khách như thưởng
trà, thả thơ, đánh thơ, hát ca trù... Từng câu chữ được lựa chọn, được chắt lọc
hết sức tinh tế. Tác phẩm Vang bóng một thời được xem như là một tác phẩm
gần như hướng đến sự toàn thiện, toàn mỹ. Đọc tác phẩm, độc giả sẽ cảm
nhận được những nếp sống cũ của người Hà Nội.
Ở khuynh hướng văn học hiện thực, các nhà văn đã tập trung miêu tả
Hà Nội trong cuộc vật lộn, đấu tranh với hai tầng áp bức thực dân và phong
kiến, do đó hiện lên trên những trang văn là một Hà Nội đầy khổ đau và bát
nháo. Do sự ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, Hà Nội hiện lên như một
bức tranh hỗn độn với những mảng sáng tối đan xen. Văn hóa Hà Nội trước
sự xâm lược của văn hóa phương Tây khiến con người bị tha hóa khủng
khiếp. Tiếp cận Hà Nội dưới cái nhìn hiện thực, tiêu biểu là truyện ngắn của
Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Tô Hoài. Mỗi nhà văn có
cách tiếp cận về Hà Nội ở những khía cạnh khác nhau song tất cả đều hướng
đến phê phán hiện thực xã hội đương thời.
Nhà văn Vũ Trọng Phụng dùng ngòi bút sắc sảo của mình để đả kích cái
xã hội Âu hóa hiện lên với tất cả sự lố bịch thông qua tiểu thuyết Số đỏ. Bằng
16
ngòi bút trào phúng độc đáo, Số đỏ lên án gay gắt cái xã hội tư sản thành thị
Việt Nam đang chạy theo lối sống văn minh rởm hết sức lố lăng đồi bại đương
thời. Tác giả đã đả kích cay độc các phong trào "Âu hóa", "thể thao", "giải
phóng nữ quyền" đang phát triển rầm rộ khi ấy, nhân danh "văn minh", "tiến
bộ", "cải cách xã hội" mà thực chất chỉ là ăn chơi trụy lạc, làm tiền, chà đạp
trắng trợn lên mọi nền nếp đạo đức truyền thống. Có thể nói, tiểu thuyết Số đỏ
là một bức tranh thu nhỏ của xã hội Việt Nam vào những năm 30.
Viết về đề tài Hà Nội, Nam Cao lại hướng ngòi bút của mình đến hình
ảnh người trí thức sống giữa thủ đô Hà Nội. Với tác phẩm Trăng sáng, Đời
thừa, hình ảnh người trí thức có trí tuệ có lương tâm nhưng đang phải sống
mòn mỏi trong cái xã hội tối tăm.
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra
đời. Hà Nội trở thành thủ đô của nước Việt Nam mới. Diện mạo đất nước
thay đổi và văn học viết về thủ đô Hà Nội cũng có những thay đổi lớn lao. Từ
cách mạng tháng Tám năm 1945, văn xuôi viết về Hà Nội trong khoảng thời
gian mươi mười lăm năm sau kháng chiến chống Pháp là những trang viết đi
sâu vào bộc lộ niềm thương nhớ mảnh đất Hà thành. Trong đó, phải kể đến
các tác giả Nguyễn Tuân với một loạt tùy bút: Phở, Làng hoa, Con hồ Hà
Nội, Lũy hoa, Giò lụa, Cốm, Phố Phái.
Với hai tác phẩm Miếng ngon Hà Nội và Thương nhớ mười hai Vũ Bằng
xứng đáng là cây bút hàng đầu viết về Hà Nội. Nếu như Nguyễn Tuân ca ngợi
vẻ đẹp thường ngày của người Hà Nội thông qua các thú chơi tinh hoa thì Vũ
Bằng cũng tập trung ngòi bút của mình vào ẩm thực của người Hà Nội. Chính
trong lĩnh vực ẩm thực lại thể hiện rõ nét thanh lịch của người thủ đô. Đối với
Vũ Bằng vấn đề ẩm thực không chỉ là một nhu cầu cần thiết của con người, mà
còn là cả một nghệ thuật, hơn thế còn là cả một nền văn hóa. Nét văn hóa trong
ăn uống làm cho con người trở nên thanh lịch, biết cách ứng xử và giao tiếp
hơn. Trong tác phẩm Miếng ngon Hà Nội, Vũ Bằng đã thể hiện rất rõ sự khéo
léo của người dân Hà Nội trong cách chế biến cũng như thưởng thức món ăn.
17
Còn với Thương nhớ mười hai được viết trong những năm tháng đất
nước bị chia cắt, tác giả phải sống xa Hà Nội. Những nỗi niềm thương nhớ da
diết về quê hương, gia đình và lòng mong mỏi đất nước hòa bình, thống nhất
được tác giả gửi gắm qua những trang viết thấm đẫm sự hoài niệm về lịch sử
và vẻ đẹp của Hà Nội. Nỗi nhớ ấy được cụ thể khi ông viết về mười hai tháng
với khung cảnh thiên nhiên, đất trời, thời tiết, cảnh vật, con người, phong tục
tập quán, lễ hội, lễ tết, những cách ứng xử, đi đứng, ăn mặc, nói năng… của
quê hương Bắc Việt, rộng ra là của đất nước Việt Nam yêu dấu.
Sau 1975, hoàn cảnh đất nước thay đổi, kéo theo đó là sự thay đổi của
đời sống văn học. Các nhà văn đã đi sâu vào cảm hứng thế sự - đời tư. Tất cả
mọi người đều phải đối mặt với một xã hội mới với đời sống kinh tế thị
trường, quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng và hội nhập quốc tế, xuất
hiện những xung đột, những mâu thuẫn giữa các thế hệ về đạo đức, lối sống
làm nảy sinh nhiều bi kịch trong đời sống. Con người bị tha hóa bởi đồng
tiền, sự cám dỗ của vật chất. Bị ảnh hưởng bởi văn hóa phương Tây đã đẩy
nhiều người vào lối sống buông thả, hưởng thụ và tha hóa. Các nhà văn đã lột
trần bộ mặt đen tối của xã hội và con người đương thời. Trong giai đoạn này,
tập trung nhiều cây bút của nhiều thế hệ như Tô Hoài, Bùi Hiển, Nguyễn
Đình Thi, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Đỗ Chu,
Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Lê Minh Khuê, Tạ Duy Anh.
Nhà văn Tô Hoài thủy chung với đề tài Hà Nội. Ông đã cho ra đời liên
tiếp các hồi ký, tự truyện: Chuyện cũ Hà Nội, Chiều chiều, Cát bụi chân ai.
Dưới ngòi bút Tô Hoài, cảnh và người Hà Nội được tái hiện vô cùng sinh động.
Một người Hà Nội của Nguyễn Khải là truyện ngắn giàu chất triết luận.
Viết Một người Hà Nội, cảm hứng chính của nhà văn là khám phá bản sắc văn
hóa Hà Nội qua một con người cụ thể. Hình tượng bà Hiền được xây dựng lên
như để chứng minh có một tinh thần Hà Nội, linh hồn Hà Nội thực sự đã và đang
tồn tại. Qua đó tác giả khắc họa và ca ngợi bản lĩnh , cốt cách của người Hà Nội
18
tự tin, thức thời, thực tế, tự trọng với lối sống văn hóa, thanh lịch, sang trọng. Bà
Hiền - một người Hà Nội “thuần túy Hà Nội, không pha trộn”, và tin tưởng Hà
Nội sẽ phát triển trong thời kì mới “chói sáng những ánh vàng”.
Viết về Hà Nội ta không thể không nhắc đến nhà văn Băng Sơn. Suốt
cuộc đời cầm bút của mình, ông đã chọn viết về Hà Nội từ tác phẩm đầu tiên
đăng báo năm mười bảy tuổi đến khi gác bút với sự nghiệp viết văn gần sáu
mươi năm. Độc giả yêu Hà Nội chắc hẳn đã biết tới nhiều tác phẩm của Nhà
văn Băng Sơn như: Thú ăn chơi người Hà Nội, Dòng sông Hà Nội, Nghìn năm
còn lại, Nước Việt hồn tôi, Đường vào Hà Nội, Phập phồng Hà Nội, Hà Nội 36
phố phường... Và bây giờ, đã có thêm một tác phẩm làm đầy thêm tình yêu Hà
Nội Hà Nội rong ruổi quẩn quanh. Đây là tập tản văn của một trong những hồn
văn tinh tế, yêu mến và hiểu biết bậc nhất về Hà Nội. Mặc dù không sinh ra ở
Hà Nội nhưng ông dành cho Hà Nội một tình yêu mãnh liệt. Trên chiếc xe đạp
Phượng Hoàng cót két, ông như dẫn người đọc đi đâu đó quanh quẩn những
phố phường, chậm rãi khám phá những địa chỉ đã quen thuộc cả nghìn năm, mà
vẫn tìm ra được những chi tiết mới. Những tản văn về cây xanh, góc phố, khu
chợ, con đường... thân quen, giản dị của Hà Nội. Gắn với từng nơi đó là kỉ
niệm, dấu tích và lịch sử... Tất cả được biểu cảm và diễn tả bằng một ngôn ngữ
giàu chất thơ nhưng lại rất dân gian của một cây bút nổi tiếng gần như cả đời
chỉ viết về Hà nội và sống chết vì Hà Nội yêu dấu.
Văn học sau thời kì đổi mới, tức là sau năm 1986 cũng hết sức đa dạng.
Các tác giả viết về Hà Nội của hôm nay, có không ít cái xấu xa và sự tha hóa
đang hiện hữu khắp nơi, nhưng Hà Nội vẫn giữ và cố giữ cho bằng được vẻ
đẹp hào hoa, thanh lịch của thủ đô yêu dấu. Đằng sau những trang viết “nói
thẳng, nói thật” là một tình yêu thủy chung, tha thiết, mãnh liệt với Hà Nội.
Trong cuốn tiểu thuyết, tác giả Nguyễn Việt Hà đã viết những lời cay
đắng về Hà Nội, đó là những trang văn mà Hà Nội hiện lên thật xấu xí, nhốn
19
nháo. Nhà văn viết về một hiện thực “Ba ngôi của người Hà Nội bây giờ thì
buồn quá, nó không quá nghèo nhưng vô đạo và ít học” hay “Thành phố
đang loay hoay tha hóa”. Qua đó bộc lộ thái độ xót xa của nhà văn trước
những nét đẹp đã bị mất.
Trong văn Bảo Ninh nổi bật một Hà Nội hậu chiến. Với Khắc dấu mạn
thuyền, Thời tiết của ký ức, Hà Nội lúc không giờ,…truyện ngắn của Bảo
Ninh hầu hết viết về Hà Nội, vì tình yêu Hà Nội, một Hà Nội “cũ xưa” chưa
bị chiến tranh phạt ngang, một Hà Nội đau đớn thời hậu chiến.
Đọc các tác phẩm viết về Hà Nội phần nào cho độc giả hiểu rõ và sâu
sắc hơn về vẻ đẹp của đất và người Hà Nội trải qua các thời kì hưng vong của
lịch sử. Thật tự hào khi Thủ đô Hà Nội từ lâu đã trở thành cảm hứng bất tận
cho các văn nhân nghệ sĩ để cho ra đời những tác phẩm xuất sắc, góp phần
làm đa dạng, phong phú hơn đề tài văn học về Thăng Long - Hà Nội.
1.2. Hà Nội trong sinh quyển nghệ thuật Nguyễn Huy Tưởng
1.2.1. Hà Nội trong quá khứ xa
Trong gần hai mươi năm trời lao động nghệ thuật miệt mài và nghiêm
túc, Nguyễn Huy Tưởng viết nhiều thể loại, ở nhiều mảng đề tài, nhưng đề tài
lớn nhất, ông tâm huyết nhất, viết nhiều nhất, viết hay nhất là đề tài về Hà
Nội. Trong tổng số các sáng tác thì có đến hơn một nửa viết về Hà Nội. Và ở
đề tài này, nhiều tác phẩm làm nên tên tuổi nhà văn. Qua những trang viết về
Thăng Long - Hà Nội, Nguyễn Huy Tưởng đưa người đọc trở về lịch sử của
Thủ đô gần một ngàn năm văn hiến với những sự kiện trọng đại từ quá khứ xa
thời An Dương Vương dựng nước Âu Lạc, tới những năm tháng vua tôi nhà
Trần đại phá quân Nguyên vào thế kỉ XIII, đến thời Lê - Trịnh, gần nhất là
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bảo vệ Thủ đô thế kỉ XX.
Nguyễn Huy Tưởng viết về Hà Nội của hai nghìn năm trước. Đó là thời
vua An Dương Vương xây thành Ốc chống quân xâm lược Triệu Đà. Sự ra
đời của nhà nước Âu Lạc đóng đô ở Cổ Loa- Đông Anh là một bước phát
20
triển của quốc gia Việt Nam cổ đại, tồn tại trong khoảng ba mươi năm. Sau
khi định đô, An Dương Vương xây một tòa thành có quy mô lớn gọi là Loa
Thành. Thành Cổ Loa được xây dựng ở trung tâm nước Âu Lạc, nơi được
chọn làm quốc đô nên có vị trí của một quốc thành. Với hệ thống cấu trúc đồ
sộ, kiên cố, Cổ Loa là một công trình quân sự vĩ đại, không chỉ về mặt quy
mô mà còn thể hiện tri thức quân sự hết sức độc đáo của ông cha ta buổi đầu
dựng nước và giữ nước. Đồng thời, Cổ Loa cũng đánh dấu một trình độ phát
triển và phân hóa xã hội cao hơn trước. Thực sự thành Cổ Loa đã vượt lên
trên tầm cỡ thời đại của nó. Cổ Loa xứng đáng là niềm tự hào của Thăng
Long - Hà Nội, của cả dân tộc Việt Nam. Với ngòi bút thấm đượm tình yêu
thương, Nguyễn Huy Tưởng đã viết truyện cổ tích An Dương Vương xây
thành Ốc. Hình ảnh Thục phán An Dương Vương với khát vọng xây Loa
Thành, nhờ sự giúp sức của thần núi Thất Diệu, Thần Kim Quy chống lại sự
phá hoại của Kê tinh…, câu chuyện vừa chứa đựng yếu tố lịch sử, vừa mang
màu sắc cổ tích huyền ảo. Dù gặp phải bao khó khăn khi Kê tinh phá hoại,
nhưng với ý chí quyết tâm, tấm lòng vì nước vì dân của nhà vua, cuối cùng
Loa thành cũng dần hoàn thiện. Câu chuyện của Nguyễn Huy Tưởng không đi
sâu vào bi kịch nước mất nhà tan, bi kịch tình yêu tan vỡ của Mị Châu -
Trọng Thủy mà tác giả tập trung ca ngợi tấm lòng yêu nước thiết tha, tinh
thần trách nhiệm cao với vận mệnh đất nước của vua An Dương Vương, đồng
thời cho thấy tinh thần đoàn kết của nhân dân Âu Lạc xây dựng đất nước. Bởi
thông qua câu chuyện, Nguyễn Huy Tưởng muốn dẫn dắt thế hệ trẻ trở về cội
nguồn lịch sử, để thế hệ trẻ đời sau thấy được truyền thống yêu nước của cha
ông từ những ngày đầu dựng nước. Viết về sự kiện lịch sử nhưng Nguyễn
Huy Tưởng đã đem đến cho các em thiếu nhi niềm thích thú, say mê đến kỳ lạ
bằng một giọng kể chuyện vừa giản dị, chân thành, gần gũi với cuộc sống
thường ngày, phù hợp với tâm tư, suy nghĩ của trẻ thơ. Từ đấy ông đã nhen
nhóm và truyền cho các em những hiểu biết về lịch sử dân tộc, lòng tự hào
dân tộc, tình yêu quê hương, đất nước.
21
Viết về Thăng Long - Hà Nội thế kỷ XIII, Nguyễn Huy Tưởng viết về
khí thế hào hùng của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên xâm
lược. Ở tiểu thuyết An Tư đã mô tả lại cuộc kháng chiến chống quân Nguyên
của vua tôi nhà Trần vào những năm 1284 - 1285. Bên cạnh sự kiện lịch sử
ấy, nhà văn còn lồng ghép vào đó câu chuyện tình yêu đầy cảm động, tuyệt
đẹp giữa hai nhân vật chính là An Tư công chúa và Chiêu Thành Vương Trần
Thông. Khi đó quân Nguyên đã kéo vào tàn phá Thăng Long, vua tôi nhà
Trần phải rút lui vào Thanh Hóa. Công chúa An Tư phải chia tay mối tình
mặn nồng với Trần Thông, tình nguyện hiến thân cho Thoát Hoan để cứu
mười vạn dân đang bị giặc Nguyên bắt làm tù binh. Mùa hè đến, quân đội nhà
Trần phản công mãnh liệt. Trần Quang Khải kéo quân vào giải phóng Thăng
Long. Chiêu Thành Vương Trần Thông và Hoài Văn Hầu xin đi phá thành
cứu An Tư công chúa. Thật không may, khi gần đại thắng thì Chiêu Thành
Vương hi sinh. An Tư công chúa biết tin cũng ngã xuống thành mê man, bất
tỉnh. Mặc dù tác phẩm kết thúc bằng cái chết của vài nhân vật, song nổi bật là
tác phẩm ca ngợi tinh thần yêu nước trong truyền thống đấu tranh bảo vệ độc
lập dân tộc của quân và dân ta, niềm vui, hân hoan, phấn khởi khi thắng trận
của toàn dân tộc đã làm dịu đi những nỗi đau của vài nhân vật.
Thăng Long xưa còn ghi dấu một sự kiện trọng đại của vua tôi, quan
dân nhà Trần tại điện Diên Hồng, họp bàn kế sách đánh giặc. Sự kiện được
nhắc đến trong câu chuyện thiếu nhi Lá cờ thêu sáu chữ vàng. Truyện kể về
cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc Việt Nam chống quân Nguyên dưới sự
lãnh đạo, chỉ huy tài tình của vị tướng Trần Hưng Đạo. Nhưng tác phẩm chỉ
nói về một phần rất nhỏ của cuộc kháng chiến và một chút ít về vị anh hùng
nhỏ tuổi Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản. Ở lứa tuổi thiếu niên chưa tròn mười
sáu, đã nung nấu ý chí diệt giặc ngoại xâm bằng hành động đòi tham gia góp
ý kiến trong hội nghị Diên Hồng ở bến Bình Than, hành động bóp nát quả
cam khi không được tham gia hội nghị do tuổi còn nhỏ đã cho thấy lòng yêu
nước của chàng thiếu niên này. Song ý chí quyết tâm đánh giặc rửa thù cho
22
nước non lúc nào cũng sục sôi trong con người tuổi nhỏ ấy. Không cam chịu,
về nhà Quốc Toản rèn luyện, giương cao lá cờ thêu sáu chữ vàng “Phá cường
địch báo hoàng ân” và chiêu mộ sáu trăm dũng sĩ thiếu niên làm lễ tế cờ, xuất
quân đánh giặc. Kết quả, đoàn quân thiếu niên của Trần Quốc Toản đã đánh
bại quân Nguyên ở núi rừng phía Bắc, góp phần làm nên chiến thắng Hàm Tử
Quan. Qua câu chuyện, chắc chắn hình ảnh người anh hùng nhỏ tuổi Trần
Quốc Toản sẽ là tấm gương sáng để các em học tập, noi gương về tinh thần
yêu nước, căm thù giặc sâu sắc, biết sống gắn bó và có trách nhiệm với quê
hương, đất nước, biết tự hào, trân trọng những đóng góp của các vị anh hùng, gìn
giữ văn hóa, nhưng trang sử vẻ vang của dân tộc Việt.
Viết về Thăng Long Hà Nội thời phong kiến, Nguyễn Huy Tưởng có ba
tác phẩm Đêm hội Long Trì, Vũ Như Tô, Kể chuyện Quang Trung.
Thời kỳ Lê trung hưng, còn được gọi là thời Lê-Trịnh. Trong suốt
thời phong kiến Việt Nam, thời kỳ này là thời kỳ duy nhất vừa có vua lại
vừa có chúa. Chúa Trịnh nắm thực quyền, còn vua Lê chỉ là bù nhìn. Tại
triều đình Thăng Long, các chúa Trịnh ngày càng lấn át, ức chế vua Lê.
Thời kì này triều đình lục đục, rối ren, khủng hoảng đã biến đất Thăng
Long trở thành nơi ăn chơi xa hoa của nhà chúa. Hiện thực ấy được tái hiện
chân thực và sinh động trng tiểu thuyết lịch sử Đêm hội Long Trì. Đây là
tác phẩm đầu tay của Nguyễn Huy Tưởng viết về mảnh đất “rồng bay” và
cũng là tác phẩm đầu tiên của ông ra mắt giới văn nghệ sĩ. Lúc đầu được
đăng hàng tuần trên tạp chí “Tri tân” từ số 24-11-1942 đến số 12-8-1943,
sau đó được xuất bản thành sách vào năm 1944. Đêm hội Long Trì dựng
trên bối cảnh lịch sử kể trên vào cuối thế kỷ XVIII, dưới thời Tĩnh Ðô
Vương Trịnh Sâm (1739-1782) ở kinh thành Thăng Long xưa. Đêm hội
Long Trì tái hiện lại một Thăng Long phồn hoa và xa hoa, lộng hành và
bạo ngược của những ông vua bà chúa, của tầng lớp quan lại phong kiến đã
làm nên một Thăng Long chướng tai gai mắt với bao ngang trái. Mặt khác
23
trong Đêm hội Long Trì còn hiện lên một Hà Nội cổ xưa với những phố
phường tấp nập và nhộn nhịp, với những lễ hội cùng những trò diễn dân
gian vừa kỳ ảo, tài hoa, khéo léo vừa đầy tinh thần thượng võ biểu hiện sức
sống trường tồn của một Hà Nội văn vật. Đêm hội Long Trì của Nguyễn
Huy Tưởng có thể nói là một tác phẩm đã “sống mãi với thời gian”.
Còn Vũ Như Tô - vở kịch xuất sắc của nền kịch Việt Nam hiện đại. Vở
kịch gồm năm hồi viết về một sự kiện xảy ra ở Thăng Long khoảng năm
1516-1517, dưới triều vua Lê Tương Dực. Tác phẩm được Nguyễn Huy
Tưởng viết xong vào mùa hè năm 1941, đề tựa tháng 6 - 1942. Từ vở kịch ba
hồi đăng trên tạp chí Tri tân năm 1943 - 1944, sau khi được sự góp ý của
nhiều nhà văn tiến bộ, tác giả đã sửa lại thành vở kịch năm hồi.
Vũ Như Tô kể về câu chuyện xây Cửu Trùng Đài - một công trình kiến
trúc vĩ đại được xây dựng bên bờ hồ Tây. Lúc đầu hôn quân Lê Tương Dực
bắt xây dựng để làm nơi ăn chơi, hưởng lạc với các cung nữ. Lê Tương Dực
đã chọn địa điểm xây dựng Cửu Trùng Đại giữa trung tâm của Kinh thành
Thăng Long. Đại Việt sử ký toàn thư tập IV có viết về giai đoạn lịch sử này:
“Lúc ấy, vua thích xây hồ dựng điện, đắp thành to rộng mấy ngàn trượng,
bao vây cả điện Tường Quang, quán Trấn Vũ, chùa Thiên Hoa ở phường
Kim Cổ từ phía Đông đến phía Tây Bắc chắn ngang sông Tô Lịch trên đất
Hoàng thành dưới làm cửa cống, lấy ngói vỡ và đất đá nện xuống, lấy đá
phiến, gạch vuông xây nên, lấy sắt sâu ngang...”. Khi vua Lê Tương Dực bắt
xây Cửu Trùng Đài, vốn là một nghệ sỹ chân chính gắn bó với nhân dân, Vũ
Như Tô đã kiên quyết từ chối. Song, sau khi cung nữ Đan Thiềm thuyết
phục Vũ Như Tô lợi dụng vị thế và tiền bạc của vua, đem hết tài năng của
mình xây dựng một công trình tráng lệ “tô điểm cho đất nước”, “dựng một
kì công muôn thuở”, “cùng vũ trụ trường tồn”, “bền như trăng sao”, có thể
“tranh tinh xảo với hóa công”, để cho “dân ta nghìn thu còn hãnh diện” thì
Vũ Như Tô đã lao vào việc xây dựng Cửu Trùng Đài với niềm đam mê nghệ
24
thuật. Trong khi xây dựng công trình tráng lệ ấy, vô tình ông gây biết bao tai
họa của nhân dân kể cả việc phải trả giá bằng công sức, tiền bạc, mồ hôi,
xương máu của nhân dân. Dân căm phẫn vua, thợ oán Vũ Như. Công trình
đang dần đi đến giai đoạn hoàn thiện thì mâu thuẫn giữa tập đoàn thống trị
xa hoa, trụy lạc của vua Lê Tương Dực với tầng lớp nhân dân lao động
nghèo khổ, giữa Vũ Như Tô với những người thợ lành nghề và người dân
lao động ngày càng căng thẳng và gay gắt. Lợi dụng tình hình rốn ren ấy,
Quận công Trịnh Duy Sản - kẻ cầm đầu phe đối lập trong triều đình đã dấy
binh nổi loạn, lôi kéo thợ làm phản. Kết thúc tác phẩm là một bi kịch: vua
Lê Tương Dực bị giết chết, Hoàng hậu nhảy vào lửa tự vẫn, Đan Thiềm bị
lôi đi xứ giảo, Vũ Như Tô bị giải ra pháp trường, Cửu Trùng Đài bị thiêu rụi
khi vẫn còn xây dựng dang dở. Mặc dù Cửu Trùng Đài không còn tồn tại
trong thực tế nhưng qua tác phẩm Vũ Như Tô, Cửu Trùng Đài vẫn còn hiện
hữu trong tưởng tượng của mỗi người dân Việt Nam.
Với câu chuyện dành cho thiếu nhi Kể chuyện Quang Trung, Nguyễn Huy
Tưởng ngợi ca sức mạnh thần tốc của đoàn quân áo vải Tây Sơn với hình ảnh
cao đẹp, hùng dũng, uy phong của người anh hùng Quang Trung - Nguyễn Huệ.
Miêu tả những trận đánh vũ bão, Nguyễn Huy Tưởng đã phản ánh không khí
thời cuộc và ý chí quyết tâm, tinh thần đoàn kết, lòng yêu nước nồng nàn của
quân dân ta đã đánh bại quân Thanh, dẹp yên tập đoàn Lê Chiêu Thống.
Viết về Thăng Long thời binh đao khói lửa, Nguyễn Huy Tưởng bày
tỏ nỗi ngậm ngùi, xót xa khi những lâu đài, thành quách, cung điện, công
trình văn hóa bị thiêu rụi nhưng ông cũng xây dựng lên những gương mặt,
những mối tình đẹp như Bảo Kim - Quỳnh Hoa trong Đêm hội Long Trì,
Quang Trung - Ngọc Hân trong Kể chuyện Quang Trung và Đan Thiềm -
Vũ Như Tô trong vở kịch Vũ Như Tô. Mỗi nhân vật đều mang những vẻ
đẹp tâm hồn và chính vẻ đẹp ấy góp phần làm nên nét đẹp của người Thăng
Long - Hà Nội.
25
1.2.2. Hà Nội trong quá khứ gần
Không chỉ viết về Hà Nội trong quá khứ xa, Nguyễn Huy Tưởng còn
viết về một Hà Nội ở hiện tại - khoảng thời gian ông sống, chứng kiến những
biến cố, những sự kiện trọng đại của Thủ đô thế kỉ XX. Thời kì này đánh dấu
nhiều sự kiện trọng đại của dân tộc, của Thủ đô Hà Nội. Tiêu biểu là cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của dân tộc ta. Hình ảnh Thủ đô
Hà Nội trong những ngày đầu kháng chiến đã khơi nguồn cảm hứng cho
Nguyễn Huy Tưởng viết vở kịch Những người ở lại (1948). Tác phẩm phản
ánh không khí của cuộc chiến đấu bảo vệ Thủ đô trong những ngày đầu kháng
chiến thông qua tấn bi kịch trong gia đình bác sỹ Thành - một trí thức có tài,
có tinh thần yêu nước, muốn đi theo cách mạng nhưng lại lo sợ Chính phủ gạt
bỏ tầng lớp trí thức, muốn tham gia kháng chiến nhưng lại sợ gian khổ, muốn
được sống trong tự do độc lập nhưng lại sợ phải hi sinh. Nhưng cái để lại dấu
ấn đậm nét hơn cả là nhà văn muốn nói về những người ở lại - những trai
thanh, gái lịch đã anh dũng, kiên cường tham gia cuộc chiến đấu. Mặc dù tuổi
còn trẻ mà tất thảy tràn đầy tinh thần yêu nước, quyết tâm bảo vệ Thủ đô dù
có hi sinh cả tuổi thanh xuân của mình.
Ở đề tài Hà Nội kháng chiến, với rất nhiều tâm huyết, Nguyễn Huy
Tưởng dựng lên một Hà Nội hào hùng trong Sống mãi với thủ đô và Lũy hoa.
Đó là Thăng Long trong hiện tại, sôi nổi trong những ngày toàn quốc kháng
chiến. Viết Sống mãi với thủ đô, Nguyễn Huy Tưởng không chỉ nhằm diễn tả
lại hai ngày đêm chiến đấu của quân dân Hà Nội trong những ngày đầu kháng
chiến chống thực dân Pháp, sâu xa hơn tác giả muốn nói đến quá trình của
từng người Hà Nội tham gia cuộc chiến đấu bảo vệ Thủ đô. Cuộc kháng chiến
ở Thủ đô trong những ngày đầu đã được miêu tả như một cuộc thử thách ghê
gớm đối với những con người chưa hình dung được rõ chiến tranh là thế nào.
Chiến tranh đến thật bất ngờ khiến nhiều người cảm thấy bỡ ngỡ. Mọi người
26
phải chuẩn bị một tâm thế mới bởi sẽ phải bước vào một cuộc chiến đấu quyết
liệt với một kẻ thù mạnh hơn mình gấp bội. Sống mãi với thủ đô đi thẳng vào
trung tâm cuộc chiến đấu với khói lửa, bom đạn, với đau thương, mất mát và
cả những thắng lợi ban đầu của quân dân Thủ đô. Tác giả muốn viết về sáu
mươi ngày đêm của cuộc chiến đấu, với thắng lợi giòn giã của Trung đoàn
Thủ đô song vì điều kiện sức khỏe của tác giả, tác phẩm mới chỉ dừng lại ở
tập một, với năm trăm trang tiểu thuyết. Sự dang dở của Sống mãi với thủ đô
đã được bù đắp lại khá đầy đủ ở kịch phim Lũy hoa. Vở kịch cho ta chứng
kiến cuộc chiến diễn ra trong suốt sáu mươi ngày đêm, cho đến khi Trung
đoàn Thủ đô rút ra khỏi Hà Nội, để cùng toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến
trường kỳ, theo lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch.
Sống mãi với thủ đô và Lũy hoa đã chứng tỏ được tài năng nghệ thuật của
Nguyễn Huy Tưởng. Hai tác phẩm chứa đựng niềm say mê, tâm huyết của nhà
văn về đề tài Hà Nội kháng chiến - một đề tài ông ấp ủ nhiều năm trời.
Viết về Hà Nội ở thời đại Hồ Chí Minh, Nguyễn Huy Tưởng đã có
những cảm nhận sâu sắc hơn về mảnh đất ngàn năm văn hiến, bởi cuộc đời
ông được tận mắt chứng kiến những thăng trầm của mảnh đất Kinh Kỳ trong
thế kỉ XX. Dù đã trải qua bao hưng vong, nhiều lần đứng trước hiểm họa giặc
ngoại xâm nhưng với bản lĩnh của người Hà Nội, với tinh thần “Quyết tử cho
Tổ quốc quyết sinh”, với truyền thống yêu nước, tinh thần dũng cảm trong
chiến đấu của người Hà Nội, Thủ đô yêu dấu vẫn trường tồn cùng dân tộc.
1.3. Các nhân tố tạo nên cảm hứng về đề tài Hà Nội trong sáng tác
Nguyễn Huy Tưởng
1.3.1. Thời đại
Nguyễn Huy Tưởng sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Thăng Long - Hà
Nội. Nhà văn am hiểu sâu sắc và có những kiến thức uyên bác về những biến
đổi thăng trầm về lịch sử, văn hóa của mảnh đất Kinh kỳ. Ngòi bút của nhà văn
phản ánh những thời khắc trọng đại của Hà Nội xưa và nay trong những thời kì
27
tiêu biểu. Kể từ khi Lý Công Uẩn khai sinh ra đất Thăng Long trong bài Chiếu
dời đô đến nay đã hơn một nghìn năm. Trong khoảng thời gian lâu dài ấy, đã
xảy ra biết bao những thăng trầm, những biến cố trong lịch sử. Chính tại mảnh
đất này đã chứng kiến nhiều sự kiện trọng đại của đất nước. Và hơn hết, đấy là
một vùng đất địa linh nhân kiệt, từ đây tinh hoa của dân tộc được kết tinh, hội
tụ và lan tỏa trở thành biểu tượng của một nền văn hiến Việt Nam.
Lịch sử vùng đất khởi nguồn khi Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư vào
thành Đại La năm 1010 và đổi tên nơi này thành Thăng Long. Cái tên Thăng
Long có từ ngày ấy. Trải qua bao năm tháng, qua bao thăng trầm bể dâu của
nhiều triều đại, từ Lý, Trần đến Hồ, Lê, Thăng Long trở thành kinh đô bậc
nhất của đất nước, nơi tụ hội sinh khí của muôn nhà. Đồng thời nơi đây cũng
đã trở thành một chứng nhân lịch sử quan trọng trong các cuộc kháng chiến
chống giặc ngoại xâm phương Bắc. Qua những lần đổi tên, Thăng Long đã
mang những tên gọi khác nhau: Long Phượng, Đông Đô, Đông Quan, Đông
Kinh. Mãi đến thời nhà Nguyễn, cái tên Hà Nội mới được khai sinh, tức tỉnh
Hà Nội, bao gồm một phần kinh thành Thăng Long xưa.
Thế kỉ XX, lịch sử Việt Nam có nhiều biến động lớn. Đây là quãng thời
gian chiếm gần trọn cuộc đời của Nguyễn Huy Tưởng, mặc dù sống chưa đầy
nửa thế kỷ nhưng trong khoảng thời gian đó ông đã được chứng kiến, được
trải nghiệm qua tất cả những biến đổi thăng trầm của Hà Nội giai đoạn này.
Đó là những năm tháng cả dân tộc chìm trong ách đô hộ của thực dân, phong
kiến và phát xít, kế đến là những cuộc đấu tranh không mệt mỏi quyết giành
độc lập, tự do cho dân tộc. Trong thế kỉ XX, một trong những sự kiện trọng
đại nhất, oanh liệt nhất đó là thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám đưa
dân tộc Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới, nhân dân Việt Nam đã đập
tan xiềng xích nô lệ của Pháp trong gần một thế kỷ tại Việt Nam, chấm dứt sự
tồn tại của chế độ quân chủ chuyên chế gần một nghìn năm, lập nên nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tuy nhiên niềm vui chưa được trọn vẹn, chính
quyền mới của ta vừa lập lên, còn non trẻ đã đứng trước thách thức mới: thực
dân Pháp quay trở lại xâm lược.
28
Trải qua các cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc chống giặc ngoại
xâm, Thủ đô Hà Nội vẫn luôn là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hoá của cả
nước, vẫn là kinh đô, là trái tim của cả nước - vị trí vốn có của nó. Đọc một
loạt các sáng tác về Hà Nội của Nguyễn Huy Tưởng, giúp người đọc hình
dung rõ hơn về lịch sử Thăng Long - Hà Nội qua nhiều thời kì, từ thuở An
Dương Vương dựng nước Âu Lạc xây thành Cổ Loa, tới thời Trần, Lê sơ, Lê
mạt, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bảo vệ Thủ đô thế kỉ XX, đến
những năm hòa bình sau kháng chiến. Ta nhận thấy rằng các sáng tác về đề
tài Hà Nội của Nguyễn Huy Tưởng hầu hết đều tập trung vào những thời điểm
bi tráng của lịch sử dân tộc, với những sự kiện nổi bật. Bởi chính trong bối
cảnh lịch sử - xã hội ấy, nhà văn được chứng kiến để có thêm những trải
nghiệm và kiến thức thực tế giúp Nguyễn Huy Tưởng cảm nhận Thăng Long -
Hà Nội ở nhiều phương diện, góc nhìn tạo nên bức tượng đài nghệ thuật về
Thủ đô trong suốt chiều dài lịch sử. Trước những biến đổi của vận mệnh đất
nước, những trăn trở, suy tư về số phận con người, ta thấy ngời lên ở nhà văn
thái độ, lối ứng xử của kẻ sĩ Thăng Long - một con người yêu nước, tâm
huyết với lịch sử nước nhà.
1.3.2. Quê hương
Nguyễn Huy Tưởng sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo tại làng
Dục Tú, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh nay thuộc xã Dục Tú, huyện Đông Anh,
Hà Nội. Vùng Dục Tú là một trong những làng cổ của đất Đông Ngàn, một
huyện thuộc phủ Từ Sơn ngày trước nằm giữa vùng đất cổ kính xứ Kinh Bắc,
một trong những cái nôi của nền văn hiến Việt Nam, nơi phát tích những tập
tục lâu đời, ghi dấu nhiều sự tích, câu chuyện huyền thoại về lịch sử dân tộc.
Vùng đất Dục Tú - nơi tác giả Lưu Văn Lợi cho là “tất cả mọi thứ đều là lịch
sử: Lịch sử dựng nước, lịch sử chống ngoại xâm, lịch sử văn hóa, lịch sử xã
hội” [17,29]. Quê hương đã truyền cho ông sự say mê đặc biệt về quá khứ oai
hùng của cha ông, của mảnh đất ngàn năm văn hiến. Liền ngay Dục Tú là Cổ
29
Loa. Cách đây hơn 2.300 năm, Thục Phán An Dương Vương khi lập ra nước
Âu Lạc đã dời đô về Cổ Loa trên đất Đông Anh và xây dựng nơi đây trở thành
tổ hợp Kinh thành - Quân thành - Thị thành, một trong những đỉnh cao của kiến
trúc quân sự Việt Nam. Mùa xuân năm Kỷ Hợi (939), Ngô Quyền khi xưng
vương đã chọn Cổ Loa làm kinh đô, khôi phục vị trí trung tâm chính trị của đất
nước trong buổi đầu phục hưng độc lập, sau hơn một nghìn năm Bắc thuộc. Và
mảnh đất Cổ Loa đã khiến Nguyễn Huy Tưởng say mê vô cùng. Nhà văn Tô
Hoài đã nhận xét tình yêu của Nguyễn Huy Tưởng với Cổ Loa: “Nguyễn Huy
Tưởng say sưa muốn làm cho chúng tôi thấy được bên trong làng xóm, đồng
bằng hôm nay, nơi này xưa kia đã nguy nga những thành quách có một không
hai ở phương nam từ thuở ban sơ của đất nước với bạt ngàn chiến trận của vua
Hùng, vua Thục, của Ngô Quyền. Làm sao phải thấy được cả vùng những
Phong Khê và Kinh Bắc xa xưa…” [17,80]. Chính bầu không khí của làng quê
Dục Tú, thuộc vùng Đông Ngàn, Kinh Bắc xưa đã góp phần hình thành mạch
nguồn cảm hứng về lịch sử trong sự nghiệp văn học của Nguyễn Huy Tưởng.
Thuở nhỏ sống ở quê hương, chắc hẳn ông đã thuộc, đã thấm nhuần những
truyền thuyết, những truyện kể dân gian vùng Cổ Loa, cùng với sự ham học hỏi
để có thể am hiểu sâu sắc, tường tận lịch sử dân tộc, có lẽ đó chính là cảm hứng
để ông viết truyện cho thiếu nhi An Dương Vương xây thành ốc.
Những kiến thức mà ông được tích lũy, được gắn bó, được trải nghiệm
từ quê hương của mình ấy về sau được lưu lại trong nhiều sáng tác của
Nguyễn Huy Tưởng. Ông đã viết rất nhiều về quê hương của mình. Với ông,
quê hương không chỉ là nơi chôn rau cắt rốn, nơi để ông trở về mà còn là
mảnh đất thực tế làm nền cho các sáng tác văn học của nhà văn sau này.
Ngay từ tác phẩm đầu tay viết cho mình khi mới mười tám tuổi, trong tự
truyện Cái đời tôi, nhà văn đã dành trọn vẹn những trang sách đầu để kể về vùng
quê yêu dấu của mình với những người thân trong gia đình: “Nó có cái mãnh liệt
kéo tôi về tận chỗ mạnh nhất của nó, là cái chỗ mà chúng tôi thấy nắng thì ẩn,
thấy mưa thì núp, là cái chỗ tối đến chúng tôi cùng nhau lăn lóc ngủ say, bên
30
cạnh sẽ có thầy mẹ săn sóc suốt đêm, rét thì đắp chăn cho, nực thì quạt mát cho,
có muỗi thì buông màn, giật mình thì ôm ấp. Chỗ đó chẳng phải là nhà gianh
vách đất, ở ngay giữa cái làng Dục Tú quý báu kia ư? Nó không có tôi thì nó là
vật không hồn, tôi không có nó thì tôi như con chim không tổ, con thú không
hang”[17,7]. Thật vậy, quê hương là những gì thân thương, quen thuộc, gần gũi
nhất với tác giả. Chính tình yêu gia đình, quê hương đã hun đúc lên tình yêu
nước, yêu dân tộc tha thiết trong Nguyễn Huy Tưởng. Cứ thế những trang văn
của ông viết về quê hương cứ tuôn chảy thật tự nhiên, chân tình mà sâu sắc.
Những kỉ niệm của một thời ấu thơ cũng ùa về trên những trang giấy.
Thậm chí ông đã lấy nguyên mẫu một người thợ trong làng mình để dựng lên
một nhân vật trong tác phẩm. Thuở nhỏ, để có chỗ cho con chơi, cha Nguyễn
Huy Tưởng đã thuê chú phó Cõi dựng một cái chòi. Chú phó Cõi là một người
thợ “nổi tiếng trong làng là người khéo léo”[17,18]. Nguyễn Huy Tưởng rất
khâm phục tài năng của chú, ông đã viết “Chú Cõi lại là người rất khéo léo về
đường đục, đẽo. Thật là không có mấy tay thợ mộc làm được những cái mộng
khít như chú”; “Giao cho chú làm việc gì, thì chú cắm đầu cắm cổ mà làm,
không nghỉ một lúc nào, có khi mê mà quên cả ăn uống”…Và hình ảnh chú
phó Cõi đã đi vào sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Huy Tưởng trong vở kịch
nổi tiếng Vũ Như Tô - nhân vật cũng tên phó Cõi, một trợ thủ đắc lực của Vũ
Như Tô, nhất nhất ủng hộ Vũ Như Tô giúp ông trong việc xây dựng Cửu trùng
đài. Ngay trong bản thân nhân vật Vũ Như Tô cũng có một vài nét tính cách
giống chú phó Cõi, đó là tài năng xuất sắc của một kiến trúc sư thiên tài, đó là
sự đam mê, yêu thích công việc. Những nhân vật, những sự kiện, những kỉ
niệm của tuổi thơ đã theo Nguyễn Huy Tưởng mãi về sau này. Có thể khẳng
định rằng, quê hương - đó là những gì thiêng liêng nhất trong tâm hồn nhà văn,
truyền thống quê hương đã hun đúc nên một ngòi bút giàu bản sắc văn hóa -
lịch sử, một ngòi bút giàu chất nghệ sĩ để ông viết lên những tác phẩm sống
mãi với thời gian như: Vũ Như Tô, Đêm hội Long Trì, Sống mãi với thủ đô, Lá
cờ thêu sáu chữ vàng, An Dương Vương xây thành ốc.
31
Quê hương là cái nôi sinh thành, hình thành nhân cách và tài năng của
nhà văn, là mạch nguồn nuôi dưỡng tâm hồn tuổi thơ, vun đắp tình yêu non
sông đất nước, chắp cánh cho những ước mơ, khát khao sáng tạo nghệ thuật
của nhà văn. Trong cuộc hội thảo với tiêu đề “Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng từ
khởi nguồn Dục Tú - Đông Anh”, tác giả Lê Phương Liên trong bài Nguyễn
Huy Tưởng từ miền cổ tích - quê hương đã viết: “Càng tìm hiểu sâu hơn về
những tác phẩm của ông, chúng ta càng muốn nói lên tình cảm tri ân đối với
quê hương nhà văn, nơi nuôi dưỡng tâm hồn văn học của ông từ thời thơ
ấu”[17,172]. Đồng quan điểm trên, tác giả Mai Hương trong bài Tìm về với
tuổi thơ Nguyễn Huy Tưởng cũng cho rằng: “ Tuổi thơ và quê hương đã thành
kỉ niệm, thành cảm hứng sáng tác, thành niềm giục giã, nâng bước cho ông
trong suốt cuộc đời xáo trộn những buồn vui”[17,50]. Thật vậy, giá trị cội
nguồn có tầm ảnh hưởng sâu sắc, có vai trò rất quan trọng đúc kết một con
người, một nhà văn, một nhà văn hóa lớn của dân tộc - Nguyễn Huy Tưởng.
1.3.3. Gia đình
Gia đình luôn là trường học đầu tiên của mỗi người. Với Nguyễn Huy
Tưởng cũng vậy, ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống khoa bảng,
gia đình nho giáo nề nếp và thanh bạch. Cha Nguyễn Huy Tưởng là cụ
Nguyễn Huy Liễn, là một nhà nho không làm việc với chính quyền thực dân,
quanh năm sống giản dị trong lũy tre làng. Ông bác Nguyễn Huy Túc đỗ cử
nhân nhưng không ra làm quan. Trong làng, họ Nguyễn của nhà văn là một
vọng tộc, đời đời gìn giữ nho phong, vui trong cảnh thanh bạch. Từ nơi đây
ông đã tiếp nhận nguồn học vấn quý giá là hành trang ông mang theo trong
suốt cuộc đời mình. Trong những câu chuyện mà bà nội ông kể, là những tấm
gương của những người tài giỏi, có công với làng nước. Cậu ông thì thường
kể cho ông nghe những câu chuyện cổ tích, hơn hết là tình yêu thương trìu
mến, kín đáo, hồn hậu của người mẹ tảo tần có ảnh hưởng rất lớn đến việc
hình thành nhân cách ở con mình. Truyền thống gia đình gia giáo là cái nôi
nuôi dưỡng tâm hồn nhà văn - hình thành nên nhân cách cao đẹp của tác giả,
một con người giàu tình yêu thương, ham học hỏi, ham hiểu biết và giàu chất
32
nghệ sĩ. Trong sáng tác của ông luôn mang đậm tinh thần dân tộc. Có một tình
yêu quê hương đất nước sâu nặng là xuất phát từ tình yêu gia đình - những
điều nhỏ bé, giản dị và thân thuộc với nhà văn từ thuở ấu thơ. Nền tảng gia
đình thực sự quan trọng bởi nó ảnh hưởng trực tiếp và có tác động lớn đến
cuộc đời và sự nghiệp văn học của ông. Có thể nói truyền thống của dòng họ,
của gia đình đã hun đúc lên một nhân cách đẹp trong Nguyễn Huy Tưởng:
một con người giàu lòng yêu nước, giàu tình yêu thương con người.
1.3.4. Con người Nguyễn Huy Tưởng
Sinh ra và có thời gian dài gắn bó với Hà Nội, Nguyễn Huy Tưởng
dành cho mảnh đất Hà thành một tình yêu tha thiết. Ông am hiểu lịch sử
của mảnh đất Kinh kỳ từ thuở hồng hoang. Theo lời nhà văn Tô Hoài kể
trong bài viết “Nguyễn Huy Tưởng người làng Dục Tú” thì “Nguyễn Huy
Tưởng là người thuộc Cổ Loa nhất…Nguyễn Huy Tưởng hăng hái làm cho
mọi người thấy được bên trong làng xóm, đồng ruộng ấy khi xưa đã nguy
nga những thành quách có một không hai ở phương nam từ ban sơ của đất
nước với bạt ngàn chiến trận của vua Hùng, vua Thục, của Ngô
Quyền”[17,63]. Ở bất kì thời đại nào, ông cũng say sưa tìm kiếm chiêm
ngưỡng vẻ đẹp của đất và người Hà Nội.
Là người có lòng yêu dân tộc tha thiết, Nguyễn Huy Tưởng muốn
góp sức mình trong việc gìn giữ và làm giàu vốn văn hóa truyền thống của
dân tộc. Có thể coi văn hóa Hà Nội chính là văn hóa dân tộc. Bởi chúng ta
đều biết rằng văn hóa Hà Nội gồm văn hóa bản địa Thăng Long - Hà Nội
và văn hóa các địa phương trong cả nước hội tụ lại, hòa quyện vào nhau và
được chắt lọc cho phù hợp với yêu cầu của một nền văn hóa kinh kỳ, đại
diện cho đất nước. Trong các sáng tác của mình về Hà Nội, Nguyễn Huy
Tưởng cố gắng đan xen, hòa quyện hai yếu tố lịch sử và văn hóa làm nên
nét độc đáo trong sáng tác của ông.
33
Trước cách mạng ông từng tham gia nhiều hoạt động yêu nước. Khi
còn là học sinh ở Hải Phòng, ông tham gia rải truyền đơn, treo cờ búa liềm ở
chợ Sắt. Năm ba mươi tuổi ông làm công chức sở Đoan, tham gia hoạt động
Hướng đạo, sau đó hoạt động Truyền bá quốc ngữ ở Hải Phòng và Hà Nội.
Cuối năm 1942, ông bắt liên lạc với phong trào Việt Minh, đầu năm 1943
gia nhập tổ chức Văn hóa cứu quốc của Đảng. Từ ngày khởi nghĩa, ông được
Đoàn thể tín nhiệm cử đi dự Đại hội quốc dân Tân Trào. Cách mạng tháng
Tám thành công, ông tham gia biên tập báo Cờ giải phóng, Tiên phong và
làm Tổng thư kí ban trung ương vận động đời sống mới. Năm 1946 ông
được kết nạp vào Đảng cộng sản Đông Dương, được vào Quốc hội khóa I
giữ chức phó thư kí Hội văn hóa cứu quốc Việt Nam. Kháng chiến toàn
quốc, ông được giao công tác lãnh đạo Hội văn nghệ, tham gia nhiều hoạt
động gây dựng phong trào văn nghệ quần chúng trong kháng chiến. Với sự
trải nghiệm ở nhiều cương vị khác nhau, Nguyễn Huy Tưởng có nhiều đóng
góp cho văn học và cho cách mạng. Trong quá trình cầm bút, ông luôn ý
thức được trách nhiệm của nhà văn: Nguyễn Huy Tưởng đến với văn học với
một quyết tâm cao, khi mới vừa mười tám tuổi, còn học thành chung ở Hải
Phòng, ông đã mạnh dạn tuyên bố: “ Tôi sẽ trở nên một người văn sĩ hay một
người viết báo” [23,179]. Và niềm say mê văn chương cũng bắt nguồn từ
quan điểm mà ông thể hiện trong nhật kí: “ Phận sự của một người tầm
thường như tôi muốn tỏ lòng yêu nước thì chỉ có việc viết văn quốc ngữ
thôi” [23,180]. Ông từng ao ước viết những bộ tiểu thuyết trường thiên mô
tả sức sống bất diệt, vĩ đại của dân tộc để ngợi ca Tổ quốc, nhân dân và
những chiến công oai hùng của dân tộc.
Bối cảnh lịch sử văn hóa của đất nước (dưới ách thống trị của thực
dân Pháp và phát xít Nhật những năm 1940 - 1945) đã nuôi dưỡng tinh thần
yêu nước trong con người cậu thanh niên Nguyễn Huy Tưởng. Là người
34
chứng kiến, có lúc lại trực tiếp tham gia cách mạng đã giúp nhà văn ấp ủ đề
tài sáng tác về Hà Nội kháng chiến. Trước những biến động của thời đại,
những vấn đề nóng hổi của đất nước, hơn nữa lại là người có tính cách trung
thực, trách nhiệm nên trong quá trình cầm bút sáng tác văn học, Nguyễn
Huy Tưởng luôn viết về sự thật lịch sử, về những điều đã và đang diễn ra
trong cuộc sống.
Tiểu kết
Tình yêu, niềm tự hào về mảnh đất Kinh kỳ được gửi gắm qua những
trang viết tài hoa của các nhà văn trải qua bao thế hệ. Rõ ràng là từ xưa đến nay
vẻ đẹp của đất và người Hà Nội vẫn luôn có sức hút mạnh mẽ đối với các thế hệ
văn nghệ sĩ. Riêng với Nguyễn Huy Tưởng, ngoài mảng đề tài lịch sử thì đề tài
về Hà Nội cũng là mối quan tâm thường xuyên và sâu sắc của tác giả. Chắc chắn
phải có một tình yêu tha thiết và những am hiểu sâu sắc, kiến thức uyên bác về
Thủ đô mới giúp Nguyễn Huy Tưởng viết nhiều và viết hay về đề tài Hà Nội đến
vậy. Bằng tài năng nghệ thuật của mình, với những đam mê và sự cố gắng hi
sinh vì nghệ thuật ông đã dành nhiều thời gian, nhiều tâm huyết để hoàn thành
những tác phẩm xuất sắc về Thủ đô yêu dấu. Chính vì vậy người đọc thường gọi
ông bằng cái tên thân quen: Nhà văn của Hà Nội. Những yếu tố thời đại, quê
hương, gia đình và đặc biệt là yếu tố con người của chính nhà văn đã tác động
mạnh đến cảm quan nghệ thuật, thế giới quan sáng tác và nguồn cảm hứng của
nhà văn trong quá trình sáng tạo, đặc biệt về đề tài thủ đô Hà Nội.
35
Chương 2
HÀ NỘI HÀO HÙNG VÀ HÀO HOA TRONG SỐNG MÃI VỚI THỦ ĐÔ
2.1. Hà Nội hào hùng
2.1.1. Ý chí quyết tâm bảo vệ đất nước
Nói đến đề tài Hà Nội kháng chiến, có lẽ phải chờ đến Nguyễn Huy
Tưởng với tiểu thuyết Sống mãi với thủ đô (1961) mới thực sự đầy đủ. Hà
Nội vẫn là sở trường cho Nguyễn Huy Tưởng dồn tất cả tâm huyết của mình.
Ngay từ khi cầm bút đến với sáng tác văn học, Nguyễn Huy Tưởng đã viết
nhiều, viết hay về Hà Nội nhưng với Sống mãi với thủ đô, Hà Nội mới thực
sự được miêu tả ở vị trí trung tâm. Cuộc chiến đấu ngoan cường sáu mươi
ngày đêm “giam chân” địch ở Hà Nội vào mùa đông năm 1946 là khoảng
thời gian tuy không dài so với lịch sử của Thủ đô và đất nước, song ý nghĩa
lịch sử của cuộc chiến đã đi vào lịch sử như khúc tráng ca hào hùng về chí
quật cường, tinh thần gan dạ, dũng cảm và sáng tạo của những người con
Thủ đô. Tác phẩm tuy mới chỉ viết về hai ngày đêm chiến đấu của quân dân
Thủ đô, đó là thời điểm những ngày đầu cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp của Trung đoàn Thủ đô nhưng đã gợi được khí thế hào hùng của cả
một thời kì chống Pháp. Mặc dù tác phẩm còn dở dang vì mới chỉ dừng lại ở
hơn năm trăm trang của tập một, người đọc vẫn còn thấy hụt hẫng về diễn
biến câu chuyện, về số phận những nhân vật trong tiểu thuyết. Song tác
phẩm vẫn đạt được những thành công nhất định, để lại tiếng vang trên văn
đàn. Cho mãi về sau này, khi nhắc đến Nguyễn Huy Tưởng ta không thể
không nhắc đến tiểu thuyết Sống mãi với thủ đô.
Tháng tám mùa thu năm 1945, cùng với cả nước, Hà Nội sục sôi khí
thế cách mạng giành chính quyền về tay nhân dân, ngày 2/9/1945, tại quảng
trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập
khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chấm dứt gần tám mươi năm
chịu sự gông xiềng của ngoại bang phương Tây, người dân Việt Nam trở
36
thành người làm chủ vận mệnh dân tộc mình. Nhưng ngay sau Cách mạng
tháng Tám, nước Việt Nam non trẻ đã gặp muôn vàn khó khăn: giặc đói, giặc
dốt và giặc ngoại xâm. Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp núp bóng quân Anh
vào giải giáp quân Nhật đầu hàng, đã nổ súng tấn công Sài Gòn. Chủ tịch Hồ
Chí Minh một mặt kêu gọi nhân dân Nam bộ đứng lên kháng chiến, mặt khác
ra sức đàm phán với chính phủ Pháp để cứu vãn hòa bình. Người đã kí với đại
diện chính phủ Pháp Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 và tạm ước 14/9/1946. Nhưng
những Hiệp định kí kết giữa hai bên không được quân Pháp thực hiện. Tại Hà
Nội, quân Pháp liên tiếp nổ súng, ném lựu đạn vào nhiều nơi. Ngày
18/12/1946, thực dân Pháp gửi hai tối hậu thư đòi chiếm đóng Sở Tài chính,
đòi ta phải phá bỏ mọi công sự trên các đường phố, giải tán lực lượng tự vệ
chiến đấu và giao quyền kiểm soát an ninh trật tự ở Thủ đô Hà Nội. Pháp
tuyên bố nếu các yêu cầu trên không được chấp nhận thì chậm nhất vào sáng
20/12/1946, quân Pháp sẽ hành động. Trước tình hình đó,Thường vụ Trung
ương Đảng họp mở rộng do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì, quyết định phát
động cuộc kháng chiến trên phạm vi cả nước
Để bảo vệ an toàn tính mạng và tài sản của nhân dân, Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã rất chú trọng, quan tâm đến công tác tản cư, di cư nhân
dân, coi đây là nhiệm vụ chính trong những công việc để chuyển đất nước
vào thời chiến. Thủ đô Hà Nội là địa bàn quan trọng, nơi tập trung các cơ
quan đầu não kháng chiến, lãnh đạo thành phố đã sớm hình thành kế hoạch
tản cư. Song, với lòng yêu nước nồng nàn, ý chí quyết tâm tiêu diệt kẻ thù,
giành độc lập, tự do cho dân tộc, một bộ phận nhân dân Thủ đô kiên quyết
bám trụ Hà Nội, nhất định không chịu tản cư mà muốn vào tự vệ tham gia
kháng chiến, họ muốn đóng góp công sức bé nhỏ của mình để bảo vệ Thủ
đô. Nguyễn Huy Tưởng chú ý miêu tả cái hăng say của một tầng lớp trí thức,
thanh niên Hà Nội.
37
Học sinh Hà Nội họ lũ lượt xin vào tự vệ. Trong câu chuyện của đám
học sinh chỉ xoay quanh việc xin được vào tự vệ.
“Chúng ta không thể sống mãi trong nhục nhã được”
“Có lẽ đến lượt chúng ta phải chịu đựng những nỗi khổ cuối cùng để
rửa hết bao nhiêu tủi nhục mà ông cha chúng ta và chính chúng ta đã mang
nặng từ tám mươi năm nay”
“Thế này thì chúng em sẵn sàng. Nhục lắm rồi anh”. “Ngần ấy thanh
niên mắt long lanh như sắp xông lên chiến đấu” [35,22].
Những học sinh Hà Nội vừa rời ghế nhà trường, ở họ còn có cái non
nớt, ngây thơ, bồng bột nhưng họ đều hăng hái, say mê muốn tham gia bất kì
một công việc nào liên quan đến cách mạng. Đó là lời khẳng định chắc nịch
của Quyên - một nữ sinh Hà Nội học trường Đồng Khánh, nhất định không
theo gia đình tản cư, muốn ở lại tham gia kháng chiến. “Chúng em là học sinh
Hà Nội. Học sinh Hà Nội mà lại tản cư thì nhục lắm. Ở Hà Nội có làm sao đi
nữa cũng vẫn hơn” [35,24]. Đó là Loan - một học sinh tỉnh nhỏ mới ra Hà
Nội học, lúc đầu thì phân vân chưa biết nên về hay nên ở lại Hà Nội, nhưng
rồi, chính anh cũng mạnh dạn lên tiếng với Trần Văn: “Em muốn anh giới
thiệu cho em một công việc gì. Em không thể đứng ngoài cuộc đời” [32,24].
Trang sách của Loan còn viết nắn nót: “Học sinh Hà Nội Sống chết không rời
Hà Nội. Dưới đề ngày 17 -12-1946, rồi đến một loạt chữ ký”[35,25]. Trong
hoàn cảnh thực dân Pháp đang có hành động khiêu khích, trường học đã bị
đóng cửa, thỉnh thoảng vẫn có những học sinh nhớ trường, lớp lại qua ghé
thăm, họ luôn tự hào là học sinh Hà Nội. Họ gặp nhau tay bắt mặt mừng, hàn
huyên đủ thứ chuyện, nhưng rồi tất cả lại trở về mối quan tâm nhất là tình
hình của đất nước, họ giục nhau xin vào tự vệ.
“Mày đã vào tổ chức nào chưa?
Biết vào tổ chức nào?
Phải về nhập tự vệ ngay đi.
Đứa nào chưa có công tác thì phải xin ngay đi, không có thì không kịp.
Ngộ chốc nữa đánh nhau thì chúng mình trơ mắt ra ư?
Họ bàn với nhau việc chiến đấu như rủ nhau đi du lịch” [35, 15].
38
Với họ được tham gia kháng chiến là một niềm hạnh phúc, vì những
học sinh ấy đang ở cái tuổi trẻ, khỏe, giàu nhiệt huyết nhất. Với tầng lớp
thanh niên, học sinh, lòng yêu nước không chỉ là hô hào bằng khẩu hiệu mà
được biểu hiện cụ thể bằng hành động có ý nghĩa thiết thực. Họ khao khát
được cống hiến, nguyện hi sinh tuổi thanh xuân, hi sinh tính mạng của mình,
miễn sao giành lại được nền độc lập cho dân tộc, bởi hơn ai hết họ hiểu được
giá trị và ý nghĩa của quyền tự do, độc lập.
Ý chí quyết tâm bảo vệ thành quả cách mạng còn được thể hiện rất rõ
qua nhân vật Trần Văn - người thầy giáo - một người đã thấm thía rằng cách
mạng tháng Tám đã mở ra cho tầng lớp trí thức như anh một cuộc đời mới,
hạnh phúc và ý nghĩa hơn. Là một trí thức, anh thấy mình cần có trách nhiệm
với vận mệnh dân tộc. Khi tiễn đẻ ra ga tàu để đẻ tản cư về bắc, Trần Văn gặp
lại Trinh và bà Hai Vịnh - mẹ Trinh, trước câu hỏi của bà cụ “Cậu có vào tự
vệ không?” Trần Văn đã rất nhanh trả lời: “Đó là nhiệm vụ của mọi thanh
niên trong lúc này”. Trần Văn thấy khó chịu vì câu hỏi dớ dẩn của bà cụ và sự
bàng quan, lạc hậu của Trinh. Trong suy nghĩ của anh lúc này là hình ảnh
Trinh với một bề ngoài sang trọng, thượng lưu nhưng “có đời sống nghèo
nàn, một tâm hồn đớn hèn”[35,10] khi Trinh không hiểu tại sao thanh niên họ
lại thích vào tự vệ. Anh coi tham gia kháng chiến là nhiệm vụ của thanh niên,
của chính mình, anh không thể nào đứng ngoài cuộc.
Trong cuộc nói chuyện với đám học sinh cũ của anh, Trần Văn đã nói :
“Tôi nghĩ lúc này là lúc chúng ta cần lấp cái nhục bằng gươm bằng súng đấy.
Và nếu vì quân Pháp mà chiến tranh phải xảy ra thì chúng ta sẽ cho chúng nó
biết răng chúng ta không phải là một giống hèn”[35,23]. Chắc chắn lời nói
của một người thầy sẽ có tác động lớn đến tầng lớp học sinh. Đã có không ít
học sinh xin ở lại xung phong vào tự vệ hoặc cũng có những người đã đi tản
cư với gia đình rồi lại quay lại thủ đô. Trần Văn đã chán ghét cuộc sống tầm
39
thường, vô vị, anh biết rất rõ rằng cách mạng sẽ mang lại những điều tốt đẹp
cho cuộc sống của những người trí thức nên ngay từ đầu anh đã dứt khoát đi
theo kháng chiến. “Tôi không băn khoăn rằng tôi sẽ sống hay chết trong cuộc
chiến đấu này. Điều quan trọng là mình có mặt. Sống, chúng ta sẽ có cái tự
hào của một thế hệ đã hy sinh lần cuối cùng cho tự do của Tổ quốc. Chúng ta
là những người nô lệ cuối cùng đồng thời cũng là những người tự do đầu tiên.
Tôi thấy rất rõ. Sống tức là có mặt ở những nơi cần đến chúng ta. Tôi đã nhiều
lúc vắng mặt rồi. Rất buồn cho những kẻ đứng ngoài” [35,97]; “Anh đã sẵn
sàng hết thảy. Từ biệt cái nhà cổ. Từ biệt cái bàn làm việc an nhàn. Từ biệt mẹ
già và cả cái quá khứ đầy những mộng không thành” anh xách ba lô và đi.
Chiến tranh xảy ra làm đảo lộn cuộc sống của mọi người. Trong đó có
kế hoạch đám cưới của Nhật Tân và Hiền, họ phải tạm gác lại chuyện tình
cảm cá nhân, nhường chỗ cho nhiệm vụ mới. Cả hai đều hiểu ngay lúc này
tham gia đấu tranh cách mạng là điều quan trọng hơn cả. Bởi nếu không được
sống trong hòa bình, độc lập, tự do thì hạnh phúc cá nhân cũng chẳng tồn tại.
Cho nên Hiền - vợ chưa cưới của Nhật Tân cũng hăng hái muốn đóng góp
công sức nhỏ bé của mình cho kháng chiến. Hiền mặc dù đã cùng thày đẻ tản
cư nhưng rồi cô lại trở về Hà Nội với lí do: “Em cấm anh bảo em tản cư kia
mà. Em đã học tiêm, em sẽ đi làm cứu thương. Hoặc là em vào tuyên truyền.
Khối việc. Anh ở đây, em cũng ở đây. Sống cùng sống, chết cùng chết”
[35,66]. Thật vậy, vượt trên tình cảm cá nhân đó là tình yêu quê hương, đất
nước của tầng lớp thanh niên Thủ đô. Họ sẵn sàng hi sinh những lợi ích cá
nhân, hướng đến một mục tiêu cao cả là vận mệnh dân tộc.
Không chỉ có tầng lớp trí thức, tiểu tư sản mà ngay cả những người
buôn bán, những em bán báo, đánh giầy cũng ý thức được trách nhiệm của
mình trước vận mệnh dân tộc. Chú bé Lai - chuyên đi đánh giày mũ vô cùng
tức giận trước thái độ của một thằng Tây, đã quỵt tiền đánh giày lại còn
40
đánh cậu bé. Và cậu bé cũng hăm hở muốn xin vào tự vệ, bởi cậu cảm thấy:
“Về Hà Nội còn hơn ở ngoài ấy. Các cậu ơi, ra ngoài ấy, ai hỏi cháu ở đâu
về cháu cũng phải giấu, không dám bảo là người thủ đô tản cư, xấu hổ lắm”
[35,89]. Rồi cậu bé cũng mạnh dạn xin vào tự vệ. “Thế thì cậu nhận cho
cháu nhé. Cháu mà được vào thì khối thằng bạn cháu cũng xin vào” [35,90]
bởi Lai không sợ chết. Nếu các chú ở đây không nhận Lai sẽ “đi tìm các cậu
tự vệ khác. Cháu đi đến chỗ nào nhận cho cháu ở lại thì thôi”. Trong bối
cảnh này, không phải chỉ những người Thủ đô gốc mới ở lại, mà lúc này
“những người ngày thường không ai gọi là người thủ đô cũng bám lấy thủ
đô hơn cả mọi người” [35,91].
Rồi đến cả những người buôn bán, nhất là chị em phụ nữ chợ Đồng
Xuân. Khi bọn thực dân Pháp vào bắn phá chợ, các chị em dũng cảm kêu gọi
nhau bãi thị, họ quyết không tiếp tế cho giặc nữa. Họ cho rằng: “Ta chỉ cần
đánh nó bằng rau thôi. Ngần ấy thằng chết giẫm một ngày không có rau thì
chỉ giỏ rãi ra chứ đánh chác gì. Cứ để cho chúng tôi bãi thị vài hôm là nó
chết hết. Chúng nó hèn, chúng nó báo thù, chúng nó định phá chợ. Nhưng
chúng nó dọa được ai. Bắn cứ bắn. Bãi thị cứ bãi thị. Chúng tôi không bán
được rau cũng vẫn vui lòng. Nó các vàng chị em chúng tôi cũng không thèm
đem ra cho nó”[35,147]. Chị em chợ Đồng Xuân mặc dù là phụ nữ cả nhưng
họ vẫn nêu cao tinh thần đoàn kết, ý chí quyết tâm chung tay cùng cả nước
đánh giặc. Sau này trong quá trình kháng chiến, chị em chợ Đồng Xuân cũng
tích cực góp sức người, sức của để cùng các chiến sỹ cảm tử quân Liên khu I
cản phá, tiến công quân địch.
Ở lại Thủ đô gia nhập tự vệ là niềm mong mỏi của nhiều tầng lớp.
Không chỉ có trí thức, học sinh, thanh niên, công nhân, thợ thủ công, tiểu
thương, …tất cả đều chung một ý chí, một quyết tâm không đầu hàng, không
khoan nhượng với kẻ thù, luôn trong tư thế sẵn sàng chuẩn bị xông vào cuộc
chiến đấu sống chết với kẻ thù.
41
Hà Nội trong những ngày chuẩn bị kháng chiến chống thực dân Pháp
mang một không khí hào hùng. Cái hào hùng ấy toát lên từ ý chí, từ quyết
tâm, từ lòng yêu nước tha thiết của những con người Thủ đô. Có thể nói cuộc
chiến ở Liên khu một là tiêu biểu nhất cho cuộc chiến đấu ở Thủ đô. Đó là
một cuộc thử thách ghê gớm đối với những con người chưa hình dung được
rõ chiến tranh là thế nào, ai nấy đều có những mối quan tâm trong cuộc sống
của họ là mẹ, là vợ, là người yêu… đủ thứ ràng buộc, vậy mà giờ đây họ phải
rời bỏ tất cả đi vào một cuộc chiến đấu quyết liệt với một kẻ thù mạnh hơn
mình gấp bội. Mỗi người trong thiên truyện xuất thân từ những tầng lớp khác
nhau, có những thái độ tư tưởng và hành động khác nhau trước cuộc chiến
nhưng ở họ đều toát lên một điểm chung đó là cùng một ý chí, quyết tâm tiêu
diệt kẻ thù, không cam chịu cuộc đời nô lệ, nhất định phải bảo vệ thành quả
cách mạng mà Đảng, chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã xây dựng lên.
Phẩm chất hào hùng ấy của người Hà Nội được hình thành từ truyền thống
trung dũng, nghĩa khí của người Thăng Long từ ngàn xưa.
Hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống
Pháp đã khiến cho văn học cách mạng 1945 - 1954 tràn đầy cảm hứng sử thi
và lãng mạn. Cái không khí sục sôi của cả nước đã làm nên ý chí chiến đấu
vang dội. Văn học thời kì này đã dựng lên những tượng đài hùng vĩ về chân
dung những người lĩnh bộ đội cụ Hồ - những con người quả cảm, kiên cường
và giàu lòng yêu nước. Họ mang trong mình lý tưởng cao cả, sẵn sàng xả thân
vì Tổ quốc, đó là một hình tượng đẹp trong văn học Việt Nam. Đó là hình ảnh
bốn chiến sĩ từ chiến khu rừng núi về Thủ đô Hà Nội trong truyện ngắn Một
lần tới thủ đô của Trần Đăng, họ trở về mà không nhớ đến vẻ đẹp hào hoa của
Hà Nội mà chỉ nhớ đến cảnh kéo lá cờ đỏ sao vàng vào mỗi sáng. Đó là hình
tượng những người chiến sĩ quả cảm, mưu trí, anh dũng trong tiểu thuyết
Xung kích của Nguyễn Đình Thi. Tác phẩm đã kể về cuộc tiến công của một
đơn vị bộ đội do Sản làm đại đội trưởng với kế hoạch tấn công các đồn bốt
42
địch ở Tam Đảo. Đó còn là nhân vật Độ và anh thanh niên trong truyện ngắn
Đôi mắt của nhà văn Nam Cao. Độ là một nhà văn nhưng anh sống gắn bó với
người nông dân, anh nhìn thấy tinh thần trách nhiệm cao của những người dân
nông thôn “Té ra người nông dân nước mình vẫn có thể làm cách mạng, mà
làm cách mạng hăng hái lắm” cho nên anh hăng hái đi theo kháng chiến và
hòa vào không khí chiến đấu chung của dân tộc. Cùng với Độ là hình ảnh anh
thanh niên vác bó tre đi để “làm công tác phá hoại, cản cơ giới hoá tối tân
của địch”. Hành động khiến cho nhà văn Hoàng bất ngờ hơn nữa là anh đọc
thuộc lòng bài ba giai đoạn dài đến cả năm trang giấy: “Cuộc trường kỳ kháng
chiến của ta phải chia làm ba giai đoạn: giai đoạn phòng ngự, giai đoạn cầm
cự, giai đoạn tổng phản công. Giai đoạn phòng ngự nghĩa là...". Những
người lính trẻ với những gương mặt lấm lem bùn đất, gốc gác là người nông
dân, ở họ còn có cái lạc hậu, chậm chạp nhưng họ tham gia kháng chiến với
tinh thần tự nguyện và xông pha hăng hái, tràn đầy sự lạc quan cách mạng.
Để làm nên chiến thắng, bên cạnh sự lãnh đạo tài tình của Hồ chủ tịch,
của Chính phủ, đó là tinh thần đoàn kết của mọi tầng lớp nhân dân - đó là sức
mạnh phi thường, giúp dân tộc ta chiến thắng các thế lực thù địch. Trong tiểu
thuyết Sống mãi với Thủ đô, Nguyễn Huy Tưởng không chỉ miêu tả cái dũng
cảm, kiên cường của những người vốn xuất thân là tư sản, công chức, văn
nghệ sĩ, học sinh. Đặc biệt nhà văn còn cho thấy sự có mặt của những người
lao động thành thị, những người thuộc tầng lớp dưới đáy xã hội. Xuất thân
khác nhau, nhưng họ đều có chung một lý tưởng, một quan điểm: tham gia
chiến đầu bảo vệ độc lập dân tộc.
2.1.2. Tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”
Nguyễn Huy Tưởng đã lựa chọn một thời điểm đầy cam go, “ngàn cân
treo sợi tóc” khi chúng ta phải đối mặt với thù trong giặc ngoài để nói lên cái
hào hùng của đất và người Hà Nội. Trở lại với những ngày cuối năm 1946,
lính Pháp ngang nhiên khiêu khích ta ở ngay Hà Nội. Bởi chúng chủ trương
43
muốn làm chủ Hà Nội - nơi tập trung cơ quan đầu não của cách mạng Việt
Nam. Ngày 19/12/1946 mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc và lịch sử của Hà Nội
như một biểu tượng sáng chói của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Người Hà
Nội theo chỉ đạo của Chính phủ đã nhân nhượng kẻ thù, nhưng càng nhân
nhượng thì kẻ thù càng lấn tới. Trước dã tâm cướp nước của chúng, người Hà
Nội nhất tề đứng dậy làm theo lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch: “Bất kỳ đàn ông,
đàn bà, người già, người trẻ không chia tôn giáo, đẳng cấp, hễ là người Việt
Nam thì phải đứng lên chống thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng thì
dùng súng, ai có gươm thì dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng,
gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp, cứu nước”. Mặc dù người
Hà Nội mới chỉ hưởng thụ thành quả cách mạng tháng Tám trong thời gian rất
ngắn, nhưng họ đều nhận ra rằng chế độ mới đã đổi đời cho họ, đưa họ từ
thân phận nô lệ sang một công dân làm chủ cuộc sống của mình. Chính vì
vậy, họ không tiếc tài sản, tính mạng để bảo vệ độc lập, tự do cho dân tộc.
Dẫu biết ở lại Hà Nội tham gia kháng chiến là một mất một còn, là có thể phải
trả giá bằng tính mạng, nhưng họ đều không do dự. Trái lại họ sẵn sàng chiến
đấu với kẻ thù bằng lòng quả cảm, tinh thần kiên cường, anh dũng, coi cái
chết nhẹ tựa lông hồng. Khắp các ngôi nhà, ngõ phố của Thủ đô đều đã sẵn
sàng cho cuộc chiến. Và rồi tiếng súng báo hiệu cuộc kháng chiến chống Pháp
đã nổ vào đêm 19-12-1946. Hà Nội bước vào những ngày tháng quyết liệt để
bảo vệ thành quả cách mạng của chính quyền mới. Đây cũng là lúc để “thử lửa”
tinh thần người Hà Nội. Hàng loạt nhân vật thuộc các tầng lớp khác nhau: từ
người lao động bình dân, người buôn bán đến các trí thức, các cán bộ cách mạng...
đều hăng hái đến với cách mạng. Mỗi nhân vật đã thể hiện được một vẻ của tính
cách Hà Nội, tâm hồn Hà Nội.
Ngay khi thực dân Pháp ngang ngược gây ra vụ tàn sát đẫm máu đồng
bào ta ở ngõ Yên Ninh Hàng Bún, chiếc xe ô tô Rơnôn chở những thanh niên
nam nữ, phần lớn là học sinh đã đi loan báo cái tin hung dữ này. Họ không hề
44
run sợ, nhụt trí trái lại lòng căm thù giặc càng sâu sắc, họ muốn xông ngay
vào mà tiêu diệt kẻ thù: “Khi chúng nó nổ súng rồi, anh em bắt buộc phải bắn
lại…Hiện nay, ngõ Yên Ninh chìm trong đau thương, tang tóc. Nhưng có phải
vì bị khủng bố mà anh em tự vệ mất tinh thần không? Không. Trật tự trong
phố lại được trở lại, các ụ lại được dựng lên, tự vệ lại gác. Thanh niên Hà
Nội là như thế đó” [35,55].
Trước tình hình thực dân Pháp đang có hành động khiêu khích ở thủ
đô Hà Nội, tầng lớp thanh niên đã không thể thờ ơ, bàng quan, họ dấn thân
vào cuộc chiến mang tinh thần trách nhiệm của thanh niên Hà Nội: “Hỡi anh
chị em thanh niên. Tổ quốc đang chờ đợi chúng ta. Đối với những khủng bố
của quân Pháp, chúng ta chỉ có một con đường: sống chết với thành phố Hà
Nội. Chỉ có sống cho ra sống hay chết trong danh dự. Không thể khác được.
Dù ở trong tình thế nào, dù trong tay tôi chỉ có một thỏi sắt nhỏ, tôi vẫn phải
xứng đáng là thanh niên Hà Nội, thủ đô của ba miền Việt Nam, thủ đô của
một nước cộng hòa trẻ nhất thế giới. Sống chết với thủ đô, đấy là khẩu hiệu
của chúng ta” [35,55]. Họ nêu cao tinh thần cảm tử:
“Xin các huynh đệ ghi tên đã. Lần này chúng ta ở lại là sống chết với thủ đô
thật, dù phải da ngựa bọc thây, thịt nát xương tan cũng không lùi bước” [35, 86].
“Các anh không phải ghi tên gì cả. Chúng tôi đã vào, chúng tôi không
ra. Anh xem cái tay tôi đây. Tôi chơi súng bị thương. Nhà ép tản cư. Nhưng
tôi ở lại. Những người tình nguyện không phải ghi tên. Đây là một lời hứa
danh dự, một lời thề cảm tử. Cái chết đẹp nhất là cái chết vô danh” [35,86].
Lòng yêu nước của tầng lớp thanh niên Hà Nội được thể hiện bằng
hành động sẵn sàng ra trận, sẵn sàng chịu mất mát, đau thương. “Mình chết
nhưng không để mất Hà Nội”. Cả thành phố này đang trong những giờ khắc
quan trọng, chuẩn bị bước vào cuộc chiến. Trước một kẻ thù mạnh gấp trăm,
gấp nghìn lần, cả thành phố nhộn nhịp chuẩn bị kĩ càng để tiêu diệt kẻ thù:
“Và để đối lại, những người cán bộ, những nam nữ học sinh, những anh thợ,
45
những người buôn bán chưa hề biết đến súng đạn đang phải sắp lại nhà
thành pháo đài, tự biến mình làm chiến sĩ… Tiếng gió vù vù làm nặng thêm,
âm vang thêm những tiếng đục tường thình thịch, gấp gấp, những tiếng kê lại
bàn ghế, tủ giường lục cục, rít rít, sệt sệt. Những bàn tay vô hình đang đục
phá bên trong như thét vang: Chuẩn bị một nấm mồ vĩ đại để chôn chặt quân
thù. Dãy phố hai bên xít lại. Các mái nhà thấp xuống. Và cả một thành phố cũ
được bê lên trên gác, với những điện, những nhà thờ, những chòi gỗ, những
chữ nho, những chậu cảnh, những tường thấp quay lưng ra ngoài, những cửa
sổ nhỏ như những cái lỗ, thập thò sợ sệt, cả cái thành phố cũ ấy đã bị bỏ
quên, như vụt hiện về, rung chuyển sắp đổ nhào xuống để chặn giặc”;
“Những khẩu hiệu: Thanh niên sống chết với thủ đô la liệt bên đường bỗng
như cùng kêu lên và khẽ rung rung trong cái sáng tối mập mờ” [35,101].
Thực hiện theo lời kêu gọi của Bác, không chỉ thanh niên trai tráng mới
tham gia kháng chiến, Nguyễn Huy Tưởng còn nhắc đến tinh thần dũng cảm
của chị em phụ nữ ở chợ Đồng Xuân. Khi tụi lính Pháp vào chợ đấm đá túi
bụi, đoàn người trong chợ, nhất là chị em phụ nữ vẫn cứ xông vào:
“Chúng ta nhất định không bỏ chị em của chúng ta. Tôi đề nghị tất cả
anh chị em ủng hộ cuộc bãi thị của chị em chợ Đồng Xuân, xông vào tận
trong thành đòi nó thả chị em của chúng ta ra” [35,117].
“Xông cả vào thành. Muốn ra sao thì ra. Chết thì thôi” [32,118].
Cuối cùng cuộc bãi thị của chị em chợ Đồng Xuân cũng đã giành được
kết quả thắng lợi. Chính sự quyết tâm của chị em không chỉ ở chợ Đồng Xuân
mà tất cả các chợ ở Hà Nội đều bãi thị. Tiêu biểu là chị Nhân đã xung phong
vào trại giặc, đòi gặp thằng chỉ huy, đòi nó thả mấy chị em mà nó bắt ra. “Nó
đuổi chị ra, chị cứ đứng lại. Nó bắt chị đem giam cùng với mấy chị em kia.
Đến trưa nó cho ăn để lấy lòng, nhưng Nhân đã nhịn đói để phản đối chúng.
Nhiều anh chị em bị bắt cũng nhịn đói để hưởng hứng cuộc đấu tranh”
[35,152]. Nhờ cái tinh thần ấy, nhờ có các bà, các chị trong chợ và trong phố
46
tập trung ở ngoài cổng thành, cương quyết không chịu về, nên cuối cùng bọn
thực dân Pháp phải thả người của chúng ta ra. Họ còn động viên nhau tiếp tục
giữ tinh thần đoàn kết của chị em chợ Đồng Xuân để tiếp tục bãi thị, đòi giặc
thả nốt số chị em vẫn bị bắt giữ. “Chúng ta sẽ tiếp tục bãi thị, bao giờ chúng
nó chấm dứt những hành động kia thì chúng ta mới thôi” [35,152].
Tu - anh phu khuân vác ở Cột đồng hồ xung phong vào tự vệ, tình
nguyện vào đội cảm tử đánh xe tăng. Trước giờ khắc quan trọng, Tu nhắn nhủ
với Văn Việt: “Cháu muốn nhờ ông một việc. Nhờ ông biên cho một lá thư về
quê cho mẹ cháu, dặn nó nuôi lấy ba đứa con, cứ nhớ lấy ngày hôm nay mà
làm giỗ cháu”[35,219]. Thực sự trước trận chiến, Tu không hề sợ hãi cái chết,
sẵn sàng đón nhận cái chết, cốt là giữ được Hà Nội, anh đã thề “không phá
được xe tăng thì không về”.
Cả Hà Nội hừng hực căm thù chờ lệnh Chính phủ để vùng lên đánh
giặc với những khẩu hiệu căng khắp các đường phố. “Đầu phố Hàng Đào,
phía Cầu Gỗ, sừng sững, đỏ tươi, hai chữ CẢM TỬ kẻ từ bao giờ (...). Dưới
là một hàng chữ đen: “Chúng tôi, những thanh niên Hà Nội nguyện hi sinh
đến giọt máu cuối cùng. Thề sống chết với thủ đô! Phố Hàng Gai, một biểu
ngữ nữa kẻ bằng chữ đỏ: “Mỗi phố là một mặt trận, mỗi nhà là một pháo đài”
(...) Một tự vệ đứng sau đống bao cát đầu phố Hàng Đào, chĩa cái nòng súng
mút ra khỏi miệng ụ. Phố xá đều im lặng, một thứ im lặng trĩu nặng, và có một
vẻ riêng đau xót, thù hằn (...) Những phố Hàng Gai, Hàng Đào, Cầu Gỗ như sát
lại, những phố đằng sau như bôn tới, âm ỉ, quyết liệt, sẵn sàng” [35, 205]. Tất
cả đã chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc chiến: “Cầu Long Biên, một đội quyết tử
gồm bộ đội và tự vệ chiến đấu đã có kế hoạch phá nhịp giữa. Két nước ở
vườn hoa Hàng Đậu, nhà máy đèn Bờ Hồ cũng đã bố trí xong. Vườn hoa Cửa
Nam thì đồng chí Vi Dân trực tiếp đặt bom để phá đoàn xe của nó tiến vào
đường Tràng Thi. Trong thành, xưởng sửa chữa vũ khí của nó, đã có kế
hoạch phá hủy từ mấy hôm trước. Anh em công nhân rất quyết tâm, rất
hăng…”[35,260];“ Bọn chúng tôi xin một mất một còn với Hà Nội” [35,262].
47
Khi nhận được công văn hỏa tốc Quốc Vinh thông báo mệnh lệch chuẩn
bị kháng chiến cho các anh em. “Mắt họ sáng lên, rồi lại dán vào cái đồng hồ
đeo tay của mình. Họ như những người đi thi chờ đợi kết quả những công việc
họ đã làm” [35,270]. Trước tình hình này, họ biết chỉ có đánh là lựa chọn tối ưu
nhất, ta không thể thương lượng, nhẫn nhịn thêm nữa. Họ nóng lòng chờ đợi cái
giờ phút để được đánh, để tiêu diệt kẻ thù, đó là nguyện vọng của toàn dân ta.
Miêu tả tinh thần xả thân vì Tổ quốc, Nguyễn Huy Tưởng chú ý đến
những công dân ưu tú, những cán bộ lãnh đạo phong trào như Quốc Vinh,
Nguyễn Gia Định. Họ mang theo những phẩm chất của người chiến sĩ cách
mạng được rèn luyện và trưởng thành trong thời kì hoạt động bí mật. Đây là
lực lượng nòng cốt, tiêu biểu cho tinh thần sống chết với thủ đô, họ luôn hăng
hái tham gia chèo chống cuộc kháng chiến ở thủ đô.
Quốc Vinh - người chiến sĩ đã từng lăn lộn hoạt động trong thời kì bí
mật, còn giờ đây trong cuộc kháng chiến mới này, anh giữ vai trò của người
cán bộ cốt cán - phó chủ tịch Ủy ban bảo vệ, anh luôn có mặt trên mọi trận
tuyến, trước mọi khó khăn. Trong công việc anh được đoàn thể tín nhiệm, là
cán bộ cần thiết của phong trào, một cán bộ lãnh đạo của thủ đô. Hơn nữa, anh
lại gắn bó và yêu mến cái Liên khu của anh, những phố xá, con người của Liên
khu. Anh rất tự hào về truyền thống đấu tranh của người Hà Nội từ xa xưa.
Thấu hiểu người Hà Nội có cái nhiệt tình yêu nước, những điều kiện cần thiết
cho cuộc kháng chiến, anh nhận định: “Cần phải nắm lấy họ và tổ chức họ cho
chặt chẽ. Nói tóm lại về các mặt tinh thần, vật chất, võ khí, lương thực, địa
hình địa vật, lực lượng chiến đấu chính quy, và về mặt người dân mà nói, tôi
thấy ta có đủ điều kiện để kéo dài cuộc chiến đấu ở thủ đô”[35,186].
Bên cạnh đó là Nguyễn Gia Định - chính trị viên phụ trách bảo vệ Bắc
Bộ phủ và dinh Hồ Chủ tịch. Mang dáng dấp một thư sinh, gầy gò nhưng giàu
nghị lực, rất khiêm tốn, giản dị. Nguyễn Gia Định là một trong những cán bộ
hăng hái tham gia sự nghiệp cách mạng. “Với lực lượng hiện có, chúng tôi thề
48
tử chiến. Dù trong tay không còn một khẩu súng, một viên đạn, chúng tôi cũng
không để cho quân địch lọt vào dinh Bác. Chúng nó chỉ có thể vào khi chúng
tôi không còn một người nào nữa” [35,181]. Một chiến sĩ cách mạng quả cảm,
quyết bảo vệ dinh Hồ Chủ tịch đến cùng. “Chúng tôi không ngại chiến đấu. Rút
đối với chúng tôi là một sự vạn bất đắc dĩ. Bởi vì chúng tôi sẽ phải bắt buộc tự
tay phá cái dinh mà chúng ta không ai đang tâm làm cả” [35,182]. Và theo
lệnh của Đảng, Chính phủ yêu cầu rút để bảo toàn lực lượng, tiếp tục tác chiến,
Gia Định là người cuối cùng ở lại, trước khi chết anh sẽ không để cho cái dinh
lọt vào tay giặc. “Tất cả đơn vị đã rút được an toàn. Anh không thấy lòng bịn
rịn chút nào. Anh sẽ giữ trọn lời thề đối với cái nơi mà Đảng đã giao cho anh
bảo vệ” [35,182].. Gia Định là người hi sinh cuối cùng trong cuộc kháng chiến
bảo vệ dinh Bác. Cái chết của anh trong cuộc chiến đấu bảo vệ Bắc Bộ Phủ
cùng đồng đội đã gây nhiều xúc động cho người đọc.
Trong suốt thiên truyện, hình ảnh Hồ Chủ tịch dù không được nhắc đến
nhiều nhưng lại là hình ảnh xuyên suốt, hình ảnh ấy trở thành niềm tin, thành
nguồn động viên, cổ vũ tinh thần vô hình mà mãnh liệt đối với chiến sĩ Thủ
đô, với nhân dân Hà Nội, tiếp thêm sức mạnh giúp họ kiên cường hơn, quả
cảm hơn trước cuộc chiến một mất một còn.
Hình tượng những chiến sĩ cảm tử quân Hà Nội “Quyết tử để Tổ quốc
quyết sinh” mãi mãi là biểu tượng bất tử về cuộc chiến tranh nhân dân, về chủ
nghĩa anh hùng cách mạng. Tinh thần yêu nước như chất keo gắn liền mọi
người với nhau. Mọi tầng lớp nhân dân ai cũng hào hứng, say mê muốn đóng
góp sức mình cho cách mạng. Qua đó, góp phần làm bùng cháy lên ngọn lửa
ái quốc, tạo nên sức mạnh to lớn để thắng lợi nhất định về dân tộc ta.
Người Hà Nội vô cùng anh dũng, cả thành phố sục sôi khí thế quyết
chiến với quân thù, họ tấp nập dựng vật chướng ngại nhằm ngăn bước kẻ thù,
ra sức phá hoại để giữ nhà, giữ phố, chống giữ thủ đô đến cùng: “Năm cái
vòm chợ Đồng Xuân trắng toát, sáng lóa, quang đi, vì những gian hàng xén
49
trước cổng chợ đã được dỡ quăng ra đường. Một vài cột đèn ximăng đã đổ
gục, xõa những dây điện đứt loằng ngoằng (...) Các nhà đầu phố nhả ra
những bàn ghế, giường phản, những tủ đứng, tủ chè, tủ hàng, những buýpphê,
những bàn giấy, cái ngổn ngang ở giữa đường, cái còn ở trên hè, cái còn
chỏng chơ ngoài cửa (...) Đầu phố, một đống đồ đạc đã chắn ngang đường,
chồng chất lên nhau. Bốn năm cái xe bò ngỏng càng không trật tự, như những
nòng súng quay ra bốn phía. Thanh niên đổ ra đường mỗi lúc một đông, tiếng
giày, tiếng guốc khua rối rít. Người áo nâu, người áo xanh, người varơ, người
còn giữ nguyên bộ quần áo bađờxuy ra, vứt trên bàn và chạy vào nhập bọn
với những người đang khiêng, đang đẩy” [35,312].
Mặc dù phải đối đầu với kẻ thù lớn mạnh hơn, đông đảo hơn, vũ khí
hiện đại hơn, nhưng với quân và dân Hà Nội đã nhất tề đứng lên, anh dũng
chiến đấu và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cách mạng. Lời thề “Quyết tử để
Tổ quốc quyết sinh” của quân và dân Thủ đô trong những ngày kháng chiến
đã trở thành giá trị tinh thần, truyền thống quý báu, biểu tượng sáng ngời của
chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Hình tượng những chiến sĩ cảm tử quân Hà
Nội mãi mãi là biểu tượng bất tử về cuộc chiến tranh nhân dân, họ là những
anh hùng của một dân tộc anh hùng. Sự hi sinh anh dũng của họ góp phần
làm bùng cháy lên ngọn lửa ái quốc, tạo nên sức mạnh to lớn để ta tiến dần
đến thắng lợi cuối cùng.
Không khí hào hùng của những năm kháng chiến chống Pháp đã tạo
cảm hứng cho các văn nghệ sĩ. Hà Nội không chỉ được tái hiện trên những
trang sách mà còn được vẽ bằng âm nhạc với nhiều ca khúc đi cùng năm
tháng. Bài hát Người Hà Nội của Nguyễn Đình Thi được sáng tác vào đầu
năm 1947 khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp mới nổ ra được ít ngày,
khi đó Hà Nội đang trong những ngày chiến đấu quyết liệt trên từng mái nhà,
từng góc phố. Khói lửa bom đạn bao trùm Thủ đô - một cảnh tượng hùng vĩ
mà Nguyễn Đình Thi đã kịp ghi lại trong bài hát:
50
Hà Nội cháy, khói lửa ngập trời
Hà Nội ầm ầm rung. Sông Hồng reo!
Thét lên xung phong căm hờn sôi gầm súng.
Bùng cháy, khắp phố ta ơi! Vùng lên chiến sĩ ta ơi!
Trời Hà Nội đỏ máu
Và nhạc sĩ cũng đã gợi lại không khí của quân và dân Thủ đô, đặc biệt
là các chiến sĩ của Trung đoàn 1 trong cuộc chiến mùa đông năm 1946, họ đã
đứng lên với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”: Hà Nội vùng đứng
lên! Hà Nội vùng đứng lên! Sông Hồng reo Hà Nội vùng đứng lên! Ca khúc
“Người Hà Nội” của Nguyễn Đình Thi được coi là một trường ca bất hủ về
đất và người Thủ đô.
Không chỉ dựng lên Hà Nội bằng âm nhạc, Nguyễn Đình Thi đã vẽ Tổ
quốc bằng những vần thơ đầy hào sảng mà lãng mạn trong bài thơ Đất nước.
Dân tộc ta đã phải trải qua những thời kì đau thương, sau những mất mát đau
thương ấy ta thấy sáng ngời lên và tự hào về những con người anh hùng của
một dân tộc nhỏ bé mà anh hùng.
Khói nhà máy cuộn trong sương núi
Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng
Ôm đất nước những người áo vải
Ðã đứng lên thành những anh hùng.
Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội
Mỗi bước đường mỗi bước hy sinh
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta bát ngát ánh bình minh.
Các văn nghệ sĩ viết về Hà Nội thời kì kháng chiến chống Pháp đều có
chung một cảm hứng là tự hào, ca ngợi vẻ đẹp hào hùng và hào hoa của đất và
người Thủ đô. Trong trận chiến khốc liệt ấy đã ngời sáng lên vẻ đẹp của con
người Việt Nam anh hùng.
51
Tình yêu, niềm tha thiết của các nhân vật với Thủ đô cũng chính là
niềm tha thiết với Hà Nội của Nguyễn Huy Tưởng. Qua tác phẩm, một mặt
nhà văn đã thể hiện trung thành lòng yêu nước của các tầng lớp nhân dân Hà
Nội cũ, mặt khác cũng là cách để nhà văn gửi gắm tâm sự của mình. Mỗi
nhân vật đều có một niềm tự hào riêng gắn bó với truyền thống anh dũng vẻ
vang của Thủ đô.
2.1.3. Tinh thần dũng cảm chiến đấu gắn với truyền thống giữ nước của
Hà Nội nghìn năm
Có thể nói bản anh hùng ca mà quân và dân Thủ đô đã viết trong những
ngày đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là sự kế thừa và phát huy
truyền thống tự cường của mảnh đất Thăng Long - Hà Nội. Qua thời gian, con
người trên mảnh đất này luôn luôn thể hiện phẩm chất tốt đẹp của mình.
Thăng Long - Hà Nội từ xưa đến nay luôn là nơi diễn ra và chứng kiến bao sự
kiện lớn lao của dân tộc. Do vị trí, vai trò của Thăng Long - Hà Nội rất quan
trọng nên trong quá khứ kẻ thù đã nhiều lần tiến công đánh chiếm Thủ đô,
quân và dân Thăng Long - Hà Nội cũng liên tục phải chống ngoại xâm.
Ngược dòng thời gian quay trở về lịch sử của Thủ đô, Nguyễn Huy Tưởng đã
gợi lại những cuộc chiến, những tấm gương tiêu biểu lãnh đạo các trận đánh
bảo vệ “trái tim của đất nước”.
Tầng lớp học sinh Hà Nội luôn tự hào về truyền thống yêu nước của
thanh niên Thủ đô những ngày xa xưa: “Đám tang cụ Phan Chu Trinh với
hàng vạn học sinh nam nữ, từ cái hồi anh chửa ra đời. Cụ cử Can mở trường
Đông Kinh Nghĩa Thục, ngay từ những ngày đầu thuộc Pháp, quăng chén
rượu khóc cái nhục mất nước trước mặt học sinh. Rồi từ chuyện học sinh Hà
Nội đánh trẻ con Tây, anh trợn trừng trợn trạo chuyển sang vụ học sinh đánh
Phạm Quỳnh giữa ban ngày ban mặt ở phố Hàng Gai, xé áo sa, giẫm nát kính
gọng vàng, nhét cứt vào mồm thằng hót Tây khốn nạn” [35,17].
52
Đám học sinh còn kể lại chiến tích của tuổi trẻ thủ đô ngày trước: “Hồi
ấy chúng mình còn bé, nhưng các cậu có biết thằng toàn quyền Pátkiê chứ.
Nó mời thằng toàn quyền Nam Dương sang Hà Nội. Nó bắt cả phố dựng cổng
chào. Cái cổng chào phố Hàng Trống nhà tớ đồ sộ nhất. Hai thằng đều sắp đi
qua. Mật thám culít canh như chết. Thế mà có một học sinh mới mười bảy
tuổi, vào chạc bọn mình bây giờ thôi, đốt phăng luôn cái cổng chào ấy vừa
lúc chúng nó sắp đến. Chổi xể cháy phừng phừng. Chúng nó phải lộn lại.
Pátkiê ta chết cay chết đắng. Mật thám, culít trơ mắt ếch, không bắt được ai”
[35,17]. Những câu chuyện xa xưa như đánh thức tình yêu nước, tinh thần
dũng cảm trong đám học sinh Hà Nội. Họ bảo nhau “Ngày trước còn thế nữa
là học sinh Hà Nội bây giờ” [35,18]. Mặc dù vừa còn ngồi trên ghế nhà
trường, chưa biết mùi bom đạn chiến tranh, nhưng mỗi học sinh Hà Nội đều
có cái hăm hở, sôi nổi của tuổi trẻ muốn noi gương truyền thống của học sinh
Thủ đô để bảo vệ Tổ quốc. Họ luôn tự hào bốn tiếng học sinh Hà Nội. Và
chắn chắn họ sẽ suy nghĩ và hành động cho xứng đáng với truyền thống tốt
đẹp của tuổi trẻ thủ đô.
Lịch sử thủ đô Hà Nội là lịch sử của những ngày kháng chiến chống
quân xâm lược, những người Hà Nội họ luôn tự hào về quá khứ hào hùng của
mảnh đất văn hiến, trong bối cảnh đất nước lâm nguy, âm vang của những
cuộc chiến thắng lại vọng về: “Chúng ta là người Hà Nội, chúng ta phải làm
gương cho toàn quốc. Hà Nội là đất chiến thắng, Hà Nội có Đống Đa, Hà Nội
là đất nghĩa khí, Hà Nội có cụ Hoàng Diệu, Hà Nội là đất cách mạng, Hà Nội
có vườn hoa Ba Đình. Đến lượt chúng ta bây giờ, chúng ta phải giải phóng
thủ đô, như Trần Quang Khải cách đây bảy trăm năm cướp lại Thăng Long
ngâm bài thơ cướp dáo; như Lê Lợi giải vây cho Đông Đô; như Quang Trung
diệt tan quân Tôn Sĩ Nghị trong ngày tết chiến thắng đẹp nhất trong lịch sử
nước ta” [32,217]. Quân dân Hà Nội nêu cao những tấm gương anh hùng
cách mạng trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của Thăng Long - Hà Nội.
53
Mảnh đất ghi danh người anh hùng áo vải Quang Trung với hai trận đánh lịch
sử Ngọc Hồi và Đống Đa, giải phóng Kinh thành. Nhân dân Thăng Long góp
phần cùng quân Tây Sơn và nhân dân cả nước tạo nên chiến thắng thần kỳ đó,
hai chín vạn quân Thanh bị tiêu diệt và tháo chạy khiếp vía kinh khoàng.
“Dân tộc Việt Nam chúng ta là một dân tộc yêu chuộng hòa bình.
Nhưng với cái chí khí quật cường mà tổ tiên ta đã hun đúc cho những anh
hùng như Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, dân tộc chúng ta có một
tinh thần bất khả diệt” [35,191].
Đó còn là tấm gương của cụ Hoàng Diệu tiêu biểu cho tinh thần kháng
Pháp. Năm 1880, Vua Tự Đức phong Hoàng Diệu làm Tổng đốc Hà Ninh,
trấn nhậm thành Hà Nội. Ông vừa lo tổ chức bố phòng vừa lo an dân. Hai
năm sau (1882), Pháp tấn công thành Hà Nội. Thế giặc mạnh, không chống
cự nổi, Hoàng Diệu đã tuẫn tiết nêu cao lòng trung nghĩa của mình. Học sinh
Hà Nội họ nêu cao tinh thần cảm tử của cụ:
“Cụ Hoàng Diệu thì hơi bi. Cụ chết nhưng thằng Pháp nó vẫn hạ được
thành Thăng Long. Mình chết nhưng không để mất Hà Nội.
Cốt nêu cái tinh thần cảm tử thôi. Lính nhà Trần thích chữ Sát Thát thì
mình viết lời thề sống chết” [35,86].
“Chúng ta quyết noi gương trung liệt của cụ Hoàng Diệu tử tiết với
thành Hà Nội tám mươi năm trước, muôn đời nêu cao một bài học chính khí
chói lọi trong cuốn sử chống Pháp của dân tộc ta” [35,173].
Họ còn tự hào về địa danh Ba Đình lịch sử. Hà Nội những năm 1886 -
1887 diễn ra cuộc khởi nghĩa Ba Đình hướng ứng phong trào Cần Vương cuối
thế kỷ XIX của các nhà cách mạng yêu nước là Phạm Bành, Đinh Công
Tráng và nhân dân huyện Nga Sơn, Thanh Hóa. Và tên gọi Ba Đình được đặt
cho vườn hoa ngã sáu phía sau vườn bách thảo, nơi này chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ngày 2 tháng 9 năm 1945.
54
Mỗi nhân vật trong truyện đều có một niềm tự hào riêng gắn bó với
một truyền thống anh dũng, vẻ vang của thủ đô, họ tự hào về những cái tên
Thăng Long, Đống Đa, Hoàng Diệu, Đông Kinh nghĩa thục, về cách mạng
tháng Tám, về Ba Đình, về Hồ Chủ Tịch. Đi suốt chiều dài lịch sử, truyền
thống anh dũng đấu tranh của người Hà Nội luôn được kế thừa và phát huy
suốt từ ngày thực dân Pháp vào cướp nước ta, nhưng người Hà Nội chưa bao
giờ sợ hãi, chưa bao giờ đầu hàng “Không phải tự nhiên mà có những Đông
Kinh Nghĩa Thục, những phong trào đòi ân xá cụ Phan Bội Châu, những đám
tang Phan Thanh, những cuộc bãi khóa của học sinh trường Bưởi, bãi công
của anh em thợ hãng Aviat, những cuộc biểu tình có hàng vạn nhân dân lao
động tham dự, dưới lá cờ đỏ Búa Liềm ngày Quốc tế Lao động mồng Một
tháng Năm 1939 v.v… Không phải tự nhiên mà hàng chục vạn người đứng lên
cướp chính quyền ở Hà Nội, trước mũi súng của phát xít Nhật, hàng chục vạn
người kéo đi phản đối bộ Anh dung túng cho quân Pháp trở về Nam Bộ, hàng
vạn hàng triệu người hoan hô Hồ Chủ Tịch và chế độ Dân chủ cộng hòa ở
vườn hoa Ba Đình năm ngoái…” [35,186].
Trong cuộc bàn luận ở bữa tiệc sinh nhật Tân và bốn người khách giữa
lúc thực dân Pháp sắp nổ súng gây chiến, câu chuyện của họ xoay quanh số
phận Hà Nội trong chiến tranh, Trần Văn đã khẳng định là: “Hà Nội có chín trăm năm li ̣ch sử . Ông nên nhớ cá i vinh quang của Thăng Long, Đông Đô. Nó
cò n lâu đờ i hơn cá i Paris lộng lẫy kia (…) Và Hà Nội cũng không nhục đâu,
ông ạ. Nó có Đống Đa, có Đông Kinh nghĩa thục”[35,245].
Trên mảnh đất lắng hồn núi sông ngàn năm đã hun đúc truyền thống
văn hiến, anh hùng trong nhiều giai đoạn lịch sử. Trong những bước thăng
trầm của lịch sử chống giặc ngoại xâm ấy, tinh thần yêu nước, lòng dũng
cảm của toàn quân, dân Hà Nội đã tạo nên sức mạnh để đập tan quân thù.
Những cái tên, những địa danh đã trở thành bất tử và mãi mãi là những mốc
son quan trọng trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam
55
anh hùng. Thủ đô Hà Nội trong lịch sử nhiều lần chìm trong khói lửa, bom
đạn chiến tranh, bị quân xâm lược chiếm đóng, tàn phá. Nhưng khi phải
đương đầu với kẻ thù xâm lược, tinh thần quật cường của nhân dân Hà Nội
lại trỗi dậy mạnh mẽ, họ luôn biết vươn mình, kế thừa và tiếp nối truyền
thống anh hùng, cùng quân, dân cả nước viết nên những trang sử vẻ vang
trong lịch sử chiến đấu, bảo vệ, giải phóng Thủ đô và đất nước. Những chiến
công oanh liệt đó thể hiện khí phách, chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh
hùng, kết tinh tài năng, trí tuệ đánh giặc, cứu nước của quân và dân Thăng
Long - Hà Nội. Và trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp lần này,
quân dân Thủ đô một lần nữa giương cao ngọn cờ tự do, độc lập, bằng tinh
thần dũng cảm, quyết chiến quyết thắng, tiếp nối sự nghiệp xây dựng, bảo vệ
thành quả mà cha ông đã tạo dựng.
Những tấm gương tiêu biểu bảo vệ thủ đô, đó là nguồn động viên,
khích lệ tinh thần to lớn đối với quân và dân Hà Nội. Thế hệ cha ông đã dũng
cảm, kiên cường chống quân xâm lược giành chiến thắng, thế hệ sau lại nối
tiếp truyền thống hào hùng đó, kiên cường đấu tranh dựng nên một nền văn
hiến rạng rỡ. Và tinh thần yêu nước của người Hà Nội càng phát huy cao độ
trong thời đại Hồ Chí Minh.
Với tinh thần chiến đấu đầy quả cảm, không sợ hy sinh, lại được thư
động viên của Bác Hồ và các đồng chí lãnh đạo, quân và dân Thủ đô đã
hoàn thành nhiệm vụ. Cuộc chiến đấu anh dũng của quân dân Thủ đô trong
hai ngày đầu chống thực dân Pháp một lần nữa thể hiện rõ “khí phách cha
ông và hồn thiêng sông núi”, làm rạng rỡ thêm hùng khí đất Thăng Long -
Đông Đô - Hà Nội thể hiện bản lĩnh, trí tuệ, cốt cách, tâm hồn của người
Thăng Long - Hà Nội: thanh lịch - hào hoa - yêu chuộng hòa bình nhưng
cũng quật cường - bất khuất, sẵn sàng hy sinh, hiến dâng tất cả vì nền độc
lập - tự do của dân tộc.
56
2.2. Hà Nội hào hoa
2.2.1. Một Hà Nội thanh lịch
Viết về Thăng Long - Hà Nội, Nguyễn Huy Tưởng không chỉ viết về
những sự kiện lịch sử trọng đại, có ý nghĩa lớn lao, ông còn chú trọng đến
việc khai thác vẻ đẹp của mảnh đất Kinh Kỳ, vẻ đẹp của người Hà Nội.
Thanh lịch là nét đẹp truyền thống của người Hà Nội từ xưa đến nay,
được hiểu là văn hóa ứng xử ở trình độ cao. Thanh lịch với người Hà Nội
được tích tụ, kết tinh qua nhiều thế hệ. Thanh lịch không chỉ là một khái niệm
mà là những biểu hiện cụ thể trong cuộc sống của người Hà Nội. Theo nhà Hà
Nội học Nguyễn Vinh Phúc: “Thanh lịch là chất cơ bản của người Hà Nội. Đó
là lối sống văn hóa. Từ trong ăn mặc, đối nhân xử thế, từ cách nói năng cho
đến hành động, từ trong gia đình đến ngoài xã hội… tất cả phải có văn hóa”.
Nguyễn Huy Tưởng là người gốc Hà Nội, ông gắn bó và yêu mến Hà Nội tha
thiết, cho nên những phẩm chất, cốt cách của người Hà Nội được ông cảm
nhận và miêu tả hết sức chân thực, tinh tế.
Trong cuộc hội ngộ giữa Trần Văn và bốn chàng trai Hà Nội cùng nhau
tranh luận bàn về cuộc chiến sắp xảy ra ở thủ đô. Trần Văn đã phải cãi lại:
“Hà Nội mất mát nhiều rồi. Nhưng ta đừng trách nó. Nó vẫn đẹp với
những con người lịch sự của nó”;
“Đúng. Rất đúng. Hà Nội là đất lịch sự, rất có gu, rất tế nhị, từ cái ăn, cái
nói, cái cách cư xử, đến cách ăn mặc của một người phụ nữ thủ đô” [35,245].
Thật vậy, từ xa xưa, mỗi khi nhắc đến Hà Nội là người ta nghĩ ngay
đến cái hào hoa, thanh lịch, đã được đúc kết thành câu ca dao:
Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An
Ở lĩnh vực giao tiếp, ứng xử, họ là những người trọng lễ nghĩa, ăn nói
nhẹ nhàng, tế nhị. Trong thiên truyện, Nguyễn Huy Tưởng đã miêu tả những
cô gái Hà Nội với “tiếng thanh thanh, ỏn ẻn, ngọt ngào” của Quyên, khiến
57
cho người đối diện khi nói chuyện cũng cảm thấy “dịu dịu người và đỡ căng
đầu” [35,197]; đó là giọng nói hết sức dịu dàng, lễ phép của Nhân - cô gái
bán hoa Ngọc Hà. Cách nói chuyện của họ luôn làm vừa lòng người khác.
Nét thanh lịch còn thể hiện ở hành vi tiếp khách - một hoạt động giao
tiếp đặc trưng. Có khách đến nhà, người Hà Nội luôn tỏ ra là người hiếu
khách, nồng nhiệt, niềm nở. Điều đó thể hiện ở nhân vật Lan - cô tiểu thư con
nhà giàu. Cô tiếp Sinh bằng trà ướp sen thơm phức, “Hương thơm của sen
ngào ngạt như đánh bạt mùi thuốc súng...”. Trà để tiếp khách bao giờ cũng là
trà ngon, cẩn thận họ còn ướp hương sen để tăng thêm hương vị. Điều đó thể
hiện cách ứng xử chuẩn mực, tao nhã, chú trọng lễ nghĩa của người Hà Nội.
Sự thanh lịch còn thể hiện trong cách lựa chọn trang phục. Người dân
Kinh kỳ rất chú ý đến kiểu cách trang phục. Họ ưa trang phục kín đáo, chỉnh tề,
không cầu kì về kiểu dáng, không lòe loẹt về màu sắc. Trong khi người dân quê
thường mặc quần áo vải thô để mộc nhuộm nâu hoặc thâm thì người Kẻ Chợ
thích dung những hang dệt loại sang trọng. Người giàu thích mặc nhiều áo
mỏng một lúc, chất liệu và màu sắc tương hợp theo kiểu “mớ bảy mớ ba”. Có
thói quen đội nón khi đi ra ngoài. Phong cách ăn mặc ấy được thể hiện qua
trang phục của nhân vật Trinh: “Cái vẻ đẹp và cái sang trọng của Trinh nổi lên
giữa đám người tản cư sầm tối. Lúc này chẳng ai nghĩ đến ăn mặc. Thực ra
Trinh chỉ mặc một chiếc áo len dài màu đen, mặt xoa phấn nhẹ, đầu quàng một
cái khăn mỏng màu hoa cà Nhưng Trinh thuộc cái loại phụ nữ biết mình có
cái dáng người làm tôn y phục nên ít dùng những trang sức giả tạo. Chính vì
thế Trinh toát ra một thứ lịch sự tự nhiên khiến mọi người chú ý” [35,9]. Ở
Trinh toát lên một vẻ đẹp nền nã, sang trọng mà rất đỗi dịu dàng và Bao -
chồng Trinh cho rằng “rất phương Đông”. Nhìn chung phụ nữ Hà thành
chuộng lối ăn mặc trang nhã, gọn gàng, kín đáo mà không kém phần duyên
dáng, lịch lãm, mang vẻ đẹp sâu lắng và rất độc đáo. Đó là hình ảnh của Nhân -
một thiếu nữ bán hoa Ngọc Hà, cô là gái ngoại thành, trạc mười chin đôi mươi.
58
“Khăn vuông đen quặt đằng sau, áo dài phin nâu mỏng hở cổ để lộ cái áo cánh
trắng và cái áo len đan màu xanh. Hai ống tay chét lại, tất cả y phục đều lẳn
vào người” [35,29]. Với ngòi bút hào hoa, mẫn cảm, Nguyễn Huy Tưởng đã
diễn tả được những nét sang trọng, lịch sự của người Hà Nội, “sang trọng, lịch
sự mà vẫn yêu nước, ghét Tây, điều đó làm nên hương vị và màu sắc riêng,
không lẫn với những tiểu thuyết cùng thời” [32,21].
Người Hà Nội có nhu cầu về một đời sống phong phú và đa dạng. Dân
gian từ xưa đã có câu “Khéo tay hay nghề, đất lề Kẻ Chợ”. Bằng sức lao động
cần cù, đôi bàn tay khéo léo, họ tạo ra những sản phẩm đẹp đẽ và tinh tế,
nhiều khi không phải để trao đổi buôn bán mà cốt để thỏa mãn nhu cầu thẩm
mĩ, giải trí bởi người Hà Nội ưa chuộng cái đẹp và biết thưởng thức cái đẹp.
Nguyễn Huy Tưởng đã miêu tả hình ảnh một anh thợ nặn tò he trong một
ngày cuối đông ở Hà Nội, “Một quang cảnh tưởng không còn nữa giữa cái
Hà Nội đã ngửi thấy mùi tanh giá của chiến tranh. Người dân Hà Nội, hiếu kì và
khao khát cái vui, đứng xem như để quên đi những mối lo nghĩ. Mấy đứa trẻ con
len dưới chân người lớn để vào gần. Tiếng cười, tiếng nói, tiếng trầm trồ khen
ngợi cái tài khéo của anh thợ, tưởng như Hà Nội vẫn đang thời bình” [35,28].
Trong con mắt của Trần Văn, Hà Nội là hiện thân cho những vẻ đẹp,
khiến anh luôn tự hào về một Thăng Long - Hà Nội thanh lịch: “Hà Nội
không xấu đâu, ông ạ. Hà Nội thiếu lâu đài nhưng không thiếu cảnh. Các cụ
ngày xưa chả nói Hà Nội là đất của năm núi, hai mươi tám đảo, của Thăng
Long, đại bát cảnh đấy ư? Ở trên thế giới đâu có Hồ Gươm, Hồ Tây giữa thủ
đô. Ở đâu có con sông nước đỏ chảy qua?... [35,244].
Những phẩm chất tốt đẹp của người Thăng Long - Hà Nội được tạo nên
trong suốt quá trình hình thành và phát triển của vùng đất này. Chúng được
chắt lọc, kết tinh từ mọi miền đất nước và cả tinh hoa văn hoá bên ngoài trong
quá trình giao lưu, hội nhập tạo cho con người Thăng Long - Hà Nội vừa
thuần hậu, lịch sự, vừa hào hoa, phong nhã. Cái riêng đó, nét đẹp văn hoá đó
59
có giá trị độc đáo, đặc sắc của cư dân chốn Kinh Kì - Kẻ Chợ. Nhiều độc giả
sau khi đọc văn Nguyễn Huy Tưởng đều có chung nhận xét “Muốn tìm cốt
cách của người Hà thành gốc, phải đọc văn Nguyễn Huy Tưởng”.
2.2.2. Một Hà Nội tinh tế, giàu chất thơ
Người Hà Nội có cái chất hào hoa, phong nhã. Đó là phong thái hào sảng,
lịch duyệt, tự trọng, không hạ mình, không trọng tiền bạc, danh vọng mà trọng
danh dự, trí tuệ, đạo lý. Điều đó thể hiện ở nhân vật Trần Văn. Anh tự học mà đỗ
tú tài tây, rồi trở thành một cậu giáo trường tư. Chia tay cô người yêu Trinh đi
lấy chồng, mối tình tan vỡ, sau này gặp lại Trinh, Trần Văn cũng thờ ơ, lạnh
nhạt, anh thường “quay ngoắt mặt đi, thường thường làm ra vẻ khinh khỉnh
không để ý”. Bởi nghĩ về Trinh anh thấy cô là “người đàn bà tầm thường, ham
danh ham giá, khoe khoang và ích kỉ, lấy chồng vì cái bề ngoài địa vị” [35,9].
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, anh tự nguyện ở lại Hà Nội tham gia chiến
đấu nhưng “tự đáy lòng, anh ghét chiến tranh, ghét cả cái tên của nó”.
Vẻ đẹp tinh tế của Hà Nội còn hiện lên qua những địa danh cụ thể,
những khung cảnh gia đình, những căn nhà, ngõ phố mà trong tiểu thuyết
Sống mãi với thủ đô tác giả đã chú ý quan sát, miêu tả thật sinh động.
Đó là con đường Tràng Thi - một trong những con đường đẹp của Hà
Nội hiện lên trong nỗi nhớ của Trần Văn: “Những hàng cây hai bên cao hơn
nhà gác làm cho Hà Nội đắm trong thiên nhiên, và khi lộc non chuyển sang
xanh râm, hay khi hoa phưởng nở, hay khi lá rụng thay cho tiếng ve sầu, người
ta trông thấy và nghe thấy sự tuần hoàn của vũ trụ” [35,36]. Vẻ đẹp lãng mạn,
nên thơ của Hà Nội hiện lên ở mỗi góc phố, mỗi con đường, mỗi hàng cây…
Đó là vẻ đẹp lung linh của Hồ Gươm được gợi nhắc nhiều lần trong
thiên truyện qua cái nhìn của nhân vật Trần Văn, Hồ Gươm không chỉ là một
thắng cảnh thiên nhiên, nó còn gắn với các sự kiện lịch sử - văn hóa của mảnh
đất Thăng Long - Hà Nội: “Gió lạnh Hồ Gươm phả vào mặt anh, làm cho
60
anh dịu dịu. Nước hồ phẳng như gương, lá cây và váng nước xanh vẩn. Hàng
liễu trên bờ phía Cầu Gỗ buông rủ những mành thấp thoáng như gương.
Những con đường nhỏ lượn dưới bóng những cây cổ thụ quạnh hiu, cuốn bay tài
tà áo màu còn sót lại. Cầu Thê Húc, khom khom, đã ngả màu hồng nhạt” [35,43].
Bên cạnh vẻ đẹp thanh bình, yên ả của Hồ Gươm, hình ảnh Hà Nội hiển
hiện qua cái nhìn của nhân vật Trần Văn, chứa đựng trong đó tất cả niềm mến
yêu Hà Nội, tiếc nuối những ngày tháng thanh bình, những thời khắc vinh
quang của Hà Nội và đau xót uất ức bởi gót giày của kẻ thù đang giày xéo
trên những con đường Hà Nội: “Trấn Ba Đình ủ rũ thấp xuống như bị dìm.
Tất cả đều im lìm, chờ đợi. Những con rùa lịch sử, chiến thắng và hòa bình,
khôn thấy bóng tăm trên mặt nước. Cả đến đàn cò, từ năm này qua năm khác,
không bao giờ rời cái cây gạo thân cao thẳng vút và trắng toát cũng không
xào xạc như mọi khi... Cái hồ yêu dấu như cũng cảm thấy dân tộc đang gặp
khó khăn, và lắng xuống lo âu”[35,44].
Với Nguyễn Huy Tưởng, tình yêu tổ quốc được thể hiện đầu tiên và
cụ thể là tình yêu dành cho thiên nhiên - với Hồ Gươm - một trong những
yếu tố mang đặc trưng của Hà Nội. Trong phiên gác đêm của mình, anh đã
quan sát khung cảnh Hồ Gươm, hoài niệm về quá khứ: “Một mẩu Hồ Gươm
trước mặt, những hàng liễu mơ hồ rủ xuống bờ nước đen đặc. Mấy ngọn đèn
trên cổng vào cầu Thê Húc sáng le lói. Bên dãy thị chính từng ô dài ánh
sáng đỏ, xanh, vàng, nhấp nháy dưới rặng cây lẩn trong đêm tối. Khí lạnh
của hồ thấm vào người anh. Lòng anh dạt dào một thứ hoài cổ thường hay
đến với anh…Anh bâng khuâng như sống trong quá khứ, thuở Lê Thái Tổ
thắng trận đi chơi hồ, trao lại cho rùa thiêng thần kiếm đuổi giặc nay không
dùng đến nữa, thuở những tao nhân mặc khách đến đấy để ngâm thơ vịnh
nguyệt, xướng họa với nhau, hào hứng giữa cảnh trời xanh nước biếc của
cái hồ xinh đẹp nằm giữa kinh kỳ” [35,207].
61
Trong đêm đầu tiên nổ súng bảo vệ Thủ đô, tiếng bom đạn, khỏi lửa bao
trùm, đèn điện vụt tắt, cả thành phố chìm trong bóng tối và Hồ Gươm cũng hòa
vào bối cảnh chung của cuộc chiến: “Hồ Gươm nằm dúi dụi trong bóng tối. Bên
kia bờ Hàng Trống, đen như làng xóm trong đêm khuya. Nhưng nước hồ bên
này thì rực lên vài mảng đỏ ngầu, sóng lăn tăn”. Không còn cái vẻ thanh bình
như ngày thường, Hồ Gươm giờ đây cũng lăn lộn, cũng đau thương: “Thân cây
quằn quại vặn vẹo, lá thít lên đổ xuống lạo xạo. Đất rùng rùng, động đậy, thỉnh
thoảng lại như vỡ ra trong những tiếng nổ khủng khiếp” [35,275].
Có thể nói rằng mỗi mảnh đất, gốc cây, mặt hồ…gắn với bao kỉ niệm
không thể phai mờ đối với nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, trở thành những giá
trị văn hóa tinh thần đặc trưng tâm hồn người Hà Nội.
Vẻ đẹp của Hà Nội, cái hồn của Hà Nội còn kết tinh ở khu chợ lớn nhất
thành phố - chợ Đồng Xuân. “Thủ đô có những nơi sang trọng như Tràng
Tiền, xinh đẹp như Hồ Gươm, nhưng đông vui nhất vẫn là cái chợ ở vào trung
tâm của ba mươi sáu phố phường này, mà cái tên đã đi liền với tên Hà Nội,
mà người tứ xứ kéo về thủ đô đều phải tới thăm nếu không muốn để cho lòng
phải ân hận khi trở ra về. Đối với người Hà Nội, và nhất là đối với những
người dân phố ở đây, chợ Đồng Xuân là một điểm tự hào” [35,145].
Giữa thời khắc thử thách quyết liệt giữa sự sống và cái chết, người dân
Hà Nội vẫn không quên háo hức đón tết. Không khí chuẩn bị tết quen thuộc
làm ấm lòng người. Nguyễn Huy Tưởng đã miêu tả không khí vui tươi, nhộn
nhịp, đông đúc của khu chợ, một bức tranh nhiều màu sắc sinh động, thể hiện
đời sống tinh thần phong phú của người dân thủ đô: “Trong những ngày áp
tết, cái tên Đồng Xuân càng vang động trong lòng mọi người. Đi chơi chợ tết
trở nên một sự cần thiết như ăn và mặc. Người ta đi không phải chỉ để sắm
sửa những thức ngon lành nhất, để thỏa mãn cái đua đòi cầu kỳ sang đẹp của
người thủ đô mà còn để đón trước, và hưởng sâu cái hương vị của tết nhất
đang thấm dần vào cảnh vật, vào người, vào những dãy hàng cam đỏ sáng,
62
những rừng hoa cúc, hoa lan, hoa lay ơn, hoa hải đường muôn hồng nghìn
tía, những cành đào Nhật Tân tươi thắm như còn ở dinh đào, những cây
quất của Quảng Bá, Tây Hồ, những chậu cảnh công phu của Nghi Tàm,
những hàng su hào, cải bắp, súp lơ, đua tranh màu sắc với hoa quả. Tất cả
hòa hợp trong cái vui rối rít mà vẫn nhịp nhàng của những tranh, những câu
đối, những bao hương, bao nến, bao chè, những bánh pháo, những hộp kẹo,
hộp mứt, những chậu cá vàng” [35,144].
Hà Nội trở nên dịu dàng và nên thơ bởi hình ảnh những gánh hàng hoa
của chị em phụ nữ trên các phố phường. Không biết tự bao giờ hình ảnh
những bông hoa theo đôi quang gánh len lỏi khắp phố phường là một hình
ảnh rất đặc trưng của Hà Nội, ta không tìm thấy ở những nơi khác. Trong
thiên truyện, Nguyễn Huy Tưởng cũng miêu tả vẻ đẹp ấy “một cô gái gánh
hai sọt hoa cúc vàng” [35,29] - một vẻ đẹp bình dị và rất đỗi tinh tế. Rõ
ràng chỉ một gánh hàng hoa Ngọc Hà thôi tô điểm thêm cho phố phường Hà
Nội một vẻ đẹp lãng mạn, nên thơ.
Vẻ đẹp của người và cảnh hòa quyện với nhau, tôn thêm nét đẹp cho
nhau. Tất cả toát lên cái hồn Hà Nội - một vẻ đẹp tinh tế. “Tất cả reo lên
trong tiếng ồn ào của năm chợ, trong những quần áo đủ màu của hàng trăm
hàng nghìn người, từ những tơ len lịch sự của người phụ nữ Hà Nội tô điểm
thêm cho hoa tết đến những vải nâu chắc nịch của người nhà quê rụt rè trước
những cô hàng kiểu cách lóng lánh hoa tai, phô trương xuyến nhẫn đứng lút
sau đống hàng, hoặc khinh khỉnh ngồi xem báo tết. Tất cả như cuốn đi với
dòng người trong một không khí vừa tưng bừng, vừa ấm cúng, nhiều màu sắc
hơn là ánh sáng, nhiều hương thơm hơn là hơi thở nồng nặc, đông đúc mà
vẫn có cái gì trật tự nhã nhặn và sạch sẽ của thủ đô. Người ta bận rộn, tíu tít
nhưng người ta cũng lâng lâng, phơi phới, mải miết không muốn trở ra, quẩn
quanh mãi trên những lối đi chật chội, mỗi lúc một thêm ướt át, cái ướt át đặc
biệt của những buổi cuối năm [35,144].
63
Quả thực một trong những địa điểm nổi tiếng của Hà Nội chính là chợ
Đồng Xuân. Cho nên trong bút ký Hà Nội băm sáu phố phường, Thạch Lam
không quên miêu tả “cái bụng của thành phố”: “Ở đây, chúng ta được thấy
các thực phẩm còn giữ nguyên hình trước khi biến thành những món xào nấu
ngon lành dưới tay các đầu bếp nổi danh hay các bà nội trợ. Tất cả của ngon
vật lạ các nơi đều đem đến đây, để hiến cho sự thưởng thức sành sỏi của
người Hà Nội… Cho nên, nói đến chợ Đồng Xuân, tôi muốn trình bày cái
hình thức khác, cái vẻ riêng tấp nập, cái không khí ồn ào, cái màu sắc đặc
biệt, hơn là tính cách cùng xấu tốt của các thức ăn kia. Chợ Đồng Xuân là
chợ của người Hà Nội, không giống các chợ nhà quê, mà cũng không giống
các chợ Bến Thành Sài Gòn, hay Chợ Mới ở Chợ Lớn. Bạn cũng vào trong
chợ một ngày phiên, và đề mắt ngắm nhìn cùng nhận xét; từ người buôn kẻ
bán, cho đến những người mua; từ bác bồi bếp, cậu nhỏ, cô sen, cho đến các
bà sành sỏi hay các cô thiếu nữ rụt rè sợ hớ, tất cả chừng ấy người hoạt động
trước mắt ta, hình dáng phức tạp và thu nhỏ lại của xã hội người Phường
Phố. Không có bức tranh nào linh hoạt và thắm màu hơn”.
Qua những trang văn viết về chợ Đồng Xuân, ta thấy Hà Nội sôi động
hơn, phong phú hơn, nhiều màu sắc hơn. Quả đúng là Hà Nội từ lâu đã là
trung tâm chính trị, văn hóa, kinh tế của cả nước.
Chất lãng mạn, chất thơ còn được nhà văn thể hiện ở những đoạn văn
miêu tả về vầng trăng. Hình ảnh vầng trăng xuất hiện nhiều lần trong tiểu
thuyết tạo nên sự thơ mộng, lãng mạn khi Hà Nội về đêm.
“Trăng hạ tuần trong vắt nằm chênh chếch và trơ trọi đằng sau phố,
trên nền trời mà các vì sao đã lạc hết, chiếu một thứ ánh sáng xanh hư hư
thực thực” [35,312]; “Mảnh trăng chiếu một thứ ánh sáng lưu luyến xuống
cái cảnh quay cuồng mù rối ấy, chênh chếch ngả mãi về sau” [35,314].
“Qua cái cửa sổ lớn của chấn song, Thu Phong lơ mơ nhìn lên trời.
Trăng lưỡi liềm trong suốt như một bìa giấy bạc, in rõ trên nền trời không
gợn mây. Hai bên đuôi trăng có hai ngôi sao sáng như ngọc. Anh nghĩ: người
64
ta thường bảo sao bao giờ cũng xa trăng. Không hiểu vì sao đêm nay, hai
ngôi sao kia ở sát trăng mà sáng như thế được. Đây là điềm gì? Điềm ta
thắng hay thua? Anh là một nhà đạo gốc, nhưng từ bé đến lớn anh không tin
đạo. Quái, sao lúc này anh bỗng lẩm bẩm đọc kinh, cầu trời cho Việt Nam
chiến thắng. Vũ Minh cũng nhìn cái cảnh lạ lùng ấy, kêu lên một tiếng ồ khe
khẽ, rùng mình vì cái cô quạnh của trăng sao” [35,329].
“Mắt Thắng như nhìn rõ trong đêm tối. Vào đây, quen chân chú đi tìm
lỗ đục tường và thọc sâu vào trong nhà. Tới một cái buồng trông ra một cái
sân nhỏ, cửa sổ để lộ vầng trăng lưỡi liềm. Thắng mừng quýnh hãnh diện
mình là người trông thấy sự lạ lùng ấy đầu tiên”[35,337].
Những đoạn văn miêu tả vầng trăng khiến cho không gian rộng hơn,
huyền ảo hơn, đậm chất trữ tình hơn. Nên mặc dù đang trong bối cảnh chiến
tranh khốc liệt nhưng tác phẩm không quá ngột ngạt, tối tăm, trái lại vẫn có
những trang viết khiến ta cảm nhận được một bầu không khí lãng mạn, nên thơ.
Có thể thấy trong bối cảnh Thủ đô chìm trong bom đạn, khói lửa chiến
tranh, diễn ra những cảnh tượng thương tâm, Nguyễn Huy Tưởng đã đưa vào
hình ảnh ánh trăng tạo nên chất thơ, chất trữ tình cho thiên tiểu thuyết. Hình ảnh
vầng trăng lưỡi liềm xuất hiện là một hình ảnh đẹp, được miêu tả trong những
thời khắc không khí căng thẳng, khốc liệt của chiến tranh. Tuy nhiên, sự đối lập
ấy càng làm nổi bật lên vẻ đẹp tâm hồn của người Hà Nội. Đó là tình yêu thiên
nhiên, thái độ căm ghét chiến tranh, yêu chuộng hòa bình. Như vậy bên cạnh vẻ
đẹp khỏe khoắn, dũng cảm, kiên cường khi đối diện với kẻ thù , Nguyễn Huy
Tưởng còn miêu tả những thanh niên Hà Nội với vẻ đẹp tinh tế trong tâm hồn.
Chính cái nguồn sáng từ ánh trăng ấy là biểu hiện cho tinh thần lạc quan cách
mạng không chỉ của thanh niên Thủ đô mà sâu xa hơn là của chính nhà văn.
Sự tinh tế của người Hà Nội còn thể hiện ở tinh thần lạc quan trong
cuộc sống, thái độ của họ trước thời cuộc. Thành phố đang trong những ngày
tháng chiến tranh, với đầy rẫy những nguy hiểm, khó khăn, thử thách, những
65
cuộc tàn sát đẫm máu, phố phường đổ nát, bao trùm là những âm thanh của
tiếng bom, đạn, tiếng máy bay rè rè trên các nóc nhà nhưng họ vẫn tràn đầy
tinh thần lạc quan cách mạng. Bước vào trận chiến nhưng những cảm tử
quân họ đã quên đi nỗi sợ hãi, lo lắng, họ đi chiến đấu, cuộc chiến một mất
một còn, nhưng mang một niềm vui là được cống hiến cho Tổ quốc, được
thể hiện lý tưởng cao đẹp: sống có trách nhiệm với tập thể, với cộng đồng.
Vang vọng đâu đây là tiếng hát của một đơn vị bộ đội đi diễu hành qua phố
với bước chân rầm rập, đều đặn và oai nghiêm, họ cất cao tiếng hát: “Đi là
đi chiến đấu. Đi là mang mối thù thiên thu” [35,143]. Tinh thần lạc quan
cách mạng ấy như một ngọn lửa đã lan tỏa vào lòng mọi người, họ chào
mừng, khích lệ đơn vị bộ đội bằng những bó hoa tươi thắm: “Một bó hoa ở
trên một nhà gác ném xuống. Tiếp đến nhiều bó hoa nữa bay xuống đám
chiến sĩ. Tiếng hát vẫn vang lên. Hàng ngũ bước đi hùng dũng, cuồn cuộn,
nhấp nhô, như dòng suối xanh mát giữa hai bờ oi ả” [35,143]. Các chiến sĩ
dù đang làm nhiệm vụ nhưng vẫn rất lạc quan, vui vẻ, không nao núng tinh
thần, không hề sợ hãi. Trái lại ở họ toát lên cái khí thế hào hùng, quật cường
của anh bộ đội cụ Hồ. Họ cầm chắc tay súng và tin tưởng vào ngày mai
chiến thắng: “Vững tin ở chủ trương đường lối trường kỳ kháng chiến, các
đồng chí nắm cho chắc cái phương châm để thắng lợi ấy. Trong cuộc chiến
đấu bảo vệ Tổ quốc, chúng ta nhất định thắng” [35,190].
“Còn ta, về chính trị thì ta đi trên con đường dân chủ, gánh vác một
phần xây đắp hòa bình thế giới, nhất định ta được thế giới ủng hộ. Chiến đấu
để bảo vệ Tổ quốc nên tinh thần quyết tử của ta mạnh mẽ” [35,191].
Người dân Thủ đô tin tưởng ở sự lãnh đạo của Đảng, của Hồ chủ tịch,
tin tưởng ở sức mạnh của toàn quân và dân Thủ đô. Đối mặt với kẻ thù lớn
mạnh, trong khi đó ta thì gặp vô vàn khó khăn, song với lòng yêu nước nồng
nàn, lòng căm thù giặc sâu sắc, sự quyết tâm cao, chúng ta luôn có một niềm
tin lớn lao về một ngày toàn thắng “Rũ bùn đứng dậy sáng lòa” (Đất nước -
66
Nguyễn Đình Thi). Cả thành phố gồng mình chuẩn bị để đối phó với giặc,
nhưng bên cạnh tâm trạng lo lắng những người dân thủ đô vẫn mang trong
mình tâm lí vui vẻ, lạc quan: “Trong cái giận giữ của tiếng thuổng đâm vào
tường, bực bội và thương tiếc, có một cái gì thân mật, nhẹ nhàng, phơi phới.
Rì rầm những tiếng nói tiếng cười.Trái tim của Hà Nội đập theo tiếng đục
tường. Tiếng đục tường ran ran, khi thét, khi cười, khi thì thầm như lời tình
tự, khi dồn dập sôi nổi như lời thách thức” [35,101]. Trong khó khăn gian
khổ, trước thử thách nguy hiểm đến tính mạng, nhân dân Hà Nội vẫn toát lên
vẻ đẹp tâm hồn: sự yêu đời, lạc quan, tinh thần đồng cam cộng khổ.
Hai nét hào hùng và hào hoa luôn là vẻ đẹp đặc trưng của người Hà
Nội, ta không chỉ thấy trong Sống mãi với thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng
mà vẻ đẹp ấy còn được nhà thơ Nguyễn Đình Thi nhắc đến trong bài hát
Người Hà Nội:
Hà Nội đẹp sao! Ôi nước Hồ Gươm xanh thắm lòng.
Bóng Tháp Rùa thân mật êm ấm lòng .
Hồng Hà tràn đầy, Hồng Hà cuốn ngàn nguồn sống tràn đầy dâng.
Hà Nội vui sao. Những cửa đầu ô.
Tíu tít gánh gồng đây Ô Chợ Dừa, kia Ô Cầu Dền làn áo xanh nâu Hà Nội
tươi thắm
Viết về Hà Nội, nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ nào cũng không thể bỏ qua
vẻ đẹp lãng mạn, thơ mộng của Hà Nội. Những địa danh lịch sử quen thuộc
như Hồ Gươm, Tháp Rùa, sông Hồng,… đã làm nên vẻ đẹp cổ kính của Thủ
đô ngàn năm văn hiến. Những cái tên gắn với những câu chuyện lịch sử, gắn
với con người Hà Nội thật thân thương và đầy tự hào. Nguyễn Huy Tưởng và
nhiều văn nghệ sĩ cùng thời đã khắc họa được vẻ đẹp đặc trưng của Hà Nội là
sự giao thoa giữa cái hào hùng và hào hoa, lãng mạn của Hà Nội những năm
kháng chiến chống thực dân Pháp.
67
2.3. Hà Nội - sự thấm quyện giữa lịch sử và văn hóa
2.3.1. Chiều sâu lịch sử Hà Nội
Nguyễn Huy Tưởng viết Sống mãi với thủ đô khi mảnh đất Hà Nội đã
có lịch sử trên chín trăm năm. Trong khoảng thời gian dài ấy, Hà Nội trải qua
biết bao thăng trầm, bao sự kiện trọng đại được ghi dấu. Nguyễn Huy Tưởng
đã nhắc đến khá nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của Thủ đô, của dân tộc trong
thiên truyện của mình.
Trong dòng hồi tưởng của nhân vật Trần Văn, gợi nhắc lại Thăng Long
- Hà Nội từ thuở vua Lê Thái Tổ thắng trận đi chơi hồ Gươm, trao lại cho con
rùa thanh thần kiếm đuổi giặc nay không dùng đến nữa. Sự kiện Trần Quang
Khải cướp lại Thăng Long cách đây bảy trăm năm. Rồi đến Hà Nội của thế kỉ
XX - những năm kháng chiến chống thực dân Pháp. Đó là phong trào Đông
Kinh Nghĩa Thục, phong trào đòi ân xá cụ Phan Bội Châu, đám tang Phan
Thanh, Quang Trung diệt quân Tôn Sĩ Nghị, cụ Hoàng Diệu tử tiết với Hà
Nội để nêu cao tinh thần kháng Pháp. Đó còn là sự kiện lịch sử trọng đại của
dân tộc Việt Nam: Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 2/9/1945 Hồ Chủ
Tịch đọc bản Tuyên ngôn độc lập tại Ba Đình khai sinh nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa, mở ra trang sử mới cho dân tộc Việt Nam. Nhưng ngay sau đó
là cuộc xâm lược trở lại của thực dân Pháp, chúng ta lâm vào tình thế “ngàn
cân treo sợi tóc”, phải đối diện với thù trong giặc ngoài. Để đáp trả lại những
khiêu khích của thực dân Pháp, chúng ta đã tiến hành cuộc kháng chiến vào
những ngày mùa đông năm 1946…Tất cả các sự kiện ấy cho thấy một lịch sử
lâu đời của Thủ đô Hà Nội. Một thủ đô gần một nghìn năm tuổi với biết bao
biến cố thăng trầm. Nguyễn Huy Tưởng phải là người am hiểu lịch sử Thủ đô,
lịch sử dân tộc sâu sắc thì tác giả mới có thể nhắc đến nhiều những sự kiện,
những mốc thời gian quan trọng ấy. Ông đã dẫn dắt và cho độc giả thấy được
chiều sâu lịch sử về Thủ đô yêu dấu của chúng ta.
68
Nói đến quá trình lịch sử phát triển của Thăng Long - Hà Nội thì không
thể không nhắc đến khu phố cổ Hà Nội. Nó là hiện thân của lịch sử, văn hóa,
kiến trúc kinh kỳ Thăng Long xưa, mang hồn thiêng khí phách lịch sử dân
tộc. Hà Nội có ba mươi sáu phố phường, gắn với lịch sử phát triển gần nghìn
năm của mảnh đất kinh kỳ. Trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử nhưng
những tên gọi của các con phố vẫn không thay đổi nhiều. Trong Sống mãi với
thủ đô, Nguyễn Huy Tưởng có nhắc đến nhiều dãy phố cổ: Phố Hàng Bông,
Hàng Lọng, Hàng Đẫy, Hàng Khoai, Hàng Trống, Hàng Da, Hàng Nón, Hàng
Bún, Hàng Bạc, Hàng Đào, Hàng Đường, Hàng Giấy, Hàng Mã,vv…Những
tên phố, tên đường đã nói lên một Hà Nội xưa, rêu phong và cổ kính. Những
tên phố ấy chính là tên gọi của phố phường Hà Nội xưa. Sở dĩ có tên gọi đó vì
nơi ấy tập trung những người làm cùng một nghề thủ công, bán cùng một mặt
hàng, đây là một khu đô thị buôn bán sầm uất, hình thành các phồ nghề đặc
trưng mang những nét truyền thống riêng biệt của cư dân thành thị, kinh đô.
Sống mãi với thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng đã khắc họa một Hà Nội với
chiều sâu của lịch sử. Đó là lịch sử dựng nước, lịch sử giữ nước của dân tộc Việt
Nam anh hùng. Mỗi tên đường, tên phố, tên nhân vật đều gợi nhắc đến những sự
kiện, những mốc thời gian trong suốt dặm dài lịch sử của Thủ đô yêu dấu.
2.3.2. Những dấu ấn văn hóa Hà Nội trong Sống mãi với thủ đô
Người Thăng Long - Hà Nội là một cộng đồng người sống trên cùng
một miền đất gắn với những điều kiện địa lý, tự nhiên nhất định; có lịch sử
hình thành và phát triển riêng của nó với những đặc điểm đặc thù và đặc biệt
là sự chia sẻ với nhau những giá trị về chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội.
Nói cách khác, người Thăng Long - Hà Nội được hiểu là một cộng đồng
người có chung một nền văn hóa với tư cách là hệ thống các giá trị của cộng
đồng. Qua ngàn năm lịch sử, văn hóa Thăng Long - Hà Nội luôn được bổ
sung bởi các giá trị từ các vùng, miền khác nhau bởi văn hóa Thăng Long -
Hà Nội bao gồm văn hóa bản địa và văn hóa các địa phương theo các dòng
dân cư trong cả nước hội tụ lại, hòa quyện với nhau.
69
Hà Nội không chỉ là vùng đất chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử trọng
đại mà còn là vùng đất văn hóa của cả nước với những tín ngưỡng đã đi sâu
vời đời sống của hầu hết mọi người dân Việt Nam. Hà Nội là nơi giao thoa
của các dòng văn hóa, các địa phương, là nơi chắt lọc các giá trị thích hợp với
Kinh đô trước đây, Thủ đô của đất nước ngày nay. Hà Nội là một quần cư của
dân nhiều địa phương trong cả nước tìm về làm ăn, sinh sống. Sự hội tụ chắt
lọc và kết tinh các sắc thái văn hóa mà dân từ mọi nơi đem về Thăng Long -
Hà Nội làm nên một đời sống văn hóa rất riêng của đất Kinh kỳ, nhưng cũng
rất chung với văn hóa của từng địa phương. Những giá trị qua chắt lọc được
kết tinh theo hướng “Hà Nội hóa”, rồi nó lại tác động trở lại các địa phương.
Nên khi soi vào Thăng Long - Hà Nội, người ở địa phương khác thấy mình
trong đó, thấy không hề xa lạ mà rất gắn bó. Những giá trị văn hóa được tinh
lọc đó thể hiện ở phong tục, tập quán, lễ hội, ngôn ngữ, ẩm thực, trang phục,
văn học, nghệ thuật, kiến trúc…Đọc Sống mãi với thủ đô ta thấy khá nhiều
giá trị văn hóa của dân tộc Việt Nam nói chung và của mảnh đất Kinh kỳ nói
riêng. Đúng như đánh giá của Nguyễn Bích Thu khi bàn về Dấu ấn văn hóa
trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng: “Những yếu tố văn hóa xuất hiện khá
đắc địa trong tiểu thuyết đã dệt lên bức tranh toàn cảnh Hà Nội trong thời
điểm có một không hai của lịch sử dân tộc; Sự điểm xuyết, hiện diện của các
yếu tố văn hóa ấy trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng tạo nên mỹ cảm
trong tiếp nhận của người đọc” [17,124].
Trong cảm quan lịch sử của mình, Nguyễn Huy Tưởng vẫn lồng ghép
vào đó các yếu tố văn hóa đầy hấp dẫn, thể hiện lòng yêu nước, tự hào, tự
tôn dân tộc sâu sắc và mãnh liệt của nhà văn. Trong bối cảnh Thủ đô chìm
trong bom đạn, khói lửa, không khí tối tăm, ngột ngạt, tâm trạng con người
đầy lo âu, bất an, nhà văn đã miêu tả một quang cảnh tưởng như không còn
giữa lòng Thủ đô chìm trong chiến tranh. Đó là cảnh anh thợ nặn tò he. Đây
là một nét đẹp văn hóa dân gian ở các vùng quê Việt Nam, là loại hình trò
70
chơi dân gian phổ biến ở Bắc Bộ. Xưa kia, tò he là sản phẩm mang nhiều ý
nghĩa: chơi, ăn, cúng, lễ… Cái tên “tò he” cũng tồn tại trong dân gian từ khá
lâu. Nó có tầm quan trọng trong cuộc sống, học tập, vui chơi giải trí và rèn
luyện tính thẩm mỹ cho trẻ em. Những người tạo tác ra nó mặc dù chưa đủ
nâng các sản phẩm của mình lên hàng mỹ nghệ nhưng các sản phẩm ấy đã
để lại cho người xem những tình cảm thắm đượm. Ngôn ngữ khối trong tò
he giàu tính biểu cảm, tính nhịp điệu mang nét gợi nhớ. Nó giản dị như ca
dao, là tích tụ của trí tuệ nhân dân qua nhiều đời. Tò he thực sự là món ăn
tinh thần rất gần gũi với người dân Việt Nam.
Tò he là một đồ chơi dân gian của trẻ em Việt Nam, đã trở thành một
nét văn hóa truyền thống, đậm đà bản sắc dân tộc. Nguyễn Huy Tưởng đã
miêu tả thật chi tiết hành trang của anh thợ: “Tất cả cửa hàng của anh thợ chỉ
gồm có một chiếc bàn vuông, nhỏ, bẩn thỉu với những chiếc chén đựng bột
dẻo đủ màu sắc hàng mã: xanh lơ, xanh lá cây, đỏ thắm, hồng, vàng, tím, đen,
trắng…Chiếc bàn nhỏ, nhẹ và sơ sài, có thể lăn đi cùng đường phố Hà Nội,
nay thềm nhà này, mai bờ đường khác, là sâu khấu của các vị anh hùng Tam
quốc, Tây du. Mỗi vị anh hùng lớn bằng một ngón tay cái, được cắm dựng
đứng trên đầu một que nứa vót nhọn. Những Quan Công, Lưu Bị, Chư Bát
Giới, xanh đỏ tím vàng, đứng xếp thành hàng trên quầy” [35,28]. Trong cái
nhìn của nhà văn, anh thợ nặn tò hè đích thị là một nghệ nhân dân gian bởi sự
khéo léo, tinh tế của đôi bàn tay: “Anh thợ thản nhiên trổ tài. Mười ngón tay
dính bột đủ màu sắc, thoăn thoắt như một cái máy nhỏ, cứ năm, sáu phút tạo
được một anh hùng. Nhân vật nào cũng khá tinh xảo, những bàn tay nhỏ xíu
ngoắt ngược lên một cách rất tuồng, những cử chỉ đưa chân đá chiếc áo giáp,
bộ râu đẹp của Quan Công”[35,28].
Trong tiểu thuyết Sống mãi với thủ đô, những trang viết về chợ Đồng
Xuân cũng thể hiện kiến thức lịch sử văn hóa về một địa danh văn hóa, một di
tích cách mạng. Chợ Đồng Xuân - khu chợ lớn nhất Hà Nội, nơi hội tụ tinh
71
hoa ẩm thực độc đáo của mọi miền đất nước, luôn đông vui, tấp nập. “Đây là
trái tim của Hà Nội, là nơi tập trung những hàng tinh xảo của các phố
phường, những món ăn vật lạ, những kì hoa dị thảo ở khắp các tỉnh đường
ngược cũng như đường xuôi” [35,144].
Hà Nội xưa thường được gọi với cái tên là Thăng Long - Kẻ Chợ cũng
bởi vì mảnh đất ngàn năm văn hiến chính là nơi hội tụ các ngành nghề lớn
nhỏ, nơi họp chợ và là thị trường buôn bán lớn nhất Việt Nam lúc bấy giờ.
Trong các khu chợ xưa ở Thăng Long thì chợ Đồng Xuân được xem là khu
chợ to và vui nhất thời đó. Được xây dựng từ thời phong kiến nhà Nguyễn,
tính đến nay chợ Đồng Xuân được xem là một trong những ngôi chợ có lịch
sử lâu đời nhất Việt Nam.
Nhà văn Băng Sơn đã từng viết: “Ai có dịp về Hà Nội, nếu chưa đi chợ
Đồng Xuân thì coi như mới biết một phần nhỏ, một góc bé, hoặc chưa đến Hà
Nội”. Không chỉ là nơi buôn bán huyên náo, nhộn nhịp nhất Hà Thành, chợ
Đồng Xuân còn là nơi chứa đựng những giá trị văn hóa, tinh thần lâu đời của
người dân Thăng Long xưa, trở thành một trong những điểm đến không thể
thiếu của mỗi du khách khi đến Hà Nội.
Chính nơi đây còn chứng kiến cuộc đấu tranh thắng lợi của chị em chợ
Đồng Xuân trong những ngày đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
“Cửa chính của chợ Đồng Xuân mở toang. Người dân khu phố Đồng Xuân
chen chúc nhau vào. Cái ngõ ở phố Hàng Chiếu dẫn vào chợ cũng lúc nhúc
những người kéo sang(…)Họ tới mừng cuộc đấu tranh thắng lợi của chị em
chợ Đồng Xuân. Họ tới đẻ gặp nhau sau một cuộc ném bom kinh khủng không
ngờ. Và họ tới cũng để khuây khỏe cái nỗi niềm nhớ chợ” [35,143].
Nói đến các yếu tố văn hóa trong thiên truyện, Nguyễn Huy Tưởng
còn tái hiện lại dấu ấn kiến trúc Hà Nội xưa với những con phố, ngõ nhỏ,
mang đậm chất phố phường Hà Nội: “Những con đường đẹp với những biệt
thự theo kiểu kiến trúc phương tây, nhiều kiểu khác nhau, sạch sẽ và yên tĩnh,
72
với những hàng cây lớn rủ bóng xanh mát xuống đường… Những phố cũ kỹ
còn giữ nguyên tên phường, những giai thoại, những kỉ niệm thuở trước của
kinh thành, nó nhắc nhở, khêu gợi, nó âm vang trên mỗi bước chân đi. Những
ngôi nhà hẹp lòng, lồi ra, lõm vào, chen chúc nhau, ít có một khoảng vườn
con ngăn cách. Những mái ngói lâu đời đã ngả màu đen và mốc trắng như
những mái chùa, mái đình trải qua nhiều mưa nắng, những mái ngói của
những căn gác thấp, ọp ẹp, khấp khểnh, bỡ ngỡ và tui tủi giữa những nóc nhà
mới cao vút lên một cách hãnh tiến. Những dãy hàng cánh cửa lùa san sát kề
bên những ngôi hàng lồng kính, cái còn phảng phất thời những cô hàng xén
dịu dàng nền nếp ý nhị của kinh kỳ, cái đã phô trương hình thức cầu kỳ, diêm
dúa, hào nhoáng của cái xã hội bon chen, gian giảo, lố lăng thời nô lệ Pháp.
Và nấp trong những phố tíu tít ấy, người ta sản xuất và buôn bán, cung cấp
và thu nhập, tỏa cái truyền thống lịch thiệp, tinh xảo của Hà Nội đi khắp nơi,
gây nên cái sức quyến rũ của thủ đô hoa lệ” [35,205].
Một trong những vẻ đẹp vô giá của Hà Nội xưa chính là không gian cổ
kính nhấp nhô những mái úp nhỏ bé, rêu phong quyến rũ, mang dấu ấn từ
buổi đầu hình thành đô thị. Điều đáng ngạc nhiên là sau mỗi quá trình giao
thoa văn hóa, các dòng kiến trúc Đông - Tây, kim - cổ tưởng như khá đối lập
nhau lại có thể kết hợp hài hoà tạo nên phong cách kiến trúc đặc trưng của
mái nhà Hà Nội cổ. Để hôm nay, sau bao thăng trầm lịch sử, chúng ta vẫn
cảm nhận được sức cuốn hút mãnh liệt trong kiến trúc mái nhà Hà Nội từ vẻ
đẹp rêu phong của những mái ngói xô nghiêng lấp ló dưới tán cây xanh thẫm,
hay lặng lẽ nép mình trong những ngõ nhỏ, phố nhỏ của Thủ đô.
“Phố hàng Đào quang dần ra, phơi trần những nếp nhà liền nhau, nhỏ
hẹp, chênh vênh một vài căn gác như những hộp chồng lên, chỉ vừa cho một
cánh cửa sổ. Những ngôi hàng chỉ hào nhoáng khi mở cửa và khi ánh điện
chiếu vào tủ kính, quầy hàng đầy tơ lụa, len dạ, do những bàn tay khôn khéo
trang hoàng, như những cung hoa lệ, nhưng khi đóng lại thì trông sao mà tẻ ngắt.
… Những mái hiên nhô ra, thụt vào, bày ra một cảnh tượng chắp vá” [35,209].
73
“Phía bắc Hồ Gươm sau lưng anh, nhấp nhô những mái nhà mảnh
khảnh, mái mốc nghiêng nghiêng đổ xuống dưới đường, tầng cao tầng thấp
như chắp vá, úp mặt vào nhau kín cả lối đi. Tất cả một màu gạch ngói, như
một cái thung lũng giữa một vành đai xanh của những phố Tây cũ” [35,430].
Sự pha trộn văn hoá Đông - Tây đã để lại cho kiến trúc Hà Nội những
hoạ tiết trang trí đa dạng và độc đáo. Và dưới ngòi bút của nhà văn Nguyễn
Huy Tưởng, phố phường Hà Nội hiện lên chân thực, mang vẻ đẹp cổ kính đầy
quyến rũ. Các chi tiết và hoạ tiết dân gian, cách cấu tạo, phối kết được thể
hiện trên kiến trúc cổ của Hà Nội chính là minh chứng cho một chặng đường
phát triển của văn hoá truyền thống dân tộc.
Một trong những địa danh mang đậm nét đặc trưng của Hà Nội đó là
Hồ Gươm. Trong tiểu thuyết, danh thắng Hồ Gươm được nhà văn nhắc đến
nhiều lần. Văn hóa Việt Nam là văn hóa phương Đông, một nền văn hóa âm
tính, trong đó con người thường tìm đến sự thích ứng an trú, hòa đồng với
môi trường tự nhiên. Trong lịch sử, Thăng Long - Hà Nội đã tồn tại như một
hòn đảo đô thị nổi lên giữa một biển cả nông thôn, với nền văn minh thảo
mộc và sông nước. Yếu tố thiên nhiên đã thấm đẫm trong đô thị này, được
phản ánh trong thế ưu trội của không gian xanh và không gian nước. Do vậy
người dân Thủ đô họ gắn bó mật thiết với thiên nhiên. Và Hồ Gươm là một
phần không thể thiếu trong đời sống văn hóa tinh thần của người Hà Nội.
Danh thắng hồ Gươm với hàng loạt các di tích lịch sử - văn hoá có giá
trị như đền Ngọc Sơn, tháp Rùa, tháp Bút - đài Nghiên, cầu Thê Húc, tượng
vua Lê… đây không chỉ là một thắng cảnh của Thăng Long - Hà Nội mà còn
là trung tâm của một vùng văn hoá rất đặc biệt của Thủ đô ngàn năm văn
hiến. Bởi vậy, hồ Gươm luôn là đề tài ngợi ca của biết bao tao nhân mặc
khách trong nhiều thời kỳ. Với người dân Hà Nội, Hồ Gươm là niềm tự hào.
Còn với người dân ở các tỉnh, thành phố khác thì từ lâu hình ảnh Hồ Gươm đã
gần như trở thành một biểu tượng của Hà Nội. Đến với Hồ Gươm, ta được tận
hưởng bầu không khí trong lành, tươi mát, trái với cái sự náo nhiệt, sầm uất
74
của thành phố. Nhà văn Băng Sơn, trong tản văn Hà Nội rong ruổi quẩn
quanh đã miêu tả một Hồ Gươm rợp màu xanh: “Vận động viên đua xe đạp
hoặc các cuộc thi chạy quanh Hồ Gươm, có lẽ ít ai để ý xem cái vòng đua gần
hai nghìn mét ấy có những thứ cây gì tạo ra màu xanh mướt mát bốn mùa như
thế”. Có lẽ giữa thủ đô náo nhiệt, sầm uất này, một nơi được phủ toàn màu
xanh như Hồ Gươm là một đặc sản. Băng Sơn đã miêu tả đủ các màu xanh
của nhiều loại cây bốn mùa tụ họp bên bờ hồ. Mùa xuân với cây gạo chói
chang hoa đỏ, sau khi hoa gạo tàn, đến lượt hoa vông báo hiệu mùa hè. Rồi
cây lộc vừng, hoa như dây pháo hồng lấp ló trong lá xanh, một năm xuất hiện
hai lần vào mùa xuân và mùa thu. Đó còn là màu xanh của những cây đa cổ
thụ, cây si, cây đề. Bên bờ phía đông thì rợp màu xanh của cây sấu, cây nhội,
cây cơm nguội. Quả đúng là “Bờ Hồ Gươm có hồn, có dáng một phần quan
trọng là do màu xanh cây cối đem lại”. Viết về Hồ Gươm dù ở thời điểm nào
nó cũng đều mang một vẻ đẹp lãng mạn, thơ mộng mà bất cứ ai yêu mến, gắn
bó với Hà Nội cũng bị hấp dẫn bởi vẻ đẹp tự nhiên ấy.
Có thể nói bên cạnh những trang viết thấm nhuần cảm hứng sử thi và
lãng mạn anh hùng vẫn có những trang viết mang tâm thức văn hóa phong
tục. Bởi lẽ Nguyễn Huy Tưởng luôn quan tâm đến yếu tố văn hóa truyền
thống của dân tộc, điều đó bắt nguồn từ ý thức dân tộc mạnh mẽ và lòng yêu
nước sâu nặng. Tiểu thuyết Sống mãi với thủ đô với những yếu tố văn hóa ấy
đã góp phần lưu giữ cội nguồn lịch sử dân tộc, làm giàu có thêm đời sống tinh
thần của người Việt. Cùng viết về Hà Nội nhưng khác với văn của Thạch
Lam, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã tạo cho mình
một văn phong độc đáo mang nét riêng biệt, ông không chỉ cảm nhận bằng cái
nhìn của một nhà văn mà còn bằng “cảm nhận của một nhà văn hóa” [14,73].
Xin mượn lời nhà văn Nguyễn Minh Châu trong bài Bên nhà văn Nguyễn Huy
Tưởng cùng ngắm Hồ Gươm, để nói về dấu ấn văn hóa trong sáng tác Nguyễn
Huy Tưởng: “Nghĩ về ông, bao giờ tôi cũng tưởng tượng ra một nhà văn đồng
thời là một nhà văn hóa”.
75
Tiểu kết
Đọc Sống mãi với thủ đô ấn tượng đậm nét nhất là sự hòa quyện giữa
cái hào hùng trong chiến đấu với cái hào hoa rất riêng của người Hà Nội. Hào
hùng là vẻ đẹp mang phẩm chất, cốt cách mạnh mẽ thuộc về ý chí. Hào hoa là
nét đẹp thuộc về tâm hồn, tình cảm lãng mạn. Hai nét đẹp ấy đối lập nhưng lại
hòa quyện, thống nhất trong một chỉnh thể. Dù trong khói lửa bom đạn của
cuộc chiến tranh, nhưng với tư tưởng nhân văn, Nguyễn Huy Tưởng vẫn tìm
kiếm và khắc họa những vẻ đẹp đặc trưng của đất và người Hà Nội. Trong đó
có nhiều phát hiện mới mẻ so với các sáng tác cùng thời về đề tài Hà Nội.
Chắc chắn phải là người am hiểu sâu sắc lịch sử Thủ đô, dành tình yêu mến
cho từng tấc đất, từng con người Hà Nội mới giúp Nguyễn Huy Tưởng viết về
Hà Nội chân thực, tinh tế và sâu sắc đến vậy. Tất cả đều có cội nguồn từ tình
yêu quê hương, đất nước, con người Việt Nam. Hơn nữa, Nguyễn Huy Tưởng
tiếp cận Hà Nội không chỉ qua thời gian lịch sử mà còn đậm màu sắc văn hóa.
Văn hóa Thủ đô hay rộng hơn cũng chính là văn hóa dân tộc Việt. Đọc Sống
mãi với thủ đô chúng ta càng thêm yêu hơn đất và người Hà Nội, càng tự hào
về Thủ đô nghìn năm văn hiến.
76
Chương 3
MỘT SỐ ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT
3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
3.1.1. Kiểu nhân vật tư tưởng
Nói đến nhân vật văn học là nói đến con người được miêu tả, thể hiện
trong tác phẩm bằng phương tiện văn học. Chức năng của nhân vật là khái
quát những quy luật của cuộc sống con người, thể hiện những hiểu biết,
những ước ao và kì vọng về con người. Nhà văn sáng tạo nhân vật là để thể
hiện những cá nhân xã hội nhất định và quan niệm về các nhân tố đó. Nói
cách khác, nhân vật là phương tiện khái quát các tính cách, số phận con
người và các quan niệm về chúng. Trong tác phẩm văn học nhân vật không
chỉ là nơi để thể hiện tư tưởng của nhà văn, chủ đề của tác phẩm mà còn là
nơi tập trung các giá trị nghệ thuật của tác phẩm, thể hiện tài năng nghệ
thuật của nhà văn.
Trong tiểu thuyết Sống mãi với thủ đô, Nguyễn Huy Tưởng xây dựng
kiểu nhân vật tư tưởng - là loại nhân vật tập trung thể hiện một tư tưởng, một
ý thức tồn tại trong đời sống tinh thần của xã hội. Ðể xây dựng thành công
một nhân vật văn học, nhà văn phải có khả năng đồng cảm, phát hiện những
đặc điểm bền vững ở nhân vật. Ðiều này đòi hỏi nhà văn phải hiểu đời và hiểu
người. Nhưng có một điều không kém phần quan trọng là nhà văn phải miêu
tả, khắc họa nhân vật ấy sao cho có sức thuyết phục mạnh mẽ đối với người
đọc. Nguyễn Huy Tưởng đã rất thành công trong việc xây dựng nhân vật Trần
Văn - nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết, nhân vật tư tưởng, nhân vật điển
hình trong thiên truyện.
Ðọc một tác phẩm, cái đọng lại sâu sắc nhất trong tâm hồn người đọc
thường là số phận, tình cảm, cảm xúc, suy tư của những con người được nhà
văn thể hiện. Nguyễn Huy Tưởng đã đi vào miêu tả cử chỉ, hành động, những
trạng thái tâm lí góp phần tạo nên tính cách điển hình của nhân vật.
77
Nguyễn Huy Tưởng tập trung miêu tả những trạng thái tâm lí, đời sống
nội tâm của nhân vật bằng vốn ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu cảm xúc để cho
người đọc thấy được chiều sâu tâm hồn của nhân vật, khiến nhân vật hiện lên
chân thực, sinh động. Quá trình đến với cuộc kháng chiến của Trần Văn là sự
chuyển biến lớn lao trong suy nghĩ, nhận thức.
Tác giả khắc họa nhân vật Trần Văn - một thầy giáo trường tư trong quá
trình đến với cách mạng với những trạng thái tâm lí đa dạng, phong phú. Nhân
vật Trần Văn để lại ấn tượng đậm nét nhất trong thiên truyện bởi đây là nhân
vật thể hiện tư tưởng của nhà văn. Trong quá trình đến với cách mạng, tâm lí
Trần Văn có nhiều sự thay đổi trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Nguyễn Huy
Tưởng đã để cho nhân vật tự bộc lộ đời sống nội tâm qua nhiều hoàn cảnh.
Đó là niềm vui sướng, hạnh phúc khi anh được sống trong những ngày
đất nước tự do, độc lập: “Anh có ngờ đâu Cách mạng tháng Tám nổ ra, nước
Việt Nam nhỏ bé của anh ngang nhiên thành lập chế độ cộng hòa dân chủ
đầu tiên ở châu Á, và chính anh lại được sống những ngày lớn lao ấy. Anh
bàng hoàng như mê say, mặt bừng bừng nóng. Anh nhảy nhót trên con đường
đầy ánh sáng của một mùa thu tuyệt đẹp. Anh ngẩng đầu ngắm lá cờ đỏ sao
vàng trên đỉnh cột cờ, nhìn vòm trời xanh lồng lộng” [35,26]. Niềm hạnh
phúc ấy khiến anh thấy mình gắn bó với vận mệnh dân tộc và anh tự nguyện
đến với cách mạng.
Là một thanh niên tiểu tư sản, lúc đầu anh cũng mang theo bản chất yếu
đuối, sợ gian khổ, sợ hi sinh, không dám hoạt động cách mạng. Khi chứng
kiến một người cách mạng lao vào xe điện của giặc hi sinh để bảo vệ đồng đội
mình, Trần Văn có suy nghĩ: “Có điều là mình nhát sợ. Mình phục những
người cộng sản thì có phục nhưng không dám nhìn. Những hi sinh của họ
quá cái sức của mình” [35,36]. Nhưng nỗi sợ hãi đó dần dần biến mất, Trần
Văn đã hòa chung với các tầng lớp, đặc biệt là thanh niên Thủ đô, anh đã xác
định được lý tưởng của mình, muốn đóng góp sức mình cho cách mạng. Anh
đã đến với cách mạng và làm những công việc thật ý nghĩa.
78
Niềm hạnh phúc lớn lao trong anh khi được là những chiến sĩ thủ đô, góp
phần vào sự bình yên của thành phố: “Trần Văn cảm thấy có một cái gì vui
không thể nói được, nó ấm ấm, nhẹ nhẹ, phơi phới từ bên trong đưa ra. Cái vui
mỏi mệt của một người bằng lòng đã làm được một việc gì thiết thực và thấy
mình gắn sâu vào cuộc đấu tranh chung, hòa với cái say sưa của bỡ ngỡ và cái
khoái cảm đau đớn của bắp thịt bị tù hãm, bước đầu được kích thích” [35,76].
Bỏ lại sau lưng người mẹ già để bước vào trận chiến, lòng anh tràn đầy tình
cảm nhớ thương: “Vào trong buồng của mẹ, anh với tay lên tường lấy cái ba lô
quần áo mà mẹ đã đưa may từ mấy hôm trước. Anh quàng cái quai lên vai,
ngùi ngùi nhớ mẹ mà anh không rời từ thuở nhỏ. Anh đứng ngắm cái buồng
con của mẹ, cái sập mộc, cái hòm khóa chuông anh vẫn nghe quen, cái thạp
gạo mẹ đã đong đầy, cuộn bóng thủ gói trong một tờ báo mẹ đã sắm để chuẩn
bị Tết sắp đến. Tất cả toát lên một cái gì sơ sài, tạm bợ, lạnh lẽo của những nơi
người già ở. Sự vắng mặt của mẹ càng tăng thêm cái không khí cô độc, hiu hắt
[35,100]. Tham gia kháng chiến tức là anh phải từ bỏ nhiều thứ quan trọng, là
người mẹ đáng thương, là gia đình, là công việc dạy sử yêu thích. Nguyễn Huy
Tưởng rất am hiểu nhân vật, ông đặt nhân vật của mình trong nhiều hoàn cảnh để
nhân vật tự bộc lộ cá tính. Lúc đầu tuy còn băn khoăn, sợ hãi nhưng khi thực sự
bước vào trận chiến, Trần Văn cũng đã hòa chung với không khí của người
dân Thủ đô, anh tự nguyện dấn thân vào cuộc chiến và tha thiết được cống
hiến cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc: “Cuộc sống lặng lẽ đã qua rồi.
Ạnh đã viết cái lời thề sống chết. Quen hay không quen, sống hay chết, anh vẫn
cứ phải đi vào cuộc chiến đấu. Vui sướng biết bao nếu trong trận cuối cùng
này anh được là người cuối cùng hy sinh cho tự do của dân tộc” [35,210]. Anh
cũng chứng tỏ tuổi trẻ Thủ đô là những thanh niên sống có lý tưởng cao đẹp:
“Người ta thường trách thanh niên chúng ta không có lý tưởng. Đây là lúc
chúng ta có một lý tưởng để mà phụng thờ, để mà hy sinh…Ngoài cái ăn cái
mặc ra, còn phải suy nghĩ làm sao có thể giúp ích cho đời, phải có cái gì để lại,
79
nó đánh dấu sự tồn tại của một con người, nó nâng con người lên trên cái ăn
cái mặc. Đấy là lý tưởng, đấy là lý do sự có mặt của mình trên trái đất”
[35,240]. Với khả năng quan sát, những am hiểu sâu sắc về tâm lí đã giúp nhà
văn diễn tả một cách tài tình những tâm trạng, những suy nghĩ, những phản
ứng tâm lí của nhân vật, sự biểu hiện hợp lí nội tâm góp phần quan trọng tạo
nên sức sống cho nhân vật. Có được thành công đó là sự am hiểu sâu sắc cuộc
sống và con người, nắm bắt được những biểu hiện và diễn biến dù nhỏ nhặt
nhất đời sống bên trong của nhân vật.
Bên cạnh việc miêu tả tinh tế, phong phú diễn biến tâm lí nhân vật
trong quá trình đến với cách mạng, Nguyễn Huy Tưởng còn xây dựng được
tính cách điển hình cho nhân vật thông qua nghệ thuật miêu tả hành động, cử
chỉ. Cử chỉ, hành động giúp nhân vật trở nên sống động, sắc nét và chân
thực hơn. Miêu tả quá trình đến với cách mạng của Trần Văn, lúc đầu anh
còn sợ hãi, lo lắng nhưng cuối cùng anh đã tham gia vào cuộc chiến với tất
cả sự kiên quyết và gan dạ.
Bên cạnh những đoạn văn miêu tả sâu sắc thế giới nội tâm của nhân
vật, Nguyễn Huy Tưởng để cho nhân vật của mình hành động để tự bộc lộ
phẩm chất. Đó là cảnh Trần Văn chia tay người mẹ tản cư về quê còn anh ở
lại. Giữa lúc người Hà Nội tản cư rầm rập thì anh lại hiên ngang ở lại thủ đô,
kiên quyết bám trụ thành phố. Cùng với mọi người trong tiểu đội, anh tham
gia đắp ụ ngăn bước tiến của kẻ thù đã thể hiện được ý chí, tinh thần “quyết tử
cho Tổ quốc quyết sinh” của một người thanh niên thủ đô: “ Giờ hành động
đã đến rồi. Anh sẵn sàng làm tất cả những việc gì khó nhọc, nguy hiểm. Khi
được lệnh của ủy ban là phải tích cực đào hầm đắp ụ, anh không chờ đến tối
nữa, ra đây xẻ đường với một tiểu đội trong trung đội của anh. Anh hăm hở
tưởng như anh có thể đào ngay được một cái hào sâu, dựng ngay một chiến
lũy, to hơn, vững chắc hơn những cái ụ ở Khâm Thiên, ở ô Chợ Dừa, ở Cầu
Rền, ở ô Đống Mác” [35,75].
80
Nguyễn Huy Tưởng chọn lọc nhiều chi tiết qua đó giúp người đọc thấy
được bản chất, cá tính nhân vật. Trần Văn thu xếp đồ đạc, gác bỏ những thứ
không cần thiết. Anh bỏ lại sau lưng sách vở, giấy má - những món đồ quen
thuộc của một thầy giáo, cặp da của anh giờ nhét đầy các thứ cần thiết hơn:
khẩu súng lục, mấy quả lựu đạn, một nắm lương khô. Đó là hành trang của một
người chiến sĩ Thủ đô, chi tiết ấy cho thấy anh đã sẵn sàng từ bỏ hạnh phúc cá
nhân, nhường chỗ cho lợi ích của cộng đồng. Dọn dẹp đồ đạc, thấy tấm ảnh
của Trinh - người yêu cũ cũng làm Trần Văn nhớ về quá khứ tươi đẹp của hai
người, nhưng trong thời điểm hiện tại, không gì quan trọng hơn là tham gia
kháng chiến bảo vệ Thủ đô, bảo vệ Tổ quốc bằng hành động dứt khoát “Anh
thở phì một cách chua chát, vung tay trong một cử chỉ dứt khoát, cúi xuống
khóa ngăn kéo, cầm lấy cái cặp chứa nặng những võ khí và bước xuống dưới
nhà” [32,99]. Miêu tả hành động kiên quyết ấy của Trần Văn, nhà văn cũng
muốn cho người đọc thấy được ý chí của tầng lớp thanh niên Hà Nội bấy giờ.
Họ dũng cảm, kiên cường, sẵn sàng bỏ lại những hạnh phúc riêng tư, hướng
đến lợi ích của tập thể, của cả dân tộc. Nhà văn đã để cho nhân vật của mình
thể hiện lí tưởng bằng những hành động cụ thể, những công việc nhỏ bé thôi
nhưng thật có ý nghĩa. Không chỉ đào hầm, đắp ụ với mọi người, Trần Văn còn
làm nhiệm vụ gác đêm thay cho bạn: “Trời sáng rõ, anh vui sướng làm xong
cái nhiệm vụ gác đêm, ở dưới đường, thay cho bạn. Nó vẫn nặng nề và nguy
hiểm hơn những cuộc gác ban ngày trên gác cao” [32,211].
Nét đặc biệt, độc đáo của Nguyễn Huy Tưởng là ông biết phối hợp, đan
xen số phận của nhân vật với những sự kiện trọng đại của dân tộc, ở đây chính
là cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp - một thử thách nguy hiểm, nặng nề,
chính trong hoàn cảnh đặc biệt ấy nhân vật sẽ tự bộc lộ phẩm chất, tính cách.
Tác giả xây dựng các chi tiết quanh số phận, đời tư của nhân vật cũng đều liên
quan đến những sự kiện của cả dân tộc. Nguyễn Huy Tưởng đặt nhân vật đứng
trước thử thách nguy hiểm, giữa tự do và nô lệ, giữa sự sống và cái chết, chính
81
là đặt trong bối cảnh những ngày đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Trong bối cảnh đó giúp Trần Văn tự bộc lộ phẩm chất đẹp đẽ của mình. Thầy
giáo Trần Văn mang trong mình cái yếu đuối của tầng lớp tiểu tư sản, anh đã
từng “rùng mình khi nghĩ đến những trận đánh” [32,210], nhưng rồi chiến
tranh xảy ra, đứng trước những nguy hiểm của cuộc kháng chiến đã tôi luyện,
giúp anh trở thành một thanh niên Thủ đô bản lĩnh, kiên cường, dũng cảm, sẵn
sàng hi sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc: “Nhưng anh nghĩ, vấn đề là phải
thắng trong keo quyết định này. Sao những người thiện chiến là bộ đội lại đi?
Họ có trở về không? Anh tự nhủ: Dù sao thì mình cũng chỉ biết được cho mình.
Anh đã ở lại. Anh đã chia tay với mẹ. Anh đã bỏ cái nhà ấm cúng, cuộc đời dạy
học mà anh thiết tha,công việc nghiên cứu sử anh đã làm trong mấy năm nay.
Anh đã viết cái lời thề sống chết. Quen hay không quen, sống hay chết, anh vẫn
cứ phải đi vào cuộc chiến đấu. Vui sướng biết bao nếu trận cuối cùng này anh
được là người cuối cùng hy sinh cho tự do của dân tộc” [32,210]. Trước thử
thách đầy nguy hiểm, Trần Văn đã bộc lộ ý chí, quyết tâm, tinh thần trách
nhiệm cao của những thanh niên quyết sống chết với Thủ đô. Lý tưởng ấy được
Trần Văn thể hiện bằng hành động cụ thể, anh đã đóng góp công sức nhỏ bé
của mình vào công cuộc kháng chiến của toàn dân tộc.
Nguyễn Huy Tưởng không trực tiếp bày tỏ quan điểm của mình về
cuộc sống, về thời cuộc, mà thông qua cái nhìn của các nhân vật trong cuốn
tiểu thuyết, đặc biệt là Trần Văn, các sự kiện lịch sử được hiện lên, tư tưởng
của nhà văn cũng được thể hiện. Trần Văn chính là nhân vật thể hiện tư tưởng
của nhà văn. Sống có lý tưởng, có trách nhiệm, sống để làm những việc có ý
nghĩa, sống vì mọi người: “ Người ta thường trách thanh niên chúng ta không
có lý tưởng. Đây là lúc chúng ta có một lý tưởng để mà thờ phụng, để mà hy
sinh… Ngoài cái ăn cái mặc ra, còn phải suy ngẫm làm sao có thể giúp ích
cho đời, phải có cái gì để lại, nó đánh dấu sự tồn tại của một con người, nó
nâng con người lên trên cái ăn cái mặc. Đấy là lý tưởng, đấy là lý do sự có
82
mặt của mình trên trái đất” [32,240]. Những suy tư của nhân vật cũng chính
là quan điểm, tư tưởng của tác giả. Niềm vui sướng của Trần Văn khi tham
gia cách mạng cũng có thể chính là niềm hân hoan của người thanh niên
Nguyễn Huy Tưởng năm nào khi được trực tiếp tham gia hoạt động cách
mạng, đóng góp công sức nhỏ bé của mình vào thắng lợi của dân tộc. Bởi suốt
cuộc đời Nguyễn Huy Tưởng ông luôn trăn trở, suy nghĩ, chiêm nghiệm về
lịch sử, về giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, sâu xa đó là lòng yêu quê
hương, đất nước tha thiết.
3.1.2. Kiểu nhân vật đám đông
Với Sống mãi với thủ đô, Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng được một
thế giới nhân vật đông đảo, sinh động. Cuốn tiểu thuyết viết về hai ngày đầu
của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đặc biệt nhà văn muốn nói đến
quá trình đến với cách mạng của nhiều tầng lớp trong xã hội - đông đảo nhân
dân Hà Nội - những con người làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến.
Nguyễn Huy Tưởng khắc họa đội ngũ nhân vật tỉ mỉ, chi tiết, mỗi
người đều có tên, có tuổi, có nghề nghiệp, có chân dung rõ ràng, họ xuất thân
từ nhiều tầng lớp khác nhau. Đó là các chiến sĩ cách mạng như Nguyễn Gia
Định, Quốc Vinh - họ là những người lãnh đạo phong trào, là lực lượng nòng
cốt của cuộc kháng chiến ở thủ đô. Đó là những người thuộc tầng lớp lao
động như Dân, Sinh, Nhân. Đặc biệt nhà văn chú trọng tầng lớp trí thức tiểu
tư sản như Trần Văn, Văn Việt, Nhật Tân, Hồng Lưu, Loan, Quyên, Hương -
những thanh niên Thủ đô mang trong mình ý chí quyết tâm đánh giặc. Cuộc
chiến bước đầu thắng lợi cũng là kết quả của tinh thần đoàn kết, đồng lòng
của quân và dân Hà Nội. Chính vì vậy Nguyễn Huy Tưởng đã mở rộng thế giới
nhân vật của mình. Ngoài những nhân vật thuộc tầng lớp trung lưu, nhà văn
còn hướng tới các tầng lớp nhân dân lao động như Lan - cô gái bán hoa Ngọc
Hà, mẹ Thắng bán xôi chè, Dân - thợ nguội, Tu - anh phu khuân vác, Lai - cậu
bé chuyên đi đánh giầy mũ,… Hầu hết họ đều là những người xa lạ với súng
83
đạn, chiến tranh, trước cuộc chiến, họ còn mang tâm lí bỡ ngỡ, e dè, sợ sệt,
song trước sự khiêu khích, tàn sát của thực dân Pháp, trước những mất mát, đau
thương mà nhân dân thủ đô phải gánh chịu, họ đã nhất tề đứng lên, đồng tâm
đồng lòng theo kháng chiến. Tinh thần yêu nước như chất keo gắn kết những
người xa lạ, họ đoàn kết đứng lên đánh giặc bảo vệ đất nước. Tất cả mọi người
đều ở lại Thủ đô, quyết không rời thành phố để bảo vệ từng góc phố, từng mái
nhà, từng con đường - thành quả cách mạng mà cha anh đã dựng xây. Từ ý
tưởng đó, nhà văn sáng tạo nên những chân dung con người của thời đại với
niềm gửi gắm tin yêu vào sức mạnh của nhân dân. Phong Lê có nhận xét:
“Nguyễn Huy Tưởng đã phác họa được nhiều thái độ khác nhau, nhiều số phận
khác nhau của con người trong một cơn rung chuyển lớn lao của lịch sử. Một
cách đặt vấn đề như thế đối với sáng tác trước cách mạng của anh là hoàn
toàn mới lạ, chưa thể có được” [10,24]. Ngòi bút Nguyễn Huy Tưởng thật tài
tình đã xây dựng được một đội ngũ nhân vật đông đảo nhưng trong hàng chục
nhân vật ấy ông vẫn lựa chọn và xây dựng thành các tuyến nhân vật, vẫn khắc
họa được từng chân dung, từng cá tính cụ thể, sinh động.
Nguyễn Huy Tưởng đặc biệt chú trọng khắc họa nhân vật trong tiểu
thuyết chủ yếu thông qua miêu tả tâm trạng, thái độ của các nhân vật. Nhà văn
đã miêu tả sự vận động, những chuyển biến tâm lí, nhận thức của các nhân vật
trong quá trình đến với cách mạng. Họ đều là những người yêu nước chân
thành nhưng mới nhập vào tổ chức chiến đấu nên trong tâm lí còn có những
suy nghĩ phức tạp. Đó là Trần Văn - nhân vật chính của thiên truyện, một thầy
giáo dạy sử, ban đầu còn có sự e dè, băn khoăn, sợ hãi trước cuộc chiến,
nhưng cuối cùng đã bỏ lại sau lưng người mẹ hiền, gia đình, công việc để trở
thành một chiến sĩ thủ đô gan dạ, dũng cảm, kiên cường, bản lĩnh: “Cuộc
sống lặng lẽ đã qua rồi. Ạnh đã viết cái lời thề sống chết. Quen hay không
quen, sống hay chết, anh vẫn cứ phải đi vào cuộc chiến đấu. Vui sướng biết
bao nếu trong trận cuối cùng này anh được là người cuối cùng hy sinh cho tự
84
do của dân tộc” [35,210]. Đó là các nhân vật Phúc, Lan, Hương - ba anh em
con của ông bà Cự Lâm - một gia đình tư sản giàu có, họ là những con người
từ nhỏ đã quen cuộc sống nhung lụa, đầy đủ, an nhàn mà người cha Cự Lâm
tạo dựng, họ là những công tử, tiểu thư được cưng chiều từ nhỏ. Giờ đây họ
phải lựa chọn một bên là cuộc sống đủ đầy, một bên là những khó khăn, mất
mát, đau thương, nhưng đổi lại nếu cuộc chiến thắng lợi họ sẽ có một tương
lai tươi đẹp. Nguyễn Huy Tưởng đã miêu tả thật chân thực, tinh tế những đấu
tranh trong nội tâm nhân vật, và cuối cùng họ đã đưa ra quyết định sẵn sàng
từ bỏ lợi ích cá nhân, hướng đến lợi ích của cộng đồng, của tập thể. “ Anh
thấy mình không thể trở về với bố mẹ được nữa. Anh ở lì cái nhà này, một nơi
hẻo lánh nhất của phố Hàng Khoai, và tin rằng cậu mợ sẽ không biết đâu mà
tìm đến” [35,120]. “Đã lâu lắm tôi muốn sống cuộc đời độc lập, không phải
ăn bám gia đình. Tôi muốn làm được một việc có ích” [35,126]. Đó là những
thay đổi lớn lao trong nhân vật Lan - người con gái mà mẹ cô luôn bảo bọc
như cây cảnh. Không còn bị gò bó trong cung cấm, tham gia kháng chiến cô
đã hòa đồng với mọi người: “Qua những buổi sinh hoạt trong phố mà gần
đây Lan được dự, con người nặng nề ấy đã có ít nhiều đổi khác. Cử chỉ đã bắt
đầu nhanh nhẹn; môi đã nhếch cười, điều mà bà giáo thường nghiêm cấm.
Những buổi sinh hoạt ấy đã mở cho Lan một cuộc đời mới như một chén rượu
nhỏ cũng đã làm cho những người không quen uống say ngay, cuộc tiếp xúc
với một thế giới khác lạ có một sức hấp dẫn đặc biệt đối với Lan. Ở đây,
không có cái bóng của bà giáo trùm lên. Ở đây không có những buồn tẻ hàng
ngày. Ở đây có một cái gì mà Lan sờ sợ nhưng nó vẫn đẩy Lan đi, ấy là sự
gần gũi những anh em thanh niên, những cặp mắt nhìn Lan, những lời nói ý
nhị có duyên, nó kìm Lan hơn nữa trong thế giữ mình. Đồng thời nó làm rạo
rực xác thịt và làm nảy lên trong đầu nóng hổi của Lan những ước vọng vấn
vương [35,122]. Tiếng súng đạn của chiến tranh đã thức tỉnh họ, là bước
ngoặt tạo nên những đổi thay trong cuộc đời nhiều con người, hướng họ đến
85
một cuộc đời ý nghĩa hơn. Chàng họa sĩ Thu Phong - cuộc đời nghèo túng,
sớm phải lăn lộn mưu sinh, khi kháng chiến nổ ra, cất cây đàn, trong tay anh
là bao súng lục và quả lựu đạn. Lúc đầu khi đại đội trưởng ra lệnh đi đốt mìn,
anh sợ hãi, run rẩy, thấp thỏm sợ bị giặc bắn. Được giao nhiệm vụ nhưng anh
còn oán tiểu đội trưởng như đẩy mình vào chỗ chết. Nhưng khi được tận mắt
gặp những chiến sĩ công an xung phong, nghe họ kể chuyện ném xe tăng anh
lại có cảm tình với những người bộ đội, cảm phục họ: “Anh thấy dân tộc mình
chưa bao giờ có sức mạnh như thế và nước mắt anh chảy ra, cảm động nhìn
họ cuộn giấy lại để hút thuốc lào” [35,322], dần dần anh nhận ra lý tưởng
sống, thấy được ý nghĩa của cuộc kháng chiến.
Khắc họa đội ngũ nhân vật từ nhiều tầng lớp, giai cấp , Nguyễn Huy
Tưởng đã sử dụng bút pháp đặc tả ngoại hình cho người đọc thấy được chi
tiết, tỉ mỉ nguồn gốc xuất thân của từng lớp người tham gia kháng chiến. Cách
miêu tả ấy khiến cho người đọc thấy được một thế giới nhân vật đông đảo, đa
diện, đa tính cách, làm nổi bật lên tinh thần yêu nước, tinh thần dũng cảm, của
nhiều tầng lớp nhân dân Hà Nội. Nguyễn Huy Tưởng đặc biệt quan tâm đến
tầng lớp trí thức tiểu tư sản, họ là những thanh niên Hà Nội mang trong mình
lý tưởng sống cao đẹp, sẵn sàng hi sinh vì tổ quốc. Đó là Trần Văn - nhân vật
chính của cuốn tiểu thuyết: “Đầu anh dong dỏng cao. Cái đầu húi theo lối
bàn chải, trông có vẻ gọn gàng, nhanh nhẹn, tương phản với đôi mắt lờ đờ
của một người mơ mộng nhiều hơn thực tế, tình cảm nhiều hơn lí trí. Lúc này
lũ trẻ muốn anh cười vì anh có một nụ cười đặc biệt nó làm cho vẻ mặt
thường nghiêm khắc và buồn buồn của anh trở nên tươi tắn, hồn nhiên”
[35,19]. Qua những chi tiết khắc họa chân dung này, người đọc phần nào thấy
được tính cách, cá tính của nhân vật. Đó là một con người có đời sống nội tâm
phong phú, trong cuộc sống anh hay chiêm nghiệm, suy tư về thời thế, về
cuộc đời. Loan - một học sinh tỉnh lẻ mới ra Hà Nội học. Anh ham đọc sách,
chăm học và theo đuổi mộng văn chương. “Loan là một thanh niên mà sự lớn
86
lên của thân thể cũng chầm chậm, kín đáo như lời ăn tiếng nói. Anh thu hình
giữa các bạn, bé nhỏ trong bộ áo the, lim dim đôi mắt sau kính trắng gọng
sắt, trông anh hiền lành, quê kệch và khôi hài” [35,17]. Nhưng đằng sau sự
quê kệch của một người tỉnh lẻ ấy là một con người giàu lòng yêu nước, anh
cũng hăng hái tham gia cách mạng. Phúc, Lan, Hương - những người con của
gia đình giàu có, từ nhỏ được bao bọc trong nhung lụa, họ là những chàng
công tử, những nàng tiểu thư kiêu kỳ được cưng chiều nhưng giờ đây họ cũng
không còn thiết tha cuộc đời tẻ nhạt ấy, ba anh em đã làm trái lời ông bà Cự
Lâm, nhất quyết từ bỏ cuộc sống an nhàn đi theo kháng chiến. “Phúc là một
thanh niên trạc hăm bốn, hăm nhăm, nhỏ nhắn và gầy. Anh đang ở trong
trạng thái kích thích của con một nhà giàu đã chán sự ăn mặc và muốn sống
một cách bình thường. Anh mặc một cái áo bờludông đã cũ. Cái phula len
xanh dọc vàng vắt trễ tràng nửa trước ngực nửa sau lưng để lộ cái cổ trắng
nõn của một con nhà giàu. Anh không đi bít tất. Quần dạ xắn lên. Đôi giày da
của anh phủ đầy vôi cát” [35,121]. Mặc dù con nhà giàu nhưng anh luôn cố ý
ăn mặc cho có vẻ phải bươn trải, lăn lộn như mọi người “chỉ mặc chiếc varơ
cũ, đầu đội bê rê”, để không tạo khoảng cách với những người bạn. Không
chỉ có Phúc chán ghét cuộc sống an nhàn, vô vị ấy, hai cô em gái của anh
cũng khao khát được sống trong một bầu không khí mới, trong lành hơn,
nhiều niềm vui hơn, bởi ở nhà, hai cô con gái được người mẹ bảo bọc như cây
cảnh: “Hương trạc mười sáu mười bảy, mặt bừng như hơ lửa, đôi mắt bồ câu
lấp loáng cái sáng hồn nhiên của tuổi thơ và cái e thẹn của tuổi dậy thì. Tóc
lòa xòa trên hai vai mảnh khảnh, khuôn lấy cái mặt trái xoan hơi gầy, nhưng
cái gầy ấy chỉ làm sắc sảo thêm gãy gọn thêm những đường nét trong sáng
sinh động dưới làn da tươi mát như nhung. Chân tay chưa nảy nở hết còn
lọng khọng, vụng về, luôn luôn cử động” [35,122]; “Khác với Hương, Lan tuy
mới ngoài hai mươi, đã có cái nặng nề xộc xệch của một người đứng bóng.
87
Nước da trắng, mai mái, xoa phấn nhẹ, không còn cái nhụy ánh lên của
những người đương độ. Đôi mắt nhỏ buồn buồn, mặt vô vị và không chuyển
động như Phật, phản ánh một cuộc sống cấm cung, cách biệt với cuộc đời
khép nép và giả dối, âm thầm và lạnh lẽo” [35,122]. Nhà văn đã miêu tả các
nhân vật của mình thật chi tiết để người đọc hình dung được số phận của từng
cá nhân và những chuyển biến lớn lao khi họ bước chân vào cuộc chiến.
Với số lượng nhân vật đông đảo nhưng Nguyễn Huy Tưởng rất tài tình
khi ông biết chọn lọc theo tuyến nhân vật để làm nổi bật lên ý tưởng của
người viết. Ngoài tầng lớp trung lưu, nhà văn còn hướng đến những người lao
động bình thường trong xã hội: Dân - anh thợ nguội: “là một thanh niên trạc
ngoài hai mươi tuổi, vai rộng, người lớn. Một pho tượng lực sĩ nước da đen
hồng, khuôn mặt trái xoan, lưỡng quyền hơi cao, đường nét gãy gọn, không bị
thịt mỡ làm cho thô và nặng. Toàn thể toát ra một con người khỏe mạnh, thật
thà, giản dị, điểm đôi chút phớt đời”; Đó là “Tu - anh khuân vác ở Cột đồng
hồ, một người trạc bốn mươi tuổi, hai vai rộng và chắc nịch như lực điền, da
mặt dày lên vì sự vất vả và tính thật thà. Mộng Xuân, anh kép cải lương,
khoảng mười bảy mười tám, người ẻo lả, mặt trắng bệu, tóc mai dài, ăn mặc
chải chuốt một cách lẳng lơ” [35,84]. Không chỉ những người trưởng thành
mới nhận thức được hành động tội ác của giặc Pháp, Nguyễn Huy Tưởng
miêu tả sự căm ghét bọn giặc Tây đối với cả những đứa trẻ. Đó là Lai - cậu bé
chuyên đi đánh giầy, mũ, tha thiết xin được vào tự vệ: “Lai là một đứa trẻ
khoảng mười ba mười bốn tuổi, mặc cái quần cộc, một cái áo sơ mi người lớn
bằng kaki vàng, lùng bùng sau cái áo sợi đan màu đỏ kệch. Một tay nó cầm
con dao, một tay xách cái hòm nhỏ. Tóc nó dài đến mái tai, ngả nghiêng như
lúc bị bão” [35,88]. Dù tuổi còn nhỏ nhưng Thắng - cậu bé bán báo hay Lai
đều thấy được sự đau đớn, nhục nhã khi phải chịu kiếp nô lệ. Những đứa trẻ
cũng ao ước được sống trong hòa bình, trong độc lập - tự do.
88
Đội ngũ nhân vật của Nguyễn Huy Tưởng thật đa dạng, phong phú.
Nguyễn Huy Tưởng đã mở rộng thế giới nhân vật của mình. Họ ở nhiều lứa
tuổi, nhiều giai cấp, nhiều ngành nghề. Bên cạnh những thiếu niên, thanh
niên giàu lòng yêu nước có cả những người tóc đã bạc nhưng họ vẫn hăng
hái tham gia kháng chiến: “Ông Lộc là một người già quắc thước, da mặt
hồng hào, tóc thưa và bạc nhiều, ngực nở, vai rộng, có cái vẻ nhanh nhẹn
của một nhà thể thao. Cử chỉ ông thoải mái trong một bộ tây màu hạt dẻ dài
rộng và mềm” [35,111]. Khác với ông bà Cự Lâm, ông Lộc tuy tuổi cao
nhưng rất nhiệt tình với cách mạng, ông tập thể dục thể thao đều đặn, khỏe
mạnh và ông đã động viên mọi người: “ Lúc này cứng cáp cần lắm. Nòi
giống phải tốt. Người Việt Nam không thể bé bằng cái cẳng tay mãi được.
Phải dạn dày mưa gió, phải tập thể dục, thể thao. Chiến tranh đến nơi rồi,
phải biết múa gươm bắn súng, trai cũng như gái” [35,111]. Miêu tả tỉ mỉ,
chi tiết nhân vật như vậy, nhà văn muốn cho người đọc thấy được lòng yêu
nước của nhiều tầng lớp nhân dân Hà Nội, dù ở ngành nghề nào, dù là nam
hay nữ, già hay trẻ, không phân biệt giàu nghèo họ đều hăng hái, nhiệt tình
và tự nguyện đến với cách mạng, sẵn sàng trở thành những cảm tử quân. Đó
chính là tinh thần đoàn kết của nhân dân Hà Nội tạo nên sức mạnh to lớn
chiến thắng mọi thế lực thù địch, bảo vệ thủ đô ngàn năm văn hiến.
Với thủ pháp đặc tả ngoại hình, tích cách nhân vật, đã giúp độc giả ghi
nhớ từng chân dung nhân vật, với những mối quan hệ của họ. Biết bao số
phận cá nhân được đặt chung trong một hoàn cảnh lịch sử của dân tộc. Đó là
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Trước những thử thách, mỗi người
đều có những chuyển biến tích cực trong suy nghĩ và nhận thức của mình.
Họ đều đã gạt bỏ lợi ích cá nhân để hướng tới cái lợi ích chung của cộng
đồng. Viết về đề tài lịch sử nhưng Nguyễn Huy Tưởng không lệ thuộc vào
các sự kiện trong các tài liệu lịch sử, con số cứng nhắc mà nhà văn thông
qua số phận, đời sống các nhân vật để tạo nên nguồn cảm hứng cho câu
89
chuyện lịch sử của mình. Với nghệ thuật xây dựng nhân vật tài tình, tài năng
quan sát, nhà văn đã dựng lên được một thế giới nhân vật toàn diện, đông
đảo, đa dạng nhưng cũng vẽ được nhiều chân dung điển hình, tiêu biểu cho
từng lớp người của nhân dân Thủ đô.
3.2. Ngôn ngữ
3.2.1. Ngôn ngữ trang nghiêm
Trong tác phẩm văn học, ngôn ngữ là một trong những yếu tố quan
trọng thể hiện cá tính sáng tạo, phong cách, tài năng của nhà văn. Khảo sát
những sáng tác trước và sau cách mạng của Nguyễn Huy Tưởng, ta thấy nhà
văn đã tạo dựng cho mình một văn phong riêng. Sử dụng ngôn từ trong sáng,
giàu tính gợi hình, gợi cảm, kết hợp các thủ pháp nghệ thuật đã tạo nên phong
cách nghệ thuật Nguyễn Huy Tưởng.
Ngôn ngữ trong tiểu thuyết Sống mãi với thủ đô có sự tinh tế, trầm
lắng, thanh lịch, không ồn ào, phô trương, do cảm hứng lịch sử chi phối. Viết
về Thủ đô với cảm hứng lịch sử buộc nhà văn phải chọn cho mình một văn
phong mang tính trang nghiêm, cổ kính. Điều đó hoàn toàn phù hợp với một
Thủ đô có bề dày lịch sử ngàn năm như Hà Nội.
Tiểu thuyết Sống mãi với thủ đô đã ghi lại lịch sử Hà Nội trong hai
ngày đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp với các sự kiện quan
trọng như cuộc tàn sát đẫm máu đồng bào ta tại ngõ Yên Ninh, lời kêu gọi
toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch, tiếng súng báo hiệu cuộc chiến tranh
bắt đầu nổ ra với những thắng lợi ban đầu của quân dân ta. Ghi lại những sự
kiện lịch sử trọng đại đó của dân tộc, với ngôn ngữ trang nghiêm Nguyễn
Huy Tưởng đã tái hiện được không khí lịch sử của những ngày kháng Pháp.
Khai thác đề tài lịch sử, Nguyễn Huy Tưởng không tô hồng những sự
kiện mà nhà văn tôn trọng sự thật lịch sử để từ đó có những phản ánh đúng
tinh thần lịch sử thời đại. Viết về thực dân Pháp, Nguyễn Huy Tưởng đã miêu
tả rất chân thực những tội ác của chúng: “Hàng ngày chúng cho quân đội nhất
90
là bọn lính mũ đỏ đi các phố, bắn súng chỉ thiên, bắn vào người ngoài phố,
bắt cóc người, để làm cho dân chúng hoang mang và kiếm chuyện với chính
phủ ta, chúng nói là ta khiêu khích rồi đòi đóng vị trí này, vị trí khác. Nhà
máy điện, nhà, nhà máy nước Yên Phụ, nhà Ga, chúng đòi gác chung với bộ
đội ta. Chúng cho Việt gian ngấm ngầm thủ tiêu bộ đội của chúng ta và
thưởng tiền rất hậu” [32,168]. Ý đồ của thực dân Pháp đã rõ, chúng chủ
trương muốn cướp nước ta thêm một lần nữa. Ngòi bút của nhà văn đã vạch
trần những tội ác tàn bạo của thực dân Pháp. Viết về lịch sử với những sự thật
vốn có của nó giúp nhà văn tái hiện chân thực cuộc chiến gay go, quyết liệt.
Trước những hành động khiêu khích của địch, Chính phủ ta cũng đã lên kế
hoạch đối phó với giặc, một mặt vận động đồng bào đặc biệt là phụ nữ, trẻ em
tản cư, mặt khác đề ra kế hoạch tác chiến: “Mệnh lệnh cấp tốc của đồng chí
khu trưởng vừa đưa xuống buổi chiều, cả mệnh lệnh hướng dẫn phá hoại, làm
chướng ngại vật. Nhà máy điện, nhà máy nước Yên Phụ, đã bố trí một đội đặc
vụ phối hợp với anh em công nhân để phá hủy ngay khi có pháo lệnh.Cầu
Long biên một đội quyết tử gồm bộ đội và tự vệ chiến đấu đã có kế hoạch phá
nhịp giữa….” [32,259]. Khắp nơi nơi, phố phường trở thành chiến lũy, những
con người là những chiến sĩ cảm tử quân. Tinh thần, ý chí quyết tâm đánh
giặc bừng cháy trong mỗi người dân thủ đô. Họ chỉ chờ đợi lệnh đánh của
Chính phủ là lao vào cuộc chiến.
Nguyễn Huy Tưởng đã đi vào trung tâm của cuộc chiến đấu, với tính
chất quyết liệt của một cuộc chiến một mất một còn. Ngôn ngữ trang nghiêm
ấy được thể hiện trong những trang văn miêu tả Hà Nội quật cường, anh dũng
trong chiến đấu: “Tiếng gió vù vù làm nặng thêm, âm vang thêm những tiếng
đục tường thình thịch, gấp gấp, những tiếng kê lại bàn ghế, tủ giường lục cục,
rít rít, sệt sệt. Những bàn tay vô hình đang đục phá bên trong như thét vang:
Chuẩn bị một nấm mồ vĩ đại để chôn chặt quân thù. Dãy phố hai bên xít lại.
Các mái nhà thấp xuống. Và cả một thành phố cũ được bê lên trên gác, với
91
những điện, những nhà thờ, những chòi gỗ, những chữ nho, những chậu cảnh,
những tường thấp quay lưng ra ngoài, những cửa sổ nhỏ như những cái lỗ,
thập thò sợ sệt, cả cái thành phố cũ ấy đã bị bỏ quên, như vụt hiện về, rung
chuyển sắp đổ nhào xuống để chặn giặc” [32,101]. Các tầng lớp nhân dân tự
nguyện và sẵn sàng bước vào cuộc chiến với một kẻ thù lớn mạnh, họ đã thể
hiện được bản chất của con người Việt Nam dũng cảm, kiên cường, quyết tâm
cao để giành thắng lợi. Mặc dù tiểu thuyết chỉ tái hiện Hà Nội trong hai ngày
đầu của cuộc chiến nhưng tác giả đã cho người đọc thấy được cái không khí
chuẩn bị và những giờ phút thực sự bước vào trận chiến được miêu tả rất sinh
động, chân thực.
3.2.2. Ngôn ngữ giàu chất thơ
Bên cạnh sự trang nghiêm, ngôn ngữ trong Sống mãi với thủ đô còn
chứa đựng một chất văn điềm đạm, uyên thâm pha chút lãng mạn, hào hoa.
Có được điều này phần nào do sự chi phối của yếu tố con người Nguyễn Huy
Tưởng: một con người giàu tình yêu thương và giàu chất nghệ sĩ. Đúng như
lời nhận xét của Bích Thu và Tôn Thảo Miên khi nghiên cứu về ngôn ngữ
trong Sống mãi với thủ đô: “Trong tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng nổi bật
ngôn ngữ trí tuệ, đãi lọc, giàu chất thơ của một cốt cách nghệ sĩ và một tầm
nhìn văn hóa mẫn cảm, nhân văn” [32,13].
Cuốn tiểu thuyết miêu tả vẻ đẹp của đất và người Hà Nội, bởi vậy có
nhiều trang văn viết về cảnh sắc thiên nhiên của thủ đô, những câu văn giàu
hình ảnh, giàu sức gợi, giàu cảm xúc. Không khó để nhận ra chất thơ trong
những đoạn văn miêu tả về thiên nhiên. Đó là khi nhà văn miêu tả con đường
Tràng Thi - con đường đẹp nhất Hà Nội: “Trên con đường thi cử của ông cha
khi xưa, một đêm hè, dưới vòm cây mát, Trần Văn và Trinh đã nói với nhau
những lời tự tình ban đầu. Con đường lúc này không đau thương quằn quại và
như quấn lấy anh. Thư viện trung ương mà anh là người đến đọc sách thường
xuyên, thì im lặng như ngôi đền, chỉ có lá bàng, lá đa rụng đều xuống những
92
thảm cỏ, xuống mấy cái ghế đá lơ thơ ngoài vườn vắng” [35,37]. Nguyễn Huy
Tưởng đã chắt lọc sao cho ngôn từ trong tác phẩm hàm súc nhất, giàu tính
nhạc, tạo nên sự truyền cảm lớn trong câu văn. Những câu văn miêu tả cái lạnh
của những buổi sáng ở Hồ Gươm khiến người đọc như đang trực tiếp cảm nhận
được không khí ấy: “Một mẩu Hồ Gươm trước mặt, những hàng liễu mơ hồ rủ
xuống bờ nước đen đặc. Mấy ngọn đèn trên cổng vào cầu Thê Húc sáng le lói.
Bên dãy thị chính từng ô dài ánh sáng đỏ, xanh, vàng, nhấp nháy dưới rặng
cây lẩn trong đêm tối. Khí lạnh của hồ thấm vào người anh. Lòng anh dạt dào
một thứ hoài cổ thường hay đến với anh…Anh bâng khuâng như sống trong
quá khứ, thuở Lê Thái Tổ thắng trận đi chơi hồ, trao lại cho rùa thiêng thần
kiếm đuổi giặc nay không dùng đến nữa, thuở những tao nhân mặc khách đến
đấy để ngâm thơ vịnh nguyệt, xướng họa với nhau, hào hứng giữa cảnh trời
xanh nước biếc của cái hồ xinh đẹp nằm giữa kinh kỳ” [35,207].
Chất thơ ấy thấm đẫm trong những trang văn miêu tả về vầng trăng -
hình ảnh xuất hiện nhiều lần trong thiên truyện “Qua cái cửa sổ lớn của chấn
song, Thu Phong lơ mơ nhìn lên trời. Trăng lưỡi liềm trong suốt như một bìa
giấy bạc, in rõ trên nền trời không gợn mây. Hai bên đuôi trăng có hai ngôi
sao sáng như ngọc. Anh nghĩ: người ta thường bảo sao bao giờ cũng xa trăng.
Không hiểu vì sao đêm nay, hai ngôi sao kia ở sát trăng mà sáng như thế được.
Đây là điềm gì? Điềm ta thắng hay thua? Anh là một nhà đạo gốc, nhưng từ bé
đến lớn anh không tin đạo. Quái, sao lúc này anh bỗng lẩm bẩm đọc kinh, cầu
trời cho Việt Nam chiến thắng. Vũ Minh cũng nhìn cái cảnh lạ lùng ấy, kêu lên
một tiếng ồ khe khẽ, rùng mình vì cái cô quạnh của trăng sao” [35,329].
Những hình ảnh thiên nhiên lãng mạn ấy được viết bằng một ngôn ngữ nhẹ
nhàng, bay bổng, giàu chất thơ. Hà Nội từ xưa đến nay luôn có sức hấp dẫn đến
kì lạ, bởi trong lòng thành phố cổ kính ấy luôn hiện hữu những vẻ đẹp lãng
mạn, nên thơ có sức lôi cuốn diệu kì. Vì gắn bó và yêu Hà Nội tha thiết, nên
Nguyễn Huy Tưởng không khó để phát hiện ra những vẻ đẹp lãng mạn ấy. Và
93
để miêu tả được cái hào hoa, lãng mạn của đất và người Hà Nội, nhà văn đã
linh hoạt vận dụng vốn ngôn ngữ giàu chất thơ của mình. Sử dụng ngôn ngữ
này, nhà văn đã cho người đọc thấy được tâm hồn nghệ sĩ thực thụ, luôn dạt
dào cảm xúc trong con người ông. Phải là một người nghệ sĩ có cái nhìn tinh tế,
sâu sắc, một trái tim ấm nóng, chan chứa yêu thương mới viết ra được những
câu văn, đoạn văn tuyệt vời như thế. Những trang văn nhắc nhiều đến các sự
kiện, nhân vật lịch sử của dân tộc, nhưng dễ đọc, dễ cảm, dễ đi vào lòng người
vì chất thơ có sẵn trong ngòi bút của một nhà văn tài hoa.
Ngôn ngữ trong tác phẩm giàu chất thơ bởi nhà văn chú trọng đi sâu
phản ánh trạng thái cảm xúc tinh tế, đời sống nội tâm của nhân vật. Nguyễn
Huy Tưởng miêu tả tâm trạng của Trần Văn khi anh bước chân trên con
đường Tràng Thi nhiều kỉ niệm, nó gợi nhắc anh về những ngày xa xưa: “Họ
lặng lẽ bước trên con đường Tràng Thi lúc này không có xe chạy, chỉ có lẻ
tẻcó vài người đi vội vã. Lòng giận giặc, nỗi bực mình lẫn với Trần Văn cái
bồi hồi của nhớ tiếc, gợi lên do những lá bàng tím đỏ đầy đường sột soạt dưới
chân và mấy con chim đậu trên dây thép trong ánh bạc của khoảng cây trụi
lá…Trên con đường thi cử của ông cha khi xưa, một đêm hè, dưới vòm cây
mát, Trần Văn và Trinh đã nói với nhau những lời tình tự ban đầu. Con
đường lúc này trông đau thương quằn quại và như quấn lấy anh. Thư viện
trung ương mà anh là người đến đọc sách thường xuyên thì im lặng như ngôi
đền, chỉ có lá bàng, lá đa rụng đều xuống những thảm cỏ, xuống mấy cái ghế
đá lơ thơ ngoài vườn vắng” [35,36].
Viết về lịch sử nhưng chất văn của Nguyễn Huy Tưởng không hề khô
khan mà trái lại đậm màu sắc lãng mạn. Chất lãng mạn ấy thấm trong những
dòng miêu tả về quang cảnh Hà Nội. Đó là khung cảnh mọi người xúm quanh
anh thợ nặn tò he xem anh trổ tài, là tiếng đàn của nghệ sĩ Thanh Phong chơi
trong đêm yên tĩnh, là cảnh chợ Đồng Xuân nhộn nhịp, tấp nập chuẩn bị đón
giao thừa, là tinh thần lạc quan của quân và dân Hà Nội tin tưởng cuộc cách
94
mạng sẽ thắng lợi về ta. Khác với giọng văn lãng mạn của Thạch Lam, của
Vũ Bằng khi viết về Hà Nội, Nguyễn Huy Tưởng viết về Hà Nội xưa và nay
không chỉ bằng cái nhìn của một nhà văn mà còn đứng ở vị trí của một nhà
văn hóa nên ngôn ngữ trong thiên truyện giàu chất thơ. Vậy nên nhiều nhà
nghiên cứu đồng ý kiến cho rằng ông là “nhà chép sử bằng văn chương”.
3.3. Giọng điệu
3.3.1. Giọng hào hùng, bi tráng
Giọng điệu là một phương diện biểu hiện quan trọng của chủ thể tác giả.
Các nhà nghiên cứu Việt Nam cho rằng: “Giọng điệu phản ánh lập trường xã
hội, thái độ tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ của tác giả, có vai trò rất lớn trong việc
tạo nên phong cách nhà văn và tác dụng truyền cảm cho người đọc” [6,134].
Như vậy, điểm nổi bật của giọng điệu là qua nó, nhà văn thể hiện thái độ, tư
tưởng, tình cảm của chính mình. Có thể nói giọng điệu là thước đo để xác định
tài năng nghệ thuật của tác giả. Trong tác phẩm văn học, không bao giờ tồn tại
một giọng điệu duy nhất mà nó là sự hòa âm của nhiều giọng điệu, nó kết hợp
với nhau tạo nên giọng điệu bao trùm tác phẩm. Giọng điệu cũng liên kết với
các yếu tố hình thức khác của tác phẩm để góp phần hình thành nên một chỉnh
thể nghệ thuật trọn vẹn. Có thể nói giọng điệu trong tiểu thuyết Sống mãi với
thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng rất đa dạng, phong phú, nhiều cung bậc, nhưng
nổi bật, ấn tượng nhất vẫn là giọng điệu bi hùng hướng đến cái cao cả, hùng
tráng và giọng ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn, khí phách con người Việt Nam cũng
như sức sống và sự trường tồn của nền văn hóa dân tộc.
Trong tiểu thuyết, nhà văn sử dụng giọng văn hào hùng, bi tráng để ca
ngợi những con người thủ đô anh dũng, họ có nguồn gốc xuất thân từ các
tầng lớp khác nhau, từ thấp kém tới danh giá nhưng trước cuộc chiến này, họ
đã đoàn kết, gắn bó với nhau cùng hướng về một mục tiêu bảo vệ thành quả
cách mạng.
95
Giọng bi tráng được thể hiện trong những trang văn nói về những đau
thương, mất mát của nhân dân Thủ đô. Cuộc tàn sát đẫm máu ở ngõ Yên Ninh
với những cảnh tượng vô cùng thương tâm, đầy ám ảnh: “Tên lính tháo đôi hoa
tai của người mẹ thản nhiên đút vào túi. Mặt người đàn bà trắng như một tờ
giấy, thân oãi cong lên. Môi tên lính rung rung. Nó tuốt lưỡi lê, đâm gọn vào cái
cổ, tay nắm tóc buông ra. Đầu người mẹ gieo mạnh xuống sàn gạch. Không một
tiếng kêu. Lưỡi lê lại vung lên. Đứa con lớn đứng bên xác mẹ vừa khóc vừa đưa
hai bàn tay nhỏ bé lên đỡ. Một ánh chớp loáng. Hai bàn tay vụng dại nắm chầm
lấy cái lưỡi lê đâm mạnh, thọc sâu vào ngực nó” [35,50]. Chứng kiến cảnh
tượng thương tâm ấy, người thanh niên không chịu nổi anh đã xông lên, đánh trả
lại tên lính tàn bạo nhưng ngay lập tức anh bị bọn lĩnh mũ đỏ xuống tay tàn ác:
“Lưỡi lê đỏ máu của tên lính hung ác dứ dứ mấy cái rồn đâm phập vào cổ ằng
ặc của người thanh niên. Nó xoay nghiêng cái cổ cho máu ồng ộc chảy xuống
cái âu trầu” [35,51]. Cuộc tàn sát kéo dài đến quá trưa và cái còn lại là một ngõ
phố đổ nát, nhiều máu và nước mắt: “Chúng quăng mấy cái đầu lâu ra giữa
đường và lên xe kéo về Cửa Bắc. Một chiếc máy bay vẫn lượn sát các mái nhà.
Tiếng khóc thảm thiết nổi lên trong cái ngõ đổ nát và cháy rừng rực. Người ta
bới tìm xác của những người thân” [35,52]. “Tiếng máy bay ù ù, rè rè trên đầu.
Máy bay là là các mái nhà, nghiêng cánh. Tiếng súng nổ vang động cái phố yên
tĩnh. Một con bé đang ăn phở bị trúng đạn, ngã xuống, bát phở văng đi(…) Hai
đầu ngõ Yên Ninh bị vít lại. Những cây gỗ đã bị nhổ mang lên xe. Cái ụ đất bị
san phẳng. Trọng pháo ở trong thành bắn sang yểm hộ. Ngôi chùa nhỏ ở trong
ngõ đổ sụp. Hơn một chục tên lĩnh mũ đỏ rầm rập tiến vào cái ngõ vắng tanh,
bụi bốc mù rải rác mấy xác người nằm chết hai bên hè” [35,49]
Trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến, đã diễn ra những cảnh tượng
rất thương tâm mà thực dân Pháp gây ra cho đồng bào ta: “Trên giường máu đỏ
lòm phủ đầy những mảnh thủy tinh, sành sứ, một cái cùi tay của một xác người
giơ lên. Một người bị thương nằm bên đang vật vã. Tấm gương lớn bên tường bị
văng đi một nửa. Lối đi vào phòng trong đỏ những vết chân đi” [35, 314].
96
Trong trận đánh lui đợt tấn công thứ ba và cuối cùng của địch - trận
chiến ác liệt nhất kể từ lúc nổ súng, các chiến sĩ của ta cũng đã hi sinh nhiều:
“Từ cổng giữa sang cổng bên phải, không một chiến sĩ nào còn sống. Người
gục đầu trên miệng hố, người nằm ngửa trên mặt đất, người nằm sấp trên cái
thềm ximăng, đầu chúc xuống” [35, 379].
Kẻ thù đã gây ra cho đồng bào ta bao đau thương, mất mát. Những tội ác
đó chẳng những không uy hiếp được quân dân Hà Nội và cả nước mà càng làm
bùng lên ngọn lửa căm thù quân xâm lược của nhân dân và chiến sĩ của ta. Trần
Văn đã thực sự cảm nhận được cái khốc liệt của chiến tranh: trời tối, điện tắt,
cây đổ ngổn ngang, người chết phơi mình trên đường, đạn vãi, bom nổ:
“Tai anh ù ù, màng tai như vỡ ra bởi những tiếng tặc tặc, đoành đoành,
lục cục, ríu ríu xé trời, ran ran như pháo đùng, pháo tép, không chừa một
khoảng không khí nào của Hà Nội. Quãng đường không xa lắm mà anh đi
mãi không thấy hết, đầy bất trắc và hiểm nghèo. Bàn tay vừa mó vào xác chết
cứng còng còng. Anh rùng mình sởn gai ốc” [35,275].
Bọn giặc đã gây ra những tội ác trời không dung, đất không tha, gây
cho đồng bào ta - những người dân thường vô tội phải chịu biết bao đau
thương, mất mát. Trước những hành động khiêu khích ấy của thực dân Pháp,
Chính phủ và nha dân ta càng nêu cao lòng quyết tâm tiêu diệt kẻ thù, nhất
định không chịu làm nô lệ, càng làm cháy lên lòng yêu nước của quân và dân
Thủ đô. Với tinh thần quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh, họ đã anh dũng bước
vào trận chiến không cân sức này.
Tiểu thuyết miêu tả không khí trước trận chiến và hai ngày đầu của
cuộc kháng chiến với một giọng văn hào hùng được bộc lộ ở những thời điểm
cam go của trận chiến. Chúng ta đang phải đối mặt với một kẻ thù hết sức lớn
mạnh, chúng đặt chân lên nước ta với lực lượng đông, đội quân tinh nhuệ, vũ
khí hiện đại. Tương quan lực lượng chênh lệch lớn, song với sức mạnh tinh
thần, lòng yêu nước, ý chí quyết tâm tiêu diệt kẻ thù đã giúp cho toàn quân và
dân ta có những thắng lợi ban đầu. Đó là tiếng súng mở màn kháng chiến từ
pháo đài Láng, là trận quyết chiến ở Bắc Bộ Phủ.
97
“Trong bóng tối các chiến sĩ ào ạt. Bên trong có những tiếng kêu Việt
Minh, mẹc, xà lù rối rít, tiếng giày chậy rầm rập, tiếng đóng cửa sầm sầm.
Bên cổng phía Hàng Trống đã có những tiếng súng của các chiến sĩ bắn vào
đèn đẹt. Tiếng hô xung phong vang dậy bốn bề, nhiều hơn tiếng súng bắn của
các chiến sĩ (…) Tiếng súng trong nhà đã bắn ra, lựu đạn ở trên gác đã
quăng xuống giữa những tiếng reo hò của chiến sĩ” [35,434].
Bằng giọng điệu hào hùng, bi tráng độc giả có thể cảm nhận được
những thắng lợi bước đầu, những chiến công oanh liệt, vẻ vang của quân và
dân thủ đô: “Ở Bắc Bộ phủ, ta chống cự oanh liệt, ba đợt tấn công của giặc
bằng cả bộ binh và thiết giáp đều bị đánh lui. Ba xe tăng đã bị phá hủy, một
trăm giặc bị tiêu diệt. Nhà Bưu điện, Thị chính, nhà Thủy lâm vẫn do quân ta
đóng. Ta đã tiêu diệt tất cả tán quân giặc ở nhà máy đèn Bờ Hồ, thu toàn bộ
võ khí, bắt được một xe gíp. Bộ Giao thông công chính, bộ Ngoại giao vẫn
thuộc về ta. Ta đã chiếm lại nhà máy nước đá, chiếm nhà Mejestic, đột nhập
nhà thằng Seinteny, nó đã phải trốn chạy” [35, 317]
Sau trận chiến ở Bắc Bộ phủ ta đã có những thắng lợi ban đầu: “Giặc
vẫn bị vây ở trong thành. Các cửa ô, nó không ra được. Bắc Bộ phủ vẫn ở
trong tay chúng ta. Năm xe tăng bị phá hủy bằng chai étxăng cờrếp”
[25,350]. Với quyết tâm cao độ, tinh thần anh dũng, kiên cường của Trung
đoàn Thủ đô đã bước đầu đem lại những thắng lợi, điều đó càng có sức mạnh
động viên tinh thần cho Chính phủ và nhân dân ta trong những ngày tháng tới
khi ta phải đương đầu với một kẻ thù lớn mạnh, tàn bạo như thực dân Pháp.
Tiểu thuyết Sống mãi với thủ đô viết về Hà Nội với sự kiện lịch sử
trọng đại là những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp, quân và dân
Hà Nội đã anh hùng, dũng cảm trong chiến đấu, họ lao mình vào cuộc chiến
khốc liệt dù phải hi sinh gia đình, hạnh phúc cá nhân, hi sinh tuổi thanh xuân,
thậm chí cả tính mạng của mình, họ coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Viết về
trung đoàn Thủ đô với những con người anh hùng đó thì giọng điệu hào hùng,
bi tráng là hoàn toàn phù hợp.
98
3.3.2. Giọng trân trọng, ngợi ca
Trong tiểu thuyết, ta thấy nổi bật là vẻ đẹp hào hùng và hào hoa của đất
và người Hà Nội. Vì vậy những trang viết của Nguyễn Huy Tưởng mang âm
hưởng ngợi ca, trân trọng những vẻ đẹp quý giá đó.
Hình ảnh những con người vừa bình dị, gần gũi, hiền lành vừa anh hùng,
dũng cảm, bất khuất, những con người đã vươn vai đứng dậy cầm vũ khí chiến
đấu với kẻ thù mạnh hơn gấp trăm lần, khi tổ quốc lâm nguy và đường hoàng
trở thành người chiến thắng...đã được nhà văn tái hiện cả trong những diễn biến
tâm hồn tinh tế, thầm lặng lẫn trong những tư thế chiến đấu hào hùng và hoàng
tráng nhất. Để lại ấn tượng sâu đậm trong cuốn tiểu thuyết là hình ảnh của cả
một thế hệ thanh niên vừa mới hôm qua còn ngồi trên ghế nhà trường bỗng vụt
trở thành những cảm tử quân, quyết ở lại để bảo vệ từng căn nhà, từng ngõ phố.
Những người Hà Nội trẻ tuổi như Trần Văn, Loan, Thu Phong, Oanh, Quyên…
sẵn sàng hy sinh tính mạng cho Thủ đô yêu dấu. Ở họ cháy lên tinh thần hy
sinh quên mình của những cảm tử quân để Thủ đô sống mãi. Nhưng các chiến
sĩ không chiến đấu đơn độc. Trên nền cảnh Thủ đô đứng lên kháng chiến là cả
một đội ngũ đông đảo những người con Hà Nội cầm vũ khí chiến đấu vì quê
hương vốn thuộc các tầng lớp xã hội vô cùng khác nhau, từ người lao động
bình dân, người buôn bán đến các trí thức, các cán bộ cách mạng, các lứa tuổi
cũng rất khác nhau, từ em bé đánh giày đến những cụ già tóc bạc. Những con
người vốn quen sống cuộc đời bình dị và hiền hòa, thậm chí còn xa lạ với tiếng
súng chiến tranh, nhưng khi giặc đến thì tràn đầy lòng căm hận kẻ thù và càng
thể hiện rõ hơn lòng yêu quê hương, đất nước. Với tinh thần đoàn kết, nhất
định không chịu làm nô lệ, họ đã sát cánh bên nhau, cùng nhau chiến đấu đến
cùng. Vì lẽ đó, những trang văn của Nguyễn Huy Tưởng tràn đầy tinh thần
ngợi ca những người chiến sĩ của Trung đoàn thủ đô anh dũng.
Mặt khác, nhà văn còn thể hiện sự trân trọng một Hà Nội với bề dày truyền
thống lịch sử - văn hóa. Ca ngợi một Thủ đô có lịch sử hơn chín trăm năm, cùng
với đó là những chiến công vang dội của dân tộc Việt Nam nhỏ bé, anh hùng
99
trước những kẻ thù lớn mạnh trên thế giới. Nhà văn nhắc đến và ngợi ca những
tấm gương tiêu biểu, những nhà cách mạng yêu nước: Phan Bội Châu, Phan Chu
Trinh, Hoàng Diệu, Quang Trung, Trần Quang Khải, Lê Lợi, Hồ Chí Minh, Võ
Nguyên Giáp… ;là những địa danh gắn với những chứng tích lịch sử như Đống
Đa, Đông Đô, Ba Đình… Tất cả đều gợi lên niềm tự hào về truyền thống anh
dũng, kiên cường đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam.
Đó là giọng điệu ngợi ca những con người Hà Nội với phẩm chất đặc trưng
của mảnh đất kinh kỳ: hào hoa, thanh lịch mà rất đỗi tinh tế. Người Hà Nội từ lâu
đã luôn là biểu tượng cho những nét đẹp, hội tụ những vẻ đẹp của người dân Việt
Nam nói chung. Tiểu thuyết Sống mãi với thủ đô góp phần lưu giữ những vẻ đẹp
về đất và người Hà Nội của một thời kì huy hoàng trong lịch sử dân tộc.
Đó còn là những trang viết hồi tưởng về một Hà Nội thanh bình, yên ả
trước chiến tranh với vẻ đẹp của con đường, ngõ phố như Tràng Thi, Hàng Đẫy,
Hàng Thiếc, Hàng Bún, Hàng Khoai, những mái nhà cổ, Hồ Gươm thơ mộng, chợ
Đồng Xuân sầm uất, nhộn nhịp…Những địa danh ấy đều gắn liền với những
chiến tích, những dấu ấn văn hóa - lịch sử không thể phai mờ. Những nét đẹp đặc
trưng chỉ có ở thủ đô Hà Nội mà mỗi khi nhắc đến lại khiến người ta nao lòng.
Viết về Hà Nội với giọng điệu trân trọng, ngợi ca, bởi lẽ nhà văn yêu mến
và tự hào vô cùng về mảnh đất kinh kỳ - thủ đô ngàn năm văn hiến. Cũng chính
là xuất phát từ lòng yêu nước, yêu quê hương tha thiết của tác giả. Là người con
của Hà Nội, lại có thời gian dài sống, gắn bó với Thủ đô, nhà văn am hiểu sâu
sắc và có nhiều kiến thức uyên bác về Hà Nội. Chính điều đó giúp Nguyễn Huy
Tưởng tái hiện được vẻ đẹp của đất và người Hà Nội rất đa dạng và chân thực.
Tiểu kết
Ở chương 3, luận văn đã tập trung khai thác một số yếu tố nghệ thuật
của tiểu thuyết Sống mãi với thủ đô. Nhà văn đã lựa chọn cho mình một
phong cách nghệ thuật độc đáo thể hiện ở nghệ thuật xây dựng nhân vật, ngôn
ngữ, giọng điệu.. Bởi vậy Sống mãi với thủ đô viết về lịch sử mà không hề
khô khan, trái lại nó có sức hút mạnh mẽ với độc giả nhiều thế hệ.
100
KẾT LUẬN
1. Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng từ lâu đã là một tên tuổi lớn trên văn
đàn Việt Nam. Tác phẩm của ông nổi bật ở hai đề tài về lịch sử và Thủ đô Hà
Nội. Nếu lịch sử là mối quan tâm xuyên suốt sáng tác của nhà văn thì Hà Nội
là đề tài ông tâm huyết nhất và có nhiều tác phẩm xuất sắc. Lựa chọn Hà Nội
là không gian nghệ thuật, với tiểu thuyết Sống mãi với thủ đô Nguyễn Huy
Tưởng đã tìm cho mình một chỗ đứng riêng, nổi bật trên văn đàn. Nhà văn đã
phát hiện và khai thác vẻ đẹp hào hùng và hào hoa của đất và người Hà Nội
trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp làm hoàn thiện hơn vẻ đẹp về
Hà Nội của thế kỉ XX.
2. Tiểu thuyết tái hiện Hà Nội trong hai ngày đầu của cuộc kháng chiến
chống Pháp, trọng tâm là những nhân vật - những chiến sĩ của Trung đoàn thủ
đô trong quá trình họ đi tới cách mạng. Qua đó nhà văn miêu tả vẻ đẹp của
mảnh đất Kinh kỳ, vẻ đẹp của con người Hà Nội với hai nét hào hùng và hào
hoa. Từ nội dung tác phẩm, toát lên vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách Nguyễn Huy
Tưởng. Đó là một con người giàu lòng yêu quê hương, đất nước, thiết tha với
lịch sử dân tộc, một con người giàu lòng yêu thương, có tâm hồn nghệ sĩ và
đặc biệt là một nhân cách cao đẹp, sống có lý tưởng, có trách nhiệm với vận
mệnh Tổ quốc.
3. Luận văn xem xét nghệ thuật trong tiểu thuyết Sống mãi với thủ đô
ở các khía cạnh: nghệ thuật xây dựng nhân vật, ngôn ngữ, giọng điệu.
Thành công của tác phẩm không chỉ ở việc nhà văn biết khai thác thời điểm
cam go của hoàn cảnh lịch sử đất nước, mà quan trọng nhà văn đã vận dụng
ngòi bút điêu luyện, tài tình của mình để xây dựng cốt truyện, hệ thống
nhân vật bằng một thứ ngôn ngữ, giọng điệu độc đáo, không lẫn với nhà
văn khác. Viết về Hà Nội trên cái nền của các sự kiện lịch sử, nhân vật lịch
sử nhưng trang văn ông không khô khan, cứng nhắc mà rất trữ tình, giàu
chất thơ, một cây bút chuyên “viết sử bằng văn chương” như nhận định của
101
nhiều nhà nghiên cứu. Đó là nét nổi bật, đặc biệt của nhà văn, khiến tác
phẩm có sức hút mạnh mẽ với người đọc nhiều thế hệ, tác phẩm có sức
sống lâu bền với thời gian. Qua đó ta thấy được phong cách nghệ thuật của
Nguyễn Huy Tưởng, khẳng định được tài năng bậc thầy ở thể loại tiểu
thuyết hiện đại của ông.
4. Nguyễn Huy Tưởng là một nhà văn lớn, tác phẩm của ông đặt ra
nhiều vấn đề hay, có ý nghĩa thời sự, hứa hẹn nhiều tiềm năng nghiên cứu.
Cho nên cần có những nghiên cứu sâu rộng về sự nghiệp sáng tác của nhà
văn, cần đưa vào nhà trường các tác phẩm xuất sắc của ông, để bồi dưỡng cho
thế hệ trẻ tình yêu quê hương đất nước, niềm tự hào về lịch sử, về quá khứ oai
hùng của dân tộc, về những phẩm chất cao đẹp của con người Việt Nam.
102
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Cự Đệ (2005), Văn học Việt Nam thế kỉ XX, Nxb Giáo dục.
2. Nguyễn Đăng Điệp (2010, chủ trì tuyển chọn), Tuyển tập ký - tản văn
Thăng Long - Hà Nội, Nxb Hà Nội.
3. Phạm Tất Dong (2010), Những phẩm chất nhân cách đặc trưng của
người Thăng Long - Hà Nội, Nxb Hà Nội.
4. Hà Minh Đức (1960), "Nguyễn Huy Tưởng , nhà văn trưởng thành dưới
chế độ mới", Nghiên cứu văn học (10), 33-47.
5. Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ (1966), Nguyễn Huy Tưởng (1912-1960),
NXB Văn học, Hà Nội.
6. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2007), Từ điển thuật ngữ
văn học, Nxb Giáo dục.
7. Tô Hoài (1985), "Nhà văn Hà Nội Nguyễn Huy Tưởng", Tạp chí văn
học (1), 56-75.
8. Mai Hương (1992), "Nguyễn Huy Tưởng với những trăn trở và khát
khao sáng tạo", Tạp chí văn học (6), tr 23-25.
9. Lê Minh Khuê (2010), Tuyển tiểu thuyết Thăng Long - Hà Nội, Nxb Hà Nội.
10. Phong Lê (1961), "Sống mãi với thủ đô trong quá trình sáng tác của
Nguyễn Huy Tưởng", Nghiên cứu văn học (12), 20-33.
11. Phong Lê (1967), "Bàn thêm về Nguyễn Huy Tưởng", Tạp chí văn học
(7), 60-71.
12. Phong Lê (2010), "Hà Nội trong tiểu thuyết Việt Nam nửa đầu thế kỉ
XX", Tạp chí Văn nghệ quân đội, số 711.
13. Phương Lựu (2002), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục.
14. Đỗ Thị Thanh Nga (2009), Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn
Huy Tưởng, Nghiên cứu văn học (7), 62-73.
15. Phương Ngân (2001), Nguyễn Huy Tưởng, Khát vọng một đời văn, Nxb
Văn hóa Thông tin.
103
16. Nhiều tác giả (2010), Tuyển tập truyện ngắn Thăng Long - Hà Nội, Nxb
Hà Nội.
17. Nhiều tác giả (2015), Nguyễn Huy Tưởng từ khởi nguồn Dục Tú -
Đông Anh, Nxb Kim Đồng.
18. Nguyễn Huy Phòng (2014) Phong cách nghệ thuật Nguyễn Huy Tưởng,
Luận án tiến sĩ. Đại học KHXH&NV - Đại học Quốc Gia Hà Nội
19. Nguyễn Huy Phòng (2014), "Bàn thêm về Lũy hoa của nhà văn Nguyễn
Huy Tưởng", Tạp chí Sân Khấu (7), 30-31.
20. Nguyễn Huy Phòng (2014), "Hà Nội trong sáng tác của Nguyễn Huy
Tưởng", Tạp chí Lý luận phê bình Văn học Nghệ thuật (5), 53-58.
21. Lê Đình Sỹ (2010), Thăng Long - Hà Nội những trang sử vẻ vang chống
ngoại xâm, Nxb Hà Nội.
22. Nguyễn Huy Thắng (1991, biên soạn), Nguyễn Huy Tưởng văn và
người, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
23. Nguyễn Huy Thắng (1997, biên soạn), Nguyễn Huy Tưởng trong vầng
sáng hồi nhớ, NXB Hà Nội, Hà Nội.
24. Nguyễn Huy Thắng (2004, biên soạn), Nguyễn Huy Tưởng một thời và
mãi mãi, NXB Thanh niên, Hà Nội.
25. Nguyễn Huy Thắng (2009, biên soạn), Nguyễn Huy Tưởng còn với thời
gian, NXB Thanh niên, Hà Nội.
26. Nguyễn Huy Thắng (2009, biên soạn), Nguyễn Huy Tưởng trước khi là
nhà văn, NXB Thanh niên, Hà Nội.
27. Nguyễn Huy Thắng (2012, biên soạn), Nguyễn Huy Tưởng với người
thân, NXB Thanh niên, Hà Nội.
28. Nguyễn Huy Thắng, Nguyễn Thị Hạnh (1996), Nguyễn Huy Tưởng toàn
tập (tập II), Nxb Văn học.
29. Nguyễn Huy Thắng, Nguyễn Thị Hạnh (1996), Nguyễn Huy Tưởng toàn
tập (tập III), Nxb Văn học.
104
30. Nguyễn Thị Phương Thoa (2007), Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết
Nguyễn Huy Tưởng, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm thành
phố Hồ Chí Minh
31. Bích Thu (2007), "Nguyễn Huy Tưởng nhà chép sử bằng văn chương",
Tạp chí Văn học (9), tr.11-17.
32. Bích Thu, Tôn Thảo Miên (tuyển chọn) (2000), Nguyễn Huy Tưởng về
tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội.
33. Hoàng Tiến (1984), "Nguyễn Huy Tưởng với đề tài Hà Nội", Tạp chí
văn học (5), 72-90.
34. Nguyễn Thị Thu Trang (2011), Đề tài lịch sử và cách mạng trong kịch
của Nguyễn Huy Tưởng, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm
Thái Nguyên
35. Nguyễn Huy Tưởng (1996), Sống mãi với Thủ đô, Nxb Hà Nội.
TÁC PHẨM KHẢO SÁT
36. Vũ Bằng (2012), Thương nhớ mười hai, Nxb Văn học.
37. Vũ Bằng (2014), Miếng ngon Hà Nội, Nxb Hội Nhà Văn.
38. Nguyễn Việt Hà (2014), Ba ngôi của người, Nxb Trẻ
39. Thạch Lam (2001), Hà Nội băm sáu phố phường, Nxb Văn hóa Thông tin
40. Băng Sơn (2000), Thú ăn chơi của người Hà Nội, Nxb Văn hóa Thông tin
41. Băng Sơn (2013), Hà Nội rong ruổi quẩn quanh, Nxb Kim Đồng
42. Nguyễn Đình Thi (2006), Xung kích, Vào Lửa, Mặt trận trên cao, Nxb
Văn học
43. Nguyễn Tuân (2003), Vang bóng một thời, Nxb Văn học
44. Nguyễn Huy Tưởng (1960), Lũy hoa, Nxb Văn học