BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP.HỒ CHÍ MINH TẠ THU HỒNG NHUNG

HỆ THỐNG GIÁM SÁT TÀI CHÍNH TẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2016

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP.HỒ CHÍ MINH TẠ THU HỒNG NHUNG

HỆ THỐNG GIÁM SÁT TÀI CHÍNH TẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Chuyên ngành: Tài chính - Ngân hàng

Mã số: 60 34 02 01

Người hướng dẫn khoa học: NGƯT. PGS.,TS. LÝ HOÀNG ÁNH

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2016

LỜI CAM ĐOAN

Tác giả luận văn có lời cam đoan danh dự về công trình khoa học này của mình cụ

thể:

Tôi tên là: Tạ Thu Hồng Nhung

Sinh ngày 19 tháng 01 năm 1990

Quê quán: Xã Bảo Khê, Huyện Kim Động, Tỉnh Hưng Yên

Địa chỉ thường trú: 282/65 Bùi Hữu Nghĩa, P2, Quận Bình Thạnh, TPHCM

Là học viên lớp cao học 16B1 của Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ

Chí Minh. Mã số học viên: 020116140170

Cam đoan đề tài: “Hệ thống giám sát tài chính tại Việt Nam”

Người hướng dẫn khoa học: NGƯT. PGS., TS. Lý Hoàng Ánh

Luận văn được thực hiện tại Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí

Minh.

Đề tài này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả nghiên cứu có

tính độc lập riêng, không sao chép bất kỳ tài liệu nào và chưa được công bố toàn

bộ nội dung này bất kỳ ở đâu. Các số liệu, các nguồn trích dẫn trong luận văn được

chú thích nguồn gốc rõ ràng, minh bạch.

Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan danh dự của tôi.

TP. HCM, ngày 01 tháng 10 năm 2016

Học viên

Tạ Thu Hồng Nhung

LỜI CẢM ƠN

Trước hết, học viên xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến phòng

Đào tạo Sau Đại học Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM, đặc biệt là giảng viên

hướng dẫn NGƯT. PGS., TS. Lý Hoàng Ánh đã trực tiếp hướng dẫn, dìu dắt, giúp

đỡ học viên với những chỉ dẫn khoa học quý giá trong suốt quá trình nghiên cứu và

hoàn thành đề tài "Hệ thống giám sát tài chính tại Việt Nam"

Học viên xin chân thành cảm ơn các Thầy/Cô giáo - Các nhà khoa học đã

trực tiếp giảng dạy truyền đạt những kiến thức khoa học chuyên ngành Tài chính -

ngân hàng trong những năm tháng qua.

Học viên cũng xin cảm ơn sự quan tâm động viên khuyến khích cũng như sự

thông cảm của gia đình và bạn bè thân thiết.

Do thời gian thực hiện có hạn, kiến thức chuyên môn còn nhiều hạn chế nên

luận văn chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Học viên rất

mong nhận được ý kiến đóng góp của các Thầy/Cô giáo và các bạn đọc.

Xin chân thành cảm ơn!

TP. HCM, ngày 01 tháng 10 năm 2016

Học viên

Tạ Thu Hồng Nhung

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Tên viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt

ADB The Asian Development Bank Ngân hàng phát triển Châu Á

BHTG Bảo hiểm tiền gửi

BIS Bank for International Settlements Ngân hàng thanh toán quốc tế

BTC Bộ Tài Chính

CAR Capital Adequacy Ratio Hệ số an toàn vốn

CTBH Công ty bảo hiểm

CTCK Công ty chứng khoán

CTTC Công ty tài chính

IMF International Monetary Fund Quỹ tiền tệ thế giới

Các nguyên tắc trong hoạt động bảo ICP Insurance Core Principles hiểm

International Organization of Tổ chức quốc tế của các Ủy ban IOSCO Securities Commissions chứng khoán

NH Ngân hàng

NHTM Ngân hàng thương mại

NHTW Ngân hàng Trung ương

NHNN Ngân hàng Nhà nước

ROA Return on Asset Tỷ số lợi nhuận ròng/ Tổng tài sản

Tỷ số lợi nhuận ròng/ Vốn chủ sở ROE Return on Equity hữu

TCTD Tổ chức tín dụng

TCVM Tài chính vi mô

TSC Tài sản có

TSN Tài sản nợ

UBCKNN Ủy ban chứng khoán nhà nước

UBGSTCQG Ủy ban giám sát tài chính quốc gia

VTC Vốn tự có

WB World Bank Ngân hàng thế giới

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng Tên bảng Trang

Bảng hệ thống các TCTD tại Việt Nam tính đến ngày 2.1 24 31/12/2015

Quy mô vốn tự có của nhóm các NHTM Việt Nam giai 2.2 25 đoạn 2012 - 2015.

Các chỉ số cơ bản của thị trường chứng khoán Việt Nam 2.3 26 2012 - 2014

Các chỉ tiêu cơ bản về thị trường bảo hiểm Việt Nam năm 2.4 27 2011 - 2014

Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu CAR của các NHTM Việt Nam 2.5 53 năm 2012 - 2015

Quy mô vốn tự có của các TCTD Việt Nam giai đoạn 2.6 55 2012 - 2015

Tỷ lệ ROA, ROE của các TCTD Việt Nam giai đoạn 2012 2.7 56 - 2015

Dự phòng nghiệp vụ, tổng tài sản của các công ty kinh 2.8 58 doanh bảo hiểm Việt Nam giai đoạn 2011 - 2015

Tổng hợp các vi phạm lĩnh vực chứng khoán Việt Nam 2.9 59 năm 2014

Số lượng các CTCK, Vốn chủ sở hữu, tổng doanh thu của 2.10 61 các CTCK Việt Nam 2011 - 2014

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ

SƠ ĐỒ Tên biểu đồ Trang

1.1 Mô hình giám sát hợp nhất tại Singapore 20

2.1 Mô hình hệ thống giám sát tài chính tại Việt Nam 34

2.2 Cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng 39

2.3 Sơ đồ tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam 40

2.4 Cục quản lý và giám sát bảo hiểm 43

2.5 Cơ cấu tổ chức bộ máy giám sát thị trường chứng khoán 46

2.6 Mô hình tổ chức Ủy ban giám sát tài chính quốc gia 48

So sánh tỷ lệ nợ xấu giữa báo cáo và đánh giá lại giai đoạn 2.7 54 2011 - 2014

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN

LỜI CẢM ƠN

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

DANH MỤC CÁC BẢNG

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ

LỜI MỞ ĐẦU

CHƯƠNG 1 LÝ THUYẾT VỀ HỆ THỐNG GIÁM SÁT TÀI CHÍNH ................ 1

1.1. KHÁI NIỆM HỆ THỐNG TÀI CHÍNH VÀ RỦI RO CỦA HỆ THỐNG TÀI

CHÍNH ........................................................................................................................ 1

1.1.1. Hệ thống tài chính ............................................................................................. 1

1.1.2. Rủi ro của hệ thống tài chính ............................................................................ 2

1.1.2.1. Khái niệm ....................................................................................................... 2

1.1.2.2. Các chỉ tiêu đo lường rủi ro hệ thống tài chính .............................................. 3

1.2. KHÁI NIỆM VÀ NỘI DUNG GIÁM SÁT HỆ THỐNG TÀI CHÍNH ................ 3

1.2.1. Khái niệm, mục tiêu giám sát hệ thống tài chính .............................................. 3

1.2.1.1. Khái niệm ....................................................................................................... 3

1.2.1.2. Mục tiêu giám sát hệ thống tài chính ............................................................. 3

1.2.2. Nội dung giám sát hệ thống tài chính ............................................................... 5

1.2.2.1. Giám sát an toàn vĩ mô................................................................................... 5

1.2.2.2. Giám sát an toàn vi mô................................................................................... 6

1.3. CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG GIÁM SÁT TÀI

CHÍNH ...................................................................................................................... 12

1.3.1. Khái niệm hệ thống giám sát tài chính ............................................................ 12

1.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động của hệ thống giám sát tài chính ......... 12

1.3.3. Các chỉ tiêu đánh giá hoạt động hệ thống giám sát tài chính .......................... 13

1.3.3.1. Chỉ tiêu trực tiếp ........................................................................................... 14

1.3.3.2. Chỉ tiêu gián tiếp .......................................................................................... 14

1.4. CÁC MÔ HÌNH GIÁM SÁT TÀI CHÍNH VÀ KINH NGHIỆM XÂY DỰNG

MÔ HÌNH HỆ THỐNG GIÁM SÁT TÀI CHÍNH TRÊN THẾ GIỚI....................... 14

1.4.1. Mô hình hệ thống giám sát theo đặc điểm thể chế .......................................... 15

1.4.1.1. Khái niệm ..................................................................................................... 15

1.4.1.2. Đặc điểm ...................................................................................................... 15

1.4.1.3. Kinh nghiệm vận hành mô hình hệ thống giám sát theo đặc điểm thể chế tại

Trung Quốc ............................................................................................................... 15

1.4.2. Mô hình hệ thống giám sát theo chức năng .................................................... 16

1.4.2.1. Khái niệm ..................................................................................................... 16

1.4.2.2. Đặc điểm ...................................................................................................... 16

1.4.2.3. Kinh nghiệm vận hành mô hình hệ thống giám sát theo chức năng tại Pháp

................................................................................................................................... 16

1.4.3. Mô hình giám sát lưỡng đỉnh .......................................................................... 17

1.4.3.1. Khái niệm ..................................................................................................... 17

1.4.3.2. Đặc điểm ...................................................................................................... 17

1.4.3.3. Kinh nghiệm vận hành mô hình hệ thống giám sát lưỡng đỉnh tại Úc ........ 17

1.4.4. Mô hình giám sát tài chính hợp nhất ............................................................... 18

1.4.4.1. Khái niệm ..................................................................................................... 18

1.4.4.2. Đặc điểm ...................................................................................................... 18

1.4.4.3. Kinh nghiệm vận hành mô hình hệ thống giám sát hợp nhất tại Singapore 19

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................ 21

CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG HỆ THỐNG GIÁM SÁT TÀI CHÍNH TẠI VIỆT

NAM ......................................................................................................................... 22

2.1. TỔNG QUAN HỆ THỐNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM VÀ RỦI RO CỦA HỆ

THỐNG ..................................................................................................................... 22

2.1.1. Khái quát thị trường tài chính Việt Nam ........................................................ 22

2.1.1.1. Đôi nét về thị trường tài chính Việt Nam .................................................... 22

2.1.1.2. Các tổ chức tín dụng .................................................................................... 24

2.1.1.3. Các tổ chức kinh doanh chứng khoán .......................................................... 25

2.1.1.4. Các tổ chức kinh doanh bảo hiểm ................................................................ 26

2.1.2. Thực trạng rủi ro của hệ thống tài chính Việt Nam ........................................ 27

2.1.2.1. Rủi ro thị trường tài chính ............................................................................ 27

2.1.2.2. Rủi ro đối với các tổ chức tín dụng .............................................................. 29

2.1.2.3. Rủi ro đối với các tổ chức kinh doanh chứng khoán ................................... 31

2.1.2.4. Rủi ro đối với các tổ chức kinh doanh bảo hiểm ......................................... 32

2.2. THỰC TRẠNG HỆ THỐNG GIÁM SÁT TÀI CHÍNH VIỆT NAM ................ 33

2.2.1. Cấu trúc hệ thống giám sát tài chính Việt Nam .............................................. 33

2.2.1.1. Các cơ quan giám sát trong hệ thống tài chính tại Việt Nam ...................... 33

2.2.1.2. Đặc điểm về hệ thống giám sát tài chính tại Việt Nam ............................... 37

2.2.2. Thực trạng về hoạt động của hệ thống giám sát tài chính Việt Nam .............. 38

2.2.2.1. Thực trạng tổ chức giám sát hệ thống ngân hàng ........................................ 38

2.2.2.2. Thực trạng hệ thống tổ chức hoạt động giám sát bảo hiểm ......................... 42

2.2.2.3. Thực trạng hoạt động và giám sát trên thị trường chứng khoán .................. 45

2.2.2.4. Ủy ban giám sát tài chính quốc gia .............................................................. 48

2.2.3. Thực trạng phối hợp giữa các chủ thể giám sát trong hệ thống giám sát tài

chính Việt Nam. ........................................................................................................ 50

2.2.3.1. Phối hợp qua các thông tư liên tịch .............................................................. 50

2.2.3.2. Phối hợp qua cơ chế đóng góp ý kiến .......................................................... 50

2.2.3.3. Phối hợp qua Ủy ban giám sát tài chính quốc gia ........................................ 50

2.2.4. Đánh giá hoạt động của hệ thống giám sát tài chính Việt Nam ...................... 51

2.2.4.1. Kết quả trong hoạt động giám sát tài chính tại Việt Nam ............................ 51

2.2.4.2. Hạn chế trong hệ thống giám sát tài chính tại Việt Nam. ............................ 62

2.2.4.3. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong việc giám sát hệ thống tài chính

tại Việt Nam .............................................................................................................. 63

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................ 66

CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ XÂY DỰNG HỆ THỐNG GIÁM

SÁT TÀI CHÍNH TẠI VIỆT NAM ........................................................................ 67

3.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG GIÁM SÁT TÀI CHÍNH TỚI

NĂM 2020. ................................................................................................................ 67

3.1.1. Mục tiêu kinh tế - xã hội tầm nhìn tới năm 2020 ............................................ 67

3.1.1.1. Các mục tiêu cụ thể về lĩnh vực kinh tế. ...................................................... 68

3.1.1.2. Các giải pháp cụ thể về lĩnh vực kinh tế ...................................................... 69

3.1.2. Định hướng phát triển hệ thống giám sát tài chính lựa chọn mô hình giám sát

tài chính hợp nhất - tầm nhìn tới năm 2020 .............................................................. 71

3.1.2.1. Yêu cầu của hệ thống giám sát tài chính ...................................................... 71

3.1.2.2. Lộ trình hoàn thiện hệ thống giám sát tài chính tại Việt Nam ..................... 73

3.2. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VÀ XÂY DỰNG HỆ THỐNG GIÁM

SÁT TÀI CHÍNH HỢP NHẤT TẠI VIỆT NAM ...................................................... 74

3.2.1. Củng cố, tăng cường năng lực giám sát của mô hình giám sát hiện tại. Nâng

cao vai trò của Ủy ban giám sát tài chính quốc gia................................................... 74

3.2.2. Hoàn thiện và xây dựng hệ thống pháp luật cho hệ thống giám sát tài chính

hợp nhất tại Việt Nam. .............................................................................................. 75

3.2.3. Xây dựng hệ thống thông tin giám sát tài chính ............................................. 76

3.2.4. Xây dựng hệ thống chỉ tiêu giám sát tài chính ................................................ 77

3.2.5. Phát triển đội ngũ nguồn nhân lực .................................................................. 78

3.2.6. Định kỳ đánh giá hoạt động của hệ thống giám sát tài chính ......................... 78

3.2.7. Tiếp cận các chỉ tiêu cho phù hợp với thông lệ quốc tế. ................................. 79

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ........................................................................................ 80

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 81

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................ 82

PHỤ LỤC ................................................................................................................. 86

LỜI MỞ ĐẦU

Việt Nam đang trong giai đoạn bước vào hội nhập sâu rộng với nền kinh tế

toàn cầu, gia nhập cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) vào cuối năm 2015, ký kết

đàm phán Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP vào tháng 2 năm 2016.

Đây là những mốc lịch sử rất quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam sau gần 30

năm đổi mới. Việc hòa nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu đồng nghĩa mở ra

nhiều cơ hội nhưng cũng vô vàn thách thức khó khăn đối với các doanh nghiệp, các

ngân hàng cũng như toàn nền kinh tế. Dòng vốn lưu chuyển giữa các nền kinh tế sẽ

nhanh chóng và mạnh mẽ, nền kinh tế Việt Nam sẽ hòa chung với chu kỳ kinh tế

và dễ biến động bởi những nhân tố tác động trong nền kinh tế toàn cầu. Thị trường

tài chính Việt Nam cũng mở cửa đón nhận các nhà đầu tư cũng như các chủ thể

tham gia. Theo cách khác, nền kinh tế Việt Nam sẽ đa dạng hơn, phát triển hơn,

phức tạp hơn và cũng dễ bị tác động hơn, khi các chủ thể tham gia trên thị trường

tài chính cùng phát triển. Điều này đòi hỏi cơ quan, bộ máy giám sát các chủ thể đó

cũng phải được hoàn thiện, phát triển và nâng cao.

Khi nền kinh tế thế giới vừa trải qua giai đoạn khủng hoảng tài chính

nghiêm trọng, một vấn đề cấp thiết cần nhìn nhận lại, đó là vai trò và chức năng

của hệ thống giám sát tài chính. Bởi lẽ hệ thống giám sát tài chính hiệu quả đã

ngăn chặn được những dấu hiệu khủng hoảng trong nền kinh tế và đã có những

biện pháp can thiệp kịp thời. Điều này khiến tất cả những nhà làm chính sách tại

các quốc gia trên thế giới cũng như Việt Nam đều băn khoăn.

Hiện tại Việt Nam đang tổ chức hệ thống giám sát tài chính theo mô hình

phân tán dựa trên cơ sở thể chế (Nguyễn Thị Kim Thanh, 2010) cụ thể: Cơ quan

Thanh tra ngân hàng nhà nước và Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam giám sát trực tiếp

các tổ chức tín dụng (TCTD), Bộ Tài chính giám sát hoạt động bảo hiểm và chứng

khoán thông qua Cục quản lý giám sát bảo hiểm và Ủy ban Chứng khoán Nhà

nước. Điều này gây nên sự giám sát chồng chéo, tốn kém và khó khăn khi các tổ

chức tài chính hay trung gian tài chính có xu hướng phát triển thành những định

chế tài chính đa năng và sự phát triển mạnh mẽ của các tập đoàn tài chính. Thời

gian gần đây, các nghiên cứu đề cập rất nhiều đến mô hình giám sát tài chính hợp

nhất và đó cũng là định hướng của Việt Nam trong thời gian tới. Cụ thể, Ủy ban

giám sát tài chính quốc gia đã được thành lập năm 2008 theo Quyết định số

34/2008/QĐ-TTg ngày 03/03/2008 của Thủ tướng chính phủ với sứ mệnh sẽ là cơ

quan giám sát tập trung độc lập và giám sát toàn diện các tổ chức trong hệ thống tài

chính. Tuy nhiên đến nay vai trò của Ủy ban vẫn chưa đúng với sứ mệnh được giao

phó khi thành lập. Vậy mô hình tổ chức giám sát tài chính hợp nhất có thực sự phù

hợp với Việt Nam và xây dựng mô hình có phải là việc làm cấp bách đối với hệ

thống giám sát tài chính.

Trước những tình hình đó, học viên lựa chọn đề tài: “Hệ thống giám sát tài

chính tại Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu. Bởi lẽ điều này rất cần thiết đối với thị

trường tài chính còn non trẻ và đang phải đối mặt với nhiều thử thách như Việt

Nam, cần phải có những giải pháp củng cố hệ thống giám sát.

1. MỤC TIÊU VÀ CÂU HỎI NGHIÊN CỨU

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:

Mục tiêu nghiên cứu chính của đề tài là phân tích các thành phần trong hệ

thống tài chính theo lĩnh vực hoạt động (ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán) và chủ

thể giám sát trực tiếp các thành phần đó trong hệ thống giám sát tài chính Việt Nam

giai đoạn 2011 - 2015, mục tiêu, đặc điểm, các chỉ tiêu giám sát, phương thức giám

sát trong hệ thống giám sát tại Việt Nam hiện nay.

Mục đích nghiên cứu được cụ thể hóa thông qua các câu hỏi:

Các mô hình điển hình của hệ thống giám sát tài chính trên thế giới? Ưu,

nhược điểm từng mô hình?

Thực trạng hoạt động của hệ thống giám sát tài chính tại Việt Nam trong thời

gian qua?

Những giải pháp nào nhằm hoàn thiện hệ thống giám sát tài chính cho Việt

Nam hiện nay?

2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu

Nghiên cứu kinh nghiệm về hệ thống giám sát tài chính điển hình của các

nước trên thế giới.

Hệ thống giám sát tài chính tại Việt Nam trong giai đoạn 2011 - 2015, từng

cơ quan giám sát trực thuộc và sự phối hợp giữa các chủ thể này.

Phạm vi nghiên cứu

Định hướng ba lĩnh vực chính trong hệ thống tài chính là ngân hàng, bảo

hiểm và chứng khoán.

3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Phương pháp nghiên cứu định tính

Phương pháp tổng hợp, phân tích tình huống điển hình: kế thừa lý luận về

các mô hình hoạt động của hệ thống giám sát trên thế giới

Phương pháp so sánh, phân tích, thống kê mô tả: dựa trên số liệu thống kê

thu thập được trong giai đoạn 2011-2015 của 03 lĩnh vực, sử dụng phương pháp so

sánh, phân tích thực trạng hoạt động của các tổ chức tài chính theo ba lĩnh vực và

thị trường tài chính, đánh giá hoạt động hệ thống giám sát tài chính theo các chỉ tiêu

từ đó nhận diện các hạn chế, xác định rõ nguyên nhân.

4. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

Kết cấu và nội dung cơ bản của luận văn tập trung vào 03 chương, ngoài

phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo

Chương 1: Lý thuyết về hệ thống giám sát tài chính

Chương 2: Thực trạng hệ thống giám sát tài chính Việt Nam

Chương 3: Giải pháp hoàn thiện và xây dựng hệ thống giám sát tài chính của

Việt Nam

5. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI

Qua việc phân tích các mô hình hệ thống giám sát tài chính trên thế giới, kết

hợp với phân tích điều kiện hoàn cảnh có yếu tố lịch sử của Việt Nam, đề tài định

hướng tiếp tục xây dựng và phát triển việc tổ chức hệ thống giám sát chuyển đổi mô

hình phân tán sang mô hình hợp nhất tại Việt Nam và cần phải thực hiện mạnh mẽ

hơn nữa. Đề tài đồng thời mạnh dạn đề xuất lộ trình trong việc xây dựng hệ thống

pháp luật về giám sát tài chính, vai trò độc lập của hệ thống giám sát.

Đề tài có đánh giá hoạt động của hệ thống giám sát, đặc biệt bao gồm Ủy ban

giám sát tài chính quốc gia, một cơ quan có sứ mệnh là tiền đề cho việc chuyển đổi

sang mô hình giám sát tài chính hợp nhất.

Đề tài phân tích tình hình diễn biến của thị trường tài chính, đánh giá hoạt

động giám sát của các chủ thể giám sát trong hệ thống giám sát tài chính trong

những năm gần đây giai đoạn 2011-2015.

6. TỔNG QUAN VỀ LĨNH VỰC NGHIÊN CỨU

6.1. Tình hình nghiên cứu nước ngoài

Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về hệ thống giám sát tài chính và các

mô hình hệ thống giám sát tài chính tại các quốc gia điển hình như:

- Nghiên cứu của N. Nergiz Dincery and Barry Eichengreenz (2012), The

Architecture and Governance of Financial Supervision: Sources and Implications,

International Finance. Nghiên cứu đã sử dụng phương pháp định lượng phân tích

mối tương quan giữa các biến trong nền kinh tế vĩ mô như tốc độ tăng trưởng GDP,

lạm phát trong quá khứ, hiệu lực của các nguồn luật điều chỉnh, sự ổn định của nền

kinh tế…trong thời gian 1999 - 2009 tại 140 quốc gia, phân tích tác động của tính

độc lập giám sát đến hiệu quả tài chính và đánh giá xu hướng giám sát trong thời

gian gần đây. Nghiên cứu kết luận, các công cụ giám sát vĩ mô tỏ ra hiệu quả, xu

hướng gia tăng liên kết trong việc giám sát tài chính giữa các quốc gia phát triển

bên cạnh việc hình thành những tập đoàn tài chính xuyên quốc gia.

- Cheryl Ho (2014), Financial Stability: The Financial Stability Function within

MAS”, “Macro Surveillance Framework, Methods and Techniques, MAS’

Approach to Financial Supervision, Monetary Authority Of Singapore. Ba tài liệu

này được cung cấp trong chương trình tập huấn về Xây dựng mô hình hệ thống

giám sát tài chính do Ngân hàng nhà nước Việt Nam tổ chức. Các tài liệu giới thiệu

một cách tổng quát mô hình hệ thống giám sát tài chính hợp nhất tại Singapore,

quốc gia đi đầu trên thế giới về việc xây dựng mô hình này. Nội dung phân tích rất

chi tiết các vấn đề đặt ra cho hệ thống giám sát, điều kiện xây dựng mô hình, chức

năng, yêu cầu, cấu trúc, tổ chức và cách thức vận hành hệ thống giám sát theo mô

hình giám sát tài chính hợp nhất tại Singapore.

- Group of Thirty G30 (2008), The structure of Financial Supervision

Approaches and Challenges in a Global Marketplace, Washington DC. Nghiên cứu

lý thuyết về các mô hình giám sát tài chính điển hình trên thế giới bao gồm: Mô

hình giám sát theo đặc điểm thể chế (Trung Quốc và Mexico), mô hình giám sát

theo chức năng (Ý và Pháp), mô hình giám sát lưỡng đỉnh (Úc, Hà Lan) và mô hình

giám sát hợp nhất (Anh và Đức, Canada, Thụy Điển, Quata, Singagore), nghiên cứu

tiếp cận vai trò của các chủ thể giám sát chuyên ngành như bảo hiểm tiền gửi, ngân

hàng trung ương, bộ tài chính và sự kết hợp giám sát giữa các tổ chức giám sát liên

ngành. Nghiên cứu mô tả cách xây dựng một mô hình hệ thống giám sát, cách thức

vận hành áp dụng vào thực tiễn và ưu, nhược điểm của mỗi mô hình giám sát tài

chính. Nghiên cứu chỉ ra rằng xu hướng giám sát hệ thống tài chính hiện nay vận

hành theo mô hình giám sát hợp nhất, tuy nhiên việc lựa chọn mô hình hiệu quả phù

thuộc vào từng nền kinh tế, điều kiện pháp lý, cơ sở hạ tầng, chính sách và yếu tố

lịch sử. Đa phần các nền kinh tế mới nổi và non trẻ lựa chọn mô hình giám sát tài

chính theo chức năng. Đây là một nghiên cứu khá đầy đủ về tổ chức, phương thức

vận hành của từng mô hình giám sát tài chính điển hình, có nêu kinh nghiệm tổ

chức xây dựng tại nhiều quốc gia khác nhau.

6.2. Tình hình nghiên cứu trong nước

Các nghiên cứu trong nước về hệ thống giám sát tài chính chỉ tập trung trong

giai đoạn 2010 - 2012, đó là giai đoạn sau khủng hoảng khi mà những nhà nghiên

cứu và những nhà làm chính sách của Việt Nam cũng như các nước trên thế giới

đang đặt ra vấn đề về hệ thống giám sát hiệu quả, để giảm được những cú sốc chu

kỳ gây nên khủng hoảng kinh tế. Đặc biệt với đề tài nghiên cứu về hệ thống giám

sát tài chính, chưa có luận án, luận văn nào nghiên cứu về lĩnh vực này. Cụ thể:

- Theo nghiên cứu của Tô Ngọc Hưng và các cộng sự (2011), Hệ thống giám

sát tài chính quốc gia, đề tài thuộc chương trình khoa học công nghệ trọng điểm cấp

Nhà nước. Nghiên cứu sử dụng các phương pháp định tính, so sánh, phân tích tổng

hợp để xử lý số liệu về các tổ chức tài chính và thị trường tài chính chú trọng giai

đoạn 2000 - 2010, nghiên cứu tình huống điển hình, sử dụng phương pháp chuyên

gia trong việc đánh giá hiệu lực giám sát tài chính. Trong nghiên cứu đã chỉ ra định

hướng hệ thống giám sát tài chính Việt Nam theo mô hình hợp nhất qua việc phân

tích điều kiện cần và điều kiện đủ để chuyển đổi sang mô hình này, phân tích hiệu

quả của hoạt động giám sát tài chính Việt Nam, tìm hiểu các mô hình giám sát thực

tiễn trên thế giới hiện nay, và đưa ra những giải pháp thực tiễn để chuyển đổi mô

hình giám sát hệ thống tài chính phân tán tại Việt Nam sang mô hình giám sát hợp

nhất. Nghiên cứu khá đầy đủ tại thời điểm năm 2011, tuy nhiên chưa đề cập đến

hoạt động của Ủy ban giám sát tài chính quốc gia vì cơ quan này mới được thành

lập. Các đề xuất của nghiên cứu phù hợp với thời điểm đó, khi Việt Nam vừa qua

cuộc khủng hoàng và chưa có sự chuyển biến mạnh mẽ tái cấu trúc, bổ sung hệ

thống pháp lý, và những bước đệm chuẩn bị hội nhập sâu rộng trong giai đoạn 2011

- 2015.

- Ủy ban kinh tế quốc hội (2012), Các chỉ tiêu giám sát tài chính, Nhà xuất bản

tri thức, nghiên cứu trên cơ sở xem xét một cách hệ thống lý luận và thực tiễn về

việc áp dụng mô hình giám sát hợp nhất bước đầu hình thành ở Việt Nam: (i) bộ chỉ

tiêu giám sát tài chính an toàn vĩ mô và vi mô; (ii) mô hình định lượng phục vụ

giám sát an toàn tài chính vĩ mô và vi mô đó là mô hình kiểm tra khả năng chịu

đựng các cú sốc tài chính tiền tệ, mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng; (iii) các quy

chuẩn và chỉ tiêu giám sát tập đoàn tài chính; và (iv) nghiên cứu đưa ra các chỉ tiêu

giám sát chọn lọc đối với từng bộ phận trong tổng thể hệ thống tài chính tại Việt

Nam trong giai đoạn tới. Tuy nhiên nghiên cứu chỉ dừng lại về mặt lý luận, đưa ra

bộ chỉ tiêu trong giám sát nhằm hạn chế rủi ro cho hệ thống, chưa nói đến sự thống

nhất hay kết hợp giám sát giữa các bộ phận trong tổng thể.

Ngoài ra có các bài viết đánh giá một phần nội dung, mảng kiến thức nhất

định về hệ thống giám sát tài chính như:

- Lê Thị Tuấn Nghĩa và Nguyễn Minh Nguyệt (2010), Hệ thống chỉ tiêu đánh

giá hiệu quả giám sát tài chính, Tạp chí khoa học & đào tạo ngân hàng. Nghiên cứu

đưa ra những nguyên tắc giám sát hệ thống tài chính theo các tiêu chuẩn của BIS

ngân hàng thanh toán quốc tế, IOSCO Ủy ban chứng khoán quốc tế, IAIS Hiệp hội

cơ quan giám sát bảo hiểm quốc tế và quỹ tiền tệ quốc tế IMF, và đặc điểm tính chất

yêu cầu của một hệ thống giám sát tài chính quốc tế.

- Nguyễn Thị Kim Thanh (2010), Hệ thống giám sát tài chính của Việt Nam,

thực trạng và một số định hướng phát triển, Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ.

Nghiên cứu đã khẳng định hệ thống giám sát tài chính Việt Nam theo mô hình phân

tán dựa trên cơ sở thể chế bao gồm Ủy ban chứng khoán Nhà Nước, Cục bảo hiểm,

Ủy ban giám sát tài chính quốc gia, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, Cơ quan thanh tra

giám sát ngân hàng. Bên cạnh đó nghiên cứu chỉ ra những bất cập trong hệ thống

giám sát đó là chưa có những quy định về quyền hạn và chức năng xử lý từng bộ

phận trong hệ thống giám sát, hiệu quả của cơ quan giám sát còn thấp, và có sự

khác biệt giữa tiêu chuẩn hoạt động an toàn của Việt Nam và của thế giới. Nghiên

cứu cũng khẳng định một lần nữa việc chuyển đổi mô hình sang giám sát hợp nhất

là biện pháp hữu hiệu và cần thiết cho Việt Nam

Nhìn chung các nghiên cứu đề cập đến những mô hình hệ thống giám sát tài

chính, yêu cầu của một hệ thống giám sát tài chính, các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả

giám sát tài chính, đánh giá sơ bộ về hệ thống giám sát tài chính tại Việt Nam và

xây dựng lộ trình từng bước hướng đến mô hình giám sát tài chính hợp nhất. Các

nghiên cứu trong nước, duy chỉ có đề tài mang tên: “Hệ thống giám sát tài chính

quốc gia” năm 2011, đề tài thuộc chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước,

là một nghiên cứu đầy đủ, toàn diện. Những nghiên cứu khác chỉ nghiên cứu xoay

quanh những vấn đề riêng lẻ trong hệ thống giám sát như: các mô hình hệ thống

giám sát tài chính trên thế giới, chỉ số đo lường hiệu quả hoạt động giám sát tài

chính, đánh giá cơ cấu tổ chức hệ thống giám sát tài chính tại Việt Nam, các điều

kiện và yêu cầu của một hệ thống giám sát tài chính, những giải pháp xây dựng

khung pháp lý cho hệ thống giám sát, lộ trình trong tiến trình xây dựng hoàn chỉnh

hệ thống giám sát tài chính theo mô hình hợp nhất tại Việt Nam, và đánh giá hoạt

động giám sát trên từng lĩnh vực trong hệ thống tài chính.

Các nghiên cứu đều tập trung trong giai đoạn từ 2009 đến 2011, nên việc

đánh giá hệ thống giám sát chưa bao gồm Ủy ban giám sát tài chính quốc gia, và

việc xây dựng hành lang pháp lý cũng như lộ trình xây dựng thực hiện hệ thống

giám sát hợp nhất tại Việt Nam chưa có tính cập nhật và đánh giá lại nhất là khi

Việt Nam đã trải qua giai đoạn chuyển đổi mạnh mẽ trong hệ thống tài chính, tái

cấu trúc hệ thống tài chính và những tiền đề khi gia nhập cộng đồng kinh tế AEC,

ký kết đàm phán hiệp định hợp tác xuyên Thài Bình Dương TPP.

Khi đề cập đến hệ thống tài chính là một phạm trù rất rộng trong đó có bao

gồm: Tài chính công, tài chính doanh nghiệp, Tài chính trung gian, tài chính hộ gia

đình và các tổ chức xã hội, tài chính quốc tế. Tuy nhiên, trong luận văn chỉ dừng lại

nghiên cứu ở phạm vi về tài chính trung gian bao gồm thị trường tài chính, các tổ

chức tài chính trung gian.

1

CHƯƠNG 1

LÝ THUYẾT VỀ HỆ THỐNG GIÁM SÁT TÀI CHÍNH

1.1. KHÁI NIỆM HỆ THỐNG TÀI CHÍNH VÀ RỦI RO CỦA HỆ THỐNG

TÀI CHÍNH

1.1.1. Hệ thống tài chính

Hệ thống tài chính được hiểu là tổng thể các hình thức thể hiện các bộ phận

hợp thành tài chính gắn liền với các quỹ tiền tệ đặc trưng. Hệ thống tài chính bao

gồm các bộ phận hợp thành của nhiều lĩnh vực hoạt động tài chính dưới những hình

thức nhất định, tác động lẫn nhau trong toàn bộ hoạt động của nền tài chính. Cấu

thành trong hệ thống tài chính bao gồm: Tài chính công; Tài chính doanh nghiệp;

Thị trường tài chính và các tổ chức tài chính các trung gian; Tài chính hộ gia đình

và các tổ chức xã hội; Tài chính quốc tế (Dương Thị Bình Minh, Sử Đình Thành,

2004). Tuy nhiên, trong luận văn, học viên chỉ đi sâu phân tích về tài chính trung

gian bao gồm thị trường tài chính, các tổ chức tài chính trung gian, bổ trợ là cơ sở

hạ tầng tài chính và các công cụ tài chính.

Thị trường tài chính

Trong nền kinh tế quá trình sản xuất lưu thông hàng hóa sẽ phát sinh những

chủ thể có nhu cầu vốn, hay thiếu vốn, ngược lại cũng có những chủ thể tích lũy dư

thừa. Từ đó, hình thành nên nhu cầu trao đổi vốn giữa những người cần vốn và

những người thiếu vốn, hình thành nên cơ chế chuyển vốn từ tiết kiệm sang đầu tư.

Thị trường tài chính là nơi diễn ra sự chuyển vốn từ những người có vốn nhàn rỗi

tới những người cần sử dụng. Thị trường tài chính là nơi tập trung huy động vốn các

nguồn vốn trong xã hội để tài trợ ngắn hạn, trung hạn và dài hạn cho các chủ thể

trong nền kinh tế (Bùi Kim Yến, 2008)

Các trung gian tài chính

Các trung gian tài chính thể hiện chức năng trung gian tài chính, là người dẫn

vốn từ người dư thừa vốn sang người thiếu vốn. Hoạt động chính của các trung gian

tài chính là huy động được các nguồn vốn bằng cách phát hành quyền truy đòi ra

2

công chúng (chứng chỉ tiều gửi, tiền gửi tiết kiệm) sau đó dẫn vốn trực tiếp như cho

vay hoặc đầu tư vào chứng khoán.

Trung gian tài chính bao gồm:

Ngân hàng thương mại (Commercial Banks); Hiệp hội tín dụng (Credit

Unions); Công ty bảo hiểm (Insurance Company); Công ty chứng khoán (Security

Companies); Quỹ hỗ tương (Mutual Funds); Công ty tài chính (Finance

Companies); Công ty cho thuê tài chính (Finance Leasing Companies)…

Bên cạnh đó còn có cơ sở hạ tầng tài chính là khuôn khổ các luật lệ và hệ

thống làm nền tảng cho các bên (tiết kiệm - cho vay; đi vay - đầu tư) lập kế hoạch,

đàm phán và thực hiện các giao dịch tài chính.

Trong cơ sở hạ tầng tài chính bao gồm:

- Hệ thống pháp luật và quản lý Nhà nước

- Nguồn lực và hệ thống giám sát

- Các nguồn cung cấp thông tin: luật và quy định kế toán, cơ quan thông tin tín

dụng, tổ chức xếp hạng tín nhiệm, công chúng.

- Hệ thống thanh toán, hệ thống hỗ trợ giao dịch chứng khoán

Các công cụ tài chính gồm có: Trái phiếu, cổ phiếu, tín phiếu, thương phiếu…giúp

cho việc trao đổi vốn giữa các thành viên trên thị trường

1.1.2. Rủi ro của hệ thống tài chính

1.1.2.1. Khái niệm

Rủi ro hệ thống tài chính là nguy cơ sụp đổ toàn bộ hệ thống tài chính hoặc

thị trường tài chính khi các cú sốc tới hệ thống tài chính làm rối loạn chức năng dẫn

vốn của hệ thống tài chính (Miskhin, 1999). Rủi ro trong hệ thống tài chính có thể

dẫn đến hậu quả lớn nhất đó là khủng hoảng tài chính.

Khi đánh giá rủi ro hệ thống có thể xuất phát từ 2 nguyên nhân chính: Sự tác

động của các yếu tố vĩ mô làm suy yếu hệ thống và nền kinh tế; Ảnh hưởng lan tỏa

từ sự suy yếu của một hay một số tổ chức đến các tổ chức khác và đến toàn bộ hệ

thống.

3

Mỗi lĩnh vực có những rủi ro đặc thù phổ biến: Ngân hàng thường gặp rủi ro tín

dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro hoạt động, rủi ro thị trường; Kinh doanh chứng

khoán thường gặp rủi ro hệ thống và rủi ro phi hệ thống; Kinh doanh lĩnh vực bảo

hiểm thường gặp rủi ro bảo hiểm, rủi ro tái bảo hiểm, rủi ro thanh khoản.

1.1.2.2. Các chỉ tiêu đo lường rủi ro hệ thống tài chính

Hiện nay có hai hệ thống chỉ tiêu đo lường mức độ an toàn của hệ thống tài

chính được đề cập đến phổ biến nhất đó là hệ thống chỉ tiêu của ngân hàng phát

triển Châu Á (Asian Development Bank - ADB) và hệ thống chỉ tiêu của Ngân hàng

trung ương Châu Âu (European Central Bank - ECB). ADB đã hợp tác cùng IMF,

BIS, Deutsche Bundesbank, NHTW Nhật Bản, NHTW Hàn Quốc, Cục thống kê Úc

và Uỷ ban Kinh tế Xã hội khu vực Châu Á Thái Bình Dương để đưa ra một hệ

thống chỉ tiêu giám sát thận trọng bao gồm 67 chỉ tiêu cơ bản và 43 chỉ tiêu phụ.

Hệ thống chỉ tiêu này được chia làm bảy nhóm bao gồm: Nợ nước ngoài và

dòng chu chuyển tài chính; Tiền tệ và Tín dụng, Ngân hàng; Lãi suất; Thị trường

chứng khoán và trái phiếu; Thương mại, Tỷ giá và Quỹ ngoại hối; Dữ liệu thống kê

về kinh doanh (Khu vực sản xuất, xây dựng, bán buôn, bán lẻ và dịch vụ). Như vậy,

có thể thấy hệ thống chỉ tiêu của ADB xây dựng đánh giá gần như mọi mặt về sự ổn

định hệ thống tài chính của một quốc gia.1

1.2. KHÁI NIỆM VÀ NỘI DUNG GIÁM SÁT HỆ THỐNG TÀI CHÍNH

1.2.1. Khái niệm, mục tiêu giám sát hệ thống tài chính

1.2.1.1. Khái niệm

Giám sát tài chính là hoạt động theo dõi, kiểm tra thường xuyên tình hình tài

chính - tiền tệ nhằm mục đích ngăn chặn sự đổ vỡ của hệ thống tài chính thông qua

phát hiện và ngăn chặn những vấn đề khó khăn về tài chính trước khi nó vượt ra

khỏi tầm kiểm soát. (IMF, 2008)

1 Phụ lục 1 Các chỉ tiêu đo lường rủi ro của hệ thống tài chính theo ADB

1.2.1.2. Mục tiêu giám sát hệ thống tài chính

4

Duy trì sự ổn định hệ thống tài chính

Đây là mục tiêu đầu tiên mà một hệ thống giám sát tài chính cần làm được,

hoạt động của hệ thống tài chính có tính chất nhạy cảm, dễ bị tác động và dễ làm

ảnh hưởng đến toàn hệ thống. Hệ thống giám sát phải nắm bắt kịp thời các dấu hiệu

có nguy cơ mang lại rủi ro cho hệ thống để kịp thời ngăn chặn. Ổn định hệ thống tài

chính là việc hệ thống tài chính vận hành các chức năng dẫn vốn, phân bổ nguồn

lực, xây dựng cơ sở hạ tầng tài chính một cách hiệu quả.

Đảm bảo sự lành mạnh của các tổ chức tài chính

Sự hoạt động lành mạnh của hệ thống tài chính không đồng nghĩa với việc

tất cả các định chế tài chính đều phải hoạt động hiệu quả và an toàn. Hoạt động lành

mạnh có nghĩa các tổ chức tài chính phải tuân thủ các điều kiện đảm bảo an toàn do

các chủ thể giám sát đã đề ra, đảm bảo các trung gian tài chính có đủ khả năng sẽ

được tham gia thị trường cạnh tranh một cách bình đẳng và đồng thời chắt lọc các tổ

chức không đủ điều kiện tham gia thị trường. Bởi lẽ hệ thống tài chính nhạy cảm và

có tác động dẫn truyền. Nếu các cơ quan chức năng dễ dàng cho các tổ chức tài

chính còn yếu kém tham gia thị trường vô hình chung cũng sẽ tác động tiêu cực đến

toàn hệ thống.

Bảo vệ người tiêu dùng

Một trong những hiện tượng phổ biến khi tham gia thị trường tài chính đó là

thông tin bất cân xứng. Hiện tượng này gây nên một thị trường không minh bạch, có

kẻ thu được những nguồn lợi nhuận khổng lồ trên sự tổn thất của người khác. Trong

các chủ thể tham gia thị trường tài chính, người tiêu dùng là đối tượng cần bảo vệ vì

họ bị hạn chế trong việc tiếp xúc thông tin và bởi đôi khi những người tư vấn đã

đưa ra thông tin sai lệch, ảnh hưởng lợi ích nghiêm trọng. Hệ thống giám sát cần

đảm bảo cho người tiêu dùng có thể có được sản phẩm tài chính với mức giá tương

ứng, đo lường được tổn thất, rủi ro và lợi nhuận khi đầu tư từng loại sản phẩm tài

chính.

Đảm bảo hiệu quả của hệ thống tài chính

5

Hiệu quả của hệ thống tài chính được đề cập đến bao gồm cả hiệu quả trong

và ngoài hệ thống, tức phải đảm bảo hệ thống tài chính đạt được hiệu quả và đảm

bảo lợi ích cho xã hội. Điều này được thể hiện như chi phí vốn cho toàn xã hội giảm

xuống, việc tiếp cận vốn dễ dàng thuận lợi hơn cho các chủ thể, giảm thiểu tình

trạng thông tin bất cân xứng vì dễ dàng khai thác thông tin và minh bạch hóa thông

tin tối đa.

1.2.2. Nội dung giám sát hệ thống tài chính

1.2.2.1. Giám sát an toàn vĩ mô

Khái niệm

Giám sát an toàn vĩ mô được hiểu là hoạt động giám sát nhằm đảm bảo sự ổn

định của toàn bộ hệ thống tài chính thông qua việc xác định sớm những điểm yếu,

những nguy cơ tiềm tàng có thể làm tổn hại đến hệ thống tài chính, trên cơ sở đó

đưa ra phương hướng biện pháp nhằm ngăn chặn sớm sự bất ổn của hệ thống.

Trước đây, các nhà làm chính sách chỉ quan tâm đến việc giám sát từng định

chế tài chính và từng lĩnh vực trong hệ thống tài chính nhưng dường như điều này

chưa đủ, thể hiện rất rõ qua cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997 và khủng

hoảng tài chính toàn cầu 2008. Đó là những bài học cho thấy rõ tầm quan trọng của

việc giám sát an toàn hệ thống vĩ mô.

Công cụ giám sát an toàn vĩ mô

Các công cụ giám sát an toàn vĩ mô được xây dựng và áp dụng khá linh hoạt

tùy thuộc vào các điều kiện vĩ mô và tùy vào từng giai đoạn của từng quốc gia nhằm

đạt được mục tiêu cuối cùng là đảm bảo an toàn cho cả hệ thống. Cụ thể mục đích là

để đánh giá mức độ ổn định của các chỉ số và quan hệ vĩ mô, mức độ tin cậy, mức

độ lan truyền của rủi ro hệ thống và mức độ tác động của thị trường bên ngoài đến

nền kinh tế.

Hệ thống cảnh báo sớm (Early Warning System - EWS) rủi ro hệ thống tài

chính là một công cụ giám sát an toàn hệ thống ưu việt. Hệ thống này bao gồm các

biến số kinh tế vĩ mô, các chỉ số tài chính và các phương pháp tính toán từ đó dự

đoán các khả năng có thể xảy ra những rủi ro mang tính hệ thống tài chính trên cơ

6

sở xây dựng các mô hình từ các dữ liệu quá khứ. Hệ thống cảnh báo sớm được đưa

ra với mục đích để phát hiện ra các nguy cơ tài chính khi nó mới ở giai đoạn đầu và

giúp cơ quan giám sát khắc phục kịp thời.

1.2.2.2. Giám sát an toàn vi mô

Nếu như giám sát an toàn vĩ mô là nhằm hạn chế rủi ro hệ thống từ các tác

động vĩ mô thì giám sát an toàn vi mô dựa trên quan điểm cần phải giám sát từng tổ

chức tài chính, từng lĩnh vực để đảm bảo can thiệp kịp thời khi có rủi ro nhằm tránh

lây lan cho cả hệ thống.

Hiện nay chưa có một hệ thống, bộ chỉ tiêu giám sát thống nhất cho các định

chế tài chính mà chỉ có các bộ chỉ tiêu trong việc giám sát theo từng lĩnh vực được

đưa ra bởi các tổ chức đứng đầu, định hướng cho sự phát triển bền vững của từng

lĩnh vực như: Ngân hàng thế giới (WB); Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF); Các tổ chức có

tính chất hiệp hội như Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS), Hội đồng Tiêu chuẩn

Kế toán Quốc tế (IASB), Tổ chức Quốc tế của các uỷ ban chứng khoán (IOSCO),

Hiệp hội Quốc tế của các cơ quan giám sát bảo hiểm (IAIS)... Và các tổ chức thuộc

các quốc gia như các cơ quan giám sát tài chính quốc gia, các tổ chức đánh giá tín

nhiệm chia theo ba lĩnh vực chính là ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán.

Giám sát ngân hàng

Nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế về giám sát ngân hàng

Năm 1988, Ủy ban Basel của Ngân hàng Thanh toán Quốc tế BIS đã ban

hành Hiệp ước vốn Basel (the Basel Capital Accord) hay Basel I trong đó đề cập tới

hệ thống đo lường vốn, lần đầu tiên tỷ lệ vốn tối thiểu đã được đề cập. Sau hai lần

sửa đổi Basel II năm 2004 và Basel III năm 2010, trong đó bản Basel II là bản mà

NHNN đang định hướng áp dụng cho các NHTM tại Việt Nam. Nội dung của Basel

II gồm 3 trụ cột chính: Yêu cầu vốn tối thiểu trên cơ sở kế thừa Basel I; Tăng cường

cơ chế giám sát, đặc biệt là việc đánh giá chất lượng quản lý rủi ro của ngân hàng;

Tuân thủ kỷ luật thị trường. Trong nội dung của Basel có một trụ cột nhấn mạnh về

việc giám sát ngân hàng đó là trụ cột thứ hai.

7

Trụ cột thứ hai: Tăng cường cơ chế giám sát, đặc biệt là việc đánh giá chất

lượng quản lý rủi ro của ngân hàng. Trụ cột này xác định vai trò, trách nhiệm của cơ

quan giám sát ngân hàng trong việc trực tiếp đánh giá sự tuân thủ vốn tối thiểu của

ngân hàng, qua hệ thống quản lý rủi ro. Điều này đảm bảo hơn cho các ngân hàng

có đủ vốn để giải quyết tất cả các rủi ro trong hoạt động kinh doanh đồng thời

khuyến khích ngân hàng phát triển và sử dụng các kỹ thuật quản lý rủi ro trong việc

kiểm soát và quản lý các rủi ro.

Bên cạnh đó, Ủy ban Basel đã ban hành bộ 25 nguyên tắc cơ bản giám sát

hoạt động ngân hàng hiệu quả của Basel vào năm 1997, với tên gọi “Các nguyên tắc

nòng cốt cho việc giám sát hoạt động ngân hàng hiệu quả” (Core principles for

effective banking supervision) được sửa đổi năm 2006 nhằm cung cấp một khuôn

khổ cho hệ thống giám sát ngân hàng hiệu quả.

Nội dung giám sát

Nội dung hoạt động giám sát trong lĩnh vực ngân hàng bao gồm việc giám

sát trước khi hoạt động, giám sát trong quá trình hoạt động và giám sát việc chấm

dứt hoạt động kinh doanh.

Một là, giám sát trước khi hoạt động

Giám sát trước khi hoạt động là việc xem xét kiểm tra khi thành lập và hoạt

động kinh doanh ngân hàng, cụ thể như điều kiện tham gia thị trường, phạm vi hoạt

động…

Các ngân hàng muốn được thành lập sẽ phải tuân thủ và đáp ứng các quy

định theo luật định, những yêu cầu về cơ cấu sở hữu, điều kiện về nhà quản lý, được

cơ quan có thẩm quyền nào cấp phép.

Hai là, giám sát trong quá trình hoạt động: Giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ.

- Giám sát từ xa ( Off-site Surveillance)

Giám sát từ xa thông qua việc tổng hợp, phân tích các báo cáo định kỳ. Quy trình

thực hiện bao gồm: Tập hợp báo cáo các ngân hàng định kỳ; Kiểm tra và lựa chọn

những dữ liệu quan trọng, thiết lập hệ thống cảnh báo sớm cho ngân hàng; Đánh giá

kết quả hoạt động và rủi ro tiềm ẩn. Sau đó, cơ quan giám sát sẽ đưa ra những biện

8

pháp xử lý tùy thuộc mức độ nghiêm trọng đối với từng tổ chức. Giám sát từ xa các

nội dung chủ yếu bao gồm giám sát an toàn và đánh giá hoạt động. Trong đó giám

sát an toàn nhằm đảm bảo tính tuân thủ các quy định đảm bảo an toàn.

Giám sát an toàn đưa ra những tiêu chuẩn đảm bảo an toàn cho hoạt động

ngân hàng, qua việc kiểm soát các loại rủi ro mà ngân hàng có thể gặp phải. Nội

dung giám sát an toàn chủ yếu bao gồm giám sát các quy định về phân loại nợ, trích

lập dự phòng rủi ro, an toàn vốn, đảm bảo tính thanh khoản, kiểm soát nội bộ.

Đánh giá hoạt động của ngân hàng, IMF và BIS đều đề xuất áp dụng hệ

thống đánh giá CAMELS được ban hành bởi Cục quản lý liên hiệp tín dụng Mỹ

(National Credit Union Administration - NCUA). Theo hệ thống đánh giá

CAMELS bao gồm 6 yếu tố cơ bản được sử dụng để đánh giá hoạt động của một

ngân hàng, đó là: Mức độ an toàn vốn (Capital Adequacy), Chất lượng tài sản có

(Assset Quality), Quản lý (Management), Lợi nhuận (Earnings), Thanh khoản

(Liquidity) và Mức độ nhạy cảm với rủi ro thị trường (Sensitivity to Market Risk).

- Thanh tra tại chỗ (On-site Examinations).

Thanh tra tại chỗ là hoạt động được thực hiện khi có sự vi phạm các quy chế

an toàn tại các ngân hàng. Thanh tra sẽ tập trung vào một vài nội dung như: Chất

lượng tài sản; Việc tuân thủ luật, qui định hiện hành; Hệ thống kiểm soát nội bộ và

những bất thường tài chính khác…

Bên cạnh đó, khi các tổ chức chấm dứt hoạt động, giải thể, sáp nhập cũng cần có sự

giám sát chặt chẽ các hoạt động sau đó trong một thời gian nhất định.

Giám sát bảo hiểm

Nguyên tắc chuẩn mực quốc tế giám sát bảo hiểm

Giám sát bảo hiểm dựa vào các nguyên tắc chung về giám sát bảo hiểm được

quy định trong “Các nguyên tắc nòng cốt trong giám sát bảo hiểm” (Insurance Core

Principles - ICP), do Hiệp hội Quốc tế của các cơ quan giám sát bảo hiểm (IAIS)

ban hành, gồm 28 nguyên tắc chia làm bảy nội dung chính. Đây là những nguyên

tắc giúp cho việc xây dựng một khung pháp lý về hoạt động giám sát lĩnh vực bảo

9

hiểm, đồng thời đưa ra bộ chỉ tiêu chuẩn về đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh

doanh bảo hiểm.

Nội dung giám sát

Giám sát hoạt động của các tổ chức tài chính hoạt động bảo hiểm cũng bao

gồm: Giám sát trước khi hoạt động; Giám sát trong quá trình hoạt động; Giám sát

việc chấm dứt hoạt động.

Một là, giám sát trước khi hoạt động

Đây là giai đoạn kiểm tra các tiêu chuẩn, điều kiện nhằm lựa chọn những tổ

chức, doanh nghiệp có đủ khả năng hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm.

Lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm có những yêu cầu về năng lực tài chính, trình độ

quản trị, do đó cần phải kiểm tra xem xét trước khi cấp giấy phép thành lập doanh

nghiệp hoạt động kinh doanh bảo hiểm.

Hai là, giám sát trong quá trình hoạt động trong đó chú trọng về giám sát từ xa bao

gồm việc giám sát:

- Các yêu cầu về vốn và khả năng thanh khoản

Các yếu tố đánh giá khả năng thanh khoản của doanh nghiệp bảo hiểm là:

vốn chủ sở hữu, chất lượng tài sản có, dự phòng nghiệp vụ, nghiệp vụ tái bảo hiểm,

và những chỉ tiêu này được nêu cụ thể trong ICP, chuyển hóa thành các quy định

đối với mỗi quốc gia khác nhau.

Nếu xét về phương pháp giám sát khả năng rủi ro thanh khoản, hiện nay trên

thế giới có 2 phương pháp chính là sử dụng “Biên khả năng thanh toán” (Solvency

Margin) và “vốn dựa trên rủi ro” ( Risk based capital)

- Giám sát tài sản nợ (Dự phòng nghiệp vụ)

Trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm, phí bảo hiểm người mua phải trả

trước, tiền bồi thường do công ty bảo hiểm đền bù sau. Do đó, các công ty bảo hiểm

có vốn tạm thời nhàn rỗi, thể hiện ở mục “Dự phòng nghiệp vụ”, đây là nợ phải trả

chủ yếu, và cũng là một nội dung trong giám sát doanh nghiệp bảo hiểm. Có 2 vấn

đề cần xem xét là: Các loại dự phòng trích lập và phương pháp trích lập.

- Giám sát tài sản có hoạt động đầu tư

10

Trong hoạt động đầu tư, doanh nghiệp bảo hiểm phải đảm bảo về an toàn

vốn, khả năng sinh lời đồng thời duy trì khả năng thanh khoản.

Theo Nguyên tắc bảo hiểm cơ bản ICP, các tiêu chuẩn an toàn trong hoạt

động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm là các yêu cầu về chính sách đầu tư, danh

mục đầu tư, các giới hạn đầu tư…

Ngoài ra cần phải giám sát các hoạt động như chia tách, hợp nhất, sáp nhập, giải thể

và phá sản. Giám sát cần đảm bảo các hoạt động diễn ra đúng theo quy định của

pháp luật, đảm bảo quyền lợi nghĩa vụ của các bên tham gia đặc biệt là không gây

ảnh hưởng đến uy tín trong toàn hệ thống.

Giám sát trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán

Nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế giám sát hoạt động kinh doanh chứng

khoán

Mục tiêu giám sát lĩnh vực chứng khoán bao gồm: Bảo vệ nhà đầu tư; Đảm

bảo tính công bằng, minh bạch và hiệu quả của thị trường chứng khoán; Giảm trừ

rủi ro hệ thống. Năm 1998, Tổ chức Quốc tế của các Uỷ ban Chứng khoán (IOSCO)

đã ban hành “Những mục tiêu và nguyên tắc giám sát chứng khoán” (Objectives

and Principles of Securities Regulation) Trong đó nêu rõ giám sát các tổ chức kinh

doanh chứng khoán bao gồm: Qui định về các điều kiện tham gia thị trường; Yêu

cầu về an toàn và vốn; Tổ chức thanh tra thường xuyên; Giải quyết các vấn đề về

phá sản.

Nội dung giám sát

Một là, giám sát trước khi hoạt động gồm: Thống nhất các quy định về điều

kiện gia nhập thị trường; Giám sát về yêu cầu vốn tối thiểu, các công ty chứng

khoán phải duy trì và báo cáo thường xuyên cho cơ quan phụ trách giám sát; Giám

sát về việc cung cấp thông tin cho các bên liên quan và công bố thông tin cho thị

trường; Giám sát việc cấp phép gia nhập thị trường

Hai là, giám sát trong quá trình hoạt động: Giám sát từ xa, thanh tra tại chỗ

Trong giám sát từ xa có 02 nội dung chính là giám sát an toàn vốn và giám sát hoạt

động kinh doanh

11

- Giám sát an toàn vốn

Việc áp dụng các chỉ tiêu an toàn vốn sẽ theo bộ hệ chỉ tiêu áp dụng trong hệ

thống ngân hàng (Basel I và Basel II). Hiện nay hệ thống giám sát tài chính của

Liên minh châu Âu đang áp dụng, các công ty chứng khoán phải luôn đảm bảo các

tỷ lệ:

≥ 8% Vốn tự có Tổng tài sản có rủi ro

Quy định mức vốn ròng tối thiểu - Net capital approach

Yêu cầu đối với các công ty chứng khoán phải luôn đảm bảo mức giá trị tối

thiểu tài sản có tính thanh khoản cao để đáp ứng ngay các yêu cầu của người tiêu

dùng khi công ty phá sản. Quy định này cũng sẽ giúp cho công ty có thể bù đắp các

rủi ro chính yếu như rủi ro thị trường, rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro hoạt

động. Mức vốn ròng tối thiểu theo qui định thông thường là một tỷ lệ phần trăm của

tổng các khoản nợ của công ty chứng khoán.

- Giám sát hoạt động kinh doanh

Bao gồm các công việc như: Xây dựng quy trình kiểm soát nội bộ, quản lý rủi ro

bằng việc giám sát thường xuyên; Đảm bảo luôn hoạt động trên nguyên tắc bảo vệ

khách hàng; Các nội dung về kiểm soát nội bộ.

Bên cạnh đó, khi các tổ chức chấm dứt hoạt động, giải thể, sáp nhập cũng

cần có sự giám sát chặt chẽ các hoạt động sau đó trong một thời gian nhất định.

Ngoài ra, các cơ quan giám sát trong quá trình hoạt động cần phải đảm bảo

giám sát công bố thông tin và các giao dịch không hợp pháp qua đó nâng cao tính

minh bạch và uy tín trên thị trường, bảo đảm cho người tiêu dùng được tiếp cận

thông tin đầy đủ, chính xác và nhanh chóng.

Bên cạnh 3 lĩnh vực hoạt động chính là ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán,

trước sự đa dạng và linh hoạt trong hoạt động, hiện nay có xu hướng các trung gian

tài chính phát triển thành các định chế tài chính. Tuy nhiên việc giám sát định chế

12

tài chính không thể như với từng lĩnh vực riêng lẻ, đòi hỏi một nghiệp vụ kỹ thuật

phức tạp.

1.3. CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG GIÁM

SÁT TÀI CHÍNH

1.3.1. Khái niệm hệ thống giám sát tài chính

Hệ thống giám sát tài chính được định nghĩa là tập hợp của một hay một vài

các cơ quan hoạt động độc lập hay phối hợp với nhau trong việc giám sát hoạt động

các định chế tài chính trên thị trường tài chính nhằm đạt được mục tiêu ổn định hệ

thống tài chính, đảm bảo sự an toàn và lành mạnh của các định chế tài chính, bảo vệ

lợi ích của người tiêu dùng trên thị trường tài chính và đảm bảo thị trường tài chính

hoạt động hiệu quả, minh bạch trên cơ sở đưa ra các quy định và chính sách phù

hợp. (IMF, 2008)

Hoạt động giám sát tài chính phải mang tính hệ thống dù cho các cơ quan

giám sát hoạt động độc lập, tách biệt. Điều này đòi hỏi một sự phối hợp chặt chẽ

giữa các cơ quan giám sát, áp dụng các phương pháp giám sát tạo nên một khối

thống nhất, tránh sự chồng chéo và các lỗ hổng, nâng cao hiệu quả của giám sát tài

chính.

1.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động của hệ thống giám sát tài chính

Thứ nhất, hệ thống pháp lý về hoạt động giám sát

Một vài nghiên cứu đã chỉ ra mối liên hệ giữa cơ sở pháp và hiệu quả giám

sát tài chính như Demirguc-Kunt và Detragiache (1998), Levine (1998). Các quy

định về giám sát chính là cơ sở pháp lý cho các cơ quan giám sát thực thi quyền

giám sát. Bên cạnh đó, hoạt động hệ thống giám sát phụ thuộc vào sự thống nhất,

đồng bộ trong hoạt động của các cơ quan giám sát chuyên ngành, sự phù hợp với

thực tiễn.

Thứ hai, tính độc lập của cơ quan giám sát

Một hệ thống giám sát hiệu quả phải có đủ quyền lực và đủ công cụ để đảm

bảo an toàn cho hệ thống tài chính. Một cơ quan giám sát hoạt động độc lập sẽ đảm

13

bảo cho việc thực thi giám sát công bằng, minh bạch vì sự ổn định chung của hệ

thống tài chính mà không vì quyền lợi của bất kỳ nhóm hay tổ chức nào.

Thứ ba, sự phối hợp giữa các cơ quan giám sát

Theo khuyến cáo của Ủy ban Basel, điều kiện quan trọng để giám sát có hiệu

lực là “sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị giám sát và sự chia sẻ thông tin hợp lý

giữa các cơ quan giám sát cả trong và ngoài nước”. Khi thị trường tài chính ngày

càng phát triển, các định chế tài chính có xu hướng phát triển thành những tập đoàn

tài chính đa năng, mở rộng thêm nhiều lĩnh vực nên không có giới hạn rõ ràng từng

lĩnh vực hoạt động như ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm. Do đó, việc phối hợp

thông tin, dữ liệu giữa các cơ quan giám sát chuyên ngành càng trở thành tất yếu.

Thứ tư, nguồn nhân lực và vốn

Theo Uỷ ban Basel, một hệ thống giám sát thực sự có hiệu quả, quan trọng

nhất là hệ thống đó phải “có mục tiêu và trách nhiệm rõ ràng, có tính độc lập trong

hoạt động và có đủ nguồn lực cần thiết để hoàn thành sứ mệnh của mình”. Nguồn

lực tài chính là một thách thức lớn bởi lẽ vốn thường được tích luỹ thông qua các

khoản phí cấp phép và hoạt động. Nguồn nhân lực cũng là một vấn đề quan trọng,

vì hoạt động giám sát đòi hỏi kinh nghiệm và trình độ cao, để giám sát được các

định chế tài chính phải có một trình độ tổng quát, bao quát và nắm rất chắc từng

nghiệp vụ, bên cạnh việc phải có tâm trong công việc, có ý thức trách nhiệm cao.

Thứ năm, khả năng tiếp cận thông tin của cơ quan giám sát

Hoạt động giám sát đòi hỏi cơ quan giám sát phải tiếp cận thông tin của lĩnh

vực giám sát và các tổ chức tài chính nhanh chóng, đầy đủ và chính xác. Tuy nhiên

việc tiếp cận thông tin khá khó khăn vì các chủ thể giám sát thường bị che giấu

thông tin và hiện tượng thông tin bất cân xứng.

1.3.3. Các chỉ tiêu đánh giá hoạt động hệ thống giám sát tài chính

Các chỉ tiêu này được xây dựng dựa trên một tài liệu về đánh giá hoạt động

của hệ thống giám sát” Effective supervision and enforcement by AMl/CFT

supervisors of the financial sector and law enforcement” năm 2015 của Cơ quan

hoạt động tài chính đặc biệt The Financial Action Task Force - FATS

14

1.3.3.1. Chỉ tiêu trực tiếp

Số lượng các tổ chức vi phạm: Những vi phạm trái với quy định của các trung gian

tài chính trong hoạt động khá nhiều như: hoạt động không đúng nội dung ghi trong

giấy cấp phép hoạt động; Các sai sót trong điều hành tổ chức, vi phạm đạo đức kinh

doanh, cạnh tranh không lành mạnh…

Với chỉ tiêu này không phải càng phát hiện được nhiều tổ chức vi phạm càng

tốt, hay không phát hiện ra tổ chức vi phạm cũng càng tốt. Điều đáng quan tâm là

việc số lượng các tổ chức vi phạm qui định trong một thời kỳ và nhất là nếu phạm

cùng một lỗi.

1.3.3.2. Chỉ tiêu gián tiếp

Các chỉ tiêu này thể hiện kết quả thực hiện các mục tiêu của hệ thống giám sát tài

chính:

Nhóm chỉ tiêu về an toàn.

- Số lượng các tổ chức tài chính bị phá sản hàng năm

- Số lần phải hành động trợ giúp khẩn cấp cho các tổ chức tài chính trong

một giai đoạn

- Dư nợ xấu, dư nợ mất vốn của các tổ chức tài chính trong một năm

- Mức độ an toàn vốn của các tổ chức tài chính

- Khả năng phát hiện và phòng tránh rủi ro tiềm tàng của hệ thống tài chính.

Nhóm chỉ tiêu tăng trưởng

- Tổng tài sản: đánh giá mức độ gia tăng tổng tài sản của các tổ chức tài

chính

- Vốn tự có: đánh giá mức độ tăng trưởng vốn tự có của các tổ chức tài chính

- Tổng thu nhập: đánh giá mức độ tăng tổng thu nhập của các định chế qua

các năm

- ROA và ROE: phản ánh hiệu quả hoạt động của các tổ chức tài chính qua

các năm

1.4. CÁC MÔ HÌNH GIÁM SÁT TÀI CHÍNH VÀ KINH NGHIỆM XÂY

DỰNG MÔ HÌNH HỆ THỐNG GIÁM SÁT TÀI CHÍNH TRÊN THẾ GIỚI

15

1.4.1. Mô hình hệ thống giám sát theo đặc điểm thể chế

1.4.1.1. Khái niệm

Mô hình hệ thống giám sát tài chính theo đặc điểm thể chế là mô hình cổ

điển trong giám sát tài chính, tiếp cận theo hình thức pháp lý. Loại hình tổ chức

đăng ký kinh doanh (ngân hàng, môi giới chứng khoán, công ty bảo hiểm) là cơ sở

xác định người giám sát trên cơ sở an toàn, lành mạnh và giữ đạo đức kinh doanh.

1.4.1.2. Đặc điểm

Mô hình này thường được áp dụng với những thị trường tài chính còn non

trẻ, bắt đầu xây dựng hệ thống giám sát, các tổ chức tài chính vẫn đang phân chia rõ

những lĩnh vực hoạt động, khó khăn trong giám sát khi các tổ chức tài chính phát

triển đa ngành.

- Cơ quan giám sát phân chia theo ba lĩnh vực hoạt động chính trong hệ

thống tài chính là ngân hàng, bảo hiểm và chứng khoán.

- Mô hình cần phải có hệ thống pháp lý cho từng lĩnh vực bên cạnh việc phân

định rõ ràng trách nhiệm, công việc của các cơ quan giám sát để đảm bảo tính thống

nhất, rõ ràng và tránh sự chồng chéo trong hoạt động.

- Mô hình phải xây dựng một cơ cấu tổ chức hoàn chỉnh đối với mỗi cơ quan

chuyên trách, làm tốn kém chi phí và khó khăn trong việc trao đổi, thống nhất trong

giám sát.

1.4.1.3. Kinh nghiệm vận hành mô hình hệ thống giám sát theo đặc điểm thể chế

tại Trung Quốc

Năm 1998 Ủy ban giám sát hoạt động chứng khoán Trung Quốc - China

Securities Regulatory Commission (CSRC) được thành lập và cơ quan này chịu

trách nhiệm giám sát về lĩnh vực chứng khoán và đầu tư. Cũng năm 1998, Ủy Ban

giám sát hoạt động bảo hiểm Trung Quốc ra đời China Insurance Regulatory

Commission (CIRC), phụ trách giám sát lĩnh vực bảo hiểm. Từ năm 2003, trách

nhiệm giám sát hoạt động ngân hàng được chuyển từ ngân hàng nhân dân Trung

16

Hoa sang Ủy ban giám sát ngân hàng - China Banking Regulatory Commission

(CBRC).2

1.4.2. Mô hình hệ thống giám sát theo chức năng

1.4.2.1. Khái niệm

Mô hình hệ thống giám sát chức năng là mô hình hệ thống giám sát dựa trên

hoạt động kinh doanh của các tổ chức tài chính mà không phân biệt hình thức pháp

lý của các tổ chức tài chính đó. Mỗi lĩnh vực có thể có một cơ quan giám sát riêng

biệt, và một tổ chức hay một tổ chức tài chính hoạt động càng nhiều lĩnh vực sẽ

chịu càng nhiều sự giám sát của các cơ quan riêng biệt trên từng lĩnh vực chuyên

trách.

1.4.2.2. Đặc điểm

- Mô hình cần có sự phân định rõ về trách nhiệm giám sát đảm bảo an toàn

đối với từng lĩnh vực của các cơ quan chuyên trách và phối hợp chặt chẽ với nhau,

đòi hỏi các quốc gia có một cơ quan trung tâm trao đổi thông tin giữa các cơ quan

chuyên trách.

- Các cơ quan chuyên trách chịu trách nhiệm về lĩnh vực mình giám sát từ

việc cấp phép hoạt động đến kỷ luật.

1.4.2.3. Kinh nghiệm vận hành mô hình hệ thống giám sát theo chức năng tại

Pháp

Ngân hàng trung ương Pháp (BOF) chịu trách nhiệm giám sát thận trọng,

điều hành chính sách tiền tệ trong khi Ủy ban ngân hàng (CB) chịu trách nhiệm

giám sát hoạt động, bảo vệ lợi ích cho người tiêu dùng, ủy ban ngân hàng có trụ sở

ngay tại NHTW.

Giám sát đảm bảo an toàn và hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng

và các công ty đầu tư do Ủy ban các tổ chức tín dụng và công ty đầu tư The

2 Phụ lục 2. Mô hình giám sát thể chế tại Trung Quốc

Committee of Credit Institutions and Investment Firms (CECEI). Cơ quan thị

17

trường tài chính Financial Markets Authority (FMA) chịu trách nhiệm đối với các

quỹ tín thác và quỹ đầu tư3.

1.4.3. Mô hình giám sát lưỡng đỉnh

1.4.3.1. Khái niệm

Mô hình hoạt động dựa trên nguyên tắc mục tiêu của giám sát, do đó có sự

phân chia chức năng giám sát của hai cơ quan: Cơ quan tập trung hoạt động giám

sát an toàn, cơ quan tập trung giám sát hoạt động kinh doanh bảo vệ lợi ích của

người tiêu dùng.

1.4.3.2. Đặc điểm

Mô hình này phát huy nhiều tính hiệu quả và lợi ích từ mô hình hợp nhất, và

giải quyết được mâu thuẫn về thời gian.

Mô hình này gồm hai cơ quan giám sát độc lập giữ vai trò chủ đạo, hai cơ

quan này có cơ cấu tổ chức, hoạt động giám sát riêng biệt trên cả bốn lĩnh vực

chính: ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, hưu trí. Trong đó cơ quan giám sát thận

trọng hoạt động với mục tiêu giám sát an toàn lành mạnh cho hệ thống, và cơ quan

giám sát hoạt động kinh doanh với kim chỉ nam là giám sát đảm bảo lợi ích của

người tiêu dùng và minh bạch thông tin. Phụ trách hai cơ quan này là một cơ quan

trung tâm, cơ quan tư vấn cấp 1. Như vậy một tổ chức tài chính chịu sự giám sát

đồng thời của hai cơ quan.

1.4.3.3. Kinh nghiệm vận hành mô hình hệ thống giám sát lưỡng đỉnh tại Úc

Năm 1997, Úc đã cơ cấu lại hệ thống giám sát tài chính và có sự chuyển đổi

mô hình giám sát sang mô hình lưỡng đỉnh, phân chia hoạt động giám sát an toàn

thận trọng ra khỏi giám sát hoạt động kinh doanh. Ủy ban giám sát điều tiết bảo

hiểm APRA quy định việc nhận tiền gửi của các tổ chức bao gồm các ngân hàng,

công ty xây dựng xã hội, hiệp hội tín dụng và các công ty bảo hiểm, các quỹ lớn

3 Phụ lục 3. Mô hình giám sát theo chức năng tại Pháp

như quỹ hưu trí. Cơ quan này hoạt động độc lập với ngân hàng trung ương, và tập

18

trung vào việc giám sát thận trọng, đảm bảo an toàn. APRA chịu trách nhiệm cấp

phép và thu hồi, bãi bỏ các tổ chức hoạt động kém, thực hiện hoạt động này cùng

với ngân hàng dự trữ Úc RBA, NHTW Úc, đơn vị sẵn sàng hỗ trợ thanh khoản khi

cần thiết.

Ủy ban chứng khoán và đầu tư Úc ASIC chịu trách nhiệm điều tiết hoạt động

kinh doanh, lành mạnh hóa thị trường và bảo vệ lơi ích của nhà đầu tư trong hệ

thống tài chính. Họ điều tiết hoạt động các công ty tài chính, thị trường tài chính,

các tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính, và các chuyên gia thị trường.4

1.4.4. Mô hình giám sát tài chính hợp nhất

1.4.4.1. Khái niệm

Mô hình giám sát hợp nhất có một cơ quan giám sát duy nhất giám sát toàn

bộ đảm bảo an toàn của hệ thống gồm các tổ chức tài chính và thị trường tài chính.

Hiện nay các nước trên thế giới đang có xu hướng cơ cấu theo mô hình giám

sát tài chính hợp nhất, mô hình này tỏ ra hiệu quả ở những thị trường tài chính nhỏ,

mọi vấn đề một cơ quan chức năng đều có thể bao quát hết được. Bên cạnh đó mô

hình cũng được sử dụng ở những thị trường tài chính phát triển hơn, phức tạp hơn

với khả năng thích ứng linh hoạt. Phương pháp này tạo nên một thực thể giám sát

thống nhất, tận dụng tối đa nguồn lực, giảm sự chồng chéo trong giám sát. Các quốc

gia đang áp dụng mô hình giám sát này là Canada, Đức, Nhật Bản, Qatar,

Singapore, Thụy Sĩ, và Vương quốc Anh. Trong đó, Singapore là một quốc gia đi

đầu trong việc xây dựng mô hình giám sát hợp nhất.

1.4.4.2. Đặc điểm

Trong mô hình giám sát hợp nhất thường bao gồm hai mô hình đó là: mô

hình hợp nhất từng phẩn (partial integration) và mô hình hợp nhất toàn phần (full

integration). Với mô hình hợp nhất toàn phần, chỉ bao gồm một cơ quan giám sát

4 Phụ lục 4. Mô hình giám sát lưỡng đỉnh tại Úc

duy nhất chịu trách nhiệm giám sát tất cả các lĩnh vực trong hệ thống tài chính,

19

trong khi mô hình giám sát hợp nhất từng phần sẽ chỉ có sự hợp nhất của hai lĩnh

vực trở lên ví dụ hợp nhất giữa ngân hàng và bảo hiểm, hợp nhất giữa chứng khoán

và bảo hiểm…

Trong mô hình giám sát tài chính hợp nhất sẽ có một cơ quan giám sát tài

chính chuyên giám sát an toàn vi mô và giám sát hoạt động kinh doanh, bên cạnh đó

có một cơ quan tài chính khác giám sát an toàn vĩ mô. Hai cơ quan này cùng chịu

trách nhiệm giám sát trên cả ba lĩnh vực.

1.4.4.3. Kinh nghiệm vận hành mô hình hệ thống giám sát hợp nhất tại

Singapore

Singapore là quốc gia đầu tiên áp dụng mô hình giám sát tài chính hợp nhất

trên thế giới. Năm 1970, Quốc hội đã thông qua Cơ quan tiền tệ Singapore -

Monetary Authority of Singapore (MAS) được trao quyền điều hành, thực thi chính

sách tiền tệ.

Vào tháng Tư năm 1977, Chính phủ quyết định trao quyền quản lý lĩnh vực

bảo hiểm cho MAS. Đến tháng 9 năm 1984, MAS tiếp tục quản lý lĩnh vực chứng

khoán tại Singapore.

20

Bộ tài chính (MOF)

Công ty bảo hiểm tiền gửi Singapore

Sơ đồ 1.1: Mô hình giám sát hợp nhất tại Singapore

Ngân hàng

Cơ quan quản lý tiền tệ của Singapore

Chứng khoán

Chính sách tiền tệ

Giám sát thận trọng

Chỉ đạo Marketing

Phát triển và quan hệ đối ngoại

Nguồn lực doanh nghiệp và tiền tệ

Bảo hiểm

Nguồn: MAS, (2004), Objectives and principles of Financial Supervision in

Singapore

Mô hình giám sát tài chính hợp nhất tại Singapore là hợp nhất toàn phần,

MAS giám sát toàn lĩnh vực ngân hàng chứng khoán, bảo hiểm, đồng thời cũng là

cơ quan điều hành chính sách tiền tệ của Singapore. MAS chỉ đạo giám sát dựa trên

rủi ro của các tổ chức tài chính, cấp phép hoạt động, thiết lập các quy định và

chuẩn mực, xử lý các vi phạm quy định. MAS thực hiện chức năng người cho vay

cuối cùng đối với các tổ chức tài chính.

21

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Qua việc nghiên cứu các lý thuyết về rủi ro và giám sát tài chính, ta thấy các mục

tiêu chủ yếu của một hệ thống giám sát tài chính là ổn định và đảm bảo an toàn cho

hệ thống, các tổ chức tài chính cạnh tranh lành mạnh, bảo vệ người tiêu dùng. Để

thực hiện các mục tiêu này, mỗi quốc gia có phương pháp khác nhau, nhưng ngày

càng phải đề cao giám sát an toàn vĩ mô, bên cạnh giám sát an toàn vi mô, đặc biệt

sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Giám sát an toàn vĩ mô nhằm

ngăn ngừa những tác động vĩ mô đến an toàn hệ thống, giám sát vi mô là giám sát

từng lĩnh vực, từng trung gian tài chính trong hệ thống nhằm ngăn chặn những rủi

ro gây ảnh hưởng và lan tỏa đến toàn hệ thống. Bên cạnh đó, mô hình giám sát hệ

thống tài chính trên thế giới hiện nay đang có xu hướng chuyển dần sang mô hình

hợp nhất một phần hay toàn phần. Điều này phù hợp với sự phát triển của hệ thống

tài chính, nhất là khi việc áp dụng các công nghệ hiện đại và thị trường ra đời những

sản phẩm tài chính hiện đại tích hợp linh hoạt. Tiếp nối chương 1, chương 2 học

viên sẽ phân tích thực trạng về hệ thống tài chính, và giám sát hệ thống tài chính tại

Việt Nam.

22

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG HỆ THỐNG GIÁM SÁT TÀI CHÍNH TẠI VIỆT NAM

2.1. TỔNG QUAN HỆ THỐNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM VÀ RỦI RO CỦA

HỆ THỐNG

2.1.1. Khái quát thị trường tài chính Việt Nam

2.1.1.1. Đôi nét về thị trường tài chính Việt Nam

Thị trường tài chính Việt Nam có nhiều bước chuyển mình đáng kể từ sau

đại hội Đảng VI năm 1986, nền kinh tế Việt Nam từ cơ chế kế hoạch hóa, tập trung,

bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa. Khởi đầu sự

cải cách thị trường tài chính là sự ra đời của Pháp lệnh ngân hàng năm 1990, và

chuyển đổi ngân hàng mô hình một cấp sang mô hình hai cấp. Trong thị trường tài

chính bao gồm nhiều thị trường nhỏ như thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán,

thị trường ngoại hối, thị trường bảo hiểm...

Thị trường tiền tệ

Thị trường tiền tệ bao gồm thị trường nội tệ liên ngân hàng, thị trường ngoại

tệ liên ngân hàng, thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc và mua bán các giấy tờ có

giá ngắn hạn. Vai trò của thị trường tiền tệ là cung cấp vốn ngắn hạn cho các chủ

thể thiếu vốn trong nền kinh tế, cung cấp tính thanh khoản cho các NHTM và là thị

trường giúp NHNN thực thi chính sách tiền tệ.

Số lượng các tổ chức tài chính tham gia trên thị trường tiền tệ đã tăng mạnh

trong hơn 20 năm phát triển thị trường, từ những năm đầu đổi mới (giai đoạn 1990-

1991), các tổ chức tài chính ở Việt Nam mới chỉ bao gồm: 4 NHTM Nhà nước, 10

NHTM cổ phẩn và các hợp tác xã tín dụng. Đến ngày 31 tháng 12 năm 2015, đã có

7 NHTM do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, 28 NHTM cổ phần trong

nước, 5 NHTM 100% vốn nước ngoài, 3 ngân hàng liên doanh, 2 ngân hàng chính

sách, 1 ngân hàng hợp tác xã Việt Nam tiền thân là quỹ tín dụng nhân dân Trung

ương.

Thị trường chứng khoán

23

Thị trường chứng khoán Việt Nam được đi vào hoạt động từ tháng 7 năm

2000, với sự ra đời của Ủy ban chứng khoán Nhà nước trực thuộc Bộ Tài chính từ

năm 1996 có chức năng quản lý điều phối và giám sát chung thị trường chứng

khoán. Hai sở giao dịch chứng khoán nơi niêm yết và giao dịch các chứng khoán

của các công ty đã niêm yết là Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) và Sở giao

dịch chứng khoán thành phố HCM (HOSE). Bên cạnh đó, tồn tại một thị trường

chứng khoán phi tập trung, là nơi diễn ra các giao dịch của các chứng khoán chưa

niêm yết. Năm 2013, Bộ Tài chính ban hành thông tư số 91/2013 về việc cho phép

các tổ chức 100% vốn nước ngoài được thành lập tại Việt Nam, tạo môi trường

cạnh tranh bình đẳng và tận dụng nguồn vốn tối ưu cho nền kinh tế vào thị trường

chứng khoán.

Sau 16 năm hoạt động, thị trường chứng khoán Việt Nam có sự gia tăng

mạnh mẽ cả về số lượng các công ty niêm yết, công ty chứng khoán, công ty quản

lý quỹ và nhà đầu tư. Quy mô thị trường được mở rộng, tăng tính thanh khoản

chung cho nền kinh tế mặc dù hoạt động của thị trường diễn biến thăng trầm cùng

với sự phát triển theo chu kỳ kinh tế, tuy nhiên tính đến nay cũng đạt được các

thành tựu nhất định. Thông qua thị trường chứng khoán, huy động luồng vốn đầu tư

vào sản xuất kinh doanh góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước.

Thị trường ngoại hối

Thị trường ngoại hối có tổ chức tại Việt Nam được đánh dấu bằng sự thành

lập của hai Trung tâm Giao dịch ngoại tệ tại TPHCM và Trung tâm giao dịch tại Hà

Nội theo Quyết định số 107-NH/QĐ ngày 16/8/1991 của NHNNVN. Tuy nhiên sau

khi ra đời một thời gian, hai trung tâm đã không phát huy được tiềm năng thị

trường. Do đó, ngày 20/10/1994, NHNN Việt Nam quyết định thành lập thị trường

ngoại tệ liên ngân hàng thay cho hai Trung tâm trên. Thị trường ngoại tệ liên ngân

hàng ra đời với mục đích hình thành thị trường ngoại tệ có tổ chức giữa các ngân

hàng thương mại được phép kinh doanh ngoại tệ, làm cơ sở cho việc phát triển thị

24

trường ngoại tệ trong tương lai. Đây là một bước ngoặt trong quá trình phát triển thị

trường ngoại hối tại Việt Nam.

Thị trường bảo hiểm

Nghị định 100/CP ngày 18/12/1993 về kinh doanh bảo hiểm là cơ sở pháp lý

hình thành thị trường bảo hiểm Phi nhân thọ, Nhân thọ và kênh phân phối sản phẩm

bảo hiểm. Năm 2014, tổng doanh thu phí bảo hiểm là 54.635 tỷ trong đó bảo hiểm

phi nhân thọ là 27.307 tỷ đồng, bảo hiểm nhân thọ là 27.328 tỷ đồng, doanh thu từ

hoạt động đầu tư là 11.167 tỷ đồng. Về các chủ thể tham gia đến năm 2014 tăng lên

tổng số 61 doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm và đóng góp thêm sự có mặt của 25

văn phòng đại diện của các tổ chức kinh doanh bảo hiểm nước ngoài tại Việt Nam.

Từ năm 2007, doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ được phép triển khai sản phẩm bảo

hiểm liên kết chung và liên kết đơn vị, mở ra cho thị trường sản phẩm bảo hiểm đa

dạng hơn đó là các sản phẩm Bancassuanrance, sản phẩm bán chéo kết hợp giữa

ngân hàng và công ty bảo hiểm, làm đa dạng hóa hơn các sản phẩm bảo hiểm rất

nhiều. Bên cạnh đó, bảo hiểm Nhân thọ tiến hành bảo hiểm hưu trí tự nguyện từ

năm 2013, góp phần thực hiện chính sách an sinh xã hội.

2.1.1.2. Các tổ chức tín dụng

Bảng 2.1: Bảng hệ thống các TCTD tại Việt Nam tính đến ngày 31/12/2015

Loại hình

Số

Loại hình

Số

Lượng

Lượng

NHTM Nhà Nước

7

Chi nhánh ngân hàng nước

50

ngoài

NHTM cổ phần

29

Công ty tài chính

16

NH 100% vốn nước ngoài

Công ty cho thuê tài chính

5

11

Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở

1100

3

Ngân hàng liên doanh

Tổ chức TCVM chính thức

3

1

Ngân hàng hợp tác xã

2

Ngân hàng chính sách

Nguồn: Báo cáo thống kê của Ngân hàng nhà nước năm 2015

25

Trong các tổ chức tín dụng tham gia vào quá trình trung gian luân chuyển

vốn phải kể đến các TCTD ngân hàng và các TCTD phi ngân hàng.

Giai đoạn vừa qua, số lượng các TCTD đã giảm đi đáng kể do đề án tái cơ

cấu các TCTD được NHNN ban hành, các tổ chức tín dụng yếu kém phải tái cơ cấu

trong đó có các NHTM cổ phần được NHNN mua lại và trở thành các NHTM

TNHH một thành viên là GPBank, OceanBank và Ngân hàng xây dựng.

Bảng 2.2: Quy mô vốn tự có của nhóm các NHTM Việt Nam năm 2012 - 2015.

Đơn vị: tỷ đồng

Nhóm TCTD Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015

NHTM Nhà nước 137,268 166,580 169,696 203,328

NHTM Cổ phẩn 183,139 195,123 203,154 236,342

NH liên doanh nước 92,554 100,233 106,004 117,164

ngoài

CTTC, CT cho thuê 10,767 2,674 15,208 17,715

tài chính

NH hợp tác xã 2,254 2,316 2,510 3,472

Toàn hệ thống 425,982 466,926 496,573 578,020

Nguồn: Báo cáo thống kê của NHNN năm 2012 - 2015

Theo Bảng 2.2 vốn tự có giai đoạn năm 2012-2015 của các TCTD Việt Nam

đều tăng qua các năm, đặc biệt từ năm 2014 đến năm 2015, hệ thống ngân hàng

cũng như nền kinh tế bắt đầu có những dấu hiệu phục hồi sau khủng hoảng, giai

đoạn trước đó hệ thống ngân hàng chịu tác động mạnh bởi khủng hoảng năm 2008.

2.1.1.3. Các tổ chức kinh doanh chứng khoán

So với giai đoạn những năm 2006 - 2007 trước khủng hoảng tài chính, thị

trường chứng khoán giai đoạn hiện nay ảm đạm hơn rất nhiều, số lượng các công ty

chứng khoán sụt giảm từ 105 công ty vào cuối 2011 còn 81 công ty vào cuối năm

2014, tức khoảng 23%, sau quá trình tái cấu trúc hệ thống tài chính nói chung. Các

26

CTCK đã chủ động nâng cao chất lượng hoạt động, tăng cường năng lực tài chính,

quản trị công ty, quản trị rủi ro, cơ cấu lại tổ chức.

Bảng 2.3: Các chỉ số cơ bản của thị trường chứng khoán Việt Nam 2012 - 2014

Đơn vị: nghìn tỷ

Chỉ tiêu/Năm Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014

1.848 triệu 5.73 triệu 5.06 triệu Cổ phiếu (CP) tăng thêm

2,566/Phiên 2,715/Phiên 5,575/Phiên Giá trị giao dịch

765 949 1.121 Giá trị vốn hóa thị trường

105 95 81 Số lượng các CTCK

37,163 37,695 41,530 Vốn chủ sở hữu

9,832 7,913 10,522 Tổng doanh thu

1,200 2,056 3,196 Lợi nhuận sau thuế

Nguồn: Báo cáo thường niên Ủy ban chứng khoán Nhà nước 2012-2014.

- Một số CTCK tự tái cấu trúc bằng cách hợp nhất, rút bớt nghiệp vụ kinh

doanh, cụ thể: Có 04 CTCK đã thực hiện hợp nhất, 08 CTCK rút nghiệp vụ môi

giới, 02 CTCK đã rút nghiệp vụ Tự doanh, 04 CTCK đã rút nghiệp vụ Bảo lãnh

phát hành, 01 CTCK đã rút nghiệp vụ Tư vấn đầu tư chứng khoán.5

- Do thực hiện hiệu quả công tác tái cấu trúc các CTCK và TTCK có sự khởi

sắc, hoạt động kinh doanh của các CTCK năm 2014 khả quan hơn. Năm 2014, số

lượng CTCK có lãi nhiều hơn, tổng giá trị lợi nhuận cũng tăng lên và đạt 3300 tỷ

đồng, tăng 33% so với năm 2013. Đồng thời, số lượng công ty thua lỗ chỉ còn 19%,

giảm khá nhiều so với mức 34% của năm 2013. Bên cạnh đó, nhiều công ty đã tự

tăng vốn góp của chủ sở hữu để tăng cường năng lực tài chính, kết quả so với năm

2013, tổng vốn chủ sở hữu tăng 10%, đạt 41,530 tỷ đồng.

5 Báo cáo tổng hợp của SSC cuối năm 2014

2.1.1.4. Các tổ chức kinh doanh bảo hiểm

27

Ngày 18/12/1993, Chính phủ đã ban hành nghị định 100/NĐ - CP đã đánh

dấu một bước tiến mới trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm, chấm dứt quá trình

hoạt động độc quyền của Nhà nước về lĩnh vực bảo hiểm. Tính đến cuối năm 2014,

Việt Nam đã có tổng cộng 61 công ty bảo hiểm trong đó có 30 công ty bảo hiểm phi

nhân thọ, 17 công ty bảo hiểm nhân thọ, 2 công ty tái bảo hiểm, 12 công ty môi giới

bảo hiểm.

Về doanh thu bảo hiểm tăng dần qua các năm 2011-2014, ngoài ra chỉ tiêu dự

phòng nghiệp vụ và tổng tài sản cũng có những bước tăng đột biến, thể hiện tiềm năng

và nguồn lực về tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm đang dần vững mạnh.

Bảng 2.4: Các chỉ tiêu cơ bản về thị trường bảo hiểm Việt Nam năm 2011-2014

Đơn vị: tỷ đồng

Chỉ tiêu Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014

57 57 59 61 Số lượng DN

36,552 41,248 47,851 54,635 Doanh thu phí BH

15,998 18,397 23,330 27,328 BH Nhân thọ

20,554 22,851 24,521 27,307 BH phi nhân thọ

15,971 16,649 18,587 20,766 Bồi thường

61,878 69,011 79,289 97,099 Dự phòng nghiệp vụ

106,25 114,66 133,86 165,15 Tổng tài sản

Nguồn: Báo cáo thường niên của Cục quản lý giám sát bảo hiểm năm 2011-2014

2.1.2. Thực trạng rủi ro của hệ thống tài chính Việt Nam

2.1.2.1. Rủi ro thị trường tài chính

Mặc dù thị trường tài chính tại Việt Nam còn non trẻ vẫn trong giai đoạn cần

hoàn thiện nhưng những rủi ro của thị trường tài chính đã xuất hiện khá đầy đủ, đa

dạng và phức tạp, rủi ro đối với toàn thị trường và những rủi ro nội tại của từng tổ

chức tài chính. Đặc điểm của rủi ro thị trường tài chính tại Việt Nam được rút lại

như sau:

28

Một là, xuất hiện sự liên kết hệ thống giữa các bộ phận trong thị trường tài

chính gây nên cạn kiệt nội sinh theo mô hình mà Mishkin đã đề cập. Đây là mô hình

gây nên nguy cơ khủng hoảng đặc biệt tại các thị trường tài chính mới nổi, có sự

hấp dẫn vốn của nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán, thị trường bất

động sản, kéo theo tín dụng tăng trường nóng, gây giá cả của các tài sản tài chính

tăng vọt so với các tài sản thực. Khi bong bóng đạt đến độ nhất định sẽ vỡ kéo theo

sự rút vốn ồ ạt, giá trị tài sản giảm nghiêm trọng, tính thanh khoản giảm, kéo theo

các công cụ của toàn bộ hệ thống tài chính sụt giảm giá trị. Điều này được thấy rất

rõ trong giai đoạn những năm 2006-2007, Việt Nam là một nền kinh tế trẻ đầy tiềm

năng, dòng vốn FDI đổ vào nền kinh tế và thị trường chứng khoán, đẩy chỉ số Vn -

Index lên cao, thêm vào đó ngân hàng dễ dãi trong việc cấp tín dụng, một lượng lớn

vốn tín dụng tiếp tục được đổ vào thị trường chứng khoán càng làm chỉ số này tăng

cao. Nhưng khi khủng hoảng kinh tế xảy ra, lượng vốn rút ồ ạt, tính thanh khoản

của các chứng khoán sụt giảm, nền kinh tế trở nên khó khăn. Như vậy, đã có sự liên

kết gây ảnh hưởng giữa hoạt động của các ngân hàng và công ty chứng khoán, thị

trường tiền tệ và thị trường chứng khoán.

Hai là, sức chịu đựng rủi ro của các trung gian tài chính còn hạn chế, dễ bị

tác động bởi các yếu tố biến động. Trong giai đoạn vừa qua nền kinh tế Việt Nam

có nhiều biến động, thăm trầm tùy vào từng thời đoạn, lạm phát năm 2008 - 2009,

suy thoái kinh tế, biến động lãi suất, tỷ giá nhưng các tổ chức tài chính hoàn toàn bị

động vào các yếu tố ngoại sinh đó mà không hề có dự báo hay chuẩn bị để đón nhận

trong tương lai.

Ba là, có những rủi ro xuất hiện trên thị trường tài chính Việt Nam là rủi ro

pháp lý, xuất phát từ những văn bản pháp lý của các cơ quan có thẩm quyền ban

hành, và mang tính chất hành chính khi điều hành của hệ thống cơ quan chức năng.

Ví dụ như Chính phủ đã có những chính sách thay đổi nhanh chóng ban hành Nghị

quyết 10 và Nghị quyết 30 Về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm

kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội trong một năm 2008.

Các thông tư sửa đổi ban hành nhanh chóng ngay sau khi ra đời thông tư “gốc”, như

29

Thông tư 09/2014/TT - NHNN năm 2014 ban hành sửa đổi bổ sung thông tư

02/2013/TT - NHNN Quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp

trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động

của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Bên cạnh đó sự phối hợp

trong việc triển khai các chính sách chưa cao như chính sách tài khóa, chính sách

tiền tệ, chính sách đầu tư.

2.1.2.2. Rủi ro đối với các tổ chức tín dụng

Rủi ro tín dụng

Thời gian qua một vấn nạn nổi cộm trong hoạt động ngân hàng đó là thực

trạng nợ xấu đã lên mức báo động, nợ xấu của giai đoạn 2011 - 2015 là hệ quả của

việc tăng trưởng tín dụng nóng và dễ dãi trong việc cấp tín dụng của giai đoạn 2007

- 2008 trong hệ thống ngân hàng thương mại.

Vào giai đoạn cuối năm 2011, đầu 2012, một trong những vấn đề nhức nhối

của hệ thống ngân hàng là nợ xấu, bên cạnh việc dư nợ giảm, các ngân hàng thiếu

thanh khoản, vốn ứ đọng trong những món nợ xấu. Sau 5 năm kể từ khi NHNN

thành lập công ty mua bán nợ, giải quyết các vấn đề trong hoạt động tín dụng, giải

quyết nợ xấu nhằm lưu thông dòng vốn, tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ tín dụng đã

được giảm dần từ cao điểm là tháng 9/2012 với tỷ lệ 4.94% về mốc 3.15% cuối năm

20156. Tuy nhiên đây là con số tổng hợp từ NHNN của toàn hệ thống nhưng thực tế

nợ xấu ở các khu vực tổ chức tín dụng là khác nhau. Bên cạnh đó quy trình phân

loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng hiện nay của Việt Nam chưa hoàn toàn

theo đúng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế IFRS (International Financial

Reporting Standards). Tuy nhiên nếu đánh giá khách quan thì các TCTD đã có

nhiều cố gắng trong việc giảm thiểu rủi ro tín dụng như ban hành chính sách tín

dụng điều chỉnh phù hợp với từng thời kỳ, đa dạng hóa danh mục cho vay, quy trình

6 Theo báo cáo thường niên của NHNN giai đoạn 2012-2015

chấm điểm tín dụng khách hàng, xây dựng hệ thống chấm điểm xếp hạng tín nhiệm

30

nội bộ, xây dựng bộ máy quản lý rủi ro, kiểm soát nội bộ từ Hội sở đến các chi

nhánh…

Rủi ro thanh khoản

Rủi ro thanh khoản chủ yếu bắt nguồn từ độ lệch về quy mô và kỳ hạn giữa

các tài sản nợ và tài sản có của ngân hàng tại một thời điểm nhất định ở hiện tại

hoặc tương lai. Ngân hàng thường huy động được những khoản vốn ngắn hạn với

quy mô nhỏ nhưng cho vay dài hạn với những dự án lớn và số vốn vay lớn, điều này

dẫn đến nguy cơ về độ lệch giữa bên tài sản có và tài sản nợ, khó khăn khi đáp ứng

nhu cầu rút tiền của người gửi tiền. Bên cạnh đó rủi ro thanh khoản cũng có thể bắt

nguồn từ những yếu tố bên ngoài tác động nên tâm lý đám đông gây ra sự rút tiền ồ

ạt của người gửi tiền và làm cho ngân hàng đứng trước khả năng vỡ nợ do thiếu

thanh khoản. Điều này đã xảy ra 2 lần đối với NHTMCP Á Châu vào năm 2003 và

năm 2012.

Rủi ro tỷ giá

Rủi ro tỷ giá phát sinh khi có sự biến động về tỷ giá ngoại hối trên thị trường

trong điều kiện NHTM đang duy trì trạng thái ngoại hối trên bảng cân đối. Giai

đoạn 2011 đến nay, vấn đề tỷ giá của Việt Nam đã bớt căng thẳng hơn so với trước

kia về tình trạng khan hiếm ngoại tệ và đô la hóa trong nền kinh tế. Tuy nhiên Việt

Nam vẫn trong trạng thái nhập siêu, điều này làm cho nhu cầu về ngoại tệ tăng,

cung ngoại tệ giảm gây áp lực lên tỷ giá trong khi dự trữ ngoại hối của NHNN có

hạn. Vì những biến động phức tạp của tỷ giá mà các NHTM luôn phải đối mặt với

rủi ro này, một loại của rủi ro thị trường.

Rủi ro tác nghiệp

Rủi ro tác nghiệp là những rủi ro liên quan đến quá trình hoạt động như về

yếu tố nghiệp vụ, quy trình, cơ sở hạ tầng, công nghệ, các yếu tố về con người, rủi

ro đạo đức. Đây là những rủi ro không thể loại trừ trong quá trình vận hành. Trong

thời gian qua, ngành ngân hàng đã có những vụ án nổi cộm về vấn đề đạo đức như

vụ án Huỳnh Thị Huyền Như chiếm đoạt hơn 4911 tỷ Việt Nam đồng xảy ra

31

tại VietinBank là vụ án lớn nhất trong lịch sử ngành Ngân hàng Việt Nam với thời

gian vi phạm từ năm 2007 đến cuối năm 2011.

Ngoài ra hoạt động ngân hàng vẫn phải đối mặt với các rủi ro như rủi ro về

pháp lý, rủi ro từ hoạt động ngoại bảng, rủi ro về cổ phiếu…

2.1.2.3. Rủi ro đối với các tổ chức kinh doanh chứng khoán

Rủi ro hệ thống

Trước hết rủi ro hệ thống là những rủi ro tác động đến toàn thị trường, hầu

hết đến các mã cổ phiếu, các loại trái phiếu, mang tính vĩ mô như tác động của tăng

trưởng GDP, lạm phát… Những yếu tố vĩ mô tác động lên toàn hệ thống gây ra hậu

quả nhanh chóng đối với tất cả các nhà đầu tư trên thị trường, và đây là rủi ro không

tránh khỏi, không giảm thiểu được bằng biện pháp đa dạng hóa danh mục đầu tư.

Rủi ro pháp lý

Nếu so với các nước có nguồn luật pháp khó khăn khi các nhà đầu tư nước

ngoài tiếp cận như khu vực Trung Đông chịu ảnh hưởng của luật Hồi Giáo, nguồn

luật Việt Nam vẫn được đánh giá là khá “cởi mở”, đặc biệt trong giai đoạn chủ

trương phát triển kinh tế, mở cửa hội nhập như hiện nay. Nhưng rủi ro pháp lý ở

Việt Nam được đề cập đến là quá trình thay đổi nhanh chóng và mâu thuẫn trong

các nguồn luật điều chỉnh gây nên nhiều rào cản và khó khăn cho các nhà đầu tư

tiếp cận.

Rủi ro thông tin bất cân xứng

Minh bạch thông tin vẫn đang là vấn đề mà thị trường tài chính Việt Nam

cần hướng đến, chất lượng các báo cáo tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam

còn thấp, một phần do hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam các quy định có sự sai

lệch với chuẩn mực kế toán thế giới. Thực trạng là cùng một doanh nghiệp có nhiều

báo cáo tài chính khác nhau cho từng đối tượng như cơ quan thuế, ngân hàng…để

đạt được mục đích đi vay được nhiều, đồng thời đóng thuế ít. Việc công bố thông

tin sai lệch đôi khi làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến thị trường.

Rủi ro thị trường (lãi suất, lạm phát, tỷ giá…)

32

Các biến động này tác động lớn đến chi phí sản xuất của doanh nghiệp, và

ảnh hưởng đến tâm lý của nhà đầu tư. Lạm phát trong giai đoạn 2008-2009 là một

ví dụ cho thấy, tỷ lệ lạm phát quá cao, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế

có nguy cơ khủng hoảng, nhà đầu tư e ngại và cân nhắc các kênh đầu tư, làm cho

giá chứng khoán và các chỉ số sụt giảm nghiêm trọng so với giai đoạn trước.

Rủi ro phi hệ thống

Rủi ro nghiệp vụ

Đây là rủi ro tất yếu trong quá trình hoạt động kinh doanh chứng khoán, Việt

Nam là một thị trường mới nổi hấp dẫn nhà đầu tư nhưng một trong những rủi ro

hiện hữu của thị trường mới nổi là vấn đề về minh bạch thông tin và tâm lý đầu tư.

Nếu nhà đầu tư lựa chọn thời điểm sai sẽ dễ dẫn đến rủi ro trong kinh doanh chứng

khoán. Tuy nhiên rủi ro này thuộc rủi ro phi hệ thống, tức có thể được giảm thiểu

khi đa dạng hóa danh mục đầu tư

Rủi ro về tài chính

Đó là rủi ro trong việc quản trị tài chính không tốt, ảnh hưởng đến tính thanh

khoản của doanh nghiệp, hay khi áp dụng tỷ lệ đòn bẩy quá cao khiến nợ phải trả

chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn. Bên cạnh những rủi ro hoạt động thì rủi ro

về tài chính cũng là rủi ro mà một công ty chứng khoán dễ gặp phải vì ngành nghề

khá nhạy bén với những thay đổi của thị trường và phản ứng rất nhanh nhạy với các

dấu hiệu bất thường.

2.1.2.4. Rủi ro đối với các tổ chức kinh doanh bảo hiểm

Tại Việt Nam, việc đánh giá mức độ an toàn của các công ty bảo hiểm hay

thị trường bảo hiểm có thể dựa trên hệ thống chỉ tiêu giám sát tài chính phụ lục ban

hành theo thông tư 195/2014/TT-BTC ngày 18/12/2014 về việc hướng dẫn đánh

giá, xếp loại doanh nghiệp bảo hiểm, văn bản thay chế cho Quyết định số 153/QĐ-

BTC ngày 22/09/2003. So với Quyết định 153 thì thông tư mới đã có một hệ thống

chỉ tiêu đánh giá khá hoàn chỉnh các loại rủi ro của một doanh nghiệp kinh doanh

bảo hiểm.

Rủi ro bảo hiểm

33

Khi một công ty bảo hiểm phải bồi thường tổn thất bảo hiểm đồng nghĩa với

việc công ty đó đang gặp rủi ro bảo hiểm. Trong thị trường kinh doanh bảo hiểm,

các doanh nghiệp luôn phải cạnh tranh về sản phẩm, mức phí, đối tượng bảo hiểm

nên đôi khi chấp nhận lựa chọn những khách hàng rủi ro, cẩu thả trong việc xét

duyệt hồ sơ dễ dẫn đến tổn thất bồi thường.

Rủi ro tái bảo hiểm

Tái bảo hiểm là việc công ty bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm lại các hợp đồng

đã được bảo hiểm, cũng tương tự như rủi ro bảo hiểm, công ty tái bảo hiểm có thể

phải bồi thường tổn thất cho người được bảo hiểm, nên cần cẩn trọng trong việc lựa

chọn đối tượng được tái bảo hiểm. Có những công ty bảo hiểm ký kết hợp đồng bảo

hiểm giá trị quá lớn, so với năng lực tài chính, sau đó đã phải tìm sự bảo vệ của các

công ty tái bảo hiểm.

2.2. THỰC TRẠNG HỆ THỐNG GIÁM SÁT TÀI CHÍNH VIỆT NAM

2.2.1. Cấu trúc hệ thống giám sát tài chính Việt Nam

2.2.1.1. Các cơ quan giám sát trong hệ thống tài chính tại Việt Nam

Sơ đồ 2.1. Hệ thống giám sát tài chính ngân hàng Việt Nam theo mô hình phân tán

dựa trên cơ sở thể chế (Nguyễn Thị Kim Thanh, 2010).

34

Sơ đồ 2.1: Mô hình hệ thống giám sát tài chính tại Việt Nam

Nguồn: Tổng hợp từ các trang web: mof.gov.vn, sbv.gov.vn, div.gov.vn,

nfsc.gov.vn

Trong hệ thống giám sát tài chính tại Việt Nam có 3 cơ quan chịu trách nhiệm

giám sát toàn bộ hệ thống là: (i) Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - NHNNVN chịu

trách nhiệm giám sát lĩnh vực ngân hàng (Trong đó có Cơ quan thanh tra giám sát

ngân hàng, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam); (ii) Bộ Tài chính - BTC chịu trách nhiệm

giám sát lĩnh vực chứng khoán, bảo hiểm (Trong đó có Ủy ban chứng khoán Nhà

nước, Cục quản lý giám sát bảo hiểm); (iii) Ủy ban Giám sát Tài chính quốc gia -

UBGSTCQG chịu trách nhiệm giám sát chung toàn lĩnh vực trong hệ thống.

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

NHNNVN trực thuộc Chính Phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về

tiền tệ, hoạt động ngân hàng, ổn định giá trị đồng tiền và đảm bảo an toàn hoạt động

hệ thống ngân hàng. Chức năng giám sát được thể hiện trong Luật ngân hàng Nhà

nước Việt Nam 2010, theo khoản 11 điều 4 về nhiệm vụ và quyền hạn của NHNN “

Kiểm tra, thanh tra, giám sát ngân hàng; xử lý vi phạm pháp luật về tiền tệ và ngân

35

hàng theo quy định của pháp luật”, “Kiểm tra, thanh tra hoạt động ngân hàng, kiểm

soát tín dụng, xử lý các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động Ngân

hàng theo thẩm quyền”.

Cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng

Ngày 30/7/2009 NHNN thành lập Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng

(trên cơ sở sáp nhập 4 vụ chức năng của NHNN), theo Quyết định số 83/2009/QĐ-

TTg ngày 27/5/2009. Động thái này đã tạo bước đầu trong hướng quá trình chuyên

môn hóa công tác giám sát trong hệ thống ngân hàng. Theo Quyết định số

35/2014/QĐ-TTg ngày 12/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng,

nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng

trực thuộc NHNN Việt Nam, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng gồm 11 đơn

vị.

Thanh tra, giám sát Ngân hàng Nhà nước chi nhánh là đơn vị thuộc cơ cấu tổ

chức của Ngân hàng Nhà nước chi nhánh, giúp Giám đốc Ngân hàng Nhà nước chi

nhánh quản lý nhà nước, tiến hành thanh tra hành chính, thanh tra, giám sát ngân

hàng, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng chống tham nhũng, phòng chống rửa tiền,

chống tài trợ khủng bố đối với các đối tượng quản lý, thanh tra và giám sát ngân

hàng trên địa bàn theo sự phân công, phân cấp, ủy quyền của Thống đốc NHNN và

theo quy định của pháp luật.

Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam

BHTG là tổ chức tài chính Nhà nước được thành lập theo Quyết định số

218/1999/QĐ-TTg, ngày 09 tháng 11 năm 1999 của Thủ tướng Chính phủ, thời

điểm đó BHTG trực thuộc Chính Phủ. Năm 2012, Luật Bảo hiểm tiền gửi số

06/2012/QH13 đã đánh dấu một trang mới cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. Chức

năng giám sát trên thị trường tài chính là một trong những chức năng chính của tổ

chức BHTG. BHTG tổ chức giám sát thực hiện từ trung tâm điều hành của tổ chức

đến các chi nhánh tại 6 khu vực trong cả nước.

Theo điều 8 Luật bảo hiểm tiền gửi số 06/2012/QH13.” (i) Chính phủ thống

nhất quản lý nhà nước về bảo hiểm tiền gửi”; (ii) “Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

36

chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý Nhà nước về bảo hiểm tiền

gửi”. Do đó, hiện nay BHTG chịu sự quản lý trực tiếp của NHNN và đồng thời của

Chính Phủ.

Bộ Tài chính

Bộ Tài chính cũng trực thuộc Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà

nước về tài chính như: Quản lý ngân sách nhà nước, thuế, phí, lệ phí, đầu tư tài

chính, tài chính doanh nghiệp, hải quan, kế toán kiểm toán và trong đó có lĩnh vực

bảo hiểm, chứng khoán.

Về chức năng giám sát: Bộ Tài chính là cơ quan quản lý nhà nước về chứng

khoán và bảo hiểm theo Nghị định Chính phủ số 118/2008/NĐ-CP tại Điều 2,

Khoản 13.d “kiểm tra, giám sát hoạt động của của các tổ chức có liên quan đến việc

phát hành, kinh doanh, dịch vụ chứng khoán” và Khoản 14.c “kiểm tra, giám sát

hoạt động của các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo

hiểm và các tổ chức, cá nhân có liên quan”.

Ủy ban chứng khoán Nhà nước

Hiện nay, Vụ Giám sát TTCK thuộc UBCKNN trực tiếp thực hiện công tác

giám sát chuyên biệt trên thị trường chứng khoán theo Quyết định 02/2008/QĐ-

BTC ngày 14/1/2008. Vụ Giám sát TTCK thực hiện hai nhiệm vụ chủ yếu là giám

sát tuân thủ các quy định và giám sát hoạt động của những trung gian tài chính

trong thị trường như các công ty chứng khoán, Sở Giao dịch Chứng khoán và Trung

tâm lưu ký.

Cục Quản lý và Giám sát Bảo hiểm

BTC nhận thấy cần phải tách biệt hoạt động giám sát trong lĩnh vực bảo

hiểm do đó ngày 12/02/2009, BTC ban hành Quyết định số 288/QĐ-BTC thành lập

Cục Quản lý và Giám sát Bảo hiểm, đơn vị thuộc Bộ Tài chính. Sau NHNNVN, Bộ

Tài chính cũng đã thành lập đơn vị chuyên trách công tác giám sát bảo hiểm, góp

phần hoàn thiện bộ máy giám sát tài chính. Đơn vị này “có chức năng giúp Bộ

trưởng Bộ Tài chính thực hiện quản lý nhà nước đối với lĩnh vực kinh doanh bảo

hiểm trong phạm vi cả nước; trực tiếp quản lý, giám sát hoạt động kinh doanh bảo

37

hiểm và các hoạt động dịch vụ thuộc lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm theo quy định

của pháp luật”.

Uỷ ban Giám sát tài chính quốc gia

Tháng 03/2008 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số

34/2008/QĐ-TTg (được điều chỉnh theo quyết định số 79/2009/QĐ-TTg) về việc

thành lập UBGSTCQG, đánh dấu sự ra đời của một cơ quan giám sát tài chính quốc

gia gần với thông lệ và xu hướng quốc tế tại Việt Nam.

Chức năng giám sát: UBGSTCQG có chức năng “tham mưu, tư vấn cho Thủ

tướng Chính phủ trong điều phối giám sát thị trường tài chính quốc gia (ngân hàng,

chứng khoán, bảo hiểm), giúp Thủ tướng Chính phủ giám sát chung thị trường tài

chính quốc gia”.

Các ban trực tiếp thực hiện giám sát thị trường tài chính bao gồm: (i) Ban

Nghiên cứu và điều phối chính sách giám sát; (ii) Ban Giám sát tổng hợp; (iii) Ban

Giám sát các tập đoàn tài chính và (iv) Trung tâm Thông tin giám sát tài chính Quốc

gia.

Năm 2015 là một năm được đánh giá bước ngoặt mới đối với Ủy ban giám

sát tài chính quốc gia. Ngày 22/5/2015, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số

15/2015/QĐ-TTg v/v sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 34/2008/QĐ-

TTg ngày 03/3/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Uỷ ban Giám sát

tài chính Quốc gia. Theo đó, vai trò của Ủy ban đã được nâng cao, Ủy ban có trách

nhiệm báo cáo định kỳ, tư vấn tham mưu cho Thủ tướng chính phủ. Ủy ban có trách

nhiệm phân tích tổng hợp các tác động của yếu tố vĩ mô đến thị trường tài chính, và

ngược lại, đồng thời giám sát chung các lĩnh vực trong thị trường tài chính bao gồm

ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm.

2.2.1.2. Đặc điểm về hệ thống giám sát tài chính tại Việt Nam

Về mô hình giám sát tài chính phân tán trước đây rất phổ biến đối với các

quốc gia đang phát triển thị trường tài chính còn non trẻ, vì việc quản lý khá đơn

giản do điều kiện lịch sử ở mỗi quốc gia khác nhau, và mô hình khá đơn giản dễ

quản lý ở thời điểm các trung gian tài chính hoạt động sơ khai, chuyên biệt từng

38

lĩnh vực. Tuy nhiên, điều này không còn phù hợp khi có sự phát triển trong hệ

thống và đan xen trong lĩnh vực hoạt động tài chính.

Thành lập tổ chức giám sát tài chính theo mô hình phân tán, một phần chịu

ảnh hưởng bởi yếu tố lịch sử. Các cơ quan quản lý giám sát ra đời trước khi phát

triển thị trường, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính ra đời trước khi có các ngân

hàng, công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm. Do đó dẫn đến cơ quan quản lý thành

lập thị trường nào sẽ giám sát luôn tổ chức đó. Thêm vào đó, lịch sử phát triển của

ngành ngân hàng trước ngành bảo hiểm và ngành chứng khoán.

Cơ quan giám sát cũng là cơ quan ban hành chính sách, không có sự phản

hồi tác động của chính sách từ các bộ phận khác, chỉ sau khi đã áp dụng một thời

gian mới có những bất cập, phản hồi. Khi đó việc sửa đổi bổ sung hay thay thế văn

bản gây nên sự tốn kém về chi phí, thời gian và ảnh hưởng đến hiệu lực pháp lý,

ảnh hưởng đến danh tiếng của cơ quan ban hành pháp luật.

Mỗi lĩnh vực có cơ quan giám sát riêng biệt nên việc phối hợp chỉ mang tính

hình thức, chưa chặt chẽ. Ủy ban giám sát tài chính quốc gia ra đời với ý nghĩa kết

nối và tạo bước đệm nhằm thống nhất các cơ quan giám sát và giám sát an toàn vĩ

mô. Tuy nhiên sau 8 năm hoạt động vai trò của cơ quan này khá mờ nhạt, chỉ có

chức năng báo cáo tổng hợp và tham mưu cho Thủ tướng, không có hiệu lực về

quản lý giám sát.

Bên cạnh đó, hiện nay một lỗ hổng lớn trong giám sát đó là chưa có tổ chức

giám sát thống nhất các định chế tài chính đa lĩnh vực, các tập đoàn tài chính.

2.2.2. Thực trạng về hoạt động của hệ thống giám sát tài chính Việt Nam

2.2.2.1. Thực trạng tổ chức giám sát hệ thống ngân hàng

Cơ sở pháp lý

- Luật Thanh tra, 2010.

- Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng 2010.

- Luât Bảo hiểm tiền gửi 2012.

- Quyết định 06/2008/ QĐ-NHNN về việc xếp loại các NHTM cổ phần.

39

- Thông tư 02/2013/TT - NHNN Quy định về phân loại tài sản có, mức trích,

phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi

ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài,

Thông tư 09/2014 sửa đổi Thông tư 02/2013/TT - NHNN

Tổ chức bộ máy giám sát ngân hàng

Cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng.

Trong NHNN, cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng là đơn vị trực thuộc và

phụ trách về vấn đề giám sát ngân hàng. Với cơ quan này có sự phân chia trong

chức năng giám sát, các đơn vị chịu trách nhiệm chức năng giám sát gồm: Vụ thanh

tra các TCTD trong nước, vụ thanh tra các TCTD nước ngoài, vụ giám sát ngân

hàng, cục phòng chống rửa tiền, vụ thanh tra hành chính, giải quyết các khiếu nại tố

cáo và phòng chống tham nhũng.

Sơ đồ 2.2: Cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng

Nguồn: sbv.gov.vn

40

Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam

BHTG là một tổ chức phi lợi nhuận, nhằm bảo vệ quyền lợi cho người gửi tiền,

đứng ra bồi thường cho người gửi tiền bù đắp một phần thiệt hại khi tổ chức nhận

tiền gửi không có khả năng chi trả do bị phá sản. Bảo hiểm tiền gửi góp phần làm

lành mạnh và an toàn trong hoạt động của các TCTD, thông qua việc giám sát tuân

thủ việc thực hiện các chính sách công của các TCTD. BHTG ngay khi nhận được

các báo cáo tài chính của các TCTD, sẽ phân tích các chỉ tiêu, đánh giá thực trạng

tình hình hoạt động của các TCTD nhằm phát hiện ra những nguy cơ tiềm ẩn trong

các tổ chức để ngăn chặn.

Sơ đồ 2.3: Sơ đồ tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam

Nguồn: div.gov.vn

Mục tiêu giám sát ngân hàng

Mục tiêu giám sát chủ yếu là các mục tiêu chính sau: Giám sát tuân thủ các

quy định pháp luật của các TCTD; Bảo đảm tính thanh khoản cho các TCTD; Bảo

41

vệ người tiêu dùng và môi trường cạnh tranh lành mạnh; Bảo đảm an toàn, ổn định

hệ thống.

Nội dung giám sát ngân hàng

Nội dung giám sát từng lĩnh vực nói chung sẽ bao gồm: Giám sát trước khi

hoạt động liên quan đến việc kiểm tra các điều kiện để cấp phép kinh doanh; Giám

sát trong quá trình hoạt động là việc kiểm tra tính tuân thủ các quy định và đảm bảo

an toàn cho hệ thống; Giám sát sau khi giải thể, phá sản, hợp nhất sáp nhập là việc

giám sát các hoạt động của tổ chức trong thời gian nhất định nhằm ổn định hệ

thống.

Giám sát trong quá trình hoạt động bao gồm: Giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ

(Thanh tra tính tuân thủ)

Giám sát từ xa

Giám sát ngân hàng Việt Nam hiện nay đang áp dụng trong phương thức

giám sát từ xa là bộ chỉ tiêu theo CAMELS. Tại Việt Nam hiện nay, ngành ngân

hàng được cho là có hệ thống giám sát đầy đủ và phù hợp, cơ quan giám sát ngân

hàng sử dụng các bộ chỉ tiêu theo tiêu chí CAMELS7, theo Quyết định số

06/2008/QĐ - NHNN Ban hành về quy định xếp loại ngân hàng thương mại cổ

phần, đây là bước đệm chuyển dần sang việc giám sát dựa trên rủi ro. Các chỉ tiêu

bao gồm: C - Capital (Vốn), A - Assets (Tài sản), M - Management (Quản lý), E -

Earnings (Lợi nhuận), L - Liquidity (Thanh khoản), S - Sensitivity (Độ nhạy cảm

với các rủi ro thị trường).

Cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng với giám sát từ xa thông qua tổng hợp đánh

giá 3 loại báo cáo là:

- Báo cáo giám sát vĩ mô: được xây dựng trên cơ sở phân tích mô tả những

7 Bộ chỉ tiêu theo tiêu chí CAMELS theo Phụ lục 5

biến động lớn của nền kinh tế vĩ mô đến tác động vào hệ thống ngân hàng.

42

- Báo cáo đánh giá xếp hạng: sử dụng bộ chỉ tiêu theo CAMELS nhằm đáng

giá từng ngân hàng và để can thiệp khi cần thiết.

- Báo các cảnh báo sớm: dựa trên phân tích báo cáo giám sát tài chính vĩ mô,

sẽ đưa ra kết quả những tổ chức thuộc diện theo dõi và đưa ra cảnh báo cho

các tổ chức này.

Giám sát tuân thủ

Giám sát tuân thủ các quy định của các TCTD là việc giám sát các TCTD

trong quá trình hoạt động dựa trên những báo cáo giám sát từ xa sẽ có giám sát tuân

thủ, theo dõi các tổ chức đã được chú ý và có nguy cơ hoạt động không ổn định.

2.2.2.2. Thực trạng hệ thống tổ chức hoạt động giám sát bảo hiểm

Cơ sở pháp lý

- Luật kinh doanh bảo hiểm

- Nghị định số 41/2009/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong kinh

doanh bảo hiểm.

- Quyết định số 288/QĐ-BTC ngày 12/2/2009 của Bộ Tài chính quy định

chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý giám sát bảo

hiểm.

- Thông tư số 195/2014/TT-BTC ngày 17/12/2014 về việc Hướng dẫn đánh

giá xếp loại doanh nghiệp bảo hiểm.

Bộ máy tổ chức hoạt động giám sát bảo hiểm

Cục Quản lý Giám sát Bảo hiểm thành lập theo Quyết định 288/QĐ-BTC và

Quyết định 1854/QĐ-BTC của Bộ trưởng Bộ Tài chính với cơ cấu, bộ máy theo sơ

đồ. Trong đó ta thấy bên cạnh phòng quản lý giám sát bảo hiểm nhân thọ, phi nhân

thọ còn có Thanh tra cục quản lý giám sát bảo hiểm, để kiểm soát lại toàn bộ việc

quản lý vai trò giám sát của toàn doanh nghiệp và thị trường bảo hiểm.

43

Sơ đồ 2.4: Cục quản lý và giám sát bảo hiểm

Nguồn: Cục quản lý giám sát bảo hiểm - Bộ tài chính

Mục tiêu giám sát

Mục tiêu giám sát: cơ quan giám sát bảo hiểm cũng có những mục tiêu

chính yếu trong giám sát là: Đảm bảo tính thanh khoản cho các tổ chức kinh doanh

bảo hiểm, khả năng chi trả cho người sử dụng dịch vụ bảo hiểm; Bảo đảm hoạt

động giữa các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm cạnh tranh lành mạnh và minh

bạch; Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng; Đảm bảo an toàn, lành mạnh trong thị

trường bảo hiểm.

Nội dung giám sát gồm 02 nội dung chính là: Giám sát trước khi cấp phép;

Giám sát sau cấp phép.

Giám sát trước khi cấp phép

Là việc giám sát các tổ chức kinh doanh bảo hiểm có đủ điều kiện được cấp

phép hoạt động hay không: Điều kiện về tài chính như số vốn góp, vốn cổ đông, báo

cáo hoạt động kinh doanh; Điều kiện về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, khả năng

điều hành của bộ phận quản lý.

44

Giám sát sau khi cấp phép

- Giám sát từ xa

Là việc giám sát tuân thủ các quy định của pháp luật, hướng dẫn thực hiện, thi

hành các quy định của văn bản pháp lý. Bên cạnh đó, việc giám sát các doanh

nghiệp kinh doanh bảo hiểm phải diễn ra liên tục thường xuyên, đặc biệt là quản lý

tài chính. Hoạt động giám sát từ xa đối với các doanh nghiệp bảo hiểm được Cục

Quản lý, Giám sát Bảo hiểm thực hiện thông qua chế độ báo cáo của doanh nghiêp

bảo hiểm. Các doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm tính toán các chỉ tiêu giám sát

được quy định tại Quyết định số 195/2014/QĐ-BTC ngày 17/12/2014 của Bộ Tài

chính sau đó gửi báo cáo tổng hợp về Cục Quản lý Giám sát bảo hiểm, cơ quan này

có trách nhiệm phân tích, đánh giá kết quả hoạt động và phân loại các doanh nghiệp

bảo hiểm.

Cục Quản lý Giám sát Bảo hiểm đang hướng tới thực hiện 28 chuẩn mực quản

lý giám sát thận trọng áp dụng cho các nước thành viên của Hiệp hội các nhà quản

lý bảo hiểm quốc tế (IAIS), và việc ban hành thông thư 195/2014/TT-BTC đã thấy

rõ điều này. Theo đó, việc xếp loại doanh nghiệp bảo hiểm dựa theo 04 nhóm chỉ

tiêu đánh giá bao gồm:

+ Nhóm chỉ tiêu đánh giá về khả năng thanh toán, dự phòng nghiệp vụ và

hiệu quả hoạt động kinh doanh bảo hiểm.

+ Nhóm chỉ tiêu đánh giá về hoạt động bảo hiểm

+ Nhóm chỉ tiêu đánh giá về vốn, chất lượng tài sản, đầu tư tài chính.

+ Nhóm chỉ tiêu đánh giá về quản trị doanh nghiệp và minh bạch thông tin.

Qua việc phân tích chỉ tiêu, các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ và

phi nhân thọ chia thành 4 nhóm cụ thể:

- 04 nhóm đối với DNBH phi nhân thọ là: Doanh nghiệp đảm bảo khả năng

thanh toán (có lãi hoạt động kinh doanh bảo hiểm gốc trong 2 năm liên tục);

Doanh nghiệp đảm bảo khả năng thanh toán (không có lãi hoạt động kinh

doanh bảo hiểm gốc trong 2 năm liên tục); Doanh nghiệp có nguy cơ không

45

đảm bảo khả năng thanh toán; Doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, bị đặt

trong tình trạng kiểm soát đặc biệt

- 04 nhóm kinh doanh bảo hiểm nhân thọ là: Doanh nghiệp đảm bảo khả năng

thanh toán; Doanh nghiệp không thực hiện xếp loại nhóm 2 theo quy định;

Doanh nghiệp có nguy cơ không đảm bảo khả năng thanh toán; Doanh

nghiệp mất khả năng thanh toán, bị đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt.

Sau khi Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 195/2014/TT-BTC hướng dẫn việc

xếp loại các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm, 17 doanh nghiệp bảo hiểm nhân

thọ lần đầu tiên tự đánh giá, xếp loại dựa trên kết quả hoạt động trong năm 2015.

Theo kết quả đó có 17/17 doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm đã xếp vào nhóm 1,

và 9 doanh nghiệp xếp loại 1A, 8 doanh nghiệp xếp loại 1B. Đánh giá này góp phần

nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp tạo động lực hoàn thiện về chất

lượng dịch vụ, chăm sóc khách hàng và hoạt động kiểm soát rủi ro.

- Thanh tra tại chỗ.

Hoạt động thanh tra tại chỗ dựa vào kết quả của hoạt động giám sát từ xa để

quản lý chặt hơn những doanh nghiệp có nguy cơ rủi ro, đặc biệt những doanh

nghiệp kinh doanh bảo hiểm ở nhóm 4 là doanh nghiệp mất khả năng thanh toán bị

đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt.

2.2.2.3. Thực trạng hoạt động và giám sát trên thị trường chứng khoán

Cơ sở pháp lý

- Luật chứng khoán 2006; Văn bản hợp nhất số 27/VBHN-VPQH Luật Chứng

khoán ngày 18/12/2013.

- Quyết định số 427/QĐ-UBCK Về việc ban hành Quy chế Hướng dẫn đánh

giá, xếp loại công ty quản lý quỹ.

- Quyết định số 617/QĐ-UBCK, ngày 9/10/2013 ban hành Quy chế hướng dẫn

xếp loại công ty chứng khoán.

Cơ cấu tổ chức bộ máy giám sát thị trường chứng khoán

46

Sơ đồ 2.5: Cơ cấu tổ chức bộ máy giám sát thị trường chứng khoán

Nguồn: Ủy ban chứng khoán nhà nước - Bộ Tài chính

http://www.ssc.gov.vn/ubck/faces/vi/vimenu/vipages_trangchu

Quyết định số 127/QĐ-BTC và Thông tư số 151/2009/TTBTC ngày

23/07/2009 của Bộ Tài chính hướng dẫn công tác giám sát của UBCKNN đối với

hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán của Sở Giao dịch Chứng khoán và Trung tâm

Lưu ký chứng khoán.

Sở giao dịch chứng khoán là cơ quan giám sát cấp một: giám sát trực tiếp

diễn biến giao dịch hàng ngày trên thị trường, các đơn vị giao dịch, niêm yết, công

bố thông tin.

Ủy ban Chứng khoán Nhà nước là cơ quan giám sát cấp hai: giám sát trực

tiếp, kiểm tra việc tuân thủ các quy định của sở giao dịch chứng khoán, các đơn vị

tham gia. UBCKNN có 05 đơn vị thực hiện chức năng giám sát trên TTCK bao

gồm: Vụ Quản lý Phát hành, Vụ Quản lý Kinh doanh, Vụ Quản lý Quỹ và các Công

ty Quản lý Quỹ, Vụ Giám sát Thị trường và Thanh tra Chứng khoán.

47

Mục tiêu giám sát

Đảm bảo thị trường hoạt động minh bạch; Đảm bảo các định chế trung gian

lành mạnh tài chính; Bảo vệ người tiêu dùng và đảm bảo an toàn cho toàn thị trường

chứng khoán.

Nội dung giám sát:

Nội dung giám sát bao gồm: giám sát trước khi hoạt động, giám sát trong quá

trình hoạt động và giám sát sau khi giải thể sáp nhập.

Giám sát trong quá trình hoạt động, UBCKNN vẫn đang áp dụng một số

chỉ tiêu về vốn pháp định, vốn khả dụng để đánh giá và đảm bảo an toàn hoạt động

của các công ty chứng khoán. Cụ thể như quy định về vốn pháp định đối với từng

nghiệp vụ: Môi giới chứng khoán 25 tỷ đồng, tự doanh chứng khoán 100 tỷ đồng,

bảo lãnh phát hành chứng khoán 165 tỷ đồng, tư vấn đầu tư chứng khoán 10 tỷ

đồng.

Bên cạnh đó, đặc biệt giám sát trong quá trình hoạt động UBCKNN hiện nay

đã áp dụng một số chỉ tiêu đối với giám sát từ xa trong năm 2013, đánh dấu một

bước đột phá đối với hoạt động giám sát lĩnh vực chứng khoán. UBCKNN đã ban

hành các quy chế quản lý, giám sát theo bộ tiêu chí CAMEL (Quyết định số

427/QĐ-UBCK, ngày 11/7/2013 về việc ban hành Quy chế Hướng dẫn đánh giá,

xếp loại công ty quản lý quỹ; Quyết định số 617/QĐ-UBCK, ngày 9/10/2013 về

việc ban hành Quy chế hướng dẫn xếp loại công ty chứng khoán). Bộ chỉ tiêu

CAMEL8 bao gồm các hệ thống chỉ tiêu đánh giá trên cơ sở: Mức độ đủ vốn (C),

Chất lượng tài sản (A), Chất lượng quản trị (M), Khả năng lợi nhuận (E), Chất

lượng thanh khoản (L).

Như vậy UBCKNN đã chú trọng trong vấn đề giám sát tổ chức hoạt động

chứng khoán, xây dựng được bộ chỉ tiêu giám sát theo rủi ro thể hiện sự tiến bộ và

8 Bộ tiêu chí CAMEL của lĩnh vực chứng khoán theo Phụ lục 03

phù hợp với sự phát triển chung của tổ chức tài chính. Hoạt động thanh tra tại chỗ

48

cũng như lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, dựa trên các báo cáo của hoạt động giám

sát từ xa, Ủy ban sẽ có những đợt thanh tra, đặc biệt với các đối tượng hoạt động

yếu kém.

2.2.2.4. Ủy ban giám sát tài chính quốc gia

Sơ đồ 2.6: Mô hình tổ chức Ủy ban giám sát tài chính quốc gia

Nguồn: Ủy ban giám sát tài chính quốc gia nfsc.gov.vn

Vai trò giám sát: Bên cạnh vai trò tham mưu, tư vấn, tổ chức các cuộc hội

thảo… vai trò giám sát của Ủy ban tài chính quốc gia được đề cập trong chức năng

điều phối hoạt động giám sát chuyên ngành và giám sát chung thị trường tài chính.

Chức năng điều phối hoạt động giám sát chuyên ngành

- Đề xuất và khuyến nghị với Thủ tướng về điều phối hoạt động giám sát thị

trường tài chính cũng như tham gia ý kiến trực tiếp với Ngân hàng Nhà nước, Bộ

Tài chính và các bộ, ngành trong việc xây dựng văn bản có liên quan đến tổ chức,

hoạt động, thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm.

49

- Xây dựng đề cương chi tiết về Chiến lược phát triển lĩnh vực tài chính -

ngân hàng gửi Tiểu ban xây dựng Chiến lược phát triển đất nước; Chiến lược phát

triển tài chính Quốc gia giai đoạn 2011 - 2020…

- Xây dựng đội ngũ cộng tác viên của Uỷ ban để tranh thủ sự hỗ trợ và khai

thác trí tuệ của đội ngũ các nhà khoa học, các nhà kinh tế, các chuyên gia trong và

ngoài nước. Qua đó có thêm các thông tin, tham vấn các vấn đề kinh tế, tài chính

“nóng” để tổng hợp tham mưu cho Thủ tướng.

Chức năng giám sát chung thị trường tài chính

- Xây dựng hệ thống các chỉ tiêu giám sát các TCTD, các công ty chứng

khoán, các công ty bảo hiểm; các chỉ tiêu giám sát khu vực phi tài chính và khu vực

bất động sản.

- Thiết lập hệ thống cơ sở dữ liệu về bức tranh tổng thể của thị trường tài

chính Việt Nam nhằm mục tiêu cung cấp thông tin về thị trường tài chính quốc gia;

xây dựng hệ thống dữ liệu về thông tin thị trường tài chính của Uỷ ban để lập các

báo cáo trình Thủ tướng Chính phủ.

- Định kỳ (6 tháng và 1 năm) lập Báo cáo giám sát vĩ mô thị trường tài chính

Việt Nam và Báo cáo giám sát các tập đoàn tài chính. Nội dung các báo cáo tập

trung phân tích, đánh giá thị trường tài chính trong nước, cũng như những tác động

của thị trường tài chính thế giới đến thị trường tài chính trong nước; Dự báo, cảnh

báo nguy cơ rủi ro có thể xảy ra đối với thị trường tài chính quốc gia và các tập

đoàn tài chính lớn; Đề xuất các khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và

đảm bảo an toàn hệ thống tài chính.

- Định kỳ xây dựng Báo cáo phục vụ họp Hội đồng tư vấn chính sách tài

chính - tiền tệ quốc gia; Uỷ ban cũng đang triển khai nghiên cứu và hoàn thiện

khung nội dung cho một số báo cáo khác (Báo cáo Cảnh báo sớm; Báo cáo Ổn định

tài chính...)

Ký thỏa thuận hợp tác với một số bộ, ngành để tăng cường sự phối hợp, nâng

cao chất lượng hoạt động giám sát, điều phối giám sát và công tác tham mưu, tư vấn

cho Thủ tướng.

50

2.2.3. Thực trạng phối hợp giữa các chủ thể giám sát trong hệ thống giám sát

tài chính Việt Nam.

Trong hệ thống giám sát tài chính tại Việt Nam gồm UBGSTCQG, BTC,

NHNNVN, hoạt động phối hợp giám sát và xử lý vi phạm được thể hiện qua 3 hình

thức: Các thông tư liên tịch về phối hợp quản lý, giám sát, xử lý vi phạm hoặc thực

thi một chính sách, nghiệp vụ nhất định; Hoạt động lấy ý kiến đóng góp của các bên

liên quan đối với một chế độ, chính sách dự thảo; UBGSTCQG với vai trò là một

đầu mối phối hợp toàn bộ công tác giám sát trên thị trường tài chính.

2.2.3.1. Phối hợp qua các thông tư liên tịch

Các thông tư liên tịch về phối hợp quản lý, giám sát, xử lý vi phạm hoặc thi

chính sách: Nhìn chung phương pháp này giải quyết đối với từng vụ việc nhất định

và tồn tại nhiều nhược điểm khi chưa phát huy được tác dụng vì mang nặng tính thủ

tục hành chính và chậm chạp trong việc phản ứng, phối hợp, gây nên hiện tượng

đùn đẩy trách nhiệm.

2.2.3.2. Phối hợp qua cơ chế đóng góp ý kiến

Phối hợp được hiểu là cơ chế lấy ý kiến đóng góp của các bên liên quan đối

với một dự thảo văn bản pháp lý hoặc chế độ, chính sách mới. Trong ba lĩnh vực

giám sát, việc lấy ý kiến thường được thực hiện ở 02 cấp độ là gửi công văn hoặc tổ

chức hội họp. Tuy nhiên phương thức này có những nhược điểm như các ý kiến chỉ

xoay quanh quyền lợi và những tác động với từng lĩnh vực riêng lẻ mà người cho ý

kiến có liên quan, không có cái nhìn tổng quát toàn ngành, toàn nền kinh tế. Kết quả

cuối cùng thường là dựa trên sự thống nhất chứ không đặt mục tiêu làm tăng tính

hiệu quả của văn bản pháp lý đó.

2.2.3.3. Phối hợp qua Ủy ban giám sát tài chính quốc gia

UBGSTCQG vai trò đầu tàu trong việc thống nhất và phối hợp giữa các kênh

giám sát. Việc ra đời UBGSTCQG có nhiều ý nghĩa, một trong những vai trò là

thống nhất và phối hợp chặt chẽ với các bộ ban ngành trong 03 lĩnh vực giám sát

chính là ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán.

51

Nhìn chung với các hoạt động của UBGSTCQG chỉ dừng lại ở những tổng

hợp, báo cáo thị trường, nhiệm vụ quan trọng là tư vấn, tham mưu, kiến nghị, với

Chính phủ và các bộ ban ngành, thiếu đi quyền lực mà điều này rất cần thiết với

một cơ quan giám sát. Trong báo cáo sau 5 năm hoạt động “Hoạt động của Ủy ban

Giám sát tài chính quốc gia (2008-2012), định hướng hoạt động (2013-2015)”, hoạt

động của Ủy Ban này còn khá mờ nhạt, chỉ dừng lại ở mức tổng hợp báo cáo, phân

tích thị trường, các cuộc điều tra các TCTD, công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm

chứ chưa phải thanh tra, giám sát. Tuy nhiên đóng góp của Ủy ban là những đóng

góp chung trong toàn nền kinh tế như tốc độ tăng trưởng GDP, lạm phát. Về lĩnh

vực giám sát Ủy ban cũng có hợp tác cùng với các cơ quan chuyên trách để lập nên

bộ chỉ tiêu giám sát phù hợp như CAMELS đối với lĩnh vực ngân hàng, CAMEL

với chứng khoán, và bộ chỉ tiêu theo quyết định 195/2014/QĐ-BTC về việc xếp loại

các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm, định hướng theo bộ chỉ tiêu của hệ thống

chỉ tiêu giám sát tài chính do IMF khuyến nghị cho các quốc gia thành viên theo

Chương trình đánh giá khu vực tài chính (FSAP). Nguyên nhân của việc phối hợp

kém trong giám sát hệ thống là do mô hình giám sát phân tán, bộ máy hành chính

cồng kềnh và năng lực giám sát cần nhiều củng cố.

2.2.4. Đánh giá hoạt động của hệ thống giám sát tài chính Việt Nam

2.2.4.1. Kết quả trong hoạt động giám sát tài chính tại Việt Nam

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Chỉ tiêu trực tiếp

Số lượng các tổ chức vi phạm

Trên thị trường ngân hàng, các hành vi vi phạm và lạm dụng thị trường được

phát hiện và xử lý chủ yếu liên quan đến vi phạm các quy định về kinh doanh như

vi phạm liên quan đến trần lãi suất, giao dịch ngoại tệ hoặc các hành vi liên quan

đến đạo đức nghề nghiệp. Một trong những vụ việc nghiêm trọng là vụ án Huỳnh

Thị Huyền Như, tổng thiệt hại lên gần 4.000 tỷ đồng. Theo đề án tái cơ cấu hệ

thống ngân hàng, phía thanh tra ngân hàng Nhà nước đã đẩy mạnh hoạt động và đã

phát hiện nhiều vụ sai phạm nghiêm trọng. Vụ án của ông Hà Văn Thắm - nguyên

52

Chủ tịch HĐQT OceanBank đã ký các quyết định cho Công ty Trách nhiệm hữu

hạn Thương mại dịch vụ Trung Dung vay khoảng 500 tỷ đồng vào tháng 11/2012.

Việc cho vay này là sai quy định dẫn đến hậu quả mất khả năng thanh toán, ông đã

bị buộc tội "Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín

dụng".

Ngày 10/6/2015, tại Vietcombank chi nhánh Tây Đô, ông Nguyễn Minh

Chuyển, nguyên Giám đốc và ông Trần Anh Huy, nguyên trưởng phòng Tín dụng

cũng có hành vi vi phạm các qui định về cho vay trong hoạt động của các TCTD.

Tính đến đầu năm 2015, bộ phận kiểm toán phát hiện có đến khoảng 2.300 tỷ đồng

nằm trong nhóm khách hàng dạng có hợp đồng sai quy trình dẫn đến nợ xấu chiếm

trên 47% tổng dư nợ của Vietcombank - chi nhánh Tây Đô.

Trong năm 2015, qua kết quả thanh tra đã phát hiện 10 sai phạm phổ biến tại

các TCTD như: Sai phạm về cấp tín dụng; Sai phạm về phân loại nợ, trích lập dự

phòng rủi ro; Sai phạm về các tỷ lệ an toàn hoạt động (tỷ lệ vốn ngắn hạn cho

vay trung dài hạn, tỷ lệ cấp tín dụng…); Sai phạm về đầu tư tài chính; Sai phạm về

mua bán tài sản; Sai phạm về điều lệ, cổ đông, cổ phần; Sai phạm về quả trị điều

hành, kiểm soát, kiểm toán; Sai phạm về các hoạt động ngoại hối; Sai phạm về các

hoạt động hạch toán, kế toán thu chi tài chính; Sai phạm về an toàn kho quỹ, tổng số

tiền thu được là 2,3 tỷ đồng.

Chỉ tiêu gián tiếp: Chỉ tiêu về an toàn; Chỉ tiêu về tăng trường

+ Chỉ tiêu về an toàn:

Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu CAR

53

Bảng 2.5: Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu CAR của các NHTM Việt Nam

từ năm 2012 - 2015

Đơn vị: %

Nhóm TCTD Năm Năm Năm Năm

2012 2013 2014 2015

10.28 10.91 9.4 9.42 NHTM Nhà nước

14.01 12.56 12.07 12.74 NHTM cổ phần

27.63 26.53 30.78 33.8 NH liên doanh, nước ngoài

9.25 4.63 29.33 23.24 CTTC, CT cho thuê tài chính

38.83 32.84 29.91 31.47 Tổ chức tín dụng hợp tác

13.75 13.25 12.75 13 Toàn hệ thống

Nguồn: Báo cáo số liệu thống kê của NHNN giai đoạn 2012-2015

Nhìn chung các TCTD tại Việt Nam tuân thủ khá tốt tỷ lệ này, theo khuyến

cáo của Ủy Ban Basel thì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là 8%, nhưng theo quy định tại

Việt Nam tỷ lệ này tối thiểu 9%. Hầu như các TCTD đều có chỉ số này khá cao.

Nợ xấu toàn hệ thống

Thời gian qua một vấn nạn nổi cộm trong hoạt động ngân hàng đó là thực

trạng nợ xấu đã lên mức báo động, nợ xấu của giai đoạn 2011- 2015 là hệ quả của

việc tăng trưởng tín dụng nóng và dễ dãi trong việc cấp tín dụng của giai đoạn 2007

- 2008 trong hệ thống NHTM.

Năm 2014 tổng nợ xấu là 145,2 nghìn tỷ đồng (nội bảng), chiếm 3.71% trên

tổng dư nợ, Thông tư số 02/2013/TT-NHNN ban hành ngày ngày 21/01/2013 của

Ngân hàng Nhà nước được thực thi từ ngày 01/6/2014 nên tỷ lệ nợ xấu được phản

ánh chính xác hơn, tỷ lệ nợ xấu có tăng lại trong tháng 6/2014 nhưng giảm liên tiếp

những tháng sau đó. Dấu hiệu cho thấy chất lượng tín dụng đang có chiều hướng

được cải thiện. Tuy nhiên tỷ lệ nợ xấu báo cáo khác khá xa so với tỷ lệ nợ xấu được

đánh giá lại bởi UBGSTCQG, nhưng càng về sau, khoảng chênh lệch này càng

được thu hẹp. (Hà Huy Tuấn, 2015)

54

Sơ đồ 2.7: So sánh tỷ lệ nợ xấu giữa báo cáo và đánh giá lại

giai đoạn 2011-2014

Nguồn: Hà Huy Tuấn (2015) Báo cáo của Ủy ban giám sát tài chính quốc gia

Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright.

Số lượng các tổ chức tín dụng bị phá sản hàng năm

Đây là một trong những tư duy chuyển biến của các nhà làm chính sách

trong giai đoạn này, bắt đầu cho các TCTD “ tiếp cận” phá sản kể từ giai đoạn năm

1990. Giai đoạn vừa qua xuất hiện một loạt các văn bản pháp luật liên quan đến phá

sản các TCTD như Thông tư số 08/2010/TT-NHNN về việc kiểm soát đặc biệt đối

với tổ chức tín dụng, Thông tư số 34/2011/TT-NHNN về trình tự, thủ tục thu hồi

giấy phép và thanh lý các tổ chức tín dụng, đặc biệt là các nội dung trong chương

VIII Thủ tục phá sản các TCTD trong Luật phá sản ban hành năm 2014.

Mặc dù trên danh nghĩa chưa có TCTD nào tại Việt Nam phá sản, NHNN

yêu cầu hoặc cho phép các TCTD yếu, kém tái cấu trúc theo đề án Tái cấu trúc hệ

thống ngân hàng giai đoạn 2011 - 2015. Bên cạnh đó là việc thành lập Công ty quản

lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC), được cho là một phương án kịp thời,

khá hữu hiệu trong giải quyết nợ xấu của các TCTD Việt Nam.

Trong năm 2011 - 2013, có 9 NHTM bắt buộc phải thực hiện tái cơ cấu bắt

buộc thông qua các biện pháp khác nhau như hợp nhất (SCB, Ficombank,

55

TinnghiaBank), sáp nhập (Habubank vào SHB) và tự tái cơ cấu (TienphongBank,

TrustBank, Navibank, Westernbank và GP Bank)

Trong năm 2014 - 2015, thông qua hình thức mua bán và sáp nhập (M&A),

hệ thống ngân hàng đã thực hiện cơ cấu một số ngân hàng như Sacombank-

Southernbank, Vietinbank - PGBank, BIDV - MHB, Vietcombank - SaigonBank,

MaritimeBank-MekongBank, EximBank - NamAbank.

Đến nay, hệ thống NHTM và TCTD đã giảm bớt 5 NHTM cổ phần thông

qua hoạt động sáp nhập, hợp nhất và NHNN đã mua lại 3 tổ chức.

+ Chỉ tiêu về tăng trưởng

Quy mô vốn tự có

Vốn tự có tăng dần qua các năm đặc biệt ở nhóm các NHTM cổ phần, đây là

một tín hiệu tốt với ngành ngân hàng Việt Nam thời gian qua

Bảng 2.6: Quy mô vốn tự có của các TCTD Việt Nam giai đoạn 2012-2015

Đơn vị: Tỷ đồng

Năm Năm Năm Năm

Nhóm TCTD

2012 2013 2014 2015

137,268 166,580 169,696 203,328 NHTM Nhà nước

183,139 195,123 203,154 236,342 NHTM Cổ phẩn

92,554 100,233 106,004 117,164 NH liên doanh, nước ngoài

10,767 2,674 15,208 17,715 CT tài chính, cho thuê

2,254 2,316 2,510 3,472 NH hợp tác xã

425,982 466,926 496,573 578,020 Toàn hệ thống

Nguồn: Báo cáo thống kê của NHNN giai đoạn 2012-2015

Nhìn chung so với những năm 2011, 2012, chỉ tiêu ROA, ROE của hệ thống

các TCTD chưa thấy rõ dấu hiệu phục hồi, thậm chí chỉ tiêu ROA vào năm 2015

còn thấp hơn so với năm 2012 ở hầu hết các TCTD. Điều này có thể do 2 nguyên

nhân, lợi nhuận giảm hoặc tài sản tăng. Thực tế nhìn lại quá trình tái cấu trúc hệ

thống ngân hàng, có thể thấy việc tái cấu trúc làm tăng tài sản của các ngân hàng,

56

tuy nhiên chất lượng tài sản lại là vấn đề đáng quan tâm khi tỷ lệ nợ xấu vẫn ở mức

cao.

Nhóm các công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính có ROA, ROE năm

2012, 2013 âm, chứng tỏ lợi nhuận âm, tuy nhiên đã có dấu hiệu phục hồi nhanh

chóng vào năm 2014, 2015.

Bảng 2.7: Tỷ lệ ROA, ROE của các TCTD Việt Nam giai đoạn 2012-2015

Đơn vị: %

Nhóm TCTD Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015

ROA ROE ROA ROE ROA ROE ROA ROE

0.74 10.34 0.67 7.93 0.53 6.92 0.63 10.62 NHTM

Nhà nước

0.31 3.60 0.4 4.64 0.36 4.43 5.1 NHTM cổ phần 0.49

0.92 0.75 4.64 0.61 3.79 0.48 3.05 4.5 NH liên doanh

nước ngoài

- 0.76 - 13.9 -2.07 -22.2 2.33 8.25 3.29 14.99 CTTC, CT cho

thuê tài chính

1.53 8.00 0.62 3.95 0.93 10.67 0.93 13.6 TCTD hợp tác

0.62 6.31 0.49 5.18 0.51 5.49 0.52 6.26 Toàn hệ thống

Nguồn: Báo cáo thống kê của NHNN giai đoạn 2012-2015

Cục quản lý giám sát bảo hiểm.

Chỉ tiêu trực tiếp

Cục Quản lý và Giám sát bảo hiểm đã thực hiện khá tốt công việc giám sát,

phát hiện những rủi ro trong hoạt động.

Số lượng các tổ chức vi phạm

Năm 2013 đã tiến hành kiểm tra 5 CTBH nhân thọ, 6 CTBH phi nhân thọ, 6

công ty môi giới bảo hiểm. Đồng thời Cục quản lý giám sát bảo hiểm cũng thanh tra

chính thức 4 công ty bảo hiểm sau: Tổng CTCP bảo hiểm ngân hàng Đầu tư và Phát

triển Việt Nam (BIC) lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ; CTCP bảo hiểm hàng không

57

(VNI), lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ; Công ty liên doanh bảo hiểm Bảo Việt -

Tokyo Marine, lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ; Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ

ACE lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ

Giai đoạn năm 2011 - 2015, Cục quản lý giám sát bảo hiểm đã tổ chức thanh

tra toàn diện 15 cuộc, thanh tra chuyên đề 03 cuộc. Năm 2015 đã phát hiện ra những

vi phạm như sau:

- Lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ các sai phạm chủ yếu như: Chưa thực hiện

đúng quy tắc, điều khoản, biểu phí, mức trách nhiệm giữ lại vượt quá 5% vốn chủ

sở hữu, đại lý bảo hiểm hoạt động khi chưa có chứng chỉ đào tạo đại lý, trích lập dự

phòng nghiệp vụ chưa đúng quy định, bồi thường không đúng quy tắc, điều khoản,

hạch toán doanh thu - chi phí chưa đúng quy định, đầu tư vượt quá tỷ lệ theo quy

định của pháp luật.

- Lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ các sai phạm chủ yếu như: Giải quyết quyền

lợi bảo hiểm không thống nhất, chưa chấp hành đúng quy định về chia lãi cho chủ

hợp đồng trong hợp đồng có tham gia chia lãi, hạch toán doanh thu - chi phí chưa

đúng quy định…

- Lĩnh vực môi giới bảo hiểm các sai phạm chủ yếu như: Cung cấp dịch vụ

không đúng chức năng, sử dụng các tổ chức khác để thực hiện các công đoạn trong

quá trình hoạt động môi giới không phù hợp quy định của pháp luật; trích lập không

đủ quỹ dự trữ bắt buộc…

- Chỉ tiêu gián tiếp: Chỉ tiêu về an toàn; Chỉ tiêu về tăng trường

+ Chỉ tiêu về an toàn:

Số lượng phá sản hàng năm

Trong giai đoạn 2011-2015, chưa có doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực

bảo hiểm phá sản, các doanh nghiệp có thể mở thêm hay thu hẹp phạm vi, chi

nhánh, văn phòng đại diện, chứ chưa có trường hợp phá sản. Thực tế, người tiêu

dùng đã rất lo ngại trước những tin đồn như AIA bị phá sản, khi Tập đoàn bảo hiểm

Frudential mua lại AIA vào năm 2010, cũng như tập đoàn bảo hiểm Daiichi của

58

Nhật Bản mua lại Công ty bảo hiểm Bảo Minh. Nhìn chung, thị trường bảo hiểm

vận hành khá ổn định trong thời gian qua

+ Chỉ tiêu về tăng trưởng

Theo bảng 2.8 có 2 chỉ tiêu tăng trưởng quan trọng đối với doanh nghiệp bảo

hiểm là tổng tài sản và dự phòng nghiệp vụ. Nhìn chung, theo Báo cáo của Cục

quản lý giám sát thị trường bảo hiểm thì 2 chỉ tiêu này tăng qua các năm, tăng nhẹ

giữa năm 2012 và 2011, tuy nhiên 2 năm trở lại đây thị trường bảo hiểm đã khởi sắc

và khả quan hơn nhiều. Năm 2015, tổng tài sản đạt 193,158 tỷ đồng, tăng 16.96%

so với năm 2014. Chỉ tiêu dự phòng nghiệp vụ tăng, thể hiện nguồn tiền dự phòng

để bồi thường cho khách hàng tăng và khả năng thanh khoản của các doanh nghiệp

bảo hiểm tăng lên.

Bảng 2.8: Dự phòng nghiệp vụ, tổng tài sản của các công ty kinh doanh bảo

hiểm Việt Nam giai đoạn 2011-2015

Đơn vị: tỷ đồng

Chỉ tiêu Năm Năm Năm Năm Năm

2011 2012 2013 2014 2015

61,878 69,011 79,289 97,099 118,338 Dự phòng nghiệp

vụ

106,25 114,66 133,86 165,15 193,158 Tổng tài sản

Nguồn: Niên giám của Cục quản lý giám sát bảo hiểm 2011-2014, Báo cáo tổng

quan thị trường bảo hiểm năm 2015.

Uỷ ban chứng khoán Nhà nước

Chỉ tiêu trực tiếp

Số lượng các tổ chức vi phạm

Năm 2013, UBCKNN đã ban hành 108 quyết định xử phạt vi phạm đối với

các tổ chức cá nhân, đình chỉ hoạt động môi giới của 1 CTCK khi có hoạt động cho

59

khách hàng vay chứng khoán mà chưa có quyết định của BTC, đình chỉ thời hạn 01

công ty quản lý quỹ khi hoạt động không đúng nội dung được cấp phép.

Năm 2014, đã tổ chức 14 đoàn thanh tra và 47 đoàn kiểm tra đối với các

CTCK, công ty quản lý quỹ, công ty đại chúng, và các trường hợp thao túng giá

chứng khoán. UBCKNN đã ban hành 121 quyết định xử phạt vi phạm hành chính

đối với các tổ chức và cá nhân, với tổng số tiền phạt lên tới hơn 10 tỷ đồng,

Bảng 2.9: Tổng hợp các vi phạm lĩnh vực chứng khoán Việt Nam năm 2014

Trường hợp vi phạm Số lượng

Vi phạm của tổ chức chào bán ra công chúng, công ty đại chúng 50

Vi phạm giao dịch nội bộ, thao túng 2

Vi phạm của cổ đông lớn, cổ đông nội bộ, người có liên quan 33

Vi phạm của công ty chứng khoán 21

Vi phạm của công ty quản lý quỹ 12

Vi phạm của nhân viên kinh doanh chứng khoán 03

Tổng 121

Nguồn: Báo cáo thường niên của Ủy ban chứng khoán nhà nước năm 2014

Tổ chức thanh tra, kiểm tra đối với các tổ chức kinh doanh dịch vụ chứng

khoán dựa trên các tiêu chí về duy trì điều kiện cấp phép; việc đáp ứng các chỉ tiêu

an toàn tài chính. Các vi phạm bị xử phạt chính trong thời gian qua chủ yếu là các vi

phạm về báo cáo và công bố thông tin, cho khách hàng đặt lệnh khi không có tiền

trong tài khoản, cho khách hàng vay chứng khoán để bán, chưa tách bạch hoàn toàn

tiền của nhà đầu tư và của công ty chứng khoán, cung cấp các dịch vụ chứng khoán.

UBCKNN tiếp tục theo dõi đánh giá thành viên đấu thầu trái phiếu để từng bước

hình thành hệ thống nhà tạo lập thị trường trên cả thị trường sơ cấp và thứ cấp. Hệ

thống thành viên thị trường hiện gồm 25 thành viên đấu thầu và 54 thành viên giao

dịch trên thị trường thứ cấp.

Chỉ tiêu gián tiếp

Số lượng các công ty chứng khoán phá sản

60

Trong giai đoạn năm 2011-2015, Ủy ban chứng khoán Nhà nước cũng đã

thực thi đề án tái cấu trúc thị trường chứng khoán, ban hành các thông tư hướng dẫn

(thông tư 226/2010/TT-BTC, thông tư số 165/2012/TT-BTC, thông tư số

210/2012/TT-BTC và thông tư số 212/2012/TT-BTC) quy định về các cơ chế chính

sách về an toàn tài chính, và hoạt động của các tổ chức kinh doanh chứng khoán

nhằm đẩy nhanh quá trình tái cấu trúc.

Cuối năm 2013, có 24 công ty chứng khoán, 6 công ty quản lý quỹ được tái

cấu trúc, rút khỏi thị trường như giải thể, đình chỉ hoạt động, tạm ngưng các hoạt

động, hay từng bước rút khỏi các hoạt động kinh doanh cụ thể: 89/105 công ty còn

nghiệp vụ môi giới, 41/48 công ty quản lý quỹ hoạt động.

Theo thống kê đến cuối năm 2014, UBCKNN đã tái cấu trúc được 24 công ty

chứng khoán và 6 công ty quản lý quỹ, giảm được 23% tổng số công ty chứng

khoán trên thị trường nhưng ở mức độ xử lý cụ thể hơn so với thời điểm năm 2013:

- Tạm ngưng hoạt động 1 công ty.

- Chấm dứt hoạt động kinh doanh 03 công ty để thực hiện thủ tục thu hồi giấy

phép thành lập và hoạt động.

- Đình chỉ hoạt động 02 công ty.

- Cho giải thể 03 công ty: Công ty chứng khoán Âu Việt, công ty chứng khoán

Chợ lớn, Công ty chứng khoán Sen Vàng.

- Thu hồi giấy phép của 04 công ty do hợp nhất, sáp nhập.

- Đặt 08 công ty vào diện kiểm soát đặc biệt, 02 công ty vào diện kiểm soát.

Bên cạnh đó là: Thu hồi giấy phép 01 công ty quản lý quỹ, tạm ngưng hoạt

động 04 công ty và chấm dứt hoạt động 01 công ty.

Nhìn chung, đây là giai đoạn thị trường chứng khoán có rất nhiều biến động

và bất ổn, sau giai đoạn suy thoái nghiêm trọng vào năm 2008 - 2012, và có dấu

hiệu phục hồi ở mức chậm chạm vào năm 2014 - 2015, là chứng kiến sự ra đi của

nhiều công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ. Tuy nhiên, một mặt phải ghi

61

nhận tư duy của các cơ quan giám sát đã thay đổi khi cho thị trường đón nhận

những tin như phá sản doanh nghiệp kinh doanh chứng khoán.

+ Chỉ tiêu về tăng trưởng

Qua Bảng 2.10, nhận thấy vốn chủ sở hữu của các công ty chứng khoán tăng

mạnh hơn vào năm 2014, khi thị trường bắt đầu có dấu hiệu phục hồi. Về tổng

doanh thu, năm 2013 đạt 8,027 tỷ đồng giảm so với năm 2012 là 19.5%, nhưng đến

năm 2014 đã đạt được con số đáng kỳ vọng là 10,522 tỷ đồng.

Bảng 2.10: Số lượng các CTCK, vốn chủ sở hữu, tổng doanh thu của các

CTCK Việt Nam từ năm 2011 - 2014

Đơn vị: Tỷ đồng

Chỉ tiêu/Năm Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014

105 105 95 81 Số lượng các công ty

chứng khoán

37,254 37,163 37,695 41,530 Vốn chủ sở hữu

13,310 9,832 8,027 10,522 Tổng doanh thu

Nguồn: Báo cáo thường niên Ủy ban chứng khoán Nhà nước 2012-2014

Nhìn chung trong giai đoạn vừa qua, các cơ quan giám sát chuyên ngành đã

kiểm tra định kỳ hoạt động của các trung gian tài chính trên thị trường, bên cạnh

những kế hoạch kiểm tra đột xuất qua đó đã phát hiện ra nhiều sai phạm. Trên cơ sở

kết quả báo cáo giúp các tổ chức trung gian ý thức được rõ ràng hơn về việc tuân

thủ các quy định trong hoạt động, đồng thời ngăn chặn những sai phạm trên thị

trường, thể hiện một tinh thần làm việc tập trung, quan sát và lắng nghe của các cơ

quan giám sát chuyên ngành. Giai đoạn vừa qua, hệ thống tài chính Việt Nam đã

trải qua những giai đoạn khó khăn, khắc phục những hậu quả của khủng hoảng kinh

tế, một loạt các sai phạm đã được phát hiện tuy nhiên chỉ khi ở mức độ nghiêm

trọng mới được tìm thấy và trong đó có vai trò của các cơ quan điều tra, các thông

tin phản hồi từ phía người sử dụng dịch vụ và từ phía các cơ quan báo chí.

62

2.2.4.2. Hạn chế trong hệ thống giám sát tài chính tại Việt Nam.

Thứ nhất, việc xử lý vi phạm khá muộn khi để ra những sai phạm nghiêm

trọng ảnh hưởng đến thất thoát cho nền kinh tế, các cơ quan giám sát mới phát hiện

ra. Thêm vào đó, hệ thống giám sát vẫn mang nặng tính hành chính, giám sát từ xa,

giám sát tuân thủ, trong khi giám sát hiện đại các quốc gia trên thế giới đang hướng

đến giám sát rủi ro.

Thứ hai, ban hành văn bản chính sách, quy định trong quá trình giám sát

thiếu tính dự báo, khiến các thành viên tham gia thị trường chịu nhiều rủi ro về

chính sách, phát sinh chi phí xã hội: Một ví dụ như văn bản số 369/TBVPCP ngày

30/12/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc đóng cửa các sàn vàng, chính sách

nhằm ngăn chặn việc giao dịch vàng ảo, đầu cơ vàng, bởi lẽ vàng chính là ngoại tệ,

gây bất ổn đến nền kinh tế xã hội. Do đó, đây là một chính sách phù hợp nhưng nếu

xét về mặt thời gian ban hành chính sách thì quá gấp gáp đối với các thủ thể tham

gia trên thị trường, gây tổn thất và chi phí quá cao, các thành viên không được dự

báo trước, thậm chí có những sàn vàng vừa mới thành lập đã phải đóng cửa.

Thứ ba, trong việc xử lý các vi phạm còn chưa triệt để, chưa đạt được hiệu

lực cao do chế tài và thẩm quyền xử lý còn nhiều lỗ hổng, hiện tượng này xảy ra

khá phổ biến, đặc biệt trong việc giám sát của UBCKNN. Cơ quan này bị hạn chế

trong thẩm quyền tiếp cận những thông tin về tài khoản ngân hàng, dữ liệu internet

và điện thoại do đó ngăn cản việc đối chứng, kiểm tra, phát hiện và xử lý những

hành vi giao dịch nghi vấn, thao túng thị trường. Thậm chí, mặc dù đã phát hiện

giao dịch không lành mạnh nhưng UBCKNN vẫn khó có thể kết tội những đối

tượng nghi vấn do không chứng minh được mối quan hệ của những đối tượng có

liên quan.

Thứ tư, tình trạng lách luật diễn ra khá phổ biến, chứng tỏ việc ngăn ngừa vi

phạm của các chủ thể giám sát chưa cao, đặc biệt ở khu vực ngân hàng. Vào cuối

năm 2011, đầu 2012, khi NHNN bắt đầu lộ trình giảm lãi suất bằng cách quy định

trần lãi suất huy động ban đầu là 14%/năm, đồng thời đó là áp dụng chính sách tiền

tệ quy định về hạn mức tín dụng. Theo đó, các NHTM chỉ được tăng trưởng dư nợ

63

tín dụng tối đa là 17% với nhóm 1 (Các NHTM hoạt động lành mạnh nhất hệ

thống). Các NHTM đã tìm cách lách luật bằng việc đưa ra sản phẩm ủy thác đầu tư,

cụ thể huy động vốn dưới các hợp đồng ủy thác để trả cho khách hàng phần lợi tức

trên 14%. Bên cạnh đó, NHTM dùng vốn huy động đem đi đầu tư cho vay cùng với

các công ty liên kết, lách quy định tăng trưởng dư nợ tín dụng.

Thứ năm, có độ trễ quá lớn trong ban hành văn bản quy phạm pháp luật và

chính sách sau khi hệ thống giám sát đã phát hiện những vấn đề của thị trường hay

bản thân hệ thống giám sát. Thực tế là quy trình ban hành chính sách về thị trường

tài chính tại Việt Nam phải thông qua quá nhiều thủ tục hành chính, lấy ý kiến từ

nhiều cấp, nhiều cơ quan, bộ ngành, và tại mỗi cấp lại có độ trễ nhất định nên khi

ban hành văn bản đã lạc hậu với thị trường. Nhưng khi thị trường vẫn chưa kịp

thích nghi với văn bản cũ, lại có văn bản mới thay thế ngay sau đó về cùng nội

dung.

Thứ sáu, giám sát an toàn vĩ mô hiện vẫn chưa được áp dụng, mặc dù đây là

hoạt động vô cùng quan trọng tuy nhiên tại Việt Nam vẫn chưa có một bộ chỉ số

xây dựng cũng như chưa có văn bản luật pháp đưa ra quy định hướng dẫn về giám

sát an toàn vĩ mô. UBGSTCQG thành lập với ý nghĩa sẽ là cơ quan giám sát an toàn

vĩ mô và giám sát toàn thị trường, toàn lĩnh vực, tuy nhiên đến nay quá trình hoạt

động chỉ dừng lại ở công việc tổng hợp, báo cáo, chưa thể hiện rõ vai trò giám sát.

Thêm vào đó, giám sát các định chế tài chính đa ngành và các tập đoàn tài chính

cũng đang bị bỏ ngỏ, chưa có một cơ quan thống nhất giám sát.

2.2.4.3. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong việc giám sát hệ thống tài

chính tại Việt Nam

Những bất cập trong năng lực giám sát chuyên ngành.

Cơ quan giám sát phải là đơn vị có đủ tầm để nắm bắt đi đầu các xu hướng

của thị trường mới có thể ngăn chặn những nguy cơ tiềm ẩn cho hệ thống, nhưng

điều này dường như là ngược lại đối với Việt Nam. Thị trường có những chuyển

biến, tín hiệu, sau đó cơ quan giám sát chậm chạp phản ứng nhằm ngăn chặn nhưng

64

khi đó đã có độ trễ nhất định, thậm chí lạc hậu. Điều này xuất phát do năng lực

giám sát của từng lĩnh vực.

- Hạn chế về nguồn nhân lực: các cơ quan giám sát ra đời còn non trẻ so với

các tổ chức tài chính, lực lượng giám sát còn thiếu kinh nghiệm, trình độ.

- Hạn chế về thông tin kỹ thuật: Chính là việc kết nối thông tin, trao đổi dữ

liệu chung giữa các cơ quan giám sát. UBGSTCQG ra đời với những kỳ vọng rất

lớn nhưng việc trao đổi thông tin, cơ sở dữ liệu thậm chí còn hạn chế hơn so với các

cơ quan giám sát chuyên ngành.

- Hạn chế về kinh phí: Chủ yếu các cơ quan giám sát tại Việt Nam hoạt động

bằng nguồn ngân sách hạn hẹp, nhưng ở các quốc gia phát triển, gần nhất là

Singapore, các tổ chức tài chính phải trả phí cho cơ quan giám sát và qua đó cơ

quan này có nguồn tiền dồi dào để hoạt động. Một phần hạn chế về kinh phí do tác

động của nợ công, hiện nay đây là vấn đề đáng quan ngại tại Việt Nam. Nợ công

của Việt Nam cuối năm 2014 là 60.3% GDP trong đó nợ công ngưỡng an toàn là

dưới 65% GDP (Phương Nhi, 2015). Tác hại của nợ công cũng ảnh hưởng đến sự

an toàn của hệ thống tài chính và tăng thêm trọng trách trong hoạt động giám sát.

Hạn chế trong phối hợp giữa các chủ thể giám sát tài chính

Đây là một nguyên nhân lớn tác động đến hiệu quả về mặt giám sát trong thị

trường tài chính, việc giám sát các trung gian tài chính đòi hỏi phối hợp chặt chẽ

của các chủ thể giám sát, nhưng tại Việt Nam kết nối này khá lỏng lẻo. Nguyên

nhân chính gây nên là do nhược điểm của mô hình giám sát phân tán, khu vực của

ai người đó quản lý và sự kết nối rất hạn chế.

Nhược điểm của hệ thống pháp lý về giám sát tài chính

- Các văn bản nhiều nhưng không chặt chẽ, thiếu cụ thể, chi tiết và còn mơ

hồ trong việc liệt kê các hoạt động được phép và không được phép. Ví dụ, một loạt

hệ thống văn bản pháp lý tại Việt Nam có câu “ và các hoạt động khác” mà không

nêu cụ thể đó là hoạt động nào.

- Hệ thống pháp lý điều chỉnh hoạt động thậm chí còn mâu thuẫn nhau nếu rà

soát lại các văn bản luật,

65

Hệ thống các chế tài xử phạt hành chính còn thấp, gây nên thiếu tính hiệu

quả răn đe, ngăn ngừa hành vi tái phạm và vi phạm.

Hạn chế trong việc công bố thông tin

Trên thị trường tài chính Việt Nam nói riêng và văn hóa kinh doanh nói

chung, chưa hình thành thói quen công bố thông tin của các tổ chức tài chính và các

chủ thể giám sát. Các tổ chức tài chính chưa nhận thức được lợi ích sâu xa của việc

công bố thông tin mà họ coi đó là bất lợi khi đối thủ cạnh tranh biết rõ về thông tin

của mình, thực trạng thông tin bất cân xứng đang là vấn đề nổi cộm trong thị trường

tài chính tại Việt Nam. Bên cạnh đó, các chủ thể giám sát cũng không mặn mà với

việc công bố thông tin giám sát của mình cũng như chia sẻ thông tin với các đơn vị

giám sát khác.

Thị trường tài chính chưa nhạy cảm với các thông tin về thanh tra, giám sát,

và xử lý vi phạm, phản ứng của thị trường còn khá chậm chạp. Vì vậy có những tổ

chức đã sai phạm và bị xử lý vi phạm nhưng vẫn tái phạm, chưa ý thức được vai trò

của giám sát tài chính đối với hoạt động của họ.

Bên cạnh đó, một nguyên nhân nữa cần đề cập đến là việc lựa chọn mô hình

giám sát tài chính hiện tại và trong tương lai còn chưa rõ ràng. Ủy ban giám sát tài

chính quốc gia được thành lập từ năm 2008, được kỳ vọng là động thái đầu tiên cho

quá trình chuyển đổi sang mô hình giám sát hợp nhất nhưng sau 8 năm hoạt động

vai trò của cơ quan này vẫn khá mờ nhạt. Các quy định, hoạt động của ủy ban này

đã có bước cải thiện vào năm 2012 nhưng vì chưa được giao đủ quyền lực nên hoạt

động chỉ dừng lại ở mức tư vấn và cảnh báo các tín hiệu nền kinh tế vĩ mô. Tuy

nhiên các báo cáo của Ủy ban cũng mang tính phân tích tổng hợp như của NHNN,

Ủy ban chứng khoán Nhà nước…chưa có độ sâu về phân tích các chỉ số vĩ mô cụ

thể và cảnh báo được các nguy cơ tín hiệu rủi ro hệ thống trong tương lai, bên cạnh

đó việc báo cáo tổng hợp còn khá chậm, chưa theo kịp thị trường. Hoạt động chính

yếu của Ủy ban vẫn là tư vấn cho Thủ tướng về các vấn đề về giám sát tài chính,

phối hợp cùng các đơn vị giám sát chuyên ngành.

66

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Trong chương 2, học viên đã phân tích thực trạng tổ chức và hoạt động của hệ

thống giám sát tài chính tại Việt Nam trong giai đoạn 2011-2015. Nhìn chung, đây

là giai đoạn biến động và hệ thống tài chính đang chịu hậu quả của khủng hoảng

kinh tế. Các cơ quan giám sát chuyên ngành tại Việt Nam đã có những bước thay

đổi khá mạnh mẽ khi Cục quản lý và giám sát bảo hiểm hay UBCKNN đều đã xây

dựng được các chỉ số đánh giá hoạt động của các tổ chức tài chính, đồng thời theo

đó là đề án tái cấu trúc hệ thống tài chính đối với lĩnh vực chứng khoán và ngân

hàng, làm thay đổi cục diện hệ thống tài chính tại Việt Nam. Bên cạnh những kết

quả đạt được như đã xây dựng khá đầy đủ về các bộ chỉ tiêu giám sát từ xa, đã phát

hiện những vi phạm, sai phạm, đã tái cơ cấu toàn bộ hệ thống giai đoạn 2011-2015,

đã có những giải pháp xử lý các vấn đề về nợ xấu… Các cơ quan giám sát vẫn còn

nhiều những tồn tại như giám sát vẫn nặng cơ chế hành chính, giám sát tuân thủ,

không dự báo được các nguy cơ rủi ro, trong khi các nước trên thế giới đã chuyển

dần sang giám sát dựa trên rủi ro, các hệ thống chỉ tiêu đánh giá rủi ro bước đầu đã

được xây dựng nhưng chưa được áp dụng cao. Mô hình giám sát theo đặc điểm thể

chế hiện nay tỏ không phù hợp với sự thay đổi của thị trường tài chính,

UBGSTCQG chưa phát huy được vai trò đầu tàu thống nhất giám sát chuyên ngành.

Bên cạnh đó, hệ thống giám sát Việt Nam đang thiếu giám sát an toàn vĩ mô, một

trong những nội dung giám sát quan trọng hiện nay. Từ việc phân tích thực trạng

chương 2, học viên đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện xây dựng hệ thống giám sát

tài chính tại Việt Nam.

67

CHƯƠNG 3

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ XÂY DỰNG

HỆ THỐNG GIÁM SÁT TÀI CHÍNH TẠI VIỆT NAM

3.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG GIÁM SÁT TÀI CHÍNH TỚI

NĂM 2020.

3.1.1. Mục tiêu kinh tế - xã hội tầm nhìn tới năm 2020

Theo chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2020 của Đảng và

Nhà nước, ban hành ngày 16/2/2011, đến nay đã đi được hơn nửa chặng đường, đạt

được những thành tựu nhất định bên cạnh những tồn tại và hạn chế. Một vài hạn chế

như chất lượng tăng trưởng, năng suất hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn

thấp, các cân đối kinh tế vĩ mô chưa vững chắc, đầu tư dàn trải, việc sử dụng và

khai thác tiềm năng nguồn nhân lực còn hạn chế…Trong khi nền kinh tế đang phải

đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức đi đôi với những cơ hội và tiềm năng.

Năm 2015, đánh dấu cột mốc quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam khi

Việt Nam trở thành thành viên của cộng đồng kinh tế AEC - ASEAN Economic

Community và đàm phán, ký kết thành công hiệp định đối tác xuyên Thái Bình

Dương TPP, với sự hòa nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế mang đến cho Việt

Nam rất nhiều cơ hội trong việc thu hút nguồn vốn, công nghệ, kiến thức quản lý,

đồng thời tăng cường năng lực cạnh tranh mọi ngành nghề, từ đó thu hẹp khoảng

cách, chênh lệch trình độ phát triển so với các nước trong khu vực. Tuy nhiên bên

cạnh những cơ hội mang lại, trong bối cảnh kinh tế thế giới có những diễn biến

phức tạp và khó lường về bất ổn an ninh chính trị, khủng hoảng kinh tế toàn cầu,

tranh chấp lãnh thổ biển đảo.

Theo đó, mục tiêu tổng quát phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở

thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; Chính trị xã hội ổn định, dân chủ, kỷ

cương đồng thuận; Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ

rệt; Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; Vị thế của

68

Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên, tạo tiền đề vững chắc để phát

triển cao hơn trong giai đoạn sau.

3.1.1.1. Các mục tiêu cụ thể về lĩnh vực kinh tế.

Kinh tế là một lĩnh vực then chốt trong sự phát triển của một quốc gia, trong

chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011 - 2020, Đảng và Nhà nước đã đặt

ra các mục tiêu cụ thể về lĩnh vực kinh tế bao gồm:

- Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước bình quân 7 - 8%/năm.

- GDP đầu người theo giá thực tế khoảng 3000 USD.

- Đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, xây dựng cơ cấu kinh tế công nghiệp, nông

nghiệp dịch vụ hiệu quả hiện đại, tỷ trọng công nghiệp dịch vụ chiếm khoảng

85% GDP.

- Nông nghiệp có bước phát triển theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững,

nhiều sản phẩm có giá trị gia tăng cao; Chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với

chuyển dịch cơ cấu lao động; tỉ lệ lao động nông nghiệp khoảng 30 - 35% lao

động xã hội.

- Yếu tố năng suất tổng hợp đóng góp vào tăng trưởng đạt khoảng 35%; giảm

tiêu hao năng lượng tính trên GDP 2,5 - 3%/năm.

Để đạt được những mục tiêu đó, Đảng và Nhà nước cũng đã đưa ra những định

hướng về lĩnh vực kinh tế là:

- Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp,

hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa.

- Chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang

phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú

trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững.

- Thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, trọng tâm là cơ cấu lại các ngành sản xuất,

dịch vụ phù hợp với các vùng; Thúc đẩy cơ cấu lại doanh nghiệp và điều

chỉnh chiến lược thị trường; tăng nhanh giá trị nội địa, giá trị gia tăng và sức

cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và của cả nền kinh tế; Phát triển kinh

69

tế tri thức, gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế

xanh.

3.1.1.2. Các giải pháp cụ thể về lĩnh vực kinh tế

Để đạt được mục tiêu cụ thể và tuân theo định hướng phát triển kinh tế như

lộ trình cần có những giải pháp cụ thể và phù hợp bao gồm:

- Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ và hiện đại là tiền đề quan

trọng thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng

trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô.

- Tiếp tục đổi mới việc xây dựng và thực thi luật pháp bảo đảm cạnh tranh

bình đẳng, minh bạch giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.

Đổi mới công tác quy hoạch, kế hoạch và điều hành phát triển kinh tế theo cơ

chế thị trường, đồng thời thực hiện tốt chính sách xã hội. Thực hiện hệ thống

cơ chế và chính sách phù hợp, đặc biệt là cơ chế, chính sách tài chính, tiền tệ

nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành

mạnh của nền kinh tế.

- Chính sách tài chính quốc gia phải động viên hợp lý, phân phối và sử dụng

có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội; Phân phối lợi ích

công bằng. Tiếp tục hoàn thiện chính sách và hệ thống thuế, cơ chế quản lý

giá, pháp luật về cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh, bảo vệ

người tiêu dùng, các chính sách về thu nhập, tiền lương, tiền công. Thực hiện

cân đối ngân sách tích cực, bảo đảm tỉ lệ tích luỹ hợp lý cho đầu tư phát

triển; phấn đấu giảm dần bội chi ngân sách. Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính

sách tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước, nhất là các tập đoàn kinh tế và

các tổng công ty. Quản lý chặt chẽ việc vay và trả nợ nước ngoài, giữ mức

nợ chính phủ, nợ quốc gia và nợ công trong giới hạn an toàn. Tăng cường vai

trò giám sát ngân sách của Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp.

- Chính sách tiền tệ phải chủ động và linh hoạt thúc đẩy tăng trưởng bền vững,

kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền. Hình thành đồng bộ khuôn khổ

pháp lý về hoạt động ngân hàng. Mở rộng các hình thức thanh toán qua ngân

70

hàng và thanh toán không dùng tiền mặt. Điều hành chính sách lãi suất, tỉ giá

linh hoạt theo nguyên tắc thị trường. Đổi mới chính sách quản lý ngoại hối

và vàng; từng bước mở rộng phạm vi các giao dịch vốn; Tăng cường kiểm

tra, kiểm soát tiến tới xoá bỏ tình trạng sử dụng ngoại tệ làm phương tiện

thanh toán trên lãnh thổ Việt Nam. Tăng cường vai trò của Ngân hàng Nhà

nước trong việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ. Kết hợp chặt chẽ

chính sách tiền tệ với chính sách tài khoá. Kiện toàn công tác thanh tra, giám

sát hoạt động tài chính, tiền tệ.

- Bảo đảm quyền tự do kinh doanh và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.

Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp

nhà nước, nhất là các tập đoàn kinh tế và các tổng công ty. Sớm hoàn thiện

thể chế quản lý hoạt động của các tập đoàn, các tổng công ty nhà nước. Đẩy

mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước; xây dựng một số tập đoàn kinh tế

mạnh, đa sở hữu, trong đó sở hữu nhà nước giữ vai trò chi phối. Phân định rõ

quyền sở hữu của Nhà nước và quyền kinh doanh của doanh nghiệp, hoàn

thiện cơ chế quản lý vốn nhà nước trong các doanh nghiệp. Khuyến khích

phát triển các loại hình doanh nghiệp, các hình thức tổ chức sản xuất kinh

doanh với sở hữu hỗn hợp, nhất là các doanh nghiệp cổ phần. Thu hút đầu tư

nước ngoài có công nghệ hiện đại, thân thiện môi trường và tăng cường sự

liên kết với các doanh nghiệp trong nước. Thực hiện Chương trình quốc gia

về phát triển doanh nghiệp gắn với quá trình cơ cấu lại doanh nghiệp. Hỗ trợ

phát triển mạnh các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tạo điều kiện để hình thành

các doanh nghiệp lớn, có sức cạnh tranh trên thị trường. Phát triển doanh

nhân về số lượng và năng lực quản lý, đề cao đạo đức và trách nhiệm xã hội.

Hoàn thiện khuôn khổ pháp luật để tăng cường sự gắn bó giữa người sử dụng

lao động và người lao động.

- Tạo lập đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường. Phát triển thị

trường hàng hoá, dịch vụ theo hướng tự do hoá thương mại và đầu tư. Phát

triển thị trường tài chính với cơ cấu hoàn chỉnh, quy mô tăng nhanh, phạm vi

71

hoạt động mở rộng, vận hành an toàn, được quản lý và giám sát hiệu quả.

Phát triển và kiểm soát có hiệu quả thị trường chứng khoán. Phát triển lành

mạnh, bền vững thị trường bất động sản, ngăn chặn tình trạng đầu cơ; hoàn

thiện cơ chế vận hành sàn giao dịch bất động sản. Phát triển thị trường lao

động, khuyến khích các hình thức giao dịch việc làm. Phát triển nhanh thị

trường khoa học, công nghệ; khuyến khích, hỗ trợ các hoạt động khoa học và

công nghệ theo cơ chế thị trường

3.1.2. Định hướng phát triển hệ thống giám sát tài chính lựa chọn mô hình

giám sát tài chính hợp nhất - tầm nhìn tới năm 2020

Qua mục tiêu phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2020, đối với một quốc

gia tăng trưởng kinh tế là vấn đề quan trọng nhất trong các chỉ tiêu kinh tế - xã hội.

Đi đôi với sự tăng trưởng kinh tế, vấn đề ổn định hệ thống tài chính quốc gia là yêu

cầu cấp bách trong giai đoạn hiện nay khi Việt Nam đã và đang hòa nhập sâu rộng

vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Có thể nói trong bối cảnh hiện nay nền kinh tế

thế giới và khu vực đang tiềm ẩn những bất ổn, mầm mống khủng hoảng có thể

bùng phát và gây ra những hậu quả, hệ lụy khó lường. Vai trò và mục tiêu hệ thống

giám sát cần thống nhất và toàn diện, tăng trưởng phát triển nền kinh tế phải đi đôi

với hoàn thiện và phát triển hệ thống giám sát.

3.1.2.1. Yêu cầu của hệ thống giám sát tài chính

- Hệ thống giám sát tài chính cần phải xóa bỏ đi những lỗ hổng trong giám

sát, đặc biệt với giám sát chuyên ngành, cùng với sự phát triển của các lĩnh vực

trong hệ thống tài chính, là sự phát triển của kinh doanh đa ngành và những sản

phẩm tích hợp. Hệ thống giám sát cần bỏ qua sự tách biệt các lĩnh vực riêng, thành

tổ hợp những yêu cầu và tiêu chuẩn chung nhất khi có sự tích hợp, đan xen một

cách đa dạng của các lĩnh vực.

- Các quy định về giám sát cần phải có sự nhất quán và đánh giá tổng quát

trước khi đưa ra những văn bản pháp lý điều chỉnh, đảm bảo sự công bằng cho các

72

tổ chức tham gia trên thị trường, đồng thời đảm bảo an toàn và tạo niềm tin cho hệ

thống phát triển bền vững

- Hệ thống giám sát cần tận dụng tối đa nguồn lực, quy mô, có thể sử dụng

để giám sát được cả hệ thống, tránh việc giám sát trùng lắp nhưng vẫn tạo nhiều lỗ

hổng.

- Yêu cầu cũng như mục tiêu mà một hệ thống giám sát tài chính cần đạt

được là: ổn định hệ thống tài chính; Đảm bảo hoạt động an toàn và lành mạnh của

các tổ chức tài chính; Bảo vệ người tiêu dùng các sản phẩm tài chính; Đảm bảo sự

cạnh tranh lành mạnh trên thị trường tài chính.

Vì các yêu cầu đó, mô hình hợp nhất tỏ ra ưu việt hơn cả vì nó phù hợp với

sự phát triển chung của hệ thống tài chính toàn cầu, đồng thời khắc phục được

những ưu điểm tổn tại của hệ thống giám sát tài chính Việt Nam hiện nay. Bên cạnh

đó đã có rất nhiều quốc gia đang áp dụng đặc biệt trong giai đoạn khủng hoảng tài

chính, các quốc gia này ít bị tác động, và số lượng các quốc gia chuyển đổi sang mô

hình hợp nhất một phần hay toàn phần đang ngày càng tăng lên nhanh chóng.

Tại Việt Nam, đã có những định hướng và đề án thống nhất trong việc

chuyển đổi mô hình giám sát tài chính phân tán hiện nay sang mô hình hợp nhất,

tuy nhiên chưa hề có một lộ trình xây dựng rõ ràng hay một đề án cụ thể về nội

dung này, chỉ dừng lại ở những động thái ban đầu như:

Theo quyết định số 112/2006/QĐ-TTg năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ

về đề án “Phát triển ngành ngân hàng đến 2010 và định hướng đến năm 2020” trong

đó đã đề cập đến xu hướng hoàn thiện và phát triển hệ thống giám sát của ngành

ngân hàng nói riêng, mở rộng ra hệ thống nói chung nhằm đáp ứng yêu cầu thực

tiễn phát triển của hệ thống và cần phải đảm bảo đúng các nguyên tắc, tiến gần hơn

phù hợp hơn với thông lệ và tiêu chuẩn quốc tế. Năm 2008 đã có Quyết định số

34/2008/QĐ-TTg Thủ tướng chính phủ về việc thành lập UBGSTCQG, năm 2015,

Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 15/2015/QĐ-TTg v/v sửa đổi, bổ sung

một số điều của Quyết định số 34/2008/QĐ-TTg. Cơ quan này khởi đầu cho xu

hướng hình thành hệ thống giám sát tài chính mô hình hợp nhất tại Việt Nam.

73

Nhiệm vụ đầu tiên là tư vấn, tham mưu cho chính phủ và thực hiện giám sát chung

thị trường tài chính ở cả 3 lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm.

Đặc biệt với Quyết định 15, các tổ chức giám sát chuyên ngành, các tổ chức

hoạt động trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm có trách

nhiệm phải cung cấp thông tin minh bạch cho UBGSTCQG. Ủy ban đồng thời xây

dựng hệ thống các chỉ tiêu giám sát gắn với các tiêu chuẩn thế giới. Trong suốt thời

gian vừa qua, dường như Ủy ban đã hoàn thành được trách nhiệm giao phó khi

thành lập nhưng ở mức độ chậm, một phần vì phạm vi hoạt động bị ràng buộc theo

các thông tư, quy định.

3.1.2.2. Lộ trình hoàn thiện hệ thống giám sát tài chính tại Việt Nam

Giai đoạn 1: Tiếp tục hoàn thiện, bổ sung vai trò giám sát tài chính của Ủy

ban giám sát tài chính quốc gia, tăng cường nâng cao hiệu quả đối với giám sát

chuyên ngành.

Cuối giai đoạn 1: Cần phải xây dựng được nguồn luật điều chỉnh về giám sát

tài chính chung nhất, xây dựng được bộ chỉ tiêu đánh giá hoạt động của các tổ chức

tài chính, đồng thời tiếp tục nâng cao năng lực giám sát chuyên ngành để chuẩn bị

chuyển sang giai đoạn tiếp theo. Cần hoàn thiện nâng cao nguồn lực, đầu tư hệ

thống máy móc trang thiết bị, kỹ thuật, thu thập xử lý thông tin dữ liệu, đảm bảo

việc kết nối thông tin dữ liệu giữa các cơ quan giám sát chuyên ngành, rõ ràng minh

bạch trong việc xử lý và chia sẻ thông tin. Tóm lại cần xây dựng một nền tảng vững

chắc cho giám sát hợp nhất.

Giai đoạn 2: Kết thúc giai đoạn một, hệ thống giám sát tài chính đã xây

dựng được một nền móng vững chắc, chuẩn bị cho việc chuyển tiếp giai đoạn. Theo

đó, UBGSTCQG đã ổn định trong hoạt động, nâng cao được vai trò trong hệ thống

giám sát, tạo cầu nối kết nối giữa các giám sát chuyên ngành. Hệ thống xử lý thông

tin dữ liệu đồng bộ và cập nhật, bên cạnh đó các cơ quan giám sát chuyên ngành đã

chia sẻ một nguồn dữ liệu và trao đổi thông tin một cách nhanh chóng, hiệu quả. Hệ

thống pháp lý điều chỉnh hoạt động giám sát chung nhất đã được xây dựng.

Các công việc cần xây dựng trong giai đoạn 2 bao gồm:

74

Giao phó việc giám sát hệ thống tài chính cho UBGSTCQG, ủy ban này

không chỉ dừng ở phạm vi tham mưu, được yêu cầu các chủ thể giám sát cung cấp

thông tin, cần phải thực sự được giao hoạt động giám sát.

- Về cơ cấu tổ chức, theo đó trong ủy ban sẽ có các phòng ban chuyên biệt về

các lĩnh vực riêng ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm.

- Thiết lập cơ chế cho phép UBGSTCQG được quyền cấp phép, thu hồi, xử

phạt đối với các tổ chức tài chính.

- Các cơ quan giám sát chuyên ngành định kỳ phải báo cáo bắt buộc đối với

Ủy ban, đồng thời chịu sự quản lý, thanh tra, kiểm tra đột xuất của ủy ban

trong lĩnh vực giám sát.

- Hoàn thiện cơ cấu mô hình hệ thống giám sát tài chính hợp nhất, từ các cơ

quan giám sát chuyên ngành và UBGSTCQG, ban hành và thực hiện bộ tiêu

chuẩn đánh giá hoạt động giám sát tài chính trong toàn hệ thống.

- Hợp nhất hệ thống công nghệ, trao đổi, phân tích thông tin dữ liệu về

UBGSTCQG.

3.2. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VÀ XÂY DỰNG HỆ THỐNG

GIÁM SÁT TÀI CHÍNH HỢP NHẤT TẠI VIỆT NAM

Đề thực hiện được lộ trình đã đề ra trong việc hoàn thiện mô hình giám sát tài chính

hợp nhất tại Việt Nam, cần có những giải pháp cụ thể sau:

3.2.1. Củng cố, tăng cường năng lực giám sát của mô hình giám sát hiện tại.

Nâng cao vai trò của Ủy ban giám sát tài chính quốc gia.

Hiện nay hệ thống giám sát tài chính ở Việt Nam được tổ chức theo mô hình

giám sát phân tán, các cơ quan quản lý, giám sát một khu vực thị trường tài chính

nhất định như ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, với đặc điểm của mô hình phân

tán, sự tách biệt và thiếu sự liên kết của các cơ quan giám sát dẫn đến sự phối kết

hợp chưa được chặt chẽ và đạt hiệu quả cao. Do đó trong thời gian tới từ nay đến

năm 2020, ngoài việc chuẩn bị đầy đủ về nhân lực, vật lực, tài lực để chuẩn bị các

điều kiện chuyển sang mô hình giám sát hợp nhất thì vấn đề nâng cao năng lực

75

giám sát, cơ chế phối hợp hoạt động và chia sẻ thông tin, giám sát thị trường giữa

NHNN, BTC cần được chú trọng và nâng cao nhằm đảm bảo chức năng giám sát tổ

chức tài chính nói riêng và đảm bảo an toàn hệ thống tài chính quốc gia nói chung.

Đồng thời các mô hình giám sát tài chính cần phải tiếp tục có sự điều chỉnh, củng

cố để đáp ứng các yêu cầu phát sinh trong giai đoạn hiện nay.

UBGSTCQG được thành lập vào năm 2008 với các chức năng tham mưu, tư

vấn cho Thủ tướng Chính phủ trong phân tích, đánh giá, dự báo tác động của thị

trường tài chính đến kinh tế vĩ mô và tác động của chính sách kinh tế vĩ mô đến thị

trường tài chính; điều phối hoạt động giám sát thị trường tài chính quốc gia (ngân

hàng, chứng khoán, bảo hiểm); giúp Thủ tướng Chính phủ giám sát chung thị

trường tài chính quốc gia. Tuy nhiên hiện nay vai trò của Ủy ban giám sát tài chính

quốc gia còn chưa rõ nét và chưa mang tính định hướng rõ rệt. Do đó trong thời

gian tới vai trò của Ủy ban giám sát tài chính quốc gia cần được nâng cao thông qua

việc trao quyền lực cho ủy ban, được phép thanh tra, kiểm tra, các cơ quan giám sát

chuyên ngành và các tổ chức tài chính phải báo cáo định kỳ cho ủy ban. Đặc biệt tại

Việt Nam hiện nay chưa có cơ quan giám sát riệng biệt định chế tài chính, tập đoàn

tài chính, những tổ chức tài chính hoạt động đa lĩnh vực. UBGSTCQG kỳ vọng sẽ

là cơ quan giám sát thống nhất những tổ chức này.

3.2.2. Hoàn thiện và xây dựng hệ thống pháp luật cho hệ thống giám sát tài

chính hợp nhất tại Việt Nam.

Hiện tại, quy định pháp luật về giám sát tài chính của Việt Nam được quy

định tại nhiều văn bản như: Luật Ngân hàng, Luật Chứng khoán, Luật Bảo hiểm,

Luật Thanh tra gây ra sự chồng chéo, chia tách, không đảm bảo tính thống nhất,

đồng bộ trong công tác quản lý giữa các cơ quan giám sát. Do đó trong thời gian tới

việc rà soát, tổng hợp các quy định cụ thể trong Luật cần được chú trọng xử lý

nhằm xác định mức phù hợp của các văn bản Luật trong bối cảnh thực tiễn của thị

trường tài chính Việt Nam hiện nay và từ đó làm cơ sở đưa ra quy định pháp luật

phù hợp. Đồng thời tăng mức xử phạt hành chính, khung xử lý đối với các tổ chức

tài chính vi phạm nhằm mang tính răn đe cảnh báo, ngăn ngừa các hành vi vi phạm

76

cho những tổ chức khác trong việc hoạt động tuân thủ pháp luật, nhằm tăng cường

tính minh bạch và đảm bảo hoạt động lành mạnh của thị trường.

- Cần phải thay đổi và hoàn thiện mô hình tổ chức của UBGSTCQG, phân chia

thành các phòng ban phụ trách từng lĩnh vực riêng biệt trong hệ thống giám sát tài

chính ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm.

- Tăng cường vai trò và thẩm quyền cho UBGSTCQG, được phép trực tiếp

ngăn chặn ảnh hưởng đến đảm bảo an toàn của hệ thống, ví dụ như được phép ngăn

chặn hoạt động hay ngưng các hoạt động của các tổ chức tài chính, của thị trường để

đảm bảo an toàn cho hệ thống.

- Hệ thống các văn bản pháp lý liên ngành quy định phối hợp giữa

UBGSTCQG với các cơ quan giám sát chuyên ngành, đồng thời yêu cầu các đơn vị

này phải có trách nhiệm báo cáo thường xuyên định kỳ cho UBGSTCQG.

- Xây dựng hệ thống luật giám sát trong đó cần có những nội dung như:

+ Xác định vai trò của UBGSTCQG chính yếu trong mô hình giám sát tài

chính hợp nhất, cơ quan này trực thuộc Chính phủ.

+ Là cơ quan chủ trì xây dựng các dự thảo văn bản luật liên quan đến các vấn

đề về giám sát và đảm bảo an toàn cho hệ thống, có trách nhiệm báo cáo, xây dựng đề

án chiến lược phát triển hệ thống tài chính.

+ Chịu trách nhiệm trong việc báo cáo với Chính phủ về sự bất ổn tài chính,

những sai phạm trong hoạt động của các tổ chức tài chính và giải thích các vấn đề thị

trường.

3.2.3. Xây dựng hệ thống thông tin giám sát tài chính

Hệ thống Quản lý thông tin giám sát tài chính Quốc gia được xây dựng và

hình thành vào năm 2008 nhằm mục tiêu thu thập, xử lý và tổng hợp thông tin từ

các tổ chức tài chính Việt nam. Qua đó tính toán các chỉ tiêu giám sát, phục vụ hoạt

động chuyên môn của UBGSTCQG. Tuy nhiên do vận hành theo mô hình giám sát

phân tán, thì hệ thống thông tin phục vụ cho công tác giám sát bộc lộ một số mặt

hạn chế, chưa đầy đủ, kịp thời, thường xuyên. Công tác thống kê, hạch toán đôi khi

còn chưa theo đúng các chuẩn mực quốc tế nên khó so sánh khi đánh giá mức độ rủi

77

ro. Với tầm quan trọng trong việc tổng hợp thông tin từ các tổ chức tài chính do đó

hệ thống Quản lý thông tin giám sát tài chính Quốc gia cần chủ động về nguồn

thông tin, xây dựng và từng bước hoàn thiện kho dữ liệu phục vụ công tác giám sát

thị trường tài chính Việt Nam, đo lường hoạt động của các tổ chức tài chính, qua đó

sẽ là cơ sở cho việc tạo lập hệ thống cảnh báo sớm rủi ro hệ thống tài chính Việt

Nam. Việc giám sát toàn hệ thống cần phải có một cơ sở dữ liệu, thuận tiện cho việc

khai thác trao đổi lưu trữ thông tin, đảm bảo các cơ quan có chức năng giám sát đều

sử dụng và nhập dữ liệu cùng một hệ thống để đưa ra những con số chính xác, phản

ánh đúng, đồng bộ với thực trạng của hệ thống.

Các yêu cầu cần có cho hệ thống xử lý thông tin dữ liệu như:

- Các đơn vị cần phải nhập dữ liệu vào hệ thống theo định kỳ, đảm bảo minh

bạch và khách quan trong việc cung cấp dữ liệu.

- Cần tập hợp và xử lý thông tin, căn cứ vào các chỉ tiêu giám sát tài chính,

lượng hóa các con số dữ liệu thành các chỉ tiêu tài chính

- Phân tích tổng quan các chỉ số tài chính từ đó đưa ra các báo cáo cụ thể,

chuyển đến từng đối tượng phù hợp với yêu cầu của giám sát tài chính.

3.2.4. Xây dựng hệ thống chỉ tiêu giám sát tài chính

Với sự phát triển mạnh mẽ, đa dạng của các tổ chức tài chính trong thị trường

tài chính trong bối cảnh hiện nay đặt ra rất nhiều vấn đề đáng lưu tâm đối với mỗi

quốc gia trong đó có Việt Nam. Trong đó yếu tố giám sát, ngăn ngừa, cảnh bảo rủi ro

luôn là vấn đề được đặt ra hàng đầu. Tại Việt Nam hệ thống giám sát tài chính

thường tập trung vào giám sát tuân thủ bằng việc giám sát các chủ thể, tổ chức tài

chính đã thực hiện đúng các cơ chế, chính sách, các tiêu chí mà cơ quan quản lý đã

ban hành hay chưa, mà chưa coi trọng hoạt động giám sát cảnh báo, ngăn ngừa các

rủi ro tài chính của các tổ chức tài chính do đó việc thực hiện giám sát cảnh báo, rủi

ro, an toàn vĩ mô vẫn còn hạn chế, yếu kém. Trong thời gian tới cùng với sự nỗ lực

của các cơ quan chức năng có thẩm quyền việc xây dựng và ban hành quy định

thống nhất về cách thức giám sát cho toàn bộ hệ thống tài chính là vấn đề cấp bách

hiện nay, hướng tới phương thức giám sát dựa trên rủi ro thay vì giám sát tuân thủ.

78

Bên cạnh đó, cần đề cập đến bộ chỉ tiêu về giám sát an toàn vĩ mô cần được xây

dựng, chuyển đổi thành hệ thống pháp lý, áp dụng theo như Bộ chỉ tiêu giám sát tài

chính của Ủy ban kinh tế quốc hội đã ban hành năm 2012. Năm 2014, NHNN và

các cơ quan quản lý tài chính đã triển khai chương trình Báo cáo đánh giá khu vực

tài chính tại Việt Nam FSAP cùng với Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ

quốc tế (IMF). Đây cũng là bước đệm tạo điều kiện để Việt Nam ngày càng củng cố

và tăng cường hiệu quả giám sát, đặc biệt là giám sát an toàn vĩ mô.

3.2.5. Phát triển đội ngũ nguồn nhân lực

Để hệ thống giám sát hợp nhất hoạt động hiệu quả, thông suốt đáp ứng yêu

cầu giám sát trong bối cảnh tự do hóa tài chính hiện nay, yếu tố nguồn nhân lực là

một trong những vấn đề cần được lưu tâm, đặc biệt là những yếu tố về chuyên môn

nghiệp vụ, năng lực quản trị, đạo đức cũng cần được trang bị. Để nâng cao công tác

chuyên môn, nghiệp vụ nguồn nhân lực trong cơ quan giám sát cần được tăng

cường đào tạo, bồi dưỡng, tham gia các khóa học và tham quan thực tế mô hình

giám sát tại các nước trên thế giới từ đó tiếp thu tinh hoa và những kinh nghiệm quý

báu để vận dụng thực tế vào công việc. Đi đôi với việc sử dụng và phát triển nguồn

nhân lực thì vai trò của sắp xếp, bố trí cơ cấu tổ chức của hệ thống giám sát là nhân

tố quyết định đến tính hiệu quả, khả thi của việc sử dụng nguồn lực.

3.2.6. Định kỳ đánh giá hoạt động của hệ thống giám sát tài chính

Đây là một công việc cũng rất quan trọng, trong quá trình minh bạch hóa

thông tin, hoạt động của cơ quan giám sát cũng phải được đánh giá bằng các báo

cáo trước Chính phủ, các cơ quan chức năng, công chúng, tùy vào mức độ công

khai thông tin và vẫn phải đảm bảo trong quy định giữ bí mật các thông tin quan

trọng theo luật định.

Một vài chỉ tiêu có thể đánh giá được hoạt động của hệ thống giám sát tài

chính như:

- Khả năng phát hiện, xử lý kịp thời các hành vi vi phạm thị trường.

79

- Khả năng nắm bắt và dự báo các nguy cơ gây bất ổn hệ thống và đưa ra

những biện pháp ngăn chặn kịp thời, nhận diện rủi ro hệ thống và các nguy cơ gây

nên rủi ro hệ thống.

Cơ quan đánh giá hoạt động của hệ thống giám sát tài chính phải là một đơn

vị độc lập như các chuyên gia về lĩnh vực kinh tế trong và ngoài nước, không có

mối quan hệ với các cơ quan giám sát để đảm bảo tính độc lập và khách quan, trung

thực trong giám sát, đồng thời phải là những người có tầm hiểu biết rất sâu rộng,

khả năng phân tích tổng hợp tốt mới có thể đảm đương được công việc khá khó

khăn này. Cơ quan đánh giá cần tổng hợp đưa ra những khuyến nghị để có thể kịp

thời chỉnh sửa về mặt chính sách hoạt động, cơ cấu tổ chức … theo tình hình thực

tiễn và theo báo cáo chuyên sâu.

3.2.7. Tiếp cận các chỉ tiêu cho phù hợp với thông lệ quốc tế.

Hệ thống các chỉ tiêu giám sát an toàn vi mô dần phải được thay đổi và ngày

càng phù hợp hơn với thông lệ quốc tế, tôn chỉ hoạt động trong hệ thống tài chính

nói riêng và nền kinh tế nói chung là phát triển bền vững, vậy nên các doanh nghiệp

cũng cần phát triển một cách bền vững, không phải tăng trưởng nóng hay phát triển

mà bỏ qua các vấn đề về xã hội. Bên cạnh hệ thống giám sát còn có các hệ thống bổ

trợ như kiểm toán nội bộ, hệ thống xếp hạng tín nhiệm…từng lĩnh vực, đến toàn bộ

hệ thống bao gồm cả những yếu tố liên quan đều phải thay đổi đồng bộ. Hiện nay

các quốc gia trên thế giới sử dụng phương pháp giám sát rủi ro, một phương pháp

giám sát hiện đại, sử dụng các mô hình định lượng kiểm tra khả năng chịu rủi ro

như mô hình ST kiểm tra khả năng sức chịu đựng các cú sốc tài chính - tiền tệ.

Giám sát dựa trên rủi ro sẽ đón đầu được những xu hướng và những nguy cơ gây

ảnh hưởng đến hệ thống, thay vì giám sát từ xa sử dụng các báo cáo theo tháng,

quý, năm…sẽ có độ trễ nhất định.

80

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Chương 3 đã đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống giám sát tài chính tại

Việt Nam, trong đó một trong những giải pháp cần chú ý là đẩy nhanh việc hoàn

thiện vai trò giám sát cho UBGSTCQG, tạo đà để chuyển đổi mô hình giám sát tài

chính hợp nhất. Bên cạnh đó, cần tiếp tục củng cố các cơ quan giám sát chuyên

ngành, để tạo nền móng chắc chắn cho hệ thống giám sát. Đồng thời, Nhà nước cần

phải hoàn thiện vấn đề pháp lý cho hoạt động giám sát, tránh sự chồng chéo, mâu

thuẫn trong các văn bản luật. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần phải xây dựng hệ

thống thông tin dữ liệu thống nhất cho toàn bộ các chủ thể giám sát. Nhìn chung,

các giải pháp đưa ra đều dựa trên mục tiêu thống nhất, tăng tính liên kết giữa các

chủ thể giám sát, làm tăng hiệu quả trong hoạt động giám sát.

81

KẾT LUẬN

Qua việc nghiên cứu về Hệ thống giám sát tài chính tại Việt Nam, học viên đã đưa

ra những đánh giá về hệ thống giám sát, những tồn tại, hạn chế của hệ thống, từ đó

đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống giám sát tài chính. Mục tiêu dài

hạn là Việt Nam cần phải chuyển đổi nhanh chóng hơn nữa sang mô hình giám sát

tài chính hợp nhất, củng cố giám sát chuyên ngành, tăng nhiệm vụ và trách nhiệm,

quyền lực cho UBGSTCQG. Một đơn vị được thành lập với sứ mệnh giám sát vĩ

mô và định hướng tạo nền móng để xây dựng mô hình giám sát hợp nhất, nhưng sau

8 năm đi vào hoạt động, vai trò của UBGSTCQG vẫn còn mờ nhạt. Một hệ thống

giám sát tốt sẽ tạo ổn định cho nền kinh tế cũng như hệ thống tài chính, tạo môi

trường cạnh tranh lành mạnh và bảo vệ những người tiêu dùng khi tham gia hệ

thống. Mỗi quốc gia sẽ có những phương thức, tổ chức, công cụ, biện pháp giám sát

khác nhau phù hợp với các yếu tố kinh tế, xã hội. Tại Việt Nam, nhìn chung trong

giai đoạn 2011 - 2015, các cơ quan giám sát đã tạo khá nhiều dấu ấn, tiếp cận và áp

dụng các phương thức mới, xây dựng những đề án như Đề án tái cấu trúc, báo cáo

đánh giá khu vực tài chính trong khuôn khổ Chương trình đánh giá khu vực tài

chính FSAP do WB, IMF tổ chức. Để xây dựng được một hệ thống giám sát hoàn

thiện và hiệu quả cần có sự đồng hành của Đảng, Nhà nước, các cơ quan giám sát

chuyên ngành và những chủ thể tham gia trên thị trường trong việc xây dựng và

hoàn thiện hệ thống về mô hình, cấu trúc, chức năng, và hệ thống các chỉ tiêu,

phương thức giám sát. Hy vọng, trong tương lai, hệ thống giám sát Việt Nam ngày

càng hoàn thiện phát triển, cùng với nền kinh tế và thị trường tài chính.

82

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu nước ngoài

1. Andrew Crockett 2011, What financial system for the 21st century? Per

Jacobson lecture, Basel, June 26, 2011.

2. A. Joanne Kellermann Jakob de Haan Femke de Vries 2013, Financial

Supervision in the 21st Century, Springer-Verlag Berlin Heidelberg.

3. Basel committee on banking supervision 2011, Core Principles for Effective

Banking Supervision, Bank for International Settlements, December 2011.

4. Cheryl Ho 2014, ‘Financial Stability: The Financial Stability Function within

MAS’, Monetary Authority Of Singapore.

5. Cheryl Ho 2014,’ Macro Surveillance Framework, Methods and Techniques’

Monetary Authority Of Singapore.

6. Cheryl Ho 2014, MAS’ Approach to Financial Supervision, Monetary

Authority Of Singapore.

7. Dirk Schoenmaker 2011, Financial Supervision in the EU, Encyclopedia of

Financial Globalization.

8. Fernando L. Delgado and Mynor Meza 2011, Developments in Financial

Supervision and the Use of Macroprudential Measures in Central America,

International Monetary Fund.

9. Group of Thirty G30 2008, The structure of Financial Supervision

Approaches and Challenges in a Global Marketplace, Washington DC

10. IOSCO 2003, Objectives and Principles of Securities Regulation, IOSCO

11. Martin Čihák and Alexander Tieman 2008, ‘Quality of Financial Sector

Regulation and Supervision Around the World’, IMF Working Paper

12. Martin Schuler 2004, ‘Integrated Financial Supervision in Germany’,

Discussion Pap, No. 04-35

83

13. N. Nergiz Dincery and Barry Eichengreenz 2012, ‘The Architecture and

Governance of Financial Supervision: Sources and Implications’,

International Finance, 15:3, 2012: pp. 309 – 325.

14. The Financial Action Task Force – FATS 2015, Effective supervision and

enforcement by AMl/CFT supervisors of the financial sector and law

enforcement, FATS, Paris.

Tài liệu trong nước

15. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam 2014, Báo cáo thường niên của Bảo hiểm tiền

gửi Việt Nam năm 2014

16. Bộ Tài chính 2011, Báo cáo thường niên của Cục quản lý giám sát bảo hiểm

năm 2011

17. Bộ Tài chính 2012, Báo cáo thường niên của Cục quản lý giám sát bảo hiểm

năm 2012

18. Bộ Tài chính 2013, Báo cáo thường niên của Cục quản lý giám sát bảo hiểm

năm 2013

19. Bộ Tài chính 2014, Báo cáo thường niên của Cục quản lý giám sát bảo hiểm

năm 2014

20. Bộ Tài chính 2013, Báo cáo thường niên của Ủy ban chứng khoán Nhà nước

năm 2013

21. Bộ Tài chính 2014, Báo cáo thường niên của Ủy ban chứng khoán Nhà nước

năm 2014

22. Bộ Tài chính 2014, Thông tư 195/2014/TT-BTC, Thông tư hướng dẫn đánh

giá, xếp loại doanh nghiệp bảo hiểm

23. Bùi Kim Yến và các cộng sự 2008, Giáo trình thị trường tài chính thị trường

chứng khoán, NXB Thống kê.

24. Chính phủ 2011, Nghị Quyết 10/NQ-CP Chiến lược phát triển kinh tế xã hội

2011-2020

84

25. Dương Thị Bình Minh, Sử Đình Thành 2004, Lý thuyết tài chính tiền tệ,

NXB Thống kê.

26. Đỗ Thị Kim Hảo 2010,’Xu hướng giám sát và bài học tổ chức hệ thống

giám sát trên thế giới đối với Việt Nam’, Tạp chí khoa học và đào tạo ngân

hàng, số 103, trang 56 – 68

27. Hà Huy Tuấn 2015, Xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng Việt Nam giai

đoạn 2012 – 2015 và những vấn đề đặt ra, Chương trình giảng dạy kinh tế

Fulbright, ngày 9/11/2015.

28. La Hường 2009,‘Giám sát tài chính, bài học từ sự đổ vỡ của hệ thống ngân

hàng Iceland và kinh nghiệm giám sát từ các ngân hàng Trung Quốc’, Tạp

chí chứng khoán, số 7 trang 66-69

29. Lê Thị Mận 2012, Nghiệp vụ ngân hàng trung ương, NXB Lao động - Xã

hội.

30. Lê Thị Tuấn Nghĩa, Nguyễn Thành Nam 2010,‘Hoàn thiện hệ thống giám sát

tài chính tại Việt Nam’, Tạp chí khoa học và đào tạo ngân hàng, số 101,

trang 24-34

31. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2011, Báo cáo thường niên của NHNN năm

2011

32. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2011, Báo cáo thường niên của NHNN năm

2012

33. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2011, Báo cáo thường niên của NHNN năm

2013

34. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2011, Báo cáo thường niên của NHNN năm

2014

35. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2015, Báo cáo thống kê tính đến ngày

31/12/2015

36. Nguyễn Chí Đức, Nguyễn Minh Kiều, Hoàng Trọng, 2012,‘Phân tích hệ

thống giám sát tài chính ngân hàng Việt Nam’, Tạp chí khoa học, số 2, trang

17-25

85

37. Nguyễn Thái Hà 2011, ‘Khung pháp luật cho hệ thống giám sát tài chính của

Việt Nam từ nay đến 2020’, Tạp chí khoa học & đào tạo ngân hàng, số 106,

trang 24-28.

38. Nguyễn Thị Kim Thanh 2010,‘Hệ thống giám sát tài chính của Việt Nam,

thực trạng và một số định hướng phát triển’, Tạp chí Thị trường tài chính

tiền tệ, số 12 trang 22-25

39. Phương Nhi 2015,’Phấn đấu nợ công giảm còn khoảng 60.2% GDP’, báo

điện tử chính phủ,

phu-Thu-tuong-Chinh-phu/Phan-dau-no-cong-giam-con-khoang-602-

GDP/220261.vgp> truy cập ngày 18/20/2016.

40. Tô Ngọc Hưng và các cộng sự 2011, Hệ thống giám sát tài chính quốc gia,

Chương trình KHCN trọng điểm cấp nhà nước, Bộ khoa học và công nghệ,

Hà Nội

41. Tô Ngọc Hưng 2010, ‘Lộ trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống giám sát tài

chính Việt Nam tới năm 2020’, Tạp chí khoa học & đào tạo ngân hàng, số

102, trang 5-13

42. Ủy ban kinh tế của Quốc hội 2012, Các chỉ tiêu giám sát tài chính, Nhà xuất

bản tri thức, Hà Nội

43. Ủy ban giám sát tài chính quốc gia 2013, Báo cáo hoạt động của Ủy ban

giám sát tài chính quốc gia (2008-2012), định hướng hoạt động (2013-

2015).

86

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1: Các chỉ tiêu đo lường rủi ro của hệ thống tài chính theo ADB

Nợ nước ngoài và dòng tài chính

Tỷ trọng vốn đầu tư trực Hoạt động đầu tư rất quan trọng đối với sự phát triển

tiếp = Lượng vốn đầu tư kinh tế của một quốc gia. Vốn đầu tư trực tiếp và đầu

trực tiếp/GDP danh nghĩa tư gián tiếp là hai dòng tiền vào trong nền kinh tế,

Tỷ trọng vốn đầu tư gián trong khi đầu tư trực tiếp, các nhà đầu tư trực tiếp

tiếp = Lượng vốn đầu tư tham gia quản lý, hoạt động các lĩnh vực đầu tư khác

gián tiếp/GDP danh nghĩa nhau thì đầu tư gián tiếp, nhà đầu tư thông qua việc

mua cổ phẩn, chứng chỉ quỹ đầu tư…

Tổng nợ trên GDP danh Chỉ số này đo lường khả năng thanh khoản của một

nghĩa quốc gia, với ý nghĩa nguồn trả nợ được lấy từ nguồn

thu nhập hàng năm của một đất nước

Tiền tệ và tín dụng

Tín dụng nội địa/GDP Chỉ số này cảnh báo những nguy cơ khủng hoảng kinh

danh nghĩa tế, vì mức tăng trường tín dụng phải hài hòa mới mức

tăng trường GDP, nếu quá cao tức đang ở trong thời

kỳ tín dụng nóng. Chỉ số này thường tăng trong giai

đoạn đầu của khủng hoảng hệ thống ngân hàng.

Tốc độ tăng trưởng cung Chỉ số đo lường tính thanh khoản trong nền kinh tế,

tiền M1 và M2 nếu chỉ số quá cao có thể có nguy cơ khủng hoảng tiền

tệ

M2 (%GDP) Chỉ số đo lường độ sâu của tài chính, nếu chỉ số này

cao chứng tỏ hiệu quả trong việc chuyển từ tiền thành

tài sản, hay hiệu quả trong việc đầu tư

Số nhân tiền tệ Chỉ số này gắn với sự tự do hóa tài chính

M2/MB (Money Base)

87

M2 (% Dự trữ ngoại hối) Chỉ số đo lường mức độ nợ của hệ thống ngân hàng

trong phần dự trữ ngoại hối. Khi có dấu hiệu khủng

hoảng, các chủ thể thường đổi nội tệ ra ngoại tệ làm

kênh dự trữ thay thế, chỉ số này đo lường khả năng đáp

ứng được nhu cầu đó của NHTW

Tín dụng đối với khu vực Khả năng thanh toán của khu vực nhà nước

công/GDP danh nghĩa

CAR - Hệ số an toàn vốn Chỉ số này đo lường mức vốn đáp ứng cho các rủi ro

tối thiểu= Vốn tự có/Tổng mà một tổ chức tài chính gặp phải. Hệ số này thấp

tài sản có rủi ro chứng tỏ định chế đó đang có vấn đề trong nguồn vốn,

vốn không đủ để đảm bảo hoạt động an toàn

Tín dụng của NHTW cấp Chỉ số này phản ánh tính thanh khoản trong hệ thống

cho các tổ chức tài chính= các tổ chức tài chính, nếu chỉ số này cao chứng tỏ

Vốn NHTW cấp/Vốn tự có NHTW đang phải ứng phó, cứu trợ cho các tổ chức tài

(Tổng nợ phải trả) chính nhằm đảm bảo an toàn cho hệ thống

Khu vực ngân hàng

ROA= Thu nhập ròng/ Đây là chỉ số đo lường khả năng sinh lời, tuy nhiên

Tổng tài sản bình quân nếu chỉ số này cao bất thường cần xem xét lại

Tỷ trọng vốn/ Tổng tài sản Chỉ số này thể hiện mức độ đầy đủ và sẵn sàng về vốn

để chống đỡ những rủi ro của các tổ chức tài chính

trong lĩnh vực và phạm vi hoạt động của họ

Cho vay khu vực trọng Chỉ số này thể hiện mức độ tập trung vốn trong nền

điểm của nền kinh tế kinh tế vào một hay một vài lĩnh vực nào đó. Nếu chỉ

số này cao, nền kinh tế dễ gặp phải rủi ro danh mục (

trong rủi ro tín dụng) và dễ bị tác động bởi yếu tố

ngành nghề lĩnh vực đó

Tỷ trọng cho vay trong Đã có nhiều cuộc khủng hoảng lây lan bắt nguồn từ

lĩnh vực bất động sản khủng hoảng trong lĩnh vực, bất động sản là một lĩnh

88

vực nhạy cảm, dễ biến động giá, dễ bùng nổ và đổ vỡ

chu kỳ.

Tỷ trọng nợ xấu Đây là một chỉ tiêu về chất lượng tín dụng, nếu tỷ

trọng nợ xấu cao, gây nên rủi ro tín dụng, ảnh hưởng

đến khả năng thanh khoản của hệ thống

Tổng cho vay/tổng tiền gửi Chỉ số này thể hiện khả năng huy động vốn của các

ngân hàng, nếu chỉ số này cao, chứng tỏ khả năng huy

động vốn kém, thể hiện tính thanh khoản kém.

Lãi suất

Lãi suất trên thị trường Lãi suất là nhân tố thể hiện phần nào tình trạng của

liên ngân hàng/Lãi suất nền kinh tế, cần phân tích kỹ về mức dao động lãi suất,

trên thị trường tiền tệ đường cong lãi suất bên cạnh tỷ lệ lãi suất.

Thị trường chứng khoán và trái phiếu

Chỉ số giá chứng khoán Đây là chỉ số tổng hợp của các loại chứng khoán niêm

tổng hợp yết, nếu chỉ số giá xuống thấp là sự bất ổn của thị

trường

Thương mại và quỹ dự trữ ngoại hối

Tỷ trọng thâm hụt tài Chỉ số này tăng mạnh là dấu hiệu dòng vốn nước

khoản vãng lai = Thâm hụt ngoài vào ồ ạt, dễ gây ra hiện tượng bùng nổ giá tài

tài khoản vãng lai/GDP sản và tín dụng

danh nghĩa

Tỷ giá thực Khi đồng nội tệ tăng giá cao trong điều kiện thâm hụt

tài khoản vãng lai, sẽ càng làm tình trạng thêm trầm

trọng, nguy cơ rủi ro ngoại hối cho nền kinh tế

Dự trữ ngoại hối quốc gia

Tỷ lệ dự trữ ngoại hối trên Sự tăng trưởng nhanh về tín dụng nội địa liên quan tới

nhập khẩu cầu tiền, mất cân bằng ngân quỹ và tín dụng tới khu

vực công có thể làm cạn kiệt quỹ dự trữ ngoại hối. Nếu

89

tỷ lệ dự trữ ngoại (trong NHTW và toàn bộ hệ thống

tài chính) trên nợ ngắn hạn thấp thì có thể coi là dấu

hiệu, ảnh hưởng đến an toàn của hệ thống.

Tỷ lệ dự trữ ngoại hối trên Chỉ số này phản ánh mức đầy đủ dự trữ hoặc cách thức

nhập khẩu mà hệ thống tài chính có thể phản ứng với nhu cầu

nhập khẩu của nền kinh tế.

90

PHỤ LỤC 2: MÔ HÌNH GIÁM SÁT THỂ CHẾ TẠI TRUNG QUỐC

Nguồn: Group of Thirty G30, (2008), The structure of Financial Supervision

Approaches and Challenges in a Global Marketplace

91

PHỤ LỤC 3: MÔ HÌNH GIÁM SÁT THEO CHỨC NĂNG TẠI PHÁP

Nguồn: Group of Thirty G30, (2008), The structure of Financial Supervision

Approaches and Challenges in a Global Marketplace

92

PHỤ LỤC 4: MÔ HÌNH GIÁM SÁT LƯỠNG ĐỈNH TẠI ÚC

Nguồn: Group of Thirty G30, (2008), The structure of Financial Supervision

Approaches and Challenges in a Global Marketplace

93

PHỤ LỤC 5: CÁC CHỈ TIÊU GIÁM SÁT NGÂN HÀNG THEO CAMELS

Mức độ an toàn vốn thể hiện mức C - Capital - An toàn Vốn

vốn tự có mà ngân hàng hoạt động, 1 Vốn (C1+C2)/Tổng TSC rủi ro nội

bù đắp các tổn thất từ các loại rủi ro. ngoại bảng

VTC/Tổng TSC 2

Các khoản dự trữ VTC 3

Đa phần tài sản có của ngân hàng là A - Assets - Chất lượng TSC

các khoản vay, cấp tín dụng cho Nợ nhóm 2 đến nhóm 5/VTC 4 khách hàng và chất lượng tài sản có

Dự phòng rủi ro/Tổng TSC 5 phản ánh chất lượng tín dụng, rủi ro

tín dụng của ngân hàng, một trong Dự phòng rủi ro/Tổng TSC nhóm 2 6

những rủi ro chính yếu trong hoạt đến nhóm 5

động ngân hàng 7 TSC sinh lời so với TSN phải trả lãi

Chỉ tiêu này phản ánh năng lực quản M - Management - Năng lực quản lý

lý của lãnh đạo, trình độ chuyên Tốc độ tăng trưởng TSC 8

môn, khả năng ứng phó với các rủi Tốc độ tăng trưởng đầu tư tín dụng 9 ro, sự tuân thủ các quy định, tầm

10 Tốc độ tăng trưởng lợi nhuận nhìn chiến lược, kế hoạch hoạt

động… 11 Tốc độ tăng trưởng/VTC từ lợi nhuận

12 Tốn thất trong hoạt động/Tổng TSC

13 Số lần vi phạm các quy định.

Các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh E - Earnings - Khả năng sinh lời

lời, một trong những mục tiêu mà 14 Thu nhập từ lãi/Tổng TSC

ngân hàng hướng tới. Lợi nhuận của 15 Chi trả lãi/Tổng TSC

một ngân hàng đến từ 4 nguồn: thu 16 Thu nhập trước thuế/Tổng TSC

94

Thu nhập trước thuế/VCSH từ lãi, thu từ phí, thu từ kinh doanh 17

ngoại tệ, thu nhập khác. Lợi nhuận ròng/VTC 18

19 Thu nhập trước thuế/Tổng nợ xoá

20 Chi phí hoạt động/TSC sinh lời

21 Thu nhập lãi và phí/TSC sinh lời

L - Liquidity - Tính thanh khoản

22 TSC động 1 ngày/TSN động 1 ngày Một trong những rủi ro gây hậu quả

nghiêm trọng mà một NHTM có thể 23 TSC động 7 ngày/TSN động 7 ngày. gặp phải là rủi ro thanh khoản, các

ngân hàng kinh doanh vốn bằng tiền 24 TSC động 1 ngày /TSN động 1 tháng.

nên để đáp ứng cả nhu cầu của 25 Tài sản thanh khoản/Các khoản tiền người vay và người gửi tiền, ngân gửi và nợ ngắn hạn hàng phải quản trị thanh khoản tốt

và luôn cần dự trữ cho hoạt động

này.

Đây là các chỉ số phản ánh mức độ S - Sensitivity - Sự nhạy cảm với rủi ro thị

tác động của các yếu tố thị trường trường

đến một NHTM, hai loại rủi ro 26 Trạng thái ngoại tệ âm/VTC

chính yếu từ thị trường là rủi ro lãi

27 Trạng thái ngoại tệ dương/VTC suất và rủi ro tỷ giá.

28 Trạng thái từng loại ngoại tệ/VTC

29 Lợi nhuận kinh doanh ngoại tệ/Tổng

thu nhập.

30 Tổng trạng thái ngoại tệ/Tổng TSC nội

bảng.

31 TSN đáo hạn đến 6 tháng so với TSC

đáo hạn đến 6 tháng.

95

32 TSN đáo hạn từ 6 đến 12 tháng/TSC

đáo hạn từ 6 đến 12 tháng.

33 TSN đáo hạn trên 1 năm/ TSC

đáo hạn trên 1 năm.

96

PHỤ LỤC 6: Các chỉ tiêu cụ thể theo CAMEL cho các công ty chứng khoán,

công ty quản lý quỹ

Công ty chứng khoán Công ty quản lý quỹ

Mức độ đủ vốn - Capital - (C)

1 VCSH/Tổng Tài sản 1 Tỷ lệ vốn khả dụng

2 VCSH/Vốn pháp định 2 Tỷ lệ VCSH/Vốn pháp định

3 Tỷ lệ vốn khả dụng 3 Tỷ lệ lợi nhuận (lỗ) lũy kế/Vốn

điều lệ

Chất lượng tài sản - Assets (A)

4 Tổng tài sản sau khi điều chỉnh rủi 4 Tỷ lệ đầu tư dài hạn/VCSH

ro/ Tổng tài sản

5 Tỷ lệ dự phòng/(Đầu tư ngắn hạn + 5 Tỷ lệ các khoản phải thu quá hạn/

Đầu tư dài hạn + Khoản phải thu) Tổng tài sản

6 Tỷ lệ khoản phải thu/ Tổng tài sản

Năng lực quản trị - Management (M)

7 Số năm làm lãnh đạo, số năm kinh 6 Hội đồng quản trị/hội đồng thành

nghiệm trong lĩnh vực tài viên, ban kiểm soát

chính/chứng khoán của Chủ tịch

HĐQT, Tổng giám đốc.

8 Tính ổn định của các vị trí lãnh đạo 7 Công tác kiểm toán nội bộ

chủ chốt

9 Sự đầy đủ của các Quy trình nghiệp 8 Cơ cấu cổ đông/thành viên góp

vụ theo quy định của pháp luật vốn

97

10 Chính sách quản lý rủi ro đối với tất 9 Đoàn kết nội bộ

cả các hoạt động

11 Đánh giá năng lực hoạt động của bộ 10 Ban điều hành và hoạt động quản

phận kiểm tra, kiểm soát nội bộ lý điều hành

12 Chất lượng kiểm soát các khoản tiền 11 Hoạt động nghiệp vụ, kinh doanh

gửi của nhà đầu tư để giao dịch

chứng khoán

13 Mức độ minh bạch của thông tin tài 12 Quản trị rủi ro

chính

14 Số năm hoạt động

14 Doanh số giao dịch cổ phiếu thực

hiện/Tổng Doanh số giao dịch của thị

trường

16 VCSH của công ty so với mặt bằng

chung

17 Tính ổn định và khả năng tăng

trưởng/VCSH

18 Tăng trưởng DT trung bình trong 3

kỳ báo cáo

19 Sử dụng quỹ hỗ trợ thanh toán của

Trung tâm lưu ký chứng khoán

20 Tình hình tuân thủ (vi phạm) các quy

định pháp luật trong lĩnh vực chứng

khoá

98

21 Số lượng nghiệp vụ được cấp phép

của công ty

Khả năng sinh lợi - Earnings (E)

22 Lợi nhuận sau thuế/Tổng doanh thu 13 Lợi nhuận sau thuế/Tổng tài sản

bình quân

23 Lợi nhuận sau thuế/VCSH bình quân 14 Lợi nhuận sau thuế/VCSH đầu kỳ

15 Biên độ lợi nhuận

16 Hiệu quả của các danh mục đầu

tư/quỹ

17 Hiệu quả của các danh mục đầu

tư/quỹ mở

18 Hiệu quả của các quỹ đóng/quỹ

thành viên/công ty đầu tư chứng

khoán

19 Độ lệch chuẩn hoặc Tracking

Error

Chất lượng thanh khoản - Liquidity (L)

24 Tài sản ngắn hạn/Nợ ngắn hạn 20 Tài sản lưu động/Nợ ngắn hạn

25 Tiền + tương đương tiền/Nợ ngắn 21 Tiền và tương đương/Nợ ngắn

hạn hạn