BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP.HỒ CHÍ MINH TẠ THU HỒNG NHUNG
HỆ THỐNG GIÁM SÁT TÀI CHÍNH TẠI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP.HỒ CHÍ MINH TẠ THU HỒNG NHUNG
HỆ THỐNG GIÁM SÁT TÀI CHÍNH TẠI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Chuyên ngành: Tài chính - Ngân hàng
Mã số: 60 34 02 01
Người hướng dẫn khoa học: NGƯT. PGS.,TS. LÝ HOÀNG ÁNH
TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả luận văn có lời cam đoan danh dự về công trình khoa học này của mình cụ
thể:
Tôi tên là: Tạ Thu Hồng Nhung
Sinh ngày 19 tháng 01 năm 1990
Quê quán: Xã Bảo Khê, Huyện Kim Động, Tỉnh Hưng Yên
Địa chỉ thường trú: 282/65 Bùi Hữu Nghĩa, P2, Quận Bình Thạnh, TPHCM
Là học viên lớp cao học 16B1 của Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ
Chí Minh. Mã số học viên: 020116140170
Cam đoan đề tài: “Hệ thống giám sát tài chính tại Việt Nam”
Người hướng dẫn khoa học: NGƯT. PGS., TS. Lý Hoàng Ánh
Luận văn được thực hiện tại Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí
Minh.
Đề tài này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả nghiên cứu có
tính độc lập riêng, không sao chép bất kỳ tài liệu nào và chưa được công bố toàn
bộ nội dung này bất kỳ ở đâu. Các số liệu, các nguồn trích dẫn trong luận văn được
chú thích nguồn gốc rõ ràng, minh bạch.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan danh dự của tôi.
TP. HCM, ngày 01 tháng 10 năm 2016
Học viên
Tạ Thu Hồng Nhung
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, học viên xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến phòng
Đào tạo Sau Đại học Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM, đặc biệt là giảng viên
hướng dẫn NGƯT. PGS., TS. Lý Hoàng Ánh đã trực tiếp hướng dẫn, dìu dắt, giúp
đỡ học viên với những chỉ dẫn khoa học quý giá trong suốt quá trình nghiên cứu và
hoàn thành đề tài "Hệ thống giám sát tài chính tại Việt Nam"
Học viên xin chân thành cảm ơn các Thầy/Cô giáo - Các nhà khoa học đã
trực tiếp giảng dạy truyền đạt những kiến thức khoa học chuyên ngành Tài chính -
ngân hàng trong những năm tháng qua.
Học viên cũng xin cảm ơn sự quan tâm động viên khuyến khích cũng như sự
thông cảm của gia đình và bạn bè thân thiết.
Do thời gian thực hiện có hạn, kiến thức chuyên môn còn nhiều hạn chế nên
luận văn chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Học viên rất
mong nhận được ý kiến đóng góp của các Thầy/Cô giáo và các bạn đọc.
Xin chân thành cảm ơn!
TP. HCM, ngày 01 tháng 10 năm 2016
Học viên
Tạ Thu Hồng Nhung
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Tên viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt
ADB The Asian Development Bank Ngân hàng phát triển Châu Á
BHTG Bảo hiểm tiền gửi
BIS Bank for International Settlements Ngân hàng thanh toán quốc tế
BTC Bộ Tài Chính
CAR Capital Adequacy Ratio Hệ số an toàn vốn
CTBH Công ty bảo hiểm
CTCK Công ty chứng khoán
CTTC Công ty tài chính
IMF International Monetary Fund Quỹ tiền tệ thế giới
Các nguyên tắc trong hoạt động bảo ICP Insurance Core Principles hiểm
International Organization of Tổ chức quốc tế của các Ủy ban IOSCO Securities Commissions chứng khoán
NH Ngân hàng
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTW Ngân hàng Trung ương
NHNN Ngân hàng Nhà nước
ROA Return on Asset Tỷ số lợi nhuận ròng/ Tổng tài sản
Tỷ số lợi nhuận ròng/ Vốn chủ sở ROE Return on Equity hữu
TCTD Tổ chức tín dụng
TCVM Tài chính vi mô
TSC Tài sản có
TSN Tài sản nợ
UBCKNN Ủy ban chứng khoán nhà nước
UBGSTCQG Ủy ban giám sát tài chính quốc gia
VTC Vốn tự có
WB World Bank Ngân hàng thế giới
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng Tên bảng Trang
Bảng hệ thống các TCTD tại Việt Nam tính đến ngày 2.1 24 31/12/2015
Quy mô vốn tự có của nhóm các NHTM Việt Nam giai 2.2 25 đoạn 2012 - 2015.
Các chỉ số cơ bản của thị trường chứng khoán Việt Nam 2.3 26 2012 - 2014
Các chỉ tiêu cơ bản về thị trường bảo hiểm Việt Nam năm 2.4 27 2011 - 2014
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu CAR của các NHTM Việt Nam 2.5 53 năm 2012 - 2015
Quy mô vốn tự có của các TCTD Việt Nam giai đoạn 2.6 55 2012 - 2015
Tỷ lệ ROA, ROE của các TCTD Việt Nam giai đoạn 2012 2.7 56 - 2015
Dự phòng nghiệp vụ, tổng tài sản của các công ty kinh 2.8 58 doanh bảo hiểm Việt Nam giai đoạn 2011 - 2015
Tổng hợp các vi phạm lĩnh vực chứng khoán Việt Nam 2.9 59 năm 2014
Số lượng các CTCK, Vốn chủ sở hữu, tổng doanh thu của 2.10 61 các CTCK Việt Nam 2011 - 2014
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
SƠ ĐỒ Tên biểu đồ Trang
1.1 Mô hình giám sát hợp nhất tại Singapore 20
2.1 Mô hình hệ thống giám sát tài chính tại Việt Nam 34
2.2 Cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng 39
2.3 Sơ đồ tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam 40
2.4 Cục quản lý và giám sát bảo hiểm 43
2.5 Cơ cấu tổ chức bộ máy giám sát thị trường chứng khoán 46
2.6 Mô hình tổ chức Ủy ban giám sát tài chính quốc gia 48
So sánh tỷ lệ nợ xấu giữa báo cáo và đánh giá lại giai đoạn 2.7 54 2011 - 2014
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1 LÝ THUYẾT VỀ HỆ THỐNG GIÁM SÁT TÀI CHÍNH ................ 1
1.1. KHÁI NIỆM HỆ THỐNG TÀI CHÍNH VÀ RỦI RO CỦA HỆ THỐNG TÀI
CHÍNH ........................................................................................................................ 1
1.1.1. Hệ thống tài chính ............................................................................................. 1
1.1.2. Rủi ro của hệ thống tài chính ............................................................................ 2
1.1.2.1. Khái niệm ....................................................................................................... 2
1.1.2.2. Các chỉ tiêu đo lường rủi ro hệ thống tài chính .............................................. 3
1.2. KHÁI NIỆM VÀ NỘI DUNG GIÁM SÁT HỆ THỐNG TÀI CHÍNH ................ 3
1.2.1. Khái niệm, mục tiêu giám sát hệ thống tài chính .............................................. 3
1.2.1.1. Khái niệm ....................................................................................................... 3
1.2.1.2. Mục tiêu giám sát hệ thống tài chính ............................................................. 3
1.2.2. Nội dung giám sát hệ thống tài chính ............................................................... 5
1.2.2.1. Giám sát an toàn vĩ mô................................................................................... 5
1.2.2.2. Giám sát an toàn vi mô................................................................................... 6
1.3. CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG GIÁM SÁT TÀI
CHÍNH ...................................................................................................................... 12
1.3.1. Khái niệm hệ thống giám sát tài chính ............................................................ 12
1.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động của hệ thống giám sát tài chính ......... 12
1.3.3. Các chỉ tiêu đánh giá hoạt động hệ thống giám sát tài chính .......................... 13
1.3.3.1. Chỉ tiêu trực tiếp ........................................................................................... 14
1.3.3.2. Chỉ tiêu gián tiếp .......................................................................................... 14
1.4. CÁC MÔ HÌNH GIÁM SÁT TÀI CHÍNH VÀ KINH NGHIỆM XÂY DỰNG
MÔ HÌNH HỆ THỐNG GIÁM SÁT TÀI CHÍNH TRÊN THẾ GIỚI....................... 14
1.4.1. Mô hình hệ thống giám sát theo đặc điểm thể chế .......................................... 15
1.4.1.1. Khái niệm ..................................................................................................... 15
1.4.1.2. Đặc điểm ...................................................................................................... 15
1.4.1.3. Kinh nghiệm vận hành mô hình hệ thống giám sát theo đặc điểm thể chế tại
Trung Quốc ............................................................................................................... 15
1.4.2. Mô hình hệ thống giám sát theo chức năng .................................................... 16
1.4.2.1. Khái niệm ..................................................................................................... 16
1.4.2.2. Đặc điểm ...................................................................................................... 16
1.4.2.3. Kinh nghiệm vận hành mô hình hệ thống giám sát theo chức năng tại Pháp
................................................................................................................................... 16
1.4.3. Mô hình giám sát lưỡng đỉnh .......................................................................... 17
1.4.3.1. Khái niệm ..................................................................................................... 17
1.4.3.2. Đặc điểm ...................................................................................................... 17
1.4.3.3. Kinh nghiệm vận hành mô hình hệ thống giám sát lưỡng đỉnh tại Úc ........ 17
1.4.4. Mô hình giám sát tài chính hợp nhất ............................................................... 18
1.4.4.1. Khái niệm ..................................................................................................... 18
1.4.4.2. Đặc điểm ...................................................................................................... 18
1.4.4.3. Kinh nghiệm vận hành mô hình hệ thống giám sát hợp nhất tại Singapore 19
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................ 21
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG HỆ THỐNG GIÁM SÁT TÀI CHÍNH TẠI VIỆT
NAM ......................................................................................................................... 22
2.1. TỔNG QUAN HỆ THỐNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM VÀ RỦI RO CỦA HỆ
THỐNG ..................................................................................................................... 22
2.1.1. Khái quát thị trường tài chính Việt Nam ........................................................ 22
2.1.1.1. Đôi nét về thị trường tài chính Việt Nam .................................................... 22
2.1.1.2. Các tổ chức tín dụng .................................................................................... 24
2.1.1.3. Các tổ chức kinh doanh chứng khoán .......................................................... 25
2.1.1.4. Các tổ chức kinh doanh bảo hiểm ................................................................ 26
2.1.2. Thực trạng rủi ro của hệ thống tài chính Việt Nam ........................................ 27
2.1.2.1. Rủi ro thị trường tài chính ............................................................................ 27
2.1.2.2. Rủi ro đối với các tổ chức tín dụng .............................................................. 29
2.1.2.3. Rủi ro đối với các tổ chức kinh doanh chứng khoán ................................... 31
2.1.2.4. Rủi ro đối với các tổ chức kinh doanh bảo hiểm ......................................... 32
2.2. THỰC TRẠNG HỆ THỐNG GIÁM SÁT TÀI CHÍNH VIỆT NAM ................ 33
2.2.1. Cấu trúc hệ thống giám sát tài chính Việt Nam .............................................. 33
2.2.1.1. Các cơ quan giám sát trong hệ thống tài chính tại Việt Nam ...................... 33
2.2.1.2. Đặc điểm về hệ thống giám sát tài chính tại Việt Nam ............................... 37
2.2.2. Thực trạng về hoạt động của hệ thống giám sát tài chính Việt Nam .............. 38
2.2.2.1. Thực trạng tổ chức giám sát hệ thống ngân hàng ........................................ 38
2.2.2.2. Thực trạng hệ thống tổ chức hoạt động giám sát bảo hiểm ......................... 42
2.2.2.3. Thực trạng hoạt động và giám sát trên thị trường chứng khoán .................. 45
2.2.2.4. Ủy ban giám sát tài chính quốc gia .............................................................. 48
2.2.3. Thực trạng phối hợp giữa các chủ thể giám sát trong hệ thống giám sát tài
chính Việt Nam. ........................................................................................................ 50
2.2.3.1. Phối hợp qua các thông tư liên tịch .............................................................. 50
2.2.3.2. Phối hợp qua cơ chế đóng góp ý kiến .......................................................... 50
2.2.3.3. Phối hợp qua Ủy ban giám sát tài chính quốc gia ........................................ 50
2.2.4. Đánh giá hoạt động của hệ thống giám sát tài chính Việt Nam ...................... 51
2.2.4.1. Kết quả trong hoạt động giám sát tài chính tại Việt Nam ............................ 51
2.2.4.2. Hạn chế trong hệ thống giám sát tài chính tại Việt Nam. ............................ 62
2.2.4.3. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong việc giám sát hệ thống tài chính
tại Việt Nam .............................................................................................................. 63
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................ 66
CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ XÂY DỰNG HỆ THỐNG GIÁM
SÁT TÀI CHÍNH TẠI VIỆT NAM ........................................................................ 67
3.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG GIÁM SÁT TÀI CHÍNH TỚI
NĂM 2020. ................................................................................................................ 67
3.1.1. Mục tiêu kinh tế - xã hội tầm nhìn tới năm 2020 ............................................ 67
3.1.1.1. Các mục tiêu cụ thể về lĩnh vực kinh tế. ...................................................... 68
3.1.1.2. Các giải pháp cụ thể về lĩnh vực kinh tế ...................................................... 69
3.1.2. Định hướng phát triển hệ thống giám sát tài chính lựa chọn mô hình giám sát
tài chính hợp nhất - tầm nhìn tới năm 2020 .............................................................. 71
3.1.2.1. Yêu cầu của hệ thống giám sát tài chính ...................................................... 71
3.1.2.2. Lộ trình hoàn thiện hệ thống giám sát tài chính tại Việt Nam ..................... 73
3.2. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VÀ XÂY DỰNG HỆ THỐNG GIÁM
SÁT TÀI CHÍNH HỢP NHẤT TẠI VIỆT NAM ...................................................... 74
3.2.1. Củng cố, tăng cường năng lực giám sát của mô hình giám sát hiện tại. Nâng
cao vai trò của Ủy ban giám sát tài chính quốc gia................................................... 74
3.2.2. Hoàn thiện và xây dựng hệ thống pháp luật cho hệ thống giám sát tài chính
hợp nhất tại Việt Nam. .............................................................................................. 75
3.2.3. Xây dựng hệ thống thông tin giám sát tài chính ............................................. 76
3.2.4. Xây dựng hệ thống chỉ tiêu giám sát tài chính ................................................ 77
3.2.5. Phát triển đội ngũ nguồn nhân lực .................................................................. 78
3.2.6. Định kỳ đánh giá hoạt động của hệ thống giám sát tài chính ......................... 78
3.2.7. Tiếp cận các chỉ tiêu cho phù hợp với thông lệ quốc tế. ................................. 79
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ........................................................................................ 80
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................ 82
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 86
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đang trong giai đoạn bước vào hội nhập sâu rộng với nền kinh tế
toàn cầu, gia nhập cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) vào cuối năm 2015, ký kết
đàm phán Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP vào tháng 2 năm 2016.
Đây là những mốc lịch sử rất quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam sau gần 30
năm đổi mới. Việc hòa nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu đồng nghĩa mở ra
nhiều cơ hội nhưng cũng vô vàn thách thức khó khăn đối với các doanh nghiệp, các
ngân hàng cũng như toàn nền kinh tế. Dòng vốn lưu chuyển giữa các nền kinh tế sẽ
nhanh chóng và mạnh mẽ, nền kinh tế Việt Nam sẽ hòa chung với chu kỳ kinh tế
và dễ biến động bởi những nhân tố tác động trong nền kinh tế toàn cầu. Thị trường
tài chính Việt Nam cũng mở cửa đón nhận các nhà đầu tư cũng như các chủ thể
tham gia. Theo cách khác, nền kinh tế Việt Nam sẽ đa dạng hơn, phát triển hơn,
phức tạp hơn và cũng dễ bị tác động hơn, khi các chủ thể tham gia trên thị trường
tài chính cùng phát triển. Điều này đòi hỏi cơ quan, bộ máy giám sát các chủ thể đó
cũng phải được hoàn thiện, phát triển và nâng cao.
Khi nền kinh tế thế giới vừa trải qua giai đoạn khủng hoảng tài chính
nghiêm trọng, một vấn đề cấp thiết cần nhìn nhận lại, đó là vai trò và chức năng
của hệ thống giám sát tài chính. Bởi lẽ hệ thống giám sát tài chính hiệu quả đã
ngăn chặn được những dấu hiệu khủng hoảng trong nền kinh tế và đã có những
biện pháp can thiệp kịp thời. Điều này khiến tất cả những nhà làm chính sách tại
các quốc gia trên thế giới cũng như Việt Nam đều băn khoăn.
Hiện tại Việt Nam đang tổ chức hệ thống giám sát tài chính theo mô hình
phân tán dựa trên cơ sở thể chế (Nguyễn Thị Kim Thanh, 2010) cụ thể: Cơ quan
Thanh tra ngân hàng nhà nước và Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam giám sát trực tiếp
các tổ chức tín dụng (TCTD), Bộ Tài chính giám sát hoạt động bảo hiểm và chứng
khoán thông qua Cục quản lý giám sát bảo hiểm và Ủy ban Chứng khoán Nhà
nước. Điều này gây nên sự giám sát chồng chéo, tốn kém và khó khăn khi các tổ
chức tài chính hay trung gian tài chính có xu hướng phát triển thành những định
chế tài chính đa năng và sự phát triển mạnh mẽ của các tập đoàn tài chính. Thời
gian gần đây, các nghiên cứu đề cập rất nhiều đến mô hình giám sát tài chính hợp
nhất và đó cũng là định hướng của Việt Nam trong thời gian tới. Cụ thể, Ủy ban
giám sát tài chính quốc gia đã được thành lập năm 2008 theo Quyết định số
34/2008/QĐ-TTg ngày 03/03/2008 của Thủ tướng chính phủ với sứ mệnh sẽ là cơ
quan giám sát tập trung độc lập và giám sát toàn diện các tổ chức trong hệ thống tài
chính. Tuy nhiên đến nay vai trò của Ủy ban vẫn chưa đúng với sứ mệnh được giao
phó khi thành lập. Vậy mô hình tổ chức giám sát tài chính hợp nhất có thực sự phù
hợp với Việt Nam và xây dựng mô hình có phải là việc làm cấp bách đối với hệ
thống giám sát tài chính.
Trước những tình hình đó, học viên lựa chọn đề tài: “Hệ thống giám sát tài
chính tại Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu. Bởi lẽ điều này rất cần thiết đối với thị
trường tài chính còn non trẻ và đang phải đối mặt với nhiều thử thách như Việt
Nam, cần phải có những giải pháp củng cố hệ thống giám sát.
1. MỤC TIÊU VÀ CÂU HỎI NGHIÊN CỨU
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
Mục tiêu nghiên cứu chính của đề tài là phân tích các thành phần trong hệ
thống tài chính theo lĩnh vực hoạt động (ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán) và chủ
thể giám sát trực tiếp các thành phần đó trong hệ thống giám sát tài chính Việt Nam
giai đoạn 2011 - 2015, mục tiêu, đặc điểm, các chỉ tiêu giám sát, phương thức giám
sát trong hệ thống giám sát tại Việt Nam hiện nay.
Mục đích nghiên cứu được cụ thể hóa thông qua các câu hỏi:
Các mô hình điển hình của hệ thống giám sát tài chính trên thế giới? Ưu,
nhược điểm từng mô hình?
Thực trạng hoạt động của hệ thống giám sát tài chính tại Việt Nam trong thời
gian qua?
Những giải pháp nào nhằm hoàn thiện hệ thống giám sát tài chính cho Việt
Nam hiện nay?
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu kinh nghiệm về hệ thống giám sát tài chính điển hình của các
nước trên thế giới.
Hệ thống giám sát tài chính tại Việt Nam trong giai đoạn 2011 - 2015, từng
cơ quan giám sát trực thuộc và sự phối hợp giữa các chủ thể này.
Phạm vi nghiên cứu
Định hướng ba lĩnh vực chính trong hệ thống tài chính là ngân hàng, bảo
hiểm và chứng khoán.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu định tính
Phương pháp tổng hợp, phân tích tình huống điển hình: kế thừa lý luận về
các mô hình hoạt động của hệ thống giám sát trên thế giới
Phương pháp so sánh, phân tích, thống kê mô tả: dựa trên số liệu thống kê
thu thập được trong giai đoạn 2011-2015 của 03 lĩnh vực, sử dụng phương pháp so
sánh, phân tích thực trạng hoạt động của các tổ chức tài chính theo ba lĩnh vực và
thị trường tài chính, đánh giá hoạt động hệ thống giám sát tài chính theo các chỉ tiêu
từ đó nhận diện các hạn chế, xác định rõ nguyên nhân.
4. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Kết cấu và nội dung cơ bản của luận văn tập trung vào 03 chương, ngoài
phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo
Chương 1: Lý thuyết về hệ thống giám sát tài chính
Chương 2: Thực trạng hệ thống giám sát tài chính Việt Nam
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện và xây dựng hệ thống giám sát tài chính của
Việt Nam
5. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
Qua việc phân tích các mô hình hệ thống giám sát tài chính trên thế giới, kết
hợp với phân tích điều kiện hoàn cảnh có yếu tố lịch sử của Việt Nam, đề tài định
hướng tiếp tục xây dựng và phát triển việc tổ chức hệ thống giám sát chuyển đổi mô
hình phân tán sang mô hình hợp nhất tại Việt Nam và cần phải thực hiện mạnh mẽ
hơn nữa. Đề tài đồng thời mạnh dạn đề xuất lộ trình trong việc xây dựng hệ thống
pháp luật về giám sát tài chính, vai trò độc lập của hệ thống giám sát.
Đề tài có đánh giá hoạt động của hệ thống giám sát, đặc biệt bao gồm Ủy ban
giám sát tài chính quốc gia, một cơ quan có sứ mệnh là tiền đề cho việc chuyển đổi
sang mô hình giám sát tài chính hợp nhất.
Đề tài phân tích tình hình diễn biến của thị trường tài chính, đánh giá hoạt
động giám sát của các chủ thể giám sát trong hệ thống giám sát tài chính trong
những năm gần đây giai đoạn 2011-2015.
6. TỔNG QUAN VỀ LĨNH VỰC NGHIÊN CỨU
6.1. Tình hình nghiên cứu nước ngoài
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về hệ thống giám sát tài chính và các
mô hình hệ thống giám sát tài chính tại các quốc gia điển hình như:
- Nghiên cứu của N. Nergiz Dincery and Barry Eichengreenz (2012), The
Architecture and Governance of Financial Supervision: Sources and Implications,
International Finance. Nghiên cứu đã sử dụng phương pháp định lượng phân tích
mối tương quan giữa các biến trong nền kinh tế vĩ mô như tốc độ tăng trưởng GDP,
lạm phát trong quá khứ, hiệu lực của các nguồn luật điều chỉnh, sự ổn định của nền
kinh tế…trong thời gian 1999 - 2009 tại 140 quốc gia, phân tích tác động của tính
độc lập giám sát đến hiệu quả tài chính và đánh giá xu hướng giám sát trong thời
gian gần đây. Nghiên cứu kết luận, các công cụ giám sát vĩ mô tỏ ra hiệu quả, xu
hướng gia tăng liên kết trong việc giám sát tài chính giữa các quốc gia phát triển
bên cạnh việc hình thành những tập đoàn tài chính xuyên quốc gia.
- Cheryl Ho (2014), Financial Stability: The Financial Stability Function within
MAS”, “Macro Surveillance Framework, Methods and Techniques, MAS’
Approach to Financial Supervision, Monetary Authority Of Singapore. Ba tài liệu
này được cung cấp trong chương trình tập huấn về Xây dựng mô hình hệ thống
giám sát tài chính do Ngân hàng nhà nước Việt Nam tổ chức. Các tài liệu giới thiệu
một cách tổng quát mô hình hệ thống giám sát tài chính hợp nhất tại Singapore,
quốc gia đi đầu trên thế giới về việc xây dựng mô hình này. Nội dung phân tích rất
chi tiết các vấn đề đặt ra cho hệ thống giám sát, điều kiện xây dựng mô hình, chức
năng, yêu cầu, cấu trúc, tổ chức và cách thức vận hành hệ thống giám sát theo mô
hình giám sát tài chính hợp nhất tại Singapore.
- Group of Thirty G30 (2008), The structure of Financial Supervision
Approaches and Challenges in a Global Marketplace, Washington DC. Nghiên cứu
lý thuyết về các mô hình giám sát tài chính điển hình trên thế giới bao gồm: Mô
hình giám sát theo đặc điểm thể chế (Trung Quốc và Mexico), mô hình giám sát
theo chức năng (Ý và Pháp), mô hình giám sát lưỡng đỉnh (Úc, Hà Lan) và mô hình
giám sát hợp nhất (Anh và Đức, Canada, Thụy Điển, Quata, Singagore), nghiên cứu
tiếp cận vai trò của các chủ thể giám sát chuyên ngành như bảo hiểm tiền gửi, ngân
hàng trung ương, bộ tài chính và sự kết hợp giám sát giữa các tổ chức giám sát liên
ngành. Nghiên cứu mô tả cách xây dựng một mô hình hệ thống giám sát, cách thức
vận hành áp dụng vào thực tiễn và ưu, nhược điểm của mỗi mô hình giám sát tài
chính. Nghiên cứu chỉ ra rằng xu hướng giám sát hệ thống tài chính hiện nay vận
hành theo mô hình giám sát hợp nhất, tuy nhiên việc lựa chọn mô hình hiệu quả phù
thuộc vào từng nền kinh tế, điều kiện pháp lý, cơ sở hạ tầng, chính sách và yếu tố
lịch sử. Đa phần các nền kinh tế mới nổi và non trẻ lựa chọn mô hình giám sát tài
chính theo chức năng. Đây là một nghiên cứu khá đầy đủ về tổ chức, phương thức
vận hành của từng mô hình giám sát tài chính điển hình, có nêu kinh nghiệm tổ
chức xây dựng tại nhiều quốc gia khác nhau.
6.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Các nghiên cứu trong nước về hệ thống giám sát tài chính chỉ tập trung trong
giai đoạn 2010 - 2012, đó là giai đoạn sau khủng hoảng khi mà những nhà nghiên
cứu và những nhà làm chính sách của Việt Nam cũng như các nước trên thế giới
đang đặt ra vấn đề về hệ thống giám sát hiệu quả, để giảm được những cú sốc chu
kỳ gây nên khủng hoảng kinh tế. Đặc biệt với đề tài nghiên cứu về hệ thống giám
sát tài chính, chưa có luận án, luận văn nào nghiên cứu về lĩnh vực này. Cụ thể:
- Theo nghiên cứu của Tô Ngọc Hưng và các cộng sự (2011), Hệ thống giám
sát tài chính quốc gia, đề tài thuộc chương trình khoa học công nghệ trọng điểm cấp
Nhà nước. Nghiên cứu sử dụng các phương pháp định tính, so sánh, phân tích tổng
hợp để xử lý số liệu về các tổ chức tài chính và thị trường tài chính chú trọng giai
đoạn 2000 - 2010, nghiên cứu tình huống điển hình, sử dụng phương pháp chuyên
gia trong việc đánh giá hiệu lực giám sát tài chính. Trong nghiên cứu đã chỉ ra định
hướng hệ thống giám sát tài chính Việt Nam theo mô hình hợp nhất qua việc phân
tích điều kiện cần và điều kiện đủ để chuyển đổi sang mô hình này, phân tích hiệu
quả của hoạt động giám sát tài chính Việt Nam, tìm hiểu các mô hình giám sát thực
tiễn trên thế giới hiện nay, và đưa ra những giải pháp thực tiễn để chuyển đổi mô
hình giám sát hệ thống tài chính phân tán tại Việt Nam sang mô hình giám sát hợp
nhất. Nghiên cứu khá đầy đủ tại thời điểm năm 2011, tuy nhiên chưa đề cập đến
hoạt động của Ủy ban giám sát tài chính quốc gia vì cơ quan này mới được thành
lập. Các đề xuất của nghiên cứu phù hợp với thời điểm đó, khi Việt Nam vừa qua
cuộc khủng hoàng và chưa có sự chuyển biến mạnh mẽ tái cấu trúc, bổ sung hệ
thống pháp lý, và những bước đệm chuẩn bị hội nhập sâu rộng trong giai đoạn 2011
- 2015.
- Ủy ban kinh tế quốc hội (2012), Các chỉ tiêu giám sát tài chính, Nhà xuất bản
tri thức, nghiên cứu trên cơ sở xem xét một cách hệ thống lý luận và thực tiễn về
việc áp dụng mô hình giám sát hợp nhất bước đầu hình thành ở Việt Nam: (i) bộ chỉ
tiêu giám sát tài chính an toàn vĩ mô và vi mô; (ii) mô hình định lượng phục vụ
giám sát an toàn tài chính vĩ mô và vi mô đó là mô hình kiểm tra khả năng chịu
đựng các cú sốc tài chính tiền tệ, mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng; (iii) các quy
chuẩn và chỉ tiêu giám sát tập đoàn tài chính; và (iv) nghiên cứu đưa ra các chỉ tiêu
giám sát chọn lọc đối với từng bộ phận trong tổng thể hệ thống tài chính tại Việt
Nam trong giai đoạn tới. Tuy nhiên nghiên cứu chỉ dừng lại về mặt lý luận, đưa ra
bộ chỉ tiêu trong giám sát nhằm hạn chế rủi ro cho hệ thống, chưa nói đến sự thống
nhất hay kết hợp giám sát giữa các bộ phận trong tổng thể.
Ngoài ra có các bài viết đánh giá một phần nội dung, mảng kiến thức nhất
định về hệ thống giám sát tài chính như:
- Lê Thị Tuấn Nghĩa và Nguyễn Minh Nguyệt (2010), Hệ thống chỉ tiêu đánh
giá hiệu quả giám sát tài chính, Tạp chí khoa học & đào tạo ngân hàng. Nghiên cứu
đưa ra những nguyên tắc giám sát hệ thống tài chính theo các tiêu chuẩn của BIS
ngân hàng thanh toán quốc tế, IOSCO Ủy ban chứng khoán quốc tế, IAIS Hiệp hội
cơ quan giám sát bảo hiểm quốc tế và quỹ tiền tệ quốc tế IMF, và đặc điểm tính chất
yêu cầu của một hệ thống giám sát tài chính quốc tế.
- Nguyễn Thị Kim Thanh (2010), Hệ thống giám sát tài chính của Việt Nam,
thực trạng và một số định hướng phát triển, Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ.
Nghiên cứu đã khẳng định hệ thống giám sát tài chính Việt Nam theo mô hình phân
tán dựa trên cơ sở thể chế bao gồm Ủy ban chứng khoán Nhà Nước, Cục bảo hiểm,
Ủy ban giám sát tài chính quốc gia, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, Cơ quan thanh tra
giám sát ngân hàng. Bên cạnh đó nghiên cứu chỉ ra những bất cập trong hệ thống
giám sát đó là chưa có những quy định về quyền hạn và chức năng xử lý từng bộ
phận trong hệ thống giám sát, hiệu quả của cơ quan giám sát còn thấp, và có sự
khác biệt giữa tiêu chuẩn hoạt động an toàn của Việt Nam và của thế giới. Nghiên
cứu cũng khẳng định một lần nữa việc chuyển đổi mô hình sang giám sát hợp nhất
là biện pháp hữu hiệu và cần thiết cho Việt Nam
Nhìn chung các nghiên cứu đề cập đến những mô hình hệ thống giám sát tài
chính, yêu cầu của một hệ thống giám sát tài chính, các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả
giám sát tài chính, đánh giá sơ bộ về hệ thống giám sát tài chính tại Việt Nam và
xây dựng lộ trình từng bước hướng đến mô hình giám sát tài chính hợp nhất. Các
nghiên cứu trong nước, duy chỉ có đề tài mang tên: “Hệ thống giám sát tài chính
quốc gia” năm 2011, đề tài thuộc chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước,
là một nghiên cứu đầy đủ, toàn diện. Những nghiên cứu khác chỉ nghiên cứu xoay
quanh những vấn đề riêng lẻ trong hệ thống giám sát như: các mô hình hệ thống
giám sát tài chính trên thế giới, chỉ số đo lường hiệu quả hoạt động giám sát tài
chính, đánh giá cơ cấu tổ chức hệ thống giám sát tài chính tại Việt Nam, các điều
kiện và yêu cầu của một hệ thống giám sát tài chính, những giải pháp xây dựng
khung pháp lý cho hệ thống giám sát, lộ trình trong tiến trình xây dựng hoàn chỉnh
hệ thống giám sát tài chính theo mô hình hợp nhất tại Việt Nam, và đánh giá hoạt
động giám sát trên từng lĩnh vực trong hệ thống tài chính.
Các nghiên cứu đều tập trung trong giai đoạn từ 2009 đến 2011, nên việc
đánh giá hệ thống giám sát chưa bao gồm Ủy ban giám sát tài chính quốc gia, và
việc xây dựng hành lang pháp lý cũng như lộ trình xây dựng thực hiện hệ thống
giám sát hợp nhất tại Việt Nam chưa có tính cập nhật và đánh giá lại nhất là khi
Việt Nam đã trải qua giai đoạn chuyển đổi mạnh mẽ trong hệ thống tài chính, tái
cấu trúc hệ thống tài chính và những tiền đề khi gia nhập cộng đồng kinh tế AEC,
ký kết đàm phán hiệp định hợp tác xuyên Thài Bình Dương TPP.
Khi đề cập đến hệ thống tài chính là một phạm trù rất rộng trong đó có bao
gồm: Tài chính công, tài chính doanh nghiệp, Tài chính trung gian, tài chính hộ gia
đình và các tổ chức xã hội, tài chính quốc tế. Tuy nhiên, trong luận văn chỉ dừng lại
nghiên cứu ở phạm vi về tài chính trung gian bao gồm thị trường tài chính, các tổ
chức tài chính trung gian.
1
CHƯƠNG 1
LÝ THUYẾT VỀ HỆ THỐNG GIÁM SÁT TÀI CHÍNH
1.1. KHÁI NIỆM HỆ THỐNG TÀI CHÍNH VÀ RỦI RO CỦA HỆ THỐNG
TÀI CHÍNH
1.1.1. Hệ thống tài chính
Hệ thống tài chính được hiểu là tổng thể các hình thức thể hiện các bộ phận
hợp thành tài chính gắn liền với các quỹ tiền tệ đặc trưng. Hệ thống tài chính bao
gồm các bộ phận hợp thành của nhiều lĩnh vực hoạt động tài chính dưới những hình
thức nhất định, tác động lẫn nhau trong toàn bộ hoạt động của nền tài chính. Cấu
thành trong hệ thống tài chính bao gồm: Tài chính công; Tài chính doanh nghiệp;
Thị trường tài chính và các tổ chức tài chính các trung gian; Tài chính hộ gia đình
và các tổ chức xã hội; Tài chính quốc tế (Dương Thị Bình Minh, Sử Đình Thành,
2004). Tuy nhiên, trong luận văn, học viên chỉ đi sâu phân tích về tài chính trung
gian bao gồm thị trường tài chính, các tổ chức tài chính trung gian, bổ trợ là cơ sở
hạ tầng tài chính và các công cụ tài chính.
Thị trường tài chính
Trong nền kinh tế quá trình sản xuất lưu thông hàng hóa sẽ phát sinh những
chủ thể có nhu cầu vốn, hay thiếu vốn, ngược lại cũng có những chủ thể tích lũy dư
thừa. Từ đó, hình thành nên nhu cầu trao đổi vốn giữa những người cần vốn và
những người thiếu vốn, hình thành nên cơ chế chuyển vốn từ tiết kiệm sang đầu tư.
Thị trường tài chính là nơi diễn ra sự chuyển vốn từ những người có vốn nhàn rỗi
tới những người cần sử dụng. Thị trường tài chính là nơi tập trung huy động vốn các
nguồn vốn trong xã hội để tài trợ ngắn hạn, trung hạn và dài hạn cho các chủ thể
trong nền kinh tế (Bùi Kim Yến, 2008)
Các trung gian tài chính
Các trung gian tài chính thể hiện chức năng trung gian tài chính, là người dẫn
vốn từ người dư thừa vốn sang người thiếu vốn. Hoạt động chính của các trung gian
tài chính là huy động được các nguồn vốn bằng cách phát hành quyền truy đòi ra
2
công chúng (chứng chỉ tiều gửi, tiền gửi tiết kiệm) sau đó dẫn vốn trực tiếp như cho
vay hoặc đầu tư vào chứng khoán.
Trung gian tài chính bao gồm:
Ngân hàng thương mại (Commercial Banks); Hiệp hội tín dụng (Credit
Unions); Công ty bảo hiểm (Insurance Company); Công ty chứng khoán (Security
Companies); Quỹ hỗ tương (Mutual Funds); Công ty tài chính (Finance
Companies); Công ty cho thuê tài chính (Finance Leasing Companies)…
Bên cạnh đó còn có cơ sở hạ tầng tài chính là khuôn khổ các luật lệ và hệ
thống làm nền tảng cho các bên (tiết kiệm - cho vay; đi vay - đầu tư) lập kế hoạch,
đàm phán và thực hiện các giao dịch tài chính.
Trong cơ sở hạ tầng tài chính bao gồm:
- Hệ thống pháp luật và quản lý Nhà nước
- Nguồn lực và hệ thống giám sát
- Các nguồn cung cấp thông tin: luật và quy định kế toán, cơ quan thông tin tín
dụng, tổ chức xếp hạng tín nhiệm, công chúng.
- Hệ thống thanh toán, hệ thống hỗ trợ giao dịch chứng khoán
Các công cụ tài chính gồm có: Trái phiếu, cổ phiếu, tín phiếu, thương phiếu…giúp
cho việc trao đổi vốn giữa các thành viên trên thị trường
1.1.2. Rủi ro của hệ thống tài chính
1.1.2.1. Khái niệm
Rủi ro hệ thống tài chính là nguy cơ sụp đổ toàn bộ hệ thống tài chính hoặc
thị trường tài chính khi các cú sốc tới hệ thống tài chính làm rối loạn chức năng dẫn
vốn của hệ thống tài chính (Miskhin, 1999). Rủi ro trong hệ thống tài chính có thể
dẫn đến hậu quả lớn nhất đó là khủng hoảng tài chính.
Khi đánh giá rủi ro hệ thống có thể xuất phát từ 2 nguyên nhân chính: Sự tác
động của các yếu tố vĩ mô làm suy yếu hệ thống và nền kinh tế; Ảnh hưởng lan tỏa
từ sự suy yếu của một hay một số tổ chức đến các tổ chức khác và đến toàn bộ hệ
thống.
3
Mỗi lĩnh vực có những rủi ro đặc thù phổ biến: Ngân hàng thường gặp rủi ro tín
dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro hoạt động, rủi ro thị trường; Kinh doanh chứng
khoán thường gặp rủi ro hệ thống và rủi ro phi hệ thống; Kinh doanh lĩnh vực bảo
hiểm thường gặp rủi ro bảo hiểm, rủi ro tái bảo hiểm, rủi ro thanh khoản.
1.1.2.2. Các chỉ tiêu đo lường rủi ro hệ thống tài chính
Hiện nay có hai hệ thống chỉ tiêu đo lường mức độ an toàn của hệ thống tài
chính được đề cập đến phổ biến nhất đó là hệ thống chỉ tiêu của ngân hàng phát
triển Châu Á (Asian Development Bank - ADB) và hệ thống chỉ tiêu của Ngân hàng
trung ương Châu Âu (European Central Bank - ECB). ADB đã hợp tác cùng IMF,
BIS, Deutsche Bundesbank, NHTW Nhật Bản, NHTW Hàn Quốc, Cục thống kê Úc
và Uỷ ban Kinh tế Xã hội khu vực Châu Á Thái Bình Dương để đưa ra một hệ
thống chỉ tiêu giám sát thận trọng bao gồm 67 chỉ tiêu cơ bản và 43 chỉ tiêu phụ.
Hệ thống chỉ tiêu này được chia làm bảy nhóm bao gồm: Nợ nước ngoài và
dòng chu chuyển tài chính; Tiền tệ và Tín dụng, Ngân hàng; Lãi suất; Thị trường
chứng khoán và trái phiếu; Thương mại, Tỷ giá và Quỹ ngoại hối; Dữ liệu thống kê
về kinh doanh (Khu vực sản xuất, xây dựng, bán buôn, bán lẻ và dịch vụ). Như vậy,
có thể thấy hệ thống chỉ tiêu của ADB xây dựng đánh giá gần như mọi mặt về sự ổn
định hệ thống tài chính của một quốc gia.1
1.2. KHÁI NIỆM VÀ NỘI DUNG GIÁM SÁT HỆ THỐNG TÀI CHÍNH
1.2.1. Khái niệm, mục tiêu giám sát hệ thống tài chính
1.2.1.1. Khái niệm
Giám sát tài chính là hoạt động theo dõi, kiểm tra thường xuyên tình hình tài
chính - tiền tệ nhằm mục đích ngăn chặn sự đổ vỡ của hệ thống tài chính thông qua
phát hiện và ngăn chặn những vấn đề khó khăn về tài chính trước khi nó vượt ra
khỏi tầm kiểm soát. (IMF, 2008)
1 Phụ lục 1 Các chỉ tiêu đo lường rủi ro của hệ thống tài chính theo ADB
1.2.1.2. Mục tiêu giám sát hệ thống tài chính
4
Duy trì sự ổn định hệ thống tài chính
Đây là mục tiêu đầu tiên mà một hệ thống giám sát tài chính cần làm được,
hoạt động của hệ thống tài chính có tính chất nhạy cảm, dễ bị tác động và dễ làm
ảnh hưởng đến toàn hệ thống. Hệ thống giám sát phải nắm bắt kịp thời các dấu hiệu
có nguy cơ mang lại rủi ro cho hệ thống để kịp thời ngăn chặn. Ổn định hệ thống tài
chính là việc hệ thống tài chính vận hành các chức năng dẫn vốn, phân bổ nguồn
lực, xây dựng cơ sở hạ tầng tài chính một cách hiệu quả.
Đảm bảo sự lành mạnh của các tổ chức tài chính
Sự hoạt động lành mạnh của hệ thống tài chính không đồng nghĩa với việc
tất cả các định chế tài chính đều phải hoạt động hiệu quả và an toàn. Hoạt động lành
mạnh có nghĩa các tổ chức tài chính phải tuân thủ các điều kiện đảm bảo an toàn do
các chủ thể giám sát đã đề ra, đảm bảo các trung gian tài chính có đủ khả năng sẽ
được tham gia thị trường cạnh tranh một cách bình đẳng và đồng thời chắt lọc các tổ
chức không đủ điều kiện tham gia thị trường. Bởi lẽ hệ thống tài chính nhạy cảm và
có tác động dẫn truyền. Nếu các cơ quan chức năng dễ dàng cho các tổ chức tài
chính còn yếu kém tham gia thị trường vô hình chung cũng sẽ tác động tiêu cực đến
toàn hệ thống.
Bảo vệ người tiêu dùng
Một trong những hiện tượng phổ biến khi tham gia thị trường tài chính đó là
thông tin bất cân xứng. Hiện tượng này gây nên một thị trường không minh bạch, có
kẻ thu được những nguồn lợi nhuận khổng lồ trên sự tổn thất của người khác. Trong
các chủ thể tham gia thị trường tài chính, người tiêu dùng là đối tượng cần bảo vệ vì
họ bị hạn chế trong việc tiếp xúc thông tin và bởi đôi khi những người tư vấn đã
đưa ra thông tin sai lệch, ảnh hưởng lợi ích nghiêm trọng. Hệ thống giám sát cần
đảm bảo cho người tiêu dùng có thể có được sản phẩm tài chính với mức giá tương
ứng, đo lường được tổn thất, rủi ro và lợi nhuận khi đầu tư từng loại sản phẩm tài
chính.
Đảm bảo hiệu quả của hệ thống tài chính
5
Hiệu quả của hệ thống tài chính được đề cập đến bao gồm cả hiệu quả trong
và ngoài hệ thống, tức phải đảm bảo hệ thống tài chính đạt được hiệu quả và đảm
bảo lợi ích cho xã hội. Điều này được thể hiện như chi phí vốn cho toàn xã hội giảm
xuống, việc tiếp cận vốn dễ dàng thuận lợi hơn cho các chủ thể, giảm thiểu tình
trạng thông tin bất cân xứng vì dễ dàng khai thác thông tin và minh bạch hóa thông
tin tối đa.
1.2.2. Nội dung giám sát hệ thống tài chính
1.2.2.1. Giám sát an toàn vĩ mô
Khái niệm
Giám sát an toàn vĩ mô được hiểu là hoạt động giám sát nhằm đảm bảo sự ổn
định của toàn bộ hệ thống tài chính thông qua việc xác định sớm những điểm yếu,
những nguy cơ tiềm tàng có thể làm tổn hại đến hệ thống tài chính, trên cơ sở đó
đưa ra phương hướng biện pháp nhằm ngăn chặn sớm sự bất ổn của hệ thống.
Trước đây, các nhà làm chính sách chỉ quan tâm đến việc giám sát từng định
chế tài chính và từng lĩnh vực trong hệ thống tài chính nhưng dường như điều này
chưa đủ, thể hiện rất rõ qua cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997 và khủng
hoảng tài chính toàn cầu 2008. Đó là những bài học cho thấy rõ tầm quan trọng của
việc giám sát an toàn hệ thống vĩ mô.
Công cụ giám sát an toàn vĩ mô
Các công cụ giám sát an toàn vĩ mô được xây dựng và áp dụng khá linh hoạt
tùy thuộc vào các điều kiện vĩ mô và tùy vào từng giai đoạn của từng quốc gia nhằm
đạt được mục tiêu cuối cùng là đảm bảo an toàn cho cả hệ thống. Cụ thể mục đích là
để đánh giá mức độ ổn định của các chỉ số và quan hệ vĩ mô, mức độ tin cậy, mức
độ lan truyền của rủi ro hệ thống và mức độ tác động của thị trường bên ngoài đến
nền kinh tế.
Hệ thống cảnh báo sớm (Early Warning System - EWS) rủi ro hệ thống tài
chính là một công cụ giám sát an toàn hệ thống ưu việt. Hệ thống này bao gồm các
biến số kinh tế vĩ mô, các chỉ số tài chính và các phương pháp tính toán từ đó dự
đoán các khả năng có thể xảy ra những rủi ro mang tính hệ thống tài chính trên cơ
6
sở xây dựng các mô hình từ các dữ liệu quá khứ. Hệ thống cảnh báo sớm được đưa
ra với mục đích để phát hiện ra các nguy cơ tài chính khi nó mới ở giai đoạn đầu và
giúp cơ quan giám sát khắc phục kịp thời.
1.2.2.2. Giám sát an toàn vi mô
Nếu như giám sát an toàn vĩ mô là nhằm hạn chế rủi ro hệ thống từ các tác
động vĩ mô thì giám sát an toàn vi mô dựa trên quan điểm cần phải giám sát từng tổ
chức tài chính, từng lĩnh vực để đảm bảo can thiệp kịp thời khi có rủi ro nhằm tránh
lây lan cho cả hệ thống.
Hiện nay chưa có một hệ thống, bộ chỉ tiêu giám sát thống nhất cho các định
chế tài chính mà chỉ có các bộ chỉ tiêu trong việc giám sát theo từng lĩnh vực được
đưa ra bởi các tổ chức đứng đầu, định hướng cho sự phát triển bền vững của từng
lĩnh vực như: Ngân hàng thế giới (WB); Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF); Các tổ chức có
tính chất hiệp hội như Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS), Hội đồng Tiêu chuẩn
Kế toán Quốc tế (IASB), Tổ chức Quốc tế của các uỷ ban chứng khoán (IOSCO),
Hiệp hội Quốc tế của các cơ quan giám sát bảo hiểm (IAIS)... Và các tổ chức thuộc
các quốc gia như các cơ quan giám sát tài chính quốc gia, các tổ chức đánh giá tín
nhiệm chia theo ba lĩnh vực chính là ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán.
Giám sát ngân hàng
Nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế về giám sát ngân hàng
Năm 1988, Ủy ban Basel của Ngân hàng Thanh toán Quốc tế BIS đã ban
hành Hiệp ước vốn Basel (the Basel Capital Accord) hay Basel I trong đó đề cập tới
hệ thống đo lường vốn, lần đầu tiên tỷ lệ vốn tối thiểu đã được đề cập. Sau hai lần
sửa đổi Basel II năm 2004 và Basel III năm 2010, trong đó bản Basel II là bản mà
NHNN đang định hướng áp dụng cho các NHTM tại Việt Nam. Nội dung của Basel
II gồm 3 trụ cột chính: Yêu cầu vốn tối thiểu trên cơ sở kế thừa Basel I; Tăng cường
cơ chế giám sát, đặc biệt là việc đánh giá chất lượng quản lý rủi ro của ngân hàng;
Tuân thủ kỷ luật thị trường. Trong nội dung của Basel có một trụ cột nhấn mạnh về
việc giám sát ngân hàng đó là trụ cột thứ hai.
7
Trụ cột thứ hai: Tăng cường cơ chế giám sát, đặc biệt là việc đánh giá chất
lượng quản lý rủi ro của ngân hàng. Trụ cột này xác định vai trò, trách nhiệm của cơ
quan giám sát ngân hàng trong việc trực tiếp đánh giá sự tuân thủ vốn tối thiểu của
ngân hàng, qua hệ thống quản lý rủi ro. Điều này đảm bảo hơn cho các ngân hàng
có đủ vốn để giải quyết tất cả các rủi ro trong hoạt động kinh doanh đồng thời
khuyến khích ngân hàng phát triển và sử dụng các kỹ thuật quản lý rủi ro trong việc
kiểm soát và quản lý các rủi ro.
Bên cạnh đó, Ủy ban Basel đã ban hành bộ 25 nguyên tắc cơ bản giám sát
hoạt động ngân hàng hiệu quả của Basel vào năm 1997, với tên gọi “Các nguyên tắc
nòng cốt cho việc giám sát hoạt động ngân hàng hiệu quả” (Core principles for
effective banking supervision) được sửa đổi năm 2006 nhằm cung cấp một khuôn
khổ cho hệ thống giám sát ngân hàng hiệu quả.
Nội dung giám sát
Nội dung hoạt động giám sát trong lĩnh vực ngân hàng bao gồm việc giám
sát trước khi hoạt động, giám sát trong quá trình hoạt động và giám sát việc chấm
dứt hoạt động kinh doanh.
Một là, giám sát trước khi hoạt động
Giám sát trước khi hoạt động là việc xem xét kiểm tra khi thành lập và hoạt
động kinh doanh ngân hàng, cụ thể như điều kiện tham gia thị trường, phạm vi hoạt
động…
Các ngân hàng muốn được thành lập sẽ phải tuân thủ và đáp ứng các quy
định theo luật định, những yêu cầu về cơ cấu sở hữu, điều kiện về nhà quản lý, được
cơ quan có thẩm quyền nào cấp phép.
Hai là, giám sát trong quá trình hoạt động: Giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ.
- Giám sát từ xa ( Off-site Surveillance)
Giám sát từ xa thông qua việc tổng hợp, phân tích các báo cáo định kỳ. Quy trình
thực hiện bao gồm: Tập hợp báo cáo các ngân hàng định kỳ; Kiểm tra và lựa chọn
những dữ liệu quan trọng, thiết lập hệ thống cảnh báo sớm cho ngân hàng; Đánh giá
kết quả hoạt động và rủi ro tiềm ẩn. Sau đó, cơ quan giám sát sẽ đưa ra những biện
8
pháp xử lý tùy thuộc mức độ nghiêm trọng đối với từng tổ chức. Giám sát từ xa các
nội dung chủ yếu bao gồm giám sát an toàn và đánh giá hoạt động. Trong đó giám
sát an toàn nhằm đảm bảo tính tuân thủ các quy định đảm bảo an toàn.
Giám sát an toàn đưa ra những tiêu chuẩn đảm bảo an toàn cho hoạt động
ngân hàng, qua việc kiểm soát các loại rủi ro mà ngân hàng có thể gặp phải. Nội
dung giám sát an toàn chủ yếu bao gồm giám sát các quy định về phân loại nợ, trích
lập dự phòng rủi ro, an toàn vốn, đảm bảo tính thanh khoản, kiểm soát nội bộ.
Đánh giá hoạt động của ngân hàng, IMF và BIS đều đề xuất áp dụng hệ
thống đánh giá CAMELS được ban hành bởi Cục quản lý liên hiệp tín dụng Mỹ
(National Credit Union Administration - NCUA). Theo hệ thống đánh giá
CAMELS bao gồm 6 yếu tố cơ bản được sử dụng để đánh giá hoạt động của một
ngân hàng, đó là: Mức độ an toàn vốn (Capital Adequacy), Chất lượng tài sản có
(Assset Quality), Quản lý (Management), Lợi nhuận (Earnings), Thanh khoản
(Liquidity) và Mức độ nhạy cảm với rủi ro thị trường (Sensitivity to Market Risk).
- Thanh tra tại chỗ (On-site Examinations).
Thanh tra tại chỗ là hoạt động được thực hiện khi có sự vi phạm các quy chế
an toàn tại các ngân hàng. Thanh tra sẽ tập trung vào một vài nội dung như: Chất
lượng tài sản; Việc tuân thủ luật, qui định hiện hành; Hệ thống kiểm soát nội bộ và
những bất thường tài chính khác…
Bên cạnh đó, khi các tổ chức chấm dứt hoạt động, giải thể, sáp nhập cũng cần có sự
giám sát chặt chẽ các hoạt động sau đó trong một thời gian nhất định.
Giám sát bảo hiểm
Nguyên tắc chuẩn mực quốc tế giám sát bảo hiểm
Giám sát bảo hiểm dựa vào các nguyên tắc chung về giám sát bảo hiểm được
quy định trong “Các nguyên tắc nòng cốt trong giám sát bảo hiểm” (Insurance Core
Principles - ICP), do Hiệp hội Quốc tế của các cơ quan giám sát bảo hiểm (IAIS)
ban hành, gồm 28 nguyên tắc chia làm bảy nội dung chính. Đây là những nguyên
tắc giúp cho việc xây dựng một khung pháp lý về hoạt động giám sát lĩnh vực bảo
9
hiểm, đồng thời đưa ra bộ chỉ tiêu chuẩn về đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh
doanh bảo hiểm.
Nội dung giám sát
Giám sát hoạt động của các tổ chức tài chính hoạt động bảo hiểm cũng bao
gồm: Giám sát trước khi hoạt động; Giám sát trong quá trình hoạt động; Giám sát
việc chấm dứt hoạt động.
Một là, giám sát trước khi hoạt động
Đây là giai đoạn kiểm tra các tiêu chuẩn, điều kiện nhằm lựa chọn những tổ
chức, doanh nghiệp có đủ khả năng hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm.
Lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm có những yêu cầu về năng lực tài chính, trình độ
quản trị, do đó cần phải kiểm tra xem xét trước khi cấp giấy phép thành lập doanh
nghiệp hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Hai là, giám sát trong quá trình hoạt động trong đó chú trọng về giám sát từ xa bao
gồm việc giám sát:
- Các yêu cầu về vốn và khả năng thanh khoản
Các yếu tố đánh giá khả năng thanh khoản của doanh nghiệp bảo hiểm là:
vốn chủ sở hữu, chất lượng tài sản có, dự phòng nghiệp vụ, nghiệp vụ tái bảo hiểm,
và những chỉ tiêu này được nêu cụ thể trong ICP, chuyển hóa thành các quy định
đối với mỗi quốc gia khác nhau.
Nếu xét về phương pháp giám sát khả năng rủi ro thanh khoản, hiện nay trên
thế giới có 2 phương pháp chính là sử dụng “Biên khả năng thanh toán” (Solvency
Margin) và “vốn dựa trên rủi ro” ( Risk based capital)
- Giám sát tài sản nợ (Dự phòng nghiệp vụ)
Trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm, phí bảo hiểm người mua phải trả
trước, tiền bồi thường do công ty bảo hiểm đền bù sau. Do đó, các công ty bảo hiểm
có vốn tạm thời nhàn rỗi, thể hiện ở mục “Dự phòng nghiệp vụ”, đây là nợ phải trả
chủ yếu, và cũng là một nội dung trong giám sát doanh nghiệp bảo hiểm. Có 2 vấn
đề cần xem xét là: Các loại dự phòng trích lập và phương pháp trích lập.
- Giám sát tài sản có hoạt động đầu tư
10
Trong hoạt động đầu tư, doanh nghiệp bảo hiểm phải đảm bảo về an toàn
vốn, khả năng sinh lời đồng thời duy trì khả năng thanh khoản.
Theo Nguyên tắc bảo hiểm cơ bản ICP, các tiêu chuẩn an toàn trong hoạt
động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm là các yêu cầu về chính sách đầu tư, danh
mục đầu tư, các giới hạn đầu tư…
Ngoài ra cần phải giám sát các hoạt động như chia tách, hợp nhất, sáp nhập, giải thể
và phá sản. Giám sát cần đảm bảo các hoạt động diễn ra đúng theo quy định của
pháp luật, đảm bảo quyền lợi nghĩa vụ của các bên tham gia đặc biệt là không gây
ảnh hưởng đến uy tín trong toàn hệ thống.
Giám sát trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán
Nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế giám sát hoạt động kinh doanh chứng
khoán
Mục tiêu giám sát lĩnh vực chứng khoán bao gồm: Bảo vệ nhà đầu tư; Đảm
bảo tính công bằng, minh bạch và hiệu quả của thị trường chứng khoán; Giảm trừ
rủi ro hệ thống. Năm 1998, Tổ chức Quốc tế của các Uỷ ban Chứng khoán (IOSCO)
đã ban hành “Những mục tiêu và nguyên tắc giám sát chứng khoán” (Objectives
and Principles of Securities Regulation) Trong đó nêu rõ giám sát các tổ chức kinh
doanh chứng khoán bao gồm: Qui định về các điều kiện tham gia thị trường; Yêu
cầu về an toàn và vốn; Tổ chức thanh tra thường xuyên; Giải quyết các vấn đề về
phá sản.
Nội dung giám sát
Một là, giám sát trước khi hoạt động gồm: Thống nhất các quy định về điều
kiện gia nhập thị trường; Giám sát về yêu cầu vốn tối thiểu, các công ty chứng
khoán phải duy trì và báo cáo thường xuyên cho cơ quan phụ trách giám sát; Giám
sát về việc cung cấp thông tin cho các bên liên quan và công bố thông tin cho thị
trường; Giám sát việc cấp phép gia nhập thị trường
Hai là, giám sát trong quá trình hoạt động: Giám sát từ xa, thanh tra tại chỗ
Trong giám sát từ xa có 02 nội dung chính là giám sát an toàn vốn và giám sát hoạt
động kinh doanh
11
- Giám sát an toàn vốn
Việc áp dụng các chỉ tiêu an toàn vốn sẽ theo bộ hệ chỉ tiêu áp dụng trong hệ
thống ngân hàng (Basel I và Basel II). Hiện nay hệ thống giám sát tài chính của
Liên minh châu Âu đang áp dụng, các công ty chứng khoán phải luôn đảm bảo các
tỷ lệ:
≥ 8% Vốn tự có Tổng tài sản có rủi ro
Quy định mức vốn ròng tối thiểu - Net capital approach
Yêu cầu đối với các công ty chứng khoán phải luôn đảm bảo mức giá trị tối
thiểu tài sản có tính thanh khoản cao để đáp ứng ngay các yêu cầu của người tiêu
dùng khi công ty phá sản. Quy định này cũng sẽ giúp cho công ty có thể bù đắp các
rủi ro chính yếu như rủi ro thị trường, rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro hoạt
động. Mức vốn ròng tối thiểu theo qui định thông thường là một tỷ lệ phần trăm của
tổng các khoản nợ của công ty chứng khoán.
- Giám sát hoạt động kinh doanh
Bao gồm các công việc như: Xây dựng quy trình kiểm soát nội bộ, quản lý rủi ro
bằng việc giám sát thường xuyên; Đảm bảo luôn hoạt động trên nguyên tắc bảo vệ
khách hàng; Các nội dung về kiểm soát nội bộ.
Bên cạnh đó, khi các tổ chức chấm dứt hoạt động, giải thể, sáp nhập cũng
cần có sự giám sát chặt chẽ các hoạt động sau đó trong một thời gian nhất định.
Ngoài ra, các cơ quan giám sát trong quá trình hoạt động cần phải đảm bảo
giám sát công bố thông tin và các giao dịch không hợp pháp qua đó nâng cao tính
minh bạch và uy tín trên thị trường, bảo đảm cho người tiêu dùng được tiếp cận
thông tin đầy đủ, chính xác và nhanh chóng.
Bên cạnh 3 lĩnh vực hoạt động chính là ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán,
trước sự đa dạng và linh hoạt trong hoạt động, hiện nay có xu hướng các trung gian
tài chính phát triển thành các định chế tài chính. Tuy nhiên việc giám sát định chế
12
tài chính không thể như với từng lĩnh vực riêng lẻ, đòi hỏi một nghiệp vụ kỹ thuật
phức tạp.
1.3. CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG GIÁM
SÁT TÀI CHÍNH
1.3.1. Khái niệm hệ thống giám sát tài chính
Hệ thống giám sát tài chính được định nghĩa là tập hợp của một hay một vài
các cơ quan hoạt động độc lập hay phối hợp với nhau trong việc giám sát hoạt động
các định chế tài chính trên thị trường tài chính nhằm đạt được mục tiêu ổn định hệ
thống tài chính, đảm bảo sự an toàn và lành mạnh của các định chế tài chính, bảo vệ
lợi ích của người tiêu dùng trên thị trường tài chính và đảm bảo thị trường tài chính
hoạt động hiệu quả, minh bạch trên cơ sở đưa ra các quy định và chính sách phù
hợp. (IMF, 2008)
Hoạt động giám sát tài chính phải mang tính hệ thống dù cho các cơ quan
giám sát hoạt động độc lập, tách biệt. Điều này đòi hỏi một sự phối hợp chặt chẽ
giữa các cơ quan giám sát, áp dụng các phương pháp giám sát tạo nên một khối
thống nhất, tránh sự chồng chéo và các lỗ hổng, nâng cao hiệu quả của giám sát tài
chính.
1.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động của hệ thống giám sát tài chính
Thứ nhất, hệ thống pháp lý về hoạt động giám sát
Một vài nghiên cứu đã chỉ ra mối liên hệ giữa cơ sở pháp và hiệu quả giám
sát tài chính như Demirguc-Kunt và Detragiache (1998), Levine (1998). Các quy
định về giám sát chính là cơ sở pháp lý cho các cơ quan giám sát thực thi quyền
giám sát. Bên cạnh đó, hoạt động hệ thống giám sát phụ thuộc vào sự thống nhất,
đồng bộ trong hoạt động của các cơ quan giám sát chuyên ngành, sự phù hợp với
thực tiễn.
Thứ hai, tính độc lập của cơ quan giám sát
Một hệ thống giám sát hiệu quả phải có đủ quyền lực và đủ công cụ để đảm
bảo an toàn cho hệ thống tài chính. Một cơ quan giám sát hoạt động độc lập sẽ đảm
13
bảo cho việc thực thi giám sát công bằng, minh bạch vì sự ổn định chung của hệ
thống tài chính mà không vì quyền lợi của bất kỳ nhóm hay tổ chức nào.
Thứ ba, sự phối hợp giữa các cơ quan giám sát
Theo khuyến cáo của Ủy ban Basel, điều kiện quan trọng để giám sát có hiệu
lực là “sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị giám sát và sự chia sẻ thông tin hợp lý
giữa các cơ quan giám sát cả trong và ngoài nước”. Khi thị trường tài chính ngày
càng phát triển, các định chế tài chính có xu hướng phát triển thành những tập đoàn
tài chính đa năng, mở rộng thêm nhiều lĩnh vực nên không có giới hạn rõ ràng từng
lĩnh vực hoạt động như ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm. Do đó, việc phối hợp
thông tin, dữ liệu giữa các cơ quan giám sát chuyên ngành càng trở thành tất yếu.
Thứ tư, nguồn nhân lực và vốn
Theo Uỷ ban Basel, một hệ thống giám sát thực sự có hiệu quả, quan trọng
nhất là hệ thống đó phải “có mục tiêu và trách nhiệm rõ ràng, có tính độc lập trong
hoạt động và có đủ nguồn lực cần thiết để hoàn thành sứ mệnh của mình”. Nguồn
lực tài chính là một thách thức lớn bởi lẽ vốn thường được tích luỹ thông qua các
khoản phí cấp phép và hoạt động. Nguồn nhân lực cũng là một vấn đề quan trọng,
vì hoạt động giám sát đòi hỏi kinh nghiệm và trình độ cao, để giám sát được các
định chế tài chính phải có một trình độ tổng quát, bao quát và nắm rất chắc từng
nghiệp vụ, bên cạnh việc phải có tâm trong công việc, có ý thức trách nhiệm cao.
Thứ năm, khả năng tiếp cận thông tin của cơ quan giám sát
Hoạt động giám sát đòi hỏi cơ quan giám sát phải tiếp cận thông tin của lĩnh
vực giám sát và các tổ chức tài chính nhanh chóng, đầy đủ và chính xác. Tuy nhiên
việc tiếp cận thông tin khá khó khăn vì các chủ thể giám sát thường bị che giấu
thông tin và hiện tượng thông tin bất cân xứng.
1.3.3. Các chỉ tiêu đánh giá hoạt động hệ thống giám sát tài chính
Các chỉ tiêu này được xây dựng dựa trên một tài liệu về đánh giá hoạt động
của hệ thống giám sát” Effective supervision and enforcement by AMl/CFT
supervisors of the financial sector and law enforcement” năm 2015 của Cơ quan
hoạt động tài chính đặc biệt The Financial Action Task Force - FATS
14
1.3.3.1. Chỉ tiêu trực tiếp
Số lượng các tổ chức vi phạm: Những vi phạm trái với quy định của các trung gian
tài chính trong hoạt động khá nhiều như: hoạt động không đúng nội dung ghi trong
giấy cấp phép hoạt động; Các sai sót trong điều hành tổ chức, vi phạm đạo đức kinh
doanh, cạnh tranh không lành mạnh…
Với chỉ tiêu này không phải càng phát hiện được nhiều tổ chức vi phạm càng
tốt, hay không phát hiện ra tổ chức vi phạm cũng càng tốt. Điều đáng quan tâm là
việc số lượng các tổ chức vi phạm qui định trong một thời kỳ và nhất là nếu phạm
cùng một lỗi.
1.3.3.2. Chỉ tiêu gián tiếp
Các chỉ tiêu này thể hiện kết quả thực hiện các mục tiêu của hệ thống giám sát tài
chính:
Nhóm chỉ tiêu về an toàn.
- Số lượng các tổ chức tài chính bị phá sản hàng năm
- Số lần phải hành động trợ giúp khẩn cấp cho các tổ chức tài chính trong
một giai đoạn
- Dư nợ xấu, dư nợ mất vốn của các tổ chức tài chính trong một năm
- Mức độ an toàn vốn của các tổ chức tài chính
- Khả năng phát hiện và phòng tránh rủi ro tiềm tàng của hệ thống tài chính.
Nhóm chỉ tiêu tăng trưởng
- Tổng tài sản: đánh giá mức độ gia tăng tổng tài sản của các tổ chức tài
chính
- Vốn tự có: đánh giá mức độ tăng trưởng vốn tự có của các tổ chức tài chính
- Tổng thu nhập: đánh giá mức độ tăng tổng thu nhập của các định chế qua
các năm
- ROA và ROE: phản ánh hiệu quả hoạt động của các tổ chức tài chính qua
các năm
1.4. CÁC MÔ HÌNH GIÁM SÁT TÀI CHÍNH VÀ KINH NGHIỆM XÂY
DỰNG MÔ HÌNH HỆ THỐNG GIÁM SÁT TÀI CHÍNH TRÊN THẾ GIỚI
15
1.4.1. Mô hình hệ thống giám sát theo đặc điểm thể chế
1.4.1.1. Khái niệm
Mô hình hệ thống giám sát tài chính theo đặc điểm thể chế là mô hình cổ
điển trong giám sát tài chính, tiếp cận theo hình thức pháp lý. Loại hình tổ chức
đăng ký kinh doanh (ngân hàng, môi giới chứng khoán, công ty bảo hiểm) là cơ sở
xác định người giám sát trên cơ sở an toàn, lành mạnh và giữ đạo đức kinh doanh.
1.4.1.2. Đặc điểm
Mô hình này thường được áp dụng với những thị trường tài chính còn non
trẻ, bắt đầu xây dựng hệ thống giám sát, các tổ chức tài chính vẫn đang phân chia rõ
những lĩnh vực hoạt động, khó khăn trong giám sát khi các tổ chức tài chính phát
triển đa ngành.
- Cơ quan giám sát phân chia theo ba lĩnh vực hoạt động chính trong hệ
thống tài chính là ngân hàng, bảo hiểm và chứng khoán.
- Mô hình cần phải có hệ thống pháp lý cho từng lĩnh vực bên cạnh việc phân
định rõ ràng trách nhiệm, công việc của các cơ quan giám sát để đảm bảo tính thống
nhất, rõ ràng và tránh sự chồng chéo trong hoạt động.
- Mô hình phải xây dựng một cơ cấu tổ chức hoàn chỉnh đối với mỗi cơ quan
chuyên trách, làm tốn kém chi phí và khó khăn trong việc trao đổi, thống nhất trong
giám sát.
1.4.1.3. Kinh nghiệm vận hành mô hình hệ thống giám sát theo đặc điểm thể chế
tại Trung Quốc
Năm 1998 Ủy ban giám sát hoạt động chứng khoán Trung Quốc - China
Securities Regulatory Commission (CSRC) được thành lập và cơ quan này chịu
trách nhiệm giám sát về lĩnh vực chứng khoán và đầu tư. Cũng năm 1998, Ủy Ban
giám sát hoạt động bảo hiểm Trung Quốc ra đời China Insurance Regulatory
Commission (CIRC), phụ trách giám sát lĩnh vực bảo hiểm. Từ năm 2003, trách
nhiệm giám sát hoạt động ngân hàng được chuyển từ ngân hàng nhân dân Trung
16
Hoa sang Ủy ban giám sát ngân hàng - China Banking Regulatory Commission
(CBRC).2
1.4.2. Mô hình hệ thống giám sát theo chức năng
1.4.2.1. Khái niệm
Mô hình hệ thống giám sát chức năng là mô hình hệ thống giám sát dựa trên
hoạt động kinh doanh của các tổ chức tài chính mà không phân biệt hình thức pháp
lý của các tổ chức tài chính đó. Mỗi lĩnh vực có thể có một cơ quan giám sát riêng
biệt, và một tổ chức hay một tổ chức tài chính hoạt động càng nhiều lĩnh vực sẽ
chịu càng nhiều sự giám sát của các cơ quan riêng biệt trên từng lĩnh vực chuyên
trách.
1.4.2.2. Đặc điểm
- Mô hình cần có sự phân định rõ về trách nhiệm giám sát đảm bảo an toàn
đối với từng lĩnh vực của các cơ quan chuyên trách và phối hợp chặt chẽ với nhau,
đòi hỏi các quốc gia có một cơ quan trung tâm trao đổi thông tin giữa các cơ quan
chuyên trách.
- Các cơ quan chuyên trách chịu trách nhiệm về lĩnh vực mình giám sát từ
việc cấp phép hoạt động đến kỷ luật.
1.4.2.3. Kinh nghiệm vận hành mô hình hệ thống giám sát theo chức năng tại
Pháp
Ngân hàng trung ương Pháp (BOF) chịu trách nhiệm giám sát thận trọng,
điều hành chính sách tiền tệ trong khi Ủy ban ngân hàng (CB) chịu trách nhiệm
giám sát hoạt động, bảo vệ lợi ích cho người tiêu dùng, ủy ban ngân hàng có trụ sở
ngay tại NHTW.
Giám sát đảm bảo an toàn và hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng
và các công ty đầu tư do Ủy ban các tổ chức tín dụng và công ty đầu tư The
2 Phụ lục 2. Mô hình giám sát thể chế tại Trung Quốc
Committee of Credit Institutions and Investment Firms (CECEI). Cơ quan thị
17
trường tài chính Financial Markets Authority (FMA) chịu trách nhiệm đối với các
quỹ tín thác và quỹ đầu tư3.
1.4.3. Mô hình giám sát lưỡng đỉnh
1.4.3.1. Khái niệm
Mô hình hoạt động dựa trên nguyên tắc mục tiêu của giám sát, do đó có sự
phân chia chức năng giám sát của hai cơ quan: Cơ quan tập trung hoạt động giám
sát an toàn, cơ quan tập trung giám sát hoạt động kinh doanh bảo vệ lợi ích của
người tiêu dùng.
1.4.3.2. Đặc điểm
Mô hình này phát huy nhiều tính hiệu quả và lợi ích từ mô hình hợp nhất, và
giải quyết được mâu thuẫn về thời gian.
Mô hình này gồm hai cơ quan giám sát độc lập giữ vai trò chủ đạo, hai cơ
quan này có cơ cấu tổ chức, hoạt động giám sát riêng biệt trên cả bốn lĩnh vực
chính: ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, hưu trí. Trong đó cơ quan giám sát thận
trọng hoạt động với mục tiêu giám sát an toàn lành mạnh cho hệ thống, và cơ quan
giám sát hoạt động kinh doanh với kim chỉ nam là giám sát đảm bảo lợi ích của
người tiêu dùng và minh bạch thông tin. Phụ trách hai cơ quan này là một cơ quan
trung tâm, cơ quan tư vấn cấp 1. Như vậy một tổ chức tài chính chịu sự giám sát
đồng thời của hai cơ quan.
1.4.3.3. Kinh nghiệm vận hành mô hình hệ thống giám sát lưỡng đỉnh tại Úc
Năm 1997, Úc đã cơ cấu lại hệ thống giám sát tài chính và có sự chuyển đổi
mô hình giám sát sang mô hình lưỡng đỉnh, phân chia hoạt động giám sát an toàn
thận trọng ra khỏi giám sát hoạt động kinh doanh. Ủy ban giám sát điều tiết bảo
hiểm APRA quy định việc nhận tiền gửi của các tổ chức bao gồm các ngân hàng,
công ty xây dựng xã hội, hiệp hội tín dụng và các công ty bảo hiểm, các quỹ lớn
3 Phụ lục 3. Mô hình giám sát theo chức năng tại Pháp
như quỹ hưu trí. Cơ quan này hoạt động độc lập với ngân hàng trung ương, và tập
18
trung vào việc giám sát thận trọng, đảm bảo an toàn. APRA chịu trách nhiệm cấp
phép và thu hồi, bãi bỏ các tổ chức hoạt động kém, thực hiện hoạt động này cùng
với ngân hàng dự trữ Úc RBA, NHTW Úc, đơn vị sẵn sàng hỗ trợ thanh khoản khi
cần thiết.
Ủy ban chứng khoán và đầu tư Úc ASIC chịu trách nhiệm điều tiết hoạt động
kinh doanh, lành mạnh hóa thị trường và bảo vệ lơi ích của nhà đầu tư trong hệ
thống tài chính. Họ điều tiết hoạt động các công ty tài chính, thị trường tài chính,
các tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính, và các chuyên gia thị trường.4
1.4.4. Mô hình giám sát tài chính hợp nhất
1.4.4.1. Khái niệm
Mô hình giám sát hợp nhất có một cơ quan giám sát duy nhất giám sát toàn
bộ đảm bảo an toàn của hệ thống gồm các tổ chức tài chính và thị trường tài chính.
Hiện nay các nước trên thế giới đang có xu hướng cơ cấu theo mô hình giám
sát tài chính hợp nhất, mô hình này tỏ ra hiệu quả ở những thị trường tài chính nhỏ,
mọi vấn đề một cơ quan chức năng đều có thể bao quát hết được. Bên cạnh đó mô
hình cũng được sử dụng ở những thị trường tài chính phát triển hơn, phức tạp hơn
với khả năng thích ứng linh hoạt. Phương pháp này tạo nên một thực thể giám sát
thống nhất, tận dụng tối đa nguồn lực, giảm sự chồng chéo trong giám sát. Các quốc
gia đang áp dụng mô hình giám sát này là Canada, Đức, Nhật Bản, Qatar,
Singapore, Thụy Sĩ, và Vương quốc Anh. Trong đó, Singapore là một quốc gia đi
đầu trong việc xây dựng mô hình giám sát hợp nhất.
1.4.4.2. Đặc điểm
Trong mô hình giám sát hợp nhất thường bao gồm hai mô hình đó là: mô
hình hợp nhất từng phẩn (partial integration) và mô hình hợp nhất toàn phần (full
integration). Với mô hình hợp nhất toàn phần, chỉ bao gồm một cơ quan giám sát
4 Phụ lục 4. Mô hình giám sát lưỡng đỉnh tại Úc
duy nhất chịu trách nhiệm giám sát tất cả các lĩnh vực trong hệ thống tài chính,
19
trong khi mô hình giám sát hợp nhất từng phần sẽ chỉ có sự hợp nhất của hai lĩnh
vực trở lên ví dụ hợp nhất giữa ngân hàng và bảo hiểm, hợp nhất giữa chứng khoán
và bảo hiểm…
Trong mô hình giám sát tài chính hợp nhất sẽ có một cơ quan giám sát tài
chính chuyên giám sát an toàn vi mô và giám sát hoạt động kinh doanh, bên cạnh đó
có một cơ quan tài chính khác giám sát an toàn vĩ mô. Hai cơ quan này cùng chịu
trách nhiệm giám sát trên cả ba lĩnh vực.
1.4.4.3. Kinh nghiệm vận hành mô hình hệ thống giám sát hợp nhất tại
Singapore
Singapore là quốc gia đầu tiên áp dụng mô hình giám sát tài chính hợp nhất
trên thế giới. Năm 1970, Quốc hội đã thông qua Cơ quan tiền tệ Singapore -
Monetary Authority of Singapore (MAS) được trao quyền điều hành, thực thi chính
sách tiền tệ.
Vào tháng Tư năm 1977, Chính phủ quyết định trao quyền quản lý lĩnh vực
bảo hiểm cho MAS. Đến tháng 9 năm 1984, MAS tiếp tục quản lý lĩnh vực chứng
khoán tại Singapore.
20
Bộ tài chính (MOF)
Công ty bảo hiểm tiền gửi Singapore
Sơ đồ 1.1: Mô hình giám sát hợp nhất tại Singapore
Ngân hàng
Cơ quan quản lý tiền tệ của Singapore
Chứng khoán
Chính sách tiền tệ
Giám sát thận trọng
Chỉ đạo Marketing
Phát triển và quan hệ đối ngoại
Nguồn lực doanh nghiệp và tiền tệ
Bảo hiểm
Nguồn: MAS, (2004), Objectives and principles of Financial Supervision in
Singapore
Mô hình giám sát tài chính hợp nhất tại Singapore là hợp nhất toàn phần,
MAS giám sát toàn lĩnh vực ngân hàng chứng khoán, bảo hiểm, đồng thời cũng là
cơ quan điều hành chính sách tiền tệ của Singapore. MAS chỉ đạo giám sát dựa trên
rủi ro của các tổ chức tài chính, cấp phép hoạt động, thiết lập các quy định và
chuẩn mực, xử lý các vi phạm quy định. MAS thực hiện chức năng người cho vay
cuối cùng đối với các tổ chức tài chính.
21
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Qua việc nghiên cứu các lý thuyết về rủi ro và giám sát tài chính, ta thấy các mục
tiêu chủ yếu của một hệ thống giám sát tài chính là ổn định và đảm bảo an toàn cho
hệ thống, các tổ chức tài chính cạnh tranh lành mạnh, bảo vệ người tiêu dùng. Để
thực hiện các mục tiêu này, mỗi quốc gia có phương pháp khác nhau, nhưng ngày
càng phải đề cao giám sát an toàn vĩ mô, bên cạnh giám sát an toàn vi mô, đặc biệt
sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Giám sát an toàn vĩ mô nhằm
ngăn ngừa những tác động vĩ mô đến an toàn hệ thống, giám sát vi mô là giám sát
từng lĩnh vực, từng trung gian tài chính trong hệ thống nhằm ngăn chặn những rủi
ro gây ảnh hưởng và lan tỏa đến toàn hệ thống. Bên cạnh đó, mô hình giám sát hệ
thống tài chính trên thế giới hiện nay đang có xu hướng chuyển dần sang mô hình
hợp nhất một phần hay toàn phần. Điều này phù hợp với sự phát triển của hệ thống
tài chính, nhất là khi việc áp dụng các công nghệ hiện đại và thị trường ra đời những
sản phẩm tài chính hiện đại tích hợp linh hoạt. Tiếp nối chương 1, chương 2 học
viên sẽ phân tích thực trạng về hệ thống tài chính, và giám sát hệ thống tài chính tại
Việt Nam.
22
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HỆ THỐNG GIÁM SÁT TÀI CHÍNH TẠI VIỆT NAM
2.1. TỔNG QUAN HỆ THỐNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM VÀ RỦI RO CỦA
HỆ THỐNG
2.1.1. Khái quát thị trường tài chính Việt Nam
2.1.1.1. Đôi nét về thị trường tài chính Việt Nam
Thị trường tài chính Việt Nam có nhiều bước chuyển mình đáng kể từ sau
đại hội Đảng VI năm 1986, nền kinh tế Việt Nam từ cơ chế kế hoạch hóa, tập trung,
bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa. Khởi đầu sự
cải cách thị trường tài chính là sự ra đời của Pháp lệnh ngân hàng năm 1990, và
chuyển đổi ngân hàng mô hình một cấp sang mô hình hai cấp. Trong thị trường tài
chính bao gồm nhiều thị trường nhỏ như thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán,
thị trường ngoại hối, thị trường bảo hiểm...
Thị trường tiền tệ
Thị trường tiền tệ bao gồm thị trường nội tệ liên ngân hàng, thị trường ngoại
tệ liên ngân hàng, thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc và mua bán các giấy tờ có
giá ngắn hạn. Vai trò của thị trường tiền tệ là cung cấp vốn ngắn hạn cho các chủ
thể thiếu vốn trong nền kinh tế, cung cấp tính thanh khoản cho các NHTM và là thị
trường giúp NHNN thực thi chính sách tiền tệ.
Số lượng các tổ chức tài chính tham gia trên thị trường tiền tệ đã tăng mạnh
trong hơn 20 năm phát triển thị trường, từ những năm đầu đổi mới (giai đoạn 1990-
1991), các tổ chức tài chính ở Việt Nam mới chỉ bao gồm: 4 NHTM Nhà nước, 10
NHTM cổ phẩn và các hợp tác xã tín dụng. Đến ngày 31 tháng 12 năm 2015, đã có
7 NHTM do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, 28 NHTM cổ phần trong
nước, 5 NHTM 100% vốn nước ngoài, 3 ngân hàng liên doanh, 2 ngân hàng chính
sách, 1 ngân hàng hợp tác xã Việt Nam tiền thân là quỹ tín dụng nhân dân Trung
ương.
Thị trường chứng khoán
23
Thị trường chứng khoán Việt Nam được đi vào hoạt động từ tháng 7 năm
2000, với sự ra đời của Ủy ban chứng khoán Nhà nước trực thuộc Bộ Tài chính từ
năm 1996 có chức năng quản lý điều phối và giám sát chung thị trường chứng
khoán. Hai sở giao dịch chứng khoán nơi niêm yết và giao dịch các chứng khoán
của các công ty đã niêm yết là Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) và Sở giao
dịch chứng khoán thành phố HCM (HOSE). Bên cạnh đó, tồn tại một thị trường
chứng khoán phi tập trung, là nơi diễn ra các giao dịch của các chứng khoán chưa
niêm yết. Năm 2013, Bộ Tài chính ban hành thông tư số 91/2013 về việc cho phép
các tổ chức 100% vốn nước ngoài được thành lập tại Việt Nam, tạo môi trường
cạnh tranh bình đẳng và tận dụng nguồn vốn tối ưu cho nền kinh tế vào thị trường
chứng khoán.
Sau 16 năm hoạt động, thị trường chứng khoán Việt Nam có sự gia tăng
mạnh mẽ cả về số lượng các công ty niêm yết, công ty chứng khoán, công ty quản
lý quỹ và nhà đầu tư. Quy mô thị trường được mở rộng, tăng tính thanh khoản
chung cho nền kinh tế mặc dù hoạt động của thị trường diễn biến thăng trầm cùng
với sự phát triển theo chu kỳ kinh tế, tuy nhiên tính đến nay cũng đạt được các
thành tựu nhất định. Thông qua thị trường chứng khoán, huy động luồng vốn đầu tư
vào sản xuất kinh doanh góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Thị trường ngoại hối
Thị trường ngoại hối có tổ chức tại Việt Nam được đánh dấu bằng sự thành
lập của hai Trung tâm Giao dịch ngoại tệ tại TPHCM và Trung tâm giao dịch tại Hà
Nội theo Quyết định số 107-NH/QĐ ngày 16/8/1991 của NHNNVN. Tuy nhiên sau
khi ra đời một thời gian, hai trung tâm đã không phát huy được tiềm năng thị
trường. Do đó, ngày 20/10/1994, NHNN Việt Nam quyết định thành lập thị trường
ngoại tệ liên ngân hàng thay cho hai Trung tâm trên. Thị trường ngoại tệ liên ngân
hàng ra đời với mục đích hình thành thị trường ngoại tệ có tổ chức giữa các ngân
hàng thương mại được phép kinh doanh ngoại tệ, làm cơ sở cho việc phát triển thị
24
trường ngoại tệ trong tương lai. Đây là một bước ngoặt trong quá trình phát triển thị
trường ngoại hối tại Việt Nam.
Thị trường bảo hiểm
Nghị định 100/CP ngày 18/12/1993 về kinh doanh bảo hiểm là cơ sở pháp lý
hình thành thị trường bảo hiểm Phi nhân thọ, Nhân thọ và kênh phân phối sản phẩm
bảo hiểm. Năm 2014, tổng doanh thu phí bảo hiểm là 54.635 tỷ trong đó bảo hiểm
phi nhân thọ là 27.307 tỷ đồng, bảo hiểm nhân thọ là 27.328 tỷ đồng, doanh thu từ
hoạt động đầu tư là 11.167 tỷ đồng. Về các chủ thể tham gia đến năm 2014 tăng lên
tổng số 61 doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm và đóng góp thêm sự có mặt của 25
văn phòng đại diện của các tổ chức kinh doanh bảo hiểm nước ngoài tại Việt Nam.
Từ năm 2007, doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ được phép triển khai sản phẩm bảo
hiểm liên kết chung và liên kết đơn vị, mở ra cho thị trường sản phẩm bảo hiểm đa
dạng hơn đó là các sản phẩm Bancassuanrance, sản phẩm bán chéo kết hợp giữa
ngân hàng và công ty bảo hiểm, làm đa dạng hóa hơn các sản phẩm bảo hiểm rất
nhiều. Bên cạnh đó, bảo hiểm Nhân thọ tiến hành bảo hiểm hưu trí tự nguyện từ
năm 2013, góp phần thực hiện chính sách an sinh xã hội.
2.1.1.2. Các tổ chức tín dụng
Bảng 2.1: Bảng hệ thống các TCTD tại Việt Nam tính đến ngày 31/12/2015
Loại hình
Số
Loại hình
Số
Lượng
Lượng
NHTM Nhà Nước
7
Chi nhánh ngân hàng nước
50
ngoài
NHTM cổ phần
29
Công ty tài chính
16
NH 100% vốn nước ngoài
Công ty cho thuê tài chính
5
11
Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở
1100
3
Ngân hàng liên doanh
Tổ chức TCVM chính thức
3
1
Ngân hàng hợp tác xã
2
Ngân hàng chính sách
Nguồn: Báo cáo thống kê của Ngân hàng nhà nước năm 2015
25
Trong các tổ chức tín dụng tham gia vào quá trình trung gian luân chuyển
vốn phải kể đến các TCTD ngân hàng và các TCTD phi ngân hàng.
Giai đoạn vừa qua, số lượng các TCTD đã giảm đi đáng kể do đề án tái cơ
cấu các TCTD được NHNN ban hành, các tổ chức tín dụng yếu kém phải tái cơ cấu
trong đó có các NHTM cổ phần được NHNN mua lại và trở thành các NHTM
TNHH một thành viên là GPBank, OceanBank và Ngân hàng xây dựng.
Bảng 2.2: Quy mô vốn tự có của nhóm các NHTM Việt Nam năm 2012 - 2015.
Đơn vị: tỷ đồng
Nhóm TCTD Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015
NHTM Nhà nước 137,268 166,580 169,696 203,328
NHTM Cổ phẩn 183,139 195,123 203,154 236,342
NH liên doanh nước 92,554 100,233 106,004 117,164
ngoài
CTTC, CT cho thuê 10,767 2,674 15,208 17,715
tài chính
NH hợp tác xã 2,254 2,316 2,510 3,472
Toàn hệ thống 425,982 466,926 496,573 578,020
Nguồn: Báo cáo thống kê của NHNN năm 2012 - 2015
Theo Bảng 2.2 vốn tự có giai đoạn năm 2012-2015 của các TCTD Việt Nam
đều tăng qua các năm, đặc biệt từ năm 2014 đến năm 2015, hệ thống ngân hàng
cũng như nền kinh tế bắt đầu có những dấu hiệu phục hồi sau khủng hoảng, giai
đoạn trước đó hệ thống ngân hàng chịu tác động mạnh bởi khủng hoảng năm 2008.
2.1.1.3. Các tổ chức kinh doanh chứng khoán
So với giai đoạn những năm 2006 - 2007 trước khủng hoảng tài chính, thị
trường chứng khoán giai đoạn hiện nay ảm đạm hơn rất nhiều, số lượng các công ty
chứng khoán sụt giảm từ 105 công ty vào cuối 2011 còn 81 công ty vào cuối năm
2014, tức khoảng 23%, sau quá trình tái cấu trúc hệ thống tài chính nói chung. Các
26
CTCK đã chủ động nâng cao chất lượng hoạt động, tăng cường năng lực tài chính,
quản trị công ty, quản trị rủi ro, cơ cấu lại tổ chức.
Bảng 2.3: Các chỉ số cơ bản của thị trường chứng khoán Việt Nam 2012 - 2014
Đơn vị: nghìn tỷ
Chỉ tiêu/Năm Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014
1.848 triệu 5.73 triệu 5.06 triệu Cổ phiếu (CP) tăng thêm
2,566/Phiên 2,715/Phiên 5,575/Phiên Giá trị giao dịch
765 949 1.121 Giá trị vốn hóa thị trường
105 95 81 Số lượng các CTCK
37,163 37,695 41,530 Vốn chủ sở hữu
9,832 7,913 10,522 Tổng doanh thu
1,200 2,056 3,196 Lợi nhuận sau thuế
Nguồn: Báo cáo thường niên Ủy ban chứng khoán Nhà nước 2012-2014.
- Một số CTCK tự tái cấu trúc bằng cách hợp nhất, rút bớt nghiệp vụ kinh
doanh, cụ thể: Có 04 CTCK đã thực hiện hợp nhất, 08 CTCK rút nghiệp vụ môi
giới, 02 CTCK đã rút nghiệp vụ Tự doanh, 04 CTCK đã rút nghiệp vụ Bảo lãnh
phát hành, 01 CTCK đã rút nghiệp vụ Tư vấn đầu tư chứng khoán.5
- Do thực hiện hiệu quả công tác tái cấu trúc các CTCK và TTCK có sự khởi
sắc, hoạt động kinh doanh của các CTCK năm 2014 khả quan hơn. Năm 2014, số
lượng CTCK có lãi nhiều hơn, tổng giá trị lợi nhuận cũng tăng lên và đạt 3300 tỷ
đồng, tăng 33% so với năm 2013. Đồng thời, số lượng công ty thua lỗ chỉ còn 19%,
giảm khá nhiều so với mức 34% của năm 2013. Bên cạnh đó, nhiều công ty đã tự
tăng vốn góp của chủ sở hữu để tăng cường năng lực tài chính, kết quả so với năm
2013, tổng vốn chủ sở hữu tăng 10%, đạt 41,530 tỷ đồng.
5 Báo cáo tổng hợp của SSC cuối năm 2014
2.1.1.4. Các tổ chức kinh doanh bảo hiểm
27
Ngày 18/12/1993, Chính phủ đã ban hành nghị định 100/NĐ - CP đã đánh
dấu một bước tiến mới trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm, chấm dứt quá trình
hoạt động độc quyền của Nhà nước về lĩnh vực bảo hiểm. Tính đến cuối năm 2014,
Việt Nam đã có tổng cộng 61 công ty bảo hiểm trong đó có 30 công ty bảo hiểm phi
nhân thọ, 17 công ty bảo hiểm nhân thọ, 2 công ty tái bảo hiểm, 12 công ty môi giới
bảo hiểm.
Về doanh thu bảo hiểm tăng dần qua các năm 2011-2014, ngoài ra chỉ tiêu dự
phòng nghiệp vụ và tổng tài sản cũng có những bước tăng đột biến, thể hiện tiềm năng
và nguồn lực về tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm đang dần vững mạnh.
Bảng 2.4: Các chỉ tiêu cơ bản về thị trường bảo hiểm Việt Nam năm 2011-2014
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014
57 57 59 61 Số lượng DN
36,552 41,248 47,851 54,635 Doanh thu phí BH
15,998 18,397 23,330 27,328 BH Nhân thọ
20,554 22,851 24,521 27,307 BH phi nhân thọ
15,971 16,649 18,587 20,766 Bồi thường
61,878 69,011 79,289 97,099 Dự phòng nghiệp vụ
106,25 114,66 133,86 165,15 Tổng tài sản
Nguồn: Báo cáo thường niên của Cục quản lý giám sát bảo hiểm năm 2011-2014
2.1.2. Thực trạng rủi ro của hệ thống tài chính Việt Nam
2.1.2.1. Rủi ro thị trường tài chính
Mặc dù thị trường tài chính tại Việt Nam còn non trẻ vẫn trong giai đoạn cần
hoàn thiện nhưng những rủi ro của thị trường tài chính đã xuất hiện khá đầy đủ, đa
dạng và phức tạp, rủi ro đối với toàn thị trường và những rủi ro nội tại của từng tổ
chức tài chính. Đặc điểm của rủi ro thị trường tài chính tại Việt Nam được rút lại
như sau:
28
Một là, xuất hiện sự liên kết hệ thống giữa các bộ phận trong thị trường tài
chính gây nên cạn kiệt nội sinh theo mô hình mà Mishkin đã đề cập. Đây là mô hình
gây nên nguy cơ khủng hoảng đặc biệt tại các thị trường tài chính mới nổi, có sự
hấp dẫn vốn của nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán, thị trường bất
động sản, kéo theo tín dụng tăng trường nóng, gây giá cả của các tài sản tài chính
tăng vọt so với các tài sản thực. Khi bong bóng đạt đến độ nhất định sẽ vỡ kéo theo
sự rút vốn ồ ạt, giá trị tài sản giảm nghiêm trọng, tính thanh khoản giảm, kéo theo
các công cụ của toàn bộ hệ thống tài chính sụt giảm giá trị. Điều này được thấy rất
rõ trong giai đoạn những năm 2006-2007, Việt Nam là một nền kinh tế trẻ đầy tiềm
năng, dòng vốn FDI đổ vào nền kinh tế và thị trường chứng khoán, đẩy chỉ số Vn -
Index lên cao, thêm vào đó ngân hàng dễ dãi trong việc cấp tín dụng, một lượng lớn
vốn tín dụng tiếp tục được đổ vào thị trường chứng khoán càng làm chỉ số này tăng
cao. Nhưng khi khủng hoảng kinh tế xảy ra, lượng vốn rút ồ ạt, tính thanh khoản
của các chứng khoán sụt giảm, nền kinh tế trở nên khó khăn. Như vậy, đã có sự liên
kết gây ảnh hưởng giữa hoạt động của các ngân hàng và công ty chứng khoán, thị
trường tiền tệ và thị trường chứng khoán.
Hai là, sức chịu đựng rủi ro của các trung gian tài chính còn hạn chế, dễ bị
tác động bởi các yếu tố biến động. Trong giai đoạn vừa qua nền kinh tế Việt Nam
có nhiều biến động, thăm trầm tùy vào từng thời đoạn, lạm phát năm 2008 - 2009,
suy thoái kinh tế, biến động lãi suất, tỷ giá nhưng các tổ chức tài chính hoàn toàn bị
động vào các yếu tố ngoại sinh đó mà không hề có dự báo hay chuẩn bị để đón nhận
trong tương lai.
Ba là, có những rủi ro xuất hiện trên thị trường tài chính Việt Nam là rủi ro
pháp lý, xuất phát từ những văn bản pháp lý của các cơ quan có thẩm quyền ban
hành, và mang tính chất hành chính khi điều hành của hệ thống cơ quan chức năng.
Ví dụ như Chính phủ đã có những chính sách thay đổi nhanh chóng ban hành Nghị
quyết 10 và Nghị quyết 30 Về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm
kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội trong một năm 2008.
Các thông tư sửa đổi ban hành nhanh chóng ngay sau khi ra đời thông tư “gốc”, như
29
Thông tư 09/2014/TT - NHNN năm 2014 ban hành sửa đổi bổ sung thông tư
02/2013/TT - NHNN Quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp
trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động
của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Bên cạnh đó sự phối hợp
trong việc triển khai các chính sách chưa cao như chính sách tài khóa, chính sách
tiền tệ, chính sách đầu tư.
2.1.2.2. Rủi ro đối với các tổ chức tín dụng
Rủi ro tín dụng
Thời gian qua một vấn nạn nổi cộm trong hoạt động ngân hàng đó là thực
trạng nợ xấu đã lên mức báo động, nợ xấu của giai đoạn 2011 - 2015 là hệ quả của
việc tăng trưởng tín dụng nóng và dễ dãi trong việc cấp tín dụng của giai đoạn 2007
- 2008 trong hệ thống ngân hàng thương mại.
Vào giai đoạn cuối năm 2011, đầu 2012, một trong những vấn đề nhức nhối
của hệ thống ngân hàng là nợ xấu, bên cạnh việc dư nợ giảm, các ngân hàng thiếu
thanh khoản, vốn ứ đọng trong những món nợ xấu. Sau 5 năm kể từ khi NHNN
thành lập công ty mua bán nợ, giải quyết các vấn đề trong hoạt động tín dụng, giải
quyết nợ xấu nhằm lưu thông dòng vốn, tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ tín dụng đã
được giảm dần từ cao điểm là tháng 9/2012 với tỷ lệ 4.94% về mốc 3.15% cuối năm
20156. Tuy nhiên đây là con số tổng hợp từ NHNN của toàn hệ thống nhưng thực tế
nợ xấu ở các khu vực tổ chức tín dụng là khác nhau. Bên cạnh đó quy trình phân
loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng hiện nay của Việt Nam chưa hoàn toàn
theo đúng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế IFRS (International Financial
Reporting Standards). Tuy nhiên nếu đánh giá khách quan thì các TCTD đã có
nhiều cố gắng trong việc giảm thiểu rủi ro tín dụng như ban hành chính sách tín
dụng điều chỉnh phù hợp với từng thời kỳ, đa dạng hóa danh mục cho vay, quy trình
6 Theo báo cáo thường niên của NHNN giai đoạn 2012-2015
chấm điểm tín dụng khách hàng, xây dựng hệ thống chấm điểm xếp hạng tín nhiệm
30
nội bộ, xây dựng bộ máy quản lý rủi ro, kiểm soát nội bộ từ Hội sở đến các chi
nhánh…
Rủi ro thanh khoản
Rủi ro thanh khoản chủ yếu bắt nguồn từ độ lệch về quy mô và kỳ hạn giữa
các tài sản nợ và tài sản có của ngân hàng tại một thời điểm nhất định ở hiện tại
hoặc tương lai. Ngân hàng thường huy động được những khoản vốn ngắn hạn với
quy mô nhỏ nhưng cho vay dài hạn với những dự án lớn và số vốn vay lớn, điều này
dẫn đến nguy cơ về độ lệch giữa bên tài sản có và tài sản nợ, khó khăn khi đáp ứng
nhu cầu rút tiền của người gửi tiền. Bên cạnh đó rủi ro thanh khoản cũng có thể bắt
nguồn từ những yếu tố bên ngoài tác động nên tâm lý đám đông gây ra sự rút tiền ồ
ạt của người gửi tiền và làm cho ngân hàng đứng trước khả năng vỡ nợ do thiếu
thanh khoản. Điều này đã xảy ra 2 lần đối với NHTMCP Á Châu vào năm 2003 và
năm 2012.
Rủi ro tỷ giá
Rủi ro tỷ giá phát sinh khi có sự biến động về tỷ giá ngoại hối trên thị trường
trong điều kiện NHTM đang duy trì trạng thái ngoại hối trên bảng cân đối. Giai
đoạn 2011 đến nay, vấn đề tỷ giá của Việt Nam đã bớt căng thẳng hơn so với trước
kia về tình trạng khan hiếm ngoại tệ và đô la hóa trong nền kinh tế. Tuy nhiên Việt
Nam vẫn trong trạng thái nhập siêu, điều này làm cho nhu cầu về ngoại tệ tăng,
cung ngoại tệ giảm gây áp lực lên tỷ giá trong khi dự trữ ngoại hối của NHNN có
hạn. Vì những biến động phức tạp của tỷ giá mà các NHTM luôn phải đối mặt với
rủi ro này, một loại của rủi ro thị trường.
Rủi ro tác nghiệp
Rủi ro tác nghiệp là những rủi ro liên quan đến quá trình hoạt động như về
yếu tố nghiệp vụ, quy trình, cơ sở hạ tầng, công nghệ, các yếu tố về con người, rủi
ro đạo đức. Đây là những rủi ro không thể loại trừ trong quá trình vận hành. Trong
thời gian qua, ngành ngân hàng đã có những vụ án nổi cộm về vấn đề đạo đức như
vụ án Huỳnh Thị Huyền Như chiếm đoạt hơn 4911 tỷ Việt Nam đồng xảy ra
31
tại VietinBank là vụ án lớn nhất trong lịch sử ngành Ngân hàng Việt Nam với thời
gian vi phạm từ năm 2007 đến cuối năm 2011.
Ngoài ra hoạt động ngân hàng vẫn phải đối mặt với các rủi ro như rủi ro về
pháp lý, rủi ro từ hoạt động ngoại bảng, rủi ro về cổ phiếu…
2.1.2.3. Rủi ro đối với các tổ chức kinh doanh chứng khoán
Rủi ro hệ thống
Trước hết rủi ro hệ thống là những rủi ro tác động đến toàn thị trường, hầu
hết đến các mã cổ phiếu, các loại trái phiếu, mang tính vĩ mô như tác động của tăng
trưởng GDP, lạm phát… Những yếu tố vĩ mô tác động lên toàn hệ thống gây ra hậu
quả nhanh chóng đối với tất cả các nhà đầu tư trên thị trường, và đây là rủi ro không
tránh khỏi, không giảm thiểu được bằng biện pháp đa dạng hóa danh mục đầu tư.
Rủi ro pháp lý
Nếu so với các nước có nguồn luật pháp khó khăn khi các nhà đầu tư nước
ngoài tiếp cận như khu vực Trung Đông chịu ảnh hưởng của luật Hồi Giáo, nguồn
luật Việt Nam vẫn được đánh giá là khá “cởi mở”, đặc biệt trong giai đoạn chủ
trương phát triển kinh tế, mở cửa hội nhập như hiện nay. Nhưng rủi ro pháp lý ở
Việt Nam được đề cập đến là quá trình thay đổi nhanh chóng và mâu thuẫn trong
các nguồn luật điều chỉnh gây nên nhiều rào cản và khó khăn cho các nhà đầu tư
tiếp cận.
Rủi ro thông tin bất cân xứng
Minh bạch thông tin vẫn đang là vấn đề mà thị trường tài chính Việt Nam
cần hướng đến, chất lượng các báo cáo tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam
còn thấp, một phần do hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam các quy định có sự sai
lệch với chuẩn mực kế toán thế giới. Thực trạng là cùng một doanh nghiệp có nhiều
báo cáo tài chính khác nhau cho từng đối tượng như cơ quan thuế, ngân hàng…để
đạt được mục đích đi vay được nhiều, đồng thời đóng thuế ít. Việc công bố thông
tin sai lệch đôi khi làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến thị trường.
Rủi ro thị trường (lãi suất, lạm phát, tỷ giá…)
32
Các biến động này tác động lớn đến chi phí sản xuất của doanh nghiệp, và
ảnh hưởng đến tâm lý của nhà đầu tư. Lạm phát trong giai đoạn 2008-2009 là một
ví dụ cho thấy, tỷ lệ lạm phát quá cao, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế
có nguy cơ khủng hoảng, nhà đầu tư e ngại và cân nhắc các kênh đầu tư, làm cho
giá chứng khoán và các chỉ số sụt giảm nghiêm trọng so với giai đoạn trước.
Rủi ro phi hệ thống
Rủi ro nghiệp vụ
Đây là rủi ro tất yếu trong quá trình hoạt động kinh doanh chứng khoán, Việt
Nam là một thị trường mới nổi hấp dẫn nhà đầu tư nhưng một trong những rủi ro
hiện hữu của thị trường mới nổi là vấn đề về minh bạch thông tin và tâm lý đầu tư.
Nếu nhà đầu tư lựa chọn thời điểm sai sẽ dễ dẫn đến rủi ro trong kinh doanh chứng
khoán. Tuy nhiên rủi ro này thuộc rủi ro phi hệ thống, tức có thể được giảm thiểu
khi đa dạng hóa danh mục đầu tư
Rủi ro về tài chính
Đó là rủi ro trong việc quản trị tài chính không tốt, ảnh hưởng đến tính thanh
khoản của doanh nghiệp, hay khi áp dụng tỷ lệ đòn bẩy quá cao khiến nợ phải trả
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn. Bên cạnh những rủi ro hoạt động thì rủi ro
về tài chính cũng là rủi ro mà một công ty chứng khoán dễ gặp phải vì ngành nghề
khá nhạy bén với những thay đổi của thị trường và phản ứng rất nhanh nhạy với các
dấu hiệu bất thường.
2.1.2.4. Rủi ro đối với các tổ chức kinh doanh bảo hiểm
Tại Việt Nam, việc đánh giá mức độ an toàn của các công ty bảo hiểm hay
thị trường bảo hiểm có thể dựa trên hệ thống chỉ tiêu giám sát tài chính phụ lục ban
hành theo thông tư 195/2014/TT-BTC ngày 18/12/2014 về việc hướng dẫn đánh
giá, xếp loại doanh nghiệp bảo hiểm, văn bản thay chế cho Quyết định số 153/QĐ-
BTC ngày 22/09/2003. So với Quyết định 153 thì thông tư mới đã có một hệ thống
chỉ tiêu đánh giá khá hoàn chỉnh các loại rủi ro của một doanh nghiệp kinh doanh
bảo hiểm.
Rủi ro bảo hiểm
33
Khi một công ty bảo hiểm phải bồi thường tổn thất bảo hiểm đồng nghĩa với
việc công ty đó đang gặp rủi ro bảo hiểm. Trong thị trường kinh doanh bảo hiểm,
các doanh nghiệp luôn phải cạnh tranh về sản phẩm, mức phí, đối tượng bảo hiểm
nên đôi khi chấp nhận lựa chọn những khách hàng rủi ro, cẩu thả trong việc xét
duyệt hồ sơ dễ dẫn đến tổn thất bồi thường.
Rủi ro tái bảo hiểm
Tái bảo hiểm là việc công ty bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm lại các hợp đồng
đã được bảo hiểm, cũng tương tự như rủi ro bảo hiểm, công ty tái bảo hiểm có thể
phải bồi thường tổn thất cho người được bảo hiểm, nên cần cẩn trọng trong việc lựa
chọn đối tượng được tái bảo hiểm. Có những công ty bảo hiểm ký kết hợp đồng bảo
hiểm giá trị quá lớn, so với năng lực tài chính, sau đó đã phải tìm sự bảo vệ của các
công ty tái bảo hiểm.
2.2. THỰC TRẠNG HỆ THỐNG GIÁM SÁT TÀI CHÍNH VIỆT NAM
2.2.1. Cấu trúc hệ thống giám sát tài chính Việt Nam
2.2.1.1. Các cơ quan giám sát trong hệ thống tài chính tại Việt Nam
Sơ đồ 2.1. Hệ thống giám sát tài chính ngân hàng Việt Nam theo mô hình phân tán
dựa trên cơ sở thể chế (Nguyễn Thị Kim Thanh, 2010).
34
Sơ đồ 2.1: Mô hình hệ thống giám sát tài chính tại Việt Nam
Nguồn: Tổng hợp từ các trang web: mof.gov.vn, sbv.gov.vn, div.gov.vn,
nfsc.gov.vn
Trong hệ thống giám sát tài chính tại Việt Nam có 3 cơ quan chịu trách nhiệm
giám sát toàn bộ hệ thống là: (i) Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - NHNNVN chịu
trách nhiệm giám sát lĩnh vực ngân hàng (Trong đó có Cơ quan thanh tra giám sát
ngân hàng, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam); (ii) Bộ Tài chính - BTC chịu trách nhiệm
giám sát lĩnh vực chứng khoán, bảo hiểm (Trong đó có Ủy ban chứng khoán Nhà
nước, Cục quản lý giám sát bảo hiểm); (iii) Ủy ban Giám sát Tài chính quốc gia -
UBGSTCQG chịu trách nhiệm giám sát chung toàn lĩnh vực trong hệ thống.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
NHNNVN trực thuộc Chính Phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
tiền tệ, hoạt động ngân hàng, ổn định giá trị đồng tiền và đảm bảo an toàn hoạt động
hệ thống ngân hàng. Chức năng giám sát được thể hiện trong Luật ngân hàng Nhà
nước Việt Nam 2010, theo khoản 11 điều 4 về nhiệm vụ và quyền hạn của NHNN “
Kiểm tra, thanh tra, giám sát ngân hàng; xử lý vi phạm pháp luật về tiền tệ và ngân
35
hàng theo quy định của pháp luật”, “Kiểm tra, thanh tra hoạt động ngân hàng, kiểm
soát tín dụng, xử lý các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động Ngân
hàng theo thẩm quyền”.
Cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng
Ngày 30/7/2009 NHNN thành lập Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng
(trên cơ sở sáp nhập 4 vụ chức năng của NHNN), theo Quyết định số 83/2009/QĐ-
TTg ngày 27/5/2009. Động thái này đã tạo bước đầu trong hướng quá trình chuyên
môn hóa công tác giám sát trong hệ thống ngân hàng. Theo Quyết định số
35/2014/QĐ-TTg ngày 12/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng
trực thuộc NHNN Việt Nam, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng gồm 11 đơn
vị.
Thanh tra, giám sát Ngân hàng Nhà nước chi nhánh là đơn vị thuộc cơ cấu tổ
chức của Ngân hàng Nhà nước chi nhánh, giúp Giám đốc Ngân hàng Nhà nước chi
nhánh quản lý nhà nước, tiến hành thanh tra hành chính, thanh tra, giám sát ngân
hàng, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng chống tham nhũng, phòng chống rửa tiền,
chống tài trợ khủng bố đối với các đối tượng quản lý, thanh tra và giám sát ngân
hàng trên địa bàn theo sự phân công, phân cấp, ủy quyền của Thống đốc NHNN và
theo quy định của pháp luật.
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
BHTG là tổ chức tài chính Nhà nước được thành lập theo Quyết định số
218/1999/QĐ-TTg, ngày 09 tháng 11 năm 1999 của Thủ tướng Chính phủ, thời
điểm đó BHTG trực thuộc Chính Phủ. Năm 2012, Luật Bảo hiểm tiền gửi số
06/2012/QH13 đã đánh dấu một trang mới cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. Chức
năng giám sát trên thị trường tài chính là một trong những chức năng chính của tổ
chức BHTG. BHTG tổ chức giám sát thực hiện từ trung tâm điều hành của tổ chức
đến các chi nhánh tại 6 khu vực trong cả nước.
Theo điều 8 Luật bảo hiểm tiền gửi số 06/2012/QH13.” (i) Chính phủ thống
nhất quản lý nhà nước về bảo hiểm tiền gửi”; (ii) “Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
36
chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý Nhà nước về bảo hiểm tiền
gửi”. Do đó, hiện nay BHTG chịu sự quản lý trực tiếp của NHNN và đồng thời của
Chính Phủ.
Bộ Tài chính
Bộ Tài chính cũng trực thuộc Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về tài chính như: Quản lý ngân sách nhà nước, thuế, phí, lệ phí, đầu tư tài
chính, tài chính doanh nghiệp, hải quan, kế toán kiểm toán và trong đó có lĩnh vực
bảo hiểm, chứng khoán.
Về chức năng giám sát: Bộ Tài chính là cơ quan quản lý nhà nước về chứng
khoán và bảo hiểm theo Nghị định Chính phủ số 118/2008/NĐ-CP tại Điều 2,
Khoản 13.d “kiểm tra, giám sát hoạt động của của các tổ chức có liên quan đến việc
phát hành, kinh doanh, dịch vụ chứng khoán” và Khoản 14.c “kiểm tra, giám sát
hoạt động của các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo
hiểm và các tổ chức, cá nhân có liên quan”.
Ủy ban chứng khoán Nhà nước
Hiện nay, Vụ Giám sát TTCK thuộc UBCKNN trực tiếp thực hiện công tác
giám sát chuyên biệt trên thị trường chứng khoán theo Quyết định 02/2008/QĐ-
BTC ngày 14/1/2008. Vụ Giám sát TTCK thực hiện hai nhiệm vụ chủ yếu là giám
sát tuân thủ các quy định và giám sát hoạt động của những trung gian tài chính
trong thị trường như các công ty chứng khoán, Sở Giao dịch Chứng khoán và Trung
tâm lưu ký.
Cục Quản lý và Giám sát Bảo hiểm
BTC nhận thấy cần phải tách biệt hoạt động giám sát trong lĩnh vực bảo
hiểm do đó ngày 12/02/2009, BTC ban hành Quyết định số 288/QĐ-BTC thành lập
Cục Quản lý và Giám sát Bảo hiểm, đơn vị thuộc Bộ Tài chính. Sau NHNNVN, Bộ
Tài chính cũng đã thành lập đơn vị chuyên trách công tác giám sát bảo hiểm, góp
phần hoàn thiện bộ máy giám sát tài chính. Đơn vị này “có chức năng giúp Bộ
trưởng Bộ Tài chính thực hiện quản lý nhà nước đối với lĩnh vực kinh doanh bảo
hiểm trong phạm vi cả nước; trực tiếp quản lý, giám sát hoạt động kinh doanh bảo
37
hiểm và các hoạt động dịch vụ thuộc lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm theo quy định
của pháp luật”.
Uỷ ban Giám sát tài chính quốc gia
Tháng 03/2008 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
34/2008/QĐ-TTg (được điều chỉnh theo quyết định số 79/2009/QĐ-TTg) về việc
thành lập UBGSTCQG, đánh dấu sự ra đời của một cơ quan giám sát tài chính quốc
gia gần với thông lệ và xu hướng quốc tế tại Việt Nam.
Chức năng giám sát: UBGSTCQG có chức năng “tham mưu, tư vấn cho Thủ
tướng Chính phủ trong điều phối giám sát thị trường tài chính quốc gia (ngân hàng,
chứng khoán, bảo hiểm), giúp Thủ tướng Chính phủ giám sát chung thị trường tài
chính quốc gia”.
Các ban trực tiếp thực hiện giám sát thị trường tài chính bao gồm: (i) Ban
Nghiên cứu và điều phối chính sách giám sát; (ii) Ban Giám sát tổng hợp; (iii) Ban
Giám sát các tập đoàn tài chính và (iv) Trung tâm Thông tin giám sát tài chính Quốc
gia.
Năm 2015 là một năm được đánh giá bước ngoặt mới đối với Ủy ban giám
sát tài chính quốc gia. Ngày 22/5/2015, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số
15/2015/QĐ-TTg v/v sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 34/2008/QĐ-
TTg ngày 03/3/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Uỷ ban Giám sát
tài chính Quốc gia. Theo đó, vai trò của Ủy ban đã được nâng cao, Ủy ban có trách
nhiệm báo cáo định kỳ, tư vấn tham mưu cho Thủ tướng chính phủ. Ủy ban có trách
nhiệm phân tích tổng hợp các tác động của yếu tố vĩ mô đến thị trường tài chính, và
ngược lại, đồng thời giám sát chung các lĩnh vực trong thị trường tài chính bao gồm
ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm.
2.2.1.2. Đặc điểm về hệ thống giám sát tài chính tại Việt Nam
Về mô hình giám sát tài chính phân tán trước đây rất phổ biến đối với các
quốc gia đang phát triển thị trường tài chính còn non trẻ, vì việc quản lý khá đơn
giản do điều kiện lịch sử ở mỗi quốc gia khác nhau, và mô hình khá đơn giản dễ
quản lý ở thời điểm các trung gian tài chính hoạt động sơ khai, chuyên biệt từng
38
lĩnh vực. Tuy nhiên, điều này không còn phù hợp khi có sự phát triển trong hệ
thống và đan xen trong lĩnh vực hoạt động tài chính.
Thành lập tổ chức giám sát tài chính theo mô hình phân tán, một phần chịu
ảnh hưởng bởi yếu tố lịch sử. Các cơ quan quản lý giám sát ra đời trước khi phát
triển thị trường, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính ra đời trước khi có các ngân
hàng, công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm. Do đó dẫn đến cơ quan quản lý thành
lập thị trường nào sẽ giám sát luôn tổ chức đó. Thêm vào đó, lịch sử phát triển của
ngành ngân hàng trước ngành bảo hiểm và ngành chứng khoán.
Cơ quan giám sát cũng là cơ quan ban hành chính sách, không có sự phản
hồi tác động của chính sách từ các bộ phận khác, chỉ sau khi đã áp dụng một thời
gian mới có những bất cập, phản hồi. Khi đó việc sửa đổi bổ sung hay thay thế văn
bản gây nên sự tốn kém về chi phí, thời gian và ảnh hưởng đến hiệu lực pháp lý,
ảnh hưởng đến danh tiếng của cơ quan ban hành pháp luật.
Mỗi lĩnh vực có cơ quan giám sát riêng biệt nên việc phối hợp chỉ mang tính
hình thức, chưa chặt chẽ. Ủy ban giám sát tài chính quốc gia ra đời với ý nghĩa kết
nối và tạo bước đệm nhằm thống nhất các cơ quan giám sát và giám sát an toàn vĩ
mô. Tuy nhiên sau 8 năm hoạt động vai trò của cơ quan này khá mờ nhạt, chỉ có
chức năng báo cáo tổng hợp và tham mưu cho Thủ tướng, không có hiệu lực về
quản lý giám sát.
Bên cạnh đó, hiện nay một lỗ hổng lớn trong giám sát đó là chưa có tổ chức
giám sát thống nhất các định chế tài chính đa lĩnh vực, các tập đoàn tài chính.
2.2.2. Thực trạng về hoạt động của hệ thống giám sát tài chính Việt Nam
2.2.2.1. Thực trạng tổ chức giám sát hệ thống ngân hàng
Cơ sở pháp lý
- Luật Thanh tra, 2010.
- Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng 2010.
- Luât Bảo hiểm tiền gửi 2012.
- Quyết định 06/2008/ QĐ-NHNN về việc xếp loại các NHTM cổ phần.
39
- Thông tư 02/2013/TT - NHNN Quy định về phân loại tài sản có, mức trích,
phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi
ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài,
Thông tư 09/2014 sửa đổi Thông tư 02/2013/TT - NHNN
Tổ chức bộ máy giám sát ngân hàng
Cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng.
Trong NHNN, cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng là đơn vị trực thuộc và
phụ trách về vấn đề giám sát ngân hàng. Với cơ quan này có sự phân chia trong
chức năng giám sát, các đơn vị chịu trách nhiệm chức năng giám sát gồm: Vụ thanh
tra các TCTD trong nước, vụ thanh tra các TCTD nước ngoài, vụ giám sát ngân
hàng, cục phòng chống rửa tiền, vụ thanh tra hành chính, giải quyết các khiếu nại tố
cáo và phòng chống tham nhũng.
Sơ đồ 2.2: Cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng
Nguồn: sbv.gov.vn
40
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
BHTG là một tổ chức phi lợi nhuận, nhằm bảo vệ quyền lợi cho người gửi tiền,
đứng ra bồi thường cho người gửi tiền bù đắp một phần thiệt hại khi tổ chức nhận
tiền gửi không có khả năng chi trả do bị phá sản. Bảo hiểm tiền gửi góp phần làm
lành mạnh và an toàn trong hoạt động của các TCTD, thông qua việc giám sát tuân
thủ việc thực hiện các chính sách công của các TCTD. BHTG ngay khi nhận được
các báo cáo tài chính của các TCTD, sẽ phân tích các chỉ tiêu, đánh giá thực trạng
tình hình hoạt động của các TCTD nhằm phát hiện ra những nguy cơ tiềm ẩn trong
các tổ chức để ngăn chặn.
Sơ đồ 2.3: Sơ đồ tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
Nguồn: div.gov.vn
Mục tiêu giám sát ngân hàng
Mục tiêu giám sát chủ yếu là các mục tiêu chính sau: Giám sát tuân thủ các
quy định pháp luật của các TCTD; Bảo đảm tính thanh khoản cho các TCTD; Bảo
41
vệ người tiêu dùng và môi trường cạnh tranh lành mạnh; Bảo đảm an toàn, ổn định
hệ thống.
Nội dung giám sát ngân hàng
Nội dung giám sát từng lĩnh vực nói chung sẽ bao gồm: Giám sát trước khi
hoạt động liên quan đến việc kiểm tra các điều kiện để cấp phép kinh doanh; Giám
sát trong quá trình hoạt động là việc kiểm tra tính tuân thủ các quy định và đảm bảo
an toàn cho hệ thống; Giám sát sau khi giải thể, phá sản, hợp nhất sáp nhập là việc
giám sát các hoạt động của tổ chức trong thời gian nhất định nhằm ổn định hệ
thống.
Giám sát trong quá trình hoạt động bao gồm: Giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ
(Thanh tra tính tuân thủ)
Giám sát từ xa
Giám sát ngân hàng Việt Nam hiện nay đang áp dụng trong phương thức
giám sát từ xa là bộ chỉ tiêu theo CAMELS. Tại Việt Nam hiện nay, ngành ngân
hàng được cho là có hệ thống giám sát đầy đủ và phù hợp, cơ quan giám sát ngân
hàng sử dụng các bộ chỉ tiêu theo tiêu chí CAMELS7, theo Quyết định số
06/2008/QĐ - NHNN Ban hành về quy định xếp loại ngân hàng thương mại cổ
phần, đây là bước đệm chuyển dần sang việc giám sát dựa trên rủi ro. Các chỉ tiêu
bao gồm: C - Capital (Vốn), A - Assets (Tài sản), M - Management (Quản lý), E -
Earnings (Lợi nhuận), L - Liquidity (Thanh khoản), S - Sensitivity (Độ nhạy cảm
với các rủi ro thị trường).
Cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng với giám sát từ xa thông qua tổng hợp đánh
giá 3 loại báo cáo là:
- Báo cáo giám sát vĩ mô: được xây dựng trên cơ sở phân tích mô tả những
7 Bộ chỉ tiêu theo tiêu chí CAMELS theo Phụ lục 5
biến động lớn của nền kinh tế vĩ mô đến tác động vào hệ thống ngân hàng.
42
- Báo cáo đánh giá xếp hạng: sử dụng bộ chỉ tiêu theo CAMELS nhằm đáng
giá từng ngân hàng và để can thiệp khi cần thiết.
- Báo các cảnh báo sớm: dựa trên phân tích báo cáo giám sát tài chính vĩ mô,
sẽ đưa ra kết quả những tổ chức thuộc diện theo dõi và đưa ra cảnh báo cho
các tổ chức này.
Giám sát tuân thủ
Giám sát tuân thủ các quy định của các TCTD là việc giám sát các TCTD
trong quá trình hoạt động dựa trên những báo cáo giám sát từ xa sẽ có giám sát tuân
thủ, theo dõi các tổ chức đã được chú ý và có nguy cơ hoạt động không ổn định.
2.2.2.2. Thực trạng hệ thống tổ chức hoạt động giám sát bảo hiểm
Cơ sở pháp lý
- Luật kinh doanh bảo hiểm
- Nghị định số 41/2009/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong kinh
doanh bảo hiểm.
- Quyết định số 288/QĐ-BTC ngày 12/2/2009 của Bộ Tài chính quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý giám sát bảo
hiểm.
- Thông tư số 195/2014/TT-BTC ngày 17/12/2014 về việc Hướng dẫn đánh
giá xếp loại doanh nghiệp bảo hiểm.
Bộ máy tổ chức hoạt động giám sát bảo hiểm
Cục Quản lý Giám sát Bảo hiểm thành lập theo Quyết định 288/QĐ-BTC và
Quyết định 1854/QĐ-BTC của Bộ trưởng Bộ Tài chính với cơ cấu, bộ máy theo sơ
đồ. Trong đó ta thấy bên cạnh phòng quản lý giám sát bảo hiểm nhân thọ, phi nhân
thọ còn có Thanh tra cục quản lý giám sát bảo hiểm, để kiểm soát lại toàn bộ việc
quản lý vai trò giám sát của toàn doanh nghiệp và thị trường bảo hiểm.
43
Sơ đồ 2.4: Cục quản lý và giám sát bảo hiểm
Nguồn: Cục quản lý giám sát bảo hiểm - Bộ tài chính
Mục tiêu giám sát
Mục tiêu giám sát: cơ quan giám sát bảo hiểm cũng có những mục tiêu
chính yếu trong giám sát là: Đảm bảo tính thanh khoản cho các tổ chức kinh doanh
bảo hiểm, khả năng chi trả cho người sử dụng dịch vụ bảo hiểm; Bảo đảm hoạt
động giữa các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm cạnh tranh lành mạnh và minh
bạch; Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng; Đảm bảo an toàn, lành mạnh trong thị
trường bảo hiểm.
Nội dung giám sát gồm 02 nội dung chính là: Giám sát trước khi cấp phép;
Giám sát sau cấp phép.
Giám sát trước khi cấp phép
Là việc giám sát các tổ chức kinh doanh bảo hiểm có đủ điều kiện được cấp
phép hoạt động hay không: Điều kiện về tài chính như số vốn góp, vốn cổ đông, báo
cáo hoạt động kinh doanh; Điều kiện về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, khả năng
điều hành của bộ phận quản lý.
44
Giám sát sau khi cấp phép
- Giám sát từ xa
Là việc giám sát tuân thủ các quy định của pháp luật, hướng dẫn thực hiện, thi
hành các quy định của văn bản pháp lý. Bên cạnh đó, việc giám sát các doanh
nghiệp kinh doanh bảo hiểm phải diễn ra liên tục thường xuyên, đặc biệt là quản lý
tài chính. Hoạt động giám sát từ xa đối với các doanh nghiệp bảo hiểm được Cục
Quản lý, Giám sát Bảo hiểm thực hiện thông qua chế độ báo cáo của doanh nghiêp
bảo hiểm. Các doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm tính toán các chỉ tiêu giám sát
được quy định tại Quyết định số 195/2014/QĐ-BTC ngày 17/12/2014 của Bộ Tài
chính sau đó gửi báo cáo tổng hợp về Cục Quản lý Giám sát bảo hiểm, cơ quan này
có trách nhiệm phân tích, đánh giá kết quả hoạt động và phân loại các doanh nghiệp
bảo hiểm.
Cục Quản lý Giám sát Bảo hiểm đang hướng tới thực hiện 28 chuẩn mực quản
lý giám sát thận trọng áp dụng cho các nước thành viên của Hiệp hội các nhà quản
lý bảo hiểm quốc tế (IAIS), và việc ban hành thông thư 195/2014/TT-BTC đã thấy
rõ điều này. Theo đó, việc xếp loại doanh nghiệp bảo hiểm dựa theo 04 nhóm chỉ
tiêu đánh giá bao gồm:
+ Nhóm chỉ tiêu đánh giá về khả năng thanh toán, dự phòng nghiệp vụ và
hiệu quả hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
+ Nhóm chỉ tiêu đánh giá về hoạt động bảo hiểm
+ Nhóm chỉ tiêu đánh giá về vốn, chất lượng tài sản, đầu tư tài chính.
+ Nhóm chỉ tiêu đánh giá về quản trị doanh nghiệp và minh bạch thông tin.
Qua việc phân tích chỉ tiêu, các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ và
phi nhân thọ chia thành 4 nhóm cụ thể:
- 04 nhóm đối với DNBH phi nhân thọ là: Doanh nghiệp đảm bảo khả năng
thanh toán (có lãi hoạt động kinh doanh bảo hiểm gốc trong 2 năm liên tục);
Doanh nghiệp đảm bảo khả năng thanh toán (không có lãi hoạt động kinh
doanh bảo hiểm gốc trong 2 năm liên tục); Doanh nghiệp có nguy cơ không
45
đảm bảo khả năng thanh toán; Doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, bị đặt
trong tình trạng kiểm soát đặc biệt
- 04 nhóm kinh doanh bảo hiểm nhân thọ là: Doanh nghiệp đảm bảo khả năng
thanh toán; Doanh nghiệp không thực hiện xếp loại nhóm 2 theo quy định;
Doanh nghiệp có nguy cơ không đảm bảo khả năng thanh toán; Doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán, bị đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt.
Sau khi Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 195/2014/TT-BTC hướng dẫn việc
xếp loại các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm, 17 doanh nghiệp bảo hiểm nhân
thọ lần đầu tiên tự đánh giá, xếp loại dựa trên kết quả hoạt động trong năm 2015.
Theo kết quả đó có 17/17 doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm đã xếp vào nhóm 1,
và 9 doanh nghiệp xếp loại 1A, 8 doanh nghiệp xếp loại 1B. Đánh giá này góp phần
nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp tạo động lực hoàn thiện về chất
lượng dịch vụ, chăm sóc khách hàng và hoạt động kiểm soát rủi ro.
- Thanh tra tại chỗ.
Hoạt động thanh tra tại chỗ dựa vào kết quả của hoạt động giám sát từ xa để
quản lý chặt hơn những doanh nghiệp có nguy cơ rủi ro, đặc biệt những doanh
nghiệp kinh doanh bảo hiểm ở nhóm 4 là doanh nghiệp mất khả năng thanh toán bị
đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt.
2.2.2.3. Thực trạng hoạt động và giám sát trên thị trường chứng khoán
Cơ sở pháp lý
- Luật chứng khoán 2006; Văn bản hợp nhất số 27/VBHN-VPQH Luật Chứng
khoán ngày 18/12/2013.
- Quyết định số 427/QĐ-UBCK Về việc ban hành Quy chế Hướng dẫn đánh
giá, xếp loại công ty quản lý quỹ.
- Quyết định số 617/QĐ-UBCK, ngày 9/10/2013 ban hành Quy chế hướng dẫn
xếp loại công ty chứng khoán.
Cơ cấu tổ chức bộ máy giám sát thị trường chứng khoán
46
Sơ đồ 2.5: Cơ cấu tổ chức bộ máy giám sát thị trường chứng khoán
Nguồn: Ủy ban chứng khoán nhà nước - Bộ Tài chính
http://www.ssc.gov.vn/ubck/faces/vi/vimenu/vipages_trangchu
Quyết định số 127/QĐ-BTC và Thông tư số 151/2009/TTBTC ngày
23/07/2009 của Bộ Tài chính hướng dẫn công tác giám sát của UBCKNN đối với
hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán của Sở Giao dịch Chứng khoán và Trung tâm
Lưu ký chứng khoán.
Sở giao dịch chứng khoán là cơ quan giám sát cấp một: giám sát trực tiếp
diễn biến giao dịch hàng ngày trên thị trường, các đơn vị giao dịch, niêm yết, công
bố thông tin.
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước là cơ quan giám sát cấp hai: giám sát trực
tiếp, kiểm tra việc tuân thủ các quy định của sở giao dịch chứng khoán, các đơn vị
tham gia. UBCKNN có 05 đơn vị thực hiện chức năng giám sát trên TTCK bao
gồm: Vụ Quản lý Phát hành, Vụ Quản lý Kinh doanh, Vụ Quản lý Quỹ và các Công
ty Quản lý Quỹ, Vụ Giám sát Thị trường và Thanh tra Chứng khoán.
47
Mục tiêu giám sát
Đảm bảo thị trường hoạt động minh bạch; Đảm bảo các định chế trung gian
lành mạnh tài chính; Bảo vệ người tiêu dùng và đảm bảo an toàn cho toàn thị trường
chứng khoán.
Nội dung giám sát:
Nội dung giám sát bao gồm: giám sát trước khi hoạt động, giám sát trong quá
trình hoạt động và giám sát sau khi giải thể sáp nhập.
Giám sát trong quá trình hoạt động, UBCKNN vẫn đang áp dụng một số
chỉ tiêu về vốn pháp định, vốn khả dụng để đánh giá và đảm bảo an toàn hoạt động
của các công ty chứng khoán. Cụ thể như quy định về vốn pháp định đối với từng
nghiệp vụ: Môi giới chứng khoán 25 tỷ đồng, tự doanh chứng khoán 100 tỷ đồng,
bảo lãnh phát hành chứng khoán 165 tỷ đồng, tư vấn đầu tư chứng khoán 10 tỷ
đồng.
Bên cạnh đó, đặc biệt giám sát trong quá trình hoạt động UBCKNN hiện nay
đã áp dụng một số chỉ tiêu đối với giám sát từ xa trong năm 2013, đánh dấu một
bước đột phá đối với hoạt động giám sát lĩnh vực chứng khoán. UBCKNN đã ban
hành các quy chế quản lý, giám sát theo bộ tiêu chí CAMEL (Quyết định số
427/QĐ-UBCK, ngày 11/7/2013 về việc ban hành Quy chế Hướng dẫn đánh giá,
xếp loại công ty quản lý quỹ; Quyết định số 617/QĐ-UBCK, ngày 9/10/2013 về
việc ban hành Quy chế hướng dẫn xếp loại công ty chứng khoán). Bộ chỉ tiêu
CAMEL8 bao gồm các hệ thống chỉ tiêu đánh giá trên cơ sở: Mức độ đủ vốn (C),
Chất lượng tài sản (A), Chất lượng quản trị (M), Khả năng lợi nhuận (E), Chất
lượng thanh khoản (L).
Như vậy UBCKNN đã chú trọng trong vấn đề giám sát tổ chức hoạt động
chứng khoán, xây dựng được bộ chỉ tiêu giám sát theo rủi ro thể hiện sự tiến bộ và
8 Bộ tiêu chí CAMEL của lĩnh vực chứng khoán theo Phụ lục 03
phù hợp với sự phát triển chung của tổ chức tài chính. Hoạt động thanh tra tại chỗ
48
cũng như lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, dựa trên các báo cáo của hoạt động giám
sát từ xa, Ủy ban sẽ có những đợt thanh tra, đặc biệt với các đối tượng hoạt động
yếu kém.
2.2.2.4. Ủy ban giám sát tài chính quốc gia
Sơ đồ 2.6: Mô hình tổ chức Ủy ban giám sát tài chính quốc gia
Nguồn: Ủy ban giám sát tài chính quốc gia nfsc.gov.vn
Vai trò giám sát: Bên cạnh vai trò tham mưu, tư vấn, tổ chức các cuộc hội
thảo… vai trò giám sát của Ủy ban tài chính quốc gia được đề cập trong chức năng
điều phối hoạt động giám sát chuyên ngành và giám sát chung thị trường tài chính.
Chức năng điều phối hoạt động giám sát chuyên ngành
- Đề xuất và khuyến nghị với Thủ tướng về điều phối hoạt động giám sát thị
trường tài chính cũng như tham gia ý kiến trực tiếp với Ngân hàng Nhà nước, Bộ
Tài chính và các bộ, ngành trong việc xây dựng văn bản có liên quan đến tổ chức,
hoạt động, thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm.
49
- Xây dựng đề cương chi tiết về Chiến lược phát triển lĩnh vực tài chính -
ngân hàng gửi Tiểu ban xây dựng Chiến lược phát triển đất nước; Chiến lược phát
triển tài chính Quốc gia giai đoạn 2011 - 2020…
- Xây dựng đội ngũ cộng tác viên của Uỷ ban để tranh thủ sự hỗ trợ và khai
thác trí tuệ của đội ngũ các nhà khoa học, các nhà kinh tế, các chuyên gia trong và
ngoài nước. Qua đó có thêm các thông tin, tham vấn các vấn đề kinh tế, tài chính
“nóng” để tổng hợp tham mưu cho Thủ tướng.
Chức năng giám sát chung thị trường tài chính
- Xây dựng hệ thống các chỉ tiêu giám sát các TCTD, các công ty chứng
khoán, các công ty bảo hiểm; các chỉ tiêu giám sát khu vực phi tài chính và khu vực
bất động sản.
- Thiết lập hệ thống cơ sở dữ liệu về bức tranh tổng thể của thị trường tài
chính Việt Nam nhằm mục tiêu cung cấp thông tin về thị trường tài chính quốc gia;
xây dựng hệ thống dữ liệu về thông tin thị trường tài chính của Uỷ ban để lập các
báo cáo trình Thủ tướng Chính phủ.
- Định kỳ (6 tháng và 1 năm) lập Báo cáo giám sát vĩ mô thị trường tài chính
Việt Nam và Báo cáo giám sát các tập đoàn tài chính. Nội dung các báo cáo tập
trung phân tích, đánh giá thị trường tài chính trong nước, cũng như những tác động
của thị trường tài chính thế giới đến thị trường tài chính trong nước; Dự báo, cảnh
báo nguy cơ rủi ro có thể xảy ra đối với thị trường tài chính quốc gia và các tập
đoàn tài chính lớn; Đề xuất các khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và
đảm bảo an toàn hệ thống tài chính.
- Định kỳ xây dựng Báo cáo phục vụ họp Hội đồng tư vấn chính sách tài
chính - tiền tệ quốc gia; Uỷ ban cũng đang triển khai nghiên cứu và hoàn thiện
khung nội dung cho một số báo cáo khác (Báo cáo Cảnh báo sớm; Báo cáo Ổn định
tài chính...)
Ký thỏa thuận hợp tác với một số bộ, ngành để tăng cường sự phối hợp, nâng
cao chất lượng hoạt động giám sát, điều phối giám sát và công tác tham mưu, tư vấn
cho Thủ tướng.
50
2.2.3. Thực trạng phối hợp giữa các chủ thể giám sát trong hệ thống giám sát
tài chính Việt Nam.
Trong hệ thống giám sát tài chính tại Việt Nam gồm UBGSTCQG, BTC,
NHNNVN, hoạt động phối hợp giám sát và xử lý vi phạm được thể hiện qua 3 hình
thức: Các thông tư liên tịch về phối hợp quản lý, giám sát, xử lý vi phạm hoặc thực
thi một chính sách, nghiệp vụ nhất định; Hoạt động lấy ý kiến đóng góp của các bên
liên quan đối với một chế độ, chính sách dự thảo; UBGSTCQG với vai trò là một
đầu mối phối hợp toàn bộ công tác giám sát trên thị trường tài chính.
2.2.3.1. Phối hợp qua các thông tư liên tịch
Các thông tư liên tịch về phối hợp quản lý, giám sát, xử lý vi phạm hoặc thi
chính sách: Nhìn chung phương pháp này giải quyết đối với từng vụ việc nhất định
và tồn tại nhiều nhược điểm khi chưa phát huy được tác dụng vì mang nặng tính thủ
tục hành chính và chậm chạp trong việc phản ứng, phối hợp, gây nên hiện tượng
đùn đẩy trách nhiệm.
2.2.3.2. Phối hợp qua cơ chế đóng góp ý kiến
Phối hợp được hiểu là cơ chế lấy ý kiến đóng góp của các bên liên quan đối
với một dự thảo văn bản pháp lý hoặc chế độ, chính sách mới. Trong ba lĩnh vực
giám sát, việc lấy ý kiến thường được thực hiện ở 02 cấp độ là gửi công văn hoặc tổ
chức hội họp. Tuy nhiên phương thức này có những nhược điểm như các ý kiến chỉ
xoay quanh quyền lợi và những tác động với từng lĩnh vực riêng lẻ mà người cho ý
kiến có liên quan, không có cái nhìn tổng quát toàn ngành, toàn nền kinh tế. Kết quả
cuối cùng thường là dựa trên sự thống nhất chứ không đặt mục tiêu làm tăng tính
hiệu quả của văn bản pháp lý đó.
2.2.3.3. Phối hợp qua Ủy ban giám sát tài chính quốc gia
UBGSTCQG vai trò đầu tàu trong việc thống nhất và phối hợp giữa các kênh
giám sát. Việc ra đời UBGSTCQG có nhiều ý nghĩa, một trong những vai trò là
thống nhất và phối hợp chặt chẽ với các bộ ban ngành trong 03 lĩnh vực giám sát
chính là ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán.
51
Nhìn chung với các hoạt động của UBGSTCQG chỉ dừng lại ở những tổng
hợp, báo cáo thị trường, nhiệm vụ quan trọng là tư vấn, tham mưu, kiến nghị, với
Chính phủ và các bộ ban ngành, thiếu đi quyền lực mà điều này rất cần thiết với
một cơ quan giám sát. Trong báo cáo sau 5 năm hoạt động “Hoạt động của Ủy ban
Giám sát tài chính quốc gia (2008-2012), định hướng hoạt động (2013-2015)”, hoạt
động của Ủy Ban này còn khá mờ nhạt, chỉ dừng lại ở mức tổng hợp báo cáo, phân
tích thị trường, các cuộc điều tra các TCTD, công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm
chứ chưa phải thanh tra, giám sát. Tuy nhiên đóng góp của Ủy ban là những đóng
góp chung trong toàn nền kinh tế như tốc độ tăng trưởng GDP, lạm phát. Về lĩnh
vực giám sát Ủy ban cũng có hợp tác cùng với các cơ quan chuyên trách để lập nên
bộ chỉ tiêu giám sát phù hợp như CAMELS đối với lĩnh vực ngân hàng, CAMEL
với chứng khoán, và bộ chỉ tiêu theo quyết định 195/2014/QĐ-BTC về việc xếp loại
các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm, định hướng theo bộ chỉ tiêu của hệ thống
chỉ tiêu giám sát tài chính do IMF khuyến nghị cho các quốc gia thành viên theo
Chương trình đánh giá khu vực tài chính (FSAP). Nguyên nhân của việc phối hợp
kém trong giám sát hệ thống là do mô hình giám sát phân tán, bộ máy hành chính
cồng kềnh và năng lực giám sát cần nhiều củng cố.
2.2.4. Đánh giá hoạt động của hệ thống giám sát tài chính Việt Nam
2.2.4.1. Kết quả trong hoạt động giám sát tài chính tại Việt Nam
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Chỉ tiêu trực tiếp
Số lượng các tổ chức vi phạm
Trên thị trường ngân hàng, các hành vi vi phạm và lạm dụng thị trường được
phát hiện và xử lý chủ yếu liên quan đến vi phạm các quy định về kinh doanh như
vi phạm liên quan đến trần lãi suất, giao dịch ngoại tệ hoặc các hành vi liên quan
đến đạo đức nghề nghiệp. Một trong những vụ việc nghiêm trọng là vụ án Huỳnh
Thị Huyền Như, tổng thiệt hại lên gần 4.000 tỷ đồng. Theo đề án tái cơ cấu hệ
thống ngân hàng, phía thanh tra ngân hàng Nhà nước đã đẩy mạnh hoạt động và đã
phát hiện nhiều vụ sai phạm nghiêm trọng. Vụ án của ông Hà Văn Thắm - nguyên
52
Chủ tịch HĐQT OceanBank đã ký các quyết định cho Công ty Trách nhiệm hữu
hạn Thương mại dịch vụ Trung Dung vay khoảng 500 tỷ đồng vào tháng 11/2012.
Việc cho vay này là sai quy định dẫn đến hậu quả mất khả năng thanh toán, ông đã
bị buộc tội "Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín
dụng".
Ngày 10/6/2015, tại Vietcombank chi nhánh Tây Đô, ông Nguyễn Minh
Chuyển, nguyên Giám đốc và ông Trần Anh Huy, nguyên trưởng phòng Tín dụng
cũng có hành vi vi phạm các qui định về cho vay trong hoạt động của các TCTD.
Tính đến đầu năm 2015, bộ phận kiểm toán phát hiện có đến khoảng 2.300 tỷ đồng
nằm trong nhóm khách hàng dạng có hợp đồng sai quy trình dẫn đến nợ xấu chiếm
trên 47% tổng dư nợ của Vietcombank - chi nhánh Tây Đô.
Trong năm 2015, qua kết quả thanh tra đã phát hiện 10 sai phạm phổ biến tại
các TCTD như: Sai phạm về cấp tín dụng; Sai phạm về phân loại nợ, trích lập dự
phòng rủi ro; Sai phạm về các tỷ lệ an toàn hoạt động (tỷ lệ vốn ngắn hạn cho
vay trung dài hạn, tỷ lệ cấp tín dụng…); Sai phạm về đầu tư tài chính; Sai phạm về
mua bán tài sản; Sai phạm về điều lệ, cổ đông, cổ phần; Sai phạm về quả trị điều
hành, kiểm soát, kiểm toán; Sai phạm về các hoạt động ngoại hối; Sai phạm về các
hoạt động hạch toán, kế toán thu chi tài chính; Sai phạm về an toàn kho quỹ, tổng số
tiền thu được là 2,3 tỷ đồng.
Chỉ tiêu gián tiếp: Chỉ tiêu về an toàn; Chỉ tiêu về tăng trường
+ Chỉ tiêu về an toàn:
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu CAR
53
Bảng 2.5: Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu CAR của các NHTM Việt Nam
từ năm 2012 - 2015
Đơn vị: %
Nhóm TCTD Năm Năm Năm Năm
2012 2013 2014 2015
10.28 10.91 9.4 9.42 NHTM Nhà nước
14.01 12.56 12.07 12.74 NHTM cổ phần
27.63 26.53 30.78 33.8 NH liên doanh, nước ngoài
9.25 4.63 29.33 23.24 CTTC, CT cho thuê tài chính
38.83 32.84 29.91 31.47 Tổ chức tín dụng hợp tác
13.75 13.25 12.75 13 Toàn hệ thống
Nguồn: Báo cáo số liệu thống kê của NHNN giai đoạn 2012-2015
Nhìn chung các TCTD tại Việt Nam tuân thủ khá tốt tỷ lệ này, theo khuyến
cáo của Ủy Ban Basel thì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là 8%, nhưng theo quy định tại
Việt Nam tỷ lệ này tối thiểu 9%. Hầu như các TCTD đều có chỉ số này khá cao.
Nợ xấu toàn hệ thống
Thời gian qua một vấn nạn nổi cộm trong hoạt động ngân hàng đó là thực
trạng nợ xấu đã lên mức báo động, nợ xấu của giai đoạn 2011- 2015 là hệ quả của
việc tăng trưởng tín dụng nóng và dễ dãi trong việc cấp tín dụng của giai đoạn 2007
- 2008 trong hệ thống NHTM.
Năm 2014 tổng nợ xấu là 145,2 nghìn tỷ đồng (nội bảng), chiếm 3.71% trên
tổng dư nợ, Thông tư số 02/2013/TT-NHNN ban hành ngày ngày 21/01/2013 của
Ngân hàng Nhà nước được thực thi từ ngày 01/6/2014 nên tỷ lệ nợ xấu được phản
ánh chính xác hơn, tỷ lệ nợ xấu có tăng lại trong tháng 6/2014 nhưng giảm liên tiếp
những tháng sau đó. Dấu hiệu cho thấy chất lượng tín dụng đang có chiều hướng
được cải thiện. Tuy nhiên tỷ lệ nợ xấu báo cáo khác khá xa so với tỷ lệ nợ xấu được
đánh giá lại bởi UBGSTCQG, nhưng càng về sau, khoảng chênh lệch này càng
được thu hẹp. (Hà Huy Tuấn, 2015)
54
Sơ đồ 2.7: So sánh tỷ lệ nợ xấu giữa báo cáo và đánh giá lại
giai đoạn 2011-2014
Nguồn: Hà Huy Tuấn (2015) Báo cáo của Ủy ban giám sát tài chính quốc gia
Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright.
Số lượng các tổ chức tín dụng bị phá sản hàng năm
Đây là một trong những tư duy chuyển biến của các nhà làm chính sách
trong giai đoạn này, bắt đầu cho các TCTD “ tiếp cận” phá sản kể từ giai đoạn năm
1990. Giai đoạn vừa qua xuất hiện một loạt các văn bản pháp luật liên quan đến phá
sản các TCTD như Thông tư số 08/2010/TT-NHNN về việc kiểm soát đặc biệt đối
với tổ chức tín dụng, Thông tư số 34/2011/TT-NHNN về trình tự, thủ tục thu hồi
giấy phép và thanh lý các tổ chức tín dụng, đặc biệt là các nội dung trong chương
VIII Thủ tục phá sản các TCTD trong Luật phá sản ban hành năm 2014.
Mặc dù trên danh nghĩa chưa có TCTD nào tại Việt Nam phá sản, NHNN
yêu cầu hoặc cho phép các TCTD yếu, kém tái cấu trúc theo đề án Tái cấu trúc hệ
thống ngân hàng giai đoạn 2011 - 2015. Bên cạnh đó là việc thành lập Công ty quản
lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC), được cho là một phương án kịp thời,
khá hữu hiệu trong giải quyết nợ xấu của các TCTD Việt Nam.
Trong năm 2011 - 2013, có 9 NHTM bắt buộc phải thực hiện tái cơ cấu bắt
buộc thông qua các biện pháp khác nhau như hợp nhất (SCB, Ficombank,
55
TinnghiaBank), sáp nhập (Habubank vào SHB) và tự tái cơ cấu (TienphongBank,
TrustBank, Navibank, Westernbank và GP Bank)
Trong năm 2014 - 2015, thông qua hình thức mua bán và sáp nhập (M&A),
hệ thống ngân hàng đã thực hiện cơ cấu một số ngân hàng như Sacombank-
Southernbank, Vietinbank - PGBank, BIDV - MHB, Vietcombank - SaigonBank,
MaritimeBank-MekongBank, EximBank - NamAbank.
Đến nay, hệ thống NHTM và TCTD đã giảm bớt 5 NHTM cổ phần thông
qua hoạt động sáp nhập, hợp nhất và NHNN đã mua lại 3 tổ chức.
+ Chỉ tiêu về tăng trưởng
Quy mô vốn tự có
Vốn tự có tăng dần qua các năm đặc biệt ở nhóm các NHTM cổ phần, đây là
một tín hiệu tốt với ngành ngân hàng Việt Nam thời gian qua
Bảng 2.6: Quy mô vốn tự có của các TCTD Việt Nam giai đoạn 2012-2015
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm Năm Năm Năm
Nhóm TCTD
2012 2013 2014 2015
137,268 166,580 169,696 203,328 NHTM Nhà nước
183,139 195,123 203,154 236,342 NHTM Cổ phẩn
92,554 100,233 106,004 117,164 NH liên doanh, nước ngoài
10,767 2,674 15,208 17,715 CT tài chính, cho thuê
2,254 2,316 2,510 3,472 NH hợp tác xã
425,982 466,926 496,573 578,020 Toàn hệ thống
Nguồn: Báo cáo thống kê của NHNN giai đoạn 2012-2015
Nhìn chung so với những năm 2011, 2012, chỉ tiêu ROA, ROE của hệ thống
các TCTD chưa thấy rõ dấu hiệu phục hồi, thậm chí chỉ tiêu ROA vào năm 2015
còn thấp hơn so với năm 2012 ở hầu hết các TCTD. Điều này có thể do 2 nguyên
nhân, lợi nhuận giảm hoặc tài sản tăng. Thực tế nhìn lại quá trình tái cấu trúc hệ
thống ngân hàng, có thể thấy việc tái cấu trúc làm tăng tài sản của các ngân hàng,
56
tuy nhiên chất lượng tài sản lại là vấn đề đáng quan tâm khi tỷ lệ nợ xấu vẫn ở mức
cao.
Nhóm các công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính có ROA, ROE năm
2012, 2013 âm, chứng tỏ lợi nhuận âm, tuy nhiên đã có dấu hiệu phục hồi nhanh
chóng vào năm 2014, 2015.
Bảng 2.7: Tỷ lệ ROA, ROE của các TCTD Việt Nam giai đoạn 2012-2015
Đơn vị: %
Nhóm TCTD Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015
ROA ROE ROA ROE ROA ROE ROA ROE
0.74 10.34 0.67 7.93 0.53 6.92 0.63 10.62 NHTM
Nhà nước
0.31 3.60 0.4 4.64 0.36 4.43 5.1 NHTM cổ phần 0.49
0.92 0.75 4.64 0.61 3.79 0.48 3.05 4.5 NH liên doanh
nước ngoài
- 0.76 - 13.9 -2.07 -22.2 2.33 8.25 3.29 14.99 CTTC, CT cho
thuê tài chính
1.53 8.00 0.62 3.95 0.93 10.67 0.93 13.6 TCTD hợp tác
0.62 6.31 0.49 5.18 0.51 5.49 0.52 6.26 Toàn hệ thống
Nguồn: Báo cáo thống kê của NHNN giai đoạn 2012-2015
Cục quản lý giám sát bảo hiểm.
Chỉ tiêu trực tiếp
Cục Quản lý và Giám sát bảo hiểm đã thực hiện khá tốt công việc giám sát,
phát hiện những rủi ro trong hoạt động.
Số lượng các tổ chức vi phạm
Năm 2013 đã tiến hành kiểm tra 5 CTBH nhân thọ, 6 CTBH phi nhân thọ, 6
công ty môi giới bảo hiểm. Đồng thời Cục quản lý giám sát bảo hiểm cũng thanh tra
chính thức 4 công ty bảo hiểm sau: Tổng CTCP bảo hiểm ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Việt Nam (BIC) lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ; CTCP bảo hiểm hàng không
57
(VNI), lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ; Công ty liên doanh bảo hiểm Bảo Việt -
Tokyo Marine, lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ; Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ
ACE lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ
Giai đoạn năm 2011 - 2015, Cục quản lý giám sát bảo hiểm đã tổ chức thanh
tra toàn diện 15 cuộc, thanh tra chuyên đề 03 cuộc. Năm 2015 đã phát hiện ra những
vi phạm như sau:
- Lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ các sai phạm chủ yếu như: Chưa thực hiện
đúng quy tắc, điều khoản, biểu phí, mức trách nhiệm giữ lại vượt quá 5% vốn chủ
sở hữu, đại lý bảo hiểm hoạt động khi chưa có chứng chỉ đào tạo đại lý, trích lập dự
phòng nghiệp vụ chưa đúng quy định, bồi thường không đúng quy tắc, điều khoản,
hạch toán doanh thu - chi phí chưa đúng quy định, đầu tư vượt quá tỷ lệ theo quy
định của pháp luật.
- Lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ các sai phạm chủ yếu như: Giải quyết quyền
lợi bảo hiểm không thống nhất, chưa chấp hành đúng quy định về chia lãi cho chủ
hợp đồng trong hợp đồng có tham gia chia lãi, hạch toán doanh thu - chi phí chưa
đúng quy định…
- Lĩnh vực môi giới bảo hiểm các sai phạm chủ yếu như: Cung cấp dịch vụ
không đúng chức năng, sử dụng các tổ chức khác để thực hiện các công đoạn trong
quá trình hoạt động môi giới không phù hợp quy định của pháp luật; trích lập không
đủ quỹ dự trữ bắt buộc…
- Chỉ tiêu gián tiếp: Chỉ tiêu về an toàn; Chỉ tiêu về tăng trường
+ Chỉ tiêu về an toàn:
Số lượng phá sản hàng năm
Trong giai đoạn 2011-2015, chưa có doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
bảo hiểm phá sản, các doanh nghiệp có thể mở thêm hay thu hẹp phạm vi, chi
nhánh, văn phòng đại diện, chứ chưa có trường hợp phá sản. Thực tế, người tiêu
dùng đã rất lo ngại trước những tin đồn như AIA bị phá sản, khi Tập đoàn bảo hiểm
Frudential mua lại AIA vào năm 2010, cũng như tập đoàn bảo hiểm Daiichi của
58
Nhật Bản mua lại Công ty bảo hiểm Bảo Minh. Nhìn chung, thị trường bảo hiểm
vận hành khá ổn định trong thời gian qua
+ Chỉ tiêu về tăng trưởng
Theo bảng 2.8 có 2 chỉ tiêu tăng trưởng quan trọng đối với doanh nghiệp bảo
hiểm là tổng tài sản và dự phòng nghiệp vụ. Nhìn chung, theo Báo cáo của Cục
quản lý giám sát thị trường bảo hiểm thì 2 chỉ tiêu này tăng qua các năm, tăng nhẹ
giữa năm 2012 và 2011, tuy nhiên 2 năm trở lại đây thị trường bảo hiểm đã khởi sắc
và khả quan hơn nhiều. Năm 2015, tổng tài sản đạt 193,158 tỷ đồng, tăng 16.96%
so với năm 2014. Chỉ tiêu dự phòng nghiệp vụ tăng, thể hiện nguồn tiền dự phòng
để bồi thường cho khách hàng tăng và khả năng thanh khoản của các doanh nghiệp
bảo hiểm tăng lên.
Bảng 2.8: Dự phòng nghiệp vụ, tổng tài sản của các công ty kinh doanh bảo
hiểm Việt Nam giai đoạn 2011-2015
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu Năm Năm Năm Năm Năm
2011 2012 2013 2014 2015
61,878 69,011 79,289 97,099 118,338 Dự phòng nghiệp
vụ
106,25 114,66 133,86 165,15 193,158 Tổng tài sản
Nguồn: Niên giám của Cục quản lý giám sát bảo hiểm 2011-2014, Báo cáo tổng
quan thị trường bảo hiểm năm 2015.
Uỷ ban chứng khoán Nhà nước
Chỉ tiêu trực tiếp
Số lượng các tổ chức vi phạm
Năm 2013, UBCKNN đã ban hành 108 quyết định xử phạt vi phạm đối với
các tổ chức cá nhân, đình chỉ hoạt động môi giới của 1 CTCK khi có hoạt động cho
59
khách hàng vay chứng khoán mà chưa có quyết định của BTC, đình chỉ thời hạn 01
công ty quản lý quỹ khi hoạt động không đúng nội dung được cấp phép.
Năm 2014, đã tổ chức 14 đoàn thanh tra và 47 đoàn kiểm tra đối với các
CTCK, công ty quản lý quỹ, công ty đại chúng, và các trường hợp thao túng giá
chứng khoán. UBCKNN đã ban hành 121 quyết định xử phạt vi phạm hành chính
đối với các tổ chức và cá nhân, với tổng số tiền phạt lên tới hơn 10 tỷ đồng,
Bảng 2.9: Tổng hợp các vi phạm lĩnh vực chứng khoán Việt Nam năm 2014
Trường hợp vi phạm Số lượng
Vi phạm của tổ chức chào bán ra công chúng, công ty đại chúng 50
Vi phạm giao dịch nội bộ, thao túng 2
Vi phạm của cổ đông lớn, cổ đông nội bộ, người có liên quan 33
Vi phạm của công ty chứng khoán 21
Vi phạm của công ty quản lý quỹ 12
Vi phạm của nhân viên kinh doanh chứng khoán 03
Tổng 121
Nguồn: Báo cáo thường niên của Ủy ban chứng khoán nhà nước năm 2014
Tổ chức thanh tra, kiểm tra đối với các tổ chức kinh doanh dịch vụ chứng
khoán dựa trên các tiêu chí về duy trì điều kiện cấp phép; việc đáp ứng các chỉ tiêu
an toàn tài chính. Các vi phạm bị xử phạt chính trong thời gian qua chủ yếu là các vi
phạm về báo cáo và công bố thông tin, cho khách hàng đặt lệnh khi không có tiền
trong tài khoản, cho khách hàng vay chứng khoán để bán, chưa tách bạch hoàn toàn
tiền của nhà đầu tư và của công ty chứng khoán, cung cấp các dịch vụ chứng khoán.
UBCKNN tiếp tục theo dõi đánh giá thành viên đấu thầu trái phiếu để từng bước
hình thành hệ thống nhà tạo lập thị trường trên cả thị trường sơ cấp và thứ cấp. Hệ
thống thành viên thị trường hiện gồm 25 thành viên đấu thầu và 54 thành viên giao
dịch trên thị trường thứ cấp.
Chỉ tiêu gián tiếp
Số lượng các công ty chứng khoán phá sản
60
Trong giai đoạn năm 2011-2015, Ủy ban chứng khoán Nhà nước cũng đã
thực thi đề án tái cấu trúc thị trường chứng khoán, ban hành các thông tư hướng dẫn
(thông tư 226/2010/TT-BTC, thông tư số 165/2012/TT-BTC, thông tư số
210/2012/TT-BTC và thông tư số 212/2012/TT-BTC) quy định về các cơ chế chính
sách về an toàn tài chính, và hoạt động của các tổ chức kinh doanh chứng khoán
nhằm đẩy nhanh quá trình tái cấu trúc.
Cuối năm 2013, có 24 công ty chứng khoán, 6 công ty quản lý quỹ được tái
cấu trúc, rút khỏi thị trường như giải thể, đình chỉ hoạt động, tạm ngưng các hoạt
động, hay từng bước rút khỏi các hoạt động kinh doanh cụ thể: 89/105 công ty còn
nghiệp vụ môi giới, 41/48 công ty quản lý quỹ hoạt động.
Theo thống kê đến cuối năm 2014, UBCKNN đã tái cấu trúc được 24 công ty
chứng khoán và 6 công ty quản lý quỹ, giảm được 23% tổng số công ty chứng
khoán trên thị trường nhưng ở mức độ xử lý cụ thể hơn so với thời điểm năm 2013:
- Tạm ngưng hoạt động 1 công ty.
- Chấm dứt hoạt động kinh doanh 03 công ty để thực hiện thủ tục thu hồi giấy
phép thành lập và hoạt động.
- Đình chỉ hoạt động 02 công ty.
- Cho giải thể 03 công ty: Công ty chứng khoán Âu Việt, công ty chứng khoán
Chợ lớn, Công ty chứng khoán Sen Vàng.
- Thu hồi giấy phép của 04 công ty do hợp nhất, sáp nhập.
- Đặt 08 công ty vào diện kiểm soát đặc biệt, 02 công ty vào diện kiểm soát.
Bên cạnh đó là: Thu hồi giấy phép 01 công ty quản lý quỹ, tạm ngưng hoạt
động 04 công ty và chấm dứt hoạt động 01 công ty.
Nhìn chung, đây là giai đoạn thị trường chứng khoán có rất nhiều biến động
và bất ổn, sau giai đoạn suy thoái nghiêm trọng vào năm 2008 - 2012, và có dấu
hiệu phục hồi ở mức chậm chạm vào năm 2014 - 2015, là chứng kiến sự ra đi của
nhiều công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ. Tuy nhiên, một mặt phải ghi
61
nhận tư duy của các cơ quan giám sát đã thay đổi khi cho thị trường đón nhận
những tin như phá sản doanh nghiệp kinh doanh chứng khoán.
+ Chỉ tiêu về tăng trưởng
Qua Bảng 2.10, nhận thấy vốn chủ sở hữu của các công ty chứng khoán tăng
mạnh hơn vào năm 2014, khi thị trường bắt đầu có dấu hiệu phục hồi. Về tổng
doanh thu, năm 2013 đạt 8,027 tỷ đồng giảm so với năm 2012 là 19.5%, nhưng đến
năm 2014 đã đạt được con số đáng kỳ vọng là 10,522 tỷ đồng.
Bảng 2.10: Số lượng các CTCK, vốn chủ sở hữu, tổng doanh thu của các
CTCK Việt Nam từ năm 2011 - 2014
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu/Năm Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014
105 105 95 81 Số lượng các công ty
chứng khoán
37,254 37,163 37,695 41,530 Vốn chủ sở hữu
13,310 9,832 8,027 10,522 Tổng doanh thu
Nguồn: Báo cáo thường niên Ủy ban chứng khoán Nhà nước 2012-2014
Nhìn chung trong giai đoạn vừa qua, các cơ quan giám sát chuyên ngành đã
kiểm tra định kỳ hoạt động của các trung gian tài chính trên thị trường, bên cạnh
những kế hoạch kiểm tra đột xuất qua đó đã phát hiện ra nhiều sai phạm. Trên cơ sở
kết quả báo cáo giúp các tổ chức trung gian ý thức được rõ ràng hơn về việc tuân
thủ các quy định trong hoạt động, đồng thời ngăn chặn những sai phạm trên thị
trường, thể hiện một tinh thần làm việc tập trung, quan sát và lắng nghe của các cơ
quan giám sát chuyên ngành. Giai đoạn vừa qua, hệ thống tài chính Việt Nam đã
trải qua những giai đoạn khó khăn, khắc phục những hậu quả của khủng hoảng kinh
tế, một loạt các sai phạm đã được phát hiện tuy nhiên chỉ khi ở mức độ nghiêm
trọng mới được tìm thấy và trong đó có vai trò của các cơ quan điều tra, các thông
tin phản hồi từ phía người sử dụng dịch vụ và từ phía các cơ quan báo chí.
62
2.2.4.2. Hạn chế trong hệ thống giám sát tài chính tại Việt Nam.
Thứ nhất, việc xử lý vi phạm khá muộn khi để ra những sai phạm nghiêm
trọng ảnh hưởng đến thất thoát cho nền kinh tế, các cơ quan giám sát mới phát hiện
ra. Thêm vào đó, hệ thống giám sát vẫn mang nặng tính hành chính, giám sát từ xa,
giám sát tuân thủ, trong khi giám sát hiện đại các quốc gia trên thế giới đang hướng
đến giám sát rủi ro.
Thứ hai, ban hành văn bản chính sách, quy định trong quá trình giám sát
thiếu tính dự báo, khiến các thành viên tham gia thị trường chịu nhiều rủi ro về
chính sách, phát sinh chi phí xã hội: Một ví dụ như văn bản số 369/TBVPCP ngày
30/12/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc đóng cửa các sàn vàng, chính sách
nhằm ngăn chặn việc giao dịch vàng ảo, đầu cơ vàng, bởi lẽ vàng chính là ngoại tệ,
gây bất ổn đến nền kinh tế xã hội. Do đó, đây là một chính sách phù hợp nhưng nếu
xét về mặt thời gian ban hành chính sách thì quá gấp gáp đối với các thủ thể tham
gia trên thị trường, gây tổn thất và chi phí quá cao, các thành viên không được dự
báo trước, thậm chí có những sàn vàng vừa mới thành lập đã phải đóng cửa.
Thứ ba, trong việc xử lý các vi phạm còn chưa triệt để, chưa đạt được hiệu
lực cao do chế tài và thẩm quyền xử lý còn nhiều lỗ hổng, hiện tượng này xảy ra
khá phổ biến, đặc biệt trong việc giám sát của UBCKNN. Cơ quan này bị hạn chế
trong thẩm quyền tiếp cận những thông tin về tài khoản ngân hàng, dữ liệu internet
và điện thoại do đó ngăn cản việc đối chứng, kiểm tra, phát hiện và xử lý những
hành vi giao dịch nghi vấn, thao túng thị trường. Thậm chí, mặc dù đã phát hiện
giao dịch không lành mạnh nhưng UBCKNN vẫn khó có thể kết tội những đối
tượng nghi vấn do không chứng minh được mối quan hệ của những đối tượng có
liên quan.
Thứ tư, tình trạng lách luật diễn ra khá phổ biến, chứng tỏ việc ngăn ngừa vi
phạm của các chủ thể giám sát chưa cao, đặc biệt ở khu vực ngân hàng. Vào cuối
năm 2011, đầu 2012, khi NHNN bắt đầu lộ trình giảm lãi suất bằng cách quy định
trần lãi suất huy động ban đầu là 14%/năm, đồng thời đó là áp dụng chính sách tiền
tệ quy định về hạn mức tín dụng. Theo đó, các NHTM chỉ được tăng trưởng dư nợ
63
tín dụng tối đa là 17% với nhóm 1 (Các NHTM hoạt động lành mạnh nhất hệ
thống). Các NHTM đã tìm cách lách luật bằng việc đưa ra sản phẩm ủy thác đầu tư,
cụ thể huy động vốn dưới các hợp đồng ủy thác để trả cho khách hàng phần lợi tức
trên 14%. Bên cạnh đó, NHTM dùng vốn huy động đem đi đầu tư cho vay cùng với
các công ty liên kết, lách quy định tăng trưởng dư nợ tín dụng.
Thứ năm, có độ trễ quá lớn trong ban hành văn bản quy phạm pháp luật và
chính sách sau khi hệ thống giám sát đã phát hiện những vấn đề của thị trường hay
bản thân hệ thống giám sát. Thực tế là quy trình ban hành chính sách về thị trường
tài chính tại Việt Nam phải thông qua quá nhiều thủ tục hành chính, lấy ý kiến từ
nhiều cấp, nhiều cơ quan, bộ ngành, và tại mỗi cấp lại có độ trễ nhất định nên khi
ban hành văn bản đã lạc hậu với thị trường. Nhưng khi thị trường vẫn chưa kịp
thích nghi với văn bản cũ, lại có văn bản mới thay thế ngay sau đó về cùng nội
dung.
Thứ sáu, giám sát an toàn vĩ mô hiện vẫn chưa được áp dụng, mặc dù đây là
hoạt động vô cùng quan trọng tuy nhiên tại Việt Nam vẫn chưa có một bộ chỉ số
xây dựng cũng như chưa có văn bản luật pháp đưa ra quy định hướng dẫn về giám
sát an toàn vĩ mô. UBGSTCQG thành lập với ý nghĩa sẽ là cơ quan giám sát an toàn
vĩ mô và giám sát toàn thị trường, toàn lĩnh vực, tuy nhiên đến nay quá trình hoạt
động chỉ dừng lại ở công việc tổng hợp, báo cáo, chưa thể hiện rõ vai trò giám sát.
Thêm vào đó, giám sát các định chế tài chính đa ngành và các tập đoàn tài chính
cũng đang bị bỏ ngỏ, chưa có một cơ quan thống nhất giám sát.
2.2.4.3. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong việc giám sát hệ thống tài
chính tại Việt Nam
Những bất cập trong năng lực giám sát chuyên ngành.
Cơ quan giám sát phải là đơn vị có đủ tầm để nắm bắt đi đầu các xu hướng
của thị trường mới có thể ngăn chặn những nguy cơ tiềm ẩn cho hệ thống, nhưng
điều này dường như là ngược lại đối với Việt Nam. Thị trường có những chuyển
biến, tín hiệu, sau đó cơ quan giám sát chậm chạp phản ứng nhằm ngăn chặn nhưng
64
khi đó đã có độ trễ nhất định, thậm chí lạc hậu. Điều này xuất phát do năng lực
giám sát của từng lĩnh vực.
- Hạn chế về nguồn nhân lực: các cơ quan giám sát ra đời còn non trẻ so với
các tổ chức tài chính, lực lượng giám sát còn thiếu kinh nghiệm, trình độ.
- Hạn chế về thông tin kỹ thuật: Chính là việc kết nối thông tin, trao đổi dữ
liệu chung giữa các cơ quan giám sát. UBGSTCQG ra đời với những kỳ vọng rất
lớn nhưng việc trao đổi thông tin, cơ sở dữ liệu thậm chí còn hạn chế hơn so với các
cơ quan giám sát chuyên ngành.
- Hạn chế về kinh phí: Chủ yếu các cơ quan giám sát tại Việt Nam hoạt động
bằng nguồn ngân sách hạn hẹp, nhưng ở các quốc gia phát triển, gần nhất là
Singapore, các tổ chức tài chính phải trả phí cho cơ quan giám sát và qua đó cơ
quan này có nguồn tiền dồi dào để hoạt động. Một phần hạn chế về kinh phí do tác
động của nợ công, hiện nay đây là vấn đề đáng quan ngại tại Việt Nam. Nợ công
của Việt Nam cuối năm 2014 là 60.3% GDP trong đó nợ công ngưỡng an toàn là
dưới 65% GDP (Phương Nhi, 2015). Tác hại của nợ công cũng ảnh hưởng đến sự
an toàn của hệ thống tài chính và tăng thêm trọng trách trong hoạt động giám sát.
Hạn chế trong phối hợp giữa các chủ thể giám sát tài chính
Đây là một nguyên nhân lớn tác động đến hiệu quả về mặt giám sát trong thị
trường tài chính, việc giám sát các trung gian tài chính đòi hỏi phối hợp chặt chẽ
của các chủ thể giám sát, nhưng tại Việt Nam kết nối này khá lỏng lẻo. Nguyên
nhân chính gây nên là do nhược điểm của mô hình giám sát phân tán, khu vực của
ai người đó quản lý và sự kết nối rất hạn chế.
Nhược điểm của hệ thống pháp lý về giám sát tài chính
- Các văn bản nhiều nhưng không chặt chẽ, thiếu cụ thể, chi tiết và còn mơ
hồ trong việc liệt kê các hoạt động được phép và không được phép. Ví dụ, một loạt
hệ thống văn bản pháp lý tại Việt Nam có câu “ và các hoạt động khác” mà không
nêu cụ thể đó là hoạt động nào.
- Hệ thống pháp lý điều chỉnh hoạt động thậm chí còn mâu thuẫn nhau nếu rà
soát lại các văn bản luật,
65
Hệ thống các chế tài xử phạt hành chính còn thấp, gây nên thiếu tính hiệu
quả răn đe, ngăn ngừa hành vi tái phạm và vi phạm.
Hạn chế trong việc công bố thông tin
Trên thị trường tài chính Việt Nam nói riêng và văn hóa kinh doanh nói
chung, chưa hình thành thói quen công bố thông tin của các tổ chức tài chính và các
chủ thể giám sát. Các tổ chức tài chính chưa nhận thức được lợi ích sâu xa của việc
công bố thông tin mà họ coi đó là bất lợi khi đối thủ cạnh tranh biết rõ về thông tin
của mình, thực trạng thông tin bất cân xứng đang là vấn đề nổi cộm trong thị trường
tài chính tại Việt Nam. Bên cạnh đó, các chủ thể giám sát cũng không mặn mà với
việc công bố thông tin giám sát của mình cũng như chia sẻ thông tin với các đơn vị
giám sát khác.
Thị trường tài chính chưa nhạy cảm với các thông tin về thanh tra, giám sát,
và xử lý vi phạm, phản ứng của thị trường còn khá chậm chạp. Vì vậy có những tổ
chức đã sai phạm và bị xử lý vi phạm nhưng vẫn tái phạm, chưa ý thức được vai trò
của giám sát tài chính đối với hoạt động của họ.
Bên cạnh đó, một nguyên nhân nữa cần đề cập đến là việc lựa chọn mô hình
giám sát tài chính hiện tại và trong tương lai còn chưa rõ ràng. Ủy ban giám sát tài
chính quốc gia được thành lập từ năm 2008, được kỳ vọng là động thái đầu tiên cho
quá trình chuyển đổi sang mô hình giám sát hợp nhất nhưng sau 8 năm hoạt động
vai trò của cơ quan này vẫn khá mờ nhạt. Các quy định, hoạt động của ủy ban này
đã có bước cải thiện vào năm 2012 nhưng vì chưa được giao đủ quyền lực nên hoạt
động chỉ dừng lại ở mức tư vấn và cảnh báo các tín hiệu nền kinh tế vĩ mô. Tuy
nhiên các báo cáo của Ủy ban cũng mang tính phân tích tổng hợp như của NHNN,
Ủy ban chứng khoán Nhà nước…chưa có độ sâu về phân tích các chỉ số vĩ mô cụ
thể và cảnh báo được các nguy cơ tín hiệu rủi ro hệ thống trong tương lai, bên cạnh
đó việc báo cáo tổng hợp còn khá chậm, chưa theo kịp thị trường. Hoạt động chính
yếu của Ủy ban vẫn là tư vấn cho Thủ tướng về các vấn đề về giám sát tài chính,
phối hợp cùng các đơn vị giám sát chuyên ngành.
66
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Trong chương 2, học viên đã phân tích thực trạng tổ chức và hoạt động của hệ
thống giám sát tài chính tại Việt Nam trong giai đoạn 2011-2015. Nhìn chung, đây
là giai đoạn biến động và hệ thống tài chính đang chịu hậu quả của khủng hoảng
kinh tế. Các cơ quan giám sát chuyên ngành tại Việt Nam đã có những bước thay
đổi khá mạnh mẽ khi Cục quản lý và giám sát bảo hiểm hay UBCKNN đều đã xây
dựng được các chỉ số đánh giá hoạt động của các tổ chức tài chính, đồng thời theo
đó là đề án tái cấu trúc hệ thống tài chính đối với lĩnh vực chứng khoán và ngân
hàng, làm thay đổi cục diện hệ thống tài chính tại Việt Nam. Bên cạnh những kết
quả đạt được như đã xây dựng khá đầy đủ về các bộ chỉ tiêu giám sát từ xa, đã phát
hiện những vi phạm, sai phạm, đã tái cơ cấu toàn bộ hệ thống giai đoạn 2011-2015,
đã có những giải pháp xử lý các vấn đề về nợ xấu… Các cơ quan giám sát vẫn còn
nhiều những tồn tại như giám sát vẫn nặng cơ chế hành chính, giám sát tuân thủ,
không dự báo được các nguy cơ rủi ro, trong khi các nước trên thế giới đã chuyển
dần sang giám sát dựa trên rủi ro, các hệ thống chỉ tiêu đánh giá rủi ro bước đầu đã
được xây dựng nhưng chưa được áp dụng cao. Mô hình giám sát theo đặc điểm thể
chế hiện nay tỏ không phù hợp với sự thay đổi của thị trường tài chính,
UBGSTCQG chưa phát huy được vai trò đầu tàu thống nhất giám sát chuyên ngành.
Bên cạnh đó, hệ thống giám sát Việt Nam đang thiếu giám sát an toàn vĩ mô, một
trong những nội dung giám sát quan trọng hiện nay. Từ việc phân tích thực trạng
chương 2, học viên đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện xây dựng hệ thống giám sát
tài chính tại Việt Nam.
67
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ XÂY DỰNG
HỆ THỐNG GIÁM SÁT TÀI CHÍNH TẠI VIỆT NAM
3.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG GIÁM SÁT TÀI CHÍNH TỚI
NĂM 2020.
3.1.1. Mục tiêu kinh tế - xã hội tầm nhìn tới năm 2020
Theo chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2020 của Đảng và
Nhà nước, ban hành ngày 16/2/2011, đến nay đã đi được hơn nửa chặng đường, đạt
được những thành tựu nhất định bên cạnh những tồn tại và hạn chế. Một vài hạn chế
như chất lượng tăng trưởng, năng suất hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn
thấp, các cân đối kinh tế vĩ mô chưa vững chắc, đầu tư dàn trải, việc sử dụng và
khai thác tiềm năng nguồn nhân lực còn hạn chế…Trong khi nền kinh tế đang phải
đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức đi đôi với những cơ hội và tiềm năng.
Năm 2015, đánh dấu cột mốc quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam khi
Việt Nam trở thành thành viên của cộng đồng kinh tế AEC - ASEAN Economic
Community và đàm phán, ký kết thành công hiệp định đối tác xuyên Thái Bình
Dương TPP, với sự hòa nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế mang đến cho Việt
Nam rất nhiều cơ hội trong việc thu hút nguồn vốn, công nghệ, kiến thức quản lý,
đồng thời tăng cường năng lực cạnh tranh mọi ngành nghề, từ đó thu hẹp khoảng
cách, chênh lệch trình độ phát triển so với các nước trong khu vực. Tuy nhiên bên
cạnh những cơ hội mang lại, trong bối cảnh kinh tế thế giới có những diễn biến
phức tạp và khó lường về bất ổn an ninh chính trị, khủng hoảng kinh tế toàn cầu,
tranh chấp lãnh thổ biển đảo.
Theo đó, mục tiêu tổng quát phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; Chính trị xã hội ổn định, dân chủ, kỷ
cương đồng thuận; Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ
rệt; Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; Vị thế của
68
Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên, tạo tiền đề vững chắc để phát
triển cao hơn trong giai đoạn sau.
3.1.1.1. Các mục tiêu cụ thể về lĩnh vực kinh tế.
Kinh tế là một lĩnh vực then chốt trong sự phát triển của một quốc gia, trong
chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011 - 2020, Đảng và Nhà nước đã đặt
ra các mục tiêu cụ thể về lĩnh vực kinh tế bao gồm:
- Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước bình quân 7 - 8%/năm.
- GDP đầu người theo giá thực tế khoảng 3000 USD.
- Đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, xây dựng cơ cấu kinh tế công nghiệp, nông
nghiệp dịch vụ hiệu quả hiện đại, tỷ trọng công nghiệp dịch vụ chiếm khoảng
85% GDP.
- Nông nghiệp có bước phát triển theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững,
nhiều sản phẩm có giá trị gia tăng cao; Chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với
chuyển dịch cơ cấu lao động; tỉ lệ lao động nông nghiệp khoảng 30 - 35% lao
động xã hội.
- Yếu tố năng suất tổng hợp đóng góp vào tăng trưởng đạt khoảng 35%; giảm
tiêu hao năng lượng tính trên GDP 2,5 - 3%/năm.
Để đạt được những mục tiêu đó, Đảng và Nhà nước cũng đã đưa ra những định
hướng về lĩnh vực kinh tế là:
- Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp,
hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa.
- Chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang
phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú
trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững.
- Thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, trọng tâm là cơ cấu lại các ngành sản xuất,
dịch vụ phù hợp với các vùng; Thúc đẩy cơ cấu lại doanh nghiệp và điều
chỉnh chiến lược thị trường; tăng nhanh giá trị nội địa, giá trị gia tăng và sức
cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và của cả nền kinh tế; Phát triển kinh
69
tế tri thức, gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế
xanh.
3.1.1.2. Các giải pháp cụ thể về lĩnh vực kinh tế
Để đạt được mục tiêu cụ thể và tuân theo định hướng phát triển kinh tế như
lộ trình cần có những giải pháp cụ thể và phù hợp bao gồm:
- Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ và hiện đại là tiền đề quan
trọng thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng
trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô.
- Tiếp tục đổi mới việc xây dựng và thực thi luật pháp bảo đảm cạnh tranh
bình đẳng, minh bạch giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Đổi mới công tác quy hoạch, kế hoạch và điều hành phát triển kinh tế theo cơ
chế thị trường, đồng thời thực hiện tốt chính sách xã hội. Thực hiện hệ thống
cơ chế và chính sách phù hợp, đặc biệt là cơ chế, chính sách tài chính, tiền tệ
nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành
mạnh của nền kinh tế.
- Chính sách tài chính quốc gia phải động viên hợp lý, phân phối và sử dụng
có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội; Phân phối lợi ích
công bằng. Tiếp tục hoàn thiện chính sách và hệ thống thuế, cơ chế quản lý
giá, pháp luật về cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh, bảo vệ
người tiêu dùng, các chính sách về thu nhập, tiền lương, tiền công. Thực hiện
cân đối ngân sách tích cực, bảo đảm tỉ lệ tích luỹ hợp lý cho đầu tư phát
triển; phấn đấu giảm dần bội chi ngân sách. Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính
sách tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước, nhất là các tập đoàn kinh tế và
các tổng công ty. Quản lý chặt chẽ việc vay và trả nợ nước ngoài, giữ mức
nợ chính phủ, nợ quốc gia và nợ công trong giới hạn an toàn. Tăng cường vai
trò giám sát ngân sách của Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp.
- Chính sách tiền tệ phải chủ động và linh hoạt thúc đẩy tăng trưởng bền vững,
kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền. Hình thành đồng bộ khuôn khổ
pháp lý về hoạt động ngân hàng. Mở rộng các hình thức thanh toán qua ngân
70
hàng và thanh toán không dùng tiền mặt. Điều hành chính sách lãi suất, tỉ giá
linh hoạt theo nguyên tắc thị trường. Đổi mới chính sách quản lý ngoại hối
và vàng; từng bước mở rộng phạm vi các giao dịch vốn; Tăng cường kiểm
tra, kiểm soát tiến tới xoá bỏ tình trạng sử dụng ngoại tệ làm phương tiện
thanh toán trên lãnh thổ Việt Nam. Tăng cường vai trò của Ngân hàng Nhà
nước trong việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ. Kết hợp chặt chẽ
chính sách tiền tệ với chính sách tài khoá. Kiện toàn công tác thanh tra, giám
sát hoạt động tài chính, tiền tệ.
- Bảo đảm quyền tự do kinh doanh và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
nhà nước, nhất là các tập đoàn kinh tế và các tổng công ty. Sớm hoàn thiện
thể chế quản lý hoạt động của các tập đoàn, các tổng công ty nhà nước. Đẩy
mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước; xây dựng một số tập đoàn kinh tế
mạnh, đa sở hữu, trong đó sở hữu nhà nước giữ vai trò chi phối. Phân định rõ
quyền sở hữu của Nhà nước và quyền kinh doanh của doanh nghiệp, hoàn
thiện cơ chế quản lý vốn nhà nước trong các doanh nghiệp. Khuyến khích
phát triển các loại hình doanh nghiệp, các hình thức tổ chức sản xuất kinh
doanh với sở hữu hỗn hợp, nhất là các doanh nghiệp cổ phần. Thu hút đầu tư
nước ngoài có công nghệ hiện đại, thân thiện môi trường và tăng cường sự
liên kết với các doanh nghiệp trong nước. Thực hiện Chương trình quốc gia
về phát triển doanh nghiệp gắn với quá trình cơ cấu lại doanh nghiệp. Hỗ trợ
phát triển mạnh các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tạo điều kiện để hình thành
các doanh nghiệp lớn, có sức cạnh tranh trên thị trường. Phát triển doanh
nhân về số lượng và năng lực quản lý, đề cao đạo đức và trách nhiệm xã hội.
Hoàn thiện khuôn khổ pháp luật để tăng cường sự gắn bó giữa người sử dụng
lao động và người lao động.
- Tạo lập đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường. Phát triển thị
trường hàng hoá, dịch vụ theo hướng tự do hoá thương mại và đầu tư. Phát
triển thị trường tài chính với cơ cấu hoàn chỉnh, quy mô tăng nhanh, phạm vi
71
hoạt động mở rộng, vận hành an toàn, được quản lý và giám sát hiệu quả.
Phát triển và kiểm soát có hiệu quả thị trường chứng khoán. Phát triển lành
mạnh, bền vững thị trường bất động sản, ngăn chặn tình trạng đầu cơ; hoàn
thiện cơ chế vận hành sàn giao dịch bất động sản. Phát triển thị trường lao
động, khuyến khích các hình thức giao dịch việc làm. Phát triển nhanh thị
trường khoa học, công nghệ; khuyến khích, hỗ trợ các hoạt động khoa học và
công nghệ theo cơ chế thị trường
3.1.2. Định hướng phát triển hệ thống giám sát tài chính lựa chọn mô hình
giám sát tài chính hợp nhất - tầm nhìn tới năm 2020
Qua mục tiêu phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2020, đối với một quốc
gia tăng trưởng kinh tế là vấn đề quan trọng nhất trong các chỉ tiêu kinh tế - xã hội.
Đi đôi với sự tăng trưởng kinh tế, vấn đề ổn định hệ thống tài chính quốc gia là yêu
cầu cấp bách trong giai đoạn hiện nay khi Việt Nam đã và đang hòa nhập sâu rộng
vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Có thể nói trong bối cảnh hiện nay nền kinh tế
thế giới và khu vực đang tiềm ẩn những bất ổn, mầm mống khủng hoảng có thể
bùng phát và gây ra những hậu quả, hệ lụy khó lường. Vai trò và mục tiêu hệ thống
giám sát cần thống nhất và toàn diện, tăng trưởng phát triển nền kinh tế phải đi đôi
với hoàn thiện và phát triển hệ thống giám sát.
3.1.2.1. Yêu cầu của hệ thống giám sát tài chính
- Hệ thống giám sát tài chính cần phải xóa bỏ đi những lỗ hổng trong giám
sát, đặc biệt với giám sát chuyên ngành, cùng với sự phát triển của các lĩnh vực
trong hệ thống tài chính, là sự phát triển của kinh doanh đa ngành và những sản
phẩm tích hợp. Hệ thống giám sát cần bỏ qua sự tách biệt các lĩnh vực riêng, thành
tổ hợp những yêu cầu và tiêu chuẩn chung nhất khi có sự tích hợp, đan xen một
cách đa dạng của các lĩnh vực.
- Các quy định về giám sát cần phải có sự nhất quán và đánh giá tổng quát
trước khi đưa ra những văn bản pháp lý điều chỉnh, đảm bảo sự công bằng cho các
72
tổ chức tham gia trên thị trường, đồng thời đảm bảo an toàn và tạo niềm tin cho hệ
thống phát triển bền vững
- Hệ thống giám sát cần tận dụng tối đa nguồn lực, quy mô, có thể sử dụng
để giám sát được cả hệ thống, tránh việc giám sát trùng lắp nhưng vẫn tạo nhiều lỗ
hổng.
- Yêu cầu cũng như mục tiêu mà một hệ thống giám sát tài chính cần đạt
được là: ổn định hệ thống tài chính; Đảm bảo hoạt động an toàn và lành mạnh của
các tổ chức tài chính; Bảo vệ người tiêu dùng các sản phẩm tài chính; Đảm bảo sự
cạnh tranh lành mạnh trên thị trường tài chính.
Vì các yêu cầu đó, mô hình hợp nhất tỏ ra ưu việt hơn cả vì nó phù hợp với
sự phát triển chung của hệ thống tài chính toàn cầu, đồng thời khắc phục được
những ưu điểm tổn tại của hệ thống giám sát tài chính Việt Nam hiện nay. Bên cạnh
đó đã có rất nhiều quốc gia đang áp dụng đặc biệt trong giai đoạn khủng hoảng tài
chính, các quốc gia này ít bị tác động, và số lượng các quốc gia chuyển đổi sang mô
hình hợp nhất một phần hay toàn phần đang ngày càng tăng lên nhanh chóng.
Tại Việt Nam, đã có những định hướng và đề án thống nhất trong việc
chuyển đổi mô hình giám sát tài chính phân tán hiện nay sang mô hình hợp nhất,
tuy nhiên chưa hề có một lộ trình xây dựng rõ ràng hay một đề án cụ thể về nội
dung này, chỉ dừng lại ở những động thái ban đầu như:
Theo quyết định số 112/2006/QĐ-TTg năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ
về đề án “Phát triển ngành ngân hàng đến 2010 và định hướng đến năm 2020” trong
đó đã đề cập đến xu hướng hoàn thiện và phát triển hệ thống giám sát của ngành
ngân hàng nói riêng, mở rộng ra hệ thống nói chung nhằm đáp ứng yêu cầu thực
tiễn phát triển của hệ thống và cần phải đảm bảo đúng các nguyên tắc, tiến gần hơn
phù hợp hơn với thông lệ và tiêu chuẩn quốc tế. Năm 2008 đã có Quyết định số
34/2008/QĐ-TTg Thủ tướng chính phủ về việc thành lập UBGSTCQG, năm 2015,
Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 15/2015/QĐ-TTg v/v sửa đổi, bổ sung
một số điều của Quyết định số 34/2008/QĐ-TTg. Cơ quan này khởi đầu cho xu
hướng hình thành hệ thống giám sát tài chính mô hình hợp nhất tại Việt Nam.
73
Nhiệm vụ đầu tiên là tư vấn, tham mưu cho chính phủ và thực hiện giám sát chung
thị trường tài chính ở cả 3 lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm.
Đặc biệt với Quyết định 15, các tổ chức giám sát chuyên ngành, các tổ chức
hoạt động trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm có trách
nhiệm phải cung cấp thông tin minh bạch cho UBGSTCQG. Ủy ban đồng thời xây
dựng hệ thống các chỉ tiêu giám sát gắn với các tiêu chuẩn thế giới. Trong suốt thời
gian vừa qua, dường như Ủy ban đã hoàn thành được trách nhiệm giao phó khi
thành lập nhưng ở mức độ chậm, một phần vì phạm vi hoạt động bị ràng buộc theo
các thông tư, quy định.
3.1.2.2. Lộ trình hoàn thiện hệ thống giám sát tài chính tại Việt Nam
Giai đoạn 1: Tiếp tục hoàn thiện, bổ sung vai trò giám sát tài chính của Ủy
ban giám sát tài chính quốc gia, tăng cường nâng cao hiệu quả đối với giám sát
chuyên ngành.
Cuối giai đoạn 1: Cần phải xây dựng được nguồn luật điều chỉnh về giám sát
tài chính chung nhất, xây dựng được bộ chỉ tiêu đánh giá hoạt động của các tổ chức
tài chính, đồng thời tiếp tục nâng cao năng lực giám sát chuyên ngành để chuẩn bị
chuyển sang giai đoạn tiếp theo. Cần hoàn thiện nâng cao nguồn lực, đầu tư hệ
thống máy móc trang thiết bị, kỹ thuật, thu thập xử lý thông tin dữ liệu, đảm bảo
việc kết nối thông tin dữ liệu giữa các cơ quan giám sát chuyên ngành, rõ ràng minh
bạch trong việc xử lý và chia sẻ thông tin. Tóm lại cần xây dựng một nền tảng vững
chắc cho giám sát hợp nhất.
Giai đoạn 2: Kết thúc giai đoạn một, hệ thống giám sát tài chính đã xây
dựng được một nền móng vững chắc, chuẩn bị cho việc chuyển tiếp giai đoạn. Theo
đó, UBGSTCQG đã ổn định trong hoạt động, nâng cao được vai trò trong hệ thống
giám sát, tạo cầu nối kết nối giữa các giám sát chuyên ngành. Hệ thống xử lý thông
tin dữ liệu đồng bộ và cập nhật, bên cạnh đó các cơ quan giám sát chuyên ngành đã
chia sẻ một nguồn dữ liệu và trao đổi thông tin một cách nhanh chóng, hiệu quả. Hệ
thống pháp lý điều chỉnh hoạt động giám sát chung nhất đã được xây dựng.
Các công việc cần xây dựng trong giai đoạn 2 bao gồm:
74
Giao phó việc giám sát hệ thống tài chính cho UBGSTCQG, ủy ban này
không chỉ dừng ở phạm vi tham mưu, được yêu cầu các chủ thể giám sát cung cấp
thông tin, cần phải thực sự được giao hoạt động giám sát.
- Về cơ cấu tổ chức, theo đó trong ủy ban sẽ có các phòng ban chuyên biệt về
các lĩnh vực riêng ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm.
- Thiết lập cơ chế cho phép UBGSTCQG được quyền cấp phép, thu hồi, xử
phạt đối với các tổ chức tài chính.
- Các cơ quan giám sát chuyên ngành định kỳ phải báo cáo bắt buộc đối với
Ủy ban, đồng thời chịu sự quản lý, thanh tra, kiểm tra đột xuất của ủy ban
trong lĩnh vực giám sát.
- Hoàn thiện cơ cấu mô hình hệ thống giám sát tài chính hợp nhất, từ các cơ
quan giám sát chuyên ngành và UBGSTCQG, ban hành và thực hiện bộ tiêu
chuẩn đánh giá hoạt động giám sát tài chính trong toàn hệ thống.
- Hợp nhất hệ thống công nghệ, trao đổi, phân tích thông tin dữ liệu về
UBGSTCQG.
3.2. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VÀ XÂY DỰNG HỆ THỐNG
GIÁM SÁT TÀI CHÍNH HỢP NHẤT TẠI VIỆT NAM
Đề thực hiện được lộ trình đã đề ra trong việc hoàn thiện mô hình giám sát tài chính
hợp nhất tại Việt Nam, cần có những giải pháp cụ thể sau:
3.2.1. Củng cố, tăng cường năng lực giám sát của mô hình giám sát hiện tại.
Nâng cao vai trò của Ủy ban giám sát tài chính quốc gia.
Hiện nay hệ thống giám sát tài chính ở Việt Nam được tổ chức theo mô hình
giám sát phân tán, các cơ quan quản lý, giám sát một khu vực thị trường tài chính
nhất định như ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, với đặc điểm của mô hình phân
tán, sự tách biệt và thiếu sự liên kết của các cơ quan giám sát dẫn đến sự phối kết
hợp chưa được chặt chẽ và đạt hiệu quả cao. Do đó trong thời gian tới từ nay đến
năm 2020, ngoài việc chuẩn bị đầy đủ về nhân lực, vật lực, tài lực để chuẩn bị các
điều kiện chuyển sang mô hình giám sát hợp nhất thì vấn đề nâng cao năng lực
75
giám sát, cơ chế phối hợp hoạt động và chia sẻ thông tin, giám sát thị trường giữa
NHNN, BTC cần được chú trọng và nâng cao nhằm đảm bảo chức năng giám sát tổ
chức tài chính nói riêng và đảm bảo an toàn hệ thống tài chính quốc gia nói chung.
Đồng thời các mô hình giám sát tài chính cần phải tiếp tục có sự điều chỉnh, củng
cố để đáp ứng các yêu cầu phát sinh trong giai đoạn hiện nay.
UBGSTCQG được thành lập vào năm 2008 với các chức năng tham mưu, tư
vấn cho Thủ tướng Chính phủ trong phân tích, đánh giá, dự báo tác động của thị
trường tài chính đến kinh tế vĩ mô và tác động của chính sách kinh tế vĩ mô đến thị
trường tài chính; điều phối hoạt động giám sát thị trường tài chính quốc gia (ngân
hàng, chứng khoán, bảo hiểm); giúp Thủ tướng Chính phủ giám sát chung thị
trường tài chính quốc gia. Tuy nhiên hiện nay vai trò của Ủy ban giám sát tài chính
quốc gia còn chưa rõ nét và chưa mang tính định hướng rõ rệt. Do đó trong thời
gian tới vai trò của Ủy ban giám sát tài chính quốc gia cần được nâng cao thông qua
việc trao quyền lực cho ủy ban, được phép thanh tra, kiểm tra, các cơ quan giám sát
chuyên ngành và các tổ chức tài chính phải báo cáo định kỳ cho ủy ban. Đặc biệt tại
Việt Nam hiện nay chưa có cơ quan giám sát riệng biệt định chế tài chính, tập đoàn
tài chính, những tổ chức tài chính hoạt động đa lĩnh vực. UBGSTCQG kỳ vọng sẽ
là cơ quan giám sát thống nhất những tổ chức này.
3.2.2. Hoàn thiện và xây dựng hệ thống pháp luật cho hệ thống giám sát tài
chính hợp nhất tại Việt Nam.
Hiện tại, quy định pháp luật về giám sát tài chính của Việt Nam được quy
định tại nhiều văn bản như: Luật Ngân hàng, Luật Chứng khoán, Luật Bảo hiểm,
Luật Thanh tra gây ra sự chồng chéo, chia tách, không đảm bảo tính thống nhất,
đồng bộ trong công tác quản lý giữa các cơ quan giám sát. Do đó trong thời gian tới
việc rà soát, tổng hợp các quy định cụ thể trong Luật cần được chú trọng xử lý
nhằm xác định mức phù hợp của các văn bản Luật trong bối cảnh thực tiễn của thị
trường tài chính Việt Nam hiện nay và từ đó làm cơ sở đưa ra quy định pháp luật
phù hợp. Đồng thời tăng mức xử phạt hành chính, khung xử lý đối với các tổ chức
tài chính vi phạm nhằm mang tính răn đe cảnh báo, ngăn ngừa các hành vi vi phạm
76
cho những tổ chức khác trong việc hoạt động tuân thủ pháp luật, nhằm tăng cường
tính minh bạch và đảm bảo hoạt động lành mạnh của thị trường.
- Cần phải thay đổi và hoàn thiện mô hình tổ chức của UBGSTCQG, phân chia
thành các phòng ban phụ trách từng lĩnh vực riêng biệt trong hệ thống giám sát tài
chính ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm.
- Tăng cường vai trò và thẩm quyền cho UBGSTCQG, được phép trực tiếp
ngăn chặn ảnh hưởng đến đảm bảo an toàn của hệ thống, ví dụ như được phép ngăn
chặn hoạt động hay ngưng các hoạt động của các tổ chức tài chính, của thị trường để
đảm bảo an toàn cho hệ thống.
- Hệ thống các văn bản pháp lý liên ngành quy định phối hợp giữa
UBGSTCQG với các cơ quan giám sát chuyên ngành, đồng thời yêu cầu các đơn vị
này phải có trách nhiệm báo cáo thường xuyên định kỳ cho UBGSTCQG.
- Xây dựng hệ thống luật giám sát trong đó cần có những nội dung như:
+ Xác định vai trò của UBGSTCQG chính yếu trong mô hình giám sát tài
chính hợp nhất, cơ quan này trực thuộc Chính phủ.
+ Là cơ quan chủ trì xây dựng các dự thảo văn bản luật liên quan đến các vấn
đề về giám sát và đảm bảo an toàn cho hệ thống, có trách nhiệm báo cáo, xây dựng đề
án chiến lược phát triển hệ thống tài chính.
+ Chịu trách nhiệm trong việc báo cáo với Chính phủ về sự bất ổn tài chính,
những sai phạm trong hoạt động của các tổ chức tài chính và giải thích các vấn đề thị
trường.
3.2.3. Xây dựng hệ thống thông tin giám sát tài chính
Hệ thống Quản lý thông tin giám sát tài chính Quốc gia được xây dựng và
hình thành vào năm 2008 nhằm mục tiêu thu thập, xử lý và tổng hợp thông tin từ
các tổ chức tài chính Việt nam. Qua đó tính toán các chỉ tiêu giám sát, phục vụ hoạt
động chuyên môn của UBGSTCQG. Tuy nhiên do vận hành theo mô hình giám sát
phân tán, thì hệ thống thông tin phục vụ cho công tác giám sát bộc lộ một số mặt
hạn chế, chưa đầy đủ, kịp thời, thường xuyên. Công tác thống kê, hạch toán đôi khi
còn chưa theo đúng các chuẩn mực quốc tế nên khó so sánh khi đánh giá mức độ rủi
77
ro. Với tầm quan trọng trong việc tổng hợp thông tin từ các tổ chức tài chính do đó
hệ thống Quản lý thông tin giám sát tài chính Quốc gia cần chủ động về nguồn
thông tin, xây dựng và từng bước hoàn thiện kho dữ liệu phục vụ công tác giám sát
thị trường tài chính Việt Nam, đo lường hoạt động của các tổ chức tài chính, qua đó
sẽ là cơ sở cho việc tạo lập hệ thống cảnh báo sớm rủi ro hệ thống tài chính Việt
Nam. Việc giám sát toàn hệ thống cần phải có một cơ sở dữ liệu, thuận tiện cho việc
khai thác trao đổi lưu trữ thông tin, đảm bảo các cơ quan có chức năng giám sát đều
sử dụng và nhập dữ liệu cùng một hệ thống để đưa ra những con số chính xác, phản
ánh đúng, đồng bộ với thực trạng của hệ thống.
Các yêu cầu cần có cho hệ thống xử lý thông tin dữ liệu như:
- Các đơn vị cần phải nhập dữ liệu vào hệ thống theo định kỳ, đảm bảo minh
bạch và khách quan trong việc cung cấp dữ liệu.
- Cần tập hợp và xử lý thông tin, căn cứ vào các chỉ tiêu giám sát tài chính,
lượng hóa các con số dữ liệu thành các chỉ tiêu tài chính
- Phân tích tổng quan các chỉ số tài chính từ đó đưa ra các báo cáo cụ thể,
chuyển đến từng đối tượng phù hợp với yêu cầu của giám sát tài chính.
3.2.4. Xây dựng hệ thống chỉ tiêu giám sát tài chính
Với sự phát triển mạnh mẽ, đa dạng của các tổ chức tài chính trong thị trường
tài chính trong bối cảnh hiện nay đặt ra rất nhiều vấn đề đáng lưu tâm đối với mỗi
quốc gia trong đó có Việt Nam. Trong đó yếu tố giám sát, ngăn ngừa, cảnh bảo rủi ro
luôn là vấn đề được đặt ra hàng đầu. Tại Việt Nam hệ thống giám sát tài chính
thường tập trung vào giám sát tuân thủ bằng việc giám sát các chủ thể, tổ chức tài
chính đã thực hiện đúng các cơ chế, chính sách, các tiêu chí mà cơ quan quản lý đã
ban hành hay chưa, mà chưa coi trọng hoạt động giám sát cảnh báo, ngăn ngừa các
rủi ro tài chính của các tổ chức tài chính do đó việc thực hiện giám sát cảnh báo, rủi
ro, an toàn vĩ mô vẫn còn hạn chế, yếu kém. Trong thời gian tới cùng với sự nỗ lực
của các cơ quan chức năng có thẩm quyền việc xây dựng và ban hành quy định
thống nhất về cách thức giám sát cho toàn bộ hệ thống tài chính là vấn đề cấp bách
hiện nay, hướng tới phương thức giám sát dựa trên rủi ro thay vì giám sát tuân thủ.
78
Bên cạnh đó, cần đề cập đến bộ chỉ tiêu về giám sát an toàn vĩ mô cần được xây
dựng, chuyển đổi thành hệ thống pháp lý, áp dụng theo như Bộ chỉ tiêu giám sát tài
chính của Ủy ban kinh tế quốc hội đã ban hành năm 2012. Năm 2014, NHNN và
các cơ quan quản lý tài chính đã triển khai chương trình Báo cáo đánh giá khu vực
tài chính tại Việt Nam FSAP cùng với Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ
quốc tế (IMF). Đây cũng là bước đệm tạo điều kiện để Việt Nam ngày càng củng cố
và tăng cường hiệu quả giám sát, đặc biệt là giám sát an toàn vĩ mô.
3.2.5. Phát triển đội ngũ nguồn nhân lực
Để hệ thống giám sát hợp nhất hoạt động hiệu quả, thông suốt đáp ứng yêu
cầu giám sát trong bối cảnh tự do hóa tài chính hiện nay, yếu tố nguồn nhân lực là
một trong những vấn đề cần được lưu tâm, đặc biệt là những yếu tố về chuyên môn
nghiệp vụ, năng lực quản trị, đạo đức cũng cần được trang bị. Để nâng cao công tác
chuyên môn, nghiệp vụ nguồn nhân lực trong cơ quan giám sát cần được tăng
cường đào tạo, bồi dưỡng, tham gia các khóa học và tham quan thực tế mô hình
giám sát tại các nước trên thế giới từ đó tiếp thu tinh hoa và những kinh nghiệm quý
báu để vận dụng thực tế vào công việc. Đi đôi với việc sử dụng và phát triển nguồn
nhân lực thì vai trò của sắp xếp, bố trí cơ cấu tổ chức của hệ thống giám sát là nhân
tố quyết định đến tính hiệu quả, khả thi của việc sử dụng nguồn lực.
3.2.6. Định kỳ đánh giá hoạt động của hệ thống giám sát tài chính
Đây là một công việc cũng rất quan trọng, trong quá trình minh bạch hóa
thông tin, hoạt động của cơ quan giám sát cũng phải được đánh giá bằng các báo
cáo trước Chính phủ, các cơ quan chức năng, công chúng, tùy vào mức độ công
khai thông tin và vẫn phải đảm bảo trong quy định giữ bí mật các thông tin quan
trọng theo luật định.
Một vài chỉ tiêu có thể đánh giá được hoạt động của hệ thống giám sát tài
chính như:
- Khả năng phát hiện, xử lý kịp thời các hành vi vi phạm thị trường.
79
- Khả năng nắm bắt và dự báo các nguy cơ gây bất ổn hệ thống và đưa ra
những biện pháp ngăn chặn kịp thời, nhận diện rủi ro hệ thống và các nguy cơ gây
nên rủi ro hệ thống.
Cơ quan đánh giá hoạt động của hệ thống giám sát tài chính phải là một đơn
vị độc lập như các chuyên gia về lĩnh vực kinh tế trong và ngoài nước, không có
mối quan hệ với các cơ quan giám sát để đảm bảo tính độc lập và khách quan, trung
thực trong giám sát, đồng thời phải là những người có tầm hiểu biết rất sâu rộng,
khả năng phân tích tổng hợp tốt mới có thể đảm đương được công việc khá khó
khăn này. Cơ quan đánh giá cần tổng hợp đưa ra những khuyến nghị để có thể kịp
thời chỉnh sửa về mặt chính sách hoạt động, cơ cấu tổ chức … theo tình hình thực
tiễn và theo báo cáo chuyên sâu.
3.2.7. Tiếp cận các chỉ tiêu cho phù hợp với thông lệ quốc tế.
Hệ thống các chỉ tiêu giám sát an toàn vi mô dần phải được thay đổi và ngày
càng phù hợp hơn với thông lệ quốc tế, tôn chỉ hoạt động trong hệ thống tài chính
nói riêng và nền kinh tế nói chung là phát triển bền vững, vậy nên các doanh nghiệp
cũng cần phát triển một cách bền vững, không phải tăng trưởng nóng hay phát triển
mà bỏ qua các vấn đề về xã hội. Bên cạnh hệ thống giám sát còn có các hệ thống bổ
trợ như kiểm toán nội bộ, hệ thống xếp hạng tín nhiệm…từng lĩnh vực, đến toàn bộ
hệ thống bao gồm cả những yếu tố liên quan đều phải thay đổi đồng bộ. Hiện nay
các quốc gia trên thế giới sử dụng phương pháp giám sát rủi ro, một phương pháp
giám sát hiện đại, sử dụng các mô hình định lượng kiểm tra khả năng chịu rủi ro
như mô hình ST kiểm tra khả năng sức chịu đựng các cú sốc tài chính - tiền tệ.
Giám sát dựa trên rủi ro sẽ đón đầu được những xu hướng và những nguy cơ gây
ảnh hưởng đến hệ thống, thay vì giám sát từ xa sử dụng các báo cáo theo tháng,
quý, năm…sẽ có độ trễ nhất định.
80
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Chương 3 đã đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống giám sát tài chính tại
Việt Nam, trong đó một trong những giải pháp cần chú ý là đẩy nhanh việc hoàn
thiện vai trò giám sát cho UBGSTCQG, tạo đà để chuyển đổi mô hình giám sát tài
chính hợp nhất. Bên cạnh đó, cần tiếp tục củng cố các cơ quan giám sát chuyên
ngành, để tạo nền móng chắc chắn cho hệ thống giám sát. Đồng thời, Nhà nước cần
phải hoàn thiện vấn đề pháp lý cho hoạt động giám sát, tránh sự chồng chéo, mâu
thuẫn trong các văn bản luật. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần phải xây dựng hệ
thống thông tin dữ liệu thống nhất cho toàn bộ các chủ thể giám sát. Nhìn chung,
các giải pháp đưa ra đều dựa trên mục tiêu thống nhất, tăng tính liên kết giữa các
chủ thể giám sát, làm tăng hiệu quả trong hoạt động giám sát.
81
KẾT LUẬN
Qua việc nghiên cứu về Hệ thống giám sát tài chính tại Việt Nam, học viên đã đưa
ra những đánh giá về hệ thống giám sát, những tồn tại, hạn chế của hệ thống, từ đó
đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống giám sát tài chính. Mục tiêu dài
hạn là Việt Nam cần phải chuyển đổi nhanh chóng hơn nữa sang mô hình giám sát
tài chính hợp nhất, củng cố giám sát chuyên ngành, tăng nhiệm vụ và trách nhiệm,
quyền lực cho UBGSTCQG. Một đơn vị được thành lập với sứ mệnh giám sát vĩ
mô và định hướng tạo nền móng để xây dựng mô hình giám sát hợp nhất, nhưng sau
8 năm đi vào hoạt động, vai trò của UBGSTCQG vẫn còn mờ nhạt. Một hệ thống
giám sát tốt sẽ tạo ổn định cho nền kinh tế cũng như hệ thống tài chính, tạo môi
trường cạnh tranh lành mạnh và bảo vệ những người tiêu dùng khi tham gia hệ
thống. Mỗi quốc gia sẽ có những phương thức, tổ chức, công cụ, biện pháp giám sát
khác nhau phù hợp với các yếu tố kinh tế, xã hội. Tại Việt Nam, nhìn chung trong
giai đoạn 2011 - 2015, các cơ quan giám sát đã tạo khá nhiều dấu ấn, tiếp cận và áp
dụng các phương thức mới, xây dựng những đề án như Đề án tái cấu trúc, báo cáo
đánh giá khu vực tài chính trong khuôn khổ Chương trình đánh giá khu vực tài
chính FSAP do WB, IMF tổ chức. Để xây dựng được một hệ thống giám sát hoàn
thiện và hiệu quả cần có sự đồng hành của Đảng, Nhà nước, các cơ quan giám sát
chuyên ngành và những chủ thể tham gia trên thị trường trong việc xây dựng và
hoàn thiện hệ thống về mô hình, cấu trúc, chức năng, và hệ thống các chỉ tiêu,
phương thức giám sát. Hy vọng, trong tương lai, hệ thống giám sát Việt Nam ngày
càng hoàn thiện phát triển, cùng với nền kinh tế và thị trường tài chính.
82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu nước ngoài
1. Andrew Crockett 2011, What financial system for the 21st century? Per
Jacobson lecture, Basel, June 26, 2011.
2. A. Joanne Kellermann Jakob de Haan Femke de Vries 2013, Financial
Supervision in the 21st Century, Springer-Verlag Berlin Heidelberg.
3. Basel committee on banking supervision 2011, Core Principles for Effective
Banking Supervision, Bank for International Settlements, December 2011.
4. Cheryl Ho 2014, ‘Financial Stability: The Financial Stability Function within
MAS’, Monetary Authority Of Singapore.
5. Cheryl Ho 2014,’ Macro Surveillance Framework, Methods and Techniques’
Monetary Authority Of Singapore.
6. Cheryl Ho 2014, MAS’ Approach to Financial Supervision, Monetary
Authority Of Singapore.
7. Dirk Schoenmaker 2011, Financial Supervision in the EU, Encyclopedia of
Financial Globalization.
8. Fernando L. Delgado and Mynor Meza 2011, Developments in Financial
Supervision and the Use of Macroprudential Measures in Central America,
International Monetary Fund.
9. Group of Thirty G30 2008, The structure of Financial Supervision
Approaches and Challenges in a Global Marketplace, Washington DC
10. IOSCO 2003, Objectives and Principles of Securities Regulation, IOSCO
11. Martin Čihák and Alexander Tieman 2008, ‘Quality of Financial Sector
Regulation and Supervision Around the World’, IMF Working Paper
12. Martin Schuler 2004, ‘Integrated Financial Supervision in Germany’,
Discussion Pap, No. 04-35
83
13. N. Nergiz Dincery and Barry Eichengreenz 2012, ‘The Architecture and
Governance of Financial Supervision: Sources and Implications’,
International Finance, 15:3, 2012: pp. 309 – 325.
14. The Financial Action Task Force – FATS 2015, Effective supervision and
enforcement by AMl/CFT supervisors of the financial sector and law
enforcement, FATS, Paris.
Tài liệu trong nước
15. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam 2014, Báo cáo thường niên của Bảo hiểm tiền
gửi Việt Nam năm 2014
16. Bộ Tài chính 2011, Báo cáo thường niên của Cục quản lý giám sát bảo hiểm
năm 2011
17. Bộ Tài chính 2012, Báo cáo thường niên của Cục quản lý giám sát bảo hiểm
năm 2012
18. Bộ Tài chính 2013, Báo cáo thường niên của Cục quản lý giám sát bảo hiểm
năm 2013
19. Bộ Tài chính 2014, Báo cáo thường niên của Cục quản lý giám sát bảo hiểm
năm 2014
20. Bộ Tài chính 2013, Báo cáo thường niên của Ủy ban chứng khoán Nhà nước
năm 2013
21. Bộ Tài chính 2014, Báo cáo thường niên của Ủy ban chứng khoán Nhà nước
năm 2014
22. Bộ Tài chính 2014, Thông tư 195/2014/TT-BTC, Thông tư hướng dẫn đánh
giá, xếp loại doanh nghiệp bảo hiểm
23. Bùi Kim Yến và các cộng sự 2008, Giáo trình thị trường tài chính thị trường
chứng khoán, NXB Thống kê.
24. Chính phủ 2011, Nghị Quyết 10/NQ-CP Chiến lược phát triển kinh tế xã hội
2011-2020
84
25. Dương Thị Bình Minh, Sử Đình Thành 2004, Lý thuyết tài chính tiền tệ,
NXB Thống kê.
26. Đỗ Thị Kim Hảo 2010,’Xu hướng giám sát và bài học tổ chức hệ thống
giám sát trên thế giới đối với Việt Nam’, Tạp chí khoa học và đào tạo ngân
hàng, số 103, trang 56 – 68
27. Hà Huy Tuấn 2015, Xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng Việt Nam giai
đoạn 2012 – 2015 và những vấn đề đặt ra, Chương trình giảng dạy kinh tế
Fulbright, ngày 9/11/2015.
28. La Hường 2009,‘Giám sát tài chính, bài học từ sự đổ vỡ của hệ thống ngân
hàng Iceland và kinh nghiệm giám sát từ các ngân hàng Trung Quốc’, Tạp
chí chứng khoán, số 7 trang 66-69
29. Lê Thị Mận 2012, Nghiệp vụ ngân hàng trung ương, NXB Lao động - Xã
hội.
30. Lê Thị Tuấn Nghĩa, Nguyễn Thành Nam 2010,‘Hoàn thiện hệ thống giám sát
tài chính tại Việt Nam’, Tạp chí khoa học và đào tạo ngân hàng, số 101,
trang 24-34
31. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2011, Báo cáo thường niên của NHNN năm
2011
32. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2011, Báo cáo thường niên của NHNN năm
2012
33. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2011, Báo cáo thường niên của NHNN năm
2013
34. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2011, Báo cáo thường niên của NHNN năm
2014
35. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2015, Báo cáo thống kê tính đến ngày
31/12/2015
36. Nguyễn Chí Đức, Nguyễn Minh Kiều, Hoàng Trọng, 2012,‘Phân tích hệ
thống giám sát tài chính ngân hàng Việt Nam’, Tạp chí khoa học, số 2, trang
17-25
85
37. Nguyễn Thái Hà 2011, ‘Khung pháp luật cho hệ thống giám sát tài chính của
Việt Nam từ nay đến 2020’, Tạp chí khoa học & đào tạo ngân hàng, số 106,
trang 24-28.
38. Nguyễn Thị Kim Thanh 2010,‘Hệ thống giám sát tài chính của Việt Nam,
thực trạng và một số định hướng phát triển’, Tạp chí Thị trường tài chính
tiền tệ, số 12 trang 22-25
39. Phương Nhi 2015,’Phấn đấu nợ công giảm còn khoảng 60.2% GDP’, báo
điện tử chính phủ, phu-Thu-tuong-Chinh-phu/Phan-dau-no-cong-giam-con-khoang-602- GDP/220261.vgp> truy cập ngày 18/20/2016. 40. Tô Ngọc Hưng và các cộng sự 2011, Hệ thống giám sát tài chính quốc gia, Chương trình KHCN trọng điểm cấp nhà nước, Bộ khoa học và công nghệ, Hà Nội 41. Tô Ngọc Hưng 2010, ‘Lộ trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống giám sát tài chính Việt Nam tới năm 2020’, Tạp chí khoa học & đào tạo ngân hàng, số 102, trang 5-13 42. Ủy ban kinh tế của Quốc hội 2012, Các chỉ tiêu giám sát tài chính, Nhà xuất bản tri thức, Hà Nội 43. Ủy ban giám sát tài chính quốc gia 2013, Báo cáo hoạt động của Ủy ban giám sát tài chính quốc gia (2008-2012), định hướng hoạt động (2013- 2015). 86 PHỤ LỤC 1: Các chỉ tiêu đo lường rủi ro của hệ thống tài chính theo ADB Nợ nước ngoài và dòng tài chính Tỷ trọng vốn đầu tư trực Hoạt động đầu tư rất quan trọng đối với sự phát triển tiếp = Lượng vốn đầu tư kinh tế của một quốc gia. Vốn đầu tư trực tiếp và đầu trực tiếp/GDP danh nghĩa tư gián tiếp là hai dòng tiền vào trong nền kinh tế, Tỷ trọng vốn đầu tư gián trong khi đầu tư trực tiếp, các nhà đầu tư trực tiếp tiếp = Lượng vốn đầu tư tham gia quản lý, hoạt động các lĩnh vực đầu tư khác gián tiếp/GDP danh nghĩa nhau thì đầu tư gián tiếp, nhà đầu tư thông qua việc mua cổ phẩn, chứng chỉ quỹ đầu tư… Tổng nợ trên GDP danh Chỉ số này đo lường khả năng thanh khoản của một nghĩa quốc gia, với ý nghĩa nguồn trả nợ được lấy từ nguồn thu nhập hàng năm của một đất nước Tiền tệ và tín dụng Tín dụng nội địa/GDP Chỉ số này cảnh báo những nguy cơ khủng hoảng kinh danh nghĩa tế, vì mức tăng trường tín dụng phải hài hòa mới mức tăng trường GDP, nếu quá cao tức đang ở trong thời kỳ tín dụng nóng. Chỉ số này thường tăng trong giai đoạn đầu của khủng hoảng hệ thống ngân hàng. Tốc độ tăng trưởng cung Chỉ số đo lường tính thanh khoản trong nền kinh tế, tiền M1 và M2 nếu chỉ số quá cao có thể có nguy cơ khủng hoảng tiền tệ M2 (%GDP) Chỉ số đo lường độ sâu của tài chính, nếu chỉ số này cao chứng tỏ hiệu quả trong việc chuyển từ tiền thành tài sản, hay hiệu quả trong việc đầu tư Số nhân tiền tệ Chỉ số này gắn với sự tự do hóa tài chính M2/MB (Money Base) 87 M2 (% Dự trữ ngoại hối) Chỉ số đo lường mức độ nợ của hệ thống ngân hàng trong phần dự trữ ngoại hối. Khi có dấu hiệu khủng hoảng, các chủ thể thường đổi nội tệ ra ngoại tệ làm kênh dự trữ thay thế, chỉ số này đo lường khả năng đáp ứng được nhu cầu đó của NHTW Tín dụng đối với khu vực Khả năng thanh toán của khu vực nhà nước công/GDP danh nghĩa CAR - Hệ số an toàn vốn Chỉ số này đo lường mức vốn đáp ứng cho các rủi ro tối thiểu= Vốn tự có/Tổng mà một tổ chức tài chính gặp phải. Hệ số này thấp tài sản có rủi ro chứng tỏ định chế đó đang có vấn đề trong nguồn vốn, vốn không đủ để đảm bảo hoạt động an toàn Tín dụng của NHTW cấp Chỉ số này phản ánh tính thanh khoản trong hệ thống cho các tổ chức tài chính= các tổ chức tài chính, nếu chỉ số này cao chứng tỏ Vốn NHTW cấp/Vốn tự có NHTW đang phải ứng phó, cứu trợ cho các tổ chức tài (Tổng nợ phải trả) chính nhằm đảm bảo an toàn cho hệ thống Khu vực ngân hàng ROA= Thu nhập ròng/ Đây là chỉ số đo lường khả năng sinh lời, tuy nhiên Tổng tài sản bình quân nếu chỉ số này cao bất thường cần xem xét lại Tỷ trọng vốn/ Tổng tài sản Chỉ số này thể hiện mức độ đầy đủ và sẵn sàng về vốn để chống đỡ những rủi ro của các tổ chức tài chính trong lĩnh vực và phạm vi hoạt động của họ Cho vay khu vực trọng Chỉ số này thể hiện mức độ tập trung vốn trong nền điểm của nền kinh tế kinh tế vào một hay một vài lĩnh vực nào đó. Nếu chỉ số này cao, nền kinh tế dễ gặp phải rủi ro danh mục ( trong rủi ro tín dụng) và dễ bị tác động bởi yếu tố ngành nghề lĩnh vực đó Tỷ trọng cho vay trong Đã có nhiều cuộc khủng hoảng lây lan bắt nguồn từ lĩnh vực bất động sản khủng hoảng trong lĩnh vực, bất động sản là một lĩnh 88 vực nhạy cảm, dễ biến động giá, dễ bùng nổ và đổ vỡ chu kỳ. Tỷ trọng nợ xấu Đây là một chỉ tiêu về chất lượng tín dụng, nếu tỷ trọng nợ xấu cao, gây nên rủi ro tín dụng, ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của hệ thống Tổng cho vay/tổng tiền gửi Chỉ số này thể hiện khả năng huy động vốn của các ngân hàng, nếu chỉ số này cao, chứng tỏ khả năng huy động vốn kém, thể hiện tính thanh khoản kém. Lãi suất Lãi suất trên thị trường Lãi suất là nhân tố thể hiện phần nào tình trạng của liên ngân hàng/Lãi suất nền kinh tế, cần phân tích kỹ về mức dao động lãi suất, trên thị trường tiền tệ đường cong lãi suất bên cạnh tỷ lệ lãi suất. Thị trường chứng khoán và trái phiếu Chỉ số giá chứng khoán Đây là chỉ số tổng hợp của các loại chứng khoán niêm tổng hợp yết, nếu chỉ số giá xuống thấp là sự bất ổn của thị trường Thương mại và quỹ dự trữ ngoại hối Tỷ trọng thâm hụt tài Chỉ số này tăng mạnh là dấu hiệu dòng vốn nước khoản vãng lai = Thâm hụt ngoài vào ồ ạt, dễ gây ra hiện tượng bùng nổ giá tài tài khoản vãng lai/GDP sản và tín dụng danh nghĩa Tỷ giá thực Khi đồng nội tệ tăng giá cao trong điều kiện thâm hụt tài khoản vãng lai, sẽ càng làm tình trạng thêm trầm trọng, nguy cơ rủi ro ngoại hối cho nền kinh tế Dự trữ ngoại hối quốc gia Tỷ lệ dự trữ ngoại hối trên Sự tăng trưởng nhanh về tín dụng nội địa liên quan tới nhập khẩu cầu tiền, mất cân bằng ngân quỹ và tín dụng tới khu vực công có thể làm cạn kiệt quỹ dự trữ ngoại hối. Nếu 89 tỷ lệ dự trữ ngoại (trong NHTW và toàn bộ hệ thống tài chính) trên nợ ngắn hạn thấp thì có thể coi là dấu hiệu, ảnh hưởng đến an toàn của hệ thống. Tỷ lệ dự trữ ngoại hối trên Chỉ số này phản ánh mức đầy đủ dự trữ hoặc cách thức nhập khẩu mà hệ thống tài chính có thể phản ứng với nhu cầu nhập khẩu của nền kinh tế. 90 PHỤ LỤC 2: MÔ HÌNH GIÁM SÁT THỂ CHẾ TẠI TRUNG QUỐC Nguồn: Group of Thirty G30, (2008), The structure of Financial Supervision Approaches and Challenges in a Global Marketplace 91 PHỤ LỤC 3: MÔ HÌNH GIÁM SÁT THEO CHỨC NĂNG TẠI PHÁP Nguồn: Group of Thirty G30, (2008), The structure of Financial Supervision Approaches and Challenges in a Global Marketplace 92 PHỤ LỤC 4: MÔ HÌNH GIÁM SÁT LƯỠNG ĐỈNH TẠI ÚC Nguồn: Group of Thirty G30, (2008), The structure of Financial Supervision Approaches and Challenges in a Global Marketplace 93 PHỤ LỤC 5: CÁC CHỈ TIÊU GIÁM SÁT NGÂN HÀNG THEO CAMELS Mức độ an toàn vốn thể hiện mức C - Capital - An toàn Vốn vốn tự có mà ngân hàng hoạt động, 1 Vốn (C1+C2)/Tổng TSC rủi ro nội bù đắp các tổn thất từ các loại rủi ro. ngoại bảng VTC/Tổng TSC 2 Các khoản dự trữ VTC 3 Đa phần tài sản có của ngân hàng là A - Assets - Chất lượng TSC các khoản vay, cấp tín dụng cho Nợ nhóm 2 đến nhóm 5/VTC 4 khách hàng và chất lượng tài sản có Dự phòng rủi ro/Tổng TSC 5 phản ánh chất lượng tín dụng, rủi ro tín dụng của ngân hàng, một trong Dự phòng rủi ro/Tổng TSC nhóm 2 6 những rủi ro chính yếu trong hoạt đến nhóm 5 động ngân hàng 7 TSC sinh lời so với TSN phải trả lãi Chỉ tiêu này phản ánh năng lực quản M - Management - Năng lực quản lý lý của lãnh đạo, trình độ chuyên Tốc độ tăng trưởng TSC 8 môn, khả năng ứng phó với các rủi Tốc độ tăng trưởng đầu tư tín dụng 9 ro, sự tuân thủ các quy định, tầm 10 Tốc độ tăng trưởng lợi nhuận nhìn chiến lược, kế hoạch hoạt động… 11 Tốc độ tăng trưởng/VTC từ lợi nhuận 12 Tốn thất trong hoạt động/Tổng TSC 13 Số lần vi phạm các quy định. Các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh E - Earnings - Khả năng sinh lời lời, một trong những mục tiêu mà 14 Thu nhập từ lãi/Tổng TSC ngân hàng hướng tới. Lợi nhuận của 15 Chi trả lãi/Tổng TSC một ngân hàng đến từ 4 nguồn: thu 16 Thu nhập trước thuế/Tổng TSC 94 Thu nhập trước thuế/VCSH từ lãi, thu từ phí, thu từ kinh doanh 17 ngoại tệ, thu nhập khác. Lợi nhuận ròng/VTC 18 19 Thu nhập trước thuế/Tổng nợ xoá 20 Chi phí hoạt động/TSC sinh lời 21 Thu nhập lãi và phí/TSC sinh lời L - Liquidity - Tính thanh khoản 22 TSC động 1 ngày/TSN động 1 ngày Một trong những rủi ro gây hậu quả nghiêm trọng mà một NHTM có thể 23 TSC động 7 ngày/TSN động 7 ngày. gặp phải là rủi ro thanh khoản, các ngân hàng kinh doanh vốn bằng tiền 24 TSC động 1 ngày /TSN động 1 tháng. nên để đáp ứng cả nhu cầu của 25 Tài sản thanh khoản/Các khoản tiền người vay và người gửi tiền, ngân gửi và nợ ngắn hạn hàng phải quản trị thanh khoản tốt và luôn cần dự trữ cho hoạt động này. Đây là các chỉ số phản ánh mức độ S - Sensitivity - Sự nhạy cảm với rủi ro thị tác động của các yếu tố thị trường trường đến một NHTM, hai loại rủi ro 26 Trạng thái ngoại tệ âm/VTC chính yếu từ thị trường là rủi ro lãi 27 Trạng thái ngoại tệ dương/VTC suất và rủi ro tỷ giá. 28 Trạng thái từng loại ngoại tệ/VTC 29 Lợi nhuận kinh doanh ngoại tệ/Tổng thu nhập. 30 Tổng trạng thái ngoại tệ/Tổng TSC nội bảng. 31 TSN đáo hạn đến 6 tháng so với TSC đáo hạn đến 6 tháng. 95 32 TSN đáo hạn từ 6 đến 12 tháng/TSC đáo hạn từ 6 đến 12 tháng. 33 TSN đáo hạn trên 1 năm/ TSC đáo hạn trên 1 năm. 96 PHỤ LỤC 6: Các chỉ tiêu cụ thể theo CAMEL cho các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ Công ty chứng khoán Công ty quản lý quỹ Mức độ đủ vốn - Capital - (C) 1 VCSH/Tổng Tài sản 1 Tỷ lệ vốn khả dụng 2 VCSH/Vốn pháp định 2 Tỷ lệ VCSH/Vốn pháp định 3 Tỷ lệ vốn khả dụng 3 Tỷ lệ lợi nhuận (lỗ) lũy kế/Vốn điều lệ Chất lượng tài sản - Assets (A) 4 Tổng tài sản sau khi điều chỉnh rủi 4 Tỷ lệ đầu tư dài hạn/VCSH ro/ Tổng tài sản 5 Tỷ lệ dự phòng/(Đầu tư ngắn hạn + 5 Tỷ lệ các khoản phải thu quá hạn/ Đầu tư dài hạn + Khoản phải thu) Tổng tài sản 6 Tỷ lệ khoản phải thu/ Tổng tài sản Năng lực quản trị - Management (M) 7 Số năm làm lãnh đạo, số năm kinh 6 Hội đồng quản trị/hội đồng thành nghiệm trong lĩnh vực tài viên, ban kiểm soát chính/chứng khoán của Chủ tịch HĐQT, Tổng giám đốc. 8 Tính ổn định của các vị trí lãnh đạo 7 Công tác kiểm toán nội bộ chủ chốt 9 Sự đầy đủ của các Quy trình nghiệp 8 Cơ cấu cổ đông/thành viên góp vụ theo quy định của pháp luật vốn 97 10 Chính sách quản lý rủi ro đối với tất 9 Đoàn kết nội bộ cả các hoạt động 11 Đánh giá năng lực hoạt động của bộ 10 Ban điều hành và hoạt động quản phận kiểm tra, kiểm soát nội bộ lý điều hành 12 Chất lượng kiểm soát các khoản tiền 11 Hoạt động nghiệp vụ, kinh doanh gửi của nhà đầu tư để giao dịch chứng khoán 13 Mức độ minh bạch của thông tin tài 12 Quản trị rủi ro chính 14 Số năm hoạt động 14 Doanh số giao dịch cổ phiếu thực hiện/Tổng Doanh số giao dịch của thị trường 16 VCSH của công ty so với mặt bằng chung 17 Tính ổn định và khả năng tăng trưởng/VCSH 18 Tăng trưởng DT trung bình trong 3 kỳ báo cáo 19 Sử dụng quỹ hỗ trợ thanh toán của Trung tâm lưu ký chứng khoán 20 Tình hình tuân thủ (vi phạm) các quy định pháp luật trong lĩnh vực chứng khoá 98 21 Số lượng nghiệp vụ được cấp phép của công ty Khả năng sinh lợi - Earnings (E) 22 Lợi nhuận sau thuế/Tổng doanh thu 13 Lợi nhuận sau thuế/Tổng tài sản bình quân 23 Lợi nhuận sau thuế/VCSH bình quân 14 Lợi nhuận sau thuế/VCSH đầu kỳ 15 Biên độ lợi nhuận 16 Hiệu quả của các danh mục đầu tư/quỹ 17 Hiệu quả của các danh mục đầu tư/quỹ mở 18 Hiệu quả của các quỹ đóng/quỹ thành viên/công ty đầu tư chứng khoán 19 Độ lệch chuẩn hoặc Tracking Error Chất lượng thanh khoản - Liquidity (L) 24 Tài sản ngắn hạn/Nợ ngắn hạn 20 Tài sản lưu động/Nợ ngắn hạn 25 Tiền + tương đương tiền/Nợ ngắn 21 Tiền và tương đương/Nợ ngắn hạn hạnPHỤ LỤC