ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI NHÂN VĂN -------------------

BÙI THỊ HỒNG LIÊN

HÌNH TƢỢNG NGƢỜI LÍNH

TRONG TUYỂN TẬP THƠ MÀU HOA ĐỎ

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: Lý luận văn học

Hà Nội – 2016

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI NHÂN VĂN

---------------------------------------

BÙI THỊ HỒNG LIÊN

HÌNH TƢỢNG NGƢỜI CHIẾN SĨ

TRONG TUYỂN TẬP THƠ MÀU HOA ĐỎ

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: Lý luận văn học

Mã số: 60 22 01 20

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:

PGS.TS Phạm Thành Hƣng

Hà Nội – 2016

LỜI CAM ĐOAN

Sau một thời gian học tập, nghiên cứu, tôi đã hoàn thành xong Luận

văn Thạc sĩ của mình với đề tài Hình tượng người chiến sĩ trong tuyển tập

thơ Màu Hoa Đỏ. Tôi xin cam đoan Luận văn này là kết quả nghiên cứu

nghiêm túc của tôi dưới sự hướng dẫn nhiệt tình của PGS.TS. Phạm Thành

Hƣng. Kết quả này chưa hề được công bố trong bất cứ công trình khoa học

nào, mọi tài liệu tham khảo đều được trích dẫn rõ ràng. Nếu lời cam đoan trên

là không đúng, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày 25 tháng 12 năm 2016

Tác giả

Bùi Thị Hồng Liên

Lời cảm ơn

Để hoàn thành công trình nghiên cứu này, em đã nhận được sự giúp đỡ

nhiệt tình của các thầy, cô giáo của khoa Văn học Trường Đại học Khoa học

xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.

Nhân dịp này, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo –

PGS.TS Phạm Thành Hƣng, thầy đã tận tình hướng dẫn em trong quá trình

hoàn thành luận văn.

Em xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô trong tổ bộ môn Lí luận Văn học,

khoa Văn học, phòng Sau đại học – Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân

văn – Đại học Quốc gia Hà Nội đã quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho em

trong quá trình học tập và Nghiên cứu.

Em xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, những người

thân yêu đã luôn động viên và dành cho em sự giúp đỡ, sẻ chia về mọi mặt

trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu.

Với trình độ còn hạn chế của người viết, Luận văn chắc chắn không

tránh khỏi khiếm khuyết. Em hi vọng sẽ nhận được những ý kiến nhận xét,

góp ý của các nhà khoa học, các thầy cô giáo và bạn bè về những vấn đề được

triển khai trong Luận văn được hoàn thiện và trọn vẹn hơn.

Em xin trân trọng cảm ơn!

MỤC LỤC

MỤC LỤC ........................................................................................................ 1

PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 3

1. Lý do, mục đích chọn đề tài ....................................................................... 3

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .......................................................................... 5

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 6

4. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................ 6

5. Kết cấu luận văn .......................................................................................... 6

PHẦN NỘI DUNG ......................................................................................... 7

Chương 1: ĐỀ TÀI NGƢỜI CHIẾN SỸTRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN

ĐẠI .................................................................................................................... 7

1.1.Tổ quốc bất khuất với dòng thơ chiến tranh và cách mạng ................. 7

1.2.Ngƣời chiến sỹ - Nhân vật trữ tình trung tâm của cả một nền thơ ...... 7

1.2.1.Hình ảnh ngƣời lính trong thơ ca kháng chiến chống Pháp 1946-1954 .... 7

1.2.2.Hình ảnh ngƣời lính trong thơ chống Mỹ 1954 - 1975 ..................... 13

1.3.Màu hoa đỏ - Một tuyển tập thơ chuyên biệt về đề tài liệt sỹ ............. 20

1.3.1.Quan niệm tuyển chọn ......................................................................... 20

1.3.2.Tính tƣ tƣởng và ý nghĩa giáo dục - thẩm mỹ của tập thơ. ............. 20

Chƣơng 2: HÌNH TƢỢNG CON NGƢỜI BẤT TỬTRONG MÀU HOA

ĐỎ ................................................................................................................... 22

2.1. Những liệt sĩ anh hùng trong chiến đấu. .............................................. 22

2.1.1. Những con ngƣời như chân lý sinh ra ............................................... 22

2.1.2. Những con ngƣời của ý chí, niềm tin ................................................. 28

2.1.3. Những con ngƣời của hành động ....................................................... 36

1

2.2. Những liệt sĩ anh hùng trong tâm tƣởng, hoài niệm ........................... 43

2.2.1 Hình tƣợng liệt sỹ - hình tƣợng của hoài niệm sống động .............. 43

2.2.2. Ngƣời liệt sỹ trong cảm xúc anh hùng ca bi tráng ........................... 52

2.2.3.Tiểu kết…………………………………………………………… …..62

Chương 3: MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM THI PHÁP CỦA TẬP THƠ ............... 64

3.1. Những đặc điểm về ngôn ngữ ................................................................ 64

3.1.1. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, chân thành ........................................... 64

3.1.2. Ngôn ngữ giàu hình ảnh biểu tƣợng .................................................. 66

3.2. Giọng điệu ............................................................................................... 69

3.2.1 Giọng điệu hào sảng, tự hào, tôn vinh và ngợi ca ............................. 71

3.2.2. Giọng điệu xót xa, tiếc nuối, thƣơng cảm ......................................... 72

3.2.3. Giọng điệu tâm tình, trầm lắng có chất triết lý, suy tƣ. .................. 74

3.2. Thời gian và không gian trong thơ viết về liệt sĩ ................................. 76

3.2.1. Không gian ........................................................................................... 76

3.2.2. Thời gian .............................................................................................. 79

KẾT LUẬN .................................................................................................... 82

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 84

PHỤ LỤC: TUYỂN TẬP THƠ MÀU HOA ĐỎ - PHẦN 1: NHỮNG VÌ

SAO KHÔNG TẮT

2

PHầN Mở ĐầU

1. Lý do, mục đích chọn đề tài

Đất nước Việt Nam từ thời khởi nguyên đã được thiên nhiên tạo hóa ưu

đãi với điều kiện tự nhiên thuận lợi, tài nguyên khoáng sản, sản vật phong

phú, vị trí tự nhiên đắc địa… Đây vừa là ưu thế để nước nhà phát triển nhưng

đồng thời cũng là nguyên nhân khiến lịch sử nước ta hàng ngàn năm dựng

nước cũng là hàng ngàn năm gắn liền với việc giữ nước. Có lẽ trên thế giới ít

có quốc gia nào phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh lớn nhỏ để bảo vệ chủ

quyền đất nước như nước ta. Không ai có thể đếm hết những cuộc chiến tranh

đó, chỉ biết rằng người Việt từ trong nôi đã có ý thức về độc lập, tự do của

dân tộc (đứa trẻ 3 tuổi với câu nói đầu đời đã là câu xin đi đánh giặc và chỉ

một cái vươn vai đã gánh vác trên lưng toàn bộ vận mệnh của giang sơn). Để

rồi khi lớn lên, ý niệm thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước,

nhất định không chịu làm nô lệ dường như ăn sâu vào máu thịt mỗi người dân

Việt. Và để rồi, trong các cuộc chiến tranh vệ quốc chính nghĩa ấy, biết bao

thế hệ đã lên đường? Bao nhiêu người trở về? Bao nhiêu người ngã xuống?

Bao nhiêu người đã để lại một phần tuổi xanh, một phần cơ thể của mình lại

nơi chiến trường khói lửa cho lí tưởng độc lập, tự do, thống nhất hòa bình,

toàn vẹn lãnh thổ.

Ở cái xứ ngàn năm chiến tranh, vạn ngày trận mạc này, đề tài về người

lính trong thơ là đề tài rất quen thuộc nhưng chưa bao giờ xưa cũ, lỗi thời. Bởi

mỗi thời đại, mỗi cuộc chiến tranh đi qua, người ta lại có thêm những hiểu

biết, những cảm hứng mới bất tận về người lính và nhờ thế những thi phẩm

viết về họ cứ nối tiếp nhau ra đời đặc biệt là từ những năm 1945 đến nay – khi

đất nước ta trải qua những năm tháng gian khó mà hào hùng chống Pháp, Mĩ,

Trung Quốc xâm lược. Trong hàng ngàn, hàng vạn bài thơ như thế, thơ viết về

3

liệt sĩ luôn là phần đặc sắc nhất, là miền thiêng liêng xúc động tâm cảm nhất.

Nhân dịp kỷ niệm 67 năm ngày thương binh liệt sĩ (27/7/1974 – 27/7/2014)

và 70 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944 –

22/12/2014), hội hỗ trợ gia đình liệt sĩ Việt Nam , với sự biên soạn của Phan

Sĩ Thao, Hoàng Đình Hùng đã cho ra mắt bạn đọc tập thơ Màu hoa đỏ. Điều

khác biệt của tập thơ này so với nhiều tuyển tập thơ khác về chiến tranh là tập

thơ này chỉ sưu tầm, lựa chọn những bài thơ về liệt sĩ xuất bản thành một tác

phẩm, và được coi như một tư liệu quý, một nén tâm nhang tưởng nhớ, các

anh hùng liệt sĩ, đồng thời giáo dục thế hệ sau đạo lý uống nước nhớ nguồn,

đền ơn đáp nghĩa.

Thơ viết về đề tài chiến tranh và người lính từ 1945 đến nay, quả thật là

một nguồn tài nguyên văn học vô cùng lớn lao và sâu sắc. Bảy mươi thi phẩm

trong tập thơ Màu hoa đỏ nằm trong đề tài cũng như giai đoạn lịch sử ấy.

Hơn thế nữa, vì nó tập hợp những bài thơ viết về liệt sĩ nên khi đọc tập thơ,

chúng ta không khỏi rưng rưng xúc động trước những đau thương, mất mát và

cùng với đó là sự tự hào. Chiến tranh đã qua đi gần 40 năm, chúng ta - những

con người hiện đại sống trong hòa bình thống nhất, chúng ta tôn vinh những

người anh hùng còn sống, chúng ta ngợi ca những chiến công, chúng ta tự hào

say sưa về chiến thắng nhưng chúng ta không thể quên những người đã ngã

xuống, không thể quên những giá trị cao đẹp chúng ta đang có là do bao thế

hệ cha anh đã đánh đổi bằng máu xương. Bằng tình cảm tri ân sâu sắc, bằng

sự rung động mộc mạc, chân thành, với đề tài hình tượng người lính trong tập

thơ Màu hoa đỏ, chúng tôi mong muốn được khảo sát một cách đầy đủ, toàn

diện về hình tượng người lính – người liệt sĩ – những con người đã thành bất

tử, vĩnh hằng trong thơ ca. Đồng thời, làm rõ được tính chất bi hùng trong

hình tượng người lính ở các bài thơ. Qua đó khẳng định được những giá trị

nhân văn sâu sắc, đau thương nhưng không ủy mị, tự hào mà vẫn lắng sâu,

4

hướng con người đến sự cao cả, đến tính anh hùng trong thơ viết về liệt sĩ nói

chung và tập thơ Màu hoa đỏ nói riêng. Và cũng qua đó ký ức chiến tranh có

thể sẽ bền lâu khi lớp trẻ chưa quên thời cha anh mình ra trận.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Đã có không ít các học giả, các nhà nghiên cứu đi sâu tìm hiểu những

đặc điểm hình tượng thơ ca trong gian đoạn từ 1945 đến nay, đặc biết là từ

1945 – 1975. Trong đó ít nhiều có đề cập đến vấn đề chiến tranh nhìn tự sự

mất mát hi sinh như chuyên luận Thơ với cuộc kháng chiến chống mỹ của

Ths. Lê Thị Bích Hồng. Trong giáo trình Tư duy thơ hiện đại Việt Nam và

chuyên luận Toàn cảnh thơ Việt Nam 1945 -1975 của tác giả Nguyễn Bá

Thành đã khái quát được phần nào chân dung người lính với phẩm chất anh

hùng, tinh thần lạc quan chiến thắng, tinh thần đồng đội và cả cái chết, sự hy

sinh. Trong chuyên luận Thơ trẻ Việt Nam 1965 – 1975 khuôn mặt cái tôi trữ

tình, Bùi Bích Hạnh cũng nói đến một phần nỗi đau chiến tranh cũng như

chân dung cái tôi trữ tình của người lính trong thơ ca chống Mỹ cứu nước.

Phải nói rằng, trong 70 bài thơ của tập Màu hoa đỏ, chúng ta bắt gặp

không ít các bài thơ vô cùng quen thuộc, nhiều bài trở thành kinh điển trong

thơ ca kháng chiến, nhiều thế hệ thuộc làu như :Tây Tiến, Núi Đôi, Quê

hương, Dáng đứng Việt Nam… nhưng đây vẫn là một tập thơ còn tương đối

mới về thời điểm xuất bản cũng như nội dung (những tuyển tập thơ viết về

người lính, về chiến tranh đã xuất bản có thể nói là nhiều. Nhưng tuyển tập

thơ chỉ tập hợp những bài thơ đặc sắc, độc đáo viết về liệt sĩ là không nhiều

và Màu hoa đỏ nằm trong số hiếm hoi đó. Vì hai lẽ đó mà các công trình

nghiên cứu một cách bài bản về hình tượng người lính trong tập thơ nói riêng

và toàn bộ nội dung cũng như nghệ thuật của tập thơ nói chung là chưa hề có.

Và có thể nói, đề tài của chúng tôi là công trình đầu tiên khảo sát về tập thơ

này cũng như là đề tài ít thấy khảo sát chỉ riêng hình tượng người liệt sĩ.

5

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu hình tượng người lính - liệt sĩqua 70 bài

thơ (tập trung trọn vẹn nhất trong 25 bài, thuộc phần I – Những vì sao không

tắt )của tuyển tập Màu Hoa Đỏ. Ngoài ra, chúng tôi cũng nghiên cứu, xem

xét một số tác phẩm thơ cùng đề tài người lính nói chung chủ yếu trong giai

đoạn văn học 1945 – 1975 để đối chiếu, so sánh làm rõ đặc điểm về hình

tượng người lính cũng như một số đặc điểm về thi pháp trong tuyển tập.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để đi sâu tìm hiểu hình tượng người lính trong tuyển tập thơ, chúng tôi

sử dụng các phương pháp khác nhau như: Thi pháp học, thống kê – phân loại,

hệ thống hóa, so sánh đối chiếu, phân tích tổng hợp và các phương pháp liên

ngành khác để có thể tiếp cận, lý giải đặc trưng về hình tượng người lính

trong tập thơ một cách khoa học nhất cũng như có thể xem xét đối tượng

nghiên cứu trên bình diện lịch sử và dòng chảy chung của thơ ca cách mạng

Việt Nam đương đại.

5. Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được trình

bày trong 3 chương:

Chƣơng 1: Đề tài ngƣời chiến sĩ trong thơ Việt Nam hiện đại

Chƣơng 2: Hình tƣợng con ngƣời bất tử trong tập thơ Màu hoa đỏ

Chƣơng 3: Một số đặc điểm thi pháp của tập thơ.

6

PHầN NộI DUNG

Chương 1: ĐỀ TÀI NGƢỜI CHIẾN SỸ

TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI

1.1.Tổ quốc bất khuất với dòng thơ chiến tranh và cách mạng

Có nhà thơ cho rằng, nếu tìm một hình ảnh minh họa cho lịch sử Việt

Nam, chúng ta có thể vẽ một thanh gươm tô đậm một màu máu… Điều đó

hoàn toàn hợp lý, thấu tình, cũng như quan niệm cho rằng thế kỷ 20 là thế kỷ

đau thương nhất trong lịch sử dân tộc Việt.Đất nước Việt Nam nửa sau thế kỷ

20 đã trải qua nhiều biến cố, nhiều sự kiện chiến tranh và cách mạng. Đặc biệt

là cuộc 2 cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc vô cùng ác liệt, kéo dài suốt 30

năm: Kháng chiến chống Pháp (1945 -1954) và kháng chiến chống Mỹ (1954

– 1975)

Văn học là tấm gương phản chiếu cuộc sống, vì vậy, trong bối cảnh lịch

sử đặc biệt trên, văn học Việt Nam hiện đại nói chung và thơ ca nói riêng đã

đi sâu vào việc phản ánh hiện thực chiến tranh và cuộc kháng chiến trường kỳ

của dân tộc. Đây cũng là chủ đề bao trùm và xuyên suốt cả nền thơ Việt Nam

nửa sau thế kỷ 20, là đặc điểm thơ cốt lõi của thơ Việt Nam hiện đại)

1.2.Ngƣời chiến sỹ - Nhân vật trữ tình trung tâm của cả một nền thơ

1.2.1.Hình ảnh ngƣời lính trong thơ ca kháng chiến chống Pháp 1946-1954

Trong hệ thống văn học truyền thống trước cách mạng tháng 8, đề tài

về tổ quốc, chiến tranh và lòng yêu nước luôn được thể hiện rõ ràng qua

những biến cố của lịch sử. Nhưng, nhân vật trung tâm của những đề tài ấy –

hình tượng những người lính, thì rất ít được nhắc đến. Trong Hịch tướng sĩ

của Trần Hưng Đạo thì đối tượng kêu gọi là các bậc tướng quân có bổng lộc,

7

có thái ấp, có tiền của, vườn ruộng… Nghĩa là những cầm quân, cai quản binh

lính và có sở hữu quý tộc dưới trướng của quốc vương. Còn những người lính

trận, “lính tốt” thì chưa được nhắc đến. Trong Hoàng Lê nhất thống chí binh

lính được nhắc tới chỉ là vài nhóm kiêu binh – một đám đông ô hợp, là công

cụ cho ông Quận này hay ông Quận khác chiếm đoạt quyền lực. Họ không

phải đội quân chính quy, không có bất kì sự miêu tả cụ thể nào về chân dung,

lý tưởng hay giá trị chiến đấu của họ. Trong Chinh phụ ngâm( Đặng Trần Côn

– Đoàn Thị Điểm), có khắc họa hình tượng người chinh phu. Nhưng đây lại là

con nhà dòng dõi: Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt/ xếp bút nghiên theo việc

đao binh/ thành liền mong hiến bệ rồng. Khi ra trận cũng đã được sắc phong

tước vị. Cho nên sau này, khi người chinh phụ phải chịu cảnh xa nhau biền

biệt mới thốt lên cay đắng: Lúc ngoảnh lại trông màu dương liễu/ Thà khuyên

chàng đừng chịu tước phong. Mãi đến thời của Nguyễn Đình Chiểu, những

người lính trận mới được tác giả chú tâm khắc họa. Nhưng hình tượng người

lính Cần Giuộc chưa rõ ràng hẳn tính chất người lính, ở họ vẫn đậm đà bản

sắc nông dân, được tổng hợp kết nối với nhau để làm việc nghĩa vậy nên: Việc

cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm/ Tập khiên, tập mác, tập

cờ, mắt chưa từng ngó. Họ vẫn không được coi là đội quân chính quy hay

người lính chính thống. Chỉ sau Cách mạng tháng Tám, khi nền văn học cách

mạng ra đời và phát triển thì hình tượng những người lính – là những người

lính không phẩm hàm, lính trận …mới chính thức bước vào văn đàn với tư

cách một nhân vật, và từ đây, họ càng ngày càng có vị thế trung tâm trong

loạt đề tài về Tổ quốc – chiến tranh – lòng yêu nước…

Trong chín năm kháng chiến chống Pháp, hình tượng người lính Vệ

Quốc luôn được khắc họa đậm nét trong thơ ca. Họ khác nhau về xuất thân,

nguồn gốc. Có người ra đi từ mái tranh nghèo (Màu hoa đỏ - Nguyễn Đức

Mậu), nơi làng quê nước mặn đồng chua, đất cày lên sỏi đá (Đồng chí –

8

Chính Hữu), những vùng quê từ miền xuôi đến miền ngược, từ vùng núi đến

đồng bằng đều xơ xác nghèo gian nhà không mặc kệ gió lung lay ( Đồng chí –

Chính Hữu). Từ nơi bến nước, gốc đa, lũy tre làng ấy những chàng trai trẻ đầy

nhiệt huyết lên đường, xuất thân nông dân nên không ít người mù chữ: Lũ

chúng tôi bọn người tứ xứ/ Gặp nhau từ hồi chưa biết chữ (Nhớ - Nguyên

Hồng). Cũng không ít người là học sinh, sinh viên vừa rời ghế nhà trường,

đến từ những phố dài xao xác heo may giữa lòng Hà Nội, họ luôn có sự tinh

nghịch, lãng mạn của thanh niên thủ đô ngay cả trong khi làm nhiệm vụ: Mắt

trừng gửi mộng qua biên giới/ Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm. Lại có người

ở nơi quê hương trù mật, đẹp tươi với lúa nếp thơm nồng, với tranh Đông Hồ

gà lợn nét tươi trong… Những người tứ xứ ấy quây tụ lại với nhau bởi tinh

thần nhiệt huyết của tuổi trẻ, bởi niềm tin mãnh liệt vào cách mạng, vào cuộc

kháng chiến kiến quốc của họ, nhờ họ và cho chính họ. Vì thế, họ chịu đựng

mọi khó khăn, gian khổ, thiếu thốn trên đường hành quân áo anh rách vai,

quần tôi có vài miếng vá, miệng cười buốt giá, chân không giày (Đồng chí –

Chính Hữu) . Họ cùng bền bỉ vượt qua những cơn sốt rét giữa rừng, giữa mùa

chiến dịch sốt run người, vầng trán đẫm mồ hôi, hay quân xanh màu lá mà

vẫn dữ oai hùm. Đói rét, ốm đau là những thử thách thường xuyên của anh bộ

đội nhưng họ vẫn lạc quan, dũng cảm: Lòng vẫn cười vui kháng chiến/ Lột sắt

đường tàu rèn thêm đao kiếm/ Áo vải chân không đi lùng giặc đánh (Nhớ -

Nguyên Hồng). Niềm vui đã giúp họ vượt lên tất cả:

Họ vẫn gầy, vẫn ốm

Mắt vẫn lõm, da vàng

Áo chăn chưa đủ ấm

Ăn uống vẫn tồi tàn

Nhưng vẫn vui vẫn nhộn

9

Pháo cười luôn nổ ran

(Lên Cấm Sơn – Thôi Hữu).

Điều đáng nói ở đây, là cách họ nhìn cuộc sống kháng chiến. Người

lính trong thơ ca chống Pháp chưa bao giờ kêu than hay trách móc điều gì. Dù

hoàn cảnh thực tế có khắc nghiệt:

Cuộc đời gió bụi pha xương máu

Đói rét bao lần xé thịt da

Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật

Đâu còn tươi nữa những ngày hoa

(Lên Cấm Sơn – Thôi Hữu)

Những người lính vẫn chấp nhận gian khổ một cách vui vẻ, thậm chí

lạc quan. Ta bắt gặp không ít những khuôn mặt vui tươi và nụ cười cởi mở

của người lính vệ quốc khi kể chuyện về trận đánh ở Chợ Đồn, Chợ Rã:Ta

đánh giặc chạy re/ Hai đứa cười ha hả dù đang trong cơn sốt Giọt giọt mồ hôi

rơi/ Trên trán anh vàng nghệ (Cá nước – Tố Hữu). Hồng Nguyên đã miêu tả

cuộc đời chiến sĩ với rất nhiều kỉ niệm:

Tôi nhớ bờ tre gió lộng

Làng xuôi xóm ngược mái rạ như nhau

Có nắng chiều đột kích mấy hàng cau

Có tiếng gà gáy xóm

Có „Khai hội, yêu cầu, chất vấn”

Có mẹ hiền bắt rận cho những đứa con xa

Trăng lên tập hợp hát om nhà

Tôi nhớ

Giường kê cánh cửa

10

Bếp lửa khoai vùi

Đồng chí nứ vui vui

Đồng chí nứ dạy tôi dăm tối chữ

(Nhớ - Hồng Nguyên)

Có lẽ ấn tượng nhất với người lính là niềm vui khi được dân chúng yêu

mến, đùm bọc, với những sinh hoạt vô cùng độc đáo một thời như bắt rận,

xóa mù chữ … Người lính thời đó có lúc phải dùng lá cây để che thân, dùng

dây dợ buộc túm các chỗ rách, chỗ thủng của quần áo, và tên gọi “Vệ Túm” ra

đã ra đời như thế:

Áo anh đan sợi chỉ đay

Túm xanh, túm tía như cây trên rừng

Thằng tây có mắt như bưng

Đố mày biết được cây rừng hay tao

(Bức tranh sinh hoạt – Minh Tiệp).

Họ cũng không ngần ngại thể hiện tuổi trẻ hồn nhiên, chân chất của

mình khi cười vang đồng, “nhìn cô thôn nữ cuối nương dâu” trên đường hành

quân và niềm tin chắc chắn chờ ngày độc lập mới lấy vợ. Những con người

tuổi xanh đã thực sự sống hồn nhiên, vô tư như vậy. Có không ít nhà thơ khi

viết về những gian khổ của người lính, họ dự định sẽ nói lên sự cảm thông,

chia sẻ, thậm chí là thương hại với những cảnh đời gió bụi nơi chốn rừng

thiêng nước độc. Nhưng khi chứng kiến niềm vui cũng như tinh thần lạc quan

cách mạng của người lính, các tác giả đã thay đổi cảm xúc ban đầu. Tình cảm

hồn nhiên của người lính đã truyền cảm hứng sáng tác, truyền sự hứng khởi

cho nhà thơ, để những vần thơ không hề bi thương, bi lụy mà ngược lại tràn

ngập sức mạnh của sự vui tươi:

11

Lòng tôi bừng thức tình trai mạnh

Muốn viết bài thơ nhộn tiếng cười

Tặng những anh tôi trong lửa đạn

Qua nghìn gian khổ vẫn vui tươi.

(Lên Cấm Sơn – Thôi Hữu)

Không chỉ nhất trí, đồng lòng trong cách nhìn lạc quan về cuộc sống,

những người lính từ bốn phương đất nước tập họp nhau thành đồng đội đó

còn giống nhau ở khí khái mạnh mẽ, kiên quyết: người ra đi đầu không

ngoảnh lại/ Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy (Đất nước – Nguyễn Đình Thi).

Khi ra trận, họ lăn xả hết mình, hành động thật anh hùng, quả cảm:

Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt

Máu trộn bùn non, gan không núng, chí không mòn

Những đồng chí thân ôm làm giá súng

Đầu bịt lỗ châu mai

Băng mình qua núi thép gai

Ào ào vũ bão

Những đồng chí chèn lưng cứu pháo

Nát thân, nhắm mắt còn ôm …

(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên – Tố Hữu)

Tất cả họ, trong những phút giây quan trọng của lịch sử đều mang trong

mình ý chí quyết tâm chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh (Tây tiến – Quang

Dũng), sẵn sàng hi sinh vì độc lập tự do của tổ quốc: Những chàng trai chưa

trắng nợ anh hùng/ hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm (Ngày về - Chính

Hữu)

12

Có thể nói, hình tượng người lính trong thơ ca chống Pháp là những

hình ảnh đẹp, là bước tiếp nối của hình tượng người sĩ phu yêu nước trong

quá khứ, đồng thời là sự mở đầu cho hình tượng anh Giải phóng quân kiên

cường bất khuất trong kháng chiến chống Mĩ (1954 - 1975). Thơ ca về người

lính trong giai đoạn này đều chung giọng điệu ngợi ca, tươi vui và cảm phục.

Mỗi bài thơ, dù cách khắc họa chân dung nhân vật khác nhau, nghệ thuật –

cấu tứ khác nhau, âm hưởng truyền đến trái tim người đọc cũng khác nhau,

song chúng đều để lại những ấn tượng tốt đẹp về người lính cách mạng trong

những năm đầu sau 1945.

1.2.2.Hình ảnh ngƣời lính trong thơ chống Mỹ 1954 - 1975

Sau 9 năm trường kì, kháng chiến chống Pháp đã kết thúc thắng lợi với

hiệp định Giơnevơ. Từ đây miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, đi lên chủ nghĩa

xã hội. Nhưng cả dân tộc vẫn phải tiếp tục cuộc chiến mới – cuộc kháng chiến

chống Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đây là cuộc chiến khốc

liệt cả về thời gian cũng như mức độ thiệt thiệt hại của cả hai phía. Cán cân lịch sử

thay đổi, kéo theo đó là những thay đổi trong đời sống xã hội – chính trị nói chung

và đời sống văn học nói riêng. Trước những yêu cầu mới của nhiệm vụ cách

mạng, hình tượng người lính trong thơ ca giai đoạn này cũng dần dần có sự

chuyển biến. Người lính lúc này mang trong mình vẻ đẹp mới của thời đại mới –

thời đại Hồ Chí Minh. Họ không chỉ tượng trưng cho vẻ đẹp dân tộc mà còn được

nâng tầm khái quát lên cao hơn – tầm vóc nhân loại.

Điều đầu tiên làm nên sự khác biệt về hình tượng người lính trong giai

đoạn này với giai đoạn trước chính là đội ngũ sáng tác. Bên cạnh hai cây bút

kì cựu là Tố Hữu và Chế Lan Viên, xuất hiện hàng loạt những tên tuổi mới –

những thi sĩ tài năng mới. Họ trẻ về tuổi đời, đông đảo về đội ngũ, đa dạng và

phong phú về phong cách giọng điệu. Và quan trọng hơn cả, họ đều là những

người tham gia trực tiếp vào kháng chiến, ngày ngày chứng kiến sự khốc liệt

13

của chiến trường cũng như lý tưởng và khát vọng của cả một dân tộc. Họ -

những thi sĩ cũng là chiến sĩ ấy đã tạo nên những hình tượng người lính độc

đáo mà vẫn không kém phần sâu sắc, nhân văn.

Người lính trong thời kỳ này đã thoát khỏi những khó khăn, thiếu thốn

về trang bị, quần áo. Thay vì ra đi từ quê hương nước mặn đồng chua từ

những làng mạc nghèo nàn xơ xác, họ đều hồ hởi lên đường nhập ngũ từ

những xóm làng đã hợp tác hóa, rộn ràng hơn, đông đúc hơn. Họ không phải

là những chàng nông dân mù chữ mà đa số đều được học hành dưới mái

trường còn thơm mùi ngói mới của những năm hòa bình vừa được lập nên.

Dưới mái trường đó, đa số họ được truyền thụ lý tưởng giải phóng dân tộc, về

tinh thần không có gì quý hơn độc lập tự do ( Hồ Chí Minh). Họ được học về

những vị anh hùng cứu nước của dân tộc như Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo,

Quang Trung… Từ mái trường của thế hệ mới, với những nhận thức về lịch

sử và trách nhiệm công dân, thế hệ trẻ lên đường chống Mỹ đã khẳng định sự

xuất hiện của họ với một thái độ lựa chọn quyết liệt và ý thức sâu sắc về sự

lựa chọn ấy: Khi anh hiểu nhân dân, nhân dân chia cắt, yêu Tổ quốc mình, Tổ

quốc chia đôi Nỗi đau ấy góp đời mình để xóa (Đường tới thành phố - Hữu

Thỉnh); hay: Ta đi hôm nay đã không là sớm/ Đất nước hành quân mấy chục

năm rồi/ Ta đến hôm nay cũng không là muộn/ Đất nước còn đánh giặc chưa

thôi (Phạm Tiến Duật); Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình/… nhưng ai cũng

tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc (Những người đi tới biển - Thanh

Thảo)... Trực diện và đầy tính suy lý, những câu thơ của các nhà thơ chống

Mỹ đại diện cho tiếng nói chung của triệu triệu người lính, họ - có thể là

những người đã dạn dày bom đạn trong kháng chiến chống Pháp, cũng có thể

là thanh niên, sinh viên, học sinh trưởng thành khi cuộc chiến tranh chống Mỹ

bước vào giai đoạn ác liệt nhất. Tất cả đều chung ý chí: Dàn hàng gánh đất

nước trên vai (Bằng Việt).

14

Bước tới chiến trường, hòa mình trong cuộc chiến đấu gian khổ và ác

liệt, gương mặt tinh thần của những người lính nhanh chóng hiện diện trong

thơ như một tiếng nói tự ý thức mạnh mẽ. Không chỉ tuyên ngôn về trách

nhiệm, hành động trước lịch sử, những người lính còn tự bạch về bản thân, về

đồng đội, về cuộc sống ở chiến trường... Ra đời dưới ngòi bút của những

“chiến sĩ – thi sĩ”, hình tượng người lính trong thơ được khắc họa từ nhiều

góc độ, nhiều phương diện (thường do chính tác giả“tự họa” chân dung của

mình) nên vừa chân thực lại vừa sinh động. Với một tâm hồn vững vàng, tin

tưởng, những người lính đi vào chiến trường trong tâm thế thanh thản, nhẹ

nhõm, có cái nhìn cuộc sống đầy chất thi vị:

Vào mặt trận lúc mùa ve đang kêu

Nghe chim kể chuyện trên đồi chốt

Mùa này ta hát khắp Trường Sơn

(Vào mặt trận lúc mùa ve đang kêu - Hoàng Nhuận Cầm)

Vẻ đẹp của sức chịu đựng gian khổ, hy sinh từng được ca ngợi, ngưỡng

mộ trong kháng chiến chống Pháp thì đến thời kỳ chống Mỹ, những phẩm

chất ấy được phát huy cao độ bằng sự ngang tàng, ngạo nghễ pha chút hóm

hỉnh, đậm chất lính:

Xe không có kính, bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi…

Không có kính, ừ thì có bụi,

Bụi phun tóc trắng như người gìa,

Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc,

Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.

(Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Phạm Tiến Duật

Họ đã giấu đi những chuyện ác liệt và chết chóc ở chiến trường, giấu đi

nỗi buồn, sự cô quạnh, họ chỉ nói những niềm vui:

15

Khoái nào bằng phút ngả lưng

Mở trang thư dưới bóng rừng đung đưa

(Nguyễn Duy)

Biết tạo ra niềm vui từ chính gian khổ hy sinh, các anh nói về gian khổ

hy sinh như nói về những niềm vui, niềm hạnh phúc. Bởi vậy, thương tích

trên mình với các anh có đáng kể gì đâu:

Cái vết thương xoàng mà đưa viện.

Hàng còn chờ đó, tiếng xe reo

Nằm ngửa nhớ trăng, nằm nghiêng nhớ bến

Nôn nao ngồi dậy nhớ lưng đèo”

(Nhớ – Phạm Tiến Duật)

Trong tâm thế lạc quan, yêu đời ấy, người lính thể hiện niềm tin vào

chiến thắng, niềm tự hào về lòng yêu nước, lòng căm thù giặc, về sức mạnh

vượt qua khó khăn:

Chúng tôi nói về lòng yêu nước

Bằng lưỡi xẻng moi hầm

Bằng khẩu súng cầm tay…

Chúng tôi nói về lòng dũng cảm

Bằng xác giặc ngổn ngang, khẩu súng đỏ nòng

Bằng áo nhuộm mưa dầm, thuốc đạn

(Nguyễn Đức Mậu).

Một vẻ đẹp nữa của người lính không thể không kể đến trong thơ ca

chống Mỹ đó là tình đồng đội. Thứ tình cảm thiêng liêng này đã từng được

nhắc đến trong thơ ca chống Pháp Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ. Và

đến thơ chống Mỹ, tình đồng đội được thể hiện một cách sâu sắc và gắn bó

16

hơn từ trong sinh hoạt đời thường: quờ chân nhau tìm hơi ấm đêm khuya, đến

bước đường hành quân vất vả:

Những chiếc xe từ trong bom rơi

Đã về đây họp thành tiểu đội

Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới

Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi

(Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Phạm Tiến Duật)

Cái bắt tay ấm nồng tình cảm yêu thương chia sẻ. Cái bắt tay ấy là tình

đồng đội thiêng liêng, họ truyền cho nhau niềm tin chiến thắng, tình yêu và

lòng dũng cảm, là sức mạnh đoàn kết ở nơi mà sự sống và cái chết thật cận

kề. Bàn tay thay cho mọi lời nói. Các anh hiểu rằng kháng chiến là gian khổ,

là trường kì, vậy nên, hàng ngàn con đường ra trận đã trở thành ngôi nhà

chung, những đồng đội đã trở thành gia đình ruột thịt:

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời

Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy

(Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Phạm Tiến Duật).

Trong hoàn cảnh vô thường của chiến tranh, điều mà những người lính

chia nhau đâu chỉ là bát đũa, đâu chỉ chăn áo, đâu chỉ là những cái bắt tay

thâm tình, họ còn chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết mà biểu hiện cao

nhất của tình đồng đội là nhận cái chết cho đồng đội sống:

Ngực chặn lỗ châu mai Hùng đứng thẳng

Đồng đội xông lên nhìn rõ Hùng cười.

(Nấm mộ và cây trầm – Nguyễn Đức Mậu)

Thơ ca lúc bấy giờ là “thơ vũ khí”, “tiếng hát át tiếng bom”, thơ phản

ánh hiện thực cách mạng cho nên nội dung thơ không nói nhiều về những

17

gian khổ, hi sinh mất mát. Thơ ca và hình tượng người lính phải đem lại cho

người tiếp nhận một niềm tin về cuộc chiến đấu, về chính nghĩa và thắng lợi

tất yếu đang đến. Rất ít người hoài nghi về tính đúng đắn của cuộc chiến. Với

những nhận thức đã được truyền giảng trên ghế nhà trường của chủ nghĩa xã

hội, người lính đồng nhất việc bảo vệ Tổ quốc với bảo vệ chính quyền, trung

với đảng nghĩa là trung với nước. Đỉnh cao của sự trung thành ấy là sự chiến

đấu và hy sinh cho sự nghiệp cách mạng. Đã có không ít các bài thơ viết về sự

hy sinh dũng cảm của người lính nhưng đa số các bài thơ bên cạnh sự thương

xót chia sẻ thì đều mang tính đề cao, ngợi ca và thán phục. Ở một mức độ nào

đó, thơ ca 1954 – 1975 đã mỹ lệ hóa, thi vị hóa cái chết. Dù vậy, vẫn không

thể phủ nhận rằng so với giai đoạn chống Pháp, hình tượng người lính chống

Mỹ đã có sự điều chỉnh đáng kể. Tầm bao quát cũng như khả năng điển hình

hóa của hình tượng đã được nâng tầm lên rất nhiều. Tầm vóc người chiến sĩ

như cao lớn lên cùng tầm vóc của dân tộc, của thời đại trong cuộc chiến tranh

về quốc vĩ đại nhất:

Cả năm châu chân lí đang nhìn theo

Bóng anh đi và vành mũ tai bèo của anh đó

(Hoan hô anh giải phóng quân – Tố Hữu)

Hay:

Anh chẳng để lại gì cho riêng anh trước lúc lên đường

Chỉ để lại dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỉ

… Từ dáng đứng của anh trên đường băng Tân Sơn Nhất

Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân.

(Dáng đứng Việt Nam – Lê Anh Xuân)

Một người lính vô danh, không để lại một tấm hình hay địa chỉ, nhưng

dáng đứng của anh đã trở thành dáng đứng của dân tộc, của đất nước. Dáng

18

đứng ấy đã tạc vào thời đại, tạc vào thế kỷ. Anh “Vệ Túm” khi xưa đã trở

thành “Anh giải phóng quân”, được khuếch đại, so sánh để trở thành huyền

thoại, mang tầm vóc sử thi:

Như Thạch Sanh của thế kỷ hai mươi

Không tự ngắm mình anh chẳng hay đâu

Hỡi chàng dũng sĩ

Cả năm châu chân lý đang nhìn anh

(Bài ca xuân 68 – Tố Hữu)

Hình tượng người lính trong thơ cách mạng nói chung và thơ ca chống

Mỹ nói riêng mang vẻ đẹp của một con người Việt Nam chiến đấu vì độc lập

tự do của Tổ quốc, vì mục tiêu cách mạng, vì chủ nghĩa xã hội, cho nên vẻ

đẹp ấy ít nhiều đều mang tính lý tưởng hóa.

Có thể nói hình tượng người lính trong thơ ca chống Mỹ là sự kế thừa và phát

huy một cách thành công nhất về đề tài này trong thơ ca các giai đoạn trước.

Qua mỗi cuộc chiến, chân dung người lính lại hiện ra đầy đặn hơn, dung dị

hơn, và cũng chân thực, gần gũi hơn. Mang dấu ấn đặc trưng của cả một thế

hệ xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, hình tượng người lính đã trở thành nguồn

cảm hứng bất tận cho sự ngợi ca và ngưỡng vọng. Hơn thế nữa, đây còn là

hình tượng trung tâm, chi phối chiều sâu thẩm mỹ trong thơ ca kháng chiến.

Cùng với thử thách của thời gian, có thể khẳng định rằng các nhà thơ cùng

với những vần thơ viết về đề tài người lính ngày càng khẳng định được vị trí vững

vàng trong lịch sử thơ ca Việt Nam, nó vẫn tồn tại như một vầng sáng, như một

tầm cao trong thơ Việt Nam hiện đại. Nhiều bài thơ hay vẫn sống trong lòng

người yêu thơ và thế hệ trẻ. Thơ về đề tài người lính là một phần không thể phủ

định trong các giá trị tinh thần của một thời đại lịch sử đã và sẽ được lưu giữ, trân

trọng bởi những thế hệ hôm qua, hôm nay và cả mai sau.

19

1.3.Màu hoa đỏ - Một tuyển tập thơ chuyên biệt về đề tài liệt sỹ

1.3.1.Quan niệm tuyển chọn

Như đã tìm hiểu và phân tích ở trên, thơ viết về Liệt sỹ không thể xuất

hiện ở quy mô tuyển tập trong điều kiện đất nước đang từng ngày kháng

chiến; Những mất mát đau thương phải nén lại, giấu bớt, để giữ vững ý chí

chiến đấu, để bảo trì niềm tin vào tương lai tất thắng của dân tộc. Chỉ đến thời

điểm hiện tại, khi chiến tranh đã lùi gần 40 năm, xã hội ngày càng phát triển,

nhưng vấn đề chủ quyền luôn là vấn đề thời sự nóng bỏng và những vấn đề

hậu chiến vẫn luôn gây nhức nhối lòng người thì thơ về những người Liệt sỹ

mới xuất hiện ở quy mô tuyển tập và Màu hoa đỏ là tập thơ như thế. Ra đời

nhân dịp kỷ niệm 67 năm Ngày Thương Binh –Liệt sĩ (27/07/1947 –

27/07/2014) và 70 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/ 12/

1944 – 22/ 12/ 2014) tập thơ được coi như một tư liệu tuyên truyền, giáo dục

cho các thế hệ người Việt nêu cao đạo lý uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp

nghĩa, đồng thời đây cũng là nén tâm nhan tưởng nhớ, biết ơn các anh hùng

liệt sĩ – những người đã hy sinh cho hòa bình, độc lập, toàn vẹn lãnh thổ của

đất nước, dân tộc.

1.3.2.Tính tƣ tƣởng và ý nghĩa giáo dục - thẩm mỹ của tập thơ.

Tập thơ góp phần hoàn thiện hơn bức tranh hiện thực kháng chiến:

không chỉ có chiến thắng mà còn có đầy hy sinh mất mát. Những người lính

không chỉ được nhìn dưới ánh hào quang của chiến công mà còn được khắc

họa đậm nét trong những phút giây sinh tử, những thời khắc đối diện với kẻ

thù. Có cái chết nơi đầu súng giặc – giữ từng tấc đất quê hương, có cái chết

nơi rừng thiêng nước độc vì sốt rét, vì khốn khó trên đường hành quân những

ngày ở rừng…Người ta vẫn bảo nhau chết là hết nhưng cái chết được nhắc

đến ở đây chưa phải là kết thúc tất cả, mà nó còn để lại bao ám ảnh, bao dư vị

tự hào xen lẫn đắng cay, cơ cực, nhớ thương, tiếc nuối, xót xa cho những

20

người còn sống. Cái chết ấy có thể tiếp thêm sức mạnh, sự quyết tâm cho

những người đang tiếp tục cuộc chiến song đồng thời nó cũng day dứt tâm tư

con người – những người bạn, đồng chí đồng đội hay những người thân như

cha mẹ, vợ con, anh em...của người lính (ngay cả khi chiến tranh đã kết thúc

hàng chục năm). Đã bao lâu rồi, người ta quen nhìn cuộc chiến với sự rực rỡ,

lấp lánh của thắng lợi mà không nhận ra mặt trái của nó với tất cả sự đau đớn

nơi trái tim con người. Nhắc nhở điều đó, tập thơ hướng đến giáo dục thế hệ

về cái giá của hòa bình, của tự do, độc lập dân tộc, qua đó xây dựng nhân sinh

quan, lẽ sống, quan niệm về cái đẹp cho độc giả , cho các thế hệ sau…

21