ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN THỊ HỒNG HẢO

HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ

TRONG MỘT SỐ TRUYỆN THƠ NÔM TÀY

Ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 8.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,

VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Ngô Thị Thu Trang

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

THÁI NGUYÊN - 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này được cá nhân tôi thực hiện. Mọi kết

quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và không trùng lặp với các

đề tài khác.

Nội dung của luận văn có sử dụng tài liệu theo danh mục tài liệu tham

khảo của luận văn.

Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Thái Nguyên, tháng 5 năm 2019 Tác giả luận văn Nguyễn Thị Hồng Hảo

LỜI CẢM ƠN

Luận văn là một phần kết quả nghiên cứu của dự án “Những vấn đề

cấp bách về bảo tồn và phát huy các giá trị văn học cổ truyền dân tộc thiểu

số Việt Nam trong bối cảnh hội nhập và phát triển” (Ủy ban Dân tộc là cơ

quan chủ quan, Viện NCXH và NVNM là cơ quan chủ trì, TS Trần Thị Ngọc

Anh chủ nhiệm), mã số CTDT.30.17/16-20.

Tôi xin chân thành bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến TS. Ngô

Thị Thu Trang - người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi về tri thức, phương

pháp và kinh nghiệm nghiên cứu trong suốt quá trình thực hiện luận văn.

Xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, quý thầy cô giáo khoa Ngữ văn,

Phòng Đào tạo Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã tạo điều

kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu tại trường.

Tôi cũng xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới người thân, đồng

nghiệp, bạn bè đã động viên, quan tâm chia sẻ và tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi

hoàn thành tốt khóa học này.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Thái Nguyên, tháng 5 năm 2019 Tác giả luận văn Nguyễn Thị Hồng Hảo

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i

LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii

MỤC LỤC .......................................................................................................... iii

MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1

1. Lí do chọn đề tài .......................................................................................... 1

2. Lịch sử vấn đề .............................................................................................. 2

2.1. Lịch sử nghiên cứu truyện thơ Nôm ..................................................... 2

2.2. Lịch sử nghiên cứu truyện thơ Nôm Tày .............................................. 4

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................... 7

3.1. Mục đích nghiên cứu ............................................................................. 7

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................ 7

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 8

4.1. Đối tượng nghiên cứu ........................................................................... 8

4.2. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................... 8

5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 8

6. Đóng góp mới của luận văn ......................................................................... 9

7. Cấu trúc của luận văn ................................................................................... 9

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CÓ

LIÊN QUAN .................................................................................................... 10

1.1. Các khái niệm ......................................................................................... 10

1.1.1. Truyện thơ Nôm Tày ....................................................................... 10

1.1.2. Hình tượng văn học .......................................................................... 12

1.2. Khái quát về truyện thơ Nôm Tày .......................................................... 13

1.3. Vài nét về văn hóa dân tộc Tày............................................................... 15

1.4. Đôi nét về hình tượng người phụ nữ trong văn học trung đại Việt Nam ..... 19

CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

MỘT SỐ TRUYỆN THƠ NÔM TÀY ........................................................... 27

2.1. Người phụ nữ đẹp và có xuất thân quyền quý, huyền ảo ....................... 27

2.1.1. Người phụ nữ xuất thân quyền quý và huyền ảo ............................. 27

2.1.2. Người phụ nữ có ngoại hình xinh đẹp ............................................. 32

2.2. Người phụ nữ có khát vọng yêu đương mãnh liệt và luôn chủ động

trong tình yêu, hôn nhân ................................................................................ 37

2.3. Người phụ nữ nhân hậu, đảm đang, nghĩa tình, chung thủy, giàu đức

hy sinh ............................................................................................................ 41

2.4. Người phụ nữ trí tuệ, giàu bản lĩnh luôn nỗ lực vượt lên trên nghịch

cảnh để vươn tới hạnh phúc ........................................................................... 60

CHƯƠNG 3: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG HÌNH TƯỢNG NGƯỜI

PHỤ NỮ TRONG MỘT SỐ TRUYỆN THƠ NÔM TÀY ........................... 70

3.1. Nghệ thuật miêu tả nhân vật ................................................................... 70

3.1.1. Miêu tả ngoại hình nhân vật ............................................................. 70

3.1.2. Miêu tả nội tâm nhân vật .................................................................. 73

3.2. Ngôn ngữ nhân vật .................................................................................. 76

3.2.1. Ngôn ngữ của người phụ nữ ............................................................ 77

3.2.2. Ngôn ngữ của những nhân vật khác ................................................. 79

3.3. Biện pháp nghệ thuật so sánh ................................................................. 80

KẾT LUẬN ....................................................................................................... 86

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 88

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hình thành và phát triển song

hành với các loại hình văn học khác. Bằng góc nhìn của mình, các tác giả người

dân tộc thiểu số đã tái hiện một cách chân thực và độc đáo những giá trị đời

sống của đồng bào dân tộc, thể hiện cách nhìn nhận, đánh giá và mơ ước của họ

trong từng thời kì. Đó chính là một trong những kho vàng lịch sử kí thác bằng

ngôn ngữ nghệ thuật được gìn giữ và lưu truyền. Tác giả Vũ Anh Tuấn đã có

nhận xét: “Văn học của các thành phần dân tộc ít người ở Việt Nam nói chung

cũng như văn học truyền thống của đồng bào Tày là một di sản có vị trí quan

trọng vào bậc nhất trong lĩnh vực truyền thống văn hóa tinh thần tộc người,

hợp thành toàn bộ nền văn hóa tinh thần dân tộc thống nhất trong đa dạng”

[42, 239]. Văn học các dân tộc thiểu số nói chung, văn học dân tộc Tày nói

riêng đã góp phần làm phong phú và đa dạng hơn các giá trị của nền văn học

dân tộc.

Trong kho tàng văn học dân tộc thiểu số Việt Nam, truyện thơ Nôm Tày

là thể loại tiêu biểu và có nhiều thành tựu. Truyện thơ Nôm Tày là truyện thơ

Nôm được sáng tác và đón nhận bởi đồng bào dân tộc Tày. Thể loại này không

chỉ là những tác phẩm truyền miệng mang đậm sắc thái dân tộc mà còn được

lưu truyền bởi hệ thống chữ viết riêng. Chữ Nôm Tày và truyện thơ Nôm Tày

là sản phẩm của sự giao lưu văn hóa giữa người Tày với người Kinh. Dù một

số tác phẩm vay mượn cốt truyện của văn học người Kinh như Tống Trân –

Cúc Hoa, Phạm Tử - Ngọc Hoa… nhưng các tác giả cũng thổi vào tác phẩm

một luồng gió mới lạ. Truyện thơ Nôm bởi thế cũng là một trong những thể loại

mang tính chất trụ cột của văn học trung đại dân tộc Tày.

Hình tượng người phụ nữ trong văn học là đối tượng nghiên cứu của rất

nhiều công trình bởi giá trị hiện thực và nhân văn mà nó đem lại. Đây là hình

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

tượng trung tâm trong mọi thời đại văn học. Những tác phẩm kiệt xuất, những

giá trị thẩm mĩ cao đẹp dường như đều dành để trân trọng đối tượng này. Bởi

thế, có thể nói rằng, người phụ nữ chính là hình tượng đẹp đẽ, tiêu biểu cho nền

văn học dân tộc. Do đó, nghiên cứu về hình tượng người phụ nữ là một trong

những việc làm nhằm phát hiện, lưu giữ lại những những giá trị nhân bản nhất

của nền văn học dân tộc.

Xuất phát từ những lí do trên cùng với việc tìm hiểu các công trình

nghiên cứu đã có, chúng tôi lựa chọn vấn đề “Hình tượng người phụ nữ trong

một số truyện thơ Nôm Tày” làm đối tượng nghiên cứu của luận văn.

2. Lịch sử vấn đề

2.1. Lịch sử nghiên cứu truyện thơ Nôm

Truyện thơ Nôm là thể loại nòng cốt của một giai đoạn trong văn học

Việt Nam. Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về truyện thơ Nôm.

Nhiều nhà nghiên cứu tập trung làm rõ những vấn đề chung về truyện thơ Nôm

như: xác định thể loại, phân loại, chỉ ra nguồn gốc và quá trình phát triển,

phương thức sáng tác... Có thể kể đến những công trình như Văn học Việt Nam

(nửa cuối thế kỉ XVIII đến hết thế kỉ XIX) của Nguyễn Lộc [18], Truyện Kiều và

thể loại truyện Nôm của Đặng Thanh Lê [16], Truyện Nôm lịch sử phát triển và

thi pháp thể loại của Kiều Thu Hoạch [7], Mấy vấn đề thi pháp văn học trung

đại Việt Nam của Trần Đình Sử [35], Giảng văn văn học trung đại Việt Nam

của Lã Nhâm Thìn [37]... Tác giả Nguyễn Lộc khẳng định: “Truyện Nôm là

một thể loại khá độc đáo của văn học dân tộc” [18, 475] và đi sâu lí giải nguồn

gốc truyện Nôm, phân biệt truyện Nôm bình dân và truyện Nôm bác học, làm

rõ nội dung xã hội, đặc điểm nghệ thuật của truyện Nôm bình dân...

Nhà nghiên cứu Kiều Thu Hoạch đề cao việc nghiên cứu truyện Nôm trên

phương diện phôn - klo: “Theo chúng tôi, truyện Nôm là một thể loại sinh thành

và phát triển từ cội nguồn văn hóa dân gian thì việc tiếp cận nó từ góc độ fôn -

klo học phải được xem là một phương pháp luận khoa học đúng đắn nhất trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

quá trình tìm hiểu và nhận diện nó” và nhấn mạnh: “... việc tìm hiểu truyện Nôm

không thể chỉ dừng ở các văn bản tĩnh tại, mà còn cần thiết phải được nhìn nhận

trong môi trường vận động của các sinh hoạt fôn - klo muôn màu muôn vẻ”

[42, 378]. Nhà nghiên cứu Đặng Thanh Lê cũng đã đề cập đến việc có nhiều ý

kiến xung quanh thuật ngữ truyện Nôm: “Xung quanh một thuật ngữ định danh

cho thể loại này cũng đã nảy sinh nhiều ý kiến. Nói chung, ý kiến phổ biến, thống

nhất vẫn gọi loại tiểu thuyết văn vần này là Truyện Nôm. Cũng có ý kiến gọi là

Truyện thơ và có trường hợp nêu lên “các tiểu thuyết dài có chương hồi(?)” viết

bằng thể lục bát như Truyện Hoa Tiên, Truyện Kiều, Truyện Nhị độ mai,

Truyện Lục vân Tiên... nên gọi là Truyện diễn ca...” [16, 54 - 55].

Những giá trị của truyện thơ Nôm cũng được giới nghiên cứu đặc biệt

quan tâm để làm sáng tỏ những khía cạnh xoay quanh nội dung và nghệ thuật

các tác phẩm thuộc thể loại này. Các tác phẩm được phân tích, bình luận, đánh

giá một cách kĩ lưỡng về các phương diện nhân vật, ngôn ngữ, thời gian, không

gian, thời điểm sáng tác ... Đặc biệt Truyện Kiều của Nguyễn Du đã trở thành

đối tượng được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn cả. Cho đến nay, các tác phẩm

truyện thơ Nôm vẫn đang tiếp tục được soi chiếu dưới góc độ của những lí

thuyết nghiên cứu hiện đại, góp phần cung cấp thêm những góc nhìn mới về

các tác phẩm. Và việc nghiên cứu các khía cạnh nội dung, nghệ thuật của từng

tác phẩm cụ thể vẫn là công việc cần thiết. Về nhân vật người phụ nữ trong

truyện Nôm, Nguyễn Lộc đưa ra nhận xét: “Một điều đáng chú ý nữa là truyện

Nôm bình dân rất đề cao vai trò của người phụ nữ. Nếu so sánh người phụ nữ

trong truyện Nôm bình dân với người phụ nữ trong tác phẩm văn học bác học,

có thể thấy rất rõ người phụ nữ trong văn học bác học ít tính chủ động hơn

nhiều... Nhân vật phụ nữ trong truyện Nôm bình dân khác hẳn. Dù là nàng Cúc

Hoa hay nàng Ngọc Hoa, nàng công chúa trong truyện Lý Công, nàng công

chúa trong truyện Hoàng Trừu, hay nàng Phương Hoa trong một truyện cùng

tên, tất cả đều chủ động. Chủ động trong tình yêu, và chủ động trong việc đấu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

tranh để bảo vệ hạnh phúc gia đình. Đối với các nhân vật phụ nữ trong truyện

Nôm bình dân, hoàn cảnh dù éo le ngang trái đến đâu cũng không mảy may

ảnh hưởng đến tinh thần và ý chí đấu tranh của họ. Tư tưởng định mệnh, buông

xuôi hầu như không có trong bất cứ một tác phẩm nào” [18, 486 - 487]. Như

vậy có thể thấy, Truyện Nôm là thể loại văn học đã nhận được sự quan tâm của

nhiều nhà nghiên cứu. Người phụ nữ cũng là một hình tượng văn học nổi bật

trong các truyện Nôm bình dân và đã được phân tích, đánh giá ở những góc độ

nhất định.

2.2. Lịch sử nghiên cứu truyện thơ Nôm Tày

Với sự phong phú về số lượng và sự hấp dẫn về mặt nội dung cũng như nghệ

thuật, trong những năm qua truyện thơ Nôm Tày luôn nhận được sự quan tâm

tìm hiểu, nghiên cứu của nhiều học giả. Các tác giả Lã Văn Lô, Hà Văn Thư

trong cuốn Văn hóa Tày Nùng [17] đã dành tâm huyết của mình để giới thiệu

về Truyện thơ Nôm khuyết danh. Năm 1997, Lê Trường Phát bảo vệ thành công

Luận án PTS. Khoa học Ngữ văn với đề tài “Đặc điểm thi pháp truyện thơ các

dân tộc thiểu số Việt Nam”[31]. Trong công trình này tác giả cũng tập trung

nghiên cứu truyện thơ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam về mặt kết cấu cốt

truyện, nhân vật, một số phương diện ngôn ngữ ... Trong Văn học các dân tộc

thiểu số Việt Nam [23], Phan Đăng Nhật chia truyện thơ các dân tộc ít người

thành ba loại đề tài: truyện thơ về tình yêu, về sự nghèo khổ và về chính nghĩa.

Tác giả đưa ra nhận định về nguồn gốc của truyện thơ (bắt nguồn từ dân ca và

truyện kể), giá trị và sức hấp dẫn của truyện thơ (có khả năng diễn tả mọi tình

cảm tinh vi, phức tạp, phương pháp kể truyện lý thú...), vai trò của truyện thơ

(đánh dấu một bước phát triển cao của văn học cổ truyền các dân tộc thiểu số).

Từ những nghiên cứu của mình tác giả đưa ra nhận xét mang tính khái quát:

“Truyện thơ đã tập hợp tinh hoa các loại, thể văn học, đồng thời cũng ảnh

hưởng sâu sắc đến các loại, thể phát triển sau nó. Gần đây, một số bài thơ thể

kể chuyện, các truyện thơ hiện đại, các thể truyện ký bằng văn xuôi của các tác

giả dân tộc ít hoặc nhiều đều đã tiếp thu và phát huy những tinh hoa trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

truyện thơ của dân tộc mình”[23, 209].

Võ Quang Nhơn trong Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam

[24] đã căn cứ vào phương thức diễn xướng, lưu truyền và nguồn gốc kế thừa

của truyện thơ các dân tộc để chia loại hình truyện thơ thành 4 nhóm sau: nhóm

truyện thơ gắn với sinh hoạt nghi lễ dân gian; nhóm truyện thơ kế thừa truyền

thống tự sự của truyện cổ dân gian các dân tộc; nhóm truyện thơ kế thừa truyền

thống trữ tình của thơ ca dân gian các dân tộc; nhóm truyện thơ thiên về thuyết

giáo đạo đức của truyện thơ Nôm Kinh. Nhà nghiên cứu Võ Quang Nhơn cũng

đưa ra nhận định: “Truyện thơ một mặt kế thừa và phát triển truyền thống tự sự

và trữ tình của truyện cổ và thơ ca dân gian, một mặt tiếp thu ảnh hưởng của

nền văn hóa bác học và đặc biệt là của văn học bác học Việt. Từ những sự kế

thừa và chịu ảnh hưởng về nhiều mặt đó, các nghệ nhân dân gian và các trí

thức dân tộc đã sáng tạo nên một thể loại văn học dân gian mới, với nội dung

bề thế hơn về dung lượng, với nghệ thuật được trau chuốt và hoàn thiện hơn. Ở

một số dân tộc ít người, thể loại truyện thơ đánh dấu bước phát triển mới của

văn học dân gian. Nó phản ảnh quá trình vận động, biến chuyển của văn học

dân gian các dân tộc ít người, tiến tới tiếp cận và đi dần vào quỹ đạo của nền

văn học thành văn của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam” [24; 450].

Nhà nghiên cứu Vũ Anh Tuấn đã có một công trình nghiên cứu quy mô

và giàu giá trị cả về mặt lí luận và thực tiễn, đó là công trình Truyện thơ Tày

Nguồn gốc - quá trình phát triển và thi pháp thể loại [42]. Công trình nghiên

cứu một cách hệ thống về nguồn gốc thể loại truyện thơ Tày, trên cơ sở đó tác

giả xác lập quá trình phát triển và phân tích thi pháp của thể loại truyện thơ

Tày. Công trình này được giới nghiên cứu đánh giá cao bởi những đóng góp

lớn lao của tác giả đối với nền văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam.

Ngoài những công trình nghiên cứu mang tính chuyên sâu còn có các bài

viết trên tạp chí cũng đi vào khai thác các khía cạnh cụ thể của truyện thơ Nôm

Tày. Có thể kể đến các bài viết như: “Đọc sách Nôm Tày Tần Chu” của tác giả

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Hiền Lương (Tạp chí Hán Nôm số 1/1989); “Về tác phẩm truyện thơ Tày -

Nùng Lưu Đài - Hán Xuân” của Nguyễn Minh Tuân (Tạp chí Hán Nôm số

3/2004); “Tìm hiểu đôi nét về truyện thơ Nôm Tày - Nùng Toọng Tương” của tác

giả Trần Thị Thu Hường (Tạp chí Hán Nôm số 3/2004); “Tìm hiểu yếu tố đạo

giáo trong một số truyện thơ Nôm Tày – Nùng” của Nguyễn Minh Tuân (Tạp

chí Hán Nôm số 1/2009)...

Trong khoảng thời gian khá dài nhiều nhà nghiên cứu, nhiều trí thức

người dân tộc Tày đã dày công sưu tầm, biên dịch và lần lượt giới thiệu các tác

phẩm truyện thơ Nôm Tày. Có thể kể đến những công trình như: Hợp tuyển thơ

văn Việt Nam, Tập 6 do nhóm Nông Quốc Chấn, Hoàng Thao, Hà Văn Thơ biên

soạn, Nxb Văn học xuất bản năm 1981; Tuyển tập văn học các dân tộc ít người ở

Việt Nam do Đặng Nghiêm Vạn làm chủ biên, Nxb Khoa học xã hội năm 1992;

Hợp tuyển văn học dân gian các dân tộc, Tập 1 do Đặng Văn Lung, Trần Thị

An biên soạn, Nxb Văn hóa dân tộc năm 1995; Tổng tập văn học Việt Nam,

Nxb Khoa học xã hội năm 2000; Chữ Nôm Tày và truyện thơ do Triều Ân chủ

biên, Trung tâm nghiên cứu Quốc học xuất bản năm 2003; Ba áng thơ Nôm Tày

và thể loại do Triều Ân dịch, Trung tâm nghiên cứu Quốc học xuất bản năm 2004;

Tử thư - Văn Thậy do Hà Thị Bình dịch và giới thiệu, Nxb Khoa học xã hội

năm 2005; Tổng tập văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam, Tập 22

do Nxb Khoa học xã hội xuất bản năm 2008... Công việc sưu tầm, biên dịch

và giới thiệu những tác phẩm truyện thơ Nôm Tày vẫn đang được các thế hệ

nối tiếp nhau thực hiện và ngày càng thu được nhiều thành quả đáng kể, giúp

người đọc có cơ hội tiếp cận kho tàng quý giá này của đồng bào Tày một cách

dễ dàng và đầy đủ hơn. Từ đó cũng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho công tác

nghiên cứu bộ phận văn học đặc sắc và giàu giá trị này.

Cho đến nay truyện thơ Nôm Tày vẫn đang được các nhà nghiên cứu quan

tâm. Vấn đề sưu tầm các truyện thơ Nôm Tày và chuyển dịch sang tiếng Việt

vẫn đang được coi trọng. Bộ Tổng tập truyện thơ Nôm các dân tộc thiểu số Việt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Nam (19 tập) do Viện nghiên cứu Hán Nôm sưu tầm, biên dịch được xuất bản

trong thời gian gần đây đã góp phần giúp người đọc tiếp cận nhiều hơn với kho

tàng truyện thơ Nôm Tày.... Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu mới chỉ chủ

yếu tập trung giới thiệu những vấn đề đặc trưng của thể loại chứ chưa có công

trình nào đi sâu nghiên cứu hình tượng người phụ nữ trong truyện thơ Nôm Tày.

Đến nay, chưa có công trình nào đặt hình tượng này làm đối tượng nghiên cứu

một cách hệ thống và toàn diện. Chính vì vậy, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu về

hình tượng người phụ nữ trong một số truyện thơ Nôm Tày nhằm làm sáng tỏ

một nội dung quan trọng và hấp dẫn của bộ phận văn học này.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

- Nghiên cứu nhằm chỉ ra những đặc điểm nổi bật về mặt nội dung phản

ánh và nghệ thuật thể hiện hình tượng người phụ nữ trong một số tác phẩm

truyện thơ Nôm Tày. Từ đó góp phần khẳng định vẻ đẹp và giá trị của hình

tượng nghệ thuật này.

- Khẳng định ý nghĩa của truyện thơ Nôm Tày trong việc bảo tồn và

phát huy những giá trị văn hóa dân tộc thiểu số, cụ thể là dân tộc Tày.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn cần phải thực hiện những

nhiệm vụ sau:

- Làm rõ những vấn đề lí luận và thực tiễn có liên quan như: các khái

niệm (truyện thơ Nôm, truyện thơ Nôm Tày, hình tượng văn học), khái quát

một số nét về văn hóa Tày, hình tượng người phụ nữ trong văn học trung đại...

- Thống kê, khảo sát, phân tích đặc điểm của các nhân vật nữ trong các

tác phẩm, từ đó khái quát hình tượng người phụ nữ trong truyện thơ Nôm Tày.

- Phân tích các biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong các tác phẩm nhằm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

làm nổi bật vẻ đẹp và phẩm chất của người phụ nữ trong truyện thơ Nôm Tày.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hình tượng người phụ nữ trong

truyện thơ Nôm Tày.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu chính của luận văn là văn bản các tác phẩm truyện

thơ Nôm Tày trong bộ Tổng tập truyện thơ Nôm các dân tộc thiểu số Việt Nam

gồm 19 tập do Viện Khoa học xã hội Việt Nam – Viện nghiên cứu Hán Nôm

sưu tầm, biên dịch, Nxb Khoa học xã hội xuất bản từ năm 2008 đến năm 2018.

Trong phạm vi có hạn của luận văn chúng tôi chỉ nghiên cứu hình tượng

người phụ nữ trong một số truyện thơ Nôm Tày như: Phạm Tải – Ngọc Hoa,

Tống Trân - Cúc Hoa, Lưu Đài - Hán Xuân, Tạng Ba, Nàng Kim, Ngọc Long,

Ngọc Sinh, Lưu Tương, Nho Hương, Tống Kim, Trần Bằng, Lý Kế Khanh. Đây

là những tác phẩm mà trong đó hình tượng người phụ nữ được thể hiện một

cách tập trung và rõ nét nhất.

5. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện luận văn này chúng tôi chủ yếu sử dụng các phương pháp

nghiên cứu sau:

- Phương pháp tiếp cận liên ngành: Việc nghiên cứu hình tượng người

phụ nữ trong truyện thơ Nôm Tày không chỉ thuộc lĩnh vực văn học mà còn

liên quan đến những lĩnh vực khác như văn hóa học, dân tộc học, xã hội học...

Vì thế trong quá trình tiếp cận các văn bản chúng tôi cần có phương pháp

nghiên cứu liên ngành để đáp ứng được yêu cầu.

- Phương pháp khảo sát, thống kê: Chúng tôi sử dụng phương pháp này

khi tiếp cận từng đặc điểm cụ thể của đối tượng để có cái nhìn chi tiết, chính

xác nhất trong quá trình trình bày kết quả nghiên cứu.

- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Đây là phương pháp đi vào tiếp cận

các tác phẩm truyện thơ Nôm ở cả hai phương diện nội dung và hình thức thể

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

hiện. Từ đó, đưa ra những đặc điểm cụ thể của đối tượng nghiên cứu.

- Phương pháp so sánh: Phương pháp này được thực hiện khi so sánh

hình tượng người phụ nữ trong các truyện thơ Nôm Tày với nhau và với người

phụ nữ trong truyện thơ Nôm Kinh.

6. Đóng góp mới của luận văn

Nghiên cứu Hình tượng người phụ nữ trong một số truyện thơ Nôm

Tày, chúng tôi hy vọng sẽ đem lại một cái nhìn tương đối hệ thống và toàn diện

về hình tượng người phụ nữ trong cái nhìn, cách phản ánh của tác giả đồng bào

dân tộc Tày. Đồng thời, khẳng định những nét đặc sắc của hình tượng người

phụ nữ trong văn học dân tộc thiểu số nói chung và trong truyện thơ Nôm Tày

nói riêng. Từ đó, góp phần bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa của một

bộ phận quan trọng trong nền văn học dân tộc.

7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần Nội dung

của luận văn được triển khai qua 3 chương:

Chương 1: Một số vấn đề lí luận và thực tiễn có liên quan

Chương 2: Đặc điểm hình tượng người phụ nữ trong một số truyện thơ

Nôm Tày

Chương 3: Nghệ thuật xây dựng hình tượng người phụ nữ trong một số

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

truyện thơ Nôm Tày

CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CÓ LIÊN QUAN

1.1. Các khái niệm

1.1.1. Truyện thơ Nôm Tày

Trong công trình của mình các nhà nghiên cứu đã dùng một số tên gọi

như: truyện Nôm, truyện thơ Nôm, truyện thơ... và cũng đã đưa ra những quan

niệm khác nhau.

Theo Từ điển Văn học Việt Nam từ nguồn gốc đến hết thế kỉ XIX (Lại

Nguyên Ân, NXB Giáo dục, 1999), truyện thơ Nôm là “một thể loại sáng tác

tiếng Việt (chữ Nôm) thời trung đại, phát triển mạnh từ nửa sau thế kỉ XVIII và

suốt thế kỉ XIX. Số lượng tác phẩm nay còn tìm được khoảng trên 100 truyện,

tạo thành một bộ phận khá lớn của sáng tác tự sự (cả chữ Hán và chữ Nôm) ở

thời trung đại Việt Nam” [1, 664].

Khi xác định những đặc điểm của thể loại, nhà nghiên cứu Đặng Thanh

Lê cho rằng: “Truyện Nôm nằm trong hệ thống tác phẩm phản ánh cuộc sống

bằng phương thức tự sự... - có nghĩa là phản ánh cuộc sống xã hội thông qua

sự trình bày, miêu tả có tính chất hoàn chỉnh vận mệnh một nhân vật và trên cơ

sở ấy, sự phát triển có tính chất hoàn chỉnh của một tính cách nhân vật... sử

dụng ngôn ngữ văn tự dân tộc: chữ Nôm” [16, 55 - 56].

Trong cuốn Truyện thơ Tày - Nguồn gốc, quá trình phát triển và thi pháp

thể loại của tác giả Vũ Anh Tuấn có in bài viết “Truyện thơ” của nhà nghiên

cứu Phan Đăng Nhật. Trong bài viết này Phan Đăng Nhật đưa ra quan niệm của

mình về truyện thơ của dân tộc thiểu số (tương đương khái niệm truyện Nôm

của người Kinh): “Văn học dân gian và các dân tộc nước ta (dân tộc đa số

cũng như thiểu số) có nhu cầu sáng tạo và lưu truyền một loại hình thơ ca kể

truyện dài hơi... Ở văn học Kinh, người ta gọi đó là truyện Nôm... Thực chất

những tác phẩm được gọi là truyện Nôm (hoặc truyện Nôm bình dân) là những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

tác phẩm có tính chất tự sự diễn đạt bằng tiếng Việt, viết bằng chữ Nôm và đặc

biệt là hình thức thơ ca dài hơi. Do nhấn mạnh hình thức thơ ca nên có người

đề nghị gọi là truyện thơ Nôm. ... Nếu ở người Kinh có truyện thơ Nôm thì ở

các dân tộc thiểu số (DTTS) có một loại hình tương đương: truyện thơ. Đó là

những tác phẩm tự sự dưới hình thức thơ ca. Ở các DTTS không cần phải phân

biệt với tính bác học và hình thái ghi chép bằng chữ Hán. Các dân tộc thiểu số

nước ta có một kho tàng truyện thơ phong phú...” [42; 399].

Nhà nghiên cứu Vũ Anh Tuấn thì cho rằng truyện thơ là “một loại văn

học dân gian đã thành văn và mới chỉ đặc biệt phát triển trong vài ba thế kỉ trở

lại đây” [42, 12]. Bên cạnh đó có thể kể đến những quan niệm về truyện thơ

như: “Truyện thơ là thể loại phát triển cuối cùng và cũng là đỉnh cao của dân

ca Tày... Truyện thơ là thể thơ đã có sự chặt chẽ về vần điệu, và với nghệ thuật

của thể này, đó là một thể thơ độc đáo của dân tộc Tày. Về cách gieo vần chữ

thứ bảy câu trên vần với chữ thứ năm câu dưới và cứ tiếp tục như thế với số

chữ ổn định là bảy chữ, thích hợp với giọng kể chuyện, dễ nhớ cho người nghe,

dễ đọc cho người kể” [42, 16].

Nhà nghiên cứu Phan Đăng Nhật thì cho rằng truyện thơ là một lời hát

dài và “Truyện Nôm miền xuôi cũng như truyện thơ miền núi, đều là bước nối

giữa văn học dân gian và văn học thành văn, đều mang tính chất của cả hai

loại hình nói trên” [42, 20].

Nhà nghiên cứu Võ Quang Nhơn cũng coi truyện thơ là “một dấu nối

giữa văn học truyền miệng và văn học thành văn” và khẳng định truyện thơ ở

nhóm truyện thiên về khuynh hướng thuyết giáo đạo đức “đã thể hiện khá rõ

tính chất thành văn, tiếp cận với đặc điểm thi pháp của văn học bác học và

đánh dấu một bước phát triển mới của văn học dân gian” [42, 20].

Như vậy, có thể khái quát như sau:

Truyện thơ Nôm Tày là một trong số những thể loại của văn học dân tộc

Tày, là dạng sáng tác thành văn của dân tộc Tày, là những tác phẩm có tính

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

chất tự sự diễn đạt bằng thơ tiếng Tày, viết bằng chữ Nôm Tày. Các truyện thơ

Nôm Tày không rõ tác giả, phổ biến qua con đường truyền miệng, chủ yếu

được các trí thức bản tộc lưu giữ lại bằng cách chép tay. Nội dung của các

truyện thơ Nôm Tày phản ánh hiện thực cuộc sống, tâm tư tình cảm, ước mơ

khát vọng của người dân Tày. Các văn bản truyện thơ Nôm Tày thường dùng

thể thơ bảy chữ, vần lưng (chữ thứ bảy cuối câu trước vần với chữ thứ năm của

câu sau).

1.1.2. Hình tượng văn học

Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân đưa ra định nghĩa: “Hình tượng văn học

là hình tượng nghệ thuật thể hiện bằng chất liệu ngôn từ nghệ thuật, hay còn

gọi là nghệ thuật ngôn từ” [1; 149]. Chất liệu xây dựng nên những hình tượng

này không phải là thực thể vật thể mà là một hệ thống kí hiệu, ngôn ngữ.

Trong các công trình thuộc lĩnh vực Lí luận văn học như Lí luận văn học

(Hà Minh Đức chủ biên, Nxb Giáo dục, 2011), Lí luận văn học (Phương Lựu

chủ biên, Nxb Giáo dục, 2002), các nhà nghiên cứu cũng đã lí giải về hình

tượng văn học. Hình tượng văn học trước hết là hình tượng nghệ thuật. Nó

chính là một chiếc cầu, một dấu gạch nối giữa tác giả - tác phẩm và người đọc.

Người nghệ sĩ tạo ra tác phẩm văn học để thể hiện những nhận thức về đời

sống, bộc lộ những suy nghĩ, đánh giá của mình về cuộc đời và cắt nghĩa các

mối quan hệ xoay quanh chủ thể con người. Với bản chất là nghệ thuật ngôn từ,

văn học không diễn đạt trực tiếp những ý nghĩ, tình cảm bằng định lí, công

thức, bằng các khái niệm khô khan, trừu tượng mà đem đến cho độc giả thế

giới quan sâu sắc qua hệ thống hình tượng nhân vật cụ thể. Hình tượng ấy có

thể có thật, có thể được tạo dựng nên từ một nguyên mẫu nhưng cũng có thể là

một hình tượng hư cấu. Song, hình tượng văn học luôn là tổng hòa của các mối

quan hệ xã hội – mang bản chất của con người mà qua đó, họ sẽ bộc lộ được

những phẩm chất, tính cách, đặc điểm dựa trên nhu cầu và ý đồ phản ánh của

người sáng tác. Như vậy, hình tượng nghệ thuật là khách thể đời sống được

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

nghệ sĩ tái hiện một cách sáng tạo trong những tác phẩm nghệ thuật. Hình

tượng nghệ thuật dù là phương tiện để tái hiện cuộc sống nhưng không phải tô

vẽ y nguyên như hội họa, ghi chép trung thực như lịch sử mà là kết quả của sự

sáng tạo thông qua trí tưởng tượng và tài năng của người nghệ sĩ văn học. Qua

những hình tượng đó, cụm từ “đồng sáng tạo” được phát huy tác dụng khi độc

giả chính là đối tượng tiếp nhận và làm nên sức sống của tác phẩm văn học nói

chung và hình tượng văn học nói riêng. Khai thác, phản ánh hình tượng tốt, tác

phẩm sẽ khiến cho độc giả phải day dứt, trăn trở vì cuộc đời, số phận và những

vấn đề xã hội đặt ra qua hình tượng văn học.

Tác phẩm văn học là công trình nghệ thuật bằng ngôn từ, tái hiện lại

bức tranh hiện thực đời sống, thể hiện tư tưởng, quan niệm của nhà văn, nhà

thơ qua việc xây dựng những hình tượng nghệ thuật cụ thể. Hình tượng văn học

chính là hạt nhân quan trọng để hình thành nên các tác phẩm văn học. Hình

tượng văn học là bức tranh đời sống vừa mang tính cụ thể, vừa mang tính trừu

tượng. Đặc biệt, hình tượng này luôn mang giá trị thẩm mĩ và giá trị tư tưởng

mà người sáng tác ghép lồng. Hình tượng văn học đã đem đến cho các tác giả

một phương tiện nghệ thuật để phản ánh.

1.2. Khái quát về truyện thơ Nôm Tày

Giai đoạn thế kỉ XVII - XIX là thời kì lên ngôi của truyện thơ Nôm Tày.

Đây là một thể loại phổ biến và tiêu biểu, góp phần tạo nên diện mạo truyện thơ

của nền văn học nước nhà. Truyện thơ Nôm Tày gắn bó mật thiết với đời sống

tinh thần của người Tày và là niềm tự hào của họ.

Truyện thơ Nôm Tày được ra đời và lưu truyền cho đến ngày nay cần

phải kể đến sự xuất hiện của chữ Nôm Tày. Tuy nhiên, đây là một vấn đề đang

được giới nghiên cứu quan tâm song thực không dễ dàng giải đáp. Hoàng Triều

Ân trong Chữ Nôm Tày và thể loại truyện thơ có viết: “Nguồn gốc chữ Nôm

Tày là do nhà túc nho Cao Bằng tên là Lê Thế Khanh chế tác đầu tiên; những

nhà trí thức dân tộc đời sau tiếp tục bổ sung hoàn chỉnh dần. Chữ Nôm Tày đã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

xuất hiện từ thế kỉ thứ V” [2;15]. Trong cuốn Truyện Nôm Tày - nguồn gốc,

quá trình phát triển và thi pháp thể loại, tác giả Vũ Anh Tuấn kết luận: “Chữ

Nôm Tày đến thế kỉ XVII đã trở nên hoàn hảo” [42;45]. Trong cuốn Lượn cọi

tác giả Lục Văn Pảo có viết: “Như vậy, chữ Nôm Tày có từ cuối thời Lê là chắc

chắn. Có điều là đẩy lên nữa đến thế kỉ nào thì còn phải tìm thêm căn cứ” [30; 13].

Với một vài giả thuyết và kết quả nghiên cứu, chúng ta có thể thấy, chữ Nôm

Tày xuất hiện từ rất sớm và dần hoàn thiện vào khoảng thế kỉ XVI - XVII. Đây

là một cơ sở để thể loại truyện thơ Nôm Tày đạt được những thành tựu rực rỡ

trên văn đàn văn học.

Triều Ân cùng một số nhà nghiên cứu khác trong cuốn sách Chữ Nôm

Tày và thể loại truyện thơ đã tìm cách truy nguyên nguồn gốc thể loại này:

“Suy nghĩ tìm tòi truyện thơ Tày xuất hiện từ bao giờ, ta thấy có nét chung là xuất

hiện từ sau khi có văn tự Nôm Tày (là thế kỉ thứ V); đi vào cụ thể từng pho

truyện ta sẽ thấy sự xuất hiện khác nhau về thời điểm ta cần đọc xem xét nội

dung truyện cũng như bối cảnh lịch sử, tương quan lịch sử của truyện đó”

[2;32 - 33]. Các nhà nghiên cứu cũng đã tổng kết: “Truyện thơ Nôm Tày bắt

nguồn từ xã hội người Tày là chủ yếu (trừ truyện Sơn Bá - Chúc Anh Đài gốc

Trung Quốc hoặc có một vài truyện mượn tích hoặc truyện của người Việt để

Tày hoá như Tống Trân - Cúc Hoa, Phạm Tải - Ngọc Hoa...). Trong truyện thơ

Nôm Tày, dù có mượn tên nhân vật (như vua nước ngoài) mượn tên đất nước

dưới miền xuôi hoặc dưới âm phủ, ta hãy quên những tên rất thật ấy đi để thấy

giá trị hiện thực, nhân đạo... của truyện. Tên nhà vua, tên đất, lúc này chỉ còn

có giá trị ước lệ, vay mượn “cho có chuyện” mà thôi” [2; 35-36].

Về nội dung của các truyện thơ Nôm Tày, Lại Nguyên Ân khái quát

như sau: “Truyện Nôm Tày phản ánh nhiều vấn đề xã hội trong cộng đồng dân

tộc, nhất là các xung đột giàu - nghèo, dân thường - quan lại; ca ngợi những

người có công đánh giặc giữ nước, những tấm gương nhân nghĩa, tiết hạnh;

cảm thông với những người nghèo, bị áp bức, bị rơi vào cảnh ngộ khó khăn...

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Đề tài tình yêu lứa đôi giữ vị trí chủ đạo trong hầu hết các tác phẩm; sự thủy

chung trong tình duyên được thể hiện vừa như là phẩm chất tốt đẹp của người

phụ nữ, vừa như một chuẩn mực đạo đức và lý tưởng thẩm mỹ của con người

trong cộng đồng xã hội Tày - Nùng” [1; 663].

Với những nội dung chủ đạo đó, truyện thơ Nôm Tày sử dụng lối nói văn

vần, dùng thể thất ngôn trường thiên, gieo vần ở tiếng thứ năm và tiếng thứ bảy

mỗi câu . Bên cạnh đó, một số thủ pháp nghệ thuật đặc sắc được các tác giả sử

dụng như: xây dựng hình tượng nhân vật, sáng tạo tình tiết truyện, xây dựng

không gian, thời gian nghệ thuật, miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật…

Như vậy, truyện thơ Nôm Tày là một thể loại văn học được hình thành từ

lâu đời và để lại nhiều thành tựu về cả nội dung và nghệ thuật.

1.3. Vài nét về văn hóa dân tộc Tày

Dân tộc Tày là một cộng đồng thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái có số dân

đông nhất trong các dân tộc thiểu số nước ta. Phần đông người Tày cư trú ven

các thung lũng, triền núi thấp ở các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Thái

Nguyên, Quảng Ninh và một số vùng thuộc Bắc Giang v.v... Vùng Việt Bắc là

nơi người Tày sinh sống nhiều hơn cả. Ở vùng đất này, người Tày là cư dân bản

địa và giữ vai trò chủ thể từ rất lâu đời. Bản của người Tày thường ở chân núi

hay ven suối. Tên bản thường gọi theo tên đồi núi, đồng ruộng, khúc sông.

* Văn hóa vật chất

Nhà ở và trang phục là những yếu tố văn hóa đặc biệt, xuất hiện nhiều

trong các sáng tác văn học và có ảnh hưởng trực tiếp đến tư duy, quan niệm của

người Tày. Về nhà ở, những nhà truyền thống thường là nhà sàn, nhà đất mái

lợp cỏ gianh và một số vùng giáp biên giới có loại nhà phòng thủ. Trong nhà

phân biệt phòng nam ở ngoài, nữ ở trong buồng. Người Tày sống định cư, quây

quần thành từng bản chừng 15 đến 20 hộ, có quan hệ gần gũi với người

Nùng và với người Choang (Trung Quốc).

Về trang phục, người Tày sử dụng vải chàm. Trang phục cổ truyền của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

người Tày được làm từ vải sợi bông tự dệt, nhuộm chàm đồng nhất trên trang

phục nam và nữ, hầu như không có hoa văn trang trí. Cái độc đáo đáng quan

tâm của trang phục Tày là lối dùng màu chàm phổ biến, đồng nhất trên trang

phục nam và nữ cũng như lối mặc áo lót trắng bên trong áo ngoài màu chàm.

Nếu như nhiều dân tộc dùng màu chàm nhưng còn gia công trang trí các màu

khác trên trang phục thì người Tày hầu như chỉ dùng các màu ngũ sắc để trang

trí hoa văn mặt chăn hay các tấm thổ cẩm.

* Văn hóa tinh thần

Người Tày có một nền văn hóa tinh thần đa dạng, phong phú được thể

hiện qua rất nhiều mặt của đời sống. Trên bàn thờ tổ tiên người Tày đặt ba bát

hương. Một bát thờ Đắm (lạc đắm - rễ cọc, thờ gốc - cội nguồn); một bát thờ

lộc mệnh (gia phả dòng họ); một bát thờ hàm (các chức sắc của tổ tiên). Bên

cạnh đó, họ còn thờ các vị thần như thần bếp, thần thổ công, thần đá, thần mô

đất, thần gốc cây… Những phong tục ấy vẫn được lưu giữ cho tới ngày nay và

trở thành một nét văn hóa bản sắc của đồng bào Tày.

Nhắc đến văn hóa Tày không thể không nhắc đến hát Then. Theo quan

niệm dân gian, Then có nghĩa là Thiên, là Trời và được coi là điệu hát của thần

tiên truyền lại. Trải qua thời gian, điệu hát Then đã trở thành món ăn tinh thần

không thể thiếu trong đời sống văn hóa của bà con người Tày. Trong đời sống

của người Tày cổ, Then xuất hiện trong những sự kiện trọng đại như lễ cầu an,

cầu mùa, gọi hồn..., gửi lời cầu khẩn đến nhà trời giúp mùa màng bội thu, cuộc

sống bình an sung túc... Then Tày có một hệ thống làn điệu. Cũng giống như dân

ca của nhiều tộc người trên đất nước Việt Nam, phương thức truyền khẩu, tự ứng

tác trong hát Then là hiện tượng phổ biến. Âm nhạc là một trong những yếu tố

quan trọng nhất của văn hóa Then Tày, tuy nhiên, âm nhạc ở đây có điểm riêng

biệt và rất độc đáo, họ sử dụng cây đàn tính và xóc nhạc tạo nên giai điệu. Cây

đàn cùng với hát Then là Tính tẩu, một sáng tạo đặc sắc của người Tày lấy chất

liệu sẵn có từ môi trường thiên nhiên. Xung quanh sự ra đời cây đàn Tính nhiều

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

huyền thoại, truyền thuyết được thêu dệt, lưu truyền trong dân gian.

Qua quá trình tích lũy với sự đóng góp công sức của nhiều thế hệ, người

Tày đã sáng tạo và lưu giữ được một kho tàng văn hóa tinh thần phong phú,

trong đó có văn học.

Về ngôn ngữ, người Tày đã sáng tạo ra phương thức giao tiếp riêng của

dân tộc mình từ lâu đời. Cho đến ngày nay, họ vẫn sử dụng tiếng Tày như một

phương tiện chính thống trong đời sống hằng ngày. Văn học Tày cũng không

ngoại lệ. Họ đã sử dụng tiếng của dân tộc mình để ghi lại những sáng tác, lưu

truyền và gìn giữ bản sắc văn hóa Tày, làm phong phú thêm cho bức tranh văn

hóa Việt Nam.

Trong luận văn này, chúng tôi muốn giới thiệu vài nét về hình tượng

người phụ nữ Tày. Trong đời sống xã hội, người phụ nữ luôn đóng một vai trò

quan trọng, một vị trí không thể thay thế. Họ chiếm một nửa thế giới, là người

luân chuyển sự sống và tái sinh loài người. Trong gia đình, họ là người giữ lửa

hạnh phúc. “Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm” là như vậy. Chính bởi thế,

người phụ nữ đã trở thành hình tượng nghệ thuật bất hủ trong nhiều sáng tác.

Với người Tày, từ xa xưa, người phụ nữ đã hiện thân cho những điều

tươi đẹp, thiêng liêng. Họ xuất hiện trong tín ngưỡng, phong tục; họ là đối

tượng phản ánh của Cái Đẹp, Cái Thiện trong văn chương; họ là khách thể

thẩm mĩ của văn hóa nghệ thuật dân tộc. Qua những giá trị văn hóa đó, ta cảm

nhận được khá đầy đủ những vẻ đẹp về đặc điểm của người phụ nữ Tày.

Trước tiên là vẻ đẹp của người phụ nữ. Họ hiện lên trong thế đối sánh

với những điều đẹp nhất của thiên nhiên:

Phụ nữ là lá, là hoa

Là sao đêm sáng, là bầu trời xanh

Vẻ đẹp của họ không tách rời môi trường sinh sống mà hòa chung, kết

tạo cùng những điều đơn sơ, giản dị, trong sáng của núi rừng, của trời đất:

Con gái má lúm đồng tiền

Chân trắng bẹ chuối bóc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Tay thuôn búp măng mọc

Hay:

Eo thắt đáy con mạ

Má ửng hồng bồ quân

Chân dong dỏng duyên dáng

Tóc uốn dáng đuôi gà

Mắt liếc mòn đá suối

Vẻ đẹp ngoại hình dường như gắn với lao động, sản xuất. Không còn là

“thắt đáy lưng ong” như quan niệm của người Kinh, đồng bào Tày gửi gắm một

mong muốn về vẻ đẹp cần cù, siêng năng của người phụ nữ.

Bên cạnh vẻ đẹp ngoại hình, người phụ nữ Tày còn được khắc họa trong

những đặc điểm về phẩm chất, tính cách. Trong tình yêu, họ là những người

chủ động, luôn khao khát yêu thương. Ca dao Tày có đoạn:

Anh về em ước về theo

Làm chim đậu ngọn chuối tiêu sau nhà

Đậu cành khế ngọt của hoa

Khi anh lên xuống cùng là thấy nhau

Họ táo bạo, nồng cháy đến mức có những mong muốn rất “ngông”:

Trời sao chẳng loạn cho cùng

Để đôi ta được dồn chung một làng

Trong gia đình, họ là những người mẹ, người vợ, người con tảo tần, chịu

thương, chịu khó, cần cù lao động. Người Tày cực kì quan trọng lao động. Họ

thẳng thắn phê phán thói lười biếng, đặc biệt là đối với người phụ nữ. Người

phụ nữ Tày phải biết dệt vải, biết làm nương:

Đàn bà lười dệt vải thì hóa cáo

Từ bé, người phụ nữ Tày đã được học dệt vải. Khi chưa lập gia đình thì

dệt vải để may áo cho mình, để chuẩn bị đồ cưới. Khi có chồng rồi, họ phải dệt

vải để lo cái mặc cho cả nhà. Nếu không lao động, họ sẽ chẳng khác nào những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

loài vật xấu xa như cáo, như hươu, chỉ rình ăn trộm.

Trong mối quan hệ vợ chồng, người phụ nữ luôn được coi trọng. Để gia

đình yên ấm, người phụ nữ cùng với chồng luôn biết cách nhường nhịn nhau:

Vợ mắng chồng chẳng nói gì

Chồng mắng vợ lặng lẽ làm việc

Như vậy, người phụ nữ đã đem đến một phương diện mới mẻ, ấn tượng

cho văn hóa dân tộc Tày, góp phần tạo nên bức tranh văn hóa đa dạng, nhiều

màu sắc.

1.4. Đôi nét về hình tượng người phụ nữ trong văn học trung đại Việt Nam

Văn học trung đại là giai đoạn văn học từ khoảng thế kỉ X đến hết thế kỉ

XIX. Trong tiến trình hình thành và phát triển, các tác phẩm văn học trung đại

hướng về khắc họa một số hình tượng tiêu biểu như: hình tượng người anh

hùng, hình tượng tổ quốc, hình tượng người tri thức lạc thời, hình tượng người

phụ nữ… Với từng giai đoạn lịch sử, văn học lại hình thành nên từng hình

tượng trung tâm. Chẳng hạn, khi đất nước còn hiểm nguy và cường thịnh (thế

kỉ X – XV), văn học tập trung ngợi ca hình tượng người anh hùng của cộng

đồng. Nhưng khi triều đình phong kiến suy tàn, vua không còn sáng, tôi không

còn hiền, đời sống nhân dân lầm than, cực khổ thì văn học lại hướng ngòi bút

đến số phận những kiếp người nhỏ bé, đau khổ, đặc biệt là hình tượng người

phụ nữ.

Có thể nhận thấy, người phụ nữ xuất hiện trong rất nhiều những sáng tác

thời kì này, đặc biệt là giai đoạn nở rộ của chủ nghĩa nhân văn. Người phụ nữ

được khắc họa dưới cái nhìn nhân đạo của các tác giả.

Người phụ nữ trong văn học trung đại thường có ngoại hình ưu tú, xinh

đẹp. Chúng tôi xin được trích dẫn và phân tích một số điển hình về vẻ đẹp

người phụ nữ để thấy được đặc điểm này.

Trong “Chuyện người con gái Nam Xương” (Trích Truyền kì mạn lục –

Nguyễn Dữ), ông có viết về nhân vật của mình như sau: “Vũ Thị Thiết, người

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

con gái quê ở Nam Xương, tính tình thùy mị, nết na lại thêm tư dung tốt đẹp.”

(SGK Ngữ văn 9, tập 1, trang 43). Hay trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”,

Nguyễn Du đã đúc tạc nên hai bức chân dung mĩ lệ. Trước hết là người em

Thúy Vân:

“Vân xem trang trọng khác vời

Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang

Hoa cười ngọc thốt đoan trang

Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”

Tác giả đã đưa người đọc chiêm ngưỡng vẻ đẹp của Vân từ xa về gần.

Hai chữ “trang trọng” khiến cho vẻ đẹp của Thúy Vân hiện lên sang trọng, quý

phái như những tiểu thư đài các, nhung lụa. Con gái của gia đình “thường

thường bậc trung” nhưng dung nhan “trang trọng” đến mức “khác vời” như

Thúy Vân thực khó kiếm tìm. Nàng hiện lên trên trang thơ của đại thi hào họ

Nguyễn với những đường nét vô cùng tròn vẹn. Đó là khuôn mặt “đầy đặn”

phúc hậu của người con gái xuân thì, là nét mày “nở nang” cân đối, là tiếng

cười trong sáng như ngọc, lời nói tiết hạnh, đoan trang… Với những nét đẹp

hài hòa, cân đối ấy, thiên nhiên tạo vật như cũng cảm mến, ngưỡng mộ:

“Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”

Hai động từ “thua” và “nhường” xuất hiện trong câu thơ cùng với những

hình ảnh thiên nhiên - biểu tượng cho chuẩn mực cái đẹp phong kiến như một

dự cảm tốt lành, yên bình cho cuộc đời người em gái Thúy Vân.

Tả Vân như vậy là đã đẹp, đã hay, dừng lại như thế là vẹn. Những dòng

thơ còn lại, tác giả dành để miêu tả tài sắc, phẩm hạnh của người chị:

“Kiều càng sắc sảo mặn mà

So bề tài sắc lại là phần hơn”

Thì ra, đảo thứ tự miêu tả là dụng ý của nhà thơ. Ông đã khéo léo sử dụng

thủ pháp đòn bẩy để đem đến cho độc giả ấn tượng sâu sắc hơn về nhân vật

chính của thiên truyện - nàng Thúy Kiều. Vẻ đẹp của Kiều được khái quát qua

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

hai từ “sắc sảo”, “mặn mà”. Đó là nét đẹp của sự thông minh, nhanh nhẹn và

chân thật, đằm thắm. Không dừng lại ở vẻ đẹp, bức chân dung Thúy Kiều còn

hiện lên với những nét vẽ về tài năng, phẩm hạnh. Dẫu “mỗi người một vẻ, mười

phân vẹn mười” nhưng so với Thúy Vân, tài sắc của Kiều “lại là phần hơn”.

“Làn thu thuỷ, nét xuân sơn

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”

Nghệ thuật chấm phá, điểm nhãn của Nguyễn Du trong trích đoạn này đã

trở nên điêu luyện hơn bao giờ hết. Chỉ với hai câu thơ, dung mạo tuyệt sắc của

Kiều đã hiện lên đầy ấn tượng. Đó là hình ảnh đôi mắt – cửa sổ tâm hồn. Đôi

mắt của Kiều được ví như làn nước mùa thu trong ngần, thanh sáng. Đôi mắt ấy

long lanh như tiếng khóc, nụ cười của thời xuân thì đang bừng thức. Đôi mắt

trong ngần là biểu tượng của một tâm hồn thanh khiết. Nếu nét ngài trên gương

mặt phúc hậu của người em gái Thúy Vân “nở nang”, đầy đặn thì từng đường

nét trên gương mặt người chị Thúy Kiều lại sắc nét vô cùng. Trên đôi mắt long

lanh là nét ngài thanh tú như dáng núi mùa xuân. Tất cả tạo nên một vẻ đẹp

hoàn mĩ cho đôi mắt, điểm chấm phá tuyệt bút của Nguyễn Du. Vẻ đẹp “sắc

sảo, mặn mà” ấy không tròn trịa, hài hòa như Thúy Vân mà ở một tầm cao mới

khiến cho thiên nhiên phải đố kị, hờn tức. Những động từ không còn là “thua”,

là “nhường” nữa mà mang sắc thái ganh ghét rõ rệt. Những cánh hoa rộn nở để

làm tươi màu nhân thế, điểm sắc trần gian, những cành liễu yểu điệu như làm

duyên làm dáng, tình tự với gió trong sắc mướt xanh rì rào vốn là những biểu

tượng tuyệt vời của tạo hóa. Vậy mà giờ đây, trước nhan sắc của Kiều, chúng

trở nên mờ nhạt nên “hoa ghen”, “liễu hờn” âu cũng là cơ trời. Hai chị em Thúy

Vân, Thúy Kiều hiện lên với thủ pháp ước lệ tượng trưng – lấy vẻ đẹp của thiên

nhiên để làm thước đo chuẩn mực vẻ đẹp con người.

Trong thơ Bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương, người phụ nữ được

khắc họa với những vẻ đẹp đầy bản năng, quyến rũ. Giấc ngủ trưa hè chợt

đến đã làm xô lệch một cách đáng yêu cái yếm trên thân hình thiếu nữ. Qua

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

hai câu thơ:

“Lược trúc biếng cài trên mái tóc

Yếm đào trễ xuống dưới nương long”

Người ta có thể tưởng tượng ra sự xô lệch đáng yêu ấy. Hai từ cổ "nương

long" chỉ phần ngực của người con gái, liên tưởng đến câu thành ngữ "Nương

long mỗi ngày một cao - Má đào mỗi ngày một đỏ". Vẻ thanh tân của cô gái

được hai câu thơ sau nói ra bằng hình ảnh ước lệ:

“Ðôi gò Bồng Đảo sương còn ngậm

Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông”

Hình ảnh ẩn dụ ấy buộc người thưởng thức thơ Bà Chúa thơ Nôm liên

tưởng đến thực tế trần tục nhưng không dung tục. Mỹ từ "đào nguyên" - suối

hoa đào, gợi nhớ tích xưa Lưu Nguyễn lạc thiên thai và "bồng đảo" - chỉ

khuôn ngực thanh tân, có lẽ nhằm ca ngợi vẻ đẹp trinh nguyên của cô thiếu nữ

ngủ ngày.

Hay:

“Thân em vừa trắng lại vừa tròn”

Không chỉ vậy, người phụ nữ trong văn học trung đại còn ngời sáng

những vẻ đẹp phẩm chất. Đó là người thiếu nữ tài năng xuất chúng, hiếu đạo

vẹn tròn Thúy Kiều. Mười lăm năm sóng gió lưu lạc, “thanh lâu hai lượt, thanh

y hai lần”, hy sinh tình yêu, tuổi trẻ và trinh tiết cũng chỉ vì thương cha và em

bị hàm oan trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.

Đó là Vũ Nương hiếu thảo với mẹ, thủy chung với chồng, yêu thương

con cái trong áng “thiên cổ kì bút” của Nguyễn Dữ. Trong suốt quãng thời gian

chồng đi lính, một mình Vũ Nương ở nhà chăm sóc mẹ già, nuôi dạy con thơ.

Lời trăn trối của người mẹ chồng trong xã hội phong kiến với quan niệm “Bà

mất tiền mua mâm, bà đâm cho thủng” đã góp phần khẳng định vẻ đẹp phẩm

chất của nàng.

Đó còn là Kiều Nguyệt Nga hiếu nghĩa, trước sau như một trong truyện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

thơ cụ Đồ Chiểu...

Tuy vậy, họ có một đặc điểm chung đó là đều chịu số phận đau thương,

sóng gió, nổi chìm. Với tài năng và ngoại hình như vậy, người phụ nữ đáng ra

phải có một cuộc sống hạnh phúc, xứng đáng. Thế nhưng, chính xã hội phong

kiến với những quan niệm, hủ tục hà khắc, với những loạn lạc chiến chinh đã

đẩy số phận người phụ nữ xuống bóng đêm đau khổ, bất hạnh. Người chinh

phụ trong “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn, bản diễn Nôm Đoàn Thị

Điểm (?) đã cất lên khúc kêu ai oán, não nề cho thân phận của mình. Nàng hối

hận vì đã lầm lỡ, mê muội, đã cổ súy chồng ăn phải thứ “bả vinh hoa”:

“Lúc ngoảnh lại ngắm màu dương liễu

Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong”

để giờ đây, nàng phải héo mòn trong chính tuổi xuân của mình:

“Nghĩ nhan sắc đương chừng hoa nở

Tiếc Quan Âm lần nữa gieo qua”

Ta cũng bắt gặp sự nuối tiếc này trong thơ của Nguyễn Gia Thiều với

“Nỗi oán sầu của người cung nữ”. Nàng uất hận vì phải sống một cuộc đời vô

nghĩa, tuổi xuân trôi đi trong cô lẻ vì chế độ đa thê và tục tuyển cung tần, mĩ nữ

đương thời:

“Buồn mọi nỗi lòng đà khắc khoải

Ngán trăm chiều bước lại ngẩn ngơ

Hoa này bưỡm nỡ thờ ơ

Để gầy bông thắm, để xơ nhụy vàng”

Sức sống dồi dào và khát vọng hạnh phúc càng mãnh liệt bao nhiêu thì

nỗi oán hận càng chất ngất bấy nhiêu trong lòng người cung nữ. Tưởng chừng

như tất cả sắp bùng nổ thành hành động phản kháng dữ dội:

“Tay nguyệt lão chẳng xe thì chớ,

Xe thế này có dở dang không ?

Dang tay muốn dứt tơ hồng,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra”

Người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương cũng chịu chung hoàn cảnh

như vậy. Nàng không được tự lựa chọn hạnh phúc cho bản thân mình. Cuộc đời

người con gái dẫu xinh đẹp, thủy chung song cũng chẳng tránh khỏi nổi chìm,

lênh đênh:

“Bảy nổi ba chìm với nước non

Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn”

Nhận thức được điều ấy, không ít người phụ nữ đã tìm đến cái chết để

gìn giữ tấm lòng trinh bạch, phẩm giá tốt đẹp của mình. Vũ Nương bị chồng

nghi oan thất tiết nên đã tắm gội sạch chay, ra bến Hoàng Giang, ngửa mặt lên

trời mà than rằng: “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ,

điều đâu bạy buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng

giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm

ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá,

lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ

và xin khắp mọi người phỉ nhổ” rồi gieo mình xuống sông tự vẫn. Nàng đã

chọn cái chết để minh chứng cho sự trong trắng của mình.

Người phụ nữ trong văn học trung đại Việt Nam xuất hiện trong rất

nhiều thể loại: hát văn, truyện truyền kì, truyện thơ, thơ, bút kí… Song ở mỗi

thể loại, hình tượng này lại mang những đặc điểm riêng biệt. Với truyện thơ

Nôm – một thể loại có sự đan xen giữa yếu tố tự sự và chất trữ tình thì người

phụ nữ lại có mảnh đất để bộc lộ những vẻ đẹp một cách toàn diện nhất. Qua

những trang tự sự gần gũi, qua những biến cố cuộc đời, chất hiện thực được

hiển hiện như lời kể tâm tình, thân quen. Và cũng qua những tình tiết ấy, người

phụ nữ mới có cơ hội bộc lộ hết những phẩm chất vốn có của mình. Qua những

dòng suy tưởng trữ tình, người phụ nữ lại ngời sáng vẻ đẹp lãng mạn. Họ luôn

là phái đẹp, luôn là đối tượng để ngợi ca, trân trọng, nâng niu; luôn xứng đáng

giành được những khoảnh khắc huyền ảo, thơ mộng trong thơ ca. Bên cạnh đó,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

cũng cần lưu ý rằng, dù ở bất kì thể loại nào thì hình tượng người phụ nữ giai kì

này cũng được nhìn nhận dưới cái nhìn của chủ nghĩa nhân đạo, chủ nghĩa tình

cảm (cảm thương).

Người phụ nữ trong các truyện thơ Nôm Tày cũng đã được ngợi ca về

cả ngoại hình và phẩm chất, nhưng đặc biệt người đọc đề cao vẻ đẹp tâm hồn

của họ. Khi giới thiệu 5 truyện thơ rất phổ biến và được hâm mộ trong dân tộc

Tày là truyện Nàng Kim, Nàng Hán, Nàng Quyển, Nàng Ngọc Long, Nàng

Ngọc Dong , Hoàng Triều Ân và các nhà nghiên cứu đã có những lời nhận xét,

phân tích về người phụ nữ trong truyện thơ Nôm Tày: “Qua 5 truyện thơ về

các Nàng, ta dễ nhận thấy một điều là các nhân vật nữ thuộc tuyến chính

nghĩa đều là những người phúc hậu, người tốt, hiền lành. Dù tác giả (khuyết

danh, dân gian) có xây dựng các nàng có nguồn gốc từ đâu, là người trần thế

hay tiên nữ giáng trần, đều nhằm mục đích gây được cảm tình từ đầu cho

người đọc, người nghe kể” và “thông qua các nhân vật Nàng truyện thơ ca

ngợi tự do, nhất là tự do luyến ái, tự do hôn nhân... Ở họ tình yêu nào cũng

trong sáng thuỷ chung, tình phu thê nào cũng trọn vẹn, tình mẫu tử nào cũng

thiết tha sâu sắc... Họ là những người có đạo đức, tôn trọng chính nghĩa, lễ

nghĩa, tu nhân tích đức...” [2; 88 - 89].

TIỂU KẾT

Trong chương 1 của luận văn, chúng tôi tiến hành giới thuyết các vấn đề

lí thuyết của vấn đề nghiên cứu. Trong đó, chúng tôi giải thích các khái niệm

liên quan nhằm cắt nghĩa rõ nét nhất đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Những

khái niệm về truyện thơ Nôm Tày, hình tượng văn học... sẽ là những tiền đề về

mặt lí luận giúp chúng tôi tiến hành đi sâu nghiên cứu đề tài. Cụ thể, trong luận

văn này, chúng tôi sẽ chỉ ra đặc điểm của một hình tượng văn học: hình tượng

người phụ nữ trong thể loại truyện thơ Nôm Tày. Muốn nghiên cứu một cách

chính xác và thỏa đáng, chúng tôi đã đặt hình tượng này vào trong môi trường

tự nhiên, xã hội của đồng bào miền núi - nơi sản sinh và nuôi dưỡng nền văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

học Tày.

Đồng thời, luận văn kế thừa những nghiên cứu liên quan đến thể loại

truyện thơ Nôm cũng như hình tượng người phụ nữ trong văn học trung đại

Việt Nam nhằm đem lại cái nhìn chính xác hơn, toàn diện hơn. Những kết quả

nghiên cứu ở chương 1 là nền tảng cơ sở lí thuyết cho việc triển khai các vấn đề

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

ở chương 2 và chương 3 của luận văn.

CHƯƠNG 2

ĐẶC ĐIỂM HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG MỘT SỐ

TRUYỆN THƠ NÔM TÀY

2.1. Người phụ nữ đẹp và có xuất thân quyền quý, huyền ảo

2.1.1. Người phụ nữ xuất thân quyền quý và huyền ảo

Trong những truyện thơ Nôm Tày mà chúng tôi khảo sát, người phụ nữ

xuất thân từ rất nhiều hoàn cảnh khác nhau: xuất thân từ mường trời, xuất thân

từ hạ giới nhưng thuộc giới quyền quý...

Trong số 10 tác phẩm chúng tôi khảo sát có đến 4 truyện nhân vật xuất

thân từ mường trời. Có thể kể đến như các truyện: Nàng Ngọc Long, Ngọc

Sinh, Trạng Ba, Nàng Kim. Người phụ nữ trong truyện thơ Nàng Ngọc Long là

Ngọc Long – một nhân vật xuất hiện với sự rõ ràng về hoàn cảnh xuất thân.

Nàng là con gái tướng quân Bắc Đẩu nhà trời, nhân “Tháng giêng cùng tiên nữ

xuống trần/ Mải chơi hoa mùa xuân lạc bạn” phải vào ẩn tạm ở xứ Âm Tang

rừng xanh núi thẳm để chờ bạn:

Ngọc Long con khuê phủ thiên môn,

Con gái vị tướng quân Bắc Đẩu.

Xuống trần cùng bầy nữ tiên nga,

Vãng cảnh xuân hội hoa dương thế.”

Như vậy, Ngọc Long là cô gái có nguồn gốc siêu linh, thần thánh. Nàng

là một tiên nữ giáng trần. Tương tự, trong truyện Ngọc Sinh cũng như vậy.

Nhân vật nữ chính được giới thiệu là Tiên Nga giáng trần, tên là Minh Nga.

Truyện Nàng Kim cũng là một tiên thoại trong hệ thống truyện thơ Nôm Tày.

Nàng Kim là con Phật, là người mường trời. Nhân ngày xuân, nàng Kim ra

ngắm cảnh vườn thượng uyển, “gặp ong điệp hội xuân tìm nhị”, nàng mê mải

đắm chìm trong thế giới đầy hương sắc của bướm hoa mà quên về, nhất là lúc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

ong hoa dặn dò nhau quyến luyến khi mùa xuân sắp tàn:

Dặn nhau lệ đầm đìa quyến luyến,

Nàng Kim nghe xao xuyến buồn phiền.

Nghĩ ong hoa sơn xuyên thán vọng,

Ong ý cũng còn ngóng mùa xuân,

Tiên há không tần ngần buồn bã.”

Nàng Kim đã chớm nở những xúc cảm của xuân tình giữa vườn xuân

sắc. Đó là một lẽ tự nhiên - đối với con người dương thế. Song, đã sống ở nơi

tiên sa thượng các thì không được phép “thèm muốn đường gia thất” để khỏi

“uế tạp vùng thượng giới”. Chính vì thế, nàng phạm vào luật lệ khắt khe của

nhà Phật khi xem hoa ngắm nguyệt quên về, bị Bụt Cả phê bình nghiêm khắc

và xử phạt:

Bỏ nhà đi chơi hoa ngắm nguyệt

Thèm muốn đường gia thất giao ca

Cho con xuống quốc gia cõi thế

Không cho ở thượng đế phương trời

Bởi làm xấu đạo nơi cõi thượng

Cho xuống trần xây dựng vợ chồng

Khỏi uế tạp đây vùng thượng giới

Từ đây, nàng Kim bị đầy xuống gầm trời. Ngày đi, nàng Kim từ biệt Bụt

Cả, bè bạn bầy tiên để trở thành người trần thế. Bụt Cả lơn tiếng dặn con rằng:

Con xuống trần định chỗ phu thê

Qua ba thu con về thượng giới

Xuống cõi đời sống phải có nhân

Bầy tiên bè bạn dặn dò nhớ nhung

Chốn hạ giới thế dương chị xuống

Rảnh ngày thì nhớ tưởng bạn tiên

Bên cạnh đó trong những truyện như: Truyện Nho Hương, Truyện Lưu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Đài - Hán Xuân, Truyện Chiêu Đức chúng ta lại thấy hình ảnh của những người

phụ nữ xuất thân trong gia đình quyền quý phong kiến. Truyện thơ Nho Hương

đã đem đến một cái nhìn khác về thân phận người phụ nữ. Nhân vật nữ trong

tác phẩm này là Mẫu Đan dưới đời vua Thái Tông:

Thái Tông ngự điện vàng trị vì

An cư khắp tứ xứ quốc gia

Mẫu Đan xuất hiện trong đoạn đầu truyện qua mối nhân duyên giữa nàng

và Nho Hương:

Nhân duyên do thượng các đã phân

Cho kết nàng Mậu Đan công chúa

Không chỉ thế, Mẫu Đan còn được xác định rõ ràng danh tính, địa vị

trong những lời giới thiệu ở đoạn sau của truyện:

Thái Tông ngự điện vàng trị vì

An cư khắp tứ xứ quốc gia

Sinh có ba dương nga công chúa

Hai chị đã giá thú phượng loan

Thứ ba là Mẫu Đan hiền nữ

Tuổi niên thiếu rực rỡ mười ba

Mẫu Đan là điển hình cho mẫu người phụ nữ xuất thân quyền quý, là

công chúa của một quốc gia. Bên cạnh đó, chúng tôi còn nhận thấy đặc điểm

này trong truyện thơ Lưu Đài - Hán Xuân. Lưu Đài - Hán Xuân là một truyện

thơ Nôm khuyết danh. Tên hai nhân vật chính cũng được lấy làm nhan đề của

truyện. Đây là hai con người luôn bền bỉ phấn đấu vượt mọi nghịch cảnh, dũng

cảm chiến đấu với quân địch dù tương quan lực lượng chênh lệch. Trong luận

văn này, chúng tôi tập trung khai thác hình tượng nhân vật Hán Xuân – một

người phụ nữ Tày anh hùng, bất khuất.

Hán Xuân không được giới thiệu quá chi tiết, trực tiếp về hoàn cảnh xuất

thân. Song, qua tích truyện phần mở đầu, ta có thể thấy, Hán Xuân được giới

thiệu trong mối quan hệ với chàng trai mồ côi Lưu Đài - người xã Bình Sơn,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

sang Nam Nga để xin học:

Nghe đồn thầy Nam Nga rộng rãi

Mong ơn người thương hãy dạy nuôi

Việc chăn trâu kiếm củi mặc con

Được thầy nhận nuôi dạy, Lưu Đài ở lại Nam Nga giúp việc nhà và dùi

kinh mài sử. Cũng từ đó, nhân vật Hán Xuân xuất hiện. Nàng được giới thiệu là

một thiếu nữ “đang độ”, cha mẹ giục cưới nhưng chưa thực ưng ai. Trong một

đêm thu, Hán Xuân đem lòng tương tư tiếng đọc bài của học trò nghèo:

…Hán Xuân trong lầu gác đắm say

Ý riêng những muốn ngay thấy mặt

… Tay tựa gối Hán Xuân vẫn thức

Trời đất khéo phân đặt nhân duyên

Những từ ngữ được tác giả sử dụng đã cho thấy, Hán Xuân xuất thân

trong một gia đình quyền quý, giàu có. Nàng “đêm ngày trong màn rủ phòng

loan”. Nơi ở của Hán Xuân cũng cao sang vô cùng. Đó là “trong lầu gác”,

“Đào Nguyên”, là nơi tiên ở, ý nói khuê phòng đài các của tiểu thư nhà giàu.

Tóm lại, Hán Xuân là một tiểu thư khuê các, sinh ra trong gia đình giàu có,

quyền quý ở Nam Nga. Việc đưa ra những thông tin này đã giới thiệu rõ ràng

về nhân vật, đồng thời tạo ra sự tin cậy nhất định đối với độc giả, câu chuyện từ

đó mà chân thực, sống động hơn.

Chúng ta còn bắt gặp hình tượng người phụ nữ xuất thân trong gia đình

giàu có ở truyện Chiêu Đức. Đây là một truyện thơ ca ngợi lòng chung thủy

trong tình yêu, đồng thời, đề cao tấm lòng vì dân vì nước và sự nỗ lực vươn lên

làm chủ số phận. Nhân vật nữ chính là nàng Kim Nữ. Có thể coi, Chiêu Đức và

Kim Nữ là hai nhân vật có nguồn gốc từ mường trời bởi họ đều là con cầu tự.

Đoạn đầu truyện, tác giả giới thiệu:

Kể chuyện chàng Bách Vạn thuở xưa

Cùng Viên Ngoại đồng châu sang trọng

Đôi bạn hiền hào phóng văn chương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Đều hạng người quyền môn cao quý

Đây chính là lời giới thiệu về đấng sinh thành của Chiêu Đức và Kim Nữ

- nhà Bách Vạn và nhà Viên Ngoại. Họ là bạn đồng châu, cùng là lớp người

giàu có và cùng chung cảnh:

Cả hai đều quyền vinh tài tử

Cùng gia đình hào phú xứng đôi

Cùng thiếu kẻ kế đời nối dõi

Vậy nên, họ rủ nhau đến chùa Lôi Âm xin con. Cảm kích trước lòng

thành của đôi bạn, Phật Bà ban cho mỗi gia đình một đứa con:

Cảm thành kính mẹ trời bèn phó

Trao cho đôi nam nữ song sa

Thân từng cửa theo về tức khắc

“Dẫu mỗi người ly biệt khác phương

Sau này kiếp vợ chồng duyên số”

Lại nói về đôi bạn Bách Vạn và Viên Ngoại, sau khi cầu tự nơi chùa Lôi

Âm, họ đều nằm mộng được Phật ban cho một đứa con. Vậy nên, họ hẹn ước

với nhau rằng:

Hễ sinh hạ bên trai bên gái

Cho hợp duyên kết ngãi vợ chồng

Cho hợp với lời khôn trong mộng

Làm thiêng hỡi đất rộng trời vuông

Tình cờ kết tơ hồng đôi lứa

Chiêu Đức và Kim Nữ ra đời từ đó. Chiêu Đức là con trai một của nhà

Bách Vạn, Kim Nữ là con gái yêu nhà Viên Ngoại. Như vậy, nàng Kim Nữ là

người có xuất thân, lai lịch quyền quý.

Như vậy, xét về hoàn cảnh xuất thân, chúng ta có thể nhận thấy, hầu hết

những người phụ nữ đều có xuất thân từ chốn cao sang. Hoàn cảnh xuất thân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

vừa hư, vừa thực, khi là tiên nga giáng trần, khi lại là công chúa quyền quý.

2.1.2. Người phụ nữ có ngoại hình xinh đẹp

Người phụ nữ trong truyện thơ Nôm Tày đều mang ngoại hình xinh

đẹp, lộng lẫy. Tất cả các truyện chúng tôi khảo sát đều cho thấy đặc điểm này

rõ nét. Đọc các truyện thơ Nôm Tày chúng ta thấy hầu hết các cô gái đều trẻ

trung và có dung nhan đẹp đẽ: “Mặt trắng ngời tiên nữ Nàng Kim” (nàng Kim);

“Dáng người đều mĩ lệ thanh tân/ Tươi như đóa hoa xuân đang nở” (nàng

Ngọc Dong); “Yểu điệu lại có duyên xinh xắn”, “Y như nàng tiên sa tha thướt/

Yểu điệu nét lả lướt cao sang” (Thị Dung); “Lông mày như bút vẽ có duyên/

Mặt mũi đẹp như tiên hạ thế” (nàng Quyển); “Ngời ngợi ánh hào quang hoa

nở/ Thoa vàng gài mái tóc tựa tiên” (Hán Xuân)...

Ngoại hình nhân vật được khắc họa trong nhiều tình huống, nhiều trường

hợp. Có thể nói, họ đều là những người con gái, người phụ nữ có dung nhan.

Với nhân vật Từ Thị trong truyện thơ Nôm Tống Kim, ngoại hình được khắc

họa qua phân đoạn lời trăng trối của người chồng:

Nói với nàng Dương Nga Từ Thị

Xem ra phận anh khổ đã nhiều

Tác giả có thể hiện hình tượng người phụ nữ đẹp, nết na qua từ “dương

nga”. Đây là một từ ngữ mang tính ước lệ. Trong văn học trung đại, hệ thống từ

ngữ mang tính ước lệ chiếm số lượng tương đối lớn, đặc biệt là trong các văn

bản có yếu tố trữ tình. Từ “Dương Nga” phải chăng là sự ẩn dụ của một Hằng

Nga tại dương thế - nàng Từ Thị. Về sau, từ “Dương Nga” được trở đi trở lại

trong truyện nhưng với vai trò là một định ngữ gắn với đối tượng khác – nàng

Nghi Xuân:

- Tôi vốn là con người lưu lạc

Sao xứng đôi mặt đẹp Dương Nga

- Muôn sự hãy ơn con thương đến

Cho con kế Dương Nga đẹp nết

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Mẹ không nói gian dối Tống quan

Có thể thấy, Từ Thị xinh đẹp, nết na, Nghi Xuân cũng không hề thua

kém nhan sắc của mẹ. Ở phần đầu tiên của truyện, ta thấy, Nghi Xuân là một

người con gái có ngoại hình đẹp:

Ngày đêm mẹ nuôi ẵm ôm con

Tháng thêm năm vỗ về nuôi dưỡng

Ngày lại ngày nhan sắc xinh tươi

Trả ơn làm Nghi Xuân con gái

Ngày đêm bên cha mẹ không rời

Tác giả đã trực tiếp miêu tả ngoại hình của Nghi Xuân qua cụm từ “nhan

sắc xinh tươi”, đi kèm với điệp từ “ngày…ngày” khiến cho nhan sắc ấy như

đằm thắm, mặn mà hơn theo bước chuyển của thời gian. Trong toàn thiên

truyện, cụm từ “Nghi Xuân xinh tươi”, “Nghi Xuân xinh đẹp”, “Xuân Thị Văn

Đăm” (Văn Đăm là tên người phụ nữ đẹp nổi tiếng ở Trung Quốc. Văn học Tày

dùng từ Văn Đăm như một danh từ để chỉ người con gái đẹp, mà ở đây là nàng

Nghi Xuân) xuất hiện đồng thời, xuất hiện nhiều lần làm chủ ngữ trong câu thơ,

ý thơ:

- Quan chết bởi Nghi Xuân xinh đẹp

Vì cha mẹ gian ác chẳng thương

- Lưu ông cất lời bảo mấy lời

Khuyên về hỡi Nghi Xuân xinh đẹp

- Đã không thấy tin anh chốn nào

Nàng Nghi Xuân xinh đẹp bảo cha

- Thuyền Lưu ông chính giữa sông sâu

Thấy em gái Văn Đăm Xuân Thị

Qua việc thống kê và phân tích một số cách sử dụng từ ngữ trong truyện

thơ Nôm “Tống Kim”, chúng tôi nhận ra rằng, người phụ nữ Tày được khắc họa

trong truyện luôn mang một ngoại hình xinh đẹp, đằm thắm. Khi thì gián tiếp,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

khi lại trực tiếp, vẻ đẹp ấy hiện lên mộc mạc, thanh sạch như bông hoa tinh

khiết giữa núi rừng. Dù trong hoàn cảnh nào, vẻ đẹp ấy vẫn luôn được chú ý

khắc họa. Cách miêu tả này giúp độc giả nhận ra được quan niệm, nhu cầu

thưởng thức thẩm mĩ của tác giả dân gian dân tộc Tày giai đoạn này đã được

chú trọng. Họ trực tiếp hướng ngòi bút của mình về phía cái đẹp thuần túy để

khắc tạo nên hình tượng người phụ nữ Tày.

Trong truyện Nàng Ngọc Long, khi nói về hoàn cảnh xuất thân tác giả đã

phần nào giới thiệu về ngoại hình của nàng. Ngay sau lời giới thiệu về hoàn

cảnh xuất thân của người phụ nữ này, tác giả đã dành những câu thơ, những

định ngữ để miêu tả nhan sắc theo nhiều phương diện. Trước hết, dung nhan

tuyệt thế của Ngọc Long hiện lên qua cách xưng gọi trong truyện thơ. Khi thì

nàng được gọi là “nàng mặt ngọc”, “người ngọc”, “ngọc nữ”, “nàng tiên nga”,

“nàng khôi châu”, “mỹ nữ”; khi lại được dùng điển tích về người con gái xinh

đẹp, duyên dáng, nết na để xưng gọi - “Văn Đăm”… Không khó để nhận ra ý

đồ của tác giả khi ví nhan sắc của nàng với nét đẹp trong khiết, quý giá của

thiên nhiên, tạo vật. Nàng là người nhà trời nên nhan sắc không chỉ xinh tươi

mà còn vô cùng sang trọng, cao quý.

Bên cạnh đó, tác giả dân gian cũng không ít lần trực tiếp miêu tả dung

nhan của Ngọc Long. Nhan sắc của nàng hiện lên cuộc nói chuyện của thầy bói

với xã bản:

Sáng hôm sau thấy nàng ra cửa

Dong dáng nàng tiên nữ nhà trời

Thế gian đâu có được người như thế

Mặt trắng ngần như thể ngọc khôi

Như vậy, so với cách miêu tả trong truyện Tống Kim, ta thấy được rõ

ràng hơn, tinh tế hơn trong việc khắc họa dung nhan, ngoại hình nhân vật.

Người phụ nữ hiện lên qua trang truyện thơ không chỉ xinh đẹp đơn thuần mà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

còn mang một vẻ đẹp giàu sức gợi hình, gợi cảm.

Trong truyện thơ Nàng Kim, vẻ đẹp của nhân vật nữ chính cũng được khắc

họa rõ ràng. Nàng Kim được giới thiệu là con của Phật, đang đến tuổi cập kê.

Nàng có ngoại hình của tiên nữ, tiên nga với khuôn mặt “trắng ngời”, “ngà ngọc”:

Đoạn này nói Tiên Sa thượng các

Nàng con Phật ngà ngọc thiên nhan

Ra ngắm cảnh vườn cam hoa nở

Mặt trắng ngời tiên nữ Nàng Kim

Nhan sắc xinh đẹp của nàng Kim Thị được miêu tả rõ nét hơn cả khi

nàng thoát kiếp người đội lốt khỉ, trở lại dung nhan ban đầu. Trong cuộc thi

giữa Chúa Cả, Chúa Hai, Chúa Ba, nàng Kim đều được tiên nga, Bụt Cả giúp

đỡ. Khi thì Bụt Cả sai người giúp làm cỗ, khi lại giúp may áo, nhờ thế, chiến

thắng đều thuộc về Chúa Ba và Kim Thị. Cuộc thi thứ ba cũng là cuộc thi quyết

định, mang tính chất bước ngoặt - cuộc thi người đẹp. Từ đây, nàng Kim được

trở về với ngoại hình xinh đẹp, lộng lẫy của một tiên nga:

- Nàng Kim sáng choi chói thân người

Da trắng tựa hoa mai mới nở

- Trông Nàng Kim óng mượt xinh tươi

Chói lọi như mặt trời ban sớm

Đem sánh cả mười tám lân bang

Chẳng ai đẹp như nàng Kim Thị

Đẹp nhất bậc dương thế cõi trung

Hán Xuân trong truyện thơ Nôm Lưu Đài - Hán Xuân cũng mang đặc

điểm chung về ngoại hình của những nhân vật nữ chính trong truyện thơ Nôm

Tày. Nàng là con nhà giàu, đang tuổi xuân thì và xinh đẹp vô cùng:

Ngời ngợi ánh hào quang hoa nở

Thoa vàng gài mái tóc tựa tiên

Nàng tuổi chừng mười lăm đang độ

…Mẹ nàng bảo con gái nõn nà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

…Mình ngọc ở lầu gác mới thưa

Có thể thấy, khi nhắc đến Hán Xuân, tác giả đã liên tục sử dụng những

hình ảnh ước lệ cho vẻ đẹp của nàng. Khi mới sinh ra, Hán Xuân được ví như

“một vườn mẫu đơn” lộng lẫy khoe sắc, vẻ đẹp “ngời ngợi ánh hào quang”.

Đến khi trưởng thành, vẻ đẹp ấy không chỉ có thể so sánh với những điều tinh

túy trên thế gian mà phải vượt lên khỏi giới hạn trần thế: “Thoa vàng cài mái

tóc tựa tiên”.

Vẻ đẹp ngoại hình của Kim Nữ (Truyện Chiêu Đức) cũng được tô tạc với

những nét vẽ lộng lẫy, xinh tươi như vậy. Nếu như khi giới thiệu hoàn cảnh

xuất thân của nhân vật, những truyện thơ khác đều ngầm ý nói đến vẻ đẹp ngay

thì truyện Chiêu Đức lại ngầm để chi tiết này lại phía sau. Phải cho tới khi Kim

Nữ cất lời phải trái, nói cùng cha mẹ về lời hẹn ước giữa hai gia đình và thái độ

kiên quyết của mình, những cụm từ miêu tả ngoại hình của nàng mới xuất hiện.

Khi nghe tin cha mẹ có ý bội ước vì gia cảnh Chiêu Đức đổi thay, Kim Nữ

không khỏi lo lắng:

Nàng Kim Nữ thanh tân đẹp đẽ

Tháng năm trôi ơn kể mẹ cha

Đầy tiết thái dương nga yểu điệu

Đoạn thơ vừa khắc họa sự lắng lo của Kim Nữ, vừa khéo léo miêu tả

ngoại hình của nàng. Một loạt những từ ngữ gợi hình, gợi tả hiện lên rõ ràng.

Đó là người con gái “thanh tân đẹp đẽ”, là nàng “dương nga yểu điệu”.

Những đoạn thơ sau, tác giả đã không hề giấu diếm sự ngợi ca khi liên tiếp

gắn tên tuổi Kim Nữ với những danh từ, những điển cổ quen thuộc trong hệ

thống truyện thơ Nôm Tày như: Nàng Văn Đăm Kim Nữ, nàng ngọc, ngọc nữ,

lụa hoa, Ngọc Khôi Châu… Tất cả đều gợi lên một vẻ đẹp duyên dáng, thướt

tha, lộng lẫy của nàng.

Tuy nhiên một điều chúng ta cũng có thể nhận thấy đó là vẻ đẹp của

những người phụ nữ này chỉ dừng lại ở việc miêu tả chung chung, mang tính

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

khái quát ước lệ nhiều hơn là miêu tả cụ thể, chi tiết. Và sự truyền tải của nghệ

thuật ngôn từ ở đây đôi khi trở nên đơn điệu, chưa thực sự được trau chuốt như

văn học chữ Nôm quốc ngữ. Đơn cử, trong thơ Hồ Xuân Hương, vẻ đẹp của

người phụ nữ luôn được khắc họa một cách mĩ miều, gợi cảm nhưng không

kém phần tế nhị, khéo léo:

Đôi gò Bồng Đảo sương còn đậm

Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông

Hay trong Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn (bản diễn Nôm của

Đoàn Thị Điểm), người chinh phụ cũng tự ý thức được vẻ đẹp của mình. Bản

thân nàng là một phụ nữ trẻ có ngoại hình xinh đẹp “nhan sắc đương thì hoa

nở”. Nàng kiêu hãnh ngầm so sánh với những mĩ nhân xưa như Văn Quân, Phan

lang. Văn Quân tức Trác Văn Quân, sống ở đời Hán, nổi tiếng xinh đẹp, văn hay:

Kìa Văn Quân mĩ miều thuở trước

E đến khi đầu bạc mà thương

Mặt hoa nọ gã Phan Lang

Sợ khi mái tóc pha sương cũng ngừng

Nghĩ nhan sắc đương chừng hoa nở

Tiếc quang âm lần lữa gieo qua

Tóm lại, người phụ nữ trong các truyện thơ Nôm Tày ngay từ đầu đã

hiện lên với vẻ đẹp đẽ, cao sang quyền quý, đúng như lời nhận xét của nhà

nghiên cứu Vũ Anh Tuấn: “Các nhân vật chính là nữ giới thì ai cũng là người

có dòng dõi quyền quý nhưng đều có đức hạnh, đẹp người đẹp nết” [42, 180].

Và đây chính là bước khởi đầu để người đọc tiếp tục được cảm nhận những vẻ

đẹp trong tâm hồn, phẩm chất của họ.

2.2. Người phụ nữ có khát vọng yêu đương mãnh liệt và luôn chủ động

trong tình yêu, hôn nhân

Người phụ nữ trong truyện thơ Nôm Tày không hiện lên một cách yếu

đuối, thụ động mà ở họ luôn tràn đầy sức sống và khát vọng yêu đương mãnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

liệt. Nhà nghiên cứu Hoàng Triều Ân cho biết: “Với dân gian miền núi, nữ

cũng có quyền ao ước và hò hẹn người bạn tình mà mình mến” [2, 12]. Mặc dù

vậy lễ giáo phong kiến vẫn áp đặt lên họ rất nhiều điều ràng buộc. Chính tình

yêu trong sáng, hồn hậu, nồng nàn không màng danh lợi đã khiến cho các cô

gái có suy nghĩ và hành động mạnh mẽ, chủ động vượt qua những rào cản quan

niệm khắt khe để bảo vệ tình yêu của mình.

Ngày xuân, chứng kiến cảnh ong và hoa cất lên những lời yêu đương hò

hẹn, quyến luyến thảm thiết khi tình duyên bị ngăn trở, nàng Kim chạnh lòng

khao khát hạnh phúc lứa đôi. Hành động của nàng bị xem là “làm xấu đạo nơi

cõi thượng” nên đã bị Bụt Cả trừng phạt: “Cho xuống trần xây dựng vợ chồng/

Khỏi uế tạp đây vùng thượng giới”. Nàng bị đày xuống chốn trần gian “nặng

chân bước lên thuyền” rồi lạc vào nơi núi sâu rừng thẳm và “Bỗng hóa khỉ đầy

người lông lá”. Khát vọng hạnh phúc lứa đôi nơi trần thế giúp nàng không

ngừng cố gắng và cuối cùng, nàng đã có được cuộc sống hạnh phúc bên Chúa

Ba. Trong truyện Lý Lan - Thị Dung chúng ta cũng cảm nhận được tình yêu

mãnh liệt của người con gái. Mặc dù sống trong khuôn khổ lễ giáo phong kiến

nhưng Thị Dung luôn giữ vai trò chủ động trong tình yêu. Nàng đích thân sắm

sửa và đưa lễ vật cho người hầu mang đến ngỏ lời với chàng Lý Lan. Nàng

cũng chính là người chủ động đến gặp mặt, trò chuyện, tâm sự cùng chàng và

không ngại ngần thổ lộ tình cảm của mình:

Nàng một thân gái trinh thiếu nữ

Được thấy người quân tử dòng quan

Dạ ước kết nhân duyên phu phụ

Hành động “Nàng cởi áo trên người cho bạn/ Để anh đi nhìn mặt người

xinh” của Thị Dung quả là rất táo bạo, thể hiện tình yêu mãnh liệt vượt lên trên

những ràng buộc của quan niệm đương thời. Nàng Quyển yêu Trần Chu là

chàng trai mồ côi nghèo khổ phải đi ăn xin. Trong tình yêu nàng Quyển có thái

độ quyết đoán và rất chủ động. Khi Trần Chu từ chối “Tôi không dám lấy nàng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

công chúa” vì mặc cảm thân phận mình, nàng đã bày tỏ ý kiến với vua một

cách rõ ràng và thẳng thắn: “Con muốn được kết duyên với Trạng”. Thị Đan

cũng là người con gái với tình yêu say đắm và chân thành, yêu đương chủ động

và mãnh liệt:

Ta khác say mê mệt với người

Yêu tha thiết tận nơi tim đỏ

Khi gặp người yêu nàng không ngại ngùng mà giãi bày tình cảm nồng

nàn của mình:

Về thấy anh lòng nở như hoa

Như rồng mây gặp nhau ta sánh

Như trời mưa gặp cảnh hạn lâu

Như ngoài biển nước sâu gặp cá

Cá nước cùng vùng vẫy ngoài khơi

Như ong mật gặp khi hoa nở

Gặp mặt anh em đã hết buồn

Người con gái với tình yêu nồng nàn, say đắm ấy cũng đóng vai trò chủ

động trong việc hẹn hò. Chàng Nam Kim chấp nhận số phận, yêu chỉ biết “Yêu

nhau để trong tim em hỡi” nhưng đối với Thị Đan, yêu nhau không thể chỉ “để

trong tim” mà còn phải được gặp nhau để thỏa niềm mong nhớ. Vì thế nàng đã

chủ động hẹn gặp gỡ người yêu:

Nam Kim hỡi, em mong trong dạ

Mỗi tháng hãy dăm bữa đến chơi

Lòng ước được gặp nhau cho thỏa

Hẹn hăm nhăm, anh nhớ, tháng ba

Đến chợ chơi một phiên cho thỏa

Em dặn chàng em ngỏ lời mong

Khi cùng Nam Kim cắt máu thề nguyền, nàng cũng hết sức mạnh mẽ

“Thị Đan bứt là hứng máu tươi/ Chìa tay nói trích tay em trước”. Từng lời nói,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

hành động của nàng đều cho thấy hình ảnh một người phụ nữ luôn khao khát

yêu, được yêu và luôn chủ động trong tình yêu. Không giống những người con

gái khi gặp trắc trở chỉ biết than khóc, oán trách số phận, nàng Kim Nữ trong

truyện Chiêu Đức đã dũng cảm đối mặt với thực tại, dám thẳng thắn oán trách

việc làm không đúng của cha mẹ, dùng lí lẽ để thuyết phục cha mẹ từ bỏ ý định

sai trái và nàng đã luôn chủ động trong việc giúp đỡ, bày tỏ tình cảm với Chiêu

Đức. Chính tình cảm sâu nặng mà mặc dù chưa nên vợ nên chồng, giữa pháp

trường nàng đã bất chấp lễ giáo, sẵn sàng “Xông vào thổn thức ôm quan”. Kim

Nữ luôn thể hiện vị thế chủ động của mình trong chuyện tình cảm và hôn nhân.

Chủ động lựa chọn và đến với tình yêu còn có nàng Hán Xuân trong

truyện Lưu Đài – Hán Xuân. Vẫn biết Lưu Đài là chàng trai mồ côi nghèo khổ

nhưng Hán Xuân vẫn yêu thương. Lưu Đài mặc cảm về thân phận của mình

nhưng nàng Hán Xuân đã tự tay khâu áo rồi nhờ người hầu gái đến gặp Lưu

Đài để giúp nàng bày tỏ tâm tình. Nhiều lần Lưu Đài không dám nhận tấm chân

tình của nàng nhưng Hán Xuân vẫn quyết tâm “Thức nghe chàng đọc thơ văn

sách/ Dù chết ta kết nghĩa không tha”. Nàng đã chủ động đến trực tiếp gặp

chàng và giãi bày tình cảm: “Chàng là người học trò thiếu niên/ Cho em xin kết

duyên chớ phụ”. Ngoài ra Hán Xuân còn đem những tấm gương thời trước để

thuyết phục Lưu Đài hãy đón nhận tình yêu của mình:

Được thấy chàng đói rách em yêu

Khó nào bằng Thuấn, Nghiêu đời cổ

...

Hai ta sẽ noi gương thượng cổ.

Nàng dành cho chàng tình yêu trong sáng vượt lên trên suy tính vật chất

và quan niệm môn đăng hộ đối thông thường.

Các cô gái xinh đẹp, có địa vị cao sang đã dũng cảm lựa chọn người yêu

và chủ động bày tỏ tình cảm của mình. Tình yêu và hôn nhân đến với họ hết

sức tự nhiên và xuất phát từ trái tim chứ không phải do sự sắp đặt của cha mẹ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Họ đã vượt lên trên những quan niệm phong kiến khắt khe kìm kẹp người phụ

nữ để chủ động đến với chàng trai mà họ yêu thương. Họ sẵn sàng đấu tranh để

bảo vệ tình yêu của mình. Hạnh phúc mà họ đạt được chính là thành quả của

tình cảm chân thành, của khát vọng hướng tới tình yêu chân chính.

2.3. Người phụ nữ nhân hậu, đảm đang, nghĩa tình, chung thủy, giàu đức

hy sinh

Phẩm chất đáng quý, đáng trân trọng của những người phụ nữ trong

truyện thơ Nôm Tày còn là lòng nhân hậu, nghĩa tình, chung thủy, đảm đang

giỏi lo toan công việc gia đình. Người phụ nữ ở đây là hiện thân của cái đẹp,

cuộc đời họ gặp nhiều gian khổ nhưng cuối cùng họ đã vượt qua để có được

hạnh phúc. Quá trình đi tìm hạnh phúc cũng chính là quá trình họ tự vươn lên

để khẳng định vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách.

Theo quan niệm của người Á Đông, người phụ nữ chuẩn mực cần biết

đem đến sự hài hòa trong các mối quan hệ gia đình. Với chồng là thủy chung,

son sắt, nghĩa tình; với con là yêu thương, hy sinh, tận tụy. “Đàn ông xây nhà,

đàn bà xây tổ ấm” là bởi vậy. Trong truyện thơ Nôm Tày, quan niệm này cũng

phần nào được phản ánh. Người phụ nữ hiện lên với phẩm chất điển hình của

một người vợ, một người mẹ.

Trước hết, chúng tôi nhận thấy nét phẩm chất này ở nhân vật nàng Từ

Thị (mẹ của Tống Kim) trong truyện thơ Tống Kim. Bà là người vợ yêu chồng

hết mực. Sau khi hai vợ chồng cầu cứu Thần Phật, hạ sinh Tống Kim được sáu

năm, chồng bà lâm bệnh nặng. Với tình yêu sâu đậm, Từ Thị đã đem tất cả đức

tin cầu cứu khắp nơi:

Từ Thị nước mắt chứa chan liền bảo

Hay ma đâu về đợi cúng ăn

Nghe rằng ở phố Nam thầy bói

Theo chân nàng liền tìm đến nơi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Chắp tay trình sư ông tức khắc…

Tình yêu và nghĩa vợ chồng đã khiến Từ Thị không thể ngồi yên than

khóc. Nàng gửi gắm niềm tin mong manh vào thế lực siêu nhiên để cứu lấy

chồng. Dù là mù quáng, mê tín song đặt trong bối cảnh văn hóa, xã hội mà

truyện thơ Tống Kim ra đời, ta có thể cảm nhận được sự cố gắng của người vợ

trẻ. Khi mọi chuyện đã an bài, Từ Thị không giấu nổi sự đau đớn, xót xa. Một

đoạn truyện gần 50 câu thơ đã khắc họa tiếng khóc, nỗi tủi buồn thường trực

của nàng trước sự ra đi của Tống Đôn. Những động từ/ cụm động từ thuộc

trường từ vựng đau khổ, thương xót liên tiếp, trực tiếp được sử dụng với tần

suất dày đặc đã diễn tả thành công nét tâm trạng này như: nước mắt rơi lã chã,

nước mắt chứa chan, bàng hoàng, nước mắt tuôn trào khóc, nước mắt chảy

thương quan, khóc thảm thiết nỗi thương, quanh quẩn khóc thương, đứt ruột

nỗi trời, khóc vật vã nỗi thương, khóc than động trời, nước mắt rơi thành bể,

đêm đêm khóc thảnh… Thực sự, người vợ phải có tình cảm son sắt, đậm sâu và

thủy chung thì mới đau buồn đến tột cùng như vậy. Tình cảm dành cho người

chồng trở thành một nét tính cách, phẩm chất tiêu biểu là bởi thế.

Thị Lương vốn là người con gái “tươi tắn”, “giữ phận gái”, đang “có

giá”, còn trẻ “thiên duyên chưa định” nhưng nàng chấp nhận làm vợ kế của

Trần Bằng. Tuy là mẹ kế nhưng nàng coi “Con chồng có khác gì con đẻ?” và

hứa với chồng: “Dẫu khi hết gạo sẽ xin ăn/ Không để con đói cơm nhịn mặc”.

Nàng đảm đang, lo chu toàn mọi việc để chồng đi chiến trận:

Chàng đi việc thiên hạ đế vương

Em ở lại trông nom gia thất

Việc cửa nhà thu xếp sửa sang

Đạo tam tòng, tao khang nghĩa nặng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Việc cửa nhà cáng đáng mặc em

Khi chồng đi ra trận đánh giặc, một mình nàng đã:

Đêm ngày nuôi con trẻ chờ chồng

Việc cửa nhà lo toan chu đáo

Cơm nước nàng tần tảo hôm mai

Thịt cá chẳng đơn sai trưa tối

Không để con đói rét một phân

Người mẹ kế tốt bụng như nàng quả là rất đáng quý trọng.

Cũng như những người vợ khác, Thị Trinh trong truyện Lý Thế Khanh

đảm đang, luôn hết lòng hết sức chăm lo cho gia đình:

Cửa nhà việc sửa soạn gia đình

Giao để em trắng manh lo lắng

Ruộng nương việc hôm sớm em toan

Khi chồng đi tham gia chiến trận, nàng một thân một mình gánh vác việc

gia đình để cho chồng yên tâm: “Miễn là việc đánh chác được yên/ Còn việc

nhà thì em cáng đáng/ Không phiền anh lo lắng làm chi”. Ngay cả khi chồng

nghe lời gièm pha mà phụ bạc, đánh đập, đày đọa mấy mẹ con vào chốn rừng

sâu núi thẳm, nàng vẫn cố gắng để sống và chăm sóc, nuôi nấng hai đứa con.

Hơn nữa, là một người xuất thân trong chốn quyền quý, được học hành đến nơi

đến chốn nên ngay cả trong những ngày đói khổ phải đào củ rừng để nuôi mình

và nuôi con, Thị Trinh vẫn dạy dỗ hai con học hành “thông thiên văn địa lí sử

kinh”. Những người phụ nữ như nàng Kim, Thị Lương, Thị Trinh... đã để lại

trong người đọc niềm yêu mến và cảm phục bởi sự khéo léo, đảm đang, giỏi

vun vén lo toan công việc gia đình. Thành công của người chồng luôn có bóng

dáng và công lao của những người phụ nữ giỏi giang ấy.

Bên cạnh đó, một lần nữa, nét phẩm chất này được trở lại, làm sáng tỏ

tính chất đại diện của nó đối với việc khắc họa hình tượng người phụ nữ Tày

trong truyện thơ Nôm qua nhân vật nàng Nghi Xuân. Trong mối quan hệ với

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Tống Kim, nàng là một người vợ chuẩn mực, thủy chung.

Niềm vui khi đón nhận đứa con đầu lòng chưa thỏa ngày tháng, hai vợ

chồng Tống Kim - Nghi Xuân đã phải rơi vào tột cùng đau khổ khi con mất:

Cầu chưa đủ ba năm đã hết

Không biết số mường trời định phận

Con mang bệnh ngày đêm trong gác

Hai ngày liền mất xác tàn hoa

Hơn ai hết, một người mẹ mang nặng đẻ đau sẽ thấu hiểu tận cùng nỗi xa

xót khi mất con. Nghi Xuân cũng vậy. Lẽ ra, đây là lúc nàng phải được chồng

ủi an, bù đắp. Nhưng nỗi đau xót quá lớn khiến cho Tống Kim chìm vào sự

buồn bã kéo dài và chính Nghi Xuân là người đồng cảm, động viên chồng.

Nàng hòa nỗi đau của mình vào nỗi đau của chồng để “ngày đêm bên chồng”,

chia sẻ, cảm thương.

Nỗi đau đớn ấy đã khiến cho Tống Quan lâm bệnh nặng. Nghi Xuân

không bởi thế mà xa rời, ruồng rẫy chồng. Trái lại, những suy nghĩ, dự định

hay hành động của nàng đều thể hiện tình yêu sâu nặng và lòng thủy chung

đáng ngợi ca của người phụ nữ. Nàng “đau xót”, “đứng lặng” khi chứng kiến

cảnh bố mình bắt người chồng đang ốm nặng vào rừng già lấy chuối nhưng

không dám cãi lời cha. Nàng “vội vàng phóng thuyền” theo tìm khi thấy chồng

không trở lại:

Thấy Tống Kim lên rừng chẳng lại

Lập tức liền vội vàng phóng thuyền

Nghi Xuân nàng xinh đẹp gọi bảo

Chồng tôi còn ở bụi trong rừng

Cùng cha bơi thuyền xuống ghềnh nước

Nhưng khi ngọn lửa trong lòng nàng đang cháy rực nỗi lo âu, cố gắng

tìm chồng thì cũng là lúc, Lô Thị dập tắt bằng sự lạnh lùng, để lại trong lòng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

nàng lớp tro tàn của sự ê chề, xót đau. Nàng cất lên lời than trách cha mình “ăn

ở bạc đức bất nhân”. Nàng khẳng định tình yêu, lẽ sống làm người khi cha

khuyên tái giá. Nàng sẵn sàng chấp nhận quãng đời còn lại bên Tống Kim dẫu

chàng nặng bệnh. Nàng nguyện ý lựa chọn cái chết để giữ lại chút phẩm giá,

danh dự cuối cùng cho gia đình. Có thể thấy, cách suy nghĩ sâu sắc, cách hành

xử quyết liệt của Nghi Xuân đã tô tạc nên phẩm tiết của người phụ nữ Tày. Họ

không chỉ gắn bó bằng tình yêu mà còn bằng tình nghĩa và đạo lý trong đời. Họ

sẵn sàng đánh đổi nếu sự sống không còn ý nghĩa đích thực. Không dừng lại ở

đó, nàng Nghi Xuân còn thể hiện trách nhiệm một ngày vợ chồng, nghìn năm

ân nghĩa khi nàng quyết không từ bỏ, lặn lội vào chốn rừng sâu núi hiểm tìm

Tống Kim. Vì thương con gái, Lưu ông chèo thuyền ba ngày ba đêm tới bến

sông cũ để Nghi Xuân tìm chồng:

Ba ngày mới đến nơi chốn cũ

Lập tức đỗ thuyền vào dưới rừng

Đoạn rồi nàng Nghi Xuân lên rừng

Vừa khóc nàng vừa tìm chàng Tống

Thương hỡi nước mắt rơi ướt mặt

Trong suốt hành trình tìm chồng đầy gian khổ, Nghi Xuân chưa một giây

phút buông bỏ. Nàng gửi trọn tình cảm vào từng bước chân, từng tiếng gọi

nhưng rừng già thẳm sâu, tiếng gọi cất lên chỉ có lời vọng vang về dội vào tâm

khảm cô đơn của nàng đầy xa xót. Khúc truyện này liên tục sử dụng hệ thống

động từ, cụm động từ gợi liên tưởng đến tâm trạng ai oán, dáng vẻ thẫn thờ của

Nghi Xuân: vừa đi vừa than thương vừa gọi, thêm xót xa, trách cha mẹ gian ác,

sầu lo thương chồng, sướt mướt nước mắt chảy đêm ngày, buồn thân, đau lòng,

than hồn… Không tìm thấy chồng, Nghi Xuân một lần nữa nghĩ đến việc lấy

cái chết để chuộc trả lỗi lầm của cha mẹ. Nàng phân định rất rạch ròi giữa tình

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

và hiếu để cha mẹ hiểu ra lỗi lầm và nỗi lòng người vợ thủy chung:

Nghi Xuân cất lời nói mới thưa

Công cha nuôi Nghi Xuân đã lớn

Sao cha ở gian trá bất minh

Con chết thấy Tống Kim mới đành

Không thấy con lại sông cho thấy

Cha hãy ở lại sau lưng đừng ngóng

Tác giả dân gian đã khắc họa một cách rõ nét nét tính cách này của nhân

vật Nghi Xuân khi ở kết truyện, nàng quyết không tái giá mà để tang chồng.

Nàng là đại diện tiêu biểu của những người phụ nữ trong đời sống hằng ngày -

những con người xuất thân bình thường nhưng có dung nhan, có phẩm hạnh

cao đẹp. Nghi Xuân hay Từ Thị đã phần nào thể hiện sự thống nhất trong cách

phản ánh, tô tạc nhân vật người phụ nữ Tày trong văn học giai đoạn này, đặc

biệt là thể loại truyện thơ Nôm.

Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần lưu ý hình tượng nhân vật người phụ nữ

Lô Thị. Lô Thị không phải nhân vật được xây dựng trên nguyên tắc trong sáng

thuần khiết từ đầu đến cuối truyện như Từ Thị hay Nghi Xuân. Bà là người mở

lòng từ bi đón nhận kiếp đời cơ cực của Tống Kim, là người gả con gái cho

chàng trai côi cút, bần hàn nhưng cũng là người cùng Lưu ông bày mưu giết

con rể để gả con gái đi nơi khác. Xét về phương diện đạo lý, hành động ấy của

Lô Thị là không thể chấp nhận được, là một biểu hiện phi nhân nghĩa. Song,

nếu xét cho cùng, mục đích của sự sai trái cũng bắt nguồn từ tình yêu con đến

vô bờ của một người mẹ. Làm điều trái lương tâm nhưng đổi lại, bà chấp nhận

bởi mong muốn một cuộc sống, một tương lai an bình cho con gái mình. Rồi

khi Nghi Xuân biết chuyện, đòi chết, Lô Thị đau đớn hơn bất kì ai. Bà vội vã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

theo ý con, bước ra khỏi con đường lầm lạc:

Cha mẹ lo khốn cùng với nhau

Ắt ta nghe lời con đi thôi

Không có con bỏ mạng mất thân

Đau xót nàng Dương Nga khóc chồng

Nàng tìm quay lại sông tự vẫn

Lô Thị ôm Nghi Xuân không thả

Nói như vậy không có nghĩa là cổ súy cho Lô Thị, thông cảm về hành

động ác độc của bà. Tình yêu con của Lô Thị không sai. Cái sai lớn hơn cả là

hành động mù quáng của bà.

Hay trong truyện Nàng Ngọc Long, nhân vật chính cũng thể hiện nét

phẩm chất, tính cách này. Ngọc Long được giới thiệu là vợ của Trạng

nguyên Nam Kinh. Cuộc hôn nhân của hai vợ chồng không qua giai đoạn

yêu đương, tìm hiểu. Con đường đi tới hôn nhân của nàng thật giản đơn, mọi

sự trông cậy vào Bà Nguyệt xe tơ. Trong cuộc sống hôn nhân, Ngọc Long là

một người vợ đảm, hết mực yêu thương, chia sẻ với chồng. Trái ngọt của

tình yêu được đơm kết:

Nam Kinh cùng ngọc nữ sum vầy

Năm sau nàng sinh trai tuấn tú

Diện mạo người thượng đế mường trên

Hình dong con tướng quân Bắc Đẩu

Tình mẹ con yêu dấu chứa chan

Đặt tên gọi Xuân Lan con cả

Ngày ngày vui thư thả như xuân

Nàng đã làm trọn bổn phận của một người vợ, hạ sinh cậu con trai đầu

lòng khôi ngô, tuấn tú. Cuộc sum vầy chẳng được bao lâu, Ngọc Long bị trở

thành cống phẩm dưới trướng sứ giả. Nàng không trách chồng quan cao mà

chẳng bảo vệ được vợ mà thông cảm với hoàn cảnh của chồng, thương chồng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

hết mực:

Hỡi vía! Số thiên tôn đã định

Vợ chồng hoa quyện bướm chớ quên

Nàng nhắn nhủ về lòng thủy chung giữa hai vợ chồng để dặn dò chồng,

cũng là để dặn lòng chớ quên tình nghĩa. Dù đối diện với vua Tần dâm ác,

Ngọc Long vẫn giữ trọn tấm lòng son sắt của mình. Nàng luôn giành lấy cơ hội

thể hiện thái độ một cách khôn khéo, thông báo cho vua Tần mình là người có

chồng, có con:

- Tôi là người nước Nam thiếu phụ

Vua cử tôi sang sứ Tần bang

Con nhỏ tôi chờ bú sớm hôm

Khi vua Tần không đếm xỉa đến danh dự, lấy lời đường mật dụ dỗ

Ngọc Long:

Nàng cố yêu quan Trạng, không khôn

Làm vợ vua trăm phần quý trọng

Vài nghìn lạng bạc vàng đưa trả

Ta lấy một tiên nữ Ngọc Nương

thì Ngọc Long không chút do dự, phân vân vì trái tim nàng đã khắc tạc hai chữ

“thủy chung” nơi Nam Kinh Nam Quốc. Nàng thẳng thắn:

Ngọc Long nàng im lặng không rằng

Chỉ bĩu môi cắn răng chẳng nói

Cử chỉ “bĩu môi” của Ngọc Long hàm ẩn thái độ khinh bỉ, coi thường

của người tiên nga trước lí lẽ vô lối của vua Tần bang. Ngọc Long không

những không cảm kích, không hoa mắt trước bạc vàng mà còn thương nhớ

Nam Kinh hơn nữa:

Ngọc Long rối trăm khúc tơ vò

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Nàng nhớ chồng buồn lo sớm tối

Bằng tình yêu mãnh liệt, thủy chung của mình, Ngọc Long vẫn tin tưởng

về ngày đoàn tụ với chồng con. Nàng viết thư gửi chồng:

Khổ ngày nay sau hẳn được hay

Sớm muộn thiếp có ngày hồi cố

Vợ chồng con đoàn tụ suốt đời

Phong văn ngắn lòng người nghĩa cả

Chân tuy xa lòng ở cố hương

Trong mối quan hệ với Nam Kinh, Ngọc Long là một người vợ hiền,

thủy chung, hết mực yêu thương chồng. Trong mối quan hệ với Xuân Lan,

Ngọc Long lại là một điển hình ngời sáng tình mẫu tử thiêng liêng. Tình cảm

với chồng, với con luôn song hành. Trên đường bị ép đi sứ, Ngọc Long tâm

trạng rối bời:

Lòng nàng lo bối rối khóc than

Thương chồng con gia san quê tổ

Con dại tìm sữa mẹ sớm hôm

Xuân Lan khóc một thân lăn lóc

Nàng đau đớn khi phận nữ nhi phải gánh chịu những sự bất công trong

xã hội. Nỗi đau ấy nàng có thể hiểu thấu nhưng bề trên nào có hay. Nàng chỉ

biết cất lên tiếng than kêu thấu tận trời xanh:

Trời hỡi trời, trăm ngàn cay đắng

Bỏ con thơ bé bỏng ở nhà

Bắt mẹ đi phương xa sứ sự

Nỗi lòng ấy cất lên tận đấng tối cao như một mũi tên bắn thẳng lên trời.

Nó khiến cho ta liên tưởng tới lời than trách của người chinh phụ trong “Chinh

phụ ngâm khúc”. Họ đều là những người phụ nữ mỏng manh nhưng phải gánh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

lấy bao bất công trong xã hội:

Thuở trời đất nổi cơn gió bụi

Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên

Xanh kia thăm thẳm tầng trên

Vì ai gây dựng cho nên nỗi này?

Trên trướng gấm thấu chăng hay nhẽ

Mặt chinh phu ai vẽ cho nên?

Nỗi nhớ, niềm thương dành cho con cứ khắc khoải trong trái tim người

mẹ trẻ. Trên đường về kinh đô nhận chiếu chỉ vua Nam, khi đi qua đoạn

đường rừng, chỉ nghe tiếng ong ve than thở, nàng cũng chạnh lòng thương

nhớ con trai:

Hàng lệ tuôn ướt cả yếm hồng

Vừa thương con vừa thương chồng thương số

Con dại khắc vò võ đêm ngày

Khát đòi bú ai hay ai biết?

Ong ve kêu thảm thiết nỉ non

Mẹ đứt ruột tưởng con kêu khóc

Nàng đau như đứt từng khúc ruột khi nghĩ đến cảnh con nhỏ Xuân Lan

đang sống trong cảnh thiếu thốn tình mẹ nghĩa cha. Dọc đường dài, khi vào

nghỉ trọ đêm, nàng vẫn canh cánh nỗi nhớ con khôn nguôi:

Nước mắt chảy nhớ con khát sữa

Suốt đêm thâu những nhớ những thương

Không nhắm mắt không cơn buồn ngủ

Khi nghe tin có quân Nam đến đánh vào kinh đô Tần, Ngọc Long cháy

lên ước mơ được gặp lại chồng con:

Nước mắt sa nghẹn lời nức nở

Ngọc Long được về nước thực đây?

Mong mãi được có ngày hồi cố

Gặp chồng gặp con cả quê hương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Hết ngày mưa lẽ thường ngày nắng

Có thể thấy mơ ước, khao khát, tình yêu chồng thương con của Ngọc

Long chưa bao giờ nguôi ngoai, nguội lạnh. Nó như đốm lửa âm ỉ cháy dưới lớp

tro tàn, chờ đợi một ngọn gió thoảng sẽ lại bùng cháy mạnh mẽ. Tình cảm của

người phụ nữ bất diệt là như vậy. Tác giả dân gian đã dồn bao tình cảm, tâm

huyết để khắc họa tình cảm của người mẹ đối với đứa con thơ thật đáng ngợi ca.

Nhân vật Hán Xuân trong truyện thơ Lưu Đài - Hán Xuân là một minh

chứng cho phẩm chất này. Hán Xuân cũng như biết bao hình tượng người phụ

nữ trong truyện thơ Nôm Tày khác, là một người phụ nữ chuẩn mực của gia

đình. Họ luôn một lòng thủy chung với chồng, cùng chồng chia sẻ mọi khó

khăn trong cuộc sống. Khi Lưu Đài chưa có gì trong tay, Hán Xuân hằng ngày

âm thầm giúp đỡ chàng. Cuộc gặp gỡ, đính ước của Hán Xuân và Lưu Đài

được khắc họa như một mối duyên trời định. Khi Hán Xuân cất lời xin:

Số tôi sinh xuống nơi trần thế

Kết duyên lo lạc lối lênh đênh

Hương tới Bụt Đào Nguyên thượng quán

Hương thấu lên thượng giới Mẹ Hoa

Tôi có chiếc khăn thêu theo mình

Nơi nào đáng thì nên duyên chồng vợ

Cho sum vầy phu phụ tào khang

Khăn hãy vượt Tây Sơn tìm tới

Nói rồi, Hán Xuân tung chiếc khăn lên trời. Chiếc khăn kỉ ước rơi vào

vai Lưu Đài - người nàng tương tư như một sự sắp đặt của Mẹ Hoa. Khi đã nên

duyên vợ chồng, Hán Xuân một lòng hướng về Lưu Đài. Nhậm chức chưa

được bao lâu thì đất nước gặp biến cố. Tần Vương đòi cống nạp, vua sai Trạng

nguyên nghĩ kế đối phó, trực tiếp đi sứ. Hán Xuân nghe tin và sẻ chia nỗi lo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

lắng với chồng. Thậm chí, nàng sẵn sàng rời mường theo hầu chồng:

Quan nàng thắng dù ngựa liền đi

Hán Xuân dặn ông bà mọi nỗi

“Phép vua không thể chối việc quan

Con phải đi với chàng làm bạn”

Trên con thuyền của hai vợ chồng tới đất vua Hác, Lưu Đài và Hán Xuân

gặp biến cố:

Lại đến đất Hung Nô ngàn dặm

Tứ bề nước biển dậy sóng xanh

Nước toàn những quân tinh Nồng Hác

Đây là trận bão do con gái Long Vương tạo ra để bắt Lưu Đài về, ép

chàng trở thành chồng ả. Từ đây, Lưu Đài và Hán Xuân chia lìa đôi ngả. Lưu

Đài bị bắt xuống thủy cung, Hán Xuân trôi dạt vào đất quỷ Ngô Cương. Khi ấy,

nàng vẫn đang có bầu. Một thời gian sau, nàng hạ sinh một bé trai ở đất quỷ.

Thế nhưng, đây cũng là quãng thời gian thử thách lòng chung thủy của Hán

Xuân. Một mẹ, một con nơi đất lạ, lại bị Chúa Ngô Cương ép duyên:

Nàng ôm con thiếu niên vào tới

Chúa Ngô Cương ngự đợi thấy nàng

Sáng ngời bóng hào quang đẹp quá

Thấy nàng bồng con cả mến thương

Chúa xin kết em đẹp làm đôi

Mẹ con Hán Xuân thân cô, thế cô giữa đất người, lại bị một tên Chúa đất

ngỏ lời bất chính nhưng không vì thế mà nàng phản bội chồng. Hán Xuân cất

lời tỏ bày về hoàn cảnh như một cách chối từ khôn khéo:

Gửi lời sứ đến nhà hãy nói

Tôi là người trần thế dương gian

Mới sinh chưa sạch thân còn bẩn

Thương nhau gửi lời nói phí không

Thanh xuân hoa nở bông mới đáng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Thực sự tôi không dám hầu người

Câu trả lời của Hán Xuân vừa thể hiện sự thông minh, vừa khẳng định sự

thủy chung nhất mực của nàng. Thế nhưng, đánh đổi lại, Hán Xuân phải chịu

một trận đòn thập tử nhất sinh. Ba mươi gậy đánh quanh thân đẹp, nàng đành

chờ chết mím môi.

Suốt quãng thời gian lạc đến mường trời, được Phật Bà Quan Âm nuôi

nấng và dạy cho các phép thần thông, Hán Xuân vẫn không nguôi nhớ chồng.

Sau đó, nàng đi tìm và giành lại hạnh phúc. Cuộc sum vầy sau bao gian khó

tưởng chừng như sẽ hạnh phúc viên mãn nhưng Trạng nguyên Lưu Đài và Hán

Xuân lại một lần nữa phải ra trận đánh giặc Tần. Lần này, lực lượng nhà Tần

đông đảo hơn rất nhiều:

Tâu quân vua Tần đông gấp bội

Quân ta đã chống chọi ba ngày

Có đánh được giặc này hay chẳng

Chư hầu mười tám nước lắm quân

Lần này, Hán Xuân vẫn kề vai sát cánh bên chồng. Nàng dùng những

phép thần thông được dạy để giành chiến thắng cho đất nước, giúp chồng hoàn

thành nhiệm vụ gian khổ.

Truyện thơ Nàng Kim cũng đem đến một hình tượng người phụ nữ chuẩn

mực của gia đình, đó là Nàng Kim. Trước hết, ta nói về cuộc gặp gỡ giữa nàng

Kim và Chúa Ba. Nàng Kim vì phạm vào luật trời nên bị đuổi khỏi đất Phật.

Khi xuống dương thế, nàng trở thành nàng tiên đội lốt khỉ. Nàng đã thoát khỏi

hoàn cảnh khốn khó bằng lao động chân chính. Nàng dùng móng tay để chẻ

từng sợi lạt trúc mỏng tanh và đan nên những tấm chiếu cót tinh xảo, trên mặt

chiếu nổi thành những hoa văn mây bay, rồng cuốn…

Một lớp là nống ngang nống dọc

Một lớp cá nhô nhấp thủy ba

Lớp rồng ngậm châu sa bay lượn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Lớp chim hạc, chim phượng liệng xuân

Lớp thì nống kì lân giao hội

Lớp thì nống câu đối bài thơ

Chính giữa nống bàn cờ tiên sắp

Cầu vồng đủ bảy sắc mây trời

Sự khéo léo ấy không chỉ giúp nàng Kim thoát khỏi thiếu thốn, đói

nghèo mà còn là nguyên cớ của mối lương duyên với Chúa Ba (con trai thứ ba

của vua Việt Vương). Dù người bán chiếu đã khẳng định ngoại hình xấu xí

(bấy giờ) của nàng Kim:

Hình dáng ngoài lâm san rừng núi

Xấu xa không thể nói ra lời

Y khỉ vượn ở nơi rừng rậm

Ngày đêm ngồi đá phẳng núi xa

Trông giống khỉ lại là thiếu nữ

nhưng Chúa Ba vẫn muốn vượt núi để gặp người khéo léo, nết na và họ nên

duyên vợ chồng. Như vậy, chính tài năng đã khiến nàng Kim trở thành người

vợ của gia đình. Và cần nói đến chi tiết nhận lời của nàng Kim. Nàng chỉ nhận

lời khi thực sự rung cảm trước lời nói chân thành của Chúa Ba:

Nào phải tìm tiên sa thượng giới?

Chỉ đến đây hang núi tìm nàng

Chịu khó đến lầu trang, em hỡi

Một mình ở rừng núi làm chi?

Phẩm chất của người vợ này còn ngời sáng trong cuộc thi tranh ngôi

hoàng đế của Chúa Cả, Chúa Hai, Chúa Ba. Vốn là người vợ nhân hậu, tài năng,

tốt bụng và yêu thương chồng hết mực, nàng Kim đã được Bụt Cả và người trời

giúp đỡ vượt qua ba lần thi đầy bất công. Lần đầu tiên, khi vua cha đặt ra một

cuộc thi vào trận tuyến gay gắt, yêu cầu ba Chúa phải dâng cỗ đầy mâm cao lên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

cúng đức Khổng Tử, Chúa Ba và nàng đã phải chịu bất công hiển nhiên:

Đức vua liền phán nhắc truyền thanh:

- Ngày mai hội thượng kinh cúng Thánh

Hàng năm kỳ hạn định không sai

Khắp tất cả các nơi triều thượng

Giường vàng đã định hướng ngai hoa

Chúa Hai cùng Chúa Ba, Chúa Cả

Sửa mâm thi bày cỗ tiến dâng

Motif làm cỗ dâng trời đất không còn quá xa lạ trong truyện cổ như

Truyền thuyết Bánh chưng bánh giầy, Mai An Tiêm… Nhưng ở đây, ý của vua

thể hiện rõ ý o ép đối với vợ chồng Chúa Ba. Vua yêu cầu làm cỗ sang trọng,

đầy đặn song thời gian lại quá ít ỏi:

Thi xem mâm nào hơn nhiều vị

Hải sâm thêm của quý sơn hào

Được phong truyền ngôi cao đế vị

Mỗi mâm năm trăm đĩa đủ đồ

Bát bát đều thơm tho quý cảnh

Vua đã khiến cho Chúa Ba và nàng Kim – những người nghèo bị lâm

vào thế bí. Thế nhưng, vì sự nhân hậu của mình, nàng Kim và chúa Ba đã được

Bụt Cả giúp đỡ. Nàng Kim và Chúa Ba đã không thân cô thế cô trong thử

thách này. Và cuối cùng, chiến thắng thuộc về tay Chúa Ba. Như vậy, nhờ có

người vợ là nàng Kim mà Chúa Ba đã tiến gần hơn ngôi báu.

Tưởng rằng, Chúa Ba đã yên vị ngôi báu nhưng do sự ghen tị, Chúa Cả,

Chúa Hai đã xúi giục vua cha mở thêm cuộc thi may áo trong hai canh giờ.

Nàng Kim một lần nữa lại giúp Chúa Ba chiến thắng:

Mặc vào áo phẳng vạt bằng tay

Gấu như in vừa ngay đúng đúng

Phẳng lì như nước lặng ban trưa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Tưởng chừng như thước đo tại chỗ

Chiếc áo mà nàng Kim nhờ bè bạn là bầy tiên trên trời khâu giúp đã

khiến cho vua cha thốt lên lời kết luận:

- Chúa Ba lên ngôi trông thiên hạ

Hai cuộc thi cam go trôi qua, Chúa Ba và nàng Kim đã được người trời

giúp đỡ nên hết lần này đến lần khác, họ giành chiến thắng. Song, càng cố

gắng bao nhiêu thì vua cha và Chúa Cả, Chúa Hai lại càng mưu mô, lật lọng

bấy nhiêu. Lần này, vua cha nghe theo lời Chúa Cả, Chúa Hai, tổ chức cuộc

thi người:

Cho thi ba nàng dâu cung nữ

Chứ thi các hoàng tử làm chi

Cho triều thần vào đây cân nhắc

Xét nàng nào nhan sắc đẹp hơn

Phong chồng lên ngôi tôn thiên tử

Thật đáng nực cười cho chiêu trò của Chúa Cả, Chúa Hai và sự bạc

nhược của vua cha. Đến các triều thần - những người kề cận cũng phải thốt lên

rằng “khéo bày trò thi nhau”. Chúa Ba lo lắng vì người bên cạnh mình không

mang hình dáng người trần gian, làm sao có thể thi? Thế nhưng, quy luật của

truyện cổ là như vậy, ở hiền gặp lành, nàng Kim và Chúa Ba lại được mẹ Phật

giúp đỡ. Nàng Kim từ lốt khỉ nay trở lại đẹp xinh, duyên dáng trong hình hài

một tiên nga. Nàng được bầy tiên nữ hóa phép biến đổi:

Nàng Kim sáng choi chói thân người

Da trắng tựa hoa đào mới nở

Chốn Dao Trì thuốc quý thiên nhan

Nấu nước tắm cho nàng trong các

Trông Nàng Kim óng mượt xinh tươi

Chói lọi như mặt trời ban sớm

Đem sánh cả mười tám lân bang

Chẳng ai đẹp như nàng Kim Thị

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Đẹp nhất bậc dương thế cõi trung

Với ngoại hình “đẹp nhất bậc dương thế cõi trung”, Nàng Kim đã giúp

Chúa Ba đường đường chính chính nhậm vị hoàng đế. Qua câu chuyện về nàng

Kim, tác phẩm muốn giáo dục về tình cảm thủy chung giữa vợ chồng. Nàng

Kim ăn ở tình nghĩa, trước sau một lòng với Chúa Ba. Đó là đạo trời phải phép.

Vì thế, nàng Kim liên tục được bề trên nâng đỡ dù đã xuống trần gian.

Nàng Ngọc Dong là người con dâu thảo hiền, người vợ thủy chung.

Nàng vô tội nhưng vẫn phải chịu “chết oan thảm thiết” do tội của bố chồng.

Trong bất cứ hoàn cảnh nào nàng luôn thể hiện là người con dâu hiếu thuận.

Nàng nói với mẹ chồng:

Con chịu tội trước sau giữ tiết

Con mới được quay về thấy mẹ

Chúc mẹ sống bách tuế vui đời

Dẫu âm dương cách trở, nàng vẫn luôn tha thiết nhớ về chồng. Người

hầu nữ của nàng kể:

Từ ngày bà đến chốn âm ty

Nhớ chồng nhớ đêm ngày xiết kể

Hai là nhớ bà mẹ lão thân

Sớm hôm nàng buồn phiền thảm thiết

Nàng luôn quan tâm chăm sóc cho chồng từng bữa ăn giấc ngủ: “Thấy

nhau nói chưa hết phải lìa/ Đàm hỡi nấu cơm trưa cho sớm/ Để ông ăn dăm

miếng sẽ về”. Nàng sống nhân hậu, thủy chung, chan hòa với mọi người nên ai

ai cũng đều yêu mến. Đức vua cõi âm cũng phải khen ngợi: “Nàng là người thế

gian dương thế/ Sống ở đời tuổi trẻ đang xuân/ Không hề có gian tâm thất

đức”. Mặc dù phải chịu những nỗi oan khuất từ nhà chồng, ở người phụ nữ ấy

vẫn luôn ngời sáng những phẩm chất tốt đẹp. Nàng Thị Dung là con quan

huyện “Ngày đêm trong lầu gác phòng loan” đem lòng yêu thương chàng Lý

Lan nghèo khổ. Bị gia đình phản đối và cấm đoán, Thị Dung quyết giữ tình yêu

thủy chung son sắt với chàng và đã giữ vẹn tấm lòng thủy chung ấy, sẵn sàng ở

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

trong chùa để chờ đợi chàng trong năm năm.

Người phụ nữ trong truyện thơ Nôm Tày còn là những người rất tình

nghĩa, có trước có sau. Nàng Kim khi được hưởng giàu sang phú quý đã không

quên ơn nghĩa của Lão Xuân. Nàng cho mời Lão Xuân vào cung phụng dưỡng

coi như mẹ:

Ngày trước ở ngàn nội rừng xanh

Là con khỉ loanh quanh chỗ rậm

Bây giờ được hiến hẳn nên người

Làm sao đã quên ngay mẹ được?

Việc làm đó của nàng Kim càng khiến chúng ta thêm yêu mến người phụ

nữ đảm đang, tình nghĩa.

Nàng Kim Nữ trong truyện Chiêu Đức chính là một hình mẫu lí tưởng,

tập trung được nhiều phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ dân tộc Tày. Không

chấp nhận theo sự sắp đặt của cha mẹ, nàng vẫn một lòng thủy chung gắn bó

với chàng Chiêu Đức mồ côi nghèo hèn. Khi Chiêu Đức bỏ làng bản ra đi để

tìm thầy học đạo, trên mỗi bước đường khó khăn của chàng đều có sự giúp đỡ

ân tình của Kim Nữ: nàng giấu bố mẹ gửi quần áo cho chàng, gửi thư hứa hẹn

giữ mối tình thủy chung với chàng, động viên chàng cố gắng học hành. Thương

chàng mồ côi rách rưới nghèo khổ không người chăm sóc, nàng đã nhờ nhũ

mẫu đi thăm hỏi, gửi tặng chàng quần áo tốt và nhờ gửi tới chàng tình yêu

chung thủy của mình. Khi cha mẹ nàng cố làm khó Chiêu Đức bằng việc thách

cưới thật nặng, Kim Nữ đã chủ động giúp chàng bằng cách lấy vốn riêng của

mình nhờ nhũ mẫu đưa cho Chiêu Đức. Những lời nhắn nhủ của nàng cho thấy

tấm chân tình, sự cảm thông và lòng bao dung:

Sĩ khó chẳng kiếm ra lễ vật

Vạn sự dùng của thiếp cho xong

Miễn là đạo nhân duyên trọn vẹn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Của thiếp coi như thể của chàng

Là một người con gái con nhà giàu có, quen có kẻ hầu người hạ, nhưng

nàng sẵn sàng “Mười ngày nàng đi bộ trên sương/ Rong ruổi giữa đại ngàn sơn

cước” để gặp người yêu. Chính tấm lòng thơm thảo và mối tình son sắt thủy

chung của Kim Nữ đã góp phần giúp Chiêu Đức vượt qua những gian lao vất

vả và vươn tới thành công. Cũng giống như những người phụ nữ khác, Kim Nữ

luôn khao khát có được cuộc sống vợ chồng đầm ấm, gần gũi yêu thương nhau.

Nhưng nàng đã vượt lên trên những ước muốn bình dị mà chính đáng ấy, nàng

không hề ngăn cản và níu kéo Chiêu Đức “Thiếp sẵn lòng chờ hạn kể chi/

Nghĩa chồng vợ xá gì chờ đợi”. Kim Nữ luôn kiên tâm, thủy chung chờ đợi,

động viên người yêu cố gắng học hành. Những suy nghĩ, những câu nói, việc

làm của Kim Nữ cho ta thấy nàng là người phụ nữ hiểu biết và giàu đức hi sinh.

Trong Truyện nàng Quyển có hai nhân vật phụ nữ thể hiện rất rõ nét

phẩm chất tốt đẹp của người vợ, người mẹ, đó là nàng Quyển và Thị Lương.

Khi Trần Chu bị kẻ gian hãm hại và bị nhà vua ra lệnh chém đầu, nàng Quyển

khấn trời cứu chồng mình cũng không được, giữa pháp trường nàng “Quyển

Thị ôm cổ chồng không bỏ” và rồi “Nàng thắt cổ tức thời tự vẫn” để quyết đi

theo chồng dù phải chết. Tự vẫn theo chồng không được, nàng ngày ngày “rười

rượi nhớ chồng, ngồi than thở”. Khi bị vua cha ép duyên bắt lấy người khác

nàng phản đối quyết liệt bằng hành động:

Nàng chạy ra bãi cát trẫm mình

Thương chồng há suy hơn tính thiệt

Chốn thủy đình nhảy chết cho xong

Nàng được cứu thoát nhưng “Ý cũng chẳng vơi buồn mình ngọc/ Ngóng

chồng bao tuế nguyệt khôn nguôi”. Bị nhà vua cho người đi bắt về, nàng lại

một lần nữa tỏ rõ tấm lòng thủy chung son sắt và khí tiết của người vợ bằng

quyết định trẫm mình. Tấm lòng ấy của nàng đã lay động trời đất để rồi trời đã

cứu giúp nàng qua mấy lần hoạn nạn và cuối cùng được đoàn tụ cùng chồng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Nàng Thị Lương thì chẳng quản thân gái dặm trường lặn lội ra giữa chốn sa

trường tìm chồng. Nàng mang được hài cốt chồng về quê nhưng giữa đường bị

kẻ gian hãm hại. Tình yêu thủy chung của hai vợ chồng đã kết thành loài hoa

“Quý xuân”, nở hoa muôn màu sắc rực rỡ, thơm ngào ngạt suốt bốn mùa. Tấm

lòng nhân hậu bao dung của người mẹ kế đối với con chồng còn khiến cây hoa

Quý xuân kết thành những quả gang thép, hóa thành binh sĩ giúp Trần Chu

chiến thắng giặc ngoại xâm. Đó chính là một hình tượng đẹp kết tinh từ nhân

cách và phẩm chất của Thị Lương.

Đọc các tác phẩm truyện thơ Nôm Tày chúng ta dễ dàng bắt gặp hình ảnh

những người phụ nữ hiền thục, nết na, khéo léo, hết lòng lo toan chăm lo cho

chồng con và luôn thủy chung, son sắt trong tình nghĩa vợ chồng. Họ mang tấm

lòng nhân hậu, bao dung, vị tha, giàu đức hi sinh. Nhân cách, tình cảm và sự hi

sinh của những người vợ, người mẹ ấy đã góp phần nâng tầm vóc của hình tượng

người phụ nữ trong truyện thơ Nôm Tày thành một biểu tượng cao đẹp.

2.4. Người phụ nữ trí tuệ, giàu bản lĩnh luôn nỗ lực vượt lên trên nghịch

cảnh để vươn tới hạnh phúc

Ở những người phụ nữ trong truyện thơ Nôm Tày không chỉ ngời sáng

vẻ đẹp của sự đức hạnh, của phẩm chất tốt đẹp mà họ còn hấp dẫn người đọc

bởi sự thông minh, đầy bản lĩnh.

Nếu như trong hầu hết những tác phẩm văn học Quốc ngữ cùng giai kì,

văn học thường đặt nỗi đau khổ của người phụ nữ lên hàng đầu để tô đậm tiếng

nói phê phán, chất hiện thực thì truyện thơ Nôm Tày không như vậy. Truyện

thơ Nôm Tày đem đến một cái nhìn toàn diện, toàn cảnh. Đồng thời là cái nhìn

mang đậm chất cổ tích, thể hiện mơ ước của nhân dân. Họ lồng ghép những

yếu tố hoang đường, kì ảo để tạo ra sự lôi cuốn cho câu chuyện và cũng là để

mang lại sự giải thoát, trợ giúp cho nhân vật.

Nàng Kim trong truyện thơ cùng tên không phải là hình tượng nhân vật

nữ quá đau khổ, éo le, bi đát như những kiếp người khác. Qua số phận của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

nàng, tác giả dân gian muốn gửi gắm thông điệp về lẽ sống, tình thương, bài

học nhân sinh, sự sùng kính Bụt Cả, mẹ Phật… Nàng Kim là tiên nga trên trời,

vì mải chơi quên đường về, nàng bị đầy xuống trần gian. Nàng đã bị đọa đày

trong hình hài người đội lốt khỉ. Thế nhưng, ông trời không triệt đường sống

của ai, cũng như không tước đi hạnh phúc toàn vẹn của nàng. Nàng vẫn có thể

kiếm sống bằng lao động chân chính, vẫn tìm thấy tình yêu qua sự chân thành,

chung thủy và vẫn được giúp đỡ khi gặp khó khăn. Nói như vậy không có

nghĩa là cuộc sống của nàng Kim không có gì va vấp. Từ tiên xuống trần đã là

sự trừng phạt nặng cho người trời, lại còn đọa xác khỉ hồn người thì quả thực

éo le. Song, nàng không lấy đó làm tuyệt vọng mà luôn đinh ninh sống tốt,

sống lương thiện, sống nhân đức. Bởi thế, mọi việc làm của nàng đều hợp đạo

trời, lẽ sống dương gian. Nàng được cứu giúp, hộ đỡ là điều hiển nhiên. Số

phận của nàng Kim là một trong những yếu tố quan trọng trong việc phản ánh

hình tượng người phụ nữ trong văn học Nôm Tày. Họ không đau khổ đằng

đẵng mà biết vươn lên số phận bằng niềm lạc quan, bằng sự chân thành.

Trong truyện Lưu Đài - Hán Xuân, người phụ nữ phải trải qua “một cuộc

bể dâu” đầy thử thách, đau đớn. Số phận của Hán Xuân trong truyện thơ Lưu

Đài - Hán Xuân là một điển hình cho số phận người phụ nữ Tày đương thời.

Họ luôn bị rơi vào những tình thế ngặt nghèo, thậm chí là tận cùng khổ đau.

Nhưng sau cùng, bằng sự vươn lên mạnh mẽ, họ lại trở về với cuộc sống xứng

đáng và tỏa ngời vẻ đẹp như một biểu tượng, một niềm mơ ước, trân vọng của

nhân dân.

Nàng thiếu nữ Hán Xuân xinh đẹp, quyền quý kết duyên với Trạng

nguyên Lưu Đài là một mối lương duyên trời định trong thiên hạ. Tưởng

chừng, “trai tài, gái sắc” sẽ êm đẹp gia thất bền lâu, nhưng hoàn cảnh xã hội

buộc nhân vật phải đối đầu với biết bao ngang trái, đau khổ. Hán Xuân bị lạc

chồng trên đường theo Lưu Đài đi sứ. Nàng dạt vào đất quỷ với đứa con trong

bụng. Một mình nơi đất khách, một mình trở dạ sinh con tưởng chừng như bất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

hạnh cùng cực với người phụ nữ này nhưng không dừng lại ở đó. Nàng bị chịu

một trận đòn chí mạng từ Chúa Quỷ Ngô Cương vì từ chối lời đề nghị ân ái

cùng hắn:

Quân quỷ liền theo lệnh trói nàng

Roi vọt đánh dọc thân đẹp

Hán Xuân đành chờ chết mím môi

…Ba chục đòn đánh đập vào lưng

Người Hán Xuân lằn sưng thâm tím

Đánh xong chúng lẳng lặng ngồi nhìn

Hán Xuân lịm thân mình không biết

Cuộc sống tưởng chừng như khép lại trong bất công, đau đớn ê chề

nhưng Hán Xuân đã được cứu sống. Cuộc đời nàng mở ra một trang mới khi

lạc tới đất Phật, được Phật Bà Quan Âm nuôi nấng và truyền dạy những phép

thần thông. Nhờ đó, Hán Xuân tìm lại được chồng, giúp chồng, giúp vua đánh

thắng quân giặc xâm lăng, bảo vệ bờ cõi đất nước.

Cùng chung mạch nguồn “ở hiền gặp lành”, nàng Ngọc Long cũng là

một minh chứng rõ nét. Nàng là biểu hiện, là đại diện cho những đau khổ mà

người phụ nữ Tày trong xã hội phong kiến đương thời phải gánh chịu. Dù là

người của mường trời, dù là tiên nga giáng trần nhưng Ngọc Long vẫn không

thể thoát khỏi sự bất công tồn tại bủa vây trong lòng xã hội.

Nàng mang một vẻ đẹp lộng lẫy, kiêu sa, quý giá tuyệt trần. Và cũng

chính vẻ đẹp này đã khiến cho Ngọc Long phải lưu lạc 16 năm trên đất Tần.

Cuộc sống những tưởng sẽ trôi đi trong hạnh phúc, sum vầy nhưng người phụ

nữ Ngọc Long lại đắm một quãng đời thanh xuân của mình trong nước mắt và

nhớ nhung khôn xiết. Chính vì nhan sắc của mình bị tên thầy bói phát hiện mà

Ngọc Long trở thành mối thèm khát của tên vua Tần dâm ác. Hắn bày mưu

chiếm đoạt Ngọc Long để thỏa mãn thú tính của mình. Hắn mượn việc quân

việc nước để ép vua Nam phải dâng người đẹp tuyệt thế. Vì sự nhu nhược,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

tham sinh úy tử, vô cảm, bo bo giữ ngai vàng của vua Nam, nàng trở thành “đồ

cống phẩm” cho Tần Đế. Cuộc đời Ngọc Long từ đây bước sang một trang đẫm

nước mắt. Nàng phải dứt tình, hy sinh vì việc quân, việc nước. Nàng xót xa khi

không được sống cuộc sum vầy, đoàn viên với Nam Kinh. Hơn thế nữa, nỗi

đau càng thấm thía khi Ngọc Long phải bỏ mặc người con trai Xuân Lan non

dại ở quê, cậy nhờ hàng xóm chăm sóc. Không phải ngẫu nhiên mà hễ nhắc tới

Ngọc Long, tác giả đều gắn với chi tiết nước mắt, lời than. Bởi đúng theo tâm lí

của một người mẹ, xa con là điều bất đắc dĩ. Huống hồ, xa con vì sự bất công,

vô lí. Bởi thế, nỗi đau càng thấm thía, xót xa hơn. Thế nhưng, nàng Ngọc Long

dường như cũng tượng trưng cho mơ ước của nhân dân khi số phận nàng không

phải mãi đắm chìm trong hệ quả của bất công. Cuối truyện, Ngọc Long được

chính người con trai Xuân Lan của mình cứu về. Nàng được trở về trong sự

đoàn tụ, hạnh phúc gia đình.

Những người phụ nữ không chỉ có dung nhan xinh đẹp mà ở họ còn luôn

ngời sáng bản lĩnh, tinh thần và ý chí vươn lên chiến thắng hoàn cảnh, nắm giữ

hạnh phúc.

Nàng Ngọc Long thể hiện mình là một người phụ nữ đầy bản lĩnh, thức

thời và trí tuệ. Trong tình yêu, Ngọc Long tuy phó thác duyên định cho Bà

Nguyệt nhưng nàng có được lối ứng xử vô cùng khôn khéo, khiêm nhường.

Nàng là một đại diện cho đức khiêm hạ của người Tày. Ca dao Tày có câu:

Em như chim chích bên đường

Có con chim phượng vẫy vùng là anh

Phượng bay vào đám mây xanh

Con chim chích nhỏ thôi đành quay lui

Vẻ đẹp ấy được thể hiện qua cách mà Ngọc Long lí giải với Nam Kinh

về sự cô đơn của mình:

Cơm không sẵn một bát qua ngày

Anh em không một ai trông cậy

…Đường kim chỉ khâu vá ngu phàm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Không xứng đáng vợ chàng giàu có

Lời đối đáp của Ngọc Long đã nhận hết phần không tốt về mình để từ

chối hôn nhân. Lời nói ấy khiến ta liên tưởng đến những câu giao duyên của trai

gái người Tày. Khi chàng trai cất lời ướm hỏi, tán tỉnh: “Áo em mặc màu đen

cánh niêng/ Theo anh vô Bản Viểng thì vô/ Quê anh hái lá ươm tơ/ Vải tơ chung

xếp xem vừa hòm không?; cô gái cất câu trả lời thật ý nhị: “Vải em thô lậu hơn

người/ Lấy ngay máng lợn làm thoi dệt thành/ Sợi to bằng cọng rơm xanh/ Dám

đâu xếp cạnh lụa lành để thẹn tơ”. Ngọc Long đã mang trong mình chất dân

gian Tày bình dị, khiêm nhường như chính con người nàng. Thế rồi, Ngọc Long

đã nói lên được suy nghĩ, lo âu của người con gái trong tình yêu mà mãi đến sau

này, nhà thơ trẻ thời chống Mĩ - Xuân Quỳnh mới có ý thơ tương tự:

Khắp đường giăng đầy hoa cỏ may

Áo em vô ý cỏ găm đầy

Lời yêu mỏng mảnh như màu khói

Ai biết tình anh có đổi thay?

Ngọc Long đã đem phần lí trí sâu sắc khi nghĩ về hình thức và nội dung,

nghĩ về lúc thương yêu, lúc hờn giận…nào ai dám chắc chắn khi chỉ nghe qua

lời hứa hẹn:

Hổ vằn dễ nhìn thấy ngoài vằn

Người nông sâu bao phần ai biết

Lòng người khó tường hết gian ngay

Gió giật nước hải giang nổi sóng

Gió êm nước phẳng lặng êm ru

Thế nhưng, Ngọc Long không để sự hoài nghi chiếm lĩnh lí trí. Nàng biết

mở lòng mình ra đón nhận duyên tình khi trái tim nàng cảm nhận được sự chân

thành. Nàng sẵn sàng bỏ qua giai đoạn thách thức để chấp nhận Nam Kinh.

Trong tình yêu, Ngọc Long đã được viên nguyện với người chồng Trạng

nguyên. Trong cách nhìn nhận sự việc, Ngọc Long cũng thể hiện mình là một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

người phụ nữ có tầm nhìn, biết đánh giá mọi việc. Trước việc mình bị đi sứ

nước Tần, Ngọc Long không chỉ khóc than thương chồng, thương con, thương

mình mà còn nhận ra, đây là một biểu hiện của sự bạc nhược, bù nhìn của đám

vua quan phong kiến đương thời. Nàng cất lên tiếng khóc như lời phản kháng,

trách móc xã hội bất công:

Đàn bà đi việc quan đâu có?

Quan văn cùng tướng võ triều thần

Bao tài giỏi muôn phần hơn thiếp

Sao không đi lại ép nữ nhi?

Mèo ăn gừng mấy khi thấy có?

Vua thiếu gì tướng võ quan sang?

…Trách mình trách thế gian lắm sự

Đàn bà đi việc sứ sao nên?

Trí tuệ của Ngọc Long không chỉ được thể hiện qua cách nhìn nhận,

đánh giá tính chất của sự việc mà còn thể hiện qua lối ứng xử của nàng. Nàng

nhận ra bản chất của việc đi sứ lần này chính là một hình thức nước nhỏ cống

nạp cho nước lớn, khó có ngày trở về. Chính vì thế, nàng viết thư dặn chồng:

Chàng hãy chăm Xuân Lan chóng lớn

Để mai sau phò chúa quản dân

Sau này con chính thân cứu thiếp

Và tiên lượng, tầm nhìn của Ngọc Long đã đúng. Chính Xuân Lan - con

trai nàng sau này là người cứu nàng trở về đoàn tụ với gia đình.

Không chỉ thế, trong cuộc giao tiếp với Tần Đế, Ngọc Long đã rất khôn

khéo bày tỏ hoàn cảnh, thái độ của mình:

Nàng vào tới cung vàng Tần đế

Quỳ tâu lên điện bệ thiên nhan:

- Tôi là người nước Nam thiếu phụ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Vua cử tôi sang sứ Tần bang

Nàng khéo léo lồng ghép hoàn cảnh của một người phụ nữ đã có chồng,

có con để vua Tần biết được mà thả về nhưng vẫn không thể thoát khỏi động cơ

xấu xa của tên vua Tần dâm ác.

Nàng Hiền Thị (Tạng Ba) cũng vậy. Nàng xinh đẹp, thông minh, đối đáp

khôn khéo, là người con gái có chữ nghĩa, hiểu biết. Nàng luôn khéo léo, giỏi

giang giúp đỡ chồng trong nhiều công việc. Khi chồng bị người anh kết nghĩa

ghen ghét hãm hại, nàng đã khôn ngoan bày mưu để trả thù cho chồng. Bên cạnh

đó có nàng Hán Xuân (Truyện Lưu Đài - Hán Xuân) là người con gái hiểu biết,

có trí tuệ, có bản lĩnh. Nàng ngầm đưa tiền bạc giúp đỡ Lưu Đài, sau đó lại xin

với cha mẹ đón chàng về nhà nuôi ăn học. Khi Lưu Đài lên kinh dự thi, Hán

Xuân cũng chủ động têm trầu, sai người ra ngoài đường gửi cho Lưu Đài. Khi

Lưu Đài phải nhận lệnh vua đi tiến cống Tần Vương, nàng không níu giữ chồng

vì nàng hiểu “Phép vua không thể chối việc quan”. Nếu như là một phụ nữ bình

thường thì Hán Xuân chỉ ở nhà đợi chờ chồng trở về, nhưng nàng vốn mạnh mẽ

và đầy bản lĩnh nên đã xin đi theo chồng vì nàng lo lắng cho chồng “Bạn đường

không có tướng hùng anh/ Có việc gì ai thay cho Trạng”. Thái độ của nàng rất

kiên quyết và dứt khoát: “Em những lo mọi đoạn sầu riêng/ Xin cho em đi luôn

một thể/ Dù vua cùng triều chính nói sao”. Nàng vừa là người vợ vừa là người

bạn đã giúp Lưu Đài trong mọi hoàn cảnh. Bị nạn giữa mênh mông sông nước,

lại đến ngày sinh con, nàng một mình chèo chống vượt qua khó khăn. Khi bị quỷ

Ngô Cương ép lấy làm vợ, nàng khôn ngoan lấy lí do “Mới sinh chưa sạch thân

còn bẩn” để từ chối. Bị đánh đập đến sắp chết, nàng sống lại, bôn ba đói khát

“hàn cơ đói rét”, nàng vẫn cố gắng sống để nuôi con. Với tấm lòng kiên trung

và ý chí khắc phục khó khăn đáng khâm phục, sau bao ngày khốn khổ có lúc

tưởng như không sống nổi, cuối cùng nàng đã có được phép trời, cứu được

chồng thoát khỏi Long cung đưa về chốn dương gian. Sau đó Hán Xuân đã nhiều

lần giúp chồng đối phó với quân giặc. Ngay cả trong những lúc cam go nhất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

nàng vẫn tỏ rõ bản lĩnh phi thường của mình: “Chư quân chớ hồn kinh lo lắng/

Cơm nước rượu uống cho no say/ Đánh giặc mình ta đây khắc liệu”. Khi quân

tướng đều “hồn vía hãi kinh” thì “Nàng một mực bền gan vững chí”. Có thể nói,

Hán Xuân không phải hạng nữ nhi thường tình yểu điệu lả lướt và yếu đuối.

Nàng tiêu biểu cho mẫu người phụ nữ vừa nết na, chung thủy, nhân hậu lại vừa

thông minh, hiểu biết, mạnh mẽ và đầy bản lĩnh.

Trí tuệ, hiểu biết và bản lĩnh đã giúp người phụ nữ chiến thắng nghịch

cảnh để thành công và có được hạnh phúc. Hán Chân là người phụ nữ xinh đẹp

và “Nàng nết na có ý làm ăn”. Bị một tên lái buôn lấy bạc vàng ra để dụ dỗ

nhưng nàng đã thẳng thắn mắng mỏ tên lái buôn. Ấy thế mà nàng vẫn bị chồng

phụ bạc đuổi đi. Hán Chân đã thể hiện rõ bản lĩnh và trí tuệ bằng việc giả trai đi

học, thi đỗ Trạng nguyên. Sau này trở về, gặp chồng cũ khốn quẫn nghèo hèn,

nàng vẫn thể hiện sự bao dung với chồng, cầu xin thần tiên “Mời Bụt cả sẵn tay

cứu giúp/ Chồng tôi chẳng có tội chi đâu/ Toàn làm những đớn đau vất vả/

Dám cầu xin thuốc quý mường trời/ Thuốc biến hóa chồng tôi nên trạng”. Tài

năng, phẩm chất của nàng đã được vua ngợi khen: “Hán Chân nàng khôn,

sáng, có công/ Tài cán kể như long phá thạch/ Thông hiểu đầy mọi mạch vũ

văn”. Ngoài ra nhân vật Thị Trinh trong truyện Lý Thế Khanh cũng tỏ rõ là một

người có trí tuệ, có kiến thức, có bản lĩnh. Nàng đã tham mưu cho chồng nhiều

ý kiến để giúp chồng đánh giặc.

Trong các truyện thơ Nôm Tày, nhân vật người phụ nữ xấu xa độc ác

hết sức mờ nhạt. Những nhân vật như người cô ruột tham lam, giết cháu để

chiếm đoạt tài sản, cuối cùng phải chịu kiếp lang thang bơ vơ đói rét và chết

nơi bờ bụi dọc đường (Truyện Nàng Quyển) hay Thị Xuân tham lam tiền bạc,

phụ nghĩa phu thê, bỏ chồng đi theo chủ thuyền buôn giàu có (Truyện Lương

Nhân con côi) rất ít khi xuất hiện và chỉ thoáng qua. Còn đại đa số nhân vật

nữ trong các truyện thơ Nôm Tày đều rất đẹp cả về ngoại hình lẫn phẩm chất,

đúng như nhà nghiên cứu Vũ Anh Tuấn nhận xét: “Họ đều là những người

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

đức hạnh. Nàng Ngọc Dung hết lòng hiếu thảo với mẹ chồng, còn các nàng

Hán Xuân, Kim Nữ đều nuôi chồng từ buổi hàn vi đến công thành danh toại.

Nhân vật lúc nào cũng trong sáng thủy chung đến mức thánh thiện, cũng gan

dạ can trường trong mọi tình huống tai biến thử thách… Trí dũng song toàn,

lên trời xuống bể, bình Tây thu Bắc, thiên chức người mẹ, người vợ, người

anh hùng làm kẻ thù ngoại bang phải kinh hồn bạt vía… Những nhân vật phụ

nữ trong truyện thơ Tày đều là những người giỏi giang trong lao động miền

núi, hiền hòa, khôn khéo trong xử thế các mối quan hệ…” [34; 175 - 176]. Có

thể thấy, khi nói đến những phẩm chất của người phụ nữ trong truyện thơ

Nôm Tày, các tác giả đã dồn tụ vào vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ

Việt Nam nói chung. Đó là những người phụ nữ xinh đẹp, tiết hạnh, thông

minh, tài giỏi và đầy bản lĩnh. Họ kết tinh vẻ đẹp và tài năng, trí tuệ, thể hiện

ước mơ lí tưởng của người dân Tày.

TIỂU KẾT

Trong chương 2, chúng tôi đã khảo sát và phân tích một số đặc điểm của

hình tượng người phụ nữ trong truyện thơ Nôm Tày trên các phương diện

chính: xuất thân, ngoại hình, phẩm chất , trí tuệ, bản lĩnh... Qua đó, chúng ta

có thể thấy người phụ nữ trong truyện thơ Nôm Tày thường có xuất thân quyền

quý, cao sang. Khi thì là người mường trời, khi thì được sinh ra nhờ phép thần

kì của thế lực siêu nhiên, khi lại là con gái của gia đình giàu có, gia giáo. Phải

chăng, qua cách phản ánh này, các tác giả dân gian muốn đem tới cho người

đọc một sự toàn diện khi khắc họa vẻ đẹp của người phụ nữ? Đồng thời, đặc

điểm về hoàn cảnh xuất thân cũng góp phần khắc họa mơ ước, đức tin của đồng

bào Tày trong giai kì này. Không chỉ thế, người phụ nữ trong truyện thơ Nôm

Tày thường mang ngoại hình xinh đẹp, lộng lẫy. Họ là đại diện cho vẻ đẹp của

đất trời. Truyện thơ Nôm chịu ảnh hưởng của thi pháp văn học trung đại đương

thời, lấy vẻ đẹp của thiên nhiên để làm chuẩn mực cho vẻ đẹp của con người.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Trong mối tương quan đó, nhan sắc người phụ nữ Tày gián tiếp hiện lên qua

các hình ảnh như hoa, như ngọc… Đồng thời, tác giả dân gian còn sử dụng

cách miêu tả trực tiếp qua hệ thống tính từ giàu sức biểu cảm.

Người phụ nữ trong truyện thơ Nôm Tày là đại diện cho những phẩm

chất tốt đẹp trong xã hội. Trước hết, họ là những người tài trí, thông minh, giàu

bản lĩnh. Họ vượt ra khỏi rào cản của lễ giáo phong kiến, vượt ra khỏi những o

ép trong quan niệm phong kiến mà vươn lên sống bằng khát vọng yêu đương

mãnh liệt, chủ động trong tình yêu và hôn nhân. Khi đã là người vợ, người mẹ,

họ xứng đáng là người phụ nữ chuẩn mực của gia đình với những phẩm chất

như: đảm đang, nhân hậu, nghĩa tình, chung thủy, giàu đức hy sinh.

Tóm lại, người phụ nữ trong các truyện thơ Nôm Tày là hiện thân của cái

đẹp. Họ không chỉ đẹp về ngoại hình mà còn đẹp về phẩm chất, nhân cách. Ở

họ hội tụ đầy đủ sự nết na, thủy chung, hiếu thảo, nhân hậu, vị tha, giàu đức hi

sinh. Họ là hiện thân của trí tuệ, bản lĩnh. Vẻ đẹp của những người phụ nữ ấy

còn được khắc họa bởi tinh thần dũng cảm chống lại sự ràng buộc của lễ giáo

phong kiến, bởi ý chí mạnh mẽ vươn lên chiến thắng sự nghiệt ngã của hoàn

cảnh để bảo vệ tình yêu trong sáng, thủy chung. Họ luôn giữ vai trò chủ động

trong mọi tình huống, dám lựa chọn và kiên quyết bảo vệ sự lựa chọn của

mình, sẵn sàng hi sinh cả bản thân để giữ phẩm giá. Hình ảnh những người phụ

nữ ấy giúp chúng ta hiểu hơn về những quan niệm, những ước mơ, khát vọng

của người dân Tày và góp phần không nhỏ làm nên giá trị cũng như sức hấp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

dẫn của các truyện thơ Nôm Tày.

CHƯƠNG 3

NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG

MỘT SỐ TRUYỆN THƠ NÔM TÀY

Trong công trình nghiên cứu Truyện thơ Tày - Nguồn gốc, quá trình phát

triển và thi pháp thể loại, tác giả Vũ Anh Tuấn đã khẳng định: “Việc khảo sát

một cách cụ thể thi pháp nhân vật ... sẽ giúp chúng ta phát hiện được những

giá trị tư tưởng hiện ra trong vẻ đẹp riêng của thế giới nhân vật trong thế giới

nghệ thuật của tác phẩm... Nhân vật văn học và VHDG đều là những hình

tượng (chủ yếu là con người) có tên hoặc không tên, được sắp xếp theo một

tầng lớp nào đó như trong hiện thực đời sống xã hội, được xây dựng một cách

thẩm mĩ theo một lí tưởng thẩm mĩ nhất định mà cái gốc của nó là quan niệm

nghệ thuật về con người” [42; 164]. Việc nghiên cứu những biện pháp nghệ

thuật xây dựng hình tượng người phụ nữ sẽ giúp chúng ta làm rõ hơn những

đặc điểm của hình tượng này.

3.1. Nghệ thuật miêu tả nhân vật

Nói đến nhân vật trong tác phẩm là nói đến hình tượng được miêu tả

bằng các phương tiện ngôn ngữ. Thông qua việc sáng tạo nhân vật, nhà văn

thể hiện nhận thức, suy nghĩ của mình về một vấn đề nào đó trong xã hội.

Trong kho tàng truyện thơ Nôm Tày, các tác giả dân tộc đặc biệt chú ý đến

việc miêu tả ngoại hình, tính cách và nội tâm nhân vật, đặc biệt là hình tượng

người phụ nữ.

3.1.1. Miêu tả ngoại hình nhân vật

Ngoại hình đem đến cho độc giả cái nhìn, thiện cảm ban đầu khi tiếp xúc

với nhân vật. Đây là một yếu tố dễ dàng để cảm nhận, bởi thế, các tác giả dân

tộc Tày đã phát huy tối đa tác dụng của ngoại hình trong việc đem đến cho độc

giả hình dung cụ thể về nhân vật. Trong số những hình tượng nhân vật người

phụ nữ mà chúng tôi khảo sát, tất cả đều được hiện lên với ngoại hình xinh đẹp,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

trong sáng. Vẻ đẹp của họ được miêu tả qua hai cách: gián tiếp và trực tiếp.

Truyện thơ Nôm Tày giai đoạn này có lẽ cũng chịu sự ảnh hưởng của thi

pháp văn học trung đại - lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho vẻ đẹp của con

người. Đến với những tác phẩm thơ Nôm Tày, một lần nữa, chúng ta lại bắt gặp

sự trở lại của hình ảnh thiên nhiên trong sự đối sánh với ngoại hình nhân vật.

Đây là một trong những bút pháp tiêu biểu trong cách thức miêu tả gián tiếp.

Với cách thức gián tiếp, vẻ đẹp của người phụ nữ trong những trang viết

này được miêu tả qua hệ thống hình tượng độc đáo, mang đậm tính biểu tượng

của dân tộc Tày, tiêu biểu là hình tượng “Hoa”. Những người phụ nữ như:

Ngọc Long, Hán Xuân, Nàng Kim, Lô Thị… đều gắn liền với biểu tượng

“hoa”. Sống giữa núi rừng bao la, người Tày say sưa với thiên nhiên đại ngàn,

họ vươn dài trải rộng cảm xúc trước muôn vật của tự nhiên. Giữa một núi rừng

âm thanh và màu sắc thì hoa là vẻ đẹp tiêu biểu cho mọi vẻ đẹp của đại ngàn,

đó là hoa mơ, hoa mận, hoa đào… Vì vậy mà người Tày dành cho hoa nhiều

tình cảm, một tâm hồn lấy hoa làm cơ sở cảm xúc, một cảm xúc lấy hoa làm

tiêu chuẩn và điểm tô, một quan điểm đạo đức lấy hoa làm nền. Biểu tượng hoa

theo nghĩa đen được hiểu một cách đơn giản đó là vẻ đẹp của thiên nhiên, vẻ

đẹp của núi rừng. Hay nói cách khác, hoa là đại diện cho cái đẹp tự nhiên, cái

đẹp thuần túy.

Trong quan niệm của người Tày, hoa không chỉ có ở mường người mà

còn có ở mường trời. Người Tày có câu tục ngữ “Con trai con gái, hoa trái của

mường”, nhiều bài Sli, Lượn có kiểu mở đầu: “Thân em như hoa” đó là một lối

nói để hoa trở thành hình tượng con người. Hoa là người con trai cao quý

“Thân anh như hoa vằng giữa chùa”, là những cô gái ăn nói mặn mà “giữa bến

bạc kim quý, hoa nở các thứ hoa xứ sở có duyên”, là vẻ đẹp rực rỡ của người con

gái có duyên “hoa em ngời tận mắt, hoa em ánh tận mắt”. Hoa ở đây là tuổi trẻ là

mùa xuân của đời người “còn xuân ong còn níu còn vờn, hết xuân ong mất hồn

bỏ chạy”. Ở đây, hoa là biểu tượng cho vẻ tươi đẹp nhất của con người, con

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

người được đề cao, được ví như những bông hoa thơm ngát tại mường.

Trở lại với hình tượng người phụ nữ trong truyện thơ Nôm Tày, gắn với

ý nghĩa biểu tượng “hoa” đã trình bày ở trên, chúng tôi nhận thấy, hoa không

chỉ biểu trưng cho tình yêu, cho tín ngưỡng mà còn là một biểu tượng của cái

đẹp. Mỗi khi nhân vật xuất hiện cùng hình ảnh hoa là thêm một lần, nhân vật

người phụ nữ hiện ra xinh đẹp. Từ nước da, ánh mắt, cử chỉ, dáng vẻ… đều có

thể so sánh với hoa. Truyện thơ Lưu Tương (tập 16) đã đưa ra rất nhiều chi tiết

miêu tả ngoại hình nhân vật trong thế đối sánh với “hoa”:

- Mặt mũi nàng đẹp tựa như hoa

- Nét mặt như hoa nở xinh tân

- Nhìn tươi như hoa mới nở

- Câu nói như hoa lồm thơm tỏa

- Lời nói như hoa mạ nở vàng

Nét đẹp của nàng công chúa Long vương (truyện thơ Lưu Tương) đã

được khắc họa cùng với hình tượng này. Nghệ sĩ dân gian dành những ngôn từ

mộc mạc nhưng cũng đủ đầy để tô tạc nét đẹp người phụ nữ: “Chỏi chỏi như

bjoóc lồm đang nở” (Nàng đẹp ngời ngời như hoa lồm đang nở). Hoa lồm -

một loài hoa vào nở mùa thu, hoa nhỏ, có đài, mùi thơm nhẹ đã được ví von với

vẻ đẹp cao sang, đài các của thiếu nữ đôi mươi.

Bên cạnh đó, khi miêu tả ngoại hình của những nhân vật khác như Nghi

Xuân, Ngọc Long, Nàng Kim, Xuân Thị… tác giả dân gian có sử dụng điển

tích, điển cố “Văn Đăm” nhằm chỉ người con gái xinh đẹp, lấy từ hình tượng

mĩ nhân nổi tiếng ở Trung Quốc.

Dường như, ẩn ý là chưa đủ. Bởi thế, trong những sáng tác truyện thơ

Nôm, chúng ta còn nhận thấy lời ngợi ca ngoại hình một cách trực tiếp của các

tác giả. Họ trực tiếp sử dụng những tính từ như: “xinh đẹp” (Khuyên về hỡi

Nghi Xuân xinh đẹp), “Nghi Xuân xinh tươi”, “nhan sắc xinh tươi” (Quan chết

bởi Nghi Xuân xinh đẹp/ Vì cha mẹ gian ác chẳng thương)… Nhan sắc của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

nàng Ngọc Long cũng vậy, hiện lên qua những lời xưng gọi mang đậm màu sắc

ngợi ca: “nàng mặt ngọc”, “người ngọc”, “ngọc nữ”, “nàng tiên nga”, “nàng

khôi châu”, “mĩ nữ”…

Như vậy, nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật ở đây có thể tóm gọn

trong hai phương thức cụ thể: miêu tả trực tiếp và miêu tả gián tiếp. Dù là

phương thức nào thì nhân vật người phụ nữ cũng hiện lên với một vẻ đẹp thuần

khiết, duyên dáng, đúng như mơ ước của đồng bào Tày. Phải chăng, với cách

khắc họa này, tác giả dân gian đã gửi gắm lời ngợi ca kín đáo, tế nhị đồng thời

là niềm tự hào về con người Tày.

3.1.2. Miêu tả nội tâm nhân vật

Tác giả Vũ Anh Tuấn cho rằng: “Thậm chí, do ý thức tự giác tộc người

trong quá trình sáng tạo các giá trị văn hóa dân gian, các nghệ nhân (và sau

này là các nho sĩ bình dân) bản tộc, ở một mức độ nhất định, họ còn tỏ ra vượt

trội các tác giả sáng tác truyện Nôm bình dân của tộc người Kinh trong việc

miêu tả, khắc họa tính cách, tâm trạng nhân vật chính trong thế giới nhân vật

truyện thơ Tày” [42; 180]. Với nhận định này, chúng tôi đã có thêm một gợi

dẫn quan trọng khi nghiên cứu nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm trạng nhân vật

nói chung và nhân vật người phụ nữ vật trong truyện thơ Nôm Tày nói riêng.

Theo đặc trưng thể loại truyện thơ Nôm với kết cấu tự sự - trữ tình,

truyện thơ Nôm dân tộc Tày đã bộc lộ chiều sâu tâm lí một cách thuận lợi và rõ

nét. Qua từng hồi, từng cảnh, từng biến cố xảy ra, nhân vật lại càng có cơ hội

để thể hiện tính cách, tâm trạng của mình. Tâm trạng ấy có thể được miêu tả

bằng lời khách quan của người kể chuyện, bằng lời đối thoại giữa các nhân vật

hay bằng lời độc thoại của mình. Qua đó, độc giả sẽ cảm nhận được sự sâu sắc,

đa dạng, phong phú trong thế giới nội tâm nhân vật.

Trong công trình nghiên cứu Nghiên cứu so sánh các truyện thơ Nôm

Tày cùng cốt truyện với truyện thơ Nôm Kinh [43], Phạm Quốc Tuấn có khảo

sát và chỉ ra 18 câu thơ miêu tả tâm trạng của Cúc Hoa sau 1 năm Tống Trân đi

sứ. Trong thời gian này, nàng buồn rầu không thiết ăn uống, thương nhớ chồng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

khôn nguôi:

Thân em từng thảm thiết buồn thay

Bữa ăn là bữa không cầm bát

…Sáng sớm đến chiều tà chiếc lẻ

… Khi nào đủ mười năm đổ lại

Thân thiếp buồn phiền nhiễu lo toan

Mười hai tháng mới vừa xa cách

Chàng thành người nước khác thảm thương

Đoạn độc thoại nội tâm của Cúc Hoa đã khơi gợi sự cảm thương tới

người đọc một cách mạnh mẽ. Lòng cảm thương ấy trước hết xuất phát từ tấm

lòng của tác giả dân gian. Họ đã thổi vào nội tâm nhân vật một tình cảm sâu

nặng, đặt nhân vật vào trong hoàn cảnh cách xa để nhân vật tự trải lòng cùng

bao nỗi sầu tủi, nhớ nhung. Đây là một trong những trạng thái tâm lí hết sức

bình thường nhưng đáng trân trọng vô cùng của người phụ nữ. Bên cạnh đó,

tiếng nói cảm thương cất lên sâu sắc, thấm thía hơn cả từ chính nhân vật, mà cụ

thể ở đây là Cúc Hoa. Nàng nói với Tống Trân hay đang thổn thức với chính

lòng mình những nỗi niềm sâu thẳm? Tâm trạng của Cúc Hoa cứ lần lượt xoay

vòng từ thương nhớ, mong ngóng, cầu nguyện rồi lại rơi vào trạng thái vô định

đếm thời gian trôi. Và cuối cùng, với nghệ thuật khắc họa nội tâm chân thực,

nghệ sĩ dân gian và nhân vật của mình đã khơi gợi được sự rung động trong trái

tim độc giả. Từng câu từng chữ đều đem đến một cảm nhận về sự đồng cảm, về

tính nhân văn. Để rồi, khi chứng kiến 10 năm thủ tiết chờ chồng của Cúc Hoa,

ta thêm cảm phục, ngưỡng mộ nàng. Hình tượng người phụ nữ đã đẹp lại càng

toàn diện hơn nữa.

Thơ Nôm Tày giai đoạn này còn đề cao tình yêu đôi lứa và trong đó,

tình cảm của người phụ nữ được chú trọng đặc biệt. Họ ngợi ca tình yêu vĩnh

cửu, lòng thủy chung của người phụ nữ Tày. Họ lí tưởng hóa tình yêu gần như

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

tuyệt đối. Bởi thế, tâm trạng nhân vật đã nhen nhóm những dấu hiệu báo trước

tương lai. Trong truyện thơ Phạm Tử - Ngọc Hoa, ngay từ phút đầu gặp gỡ của

hai nhân vật chính, tác giả dân gian đã ngầm định, đây là mối lương duyên trời

ban. Bởi thế, nàng Ngọc Hoa đã đứt ruột tương tư chàng Phạm Tử:

Ngày đêm nàng đứt ruột tương tư

Mong được đón nho sĩ lại nhà

Nuôi thầy với chàng ta đèn sách

Chẳng cho chàng vất vả ăn xin

Nhớ nhung cứ bàng hoàng trong dạ

Tự nhiên lòng thương nhớ mười phân

Trưa tối chẳng nhớ ăn buồn bã

Bữa ăn là có bữa ngủ suông

Nỗi tương tư của Ngọc Hoa dành cho Phạm Tử thật nồng nàn, cháy

bỏng. Qua lời người kể chuyện, diễn biến tâm trạng của người phụ nữ này đã

hiển hiện rõ nét. Đó là sự nhung nhớ, thao thức, là sự thương xót, đồng cảm và

mong muốn được gặp lại người nho sĩ nghèo. Nàng muốn được san sẻ những

vất vả cùng Phạm Tử, muốn được giúp đỡ chàng. Nỗi nhớ ấy da diết đến mức

trở đi trở lại, quen thuộc như bữa ăn, như giấc ngủ khiến cho nàng thấp thỏm,

thậm chí quên ngủ ăn. Qua đó, tác giả dân gian dường như muốn hé mở một dự

cảm về cuộc tình bền chặt giữa hai nhân vật và quả thực, những tình cảm thiêng

liêng ấy đã giúp họ vượt qua mọi gian khó, khắc nghiệt.

Bên cạnh đó, nội tâm nhân vật cũng được thể hiện qua hệ thống ngôn

ngữ đối thoại giữa các nhân vật trong truyện. Qua đây, người phụ nữ không chỉ

bộc lộ phẩm chất khéo léo, nhanh trí, thức thời của mình mà còn là hoàn cảnh

để độc giả nhận thấy diễn biến nội tâm nhân vật. Trong truyện thơ Lưu Đài -

Hán Xuân, khi Chúa đất ngỏ lời bất chính, Hán Xuân đã cất lời tỏ bày về hoàn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

cảnh như một cách chối từ đầy khôn khéo:

Gửi lời sứ đến nhà hãy nói:

- Tôi là người trần thế dương gian

Mới sính chưa sạch thân còn bẩn

Thương nhau gửi lời nói phí không

Thanh xuân hoa nở bông mới đáng

Thực sự tôi không dám hầu người

Lời nói của Hán Xuân mang hai chức năng: vừa là một lời thông báo, từ

chối vua Quỷ, thể hiện lòng chung thủy, sự thông minh của nàng. Đồng thời, là

một dấu hiệu đặc trưng khắc họa nội tâm nhân vật.

Như vậy, diễn biến tâm trạng nhân vật người phụ nữ trong truyện thơ

Nôm Tày đã được khắc họa rất rõ nét qua những lời kể chuyện, qua dòng tâm

sự hay qua lời đối thoại giữa các nhân vật trong truyện. Qua thủ pháp nghệ

thuật này, các tác giả dân gian đã đem đến cho đời sống tâm lí nhân vật sự

phong phú, tinh tế; đem đến cho độc giả những hình dung cụ thể hơn về hình

tượng nhân vật.

3.2. Ngôn ngữ nhân vật

Ngôn ngữ nhân vật, nhất là trong truyện thơ, chính là một trong những

thành tố quan trọng cấu thành nên hình tượng nhân vật. Đó là lời ăn, tiếng nói

của nhân vật trong tác phẩm văn học và được chia thành nhiều loại như: ngôn

ngữ đối thoại, ngôn ngữ độc thoại nội tâm… Ngôn ngữ chính là yếu tố quan

trọng giúp người đọc khám phá hình tượng nhân vật nói chung và hình tượng

người phụ nữ Tày nói riêng một cách rõ ràng nhất. Qua hệ thống ngôn ngữ

nhân vật, không những tâm trạng mà tính cách, phẩm chất, ngoại hình nhân vật

cũng được thể hiện rõ nét. Trong công trình nghiên cứu này, chúng tôi chia

thành hai loại ngôn ngữ: ngôn ngữ của người phụ nữ và ngôn ngữ của những

nhân vật khác. Với người phụ nữ, ngôn ngữ chính là phương tiện để họ bộc lộ

mọi phẩm chất; với những nhân vật khác, ngôn ngữ khiến cho dòng suy nghĩ,

sự đánh giá của họ về người phụ nữ được hiện ra trên bề mặt văn bản. Từ đó,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

hình tượng người phụ nữ được phản ánh trở nên khách quan hơn.

3.2.1. Ngôn ngữ của người phụ nữ

Ngôn ngữ của người phụ nữ trong truyện thơ Nôm Tày có sự khác biệt

so với truyện thơ Nôm dân tộc Kinh. Trong công trình nghiên cứu của mình tác

giả Phạm Quốc Tuấn [43] đã chỉ ra: “Ngôn ngữ mà các nhân vật sử dụng rất

gần gũi với ngôn ngữ đời sống thường ngày. Lớp từ thường xuyên có mặt trong

tác phẩm bởi thế khá bình dị, chân thực, gắn với cách cảm, cách nghĩ của

người miền núi” [43; 136]. Nếu như lớp từ này khiến cho cách xây dựng nhân

vật nam giới có phần thô ráp thì với người phụ nữ lại đạt được một hiệu quả

đậm chất văn hóa. Đó là sự mộc mạc, chân thực, giản dị, trong sáng và nền nã -

một đặc trưng của người miền núi. Người phụ nữ Tày không phải không có tri

thức. Thế nhưng, họ không thể hiện ra bằng ngôn ngữ đời sống như trong

truyện thơ Nôm Kinh. Nghĩ gì nói vậy, không rào trước đón sau, không ý tại

ngôn ngoại, không ràng buộc bởi những quy tắc, chế ước nghệ thuật, người phụ

nữ Tày hiện lên vẹn nguyên với vẻ đẹp giản dị, gần gũi, trong sáng nhất. Nàng

Ngọc Hoa trong truyện thơ Nôm Phạm Tải - Ngọc Hoa là một điển hình. Khi

thưa với cha mẹ tình cảm của mình với Phạm Tải, Ngọc Hoa đã thẳng thắn:

Cha mẹ là đất trời thiên hạ

Con trình thực bố mẹ tỏ tường

Tháng tám ngày mười ba giờ ngọ

Thấy có người nho sỹ viễn phương

Lạc vào nhà tìm đường hành khất

Diện mạo trông đích thực khôn ngoan

Xem ra tướng cao sang quân tử

Một thân chàng đứng ở ngoài sân

Thương hại người bần nhân hiền sỹ

Gạo cơm con bố thí cho người

Từ đó con đêm ngày thương nhớ

Tự thiên duyên hay có sự gì

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Tự nhiên thấy tương tư vật vã

Đoạn này, độc giả có thể nhận thấy được sự rõ ràng trong ý tứ nàng

Ngọc Hoa. Nàng giãi bày ngọn ngành, tỏ tường về tình cảm của mình với cha

mẹ. Không mượn quá nhiều điển tích, không mượn quá nhiều lời của tiền nhân,

Ngọc Hoa đã đem đến cho độc giả sự cảm nhận về nét tính cách giản dị, trong

sáng của mình.

Khi bị Trang Vương gượng ép tình duyên, Ngọc Hoa đã dùng ngôn ngữ

của mình để thể hiện quan điểm dứt khoát:

Ngọc Hoa vào tâu lạy mặt rồng

Thân tôi đã có chồng định xứ

Chồng tôi là Phạm Tử sỹ nhân

Thiên hạ người thiếu chi mỹ nữ

Tôi như viên ngọc rạn báu gì

Nữ thất tiết chiều vua sao xứng

…Vua thiếu gì nữ ngọc thanh tân

Nhược vua ép mười phân không bỏ

Tôi xin quyết tự tử trước vua

Ta có thể nhận thấy sự tương đồng trong tình tiết cuộc đời nàng Ngọc

Long. Khi vua Tần bất chấp đạo lí, dùng lời đường mật dụ dỗ, Ngọc Long cũng

đã dùng ngôn ngữ, dùng lời nói để thể hiện quan điểm của mình.

Ngôn ngữ đối thoại của người phụ nữ còn cho ta thấy một nét đặc trưng

trong lời ăn tiếng nói của đồng bào Tày. Lời nói của công chúa Bách Hoa khi

biết Tống Trân từ chối làm phu quân của nàng:

Ta không được Tống Trân thôi vậy

Có ngày mày sẽ thấy quyền ta

Vua sẽ đặt chuyện cho mày thấy

Có ngày mày khóc đỏ mắt mày

Những phẩm chất như thủy chung, yêu thương chồng con, hiếu thảo,

thức thời, thông minh… cũng được bộc lộ qua hệ thống ngôn ngữ đối thoại

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

như vậy.

Bên cạnh hệ thống lời đối thoại, ngôn ngữ độc thoại nội tâm cũng góp

phần khắc tạc nên hình tượng người phụ nữ trong truyện thơ Nôm Tày. Ngôn

ngữ độc thoại đem đến một thế giới tâm tưởng phong phú của nhân vật. Tất cả

nét cảm, nét nghĩ hiện lên qua lời độc thoại nội tâm của người phụ nữ. Và cũng

qua đây, đặc điểm về người phụ nữ được độc giả cảm nhận, thấu hiểu một cách

khách quan nhất.

3.2.2. Ngôn ngữ của những nhân vật khác

Dựa vào mục đích của luận văn này, chúng tôi khai thác ngôn ngữ của

những nhân vật khác trong sự đánh giá về người phụ nữ. Sự đánh giá này tạo ra

tính khách quan trong việc phản ánh hình tượng trung tâm của luận văn.

Vẻ đẹp của người phụ nữ được hiện lên qua ngôn ngữ của những nhân

vật trực tiếp xuất hiện trong truyện thơ. Và có lẽ, đây mới là những chi tiết đắt

giá trong việc khắc họa ngoại hình nhân vật.

Nhan sắc của nàng Ngọc Long hiện lên cuộc nói chuyện của thầy bói với

xã bản:

Sáng hôm sau thấy nàng ra cửa

Dong dáng như tiên nữ nhà trời

Thế gian đâu có được người như thế

Mặt trắng ngần như thể ngọc khôi

Trong truyện thơ Lưu Tương, nhan sắc của nàng công chúa Long cung

được miêu tả qua cái nhìn của chàng họ Lưu. Đó là một nét đẹp rực rỡ, khác

hẳn người hạ giới:

Chợt thấy nàng gái lạ hoa ban

Xâu hoa chùa Vinh San e ấp

Chắc đây người tiên ngọc xuống trần

Không phải người thế đông nào lại

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Người trần không xinh gái nhường này

Như vậy, có thể thấy, ngôn ngữ nhân vật chính là một công cụ đắc lực và

quan thiết trong việc khắc họa ngoại hình nhân vật. Không chỉ vậy, qua hệ

thống ngôn ngữ này, độc giả có thêm một kênh thông tin để khai thác phẩm

chất, số phận người phụ nữ. Người kể chuyện là người cầm trong tay cán chèo

đưa chúng ta đi qua từng chặng đời nhân vật. Họ phản ánh bằng ngôi thứ ba,

người đứng ngoài cuộc nên có được sự bao quát.

3.3. Biện pháp nghệ thuật so sánh

Theo tác giả Nguyễn Thế Truyền trong công trình nghiên cứu “Giáo

trình phong cách học tiếng Việt”, ông có nêu ra một số vấn đề lý thuyết liên

quan đến biện pháp tu từ so sánh như khái niệm, cấu tạo, phân loại. Đây là cơ

sở để nhận định biện pháp nghệ thuật so sánh cũng như xác định vai trò của nó.

So sánh là đối chiếu hai đối tượng cùng có một dấu hiệu chung nào

đấy nhằm diễn tả một cách hình ảnh đặc điểm của đối tượng định nói tới.

Ví dụ: Nụ cười của nàng rạng rỡ như ánh dương.

Để xác định vai trò của biện pháp tu từ, chúng ta cần phải xác định cấu tạo

của biện pháp. Dạng đầy đủ của một chỉnh thể so sánh tu từ bao gồm có 2 vế: vế

cần so sánh (A) và vế dùng để so sánh (B). Trong đó, có 4 thành tố cấu tạo:

(1) Đối tượng so sánh (ĐTSS);

(2) Cơ sở so sánh (CSSS);

(3) Từ ngữ so sánh (TNSS);

(4) Hình ảnh so sánh (HASS).

Ví dụ:

ĐTSS

CSSS

TNSS

HASS

B

A

rạng rỡ / như ánh dương. Nụ cười của nàng

Thành tố quan trọng nhất, không thể vắng mặt: hình ảnh so sánh (B).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Cần lưu ý có nhiều trường hợp không đủ cấu trúc so sánh. Ví dụ:

+ Thiếu cơ sở so sánh:

Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

(Ca dao)

+ Thiếu từ ngữ so sánh:

Gái thương chồng đang đông buổi chợ,

Trai thương vợ nắng quái chiều hôm

(Tục ngữ)

Và một số trường hợp cấu trúc so sánh bị biến đổi. Khi thì vế B đứng trước

vế A, khi thì vế A và vế B đứng cạnh nhau, từ ngữ so sánh đảo lên trước…

Như chiếc đảo bốn bề chao mặt sóng

Hồn tôi vang tiếng vọng cả hai miền.

(Tế Hanh, Bài thơ tháng bảy)

Bởi thế, khi xác định các câu truyện thơ có sử dụng biện pháp tu từ so

sánh, chúng tôi cần lưu ý về những điểm đặc biệt này.

Có rất nhiều cách phân loại biện pháp tu từ này. Xét theo cấu tạo của biện

pháp, chúng ta có thể chia ra các loại:

- A như B (như là, giống như, tựa, tựa như, dường như…)

Thiếp như hoa đã lìa cành

Chàng như con bướm lượn vành mà chơi.

(Nguyễn Du, Truyện Kiều)

Áo chàng đỏ tựa ráng pha

Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in.

(Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm, Chinh phụ ngâm)

- A bao nhiêu B bấy nhiêu

Qua cầu ngả nón trông cầu

Cầu bao nhiêu nhịp, dạ em sầu bấy nhiêu.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

(Ca dao)

Xét theo vị thế của hai vế, chúng ta có thể chia ra các loại:

- So sánh ngang bằng: hai vế có vị thế ngang nhau:

Trường Sơn: chí lớn ông cha

Cửu Long: lòng mẹ bao la sóng trào

(Ca dao)

- So sánh không ngang bằng (so sánh hơn, so sánh kém):

Những ngôi sao thức ngoài kia

Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con

(Mẹ - Trần Quốc Minh)

So sánh tu từ được sử dụng nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự

diễn đạt. So sánh tạo ra những hình ảnh cụ thể sinh động. Phần lớn các phép so

sánh đều lấy cái cụ thể so sánh với cái không cụ thể hoặc kém cụ thể hơn, giúp

mọi người hình dung được sự vật, sự việc cần nói tới và cần miêu tả; So sánh

giúp cho câu văn hàm súc gợi trí tưởng tượng của ta bay bổng. Mục đích của so

sánh nhiều khi không phải là tìm sự giống nhau hay khác nhau mà nhằm diễn

tả một cách hình ảnh một bộ phận hay đặc điểm nào đó của sự vật giúp người

nghe, người đọc có cảm giác hiểu biết sự vật một cách cụ thể sinh động.

Trong cách nói hằng ngày người Việt Nam thường dùng so sánh ví von:

Đẹp như tiên giáng trần, hôi như cú, vui như tết, xấu như ma … Khiến lời nói

vừa có hình ảnh vừa thấm thía. Còn trong văn bản nghệ thuật, so sánh được

dùng như một biện pháp tu từ với thế mạnh đặc biệt khi gợi hình, gợi cảm. Đôi

khi có những so sánh rất bất ngờ, thú vị, góp phần cụ thể hóa được những gì hết

sức trừu tượng, khó cân đo, đong đếm.

Trong công trình nghiên cứu “99 phương tiện và biện pháp tu từ”, tác giả

Đinh Trọng Lạc đưa ra nhận định: “Phương tiện tu từ là những phương tiện

ngôn ngữ mà ngoài ý nghĩa cơ bản (ý nghĩa sự vật - logic) ra chúng còn có ý

nghĩa bổ sung, còn có màu sắc tu từ” [15; 11]. Còn biện pháp tu từ là “những

cách phối hợp sử dụng trong hoạt động lời nói các phương tiện ngôn ngữ

không kể là có màu sắc tu từ hay không trong một ngữ cảnh rộng để tạo ra hiệu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

quả tu từ (tức tác dụng gây ấn tượng về hình ảnh, cảm xúc, thái độ, hoàn cảnh)

[15; 142]. Theo tác giả, trong tiếng Việt có tới 99 phương tiện và biện pháp tu

từ song chúng tôi chỉ đề cập tới biện pháp so sánh và vai trò của nó bởi những

lí do sau.

Một là, so sánh là một trong những biện pháp tu từ quan trọng, phổ biến,

làm nên sức hấp dẫn, sự độc đáo trong các sáng tác văn học nói chung và

truyện thơ Nôm Tày nói riêng. Trong văn chương, “so sánh là phương thức tạo

hình, phương thức gợi cảm. Nói đến văn chương là nói đến so sánh. Trong lời

nghệ thuật, so sánh tu từ đã biểu hiện đầy đủ những khả năng tạo hình diễn

cảm của nó” [15; 158]. Có lẽ do chức năng nhận thức, chức năng thể hiện cảm

xúc, chức năng thông tin về sự vật, hiện tượng, con người và lối cấu tạo đơn

giản nên biện pháp tu từ này đã góp mặt trong rất nhiều phiến đoạn truyện thơ

Nôm Tày.

Hai là, qua việc khảo sát một số truyện thơ Nôm Tày, chúng tôi nhận

thấy sự xuất hiện dày đặc của biện pháp này trong lời kể chuyện, cuộc hội thoại

hay lời độc thoại nội tâm nhân vật người phụ nữ.

Để nhận biết biện pháp tu từ này, chúng tôi dựa vào hai tiêu chí: về mặt

hình thức và về mặt nội dung (chức năng). Về hình thức, những câu truyện thơ

có chứa các từ ngữ “như”, “tựa”, “dường” “chẳng khác nào”…, đồng thời xuất

hiện 2 đối tượng, trong đó, một đối tượng là nhân vật nữ đang khảo sát.

Khảo sát về biện pháp này, chúng tôi thống kê được số lượng như sau:

STT TÊN TRUYỆN THƠ

Lưu Đài - Hán Xuân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

1 2 Ngọc Long 3 Ngọc Sinh 4 Nàng Kim Tống Trân - Cúc Hoa 5 Phạm Tải - Ngọc Hoa 6 Tống Kim 7 Lưu Tương 8 9 Nho Hương SỐ CÂU CÓ SỬ DỤNG BIỆN PHÁP TU TỪ SO SÁNH 33 38 29 28 17 29 42 53 12 GHI CHÚ

Dựa vào kết quả khảo sát, chúng tôi nhận thấy, đây là những con số

không nhỏ. Số lượng câu truyện thơ tuy nhiều nhưng số lượng câu thơ có sử

dụng biện pháp tu từ so sánh cũng không ít. Thông thường, một bài thơ hiện đại

cũng chỉ sử dụng 1 đến 2 lần so sánh. Vậy mà, trong thiên truyện thơ này, các

tác giả dân gian đã vận dụng biện pháp so sánh tương đối nhiều. Cụ thể là trong

những phiến đoạn với mục đích miêu tả ngoại hình nhân vật, tạo dựng khách

thể, bộc lộ trạng thái cảm xúc của nhân vật và của tác giả.

Trên cơ sở đối chiếu giữa hai đối tượng (người phụ nữ và một đối tượng

khác), hình tượng người phụ nữ luôn hiện lên với hai phương diện: ngoại hình

và phẩm chất. Biện pháp tu từ so sánh không đề cập nhiều đến đặc điểm về số

phận của họ. Tỉ như, ngoại hình của người phụ nữ được so sánh với vẻ đẹp của

người trời, với hoa (bjoóc), như ngọc… Tỉ dụ như, trong đoạn miêu tả nhan sắc

của Ngọc Long, tác giả dân gian viết:

Sáng hôm sau thấy nàng ra cửa

Dong dáng như tiên nữ nhà trời

Thế gian đâu có được người như thế

Mặt trắng ngần như thể ngọc khôi

Chỉ trong một chi tiết mà tác giả sử dụng đến hai lần biện pháp tu từ so

sánh. “Dong dáng như tiên nữ nhà trời” - dáng hình của nàng Ngọc Long tựa

như dáng hình của những nàng tiên ở mường trời. Hay “Mặt trắng ngần như thể

ngọc khôi” - khuôn mặt tươi sáng như ngọc. Qua đó, hình dung của độc giả về

vẻ đẹp ngoại hình người phụ nữ rõ ràng hơn, sắc nét hơn, cụ thể hơn rất nhiều.

Khi miêu tả vẻ đẹp phẩm chất của người phụ nữ, tác giả dân gian cũng

sử dụng rất nhiều câu truyện thơ với biện pháp tu từ so sánh. Chẳng hạn, để

khắc họa vẻ đẹp khéo léo, vẻ đẹp lao động của Nàng Kim, tác giả đã đặt

nàng và Chúa Ba vào thử thách may áo. Tài năng của nàng dĩ nhiên sẽ biểu

hiện bằng chi tiết chiếc áo nàng may. Trong truyện, chi tiết này được miêu tả

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

như sau:

Mặc vào áo phẳng vạt bằng tay

Gấu như in vừa ngay đúng đúng

Phẳng lì như nước lặng ban trưa

Tưởng chừng như thước đo tại chỗ

Cũng là một đoạn thơ, một chi tiết truyện nhưng những nghệ sĩ dân gian

đã sử dụng tới hai lần biện pháp tu từ so sánh. Để diễn tả độ vừa vặn của chiếc

áo, tác giả dùng hình ảnh “nước lặng ban trưa”, “thước đo tại chỗ”. Xét về cả

hình thức và nội dung, đây là hai so sánh rất chỉnh. Có vật so sánh (chiếc áo

nàng Kim may), tiêu chí so sánh (phẳng lì, vừa vặn), có từ ngữ so sánh (như)

và có vật được so sánh (nước lặng ban trưa, thước đo tại chỗ). Như vậy, biện

pháp tu từ so sánh đã đem lại một hiệu quả nghệ thuật đặc sắc đối với việc khắc

họa hình tượng người phụ nữ trong truyện thơ Nôm Tày.

TIỂU KẾT

Những dấu hiệu nghệ thuật trong việc xây dựng hình tượng một nhân vật

văn học không dừng lại ở một số đặc điểm như chúng tôi đã phân tích tại

chương 3 của luận văn. Còn rất nhiều yếu tố khác như: nghệ thuật sử dụng điển

cố, giọng điệu nghệ thuật, không gian và thời gian nghệ thuật… Song, chúng

tôi nghiên cứu và chỉ ra những yếu tố có thể coi là tiêu biểu nhất trong việc

khắc họa hình tượng nhân vật người phụ nữ trong truyện thơ Nôm Tày. Những

yếu tố này vừa mang nét chung của lí thuyết lí luận văn học, vừa phụ thuộc và

thỏa mãn nét đặc thù của văn học đồng bào dân tộc Tày.

Trước hết cần kể đến nghệ thuật miêu tả nhân vật bao gồm: nghệ thuật

miêu tả ngoại hình, nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm trạng nhân vật. Tiếp đến

là sự đóng góp của hệ thống ngôn ngữ khắc họa hình tượng nhân vật bao gồm:

ngôn ngữ của nhân vật người phụ nữ và ngôn ngữ của những nhân vật khác.

Cuối cùng, chúng tôi khảo sát, thống kê và nêu tác dụng của biện pháp tu từ so

sánh - một biện pháp nghệ thuật đặc trưng, xuất hiện với tần số lớn trong các

tác phẩm truyện thơ Nôm Tày, phục vụ đắc lực quá trình tô tạc hình tượng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

người phụ nữ trong tiềm thức độc giả.

KẾT LUẬN

1. Nghiên cứu văn học dân tộc thiểu số là một việc làm thiết thực trong

bối cảnh hội nhập. Qua việc khảo sát và phân tích một số đặc điểm của người

phụ nữ trong truyện thơ Nôm Tày, luận văn đã đóng góp ý nghĩa không nhỏ

trong quá trình lưu giữ và phát huy vẻ đẹp nhân văn của nền văn hóa dân tộc.

2. Truyện thơ Nôm Tày là một đối tượng không xa lạ nhưng khá khó để

nghiên cứu. Bởi thế, để phân tách và cắt nghĩa được những tầng sâu ý nghĩa

của truyện thơ Nôm Tày, người nghiên cứu phải có một số hiểu biết nhất định

về thể loại và bản sắc văn hóa đồng bào Tày. Đồng thời, với đối tượng cụ thể

của luận văn là hình tượng người phụ nữ, chúng tôi cho rằng, cần phải có cái

nhìn bao quát về hình tượng trong tiến trình văn học trung đại. Những vấn đề

trên được trình bày trong chương 1 của luận văn, là tiền đề cơ sở để khai thác

những đặc điểm của đối tượng nghiên cưu.

3. Trong chương 2, chúng tôi đã tiến hành khảo sát, phân tích một số đặc

điểm về mặt nội dung. Đó là đặc điểm về hoàn cảnh xuất thân, về ngoại hình,

về phẩm chất và về số phận. Nhìn chung, người phụ nữ trong truyện thơ Nôm

Tày là đại diện cho cái đẹp. Bất kì phương diện nào, đặc điểm nào đều được

khắc họa xoay quanh chuẩn mực của cái đẹp. Hoàn cảnh xuất thân cao quý,

giàu có, ngoại hình tuyệt thế, phẩm chất tốt đẹp, số phận dù đau khổ nhưng

luôn nỗ lực vượt lên để có cuộc sống hạnh phúc.

4. Hình tượng người phụ nữ trong truyện thơ Nôm tày được khắc họa

qua rất nhiều thủ pháp, biện pháp nghệ thuật. Trong luận văn này, chúng tôi chỉ

ra giá trị của một số đặc điểm về mặt hình thức như: nghệ thuật miêu tả ngoại

hình, nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật, hệ thống ngôn ngữ khắc họa hình

tượng nhân vật (ngôn ngữ của nhân vật người phụ nữ và ngôn ngữ của những

nhân vật khác), tác dụng của biện pháp tu từ so sánh. Những giá trị về mặt nghệ

thuật của truyện thơ Nôm Tày trong việc khắc họa hình tượng người phụ nữ đã

góp phần tạo nên sự cuốn hút, hấp dẫn đối với độc giả. Đặc biệt, là niềm tự hào

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

của đồng bào Tày về vốn văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

5. Qua việc nghiên cứu hình tượng người phụ nữ trong truyện thơ Nôm

Tày, chúng tôi mong muốn đóng góp một minh chứng rõ nét cho chủ nghĩa

nhân văn của văn học dân tộc. Đồng thời, chúng tôi mong muốn được tuyên

truyền sâu rộng những tác phẩm truyện thơ Nôm Tày đến với đông đảo độc giả

dưới nhiều hình thức. Trong bối cảnh đổi mới giáo dục, chúng tôi gửi gắm khát

vọng được trích dạy một số tác phẩm tiêu biểu để người học có cái nhìn sâu

rộng hơn về văn học cổ truyền dân tộc thiểu số.

6. Truyện thơ Nôm Tày còn nhiều những khía cạnh chưa được nghiên cứu

sâu sắc, toàn diện. Với luận văn này, người nghiên cứu sau có thể sử dụng để

khai thác, phân tích hình tượng người phụ nữ trong một tác phẩm cụ thể, đặt hình

tượng người phụ nữ vào trong thế đối sánh với văn học các dân tộc khác, đưa đối

tượng người phụ nữ soi chiếu dưới góc độ chủ nghĩa nhân văn, chủ nghĩa cảm

thương, chủ nghĩa hiện thực… Chính vì thế, kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

là tiền đề để xây dựng những công trình khoa học mới mẻ, có ý nghĩa.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lại Nguyên Ân (1999), Từ điển Văn học Việt Nam từ nguồn gốc đến hết thế

kỉ XIX, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

2. Triều Ân (2003), Chữ Nôm Tày và thể loại truyện thơ, Nxb Văn học -

Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Hà Nội.

3. Đỗ Thúy Bình (1994), Hôn nhân và gia đình các dân tộc Tày, Nùng và Thái

ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

4. Nguyễn Thị Chiến (1993), Hình tượng nhân vật người phụ nữ trong truyện

Nôm tài tử giai nhân, Luận án PTS khoa học Ngữ văn, Trường Đại học

Tổng hợp Hà Nội, Hà Nội.

5. Lương Thị Duyên (2006), Truyện thơ Lương Nhân trong đời sống văn hóa

dân gian của người Tày Bắc Kạn, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Sư

phạm Thái Nguyên.

6. Hà Minh Đức (2011), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

7. Kiều Thu Hoạch (2007), Truyện Nôm lịch sử phát triển và thi pháp thể loại,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

8. Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam (Triều Ân - Hoàng Quyết chủ biên)

(2010), Tục cưới gả dân tộc Tày, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

9. Nguyễn Thị Huyền (2018), Truyện thơ Tiễn dặn người yêu dưới góc nhìn

văn hóa, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên.

10. Triệu Thị Thanh Hương (2018), Nghiên cứu truyện thơ Nôm Tày Lưu

Tương, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên.

11. Trần Đình Hượu (1994), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, Nxb

Văn hoá Thông tin, Hà Nội.

12. Đinh Thị Khang (1992), Ngôn ngữ nhân vật trong truyện thơ Nôm, Luận án

PTS khoa học Ngữ văn , Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

13. Đinh Gia Khánh chủ biên (2000), Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

kỷ XVIII, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

14. (2000), Kho tàng truyện Nôm khuyết danh Việt Nam, 2 tập, Nxb Văn học,

Hà Nội.

15. Đinh Trọng Lạc (1995), 99 phương tiện và biện pháp tu từ, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

16. Đặng Thanh Lê (1979), Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm, Nxb Văn học,

Hà Nội.

17. Lã Văn Lô, Hà Văn Thư (1984), Văn hóa Tày Nùng, Nxb Văn hóa, Hà Nội.

18. Nguyễn Lộc (2001), Văn học Việt Nam (nửa cuối thế kỷ XVIII đến hết thế

kỷ XIX), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

19. Phương Lựu (2002), Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học trung

đại Việt Nam, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.

20. Phương Lựu chủ biên (2002), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục. Hà Nội.

21. Trịnh Khắc Mạnh (2008), Thư mục sách Hán Nôm các dân tộc thiểu số ở

Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

22. Nguyễn Đăng Na (2003), Đặc điểm văn học Việt Nam trung đại, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

23. Phan Đăng Nhật (1981), Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb Văn

hóa, Hà Nội.

24. Võ Quang Nhơn (1983), Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam,

Nxb Đại học & Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

25. Nhiều tác giả (1992), Các dân tộc Tày Nùng ở Việt Nam, Viện Dân tộc học, Hà Nội.

26. Nhiều tác giả (1993), Văn hóa dân gian Cao Bằng, Hội Văn nghệ Cao Bằng.

27. Nhiều tác giả (2002), Văn hóa dân gian Tày, Sở Văn hóa Thông tin Thái Nguyên.

28. Nhiều tác giả (2011), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

29. Nhiều tác giả (2003), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà

Nội, Hà Nội.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

30. Lục Văn Pảo (1994), Lượn cọi, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

31. Lê Trường Phát (1997), Đặc điểm thi pháp truyện thơ các dân tộc thiểu

số Việt Nam, Luận án PTS khoa học Ngữ văn, Trường Đại học Sư

phạm Hà Nội.

32. Triệu Thị Phượng (2009), Sự tương đồng và khác biệt về nội dung giữa

truyện thơ Tày và truyện thơ Thái, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Sư

phạm Thái Nguyên.

33. Ngô Thị Thanh Quý (2001), Nghiên cứu thi pháp truyện thơ Tiễn dặn

người yêu (Xống chụ xon xao) dân tộc Thái, Luận văn thạc sĩ, Trường

Đại học Sư phạm Thái Nguyên.

34. Nguyễn Hữu Sơn (1997), Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

35. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

36. Hoàng Ngọc Thanh (2014), Hình tượng người phụ nữ trong ca từ hát văn,

Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Thái Nguyên.

37. Lã Nhâm Thìn (2008), Giảng văn văn học trung đại Việt Nam, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

38. Trần Nho Thìn (2003), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hoá,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

39. Trần Nho Thìn (2012), Văn học trung đại Việt Nam (X - XIX), Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

40. Trần Nho Thìn (2018), Phương pháp tiếp cận văn hóa trong nghiên cứu

giảng dạy văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

41. Bùi Thu Trà (2011), Hình tượng người phụ nữ trong thơ các dân tộc thiểu

số Việt Nam hiện đại (khu vực phía Bắc), Luận văn Thạc sĩ, Đại học Sư

phạm Thái Nguyên.

42. Vũ Anh Tuấn (2004), Truyện thơ Tày - Nguồn gốc, quá trình phát triển và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

thi pháp thể loại, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

43. Phạm Quốc Tuấn (2004), Nghiên cứu so sánh các truyện thơ Nôm Tày cùng

cốt truyện với truyện thơ Nôm Kinh, Luận án Tiến sĩ khoa học Ngữ văn,

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

44. Mông Thị Bạch Vân (2011), Không gian và thời gian nghệ thuật trong

truyện thơ Tày, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên.

45. Lê Trí Viễn (1985), Lịch sử văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

46. Viện nghiên cứu Hán Nôm (2008), Tổng tập truyện thơ Nôm các dân tộc

thiểu số Việt Nam, Tập 2, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

47. Viện nghiên cứu Hán Nôm (2008), Tổng tập truyện thơ Nôm các dân tộc

thiểu số Việt Nam, Tập 3, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

48. Viện nghiên cứu Hán Nôm (2008), Tổng tập truyện thơ Nôm các dân tộc

thiểu số Việt Nam, Tập 4, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

49. Viện nghiên cứu Hán Nôm (2008), Tổng tập truyện thơ Nôm các dân tộc

thiểu số Việt Nam, Tập 5, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

50. Viện nghiên cứu Hán Nôm (2010), Tổng tập truyện thơ Nôm các dân tộc

thiểu số Việt Nam, Tập 6, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

51. Viện nghiên cứu Hán Nôm (2010), Tổng tập truyện thơ Nôm các dân tộc

thiểu số Việt Nam, Tập 7, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

52. Viện nghiên cứu Hán Nôm (2018), Tổng tập truyện thơ Nôm các dân tộc

thiểu số Việt Nam, Tập 19, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

* Tài liệu trên website:

53. Hoàng Phương Mai (2011). Công tác biên dịch và nghiên cứu truyện thơ

Nôm Tày - Đôi nét về thành tựu và triển vọng,

http://www.hannom.org.vn/detail.asp?param=1844&Catid=484, ngày

03/11/2011.

54. Nguyễn Thị Ngơi (2016), Đôi nét Ca dao về tình yêu, hôn nhân và gia đình

dân tộc Tày.

http://vanhien.vn/news/doi-net-ca-dao-ve-tinh-yeu-hon-nhan-va-gia-dinh-

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

dan-toc-tay-46057