ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN THỊ HỒNG HẢO
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ
TRONG MỘT SỐ TRUYỆN THƠ NÔM TÀY
Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,
VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Ngô Thị Thu Trang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
THÁI NGUYÊN - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này được cá nhân tôi thực hiện. Mọi kết
quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và không trùng lặp với các
đề tài khác.
Nội dung của luận văn có sử dụng tài liệu theo danh mục tài liệu tham
khảo của luận văn.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Thái Nguyên, tháng 5 năm 2019 Tác giả luận văn Nguyễn Thị Hồng Hảo
LỜI CẢM ƠN
Luận văn là một phần kết quả nghiên cứu của dự án “Những vấn đề
cấp bách về bảo tồn và phát huy các giá trị văn học cổ truyền dân tộc thiểu
số Việt Nam trong bối cảnh hội nhập và phát triển” (Ủy ban Dân tộc là cơ
quan chủ quan, Viện NCXH và NVNM là cơ quan chủ trì, TS Trần Thị Ngọc
Anh chủ nhiệm), mã số CTDT.30.17/16-20.
Tôi xin chân thành bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến TS. Ngô
Thị Thu Trang - người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi về tri thức, phương
pháp và kinh nghiệm nghiên cứu trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, quý thầy cô giáo khoa Ngữ văn,
Phòng Đào tạo Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã tạo điều
kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu tại trường.
Tôi cũng xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới người thân, đồng
nghiệp, bạn bè đã động viên, quan tâm chia sẻ và tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi
hoàn thành tốt khóa học này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Thái Nguyên, tháng 5 năm 2019 Tác giả luận văn Nguyễn Thị Hồng Hảo
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii
MỤC LỤC .......................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài .......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề .............................................................................................. 2
2.1. Lịch sử nghiên cứu truyện thơ Nôm ..................................................... 2
2.2. Lịch sử nghiên cứu truyện thơ Nôm Tày .............................................. 4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................... 7
3.1. Mục đích nghiên cứu ............................................................................. 7
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................ 7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 8
4.1. Đối tượng nghiên cứu ........................................................................... 8
4.2. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................... 8
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 8
6. Đóng góp mới của luận văn ......................................................................... 9
7. Cấu trúc của luận văn ................................................................................... 9
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CÓ
LIÊN QUAN .................................................................................................... 10
1.1. Các khái niệm ......................................................................................... 10
1.1.1. Truyện thơ Nôm Tày ....................................................................... 10
1.1.2. Hình tượng văn học .......................................................................... 12
1.2. Khái quát về truyện thơ Nôm Tày .......................................................... 13
1.3. Vài nét về văn hóa dân tộc Tày............................................................... 15
1.4. Đôi nét về hình tượng người phụ nữ trong văn học trung đại Việt Nam ..... 19
CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
MỘT SỐ TRUYỆN THƠ NÔM TÀY ........................................................... 27
2.1. Người phụ nữ đẹp và có xuất thân quyền quý, huyền ảo ....................... 27
2.1.1. Người phụ nữ xuất thân quyền quý và huyền ảo ............................. 27
2.1.2. Người phụ nữ có ngoại hình xinh đẹp ............................................. 32
2.2. Người phụ nữ có khát vọng yêu đương mãnh liệt và luôn chủ động
trong tình yêu, hôn nhân ................................................................................ 37
2.3. Người phụ nữ nhân hậu, đảm đang, nghĩa tình, chung thủy, giàu đức
hy sinh ............................................................................................................ 41
2.4. Người phụ nữ trí tuệ, giàu bản lĩnh luôn nỗ lực vượt lên trên nghịch
cảnh để vươn tới hạnh phúc ........................................................................... 60
CHƯƠNG 3: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG HÌNH TƯỢNG NGƯỜI
PHỤ NỮ TRONG MỘT SỐ TRUYỆN THƠ NÔM TÀY ........................... 70
3.1. Nghệ thuật miêu tả nhân vật ................................................................... 70
3.1.1. Miêu tả ngoại hình nhân vật ............................................................. 70
3.1.2. Miêu tả nội tâm nhân vật .................................................................. 73
3.2. Ngôn ngữ nhân vật .................................................................................. 76
3.2.1. Ngôn ngữ của người phụ nữ ............................................................ 77
3.2.2. Ngôn ngữ của những nhân vật khác ................................................. 79
3.3. Biện pháp nghệ thuật so sánh ................................................................. 80
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 86
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 88
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hình thành và phát triển song
hành với các loại hình văn học khác. Bằng góc nhìn của mình, các tác giả người
dân tộc thiểu số đã tái hiện một cách chân thực và độc đáo những giá trị đời
sống của đồng bào dân tộc, thể hiện cách nhìn nhận, đánh giá và mơ ước của họ
trong từng thời kì. Đó chính là một trong những kho vàng lịch sử kí thác bằng
ngôn ngữ nghệ thuật được gìn giữ và lưu truyền. Tác giả Vũ Anh Tuấn đã có
nhận xét: “Văn học của các thành phần dân tộc ít người ở Việt Nam nói chung
cũng như văn học truyền thống của đồng bào Tày là một di sản có vị trí quan
trọng vào bậc nhất trong lĩnh vực truyền thống văn hóa tinh thần tộc người,
hợp thành toàn bộ nền văn hóa tinh thần dân tộc thống nhất trong đa dạng”
[42, 239]. Văn học các dân tộc thiểu số nói chung, văn học dân tộc Tày nói
riêng đã góp phần làm phong phú và đa dạng hơn các giá trị của nền văn học
dân tộc.
Trong kho tàng văn học dân tộc thiểu số Việt Nam, truyện thơ Nôm Tày
là thể loại tiêu biểu và có nhiều thành tựu. Truyện thơ Nôm Tày là truyện thơ
Nôm được sáng tác và đón nhận bởi đồng bào dân tộc Tày. Thể loại này không
chỉ là những tác phẩm truyền miệng mang đậm sắc thái dân tộc mà còn được
lưu truyền bởi hệ thống chữ viết riêng. Chữ Nôm Tày và truyện thơ Nôm Tày
là sản phẩm của sự giao lưu văn hóa giữa người Tày với người Kinh. Dù một
số tác phẩm vay mượn cốt truyện của văn học người Kinh như Tống Trân –
Cúc Hoa, Phạm Tử - Ngọc Hoa… nhưng các tác giả cũng thổi vào tác phẩm
một luồng gió mới lạ. Truyện thơ Nôm bởi thế cũng là một trong những thể loại
mang tính chất trụ cột của văn học trung đại dân tộc Tày.
Hình tượng người phụ nữ trong văn học là đối tượng nghiên cứu của rất
nhiều công trình bởi giá trị hiện thực và nhân văn mà nó đem lại. Đây là hình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tượng trung tâm trong mọi thời đại văn học. Những tác phẩm kiệt xuất, những
giá trị thẩm mĩ cao đẹp dường như đều dành để trân trọng đối tượng này. Bởi
thế, có thể nói rằng, người phụ nữ chính là hình tượng đẹp đẽ, tiêu biểu cho nền
văn học dân tộc. Do đó, nghiên cứu về hình tượng người phụ nữ là một trong
những việc làm nhằm phát hiện, lưu giữ lại những những giá trị nhân bản nhất
của nền văn học dân tộc.
Xuất phát từ những lí do trên cùng với việc tìm hiểu các công trình
nghiên cứu đã có, chúng tôi lựa chọn vấn đề “Hình tượng người phụ nữ trong
một số truyện thơ Nôm Tày” làm đối tượng nghiên cứu của luận văn.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu truyện thơ Nôm
Truyện thơ Nôm là thể loại nòng cốt của một giai đoạn trong văn học
Việt Nam. Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về truyện thơ Nôm.
Nhiều nhà nghiên cứu tập trung làm rõ những vấn đề chung về truyện thơ Nôm
như: xác định thể loại, phân loại, chỉ ra nguồn gốc và quá trình phát triển,
phương thức sáng tác... Có thể kể đến những công trình như Văn học Việt Nam
(nửa cuối thế kỉ XVIII đến hết thế kỉ XIX) của Nguyễn Lộc [18], Truyện Kiều và
thể loại truyện Nôm của Đặng Thanh Lê [16], Truyện Nôm lịch sử phát triển và
thi pháp thể loại của Kiều Thu Hoạch [7], Mấy vấn đề thi pháp văn học trung
đại Việt Nam của Trần Đình Sử [35], Giảng văn văn học trung đại Việt Nam
của Lã Nhâm Thìn [37]... Tác giả Nguyễn Lộc khẳng định: “Truyện Nôm là
một thể loại khá độc đáo của văn học dân tộc” [18, 475] và đi sâu lí giải nguồn
gốc truyện Nôm, phân biệt truyện Nôm bình dân và truyện Nôm bác học, làm
rõ nội dung xã hội, đặc điểm nghệ thuật của truyện Nôm bình dân...
Nhà nghiên cứu Kiều Thu Hoạch đề cao việc nghiên cứu truyện Nôm trên
phương diện phôn - klo: “Theo chúng tôi, truyện Nôm là một thể loại sinh thành
và phát triển từ cội nguồn văn hóa dân gian thì việc tiếp cận nó từ góc độ fôn -
klo học phải được xem là một phương pháp luận khoa học đúng đắn nhất trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
quá trình tìm hiểu và nhận diện nó” và nhấn mạnh: “... việc tìm hiểu truyện Nôm
không thể chỉ dừng ở các văn bản tĩnh tại, mà còn cần thiết phải được nhìn nhận
trong môi trường vận động của các sinh hoạt fôn - klo muôn màu muôn vẻ”
[42, 378]. Nhà nghiên cứu Đặng Thanh Lê cũng đã đề cập đến việc có nhiều ý
kiến xung quanh thuật ngữ truyện Nôm: “Xung quanh một thuật ngữ định danh
cho thể loại này cũng đã nảy sinh nhiều ý kiến. Nói chung, ý kiến phổ biến, thống
nhất vẫn gọi loại tiểu thuyết văn vần này là Truyện Nôm. Cũng có ý kiến gọi là
Truyện thơ và có trường hợp nêu lên “các tiểu thuyết dài có chương hồi(?)” viết
bằng thể lục bát như Truyện Hoa Tiên, Truyện Kiều, Truyện Nhị độ mai,
Truyện Lục vân Tiên... nên gọi là Truyện diễn ca...” [16, 54 - 55].
Những giá trị của truyện thơ Nôm cũng được giới nghiên cứu đặc biệt
quan tâm để làm sáng tỏ những khía cạnh xoay quanh nội dung và nghệ thuật
các tác phẩm thuộc thể loại này. Các tác phẩm được phân tích, bình luận, đánh
giá một cách kĩ lưỡng về các phương diện nhân vật, ngôn ngữ, thời gian, không
gian, thời điểm sáng tác ... Đặc biệt Truyện Kiều của Nguyễn Du đã trở thành
đối tượng được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn cả. Cho đến nay, các tác phẩm
truyện thơ Nôm vẫn đang tiếp tục được soi chiếu dưới góc độ của những lí
thuyết nghiên cứu hiện đại, góp phần cung cấp thêm những góc nhìn mới về
các tác phẩm. Và việc nghiên cứu các khía cạnh nội dung, nghệ thuật của từng
tác phẩm cụ thể vẫn là công việc cần thiết. Về nhân vật người phụ nữ trong
truyện Nôm, Nguyễn Lộc đưa ra nhận xét: “Một điều đáng chú ý nữa là truyện
Nôm bình dân rất đề cao vai trò của người phụ nữ. Nếu so sánh người phụ nữ
trong truyện Nôm bình dân với người phụ nữ trong tác phẩm văn học bác học,
có thể thấy rất rõ người phụ nữ trong văn học bác học ít tính chủ động hơn
nhiều... Nhân vật phụ nữ trong truyện Nôm bình dân khác hẳn. Dù là nàng Cúc
Hoa hay nàng Ngọc Hoa, nàng công chúa trong truyện Lý Công, nàng công
chúa trong truyện Hoàng Trừu, hay nàng Phương Hoa trong một truyện cùng
tên, tất cả đều chủ động. Chủ động trong tình yêu, và chủ động trong việc đấu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tranh để bảo vệ hạnh phúc gia đình. Đối với các nhân vật phụ nữ trong truyện
Nôm bình dân, hoàn cảnh dù éo le ngang trái đến đâu cũng không mảy may
ảnh hưởng đến tinh thần và ý chí đấu tranh của họ. Tư tưởng định mệnh, buông
xuôi hầu như không có trong bất cứ một tác phẩm nào” [18, 486 - 487]. Như
vậy có thể thấy, Truyện Nôm là thể loại văn học đã nhận được sự quan tâm của
nhiều nhà nghiên cứu. Người phụ nữ cũng là một hình tượng văn học nổi bật
trong các truyện Nôm bình dân và đã được phân tích, đánh giá ở những góc độ
nhất định.
2.2. Lịch sử nghiên cứu truyện thơ Nôm Tày
Với sự phong phú về số lượng và sự hấp dẫn về mặt nội dung cũng như nghệ
thuật, trong những năm qua truyện thơ Nôm Tày luôn nhận được sự quan tâm
tìm hiểu, nghiên cứu của nhiều học giả. Các tác giả Lã Văn Lô, Hà Văn Thư
trong cuốn Văn hóa Tày Nùng [17] đã dành tâm huyết của mình để giới thiệu
về Truyện thơ Nôm khuyết danh. Năm 1997, Lê Trường Phát bảo vệ thành công
Luận án PTS. Khoa học Ngữ văn với đề tài “Đặc điểm thi pháp truyện thơ các
dân tộc thiểu số Việt Nam”[31]. Trong công trình này tác giả cũng tập trung
nghiên cứu truyện thơ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam về mặt kết cấu cốt
truyện, nhân vật, một số phương diện ngôn ngữ ... Trong Văn học các dân tộc
thiểu số Việt Nam [23], Phan Đăng Nhật chia truyện thơ các dân tộc ít người
thành ba loại đề tài: truyện thơ về tình yêu, về sự nghèo khổ và về chính nghĩa.
Tác giả đưa ra nhận định về nguồn gốc của truyện thơ (bắt nguồn từ dân ca và
truyện kể), giá trị và sức hấp dẫn của truyện thơ (có khả năng diễn tả mọi tình
cảm tinh vi, phức tạp, phương pháp kể truyện lý thú...), vai trò của truyện thơ
(đánh dấu một bước phát triển cao của văn học cổ truyền các dân tộc thiểu số).
Từ những nghiên cứu của mình tác giả đưa ra nhận xét mang tính khái quát:
“Truyện thơ đã tập hợp tinh hoa các loại, thể văn học, đồng thời cũng ảnh
hưởng sâu sắc đến các loại, thể phát triển sau nó. Gần đây, một số bài thơ thể
kể chuyện, các truyện thơ hiện đại, các thể truyện ký bằng văn xuôi của các tác
giả dân tộc ít hoặc nhiều đều đã tiếp thu và phát huy những tinh hoa trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
truyện thơ của dân tộc mình”[23, 209].
Võ Quang Nhơn trong Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam
[24] đã căn cứ vào phương thức diễn xướng, lưu truyền và nguồn gốc kế thừa
của truyện thơ các dân tộc để chia loại hình truyện thơ thành 4 nhóm sau: nhóm
truyện thơ gắn với sinh hoạt nghi lễ dân gian; nhóm truyện thơ kế thừa truyền
thống tự sự của truyện cổ dân gian các dân tộc; nhóm truyện thơ kế thừa truyền
thống trữ tình của thơ ca dân gian các dân tộc; nhóm truyện thơ thiên về thuyết
giáo đạo đức của truyện thơ Nôm Kinh. Nhà nghiên cứu Võ Quang Nhơn cũng
đưa ra nhận định: “Truyện thơ một mặt kế thừa và phát triển truyền thống tự sự
và trữ tình của truyện cổ và thơ ca dân gian, một mặt tiếp thu ảnh hưởng của
nền văn hóa bác học và đặc biệt là của văn học bác học Việt. Từ những sự kế
thừa và chịu ảnh hưởng về nhiều mặt đó, các nghệ nhân dân gian và các trí
thức dân tộc đã sáng tạo nên một thể loại văn học dân gian mới, với nội dung
bề thế hơn về dung lượng, với nghệ thuật được trau chuốt và hoàn thiện hơn. Ở
một số dân tộc ít người, thể loại truyện thơ đánh dấu bước phát triển mới của
văn học dân gian. Nó phản ảnh quá trình vận động, biến chuyển của văn học
dân gian các dân tộc ít người, tiến tới tiếp cận và đi dần vào quỹ đạo của nền
văn học thành văn của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam” [24; 450].
Nhà nghiên cứu Vũ Anh Tuấn đã có một công trình nghiên cứu quy mô
và giàu giá trị cả về mặt lí luận và thực tiễn, đó là công trình Truyện thơ Tày
Nguồn gốc - quá trình phát triển và thi pháp thể loại [42]. Công trình nghiên
cứu một cách hệ thống về nguồn gốc thể loại truyện thơ Tày, trên cơ sở đó tác
giả xác lập quá trình phát triển và phân tích thi pháp của thể loại truyện thơ
Tày. Công trình này được giới nghiên cứu đánh giá cao bởi những đóng góp
lớn lao của tác giả đối với nền văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam.
Ngoài những công trình nghiên cứu mang tính chuyên sâu còn có các bài
viết trên tạp chí cũng đi vào khai thác các khía cạnh cụ thể của truyện thơ Nôm
Tày. Có thể kể đến các bài viết như: “Đọc sách Nôm Tày Tần Chu” của tác giả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Hiền Lương (Tạp chí Hán Nôm số 1/1989); “Về tác phẩm truyện thơ Tày -
Nùng Lưu Đài - Hán Xuân” của Nguyễn Minh Tuân (Tạp chí Hán Nôm số
3/2004); “Tìm hiểu đôi nét về truyện thơ Nôm Tày - Nùng Toọng Tương” của tác
giả Trần Thị Thu Hường (Tạp chí Hán Nôm số 3/2004); “Tìm hiểu yếu tố đạo
giáo trong một số truyện thơ Nôm Tày – Nùng” của Nguyễn Minh Tuân (Tạp
chí Hán Nôm số 1/2009)...
Trong khoảng thời gian khá dài nhiều nhà nghiên cứu, nhiều trí thức
người dân tộc Tày đã dày công sưu tầm, biên dịch và lần lượt giới thiệu các tác
phẩm truyện thơ Nôm Tày. Có thể kể đến những công trình như: Hợp tuyển thơ
văn Việt Nam, Tập 6 do nhóm Nông Quốc Chấn, Hoàng Thao, Hà Văn Thơ biên
soạn, Nxb Văn học xuất bản năm 1981; Tuyển tập văn học các dân tộc ít người ở
Việt Nam do Đặng Nghiêm Vạn làm chủ biên, Nxb Khoa học xã hội năm 1992;
Hợp tuyển văn học dân gian các dân tộc, Tập 1 do Đặng Văn Lung, Trần Thị
An biên soạn, Nxb Văn hóa dân tộc năm 1995; Tổng tập văn học Việt Nam,
Nxb Khoa học xã hội năm 2000; Chữ Nôm Tày và truyện thơ do Triều Ân chủ
biên, Trung tâm nghiên cứu Quốc học xuất bản năm 2003; Ba áng thơ Nôm Tày
và thể loại do Triều Ân dịch, Trung tâm nghiên cứu Quốc học xuất bản năm 2004;
Tử thư - Văn Thậy do Hà Thị Bình dịch và giới thiệu, Nxb Khoa học xã hội
năm 2005; Tổng tập văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam, Tập 22
do Nxb Khoa học xã hội xuất bản năm 2008... Công việc sưu tầm, biên dịch
và giới thiệu những tác phẩm truyện thơ Nôm Tày vẫn đang được các thế hệ
nối tiếp nhau thực hiện và ngày càng thu được nhiều thành quả đáng kể, giúp
người đọc có cơ hội tiếp cận kho tàng quý giá này của đồng bào Tày một cách
dễ dàng và đầy đủ hơn. Từ đó cũng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho công tác
nghiên cứu bộ phận văn học đặc sắc và giàu giá trị này.
Cho đến nay truyện thơ Nôm Tày vẫn đang được các nhà nghiên cứu quan
tâm. Vấn đề sưu tầm các truyện thơ Nôm Tày và chuyển dịch sang tiếng Việt
vẫn đang được coi trọng. Bộ Tổng tập truyện thơ Nôm các dân tộc thiểu số Việt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Nam (19 tập) do Viện nghiên cứu Hán Nôm sưu tầm, biên dịch được xuất bản
trong thời gian gần đây đã góp phần giúp người đọc tiếp cận nhiều hơn với kho
tàng truyện thơ Nôm Tày.... Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu mới chỉ chủ
yếu tập trung giới thiệu những vấn đề đặc trưng của thể loại chứ chưa có công
trình nào đi sâu nghiên cứu hình tượng người phụ nữ trong truyện thơ Nôm Tày.
Đến nay, chưa có công trình nào đặt hình tượng này làm đối tượng nghiên cứu
một cách hệ thống và toàn diện. Chính vì vậy, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu về
hình tượng người phụ nữ trong một số truyện thơ Nôm Tày nhằm làm sáng tỏ
một nội dung quan trọng và hấp dẫn của bộ phận văn học này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu nhằm chỉ ra những đặc điểm nổi bật về mặt nội dung phản
ánh và nghệ thuật thể hiện hình tượng người phụ nữ trong một số tác phẩm
truyện thơ Nôm Tày. Từ đó góp phần khẳng định vẻ đẹp và giá trị của hình
tượng nghệ thuật này.
- Khẳng định ý nghĩa của truyện thơ Nôm Tày trong việc bảo tồn và
phát huy những giá trị văn hóa dân tộc thiểu số, cụ thể là dân tộc Tày.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn cần phải thực hiện những
nhiệm vụ sau:
- Làm rõ những vấn đề lí luận và thực tiễn có liên quan như: các khái
niệm (truyện thơ Nôm, truyện thơ Nôm Tày, hình tượng văn học), khái quát
một số nét về văn hóa Tày, hình tượng người phụ nữ trong văn học trung đại...
- Thống kê, khảo sát, phân tích đặc điểm của các nhân vật nữ trong các
tác phẩm, từ đó khái quát hình tượng người phụ nữ trong truyện thơ Nôm Tày.
- Phân tích các biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong các tác phẩm nhằm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
làm nổi bật vẻ đẹp và phẩm chất của người phụ nữ trong truyện thơ Nôm Tày.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hình tượng người phụ nữ trong
truyện thơ Nôm Tày.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu chính của luận văn là văn bản các tác phẩm truyện
thơ Nôm Tày trong bộ Tổng tập truyện thơ Nôm các dân tộc thiểu số Việt Nam
gồm 19 tập do Viện Khoa học xã hội Việt Nam – Viện nghiên cứu Hán Nôm
sưu tầm, biên dịch, Nxb Khoa học xã hội xuất bản từ năm 2008 đến năm 2018.
Trong phạm vi có hạn của luận văn chúng tôi chỉ nghiên cứu hình tượng
người phụ nữ trong một số truyện thơ Nôm Tày như: Phạm Tải – Ngọc Hoa,
Tống Trân - Cúc Hoa, Lưu Đài - Hán Xuân, Tạng Ba, Nàng Kim, Ngọc Long,
Ngọc Sinh, Lưu Tương, Nho Hương, Tống Kim, Trần Bằng, Lý Kế Khanh. Đây
là những tác phẩm mà trong đó hình tượng người phụ nữ được thể hiện một
cách tập trung và rõ nét nhất.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này chúng tôi chủ yếu sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp tiếp cận liên ngành: Việc nghiên cứu hình tượng người
phụ nữ trong truyện thơ Nôm Tày không chỉ thuộc lĩnh vực văn học mà còn
liên quan đến những lĩnh vực khác như văn hóa học, dân tộc học, xã hội học...
Vì thế trong quá trình tiếp cận các văn bản chúng tôi cần có phương pháp
nghiên cứu liên ngành để đáp ứng được yêu cầu.
- Phương pháp khảo sát, thống kê: Chúng tôi sử dụng phương pháp này
khi tiếp cận từng đặc điểm cụ thể của đối tượng để có cái nhìn chi tiết, chính
xác nhất trong quá trình trình bày kết quả nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Đây là phương pháp đi vào tiếp cận
các tác phẩm truyện thơ Nôm ở cả hai phương diện nội dung và hình thức thể
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
hiện. Từ đó, đưa ra những đặc điểm cụ thể của đối tượng nghiên cứu.
- Phương pháp so sánh: Phương pháp này được thực hiện khi so sánh
hình tượng người phụ nữ trong các truyện thơ Nôm Tày với nhau và với người
phụ nữ trong truyện thơ Nôm Kinh.
6. Đóng góp mới của luận văn
Nghiên cứu Hình tượng người phụ nữ trong một số truyện thơ Nôm
Tày, chúng tôi hy vọng sẽ đem lại một cái nhìn tương đối hệ thống và toàn diện
về hình tượng người phụ nữ trong cái nhìn, cách phản ánh của tác giả đồng bào
dân tộc Tày. Đồng thời, khẳng định những nét đặc sắc của hình tượng người
phụ nữ trong văn học dân tộc thiểu số nói chung và trong truyện thơ Nôm Tày
nói riêng. Từ đó, góp phần bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa của một
bộ phận quan trọng trong nền văn học dân tộc.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần Nội dung
của luận văn được triển khai qua 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lí luận và thực tiễn có liên quan
Chương 2: Đặc điểm hình tượng người phụ nữ trong một số truyện thơ
Nôm Tày
Chương 3: Nghệ thuật xây dựng hình tượng người phụ nữ trong một số
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
truyện thơ Nôm Tày
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CÓ LIÊN QUAN
1.1. Các khái niệm
1.1.1. Truyện thơ Nôm Tày
Trong công trình của mình các nhà nghiên cứu đã dùng một số tên gọi
như: truyện Nôm, truyện thơ Nôm, truyện thơ... và cũng đã đưa ra những quan
niệm khác nhau.
Theo Từ điển Văn học Việt Nam từ nguồn gốc đến hết thế kỉ XIX (Lại
Nguyên Ân, NXB Giáo dục, 1999), truyện thơ Nôm là “một thể loại sáng tác
tiếng Việt (chữ Nôm) thời trung đại, phát triển mạnh từ nửa sau thế kỉ XVIII và
suốt thế kỉ XIX. Số lượng tác phẩm nay còn tìm được khoảng trên 100 truyện,
tạo thành một bộ phận khá lớn của sáng tác tự sự (cả chữ Hán và chữ Nôm) ở
thời trung đại Việt Nam” [1, 664].
Khi xác định những đặc điểm của thể loại, nhà nghiên cứu Đặng Thanh
Lê cho rằng: “Truyện Nôm nằm trong hệ thống tác phẩm phản ánh cuộc sống
bằng phương thức tự sự... - có nghĩa là phản ánh cuộc sống xã hội thông qua
sự trình bày, miêu tả có tính chất hoàn chỉnh vận mệnh một nhân vật và trên cơ
sở ấy, sự phát triển có tính chất hoàn chỉnh của một tính cách nhân vật... sử
dụng ngôn ngữ văn tự dân tộc: chữ Nôm” [16, 55 - 56].
Trong cuốn Truyện thơ Tày - Nguồn gốc, quá trình phát triển và thi pháp
thể loại của tác giả Vũ Anh Tuấn có in bài viết “Truyện thơ” của nhà nghiên
cứu Phan Đăng Nhật. Trong bài viết này Phan Đăng Nhật đưa ra quan niệm của
mình về truyện thơ của dân tộc thiểu số (tương đương khái niệm truyện Nôm
của người Kinh): “Văn học dân gian và các dân tộc nước ta (dân tộc đa số
cũng như thiểu số) có nhu cầu sáng tạo và lưu truyền một loại hình thơ ca kể
truyện dài hơi... Ở văn học Kinh, người ta gọi đó là truyện Nôm... Thực chất
những tác phẩm được gọi là truyện Nôm (hoặc truyện Nôm bình dân) là những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tác phẩm có tính chất tự sự diễn đạt bằng tiếng Việt, viết bằng chữ Nôm và đặc
biệt là hình thức thơ ca dài hơi. Do nhấn mạnh hình thức thơ ca nên có người
đề nghị gọi là truyện thơ Nôm. ... Nếu ở người Kinh có truyện thơ Nôm thì ở
các dân tộc thiểu số (DTTS) có một loại hình tương đương: truyện thơ. Đó là
những tác phẩm tự sự dưới hình thức thơ ca. Ở các DTTS không cần phải phân
biệt với tính bác học và hình thái ghi chép bằng chữ Hán. Các dân tộc thiểu số
nước ta có một kho tàng truyện thơ phong phú...” [42; 399].
Nhà nghiên cứu Vũ Anh Tuấn thì cho rằng truyện thơ là “một loại văn
học dân gian đã thành văn và mới chỉ đặc biệt phát triển trong vài ba thế kỉ trở
lại đây” [42, 12]. Bên cạnh đó có thể kể đến những quan niệm về truyện thơ
như: “Truyện thơ là thể loại phát triển cuối cùng và cũng là đỉnh cao của dân
ca Tày... Truyện thơ là thể thơ đã có sự chặt chẽ về vần điệu, và với nghệ thuật
của thể này, đó là một thể thơ độc đáo của dân tộc Tày. Về cách gieo vần chữ
thứ bảy câu trên vần với chữ thứ năm câu dưới và cứ tiếp tục như thế với số
chữ ổn định là bảy chữ, thích hợp với giọng kể chuyện, dễ nhớ cho người nghe,
dễ đọc cho người kể” [42, 16].
Nhà nghiên cứu Phan Đăng Nhật thì cho rằng truyện thơ là một lời hát
dài và “Truyện Nôm miền xuôi cũng như truyện thơ miền núi, đều là bước nối
giữa văn học dân gian và văn học thành văn, đều mang tính chất của cả hai
loại hình nói trên” [42, 20].
Nhà nghiên cứu Võ Quang Nhơn cũng coi truyện thơ là “một dấu nối
giữa văn học truyền miệng và văn học thành văn” và khẳng định truyện thơ ở
nhóm truyện thiên về khuynh hướng thuyết giáo đạo đức “đã thể hiện khá rõ
tính chất thành văn, tiếp cận với đặc điểm thi pháp của văn học bác học và
đánh dấu một bước phát triển mới của văn học dân gian” [42, 20].
Như vậy, có thể khái quát như sau:
Truyện thơ Nôm Tày là một trong số những thể loại của văn học dân tộc
Tày, là dạng sáng tác thành văn của dân tộc Tày, là những tác phẩm có tính
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
chất tự sự diễn đạt bằng thơ tiếng Tày, viết bằng chữ Nôm Tày. Các truyện thơ
Nôm Tày không rõ tác giả, phổ biến qua con đường truyền miệng, chủ yếu
được các trí thức bản tộc lưu giữ lại bằng cách chép tay. Nội dung của các
truyện thơ Nôm Tày phản ánh hiện thực cuộc sống, tâm tư tình cảm, ước mơ
khát vọng của người dân Tày. Các văn bản truyện thơ Nôm Tày thường dùng
thể thơ bảy chữ, vần lưng (chữ thứ bảy cuối câu trước vần với chữ thứ năm của
câu sau).
1.1.2. Hình tượng văn học
Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân đưa ra định nghĩa: “Hình tượng văn học
là hình tượng nghệ thuật thể hiện bằng chất liệu ngôn từ nghệ thuật, hay còn
gọi là nghệ thuật ngôn từ” [1; 149]. Chất liệu xây dựng nên những hình tượng
này không phải là thực thể vật thể mà là một hệ thống kí hiệu, ngôn ngữ.
Trong các công trình thuộc lĩnh vực Lí luận văn học như Lí luận văn học
(Hà Minh Đức chủ biên, Nxb Giáo dục, 2011), Lí luận văn học (Phương Lựu
chủ biên, Nxb Giáo dục, 2002), các nhà nghiên cứu cũng đã lí giải về hình
tượng văn học. Hình tượng văn học trước hết là hình tượng nghệ thuật. Nó
chính là một chiếc cầu, một dấu gạch nối giữa tác giả - tác phẩm và người đọc.
Người nghệ sĩ tạo ra tác phẩm văn học để thể hiện những nhận thức về đời
sống, bộc lộ những suy nghĩ, đánh giá của mình về cuộc đời và cắt nghĩa các
mối quan hệ xoay quanh chủ thể con người. Với bản chất là nghệ thuật ngôn từ,
văn học không diễn đạt trực tiếp những ý nghĩ, tình cảm bằng định lí, công
thức, bằng các khái niệm khô khan, trừu tượng mà đem đến cho độc giả thế
giới quan sâu sắc qua hệ thống hình tượng nhân vật cụ thể. Hình tượng ấy có
thể có thật, có thể được tạo dựng nên từ một nguyên mẫu nhưng cũng có thể là
một hình tượng hư cấu. Song, hình tượng văn học luôn là tổng hòa của các mối
quan hệ xã hội – mang bản chất của con người mà qua đó, họ sẽ bộc lộ được
những phẩm chất, tính cách, đặc điểm dựa trên nhu cầu và ý đồ phản ánh của
người sáng tác. Như vậy, hình tượng nghệ thuật là khách thể đời sống được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nghệ sĩ tái hiện một cách sáng tạo trong những tác phẩm nghệ thuật. Hình
tượng nghệ thuật dù là phương tiện để tái hiện cuộc sống nhưng không phải tô
vẽ y nguyên như hội họa, ghi chép trung thực như lịch sử mà là kết quả của sự
sáng tạo thông qua trí tưởng tượng và tài năng của người nghệ sĩ văn học. Qua
những hình tượng đó, cụm từ “đồng sáng tạo” được phát huy tác dụng khi độc
giả chính là đối tượng tiếp nhận và làm nên sức sống của tác phẩm văn học nói
chung và hình tượng văn học nói riêng. Khai thác, phản ánh hình tượng tốt, tác
phẩm sẽ khiến cho độc giả phải day dứt, trăn trở vì cuộc đời, số phận và những
vấn đề xã hội đặt ra qua hình tượng văn học.
Tác phẩm văn học là công trình nghệ thuật bằng ngôn từ, tái hiện lại
bức tranh hiện thực đời sống, thể hiện tư tưởng, quan niệm của nhà văn, nhà
thơ qua việc xây dựng những hình tượng nghệ thuật cụ thể. Hình tượng văn học
chính là hạt nhân quan trọng để hình thành nên các tác phẩm văn học. Hình
tượng văn học là bức tranh đời sống vừa mang tính cụ thể, vừa mang tính trừu
tượng. Đặc biệt, hình tượng này luôn mang giá trị thẩm mĩ và giá trị tư tưởng
mà người sáng tác ghép lồng. Hình tượng văn học đã đem đến cho các tác giả
một phương tiện nghệ thuật để phản ánh.
1.2. Khái quát về truyện thơ Nôm Tày
Giai đoạn thế kỉ XVII - XIX là thời kì lên ngôi của truyện thơ Nôm Tày.
Đây là một thể loại phổ biến và tiêu biểu, góp phần tạo nên diện mạo truyện thơ
của nền văn học nước nhà. Truyện thơ Nôm Tày gắn bó mật thiết với đời sống
tinh thần của người Tày và là niềm tự hào của họ.
Truyện thơ Nôm Tày được ra đời và lưu truyền cho đến ngày nay cần
phải kể đến sự xuất hiện của chữ Nôm Tày. Tuy nhiên, đây là một vấn đề đang
được giới nghiên cứu quan tâm song thực không dễ dàng giải đáp. Hoàng Triều
Ân trong Chữ Nôm Tày và thể loại truyện thơ có viết: “Nguồn gốc chữ Nôm
Tày là do nhà túc nho Cao Bằng tên là Lê Thế Khanh chế tác đầu tiên; những
nhà trí thức dân tộc đời sau tiếp tục bổ sung hoàn chỉnh dần. Chữ Nôm Tày đã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
xuất hiện từ thế kỉ thứ V” [2;15]. Trong cuốn Truyện Nôm Tày - nguồn gốc,
quá trình phát triển và thi pháp thể loại, tác giả Vũ Anh Tuấn kết luận: “Chữ
Nôm Tày đến thế kỉ XVII đã trở nên hoàn hảo” [42;45]. Trong cuốn Lượn cọi
tác giả Lục Văn Pảo có viết: “Như vậy, chữ Nôm Tày có từ cuối thời Lê là chắc
chắn. Có điều là đẩy lên nữa đến thế kỉ nào thì còn phải tìm thêm căn cứ” [30; 13].
Với một vài giả thuyết và kết quả nghiên cứu, chúng ta có thể thấy, chữ Nôm
Tày xuất hiện từ rất sớm và dần hoàn thiện vào khoảng thế kỉ XVI - XVII. Đây
là một cơ sở để thể loại truyện thơ Nôm Tày đạt được những thành tựu rực rỡ
trên văn đàn văn học.
Triều Ân cùng một số nhà nghiên cứu khác trong cuốn sách Chữ Nôm
Tày và thể loại truyện thơ đã tìm cách truy nguyên nguồn gốc thể loại này:
“Suy nghĩ tìm tòi truyện thơ Tày xuất hiện từ bao giờ, ta thấy có nét chung là xuất
hiện từ sau khi có văn tự Nôm Tày (là thế kỉ thứ V); đi vào cụ thể từng pho
truyện ta sẽ thấy sự xuất hiện khác nhau về thời điểm ta cần đọc xem xét nội
dung truyện cũng như bối cảnh lịch sử, tương quan lịch sử của truyện đó”
[2;32 - 33]. Các nhà nghiên cứu cũng đã tổng kết: “Truyện thơ Nôm Tày bắt
nguồn từ xã hội người Tày là chủ yếu (trừ truyện Sơn Bá - Chúc Anh Đài gốc
Trung Quốc hoặc có một vài truyện mượn tích hoặc truyện của người Việt để
Tày hoá như Tống Trân - Cúc Hoa, Phạm Tải - Ngọc Hoa...). Trong truyện thơ
Nôm Tày, dù có mượn tên nhân vật (như vua nước ngoài) mượn tên đất nước
dưới miền xuôi hoặc dưới âm phủ, ta hãy quên những tên rất thật ấy đi để thấy
giá trị hiện thực, nhân đạo... của truyện. Tên nhà vua, tên đất, lúc này chỉ còn
có giá trị ước lệ, vay mượn “cho có chuyện” mà thôi” [2; 35-36].
Về nội dung của các truyện thơ Nôm Tày, Lại Nguyên Ân khái quát
như sau: “Truyện Nôm Tày phản ánh nhiều vấn đề xã hội trong cộng đồng dân
tộc, nhất là các xung đột giàu - nghèo, dân thường - quan lại; ca ngợi những
người có công đánh giặc giữ nước, những tấm gương nhân nghĩa, tiết hạnh;
cảm thông với những người nghèo, bị áp bức, bị rơi vào cảnh ngộ khó khăn...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Đề tài tình yêu lứa đôi giữ vị trí chủ đạo trong hầu hết các tác phẩm; sự thủy
chung trong tình duyên được thể hiện vừa như là phẩm chất tốt đẹp của người
phụ nữ, vừa như một chuẩn mực đạo đức và lý tưởng thẩm mỹ của con người
trong cộng đồng xã hội Tày - Nùng” [1; 663].
Với những nội dung chủ đạo đó, truyện thơ Nôm Tày sử dụng lối nói văn
vần, dùng thể thất ngôn trường thiên, gieo vần ở tiếng thứ năm và tiếng thứ bảy
mỗi câu . Bên cạnh đó, một số thủ pháp nghệ thuật đặc sắc được các tác giả sử
dụng như: xây dựng hình tượng nhân vật, sáng tạo tình tiết truyện, xây dựng
không gian, thời gian nghệ thuật, miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật…
Như vậy, truyện thơ Nôm Tày là một thể loại văn học được hình thành từ
lâu đời và để lại nhiều thành tựu về cả nội dung và nghệ thuật.
1.3. Vài nét về văn hóa dân tộc Tày
Dân tộc Tày là một cộng đồng thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái có số dân
đông nhất trong các dân tộc thiểu số nước ta. Phần đông người Tày cư trú ven
các thung lũng, triền núi thấp ở các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Thái
Nguyên, Quảng Ninh và một số vùng thuộc Bắc Giang v.v... Vùng Việt Bắc là
nơi người Tày sinh sống nhiều hơn cả. Ở vùng đất này, người Tày là cư dân bản
địa và giữ vai trò chủ thể từ rất lâu đời. Bản của người Tày thường ở chân núi
hay ven suối. Tên bản thường gọi theo tên đồi núi, đồng ruộng, khúc sông.
* Văn hóa vật chất
Nhà ở và trang phục là những yếu tố văn hóa đặc biệt, xuất hiện nhiều
trong các sáng tác văn học và có ảnh hưởng trực tiếp đến tư duy, quan niệm của
người Tày. Về nhà ở, những nhà truyền thống thường là nhà sàn, nhà đất mái
lợp cỏ gianh và một số vùng giáp biên giới có loại nhà phòng thủ. Trong nhà
phân biệt phòng nam ở ngoài, nữ ở trong buồng. Người Tày sống định cư, quây
quần thành từng bản chừng 15 đến 20 hộ, có quan hệ gần gũi với người
Nùng và với người Choang (Trung Quốc).
Về trang phục, người Tày sử dụng vải chàm. Trang phục cổ truyền của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
người Tày được làm từ vải sợi bông tự dệt, nhuộm chàm đồng nhất trên trang
phục nam và nữ, hầu như không có hoa văn trang trí. Cái độc đáo đáng quan
tâm của trang phục Tày là lối dùng màu chàm phổ biến, đồng nhất trên trang
phục nam và nữ cũng như lối mặc áo lót trắng bên trong áo ngoài màu chàm.
Nếu như nhiều dân tộc dùng màu chàm nhưng còn gia công trang trí các màu
khác trên trang phục thì người Tày hầu như chỉ dùng các màu ngũ sắc để trang
trí hoa văn mặt chăn hay các tấm thổ cẩm.
* Văn hóa tinh thần
Người Tày có một nền văn hóa tinh thần đa dạng, phong phú được thể
hiện qua rất nhiều mặt của đời sống. Trên bàn thờ tổ tiên người Tày đặt ba bát
hương. Một bát thờ Đắm (lạc đắm - rễ cọc, thờ gốc - cội nguồn); một bát thờ
lộc mệnh (gia phả dòng họ); một bát thờ hàm (các chức sắc của tổ tiên). Bên
cạnh đó, họ còn thờ các vị thần như thần bếp, thần thổ công, thần đá, thần mô
đất, thần gốc cây… Những phong tục ấy vẫn được lưu giữ cho tới ngày nay và
trở thành một nét văn hóa bản sắc của đồng bào Tày.
Nhắc đến văn hóa Tày không thể không nhắc đến hát Then. Theo quan
niệm dân gian, Then có nghĩa là Thiên, là Trời và được coi là điệu hát của thần
tiên truyền lại. Trải qua thời gian, điệu hát Then đã trở thành món ăn tinh thần
không thể thiếu trong đời sống văn hóa của bà con người Tày. Trong đời sống
của người Tày cổ, Then xuất hiện trong những sự kiện trọng đại như lễ cầu an,
cầu mùa, gọi hồn..., gửi lời cầu khẩn đến nhà trời giúp mùa màng bội thu, cuộc
sống bình an sung túc... Then Tày có một hệ thống làn điệu. Cũng giống như dân
ca của nhiều tộc người trên đất nước Việt Nam, phương thức truyền khẩu, tự ứng
tác trong hát Then là hiện tượng phổ biến. Âm nhạc là một trong những yếu tố
quan trọng nhất của văn hóa Then Tày, tuy nhiên, âm nhạc ở đây có điểm riêng
biệt và rất độc đáo, họ sử dụng cây đàn tính và xóc nhạc tạo nên giai điệu. Cây
đàn cùng với hát Then là Tính tẩu, một sáng tạo đặc sắc của người Tày lấy chất
liệu sẵn có từ môi trường thiên nhiên. Xung quanh sự ra đời cây đàn Tính nhiều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
huyền thoại, truyền thuyết được thêu dệt, lưu truyền trong dân gian.
Qua quá trình tích lũy với sự đóng góp công sức của nhiều thế hệ, người
Tày đã sáng tạo và lưu giữ được một kho tàng văn hóa tinh thần phong phú,
trong đó có văn học.
Về ngôn ngữ, người Tày đã sáng tạo ra phương thức giao tiếp riêng của
dân tộc mình từ lâu đời. Cho đến ngày nay, họ vẫn sử dụng tiếng Tày như một
phương tiện chính thống trong đời sống hằng ngày. Văn học Tày cũng không
ngoại lệ. Họ đã sử dụng tiếng của dân tộc mình để ghi lại những sáng tác, lưu
truyền và gìn giữ bản sắc văn hóa Tày, làm phong phú thêm cho bức tranh văn
hóa Việt Nam.
Trong luận văn này, chúng tôi muốn giới thiệu vài nét về hình tượng
người phụ nữ Tày. Trong đời sống xã hội, người phụ nữ luôn đóng một vai trò
quan trọng, một vị trí không thể thay thế. Họ chiếm một nửa thế giới, là người
luân chuyển sự sống và tái sinh loài người. Trong gia đình, họ là người giữ lửa
hạnh phúc. “Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm” là như vậy. Chính bởi thế,
người phụ nữ đã trở thành hình tượng nghệ thuật bất hủ trong nhiều sáng tác.
Với người Tày, từ xa xưa, người phụ nữ đã hiện thân cho những điều
tươi đẹp, thiêng liêng. Họ xuất hiện trong tín ngưỡng, phong tục; họ là đối
tượng phản ánh của Cái Đẹp, Cái Thiện trong văn chương; họ là khách thể
thẩm mĩ của văn hóa nghệ thuật dân tộc. Qua những giá trị văn hóa đó, ta cảm
nhận được khá đầy đủ những vẻ đẹp về đặc điểm của người phụ nữ Tày.
Trước tiên là vẻ đẹp của người phụ nữ. Họ hiện lên trong thế đối sánh
với những điều đẹp nhất của thiên nhiên:
Phụ nữ là lá, là hoa
Là sao đêm sáng, là bầu trời xanh
Vẻ đẹp của họ không tách rời môi trường sinh sống mà hòa chung, kết
tạo cùng những điều đơn sơ, giản dị, trong sáng của núi rừng, của trời đất:
Con gái má lúm đồng tiền
Chân trắng bẹ chuối bóc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Tay thuôn búp măng mọc
Hay:
Eo thắt đáy con mạ
Má ửng hồng bồ quân
Chân dong dỏng duyên dáng
Tóc uốn dáng đuôi gà
Mắt liếc mòn đá suối
Vẻ đẹp ngoại hình dường như gắn với lao động, sản xuất. Không còn là
“thắt đáy lưng ong” như quan niệm của người Kinh, đồng bào Tày gửi gắm một
mong muốn về vẻ đẹp cần cù, siêng năng của người phụ nữ.
Bên cạnh vẻ đẹp ngoại hình, người phụ nữ Tày còn được khắc họa trong
những đặc điểm về phẩm chất, tính cách. Trong tình yêu, họ là những người
chủ động, luôn khao khát yêu thương. Ca dao Tày có đoạn:
Anh về em ước về theo
Làm chim đậu ngọn chuối tiêu sau nhà
Đậu cành khế ngọt của hoa
Khi anh lên xuống cùng là thấy nhau
Họ táo bạo, nồng cháy đến mức có những mong muốn rất “ngông”:
Trời sao chẳng loạn cho cùng
Để đôi ta được dồn chung một làng
Trong gia đình, họ là những người mẹ, người vợ, người con tảo tần, chịu
thương, chịu khó, cần cù lao động. Người Tày cực kì quan trọng lao động. Họ
thẳng thắn phê phán thói lười biếng, đặc biệt là đối với người phụ nữ. Người
phụ nữ Tày phải biết dệt vải, biết làm nương:
Đàn bà lười dệt vải thì hóa cáo
Từ bé, người phụ nữ Tày đã được học dệt vải. Khi chưa lập gia đình thì
dệt vải để may áo cho mình, để chuẩn bị đồ cưới. Khi có chồng rồi, họ phải dệt
vải để lo cái mặc cho cả nhà. Nếu không lao động, họ sẽ chẳng khác nào những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
loài vật xấu xa như cáo, như hươu, chỉ rình ăn trộm.
Trong mối quan hệ vợ chồng, người phụ nữ luôn được coi trọng. Để gia
đình yên ấm, người phụ nữ cùng với chồng luôn biết cách nhường nhịn nhau:
Vợ mắng chồng chẳng nói gì
Chồng mắng vợ lặng lẽ làm việc
Như vậy, người phụ nữ đã đem đến một phương diện mới mẻ, ấn tượng
cho văn hóa dân tộc Tày, góp phần tạo nên bức tranh văn hóa đa dạng, nhiều
màu sắc.
1.4. Đôi nét về hình tượng người phụ nữ trong văn học trung đại Việt Nam
Văn học trung đại là giai đoạn văn học từ khoảng thế kỉ X đến hết thế kỉ
XIX. Trong tiến trình hình thành và phát triển, các tác phẩm văn học trung đại
hướng về khắc họa một số hình tượng tiêu biểu như: hình tượng người anh
hùng, hình tượng tổ quốc, hình tượng người tri thức lạc thời, hình tượng người
phụ nữ… Với từng giai đoạn lịch sử, văn học lại hình thành nên từng hình
tượng trung tâm. Chẳng hạn, khi đất nước còn hiểm nguy và cường thịnh (thế
kỉ X – XV), văn học tập trung ngợi ca hình tượng người anh hùng của cộng
đồng. Nhưng khi triều đình phong kiến suy tàn, vua không còn sáng, tôi không
còn hiền, đời sống nhân dân lầm than, cực khổ thì văn học lại hướng ngòi bút
đến số phận những kiếp người nhỏ bé, đau khổ, đặc biệt là hình tượng người
phụ nữ.
Có thể nhận thấy, người phụ nữ xuất hiện trong rất nhiều những sáng tác
thời kì này, đặc biệt là giai đoạn nở rộ của chủ nghĩa nhân văn. Người phụ nữ
được khắc họa dưới cái nhìn nhân đạo của các tác giả.
Người phụ nữ trong văn học trung đại thường có ngoại hình ưu tú, xinh
đẹp. Chúng tôi xin được trích dẫn và phân tích một số điển hình về vẻ đẹp
người phụ nữ để thấy được đặc điểm này.
Trong “Chuyện người con gái Nam Xương” (Trích Truyền kì mạn lục –
Nguyễn Dữ), ông có viết về nhân vật của mình như sau: “Vũ Thị Thiết, người
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
con gái quê ở Nam Xương, tính tình thùy mị, nết na lại thêm tư dung tốt đẹp.”
(SGK Ngữ văn 9, tập 1, trang 43). Hay trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”,
Nguyễn Du đã đúc tạc nên hai bức chân dung mĩ lệ. Trước hết là người em
Thúy Vân:
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
Tác giả đã đưa người đọc chiêm ngưỡng vẻ đẹp của Vân từ xa về gần.
Hai chữ “trang trọng” khiến cho vẻ đẹp của Thúy Vân hiện lên sang trọng, quý
phái như những tiểu thư đài các, nhung lụa. Con gái của gia đình “thường
thường bậc trung” nhưng dung nhan “trang trọng” đến mức “khác vời” như
Thúy Vân thực khó kiếm tìm. Nàng hiện lên trên trang thơ của đại thi hào họ
Nguyễn với những đường nét vô cùng tròn vẹn. Đó là khuôn mặt “đầy đặn”
phúc hậu của người con gái xuân thì, là nét mày “nở nang” cân đối, là tiếng
cười trong sáng như ngọc, lời nói tiết hạnh, đoan trang… Với những nét đẹp
hài hòa, cân đối ấy, thiên nhiên tạo vật như cũng cảm mến, ngưỡng mộ:
“Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”
Hai động từ “thua” và “nhường” xuất hiện trong câu thơ cùng với những
hình ảnh thiên nhiên - biểu tượng cho chuẩn mực cái đẹp phong kiến như một
dự cảm tốt lành, yên bình cho cuộc đời người em gái Thúy Vân.
Tả Vân như vậy là đã đẹp, đã hay, dừng lại như thế là vẹn. Những dòng
thơ còn lại, tác giả dành để miêu tả tài sắc, phẩm hạnh của người chị:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn”
Thì ra, đảo thứ tự miêu tả là dụng ý của nhà thơ. Ông đã khéo léo sử dụng
thủ pháp đòn bẩy để đem đến cho độc giả ấn tượng sâu sắc hơn về nhân vật
chính của thiên truyện - nàng Thúy Kiều. Vẻ đẹp của Kiều được khái quát qua
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
hai từ “sắc sảo”, “mặn mà”. Đó là nét đẹp của sự thông minh, nhanh nhẹn và
chân thật, đằm thắm. Không dừng lại ở vẻ đẹp, bức chân dung Thúy Kiều còn
hiện lên với những nét vẽ về tài năng, phẩm hạnh. Dẫu “mỗi người một vẻ, mười
phân vẹn mười” nhưng so với Thúy Vân, tài sắc của Kiều “lại là phần hơn”.
“Làn thu thuỷ, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”
Nghệ thuật chấm phá, điểm nhãn của Nguyễn Du trong trích đoạn này đã
trở nên điêu luyện hơn bao giờ hết. Chỉ với hai câu thơ, dung mạo tuyệt sắc của
Kiều đã hiện lên đầy ấn tượng. Đó là hình ảnh đôi mắt – cửa sổ tâm hồn. Đôi
mắt của Kiều được ví như làn nước mùa thu trong ngần, thanh sáng. Đôi mắt ấy
long lanh như tiếng khóc, nụ cười của thời xuân thì đang bừng thức. Đôi mắt
trong ngần là biểu tượng của một tâm hồn thanh khiết. Nếu nét ngài trên gương
mặt phúc hậu của người em gái Thúy Vân “nở nang”, đầy đặn thì từng đường
nét trên gương mặt người chị Thúy Kiều lại sắc nét vô cùng. Trên đôi mắt long
lanh là nét ngài thanh tú như dáng núi mùa xuân. Tất cả tạo nên một vẻ đẹp
hoàn mĩ cho đôi mắt, điểm chấm phá tuyệt bút của Nguyễn Du. Vẻ đẹp “sắc
sảo, mặn mà” ấy không tròn trịa, hài hòa như Thúy Vân mà ở một tầm cao mới
khiến cho thiên nhiên phải đố kị, hờn tức. Những động từ không còn là “thua”,
là “nhường” nữa mà mang sắc thái ganh ghét rõ rệt. Những cánh hoa rộn nở để
làm tươi màu nhân thế, điểm sắc trần gian, những cành liễu yểu điệu như làm
duyên làm dáng, tình tự với gió trong sắc mướt xanh rì rào vốn là những biểu
tượng tuyệt vời của tạo hóa. Vậy mà giờ đây, trước nhan sắc của Kiều, chúng
trở nên mờ nhạt nên “hoa ghen”, “liễu hờn” âu cũng là cơ trời. Hai chị em Thúy
Vân, Thúy Kiều hiện lên với thủ pháp ước lệ tượng trưng – lấy vẻ đẹp của thiên
nhiên để làm thước đo chuẩn mực vẻ đẹp con người.
Trong thơ Bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương, người phụ nữ được
khắc họa với những vẻ đẹp đầy bản năng, quyến rũ. Giấc ngủ trưa hè chợt
đến đã làm xô lệch một cách đáng yêu cái yếm trên thân hình thiếu nữ. Qua
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
hai câu thơ:
“Lược trúc biếng cài trên mái tóc
Yếm đào trễ xuống dưới nương long”
Người ta có thể tưởng tượng ra sự xô lệch đáng yêu ấy. Hai từ cổ "nương
long" chỉ phần ngực của người con gái, liên tưởng đến câu thành ngữ "Nương
long mỗi ngày một cao - Má đào mỗi ngày một đỏ". Vẻ thanh tân của cô gái
được hai câu thơ sau nói ra bằng hình ảnh ước lệ:
“Ðôi gò Bồng Đảo sương còn ngậm
Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông”
Hình ảnh ẩn dụ ấy buộc người thưởng thức thơ Bà Chúa thơ Nôm liên
tưởng đến thực tế trần tục nhưng không dung tục. Mỹ từ "đào nguyên" - suối
hoa đào, gợi nhớ tích xưa Lưu Nguyễn lạc thiên thai và "bồng đảo" - chỉ
khuôn ngực thanh tân, có lẽ nhằm ca ngợi vẻ đẹp trinh nguyên của cô thiếu nữ
ngủ ngày.
Hay:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn”
Không chỉ vậy, người phụ nữ trong văn học trung đại còn ngời sáng
những vẻ đẹp phẩm chất. Đó là người thiếu nữ tài năng xuất chúng, hiếu đạo
vẹn tròn Thúy Kiều. Mười lăm năm sóng gió lưu lạc, “thanh lâu hai lượt, thanh
y hai lần”, hy sinh tình yêu, tuổi trẻ và trinh tiết cũng chỉ vì thương cha và em
bị hàm oan trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Đó là Vũ Nương hiếu thảo với mẹ, thủy chung với chồng, yêu thương
con cái trong áng “thiên cổ kì bút” của Nguyễn Dữ. Trong suốt quãng thời gian
chồng đi lính, một mình Vũ Nương ở nhà chăm sóc mẹ già, nuôi dạy con thơ.
Lời trăn trối của người mẹ chồng trong xã hội phong kiến với quan niệm “Bà
mất tiền mua mâm, bà đâm cho thủng” đã góp phần khẳng định vẻ đẹp phẩm
chất của nàng.
Đó còn là Kiều Nguyệt Nga hiếu nghĩa, trước sau như một trong truyện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
thơ cụ Đồ Chiểu...
Tuy vậy, họ có một đặc điểm chung đó là đều chịu số phận đau thương,
sóng gió, nổi chìm. Với tài năng và ngoại hình như vậy, người phụ nữ đáng ra
phải có một cuộc sống hạnh phúc, xứng đáng. Thế nhưng, chính xã hội phong
kiến với những quan niệm, hủ tục hà khắc, với những loạn lạc chiến chinh đã
đẩy số phận người phụ nữ xuống bóng đêm đau khổ, bất hạnh. Người chinh
phụ trong “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn, bản diễn Nôm Đoàn Thị
Điểm (?) đã cất lên khúc kêu ai oán, não nề cho thân phận của mình. Nàng hối
hận vì đã lầm lỡ, mê muội, đã cổ súy chồng ăn phải thứ “bả vinh hoa”:
“Lúc ngoảnh lại ngắm màu dương liễu
Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong”
để giờ đây, nàng phải héo mòn trong chính tuổi xuân của mình:
“Nghĩ nhan sắc đương chừng hoa nở
Tiếc Quan Âm lần nữa gieo qua”
Ta cũng bắt gặp sự nuối tiếc này trong thơ của Nguyễn Gia Thiều với
“Nỗi oán sầu của người cung nữ”. Nàng uất hận vì phải sống một cuộc đời vô
nghĩa, tuổi xuân trôi đi trong cô lẻ vì chế độ đa thê và tục tuyển cung tần, mĩ nữ
đương thời:
“Buồn mọi nỗi lòng đà khắc khoải
Ngán trăm chiều bước lại ngẩn ngơ
Hoa này bưỡm nỡ thờ ơ
Để gầy bông thắm, để xơ nhụy vàng”
Sức sống dồi dào và khát vọng hạnh phúc càng mãnh liệt bao nhiêu thì
nỗi oán hận càng chất ngất bấy nhiêu trong lòng người cung nữ. Tưởng chừng
như tất cả sắp bùng nổ thành hành động phản kháng dữ dội:
“Tay nguyệt lão chẳng xe thì chớ,
Xe thế này có dở dang không ?
Dang tay muốn dứt tơ hồng,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra”
Người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương cũng chịu chung hoàn cảnh
như vậy. Nàng không được tự lựa chọn hạnh phúc cho bản thân mình. Cuộc đời
người con gái dẫu xinh đẹp, thủy chung song cũng chẳng tránh khỏi nổi chìm,
lênh đênh:
“Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn”
Nhận thức được điều ấy, không ít người phụ nữ đã tìm đến cái chết để
gìn giữ tấm lòng trinh bạch, phẩm giá tốt đẹp của mình. Vũ Nương bị chồng
nghi oan thất tiết nên đã tắm gội sạch chay, ra bến Hoàng Giang, ngửa mặt lên
trời mà than rằng: “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ,
điều đâu bạy buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng
giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm
ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá,
lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ
và xin khắp mọi người phỉ nhổ” rồi gieo mình xuống sông tự vẫn. Nàng đã
chọn cái chết để minh chứng cho sự trong trắng của mình.
Người phụ nữ trong văn học trung đại Việt Nam xuất hiện trong rất
nhiều thể loại: hát văn, truyện truyền kì, truyện thơ, thơ, bút kí… Song ở mỗi
thể loại, hình tượng này lại mang những đặc điểm riêng biệt. Với truyện thơ
Nôm – một thể loại có sự đan xen giữa yếu tố tự sự và chất trữ tình thì người
phụ nữ lại có mảnh đất để bộc lộ những vẻ đẹp một cách toàn diện nhất. Qua
những trang tự sự gần gũi, qua những biến cố cuộc đời, chất hiện thực được
hiển hiện như lời kể tâm tình, thân quen. Và cũng qua những tình tiết ấy, người
phụ nữ mới có cơ hội bộc lộ hết những phẩm chất vốn có của mình. Qua những
dòng suy tưởng trữ tình, người phụ nữ lại ngời sáng vẻ đẹp lãng mạn. Họ luôn
là phái đẹp, luôn là đối tượng để ngợi ca, trân trọng, nâng niu; luôn xứng đáng
giành được những khoảnh khắc huyền ảo, thơ mộng trong thơ ca. Bên cạnh đó,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
cũng cần lưu ý rằng, dù ở bất kì thể loại nào thì hình tượng người phụ nữ giai kì
này cũng được nhìn nhận dưới cái nhìn của chủ nghĩa nhân đạo, chủ nghĩa tình
cảm (cảm thương).
Người phụ nữ trong các truyện thơ Nôm Tày cũng đã được ngợi ca về
cả ngoại hình và phẩm chất, nhưng đặc biệt người đọc đề cao vẻ đẹp tâm hồn
của họ. Khi giới thiệu 5 truyện thơ rất phổ biến và được hâm mộ trong dân tộc
Tày là truyện Nàng Kim, Nàng Hán, Nàng Quyển, Nàng Ngọc Long, Nàng
Ngọc Dong , Hoàng Triều Ân và các nhà nghiên cứu đã có những lời nhận xét,
phân tích về người phụ nữ trong truyện thơ Nôm Tày: “Qua 5 truyện thơ về
các Nàng, ta dễ nhận thấy một điều là các nhân vật nữ thuộc tuyến chính
nghĩa đều là những người phúc hậu, người tốt, hiền lành. Dù tác giả (khuyết
danh, dân gian) có xây dựng các nàng có nguồn gốc từ đâu, là người trần thế
hay tiên nữ giáng trần, đều nhằm mục đích gây được cảm tình từ đầu cho
người đọc, người nghe kể” và “thông qua các nhân vật Nàng truyện thơ ca
ngợi tự do, nhất là tự do luyến ái, tự do hôn nhân... Ở họ tình yêu nào cũng
trong sáng thuỷ chung, tình phu thê nào cũng trọn vẹn, tình mẫu tử nào cũng
thiết tha sâu sắc... Họ là những người có đạo đức, tôn trọng chính nghĩa, lễ
nghĩa, tu nhân tích đức...” [2; 88 - 89].
TIỂU KẾT
Trong chương 1 của luận văn, chúng tôi tiến hành giới thuyết các vấn đề
lí thuyết của vấn đề nghiên cứu. Trong đó, chúng tôi giải thích các khái niệm
liên quan nhằm cắt nghĩa rõ nét nhất đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Những
khái niệm về truyện thơ Nôm Tày, hình tượng văn học... sẽ là những tiền đề về
mặt lí luận giúp chúng tôi tiến hành đi sâu nghiên cứu đề tài. Cụ thể, trong luận
văn này, chúng tôi sẽ chỉ ra đặc điểm của một hình tượng văn học: hình tượng
người phụ nữ trong thể loại truyện thơ Nôm Tày. Muốn nghiên cứu một cách
chính xác và thỏa đáng, chúng tôi đã đặt hình tượng này vào trong môi trường
tự nhiên, xã hội của đồng bào miền núi - nơi sản sinh và nuôi dưỡng nền văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
học Tày.
Đồng thời, luận văn kế thừa những nghiên cứu liên quan đến thể loại
truyện thơ Nôm cũng như hình tượng người phụ nữ trong văn học trung đại
Việt Nam nhằm đem lại cái nhìn chính xác hơn, toàn diện hơn. Những kết quả
nghiên cứu ở chương 1 là nền tảng cơ sở lí thuyết cho việc triển khai các vấn đề
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
ở chương 2 và chương 3 của luận văn.
CHƯƠNG 2
ĐẶC ĐIỂM HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG MỘT SỐ
TRUYỆN THƠ NÔM TÀY
2.1. Người phụ nữ đẹp và có xuất thân quyền quý, huyền ảo
2.1.1. Người phụ nữ xuất thân quyền quý và huyền ảo
Trong những truyện thơ Nôm Tày mà chúng tôi khảo sát, người phụ nữ
xuất thân từ rất nhiều hoàn cảnh khác nhau: xuất thân từ mường trời, xuất thân
từ hạ giới nhưng thuộc giới quyền quý...
Trong số 10 tác phẩm chúng tôi khảo sát có đến 4 truyện nhân vật xuất
thân từ mường trời. Có thể kể đến như các truyện: Nàng Ngọc Long, Ngọc
Sinh, Trạng Ba, Nàng Kim. Người phụ nữ trong truyện thơ Nàng Ngọc Long là
Ngọc Long – một nhân vật xuất hiện với sự rõ ràng về hoàn cảnh xuất thân.
Nàng là con gái tướng quân Bắc Đẩu nhà trời, nhân “Tháng giêng cùng tiên nữ
xuống trần/ Mải chơi hoa mùa xuân lạc bạn” phải vào ẩn tạm ở xứ Âm Tang
rừng xanh núi thẳm để chờ bạn:
Ngọc Long con khuê phủ thiên môn,
Con gái vị tướng quân Bắc Đẩu.
Xuống trần cùng bầy nữ tiên nga,
Vãng cảnh xuân hội hoa dương thế.”
Như vậy, Ngọc Long là cô gái có nguồn gốc siêu linh, thần thánh. Nàng
là một tiên nữ giáng trần. Tương tự, trong truyện Ngọc Sinh cũng như vậy.
Nhân vật nữ chính được giới thiệu là Tiên Nga giáng trần, tên là Minh Nga.
Truyện Nàng Kim cũng là một tiên thoại trong hệ thống truyện thơ Nôm Tày.
Nàng Kim là con Phật, là người mường trời. Nhân ngày xuân, nàng Kim ra
ngắm cảnh vườn thượng uyển, “gặp ong điệp hội xuân tìm nhị”, nàng mê mải
đắm chìm trong thế giới đầy hương sắc của bướm hoa mà quên về, nhất là lúc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
ong hoa dặn dò nhau quyến luyến khi mùa xuân sắp tàn:
Dặn nhau lệ đầm đìa quyến luyến,
Nàng Kim nghe xao xuyến buồn phiền.
Nghĩ ong hoa sơn xuyên thán vọng,
Ong ý cũng còn ngóng mùa xuân,
Tiên há không tần ngần buồn bã.”
Nàng Kim đã chớm nở những xúc cảm của xuân tình giữa vườn xuân
sắc. Đó là một lẽ tự nhiên - đối với con người dương thế. Song, đã sống ở nơi
tiên sa thượng các thì không được phép “thèm muốn đường gia thất” để khỏi
“uế tạp vùng thượng giới”. Chính vì thế, nàng phạm vào luật lệ khắt khe của
nhà Phật khi xem hoa ngắm nguyệt quên về, bị Bụt Cả phê bình nghiêm khắc
và xử phạt:
Bỏ nhà đi chơi hoa ngắm nguyệt
Thèm muốn đường gia thất giao ca
Cho con xuống quốc gia cõi thế
Không cho ở thượng đế phương trời
Bởi làm xấu đạo nơi cõi thượng
Cho xuống trần xây dựng vợ chồng
Khỏi uế tạp đây vùng thượng giới
Từ đây, nàng Kim bị đầy xuống gầm trời. Ngày đi, nàng Kim từ biệt Bụt
Cả, bè bạn bầy tiên để trở thành người trần thế. Bụt Cả lơn tiếng dặn con rằng:
Con xuống trần định chỗ phu thê
Qua ba thu con về thượng giới
Xuống cõi đời sống phải có nhân
Bầy tiên bè bạn dặn dò nhớ nhung
Chốn hạ giới thế dương chị xuống
Rảnh ngày thì nhớ tưởng bạn tiên
Bên cạnh đó trong những truyện như: Truyện Nho Hương, Truyện Lưu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Đài - Hán Xuân, Truyện Chiêu Đức chúng ta lại thấy hình ảnh của những người
phụ nữ xuất thân trong gia đình quyền quý phong kiến. Truyện thơ Nho Hương
đã đem đến một cái nhìn khác về thân phận người phụ nữ. Nhân vật nữ trong
tác phẩm này là Mẫu Đan dưới đời vua Thái Tông:
Thái Tông ngự điện vàng trị vì
An cư khắp tứ xứ quốc gia
Mẫu Đan xuất hiện trong đoạn đầu truyện qua mối nhân duyên giữa nàng
và Nho Hương:
Nhân duyên do thượng các đã phân
Cho kết nàng Mậu Đan công chúa
Không chỉ thế, Mẫu Đan còn được xác định rõ ràng danh tính, địa vị
trong những lời giới thiệu ở đoạn sau của truyện:
Thái Tông ngự điện vàng trị vì
An cư khắp tứ xứ quốc gia
Sinh có ba dương nga công chúa
Hai chị đã giá thú phượng loan
Thứ ba là Mẫu Đan hiền nữ
Tuổi niên thiếu rực rỡ mười ba
Mẫu Đan là điển hình cho mẫu người phụ nữ xuất thân quyền quý, là
công chúa của một quốc gia. Bên cạnh đó, chúng tôi còn nhận thấy đặc điểm
này trong truyện thơ Lưu Đài - Hán Xuân. Lưu Đài - Hán Xuân là một truyện
thơ Nôm khuyết danh. Tên hai nhân vật chính cũng được lấy làm nhan đề của
truyện. Đây là hai con người luôn bền bỉ phấn đấu vượt mọi nghịch cảnh, dũng
cảm chiến đấu với quân địch dù tương quan lực lượng chênh lệch. Trong luận
văn này, chúng tôi tập trung khai thác hình tượng nhân vật Hán Xuân – một
người phụ nữ Tày anh hùng, bất khuất.
Hán Xuân không được giới thiệu quá chi tiết, trực tiếp về hoàn cảnh xuất
thân. Song, qua tích truyện phần mở đầu, ta có thể thấy, Hán Xuân được giới
thiệu trong mối quan hệ với chàng trai mồ côi Lưu Đài - người xã Bình Sơn,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
sang Nam Nga để xin học:
Nghe đồn thầy Nam Nga rộng rãi
Mong ơn người thương hãy dạy nuôi
Việc chăn trâu kiếm củi mặc con
Được thầy nhận nuôi dạy, Lưu Đài ở lại Nam Nga giúp việc nhà và dùi
kinh mài sử. Cũng từ đó, nhân vật Hán Xuân xuất hiện. Nàng được giới thiệu là
một thiếu nữ “đang độ”, cha mẹ giục cưới nhưng chưa thực ưng ai. Trong một
đêm thu, Hán Xuân đem lòng tương tư tiếng đọc bài của học trò nghèo:
…Hán Xuân trong lầu gác đắm say
Ý riêng những muốn ngay thấy mặt
… Tay tựa gối Hán Xuân vẫn thức
Trời đất khéo phân đặt nhân duyên
Những từ ngữ được tác giả sử dụng đã cho thấy, Hán Xuân xuất thân
trong một gia đình quyền quý, giàu có. Nàng “đêm ngày trong màn rủ phòng
loan”. Nơi ở của Hán Xuân cũng cao sang vô cùng. Đó là “trong lầu gác”,
“Đào Nguyên”, là nơi tiên ở, ý nói khuê phòng đài các của tiểu thư nhà giàu.
Tóm lại, Hán Xuân là một tiểu thư khuê các, sinh ra trong gia đình giàu có,
quyền quý ở Nam Nga. Việc đưa ra những thông tin này đã giới thiệu rõ ràng
về nhân vật, đồng thời tạo ra sự tin cậy nhất định đối với độc giả, câu chuyện từ
đó mà chân thực, sống động hơn.
Chúng ta còn bắt gặp hình tượng người phụ nữ xuất thân trong gia đình
giàu có ở truyện Chiêu Đức. Đây là một truyện thơ ca ngợi lòng chung thủy
trong tình yêu, đồng thời, đề cao tấm lòng vì dân vì nước và sự nỗ lực vươn lên
làm chủ số phận. Nhân vật nữ chính là nàng Kim Nữ. Có thể coi, Chiêu Đức và
Kim Nữ là hai nhân vật có nguồn gốc từ mường trời bởi họ đều là con cầu tự.
Đoạn đầu truyện, tác giả giới thiệu:
Kể chuyện chàng Bách Vạn thuở xưa
Cùng Viên Ngoại đồng châu sang trọng
Đôi bạn hiền hào phóng văn chương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Đều hạng người quyền môn cao quý
Đây chính là lời giới thiệu về đấng sinh thành của Chiêu Đức và Kim Nữ
- nhà Bách Vạn và nhà Viên Ngoại. Họ là bạn đồng châu, cùng là lớp người
giàu có và cùng chung cảnh:
Cả hai đều quyền vinh tài tử
Cùng gia đình hào phú xứng đôi
Cùng thiếu kẻ kế đời nối dõi
Vậy nên, họ rủ nhau đến chùa Lôi Âm xin con. Cảm kích trước lòng
thành của đôi bạn, Phật Bà ban cho mỗi gia đình một đứa con:
Cảm thành kính mẹ trời bèn phó
Trao cho đôi nam nữ song sa
Thân từng cửa theo về tức khắc
“Dẫu mỗi người ly biệt khác phương
Sau này kiếp vợ chồng duyên số”
Lại nói về đôi bạn Bách Vạn và Viên Ngoại, sau khi cầu tự nơi chùa Lôi
Âm, họ đều nằm mộng được Phật ban cho một đứa con. Vậy nên, họ hẹn ước
với nhau rằng:
Hễ sinh hạ bên trai bên gái
Cho hợp duyên kết ngãi vợ chồng
Cho hợp với lời khôn trong mộng
Làm thiêng hỡi đất rộng trời vuông
Tình cờ kết tơ hồng đôi lứa
Chiêu Đức và Kim Nữ ra đời từ đó. Chiêu Đức là con trai một của nhà
Bách Vạn, Kim Nữ là con gái yêu nhà Viên Ngoại. Như vậy, nàng Kim Nữ là
người có xuất thân, lai lịch quyền quý.
Như vậy, xét về hoàn cảnh xuất thân, chúng ta có thể nhận thấy, hầu hết
những người phụ nữ đều có xuất thân từ chốn cao sang. Hoàn cảnh xuất thân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
vừa hư, vừa thực, khi là tiên nga giáng trần, khi lại là công chúa quyền quý.
2.1.2. Người phụ nữ có ngoại hình xinh đẹp
Người phụ nữ trong truyện thơ Nôm Tày đều mang ngoại hình xinh
đẹp, lộng lẫy. Tất cả các truyện chúng tôi khảo sát đều cho thấy đặc điểm này
rõ nét. Đọc các truyện thơ Nôm Tày chúng ta thấy hầu hết các cô gái đều trẻ
trung và có dung nhan đẹp đẽ: “Mặt trắng ngời tiên nữ Nàng Kim” (nàng Kim);
“Dáng người đều mĩ lệ thanh tân/ Tươi như đóa hoa xuân đang nở” (nàng
Ngọc Dong); “Yểu điệu lại có duyên xinh xắn”, “Y như nàng tiên sa tha thướt/
Yểu điệu nét lả lướt cao sang” (Thị Dung); “Lông mày như bút vẽ có duyên/
Mặt mũi đẹp như tiên hạ thế” (nàng Quyển); “Ngời ngợi ánh hào quang hoa
nở/ Thoa vàng gài mái tóc tựa tiên” (Hán Xuân)...
Ngoại hình nhân vật được khắc họa trong nhiều tình huống, nhiều trường
hợp. Có thể nói, họ đều là những người con gái, người phụ nữ có dung nhan.
Với nhân vật Từ Thị trong truyện thơ Nôm Tống Kim, ngoại hình được khắc
họa qua phân đoạn lời trăng trối của người chồng:
Nói với nàng Dương Nga Từ Thị
Xem ra phận anh khổ đã nhiều
Tác giả có thể hiện hình tượng người phụ nữ đẹp, nết na qua từ “dương
nga”. Đây là một từ ngữ mang tính ước lệ. Trong văn học trung đại, hệ thống từ
ngữ mang tính ước lệ chiếm số lượng tương đối lớn, đặc biệt là trong các văn
bản có yếu tố trữ tình. Từ “Dương Nga” phải chăng là sự ẩn dụ của một Hằng
Nga tại dương thế - nàng Từ Thị. Về sau, từ “Dương Nga” được trở đi trở lại
trong truyện nhưng với vai trò là một định ngữ gắn với đối tượng khác – nàng
Nghi Xuân:
- Tôi vốn là con người lưu lạc
Sao xứng đôi mặt đẹp Dương Nga
- Muôn sự hãy ơn con thương đến
Cho con kế Dương Nga đẹp nết
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Mẹ không nói gian dối Tống quan
Có thể thấy, Từ Thị xinh đẹp, nết na, Nghi Xuân cũng không hề thua
kém nhan sắc của mẹ. Ở phần đầu tiên của truyện, ta thấy, Nghi Xuân là một
người con gái có ngoại hình đẹp:
Ngày đêm mẹ nuôi ẵm ôm con
Tháng thêm năm vỗ về nuôi dưỡng
Ngày lại ngày nhan sắc xinh tươi
Trả ơn làm Nghi Xuân con gái
Ngày đêm bên cha mẹ không rời
Tác giả đã trực tiếp miêu tả ngoại hình của Nghi Xuân qua cụm từ “nhan
sắc xinh tươi”, đi kèm với điệp từ “ngày…ngày” khiến cho nhan sắc ấy như
đằm thắm, mặn mà hơn theo bước chuyển của thời gian. Trong toàn thiên
truyện, cụm từ “Nghi Xuân xinh tươi”, “Nghi Xuân xinh đẹp”, “Xuân Thị Văn
Đăm” (Văn Đăm là tên người phụ nữ đẹp nổi tiếng ở Trung Quốc. Văn học Tày
dùng từ Văn Đăm như một danh từ để chỉ người con gái đẹp, mà ở đây là nàng
Nghi Xuân) xuất hiện đồng thời, xuất hiện nhiều lần làm chủ ngữ trong câu thơ,
ý thơ:
- Quan chết bởi Nghi Xuân xinh đẹp
Vì cha mẹ gian ác chẳng thương
- Lưu ông cất lời bảo mấy lời
Khuyên về hỡi Nghi Xuân xinh đẹp
- Đã không thấy tin anh chốn nào
Nàng Nghi Xuân xinh đẹp bảo cha
- Thuyền Lưu ông chính giữa sông sâu
Thấy em gái Văn Đăm Xuân Thị
Qua việc thống kê và phân tích một số cách sử dụng từ ngữ trong truyện
thơ Nôm “Tống Kim”, chúng tôi nhận ra rằng, người phụ nữ Tày được khắc họa
trong truyện luôn mang một ngoại hình xinh đẹp, đằm thắm. Khi thì gián tiếp,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
khi lại trực tiếp, vẻ đẹp ấy hiện lên mộc mạc, thanh sạch như bông hoa tinh
khiết giữa núi rừng. Dù trong hoàn cảnh nào, vẻ đẹp ấy vẫn luôn được chú ý
khắc họa. Cách miêu tả này giúp độc giả nhận ra được quan niệm, nhu cầu
thưởng thức thẩm mĩ của tác giả dân gian dân tộc Tày giai đoạn này đã được
chú trọng. Họ trực tiếp hướng ngòi bút của mình về phía cái đẹp thuần túy để
khắc tạo nên hình tượng người phụ nữ Tày.
Trong truyện Nàng Ngọc Long, khi nói về hoàn cảnh xuất thân tác giả đã
phần nào giới thiệu về ngoại hình của nàng. Ngay sau lời giới thiệu về hoàn
cảnh xuất thân của người phụ nữ này, tác giả đã dành những câu thơ, những
định ngữ để miêu tả nhan sắc theo nhiều phương diện. Trước hết, dung nhan
tuyệt thế của Ngọc Long hiện lên qua cách xưng gọi trong truyện thơ. Khi thì
nàng được gọi là “nàng mặt ngọc”, “người ngọc”, “ngọc nữ”, “nàng tiên nga”,
“nàng khôi châu”, “mỹ nữ”; khi lại được dùng điển tích về người con gái xinh
đẹp, duyên dáng, nết na để xưng gọi - “Văn Đăm”… Không khó để nhận ra ý
đồ của tác giả khi ví nhan sắc của nàng với nét đẹp trong khiết, quý giá của
thiên nhiên, tạo vật. Nàng là người nhà trời nên nhan sắc không chỉ xinh tươi
mà còn vô cùng sang trọng, cao quý.
Bên cạnh đó, tác giả dân gian cũng không ít lần trực tiếp miêu tả dung
nhan của Ngọc Long. Nhan sắc của nàng hiện lên cuộc nói chuyện của thầy bói
với xã bản:
Sáng hôm sau thấy nàng ra cửa
Dong dáng nàng tiên nữ nhà trời
Thế gian đâu có được người như thế
Mặt trắng ngần như thể ngọc khôi
Như vậy, so với cách miêu tả trong truyện Tống Kim, ta thấy được rõ
ràng hơn, tinh tế hơn trong việc khắc họa dung nhan, ngoại hình nhân vật.
Người phụ nữ hiện lên qua trang truyện thơ không chỉ xinh đẹp đơn thuần mà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
còn mang một vẻ đẹp giàu sức gợi hình, gợi cảm.
Trong truyện thơ Nàng Kim, vẻ đẹp của nhân vật nữ chính cũng được khắc
họa rõ ràng. Nàng Kim được giới thiệu là con của Phật, đang đến tuổi cập kê.
Nàng có ngoại hình của tiên nữ, tiên nga với khuôn mặt “trắng ngời”, “ngà ngọc”:
Đoạn này nói Tiên Sa thượng các
Nàng con Phật ngà ngọc thiên nhan
Ra ngắm cảnh vườn cam hoa nở
Mặt trắng ngời tiên nữ Nàng Kim
Nhan sắc xinh đẹp của nàng Kim Thị được miêu tả rõ nét hơn cả khi
nàng thoát kiếp người đội lốt khỉ, trở lại dung nhan ban đầu. Trong cuộc thi
giữa Chúa Cả, Chúa Hai, Chúa Ba, nàng Kim đều được tiên nga, Bụt Cả giúp
đỡ. Khi thì Bụt Cả sai người giúp làm cỗ, khi lại giúp may áo, nhờ thế, chiến
thắng đều thuộc về Chúa Ba và Kim Thị. Cuộc thi thứ ba cũng là cuộc thi quyết
định, mang tính chất bước ngoặt - cuộc thi người đẹp. Từ đây, nàng Kim được
trở về với ngoại hình xinh đẹp, lộng lẫy của một tiên nga:
- Nàng Kim sáng choi chói thân người
Da trắng tựa hoa mai mới nở
- Trông Nàng Kim óng mượt xinh tươi
Chói lọi như mặt trời ban sớm
Đem sánh cả mười tám lân bang
Chẳng ai đẹp như nàng Kim Thị
Đẹp nhất bậc dương thế cõi trung
Hán Xuân trong truyện thơ Nôm Lưu Đài - Hán Xuân cũng mang đặc
điểm chung về ngoại hình của những nhân vật nữ chính trong truyện thơ Nôm
Tày. Nàng là con nhà giàu, đang tuổi xuân thì và xinh đẹp vô cùng:
Ngời ngợi ánh hào quang hoa nở
Thoa vàng gài mái tóc tựa tiên
Nàng tuổi chừng mười lăm đang độ
…Mẹ nàng bảo con gái nõn nà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
…Mình ngọc ở lầu gác mới thưa
Có thể thấy, khi nhắc đến Hán Xuân, tác giả đã liên tục sử dụng những
hình ảnh ước lệ cho vẻ đẹp của nàng. Khi mới sinh ra, Hán Xuân được ví như
“một vườn mẫu đơn” lộng lẫy khoe sắc, vẻ đẹp “ngời ngợi ánh hào quang”.
Đến khi trưởng thành, vẻ đẹp ấy không chỉ có thể so sánh với những điều tinh
túy trên thế gian mà phải vượt lên khỏi giới hạn trần thế: “Thoa vàng cài mái
tóc tựa tiên”.
Vẻ đẹp ngoại hình của Kim Nữ (Truyện Chiêu Đức) cũng được tô tạc với
những nét vẽ lộng lẫy, xinh tươi như vậy. Nếu như khi giới thiệu hoàn cảnh
xuất thân của nhân vật, những truyện thơ khác đều ngầm ý nói đến vẻ đẹp ngay
thì truyện Chiêu Đức lại ngầm để chi tiết này lại phía sau. Phải cho tới khi Kim
Nữ cất lời phải trái, nói cùng cha mẹ về lời hẹn ước giữa hai gia đình và thái độ
kiên quyết của mình, những cụm từ miêu tả ngoại hình của nàng mới xuất hiện.
Khi nghe tin cha mẹ có ý bội ước vì gia cảnh Chiêu Đức đổi thay, Kim Nữ
không khỏi lo lắng:
Nàng Kim Nữ thanh tân đẹp đẽ
Tháng năm trôi ơn kể mẹ cha
Đầy tiết thái dương nga yểu điệu
Đoạn thơ vừa khắc họa sự lắng lo của Kim Nữ, vừa khéo léo miêu tả
ngoại hình của nàng. Một loạt những từ ngữ gợi hình, gợi tả hiện lên rõ ràng.
Đó là người con gái “thanh tân đẹp đẽ”, là nàng “dương nga yểu điệu”.
Những đoạn thơ sau, tác giả đã không hề giấu diếm sự ngợi ca khi liên tiếp
gắn tên tuổi Kim Nữ với những danh từ, những điển cổ quen thuộc trong hệ
thống truyện thơ Nôm Tày như: Nàng Văn Đăm Kim Nữ, nàng ngọc, ngọc nữ,
lụa hoa, Ngọc Khôi Châu… Tất cả đều gợi lên một vẻ đẹp duyên dáng, thướt
tha, lộng lẫy của nàng.
Tuy nhiên một điều chúng ta cũng có thể nhận thấy đó là vẻ đẹp của
những người phụ nữ này chỉ dừng lại ở việc miêu tả chung chung, mang tính
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
khái quát ước lệ nhiều hơn là miêu tả cụ thể, chi tiết. Và sự truyền tải của nghệ
thuật ngôn từ ở đây đôi khi trở nên đơn điệu, chưa thực sự được trau chuốt như
văn học chữ Nôm quốc ngữ. Đơn cử, trong thơ Hồ Xuân Hương, vẻ đẹp của
người phụ nữ luôn được khắc họa một cách mĩ miều, gợi cảm nhưng không
kém phần tế nhị, khéo léo:
Đôi gò Bồng Đảo sương còn đậm
Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông
Hay trong Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn (bản diễn Nôm của
Đoàn Thị Điểm), người chinh phụ cũng tự ý thức được vẻ đẹp của mình. Bản
thân nàng là một phụ nữ trẻ có ngoại hình xinh đẹp “nhan sắc đương thì hoa
nở”. Nàng kiêu hãnh ngầm so sánh với những mĩ nhân xưa như Văn Quân, Phan
lang. Văn Quân tức Trác Văn Quân, sống ở đời Hán, nổi tiếng xinh đẹp, văn hay:
Kìa Văn Quân mĩ miều thuở trước
E đến khi đầu bạc mà thương
Mặt hoa nọ gã Phan Lang
Sợ khi mái tóc pha sương cũng ngừng
Nghĩ nhan sắc đương chừng hoa nở
Tiếc quang âm lần lữa gieo qua
Tóm lại, người phụ nữ trong các truyện thơ Nôm Tày ngay từ đầu đã
hiện lên với vẻ đẹp đẽ, cao sang quyền quý, đúng như lời nhận xét của nhà
nghiên cứu Vũ Anh Tuấn: “Các nhân vật chính là nữ giới thì ai cũng là người
có dòng dõi quyền quý nhưng đều có đức hạnh, đẹp người đẹp nết” [42, 180].
Và đây chính là bước khởi đầu để người đọc tiếp tục được cảm nhận những vẻ
đẹp trong tâm hồn, phẩm chất của họ.
2.2. Người phụ nữ có khát vọng yêu đương mãnh liệt và luôn chủ động
trong tình yêu, hôn nhân
Người phụ nữ trong truyện thơ Nôm Tày không hiện lên một cách yếu
đuối, thụ động mà ở họ luôn tràn đầy sức sống và khát vọng yêu đương mãnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
liệt. Nhà nghiên cứu Hoàng Triều Ân cho biết: “Với dân gian miền núi, nữ
cũng có quyền ao ước và hò hẹn người bạn tình mà mình mến” [2, 12]. Mặc dù
vậy lễ giáo phong kiến vẫn áp đặt lên họ rất nhiều điều ràng buộc. Chính tình
yêu trong sáng, hồn hậu, nồng nàn không màng danh lợi đã khiến cho các cô
gái có suy nghĩ và hành động mạnh mẽ, chủ động vượt qua những rào cản quan
niệm khắt khe để bảo vệ tình yêu của mình.
Ngày xuân, chứng kiến cảnh ong và hoa cất lên những lời yêu đương hò
hẹn, quyến luyến thảm thiết khi tình duyên bị ngăn trở, nàng Kim chạnh lòng
khao khát hạnh phúc lứa đôi. Hành động của nàng bị xem là “làm xấu đạo nơi
cõi thượng” nên đã bị Bụt Cả trừng phạt: “Cho xuống trần xây dựng vợ chồng/
Khỏi uế tạp đây vùng thượng giới”. Nàng bị đày xuống chốn trần gian “nặng
chân bước lên thuyền” rồi lạc vào nơi núi sâu rừng thẳm và “Bỗng hóa khỉ đầy
người lông lá”. Khát vọng hạnh phúc lứa đôi nơi trần thế giúp nàng không
ngừng cố gắng và cuối cùng, nàng đã có được cuộc sống hạnh phúc bên Chúa
Ba. Trong truyện Lý Lan - Thị Dung chúng ta cũng cảm nhận được tình yêu
mãnh liệt của người con gái. Mặc dù sống trong khuôn khổ lễ giáo phong kiến
nhưng Thị Dung luôn giữ vai trò chủ động trong tình yêu. Nàng đích thân sắm
sửa và đưa lễ vật cho người hầu mang đến ngỏ lời với chàng Lý Lan. Nàng
cũng chính là người chủ động đến gặp mặt, trò chuyện, tâm sự cùng chàng và
không ngại ngần thổ lộ tình cảm của mình:
Nàng một thân gái trinh thiếu nữ
Được thấy người quân tử dòng quan
Dạ ước kết nhân duyên phu phụ
Hành động “Nàng cởi áo trên người cho bạn/ Để anh đi nhìn mặt người
xinh” của Thị Dung quả là rất táo bạo, thể hiện tình yêu mãnh liệt vượt lên trên
những ràng buộc của quan niệm đương thời. Nàng Quyển yêu Trần Chu là
chàng trai mồ côi nghèo khổ phải đi ăn xin. Trong tình yêu nàng Quyển có thái
độ quyết đoán và rất chủ động. Khi Trần Chu từ chối “Tôi không dám lấy nàng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
công chúa” vì mặc cảm thân phận mình, nàng đã bày tỏ ý kiến với vua một
cách rõ ràng và thẳng thắn: “Con muốn được kết duyên với Trạng”. Thị Đan
cũng là người con gái với tình yêu say đắm và chân thành, yêu đương chủ động
và mãnh liệt:
Ta khác say mê mệt với người
Yêu tha thiết tận nơi tim đỏ
Khi gặp người yêu nàng không ngại ngùng mà giãi bày tình cảm nồng
nàn của mình:
Về thấy anh lòng nở như hoa
Như rồng mây gặp nhau ta sánh
Như trời mưa gặp cảnh hạn lâu
Như ngoài biển nước sâu gặp cá
Cá nước cùng vùng vẫy ngoài khơi
Như ong mật gặp khi hoa nở
Gặp mặt anh em đã hết buồn
Người con gái với tình yêu nồng nàn, say đắm ấy cũng đóng vai trò chủ
động trong việc hẹn hò. Chàng Nam Kim chấp nhận số phận, yêu chỉ biết “Yêu
nhau để trong tim em hỡi” nhưng đối với Thị Đan, yêu nhau không thể chỉ “để
trong tim” mà còn phải được gặp nhau để thỏa niềm mong nhớ. Vì thế nàng đã
chủ động hẹn gặp gỡ người yêu:
Nam Kim hỡi, em mong trong dạ
Mỗi tháng hãy dăm bữa đến chơi
Lòng ước được gặp nhau cho thỏa
Hẹn hăm nhăm, anh nhớ, tháng ba
Đến chợ chơi một phiên cho thỏa
Em dặn chàng em ngỏ lời mong
Khi cùng Nam Kim cắt máu thề nguyền, nàng cũng hết sức mạnh mẽ
“Thị Đan bứt là hứng máu tươi/ Chìa tay nói trích tay em trước”. Từng lời nói,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
hành động của nàng đều cho thấy hình ảnh một người phụ nữ luôn khao khát
yêu, được yêu và luôn chủ động trong tình yêu. Không giống những người con
gái khi gặp trắc trở chỉ biết than khóc, oán trách số phận, nàng Kim Nữ trong
truyện Chiêu Đức đã dũng cảm đối mặt với thực tại, dám thẳng thắn oán trách
việc làm không đúng của cha mẹ, dùng lí lẽ để thuyết phục cha mẹ từ bỏ ý định
sai trái và nàng đã luôn chủ động trong việc giúp đỡ, bày tỏ tình cảm với Chiêu
Đức. Chính tình cảm sâu nặng mà mặc dù chưa nên vợ nên chồng, giữa pháp
trường nàng đã bất chấp lễ giáo, sẵn sàng “Xông vào thổn thức ôm quan”. Kim
Nữ luôn thể hiện vị thế chủ động của mình trong chuyện tình cảm và hôn nhân.
Chủ động lựa chọn và đến với tình yêu còn có nàng Hán Xuân trong
truyện Lưu Đài – Hán Xuân. Vẫn biết Lưu Đài là chàng trai mồ côi nghèo khổ
nhưng Hán Xuân vẫn yêu thương. Lưu Đài mặc cảm về thân phận của mình
nhưng nàng Hán Xuân đã tự tay khâu áo rồi nhờ người hầu gái đến gặp Lưu
Đài để giúp nàng bày tỏ tâm tình. Nhiều lần Lưu Đài không dám nhận tấm chân
tình của nàng nhưng Hán Xuân vẫn quyết tâm “Thức nghe chàng đọc thơ văn
sách/ Dù chết ta kết nghĩa không tha”. Nàng đã chủ động đến trực tiếp gặp
chàng và giãi bày tình cảm: “Chàng là người học trò thiếu niên/ Cho em xin kết
duyên chớ phụ”. Ngoài ra Hán Xuân còn đem những tấm gương thời trước để
thuyết phục Lưu Đài hãy đón nhận tình yêu của mình:
Được thấy chàng đói rách em yêu
Khó nào bằng Thuấn, Nghiêu đời cổ
...
Hai ta sẽ noi gương thượng cổ.
Nàng dành cho chàng tình yêu trong sáng vượt lên trên suy tính vật chất
và quan niệm môn đăng hộ đối thông thường.
Các cô gái xinh đẹp, có địa vị cao sang đã dũng cảm lựa chọn người yêu
và chủ động bày tỏ tình cảm của mình. Tình yêu và hôn nhân đến với họ hết
sức tự nhiên và xuất phát từ trái tim chứ không phải do sự sắp đặt của cha mẹ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Họ đã vượt lên trên những quan niệm phong kiến khắt khe kìm kẹp người phụ
nữ để chủ động đến với chàng trai mà họ yêu thương. Họ sẵn sàng đấu tranh để
bảo vệ tình yêu của mình. Hạnh phúc mà họ đạt được chính là thành quả của
tình cảm chân thành, của khát vọng hướng tới tình yêu chân chính.
2.3. Người phụ nữ nhân hậu, đảm đang, nghĩa tình, chung thủy, giàu đức
hy sinh
Phẩm chất đáng quý, đáng trân trọng của những người phụ nữ trong
truyện thơ Nôm Tày còn là lòng nhân hậu, nghĩa tình, chung thủy, đảm đang
giỏi lo toan công việc gia đình. Người phụ nữ ở đây là hiện thân của cái đẹp,
cuộc đời họ gặp nhiều gian khổ nhưng cuối cùng họ đã vượt qua để có được
hạnh phúc. Quá trình đi tìm hạnh phúc cũng chính là quá trình họ tự vươn lên
để khẳng định vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách.
Theo quan niệm của người Á Đông, người phụ nữ chuẩn mực cần biết
đem đến sự hài hòa trong các mối quan hệ gia đình. Với chồng là thủy chung,
son sắt, nghĩa tình; với con là yêu thương, hy sinh, tận tụy. “Đàn ông xây nhà,
đàn bà xây tổ ấm” là bởi vậy. Trong truyện thơ Nôm Tày, quan niệm này cũng
phần nào được phản ánh. Người phụ nữ hiện lên với phẩm chất điển hình của
một người vợ, một người mẹ.
Trước hết, chúng tôi nhận thấy nét phẩm chất này ở nhân vật nàng Từ
Thị (mẹ của Tống Kim) trong truyện thơ Tống Kim. Bà là người vợ yêu chồng
hết mực. Sau khi hai vợ chồng cầu cứu Thần Phật, hạ sinh Tống Kim được sáu
năm, chồng bà lâm bệnh nặng. Với tình yêu sâu đậm, Từ Thị đã đem tất cả đức
tin cầu cứu khắp nơi:
Từ Thị nước mắt chứa chan liền bảo
Hay ma đâu về đợi cúng ăn
Nghe rằng ở phố Nam thầy bói
Theo chân nàng liền tìm đến nơi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Chắp tay trình sư ông tức khắc…
Tình yêu và nghĩa vợ chồng đã khiến Từ Thị không thể ngồi yên than
khóc. Nàng gửi gắm niềm tin mong manh vào thế lực siêu nhiên để cứu lấy
chồng. Dù là mù quáng, mê tín song đặt trong bối cảnh văn hóa, xã hội mà
truyện thơ Tống Kim ra đời, ta có thể cảm nhận được sự cố gắng của người vợ
trẻ. Khi mọi chuyện đã an bài, Từ Thị không giấu nổi sự đau đớn, xót xa. Một
đoạn truyện gần 50 câu thơ đã khắc họa tiếng khóc, nỗi tủi buồn thường trực
của nàng trước sự ra đi của Tống Đôn. Những động từ/ cụm động từ thuộc
trường từ vựng đau khổ, thương xót liên tiếp, trực tiếp được sử dụng với tần
suất dày đặc đã diễn tả thành công nét tâm trạng này như: nước mắt rơi lã chã,
nước mắt chứa chan, bàng hoàng, nước mắt tuôn trào khóc, nước mắt chảy
thương quan, khóc thảm thiết nỗi thương, quanh quẩn khóc thương, đứt ruột
nỗi trời, khóc vật vã nỗi thương, khóc than động trời, nước mắt rơi thành bể,
đêm đêm khóc thảnh… Thực sự, người vợ phải có tình cảm son sắt, đậm sâu và
thủy chung thì mới đau buồn đến tột cùng như vậy. Tình cảm dành cho người
chồng trở thành một nét tính cách, phẩm chất tiêu biểu là bởi thế.
Thị Lương vốn là người con gái “tươi tắn”, “giữ phận gái”, đang “có
giá”, còn trẻ “thiên duyên chưa định” nhưng nàng chấp nhận làm vợ kế của
Trần Bằng. Tuy là mẹ kế nhưng nàng coi “Con chồng có khác gì con đẻ?” và
hứa với chồng: “Dẫu khi hết gạo sẽ xin ăn/ Không để con đói cơm nhịn mặc”.
Nàng đảm đang, lo chu toàn mọi việc để chồng đi chiến trận:
Chàng đi việc thiên hạ đế vương
Em ở lại trông nom gia thất
Việc cửa nhà thu xếp sửa sang
Đạo tam tòng, tao khang nghĩa nặng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Việc cửa nhà cáng đáng mặc em
Khi chồng đi ra trận đánh giặc, một mình nàng đã:
Đêm ngày nuôi con trẻ chờ chồng
Việc cửa nhà lo toan chu đáo
Cơm nước nàng tần tảo hôm mai
Thịt cá chẳng đơn sai trưa tối
Không để con đói rét một phân
Người mẹ kế tốt bụng như nàng quả là rất đáng quý trọng.
Cũng như những người vợ khác, Thị Trinh trong truyện Lý Thế Khanh
đảm đang, luôn hết lòng hết sức chăm lo cho gia đình:
Cửa nhà việc sửa soạn gia đình
Giao để em trắng manh lo lắng
Ruộng nương việc hôm sớm em toan
Khi chồng đi tham gia chiến trận, nàng một thân một mình gánh vác việc
gia đình để cho chồng yên tâm: “Miễn là việc đánh chác được yên/ Còn việc
nhà thì em cáng đáng/ Không phiền anh lo lắng làm chi”. Ngay cả khi chồng
nghe lời gièm pha mà phụ bạc, đánh đập, đày đọa mấy mẹ con vào chốn rừng
sâu núi thẳm, nàng vẫn cố gắng để sống và chăm sóc, nuôi nấng hai đứa con.
Hơn nữa, là một người xuất thân trong chốn quyền quý, được học hành đến nơi
đến chốn nên ngay cả trong những ngày đói khổ phải đào củ rừng để nuôi mình
và nuôi con, Thị Trinh vẫn dạy dỗ hai con học hành “thông thiên văn địa lí sử
kinh”. Những người phụ nữ như nàng Kim, Thị Lương, Thị Trinh... đã để lại
trong người đọc niềm yêu mến và cảm phục bởi sự khéo léo, đảm đang, giỏi
vun vén lo toan công việc gia đình. Thành công của người chồng luôn có bóng
dáng và công lao của những người phụ nữ giỏi giang ấy.
Bên cạnh đó, một lần nữa, nét phẩm chất này được trở lại, làm sáng tỏ
tính chất đại diện của nó đối với việc khắc họa hình tượng người phụ nữ Tày
trong truyện thơ Nôm qua nhân vật nàng Nghi Xuân. Trong mối quan hệ với
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Tống Kim, nàng là một người vợ chuẩn mực, thủy chung.
Niềm vui khi đón nhận đứa con đầu lòng chưa thỏa ngày tháng, hai vợ
chồng Tống Kim - Nghi Xuân đã phải rơi vào tột cùng đau khổ khi con mất:
Cầu chưa đủ ba năm đã hết
Không biết số mường trời định phận
Con mang bệnh ngày đêm trong gác
Hai ngày liền mất xác tàn hoa
Hơn ai hết, một người mẹ mang nặng đẻ đau sẽ thấu hiểu tận cùng nỗi xa
xót khi mất con. Nghi Xuân cũng vậy. Lẽ ra, đây là lúc nàng phải được chồng
ủi an, bù đắp. Nhưng nỗi đau xót quá lớn khiến cho Tống Kim chìm vào sự
buồn bã kéo dài và chính Nghi Xuân là người đồng cảm, động viên chồng.
Nàng hòa nỗi đau của mình vào nỗi đau của chồng để “ngày đêm bên chồng”,
chia sẻ, cảm thương.
Nỗi đau đớn ấy đã khiến cho Tống Quan lâm bệnh nặng. Nghi Xuân
không bởi thế mà xa rời, ruồng rẫy chồng. Trái lại, những suy nghĩ, dự định
hay hành động của nàng đều thể hiện tình yêu sâu nặng và lòng thủy chung
đáng ngợi ca của người phụ nữ. Nàng “đau xót”, “đứng lặng” khi chứng kiến
cảnh bố mình bắt người chồng đang ốm nặng vào rừng già lấy chuối nhưng
không dám cãi lời cha. Nàng “vội vàng phóng thuyền” theo tìm khi thấy chồng
không trở lại:
Thấy Tống Kim lên rừng chẳng lại
Lập tức liền vội vàng phóng thuyền
Nghi Xuân nàng xinh đẹp gọi bảo
Chồng tôi còn ở bụi trong rừng
Cùng cha bơi thuyền xuống ghềnh nước
Nhưng khi ngọn lửa trong lòng nàng đang cháy rực nỗi lo âu, cố gắng
tìm chồng thì cũng là lúc, Lô Thị dập tắt bằng sự lạnh lùng, để lại trong lòng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nàng lớp tro tàn của sự ê chề, xót đau. Nàng cất lên lời than trách cha mình “ăn
ở bạc đức bất nhân”. Nàng khẳng định tình yêu, lẽ sống làm người khi cha
khuyên tái giá. Nàng sẵn sàng chấp nhận quãng đời còn lại bên Tống Kim dẫu
chàng nặng bệnh. Nàng nguyện ý lựa chọn cái chết để giữ lại chút phẩm giá,
danh dự cuối cùng cho gia đình. Có thể thấy, cách suy nghĩ sâu sắc, cách hành
xử quyết liệt của Nghi Xuân đã tô tạc nên phẩm tiết của người phụ nữ Tày. Họ
không chỉ gắn bó bằng tình yêu mà còn bằng tình nghĩa và đạo lý trong đời. Họ
sẵn sàng đánh đổi nếu sự sống không còn ý nghĩa đích thực. Không dừng lại ở
đó, nàng Nghi Xuân còn thể hiện trách nhiệm một ngày vợ chồng, nghìn năm
ân nghĩa khi nàng quyết không từ bỏ, lặn lội vào chốn rừng sâu núi hiểm tìm
Tống Kim. Vì thương con gái, Lưu ông chèo thuyền ba ngày ba đêm tới bến
sông cũ để Nghi Xuân tìm chồng:
Ba ngày mới đến nơi chốn cũ
Lập tức đỗ thuyền vào dưới rừng
Đoạn rồi nàng Nghi Xuân lên rừng
Vừa khóc nàng vừa tìm chàng Tống
Thương hỡi nước mắt rơi ướt mặt
Trong suốt hành trình tìm chồng đầy gian khổ, Nghi Xuân chưa một giây
phút buông bỏ. Nàng gửi trọn tình cảm vào từng bước chân, từng tiếng gọi
nhưng rừng già thẳm sâu, tiếng gọi cất lên chỉ có lời vọng vang về dội vào tâm
khảm cô đơn của nàng đầy xa xót. Khúc truyện này liên tục sử dụng hệ thống
động từ, cụm động từ gợi liên tưởng đến tâm trạng ai oán, dáng vẻ thẫn thờ của
Nghi Xuân: vừa đi vừa than thương vừa gọi, thêm xót xa, trách cha mẹ gian ác,
sầu lo thương chồng, sướt mướt nước mắt chảy đêm ngày, buồn thân, đau lòng,
than hồn… Không tìm thấy chồng, Nghi Xuân một lần nữa nghĩ đến việc lấy
cái chết để chuộc trả lỗi lầm của cha mẹ. Nàng phân định rất rạch ròi giữa tình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
và hiếu để cha mẹ hiểu ra lỗi lầm và nỗi lòng người vợ thủy chung:
Nghi Xuân cất lời nói mới thưa
Công cha nuôi Nghi Xuân đã lớn
Sao cha ở gian trá bất minh
Con chết thấy Tống Kim mới đành
Không thấy con lại sông cho thấy
Cha hãy ở lại sau lưng đừng ngóng
Tác giả dân gian đã khắc họa một cách rõ nét nét tính cách này của nhân
vật Nghi Xuân khi ở kết truyện, nàng quyết không tái giá mà để tang chồng.
Nàng là đại diện tiêu biểu của những người phụ nữ trong đời sống hằng ngày -
những con người xuất thân bình thường nhưng có dung nhan, có phẩm hạnh
cao đẹp. Nghi Xuân hay Từ Thị đã phần nào thể hiện sự thống nhất trong cách
phản ánh, tô tạc nhân vật người phụ nữ Tày trong văn học giai đoạn này, đặc
biệt là thể loại truyện thơ Nôm.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần lưu ý hình tượng nhân vật người phụ nữ
Lô Thị. Lô Thị không phải nhân vật được xây dựng trên nguyên tắc trong sáng
thuần khiết từ đầu đến cuối truyện như Từ Thị hay Nghi Xuân. Bà là người mở
lòng từ bi đón nhận kiếp đời cơ cực của Tống Kim, là người gả con gái cho
chàng trai côi cút, bần hàn nhưng cũng là người cùng Lưu ông bày mưu giết
con rể để gả con gái đi nơi khác. Xét về phương diện đạo lý, hành động ấy của
Lô Thị là không thể chấp nhận được, là một biểu hiện phi nhân nghĩa. Song,
nếu xét cho cùng, mục đích của sự sai trái cũng bắt nguồn từ tình yêu con đến
vô bờ của một người mẹ. Làm điều trái lương tâm nhưng đổi lại, bà chấp nhận
bởi mong muốn một cuộc sống, một tương lai an bình cho con gái mình. Rồi
khi Nghi Xuân biết chuyện, đòi chết, Lô Thị đau đớn hơn bất kì ai. Bà vội vã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
theo ý con, bước ra khỏi con đường lầm lạc:
Cha mẹ lo khốn cùng với nhau
Ắt ta nghe lời con đi thôi
Không có con bỏ mạng mất thân
…
Đau xót nàng Dương Nga khóc chồng
Nàng tìm quay lại sông tự vẫn
Lô Thị ôm Nghi Xuân không thả
Nói như vậy không có nghĩa là cổ súy cho Lô Thị, thông cảm về hành
động ác độc của bà. Tình yêu con của Lô Thị không sai. Cái sai lớn hơn cả là
hành động mù quáng của bà.
Hay trong truyện Nàng Ngọc Long, nhân vật chính cũng thể hiện nét
phẩm chất, tính cách này. Ngọc Long được giới thiệu là vợ của Trạng
nguyên Nam Kinh. Cuộc hôn nhân của hai vợ chồng không qua giai đoạn
yêu đương, tìm hiểu. Con đường đi tới hôn nhân của nàng thật giản đơn, mọi
sự trông cậy vào Bà Nguyệt xe tơ. Trong cuộc sống hôn nhân, Ngọc Long là
một người vợ đảm, hết mực yêu thương, chia sẻ với chồng. Trái ngọt của
tình yêu được đơm kết:
Nam Kinh cùng ngọc nữ sum vầy
Năm sau nàng sinh trai tuấn tú
Diện mạo người thượng đế mường trên
Hình dong con tướng quân Bắc Đẩu
Tình mẹ con yêu dấu chứa chan
Đặt tên gọi Xuân Lan con cả
Ngày ngày vui thư thả như xuân
Nàng đã làm trọn bổn phận của một người vợ, hạ sinh cậu con trai đầu
lòng khôi ngô, tuấn tú. Cuộc sum vầy chẳng được bao lâu, Ngọc Long bị trở
thành cống phẩm dưới trướng sứ giả. Nàng không trách chồng quan cao mà
chẳng bảo vệ được vợ mà thông cảm với hoàn cảnh của chồng, thương chồng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
hết mực:
Hỡi vía! Số thiên tôn đã định
Vợ chồng hoa quyện bướm chớ quên
Nàng nhắn nhủ về lòng thủy chung giữa hai vợ chồng để dặn dò chồng,
cũng là để dặn lòng chớ quên tình nghĩa. Dù đối diện với vua Tần dâm ác,
Ngọc Long vẫn giữ trọn tấm lòng son sắt của mình. Nàng luôn giành lấy cơ hội
thể hiện thái độ một cách khôn khéo, thông báo cho vua Tần mình là người có
chồng, có con:
- Tôi là người nước Nam thiếu phụ
Vua cử tôi sang sứ Tần bang
…
Con nhỏ tôi chờ bú sớm hôm
Khi vua Tần không đếm xỉa đến danh dự, lấy lời đường mật dụ dỗ
Ngọc Long:
Nàng cố yêu quan Trạng, không khôn
Làm vợ vua trăm phần quý trọng
…
Vài nghìn lạng bạc vàng đưa trả
Ta lấy một tiên nữ Ngọc Nương
thì Ngọc Long không chút do dự, phân vân vì trái tim nàng đã khắc tạc hai chữ
“thủy chung” nơi Nam Kinh Nam Quốc. Nàng thẳng thắn:
Ngọc Long nàng im lặng không rằng
Chỉ bĩu môi cắn răng chẳng nói
Cử chỉ “bĩu môi” của Ngọc Long hàm ẩn thái độ khinh bỉ, coi thường
của người tiên nga trước lí lẽ vô lối của vua Tần bang. Ngọc Long không
những không cảm kích, không hoa mắt trước bạc vàng mà còn thương nhớ
Nam Kinh hơn nữa:
Ngọc Long rối trăm khúc tơ vò
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Nàng nhớ chồng buồn lo sớm tối
Bằng tình yêu mãnh liệt, thủy chung của mình, Ngọc Long vẫn tin tưởng
về ngày đoàn tụ với chồng con. Nàng viết thư gửi chồng:
Khổ ngày nay sau hẳn được hay
Sớm muộn thiếp có ngày hồi cố
Vợ chồng con đoàn tụ suốt đời
Phong văn ngắn lòng người nghĩa cả
Chân tuy xa lòng ở cố hương
Trong mối quan hệ với Nam Kinh, Ngọc Long là một người vợ hiền,
thủy chung, hết mực yêu thương chồng. Trong mối quan hệ với Xuân Lan,
Ngọc Long lại là một điển hình ngời sáng tình mẫu tử thiêng liêng. Tình cảm
với chồng, với con luôn song hành. Trên đường bị ép đi sứ, Ngọc Long tâm
trạng rối bời:
Lòng nàng lo bối rối khóc than
Thương chồng con gia san quê tổ
Con dại tìm sữa mẹ sớm hôm
Xuân Lan khóc một thân lăn lóc
Nàng đau đớn khi phận nữ nhi phải gánh chịu những sự bất công trong
xã hội. Nỗi đau ấy nàng có thể hiểu thấu nhưng bề trên nào có hay. Nàng chỉ
biết cất lên tiếng than kêu thấu tận trời xanh:
Trời hỡi trời, trăm ngàn cay đắng
Bỏ con thơ bé bỏng ở nhà
Bắt mẹ đi phương xa sứ sự
Nỗi lòng ấy cất lên tận đấng tối cao như một mũi tên bắn thẳng lên trời.
Nó khiến cho ta liên tưởng tới lời than trách của người chinh phụ trong “Chinh
phụ ngâm khúc”. Họ đều là những người phụ nữ mỏng manh nhưng phải gánh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
lấy bao bất công trong xã hội:
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm tầng trên
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này?
…
Trên trướng gấm thấu chăng hay nhẽ
Mặt chinh phu ai vẽ cho nên?
Nỗi nhớ, niềm thương dành cho con cứ khắc khoải trong trái tim người
mẹ trẻ. Trên đường về kinh đô nhận chiếu chỉ vua Nam, khi đi qua đoạn
đường rừng, chỉ nghe tiếng ong ve than thở, nàng cũng chạnh lòng thương
nhớ con trai:
Hàng lệ tuôn ướt cả yếm hồng
Vừa thương con vừa thương chồng thương số
Con dại khắc vò võ đêm ngày
Khát đòi bú ai hay ai biết?
Ong ve kêu thảm thiết nỉ non
Mẹ đứt ruột tưởng con kêu khóc
Nàng đau như đứt từng khúc ruột khi nghĩ đến cảnh con nhỏ Xuân Lan
đang sống trong cảnh thiếu thốn tình mẹ nghĩa cha. Dọc đường dài, khi vào
nghỉ trọ đêm, nàng vẫn canh cánh nỗi nhớ con khôn nguôi:
Nước mắt chảy nhớ con khát sữa
Suốt đêm thâu những nhớ những thương
Không nhắm mắt không cơn buồn ngủ
Khi nghe tin có quân Nam đến đánh vào kinh đô Tần, Ngọc Long cháy
lên ước mơ được gặp lại chồng con:
Nước mắt sa nghẹn lời nức nở
Ngọc Long được về nước thực đây?
Mong mãi được có ngày hồi cố
Gặp chồng gặp con cả quê hương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Hết ngày mưa lẽ thường ngày nắng
Có thể thấy mơ ước, khao khát, tình yêu chồng thương con của Ngọc
Long chưa bao giờ nguôi ngoai, nguội lạnh. Nó như đốm lửa âm ỉ cháy dưới lớp
tro tàn, chờ đợi một ngọn gió thoảng sẽ lại bùng cháy mạnh mẽ. Tình cảm của
người phụ nữ bất diệt là như vậy. Tác giả dân gian đã dồn bao tình cảm, tâm
huyết để khắc họa tình cảm của người mẹ đối với đứa con thơ thật đáng ngợi ca.
Nhân vật Hán Xuân trong truyện thơ Lưu Đài - Hán Xuân là một minh
chứng cho phẩm chất này. Hán Xuân cũng như biết bao hình tượng người phụ
nữ trong truyện thơ Nôm Tày khác, là một người phụ nữ chuẩn mực của gia
đình. Họ luôn một lòng thủy chung với chồng, cùng chồng chia sẻ mọi khó
khăn trong cuộc sống. Khi Lưu Đài chưa có gì trong tay, Hán Xuân hằng ngày
âm thầm giúp đỡ chàng. Cuộc gặp gỡ, đính ước của Hán Xuân và Lưu Đài
được khắc họa như một mối duyên trời định. Khi Hán Xuân cất lời xin:
Số tôi sinh xuống nơi trần thế
Kết duyên lo lạc lối lênh đênh
Hương tới Bụt Đào Nguyên thượng quán
Hương thấu lên thượng giới Mẹ Hoa
Tôi có chiếc khăn thêu theo mình
Nơi nào đáng thì nên duyên chồng vợ
Cho sum vầy phu phụ tào khang
Khăn hãy vượt Tây Sơn tìm tới
Nói rồi, Hán Xuân tung chiếc khăn lên trời. Chiếc khăn kỉ ước rơi vào
vai Lưu Đài - người nàng tương tư như một sự sắp đặt của Mẹ Hoa. Khi đã nên
duyên vợ chồng, Hán Xuân một lòng hướng về Lưu Đài. Nhậm chức chưa
được bao lâu thì đất nước gặp biến cố. Tần Vương đòi cống nạp, vua sai Trạng
nguyên nghĩ kế đối phó, trực tiếp đi sứ. Hán Xuân nghe tin và sẻ chia nỗi lo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
lắng với chồng. Thậm chí, nàng sẵn sàng rời mường theo hầu chồng:
Quan nàng thắng dù ngựa liền đi
Hán Xuân dặn ông bà mọi nỗi
“Phép vua không thể chối việc quan
Con phải đi với chàng làm bạn”
Trên con thuyền của hai vợ chồng tới đất vua Hác, Lưu Đài và Hán Xuân
gặp biến cố:
Lại đến đất Hung Nô ngàn dặm
Tứ bề nước biển dậy sóng xanh
Nước toàn những quân tinh Nồng Hác
Đây là trận bão do con gái Long Vương tạo ra để bắt Lưu Đài về, ép
chàng trở thành chồng ả. Từ đây, Lưu Đài và Hán Xuân chia lìa đôi ngả. Lưu
Đài bị bắt xuống thủy cung, Hán Xuân trôi dạt vào đất quỷ Ngô Cương. Khi ấy,
nàng vẫn đang có bầu. Một thời gian sau, nàng hạ sinh một bé trai ở đất quỷ.
Thế nhưng, đây cũng là quãng thời gian thử thách lòng chung thủy của Hán
Xuân. Một mẹ, một con nơi đất lạ, lại bị Chúa Ngô Cương ép duyên:
Nàng ôm con thiếu niên vào tới
Chúa Ngô Cương ngự đợi thấy nàng
Sáng ngời bóng hào quang đẹp quá
Thấy nàng bồng con cả mến thương
…
Chúa xin kết em đẹp làm đôi
Mẹ con Hán Xuân thân cô, thế cô giữa đất người, lại bị một tên Chúa đất
ngỏ lời bất chính nhưng không vì thế mà nàng phản bội chồng. Hán Xuân cất
lời tỏ bày về hoàn cảnh như một cách chối từ khôn khéo:
Gửi lời sứ đến nhà hãy nói
Tôi là người trần thế dương gian
Mới sinh chưa sạch thân còn bẩn
Thương nhau gửi lời nói phí không
Thanh xuân hoa nở bông mới đáng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Thực sự tôi không dám hầu người
Câu trả lời của Hán Xuân vừa thể hiện sự thông minh, vừa khẳng định sự
thủy chung nhất mực của nàng. Thế nhưng, đánh đổi lại, Hán Xuân phải chịu
một trận đòn thập tử nhất sinh. Ba mươi gậy đánh quanh thân đẹp, nàng đành
chờ chết mím môi.
Suốt quãng thời gian lạc đến mường trời, được Phật Bà Quan Âm nuôi
nấng và dạy cho các phép thần thông, Hán Xuân vẫn không nguôi nhớ chồng.
Sau đó, nàng đi tìm và giành lại hạnh phúc. Cuộc sum vầy sau bao gian khó
tưởng chừng như sẽ hạnh phúc viên mãn nhưng Trạng nguyên Lưu Đài và Hán
Xuân lại một lần nữa phải ra trận đánh giặc Tần. Lần này, lực lượng nhà Tần
đông đảo hơn rất nhiều:
Tâu quân vua Tần đông gấp bội
Quân ta đã chống chọi ba ngày
Có đánh được giặc này hay chẳng
Chư hầu mười tám nước lắm quân
Lần này, Hán Xuân vẫn kề vai sát cánh bên chồng. Nàng dùng những
phép thần thông được dạy để giành chiến thắng cho đất nước, giúp chồng hoàn
thành nhiệm vụ gian khổ.
Truyện thơ Nàng Kim cũng đem đến một hình tượng người phụ nữ chuẩn
mực của gia đình, đó là Nàng Kim. Trước hết, ta nói về cuộc gặp gỡ giữa nàng
Kim và Chúa Ba. Nàng Kim vì phạm vào luật trời nên bị đuổi khỏi đất Phật.
Khi xuống dương thế, nàng trở thành nàng tiên đội lốt khỉ. Nàng đã thoát khỏi
hoàn cảnh khốn khó bằng lao động chân chính. Nàng dùng móng tay để chẻ
từng sợi lạt trúc mỏng tanh và đan nên những tấm chiếu cót tinh xảo, trên mặt
chiếu nổi thành những hoa văn mây bay, rồng cuốn…
Một lớp là nống ngang nống dọc
Một lớp cá nhô nhấp thủy ba
Lớp rồng ngậm châu sa bay lượn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Lớp chim hạc, chim phượng liệng xuân
Lớp thì nống kì lân giao hội
Lớp thì nống câu đối bài thơ
Chính giữa nống bàn cờ tiên sắp
Cầu vồng đủ bảy sắc mây trời
Sự khéo léo ấy không chỉ giúp nàng Kim thoát khỏi thiếu thốn, đói
nghèo mà còn là nguyên cớ của mối lương duyên với Chúa Ba (con trai thứ ba
của vua Việt Vương). Dù người bán chiếu đã khẳng định ngoại hình xấu xí
(bấy giờ) của nàng Kim:
Hình dáng ngoài lâm san rừng núi
Xấu xa không thể nói ra lời
Y khỉ vượn ở nơi rừng rậm
Ngày đêm ngồi đá phẳng núi xa
Trông giống khỉ lại là thiếu nữ
nhưng Chúa Ba vẫn muốn vượt núi để gặp người khéo léo, nết na và họ nên
duyên vợ chồng. Như vậy, chính tài năng đã khiến nàng Kim trở thành người
vợ của gia đình. Và cần nói đến chi tiết nhận lời của nàng Kim. Nàng chỉ nhận
lời khi thực sự rung cảm trước lời nói chân thành của Chúa Ba:
Nào phải tìm tiên sa thượng giới?
Chỉ đến đây hang núi tìm nàng
Chịu khó đến lầu trang, em hỡi
Một mình ở rừng núi làm chi?
Phẩm chất của người vợ này còn ngời sáng trong cuộc thi tranh ngôi
hoàng đế của Chúa Cả, Chúa Hai, Chúa Ba. Vốn là người vợ nhân hậu, tài năng,
tốt bụng và yêu thương chồng hết mực, nàng Kim đã được Bụt Cả và người trời
giúp đỡ vượt qua ba lần thi đầy bất công. Lần đầu tiên, khi vua cha đặt ra một
cuộc thi vào trận tuyến gay gắt, yêu cầu ba Chúa phải dâng cỗ đầy mâm cao lên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
cúng đức Khổng Tử, Chúa Ba và nàng đã phải chịu bất công hiển nhiên:
Đức vua liền phán nhắc truyền thanh:
- Ngày mai hội thượng kinh cúng Thánh
Hàng năm kỳ hạn định không sai
Khắp tất cả các nơi triều thượng
Giường vàng đã định hướng ngai hoa
Chúa Hai cùng Chúa Ba, Chúa Cả
Sửa mâm thi bày cỗ tiến dâng
Motif làm cỗ dâng trời đất không còn quá xa lạ trong truyện cổ như
Truyền thuyết Bánh chưng bánh giầy, Mai An Tiêm… Nhưng ở đây, ý của vua
thể hiện rõ ý o ép đối với vợ chồng Chúa Ba. Vua yêu cầu làm cỗ sang trọng,
đầy đặn song thời gian lại quá ít ỏi:
Thi xem mâm nào hơn nhiều vị
Hải sâm thêm của quý sơn hào
Được phong truyền ngôi cao đế vị
Mỗi mâm năm trăm đĩa đủ đồ
Bát bát đều thơm tho quý cảnh
Vua đã khiến cho Chúa Ba và nàng Kim – những người nghèo bị lâm
vào thế bí. Thế nhưng, vì sự nhân hậu của mình, nàng Kim và chúa Ba đã được
Bụt Cả giúp đỡ. Nàng Kim và Chúa Ba đã không thân cô thế cô trong thử
thách này. Và cuối cùng, chiến thắng thuộc về tay Chúa Ba. Như vậy, nhờ có
người vợ là nàng Kim mà Chúa Ba đã tiến gần hơn ngôi báu.
Tưởng rằng, Chúa Ba đã yên vị ngôi báu nhưng do sự ghen tị, Chúa Cả,
Chúa Hai đã xúi giục vua cha mở thêm cuộc thi may áo trong hai canh giờ.
Nàng Kim một lần nữa lại giúp Chúa Ba chiến thắng:
Mặc vào áo phẳng vạt bằng tay
Gấu như in vừa ngay đúng đúng
Phẳng lì như nước lặng ban trưa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Tưởng chừng như thước đo tại chỗ
Chiếc áo mà nàng Kim nhờ bè bạn là bầy tiên trên trời khâu giúp đã
khiến cho vua cha thốt lên lời kết luận:
- Chúa Ba lên ngôi trông thiên hạ
Hai cuộc thi cam go trôi qua, Chúa Ba và nàng Kim đã được người trời
giúp đỡ nên hết lần này đến lần khác, họ giành chiến thắng. Song, càng cố
gắng bao nhiêu thì vua cha và Chúa Cả, Chúa Hai lại càng mưu mô, lật lọng
bấy nhiêu. Lần này, vua cha nghe theo lời Chúa Cả, Chúa Hai, tổ chức cuộc
thi người:
Cho thi ba nàng dâu cung nữ
Chứ thi các hoàng tử làm chi
Cho triều thần vào đây cân nhắc
Xét nàng nào nhan sắc đẹp hơn
Phong chồng lên ngôi tôn thiên tử
Thật đáng nực cười cho chiêu trò của Chúa Cả, Chúa Hai và sự bạc
nhược của vua cha. Đến các triều thần - những người kề cận cũng phải thốt lên
rằng “khéo bày trò thi nhau”. Chúa Ba lo lắng vì người bên cạnh mình không
mang hình dáng người trần gian, làm sao có thể thi? Thế nhưng, quy luật của
truyện cổ là như vậy, ở hiền gặp lành, nàng Kim và Chúa Ba lại được mẹ Phật
giúp đỡ. Nàng Kim từ lốt khỉ nay trở lại đẹp xinh, duyên dáng trong hình hài
một tiên nga. Nàng được bầy tiên nữ hóa phép biến đổi:
Nàng Kim sáng choi chói thân người
Da trắng tựa hoa đào mới nở
Chốn Dao Trì thuốc quý thiên nhan
Nấu nước tắm cho nàng trong các
Trông Nàng Kim óng mượt xinh tươi
Chói lọi như mặt trời ban sớm
Đem sánh cả mười tám lân bang
Chẳng ai đẹp như nàng Kim Thị
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Đẹp nhất bậc dương thế cõi trung
Với ngoại hình “đẹp nhất bậc dương thế cõi trung”, Nàng Kim đã giúp
Chúa Ba đường đường chính chính nhậm vị hoàng đế. Qua câu chuyện về nàng
Kim, tác phẩm muốn giáo dục về tình cảm thủy chung giữa vợ chồng. Nàng
Kim ăn ở tình nghĩa, trước sau một lòng với Chúa Ba. Đó là đạo trời phải phép.
Vì thế, nàng Kim liên tục được bề trên nâng đỡ dù đã xuống trần gian.
Nàng Ngọc Dong là người con dâu thảo hiền, người vợ thủy chung.
Nàng vô tội nhưng vẫn phải chịu “chết oan thảm thiết” do tội của bố chồng.
Trong bất cứ hoàn cảnh nào nàng luôn thể hiện là người con dâu hiếu thuận.
Nàng nói với mẹ chồng:
Con chịu tội trước sau giữ tiết
Con mới được quay về thấy mẹ
Chúc mẹ sống bách tuế vui đời
Dẫu âm dương cách trở, nàng vẫn luôn tha thiết nhớ về chồng. Người
hầu nữ của nàng kể:
Từ ngày bà đến chốn âm ty
Nhớ chồng nhớ đêm ngày xiết kể
Hai là nhớ bà mẹ lão thân
Sớm hôm nàng buồn phiền thảm thiết
Nàng luôn quan tâm chăm sóc cho chồng từng bữa ăn giấc ngủ: “Thấy
nhau nói chưa hết phải lìa/ Đàm hỡi nấu cơm trưa cho sớm/ Để ông ăn dăm
miếng sẽ về”. Nàng sống nhân hậu, thủy chung, chan hòa với mọi người nên ai
ai cũng đều yêu mến. Đức vua cõi âm cũng phải khen ngợi: “Nàng là người thế
gian dương thế/ Sống ở đời tuổi trẻ đang xuân/ Không hề có gian tâm thất
đức”. Mặc dù phải chịu những nỗi oan khuất từ nhà chồng, ở người phụ nữ ấy
vẫn luôn ngời sáng những phẩm chất tốt đẹp. Nàng Thị Dung là con quan
huyện “Ngày đêm trong lầu gác phòng loan” đem lòng yêu thương chàng Lý
Lan nghèo khổ. Bị gia đình phản đối và cấm đoán, Thị Dung quyết giữ tình yêu
thủy chung son sắt với chàng và đã giữ vẹn tấm lòng thủy chung ấy, sẵn sàng ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
trong chùa để chờ đợi chàng trong năm năm.
Người phụ nữ trong truyện thơ Nôm Tày còn là những người rất tình
nghĩa, có trước có sau. Nàng Kim khi được hưởng giàu sang phú quý đã không
quên ơn nghĩa của Lão Xuân. Nàng cho mời Lão Xuân vào cung phụng dưỡng
coi như mẹ:
Ngày trước ở ngàn nội rừng xanh
Là con khỉ loanh quanh chỗ rậm
Bây giờ được hiến hẳn nên người
Làm sao đã quên ngay mẹ được?
Việc làm đó của nàng Kim càng khiến chúng ta thêm yêu mến người phụ
nữ đảm đang, tình nghĩa.
Nàng Kim Nữ trong truyện Chiêu Đức chính là một hình mẫu lí tưởng,
tập trung được nhiều phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ dân tộc Tày. Không
chấp nhận theo sự sắp đặt của cha mẹ, nàng vẫn một lòng thủy chung gắn bó
với chàng Chiêu Đức mồ côi nghèo hèn. Khi Chiêu Đức bỏ làng bản ra đi để
tìm thầy học đạo, trên mỗi bước đường khó khăn của chàng đều có sự giúp đỡ
ân tình của Kim Nữ: nàng giấu bố mẹ gửi quần áo cho chàng, gửi thư hứa hẹn
giữ mối tình thủy chung với chàng, động viên chàng cố gắng học hành. Thương
chàng mồ côi rách rưới nghèo khổ không người chăm sóc, nàng đã nhờ nhũ
mẫu đi thăm hỏi, gửi tặng chàng quần áo tốt và nhờ gửi tới chàng tình yêu
chung thủy của mình. Khi cha mẹ nàng cố làm khó Chiêu Đức bằng việc thách
cưới thật nặng, Kim Nữ đã chủ động giúp chàng bằng cách lấy vốn riêng của
mình nhờ nhũ mẫu đưa cho Chiêu Đức. Những lời nhắn nhủ của nàng cho thấy
tấm chân tình, sự cảm thông và lòng bao dung:
Sĩ khó chẳng kiếm ra lễ vật
Vạn sự dùng của thiếp cho xong
Miễn là đạo nhân duyên trọn vẹn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Của thiếp coi như thể của chàng
Là một người con gái con nhà giàu có, quen có kẻ hầu người hạ, nhưng
nàng sẵn sàng “Mười ngày nàng đi bộ trên sương/ Rong ruổi giữa đại ngàn sơn
cước” để gặp người yêu. Chính tấm lòng thơm thảo và mối tình son sắt thủy
chung của Kim Nữ đã góp phần giúp Chiêu Đức vượt qua những gian lao vất
vả và vươn tới thành công. Cũng giống như những người phụ nữ khác, Kim Nữ
luôn khao khát có được cuộc sống vợ chồng đầm ấm, gần gũi yêu thương nhau.
Nhưng nàng đã vượt lên trên những ước muốn bình dị mà chính đáng ấy, nàng
không hề ngăn cản và níu kéo Chiêu Đức “Thiếp sẵn lòng chờ hạn kể chi/
Nghĩa chồng vợ xá gì chờ đợi”. Kim Nữ luôn kiên tâm, thủy chung chờ đợi,
động viên người yêu cố gắng học hành. Những suy nghĩ, những câu nói, việc
làm của Kim Nữ cho ta thấy nàng là người phụ nữ hiểu biết và giàu đức hi sinh.
Trong Truyện nàng Quyển có hai nhân vật phụ nữ thể hiện rất rõ nét
phẩm chất tốt đẹp của người vợ, người mẹ, đó là nàng Quyển và Thị Lương.
Khi Trần Chu bị kẻ gian hãm hại và bị nhà vua ra lệnh chém đầu, nàng Quyển
khấn trời cứu chồng mình cũng không được, giữa pháp trường nàng “Quyển
Thị ôm cổ chồng không bỏ” và rồi “Nàng thắt cổ tức thời tự vẫn” để quyết đi
theo chồng dù phải chết. Tự vẫn theo chồng không được, nàng ngày ngày “rười
rượi nhớ chồng, ngồi than thở”. Khi bị vua cha ép duyên bắt lấy người khác
nàng phản đối quyết liệt bằng hành động:
Nàng chạy ra bãi cát trẫm mình
Thương chồng há suy hơn tính thiệt
Chốn thủy đình nhảy chết cho xong
Nàng được cứu thoát nhưng “Ý cũng chẳng vơi buồn mình ngọc/ Ngóng
chồng bao tuế nguyệt khôn nguôi”. Bị nhà vua cho người đi bắt về, nàng lại
một lần nữa tỏ rõ tấm lòng thủy chung son sắt và khí tiết của người vợ bằng
quyết định trẫm mình. Tấm lòng ấy của nàng đã lay động trời đất để rồi trời đã
cứu giúp nàng qua mấy lần hoạn nạn và cuối cùng được đoàn tụ cùng chồng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Nàng Thị Lương thì chẳng quản thân gái dặm trường lặn lội ra giữa chốn sa
trường tìm chồng. Nàng mang được hài cốt chồng về quê nhưng giữa đường bị
kẻ gian hãm hại. Tình yêu thủy chung của hai vợ chồng đã kết thành loài hoa
“Quý xuân”, nở hoa muôn màu sắc rực rỡ, thơm ngào ngạt suốt bốn mùa. Tấm
lòng nhân hậu bao dung của người mẹ kế đối với con chồng còn khiến cây hoa
Quý xuân kết thành những quả gang thép, hóa thành binh sĩ giúp Trần Chu
chiến thắng giặc ngoại xâm. Đó chính là một hình tượng đẹp kết tinh từ nhân
cách và phẩm chất của Thị Lương.
Đọc các tác phẩm truyện thơ Nôm Tày chúng ta dễ dàng bắt gặp hình ảnh
những người phụ nữ hiền thục, nết na, khéo léo, hết lòng lo toan chăm lo cho
chồng con và luôn thủy chung, son sắt trong tình nghĩa vợ chồng. Họ mang tấm
lòng nhân hậu, bao dung, vị tha, giàu đức hi sinh. Nhân cách, tình cảm và sự hi
sinh của những người vợ, người mẹ ấy đã góp phần nâng tầm vóc của hình tượng
người phụ nữ trong truyện thơ Nôm Tày thành một biểu tượng cao đẹp.
2.4. Người phụ nữ trí tuệ, giàu bản lĩnh luôn nỗ lực vượt lên trên nghịch
cảnh để vươn tới hạnh phúc
Ở những người phụ nữ trong truyện thơ Nôm Tày không chỉ ngời sáng
vẻ đẹp của sự đức hạnh, của phẩm chất tốt đẹp mà họ còn hấp dẫn người đọc
bởi sự thông minh, đầy bản lĩnh.
Nếu như trong hầu hết những tác phẩm văn học Quốc ngữ cùng giai kì,
văn học thường đặt nỗi đau khổ của người phụ nữ lên hàng đầu để tô đậm tiếng
nói phê phán, chất hiện thực thì truyện thơ Nôm Tày không như vậy. Truyện
thơ Nôm Tày đem đến một cái nhìn toàn diện, toàn cảnh. Đồng thời là cái nhìn
mang đậm chất cổ tích, thể hiện mơ ước của nhân dân. Họ lồng ghép những
yếu tố hoang đường, kì ảo để tạo ra sự lôi cuốn cho câu chuyện và cũng là để
mang lại sự giải thoát, trợ giúp cho nhân vật.
Nàng Kim trong truyện thơ cùng tên không phải là hình tượng nhân vật
nữ quá đau khổ, éo le, bi đát như những kiếp người khác. Qua số phận của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nàng, tác giả dân gian muốn gửi gắm thông điệp về lẽ sống, tình thương, bài
học nhân sinh, sự sùng kính Bụt Cả, mẹ Phật… Nàng Kim là tiên nga trên trời,
vì mải chơi quên đường về, nàng bị đầy xuống trần gian. Nàng đã bị đọa đày
trong hình hài người đội lốt khỉ. Thế nhưng, ông trời không triệt đường sống
của ai, cũng như không tước đi hạnh phúc toàn vẹn của nàng. Nàng vẫn có thể
kiếm sống bằng lao động chân chính, vẫn tìm thấy tình yêu qua sự chân thành,
chung thủy và vẫn được giúp đỡ khi gặp khó khăn. Nói như vậy không có
nghĩa là cuộc sống của nàng Kim không có gì va vấp. Từ tiên xuống trần đã là
sự trừng phạt nặng cho người trời, lại còn đọa xác khỉ hồn người thì quả thực
éo le. Song, nàng không lấy đó làm tuyệt vọng mà luôn đinh ninh sống tốt,
sống lương thiện, sống nhân đức. Bởi thế, mọi việc làm của nàng đều hợp đạo
trời, lẽ sống dương gian. Nàng được cứu giúp, hộ đỡ là điều hiển nhiên. Số
phận của nàng Kim là một trong những yếu tố quan trọng trong việc phản ánh
hình tượng người phụ nữ trong văn học Nôm Tày. Họ không đau khổ đằng
đẵng mà biết vươn lên số phận bằng niềm lạc quan, bằng sự chân thành.
Trong truyện Lưu Đài - Hán Xuân, người phụ nữ phải trải qua “một cuộc
bể dâu” đầy thử thách, đau đớn. Số phận của Hán Xuân trong truyện thơ Lưu
Đài - Hán Xuân là một điển hình cho số phận người phụ nữ Tày đương thời.
Họ luôn bị rơi vào những tình thế ngặt nghèo, thậm chí là tận cùng khổ đau.
Nhưng sau cùng, bằng sự vươn lên mạnh mẽ, họ lại trở về với cuộc sống xứng
đáng và tỏa ngời vẻ đẹp như một biểu tượng, một niềm mơ ước, trân vọng của
nhân dân.
Nàng thiếu nữ Hán Xuân xinh đẹp, quyền quý kết duyên với Trạng
nguyên Lưu Đài là một mối lương duyên trời định trong thiên hạ. Tưởng
chừng, “trai tài, gái sắc” sẽ êm đẹp gia thất bền lâu, nhưng hoàn cảnh xã hội
buộc nhân vật phải đối đầu với biết bao ngang trái, đau khổ. Hán Xuân bị lạc
chồng trên đường theo Lưu Đài đi sứ. Nàng dạt vào đất quỷ với đứa con trong
bụng. Một mình nơi đất khách, một mình trở dạ sinh con tưởng chừng như bất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
hạnh cùng cực với người phụ nữ này nhưng không dừng lại ở đó. Nàng bị chịu
một trận đòn chí mạng từ Chúa Quỷ Ngô Cương vì từ chối lời đề nghị ân ái
cùng hắn:
Quân quỷ liền theo lệnh trói nàng
Roi vọt đánh dọc thân đẹp
Hán Xuân đành chờ chết mím môi
…Ba chục đòn đánh đập vào lưng
Người Hán Xuân lằn sưng thâm tím
Đánh xong chúng lẳng lặng ngồi nhìn
Hán Xuân lịm thân mình không biết
Cuộc sống tưởng chừng như khép lại trong bất công, đau đớn ê chề
nhưng Hán Xuân đã được cứu sống. Cuộc đời nàng mở ra một trang mới khi
lạc tới đất Phật, được Phật Bà Quan Âm nuôi nấng và truyền dạy những phép
thần thông. Nhờ đó, Hán Xuân tìm lại được chồng, giúp chồng, giúp vua đánh
thắng quân giặc xâm lăng, bảo vệ bờ cõi đất nước.
Cùng chung mạch nguồn “ở hiền gặp lành”, nàng Ngọc Long cũng là
một minh chứng rõ nét. Nàng là biểu hiện, là đại diện cho những đau khổ mà
người phụ nữ Tày trong xã hội phong kiến đương thời phải gánh chịu. Dù là
người của mường trời, dù là tiên nga giáng trần nhưng Ngọc Long vẫn không
thể thoát khỏi sự bất công tồn tại bủa vây trong lòng xã hội.
Nàng mang một vẻ đẹp lộng lẫy, kiêu sa, quý giá tuyệt trần. Và cũng
chính vẻ đẹp này đã khiến cho Ngọc Long phải lưu lạc 16 năm trên đất Tần.
Cuộc sống những tưởng sẽ trôi đi trong hạnh phúc, sum vầy nhưng người phụ
nữ Ngọc Long lại đắm một quãng đời thanh xuân của mình trong nước mắt và
nhớ nhung khôn xiết. Chính vì nhan sắc của mình bị tên thầy bói phát hiện mà
Ngọc Long trở thành mối thèm khát của tên vua Tần dâm ác. Hắn bày mưu
chiếm đoạt Ngọc Long để thỏa mãn thú tính của mình. Hắn mượn việc quân
việc nước để ép vua Nam phải dâng người đẹp tuyệt thế. Vì sự nhu nhược,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tham sinh úy tử, vô cảm, bo bo giữ ngai vàng của vua Nam, nàng trở thành “đồ
cống phẩm” cho Tần Đế. Cuộc đời Ngọc Long từ đây bước sang một trang đẫm
nước mắt. Nàng phải dứt tình, hy sinh vì việc quân, việc nước. Nàng xót xa khi
không được sống cuộc sum vầy, đoàn viên với Nam Kinh. Hơn thế nữa, nỗi
đau càng thấm thía khi Ngọc Long phải bỏ mặc người con trai Xuân Lan non
dại ở quê, cậy nhờ hàng xóm chăm sóc. Không phải ngẫu nhiên mà hễ nhắc tới
Ngọc Long, tác giả đều gắn với chi tiết nước mắt, lời than. Bởi đúng theo tâm lí
của một người mẹ, xa con là điều bất đắc dĩ. Huống hồ, xa con vì sự bất công,
vô lí. Bởi thế, nỗi đau càng thấm thía, xót xa hơn. Thế nhưng, nàng Ngọc Long
dường như cũng tượng trưng cho mơ ước của nhân dân khi số phận nàng không
phải mãi đắm chìm trong hệ quả của bất công. Cuối truyện, Ngọc Long được
chính người con trai Xuân Lan của mình cứu về. Nàng được trở về trong sự
đoàn tụ, hạnh phúc gia đình.
Những người phụ nữ không chỉ có dung nhan xinh đẹp mà ở họ còn luôn
ngời sáng bản lĩnh, tinh thần và ý chí vươn lên chiến thắng hoàn cảnh, nắm giữ
hạnh phúc.
Nàng Ngọc Long thể hiện mình là một người phụ nữ đầy bản lĩnh, thức
thời và trí tuệ. Trong tình yêu, Ngọc Long tuy phó thác duyên định cho Bà
Nguyệt nhưng nàng có được lối ứng xử vô cùng khôn khéo, khiêm nhường.
Nàng là một đại diện cho đức khiêm hạ của người Tày. Ca dao Tày có câu:
Em như chim chích bên đường
Có con chim phượng vẫy vùng là anh
Phượng bay vào đám mây xanh
Con chim chích nhỏ thôi đành quay lui
Vẻ đẹp ấy được thể hiện qua cách mà Ngọc Long lí giải với Nam Kinh
về sự cô đơn của mình:
Cơm không sẵn một bát qua ngày
Anh em không một ai trông cậy
…Đường kim chỉ khâu vá ngu phàm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Không xứng đáng vợ chàng giàu có
Lời đối đáp của Ngọc Long đã nhận hết phần không tốt về mình để từ
chối hôn nhân. Lời nói ấy khiến ta liên tưởng đến những câu giao duyên của trai
gái người Tày. Khi chàng trai cất lời ướm hỏi, tán tỉnh: “Áo em mặc màu đen
cánh niêng/ Theo anh vô Bản Viểng thì vô/ Quê anh hái lá ươm tơ/ Vải tơ chung
xếp xem vừa hòm không?; cô gái cất câu trả lời thật ý nhị: “Vải em thô lậu hơn
người/ Lấy ngay máng lợn làm thoi dệt thành/ Sợi to bằng cọng rơm xanh/ Dám
đâu xếp cạnh lụa lành để thẹn tơ”. Ngọc Long đã mang trong mình chất dân
gian Tày bình dị, khiêm nhường như chính con người nàng. Thế rồi, Ngọc Long
đã nói lên được suy nghĩ, lo âu của người con gái trong tình yêu mà mãi đến sau
này, nhà thơ trẻ thời chống Mĩ - Xuân Quỳnh mới có ý thơ tương tự:
Khắp đường giăng đầy hoa cỏ may
Áo em vô ý cỏ găm đầy
Lời yêu mỏng mảnh như màu khói
Ai biết tình anh có đổi thay?
Ngọc Long đã đem phần lí trí sâu sắc khi nghĩ về hình thức và nội dung,
nghĩ về lúc thương yêu, lúc hờn giận…nào ai dám chắc chắn khi chỉ nghe qua
lời hứa hẹn:
Hổ vằn dễ nhìn thấy ngoài vằn
Người nông sâu bao phần ai biết
Lòng người khó tường hết gian ngay
Gió giật nước hải giang nổi sóng
Gió êm nước phẳng lặng êm ru
Thế nhưng, Ngọc Long không để sự hoài nghi chiếm lĩnh lí trí. Nàng biết
mở lòng mình ra đón nhận duyên tình khi trái tim nàng cảm nhận được sự chân
thành. Nàng sẵn sàng bỏ qua giai đoạn thách thức để chấp nhận Nam Kinh.
Trong tình yêu, Ngọc Long đã được viên nguyện với người chồng Trạng
nguyên. Trong cách nhìn nhận sự việc, Ngọc Long cũng thể hiện mình là một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
người phụ nữ có tầm nhìn, biết đánh giá mọi việc. Trước việc mình bị đi sứ
nước Tần, Ngọc Long không chỉ khóc than thương chồng, thương con, thương
mình mà còn nhận ra, đây là một biểu hiện của sự bạc nhược, bù nhìn của đám
vua quan phong kiến đương thời. Nàng cất lên tiếng khóc như lời phản kháng,
trách móc xã hội bất công:
Đàn bà đi việc quan đâu có?
Quan văn cùng tướng võ triều thần
Bao tài giỏi muôn phần hơn thiếp
Sao không đi lại ép nữ nhi?
Mèo ăn gừng mấy khi thấy có?
Vua thiếu gì tướng võ quan sang?
…Trách mình trách thế gian lắm sự
Đàn bà đi việc sứ sao nên?
Trí tuệ của Ngọc Long không chỉ được thể hiện qua cách nhìn nhận,
đánh giá tính chất của sự việc mà còn thể hiện qua lối ứng xử của nàng. Nàng
nhận ra bản chất của việc đi sứ lần này chính là một hình thức nước nhỏ cống
nạp cho nước lớn, khó có ngày trở về. Chính vì thế, nàng viết thư dặn chồng:
Chàng hãy chăm Xuân Lan chóng lớn
Để mai sau phò chúa quản dân
Sau này con chính thân cứu thiếp
Và tiên lượng, tầm nhìn của Ngọc Long đã đúng. Chính Xuân Lan - con
trai nàng sau này là người cứu nàng trở về đoàn tụ với gia đình.
Không chỉ thế, trong cuộc giao tiếp với Tần Đế, Ngọc Long đã rất khôn
khéo bày tỏ hoàn cảnh, thái độ của mình:
Nàng vào tới cung vàng Tần đế
Quỳ tâu lên điện bệ thiên nhan:
- Tôi là người nước Nam thiếu phụ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Vua cử tôi sang sứ Tần bang
Nàng khéo léo lồng ghép hoàn cảnh của một người phụ nữ đã có chồng,
có con để vua Tần biết được mà thả về nhưng vẫn không thể thoát khỏi động cơ
xấu xa của tên vua Tần dâm ác.
Nàng Hiền Thị (Tạng Ba) cũng vậy. Nàng xinh đẹp, thông minh, đối đáp
khôn khéo, là người con gái có chữ nghĩa, hiểu biết. Nàng luôn khéo léo, giỏi
giang giúp đỡ chồng trong nhiều công việc. Khi chồng bị người anh kết nghĩa
ghen ghét hãm hại, nàng đã khôn ngoan bày mưu để trả thù cho chồng. Bên cạnh
đó có nàng Hán Xuân (Truyện Lưu Đài - Hán Xuân) là người con gái hiểu biết,
có trí tuệ, có bản lĩnh. Nàng ngầm đưa tiền bạc giúp đỡ Lưu Đài, sau đó lại xin
với cha mẹ đón chàng về nhà nuôi ăn học. Khi Lưu Đài lên kinh dự thi, Hán
Xuân cũng chủ động têm trầu, sai người ra ngoài đường gửi cho Lưu Đài. Khi
Lưu Đài phải nhận lệnh vua đi tiến cống Tần Vương, nàng không níu giữ chồng
vì nàng hiểu “Phép vua không thể chối việc quan”. Nếu như là một phụ nữ bình
thường thì Hán Xuân chỉ ở nhà đợi chờ chồng trở về, nhưng nàng vốn mạnh mẽ
và đầy bản lĩnh nên đã xin đi theo chồng vì nàng lo lắng cho chồng “Bạn đường
không có tướng hùng anh/ Có việc gì ai thay cho Trạng”. Thái độ của nàng rất
kiên quyết và dứt khoát: “Em những lo mọi đoạn sầu riêng/ Xin cho em đi luôn
một thể/ Dù vua cùng triều chính nói sao”. Nàng vừa là người vợ vừa là người
bạn đã giúp Lưu Đài trong mọi hoàn cảnh. Bị nạn giữa mênh mông sông nước,
lại đến ngày sinh con, nàng một mình chèo chống vượt qua khó khăn. Khi bị quỷ
Ngô Cương ép lấy làm vợ, nàng khôn ngoan lấy lí do “Mới sinh chưa sạch thân
còn bẩn” để từ chối. Bị đánh đập đến sắp chết, nàng sống lại, bôn ba đói khát
“hàn cơ đói rét”, nàng vẫn cố gắng sống để nuôi con. Với tấm lòng kiên trung
và ý chí khắc phục khó khăn đáng khâm phục, sau bao ngày khốn khổ có lúc
tưởng như không sống nổi, cuối cùng nàng đã có được phép trời, cứu được
chồng thoát khỏi Long cung đưa về chốn dương gian. Sau đó Hán Xuân đã nhiều
lần giúp chồng đối phó với quân giặc. Ngay cả trong những lúc cam go nhất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nàng vẫn tỏ rõ bản lĩnh phi thường của mình: “Chư quân chớ hồn kinh lo lắng/
Cơm nước rượu uống cho no say/ Đánh giặc mình ta đây khắc liệu”. Khi quân
tướng đều “hồn vía hãi kinh” thì “Nàng một mực bền gan vững chí”. Có thể nói,
Hán Xuân không phải hạng nữ nhi thường tình yểu điệu lả lướt và yếu đuối.
Nàng tiêu biểu cho mẫu người phụ nữ vừa nết na, chung thủy, nhân hậu lại vừa
thông minh, hiểu biết, mạnh mẽ và đầy bản lĩnh.
Trí tuệ, hiểu biết và bản lĩnh đã giúp người phụ nữ chiến thắng nghịch
cảnh để thành công và có được hạnh phúc. Hán Chân là người phụ nữ xinh đẹp
và “Nàng nết na có ý làm ăn”. Bị một tên lái buôn lấy bạc vàng ra để dụ dỗ
nhưng nàng đã thẳng thắn mắng mỏ tên lái buôn. Ấy thế mà nàng vẫn bị chồng
phụ bạc đuổi đi. Hán Chân đã thể hiện rõ bản lĩnh và trí tuệ bằng việc giả trai đi
học, thi đỗ Trạng nguyên. Sau này trở về, gặp chồng cũ khốn quẫn nghèo hèn,
nàng vẫn thể hiện sự bao dung với chồng, cầu xin thần tiên “Mời Bụt cả sẵn tay
cứu giúp/ Chồng tôi chẳng có tội chi đâu/ Toàn làm những đớn đau vất vả/
Dám cầu xin thuốc quý mường trời/ Thuốc biến hóa chồng tôi nên trạng”. Tài
năng, phẩm chất của nàng đã được vua ngợi khen: “Hán Chân nàng khôn,
sáng, có công/ Tài cán kể như long phá thạch/ Thông hiểu đầy mọi mạch vũ
văn”. Ngoài ra nhân vật Thị Trinh trong truyện Lý Thế Khanh cũng tỏ rõ là một
người có trí tuệ, có kiến thức, có bản lĩnh. Nàng đã tham mưu cho chồng nhiều
ý kiến để giúp chồng đánh giặc.
Trong các truyện thơ Nôm Tày, nhân vật người phụ nữ xấu xa độc ác
hết sức mờ nhạt. Những nhân vật như người cô ruột tham lam, giết cháu để
chiếm đoạt tài sản, cuối cùng phải chịu kiếp lang thang bơ vơ đói rét và chết
nơi bờ bụi dọc đường (Truyện Nàng Quyển) hay Thị Xuân tham lam tiền bạc,
phụ nghĩa phu thê, bỏ chồng đi theo chủ thuyền buôn giàu có (Truyện Lương
Nhân con côi) rất ít khi xuất hiện và chỉ thoáng qua. Còn đại đa số nhân vật
nữ trong các truyện thơ Nôm Tày đều rất đẹp cả về ngoại hình lẫn phẩm chất,
đúng như nhà nghiên cứu Vũ Anh Tuấn nhận xét: “Họ đều là những người
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
đức hạnh. Nàng Ngọc Dung hết lòng hiếu thảo với mẹ chồng, còn các nàng
Hán Xuân, Kim Nữ đều nuôi chồng từ buổi hàn vi đến công thành danh toại.
Nhân vật lúc nào cũng trong sáng thủy chung đến mức thánh thiện, cũng gan
dạ can trường trong mọi tình huống tai biến thử thách… Trí dũng song toàn,
lên trời xuống bể, bình Tây thu Bắc, thiên chức người mẹ, người vợ, người
anh hùng làm kẻ thù ngoại bang phải kinh hồn bạt vía… Những nhân vật phụ
nữ trong truyện thơ Tày đều là những người giỏi giang trong lao động miền
núi, hiền hòa, khôn khéo trong xử thế các mối quan hệ…” [34; 175 - 176]. Có
thể thấy, khi nói đến những phẩm chất của người phụ nữ trong truyện thơ
Nôm Tày, các tác giả đã dồn tụ vào vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ
Việt Nam nói chung. Đó là những người phụ nữ xinh đẹp, tiết hạnh, thông
minh, tài giỏi và đầy bản lĩnh. Họ kết tinh vẻ đẹp và tài năng, trí tuệ, thể hiện
ước mơ lí tưởng của người dân Tày.
TIỂU KẾT
Trong chương 2, chúng tôi đã khảo sát và phân tích một số đặc điểm của
hình tượng người phụ nữ trong truyện thơ Nôm Tày trên các phương diện
chính: xuất thân, ngoại hình, phẩm chất , trí tuệ, bản lĩnh... Qua đó, chúng ta
có thể thấy người phụ nữ trong truyện thơ Nôm Tày thường có xuất thân quyền
quý, cao sang. Khi thì là người mường trời, khi thì được sinh ra nhờ phép thần
kì của thế lực siêu nhiên, khi lại là con gái của gia đình giàu có, gia giáo. Phải
chăng, qua cách phản ánh này, các tác giả dân gian muốn đem tới cho người
đọc một sự toàn diện khi khắc họa vẻ đẹp của người phụ nữ? Đồng thời, đặc
điểm về hoàn cảnh xuất thân cũng góp phần khắc họa mơ ước, đức tin của đồng
bào Tày trong giai kì này. Không chỉ thế, người phụ nữ trong truyện thơ Nôm
Tày thường mang ngoại hình xinh đẹp, lộng lẫy. Họ là đại diện cho vẻ đẹp của
đất trời. Truyện thơ Nôm chịu ảnh hưởng của thi pháp văn học trung đại đương
thời, lấy vẻ đẹp của thiên nhiên để làm chuẩn mực cho vẻ đẹp của con người.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Trong mối tương quan đó, nhan sắc người phụ nữ Tày gián tiếp hiện lên qua
các hình ảnh như hoa, như ngọc… Đồng thời, tác giả dân gian còn sử dụng
cách miêu tả trực tiếp qua hệ thống tính từ giàu sức biểu cảm.
Người phụ nữ trong truyện thơ Nôm Tày là đại diện cho những phẩm
chất tốt đẹp trong xã hội. Trước hết, họ là những người tài trí, thông minh, giàu
bản lĩnh. Họ vượt ra khỏi rào cản của lễ giáo phong kiến, vượt ra khỏi những o
ép trong quan niệm phong kiến mà vươn lên sống bằng khát vọng yêu đương
mãnh liệt, chủ động trong tình yêu và hôn nhân. Khi đã là người vợ, người mẹ,
họ xứng đáng là người phụ nữ chuẩn mực của gia đình với những phẩm chất
như: đảm đang, nhân hậu, nghĩa tình, chung thủy, giàu đức hy sinh.
Tóm lại, người phụ nữ trong các truyện thơ Nôm Tày là hiện thân của cái
đẹp. Họ không chỉ đẹp về ngoại hình mà còn đẹp về phẩm chất, nhân cách. Ở
họ hội tụ đầy đủ sự nết na, thủy chung, hiếu thảo, nhân hậu, vị tha, giàu đức hi
sinh. Họ là hiện thân của trí tuệ, bản lĩnh. Vẻ đẹp của những người phụ nữ ấy
còn được khắc họa bởi tinh thần dũng cảm chống lại sự ràng buộc của lễ giáo
phong kiến, bởi ý chí mạnh mẽ vươn lên chiến thắng sự nghiệt ngã của hoàn
cảnh để bảo vệ tình yêu trong sáng, thủy chung. Họ luôn giữ vai trò chủ động
trong mọi tình huống, dám lựa chọn và kiên quyết bảo vệ sự lựa chọn của
mình, sẵn sàng hi sinh cả bản thân để giữ phẩm giá. Hình ảnh những người phụ
nữ ấy giúp chúng ta hiểu hơn về những quan niệm, những ước mơ, khát vọng
của người dân Tày và góp phần không nhỏ làm nên giá trị cũng như sức hấp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
dẫn của các truyện thơ Nôm Tày.
CHƯƠNG 3
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG
MỘT SỐ TRUYỆN THƠ NÔM TÀY
Trong công trình nghiên cứu Truyện thơ Tày - Nguồn gốc, quá trình phát
triển và thi pháp thể loại, tác giả Vũ Anh Tuấn đã khẳng định: “Việc khảo sát
một cách cụ thể thi pháp nhân vật ... sẽ giúp chúng ta phát hiện được những
giá trị tư tưởng hiện ra trong vẻ đẹp riêng của thế giới nhân vật trong thế giới
nghệ thuật của tác phẩm... Nhân vật văn học và VHDG đều là những hình
tượng (chủ yếu là con người) có tên hoặc không tên, được sắp xếp theo một
tầng lớp nào đó như trong hiện thực đời sống xã hội, được xây dựng một cách
thẩm mĩ theo một lí tưởng thẩm mĩ nhất định mà cái gốc của nó là quan niệm
nghệ thuật về con người” [42; 164]. Việc nghiên cứu những biện pháp nghệ
thuật xây dựng hình tượng người phụ nữ sẽ giúp chúng ta làm rõ hơn những
đặc điểm của hình tượng này.
3.1. Nghệ thuật miêu tả nhân vật
Nói đến nhân vật trong tác phẩm là nói đến hình tượng được miêu tả
bằng các phương tiện ngôn ngữ. Thông qua việc sáng tạo nhân vật, nhà văn
thể hiện nhận thức, suy nghĩ của mình về một vấn đề nào đó trong xã hội.
Trong kho tàng truyện thơ Nôm Tày, các tác giả dân tộc đặc biệt chú ý đến
việc miêu tả ngoại hình, tính cách và nội tâm nhân vật, đặc biệt là hình tượng
người phụ nữ.
3.1.1. Miêu tả ngoại hình nhân vật
Ngoại hình đem đến cho độc giả cái nhìn, thiện cảm ban đầu khi tiếp xúc
với nhân vật. Đây là một yếu tố dễ dàng để cảm nhận, bởi thế, các tác giả dân
tộc Tày đã phát huy tối đa tác dụng của ngoại hình trong việc đem đến cho độc
giả hình dung cụ thể về nhân vật. Trong số những hình tượng nhân vật người
phụ nữ mà chúng tôi khảo sát, tất cả đều được hiện lên với ngoại hình xinh đẹp,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
trong sáng. Vẻ đẹp của họ được miêu tả qua hai cách: gián tiếp và trực tiếp.
Truyện thơ Nôm Tày giai đoạn này có lẽ cũng chịu sự ảnh hưởng của thi
pháp văn học trung đại - lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho vẻ đẹp của con
người. Đến với những tác phẩm thơ Nôm Tày, một lần nữa, chúng ta lại bắt gặp
sự trở lại của hình ảnh thiên nhiên trong sự đối sánh với ngoại hình nhân vật.
Đây là một trong những bút pháp tiêu biểu trong cách thức miêu tả gián tiếp.
Với cách thức gián tiếp, vẻ đẹp của người phụ nữ trong những trang viết
này được miêu tả qua hệ thống hình tượng độc đáo, mang đậm tính biểu tượng
của dân tộc Tày, tiêu biểu là hình tượng “Hoa”. Những người phụ nữ như:
Ngọc Long, Hán Xuân, Nàng Kim, Lô Thị… đều gắn liền với biểu tượng
“hoa”. Sống giữa núi rừng bao la, người Tày say sưa với thiên nhiên đại ngàn,
họ vươn dài trải rộng cảm xúc trước muôn vật của tự nhiên. Giữa một núi rừng
âm thanh và màu sắc thì hoa là vẻ đẹp tiêu biểu cho mọi vẻ đẹp của đại ngàn,
đó là hoa mơ, hoa mận, hoa đào… Vì vậy mà người Tày dành cho hoa nhiều
tình cảm, một tâm hồn lấy hoa làm cơ sở cảm xúc, một cảm xúc lấy hoa làm
tiêu chuẩn và điểm tô, một quan điểm đạo đức lấy hoa làm nền. Biểu tượng hoa
theo nghĩa đen được hiểu một cách đơn giản đó là vẻ đẹp của thiên nhiên, vẻ
đẹp của núi rừng. Hay nói cách khác, hoa là đại diện cho cái đẹp tự nhiên, cái
đẹp thuần túy.
Trong quan niệm của người Tày, hoa không chỉ có ở mường người mà
còn có ở mường trời. Người Tày có câu tục ngữ “Con trai con gái, hoa trái của
mường”, nhiều bài Sli, Lượn có kiểu mở đầu: “Thân em như hoa” đó là một lối
nói để hoa trở thành hình tượng con người. Hoa là người con trai cao quý
“Thân anh như hoa vằng giữa chùa”, là những cô gái ăn nói mặn mà “giữa bến
bạc kim quý, hoa nở các thứ hoa xứ sở có duyên”, là vẻ đẹp rực rỡ của người con
gái có duyên “hoa em ngời tận mắt, hoa em ánh tận mắt”. Hoa ở đây là tuổi trẻ là
mùa xuân của đời người “còn xuân ong còn níu còn vờn, hết xuân ong mất hồn
bỏ chạy”. Ở đây, hoa là biểu tượng cho vẻ tươi đẹp nhất của con người, con
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
người được đề cao, được ví như những bông hoa thơm ngát tại mường.
Trở lại với hình tượng người phụ nữ trong truyện thơ Nôm Tày, gắn với
ý nghĩa biểu tượng “hoa” đã trình bày ở trên, chúng tôi nhận thấy, hoa không
chỉ biểu trưng cho tình yêu, cho tín ngưỡng mà còn là một biểu tượng của cái
đẹp. Mỗi khi nhân vật xuất hiện cùng hình ảnh hoa là thêm một lần, nhân vật
người phụ nữ hiện ra xinh đẹp. Từ nước da, ánh mắt, cử chỉ, dáng vẻ… đều có
thể so sánh với hoa. Truyện thơ Lưu Tương (tập 16) đã đưa ra rất nhiều chi tiết
miêu tả ngoại hình nhân vật trong thế đối sánh với “hoa”:
- Mặt mũi nàng đẹp tựa như hoa
- Nét mặt như hoa nở xinh tân
- Nhìn tươi như hoa mới nở
- Câu nói như hoa lồm thơm tỏa
- Lời nói như hoa mạ nở vàng
Nét đẹp của nàng công chúa Long vương (truyện thơ Lưu Tương) đã
được khắc họa cùng với hình tượng này. Nghệ sĩ dân gian dành những ngôn từ
mộc mạc nhưng cũng đủ đầy để tô tạc nét đẹp người phụ nữ: “Chỏi chỏi như
bjoóc lồm đang nở” (Nàng đẹp ngời ngời như hoa lồm đang nở). Hoa lồm -
một loài hoa vào nở mùa thu, hoa nhỏ, có đài, mùi thơm nhẹ đã được ví von với
vẻ đẹp cao sang, đài các của thiếu nữ đôi mươi.
Bên cạnh đó, khi miêu tả ngoại hình của những nhân vật khác như Nghi
Xuân, Ngọc Long, Nàng Kim, Xuân Thị… tác giả dân gian có sử dụng điển
tích, điển cố “Văn Đăm” nhằm chỉ người con gái xinh đẹp, lấy từ hình tượng
mĩ nhân nổi tiếng ở Trung Quốc.
Dường như, ẩn ý là chưa đủ. Bởi thế, trong những sáng tác truyện thơ
Nôm, chúng ta còn nhận thấy lời ngợi ca ngoại hình một cách trực tiếp của các
tác giả. Họ trực tiếp sử dụng những tính từ như: “xinh đẹp” (Khuyên về hỡi
Nghi Xuân xinh đẹp), “Nghi Xuân xinh tươi”, “nhan sắc xinh tươi” (Quan chết
bởi Nghi Xuân xinh đẹp/ Vì cha mẹ gian ác chẳng thương)… Nhan sắc của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nàng Ngọc Long cũng vậy, hiện lên qua những lời xưng gọi mang đậm màu sắc
ngợi ca: “nàng mặt ngọc”, “người ngọc”, “ngọc nữ”, “nàng tiên nga”, “nàng
khôi châu”, “mĩ nữ”…
Như vậy, nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật ở đây có thể tóm gọn
trong hai phương thức cụ thể: miêu tả trực tiếp và miêu tả gián tiếp. Dù là
phương thức nào thì nhân vật người phụ nữ cũng hiện lên với một vẻ đẹp thuần
khiết, duyên dáng, đúng như mơ ước của đồng bào Tày. Phải chăng, với cách
khắc họa này, tác giả dân gian đã gửi gắm lời ngợi ca kín đáo, tế nhị đồng thời
là niềm tự hào về con người Tày.
3.1.2. Miêu tả nội tâm nhân vật
Tác giả Vũ Anh Tuấn cho rằng: “Thậm chí, do ý thức tự giác tộc người
trong quá trình sáng tạo các giá trị văn hóa dân gian, các nghệ nhân (và sau
này là các nho sĩ bình dân) bản tộc, ở một mức độ nhất định, họ còn tỏ ra vượt
trội các tác giả sáng tác truyện Nôm bình dân của tộc người Kinh trong việc
miêu tả, khắc họa tính cách, tâm trạng nhân vật chính trong thế giới nhân vật
truyện thơ Tày” [42; 180]. Với nhận định này, chúng tôi đã có thêm một gợi
dẫn quan trọng khi nghiên cứu nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm trạng nhân vật
nói chung và nhân vật người phụ nữ vật trong truyện thơ Nôm Tày nói riêng.
Theo đặc trưng thể loại truyện thơ Nôm với kết cấu tự sự - trữ tình,
truyện thơ Nôm dân tộc Tày đã bộc lộ chiều sâu tâm lí một cách thuận lợi và rõ
nét. Qua từng hồi, từng cảnh, từng biến cố xảy ra, nhân vật lại càng có cơ hội
để thể hiện tính cách, tâm trạng của mình. Tâm trạng ấy có thể được miêu tả
bằng lời khách quan của người kể chuyện, bằng lời đối thoại giữa các nhân vật
hay bằng lời độc thoại của mình. Qua đó, độc giả sẽ cảm nhận được sự sâu sắc,
đa dạng, phong phú trong thế giới nội tâm nhân vật.
Trong công trình nghiên cứu Nghiên cứu so sánh các truyện thơ Nôm
Tày cùng cốt truyện với truyện thơ Nôm Kinh [43], Phạm Quốc Tuấn có khảo
sát và chỉ ra 18 câu thơ miêu tả tâm trạng của Cúc Hoa sau 1 năm Tống Trân đi
sứ. Trong thời gian này, nàng buồn rầu không thiết ăn uống, thương nhớ chồng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
khôn nguôi:
Thân em từng thảm thiết buồn thay
Bữa ăn là bữa không cầm bát
…Sáng sớm đến chiều tà chiếc lẻ
… Khi nào đủ mười năm đổ lại
Thân thiếp buồn phiền nhiễu lo toan
Mười hai tháng mới vừa xa cách
Chàng thành người nước khác thảm thương
Đoạn độc thoại nội tâm của Cúc Hoa đã khơi gợi sự cảm thương tới
người đọc một cách mạnh mẽ. Lòng cảm thương ấy trước hết xuất phát từ tấm
lòng của tác giả dân gian. Họ đã thổi vào nội tâm nhân vật một tình cảm sâu
nặng, đặt nhân vật vào trong hoàn cảnh cách xa để nhân vật tự trải lòng cùng
bao nỗi sầu tủi, nhớ nhung. Đây là một trong những trạng thái tâm lí hết sức
bình thường nhưng đáng trân trọng vô cùng của người phụ nữ. Bên cạnh đó,
tiếng nói cảm thương cất lên sâu sắc, thấm thía hơn cả từ chính nhân vật, mà cụ
thể ở đây là Cúc Hoa. Nàng nói với Tống Trân hay đang thổn thức với chính
lòng mình những nỗi niềm sâu thẳm? Tâm trạng của Cúc Hoa cứ lần lượt xoay
vòng từ thương nhớ, mong ngóng, cầu nguyện rồi lại rơi vào trạng thái vô định
đếm thời gian trôi. Và cuối cùng, với nghệ thuật khắc họa nội tâm chân thực,
nghệ sĩ dân gian và nhân vật của mình đã khơi gợi được sự rung động trong trái
tim độc giả. Từng câu từng chữ đều đem đến một cảm nhận về sự đồng cảm, về
tính nhân văn. Để rồi, khi chứng kiến 10 năm thủ tiết chờ chồng của Cúc Hoa,
ta thêm cảm phục, ngưỡng mộ nàng. Hình tượng người phụ nữ đã đẹp lại càng
toàn diện hơn nữa.
Thơ Nôm Tày giai đoạn này còn đề cao tình yêu đôi lứa và trong đó,
tình cảm của người phụ nữ được chú trọng đặc biệt. Họ ngợi ca tình yêu vĩnh
cửu, lòng thủy chung của người phụ nữ Tày. Họ lí tưởng hóa tình yêu gần như
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tuyệt đối. Bởi thế, tâm trạng nhân vật đã nhen nhóm những dấu hiệu báo trước
tương lai. Trong truyện thơ Phạm Tử - Ngọc Hoa, ngay từ phút đầu gặp gỡ của
hai nhân vật chính, tác giả dân gian đã ngầm định, đây là mối lương duyên trời
ban. Bởi thế, nàng Ngọc Hoa đã đứt ruột tương tư chàng Phạm Tử:
Ngày đêm nàng đứt ruột tương tư
Mong được đón nho sĩ lại nhà
Nuôi thầy với chàng ta đèn sách
Chẳng cho chàng vất vả ăn xin
Nhớ nhung cứ bàng hoàng trong dạ
Tự nhiên lòng thương nhớ mười phân
Trưa tối chẳng nhớ ăn buồn bã
Bữa ăn là có bữa ngủ suông
Nỗi tương tư của Ngọc Hoa dành cho Phạm Tử thật nồng nàn, cháy
bỏng. Qua lời người kể chuyện, diễn biến tâm trạng của người phụ nữ này đã
hiển hiện rõ nét. Đó là sự nhung nhớ, thao thức, là sự thương xót, đồng cảm và
mong muốn được gặp lại người nho sĩ nghèo. Nàng muốn được san sẻ những
vất vả cùng Phạm Tử, muốn được giúp đỡ chàng. Nỗi nhớ ấy da diết đến mức
trở đi trở lại, quen thuộc như bữa ăn, như giấc ngủ khiến cho nàng thấp thỏm,
thậm chí quên ngủ ăn. Qua đó, tác giả dân gian dường như muốn hé mở một dự
cảm về cuộc tình bền chặt giữa hai nhân vật và quả thực, những tình cảm thiêng
liêng ấy đã giúp họ vượt qua mọi gian khó, khắc nghiệt.
Bên cạnh đó, nội tâm nhân vật cũng được thể hiện qua hệ thống ngôn
ngữ đối thoại giữa các nhân vật trong truyện. Qua đây, người phụ nữ không chỉ
bộc lộ phẩm chất khéo léo, nhanh trí, thức thời của mình mà còn là hoàn cảnh
để độc giả nhận thấy diễn biến nội tâm nhân vật. Trong truyện thơ Lưu Đài -
Hán Xuân, khi Chúa đất ngỏ lời bất chính, Hán Xuân đã cất lời tỏ bày về hoàn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
cảnh như một cách chối từ đầy khôn khéo:
Gửi lời sứ đến nhà hãy nói:
- Tôi là người trần thế dương gian
Mới sính chưa sạch thân còn bẩn
Thương nhau gửi lời nói phí không
Thanh xuân hoa nở bông mới đáng
Thực sự tôi không dám hầu người
Lời nói của Hán Xuân mang hai chức năng: vừa là một lời thông báo, từ
chối vua Quỷ, thể hiện lòng chung thủy, sự thông minh của nàng. Đồng thời, là
một dấu hiệu đặc trưng khắc họa nội tâm nhân vật.
Như vậy, diễn biến tâm trạng nhân vật người phụ nữ trong truyện thơ
Nôm Tày đã được khắc họa rất rõ nét qua những lời kể chuyện, qua dòng tâm
sự hay qua lời đối thoại giữa các nhân vật trong truyện. Qua thủ pháp nghệ
thuật này, các tác giả dân gian đã đem đến cho đời sống tâm lí nhân vật sự
phong phú, tinh tế; đem đến cho độc giả những hình dung cụ thể hơn về hình
tượng nhân vật.
3.2. Ngôn ngữ nhân vật
Ngôn ngữ nhân vật, nhất là trong truyện thơ, chính là một trong những
thành tố quan trọng cấu thành nên hình tượng nhân vật. Đó là lời ăn, tiếng nói
của nhân vật trong tác phẩm văn học và được chia thành nhiều loại như: ngôn
ngữ đối thoại, ngôn ngữ độc thoại nội tâm… Ngôn ngữ chính là yếu tố quan
trọng giúp người đọc khám phá hình tượng nhân vật nói chung và hình tượng
người phụ nữ Tày nói riêng một cách rõ ràng nhất. Qua hệ thống ngôn ngữ
nhân vật, không những tâm trạng mà tính cách, phẩm chất, ngoại hình nhân vật
cũng được thể hiện rõ nét. Trong công trình nghiên cứu này, chúng tôi chia
thành hai loại ngôn ngữ: ngôn ngữ của người phụ nữ và ngôn ngữ của những
nhân vật khác. Với người phụ nữ, ngôn ngữ chính là phương tiện để họ bộc lộ
mọi phẩm chất; với những nhân vật khác, ngôn ngữ khiến cho dòng suy nghĩ,
sự đánh giá của họ về người phụ nữ được hiện ra trên bề mặt văn bản. Từ đó,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
hình tượng người phụ nữ được phản ánh trở nên khách quan hơn.
3.2.1. Ngôn ngữ của người phụ nữ
Ngôn ngữ của người phụ nữ trong truyện thơ Nôm Tày có sự khác biệt
so với truyện thơ Nôm dân tộc Kinh. Trong công trình nghiên cứu của mình tác
giả Phạm Quốc Tuấn [43] đã chỉ ra: “Ngôn ngữ mà các nhân vật sử dụng rất
gần gũi với ngôn ngữ đời sống thường ngày. Lớp từ thường xuyên có mặt trong
tác phẩm bởi thế khá bình dị, chân thực, gắn với cách cảm, cách nghĩ của
người miền núi” [43; 136]. Nếu như lớp từ này khiến cho cách xây dựng nhân
vật nam giới có phần thô ráp thì với người phụ nữ lại đạt được một hiệu quả
đậm chất văn hóa. Đó là sự mộc mạc, chân thực, giản dị, trong sáng và nền nã -
một đặc trưng của người miền núi. Người phụ nữ Tày không phải không có tri
thức. Thế nhưng, họ không thể hiện ra bằng ngôn ngữ đời sống như trong
truyện thơ Nôm Kinh. Nghĩ gì nói vậy, không rào trước đón sau, không ý tại
ngôn ngoại, không ràng buộc bởi những quy tắc, chế ước nghệ thuật, người phụ
nữ Tày hiện lên vẹn nguyên với vẻ đẹp giản dị, gần gũi, trong sáng nhất. Nàng
Ngọc Hoa trong truyện thơ Nôm Phạm Tải - Ngọc Hoa là một điển hình. Khi
thưa với cha mẹ tình cảm của mình với Phạm Tải, Ngọc Hoa đã thẳng thắn:
Cha mẹ là đất trời thiên hạ
Con trình thực bố mẹ tỏ tường
Tháng tám ngày mười ba giờ ngọ
Thấy có người nho sỹ viễn phương
Lạc vào nhà tìm đường hành khất
Diện mạo trông đích thực khôn ngoan
Xem ra tướng cao sang quân tử
Một thân chàng đứng ở ngoài sân
Thương hại người bần nhân hiền sỹ
Gạo cơm con bố thí cho người
Từ đó con đêm ngày thương nhớ
Tự thiên duyên hay có sự gì
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Tự nhiên thấy tương tư vật vã
Đoạn này, độc giả có thể nhận thấy được sự rõ ràng trong ý tứ nàng
Ngọc Hoa. Nàng giãi bày ngọn ngành, tỏ tường về tình cảm của mình với cha
mẹ. Không mượn quá nhiều điển tích, không mượn quá nhiều lời của tiền nhân,
Ngọc Hoa đã đem đến cho độc giả sự cảm nhận về nét tính cách giản dị, trong
sáng của mình.
Khi bị Trang Vương gượng ép tình duyên, Ngọc Hoa đã dùng ngôn ngữ
của mình để thể hiện quan điểm dứt khoát:
Ngọc Hoa vào tâu lạy mặt rồng
Thân tôi đã có chồng định xứ
Chồng tôi là Phạm Tử sỹ nhân
Thiên hạ người thiếu chi mỹ nữ
Tôi như viên ngọc rạn báu gì
Nữ thất tiết chiều vua sao xứng
…Vua thiếu gì nữ ngọc thanh tân
Nhược vua ép mười phân không bỏ
Tôi xin quyết tự tử trước vua
Ta có thể nhận thấy sự tương đồng trong tình tiết cuộc đời nàng Ngọc
Long. Khi vua Tần bất chấp đạo lí, dùng lời đường mật dụ dỗ, Ngọc Long cũng
đã dùng ngôn ngữ, dùng lời nói để thể hiện quan điểm của mình.
Ngôn ngữ đối thoại của người phụ nữ còn cho ta thấy một nét đặc trưng
trong lời ăn tiếng nói của đồng bào Tày. Lời nói của công chúa Bách Hoa khi
biết Tống Trân từ chối làm phu quân của nàng:
Ta không được Tống Trân thôi vậy
Có ngày mày sẽ thấy quyền ta
Vua sẽ đặt chuyện cho mày thấy
Có ngày mày khóc đỏ mắt mày
Những phẩm chất như thủy chung, yêu thương chồng con, hiếu thảo,
thức thời, thông minh… cũng được bộc lộ qua hệ thống ngôn ngữ đối thoại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
như vậy.
Bên cạnh hệ thống lời đối thoại, ngôn ngữ độc thoại nội tâm cũng góp
phần khắc tạc nên hình tượng người phụ nữ trong truyện thơ Nôm Tày. Ngôn
ngữ độc thoại đem đến một thế giới tâm tưởng phong phú của nhân vật. Tất cả
nét cảm, nét nghĩ hiện lên qua lời độc thoại nội tâm của người phụ nữ. Và cũng
qua đây, đặc điểm về người phụ nữ được độc giả cảm nhận, thấu hiểu một cách
khách quan nhất.
3.2.2. Ngôn ngữ của những nhân vật khác
Dựa vào mục đích của luận văn này, chúng tôi khai thác ngôn ngữ của
những nhân vật khác trong sự đánh giá về người phụ nữ. Sự đánh giá này tạo ra
tính khách quan trong việc phản ánh hình tượng trung tâm của luận văn.
Vẻ đẹp của người phụ nữ được hiện lên qua ngôn ngữ của những nhân
vật trực tiếp xuất hiện trong truyện thơ. Và có lẽ, đây mới là những chi tiết đắt
giá trong việc khắc họa ngoại hình nhân vật.
Nhan sắc của nàng Ngọc Long hiện lên cuộc nói chuyện của thầy bói với
xã bản:
Sáng hôm sau thấy nàng ra cửa
Dong dáng như tiên nữ nhà trời
Thế gian đâu có được người như thế
Mặt trắng ngần như thể ngọc khôi
Trong truyện thơ Lưu Tương, nhan sắc của nàng công chúa Long cung
được miêu tả qua cái nhìn của chàng họ Lưu. Đó là một nét đẹp rực rỡ, khác
hẳn người hạ giới:
Chợt thấy nàng gái lạ hoa ban
Xâu hoa chùa Vinh San e ấp
Chắc đây người tiên ngọc xuống trần
Không phải người thế đông nào lại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Người trần không xinh gái nhường này
Như vậy, có thể thấy, ngôn ngữ nhân vật chính là một công cụ đắc lực và
quan thiết trong việc khắc họa ngoại hình nhân vật. Không chỉ vậy, qua hệ
thống ngôn ngữ này, độc giả có thêm một kênh thông tin để khai thác phẩm
chất, số phận người phụ nữ. Người kể chuyện là người cầm trong tay cán chèo
đưa chúng ta đi qua từng chặng đời nhân vật. Họ phản ánh bằng ngôi thứ ba,
người đứng ngoài cuộc nên có được sự bao quát.
3.3. Biện pháp nghệ thuật so sánh
Theo tác giả Nguyễn Thế Truyền trong công trình nghiên cứu “Giáo
trình phong cách học tiếng Việt”, ông có nêu ra một số vấn đề lý thuyết liên
quan đến biện pháp tu từ so sánh như khái niệm, cấu tạo, phân loại. Đây là cơ
sở để nhận định biện pháp nghệ thuật so sánh cũng như xác định vai trò của nó.
So sánh là đối chiếu hai đối tượng cùng có một dấu hiệu chung nào
đấy nhằm diễn tả một cách hình ảnh đặc điểm của đối tượng định nói tới.
Ví dụ: Nụ cười của nàng rạng rỡ như ánh dương.
Để xác định vai trò của biện pháp tu từ, chúng ta cần phải xác định cấu tạo
của biện pháp. Dạng đầy đủ của một chỉnh thể so sánh tu từ bao gồm có 2 vế: vế
cần so sánh (A) và vế dùng để so sánh (B). Trong đó, có 4 thành tố cấu tạo:
(1) Đối tượng so sánh (ĐTSS);
(2) Cơ sở so sánh (CSSS);
(3) Từ ngữ so sánh (TNSS);
(4) Hình ảnh so sánh (HASS).
Ví dụ:
ĐTSS
CSSS
TNSS
HASS
B
A
rạng rỡ / như ánh dương. Nụ cười của nàng
Thành tố quan trọng nhất, không thể vắng mặt: hình ảnh so sánh (B).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Cần lưu ý có nhiều trường hợp không đủ cấu trúc so sánh. Ví dụ:
+ Thiếu cơ sở so sánh:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
(Ca dao)
+ Thiếu từ ngữ so sánh:
Gái thương chồng đang đông buổi chợ,
Trai thương vợ nắng quái chiều hôm
(Tục ngữ)
Và một số trường hợp cấu trúc so sánh bị biến đổi. Khi thì vế B đứng trước
vế A, khi thì vế A và vế B đứng cạnh nhau, từ ngữ so sánh đảo lên trước…
Như chiếc đảo bốn bề chao mặt sóng
Hồn tôi vang tiếng vọng cả hai miền.
(Tế Hanh, Bài thơ tháng bảy)
Bởi thế, khi xác định các câu truyện thơ có sử dụng biện pháp tu từ so
sánh, chúng tôi cần lưu ý về những điểm đặc biệt này.
Có rất nhiều cách phân loại biện pháp tu từ này. Xét theo cấu tạo của biện
pháp, chúng ta có thể chia ra các loại:
- A như B (như là, giống như, tựa, tựa như, dường như…)
Thiếp như hoa đã lìa cành
Chàng như con bướm lượn vành mà chơi.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Áo chàng đỏ tựa ráng pha
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in.
(Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm, Chinh phụ ngâm)
- A bao nhiêu B bấy nhiêu
Qua cầu ngả nón trông cầu
Cầu bao nhiêu nhịp, dạ em sầu bấy nhiêu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
(Ca dao)
Xét theo vị thế của hai vế, chúng ta có thể chia ra các loại:
- So sánh ngang bằng: hai vế có vị thế ngang nhau:
Trường Sơn: chí lớn ông cha
Cửu Long: lòng mẹ bao la sóng trào
(Ca dao)
- So sánh không ngang bằng (so sánh hơn, so sánh kém):
Những ngôi sao thức ngoài kia
Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con
(Mẹ - Trần Quốc Minh)
So sánh tu từ được sử dụng nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự
diễn đạt. So sánh tạo ra những hình ảnh cụ thể sinh động. Phần lớn các phép so
sánh đều lấy cái cụ thể so sánh với cái không cụ thể hoặc kém cụ thể hơn, giúp
mọi người hình dung được sự vật, sự việc cần nói tới và cần miêu tả; So sánh
giúp cho câu văn hàm súc gợi trí tưởng tượng của ta bay bổng. Mục đích của so
sánh nhiều khi không phải là tìm sự giống nhau hay khác nhau mà nhằm diễn
tả một cách hình ảnh một bộ phận hay đặc điểm nào đó của sự vật giúp người
nghe, người đọc có cảm giác hiểu biết sự vật một cách cụ thể sinh động.
Trong cách nói hằng ngày người Việt Nam thường dùng so sánh ví von:
Đẹp như tiên giáng trần, hôi như cú, vui như tết, xấu như ma … Khiến lời nói
vừa có hình ảnh vừa thấm thía. Còn trong văn bản nghệ thuật, so sánh được
dùng như một biện pháp tu từ với thế mạnh đặc biệt khi gợi hình, gợi cảm. Đôi
khi có những so sánh rất bất ngờ, thú vị, góp phần cụ thể hóa được những gì hết
sức trừu tượng, khó cân đo, đong đếm.
Trong công trình nghiên cứu “99 phương tiện và biện pháp tu từ”, tác giả
Đinh Trọng Lạc đưa ra nhận định: “Phương tiện tu từ là những phương tiện
ngôn ngữ mà ngoài ý nghĩa cơ bản (ý nghĩa sự vật - logic) ra chúng còn có ý
nghĩa bổ sung, còn có màu sắc tu từ” [15; 11]. Còn biện pháp tu từ là “những
cách phối hợp sử dụng trong hoạt động lời nói các phương tiện ngôn ngữ
không kể là có màu sắc tu từ hay không trong một ngữ cảnh rộng để tạo ra hiệu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
quả tu từ (tức tác dụng gây ấn tượng về hình ảnh, cảm xúc, thái độ, hoàn cảnh)
[15; 142]. Theo tác giả, trong tiếng Việt có tới 99 phương tiện và biện pháp tu
từ song chúng tôi chỉ đề cập tới biện pháp so sánh và vai trò của nó bởi những
lí do sau.
Một là, so sánh là một trong những biện pháp tu từ quan trọng, phổ biến,
làm nên sức hấp dẫn, sự độc đáo trong các sáng tác văn học nói chung và
truyện thơ Nôm Tày nói riêng. Trong văn chương, “so sánh là phương thức tạo
hình, phương thức gợi cảm. Nói đến văn chương là nói đến so sánh. Trong lời
nghệ thuật, so sánh tu từ đã biểu hiện đầy đủ những khả năng tạo hình diễn
cảm của nó” [15; 158]. Có lẽ do chức năng nhận thức, chức năng thể hiện cảm
xúc, chức năng thông tin về sự vật, hiện tượng, con người và lối cấu tạo đơn
giản nên biện pháp tu từ này đã góp mặt trong rất nhiều phiến đoạn truyện thơ
Nôm Tày.
Hai là, qua việc khảo sát một số truyện thơ Nôm Tày, chúng tôi nhận
thấy sự xuất hiện dày đặc của biện pháp này trong lời kể chuyện, cuộc hội thoại
hay lời độc thoại nội tâm nhân vật người phụ nữ.
Để nhận biết biện pháp tu từ này, chúng tôi dựa vào hai tiêu chí: về mặt
hình thức và về mặt nội dung (chức năng). Về hình thức, những câu truyện thơ
có chứa các từ ngữ “như”, “tựa”, “dường” “chẳng khác nào”…, đồng thời xuất
hiện 2 đối tượng, trong đó, một đối tượng là nhân vật nữ đang khảo sát.
Khảo sát về biện pháp này, chúng tôi thống kê được số lượng như sau:
STT TÊN TRUYỆN THƠ
Lưu Đài - Hán Xuân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
1 2 Ngọc Long 3 Ngọc Sinh 4 Nàng Kim Tống Trân - Cúc Hoa 5 Phạm Tải - Ngọc Hoa 6 Tống Kim 7 Lưu Tương 8 9 Nho Hương SỐ CÂU CÓ SỬ DỤNG BIỆN PHÁP TU TỪ SO SÁNH 33 38 29 28 17 29 42 53 12 GHI CHÚ
Dựa vào kết quả khảo sát, chúng tôi nhận thấy, đây là những con số
không nhỏ. Số lượng câu truyện thơ tuy nhiều nhưng số lượng câu thơ có sử
dụng biện pháp tu từ so sánh cũng không ít. Thông thường, một bài thơ hiện đại
cũng chỉ sử dụng 1 đến 2 lần so sánh. Vậy mà, trong thiên truyện thơ này, các
tác giả dân gian đã vận dụng biện pháp so sánh tương đối nhiều. Cụ thể là trong
những phiến đoạn với mục đích miêu tả ngoại hình nhân vật, tạo dựng khách
thể, bộc lộ trạng thái cảm xúc của nhân vật và của tác giả.
Trên cơ sở đối chiếu giữa hai đối tượng (người phụ nữ và một đối tượng
khác), hình tượng người phụ nữ luôn hiện lên với hai phương diện: ngoại hình
và phẩm chất. Biện pháp tu từ so sánh không đề cập nhiều đến đặc điểm về số
phận của họ. Tỉ như, ngoại hình của người phụ nữ được so sánh với vẻ đẹp của
người trời, với hoa (bjoóc), như ngọc… Tỉ dụ như, trong đoạn miêu tả nhan sắc
của Ngọc Long, tác giả dân gian viết:
Sáng hôm sau thấy nàng ra cửa
Dong dáng như tiên nữ nhà trời
Thế gian đâu có được người như thế
Mặt trắng ngần như thể ngọc khôi
Chỉ trong một chi tiết mà tác giả sử dụng đến hai lần biện pháp tu từ so
sánh. “Dong dáng như tiên nữ nhà trời” - dáng hình của nàng Ngọc Long tựa
như dáng hình của những nàng tiên ở mường trời. Hay “Mặt trắng ngần như thể
ngọc khôi” - khuôn mặt tươi sáng như ngọc. Qua đó, hình dung của độc giả về
vẻ đẹp ngoại hình người phụ nữ rõ ràng hơn, sắc nét hơn, cụ thể hơn rất nhiều.
Khi miêu tả vẻ đẹp phẩm chất của người phụ nữ, tác giả dân gian cũng
sử dụng rất nhiều câu truyện thơ với biện pháp tu từ so sánh. Chẳng hạn, để
khắc họa vẻ đẹp khéo léo, vẻ đẹp lao động của Nàng Kim, tác giả đã đặt
nàng và Chúa Ba vào thử thách may áo. Tài năng của nàng dĩ nhiên sẽ biểu
hiện bằng chi tiết chiếc áo nàng may. Trong truyện, chi tiết này được miêu tả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
như sau:
Mặc vào áo phẳng vạt bằng tay
Gấu như in vừa ngay đúng đúng
Phẳng lì như nước lặng ban trưa
Tưởng chừng như thước đo tại chỗ
Cũng là một đoạn thơ, một chi tiết truyện nhưng những nghệ sĩ dân gian
đã sử dụng tới hai lần biện pháp tu từ so sánh. Để diễn tả độ vừa vặn của chiếc
áo, tác giả dùng hình ảnh “nước lặng ban trưa”, “thước đo tại chỗ”. Xét về cả
hình thức và nội dung, đây là hai so sánh rất chỉnh. Có vật so sánh (chiếc áo
nàng Kim may), tiêu chí so sánh (phẳng lì, vừa vặn), có từ ngữ so sánh (như)
và có vật được so sánh (nước lặng ban trưa, thước đo tại chỗ). Như vậy, biện
pháp tu từ so sánh đã đem lại một hiệu quả nghệ thuật đặc sắc đối với việc khắc
họa hình tượng người phụ nữ trong truyện thơ Nôm Tày.
TIỂU KẾT
Những dấu hiệu nghệ thuật trong việc xây dựng hình tượng một nhân vật
văn học không dừng lại ở một số đặc điểm như chúng tôi đã phân tích tại
chương 3 của luận văn. Còn rất nhiều yếu tố khác như: nghệ thuật sử dụng điển
cố, giọng điệu nghệ thuật, không gian và thời gian nghệ thuật… Song, chúng
tôi nghiên cứu và chỉ ra những yếu tố có thể coi là tiêu biểu nhất trong việc
khắc họa hình tượng nhân vật người phụ nữ trong truyện thơ Nôm Tày. Những
yếu tố này vừa mang nét chung của lí thuyết lí luận văn học, vừa phụ thuộc và
thỏa mãn nét đặc thù của văn học đồng bào dân tộc Tày.
Trước hết cần kể đến nghệ thuật miêu tả nhân vật bao gồm: nghệ thuật
miêu tả ngoại hình, nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm trạng nhân vật. Tiếp đến
là sự đóng góp của hệ thống ngôn ngữ khắc họa hình tượng nhân vật bao gồm:
ngôn ngữ của nhân vật người phụ nữ và ngôn ngữ của những nhân vật khác.
Cuối cùng, chúng tôi khảo sát, thống kê và nêu tác dụng của biện pháp tu từ so
sánh - một biện pháp nghệ thuật đặc trưng, xuất hiện với tần số lớn trong các
tác phẩm truyện thơ Nôm Tày, phục vụ đắc lực quá trình tô tạc hình tượng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
người phụ nữ trong tiềm thức độc giả.
KẾT LUẬN
1. Nghiên cứu văn học dân tộc thiểu số là một việc làm thiết thực trong
bối cảnh hội nhập. Qua việc khảo sát và phân tích một số đặc điểm của người
phụ nữ trong truyện thơ Nôm Tày, luận văn đã đóng góp ý nghĩa không nhỏ
trong quá trình lưu giữ và phát huy vẻ đẹp nhân văn của nền văn hóa dân tộc.
2. Truyện thơ Nôm Tày là một đối tượng không xa lạ nhưng khá khó để
nghiên cứu. Bởi thế, để phân tách và cắt nghĩa được những tầng sâu ý nghĩa
của truyện thơ Nôm Tày, người nghiên cứu phải có một số hiểu biết nhất định
về thể loại và bản sắc văn hóa đồng bào Tày. Đồng thời, với đối tượng cụ thể
của luận văn là hình tượng người phụ nữ, chúng tôi cho rằng, cần phải có cái
nhìn bao quát về hình tượng trong tiến trình văn học trung đại. Những vấn đề
trên được trình bày trong chương 1 của luận văn, là tiền đề cơ sở để khai thác
những đặc điểm của đối tượng nghiên cưu.
3. Trong chương 2, chúng tôi đã tiến hành khảo sát, phân tích một số đặc
điểm về mặt nội dung. Đó là đặc điểm về hoàn cảnh xuất thân, về ngoại hình,
về phẩm chất và về số phận. Nhìn chung, người phụ nữ trong truyện thơ Nôm
Tày là đại diện cho cái đẹp. Bất kì phương diện nào, đặc điểm nào đều được
khắc họa xoay quanh chuẩn mực của cái đẹp. Hoàn cảnh xuất thân cao quý,
giàu có, ngoại hình tuyệt thế, phẩm chất tốt đẹp, số phận dù đau khổ nhưng
luôn nỗ lực vượt lên để có cuộc sống hạnh phúc.
4. Hình tượng người phụ nữ trong truyện thơ Nôm tày được khắc họa
qua rất nhiều thủ pháp, biện pháp nghệ thuật. Trong luận văn này, chúng tôi chỉ
ra giá trị của một số đặc điểm về mặt hình thức như: nghệ thuật miêu tả ngoại
hình, nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật, hệ thống ngôn ngữ khắc họa hình
tượng nhân vật (ngôn ngữ của nhân vật người phụ nữ và ngôn ngữ của những
nhân vật khác), tác dụng của biện pháp tu từ so sánh. Những giá trị về mặt nghệ
thuật của truyện thơ Nôm Tày trong việc khắc họa hình tượng người phụ nữ đã
góp phần tạo nên sự cuốn hút, hấp dẫn đối với độc giả. Đặc biệt, là niềm tự hào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
của đồng bào Tày về vốn văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
5. Qua việc nghiên cứu hình tượng người phụ nữ trong truyện thơ Nôm
Tày, chúng tôi mong muốn đóng góp một minh chứng rõ nét cho chủ nghĩa
nhân văn của văn học dân tộc. Đồng thời, chúng tôi mong muốn được tuyên
truyền sâu rộng những tác phẩm truyện thơ Nôm Tày đến với đông đảo độc giả
dưới nhiều hình thức. Trong bối cảnh đổi mới giáo dục, chúng tôi gửi gắm khát
vọng được trích dạy một số tác phẩm tiêu biểu để người học có cái nhìn sâu
rộng hơn về văn học cổ truyền dân tộc thiểu số.
6. Truyện thơ Nôm Tày còn nhiều những khía cạnh chưa được nghiên cứu
sâu sắc, toàn diện. Với luận văn này, người nghiên cứu sau có thể sử dụng để
khai thác, phân tích hình tượng người phụ nữ trong một tác phẩm cụ thể, đặt hình
tượng người phụ nữ vào trong thế đối sánh với văn học các dân tộc khác, đưa đối
tượng người phụ nữ soi chiếu dưới góc độ chủ nghĩa nhân văn, chủ nghĩa cảm
thương, chủ nghĩa hiện thực… Chính vì thế, kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
là tiền đề để xây dựng những công trình khoa học mới mẻ, có ý nghĩa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân (1999), Từ điển Văn học Việt Nam từ nguồn gốc đến hết thế
kỉ XIX, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
2. Triều Ân (2003), Chữ Nôm Tày và thể loại truyện thơ, Nxb Văn học -
Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Hà Nội.
3. Đỗ Thúy Bình (1994), Hôn nhân và gia đình các dân tộc Tày, Nùng và Thái
ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
4. Nguyễn Thị Chiến (1993), Hình tượng nhân vật người phụ nữ trong truyện
Nôm tài tử giai nhân, Luận án PTS khoa học Ngữ văn, Trường Đại học
Tổng hợp Hà Nội, Hà Nội.
5. Lương Thị Duyên (2006), Truyện thơ Lương Nhân trong đời sống văn hóa
dân gian của người Tày Bắc Kạn, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Sư
phạm Thái Nguyên.
6. Hà Minh Đức (2011), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
7. Kiều Thu Hoạch (2007), Truyện Nôm lịch sử phát triển và thi pháp thể loại,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
8. Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam (Triều Ân - Hoàng Quyết chủ biên)
(2010), Tục cưới gả dân tộc Tày, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
9. Nguyễn Thị Huyền (2018), Truyện thơ Tiễn dặn người yêu dưới góc nhìn
văn hóa, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
10. Triệu Thị Thanh Hương (2018), Nghiên cứu truyện thơ Nôm Tày Lưu
Tương, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
11. Trần Đình Hượu (1994), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, Nxb
Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
12. Đinh Thị Khang (1992), Ngôn ngữ nhân vật trong truyện thơ Nôm, Luận án
PTS khoa học Ngữ văn , Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
13. Đinh Gia Khánh chủ biên (2000), Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
kỷ XVIII, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
14. (2000), Kho tàng truyện Nôm khuyết danh Việt Nam, 2 tập, Nxb Văn học,
Hà Nội.
15. Đinh Trọng Lạc (1995), 99 phương tiện và biện pháp tu từ, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
16. Đặng Thanh Lê (1979), Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm, Nxb Văn học,
Hà Nội.
17. Lã Văn Lô, Hà Văn Thư (1984), Văn hóa Tày Nùng, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
18. Nguyễn Lộc (2001), Văn học Việt Nam (nửa cuối thế kỷ XVIII đến hết thế
kỷ XIX), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
19. Phương Lựu (2002), Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học trung
đại Việt Nam, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
20. Phương Lựu chủ biên (2002), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục. Hà Nội.
21. Trịnh Khắc Mạnh (2008), Thư mục sách Hán Nôm các dân tộc thiểu số ở
Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
22. Nguyễn Đăng Na (2003), Đặc điểm văn học Việt Nam trung đại, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
23. Phan Đăng Nhật (1981), Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb Văn
hóa, Hà Nội.
24. Võ Quang Nhơn (1983), Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam,
Nxb Đại học & Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
25. Nhiều tác giả (1992), Các dân tộc Tày Nùng ở Việt Nam, Viện Dân tộc học, Hà Nội.
26. Nhiều tác giả (1993), Văn hóa dân gian Cao Bằng, Hội Văn nghệ Cao Bằng.
27. Nhiều tác giả (2002), Văn hóa dân gian Tày, Sở Văn hóa Thông tin Thái Nguyên.
28. Nhiều tác giả (2011), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
29. Nhiều tác giả (2003), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
30. Lục Văn Pảo (1994), Lượn cọi, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
31. Lê Trường Phát (1997), Đặc điểm thi pháp truyện thơ các dân tộc thiểu
số Việt Nam, Luận án PTS khoa học Ngữ văn, Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội.
32. Triệu Thị Phượng (2009), Sự tương đồng và khác biệt về nội dung giữa
truyện thơ Tày và truyện thơ Thái, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Sư
phạm Thái Nguyên.
33. Ngô Thị Thanh Quý (2001), Nghiên cứu thi pháp truyện thơ Tiễn dặn
người yêu (Xống chụ xon xao) dân tộc Thái, Luận văn thạc sĩ, Trường
Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
34. Nguyễn Hữu Sơn (1997), Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
35. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
36. Hoàng Ngọc Thanh (2014), Hình tượng người phụ nữ trong ca từ hát văn,
Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
37. Lã Nhâm Thìn (2008), Giảng văn văn học trung đại Việt Nam, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
38. Trần Nho Thìn (2003), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hoá,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
39. Trần Nho Thìn (2012), Văn học trung đại Việt Nam (X - XIX), Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
40. Trần Nho Thìn (2018), Phương pháp tiếp cận văn hóa trong nghiên cứu
giảng dạy văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
41. Bùi Thu Trà (2011), Hình tượng người phụ nữ trong thơ các dân tộc thiểu
số Việt Nam hiện đại (khu vực phía Bắc), Luận văn Thạc sĩ, Đại học Sư
phạm Thái Nguyên.
42. Vũ Anh Tuấn (2004), Truyện thơ Tày - Nguồn gốc, quá trình phát triển và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
thi pháp thể loại, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
43. Phạm Quốc Tuấn (2004), Nghiên cứu so sánh các truyện thơ Nôm Tày cùng
cốt truyện với truyện thơ Nôm Kinh, Luận án Tiến sĩ khoa học Ngữ văn,
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
44. Mông Thị Bạch Vân (2011), Không gian và thời gian nghệ thuật trong
truyện thơ Tày, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
45. Lê Trí Viễn (1985), Lịch sử văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
46. Viện nghiên cứu Hán Nôm (2008), Tổng tập truyện thơ Nôm các dân tộc
thiểu số Việt Nam, Tập 2, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
47. Viện nghiên cứu Hán Nôm (2008), Tổng tập truyện thơ Nôm các dân tộc
thiểu số Việt Nam, Tập 3, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
48. Viện nghiên cứu Hán Nôm (2008), Tổng tập truyện thơ Nôm các dân tộc
thiểu số Việt Nam, Tập 4, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
49. Viện nghiên cứu Hán Nôm (2008), Tổng tập truyện thơ Nôm các dân tộc
thiểu số Việt Nam, Tập 5, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
50. Viện nghiên cứu Hán Nôm (2010), Tổng tập truyện thơ Nôm các dân tộc
thiểu số Việt Nam, Tập 6, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
51. Viện nghiên cứu Hán Nôm (2010), Tổng tập truyện thơ Nôm các dân tộc
thiểu số Việt Nam, Tập 7, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
52. Viện nghiên cứu Hán Nôm (2018), Tổng tập truyện thơ Nôm các dân tộc
thiểu số Việt Nam, Tập 19, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
* Tài liệu trên website:
53. Hoàng Phương Mai (2011). Công tác biên dịch và nghiên cứu truyện thơ
Nôm Tày - Đôi nét về thành tựu và triển vọng,
http://www.hannom.org.vn/detail.asp?param=1844&Catid=484, ngày
03/11/2011.
54. Nguyễn Thị Ngơi (2016), Đôi nét Ca dao về tình yêu, hôn nhân và gia đình
dân tộc Tày.
http://vanhien.vn/news/doi-net-ca-dao-ve-tinh-yeu-hon-nhan-va-gia-dinh-
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
dan-toc-tay-46057