ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

TRƯƠNG THỊ HỒNG HẠNH

NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN HÓA HỌC VÀ HOẠT TÍNH SINH HỌC CỦA LOÀI NHÂN TRẦN

(ADENOSMA CEARULEUM R. Br.) PHÂN BỐ

TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN

Chuyên ngành: Hóa hữu cơ Mã số: 60440114

LUẬN VĂN THẠC SĨ HÓA HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thanh Hương

THÁI NGUYÊN - 2017

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,

kết quả trong luận văn là hoàn toàn trung thực chưa từng được công bố trong

một công trình khoa học nào khác.

Thái Nguyên, tháng 9 năm 2017

Tác giả luận văn

Trương Thị Hồng Hạnh

Xác nhận Xác nhận

Của BCN khoa Hóa học của cán bộ hướng dẫn khoa học

i

TS. Nguyễn Thị Thanh Hương

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn

sâu sắc đến TS. Nguyễn Thị Thanh Hương đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi

trong suốt quá trình thực hiện luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, khoa Sau Đại học, Ban chủ

nhiệm khoa Hóa học trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã tạo

điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn các bạn bè đồng nghiệp đã giúp đỡ, tạo điều

kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn.

Học viên

ii

Trương Thị Hồng Hạnh

MỤC LỤC

Trang

TRANG BÌA PHỤ ............................................................................................. i

LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. i

LỜI CẢM ƠN ................................................................................................... ii

MỤC LỤC ........................................................................................................ iii

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT ............................................ vi

DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỒ ................................................................ vii

DANH MỤC CÁC ẢNH, HÌNH ................................................................... viii

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 1

2. Mục tiêu của đề tài ..................................................................................... 3

3. Nội dung nghiên cứu .................................................................................. 3

4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 3

5. Dự kiến kết quả đạt được ........................................................................... 4

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN ............................................................................. 5

1.1. Tổng quan về chi Adenosma và loài Adenosma cearuleum R.Br. .......... 5

1.1.1. Tổng quan về chi Adenosma (Họ Scrophulariaceae) ........................... 5

1.1.2. Đặc điểm thực vật loài Adenosma cearuleum R. Br. ........................... 6

1.1.3. Đặc điểm thực vật loài Adenosma indiana (Lour.) Merr. .................... 9

1.1.4. Đặc điểm thực vật loài Adenosma bracteosa Bonati ......................... 11

1.2. Tình hình nghiên cứu về thành phần hóa học của một số loài thuộc chi

Adenosma ..................................................................................................... 13

1.2.1. Nghiên cứu về loài Adenosma caeruleum R. Br. ............................... 13

1.2.2. Nghiên cứu về loài Adenosma indiana (Lour.) Merr. ....................... 15

1.2.3. Nghiên cứu về loài Adenosma bracteosa Bonati. .............................. 16

1.3. Policosanol ............................................................................................ 16

iii

1.4. Hoạt tính sinh học của loài Adenosma cearuleum R. Br. ..................... 20

1.5. Tác dụng dược lý của một số loài thuộc chi Adenosma ở Việt Nam ... 21

1.5.1. Tác dụng dược lý của loài Adenosma cearuleum R. Br. ................... 21

1.5.2. Tác dụng dược lý của loài Adenosma indiana (Lour.) Merr. ............ 23

1.5.3. Tác dụng dược lý của loài Adenosma bracteosum Bonati. ................ 25

CHƯƠNG 2: THỰC NGHIỆM ...................................................................... 26

2.1. Đối tượng nghiên cứu ........................................................................... 26

2.2. Hóa chất, thiết bị ................................................................................... 26

2.2.1. Hóa chất ............................................................................................. 26

2.2.2. Thiết bị ............................................................................................... 27

2.3. Phương pháp xử lý mẫu thực vật, chiết tách và xác định cấu trúc các

chất phân lập được ....................................................................................... 27

2.3.1. Xử lý mẫu thực vật ............................................................................. 27

2.3.2. Chiết tách các chất ............................................................................. 28

2.3.3. Xác định cấu trúc các chất ................................................................. 28

2.4. Phương pháp xác định hoạt tính chống oxi hóa từ dịch chiết nước phần

thân của loài Adenosma cearuleum R. Br. dạng khô ................................... 28

2.4.1. Xác định khả năng ức chế peroxidation lipid (thử nghiệm MDA) .... 28

2.4.2. Xác định hoạt tính chống oxi hóa bằng DPPH .................................. 28

2.4.3. Xác định hoạt tính chống oxi hóa bằng ABTS .................................. 29

2.5. Phương pháp xác định hoạt tính gây độc tế bào ung thư từ dịch chiết

nước phần thân của loài Adenosma cearuleum R. Br. dạng khô ................. 29

2.6. Thực nghiệm ......................................................................................... 29

2.6.1. Quá trình phân lập các chất từ phần thân của loài Adenosma

cearuleum R. Br. .......................................................................................... 29

2.6.2. Dữ kiện phổ của các chất phân lập được ........................................... 31

2.6.3. Xác định khả năng ức chế peroxy hoá lipid (thử nghiệm MDA) ...... 32

2.6.4. Xác định hoạt tính chống oxi hóa bằng DPPH .................................. 33

iv

2.6.5. Xác định hoạt tính chống oxi hóa bằng ABTS .................................. 33

2.6.6. Xác định hoạt tính gây độc tế bào ung thư ....................................... 34

2.7. Phương pháp xử lí số liệu ..................................................................... 34

CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ........................ 35

3.1. Phân lập các chất từ cặn chiết etyl axetat phần thân của loài Adenosma

cearuleum R. Br. .......................................................................................... 35

3.2. Xác định cấu trúc chất tách được .......................................................... 35

3.2.1. Chất AC2: α, β-dilinoleostearin ......................................................... 35

3.2.2. Chất AC5: 1-heptacosanol ................................................................. 40

3.2.3. Chất AC6: Axit triacontanoic ............................................................ 44

3.3. Kết quả thử hoạt tính chống oxi hóa từ dịch chiết nước phần thân loài

Adenosma cearuleum R. Br. dạng khô ........................................................ 47

3.3.1. Khả năng chống oxi hóa thông qua việc ức chế peroxy hóa lipid màng

tế bào (thử nghiệm MDA) ............................................................................ 48

3.3.2. Xác định hoạt tính chống oxy hóa thông qua phép thử trung hòa gốc

tự do của DPPH ............................................................................................ 50

3.3.3. Xác định hoạt tính chống oxy hóa bằng ABTS ................................. 51

3.3.4. Kết quả nghiên cứu hoạt tính gây độc tế bào ung thư của dịch chiết

nước phần thân của loài Adenosma cearuleum R. Br. dạng khô ................. 52

3.3.5. Kết luận về hoạt tính của dịch chiết nước phần thân của loài

Adenosma cearuleum R. Br. dạng khô ........................................................ 54

3.4. So sánh loài Adenosma cearuleum R. Br. (Nhân trần) với loài

Adenosma indiana (Lour.) Merr. (Bồ bồ) .................................................... 55

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 60

KIẾN NGHỊ .................................................................................................... 62

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN

VĂN ................................................................................................................ 63

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 64

v

PHỤ LỤC ........................................................................................................ 67

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

AC2 α, β-dilinoleostearin

1-heptacosanol AC5

Axit triacontanoic AC6

13C-NMR

2,2’-azinobis(3-ethylbenzothiazoline-6-sulfonate) ABTS

Phổ cộng hưởng từ hạt nhân của nguyên tử 13C

Phổ DEPT DEPT

Dimetylsulfoside DMSO

1,1-Diphenyl-2-picrylhydrazyl DPPH

1H-NMR Phổ cộng hưởng từ hạt nhân của nguyên tử 1H

Sắc ký khí khối phổ GC-MS

LC-MS Phổ khối lượng

Nồng độ gây ra tác động sinh học cho 50% mẫu thử nghiệm IC50

Malonyl diandehit MDA

Mật độ quang học của dung môi ODC

Mật độ quang học của mẫu thử ODT

Nồng độ trung hòa được 50% gốc tự do của DPPH SC50 Nồng độ trung hòa được 50% gốc tự do của ABTS+

SKC Sắc ký cột

Axit tricloaxetic TCA

vi

Axit thiobarbituric TBA

DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỒ

Trang

Bảng 3.1. Số liệu phổ 1H- NMR của chất AC2............................................... 37

Bảng 3.2. Số liệu phổ 13C-NMR của chất AC2 và α, β-dilinoleostearin[18] . 38

Bảng 3.3. Số liệu phổ 1H của chất AC5 .......................................................... 41

Bảng 3.4. Số liệu phổ 13C-NMR của chất AC5 .............................................. 42

Bảng 3.5. Số liệu phổ 1H của chất AC6 và axit triacontanoic [26] ................ 45

Bảng 3.6. Kết quả xác định khả năng ức chế peroxy hoá lipid màng tế bào .. 50

Bảng 3.7. Khả năng trung hòa gốc tự do của DPPH ....................................... 51

Bảng 3.8. Hoạt tính chống oxi hóa bằng ABTS ............................................. 52

Bảng 3.9. Kết quả xác định khả năng ức chế sự phát triển tế bào ung thư của

dịch chiết nước phần thân của loài Adenosma cearuleum R. Br. dạng khô ... 54

Bảng 3.10: So sánh hợp chất thực nghiệm tìm ra ở dịch chiết loài Adenosma

cearuleum R. Br. và loài Adenosma indiana (Lour.) Merr. ở huyện Đại Từ -

Thái Nguyên..................................................................................................... 58

Sơ đồ 1.1: Cơ chế điều hòa men của policosanol (GDL-5) ............................ 19

Sơ đồ 2.1: Sơ đồ chiết, tách các chất từ phần thân của loài Adenosma

vii

cearuleum R. Br. ............................................................................................. 30

DANH MỤC CÁC ẢNH, HÌNH

Hình 1.1. Thân, lá, hoa của loài Adenosma caeruleum R. Br. .......................... 7

Hình 1.2. Bụi cây của loài Adenosma caeruleum R. Br ................................... 7

Hình 1.3. Hoa của loài Adenosma caeruleum R. Br. ........................................ 7

Hình 1.4. Hình vẽ mô tả của loài Adenosma caeruleum R. Br. ........................ 7

Hình 1.5. Hoa, thân, lá của loài Adenosma indiana (Lour.) Merr. ................... 9

Hình 1.6. Hình vẽ mô tả của loài Adenosma indiana (Lour.) Merr. ................. 9

Hình 1.7. Hoa, thân, lá của loài Adenosma bracteosa Bonati ........................ 11

Hình 1.8. Các chất phân lập được từ dịch chiết clorofom của loài Adenosma

caeruleum R. Br. ............................................................................................. 14

Hình 1.9. Hợp chất phân lập được từ dịch chiết methanol của loài Adenosma

caeruleum R. Br. ............................................................................................. 14

Hình 1.10. Các rượu béo trong policosanol cô lập từ nguyên liệu thô ........... 17

Hình 3.1. Phổ LC-MS của chất AC2 .............................................................. 36

Hình 3.2. Phổ 1H–NMR của chất AC2 ........................................................... 37

Hình 3.3. Phổ 13C-NMR của chất AC2 ........................................................... 39

Hình 3.4. Phổ 13C-NMR và DEPT của chất AC2 ........................................... 39

Hình 3.5. Công thức cấu tạo của chất AC2 ..................................................... 40

Hình 3.6. Phổ LC-MS của chất AC5 .............................................................. 41

Hình 3.7. Phổ 1H–NMR của chất AC5 ........................................................... 42

Hình 3.8. Phổ 13C-NMR của chất AC5 .......................................................... 43

Hình 3.9. Phổ 13C-NMR và DEPT của chất AC5 ........................................... 43

Hình 3.10. Công thức cấu tạo của chất AC5 ................................................... 44

Hình 3.11. Phổ LC-MS của chất AC6 ............................................................ 45

Hình 3.12. Phổ 1H–NMR của chất AC6 ........................................................ 46

Hình 3.13. Công thức cấu tạo của chất AC6 ................................................... 46

Hình 3.14. Hoa, thân, lá của loài Adenosma indiana (Lour.) Merr. ............... 56

viii

Hình 3.15. Hoa, thân, lá của loài Adenosma cearuleum R. Br. ...................... 56

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm có những

điều kiện về khí hậu như nhiệt độ, lượng mưa, ánh sáng... và hơn hết là điều

kiện thổ nhưỡng đặc trưng thích hợp cho nhiều loại thực vật có giá trị tồn tại và

phát triển. Theo thống kê sơ bộ, Việt Nam có nguồn tài nguyên thực vật phong

phú và đa dạng trong đó có khoảng 12 000 loài thực vật bậc cao có mạch,

khoảng 800 loài Rêu, 600 loài Nấm và hơn 2000 loài Tảo. Đó là nguồn tài

nguyên sinh học quý giá, thuộc loại tài nguyên tái tạo được. Từ xa xưa đến nay,

con người thường khai thác nguồn tài nguyên này để làm thực phẩm, thuốc

chữa bệnh, các vật liệu cũng như nhiên liệu cho cuộc sống thường ngày.[3]

Ngày nay, việc tìm kiếm các hoạt chất tự nhiên có hoạt tính sinh học cao

để làm thuốc là một xu thế được rất nhiều các nhà khoa học quan tâm. Theo kết

quả điều tra của Viện Dược Liệu Việt Nam cho thấy nguồn dược liệu ở nước ta

rất phong phú với 3948 loài thực vật và nấm lớn có công dụng làm thuốc; trong

đó 90% là cây thuốc mọc tự nhiên, tập trung chủ yếu trong các quần xã rừng.

Nguồn cây thuốc tự nhiên đã cung cấp tới trên 20.000 tấn mỗi năm. Với nguồn

tài nguyên dược liệu phong phú, cùng với vốn kinh nghiệm của cộng đồng các

dân tộc Việt Nam chính là một nguồn tiềm năng để nghiên cứu, chiết xuất các

hoạt chất và tạo ra những loại thuốc mới có hiệu lực chữa bệnh cao.[1]

Nhân trần có tên khoa học Adenosma cearuleum R. Br.; thuộc chi

Adenosma là loài thường mọc hoang phổ biến ở các vùng trung du và miền núi

Việt Nam, dùng để làm thuốc và chế biến nước uống quen thuộc có tính chất

bản địa ở Việt Nam và nhiều nước châu Á từ bao đời nay. Qua các nghiên cứu

khoa học của y học hiện đại, dựa trên nguồn gốc là các bài thuốc dân gian lưu

truyền từ bao đời nay thì Adenosma cearuleum R. Br. có tác dụng làm tăng tiết

và thúc đẩy quá trình bài xuất dịch mật, bảo vệ tế bào gan, ngăn ngừa tình trạng

1

gan nhiễm mỡ, thúc đẩy tuần hoàn, giải nhiệt, giảm đau và chống viêm. Nó có

khả năng ức chế một số vi khuẩn như tụ cầu vàng, thương hàn, phó thương hàn,

mủ xanh, E.coli, lỵ, song cầu khuẩn gây viêm não, viêm phổi và một số loại

nấm[1], [3], cải thiện công năng miễn dịch và ức chế sự tăng sinh của tế bào

ung thư [6]. Trên lâm sàng, nhân trần đã được sử dụng để điều trị các bệnh:

viêm gan truyền nhiễm cấp tính thể vàng da, vàng da tán huyết do thương hàn

ở trẻ sơ sinh, giun chui ống mật, rối loạn lipid máu, thiểu năng mạch vành,

eczema dai dẳng ở trẻ em, viêm loét miệng, nấm da...[6]

Thái Nguyên là tỉnh nằm ở vùng Đông Bắc của Việt Nam, là trung tâm

kinh tế - xã hội lớn của khu vực đông bắc hay cả vùng trung du và miền núi

phía Bắc. Cách thành phố Thái Nguyên 25km về phía Tây Bắc là huyện Đại

Từ được bao bọc xung quanh bởi các dãy núi với nhiều sông ngòi, hồ, đập.

Huyện Đại Từ có lượng mưa lớn, khí hậu ẩm ướt với độ ẩm trung bình từ 70 -

80%, nhiệt độ trung bình hàng năm từ 22 - 270, rất phù hợp cho nhiều loại

cây trồng, nhất là loài cây làm thuốc phát triển[29]. Với điều kiện khí hậu và

tự nhiên rất thuận lợi, huyện Đại Từ - tỉnh Thái Nguyên là địa bàn có sự phân

bố tự nhiên của chi Adenosma, tiềm tàng một nguồn lợi lớn, có thể từ đó tạo

ra nguồn nguyên liệu làm thuốc chữa bệnh, bổ dưỡng có giá trị trong dân gian

mà nhân dân gọi là trà nhân trần. Từ lâu nhân dân huyện Đại Từ mới chỉ sử

dụng Adenosma cearuleum R. Br. trên địa bàn như một loài cây có tính thanh

nhiệt, giải độc mà chưa có nghiên cứu nào bài bản về thành phần hóa học và

hoạt tính sinh học của loài Adenosma cearuleum R.Br. phân bố ở địa bàn

huyện Đại Từ - tỉnh Thái Nguyên. Căn cứ các lý do trên, chúng tôi đã lựa

chọn đề tài: "Nghiên cứu thành phần hóa học và hoạt tính sinh học của

loài Nhân trần Adenosma cearuleum R. Br. phân bố trên địa bàn tỉnh

2

Thái Nguyên."

2. Mục tiêu của đề tài

- Khảo sát thành phần hóa học trong cặn chiết etyl axetat phần thân của

loài Adenosma cearuleum R. Br. phân bố trên địa bàn huyện Đại Từ - tỉnh

Thái Nguyên.

- Xác định hoạt tính chống oxi hóa của dịch chiết nước phần thân của

loài Adenosma cearuleum R. Br. dạng khô trong phép thử chống lipit hóa

màng tế bào, trong phép thử trung hòa gốc tự do của DPPH và trong phép thử

bằng ABTS.

- Nghiên cứu hoạt tính gây độc tế bào trên dòng tế bào ung thư gan

HepG2 của dịch chiết nước phần thân của loài Adenosma cearuleum R. Br.

dạng khô.

- Định hướng về việc sử dụng các chế phẩm từ phần thân của loài Adenosma

cearuleum R. Br.

3. Nội dung nghiên cứu

- Thu thập và xử lý mẫu của loài Adenosma cearuleum R. Br. phân bố

trên địa bàn huyện Đại Từ - tỉnh Thái Nguyên.

- Bằng các phép phân tích hóa học xác định thành phần hóa học trong

cặn chiết etyl axetat phần thân của loài Adenosma cearuleum R. Br. phân bố

trên địa bàn huyện Đại Từ - tỉnh Thái Nguyên.

- Bằng phép thử chống lipit hóa màng tế bào, phép thử trung hòa gốc tự

do của DPPH và phép thử bằng ABTS xác định hoạt tính chống oxi hóa của

dịch chiết nước phần thân loài Adenosma cearuleum R. Br. dạng khô.

- Nghiên cứu hoạt tính gây độc tế bào trên dòng tế bào ung thư gan

HepG2 của dịch chiết nước phần thân của loài Adenosma cearuleum R. Br.

dạng khô.

4. Phương pháp nghiên cứu

- Xử lý mẫu thực vật và chiết mẫu bằng dung môi thích hợp để thu được

3

các dịch chiết nhằm nghiên cứu thành phần hóa học.

- Dịch chiết được tinh chế sơ bộ bằng cách chiết phân đoạn trong các

dung môi như n-hexan, etyl axetat...

- Sử dụng các phương pháp sắc ký để phân lập các chất chính nhằm khảo

sát thành phần hóa học của mẫu.

- Sử dụng các phương pháp phổ để xác định thành phần hóa học của mẫu.

- Khảo sát hoạt tính chống oxi hóa của dịch chiết nước phần thân của loài

Adenosma cearuleum R. Br. dạng khô.

- Nghiên cứu hoạt tính gây độc tế bào trên dòng tế bào ung thư gan

HepG2 của dịch chiết nước phần thân của loài Adenosma cearuleum R. Br.

dạng khô.

5. Dự kiến kết quả đạt được

- Thành phần hóa học trong cặn chiết etyl axetat phần thân của loài

Adenosma cearuleum R. Br. phân bố trên địa bàn huyện Đại Từ - tỉnh Thái

Nguyên.

- Đánh giá hoạt tính chống oxi hóa và hoạt tính gây độc tế bào trên dòng

tế bào ung thư gan HepG2 của dịch chiết nước của thân loài Adenosma

4

cearuleum R. Br. dạng khô.

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN

1.1. Tổng quan về chi Adenosma và loài Adenosma cearuleum R.Br.

1.1.1. Tổng quan về chi Adenosma (Họ Scrophulariaceae)

Chi Adenosma xuất phát từ chữ Hy Lạp Aden: tuyến và osmé: mùi thơm,

hương thơm. Chi Adenosma có khoảng 15 loài phân bố ở khu vực Bắc Á,

Đông Nam Á, Trung Quốc và quần đảo Thái Bình Dương [3], [13].

- Trung Quốc có bốn loài chính, phân bố tập trung ở các tỉnh Phúc Kiến,

Quảng Tây, Hải Nam, Quảng Đông, Vân Nam, Phúc Kiến, Giang Tây, Vân

Nam, gồm: Adenosma glutinosum (Linn.) Druce., Adenosma indianum (Lour.)

Merr., Adenosma javanicum (B1.) Merr., Adenosma retusilobum Tsoong [13].

- Ở Ấn Độ có ba loài chính gồm: Adenosma indianum (Lour.) Merr.,

Adenosma malabaricum Hook.f. Fl. Brit, Adenosma bilabiatum (Roxb.)

Merr, Adenosma caeruleum R. Br. [13].

- Ở Australia có hai loài gồm: Adenosma caerulea R. Br.

(Adenosma glutinosum), Adenosma muelleri Benth. (Adenosma bracteosum).

- Ở Siri Lanca có một loài phân bố ở Pasdon Corle là: Adenosma

subrepens Benth. Ex Hook. F [13].

Các nước Đông Nam Á là các nước có nhiều nhất và phân bố ở các quốc

gia như sau:

- Inđonesia có hai loài chính gồm: Adenosma caeruleum R. Br. và

Adenosma indianum (Lour.) Merr. [13].

- Philipin có ba loài gồm: Adenosma indianum (Lour.) Merr. (Adenosma

bilabiatum (Roxb.) (Merr), Adenosma caeruleum R. Br. [13].

- Thái Lan có hai loài gồm: Adenosma caeruleum R. Br. và Adenosma

indiana (Lour.) Merr. [13].

- Lào có ba loài gồm: Adenosma glutinosum (L.) Druce, Adenosma

5

bracteosa Bonati, Adenosma indiana (Lour.) Merr. [13].

- Campuchia có bốn loài gồm: Adenosma indiana (Lour.) Merr.,

Adenosma caeruleum R. Br., Adenosma bracteosa Bonati, Adenosma

javanicum (Bl) Merr. [13].

- Mianma có hai loài gồm: Adenosma indiana (Lour.) Merr., Adenosma

ovatum (Benth.) Hook.f. [13].

- Malaixia có một loài phân bố ở Malacca là Adenosma capitatum

Benth.Ex Hance. [13].

- Singapo chỉ có một loài là Adenosma inopinatum Prain. [13].

- Việt Nam là quốc gia có sự phân bố của chi Adenosma nhiều nhất trong

các nước châu Á, có bảy loài phân bố khắp các tỉnh từ Bắc vào Nam, phổ biến

nhất là 3 loài: Adenosma bracteosa Bonati, Adenosma indiana (Lour.) Merr.

và Adenosma caeruleum R. Br. [3].

Dưới đây chúng tôi sẽ trình bày tổng quan về một số loài thuộc chi

Adenosma đã được nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam về thành phần hóa

học và hoạt tính sinh học cũng như ứng dụng trong y học.

1.1.2. Đặc điểm thực vật loài Adenosma cearuleum R. Br.

1.1.2.1. Tên khoa học

Tên khoa học: Adenosma cearuleum R. Br.

Giới : Thực vật

Ngành: Magnoliophyta

Lớp: Magnoliopsida

Bộ: Lamiales

Họ: Hoa mõm chó (Scrophulariaceae)

Chi: Adenosma

Tên tiếng Việt: Nhân trần; Tuyến hương lam; Chè nội; Chè cát, Nhân trần

6

Việt Nam.

Tên khác: Adenosma caeruleum var. urticifolium Bonati, Adenosma

caeruleum var. racemosum Bonati, Adenosma glutinosum (L.) Druce var.,

Adenosma caeruleum (R. Br.) Tsoong, Adenosma cordifolium Bonati,;

1.1.2.2. Đặc điểm thực vật và phân bố trong tự nhiên

Hình 1.1. Thân, lá, hoa của loài Hình 1.2. Bụi cây của loài Adenosma

Adenosma caeruleum R. Br. caeruleum R. Br

Hình 1.3. Hoa của loài Adenosma Hình 1.4. Hình vẽ mô tả của loài

caeruleum R. Br. Adenosma caeruleum R. Br.

Loài Adenosma cearuleum R. Br. là loài sống năm một. Cây thân cỏ cao từ

30 – 110 cm, thân tròn màu tím sẫm, trên thân có tuyến lông trắng mịn, cây có

khả năng phân cành nhiều. Lá mọc đối, hình trứng, đầu lá dài, mép lá có răng

7

cưa to, mặt trên và mặt dưới lá đều có nhiều lông mịn. Phiến lá dài từ 3 – 9 cm,

rộng từ 1 - 3,5 cm, có 7 đôi gân nổi rõ ở mặt dưới, cuống dài từ 5 - 10 mm. Hoa

màu tím, mọc đơn độc ở nách lá hay thành chùm ở đầu cành. Đài hình chuông

xẻ thành năm thùy sâu. Tràng hình ống màu tím-xanh dài từ 10 -14 mm, môi

trên hình lưỡi nhỏ, môi dưới xẻ thành 3 thùy đều nhau. Nhị dài 2 cm, bao phấn

trước với 1 ngăn hữu thụ, bao phấn sau có 2 ngăn hữu thụ. Bầu mang vòi nhụy

có 2 thùy, vòi nhụy dài 2,2 cm. Quả nang hình trứng, dài bằng đài, nhiều hạt, hạt

có hình tam giác, 1 mặt lõm. Khi chín quả có màu nâu và tự tách ra, hạt nhỏ màu

nâu. Mùa hoa vào tháng 8 – 9. Mùa quả vào tháng 9 – 10. [1], [2], [3], [5]

Phân bố

Loài Adenosma caeruleum R. Br. là loài phát triển tốt ở nơi có khí hậu

nhiệt đới như Ấn Độ, Xri Lanca, Nam Trung Quốc, Campuchia, Lào, Việt

Nam, Thái Lan, Malaixia, Inđônêxia cho đến Ôxtrâylia...và là loài sống năm

một. Ở Việt Nam, loài Adenosma cearuleum R. Br. mọc ở khắp nơi từ Yên

Bái, Cao Bằng, Thái Nguyên vào tới Tây Ninh.

Thời gian gieo hạt của loài Adenosma caeruleum R. Br. bắt đầu từ cuối

tháng 2 sang tháng 3 khi cây được 6 lá đem trồng, sau khi trồng 5 - 6 tháng

cây bắt đầu ra hoa, kết hạt sau đó tàn lụi. Cây cũng có thể tái sinh nếu gặp

điều kiện thuận lợi, gốc cây có thể sống qua đông đến mùa xuân năm sau xuất

hiện các chồi mới. Nhiệt độ từ 15 - 30oC là thích nghi cho cây sinh trưởng tốt,

nhiệt độ dưới 150C cây phát triển kém. Là cây ưa sáng, không chịu được úng.

Những cây Adenosma caeruleum R. Br. mọc hoang dại trong rừng, độ khép

tán của rừng quá lớn, quá râm thì cây Adenosma caeruleum R. Br. mọc rậm

rạp, ít ra hoa kết quả, thậm chí không ra hoa kết quả. Còn cây Adenosma

caeruleum R. Br. mọc ở rìa rừng, ở đồi, ở ruộng, ánh sáng chiếu xuống tương

đối nhiều, cây tuy thấp nhưng đậu quả rất nhiều. Loài Adenosma

caeruleum R. Br. đòi hỏi nước rất nghiêm ngặt, lượng mưa hàng năm từ 1700

8

- 1800 mm, độ ẩm bình quân hàng năm trên 70% [1], [2].

Loài Adenosma caeruleum R. Br. không đòi hỏi đất đai tốt lắm, đất cát, đất

thịt đều có thể trồng được, tốt nhất là đất pha cát thoát nước tốt, giàu mùn, tơi

xốp, lớp đất dưới là đất thịt. Đất sét dễ úng nước, đất sỏi đá khô cằn, đất mặn,...

đều không nên trồng Adenosma caeruleum R. Br. Loài Adenosma caeruleum R.

Br. trước đây mọc hoang, sau đó nhân dân đưa về trồng ở các tỉnh vùng trung du

miền núi để khai thác các nguồn nguyên liệu làm thuốc chữa bệnh, là thức uống

bổ dưỡng có giá trị trong dân gian nhân dân gọi là trà nhân trần[1], [2].

1.1.3. Đặc điểm thực vật loài Adenosma indiana (Lour.) Merr.

1.1.3.1. Tên khoa học

Tên khoa học: Adenosma indiana (Lour.) Merr.

Tên Việt Nam: Chè đồng, Chè nội, Chè cát, Nhân trần, Nhân trần hoa

đầu, Tuyến hương Ấn, Bồ bồ.

Tên khác: Manulea indiana Lour.; Stemodia capitata Benth.; Pterostigma

capitatum Benth.; Adenosma capitatum Benth. ex Hance; Adenosma

capitatum var. spicata Bonati; Erinus bilabiatus Roxb.; Adenosma bilabiatum

(Roxb.) Merr.; Adenosma buchneroides Bonati.

1.1.3.2. Đặc điểm thực vật và phân bố trong tự nhiên

Đặc điểm thực vật

Hình 1.5. Hoa, thân, lá của loài Hình 1.6. Hình vẽ mô tả của loài

9

Adenosma indiana (Lour.) Merr. Adenosma indiana (Lour.) Merr.

Thân hình trụ, cành non mang nhiều lông về sau nhẵn, lúc đầu thân

màu xanh sau chuyển sang màu tím nhạt, chiều cao cây 70 cm - 100 cm. Lá

mọc đối, phiến lá hình mác, đầu nhọn, mép lá có răng cưa, gân lá hình lông

chim, mặt trên mang nhiều lông hơn mặt dưới, chiều dài lá 5 cm - 8 cm, rộng

lá 2 cm - 4 cm. Rễ thuộc loại rễ chùm, có nhiều lông tơ nhỏ màu trắng, rễ dài

10 - 18 cm. Hoa nhỏ, màu tím, mọc tụ tập thành đầu nang, đài có lông với hai

môi, môi trên nguyên, môi dưới xẻ bốn. Tràng cánh hợp với hai môi, môi trên

xẻ bốn, môi dưới nguyên, bốn nhị có hai chiếc dài, hai chiếc ngắn. Quả thuộc

loại quả nang nằm gọn trong đài hoa. Nhiều hạt nhỏ, hình trứng thuôn, có

nhiều gai, màu cánh gián. [3], [5]

Phân bố

Loài Adenosma indiana (Lour.) Merr. phân bố chủ yếu ở Xri Lanca, Ấn

Độ, Mianma, Nam Trung Quốc; ở Campuchia, Lào, Việt Nam, Thái Lan,

Malaixia, Inđônêxia và Philippin.

Loài Adenosma indiana (Lour.) Merr là loài sống năm một và phát triển

tốt ở vùng khí hậu nhiệt đới. Nhiệt độ từ 25-35oC là thích nghi cho cây sinh

trưởng tốt, nhiệt độ thấp cây phát triển kém. Là loài ưa sáng, không chịu được

rét, không chịu được úng. Loài Adenosma indiana (Lour.) Merr. phát triển tốt

ở điều kiện độ ẩm cao, độ ẩm bình quân hàng năm 80-85% và ở độ cao từ

100–800 m so với mực nước biển.

Loài Adenosma indiana (Lour.) Merr. có phạm vi thích ứng về đất đaii

cũng khá rộng. Nhưng cây phát triển tốt nhất là ở vùng đất pha cát thoát nước

tốt, giàu mùn, tơi xốp, lớp đất dưới là đất thịt khi đó thân và lá của loài

Adenosma indiana (Lour.) Merr. có màu xanh. Đất sét dễ úng nước, đất sỏi đá

khô cằn, đất mặn,... cây đều sinh trưởng, phát triển kém cây thường cằn cỗi,

thân và lá có màu tím. Cuối tháng 2 sang đầu tháng 3 cây bắt đầu mọc, mùa

10

hoa vào tháng 8- 9. Mùa quả vào tháng 9 – 10 sau đó tàn lụi.

Ở Việt Nam, loài Adenosma indiana (Lour.) Merr. phân bố ở Thái

Nguyên, Quảng Ninh, Bắc Giang, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Tây vào tới Đồng

Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu và Bình Dương. Loài này thường được thấy ở ruộng,

các rừng thưa cây rụng lá, nơi trống có cát và cỏ, trong các đầm lầy và đất ẩm,

từ độ cao 1200m so với mặt nước biển. Cây ra hoa kết quả từ tháng 4 - 10. [3]

1.1.4. Đặc điểm thực vật loài Adenosma bracteosa Bonati

1.1.4.1. Tên khoa học

Tên khoa học: Adenosma bracteosa Bonati

Tên Việt Nam: Nhân trần tía, Nhân trần Tây Ninh, nhân trần cái, chè cát,

Nhân trần có lá bắc, tuyến hương lá hoa.

1.1.4.2. Đặc điểm thực vật và phân bố trong tự nhiên

Đặc điểm thực vật

Hình 1.7. Hoa, thân, lá của loài

Adenosma bracteosa Bonati

Cây thảo, cao 30 - 40cm. Thân hình trụ, phân cành từ gốc, phần ngọn

có 4 cánh. Cành mọc tỏa ngang hay đứng thẳng. Lá mọc đối, hình mác thuôn,

dài khoảng 2cm, rộng 7mm, không cuống, gốc gần như ôm thân, nguyên hoặc

có răng cưa tròn, gân lá rõ.

Cụm hoa mọc ở đầu cành thành bông dày đặc, dài 1,5 - 3cm, tổng bao

11

gồm những lá bắc dạng lá, hình tim, đầu nhọn, méo nguyên, có lông thô dạng

mi; đài có 5 răng không đều, 3 răng ngoài rộng, 2 răng trong hẹp; tràng có

ống hình trụ chia hai môi, môi trên bằng đầu, chia đôi; môi dưới dài bằng môi

trên chia 3 thùy gần bằng nhau; nhị có 1 ô, bầu nhẵn.

Quả nang, hình trứng thuôn, thắt lại ở đầu, nằm gọn trong đài tồn tại.

Mùa hoa quả: tháng 5 - 9. [3], [5]

Phân bố

Loài Adenosma bracteosa Bonati có phạm vi phân bố hạn chế, chỉ phát

hiện thấy ở vài tỉnh phía Nam như Tây Ninh, Bình Dương, khu vực Vũng

Tàu, đảo Phú Quốc và Côn Đảo. Có tài liệu ghi nhận ở cả Kon Tum, Đắc Lắc.

Cây cũng phân bố khá phổ biến ở Lào và Campuchia[1].

Loài Adenosma bracteosa Bonati chỉ gặp vào thời gian từ giữa mùa

mưa đến đầu mùa khô hàng năm. Cây ưa sáng, ưa ấm và có thể chịu được khô

hạn sau khi đã ra hoa, kết quả. Cây thường mọc thành đám, có khi tới hàng

ngàn mét vuông trên những bãi đất bằng dưới chân đồi, trong thung lũng hay

những đám ruộng cao mới bỏ hoang. Nơi mọc của loài Adenosma

bracteosa Bonati thường là đất pha cát và hơi chua. Ở những nơi đất bị rửa

trôi mạnh, nghèo dinh dưỡng, cây chỉ cao không quá 15cm đã thấy có hoa

quả. Sau khi quả già, toàn cây tàn lụi. So với các loài Adenosma

indiana (Lour.) Merr và Adenosma caeruleum R. Br. mọc ở các tỉnh phía Bắc

thì loài Adenosma bracteosa Bonati có vòng đời ngắn hơn, chỉ tồn tại 3 - 4

tháng và mức độ khai thác, sử dụng cũng ít hơn. Do đó, nguồn trữ lượng của

nó ở các tỉnh phía nam chưa có nguy cơ bị suy giảm[1], [2], [3].

Tiểu kết: Với địa bàn khảo sát là huyện Đại Từ - Thái Nguyên có điều kiện

khí hậu và tự nhiên thuận lợi, chúng tôi chỉ thấy có 2 loài Adenosma

caeruleum R. Br. và Adenosma indiana (Lour.) Merr. được trồng phổ biến

trên huyện Đại Từ, trong đó loài Adenosma caeruleum R. Br. được trồng

nhiều ở một số nơi trong huyện như xã Tiên Hội, xã Ký Phú... và mọc hoang

12

ở vùng đồi, bờ ruộng của tất cả các vùng đất thích hợp trên địa bàn huyện.

1.2. Tình hình nghiên cứu về thành phần hóa học của một số loài thuộc

chi Adenosma

Ở Việt Nam chi Adenosma phổ biến nhất là ba loài: Adenosma

caeruleum R. Br., Adenosma indiana (Lour.) Merr. và Adenosma bracteosum

Bonati, dù được nhân dân dùng rộng rãi dưới dạng nước sắc để uống do có tác

dụng thanh nhiệt, lợi mật, tăng thải độc cho gan, các bệnh phụ nữ sau khi sinh

nhưng hiện nay, theo tra cứu số liệu của đĩa CD-Rom Từ điển các hợp chất

thiên nhiên (Dictionary of Natural Products) hầu hết các loài này đều chưa

được nghiên cứu nhiều về hóa học và hoạt tính sinh học cả ở Việt Nam và

trên thế giới. Cho đến nay ở trên thế giới và ở Việt Nam chỉ có một số công

trình khoa học công bố về thành phần hóa học của hai loài Adenosma

caeruleum R. Br. và Adenosma indiana (Lour.) Merr.

1.2.1. Nghiên cứu về loài Adenosma caeruleum R. Br.

Năm 1975, Lê Tùng Châu và cộng sự phân tích trong Adenosma

caeruleum R. Br. có saponin tritecpenic, flavonozit, axit nhân thơm, cumari

và tinh dầu. Cả cây có 1% tinh dầu, hoa có 1,86% tinh dầu tỷ trọng 0,8042

(250) nD=1,4705 (200) aD= +408 [3].

Năm 1992, GS. Trần Văn Sung cùng các cộng sự đã phân lập từ dịch

chiết cloroform của loài Adenosma caeruleum R. Br lúc ra hoa thu được các

chất sau: sitosterol, stigmasterol, campesterol, axit betulinic(1), monoterpen

peroxit (2), enon(3), phenol (4), arbutin (5) và aucubin (6) trong đó có

13

monoterpen peroxit là chất mới (Hình 1.7) [3], [6], [7].

(1) (2) (3) (4)

(5) (6) (7)

Hình 1.8. Các chất phân lập được từ dịch chiết clorofom của loài Adenosma

caeruleum R. Br.

Năm 2009, cũng từ loài Adenosma cearuleum R. Br. được tìm thấy ở

Vườn quốc gia Tam Đảo – Vĩnh Phúc, nhóm nghiên cứu của GS. Phan Văn

Kiệm đã phân lập được một iridoid glycoside mới có tên là adenosmoside(7)

(Hình 1.8),(Hình 1.9) cùng với phenylpropanoid đã biết và hai flavonoid là

apigenin 7-O-β-D-glucuronopyranoside và apigenin 7-O-Β-D-glucopyranoside

từ chiết xuất methanol của loài Adenosma caeruleum R. Br. [21].

Hình 1.9. Hợp chất phân lập được từ dịch chiết methanol của loài Adenosma

14

caeruleum R. Br.

Đến nay, vẫn chưa có công trình khoa học nào công bố về hoạt tính sinh

học của các chất, đặc biệt là các chất mới như monoterpen peroxide (2) hay

adenosmoside (7) …đã được phân lập từ chi Adenosma.

1.2.2. Nghiên cứu về loài Adenosma indiana (Lour.) Merr.

Năm 1939, F. Guichard và J. Clemensat phân tích loài Adenosma indiana

(Lour.) Merr. dưới định danh Nhân trần và thấy 1,67% kali nitrat, một

saponin có chỉ số bọt 2.600, một glucozit tan trong axeton, trong ete, không

tan trong nước, khoảng 0,7% tinh dầu [3].

Năm 1950, P.V. Nair và cộng sự đã cất được từ loài Adenosma

indiana (Lour.) Merr. 1% tinh dầu và đã phân tích thấy có 5 l.monoterpen và

2 d.secquiterpen trong đó có 38,5% cineol. Ngoài ra còn thấy saponin,

tritecpenic, flavonoit, axit nhân thơm và cumarin. Toàn cây có 0,912 (200)

nD=1,4768, D-44,920 [3].

Từ dịch chiết n-hexan và etyl axetat từ phần trên mặt đất của loài

Adenosma indiana (Lour.) Merr. (với định danh Adenosma capitatum),

Nguyễn Minh Phương và cộng sự đã phân lập được ba flavon metoxy hoá:

4’,5-dihydroxy-3, 3’, 6, 7-tetrametoxy-flavon (chrysosplenetin), artemetin và

quercertin 3,3’,7-trimetyl ete[22].

Năm 1974 Lê Tùng Châu đã phân tích thấy trong tinh dầu của loài

Adenosma indiana (Lour.) Merr. Việt Nam có: 22,6 % l. limonen, 11,6%

humulen, 33,5 % l. feneccho và 5,9 % cineol. Ngoài ra còn thấy saponin,

tritecpenic, flavonoit, axit nhân thơm và cumarin. Toàn cây có 0,8% tinh dầu,

lá 2,15%, hoa 0,82%, tỷ trọng 0,912 (200), nD = 1,4768; D= 44,920 [3].

Năm 2010 Md. Nazrul Islam Bhuiyan, Farhana Akter, Jasim Uddin

howdhury và Jaripa Begum (Bangladesh) đã công bố kết quả nghiên cứu

thành phần hóa học của tinh dầu từ các bộ phận trên mặt đất của loài

15

Adenosma indiana (Lour.) Merr. Tinh dầu loài Adenosma indiana (Lour.)

Merr. chứa 46 thành phần trong đó chủ yếu là: limonen (24,74%), fenchon

(21,59%), 2-caren (17,64%), α-caryophyllen 1,62%), γ-terpinen (3,04%), β-

bisabolen (2,80%), Fenchyl alcol (2,08%), phytol (1,89%), caryophyllen

(1,14%). [9]

Năm 2013 các tác giả Trung Quốc là Zhi Zeng, Chunyan Meng, Xuening

Ye và Zhuo Zeng, phân tích các thành phần dễ bay hơi của Adenosma

indianum (Lour.) Merr. bằng chưng cất hơi nước và sắc ký khí khối phổ (GC-

MS). Có tổng cộng 49 thành phần dễ bay hơi được xác định bằng phương

pháp GC-MS. Các thành phần dễ bay hơi lớn là: α-limonen (20,59-35,07%),

fenchon (15,79-31,81%), α-caryophyllen (6,98-10,32%), β-caryophyllen

(6,98-10,19%), piperitenon oxit, (1,96-11,63%), Caryophyllen oxit (1,15-

3,55%) [28].

1.2.3. Nghiên cứu về loài Adenosma bracteosa Bonati.

Nguyễn Viết Tựu và cộng sự phân tích thấy trong Adenosma bracteosum

Bonati có 0,25% tinh dầu, mầu vàng sẫm, tỷ trọng 0,890, chỉ số khúc xạ

1,496, sắc ký khí thấy 19 pic trong đó có 5 pic lớn cineol khoảng 18%. Ngoài

ra còn có flavonoit, hợp chất polyphenol và cumarin [3].

Thành phần hóa học của loài Adenosma bracteosum Bonati mới chỉ dừng

lại ở nghiên cứu về thành phần tinh dầu của loài này [27].

1.3. Policosanol

Năm 1991, Cruz - Bustillo và cộng sự đã có công trình nghiên cứu đầu

tiên về công dụng của Policosanol trong việc điều trị rối loạn mỡ máu[10].

Tuy nhiên, đến tháng 5/2001, sau khi có nhiều kết quả nghiên cứu chứng

minh nhóm thuốc điều trị rối loạn mỡ máu (như Statin) gây ra nhiều tác dụng

phụ đối với cơ thể con người thì policosanol trở nên phổ biến và là một trong

những phương pháp phòng ngừa và điều trị rối loạn mỡ máu hiệu quả ở các

nước phương Tây như Mỹ, Đức, Canada... và các nước thuộc khu vực Địa

16

Trung Hải [12], [20].

Policosanol được tạo ra thông qua việc thủy phân các este tinh chiết từ

sáp ong sau đó cô lập lại các thành phần cồn[19]. Các rượu béo trong

policosanol được cô lập từ nguyên liệu thô là 1-tetracosanol(1); 1-

hexacosanol(2); 1-heptacosanol(3); 1-octacosanol(4); 1-nonacosanol(5); 1-

triacontanol(6); 1-dotriacontanol(7); và 1-tetratriacontanol(8) mỗi loại có 24

đến 34C [14], [15], [19].

(1) C24H50O (2) C26H54O

(3) C27H56O (4) C28H58O

(5) C29H60O (6) C30H62O

(7) C32H66O (8) C34H70O

Hình 1.10. Các rượu béo trong policosanol cô lập từ nguyên liệu thô

Policosanol có nguồn gốc thiên nhiên đã được nhiều công trình nghiên

cứu trên thế giới khẳng định tính hiệu quả trong việc điều hòa Cholesterol,

kiểm soát mỡ máu. Policosanol giúp tăng hoạt hóa Receptor tế bào, giúp tế

bào sử dụng Cholesterol một cách hiệu quả, giữ các thành phần mỡ máu ở

mức cần thiết và có lợi cho cơ thể. Từ đó giúp điều hòa mỡ máu, hỗ trợ kiểm

soát tăng huyết áp và các bệnh tim mạch từ gốc [16], [19], [23], [24].

Policosanol là một hỗn hợp có trọng lượng phân tử cao, rượu béo nguyên

sinh, trong đó 1-octacosanol là thành phần chính (khoảng 60%). Policosanol

17

được phân lập từ sáp ong mía hoặc sáp ong, nhưng các nguồn này có thể có tỷ

lệ khác nhau của các thành phần policosanol. Octacosanol và các chất liên

quan cũng được tìm thấy trong dầu mầm lúa mì, dầu thực vật, cỏ linh lăng và

các sản phẩm từ động vật. [16], [25]

GDL-5 là tên gọi được cấp phép độc quyền cho nhóm hoạt chất

policosanol thiên nhiên được chiết xuất từ phấn mía Nam Mỹ. Với công nghệ

chiết xuất hiện đại giữ lại 5 thành phần quan trọng là Octacosanol,

triacosanol, Nonacosanol, Heptacosanol, hexacosanol có hiệu quả vượt trội

trong việc điều hòa Cholesterol và kiểm soát mỡ máu [20], [23]. Nghiên cứu

khoa học cho thấy GDL-5 khi được hấp thu vào cơ thể qua đường uống sẽ tác

động đồng thời vào 2 quá trình:

- Tác động cơ thể để tự điều chỉnh men HMG-CoA (3-hydroxy-3-

methylglutaryl coenzyme A) - loại men có tác dụng tổng hợp Cholesterol một

cách tự nhiên nhằm tự kiểm soát lượng Cholesterol nội sinh phù hợp với nhu

cầu của cơ thể. Cơ chế này an toàn vì không ức chế trực tiếp lên men HMG-

CoA [8], [24].

Hình 1.11: Công thức cấu tạo của men HMG-CoA (3-hydroxy-3-

18

methylglutaryl coenzyme A)

Acetyl - CoA

Acetoacetyl - CoA

Hydroxymethylglutaryl - CoA

HMG - CoA reductase

Mevalonate

5-Pyrophosphomevalonate

Isopentenyl pyrophosphate

Dimethylalyl pyrophosphate

GDL - 5

Cholesterol

Sơ đồ 1.1: Cơ chế điều hòa men của policosanol (GDL-5)

- Tăng cường khả năng tiếp nhận Cholesterol ở các cơ quan đích. Đó là

làm tăng sự hình thành các Receptor thụ thể Cholesterol LDL (Cholesterol

xấu - các Cholesterol có thành phần cấu tạo đặc biệt khiến nó không chịu tác

động của các quy luật trao đổi chất trong cơ thể do đó không phân giải được

và tồn đọng lại trong mạch máu, khi bị tích tụ sẽ gây nên các vấn đề làm tắc

nghẽn mạch máu) trên màng tế bào, giúp các Cholesterol LDL được hấp thụ

vào tế bào thông qua các Receptor này một cách hiệu quả nhằm sinh năng

lượng hình thành các hooc mon và sự chuyển hóa Cholesterol LDL thành

19

Cholesterol HDL (Cholesterol tốt - các khối cholesterol tuân thủ đúng theo

các cơ chế chuyển hóa và bài tiết của hệ tuần hoàn và tuyến gan – mật – thận

nên có thể được luân chuyển đến gan và xử lý triệt tiêu). Qua đó làm giảm

đáng kể số lượng Cholesterol LDL, tăng số lượng Cholesterol HDL trong

máu, kiểm soát các thành phần mỡ máu khác luôn nằm trong mức cần thiết và

có lợi cho cơ thể. Đây là cơ chế quan trọng giúp điều hòa các thành phần mỡ

máu, từ đó giảm thiểu và ngăn ngừa các biến chứng của bệnh cao huyết áp,

rối loạn mỡ máu gây ra. [23], [24]

Đặc biệt, khác với octocosanol được tổng hợp từ hóa chất, GDL-5 thiên

nhiên có tác động hiệu quả cao mà không gây tác dụng phụ khi sử dụng lâu

dài. Kết quả thực nghiệm lâm sàng tại Mỹ được tiến hành trên 30000 bệnh

nhân rối loạn mỡ máu theo nguyên tắc ngẫu nhiên mù, đôi, đa trung tâm đối

chứng với giả dược tại nhiều bệnh viên uy tín của Mỹ đã cho thấy sử dụng

Policosanol (GDL-5) từ 4 - 8 tuần giúp giảm Cholesterol toàn phần từ 13,9%,

giảm Cholesterol LDL từ 19,3%, giảm Triglyceride từ 14,1%, đồng thời làm

tăng Cholesterol HDL từ 18,4%. Nghiên cứu này cũng theo dõi 4 năm trên

30000 người và cho thấy hầu như không có bất cứ tác dụng phụ nào[23].

1.4. Hoạt tính sinh học của loài Adenosma cearuleum R. Br.

Thành phần hoá học của Nhân trần có các Flavonoid, hợp chất

polyphenol, phenollic, saponin, Coumarin, tinh dầu [3].

Tinh dầu chiếm 0,6% lượng chất khô trong cây. Thành phần chính gồm

Carvacrol 27%, Carvacrol methyl ethe 28% và β- bisabolen 34,4%. Đáng chú ý

là Carvacrol. Hợp chất này là dẫn xuất phenol có tác dụng kháng khuẩn mạnh

nhất trong thành phần của các loại tinh dầu thực vật đã biết hiện nay [3].

Theo sách thuốc cổ, nhân trần vị hơi đắng, tính hơi hàn; vào được bốn

đường kinh tỳ, vị, can và đờm; có công dụng thanh nhiệt lợi thấp, lợi mật

thoái hoàng được dùng để chữa các chứng hoàng đản, tiểu tiện bất lợi, viêm

20

loét da do phong thấp. [1], [3]

Theo y học hiện đại thì nhân trần có tác dụng làm tăng tiết và thúc đẩy quá

trình bài xuất dịch mật, bảo vệ tế bào gan, ngăn ngừa tình trạng gan nhiễm mỡ,

làm hạ huyết áp, thúc đẩy tuần hoàn, giải nhiệt, giảm đau và chống viêm. Nó có

khả năng ức chế một số vi khuẩn như tụ cầu vàng, thương hàn, phó thương hàn,

mủ xanh, E.coli, lỵ, song cầu khuẩn gây viêm não, viêm phổi và một số loại

nấm, cải thiện công năng miễn dịch và ức chế trực tiếp sự tăng sinh của tế bào

ung thư. Ngoài ra, nhân trần còn có tác dụng lợi niệu và bình suyễn [1], [2], [3].

Trong y học hiện đại, nhân trần đã được Bộ môn truyền nhiễm Trường đại

học Y khoa Hà Nội dùng điều trị thực nghiệm bệnh viêm gan do virus. Kết quả

cho thấy men gan của các bệnh nhân trở về mức bình thường, bệnh nhân hết

mệt mỏi, hết đau vùng gan, ăn ngon. Nhân trần có thể kết hợp với một số thảo

dược bổ gan khác để tăng tác dụng như: diệp hạ châu, cúc hoa…[3], [6]

Kết quả đã cho thấy men gan của các bệnh nhân đều trở về mức bình

thường, bệnh nhân hết mệt mỏi, hết đau vùng gan, ăn ngon [1], [2], [3].

Nhân trần có thể kết hợp với một số thảo dược bổ gan khác để tăng tác

dụng như: diệp hạ châu, cúc hoa…Các tác dụng trên đã được nghiên cứu và

ứng dụng thực tế để chữa bệnh trong y học cổ truyền từ rất lâu. [3], [6]

1.5. Tác dụng dược lý của một số loài thuộc chi Adenosma ở Việt Nam

1.5.1. Tác dụng dược lý của loài Adenosma cearuleum R. Br.

Tên đông y là Nhân trần hoặc Nhân trần nam. Loại cây này được biết đến

không chỉ là một loại thức nước uống giải khát; mà còn là một vị thuốc được

dùng để chữa nhiều loại bệnh đem lại hiệu quả cao. Theo Đông y, nhân trần vị

hơi đắng, tính hơi hàn; vào được bốn đường kinh tỳ, vị, can và đởm. Có công

dụng thanh nhiệt lợi thấp, lợi mật thoái hoàng, được dùng để chữa các chứng

hoàng đản, tiểu tiện bất lợi, viêm loét da do phong thấp [3].

Theo y học hiện đại, loài Adenosma cearuleum R. Br. có tác dụng làm

tăng tiết và thúc đẩy quá trình bài xuất dịch mật. Thí nghiệm được tiến hành

21

trên chuột lang, thuốc được cho thẳng vào dạ dày rồi so sánh lượng dịch mật

và cặn khô của mật tiết ra trước và sau khi dùng thuốc. Kết quả thí nghiệm

cho thấy loài Adenosma cearuleum R. Br. với liều 10g/kg cân nặng có tác

dụng làm tăng tiết mật, lượng mật tiết ra sau khi chỉ dùng thuốc tăng

24,4%[3],[6]. Bên cạnh đó, loài Adenosma cearuleum R. Br. cũng làm tăng

chức năng thải trừ của gan. Thí nghiệm được tiến hành bằng cách dùng

nghiệm pháp BSP (Bromo sufophtalein) trên chuột lang. Cho chuột uống mẫu

thử 30 phút trước khi tiêm BSP. Sau khi tiêm BSP 15 phút, xác định lượng

thuốc còn lại trong cơ thể, từ đó suy ra lượng BSP đã thải trừ. Kết quả cho

thấy loài Adenosma cearuleum R. Br. với liều 10g/kg cân nặng làm tăng chức

năng thải trừ của gan đến 187,5% so với lô đối chứng [3], [6]. Tuy nhiên khi

so sánh tác dụng lên gan, mật của loài Adenosma indiana (Lour.) Merr. và

loài Adenosma caeruleum R. Br. thì tác dụng của loài Adenosma indiana

(Lour.) Merr. mạnh hơn.[3]

Loài Adenosma caeruleum R. Br. cũng có tác dụng chống viêm. Trên mô

hình giai đoạn cấp tính của phản ứng viêm, gây phù bàn chân chuột cống

trắng bằng caolin, loài Adenosma caeruleum R. Br. có liều tác dụng ức chế

phù 50% là ED50 = 6,3g/kg. Trên mô hình viêm mạn gây u hạt bằng cách cấy

dưới da chuột cống trắng viên amian thì loài Adenosma caeruleum R. Br. có

liều ức chế 50% trọng lượng u hạt là ED50 = 25,5g/kg. Như vậy, loài

Adenosma caeruleum R. Br. có tác dụng chống viêm ở giai đoạn cấp tính,

mạnh hơn giai đoạn mãn tính. Ngoài ra, trên mô hình gây thu teo tuyến ức của

chuột cống trắng còn non, loài Adenosma caeruleum R. Br. với liều dùng

15g/kg có tác dụng gây thu teo tuyến ức đạt 31,4%. Đem so sánh với loài

Adenosma indiana (Lour.) Merr., loài Adenosma caeruleum R. Br. có tác

dụng chống viêm tương đương ở mô hình phù caolin và teo tuyến ức nhưng

đối với mô hình u hạt thì loài Adenosma caeruleum R. Br. chưa bằng 1/2 của

loài Adenosma indiana (Lour.) Merr. Trên phù caolin với liều 15g/kg thể

22

trọng thì ức chế phù của loài Adenosma caeruleum R. Br. lại giảm [3].

Bằng phương pháp khuếch tán thuốc trong môi trường nuôi cấy, dịch loài

Adenosma caeruleum R. Br. có nồng độ 1:1, tác dụng ức chế vi khuẩn được

biểu thị bằng đường kính vòng vô khuẩn do thuốc gây nên. Theo kết quả sau:

Shigella dysenteriae - 16,27mm; Shigella shigae - 15,00mm; Shigella sonnei -

11,92mm; Streptococcus hemolyticus - 24,08mm; Staphylococcus aureus -

17,58mm; Diplococcus pneumoniace - 15,75mm; Enterococus - 11,55mm;

Bacillus subtilis - 11,00mm còn đối với Shigella Ilexneri không có tác dụng

ức chế. Từ kết quả trên cho thấy, tác dụng kháng khuẩn của loài Adenosma

caeruleum R. Br. kém hơn so với loài Adenosma indiana (Lour.) Merr. nhất là

với trực khuẩn lỵ. Nhưng loài Adenosma caeruleum R. Br. ức chế mạnh hơn

với Staphyllococcus và Steptococcus [3].

Loài Adenosma caeruleum R. Br. tác dụng không rõ rệt lên tiết dịch vị:

không giảm loét dạ dày, không giảm tiết vị, có làm giảm axit tự do và axit toàn

phần tuy nhiên hai tác dụng này lại giảm khi dùng liều cao; không độc [3].

Ngoài ra, loài Adenosma caeruleum R. Br. còn có tác dụng diệt giun. Thí

nghiệm trên giun đũa của lợn (Ascaris summ) sơ bộ thấy loài Adenosma

caeruleum R. Br. có tác dụng tốt [3].

Loài Adenosma caeruleum R. Br. không độc, khi sử dụng với liều lượng

cao không gây độc. Khi thí nghiệm thử độc tính cấp trên chuột nhắt, uống với

liều cao gấp 20 lần liều thường dùng, chuột vẫn sống bình thường. Khi thử

độc tính bán mãn, thí nghiệm trên thỏ với liều dùng 10g/kg/ngày trong 4 tuần

liên tiếp, qua theo dõi kiểm tra các chỉ tiêu hồng bạch cầu, huyết sắc tố, ure

huyết, GOT (Glutamic Oxaloacetic Transaminase), GPT (Glutamic Pyruvic

Transaminase) và các xét nghiệm vi thể các cơ quan gan, thận, thượng thận

không phát hiện các hiện tượng nhiễm độc do thuốc [3].

1.5.2. Tác dụng dược lý của loài Adenosma indiana (Lour.) Merr.

Tên đông y còn gọi là Nhân trần đực, hay Nhân trần Bồ bồ. Năm 1939,

23

Guichard và Clemensat nghiên cứu tác dụng của nước cất loài Adenosma

indiana (Lour.) Merr. (ngâm tinh dầu với nước trong vài giờ) trên giun

Lombricus thì thấy ngay từ đầu con giun quằn quại trong vòng 10-15 phút.

Nước bão hòa tinh dầu có tác dụng mạnh hơn nước cất của loài Adenosma

indiana (Lour.) Merr. Đối với giun đũa (Ascaris) cũng có hiện tượng như trên

nhưng yếu hơn và con giun chỉ chết sau 2 đến 3 giờ. Đối với giun móc câu

con giun chết ngay sau 10 đến 15 phút. Thí nghiệm độ độc trên thỏ, với liều

cao hơn tinh dầu giun thường dùng cho người cũng không thấy hiện tượng

ngộ độc nào. Hai tác giả đã đi tới kết luận: Có thể dùng tinh dầu của loài

Adenosma indiana (Lour.) Merr. làm thuốc tẩy giun [3].

Về tác dụng thông mật của hai loài Adenosma caeruleum R. Br. và

Adenosma indiana (Lour.) Merr. Việt Nam theo như kinh nghiệm dùng trong

dân gian. Năm 1957, Lê Tùng Châu (Viện dược liệu Hà Nội) và Nguyễn Viết

Tựu (PV dược liệu TP. Hồ Chí Minh) đã nghiên cứu tác dụng dược lý của loài

Adenosma caeruleum R. Br. và loài Adenosma indiana (Lour.) Merr. và loài

Adenosma bracteosa Bonati đã có kết quả: loài Adenosma indiana (Lour.)

Merr làm tăng tiết mật rõ rệt ở cả 3 lô thí nghiệm (cao etanol 400, cao nước và

tinh dầu). Tác dụng mạnh nhất ở cao etanol, tác dụng tăng thải độc của gan

chỉ có ở cao etanol và tinh dầu [3].

Loài Adenosma indiana (Lour.) Merr có tác dụng kháng khuẩn trên nhiều

loại vi khuẩn mạnh nhất là trên 2 chủng trực khuẩn lỵ (Sh. Dyénteriae 111 và

Sh. Shigae 39) và 2 chủng cầu khuẩn (Staphylococcus aureus 109P và

Streptococcus hemolyticus S84). Tác dụng kháng khuẩn mạnh nhất ở cao

etanol và cao nước, yếu ở tinh dầu.

Loài Adenosma indiana (Lour.) Merr. có tác dụng rõ rệt làm giảm tiết

dịch vị, giảm độ axit tự do và axit toàn phần của dịch vị, làm giảm loét dạ dày

của thực nghiệm.

Độc tính của loài Adenosma indiana (Lour.) Merr. không đáng kể, với

24

liều có tác dụng dược lý, dùng liên tục trong thời gian dài không thấy biểu

hiện nhiễm độc thuốc. Với liều cao hơn liều tác dụng 20 lần không làm súc

vật chết [3].

1.5.3. Tác dụng dược lý của loài Adenosma bracteosum Bonati.

Tên đông y là Nhân trần tía. Dịch chiết etanol 900 có độc tính cao hơn

dịch nước sắc loài Adenosma bracteosum Bonati. Khi thử độc tính cấp, loài

Adenosma bracteosum Bonati được chặt nhỏ, phơi khô, chiết với cồn 400 rồi

cô cách thủy đến dịch đậm đặc, cho chuột uống với liều lượng 300g/kg thể

trọng dịch chiết nước không thấy chuột lang chết. Làm tăng lượng tiết mật

trên chuột lang. Lượng mật tăng gần 25% so với lô đối chứng [3].

Bệnh viện Chợ Quán - Thành phố Hồ Chí Minh đã dùng loài Adenosma

bracteosum Bonati để chữa viêm gan virus trên lâm sàng. Kết quả là số bệnh

nhân khỏi hẳn là 24%, số bệnh nhân có chuyển biến khá và tốt là 46,6% [3].

So sánh đối chiếu thành phần hóa học với nhóm dược liệu chữa bệnh gan

như Artichoke, Sylybum marianum (cây kế)... có thể dự đoán thành phần hóa

học giúp chữa bệnh gan chủ yếu của loài Adenosma bracteosum Bonati là

nhóm flavonoid, axit nhân thơm. Các nhóm hydroxy phenolic trong những

hợp chất này làm tăng cường khả năng chống oxy hóa của tế bào gan. Mặt

khác các saponin có vai trò chính trong việc kích thích ăn uống, hỗ trợ tiêu

25

hóa [6].

CHƯƠNG 2: THỰC NGHIỆM

2.1. Đối tượng nghiên cứu

Chúng tôi tiến hành khảo sát thực địa, thu thập thông tin, thu hái tiêu bản

bao gồm cả phần rễ, lá, thân, hoa của loài Adenosma cearuleum R. Br. tại địa

bàn các xã Tiên Hội, Ký Phú thuộc huyện Đại Từ - tỉnh Thái Nguyên vào thời

điểm cây phát triển trong năm là tháng 4 và 5 năm 2016. Mẫu tiêu bản được ghi

vùng, thời điểm, định danh và khẳng định loài bởi Tiến sĩ Thực vật học Nguyễn

Thế Anh - Viện Hóa học - Viện Hàn lâm Khoa học và công nghệ Việt Nam.

2.2. Hóa chất, thiết bị

2.2.1. Hóa chất

2.2.1.1. Hóa chất dùng để phân lập các chất từ phần thân của loài Adenosma

cearuleum R. Br.

Sử dụng các dung môi n–hexan, etyl axetat để ngâm chiết mẫu.

Sắc ký bản mỏng phân tích: sử dụng bản mỏng nhôm tráng sẵn silicagel

60 F254, Merck, có độ dày 0,2 mm.

Sắc ký cột thường: sử dụng silicagel cỡ hạt 197–400 mesh (0,040 –

0,063 mm).

Sắc ký cột nhanh: sử dụng silicagel cỡ hạt 70–200 mesh.

Bản mỏng: được kiểm tra bằng đèn tử ngoại ở hai bước sóng ngắn và dài

(254; 365 nm), sau đó hiện màu bằng thuốc thử vanilin–H2SO4 (vanilin 1,2 g;

MeOH 200 ml; CH3COOH 25 ml; H2SO4 11 ml), hơ nóng trên bếp điện cho

đến khi các vệt trên bản mỏng hiện màu rõ nhất.

2.2.1.2. Hóa chất dùng để thử hoạt tính chống oxi hóa từ phần thân của loài

Adenosma cearuleum R. Br.

Động vật: chuột BALB/c khoẻ mạnh, khối lượng từ 23-26g

Hoá chất: DPPH (Sigma) ; 2,2’-azinobis(3-ethylbenzothiazoline-6-

sulfonate) hay ABTS (Sigma) ; Trolox (Sigma Aldrich), Axit Ascorbic

26

(Sigma Aldrich) ; Postassium persulphate (Scharlau), acetate buffer

(Scharlau) ; Dimetylsulfoside (DMSO) (Fisher Scientific) ; Đệm phosphat

hoặc Kali clorid 1,15% (KCl), Methanol, Axit tricloaxetic (TCA, Fisher),

Axit thiobarbituric (TBA) (Sigma Aldrich) ; FeSO4.7H2O, H2O2 ; DMSO

(Fisher) và các dung môi thông thường khác.

2.2.1.3. Hóa chất dùng để xác định hoạt tính gây độc tế bào ung thư từ phần

thân của loài Adenosma cearuleum R. Br.

Vật liệu và hóa chất: FBS của GIBCO, Invitrogen, TCA (Sigma), SRB

(Sigma) ; Chất tham khảo Elippticine và các hóa chất thông thường khác.

Các dòng tế bào ung thư do GS. TS. J. M. Pezzuto, Trường Đại học

Hawaii và GS. Jeanette Maier, trường Đại học Milan, Italia cung cấp.

2.2.2. Thiết bị

Máy cất quay chân không, các thiết bị phụ trợ cho thí nghiệm phân lập

chất hữu cơ.

Phổ cộng hưởng từ hạt nhân NMR được ghi trên máy Bruker Avance

500 MHz tại Viện Hóa học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.

Phổ khối ESI-MS được đo trên máy FT-ICR-MS.

Đĩa 96 giếng, pipet, eppendorf và các thiết bị phụ trợ khác.

Cân phân tích, máy đo OD Microplate Reader.

Đĩa 96 giếng nhựa (Corning, USA), pippette (eppendorf), máy đọc ELSA

96 giếng (Bio-rad).

2.3. Phương pháp xử lý mẫu thực vật, chiết tách và xác định cấu trúc các

chất phân lập được

2.3.1. Xử lý mẫu thực vật

Mẫu thân cây Nhân trần được thu hái tại các xã Tiên Hội và Ký Phú

thuộc huyện Đại từ, tỉnh Thái Nguyên (tháng 4 - 5 năm 2016). Mẫu nguyên

27

liệu được rửa sạch, sau khi hong gió 3-4 giờ, xử lý diệt men mẫu bằng cách

hấp nguyên liệu bởi hơi etanol 700 trong 3-4 phút. Nguyên liệu sau diệt men

tiếp tục xử lý để có mẫu tươi.

Khi chiết mẫu tươi, phần thân mẫu sau khi diệt men sẽ chiết nước ngay.

2.3.2. Chiết tách các chất

Mẫu phần thân của loài Adenosma cearuleum R. Br. được rửa sạch,

hong khô tự nhiên, sấy khô bằng thiết bị sấy thực vật ở nhiệt độ 40oC, xay

nhỏ và ngâm chiết với metanol (4x24 giờ) ở nhiệt độ phòng. Quay cất dung

môi dưới áp suất giảm thu được cặn chiết metanol. Thêm 50 ml nước, khuấy

đều và chiết lần lượt với các dung môi có độ phân cực tăng dần: n-hexan, etyl

axetat. Sau đó lọc và gộp các dịch chiết của từng loại dung môi với nhau,

quay cất dung môi dưới áp suất giảm thu được các cặn chiết tương ứng.

Phân lập cặn chiết n-hexan và etyl axetat thu được bằng phương pháp sắc

ký cột trên silicagel với các hệ dung môi thích hợp.

2.3.3. Xác định cấu trúc các chất

Cấu trúc của các hợp chất được xác định bằng sự kết hợp các phương

pháp phổ hiện đại như phổ khối phân giải cao (HR-ESI-MS) và phổ cộng

hưởng từ hạt nhân một chiều (1H-NMR, 13C-NMR, DEPT).

2.4. Phương pháp xác định hoạt tính chống oxi hóa từ dịch chiết nước

phần thân của loài Adenosma cearuleum R. Br. dạng khô

2.4.1. Xác định khả năng ức chế peroxidation lipid (thử nghiệm MDA)

Được thực hiện theo phương pháp của Ngô Quốc Hận, Nguyễn Thị Thu

Hương (2011), Jelili A Badmus và đồng tác giả (2011) có sự thay đổi cho phù

hợp với các điều kiện của phòng thí nghiệm. Xác định khả năng ức chế

peroxy hoá lipid của mẫu nghiên cứu qua việc xác định hàm lượng malonyl

dialdehyd (MDA), là sản phẩm của quá trình peroxy hoá lipid màng tế bào.

MDA có khả năng phản ứng với axit thiobarbituric để tạo thành phức hợp

trimethin (có màu hồng) có đỉnh hấp thu cực đại ở λ = 532 nm.

2.4.2. Xác định hoạt tính chống oxi hóa bằng DPPH

28

Được tiến hành theo phương pháp của P. Yuvaraj và cộng sự.

2.4.3. Xác định hoạt tính chống oxi hóa bằng ABTS

Được tiến hành theo phương pháp của Saeed N et al.

2.5. Phương pháp xác định hoạt tính gây độc tế bào ung thư từ dịch chiết

nước phần thân của loài Adenosma cearuleum R. Br. dạng khô

Phương pháp thử độ độc tế bào ung thư in vitro được Viện Ung thư Quốc

gia Hoa Kỳ (National Cancer Institute – NCI) xác nhận là phép thử độ độc tế

bào chuẩn nhằm sàng lọc, phát hiện các chất có khả năng kìm hãm sự phát triển

hoặc diệt TBUT ở điều kiện in vitro. Phép thử này được thực hiện theo phương

pháp của Monks (1991). Phép thử tiến hành xác định hàm lượng protein tế bào

tổng số dựa vào mật độ quang học (OD – Optical Density) đo được khi thành

phần protein của tế bào được nhuộm bằng Sulforhodamine B (SRB). Giá trị

OD máy đo được tỉ lệ thuận với lượng SRB gắn với phân tử protein, do đó

lượng tế bào càng nhiều (lượng protein càng nhiều) thì giá trị OD càng lớn.

2.6. Thực nghiệm

2.6.1. Quá trình phân lập các chất từ phần thân của loài Adenosma

cearuleum R. Br.

2.6.1.1. Chiết, tách mẫu phần thân của loài Adenosma cearuleum R. Br.

Quy trình chiết mẫu phần thân của loài Adenosma cearuleum R. Br. (2,4

kg) được nêu trong sơ đồ 2.1.

Mẫu phần thân của loài Adenosma cearuleum R. Br. đã sấy khô, nghiền

nhỏ (2,4 kg) được ngâm chiết với metanol ở nhiệt độ phòng (4 lần). Quay cất

dung môi dưới áp suất giảm, cặn thu được được thêm 50 ml nước. Sau đó,

được chiết lần lượt với các dung môi có độ phân cực tăng dần: n-hexan, etyl

axetat (4 lần đối với mỗi loại dung môi). Cất loại dung môi dưới áp suất giảm ở

nhiệt độ 40oC thu được các cặn chiết có khối lượng tương ứng là: 17,6 g cặn

29

chiết n–hexan và 26 g cặn chiết etyl axetat.

2.6.1.2. Phân lập các chất từ cặn chiết etyl axetat

Kiểm tra trên sắc ký bản mỏng chúng tôi thấy dịch chiết etyl axetat khả

thi nên tiến hành nghiên cứu thành phần hóa học trên dịch chiết etyl axetat.

Quá trình phân lập các chất từ cặn chiết etyl axetat phần thân của loài

Adenosma cearuleum R. Br. được trình bày theo sơ đồ 2.1.

Mẫu phần thân loài Adenosma cearuleum R. Br. (2,4 kg)

1. Phơi khô, nghiền nhỏ 2. Ngâm chiết với MeOH 3. Quay cất dung môi dưới áp suất giảm trong máy cất quay chân không, loại metanol

Cặn MeOH (50.0g)

Cặn EtOAc (26g)

SKC silicagel: n-hexan: EtOAc,

lượng EtOAc 0-100%

Phân đoạn 2

Phân đoạn 13

Phân đoạn 7

SKC silicagel: n-

Kết tinh với

hexan: EtOAc (9: 1.5)

CCl4 lạnh

Chất AC5 (18mg)

Chất AC6 (8.5 mg)

Chất AC2 (45 mg)

Sơ đồ 2.1: Sơ đồ chiết, tách các chất từ phần thân của loài Adenosma

cearuleum R. Br.

Dịch chiết etyl axetat được hòa tan vừa đủ bằng hỗn hợp dung môi

CH2Cl2/MeOH và trộn với 20 g silicagel, quay cất đến khô, sau đó nghiền

thành bột mịn để các chất hấp phụ đều trên silicagel. Bột silicagel có tẩm dịch

30

chiết này được sử dụng để đưa lên cột sắc ký.

Silicagel Merck (cỡ hạt 0,043-0,063 mm; 200 g) được nhồi vào cột sắc ký

có kích thước 5cm x 27cm theo phương pháp nhồi ướt với dung môi ban đầu là

n-hexan 100%. Sau khi cột đã ổn định, bột silicagel tẩm dịch chiết được đưa lên

cột và giải hấp với hệ dung môi rửa giải là n-hexan: EtOAc có độ phân cực tăng

dần (lượng EtOAc tăng dần từ 0→100%) thu được 35 phân đoạn khác nhau.

Phân đoạn thứ 2 của cột này (khi giải hấp với hệ dung môi n-hexane :

EtOAc = 10 : 0.5) thu được 45 mg chất AC2. Chất rắn xuất hiện ở phân đoạn

7 được rửa lại trong CCl4 lạnh thu được 18 mg chất AC5. Sắc kí lại phân

đoạn 13 trên cột silica gel (dung môi rửa giải: n-hexane : EtOAc (9 : 1.5) thu

được 8,5 mg chất AC6.

2.6.2. Dữ kiện phổ của các chất phân lập được

2.6.2.1. Chất AC2: α, β-dilinoleostearin

- Là dạng dầu, màu vàng, khối lượng 45 mg.

- ESI-MS m/z: 263.3 [C17H31CO]+, 266.7 [C17H35CO]+.

- 1H-NMR (500 MHz, CDCl3): δ 5.39-5.31 (8H, m, α, β-H9, H10, H12,

H13), 5.26 (1H, dt, J=5.5, 4.5 Hz, β-CH-O), 4.29 (2H, dd, J=12.0, 4.5 Hz, α-

CH2O), 4.14 (2H, dd, J=12.0, 5.5 Hz, α’-CH2O), 2.77 (4H, t, J=7.5 Hz, α, β-

H11), 2.32 và 2.31 (6H, 2хt, J=7.5 Hz, α, β, α’-H2), 0.88 và 0.92 (9H, 2хt,

J=7.0 Hz, α, β, α’-H18).

- 13C-NMR (125 MHz, CDCl3): δ 173.28 (α’-C1), 173.24 (α-C1), 172.83

(β-C1), 130.23 (α, β-C13), 130.02 (α-C9), 129.99 (β-C9), 128.10 (β-C10),

128.09 (α-C10), 127.92 (α-C12), 127.91 (β-C12), 68.92 (β-CH-O), 62.12

(α,α’-CH2O), 34.21 (β-C2), 34.07 (α’-C2), 34.04 (α-C2), 31.93 (α’-C16),

31.54 (α, β-C16), 29.78, 29.71, 29.67, 29.63, 29.53, 29.49, 29.35, 29.28,

29.20, 29.18, 29.13, 29.10, 29.06, 27.21, 25.65 (α, β-C11), 24.89, 24.85,

31

22.69 (α’-C17), 22.57 (α, β-C17), 14.10 (α’-C18), 14.06 (α, β-C18).

2.6.2.2. Chất AC5: 1-heptacosanol

- Là chất rắn, màu trắng, khối lượng 18 mg.

- ESI-MS m/z: 397.2 [M+H]+.

- 1H-NMR (500 MHz, CDCl3): δ 3.64 (2H, t, J = 6.5 Hz, H-1), 1.59-1.54

(4H, m, H-2 và H-3), 1.25 (s, H-4-26), 0.88 (3H, t, J = 7.0 Hz, H-27).

- 13C-NMR (125 MHz, CDCl3): δ 63.1 (C-1), 32.8 (C-2), 31.9 (C-3),

29.7-22.7 (C-4-26), 14.1 (C-27).

2.6.2.3. Chất AC6:Axit triacontanoic

- Là chất rắn, khối lượng 8,5 mg.

- ESI-MS m/z: 453.4 [M+H]+.

- 1H-NMR (500 MHz, CDCl3): δ 2.28 (2H, t, J = 7.5 Hz, H-2), 1.59 –

1.53 (2H, m, H-3), 1.18 (52H, s, H-4 - H-29), 0.81 (3H, t, J = 7.0 Hz, H-30).

2.6.3. Xác định khả năng ức chế peroxy hoá lipid (thử nghiệm MDA)

Được thực hiện trên não chuột với chất đối chứng tham khảo là Trolox

(Sigma Aldrich), đồng phân của vitamin E. Cụ thể như sau:

- Mẫu thử được pha ở các nồng độ: 10000 µg/ml, 2000 µg/ml, 400

µg/ml, 80 µg/ml, 16 µg/ml, 3.2 µg/ml (mẫu pha trong nước khử ion).

- Tách não chuột và nghiền đồng thể trong dung dịch đệm phosphat

(pH=7.4) theo tỷ lệ 1:10 ở nhiệt độ 0-4oC.

- Lấy 1ml dịch đồng thể thêm vào 0.1ml mẫu thử ở các nồng độ hoặc

chất đối chứng tham khảo Trolox và 0.8ml đệm phosphat thêm 0.1ml hệ

Penton (FeSO4 0,1mM : H2O2 15mM theo tỉ lệ 1:1).

- Ủ hỗn hợp ở 37oC trong 15 phút.

- Dừng phản ứng bằng 1 ml axit tricloaxetic 10%.

- Ly tâm 12000 vòng trong 5 phút.

- Lấy dịch trong cho phản ứng với 1ml axit thiobarbituric 0,8% (theo tỉ lệ 2:1).

- Ủ ở nhiệt độ 100oC 15 phút.

32

- Làm lạnh và tiến hành đo ở bước sóng λ = 532 nm.

- Trolox (Sigma Aldrich), đồng phân của vitamin E được sử dụng làm

chất đối chứng tham khảo.

2.6.4. Xác định hoạt tính chống oxi hóa bằng DPPH

Mẫu thử được pha stock trong DMSO. Sau đó được pha thành dải nồng

độ thích hợp với nước cất khử ion. Axit ascorbic (đối chứng tham khảo) được

pha thành dải nồng độ 200; 40; 8; 1.6 g/ml với nước cất khử ion.

- DPPH pha trong metanol (100%) nồng độ 0.25 M.

- Hút mẫu nghiên cứu đã pha ở các nồng độ vào ống thủy tinh, thêm dung dịch

DPPH đã chuẩn bị ở trên vào các ống đã có sẵn mẫu nghiên cứu (theo tỉ lệ 1:1).

- Ống không có mẫu thử chỉ có DPPH và nước khử ion (thí nghiệm được

lặp lại 3 lần).

- Ủ ở nhiệt độ phòng trong 30 phút.

- Xác định độ hấp thụ của dung dịch sau phản ứng tại bước sóng λ = 517nm.

Vì mẫu nghiên cứu và dung dịch DPPH được đưa vào ống theo tỷ lệ 1:1 nên

nồng độ mẫu nghiên cứu trong ống có DPPH sẽ giảm đi một nửa, nồng độ axit

ascorbic (VitC) trong ống có DPPH sẽ giảm đi một nửa còn 100; 20; 4; 0.8 g/ml.

Ống không có mẫu thử chỉ có DPPH và nước khử ion được xem là giếng

đối chứng. Ống có sử dụng Axit ascorbic và DPPH là chất đối chứng tham khảo.

2.6.5. Xác định hoạt tính chống oxi hóa bằng ABTS

- Pha mẫu thành các nồng độ thích hợp trong nước khử ion giống như thí

nghiệm MDA. Trolox (đối chứng tham khảo) được pha thành dải nồng độ

giống như thí nghiệm MDA.

- Trộn ABTS (7mM) và postassium persulphate (2.45mM) để trong tối

16 giờ ở nhiệt độ phòng. Trước khi thí nghiệm ABTS+ được pha loãng trong

acetate buffer sao cho giá trị OD là 0,70 ± 0,02 ở bước sóng λ = 734nm. Sau

đó, 1900 l ABTS+ được thêm vào 100 l mẫu đã pha ở trên.

33

- Đọc kết quả ở bước sóng λ = 734nm.

2.6.6. Xác định hoạt tính gây độc tế bào ung thư

Phép thử được thực hiện trong các điều kiện cụ thể như sau:

- 100 l chất thử được cân và pha trong DMSO với tỉ lệ 1:1 để được nồng

độ gốc là 500 mg/ml. Sau đó pha chất thử thành các dải nồng độ thích hợp.

- Trypsin hóa tế bào thí nghiệm để làm rời tế bào và đếm trong buồng

đếm để điều chỉnh mật độ cho phù hợp với thí nghiệm.

- Chất thử đã pha ở các nồng độ vào các giếng của đĩa 96 giếng, thêm tế bào

đã điều chỉnh nồng độ phù hợp ở trên vào các giếng này sao cho nồng độ chất thử

trong giếng là 10000 g/ml; 2000 g/ml; 400 g/ml; 80g/ml và 16 g/ml.

- Ủ trong tủ ấm 48 giờ.

- Giếng không có chất thử nhưng có TBUT (180l) sẽ được sử dụng làm

đối chứng ngày 0. Sau 1 giờ, giếng đối chứng ngày 0 tế bào sẽ được cố định

bằng Trichloracetic acid – TCA.

- Sau 48 giờ, tế bào được cố định bằng TCA trong 1 giờ, được nhuộm bằng

SRB trong 30 phút ở 37oC, rửa 3 lần bằng axit axetic rồi để khô ở nhiệt độ phòng..

- 10 mM unbuffered Tris base để hòa tan lượng SRB, lắc nhẹ trong 10 phút.

- Đọc kết quả OD ở bước sóng λ = 515-540 nm trên máy ELISA Plate

Reader (Bio-Rad).

- Phép thử được lặp lại 3 lần để đảm bảo tính chính xác. Ellipticine ở các

nồng độ 10 g/ml; 2 g/ml; 0.4 g/ml; 0.08 g/ml được sử dụng như là chất

đối chứng dương.

2.7. Phương pháp xử lí số liệu

34

Số liệu được xử lí trên hệ thống Excel và GraphPad Prism.

CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

3.1. Phân lập các chất từ cặn chiết etyl axetat phần thân của loài

Adenosma cearuleum R. Br.

Mẫu phần thân của loài Adenosma cearuleum R. Br. đã sấy khô, nghiền

nhỏ (2400g) được ngâm chiết (xem mục 2.3.1) thu được 17,6 g cặn n-hexan;

26 g cặn etyl axetat (sơ đồ 2.1).

Quá trình phân lập các chất từ cặn chiết etyl axetat phần thân của loài

Adenosma cearuleum R. Br. được trình bày chi tiết ở phần thực nghiệm (xem

mục 2.3.2).

Từ cặn chiết etyl axetat phần thân của loài Adenosma cearuleum R. Br.

được phân tách bằng sắc ký cột silicagel với các hệ dung môi khác nhau thu

được 3 chất sạch: ký hiệu là AC2, AC5, AC6.

+ Chất AC2: 45 mg, hiệu suất 1,88.10-2 % so với trong lượng mẫu khô.

+ Chất AC5: 18 mg, hiệu suất 7,6.10-3 % so với trọng lượng mẫu khô.

+ Chất AC6: 8,5 mg, hiệu suất 3,5.10-3 % so với trọng lượng mẫu khô.

3.2. Xác định cấu trúc chất tách được

Cấu trúc hóa học của 3 chất sạch: AC2, AC5 và AC6 được xác định dựa

vào dữ liệu phổ HR-ESI-MS, 1H-NMR, 13C-NMR, DEPT và so sánh với tài

liệu tham khảo.

3.2.1. Chất AC2: α, β-dilinoleostearin

Kết hợp số liệu phổ khối phân giải cao HR-ESI-MS, phổ 1H-NMR, DEPT, 13C-NMR (Bảng 3.1; 3.2) chúng tôi đã xác định được công thức cấu tạo củ a chất AC2 như sau: 3.2.1.1. Phân tích phổ khối LC-MS

Phổ khối LC-MS của chất AC2 cho pic ion phân tử ở m/z 263.3 [C17H31CO]+, 266.7 [C17H35CO]+ (Hình 3.1) phù hợp với công thức phân tử là

35

C57H103O6.

36

Hình 3.1. Phổ LC-MS của chất AC2

3.2.1.2. Phân tích phổ 1H-NMR (CDCl3, δH ppm)

Bảng 3.1. Số liệu phổ 1H- NMR của chất AC2

Chất AC2 (CDCl3) Vị trí δH

5’ – 6’ 5.39 - 5.31 (8H, m)

5’ - 6’ 5.26 (1H, dt, J= 5.5 - 4.5 Hz )

4.29 (2H, dd, J=12.0 - 4.5 Hz) 4’

4.14 (2H, dd, J=12.0, 5.5 Hz) 4’

2.77 (4H, t, J=7.5 Hz) 3’

2’ - 3’ 2.32 - 2.31 (6H, 2хt, J=7.5 Hz)

0.88 - 0.92 (9H, 2хt, J=7.0 Hz) CH3

Hình 3.2. Phổ 1H–NMR của chất AC2

Phổ 1H-NMR cho các tín hiệu của 8 proton olefin (-CH=CH-) tại δH 5.39-

5.31 (8H, m), 4 proton bis-allylic (=CH-CH2-CH=) tại δH 2.77 (4H, t, J = 7.5

37

Hz). Ngoài ra còn cho thấy sự có mặt của 3 nhóm methylene liên kết với

nhóm carbonyl ( CH2-) ở δH 2.32, 2.31 (6H, 2хt, J=7.5 Hz), và 3 nhóm

methyl gắn với nhóm –CH2 với tín hiệu triplet tại δH 0.88, 0.92 (2хt, J=7.0 Hz,

9H).

3.2.1.3. Phân tích phổ 13C-NMR và DEPT (CDCl3, δC ppm)

Bảng 3.2. Số liệu phổ 13C-NMR của chất AC2 và α, β-dilinoleostearin[18]

α, β-dilinoleostearin Chất AC2 (CDCl3) (CDCl3) [18] Vị trí

δC δC

C - 1 173.28; 173.24; 172.83 173.236; 172.827

C - 13 130.23 130.224; 130.229

C – 9 130.02; 129.99 129.893; 129.910

C - 10 128.10; 128.09 128.095; 128.114

C - 12 127.92; 127.91 127.932; 127.920

C – CH-O 68.92 68.894

62.12 62.105 C – CH2O

C - 2 34.21; 34.07; 34.04 34.191; 34.027

C - 16 31.93; 31.54 31.540

29.78 - 29.71 - 29.67 -

29.63 - 29.53 - 29.49 -

C - 11 29.35 - 29.28 - 29.20 - 27.383

29.18 - 29.13 - 29.10 -

29.06 - 27.21 - 25.65

24.89 - 24.85 - 22.69; C - 17 22.606 22.57

38

14.10; 14.06 C - 18 14.098

Hình 3.3. Phổ 13C-NMR của chất AC2

39

Hình 3.4. Phổ 13C-NMR và DEPT của chất AC2

Phù hợp với phổ 1H-NMR, phổ 13C-NMR và DEPT của nó cho thấy sự

tồn tại của các nhóm carbonyl ester (δC 173.28, 172.83). Phổ 13C-NMR cho

các tín hiệu của carbon olefin ở δC 130.23 (α, β-C13), 130.02 (α-C9), 129.99

(β-C9), 128.10 (β-C10), 128.09 (α-C10), 127.92 (α-C12) và 27.91 (β-C12).

Điều này khẳng định rằng hợp chất AC2 là este của glycerin và axit béo. Các

axit béo này được xác định như hai axit linoleic và một phân tử stearic bằng

sự hiện diện của các tín hiệu trong phổ 1H-NMR. Kết hợp các dữ liệu phổ IR,

phổ ESI-MS, phổ 1H-, 13C-NMR và so sánh với tài liệu tham khảo [18] ta thấy

hai phân tử axit linoleic được xác định là ở vị trí α- và β- của glycerin. Vậy

công thức cấu tạo của AC2 được mô tả như (hình 3.5)

Hình 3.5. Công thức cấu tạo của chất AC2

Vậy AC2 là este của glycerin (C3H9O3) và axit béo. Các axit béo là 2 axit

linoleic (C18H32O2) và 1 axit stearic (C18H36O2) trong đó 2 axit linoleic nằm ở

các vị trí α- và β- của glycerin.

Tên khoa học của AC2 là: α, β-dilinoleostearin ứng với công thức phân

tử là C57H103O6.

3.2.2. Chất AC5: 1-heptacosanol

Kết hợp số liệu phổ khối LC-MS, phổ 1H-NMR, DEPT, 13C-NMR (bảng 3.3, 3.4) chúng tôi đã xác định được công thức cấu tạo củ a chất AC5 như sau:

3.2.2.1. Phân tích phổ khối LC-MS

Phổ khối LC-MS của chất AC5 cho pic ion phân tử ở m/z m/z: 397.2

40

[M+H]+ tương ứng với công thức phân tử C27H56O. (Hình 3.6).

Hình 3.6. Phổ LC-MS của chất AC5

3.2.2.2. Phân tích phổ 1H-NMR (CDCl3, δH ppm)

Bảng 3.3. Số liệu phổ 1H của chất AC5

Chất AC5 (CDCl3) Vị trí δH

1 3.64 (2H, t, J = 6.5 Hz)

2 1.59 – 1.54 (4H, m)

3 1.25 (4H, s)

4 0.88 (3H, t, J = 7.0 Hz)

Trên phổ 1H-NMR của chất AC5, có các tín hiệu của một nhóm

oxymethylene [δH 3.64 (t, J = 6.5 Hz, 2H)], hai nhóm methylene bên cạnh

nhóm CH2OH ở δH 1.59-1.54 (m, 4H), rất nhiều nhóm cộng hưởng chồng

chập ở δH 1.25 và một nhóm methyl của mạch hydrocarbon no ở δH 0.89 (3H,

41

t, J = 7.0 Hz) (Hình 3.7).

Hình 3.7. Phổ 1H–NMR của chất AC5

3.2.2.3. Phổ 13C-NMR và DEPT (CDCl3, δC ppm)

Bảng 3.4. Số liệu phổ 13C-NMR của chất AC5

Chất AC5 (CDCl3) Vị trí δC

1 63.1

2 32.8

3 31.9

4 29.7

5 22.7

42

6 14.1

Hình 3.8. Phổ 13C-NMR của chất AC5

43

Hình 3.9. Phổ 13C-NMR và DEPT của chất AC5

Phổ 13C-NMR và DEPT so sánh với phổ 1H-NMR cho thấy AC5 là một

ancol béo mạch dài, thể hiện qua các tín hiệu của một nhóm oxymethylene δC

63.1 t, hai nhóm methylene bên cạnh nhóm CH2OH δC 32.8 t, 31.9 t, rất nhiều

nhóm CH2 cộng hưởng chồng chập và một nhóm methyl của mạch

hydrocarbon no ở δH 0.89 δC 14.1.

Từ các số liệu phân tích ở trên, so sánh các dữ liệu phổ 1H-NMR, 13C-

NMR, công thức cấu tạo của AC5 được mô tả như (hình 3.10)

Hình 3.10. Công thức cấu tạo của chất AC5

Vậy tên khoa học của AC5 là 1-heptacosanol ứng với công thức phân tử

là C27H56O.

1-heptacosanol là rượu béo được nghiên cứu có chứa trong thành phần

policosanol [14], [15], [18] được sử dụng để điều hòa lượng mỡ máu, hỗ trợ

kiểm soát tăng huyết áp và các bệnh tim mạch từ gốc bằng cách tăng hoạt hóa

Receptor tế bào, giúp tế bào sử dụng Cholesterol một cách hiệu quả, giữ các

thành phần mỡ máu ở mức cần thiết và có lợi cho cơ thể [16], [19], [23], [24].

Ngoài ra 1-heptacosanol còn được sử dụng làm chất bổ sung dinh dưỡng, làm

giảm cholesterol LDL, tăng cholesterol HDL và giúp ngăn ngừa chứng xơ vữa

động mạch, thúc đẩy chức năng của các hoóc môn giới tính, giảm đau cơ. [23]

3.2.3. Chất AC6: Axit triacontanoic

Kết hợp số liệu phổ LC-MS và 1H-NMR (bảng 3.5) chúng tôi đã xác

định được công thức cấu tạo củ a chất AC6 như sau:

3.2.3.1. Phân tích phổ khối LC-MS

Phổ khối LC-MS của chất AC6 cho pic ion phân tử ở m/z 453.4 [M+H]+

44

(Hình 3.11) ứng với công thức phân tử là C30H60O2.

Hình 3.11. Phổ LC-MS của chất AC6

3.2.3.2. Phân tích phổ 1H-NMR (D2O, δH ppm) của chất AC6

Bảng 3.5. Số liệu phổ 1H của chất AC6 và axit triacontanoic [26]

Axit triacontanoic (D2O) [26]

Chất AC6 (D2O) Vị trí δH δH

1 2.28 (2H, t, J = 7.5 Hz) 2.21(2H, t, J = 7.5 Hz)

2 1.59 – 1.53 (2H, m) 1.52 (2H, m)

3 1.18 (52H, s) 1.23 – 1.17 (52H, s)

45

4 0.81 (3H, t, J = 7.0 Hz) 0.79 (3H, t, J = 6.5 Hz)

Hình 3.12. Phổ 1H–NMR của chất AC6

Phổ 1H- NMR của chất AC6 cho thấy cho các tín hiệu của một nhóm

methylene ở cạnh nhóm carbonyl ở δH 2.28 (2H, t, J = 7.5 Hz, H-2), các nhóm

methylene 1.59 – 1.53 (2H, m, H-3), 1.18 (52H, s, H-4 - H-29) và một nhóm

methyl của mạch hydrocacbon no ở δH 0.81 (3H, t, J = 7.0 Hz, H-30).(Hình 3.12)

Từ các dữ liệu phổ 1H-NMR cho thấy chất AC6 là một axit béo no mạch

dài. Kết hợp dữ liệu phổ 1H-NMR và pic ion phân tử ở m/z 453.4 [M+H]+ và so

sánh với dữ liệu phổ của axit triacontanoic trong tài liệu [26], chất AC6 chính là

axit triacontanoic. Công thức cấu tạo của AC6 được mô tả như (hình 3.13)

Hình 3.13. Công thức cấu tạo của chất AC6

Vậy AC6 có tên khoa học là axit triacontanoic hay còn gọi là axit

46

melissic ứng với công thức phân tử là: C30H60O2.

Tiểu kết phần 3.2:

Từ dịch chiết etyl axetat phần thân loài Adenosma cearuleum R. Br. thu

hái ở huyện Đại Từ - Thái Nguyên, ngoài các chất tìm được ở những tài liệu

trước như ở mục 1.2.1, chúng tôi đã phân lập và xác định được 3 chất sạch là:

- AC2: α, β-dilinoleostearin được 45 mg (1,88.10-2 %).

- AC5: 1-heptacosanol được 18 mg (7,6.10-3 %).

- AC6: axit triacontanoic được 8,5 mg (3,5.10-3 %).

Cả 3 chất đều có vai trò là các dẫn chất trong tổng hợp hữu cơ và được

nghiên cứu là các dược chất được sử dụng rộng rãi trong y học. 1-

heptacosanol có chứa trong thành phần policosanol được sử dụng làm chất bổ

sung dinh dưỡng, làm giảm cholesterol LDL, tăng cholesterol HDL và giúp

ngăn ngừa chứng xơ vữa động mạch, thúc đẩy chức năng của các hoóc môn

giới tính, giảm đau cơ [23]. Axit triacontanoic, còn gọi là axit melissic, là một

axit béo bão hòa, thường thấy trong mật hoa [10].

3.3. Kết quả thử hoạt tính chống oxi hóa từ dịch chiết nước phần thân

loài Adenosma cearuleum R. Br. dạng khô

Hiện nay, các bằng chứng khoa học cho thấy sự gia tăng nồng độ các gốc

tự do trong tế bào là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây nên các vấn

đề về bệnh tật như: xơ vữa động mạch, tiểu đường, ung thư...[17]. Vì vậy, các

nhà nghiên cứu trên thế giới không ngừng tìm tòi và sàng lọc các hợp chất có

nguồn gốc tự nhiên để giải quyết các vấn đề trên. Do đó, nghiên cứu về khả

năng chống oxi hóa là một vấn đề thiết thực. Để khảo sát khả năng chống oxi

hóa của một hợp chất, nhiều phương pháp được sử dụng như: phương pháp ức

chế peroxy hóa lipid màng tế bào (thử nghiệm MDA); phương pháp trung hòa

gốc tự do của DPPH; phương pháp thử bằng ABTS; phương pháp thử hoạt

tính ức chế gốc tự do NO; phương pháp xác định hàm lượng Malonyl

dialdehyde; phương pháp đánh giá khả năng kết hợp với ion Fe2+; phương

47

pháp thử hoạt tính ức chế enzyme xanthine oxidase... Mỗi phương pháp

hướng tới các gốc tự do khác nhau trong tế bào[18]. Vì vậy, để khảo sát đầy

đủ khả năng chống oxi hóa của hợp chất, người ta thường sử dụng nhiều

phương pháp khác nhau, trong đó các phương pháp ức chế peroxy hóa lipid

màng tế bào (thử nghiệm MDA), trung hòa gốc tự do của DPPH và phương

pháp ABTS là các phương pháp phổ biến hiện nay, cho độ chính xác cao.

Do loài Adenosma cearuleum R. Br. được coi là một vị thuốc dùng trong

đông y, trong đời sống người dân vẫn sử dụng thân cây khô để đun nước uống

hàng ngày. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu khả năng chống oxi hóa bằng

phương pháp ức chế peroxidation lipit (MDA), bằng DPPH và bằng ABTS

của dịch chiết nước phần thân của loài Adenosma cearuleum R. Br. dạng khô

nhằm xác định rõ tác dụng cũng như tác hại của loài từ đó khuyến cáo cách sử

dụng loài Adenosma cearuleum R. Br. trong thực tế.

3.3.1. Khả năng chống oxi hóa thông qua việc ức chế peroxy hóa lipid

màng tế bào (thử nghiệm MDA)

3.3.1.1. Chuẩn bị mẫu thử và cách xác định giá trị IC50

Chúng tôi tiến hành xác định khả năng ức chế peroxy hoá lipid của dịch

chiết nước phần thân của loài Adenosma cearuleum R. Br. dạng khô qua việc

xác định hàm lượng malonyl dialdehit (MDA), là sản phẩm của quá trình peroxy

hoá lipit màng tế bào. MDA có khả năng phản ứng với axit thiobarbituric để tạo

thành phức hợp trimethin (có màu hồng) có đỉnh hấp thu cực đại ở λ = 532 nm.

Chuẩn bị mẫu thử nghiệm

Thí nghiệm được thử nghiệm trên não dòng chuột thuần chủng BALB,

mỗi mẫu thử được pha ở 6 nồng độ khác nhau lần lượt: 10000 µg/ml, 2000

µg/ml, 400 µg/ml, 80 µg/ml, 16 µg/ml, 0.32 µg/ml. Lấy 0,1 ml mẫu thử ở các

nồng độ thử nghiệm được cho phản ứng với 1ml dịch đồng thể não chuột

trong dung dịch đệm phosphat (pH = 7,4).

48

Chuẩn bị mẫu đối chứng

Trolox (Sigma Aldrich), đồng phân của vitamin E được sử dụng làm chất

đối chứng tham khảo được pha ở 6 nồng độ tương ứng với nồng độ mẫu thử

nghiệm: 10000 µg/ml, 2000 µg/ml, 400 µg/ml, 80 µg/ml, 16 µg/ml, 0,32 µg/ml.

Công thức tính phần trăm hoạt tính chống oxi hoá (HTCO)

HTCO (%) = [(ODC – ODT)/ODC] × 100

ODC : Mật độ quang học của giếng chứng không có mẫu thử

ODT : Mật độ quang học ở giếng thử mẫu

Các số liệu kết quả thử nghiệm được biểu thị bằng trị số trung bình của 3

lần đo khác nhau.

Cách tính giá trị IC50

Giá trị IC50 (Inhibition Concentration at 50% - nồng độ ức chế được 50%

sự tạo thành MDA) sẽ được xác định nhờ vào phần mềm máy tính Table

Curve 2Dv4.

3.3.1.2. Khả năng ức chế peroxy hoá lipid (thử nghiệm MDA) của dịch chiết

nước phần thân của loài Adenosma cearuleum R. Br. dạng khô

Mẫu nghiên cứu được pha ở 5 nồng độ 200; 40; 8; 1.6; 0.32 mg/ml nên sau

khi cho 0,1ml mẫu thử ở các nồng độ thử nghiệm được cho phản ứng với 1ml

dịch đồng thể não và thêm 0,8 ml đệm phosphat, 0,1 ml hệ Fenton vừa đủ 2 ml

thì nồng độ mẫu chỉ còn là 10mg/ml; 2mg/ml; 0.4mg/ml; 0.08mg/ml;

0.016mg/ml. Trong khi đó, chất đối chứng tham khảo Trolox pha ở 4 nồng độ 2

mg/ml; 0.4 mg/ml; 0.08mg/ml và 0.016mg/ml nên sau khi cho 0.1 ml Trolox ở

các nồng độ thử nghiệm được cho phản ứng với 1ml dịch đồng thể não và thêm

0.8ml đệm phosphat, 0.1ml hệ Fenton vừa đủ 2ml thì nồng độ Trolox 100; 20; 4

và 0.8 µg/ml. Kết quả về hoạt tính chống oxi hóa thông qua việc ức chế peroxy

49

hóa lipid màng tế bào (thử nghiệm DMA) được trình bày ở bảng 3.6.

Bảng 3.6. Kết quả xác định khả năng ức chế peroxy hoá lipid màng tế bào

Nồng độ Mẫu nghiên cứu Nồng độ Trolox

(µg/ml) (µg/ml)

10000 19.01 100 77.11

2000 63.58 20 60.01

400 64.94 4 24.90

80 22.55 0.8 3.04

16 12.44

IC50 (µg/ml) 232.35 ± 29.08 IC50 (µg/ml) 16.04 ± 2.48

Nhận xét: Qua số liệu xác định khả năng ức chế peroxy hoá lipid (khả

năng thể hiện hoạt tính chống oxi hóa) của dịch nước phần thân loài Adenosma

cearuleum R. Br. dạng khô, kết quả thể hiện trên bảng 3.6 cho thấy:

Dịch chiết nước mẫu phần thân của loài Adenosma cearuleum R. Br.

dạng khô thể hiện hoạt tính chống oxi hóa thông qua phép thử MDA với IC50

là 232.35 ± 29.08 (µg/ml). So với chất đối chứng là Trolox có IC50 là 16.04 ±

2.48 (µg/ml) thì khả năng thể hiện hoạt tính chống oxi hóa của dịch chiết

nước phần thân của loài Adenosma cearuleum R. Br. dạng khô bằng 14,12%

so với chất chuẩn Trolox. Chất đối chiếu tham khảo Trolox hoạt động ổn định

trong thí nghiệm. Các giá trị chính xác với r2 > 0.99.

3.3.2. Xác định hoạt tính chống oxy hóa thông qua phép thử trung hòa

gốc tự do của DPPH

1,1-Diphenyl-2-picrylhydrazyl (DPPH) là một gốc tự do bền, có màu tía

và có độ hấp thu cực đại ở bước sóng 517 nm. Khi có mặt chất chống oxi hóa,

nó sẽ bị khử thành 2,2-diphenyl-1-picrylhydrazyl (DPPH-H), có màu vàng.

Đo độ giảm hấp thu ở bước sóng 517 nm để xác định khả năng khử gốc

DPPH của chất chống oxi hóa.

Khả năng trung hòa gốc oxy hóa tự do (Scavenging Activities - SA) sinh

50

ra từ DPPH của mẫu thử được tính theo công thức sau:

% SA = (ODđối chứng - ODmẫu thử) * 100 / ODđối chứng (%)

Trong đó: ODđối chứng: Độ hấp thụ tại giếng không chứa chất thử

ODmẫu thử: Độ hấp thụ tại giếng chứa chất thử

Kết quả xác định hoạt tính chống oxi hóa thông qua phép thử trung hòa

gốc tự do của DPPH được trình bày ở bảng 3.7.

Bảng 3.7. Khả năng trung hòa gốc tự do của DPPH

Nồng độ Axit Ascorbic Nồng độ Mẫu nghiên cứu (µg/ml) (vit C) (µg/ml)

10000 83.28 100 89.76

2000 75.41 20 82.11

400 35.23 4 42.45

80 14.72 0.8 8.02

16 5.82

SC50 (µg/ml) 783.18 ± 42.67 SC50 (µg/ml) 6.60 ± 0.68

Nhận xét: Từ số liệu ở trên cho thấy mẫu nghiên cứu cũng đã thể hiện

khả năng trung hòa gốc tự do của DPPH ở các nồng độ nghiên cứu với giá trị

SC50 là 783.18 ± 42.67 (µg/ml). So với chất đối chứng là Axit Ascorbic có

SC50 là 6.60 ± 0.68 (µg/ml) thì khả năng trung hòa gốc tự do của dịch chiết

nước phần thân của loài Adenosma cearuleum R. Br. dạng khô bằng

113,44%, tốt hơn so với chất đối chứng tham khảo. Chất đối chứng tham

khảo Axit Ascorbic thể hiện tốt khả năng trung hòa gốc tự do của DPPH. Các

giá trị là chính xác với r2 > 0.99.

3.3.3. Xác định hoạt tính chống oxy hóa bằng ABTS

Cation ABTS+ [2,2’ – azinobis (3 – ethylbenzothiazoline – 6 - sulfonate)

(ABTS)] là một gốc tự do có màu xanh, có độ hấp thu cực đại ở bước sóng

734 nm. Khi cho chất chống oxi hóa vào dung dịch ABTS+, các chất chống

51

oxi hóa sẽ khử ion này thành ABTS. Đo độ giảm độ hấp thu của dung dịch ở

bước sóng 734nm để xác định hoạt tính chống oxi hóa của các chất thử và so

sánh với chất chuẩn Trolox.

Khả năng chống oxi hóa của các mẫu nghiên cứu được tính như sau:

Phần trăm thu dọn gốc tự do của ABTS+ (%) = (A0 - A) / A0 * 100

Trong đó: A0 : giá trị OD của giếng đối chứng

A: giá trị OD của giếng có mẫu thử

Kết quả xác định hoạt tính chống oxi hóa thông qua phép thử ABTS

được trình bày ở Bảng 3.8.

Bảng 3.8. Hoạt tính chống oxi hóa bằng ABTS

Mẫu nghiên cứu Nồng độ (µg/ml) Axit Ascorbic (vit C) Nồng độ (µg/ml)

94.66 100 94.96 10000

91.16 20 86.21 2000

83.64 4 34.33 400

43.59 0.8 11.03 80

16.01 16

SC50 (µg/ml) 116.70 ± 20.01 SC50 (µg/ml) 6.36 ± 0.79

Nhận xét: Kết quả trên cho thấy mẫu nghiên cứu đã thể hiện hoạt tính

chống oxi hóa trên phép thử ABTS với giá trị SC50 là 116.70 ± 20.01. So với

chất đối chứng là Axit Ascorbic có SC50 là 6.36 ± 0.79 (µg/ml) thì khả năng thể

hiện hoạt tính chống oxi hóa của dịch chiết nước phần thân của loài Adenosma

cearuleum R. Br. dạng khô bằng 19,12%. Chất đối chứng tham khảo Ascorbic

aci hoạt động ổn định trong thí nghiệm. Các giá trị là chính xác với r2 > 0.99.

3.3.4. Kết quả nghiên cứu hoạt tính gây độc tế bào ung thư của dịch chiết

nước phần thân của loài Adenosma cearuleum R. Br. dạng khô

3.3.4.1. Chuẩn bị mẫu thử và cách xác định giá trị IC50

Chuẩn bị mẫu thử nghiệm

100 l chất thử được cân và pha trong DMSO với tỉ lệ 1:1 để được nồng

52

độ gốc là 500 mg/ml. Sau đó pha chất thử thành các dải nồng độ thích hợp.

Chất thử đã pha ở các nồng độ vào các giếng của đĩa 96 giếng, thêm tế bào đã

điều chỉnh nồng độ phù hợp ở trên vào các giếng này sao cho nồng độ chất thử

trong giếng là 10000 g/ml; 2000 g/ml; 400 g/ml; 80g/ml và 16 g/ml.

Chuẩn bị mẫu đối chứng

Giếng không có chất thử nhưng có TBUT (180l) sẽ được sử dụng làm

đối chứng ngày 0. Sau 1 giờ, giếng đối chứng ngày 0 tế bào sẽ được cố định

bằng Trichloracetic acid – TCA. Sau 48 giờ, tế bào được cố định bằng TCA

trong 1 giờ, được nhuộm bằng SRB trong 30 phút ở 37oC, rửa 3 lần bằng axit

axetic rồi để khô ở nhiệt độ phòng. 10 mM unbuffered Tris base để hòa tan

lượng SRB, lắc nhẹ trong 10 phút. Phép thử được lặp lại 3 lần để đảm bảo

tính chính xác. Đọc kết quả OD ở bước sóng λ = 515-540 nm trên máy

ELISA Plate Reader (Bio-Rad).

Công thức tính phần trăm ức chế sự phát triển của tế bào khi có mặt

chất thử:

Khả năng ức chế sự phát triển của tế bào khi có mặt chất thử được xác

định theo công thức sau:

% ức chế = 100% - {[OD(chất thử) – OD(ngày 0)] x 100}/ {OD(đối

chứng âm) – OD(ngày 0)}

DMSO 10% luôn được sử dụng như đối chứng âm. Giá trị IC50 sẽ được

xác định nhờ vào phần mềm máy tính Table Curve 2Dv4.

3.3.4.2. Khả năng ức chế sự phát triển tế bào ung thư của dịch chiết nước

phần thân của loài Adenosma cearuleum R. Br. dạng khô

Theo tiêu chuẩn của Viện Ung thư Quốc gia Hoa Kỳ (NCI), cặn chiết

được coi có hoạt tính tốt với IC50 ≤ 20 µg/ml, trong khi chất tinh khiết được

coi có hoạt tính tốt khi IC50 ≤ 5 µM. Kết quả về hoạt tính gây độc tế bào ung

53

thư của mẫu nghiên cứu được trình bày ở bảng 3.9.

Bảng 3.9. Kết quả xác định khả năng ức chế sự phát triển tế bào ung thư của

dịch chiết nước phần thân của loài Adenosma cearuleum R. Br. dạng khô

Mẫu thí nghiệm Ellipticine Nồng độ

(µg/ml) Nồng độ (µg/ml) HepG2 HepG2

10000 106.85 10 90.83

2000 85.28 2 71.52

400 25.36 0,4 52.71

80 13.12 0,08 22.77

16 9.91

IC50 IC50 790.77 ± 31.49 0.28 ± 0.01

Nhận xét: Mẫu nghiên cứu thể hiện mức hoạt tính yếu với giá trị IC50 là

790.77 ± 31.49 µg/ml. Chất đối chứng dương Ellipticine hoạt động ổn định

trong thí nghiệm. Các kết quả trên là chính xác với r2 ≥ 0.99.

3.3.5. Kết luận về hoạt tính của dịch chiết nước phần thân của loài

Adenosma cearuleum R. Br. dạng khô

- Về hoạt tính chống oxi hóa: Dịch chiết nước phần thân của loài

Adenosma cearuleum R. Br. dạng khô đã thể hiện hoạt tính chống oxi hoá với

IC50 là 232.35 ± 29.08 (µg/ml) trong phép thử chống lipid hóa màng tế bào,

SC50 là 116.70 ± 20.01 (µg/ml) trên phép thử ABTS và thể hiện khả năng

trung hòa gốc tự do của DPPH với giá trị SC50 là 783.18 ± 42.67 (µg/ml)

trong đó khả năng trung hòa gốc tự do thể hiện giá trị cao hơn cả và bằng

113.44% so với chất đối chứng tham khảo.

Kết quả cho thấy mẫu nghiên cứu loài Adenosma cearuleum R. Br. dạng

khô đã thể hiện hoạt tính chống oxi hóa trên cả 3 thử nghiệm chống oxi hóa là

MDA, DPPH và ABTS.

- Về khả năng ức chế sự phát triển tế bào ung thư: Dịch chiết nước phần

54

thân của loài Adenosma cearuleum R. Br. có khả năng ức chế sự phát triển

của tế bào ung thư tuy nhiên hoạt tính còn yếu với giá trị IC50 là 790.77 ±

31.49 (µg/ml).

Với kết quả nghiên cứu trên, có thể thấy rằng việc sử dụng phần thân của

loài Adenosma cearuleum R. Br. dạng khô sẽ có tác dụng chống oxi hóa và ức

chế sự phát triển của tế bào ung thư. Tuy nhiên mức hoạt tính còn yếu vì là

dịch chiết nên có thể nghiên cứu thêm để phát triển công năng sử dụng của

loài này. Ưu điểm của loài Adenosma cearuleum R. Br. phát triển rất dễ, thích

nghi với khá nhiều loại đất trồng nên có thể sử dụng làm loại cây đun nước

uống hàng ngày, có tác dụng bảo vệ sức khỏe tốt.

3.4. So sánh loài Adenosma cearuleum R. Br. (Nhân trần) với loài

Adenosma indiana (Lour.) Merr. (Bồ bồ)

Tại huyện Đại Từ - tỉnh Thái Nguyên, chúng tôi tìm thấy 2 loài thuộc chi

Adenosma là Adenosma cearuleum R. Br. (nhân trần) với loài Adenosma

indiana (Lour.) Merr. (bồ bồ). Trên cơ sở kết quả nghiên cứu trên với các đề

tài nghiên cứu trước về loài Adenosma indiana (Lour.) Merr., ta có sự so sánh

giữa hai loài thuộc chi Adenosma dựa vào tài liệu “Nghiên cứu thành phần

hóa học và hoạt tính sinh học của loài Bồ bồ Adenosma indiana (Lour.)

Merr. phân bố ở địa bàn huyện Đại Từ - tỉnh Thái Nguyên."[4]

- Về đặc điểm hình thái: Hai loài Adenosma cearuleum R. Br. và

Adenosma indiana (Lour.) Merr. có đặc điểm hình thái gần giống nhau,

thường mọc ở gần nhau. Nếu quan sát kĩ về mặt hình thái có thể thấy sự khác

biệt giữa hai loài: Loài Adenosma cearuleum R. Br. thân có nhiều lông, thân

55

cây có màu sẫm hơn, hoa to hơn so với loài Adenosma indiana (Lour.) Merr.

Hình 3.14. Hoa, thân, lá của loài Hình 3.15. Hoa, thân, lá của loài

Adenosma indiana (Lour.) Merr. Adenosma cearuleum R. Br.

- Về thành phần hóa học:

+ Adenosma caeruleum R. Br.: có saponin tritecpenic, flavonozit,

axit nhân thơm, cumari và tinh dầu. Cả cây có 1% tinh dầu, hoa có 1,86% tinh

dầu[3]. Từ dịch chiết cloroform của loài Adenosma caeruleum R. Br lúc ra

hoa thu được các chất sau: sitosterol, stigmasterol, campesterol, axit betulinic,

monoterpen peroxit, enon, phenol, arbutin và aucubin trong đó có monoterpen

peroxit là chất mới. Ngoài ra còn phân lập được một iridoid glycoside mới có

tên là adenosmoside[3], [6], [7].

+ Adenosma indiana (Lour.) Merr.: có 1% tinh dầu và đã phân tích

thấy có 5 l.monoterpen và 2 d.secquiterpen trong đó có 38,5% cineol. Ngoài ra

còn thấy saponin, tritecpenic, flavonoit, axit nhân thơm và cumarin[3]. Từ dịch

chiết n-hexan và etyl axetat từ phần trên mặt đất của loài Adenosma

indiana (Lour.) Merr. phân lập được ba flavon metoxy hoá: 4’,5-dihydroxy-3, 3’,

6, 7-tetrametoxy-flavon (chrysosplenetin), artemetin và quercertin 3,3’,7-trimetyl

ete[22]. Mặt khác còn phân tích thấy trong tinh dầu của loài Adenosma indiana

(Lour.) Merr. Việt Nam có: 22,6 % l. limonen, 11,6% humulen, 33,5 % l.

feneccho và 5,9 % cineol. Ngoài ra còn thấy saponin, tritecpenic, flavonoit, axit

56

nhân thơm và cumarin. Toàn cây có 0,8% tinh dầu, lá 2,15%, hoa 0,82%[3].

- Về tác dụng dược lý: Hai loài Adenosma caeruleum R. Br. và

Adenosma indiana (Lour.) Merr. đều có tác dụng tăng tiết mật và tăng thải

độc của gan. Nhưng so sánh tác dụng lên gan, mật thì loài Adenosma indiana

(Lour.) Merr. có tác dụng mạnh hơn loài Adenosma caeruleum R. Br.. Loài

Adenosma caeruleum R. Br. và loài Adenosma indiana (Lour.) Merr. đều có

tác dụng chống viêm tương đương ở mô hình phù caolin và teo tuyến ức

nhưng đối với mô hình u hạt thì loài Adenosma caeruleum R. Br. chưa bằng

1/2 của loài Adenosma indiana (Lour.) Merr. Trên phù caolin với liều 15g/kg

thể trọng thì ức chế phù của loài Adenosma caeruleum R. Br. lại giảm. Tác

dụng kháng khuẩn của loài Adenosma caeruleum R. Br. kém hơn so với loài

Adenosma indiana (Lour.) Merr. nhất là với trực khuẩn lỵ. Nhưng loài

Adenosma caeruleum R.Br. ức chế mạnh hơn với Staphyllococcus và

Steptococcus[3].

- Về thành phần hóa học chính trong dịch chiết etyl axetat của loài: Cả

2 loài đều lấy mẫu tươi ở huyện Đại Từ - Thái Nguyên. Từ dịch chiết etyl

axetat phần thân của cả 2 loài đều phân lập và xác định được cấu trúc của 3

57

chất như bảng 3.10 sau:

Bảng 3.10: So sánh hợp chất thực nghiệm tìm ra ở dịch chiết loài Adenosma

cearuleum R. Br. và loài Adenosma indiana (Lour.) Merr. ở huyện Đại Từ -

Thái Nguyên

2-(4’-hydroxyphenyl)etyl triacontanoat

TT Adenosma cearuleum R. Br. Adenosma indiana (Lour.) Merr.

CTPT: C38H68O3

1 α, β-dilinoleostearin

CTCT:

CTPT: C57H103O6

β-sitosterol glucosid

CTCT:

CTPT: C35H60O6

2 1-heptacosanol

CTCT:

CTPT: C27H56O

Axit betulinic

CTCT:

CTPT: C30H48O3

3 Axit triacontanoic

CTCT:

CTPT: C30H60O2

CTCT:

Cả ba hợp chất phân lập được từ dịch chiết etyl axetat phần thân loài

58

Adenosma cearuleum R. Br. và loài Adenosma indiana (Lour.) Merr. thu hái

ở địa bàn huyện Đại Từ - Thái Nguyên đều có vai trò là các dẫn chất trong

tổng hợp hữu cơ và là dược chất được sử dụng rộng rãi trong y học.

- Về hoạt tính chống oxi hóa: So sánh về hoạt tính chống oxi hóa trong

phép thử chống lipid hóa màng tế bào thì dịch chiết nước phần thân của loài

Adenosma indiana (Lour.) Merr. và loài Adenosma cearuleum R. Br. đều thể

hiện hoạt tính chống oxi hóa tuy nhiên dịch chiết nước phần thân của loài

Adenosma indiana (Lour.) Merr. dạng khô có giá trị IC50 là 27.65 µg/ml (bằng

76,2% so với chất chuẩn Trolox) tốt hơn so với dịch chiết nước phần thân của

loài Adenosma cearuleum R. Br. dạng khô có giá trị IC50 là 232.35 ± 29.08

(µg/ml) (bằng 14,12% so với chất chuẩn Trolox).

Tiểu kết: Xét trên nhiều tiêu chí thì việc sử dụng loài Adenosma indiana

59

(Lour.) Merr. có hiệu quả hơn loài Adenosma cearuleum R. Br.

KẾT LUẬN

1- Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên về sự phân bố, định danh của chi

Adenosma tại huyện Đại Từ- tỉnh Thái Nguyên. Kết quả cho thấy trên địa bàn

huyện Đại Từ - tỉnh Thái Nguyên phân bố hai loài của chi Adenosma là Adenosma

caeruleum R. Br. (Nhân trần) và Adenosma indiana (Lour.) Merr. (Bồ bồ);

2- Từ phần thân của loài Adenosma cearuleum R. Br. được thu hái tại

huyện Đại Từ - tỉnh Thái Nguyên; đã phân lập và xác định cấu trúc hóa học

được 03 chất trong cặn etyl axetat:

- Chất AC2: α, β-dilinoleostearin

- Chất AC5: 1-heptacosanol

- Chất AC6 : Axit triacontanoic

Cả ba hợp chất phân lập được từ cặn chiết etyl axetat phần thân loài

Adenosma cearuleum R. Br. là α, β-dilinoleostearin, 1-heptacosanol, Axit

triacontanoic đều có vai trò là các dẫn chất trong tổng hợp hữu cơ và là dược

chất được sử dụng rộng rãi trong y học.

1-heptacosanol chứa trong thành phần policosanol được sử dụng làm

chất bổ sung dinh dưỡng, làm giảm cholesterol LDL, tăng cholesterol HDL và

giúp ngăn ngừa chứng xơ vữa động mạch, thúc đẩy chức năng của các hoóc

môn giới tính, giảm đau cơ.

Axit triacontanoic, còn gọi là axit melissic, là một axit béo bão hòa,

thường thấy trong mật hoa.

3- Kết quả xác định hoạt tính chống oxi hóa từ dịch chiết nước phần thân

của loài Adenosma cearuleum R. Br. đã xác định được:

Về hoạt tính chống oxi hóa: Dịch chiết nước phần thân của loài

Adenosma cearuleum R. Br. dạng khô đã thể hiện hoạt tính chống oxi hoá trên

cả 3 thử nghiệm chống oxi hóa là MDA, DPPH và ABTS với IC50 là 232.35 ±

29.08 (µg/ml) trong phép thử chống lipid hóa màng tế bào (thử nghiệm

60

MDA), SC50 là 116.70 ± 20.01 (µg/ml) trên phép thử ABTS và thể hiện khả

năng trung hòa gốc tự do của DPPH với giá trị SC50 là 783.18 ± 42.67 (µg/ml)

trong đó khả năng trung hòa gốc tự do thể hiện giá trị cao hơn cả và bằng

113.44% so với chất đối chứng tham khảo.

Về khả năng ức chế sự phát triển tế bào ung thư: Dịch chiết nước phần

thân của loài Adenosma cearuleum R. Br. có khả năng ức chế sự phát triển

của tế bào ung thư tuy nhiên hoạt tính còn yếu vì là dịch chiết với giá trị IC50

là 790.77 ± 31.49 (µg/ml).

Kết quả nghiên cứu trên đã định hướng cho việc sử dụng loài Adenosma

cearuleum R. Br. trong y dược và trong dân gian, do có hoạt tính chống oxi

61

hóa và có khả năng ức chế sự phát triển của tế bào ung thư.

KIẾN NGHỊ

Trên các kết quả nghiên cứu trong khuôn khổ luận văn, chúng tôi nhận

thấy loài Adenosma cearuleum R. Br. rất có tiềm năng về hoạt tính sinh học

nhất là trong việc ức chế tế bào ung thư và tác dụng chống oxi hóa. Bởi vậy

cần có các nghiên cứu tiếp theo trong Y- dược về khả năng dùng Adenosma

62

cearuleum R. Br. làm vị thuốc thiên nhiên, hữu ích trong y học.

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN

LUẬN VĂN

1. Nguyễn Thị Thanh Hương, Trương Thị Hồng Hạnh (2017). Thành

phần hóa học của loài nhân trần Adenosma cearuleum R. Br. thu hái ở địa bàn

Thái Nguyên. Tạp chí Khoa học công nghệ Đại học Thái Nguyên, 169(09),

63

93-96.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Võ Văn Chi (1999). Từ điển cây thuốc Việt Nam. Nhà xuất bản Y học, Hà

nội, tr. 863.

2. Phạm Hoàng Hộ (2000). Cây cỏ Việt nam. Nhà xuất bản trẻ T/P Hồ Chí

Minh,quyển 1, tr. 7, quyển 2, tr. 902.

3. Đỗ Tất Lợi (2006). Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam. Nhà xuất bản

Y học, tr 625.

4. Dương Hồng Nhung (2016). Nghiên cứu thành phần hóa học và hoạt tính

sinh học của loài Bồ bồ Adenosma indiana (Lour.) Merr. phân bố ở địa

bàn huyện Đại Từ - tỉnh Thái Nguyên.

5. Nguyễn Hoàng Tuấn, Đỗ Thị Hà (2016). Nghiên cứu đặc điểm hình thái

của nhân trần và bồ bồ. Tạp chí Dược liệu, tập 21, số 1+2/2016, tr 13-18.

6. Trần Văn Sung (1997). “Nghiên cứu thành phần hóa học cây nhân trần”.

Tạp chí Hóa học, 35(2), 7-8.

Tiếng Anh

7. Adam G, Porzel A, Sung T. V. and Schmidt J. (1992). “A

momoterpenoid peroxide from Adenosma caeruleum”. Phytochemistry,

31(8), 2885-2887.

8. Banerjee S, Ghoshal S, Porter TD (2001). Activation of AMP-kinase by

policosanol requires peroxisomal metabolism. Lipids 46(4),311-321.

9. Bhuiyanb M. N. l. and Begumb a BCSIR Laboratories J (2011):

Constituents of Volatile Oils from Limnophila aromatica and Adenosma

capitatum. J.Dhaka,Bangladesh Council of Scientific and Industrial

Research (BCSIR), Dhaka-1205, Bangladesh and BCSIR Laboratories

64

Chittagong, Chittagong-4220, Bangladesh J. Sci. Ind. Res. 46(3), 385-388.

10. Chibnall, Albert Charles; Ernest Frank Williams; Alfred Louis Latner;

Stephen Harvey Piper (1933). The isolation of n-triacontanol from lucerne

wax. Biochemical Journal 27(6), 1885–1888.

11. Cruz-Bustillo D, Mederos D, Mas R, Arruzazabala L, Laguna A, Barreto

D, Martinez O (1991). Cholesterol lowering effect of Ateromixol (PPG)

on fattening hogs. Revista CENIC Ciencias Biologicas 22, 62-63.

12. Dalmer Laboratory (1990). Policosanol: Experimental.

13. Flora of China: Adenosma R. Brown, Prodr. 442. 1810.

14. Gonzalez CV, Magraner HJ (1999). Validation of a gas chromatographic

method for determining fatty alcohols that compose policosanol in five-

milligram film-coated tablets . J AOAC Int 82(4), 834-839.

15. Gonzalez VL, Magraner J, Otero T, Garcia E (1999). Validation and

interlaboratory study of a new GC analytical method for the determination

of policosanol in raw material [in Spanish] . Rev CENIC Cienc Quim

30,148-152.

16. Gouni-Berthold I, Berthold HK (2002). Policosanol: clinical

pharmacology and therapeutic significance of a new lipid-lowering agent.

Am Heart J 143(2), 356-365.

17. Lazo-de-la-Vega-Monroy, M-L. & Fernández-Mejia, C. (2013). Oxidative

Stress in Diabetes Mellitus and the Role Of Vitamins with Antioxidant

Actions. Oxidative Stress and Chronic Degenerative Diseases - A Role for

Antioxidants, pp, 209-232.

18. Marcel S.F, Lie Ken Jie, C.C. Lam (1995). 13C-NMR studies of

polyunsaturated triacylglycerols of type AAA and mixed triacylglycerols

containing saturated, acetylenic and ethylenic acyl group. Chemistry and

Physics of Lipids 78, 1-13

19. Marinangeli CP, Jones PH, Kassis AN, Eskin MN (2010). Policosanols as

65

nutraceuticals: fact or fiction. Crit Rev Food Sci Nutr 50(3):259-267.

20. Mark Janikula, ND Candidte (2003). Policosanol: A new treatment for

cardiovascular disease.

21. Maryan Bruzual De Abreu, Nicola Malafronte, Phan Van Kiem,

Alessandra Braca (2009). “A new iridoid from Adenosma caeruleum

R.Br”. Fitoterapia, 80, 358-360.

22. Nguyen Minh Phuong, Tran Van Sung, Kamperdick C, Gunter Adam

(1997). ”Methoxylated flavones from Adenosma capitatum”. Pharmazie,

52(8),647-648.

23. Pedro P. Perez (1999). High molecular weight primary aliphatic alcohols

obtained from beeswax and pharmaceutical use thereof. United States

Patent, Pub. No.: US 2010/0143962 A1

24. Policosanol (2004). Altern Med Rev 9(3), 312-317.

25. Saint-John M, McNaughton L (1986). Octacosanol ingestion and its

effects on metabolic responses to submaximal cycle ergometry, reaction

time and chest and grip strength. Int Clin Nutr Rev 6, 81-87.

26. S. Hussain, E. Ahmed, A. Malik, A. Jabbar, M. Arshad (2005). Phytochemical

studies on Cressa cretica. Jour.Chem.Soc.Pak, 27(3), 296-298.

27. Tsankova Elena, Kuleva Lii, Le Thai Thanh (1994). “Composition of the

essential oil of Adenosma bracteosum Bonati.”. Journal of Essential Oil

Research, 6(3), 305-306.

28. Zhi Zeng, Chunyan Meng, Xuening Ye, and Zhuo Zeng (2013) Analysis

of Volatile Components of Adenosma indianum(Lour.) Merr. by Steam

Distillation and Headspace Solid-Phase Microextraction.

Website

29. Tuấn Dũng

(30/01/2010): Thông

tin chung về huyện Đại Từ,

http://daitu.thainguyen.gov.vn.

66

PHỤ LỤC

67