ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
PHẠM ĐĂNG DŨNG
HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG THANH TRA NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
HÀ NỘI - 2004
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIấN Lí LUẬN CHÍNH TRỊ
-------------------------
PHẠM ĐĂNG DŨNG
HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG THANH TRA NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 5.02.01
Người hướng dẫn: TS. PHAN TRUNG CHÍNH
HÀ NỘI - 2004
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………………….………………..……. 1 Chương 1. MỤC ĐÍCH, VAI TRÒ VÀ NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG TT DNNN
1.1- Mục đích, vai trò của hoạt động thanh tra DNNN ………………………… 7 1.1.1. Thanh tra và vị trí vai trò của DNNN trong nền kinh tế 7 1.1.2. Mục đích của hoạt động thanh tra nhà nước đối với DNNN 11 1.1.3. Vai trò của hoạt động thanh tra nhà nước đối với DNNN 15
1.2. Nội dung hoạt động thanh tra DNNN ……………………………………….… 19
1.3. Những nhân tố ảnh hưởng và yêu cầu hoàn thiện hoạt động TT….…. 40
1.2.1. Xác định chủ thể, đối tượng và nội dung thanh tra 19 1.2.2. Lựa chọn hình thức thanh tra 23 1.2.3. Phương pháp tiến hành thanh tra 26 1.3.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động thanh tra DNNN 40 1.3.2. Những yêu cầu hoàn thiện hoạt động thanh tra DNNN 42 Chương 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THANH TRA CÁC DNNN
2.1. Khái quát quá trình đổi mới tổ chức TTNN và đổi mới DNNN….…….47
2.1.1. Quá trình đổi mới tổ chức Thanh tra Nhà nước 47 2.1.2. Quá trình đổi mới các DNNN 52
2.2. Thực trạng hoạt động thanh tra nhà nước đối với các DNNN….…...…. 58
2.2.1. Tình hình thanh tra DNNN trong thời gian qua 58 2.2.2. Những vấn đề đang đặt ra cho ngành thanh tra 70
2.3. Đánh giá chung ………………………………………………………………………… 78
YẾU
QUAN
ĐIỂM
GIẢI
CHỦ
CÁC
VÀ
3.
2.3.1. Thành tựu và hạn chế 78 2.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế 80 Chương
PHÁP 3.1. Những quan điểm cơ bản …………………………………………………………...…83
3.2. Các giải pháp chủ yếu ………………………………………………………………..…85
3.2.1. Nâng cao nhận thức về hoạt động thanh tra 85 3.2.2. Hoàn thiện chế độ phân cấp, xác định rõ chủ thể, phạm vi và đối tượng 88 3.2.3. Tiếp tục đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động thanh tra 91 3.2.4. Củng cố, tăng cường tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ thanh tra 101 3.2.5. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về thanh tra 104 3.2.6. Từng bước hiện đại hoá hoạt động thanh tra 106 3.2.7. Tăng cường hợp tác quốc tế trong hoạt động thanh tra 106
KẾT LUẬN …………………………………………..…………………………………………………….. 110
TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………...………………………………………………….…… 112
QUY ƯỚC VIẾT TẮT
- BCHTW Ban chấp hành Trung ương
- CN Công nghiệp
- CNXH Chủ nghĩa xã hội
- CNH, HĐH Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
- DN Doanh nghiệp
- DNNN Doanh nghiệp nhà nước
- KN, TC Khiếu nại, tố cáo
- NSNN Ngân sách nhà nước
- QHSX Quan hệ sản xuất
- QLNN Quản lý nhà nước
- TCT Tổng công ty
- TT Thanh tra
- TTNN Thanh tra Nhà nước
- XD Xây dựng
- XHCN Xã hội chủ nghĩa
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài Ngày nay, trên thế giới không có một quốc gia nào không có sự can thiệp
của Nhà nước vào kinh tế, song mức độ can thiệp của mỗi nước là rất khác nhau.
Căn cứ vào tình hình cụ thể của đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra đường
lối đổi mới đất nước, xây dựng một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, dưới
sự quản lý của Nhà nước. Cương lĩnh của Đảng khảng định: “Phát triển nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”[1, tr.67-68].
Sau hơn mười năm đổi mới, đất nước ta đã vượt qua cuộc khủng hoảng
kinh tế - xã hội trầm trọng, sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước đã đạt
được những thành tựu to lớn: tốc độ tăng trưởng khá, chính trị - xã hội ổn định,
an ninh quốc phòng được giữ vững, vị thế của chúng ta trên trường quốc tế được
nâng cao và đời sống vật chất tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng lên
rõ rệt. Cùng với sự phát triển của đất nước, vai trò quản lý về kinh tế của Nhà
nước cũng được đổi mới và từng bước hoàn thiện cả về mục tiêu lẫn chức năng,
nhiệm vụ và các công cụ quản lý vĩ mô, trong đó có công cụ thanh tra và thanh
tra các DNNN.
Trong những năm qua Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị
quyết và các văn bản pháp luật về thanh tra; củng cố, tăng cường và từng bước
hoàn thiện tổ chức bộ máy thanh tra các cấp. Chính vì vậy, trong thời gian qua
hoạt động thanh tra đã có nhiều chuyển biến tích cực và đạt được những thành
tích rất khả quan và góp phần hạn chế những mặt trái của cơ chế thị trường...
phục vụ kịp thời cho công cuộc đổi mới đất nước nói chung và công tác quản lý
về kinh tế của Nhà nước nói riêng. Tuy nhiên, hoạt động thanh tra cũng còn
những tồn tại, hạn chế nhất định như: hệ thống văn bản pháp luật về thanh tra
chưa đồng bộ; hệ thống tổ chức bộ máy cồng kềnh, dàn trải và chưa thống nhất;
1
chức năng nhiệm vụ chưa rõ ràng, còn chồng chéo; quyền hạn chưa tương xứng
với chức năng, nhiệm vụ... đã làm giảm hiệu lực, hiệu quả của hoạt động thanh
ta. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước và công tác quản lý kinh tế
của Nhà nước trong thời gian tới đòi hỏi hoạt động thanh tra cần được khắc
phục, đổi mới và từng bước hoàn thiện.
Mặt khác, trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội cũng như trong quá
trình đổi mới đất nước, kinh tế nhà nước nói chung và DNNN nói riêng có vị trí
rất quan trọng và cùng với kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế
quốc dân, là lực lượng vất chất, là công cụ chủ yếu để Nhà nước định hướng và
điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Nghị quyết TW 3 khoá IX của Đảng ta đã khảng
định: “Doanh nghiệp nhà nước đã chi phối được các ngành, lĩnh vực then chốt
và sản phẩm thiết yếu của nền kinh tế; góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước
thực hiện được vai trò chủ đạo, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tăng thế
và lực của đất nước. Doanh nghiệp nhà nước chiếm tỉ trọng lớn trong tổng sản
phẩm trong nước, trong tổng thu ngân sách, kim ngạch xuất khẩu và công trình
hợp tác đầu tư với nước ngoài; là lực lượng quan trọng trong thực hiện các
chính sách xã hội, khắc phục hậu quả thiên tai và bảo đảm nhiều sản phẩm, dịch
vụ công ích thiết yếu cho xã hội, quốc phòng, an ninh.”[2, tr.4]. Bên cạnh đó,
DNNN cũng còn những hạn chế, yếu kém nhất định như: quy mô nhỏ, trình độ
công nghệ lạc hậu, công tác quản lý yếu kém, hiệu quả kinh doanh thấp… Nhiều
doanh nghiệp bị thua lỗ kéo dài, mất khả năng thanh toán, thậm trí có doanh
nghiệp bị thua lỗ mất vốn. Tình trạng tiêu cực, tham nhũng, quan liêu đang trở
thành quốc nạn và chậm được khắc phục trong các cơ quan nhà nước nói chung
và DNNN nói riêng.
Xuất phát từ những thực tế nêu trên, đòi hỏi các DNNN phải được chấn
chỉnh, đổi mới và kiểm soát chặt chẽ hơn, nhằm bảo toàn vốn, gia tăng quy mô
đầu tư, nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh để cùng
với kinh tế nhà nước giữ vững được vị trí, vai trò chủ đạo, then chốt trong nền
kinh tế quốc dân và thực sự là công cụ, lực lượng vất chất quan trọng để Nhà
2
nước định hướng, điều tiết vĩ mô nền kinh tế có hiệu quả, giải phóng mọi nguồn
lực của đất nước và tạo môi trường thuận lợi, lành mạnh để mọi thành phần kinh
tế phát triển. Với ý nghĩa đó, tác giả chọn đề tài: “Hoàn thiện hoạt động thanh
tra nhà nước đối với DNNN ở Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp cao học -
chuyên ngành Kinh tế Chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hoạt động thanh tra đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung và các DNNN
nói riêng đã có một số công trình nghiên cứu, có thể nêu một số bài viết, đề tài
nghiên cứu như:
- Trần Đức Lượng: "Đổi mới tổ chức và hoạt động hệ thống Thanh tra
Nhà nước theo hướng cải cách hành chính Nhà nước". Đề tài khoa học cấp Bộ,
mã số 95-98-043/ĐT - Cơ quan Thanh tra Nhà nước - Năm 1996.
- Nguyễn Văn Liêm: "Cơ sở khoa học xác định mô hình và cơ cấu tổ chức
Thanh tra Nhà nước các cấp đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính nhà nước". Đề
tài khoa học cấp Bộ, mã số 98-98-101/ĐT - Cơ quan Thanh tra Nhà nước - Năm
2001.
- Trần Đức Lượng: "Hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát nhằm
nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước". Đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước, mã
số 98-98-048/ĐT - Cơ quan Thanh tra Nhà nước - Năm 2002.
- Nguyễn Văn Thâm: "Một số vấn đề về thanh tra và tổ chức hoạt động
thanh tra trong tình hình hiện nay ở nước ta". Thông tin khoa học số 1-1997- Cơ
quan Thanh tra Nhà nước.
- Phạm Văn Khanh: "Bàn về định hớng đổi mới tổ chức, hoạt động thanh
tra ở nước ta". Thông tin khoa học số 1-1997- Cơ quan Thanh tra Nhà nước.
- Phạm Tuấn Khải: "Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề đổi mới tổ chức
và hoạt động của Thanh tra Nhà nước ở Việt Nam". Luận án tiến sĩ luật học, mã
số 5.05.01 - Năm 1996.
- Nguyễn Thanh Hải: "Vai trò của Thanh tra Nhà nước trong việc thực
hiện dự án ở nước ta hiện nay". Luận án thạc sĩ hành chính học, mã số 5.07.05 -
3
Năm 2000.
- Ngô Văn Khánh: "Tăng cường hiệu lực thanh tra tài chính đối với doanh
nghiệp Nhà nước". Luận án thạc sĩ kinh tế - Năm 2002 .v.v.
Nhìn chung các đề tài, các bài viết đã phản ánh nhiều vấn đề của hoạt
động thanh tra, kiểm tra trên phạm vi cả nước hoặc từng lĩnh vực cụ thể. Song
cho đến nay, việc nghiên cứu vấn đề này dưới góc độ kinh tế chính trị thì chưa
có đề tài nào nghiên cứu một cách cơ bản và hệ thống. Để thực hiện đề tài, tác
giả có kế thừa và lựa chọn ý tưởng của các công trình đã công bố, nhằm giúp
cho việc phân tích và đánh giá thực trạng thanh tra các DNNN, đề xuất giải pháp
hoàn thiện hoạt động thanh tra nhà nước đối với DNNN ở Việt Nam trong giai
đoạn tiếp theo.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích lý luận và thực trạng hoạt động thanh tra của Nhà
nước đối với DNNN, nhằm góp phần làm rõ cơ sở lý luận về hoạt động thanh tra
của Nhà nước đối với các DNNN; từ đó đề xuất những quan điểm cơ bản và các
giải pháp chủ yếu để hoàn thiện hoạt động đó trong giai đoạn tới ở nước ta.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá có chọn lọc và phân tích một số vấn đề lý luận chung về
hoạt động thanh tra của Nhà nước đối với các DNNN.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động thanh tra của Nhà nước đối với
các DNNN trong thời gian qua, từ đó thấy được những vấn đề bức xúc cần đặt ra
để giải quyết.
- Đề xuất và phân tích các quan điểm cơ bản và các giải pháp chủ yếu
nhằm đổi mới và hoàn thiện hoạt động thanh tra của Nhà nước đối với các
DNNN trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu chủ yếu về hoạt động thanh tra của Nhà nước đối
4
với các DNNN trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động thanh tra đặt trong mối quan hệ
với cơ chế quản lý kinh tế nói chung và đi sâu phân tích hoạt động thanh tra của
Nhà nước đối với DNNN trong mối quan hệ với hoạt động thanh tra, kiểm tra
nói chung của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
Luận văn thực hiện dưới góc độ kinh tế chính trị đặt trong mối quan hệ
với khoa học quản lý về quản lý kinh tế để nghiên cứu, nhằm làm rõ những vấn
đề cơ bản, chủ yếu của đề tài. Thời gian nghiên cứu khảo sát chủ yếu trong giai
đoạn từ năm 1995 đến năm 2004 và đề xuất giải pháp định hướng đến năm
2010.
5. Cơ sở lý luận, nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Dựa vào những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, các quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta về quản lý nền kinh tế nói chung, về DNNN nói
riêng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; để luận giải sự
cần thiết khách quan phải hoàn thiện hoạt động thanh tra nhà nước đối với các
DNNN, một trong những chức năng cơ bản của quản lý kinh tế của Nhà nước.
5.2. Nguồn tài liệu
Luận văn sử dụng các nguồn tài liệu chính sau:
- Báo cáo hàng năm (1995-2004) của cơ quan Thanh tra Nhà nước (nay là
Thanh tra Chính phủ) và báo cáo hàng năm (2000-2004) của Thanh tra một số
tỉnh, thành phố và Thanh tra Bộ Tài chính;
- Lịch sử Thanh tra Việt Nam (1945-1995);
- Tài liệu khảo sát các tổ chức TTNN và DNNN (Tổng công ty 90, 91 và
DNNN ở các địa phương) của Thanh tra Nhà nước;
- Tài liệu của Ban đổi mới và phát triển DNNN…
5.3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp truyền thống của Chủ nghĩa Mác-Lênin
5
về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời kết hợp sử dụng phương
pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp thống kê, so sánh, phân tích và tổng hợp,
diễn giải và quy nạp để rút ra những kết luận khoa học về những vấn đề được
xem xét.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn làm rõ cơ sở khoa học và thực tiễn góp phần vào việc hoàn thiện
hoạt động thanh tra, kiểm tra nói chung và hoạt động thanh tra của Nhà nước đối
với các DNNN nói riêng, nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý kinh tế của
Nhà nước đối với nền kinh tế quốc dân. Kết quả nghiên cứu có thể dùng làm tài
liệu tham khảo đối với các cơ quan hoạch định chính sách và quản lý ở tầm vĩ
mô; đồng thời cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác giảng dạy
của Trường Cán bộ Thanh tra và cho hoạt động thanh tra của các cơ quan Thanh
tra Nhà nước.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương:
- Chương 1. Mục đích, vai trò và nội dung hoạt động thanh tra Nhà nước
đối với DNNN
- Chương 2. Thực trạng hoạt động thanh tra nhà nước đối với DNNN thời
gian qua
- Chương 3. Quan điểm và các giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện hoạt
6
động thanh tra nhà nước đối với DNNN trong thời gian tới.
Chương 1 MỤC ĐÍCH, VAI TRÒ VÀ NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG THANH TRA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
1.1. Mục đích, vai trò của hoạt động thanh tra đối với DNNN
1.1.1. Khái niệm thanh tra và vị trí, vai trò của DNNN trong nền kinh tế
1.1.1.1. Khái niệm thanh tra
Ngày nay, các khái niệm giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm kê và kiểm
soát được sử dụng phổ biến trong hoạt động quản lý nói chung và trong quản lý
nhà nước nói riêng. Về hình thức đây là những khái niệm khác nhau, nhưng về
nội dung lại có một sự giao thoa rất lớn. Chính vì vậy, mà cách sử dụng các khái
niệm này cũng rất phong phú và đa dạng. Việc dùng khái niệm nào là tuỳ thuộc
vào mục đích, tính chất và hoàn cảnh cụ thể để sử dụng cho phù hợp. Thanh tra
(tiếng Anh là inspect) xuất phát từ gốc La tinh (inspectare) có nghĩa là “nhìn
vào bên trong”, chỉ sự kiểm tra, xem xét từ bên ngoài đối với hoạt động của một
đối tượng nhất định” [54, tr.17]. Theo từ điển Tiếng Việt, nghĩa thứ nhất thanh
tra là điều tra, xem xét để làm rõ vụ việc; nghĩa thứ hai là chỉ người làm nhiệm
vụ thanh tra [45, tr.1034]. Theo khái niệm này, người làm nhiệm vụ thanh tra
phải điều tra, xem xét để làm rõ vụ việc. Như vậy, khái niệm này bao gồm: chủ
thể thanh tra, phương pháp thanh tra, mục đích thanh tra và nội dung thanh tra.
Nhưng chủ thể, vụ việc ở đây chưa được rõ ràng.
Theo giáo trình Nghiệp vụ thanh tra: “nghĩa thứ nhất thanh tra là kiểm
soát, xem xét tại chỗ việc làm của địa phương, cơ quan, xí nghiệp; nghĩa thứ hai
7
chỉ nghề nghiệp, tên gọi chức danh như người làm nhiệm vụ thanh tra, Đoàn
thanh tra của Bộ… Thanh tra có nghĩa là sự kiểm tra, xem xét từ bên ngoài vào
hoạt động của một đối tượng nhất định” [41, tr.10-11].
Như vậy, nội hàm của khái niệm mà giáo trình đề cập đã được mở rộng và
rõ ràng hơn. Thanh tra là một hoạt động quản lý của nhà nước. Các cơ quan nhà
nước là chủ thể thanh tra và người được uỷ quyền trực tiếp tiến hành các cuộc
thanh tra là Đoàn thanh tra. Nội dung và đối tượng thanh tra là việc làm của địa
phương, cơ quan, xí nghiệp. Phương pháp hay cách thức tổ chức thực hiện là
kiểm soát, xem xét và thực hiện tại chỗ, trực tiếp tại đơn vị được thanh tra. Và
mục đích là nhằm phục vụ cho quản lý đạt được hiệu quả cao hơn. Ngoài ra,
khái niệm cũng đề cập đến vị trí của chủ thể thanh tra nằm ở bên ngoài đối
tượng thanh tra.
Đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước "Hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm
tra, giám sát nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước" của cơ quan Thanh tra
Nhà nước, có viết: “Thanh tra là một chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước,
là hoạt động kiểm tra xem xét việc làm của các cơ quan, tổ chức và cá nhân;
thường được thực hiện bởi một cơ quan chuyên trách theo một trình tự, thủ tục
do pháp luật quy định nhằm kết luận đúng, sai, đánh giá ưu, khuyết điểm, phát
huy nhân tố tích cực, phòng ngừa, xử lý các sai phạm, góp phần hoàn thiện cơ
chế quản lý, tăng cường pháp chế XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, các
quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân” [54, tr.23].
Theo khái niệm trên, nội dung đã được trình bày đầy đủ hơn, rõ nét hơn,
chi tiết hơn và phạm vi cũng rộng hơn. Ngoài những nội dung cơ bản mà các
khái niệm đã đề cập, khái niệm này còn đưa thêm một vấn đề mới và nhấn mạnh
thêm, đi sâu hơn và cụ thể hơn một số vấn đề sau:
Thanh tra không chỉ là một hoạt động quản lý của nhà nước mà nó “là
một chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước”. Chủ thể thanh tra cũng cụ thể
hơn, nó “thường được thực hiện bởi các cơ quan chuyên trách”. Về nội dung và
đối tượng thanh tra khái niệm lại thiên về tính khái quát, tổng hợp, tức là “kiểm
8
tra, xem xét việc làm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân”. Phương pháp
hay cách thức tổ chức thực hiện cũng là “kiểm tra, xem xét” nhưng phạm vi thì
đã được mở rộng hơn, không chỉ “thực hiện tại chỗ, trực tiếp tại địa phương, cơ
quan hay xí nghiệp được thanh tra” mà có thể thực hiện ở cả các cơ quan, tổ
chức và cá nhân có liên quan. Khái niệm còn đưa ra một vấn đề rất mới, đó là
quy trình tổ chức thực hiện, là phải tuân theo “một trình tự, thủ tục do pháp luật
quy định”. Đặc biệt, khái niệm này còn đề cập rất cụ thể đến mục đích của hoạt
động thanh tra.
Theo Điều 4 của Luật Thanh tra (2004): “Thanh tra nhà nước là việc xem
xét, đánh giá, xử lý của cơ quan quản lý nhà nước đối với việc thực hiện chính
sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự quản lý theo
thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Luật này và các quy định khác
của pháp luật” [14, tr.198]. So với các khái niệm trên, khái niện này đã thể hiện
tương đối đầy về nội dung và mang tính khái quát hơn, nó đã khắc phục được
những hạn chế của các khái niệm trên.
Tóm lại: Do nội hàm của khái niệm thanh tra rộng và cách tiếp cận khác
nhau, cho nên còn có sự nhận thức khác nhau về khái niệm thanh tra là một tất
yếu khách quan. Thông qua việc phân tích các khái niệm trên, có thể rút ra một
số vấn đề chủ yếu sau:
- Thanh tra là một loại hoạt động của quản lý nhà nước, là một chức năng
thiết yếu của các cơ quan quản lý nhà nước.
- Chủ thể thanh tra là các cơ quan nhà nước, việc tổ chức tiến hành các
cuộc thanh tra thường do các các tổ chức thanh tra thực hiện mà trực tiếp là
Đoàn thanh tra hoặc các Thanh tra viên.
- Đối tượng thanh tra là việc làm của các cơ quan, đơn vị và cá nhân.
- Nội dung thanh tra là việc chấp hành chính sách, pháp luật, việc thực
hiện nhiệm vụ và các chế độ, quy định của Nhà nước.
- Phương pháp thanh tra chủ yếu là kiểm tra, kiểm kê, kiểm soát, xem xét
và có thể phải dùng cả điều tra, giám sát… và tuân theo một trình tự thủ tục
9
nhất định do pháp luật quy định.
- Mục đích của thanh tra là nhằm phục vụ cho quản lý và nâng cao hiệu
lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước.
Như vậy, Thanh tra là sự xem xét việc thực hiện chính sách, pháp luật,
nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức và cá nhân, do các cơ quan quản lý nhà
nước có thẩm quyền thực hiện theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định,
nhằm phục vụ cho các cơ quan quản lý nhà nước.
1.1.2.1. Vị trí, vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế
- Khái niệm và các loại hình doanh nghiệp nhà nước
Ơ nước ta trước đây, DNNN thường được hiểu là kinh tế nhà nước hay
còn gọi là kinh tế quốc doanh hoặc xí nghiệp quốc doanh. Ngày nay, theo Luật
Doanh nghiệp nhà nước (2003), khái niệm DNNN được định pháp như sau:
“Doanh nghiệp nhà nước là một tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ
vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức
công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn” [13, tr.2].
DNNN gồm có hai loại hình cơ bản: các DN hoạt động kinh doanh và các
DN hoạt động công ích. Ngoài ra, còn có các DN nằm giữa hai loại hình cơ bản
này. Tuy nhiên, tuỳ theo từng loại DN mà Nhà nước cung cấp toàn bộ hoặc góp
vốn hoặc góp cổ phần… Nếu Nhà nước có số cổ phần trong các DN này lớn hơn
các thành phần kinh tế khác, thì Nhà nước sẽ nắm số cổ phần chi phối hay cổ
phần đặc biệt của các DN này.
- Vị trí của doanh nghiệp nhà nước
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX xác định: Kinh tế nhà nước là một
trong sáu thành phần kinh tế cơ bản của nền kinh tế quốc dân, “Kinh tế nhà
nước, theo nghĩa đầy đủ bao gồm toàn bộ đất đai, tài nguyên, ngân sách nhà
nước, ngân hàng nhà nước, dự trữ quốc gia, các quỹ của Nhà nước và DNNN”
[6, 146]. Như vậy, DNNN là một bộ phận quan trọng, cơ bản của kinh tế nhà
nước, được Nhà nước giao nắm giữ những vị trí then chốt, trọng yếu trong nền
kinh tế quốc dân, là lực lượng vật chất để nhà nước thực hiện những chiến lược
10
phát triển kinh tế-xã hội trong từng giai đoạn.
- Vai trò của doanh nghiệp nhà nước
DNNN có vị trí, vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, là một
bộ phận chủ yếu của kinh tế nhà nước và cùng với kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo trong nền kinh tế. Ơ nước ta, các DNNN đang chiếm giữ những vị trí
then chốt, những ngành kinh tế mũi nhọn và những ngành kinh tế chủ yếu của
đất nước. Nó là lực lượng chủ lực trong hội nhập quốc tế, trong liên doanh, liên
kết với các thành phần kinh tế khác. Cho nên, thông qua việc liên doanh, liên kết
Nhà nước sẽ kiểm soát và định hướng hoạt động của các DN này theo quỹ đạo
chung của nhà nước.
Với sức mạnh về cơ sở vật chất kỹ thuật, đi đầu trong ứng dụng khoa học
công nghệ tiên tiến, đội ngũ lao động và quản lý được đạo đào tạo chính quy;
cho nên các DNNN đại diện cho lực lượng sản xuất tiến bộ trong xã hội, hướng
dẫn, hỗ trợ và thúc đẩy các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng
XHCN.
Với tư cách là công cụ, là lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức
năng quản lý vĩ mô nền kinh tế, DNNN đã sản xuất ra một khối lượng lớn của
cải vật chất cho xã hội, góp phần tích cực vào việc ổn định và tăng trưởng kinh
tế, hạn chế những tiêu cực của cơ chế thị trường như: chống độc quyền, ổn định
giá cả các mặt hàng thiết yếu, ổn định thị trường tiền tệ… kích thích cung cầu
nhằm lập lại những cân đối lớn trong nền kinh tế để thị trường phát triển lành
mạnh và có hiệu quả.
Sau một thời gian sắp xếp, đổi mới và phát triển, các DNNN đang thích
ứng dần với những đòi hỏi của cơ chế thị trường, đã chiếm ưu thế về một số loại
hàng hoá, dịch vụ thiết yếu, là lực lượng đảm bảo và giải quyết các vấn đề chính
sách xã hội, là lực lượng chủ yếu trong đóng góp vào ngân sách nhà nước… góp
phần cân đối thu chi ngân sách nhà nước, làm cho xã hội ổn định, phát triển và
đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết TW 3 khoá IX của Đảng đã
11
khảng định rõ: “DNNN là lực lượng nòng cốt, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà
nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
là lực lượng chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế…” [8, tr.6].
1.1.2. Mục đích của hoạt động thanh tra DNNN
“Thanh tra là một chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước”
[25, tr.3], cho nên mục đích của quản lý nhà nước cũng chính là mục đích mà
hoạt động thanh tra phải hướng tới và phục vụ cho các cơ quan quản lý nhà
nước. Theo Luật Thanh tra năm 2004, mục đích của hoạt động thanh tra là
“nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật; phát hiện
những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ
quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục; phát huy nhân tố tích
cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước;
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và
cá nhân” [14, tr.198]. Vì vậy, hoạt động thanh tra các DNNN cũng phải tuân
theo và phục vụ cho mục đích trên.
Mặt khác, quản lý của Nhà nước đối với DNNN được thể hiện dưới hai
giác độ: thứ nhất, Nhà nước là người quản lý toàn bộ nền kinh tế nên Nhà nước
quản lý nó như các DN khác, tức quản lý về mặt vĩ mô; thứ hai, Nhà nước là
người bỏ toàn bộ vốn hay giữ một số cổ phần chi phối, nên Nhà nước quản lý,
kiểm soát nó với tư cách là chủ sở hữu của DN. Do vậy, mục đích của hoạt động
thanh tra các DNNN không chỉ nhằm vào việc thực hiện mục đích chung của
hoạt động thanh tra, mà còn phải thực hiện các mục đích cụ thể sau:
- Đảm bảo cho DNNN phát triển đúng phương hướng và mục tiêu đã chọn
DNNN có một vị trí rất quan trọng, giữ những vị trí then chốt, chủ yếu
trong nền kinh tế quốc dân, là lực lượng vất chất quan trọng để Nhà nước định
hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Với tư cách là người quản lý toàn bộ đất
nước, Nhà nước nào cũng phải xác định mục tiêu và hoạch định chiến lược phát
triển kinh tế-xã hội, xây dựng các chính sách kinh tế, các kế hoạch phát triển nền
kinh tế nhằm đảm bảo cho nền kinh tế phát triển đúng mục tiêu, định hướng đã
12
đề ra, để phát huy hết mọi tiềm năng của đất nước, giải phóng mọi nămg lực sản
xuất của các thành phần kinh tế, trong đó có DNNN. Với tư cách là chủ sở hữu
của DNNN, Nhà nước xác định mục tiêu của DN, hoạch định chiến lược phát
triển DN, xây dựng các chính sách tài chính của DN, các kế hoạch phát triển của
DN, nhằm đảm bảo cho DN phát triển đúng mục tiêu, định hướng đã lựa chọn…
Trong quá trình thanh tra các DNNN, Đoàn thanh tra hoặc các Thanh tra viên
xem xét việc tổ chức thực hiện các mục tiêu và chiến lược phát triển của DN.
Nếu phát hiện DN thực hiện không đúng, chệch hướng thì thanh tra phải điều
chỉnh, uốn nắn nhằm đảm bảo cho DN phát triển đúng mục tiêu, định hướng đã
đề ra.
- Giúp cho DNNN đạt được những sản phẩm dịch vụ chủ yếu
Hiện nay, DNNN đang giữ những vị trí then chốt, những ngành kinh tế
mũi nhọn hay những ngành kinh tế chủ yếu và chiếm một tỷ trọng lớn trong nền
kinh tế quốc dân. Do vậy, số lượng hàng hoá dịch vụ của các DNNN sản xuất ra
có ý nghĩa rất quan trọng đối với đời sống xã hội nói chung và nền kinh tế nói
riêng. Nó là công cụ, là lực lượng vất chất quan trọng để Nhà nước định hướng
và điều tiết nền kinh tế. Nó như một “cái van an toàn” của nền kinh tế, để Nhà
nước điều chỉnh các hoạt động kinh tế. Chính vì vậy mà thanh tra không thể
không kiểm tra, xem xét việc thực hiện số lượng hàng hoá dịch vụ chủ yếu mà
Nhà nước giao cho DN. Trong quá trình thanh tra, nếu phát hiện DN không thực
hiện hoặc không bảo đảm đủ chỉ tiêu, thanh tra phải làm rõ nguyên nhân, báo
cáo kịp thời với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét và tìm biện pháp
khắc phục, nhằm bảo đảm cân đối cung cầu về loại hàng hoá dịch vụ đó. Đối với
các trường hợp cố tình làm sai hoặc vì mục đích cá nhân mà DN không thực
hiện các chỉ tiêu được giao, thanh tra sẽ kiến nghị với các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền xử lý hoặc chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra để truy tố trước pháp
luật. Nhìn chung, mọi vi phạm về chỉ tiêu này đều phải xử lý nghiêm minh,
nhằm làm cho các DN phải chấp hành nghiêm, vì đây là một trong những chỉ
tiêu rất quan trọng đối với việc bảo đảm và cân đối các quan hệ cung cầu của
13
nền kinh tế. Do đó, việc kiểm tra thực hiện các sản phẩm hàng hoá dịch vụ chủ
yếu mà Nhà nước giao cho các DNNN là một nội dung quan trọng và là một
trong những mục đích chủ yếu của hoạt động thanh tra các DNNN.
- Bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
Với tư cách là người chủ sở hữu DN, Nhà nước phải kiểm tra, xem xét
tiền vốn mà mình bỏ ra được DN sử dụng như thế nào? Trước hết xem DN có sử
dụng vốn đúng mục đích không, có nhằm vào việc thực hiện mục tiêu, phương
hướng kinh doanh mà cơ quan có thẩm quyền đã phê duyệt không? Sau mỗi chu
kỳ kinh doanh số vốn đó như thế nào, tăng hay giảm hoặc giữ nguyên và hiệu
quả sử dụng vốn ra sao? Trong quá trình kiểm tra, xem xét việc sử dụng vốn của
DN, nếu phát hiện việc sử dụng vốn không đúng mục đích phải điều chỉnh, uốn
nắn kịp thời. Nếu DN có khó khăn về vốn, thanh tra có thể bàn với DN tìm
hướng khắc phục hoặc kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền tìm cách giải quyết.
Nếu việc sử dụng vốn kém hiệu quả hoặc gây thất thoát vốn, thanh tra phải làm
rõ nguyên nhân, báo cáo kịp thời với các cơ quan có thẩm quyền để tìm cách xử
lý…
Thông qua việc thanh tra, xem xét việc sử dụng vốn của DN, nhằm giúp
cho DN bảo toàn vốn, sử dụng vốn đúng mục đích, từng bước nâng cao hiệu quả
sử dụng và phát triển vốn.
Mặt khác, DNNN là một bộ phận chủ yếu của kinh tế nhà nước, là công
cụ rất quan trọng để Nhà nước quản lý vĩ mô nền kinh tế. Cho nên, ngoài việc
Nhà nước quản lý nó như những DN khác, Nhà nước còn có những chính sách,
quy định riêng cho DNNN. Thông qua hoạt động thanh tra, để thấy được những
khó khăn, bất lợi của các DNNN để Nhà nước hỗ trợ, giúp đỡ DN như: cấp vốn
bổ xung, cho vay với lãi suất ưu đãi, bao mua sản phẩm, đầu tư công nghệ…
nhằm tạo ra những điều kiện, môi trường thuận lợi cho DNNN phát triển, nâng
cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh của DNNN, góp phần cùng
kinh tế nhà nước giữ vững vai trò chủ đạo và định hướng pháp triển nền kinh tế.
14
- Góp phần loại trừ tiêu cực, tham nhũng trong các DNNN
Cơ chế thị trường, về cơ bản có rất nhiều ưu điểm và tác dụng mà không
không thể phủ nhận, song bên cạch đó nó cũng có những mặt trái, những khuyết
tật cần phải có sự can thiệp của Nhà nước để hạn chế những khuyết tật ấy và
“sửa chữa những thất bại của thị trường”. Do chạy theo lợi nhuận, nên các DN
dễ dẫn đến cạnh tranh không hoàn hảo, làm ô nhiễm môi trường, khủng hoảng,
suy thoái, thất nghiệp… Hiện tượng chốn lậu thuế, gian lận thương mại, vi phạm
bản quyền, làm hàng giả đang diễn ra phổ biến ở nước ta. Bên cạnh đó, tình
trạng sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài, mất vốn cũng không
phải là ít trong các DNNN. Đặc biệt, “Tệ quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu
nhân dân tiếp tục diễn ra nghiêm trọng” [2, tr.3], trong các cơ quan nhà nước
nói chung và trong các DNNN nói riêng. Do đó, thanh tra phải có trách nhiệm
phát hiện, tìm ra những tiêu cực, tham nhũng để xử lý, truy tố trước pháp luật.
Đồng thời, qua thanh tra cũng thấy được sự sơ hở của chính sách, pháp luật, của
cơ chế quản lý để sửa đổi, bổ xung nhằm hạn chế, đẩy lùi tham nhũng tiêu cực.
Vì vậy, chống tham nhũng, tiêu cực cũng là một trong những mục đích của hoạt
động thanh tra các DNNN.
Trên đây là những mục đích kinh tế cụ thể của hoạt động thanh tra
DNNN, các mục đích này được xuất phát từ yêu cầu của công tác quản lý nói
chung và yêu cầu của hoạt động thanh tra nói riêng. Đồng thời các mục đích này
phải nhằm phục vụ cho mục đích chung của hoạt động thanh tra và mục đích
quản lý của Nhà nước về kinh tế.
Tuỳ theo yêu cầu của việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác quản
lý của các cấp, các ngành trong từng thời điểm cụ thể, mỗi cuộc thanh tra có một
số nội dung nhất định. Cho nên, mục đích của các cuộc thanh tra nói chung và
thanh tra DNNN nói riêng không phải lúc nào cũng giống nhau. Mục đích của
mỗi cuộc thanh tra DNNN là tuỳ thuộc vào nội dung của cuộc thanh tra, yêu cầu
của công tác chỉ đạo, điều hành của các cơ quan quản lý nhà nước và tuỳ thuộc
vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của cuộc thanh tra đó. Do vậy, mục đích của mỗi
15
cuộc thanh tra DNNN là để góp phần thực hiện mục đích chung của hoạt động
thanh tra và phục vụ cho mục đích của quản lý kinh tế nói riêng và quản lý nhà
nước nói chung.
Tóm lại, mục đích của hoạt động thanh tra các DNNN nói riêng và của
hoạt động thanh tra nói chung là phụ thuộc vào mục đích của quản lý nhà nước
và phục vụ cho mục đích quản lý của Nhà nước. Vì vậy, muốn hoàn thành tốt
nhiệm vụ thanh tra các DNNN, phục vụ tốt cho công tác quản lý về kinh tế của
Nhà nước thì các cơ quan Thanh tra Nhà nước phải thực hiện tốt các mục đích
nêu trên.
1.1.3. Vai trò của hoạt động thanh tra đối với DNNN
- Với tư cách là một chức năng thiết yếu, một công cụ quan trọng để nhà
nước quản lý, kiểm tra, kiểm soát nền kinh tế nói chung và các DNNN nói riêng,
vai trò của hoạt động thanh tra các DNNN được thể hiện trên các mặt sau:
Thông qua việc kiểm tra, xem xét, các tổ chức Thanh tra Nhà nước yêu
cầu các DN nói chung và các DNNN nói riêng phải đi theo định hướng chung
của nền kinh tế, thực hiện đúng chính sách pháp luật, các quy định của Nhà
nước, nghĩa vụ của DN đối với Nhà nước… Nếu phát hiện DN nào thực hiện
chưa đúng, thực hiện chưa đầy đủ hoặc đi chệch hướng thì phải uốn nắn, điều
chỉnh kịp thời… để DN có thể hoàn thành tốt trách nhiệm của mình đối với Nhà
nước và xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận luôn là mục tiêu hàng đầu, là mục
tiêu tối cao của các DN nói chung và cả các DNNN nói riêng. Vì vậy, trong quá
trình hoạt động các DN thường muốn vượt khỏi tầm kiểm soát của Nhà nước,
tìm kiếm cho mình những điều kiện kinh doanh thuận lợi, kể cả việc lách luật
hoặc cố tình làm sai như: trốn lậu thuế, gian lận thương mại, không thực hiện
hoặc thực hiện không đầy nghĩa vụ với Nhà nước và người lao động, thậm trí có
hành vi hối lộ, tham nhũng, tiêu cực... Vì vậy, thanh tra phải ngăn ngừa, hạn chế
và xử lý nghiêm khắc những hành vi này.
Mặt khác, thanh tra không chỉ có kiểm tra, xem xét các DNNN có thực
16
hiện đúng chính sách pháp luật hay không, có làm tròn trách nhiệm đối với nhà
nước hay không mà thanh tra còn là để ngăn chặn, xử lý các hành vi sai phạm
của DN. Hơn nữa, thanh tra còn phải xem ngay cơ chế chính sách, pháp luật, các
quy định của nhà nước hay mục tiêu, phương hướng phát triển của DN đã đúng
chưa, đã phù hợp với thực tế chưa, để kiến nghị với Nhà nước sửa đổi, điều
chỉnh, bổ xung kịp thời, nhằm thiết lập được mục tiêu, định hướng đúng, một
hành lang pháp lý thông thoáng, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các DN phát
triển; phát huy tối đa những ưu thế của cơ chế thị trường và hạn chế đến mức
thấp nhất những mặt trái của nó.
- Với tư cách là chủ sở hữu của các DNNN, Nhà nước là người chủ quản
lý và chi phối toàn bộ các hoạt động của DN như: Quyết định việc thành lập,
chia tách, sát nhập hoặc giải thể DN; Quyết định các chức danh quản lý chủ chốt
của DN; Quyết định mục tiêu, nhiệm vụ, chiến lược phát triển của DN; Quy
định các nguyên tắc cơ bản hoạt động của DN và kiểm soát toàn bộ hoạt động
của DNNN… nhằm đảm bảo cho DN phát triển đúng hướng và mang lại hiệu
cao trong kinh doanh.
Để thực hiện quyền kiểm tra, kiểm soát của nhà nước đối với DN, Nhà
nước uỷ quyền cho các cơ quan thanh tra thực hiện việc kiểm tra, giám sát toàn
bộ các hoạt động của DN, yêu cầu các DN phải thực hiện đúng mục tiêu,
phương hướng, nhiệm vụ và các quy định của Nhà nước. Khi phát hiện DN có
những dấu hiệu phát triển không lành mạnh hay chệch hướng, thanh tra phải
nhắc nhở, điều chỉnh kịp thời. Nếu thực hiện chưa đúng, chưa tốt thanh tra phải
giúp đỡ, động viên để DN hoàn thành nhiệm vụ. Nếu DN cố tình vi phạm thì
cũng phải xử lý nghiêm khắc như các DN khác.
Tuy nhiên, với tư cách là đại diện của chủ sở hữu, thanh tra cũng phải
xem xét việc thiết lập mục tiêu, phương hướng kinh doanh, xem xét các quy
định của nhà nước đã đúng và phù hợp với thực tế không, để kiến nghị với Nhà
nước sửa đổi, điều chỉnh, bổ xung kịp thời, nhằm hoàn chỉnh mục tiêu, định
17
hướng và các quy định của Nhà nước đối với DNNN, đặc biệt là việc phân định
rõ giữa chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước với chức năng kinh doanh của
DN, tạo ra một cơ chế, môi trường thuận lợi cho các DN phát triển.
- Thanh tra là một phương thức thực hiện quyền dân chủ ở cơ sở và bảo
đảm công bằng xã hội. Nhà nước ta là nhà nước “của dân, do dân và vì dân”,
mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân, cho nên “dân biết, dân bàn, dân làm và
dân kiểm tra” mọi công việc của nhà nước và xã hội. Hiến pháp nước ta đã ghi
nhận những quyền cơ bản của công dân và được cụ thể hoá trong các chính sách
của Đảng và các văn bản pháp luật của nhà nước, trong đó công dân được quyền
tham gia quản lý nhà nước, giám sát và kiểm tra các hoạt động của các cơ quan
nhà nước. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước Đảng ta cũng khẳng định rõ:
“Nhà nước có mối liên hệ thường xuyên và chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và
lắng nghe ý kiến của nhân dân. Có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và
trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lộng quyền, vô trách nhiệm, xâm phạm quyền
dân chủ của nhân dân”.
Trong quy chế dân chủ cơ sở, đã quy định rõ những điều dân biết, dân
bàn, dân kiểm tra… các cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền có trách
nhiệm tổ chức để nhân dân thực hiện dân chủ đó. Theo quy định của pháp luật,
quyền dân chủ của nhân dân được thực hiện dưới hai hình thức: dân chủ trực
tiếp và dân chủ gián tiếp. Dân chủ trực tiếp là nhân dân tự mình thảo luận, quyết
định những công việc liên quan đến lợi ích của cộng đồng hay của DN như: xây
dựng nếp sống văn hoá, xây dựng cơ sở hạ tầng, sử dụng các loại quỹ tự đóng
góp hay quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi của DN… Thông qua lá phiếu, nhân dân
trực tiếp lựa chọn những người có đủ tài, đức vào các cơ quan quyền lực nhà
nước như: Quốc hội, Hội đồng nhân dân hay Ban lãnh đạo của DN… để thay
mặt nhân dân quản lý đất nước, quản lý DN.
Ngoài ra, nhân dân còn thực hiện quyền dân chủ của mình thông qua việc
trực tiếp theo dõi, kiểm tra, giám sát, nhận xét, đánh giá các cơ quan nhà nước,
các cán bộ, công chức nhà nước trong việc thực hiện chức trách, nhiện vụ mà
18
nhà nước và nhân dân giao cho.
Để bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân trở thành hiện thực, Nhà nước
yêu cầu các cơ quan, tổ chức và cá nhân phải tôn trọng quyền dân chủ của nhân
dân, thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ, chống mọi hành vi quan liêu, cửa
quyền, hách dịch đối với nhân dân. Đồng thời, Nhà nước cũng tổ chức ra các cơ
quan để giám sát, kiểm tra, kiểm soát và xem xét việc thực hiện quyền dân chủ
của nhân dân, trong đó có các cơ quan Thanh tra Nhà nước. Thông qua các cuộc
thanh tra và giải quyết KN,TC tại DN, cán bộ, công nhân viên thấy được thực
trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của DN và trình độ năng lực, phẩm chất
đạo đức của đội ngũ cán bộ quản lý. Từ đó, họ có cơ sở để tham gia vào các hoạt
động của DN như: bàn về phương hướng sản xuất kinh doanh, công tác quản lý
của DN, phát hiện và lựa chọn những cán bộ, công chức có đủ trình độ năng lực,
phẩm chất đạo đức tham gia vào bộ máy quản lý của doanh nghiệp và là nguồn
bổ xung cán bộ cho các cơ quan của Đảng và Nhà nước. Đồng thời, cũng tạo
những điều kiện thuận lợi cho quần chúng tham gia vào việc phát hiện, đấu tranh
với các hành vi quan liêu, cửa quyền, hách dịch, tiêu cực, tham nhũng… để loại
trừ những phần tử thái hoá biến chất, làm trong sạch bộ máy quản lý của DN,
lập lại công bằng xã hội và kỷ cương pháp luật.
Như vậy, thông qua các hình thức, biện pháp nêu trên hoạt động thanh tra
đã tác động trực tiếp hoặc gián tiếp vào các cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm
quyền để quy chế dân chủ ở cơ sở được thực hiện, bảo đảm quyền tự do, dân
chủ, bảo đảm các quyền và ích hợp pháp của công dân nói chung và của cán bộ,
công nhân viên trong DNNN nói riêng.
Tóm lại:
- Nhà nước tổ chức ra các cơ quan thanh tra để thực hiện chức năng thanh
tra, kiểm soát toàn bộ đất nước và nền kinh tế là một tất yếu khách quan.
- DNNN là một bộ phận cơ bản, chủ yếu của kinh tế nhà nước, là lực
lượng vật chất quan trọng để Nhà nước điều tiết, quản lý và định hướng phát
triển các thành phần kinh tế theo định hướng XHCN. Do vậy, Nhà nước phải
19
quản lý, thanh tra, kiểm soát toàn bộ các hoạt động của DNNN, nhằm tạo những
điều kiện thuận lợi cho DN phát triển đúng hướng và có hiệu quả cao, góp phần
cùng kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo và định hướng trong nền
kinh tế quốc dân.
1.2. Nội dung hoạt động thanh tra nhà nước đối với DNNN
1.2.1. Xác định chủ thể, đối tượng và nội dung thanh tra
1.2.1.1. Chủ thể thanh tra
Ở nước ta quyền thanh tra hay chủ thể thanh tra là thuộc về Nhà nước.
Nhà nước uỷ quyền cho các cơ quan, tổ chức và cá nhân thực hiện chức năng
này, đó là Chính phủ, các Bộ, Sở ngành, Uỷ ban nhân dân các cấp và chủ yếu là
do các các cơ quan Thanh tra Nhà nước thực hiện và trực tiếp là các Đoàn thanh
tra và các Thanh tra viên.
Một vấn đề đặt ra là, trên một địa bàn với một đối tượng cụ thể như
DNNN chẳng hạn, có nhiều cơ quan có thẩm quyền thanh tra và sẽ có thể có
nhiều đoàn thanh tra cùng đến hoặc cùng thanh tra một nội dung trong một
năm… Như thế, việc tiến hành các cuộc thanh tra rất dễ sinh ra chồng chéo,
không những gây khó khăn cho đối tượng thanh tra mà chính ngay các đoàn
thanh tra cũng khó xử lý trong các tình huống này. Ngược lại, nếu nhiều chủ thể
cùng có thẩm quyền thanh tra một DN thì cũng rất dễ dẫn đến tình trạng, cơ
quan này tưởng cơ quan kia làm, như thế cũng sẽ dẫn tới có DN bị bỏ sót, không
ai xem xét DN… Vì vậy, việc tổ chức hệ thống thanh tra và sự phân cấp quyền
thanh tra phải rất khoa học và cụ thể thì mới khắc phục được tình trạng trên. Dù
tổ chức hệ thống thanh tra theo ngành dọc hay theo kiểu song trùng lãnh đạo
(vừa theo cấp, vừa theo ngành) thì mỗi cơ quan thanh tra chỉ thanh ra một hoặc
một số cơ quan, đơn vị hay DN nhất định và tổ chức phúc tra dưới một cấp, tức
là phải hạn chế đến mức thấp nhất các cơ quan có thẩm quyền thanh tra vào một
cơ quan, đơn vị hay một DN. Theo luật Thanh tra, mô hình của cơ quan Thanh
tra Nhà nước hiện nay là:
“1. Các cơ quan Thanh tra Nhà nước bao gồm:
20
a. Cơ quan Thanh tra được thành lập theo cấp hành chính;
b. Cơ quan Thanh tra được thành lập ở cơ quan quản lý theo ngành, lĩnh vực.
2. Cơ quan Thanh tra Nhà nước chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ trưởng
cùng cấp; đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn về công tác, tổ chức và nghiệp
vụ của Thanh tra Chính phủ; chịu sự hướng dẫn của cơ quan thanh tra cấp
trên” [14, tr.200].
1.2.1.2. Đối tượng thanh tra
Trong Điều 2 của Luật Thanh tra ghi rõ: “Phạm vi thanh tra: Cơ quan
Thanh tra nhà nước tiến hành Thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật,
nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc thẩm quyền quản lý của cơ
quan quản lý nhà nước cùng cấp” [14, tr.197]. Như vậy, đối tượng, phạm vi
thanh tra của các cơ quan Thanh tra Nhà nước là các cơ quan, tổ chức và cá
nhân trong việc thực hiện chính sách, pháp luật và nhiệm vụ được giao.
Các DNNN là một bộ phận quan trọng của kinh tế Nhà nước, nó có trách
nhiệm thực hiện chính sách, pháp luật và nhiệm vụ của Nhà nước giao. Cho nên,
việc thanh tra các DN này là một trong những nội dung cơ bản của các cơ quan
Thanh tra Nhà nước. Xét về mối quan hệ giữa Nhà nước với DNNN thì Nhà
nước có hai tư cách: với tư cách là Nhà nước, là người quản lý xã hội và với tư
cách là người chủ sở hữu của DN. Với tư cách là Nhà nước thì Nhà nước quản
lý DNNN như mọi DN khác, cho nên đối tượng thanh tra ở đây chủ yếu là xem
xét việc chấp hành chính sách, pháp luật của các DN này. Với tư cách là chủ sở
hữu của DN thì Nhà nước là người tổ chức, quản lý toàn bộ mọi hoạt động của
DN, cho nên đối tượng thanh tra ở đây là toàn bộ các hoạt động của DNNN, từ
việc thực hiện chính sách, pháp luật đến việc thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch nhà
nước giao cho DN như: mục tiêu, phương hướng sản xuất kinh doanh, kế hoạch
thực hiện các sản phẩm dịch vụ chủ yếu, hoạt động tài chính của DN, nghĩa vụ
của DN đối với Nhà nước và người lao động…
Mặt khác, trong quá trình thanh tra các DNNN, để kiểm tra, xem xét làm
rõ các nội dung thanh tra, thường có những vấn đề liên quan đến việc thực hiện
21
chức trách, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức và cá nhân nằm ngoài đối tượng
thanh tra. Đoàn thanh tra hoặc các Thanh tra viên có quyền: “Yêu cầu cơ quan,
đơn vị, cá nhân có liên quan cung cấp thông tin cần thiết cho việc thanh tra”
[25, tr.6]. Đối với các cơ quan, tổ chức hay các cá nhân này, Pháp lệnh Thanh
tra không coi đây là đối tượng của thanh tra mà gọi là các “cơ quan, đơn vị, cá
nhân có liên quan”.
Ngoài ra, các cơ quan Thanh tra Nhà nước vẫn thường xuyên tổ chức các
cuộc thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, các tổ chức
thanh tra cấp dưới về việc thực hiện nhiệm vụ thanh tra và giải quyết khiếu nại,
tố cáo. Hoặc khi cần thiết các cơ quan thanh tra cũng có thể tiến hành phúc tra
kết quả của các cuộc thanh tra nói chung và các cuộc thanh tra DNNN nói riêng.
Như vậy, trong các cuộc kiểm tra, thanh tra này thì chính cơ quan nhà nước, cơ
quan thanh tra hay các Đoàn thanh tra cũng là đối tượng của hoạt động thanh tra.
Như vậy, xét về mặt trách nhiệm của họ đối với DNNN thì họ cũng nằm trong
đối tượng của hoạt động thanh tra các DNNN.
Tóm lại, đối tượng của hoạt động thanh tra các DNNN không chỉ là toàn
bộ hoạt động của các DNNN mà còn bao gồm cả các cơ quan nhà nước, các cơ
quan thanh tra hay đoàn thanh tra xét về mặt trách nhiệm của họ đối với việc tổ
chức, chỉ đạo và quản lý các DNNN.
1.2.1.3. Nội dung thanh tra
Trên cơ sở của nội dung thanh tra nói chung và nội dung quản lý của Nhà
nước đối với DNNN nói riêng, thì nội dung của hoạt động thanh tra các DNNN
như sau:
- Đối với các cơ quan nhà nước, cơ quan thanh tra hay Đoàn thanh tra thì
nội dung cần xem xét như sau: việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ có
liên quan đến hoạt động của các DNNN; việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ
trong công tác tổ chức, quản lý, điều hành và thanh tra, kiểm tra các DNNN…
- Đối với các DNNN cần thanh tra các nội dung sau:
Việc thực hiện chính sách pháp luật cần đi vào kiểm tra, xem xét tính hợp
22
pháp của các hoạt động, kết quả thực hiện chính sách pháp luật, những vấn đề
vướng mắc hay các vi phạm xẩy ra, nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế. Trong
nội dung này cần tập trung vào một số luật như: Luật doanh nghiệp, Luật doanh
nghiệp nhà nước, Luật lao động, Luật thuế, Luật thương mại, Luật ngân hàng,
Luật môi trường…
Về mục tiêu, phương hướng cần xem phương hướng đầu tư, phát triển sản
xuất kinh doanh dài hạn, trung hạn và hàng năm, kỹ thuật công nghệ áp dụng,
biện pháp tổ chức thực hiện và các bước tiến hành, những khó khăn và thuận lợi
của DN, những vấn đề cần sửa đổi, bổ xung về mục tiêu, phương hướng và các
chính sách hỗ trợ…
Việc thực hiện các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ chủ yếu cần kiểm tra số
lượng đã thực hiện; chất lượng sản phẩm hàng hoá, dịch vụ; những khó khăn
trong tổ chức thực hiện, nguyên nhân không hoàn thành kế hoạch…
Về tài chính cần tập trung vào một số vấn đề như: giao nhận, huy động, sử
dụng, bảo toàn và phát triển vốn; doanh thu và chi phí; kết quả kinh doanh và
phân phối lợi nhuận; trích lập và sử dụng các loại quỹ của DN; thực hiện nghĩa
vụ đối với nhà nước và người lao động…
Về công tác quản lý cần xem việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ và
quyền hạn của đại diện chủ sở hữu, Ban giám đốc, các phòng ban, mối quan hệ
của đại diện chủ sở hữu với Ban giám đốc, giữa Ban giám đốc với các phòng
chức năng và các bộ phận sản xuất kinh doanh, nội quy, quy chế làm việc, tổ
chức quản lý điều hành sản xuất kinh doanh…
Ngoài các nội dung nêu trên còn kiểm tra, xem xét một số nội dung khác
như: về tổ chức bộ máy, quản lý nhân sự, tuyển dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm,
cho thôi việc, các chính sách đối với người lao động, đào tạo bồi dưỡng cán bộ
và công nhân kỹ thuật… Trong các nội dung thanh tra trên, đặc biệt chú ý tới
nội dung tài chính và việc thực hiện các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ chủ yếu mà
Nhà nước giao hay đặt hàng đối với DNNN.
23
1.2.2. Lựa chọn hình thức thanh tra
Khi nói hình thức thanh tra là muốn nói tới hình thức tiến hành cuộc thanh
tra hay loại hình thanh tra. Tuỳ theo mục đích và cách tiếp cận khác nhau sẽ có
những tiêu chí khác nhau và cách phân loại cũng khác nhau. Sau đây là một số
loại hình thanh tra cơ bản:
1.2.2.1. Thanh tra theo chương trình, kế hoạch và thanh tra đột xuất
Căn cứ vào tính kế hoạch: có thanh tra theo chương trình, kế hoạch (thanh
tra thường xuyên) và thanh tra đột xuất (thanh tra bất thường).
Thanh tra theo chương trình, kế hoạch là những cuộc thanh tra đã được
định trước và được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt trong khoảng thời gian
nhất định, thông thường là một năm.
Các cuộc thanh tra theo chương trình, kế hoạch có thuận lợi hơn các cuộc
thanh tra khác là các tổ chức thanh tra chủ động trong việc tổ chức thực hiện
như: bố trí thời gian, lực lượng tiến hành, tổ chức thu thập thông tin về đối
tượng thanh tra…
Thanh tra đột xuất là những cuộc thanh tra được thực hiện tức thời, mới
xuất hiện trong kỳ kế hoạch. Theo Luật Thanh tra, “Thanh tra đột xuất được
tiến hành khi phát hiện cơ quan, tổ chức, cá nhân có dấu hiệu vi phạm pháp
luật, theo yêu cầu của việc giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc do Thủ trưởng cơ
quan quản lý nhà nước có thẩm quyền giao”[14, tr.215].
Đặc điểm của những cuộc thanh tra đột xuất là hướng vào giải quyết
những vấn đề bức bách, cụ thể trong kỳ kế hoạch, thời gian giải quyết thường
phải nhanh, gọn nhằm đáp ứng kịp thời cho yêu cầu giải quyết KN,TC hoặc yêu
cầu công tác quản lý của các cấp, các ngành.
1.2.2.2. Thanh tra diện rộng và thanh tra diện hẹp
Căn cứ vào quy mô và phạm vi tiến hành cuộc thanh tra: có thanh tra diện
rộng và thanh tra diện hẹp.
Thanh tra diện rộng là những cuộc thanh tra với một nội dung xác định
được tiến hành trên một phạm vi rộng, với nhiều đối tượng khác nhau và chủ thể
24
khác nhau nhằm phục vụ cho yêu cầu quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Thanh tra diện rộng thường được áp dụng khi tiến hành các cuộc thanh tra
để xem xét, đánh giá kết quả triển khai một chủ trương, chính sách hay cơ chế
quản lý của một ngành, một lĩnh vực nhằm điều chỉnh, bổ xung và hoàn thiện
các chủ trương, chính sách, cơ chế quản lý góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả
của quản lý nhà nước.
Khi thực hiện các cuộc thanh tra diện rộng phải chú ý tới các yêu cầu cơ
bản của cuộc thanh tra như: nội dung thanh tra, thời gian thanh tra, chế độ báo
cáo… và phải được tổ chức, chỉ đạo tập trung, thống nhất, thường xuyên kiểm
tra và điều chỉnh kịp thời nhằm làm cho cuộc thanh tra đạt kết quả tốt.
Thanh tra diện hẹp là những cuộc thanh tra với một nội dung, vụ việc
nhất định của một đối tượng cụ thể.
Những cuộc thanh tra loại này có đặc điểm là được tiến hành với một đối
tượng nhất định, trong một phạm vi hẹp, với những nội dung xác định và thường
kết thúc trong thời gian tương đối ngắn nhằm giải quyết kịp thời những vấn đề
cụ thể nào đó.
Khi tiến hành các cuộc thanh tra diện hẹp, cần chú ý tập trung vào việc
xem xét trọng tâm, trọng điểm của cuộc thanh tra, chứng cứ phải đầy đủ, kết
luận đúng sai phải rõ ràng, nguyên nhân, trách nhiệm phải được làm rõ để làm
cơ sở cho việc xử lý sau thanh tra.
1.2.2.3. Thanh tra kinh tế-xã hội và thanh tra giải quyết KN, TC
Căn cứ vào nguồn gốc của cuộc thanh tra hay chức năng, nhiệm vụ của
các cơ quan thanh tra: có thanh tra kinh tế-xã hội và thanh tra giải quyết khiếu
nại, tố cáo.
Thanh tra kinh tế-xã hội là các cuộc thanh tra do yêu cầu của công tác
quản lý kinh tế-xã hội của Nhà nước đòi hỏi, để kiểm tra xem xét việc chấp hành
chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch nhà nước của các cơ quan, tổ chức và
cá nhân.
Đây là các cuộc thanh tra việc chấp hành chính sách, pháp luật, nhiệm vụ,
25
kế hoạch nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế-xã hội trong phạm vi quản lý hành
chính nhà nước. Mục đích của các cuộc thanh tra này là nhằm phòng ngừa, chấn
chỉnh hay xử lý các vi phạm trong việc chấp hành chính sách, pháp luật, nhiệm
vụ của một ngành, một lĩnh vực, một địa phương hay một đơn vị; xem xét, điều
chỉnh, bổ sung, sửa đổi cơ chế, chính sách quản lý kinh tế-xã hội mà công tác
quản lý đặt ra.
Thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo là những cuộc thanh xuất phát từ
đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân hay của công luận báo chí nhằm yêu cầu
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công
dân.
Các cuộc thanh tra giải quyết các khiếu nại, tố cáo thường phức tạp hơn
các cuộc thanh tra kinh tế-xã hội, tính chính xác, khách quan cũng đòi hỏi cao
hơn và việc giải quyết, xử lý cũng khó khăn hơn các cuộc thanh tra kinh tế-xã
hội. Vì vậy, đòi hỏi các thanh tra viên phải có quan điểm đúng, có bản lĩnh chính
trị vững vàng, phải linh hoạt trong phương pháp thì mới hoàn thành được nhiện
vụ.
Ngoài các hình thức thanh ra cơ bản trên, tuỳ theo cách tiếp cận và mục
đích nghiên cứu, còn có các loại hình thanh tra sau: thanh tra Tài chính, thanh
tra Ngân hàng, thanh tra Xây dựng cơ bản,thanh tra liên ngành, thanh tra trực
tiếp và thanh tra gián tiếp, tiền kiểm và hậu kiểm, thanh tra và phúc tra…
Tóm lại, tuỳ theo cách tiếp cận và mục đích xem xét mà phân thành các
loại hình thanh tra khác nhau. Mỗi một loại hình thanh tra có những ưu, khuyết
nhất định. Vì vậy, tuỳ theo mục đích, yêu cầu, nội dung, tính chất của cuộc
thanh tra và điều kiện hoàn cảnh cụ thể để lựa chọn loại hình thanh tra các
DNNN cho thích hợp.
1.2.3. Phương pháp tiến hành thanh tra
Phương pháp thanh tra là cách thức tổ chức và thực hiện các công việc
trong quá trình tiến hành thanh tra nhằm mang lại hiệu quả cao.
Để thực hiện tốt hoạt động thanh tra các DNNN các cơ quan Thanh tra
26
Nhà nước cần phải tuân theo trình tự, thủ tục sau: xác định hướng thanh tra; xây
dựng kế hoạch thanh tra; tổ chức thực hiện kế hoạch thanh tra; báo cáo kết quả
cuộc thanh tra và xử lý kết quả sau thanh tra.
1.2.3.1. Xác định hướng thanh tra và đề tài thanh tra
- Xác định hướng thanh tra các DNNN
Xác định hướng thanh tra là xác định chủ trương hay phương hướng thanh
tra các DNNN trong một thời điểm nhất định và thường là một năm. Chủ trương
hay phương hướng thanh tra được thể hiện bằng chương trình, kế hoạch thanh
tra hàng năm của các cơ quan thanh tra, trong đó có thanh tra các DNNN.
“Chương trình, kế hoạch thanh tra, kiểm tra phải xác định rõ yêu cầu, nội
dung, phạm vi, đối tượng, thời gian thực hiện và phải được cấp có thẩm quyền
phê duyệt” [40, tr.90]. Căn cứ vào tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh
tế, chính trị, xã hội; căn cứ vào yêu cầu thực hiện nhiệm vụ của các cơ quan
quản lý nhà nước về kinh tế, đặc biệt là yêu cầu của công tác quản lý nhà nước
đối với các DNNN; việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở và công tác giải
quyết kiếu nại, tố cáo trong các DNNN; và sự chỉ đạo, hướng dẫn của cơ quan
thanh tra cấp trên để lựa chọn, xác định thanh tra cái gì (lĩnh vực và nội dung
thanh tra), thanh tra ở đâu (những đối tượng hay DN cần thanh tra), thanh tra
lúc nào (thời gian thanh tra) và do ai thanh tra (chủ thể và loại hình thanh tra).
Đây là công việc đầu tiên nhưng rất quan trọng, nó có ảnh hưởng rất lớn đến
phương hướng và kết quả hoạt động của các cơ quan thanh tra nói chung và kết
quả thanh tra các DNNN nói riêng. Đồng thời, nó cũng là một yếu tố pháp lý có
tính chất bắt buộc đối với hoạt động thanh tra. Trong các văn bản pháp luật có
quy định rõ:“Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thanh tra, kiểm tra có trách
nhiệm xác định kế hoạch thanh tra, kiểm tra hàng năm và chủ động phối hợp với
các cơ quan hữu quan trong việc xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra,
kiểm tra”[40, tr.90].
Xác định hướng thanh tra đúng là chương trình, kế hoạch thanh tra các
DNNN phải đáp ứng được yêu cầu của công tác chỉ đạo, điều hành của các cơ
27
quan quản lý nhà nước về kinh tế, phải phục vụ tốt cho việc tiếp tục sắp xếp, đổi
mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của các
DNNN. Đối tượng, nội dung và phạm vi thanh tra các DNNN phải tập trung vào
những lĩnh vực then chốt, những ngành kinh tế mũi nhọn, chủ yếu, những Công
ty, Tổng công ty nhà nước chiếm tỷ trọng lớn về sản phảm, dịch vụ hay trong
tổng thu ngân sách nhà nước hoặc cũng phải thấy được những vấn đề bức xúc
của các DN, những vấn đề nổi cộm trong chỉ đạo, điều hành hay những điểm
nóng cần phải thanh tra… Để giúp cho các cơ quan quản lý nhà nước vừa thấy
được tình hình phát triển của nền kinh tế nói chung và các DNNN nói riêng, vừa
thấy những chỗ trọng tâm, trọng điểm cần chú ý tập trung chỉ đạo; vừa thấy
được những vấn đề bức xúc, những khâu, những mặt còn hạn chế, yếu kém, để
có biện pháp tháo gỡ, khắc phục… tạo ra những điều kiện cần thiết, thuận lợi
cho các DN phát triển, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của các DNNN.
- Chọn đề tài ra quyết định thanh tra
Trên cơ sở về tình hình phát triển kinh tế, chính trị, xã hội; yêu cầu thực
hiện nhiệm vụ của cơ quan quản lý nhà nước và hướng dẫn của cơ quan thanh
tra cấp trên… các cơ quan thanh tra phải tổ chức thu thập những thông tin cần
thiết, phân tích tình hình phát triển kinh tế xã hội trong kỳ kế hoạch, nhất là tình
hình sản xuất kinh doanh của các DNNN để giúp Thủ trưởng cơ quan thanh tra
có đủ cơ sở để lựa chọn đề tài thanh tra.
Việc xác định đề tài thanh tra được dựa trên chương trình, kế hoạch thanh
tra để chọn DN cần thanh tra? Đối với từng DN thì chọn nội dung gì và phạm vi
thanh tra đến đâu, thời gian thanh tra bao lâu và do ai tiến hành? Để xác định
đúng đối tượng, nội dung và phạm vi thanh tra trước hết phải phân tích trọng
tâm, trọng điểm của kỳ kế hoạch cấp mình, ngành mình. Cần tập trung vào các
ngành then chốt, mũi nhọn, vào các Công ty hay Tổng công ty lớn có lượng sản
phẩm hàng hoá, dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn hay sản xuất ra các hàng hoá đặc biệt
quan trọng. Đồng thời, cũng phải chú ý thanh tra cả những DNNN tuy không lớn
28
hay ít quan trọng nhưng ở đó có những vấn đề vướng mắc, nổi cộm, bức xúc
hoặc có những vi phạm thì cũng cần phải thanh tra để phòng ngừa, chấn chỉnh,
khắc phục và xử lý…
Việc xác định đề tài thanh tra phải dựa trên các căn cứ sau:
- “Chương trình, kế hoạch thanh tra đã được phê duyệt;
- Yêu cầu của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước;
- Khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật”[14, tr.216].
Đối với các cuộc thanh tra đột xuất, khi phát hiện cơ quan, tổ chức, cá
nhân có dấu hiệu vi phạm pháp luật; hoặc theo yêu cầu của việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo hoặc do Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền giao thì
Thủ trưởng các cơ quan thanh tra hoặc Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước ra
quyết định thanh tra. “Việc thanh tra bất thường chỉ được tiến hành khi doanh
nghiệp có vi phạm pháp luật” [40, tr.89].
Quyết định thanh tra là một điều kiện pháp lý bắt buộc đối với mọi cuộc
thanh tra. Nó là cơ sở pháp lý để xác định quyền hạn và trách nhiệm của đoàn
thanh tra, xác định quyền và nghĩa vụ của đơn vị được thanh tra và các đối
tượng có liên quan. Ngoài ra, quyết định thanh tra còn là cơ sở để đoàn thanh tra
xây dựng kế hoạch thanh tra và xây dựng đề cương yêu cầu đối tượng thanh tra
báo cáo. Cho nên, khi tiến hành một cuộc thanh tra, điều kiện đầu tiên là phải có
quyết định thanh tra hợp pháp. Trong các văn bản pháp luật về thanh tra đã quy
định rõ: “Việc thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp chỉ được thực hiện khi có quyết
định của Thủ trưởng cơ quan nhà nước có thẩm quyền; không được tiến hành
trùng lặp, không quá một lần về cùng một nội dung trong một năm đối với một
doanh nghiệp (trừ trường hợp bất thường)”[40, tr.88]. Do vậy, theo sự phân cấp
quản lý Thủ trưởng cơ quan thanh tra, Thủ trưởng các cơ quan nhà nước phải
căn cứ vào thẩm quyền, phạm vi và đối tượng quản lý để ban hành quyết định
thanh tra.
Theo quy định của pháp luật về thanh tra, nội dung của quyết định thanh
tra cần phải đảm bảo các yếu tố sau:
29
“a. Căn cứ pháp lý để thanh tra;
b. Đối tượng, nội dung, phạm vi, nhiệm vụ thanh tra;
c. Thời hạn tiến hành thanh tra;
d. Trưởng đoàn thanh tra và các thành viên khác của Đoàn thanh tra”[14,
tr.216].
Để có được một quyết định thanh tra đúng, đáp ứng được yêu cầu của
công tác quản lý, sau khi đã xác định được đối tượng, nội dung và phạm vi thanh
tra; người ra quyết định thanh tra cần phải xác định khi nào tổ chức tiến hành và
tiến hành trong bao lâu? Việc xác định thời gian của mỗi cuộc thanh tra chủ yếu
phụ thuộc vào tính chất, nội dung của cuộc thanh tra và số lượng, chất lượng của
Đoàn thanh tra. Ngoài ra, thời gian của mỗi cuộc thanh tra còn phụ thuộc
chương trình, kế hoạch hoặc yêu cầu của người lãnh đạo hoặc do yêu cầu của
việc giải quyết KN,TC…
Theo Luật Thanh tra: “Thủ trưởng cơ quan thanh tra ra quyết định thanh
tra và thành lập đoàn thanh tra để thực hiện quyết định thanh tra. Khi xét thấy
cần thiết, Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước ra quyết định thanh tra và
thành lập đoàn thanh tra.
Đoàn thanh tra có Trưởng đoàn thanh tra và các thành viên”[14, tr.215].
Như vậy, việc lựa chọn loại hình thanh tra và lực lượng tiến hành thanh
tra là do Thủ trưởng cơ quan nhà nước hoặc Thủ trưởng cơ quan thanh tra quyết
định, mà trực tiếp là người ký quyết định thanh tra.
Lựa chọn loại hình thanh tra, như phần trên đã trình bày tuỳ theo mục
đích, yêu cầu, nội dung và tính chất của mỗi cuộc thanh tra mà người ra quyết
định lựa chọn loại hình thanh tra cho phù hợp.
Lựa chọn lực lượng thanh tra, theo Bác muốn thanh tra, kiểm soát có kết
quả tốt, phải có hai điều: “Một là việc kiểm soát phải có hệ thống, phải thường
làm. Hai là người đi kiểm soát phải là những người rất có uy tín”[1, tr.3]. Cho
nên “người cán bộ thanh tra là phải tự mình nghiêm chỉnh, phải có đạo đức
cánh mạng, phải hiểu nhân tình thế cố đã đành, nhưng còn phải tự mình gương
30
mẫu cho người khác. Cán bộ thanh tra như cái gương cho người ta soi mặt,
gương mờ thì không soi được”[1, tr.6]. Vì vậy, muốn cuộc thanh tra tiến hành
nhanh chóng, đạt kết quả tốt, việc lựa chọn các thành viên của Đoàn thanh tra
phải là những người có phẩm chất đạo đức tốt, có uy tín trong công tác, có đầy
đủ năng lực, trình độ chuyên môn mà công việc đòi hỏi.
Đoàn thanh tra gồm có Trưởng đoàn và các thành viên đoàn thanh tra,
trong trường hợp cần thiết có thể có Phó trưởng đoàn. Việc quyết định số lượng,
cơ cấu thành phần và tiêu chuẩn lựa chọn các thành viên Đoàn thanh tra là căn
cứ vào tính chất công việc, loại hình thanh tra, mục đích, yêu cầu, nội dung và
thời gian thanh tra để xác định.
Trong đoàn thanh tra, không nên bố trí những người có phẩm chất, tư
cách kém hoặc vừa bị thi hành kỷ luật hoặc có quan hệ thân tộc, bạn bè hay quan
hệ kinh tế với đối tượng thanh tra…
Tóm lại, để hoạt động thanh tra các DNNN có kết quả tốt, các cơ quan
thanh tra nhà nước trước hết phải có định hướng đúng, làm cơ sở cho việc ra
quyết định thanh tra.
1.2.3.2. Xây dựng kế hoạch thanh tra
Kế hoạch là “Toàn bộ nói chung những điều vạch ra một cách có hệ
thống về những công việc dự định làm trong một thời gian nhất định, với mục
tiêu, cách thức, trình tự, thời hạn tiến hành” [45, tr.430].
Với ý nghĩa trên, có thể hiểu kế hoạch thanh tra là việc xác định phương
hướng và cách thức thức tổ chức tiến hành hoạt động thanh tra trong một thời
gian nhất định. Như vậy, kế hoạch thanh tra có thể phân thành: kế hoạch thanh
tra tháng; kế hoạch thanh tra quý; kế hoạch thanh tra năm và kế hoạch tổ chức
một cuộc thanh tra cụ thể. Trong phạm vi phần này, luận văn đề cập kế hoạch tổ
chức một cuộc thanh tra.
Kế hoạch tổ chức một cuộc thanh tra là việc Đoàn thanh tra xác định rõ
mục đích, yêu cầu, nội dung của cuộc thanh tra; là phương án hay cách thức tổ
chức thực hiện cuộc thanh tra; là thời gian, tiến độ triển khai thực hiện quyết
31
định thanh tra. Kế hoạch thanh tra còn là cơ sở để người ra quyết định thanh tra
chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc và theo dõi tiến độ thực hiện các công việc của Đoàn
thanh tra. Vì vậy, trước khi tổ chức thực hiện cuộc thanh tra tại đơn vị được
thanh tra, “Trưởng đoàn thanh tra phải xây dựng dự thảo kế hoạch tiến hành
thanh tra, trình người ra quyết định thanh tra phê duyệt chậm nhất là 10 ngày,
trước khi công bố quyết định thanh tra với đối tượng thanh tra” [40, tr.111].
Để xây dựng kế hoạch thanh tra, người ra quyết định thanh tra hoặc
Trưởng đoàn thanh tra phải tổ chức thu thập các thông tin cần thiết cho cuộc
thanh tra. Thông qua khảo sát, tìm hiểu đối tượng thanh tra để định hướng cho
việc xây dựng kế hoạch thanh tra, đồng thời đây cũng là những thông tin rất
quan trọng để chuẩn bị cho việc tổ chức thực hiện thanh tra trực tiếp tại đơn vị.
Kế hoạch thanh tra phải thể hiện rõ các nội dung cơ bản sau:
- Mục đích, yêu cầu của cuộc thanh tra;
- Những nội dung cần làm rõ, trong đó nội dung nào là chủ yếu, trọng
tâm của cuộc thanh tra;
- Hình thức và phương pháp tiến hành thanh tra;
- Thời gian và tiến độ thực hiện cuộc thanh tra.
Ngoài ra, tuỳ theo từng cuộc thanh tra cụ thể có thể thêm mục những chú
ý trong quá trình thanh tra. Đây chỉ là một phần nhỏ trong kế hoạch thanh tra, nó
chỉ xuất hiện ở những cuộc thanh tra phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực,
nhiều địa phương… Vì vậy, để hạn chế các tình huống và chủ động xử lý các
tình huống có thể xẩy ra trong quá trình thanh tra, đoàn thanh tra cũng cần phải
chú ý tới mục này.
1.2.3.3. Tổ chức thực hiện kế hoạch thanh tra
Trong các văn bản về thanh tra của Đảng và Nhà nước ta và Luật Thanh
tra hiện nay luôn luôn đặt ra cho các tổ chức thanh tra là: “Hoạt động thanh tra
phải tuân theo pháp luật; bảo đảm chính xác, khách quan, công khai, dân chủ,
kịp thời; không làm cản trở tới hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá
nhân là đối tượng thanh tra”[14, tr.199]. Vì vậy, trong quá trình thanh tra cần
32
phải có những phương pháp thanh tra thích hợp và thực tế, sử dụng các biện
pháp nghiệp vụ cũng phải hết sức linh hoạt và khôn khéo, phải dựa trên cơ sở
pháp luật, tuân thủ các quy định của pháp luật, tuyệt đối không được tuỳ tiện, áp
đặt ý muốn chủ quan… Vì vậy, trong quá trình thanh tra cần thực hiện tốt một
số nội dung chủ yếu sau:
- Công khai hoá hoạt động thanh tra
Theo quy định của pháp luật, trước khi đến DN Đoàn thanh tra “phải
thông báo cho DN trước khi công bố quyết định thanh tra ít nhất trước là 7
ngày, trừ trường hợp thanh tra bất thường hoặc phúc tra”[40, tr.93]. Trước khi
tiến hành làm việc, Trưởng đoàn thanh tra phải phối hợp với đơn vị tổ chức hội
nghị công bố công khai về mục đích, yêu cầu, nội dung, thời hạn cuộc thanh tra.
Xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm của Đoàn thanh tra, quyền và nghĩa vụ
của đối tượng thanh tra, quyền và trách nhiệm của cơ quan cấp trên trực tiếp của
đối tượng thanh tra và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan... Đồng thời,
Đoàn thanh tra cũng yêu cầu đối tượng thanh tra phải báo cáo công khai về tình
hình thực hiện nhiệm vụ, về kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của DN
theo nội dung của quyết định thanh tra mà đề cương của Đoàn thanh tra yêu cầu.
Trong quá trình làm việc trực tiếp tại DN, cả đối tượng và Đoàn thanh tra
luôn luôn phải tuân thủ nguyên tắc công khai, dân chủ, bảo đảm cho mọi người
đều được bình đẳng trong quá trình làm việc, vấn đề gì chưa đúng, chưa thống
nhất các bên đều được tranh luận, giải trình hoặc khiếu nại… Đồng thời Đoàn
cũng tạo những điều khiện thuận lợi để DN được chủ động thực hiện những yêu
cầu, kiến nghị, quyết định của Đoàn; tránh tạo ra những tình huống bất ngờ, gò
ép ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của DN.
- Phương pháp thanh tra, kiểm tra phải thực tế
Khi nói về lãnh đạo và kiểm soát Bác nói: “Muốn chống bệnh quan liêu,
bàn giấy; muốn biết các nghị quyết có được thi hành không, thi hành có đúng
không; muốn biết ai ra sức làm, ai làm qua chuyện, chỉ có một cách, là khéo
33
kiểm soát” [1, tr.6].
Vì vậy, muốn hoạt động thanh tra đạt kết quả tốt, người cán bộ thanh tra
không chỉ là những người có uy tín, có năng lực, phẩm chất tốt, có trình độ
chuyên môn vững, mà họ còn phải biết “kiểm soát khéo”, “kiểm tra khéo”; tức
là họ phải có phương pháp thanh tra, kiểm tra thích hợp trong từng điều kiện,
hoàn cảnh cụ thể.
Phương pháp thanh tra phải “thật sự thực tế chứ không phải chỉ là sự
kiểm soát trên giấy tờ”[12, tr.46]. Khi bàn về vấn đề này Bác cũng nói: “Cố
nhiên, không phải cứ ngồi trong phòng giấy mà chờ người ta báo cáo, mà phải
đi tận nơi, xem tận chỗ”[1, tr.3]. “Phải cẩn thận khách quan, điều tra kỹ
lưỡng”. Vì vậy, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, người cán bộ thanh tra
không chỉ kiểm tra trên sổ sách, chứng từ, tài liệu hay nghe báo cáo, trả lời chất
vấn mà phải kiểm tra thực tế. Khi thấy có những vấn đề không rõ ràng hoặc có
sự mâu thuẫn, sai lệch giữa báo cáo với sổ sách hay có dấu hiệu không bình
thường thì phải tổ chức kiểm tra kho, quỹ để xác định tính chính xác, độ trung
thực của các tài liệu, báo cáo so với thực tế. Nếu thấy cần thiết thì đi xác minh,
đến tận nơi phát sinh để xác định thực chất của vụ việc. Đối với những vụ việc
hoặc nội dung nào đó mà Đoàn thanh tra không đủ cơ sở chứng cứ, không đủ
trình độ chuyên môn để đánh giá, kết luận thì phải trưng cầu giám định để làm
rõ, kết luận cho chính xác, khách quan và bảo đảm đúng pháp luật.
- Hình thức và biện pháp thanh tra, kiểm tra phải linh hoạt, chống dập
khuôn, máy móc
Việc sử dụng các phương pháp nghiệp vụ trong quá trình thanh tra, tuy
mức độ, trình tự và thủ tục sử dụng mỗi nước có sự quy định khác nhau, nhưng
nhìn chung đều sử dụng các phương pháp như: điều tra, giám sát, kiểm tra, kiểm
kê, kiểm soát, xem xét và đưa ra các nhận xét, kết luận, kiến nghị sau khi kết
thúc thanh tra.
Trong các văn bản pháp luật về thanh tra và Giáo trình Nghiệp vụ công
tác thanh tra của Trường Cán bộ Thanh tra đã nêu ra một số biện pháp nghiệp vụ
34
cơ bản trong quá trình tiến hành cuộc thanh tra như sau:
- Tiếp cận, phân tích tài liệu, thu thập, xử lý thông tin;
- Yêu cầu đối tượng thanh tra báo cáo, giải trình, trả lời chất vấn;
- Kiểm kê, kiểm quỹ, kiểm tra thực địa;
- Niêm phong tài liệu, kho, quỹ;
- Tổ chức nghe ý kiến, phản ánh của quần chúng và công luận báo chí;
- Tổ chức nghe ý kiến của các cơ quan chức năng và cơ quan cấp trên
trực tiếp của đối tượng;
- Tổ chức đối thoại, đối chất;
- Tổ chức thẩm tra, xác minh;
- Trưng cầu giám định…
Việc sử dụng biện pháp nào là tuỳ thuộc vào tính chất công việc, yêu cầu,
nội dung, điều kiện hoàn cảnh cụ thể mỗi cuộc thanh tra và khả năng chuyên
môn của mỗi người. Vì vậy, việc sử dụng các biện pháp nghiệp vụ phải hết sức
linh hoạt và khôn khéo, phải tuỳ từng trường hợp, điều kiện cụ thể hay tính chất
của công việc mà sử dụng các biện pháp cho phù hợp hoặc có khi phải sử dụng
kết hợp nhiều biện pháp khác nhau thì mới có hiệu quả. Vì vậy, trong quá trình
thanh tra các DNNN, các cán bộ thanh tra phải nắm rõ những điều cơ bản này để
vận dụng cho thích hợp và hiệu quả.
- Kết hợp giữa việc tự thanh tra với việc lắng nghe ý kiến của quần chúng
và của các cơ quan, tổ chức hữu quan
Bác đã từng dạy chúng ta: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần
dân liệu cũng xong”. Thực tế trong sự nghiệp cách mạng nước ta đã chứng minh
điều đó. Do vậy, trong quá trình thanh tra Đoàn thanh tra phải biết kết hợp giữa
việc tự mình thanh tra với việc biết lắng nghe ý kiến, thu thập các thông tin từ
quần chúng. Hơn ai hết, họ là những người gắn bó với cơ sở, họ hiểu rõ tình
hình chấp hành chính sách, pháp luật, nhiệm vụ cũng như kết quả hoạt động
kinh doanh của DN mình. Đây là những nguồn thông tin rất quan trọng, giúp
cho Đoàn thanh tra hiểu được tình hình thực tế của đơn vị, để từ đó có thể phát
35
hiện ra những sai phạm hay những dấu hiệu, những chỗ cần xem xét, kiểm tra.
Để bảo đảm cho quá trình thực hiện nhiệm vụ được thuận lợi, đạt kết quả
tốt, Đoàn thanh tra cần phải phối hợp và tham khảo ý kiến của các cơ quan
chuyên môn, nhằm bảo đảm cho các nhận xét, kết luận, kiến nghị được đúng
đắn, chính xác, khách quan. Đây là một công việc rất cần thiết và có ý nghĩa rất
thiết thực, nó không chỉ tạo điều kiện cho Đoàn thanh tra thực hiện tốt nhiệm vụ
mà còn giúp cho Đoàn có những nhận xét, kết luận, kiến nghị đúng đắn, chính
xác và họ còn có thể phối hợp với các cơ quan thanh tra để xử lý các vi phạm
sau khi cuộc thanh tra kết thúc.
Một cơ quan không kém phần quan trọng mà trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ Đoàn thanh tra cũng cần phối hợp, lắng nghe ý kiến của họ, đó là cơ
quan cấp trên trực tiếp của các DN. Đây là cơ quan trực tiếp chỉ đạo và thường
xuyên kiểm tra, theo dõi mọi hoạt động kinh doanh của DN và cũng là nơi nhận
được đầy đủ các báo cáo về tình hình hoạt động và kết quả sản xuất kinh doanh
của DN. Vì vậy, đây là nơi có nhiều thông tin quan trọng và chính xác mà Đoàn
thanh tra cần khai thác, sử dụng. Mặt khác, thông qua trao đổi, Đoàn thanh tra
có thể tham khảo ý kiến hoặc tranh thủ sự đồng tình của cơ quan này đối với
những nhận xét, đánh giá và dự kiến kết luận, kiến nghị của Đoàn; nhằm giúp
cho các nhận xét, kết luận và kiến nghị của Đoàn được đúng đắn, chính xác,
khách quan và việc tổ chức thực hiện các kết luận, kiến nghị và các quyết định
sau này cũng được thuận lợi, nhanh chóng.
1.2.3.4. Báo cáo kết quả thanh tra
- Xác định các tiêu chí xem xét, đánh giá và kết luận
Để bảo đảm việc cho việc nhận xét, đánh giá và kết luận được đúng, chính
xác, khách quan thì một yêu cầu không thể thiếu là phải xác định được các tiêu
chí để xem xét, đánh giá, kết luận cho phù hợp. Việc xác định các tiêu chí này
vừa phải bảo đảm cả tính khoa học lẫn thực tiễn; cả tính khách quan, toàn diện
và cụ thể; cả tính hợp pháp và hợp lý; vừa có cả các chỉ tiêu về kinh tế lẫn các
36
chỉ tiêu về chính trị và xã hội…
Căn cứ vào các yêu cầu nêu trên, tiêu chí để xem xét, đánh giá kết quả
hoạt động của các DNNN bao gồm một số loại chỉ tiêu cơ bản sau: về chính
sách pháp luật; về mục tiêu và chiến lược kinh doanh; về nhiệm vụ, kế hoạch
được giao; các chỉ tiêu, định mức kinh tế kỹ thuật; về sử dụng vốn: kết quả sử
dụng và bảo toàn vốn; hiệu quả hoạt động kinh doanh; việc thực hiện nghĩa vụ
đối với nhà nước và việc thực hiện các chế độ, chính sách đối với người lao
động…
Khi sử dụng các tiêu chí để xem xét, đánh giá kết quả hoạt động của các
DNNN phải có quan điểm toàn diện, phải dựa trên cả các chỉ tiêu kinh tế lẫn chỉ
tiêu về chính trị và xã hội, phải đảm bảo cả tính hợp pháp lẫn tính hợp lý. Đối
với các DN kinh doanh phải lấy hiệu quả sản xuất kinh doanh làm chỉ tiêu chủ
yếu để đánh giá hiệu quả hoạt động của DN. Đối với các DN công ích phải lấy
kết quả thực hiện các chính sách xã hội làm tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá hiệu
quả hoạt động của DN.
- Kết luận thanh tra phải rõ ràng, chứng cứ phải chặt chẽ và giải pháp xử
lý phải hợp lý
Trên cơ sở các thông tin, tài liệu mà Đoàn thanh tra đã thu thập được: về
những đặc điểm tình hình có ảnh hưởng tới nội dung thanh tra; về tình hình hoạt
động và kết quả kinh doanh DN; về việc chấp hành chính sách, pháp luật; về
việc thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và người lao động… Đoàn thanh tra
phải tổng hợp, phân tích, so sánh, đối chiếu với các quy định của pháp luật, đối
chiếu với các tiêu chí trên để đưa ra nhận xét, đánh giá, kết luận về nội dung
thanh tra; đúng - sai phải rõ ràng, chính xác, khách quan, trung thực; lập luận
phải logic, chứng cứ phải đầy đủ, chặt chẽ... Việc xem xét, đánh giá các sự kiện
hay nội dung thanh tra phải đứng trên quan điểm toàn diện, khách quan, trung
thực và đặt trong một hoàn cảnh cụ thể, phải chú ý tới cả tính hợp pháp và tính
hợp lý… có như vậy các nhận xét, đánh giá, kết luận thanh tra mới chính xác,
37
khách quan vừa bảo đảm được tính hợp pháp, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho
các DN phát huy được tính năng động, sáng tạo và thế mạnh của mình trong
kinh doanh…
Kết luận thanh tra không chỉ nêu rõ đúng, sai mà phải làm rõ nguyên nhân
khách quan và chủ quan; xác định rõ tính chất, mức độ vi phạm, trách nhiệm
trách nhiệm tập thể và cá nhân, trách nhiệm của cơ quan cấp trên hay của các cơ
quan chức năng… Các giải pháp khắc phục, sửa chữa hay xử lý phải đúng đắn,
phù hợp với từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể, để đối tượng thanh tra và các cơ
quan, tổ chức, cá nhân có liên quan có đủ khả năng thi hành.
Một kết luận thanh tra có chất lượng tốt là “Kết luận thanh tra rõ ràng,
chính xác, những nội dung kiến nghị hoặc quyết định thanh tra đặt ra đáp ứng
kịp thời yêu cầu của công tác quản lý và lãnh đạo”[40, tr.126]. Kết luận thanh
tra phải bảo đảm chính xác, khách quan, có giá trị thiết thực về kinh tế, chính trị
và xã hội, nó không chỉ là xử lý nghiêm minh các vi phạm mà quan trọng hơn là
tính phòng ngừa, ngăn chặn các sai phạm để góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu
quả của quản lý nhà nước nói chung và quản lý các DNNN nói riêng.
1.2.3.5. Tổ chức thực hiện các kết luận, kiến nghị và quyết định xử lý
- Công khai hoá kết quả cuộc thanh tra
Sau khi Đoàn thanh tra hoàn thành dự thảo kết luận thanh tra, Trưởng
đoàn thanh tra phải thông báo cho doanh nghiệp được thanh tra biết và có thể
trích gửi những nội dung có liên quan đến chuyên môn, kỹ thuật để tham khảo ý
kiến của các cơ quan chức năng. Thông qua ý kiến ý kiến của các cơ quan chức
năng hay giải trình của đối tượng thanh tra (nếu có) và sự chỉ đạo của người ra
quyết định thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra phải họp Đoàn để thảo luận hoàn
chỉnh kết luận cuộc thanh tra.
Theo quy định của pháp luật, “Kết luận thanh tra được gửi tới Thủ trưởng
cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp và đối tượng thanh tra” [14, tr.222] và kết
luận thanh tra phải được công bố chính thức tại đơn vị được thanh tra. Việc công
bố kết luận thanh tra có thể tổ chức trong một phạm vi hẹp hoặc rộng, tuỳ theo
38
tính chất, yêu cầu của cuộc thanh tra.
Trong buổi công bố kết luận thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra phải nêu rõ
những ưu điểm, những tồn tại, hạn chế hay những vi phạm (nếu có) của đối
tượng thanh tra. Đồng thời phải kết luận rõ những nội dung đã được thanh tra,
đúng sai phải rõ ràng; nếu có sai phạm phải làm rõ nguyên nhân, trách nhiệm,
tính chất, mức độ và hậu quả của nó. Đặc biệt cần nhấn mạnh đến trách nhiệm
của đối tượng thanh ra và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc
thực hiện các kết luận, kiến nghị của Đoàn thanh tra và quyết định xử lý của Thủ
trưởng các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền.
- Việc xử lý các vi phạm phải nghiêm minh, kiên quyết
Theo quy định của các văn bản pháp luật về thanh tra, “Trong thời hạn
mười lăm ngày, kể từ ngày có kết luận thanh tra, Thủ trưởng cơ quan quản lý
nhà nước cùng cấp có trách nhiệm xem xét kết luận thanh tra; xử lý đối với cơ
quan, tổ chức, cá nhân có vi phạm pháp luật; áp dụng các biện pháp theo thẩm
quyền hoặc kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc
phục, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật” [14, tr.222]. Như vậy, sau khi
nhận được kết luận thanh tra, người ra quyết định cuộc thanh tra hoặc cơ quan
quản lý nhà nước có thẩm quyền phải tiến hành xử lý kết quả cuộc thanh tra.
Theo quan điểm Lê nin: “Phải trừng trị nghiêm khắc những kẻ có lỗi” [12,
tr.263]. “Phải trừng phạt một cách hết sức nghiêm ngặt bất cứ mưu toan nhỏ
nào định vi phạm luật…”; “phải trừng phạt nghiêm khắc gấp ba lần so với
người ngoài đảng phạm cũng những tội lỗi ấy…” và phải “biết trừng trị một
cách không thương xót, kể cả việc đem bắn…” [12, tr.48-49]. Có làm được như
vậy thì hoạt động thanh tra mới có hiệu lực, hiệu quả thật sự, kỷ cương, phép
nước mới nghiêm… Vì vậy, Thủ trưởng các cơ quan quản lý nhà nước phải xử
lý thật nghiêm minh, kiên quyết các hành vi vi phạm, bất kể người đó là ai.
Người có chức vụ cao, ngưòi cố tình vi phạm hoặc vi phạm có tổ chức, vi phạm
nhiều lần thì cần phải xử lý nặng hơn nữa. Cán bộ, đảng viên thì phải bị xử lý
nặng hơn quần chúng. Nếu để xẩy ra hậu quả nghiêm trọng, làm thất thoát tài
39
sản thì phải bồi thường hoặc bị truy tố trước pháp luật. Mọi vi phạm đều phải
được xử lý một cách kiên quyết và triệt để, chống nể nang, cục bộ… Có như
vậy, việc xử lý các vi phạm mới mang lại hiệu quả, mới có tác dụng giáo dục,
thuyết phục, dăn đe và phòng ngừa.
- Kiến nghị sửa đổi, bổ xung và ban hành mới các cơ chế, chính sách,
pháp luật phù hợp
Thông qua kết quả thanh tra, các cơ quan thanh tra thấy được thực trạng
việc thực thi công vụ của các cơ quan quản lý nhà nước, thấy được những ưu
điểm để phát huy; đồng thời phát hiện được những hạn chế, khiếm khuyết, các
sai sót trong thể chế, tổ chức bộ máy cũng như những mâu thuẫn, chồng chéo và
bất cập trong quản lý, trong cơ chế, chính sách để kiến nghị với các cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ xung kịp thời hoặc ban hành các văn bản mới;
từng bước làm cho chính sách, pháp luật, cơ chế quản lý hoàn thiện, thống nhất,
đồng bộ phù hợp với thực tiễn cuộc sống xã hội. Nhằm tạo ra một hành lang
pháp lý, một môi trường thuận lợi để các DN và DNNN phát triển.
- Chủ động phối hợp với các cơ quan hữu quan và kiểm tra, đôn đốc việc
tổ chức thực hiện các kết luận, kiến nghị và quyết định xử lý về thanh tra
Trong quá trình thực hiện kết luận thanh tra, không phải lúc nào đối tượng
thanh tra và các tổ chức, cá nhân có liên quan cũng thực hiện nghiêm các kết
luận, kiến nghị và quyết định xử lý. Họ thường đưa ra rất nhiều lý do khác nhau
để trì hoãn, kéo dài hoặc không thực hiện các kết luận, kiến nghị, quyết định xử
lý về thanh tra. Cá biệt có những trường hợp còn đưa ra những lý do rất phi lý
hoặc tìm cách cố tình lảng tránh hoặc phủ nhận những nội dung thanh tra mà
trước đây họ đã thừa nhận...
Vì vậy, để các kết luận, kiến nghị và quyết định xử lý về thanh tra được
thực hiện tốt, người ra quyết định thanh tra hoặc Thủ trưởng cơ quan quản lý
nhà nước có thẩm quyền phải có kế hoạch tổ chức, kiểm tra và thường xuyên
đôn đốc việc thực hiện.
Trước hết các cơ quan thanh tra hoặc các cơ quan quản lý nhà nước phải
40
tuyên truyền vận động, thuyết phục để đối tượng thanh tra và các cơ quan, tổ
chức, cá nhân có liên quan nhận thức được trách nhiệm, nghĩa vụ để họ tự
nguyện, tự giác chấp hành. Cũng có khi phải chủ động phối hợp với các cơ quan
có hữu quan như: cấp trên của đối tượng, các cơ quan của Đảng hoặc các cơ
quan đoàn thể khác hoặc những người có uy tín với đối tượng thanh tra… để họ
tác động, gây sức ép bắt buộc đối tượng phải thực hiện. Trong những trường hợp
cần thiết, có thể phải phối hợp với các cơ quan bảo vệ pháp luật như Công an
hay Viện Kiểm sát để tạo áp lực yêu cầu đối tượng phải thực hiện, nếu họ vẫn cố
tình không thực hiện hoặc cố ý chống lại thì có thể phải cưỡng chế hoặc yêu cầu
các cơ quan có thẩm quyền xử lý theo pháp luật.
1.2.4. Quản lý nhà nước về hoạt động thanh tra các DNNN
Theo các văn bản về thanh tra và giải quyết KN, TC, quản lý nhà nước về
thanh tra là một trong bốn chức năng cơ bản của các cơ quan thanh tra nhà nưóc,
trong đó có quản lý nhà nước về hoạt động thanh tra các DNNN. Để từng bước
nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước đối với hoạt động thanh tra
các DNNN, các cơ quan thanh tra nhà nước cần tổ chức thực hiện tốt các nội
dung cơ bản sau:
- Xây dựng và trình các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành các
văn bản pháp luật đồng bộ, thống nhất về hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với
các DNNN;
- Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra các cơ quan thanh tra cấp dưới về việc
thực hiện hoạt động thanh tra các DNNN;
- Kiểm tra, đôn đốc việc tổ chức thực hiện các kết luận, kiến nghị và
quyết định về thanh tra đối với các DNNN;
- Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra và tổ chức tập huấn về tổ chức
hoạt động thanh tra các DNNN;
- Tổng hợp tình hình và báo cáo kết quả thanh tra các DNNN với cơ quan
quản lý nhà nước cùng cấp và với cơ quan thanh tra cấp trên;
- Tổ chức sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm về tình hình hoạt động thanh
41
tra các DNNN.
1.3. Những nhân tố ảnh hưởng và yêu cầu hoàn thiện hoạt động thanh
tra các DNNN
1.3.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động thanh tra DNNN
* Hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách
Nhà nước ta là một nhà nước pháp quyền, nhưng đang ở trong giai đoạn
vừa xây dựng mới vừa sửa đổi, bổ xung và hoàn thiện. Vì vậy, pháp luật và các
cơ chế, chính sách của chúng ta vừa thiếu, vừa không thống nhất và thiếu đồng
bộ. Đặc biệt là các quy định của pháp luật về lĩnh vực thanh tra, kiểm tra
DNNN. Cụ thể là:
Các quy định về thanh tra, kiểm tra trong các văn bản pháp luật nói chung
và văn bản pháp luật về thanh tra nói riêng còn có những chỗ chưa thống nhất và
đồng bộ.
Các quy định về thanh tra, kiểm tra trong các văn bản pháp luật bị chi
phối rất nhiều bởi yêu cầu quản lý của mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi lĩnh vực, cho
nên dẫn đến còn có sự chồng chéo trong hoạt động thanh tra, kiểm tra của các cơ
quan thanh tra và các cơ quan quản lý nhà nước.
Mô hình tổ chức thanh tra của các cơ quan nhà nước chưa thống nhất,
cồng kềnh và kém hiệu quả. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn chưa tương
xứng.
Cơ chế chính sách chậm đổi mới, còn có chỗ sơ hở, bất cập nên chưa đáp
ứng được đòi hỏi của cơ chế thị trường, nhiều hiện tượng tiêu cực, tham nhũng
nẩy sinh từ đây…
Đây cũng là một trong những yếu tố có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt
động thanh tra các DNNN. Vì vậy, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, Trưởng
đoàn thanh tra và các thành viên đoàn thanh tra cũng cần phải chú ý đến yếu tố
này.
* Sự ảnh hưởng của cơ chế thị trường
Thực hiện nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, đó là
42
một bước đổi mới căn bản trong lĩnh vực kinh tế, nó đã kéo theo hàng loạt các
thay đổi khác trong đời sống xã hội, nhiễu lĩnh vực hoạt động đã được xã hội
hoá, nhiều thành phần kinh tế được ra đời và tham gia vào nền kinh tế. Trong
những năm đổi mới, nền kinh tế thị trường đã đạt được những thành tựu rất cơ
bản và có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống xã hội của đất nước. Bên cạnh
những ưu thế của cơ chế thị trường, nó cũng bộc lộ không ít những hạn chế, yếu
kém, nhiều hiện tượng tiêu cực phát triển như: kinh doanh trái phép, làm hàng
giả, chốn lậu thuế, biển thủ công quỹ, tham ô tham nhũng, hối lộ ngày một
nghiêm trọng; sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội cũng ngày một rõ, nhất là
đối với các thành phố lớn và các thị xã…
Trước tình hình đó, đã có những tác động không nhỏ đến tư tưởng, tình
cảm, hành động và kết quả công tác của người cán bộ thanh tra nói riêng và hiệu
lực, hiệu quả của hoạt động thanh tra và thanh tra các DNNN nói chung. Vì vậy,
muốn nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra đòi hỏi các cán bộ, công
chức thanh tra phải không ngừng phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện để nâng cao
phẩm chất đạo đức vượt qua những cám dỗ về vật chất; phải luôn luôn học tập
nâng cao trình độ hiểu biết, nâng cao tình độ chuyên môn và nghiệp vụ về công
tác thanh tra để có đủ khả năng đảm đương nhiệm vụ.
* Tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức thanh tra
Tổ chức bộ máy của các cơ quan thanh tra là một hệ thống gồm nhiều bộ
phận, có quan hệ chặt chẽ với nhau được phân theo từng khâu, từng cấp với
những chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn nhất định nhằm thực hiện mục đích
chung của các cơ quan thanh tra. Cơ cấu tổ chức bao gồm: cơ cấu bộ máy, chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ giữa các bộ phận, giữa các thành viên
và mối quan hệ với các tổ chức bên ngoài. Nếu cơ cấu tổ chức của bộ máy thanh
tra hợp lý, khoa học; chức năng, nhiệm vụ tương ứng với quyền hạn; trình độ
của đội ngũ cán bộ, công chức thanh tra đáp ứng thì hiệu quả hoạt động của các
cơ quan này rất cao. Ngược lại, nếu cơ cấu tổ chức không hợp lý, không khoa
học hay trình độ đội ngũ cán bộ không đáp ứng thì hiệu quả hoạt động sẽ không
43
cao. Vì vậy, cách thức tổ chức bộ máy và trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức
thanh tra có ảnh rất lớn đến hiệu lực, hiệu quả hoạt động thanh tra nói chung và
thanh tra các DNNN nói riêng.
Trên đây là một số nhân tố cơ bản có ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình
tiến hành hoạt động thanh tra nói chung và thanh tra các DNNN nói riêng. Vì
vậy, khi tổ chức thanh tra các DNNN phải chú ý tới các nhân tố này để lường
trước những khó khăn và xử lý kịp thời những tình huống có thể xẩy ra, nhằm
bảo đảm cho hoạt động thanh tra các DNNN được thuận lợi và đạt được hiệu
quả cao, phục vụ kịp thời cho công tác quản lý, chỉ đạo điều hành của các cấp,
các ngành.
1.3.2. Những yêu cầu hoàn thiện hoạt động thanh tra các DNNN
- Yêu cầu nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về kinh tế trong nền KTTT
Nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, đó là
nền kinh tế vận hành theo các quy luật của thị trường, các DN nói chung và các
DNNN nói riêng đều hoạt động trên nguyên tắc độc lập, tự chủ và tự chịu trách
nhiệm trước pháp luật. Nhà nước chỉ can thiệp vào nền kinh tế hay các DN khi
cần thiết và chủ yếu thông qua các công cụ quản lý vĩ mô như: chính sách tài
chính, tiền tệ, thuế… hạn chế đến mức thấp nhất các biện pháp can thiệp hành
chính.
Nền kinh tế thị trường bên cạnh những ưu thế cơ bản thì nó cũng có nhiều
những khuyết tật như: khủng hoảng, suy thoái, thất nghiệp, phân hoá xã hội,
tham nhũng… Lợi nhuận là mục đích tối cao của các DN, nên các DNNN cũng
như các DN khác đều tìm mọi cách để né tránh pháp luật, lợi dụng các kẽ hở của
pháp luật để thu được lợi nhuận cao…Vì vậy, để thích ứng với công việc quản
lý mới đòi hỏi Nhà nước phải thay đổi cách thức quản lý, cách thức hoạt động
cho phù hợp, củng cố và hoàn thiện các công cụ quản lý vĩ mô, trong đó có công
cụ thanh tra. Thông qua hoạt động thanh tra và thanh tra các DNNN, nhằm ngăn
ngừa, xử lý các sai phạm, phát hiện ra các sơ hở, khiếm khuyết của công tác
44
quản lý, của chính sách pháp luật, tìm ra những nguyên nhân và giải pháp khắc
phục, sửa chữa những thất bại của thị trường, hạn chế đến mức thấp nhất những
ảnh tiêu cực của cơ chế thị trường đối với DNNN và toàn bộ nền kinh tế.
Mặt khác, để quản lý nền kinh tế có hiệu quả Nhà nước cần phải thể chế
hoá các quy định, các nguyên tắc quản lý thành các văn bản quy phạm pháp luật,
nhằm tạo ra một khuân khổ pháp lý thuận lợi để cho các DN được thật sự tự chủ
sản xuất kinh doanh. Đồng thời, đây cũng chính là những cơ sở pháp lý đảm bảo
cho việc thanh tra, kiểm soát các DN nói chung và thanh tra các DNNN nói
riêng có hiệu quả.
- Yêu cầu củng cố, đổi mới và phát triển các DNNN
DNNN có vị trí, vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, là bộ
phận cơ bản của kinh tế nhà nước, là lực lượng vất chất chủ yếu để kinh tế nhà
nước thực hiện vai trò chủ đạo, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, là công cụ
chủ yếu để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Xuất phát từ những yêu cầu trên, đòi hỏi các DNNN phải được chấn
chỉnh, đổi mới và kiểm soát chặt chẽ hơn, nhằm giúp các DN phát triển đúng
hướng, bảo toàn vốn, gia tăng quy mô đầu tư, nâng cao năng lực và hiệu quả
hoạt động sản xuất kinh doanh. Phần lớn các DNNN thường chiếm giữ ở những
lĩnh vực, những khâu quan trọng của nền kinh tế, nó đại biểu cho lực lượng sản
xuất tiến bộ của nền sản xuất, nên trong quá trình phát triển, nó có vai trò noi
gương, dẫn dắt và hỗ trợ cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển theo
định hướng XHCN.
- Yêu cầu hoàn thiện cơ chế quản lý và chính sách, pháp luật nói chung
và đối với các DNNN nói riêng
Thực tiễn vô cùng phong phú và đa dạng, nó luôn luôn vận động, biến đối
không ngừng, đặc biệt trong cơ chế thị trường hiện nay thì sự vận động, biến đổi
đó lại càng diễn ra nhanh chóng. Còn cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật
thường lạc hậu không theo kịp thực tế, nhất là đối với các chính sách, pháp luật
về kinh tế thì lại càng nhạy cảm hơn. Vì vậy, đòi hỏi hoạt động thanh tra nói
45
chung và thanh tra các DNNN nói riêng phải được tăng cường, củng cố, đổi mới
cả về tổ chức lẫn cách thức hoạt động; để nhanh chóng phát hiện kịp thời những
sơ hở, những khiếm khuyết, những điều không còn phù hợp, những điều bất hợp
lý của chính sách pháp luật, của cơ chế quản lý… kiến nghị với các cơ quan nhà
nước kịp thời sửa chữa, bổ xung, hoàn thiện chính sách, pháp luật, nhằm tạo một
hành lang pháp lý thông thoáng, một môi trường thuận lợi cho các DN cùng phát
triển.
- Yêu cầu xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, đủ năng lực quản lý đất
nước và quản lý tốt các DNNN
Kể từ khi ra đời cho đến nay, Nhà nước đã đóng một vai trò rất quan trọng
trong hệ thống chính trị, là một trong những điều kiện, nhân tố quyết định để
xây dựng và phát triển đất nước. Đặc biệt trong những năm gần đây, Nhà nước
ta cũng như các nhà nước khác đã tổ chức, quản lý và điều hành nền kinh tế có
hiệu quả hơn. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn này, bộ máy nhà
nước cũng có những hạn chế, yếu kém. Bộ máy còn khồng kềnh, nhiều tầng
nhiều lớp, phân tán cục bộ; sự phân công, phân cấp chưa rành mạch; chức năng
nhiệm vụ xác định chưa thật rõ ràng và phù hợp; trong đội ngũ cán bộ, công
chức một bộ phận chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, phẩm chất, năng lực chuyên
môn yếu, tinh thần trách nhiệm chưa cao, nạn tham ô, tham nhũng còn nhiều…
làm ảnh hưởng tới lòng tin của nhân dân, ảnh hưởng đến sự phát triển của nền
kinh tế nói chung và các DNNN nói riêng. Vì vậy, đòi hỏi hoạt động thanh tra
nói chung và thanh tra các DNNN nói riêng phải có những hình thức, phương
pháp thanh tra hữu hiệu để tìm ra những cái mới, cái tốt để phát huy, phát hiện
ra những chỗ, những khâu bất hợp lý trong bộ máy để khắc phục, sửa chữa;
đồng thời ngăn ngừa, hạn chế và xử lý nghiêm những cán bộ, công chức lợi
dụng chức quyền cố tình vi phạm… nhằm làm cho bộ máy nhà nước trong sạch,
vững mạnh, đủ năng lực, trình độ quản lý đất nước, quản lý các DNNN và nền
kinh tế có hiệu quả.
46
- Yêu cầu hội nhập quốc tế đòi hỏi
Theo xu hướng chung hiện nay, nước ta cũng như các nước khác đã và
đang ngày càng tham gia vào nhiều tổ chức quốc tế và khu vực, ký kết nhiều
điều ước quốc tế, nhằm đẩy mạnh hội nhập quốc tế, thu hút vốn đầu tư nước
ngoài và tăng cường hợp tác, liên doanh với các nước. Với chủ trương này, hiện
nay ở nước ta đã có rất nhiều nhà doanh nghiệp, nhiều tổ chức quốc tế đến làm
ăn và sinh sống. Cho nên, đối tượng và phạm vi thanh tra cũng ngày một mở
rộng cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, nội dung thanh ra cũng đa dạng và phức tạp
hơn. Chúng ta đã thực hiện nhiều cam kết quốc tế, thực hiện sự bình đẳng trước
pháp luật, đối sử ưu đãi cho các dự án đầu tư nước ngoài… nhưng trong cơ chế,
chính sách, pháp luật, trong thủ tục hành chính cũng còn nhiều vướng mắc, bất
cập chưa phù hợp với các phong tục, tập quán quốc tế, chưa tạo được những
điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư… Hơn nữa, trong những năm gần đây,
ngành Thanh tra cũng đã nỗ lực đẩy mạnh hợp tác quốc tế về thanh tra với một
số nước Châu A, Châu Âu, Châu Phi… nhằm tìm kiếm các thông tin, trao đổi
kinh nghiệm với các nước, tiếp thu và học tập những kinh nghiệm hay của họ.
Vì vậy, đòi hỏi các cơ quan nhà nước, các cơ quan thanh tra phải có cách nhìn
mới, phương pháp làm việc mới, phải kịp thời sửa đổi, bổ xung và hoàn thiện cơ
chế, chính sách, pháp luật cho phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn; nhằm tạo ra
một môi trường thuận lợi, thông thoáng cho các DN phát triển.
- Hoạt động thanh tra cũng phải tự hoàn thiện chính mình
Trong quá trình phát triển, hoạt động thanh tra nói chung và thanh tra các
DNNN nói riêng cũng như các hoạt động khác, bên cạnh những mặt mạnh,
những yếu tố tích cực, những thành tựu đạt được thì nó cũng còn những yếu
kém, hạn chế nhất định. Mô hình tổ chức còn cồng kềnh, dàn trải, chưa thống
nhất và còn nhiều điều bất hợp lý. Chức năng, nhiệm vụ chưa rõ ràng, rành
mạch, phạm vi hoạt động rộng… đã dẫn đến hoạt động thanh tra có nơi, có lúc
còn chồng chéo, thời hạn thanh tra bị kéo dài, trình tự, thủ tục thanh tra bị vi
phạm. Quyền hạn chưa tương xứng với chức năng, nhiệm vụ… Sự phối kết hợp
47
giữa các cơ quan Thanh tra Nhà nước và Thanh tra chuyên ngành còn chưa tốt,
thậm trí có nơi, có lúc còn tách bạch, độc lập với nhau… Đội ngũ cán bộ, công
chức thanh tra đông mà không mạnh, chất lượng chưa cao, năng lực chuyên môn
còn hạn chế, tinh thần trách nhiệm chưa cao, phẩm chất đạo đức của một số cán
bộ, công chức thanh tra còn thấp… đã làm cho hoạt động thanh tra và thanh tra
các DNNN kém hiệu quả. Vì vậy, để khắc phục những hạn chế, khiếm khuyết
trên, chính ngay hoạt động thanh tra và thanh tra các DNNN cũng đòi hỏi phải
được đổi mới và từng bước hoàn thiện.
Tóm lại
1. Luận văn đã tập trung phân tích nhằm hệ thống hoá và làm rõ những
vấn đề lý luận cơ bản về: khái niệm thanh tra, mục đích, vai trò và sự cần thiết
của hoạt động thanh tra nhà nước đối với DNNN; khái niệm DNNN, vị trí, vai
trò của các DNNN trong nền kinh tế quốc dân.
2. Luận văn đi sâu phân tích, làm rõ các nội dung cơ bản của hoạt động
thanh tra nhà nước đối với cấc DNNN như: chủ thể, đối tượng và nội dung thanh
tra; các loại hình thanh tra, phương pháp tiến hành thanh tra và công tác quản lý
nhà nước về hoạt động thanh tra các DNNN.
3. Đồng thời luận văn cũng luận giải về những nhân tố ảnh hưởng tới hoạt
động thanh tra và cần thiết khách quan phải hoàn thiện hoạt động thanh tra các
DNNN trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
Chương 2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THANH TRA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC THỜI GIAN QUA
2.1. Khái quát quá trình đổi mới tổ chức TTNN và đổi mới DNNN ở
nước ta
2.1.1. Quá trình đổi mới tổ chức TTNN
48
2.1.1.1. Tổ chức thanh tra từ năm 1976 đến năm 1990
Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, ngày 24 tháng 4 năm 1976, cuộc tổng
tuyển cử bầu Quốc hội cả nước đã diễn ra và thành công tốt đẹp. Sau đó, Quốc
hội đã bầu và quyết định những cơ quan lãnh đạo của Nhà nước và khẳng định
lại đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn tới: “Hoàn
thành thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến nhanh, tiến, tiến mạnh, tiến vững
chắc lên CNXH; miền Bắc phải tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng CNXH và
hoàn thiện QHSX XHCN, miền Nam phải đồng thời tiến hành cải tạo XHCN và
xây dựng CNXH” [32, tr.150]. Để thực hiện tốt đường lối chiến lược trên, cùng
với các cơ quan quản lý nhà nước các cơ quan thanh tra đã từng bước tổ chức và
mở rộng hệ thống thanh tra trên phạm vi cả nước. Đến cuối năm 1976, hệ thống
các cơ quan Thanh tra từ Trung ương đến các địa phương đã được thiết lập
xong, góp phần cùng cả nước hoàn thành thống nhất nước nhà về mặt nhà nước
và đi vào hoạt động phục vụ cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Ngày 3 tháng 1 năm 1977, Chính phủ ra Nghị định số 01/CP ban hành
Điều lệ tổ chức và hoạt động của Uỷ ban thanh tra của Chính phủ; trong đó đã
xác định rõ vị trí, vai trò, chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của
Uỷ ban thanh tra của Chính phủ và các cấp, các ngành. Đến cuối năm 1978, về
cơ bản hệ thống tổ chức và bộ máy của các cơ quan thanh tra ở các cấp, các
ngành đã được củng cố và hoàn thiện. Đây là những điều kiện cơ bản và là cơ sở
pháp lý cần thiết để ngành thanh tra tiến hành các hoạt động thanh tra, kiểm soát
các hoạt động kinh tế, xã hội… đáp ứng yêu cầu của công tác chỉ đạo, điều hành
của các cơ quan quản lý nhà nước.
Tiếp theo, Đảng và Nhà nước đã ban hành một số văn bản để củng cố,
tăng cường và nâng cao hiệu lực công tác thanh tra và thanh tra nhân dân, trong
đó có Nghị quyết 26/HĐBT ngày 15 tháng 2 năm 1984 của Hội đồng Bộ trưởng
và Chỉ thị 38/CT-TW ngày 20 tháng 2 năm 1984 của Ban Bí thư Trung ương
Đảng. Trong các văn bản này đã nêu rõ mục đích của hoạt động thanh tra là
“nhằm phát huy mặt làm đúng, ngăn ngừa sửa chữa cái sai; làm cho chủ
49
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm
chỉnh và có hiệu quả thiết thực”[32, tr.213]. Về vị trí, “Thanh tra là một khâu
không thể thiếu trong công tác lãnh đạo” và “Tổ chức thanh tra phải là một
công cụ có hiệu lực của Nhà nước chuyên chính vô sản, đồng thời là một hình
thức tổ chức của quần chúng để thực hiện quyền làm chủ tập thể của mình trong
việc kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước” [32, tr.212].
“Trước mắt cũng như lâu dài công tác thanh tra có tác dụng quan trọng, trực
tiếp đối với việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, giữ gìn pháp luật
nhà nước…” [32, tr.210]. Về hệ thống tổ chức cũng được quy định cụ thể về
nguyên tắc tổ chức, quản lý và chỉ đạo điều hành toàn bộ hệ thống thanh tra nhà
nước và lúc này các cơ quan thanh tra được đổi tên là Uỷ ban Thanh tra Nhà
nước. Về nhiệm vụ thanh tra, trong thời kỳ này vẫn coi trọng thanh tra kinh tế,
thanh tra việc thực hiện kế hoạch nhà nước nhưng phải kết hợp với thanh tra an
ninh, quốc phòng. Đặc biệt Nghị quyết nhấn mạnh đến việc ngăn ngừa và chống
mọi biểu hiện quan liêu, thiếu trách nhiệm, vô kỷ luật, tham ô, lãng phí và hách
dịch với nhân dân… Kiểm tra trách nhiệm của Thủ trưởng các cấp, các ngành
trong việc tiếp dân và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân…
Tóm lại, sau khi thống nhất đất nước, song song với việc củng cố chính
quyền các cấp ngành thanh tra cũng được củng cố, kiện toàn cả về tổ chức lẫn
xây dựng đội ngũ cán bộ. Hệ thống Thanh tra Nhà nước đã được thiết lập từ
Trung ương đến cơ sở trên phạm vi cả nước và đã hoàn thành tốt những nhiệm
vụ mà Đảng và Nhà nước giao cho, góp phần xứng đáng vào việc củng cố chính
quyền, đưa cả nước tiến lên CNXH.
2.1.1.2. Tổ chức Thanh tra Nhà nước từ 1990 đến nay
Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước đã có những
chuyển biến sâu sắc trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đồng thời nó cũng
đòi hỏi các cơ quan quản lý nhà nước nói chung và các cơ quan thanh tra nói
riêng phải nhanh chóng thay đổi cả về thể chế lẫn phương thức hoạt động cho
thích hợp. Để đáp yêu cầu đòi hỏi trên, ngày 1 tháng 4 năm 1990, Hội đồng Nhà
50
nước đã ban hành Pháp lệnh Thanh tra, mở đầu một giai đoạn phát triển mới của
ngành Thanh tra Việt Nam. Đây là một văn bản pháp lý cao nhất trong thời kỳ
này, nó đã kế thừa được những ưu điểm và khắc phục được những hạn chế của
các văn bản trước. Đồng thời, đây cũng là một văn bản thể hiện tương đối đầy
đủ và khoa học những vấn đề cơ bản về: mục đích, chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn, trình tự, thủ tục và nguyên tắc tiến hành hoạt động thanh tra của các cơ
quan Thanh tra Thà nước. Sau đó là một số văn bản dưới luật cũng được ban
hành như: Nghị định 244-HĐBT ngày 30/6/1990 của Hội đồng Bộ trưởng, Nghị
định 61/NĐ-CP ngày 15/8/1992 của Chính phủ, Thông tư 124-TT/TTNN ngày
18/7/1990 của Thanh tra Nhà nước, Thông tư 01-TT/TTr ngày 20/8/1992 của
Thanh tra Nhà nước, Quyết định 1776/TTNN ngày 21/12/1996 của Tổng Thanh
tra Nhà nước… đây là những văn bản cụ thể hoá những nội dung của pháp lệnh,
nhằm bảo đảm cho việc thực thi pháp lệnh được thuận lợi và thống nhất. Nội
dung của các văn bản pháp luật này bao gồm những vấn đề chủ yếu sau:
- Thanh tra là một chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước, là
phương thức đảm bảo pháp chế, tăng cường kỷ luật trong quản lý nhà nước và
thực hiện quyền dân chủ của nhân dân. Thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra
các cơ quan quản lý nhà nước biết được những ưu điểm và khuyết điểm, từ đó
đề ra các giải pháp hữu hiệu làm cho hoạt động quản lý ngày một hoàn thiện và
hiệu quả. Vì vậy, thanh tra gắn liềm với quản lý nhà nước, là một khâu của quản
lý nhà nước và phục vụ cho quản lý của Nhà nước được tốt hơn.
- Hệ thống tổ chức Thanh tra Nhà nước được thành lập từ Trung ương đến
cấp huyện, theo nguyên tắc song trùng lãnh đạo. Còn ở cấp xã không thành lập
cơ quan thanh tra chuyên trách, chức năng thanh tra do Uỷ ban nhân dân xã đảm
nhiệm; trực tiếp là Chủ tịch UBND xã và mỗi uỷ viên UBND chịu trách nhiệm
giúp Chủ tịch về lĩnh vực mình phụ trách.
- Về nhiệm vụ, các cơ quan thanh tra có ba nhiệm vụ cơ bản: thanh tra
việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch của các cơ quan, tổ
chức và cá nhân; giải quyết và tham mưu cho Thủ trưởng các cơ quan quản lý
51
nhà nước giải quyết KN, TC và quản lý nhà nước về công tác thanh tra và KN,
TC. Khi tiến hành thanh tra các cơ quan Thanh tra Nhà nước được quyền ra
quyết định thanh tra; trong quá trình thanh tra được quyền yêu cầu đối tượng
thanh tra và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp thông tin, tài
liệu; báo cáo, trả lời chất vấn; trưng cầu giám định; niêm phong tài liệu, kho
quỹ; tạm giữ tiền đồ vật, giấy phép; đình chỉ, tạm đình chỉ việc làm, quyết định
của đối tượng thanh tra hoặc tạm đình chỉ công tác nhân viên nhà nước; Khi kết
thúc cuộc thanh tra được quyền kết luận, kiến nghị và quyết định xử lý về thanh
tra… nhằm đảm bảo cho các tổ chức thanh tra hay Đoàn thanh tra thực hiện tốt
nhiệm vụ và đạt hiệu quả cao.
- Về trình tự, thủ tục và nguyên tắc thanh tra cũng được quy định rất chặt
chẽ. Muốn thanh tra một cơ quan, đơn vị nào đó phải có quyết định thanh tra của
cơ quan có thẩm quyền; việc ra quyết định thanh tra cũng phải dựa trên những
căn cứ do pháp luật quy định. Khi tiến hành thanh tra phải công bố công khai
quyết định thanh tra hay khi kết thúc cuộc thanh tra cũng phải công bố dự thảo
hoặc kết luận thanh tra. Trong quá trình thanh tra hay khi kết luận cuộc thanh tra
phải bảo đảm chính xác, khách quan, công khai, dân chủ và kịp thời. Hoạt động
thanh tra chỉ tuân theo pháp luật, nghiêm cấm mọi hành vi can thiệp trái pháp
luật vào hoạt động thanh tra…
- Về tiêu chuẩn cán bộ, thanh tra viên và chế độ chính sách cũng được
quan tâm đúng mức. Người làm công tác thanh tra phải là những người có phẩm
chất đạo đức tốt, có ý thức trách nhiệm cao, trung thực, công minh và khách
quan. Có đủ trình độ, năng lực theo quy định như: tốt nghiệp đại học, được bồi
dưỡng về kiến thức pháp luật, quản lý nhà nước, quản lý kinh tế và đặc biệt là
phải qua những khoá đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ công tác thanh tra… Về
chế độ tiền lương, những người đủ tiêu chuẩn là Thanh tra viên thì đều được xếp
vào một ngạch, bậc riêng với một sự ưu đãi nhất định. Ngoài ra, các cán bộ,
công chức thanh tra còn được trang bị quần áo, phương tiện cần thiết để bảo
52
đảm cho việc thực hiện nhiệm vụ được thuận lợi, nhanh chóng và có hiệu quả…
Tuy nhiên, do sự phát triển của đời sống kinh tế xã hội, nhất là sự phát
triển của nền kinh tế thị trường đã làm cho các văn bản pháp luật này không còn
thích ứng nữa; ngày 15 tháng 6 năm 2004 Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 5 đã
nhất trí thông qua Luật thanh tra để thay thế cho Pháp lệnh thanh tra năm 1990.
Đây là một văn bản pháp lý cao nhất từ trước tới nay của ngành thanh tra, nội
dung của nó đã khắc phục được những khiếm khuyết, hạn chế của các văn bản
trước, đồng thời nó cũng mở ra những triển vọng mới cho ngành thanh tra. Bắt
đầu từ ngày 01 tháng 10 năm nay, Luật này đã có hiệu lực thi hành, các cơ quan
thanh tra đã được thiết kế theo một mô hình mới, gắn chặt hơn với các cơ quan
quản lý nhà nước cùng cấp. Các cơ quan thanh tra nhà nước được chia thành hai
loại: thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành. Đối với thanh tra chuyên
ngành mỗi Bộ chỉ có một cơ quan thanh tra, đảm nhiệm cả hai chức năng thanh
tra hành chính và thanh tra chuyên ngành. Tuy nhiên, về mặt chuyên môn nó
vẫn chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn về công tác, tổ chức và nghiệp vụ của Thanh tra
Chính phủ và của các cơ quan thanh tra cấp trên. Đối tượng và phạm vi hoạt
động cũng được xác định rõ hơn và mở rộng hơn. Chức năng, nhiệm vụ và
quyền hạn cũng được cụ thể hơn, rõ nét hơn đối với từng cơ quan thanh tra hay
từng cá nhân trong các tổ chức thanh tra và đoàn thanh tra… Về trình tự, thủ tục,
nguyên tắc hoạt động cũng có những thay đổi cho phù hợp với tình hình nhiệm
vụ mới…
Tóm lại, trong quá trình đổi mới các tổ chức thanh tra với nhiều tên gọi và
hình thức tổ chức khác nhau nhưng Đảng và Nhà nước đã luôn xác định đúng vị
trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan thanh tra trong
công tác quản lý nhà nước. Ngành Thanh tra đã từng bước củng cố, kiện toàn về
tổ chức, bộ máy, xây dựng được một đội ngũ thanh tra từ Trung ương đến địa
phương, đã hoàn thành tốt những nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao cho, góp
phần xứng đáng vào việc củng cố chính quyền, xây dựng bộ máy trong sạch,
vững mạnh, đủ năng lực quản lý đất nước để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
53
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
2.1.2. Quá trình đổi mới các DNNN
Ở nước ta quá trình đổi mới DNNN gắn liền với đổi mới kinh tế và là một
khâu trọng tâm của đổi mới kinh tế. Kể từ năm 1981 việc cải cách, đổi mới
DNNN mới đi vào bước khởi đầu. Việc tổ chức sắp xếp, phát triển DNNN trước
năm 1981 về cơ bản chỉ là những biện pháp có tính chất hành chính, thực chất
nó chỉ là những biện pháp cải tiến quản lý của cơ chế và mô hình kinh tế cũ. Hội
nghị BCHTW Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 6 khoá IV tháng 9 năm 1979 là
mốc khởi đầu của công cuộc đổi mới quản lý kinh tế của nước ta. Tại hội nghị
này, lần đầu tiên Đảng ta đã đề ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, thực tế là xoá bỏ những rào cản, xoá bỏ ngăn sông, cấm chợ,
tạo điều kiện “cho sản xuất bung ra” và thừa nhận sự tồn tại của nhiều thành
phần kinh tế. Nhất là từ khi có chỉ thị 100 của Ban bí thư (31/1/1981) về “cải
tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao
động trong hợp tác xã nông nghiệp” thì một môi trường kinh tế hàng hoá mới
thật sự mở ra cho các DNNN. Nhờ có sự tác động này, những cải cách, đổi mới
trong công nghiệp mới thực sự bắt đầu và thực chất là diễn ra chủ yếu ở các
DNNN.
2.1.2.1. Giai đoạn từ 1981 – 1989
Quyết định 25/CP (1981) của Chính phủ cho phép các DNNN xây dựng
thành 3 loại kế hoạch: A, B và C; trong đó kế hoạch C của doanh nghiệp được tự
do trao đổi sản phẩm theo giá cả thị trường. Đây là một điểm mốc quan trọng
của quá trình đổi mới DNNN và chủ yếu là đổi mới về cơ chế quản lý. Sự đổi
mới này được diễn ra từ từ, đan xen cả những yếu tố của cơ chế cũ lẫn những
yếu tố của cơ chế mới; trong đó bản thân cơ chế cũ không còn nguyên vẹn và
đang bị phá vỡ, còn cơ chế mới mới đang manh nha hình thành. Trong thời kỳ
này các DN được tự chủ một phần và có thể “phá rào” thoát khỏi sự ràng buộc
của cơ chế cũ. Nên không ít DNNN đã tận dụng tối đa những lợi thế này. Một
mặt, DN vẫn ra sức xin vật tư, tiền vốn, thiết bị máy móc, xin giảm chỉ tiêu kế
54
hoạch, giảm nộp ngân sách… Mặt khác, lại ra sức đòi tự chủ, đòi thoát khỏi sự
quản lý của các cơ quan chủ quản, đòi được tự do quyết định mọi việc, trong đó
có sự phân phối ăn chia. Có những DN “phá rào” vì lợi ích chung, nhưng
không loại trừ có những DN “phá rào” vì lợi ích riêng, làm thiệt hại đến lợi ích
Nhà nước và xã hội…
Việc đổi mới ở giai đoạn này chủ yếu tập trung vào việc tháo gỡ những
khó khăn, vướng mắc của cơ chế cũ. Vì thế nó đã cởi trói, giải phóng được
những tiềm năng sẵn có của các DN, đã cải tiến cơ bản khâu phân phối lưu
thông và đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Việc cho phép các DNNN được tự
bố trí các nguồn lực sản xuất theo 3 loại kế hoạch đã có ý nghĩa rất quan trọng
trong việc phát huy tính năng động, sáng tạo của cơ sở, từng bước đưa các yếu
tố của thị trường vào cơ chế quản lý doanh nghiệp. Tuy nhiên, các biện pháp của
giai đoạn này vẫn còn mang tính chất nửa vời, chắp vá dẫn đến hệ quả của nó là
khó hạch toán, khó kiểm soát và đánh giá hiệu quả hoạt động của DN.
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, đổi mới DNNN thực sự trở thành
trung tâm của tiến trình đổi mới, được cụ thể hoá bằng Nghị định 217/HĐBT và
tiếp sau đó là Nghị quyết hội nghị Trung ương 6 khoá VI (1989), toàn bộ hệ
thống kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, các DNNN được thực hiện theo cơ
chế giá kinh doanh, cả nước là một thị trường thống nhất đã thúc đẩy mạnh mẽ
tiến trình đổi mới các DN.
Đây là một bước ngoặt trong đổi mới cơ chế quản lý DNNN, đa số các
doanh nghiệp đã chuyển sang hạch toán kinh doanh theo nguyên tắc thị trường.
Quá trình thương mại hoá này đã bắt buộc các doanh nghiệp phải định hướng
vào thị trường, tuân theo các quy luật của thị trường; đồng thời cũng đòi hỏi các
DN phải tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh.
Mặt khác, khi các DN đã chuyển từ kế hoạch trực tiếp sang kế hoạch gián tiếp,
Nhà nước bước đầu đã xoá bỏ dần sự bao cấp từ ngân sách Nhà nước, huỷ bỏ
chế độ hai giá, DN phải tự hạch toán kinh doanh theo giá cả thị trường. Quyết
định 217/HĐBT đã trao quyền tự chủ rất rộng rãi cho DN nhưng lại không có
55
những biện pháp thanh tra, kiểm soát tương ứng. Do đó, các DNNN lại trao
quyền tự chủ đó cho các bộ phận, chi nhánh hay thậm trí là tổ, đội và cá nhân
tìm kiếm, ký kết hợp đồng làm ăn… làm cho nền kinh tế trở lên rất sôi động,
nhưng cũng không ít những nghịch lý, tiêu cực ra gây cho nền kinh tế.
Nhìn chung, các DNNN ở giai đoạn này đã từng bước được đổi mới và
phát triển. Một số DN bước đầu hoạt động kinh doanh đã mang lại hiệu quả,
ngược lại một số khác không thích nghi được với cơ chế thị trường, nên làm ăn
không có hiệu quả hoặc thua lỗ trở thành gánh nặng cho ngân sách Nhà nước.
Về tổng thể, các DNNN vẫn giữ được vai trò của mình trong nền kinh tế, chiếm
trên dưới 35% GDP và đóng góp 60% cho ngân sách Nhà nước.
2.1.2.2. Giai đoạn từ 1990 – 1998
Giai đoạn đổi mới mạnh mẽ của các DNNN là từ khi có Quyết định
315/HĐBT (9/1990) và Nghị định 388/HĐBT (11/1991) của Hội đồng Bộ
trưởng (nay là Chính phủ). Về cơ chế quản lý đây là thời kỳ cơ chế quản lý mới
đã dần được ổn định và từng bước đi vào hoàn thiện. Các DNNN đã trở thành
những chủ thể sản xuất kinh doanh độc lập, được bình đẳng trước pháp luật và
tự chịu trách nhiệm trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Nhà
nước đã quản lý nền kinh tế bằng kế hoạch, bằng pháp luật, bằng chính sách và
các công cụ quản lý vĩ mô, không can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất kinh
doanh của các DN. Đặc biệt, Nhà nước đã giảm mạnh việc bao cấp, bù lỗ cho
các DN, để DN “tự bơi” trong môi trường cạnh tranh bình đẳng với các thành
phần kinh tế khác. Cơ chế quản lý DNNN trong giai đoạn này có thể khái quát
bởi mấy đặc trưng sau:
- Chế độ bao cấp qua ngân sách Nhà nước cơ bản đã bị xoá bỏ, thay vào
đó là việc trao quyền tự chủ cho DN trong sản xuất kinh doanh, tự chịu trách
nhiệm trước pháp luật về các hoạt động của mình. Cơ chế này đã được quy định
rõ ràng trong các văn bản pháp luật, nhất là Luật DNNN. Ngoài ra, Quyết định
315/HĐBT còn quy định những điều kiện chế định về giải thể, phá sản DNNN.
56
Quan hệ giữa Nhà nước và DNNN là quan hệ giữa chủ sở hữu giao vốn còn DN
là người trực tiếp quản lý, sử dụng vốn theo nguyên tắc bảo toàn và phát triển
vốn.
- Lợi ích của DNNN và người lao động được thừa nhận thông qua quy
chế tuyển dụng lao động, chế độ tiền lương gắn với hiệu quả sản xuất kinh
doanh, quy chế quản lý tài chính theo Nghị định 59/CP (10/1996) của Chính phủ
về khấu hao, trích lập quỹ và phân chia lợi nhuận…
- Về cơ bản, kế hoạch Nhà nước không còn mang tính chất bắt buộc như
trước đây mà chỉ còn mang tính chất hướng dẫn hay định hướng. Các sản phẩm
cũng như nhiều yếu tố sản xuất khác như: sức lao động, nguyên vật liệu, thiết bị
máy móc, vốn… đã trở thành hàng hoá. DNNN đã thực sự hoạt động theo cơ
chế thị trường, tuân theo các quy luật vốn có của thị trường. Tuy nhiên, trong
thực tế vẫn còn một số yếu tố khác như: tài chính, tín dụng hay đất đai vẫn còn
một phần bao cấp… nhưng chủ trương chung là giảm dần những ưu đãi này và
tiến tới bình đẳng như mọi DN khác.
- Chế độ chủ quản theo kiểu hành chính trước kia đã dần được xoá bỏ,
thay vào đó là hệ thống pháp luật và quan hệ đầu tư giao vốn. Tuy nhiên, ở giai
đoạn này chế độ sở hữu vẫn chưa tìm được một hình thức thích hợp, vẫn còn thể
hiện cả chế độ chủ quản hành chính lẫn cơ chế quản lý vốn theo kiểu đại diện.
- Về mặt tổ chức, việc sắp xếp, đổi mới các DNNN theo Quyết định
388/HĐBT và các Quyết định 90/CT, 91/CT đã thu gọn được hơn một nửa đầu
mối quản lý, trong đó có 1/3 là giải thể, 2/3 là nhập vào đơn vị khác. Số lượng
DNNN chỉ còn gần 6.000. Quy mô vốn bình quân của các DN tăng lên, nhưng
năng lực sản xuất và sức cạnh trạnh của DN còn yếu. Đã hình thành 17 Tổng
công ty Nhà nước (Tổng công ty 91) và 76 Tổng công ty 90. Mục tiêu thành lập
các Tổng công ty là nhằm chuyển sang cơ chế chuyên môn hoá và hợp tác hoá
theo kiểu mới, dựa theo nguyên tắc thị trường để từ đó giảm chức năng chủ quản
hành chính cũng như tạo mũi nhọn phát triển kinh tế. Song trong thực tế, mục
tiêu này chưa đạt được như mong muốn; đồng thời lại nảy sinh vấn đề độc
57
quyền, quản lý chồng chéo và xung đột lợi ích.
2.1.2.3. Giai đoạn từ 1998 đến nay
Thực hiện Nghị quyết hội nghị lần thứ 4 khoá VIII (1998) và Nghị quyết
hội nghị lần thứ 3 khoá IX (2001), Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản để cụ
thể hoá việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động
sản xuất kinh doanh của các DNNN. Nội dung đổi mới DNNN trong giai đoạn
này là tiếp tục đổi mới sâu sắc hơn cơ chế quản lý và chủ động tích cực tổ chức
lại hệ thống DNNN, nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng hoạt động của các
DNNN. Mục tiêu và nhiệm vụ đổi mới của giai đoạn này là:
- Cơ cấu lại hệ thống DNNN theo hướng Nhà nước chỉ đảm nhiệm các
lĩnh vực, các khâu mà Nhà nước làm tốt hơn tư nhân. Những lĩnh vực mà tư
nhân làm tốt thì chuyển giao cho họ, theo các kênh khác nhau như: cổ phần hóa,
bán, khoán hoặc cho thuê DNNN... Tuy nhiên, việc tổ chức lại DNNN ở giai
đoạn này cần chú trọng đến chất lượng của DNNN. Do đó, các vấn đề tài chính
không lành mạnh, lao động dư thừa, công nghệ cũ, lạc hậu phải được giải quyết
căn bản, đồng bộ trên cơ sở quy hoạch tổng thể giữa kinh tế trung ương với kinh
tế địa phương, giữa vùng và lãnh thổ.
- Thực hiện chế độ công ty trách nhiệm hữu hạn đối với DNNN giữ 100%
vốn. Tập trung giải quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà nước và DN theo hai hướng:
tìm hình thức thích hợp để thể chế hoá có hiệu quả quyền sở hữu của Nhà nước
và xác lập cơ chế thanh tra, kiểm soát có hiệu lực mà không gây khó khăn cho
DN. Thực chất, đây là giai đoạn đi vào hoàn thiện cơ chế quản lý DN, phân biệt
rõ chức năng của cơ quan đại diện quyền sở hữu với chức năng điều hành sản
xuất, kinh doanh của DN. Với mục đích vừa đáp ứng được yêu cầu của thị
trường, vừa đảm bảo vai trò định hướng của Nhà nước đối với nền kinh tế.
- Cải thiện môi trường sản xuất kinh doanh cho DNNN trên cả hai phương
diện: tạo vị thế chủ động cho DN để tạo sức mạnh cạnh tranh trên thương
trường, đồng thời xoá bỏ bao cấp để DN thực sự tự chủ, kinh doanh có hiệu quả;
58
đổi mới và lành mạnh hoá tài chính của DN.
- Đổi mới và hiện đại hoá một bước quan trọng công nghệ và quản lý của
đại bộ phận DNNN. Đầu tư phát triển và thành lập mới DNNN khi cần thiết và
nâng cao hiệu quả hoạt động của các Tổng công ty nhà nước…
Trong quá trình thực hiện đổi mới, sắp xếp lại các DNNN, kết quả cho
thấy là rất khả quan và tích cực, hiệu quả hoạt hoạt động của các DN được tăng
lên, nhất là đối với các DN cổ phần hoá. Sau đây là một số kết quả cụ thể:
Về số lượng DN: theo “Thông báo nội bộ” tháng 9 năm 2004 của Ban Tư
tưởng – Văn hoá Trung ương: việc sắp xếp, đổi mới DNNN, nhất là cổ phần hoá
DNNN trong thời gian qua có nhiều cố gắng, đầu năm 1992 cả nước có 12.000
DN, cuối năm 2000 còn 5.655 DN và đến cuối năm 2003 chỉ còn 4.296 DN.
Trong đó có 18 Tổng công ty “91”, 74 Tổng công ty “90” và đã có 1.557 DNNN
được cổ phần hoá. Đây là một nỗ lực lớn của Đảng, Nhà nước và các cấp, các
ngành trong thời gian vừa qua.
Về tổng số vốn: theo số liệu của Ban đổi mới và phát triển DNNN, tổng số
vốn của các DNNN khi tiến hành sắp xếp (2001) khoảng 160.000 tỷ VNĐ (hơn
10 tỷ USD), khi đánh giá lại số vốn cũng chỉ khoảng 190.000 tỷ VNĐ (không
tính giá đất). Trong đó, các DN có 100% vốn nhà nước là 135.000 tỷ VNĐ và
tập trung chủ yếu vào các Tổng công ty như: Dầu khí, Hàng không, Xi măng,
Sắt thép, Bưu chính viễn thông… riêng 18 Tổng công ty “91” đã nắm giữ trên
100.000 tỷ VNĐ. Như vậy, bình quân một DNNN (100% vốn) có khoảng 71 tỷ
VNĐ, có 480 DN có số vốn dưới 5 tỷ VNĐ (26,2%).
Cơ cấu DNNN bước đầu đã được điều chỉnh hợp lý hơn, quá trình tích tụ
và tập trung vốn đã được hình thành, một số DN đã đi vào đầu tư theo chiều sâu
như: Ngân hàng, Hàng không, Dầu khí, Bưu chính viễn thông… nhằm nâng cao
năng lực sản xuất và sức cạnh tranh trên thương trường.
Năm 2002, các DNNN đã đóng góp 39,5% giá trị sản lượng công nghiệp,
59
trên 50% kim ngạnh xuất khẩu và 39,2% ngân sách nhà nước.
Tuy nhiên, quá trình đổi mới chưa giải quyết được vấn đề hiệu quả, chất
lượng và sức cạnh tranh của DNNN. Hiện tại, các DNNN còn có những tồn tại
và khó khăn sau:
- Năm 2002 có 20% DN bị lỗ, 40% DN hoà vốn hoặc hoạt động cầm
chừng, 40% DN gọi là có lãi. Năm 2003 vẫn còn 13,5% DN bị lỗ, nhiều DN có
lãi hoặc hoà vốn chủ yếu là do chính sách tài chính của Nhà nước như: xoá nợ,
trợ cấp xuất khẩu, lãi suất ưu đãi…
- Sức cạnh tranh trong khu vực và quốc tế kém, nhiều mặt hàng, nhất là
đối với các hàng hoá nông, lâm, thuỷ sản còn kém hơn cả các DN ngoài quốc
doanh (xếp thứ 62/75 nước).
- Tài chính thiếu lành mạnh, sự tin cậy của các đối tác cũng như của nhân
dân ngày một giảm. Nợ quá hạn vẫn chiếm tỷ lệ cao, các DNNN chiếm 74,8%
tổng số nợ quá hạn của Ngân hàng thương mại quốc doanh.
Ngoài ra, Nhà nước vẫn còn sử dụng nhiều biện pháp để trợ giúp các DN
như: miễn giảm thuế, cho vay ưu đãi, xoá nợ, khoanh nợ… các cơ quan chức
năng vẫn còn can thiệp khá sâu vào DN mà không phải chịu trách nhiệm về vật
chất, đã làm ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động kinh doanh DN, thậm trí còn
tạo ra những cơ hội cho một số cán bộ quản lý DN tham ô, tham nhũng...
- Bộ máy quản lý còn cồng kềnh, thiếu năng động và kém hiệu quả. Tình
trạng lao động của nhiều DN dư thừa, trong khi đó lại thiếu lao động kỹ thuật và
cán bộ quản lý giỏi. Hiện tại, hệ thống pháp luật chưa tạo điều kiện để DNNN tự
giải quyết lao động dư thừa và thu hút lao động giỏi. Ngược lại, các Giám đốc
DNNN lại chịu sức ép khá lớn về lo thu nhập cho người lao động, đôi khi nhiệm
vụ này còn cấp bách hơn cả việc tạo ra nhiều lợi nhuận.
- Tình trạng công nghệ, thiết bị kỹ thuật đã cũ lại chắp vá, từ nhiều nguồn
khác nhau, đã đặt DNNN vào tình thế khó khăn. Nếu không có giải pháp thích
hợp về vấn đề này thì các DN vẫn chưa thể phát triển mạnh, chưa thể cạnh tranh
60
có hiệu quả trong thương trường hiện nay.
Tóm lại, việc đổi mới các DNNN trong thời gian qua đã đạt được những
kết quả rất quan trọng, song về cơ bản vẫn còn đang ở trong quá trình đổi mới.
Khó khăn nhất đối với các DNNN hiện nay là hiệu quả, chất lượng và sức cạnh
tranh thì vẫn đang còn ở phía trước, đòi hỏi các DN vẫn phải tiếp tục sắp xếp,
đổi mới để vươn lên.
2.2. Thực trạng hoạt động thanh tra nhà nước đối với các DNNN
2.2.1. Tình hình thanh tra các DNNN trong thời gian qua
Sau một thời gian sắp xếp, đổi mới DNNN, tính đến nay số lượng DNNN
đã giảm đáng kể nhưng vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế quốc dân.
Cho nên, hoạt động thanh tra các DNNN là một nhiệm vụ trọng tâm, chủ yếu
của các cơ quan Thanh tra Nhà nước. Vì vậy, kết quả hoạt động thanh tra các
DNNN cũng chiếm phần lớn trong kết quả chung của các cơ quan thanh tra.
Hơn nữa, trong cơ cấu tổ chức của các cơ quan thanh tra nhà nước không tách
thanh tra doanh nghiệp hay DNNN thành một bộ phận riêng (trừ Thanh tra Bộ
tài chính có Phòng thanh tra Doanh nghiệp), nên việc xem xét, đánh giá tình
hình hoạt động thanh tra các DNNN được gắn với kết quả chung của các cơ
quan Thanh tra Nhà nước.
Hàng năm, toàn ngành thanh tra đã tiến hành khoảng trên dưới mười
ngàn cuộc thanh tra về kinh tế xã hội, tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực như: tài
chính, ngân hàng, điện lực, xăng dầu, bưu chính viễn thông, xi măng sắt thép và
các chương trình, dự án… qua đó đã phát hiện được nhiều sai phạm, đưa ra
những giải pháp kiến nghị sửa chữa, khắc phục. Sau đây là một số cuộc thanh tra
điển hình:
- Năm 1996-1997 và 2001: tiến hành thanh tra diện rộng về tín dụng ngân
hàng, đã phát hiện được những vi phạm, hạn chế của ngành và đưa ra những
kiến nghị về chấn chỉnh công tác quản lý, góp phần hạn chế những ảnh hưởng
61
của cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ trong khu vực.
- Năm 1997: thanh tra diện rộng về hoạt động sản xuất kinh doanh của
ngành điện lực, đã đưa ra nhiều kiến nghị thiết thực để chấn chỉnh quản lý, nâng
cao chất lượng sản xuất và phục vụ của ngành điện.
- Năm 1997-1998: tiến hành thanh tra diện rộng các chương trình dự án
đầu tư cho phát triển nông nghiệp và nông thôn, giúp Chính phủ và Quốc hội có
những nhận xét, đánh giá đúng về việc thực hiệc các chương trình dự án, đề xuất
các giải pháp thích hợp để quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư
- Năm 2002-2003: thanh tra diện rộng đầu xây dựng cơ bản, đã kiến nghị,
chấn chỉnh và cải tiến bộ máy quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, đổi mới phương
pháp và cách thức tổ chức đấu thầu, chọn thầu, tổ chức thi công, đặc biệt là công
tác giám sát thi công… đã góp phần tạo nên sự chuyển biến tích cực trong quản
lý nhà nước về đầu tư xây dựng từ Trung ương đến địa phương.
- Trong năm 2003, qua kết quả tổng hợp của của 57 tỉnh, thành phố và 21
Bộ, ngành đã tiến hành 11.243 cuộc thanh tra ở tất cả các lĩnh vực như: đầu tư
xây dựng cơ bản, tài chính ngân sách, tín dụng ngân hàng, thanh tra việc chấp
hành chính sách, pháp luật của các DN…
Kết quả của 10.133 cuộc thanh tra đã kết thúc, phát hiện sai phạm về kinh
tế là 4.400 tỷ đồng (có 2.285 tỷ đồng tiền thuế); trên 26,5 triệu USD, 1.780 tấn
lương thực, trên 31 ngàn ha đất đai và nhiều tài sản có giá trị khác. Đã kiến nghị
và thu hồi được 2.099 tỷ đồng, 1.712 tấn lương thực và trên 34 ha đất đai.
Qua thanh tra đã kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý
kỷ luật hành chính đối với 1.125 cán bộ, công chức; chuyển hồ sơ sang cơ quan
điều tra 56 vụ với 77 đối tượng có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự và cũng
đã có nhiều kiến nghị về việc sửa đổi, hoàn chỉnh cơ chế quản lý…
- Riêng Phòng thanh tra Doanh nghiệp, trong hai năm 2003 và 2004 đã
thanh tra 6 Tổng công ty Nhà nước, đã phát hiện các sai phạm chủ yếu trong
công tác quản lý tài chính doanh nghiệp như sau:
62
+ Quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản
Việc lập, thẩm định và phê duyệt thiết kế, dự toán chưa thực hiện đúng
quy định: dự toán còn trùng lắp khối lượng, tăng không đúng ở TCT Giấy 879
triệu đồng, TCT Dệt may 11,7 tỷ đồng; không tiến hành thẩm định dự toán TCT
Giấy 9,7 tỷ đồng, TCT Dệt may 103,3 tỷ đồng; khối lượng phát sinh không được
cấp có thẩm quyền phê duyệt TCT Giấy 3,8 tỷ đồng, TCT Dệt may 2,3 tỷ đồng.
Nhiều dự án kéo dài, chi phí phát sinh lớn, công trình đưa vào sử dụng
hiệu quả thấp:
TCT Giấy: dự án đầu tư dây truyền sản xuất giấy bao gói công nghiệp 25
ngàn tấn/ năm chậm 28 tháng, làm phát sinh lãi và chênh lệch tỷ giá phải tăng
mức đầu tư từ 412 tỷ đồng lên 582 tỷ đồng. Dự án đầu tư dây truyền sản xuất
giấy tráng phấn 45 ngàn tấn/năm chậm 12 tháng phát sinh thêm chi phí 10,5 tỷ
đồng.
TCT Dệt may: dự án do công ty dệt may Thắng Lợi làm chủ đầu tư tăng
chi phí 9,085 tỷ đồng; một số dự án mới hoàn thành đưa vào sử dụng hiệu quả
thấp chỉ đạt từ 23% đến 68% công suất.
Thanh quyết toán khối lượng chưa đúng chế độ: TCT Giấy 511 triệu
đồng, TCT Dệt may quyết toán vượt khối lượng không đúng đơn giá bỏ thầu
với số tiền 1,1 tỷ đồng.
+ Quản lý vốn và tài sản
Quản lý công nợ còn nhiều yếu kém, các khoản phải thu khó đòi dẫn đến
mất vốn hoặc dây dưa chiếm dụng vốn của nhau. Số công nợ khó có khả năng
thu hồi đến 31/12/2002 tại 4 Tổng công ty được thanh tra (TCT Thuốc lá, Xây
dựng công nghiệp, Giấy và Dệt may) lên tới 76,6 tỷ đồng.
Phần lớn các đơn vị được thanh tra đều báo cáo thiếu công nợ phải thu,
hạch toán không đúng công nợ phải trả: TCT Dệt may 9,2 tỷ đồng, TCT Thuốc
lá 8,6 tỷ đồng, TCT Giấy 451 triệu đồng. TCT Xây dựng CN 88,9 tỷ đồng.
Quản lý công nợ nội bộ tại một số đơn vị chưa tốt, tạm ứng dây dưa kéo
dài: TCT XD Công nghiệp tạm ứng vốn thi công cho các tổ, đội thi công từ năm
63
1995 đến năm 2002 chưa hoàn ứng số tiền 11,4 tỷ đồng; ứng vốn vượt khối
lượng thực tế thi công, thiếu kiểm tra giám sát nên một số cá nhân đã chiếm
dụng vốn của Nhà nước 5,1 tỷ đồng.
Quản lý nguyên vật liệu thiếu chặt chẽ, Nhà máy thuốc lá Vĩnh Hội chưa
xây dựng định mức hao hụt nguyên vật liệu, nên không có căn cứ xử lý số
nguyên vật liệu hao hụt trị giá 3,8 tỷ đồng. CTy Giấy Bãi Bằng hao hụt định
mức 6,5 tỷ đồng nhưng chưa xác định được nguyên nhân hao hụt. TCT Xây
dựng CN hàng hoá vật tư đã xuất dùng nhưng vẫn báo cáo tồn kho 36,5 tỷ đồng.
+ Báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh thiếu chính xác
Qua thanh tra thấy hầu hết các đơn vị đều báo cáo không chính xác kết
quả sản xuất kinh doanh, thiếu doanh thu và thu nhập, tập hợp chi phí không đầy
đủ. TCT Xây dựng CN 8/9 đơn vị được thanh tra báo cáo thiếu doanh thu và thu
nhập 41,1 tỷ đồng, thiếu chi phí 36,1 tỷ đồng. Một số doanh nghiệp khác báo
cáo thiếu doanh thu bán hàng, các khoản thu nhập khác như tiền hỗ trợ của các
hãng nước ngoài, chênh lệch tỷ giá, các khoản thu nhập do thanh lý nhượng bán
tài sản: TCT Thuốc lá báo cáo thiếu thu nhập 19,3 tỷ đồng, TCT Dệt may 4,4 tỷ
đồng.
Do báo cáo không chính xác kết quả sản xuất kinh doanh đã dẫn đến việc
xác định và kê khai thiếu các khoản thu nộp NSNN. Tại các Tổng công ty được
thanh tra đã kê khai và nộp thiếu các loại thuế là 10,5 tỷ đồng và 117.471 USD.
+ Một số vấn đề chưa có cơ chế điều chỉnh hoặc văn bản chế độ chưa phù
hợp với thực tế như: nguyên vật liệu tiết kiệm của ngành Dệt may, thuế đối với
các nhà thầu nước ngoài…
Trong quá trình xây dựng và phát triển, hoạt động thanh tra các DNNN đã
đóng góp một phần quan trọng vào kết quả chung của toàn ngành thanh tra và
được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau:
- Xác định đúng vị trí, vai trò của hoạt động thanh tra các DNNN trong
công tác thanh tra và quản lý nhà nước về kinh tế. Kể từ ngày thành lập nước
đến nay, thanh tra luôn luôn được xác định là một chức năng thiết yếu, một công
64
cụ quan trọng của các cơ quan quản lý nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường,
nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu là quản lý vĩ mô, nhà nước dùng chính
sách, pháp luật và các công cụ như: tài chính, ngân hàng, thuế, thanh tra… để
tác động vào nền kinh tế, điều khiển các DN, các thành phần kinh tế theo định
hướng của Nhà nước. Đồng thời cũng thông qua chính sách, pháp luật, thông
qua những công cụ này để nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích của các doanh
nghiệp, làm cho các doanh nghiệp yên tâm trong kinh doanh và kinh doanh có
hiệu quả, đúng pháp luật. Mặt khác, các DNNN được đánh giá cao và xếp vào vị
trí hàng đầu của các doanh nghiệp trong nền kinh tế và nó là lực lượng vất chất
chủ yếu để nhà nước định hướng và quản lý vĩ mô nền kinh tế. Vì vậy, hoạt
động thanh tra các DNNN được xác định là một nội dung chủ yếu, một nhiệm
vụ trọng tâm của các cơ quan thanh tra và nó có một vị trí, vai trò rất quan trọng
trong công tác quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước về kinh tế nói
riêng. Hàng năm các cơ quan thanh tra đã thực hiện hàng ngàn cuộc thanh tra
kinh tế-xã hội trên mọi lĩnh vực, ngành nghề và thu hồi hàng ngàn tỷ đồng về
cho nhà nước, các tổ chức và cá nhân. Năm 1995 đã thực hiện 9.542 cuộc thanh
tra, thu hồi 788 tỷ đồng; năm 1999 là 10.428 cuộc thanh tra, thu hồi 877 tỷ
đồng… (xem biểu 2).
- Từng bước xây dựng, củng cố và hoàn thiện các cơ quan thanh tra từ
Trung ương đến địa phương, thực hiện tốt chức năng thanh tra và thanh tra các
DNNN. Hệ thống thanh tra được thiết lập dựa trên nguyên tắc: ở đâu có quản lý
nhà nước thì ở đó có cơ quan thanh tra. Cho đến nay, về cơ bản tất cả các Bộ,
ngành, UBND các cấp và các Sở, ban ngành địa phương đều thành lập cơ quan
thanh tra. Theo số liệu của cơ quan Thanh tra Nhà nước, hiện nay có khoảng 30
cơ quan Thanh tra bộ, ngành ở trung ương; 64 cơ quan Thanh tra tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương và trên 1.300 cơ quan Thanh tra sở và Thanh tra quận,
huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh [14, tr.65].
Theo Luật Thanh tra, bắt đầu từ ngày 01 tháng 10 năm 2004, các cơ quan
thanh tra nhà nước được tổ chức thành hai loại cơ quan: thanh tra theo cấp hành
65
chính và theo ngành, lĩnh vực. Các cơ quan thanh tra theo cấp hành chính gồm
có: Thanh tra Chính phủ; Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và
Thanh tra huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Các cơ quan thanh tra theo
ngành, lĩnh vực gồm có: Thanh tra bộ, cơ quan ngang bộ (cơ quan thuộc Chính
phủ có chức năng quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực cũng được thành lập
cơ quan thanh tra như đối với Thanh tra bộ) và Thanh tra sở. Các cơ quan thanh
tra vẫn tổ chức theo nguyên tắc song trùng lãnh đạo, tức chịu sự chỉ đạo trực tiếp
của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp và sự chỉ đạo, hướng dẫn về
công tác, tổ chức và nghiệp vụ của Thanh tra Chính phủ và của cơ quan thanh
tra cấp trên. Đối với các cơ quan thanh tra theo cấp hành chính nhiệm vụ chủ
yếu là thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của các cơ quan
hành chính nhà nước cấp dưới. Các cơ quan thanh tra theo ngành, lĩnh vực có
hai chức năng là thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành. Về chức năng
thanh tra hành chính cũng như các cơ quan thanh tra hành chính, còn chức năng
thanh tra chuyên ngành thì thanh tra việc chấp hành pháp luật chuyên ngành của
các cơ quan, tổ chức và cá nhân trong phạm vi quản lý nhà nước của Thủ trưởng
cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp. Với mô hình tổ chức và sự phân cấp như
trên, các cơ quan thanh tra nhà nước đã chú trọng đến việc thanh tra chính ngay
các cơ quan quản lý hành chính nhà nước, nhằm làm trong sạch bộ máy nhà
nước và giảm thiểu các cơ quan có thẩm quyền thanh tra vào một cơ quan, đơn
vị hay DN. Với cách tổ chức như vậy, sẽ khắc phục được sự chồng chéo trong
hoạt động thanh tra trước đây, nhất là đối với thanh tra các DN và DNNN. Như
vậy, chủ thể thanh tra các DNNN bây giờ chủ yếu là thuộc về các cơ quan thanh
tra chuyên ngành thực hiện, tức Thanh tra bộ và Thanh tra sở.
- Xây dựng một đội ngũ cán bộ, công chức thanh tra đáp ứng được những
yêu cầu cơ bản của công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của các cấp, các ngành.
Tính đến tháng 12 năm 2003, toàn ngành thanh tra có 9.900 người, trong đó:
khối trung ương (gồm Thanh tra Nhà nước, Thanh tra các Bộ ngành) có 2.703
người; khối địa phương (gồm Thanh tra cấp tỉnh, thành phố; Thanh tra cấp
66
quận, huyện và Thanh tra sở) có 7.197 người. Về trình độ chuyên môn, số người
có trình độ đại học là 6.582 người, trên đại học là 91 người, cao đẳng là 425
người, trung cấp là 1.251 người và số người chưa qua đào tạo chuyên môn là
1.359 người, chiếm 13,9%. Về trình độ lý luận chính trị có 4.354 người đã được
đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị ở các cấp độ khác nhau, bằng 44,8%. Về
kiến thức quản lý hành chính nhà nước đã có 3.105 người được học, bằng
31,9%. Về trình độ ngoại ngữ có 3.330 người có trình độ bằng A trở lên và chủ
yếu là tiếng Anh, bằng 34,3%. Kiến thức tin học có 1.961 người với các cấp độ
khác nhau, bằng 20,1%. Về nghiệp vụ thanh tra có 5.849 người được bồi dưỡng
về nghiệp vụ công tác thanh tra ở các cấp độ khác nhau, bằng 60,2%. Trong tổng
số cán bộ, công chức của ngành thanh tra hiện nay đã có 5.421 người được
phong Thanh tra viên các cấp, bằng 55,8%; trong đó: Thanh tra viên cao cấp là
94 người, bằng 1,7%; Thanh tra viên chính là 1.058 người, bằng 19,5%; Thanh
tra viên là 4.269 người, bằng 78,8% (xem biểu 1).
Biểu 1. Số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ công chức thanh tra (1995 - 2004)
Tổng
Trung
Địa
ĐH
TTV
Chính
Q.lý
Tin
Số lượng Chất lượng
số
ương
phương
trở lên
các cấp
trị
NN
học
Năm Ghi chú
1995 7.940 2.095 5.845 55,0% 63,2% - - -
1998 8.964 2.100 6.864 60,0% 59,0% - - -
3200
1999 9.565 2.485 7.080 65,4% 54,4% 2350 2689 -
67
2003 9.900 2.703 7.197 80,0% 54,6% 2458 3300
3225 Đến tháng
6/2004
2004 9920 2780 7140 80,4% 57,9% 2470 3377
Đội ngũ cán bộ, công chức thanh tra hiện nay không chỉ đông về số lượng
mà còn từng bước nâng cao về chất lượng, số người có trình độ đại học và trên
đại học ngày một tăng, số người được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về Nhà nước
pháp luật, về Quản lý hành chính nhà nước, về Quản lý kinh tế và Nghiệp vụ
thanh tra… cũng ngày một tăng lên.
Ngoài ra, việc tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí và sử dụng cán bộ,
công chức thanh tra hiện nay cũng luôn luôn được các cấp, các ngành và các cơ
quan thanh tra quan tâm đúng mức và từng bước tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ,
công chức thanh tra, phù hợp với yêu cầu đòi hỏi của quá trình xây dựng và phát
triển đất nước. Về chế độ chính sách đãi ngộ cũng đã được Đảng và Nhà nước
quan tâm hơn, chế độ tiền lương từng bước được cải thiện phù hợp với tình hình
phát triển kinh tế xã hội, cơ sở vất chất và phương tiện làm việc ngày một bảo
đảm và hiện đại hơn.
Như vậy, ngành thanh tra hiện nay đã xây dựng được một đội ngũ cán bộ
đông đảo từ trung ương đến địa phương, có lòng nhiệt tình, yêu nghề, có tinh
thần trách nhiệm, tận tuỵ với công việc, có đầy đủ năng lực và phẩm chất, đáp
ứng những yêu cầu cơ bản của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
- Xác định được nội dung cơ bản của hoạt động thanh tra các DNNN
trong hoạt động thanh tra. Hàng năm, các cơ quan Thanh tra Nhà nước đã tổ
chức hàng ngàn cuộc thanh tra trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Riêng về
thanh tra kinh tế - xã hội, năm 1995 toàn ngành đã tổ chức tiến hành 9.542 cuộc
thanh tra, năm 1996 đã thực hiện được 6.131 cuộc, năm 1997 đã thực hiện được
9.733 cuộc, năm 1999 đã thực hiện được 10.428 cuộc, năm 2002 đã thực hiện
được 9.633 cuộc… (xem biểu 2). Trong đó tập trung chủ yếu vào các Công ty,
68
Tổng công ty nhà nước ở các lĩnh vực quan trọng, then chốt như: Tài chính,
Ngân hàng, điện lực, dầu khí, bưu chính viễn thông, xi măng, sắt thép… Đối với
các DNNN, ngoài việc thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật nói chung;
nội dung của các cuộc thanh tra đã tập trung chủ yếu vào việc thực hiện nhiệm
vụ, kế hoạch hay đơn đặt hàng của Nhà nước; quá trình giao nhận vốn, quản lý,
sử dụng và bảo toàn vốn; quản lý doanh thu và chi phí; kết quả hoạt động sản
xuất kinh doanh và phân phối lợi nhuận; việc thực hiện nghĩa vụ đối với nhà
nước và người lao động… trong đó đặc biệt chú ý tới nội dung thanh tra tài
chính của các DNNN.
- Về phương thức thanh tra, các cơ quan thanh tra chủ yếu tập trung vào
hình thức hậu kiểm; tức chủ yếu kiểm tra, xem xét đánh giá kết quả của việc tổ
chức thực hiện các chương trình, dự án hay quyết định sản xuất kinh doanhcủa
các DN. Đây là hình thức thanh tra chủ yếu, cơ bản của các cơ quan thanh tra
đối với các doanh nghiệp và DNNN hiện nay. Mặt khác, khi tiến hành các cuộc
thanh tra các cơ quan thanh tra phần lớn tập trung vào các cuộc thanh tra theo
chương trình kế hoạch.
Trong những năm gần đây, để phục vụ cho yêu cầu chỉ đạo, điều hành,
quản lý kinh tế vĩ mô của Chính phủ các cơ quan Thanh tra Nhà nước đã chú ý
tập trung vào các cuộc thanh tra diện rộng: năm 1996 thanh tra về tín dụng, ngân
hàng; năm 1997 thanh tra về sản xuất kinh doanh ngành điện và quản lý giá điện
nông thôn; năm 1997-1998 thanh tra các chương trình dự án đầu tư cho nông
nghiệp và phát triển nông thôn; năm 1998-1999 thanh tra việc chấp hành pháp
luật ở xã, phường, thị trấn theo 5 nội dung (ngân sách, đất đai, huy động sức
dân, xây dựng cơ bản và tài chính hợp tác xã); năm 2000 hoàn thành thanh tra
về thực hiện chế độ chính sách đối với người có công; năm 2001 thanh tra, kiểm
tra về quản lý và sử dụng đất đai tín dụng ngân hàng; năm 2002 thanh tra đầu
xây dựng cơ bản [14, tr.60-62]. Qua các cuộc thanh tra này đã đánh giá được
nhiều vấn đề về chủ chương, chính sách, về quá trình tổ chức thực hiện và kết
quả thực hiện; nhằm đáp ứng, phục vụ kịp thời cho công tác chỉ đạo, điều hành,
69
quản lý vĩ mô của Nhà nước. Về phương pháp thanh tra, các cơ quan thanh tra
đã xác lập và từng bước hoàn thiện về trình tự, thủ tục hay quy trình thanh tra và
cách thức sử dụng các biện pháp nghiệp vụ sao cho có hiệu quả trong quá trình
thanh tra.
Tóm lại, về hình thức thanh tra, các cơ quan thanh tra đã căn cứ vào yêu
cầu của mỗi giai đoạn cách mạng, vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, cũng như nội
dung và tính chất của từng cuộc thanh tra để lựa chọn hình thức thanh tra các
DNNN cho thích hợp. Về phương pháp thanh tra cũng rất mền dẻo và linh hoạt,
biện pháp cũng rất cụ thể và thực tế; bảo đảm được tính khách quan, công khai,
dân chủ và kịp thời. Qua kết quả khảo sát cho thấy, có trên 90% doanh nghiệp
hoàn toàn đồng ý với kết luận của thanh tra và 80% ý kiến khẳng định thanh tra
không gây phiền hà cho doanh nghiệp, mà trái lại đã hướng dẫn, giúp đỡ doanh
nghiệp hoạt động đúng pháp luật, kinh doanh có hiệu quả. Biện pháp xử lý sau
thanh tra cũng ngày một nghiêm minh, kiên quyết và triệt để hơn
- Xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về thanh tra,
thanh tra các DN và DNNN. Thông qua các cuộc thanh tra, các cơ quan thanh
tra đã thấy được những thiếu sót, bất cập trong cơ chế, chính sách, pháp luật và
trong công tác quản lý các DNNN… đã kiến nghị với các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền điều chỉnh, bổ sung, khắc phục kịp thời những khiếm khuyết đó,
từng bước hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật để tạo ra những điều kiện và
môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp và DNNN phát triển.
Trong quá trình thực hiện Pháp lệnh Thanh tra và các văn bản pháp luật khác,
các cơ quan thanh tra cũng như các DN đã nhận thấy những tồn tại, hạn chế của
các văn bản này như: hiện tượng thanh tra chồng chéo, thời gian thanh tra quá
dài (xem biểu 3, 5), đã làm ảnh hưởng không nhỏ tới tâm lý và quá trình sản
xuất, kinh doanh của các DN; Năm 1995 các cơ quan thanh tra đã kiến nghị với
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền 3.608 kiến nghị, năm1996 có 2.100 kiến
nghị, năm 1997 có 7.030 kiến nghị, năm 1998 có 10.538 kiến nghị để kịp thời
điều chỉnh, bổ xung và ban hành các văn bản mới cho phù hợp [32]. Ngày 15
70
tháng 8 năm 1998 Chính phủ đã ban hành Nghị định 61/1998/ NĐ-CP, về công
tác thanh tra, kiểm tra các doanh nghiệp. Đây là lần đầu tiên chúng ta đã có một
văn bản pháp luật riêng để điều chỉnh về hoạt động thanh tra, kiểm tra các DN.
Sau khi văn bản này được ban hành công tác thanh tra, kiểm tra các DN và
DNNN đã có nhiều tiến bộ, đi vào nề nếp và có hiệu quả hơn. Trước yêu cầu đòi
hỏi của nền kinh tế thị trường, của công tác quản lý nhà nước nói chung và hoạt
động thanh tra nói riêng, các quy định của Pháp lệnh Thanh tra cũng như các
văn bản hướng dẫn khác không còn thích hợp. Vì vậy, ngày 15 tháng 6 năm
2004 Luật Thanh tra đã được Quốc hội thông qua. Đây là một văn bản pháp lý
cao nhất của ngành Thanh tra từ trước đến nay, nội dung của luật đã kế thừa,
phát huy những ưu điểm, những quy định còn phù hợp và loại bỏ, khắc phục
những bất cập, hạn chế của các văn bản trước. Luật Thanh tra ra đời, nó đã điều
chỉnh một cách toàn diện cả về tổ chức lẫn hoạt động của các cơ quan Thanh tra
Nhà nước; đồng nó cũng mở ra một triển vọng lớn đối ngành thanh tra nói
chung và hoạt động thanh tra các DNNN nói riêng…
Thông qua ý kiến của các nhà doanh nghiệp cũng như của bạn bè quốc tế
đều có nhận xét, đánh giá chung là cơ chế, chính sách, pháp luật của chúng ta đã
từng bước được hoàn thiện, các quy định đã có nhiều đổi mới, cởi mở và thông
thoáng hơn, hiệu quả hơn… đã thu hút được các nhà đầu tư trong nước và ngoài
nước đến kinh doanh tại Việt Nam, đẩy nhanh tốc độ phát triển của nền kinh tế
quốc dân.
- Kết quả về thanh tra kinh tế-xã hội của toàn ngành thanh tra trong
những năm qua, trong đó có thanh tra các DNNN.
Theo số liệu từ các báo cáo của cơ quan Thanh tra Nhà nước, các cuộc
thanh tra đã phát hiện hàng ngàn tỷ đồng sai phạm các loại và kiến nghị với các
Số tiền sai phạm
Số cán bộ vi phạm
71
Biểu 2. Kết quả hoạt động thanh tra KT-XH toàn ngành thanh tra (1995 - 2004)
T.Số
Kiến
Chuyển
Năm
cuộc
Phát
nghị
Đã thu
%
Kiến
Đã xử
%
cơ
T.tra
hiện
xử lý
hồi
nghị
lý
quan
điều tra
1995 9.542 2.235 1.927 788 40,9 3.511 2.215 63,1 443
1996 6.131 2.576 2.184 991 45,4 2.538 1.664 65,6 1.553
1997 9.733 1.729 1.172 534 45,6 4.419 1.758 39,8 659
1998 1.305 - 2.479 693 27,9 6.715 5.972 88,9 596
1999 10.428 1.112 - 877 - 4.991 1.468 29,4 276
2001 7.369 1.488 1.279 798 62,4 - 1.653 181 -
2002 9.633 2.739 1.625 883 54,3 2.815 242 - -
Quí 1,2
2003 10.133 4.400 3.576 2.099 58,7 1.125 77 - -
2004
3.676 539 320 173 54,1 693 44 - -
Ghi chú: - Đơn vị tính: tỷ đồng VN;
- Chưa tính ngoại tệ và các tài sản khác; - Theo số liệu từ các báo cáo hàng năm của cơ quan Thanh tra Nhà nước. Biểu 3. Kết quả hoạt động thanh tra KT-XH Thanh tra TP. Cần Thơ (2001 - 2003)
Số tiền sai phạm
Số cán bộ vi phạm
T.Số
Chuyển
Kiến
Kiến
Năm
cuộc
cơ
Phát
nghị
Đã thu
%
nghị
Đã xử
%
T.tra
quan
hiện
xử lý
hồi
xử lý
lý
điều tra
10 vụ - 2001 201 9.363 8.030 1.836 22,9 28 -
4 vụ - 2002 227 16.304 12.812 1.612 12,6 57 -
4 vụ - 2003 220 21.124 18.050 4.566 25,3 43 -
Ghi chú: - Đơn vị tính: triệu đồng VN;
- Chưa tính ngoại tệ và các tài sản khác; - Theo số liệu từ các báo cáo hàng năm của Thanh tra TP. Cần Thơ
72
cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi về cho nhà nước, các cơ quan, tổ chức
và cá nhân hàng trăm tỷ đồng và nhiều tài sản có giá trị khác. Đồng thời, đã có
hàng ngàn kiến nghị với các cơ quan nhà nước điều chỉnh, bổ xung, sửa đổi
chính sách, pháp luật và cơ chế quản lý; kiến nghị xử lý kỷ luật hàng ngàn cán
bộ, công chức đã có hành vi vi phạm và chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra
hàng trăm trường hợp để xử lý theo pháp luật hình sự; làm trong sạch bộ máy
nhà nước và đội ngũ cán bộ quản lý của các DN (xem biểu 2, 3).
2.2.3. Những vấn đề đang đặt ra cho ngành Thanh tra
- Về mục đích hoạt động thanh tra các DNNN
Trong các văn bản pháp luật về thanh tra đã xác định rõ mục đích của hoạt
động thanh tra là: “nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm
pháp luật; phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để
kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục; phát
huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản
lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức, cá nhân” [14, tr.198]. Điều 1 của Nghị định 61/1998/NĐ-CP
ngày 15 tháng 8 năm 1998 của Chính phủ về công tác thanh tra, kiểm tra đối với
các doanh nghiệp, cũng nêu rõ mục đích của hoạt động thanh tra các doanh
nghiệp là nhằm: “giúp các cơ sở sản xuất, kinh doanh hoạt động đúng pháp
luật, có hiệu quả; tăng cường pháp chế trong hoạt đông sản xuất kinh doanh,
góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý; bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của các cơ sở sản xuất, kinh doanh”. Nhưng chưa có văn bản nào đề
cập cụ thể đến mục đích của hoạt động thanh tra các DNNN, mặc dù đây là một
trong những nội dung chủ yếu, nhiệm vụ trọng tâm của các cơ quan Thanh tra
Nhà nước. Trong Luật doanh nghiệp nhà nước cũng chỉ mới đề cập: “Thanh tra,
kiểm tra việc thực hiện pháp luật, chính sách, chế độ của Nhà nước tại các công
ty nhà nước” [13, tr.48]. Hơn nữa, các DNNN hiện nay là một bộ phận chủ yếu,
quan trọng của kinh tế nhà nước nên Nhà nước không thể chỉ quản lý nó như các
73
DN khác mà phải quản lý nó với tư cách là chủ sở hữu của DN. Vì vậy, Nhà
nước phải thanh tra, kiểm soát, quản lý nó chặt chẽ hơn, cụ thể hơn và mục đích
cũng phải rõ ràng hơn… Nhưng trong thực tế hiện nay, mục đích của hoạt động
thanh tra các doanh nghiệp cũng như các DNNN vẫn còn mang tính chất vụ việc
hay xử lý tình huống hơn là phòng ngừa, ngăn chặn và chưa thật sự quan tâm
đúng mức tới mục đích cụ thể của hoạt động thanh tra các DNNN và yêu cầu
của công tác quản lý vĩ mô nền kinh tế.
- Về chủ thể thanh tra các DNNN
Theo các văn bản pháp luật, trong thời gian vừa qua có nhiều cơ quan nhà
nước có thẩm quyền thanh tra, kiểm tra các DN và DNNN (Chính phủ, các Bộ,
sở ngành, UBND các cấp và các cơ quan Thanh tra Nhà nước). Các cơ quan
thanh tra có nhiệm vụ “thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ,
kế hoạch”; Viện kiểm sát nhân dân các cấp “kiểm sát việc tuân theo pháp luật”;
các cơ quan Công An tổ chức các “hoạt động trinh sát, tiền điều tra, xử lý tin
báo tội phạm”; còn các cơ quan thanh tra chuyên ngành thì thanh tra “việc chấp
hành pháp luật, những quy định về chuyên môn kỹ thuật, các quy tắc quản lý
của ngành”. Ngoài ra, các cơ quan quản lý nhà nước các cấp, các ngành khi cần
thiết cũng có quyền thanh ra, kiểm tra các DN theo thẩm quyền quản lý của
mình. Vì vậy, tất yếu sẽ dẫn đến trùng lắp về nội dung hoặc thời gian thanh tra
và cũng sẽ có thể có nhiều chủ thể cùng đến thanh tra một DN. Theo kết quả
khảo sát cho thấy: có 28/167 DN có các đoàn thanh tra, kiểm tra trùng lặp và số
lượng các đoàn có nội dung trùng lặp là 28 đoàn; trong đó: nội dung tài chính có
tới 9 chủ thể có thẩm quyền thanh tra, kiểm tra; về lao động có 6 chủ thể; về môi
trường có 5 chủ thể… có 70% ý kiến của các DN khẳng định có sự chồng chéo
giữa cơ quan thanh tra với các cơ quan khác như: Công An, Kiểm toán, An ninh
kinh tế… Cho nên, hàng năm mỗi DN có thể phải chịu nhiều cuộc thanh tra của
các cơ quan thanh tra hoặc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong số 167
DN được điều tra, có 28 DN không có cuộc thanh tra, kiểm tra nào, 33 DN có 1
cuộc, 29 DN có 2 cuộc, 33 DN có từ 5 đến 9 đoàn, 10 DN có tới 10 đoàn… đặc
74
biệt là theo số liệu của Tổng công ty thuốc lá Việt Nam, nhà máy Thuốc lá
Thăng Long có tới 28 đoàn thanh tra, kiểm tra trong một năm (xem biểu 4) [39,
tr.7].
Biểu 4. Bảng thống kê mật độ các đoàn thanh tra, kiểm tra vào các DNNN (1996-2000)
S Ghi chú
Mật độ đoàn thanh tra, kiểm tra vào doanh nghiệp TT Số lượng DN
1 DN không có đoàn nào vào 28
2 DN có 1 đoàn vào 33
3 DN có 2 đoàn vào 29
4 DN có 3 đoàn vào 24
5 DN có 4 đoàn vào 10
6 DN có 5 đến 9 đoàn vào 33
7 DN có 10 đến 15 đoàn vào 7
Cá biệt nhà máy Thuốc lá Thăng Long có 28 đoàn.
8 DN có từ 16 đoàn trở lên 3
Cộng: 167
Thông qua các số liệu trên cho thấy, mặc dù đã có Nghị định
61/1998/NĐ-CP của Chính phủ về công tác thanh tra, kiểm tra các doanh
nghiệp, các cơ quan Thanh tra Nhà nước đã chủ động phối hợp với các cơ quan
chức năng để xây dựng chương trình kế hoạch thanh tra, sự chồng chéo trong
hoạt động thanh tra các DN và DNNN đã giảm đáng kể. Song, thực tế thời gian
qua hoạt động thanh tra, kiểm tra vẫn còn chồng chéo, bất hợp lý, gây lên những
phản ứng của các DN và dư luận xã hội đối với ngành thanh tra.
- Về đối tượng thanh tra
Các DNNN là được xem đối tượng chính, đối tượng chủ yếu của hoạt
động thanh tra; nhưng còn việc thanh tra, kiểm tra trách nhiệm các cơ quan nhà
75
nước hay các cá nhân có thẩm quyền quản lý các DNNN thì hầu như ít được
xem xét. Thực tế, rất ít khi các cơ quan thanh tra nhà nước tổ chức một cuộc
thanh tra độc lập, để xem xét chức trách, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước
hay các cá nhân có thẩm quyền trong việc thực hiện nhiệm vụ quản lý các
DNNN. Việc xem xét chức trách, nhiệm vụ của các cán bộ, công chức thường
chỉ được tiến hành khi đã phát hiện DN có sự vi phạm chính sách, pháp luật, vi
phạm các chế độ quy định của Nhà nước… Việc xem xét chức trách, nhiệm vụ
của họ trong công tác quản lý các DN và DNNN lúc này chỉ với tư cách là trách
nhiệm liên đới hay là cơ quan có liên quan, chứ không phải là đối tượng chính
của cuộc thanh tra. Vì vậy, trong hoạt động thanh tra nói chung và thanh tra các
DNNN nói riêng, các cơ quan Thanh tra Nhà nước mới chỉ tập trung vào các DN
và DNNN mà chưa chú ý tới người “cầm cân, nẩy mực”, nơi “có quyền, có
tiền”, nơi mà cũng rất dễ phát sinh tham ô, tham nhũng… đó là các cơ quan nhà
nước, các cơ quan có trách nhiệm quản lý các DN và DNNN. Thực tế cho thấy,
nhiều vụ án kinh tế lớn, nhiều vụ tham ô, tham nhũng lớn đều có nguyên nhân từ
các quan chức, công chức, viên chức của ngành Ngân hàng, Công an, Thuế vụ,
Hải quan, Toà án, Kiểm sát và một số các cơ quan hành chính nhà nước khác…
Các vụ án điển hình lớn trong thời gian vừa qua như: Taxmeco Minh Phụng, Dệt
Nam Định, Lã Thị Kim Oanh, Cửa khẩu Tân Thanh… Có thể nói đây chính là
một trong những khiếm khuyết lớn nhất của hoạt động thanh tra nói chung và
thanh tra các DNNN nói riêng.
- Về nội dung và phương thức thanh tra
Nội dung của các cuộc thanh tra DNNN thường nặng về vụ việc và chủ
yếu tập trung vào thanh tra tài chính, xem lỗ lãi ra sao, DN có vi phạm gì
không? Về chính sách, pháp luật thì cuộc thanh tra nào cũng có và rất ít khi
được đặt thành một nội dung cụ thể (trừ thanh tra chuyên ngành). Thanh tra việc
thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch của các DNNN ít đi vào xem xét việc thực hiện
phương hướng sản xuất kinh doanh hay đánh giá hiệu quả đầu tư, khai thác sử
76
dụng các dự án…
Về phương thức thanh tra: trình tự, thủ tục thanh tra và sử dụng các quyền
trong quá trình thanh tra chưa thích hợp, đã làm giảm tính năng động, sáng tạo
của người thực hiện nhiệm vụ. Quyền hạn trong quá trình thanh tra còn mang
nặng tính hình thức và thiếu chế tài thực hiện. Theo kết quả khảo sát, phần lớn
các ý kiến đều cho rằng: trong quá trình thanh tra các quyền yêu cầu cung cấp
thông tin, tài liệu, báo cáo, trả lời chất vấn, kiểm kê tài sản và quyền kết luận,
kiến nghị là được sử dụng thường xuyên, còn các quyền khác ít được sử dụng
hoặc không sử dụng được [39, tr.4]. Sự vi phạm về trình tự, thủ tục trong thanh
tra, kiểm tra vẫn còn không ít. Trong tổng số 458 đoàn của các cơ quan có chức
năng thanh tra, kiểm tra vào thanh tra, kiểm tra các DN có 54 đoàn không có
quyết định, bằng 11,79%, không có kết luận là 18 đoàn, bằng 3,94%… (xem
biểu 5) [39, tr.17].
Biểu 5. Bảng thống kê việc thực hiện thủ tục thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp (1996 - 2000)
Thực hiện thủ tục thanh tra, kiểm tra tại DN
S
Có quyết
Không có
Có kết
Không có
Các cơ quan chức
Tổng
Ghi chú
TT
định TT
QĐ TT
luận TT
kết luận
năng
số đoàn
Số còn lại
458 338 54 389 18 1 Cơ quan có chức
là không
77,8% 73,8% 11,8% 84,9% 3,9%
năng TT, KT
trả lời
hoặc có
42 37 38 1 3 2 Kiểm sát
giấy tờ
7,1%
khác.
78 23 43 24 6 3 Công an kinh tế
13,2%
11 7 7 1 1 4 An ninh kinh tế
1,9%
Cộng: 589 405 64 477 44
68,8% 10,9% 80,9% 7,5%
Thời gian thanh tra các DN chưa thích hợp, với thời gian 30 mươi ngày là
77
quá ngắn để thanh tra một Tổng công ty hoặc một Công ty lớn. Hơn nữa, việc
quy định về thời gian cũng chưa được chặt chẽ và rõ ràng, nên dẫn đến tình
trạng có nhiều cách hiểu khác nhau về thời hạn thanh tra hoặc cố tình hiểu khác
để kéo dài thời hạn cuộc thanh tra. Chỉ tính riêng các cơ quan có chức năng
thanh tra, kiểm tra đã có 27 đoàn kéo dài thời hạn 3 tháng, gấp 3 lần ở mức bình
thường và 1,5 lần theo mức quy định tối đa và 7 đoàn kéo dài trên 4 tháng (xem
biểu 6), nên đã gây nên những bức xúc, dư luận không tốt đối với các đoàn
thanh tra.
Tổng
Biểu 6. Bảng thống kê thời gian các đoàn thanh tra, kiểm tra vào doanh nghiệp (1996 - 2000)
Các cơ quan
số đoàn
Thời gian thanh tra, kiểm tra tại S
chức năng
TT DN Ghi chú
1 tuần 1 tháng 3 tháng >4 tháng
1 Cơ quan có chức 458 343 81 27 7
năng TT, KT
2 Kiểm sát 42 16 12 10 4
3 Công an kinh tế 78 37 21 6 14
4 An ninh kinh tế 11 6 3 1 1
Cộng: 589 402 117 44 26
Về kết luận thanh tra, tiêu chí xem xét, đánh giá chưa rõ ràng, cụ thể và
thiếu thống nhất. Cho nên, các kết luận thanh tra thường thiếu tính thống nhất và
đôi khi có những kết luận thanh tra đúng sai chưa rõ ràng hoặc thiếu tính thuyết
phục, cùng một nội dung nhưng mỗi đoàn kết luận một khác làm cho DN không
biết nghe ai, theo ai? Nguyên nhân của các vi phạm đôi khi cũng không được
làm rõ nên không quy được trách nhiệm là tập thể hay cá nhân, kiến nghị giải
pháp xử lý thiếu tính thuyết phục hoặc thiếu tính khả thi, đã làm ảnh hưởng đến
việc thực hiện các kết luận, kiến nghị và quyết định xử lý sau thanh tra.
78
- Tổ chức thực hiện các kiến nghị, quyết định về thanh tra
Theo các văn bản pháp luật về thanh tra, thẩm quyền xử lý các kết luận,
kiến nghị, quyết định sau thanh tra rất hạn chế và thiếu chế tài thực hiện. Qua
kết quả khảo sát cho thấy, phần lớn các ý kiến cho rằng quyền đình chỉ việc làm,
quyền tạm đình chỉ thi hành quyết định của đối tượng thanh tra và quyền cảnh
cáo, tạm đình chỉ công tác của nhân viên nhà nước rất khó thực hiện. Đặc biệt là
quyền kê biên tài sản, rất nhiều ý kiến cho rằng không thực hiện được [39, 4].
Cho nên, việc thực hiện các kết luận, kiến nghị và quyết định xử lý của cơ quan
có thẩm quyền hiện nay phụ thuộc nhiều vào ý thức chấp hành pháp luật, tinh
thần tự giác của đối tượng thanh tra và sự chủ động phối hợp của cơ quan thanh
tra với các cơ quan, tổ chức hữu quan.
Về Tài chính doanh nghiệp (TC)
Về Xây dựng cơ bản (XD)
T.Số cuộc T.tra TC/XD
Phát hiện
K. nghị xử lý
Đã thu hồi
%
Phát hiện
K.nghị xử lý
Đã thu hồi
%
Năm
Biểu 7. Kết quả hoạt động thanh tra DN tại Thanh tra Hải Phòng (2000 - 2003)
2000 14/7 659 440 440 100,0 399 280 70,2 -
2001 17/0 13.758 10.621 688 6,5 - - - -
2002 18/9 8.560 2.630 30,7 1.797 469 26,1 - -
2003 12/21 789 350 44,4 2.951 2.601 1.800 69,2 -
Ghi chú: - Đơn vị tính: triệu đồng VN
- Chưa tính ngoại tệ và các tài sản khác
Thanh tra toàn tỉnh
Riêng thanh tra thuế
Năm
T.Số cuộc T.tra/ số DN
Phát hiện
K. nghị xử lý
Đã thu hồi
%
Phát hiện
K. nghị xử lý
Đã thu hồi
%
Biểu 8. Kết quả hoạt động thanh tra DN tại Thanh tra Thanh Hoá (2001 - 2003)
116 DN
88 DN
DN
2001 20 8.679 8.402 7.305 83,7 75/78 7.971 7.091 88,9
DN
145 DN
130 DN
79
2002 11 7.208 6.267 5.416 86,4 122/134 4.418 4.138 93,7
DN
147 DN
123 DN
2003 18 13.769 10.766 8.447 78,5 115/138 9.114 7.283 79,9
Cộng
408 DN
341 DN
49 29.656 25.435 21.198 83,3
Ghi chú: - Đơn vị tính: triệu đồng VN
- Chưa tính ngoại tệ và các tài sản khác
Qua kết quả khảo sát 2 năm (1998-1999) cho thấy có 73% kiến nghị được
các cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thực hiện [39, tr.4]. Nhưng thực tế
cho thấy, việc thực hiện các kết luận, kiến nghị, quyết định về thanh tra là rất
thấp, qua kết quả tổng hợp trên phạm vi cả nước phần lớn chưa bằng 50% số
tiền kiến nghị phải thu, các biệt có tỉnh, thành phố có năm chỉ thu được chưa đầy
10%. Về xử lý các cán bộ, công chức có hành vi vi phạm cũng thấp, thông
thường cũng chỉ khoảng trên dưới 60%, thậm trí có năm cũng chưa được 30% số
kiến nghị xử lý (xem biểu 2, 3, 6). Cá biệt, có một số đối tượng còn thiếu trách
nhiệm, không thực hiện hoặc thực hiện không nghiêm, không đầy đủ các yêu
cầu, kiến nghị và quyết định xử lý về thanh tra. Riêng Thanh tra tỉnh Thanh Hoá,
việc thực hiện các kết luận, kiến nghị và quyết định xử lý về thanh tra tương đối
tốt nhưng cũng chỉ được trên dưới 80% về số tiền và khoảng 90% về xử lý cán
bộ (xem biểu 8).
- Môi trường thanh tra
Hệ thống chính sách, pháp luật về thanh tra chưa đồng bộ và chưa thống
nhất. Đặc biệt là chưa có văn bản pháp luật riêng quy định về công tác thanh tra,
kiểm tra các DNNN.
Trình độ dân trí hiện nay còn thấp, thời gian xây dựng nhà nước pháp
quyền còn ngắn, nên ý thức pháp luật thấp, kỷ cương pháp luật không nghiêm.
Tinh thần trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, công chức còn thấp. Chất
lượng đội ngũ cán bộ thanh tra chưa cao, chưa đồng đều, thiếu những người có
trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, toàn ngành mới có 91 người có trình độ trên
80
đại học, bằng 0,93%.
Nhận thức về công tác thanh tra, kiểm tra còn hạn chế ở một số cơ quan,
đơn vị và đối tượng thanh tra. Nhìn chung, chưa có nhận thức đúng về vị trí, vai
trò của công tác thanh tra, chưa thật sự coi thanh tra là một chức năng thiết yếu
của quản lý nhà nước, là một công việc thường xuyên của quản lý, của người
lãnh đạo. Họ không hiểu rõ: nhiệm vụ của các cơ quan thanh tra không phải chỉ
là “tóm bắt” và “vạch mặt” mà chủ yếu là phải “biết sửa chữa”. Trong các
cuộc thanh các DN và DNNN các cơ quan thanh tra không chỉ có phát hiện,
ngăn ngừa và xử lý các hành vi vi phạm của doanh nghiệp, mà điều quan trọng
hơn là hướng dẫn, giúp đỡ doanh nghiệp phát triển đúng hướng, kinh doanh có
hiệu quả và nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Chính vì vậy mà đối
tượng thanh tra và một số cơ quan, tổ chức hữu quan chưa thật sự tạo điều kiện
và phối hợp, cộng tác với đoàn thanh tra.
- Quản lý nhà nước về hoạt động thanh tra đối với DNNN
Chỉ đạo, hướng dẫn về hoạt động thanh tra đối với các DNNN chưa được
đặt đúng mức với vị trí, vai trò của nó đối với nền kinh tế quốc dân nói chung và
với công tác thanh tra nói riêng.
Việc tiến hành thanh tra các DNNN đã được xây dựng thành chương trình
kế hoạch hàng năm, nhưng còn mang nặng là giải pháp tình thế hơn là phục vụ
cho yêu cầu công tác quản lý vĩ mô nền kinh tế.
Chưa có nội dung, chương trình hay một chuyên đề riêng để tập huấn, bồi
dưỡng cho cán bộ, công chức thanh tra về hoạt động thanh tra, kiểm tra các
DNNN.
Việc tổng hợp tình hình và báo cáo kết quả thực hiện hoạt động thanh tra
các DNNN chưa tách thành một mục riêng và chưa có quy định bắt buộc trong
báo cáo của các cơ quan thanh tra.
Chế độ hội họp, báo cáo, sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm về hoạt động
thanh tra các DNNN còn rất hạn chế và thường được tiến hành cùng với công
tác sơ kết, tổng kết chung của các cơ quan thanh tra cũng như toàn ngành thanh
81
tra.
2.3. Đánh giá chung
2.3.1. Thành tựu và hạn chế
* Những thành tựu đạt được
- Hoạt động thanh tra các DNNN đã phát hiện hàng vạn vụ vi phạm chính
sách, pháp luật và các quy định của Nhà nước. Đã có những kiến nghị và biện
pháp xử lý hữu hiệu các hành vi vi phạm pháp luật, góp phần tích cực vào việc
phòng ngừa, chống tham nhũng, tiêu cực, bảo vệ tài sản của Nhà nước và của
công dân. Hoạt động thanh tra nói chung và thanh tra các DNNN nói riêng đã
thật sự trở thành là một công cụ hữu ích, đắc lực để nhà nước quản lý vĩ mô nền
kinh tế, hạn chế những mặt trái của cơ chế thị trường, tạo ra những điều kiện
thuận lợi cho nền kinh tế phát triển lành mạnh và đúng định hướng XHCN.
- Thông qua hoạt động thanh tra DNNN, các cơ quan thanh tra đã thu hồi
về cho Nhà nước, tập thể và công dân một số lượng lớn về tiền bạc và tài sản bị
thất thoát và chiếm dụng trái pháp luật; góp phần lập lại công bằng xã hội và kỷ
cương pháp luật, làm lành mạnh hoá thu chi ngân sách nhà nước và các quan hệ
kinh tế để thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh và hiệu quả.
- Thông qua hoạt động thanh tra DNNN, các cơ quan thanh tra đã thấy
được những sơ hở, hạn chế của chính sách, pháp luật, của cơ chế quản lý để kiến
nghị với Đảng và Nhà nước, với các cơ quan quản lý sửa đổi, bổ xung và hoàn
thiện chính sách, pháp luật, cơ chế quản lý; nhằm tạo ra một môi trường kinh
doanh thuận lợi, một hành lang pháp lý thông thoáng để kích thích đầu tư, phát
huy hết mọi tiềm lực của các thành phần kinh tế, làm cho sản xuất kinh doanh có
hiệu quả và phát triển bền vững.
- Các DNNN đã nắm giữ một khối lượng tài sản lớn của đất nước và thực
tế cũng đã cho thấy phần lớn các vụ việc tham nhũng, đưa hối lộ và nhận hối lộ
cũng xuất phát từ đây. Thông qua kết quả thanh ra các DNNN, các cơ quan
thanh tra đã kiến nghị với các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền xử lý
thích đáng các cán bộ của doanh nghiệp và của các cơ quan quản lý nhà nước đã
82
có hành vi thiếu trách nhiệm, tham nhũng, tiêu cực, đưa hối lộ và nhận hối lộ…
góp phần làm trong sạch bộ máy quản lý của các doanh nghiệp và bộ máy quản
hành chính nhà nước, nâng cao năng lực và hiệu quả công tác quản lý nhà nước
nói chung và quản lý nền kinh tế nói riêng.
* Những tồn tại và hạn chế
- Hoạt động thanh tra các DNNN chưa được xác định đúng với vị trí, vai
trò của nó đối với nền kinh tế quốc dân nói chung và với công tác thanh tra nói
riêng. Cho nên, nó chưa thật sự đủ mạnh để đấu tranh có hiệu quả với các hành
vi sai trái, tiêu cực trong các doanh nghiệp và các cơ quan nhà nước có chức
năng quản lý DNNN. Bên cạnh những yếu tố khách quan, cũng có những yếu tố
chủ quan tồn tại ngay bên trong các cơ quan thanh tra, nên đã làm cho hiệu quả
của các cuộc thanh tra DNNN chưa cao như mong muốn của Đảng và Nhà nước
đối với toàn ngành Thanh tra.
- Trong quá trình thanh tra các DNNN, trình tự, thủ tục và thẩm quyền
thanh tra chưa hợp lý nên đã dẫn đến có nơi, có chỗ thanh tra còn chồng chéo,
thời hạn thanh tra bị kéo dài hoặc vi phạm về quyền hạn trong thanh tra… làm
ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nên
đã gây tâm lý e ngại, né tránh hoặc không hợp tác với đoàn thanh tra…
- Về đội ngũ cán bộ, công chức thanh tra, nhìn chung trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ và năng lực công tác đã được nâng lên, song chưa cao và chưa
đồng đều, số người có trình độ cao, chuyên môn giỏi còn quá ít. Công tác đào
tạo, bồi dưỡng đầu tư phát triển nguồn nhân lực chưa tương xứng với yêu cầu
thực hiện nhiệm vụ.
- Bên cạnh những cán bộ, công chức thanh tra có phẩm chất chính trị tốt,
có năng lực, chuyên môn vững cũng còn có những cán bộ phẩm chất đạo đức
yếu, trình độ chuyên môn hạn chế nên hiệu quả công tác chưa cao. Thậm trí có
người còn có biểu hiện tiêu cực như: vòi vĩnh, nhận hối lộ, gây nhũng nhiễu,
phiền hà cho đối tượng hoặc có trường hợp lại bao che, dung túng, chỉ đường
83
cho đối tượng chạy lỗi… Tuy nhiên, đây chỉ là những hiện tượng gợn lên trong
hoạt động thanh tra hoặc thanh tra các DNNN, nhưng nó cũng đã đủ để tạo nên
những dư âm và đánh giá không tốt về ngành thanh tra.
2.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế
- Nhận thức về công tác thanh tra, kiểm tra chưa đúng với vị trí, vai trò
của nó trong công tác quản lý nhà nước. Công tác tuyên truyền, giáo dục về ý
thức pháp luật nói chung và pháp luật về thanh tra chưa đúng mức, chưa thường
xuyên và hiệu quả còn chưa cao. Vị trí, vai trò của hoạt động thanh tra đối với
các DNNN chưa được xác định đúng mức trong hoạt động thanh tra và trong
công tác quản lý vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước.
- Cơ cấu tổ chức của các cơ quan thanh tra tổ chức chưa thật sự khoa học
và thiếu thống nhất, đặc biệt là các cơ quan Thanh tra bộ, ngành. Theo nghiên
cứu mới đây nhất (8/2004) của đề tài “Tổ chức, hoạt động và mối quan hệ giữa
Thanh tra bộ và Thanh tra chuyên ngành – Thực trạng và giải pháp” của cơ
quan Thanh tra Chính phủ cho thấy có tới 4 mô hình tổ chức thanh tra ở các Bộ,
ngành:
+ Thanh tra bộ chỉ thực hiện chức năng thanh tra nhà nước như: Bộ Ngoại
giao, Uỷ ban dân tộc, Uỷ ban dân số, gia đình và trẻ em;
+ Thanh tra bộ thực hiện cả chức năng thanh tra nhà nước và thanh tra
chuyên ngành như: Bộ Y tế, Bộ Văn hoá-Thông tin, Bộ Công nghiệp…
+ Thanh tra chuyên ngành được xác định là đơn vị cấp 2 của Thanh tra bộ
như: Bộ Giao thông vận tải, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài nguyên- môi
trường;
+ Thanh tra bộ và thanh tra chuyên ngành hoàn toàn độc lập với nhau
như: Bộ Tài chính, Bộ Thương mại, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng...
Mối quan hệ giữa các cơ quan thanh tra chưa chặt chẽ, kể cả các cơ quan
Thanh tra nhà nước và Thanh tra chuyên ngành. Nhìn chung mối quan hệ ngang
đã chi phối mối quan hệ dọc, tức các cơ quan thanh tra phụ thuộc nhiều vào Thủ
84
trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp.
- Chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan thanh tra và của các cơ quan quản
lý nhà nước khác chưa được phân định rõ ràng và rành mạch, nên chức năng
thanh tra, kiểm tra hay nội dung thanh tra, kiểm tra giữa các cơ quan này vẫn
còn trùng lặp.
- Quyền hạn của các cơ quan thanh tra, của Trưởng đoàn thanh tra và của
các Thanh tra viên chưa tương xứng với chức năng, nhiệm vụ và yêu cầu công
tác đòi hỏi, nhiều quyền còn mang tính chất hình thức, thiếu thực tế và chế tài
thực hiện.
- Trình độ học vấn của đội ngũ cán bộ, công chức thanh tra nhìn chung
còn thấp, năng lực về nghiệp vụ công tác thanh tra còn hạn chế. Công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ chưa được quan tâm đúng mức… cho nên một bộ phận
chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
- Hệ thống chính sách, pháp luật chưa đồng bộ và thiếu thống nhất, nên đã
làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu lực và hiệu quả của hoạt động thanh tra nói
chung và thanh tra các DNNN nói riêng.
Trước sự phát triển của nền kinh tế thị trường và yêu cầu đòi hỏi của công
tác quản lý nhà nước về kinh tế, đã đòi hỏi hoạt động thanh tra và thanh tra các
DNNN phải được đổi mới và từng bước hoàn thiện, nhằm khắc phục những
khiếm khuyết, hạn chế trong hoạt động thanh tra nói chung và thanh tra các
DNNN nói riêng, góp phần làm cho DNNN phát triển đúng hướng và kinh
doanh có hiệu quả, thật sự là một lực lượng vất chất, một công cụ quan trọng để
Nhà nước định hướng và quản lý vĩ mô nền kinh tế.
Tóm lại, sau khi đã phân tích khái quát quá trình đổi mới tổ chức TTNN
và quá trình đổi mới của các DNNN trong tiến trình đổi mới chung của đất
nước. Luận văn đã đi sâu vào phân tích làm rõ thực trạng hoạt động thanh tra và
thanh tra các DNNN trong những năm gần đây. Qua đó đã thấy được ngành
Thanh tra đã từng bước được củng cố, kiện toàn về tổ chức, bộ máy, xây dựng
được một đội ngũ cán bộ thanh tra từ Trung ương đến địa phương, đã thật sự là
85
một chức năng thiết yếu của các cơ quan quản lý nhà nước, là một trong những
công cụ hữu hiệu để Nhà nước quản lý vĩ mô nền kinh tế. Kết quả mà ngành
Thanh tra đạt được trong thời gian vừa qua là rất khả quan, trong đó có sự đóng
góp quan trọng của hoạt động thanh tra các DNNN; đã hoàn thành tốt những
nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao cho, góp phần xứng đáng vào việc củng cố
chính quyền, xây dựng bộ máy trong sạch, vững mạnh, đủ năng lực quản lý đất
nước để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Bên cạnh những kết quả mà ngành Thanh tra và hoạt động thanh tra các
DNNN đã đạt được cũng còn những khiếm khuyết, hạn chế cần phải sửa chữa,
khắc phục. Vì vậy, để phục vụ tốt cho công tác quản lý vĩ mô nền kinh tế của
Nhà nước, đòi hỏi hoạt động thanh tra và thanh tra các DNNN phải được củng
cố, đổi mới và từng bước hoàn thiện trong thời gian tới.
Chương 3 QUAN ĐIỂM VÀ CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG THANH TRA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1. Những quan điểm cơ bản
* Thứ nhất, hoàn thiện hoạt động thanh tra DNNN phải phù hợp với đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế và đổi mới hoạt động thanh tra nhà nước.
Mục đích của đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là nhằm tạo ra một môi
trường kinh doanh thuận lợi, một hành lang pháp lý thông thoáng và an toàn để
mọi doanh nghiệp cũng như các thành phần kinh tế đều phát huy được hết mọi
tiềm năng của mình, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh tạo được nhiều lợi nhuận.
Đây cũng chính là mục đích mà hoạt động thanh tra và thanh tra các DNNN phải
86
hướng tới và phục vụ cho mục đích này. Vì vậy, việc hoàn thiện hoạt động thanh
tra của Nhà nước đối với DNNN cũng phải nằm trong tổng thể của việc đổi mới
cơ chế quản lý kinh tế của Nhà nước nói chung và đổi mới hoạt động thanh tra
nói riêng, nhằm nâng cao năng lực quản lý vĩ mô nền kinh tế, giải phóng mọi
nguồn lực và tạo ra một môi trường thuận lợi, cạnh tranh bình đẳng để các thành
phần kinh tế cùng phát triển.
* Thứ hai, hoàn thiện hoạt động thanh tra DNNN phải gắn với việc thực
hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về việc
tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển các DNNN.
Kinh tế nhà nước có vai trò quyết định trong việc định hướng nền kinh tế,
ổn định và phát triển đất nước. Trong đó các DNNN là bộ phận cơ bản, quan
trọng của kinh tế nhà nước, nó giữ những vị trí then chốt, những ngành kinh tế
mũi nhọn của nền kinh tế, nó là lực lượng vật chất cơ bản chủ yếu để Nhà nước
định hướng, điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Cho nên, mọi chủ trương, chính sách,
của Đảng và pháp luật của Nhà nước là đều nhằm đổi mới, phát triển và nâng
cao năng lực sản xuất, kinh doanh của các DN. Thanh tra là một trong những
chức năng thiết yếu của các cơ quan quản lý nhà nước, là một trong những công
cụ để Nhà nước kiểm tra, kiểm soát các DNNN và nền kinh tế. Việc hoàn thiện
hoạt động thanh tra các DNNN là phải nhằm giúp cho các cơ quan nhà nước
quản lý các DN và nền kinh tế được tốt hơn, hiệu quả hơn; đồng cũng tạo ra
những điều kiện thuận lợi để các DN sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đủ sức
cạnh tranh trên thương trường. Vì vậy, hoàn thiện hoạt động thanh tra DNNN
phải gắn với việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật
của Nhà nước về việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển các DNNN.
* Thứ ba, phải lấy việc bảo toàn vốn, nâng cao năng lực sản xuất và hiệu
quả kinh doanh của các DN làm mục đích của việc hoàn thiện hoạt động thanh
tra DNNN.
Một trong những yếu tố cơ bản, quan trọng nhất của hoạt động sản xuất,
kinh doanh là vấn đề về vốn. Đối với các DNNN thì vốn của các DN này có thể
87
là một 100% vốn của Nhà nước hoặc ít nhất nó cũng giữ một số cổ phần chi
phối nhất định trong mỗi DN. Vì vậy, trong quá trình thanh tra các DNNN, các
Đoàn thanh tra hay các cơ quan thanh tra luôn luôn xác định nội dung thanh tra
tài chính là một trong những nội dung cơ bản bao trùm trong mỗi cuộc thanh tra,
trong đó có xem xét, kiểm tra về việc giao nhận vốn, huy động, sử dụng và phát
triển vốn… Nhằm giúp cho các DN sử dụng vốn đúng mục đích, tránh thất
thoát, lãng phí và bảo toàn số vốn mà Nhà nước đã giao cho, từng bước nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn và phát triển nguồn vốn của DN.
* Thứ tư, hoàn thiện hoạt động thanh tra DNNN phải gắn với quá trình
cải cách nền hành chính nhà nước và hoàn thiện bộ máy nhà nước.
Mục tiêu của chương trình cải cách hành chính nhà nước năm 2001 –
2010 là: Xây dựng bộ máy hành chính nhà nước gọn nhẹ, hợp lý; xác định chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn rõ ràng; xoá bỏ các thủ tục hành chính quan liêu,
rườm rà để xây dựng các thủ tục hành chính mới theo hướng công khai, đơn
giản hoá và thuận tiện cho nhân dân… Mặt khác, các cơ quan thanh ra là một bộ
phận, một cơ quan chuyên môn giúp việc cho các cơ quan quản lý nhà nước
cùng cấp, để quản lý về công tác thanh tra và thực hiện nhiệm vụ thanh tra…Vì
vậy, trong quá trình hoàn thiện hoạt động thanh tra nhà nước đối với DNNN, các
cơ quan thanh tra phải căn cứ vào chương trình cải cách hành chính nhà nước,
để thiết lập hệ thống tổ chức, bộ máy thanh tra tinh gọn, tập trung, thống nhất và
trong sạch, đủ năng lực thanh tra, kiểm soát các DNNN và toàn bộ nền kinh tế
quốc dân, nhằm phục vụ kịp thời cho yêu cầu của công tác quản lý nhà nước về
kinh tế.
* Thứ năm, hoàn thiện hoạt động thanh tra DNNN phải đảm bảo và phát
huy việc thực hiện Quy chế dân chủ trong các DN.
Dân chủ là một bản chất tốt đẹp của chế độ chúng ta. Đảng và Nhà nước
ta luôn luôn tôn trọng và phát huy quyền tự do, dân chủ của mọi công dân. Vì
vậy, trong quá trình thanh tra Đoàn thanh tra hay các cơ quan thanh tra không
chỉ nhằm vào việc phòng ngừa, phát hiện và xử lý các vi phạm; không chỉ phát
88
hiện những sơ hở trong cơ chế chính sách hay bảo vệ lợi ích của Nhà nước… mà
điều quan trọng hơn là phải bảo vệ những quyền và lợi ích hợp pháp cho mọi
công dân, trong đó có quyền tự do, dân chủ. Nhằm phát huy tinh thần làm chủ,
tính sáng tạo của nhân dân lao động, khơi dậy sức mạnh tinh thần và vật chất
của mọi công dân trong phát triển kinh tế, ổn định an ninh, chính trị-xã hội, hăng
hái tham gia lao động sản xuất, xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh, đẩy lùi
tình trạng suy thoái đạo đức, quan liêu, tham nhũng, góp phần thiết thực vào
việc thực hiện tốt công cuộc đổi mới đất nước. Cho nên, việc hoàn thiện hoạt
động thanh tra DNNN phải tạo ra những điều kiện thuận lợi để cán bộ công nhân
viên tham gia vào hoạt động quản lý của DN và thực hiện tốt Quy chế dân chủ
trong các DNNN.
3.2. Các giải pháp chủ yếu
3.2.1. Nâng cao nhận thức về hoạt động thanh tra
Trong mọi hoạt động, con người bao giờ cũng là yếu tố quyết định. Khi
nhận thức của con người không đúng thì kết quả thực hiện công việc của họ khó
có thể đạt được kết quả tốt. Cho nên, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động
thanh tra và thanh tra các DNNN, các cơ quan nhà nước và các cơ quan thanh tra
cần phải tăng cường công tác tuyên truyền, vận động và giáo dục, thuyết phục
để mọi người nâng cao nhận thức về hoạt động thanh tra và thanh tra các DNNN
trên những mặt cơ bản sau:
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao ý thức pháp luật nói chung
và pháp luật về thanh tra nói riêng, nhằm xây dựng ý thức pháp luật cho mọi
công dân, đặc biệt là đối với các cán bộ, công chức nhà nước. Trên cơ sở hệ
thống pháp luật đã được ban hành, các cơ quan nhà nước cũng như cơ quan
thanh tra phải có kế hoạch, biện pháp và hình thức thích hợp để tuyên truyền,
vận động làm cho mọi người có nhận thức đúng về pháp luật nói chung và pháp
luật về thanh tra nói riêng.
Một xã hội muốn ổn định và phát triển thì nhà nước nào cũng phải đề ra
các quy định, nguyên tắc hay luật lệ để điều chỉnh các quan hệ xã hội và bắt mọi
89
người phải tuân theo. Ngoài mục đích bảo vệ cho lợi ích của giai cấp cầm
quyền, một mục đích không kém phần quan trọng là nhằm bảo đảm cho mọi
quan hệ trong xã hội được thống nhất, trật tự, kỷ cương và không làm ảnh hưởng
tới quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Đây chính là cơ sở, nguồn gốc cơ
bản, cốt yếu của hệ thống pháp luật. Vì vậy, mọi người phải hiểu được điều đó,
nhận thức được trách nhiệm và nghĩa vụ của mình để tự nguyện, tự giác chấp
hành. Nếu ai không chấp hành hay cố tình vi phạm, đều bị các cơ quan nhà nước
dùng quyền lực cưỡng chế bắt phải thực hiện hoặc sẽ xử lý về hành chính, kinh
tế hoặc nặng hơn nữa là đưa ra truy tố trước pháp luật. Do trình độ dân trí của
chúng ta còn thấp và thời gian xây dựng nhà nước pháp quyền còn quá ngắn nên
ý thức pháp luật của nhân dân còn hạn chế. Cho nên, các cơ quan nhà nước và
các cơ quan thanh tra phải tăng cường tuyền truyền, vận động, giáo dục ý thức
chấp hành pháp luật cho mọi công dân, kể cả các cán bộ, công chức nhà nước.
- Nâng cao hiểu biết, nhận thức về thanh tra cho mọi công dân và đặc
biệt là đối với Thủ trưởng, người đứng đầu các cơ quan, tổ chức và cán bộ, công
nhân viên ở đơn vị, DN được thanh tra. Các cơ quan nhà nước và các cơ quan
thanh tra cần phải kế hoạch tuyên truyền, phổ biến các văn bản pháp luật về
thanh tra, làm cho người hiểu đúng về công tác thanh tra, kiểm tra; về vị trí, vai
trò và mục đích của hoạt động thanh tra trong công tác quản lý của nhà nước; để
hạn chế sự né tránh, cản trở hay bất hợp tác với đoàn thanh tra. Giúp cho mọi
người hiểu rõ thanh tra là một chức năng thiết yếu của các cơ quan nhà nước, là
một hoạt động không thể thiếu trong công tác quản lý của nhà nước đối với nền
kinh tế nói chung và các DNNN riêng. Các cơ quan quản lý nhà nước thông qua
hoạt động thanh tra để thấy được thực trạng tình hình chính trị, kinh tế, xã hội và
hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN trên địa bàn, ngành mình quản lý.
Đồng thời, cũng thông qua đó để thấy được sự đúng đắn, khoa học, tiến bộ của
chính sách, pháp luật; hay sơ hở, lạc hậu, lỗi thời của chính sách, pháp luật, cơ
chế quản lý… để kịp thời điều chỉnh hay kiến nghị với các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền sửa đổi, bổ xung hay ban hành các văn bản mới cho phù hợp với
90
tình hình thực tế của địa phương, ngành mình quản lý… Hoạt động thanh tra
không phải là để “bới lông, tìm vết”, cũng không phải chủ yếu là “tóm bắt” hay
“vạch mặt” mà là phòng ngừa, phát hiện ra những sơ hở, khiếm khuyết của cơ
chế, chính sách, pháp luật… để sửa đổi, bổ xung và hoàn thiện; nhằm tạo ra
những điều kiện thuận lợi, một hành lang pháp lý thông thoáng cho các DN và
nền kinh tế phát triển nhanh chóng và hiệu quả. Đồng thời, cũng thông qua hoạt
động thanh tra để phát hiện ra những nhân tố mới, tiến bộ để phát huy, nhằm tạo
ra một phong trào thi đua sôi nổi, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh của đơn vị...
Khi mọi người có nhận thức đúng về hoạt động thanh tra, thì họ sẽ xác định
được quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của họ trong quá trình thanh tra, họ sẽ tự
nguyện, tự giác cộng tác và thực hiện tốt những yêu cầu, kiến nghị, kết luận của
Đoàn thanh tra và các quyết định xử lý của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm
quyền.
- Đổi mới quan điểm, nhận thức về thanh tra cho đội ngũ các cán bộ, công
chức nhà nước và đặc biệt là Thủ trưởng cơ quan nhà nước các cấp, các ngành.
Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kiến thức về quản lý hành chính nhà
nước và kiến thức về thanh tra, làm cho mọi người thấy rõ: thanh tra là một chức
năng thiết yếu của các cơ quan quản lý nhà nước, là một công việc thường
xuyên của người quản lý, của người lãnh đạo, “nếu quản lý mà không thanh tra
là quản lý suông”. Mục đích của thanh tra chính là vì quản lý và phục vụ cho
các yêu cầu của quản lý, nhằm góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản lý
nhà nước. Vì vậy, người quản lý, người lãnh đạo phải quan tâm đến công tác
thanh tra, chăm lo xây dựng cho đội ngũ cán bộ thanh tra có đầy đủ năng lực,
phẩm chất chính trị, vững vàng về chuyên môn, nhất là về kiến thức nghiệp vụ
thanh tra để đáp ứng yêu cầu thực hiện tốt nhiệm vụ thanh tra. Mặt khác, người
cán bộ lãnh đạo và các cán bộ, công chức thanh tra cũng phải đổi mới quan
điểm, nhận thức về công tác thanh tra, kiểm tra trong tình hình mới. Tại cuộc
gặp gỡ với các nhà doanh nghiệp, Thủ tướng Phan Văn Khải nêu rõ: “kiểm tra,
thanh tra, xử lý các vi phạm pháp luật, xét cho cùng cũng là một loại dịch vụ
91
hành chính bảo đảm môi trường lành mạnh, có trật tự, kỷ cương cho các doanh
nghiệp hoạt động, không nên có hàng rào ngăn cách giữa cơ quan nhà nước và
doanh nghiệp theo kiểu người trên kẻ dưới, người quản lý và người bị quản lý
dường như đối lập nhau. Ơ cơ chế thị trường không nên có cách hiểu “người
trên kẻ dưới được” [39, tr.35]. Cho nên các cơ quan thanh ra và các cán bộ,
công chức thanh tra không chỉ là “tai mắt của trên” mà còn phải là “bạn của
dưới”, như lời dạy của Bác đối với ngành thanh tra. Vì vậy, trong quá trình
thanh tra “không làm cản trở hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá
nhân là đối tượng thanh tra”, đó là một trong những nguyên tắc cơ bản mà Luật
Thanh tra đã quy định. Đồng thời, thanh tra phải giúp đỡ DN, làm cho DN hoạt
động tốt hơn, hạn chế được các rủi ro trong thương trường và không vi phạm
pháp luật. Tuyệt đối, các cán bộ, công chức thanh tra không được nhũng nhiễu,
vòi vĩnh, gây phiền hà, khó khăn cho DN… Có làm được như vậy, đối tượng
thanh ra mới tin tưởng, “tâm phục, khẩu phục”, mới cộng tác, thực hiện tốt các
kiến nghị, quyết định của thanh tra và hoạt động thanh tra mới có kết quả thiết
thực trong cuộc sống.
3.2.2. Hoàn thiện chế độ phân cấp, xác định rõ chủ thể, phạm vi và đối
tượng thanh tra
Việc hoàn thiện chế độ phân cấp, xác định chủ thể, phạm vi và đối tượng
thanh tra có liên quan đến toàn bộ công tác tổ chức và hoạt động của ngành
thanh tra, cũng như thẩm quyền quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước các
cấp, các ngành. Vì vậy, để thực hiện công việc này phải được tiến hành đồng bộ,
phù hợp với cải cách hành chính và hoàn thiện bộ máy nhà nước; phù hợp với
đổi mới cơ chế quản lý nền kinh tế và đổi mới hoạt động thanh tra. Nội dung của
việc hoàn thiện chế độ phân cấp, xác định chủ thể, phạm vi và đối tượng thanh
tra cần theo mấy hướng sau:
- Hạn chế đến mức thấp nhất các chủ thể có thẩm quyền thanh tra vào
một DN
Theo quy định của pháp luật, thẩm quyền và phạm vi thanh tra của các cơ
92
quan quản lý nhà nước và các cơ quan thanh tra là rất rộng; nhưng trong thực tế
thì các cơ quan này lại tập trung chủ yếu vào việc trực tiếp thanh tra các DN và
DNNN. Cho nên, dẫn đến hiện tượng thanh tra các DN bị chồng chéo, có quá
nhiều chủ thể vào thanh tra, kiểm tra đối với một DN. Vì vậy, nên điều chỉnh
theo hướng mỗi cấp chỉ có thẩm quyền thanh tra trong phạm vi quản lý trực tiếp
của thủ trưởng cùng cấp và khi cần thiết thì phúc tra cấp dưới trực tiếp. Mỗi cấp
chỉ nên thành lập một cơ quan thanh tra tương ứng, nó có nhiệm vụ thanh tra và
quản lý cả thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành trong phạm vi quản
lý của thủ trưởng cùng cấp. Cơ quan này dù tổ chức theo ngành dọc hay theo
kiểu song trùng lãnh đạo như hiện nay thì mục đích của nó cũng vẫn là vì quản
lý, phục vụ cho quản lý nhà nước ở cấp đó. Cho nên, việc tổ chức các cuộc
thanh tra trong phạm vi quản lý của cấp này, nên giao cho Thủ trưởng cơ quan
thanh tra này là hợp lý hơn cả. Hơn nữa, về quyền hạn thì cơ quan thanh tra này,
dù tổ chức theo kiểu nào thì nó cũng vẫn là cấp dưới, vẫn chịu sự chỉ đạo trực
tiếp hoặc gián tiếp của Thủ trưởng cấp đó và mục đích của nó vẫn không có gì
khác là phục vụ cho quản lý và trước hết là cho yêu cầu quản lý của cấp đó. Cho
nên, Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cấp này không nhất thiết cần phải ra
quyết định thanh tra để tổ chức những cuộc thanh tra riêng. Nếu cần thiết, Thủ
trưởng cơ quan này vẫn có quyền ra lệnh cho cơ quan thanh tra phải thanh tra
theo yêu cầu của mình về đối tượng, nội dung hoặc hình thức thanh tra như: tổ
chức những cuộc thanh tra đột xuất, thanh tra chuyên đề, thanh tra diện rộng hay
thanh tra liên ngành… hoặc cũng có thể yêu cầu cơ quan thanh tra cấp trên tổ
chức phúc tra, để đánh giá lại về cuộc thanh tra mà cơ quan thanh tra cấp mình
đã thực hiện cho chính xác, khách quan và bảo đảm đúng pháp luật chưa? Xuất
phát từ những cơ sở trên, cho nên cần quy định: mỗi cấp chỉ có thẩm quyền
thanh tra trong phạm vi quản lý trực tiếp của thủ trưởng cùng cấp và khi cần
thiết thì phúc tra dưới một cấp .
- Đối tượng của Thanh tra hành chính là các cơ quan nhà nước và các cá
93
nhân có thẩm quyền quản lý DNNN
Để khắc phục hiện tượng hoạt động thanh tra các DN bị chồng chéo và
tránh bỏ trống việc kiểm tra, xem xét chức trách, nhiệm vụ của các cơ quan nhà
nước, các cán bộ, công chức nhà nước trong việc quản lý các DNNN. Một mặt
phải thu hẹp thẩm quyền và phạm vi thanh tra của các cơ quan này; mặt khác
cần phải phân cấp rõ ràng, rành mạch giữa chức năng thanh tra hành chính và
thanh tra chuyên ngành.
Theo Luật thanh tra: “Thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của
cơ quan quản lý nhà nước theo cấp hành chính đối với việc thực hiện chính
sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền lý trực
tiếp”. Còn “Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan quản
lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc
chấp hành pháp luật, những quy định về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý
của ngành, lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý”[14, tr.198]. Vì vậy, việc thanh
tra, xem xét việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước, các
cơ quan thanh tra, các đoàn thanh tra và các cán bộ, công chức nhà nước trong
việc quản lý các DNNN, nên giao cho các cơ quan có chức năng thanh tra hành
chính. Các cơ quan có chức năng thanh tra hành chính bao gồm: Thanh tra
Chính phủ, Thanh tra tỉnh, Thanh tra huyện, Thanh tra bộ và Thanh tra sở.
- Đối tượng của Thanh tra chuyên ngành là các DNNN
Đối với các DNNN, trước đây vẫn được xem là đối tượng chính, đối
tượng chủ yếu trong hoạt động thanh tra của các cơ quan quản lý nhà nước và
các cơ quan thanh tra nhà nước, thì nay cũng cần phải điều chỉnh lại cho thích
hợp. Như phần trên đã phân tích, việc quy định các cơ quan quản lý nhà nước có
thẩm quyền ra quyết định để tổ chức tiến hành các cuộc thanh tra nói chung và
thanh tra các DNNN là không cần thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn. Mặt khác,
theo như khái niệm về thanh tra chuyên ngành mà Luật thanh tra quy định thì
thanh tra việc chấp hành pháp luật, những quy định về chuyên môn – kỹ thuật,
94
quy tắc quản lý của ngành, lĩnh vực là thuộc về thanh tra chuyên ngành. Vì vậy,
việc tổ chức các cuộc thanh tra đối với các DN và DNNN là thuộc về các cơ
quan có chức năng thanh tra chuyên ngành.
3.2.3. Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động thanh tra
3.2.3.1. Về nội dung thanh tra
Trên cơ sở thực hiện theo hướng phân cấp, xác định chủ thể, phạm vi và
đối tượng thanh tra như trên, nội dung thanh tra các DNNN cần tập trung vào
hai hướng chủ yếu sau:
- Cần lựa chọn những nội dung cơ bản, chủ yếu hoặc cần thiết để phục vụ
trực tiếp cho công tác chỉ đạo, điều hành của các cơ quan quản lý nhà nước. Nội
dung của mỗi cuộc thanh tra không nên quá nhiều mà cố gắng chọn lựa những
vấn đề quan trọng, cơ bản nhất, như thế sẽ ít ảnh hưởng tới hoạt động của DN và
đáp ứng kịp thời yêu cầu của công tác quản lý, phù hợp với tính năng động,
nhanh nhạy của cơ chế thị trường.
- Đối với các nội dung cụ thể cần phân thành hai nhóm: nội dung thanh tra
hành chính và nội dung thanh tra chuyên ngành.
+ Đối với chức năng thanh tra hành chính cần tập trung vào xem xét việc
thực hiện chính sách, pháp luật đối với DN, việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ
của các cơ quan và cán bộ, công chức nhà nước trong công tác tổ chức, quản lý,
điều hành và thanh tra, kiểm tra các DNNN… Về nội dung này cần đi sâu kiể m
tra:
Việc thực hiện các chế độ, quy định của chính sách, pháp luật đối với DN
xem có đúng không? Như vấn đề giao vốn, cho vay vốn, cấp phép, cấp đất, cấp
quyền sở hữu trí tuệ…
Hàng năm, theo quy định các cơ quan và cá nhân có thẩm quyền đã tiến
hành thanh tra, kiểm tra các hoạt động của DN theo chức trách, nhiệm vụ được
giao; khi phát hiện đối tượng có khó khăn hay vi phạm chính sách, pháp luật đã
làm gì để khắc phục, chấn chỉnh hay xử lý…
Việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của cơ quan và các cán bộ, công
95
chức nhà nước trong quá trình thực hiện nhiệm vụ quản lý DN như thế nào?
+ Đối với chức năng thanh tra chuyên ngành, những nội dung trước đây
đã làm tốt nay cần phát huy như: nội dung chấp hành pháp luật, những quy định
về chuyên môn-kỹ thuật, quy tắc quản lý của ngành, lĩnh vực, nội dung tài chính
DN… trong thời gian tới cần chú ý các nội dung sau:
Về mục tiêu, phương hướng cần xem xét về phương hướng đầu tư, phát
triển sản xuất kinh doanh, kỹ thuật công nghệ áp dụng, biện pháp tổ chức thực
hiện và hiệu quả sử dụng. Việc thực hiện các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ chủ
yếu cần kiểm tra về số lượng, chất lượng sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đã thực
hiện.
Về công tác quản lý cần xem việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ và
quyền hạn của đại diện chủ sở hữu, Ban giám đốc, các phòng ban, mối quan hệ
của đại diện chủ sở hữu với Ban giám đốc, giữa Ban giám đốc với các phòng
chức năng…
Ngoài các nội dung nêu trên còn kiểm tra, xem xét một số nội dung khác
như: tổ chức bộ máy, tuyển dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm các chức danh lãnh đạo
và quản lý… Trong các nội dung thanh tra trên, đặc biệt chú ý tới nội dung tài
chính và việc thực hiện các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ chủ yếu mà Nhà nước
giao hay đặt hàng đối với DNNN.
3.2.3.2. Phương thức thanh tra
- Hình thức thanh tra
Trong thời gian vừa qua, các cơ quan thanh tra nhà nước cơ bản tập trung
vào giai đoạn hậu kiểm và thanh tra theo chương trình, kế hoạch, sau đó cũng đã
đi vào thanh tra diện rộng và thanh tra giải quyết KN,TC. Việc tiến hành các
cuộc thanh tra ở giai đoạn tiền kiểm thường ít được chú ý. Các cuộc thanh tra
đột xuất thường rất khó thực hiện, bởi các quy định về pháp luật rất chặt chẽ. Vì
vậy, để đáp ứng được những đòi hỏi của cơ chế thị trường và yêu cầu công tác
chỉ đạo, điều hành của các cấp, các ngành, các cơ quan thanh tra nhà nước phải
rất linh hoạt trong việc sử dụng các hình thanh tra. Việc sử dụng các hình thức
96
thanh tra cần đi vào các hướng sau:
+ Kết hợp cả hai hình thức tiền kiểm và hậu kiểm
Về lý thuyết cũng như thực tế cho thấy: các sai sót, khiếm khuyết hay sai
phạm đều có thể xẩy ra ở tất cả các giai đoạn của quá trình quản lý. Nếu như ở
giai đoạn đầu mà có sai sót thì thường là hậu quả của nó lớn hơn và có khi còn là
rất lớn, rất lãng phí và có khi cả một công trình lớn không sử dụng được như:
Nhà hát chèo Kim Mã đã hơn chục năm nay không dám sử dụng, trụ cầu số 2
của cầu Thanh Trì đã phá đi làm lại mà vẫn không nghiệm thu được… Vì vậy,
để khắc phục những tình trạng trên, các cơ quan thanh tra cần phải tiến hành
thanh tra ở tất cả các giai đoạn của quá trình quản lý, phải kết hợp cả hình thức
tiền kiểm lẫn hậu kiểm. Tuỳ theo, từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, tính chất vụ
việc và nội dung thanh tra mà lựa chọn hình thức tiền kiểm hay hậu kiểm cho
thích hợp. Đối với những công trình lớn, các dự án lớn, chương trình lớn, quyết
định đầu tư công nghệ mới… cần phải chú ý tới hình thức tiền kiểm hơn là hậu
kiểm, cần phải tiến hành thanh tra sau khi chương trình, dự án hay thiết kế được
duyệt.
+ Tiếp tục tập trung vào các cuộc thanh tra diện rộng
Trong nền kinh tế thị trường, Chính phủ cũng như các cơ quan nhà nước
và các DN luôn luôn đòi hỏi phải có những thông tin nhanh nhậy và kịp thời, sự
tác động và điều khiển các hoạt động kinh tế cũng như các DN không thể bằng
mệnh lệnh hành chính như trước kia mà chủ yếu phải bằng chính sách, pháp
luật, bằng các công cụ quản lý vĩ mô. Để đáp ứng được những yêu cầu đòi hỏi
của công tác quản lý vĩ mô nền kinh tế, một trong những thông tin quan trọng
không thể thiếu là Chính phủ luôn luôn phải có những thông tin chính xác,
khách quan và kịp thời về một ngành, một lĩnh vực hay một loại sản phẩm hàng
hoá, dịch vụ nào đó… nhằm để điều chỉnh, bảo đảm những cân đối lớn của nền
kinh tế. Vì vậy, các cơ quan thanh tra nhà nước muốn đáp ứng được những yêu
cầu trên, bắt buộc phải tổ chức tiến hành đồng thời các cuộc thanh tra với cùng
một chủ đề hay cùng một nội dung với nhiều đối tượng khác nhau, trên một
97
phạm vi rộng hoặc trên phạm vi cả nước. Đó chính là những cuộc thanh tra diện
rộng. Ơ nước ta hiện nay, các cuộc thanh tra diện rộng cần tập trung vào những
lĩnh vực, những ngành kinh tế quan trọng như: Điện lực, Dầu khí, Bưu chính
viễn thông, Xăng dầu, Xi măng, Sắt thép, Tài chính, Ngân hàng… Thông qua
các cuộc thanh tra này, các cơ quan thanh tra sẽ đánh giá được nhiều vấn đề về
chủ chương, chính sách, về quá trình tổ chức thực hiện và kết quả thực hiện về
một loại hàng hoá, dịch vụ hay một ngành, một lĩnh vực nào đó… để cung cấp
kịp thời các thông tin cần thiết cho công tác chỉ đạo, điều hành, quản lý vĩ mô
của Nhà nước.
+ Kết hợp thanh tra theo chương trình, kế hoạch với thanh tra đột xuất
Trong thời gian vừa qua, các cơ quan thanh tra thường tập trung chủ yếu
vào các cuộc thanh tra theo chương trình, kế hoạch; còn các cuộc thanh tra đột
xuất rất ít được thực hiện. Sở dĩ có tình trạng như vậy, chủ yếu là do sự quy định
của pháp luật đối với hình thức này rất chặt chẽ. Nghị định 61/1998/NĐ-CP
ngày 15 tháng 8 năm 1998 của Chính phủ về công tác thanh tra, kiểm tra các
doanh nghiệp ghi rõ: “Việc thanh tra bất thường chỉ được tiến hành khi doanh
nghiệp có vi phạm pháp luật. Quyết định thanh tra bất thường do Thủ trưởng
các cơ quan thanh tra trong hệ thống Thanh tra Nhà nước hoặc Thủ trưởng cơ
quan quản lý nhà nước ban hành” [40, tr.94].
Thanh tra đột xuất là những cuộc thanh tra được thực hiện tức thời, mới
xuất hiện trong kỳ kế hoạch. Cho nên, việc tiến hành các cuộc thanh tra này
thường đòi hỏi phải rất nhanh, gọn thì mới đáp ứng được cho yêu cầu của công
tác quản lý hay yêu cầu giải quyết KN, TC của công dân.
Mặt khác, trong điều kiện của nền kinh tế thị trường hiện nay, các phương
tiện giao thông vận tải rất thuận tiện và đặc biệt là phương tiện thông tin liên lạc
rất hiện đại và phổ biến nên các hoạt động kinh tế-xã hội cũng diễn ra hết sức
nhanh chóng, nhất là đối với các hành vi buôn lậu, kinh doanh trái phép, trốn lậu
thuế… lại càng diễn ra nhanh hơn, thậm trí chỉ tính bằng giờ hay bằng phút. Vì
vậy, để phát hiện được dấu hiệu hay hiện tượng đã là khó, chứ chưa nói đến phát
98
hiện được đối tượng có vi phạm. Khi phát hiện được đối tượng có vi phạm rồi
mới lại làm thủ tục ban hành quyết định thanh tra thì có lẽ có nhiều vụ việc đã
thực hiện xong hoặc không còn hiện trường nữa… Vì vậy, cần phải sửa đổi, bổ
xung, đơn giản hoá về thủ tục để việc tiến hành các cuộc thanh tra đột xuất được
thực hiện tức thời đúng như tên gọi của nó. Nhằm tạo những điều kiện thuận lợi
cho các cơ quan thanh tra dễ dàng sử dụng và kết hợp tốt giữa thanh tra theo
chương trình, kế hoạch với thanh tra đột xuất. Phải chuyển từ kế hoạch thanh tra
cứng nhắc sang kế hoạch thanh tra nhạy bén, linh hoạt, nghĩa là ngày một phải
có nhiều cuộc thanh tra đột xuất hơn, đặc biệt là đối với các cơ quan thanh tra
chuyên ngành. Có thực hiện được như vậy, thì việc sử dụng các hình thức thanh
tra mới linh hoạt và thuận tiện, mới đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của cơ chế thị
trường và của các cơ quan quản lý nhà nước.
- Thời hạn thanh tra và gia hạn thanh tra
Việc thực hiện thời hạn thanh tra và gia hạn thanh tra, với thời gian 30
mươi ngày là quá ngắn để thanh tra một DN lớn; hơn nữa, trong thực tế việc gia
hạn cho cuộc thanh tra cũng là rất hãn hữu và thời gian gia hạn cho một cuộc
thanh tra cũng là 30 ngày thì cũng không hợp lý. Vì vậy, cần phải tổ chức
nghiên cứu, điều tra để có căn cứ xác định lại thời hạn thanh tra và gia hạn thanh
tra cho thích hợp.
Việc quy định về cách tính thời gian cũng chưa được chặt chẽ, nên cũng
cần phải quy định lại cho chi tiết, chặt chẽ và rõ ràng hơn, để mọi người chỉ có
một cách hiểu, một cách tính, không thể có lý do gì để cố tình kéo dài thời hạn
thanh tra đối với các DN.
- Trình tự, thủ tục thanh tra
Trình tự, thủ tục trong thanh tra hiện nay vẫn còn rất rờm rà, chưa thích
ứng với sự linh hoạt của cơ chế thị trường, nhất là đối với thanh tra chuyên
ngành. Vì vậy, cần phải đơn giản hoá về trình tự, thủ tục theo các hướng sau:
+ Các Thanh tra viên từ trước tới nay vẫn được cấp thẻ Thanh tra viên
nhưng thực tế là chưa sử dụng vào việc gì, vậy thì nên chăng đối với các cuộc
99
thanh tra đột xuất có thể dùng thẻ này để thay cho quyết định thanh tra, đối với
thanh tra chuyên ngành có lẽ là rất thích hợp và hiệu quả hơn. Đồng thời, trong
những trường hợp này phải quy định rất chặt chẽ về mặt trách nhiệm, nếu ai lạm
dụng thẻ này để vào doanh nghiệp với mục đích cá nhân, vụ lợi… thì phải bị
nghiêm trị: nhẹ thì cảnh cáo, cao hơn thì hạ bậc lương hoặc đuổi việc và nếu
nghiêm trọng thì phải đưa ra truy tố trước pháp luật.
+ Việc sử dụng các quyền trong quá trình thanh tra cũng cần phải đơn
giản hơn, không nên quy định quá chặt chẽ về thủ tục, trình tự. Nếu đã cho họ sử
dụng những quyền gì thì nên để cho họ tuỳ cơ ứng biến, nếu thấy cần thiết thì họ
có thể sử dụng được ngay. Sở dĩ trong thời gian qua có nhiều quyền khó sử dụng
hay ít sử dụng hoặc có quyền không sử dụng được là do về trình tự, thủ tục. Ví
dụ, nếu trong quá trình thanh tra mà phát hiện đối tượng có hành vi vi phạm hay
có việc làm không đúng như: sản xuất hàng hoá kém chất lượng, bán thuốc
không có trong danh mục, bán thực phẩm quá hạn sử dụng… thì Đoàn thanh tra
hay các Thanh tra viên cần phải đình chỉ hoặc tịch thu ngay thì mới có tác dụng.
Còn nếu phải thực hiện theo trình tự: trước hết phải yêu cầu họ tự đình chỉ, nếu
đối tượng không chấp thuận thì báo cáo ngay người ra quyết định thanh tra xử lý
và trong trường hợp khẩn cấp mới được quyền tạm đình chỉ… Để thực hiện một
quyền mà phải qua các bước như vậy thì quả là quá phức tạp và thực tế nhiều
khi rất khó xác định là họ có tự đình chỉ hay không, họ có chấp thuận hay không
và lấy tiêu chí gì để xác định như thế nào là khẩn cấp để sử dụng những quyền
này… Hơn nữa, đây lại là những quyền rất nhạy cảm và cần phải sử dụng tức
thời thì mới có hiệu quả. Vì vậy, cần thiết phải đơn giản hoá các thủ tục, trình tự
trong quá trình thanh tra.
- Tiêu chí xem xét, đánh giá, kết luận thanh tra
Trong thực tế, do chưa có những tiêu chí xem xét, đánh giá thống nhất
nên dẫn đến hiện tượng: cùng một nội dung, cùng một đối tượng, cùng một thời
điểm thanh tra nhưng mỗi đoàn kết luận một khác. Vì thế DN không biết nghe
ai, thực hiện theo ai và chính Thủ trưởng các cơ quan quản lý nhà nước cũng
100
không xác định được kết luận nào là đúng để xử lý cho thích hợp. Vì vậy, cần
phải xây dựng những tiêu chí xem xét, đánh giá cho thống nhất. Tiêu chí kiểm
tra, đánh giá càng rõ ràng, cụ thể thì hoạt động thanh tra và thanh tra các DNNN
càng dễ, càng có hiệu quả. Hoạt động thanh tra các DNNN cần xây dựng các
tiêu chí theo các hướng sau:
Kết hợp giữa việc xem xét, đánh giá tính hợp pháp với tính hợp lý các
hoạt động của DN; trong đó lấy chính sách, pháp luật, định mức kinh tế kỹ thuật
làm tiêu chuẩn, đồng thời cũng phải cân nhắc tới tính hợp lý của nó, nhằm tránh
sự máy móc, cứng nhắc ảnh hưởng tới tính năng động, linh hoạt của DN.
Kết hợp giữa việc xem xét các chỉ tiêu về kinh tế với các chỉ tiêu về xã
hội. Trong nền kinh tế thị trường, vấn đề mà người ta quan tâm đầu tiên đối với
một DN là hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản xuất kinh doanh mang lại, tức
là kinh doanh phải có lãi và là lãi thực. Đồng thời, cũng phải thấy được vai trò
và ý nghĩa xã hội của nó. Đối với các DN công ích phải lấy các chỉ tiêu về xã
hội là chủ yếu, còn các DN kinh doanh phải lấy các chỉ tiêu về kinh tế làm thước
đo cơ bản.
Việc xem xét phương hướng sản xuất kinh doanh phải gắn với hiệu quả
kinh tế - xã hội mà nó mang lại. Phương hướng sản xuất kinh doanh đúng là
phải thể hiện được hai vấn đề: đi theo đúng định hướng, yêu cầu của Nhà nước
đòi hỏi và phải mang lại hiệu quả kinh tế-xã hội thiết thực.
Công tác quản lý, tổ chức điều hành phải gắn với kết quả của quá trình
sản xuất kinh doanh. Tổ chức quản lý tốt, chỉ đạo, điều hành tốt, đơn vị sản xuất
kinh doanh tốt tốt thì phải mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Xem xét nghĩa vụ của DN đối với Nhà nước phải gắn với trách nhiệm của
họ đối người lao động. Một DN hoạt động kinh doanh tốt, trước hết phải bảo
toàn được vốn và gia tăng số vốn mà Nhà nước đã giao cho, đồng thời phải đóng
góp đầy đủ các khoản cho ngân sách nhà nước và bảo đảm tốt các chế độ, chính
sách đối với người lao động.
101
- Tổ chức thực hiện tốt các kiến nghị, quyết định về thanh tra
Muốn nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động thanh tra, cần phải tổ chức
thực hiện tốt các kết luận, kiến nghị và quyết định xử lý về thanh tra; do đó, cần
đổi mới theo các hướng sau:
+ Qua kinh nghiệm thực tế cho thấy, ở đâu được Thủ trưởng cơ quan quản
lý nhà nước quan tâm, các hành vi vi phạm được xử lý kịp thời thì ở đó hoạt
động thanh tra đạt kết quả tốt. Vì vậy, trong quá trình thanh tra nếu phát hiện đối
tượng thanh tra có vi phạm, bằng chứng rõ ràng thì đoàn thanh tra cần phải xử lý
ngay theo thẩm quyền hoặc báo cáo với người ra quyết định thanh tra để kịp thời
xử lý, theo phương châm tăng cường xử lý tại chỗ các vi phạm, phát hiện đến
đâu xử lý đến đó, không nhất thiết phải để đến khi kết thúc cuộc thanh tra mới
xử lý.
+ Nâng cao chất lượng kết luận của cuộc thanh tra, khi xem xét, đánh
giá, kết luận về cuộc thanh tra phải dựa trên cơ sở chứng cứ đầy đủ, chặt chẽ,
chính xác; phải lấy chính sách, pháp luật và các quy định của Nhà nước, của
ngành làm tiêu chuẩn; việc phân tích, đánh giá phải đứng trên quan điểm toàn
diện, khách quan, trung thực và đặt trong một điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, tránh
dập khuôn, máy móc… Kết luận thanh tra đúng sai phải rõ ràng, nguyên nhân,
trách nhiệm phải được làm rõ và giải pháp xử lý phải thích hợp. Kết luận, kiến
nghị phải có giá trị thiết thực về kinh tế, chính trị và xã hội, nó không chỉ xử lý
nghiêm các hành vi vi phạm mà phải nhằm phòng ngừa, ngăn chặn các sai phạm
để nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước nói chung và thanh tra
các DNNN nói riêng.
+ Mở rộng phạm vi công khai hoá kết quả thanh tra, kết hợp giữa xử lý
theo pháp luật với việc dùng dư luận xã hội để điều chỉnh. Sau khi cuộc thanh
tra kết thúc, theo quy định của pháp luật các cơ quan thanh tra và đoàn thanh tra
đã công khai hoá kết quả cuộc thanh tra với đối tượng thanh tra và với các cơ
quan có liên quan. Như vậy, việc tổ chức công bố kết luận thanh tra còn ở trong
phạm vi hẹp, chủ yếu vẫn là đoàn thanh tra với đối tượng thanh tra. Việc xử lý,
102
điều chỉnh các hành vi của đối tượng thanh tra chủ yếu cũng vẫn là dùng quyền
lực là chính, nên kết quả thực hiện các kết luận, kiến nghị chưa cao. Vì vậy, cần
phải kết hợp cả việc dùng quyền lực với việc dùng dư luận xã hội để điều chỉnh
các hành vi của đối tượng thanh tra; cần mở rộng phạm vi công khai hoá kết quả
thanh tra hơn nữa như: thông tin trên báo, đài, tivi… (trừ các trường hợp có liên
quan đến bí mật quốc gia). Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng,
nhằm gây ảnh hưởng, áp lực để điều chỉnh, buộc đối tượng thanh tra phải thực
hiện các kết luận, kiến nghị và quyết định xử lý về thanh tra.
+ Các cơ quan thanh tra và Thủ trưởng các cơ quan quản lý nhà nước cần
phải xử lý thật nghiêm minh, kiên quyết các hành vi vi phạm, nhất là đối với
những cán bộ, công chức đã vi phạm chức trách, nhiệm vụ trong công tác quản
lý các DN và DNNN. Mọi sai phạm đều phải được xử lý nghiêm minh, bất kể
người đó là ai, ở cương vị nào. Người có chức vụ càng cao thì cần phải xử lý
nặng hơn, ngưòi cố tình vi phạm hoặc vi phạm có tổ chức, vi phạm nhiều lần thì
cần phải xử lý nặng hơn nữa. Người vi phạm là cán bộ, đảng viên thì phải bị xử
lý nặng hơn quần chúng. Đối với các trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng hoặc
làm thất thoát, hư hại lớn đến tài sản của Nhà nước và công dân thì bắt phải bồi
thường và đưa ra truy tố trước pháp luật. Việc xử lý các sai phạm phải được tiến
hành một cách kiên quyết và triệt để, chống nể nang, cục bộ, xử lý rồi điều
chuyển từ cấp dưới lên cấp trên, từ cơ quan này sang cơ quan khác, mà phải để
họ ở ngay tại chỗ để họ tự sửa chữa, tự rèn luyện, phấn đấu dưới sự kiểm tra,
giám sát của quần chúng… Có như vậy, thì việc xử lý các vi phạm mới mang lại
hiệu quả, mới có tác dụng giáo dục, thuyết phục, dăn đe và phòng ngừa; hoạt
động thanh tra và thanh tra các DNNN mới có kết quả thật sự, kỷ cương, phép
nước mới nghiêm, tham nhũng, tiêu cực mới giảm.
+ Các cơ quan thanh tra phải chủ động, tăng cường phối hợp với các cơ
quan hữu quan để yêu cầu đối tượng thanh tra và các cơ quan, tổ chức, cá nhân
có liên quan phải thực hiện các kết luận, kiến nghị và quyết định xử lý về thanh
tra. Bên cạnh biện pháp tuyên truyền, vận động hay giáo dục, thuyết phục, các
103
cơ quan thanh tra cần phải làm việc với các cơ quan chức năng, nhất là đối với
cơ quan cấp trên trực tiếp của các đối tượng, để họ chỉ đạo hoặc có những biện
pháp thích hợp để buộc các đối tượng phải thực hiện. Trong những trường hợp
cần thiết có thể phải yêu cầu các cơ quan bảo vệ pháp luật như: Công an, Thi
hành án hay Viện kiểm sát can thiệp hoặc phải dùng các biện pháp cưỡng chế
như: phong toả tài khoản, kê biên tài sản, tạm giữ tiền, đồ vật, giấy phép kinh
doanh… buộc các đối tượng phải có trách nhiệm thực hiện các kết luận, kiến
nghị và quyết định xử lý về thanh tra.
+ Các cơ quan thanh tra cần phải tăng cường theo dõi, kiểm tra và đôn
đốc việc thực hiện. Đây là một trong những khâu còn yếu của hoạt động thanh
tra và thanh tra các DNNN. Đồng thời, khi cần thiết cũng phải có những biện
pháp cứng rắn để xử lý nghiêm các đối tượng cố tình chống đối, không thực hiện
các kết luận, kiến nghị và quyết định xử lý về thanh tra.
- Củng cố và tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động thanh tra
các DNNN
Thanh tra các DNNN là một trong những nội dung cơ bản và chủ yếu của
hoạt động thanh tra kinh tế xã hội của các cơ quan thanh tra nhà nước. Nhưng
trong thời gian vừa qua, việc tổ chức, chỉ đạo và tập huấn cho các cơ quan thanh
tra cấp dưới về thanh tra các DNNN còn rất hạn chế. Vì vậy, trong thời gian tới
cần phải:
+ Tăng cường sự chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra của cơ quan thanh tra
cấp trên đối với cấp dưới về hoạt động thanh tra các DNNN. Trong kế hoạch
thanh tra hàng năm của các cơ quan thanh tra cần phải tách thành một nội dung
riêng về thanh tra các DNNN, thậm trí có thể đặt ra những chỉ tiêu cụ thể đối với
việc thanh tra các DNNN.
+ Cần phải xây dựng, biên soạn một chương trình hay một chuyên đề
riêng về hoạt động thanh tra, kiểm tra các DNNN; tập huấn, bồi dưỡng nâng cao
kiến thức nghiệp vụ về công tác thanh tra, kiểm tra các DNNN cho các cán bộ,
công chức thanh tra, nhằm đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của hoạt động thanh tra,
104
kiểm tra các DNNN trong tình hình mới.
+ Chế độ báo cáo và các mẫu biểu thống kê của các cơ quan thanh tra nhà
nước cần phải được nghiên cứu, cải tiến cho thích hợp. Nội dung báo cáo nên
ngắn gọn và thiết thực, cần phải đặt ra những tiêu chí, yêu cầu cụ thể và thống
nhất. Nội dung báo cáo cũng nên mẫu biểu hoá, nó cần phải được thể hiện thông
qua các số liệu là chủ yếu, tránh dài dòng mà thông tin lại ít. Có làm được như
vậy thì người làm báo cáo mới dễ và kịp thời. Trong các báo cáo và mẫu biểu
thống kê cần phải tách hoạt động thanh tra các DNNN thành một nội dung riêng,
trong đó cần có các tiêu chí cụ thể như: số DN được thanh tra, số DN làm ăn có
lãi, số DN bị lỗ, số DN bị mất vốn, số DN có vi phạm, số tiền vi phạm, kết quả
thực hiện và xử lý các vi phạm sau thanh tra…
3.2.4. Củng cố, tăng cường tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ công
chức thanh tra
- Hệ thống tổ chức Thanh tra Nhà nước
Để tránh sự thanh tra chồng chéo, hoàn thiện chế độ phân cấp, xác định rõ
chủ thể, phạm vi và đối tượng thanh tra; nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của
các cơ quan thanh tra nhà nước. Hệ thống tổ chức và bộ máy các cơ quan thanh
tra cần phải được củng cố, tăng cường theo các hướng sau:
+ Hệ thống tổ chức và bộ máy thanh tra gọn nhẹ, tập trung và thống nhất.
Các cơ quan thanh tra cần được tổ chức thành một hệ thống thanh tra thống nhất
với ba cấp: trung ương; tỉnh, thành phố và quận, huyện. Mỗi cấp đảm nhiệm cả
chức năng thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành, nhằm nâng cao tính
độc lập tương đối của hoạt động thanh tra và tăng cường sự chỉ đạo, điều hành
trực tiếp của cơ quan thanh tra cấp trên đối với cấp dưới. Mục đích của các cơ
quan thanh tra cũng vẫn là vì quản lý và phục vụ cho công tác quản lý, chỉ đạo,
điều hành trực tiếp của các cơ quan quản lý nhà nước ở các cấp, các ngành.
Cấp trung ương có Thanh tra Chính phủ và Thanh tra các bộ, ngành.
Thanh tra Chính phủ chủ yếu thực hiện chức năng thanh tra hành chính đối với
các Bộ, ngành, các cơ quan trung ương và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố.
105
Thanh tra các bộ, ngành dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thanh tra Chính phủ, mỗi
Bộ, ngành chỉ tổ chức một cơ quan thanh tra và thực hiện chức năng thanh tra
chuyên ngành.
Cấp tỉnh, thành phố cũng chỉ thành lập một cơ quan thanh tra với hai chức
năng thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành, dưới sự chỉ đạo trực tiếp
của Thanh tra Chính phủ. Trong đó, có các phòng thanh tra hành chính và thanh
tra chuyên ngành.
Cấp quận, huyện vẫn tổ chức một cơ quan thanh tra như hiện nay và cũng
thực hiện cả chức năng thanh tra hành chính lẫn thanh tra chuyên ngành và chịu
sự chỉ đạo trực tiếp của Thanh tra tỉnh.
+ Chức năng, nhiệm vụ cần phải tương xứng với quyền hạn và quyền hạn
phải gắn với trách nhiệm cá nhân. Để đảm bảo cho các cơ quan thanh tra và cán
bộ, công chức thanh tra có đủ điều kiện và khả năng hoàn thành tốt hiệm vụ
thanh tra, cần phải tăng thêm quyền hạn cho các cơ quan thanh tra và Trưởng
đoàn thanh tra như: quyền kê biên tài sản, phong toả tài khoản của đối tượng
thanh tra, điều tra, khởi tố các vụ việc tham nhũng… Mở rộng thẩm quyền xử lý
tại chỗ để thu hồi kinh tế và nâng mức cao mức phạt hành chính cho các TTV
khi thực hiện nhiệm vụ, nhất là đối với thanh tra chuyên ngành. Đồng thời,
quyền hạn cần có chế tài thực hiện và thủ tục cũng cần phải đơn giản hoá, nhằm
đảm bảo cho đoàn thanh tra và các TTV sử dụng được dễ dàng và có hiệu quả.
Mặt khác, việc tăng thêm quyền hạn cũng cần phải gắn với trách nhiệm và nâng
cao trách nhiệm cá nhân. Cần phải quy định rất chặt chẽ về mặt trách nhiệm, nếu
ai lạm dụng quyền hạn vì mục đích cá nhân, vụ lợi thì đều phải bị nghiêm trị;
nếu nhẹ thì bị kỷ luật hành chính, nếu nặng hơn thì bị đuổi việc và nếu nghiêm
trọng thì phải đưa ra truy tố trước pháp luật.
- Nâng cao trách nhiệm và trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ
cán bộ, công chức thanh tra
Trước hết mỗi cán bộ, công chức thanh tra phải tự mình rèn luyện, phấn
đấu, tu dưỡng và học tập để nâng cao trình độ, nâng cao phẩm chất chính trị và
106
đạo đức cách mạng. Đồng thời, Thủ trưởng các cơ quan thanh tra cũng phải tăng
cường tuyên truyền, vận động, giáo dục cho các cán bộ, công chức thanh tra về
lòng trung thành với Tổ quốc, với nhân dân; tinh thần trách nhiệm với công việc.
Xây dựng tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp của người cán bộ thanh tra: khách
quan, trung thực, công minh, tin yêu mọi người, biết đấu tranh bảo vệ lẽ phải,
chống lại cái ác… Xây dựng và ban hành các chế độ quy định, nội quy cơ quan,
quy chế công vụ nhằm bảo đảm kỷ cương bộ máy, nâng cao trách nhiệm, ý thức
tổ chức kỷ luật cho đội ngũ cán bộ, công chức. Thực hành tiết kiệm, chống quan
liêu, lãng phí trong bộ máy nhà nước. Thực hiện tốt quy chế dân chủ trong các
cơ quan hành chính nhà nước, công khai hoá mọi hoạt động của cơ quan, đơn vị.
Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng trong bộ máy nhà nước và trong
các doanh nghiệp khi đến thanh tra.
Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ kiến thức, chuyên môn nghiệp vụ
cho đội ngũ cán bộ, công chức thanh tra. Để đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, các cán bộ, công chức nhà nước nói chung và
ngành thanh tra nói riêng, không chỉ cần có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt mà
cần phải có trình độ, kiến thức chuyên môn nghiệp vụ vững vàng thì mới có khả
năng hoàn thành tốt được nhiệm vụ. Hơn nữa, do tính chất và đặc điểm của hoạt
động thanh tra, nên đòi hỏi người cán bộ thanh tra phải có chuyên môn sâu, hiểu
biết rộng, am hiểu về nhiều lĩnh vực và cần có những kinh nghiệm về cuộc sống
và công tác quản lý. Do vậy, mỗi cán bộ công chức thanh tra phải xây dựng cho
mình một chương trình, kế hoạch học tập, phải tự mình phấn đấu vươn lên để
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Mặt khác, cơ quan Thanh tra Chính phủ và Trường
Cán bộ Thanh tra cũng phải đánh giá lại công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
trong thời gian qua để xây dựng nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng cho
thích hợp với từng loại chức danh như: cán bộ quản lý, cán bộ nghiệp vụ thanh
tra các cấp. Nội dung của chương trình đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, công
chức thanh tra cần phải bảo đảm vừa rộng, vừa sâu; vừa nâng cao kiến thức
nhưng cũng phải chú ý tới kỹ năng thực hành, nhất là việc xử lý các tình huống
107
trong hoạt động thanh tra, trong giải quyết khiếu nại, tố cáo và chống tham
nhũng. Nội dung của chương trình đào tạo, bồi dưỡng cần phải đi vào những vấn
đề chủ yếu sau: Những vấn đề cơ bản về Nhà nước và pháp luật, về Quản lý
hành chính nhà nước, về Quản lý kinh tế, tài chính, về sử dụng các phương tiện
khoa học kỹ thuật thường dùng trong hoạt động thanh tra và đặc biệt là về
Nghiệp vụ công tác thanh tra và thanh tra các DN và DNNN…
Đồng thời, các cơ quan thanh tra cũng phải cũng phải có chương trình, kế
hoạch để cho đi đào tạo, bồi dưỡng các cán bộ của cơ quan mình. Trước hết, cần
phải ưu tiên cho các cán bộ quản lý và cán bộ nghiệp vụ; đồng thời, cũng phải
ưu tiên cho các đồng chí đã có nhiều năm công tác trong ngành nhưng chưa có
điều kiện đi học. Có như vậy, trình độ kiến thức và chuyên môn nghiệp vụ của
đội ngũ cán bộ, công chức thanh mới được nâng cao và đồng đều, mới đáp ứng
được những yêu cầu đòi hỏi của ngành thanh tra trong tình hình mới.
Có chế độ chính sách phù hợp với đội ngũ cán bộ, công chức thanh tra.
Nhìn chung, trong thời gian vừa qua, các chế độ đãi ngộ đối với cán bộ, công
chức thanh tra như: tiền lương, tiền thưởng, phụ cấp nghề nghiệp, các trang thiết
bị, phương tiện làm việc… còn rất hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu thực hiện
nhiệm vụ. Vì vậy, song song với việc nâng cao chất lượng cho đội ngũ cán bộ,
thanh tra viên, Nhà nước cần có những chế độ, chính sách thích hợp. Ngoài chế
độ tiền lương, Nhà nước cần có thêm các chế độ khác để khuyến khích những
người đã cống hiến lâu năm trong ngành như phụ cấp thâm niên; để nâng cao
chế độ trách nhiệm của các cá nhân, hạn chế các hành vi tiêu cực thì có thể cho
thêm phụ cấp dưỡng liêm hay phụ cấp trách nhiệm; để khuyến khích những
đoàn thanh tra hay các Thanh tra viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, thu về cho
Nhà nước và công dân được nhiều tài sản bị thất thoát thì có thể khuyến khích
bằng chế độ tiền thưởng… Đồng thời, bảo đảm đủ các điều kiện vất chất, trang
thiết bị, phương tiện làm việc để các cán bộ, công chức thanh tra hoàn thành tốt
nhiệm vụ.
Bên cạnh chế độ đãi ngộ đối với các cán bộ, công chức thanh tra hoàn
108
thành tốt nhiệm vụ, Nhà nước cũng cần phải có những biện pháp, hình thức xử
lý nghiêm minh những cán bộ thiếu trách nhiệm, không hoàn thành nhiệm vụ
hoặc những người có hành vi nhũng nhiễu, vòi vĩnh, gây khó khăn cho đối
tượng thanh tra. Đây cũng chính là một trong những biện pháp quan trọng, để
nâng cao chế độ trách nhiệm và chất lượng cho đội ngũ cán bộ, công chức thanh
tra.
3.2.5. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về thanh tra
Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật về thanh tra và
thanh tra các DNNN nói riêng cần đi vào một số nội dung chủ yếu sau:
- Xác định rõ chức năng quản lý nhà nước đối với DN nói chung và
DNNN nói riêng. Trước hết Nhà nước cần phải hạn chế và chấm dứt tình trạng
dùng mệnh lệnh hành chính để can thiệp trực tiếp vào các hoạt động của DN.
Nhà nước quản lý và tác động vào các DNNN thông qua các chính sách, pháp
luật; thông qua cơ chế quản lý và điều lệ của các DN; thông qua công tác đào
tạo, bố trí và sử dụng đội ngũ cán bộ chủ chốt của các DN và thông qua hoạt
động thanh tra, kiểm tra việc chấp hành chính sách, pháp luật, nhiệm vụ và các
chế độ, quy định của Nhà nước đối với DN.
- Phân định rõ quyền của chủ sở hữu trong quản lý nhà nước và quyền tự
chủ của DNNN trong quá trình sản xuất kinh doanh. Nhà nước thống nhất quản
lý và tổ chức thực hiện các quyền của chủ sở hữu đối với DN. Nhà nước quyết
định những vấn đề quan trọng, chủ yếu của DN như: thành lập hay chia tách
DN; bộ máy và những vị trí chủ chốt của DN; mục tiêu, phương hướng phát
triển sản xuất kinh doanh của DN; các dự án đầu tư lớn của DN; nguyên tắc hoạt
động và phân phối lợi nhuận; thanh tra, kiểm soát các hoạt động của DN theo
chính sách, pháp luật và các quy định của Nhà nước đối với DN. Nhà nước uỷ
quyền cho các Bộ, ngành và phân cấp cụ thể cho UBND các tỉnh, thành phố và
Hội đồng quản trị thực hiện quyền sở hữu đối với các DNNN.
- Phân định rõ quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà
109
nước trong hoạt động thanh tra nói chung và thanh tra các DNNN nói riêng,
tránh tình trạng có quá nhiều các cơ quan có chức năng thanh tra, kiểm tra các
DN và DNNN.
- Xác định và bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ về hoạt động thanh tra,
kiểm tra nói chung và thanh tra các DNNN nói riêng trong hệ thống văn bản
pháp luật của Nhà nước.
- Xác định lại cơ cấu, tổ chức của các cơ quan thanh tra nhà nước theo
hướng tăng thêm quyền hạn và tăng cường tính tập trung, thống nhất, xây dựng
bộ máy gọn nhẹ như mục 3.2.4. đã trình bày.
- Xác định các biện pháp bảo đảm để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt
động thanh tra theo hướng: tăng cường tính độc lập của hoạt động thanh tra;
tăng thêm quyền xử lý tại chỗ cho các thanh tra viên khi thực hiện nhiệm vụ;
quyền hạn cần phải đi đôi với các chế tài thực hiện; giảm thiểu các thủ tục hành
chính và nâng cao trách nhiệm cá nhân trước pháp luật.
- Việc xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật cần phải đồng bộ,
thống nhất, những vấn đề gì có thể cụ thể hoá được trong luật thì cần phải đưa
vào, hạn chế đến mức thấp nhất hiện tượng Luật chờ Nghị định, Nghị định chờ
Thông tư… Đối với những trường hợp không thể đưa vào luật hoặc có những
phát sinh mới thì cần phải có các văn bản hướng dẫn kịp thời, cụ thể và chi tiết
để mọi người chỉ có một cách hiểu, một cách tính thống nhất.
3.2.6. Từng bước hiện đại hoá hoạt động thanh tra
- Trước hết, các cơ quan thanh tra cần quan tâm, từng bước mua sắm các
máy móc thiết bị, phương tiện làm việc cần thiết để phục vụ kịp thời cho các
đoàn thanh tra như: máy ảnh, máy ghi hình, máy ghi âm, máy tính xách tay và
các thiết bị kiểm tra kỹ thuật khác…
- Song song với việc mua sắm các phương tiện làm việc, từng bước xây
dựng lại cơ sở vật chất như: nhà làm việc, trang thiết bị nội thất phục vụ cho quá
trình làm việc của các cán bộ, công chức. Từng bước đổi mới và trang bị thêm
110
các phương tiện đi lại theo hướng hiện đại hoá, nhằm từng bước đáp ứng được
những yêu cầu cơ bản của hoạt động thanh tra trong cơ chế thị trường năng
động.
- Hiện nay, một số cơ quan thanh tra đã thực hiện nối mạng nội bộ hoặc
nối mạng với các cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp, nên đáp ứng được những
yêu cầu nhất định trong xử lý các công việc hàng ngày của các cơ quan này. Vì
vậy, các cơ quan thanh tra cần phải từng bước khẩn trương triển khai nối mạng
nội bộ và nối mạng toàn ngành, tiến tới hoà vào mạng thông tin quốc gia như
Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001- 2010 của
Chính phủ đã đề ra.
3.2.7. Tăng cường hợp tác quốc tế trong hoạt động thanh tra
Ngày nay, trên thế giới hầu hết các quốc gia đều tổ chức ra các cơ quan để
thực hiện chức năng giám sát, thanh tra, kiểm tra và kiểm soát toàn bộ các hoạt
động của đất nước. Tuy nhiên, do những điều kiện về lịch sử, chính trị, kinh tế,
xã hội, phong tục và truyền thống pháp lý khác nhau, nên mỗi quốc gia có một
mô hình tổ chức và phương thức hoạt động riêng. Căn cứ vào vị trí, chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và tính chất hoạt động của các cơ quan này có thể chia
thành ba loại hình cơ bản sau:
- Thanh tra Quốc hội: là mô hình phổ biến ở các nước Bắc Âu và Châu
Mỹ như: Thuỵ Điển, Đan Mạch, Canada…
- Thanh tra, giám sát hành chính: là loại hình được tổ chức nhiều ở các
nước Châu A và Châu Phi như: Trung quốc, Hàn Quốc, Ai Cập…
- Thanh tra chuyên ngành: là một loại hình được thành lập ở hầu hết các
nước và ở nhiều nước nó tồn tại song song với các loại hình trên.
Tuy có sự khác nhau, nhưng các mô hình này đều có những điểm chung
sau:
- Thanh tra, kiểm tra và giám sát là một loại hoạt động của quản lý nhà
nước, là một chức năng của quản lý nhà nước, cho nên hầu hết các quốc gia đều
111
tổ chức ra các cơ quan để thực hiện chức năng này.
- Chủ thể thanh tra, kiểm tra và giám sát là thuộc về nhà nước, việc tổ
chức tiến hành các hoạt động này thường do các các tổ chức chuyên trách thực
hiện, mà trực tiếp là Đoàn thanh tra hoặc các Thanh tra viên.
- Nội dung thanh tra, kiểm tra và giám sát chủ yếu là việc chấp hành
chính sách, pháp luật; việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của công chức nhà
nước. Ngoài ra, các tổ chức thanh tra chuyên ngành còn kiểm tra việc “thực thi
các quyết định, mệnh lệnh của Bộ ngành” [38, tr.20].
- Mục đích của thanh tra, kiểm tra và giám sát là phục vụ cho quản lý và
nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước. “Hoạt động của các
cơ quan này đều nhằm mục đích bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan nhà
nước, công chức nhà nước tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật” [38, tr.24].
Xuất phát từ những điểm chung đó và sự đòi hỏi hội nhập quốc tế của nền
kinh tế Việt Nam, Thanh tra Chính phủ đã bước đầu thiết lập được một số quan
hệ hợp tác quốc tế với một số nước như: Thuỵ Điển, Ai Cập, Đức, Trung
Quốc… Nhìn chung, kết quả của các hoạt động hợp tác quốc tế về thanh tra
trong thời gian vừa qua còn rất hạn chế, chưa đáp ứng với những yêu cầu đòi hỏi
của ngành thanh tra trong tình hình hiện nay. Vì vậy, trong thời gian tới ngành
thanh tra cần tăng cường, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong hoạt động thanh tra
theo các hướng sau:
- Tăng cường tổ chức các đoàn ra nước ngoài để tham quan về mô hình
tổ chức, bộ máy và phương thức hoạt động của cơ quan thanh tra các nước. Trao
đổi các thông tin, học tập các kinh nghiệm của các nước trong hoạt động thanh
tra hành chính và thanh tra chuyên ngành, trong giải quyết khiếu nại, tố cáo và
trong phòng ngừa chống tham nhũng.
- Trên cơ sở đẩy mạnh hoạt động tham quan, trao đổi kinh nghiệm để lựa
chọn những mô hình thanh tra thích hợp, tổ chức cho cán bộ, công chức của
ngành đi đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài. Nhằm từng bước nâng cao và hoàn
thiện về lý luận nghiệp vụ thanh tra, xây dựng những quy trình thanh tra và giải
112
quyết khiếu nại, tố cáo thích hợp và hiệu quả. Loại bỏ dần những thủ tục hành
chính rườm rà, không thích ứng với nền kinh tế thị trường và các quan hệ kinh tế
đối ngoại. Từng bước nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng; nâng cao trình độ
kiến thức và năng lực chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức
thanh tra theo kịp trình độ các nước, đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của công tác thanh
tra trong giai đoạn mới.
- Tiếp tục thiết lập và mở rộng quan hệ với các nước, với các tổ chức
quốc tế và khu vực trong hoạt động thanh tra nhằm tranh thủ sự hỗ trợ kinh phí,
phương tiện kỹ thuật và kinh nghiệm về công tác quản lý, điều hành, phục vụ
cho hoạt động thanh tra và thanh tra các DNNN đạt hiệu quả tốt.
- Trong thời gian không xa sẽ phải tiến tới có sự phối hợp, hỗ trợ trong
hoạt động thanh tra đối với các nước, nhằm đáp ứng những yêu cầu đòi hỏi của
các cơ quan quản lý nhà nước về thanh tra, kiểm soát các hoạt động quan hệ
kinh tế đối ngoại của các cơ quan nhà nước, cũng như các hoạt động thương mại
của các DN nói chung và DNNN nói riêng.
Tóm lại, chương này luận văn đã đi vào làm rõ 5 quan điểm cơ bản nhằm
hoàn thiện hoạt động thanh tra DNNN trong tiến trình đổi mới chung của đất
nước. Đồng thời luận tập trung chủ yếu vào việc luận giải 7 giải pháp cơ bản để
hoàn hoạt động thanh tra các DNNN:
1. Nâng cao nhận thức về hoạt động thanh tra và thanh tra các DNNN;
2. Hoàn thiện chế độ phân cấp, xác định rõ chủ thể, phạm vi và đối tượng
thanh tra và thanh tra các DNNN;
3. Tiếp tục đổi mới về nội dung và phương thức thanh tra và thanh tra các
DNNN;
4. Củng cố, tăng cường tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức
thanh tra;
5. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về thanh tra và thanh tra các
DNNN;
6. Từng bước hiện đại hoá hoạt động thanh tra;
113
7. Tăng cường hợp tác quốc tế trong hoạt động thanh tra.
Đây là những giải pháp mang tính khả thi và cần được thực hiện một cách
đồng bộ thì mới mang lại hiệu quả cao.
KẾT LUẬN
Thanh tra là một chức năng thiết yếu của các cơ quan nhà nước, nó có một
vị trí, vai trò rất quan trọng trong công tác quản lý nhà nước. Cho nên, các nhà
nước đều tổ chức ra một cơ quan chuyên trách để thực hiện chức năng thanh tra,
kiểm tra là một tất yếu khách quan. Trong đó, hoạt động thanh tra các DNNN là
114
một nội dung chủ yếu, quan trọng của các cơ quan thanh tra nhà nước, nhằm
phục vụ và nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước nói chung
và quản lý nền kinh tế nói riêng.
Trong nền kinh tế thị trường, để quản lý, điều hành tốt nền kinh tế theo
định hướng XHCN, một trong những nhiệm vụ cơ bản, quan trọng là phải từng
bước sửa đổi, bổ xung và hoàn thiện chính sách, pháp luật, hoàn thiện các công
cụ quản lý vĩ mô, trong đó có công cụ thanh tra và thanh tra các DNNN. Ngày
nay, ở nước ta các DNNN vẫn là một bộ phận quan trọng của kinh tế nhà nước,
là lực lượng vất chất chủ yếu để nhà nước quản lý vĩ mô nền kinh tế. Cho nên,
muốn nâng cao năng lực và hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DNNN, Nhà
nước cần phải tạo ra một hành lang pháp lý thông thoáng và những điều kiện
thuận lợi cho DN phát triển. Đồng thời, Nhà nước cũng phải tăng cường thanh
tra, kiểm soát, quản lý và điều chỉnh các hoạt động của DN, nhằm bảo đảm cho
DN phát triển đúng định hướng của Nhà nước đề ra. Vì vậy, để phục vụ tốt cho
công tác quản lý vĩ lý nền kinh tế của Nhà nước, đòi hỏi hoạt động thanh tra các
DNNN phải được đổi mới và từng bước hoàn thiện.
Từ nhận thức được vị trí, vai trò của hoạt động thanh tra trong công tác
quản lý nhà nước, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận văn đã phân tích,
làm rõ được những vấn đề cơ bản sau:
1. Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về khái niệm, vị trí, vai trò
và mục đích của hoạt động thanh tra nhà nước đối với các DNNN ở nước ta.
2. Trình bày một cách có hệ thống các nội dung của hoạt động thanh tra
nhà nước đối với các DNNN. Xác định rõ chủ thể, đối tượng, phạm vi và nội
dung thanh tra; các hình thức cơ bản và các phương pháp chủ yếu để tiến hành
thanh tra; và công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động thanh tra các DNNN.
3. Thông qua việc xem xét, phân tích thực trạng hoạt động thanh tra và
thanh tra các DNNN trong tiến trình đổi mới của những năm gần đây, luận văn
đã rút ra những kết quả đạt được và các tồn tại, hạn chế của hoạt động thanh tra
115
các DNNN; đồng thời cũng làm rõ các nguyên nhân để tìm cách khắc phục.
4. Trên cơ sở những kết luận được rút ra qua quá trình nghiên cứu, kết
hợp với việc phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động thanh tra các DNNN, luận
văn đã đưa ra 5 quan điểm cơ bản và đề xuất 7 giải pháp chủ yếu để hoàn thiện
hoạt động thanh tra các DNNN trong thời gian tới.
Tuy nhiên, do phạm vi của đề tài rất rộng, khả năng khảo sát có hạn nên
luận văn khó tránh khỏi các khiếm khuyết. Rất mong được các nhà khoa học,
các đồng nghiệp góp ý để luận văn được hoàn chỉnh, góp phần thiết thực vào
116
việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động thanh tra trong giai đoạn tới./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. “Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về lãnh đạo và kiểm soát”, Tạp chí Thanh tra,
số 5-2001, tr.3.
2. “Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-
2010”, Báo Nhân dân, từ số ra ngày 5-7/3/2003.
3. GS.TS Chu Văn Cấp (Chủ biên), Lịch sử các học thuyết kinh tế, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà nội.
4. Đảng cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh của Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà nội.
5. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội.
6. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội.
7. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội.
8. Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Nghị quyết hội nghị lần thứ ba Ban chấp
hành Trung ương Đảng khoá IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội.
9. “Định hướng chương trình hành động của Chính phủ trong nhiệm kỳ 2002-
2007”, Thủ tướng Phan Văn Khải, Báo Nhân dân, ngày 9/8/2002, tr.3.
11. Học viện Hành chính Quốc gia (1997), Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh
về Đảng lãnh đạo Nhà nước, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội.
12. V.I. Lê Nin (1998), Bàn về kiểm kê, kiểm soát, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
nội.
13. Luật Doanh nghiệp nhà nước và các văn bản hướng dẫn thi hành, Nxb
112
Chính trị Quốc gia, Hà nội, 2002.
14. Viện khoa học Thanh tra (2004), Luật Thanh tra năm 2004 với việc đổi mới
tổ chức, hoạt động thanh tra trong thời kỳ CNH-HĐH, Nxb Tư pháp, Hà
nội.
15. TS. Lê Mạnh Luân (1999), “Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về
kiểm tra, tranh tra”, Tạp chí Thanh tra, số 6, tr.9-10.
16. Nguyễn Tấn Dũng (2002), “Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ theo định
hướng xã hội chủ nghĩa”, Báo Nhân dân, tr.1-2.
17. Nguyễn Văn Liêm (2001), Cơ sở khoa học xác định mô hình và cơ cấu tổ
chức Thanh tra Nhà nước các cấp đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính
nhà nước, Đề tài khoa học cấp Bộ, mã số 98-98-101/ĐT-Cơ quan Thanh
tra nhà nước-Tạp chí Thanh tra, số 4.
18. PGS.TS Nguyễn Văn Thâm (1997), “Một số vấn đề về Thanh tra và tổ
chức hoạt động thanh tra trong tình hình hiện nay ở nước ta”, Thông tin
khoa học, số 1.
19. Nguyễn Thanh Hải (2000), Vai trò của Thanh tra Nhà nước trong việc thực
hiện dự án của nước ta hiện nay, Luận án hành chính học, mã số 5.07.05.
20. Ngô Văn Khánh (2003), “Công tác thanh tra, kiểm tra tài chính đối với
doanh nghiệp Nhà nước”, Tạp chí Thanh tra, số 7, tr. 13-15.
21. Ngô Văn Khánh (2003), “Tăng cường hiệu lực thanh tra, kiểm tra tài chính
đối với doanh nghiệp Nhà nước”, Tạp chí Thanh tra, số 6, tr. 19-21.
22. Ngô Văn Khánh (2002), Tăng cường hiệu lực thanh tra, kiểm tra tài chính
đối với doanh nghiệp Nhà nước, Luận án thạc sĩ kinh tế .
23. NDQ (2002), “Bác Hồ với Thanh tra Việt Nam”, Tạp chí Thanh tra, số 5,6,
Tr.19-21.
24. NBS (2001), “Quan điểm của Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh về
vị trí, vai trò của công tác thanh tra”, Tạp chí Thanh tra, số 12, tr.5-9.
113
25. Pháp lệnh Thanh tra, Hà nội, 1990.
26. PV (2002), “Những kinh nghiệm rút ra qua việc thực hiện quy chế dân chủ
ở cơ sở”, Tạp chí Thanh tra, số 8, tr.25-28.
27. Phạm Văn Khanh (1997), “Bàn về định hướng đổi mới tổ chức, hoạt động
thanh tra nước ta”, Thông tin khoa học, số 1.
28. TS. Phạm Tuấn Khải (1997), “Cần phân định rõ hoạt động thanh tra với
điều tra, kiểm sát, kiểm soát, giám sát và xét xử”, Tạp chí Thanh tra, số 10.
29. TS. Phạm Tuấn Khải (2003), “Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Chính phủ”, Tạp chí Thanh tra, số
6,7, tr.9-10, 10-11.
30. TS. Phạm Tuấn Khải (1996), Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề đổi mới
tổ chức và hoạt động của thanh tra Nhà nước ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ
luật học, mã số 5.05.01.
31. Thanh tra Nhà nước (1998), Những vấn đề cơ bản của luật khiếu nại, tố
cáo, Hà nội.
32. Thanh tra Nhà nước (1998), Lịch sử Thanh tra Việt Nam (sơ thảo), Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà nội.
33. Thanh tra Nhà nước (2000), Báo cáo công tác thanh tra xét khiếu tố (1995-
2000), Hà nội.
34. Thanh tra Nhà nước, Báo cáo công tác thanh tra xét khiếu tố (2001).
35. Thanh tra Nhà nước, Báo cáo công tác thanh tra xét khiếu tố (2002).
36. Thanh tra Nhà nước, Báo cáo công tác thanh tra xét khiếu tố (6 tháng đầu
năm 2003).
37. Thanh tra Nhà nước (1998), Một số vấn đề về Nghiệp vụ thanh tra, tập 1,2,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội.
38. Trung tâm nghiên cứu khoa học-thông tin thanh tra (1999), “Tổ chức và
hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát của một số nước trên thế giới”,
114
Thông tin khoa học, số 4.
39. Trung tâm nghiên cứu khoa học-thông tin thanh tra (2000), “Báo cáo kết
quả khảo sát của đề tài “Hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát góp
phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước”, Thông tin khoa học, số 3.
40. Trường Cán bộ Thanh tra (2000), Văn bản pháp luật về thanh tra và khiếu
nại, tố cáo, tập 1,2,3, Nxb Thống kê, Hà nội.
41. Trường Cán bộ Thanh tra (2002), Nghiệp vụ công tác thanh tra, Nxb
Thống kê, Hà nội.
42. Trường Cán bộ Thanh tra (2002), Chương trình nâng cao nghiệp vụ thanh
tra, Hà nội.
43. Trường Cán bộ Thanh tra (2002), Một số vấn đề về quản lý Nhà nước, Nxb
Thống kê, Hà nội.
44. Tổng cục Thống kê (2001), Tình hình kinh tế-xã hội Việt Nam 10 năm
1991- 2000, Nxb Thống kê, Hà nội.
45. Từ điển tiếng Việt, Nxb Trung tâm Từ điển ngôn ngữ, Hà nội, 1992.
46. Từ điển tiếng Việt phổ thông, Nxb TP. Hồ Chí Minh, 2002.
47. Từ điển tiếng Việt thông dụng, Nxb Giáo dục, Hà nội,1996.
48. Từ điển Bách khoa Việt Nam, tập 1,2, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà nội,
2002.
49. Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà nội, 1999.
50. Tạ Hữu Thanh-Uỷ viên TW Đảng, Tổng Thanh tra Nhà nước (1999), “Cần
tăng cường thanh tra trách nhiệm của các cấp, các ngành trong việc thực
hiện chính sách, pháp luật”, Tạp chí Thanh tra, số 3, tr.8-10.
51. PGS.TS Trần Ngọc Đường (1998), “Vị trí vai trò của thanh tra trong quản
lý nhà nước”, Tạp chí Thanh tra, số 9, tr.6-8.
52. Trần Đức Lượng-Vụ trưởng (2001), “Thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp -
115
thực trạng và giải pháp”, Tạp chí Thanh tra, số 5-,tr.18-19.
53. Trần Đức Lượng (2002), “Đổi mới tổ chức và hoạt động hệ thống Thanh
tra Nhà nước theo hướng cải cách hành chính Nhà nước”, Đề tài khoa học
cấp Bộ, mã số 95-98-043/ĐT - Cơ quan Thanh tra Nhà nước - Thông tin
khoa học, số 1.
54. Trần Đức Lượng (Chủ nhiệm) (2002), “Hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm
tra, giám sát nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước”, Đề tài khoa học
độc lập cấp Nhà nước, mã số 98-98-048/ĐT - Cơ quan Thanh tra Nhà nước
- Thông tin khoa học, số 1.
55. “Tăng cường quan hệ hữu nghị hợp tác về công tác thanh tra với các nước
trên thế giới”, Tạp chí Thanh tra, số 7-1998, tr. 4-5.
56. Quy định pháp luật về công khai minh bạch trong quản lý một số lĩnh vực
kinh tế – xã hội, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội, 2002.
57. Quy định pháp luật về sử dụng vốn của doanh nghiệp, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà nội, 2003.
58. Quỳnh Hương (1996), “Thanh tra, kiểm tra chồng chéo – thực trạng ,
nguyên nhân và giải pháp”, Tạp chí Thanh tra, số 11, tr.39-41.
59. Ths. Vũ Thị Hoài Phương (2003), “Vấn đề nâng cao ý thức pháp luật cho
chủ các doanh nghiệp hiện nay”, Tạp chí Thanh tra, số 4, tr.28-30.
60. Vũ Văn Chiến (2002), “Những nhận xét rút ra qua nghiên cứu về thanh tra,
kiểm tra, giám sát của một số nước trên thế giới”, Tạp chí Thanh tra, số 8,
4
116
tr.23-24.