ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
NGUYỄN THU BĂNG
HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC SAU CỔ PHẦN HÓA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SỸ
Người hướng dẫn: PGS.TS. Vũ Hồng Tiến
Hà nội - 2008
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................ 4
Chƣơng 1. NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ CỦA DOANH NGHIỆP
NHÀ NƢỚC VÀ QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HOÁ Ở VIỆT NAM ................... 8
1.1. Một số vấn đề lý luận về công ty cổ phần và cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước ........................................................................................ 8
1.2. Tình hình doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam trước cổ phần hóa . 17
1.2.1. Khái niệm về doanh nghiệp nhà nước .................................................. 17 1.2.2. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp nhà nước trước cổ phần hóa .... 20 1.3. Quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước ta .............. 25
1.3.1. Cơ sơ lý luận và thực tiễn cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam .............................................................................................................. 25 1.3.2. Quá trình hoàn thiện quan điểm của Đảng về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước ta ........................................................................................ 31 1.3.3. Quá trình thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở nước ta ..... 36 1.4. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa 49
1.4.1. Những thành tựu đã đạt được............................................................... 49 1.4.2. Những hạn chế của doanh nghiệp nhà nước và nguyên nhân của nó .... 55 1.4.3. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế của doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa ở nước ta .................................................................... 63 1.5. Những vấn đề đặt ra đối với doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần
hóa ở nước ta .......................................................................................... 68
1.5.1. Nhận thức về mô hình doanh nghiệp cổ phần hoá ................................ 68 1.5.2. Doanh nghiệp cổ phần và môi trường hoạt động .................................. 71 1.5.3. Quản trị doanh nghiệp sau cổ phần hoá ............................................... 75
Chƣơng 2. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU
QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC SAU CỔ PHẦN
HÓA Ở VIỆT NAM ............................................................................ 86
2.1. Phương hướng hoạt động của doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần
hóa ở Việt Nam ........................................................................................ 86
1
2.1.1. Đảm bảo sự vận hành có hiệu quả của bộ máy quản lý và điều hành của doanh nghiệp cổ phần.................................................................................... 86 2.1.2. Giải quyết các vấn đề liên quan đến cổ đông trong doanh nghiệp cổ phần .............................................................................................................. 87 2.1.3. Tiếp tục cải thiện môi trường hoạt động của công ty cổ phần .............. 89 2.2. Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
nhà nước sau cổ phần hóa trong thời gian tới ở Việt Nam ..................... 90
2.2.1. Nhóm giải pháp vĩ mô nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa trong thời gian tới ở Việt Nam .................. 90 2.2.2. Những giải pháp vi mô nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước ở nước ta trong thời gian tới ............................................. 104 KẾT LUẬN ..................................................................................... 128
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................... 130
Phụ lục: DANH MỤC CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT CÓ LIÊN QUAN TỚI
SẮP XẾP LẠI DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC ..................................... 136
2
BẢNG QUY ƢỚC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CTCP: Công ty cổ phần
CPH: Cổ phần hoá
CNXH: Chủ nghĩa xã hội
CNH, HĐH: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
DN: Doanh nghiệp
DNCP: Doanh nghiệp cổ phần
DNNN: Doanh nghiệp nhà nước
HĐQT: Hội đồng quản trị
TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
TBCN: Tư bản chủ nghĩa
UBND: Uỷ ban nhân dân
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986), nước ta đã chuyển
từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng XHCN. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, trên lĩnh vực
kinh tế, Đảng và Nhà nước đã có chủ trương về sắp xếp và đổi mới các
DNNN. Hàng loạt các giải pháp đã được tiến hành, trong đó có giải pháp
chuyển đổi một số DNNN thành CTCP hay CPH các DNNN. Đây được coi là
trọng tâm của quá trình sắp xếp, đổi mới DNNN ở Việt Nam. Vai trò của
CPH DNNN đã được khẳng định cả về lý luận và thực tiễn, là nhân tố thúc
đẩy phát triển của kinh tế thị trường định hướng XHCN, đẩy mạnh hội nhập
kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Quá trình thực hiện CPH DNNN đã đạt được những kết quả bước đầu
rất quan trọng, khẳng định sự đúng đắn, sáng tạo trong chủ trương sắp xếp,
đổi mới DNNN của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, tốc độ CPH DNNN còn
chậm so với yêu cầu đặt ra; bên cạnh những chuyển biến tích cực trong tổ
chức hoạt động sản xuất - kinh doanh của công ty cổ phần, cũng đã nảy sinh
nhiều vấn đề vướng mắc cần tháo gỡ.
Có những vấn đề mới phát sinh, nếu không giải quyết kịp thời, sẽ ảnh
hưởng không chỉ đến các DNNN đã CPH mà còn ảnh hưởng đến tiến trình
CPH những DNNN còn lại. Thực tiễn đang đòi hỏi Đảng và Nhà nước nói
chung, bộ, ngành, các nhà nghiên cứu, các nhà kinh tế nói riêng tập trung
công sức, trí tuệ để nâng cao chất lượng hoạt động của DNNN sau CPH. Do
4
đó “Hoạt động của doanh nghiệp nhà nƣớc sau cổ phần hóa ở nƣớc ta
hiện nay” được chọn làm đề tài của luận văn này.
2. Tình hình nghiên cứu
Tuy Việt Nam tiến hành thí điểm CPH DNNN từ năm 1992, nhưng
hiện nay nó vẫn mang tính thời sự. Đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập
đến vấn đề CPH DNNN. Như: “Cơ sở khoa học của việc chuyển một số
DNNN thành CTCP ở Việt Nam”- Chương trình khoa học cấp Nhà nước mã
số KX 03.07.05 do Bộ Tài chính chủ trì năm 1993; “CTCP và chuyển DNNN
thành CTCP”- Sách chuyên khảo do PTS Đoàn Văn Hạnh biên soạn, NXB
Thống kê, Hà Nội, 1998; “Tiến trình và triển vọng CPH DNNN ở Việt Nam”
tác giả Trần Công Bảng đăng trên Tạp trí Kinh tế phát triển tháng 3/1998;
“Thách thức và triển vọng đối với DNNN khi chuyển sang hoạt động theo
luật DN (năm 2005)” của tác giả Hồ Xuân Hùng đăng trên Tạp Chí Cộng Sản
tháng 7/2006; “Đẩy mạnh cổ phần hóa DNNN ở nước ta”- Luận văn thạc sĩ
của Đặng Ngọc Hiếu, 2006. Những công trình nghiên cứu đó tuy đề cập đến
nhiều khía cạnh khác nhau của quá trình CPH DNNN, nhưng tập trung nghiên
cứu về tiến trình CPH DNNN; hoặc mang tính tổng kết theo giai đoạn của
tiến trình CPH. Có rất ít công trình nghiên cứu, tổng kết những thành tựu, hạn
chế và nguyên nhân của nó ở DNNN sau CPH, nhất là những vấn đề kinh tế,
xã hội đặt ra cho DNNN đã thực hiện CPH ở nước ta hiện nay. Trên cơ sở kế
thừa những thành tựu khoa học của các công trình nghiên cứu trước đây, luận
văn tập trung làm rõ triển vọng và những vấn đề đặt ra đối với DNNN sau
CPH. Từ đó, luận văn đề xuất những phương hướng; giải pháp để nâng cao
hiệu quả sản xuất, kinh doanh của DNNN sau CPH ở nước ta.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích của luận văn:
5
Khái quát những thành tựu, hạn chế và những vấn đề đặt ra của DNNN
trong và sau khi CPH; trên cơ sở đó luận giải những phương hướng và giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN sau CPH ở nước ta hiện
nay.
* Nhiệm vụ của luận văn:
- Đánh giá những thành tựu và hạn chế của DNNN sau CPH ở nước ta
trong những năm qua.
- Đề xuất những phương hướng và giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt
động của DNNN sau CPH ở nước ta hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Quán triệt những vấn đề lý luận và thực tiễn; những vấn đề kinh tế và
tổ chức, để nghiên cứu, phân tích dưới góc độ kinh tế chính trị học hoạt động
của DNNN trong quá trình CPH. Đồng thời đề tài tập trung chủ yếu vào việc
phân tích hoạt động của DNNN sau CPH ở nước ta hiện nay để đề xuất những
phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của DNNN sau
CPH ở nước ta hiện nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và những phương pháp đặc trưng của kinh tế
chính trị học như phương pháp trừu tượng hóa khoa học, lôgíc kết hợp với
lịch sử, phân tích và tổng hợp để thực hiện những nhiệm vụ của đề tài đặt ra.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài khá rộng, cần quán triệt sâu sắc quan
điểm của Đảng về CPH DNNN, các vấn đề nghiên cứu phức tạp, trong khi
khảo sát, nghiên cứu thực tế, luận văn sử dụng các phương pháp như: phương
pháp điều tra thống kê - so sánh, phương pháp phân tích, tổng hợp, quy nạp...
để làm sáng tỏ các nội dụng của đề tài.
6
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương, 6 tiết.
Chương 1: Những thành tựu và hạn chế của các doanh nghiệp nhà nước
và quá trình cổ phần hóa ở Việt Nam.
Chương 2: Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa ở Việt Nam.
7
Chƣơng 1
NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
NHÀ NƢỚC VÀ QUẤ TRÌNH CỔ PHẦN HÓA Ở VIỆT NAM
1.1. Một số vấn đề lý luận về công ty cổ phần và cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nƣớc
Từ nửa cuối thế kỉ XIX trong lòng chủ nghĩa tư bản với chế độ sở hữu
tư nhân về tư liệu sản xuất đang thống trị đã bắt đầu xuất hiện một loại hình xí
nghiệp mới - xí nghiệp cổ phần hay công ty cổ phần, mà sở hữu trong đó là
của các cổ đông .
Trong tập III Bộ “ Tư bản” [37] Mác và Ăng-ghen đã tiên đoán về hai
khuynh hướng quan trọng của sự xuất hiện các công ty cổ phần trong xã hội
tư sản :
Thứ nhất, dưới chủ nghĩa tư bản, C.Mác chỉ ra rằng công ty cổ phần ra
đời là sự manh nha của một hình thức sản xuất mới, sẽ đưa đến việc lập ra chế
độ độc quyền và đưa đến sự can thiệp của nhà nước tư sản. Khi xuất bản tác
phẩm này (1894) Ph. Ăng-ghen có bổ sung thêm một số ý như: Các-ten ra đời
xoá bỏ tự do cạnh tranh. Trong một số ngành mà trình độ sản xuất cho phép
làm được, người ta đi đến tập hợp toàn bộ sản xuất của ngành đó vào một
công ty cổ phần lớn duy nhất có một sự lãnh đạo thống nhất ( ví dụ, sản xuất
a-mô-ni-ắc của cả nước Anh vào tay một hãng duy nhất, tư bản lưu động được
đưa ra mời công chúng góp). Chính trong quá trình này sẽ phát sinh ra một
loại ăn bám mới,- “quí tộc tài chính” mới và cả một hệ thống “lừa đảo” và
“bịp bợm” về việc sáng lập, phát hành và buôn bán cổ phiếu.
Sự xuất hiện công ty cổ phần lần đầu tiên trong lịch sử của phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa đã làm cho quyền sở hữu tư bản hoàn toàn tách rời
8
với chức năng của tư bản trong quá trình tái sản xuất thực tế. Tiền công lao
động của người quản lý cộng với lợi nhuận doanh nghiệp về tay nhà tư bản cổ
phần, tức là các cổ đông, được thu về dưới dạng lợi tức cổ phần.Thực chất
đây là tiền thù lao trả cho quyền sở hữu tư bản, biến những người sở hữu tư
bản thành những người sở hữu thuần tuý, nghĩa là những nhà tư bản - tiền tệ
thuần tuý. Những đặc điểm cổ điển của nhà tư bản đã được biến đổi thành
một người chỉ giản đơn điều khiển và quản lý tư bản của những người khác.
Thứ hai, xuất hiện những tiền đề thủ tiêu tư bản với tư cách là sở hữu
tư nhân ở ngay trong những giới hạn của bản thân phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa. Các công ty cổ phần là điểm quá độ để biến tất cả các chức
năng của quá trình tái sản xuất hiện còn gắn liền với quyền sở hữu tư bản đơn
giản thành những chức năng của những người sản xuất liên hiệp, tức là thành
những chức năng xã hội. Công ty cổ phần ra đời là sự thủ tiêu phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa ngay trong lòng phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa. Ở đó, xuất hiện mâu thuẫn tự nó lại thủ tiêu nó và đây chính là giai
đoạn quá độ sang một phương thức sản xuất mới: “ một phương thức sản xuất
mới này phải nảy ra và phát triển trên cơ sở một phương thức sản xuất
cũ”[38].
Theo C.Mác, chính bản thân những công ty cổ phần của công nhân
như là một loại nhà máy hợp tác, và đây chính là một lỗ thủng đầu tiên trong
hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa. Sự đối kháng giữa lao động làm thuê và
chủ tư bản đã được xoá bỏ trong phạm vi những nhà máy hợp tác đó; mặc dầu
ban đầu nó chỉ được xóa bỏ bằng cách biến những người lao động liên hiệp
thành những “nhà tư bản” với chính bản thân mình. Nghĩa là cho họ“ có thể
dùng tư liệu sản xuất để bóc lột lao động của chính họ”.
Thực chất của quá trình hình thành các công ty cổ phần là sản
xuất tư nhân không còn có sự kiểm soát của quyền sở hữu tư nhân. Những tư
9
liệu sản xuất này sẽ không còn là tư liệu và sản phẩm của nền sản xuất tư
nhân nữa, mà sẽ chỉ có thể là tư liệu sản xuất trong tay những người sản xuất
liên hiệp, tức là chỉ có thể là sở hữu xã hội của họ, cũng như chúng là sản xuất
xã hội của họ.
C. Mác đã nhận xét: "Trong các CTCP, chức năng tư bản tách rời
quyền sở hữu tư bản; và do đó lao động cũng vậy, nó hoàn toàn tách rời với
quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và về lao động thặng dư. Đó là kết quả của
sự phát triển cao nhất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, là điểm quá độ tất
nhiên để tư bản lại chuyển thành sở hữu của những người sản xuất, nhưng
không phải với tư cách là sở hữu tư nhân của những người sản xuất riêng lẻ
nữa, mà với tư cách là sở hữu của những người sản xuất liên hiệp, thành sở
hữu xã hội trực tiếp" [38, tr.668].
Cả hai khuynh hướng trên, tức là những xí nghiệp cổ phần tư bản chủ
nghĩa, cũng như những nhà máy hợp tác, theo C.Mác, đều phải được coi là
những hình thái qua độ từ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sang
phương thức sản xuất tập thể. Nhưng điểm khác nhau căn bản giữa hai
khuynh hướng trên là trong xí nghiệp cổ phần tư bản chủ nghĩa, mâu thuẫn
được giải quyết một cách tiêu cực, còn trong những nhà máy hợp tác, mâu
thuẫn được giải quyết một cách tích cực.
Thời đó, C.Mác cũng đã đề cập đến các xí nghiệp của các nhà nước tư
sản cũng có thể trở thành các công ty cổ phần để tăng thêm quy mô sản xuất
của chúng. Vì rằng, công ty cổ phần ra đời đã làm cho quy mô sản xuất có thể
được tăng lên, mở rộng một cách to lớn, đến nỗi những tư bản riêng lẻ không
thể làm nổi. Ngay cả những xí nghiệp của nhà nước (của chính phủ) cũng
được tổ chức thành công ty cổ phần, tham gia vào công ty cổ phần.
Trong quá trình phát triển lịch sử của chủ nghĩa tư bản, do những điều
chỉnh thích nghi để bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản, cố gắng duy trì sự tồn
10
tại của chủ nghĩa tư bản trên thế giới nên khuynh hướng thứ nhất đã trở nên
mạnh mẽ hơn. Chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn tự do cạnh tranh đã chuyển
thành chủ nghĩa tư bản độc quyền, tức chủ nghĩa đế quốc.
Ở các tác phẩm V.I.Lê-nin, các hình thức của công ty cổ phần ít được
bàn đến, ngay cả trong quá trình thực hiện chính sách kinh tế mới. Quá trình
này, V.I.Lê-nin đã đề cập rất nhiều đến CNTB độc quyền Nhà nước và sự vận
dụng sáng tạo trong điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nước Nga (thành phần
kinh tế CNTB nhà nước). Trong đó, V.I.Lê-nin cho rằng, việc nhà nước Xô-
viết có thể chỉ cần nắm khoảng 25% cổ phần là có thể chi phối được các cổ
đông tư nhân khác trong các xí nghiệp thuộc thành phần kinh tế chủ nghĩa tư
bản Nhà nước. Một luận điểm rất đáng lưu ý của V.I.Lê-nin những năm 20
của thế kỷ XX về các hình thức hợp tác xã được thể hiện trong tác phẩm “Bàn
về chế độ hợp tác xã” là dưới CNTB tư nhân, xí nghiệp hợp tác xã khác với xí
nghiệp TBCN, cũng như xí nghiệp tập thể khác với xí nghiệp tư nhân. Dưới
CNTB Nhà nước, xí nghiệp hợp tác xã khác với xí nghiệp TB Nhà nước,
trước hết ở chỗ nó là xí nghiệp tư nhân, sau nữa ở chỗ nó là xí nghiệp tập thể.
Dưới chế độ hiện nay của chúng ta, xí nghiệp hợp tác xã khác với xí nghiệp
TB tư nhân ở chỗ nó là xí nghiệp tập thể, nhưng nó không khác với xí nghiệp
XHCN, nếu miếng đất trên đó nó được xây dựng và những tư liệu sản xuất
đều thuộc về Nhà nước, nghĩa là về giai cấp công nhân [39].
Như vậy, chứng tỏ sự xuất hiện công ty cổ phần về mặt lịch sử là bước
tiến từ sở hữu tư nhân lên sở hữu tập thể của các cổ đông. Còn ở nước ta, việc
thiết lập mới các công ty cổ phần hay Cổ phần hoá một số doanh nghiệp Nhà
nước hiện nay không phải là tư nhân hoá mà là sự hình thành các doanh
nghiệp đa sở hữu cho mọi thành phần kinh tế có thể tham gia, hợp tác cùng
chia sẻ trách nhiệm, chia sẻ rủi ro thị trường và cùng hưởng lợi trong điều
kiện có Đảng Cộng sản lãnh đạo, Nhà nước XHCN quản lý.
11
Ở nước ta, ngoài quá trình hình thành các công ty cổ phần từ những cổ
đông là các chủ sở hữu vốn tư nhân lập nên theo Luật Doanh nghiệp, thì quá
trình Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước, - một bộ phận rất quan trọng các
công ty cổ phần được hình thành từ những Doanh nghiệp Nhà nước có chế độ
sở hữu của toàn dân mà người đại diện cho chủ sở hữu toàn dân đó là Nhà
nước.
Chủ trương của Đảng về việc triển khai tích cực và vững chắc cổ phần
hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước từ ĐHVIII của Đảng đã khẳng định
cổ phần hoá “…không phải để tư nhân hoá”. Thế nhưng, chính sự khác nhau
về quá trình dẫn đến sự hình thành các Công ty cổ phần theo trình tự khách
quan và trong thực tiễn cải cách doanh nghiệp nhà nước ở nước ta đã làm cho
không ít người (kể cả trong và ngoài nước) lầm tưởng rằng, cổ phần hoá
doanh nghiệp Nhà nước là tư nhân hoá. Những nhận thức như vậy, cùng với
những vướng mắc và thiếu sót, lệch lạc trong quá trình cổ phần hoá đang có
tác động không thuận đến quá trình tiến hành cổ phần hoá trên thực tế với các
biểu hiện như sau:
Việc bán cổ phần thiếu công khai, minh bạch còn khép kín trong nội bộ
doanh nghiệp ở một số trường hợp đã dẫn tới những yếu kém của doanh
nghiệp Nhà nước sau cổ phần hóa và chậm được khắc phục.
Chần chừ không muốn cổ phần hoá để cố trì hoãn sự tồn tại của doanh
nghiệp Nhà nước với mục đích đeo bám lấy “bầu sữa” của bao cấp, không
dám nghĩ, dám làm, mặc dù hiệu quả hoạt động thấp, kéo dài nhiều năm.
Không ít cán bộ cấp trên sợ mất quyền quản lý đối với doanh nghiệp
trực thuộc, vì gắn với nó là lợi ích cá nhân, cục bộ.
12
Tìm cách đánh giá sai, thiếu công tâm, khách quan giá trị thực với số
tài sản có của Doanh nghiệp Nhà nước thuộc diện cổ phần hoá theo hướng có
lợi cho một số cá nhân.
Khi tiến hành cổ phần hoá xong, tìm mọi cách để thôn tính dần số cổ
phiếu của cổ đông là Nhà nước, mua gom số cổ phiếu khác dưới nhiều thủ
đoạn rất tinh vi dẫn đến thâu tóm quyền lực, thao túng công ty cổ phần dưới
nhiều hình thức.
Lo ngại rằng sau khi công nhân được bán ưu đãi cổ phiếu sẽ đem bán
cổ phiếu cho những người đầu cơ cổ phiếu.
Lo sợ các công ty, các nhà tư bản nước ngoài đầu cơ cổ phiếu để thao
túng doanh nghiệp cổ phần hoá mà không hiểu rằng, chỉ có một số doanh
nghiệp Nhà nước khi được đưa vào thực hiện cổ phần hoá, thì trong đó cũng
đã quy định một lượng cổ phiếu nhất định được bán ra bên ngoài và khống
chế tỷ lệ phần trăm cổ phiếu tối đa của một cổ đông được quyền nắm giữ với
mục đích là để huy động thêm vốn, công nghệ và kĩ thuật quản lý sản xuất,
kinh doanh, thị trường...
Lo ngại cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước sẽ dẫn đến “chệch hướng”,
mà không nhận thức được rằng, nếu không có giải pháp hữu hiệu để đẩy
nhanh tốc độ phát triển của đất nước thì tụt hậu xa hơn về kinh tế cũng là một
nguy cơ đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Những biểu hiện trên không phải không có cơ sở, nhưng không thể vì
những lo ngại đó và vì những lợi ích cục bộ mà chần chừ thiếu kiên quyết
“đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá và mở rộng diện các doanh nghiệp Nhà nước
cần cổ phần hoá” như nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 (khoá IX) và chỉ thị
45/ CT - TW của Đảng đã chỉ rõ. Cần khẳng định rằng trong điều kiện Đảng
lãnh đạo và Nhà nước quản lý, cổ phần hoá ở nước ta về bản chất không phải
13
là tư nhân hoá.Tuy nhiên, chúng ta cần tăng cường chỉ, đạo kiểm tra, tổng kết,
rút kinh nghiệm quá trình cổ phần hoá vừa qua, uốn nắn kịp thời những lệch
lạc, hoàn thiện cơ chế, chính sách để thực hiện ngày càng tốt hơn, hiệu quả
hơn công tác cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước.
Mặt khác, phải thấy rằng quá trình CPH một số DNNN ở nước ta, tuy
là quá trình chuyển đổi một bộ phận thuộc sở hữu xã hội, sở hữu toàn dân
thành đa sở hữu, nhưng về bản chất đây là một nội dung quan trọng của quá
trình hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất). Cụ thể là tìm tòi hình thức quản trị CTCP vừa phát huy
quyền lợi thiết thân và trách nhiệm đầy đủ của người lao động, cổ đông, hội
đồng quản trị của công ty cổ phần vừa bảo đảm quản lý một cách dân chủ,
nâng cao hiệu quả sử dụng những tài sản của doanh nghiệp, trong đó có một
phần đáng kể hay cổ phần chi phối sở hữu nhà nước.
Từ sở hữu của của một chủ sở hữu là nhà nước đối với tài sản của
doanh nghiệp sau khi chuyển sang CTCP thì chuyển thành hình thức đa sở
hữu, nhưng tựu chung cũng chỉ có một số hình thức cụ thể như sau:
Các hình thức cổ phần hóa trong đó nhà nước đều có tham gia cổ phần,
như giữ nguyên giá trị của doanh nghiệp, kêu gọi thêm vốn bằng cách phát
hành cổ phiếu; hoặc vừa bán một phần vốn vừa phát hành thêm cổ phiếu;
Bán một phần tài sản của doanh nghiệp dưới hình thức bán cổ phiếu;
CPH một bộ phận của doanh nghiệp tuỳ theo đặc thù của quy trình
công nghệ, CPH một công ty hoặc một tổng công ty.
Các hình thức cổ phần hóa nêu trên đều có tỷ trọng sở hữu của nhà
nước hoặc là nhà nước nắm giữ cổ phiếu không chế (tối thiểu 51%) hoặc
không nắm giữ cổ phiếu khống chế, hoặc không cần nắm giữ cổ phần.
14
Loại hình doanh nghiệp cổ phần hóa mà Nhà nước lấy lại toàn bộ vốn
bằng cách bán toàn bộ doanh nghiệp cho người lao động.
Chúng ta biết rằng dù dưới hình thức nào khi chuyển sang công ty cổ
phần là tạo ra các doanh nghiệp đa sở hữu, trong đó người lao động có sở hữu
thực sự, từ đó tạo ra quyền làm chủ đích thực của họ đối với doanh nghiệp.
Khi có lợi ích thiết thân của chính họ, sự giám sát tập thể đối với quá trình
hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ được tăng cường và chính quá trình này
cũng tạo ra cơ chế phân phối hài hoà giữa nhà nước, doanh nghiệp và người
lao động. Trên cơ sở đó hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ có
điều kiện nâng dần lên. Trong tương lai sở hữu cổ phần sẽ trở thành phổ biến
trong xã hội, thì vai trò làm chủ của người lao động dưới hình thức “tham dự”
cổ phiểu đối với sở hữu xã hội về vốn và tư liệu sản xuất, hi vọng, sẽ khắc
phục được những hạn chế của hình thức sở hữu toàn dân theo kiểu “vô chủ”
như đã từng diễn ra.
Như vậy, về mặt lý luận, chúng ta có thể chứng minh được rằng nội
dung và bản chất quá trình cổ phần hoá ở nước ta không phải là tư nhân hoá.
Riêng hình thức thứ tư, bán toàn bộ tài sản doanh nghiệp, ý kiến cho đây là tư
nhân hóa dựa vào mấy lý do sau: Trước hết, về mặt hình thức là bán toàn bộ
tài sản nhà nước cho cá nhân; tiếp theo là giả sử người lao động nắm cổ phần
rồi nhưng sau một thời gian do quá trình trao đổi tích tụ, đầu cơ trên thị
trường chứng khoán nên số cổ phiếu ấy có thể sẽ dồn lại cho một số ít các cá
nhân. Điều lo ngại đó là chính đáng, nhưng cũng phải thấy rằng, trong kinh tế
thị trường quyền bán là có thể quy định được bằng các văn bản pháp luật,
nhưng giá trị của cổ phiếu lại hoàn toàn lệ thuộc vào hiệu quả hoạt động của
công ty cổ phần, nó có thể lên đến hàng trăm lần giá giao dịch ban đầu, nhưng
cũng có thể chỉ còn là một mớ “giấy lộn” nếu doanh nghiệp tiếp tục hoạt động
kém hiệu quả dẫn đến nguy cơ phá sản.
15
Tinh thần chỉ đạo của các Nghị quyết Hội nghị TW 3 và 9 (Khoá IX)
cũng như hoạch định chính sách, những vấn đề nêu lên trong quá trình cổ
phần hoá đã được lường trước và đã tính đến việc làm sao dành một phần vốn
của Nhà nước để lại cho doanh nghiệp trong quá trình bán nhằm tạo ra một
lượng cổ phiếu không chia dành cho người lao động (nghĩa là vốn Nhà nước
nhưng được hưởng cổ tức)…
Theo đó Nhà nước giành 30% tài sản của doanh nghiệp để hình thành
các cổ phần ưu đãi cho người lao động. Điều này trong thực tế hiện nay các
doanh nghiệp được cổ phần hoá thì tỷ lệ đó thậm chí còn cao hơn khi tạo ra
các cổ phiếu không chia.
Như vậy, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước chính là tạo điều kiện
cho Nhà nước tập trung nắm những ngành, những lĩnh vực then chốt của nền
kinh tế, cũng như những lĩnh vực mà khu vực kinh tế tư nhân không thể hoạt
động hiệu quả được. Và như vậy, bán toàn bộ tài sản chỉ được áp dụng đối với
những ngành, những lĩnh vực, những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần
nắm giữ. Nhà nước bán doanh nghiệp là nhằm thu hồi vốn về cho Nhà nước.
Quan điểm khi thực hiện cổ phần hoá là lĩnh vực nào các thành phần kinh tế
khác có khả năng đem lại hiệu quả cao hơn so với doanh nghiệp nhà nước mà
Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn thì mạnh dạn thực hiện bởi Đảng ta
coi các thành phần kinh tế đều là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế nhiều thành
phần là để không ngừng nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của các
thành phần kinh tế, tạo môi trường kinh doanh, - sân chơi do Nhà nước tạo ra,
bảo đảm sự bình đẳng trong cạnh tranh để đạt được hiệu quả cao, phát triển
nhanh và bền vững của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Việc phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước chính là để bảo
đảm chắc chắn cho mục tiêu phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững nền kinh
16
tế quốc dân. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (Khoá IX) nêu rõ: “Kinh tế
nhà nước có vai trò quyết định trong giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa,
ổn định và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước”. Bởi vậy, có thể
nói, gấp rút nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh của chính
bản thân doanh nghiệp Nhà nước là để góp phần thực hiện tốt mục tiêu trên.
Những biện pháp, giải pháp mà Trung ương đã đề ra có chung một mục tiêu
như vậy. Chương trình hành động của Chính phủ, các đề án sắp xếp, đổi mới,
nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước của các ngành, các địa phương đã
đưa ra lộ trình cụ thể. Hy vọng rằng tới đây cùng với việc thực hiện thành
công 104 đề án sắp xếp đổi mới doanh nghiệp nâng cao hiệu quả của doanh
nghiệp nhà nước; cũng như rà soát và xem xét các lĩnh vực mà doanh nghiệp
Nhà nước cần nắm giữ theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9
(Khoá IX) của Đảng và Quyết định số 155QĐ/TTg ngày 24/8/2004 của Thủ
tướng Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương sẽ tạo điều kiện tốt hơn để các
doanh nghiệp nhà nước nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh
tranh cùng với khả năng hội nhập kinh tế quốc tế.
1.2. Tình hình doanh nghiệp nhà nƣớc ở Việt Nam trƣớc cổ phần
hóa
1.2.1. Khái niệm về doanh nghiệp nhà nƣớc
Mọi nhà nước đều có chức năng kinh tế. Chức năng này được thực hiện
ở mức độ khác nhau, tuỳ theo giai đoạn phát triển. Nhìn chung, chức năng
kinh tế của nhà nước luôn gắn liền và thể hiện qua các hoạt động kinh tế của
Nhà nước trên cơ sở tiềm lực vật chất của Nhà nước. Nhà nước cần có lực
lượng vật chất mạnh trong tay để điều tiết sự phát triển của toàn bộ nền kinh
tế, làm cho nền kinh tế phát triển theo hướng đã định. DNNN là một lực
lượng có vai trò, vị trí rất quan trọng của Nhà nước để thực hiện sự điều tiết
ấy.
17
Trên thế giới, quan niệm về DNNN cũng rất khác nhau. Hiện nay,
nhiều nhà kinh tế trên thế giới quan niệm rằng, DNNN là thực thể kinh tế
thuộc sở hữu hay thuộc quyền kiểm soát của Chính phủ mà phần lớn thu nhập
của nó được tạo ra thông qua việc bán các hàng hoá và dịch vụ.
Trong điều kiện cơ chế kế hoạch hoá tập trung, DNNN ở Việt Nam-
được gọi là DN quốc doanh, chiếm vai trò độc tôn trong nền kinh tế. Đây là
DN hạch toán kinh tế theo nguyên tắc “bao cấp”. Khi chuyển sang cơ chế thị
trường định hướng XHCN, việc cải cách, đổi mới cơ chế đối với DNNN luôn
là vấn đề trọng tâm. Kết quả là các DNNN không những thay đổi về nguyên
tắc hỗ trợ, cơ chế và hạch toán mà còn thay đổi cả cơ cấu sở hữu, phát triển
một số hình thức đan xen sở hữu mới. Do vậy, Luật DNNN ban hành ngày
30/4/1995, lần đầu tiên Việt Nam đã đưa ra khái niệm có tính pháp lý về
DNNN là: DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ
chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện
các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao. DNNN có tư cách pháp nhân,
có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động,
kinh doanh trong phạm vi số vốn do DN quản lý.
Luật Doanh nghiệp nhà nước (năm 2003) định nghĩa: Doanh nghiệp
nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có
cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước,
công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn [43] .
Luật Doanh nghiệp (năm 2005) áp dụng chung cho tất cả các loại hình
doanh nghiệp, định nghĩa DN là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ
sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật
nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Trong số nhiều loại hình
doanh nghiệp thuộc sự điều tiết của Luật Doanh nghiệp thì Doanh nghiệp nhà
nước là doanh nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ [43].
18
Xét về mặt lịch sử, khái niệm về DNNN đã có nhiều thay đổi. Quá trình
hình thành và phát triển DNNN ở Việt Nam từ khi giành được độc lập ở miền
Bắc năm 1954 và thống nhất đất nước năm 1975 cho đến thời kỳ trước đổi
mới, gắn liền với lịch sử đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng CNXH
theo mô hình kế hoạch tập trung, quan liêu bao cấp. Đầu tiên, các DNNN
được hình thành từ việc quốc hữu hoá các xí nghiệp tư bản tư nhân hoặc tiếp
quản các DN của chính quyền cũ để lại. Một số DN trong quá trình cải tạo
XHCN theo mô hình công - tư hợp doanh, mặc dù không được quốc hữu hoá
trực tiếp bằng pháp lý, nhưng trên thực tế do áp đặt cơ chế kiểu quốc doanh
dần dần cũng bị biến thành DNNN. Tuy nhiên, số lượng các DNNN loại này
không nhiều và trên thực tế sau khi trở thành DNNN đã được Nhà nước tiếp
tục đầu tư phát triển mạnh về quy mô. Loại thứ hai được hình thành do Nhà
nước đầu tư trực tiếp từ ngân sách nhà nước hoặc vốn viện trợ xây dựng mới.
Các DNNN thuộc lĩnh vực này dần dần chiếm lĩnh các ngành kinh tế công
nghiệp và dịch vụ quan trọng. Các DNNN thuộc lĩnh vực công nghiệp này sử
dụng công nghệ và thiết bị chủ yếu là ngoại nhập (chủ yếu từ hệ thống các
nước XHCN (cũ), nhất là Liên Xô (cũ) và Trung Quốc). Trong lĩnh vực nông,
lâm nghiệp, các DNNN được thành lập ở các địa bàn ít dân cư, cần khai thác
tài nguyên đất, rừng với các ngành nghề khác nhau, chủ yếu là trồng và khai
thác gỗ, các cây công nghiệp dài ngày. Các DNNN do chính quyền địa
phương đầu tư vào giữa thập kỷ 80 thế kỷ XX, chủ yếu thuộc lĩnh vực thương
mại, dịch vụ, cơ khí sửa chữa, hầu hết có quy mô nhỏ, năng suất, chất lượng,
hiệu quả hoạt động không cao.
Nhìn chung, đến năm 1990, với 12.084 DNNN chiếm giữ hầu như toàn
bộ các ngành công nghiệp: năng lượng như điện lực, dầu khí,…; khai khoáng,
luyện kim, chế tạo máy, dược phẩm, sản xuất xi măng, phân bón, thuốc trừ
sâu, hoá chất, công nghiệp phục vụ quốc phòng. Trong các ngành sản xuất
19
hàng tiêu dùng thiết yếu, DNNN cũng chiếm tỷ lệ áp đảo, như vải: 70%, giấy:
85%, xe đạp: 70%, xà phòng: 60%. Các ngành xây dựng, vận tải gồm hàng
không, đường sắt, đường biển, xuất nhập khẩu,… DNNN chiếm tuyệt đối
(độc quyền)
1.2.2. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp nhà nƣớc
trƣớc cổ phần hóa
1.2.2.1. Kinh tế nhà nước là lực lượng mạnh và nắm giữ những khâu
then chốt trong nền kinh tế quốc dân
Tuy hệ thống DNNN có sự thu gọn đầu mối, nhưng tốc độ tăng trưởng
của nó vẫn cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của cả nền kinh tế quốc dân và
cao hơn tốc độ của khu vực tư nhân (không kể khu vực đầu tư nước ngoài).
DNNN cũng thể hiện được vị trí tiên phong ở các lĩnh vực kết cấu hạ tầng,
đầu tư mới, xuất nhập khẩu, hợp tác với nước ngoài,… và có đóng góp lớn
vào thành công của Việt Nam trong kiểm soát lạm phát, đối phó với ảnh
hưởng tiêu cực của khủng hoảng tài chính, tiền tệ thế giới cũng như nâng cao
mức sống cho người dân. Thông qua đầu tư của Nhà nước vào các vùng sâu,
vùng xa, nhất là vùng đồng bào dễ bị tổn thương do thiên tai, dịch bệnh... đã
tạo được điều kiện mở mang ngành nghề, nâng cao thu nhập, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, phân bố lại dân cư theo hướng CNH, HĐH, thúc đẩy kinh tế hàng
hoá phát triển, từng bước hình thành các vùng nông thôn kiểu mới. Có nhiều
DNNN làm ăn có lãi, đạt lợi nhuận cao, được suy tôn là đơn vị anh hùng thời
kỳ đổi mới, thực sự là tấm gương cho các thành phần kinh tế khác. Kinh tế
Nhà nước luôn được đánh giá là nền tảng cho công cuộc đổi mới của nước ta.
1.2.2.2. Những yếu kém và bất cập của khu vực kinh tế nhà nước
Một là, năng lực cạnh tranh, hiệu quả chung của khu vực kinh tế nhà
nước chưa cao, thậm chí còn xuất hiện xu hướng giảm. Có nhiều ngành, sản
20
phẩm của DNNN đang được ưu đãi độc quyền, hoặc bảo hộ qua hàng rào thuế
quan, trợ cấp như ưu đãi tín dụng, miễn thuế… nhưng các DNNN vẫn chưa
chứng tỏ khả năng cạnh tranh của mình, thậm chí nhiều DN còn “nỗ lực” vận
động Nhà nước tăng cường các biện pháp bảo hộ mạnh hơn để duy trì việc
làm cho công nhân và thị phần. Theo một báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
năm 2000, các mặt hàng như sắt thép, phân bón, kính xây dựng, động cơ nổ…
đều được bảo hộ bằng cả công cụ thuế quan và phi thuế quan dẫn đến giá trên
thị trường Việt Nam cao hơn giá quốc tế 10-50% (tuỳ mặt hàng). Việt Nam
đang tăng tốc hội nhập kinh tế quốc tế, khả năng cạnh tranh kém của nhiều
DNNN dẫn đến việc Nhà nước phải chi phí rất lớn để nhằm duy trì các
DNNN.
Tình trạng không hiệu quả của không ít DNNN đã làm cho vốn của
Nhà nước không những sử dụng không hiệu quả mà còn bị thất thoát, làm
xuất hiện những ấn tượng không tốt về khu vực kinh tế này trong công luận.
Theo một báo cáo của Ban sắp xếp, đổi mới DNNN tháng 2/2000 cho thấy về
hiệu quả sử dụng vốn của DNNN có xu hướng giảm, cụ thể: năm 1995, một
đồng vốn tạo ra được 3,46 đồng doanh thu và 0,19 đồng lợi nhuận; đến năm
1998, các con số tương ứng chỉ còn 2,9 và 0,14. Năm 1998, trong ngành công
nghiệp, một đồng vốn chỉ làm ra được 0,024 đồng lợi nhuận; số DN bị lỗ
trong ngành thương mại, dịch vụ, du lịch, khách sạn chiếm tới 41%. Công nợ
trong DNNN rất lớn: nợ phải thu chiếm tới trên 60% và nợ phải trả bằng
124% vốn Nhà nước trong DN, trong đó tỷ lệ nợ quá hạn hoặc khó đòi chiếm
tỷ lệ lớn. Những DN này thường do địa phương quản lý. Mặc dù tình hình tài
chính của các DN như vậy, nhưng Nhà nước vẫn phải thường xuyên dành tiền
hỗ trợ cho DNNN. Chỉ tính riêng trong 3 năm 1997-1999, ngân sách Nhà
nước đã đầu tư cho các DN gần 8.000 tỷ đồng, trong đó có 6.482 tỷ đồng cấp
bổ sung 1.464,4 tỷ đồng là bù lỗ cho cá DN. Ngoài ra, Nhà nước còn miễn
21
giảm thuế 2.288 tỷ đồng, xoá nợ 1.088 tỷ đồng, khoanh nợ 3.392 tỷ đồng,
giãn nợ 540 tỷ đồng, cho vay vốn tín dụng ưu đãi 8.685 tỷ đồng.
Ngoài ra, theo số liệu của Bộ Tài chính năm 1997, trong tổng số 5.429
DNNN thì số kinh doanh có hiệu quả chỉ chiếm 40,44%, việc hỗ trợ vốn của
Nhà nước không mang lại hiệu quả như mong muốn. Số nộp vào ngân sách
nhà nước ít hơn phần Nhà nước hỗ trợ cho DN. Tình trạng không hiệu quả
của DNNN làm gia tăng tính an toàn của toàn bộ hệ thống tài chính, bởi vì
các DNNN là các khách hàng vay chủ yếu của 4 ngân hàng thương mại quốc
doanh.
Hai là, cơ cấu của kinh tế Nhà nước bất hợp lý, chưa thể hiện rõ là hạt
nhân của quá trình CNH, HĐH. Cơ cấu ngành, vùng, quy mô đều chưa được
chuyển dịch theo đúng định hướng. Xét về số lượng, tỷ trọng DNNN ở khu
vực nông nghiệp chiếm 25%; thương mại, dịch vụ chiếm 40%, còn lại là công
nghiệp. Như vậy, rõ ràng cơ cấu này bất hợp lý, vì cơ cấu hợp lý đòi hỏi
DNNN chủ yếu phải tập trung vào lĩnh vực công nghiệp, nhất là công nghiệp
chế biến, chế tạo. Cơ cấu cấp cũng bất hợp lý, thể hiện ở chỗ tỷ trọng DN
thuộc địa phương quá cao, chiếm trên 60% về số lượng. Ngay cả quy mô cũng
bất hợp lý. Cụ thể, tính đến ngày 1/9/1999, số DNNN có quy mô dưới 5 tỷ
đồng chiếm đến 65%, trong đó gần 3/4 là DN do địa phương quản lý, có
1.314 DN (23%) có vốn dưới 1 tỷ đồng. Số DN có vốn trên 10 tỷ đồng chỉ
chiếm 21%.
Tuy kinh tế nhà nước được coi là “nòng cốt” của nền kinh tế, nhưng
phạm vi hoạt động của kinh tế nhà nước vẫn còn những tranh luận, chưa có sự
thống nhất, vai trò của kinh tế nhà nước chưa rõ, làm cho việc nâng cao hiệu
quả hoạt động của DNNN gặp không ít lúng túng. Do chưa xác định rõ những
lĩnh vực quan trọng, mũi nhọn mà các DNNN cần nắm giữ và những lĩnh vực
nào DNNN cần tập trung thực hiện trước, làm cho việc đầu tư bị dàn trải gây
22
ra sự lãng phí không nhỏ trong khu vực DNNN. Công nghệ trong khu vực
kinh tế nhà nước nhìn chung còn lạc hậu, tốc độ đổi mới chậm. Mặt khác, đa
phần cán bộ trong khu vực kinh tế nhà nước chưa được trang bị những kiến
thức về kinh tế thị trường và năng lực quản lý yếu.
Ba là, tình trạng “ưu ái”; đặc quyền trong một số DNNN đã ngăn cản
quá trình hình thành sự bình đẳng trong nền kinh tế nhiều thành phần. Hệ quả
của việc “ưu ái” các DNNN đó là dẫn đến sự phân bổ nguồn lực không hợp
lý, lãng phí và không đạt được hiệu quả như mong muốn. Mặt khác, việc bảo
hộ một số ngành của Nhà nước làm cho luồng vốn đầu tư nước ngoài chỉ tập
trung vào việc đi tìm kiếm siêu lợi nhuận ở những ngành này. Đồng thời, với
cơ chế xin - cho, làm cho bất công trong phân phối ngân sách và tín dụng
ngày càng gia tăng và tham nhũng ngày càng nặng nề. Cùng với đó cơ chế tổ
chức cán bộ ở DNNN là bổ nhiệm các chức danh, làm cho bộ máy của DNNN
cồng kềnh, kém hiệu quả...
1.2.2.3. Nguyên nhân của những yếu kém trên
Sự điều hành của Nhà nước không đủ mạnh để ngăn chặn tình trạng
đầu tư không tính đến thị trường, không cân đối. Có những ngành hoặc địa
phương vẫn muốn tranh thủ càng nhiều vốn của Nhà nước để xây dựng những
DN, mặc dù chưa thật sự cần thiết. Ngành nào cũng cho rằng, “mình là mũi
nhọn”, cần được tập trung đầu tư. Không những thế, công việc xây dựng công
trình DNNN lại giao cho một ban quản lý dự án kém năng lực và thiếu trách
nhiệm, làm cho chất lượng công trình thấp, vốn đầu tư bị thất thoát.
Hầu hết các DNNN đều thiếu vốn trong hoạt động sản xuất, kinh
doanh, và cũng hầu hết các DN để có đủ vốn đều phải đi vay ngân hàng với
lãi suất thương mại. Vốn của Nhà nước thường chỉ chiếm khoảng 60% tổng
số vốn kinh doanh của DN, trong đó tại các tổng công ty 91 là 75%, tại các
DN do bộ, ngành quản lý là 45% và do địa phương quản lý là 50%. Xét về số
23
tuyệt đối, năm 1998, vốn nhà nước bình quân của 1 tổng công ty 91 là 3.661
tỷ đồng, nhưng có tới 14/17 tổng công ty 91 (chiếm 82%) có số vốn dưới mức
bình quân đó. Vốn của tổng công ty 90 còn thấp hơn, cụ thể bình quân 1 tổng
công ty 90 chỉ có 280 tỷ đồng, trong đó 80% số tổng công ty 90 có mức vốn
thấp hơn mức bình quân ấy; 35% số tổng công ty 90 có vốn nhà nước dưới
100 tỷ đồng. Khả năng trích lợi nhuận để lập quỹ phát triển sản xuất rất thấp.
Số vốn lưu động huy động cho kinh doanh chỉ khoảng 50%.
Trình độ công nghệ lạc hậu, phần lớn các DNNN được trang bị máy
móc từ các nước thuộc hệ thống XHCN từ những năm 50, 60 của thế kỷ 20,
và đa số chúng đã hết khấu hao.
Số lao động thiếu việc làm rất lớn. Theo báo cáo của Ban Chỉ đạo sắp
xếp, đổi mới DNNN tháng 2/2000, số lao động không có việc làm ở Hải
Dương là 33%; Nam Định 27%; Nghệ An 16%; Tổng công ty Thép 12%; Bộ
Thuỷ sản có 14% lao động dôi dư.
DN không được tự chủ về tài chính, làm cho DN không thể tự chủ
trong kinh doanh. Cơ quan chức năng quản lý tài sản của DNNN về cơ bản
vẫn đang thực hiện quyền quản lý theo kiểu cũ. Cơ chế tài chính và hạch toán
của DNNN bị những ràng buộc, chậm được sửa đổi. Những tài sản do DN tự
đầu tư từ nguồn tích luỹ hoặc vay ngân hàng để xây dựng đều bị coi là tài sản
của Nhà nước và buộc DN phải chịu thuế vốn.
Không được chủ động về nhân sự và tiền lương. DNNN vẫn không chủ
động được trong việc sắp xếp lại số lượng lao động, vì Nhà nước chưa có đủ
các chính sách phù hợp để giải quyết công ăn việc làm và đời sống của số lao
động thiếu việc làm. Chế độ tiền lương, các thang bậc lương trong DNNN vẫn
còn bất hợp lý giữa khu vực kinh doanh với khu vực hành chính sự nghiệp,…
24
Tuy đã có chủ trương xoá bỏ chủ quản, nhưng nhiều cấp, nhiều ngành
vẫn trực tiếp can thiệp vào công việc kinh doanh của DN, gây phiền hà cho
hoạt động của DNNN. Bộ máy tổ chức quản lý cồng kềnh, nhiều ban, bệ,
nhiều thủ tục hành chính rườm rà làm cho DN thiếu sự linh hoạt để đáp ứng
yêu cầu của thị trường. Nhiều DN tuy đã được sắp xếp lại trong cơ cấu tổng
công ty 90, 91 nhưng có những tổng công ty được tổ chức theo lối hành
chính, bằng số cộng đơn thuần không dựa trên tính tất yếu về kinh tế, đã
không mang lại kết quả như mong muốn. Chức năng, nhiệm vụ giữa hội đồng
quản trị với tổng giám đốc, giữa tổng công ty với bộ, UBND địa phương còn
nhiều điểm chưa được quy định rõ.
Môi trường kinh doanh chưa hoàn chỉnh, còn nhiều bất cập, nhất là hệ
thống tài chính, ngân hàng, giá cả chưa thật sự được xây dựng theo kinh tế thị
trường. Có tình trạng buộc ngân hàng cho vay theo lệnh, ngân hàng thụ động
không chịu trách nhiệm về hiệu quả vốn cho vay và thu nợ; khi gặp nợ khó
đòi thì buộc ngân hàng phải khoanh nợ, giãn nợ hoặc cho vay mới để trả nợ
cũ.
1.3. Quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc ở nƣớc ta
1.3.1. Cơ sơ lý luận và thực tiễn cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nước ở Việt Nam
1.3.1.1. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là một hình thức kinh tế
quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Sự phát triển nền kinh tế TBCN và các quan hệ tín dụng đã đưa tới sự
xuất hiện CTCP vào đầu thế kỷ XVII và đến nửa sau thế kỷ XIX đã được phát
triển rộng rãi theo xu hướng từ đơn giản đến phức tạp, từ qui mô nhỏ đến qui
mô lớn, từ lĩnh vực này đến lĩnh vực khác; từ một ngành đến nhiều ngành; từ
quốc gia đến quốc tế thông qua các công ty đa quốc gia.
25
Cổ phần hóa là quá trình chuyển đổi DN từ chỗ chỉ có một chủ sở
hữu thành CTCP, có nghĩa là DN có nhiều chủ sở hữu. Nhìn tổng thể, CPH
có thể diễn ra tại các DN tư nhân, công ty TNHH, công ty liên doanh và tại
các DNNN. CPH là quá trình đa dạng hoá sở hữu tại DN.
CPH DNNN là quá trình chuyển đổi DNNN thành CTCP, trong đó Nhà
nước có thể vẫn giữ tư cách là một cổ đông, tức là Nhà nước vẫn có thể là chủ
sở hữu một bộ phận tài sản của DN. CPH DNNN không chỉ là quá trình
chuyển sở hữu Nhà nước sang sở hữu của các cổ đông, mà còn có cả hình
thức DNNN thu hút thêm vốn thông qua hình thức bán cổ phiếu để trở thành
CTCP.
CTCP là một xí nghiệp mà vốn của nó được hình thành dưới hình thức
bán cổ phiếu. Người chủ sở hữu cổ phiếu gọi là cổ đông. Mỗi cổ đông có cổ
phần bằng tổng số cổ phiếu đã mua và được hưởng lợi tức từ các cổ phiếu đó
(hay là cổ tức).
Cổ phiếu là một loại chứng khoán có giá, số tiền ghi trên cổ phiếu là
mệnh giá hay giá trị danh nghĩa của cổ phiếu. Lợi tức cổ phiếu không cố định
mà phụ thuộc vào kết quả hoạt động của công ty. Giá trị thị trường của cổ
phiếu lên xuống tuỳ theo cổ tức và tỷ lệ nghịch với tỷ suất lợi tức ngân hàng.
Thị trường chứng khoán là nơi mua, bán chứng khoán có giá.
Về mặt tổ chức và quản lý, đại hội cổ đông là cơ quan tối cao bầu ra hội
đồng quản trị và quyết định phương hướng kinh doanh cùng những vấn đề
quan trọng khác trong hoạt động của công ty. Phiếu biểu quyết trong đại hội
cổ đông được quy định theo số lượng cổ phiếu.
Vào những năm đầu thế kỷ XX, dưới tác động của cuộc cách mạng
công nghiệp phải xây dựng nhiều công trình kết cấu hạ tầng như: giao thông,
điện lực, khai thác mỏ… cần rất nhiều vốn vì thế mà CTCP phát triển rất
26
nhanh. Nhờ sự ra đời của các CTCP mà vốn được tập trung nhanh chóng và
xuất hiện những công ty lớn…
Như vậy, CPH DNNN và tư nhân hoá DNNN là hai quá trình khác
nhau. Tuy vậy, trong những điều kiện nhất định, chúng có thể có điểm giống
nhau, đó là quá trình đa dạng hoá sở hữu trong DN. Mặt khác, nó tuỳ thuộc
vào quy mô chuyển đổi quyền sở hữu đối với vốn và tài sản nhà nước trong
DN mà quá trình đa dạng hoá sở hữu có thể là quá trình tư nhân hoá hay CPH.
C. Mác coi sự xuất hiện CTCP là tiền đề thủ tiêu tư bản với tư cách là
sở hữu tư nhân ở ngay trong những giới hạn của bản thân phương thức sản
xuất TBCN. Các CTCP là điểm quá độ để biến tất cả những chức năng của
quá trình tái sản xuất hiện còn gắn liền với quyền sở hữu tư bản đơn giản
thành những chức năng của những người sản xuất liên hiệp, tức là thành
những chức năng xã hội, đây chính là hình thức quá độ sang một phương thức
sản xuất mới - phương thức sản xuất Cộng sản chủ nghĩa.
1.3.1.2. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là một tất yếu khách quan
Cổ phần hoá doanh nghiệp DNNN được tiến hành ở nhiều nước. Từ
những năm 70 của thế kỷ XX, nhiều nước đã triển khai quá trình giảm bớt sự
can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế thông qua tư nhân hoá và CPH
DNNN. Nó bắt đầu từ Anh, rồi lan sang các nước công nghiệp phát triển khác
và các nước đang phát triển. Đến đầu những năm 90, quy mô tư nhân hoá và
CPH DNNN diễn ra rất mạnh, trở thành hiện tượng phổ biến, đến năm 1995,
đã có hơn 100.000 DNNN được tư nhân hoá và CPH, hơn 80 nền kinh tế cam
kết triển khai thực hiện tư nhân hoá và CPH DNNN. Cơ sở của việc xuất hiện
quá trình này là:
Một là, các DNNN phát triển tràn lan, lại không được tổ chức và quản
lý hiệu quả, nó được quản lý theo kiểu hành chính, qua nhiều cấp trung gian;
27
hệ thống kế hoạch, tài chính cứng nhắc, thiếu khả năng thích ứng với nền kinh
tế thị trường. Tính chủ động trong sản xuất, kinh doanh bị “bó buộc” bởi
nhiều quy chế xuất phát từ quyền sở hữu của nhà nước. Sự độc quyền của các
DNNN được pháp luật bảo vệ. Tất cả điều này đã làm triệt tiêu động lực kinh
tế trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của các DNNN, làm kết quả hoạt
động của chúng yếu kém triền miên.
Hai là, do hoạt động kém hiệu quả nên các DNNN đã trở thành gánh
nặng cho ngân sách nhà nước. Nhà nước phải thường xuyên sử dụng ngân
sách trợ cấp trực tiếp và gián tiếp cho chúng, điều đó dẫn đến ngân sách nhà
nước bị thiếu hụt.
Ba là, so với các DN khác, CTCP có sức sống mạnh hơn, hiệu quả kinh
tế cao hơn rõ rệt và có vai trò hết sức to lớn trong phát triển kinh tế, xã hội,
đáp ứng được yêu cầu mới của sự phát triển kinh tế thị trường. Hình thức thực
hiện chế độ sở hữu rất đa dạng, phong phú, làm tăng khả năng thu hút và sử
dụng có hiệu quả các nguồn vốn trong xã hội, tạo động lực cho sự phát triển.
* Xét về tính thực tiễn, triển khai thực hiện CPH DNNN, do những
nguyên nhân chủ yếu sau đây:
Nâng cao hiệu quả kinh doanh
Đầu thế kỷ XX, cùng với các thành tựu mới của khoa học kỹ thuật và
sự xã hội hoá cao của lực lượng sản xuất đã xuất hiện những DNNN đóng vai
trò là công cụ cho nhà nước điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, nhìn
chung các DNNN đều hoạt động kém hiệu quả. Ví dụ: ở Italia, nước có tỷ
trọng sở hữu nhà nước trong nền kinh tế cao nhất thì thâm hụt của các DNNN
là 4,5% GDP. Ở Bồ Đào Nha, khu vực kinh tế quốc doanh thua lỗ 1/3 GDP
trong khoảng thời gian từ 1974 - 1986 [54]. Các nước tư bản khác cũng đều
có hiện tượng tương tự.
28
Vì vậy, từ cuối thế kỷ XX, hầu hết các nước tư bản đều diễn ra quá
trình CPH hoặc tư nhân hoá các DNNN trên qui mô lớn với cách thức tiến
hành khác nhau. Cách thức phổ biến nhất là bán đấu giá các cổ phiếu của các
DN cho tất cả những ai muốn mua thông qua sở giao dịch chứng khoán. Hoặc
có thể bán một phần cho cá nhân, hoặc chỉ bán cho những người làm trong
DN đó.
Ở nước Anh đã bán 40% tài sản khu vực quốc doanh trị giá hơn 20 tỷ
Bảng Anh. Ở Pháp trong thời gian hơn một năm đã thực hiện 1/3 chương
trình tư nhân hoá thu được 7 tỷ Frăng. Tây Đức trong những năm 1984 - 1987
đã thực hiện bán hoàn toàn hay một phần cổ phần khống chế của nhà nước
trong hơn 50 công ty với tổng giá trị thu được trên 5 tỷ D.M [51].
Đáp ứng yêu cầu của cơ chế thị trường
Kinh tế thị trường là một hệ thống kinh tế mở trong đó các quan hệ
kinh tế đối nội, kinh tế đối ngoại không ngừng phát triển. Sự vận động của cơ
chế thị trường thông qua các quy luật kinh tế, như quy luật giá trị, quy luật
cung - cầu, quy luật cạnh tranh, đòi hỏi các DN có tính năng động và tính tự
chủ rất cao. Trong sự cạnh tranh khốc liệt của thị trường, các chủ thể sản xuất
kinh doanh không thể nắm chắc quan hệ cung - cầu và các mối quan hệ ở tầm
vĩ mô của nền kinh tế, nên cần phải có sự điều tiết của Nhà nước. Nhưng sự
can thiệp thái quá của Nhà nước vào hoạt động của các DN lại dẫn đến sự trì
trệ. Bởi vậy, xuất hiện xu hướng nới lỏng sự điều tiết của Nhà nước, theo
phương châm: "Nhà nước ít hơn, thị trường nhiều hơn". CPH DNNN là một
giải pháp để tăng tính năng động, kinh doanh và phát huy tính tích cực, tự chủ
của DN.
Ở những nước có nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp trước đây
thường phát triển tràn lan các DNNN, không tính đến hiệu quả kinh tế, khi
29
chuyển sang kinh tế thị trường, việc CPH những DN mà Nhà nước không cần
nắm 100% vốn trở thành cấp thiết.
Ở nước ta phần lớn các DNNN được hình thành từ năm 1954 ở miền
Bắc và từ 1975 ở miền Nam, là do ý chí chủ quan của các cơ quan Nhà nước
chứ không phải do yêu cầu khách quan của trình độ phát triển lực lượng sản
xuất. Đây là nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự hoạt động kém hiệu quả của hầu
hết các DN ấy.
Chúng ta không thể phủ nhận những đóng góp tích cực, những thành
tựu to lớn của các DNNN trong những năm kháng chiến, nhưng trong thời kỳ
hoà bình, nhất là khi chuyển sang kinh tế thị trường thì những vướng mắc của
các DNNN càng ngày càng tăng lên, nhiều DN đã bị phá sản. Do vậy, việc
sắp xếp lại các DNNN là vấn đề rất lớn mà Đảng và Nhà nước ta đặc biệt
quan tâm, trong đó có việc CPH một số lớn DNNN.
Huy động vốn từ các thành phần kinh tế
Vốn là một vấn đề rất hệ trọng đối với hoạt động của một DN. Phần lớn
DNNN dựa vào ngân sách và ngân hàng để có vốn, nhưng nguồn vốn từ ngân
sách ở nước ta có hạn, nhiều DNNN nợ ngân hàng chưa trả được nên khó vay
thêm, bởi vậy, việc chuyển DN thành CTCP sẽ mở rộng thu hút nguồn vốn
trong xã hội, tăng khả năng đầu tư trang thiết bị mới cho DN.
30
Tăng cường dân chủ
CPH tức là chuyển sang một hình thức hiện đại hơn, bên cạnh vai trò
Nhà nước, còn có sự tham gia của các thành phần khác. Người công nhân
tham gia mua cổ phiếu nên quyền và ý thức làm chủ của công nhân cũng được
tăng lên. Tăng quyền làm chủ của người lao động, xã hội hóa hoạt động sản
xuất, kinh doanh… chính là hướng đi tất yếu lên XHCN. Mặt khác, Nhà nước
có thể rút bớt một phần vốn do bán bớt cổ phần của Nhà nước để đầu tư chiều
sâu, cho những DN mà Nhà nước tiếp tục nắm 100% vốn, nâng cao hiệu quả
kinh doanh.
1.3.2. Quá trình hoàn thiện quan điểm của Đảng về cổ phần
hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước ta
Do nhiều năm thực thi một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan
liêu bao cấp, thậm chí quan niệm về kinh tế nhà nước và DNNN chưa có sự
thống nhất, nên trong một thời gian dài đã phát triển hệ thống DN quốc
doanh với số lượng lớn, tràn lan. Trong quá trình hoạt động, loại hình DN
này đã bộc lộ những yếu kém, bất cập. Chính vì vậy, việc đổi mới, sắp xếp
lại hệ thống DN này là một đòi hỏi tất yếu. Việc định hướng XHCN nền
kinh tế thị trường đòi hỏi phải tạo cho kinh tế nhà nước sức mạnh thực sự,
trong đó DNNN là nòng cốt để đủ khả năng điều tiết và định hướng các
thành phần kinh tế khác.
Xét về lịch sử, từ "cổ phần" đã rất quen thuộc với nhân dân ta từ trên
40 năm nay, kể từ khi Đảng ta vận động nhân dân góp cổ phần vào hợp tác
xã mua bán, hợp tác xã tín dụng,… Hợp tác xã cung ứng hàng tiêu dùng và
dịch vụ cho xã viên, tiêu thụ hàng hóa cho xã viên, chia lãi theo cổ phần (dù
rằng rất nhỏ).
31
Đại hội VI (năm 1986) của Đảng ta đã chủ trương phát triển nhất quán
kinh tế nhiều thành phần, coi đó là đặc trưng của thời kỳ quá độ, đa dạng hoá
hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, nhưng vẫn đặt vấn đề "làm cho kinh tế
quốc doanh giữ vai trò chủ đạo, chi phối được các thành phần kinh tế khác"
[30, tr.59], "chiếm tỷ trọng lớn cả trong sản xuất và lưu thông, thể hiện được
tính ưu việt" [30, tr.61].
Đại hội VII (năm 1991) nhận định kinh tế quốc doanh đang nắm các
vị trí then chốt, gần một phần ba các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh
vươn lên trong kinh doanh và thích ứng được với cơ chế mới. Nhưng điểm
yếu nhất của kinh tế quốc doanh là hiệu quả hoạt động nhìn chung còn thấp
[31, tr.235]. Đại hội đề ra nhiệm vụ khẩn trương sắp xếp lại và đổi mới kinh
tế quốc doanh, bảo đảm kinh tế quốc doanh phát triển có hiệu quả, nắm vững
những lĩnh vực và ngành then chốt để phát huy vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế. Cho thuê và chuyển hình thức sở hữu hoặc giải thể các cơ sở thua lỗ
kéo dài và không có khả năng vươn lên [31, tr.274]. Như vậy, Đại hội VII
vẫn chưa đề xuất vấn đề CPH DNNN một cách cụ thể.
Đến Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 2 khóa VII
(11-1991), Đảng ta đã đi đến nhất quán chủ trương: "Chuyển một số DN quốc
doanh có điều kiện thành CTCP và thành lập một số công ty quốc doanh cổ
phần mới, phải làm thí điểm, chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trước
khi mở rộng trong phạm vi thích hợp". Cũng trong thời gian đó, Quốc hội
khóa VIII, kỳ họp thứ 10 (12-1991) đã đưa việc CPH DNNN vào nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội 1991-1995: "thí điểm việc CPH một số cơ sở kinh tế
quốc doanh để rút kinh nghiệm và có thêm nguồn vốn phát triển".
Như vậy, mục tiêu, đối tượng, hình thức và các chính sách CPH đã
được xác định rõ ràng hơn. Đảng và Nhà nước khẳng định CPH ở Việt Nam
không phải là tư nhân hóa vì CPH hướng tới tháo gỡ khó khăn về vốn, về cơ
32
chế cho DNNN hiện có, không nhằm thu hẹp sở hữu nhà nước trong nền kinh
tế quốc dân. Vốn thu được từ bán cổ phần, Nhà nước không được chi dùng
cho ngân sách mà để đầu tư tiếp vào nền kinh tế. Nói cách khác, thời gian này
CPH nặng về mục tiêu thu hút vốn và chuyển đổi mô hình tổ chức sản xuất
kinh doanh của DNNN hơn là thu hẹp sở hữu nhà nước. Tuy nhiên đối tượng
CPH trong giai đoạn này vẫn còn khá hẹp, chỉ bao gồm các DNNN vừa và
nhỏ, kinh doanh có lãi và Nhà nước không cần thiết giữ 100% vốn. Đối tượng
mua cổ phiếu chủ yếu là cán bộ công nhân viên trong DN, có cho phép cổ
đông trong nước ngoài DN nhưng mức độ khuyến khích chưa cao. Nguyên
tắc định giá DNNN vẫn còn chung chung, chủ yếu căn cứ vào kiểm kê giao
vốn. Người lao động trong DN CPH được mua cổ phiếu chậm trả 12 tháng.
Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII đã nêu rõ hơn
các hình thức CPH phù hợp với tính chất và lĩnh vực sản xuất - kinh doanh.
Để thu hút thêm các nguồn vốn, tạo nên động lực, ngăn chặn tiêu cực, thúc
đẩy DNNN làm ăn có hiệu quả thì sở hữu nhà nước chiếm tỷ lệ cổ phần chi
phối. Việc bán cổ phiếu đã tiến thêm một bước, thí điểm việc bán một phần
cổ phiếu của một số DNNN cho các tổ chức và cá nhân ngoài DN. Trên cơ
sở CPH, tổ chức Hội đồng quản trị gồm đại diện cho sở hữu nhà nước, sở hữu
của công nhân DN và các chủ sở hữu khác. Định thể chế và tiêu chuẩn để Hội
đồng quản trị tuyển chọn giám đốc điều hành. Hoàn thiện và áp dụng rộng rãi
các hình thức khoán trong DNNN. Nhà nước hỗ trợ, khuyến khích và thực
hiện từng bước vững chắc, phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế,
việc đổi mới các liên hiệp xí nghiệp, các tổng công ty theo hướng tổ chức các
tập đoàn kinh doanh, khắc phục tính chất hành chính, trung gian. Xoá bỏ dần
(có qua làm thí điểm) chế độ bộ chủ quản, cấp hành chính chủ quản và sự
phân biệt xí nghiệp Trung ương và xí nghiệp địa phương [32, tr.416].
33
Đại hội VIII (năm 1996) đặt ra chủ trương "triển khai tích cực và
vững chắc việc CPH DNNN để huy động thêm vốn, tạo thêm động lực thúc
đẩy DN làm ăn có hiệu quả, làm cho tài sản nhà nước ngày càng tăng lên,
không phải để tư nhân hoá. Bên cạnh những DN 100% vốn nhà nước, sẽ có
nhiều DNNN nắm đa số hay nắm tỷ lệ cổ phần chi phối" [33, tr.479]. Việc
huy động vốn được thực hiện bằng cách "gọi thêm cổ phần hoặc bán cổ phần
cho người lao động tại DN, cho các tổ chức và cá nhân ngoài DN tùy từng
trường hợp cụ thể và vốn huy động được phải dùng để đầu tư mở rộng sản
xuất kinh doanh" [33, tr.479].
Hội nghị lần thứ Ba Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII tháng 6 năm
1997 đã xác định lại CPH một bộ phận DNNN là chủ trương rất quan trọng.
Song, CPH hay xã hội hóa không đồng nghĩa với phi nhà nước hóa và càng
không phải tư hữu hóa. Phương châm cơ bản ở đây vẫn là Nhà nước và nhân
dân cùng làm. Trong đó Nhà nước có vai trò nòng cốt, thực hiện Nhà nước, tổ
chức cho nhân dân và trong điều kiện cụ thể tham gia cùng làm với dân;
không làm thay dân, cũng không khoán trắng.
Đại hội IX (năm 2001) đã đề ra mục tiêu trong 5 năm (2001 - 2005)
phải cơ bản hoàn thành việc củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu, đổi mới và
nâng cao hiệu quả các DNNNN hiện có, đồng thời phát triển thêm DN mà
Nhà nước đầu tư 100% vốn hoặc có cổ phần chi phối ở một số ngành, lĩnh
vực then chốt và địa bàn quan trọng. Đẩy mạnh thực hiện chủ trương CPH và
đa dạng hóa sở hữu đối với những DN mà Nhà nước không cần nắm 100%
vốn. Việc bán cổ phần cho các tổ chức và cá nhân ngoài DN được mở rộng.
Thực hiện việc giao, bán, khoán, cho thuê các DN loại nhỏ mà Nhà nước
không cần nắm giữ. Sáp nhập, giải thể, phá sản những DN không hiệu quả và
không thực hiện được các biện pháp trên [34, tr.722].
34
Trong chương trình cụ thể hóa về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển
và nâng cao hiệu quả DNNN, Đảng ta chủ trương đẩy mạnh CPH những
DNNN mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn, xem đó là khâu quan trọng để
tạo chuyển biến cơ bản trong việc nâng cao hiệu quả DNNN. Đặc biệt, Hội
nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 3 khoá IX đã nêu lên những định
hướng quan trọng và chỉ ra những lĩnh vực mà Nhà nước vẫn giữ 100% vốn,
những lĩnh vực mà Nhà nước phải giữ cổ phần chi phối hoặc 100% vốn, quy
định chi tiết đối với DN hoạt động kinh doanh và đối với DN hoạt động công
ích [42].
Hội nghị Trung ương 9 khóa IX (tháng 1 năm 2004) quyết định tiếp tục
sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả khu vực DNNN, trọng tâm
là CPH mạnh hơn nữa. Về chỉ đạo, Trung ương đã quyết định đẩy nhanh tiến
độ CPH và mở rộng diện các DNNN cần CPH, kể cả một số công ty và DN
lớn trong các ngành như điện lực, luyện kim, cơ khí, hóa chất, phân bón, xi
măng, xây dựng, vận tải đường bộ, đường sông, hàng không, hàng hải, viễn
thông, ngân hàng, bảo hiểm... Giá trị tài sản DNNN thực hiện CPH, trong đó
có giá trị quyền sử dụng đất, về nguyên tắc phải do thị trường quyết định.
Việc mua bán cổ phiếu phải công khai trên thị trường, khắc phục tình trạng
CPH khép kín trong nội bộ DN.
Diện các DNNN được CPH mở rộng hơn và thực hiện nguyên tắc thị
trường trong việc CPH DNNN. Nhà nước chỉ giữ cổ phần chi phối đối với các
tổng công ty, CTCP hoạt động trong những ngành, những lĩnh vực thiết yếu
và chỉ giữ 100% vốn nhà nước trong các DN hoạt động đảm bảo an ninh,
quốc phòng và một số DN sản xuất, cung ứng dịch vụ công ích thiết yếu mà
chưa CPH được. Chuyển các DN 100% vốn nhà nước sang hình thức CTCP.
[26, tr.110].
35
Đại hội lần thứ X (năm 2006) trên cơ sở đánh giá thành tựu phát triển
qua 20 năm thực hiện tiến trình đổi mới, đã đưa nhận định rất quan trọng,
khẳng định DNCP ngày càng phát triển, trở thành hình thức tổ chức kinh tế
phổ biến, thúc đẩy xã hội hoá sản xuất, kinh doanh và sở hữu. Để hướng tới
sự công bằng hơn giữa các loại hình DN, Văn kiện Đại hội X đã nhấn mạnh,
xoá bỏ mọi sự phân biệt đối xử theo hình thức sở hữu. Đây là cơ sở quan
trọng để CTCP nâng cao được sự cạnh tranh với những loại hình DN khác.
Như vậy, hơn 16 năm qua, quan điểm của Đảng ta về CPH DNNN
ngày càng sáng tỏ, ngày càng phù hợp hơn với sự phát triển kinh tế thị trường
định hướng XHCN và tình hình thực tiễn ở nước ta.
1.3.3. Quá trình thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà
nước ở nước ta
1.3.3.1. Tiến độ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước từng bước được
đẩy mạnh
Giai đoạn từ năm 1992 đến tháng 5/1996 (thí điểm CPH)
Ngày 08/06/1992 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng
Chính phủ) đã ban hành Quyết định 202/CT về làm thí điểm chuyển một số
DNNN thành CTCP. Đợt thí điểm này gồm Nhà máy Xà bông miền Nam
(thuộc Công ty bột giặt miền Nam, Tổng công ty Hoá chất II, Bộ Công nghiệp
nặng); Nhà máy Diêm Thống Nhất (thuộc Liên hiệp sản xuất - xuất nhập khẩu
giấy gỗ diêm, Bộ Công nghiệp nhẹ); Xí nghiệp nguyên liệu chế biến thức ăn
gia súc (thuộc Công ty chăn nuôi và thức ăn gia súc I, Bộ Nông nghiệp và
Công nghiệp thực phẩm); Xí nghiệp chế biến gỗ Long Bình (thuộc Tổng công
ty dịch vụ, sản xuất và xuất nhập khẩu lâm sản 3, Bộ Lâm nghiệp); Công ty
vật tư tổng hợp Hải Hưng (Bộ Thương mại và Du lịch); Xí nghiệp sản xuất
bao bì (thuộc Công ty kinh doanh và chế biến lương thực Hà Nội, Uỷ ban
36
nhân dân thành phố Hà nội); Xí nghiệp may mặc (thuộc Công ty dệt-da-may
Legamex, Uỷ ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh). Mặt khác, Chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng cũng uỷ quyền cho Bộ trưởng Bộ Tài chính xem xét và ra
quyết định về danh sách các DNNN khác được phép làm thí điểm CPH mà
các Bộ và Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đề nghị.
Sau hơn 2 tháng, trong số 7 đơn vị được chọn chỉ có Công ty Legamex
xây dựng được phương án CPH (bán cổ phần cho người nước ngoài), một số
đơn vị khác có ý xin rút khỏi danh sách. Cũng trong thời gian này, các đơn vị
thuộc diện thí điểm đã xây dựng được đề án và đã gửi để các Bộ xem xét
gồm: Xí nghiệp nhựa Bình minh (Bộ Công nghiệp nhẹ); Xí nghiệp len Biên
Hoà (Bộ Công nghiệp nhẹ); Công ty đại lý liên hiệp vận chuyển thuộc Liên
hiệp hàng hải Việt Nam (Bộ Giao thông vận tải và Bưu điện). Đến tháng
8/1992, mới chỉ có Bộ Công nghiệp nhẹ, Bộ Giao thông vận tải và Bưu điện,
Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải
Hưng có công văn chính thức về danh sách các DN đề nghị CPH [3].
Như vậy, có thể nói chương trình CPH DNNN ở nước ta thực sự bắt
đầu từ năm 1992. Kết quả trong 5 năm, kể từ tháng 6/1992 đến tháng 5/1996
mới CPH được 5 DN [1] thuộc 3 Bộ và 2 địa phương.
37
Giai đoạn từ tháng 5/1996 - tháng 6/1998 (mở rộng thí điểm CPH)
Kết quả sau hơn 2 năm thực hiện, có 25 DNNN [56] thuộc 2 Bộ, 11 địa
phương và 2 Tổng công ty 91 tiến hành CPH thành công với tổng số vốn điều
lệ tại thời điểm CPH là 243,042 tỷ đồng. Trong đó có 6 DN trên 10 tỷ đồng
(chiếm 20,8%). Tuy nhiên, số DNNN hoàn thành CPH đến tháng 6/1998 rất
thấp so với kế hoạch.
Giai đoạn từ tháng 7/1998 đến 2001 (Thời kỳ đẩy mạnh CPH)
Nếu như trong 7 năm (từ 1992 đến 6/1998) cả nước mới CPH được 30
DN, thì chỉ riêng 6 tháng cuối năm 1998 đã CPH thành công 87 DN và trong
giai đoạn này đã CPH được 745 DN [1].
Về tình hình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN sau
khi thực hiện CPH: theo báo cáo của Ban đổi mới DN Trung ương, thì hầu hết
DN sau CPH đều nâng cao được hiệu quả sản xuất kinh doanh, doanh thu
bình quân của các DN tăng 30% so với năm trước, lợi nhuận và nộp ngân
sách bình quân đều tăng gấp 2 lần so với trước khi CPH, về vốn tăng trưởng
bình quân khoảng 15%/năm.
Thu nhập của người lao động trong các DN cũng tăng từ 1,5 đến 4 lần
so với trước khi thực hiện CPH. CTCP đã thu hút và giải quyết thêm việc làm
cho người lao động ở trên địa bàn (số lao động trong các DN đã chuyển sang
CTCP tăng khoảng 20% so với trước khi thực hiện chuyển đổi).
Huy động được trên 1.000 tỷ đồng vốn nhàn rỗi trong và ngoài nước để
phát triển sản xuất và giải quyết các chính sách xã hội cho người lao động.
Như vậy, việc thực hiện CPH có chuyển biến rõ rệt. Số DN CPH năm
1999 là 249 DN, gấp hơn 8 lần so với 7 năm trước cộng lại. Tổng số DN đã
CPH đến thời điểm đó đã gấp hơn 12 lần so với cả thời kỳ thí điểm CPH. Tuy
nhiên, từ nửa cuối năm 2000, đầu năm 2001 tiến trình CPH có phần chậm lại.
38
Giai đoạn từ 2001 đến nay (tiếp tục đẩy mạnh CPH)
Nhìn chung, những đổi mới trong hệ thống cơ chế, chính sách về CPH
DNNN đã và đang được triển khai và phát huy tác dụng, tiến độ CPH DNNN
đã có những chuyển biến tích cực.
Tính đến giữa tháng 12/2002, đã có 85/102 đề án được trình Thủ tướng
Chính phủ, trong đó có 55/61 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, 14/24
Bộ, Ngành và 16/17 tổng công ty 91. Trong số 85 đề án nói trên, mới có 12 đề
án của 5 Bộ, 5 tỉnh, thành phố và 2 tổng công ty 91 nhận được sự phê duyệt
của Thủ tướng Chính phủ. Trong số các đề án được phê duyệt nói trên thì hầu
hết là của các tỉnh nhỏ như Bắc Ninh, Vĩnh Long, Sơn La, Kon Tum, Đà
Nẵng và các bộ có ít DNNN trực thuộc như Công an, Tài chính, Thương mại,
Ngoại giao, Ban Cơ yếu Chính phủ. Trong số các tỉnh, thành phố chưa trình
đề án lên Chính phủ có những thành phố lớn, tập trung nhiều DNNN như Hà
Nội, Hải Phòng.
Qua tổng hợp bước đầu từ 71 đề án đệ trình lên Chính phủ, trong tổng
số 3.850 DNNN thì giữ 100% vốn Nhà nước ở 1.575 DN chiếm 40,91%; sát
nhập và hợp nhất 395 DN chiếm 10,26%; chuyển thành CTCP 1.557 DN
chiếm 40,44%; giao 97 DN chiếm 2,52%; bán 57 DN chiếm 1,48%; khoán và
cho thuê 29 DN chiếm 0,75%; chuyển thành đơn vị sự nghiệp có thu 26 DN
chiếm 0,68%; giải thể và phá sản 95 DN chiếm 2,47% và chuyển giao quyền
19 DN chiếm 0,49%.
Tính từ năm 2001 đến tháng 8/2006, đã sắp xếp được 3.830 DNNN;
trong đó CPH 2.472 DN, giao 178 DN, bán 107 DN, khoán, cho thuê 29 DN,
sáp nhập, hợp nhất 459 DN, giải thể, phá sản 214 DN, các hình thức khác 371
DN. Hình thức sắp xếp CPH chiếm gần 65% tổng số DN đã sắp xếp (Bộ Tài
nguyên và Môi trường, tháng 10/2006). Kết quả này cho thấy, chủ trương sắp
xếp và đổi mới DNNN đã tách được chức năng hành chính nhà nước khỏi
39
chức năng sản xuất, kinh doanh, tạo cơ sở cho việc thực hiện chính sách phát
triển DN trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường định hướng XHCN
và mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế mà Đảng, Nhà nước và Chính phủ đã đề
ra. Đây là một bước tiến quan trọng nhằm giảm mạnh các DN nhỏ, làm ăn
thua lỗ để tập trung hơn vào những ngành, lĩnh vực then chốt, nhằm phát triển
toàn diện các thành phần kinh tế của nước ta.
40
Biểu đồ 1: Số lượng các DNNN đã được CPH qua các giai đoạn:
Như vậy, công tác sắp xếp và đổi mới DNNN được đánh giá rất tích
cực, góp phần sắp xếp được DN nhỏ, phát triển DN lớn.
1.2.3.2. Đánh giá chung tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà
nước ở Việt Nam
Trải qua hơn 15 năm, từ năm 1992 đến nay, có thể khái quát quá trình
thực hiện, sắp xếp, đổi mới DNNN qua những điểm sau:
Chính phủ từng bước đã tập trung hơn vào việc ban hành các cơ chế,
chính sách, tạo khung pháp lý tương đối đồng bộ để việc sắp xếp, đổi mới và
phát triển DNNN thuận lợi hơn; đề ra nhiệm vụ cụ thể và các giải pháp cho
từng thời kỳ; chỉ đạo tổ chức thực hiện một cách kiên quyết; đã đạt được kết
quả quan trọng.
Thể chế hóa Nghị quyết Ðại hội IX, Nghị quyết Trung ương 3 và Trung
ương 9 (khóa IX) về sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả
41
DNNN; sau khi Luật DN, Luật Ðất đai, Luật Kế toán và Kiểm toán, Luật
Cạnh tranh, Luật Các tổ chức tín dụng... được Quốc hội thông qua, Chính phủ
đã ban hành gần 40 văn bản quy phạm pháp luật với những cơ chế, chính sách
nhằm nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của và bình đẳng DNNN với
DN thuộc các thành phần kinh tế khác trong cơ chế thị trường; đổi mới
phương thức tổ chức quản lý, chuyển dần từ quản lý chủ yếu bằng hành chính
đối với DNNN sang cơ chế đầu tư vốn... tạo cơ sở pháp lý và điều kiện thuận
lợi cho việc sắp xếp, đổi mới DNNN.
Từng bước hoàn thiện và quy định rõ đối tượng, nguyên tắc, phương
pháp xác định giá trị DN, phương thức bán cổ phần lần đầu; xử lý nợ đọng;
giải quyết chế độ cho lao động dôi dư; bán đấu giá; quyền và nghĩa vụ của
người đại diện phần vốn nhà nước trong CTCP... Các quy định này được sửa
đổi, bổ sung kịp thời, phù hợp yêu cầu và thực tế DNNN. Nhiều DNNN đã
được sắp xếp lại, giảm mạnh các DN nhỏ, thua lỗ, tập trung hơn vào những
ngành, lĩnh vực then chốt; tiếp tục giữ vai trò nòng cốt trong nền kinh tế và cơ
bản đáp ứng được nhu cầu thiết yếu cho quốc phòng, an ninh và nhiều sản
phẩm, dịch vụ công ích. Thực hiện các Ðề án sắp xếp, đổi mới DNNN. Trên
cơ sở đề nghị của các bộ, ngành, địa phương, tổng công ty nhà nước, Thủ
tướng Chính phủ đã phê duyệt 104 đề án tổng thể sắp xếp DNNN các hình
thức và lộ trình sắp xếp phù hợp cho DNNN. Ðây là cơ sở pháp lý quan trọng
để các bộ, ngành, địa phương, tổng công ty nhà nước chỉ đạo, tổ chức triển
khai thực hiện sắp xếp DNNN.
Hình thức sắp xếp, đổi mới DNNN chủ yếu là CPH, chiếm gần 69%
tổng số DN đã sắp xếp. Những DN quy mô nhỏ, Nhà nước không cần nắm
giữ, không đủ điều kiện CPH đã được giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê,
giải thể, phá sản; đã triển khai việc bán đấu giá một số DNNN không còn vốn
Nhà nước. Ðã chuyển 200 DNNN cần giữ 100% vốn sang hình thức công ty
42
TNHH một thành viên. Trong đó, một số sau khi chuyển thành công ty TNHH
một thành viên đã được CPH.
Sau quá trình thực hiện sắp xếp, DNNN đã được cơ cấu lại một bước
cơ bản, có quy mô vừa và lớn, số DNNN sản xuất, kinh doanh quy mô nhỏ
giảm mạnh. Tuy số lượng giảm, nhưng DNNN vẫn tiếp tục chi phối được
trong nhiều ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, đóng góp quan trọng
vào phát triển kinh tế-xã hội của đất nước: gần 40% GDP và 50% tổng thu
ngân sách nhà nước.
Trong số DN đã CPH, có khoảng 2.000 DN có nợ và tài sản loại trừ
không tính vào giá trị DN. Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng đã tiếp
nhận nợ và tài sản loại trừ của 1.222 DN với giá trị 1.411 tỷ đồng. Công ty
này đã xử lý nợ và tài sản cho 331 DN, với tổng giá trị là 390 tỷ đồng; giá trị
thu hồi là 125 tỷ đồng. Thực hiện chính sách đối với lao động dôi dư do sắp
xếp lại DNNN, đến 30-6-2006, Quỹ Hỗ trợ lao động dôi dư đã thực hiện hỗ
trợ 3.584 DN, giải quyết chính sách cho 191.026 lao động.
Các tổng công ty nhà nước đã được đổi mới một bước, năng lực sản
xuất, hiệu quả hoạt động, sức cạnh tranh được nâng lên và giữ được vai trò
nòng cốt của nền kinh tế; có cơ sở để hình thành một số tập đoàn kinh tế
mạnh. Ðến hết tháng 8-2006 cả nước có 105 tập đoàn và tổng công ty nhà
nước. Thực hiện thí điểm chuyển công ty nhà nước sang hoạt động theo mô
hình công ty mẹ - công ty con có trọng tâm, trọng điểm với sự chỉ đạo tập
trung, giải quyết đồng bộ từ thể chế, mô hình đến quy định rõ quyền và nghĩa
vụ của chủ sở hữu, phát triển các công ty con đa sở hữu... Sau khi sơ kết, Thủ
tướng Chính phủ đã cho phép chuyển 6 tổng công ty 91 và 38 tổng công ty 90
sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con.
Việc sắp xếp các tổng công ty nhà nước đã tạo ra sự đổi mới về cơ cấu
các DN thành viên; nhiều DN thành viên đã được CPH hoặc chuyển thành
43
công ty TNHH một thành viên để hình thành cơ cấu công ty mẹ - công ty con.
Nếu cuối năm 2001 DN thành viên các tổng công ty hầu hết là do tổng công
ty giữ 100% vốn điều lệ; thì đến nay cơ cấu DN thành viên đã thay đổi cơ
bản. Trong các tổng công ty 91, chỉ có 57,8% số công ty do tổng công ty giữ
100% vốn điều lệ, các tổng công ty 90 chỉ có 38,7% số công ty do Tổng công
ty giữ 100% vốn điều lệ. Nhiều tổng công ty không còn công ty thành viên do
tổng công ty giữ 100% vốn điều lệ.
Một số tổng công ty đã tiếp nhận thêm DN của các địa phương hoặc
mua lại cổ phần từ các liên doanh, các công ty khác để làm đơn vị thành viên,
đầu tư cho các DN này phát triển, có tính tới thương hiệu, tài sản vô hình của
tổng công ty trong vốn điều lệ của công ty thành viên này.
Tiến hành thí điểm CPH Nhà nước giữ cổ phần chi phối một số tổng
công ty như: Tổng công ty Thương mại và Xây dựng, Tổng công ty Ðiện tử
Tin học Việt Nam, Tổng công ty Xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam, Tổng
công ty Vật tư nông nghiệp, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng
Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long.
Cổ phần hoá DNNN thực sự trở thành hướng quan trọng để sắp xếp lại
và tạo chuyển biến cơ bản trong việc nâng cao hiệu quả DNNN; hình thành
DNNN có nhiều chủ sở hữu, vốn và tài sản của Nhà nước được sử dụng có
hiệu quả hơn và thu hút thêm vốn của xã hội vào phát triển sản xuất, kinh
doanh; tạo thêm động lực và cơ chế mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của
DN.
Các DN CPH có quy mô ngày càng lớn hơn và mở rộng hơn sang các
lĩnh vực ngành, nghề trước đây Nhà nước còn nắm giữ 100% vốn. Bước đầu,
Thủ tướng Chính phủ đã cho phép thí điểm CPH một số đơn vị sự nghiệp
trong các lĩnh vực như đường sông, đường bộ, trường học. Căn cứ thực tế và
nhu cầu thu hút vốn để đầu tư, đã áp dụng nhiều hình thức CPH khác nhau,
44
trong đó phổ biến nhất là hình thức bán một phần vốn nhà nước hiện có tại
DN và kết hợp phát hành thêm cổ phiếu (69,4%), hình thức bán toàn bộ vốn
nhà nước hiện có tại DN (15,5%), hình thức giữ nguyên vốn nhà nước phát
hành thêm cổ phiếu (15,1%).
Tổng giá trị thực tế DN đã CPH là 163.935 tỷ đồng. Tổng giá trị thực tế
phần vốn nhà nước tại DNNN CPH là 40.237 tỷ đồng, bằng gần 15,5% tổng
vốn nhà nước có đến cuối năm 2005. Tổng vốn điều lệ của các DNNN CPH là
43.695 tỷ đồng. Nhà nước còn nắm giữ cổ phần chi phối (từ 50% vốn điều lệ
trở lên) đối với 33% số DN đã CPH.
Cổ phần hoá đã tạo ra loại hình DN có nhiều chủ sở hữu, bao gồm Nhà
nước, người lao động trong DN, cổ đông ngoài DN. Tổng hợp chung trong
các công ty đã CPH, Nhà nước nắm giữ 49%, người lao động trong DN nắm
giữ 26%, nhà đầu tư ngoài DN nắm giữ 25% vốn điều lệ. Việc bán cổ phần
cho các nhà đầu tư chiến lược đã góp phần tạo ra năng lực mới, mở rộng thị
trường, tăng thêm tiềm lực tài chính để mở rộng sản xuất, kinh doanh, nâng
cao trình độ quản lý, đổi mới công nghệ, tăng khả năng cạnh tranh của DN
trên thị trường.
Cổ phần hoá là giải pháp quan trọng trong cơ cấu lại DNNN để DNNN
có cơ cấu thích hợp, quy mô lớn hơn và tập trung vào những ngành, lĩnh vực
then chốt của nền kinh tế. Từ chỗ DNNN rất phân tán, dàn trải trong tất cả các
ngành, lĩnh vực, đã tập trung hơn vào 39 ngành, lĩnh vực then chốt của nền
kinh tế, trong đó, nhiều ngành, lĩnh vực Nhà nước cần thiết chi phối để làm
công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô; quy mô vốn của DNNN cũng được tăng lên.
Năm 2001, vốn bình quân một DNNN là 24 tỷ đồng; đến nay, khoảng gần 90
tỷ đồng.
Cổ phần hoá đã huy động thêm vốn của xã hội đầu tư vào phát triển sản
xuất, kinh doanh. Khi CPH, vốn nhà nước tại DNNN đã được đánh giá lại
45
khách quan và chính xác hơn; Nhà nước thu về được khoảng 15 nghìn tỷ đồng
(chưa kể phần thu tăng thêm do bán đấu giá cổ phần); đồng thời đã huy động
thêm được 21 nghìn tỷ đồng của các cá nhân, tổ chức ngoài xã hội vào DN để
đầu tư đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất, kinh doanh, nâng cao năng lực
và sức cạnh tranh của DN.
Cổ phần hoá tạo cơ sở thúc đẩy hình thành và phát triển thị trường
chứng khoán Việt Nam. Ðã có 61 DNCP niêm yết trên thị trường chứng
khoán với tổng số vốn hóa thị trường bằng 7,8% GDP. Với tốc độ phát triển
rất cao, thị trường chứng khoán trong tương lai gần sẽ trở thành một kênh rất
quan trọng huy động vốn của xã hội đầu tư trực tiếp vào DN.
Cổ phần hoá bước đầu đã tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế năng động,
hiệu quả cho DNNN; tăng cường vai trò giám sát của cổ đông và xã hội đối
với DN. CTCP hoạt động theo cơ chế thị trường, tự chủ, tự chịu trách nhiệm
trước pháp luật và trước cổ đông về hoạt động và kết quả sản xuất, kinh
doanh. Việc kiểm tra, giám sát của người lao động - cổ đông và xã hội đối với
CTCP, nhất là những công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán, tạo điều
kiện cho việc thực hiện quy chế dân chủ trong DN một cách thực chất hơn.
Cổ phần hoá tạo điều kiện pháp lý và vật chất để người lao động nâng
cao vai trò làm chủ trong DN. Một bộ phận quan trọng người lao động ở
DNNN CPH trở thành cổ đông, có quyền dự họp Ðại hội đồng cổ đông để
thông qua điều lệ công ty, bầu các thành viên Hội đồng quản trị và Ban kiểm
soát, biểu quyết các vấn đề liên quan hoạt động sản xuất, kinh doanh thuộc
thẩm quyền Ðại hội đồng cổ đông.
Cổ phần hoá góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của DN.
Việc triển khai áp dụng các mô hình tổ chức mới bước đầu đã mang lại hiệu
quả cho hoạt động của DN. Nhằm đổi mới phương thức tổ chức quản lý,
chuyển từ cơ chế bằng phương thức hành chính là chủ yếu sang phương thức
46
đầu tư vốn, Chính phủ đã ban hành quy định về tổ chức và hoạt động của
công ty nhà nước và chuyển công ty nhà nước sang hoạt động theo mô hình
công ty mẹ - công ty con. Ðến nay, đã có 77 tổng công ty nhà nước và công ty
nhà nước độc lập quy mô lớn chuyển sang hoạt động theo mô hình này, tạo sự
gắn kết chặt chẽ hơn giữa công ty mẹ với các DN thành viên và giữa các
thành viên với nhau trên nguyên tắc bảo đảm lợi ích của từng công ty và phát
triển theo định hướng chung. Kết quả bước đầu cho thấy kết quả sản xuất,
kinh doanh của các đơn vị sau chuyển đổi nhìn chung đều tăng trưởng.
Trên cơ sở phát triển các tổng công ty nhà nước, Thủ tướng Chính phủ
đã phê duyệt đề án hình thành 7 tập đoàn kinh tế hoạt động theo mô hình công
ty mẹ-công ty con và đã quyết định thành lập các công ty mẹ tập đoàn có
chức năng đầu tư vốn vào các công ty con, công ty liên kết và trực tiếp sản
xuất, kinh doanh.
Tổng công ty Ðầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước đã được thành lập và
đi vào hoạt động nhằm mục tiêu tách biệt chức năng chủ sở hữu của cơ quan
quản lý hành chính nhà nước đối với DN có vốn nhà nước với chức năng
quản lý nhà nước; tiến tới xóa bỏ chức năng chủ sở hữu của các cơ quan này
đối với DN hoạt động kinh doanh. Tổng công ty này tiếp nhận và thực hiện
quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại các công ty TNHH một thành
viên là Nhà nước, công ty TNHH hai thành viên trở lên, CTCP được chuyển
đổi từ công ty nhà nước độc lập hoặc mới thành lập. Cho đến nay, đã có năm
Bộ bàn giao cho Tổng công ty 40 DN với số vốn bàn giao là 1.735 tỷ đồng.
Triển khai thí điểm Hội đồng quản trị lựa chọn để ký hợp đồng với
giám đốc giỏi điều hành DN ở các Tổng công ty Xây dựng Sông Hồng, Thủy
tinh và Gốm xây dựng, Công nghiệp Ô-tô, Công nghiệp tàu thủy, Thiết bị kỹ
thuật điện và Công ty Vận tải đa phương thức.
47
Trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật được chính phủ ban hành,
việc xây dựng đề án tổng thể và triển khai sắp xếp CPH DNNN đã được thực
hiện một cách vững chắc.
Các DNNN CPH năm 2005- 2006 có quy mô lớn hơn như Tổng công
ty Thương mại và Xây dựng; Điện tử và tin học Việt Nam; Xuất nhập khẩu
xây dựng Việt Nam; Vật tư nông nghiệp; Bia- rượu- Nước giải khát Sài Gòn;
Bia- rượu- Nước giải khát Hà Nội; Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị; các Ngân
hàng thương mại nhà nước. Đến nay, đã hoàn thành CPH Tổng công ty
Thương mại và Xây dựng và Tổng công ty Xuất nhập khẩu xây dựng Việt
Nam; đã phê duyệt phương án chuyển Tổng công ty Điện tử Tin học Việt
Nam thành mô hình công ty mẹ - công ty con; Ngân hàng Ngoại thương đã
hoàn thành phát hành trái phiếu tăng vốn.
Tóm lại, việc CPH các DNNN trong thời gian qua cơ bản đã đạt được
mục tiêu đề ra. Đây thực sự là giải pháp quan trọng trong cơ cấu lại DNNN;
đã tạo ra loại hình DN có nhiều chủ sở hữu, bao gồm Nhà nước, người lao
động trong DN, cổ đông ngoài DN. Đã huy động thêm vốn của xã hội đầu tư
vào phát triển sản xuất, kinh doanh. Bước đầu đã tạo được động lực mạnh mẽ
và cơ chế năng động, hiệu quả cho DN; tăng cường vai trò giám sát của cổ
đông và xã hội với DN. Tuy nhiên còn nhiều hạn chế, nhưng DNNN CPH
hoạt động theo cơ chế thị trường, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước
cổ đông về hoạt động và kết quả sản xuất, kinh doanh, tình hình tài chính đã
được công khai, minh bạch.
Cùng với việc sắp xếp CPH DN, CPH DNNN, các tập đoàn, tổng công
ty tiếp tục được kiện toàn, đổi mới một bước, năng lực sản xuất, hiệu quả hoạt
động, sức cạnh tranh được nâng lên và giữ được vai trò nòng cốt của nền kinh
tế, có cơ sở để hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh. Đã hình thành 8 tập
48
đoàn kinh tế, và cơ cấu DN thành viên trong tập đoàn cũng có sự thay đổi cơ
bản.
Nhìn chung, kết quả đổi mới DNNN có thể được khái quát qua những
điểm sau: Chuyển CPH từ việc chỉ thực hiện ở DN nhỏ làm ăn thua lỗ sang
CPH DN có quy mô lớn, kể cả một số tổng công ty; thực hiện việc chuyển
CPH một số lĩnh vực sang CPH hầu hết các lĩnh vực như: hàng không, hàng
hải, điện lực, bưu chính viễn thông, dịch vụ dầu khí, tài chính, bảo hiểm, ngân
hàng…; chuyển CPH theo kiểu “chia phần” khép kín sang CPH đấu giá công
khai theo nguyên tắc thị trường.
1.4. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp nhà nƣớc sau cổ phần
hóa
1.4.1. Những thành tựu đã đạt được
Một là: Về số DN CPH đã đạt 3/4 phương án được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt.
Các DNNN đã giảm mạnh về mặt số lượng và cải thiện đáng kể về quy
mô vốn. Cơ cấu DNNN đã bắt đầu chuyển đổi theo hướng nắm giữ những
ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng, chiếm thị phần đủ lớn đối
với các sản phẩm và dịch vụ chủ yếu; không nhất thiết phải giữ tỷ trọng lớn
trong tất cả các ngành, lĩnh vực, sản phẩm của nền kinh tế.
49
Biểu đồ 2: Tỷ trọng số DNNN được CPH theo cấp quản lý.
Trong số các DN đã CPH, các DN thuộc các tỉnh chiếm 74%, các DN
thuộc các tổng công ty 90 và trực thuộc các bộ chiếm 20%, chỉ có 6% là thuộc
tổng công ty 91 [35].
Biểu đồ 3: Các DNNN được CPH phân theo cơ cấu ngành
Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chiếm 51%, dịch vụ thương mại chiếm
32%, còn lại là các lĩnh vực khác [35]
50
Biểu đồ 4: Cơ cấu doanh nghiệp cổ phần theo qui mô
Ngoài một số ít DN có vốn lớn, sản xuất kinh doanh hiệu quả, như:
Công ty Sữa Việt Nam (1.500 tỉ đồng vốn nhà nước), Công ty Mía đường
Lam Sơn (92 tỉ đồng), Công ty Đường La Ngà (82 tỉ đồng), Công ty Đường
Biên Hòa (81 tỉ đồng), thì số DN lớn (có số vốn trên 10 tỉ đồng) được tiến
hành cổ phần hóa mới chiếm tỷ lệ chưa đầy 10%. Còn lại trên 90% là các DN
có quy mô vừa và nhỏ, máy móc kỹ thuật lạc hậu, sản xuất kinh doanh hiện
đang gặp nhiều khó khăn [35].
51
Biểu đồ 5: Cơ cấu cổ đông trong doanh nghiệp cổ phần
Về cơ cấu cổ đông trong DNCP, chỉ có 15% DNNN đã CPH, trong đó
Nhà nước nắm cổ phần chi phối (trên 50%). Nếu tính bình quân trong 1.557
DNCP được điều tra thì Nhà nước nắm giữ 38% vốn cổ phần; cán bộ, công
nhân viên trong DN giữ 54%; cổ đông bên ngoài giữ 8%.
So với phương án sắp xếp tổng thể của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 và điều chỉnh bổ xung thực hiện Nghị
quyết Trung ương 9 (khoá IX) thì sắp xếp DN đạt khoảng 82,6% và CPH đạt
74,5%, số DN 100% vốn Nhà nước giảm trên 32,3%. Đã xử lý được 97.556
lao động dôi dư, 1.513 tỷ đồng nợ tồn đọng phải thu và 1.291 tỷ đồng nợ tồn
đọng phải trả [45].
Hai là: Tình hình tài chính của các DN sau khi CPH tốt hơn.
52
Biểu đồ 6: Tình hình tài chính của DN so với trước khi CPH
Đa số DNCP hoá đều có tình hình tài chính sau CPH tốt hơn so với
trước chuyển đổi. Kết quả điều tra 559 DN CPH cho thấy 87,53% số DN có
kết quả hoạt động tài chính tốt hơn hoặc tốt hơn rất nhiều so với trước CPH,
chỉ có 8,62% DN có tình hình tài chính không thay đổi và 3,85% DN hoạt
động tài chính kém hơn hoặc kém hơn rất nhiều so với trước chuyển đổi [45].
Ba là: Doanh thu tăng chưa nhiều nhưng lợi nhuận sau thuế tăng
nhanh:
53
Biểu đồ 7: Tốc độ tăng bình quân về doanh thu và lợi nhuận sau thuế
của các DNNN sau CPH
So sánh năm đầu CPH với năm cuối của mô hình DNNN của 559 DN
cho thấy: Trong khi doanh thu chỉ tăng bình quân khoảng 13% thì lợi nhuận
sau thuế tăng tới 48,8% ngay sau khi CPH. Điều đó cho thấy, ở thời điểm
năm đầu tiên CPH, việc chuyển sang mô hình mới chưa có tác động đột biến
tức thời tới các yếu tố liên quan trực tiếp đến doanh thu như tăng sức sản xuất,
khả năng tiêu thụ sản phẩm của DN, nhưng đã có tác động mạnh đến chỉ tiêu
hiệu quả hoạt động là lợi nhuận [45].
Bốn là: Năng suất lao động, tiền lương, đầu tư tài sản cố định đều tăng
đáng kể.
Biểu đồ 8: Một số chỉ tiêu tăng trưởng của DN CPH trong năm sau
chuyển đổi
Ngay trong năm sau CPH, năng suất lao động của các DN đã tăng trên
26%, tiền lương bình quân tăng trên 20% và đầu tư tài sản cố định tăng 23,1%
so với khi còn là DNNN [45].
54
Biểu đồ 9: Một số chỉ tiêu tăng trưởng của các DNNN những năm tiếp
theo sau CPH.
Tốc độ tăng trưởng nói trên của 559 DN tiếp tục được duy trì trong
suốt quá trình hoạt động dưới mô hình CTCP. Doanh thu tăng 13,4%/năm.
Lợi nhuận trước thuế đạt mức tăng trưởng 9,4%, lợi nhuận sau thuế tăng
54,3%; năng suất lao động tăng 18,3%/năm; đầu tư tài sản cố định tăng
11,5%; lương bình quân tăng 11,4%/năm [45].
1.4.2. Những hạn chế của doanh nghiệp nhà nước và
nguyên nhân của nó
1.4.2.1. Những hạn chế về chủ trương, chính sách thể chế
55
Các DN sau CPH còn bị phân biệt đối xử, gặp khó khăn khi vay vốn,
nhất là các khoản vay ưu đãi của Nhà nước. Ngân hàng yêu cầu những thủ
tục, giấy tờ phức tạp hơn, hạn mức vay thấp hơn so với khi còn là DNNN.
Chưa có quy định rõ ràng và chưa có chế tài đủ mạnh để các ngân hàng
Thương mại và các tổ chức tín dụng xử lý nợ cho DNCP hoá, dẫn đến những
vướng mắc và tồn tại trong giải quyết nợ phải trả, làm DN sau CPH phải gánh
chịu hậu quả.
Các quy định về bán cổ phần còn mang tính “chính sách” là nguyên
nhân trực tiếp dẫn đến hiện tượng CPH nội bộ, không thu hút được các nhà
đầu tư bên ngoài, nhất là các nhà đầu tư chiến lược. Hậu quả là không thực sự
tạo chuyển biến trong đổi mới nội bộ công ty, chưa phát huy hết tính năng
động của DN. Vẫn còn hiện tượng cổ đông chuyển nhượng cổ phiếu tự do
không đúng luật và điều lệ CTCP không kiểm soát được.
Còn nhiều vướng mắc trong tiến trình CPH như: xác định giá trị DN,
giải quyết dư nợ, tính toán giá đất, bố trí việc làm cho người lao động... Một
số yếu tố như: lợi thế kinh doanh, thương hiệu, giá trị quyền sử dụng đất chưa
được tính toán khi xác định giá trị DN, gây thiệt hại cho Nhà nước và người
lao động trong DN. Trong quá trình xác định giá trị DN chậm giải quyết dứt
điểm số tài sản chờ xử lý, không tính vào giá trị DN; không phản ánh đầy đủ
số vốn góp của Nhà nước vào DN.
Khi chuyển từ cơ chế DNNN sang hoạt động theo Luật DN, không ít
cán bộ quản lý vẫn điều hành CTCP theo phương thức điều hành DNNN. Mặt
khác, do thiếu kiến thức cần thiết về quản trị CTCP nên nhiều cổ đông chưa
sử dụng hết quyền của mình hoặc lạm dụng vai trò, quyền hạn của cổ đông
làm cho hiệu quả quản trị DN chưa cao.
56
Qua kiểm toán, các cơ quan chức năng phát hiện một số DNCP hoá lợi
dụng thời gian chờ chuyển sang CTCP (thường mất khoảng từ 1 năm đến 1
năm rưỡi từ khi định giá DN) và quy định của nhà nước về chuyển kết quả
sản xuất kinh doanh của giai đoạn từ khi xác định giá trị DN đến khi chính
thức chuyển sang CTCP (lãi thì tăng vốn nhà nước, lỗ thì giảm vốn nhà
nước), đã tìm mọi cách hạch toán tăng chi phí, giảm doanh thu, chuyển lỗ cho
nhà nước phải gánh chịu.
Các cơ chế tài chính cho việc thực hiện chuyển đổi DNNN sang CTCP
tại Nghị định số 64/2002/NĐ-CP còn thiếu các quy định về trách nhiệm của
DN trong việc chủ động xử lý nợ, giải quyết lao động dôi dư, nên có xu
hướng để Nhà nước xử lý tạo ra gánh nặng cho ngân sách nhà nước, tạo kẽ hở
thất thoát vốn và tài sản và làm chậm tiến trình CPH; việc xác định giá trị DN
CPH chủ yếu áp dụng cơ chế hội đồng còn mang nặng tính chủ quan của cơ
quan quản lý, thiếu tính chuyên nghiệp, ảnh hưởng đến thời gian và kết quả
định giá…; việc bán đấu giá cổ phần thông qua các tổ chức tài chính trung
gian (các công ty chứng khoán, công ty tài chính, các ngân hàng thương mại
và các tổ chức tín dụng ) vẫn còn hạn chế.
1.4.2.2. Những hạn chế về tổ chức thực hiện
Thứ nhất, Tốc độ tiến hành CPH còn chậm, các DN đã CPH mới chỉ
chiếm một phần không đáng kể trong tổng nguồn lực các DNNN nói chung.
Theo số liệu của Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển DN, số vốn nhà nước tại
các DN đã CPH chỉ chiếm khoảng 6 - 7% so với tổng số vốn của các DNNN.
Thứ hai, Có tình trạng về hình thức là CPH, nhưng về nội dung lại là
tư nhân hoá và thậm chí là tư nhân hoá không minh bạch. Chẳng hạn việc
"CPH" một số khách sạn ở một vài thành phố, trong đó đã đánh giá giá trị tài
sản của khách sạn rất thấp (chỉ vài tỷ đồng) mà thực ra là gần một trăm tỷ
57
đồng, phần lớn giá trị này rơi vào tay một số người "mua lại" cổ phần của
công nhân.
Thứ ba, Chưa đạt được mục tiêu chính là huy động vốn của toàn xã hội
vào đầu tư phát triển.
Đối tượng CPH còn quá hẹp, dẫn đến kết quả CPH còn nhỏ bé so với
toàn bộ nền kinh tế nói chung và khu vực DNNN nói riêng. Trong số DNNN
đã cổ phần trước năm 1998 có khoảng 40% số DN không có cổ đông là người
ngoài DN, sau năm 1999 là 26%. Thực tế, chỉ bán tài sản nhà nước hiện có tại
DN, tức là chuyển đổi sở hữu tài sản chứ chưa làm tăng tài sản DN. Mặt khác,
hơn 90% số DN đã cổ phần có quy mô vốn nhỏ dưới 10 tỷ đồng, trong đó trên
2/3 có vốn dưới 5 tỷ đồng. Việc bán cổ phần cho các nhà đầu tư nước ngoài
còn rất hạn chế.
Việc tạo điều kiện để người lao động các DNCP được mua cổ phiếu với
giá ưu đãi đã nảy sinh nhiều sự không công bằng. Ví dụ, mức thu nhập dưới
300.000 đồng/người/tháng áp dụng cho tất cả các thành phố trong tiêu chí
“người lao động nghèo” là không hợp lý. Chưa có cơ chế, chính sách giúp
người lao động nghèo giữ được cổ phần sau khi mua và tài sản nhà nước bị
thất thoát nhiều trong quá trình CPH. Ngoài ra tổ chức Đảng trong CTCP
chưa đổi mới về chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động nên lúng túng
trong sinh hoạt, chưa phát huy tốt vai trò lãnh đạo của mình.
Thứ tư, Công tác chỉ đạo và việc tổ chức thực hiện còn nhiều nhược
điểm.
Một số bộ, ngành, địa phương, DN chưa nhận thức được tính cấp thiết
phải CPH DNNN, vẫn còn muốn duy trì cơ chế chủ quản, nên còn chần chừ.
Một số địa phương đã "khoán trắng" cho Ban Chỉ đạo đổi mới DN,
thiếu sự phối hợp giữa cấp uỷ Đảng và chính quyền.
58
Công tác giám sát, kiểm tra, đôn đốc việc tổ chức thực hiện các đề án
đã được phê duyệt còn chưa thường xuyên, chưa kịp thời.
Nhiều Giám đốc DN chưa tích cực thực hiện đề án sắp xếp DNNN đã
được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, vì quyền lợi và ảnh hưởng cá nhân,
hoặc sợ trách nhiệm trong việc xử lý các tồn tại phát sinh khi chuyển đổi DN.
Ngân hàng thương mại nhà nước chưa tích cực phối hợp với DN cơ cấu
lại nợ, xử lý nợ theo tinh thần Nghị định số 69/2002/NĐ-CP và Quyết định số
149/2001/QĐ-TTg ngày 5/10/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê
duyệt Đề án xử lý nợ đọng của các Ngân hàng Thương mại (đến nay ngân
hàng chưa xử lý được nợ cho DN nào).
Hệ thống định chế trung gian mới hình thành, chưa đáp ứng được yêu
cầu của công tác đổi mới nên hoạt động sắp xếp, chuyển đổi DNNN trong
thời gian qua vẫn còn mang tính hành chính, thủ tục rườm rà, qua nhiều khâu,
nhiều cấp, mất nhiều thời gian.
1.4.2.3.Hạn chế trong doanh nghiệp đã cô phần hoá
Sau CPH hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN đều được triển
khai tích cực. Tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề cần được quan tâm, như:
Chưa xác định rõ ràng quyền sử dụng đất và tài sản
Các địa phương vẫn tiếp tục cho DN thuê đất với giá thấp, giao đất với
giá thấp hơn so với giá thị trường, nhưng do sự thiếu rõ ràng về quyền sử
dụng đất đã làm nảy sinh nhiều khó khăn cho các DN CPH trong việc xây
dựng nhà xưởng, kết cấu hạ tầng...; hay góp vốn liên doanh bằng tài sản có
trên đất mà DN đang sử dụng.
Khi còn là thành viên trong các tổng công ty, hầu hết các dây chuyền sản
xuất chính hoặc các tài sản lớn đều do tổng công ty đầu tư, đứng tên sở hữu,
nhưng khi CPH việc chuyển giao đăng ký chưa được dứt điểm, gây ra tình trạng
59
quyền sở hữu tài sản không rõ ràng. Sự không rõ ràng về quyền lợi và trách nhiệm
đã khiến cho DN CPH gặp nhiều vướng mắc, nhất là khi DN triển khai mở rộng,
liên doanh, hợp tác kinh doanh... với các đối tác khác.
Tiếp cận tín dụng Nhà nước khó khăn hơn
Theo các DN sau CPH, tỷ trọng vay từ nguồn tín dụng thương mại nhà
nước đã giảm đi đáng kể.
Sự phân biệt đối xử đối với DN CPH còn thể hiện rõ qua các điều kiện
về thế chấp, cầm cố tài sản khi cho vay.
Trở ngại về việc cử cán bộ đại diện quản lý trực tiếp phần vốn nhà
nước (dưới 50%) tại CTCP
Những cán bộ được cử làm đại diện trực tiếp quản lý phần vốn nhà
nước tại CTCP khi hết tuổi lao động, được DNNN (công ty mẹ, tổng công ty)
cho nghỉ hưu theo chế độ, nhưng có người không chịu rời khỏi chức vụ, mặc
dù họ đã nhận sổ hưu và chế độ DNNN (tổng công ty hoặc công ty mẹ) muốn
cử người thay thế cũng không được, nếu Hội đồng quản trị CTCP không chấp
nhận! Bởi vì, Hội đồng quản trị CTCP không muốn có đại diện Nhà nước
tham gia với lý do khôn khéo chưa đến kỳ đại hội cổ đông. Nếu muốn triệu
tập Đại hội cổ đông bất thường thì phải có đủ số lượng cổ đông đại diện cho
số lượng cổ phần tối thiểu theo quy định của Điều lệ đề nghị triệu tập Đại hội
thì mới có giá trị. Nhưng bản thân những cán bộ đại diện phần vốn Nhà nước
đương chức tại CTCP lại không muốn làm đơn yêu cầu triệu tập Đại hội. Nếu
có triệu tập được Đại hội thì người được cử vào thay thế người đại diện vốn
Nhà nước đương chức cũng khó có thể được trúng cử, vì tỷ lệ phiếu ủng hộ
tương ứng với số cổ phần Nhà nước chỉ chiếm dưới 50%.
Về phần vốn Nhà nước trong CTCP mà Nhà nước không nắm giữ cổ
phần chi phối
60
Trong trường hợp xét thấy CTCP hoạt động kém hiệu quả và có khả
năng "chệch hướng", thì tổng công ty hoặc công ty mẹ là người đại diện phần
vốn Nhà nước muốn bán hết toàn bộ số cổ phần của Nhà nước trong CTCP để
thu lại vốn về cho Nhà nước, nhưng lại không thể nào bán được. Vì lý do sau
đây:
+ CTCP chưa (hoặc không muốn) đăng ký tham gia thị trường chứng
khoán, nên DNNN không thể nào giao dịch chào bán trên thị trường chứng
khoán được.
+ Trong các năm qua khi CPH giá trị DNNN không tính đến giá trị
quyền sử dụng đất. Vì vậy, nếu Nhà nước chỉ chuyển nhượng cổ phần của
mình cho các nhà đầu tư vốn khác đúng bằng mệnh giá ban đầu của cổ phiếu
phát hành thì Nhà nước sẽ thua thiệt rất lớn, bởi giá trị quyền sử dụng đất còn
nằm lại trong tay những cổ đông khác. Các cổ đông khác sẽ hưởng toàn bộ
giá trị quyền sử dụng đất để đầu tư vào các mục đích khác để kiếm lời. Ví dụ
thông qua hình thức góp vốn bằng đất đai (một phần hay toàn bộ) của mình
với một đối tác khác (nước ngoài chẳng hạn) và ngay trong quá trình đầu tư
của liên doanh họ lại chuyển nhượng cho một đối tác khác để thu lại bằng tiền
toàn bộ giá trị quyền sử dụng đất đã góp vào liên doanh.
Vì vậy, Nhà nước cần có cơ chế bắt buộc các CTCP phải niêm yết đăng
ký tham gia thị trường chứng khoán để đảm bảo môi trường lành mạnh cho
các cổ đông yên tâm đầu tư vốn.
Về tổ chức chính trị - xã hội trong CTCP và các mối quan hệ giữa
CTCP do Nhà nước chiếm giữ trên 50% vốn điều lệ với tổng công ty hoặc
công ty mẹ
Theo văn bản quy định của Nhà nước và của Tổng liên đoàn Lao động
Việt Nam đều xác định rằng: DNNN viên của tổng công ty 90; 91, sau khi
61
CPH thành CTCP do Nhà nước chiếm giữ trên 50% vốn điều lệ thì CTCP đó
là đơn vị thành viên của tổng công ty.
Nhưng còn đối với bộ phận DNNN sau khi CPH chuyển thành CTCP
Nhà nước chiếm giữ trên 50% vốn điều lệ thì chưa có văn bản nào quy định
CTCP này là thành viên của tổng công ty hay không? Chẳng hạn, Xí nghiệp
bao bì là một đơn vị bộ phận của Công ty xi măng Bỉm Sơn đã CPH thành
CTCP, trong đó Nhà nước chiếm giữ trên 50% vốn điều lệ. Ở đây, Công ty xi
măng Bỉm Sơn (DNNN) - thành viên của Tổng công ty Xi măng Việt Nam là
người đại diện phần vốn Nhà nước tại CTCP Bao bì xi măng Bỉm Sơn. Vì
vậy, mọi cơ sở vật chất phúc lợi công cộng tại Công ty xi măng Bỉm Sơn đã
có từ trước đây, người lao động CTCP bao bì vẫn được hưởng thụ chung. Tổ
chức Đảng, Đoàn thanh niên của CTCP bao bì là một bộ phận trực thuộc
Đảng bộ Công ty xi măng Bỉm Sơn và Đoàn TNCS HCM Công ty Xi măng
Bỉm Sơn. Trong khi đó, tổ chức Công đoàn của CTCP bao bì xi măng Bỉm
Sơn cũng như tất cả các CTCP khác đã được CPH từ một bộ phận của DNNN
thành viên của Tổng công ty Xi măng Việt Nam lại đều trực thuộc Công đoàn
Tổng công ty giống như Công đoàn Công ty xi măng Bỉm sơn và Công đoàn
các Công ty thành viên khác mà trước đây nó là một bộ phận.
Sự khác nhau ở trên chính là do những văn bản hướng dẫn không quy
định rõ ràng và không đầy đủ, nên mỗi tổ chức chính trị - xã hội cũng như
giám đốc tổng công ty, công ty mẹ có sự nhận thức và vận dụng khác nhau.
Đây là điều cần sớm được thống nhất bổ sung làm rõ.
Cũng theo quy định của Bộ Tài chính, CTCP được CPH từ DNNN
thành viên của tổng công ty do Nhà nước chiếm giữ trên 50% vốn điều lệ tuy
vẫn là đơn vị thành viên của tổng công ty nhưng không phải tham gia đóng
góp bất kỳ một khoản kinh phí nào - tức là không phải làm nghĩa vụ của một
công ty thành viên (trừ chi trả cổ tức theo cổ phần như đối với mọi cổ đông
62
khác). Như vậy, có nghĩa là các CTCP được coi là "thành viên" của tổng công
ty cũng không được hưởng quyền lợi của một thành viên của tổng công ty.
Bởi vì, bao giờ quyền lợi và nghĩa vụ cũng phải đi đôi với nhau đối với mỗi
thành viên trong một tổ chức, dù đó là tổng công ty hay các hiệp hội chuyên
ngành như Hiệp hội Xi măng, Hiệp hội xây dựng... Nếu các thành viên không
đóng góp một phần kinh phí (dù là rất nhỏ gọi là lệ phí sinh hoạt) thì tổng
công ty khó có thể chi khen thưởng, chi cho tham quan, học tập, hội họp và
chi cho các hoạt động khác cho các CTCP đó giống như các DNNN thành
viên mỗi khi tổ chức tập trung tại tổng công ty. Bản thân cán bộ công nhân
viên các CTCP cũng rất muốn và rất tâm tư, vì không được làm nghĩa vụ và
hưởng quyền lợi như những thành viên tổng công ty là DNNN.
1.4.3. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế của
doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa ở nước ta
1.4.3.1. Nguyên nhân chính của những chuyển biến tích cực trong
doanh nghiệp cổ phần
Thay đổi về động cơ hoạt động của cán bộ quản lý và người lao động.
Trong đa số các DN CPH, các cán bộ quản lý đã quan tâm nhiều hơn đến hoạt
động sản xuất kinh doanh của DN, nhằm nâng cao lợi nhuận và hiệu quả.
Việc tăng quyền chủ động của cán bộ quản lý đã dẫn tới giảm sự can thiệp
của chủ sở hữu vào việc điều hành tác nghiệp sản xuất kinh doanh của DN
sau CPH.
Việc trả lương, thưởng căn cứ vào hiệu quả sản xuất, kinh doanh và sự
cống hiến của người lao động đã tăng thu nhập của người lao động nhiều hơn
so với trước CPH.
Quyền lợi, trách nhiệm của cán bộ quản lý và người lao động gắn chặt
hơn với hiệu quả hoạt động của DN, đã tạo ra điều kiện để tận dụng tốt hơn
63
cơ sở vật chất và nguồn lực của DN. Đây là nguyên nhân chính để giải thích
vì sao các DN sử dụng năng lực sản xuất tốt hơn so với trước khi CPH.
Thay đổi về cơ cấu sản phẩm, công nghệ và thị trường. Đại đa số các
DN CPH đều có những thay đổi nhất định về cơ cấu sản phẩm, thị trường,
công nghệ sản xuất và chất lượng sản phẩm, dù mức độ thay đổi chưa lớn,
còn ít DN đổi mới toàn bộ nhưng đó là bước chuyển biến tích cực nâng cao
khả năng cạnh tranh của các DN trên thị trường.
Biểu đồ 10: Thay đổi về cơ cấu sản phẩm, công nghệ của các DNNN
sau CPH.
Qua khảo sát 559 DN đã CPH, có khoảng 25% số DN thực hiện chuyển
đổi cơ cấu thị trường và sản phẩm; khoảng 28% DN tiến hành đổi mới triệt để
kỹ thuật, công nghệ và qui trình sản xuất; khoảng 40% số DN thực hiện các
biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm [8].
64
Thay đổi về cơ chế điều hành DN. Sau khi đã trở thành CTCP thì Hội
đồng quản trị là người có ảnh hưởng lớn nhất trong lựa chọn giám đốc công
ty, bất kể đó là DN có hay không có cổ phần chi phối của Nhà nước, mặc dù
cơ quan chủ quản cũ vẫn còn những ảnh hưởng nhất định đối với việc bổ
nhiệm giám đốc, bởi vì, tại các DN còn vốn Nhà nước dù không chi phối
nhưng nếu cổ đông Nhà nước là cổ đông lớn nhất, thì vẫn có ảnh hưởng lớn
hơn vị trí thực của họ trong cơ cấu cổ đông.
Giảm sự can thiệp trực tiếp của chính quyền trung ương, địa phương và
tổ chức Đảng vào các quyết định của DNCP hoá so với trước chuyển đổi nên
có ảnh hưởng tích cực đối với quản trị của các DN CPH, tạo điều kiện tập
trung quyền lực và nâng cao trách nhiệm của Hội đồng quản trị và giám đốc
vào mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty.
Giải quyết lao động dôi dư, trước thời điểm CPH, lao động dôi dư
chiếm khoảng 13-14% lao động của các DN. Nhờ áp dụng các biện pháp như
mở rộng sản xuất để tăng việc làm, khuyến khích người lao động tự nguyện
thôi việc, và một số ít người bị buộc thôi việc (được hưởng chính sách theo
quy định), không phải là sa thải hàng loạt nên được đa số người lao động ủng
hộ sau CPH.
1.4.3.2. Nguyên nhân chính của những hạn chế trong doanh nghiệp nhà
nước sau cổ phần hoá
Một là, Kinh tế thị trường nước ta mới ở trình độ sơ khai và thị trường
chứng khoán mới manh nha, giao dịch còn hạn chế.
Tỷ lệ đầu tư vào chứng khoán còn quá nhỏ bé, tổng giá trị thị trường
chứng khoán mới bằng khoảng 3,5% GDP, trong đó tính riêng cổ phiếu theo
thông lệ quốc tế thì tỷ lệ này mới bằng 0,65% GDP. Các DN Việt Nam chưa
quen huy động vốn trên thị trường chứng khoán. Nhiều DN e ngại kiểm toán
65
và công bố thông tin khi niêm yết cổ phiếu. Nhiều DN đã niêm yết không
phải là DN lớn, có khả năng phát triển và hấp dẫn người đầu tư. Ngoài ra, ở
một số công ty niêm yết, tỷ lệ vốn thuộc sở hữu nhà nước còn khá cao, do
vậy, khối lượng cổ phiếu thực sự đưa vào giao dịch rất thấp.
Giao dịch trên thị trường chứng khoán còn hạn chế. Cụ thể, sau hơn 5
năm đưa thị trường chứng khoán đi vào vận hành, hiện chỉ có 33.000 tỷ đồng
trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương được niêm yết. Tổng
số trái phiếu mà các chính quyền địa phương huy động chưa đến 7.000 tỷ
đồng (Thành phố Hồ Chí Minh huy động 5.300 tỷ đồng, Hà Nội mới huy
động 1.000 tỷ đồng và Đồng Nai huy động 243 tỷ đồng qua kênh thị trường
chứng khoán). Trái phiếu DN còn thấp. Tính đến cuối tháng 11/2005, tổng giá
trị trái phiếu DN phát hành trên thị trường mới đạt khoảng 2.000 tỷ đồng,
trong đó chủ yếu là trái phiếu của khối DNNN như: Tổng công ty Dầu khí
(300 tỷ đồng), Tổng công ty Sông Đà (200 tỷ đồng), Tổng công ty Điện lực
Việt Nam 200 tỷ đồng, Tổng công ty Công nghiệp tàu thuỷ 1.000 tỷ đồng...
Về cổ phiếu DN còn rất thấp, mới có hơn 30 công ty niêm yết với tổng mệnh
giá 1.614 tỷ đồng.
Hai là, tàn dư của cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp.
Một bộ phận không nhỏ trong cán bộ, công chức, người lao động trong
DN và nhân dân chưa hiểu thấu đáo thực chất và lợi ích của quá trình chuyển
DNNN thành CTCP. Chưa phân biệt rõ sự khác biệt giữa CPH DNNN với
quá trình tư nhân hoá (chuyển từ sở hữu nhà nước thành sở hữu tư nhân). Do
sợ “chệch hướng” nên không ít cán bộ, kể cả một số cán bộ lãnh đạo còn có tư
tưởng chần chừ, do dự khi CPH DN.
Tiến hành CPH một bộ phận DNNN, tất yếu phải thay đổi nhiệm vụ và
theo nó là quyền lợi của một số người đang trực tiếp hoặc gián tiếp , điều
hành DN. Do vậy, đã và sẽ có một số cán bộ nhà nước, cán bộ lãnh đạo và
66
DN chưa hoàn toàn đồng tình, thậm chí còn có hành vi, việc làm gây khó
khăn, cản trở quá trình CPH DNNN. Trong khi đó việc tuyên truyền, giáo dục
và đấu tranh với tư tưởng này chưa được đặt ra một cách nghiêm khắc và
chưa có biện pháp hữu hiệu, đủ mạnh để khắc phục.
Đối với người lao động trong DN, lợi ích cao nhất của họ là việc làm
và thu nhập. Hiệu quả kinh doanh của CTCP hầu hết cao hơn khi còn là
DNNN, vì vậy, việc làm và thu nhập của người lao động được bảo đảm hơn.
Do đó, cần khẳng định không có lực cản từ phía những người lao động.
Nhưng ở nhiều nơi công tác tuyên truyền, vận động còn yếu, nên người lao
động chưa nhận thức đúng và hiểu rõ được lợi ích của CPH để từ đó ủng hộ và
tích cực tham gia.
Ba là, việc điều hành triển khai CPH còn chậm và lúng túng, một số cơ
chế chính sách còn chưa thông thoáng, thiếu tính thực tế, thủ tục còn phiền
hà. Một số nội dung của các văn bản chỉ đạo, tổ chức triển khai chưa rő ràng,
thiếu tính hệ thống và đồng bộ, nhiều vấn đề chậm được khẳng định như:
CPH là tự nguyện hay bắt buộc đối với các DNNN? Những DN nào tiến hành,
chưa hoặc không tiến hành CPH? Tỉ lệ cổ phần quy định bao nhiêu là hợp
lý?...
Bốn là, Quy trình CPH phức tạp, nhiều thủ tục phiền phức tốn kém,
chậm được cải tiến. Chậm quy định các hình thức tiến hành CPH và phân loại
DNNN, chưa có chương trình CPH tổng thể cho toàn bộ nền kinh tế để làm
căn cứ cho việc định hướng, xác định tiến độ, bước đi cho CPH.
Năm là, công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện ở một số bộ, ngành, địa
phương và tổng công ty còn thiếu kiên quyết. Việc chỉ đạo xây dựng các đề
án CPH còn chậm, còn xu hướng giữ lại nhiều DN làm ăn hiệu quả. Công tác
triển khai thực hiện đề án được phê duyệt còn lúng túng, xử lý các vướng
mắc, tồn tại thiếu dứt điểm; các cơ quan chức năng lại thiếu quan tâm, đôn
67
đốc thực hiện nên thời gian chuyển sang CTCP còn kéo dài. Các DN thuộc
diện CPH chưa chủ động xử lý những tổn tại về tài chính, các khoản nợ phải
thu khó đòi, khoản phải trả khó có khả năng trả nợ, tài sản, vật tư ứ đọng, kém
phẩm chất... nên khi thực hiện CPH phải mất nhiều thời gian để xác định, giải
quyết.
1.5. Những vấn đề đặt ra đối với doanh nghiệp nhà nƣớc sau cổ
phần hóa ở nƣớc ta
Quá trình CPH DNNN đã trải qua trên 15 năm với những kết quả quan
trọng khẳng định sự đúng hướng và hiệu quả là căn bản, tuy nhiên tiến độ vẫn
rất chậm so với mục tiêu đặt ra. Theo đánh giá giám sát việc thực hiện CPH
DNNN của UBTV Quốc hội thì số vốn CPH chỉ mới chiếm 12% trong tổng
số vốn khu vực quốc doanh. Sau CPH, nhà nước nắm giữ số vốn 46,3%,
người lao động giữ 29,6%, cổ đông bên ngoài giữ 24,1%. Có nghĩa là xét về
thực chất, quy mô CPH vốn quốc doanh còn rất nhỏ (chiếm khoảng 6% tổng
số vốn quốc doanh). Tiến độ quá chậm thể hiện rõ trên thực tế của nhiều bộ
nghành, địa phương và tổng công ty lớn, kết quả CPH chỉ đạt 10% đến 50%
chỉ tiêu kế hoạch. Do đó những vấn đề đặt ra là:
1.5.1. Nhận thức về mô hình doanh nghiệp cổ phần hoá
Mô hình DNCP, đã và đang gây ra nhiều ý kiến khác nhau, có ý kiến
cho rằng DNCP là một sự lai ghép giữa DNNN và DN tư nhân; có ý kiến cho
rằng mô hình này mang đặc điểm của cả DNNN và DN tư nhân. Điều này cho
thấy, DNCP vẫn còn đan xen và chưa thoát hẳn phương thức hoạt động của
DNNN. Bởi vì:
68
+ Về vấn đề sở hữu và các quyền về tài sản.
Biểu đồ 11: Nhận thức về quyền sở hữu và tài sản trong DNCP
Theo điều tra cho rằng,42% DN có quyền sở hữu và quyền về tài sản
của DNCP vừa giống DNNN, vừa giống DN tư nhân; chỉ có 20% số DN cho
rằng giống với DN tư nhân, nhưng có tới 38% số DN khẳng định rằng các
quyền này giống với DNNN.
Tồn tại vấn đề này, không đơn thuần chỉ về mặt nhận thức, mà xuất
phát từ những vướng mắc trong quá trình thực hiện CPH. Chẳng hạn, chưa
dứt điểm chuyển quyền sử dụng đất, chuyển quyền sở hữu tài sản, thiếu rõ
ràng giữa giao và thuê đất, không có giấy tờ xác nhận quyền sử dụng dây
chuyền công nghệ chính…làm cho các quyền và lợi ích liên quan cũng chưa
thể rõ ràng và minh bạch như các DN khu vực tư nhân.
+ Nhận thức về quan hệ tín dụng, đầu tư cũng chưa thống nhất.
69
Biểu đồ 12: Nhận thức về quan hệ tín dụng, đầu tư của DNCP
Có tới 30% số DN cho rằng mô hình DNCP giống DN tư nhân; 40% cho
rằng giống cả DNNN và DN tư nhân và 30% cho rằng giống DNNN.
+ Cơ chế lao động.
Biểu đồ 13: Nhìn nhận của DNCP về cơ chế lao động.
Đa số các DN cho rằng vẫn thực hiện cách thức từ khu vực DNNN.
Chỉ có rất ít DN cho rằng, DNCP giống với DN khu vực tư nhân, chỉ chiếm
14% số DN.
+ Quản trị doanh nghiệp.
70
Biểu đồ 14 : Nhìn nhận của DNCP về quản trị doanh nghi ệp.
Vẫn có tới 46% DN cho cho rằng quản trị DNCP vẫn còn những đặc
điểm của DNNN, 38% chưa có sự khác biệt giữa mô hình DN tư nhân và
DNNN và chỉ có 16% cho rằng hoàn toàn theo mô hình của DN khu vực tư
nhân.
Nhìn chung, từ các số liệu trên cho thấy, tuy đã chuyển sang mô hình
CTCP hoạt động theo Luật DN, nhưng cơ chế hoạt động sản xuất, kinh doanh
và điều hành của DNCP còn có sự đan xen giữa đặc thù của khu vực DNNN
với khu vực DN tư nhân, nhất là trong phương thức điều hành và lao động. Sự
đan xen này, một mặt do bản thân DNCP vẫn giữ một phần phương thức hoạt
động cũ, mặt khác khuôn khổ thể chế và môi trường hoạt động đối với quá
trình CPH cũng như sau CPH chưa tạo điều kiện thuận lợi để DN áp dụng
một cơ chế hoàn toàn mới.
1.5.2. Doanh nghiệp cổ phần và môi trường hoạt động
Nói chung, các DN vẫn quan tâm nhiều đến đất đai, tín dụng và thủ tục
hành chính trong các lĩnh vực kinh doanh có điều kiện.
+ Đất đai và mặt bằng sản xuất, kinh doanh
Diện tích đât đai, nhà xưởng của đa số các DNCP không bị giảm đi so
với trước khi chuyển đổi. Tại nhiều địa phương, DN được tiếp tục thuê đất,
71
thậm chí được giao đất thấp hơn nhiều so với giá trị thị trường, nhưng vẫn
khó khăn trong các quan hệ với ngân hàng hoặc khi muốn mở rộng quy mô
sản xuất, kinh doanh. Nguyên nhân của tình trạng này có thể do sự thiếu rõ
ràng về quyền sử dụng cũng như việc chưa giải quyết dứt điểm các quyền và
nghĩa vụ có liên quan trước khi đăng ký dưới hình thức CTCP, khiến DN gặp
nhiều khó khăn trong bố trí kế hoạch hoạt động kinh doanh như xây dựng nhà
xưởng, cơ sở hạ tầng… ổn định lâu dài, góp vốn liên doanh bằng tài sản có
trên đất mà DN đang sử dụng. Bất cập này càng được thể hiện rõ hơn đối với
các DN thương mại, dịch vụ ở trung tâm các thành phố, khu công nghiệp.
Có tình trạng bộ phận công ty nhà nước hoặc đơn vị thành viên của
tổng công ty CPH nhưng không có quyền sử dụng đất, không được đứng tên
thuê hoặc giao đất, do đất thuộc quyền sử dụng hoặc do công ty mẹ, tổng
công ty đứng tên thuê. Vì vậy, các đơn vị này (bộ phận DNCP và công ty mẹ
- đơn vị thành viên) phải nhờ tổng công ty đứng ra dùng quyền sử dụng đất để
vay vốn hộ mình. Ngược lại, cũng có trường hợp công ty mẹ hoặc tổng công
ty dùng toàn bộ diện tích đất đai mà bộ phận DNNN hoặc đơn vị thành viên
được CPH đang sử dụng để thế chấp vay vốn, gây khó khăn đối với việc ổn
định lâu dài hoạt động kinh doanh của công ty. Mặt khác, có thể còn xuất hiện
nguy cơ biến CPH DN thành “CPH bất động sản”, nhất là ở các trung tâm
kinh tế lớn nếu việc tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị DN không đúng.
+ Quyền sở hữu tài sản.
Quyền sở hữu tài sản không rõ ràng đang gây khó khăn cho
nhiềuDNCP. Theo kết quả khảo sát DNCP của Viện Nghiên cứu kinh tế
Trung ương hình thành từ đơn vị hạch toán báo sổ, hoặc hạch toán phụ thuộc
cho thấy, hầu như dây chuyền sản xuất chính hoặc các tài sản có giá trị lớn
đều do công ty mẹ hoặc tổng công ty đứng tên chủ sở hữu, nhưng khi CPH
72
chưa dứt điểm chuyển giao và đăng ký sở hữu nên nhiều vướng mắc có liên
quan đã diễn ra sau CPH.
+ Vốn tín dụng và quan hệ với ngân hàng.
Đây là một trong những thay đổi lớn sau chuyển đổi, tỷ trọng vay vốn
từ nguồn tín dụng của các ngân hàng thương mại Nhà nước đã giảm đi đáng
kể và thay vào đó là các nguồn tín dụng khác, kể cả tín dụng phi chính thức,
tín dụng từ người lao động, cổ đông hoặc gia đình, bạn bè. Các khoản vay tín
dụng trung, dài hạn và điều kiện tín dụng, điều kiện tín chấp, thế chấp, cầm cố
tài sản và lòng tin khi cho vay của ngân hàng có sự thay đổi đáng kể giữa DN
sau chuyển đổi và trước chuyển đổi.
Một số vấn đề phát sinh đã gây trở ngại, hạn chế đối với các DN
chuyển đổi. Trong đó còn có khoảng cách khá xa giữa quy định và thực tế
thực hiện chính sách tín dụng ngân hàng và chưa tạo được môi trường bình
đẳng cho DN sau chuyển đổi.
Trước CPH, các DN được các cơ quan chủ quản hoặc tổng công ty
hoặc công ty mẹ phê duyệt các phương án đầu tư hoặc các khoản vay lớn của
DN - một hình thức gián tiếp bảo lãnh, gây sức ép với ngân hàng Thương mại
quốc doanh cho DN vay vốn. Bên cạnh đó là sự hỗ trợ tài chính thông qua hỗ
trợ vốn vay ưu đãi và các biện pháp tài chính khoanh nợ, giãn nợ, xoá nợ,
chuyển vốn vay thành vốn nhà nước đầu tư… Sau CPH, các nguồn hỗ trợ này
không còn trong khi vốn huy động bên trong DN thông qua tập thể người lao
động, cổ đông, cổ đông đại diện cổ phần Nhà nước… bị hạn chế, nên DN phải
tự huy động vốn và nguồn vốn từ bên ngoài trở nên đặc biệt quan trọng.
+ Vấn đề lao động và tiền lương trong DNCP.
Đa số DNCP đều tổ chức thông tin pháp luật về lao động cho người lao
động dưới các hình thức khác nhau. Phổ biến nhất vẫn là hình thức giới thiệu
73
quy định pháp luật lao động tại hội nghị hoặc các cuộc họp chung của người
lao động tại công ty.
Số giờ làm việc bình quân của người lao động trong 559 DN là 45,68
giờ/tuần, thấp hơn so với quy định là 48giờ/tuần trong điều kiện lao động và
môi trường lao động bình thường. Tổ chức công đoàn vẫn giữ được những vai
trò nhất định trong DNCP, ít nhất là so sánh với DN trước chuyển đổi. Sau
chuyển đổi, 100% DNCP có tổ chức công đoàn, trong đó trung bình có tới
87% số lao động thường xuyên của DN tham gia là công đoàn viên.
Tuy nhiên, vẫn còn không ít DNCP chưa biết tận dụng ưu thế của mô
hình mới để tự xây dựng định mức lao động, tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật, tiêu
chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ và chủ động trả lương cho người lao động cho
DN mình, mà vẫn vận dụng chế độ tiền lương như trong công ty Nhà nước.
Vì vậy, cũng kế thừa luôn những nhược điểm cố hữu của chế độ tiền lương
trong khu vực DNNN, đó là: tiền lương, thu nhập của người lao động chưa
thực sự gắn với năng suất lao động, hiệu quả sản xuất, kinh doanh chưa tạo
được động lực cho người lao động trong DN.
Nhiều DNCP gặp vướng mắc vấn đề đóng bảo hiểm xã hội cho người
lao động và cán bộ. Về phía bảo hiểm xã hội ở các địa phương, họ chỉ nhận
đóng bảo hiểm theo thang, bảng lương mà các DN đã đăng ký. Trong khi đó,
không có nhiều DNCP tự xây dựng thang, bảng lương của mình để làm căn
cứ trả lương và đăng ký với cơ quan và tổ chức có liên quan, nên việc đóng
bảo hiểm gặp khó khăn. Một số DNCP có xây dựng và đăng ký thang bảng
lương cho người lao động và cán bộ quản lý nhưng vẫn gặp khó khăn, vì bảo
hiểm xã hội chưa linh hoạt, mà đòi hỏi phải có “xếp hạng” như các công ty
nhà nước.
74
1.5.3. Quản trị doanh nghiệp sau cổ phần hoá
+ Cổ đông - chủ sở hữu của DNCP
Đảm bảo các quyền lợi và lợi ích cơ bản của cổ đông, nhất là cổ đông
thiểu số, là một trong những trọng tâm của cải cách quản trị DN hiện nay. Các
quyền đó bao gồm: quyền sở hữu cổ phần/vốn góp; quyền được chuyển
nhượng, chuyển giao cổ phần/vốn góp; quyền nhận những thông tin quan
trọng về hoạt động của công ty; quyền tham gia, giám sát các hoạt động của
công ty thông qua cơ quan có thẩm quyền quyết định cao nhất của chủ sở hữu
trong công ty (Đại hội cổ đông); quyền tham gia bầu cử và miễn nhiệm các
nhà và điều hành công ty; quyền được hưởng lợi nhuận của phần đã đầu tư.
75
* Cơ cấu cổ đông:
Biểu đồ 15: Cơ cấu cổ đông của 559 DNCP (% tổng số cổ phần)
Qua số liệu khảo sát 559 DNCP cho thấy: CPH nội bộ vẫn là cách thức
thường thấy khi triển khai CPH. Gần đây có một số trường hợp tiến hành đấu
giá cổ phần, nhưng số này chưa nhiều. Vì vậy, dễ thấy người lao động, bao
gồm cả cán bộ là lực lượng cổ đông mạnh nhất trong DNCP.
Sự hiện diện của cổ đông nhà nước có thể xuất phát từ hai nguyên
nhân: giữ lại cổ phần nhà nước có chủ đích để chi phối hoặc không chi phối;
hoặc không bán hết cổ phần nên cổ đông nhà nước phải tham gia một cách
thụ động, trong đó nguyên nhân thứ là phổ biến hơn. Tuy nhiên, dù nằm ở
nguyên nhân nào, vẫn có một thực tế là số lượng cổ phần nhà nước, bao gồm
cả của nhà nước trung ương, địa phương, tổng công ty… vẫn chiếm vị trí thứ
hai sau cổ phần của người lao động.
Với vị trí thống lĩnh của cổ đông người lao động và cổ đông nhà nước
nên đương nhiên các cổ đông là các nhà đầu tư bên ngoài, dù là tổ chức, DN
76
hoặc các nhân chỉ chiếm vai trò thứ yếu, khoảng 10-11% cổ phần. Đây chính
là nguyên nhân gây nên tình trạng “thiếu cổ đông chiến lược” mà nhiều ý kiến
đã đưa ra lâu nay.
Tuy nhiên, ở đây không cần nhận thức rõ hơn về sức mạnh của cổ
đông là người lao động. Đặc điểm của cổ đông “người lao động” là có tính
phân tán, rời rạc, trong khi pháp luật Việt Nam chưa có hoặc quy định thiếu
rõ ràng về các trường hợp “tập trung cổ phần”. Do vậy, trên thực tế, cổ đông
người lao động chỉ được “ứng xử” như các cổ đông cá nhân thông thường,
thậm chí xét về số lượng cổ phần nắm giữ thì từng cá nhân người lao động là
những cổ đông nhỏ nhất, nhỏ hơn cả cổ đông cá nhân từ bên ngoài.
Với cách tiếp cận như vậy, đương nhiên cổ đông nhà nước vẫn là chủ
sở hữu lớn nhất trong các DNCP.
Qua biểu đồ trên cũng cho thấy một xu hướng thay đổi nhỏ nhưng rất
đáng quan tâm, đó là: cổ phần của cổ đông người lao động và cổ phần của cổ
đông nhà nước đã giảm đi, còn cổ phần của nhà đầu tư bền ngoài, gồm cả nhà
đầu tư nước ngoài và của cán bộ đã tăng lên.
Việc các DN thuộc tổng công ty không có cổ đông là người nhà nước
như biểu đồ trên cho thấy, đây là vấn đề đáng suy nghĩ, nhất là trong điều
kiện đối tượng mua cổ phần ngày càng mở rộng và Việt Nam đang mong
muốn tiếp thu tài chính, công nghệ và trình độ quản lý của đối tác nước ngoài.
* Mục tiêu đầu tư của các cổ đông
Nhìn chung, cổ đông của DNCP chủ yếu quan tâm tới kết quả và hiệu
quả của khoản đầu tư dưới hình thức cổ phần hơn là những vấn đề thuộc lĩnh
vực điều hành sản xuất, kinh doanh như vốn, tài sản, đầu tư, thu nhập giám
đốc… Tuy nhiên, do có một cơ cấu đông đảo cổ đông là người lao động, nên
77
vấn đề “lương thưởng và thu nhập của người lao động” lại giành được sự
quan tâm lớn của các cổ đông, chỉ đứng sau cổ tức và lợi nhuận.
* Thực hiện quyền được cung cấp thông tin của các cổ đông:
Trong phạm vi các quy định hiện hành về minh bạch hoá thông tin của
CTCP, dường như các cổ đông của DNCP hiện nay không gặp khó khăn để có
được những thông tin như “lương và thu nhập của giám đốc” cũng như đa số
DN chỉ cung cấp cho các cổ đông khi có yêu cầu.
Biểu đồ 16: Bảo đảm quyền được cung cấp thông tin của cổ đông
(%-DN thực hiện)
Nhìn tổng thể, các số liệu ở biểu đồ trên có vẻ là tương đối tích cực.
Nhưng, loại thông tin chi tiết cổ đông nhận được thì chỉ có thể là một số
thông tin sơ lược trong báo cáo tài chính trình bày trước đại hội cổ đông hàng
năm. Do không được cung cấp thông tin chi tiết, nên các cổ đông nhỏ, chủ
yếu là người lao động trong công ty không hiểu được thực chất công ty, cảm
thấy bị đứng ngoài công ty, không có tâm lý mình là chủ sở hữu công ty, thậm
chí có một số lao động coi DNCP là “người vay” và họ chỉ là “người cho vay
vốn”.
78
* Nhận thức của các cổ đông về quyền và nghĩa vụ đối với DN:
Biểu đồ 17: Mức độ hiểu biết của các cổ đông về quyền và nghĩa vụ đối
với DNCP (%-tỷ lệ tổng số cổ đông).
Theo kết quả điều tra 559 DN, vẫn còn một bộ phận nhỏ các cổ đông
chưa nhận thức được đúng đắn các quyền, lợi ích và nghĩa vụ của mình đối
với DN nên đã diễn ra hai thái cực: hoặc là cổ đông không nắm rõ các quy
định pháp lý về quyền hạn của cổ đông, hội đồng quản trị, ban kiểm soát,
giám đốc cũng như thủ tục, trình tự tổ chức đại hội cổ đông, đặc biệt là của
đại hội cổ đông bất thường… dẫn đến cổ đông lạm quyền và can thiệp quá
sâu và công tác, điều hành công ty gây nên những xung đột nội bộ không
đáng có. Hoặc là cổ đông quá e dè, không sử dụng hết các quyền hạn chính
đáng của mình đối với và điều hành công ty, dẫn đến hệ quả là đại hội cổ
đông trở thành hình thức; bản thân các cổ đông từ vị trí là “nhà đầu tư” đã trở
thành “người gửi tiết kiệm”. Nhiều cổ đông là người lao động trong DNCP
không thấy được vai trò chủ sở hữu thực sự của mình để tích cực tham gia
bàn bạc, thảo luận và biểu quyết các vấn đề quan trọng của công ty như quyết
định định hướng chiến lược, mục tiêu, nhiệm vụ, sử dụng lợi nhuận, bầu hội
đồng quản trị… tại đại hội cổ đông.
79
Biểu đồ 18: Mức độ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của cổ đông
(%-tỷ lệ tổng số cổ đông)
* Cổ đông nhà nước:
Tính trung bình trong 559 DN được điều tra, Nhà nước vẫn chiếm
khoảng 26% cổ phần tại DNCP, cá biệt có trường hợp cổ phần nhà nước
chiếm tới 87%. Do tính chất tập trung của cổ phần nhà nước, cổ đông nhà
nước có một vị trí đặc biệt trong cơ cấu cổ đông của DNCP.
Tuỳ theo DNCP là từ DN hay bộ phận DN trực thuộc Bộ hay UBND
cấp tỉnh, tổng công ty, công ty nhà nước độc lập (công ty mẹ) mà các cơ quan,
tổ chức hay DN tương ứng này là đại diện cổ phần nhà nước tại DNCP. Tuy
nhiên, các cơ quan và tổ chức kinh tế này không trực tiếp giao cho người đại
diện trực tiếp tại DNCP nhà nước- người đại diện này có thể là một người
hoặc một nhóm người ở ngoài hoặc ở ngay trong DN đó, nhưng trong đại đa
số trường hợp là giao cho một nhóm người. Trong trường hợp giao cho một
nhóm người, tỷ lệ cổ phần cụ thể của từng người nắm giữ sẽ được quy định
trong quyết định cử người đại diện của cơ quan, tổ chức thực hiện chức năng
cổ đông chủ sở hữu nhà nước.
80
Biểu đồ19 : Quan điểm của DN về quản lý cổ phần nhà nước
Trong thực tế, gần như 100% DN, cổ phần nhà nước được giao cho một
nhóm người quản lý, bất kể đó là cổ phần chi phối hay không chi phối. Tuy
nhiên, dường như phương thức này lại không nhận được sự ủng hộ của đa số
DN. Có 63,14% DN đề nghị chỉ nên giao cho một người quản lý; 36,86% đề
nghị giao cho một nhóm người. Lập luận của đa số ý kiến chỉ nên giao cho
một người quản lý là nhằm nâng cao trách nhiệm và tập trung đầu mối cổ
đông nhà nước, tránh trường hợp lợi ích của cổ phần nhà nước bị phân tán.
Một vấn đề khác nữa, đa số DN quan niệm rằng người đại diện trực
tiếp có cổ phần nhà nước nên có cổ phần riêng của mình tại DNCP.
Như vậy, có thể thấy vẫn chưa thống nhất về việc cử người đại diện cổ
phần nhà nước như thế nào là hợp lý. Nhưng các DNCP cũng mong muốn và
kiến nghị nên có ngay các hướng dẫn cụ thể và nhanh chóng triển khai việc
chuyển giao quyền chủ sở hữu cổ phần nhà nước, ít nhất là các DNCP địa
phương cho Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước đã được hình
thành.
+ Tổ chức và điều hành DNCP.
Trong số 559 DN được điều tra, có 70,64% số DN có chủ tịch hội đồng
quản trị kiêm giám đốc. Việc kiêm nhiệm này có ưu điểm là tránh được
những mối xung đột có thể có giữa hội đồng quản trị và giám đốc (quan hệ
81
giữa quản ly và điều hành). Hơn nữa, việc kiêm nhiệm như vậy sẽ tiết kiệm
được chi phí quản lý cho DN và rất thích hợp với các DNCP quy mô nhỏ. Tuy
nhiên, hạn chế của mô hình kiêm nhiệm này là chưa tách bạch giữa quản ly và
điều hành. Vì vậy, không thích hợp để áp dụng một cơ chế quản trị công ty
hiện đại với sự kiểm tra, giám sát có hiệu quả đối với bộ máy điều hành DN.
Hội đồng quản trị trong CTCP - cũng như một số loại hình DN khác - được
hình thành là để thực hiện chức năng bảo vệ quyền lợi của các cổ đông cũng
như giám sát bộ máy quản lý trong điều hành (mà đứng đầu là giám đốc/tổng
giám đốc) và sử dụng vốn đầu tư của các cổ đông vào các hoạt động sản xuất,
kinh doanh. Nếu không tách bạch được hội đồng quản trị với giám đốc thì
tiềm ẩn nguy cơ lợi ích của các cổ đông không được đảm bảo.
Một vấn đề nữa, đó là công tác cán bộ. Cho dù có những thay đổi tích
cực về kết quả và hiệu quả sản xuất, kinh doanh nhưng vấn đề tổ chức nhân
sự chưa có sự thay đổi tương xứng. Có khoảng 80-90% DN vẫn giữ nguyên
các chức danh quản lý chủ chốt như thành viên hội đồng quản trị, giám đốc,
phó giám đốc, kế toán trưởng, kể cả những DN đã qua 2-3 lần bầu lại các
chức danh này. Việc ít thay đổi cán bộ chủ chốt, một phần có thể do các cổ
đông vẫn tin tưởng và bản thân các cán bộ vẫn đảm đương được nhiệm vụ của
mình, nhưng quan trọng hơn là do DN chưa đủ động lực và điều kiện cần thiết
để hình thành một đội ngũ điều hành có chất lượng hơn từ bên ngoài.
Rõ ràng, CPH tạo ra động lực mới, nhưng bộ máy ít thay đổi dẫn đến tư
duy, trình độ và điều hành DN cũng ít thay đổi. Nguyên nhân là do bán cổ
phần chủ yếu trong nội bộ công nhân viên nên thiếu nhà đầu tư chiến lược là
những cổ đông bên ngoài DN có tỷ lệ cổ phần đủ lớn làm thay đổi các quyết
sách và quản trị của DN .
* Tranh chấp nội bộ:
82
Biểu đồ 20 : Tỷ lệ có tranh chấp trong DNCP
Theo kết quả điều tra về quản trị DN của 559 DN, tỷ lệ trả lời thừa
nhận có tranh chấp trong DN thường không đáng kể và không tương xứng với
thực tế diễn ra. Chỉ có khoảng 7% DN cho rằng có tranh chấp giữa các cổ
đông hoặc nhóm cổ đông với nhau; 5,2% thừa nhận có tranh chấp giữa hội
đồng quản trị với giám đốc; và 3,2% có tranh chấp dẫn đến khiếu kiện. Tuy
nhiên, có đến 17,3% số DN khẳng định có sự tranh chấp giữa các cổ đông với
ban điều hành.
Từ số liệu trên có thể giải thích rằng: việc kiêm nhiệm giữa chủ tịch hội
đồng quản trị và giám đốc ở đa số DNCP đã dẫn tới việc giảm thiểu những
xung đột giữa hội đồng quản trị với giám đốc. Tuy nhiên, mặt trái của vấn đề
là tiềm ẩn nguy cơ không bảo vệ lợi ích của các cổ đông như đã đề cập ở trên.
Điều này giải thích tại sao tỷ lệ tranh chấp giữa cổ đông và ban quản lý điều
hành cao hơn hẳn so với các tranh chấp khác. Tỷ lệ 17,3% không phải là quá
cao, nhưng nếu đem áp dụng với hơn 3.000 DNCP thì số lượng DN có tranh
chấp giữa cổ đông và ban điều hành của CTCP không hề nhỏ. Từ nhiều nguồn
thông tin cho thấy, thực tế ở Việt Nam, tranh chấp kinh tế diễn ra nhiều,
nhưng phần lớn DN không hoặc rất thận trọng khi thừa nhận các tranh chấp
đó. Khi có tranh chấp, giải pháp thường thấy là giấu thông tin, tự hoà giải,
thương lượng và rất ngại giải quyết tranh chấp bằng khiếu kiện. Bên cạnh đó,
83
đa số DN chưa có tính chuyên nghiệp trong giải quyết tranh chấp. Điều đó
cũng đã ảnh hưởng không nhỏ khi tham gia vào đời sống thương mại toàn
cầu. Nguyên nhân là do quy định pháp luật và thực thi pháp luật về hợp đồng
còn có nhiều bất cập như: không rõ văn bản nào có hiệu lực thi hành cao nhất
về vấn đề hợp đồng; thiếu nhất quán trong áp dụng quy định pháp luật về hợp
đồng; nội dung quy định pháp lý còn lạc hậu, chưa phản ánh hết được sự đa
dạng và đổi mới của đời sống kinh tế nói chung cũng như các hoạt động liên
kết, hợp tác, tổ chức DN.
Từ việc nhìn nhận đánh giá những vấn đề đặt ra đối với DNNN sau
CPH ở nước ta, đã giúp chúng ta có cái nhìn về triển vọng của DNNN sau
CPH như sau:
Việc sắp xếp, đổi mới DNNN ở nước ta hiện nay với nội dung chủ yếu
là chuyển một phần các DNNN sang hình thức CTCP về thực chất là sự
chuyển đổi hình thức - xã hội hóa quá trình sản xuất từ dạng DNNN sang
dạng CTCP. Qua phân tích cho thấy CPH không phải là tư nhân hóa. Với
cách đặt vấn đề như vậy, rõ ràng việc tinh gọn hơn về số lượng và nâng cao
hiệu quả hoạt động kinh doanh của DNNN sau CPH trở thành nội dung chính
của cuộc cải cách các DNNN ở Việt Nam hiện nay. CPH là một trong số
nhiều biện pháp để thực hiện mục tiêu này. Đây cũng là điều đã được khẳng
định trong các Nghị quyết Đại hội của Đảng.
Trên cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn hoạt động của các DNNN đã
CPH cho thấy thực chất sự chuyển đổi từ DNNN sang hoạt động theo hình
thức CTCP là quá trình bao gồm hàng loạt biện pháp về kinh tế, tổ chức, cả về
vĩ mô và vi mô. CPH DNNN là một tất yếu khách quan, đã đem lại những
thành tựu nhất định trên nhiều phương diện về sở hữu, khả năng huy động
vốn, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của DN, cải thiện đời sống của người
lao động và hoạt động kinh doanh của DNNN đã có sự tăng trưởng.
84
Tuy nhiên, tiến độ triển khai CPH còn chậm, vì: vấn đề đất đai, tín
dụng và thủ tục hành chính... của DN sau CPH chưa được giải quyết triệt để;
kiểm kê đánh giá lại tài sản DN chưa rõ ràng. Nhà nước còn chiếm tỷ trọng
lớn trong vốn điều lệ ở nhiều DN đã làm hạn chế sự đổi mới trong quản trị
công ty; phương pháp quản lý, lề lối làm việc, tư duy quản lý vẫn còn có sự
phân biệt đối xử, quyền lợi của người lao động chưa đựơc quan tâm thực sự.
Vì vậy, nếu giải quyết tốt các vấn đề này sẽ làm cho quá trình CPH DNNN
lành mạnh và có hiệu quả.
Để giải quyết những khó khăn, vướng mắc trên, Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 3 và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9, Chỉ thị 45 của Bộ Chính
trị, Nghị định 64, Nghị định 187… với những đột phá căn bản là: (1) xác định
CPH cả những DNNN lớn và có lãi, (2) mở rộng các lĩnh vực được CPH, và
(3) không chấp nhận kiểu CPH “khép kín”.
Quan tâm, xử lý và giải quyết các vấn đề sau CPH của các DNNN là
rất quan trọng vì những vấn đề này vừa mang tính khách quan vừa mang tính
chủ quan và cần phải xem xét trên tất cả các mặt. Phải coi đây là bài học kinh
nghiệm cho quá trình triển khai CPH DNNN trong giai đoạn tiếp theo.
85
Chƣơng 2
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC SAU CỔ PHẦN HÓA Ở VIỆT NAM
2.1. Phƣơng hƣớng hoạt động của doanh nghiệp nhà nƣớc sau cổ
phần hóa ở Việt Nam
2.1.1. Đảm bảo sự vận hành có hiệu quả của bộ máy quản lý
và điều hành của doanh nghiệp cổ phần
Phát triển nguồn nhân lực quản lý có chất lượng cho các công ty cổ
phần. Nâng cao vai trò quản lý của hội đồng quản trị, nhằm tạo ra sự cân đối
giữa quyền hạn và trách nhiệm của các thành viên hội đồng quản trị, trong đó
ít nhất về mặt hình thức phải có các quy định về tiêu chuẩn thành viên hội
đồng quản trị. Chú ý các thông lệ về quản trị doanh nghiệp trên thế giới, nhất
là các công ty cổ phần hình thành từ doanh nghiệp nhà nước.
Bổ sung các quy định về thành viên độc lập trong các hội đồng quản trị
của doanh nghiệp cổ phần, nhất là trong điều kiện nhiều doanh nghiệp cổ
phần nói riêng và công ty cổ phần nói chung được tổ chức theo mô hình kiêm
nhiệm giữa chủ tịch hội đồng quản trị và giám đốc công ty.
Quy định cụ thể về cơ chế triệu tập các cuộc họp của hội đồng quản trị,
trong đó mở rộng đối tượng có thẩm quyền (ngoài chủ tịch hội đồng quản trị).
Quy định cụ thể vấn đề uỷ quyền chủ sở hữu. Đối với các công ty cổ
phần lớn hoặc các công ty cổ phần có vốn của Nhà nước, người trực tiếp thực
hiện các quyền cổ đông phải là cổ đông thực sự.
86
Có các quy định cụ thể để hạn chế những bất ổn và vướng mắc do tình
trạng can thiệp của các cơ quan hành chính nhà nước bên ngoài vào công ty
cổ phần có vốn chi phối của Nhà nước.
2.1.2. Giải quyết các vấn đề liên quan đến cổ đông trong
doanh nghiệp cổ phần
Tăng cường tập huấn, đào tạo, bồi dưỡng cho người lao động và cán bộ
quản lý doanh nghiệp cổ phần về quyền của cổ đông, của các cơ quan quản lý
trong công ty nhằm làm cho cổ đông, nhất là cổ đông là người lao động nắm
được các quy định pháp lý, tránh tình trạng xung đột trong nội bộ doanh
nghiệp sau chuyển đổi do không hiểu pháp luật để đảm bảo hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp sau cổ phần hoá.
Tiến hành sửa đổi, bổ sung các quy định pháp lý có liên quan đến việc
nâng cao hiệu quả của cơ chế thực thi đảm bảo các quyền của các cổ đông
trong các doanh nghiệp cổ phần, nhất là cổ đông là người lao động và các cổ
đông thiểu số như: Đảm bảo tối đa quyền được cung cấp thông tin của các cổ
đông, bổ sung các quy định cụ thể đảm bảo cho các cổ đông được quyền tiếp
cận tất cả các thông tin của công ty. Được đảm bảo quyền xem xét sổ sách kế
toán, biên bản họp đại hội cổ đông, hội đồng quản trị; Cụ thể hoá các quy
định về quyền của các cổ đông thiểu số trong đề cử người vào hội đồng quản
trị, ban kiểm soát và quyền triệu tập đại hội cổ đông, nhất là quy định về
nguyên tắc xác định số lượng người mà họ được cử, cũng như hình thức và
nội dung của việc yêu cầu triệu tập đại hội cổ đông nhằm đảm bảo các quyền
này có thể thực thi có hiệu quả trong thực tế; Bổ sung cơ chế uỷ quyền biểu
quyết nhằm tạo điều kiện tập trung lượng phiếu nhất định cho những quyết
định tại đại hội cổ đông trước áp lực của các cổ đông đa số, như cổ đông Nhà
nước trong các doanh nghiệp cổ phần có vốn chi phối của Nhà nước; Nâng
cao tỷ lệ thông qua quyết định tại đại hội cổ đông để giảm khả năng thao túng
87
của các cổ đông lớn; Cụ thể hoá hơn nữa các quy định về biểu quyết bằng văn
bản nhằm giải thiểu tình trạng tuỳ tiện lấy ý kiến ở một số doanh nghiệp có tỷ
lệ cổ phần Nhà nước lớn.
Hiện nay có tình trạng cổ đông không biết thông báo của một số CTCP
về việc trả cổ tức, thời hạn và phương thức trả. Những cổ đông ở xa CTCP thì
việc nhận cổ tức rất phức tạp như phải đến tận DN, phải gửi giấy đến DN có
xác nhận của cơ quan mới được chuyển khoản.... Thực tế điều đó dẫn tới việc
cổ đông chậm nhận đựoc cổ tức, nhất là các cổ đông thiểu số. Một số CTCP
có rất nhiều cổ đông tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh có sáng kiến uỷ thác
qua các công ty chứng khoán thanh toán cổ tức, biện pháp này rất đơn giản,
chi phí nhỏ nhưng làm cho các nhà đầu tư an tâm và cổ phiếu của DN có tính
thanh toán cao. Việc chưa tạo điều kiện cho thanh toán cổ tức cũng hạn chế
tính thanh khoản cổ phiếu và hạn chế huy động vốn cho DN. Những tồn tại
này không phải là vấn đề lớn nhưng sai luật DN và rất dễ dàng khắc phục. Do
đó cần có đề nghị các cơ quan đại diện cổ phần nhà nước thông qua người
quản lý trực tiếp phần vốn nhà nước tại DN và các CTCP rà soát lại điều lệ để
sửa đổi phù hợp với luật hiện hành.
Bổ sung và làm rõ các quy định có liên quan đến cổ đông sáng lập để
làm rõ những câu hỏi: Vốn điều lệ của doanh nghiệp cổ phần tại thời điểm
chuyển đổi là số vốn được cổ đông sáng lập cam kết mua hay là số vốn của
tổng số cổ phần dự định phát hành? Trong ba năm đầu cổ phần hoá, cổ đông
sáng lập có được chuyển nhượng cổ phần cho nhau hay không (không chuyển
nhượng cho người ngoài)? Cổ đông nhà nước (nhất là trường hợp giữ cổ phần
chi phối) và các cổ đông sáng lập khác có được quyền chuyển nhượng cổ
phần của mình cho người ngoài không?
88
2.1.3. Tiếp tục cải thiện môi trường hoạt động của công ty
cổ phần
Xoá bỏ sự phân biệt trong các chính sách và thực hiện các chính sách
giữa công ty nhà nước và doanh nghiệp sau chuyển đổi về tín dụng, đầu tư,
đất đai,...
Quy định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong
việc tiếp tục cung cấp thông tin, phổ biến chế độ chính sách cho doanh nghiệp
cổ phần. Hoàn thiện hệ thống cơ quan đăng ký kinh doanh và thông tin doanh
nghiệp thuộc các cơ quan kế hoạch và đầu tư để kết hợp đăng ký kinh doanh
đối với doanh nghiệp cổ phần và cung cấp thông tin cho doanh nghiệp cổ
phần.
Giao rõ trách nhiệm cho các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan đến
quy trình cổ phần hoá để giải đáp các vướng mắc của doanh nghiệp trong và
sau cổ phần hoá.
Phát triển một số tổ chức chuyên môn thực hiện nghiệp vụ tư vấn, đầu
tư cổ phần, bao gồm: tư vấn xây dựng phương án cổ phần hoá, dịch vụ phát
hành cổ phiếu mới, chuyển nhượng cổ phần, niêm yết cổ phiếu trên thị trường
chứng khoán, xây dựng điều lệ công ty cổ phần, môi giới vay vốn đầu tư cổ
phần, tư vấn quản lý doanh nghiệp cổ phần, dịch vụ liên quan đến cổ đông
như tổ chức đại hội cổ đông, tư vấn lập và hoạt động các ban chức năng của
công ty cổ phần, phân chia cổ tức, chuyển nhượng cổ phần,…
Chuyển hẳn chức năng quản lý cổ phần nhà nước của các doanh nghiệp
trực thuộc Bộ, địa phương đã cổ phần hoá toàn bộ doanh nghiệp (không còn
pháp nhân) cho Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước. Tổ chức
này sẽ thực hiện việc quản lý, đầu tư, kinh doanh cổ phần.
89
2.2. Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp nhà nƣớc sau cổ phần hóa trong thời gian tới ở Việt Nam
2.2.1. Nhóm giải pháp vĩ mô nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa trong thời
gian tới ở Việt Nam
Nhóm giải pháp này đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa vai trò quản lý
của nhà nước khi DNNN chuyển thành CTCP. Phải phát huy cao độ ý thức
sáng tạo của người lao động trong các CTCP, tạo điều kiện để họ có cổ phần
tại DN mình làm việc; đồng thời có cơ chế biện pháp ngăn ngừa và xử lý
những tiêu cực xảy ra sau CPH.
Phải đảm bảo các DNNN sau CPH đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao,
những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh và xử lý những vấn đề
phát sinh của DN sau CPH; xử lý giá trị tài sản DN chưa sát dẫn đến xác định
giá trị cổ phiếu thấp gây thất thoát cho ngân sách; việc giải quyết lợi ích của
những người lao động; xử lý mối tương quan giữa hiệu quả tài chính của DN
và hiệu quả của kinh tế - xã hội...
Cần nghiêm túc thực hiện đúng quy định và đúng lộ trình mà Chính
phủ phê duyệt, cần có kế hoạch chi tiết với những nhiệm vụ cụ thể phân công
người phụ trách và chỉ đạo thực hiện kế hoạch một cách đồng bộ, vững chắc.
Bên cạnh đó cần phải xây dựng chương trình củng cố phát triển những DNNN
đã CPH xác định rõ những tồn tại, những vấn đề cần xử lý để nâng cao hiệu
quả hoạt động kinh doanh ở các DNNN khi chuyển thành CTCP. Để thực
hiện thành công phương hướng CPH DNNN một cách vững chắc, tạo điều
kiện cho các DN sau CPH hoạt động một cách bền vững hơn cần thiết phải
hoàn thiện môi truờng kinh doanh của các DN sau CPH. Để giải quyết các
vấn đề sau CPH các DN cần tập trung vào những vấn đề sau.
90
2.2.1.1. Sửa đổi bổ sung một số quyết định và ban hành các văn bản
cho hoạt dộng của doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa
Từ kinh nghiệm thực tiễn tại các DNNN đã CPH, phải thực hiện nhất
quán các chính sách tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động đầu tư, kinh
doanh và phát triển mạnh mẽ các loại hình DN. Cần khẩn trương rà soát các
thể chế phục vụ việc CPH, phát hiện những bất hợp lý, những mâu thuẫn,
những điều không khả thi để kiến nghị sửa đổi, đồng thời đề xuất giải pháp
tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, thông thoáng, có tính khả thi cao nhằm thúc đẩy
hoạt động của DNNN sau CPH.
Ban hành các văn bản pháp quy hướng dẫn thi hành Luật DN và những
Luật có liên quan như luật Đầu tư, luật Đất đai…
Ban hành các tiêu chí đáp ứng yêu cầu chuyển đổi DNNN (ví dụ: chuẩn
bị về điều kiện hình thành tập đoàn kinh tế).
Ban hành quy chế đánh giá hiệu quả DNNN, quy chế kiểm soát, giám
sát nhất là quy chế tuyển chọn cán bộ DN (nâng cao trách nhiệm giám đốc
DN để tạo tâm lý ổn định phấn đấu không chỉ vì kinh tế mà cả mục đích lý
tưởng chính trị xã hội của họ).
Mở rộng thị trường vốn, xoá bỏ đầu tư không hợp lý từ vốn Nhà nước
dưới mọi hình thức.
Khuyến khích DN huy động vốn xã hội vào mở rộng sản xuất kinh
doanh, khẩn trương thu hẹp xóa bỏ độc quyền nhà nước tạo điều kiện thúc
đẩy thị trường sức lao động, chú ý đến thị trường sức lao động quản trị DN,
có cơ chế coi “giám đốc” là một nghề. Thuê giám đốc để hướng tới mục tiêu
hiệu quả hơn và lợi nhuận DN, thoát ly vấn đề quốc tịch và vị thế chính trị .
91
Thúc đẩy quá trình cải cách hành chính (giảm thiếu cơ chế trình duyệt -
“xin cho”) xây dựng các tiêu chí, môi truờng để DN tổ chức lại cho phù hợp
với mô hình hoạt động của Luật DN.
Tích cực triển khai thực hiện hỗ trợ DN, nhất là về đào tạo đội ngũ cán
bộ quản trị DN và đội ngũ lao động kỹ thuật của DN; về cung cấp thông tin,
xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu, xử lý rủi ro trong kinh doanh,
bảo vệ lợi ích chính đáng của các DN.
Hoàn thiện cơ chế chính sách, quy trình sắp xếp DNNN theo hướng
đơn giản, gọn nhẹ, giảm thủ tục hành chính, tạo điều kiện đẩy nhanh tiến trình
sắp xếp DNNN, nâng cao tính công khai minh bạch và thị truờng trong quá
trình sắp xếp.
2.2.1.2. Đặt quá trình giải quyết các vấn đề sau cổ phần hóa trong
chiến lược đổi mới các doanh nghiệp nhà nước
Với những bối cảnh hiện nay, Đảng và Nhà nước ta phấn đấu đến cuối
năm 2009 hoàn thành việc sắp xếp DNNN. Một số ít các DN còn lại chủ yếu
là DN hoạt động công ích và một số tập đoàn, tổng công ty mạnh sẽ tiếp tục
CPH vào các năm tiếp theo
Những DN trước đây thuộc diện giữ nguyên là DNNN hoặc chuyển đổi
sang công ty TNHH một thành viên nhà nước giữ 100% vốn, cần rà soát, xem
xét lại để chuyển sang CTCP cho phù hợp với tiêu chí phân loại mới của
Chính phủ. Sau khi đã tổ chức lại sẽ tiến hành CPH Công ty mẹ. Việc sát
nhập hợp nhất không làm ảnh hưởng đến tình hình sản xuất, kinh doanh tài
chính của đơn vị sát nhập, hợp nhất; đối với DN sản xuất cung ứng sản phẩm,
dịch vụ công ích cần xem xét để chuyển thành công ty TNHH một thành viên.
Giảm bớt hơn nữa số DN 100% vốn Nhà nước và Nhà nước chỉ giữ cổ phần
chi phối đối với những DN thuộc một số ngành và lĩnh vực then chốt.
92
Nhóm thứ nhất: DN giữ 100% vốn Nhà nước; DN cung ứng sản phẩm
dịch vụ công ích thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh (sản xuất vũ khí, thuốc
nổ, phương tiện thu phát sóng ) mà chưa thực hiện CPH được sẽ chuyển sang
công ty TNHH một thành viên.
Nhà nước giữ cổ phần chi phối đối với DNNN hoạt động kinh doanh
trong các ngành và lĩnh vực: bán buôn lương thực, bán buôn xăng dầu, sản
xuất điện, khai thác các khoáng sản quan trọng, sản xuất một số sản phẩm cơ
khí, điện tử, công nghệ thông tin, sản xuất kim loại đen, kim loại màu, sản
xuất hóa chất cơ bản, phân hóa học, thuốc bảo vệ thực vật, sản xuất xi măng,
công nghiệp xây dựng, sản xuất một số hàng tiêu dùng và công nghiệp thực
phẩm quan trọng, sản xuất hóa dược, thuốc chữa bệnh, vận tải hàng không,
đường sắt, viễn dương, kinh doanh tiền tệ, bảo hiểm, xổ số kiến thiết, dịch vụ
viễn thông cơ bản; chủ yếu là các DN có quy mô lớn, có đóng góp lớn cho
ngân sách, đi đầu trong việc ứng dụng công nghệ mũi nhọn, công nghệ cao và
góp phần quan trọng ổn định kinh tế vĩ mô để tạo tiềm lực và thực hiện các
chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế (kinh doanh tiền tệ, ngân hàng, năng
lượng, dầu khí, khai khoáng).
DN thuộc về cơ sở hạ tầng có tính chất nền tảng giúp các nghành khác
phát triển (hệ thống giao thông, bến cảng sân bay, văn hóa, giáo dục, y tế,
thủy lợi... là những nghành đòi hỏi vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn chậm
tỷ suất lợi nhuận thấp). Nhằm bảo đảm nhu cầu thiết yếu cho phát triển sản
xuất và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào nông thôn, đồng
bào các dân tộc ở miền núi, vùng sâu, vùng xa. Nhà nước giữ cổ phần đặc biệt
trong một số trường hợp cần thiết.
Nhóm thứ hai: Các DN thuộc các lĩnh vực, các nghành không cần thiết
phải duy trì hình thức sở hữu nhà nước thì nên thu hẹp dần bằng quá trình đa
93
dạng hóa và CPH để khuyến khích cạnh tranh và nâng cao hiệu quả hoạt động
của DN này.
Nhóm thứ ba: Các DNNN thua lỗ kéo dài mất khả năng thanh toán
không thuộc diện nhà nước trợ cấp và không thể tiến hành CPH thì được xử lý
theo luật phá sản DN theo quyết định 315/HĐBT với 4 giải pháp: sát nhập,
cho thuê, nhượng bán và giải thể để tránh làm tăng thêm ghánh nặng cho ngân
sách xã hội.
2.2.1.3. Phát triển và hoàn thiện các yếu tố thị trường để nâng cao hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa
Một là, khuyến khích kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể phát triển; khuyến
khích các hình thức liên kết, liên doanh với nhà nước; nhà nước bảo hộ quyền
sở hữu và lợi ích hợp pháp của họ; tạo điều kiện hỗ trợ, cung cấp tri thức,
kinh nghiệm, kỹ thuật, giải quyết thị trường… để các thành phần khai thác có
hiệu quả các nguồn lực trong nước và thu hút vốn, kỹ thuật, công nghệ, kinh
nghiệm từ nước ngoài, cùng tham gia vào các CTCP từ DNNN.
Hai là, tạo lập đồng bộ các loại thị trường. Cùng với việc phát triển
mạnh thị trường tư liệu sản xuất, thị trường hàng tiêu dùng cần coi trọng việc
phát triển mạnh mẽ thị trường các loại dịch vụ cho sản xuất, thị trường công
nghệ, thông tin, tư vấn pháp lý, tư vấn tiếp thị, tài chính, ngân hàng… phát
triển thị trường tiền tệ, nhất là phát triển thị trường chứng khoán, thị trường
lao động. Nhà nước cần tạo mọi điều kiện để hoạt động của Trung tâm giao
dịch chứng khoán ngày càng phát triển thuận lợi.
Ba là, hoàn thiện các công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô. Điểm mấu chốt là
tăng tiềm lực và lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia, hoàn thiện chính sách
tài chính - tiền tệ và hoạt động Ngân hàng, ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát
94
và thiểu phát, nâng cao năng lực kinh tế thị trường của các cấp, các ngành từ
Trung ương đến địa phương.
Bốn là, điều chỉnh, hoàn thiện hệ thống luật pháp về kinh tế thị trường,
đồng thời phải hướng dẫn, kiểm tra nhằm bảo đảm thực hiện nghiêm túc các
Luật đã ban hành. Cấm việc áp dụng các thủ pháp đầu cơ, lừa đảo, đồng thời
khuyến khích cạnh tranh lành mạnh nâng cao chất lượng, hạ giá bán sản
phẩm. Ban hành luật hoặc pháp lệnh về CPH DNNN để nâng cao tính pháp
lý, tạo điều kiện thuận lợi để đẩy nhanh tiến trình CPH các DNNN. Tạo hành
lang pháp lý cần thiết, bảo đảm cơ chế thị trường vận hành theo đúng định
hướng của nhà nước.
2.2.1.4. Tạo môi trường pháp lý để đảm bảo sự bình đẳng trong quản lý
giữa doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá với các loại hình doanh nghiệp
khác
DN Việt Nam hiện nay đang được đặt trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế và nước ta đã gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới nên đòi hỏi phải
tiến hành sắp xếp DN quy mô lớn hơn, có nhiều DN hoạt động trong lĩnh vực
dịch vụ - là yếu tố không thể thiếu được trong phát triển DN như tài chính, tín
dụng, bảo hiểm, viễn thông...cải cách DNNN và sửa đổi bổ sung các cơ chế,
chính sách, xoá bỏ sự phân biệt đối xử giữa DNNN và các DN sau CPH, giữa
các DN tư nhân và DNNN, giữa DNNN và DN có vốn đầu tư nước ngoài.
Cơ sở quan trọng trong giai đoạn tới là cần tiếp tục việc “đặt các DN có
vốn Nhà nước vào môi trường hợp tác và cạnh tranh bình đẳng với các DN
khác để đẩy nhanh hiệu quả và sức cạnh tranh. Thu hẹp tối đa diện Nhà nước
độc quyền kinh doanh, xóa bỏ đặc quyền kinh doanh của DN. Có cơ chế giám
sát và chính sách điều tiết đối với những DN chưa xóa bỏ được vị thế độc
quyền kinh doanh". Thực hiện thống nhất về đất đai, tài sản, tín dụng đầu tư,
xuất nhập cảnh... tạo lập môi trường bình đẳng trong hoạt động của mọi loại
95
hình DN, theo phương châm: “Các loại hình DN thuộc các thành phần kinh tế
bình đẳng trước pháp luật trong cạnh tranh trên thị trường”
Bao nhiêu DNNN lớn còn đang hưởng thụ độc quyền trong các ngành
kinh tế trọng yếu? Những khoản đóng góp vào ngân sách là nhờ làm ăn hiệu
quả hay chỉ dựa vào thế độc quyền? CPH cũng nghĩa là độc quyền bị đe dọa.
Hết độc quyền cũng là lúc cho thấy lãnh đạo DN có thực tài để làm ra lợi
nhuận hay không. Ai không làm được sẽ bị loại bỏ. DN nào, lãnh đạo nào
muốn chứng tỏ mình thực tài, thì việc sẵn sàng CPH là một cơ hội.
Cần tiếp tục xóa bỏ những “đặc quyền, đặc lợi” của các DNNN trong
hàng loạt các vấn đề liên quan đến hoạt động của các DN như: vay vốn,
chuyển giao những tiến bộ khoa học và công nghệ, ưu đãi tiêu thụ sản
phẩm… tiến tới thực hiện duy nhất Luật DN cho tất cả các loại hình DN trong
nước của Việt Nam.
Nguyên tắc trong quá trình đổi mới là nhà nước tạo sự bình đẳng giữa
các DN. Nhưng trên thực tế, sự đối xử bất bình đẳng giữa DNNN với các loại
hình DN khác vẫn còn tồn tại theo kiểu “con đẻ” và “con nuôi”. Điều đó một
mặt do quan niệm DNNN giữ vai trò chủ đạo vì vậy luôn tạo những điều kiện
tốt nhất để phát triển; mặt khác các DN ngoài nhà nước trong quá trình phát
triển bên cạnh những đóng góp tích cực cho nền kinh tế, cũng có không ít DN
có những hiện tượng tiêu cực như trốn thuế, buôn lậu, vay nợ ngân hàng
không có khả năng thanh toán... nhưng việc xử lý tiêu cực đối với DNNN
cũng có sự khác biệt so với các DN ngoài nhà nước đó là do vị thế của nó.
Nghiên cứu và ban hành các chính sách để tạo lập môi trường kinh
doanh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, đặc biệt giữa DN CPH và các
DNNN. Cần xoá bổ những ưu đãi mang tính chất bao cấp kếo dài đối với
DNNN như cho vay chỉ cần tín chấp với phương án được duyệt, cho vay với
lãi xuất ưư đãi, cho khoanh nợ, xoá nợ giãn nợ.
96
Xem xét lại sự bao cấp về sử dụng đất đai với diện tích quá rộng, vị trí
thuận lợi nhưng không nộp đầy đủ tiền sử dụng đất hoặc tiền thuê đất. Tiến
hành thu hồi hoặc tăng mức thuê phải nộp đối với phần đất sử dụng không
đúng mục đích. Không tiếp tục cho nợ thuế, hợp thức hoá các khoản nợ thuế
kéo dài. Xoá bỏ các hình thức trợ cấp, trợ giá và ưu đãi kiểu bao cấp đối với
các hình thức khác.
Cần cụ thể hoá quyền lợi và trách nhiệm hành chính, trách nhiệm vật
chất và trách nhiệm pháp lý đối với kết quả làm việc của cán bộ quản lý điều
hành trong DNNN. Việc cách chức đối với giám đốc điều hành DNNN không
hiệu quả nhiều năm liền còn là hy hữu trong thực tế.
Thực hiện chế độ miễn giảm thuế thu nhập DN đối với phần lợi nhuận
được DN để lại cho đầu tư sản xuất kinh doanh như đối với các DN có vốn
đầu tư nước ngoài...
DN được phép thanh toán vào giá thành khoản lãi vay đầu tư bằng
nguồn vốn hình thành từ quỹ khen thưởng, phúc lợi để thanh toán lại cho
người lao động trong DN
Nhà nước đã và đang định hướng, tạo môi trường cho các loại hình
DN phát triển mạnh mẽ, để các DN hoạt động hiệu quả theo cơ chế thị trường,
hỗ trợ DN nhỏ và vừa phát triển. Thực hiện chương trình trợ giúp doanh trên
các mặt, các chiến lược, quy hoạch, tài chính, thuê đất và trong công tác đào
tạo nguồn nhân lực, xúc tiến thương mại, xúc tiến và khuyến khích đầu tư.
Thực hiện có hiệu quả Luật DN, Luật Ðầu tư... bảo đảm thực sự bình đẳng và
tạo điều kiện thuận lợi đối với mọi loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh và
đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế, cả trong và ngoài nước.
Các DNNN sau khi CPH chuyển thành các CTCP đã gặp những khó
khăn nhất định trong hoạt động kinh doanh. Khó khăn đó là do sự phân biệt
97
của Nhà nước đối với những loại hình DNNN khác nhau. Cần phải nhấn
mạnh rằng, CTCP là một loại hình pháp lý của DN trong cơ chế thị trường
định hướng XHCN, vì vậy việc đảm bảo các điều kiện cần thiết cho nó hoạt
động không chỉ liên quan đến các DNNN sau CPH mà là vấn đề liên quan đến
hoạt động của mọi loại hình DN tồn tại trong nền kinh tế quốc dân.
2.2.1.5. Xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng cơ sở sản xuất đáp ứng
yêu cầu doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá
Đối với các DNNN, xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt xây dựng chiến
lược đầu tư các trang thiết bị và các điều kiện vật chất tiên tiến cho hoạt động
của DN là tăng thêm khả năng, tiềm lực cho sản xuất, kinh doanh.
Khó khăn rất lớn đối với nước ta khi đầu tư vào hạ tầng cơ sở của nền
kinh tế là vốn. Bởi vì yêu cầu đầu tư rất lớn, nhưng khả năng thu hồi vốn để
tái đầu tư xây dựng và bảo dưỡng công trình cần có thời gian dài.
Điều này khiến DN gặp nhiều khó khăn trong bố trí kế hoạch hoạt
động kinh doanh như xây dựng nhà xưởng, cơ sở hạ tầng..., hay góp vốn liên
doanh bằng tài sản có trên đất mà DN đang sử dụng.
Để giải quyết vấn đề vốn, một mặt cần đa dạng hóa huy động các
nguồn vốn nhất và cần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn đầu tư. Cần đầu
tư dứt điểm, tránh kéo dài để sớm đưa vào khai thác phục vụ sản xuất và đời
sống. Vì vậy, cần có cơ chế để phát huy vai trò của các DNNN đã CPH trong
sử dụng các nguồn vốn như cho phép các DN mở rộng các hoạt động đầu tư
ra nước ngoài, ưu đãi trong việc vay vốn…
Tập trung xác định giá trị tài sản vô hình như quyền sở hữu trí tuệ của
DNNN sau CPH.
Một trong những lý do tiến hành CPH chậm là các DNNN lo ngại sau
khi chuyển sang các CTCP phần những quan tâm của Nhà nước đối với DN
98
sẽ không còn được như trước. DN sẽ gặp những khó khăn nhất định trong
hoạt động (nhất là vay vốn), trong các quan hệ với các cơ quan quản lý vĩ mô.
Về đầu tư thêm tài sản cố định, bằng cách tạo thêm nguồn vốn và cơ
hội để các DN đầu tư cải tạo công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất. Đây cũng
là giải pháp tạo mức tăng trưởng cao cho DN sau CPH; rà soát chiến lược
kinh doanh để đảm bảo đầu tư đúng hướng và khai thác đầu tư có hiệu quả.
Tạo điều kiện thu hút rộng rãi mọi nguồn vốn đầu tư, đổi mới kỹ thuật
công nghệ, quản lý và phát triển DN góp phần tích cực vào việc cơ cấu lại hệ
thống DNNN theo yêu cầu phát triển kinh tế thị trường XHCN và để bảo vệ
tài sản của nhà nước trong quá trình chuyển đổi DNNN thành CTCP.
2.2.1.6. Phát triển mạnh mẽ các thành phần kinh tế để thúc đẩy hoạt
động của các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa
Quan điểm này xuất phát từ mục tiêu kinh tế - xã hội mà Đảng và nhân
dân ta hướng đến mô hình kinh tế có khả năng động viên tối đa các nguồn lực
của xã hội, các thành phần kinh tế vào phát triển lực luợng sản xuất tăng
nhanh khối lượng của cải cho xã hội.
Một trong những nội dung cơ bản của đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở
nước ta là Đảng và nhà nước đã thừa nhận sự tồn tại khách quan của nền kinh
tế nhiều thành phần và có cơ chế để các thành phần kinh tế cùng tồn tại và
phát triển theo qui định của pháp luật.
Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế nhà nước trong các lĩnh vực của
nền kinh tế. Đồng thời mở rộng cửa cho các thành phần kinh tế khác tham gia
để khai thác tiềm năng, tăng tính cạnh tranh trong các lĩnh vực của nền kinh
tế.
Cần mở rộng hơn nữa sự tham gia của các thành phần kinh tế vào các
lĩnh vực kinh doanh. Để làm tốt điều này cần cụ thể hóa và thực hiện nghiêm
99
túc các Luật đã ban hành, như Luật Đầu tư, Luật Phá sản, Luật Đất đai, Luật
Thương mại, Luật Thu thuế thu nhập DN… Tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ
chức kinh tế và cá nhân có nguồn vốn đầu tư vào việc mở rộng sản xuất kinh
doanh. Điều này thể hiện sự quán triệt nhất quán sâu sắc Nghị quyết Ðại hội
X về chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần. Kiện toàn các công ty để
làm nòng cốt phát triển các tập đoàn kinh tế. Đây sẽ là các tập đoàn kinh tế đa
sở hữu, đan xen giữa thành phần kinh tế Nhà nước và các thành phần kinh tế
khác.
2.2.1.7. Đổi mới, nâng cao trình độ và tính minh bạch trong quản trị
doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa
Tồn tại khá phổ biến ở các CTCP - DNNN sau CPH là vẫn duy trì kiểu
bộ máy tổ chức quản trị kiểu cũ. Tình trạng này một mặt là do sự chi phối của
Nhà nước. Mặt khác phần lớn trong bộ máy quản lý cũ ít có sự thay đổi về
con người, về vấn đề này cần giải quyết theo hai hướng:
Giảm bớt sự chi phối của Nhà nước đối với DN trong các vấn đề nội
bộ. Các thành viên trong bộ máy quản trị luôn phải nâng cao trình độ, tiếp cận
với các vấn đề quản trị công ty theo mô hình CTCP. Bản thân những người
trong hội đồng quản trị (giám đốc, các phòng ban chức năng...) phải có sự
thay đổi và tạo sự chuyển biến của DN, công tác cán bộ có vai trò quyết định
đối với sự phát tiển của CTCP.
Đối với DNNN chiếm giữ 51% vốn trở lên hiện tại ban điều hành công
ty gần như theo chế độ bổ nhiệm. Tại điều 30 Luật DNNN đã nêu rõ quyền
hạn của Hội đồng quản trị được ký hợp đồng với Tổng Giám đốc, Giám đốc
công ty Nhà nước có Hội đồng quản trị tại chỉ thị 11/2004/CT-TTg ngày
30/3/2004 của Thủ tướng Chính phủ cũng giao cho Bộ Nội vụ chủ trì phối
hợp các cơ quan liên quan soạn thảo trình Chính phủ quyết định cơ chế nêu
trên.
100
Trong khi chờ ban hành chính thức cơ chế đại diện chủ sở hữu ký hợp
đồng thuê Tổng Giám đốc, Giám đốc, đề nghị cho phép một số công ty thí
điểm thuê Tổng Giám đốc, Giám đốc, từ đó tổng kết bổ sung vào cơ chế thực
hiện., nên chăng cần thay đổi quy trình bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo của công ty
bằng cách: Hội đồng quản trị thi tuyển giám đốc và phó giám đốc. Giám đốc
chỉ là người làm thuê cho Hội đồng quản trị và do Hội đồng quản trị lựa chọn
bổ nhiệm. Hàng năm Hội đồng quản trị đánh giá kết quả, hiệu quả hoạt động
của ban giám đốc. Chế độ đãi ngộ (lương và tiền thưởng...) sẽ trả bằng một
phần hiệu quả hoạt động kinh doanh của DN theo sự cống hiến của từng
người, có như vậy mới khuyến khích và đánh gía đúng khả năng cống hiến
của người quản lý công ty.
Một số DNNN sau CPH - CTCP không nắm giữ quyền chi phối hoạt
động của DN mà nhà nước vẫn nắm giữ nên đã gây những khó khăn trong
phát huy tính chủ động của DN.
Quy định cụ thể về cơ chế triệu tập các cuộc họp của Hội đồng quản trị,
trong đó mở rộng đối tượng có thẩm quyền. Nâng cao nhận thức cho Hội
đồng quản trị và có sự phối kết hợp tốt với bộ máy quản trị của DN về vai trò
của các tổ chức chính trị trong hoạt động kinh doanh của DN. Các chủ thể của
DN chủ động hình thành các tổ chức chính trị trong hệ thống của mình vừa
phục vụ cho hoạt động kinh doanh vừa nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
cho các thành viên trong DN.
Từ trong mỗi tổ chức chính trị của DN cần nhận thức, thấy rõ sự cần
thiết phải nâng cao vai trò trong thích ứng với những điều kiện hoạt động của
DN.
Đối với tổ chức chính trị cấp trên nên chú trọng đầu tư, hướng dẫn các
DN hình thành các tổ chức và giúp đỡ họ hoạt động theo chức năng riêng
trong DN.
101
2.2.1.8. Đổi mới phương thức lãnh đạo và chỉ đạo của tổ chức Đảng
đối với các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa
Tăng cường công tác tư tưởng trong toàn Đảng, toàn dân nhằm quán
triệt đầy đủ và thông suốt chủ trương CPH, uốn nắn những nhận thức lệch lạc
quan điểm sai trái để có sự thống nhất cao trong các cấp Đảng.
Thành lập Đảng bộ toàn tổng công ty trực thuộc Đảng ủy khối cơ quan
Kinh tế Trung ương trong trường hợp đòi hỏi tổng công ty phải có sự lãnh đạo
chặt chẽ theo ngành dọc.
Đảng bộ cơ quan tổng công ty trực thuộc Đảng ủy khối cơ quan Kinh tế
Trung ương, còn tổ chức đảng ở các DN thành viên trực thuộc tổ chức đảng
địa phương.
Thành lập đảng bộ toàn tổng công ty trực thuộc đảng bộ tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương.
Ban cán sự Đảng phải kết hợp chặt chẽ với các cấp chính quyền, chỉ
đạo triển khai khắc phục tình trạng chần chừ do dự, nghe ngóng thiếu kiên
quyết.
Xây dựng, củng cố, phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động các
đoàn thể quần chúng như tổ chức công đoàn, Đoàn Thanh niên. Trên cơ sở
đó, lựa chọn những quần chúng ưu tú, tạo nguồn kết nạp đảng viên. Đương
nhiên, việc bổ sung lực lượng cho Đảng cần chú ý đến chất lượng, tránh tình
trạng chạy theo “chỉ tiêu” để lấy theo số lượng.
Tiếp tục kiện toàn, sắp xếp tổ chức đảng, các đoàn thể quần chúng, gắn
công tác xây dựng Đảng với thực hiện nhiệm vụ chính trị của doanh nghiệp.
Đối với tổ chức đảng ở các CTCP là đơn vị thành viên trong các tập đoàn,
tổng công ty, thì vẫn trực thuộc đảng ủy tập đoàn, tổng công ty, như vậy sẽ
102
thuận lợi, bảo đảm cho sự lãnh đạo của cấp ủy cấp trên đối với tổ chức đảng ở
cơ sở.
Tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động của các đảng bộ, chi bộ cơ sở
đối với hai loại hình nhà nước giữ cổ phần chi phối và không chi phối, từ đó
xây dựng, bổ sung, sửa đổi quy chế hoạt động của cấp ủy cho phù hợp với
thực tiễn. Đẩy mạnh tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng. Làm
cho cán bộ, đảng viên, quần chúng thấy rõ sự cần thiết của việc đa dạng hóa
chế độ sở hữu dưới sự lãnh đạo của Đảng, thay đổi về cơ chế quản lý; về
quyền, trách nhiệm, lợi ích của cổ đông, người lao động; chức năng, nhiệm vụ
của HĐQT, tổng giám đốc và các tổ chức chính trị - xã hội; về mối quan hệ
giữa các thành viên và tổ chức đảng...; xây dựng đội ngũ cấp ủy cơ sở vững
mạnh. Mở rộng chế độ chuyên trách công tác đảng ở những đảng bộ có đông
đảng viên, bố trí những cán bộ, đảng viên có phẩm chất, năng lực, nhiệt tình,
tâm huyết (tốt nhất là lãnh đạo chủ chốt hoặc thành viên trong HĐQT, Ban
Giám đốc) và có chế độ lương, phụ cấp trách nhiệm thỏa đáng đối với đội ngũ
này. Thường xuyên bồi dưỡng kiến thức, nghiệp vụ công tác đảng cho bí thư
chi bộ, đội ngũ cấp ủy viên cơ sở và cán bộ chuyên trách công tác đảng.Với
loại hình doanh nghiệp mà Nhà nước giữ cổ phần chi phối, cố gắng nhất thể
hóa hai chức danh bí thư và chủ tịch HĐQT, hoặc tổng giám đốc.
Công tác tổ chức cần thực hiện nghiêm túc nguyên tắc Đảng thống nhất
lãnh đạo và quản lý đội ngũ cán bộ, đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ
chức trong hệ thống chính trị. Cấp ủy trực tiếp quy hoạch, đào tạo, quản lý,
lãnh đạo đội ngũ cán bộ đảng, đoàn thể quần chúng. Đối với cán bộ quản lý,
phụ thuộc vào tỷ lệ sở hữu vốn, cấp ủy phối hợp với HĐQT, tổng giám đốc
xây dựng, thực hiện các quy chế, quy định, để lựa chọn cán bộ, đảng viên đại
diện cho phần vốn của Nhà nước. Trong loại hình Nhà nước không giữ cổ
phần chi phối, cấp ủy cần chủ động, phát hiện bồi dưỡng những cán bộ, đảng
103
viên có đủ điều kiện về phẩm chất đạo đức, năng lực và kinh nghiệm để giới
thiệu bầu vào bộ máy lãnh đạo.
Xây dựng mối quan hệ tốt giữa tổ chức đảng, cấp ủy với HĐQT, Ban
Giám đốc. Cần bổ sung, sửa đổi một số văn bản đã có và ban hành một số cơ
chế, chính sách mới cho phù hợp với tình hình mới. Cấp ủy phải lãnh đạo
đảng viên, quần chúng, đồng thời trực tiếp tham gia (trên góc độ tổ chức) xây
dựng điều lệ của công ty, bảo đảm nội dung điều lệ đúng chủ trương, của
Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đối với vai trò, vị trí, trách nhiệm và các điều
kiện hoạt động của tổ chức đảng, đoàn thể, cần quy định cụ thể trong điều lệ,
làm cho mọi cổ đông thấy rõ các tổ chức chính trị - xã hội là một thành viên
không thể tách rời, luôn luôn gắn bó, đóng góp vì sự phát triển của công ty.
Nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN sau CPH là yêu cầu bức xúc
hiện nay. Để đạt được điều này đòi hỏi không chỉ sự lỗ lực, cố gắng của các
DN sau CPH mà cần có sự quan tâm của nhà nước của tất cả các nghành, các
cấp trong việc đổi mới chính sách, cơ chế cũng như kịp thời giải quyết những
vướng mắc đối với DN sau CPH. Đó là một trong những vấn đề quan trọng
thực hiện tốt chủ trương CPH DNNN của Đảng và Chính phủ.
2.2.2. Những giải pháp vi mô nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp nhà nƣớc ở nƣớc ta trong thời gian tới
2.2.2.1. Vấn đề xử lý tài chính của doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần
hóa
Cần có chính sách ưu đãi nhằm tạo điều kiện cho các DN sau CPH hoạt
động ổn định và phát triển. Đặc biệt là các chính sách liên quan đến tài chính
DN như tín dụng, thuế, xuất nhập khẩu.
Hiệu quả tài chính DN được gắn với hiệu quả kinh tế - xã hội, Nhà
nước cần một mặt tạo những điều kiện cho DN phát huy tính ưu việt; mặt
104
khác cần có những hỗ trợ cần thiết để DN làm tốt những vấn đề mang tính xã
hội.
Quy định rõ các chế tài về trách nhiệm của CTCP trong việc chủ động
xử lý theo thẩm quyền và theo quy định của pháp luật; những tồn tại về tài
chính trước khi xác định giá trị DN trong khi chuyển đổi từ DNNN sang
CTCP. Đến thời điểm quyết định công bố giá trị DN, phải bàn giao cho Công
ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của DN, chờ thanh lý mà chưa xử lý kịp
cũng như các khoản công nợ không có khả năng thu hồi đã loại khỏi giá trị
của CTCP.
Bổ sung quy định tính vào giá trị của CTCP các khoản đã trả trước cho
người cung cấp hàng hoá dịch vụ như tiền thuê nhà, tiền thuê đất, tiền mua
hàng, tiền lương.
Có chế tài bắt buộc các ngân hàng thương mại phải xử lý nợ cho CTCP
đúng với tinh thần quy định tại Điều 12 Nghị định 69/2002/NĐ-CP về và xử
lý nợ tồn đọng đối với DNNN.
Bổ sung các quy định khắc phục tình trạng lợi dụng CTCP làm thất
thoát tài sản Nhà nước như: DN phải dùng quỹ dự phòng tài chính và lợi
nhuận của CTCP để bù đắp các khoản lỗ. Nếu không bù đắp được thì mới
thực hiện các biện pháp xoá nợ ngân sách Nhà nước và nợ ngân hàng theo
quy định hiện hành của Nhà nước về xử lý nợ tồn đọng. Sau khi áp dụng các
giải pháp trên mà vẫn còn lỗ thì được giảm trừ vào vốn Nhà nước. Nếu sau
khi bù đắp mà còn thừa thì được tính vào vốn Nhà nước tại CTCP.
Tăng cường tiềm lực và lành mạnh nền tài chính quốc gia, thực hiện
nghiêm chỉnh luật ngân sách, chuyển mạnh chính sách tài chính, tiền tệ và
hoạt động ngân hàng phù hợp với cơ chế thị trường. Đổi mới về quản lý giá
cả cụ thể là Cục Giám định chất lượng, Vụ Pháp chế, Ban Vật giá Chính phủ
105
khuyến khích các đơn vị hạ giá thành, nâng cao chất lượng để kích thích nhu
cầu tiêu dùng của xã hội, tăng sức cạnh tranh của các CTCP.
2.2.2.2. Sửa đổi và hoàn thiện phương pháp xác định giá trị doanh
nghiệp
Hoàn thiện việc xác định giá trị DN (định giá tài sản của DN) - là toàn
bộ giá trị tài sản hiện có mà người mua, người bán cổ phần đều chấp nhận
được. Đó không phải là công việc mang tính kỹ thuật nghiệp vụ thuần túy, mà
có ý nghĩa kinh tế xã hội quan trọng vì có liên quan đến việc bảo toàn vốn và
tài sản của nhà nước; liên quan đến tạo điều kiện tài chính thuận lợi cho
DNNN sau CPH; liên quan đến quyền lợi của người lao động; liên quan đến
khả năng đảm bảo hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của CTCP. Đây là
việc làm hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc thị trường. Song việc xác định giá
trị DN trong thực tế đang vấp phải nhiều khó khăn.
Theo các DNNN sau CPH diện tích đất đai nhà xưởng không thay đổi
nhiều. Các địa phương vẫn tiếp tục cho DN thuê đất với giá thấp thậm chí
giao đất với giá thấp hơn nhiều so với giá thị trường nhưng DN vẫn gặp khó
khăn khi giao dịch với ngân hàng. Nguyên nhân là do sự thiếu rõ ràng về
quyền sử dụng đất cũng như chưa giải quyết dứt điểm các quyền và nghĩa vụ
đất đai có liên quan trước khi đăng ký dưới hình thức CTCP.
Về vấn đề tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị DN, cần xác định rõ
DN CPH được lựa chọn hình thức thuê đất hoặc giao đất. Trong trường hợp
giao đất, thì giá trị DN CPH bắt buộc phải tính giá trị quyền sử dụng đất và
giá trị này phải sát giá chuyển nhượng trên thị trường đúng với tinh thần của
Khoản 3 Điều 59 Luật Đất đai mới.
Luật đất đai không chỉ tạo điều kiện cho các CTCP hoạt động thuận lợi
nâng cao hiệu quả kinh doanh mà còn tạo sức hấp dẫn cho các CTCP tham gia
106
vào thị trường chúng khoán nhằm cải thiện và giải quyết các vấn đề về mặt sở
hữu hiện đang bất cập, gây những trở ngại cho hoạt động kinh doanh của các
DNNN sau CPH.
Thí điểm tính giá trị quyền sử dụng đất vào phần vốn góp của nhà nước
trong CTCP theo giá thoả thuận trong hội đồng định giá trên khung giá phân
loại cụ thể. Đây là biện pháp để khai thác tối đa hiệu quả giá trị quyền sử
dụng đất, tạo điều kiện phát triển một thị trường đất đai, thi trường bất động
sản của VN.
Cho phép các DN sau CPH được mua lại quyền sử dụng đất theo
phương thức trả góp trong một khoảng thời gian nhất định. Nhà nước cũng có
thể cho thuê quyền sử dụng đất với thời hạn ít nhất là 50 năm, có điều chỉnh
giá 5 năm một lần theo mặt bằng chung của thị trường. Việc chỉnh giá thuê
đất không thể điều chỉnh ngay được vì phải tính lại đồng bộ tất cả các quận
huyện.
Nhà nước tiến hành bán đấu giá một số nhà đất đắc địa, dùng tiền đó bổ
sung vào quỹ hỗ trợ sắp xếp và nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN sau
CPH. Hoặc nhà nước cho đấu giá thuê đối với các nhà đất đó. Các cơ quan
quản lý nhà đất, Uỷ ban nhân dân phải đựoc giao trách nhiệm hướng dẫn xử
lý trực tiếp các tranh chấp quyền sử dụng đất như trường hợp các DNNN
cùng chung một lô đất hoặc DN này xây dựng trên đất thuê của DN khác, một
phần đất bị lấn chiếm chưa được giải toả, mặc dù DN đã trả tiền thuê đầy đủ.
Cơ quan hữu trách về nhà đất cần sớm giải quyết vấn đề hợp thức hoá
giấy tờ sở hữu nhà và ký hợp đồng chính thức về việc cho thuê đất đối với các
DN đã CPH. Đến nay mặc dù đã hơn bốn năm kể từ khi tiến hành CPH ở Hà
Nội, song tất cả 89 DN CPH vẫn chưa được cấp giấy chứng nhận sở hữu nhà
và hợp đồng thuê đất. Điều này gây khó khăn trong DN trong việc thế chấp tài
sản có giá trị để vay vốn ngân hàng.
107
Đất đai của DN sau CPH phải kiểm kê đánh giá lại tài sản DNCP;
vướng mắc về chính sách tài chính, tiền hậu kiểm khi xuất nhập khẩu (XNK),
hoàn thuế VAT, hoàn thuế NK, XK. Những cam kết về tài sản tồn đọng, dư
thừa khi CPH còn triển khai rất chậm... kiến nghị các cơ quan chức năng tập
trung giải quyết tháo gỡ cho DN, nhằm tạo cho DN hoạt động thuận lợi.
Xác định hợp lý giá trị DN không để xảy ra những thất thoát tiêu cực
làm thiệt hại đến tài sản quốc gia. Đặc biệt khi tính toán giá trị DN cần gắn
với thị truờng. Đối với những tài sản không cần thiết đối với hoạt động kinh
doanh của DN cần phải xử lý ngay và trả cho nhà nước; không đưa vào giá trị
của công ty bởi như vậy sẽ tạo gánh nặng cho hoạt động của DN sau CPH.
Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường, các
loại thị trường chưa phát triển đồng bộ. Việc tính toán và mua bán tài sản
chưa có cơ sở, mang nhiều tính ước lệ chủ quan. Có nhiều loại tài sản dùng
trong DNNN đã hết thời hạn khấu hao lại đựợc đánh giá và dùng lại, trình độ
kỹ thuật hết sức thấp kém.
Phân loại các tài sản mà trước đây Nhà nước đầu tư cho DNNN. Nếu
những tài sản này phù hợp với phương án kinh doanh mới của CTCP thì phải
bàn giao lại theo giá thị trường tại thời điểm DNNN chuyển thành CTCP, nếu
tài sản của nhà nước không phù hợp với phương án kinh doanh mới sẽ chuyển
giao lại cho nhà nước để điều chuyển cho DN khác hoặc thanh lý, không ép
buộc công ty mới phải nhận. Những tài sản mới đã hết khấu hao sẽ được
chuyển giao lại cho CTCP mà không tính vào giá trị phần vốn của nhà nước
tại DN.
Với những tài sản trước đây DNNN vay vốn để đầu tư nay đã hoàn lại
đủ vốn cho người vay, nên được chia thành hai phần: Một phần thuộc sở hữu
Nhà nước theo tinh thần DN của Nhà nước đầu tư phần vốn tăng thêm thuộc
sở hữu Nhà nước. Một phần tính cho người lao động trong DN, coi đó là sự
108
ưu đãi khuyến khích tính tích cực và chủ động phát triển vốn của người lao
động trong DN.
Xác định hợp lý, hợp tình những tồn đọng tài chính mà CTCP có thể kế
thừa từ DNNN. Có thể xóa bỏ cho DN những khoản nợ khó đòi, khoản lỗ
phát sinh trong quá trình sản xuất - kinh doanh trước đây do những nguyên
nhân khách quan (ví dụ: tình trạng lạm phát cao trong những năm đầu thập kỷ
90).
Phương pháp định giá DN cần linh hoạt hơn, những tài sản DN không
cần sử dụng thì phải xử lý kịp thời, không ép DN phải đưa vào CPH. Tất
nhiên cũng phải nhìn nhận từ phía người mua, để chống độc quyền tư nhân,
chống hiện tượng chuyển tài sản Nhà nước vào tay một số ít người, làm chệch
hướng, chủ trương CPH. Cần chú trọng chào bán cổ phiếu, trái phiếu trên các
trung tâm giao dịch chứng khoán, và trên các phương tiện thông tin hữu hiệu.
Ngoài các hình thức trên có thể áp dụng thêm các hình thức như thành
lập CTCP mới trên cơ sở một DNNN hiện có; bán cổ phần cho cán bộ công
nhân viên trong DN và người ngoài DN, kể cả cho DNNN khác và hình thức
hợp tác xã cổ phần. Trong đó có phần vốn DNNN định CPH (Nhà nước là
một cổ đông).
Thiết lập hệ thống kiểm tra, giám sát định giá DN. Cần có cơ chế kiểm
tra các đơn vị thực hiện định giá DN như qui trình hoạt động, chất lượng dịch
vụ, nhân sự… Cơ quan có thẩm quyền kiểm tra giám sát là cơ quan quy định
trong pháp lệnh thẩm định giá đã ban hành.
Ban hành một số chuẩn mực chung để căn cứ vào đó các tổ chức định
giá DN có cơ sở thực hiện và các cơ quan Nhà nước có thước đo chung trong
đánh giá DN. Đó là các quy định về báo cáo định giá DN, các tiêu chí để đánh
giá DN và đánh giá các chỉ tiêu tài chính DN.
109
Nâng cao năng lực và chất lượng của định giá viên và các cơ quan chức
năng của Chính phủ cần tổ chức những lớp bồi dưỡng chuyên môn về định
giá DN cho những người làm nhiệm vụ này ở các cơ quan nhà nước và các tổ
chức tư vấn. Nên mời chuyên gia nước ngoài tham gia đào tạo.
Đổi mới tổ chức xác định giá trị DN bằng cách: định giá thông qua các
tổ chức thẩm định giá, kiểm toán, tư vấn tài chính, thu hút các chuyên gia
kinh tế - kỹ thuật của các cơ quan khoa học, các trường vào việc định giá tài
sản. Đề cao ý kiến của các chuyên gia trong việc xác định giá trị DN. Bởi vì
họ là “đại diện của những người mua” theo tinh thần nghị định 44/CP về CPH
đã xác định.
Đối với DN vừa, DN lớn và tổng công ty thì nên thuê các tổ chức định
giá nước ngoài. Đối với DN có quy mô nhỏ dùng hình thức đấu giá DN thông
qua hội đồng đấu giá, hoặc dùng hình thức định giá thông qua hội đồng (có
chuyên môn). Các chính sách đối với người lao động vẫn phải được giải quyết
thoả đáng theo nguyên tắc đảm bảo lợi ích vật chất và tái tạo việc làm.
Cần có những quy định bổ sung về việc tính toán và định giá tài sản vô
hình như lợi thế DN để tránh thiệt thòi cho những DN có tỷ trọng vốn nhà
nước trên vốn huy động thấp. Cũng cần hướng dẫn cách xử lý trong trường
hợp DN làm ăn không hiệu quả. Trong xác định tài sản hữu hình bổ sung
thêm quy định cho phép sử dụng tài sản tương đương để so sánh khi định giá.
Mở rộng sự phân cấp trong việc xác định giá trị DN. Với DN có giá trị
trên 10 tỷ đồng, thay vì việc Bộ Tài chính thẩm định và Thủ Tướng Chính
Phủ quyết định, nên quy định là “cấp nào ra quyết định thành lập (hoặc thành
lập lại) DN sẽ có thẩm quyền quyết định giá trị DN khi chuyển sang CTCP”.
Đây là bước thực hiện rất quan trọng, điều này sẽ góp phần rút ngắn thời gian
và tiến độ CPH. Đã có nhiều văn bản của Bộ tài chính hướng dẫn thực hiện.
Trong đó, gần đây nhất là quy định tổ chức đấu thầu chọn cơ quan kiểm toán
110
độc lập để tiến hành xác định giá trị DN nhằm đảm bảo tính khách quan và
chính xác.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư kiện toàn danh mục ngành nghề, lĩnh vực cụ
thể mà các nhà đầu tư nước ngoài chỉ được tham gia tối đa 30% vốn đầu tư
theo quy định của Luật Khuyến khích đầu tư trong nước; đối với các ngành và
lĩnh vực khác thì không hạn chế. Cần quy định đấu giá cổ phiếu bao gồm cả
việc đấu giá niêm yết qua trung tâm giao dịch chứng khoán lẫn đấu giá trong
nội bộ DN. Cách làm này sẽ thực hiện được các nguyên tắc thị trường trong
việc định giá DN và giá trị DN sẽ do người mua quyết định. Hơn nữa, giá trị
vô hình, lợi thế của DN, thậm chí cả giá trị quyền sử dụng đất cũng sẽ gián
tiếp được xác định trong giá trị DN và được các nhà đầu tư cân nhắc, tính
toán khi mua. Qua đó sẽ tạo điều kiện nâng cao tính minh bạch, bảo đảm lợi
ích của Nhà nước và cổ đông. Ngay cả các DN không thể tiến hành đấu giá
cũng phải quy định lại để khắc phục tính chủ quan của cơ quan nhà nước khi
định giá theo cơ chế “hội đồng”. Nói cách khác là phải chuyển từ cơ chế “cơ
quan nhà nước định giá” sang cơ chế “người mua định giá”.
Tập trung tháo gỡ vướng mắc để đẩy mạnh quá trình sắp xếp, đổi mới
DNNN. Các bộ, ngành, Ban Chỉ đạo Ðổi mới và phát triển DN cần phối hợp
chặt chẽ trong việc theo dõi, kiểm tra, giám sát thực hiện các chương trình kế
hoạch được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, kịp thời tháo gỡ các vướng mắc
trong khi xác định giá trị DN, xử lý nợ đọng, giải quyết chế độ cho lao động
dôi dư, những vấn đề liên quan tổ chức công ty theo Luật DN. Bổ sung thêm
danh sách các tổ chức có chức năng định giá được định giá đảm bảo cho việc
CPH DNNN đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
Cần phải giải quyết dứt điểm về quyền sử dụng đất đai, tài sản của DN
sau CPH. Đây là yếu tố tạo điều kiện cho DN sau CPH chủ động hoạch định
chiến lược đầu tư phát triển lâu dài. Đồng thời tạo nên sự an tâm cho các DN
111
sau CPH về tài sản đất đai cũng như điều kiện để thế chấp vay vốn của các tổ
chức tín dụng, xoá bỏ hiện tượng vay tạm bợ, rủi ro cao.
Những lý do về định giá, giải quyết nợ tồn đọng, tỉ lệ cổ phần nhà
nước… chẳng phải là quyết định. Nếu lãnh đạo DN thực sự muốn, mọi vấn đề
kỹ thuật CPH đều có thể giải quyết được. Nếu cấp quản lý thực sự muốn,
hoàn toàn có thể thay thế những giám đốc không tự tin vào khả năng của
mình sau khi CPH.
2.2.2.3. Xác định rõ quyền làm chủ trong doanh nghiệp cổ phần hoá
Cả cơ quan quản lý và lãnh đạo DNNN phải cùng chịu trách nhiệm tạo
ra đột phá để giải quyết dứt điểm được chữ “quyền”:
Uy quyền - vấn đề này không chỉ tác động đến lãnh đạo DN mà còn tác
động mạnh hơn đến lãnh đạo các địa phương và ban ngành. Trong các CTCP,
uy quyền, quyết định nhân sự, định hướng, chiến lược… lập tức chuyển vào
tay các cổ đông. Uy quyền của giám đốc DN cũng bị giám sát chặt chẽ bởi
các cổ đông.
Quảng Nam đang thử nghiệm một giải pháp mạnh mẽ cho chữ quyền
này. Ở đây DNNN lập ra các dự án, mời các nhà đầu tư chiến lược từ khu vực
tư nhân tham gia, còn nhà nước chỉ nắm 15% cổ phần. Với những con người
tự tin, họ sẵn sàng để quyền lực tùy thuộc vào tài năng, không tùy thuộc vào
mệnh lệnh hành chính.
Ủy quyền - Có lẽ đây là vấn đề cốt lõi của các CTCP. Trong mọi DN,
luôn luôn có vấn đề người chủ sở hữu (là cổ đông) phải giám sát để bảo đảm
người được ủy quyền (là lãnh đạo DN) hành động vì quyền lợi của chủ. Trong
DNNN, theo định nghĩa thì chủ sở hữu là toàn dân, không phải là một Ủy ban
nhân dân, hay một Bộ nào đó. Vai trò của người chủ quá mờ nhạt, khoảng
cách đến người chủ quá mênh mông. Vì thế mới có chuyện DN không hiệu
112
quả mà lãnh đạo vẫn nguyên vị. Cũng vì nhiều khi chủ sở hữu bị lãng quên,
mà những người làm công đã nghĩ mình là chủ. CPH khép kín chính là để
những người làm công hợp thức hóa vai trò làm chủ của mình. Thật sai lầm
khi lập luận “chúng tôi xây đắp tài sản này, chúng tôi phải được hưởng”. Xin
nhớ là tài sản tích lũy hay giá trị thương hiệu đều là của DN, nghĩa là sở hữu
của toàn dân.
2.2.2.4. Giải quyết các vấn đề về tổ chức quản lý đối với doanh nghiệp
nhà nước sau cổ phần hóa
Cần phải xác định rõ vai trò của Nhà nước đối với các CTCP. Nâng cao
trình độ xây dựng chiến lược, dự báo, nắm chắc thông tin thị trường, có giải
pháp xử lý. Chủ động đổi mới tổ chức, tổ chức lại sản xuất, kinh doanh, tổ
chức lao động... nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng và hạ giá
thành sản phẩm. Tổ chức tốt mạng lưới phân phối và xây dựng thương hiệu
cho DN.
Quy định cụ thể trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc tiếp tục
cung cấp thông tin, phổ biến chế độ chính sách cho DN sau chuyển đổi. Hoàn
thiện hệ thống cơ quan đăng ký kinh doanh và thông tin DN thuộc các cơ
quan kế hoạch và đầu tư để kết hợp đăng ký kinh doanh đối với CTCP và
cung cấp thông tin cho DN sau CPH.
Chính sách đối với cán bộ lãnh đạo của DN sau CPH là bồi dưõng,
nâng cao kiến thức, trình độ cho cán bộ quản lý DN sau CPH về mọi mặt (cơ
hội thách thức của hội nhập, phương thức xử lý các vấn đế sao cho phù hợp
với môi trường kinh doanh...). Đây là nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém về
hiệu quả và không ổn định trong hoạt động kinh doanh của DNNN sau CPH.
Đồng thời với chủ trương CPH DNNN phải có chương trình bồi dưỡng kiến
thức quản lý CTCP và cán bộ quản lý DN sau CPH. Mở rộng các lớp kiến
thức kỹ năng quản lý các CTCP. Kinh phí cho các lớp này cần có sự hộ trợ
113
nhất định của nhà nước, vì trên thực tế cho thấy sự hụt hẫng về kiến thức cũng
như kỹ năng quản lý của các CTCP, của cán bộ quản lý DN sau CPH. Khuyến
khích các cán bộ tham gia thi tuyển giám đốc để lựa chọn đảm nhận chức lãnh
đạo trong DN sau CPH. Khuyến khích cán bộ thiếu năng lực tự nguyện xin
rút khỏi ban lãnh đạo cũ của DN để được hưởng sự phân công tác phù hợp ở
DNNN khác không nằm trong diện CPH. Đồng thời ban hành chế tài xử lý
đối với cán bộ lãnh đạo DN chậm thực hiện CPH khi mà DN đã hội tụ đủ các
điều kiện CPH. Hạn chế ở mức thấp nhất sự kiêm nghiệm chức danh thành
viên Hội đồng quản trị DN CPH đối với cán bộ đang làm việc trong cơ quan
quản lý nhà nước hay ở các DNNN khác để tạo điều kiện giải quyết các việc
sản xuất kinh doanh kịp thời. Thực hiên tốt quy chế dân chủ cơ sở, tăng
cường công tác kiểm tra định kỳ và kỷ luật trong các CTCP được thực hiên
nghiêm túc và đạt kết quả cao.
Thực hiện việc thu hẹp và tiến tới xóa bỏ chức năng đại diện chủ sở
hữu của các bộ, UBND các tỉnh, thành phố đối với DN có vốn Nhà nước hoạt
động kinh doanh.
Nghiên cứu ban hành cơ chế quản lý vốn nhà nước đầu tư vào các DN
mọi thành phần kinh tế để theo dõi giám sát việc sử dụng vốn của DN trong
hoạt động sản xuất kinh doanh.
Kiện toàn bộ máy chỉ đạo điều hành CTCP ở các cấp để bộ máy chỉ đạo
ở các cấp thực sự là cơ quan tham mưu tích cực, chuyên tâm với nhiệm vụ
được giao.
Giao rõ trách nhiệm cho các cơ quan Nhà nước có liên quan đến giải
đáp các vướng mắc của DN sau CPH. Việc thay đổi về mô hình hoạt động của
cán bộ quản lý và người lao động đã có tác động tích cực đến hoạt động sản
xuất kinh doanh của DN. Bằng kết quả thực tế, 96% DN đã khẳng định cán bộ
quản lý đã quan tâm nhiều hơn đến kết quả sản xuất và hiệu quả kinh doanh;
114
trong khi đó 88% DN cho biết kết quả sản xuất của người lao động đã tăng
lên khi tiền lương được tính toán trên cơ sở hiệu quả sản xuất.
Đặc biệt, sau CPH, sự can thiệp trực tiếp của các tổ chức, cá nhân ngoài
bộ máy quản lý điều hành DN như chính quyền, cơ quan chủ quản, các tổ
chức khác đã giảm sút rõ rệt. Sự chuyển biến tích cực này đã giúp cho DN
chủ động trong các quyết định điều hành và tập trung vào mục tiêu cơ bản là
sản xuất kinh doanh.
Tăng cường vai trò của Tổng công ty Ðầu tư và kinh doanh vốn Nhà
nước. Các bộ, địa phương thực hiện nghiêm túc việc chuyển phần vốn Nhà
nước ở các DN độc lập và chuyển thành công ty TNHH một thành viên (trừ
các DN hoạt động công ích theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ) về
Tổng công ty Ðầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước và đầu tư.
Những CTCP hoạt động trong lĩnh vực Nhà nước không cần nắm giữ
cổ phần hoặc quy mô nhỏ thì Tổng công ty Ðầu tư và kinh doanh vốn Nhà
nước tiếp tục bán nốt phần vốn Nhà nước. Hạn chế nắm giữ phần vốn Nhà
nước ở các công ty độc lập quy mô vừa.
Một thay đổi lớn gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động các DN sau
CPH là tỷ trọng vay vốn từ ngân hàng thương mại Nhà nước đã giảm đi đáng
kể thay vào đó là các nguồn tín dụng khác kể cả tín dụng phi chính thức và tín
dụng người lao động, cổ động hoặc gia đình, bạn bè.
Bên cạnh đó, theo các DN, những điều kiện về tín dụng, thế chấp, cầm
cố tài sản và lòng tin khi cho vay của ngân hàng có sự thay đổi đáng kể đối
với DN trước và sau khi chuyển đổi. Đây là những trở ngại phát sinh gây hạn
chế đối với các DN chuyển đổi, trong khi vẫn còn có khoảng cách khá xa giữa
quy định và thực tế thực hiện các chính sách tín dụng ngân hàng, chưa tạo
được môi trường bình đẳng cho DN sau chuyển đổi.
115
Mặt khác, sự hỗ trợ tài chính thông qua vốn vay ưu đãi và các biện
pháp tài chính như khoanh nợ, dãn nợ, xoá nợ, chuyển vốn vay thành vốn Nhà
nước đầu tư... sau CPH đã không còn.
Sự không rõ ràng trong quản lý của Nhà nước với tư cách là đại diện
phần vốn của mình trong DN vừa là cơ quan chủ quản các DN (chi phối
những người đại diện của Nhà nước trong DN); sự giảm sút quy mô và tốc độ
tăng trưởng của các DNNN sau CPH là những vấn đề cần nhanh chóng được
khắc phục ở các DNNN sau CPH. Thực tế chưa có văn bản nào phân biệt sự
khác biệt về vay vốn giữa DNNN và DNNN sau CPH và vẫn tồn tại những tư
tưởng, những ứng xử khác nhau của các tổ chức tín dụng đối với các DN khác
nhau. Do đó phải giải quyết vấn đề này từ hai phía:
Đối với các CTCP - DNNN sau CPH: cần được hưởng các chế độ ưu
đãi như hưởng theo qui định của luật khuyến khích đầu tư trong nước, tiếp tục
hưởng các chế độ vay vốn của các tổ chức tín dụng nhà nước, tạo dựng niềm
tin đối với các tổ chức tín dụng để xóa đi những định kiến với DN. Thực chất
DNNN cũng không phải là DN có tín chấp trong vay vốn mà họ thường dễ
được chấp nhận trong vay vốn vì đứng đằng sau họ là Nhà nước với tư cách là
“khổ chủ” trong những khoản vay “khó đòi” của các DNNN.
Những năm qua, hoạt động của các CTCP từ các DNNN đã CPH có
những chuyển biến tích cực, những ưu việt của CPH đã đựợc bước đầu phát
huy, đã tạo được niềm tin cho các tổ chức tín dụng. Việc vay vốn đã từng
bước được cải thiện và đây là giải pháp cần thiết đối với DN.
Tăng cường vai trò của các tổ chức cơ sở tại DN: chăm lo xây dựng đội
ngũ cán bộ người lao động nhất là cán bộ quản lý DN, các chuyên gia giỏi có
đủ tài phục vụ hiệu quả việc triển khai phát triển DN thành CTCP.
116
Đối với nhà nước: cần nghiên cứu cơ chế vay vốn hoặc tạo lập những
cơ chế thuận lợi hơn nữa trong thu hút vốn, tạo sức cạnh tranh trong CTCP -
DNNN sau CPH trong việc thu hút vốn của các tổ chức tín dụng, trước hết là
các ngân hàng.
Người sở hữu và nắm quyền sở hữu DN, quản lý vốn và hoạt động kinh
doanh của DNNN sau CPH cần phải có giải pháp thay đổi mối tương quan về
quan hệ quản lý vốn, ban hành cơ chế quản lý theo hướng khoán vốn hoặc
giải quyết các vấn đề theo cơ chế hội đồng quản trị của CTCP nhằm tạo sự
chủ động cho DN trong hoạt động kinh doanh. Giải pháp tốt nhất là khoán
quỹ vốn theo các tiêu chí bảo toàn và tăng trưởng vốn, nhà nước tiếp nhận lợi
ích trên phần vốn của mình thông qua lợi tức cổ phiếu cũng như cổ đông
khác.
Những giải pháp về vốn về sở hữu, về quan hệ quản lý sẽ phát huy tác
dụng nếu triển khai tốt, nhờ đó mức độ tăng trưởng của các DNNN sau CPH
sẽ được đẩy mạnh; bên cạnh đó, các vấn đề về sắp xếp lại tổ chức, đào tạo đội
ngũ lao động, đầu tư thêm tài sản cố định... là những vấn đề cần được các DN
tập trung giải quyết.
Giải quyết dứt điểm các tồn đọng về vốn quỹ, các vấn đề công nợ giữa
DN CPH với Nhà nước; giữa các DN với nhau. Trong số các biện pháp, biện
pháp khoanh nợ và xóa nợ do DNNN trước đây là một biện pháp có tính tích
cực đối với DN. (Trong báo cáo của Chính Phủ trình Quốc Hội ngày
16/10/2006 đã nói rõ về vấn đề này: “Nợ xấu của các DNNN khi CP đã được
xử lý một cách cơ bản, tạo điều kiên lành mạnh thực sự về tài chính cho DN
khi chuyển sang CTCP. Trong quá trình sắp xếp CPH DNNN từ 2002 đến nay
có 154 DN có khó khăn do nguyên nhân khách quan đã được xử lý khoanh nợ
và giãn nợ, xóa nợ thuế và các khoản phải nộp ngân sách với tổng số tiền là
314,91 tỉ đồng. Trong số DN đã CPH có 2000 DN với 2.519 tỉ đồng nợ và tài
117
sản loại trừ không tính vào giá trị DN. Công ty mua bán nợ và tài sản tồn
đọng đã tiếp nhận nợ và tài sản loại trừ của 1.222 DN với giá trị là 1.411 tỉ
đồng; trong đó đã xử lý cho 331 DN với giá trị là 390 tỷ đồng, giá trị thu hồi
là 125 tỷ đồng” (Chính Phủ. Số 133/BC-CP,2006).
2.2.2.5. Cơ chế phân bổ cổ phiếu và việc tổ chức bán cổ phiếu
Phân bổ cổ phiếu một cách khoa học hợp lý làm cơ sở cho hoạt động
phát hành cổ phiếu là rất quan trọng và cần thiết, tạo sự bình đẳng cho các cổ
đông, đồng thời khuyến khích các thành phần tích cực tham gia mua cổ phiếu.
Đối với cán bộ quản lý trong DN: Nhằm mang lại quyền lợi và trách
nhiệm của họ cho DN cần xác định mức mua cao hơn người lao động
khác.một khi như cầu cổ phiếu trong nội bộ vượt quá số cổ phiếu phát hành.
Cán bộ lãnh đạo với số cổ phiếu vượt trội sẽ quan tâm hơn đến công việc hoạt
động sản xuất kinh doanh của DN. Mức cao hơn có thể là 30% so với người
lao động khác. Mức này chỉ áp dụng đối với cổ phiếu thông thường, không áp
dụng đối với cổ phiếu ưu đãi.
Đối với nhà cung cấp dịch vụ và sản phẩm đầu vào cúng như các đại lý
và các nhà phân phối sản phẩm đầu ra cho DN: Có thể dành cho họ 15% giá
trị phần vốn nhà nứoc tại DN. Trong đó 50% cổ phiếu đựoc bán đúng với
mệnh giá và 50% còn lại bán với giá ưu đãi, giảm 30% so với mệnh giá. Sự
ưu ái này chỉ nên áp dụng đối với các nhà cung cấp sản phẩm đầu vào và tiêu
thụ chủ chốt, có ảnh hưởng lớn đối với DN.
Đối với những nhà đầu tư cổ phiếu bên ngoài DN: cần thực hiện bán
đấu giá, saong giảm giá thắng đấu giá cho người lao động cùng cơ quan chủ
quản với mức 20%.
Việc bán cổ phiếu được phân thành hai giai đoạn:
118
Phát hành cổ phiếu lần đầu: Cổ phiếu DNNN sẽ được giao cho Công ty
hỗ trợ chuyển đổi sở hữu và mua bán nợ, tài sản của DN hoăch quỹ sắp xếp
DNNN đảm nhận theo phương thức: cổ phiếu ưu đãi hay mua theo quyền ưu
tiên, mua cổ phân thì phát hành theo quyền đăng ký của DN. Đối với các loại
cổ phiếu khác thì thực hiện đấu giá hoặc đấu thầu theo những điều kiện nhất
định.
Phát hành cổ phiếu các lần sau, và hoạt động mua bán cổ phiếu: trên cơ
sở chịu sự quản lý thông nhất của các quy phạm pháp luật, của Chính Phủ về
việc thi hành trái phiếu, cổ phiếu. Các DN đủ điều kiện niêm yết thì thực hiện
việc phát hành và mua bán chúng khoán thông qua các công ty chứng khoán
tại các trung tâm giao dịch chúng khoán. Với các DN chưa đủ diều kiện niêm
yết do nước ta chư hình thành thị trường thứ cấp nên việc mua bán, phát hành
thêm cổ phiếu sẽ được thực hiện thông qua các công ty chứng khoán, công ty
tài chính, công ty hỗ trợ chuyển đổi sở hữu hoặc hệ thống quỹ sắp xếp
DNNN.
Sự phát triển của các DNNN sau CPH- CTCP sẽ tạo ra những mức lãi
cổ tức cao và rất dễ nảy sinh tình trạng thu gom cổ phiếu vào tay một số
người thậm trí là cả những cách không lành mạnh, (biến CPH thành tư nhân
hóa). Những vấn đề tồn đọng, những bất cập cần phải xử lý về vấn đề sở hữu.
Đã gây ảnh hưởng rất lớn đối với hoạt động của DNNN sau CPH.
Cần phải rà soát lại, đưa ra các chiến lược tiếp tục bán cổ phần hay phát
hành cổ phiếu, một mặt làm tăng thêm vốn, mặt khác tạo sự thay đổi tương
quan giữa phần vốn nhà nước nắm giữ với các phần vốn khác.
Hoàn chỉnh chính sách bán cổ phần cho người nước ngoài. Cần dành
ưu tiên hơn cho nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phiếu của DN hoạt động trong
một số lĩnh vực như: Trong những nghành nghề, nhưng lĩnh vực có cạnh
tranh mãnh liệt đối với kinh tế khu vực và thế giới, Có như cầu về vốn để hiện
119
đại hoá thiết bị, đổi mới công nghệ, thay đổi phương thức quản lý và mở rộng
thị trường ngoài nước như dệt may, giấy, da giầy, chế biến nông sản, thuỷ
sản...; Trong những nghành công nghệ tiên tiến, hoặc những nghành nghề mới
yêu cầu chất lượng cao như sản xuất thiết bị điện tử tin học; Hay trong những
nghành nghề có nhu cầu vốn lớn, khả năng sinh lời chưa cao như các nghành
giao thông, xây dựng cơ sở hạ tầng hoặc dự án BOT, BT...Thực hiện bán cổ
phiếu không giới hạn số lượng ngoài phần bán nội bộ cho các nhà đầu tư nước
ngoài ở những DNNN không cần thiết phải nắm giữ cổ phần; gặp khó khăn
trong việc phát hành cổ phiếu. Kịp thời cung cấp thông tin, tổ chức bán đấu
giá cho các nhà đầu tư nước ngoài thông qua các công ty tài chính, thị trường
chúng khoán... để đảm bảo thực hiện tốt các mục tiêu huy động vốn, hoặc đổi
mới phương thức quản lý
120
2.2.2.6. Chính sách cổ tức đối với công ty cổ phần
Thời gian tới tiếp tục đẩy mạnh CPH các công ty độc lập, trong đó ưu
tiên thu hút các nhà đầu tư mua cổ phần. Còn đối với các tập đoàn các tổng
công ty lớn có vai trò đặc biệt đối với nền kinh tế và vai trò phát triển định
hướng XHCN của nền kinh tế thì không được đem phần vốn của nhà nước để
phát hành chứng khoán. Giảm tỷ lệ phần vốn nhà nước, làm mất vai trò kinh
tế thật sự của kinh tế nhà nước. Do đó, cần phải:
Một là, có chính sách cổ tức ổn định, nhất quán, tránh gây ra những
thay đổi đột ngột trong chính sách cổ tức, cân nhắc một cách kỹ lưỡng tác hại
của sự thay đổi này đối với giá trị của công ty.
Hai là, thực hiện chính sách cổ tức an toàn, đảm bảo sự ổn định, nhất
quán của chính sách cổ tức ngay cả trong trường hợp lợi nhuận hoạt động
giảm. Một chính sách cổ tức an toàn không đồng nghĩa với một chính sách cổ
tức thấp.
Chính sách cổ tức thấp đồng nghĩa với việc tăng tỷ lệ lợi nhuận giữ lại,
nếu quỹ tiền mặt tích lũy từ lợi nhuận giữ lại quá lớn sẽ: Khiến cho nhà đầu tư
suy diễn là công ty bế tắc trong sự tăng trưởng; Công ty vô tình sẽ trở thành
mục tiêu của một sự thao túng mua; lãng phí do tiền mặt quá nhiều. Tất cả
những điều này đều có ảnh hưởng không tốt lên giá trị cổ phiếu của công ty.
Chính sách cổ tức an toàn là một chính sách cổ tức có tỉ lệ chia cổ tức
hợp lý sao cho vừa thỏa mãn được nhu cầu có một nguồn thu nhập ổn định,
nhất quán của cổ đông (hiệu ứng nhóm khách hàng) vừa đảm bảo một tỷ lệ lợi
nhuận giữ lại đủ để tài trợ cho những nhu cầu đầu tư bình thường nhằm duy
trì sự tăng trưởng bền vững của công ty.
Ba là, tránh tối đa việc cắt giảm cổ tức, cho dù công ty đang có một cơ
hội đầu tư tuyệt vời. Để không bỏ lỡ cơ hội đầu tư, công ty nên chọn giải
121
pháp đi vay hay phát hành cổ phiếu mới. Nếu vì một lý do nào đó công ty
không thể huy động đủ vốn từ nguồn tài trợ bên ngoài mà buộc phải cắt giảm
cổ tức, thì công ty buộc phải cung cấp thông tin đầy đủ và giải thích một cách
rõ ràng cho các nhà đầu tư biết về chương trình đầu tư sắp tới cũng như nhu
cầu tài chính cần thiết để tài trợ cho dự án đó, để tối thiểu hóa những hậu quả
gây ra từ một sự cắt giảm cổ tức đột ngột.
2.2.2.7. Giải quyết các vấn đề về phần phối sau cổ phần hóa
Sớm nghiên cứu và xác lập cơ chế phân phối trong CTCP để có một
nền tảng pháp lý vững chắc. Sự thay đổi nội dung và phương pháp phân phối
theo cơ chế của CTCP đã tạo nên động lực mới cho các DNNN sau CPH. Tuy
nhiên mức tăng giảm bất thường của lợi nhuận ở các CTCP, mức tăng thu
nhập của người lao động thấp ở nhiều DN trong những năm qua là những vấn
đề cần tập trung giải quyết:
Để đổi mới phân phối của các DNNN phải dựa trên cơ sở cải thiện tình
trạnh kinh doanh - cần phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu
dùng. Mối quan hệ đó được biểu hiện thông qua xác lập tỷ lệ giữa các khoản
vốn quỹ: quỹ tái đầu tư mở rộng sản xuất, quỹ khen thưởng, quỹ lương, lợi
tức từ quỹ phúc lợi.
Đối với DN làm ăn có lãi: việc giải quyết các mối quan hệ trong phân
phối có nhiều lợi thuận lợi. Vì vậy lợi tức cổ phiếu của DN có thể đạt ở mức
cao. Để tái đầu tư và cải thiện điều kiện lao động của DN, nên duy trì ở mức
cổ tức cao không quá 2 lần mức lãi suất ngân hàng trong năm.
Đối với DN làm ăn không có lãi, cần duy trì mức cổ tức tương ứng mức
lãi suất ngân hàng. Vì thực chất mức cổ tức bao gồm hai phần: phần chi phí
tiền vay (như vay vốn từ các tổ chức tín dụng) và mức lợi nhuận phân phối
122
qua cổ phiếu. Chú trọng đảm bảo mức thu nhập, đảm bảo tiền lương tối thiểu
của người lao động.
Chú ý đến lợi ích của người lao động khi mua cổ phần, phần quyền lợi
với lao động dôi dư và chính sách ưu đãi đối với người lao động hậu CPH.
Đối với lao động nghèo: Cần bỏ mức khống chế “không được vượt quá
20% tổng số cổ phần nhà nước bán theo giá ưu đãi” đối với số cổ phần mua
trả dần của người lao động nghèo trong DN, thay vì bán chịu cổ phiếu cho
người nghèo theo giá ưu đãi, có thể áp dụng phương thức cấp không một số
cổ phiểu nhất định tương đương với mức ưu đãi 30%. DN sau CPH không
phải ghi nợ, vì rủi ro cổ phiếu bán chịu trở thành một khoản nợ khó đòi sau
này cũng sẽ bị loại trừ.
Cần có sự phân biệt mức độ ưu đãi (số cổ phần/cho mỗi năm làm việc
thực tế) đối với người lao động theo nghành nghề linh vực kinh doanh, khắc
phục tình trạng dàn trải, mang tính bình quân như hiện nay.
Nên mở rộng phạm vi đối tượng được hưởng chế độ ưu đãi đến các cán
bộ, công nhân viên của DN đã nghỉ hưu, nghỉ việc chờ giải quyết chế độ, nghỉ
mất sức lao động để ghi nhận sự đóng góp của họ trong quá trình tạo dựng
DN trước CPH. Tuy nhiên mức độ ưu đãi đối với đối tượng này cần có sự
phân biệt so với những người đang làm việc. Những băn khoăn, lo lắng của
người lao động đã gắn bó với DN trong suốt quá trình hình thành và phát triển
cho đến khi thực hiện chuyển đổi sang CTCP. Đảm bảo lợi ích người lao
động cần phải có sự quan tâm đúng mức của nhà nước và DN.
Đối với người lao động dôi dư sau CPH: Việc CPH tất yếu sẽ dẫn đến
một bộ phận người lao động mất việc hoặc thôi việc và con số này sẽ càng lớn
lên khi đẩy mạnh triển khai CPH. Giải quyết triệt để vẫn đề xã hội này sẽ giúp
giảm trở lực to lớn đối với tiến trình CPH DNNN.
123
2.2.2.8. Quy định về hệ thống thang bậc lương và nâng cao trình dộ
chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động trong công ty cổ phần
Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện chính sách đối với người lao động trong
DN sau CPH. Đây là những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền lợi (có tác
động tích cực cả về mặt kinh tế, cả về mặt xã hội) của mỗi cán bộ công nhân
viên làm tại DN.
Có biện pháp tuyên truyền giải thích cho người lao động nhận thức
đựoc đúng đắn, đầy đủ về quyền lợi trách nhiệm của họ đối với CTCP. Làm
cho người lao động thấy rõ lợi ích, vị trí, môi trường mới, mức đọ làm chủ
đến đâu, những gì học được phép... làm là rất quan trọng. Người lao động sẽ
tự giác, đồng tâm cùng nhà nước thực hiện tốt chủ truơng CPH, tạo nên sự ổn
định trong CTCP.
Tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động được hưởng đúng và đủ chế
độ ưu đãi mua cổ phần trong DN. Theo nghị định 44-198/NĐ-CP qui định
người lao động trong DNNN chuyển thành CTCP được bảo đảm công ăn việc
làm, ưu đãi tạo điều kiện có cổ phần, thực hiện quyền làm chủ... Ngoài ra, cần
tăng cường mức độ ưu đãi cho người lao động theo thâm niên công tác và
mức độ đóng góp của họ với DNNN dựa trên những nghành nghề và lĩnh vực
hoạt động.
Quy định hệ thống thang, bậc lương cho người lao động trong CTCP
bằng cách tự hoạch định một hệ thống tiền lương theo các nguyên tắc do Nhà
nước qui định (và phải đăng ký với cơ quan lao động địa phương). Khi đó,
các DN sẽ khuyến khích được lao động, giữ chân và thu hút được những lao
động có chuyên môn, kỹ thuật cao, tay nghề giỏi vào làm việc. Trong trường
hợp, các CTCP áp dụng hệ thống thang lương, bảng lương như các công ty
nhà nước thì phải xây dựng tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ, tiêu chuẩn cấp
124
bậc kỹ thuật công nhân; phải thực hiện nâng ngạch, nâng bậc lương theo đúng
qui định…
Giải quyết hợp lý lao động dôi dư, cần được các CTCP xét trên hai mặt:
bảo đảm việc làm và cuộc sống của người lao động; bảo đảm điều kiện để
CTCP đạt yêu cầu nâng cao hiệu quả sử dụng lao động.
Kịp thời phối kết hợp trong giải quyết các vấn đề cụ thể giữa nhà nước
và DN trong giải quyết chế độ đối với người lao động để họ không cảm thấy
bị thiệt trong CTCP.
Về đào tạo lại đội ngũ lao động, cần bố trí đội ngũ lao động theo hướng
tinh giản (những người lao động tuổi cao trình độ không còn phù hợp giải
quyết theo chế độ nghỉ việc hoặc nghỉ chế độ... Tuy vậy, việc lựa chọn này
mới chỉ dựa vào tiêu chí tuổi tác, bằng cấp trong số nguồn lao động hiện có
của DN. Vì vậy cần có kế hoạch đào tạo lại đội ngũ cán bộ, công nhân nâng
cao chất luợng đáp ứng yêu cầu lao động mới trong cơ chế hoạt động của
CTCP và trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Nội dung đào tạo đội ngũ
lao động rất rộng, từ những kiến thức chung đến những kiến thức chuyên
nghành nhằm làm cho đội ngũ lao động có thể thích ứng với kinh tế thị
trường, (các kiến thức pháp luật...). Do vậy các DN sau CPH cần xây dựng đề
án đào tạo, chuẩn bị kinh phí và lựa chọn phương thức đào tạo phù hợp với
điều kiện lao động của DN.
Phát triển DN sau CPH cần gắn với việc làm và thu nhập của người lao
động được tăng lên. DN tham gia tích cực vào việc giải quyết các vấn đề xã
hội và bảo vệ môi trường sinh thái. Còn nếu ngược lại thì không thể nói rằng
CPH DN đã thành công.
2.2.2.9. Thành lập Hội các doanh nghiệp sau cổ phần hoá
125
Hội này sẽ phát huy tác dụng rất tốt, đặc biệt trong những năm đầu sau
CPH. Hội là nơi DN trao đổi kinh nghiệm về cách thức huy động vốn,
phương thức mở rộng hoạt động kinh doanh, trao đổi thông tin về thị trường,
cơ chế chính sách của Đảng và nhà nước. Các DN có thể cùng trao đổi tư vấn
cho nhau để giải quyết vướng mắc về thủ tục nhà đất, vay vồn ngân hàng, các
vấn đề về tranh chấp trong mua bán cổ phiếu. Đây cũng đựoc coi là một đầu
mối để các cơ quan quản lý nhà nước tiếp xúc, tìm hiểu tình hình sản xuất
kinh doanh, các vấn đề xã hội của DNNN sau CPH. Thành phố sẽ quy định cụ
thể trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc tiếp tục cung cấp
thông tin về chính sách nhà nước, các thông tin về thị trường đầu vào và đầu
ra của sản phẩm... cho các DNNN sau CPH. Đại diện Hội các DN sau CPH sẽ
được mời tham gia các cuộc họp liên quan của thành phố, đề đạt nguyện vọng
và góp ý cho một số quyết sách phục vụ cho sự phát triển của DN.
Đẩy mạnh, triển khai tổ chức các hoạt động trong DNNN sau CPH.
Thực chất của giải pháp này là tạo ra các điều kiện khách quan cơ bản cần
thiết cho viêc tiến hành và đẩy nhanh hoạt động của DNNN sau CPH trong
thời gian tới.
Phương hướng bao trùm nhất là thực hiện nhất quán các chính sách tạo
môi trường thuận lợi cho hoạt động đầu tư, kinh doanh và phát triển mạnh mẽ
các loại hình DN. Tập trung làm tốt việc định hướng, tạo môi trường thuận lợi
để các DN hoạt động và phát triển theo cơ chế thị trường. Thực hiện nghiêm
túc, có hiệu quả Luật DN, Luật Ðầu tư. Tiếp tục hình thành và thúc đẩy hoạt
động của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty lớn, đa sở hữu, tạo sức mạnh cho
đất nước trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế. Thu hút ngày càng nhiều
tập đoàn kinh tế lớn của nước ngoài đến đầu tư kinh doanh tại Việt Nam. Coi
trọng phát triển DN dân doanh để tạo thêm môi trường và động lực đổi mới
DNNN.
126
Nhóm giải pháp thứ nhất, sẽ tạo ra những điều kiện tiền đề cần thiết về
môi trường kinh tế vĩ mô cho các DNNN sau CPH hoạt động có hiệu quả,
đồng thời tác động đến tiến trình CPH DNNN đạt được mục tiêu đã đặt ra.
Nhóm thứ hai, nhằm giúp các DNNN khi thực hiện CPH có nhiều
thuận lợi, hạn chế những phát sinh, tiêu cực, từ đó góp phần nâng cao hiệu
quả của các DNNN sau CPH; Đặc biệt là các vấn đề trong nội bộ tổ chức và
quản lý tài chính trong các DNNN.
127
KẾT LUẬN
Cổ phần hoá DNNN là giải pháp quan trọng và tích cực nhằm đổi mới
DNNN tạo động lực, tăng cường vai trò chủ đạo của DNNN thông qua sự
thay đổi về hình thức sở hữu, cơ cấu tổ chức và hoạt động kinh doanh. Bên
cạnh đó còn góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả quản trị DN tốt hơn
trước, nhờ đó tăng cường khả năng cạnh tranh của DNNN trên thị trường
hàng hóa và dịch vụ. Tuy nhiên, những ưu việt đó của CPH DNNN chỉ bộc lộ
khi xác định được những hình thức, bước đi và nội dung thực hiện CPH và
sau CPH phù hợp với đặc điểm và điều kiện cụ thể của từng DN.
Cổ phần hoá các DNNN là biên pháp đúng đắn của quá trình đổi mới
các DNNN, là quá trình chuyển các DNNN thành các CTCP. Điều đó có
nghĩa là chuyển từ sở hữu Nhà nước sang sở hữu của nhiều chủ thể, trong đó
tồn tại một phần sở hữu Nhà nước. Quá trình này tạo điều kiện huy động các
nguồn vốn đầu tư phát triển sản xuất, xử lý và khắc phục những tồn tại hiện
thời của DNNN; tạo điều kiện cho người góp vốn và người lao động thực sự
làm chủ DNNN; tất cả nhằm mục đích nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
của DNNN, giảm nhẹ ghánh nặng Nhà nước đối với DN, từng bước làm cho
DNNN thực sự giữ vai trò chủ đạo và định hướng XHCN đối với các thành
phần kinh tế.
Cổ phần hoá DNNN có rất nhiều tính ưu việt, nhưng cũng nảy sinh
nhiều vấn đề trong và sau CPH. Nhưng vấn đề đặt ra sau CPH chủ yếu là: xóa
bỏ tư tuởng bao cấp do cơ chế cũ để lại, xu hướng tư nhân hóa DNNN, sự
chậm chuyển đổi trong quản trị điều hành DN và những vấn đề xã hội nảy
sinh. Những vấn đề đó cần được lý giải cả về lý luận và thực tiễn, làm cơ sở
cho việc đề xuất các giải pháp xử lý trong và sau CPH. Muốn CPH thành
công cần phải vào cuộc, phối hợp chặt chẽ giữa chính phủ, các bộ ban nghành
128
và các DNNN CPH. Cần xác lập môi trường pháp lý hoàn chỉnh, xác định rõ
chức năng nhiệm vụ và quyền hạn của các tổ chức tham gia vào quá trình
CPH. Cần phải đầu tư chi phí ban đầu, có sự hỗ trợ cho người lao động, giải
quyết các vấn đề phát sinh sau CPH.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN sau CPH cần phải giải
quyết đồng bộ các vấn đề cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Đó là hoàn thiện các văn
bản pháp quy, tạo môi truờng pháp lý lành mạnh; xây dựng kết cấu hạ tầng cơ
sở sản xuất kinh doanh; phát triển và hoàn thiện các yếu tố thị trường, nâng
cao trình độ và tính minh bạch trong quản trị DN; đổi mới phương thức lãnh
đạo và chỉ đạo của tổ chức Đảng trong DNNN sau CPH... Đồng thời cần tập
trung và thể chế hoá các quy định về xử lý tài chính; phương pháp xác định
giá trị DN; tổ chức bộ máy quản lý DN; nâng cao trình độ người lao động;
đảm bảo lợi ích chính đáng của các cổ đông và người lao động trong các
DNNN sau CPH.
129
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đinh Văn Ân (2004), Báo cáo tại Hội thảo cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nước, tháng 8, Hà Nội.
2. Ban chỉ đạo Đổi mới và phát triển DN (2007), Báo cáo về công tác sắp
xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước.
3. Báo cáo của Ban chỉ đạo đổi mới & phát triển doanh nghiệp (10/2005).
4. Báo cáo của Viện Nghiên cứu kinh tế Trung ương (CIEM) (22/9/2005).
5. Bộ Kế hoạch & Đầu tư (10/5/2002), Quy định số 260/2002/QĐ-BKH về
việc ban hành danh mục các ngành nghề người nước ngoài được mua
cổ phần trong các DN ngoài quốc doanh theo quy định của Luật Khuyến
khích đầu tư trong nước.
6. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (21/8/1998), Thông tư
11/1998/TT-LĐTBXH hướng dẫn chính sách đối với người lao động khi
chuyển DNNN thành CTCP theo Nghị định 44/1998/NĐ-CP.
7. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (16/4/2002), Công văn
1110/LĐTBXH-TL về thẩm định đơn giá tiền lương đối với DNNN đã
CPH.
8. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (12/6/2002), Thông tư
11/2002/TT-LĐTBXH của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội hướng
dẫn Nghị định 41/2002/NĐ-CP về chính sách đối với lao động dôi dư do
sắp xếp lại DNNN.
9. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (26/11/2002), Thông tư
15/2002/BLĐTBXH hướng dẫn về chính sách đối với người lao động khi
130
chuyển DNNN thành CTCP theo Nghị định số 64/2002/NĐ-CP của
Chính phủ.
10. Bộ Tài chính (18/7/1998), Thông tư 104/1998/TT-BTC về hướng dẫn
những vấn đề tài chính khi chuyển DNNN thành CTCP theo Nghị định
44/1998/NĐ-CP.
11. Bộ Tài chính (15/11/1999), Thông tư 132/1999/TT-BTC về hướng dẫn
bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài.
12. Bộ Tài chính (3/4/2001), Thông tư 22/2001/TT-BTC hướng dẫn thực
hiện việc miễn thuế, giảm thuế cho các đối tượng được hưởng ưu đãi
đầu tư theo Nghị định số 51/1999/NĐ-CP của Chính phủ.
13. Bộ Tài chính (18/02/2002), Công văn 1415 TC/TCT hướng dẫn về ưu
đãi đầu tư theo Nghị định 44/1998/NĐ-CP.
14. Bộ Tài chính (01/7/2002), Quyết định 85/2002/QĐ-BTC về ban hành
Quy chế và sử dụng Quỹ hỗ trợ lao động dôi dư do sắp xếp lại DNNN.
15. Bộ Tài chính (12/9/2002), Thông tư 79/2002/TT-BTC về hướng dẫn xác
định giá trị DN khi chuyển DNNN thành CTCP theo Nghị định
64/2002/NĐ-CP.
16. Bộ Tài chính (24/10/2002), Thông tư 98/2002/TT-BTC hướng dẫn việc
miễn giảm thuế cho các đối tượng được hưởng ưu đãi đầu tư theo Nghị
định 51/1999/NĐ-CP qui định chi tiết thi hành Luật khuyến khích đầu tư
trong nước.
17. Bộ Tài chính (9/9/2002), Thông tư số 76/2002/TT-BTC về hướng dẫn
những vấn đề tài chính khi chuyển DNNN thành CTCP.
18. Chính phủ (17/9/1994), Nghị định số 120/CP ban hành quy chế tạm thời
về việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu DNNN.
131
19. Chính phủ (7/5/1996), Nghị định 28/CP về chuyển một số DNNN thành
CTCP.
20. Chính phủ (29/6/1998), Nghị định 44/1998/NĐ-CP về chuyển DNNN
thành CTCP.
21. Chính phủ (11/7/1998), Nghị định 48/1998/NĐ-CP về chứng khoán và
thị trường chứng khoán.
22. Chính phủ (08/7/1999), Nghị định 51/1999/NĐ-CP quy định chi tiết thi
hành Luật Khuyến khích đầu tư trong nước 03/1998/QH10.
23. Chính phủ (11/4/2002), Nghị định 41/2002/NĐ-CP về chính sách đối
với lao động dôi dư do sắp xếp lại DNNN.
24. Chính phủ (19/6/2002), Nghị định 64/2002/NĐ-CP về chuyển DNNN
thành CTCP.
25. Chính phủ (16/11/2004), Nghị định 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển
công ty nhà nước thành CTCP.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (9/2005), Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội
X của Đảng.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khóa IX) về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát
triển và nâng cao hiệu quả DNNN.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khóa IX) về một số chủ trương, chính sách, giải
pháp lớn nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ
IX của Đảng.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi
mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
132
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện đại hội Đảng thời kỳ đổi
mới, văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, NXB. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi
mới,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, NXB. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
32. Đảng công sản Việt Nam (2005), Văn kiện đại hội Đảng thời kỳ đổi mới,
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kì khoá VII, NXB.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện đại hội Đảng thời kỳ đổi
mới, Văn kiện Hội nghị Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Dự thảo các văn kiện Đại hội Đảng
thời kì đổi mới, Văn kiện hội nghị Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Hồ Xuân Hùng (2004), “Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước: Kết quả,
vướng mắc và giải pháp”, Tạp chí Cộng sản điện tử, (67).
36. C. Mác và Ph. Ăng-ghen (1994), Toàn tập, Tập 25, Phần II, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
37. C. Mác và Ph. Ăng-ghen (1994), Toàn tập, Tập 25, phần I, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
38. C. Mác và Ph.Ăng-ghen: sdđ, tr673
39. V.I. Lê – nin (1978)Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va, Tập 45, tr427
40. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
IX, (2001), tr7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội
133
41. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (15/8/1998), Thông tư 06/1998/TT-
NHNN về hướng dẫn thực hiện một số nội dung liên quan đến ngân
hàng khi chuyển DNNN thành CTCP, Hà Nội.
42. Nghị quyết số 05-NQ/TW.
43. Luật Doanh nghiệp nhà nước(1995),(2003) Luật doanh nghiệp (2005)
44. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Luật
sửa đổi một số điều của Bộ Luật Lao động, khóa X, kỳ họp thứ 11, từ
ngày 15/3 đến ngày 02/4/2002.
45. Tô Huy Rứa (8/2004), Sự phát triển quan điểm, đường lối, cơ chế, chính
sách của Đảng và Nhà nước về CPH DNNN, Báo cáo Hội thảo CPH
DNNN, Hà Nội.
46. Trương Tấn Sang (8/9/2005), Báo cáo đề dẫn Hội thảo "Đánh giá 4
năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 và Nghị quyết Trung ương 9
(khoá IX) về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả
DNNN; đề xuất những kiến nghị mới", Hà Nội.
47. Thủ tướng Chính phủ (10/6/1999), Quyết định 139/1999/QĐ-TTg về tỷ
lệ tham gia của bên nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam.
48. Thủ tướng Chính phủ (28/6/1999), Quyết định 145/1999/QĐ-TTg về ban
hành Quy chế bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài.
49. Thủ tướng Chính phủ (30/8/1999), Quyết định 177/1999/QĐ-TTg về tổ
chức và hoạt động của Quỹ hỗ trợ sắp xếp và CPH DNNN.
50. Thủ tướng Chính phủ (08/2/2002), Chỉ thị 04/2002/CT-TTg về việc tiếp
tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN.
134
51. Thủ tướng Chính phủ (29/3/2002), Nghị định 35/2002/QĐ-TTg về sửa
đổi bổ sung Danh mục khuyến khích đầu tư theo Nghị định 51/1999/NĐ-
CP của Chính phủ.
52. Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (28/9/2001), Thông tư 02/2001/TT-
UBCK hướng dẫn thực hiện Nghị định 48/1998/NĐ-CP của Chính phủ
ngày 11/7/1998 về phát hành cổ phiếu, trái phiếu ra công chúng.
53. Văn phòng Chính phủ (29/8/1998), Công văn 3395/VPCP-ĐMDN về
việc hướng dẫn quy trình và phương án mẫu CPH.
54. Viện Khoa học xã hội Việt Nam - Viện Kinh tế Thế giới (1992), Chủ
nghĩa tư bản hiện đại, tư nhân hoá ở các nước tư bản phát triển, Hà
Nội.
55. Viện Nghiên cứu kinh tế Trung ương (22/9/2005), Báo cáo tình hình
thực hiện sắp xếp, đổi mới DNNN, Hà Nội.
56. Website Đảng Cộng sản Việt Nam (5/2/2004), Về một số chủ trương,
chính sách, giải pháp lớn nhằm thực hiện thắng lợi nghị quyết ĐH toàn
quốc lần thứ IX của Đảng.
135
Phụ lục: DANH MỤC CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT CÓ LIÊN QUAN TỚI SẮP XẾP LẠI DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC
1. Thông tư 80/2002/TT-BTC ngày 12/9/2002 hướng dẫn về bảo lãnh
phát hành và đấu giá bán cổ phần ra bên ngoài của các doanh nghiệp
nhà nước khi thực hiện cổ phần hoá.
2. Thông tư 79/2002/TT-BTC ngày 12/9/2002 về hướng dẫn xác định giá
trị doanh nghiệp khi chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ
phần theo Nghị định 64/2002/NĐ-CP của Chính phủ.
3. Thông tư số 76/2002/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 9/9/2002 hướng
dẫn những vấn đề tài chính khi chuyển doanh nghiệp nhà nước thành
công ty cổ phần.
4. Nghị định 187/2004/NĐ-CP của Chính phủ ngày 16 tháng 11 năm 2004
về việc chuyện công ty nhà nước thành công ty cổ phần.
5. Nghị định 64/2002/NĐ-CP của Chính phủ ngày 19/6/2002 về chuyển
doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần.
6. Ngị định 44/1998/NĐ-CP của Chính phủ ngày 29/6/1998 về chuyển
nhà nước thành công ty cổ phần.
7. Nghị định 28/CP ngày 07/5/1996 của Chính phủ về chuyển một số
doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần.
8. Nghị định số 120/CP của Chính phủ ngày 17 tháng 9 năm 1994 ban
hành quy chế tạm thời về việc phát hành trái phiếu,cổ phaieú doanh
nghiệp nhà nước.
9. Thông tư 104/1998/TT-BTC của Bộ tài chính ngày 18/7/1998 hướng
dẫn những vấn đề tài chính khi chuyển doanh nghiệp nhà nước thành
136
công ty cổ phần (theo Nghị định 44/1998/NĐ-CP) cua Chính phủ ngày
29/6/1998).
10. Công văn 3395/VPCP-ĐMDN cua Văn phòng Chính phủ ngày
29/8/1998 về việc hướng dẫn quy trình và phương án mẫu cổ phần hoá.
11. Công văn 3138/TC-TCDN của Bộ tài chính ngày 19/8/1998 về việc
hướng dẫn thực hiện cổ phầ hoá doanh nghiệp nhà nước.
12. Thông tư 117/1998/TT-BTC của Bộ tài chính ngày 22/8/1998 hướng
dẫn thực hiện ưu đãi về thuế và lệ phí trước bạ theo qui định tại điều 13
Nghị định 44/1998/NĐ-CP của Chính phủ ngày 29/6/1998 về chuyển
doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần.
13. Thông tư 06/1998/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
ngày 15/8/1998 hướng dẫn thực hiện một số nội dung liên quan đến
ngân hàng khi chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần.
14. Quyết định 145/1999/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ ngày
28/6/1999 về ban hành Quy chế bán cổ phần cho nhà đầu tư nước
ngoài.
15. Thông tư 132/1999/TT-BTC của Bộ tài chính ngày 15/11/1999 hướng
dẫn bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài.
16. Quy định số 260/2002/QĐ-BKH ban hành ngày 10/5/2002 của Bộ Kế
hoạch và đầu tư về việc ban hành danh mục các ngành nghề người
nước ngoài được mua cổ phần trong các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh theo quy định của Luật Khuyến khích đầu tư trong nước .
17. Thông tư 15/2002/BLDTBXH ngày 26/11/2002 hướng dẫn về chính
sách đói với người lao động khi chuyển doanh nghiệp nhà nước thành
công ty cổ phần theo Nghị định số 64/2002/NĐ-CP ngày 19/6/2002.
137
18. Quyết định 85/2002/QĐ-BTC ngày 1/7/2002 ban hành Quy chế quản
lý và sử dụng Quỹ hỗ trợ lao động đôi dư do sắp xếp lại doanh nghiệp
nhà nước.
19. Thông tư 11/2002/TT-LĐTBXH của Bộ Lao Động,Thương binh và Xã
hội ngày 12/6/2002 hướng dẫn Nghị định 41/2002/NĐ-CP về chính
sách dối với người lao dộng đòi tự do sắp xếp lại doanh nghiệp nhà
nước.
20. Công văn 1110/LĐTBXH-TL của Bộ Lao động,Thương binh và Xã
hội ngày 16/4/2002 về thẩm định đơn giá tiền lương đối với doanh
nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá.
21. Nghị định 41/2002/NĐ-CP ngày 11/4/2002 của Chính phủ về chính
sách đối với lao động đòi tự do sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước.
22. Thông tư 11/1998/TT-LĐTBXH của Bộ Lao động,Thương binh và Xã
hội ngày 21/8/1998 hưóng dẫn chính sách đối với người lao động khi
chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần theo Nghị định
44/1998/NĐ-CP của Chính phủ ngày 29/6/1998.
23. Bộ Luật Lao động,ngày 23/6/1998.
24. Luật sửa đổi một số điều của Bộ Luật lao động,tháng 4/2002.
25. Quyết định 177/1999/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ ngày
30/8/1999 về tổ chức và hoạt động của Quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần
hoá doanh nghiệp nhà nước.
26. Thông tư 95/2000 QĐ-BTC của Bộ tài chính ngày 9/6/2000 về việc
Ban hành Quy chế quản lý,thu nộp va sử dụng Quỹ hỗ trợ sắp xếp và
cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
138
27. Quyết định 163/2000/QĐ-BTC của Bộ tài chính ngày 9/10/2000 về
việc giao nhiệm vụ quản lý Quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nước cho các đơn vị thuộc Bộ va trực thuộc Bộ.
28. |Thông tư 98/2002/TT-BTC ngày 24/10/1001 của Bộ tài chính hướng
dẫn việc miễn giảm thuế cho các đối tượng được hưởng ưu đãi đầu tư
theo NGhị định 51/1999/NĐ-CP qui định chi tiết thi hành Luật khuyến
khích đầu tư trong nước.
29. Nghị định 35/2002/QĐ-TTG ngày 29/3/2002 của Thủ tướng Chính
phủ về sửa đổi bổ sung Danh mục khuyến khích đầu tư theo Nghị định
51/1999/NĐ-CP của Chính phủ.
30. Công văn 1415 TC/TCT của Bộ tài chính ngày 18/02/2002 hướng dẫn
về ưu đãi đầu tư theo Nghị định 44/1998/NĐ-CP.
31. Thông tư 22/2001/TT-BTC của Bộ tài chính ngày 3/4/2001 hướng dẫn
thực hiện việc miễn thuế,giảm thuế cho các đối tượng được hưởng ưu
đãi đầu tư theo Nghị định số51/1999/NĐ-CP.
32. Nghị định 51/1999/NĐ-CP của Chính phủ ngày 08/7/1999 quy định
chi tiết thi hành Luật Khuyến khích đầu tư trong nước 03/1998/QH10.
33. Nghị định 48/1998/NĐ-CP của Chính phủ ngày 11/7/1998 về chứng
khoán và thị trường chứng khoán.
34. Thông tư 02/2001/TT-UBCK của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước ngày
28/9/2001 hướng dẫn Nghị địnhh 48/1998/NĐ-CP của Chính phủ ngày
11/7/1998 về phát hành cổ phiếu, trái phiếu ra công chúng.
35. Quyết định 139/1999/QĐ-TTG ngày 10/06/1999 của Thủ tướng chính
phủ về tỷ lệ tham gia của bên ngoài vào thị trường chứng khoán Việt
Nam.
139
36. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá
IX) về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh
nghiệp nhà nước.
37. Chỉ thị 04/2002/CT-TTG của Thủ tướng Chính phủ ngày 08/02/2002
về việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh
nghiệp nhà nước.
140