ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

NGUYỄN THU BĂNG

HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC SAU CỔ PHẦN HÓA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SỸ

Người hướng dẫn: PGS.TS. Vũ Hồng Tiến

Hà nội - 2008

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ............................................................................................ 4

Chƣơng 1. NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ CỦA DOANH NGHIỆP

NHÀ NƢỚC VÀ QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HOÁ Ở VIỆT NAM ................... 8

1.1. Một số vấn đề lý luận về công ty cổ phần và cổ phần hóa doanh

nghiệp nhà nước ........................................................................................ 8

1.2. Tình hình doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam trước cổ phần hóa . 17

1.2.1. Khái niệm về doanh nghiệp nhà nước .................................................. 17 1.2.2. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp nhà nước trước cổ phần hóa .... 20 1.3. Quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước ta .............. 25

1.3.1. Cơ sơ lý luận và thực tiễn cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam .............................................................................................................. 25 1.3.2. Quá trình hoàn thiện quan điểm của Đảng về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước ta ........................................................................................ 31 1.3.3. Quá trình thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở nước ta ..... 36 1.4. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa 49

1.4.1. Những thành tựu đã đạt được............................................................... 49 1.4.2. Những hạn chế của doanh nghiệp nhà nước và nguyên nhân của nó .... 55 1.4.3. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế của doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa ở nước ta .................................................................... 63 1.5. Những vấn đề đặt ra đối với doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần

hóa ở nước ta .......................................................................................... 68

1.5.1. Nhận thức về mô hình doanh nghiệp cổ phần hoá ................................ 68 1.5.2. Doanh nghiệp cổ phần và môi trường hoạt động .................................. 71 1.5.3. Quản trị doanh nghiệp sau cổ phần hoá ............................................... 75

Chƣơng 2. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU

QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC SAU CỔ PHẦN

HÓA Ở VIỆT NAM ............................................................................ 86

2.1. Phương hướng hoạt động của doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần

hóa ở Việt Nam ........................................................................................ 86

1

2.1.1. Đảm bảo sự vận hành có hiệu quả của bộ máy quản lý và điều hành của doanh nghiệp cổ phần.................................................................................... 86 2.1.2. Giải quyết các vấn đề liên quan đến cổ đông trong doanh nghiệp cổ phần .............................................................................................................. 87 2.1.3. Tiếp tục cải thiện môi trường hoạt động của công ty cổ phần .............. 89 2.2. Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp

nhà nước sau cổ phần hóa trong thời gian tới ở Việt Nam ..................... 90

2.2.1. Nhóm giải pháp vĩ mô nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa trong thời gian tới ở Việt Nam .................. 90 2.2.2. Những giải pháp vi mô nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước ở nước ta trong thời gian tới ............................................. 104 KẾT LUẬN ..................................................................................... 128

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................... 130

Phụ lục: DANH MỤC CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT CÓ LIÊN QUAN TỚI

SẮP XẾP LẠI DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC ..................................... 136

2

BẢNG QUY ƢỚC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

CTCP: Công ty cổ phần

CPH: Cổ phần hoá

CNXH: Chủ nghĩa xã hội

CNH, HĐH: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

DN: Doanh nghiệp

DNCP: Doanh nghiệp cổ phần

DNNN: Doanh nghiệp nhà nước

HĐQT: Hội đồng quản trị

TNHH: Trách nhiệm hữu hạn

TBCN: Tư bản chủ nghĩa

UBND: Uỷ ban nhân dân

XHCN: Xã hội chủ nghĩa

3

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986), nước ta đã chuyển

từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang phát triển nền kinh tế hàng hóa

nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước

theo định hướng XHCN. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, trên lĩnh vực

kinh tế, Đảng và Nhà nước đã có chủ trương về sắp xếp và đổi mới các

DNNN. Hàng loạt các giải pháp đã được tiến hành, trong đó có giải pháp

chuyển đổi một số DNNN thành CTCP hay CPH các DNNN. Đây được coi là

trọng tâm của quá trình sắp xếp, đổi mới DNNN ở Việt Nam. Vai trò của

CPH DNNN đã được khẳng định cả về lý luận và thực tiễn, là nhân tố thúc

đẩy phát triển của kinh tế thị trường định hướng XHCN, đẩy mạnh hội nhập

kinh tế quốc tế của Việt Nam.

Quá trình thực hiện CPH DNNN đã đạt được những kết quả bước đầu

rất quan trọng, khẳng định sự đúng đắn, sáng tạo trong chủ trương sắp xếp,

đổi mới DNNN của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, tốc độ CPH DNNN còn

chậm so với yêu cầu đặt ra; bên cạnh những chuyển biến tích cực trong tổ

chức hoạt động sản xuất - kinh doanh của công ty cổ phần, cũng đã nảy sinh

nhiều vấn đề vướng mắc cần tháo gỡ.

Có những vấn đề mới phát sinh, nếu không giải quyết kịp thời, sẽ ảnh

hưởng không chỉ đến các DNNN đã CPH mà còn ảnh hưởng đến tiến trình

CPH những DNNN còn lại. Thực tiễn đang đòi hỏi Đảng và Nhà nước nói

chung, bộ, ngành, các nhà nghiên cứu, các nhà kinh tế nói riêng tập trung

công sức, trí tuệ để nâng cao chất lượng hoạt động của DNNN sau CPH. Do

4

đó “Hoạt động của doanh nghiệp nhà nƣớc sau cổ phần hóa ở nƣớc ta

hiện nay” được chọn làm đề tài của luận văn này.

2. Tình hình nghiên cứu

Tuy Việt Nam tiến hành thí điểm CPH DNNN từ năm 1992, nhưng

hiện nay nó vẫn mang tính thời sự. Đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập

đến vấn đề CPH DNNN. Như: “Cơ sở khoa học của việc chuyển một số

DNNN thành CTCP ở Việt Nam”- Chương trình khoa học cấp Nhà nước mã

số KX 03.07.05 do Bộ Tài chính chủ trì năm 1993; “CTCP và chuyển DNNN

thành CTCP”- Sách chuyên khảo do PTS Đoàn Văn Hạnh biên soạn, NXB

Thống kê, Hà Nội, 1998; “Tiến trình và triển vọng CPH DNNN ở Việt Nam”

tác giả Trần Công Bảng đăng trên Tạp trí Kinh tế phát triển tháng 3/1998;

“Thách thức và triển vọng đối với DNNN khi chuyển sang hoạt động theo

luật DN (năm 2005)” của tác giả Hồ Xuân Hùng đăng trên Tạp Chí Cộng Sản

tháng 7/2006; “Đẩy mạnh cổ phần hóa DNNN ở nước ta”- Luận văn thạc sĩ

của Đặng Ngọc Hiếu, 2006. Những công trình nghiên cứu đó tuy đề cập đến

nhiều khía cạnh khác nhau của quá trình CPH DNNN, nhưng tập trung nghiên

cứu về tiến trình CPH DNNN; hoặc mang tính tổng kết theo giai đoạn của

tiến trình CPH. Có rất ít công trình nghiên cứu, tổng kết những thành tựu, hạn

chế và nguyên nhân của nó ở DNNN sau CPH, nhất là những vấn đề kinh tế,

xã hội đặt ra cho DNNN đã thực hiện CPH ở nước ta hiện nay. Trên cơ sở kế

thừa những thành tựu khoa học của các công trình nghiên cứu trước đây, luận

văn tập trung làm rõ triển vọng và những vấn đề đặt ra đối với DNNN sau

CPH. Từ đó, luận văn đề xuất những phương hướng; giải pháp để nâng cao

hiệu quả sản xuất, kinh doanh của DNNN sau CPH ở nước ta.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

* Mục đích của luận văn:

5

Khái quát những thành tựu, hạn chế và những vấn đề đặt ra của DNNN

trong và sau khi CPH; trên cơ sở đó luận giải những phương hướng và giải

pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN sau CPH ở nước ta hiện

nay.

* Nhiệm vụ của luận văn:

- Đánh giá những thành tựu và hạn chế của DNNN sau CPH ở nước ta

trong những năm qua.

- Đề xuất những phương hướng và giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt

động của DNNN sau CPH ở nước ta hiện nay.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Quán triệt những vấn đề lý luận và thực tiễn; những vấn đề kinh tế và

tổ chức, để nghiên cứu, phân tích dưới góc độ kinh tế chính trị học hoạt động

của DNNN trong quá trình CPH. Đồng thời đề tài tập trung chủ yếu vào việc

phân tích hoạt động của DNNN sau CPH ở nước ta hiện nay để đề xuất những

phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của DNNN sau

CPH ở nước ta hiện nay.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện

chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và những phương pháp đặc trưng của kinh tế

chính trị học như phương pháp trừu tượng hóa khoa học, lôgíc kết hợp với

lịch sử, phân tích và tổng hợp để thực hiện những nhiệm vụ của đề tài đặt ra.

Phạm vi nghiên cứu của đề tài khá rộng, cần quán triệt sâu sắc quan

điểm của Đảng về CPH DNNN, các vấn đề nghiên cứu phức tạp, trong khi

khảo sát, nghiên cứu thực tế, luận văn sử dụng các phương pháp như: phương

pháp điều tra thống kê - so sánh, phương pháp phân tích, tổng hợp, quy nạp...

để làm sáng tỏ các nội dụng của đề tài.

6

6. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

gồm 2 chương, 6 tiết.

Chương 1: Những thành tựu và hạn chế của các doanh nghiệp nhà nước

và quá trình cổ phần hóa ở Việt Nam.

Chương 2: Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt

động của doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa ở Việt Nam.

7

Chƣơng 1

NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP

NHÀ NƢỚC VÀ QUẤ TRÌNH CỔ PHẦN HÓA Ở VIỆT NAM

1.1. Một số vấn đề lý luận về công ty cổ phần và cổ phần hóa doanh

nghiệp nhà nƣớc

Từ nửa cuối thế kỉ XIX trong lòng chủ nghĩa tư bản với chế độ sở hữu

tư nhân về tư liệu sản xuất đang thống trị đã bắt đầu xuất hiện một loại hình xí

nghiệp mới - xí nghiệp cổ phần hay công ty cổ phần, mà sở hữu trong đó là

của các cổ đông .

Trong tập III Bộ “ Tư bản” [37] Mác và Ăng-ghen đã tiên đoán về hai

khuynh hướng quan trọng của sự xuất hiện các công ty cổ phần trong xã hội

tư sản :

Thứ nhất, dưới chủ nghĩa tư bản, C.Mác chỉ ra rằng công ty cổ phần ra

đời là sự manh nha của một hình thức sản xuất mới, sẽ đưa đến việc lập ra chế

độ độc quyền và đưa đến sự can thiệp của nhà nước tư sản. Khi xuất bản tác

phẩm này (1894) Ph. Ăng-ghen có bổ sung thêm một số ý như: Các-ten ra đời

xoá bỏ tự do cạnh tranh. Trong một số ngành mà trình độ sản xuất cho phép

làm được, người ta đi đến tập hợp toàn bộ sản xuất của ngành đó vào một

công ty cổ phần lớn duy nhất có một sự lãnh đạo thống nhất ( ví dụ, sản xuất

a-mô-ni-ắc của cả nước Anh vào tay một hãng duy nhất, tư bản lưu động được

đưa ra mời công chúng góp). Chính trong quá trình này sẽ phát sinh ra một

loại ăn bám mới,- “quí tộc tài chính” mới và cả một hệ thống “lừa đảo” và

“bịp bợm” về việc sáng lập, phát hành và buôn bán cổ phiếu.

Sự xuất hiện công ty cổ phần lần đầu tiên trong lịch sử của phương thức

sản xuất tư bản chủ nghĩa đã làm cho quyền sở hữu tư bản hoàn toàn tách rời

8

với chức năng của tư bản trong quá trình tái sản xuất thực tế. Tiền công lao

động của người quản lý cộng với lợi nhuận doanh nghiệp về tay nhà tư bản cổ

phần, tức là các cổ đông, được thu về dưới dạng lợi tức cổ phần.Thực chất

đây là tiền thù lao trả cho quyền sở hữu tư bản, biến những người sở hữu tư

bản thành những người sở hữu thuần tuý, nghĩa là những nhà tư bản - tiền tệ

thuần tuý. Những đặc điểm cổ điển của nhà tư bản đã được biến đổi thành

một người chỉ giản đơn điều khiển và quản lý tư bản của những người khác.

Thứ hai, xuất hiện những tiền đề thủ tiêu tư bản với tư cách là sở hữu

tư nhân ở ngay trong những giới hạn của bản thân phương thức sản xuất tư

bản chủ nghĩa. Các công ty cổ phần là điểm quá độ để biến tất cả các chức

năng của quá trình tái sản xuất hiện còn gắn liền với quyền sở hữu tư bản đơn

giản thành những chức năng của những người sản xuất liên hiệp, tức là thành

những chức năng xã hội. Công ty cổ phần ra đời là sự thủ tiêu phương thức

sản xuất tư bản chủ nghĩa ngay trong lòng phương thức sản xuất tư bản chủ

nghĩa. Ở đó, xuất hiện mâu thuẫn tự nó lại thủ tiêu nó và đây chính là giai

đoạn quá độ sang một phương thức sản xuất mới: “ một phương thức sản xuất

mới này phải nảy ra và phát triển trên cơ sở một phương thức sản xuất

cũ”[38].

Theo C.Mác, chính bản thân những công ty cổ phần của công nhân

như là một loại nhà máy hợp tác, và đây chính là một lỗ thủng đầu tiên trong

hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa. Sự đối kháng giữa lao động làm thuê và

chủ tư bản đã được xoá bỏ trong phạm vi những nhà máy hợp tác đó; mặc dầu

ban đầu nó chỉ được xóa bỏ bằng cách biến những người lao động liên hiệp

thành những “nhà tư bản” với chính bản thân mình. Nghĩa là cho họ“ có thể

dùng tư liệu sản xuất để bóc lột lao động của chính họ”.

Thực chất của quá trình hình thành các công ty cổ phần là sản

xuất tư nhân không còn có sự kiểm soát của quyền sở hữu tư nhân. Những tư

9

liệu sản xuất này sẽ không còn là tư liệu và sản phẩm của nền sản xuất tư

nhân nữa, mà sẽ chỉ có thể là tư liệu sản xuất trong tay những người sản xuất

liên hiệp, tức là chỉ có thể là sở hữu xã hội của họ, cũng như chúng là sản xuất

xã hội của họ.

C. Mác đã nhận xét: "Trong các CTCP, chức năng tư bản tách rời

quyền sở hữu tư bản; và do đó lao động cũng vậy, nó hoàn toàn tách rời với

quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và về lao động thặng dư. Đó là kết quả của

sự phát triển cao nhất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, là điểm quá độ tất

nhiên để tư bản lại chuyển thành sở hữu của những người sản xuất, nhưng

không phải với tư cách là sở hữu tư nhân của những người sản xuất riêng lẻ

nữa, mà với tư cách là sở hữu của những người sản xuất liên hiệp, thành sở

hữu xã hội trực tiếp" [38, tr.668].

Cả hai khuynh hướng trên, tức là những xí nghiệp cổ phần tư bản chủ

nghĩa, cũng như những nhà máy hợp tác, theo C.Mác, đều phải được coi là

những hình thái qua độ từ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sang

phương thức sản xuất tập thể. Nhưng điểm khác nhau căn bản giữa hai

khuynh hướng trên là trong xí nghiệp cổ phần tư bản chủ nghĩa, mâu thuẫn

được giải quyết một cách tiêu cực, còn trong những nhà máy hợp tác, mâu

thuẫn được giải quyết một cách tích cực.

Thời đó, C.Mác cũng đã đề cập đến các xí nghiệp của các nhà nước tư

sản cũng có thể trở thành các công ty cổ phần để tăng thêm quy mô sản xuất

của chúng. Vì rằng, công ty cổ phần ra đời đã làm cho quy mô sản xuất có thể

được tăng lên, mở rộng một cách to lớn, đến nỗi những tư bản riêng lẻ không

thể làm nổi. Ngay cả những xí nghiệp của nhà nước (của chính phủ) cũng

được tổ chức thành công ty cổ phần, tham gia vào công ty cổ phần.

Trong quá trình phát triển lịch sử của chủ nghĩa tư bản, do những điều

chỉnh thích nghi để bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản, cố gắng duy trì sự tồn

10

tại của chủ nghĩa tư bản trên thế giới nên khuynh hướng thứ nhất đã trở nên

mạnh mẽ hơn. Chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn tự do cạnh tranh đã chuyển

thành chủ nghĩa tư bản độc quyền, tức chủ nghĩa đế quốc.

Ở các tác phẩm V.I.Lê-nin, các hình thức của công ty cổ phần ít được

bàn đến, ngay cả trong quá trình thực hiện chính sách kinh tế mới. Quá trình

này, V.I.Lê-nin đã đề cập rất nhiều đến CNTB độc quyền Nhà nước và sự vận

dụng sáng tạo trong điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nước Nga (thành phần

kinh tế CNTB nhà nước). Trong đó, V.I.Lê-nin cho rằng, việc nhà nước Xô-

viết có thể chỉ cần nắm khoảng 25% cổ phần là có thể chi phối được các cổ

đông tư nhân khác trong các xí nghiệp thuộc thành phần kinh tế chủ nghĩa tư

bản Nhà nước. Một luận điểm rất đáng lưu ý của V.I.Lê-nin những năm 20

của thế kỷ XX về các hình thức hợp tác xã được thể hiện trong tác phẩm “Bàn

về chế độ hợp tác xã” là dưới CNTB tư nhân, xí nghiệp hợp tác xã khác với xí

nghiệp TBCN, cũng như xí nghiệp tập thể khác với xí nghiệp tư nhân. Dưới

CNTB Nhà nước, xí nghiệp hợp tác xã khác với xí nghiệp TB Nhà nước,

trước hết ở chỗ nó là xí nghiệp tư nhân, sau nữa ở chỗ nó là xí nghiệp tập thể.

Dưới chế độ hiện nay của chúng ta, xí nghiệp hợp tác xã khác với xí nghiệp

TB tư nhân ở chỗ nó là xí nghiệp tập thể, nhưng nó không khác với xí nghiệp

XHCN, nếu miếng đất trên đó nó được xây dựng và những tư liệu sản xuất

đều thuộc về Nhà nước, nghĩa là về giai cấp công nhân [39].

Như vậy, chứng tỏ sự xuất hiện công ty cổ phần về mặt lịch sử là bước

tiến từ sở hữu tư nhân lên sở hữu tập thể của các cổ đông. Còn ở nước ta, việc

thiết lập mới các công ty cổ phần hay Cổ phần hoá một số doanh nghiệp Nhà

nước hiện nay không phải là tư nhân hoá mà là sự hình thành các doanh

nghiệp đa sở hữu cho mọi thành phần kinh tế có thể tham gia, hợp tác cùng

chia sẻ trách nhiệm, chia sẻ rủi ro thị trường và cùng hưởng lợi trong điều

kiện có Đảng Cộng sản lãnh đạo, Nhà nước XHCN quản lý.

11

Ở nước ta, ngoài quá trình hình thành các công ty cổ phần từ những cổ

đông là các chủ sở hữu vốn tư nhân lập nên theo Luật Doanh nghiệp, thì quá

trình Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước, - một bộ phận rất quan trọng các

công ty cổ phần được hình thành từ những Doanh nghiệp Nhà nước có chế độ

sở hữu của toàn dân mà người đại diện cho chủ sở hữu toàn dân đó là Nhà

nước.

Chủ trương của Đảng về việc triển khai tích cực và vững chắc cổ phần

hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước từ ĐHVIII của Đảng đã khẳng định

cổ phần hoá “…không phải để tư nhân hoá”. Thế nhưng, chính sự khác nhau

về quá trình dẫn đến sự hình thành các Công ty cổ phần theo trình tự khách

quan và trong thực tiễn cải cách doanh nghiệp nhà nước ở nước ta đã làm cho

không ít người (kể cả trong và ngoài nước) lầm tưởng rằng, cổ phần hoá

doanh nghiệp Nhà nước là tư nhân hoá. Những nhận thức như vậy, cùng với

những vướng mắc và thiếu sót, lệch lạc trong quá trình cổ phần hoá đang có

tác động không thuận đến quá trình tiến hành cổ phần hoá trên thực tế với các

biểu hiện như sau:

Việc bán cổ phần thiếu công khai, minh bạch còn khép kín trong nội bộ

doanh nghiệp ở một số trường hợp đã dẫn tới những yếu kém của doanh

nghiệp Nhà nước sau cổ phần hóa và chậm được khắc phục.

Chần chừ không muốn cổ phần hoá để cố trì hoãn sự tồn tại của doanh

nghiệp Nhà nước với mục đích đeo bám lấy “bầu sữa” của bao cấp, không

dám nghĩ, dám làm, mặc dù hiệu quả hoạt động thấp, kéo dài nhiều năm.

Không ít cán bộ cấp trên sợ mất quyền quản lý đối với doanh nghiệp

trực thuộc, vì gắn với nó là lợi ích cá nhân, cục bộ.

12

Tìm cách đánh giá sai, thiếu công tâm, khách quan giá trị thực với số

tài sản có của Doanh nghiệp Nhà nước thuộc diện cổ phần hoá theo hướng có

lợi cho một số cá nhân.

Khi tiến hành cổ phần hoá xong, tìm mọi cách để thôn tính dần số cổ

phiếu của cổ đông là Nhà nước, mua gom số cổ phiếu khác dưới nhiều thủ

đoạn rất tinh vi dẫn đến thâu tóm quyền lực, thao túng công ty cổ phần dưới

nhiều hình thức.

Lo ngại rằng sau khi công nhân được bán ưu đãi cổ phiếu sẽ đem bán

cổ phiếu cho những người đầu cơ cổ phiếu.

Lo sợ các công ty, các nhà tư bản nước ngoài đầu cơ cổ phiếu để thao

túng doanh nghiệp cổ phần hoá mà không hiểu rằng, chỉ có một số doanh

nghiệp Nhà nước khi được đưa vào thực hiện cổ phần hoá, thì trong đó cũng

đã quy định một lượng cổ phiếu nhất định được bán ra bên ngoài và khống

chế tỷ lệ phần trăm cổ phiếu tối đa của một cổ đông được quyền nắm giữ với

mục đích là để huy động thêm vốn, công nghệ và kĩ thuật quản lý sản xuất,

kinh doanh, thị trường...

Lo ngại cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước sẽ dẫn đến “chệch hướng”,

mà không nhận thức được rằng, nếu không có giải pháp hữu hiệu để đẩy

nhanh tốc độ phát triển của đất nước thì tụt hậu xa hơn về kinh tế cũng là một

nguy cơ đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Những biểu hiện trên không phải không có cơ sở, nhưng không thể vì

những lo ngại đó và vì những lợi ích cục bộ mà chần chừ thiếu kiên quyết

“đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá và mở rộng diện các doanh nghiệp Nhà nước

cần cổ phần hoá” như nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 (khoá IX) và chỉ thị

45/ CT - TW của Đảng đã chỉ rõ. Cần khẳng định rằng trong điều kiện Đảng

lãnh đạo và Nhà nước quản lý, cổ phần hoá ở nước ta về bản chất không phải

13

là tư nhân hoá.Tuy nhiên, chúng ta cần tăng cường chỉ, đạo kiểm tra, tổng kết,

rút kinh nghiệm quá trình cổ phần hoá vừa qua, uốn nắn kịp thời những lệch

lạc, hoàn thiện cơ chế, chính sách để thực hiện ngày càng tốt hơn, hiệu quả

hơn công tác cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước.

Mặt khác, phải thấy rằng quá trình CPH một số DNNN ở nước ta, tuy

là quá trình chuyển đổi một bộ phận thuộc sở hữu xã hội, sở hữu toàn dân

thành đa sở hữu, nhưng về bản chất đây là một nội dung quan trọng của quá

trình hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực

lượng sản xuất). Cụ thể là tìm tòi hình thức quản trị CTCP vừa phát huy

quyền lợi thiết thân và trách nhiệm đầy đủ của người lao động, cổ đông, hội

đồng quản trị của công ty cổ phần vừa bảo đảm quản lý một cách dân chủ,

nâng cao hiệu quả sử dụng những tài sản của doanh nghiệp, trong đó có một

phần đáng kể hay cổ phần chi phối sở hữu nhà nước.

Từ sở hữu của của một chủ sở hữu là nhà nước đối với tài sản của

doanh nghiệp sau khi chuyển sang CTCP thì chuyển thành hình thức đa sở

hữu, nhưng tựu chung cũng chỉ có một số hình thức cụ thể như sau:

Các hình thức cổ phần hóa trong đó nhà nước đều có tham gia cổ phần,

như giữ nguyên giá trị của doanh nghiệp, kêu gọi thêm vốn bằng cách phát

hành cổ phiếu; hoặc vừa bán một phần vốn vừa phát hành thêm cổ phiếu;

Bán một phần tài sản của doanh nghiệp dưới hình thức bán cổ phiếu;

CPH một bộ phận của doanh nghiệp tuỳ theo đặc thù của quy trình

công nghệ, CPH một công ty hoặc một tổng công ty.

Các hình thức cổ phần hóa nêu trên đều có tỷ trọng sở hữu của nhà

nước hoặc là nhà nước nắm giữ cổ phiếu không chế (tối thiểu 51%) hoặc

không nắm giữ cổ phiếu khống chế, hoặc không cần nắm giữ cổ phần.

14

Loại hình doanh nghiệp cổ phần hóa mà Nhà nước lấy lại toàn bộ vốn

bằng cách bán toàn bộ doanh nghiệp cho người lao động.

Chúng ta biết rằng dù dưới hình thức nào khi chuyển sang công ty cổ

phần là tạo ra các doanh nghiệp đa sở hữu, trong đó người lao động có sở hữu

thực sự, từ đó tạo ra quyền làm chủ đích thực của họ đối với doanh nghiệp.

Khi có lợi ích thiết thân của chính họ, sự giám sát tập thể đối với quá trình

hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ được tăng cường và chính quá trình này

cũng tạo ra cơ chế phân phối hài hoà giữa nhà nước, doanh nghiệp và người

lao động. Trên cơ sở đó hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ có

điều kiện nâng dần lên. Trong tương lai sở hữu cổ phần sẽ trở thành phổ biến

trong xã hội, thì vai trò làm chủ của người lao động dưới hình thức “tham dự”

cổ phiểu đối với sở hữu xã hội về vốn và tư liệu sản xuất, hi vọng, sẽ khắc

phục được những hạn chế của hình thức sở hữu toàn dân theo kiểu “vô chủ”

như đã từng diễn ra.

Như vậy, về mặt lý luận, chúng ta có thể chứng minh được rằng nội

dung và bản chất quá trình cổ phần hoá ở nước ta không phải là tư nhân hoá.

Riêng hình thức thứ tư, bán toàn bộ tài sản doanh nghiệp, ý kiến cho đây là tư

nhân hóa dựa vào mấy lý do sau: Trước hết, về mặt hình thức là bán toàn bộ

tài sản nhà nước cho cá nhân; tiếp theo là giả sử người lao động nắm cổ phần

rồi nhưng sau một thời gian do quá trình trao đổi tích tụ, đầu cơ trên thị

trường chứng khoán nên số cổ phiếu ấy có thể sẽ dồn lại cho một số ít các cá

nhân. Điều lo ngại đó là chính đáng, nhưng cũng phải thấy rằng, trong kinh tế

thị trường quyền bán là có thể quy định được bằng các văn bản pháp luật,

nhưng giá trị của cổ phiếu lại hoàn toàn lệ thuộc vào hiệu quả hoạt động của

công ty cổ phần, nó có thể lên đến hàng trăm lần giá giao dịch ban đầu, nhưng

cũng có thể chỉ còn là một mớ “giấy lộn” nếu doanh nghiệp tiếp tục hoạt động

kém hiệu quả dẫn đến nguy cơ phá sản.

15

Tinh thần chỉ đạo của các Nghị quyết Hội nghị TW 3 và 9 (Khoá IX)

cũng như hoạch định chính sách, những vấn đề nêu lên trong quá trình cổ

phần hoá đã được lường trước và đã tính đến việc làm sao dành một phần vốn

của Nhà nước để lại cho doanh nghiệp trong quá trình bán nhằm tạo ra một

lượng cổ phiếu không chia dành cho người lao động (nghĩa là vốn Nhà nước

nhưng được hưởng cổ tức)…

Theo đó Nhà nước giành 30% tài sản của doanh nghiệp để hình thành

các cổ phần ưu đãi cho người lao động. Điều này trong thực tế hiện nay các

doanh nghiệp được cổ phần hoá thì tỷ lệ đó thậm chí còn cao hơn khi tạo ra

các cổ phiếu không chia.

Như vậy, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước chính là tạo điều kiện

cho Nhà nước tập trung nắm những ngành, những lĩnh vực then chốt của nền

kinh tế, cũng như những lĩnh vực mà khu vực kinh tế tư nhân không thể hoạt

động hiệu quả được. Và như vậy, bán toàn bộ tài sản chỉ được áp dụng đối với

những ngành, những lĩnh vực, những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần

nắm giữ. Nhà nước bán doanh nghiệp là nhằm thu hồi vốn về cho Nhà nước.

Quan điểm khi thực hiện cổ phần hoá là lĩnh vực nào các thành phần kinh tế

khác có khả năng đem lại hiệu quả cao hơn so với doanh nghiệp nhà nước mà

Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn thì mạnh dạn thực hiện bởi Đảng ta

coi các thành phần kinh tế đều là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế nhiều thành

phần là để không ngừng nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của các

thành phần kinh tế, tạo môi trường kinh doanh, - sân chơi do Nhà nước tạo ra,

bảo đảm sự bình đẳng trong cạnh tranh để đạt được hiệu quả cao, phát triển

nhanh và bền vững của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

Việc phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước chính là để bảo

đảm chắc chắn cho mục tiêu phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững nền kinh

16

tế quốc dân. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (Khoá IX) nêu rõ: “Kinh tế

nhà nước có vai trò quyết định trong giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa,

ổn định và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước”. Bởi vậy, có thể

nói, gấp rút nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh của chính

bản thân doanh nghiệp Nhà nước là để góp phần thực hiện tốt mục tiêu trên.

Những biện pháp, giải pháp mà Trung ương đã đề ra có chung một mục tiêu

như vậy. Chương trình hành động của Chính phủ, các đề án sắp xếp, đổi mới,

nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước của các ngành, các địa phương đã

đưa ra lộ trình cụ thể. Hy vọng rằng tới đây cùng với việc thực hiện thành

công 104 đề án sắp xếp đổi mới doanh nghiệp nâng cao hiệu quả của doanh

nghiệp nhà nước; cũng như rà soát và xem xét các lĩnh vực mà doanh nghiệp

Nhà nước cần nắm giữ theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9

(Khoá IX) của Đảng và Quyết định số 155QĐ/TTg ngày 24/8/2004 của Thủ

tướng Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương sẽ tạo điều kiện tốt hơn để các

doanh nghiệp nhà nước nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh

tranh cùng với khả năng hội nhập kinh tế quốc tế.

1.2. Tình hình doanh nghiệp nhà nƣớc ở Việt Nam trƣớc cổ phần

hóa

1.2.1. Khái niệm về doanh nghiệp nhà nƣớc

Mọi nhà nước đều có chức năng kinh tế. Chức năng này được thực hiện

ở mức độ khác nhau, tuỳ theo giai đoạn phát triển. Nhìn chung, chức năng

kinh tế của nhà nước luôn gắn liền và thể hiện qua các hoạt động kinh tế của

Nhà nước trên cơ sở tiềm lực vật chất của Nhà nước. Nhà nước cần có lực

lượng vật chất mạnh trong tay để điều tiết sự phát triển của toàn bộ nền kinh

tế, làm cho nền kinh tế phát triển theo hướng đã định. DNNN là một lực

lượng có vai trò, vị trí rất quan trọng của Nhà nước để thực hiện sự điều tiết

ấy.

17

Trên thế giới, quan niệm về DNNN cũng rất khác nhau. Hiện nay,

nhiều nhà kinh tế trên thế giới quan niệm rằng, DNNN là thực thể kinh tế

thuộc sở hữu hay thuộc quyền kiểm soát của Chính phủ mà phần lớn thu nhập

của nó được tạo ra thông qua việc bán các hàng hoá và dịch vụ.

Trong điều kiện cơ chế kế hoạch hoá tập trung, DNNN ở Việt Nam-

được gọi là DN quốc doanh, chiếm vai trò độc tôn trong nền kinh tế. Đây là

DN hạch toán kinh tế theo nguyên tắc “bao cấp”. Khi chuyển sang cơ chế thị

trường định hướng XHCN, việc cải cách, đổi mới cơ chế đối với DNNN luôn

là vấn đề trọng tâm. Kết quả là các DNNN không những thay đổi về nguyên

tắc hỗ trợ, cơ chế và hạch toán mà còn thay đổi cả cơ cấu sở hữu, phát triển

một số hình thức đan xen sở hữu mới. Do vậy, Luật DNNN ban hành ngày

30/4/1995, lần đầu tiên Việt Nam đã đưa ra khái niệm có tính pháp lý về

DNNN là: DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ

chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện

các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao. DNNN có tư cách pháp nhân,

có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động,

kinh doanh trong phạm vi số vốn do DN quản lý.

Luật Doanh nghiệp nhà nước (năm 2003) định nghĩa: Doanh nghiệp

nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có

cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước,

công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn [43] .

Luật Doanh nghiệp (năm 2005) áp dụng chung cho tất cả các loại hình

doanh nghiệp, định nghĩa DN là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ

sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật

nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Trong số nhiều loại hình

doanh nghiệp thuộc sự điều tiết của Luật Doanh nghiệp thì Doanh nghiệp nhà

nước là doanh nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ [43].

18

Xét về mặt lịch sử, khái niệm về DNNN đã có nhiều thay đổi. Quá trình

hình thành và phát triển DNNN ở Việt Nam từ khi giành được độc lập ở miền

Bắc năm 1954 và thống nhất đất nước năm 1975 cho đến thời kỳ trước đổi

mới, gắn liền với lịch sử đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng CNXH

theo mô hình kế hoạch tập trung, quan liêu bao cấp. Đầu tiên, các DNNN

được hình thành từ việc quốc hữu hoá các xí nghiệp tư bản tư nhân hoặc tiếp

quản các DN của chính quyền cũ để lại. Một số DN trong quá trình cải tạo

XHCN theo mô hình công - tư hợp doanh, mặc dù không được quốc hữu hoá

trực tiếp bằng pháp lý, nhưng trên thực tế do áp đặt cơ chế kiểu quốc doanh

dần dần cũng bị biến thành DNNN. Tuy nhiên, số lượng các DNNN loại này

không nhiều và trên thực tế sau khi trở thành DNNN đã được Nhà nước tiếp

tục đầu tư phát triển mạnh về quy mô. Loại thứ hai được hình thành do Nhà

nước đầu tư trực tiếp từ ngân sách nhà nước hoặc vốn viện trợ xây dựng mới.

Các DNNN thuộc lĩnh vực này dần dần chiếm lĩnh các ngành kinh tế công

nghiệp và dịch vụ quan trọng. Các DNNN thuộc lĩnh vực công nghiệp này sử

dụng công nghệ và thiết bị chủ yếu là ngoại nhập (chủ yếu từ hệ thống các

nước XHCN (cũ), nhất là Liên Xô (cũ) và Trung Quốc). Trong lĩnh vực nông,

lâm nghiệp, các DNNN được thành lập ở các địa bàn ít dân cư, cần khai thác

tài nguyên đất, rừng với các ngành nghề khác nhau, chủ yếu là trồng và khai

thác gỗ, các cây công nghiệp dài ngày. Các DNNN do chính quyền địa

phương đầu tư vào giữa thập kỷ 80 thế kỷ XX, chủ yếu thuộc lĩnh vực thương

mại, dịch vụ, cơ khí sửa chữa, hầu hết có quy mô nhỏ, năng suất, chất lượng,

hiệu quả hoạt động không cao.

Nhìn chung, đến năm 1990, với 12.084 DNNN chiếm giữ hầu như toàn

bộ các ngành công nghiệp: năng lượng như điện lực, dầu khí,…; khai khoáng,

luyện kim, chế tạo máy, dược phẩm, sản xuất xi măng, phân bón, thuốc trừ

sâu, hoá chất, công nghiệp phục vụ quốc phòng. Trong các ngành sản xuất

19

hàng tiêu dùng thiết yếu, DNNN cũng chiếm tỷ lệ áp đảo, như vải: 70%, giấy:

85%, xe đạp: 70%, xà phòng: 60%. Các ngành xây dựng, vận tải gồm hàng

không, đường sắt, đường biển, xuất nhập khẩu,… DNNN chiếm tuyệt đối

(độc quyền)

1.2.2. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp nhà nƣớc

trƣớc cổ phần hóa

1.2.2.1. Kinh tế nhà nước là lực lượng mạnh và nắm giữ những khâu

then chốt trong nền kinh tế quốc dân

Tuy hệ thống DNNN có sự thu gọn đầu mối, nhưng tốc độ tăng trưởng

của nó vẫn cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của cả nền kinh tế quốc dân và

cao hơn tốc độ của khu vực tư nhân (không kể khu vực đầu tư nước ngoài).

DNNN cũng thể hiện được vị trí tiên phong ở các lĩnh vực kết cấu hạ tầng,

đầu tư mới, xuất nhập khẩu, hợp tác với nước ngoài,… và có đóng góp lớn

vào thành công của Việt Nam trong kiểm soát lạm phát, đối phó với ảnh

hưởng tiêu cực của khủng hoảng tài chính, tiền tệ thế giới cũng như nâng cao

mức sống cho người dân. Thông qua đầu tư của Nhà nước vào các vùng sâu,

vùng xa, nhất là vùng đồng bào dễ bị tổn thương do thiên tai, dịch bệnh... đã

tạo được điều kiện mở mang ngành nghề, nâng cao thu nhập, chuyển dịch cơ

cấu kinh tế, phân bố lại dân cư theo hướng CNH, HĐH, thúc đẩy kinh tế hàng

hoá phát triển, từng bước hình thành các vùng nông thôn kiểu mới. Có nhiều

DNNN làm ăn có lãi, đạt lợi nhuận cao, được suy tôn là đơn vị anh hùng thời

kỳ đổi mới, thực sự là tấm gương cho các thành phần kinh tế khác. Kinh tế

Nhà nước luôn được đánh giá là nền tảng cho công cuộc đổi mới của nước ta.

1.2.2.2. Những yếu kém và bất cập của khu vực kinh tế nhà nước

Một là, năng lực cạnh tranh, hiệu quả chung của khu vực kinh tế nhà

nước chưa cao, thậm chí còn xuất hiện xu hướng giảm. Có nhiều ngành, sản

20

phẩm của DNNN đang được ưu đãi độc quyền, hoặc bảo hộ qua hàng rào thuế

quan, trợ cấp như ưu đãi tín dụng, miễn thuế… nhưng các DNNN vẫn chưa

chứng tỏ khả năng cạnh tranh của mình, thậm chí nhiều DN còn “nỗ lực” vận

động Nhà nước tăng cường các biện pháp bảo hộ mạnh hơn để duy trì việc

làm cho công nhân và thị phần. Theo một báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư

năm 2000, các mặt hàng như sắt thép, phân bón, kính xây dựng, động cơ nổ…

đều được bảo hộ bằng cả công cụ thuế quan và phi thuế quan dẫn đến giá trên

thị trường Việt Nam cao hơn giá quốc tế 10-50% (tuỳ mặt hàng). Việt Nam

đang tăng tốc hội nhập kinh tế quốc tế, khả năng cạnh tranh kém của nhiều

DNNN dẫn đến việc Nhà nước phải chi phí rất lớn để nhằm duy trì các

DNNN.

Tình trạng không hiệu quả của không ít DNNN đã làm cho vốn của

Nhà nước không những sử dụng không hiệu quả mà còn bị thất thoát, làm

xuất hiện những ấn tượng không tốt về khu vực kinh tế này trong công luận.

Theo một báo cáo của Ban sắp xếp, đổi mới DNNN tháng 2/2000 cho thấy về

hiệu quả sử dụng vốn của DNNN có xu hướng giảm, cụ thể: năm 1995, một

đồng vốn tạo ra được 3,46 đồng doanh thu và 0,19 đồng lợi nhuận; đến năm

1998, các con số tương ứng chỉ còn 2,9 và 0,14. Năm 1998, trong ngành công

nghiệp, một đồng vốn chỉ làm ra được 0,024 đồng lợi nhuận; số DN bị lỗ

trong ngành thương mại, dịch vụ, du lịch, khách sạn chiếm tới 41%. Công nợ

trong DNNN rất lớn: nợ phải thu chiếm tới trên 60% và nợ phải trả bằng

124% vốn Nhà nước trong DN, trong đó tỷ lệ nợ quá hạn hoặc khó đòi chiếm

tỷ lệ lớn. Những DN này thường do địa phương quản lý. Mặc dù tình hình tài

chính của các DN như vậy, nhưng Nhà nước vẫn phải thường xuyên dành tiền

hỗ trợ cho DNNN. Chỉ tính riêng trong 3 năm 1997-1999, ngân sách Nhà

nước đã đầu tư cho các DN gần 8.000 tỷ đồng, trong đó có 6.482 tỷ đồng cấp

bổ sung 1.464,4 tỷ đồng là bù lỗ cho cá DN. Ngoài ra, Nhà nước còn miễn

21

giảm thuế 2.288 tỷ đồng, xoá nợ 1.088 tỷ đồng, khoanh nợ 3.392 tỷ đồng,

giãn nợ 540 tỷ đồng, cho vay vốn tín dụng ưu đãi 8.685 tỷ đồng.

Ngoài ra, theo số liệu của Bộ Tài chính năm 1997, trong tổng số 5.429

DNNN thì số kinh doanh có hiệu quả chỉ chiếm 40,44%, việc hỗ trợ vốn của

Nhà nước không mang lại hiệu quả như mong muốn. Số nộp vào ngân sách

nhà nước ít hơn phần Nhà nước hỗ trợ cho DN. Tình trạng không hiệu quả

của DNNN làm gia tăng tính an toàn của toàn bộ hệ thống tài chính, bởi vì

các DNNN là các khách hàng vay chủ yếu của 4 ngân hàng thương mại quốc

doanh.

Hai là, cơ cấu của kinh tế Nhà nước bất hợp lý, chưa thể hiện rõ là hạt

nhân của quá trình CNH, HĐH. Cơ cấu ngành, vùng, quy mô đều chưa được

chuyển dịch theo đúng định hướng. Xét về số lượng, tỷ trọng DNNN ở khu

vực nông nghiệp chiếm 25%; thương mại, dịch vụ chiếm 40%, còn lại là công

nghiệp. Như vậy, rõ ràng cơ cấu này bất hợp lý, vì cơ cấu hợp lý đòi hỏi

DNNN chủ yếu phải tập trung vào lĩnh vực công nghiệp, nhất là công nghiệp

chế biến, chế tạo. Cơ cấu cấp cũng bất hợp lý, thể hiện ở chỗ tỷ trọng DN

thuộc địa phương quá cao, chiếm trên 60% về số lượng. Ngay cả quy mô cũng

bất hợp lý. Cụ thể, tính đến ngày 1/9/1999, số DNNN có quy mô dưới 5 tỷ

đồng chiếm đến 65%, trong đó gần 3/4 là DN do địa phương quản lý, có

1.314 DN (23%) có vốn dưới 1 tỷ đồng. Số DN có vốn trên 10 tỷ đồng chỉ

chiếm 21%.

Tuy kinh tế nhà nước được coi là “nòng cốt” của nền kinh tế, nhưng

phạm vi hoạt động của kinh tế nhà nước vẫn còn những tranh luận, chưa có sự

thống nhất, vai trò của kinh tế nhà nước chưa rõ, làm cho việc nâng cao hiệu

quả hoạt động của DNNN gặp không ít lúng túng. Do chưa xác định rõ những

lĩnh vực quan trọng, mũi nhọn mà các DNNN cần nắm giữ và những lĩnh vực

nào DNNN cần tập trung thực hiện trước, làm cho việc đầu tư bị dàn trải gây

22

ra sự lãng phí không nhỏ trong khu vực DNNN. Công nghệ trong khu vực

kinh tế nhà nước nhìn chung còn lạc hậu, tốc độ đổi mới chậm. Mặt khác, đa

phần cán bộ trong khu vực kinh tế nhà nước chưa được trang bị những kiến

thức về kinh tế thị trường và năng lực quản lý yếu.

Ba là, tình trạng “ưu ái”; đặc quyền trong một số DNNN đã ngăn cản

quá trình hình thành sự bình đẳng trong nền kinh tế nhiều thành phần. Hệ quả

của việc “ưu ái” các DNNN đó là dẫn đến sự phân bổ nguồn lực không hợp

lý, lãng phí và không đạt được hiệu quả như mong muốn. Mặt khác, việc bảo

hộ một số ngành của Nhà nước làm cho luồng vốn đầu tư nước ngoài chỉ tập

trung vào việc đi tìm kiếm siêu lợi nhuận ở những ngành này. Đồng thời, với

cơ chế xin - cho, làm cho bất công trong phân phối ngân sách và tín dụng

ngày càng gia tăng và tham nhũng ngày càng nặng nề. Cùng với đó cơ chế tổ

chức cán bộ ở DNNN là bổ nhiệm các chức danh, làm cho bộ máy của DNNN

cồng kềnh, kém hiệu quả...

1.2.2.3. Nguyên nhân của những yếu kém trên

Sự điều hành của Nhà nước không đủ mạnh để ngăn chặn tình trạng

đầu tư không tính đến thị trường, không cân đối. Có những ngành hoặc địa

phương vẫn muốn tranh thủ càng nhiều vốn của Nhà nước để xây dựng những

DN, mặc dù chưa thật sự cần thiết. Ngành nào cũng cho rằng, “mình là mũi

nhọn”, cần được tập trung đầu tư. Không những thế, công việc xây dựng công

trình DNNN lại giao cho một ban quản lý dự án kém năng lực và thiếu trách

nhiệm, làm cho chất lượng công trình thấp, vốn đầu tư bị thất thoát.

Hầu hết các DNNN đều thiếu vốn trong hoạt động sản xuất, kinh

doanh, và cũng hầu hết các DN để có đủ vốn đều phải đi vay ngân hàng với

lãi suất thương mại. Vốn của Nhà nước thường chỉ chiếm khoảng 60% tổng

số vốn kinh doanh của DN, trong đó tại các tổng công ty 91 là 75%, tại các

DN do bộ, ngành quản lý là 45% và do địa phương quản lý là 50%. Xét về số

23

tuyệt đối, năm 1998, vốn nhà nước bình quân của 1 tổng công ty 91 là 3.661

tỷ đồng, nhưng có tới 14/17 tổng công ty 91 (chiếm 82%) có số vốn dưới mức

bình quân đó. Vốn của tổng công ty 90 còn thấp hơn, cụ thể bình quân 1 tổng

công ty 90 chỉ có 280 tỷ đồng, trong đó 80% số tổng công ty 90 có mức vốn

thấp hơn mức bình quân ấy; 35% số tổng công ty 90 có vốn nhà nước dưới

100 tỷ đồng. Khả năng trích lợi nhuận để lập quỹ phát triển sản xuất rất thấp.

Số vốn lưu động huy động cho kinh doanh chỉ khoảng 50%.

Trình độ công nghệ lạc hậu, phần lớn các DNNN được trang bị máy

móc từ các nước thuộc hệ thống XHCN từ những năm 50, 60 của thế kỷ 20,

và đa số chúng đã hết khấu hao.

Số lao động thiếu việc làm rất lớn. Theo báo cáo của Ban Chỉ đạo sắp

xếp, đổi mới DNNN tháng 2/2000, số lao động không có việc làm ở Hải

Dương là 33%; Nam Định 27%; Nghệ An 16%; Tổng công ty Thép 12%; Bộ

Thuỷ sản có 14% lao động dôi dư.

DN không được tự chủ về tài chính, làm cho DN không thể tự chủ

trong kinh doanh. Cơ quan chức năng quản lý tài sản của DNNN về cơ bản

vẫn đang thực hiện quyền quản lý theo kiểu cũ. Cơ chế tài chính và hạch toán

của DNNN bị những ràng buộc, chậm được sửa đổi. Những tài sản do DN tự

đầu tư từ nguồn tích luỹ hoặc vay ngân hàng để xây dựng đều bị coi là tài sản

của Nhà nước và buộc DN phải chịu thuế vốn.

Không được chủ động về nhân sự và tiền lương. DNNN vẫn không chủ

động được trong việc sắp xếp lại số lượng lao động, vì Nhà nước chưa có đủ

các chính sách phù hợp để giải quyết công ăn việc làm và đời sống của số lao

động thiếu việc làm. Chế độ tiền lương, các thang bậc lương trong DNNN vẫn

còn bất hợp lý giữa khu vực kinh doanh với khu vực hành chính sự nghiệp,…

24

Tuy đã có chủ trương xoá bỏ chủ quản, nhưng nhiều cấp, nhiều ngành

vẫn trực tiếp can thiệp vào công việc kinh doanh của DN, gây phiền hà cho

hoạt động của DNNN. Bộ máy tổ chức quản lý cồng kềnh, nhiều ban, bệ,

nhiều thủ tục hành chính rườm rà làm cho DN thiếu sự linh hoạt để đáp ứng

yêu cầu của thị trường. Nhiều DN tuy đã được sắp xếp lại trong cơ cấu tổng

công ty 90, 91 nhưng có những tổng công ty được tổ chức theo lối hành

chính, bằng số cộng đơn thuần không dựa trên tính tất yếu về kinh tế, đã

không mang lại kết quả như mong muốn. Chức năng, nhiệm vụ giữa hội đồng

quản trị với tổng giám đốc, giữa tổng công ty với bộ, UBND địa phương còn

nhiều điểm chưa được quy định rõ.

Môi trường kinh doanh chưa hoàn chỉnh, còn nhiều bất cập, nhất là hệ

thống tài chính, ngân hàng, giá cả chưa thật sự được xây dựng theo kinh tế thị

trường. Có tình trạng buộc ngân hàng cho vay theo lệnh, ngân hàng thụ động

không chịu trách nhiệm về hiệu quả vốn cho vay và thu nợ; khi gặp nợ khó

đòi thì buộc ngân hàng phải khoanh nợ, giãn nợ hoặc cho vay mới để trả nợ

cũ.

1.3. Quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc ở nƣớc ta

1.3.1. Cơ sơ lý luận và thực tiễn cổ phần hóa doanh nghiệp

nhà nước ở Việt Nam

1.3.1.1. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là một hình thức kinh tế

quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Sự phát triển nền kinh tế TBCN và các quan hệ tín dụng đã đưa tới sự

xuất hiện CTCP vào đầu thế kỷ XVII và đến nửa sau thế kỷ XIX đã được phát

triển rộng rãi theo xu hướng từ đơn giản đến phức tạp, từ qui mô nhỏ đến qui

mô lớn, từ lĩnh vực này đến lĩnh vực khác; từ một ngành đến nhiều ngành; từ

quốc gia đến quốc tế thông qua các công ty đa quốc gia.

25

Cổ phần hóa là quá trình chuyển đổi DN từ chỗ chỉ có một chủ sở

hữu thành CTCP, có nghĩa là DN có nhiều chủ sở hữu. Nhìn tổng thể, CPH

có thể diễn ra tại các DN tư nhân, công ty TNHH, công ty liên doanh và tại

các DNNN. CPH là quá trình đa dạng hoá sở hữu tại DN.

CPH DNNN là quá trình chuyển đổi DNNN thành CTCP, trong đó Nhà

nước có thể vẫn giữ tư cách là một cổ đông, tức là Nhà nước vẫn có thể là chủ

sở hữu một bộ phận tài sản của DN. CPH DNNN không chỉ là quá trình

chuyển sở hữu Nhà nước sang sở hữu của các cổ đông, mà còn có cả hình

thức DNNN thu hút thêm vốn thông qua hình thức bán cổ phiếu để trở thành

CTCP.

CTCP là một xí nghiệp mà vốn của nó được hình thành dưới hình thức

bán cổ phiếu. Người chủ sở hữu cổ phiếu gọi là cổ đông. Mỗi cổ đông có cổ

phần bằng tổng số cổ phiếu đã mua và được hưởng lợi tức từ các cổ phiếu đó

(hay là cổ tức).

Cổ phiếu là một loại chứng khoán có giá, số tiền ghi trên cổ phiếu là

mệnh giá hay giá trị danh nghĩa của cổ phiếu. Lợi tức cổ phiếu không cố định

mà phụ thuộc vào kết quả hoạt động của công ty. Giá trị thị trường của cổ

phiếu lên xuống tuỳ theo cổ tức và tỷ lệ nghịch với tỷ suất lợi tức ngân hàng.

Thị trường chứng khoán là nơi mua, bán chứng khoán có giá.

Về mặt tổ chức và quản lý, đại hội cổ đông là cơ quan tối cao bầu ra hội

đồng quản trị và quyết định phương hướng kinh doanh cùng những vấn đề

quan trọng khác trong hoạt động của công ty. Phiếu biểu quyết trong đại hội

cổ đông được quy định theo số lượng cổ phiếu.

Vào những năm đầu thế kỷ XX, dưới tác động của cuộc cách mạng

công nghiệp phải xây dựng nhiều công trình kết cấu hạ tầng như: giao thông,

điện lực, khai thác mỏ… cần rất nhiều vốn vì thế mà CTCP phát triển rất

26

nhanh. Nhờ sự ra đời của các CTCP mà vốn được tập trung nhanh chóng và

xuất hiện những công ty lớn…

Như vậy, CPH DNNN và tư nhân hoá DNNN là hai quá trình khác

nhau. Tuy vậy, trong những điều kiện nhất định, chúng có thể có điểm giống

nhau, đó là quá trình đa dạng hoá sở hữu trong DN. Mặt khác, nó tuỳ thuộc

vào quy mô chuyển đổi quyền sở hữu đối với vốn và tài sản nhà nước trong

DN mà quá trình đa dạng hoá sở hữu có thể là quá trình tư nhân hoá hay CPH.

C. Mác coi sự xuất hiện CTCP là tiền đề thủ tiêu tư bản với tư cách là

sở hữu tư nhân ở ngay trong những giới hạn của bản thân phương thức sản

xuất TBCN. Các CTCP là điểm quá độ để biến tất cả những chức năng của

quá trình tái sản xuất hiện còn gắn liền với quyền sở hữu tư bản đơn giản

thành những chức năng của những người sản xuất liên hiệp, tức là thành

những chức năng xã hội, đây chính là hình thức quá độ sang một phương thức

sản xuất mới - phương thức sản xuất Cộng sản chủ nghĩa.

1.3.1.2. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là một tất yếu khách quan

Cổ phần hoá doanh nghiệp DNNN được tiến hành ở nhiều nước. Từ

những năm 70 của thế kỷ XX, nhiều nước đã triển khai quá trình giảm bớt sự

can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế thông qua tư nhân hoá và CPH

DNNN. Nó bắt đầu từ Anh, rồi lan sang các nước công nghiệp phát triển khác

và các nước đang phát triển. Đến đầu những năm 90, quy mô tư nhân hoá và

CPH DNNN diễn ra rất mạnh, trở thành hiện tượng phổ biến, đến năm 1995,

đã có hơn 100.000 DNNN được tư nhân hoá và CPH, hơn 80 nền kinh tế cam

kết triển khai thực hiện tư nhân hoá và CPH DNNN. Cơ sở của việc xuất hiện

quá trình này là:

Một là, các DNNN phát triển tràn lan, lại không được tổ chức và quản

lý hiệu quả, nó được quản lý theo kiểu hành chính, qua nhiều cấp trung gian;

27

hệ thống kế hoạch, tài chính cứng nhắc, thiếu khả năng thích ứng với nền kinh

tế thị trường. Tính chủ động trong sản xuất, kinh doanh bị “bó buộc” bởi

nhiều quy chế xuất phát từ quyền sở hữu của nhà nước. Sự độc quyền của các

DNNN được pháp luật bảo vệ. Tất cả điều này đã làm triệt tiêu động lực kinh

tế trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của các DNNN, làm kết quả hoạt

động của chúng yếu kém triền miên.

Hai là, do hoạt động kém hiệu quả nên các DNNN đã trở thành gánh

nặng cho ngân sách nhà nước. Nhà nước phải thường xuyên sử dụng ngân

sách trợ cấp trực tiếp và gián tiếp cho chúng, điều đó dẫn đến ngân sách nhà

nước bị thiếu hụt.

Ba là, so với các DN khác, CTCP có sức sống mạnh hơn, hiệu quả kinh

tế cao hơn rõ rệt và có vai trò hết sức to lớn trong phát triển kinh tế, xã hội,

đáp ứng được yêu cầu mới của sự phát triển kinh tế thị trường. Hình thức thực

hiện chế độ sở hữu rất đa dạng, phong phú, làm tăng khả năng thu hút và sử

dụng có hiệu quả các nguồn vốn trong xã hội, tạo động lực cho sự phát triển.

* Xét về tính thực tiễn, triển khai thực hiện CPH DNNN, do những

nguyên nhân chủ yếu sau đây:

Nâng cao hiệu quả kinh doanh

Đầu thế kỷ XX, cùng với các thành tựu mới của khoa học kỹ thuật và

sự xã hội hoá cao của lực lượng sản xuất đã xuất hiện những DNNN đóng vai

trò là công cụ cho nhà nước điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, nhìn

chung các DNNN đều hoạt động kém hiệu quả. Ví dụ: ở Italia, nước có tỷ

trọng sở hữu nhà nước trong nền kinh tế cao nhất thì thâm hụt của các DNNN

là 4,5% GDP. Ở Bồ Đào Nha, khu vực kinh tế quốc doanh thua lỗ 1/3 GDP

trong khoảng thời gian từ 1974 - 1986 [54]. Các nước tư bản khác cũng đều

có hiện tượng tương tự.

28

Vì vậy, từ cuối thế kỷ XX, hầu hết các nước tư bản đều diễn ra quá

trình CPH hoặc tư nhân hoá các DNNN trên qui mô lớn với cách thức tiến

hành khác nhau. Cách thức phổ biến nhất là bán đấu giá các cổ phiếu của các

DN cho tất cả những ai muốn mua thông qua sở giao dịch chứng khoán. Hoặc

có thể bán một phần cho cá nhân, hoặc chỉ bán cho những người làm trong

DN đó.

Ở nước Anh đã bán 40% tài sản khu vực quốc doanh trị giá hơn 20 tỷ

Bảng Anh. Ở Pháp trong thời gian hơn một năm đã thực hiện 1/3 chương

trình tư nhân hoá thu được 7 tỷ Frăng. Tây Đức trong những năm 1984 - 1987

đã thực hiện bán hoàn toàn hay một phần cổ phần khống chế của nhà nước

trong hơn 50 công ty với tổng giá trị thu được trên 5 tỷ D.M [51].

Đáp ứng yêu cầu của cơ chế thị trường

Kinh tế thị trường là một hệ thống kinh tế mở trong đó các quan hệ

kinh tế đối nội, kinh tế đối ngoại không ngừng phát triển. Sự vận động của cơ

chế thị trường thông qua các quy luật kinh tế, như quy luật giá trị, quy luật

cung - cầu, quy luật cạnh tranh, đòi hỏi các DN có tính năng động và tính tự

chủ rất cao. Trong sự cạnh tranh khốc liệt của thị trường, các chủ thể sản xuất

kinh doanh không thể nắm chắc quan hệ cung - cầu và các mối quan hệ ở tầm

vĩ mô của nền kinh tế, nên cần phải có sự điều tiết của Nhà nước. Nhưng sự

can thiệp thái quá của Nhà nước vào hoạt động của các DN lại dẫn đến sự trì

trệ. Bởi vậy, xuất hiện xu hướng nới lỏng sự điều tiết của Nhà nước, theo

phương châm: "Nhà nước ít hơn, thị trường nhiều hơn". CPH DNNN là một

giải pháp để tăng tính năng động, kinh doanh và phát huy tính tích cực, tự chủ

của DN.

Ở những nước có nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp trước đây

thường phát triển tràn lan các DNNN, không tính đến hiệu quả kinh tế, khi

29

chuyển sang kinh tế thị trường, việc CPH những DN mà Nhà nước không cần

nắm 100% vốn trở thành cấp thiết.

Ở nước ta phần lớn các DNNN được hình thành từ năm 1954 ở miền

Bắc và từ 1975 ở miền Nam, là do ý chí chủ quan của các cơ quan Nhà nước

chứ không phải do yêu cầu khách quan của trình độ phát triển lực lượng sản

xuất. Đây là nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự hoạt động kém hiệu quả của hầu

hết các DN ấy.

Chúng ta không thể phủ nhận những đóng góp tích cực, những thành

tựu to lớn của các DNNN trong những năm kháng chiến, nhưng trong thời kỳ

hoà bình, nhất là khi chuyển sang kinh tế thị trường thì những vướng mắc của

các DNNN càng ngày càng tăng lên, nhiều DN đã bị phá sản. Do vậy, việc

sắp xếp lại các DNNN là vấn đề rất lớn mà Đảng và Nhà nước ta đặc biệt

quan tâm, trong đó có việc CPH một số lớn DNNN.

Huy động vốn từ các thành phần kinh tế

Vốn là một vấn đề rất hệ trọng đối với hoạt động của một DN. Phần lớn

DNNN dựa vào ngân sách và ngân hàng để có vốn, nhưng nguồn vốn từ ngân

sách ở nước ta có hạn, nhiều DNNN nợ ngân hàng chưa trả được nên khó vay

thêm, bởi vậy, việc chuyển DN thành CTCP sẽ mở rộng thu hút nguồn vốn

trong xã hội, tăng khả năng đầu tư trang thiết bị mới cho DN.

30

Tăng cường dân chủ

CPH tức là chuyển sang một hình thức hiện đại hơn, bên cạnh vai trò

Nhà nước, còn có sự tham gia của các thành phần khác. Người công nhân

tham gia mua cổ phiếu nên quyền và ý thức làm chủ của công nhân cũng được

tăng lên. Tăng quyền làm chủ của người lao động, xã hội hóa hoạt động sản

xuất, kinh doanh… chính là hướng đi tất yếu lên XHCN. Mặt khác, Nhà nước

có thể rút bớt một phần vốn do bán bớt cổ phần của Nhà nước để đầu tư chiều

sâu, cho những DN mà Nhà nước tiếp tục nắm 100% vốn, nâng cao hiệu quả

kinh doanh.

1.3.2. Quá trình hoàn thiện quan điểm của Đảng về cổ phần

hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước ta

Do nhiều năm thực thi một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan

liêu bao cấp, thậm chí quan niệm về kinh tế nhà nước và DNNN chưa có sự

thống nhất, nên trong một thời gian dài đã phát triển hệ thống DN quốc

doanh với số lượng lớn, tràn lan. Trong quá trình hoạt động, loại hình DN

này đã bộc lộ những yếu kém, bất cập. Chính vì vậy, việc đổi mới, sắp xếp

lại hệ thống DN này là một đòi hỏi tất yếu. Việc định hướng XHCN nền

kinh tế thị trường đòi hỏi phải tạo cho kinh tế nhà nước sức mạnh thực sự,

trong đó DNNN là nòng cốt để đủ khả năng điều tiết và định hướng các

thành phần kinh tế khác.

Xét về lịch sử, từ "cổ phần" đã rất quen thuộc với nhân dân ta từ trên

40 năm nay, kể từ khi Đảng ta vận động nhân dân góp cổ phần vào hợp tác

xã mua bán, hợp tác xã tín dụng,… Hợp tác xã cung ứng hàng tiêu dùng và

dịch vụ cho xã viên, tiêu thụ hàng hóa cho xã viên, chia lãi theo cổ phần (dù

rằng rất nhỏ).

31

Đại hội VI (năm 1986) của Đảng ta đã chủ trương phát triển nhất quán

kinh tế nhiều thành phần, coi đó là đặc trưng của thời kỳ quá độ, đa dạng hoá

hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, nhưng vẫn đặt vấn đề "làm cho kinh tế

quốc doanh giữ vai trò chủ đạo, chi phối được các thành phần kinh tế khác"

[30, tr.59], "chiếm tỷ trọng lớn cả trong sản xuất và lưu thông, thể hiện được

tính ưu việt" [30, tr.61].

Đại hội VII (năm 1991) nhận định kinh tế quốc doanh đang nắm các

vị trí then chốt, gần một phần ba các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh

vươn lên trong kinh doanh và thích ứng được với cơ chế mới. Nhưng điểm

yếu nhất của kinh tế quốc doanh là hiệu quả hoạt động nhìn chung còn thấp

[31, tr.235]. Đại hội đề ra nhiệm vụ khẩn trương sắp xếp lại và đổi mới kinh

tế quốc doanh, bảo đảm kinh tế quốc doanh phát triển có hiệu quả, nắm vững

những lĩnh vực và ngành then chốt để phát huy vai trò chủ đạo trong nền

kinh tế. Cho thuê và chuyển hình thức sở hữu hoặc giải thể các cơ sở thua lỗ

kéo dài và không có khả năng vươn lên [31, tr.274]. Như vậy, Đại hội VII

vẫn chưa đề xuất vấn đề CPH DNNN một cách cụ thể.

Đến Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 2 khóa VII

(11-1991), Đảng ta đã đi đến nhất quán chủ trương: "Chuyển một số DN quốc

doanh có điều kiện thành CTCP và thành lập một số công ty quốc doanh cổ

phần mới, phải làm thí điểm, chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trước

khi mở rộng trong phạm vi thích hợp". Cũng trong thời gian đó, Quốc hội

khóa VIII, kỳ họp thứ 10 (12-1991) đã đưa việc CPH DNNN vào nhiệm vụ

phát triển kinh tế - xã hội 1991-1995: "thí điểm việc CPH một số cơ sở kinh tế

quốc doanh để rút kinh nghiệm và có thêm nguồn vốn phát triển".

Như vậy, mục tiêu, đối tượng, hình thức và các chính sách CPH đã

được xác định rõ ràng hơn. Đảng và Nhà nước khẳng định CPH ở Việt Nam

không phải là tư nhân hóa vì CPH hướng tới tháo gỡ khó khăn về vốn, về cơ

32

chế cho DNNN hiện có, không nhằm thu hẹp sở hữu nhà nước trong nền kinh

tế quốc dân. Vốn thu được từ bán cổ phần, Nhà nước không được chi dùng

cho ngân sách mà để đầu tư tiếp vào nền kinh tế. Nói cách khác, thời gian này

CPH nặng về mục tiêu thu hút vốn và chuyển đổi mô hình tổ chức sản xuất

kinh doanh của DNNN hơn là thu hẹp sở hữu nhà nước. Tuy nhiên đối tượng

CPH trong giai đoạn này vẫn còn khá hẹp, chỉ bao gồm các DNNN vừa và

nhỏ, kinh doanh có lãi và Nhà nước không cần thiết giữ 100% vốn. Đối tượng

mua cổ phiếu chủ yếu là cán bộ công nhân viên trong DN, có cho phép cổ

đông trong nước ngoài DN nhưng mức độ khuyến khích chưa cao. Nguyên

tắc định giá DNNN vẫn còn chung chung, chủ yếu căn cứ vào kiểm kê giao

vốn. Người lao động trong DN CPH được mua cổ phiếu chậm trả 12 tháng.

Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII đã nêu rõ hơn

các hình thức CPH phù hợp với tính chất và lĩnh vực sản xuất - kinh doanh.

Để thu hút thêm các nguồn vốn, tạo nên động lực, ngăn chặn tiêu cực, thúc

đẩy DNNN làm ăn có hiệu quả thì sở hữu nhà nước chiếm tỷ lệ cổ phần chi

phối. Việc bán cổ phiếu đã tiến thêm một bước, thí điểm việc bán một phần

cổ phiếu của một số DNNN cho các tổ chức và cá nhân ngoài DN. Trên cơ

sở CPH, tổ chức Hội đồng quản trị gồm đại diện cho sở hữu nhà nước, sở hữu

của công nhân DN và các chủ sở hữu khác. Định thể chế và tiêu chuẩn để Hội

đồng quản trị tuyển chọn giám đốc điều hành. Hoàn thiện và áp dụng rộng rãi

các hình thức khoán trong DNNN. Nhà nước hỗ trợ, khuyến khích và thực

hiện từng bước vững chắc, phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế,

việc đổi mới các liên hiệp xí nghiệp, các tổng công ty theo hướng tổ chức các

tập đoàn kinh doanh, khắc phục tính chất hành chính, trung gian. Xoá bỏ dần

(có qua làm thí điểm) chế độ bộ chủ quản, cấp hành chính chủ quản và sự

phân biệt xí nghiệp Trung ương và xí nghiệp địa phương [32, tr.416].

33

Đại hội VIII (năm 1996) đặt ra chủ trương "triển khai tích cực và

vững chắc việc CPH DNNN để huy động thêm vốn, tạo thêm động lực thúc

đẩy DN làm ăn có hiệu quả, làm cho tài sản nhà nước ngày càng tăng lên,

không phải để tư nhân hoá. Bên cạnh những DN 100% vốn nhà nước, sẽ có

nhiều DNNN nắm đa số hay nắm tỷ lệ cổ phần chi phối" [33, tr.479]. Việc

huy động vốn được thực hiện bằng cách "gọi thêm cổ phần hoặc bán cổ phần

cho người lao động tại DN, cho các tổ chức và cá nhân ngoài DN tùy từng

trường hợp cụ thể và vốn huy động được phải dùng để đầu tư mở rộng sản

xuất kinh doanh" [33, tr.479].

Hội nghị lần thứ Ba Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII tháng 6 năm

1997 đã xác định lại CPH một bộ phận DNNN là chủ trương rất quan trọng.

Song, CPH hay xã hội hóa không đồng nghĩa với phi nhà nước hóa và càng

không phải tư hữu hóa. Phương châm cơ bản ở đây vẫn là Nhà nước và nhân

dân cùng làm. Trong đó Nhà nước có vai trò nòng cốt, thực hiện Nhà nước, tổ

chức cho nhân dân và trong điều kiện cụ thể tham gia cùng làm với dân;

không làm thay dân, cũng không khoán trắng.

Đại hội IX (năm 2001) đã đề ra mục tiêu trong 5 năm (2001 - 2005)

phải cơ bản hoàn thành việc củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu, đổi mới và

nâng cao hiệu quả các DNNNN hiện có, đồng thời phát triển thêm DN mà

Nhà nước đầu tư 100% vốn hoặc có cổ phần chi phối ở một số ngành, lĩnh

vực then chốt và địa bàn quan trọng. Đẩy mạnh thực hiện chủ trương CPH và

đa dạng hóa sở hữu đối với những DN mà Nhà nước không cần nắm 100%

vốn. Việc bán cổ phần cho các tổ chức và cá nhân ngoài DN được mở rộng.

Thực hiện việc giao, bán, khoán, cho thuê các DN loại nhỏ mà Nhà nước

không cần nắm giữ. Sáp nhập, giải thể, phá sản những DN không hiệu quả và

không thực hiện được các biện pháp trên [34, tr.722].

34

Trong chương trình cụ thể hóa về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển

và nâng cao hiệu quả DNNN, Đảng ta chủ trương đẩy mạnh CPH những

DNNN mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn, xem đó là khâu quan trọng để

tạo chuyển biến cơ bản trong việc nâng cao hiệu quả DNNN. Đặc biệt, Hội

nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 3 khoá IX đã nêu lên những định

hướng quan trọng và chỉ ra những lĩnh vực mà Nhà nước vẫn giữ 100% vốn,

những lĩnh vực mà Nhà nước phải giữ cổ phần chi phối hoặc 100% vốn, quy

định chi tiết đối với DN hoạt động kinh doanh và đối với DN hoạt động công

ích [42].

Hội nghị Trung ương 9 khóa IX (tháng 1 năm 2004) quyết định tiếp tục

sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả khu vực DNNN, trọng tâm

là CPH mạnh hơn nữa. Về chỉ đạo, Trung ương đã quyết định đẩy nhanh tiến

độ CPH và mở rộng diện các DNNN cần CPH, kể cả một số công ty và DN

lớn trong các ngành như điện lực, luyện kim, cơ khí, hóa chất, phân bón, xi

măng, xây dựng, vận tải đường bộ, đường sông, hàng không, hàng hải, viễn

thông, ngân hàng, bảo hiểm... Giá trị tài sản DNNN thực hiện CPH, trong đó

có giá trị quyền sử dụng đất, về nguyên tắc phải do thị trường quyết định.

Việc mua bán cổ phiếu phải công khai trên thị trường, khắc phục tình trạng

CPH khép kín trong nội bộ DN.

Diện các DNNN được CPH mở rộng hơn và thực hiện nguyên tắc thị

trường trong việc CPH DNNN. Nhà nước chỉ giữ cổ phần chi phối đối với các

tổng công ty, CTCP hoạt động trong những ngành, những lĩnh vực thiết yếu

và chỉ giữ 100% vốn nhà nước trong các DN hoạt động đảm bảo an ninh,

quốc phòng và một số DN sản xuất, cung ứng dịch vụ công ích thiết yếu mà

chưa CPH được. Chuyển các DN 100% vốn nhà nước sang hình thức CTCP.

[26, tr.110].

35

Đại hội lần thứ X (năm 2006) trên cơ sở đánh giá thành tựu phát triển

qua 20 năm thực hiện tiến trình đổi mới, đã đưa nhận định rất quan trọng,

khẳng định DNCP ngày càng phát triển, trở thành hình thức tổ chức kinh tế

phổ biến, thúc đẩy xã hội hoá sản xuất, kinh doanh và sở hữu. Để hướng tới

sự công bằng hơn giữa các loại hình DN, Văn kiện Đại hội X đã nhấn mạnh,

xoá bỏ mọi sự phân biệt đối xử theo hình thức sở hữu. Đây là cơ sở quan

trọng để CTCP nâng cao được sự cạnh tranh với những loại hình DN khác.

Như vậy, hơn 16 năm qua, quan điểm của Đảng ta về CPH DNNN

ngày càng sáng tỏ, ngày càng phù hợp hơn với sự phát triển kinh tế thị trường

định hướng XHCN và tình hình thực tiễn ở nước ta.

1.3.3. Quá trình thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà

nước ở nước ta

1.3.3.1. Tiến độ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước từng bước được

đẩy mạnh

Giai đoạn từ năm 1992 đến tháng 5/1996 (thí điểm CPH)

Ngày 08/06/1992 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng

Chính phủ) đã ban hành Quyết định 202/CT về làm thí điểm chuyển một số

DNNN thành CTCP. Đợt thí điểm này gồm Nhà máy Xà bông miền Nam

(thuộc Công ty bột giặt miền Nam, Tổng công ty Hoá chất II, Bộ Công nghiệp

nặng); Nhà máy Diêm Thống Nhất (thuộc Liên hiệp sản xuất - xuất nhập khẩu

giấy gỗ diêm, Bộ Công nghiệp nhẹ); Xí nghiệp nguyên liệu chế biến thức ăn

gia súc (thuộc Công ty chăn nuôi và thức ăn gia súc I, Bộ Nông nghiệp và

Công nghiệp thực phẩm); Xí nghiệp chế biến gỗ Long Bình (thuộc Tổng công

ty dịch vụ, sản xuất và xuất nhập khẩu lâm sản 3, Bộ Lâm nghiệp); Công ty

vật tư tổng hợp Hải Hưng (Bộ Thương mại và Du lịch); Xí nghiệp sản xuất

bao bì (thuộc Công ty kinh doanh và chế biến lương thực Hà Nội, Uỷ ban

36

nhân dân thành phố Hà nội); Xí nghiệp may mặc (thuộc Công ty dệt-da-may

Legamex, Uỷ ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh). Mặt khác, Chủ tịch Hội

đồng Bộ trưởng cũng uỷ quyền cho Bộ trưởng Bộ Tài chính xem xét và ra

quyết định về danh sách các DNNN khác được phép làm thí điểm CPH mà

các Bộ và Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đề nghị.

Sau hơn 2 tháng, trong số 7 đơn vị được chọn chỉ có Công ty Legamex

xây dựng được phương án CPH (bán cổ phần cho người nước ngoài), một số

đơn vị khác có ý xin rút khỏi danh sách. Cũng trong thời gian này, các đơn vị

thuộc diện thí điểm đã xây dựng được đề án và đã gửi để các Bộ xem xét

gồm: Xí nghiệp nhựa Bình minh (Bộ Công nghiệp nhẹ); Xí nghiệp len Biên

Hoà (Bộ Công nghiệp nhẹ); Công ty đại lý liên hiệp vận chuyển thuộc Liên

hiệp hàng hải Việt Nam (Bộ Giao thông vận tải và Bưu điện). Đến tháng

8/1992, mới chỉ có Bộ Công nghiệp nhẹ, Bộ Giao thông vận tải và Bưu điện,

Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải

Hưng có công văn chính thức về danh sách các DN đề nghị CPH [3].

Như vậy, có thể nói chương trình CPH DNNN ở nước ta thực sự bắt

đầu từ năm 1992. Kết quả trong 5 năm, kể từ tháng 6/1992 đến tháng 5/1996

mới CPH được 5 DN [1] thuộc 3 Bộ và 2 địa phương.

37

Giai đoạn từ tháng 5/1996 - tháng 6/1998 (mở rộng thí điểm CPH)

Kết quả sau hơn 2 năm thực hiện, có 25 DNNN [56] thuộc 2 Bộ, 11 địa

phương và 2 Tổng công ty 91 tiến hành CPH thành công với tổng số vốn điều

lệ tại thời điểm CPH là 243,042 tỷ đồng. Trong đó có 6 DN trên 10 tỷ đồng

(chiếm 20,8%). Tuy nhiên, số DNNN hoàn thành CPH đến tháng 6/1998 rất

thấp so với kế hoạch.

Giai đoạn từ tháng 7/1998 đến 2001 (Thời kỳ đẩy mạnh CPH)

Nếu như trong 7 năm (từ 1992 đến 6/1998) cả nước mới CPH được 30

DN, thì chỉ riêng 6 tháng cuối năm 1998 đã CPH thành công 87 DN và trong

giai đoạn này đã CPH được 745 DN [1].

Về tình hình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN sau

khi thực hiện CPH: theo báo cáo của Ban đổi mới DN Trung ương, thì hầu hết

DN sau CPH đều nâng cao được hiệu quả sản xuất kinh doanh, doanh thu

bình quân của các DN tăng 30% so với năm trước, lợi nhuận và nộp ngân

sách bình quân đều tăng gấp 2 lần so với trước khi CPH, về vốn tăng trưởng

bình quân khoảng 15%/năm.

Thu nhập của người lao động trong các DN cũng tăng từ 1,5 đến 4 lần

so với trước khi thực hiện CPH. CTCP đã thu hút và giải quyết thêm việc làm

cho người lao động ở trên địa bàn (số lao động trong các DN đã chuyển sang

CTCP tăng khoảng 20% so với trước khi thực hiện chuyển đổi).

Huy động được trên 1.000 tỷ đồng vốn nhàn rỗi trong và ngoài nước để

phát triển sản xuất và giải quyết các chính sách xã hội cho người lao động.

Như vậy, việc thực hiện CPH có chuyển biến rõ rệt. Số DN CPH năm

1999 là 249 DN, gấp hơn 8 lần so với 7 năm trước cộng lại. Tổng số DN đã

CPH đến thời điểm đó đã gấp hơn 12 lần so với cả thời kỳ thí điểm CPH. Tuy

nhiên, từ nửa cuối năm 2000, đầu năm 2001 tiến trình CPH có phần chậm lại.

38

Giai đoạn từ 2001 đến nay (tiếp tục đẩy mạnh CPH)

Nhìn chung, những đổi mới trong hệ thống cơ chế, chính sách về CPH

DNNN đã và đang được triển khai và phát huy tác dụng, tiến độ CPH DNNN

đã có những chuyển biến tích cực.

Tính đến giữa tháng 12/2002, đã có 85/102 đề án được trình Thủ tướng

Chính phủ, trong đó có 55/61 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, 14/24

Bộ, Ngành và 16/17 tổng công ty 91. Trong số 85 đề án nói trên, mới có 12 đề

án của 5 Bộ, 5 tỉnh, thành phố và 2 tổng công ty 91 nhận được sự phê duyệt

của Thủ tướng Chính phủ. Trong số các đề án được phê duyệt nói trên thì hầu

hết là của các tỉnh nhỏ như Bắc Ninh, Vĩnh Long, Sơn La, Kon Tum, Đà

Nẵng và các bộ có ít DNNN trực thuộc như Công an, Tài chính, Thương mại,

Ngoại giao, Ban Cơ yếu Chính phủ. Trong số các tỉnh, thành phố chưa trình

đề án lên Chính phủ có những thành phố lớn, tập trung nhiều DNNN như Hà

Nội, Hải Phòng.

Qua tổng hợp bước đầu từ 71 đề án đệ trình lên Chính phủ, trong tổng

số 3.850 DNNN thì giữ 100% vốn Nhà nước ở 1.575 DN chiếm 40,91%; sát

nhập và hợp nhất 395 DN chiếm 10,26%; chuyển thành CTCP 1.557 DN

chiếm 40,44%; giao 97 DN chiếm 2,52%; bán 57 DN chiếm 1,48%; khoán và

cho thuê 29 DN chiếm 0,75%; chuyển thành đơn vị sự nghiệp có thu 26 DN

chiếm 0,68%; giải thể và phá sản 95 DN chiếm 2,47% và chuyển giao quyền

19 DN chiếm 0,49%.

Tính từ năm 2001 đến tháng 8/2006, đã sắp xếp được 3.830 DNNN;

trong đó CPH 2.472 DN, giao 178 DN, bán 107 DN, khoán, cho thuê 29 DN,

sáp nhập, hợp nhất 459 DN, giải thể, phá sản 214 DN, các hình thức khác 371

DN. Hình thức sắp xếp CPH chiếm gần 65% tổng số DN đã sắp xếp (Bộ Tài

nguyên và Môi trường, tháng 10/2006). Kết quả này cho thấy, chủ trương sắp

xếp và đổi mới DNNN đã tách được chức năng hành chính nhà nước khỏi

39

chức năng sản xuất, kinh doanh, tạo cơ sở cho việc thực hiện chính sách phát

triển DN trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường định hướng XHCN

và mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế mà Đảng, Nhà nước và Chính phủ đã đề

ra. Đây là một bước tiến quan trọng nhằm giảm mạnh các DN nhỏ, làm ăn

thua lỗ để tập trung hơn vào những ngành, lĩnh vực then chốt, nhằm phát triển

toàn diện các thành phần kinh tế của nước ta.

40

Biểu đồ 1: Số lượng các DNNN đã được CPH qua các giai đoạn:

Như vậy, công tác sắp xếp và đổi mới DNNN được đánh giá rất tích

cực, góp phần sắp xếp được DN nhỏ, phát triển DN lớn.

1.2.3.2. Đánh giá chung tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà

nước ở Việt Nam

Trải qua hơn 15 năm, từ năm 1992 đến nay, có thể khái quát quá trình

thực hiện, sắp xếp, đổi mới DNNN qua những điểm sau:

Chính phủ từng bước đã tập trung hơn vào việc ban hành các cơ chế,

chính sách, tạo khung pháp lý tương đối đồng bộ để việc sắp xếp, đổi mới và

phát triển DNNN thuận lợi hơn; đề ra nhiệm vụ cụ thể và các giải pháp cho

từng thời kỳ; chỉ đạo tổ chức thực hiện một cách kiên quyết; đã đạt được kết

quả quan trọng.

Thể chế hóa Nghị quyết Ðại hội IX, Nghị quyết Trung ương 3 và Trung

ương 9 (khóa IX) về sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả

41

DNNN; sau khi Luật DN, Luật Ðất đai, Luật Kế toán và Kiểm toán, Luật

Cạnh tranh, Luật Các tổ chức tín dụng... được Quốc hội thông qua, Chính phủ

đã ban hành gần 40 văn bản quy phạm pháp luật với những cơ chế, chính sách

nhằm nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của và bình đẳng DNNN với

DN thuộc các thành phần kinh tế khác trong cơ chế thị trường; đổi mới

phương thức tổ chức quản lý, chuyển dần từ quản lý chủ yếu bằng hành chính

đối với DNNN sang cơ chế đầu tư vốn... tạo cơ sở pháp lý và điều kiện thuận

lợi cho việc sắp xếp, đổi mới DNNN.

Từng bước hoàn thiện và quy định rõ đối tượng, nguyên tắc, phương

pháp xác định giá trị DN, phương thức bán cổ phần lần đầu; xử lý nợ đọng;

giải quyết chế độ cho lao động dôi dư; bán đấu giá; quyền và nghĩa vụ của

người đại diện phần vốn nhà nước trong CTCP... Các quy định này được sửa

đổi, bổ sung kịp thời, phù hợp yêu cầu và thực tế DNNN. Nhiều DNNN đã

được sắp xếp lại, giảm mạnh các DN nhỏ, thua lỗ, tập trung hơn vào những

ngành, lĩnh vực then chốt; tiếp tục giữ vai trò nòng cốt trong nền kinh tế và cơ

bản đáp ứng được nhu cầu thiết yếu cho quốc phòng, an ninh và nhiều sản

phẩm, dịch vụ công ích. Thực hiện các Ðề án sắp xếp, đổi mới DNNN. Trên

cơ sở đề nghị của các bộ, ngành, địa phương, tổng công ty nhà nước, Thủ

tướng Chính phủ đã phê duyệt 104 đề án tổng thể sắp xếp DNNN các hình

thức và lộ trình sắp xếp phù hợp cho DNNN. Ðây là cơ sở pháp lý quan trọng

để các bộ, ngành, địa phương, tổng công ty nhà nước chỉ đạo, tổ chức triển

khai thực hiện sắp xếp DNNN.

Hình thức sắp xếp, đổi mới DNNN chủ yếu là CPH, chiếm gần 69%

tổng số DN đã sắp xếp. Những DN quy mô nhỏ, Nhà nước không cần nắm

giữ, không đủ điều kiện CPH đã được giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê,

giải thể, phá sản; đã triển khai việc bán đấu giá một số DNNN không còn vốn

Nhà nước. Ðã chuyển 200 DNNN cần giữ 100% vốn sang hình thức công ty

42

TNHH một thành viên. Trong đó, một số sau khi chuyển thành công ty TNHH

một thành viên đã được CPH.

Sau quá trình thực hiện sắp xếp, DNNN đã được cơ cấu lại một bước

cơ bản, có quy mô vừa và lớn, số DNNN sản xuất, kinh doanh quy mô nhỏ

giảm mạnh. Tuy số lượng giảm, nhưng DNNN vẫn tiếp tục chi phối được

trong nhiều ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, đóng góp quan trọng

vào phát triển kinh tế-xã hội của đất nước: gần 40% GDP và 50% tổng thu

ngân sách nhà nước.

Trong số DN đã CPH, có khoảng 2.000 DN có nợ và tài sản loại trừ

không tính vào giá trị DN. Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng đã tiếp

nhận nợ và tài sản loại trừ của 1.222 DN với giá trị 1.411 tỷ đồng. Công ty

này đã xử lý nợ và tài sản cho 331 DN, với tổng giá trị là 390 tỷ đồng; giá trị

thu hồi là 125 tỷ đồng. Thực hiện chính sách đối với lao động dôi dư do sắp

xếp lại DNNN, đến 30-6-2006, Quỹ Hỗ trợ lao động dôi dư đã thực hiện hỗ

trợ 3.584 DN, giải quyết chính sách cho 191.026 lao động.

Các tổng công ty nhà nước đã được đổi mới một bước, năng lực sản

xuất, hiệu quả hoạt động, sức cạnh tranh được nâng lên và giữ được vai trò

nòng cốt của nền kinh tế; có cơ sở để hình thành một số tập đoàn kinh tế

mạnh. Ðến hết tháng 8-2006 cả nước có 105 tập đoàn và tổng công ty nhà

nước. Thực hiện thí điểm chuyển công ty nhà nước sang hoạt động theo mô

hình công ty mẹ - công ty con có trọng tâm, trọng điểm với sự chỉ đạo tập

trung, giải quyết đồng bộ từ thể chế, mô hình đến quy định rõ quyền và nghĩa

vụ của chủ sở hữu, phát triển các công ty con đa sở hữu... Sau khi sơ kết, Thủ

tướng Chính phủ đã cho phép chuyển 6 tổng công ty 91 và 38 tổng công ty 90

sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con.

Việc sắp xếp các tổng công ty nhà nước đã tạo ra sự đổi mới về cơ cấu

các DN thành viên; nhiều DN thành viên đã được CPH hoặc chuyển thành

43

công ty TNHH một thành viên để hình thành cơ cấu công ty mẹ - công ty con.

Nếu cuối năm 2001 DN thành viên các tổng công ty hầu hết là do tổng công

ty giữ 100% vốn điều lệ; thì đến nay cơ cấu DN thành viên đã thay đổi cơ

bản. Trong các tổng công ty 91, chỉ có 57,8% số công ty do tổng công ty giữ

100% vốn điều lệ, các tổng công ty 90 chỉ có 38,7% số công ty do Tổng công

ty giữ 100% vốn điều lệ. Nhiều tổng công ty không còn công ty thành viên do

tổng công ty giữ 100% vốn điều lệ.

Một số tổng công ty đã tiếp nhận thêm DN của các địa phương hoặc

mua lại cổ phần từ các liên doanh, các công ty khác để làm đơn vị thành viên,

đầu tư cho các DN này phát triển, có tính tới thương hiệu, tài sản vô hình của

tổng công ty trong vốn điều lệ của công ty thành viên này.

Tiến hành thí điểm CPH Nhà nước giữ cổ phần chi phối một số tổng

công ty như: Tổng công ty Thương mại và Xây dựng, Tổng công ty Ðiện tử

Tin học Việt Nam, Tổng công ty Xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam, Tổng

công ty Vật tư nông nghiệp, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng

Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long.

Cổ phần hoá DNNN thực sự trở thành hướng quan trọng để sắp xếp lại

và tạo chuyển biến cơ bản trong việc nâng cao hiệu quả DNNN; hình thành

DNNN có nhiều chủ sở hữu, vốn và tài sản của Nhà nước được sử dụng có

hiệu quả hơn và thu hút thêm vốn của xã hội vào phát triển sản xuất, kinh

doanh; tạo thêm động lực và cơ chế mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của

DN.

Các DN CPH có quy mô ngày càng lớn hơn và mở rộng hơn sang các

lĩnh vực ngành, nghề trước đây Nhà nước còn nắm giữ 100% vốn. Bước đầu,

Thủ tướng Chính phủ đã cho phép thí điểm CPH một số đơn vị sự nghiệp

trong các lĩnh vực như đường sông, đường bộ, trường học. Căn cứ thực tế và

nhu cầu thu hút vốn để đầu tư, đã áp dụng nhiều hình thức CPH khác nhau,

44

trong đó phổ biến nhất là hình thức bán một phần vốn nhà nước hiện có tại

DN và kết hợp phát hành thêm cổ phiếu (69,4%), hình thức bán toàn bộ vốn

nhà nước hiện có tại DN (15,5%), hình thức giữ nguyên vốn nhà nước phát

hành thêm cổ phiếu (15,1%).

Tổng giá trị thực tế DN đã CPH là 163.935 tỷ đồng. Tổng giá trị thực tế

phần vốn nhà nước tại DNNN CPH là 40.237 tỷ đồng, bằng gần 15,5% tổng

vốn nhà nước có đến cuối năm 2005. Tổng vốn điều lệ của các DNNN CPH là

43.695 tỷ đồng. Nhà nước còn nắm giữ cổ phần chi phối (từ 50% vốn điều lệ

trở lên) đối với 33% số DN đã CPH.

Cổ phần hoá đã tạo ra loại hình DN có nhiều chủ sở hữu, bao gồm Nhà

nước, người lao động trong DN, cổ đông ngoài DN. Tổng hợp chung trong

các công ty đã CPH, Nhà nước nắm giữ 49%, người lao động trong DN nắm

giữ 26%, nhà đầu tư ngoài DN nắm giữ 25% vốn điều lệ. Việc bán cổ phần

cho các nhà đầu tư chiến lược đã góp phần tạo ra năng lực mới, mở rộng thị

trường, tăng thêm tiềm lực tài chính để mở rộng sản xuất, kinh doanh, nâng

cao trình độ quản lý, đổi mới công nghệ, tăng khả năng cạnh tranh của DN

trên thị trường.

Cổ phần hoá là giải pháp quan trọng trong cơ cấu lại DNNN để DNNN

có cơ cấu thích hợp, quy mô lớn hơn và tập trung vào những ngành, lĩnh vực

then chốt của nền kinh tế. Từ chỗ DNNN rất phân tán, dàn trải trong tất cả các

ngành, lĩnh vực, đã tập trung hơn vào 39 ngành, lĩnh vực then chốt của nền

kinh tế, trong đó, nhiều ngành, lĩnh vực Nhà nước cần thiết chi phối để làm

công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô; quy mô vốn của DNNN cũng được tăng lên.

Năm 2001, vốn bình quân một DNNN là 24 tỷ đồng; đến nay, khoảng gần 90

tỷ đồng.

Cổ phần hoá đã huy động thêm vốn của xã hội đầu tư vào phát triển sản

xuất, kinh doanh. Khi CPH, vốn nhà nước tại DNNN đã được đánh giá lại

45

khách quan và chính xác hơn; Nhà nước thu về được khoảng 15 nghìn tỷ đồng

(chưa kể phần thu tăng thêm do bán đấu giá cổ phần); đồng thời đã huy động

thêm được 21 nghìn tỷ đồng của các cá nhân, tổ chức ngoài xã hội vào DN để

đầu tư đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất, kinh doanh, nâng cao năng lực

và sức cạnh tranh của DN.

Cổ phần hoá tạo cơ sở thúc đẩy hình thành và phát triển thị trường

chứng khoán Việt Nam. Ðã có 61 DNCP niêm yết trên thị trường chứng

khoán với tổng số vốn hóa thị trường bằng 7,8% GDP. Với tốc độ phát triển

rất cao, thị trường chứng khoán trong tương lai gần sẽ trở thành một kênh rất

quan trọng huy động vốn của xã hội đầu tư trực tiếp vào DN.

Cổ phần hoá bước đầu đã tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế năng động,

hiệu quả cho DNNN; tăng cường vai trò giám sát của cổ đông và xã hội đối

với DN. CTCP hoạt động theo cơ chế thị trường, tự chủ, tự chịu trách nhiệm

trước pháp luật và trước cổ đông về hoạt động và kết quả sản xuất, kinh

doanh. Việc kiểm tra, giám sát của người lao động - cổ đông và xã hội đối với

CTCP, nhất là những công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán, tạo điều

kiện cho việc thực hiện quy chế dân chủ trong DN một cách thực chất hơn.

Cổ phần hoá tạo điều kiện pháp lý và vật chất để người lao động nâng

cao vai trò làm chủ trong DN. Một bộ phận quan trọng người lao động ở

DNNN CPH trở thành cổ đông, có quyền dự họp Ðại hội đồng cổ đông để

thông qua điều lệ công ty, bầu các thành viên Hội đồng quản trị và Ban kiểm

soát, biểu quyết các vấn đề liên quan hoạt động sản xuất, kinh doanh thuộc

thẩm quyền Ðại hội đồng cổ đông.

Cổ phần hoá góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của DN.

Việc triển khai áp dụng các mô hình tổ chức mới bước đầu đã mang lại hiệu

quả cho hoạt động của DN. Nhằm đổi mới phương thức tổ chức quản lý,

chuyển từ cơ chế bằng phương thức hành chính là chủ yếu sang phương thức

46

đầu tư vốn, Chính phủ đã ban hành quy định về tổ chức và hoạt động của

công ty nhà nước và chuyển công ty nhà nước sang hoạt động theo mô hình

công ty mẹ - công ty con. Ðến nay, đã có 77 tổng công ty nhà nước và công ty

nhà nước độc lập quy mô lớn chuyển sang hoạt động theo mô hình này, tạo sự

gắn kết chặt chẽ hơn giữa công ty mẹ với các DN thành viên và giữa các

thành viên với nhau trên nguyên tắc bảo đảm lợi ích của từng công ty và phát

triển theo định hướng chung. Kết quả bước đầu cho thấy kết quả sản xuất,

kinh doanh của các đơn vị sau chuyển đổi nhìn chung đều tăng trưởng.

Trên cơ sở phát triển các tổng công ty nhà nước, Thủ tướng Chính phủ

đã phê duyệt đề án hình thành 7 tập đoàn kinh tế hoạt động theo mô hình công

ty mẹ-công ty con và đã quyết định thành lập các công ty mẹ tập đoàn có

chức năng đầu tư vốn vào các công ty con, công ty liên kết và trực tiếp sản

xuất, kinh doanh.

Tổng công ty Ðầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước đã được thành lập và

đi vào hoạt động nhằm mục tiêu tách biệt chức năng chủ sở hữu của cơ quan

quản lý hành chính nhà nước đối với DN có vốn nhà nước với chức năng

quản lý nhà nước; tiến tới xóa bỏ chức năng chủ sở hữu của các cơ quan này

đối với DN hoạt động kinh doanh. Tổng công ty này tiếp nhận và thực hiện

quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại các công ty TNHH một thành

viên là Nhà nước, công ty TNHH hai thành viên trở lên, CTCP được chuyển

đổi từ công ty nhà nước độc lập hoặc mới thành lập. Cho đến nay, đã có năm

Bộ bàn giao cho Tổng công ty 40 DN với số vốn bàn giao là 1.735 tỷ đồng.

Triển khai thí điểm Hội đồng quản trị lựa chọn để ký hợp đồng với

giám đốc giỏi điều hành DN ở các Tổng công ty Xây dựng Sông Hồng, Thủy

tinh và Gốm xây dựng, Công nghiệp Ô-tô, Công nghiệp tàu thủy, Thiết bị kỹ

thuật điện và Công ty Vận tải đa phương thức.

47

Trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật được chính phủ ban hành,

việc xây dựng đề án tổng thể và triển khai sắp xếp CPH DNNN đã được thực

hiện một cách vững chắc.

Các DNNN CPH năm 2005- 2006 có quy mô lớn hơn như Tổng công

ty Thương mại và Xây dựng; Điện tử và tin học Việt Nam; Xuất nhập khẩu

xây dựng Việt Nam; Vật tư nông nghiệp; Bia- rượu- Nước giải khát Sài Gòn;

Bia- rượu- Nước giải khát Hà Nội; Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị; các Ngân

hàng thương mại nhà nước. Đến nay, đã hoàn thành CPH Tổng công ty

Thương mại và Xây dựng và Tổng công ty Xuất nhập khẩu xây dựng Việt

Nam; đã phê duyệt phương án chuyển Tổng công ty Điện tử Tin học Việt

Nam thành mô hình công ty mẹ - công ty con; Ngân hàng Ngoại thương đã

hoàn thành phát hành trái phiếu tăng vốn.

Tóm lại, việc CPH các DNNN trong thời gian qua cơ bản đã đạt được

mục tiêu đề ra. Đây thực sự là giải pháp quan trọng trong cơ cấu lại DNNN;

đã tạo ra loại hình DN có nhiều chủ sở hữu, bao gồm Nhà nước, người lao

động trong DN, cổ đông ngoài DN. Đã huy động thêm vốn của xã hội đầu tư

vào phát triển sản xuất, kinh doanh. Bước đầu đã tạo được động lực mạnh mẽ

và cơ chế năng động, hiệu quả cho DN; tăng cường vai trò giám sát của cổ

đông và xã hội với DN. Tuy nhiên còn nhiều hạn chế, nhưng DNNN CPH

hoạt động theo cơ chế thị trường, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước

cổ đông về hoạt động và kết quả sản xuất, kinh doanh, tình hình tài chính đã

được công khai, minh bạch.

Cùng với việc sắp xếp CPH DN, CPH DNNN, các tập đoàn, tổng công

ty tiếp tục được kiện toàn, đổi mới một bước, năng lực sản xuất, hiệu quả hoạt

động, sức cạnh tranh được nâng lên và giữ được vai trò nòng cốt của nền kinh

tế, có cơ sở để hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh. Đã hình thành 8 tập

48

đoàn kinh tế, và cơ cấu DN thành viên trong tập đoàn cũng có sự thay đổi cơ

bản.

Nhìn chung, kết quả đổi mới DNNN có thể được khái quát qua những

điểm sau: Chuyển CPH từ việc chỉ thực hiện ở DN nhỏ làm ăn thua lỗ sang

CPH DN có quy mô lớn, kể cả một số tổng công ty; thực hiện việc chuyển

CPH một số lĩnh vực sang CPH hầu hết các lĩnh vực như: hàng không, hàng

hải, điện lực, bưu chính viễn thông, dịch vụ dầu khí, tài chính, bảo hiểm, ngân

hàng…; chuyển CPH theo kiểu “chia phần” khép kín sang CPH đấu giá công

khai theo nguyên tắc thị trường.

1.4. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp nhà nƣớc sau cổ phần

hóa

1.4.1. Những thành tựu đã đạt được

Một là: Về số DN CPH đã đạt 3/4 phương án được Thủ tướng Chính

phủ phê duyệt.

Các DNNN đã giảm mạnh về mặt số lượng và cải thiện đáng kể về quy

mô vốn. Cơ cấu DNNN đã bắt đầu chuyển đổi theo hướng nắm giữ những

ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng, chiếm thị phần đủ lớn đối

với các sản phẩm và dịch vụ chủ yếu; không nhất thiết phải giữ tỷ trọng lớn

trong tất cả các ngành, lĩnh vực, sản phẩm của nền kinh tế.

49

Biểu đồ 2: Tỷ trọng số DNNN được CPH theo cấp quản lý.

Trong số các DN đã CPH, các DN thuộc các tỉnh chiếm 74%, các DN

thuộc các tổng công ty 90 và trực thuộc các bộ chiếm 20%, chỉ có 6% là thuộc

tổng công ty 91 [35].

Biểu đồ 3: Các DNNN được CPH phân theo cơ cấu ngành

Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chiếm 51%, dịch vụ thương mại chiếm

32%, còn lại là các lĩnh vực khác [35]

50

Biểu đồ 4: Cơ cấu doanh nghiệp cổ phần theo qui mô

Ngoài một số ít DN có vốn lớn, sản xuất kinh doanh hiệu quả, như:

Công ty Sữa Việt Nam (1.500 tỉ đồng vốn nhà nước), Công ty Mía đường

Lam Sơn (92 tỉ đồng), Công ty Đường La Ngà (82 tỉ đồng), Công ty Đường

Biên Hòa (81 tỉ đồng), thì số DN lớn (có số vốn trên 10 tỉ đồng) được tiến

hành cổ phần hóa mới chiếm tỷ lệ chưa đầy 10%. Còn lại trên 90% là các DN

có quy mô vừa và nhỏ, máy móc kỹ thuật lạc hậu, sản xuất kinh doanh hiện

đang gặp nhiều khó khăn [35].

51

Biểu đồ 5: Cơ cấu cổ đông trong doanh nghiệp cổ phần

Về cơ cấu cổ đông trong DNCP, chỉ có 15% DNNN đã CPH, trong đó

Nhà nước nắm cổ phần chi phối (trên 50%). Nếu tính bình quân trong 1.557

DNCP được điều tra thì Nhà nước nắm giữ 38% vốn cổ phần; cán bộ, công

nhân viên trong DN giữ 54%; cổ đông bên ngoài giữ 8%.

So với phương án sắp xếp tổng thể của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt

thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 và điều chỉnh bổ xung thực hiện Nghị

quyết Trung ương 9 (khoá IX) thì sắp xếp DN đạt khoảng 82,6% và CPH đạt

74,5%, số DN 100% vốn Nhà nước giảm trên 32,3%. Đã xử lý được 97.556

lao động dôi dư, 1.513 tỷ đồng nợ tồn đọng phải thu và 1.291 tỷ đồng nợ tồn

đọng phải trả [45].

Hai là: Tình hình tài chính của các DN sau khi CPH tốt hơn.

52

Biểu đồ 6: Tình hình tài chính của DN so với trước khi CPH

Đa số DNCP hoá đều có tình hình tài chính sau CPH tốt hơn so với

trước chuyển đổi. Kết quả điều tra 559 DN CPH cho thấy 87,53% số DN có

kết quả hoạt động tài chính tốt hơn hoặc tốt hơn rất nhiều so với trước CPH,

chỉ có 8,62% DN có tình hình tài chính không thay đổi và 3,85% DN hoạt

động tài chính kém hơn hoặc kém hơn rất nhiều so với trước chuyển đổi [45].

Ba là: Doanh thu tăng chưa nhiều nhưng lợi nhuận sau thuế tăng

nhanh:

53

Biểu đồ 7: Tốc độ tăng bình quân về doanh thu và lợi nhuận sau thuế

của các DNNN sau CPH

So sánh năm đầu CPH với năm cuối của mô hình DNNN của 559 DN

cho thấy: Trong khi doanh thu chỉ tăng bình quân khoảng 13% thì lợi nhuận

sau thuế tăng tới 48,8% ngay sau khi CPH. Điều đó cho thấy, ở thời điểm

năm đầu tiên CPH, việc chuyển sang mô hình mới chưa có tác động đột biến

tức thời tới các yếu tố liên quan trực tiếp đến doanh thu như tăng sức sản xuất,

khả năng tiêu thụ sản phẩm của DN, nhưng đã có tác động mạnh đến chỉ tiêu

hiệu quả hoạt động là lợi nhuận [45].

Bốn là: Năng suất lao động, tiền lương, đầu tư tài sản cố định đều tăng

đáng kể.

Biểu đồ 8: Một số chỉ tiêu tăng trưởng của DN CPH trong năm sau

chuyển đổi

Ngay trong năm sau CPH, năng suất lao động của các DN đã tăng trên

26%, tiền lương bình quân tăng trên 20% và đầu tư tài sản cố định tăng 23,1%

so với khi còn là DNNN [45].

54

Biểu đồ 9: Một số chỉ tiêu tăng trưởng của các DNNN những năm tiếp

theo sau CPH.

Tốc độ tăng trưởng nói trên của 559 DN tiếp tục được duy trì trong

suốt quá trình hoạt động dưới mô hình CTCP. Doanh thu tăng 13,4%/năm.

Lợi nhuận trước thuế đạt mức tăng trưởng 9,4%, lợi nhuận sau thuế tăng

54,3%; năng suất lao động tăng 18,3%/năm; đầu tư tài sản cố định tăng

11,5%; lương bình quân tăng 11,4%/năm [45].

1.4.2. Những hạn chế của doanh nghiệp nhà nước và

nguyên nhân của nó

1.4.2.1. Những hạn chế về chủ trương, chính sách thể chế

55

Các DN sau CPH còn bị phân biệt đối xử, gặp khó khăn khi vay vốn,

nhất là các khoản vay ưu đãi của Nhà nước. Ngân hàng yêu cầu những thủ

tục, giấy tờ phức tạp hơn, hạn mức vay thấp hơn so với khi còn là DNNN.

Chưa có quy định rõ ràng và chưa có chế tài đủ mạnh để các ngân hàng

Thương mại và các tổ chức tín dụng xử lý nợ cho DNCP hoá, dẫn đến những

vướng mắc và tồn tại trong giải quyết nợ phải trả, làm DN sau CPH phải gánh

chịu hậu quả.

Các quy định về bán cổ phần còn mang tính “chính sách” là nguyên

nhân trực tiếp dẫn đến hiện tượng CPH nội bộ, không thu hút được các nhà

đầu tư bên ngoài, nhất là các nhà đầu tư chiến lược. Hậu quả là không thực sự

tạo chuyển biến trong đổi mới nội bộ công ty, chưa phát huy hết tính năng

động của DN. Vẫn còn hiện tượng cổ đông chuyển nhượng cổ phiếu tự do

không đúng luật và điều lệ CTCP không kiểm soát được.

Còn nhiều vướng mắc trong tiến trình CPH như: xác định giá trị DN,

giải quyết dư nợ, tính toán giá đất, bố trí việc làm cho người lao động... Một

số yếu tố như: lợi thế kinh doanh, thương hiệu, giá trị quyền sử dụng đất chưa

được tính toán khi xác định giá trị DN, gây thiệt hại cho Nhà nước và người

lao động trong DN. Trong quá trình xác định giá trị DN chậm giải quyết dứt

điểm số tài sản chờ xử lý, không tính vào giá trị DN; không phản ánh đầy đủ

số vốn góp của Nhà nước vào DN.

Khi chuyển từ cơ chế DNNN sang hoạt động theo Luật DN, không ít

cán bộ quản lý vẫn điều hành CTCP theo phương thức điều hành DNNN. Mặt

khác, do thiếu kiến thức cần thiết về quản trị CTCP nên nhiều cổ đông chưa

sử dụng hết quyền của mình hoặc lạm dụng vai trò, quyền hạn của cổ đông

làm cho hiệu quả quản trị DN chưa cao.

56

Qua kiểm toán, các cơ quan chức năng phát hiện một số DNCP hoá lợi

dụng thời gian chờ chuyển sang CTCP (thường mất khoảng từ 1 năm đến 1

năm rưỡi từ khi định giá DN) và quy định của nhà nước về chuyển kết quả

sản xuất kinh doanh của giai đoạn từ khi xác định giá trị DN đến khi chính

thức chuyển sang CTCP (lãi thì tăng vốn nhà nước, lỗ thì giảm vốn nhà

nước), đã tìm mọi cách hạch toán tăng chi phí, giảm doanh thu, chuyển lỗ cho

nhà nước phải gánh chịu.

Các cơ chế tài chính cho việc thực hiện chuyển đổi DNNN sang CTCP

tại Nghị định số 64/2002/NĐ-CP còn thiếu các quy định về trách nhiệm của

DN trong việc chủ động xử lý nợ, giải quyết lao động dôi dư, nên có xu

hướng để Nhà nước xử lý tạo ra gánh nặng cho ngân sách nhà nước, tạo kẽ hở

thất thoát vốn và tài sản và làm chậm tiến trình CPH; việc xác định giá trị DN

CPH chủ yếu áp dụng cơ chế hội đồng còn mang nặng tính chủ quan của cơ

quan quản lý, thiếu tính chuyên nghiệp, ảnh hưởng đến thời gian và kết quả

định giá…; việc bán đấu giá cổ phần thông qua các tổ chức tài chính trung

gian (các công ty chứng khoán, công ty tài chính, các ngân hàng thương mại

và các tổ chức tín dụng ) vẫn còn hạn chế.

1.4.2.2. Những hạn chế về tổ chức thực hiện

Thứ nhất, Tốc độ tiến hành CPH còn chậm, các DN đã CPH mới chỉ

chiếm một phần không đáng kể trong tổng nguồn lực các DNNN nói chung.

Theo số liệu của Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển DN, số vốn nhà nước tại

các DN đã CPH chỉ chiếm khoảng 6 - 7% so với tổng số vốn của các DNNN.

Thứ hai, Có tình trạng về hình thức là CPH, nhưng về nội dung lại là

tư nhân hoá và thậm chí là tư nhân hoá không minh bạch. Chẳng hạn việc

"CPH" một số khách sạn ở một vài thành phố, trong đó đã đánh giá giá trị tài

sản của khách sạn rất thấp (chỉ vài tỷ đồng) mà thực ra là gần một trăm tỷ

57

đồng, phần lớn giá trị này rơi vào tay một số người "mua lại" cổ phần của

công nhân.

Thứ ba, Chưa đạt được mục tiêu chính là huy động vốn của toàn xã hội

vào đầu tư phát triển.

Đối tượng CPH còn quá hẹp, dẫn đến kết quả CPH còn nhỏ bé so với

toàn bộ nền kinh tế nói chung và khu vực DNNN nói riêng. Trong số DNNN

đã cổ phần trước năm 1998 có khoảng 40% số DN không có cổ đông là người

ngoài DN, sau năm 1999 là 26%. Thực tế, chỉ bán tài sản nhà nước hiện có tại

DN, tức là chuyển đổi sở hữu tài sản chứ chưa làm tăng tài sản DN. Mặt khác,

hơn 90% số DN đã cổ phần có quy mô vốn nhỏ dưới 10 tỷ đồng, trong đó trên

2/3 có vốn dưới 5 tỷ đồng. Việc bán cổ phần cho các nhà đầu tư nước ngoài

còn rất hạn chế.

Việc tạo điều kiện để người lao động các DNCP được mua cổ phiếu với

giá ưu đãi đã nảy sinh nhiều sự không công bằng. Ví dụ, mức thu nhập dưới

300.000 đồng/người/tháng áp dụng cho tất cả các thành phố trong tiêu chí

“người lao động nghèo” là không hợp lý. Chưa có cơ chế, chính sách giúp

người lao động nghèo giữ được cổ phần sau khi mua và tài sản nhà nước bị

thất thoát nhiều trong quá trình CPH. Ngoài ra tổ chức Đảng trong CTCP

chưa đổi mới về chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động nên lúng túng

trong sinh hoạt, chưa phát huy tốt vai trò lãnh đạo của mình.

Thứ tư, Công tác chỉ đạo và việc tổ chức thực hiện còn nhiều nhược

điểm.

Một số bộ, ngành, địa phương, DN chưa nhận thức được tính cấp thiết

phải CPH DNNN, vẫn còn muốn duy trì cơ chế chủ quản, nên còn chần chừ.

Một số địa phương đã "khoán trắng" cho Ban Chỉ đạo đổi mới DN,

thiếu sự phối hợp giữa cấp uỷ Đảng và chính quyền.

58

Công tác giám sát, kiểm tra, đôn đốc việc tổ chức thực hiện các đề án

đã được phê duyệt còn chưa thường xuyên, chưa kịp thời.

Nhiều Giám đốc DN chưa tích cực thực hiện đề án sắp xếp DNNN đã

được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, vì quyền lợi và ảnh hưởng cá nhân,

hoặc sợ trách nhiệm trong việc xử lý các tồn tại phát sinh khi chuyển đổi DN.

Ngân hàng thương mại nhà nước chưa tích cực phối hợp với DN cơ cấu

lại nợ, xử lý nợ theo tinh thần Nghị định số 69/2002/NĐ-CP và Quyết định số

149/2001/QĐ-TTg ngày 5/10/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê

duyệt Đề án xử lý nợ đọng của các Ngân hàng Thương mại (đến nay ngân

hàng chưa xử lý được nợ cho DN nào).

Hệ thống định chế trung gian mới hình thành, chưa đáp ứng được yêu

cầu của công tác đổi mới nên hoạt động sắp xếp, chuyển đổi DNNN trong

thời gian qua vẫn còn mang tính hành chính, thủ tục rườm rà, qua nhiều khâu,

nhiều cấp, mất nhiều thời gian.

1.4.2.3.Hạn chế trong doanh nghiệp đã cô phần hoá

Sau CPH hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN đều được triển

khai tích cực. Tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề cần được quan tâm, như:

Chưa xác định rõ ràng quyền sử dụng đất và tài sản

Các địa phương vẫn tiếp tục cho DN thuê đất với giá thấp, giao đất với

giá thấp hơn so với giá thị trường, nhưng do sự thiếu rõ ràng về quyền sử

dụng đất đã làm nảy sinh nhiều khó khăn cho các DN CPH trong việc xây

dựng nhà xưởng, kết cấu hạ tầng...; hay góp vốn liên doanh bằng tài sản có

trên đất mà DN đang sử dụng.

Khi còn là thành viên trong các tổng công ty, hầu hết các dây chuyền sản

xuất chính hoặc các tài sản lớn đều do tổng công ty đầu tư, đứng tên sở hữu,

nhưng khi CPH việc chuyển giao đăng ký chưa được dứt điểm, gây ra tình trạng

59

quyền sở hữu tài sản không rõ ràng. Sự không rõ ràng về quyền lợi và trách nhiệm

đã khiến cho DN CPH gặp nhiều vướng mắc, nhất là khi DN triển khai mở rộng,

liên doanh, hợp tác kinh doanh... với các đối tác khác.

Tiếp cận tín dụng Nhà nước khó khăn hơn

Theo các DN sau CPH, tỷ trọng vay từ nguồn tín dụng thương mại nhà

nước đã giảm đi đáng kể.

Sự phân biệt đối xử đối với DN CPH còn thể hiện rõ qua các điều kiện

về thế chấp, cầm cố tài sản khi cho vay.

Trở ngại về việc cử cán bộ đại diện quản lý trực tiếp phần vốn nhà

nước (dưới 50%) tại CTCP

Những cán bộ được cử làm đại diện trực tiếp quản lý phần vốn nhà

nước tại CTCP khi hết tuổi lao động, được DNNN (công ty mẹ, tổng công ty)

cho nghỉ hưu theo chế độ, nhưng có người không chịu rời khỏi chức vụ, mặc

dù họ đã nhận sổ hưu và chế độ DNNN (tổng công ty hoặc công ty mẹ) muốn

cử người thay thế cũng không được, nếu Hội đồng quản trị CTCP không chấp

nhận! Bởi vì, Hội đồng quản trị CTCP không muốn có đại diện Nhà nước

tham gia với lý do khôn khéo chưa đến kỳ đại hội cổ đông. Nếu muốn triệu

tập Đại hội cổ đông bất thường thì phải có đủ số lượng cổ đông đại diện cho

số lượng cổ phần tối thiểu theo quy định của Điều lệ đề nghị triệu tập Đại hội

thì mới có giá trị. Nhưng bản thân những cán bộ đại diện phần vốn Nhà nước

đương chức tại CTCP lại không muốn làm đơn yêu cầu triệu tập Đại hội. Nếu

có triệu tập được Đại hội thì người được cử vào thay thế người đại diện vốn

Nhà nước đương chức cũng khó có thể được trúng cử, vì tỷ lệ phiếu ủng hộ

tương ứng với số cổ phần Nhà nước chỉ chiếm dưới 50%.

Về phần vốn Nhà nước trong CTCP mà Nhà nước không nắm giữ cổ

phần chi phối

60

Trong trường hợp xét thấy CTCP hoạt động kém hiệu quả và có khả

năng "chệch hướng", thì tổng công ty hoặc công ty mẹ là người đại diện phần

vốn Nhà nước muốn bán hết toàn bộ số cổ phần của Nhà nước trong CTCP để

thu lại vốn về cho Nhà nước, nhưng lại không thể nào bán được. Vì lý do sau

đây:

+ CTCP chưa (hoặc không muốn) đăng ký tham gia thị trường chứng

khoán, nên DNNN không thể nào giao dịch chào bán trên thị trường chứng

khoán được.

+ Trong các năm qua khi CPH giá trị DNNN không tính đến giá trị

quyền sử dụng đất. Vì vậy, nếu Nhà nước chỉ chuyển nhượng cổ phần của

mình cho các nhà đầu tư vốn khác đúng bằng mệnh giá ban đầu của cổ phiếu

phát hành thì Nhà nước sẽ thua thiệt rất lớn, bởi giá trị quyền sử dụng đất còn

nằm lại trong tay những cổ đông khác. Các cổ đông khác sẽ hưởng toàn bộ

giá trị quyền sử dụng đất để đầu tư vào các mục đích khác để kiếm lời. Ví dụ

thông qua hình thức góp vốn bằng đất đai (một phần hay toàn bộ) của mình

với một đối tác khác (nước ngoài chẳng hạn) và ngay trong quá trình đầu tư

của liên doanh họ lại chuyển nhượng cho một đối tác khác để thu lại bằng tiền

toàn bộ giá trị quyền sử dụng đất đã góp vào liên doanh.

Vì vậy, Nhà nước cần có cơ chế bắt buộc các CTCP phải niêm yết đăng

ký tham gia thị trường chứng khoán để đảm bảo môi trường lành mạnh cho

các cổ đông yên tâm đầu tư vốn.

Về tổ chức chính trị - xã hội trong CTCP và các mối quan hệ giữa

CTCP do Nhà nước chiếm giữ trên 50% vốn điều lệ với tổng công ty hoặc

công ty mẹ

Theo văn bản quy định của Nhà nước và của Tổng liên đoàn Lao động

Việt Nam đều xác định rằng: DNNN viên của tổng công ty 90; 91, sau khi

61

CPH thành CTCP do Nhà nước chiếm giữ trên 50% vốn điều lệ thì CTCP đó

là đơn vị thành viên của tổng công ty.

Nhưng còn đối với bộ phận DNNN sau khi CPH chuyển thành CTCP

Nhà nước chiếm giữ trên 50% vốn điều lệ thì chưa có văn bản nào quy định

CTCP này là thành viên của tổng công ty hay không? Chẳng hạn, Xí nghiệp

bao bì là một đơn vị bộ phận của Công ty xi măng Bỉm Sơn đã CPH thành

CTCP, trong đó Nhà nước chiếm giữ trên 50% vốn điều lệ. Ở đây, Công ty xi

măng Bỉm Sơn (DNNN) - thành viên của Tổng công ty Xi măng Việt Nam là

người đại diện phần vốn Nhà nước tại CTCP Bao bì xi măng Bỉm Sơn. Vì

vậy, mọi cơ sở vật chất phúc lợi công cộng tại Công ty xi măng Bỉm Sơn đã

có từ trước đây, người lao động CTCP bao bì vẫn được hưởng thụ chung. Tổ

chức Đảng, Đoàn thanh niên của CTCP bao bì là một bộ phận trực thuộc

Đảng bộ Công ty xi măng Bỉm Sơn và Đoàn TNCS HCM Công ty Xi măng

Bỉm Sơn. Trong khi đó, tổ chức Công đoàn của CTCP bao bì xi măng Bỉm

Sơn cũng như tất cả các CTCP khác đã được CPH từ một bộ phận của DNNN

thành viên của Tổng công ty Xi măng Việt Nam lại đều trực thuộc Công đoàn

Tổng công ty giống như Công đoàn Công ty xi măng Bỉm sơn và Công đoàn

các Công ty thành viên khác mà trước đây nó là một bộ phận.

Sự khác nhau ở trên chính là do những văn bản hướng dẫn không quy

định rõ ràng và không đầy đủ, nên mỗi tổ chức chính trị - xã hội cũng như

giám đốc tổng công ty, công ty mẹ có sự nhận thức và vận dụng khác nhau.

Đây là điều cần sớm được thống nhất bổ sung làm rõ.

Cũng theo quy định của Bộ Tài chính, CTCP được CPH từ DNNN

thành viên của tổng công ty do Nhà nước chiếm giữ trên 50% vốn điều lệ tuy

vẫn là đơn vị thành viên của tổng công ty nhưng không phải tham gia đóng

góp bất kỳ một khoản kinh phí nào - tức là không phải làm nghĩa vụ của một

công ty thành viên (trừ chi trả cổ tức theo cổ phần như đối với mọi cổ đông

62

khác). Như vậy, có nghĩa là các CTCP được coi là "thành viên" của tổng công

ty cũng không được hưởng quyền lợi của một thành viên của tổng công ty.

Bởi vì, bao giờ quyền lợi và nghĩa vụ cũng phải đi đôi với nhau đối với mỗi

thành viên trong một tổ chức, dù đó là tổng công ty hay các hiệp hội chuyên

ngành như Hiệp hội Xi măng, Hiệp hội xây dựng... Nếu các thành viên không

đóng góp một phần kinh phí (dù là rất nhỏ gọi là lệ phí sinh hoạt) thì tổng

công ty khó có thể chi khen thưởng, chi cho tham quan, học tập, hội họp và

chi cho các hoạt động khác cho các CTCP đó giống như các DNNN thành

viên mỗi khi tổ chức tập trung tại tổng công ty. Bản thân cán bộ công nhân

viên các CTCP cũng rất muốn và rất tâm tư, vì không được làm nghĩa vụ và

hưởng quyền lợi như những thành viên tổng công ty là DNNN.

1.4.3. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế của

doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa ở nước ta

1.4.3.1. Nguyên nhân chính của những chuyển biến tích cực trong

doanh nghiệp cổ phần

Thay đổi về động cơ hoạt động của cán bộ quản lý và người lao động.

Trong đa số các DN CPH, các cán bộ quản lý đã quan tâm nhiều hơn đến hoạt

động sản xuất kinh doanh của DN, nhằm nâng cao lợi nhuận và hiệu quả.

Việc tăng quyền chủ động của cán bộ quản lý đã dẫn tới giảm sự can thiệp

của chủ sở hữu vào việc điều hành tác nghiệp sản xuất kinh doanh của DN

sau CPH.

Việc trả lương, thưởng căn cứ vào hiệu quả sản xuất, kinh doanh và sự

cống hiến của người lao động đã tăng thu nhập của người lao động nhiều hơn

so với trước CPH.

Quyền lợi, trách nhiệm của cán bộ quản lý và người lao động gắn chặt

hơn với hiệu quả hoạt động của DN, đã tạo ra điều kiện để tận dụng tốt hơn

63

cơ sở vật chất và nguồn lực của DN. Đây là nguyên nhân chính để giải thích

vì sao các DN sử dụng năng lực sản xuất tốt hơn so với trước khi CPH.

Thay đổi về cơ cấu sản phẩm, công nghệ và thị trường. Đại đa số các

DN CPH đều có những thay đổi nhất định về cơ cấu sản phẩm, thị trường,

công nghệ sản xuất và chất lượng sản phẩm, dù mức độ thay đổi chưa lớn,

còn ít DN đổi mới toàn bộ nhưng đó là bước chuyển biến tích cực nâng cao

khả năng cạnh tranh của các DN trên thị trường.

Biểu đồ 10: Thay đổi về cơ cấu sản phẩm, công nghệ của các DNNN

sau CPH.

Qua khảo sát 559 DN đã CPH, có khoảng 25% số DN thực hiện chuyển

đổi cơ cấu thị trường và sản phẩm; khoảng 28% DN tiến hành đổi mới triệt để

kỹ thuật, công nghệ và qui trình sản xuất; khoảng 40% số DN thực hiện các

biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm [8].

64

Thay đổi về cơ chế điều hành DN. Sau khi đã trở thành CTCP thì Hội

đồng quản trị là người có ảnh hưởng lớn nhất trong lựa chọn giám đốc công

ty, bất kể đó là DN có hay không có cổ phần chi phối của Nhà nước, mặc dù

cơ quan chủ quản cũ vẫn còn những ảnh hưởng nhất định đối với việc bổ

nhiệm giám đốc, bởi vì, tại các DN còn vốn Nhà nước dù không chi phối

nhưng nếu cổ đông Nhà nước là cổ đông lớn nhất, thì vẫn có ảnh hưởng lớn

hơn vị trí thực của họ trong cơ cấu cổ đông.

Giảm sự can thiệp trực tiếp của chính quyền trung ương, địa phương và

tổ chức Đảng vào các quyết định của DNCP hoá so với trước chuyển đổi nên

có ảnh hưởng tích cực đối với quản trị của các DN CPH, tạo điều kiện tập

trung quyền lực và nâng cao trách nhiệm của Hội đồng quản trị và giám đốc

vào mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty.

Giải quyết lao động dôi dư, trước thời điểm CPH, lao động dôi dư

chiếm khoảng 13-14% lao động của các DN. Nhờ áp dụng các biện pháp như

mở rộng sản xuất để tăng việc làm, khuyến khích người lao động tự nguyện

thôi việc, và một số ít người bị buộc thôi việc (được hưởng chính sách theo

quy định), không phải là sa thải hàng loạt nên được đa số người lao động ủng

hộ sau CPH.

1.4.3.2. Nguyên nhân chính của những hạn chế trong doanh nghiệp nhà

nước sau cổ phần hoá

Một là, Kinh tế thị trường nước ta mới ở trình độ sơ khai và thị trường

chứng khoán mới manh nha, giao dịch còn hạn chế.

Tỷ lệ đầu tư vào chứng khoán còn quá nhỏ bé, tổng giá trị thị trường

chứng khoán mới bằng khoảng 3,5% GDP, trong đó tính riêng cổ phiếu theo

thông lệ quốc tế thì tỷ lệ này mới bằng 0,65% GDP. Các DN Việt Nam chưa

quen huy động vốn trên thị trường chứng khoán. Nhiều DN e ngại kiểm toán

65

và công bố thông tin khi niêm yết cổ phiếu. Nhiều DN đã niêm yết không

phải là DN lớn, có khả năng phát triển và hấp dẫn người đầu tư. Ngoài ra, ở

một số công ty niêm yết, tỷ lệ vốn thuộc sở hữu nhà nước còn khá cao, do

vậy, khối lượng cổ phiếu thực sự đưa vào giao dịch rất thấp.

Giao dịch trên thị trường chứng khoán còn hạn chế. Cụ thể, sau hơn 5

năm đưa thị trường chứng khoán đi vào vận hành, hiện chỉ có 33.000 tỷ đồng

trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương được niêm yết. Tổng

số trái phiếu mà các chính quyền địa phương huy động chưa đến 7.000 tỷ

đồng (Thành phố Hồ Chí Minh huy động 5.300 tỷ đồng, Hà Nội mới huy

động 1.000 tỷ đồng và Đồng Nai huy động 243 tỷ đồng qua kênh thị trường

chứng khoán). Trái phiếu DN còn thấp. Tính đến cuối tháng 11/2005, tổng giá

trị trái phiếu DN phát hành trên thị trường mới đạt khoảng 2.000 tỷ đồng,

trong đó chủ yếu là trái phiếu của khối DNNN như: Tổng công ty Dầu khí

(300 tỷ đồng), Tổng công ty Sông Đà (200 tỷ đồng), Tổng công ty Điện lực

Việt Nam 200 tỷ đồng, Tổng công ty Công nghiệp tàu thuỷ 1.000 tỷ đồng...

Về cổ phiếu DN còn rất thấp, mới có hơn 30 công ty niêm yết với tổng mệnh

giá 1.614 tỷ đồng.

Hai là, tàn dư của cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp.

Một bộ phận không nhỏ trong cán bộ, công chức, người lao động trong

DN và nhân dân chưa hiểu thấu đáo thực chất và lợi ích của quá trình chuyển

DNNN thành CTCP. Chưa phân biệt rõ sự khác biệt giữa CPH DNNN với

quá trình tư nhân hoá (chuyển từ sở hữu nhà nước thành sở hữu tư nhân). Do

sợ “chệch hướng” nên không ít cán bộ, kể cả một số cán bộ lãnh đạo còn có tư

tưởng chần chừ, do dự khi CPH DN.

Tiến hành CPH một bộ phận DNNN, tất yếu phải thay đổi nhiệm vụ và

theo nó là quyền lợi của một số người đang trực tiếp hoặc gián tiếp , điều

hành DN. Do vậy, đã và sẽ có một số cán bộ nhà nước, cán bộ lãnh đạo và

66

DN chưa hoàn toàn đồng tình, thậm chí còn có hành vi, việc làm gây khó

khăn, cản trở quá trình CPH DNNN. Trong khi đó việc tuyên truyền, giáo dục

và đấu tranh với tư tưởng này chưa được đặt ra một cách nghiêm khắc và

chưa có biện pháp hữu hiệu, đủ mạnh để khắc phục.

Đối với người lao động trong DN, lợi ích cao nhất của họ là việc làm

và thu nhập. Hiệu quả kinh doanh của CTCP hầu hết cao hơn khi còn là

DNNN, vì vậy, việc làm và thu nhập của người lao động được bảo đảm hơn.

Do đó, cần khẳng định không có lực cản từ phía những người lao động.

Nhưng ở nhiều nơi công tác tuyên truyền, vận động còn yếu, nên người lao

động chưa nhận thức đúng và hiểu rõ được lợi ích của CPH để từ đó ủng hộ và

tích cực tham gia.

Ba là, việc điều hành triển khai CPH còn chậm và lúng túng, một số cơ

chế chính sách còn chưa thông thoáng, thiếu tính thực tế, thủ tục còn phiền

hà. Một số nội dung của các văn bản chỉ đạo, tổ chức triển khai chưa rő ràng,

thiếu tính hệ thống và đồng bộ, nhiều vấn đề chậm được khẳng định như:

CPH là tự nguyện hay bắt buộc đối với các DNNN? Những DN nào tiến hành,

chưa hoặc không tiến hành CPH? Tỉ lệ cổ phần quy định bao nhiêu là hợp

lý?...

Bốn là, Quy trình CPH phức tạp, nhiều thủ tục phiền phức tốn kém,

chậm được cải tiến. Chậm quy định các hình thức tiến hành CPH và phân loại

DNNN, chưa có chương trình CPH tổng thể cho toàn bộ nền kinh tế để làm

căn cứ cho việc định hướng, xác định tiến độ, bước đi cho CPH.

Năm là, công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện ở một số bộ, ngành, địa

phương và tổng công ty còn thiếu kiên quyết. Việc chỉ đạo xây dựng các đề

án CPH còn chậm, còn xu hướng giữ lại nhiều DN làm ăn hiệu quả. Công tác

triển khai thực hiện đề án được phê duyệt còn lúng túng, xử lý các vướng

mắc, tồn tại thiếu dứt điểm; các cơ quan chức năng lại thiếu quan tâm, đôn

67

đốc thực hiện nên thời gian chuyển sang CTCP còn kéo dài. Các DN thuộc

diện CPH chưa chủ động xử lý những tổn tại về tài chính, các khoản nợ phải

thu khó đòi, khoản phải trả khó có khả năng trả nợ, tài sản, vật tư ứ đọng, kém

phẩm chất... nên khi thực hiện CPH phải mất nhiều thời gian để xác định, giải

quyết.

1.5. Những vấn đề đặt ra đối với doanh nghiệp nhà nƣớc sau cổ

phần hóa ở nƣớc ta

Quá trình CPH DNNN đã trải qua trên 15 năm với những kết quả quan

trọng khẳng định sự đúng hướng và hiệu quả là căn bản, tuy nhiên tiến độ vẫn

rất chậm so với mục tiêu đặt ra. Theo đánh giá giám sát việc thực hiện CPH

DNNN của UBTV Quốc hội thì số vốn CPH chỉ mới chiếm 12% trong tổng

số vốn khu vực quốc doanh. Sau CPH, nhà nước nắm giữ số vốn 46,3%,

người lao động giữ 29,6%, cổ đông bên ngoài giữ 24,1%. Có nghĩa là xét về

thực chất, quy mô CPH vốn quốc doanh còn rất nhỏ (chiếm khoảng 6% tổng

số vốn quốc doanh). Tiến độ quá chậm thể hiện rõ trên thực tế của nhiều bộ

nghành, địa phương và tổng công ty lớn, kết quả CPH chỉ đạt 10% đến 50%

chỉ tiêu kế hoạch. Do đó những vấn đề đặt ra là:

1.5.1. Nhận thức về mô hình doanh nghiệp cổ phần hoá

Mô hình DNCP, đã và đang gây ra nhiều ý kiến khác nhau, có ý kiến

cho rằng DNCP là một sự lai ghép giữa DNNN và DN tư nhân; có ý kiến cho

rằng mô hình này mang đặc điểm của cả DNNN và DN tư nhân. Điều này cho

thấy, DNCP vẫn còn đan xen và chưa thoát hẳn phương thức hoạt động của

DNNN. Bởi vì:

68

+ Về vấn đề sở hữu và các quyền về tài sản.

Biểu đồ 11: Nhận thức về quyền sở hữu và tài sản trong DNCP

Theo điều tra cho rằng,42% DN có quyền sở hữu và quyền về tài sản

của DNCP vừa giống DNNN, vừa giống DN tư nhân; chỉ có 20% số DN cho

rằng giống với DN tư nhân, nhưng có tới 38% số DN khẳng định rằng các

quyền này giống với DNNN.

Tồn tại vấn đề này, không đơn thuần chỉ về mặt nhận thức, mà xuất

phát từ những vướng mắc trong quá trình thực hiện CPH. Chẳng hạn, chưa

dứt điểm chuyển quyền sử dụng đất, chuyển quyền sở hữu tài sản, thiếu rõ

ràng giữa giao và thuê đất, không có giấy tờ xác nhận quyền sử dụng dây

chuyền công nghệ chính…làm cho các quyền và lợi ích liên quan cũng chưa

thể rõ ràng và minh bạch như các DN khu vực tư nhân.

+ Nhận thức về quan hệ tín dụng, đầu tư cũng chưa thống nhất.

69

Biểu đồ 12: Nhận thức về quan hệ tín dụng, đầu tư của DNCP

Có tới 30% số DN cho rằng mô hình DNCP giống DN tư nhân; 40% cho

rằng giống cả DNNN và DN tư nhân và 30% cho rằng giống DNNN.

+ Cơ chế lao động.

Biểu đồ 13: Nhìn nhận của DNCP về cơ chế lao động.

Đa số các DN cho rằng vẫn thực hiện cách thức từ khu vực DNNN.

Chỉ có rất ít DN cho rằng, DNCP giống với DN khu vực tư nhân, chỉ chiếm

14% số DN.

+ Quản trị doanh nghiệp.

70

Biểu đồ 14 : Nhìn nhận của DNCP về quản trị doanh nghi ệp.

Vẫn có tới 46% DN cho cho rằng quản trị DNCP vẫn còn những đặc

điểm của DNNN, 38% chưa có sự khác biệt giữa mô hình DN tư nhân và

DNNN và chỉ có 16% cho rằng hoàn toàn theo mô hình của DN khu vực tư

nhân.

Nhìn chung, từ các số liệu trên cho thấy, tuy đã chuyển sang mô hình

CTCP hoạt động theo Luật DN, nhưng cơ chế hoạt động sản xuất, kinh doanh

và điều hành của DNCP còn có sự đan xen giữa đặc thù của khu vực DNNN

với khu vực DN tư nhân, nhất là trong phương thức điều hành và lao động. Sự

đan xen này, một mặt do bản thân DNCP vẫn giữ một phần phương thức hoạt

động cũ, mặt khác khuôn khổ thể chế và môi trường hoạt động đối với quá

trình CPH cũng như sau CPH chưa tạo điều kiện thuận lợi để DN áp dụng

một cơ chế hoàn toàn mới.

1.5.2. Doanh nghiệp cổ phần và môi trường hoạt động

Nói chung, các DN vẫn quan tâm nhiều đến đất đai, tín dụng và thủ tục

hành chính trong các lĩnh vực kinh doanh có điều kiện.

+ Đất đai và mặt bằng sản xuất, kinh doanh

Diện tích đât đai, nhà xưởng của đa số các DNCP không bị giảm đi so

với trước khi chuyển đổi. Tại nhiều địa phương, DN được tiếp tục thuê đất,

71

thậm chí được giao đất thấp hơn nhiều so với giá trị thị trường, nhưng vẫn

khó khăn trong các quan hệ với ngân hàng hoặc khi muốn mở rộng quy mô

sản xuất, kinh doanh. Nguyên nhân của tình trạng này có thể do sự thiếu rõ

ràng về quyền sử dụng cũng như việc chưa giải quyết dứt điểm các quyền và

nghĩa vụ có liên quan trước khi đăng ký dưới hình thức CTCP, khiến DN gặp

nhiều khó khăn trong bố trí kế hoạch hoạt động kinh doanh như xây dựng nhà

xưởng, cơ sở hạ tầng… ổn định lâu dài, góp vốn liên doanh bằng tài sản có

trên đất mà DN đang sử dụng. Bất cập này càng được thể hiện rõ hơn đối với

các DN thương mại, dịch vụ ở trung tâm các thành phố, khu công nghiệp.

Có tình trạng bộ phận công ty nhà nước hoặc đơn vị thành viên của

tổng công ty CPH nhưng không có quyền sử dụng đất, không được đứng tên

thuê hoặc giao đất, do đất thuộc quyền sử dụng hoặc do công ty mẹ, tổng

công ty đứng tên thuê. Vì vậy, các đơn vị này (bộ phận DNCP và công ty mẹ

- đơn vị thành viên) phải nhờ tổng công ty đứng ra dùng quyền sử dụng đất để

vay vốn hộ mình. Ngược lại, cũng có trường hợp công ty mẹ hoặc tổng công

ty dùng toàn bộ diện tích đất đai mà bộ phận DNNN hoặc đơn vị thành viên

được CPH đang sử dụng để thế chấp vay vốn, gây khó khăn đối với việc ổn

định lâu dài hoạt động kinh doanh của công ty. Mặt khác, có thể còn xuất hiện

nguy cơ biến CPH DN thành “CPH bất động sản”, nhất là ở các trung tâm

kinh tế lớn nếu việc tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị DN không đúng.

+ Quyền sở hữu tài sản.

Quyền sở hữu tài sản không rõ ràng đang gây khó khăn cho

nhiềuDNCP. Theo kết quả khảo sát DNCP của Viện Nghiên cứu kinh tế

Trung ương hình thành từ đơn vị hạch toán báo sổ, hoặc hạch toán phụ thuộc

cho thấy, hầu như dây chuyền sản xuất chính hoặc các tài sản có giá trị lớn

đều do công ty mẹ hoặc tổng công ty đứng tên chủ sở hữu, nhưng khi CPH

72

chưa dứt điểm chuyển giao và đăng ký sở hữu nên nhiều vướng mắc có liên

quan đã diễn ra sau CPH.

+ Vốn tín dụng và quan hệ với ngân hàng.

Đây là một trong những thay đổi lớn sau chuyển đổi, tỷ trọng vay vốn

từ nguồn tín dụng của các ngân hàng thương mại Nhà nước đã giảm đi đáng

kể và thay vào đó là các nguồn tín dụng khác, kể cả tín dụng phi chính thức,

tín dụng từ người lao động, cổ đông hoặc gia đình, bạn bè. Các khoản vay tín

dụng trung, dài hạn và điều kiện tín dụng, điều kiện tín chấp, thế chấp, cầm cố

tài sản và lòng tin khi cho vay của ngân hàng có sự thay đổi đáng kể giữa DN

sau chuyển đổi và trước chuyển đổi.

Một số vấn đề phát sinh đã gây trở ngại, hạn chế đối với các DN

chuyển đổi. Trong đó còn có khoảng cách khá xa giữa quy định và thực tế

thực hiện chính sách tín dụng ngân hàng và chưa tạo được môi trường bình

đẳng cho DN sau chuyển đổi.

Trước CPH, các DN được các cơ quan chủ quản hoặc tổng công ty

hoặc công ty mẹ phê duyệt các phương án đầu tư hoặc các khoản vay lớn của

DN - một hình thức gián tiếp bảo lãnh, gây sức ép với ngân hàng Thương mại

quốc doanh cho DN vay vốn. Bên cạnh đó là sự hỗ trợ tài chính thông qua hỗ

trợ vốn vay ưu đãi và các biện pháp tài chính khoanh nợ, giãn nợ, xoá nợ,

chuyển vốn vay thành vốn nhà nước đầu tư… Sau CPH, các nguồn hỗ trợ này

không còn trong khi vốn huy động bên trong DN thông qua tập thể người lao

động, cổ đông, cổ đông đại diện cổ phần Nhà nước… bị hạn chế, nên DN phải

tự huy động vốn và nguồn vốn từ bên ngoài trở nên đặc biệt quan trọng.

+ Vấn đề lao động và tiền lương trong DNCP.

Đa số DNCP đều tổ chức thông tin pháp luật về lao động cho người lao

động dưới các hình thức khác nhau. Phổ biến nhất vẫn là hình thức giới thiệu

73

quy định pháp luật lao động tại hội nghị hoặc các cuộc họp chung của người

lao động tại công ty.

Số giờ làm việc bình quân của người lao động trong 559 DN là 45,68

giờ/tuần, thấp hơn so với quy định là 48giờ/tuần trong điều kiện lao động và

môi trường lao động bình thường. Tổ chức công đoàn vẫn giữ được những vai

trò nhất định trong DNCP, ít nhất là so sánh với DN trước chuyển đổi. Sau

chuyển đổi, 100% DNCP có tổ chức công đoàn, trong đó trung bình có tới

87% số lao động thường xuyên của DN tham gia là công đoàn viên.

Tuy nhiên, vẫn còn không ít DNCP chưa biết tận dụng ưu thế của mô

hình mới để tự xây dựng định mức lao động, tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật, tiêu

chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ và chủ động trả lương cho người lao động cho

DN mình, mà vẫn vận dụng chế độ tiền lương như trong công ty Nhà nước.

Vì vậy, cũng kế thừa luôn những nhược điểm cố hữu của chế độ tiền lương

trong khu vực DNNN, đó là: tiền lương, thu nhập của người lao động chưa

thực sự gắn với năng suất lao động, hiệu quả sản xuất, kinh doanh chưa tạo

được động lực cho người lao động trong DN.

Nhiều DNCP gặp vướng mắc vấn đề đóng bảo hiểm xã hội cho người

lao động và cán bộ. Về phía bảo hiểm xã hội ở các địa phương, họ chỉ nhận

đóng bảo hiểm theo thang, bảng lương mà các DN đã đăng ký. Trong khi đó,

không có nhiều DNCP tự xây dựng thang, bảng lương của mình để làm căn

cứ trả lương và đăng ký với cơ quan và tổ chức có liên quan, nên việc đóng

bảo hiểm gặp khó khăn. Một số DNCP có xây dựng và đăng ký thang bảng

lương cho người lao động và cán bộ quản lý nhưng vẫn gặp khó khăn, vì bảo

hiểm xã hội chưa linh hoạt, mà đòi hỏi phải có “xếp hạng” như các công ty

nhà nước.

74

1.5.3. Quản trị doanh nghiệp sau cổ phần hoá

+ Cổ đông - chủ sở hữu của DNCP

Đảm bảo các quyền lợi và lợi ích cơ bản của cổ đông, nhất là cổ đông

thiểu số, là một trong những trọng tâm của cải cách quản trị DN hiện nay. Các

quyền đó bao gồm: quyền sở hữu cổ phần/vốn góp; quyền được chuyển

nhượng, chuyển giao cổ phần/vốn góp; quyền nhận những thông tin quan

trọng về hoạt động của công ty; quyền tham gia, giám sát các hoạt động của

công ty thông qua cơ quan có thẩm quyền quyết định cao nhất của chủ sở hữu

trong công ty (Đại hội cổ đông); quyền tham gia bầu cử và miễn nhiệm các

nhà và điều hành công ty; quyền được hưởng lợi nhuận của phần đã đầu tư.

75

* Cơ cấu cổ đông:

Biểu đồ 15: Cơ cấu cổ đông của 559 DNCP (% tổng số cổ phần)

Qua số liệu khảo sát 559 DNCP cho thấy: CPH nội bộ vẫn là cách thức

thường thấy khi triển khai CPH. Gần đây có một số trường hợp tiến hành đấu

giá cổ phần, nhưng số này chưa nhiều. Vì vậy, dễ thấy người lao động, bao

gồm cả cán bộ là lực lượng cổ đông mạnh nhất trong DNCP.

Sự hiện diện của cổ đông nhà nước có thể xuất phát từ hai nguyên

nhân: giữ lại cổ phần nhà nước có chủ đích để chi phối hoặc không chi phối;

hoặc không bán hết cổ phần nên cổ đông nhà nước phải tham gia một cách

thụ động, trong đó nguyên nhân thứ là phổ biến hơn. Tuy nhiên, dù nằm ở

nguyên nhân nào, vẫn có một thực tế là số lượng cổ phần nhà nước, bao gồm

cả của nhà nước trung ương, địa phương, tổng công ty… vẫn chiếm vị trí thứ

hai sau cổ phần của người lao động.

Với vị trí thống lĩnh của cổ đông người lao động và cổ đông nhà nước

nên đương nhiên các cổ đông là các nhà đầu tư bên ngoài, dù là tổ chức, DN

76

hoặc các nhân chỉ chiếm vai trò thứ yếu, khoảng 10-11% cổ phần. Đây chính

là nguyên nhân gây nên tình trạng “thiếu cổ đông chiến lược” mà nhiều ý kiến

đã đưa ra lâu nay.

Tuy nhiên, ở đây không cần nhận thức rõ hơn về sức mạnh của cổ

đông là người lao động. Đặc điểm của cổ đông “người lao động” là có tính

phân tán, rời rạc, trong khi pháp luật Việt Nam chưa có hoặc quy định thiếu

rõ ràng về các trường hợp “tập trung cổ phần”. Do vậy, trên thực tế, cổ đông

người lao động chỉ được “ứng xử” như các cổ đông cá nhân thông thường,

thậm chí xét về số lượng cổ phần nắm giữ thì từng cá nhân người lao động là

những cổ đông nhỏ nhất, nhỏ hơn cả cổ đông cá nhân từ bên ngoài.

Với cách tiếp cận như vậy, đương nhiên cổ đông nhà nước vẫn là chủ

sở hữu lớn nhất trong các DNCP.

Qua biểu đồ trên cũng cho thấy một xu hướng thay đổi nhỏ nhưng rất

đáng quan tâm, đó là: cổ phần của cổ đông người lao động và cổ phần của cổ

đông nhà nước đã giảm đi, còn cổ phần của nhà đầu tư bền ngoài, gồm cả nhà

đầu tư nước ngoài và của cán bộ đã tăng lên.

Việc các DN thuộc tổng công ty không có cổ đông là người nhà nước

như biểu đồ trên cho thấy, đây là vấn đề đáng suy nghĩ, nhất là trong điều

kiện đối tượng mua cổ phần ngày càng mở rộng và Việt Nam đang mong

muốn tiếp thu tài chính, công nghệ và trình độ quản lý của đối tác nước ngoài.

* Mục tiêu đầu tư của các cổ đông

Nhìn chung, cổ đông của DNCP chủ yếu quan tâm tới kết quả và hiệu

quả của khoản đầu tư dưới hình thức cổ phần hơn là những vấn đề thuộc lĩnh

vực điều hành sản xuất, kinh doanh như vốn, tài sản, đầu tư, thu nhập giám

đốc… Tuy nhiên, do có một cơ cấu đông đảo cổ đông là người lao động, nên

77

vấn đề “lương thưởng và thu nhập của người lao động” lại giành được sự

quan tâm lớn của các cổ đông, chỉ đứng sau cổ tức và lợi nhuận.

* Thực hiện quyền được cung cấp thông tin của các cổ đông:

Trong phạm vi các quy định hiện hành về minh bạch hoá thông tin của

CTCP, dường như các cổ đông của DNCP hiện nay không gặp khó khăn để có

được những thông tin như “lương và thu nhập của giám đốc” cũng như đa số

DN chỉ cung cấp cho các cổ đông khi có yêu cầu.

Biểu đồ 16: Bảo đảm quyền được cung cấp thông tin của cổ đông

(%-DN thực hiện)

Nhìn tổng thể, các số liệu ở biểu đồ trên có vẻ là tương đối tích cực.

Nhưng, loại thông tin chi tiết cổ đông nhận được thì chỉ có thể là một số

thông tin sơ lược trong báo cáo tài chính trình bày trước đại hội cổ đông hàng

năm. Do không được cung cấp thông tin chi tiết, nên các cổ đông nhỏ, chủ

yếu là người lao động trong công ty không hiểu được thực chất công ty, cảm

thấy bị đứng ngoài công ty, không có tâm lý mình là chủ sở hữu công ty, thậm

chí có một số lao động coi DNCP là “người vay” và họ chỉ là “người cho vay

vốn”.

78

* Nhận thức của các cổ đông về quyền và nghĩa vụ đối với DN:

Biểu đồ 17: Mức độ hiểu biết của các cổ đông về quyền và nghĩa vụ đối

với DNCP (%-tỷ lệ tổng số cổ đông).

Theo kết quả điều tra 559 DN, vẫn còn một bộ phận nhỏ các cổ đông

chưa nhận thức được đúng đắn các quyền, lợi ích và nghĩa vụ của mình đối

với DN nên đã diễn ra hai thái cực: hoặc là cổ đông không nắm rõ các quy

định pháp lý về quyền hạn của cổ đông, hội đồng quản trị, ban kiểm soát,

giám đốc cũng như thủ tục, trình tự tổ chức đại hội cổ đông, đặc biệt là của

đại hội cổ đông bất thường… dẫn đến cổ đông lạm quyền và can thiệp quá

sâu và công tác, điều hành công ty gây nên những xung đột nội bộ không

đáng có. Hoặc là cổ đông quá e dè, không sử dụng hết các quyền hạn chính

đáng của mình đối với và điều hành công ty, dẫn đến hệ quả là đại hội cổ

đông trở thành hình thức; bản thân các cổ đông từ vị trí là “nhà đầu tư” đã trở

thành “người gửi tiết kiệm”. Nhiều cổ đông là người lao động trong DNCP

không thấy được vai trò chủ sở hữu thực sự của mình để tích cực tham gia

bàn bạc, thảo luận và biểu quyết các vấn đề quan trọng của công ty như quyết

định định hướng chiến lược, mục tiêu, nhiệm vụ, sử dụng lợi nhuận, bầu hội

đồng quản trị… tại đại hội cổ đông.

79

Biểu đồ 18: Mức độ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của cổ đông

(%-tỷ lệ tổng số cổ đông)

* Cổ đông nhà nước:

Tính trung bình trong 559 DN được điều tra, Nhà nước vẫn chiếm

khoảng 26% cổ phần tại DNCP, cá biệt có trường hợp cổ phần nhà nước

chiếm tới 87%. Do tính chất tập trung của cổ phần nhà nước, cổ đông nhà

nước có một vị trí đặc biệt trong cơ cấu cổ đông của DNCP.

Tuỳ theo DNCP là từ DN hay bộ phận DN trực thuộc Bộ hay UBND

cấp tỉnh, tổng công ty, công ty nhà nước độc lập (công ty mẹ) mà các cơ quan,

tổ chức hay DN tương ứng này là đại diện cổ phần nhà nước tại DNCP. Tuy

nhiên, các cơ quan và tổ chức kinh tế này không trực tiếp giao cho người đại

diện trực tiếp tại DNCP nhà nước- người đại diện này có thể là một người

hoặc một nhóm người ở ngoài hoặc ở ngay trong DN đó, nhưng trong đại đa

số trường hợp là giao cho một nhóm người. Trong trường hợp giao cho một

nhóm người, tỷ lệ cổ phần cụ thể của từng người nắm giữ sẽ được quy định

trong quyết định cử người đại diện của cơ quan, tổ chức thực hiện chức năng

cổ đông chủ sở hữu nhà nước.

80

Biểu đồ19 : Quan điểm của DN về quản lý cổ phần nhà nước

Trong thực tế, gần như 100% DN, cổ phần nhà nước được giao cho một

nhóm người quản lý, bất kể đó là cổ phần chi phối hay không chi phối. Tuy

nhiên, dường như phương thức này lại không nhận được sự ủng hộ của đa số

DN. Có 63,14% DN đề nghị chỉ nên giao cho một người quản lý; 36,86% đề

nghị giao cho một nhóm người. Lập luận của đa số ý kiến chỉ nên giao cho

một người quản lý là nhằm nâng cao trách nhiệm và tập trung đầu mối cổ

đông nhà nước, tránh trường hợp lợi ích của cổ phần nhà nước bị phân tán.

Một vấn đề khác nữa, đa số DN quan niệm rằng người đại diện trực

tiếp có cổ phần nhà nước nên có cổ phần riêng của mình tại DNCP.

Như vậy, có thể thấy vẫn chưa thống nhất về việc cử người đại diện cổ

phần nhà nước như thế nào là hợp lý. Nhưng các DNCP cũng mong muốn và

kiến nghị nên có ngay các hướng dẫn cụ thể và nhanh chóng triển khai việc

chuyển giao quyền chủ sở hữu cổ phần nhà nước, ít nhất là các DNCP địa

phương cho Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước đã được hình

thành.

+ Tổ chức và điều hành DNCP.

Trong số 559 DN được điều tra, có 70,64% số DN có chủ tịch hội đồng

quản trị kiêm giám đốc. Việc kiêm nhiệm này có ưu điểm là tránh được

những mối xung đột có thể có giữa hội đồng quản trị và giám đốc (quan hệ

81

giữa quản ly và điều hành). Hơn nữa, việc kiêm nhiệm như vậy sẽ tiết kiệm

được chi phí quản lý cho DN và rất thích hợp với các DNCP quy mô nhỏ. Tuy

nhiên, hạn chế của mô hình kiêm nhiệm này là chưa tách bạch giữa quản ly và

điều hành. Vì vậy, không thích hợp để áp dụng một cơ chế quản trị công ty

hiện đại với sự kiểm tra, giám sát có hiệu quả đối với bộ máy điều hành DN.

Hội đồng quản trị trong CTCP - cũng như một số loại hình DN khác - được

hình thành là để thực hiện chức năng bảo vệ quyền lợi của các cổ đông cũng

như giám sát bộ máy quản lý trong điều hành (mà đứng đầu là giám đốc/tổng

giám đốc) và sử dụng vốn đầu tư của các cổ đông vào các hoạt động sản xuất,

kinh doanh. Nếu không tách bạch được hội đồng quản trị với giám đốc thì

tiềm ẩn nguy cơ lợi ích của các cổ đông không được đảm bảo.

Một vấn đề nữa, đó là công tác cán bộ. Cho dù có những thay đổi tích

cực về kết quả và hiệu quả sản xuất, kinh doanh nhưng vấn đề tổ chức nhân

sự chưa có sự thay đổi tương xứng. Có khoảng 80-90% DN vẫn giữ nguyên

các chức danh quản lý chủ chốt như thành viên hội đồng quản trị, giám đốc,

phó giám đốc, kế toán trưởng, kể cả những DN đã qua 2-3 lần bầu lại các

chức danh này. Việc ít thay đổi cán bộ chủ chốt, một phần có thể do các cổ

đông vẫn tin tưởng và bản thân các cán bộ vẫn đảm đương được nhiệm vụ của

mình, nhưng quan trọng hơn là do DN chưa đủ động lực và điều kiện cần thiết

để hình thành một đội ngũ điều hành có chất lượng hơn từ bên ngoài.

Rõ ràng, CPH tạo ra động lực mới, nhưng bộ máy ít thay đổi dẫn đến tư

duy, trình độ và điều hành DN cũng ít thay đổi. Nguyên nhân là do bán cổ

phần chủ yếu trong nội bộ công nhân viên nên thiếu nhà đầu tư chiến lược là

những cổ đông bên ngoài DN có tỷ lệ cổ phần đủ lớn làm thay đổi các quyết

sách và quản trị của DN .

* Tranh chấp nội bộ:

82

Biểu đồ 20 : Tỷ lệ có tranh chấp trong DNCP

Theo kết quả điều tra về quản trị DN của 559 DN, tỷ lệ trả lời thừa

nhận có tranh chấp trong DN thường không đáng kể và không tương xứng với

thực tế diễn ra. Chỉ có khoảng 7% DN cho rằng có tranh chấp giữa các cổ

đông hoặc nhóm cổ đông với nhau; 5,2% thừa nhận có tranh chấp giữa hội

đồng quản trị với giám đốc; và 3,2% có tranh chấp dẫn đến khiếu kiện. Tuy

nhiên, có đến 17,3% số DN khẳng định có sự tranh chấp giữa các cổ đông với

ban điều hành.

Từ số liệu trên có thể giải thích rằng: việc kiêm nhiệm giữa chủ tịch hội

đồng quản trị và giám đốc ở đa số DNCP đã dẫn tới việc giảm thiểu những

xung đột giữa hội đồng quản trị với giám đốc. Tuy nhiên, mặt trái của vấn đề

là tiềm ẩn nguy cơ không bảo vệ lợi ích của các cổ đông như đã đề cập ở trên.

Điều này giải thích tại sao tỷ lệ tranh chấp giữa cổ đông và ban quản lý điều

hành cao hơn hẳn so với các tranh chấp khác. Tỷ lệ 17,3% không phải là quá

cao, nhưng nếu đem áp dụng với hơn 3.000 DNCP thì số lượng DN có tranh

chấp giữa cổ đông và ban điều hành của CTCP không hề nhỏ. Từ nhiều nguồn

thông tin cho thấy, thực tế ở Việt Nam, tranh chấp kinh tế diễn ra nhiều,

nhưng phần lớn DN không hoặc rất thận trọng khi thừa nhận các tranh chấp

đó. Khi có tranh chấp, giải pháp thường thấy là giấu thông tin, tự hoà giải,

thương lượng và rất ngại giải quyết tranh chấp bằng khiếu kiện. Bên cạnh đó,

83

đa số DN chưa có tính chuyên nghiệp trong giải quyết tranh chấp. Điều đó

cũng đã ảnh hưởng không nhỏ khi tham gia vào đời sống thương mại toàn

cầu. Nguyên nhân là do quy định pháp luật và thực thi pháp luật về hợp đồng

còn có nhiều bất cập như: không rõ văn bản nào có hiệu lực thi hành cao nhất

về vấn đề hợp đồng; thiếu nhất quán trong áp dụng quy định pháp luật về hợp

đồng; nội dung quy định pháp lý còn lạc hậu, chưa phản ánh hết được sự đa

dạng và đổi mới của đời sống kinh tế nói chung cũng như các hoạt động liên

kết, hợp tác, tổ chức DN.

Từ việc nhìn nhận đánh giá những vấn đề đặt ra đối với DNNN sau

CPH ở nước ta, đã giúp chúng ta có cái nhìn về triển vọng của DNNN sau

CPH như sau:

Việc sắp xếp, đổi mới DNNN ở nước ta hiện nay với nội dung chủ yếu

là chuyển một phần các DNNN sang hình thức CTCP về thực chất là sự

chuyển đổi hình thức - xã hội hóa quá trình sản xuất từ dạng DNNN sang

dạng CTCP. Qua phân tích cho thấy CPH không phải là tư nhân hóa. Với

cách đặt vấn đề như vậy, rõ ràng việc tinh gọn hơn về số lượng và nâng cao

hiệu quả hoạt động kinh doanh của DNNN sau CPH trở thành nội dung chính

của cuộc cải cách các DNNN ở Việt Nam hiện nay. CPH là một trong số

nhiều biện pháp để thực hiện mục tiêu này. Đây cũng là điều đã được khẳng

định trong các Nghị quyết Đại hội của Đảng.

Trên cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn hoạt động của các DNNN đã

CPH cho thấy thực chất sự chuyển đổi từ DNNN sang hoạt động theo hình

thức CTCP là quá trình bao gồm hàng loạt biện pháp về kinh tế, tổ chức, cả về

vĩ mô và vi mô. CPH DNNN là một tất yếu khách quan, đã đem lại những

thành tựu nhất định trên nhiều phương diện về sở hữu, khả năng huy động

vốn, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của DN, cải thiện đời sống của người

lao động và hoạt động kinh doanh của DNNN đã có sự tăng trưởng.

84

Tuy nhiên, tiến độ triển khai CPH còn chậm, vì: vấn đề đất đai, tín

dụng và thủ tục hành chính... của DN sau CPH chưa được giải quyết triệt để;

kiểm kê đánh giá lại tài sản DN chưa rõ ràng. Nhà nước còn chiếm tỷ trọng

lớn trong vốn điều lệ ở nhiều DN đã làm hạn chế sự đổi mới trong quản trị

công ty; phương pháp quản lý, lề lối làm việc, tư duy quản lý vẫn còn có sự

phân biệt đối xử, quyền lợi của người lao động chưa đựơc quan tâm thực sự.

Vì vậy, nếu giải quyết tốt các vấn đề này sẽ làm cho quá trình CPH DNNN

lành mạnh và có hiệu quả.

Để giải quyết những khó khăn, vướng mắc trên, Nghị quyết Hội nghị

Trung ương 3 và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9, Chỉ thị 45 của Bộ Chính

trị, Nghị định 64, Nghị định 187… với những đột phá căn bản là: (1) xác định

CPH cả những DNNN lớn và có lãi, (2) mở rộng các lĩnh vực được CPH, và

(3) không chấp nhận kiểu CPH “khép kín”.

Quan tâm, xử lý và giải quyết các vấn đề sau CPH của các DNNN là

rất quan trọng vì những vấn đề này vừa mang tính khách quan vừa mang tính

chủ quan và cần phải xem xét trên tất cả các mặt. Phải coi đây là bài học kinh

nghiệm cho quá trình triển khai CPH DNNN trong giai đoạn tiếp theo.

85

Chƣơng 2

PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC SAU CỔ PHẦN HÓA Ở VIỆT NAM

2.1. Phƣơng hƣớng hoạt động của doanh nghiệp nhà nƣớc sau cổ

phần hóa ở Việt Nam

2.1.1. Đảm bảo sự vận hành có hiệu quả của bộ máy quản lý

và điều hành của doanh nghiệp cổ phần

Phát triển nguồn nhân lực quản lý có chất lượng cho các công ty cổ

phần. Nâng cao vai trò quản lý của hội đồng quản trị, nhằm tạo ra sự cân đối

giữa quyền hạn và trách nhiệm của các thành viên hội đồng quản trị, trong đó

ít nhất về mặt hình thức phải có các quy định về tiêu chuẩn thành viên hội

đồng quản trị. Chú ý các thông lệ về quản trị doanh nghiệp trên thế giới, nhất

là các công ty cổ phần hình thành từ doanh nghiệp nhà nước.

Bổ sung các quy định về thành viên độc lập trong các hội đồng quản trị

của doanh nghiệp cổ phần, nhất là trong điều kiện nhiều doanh nghiệp cổ

phần nói riêng và công ty cổ phần nói chung được tổ chức theo mô hình kiêm

nhiệm giữa chủ tịch hội đồng quản trị và giám đốc công ty.

Quy định cụ thể về cơ chế triệu tập các cuộc họp của hội đồng quản trị,

trong đó mở rộng đối tượng có thẩm quyền (ngoài chủ tịch hội đồng quản trị).

Quy định cụ thể vấn đề uỷ quyền chủ sở hữu. Đối với các công ty cổ

phần lớn hoặc các công ty cổ phần có vốn của Nhà nước, người trực tiếp thực

hiện các quyền cổ đông phải là cổ đông thực sự.

86

Có các quy định cụ thể để hạn chế những bất ổn và vướng mắc do tình

trạng can thiệp của các cơ quan hành chính nhà nước bên ngoài vào công ty

cổ phần có vốn chi phối của Nhà nước.

2.1.2. Giải quyết các vấn đề liên quan đến cổ đông trong

doanh nghiệp cổ phần

Tăng cường tập huấn, đào tạo, bồi dưỡng cho người lao động và cán bộ

quản lý doanh nghiệp cổ phần về quyền của cổ đông, của các cơ quan quản lý

trong công ty nhằm làm cho cổ đông, nhất là cổ đông là người lao động nắm

được các quy định pháp lý, tránh tình trạng xung đột trong nội bộ doanh

nghiệp sau chuyển đổi do không hiểu pháp luật để đảm bảo hiệu quả hoạt

động của doanh nghiệp sau cổ phần hoá.

Tiến hành sửa đổi, bổ sung các quy định pháp lý có liên quan đến việc

nâng cao hiệu quả của cơ chế thực thi đảm bảo các quyền của các cổ đông

trong các doanh nghiệp cổ phần, nhất là cổ đông là người lao động và các cổ

đông thiểu số như: Đảm bảo tối đa quyền được cung cấp thông tin của các cổ

đông, bổ sung các quy định cụ thể đảm bảo cho các cổ đông được quyền tiếp

cận tất cả các thông tin của công ty. Được đảm bảo quyền xem xét sổ sách kế

toán, biên bản họp đại hội cổ đông, hội đồng quản trị; Cụ thể hoá các quy

định về quyền của các cổ đông thiểu số trong đề cử người vào hội đồng quản

trị, ban kiểm soát và quyền triệu tập đại hội cổ đông, nhất là quy định về

nguyên tắc xác định số lượng người mà họ được cử, cũng như hình thức và

nội dung của việc yêu cầu triệu tập đại hội cổ đông nhằm đảm bảo các quyền

này có thể thực thi có hiệu quả trong thực tế; Bổ sung cơ chế uỷ quyền biểu

quyết nhằm tạo điều kiện tập trung lượng phiếu nhất định cho những quyết

định tại đại hội cổ đông trước áp lực của các cổ đông đa số, như cổ đông Nhà

nước trong các doanh nghiệp cổ phần có vốn chi phối của Nhà nước; Nâng

cao tỷ lệ thông qua quyết định tại đại hội cổ đông để giảm khả năng thao túng

87

của các cổ đông lớn; Cụ thể hoá hơn nữa các quy định về biểu quyết bằng văn

bản nhằm giải thiểu tình trạng tuỳ tiện lấy ý kiến ở một số doanh nghiệp có tỷ

lệ cổ phần Nhà nước lớn.

Hiện nay có tình trạng cổ đông không biết thông báo của một số CTCP

về việc trả cổ tức, thời hạn và phương thức trả. Những cổ đông ở xa CTCP thì

việc nhận cổ tức rất phức tạp như phải đến tận DN, phải gửi giấy đến DN có

xác nhận của cơ quan mới được chuyển khoản.... Thực tế điều đó dẫn tới việc

cổ đông chậm nhận đựoc cổ tức, nhất là các cổ đông thiểu số. Một số CTCP

có rất nhiều cổ đông tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh có sáng kiến uỷ thác

qua các công ty chứng khoán thanh toán cổ tức, biện pháp này rất đơn giản,

chi phí nhỏ nhưng làm cho các nhà đầu tư an tâm và cổ phiếu của DN có tính

thanh toán cao. Việc chưa tạo điều kiện cho thanh toán cổ tức cũng hạn chế

tính thanh khoản cổ phiếu và hạn chế huy động vốn cho DN. Những tồn tại

này không phải là vấn đề lớn nhưng sai luật DN và rất dễ dàng khắc phục. Do

đó cần có đề nghị các cơ quan đại diện cổ phần nhà nước thông qua người

quản lý trực tiếp phần vốn nhà nước tại DN và các CTCP rà soát lại điều lệ để

sửa đổi phù hợp với luật hiện hành.

Bổ sung và làm rõ các quy định có liên quan đến cổ đông sáng lập để

làm rõ những câu hỏi: Vốn điều lệ của doanh nghiệp cổ phần tại thời điểm

chuyển đổi là số vốn được cổ đông sáng lập cam kết mua hay là số vốn của

tổng số cổ phần dự định phát hành? Trong ba năm đầu cổ phần hoá, cổ đông

sáng lập có được chuyển nhượng cổ phần cho nhau hay không (không chuyển

nhượng cho người ngoài)? Cổ đông nhà nước (nhất là trường hợp giữ cổ phần

chi phối) và các cổ đông sáng lập khác có được quyền chuyển nhượng cổ

phần của mình cho người ngoài không?

88

2.1.3. Tiếp tục cải thiện môi trường hoạt động của công ty

cổ phần

Xoá bỏ sự phân biệt trong các chính sách và thực hiện các chính sách

giữa công ty nhà nước và doanh nghiệp sau chuyển đổi về tín dụng, đầu tư,

đất đai,...

Quy định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong

việc tiếp tục cung cấp thông tin, phổ biến chế độ chính sách cho doanh nghiệp

cổ phần. Hoàn thiện hệ thống cơ quan đăng ký kinh doanh và thông tin doanh

nghiệp thuộc các cơ quan kế hoạch và đầu tư để kết hợp đăng ký kinh doanh

đối với doanh nghiệp cổ phần và cung cấp thông tin cho doanh nghiệp cổ

phần.

Giao rõ trách nhiệm cho các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan đến

quy trình cổ phần hoá để giải đáp các vướng mắc của doanh nghiệp trong và

sau cổ phần hoá.

Phát triển một số tổ chức chuyên môn thực hiện nghiệp vụ tư vấn, đầu

tư cổ phần, bao gồm: tư vấn xây dựng phương án cổ phần hoá, dịch vụ phát

hành cổ phiếu mới, chuyển nhượng cổ phần, niêm yết cổ phiếu trên thị trường

chứng khoán, xây dựng điều lệ công ty cổ phần, môi giới vay vốn đầu tư cổ

phần, tư vấn quản lý doanh nghiệp cổ phần, dịch vụ liên quan đến cổ đông

như tổ chức đại hội cổ đông, tư vấn lập và hoạt động các ban chức năng của

công ty cổ phần, phân chia cổ tức, chuyển nhượng cổ phần,…

Chuyển hẳn chức năng quản lý cổ phần nhà nước của các doanh nghiệp

trực thuộc Bộ, địa phương đã cổ phần hoá toàn bộ doanh nghiệp (không còn

pháp nhân) cho Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước. Tổ chức

này sẽ thực hiện việc quản lý, đầu tư, kinh doanh cổ phần.

89

2.2. Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh

nghiệp nhà nƣớc sau cổ phần hóa trong thời gian tới ở Việt Nam

2.2.1. Nhóm giải pháp vĩ mô nhằm nâng cao hiệu quả hoạt

động của doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa trong thời

gian tới ở Việt Nam

Nhóm giải pháp này đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa vai trò quản lý

của nhà nước khi DNNN chuyển thành CTCP. Phải phát huy cao độ ‎ý thức

sáng tạo của người lao động trong các CTCP, tạo điều kiện để họ có cổ phần

tại DN mình làm việc; đồng thời có cơ chế biện pháp ngăn ngừa và xử lý

những tiêu cực xảy ra sau CPH.

Phải đảm bảo các DNNN sau CPH đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao,

những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh và xử lý những vấn đề

phát sinh của DN sau CPH; xử lý giá trị tài sản DN chưa sát dẫn đến xác định

giá trị cổ phiếu thấp gây thất thoát cho ngân sách; việc giải quyết lợi ích của

những người lao động; xử lý mối tương quan giữa hiệu quả tài chính của DN

và hiệu quả của kinh tế - xã hội...

Cần nghiêm túc thực hiện đúng quy định và đúng lộ trình mà Chính

phủ phê duyệt, cần có kế hoạch chi tiết với những nhiệm vụ cụ thể phân công

người phụ trách và chỉ đạo thực hiện kế hoạch một cách đồng bộ, vững chắc.

Bên cạnh đó cần phải xây dựng chương trình củng cố phát triển những DNNN

đã CPH xác định rõ những tồn tại, những vấn đề cần xử lý để nâng cao hiệu

quả hoạt động kinh doanh ở các DNNN khi chuyển thành CTCP. Để thực

hiện thành công phương hướng CPH DNNN một cách vững chắc, tạo điều

kiện cho các DN sau CPH hoạt động một cách bền vững hơn cần thiết phải

hoàn thiện môi truờng kinh doanh của các DN sau CPH. Để giải quyết các

vấn đề sau CPH các DN cần tập trung vào những vấn đề sau.

90

2.2.1.1. Sửa đổi bổ sung một số quyết định và ban hành các văn bản

cho hoạt dộng của doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa

Từ kinh nghiệm thực tiễn tại các DNNN đã CPH, phải thực hiện nhất

quán các chính sách tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động đầu tư, kinh

doanh và phát triển mạnh mẽ các loại hình DN. Cần khẩn trương rà soát các

thể chế phục vụ việc CPH, phát hiện những bất hợp lý, những mâu thuẫn,

những điều không khả thi để kiến nghị sửa đổi, đồng thời đề xuất giải pháp

tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, thông thoáng, có tính khả thi cao nhằm thúc đẩy

hoạt động của DNNN sau CPH.

Ban hành các văn bản pháp quy hướng dẫn thi hành Luật DN và những

Luật có liên quan như luật Đầu tư, luật Đất đai…

Ban hành các tiêu chí đáp ứng yêu cầu chuyển đổi DNNN (ví dụ: chuẩn

bị về điều kiện hình thành tập đoàn kinh tế).

Ban hành quy chế đánh giá hiệu quả DNNN, quy chế kiểm soát, giám

sát nhất là quy chế tuyển chọn cán bộ DN (nâng cao trách nhiệm giám đốc

DN để tạo tâm lý ổn định phấn đấu không chỉ vì kinh tế mà cả mục đích lý

tưởng chính trị xã hội của họ).

Mở rộng thị trường vốn, xoá bỏ đầu tư không hợp lý từ vốn Nhà nước

dưới mọi hình thức.

Khuyến khích DN huy động vốn xã hội vào mở rộng sản xuất kinh

doanh, khẩn trương thu hẹp xóa bỏ độc quyền nhà nước tạo điều kiện thúc

đẩy thị trường sức lao động, chú ý đến thị trường sức lao động quản trị DN,

có cơ chế coi “giám đốc” là một nghề. Thuê giám đốc để hướng tới mục tiêu

hiệu quả hơn và lợi nhuận DN, thoát ly vấn đề quốc tịch và vị thế chính trị .

91

Thúc đẩy quá trình cải cách hành chính (giảm thiếu cơ chế trình duyệt -

“xin cho”) xây dựng các tiêu chí, môi truờng để DN tổ chức lại cho phù hợp

với mô hình hoạt động của Luật DN.

Tích cực triển khai thực hiện hỗ trợ DN, nhất là về đào tạo đội ngũ cán

bộ quản trị DN và đội ngũ lao động kỹ thuật của DN; về cung cấp thông tin,

xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu, xử lý rủi ro trong kinh doanh,

bảo vệ lợi ích chính đáng của các DN.

Hoàn thiện cơ chế chính sách, quy trình sắp xếp DNNN theo hướng

đơn giản, gọn nhẹ, giảm thủ tục hành chính, tạo điều kiện đẩy nhanh tiến trình

sắp xếp DNNN, nâng cao tính công khai minh bạch và thị truờng trong quá

trình sắp xếp.

2.2.1.2. Đặt quá trình giải quyết các vấn đề sau cổ phần hóa trong

chiến lược đổi mới các doanh nghiệp nhà nước

Với những bối cảnh hiện nay, Đảng và Nhà nước ta phấn đấu đến cuối

năm 2009 hoàn thành việc sắp xếp DNNN. Một số ít các DN còn lại chủ yếu

là DN hoạt động công ích và một số tập đoàn, tổng công ty mạnh sẽ tiếp tục

CPH vào các năm tiếp theo

Những DN trước đây thuộc diện giữ nguyên là DNNN hoặc chuyển đổi

sang công ty TNHH một thành viên nhà nước giữ 100% vốn, cần rà soát, xem

xét lại để chuyển sang CTCP cho phù hợp với tiêu chí phân loại mới của

Chính phủ. Sau khi đã tổ chức lại sẽ tiến hành CPH Công ty mẹ. Việc sát

nhập hợp nhất không làm ảnh hưởng đến tình hình sản xuất, kinh doanh tài

chính của đơn vị sát nhập, hợp nhất; đối với DN sản xuất cung ứng sản phẩm,

dịch vụ công ích cần xem xét để chuyển thành công ty TNHH một thành viên.

Giảm bớt hơn nữa số DN 100% vốn Nhà nước và Nhà nước chỉ giữ cổ phần

chi phối đối với những DN thuộc một số ngành và lĩnh vực then chốt.

92

Nhóm thứ nhất: DN giữ 100% vốn Nhà nước; DN cung ứng sản phẩm

dịch vụ công ích thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh (sản xuất vũ khí, thuốc

nổ, phương tiện thu phát sóng ) mà chưa thực hiện CPH được sẽ chuyển sang

công ty TNHH một thành viên.

Nhà nước giữ cổ phần chi phối đối với DNNN hoạt động kinh doanh

trong các ngành và lĩnh vực: bán buôn lương thực, bán buôn xăng dầu, sản

xuất điện, khai thác các khoáng sản quan trọng, sản xuất một số sản phẩm cơ

khí, điện tử, công nghệ thông tin, sản xuất kim loại đen, kim loại màu, sản

xuất hóa chất cơ bản, phân hóa học, thuốc bảo vệ thực vật, sản xuất xi măng,

công nghiệp xây dựng, sản xuất một số hàng tiêu dùng và công nghiệp thực

phẩm quan trọng, sản xuất hóa dược, thuốc chữa bệnh, vận tải hàng không,

đường sắt, viễn dương, kinh doanh tiền tệ, bảo hiểm, xổ số kiến thiết, dịch vụ

viễn thông cơ bản; chủ yếu là các DN có quy mô lớn, có đóng góp lớn cho

ngân sách, đi đầu trong việc ứng dụng công nghệ mũi nhọn, công nghệ cao và

góp phần quan trọng ổn định kinh tế vĩ mô để tạo tiềm lực và thực hiện các

chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế (kinh doanh tiền tệ, ngân hàng, năng

lượng, dầu khí, khai khoáng).

DN thuộc về cơ sở hạ tầng có tính chất nền tảng giúp các nghành khác

phát triển (hệ thống giao thông, bến cảng sân bay, văn hóa, giáo dục, y tế,

thủy lợi... là những nghành đòi hỏi vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn chậm

tỷ suất lợi nhuận thấp). Nhằm bảo đảm nhu cầu thiết yếu cho phát triển sản

xuất và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào nông thôn, đồng

bào các dân tộc ở miền núi, vùng sâu, vùng xa. Nhà nước giữ cổ phần đặc biệt

trong một số trường hợp cần thiết.

Nhóm thứ hai: Các DN thuộc các lĩnh vực, các nghành không cần thiết

phải duy trì hình thức sở hữu nhà nước thì nên thu hẹp dần bằng quá trình đa

93

dạng hóa và CPH để khuyến khích cạnh tranh và nâng cao hiệu quả hoạt động

của DN này.

Nhóm thứ ba: Các DNNN thua lỗ kéo dài mất khả năng thanh toán

không thuộc diện nhà nước trợ cấp và không thể tiến hành CPH thì được xử lý

theo luật phá sản DN theo quyết định 315/HĐBT với 4 giải pháp: sát nhập,

cho thuê, nhượng bán và giải thể để tránh làm tăng thêm ghánh nặng cho ngân

sách xã hội.

2.2.1.3. Phát triển và hoàn thiện các yếu tố thị trường để nâng cao hiệu

quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa

Một là, khuyến khích kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể phát triển; khuyến

khích các hình thức liên kết, liên doanh với nhà nước; nhà nước bảo hộ quyền

sở hữu và lợi ích hợp pháp của họ; tạo điều kiện hỗ trợ, cung cấp tri thức,

kinh nghiệm, kỹ thuật, giải quyết thị trường… để các thành phần khai thác có

hiệu quả các nguồn lực trong nước và thu hút vốn, kỹ thuật, công nghệ, kinh

nghiệm từ nước ngoài, cùng tham gia vào các CTCP từ DNNN.

Hai là, tạo lập đồng bộ các loại thị trường. Cùng với việc phát triển

mạnh thị trường tư liệu sản xuất, thị trường hàng tiêu dùng cần coi trọng việc

phát triển mạnh mẽ thị trường các loại dịch vụ cho sản xuất, thị trường công

nghệ, thông tin, tư vấn pháp lý, tư vấn tiếp thị, tài chính, ngân hàng… phát

triển thị trường tiền tệ, nhất là phát triển thị trường chứng khoán, thị trường

lao động. Nhà nước cần tạo mọi điều kiện để hoạt động của Trung tâm giao

dịch chứng khoán ngày càng phát triển thuận lợi.

Ba là, hoàn thiện các công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô. Điểm mấu chốt là

tăng tiềm lực và lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia, hoàn thiện chính sách

tài chính - tiền tệ và hoạt động Ngân hàng, ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát

94

và thiểu phát, nâng cao năng lực kinh tế thị trường của các cấp, các ngành từ

Trung ương đến địa phương.

Bốn là, điều chỉnh, hoàn thiện hệ thống luật pháp về kinh tế thị trường,

đồng thời phải hướng dẫn, kiểm tra nhằm bảo đảm thực hiện nghiêm túc các

Luật đã ban hành. Cấm việc áp dụng các thủ pháp đầu cơ, lừa đảo, đồng thời

khuyến khích cạnh tranh lành mạnh nâng cao chất lượng, hạ giá bán sản

phẩm. Ban hành luật hoặc pháp lệnh về CPH DNNN để nâng cao tính pháp

lý, tạo điều kiện thuận lợi để đẩy nhanh tiến trình CPH các DNNN. Tạo hành

lang pháp lý cần thiết, bảo đảm cơ chế thị trường vận hành theo đúng định

hướng của nhà nước.

2.2.1.4. Tạo môi trường pháp lý để đảm bảo sự bình đẳng trong quản lý

giữa doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá với các loại hình doanh nghiệp

khác

DN Việt Nam hiện nay đang được đặt trong bối cảnh hội nhập kinh tế

quốc tế và nước ta đã gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới nên đòi hỏi phải

tiến hành sắp xếp DN quy mô lớn hơn, có nhiều DN hoạt động trong lĩnh vực

dịch vụ - là yếu tố không thể thiếu được trong phát triển DN như tài chính, tín

dụng, bảo hiểm, viễn thông...cải cách DNNN và sửa đổi bổ sung các cơ chế,

chính sách, xoá bỏ sự phân biệt đối xử giữa DNNN và các DN sau CPH, giữa

các DN tư nhân và DNNN, giữa DNNN và DN có vốn đầu tư nước ngoài.

Cơ sở quan trọng trong giai đoạn tới là cần tiếp tục việc “đặt các DN có

vốn Nhà nước vào môi trường hợp tác và cạnh tranh bình đẳng với các DN

khác để đẩy nhanh hiệu quả và sức cạnh tranh. Thu hẹp tối đa diện Nhà nước

độc quyền kinh doanh, xóa bỏ đặc quyền kinh doanh của DN. Có cơ chế giám

sát và chính sách điều tiết đối với những DN chưa xóa bỏ được vị thế độc

quyền kinh doanh". Thực hiện thống nhất về đất đai, tài sản, tín dụng đầu tư,

xuất nhập cảnh... tạo lập môi trường bình đẳng trong hoạt động của mọi loại

95

hình DN, theo phương châm: “Các loại hình DN thuộc các thành phần kinh tế

bình đẳng trước pháp luật trong cạnh tranh trên thị trường”

Bao nhiêu DNNN lớn còn đang hưởng thụ độc quyền trong các ngành

kinh tế trọng yếu? Những khoản đóng góp vào ngân sách là nhờ làm ăn hiệu

quả hay chỉ dựa vào thế độc quyền? CPH cũng nghĩa là độc quyền bị đe dọa.

Hết độc quyền cũng là lúc cho thấy lãnh đạo DN có thực tài để làm ra lợi

nhuận hay không. Ai không làm được sẽ bị loại bỏ. DN nào, lãnh đạo nào

muốn chứng tỏ mình thực tài, thì việc sẵn sàng CPH là một cơ hội.

Cần tiếp tục xóa bỏ những “đặc quyền, đặc lợi” của các DNNN trong

hàng loạt các vấn đề liên quan đến hoạt động của các DN như: vay vốn,

chuyển giao những tiến bộ khoa học và công nghệ, ưu đãi tiêu thụ sản

phẩm… tiến tới thực hiện duy nhất Luật DN cho tất cả các loại hình DN trong

nước của Việt Nam.

Nguyên tắc trong quá trình đổi mới là nhà nước tạo sự bình đẳng giữa

các DN. Nhưng trên thực tế, sự đối xử bất bình đẳng giữa DNNN với các loại

hình DN khác vẫn còn tồn tại theo kiểu “con đẻ” và “con nuôi”. Điều đó một

mặt do quan niệm DNNN giữ vai trò chủ đạo vì vậy luôn tạo những điều kiện

tốt nhất để phát triển; mặt khác các DN ngoài nhà nước trong quá trình phát

triển bên cạnh những đóng góp tích cực cho nền kinh tế, cũng có không ít DN

có những hiện tượng tiêu cực như trốn thuế, buôn lậu, vay nợ ngân hàng

không có khả năng thanh toán... nhưng việc xử lý tiêu cực đối với DNNN

cũng có sự khác biệt so với các DN ngoài nhà nước đó là do vị thế của nó.

Nghiên cứu và ban hành các chính sách để tạo lập môi trường kinh

doanh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, đặc biệt giữa DN CPH và các

DNNN. Cần xoá bổ những ưu đãi mang tính chất bao cấp kếo dài đối với

DNNN như cho vay chỉ cần tín chấp với phương án được duyệt, cho vay với

lãi xuất ưư đãi, cho khoanh nợ, xoá nợ giãn nợ.

96

Xem xét lại sự bao cấp về sử dụng đất đai với diện tích quá rộng, vị trí

thuận lợi nhưng không nộp đầy đủ tiền sử dụng đất hoặc tiền thuê đất. Tiến

hành thu hồi hoặc tăng mức thuê phải nộp đối với phần đất sử dụng không

đúng mục đích. Không tiếp tục cho nợ thuế, hợp thức hoá các khoản nợ thuế

kéo dài. Xoá bỏ các hình thức trợ cấp, trợ giá và ưu đãi kiểu bao cấp đối với

các hình thức khác.

Cần cụ thể hoá quyền lợi và trách nhiệm hành chính, trách nhiệm vật

chất và trách nhiệm pháp lý đối với kết quả làm việc của cán bộ quản lý điều

hành trong DNNN. Việc cách chức đối với giám đốc điều hành DNNN không

hiệu quả nhiều năm liền còn là hy hữu trong thực tế.

Thực hiện chế độ miễn giảm thuế thu nhập DN đối với phần lợi nhuận

được DN để lại cho đầu tư sản xuất kinh doanh như đối với các DN có vốn

đầu tư nước ngoài...

DN được phép thanh toán vào giá thành khoản lãi vay đầu tư bằng

nguồn vốn hình thành từ quỹ khen thưởng, phúc lợi để thanh toán lại cho

người lao động trong DN

Nhà nước đã và đang định hướng, tạo môi trường cho các loại hình

DN phát triển mạnh mẽ, để các DN hoạt động hiệu quả theo cơ chế thị trường,

hỗ trợ DN nhỏ và vừa phát triển. Thực hiện chương trình trợ giúp doanh trên

các mặt, các chiến lược, quy hoạch, tài chính, thuê đất và trong công tác đào

tạo nguồn nhân lực, xúc tiến thương mại, xúc tiến và khuyến khích đầu tư.

Thực hiện có hiệu quả Luật DN, Luật Ðầu tư... bảo đảm thực sự bình đẳng và

tạo điều kiện thuận lợi đối với mọi loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh và

đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế, cả trong và ngoài nước.

Các DNNN sau khi CPH chuyển thành các CTCP đã gặp những khó

khăn nhất định trong hoạt động kinh doanh. Khó khăn đó là do sự phân biệt

97

của Nhà nước đối với những loại hình DNNN khác nhau. Cần phải nhấn

mạnh rằng, CTCP là một loại hình pháp lý của DN trong cơ chế thị trường

định hướng XHCN, vì vậy việc đảm bảo các điều kiện cần thiết cho nó hoạt

động không chỉ liên quan đến các DNNN sau CPH mà là vấn đề liên quan đến

hoạt động của mọi loại hình DN tồn tại trong nền kinh tế quốc dân.

2.2.1.5. Xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng cơ sở sản xuất đáp ứng

yêu cầu doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá

Đối với các DNNN, xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt xây dựng chiến

lược đầu tư các trang thiết bị và các điều kiện vật chất tiên tiến cho hoạt động

của DN là tăng thêm khả năng, tiềm lực cho sản xuất, kinh doanh.

Khó khăn rất lớn đối với nước ta khi đầu tư vào hạ tầng cơ sở của nền

kinh tế là vốn. Bởi vì yêu cầu đầu tư rất lớn, nhưng khả năng thu hồi vốn để

tái đầu tư xây dựng và bảo dưỡng công trình cần có thời gian dài.

Điều này khiến DN gặp nhiều khó khăn trong bố trí kế hoạch hoạt

động kinh doanh như xây dựng nhà xưởng, cơ sở hạ tầng..., hay góp vốn liên

doanh bằng tài sản có trên đất mà DN đang sử dụng.

Để giải quyết vấn đề vốn, một mặt cần đa dạng hóa huy động các

nguồn vốn nhất và cần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn đầu tư. Cần đầu

tư dứt điểm, tránh kéo dài để sớm đưa vào khai thác phục vụ sản xuất và đời

sống. Vì vậy, cần có cơ chế để phát huy vai trò của các DNNN đã CPH trong

sử dụng các nguồn vốn như cho phép các DN mở rộng các hoạt động đầu tư

ra nước ngoài, ưu đãi trong việc vay vốn…

Tập trung xác định giá trị tài sản vô hình như quyền sở hữu trí tuệ của

DNNN sau CPH.

Một trong những lý do tiến hành CPH chậm là các DNNN lo ngại sau

khi chuyển sang các CTCP phần những quan tâm của Nhà nước đối với DN

98

sẽ không còn được như trước. DN sẽ gặp những khó khăn nhất định trong

hoạt động (nhất là vay vốn), trong các quan hệ với các cơ quan quản lý vĩ mô.

Về đầu tư thêm tài sản cố định, bằng cách tạo thêm nguồn vốn và cơ

hội để các DN đầu tư cải tạo công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất. Đây cũng

là giải pháp tạo mức tăng trưởng cao cho DN sau CPH; rà soát chiến lược

kinh doanh để đảm bảo đầu tư đúng hướng và khai thác đầu tư có hiệu quả.

Tạo điều kiện thu hút rộng rãi mọi nguồn vốn đầu tư, đổi mới kỹ thuật

công nghệ, quản lý và phát triển DN góp phần tích cực vào việc cơ cấu lại hệ

thống DNNN theo yêu cầu phát triển kinh tế thị trường XHCN và để bảo vệ

tài sản của nhà nước trong quá trình chuyển đổi DNNN thành CTCP.

2.2.1.6. Phát triển mạnh mẽ các thành phần kinh tế để thúc đẩy hoạt

động của các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa

Quan điểm này xuất phát từ mục tiêu kinh tế - xã hội mà Đảng và nhân

dân ta hướng đến mô hình kinh tế có khả năng động viên tối đa các nguồn lực

của xã hội, các thành phần kinh tế vào phát triển lực luợng sản xuất tăng

nhanh khối lượng của cải cho xã hội.

Một trong những nội dung cơ bản của đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở

nước ta là Đảng và nhà nước đã thừa nhận sự tồn tại khách quan của nền kinh

tế nhiều thành phần và có cơ chế để các thành phần kinh tế cùng tồn tại và

phát triển theo qui định của pháp luật.

Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế nhà nước trong các lĩnh vực của

nền kinh tế. Đồng thời mở rộng cửa cho các thành phần kinh tế khác tham gia

để khai thác tiềm năng, tăng tính cạnh tranh trong các lĩnh vực của nền kinh

tế.

Cần mở rộng hơn nữa sự tham gia của các thành phần kinh tế vào các

lĩnh vực kinh doanh. Để làm tốt điều này cần cụ thể hóa và thực hiện nghiêm

99

túc các Luật đã ban hành, như Luật Đầu tư, Luật Phá sản, Luật Đất đai, Luật

Thương mại, Luật Thu thuế thu nhập DN… Tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ

chức kinh tế và cá nhân có nguồn vốn đầu tư vào việc mở rộng sản xuất kinh

doanh. Điều này thể hiện sự quán triệt nhất quán sâu sắc Nghị quyết Ðại hội

X về chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần. Kiện toàn các công ty để

làm nòng cốt phát triển các tập đoàn kinh tế. Đây sẽ là các tập đoàn kinh tế đa

sở hữu, đan xen giữa thành phần kinh tế Nhà nước và các thành phần kinh tế

khác.

2.2.1.7. Đổi mới, nâng cao trình độ và tính minh bạch trong quản trị

doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa

Tồn tại khá phổ biến ở các CTCP - DNNN sau CPH là vẫn duy trì kiểu

bộ máy tổ chức quản trị kiểu cũ. Tình trạng này một mặt là do sự chi phối của

Nhà nước. Mặt khác phần lớn trong bộ máy quản lý cũ ít có sự thay đổi về

con người, về vấn đề này cần giải quyết theo hai hướng:

Giảm bớt sự chi phối của Nhà nước đối với DN trong các vấn đề nội

bộ. Các thành viên trong bộ máy quản trị luôn phải nâng cao trình độ, tiếp cận

với các vấn đề quản trị công ty theo mô hình CTCP. Bản thân những người

trong hội đồng quản trị (giám đốc, các phòng ban chức năng...) phải có sự

thay đổi và tạo sự chuyển biến của DN, công tác cán bộ có vai trò quyết định

đối với sự phát tiển của CTCP.

Đối với DNNN chiếm giữ 51% vốn trở lên hiện tại ban điều hành công

ty gần như theo chế độ bổ nhiệm. Tại điều 30 Luật DNNN đã nêu rõ quyền

hạn của Hội đồng quản trị được ký hợp đồng với Tổng Giám đốc, Giám đốc

công ty Nhà nước có Hội đồng quản trị tại chỉ thị 11/2004/CT-TTg ngày

30/3/2004 của Thủ tướng Chính phủ cũng giao cho Bộ Nội vụ chủ trì phối

hợp các cơ quan liên quan soạn thảo trình Chính phủ quyết định cơ chế nêu

trên.

100

Trong khi chờ ban hành chính thức cơ chế đại diện chủ sở hữu ký hợp

đồng thuê Tổng Giám đốc, Giám đốc, đề nghị cho phép một số công ty thí

điểm thuê Tổng Giám đốc, Giám đốc, từ đó tổng kết bổ sung vào cơ chế thực

hiện., nên chăng cần thay đổi quy trình bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo của công ty

bằng cách: Hội đồng quản trị thi tuyển giám đốc và phó giám đốc. Giám đốc

chỉ là người làm thuê cho Hội đồng quản trị và do Hội đồng quản trị lựa chọn

bổ nhiệm. Hàng năm Hội đồng quản trị đánh giá kết quả, hiệu quả hoạt động

của ban giám đốc. Chế độ đãi ngộ (lương và tiền thưởng...) sẽ trả bằng một

phần hiệu quả hoạt động kinh doanh của DN theo sự cống hiến của từng

người, có như vậy mới khuyến khích và đánh gía đúng khả năng cống hiến

của người quản lý công ty.

Một số DNNN sau CPH - CTCP không nắm giữ quyền chi phối hoạt

động của DN mà nhà nước vẫn nắm giữ nên đã gây những khó khăn trong

phát huy tính chủ động của DN.

Quy định cụ thể về cơ chế triệu tập các cuộc họp của Hội đồng quản trị,

trong đó mở rộng đối tượng có thẩm quyền. Nâng cao nhận thức cho Hội

đồng quản trị và có sự phối kết hợp tốt với bộ máy quản trị của DN về vai trò

của các tổ chức chính trị trong hoạt động kinh doanh của DN. Các chủ thể của

DN chủ động hình thành các tổ chức chính trị trong hệ thống của mình vừa

phục vụ cho hoạt động kinh doanh vừa nâng cao đời sống vật chất, tinh thần

cho các thành viên trong DN.

Từ trong mỗi tổ chức chính trị của DN cần nhận thức, thấy rõ sự cần

thiết phải nâng cao vai trò trong thích ứng với những điều kiện hoạt động của

DN.

Đối với tổ chức chính trị cấp trên nên chú trọng đầu tư, hướng dẫn các

DN hình thành các tổ chức và giúp đỡ họ hoạt động theo chức năng riêng

trong DN.

101

2.2.1.8. Đổi mới phương thức lãnh đạo và chỉ đạo của tổ chức Đảng

đối với các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa

Tăng cường công tác tư tưởng trong toàn Đảng, toàn dân nhằm quán

triệt đầy đủ và thông suốt chủ trương CPH, uốn nắn những nhận thức lệch lạc

quan điểm sai trái để có sự thống nhất cao trong các cấp Đảng.

Thành lập Đảng bộ toàn tổng công ty trực thuộc Đảng ủy khối cơ quan

Kinh tế Trung ương trong trường hợp đòi hỏi tổng công ty phải có sự lãnh đạo

chặt chẽ theo ngành dọc.

Đảng bộ cơ quan tổng công ty trực thuộc Đảng ủy khối cơ quan Kinh tế

Trung ương, còn tổ chức đảng ở các DN thành viên trực thuộc tổ chức đảng

địa phương.

Thành lập đảng bộ toàn tổng công ty trực thuộc đảng bộ tỉnh, thành phố

trực thuộc Trung ương.

Ban cán sự Đảng phải kết hợp chặt chẽ với các cấp chính quyền, chỉ

đạo triển khai khắc phục tình trạng chần chừ do dự, nghe ngóng thiếu kiên

quyết.

Xây dựng, củng cố, phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động các

đoàn thể quần chúng như tổ chức công đoàn, Đoàn Thanh niên. Trên cơ sở

đó, lựa chọn những quần chúng ưu tú, tạo nguồn kết nạp đảng viên. Đương

nhiên, việc bổ sung lực lượng cho Đảng cần chú ý đến chất lượng, tránh tình

trạng chạy theo “chỉ tiêu” để lấy theo số lượng.

Tiếp tục kiện toàn, sắp xếp tổ chức đảng, các đoàn thể quần chúng, gắn

công tác xây dựng Đảng với thực hiện nhiệm vụ chính trị của doanh nghiệp.

Đối với tổ chức đảng ở các CTCP là đơn vị thành viên trong các tập đoàn,

tổng công ty, thì vẫn trực thuộc đảng ủy tập đoàn, tổng công ty, như vậy sẽ

102

thuận lợi, bảo đảm cho sự lãnh đạo của cấp ủy cấp trên đối với tổ chức đảng ở

cơ sở.

Tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động của các đảng bộ, chi bộ cơ sở

đối với hai loại hình nhà nước giữ cổ phần chi phối và không chi phối, từ đó

xây dựng, bổ sung, sửa đổi quy chế hoạt động của cấp ủy cho phù hợp với

thực tiễn. Đẩy mạnh tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng. Làm

cho cán bộ, đảng viên, quần chúng thấy rõ sự cần thiết của việc đa dạng hóa

chế độ sở hữu dưới sự lãnh đạo của Đảng, thay đổi về cơ chế quản lý; về

quyền, trách nhiệm, lợi ích của cổ đông, người lao động; chức năng, nhiệm vụ

của HĐQT, tổng giám đốc và các tổ chức chính trị - xã hội; về mối quan hệ

giữa các thành viên và tổ chức đảng...; xây dựng đội ngũ cấp ủy cơ sở vững

mạnh. Mở rộng chế độ chuyên trách công tác đảng ở những đảng bộ có đông

đảng viên, bố trí những cán bộ, đảng viên có phẩm chất, năng lực, nhiệt tình,

tâm huyết (tốt nhất là lãnh đạo chủ chốt hoặc thành viên trong HĐQT, Ban

Giám đốc) và có chế độ lương, phụ cấp trách nhiệm thỏa đáng đối với đội ngũ

này. Thường xuyên bồi dưỡng kiến thức, nghiệp vụ công tác đảng cho bí thư

chi bộ, đội ngũ cấp ủy viên cơ sở và cán bộ chuyên trách công tác đảng.Với

loại hình doanh nghiệp mà Nhà nước giữ cổ phần chi phối, cố gắng nhất thể

hóa hai chức danh bí thư và chủ tịch HĐQT, hoặc tổng giám đốc.

Công tác tổ chức cần thực hiện nghiêm túc nguyên tắc Đảng thống nhất

lãnh đạo và quản lý đội ngũ cán bộ, đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ

chức trong hệ thống chính trị. Cấp ủy trực tiếp quy hoạch, đào tạo, quản lý,

lãnh đạo đội ngũ cán bộ đảng, đoàn thể quần chúng. Đối với cán bộ quản lý,

phụ thuộc vào tỷ lệ sở hữu vốn, cấp ủy phối hợp với HĐQT, tổng giám đốc

xây dựng, thực hiện các quy chế, quy định, để lựa chọn cán bộ, đảng viên đại

diện cho phần vốn của Nhà nước. Trong loại hình Nhà nước không giữ cổ

phần chi phối, cấp ủy cần chủ động, phát hiện bồi dưỡng những cán bộ, đảng

103

viên có đủ điều kiện về phẩm chất đạo đức, năng lực và kinh nghiệm để giới

thiệu bầu vào bộ máy lãnh đạo.

Xây dựng mối quan hệ tốt giữa tổ chức đảng, cấp ủy với HĐQT, Ban

Giám đốc. Cần bổ sung, sửa đổi một số văn bản đã có và ban hành một số cơ

chế, chính sách mới cho phù hợp với tình hình mới. Cấp ủy phải lãnh đạo

đảng viên, quần chúng, đồng thời trực tiếp tham gia (trên góc độ tổ chức) xây

dựng điều lệ của công ty, bảo đảm nội dung điều lệ đúng chủ trương, của

Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đối với vai trò, vị trí, trách nhiệm và các điều

kiện hoạt động của tổ chức đảng, đoàn thể, cần quy định cụ thể trong điều lệ,

làm cho mọi cổ đông thấy rõ các tổ chức chính trị - xã hội là một thành viên

không thể tách rời, luôn luôn gắn bó, đóng góp vì sự phát triển của công ty.

Nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN sau CPH là yêu cầu bức xúc

hiện nay. Để đạt được điều này đòi hỏi không chỉ sự lỗ lực, cố gắng của các

DN sau CPH mà cần có sự quan tâm của nhà nước của tất cả các nghành, các

cấp trong việc đổi mới chính sách, cơ chế cũng như kịp thời giải quyết những

vướng mắc đối với DN sau CPH. Đó là một trong những vấn đề quan trọng

thực hiện tốt chủ trương CPH DNNN của Đảng và Chính phủ.

2.2.2. Những giải pháp vi mô nhằm nâng cao hiệu quả hoạt

động của doanh nghiệp nhà nƣớc ở nƣớc ta trong thời gian tới

2.2.2.1. Vấn đề xử lý tài chính của doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần

hóa

Cần có chính sách ưu đãi nhằm tạo điều kiện cho các DN sau CPH hoạt

động ổn định và phát triển. Đặc biệt là các chính sách liên quan đến tài chính

DN như tín dụng, thuế, xuất nhập khẩu.

Hiệu quả tài chính DN được gắn với hiệu quả kinh tế - xã hội, Nhà

nước cần một mặt tạo những điều kiện cho DN phát huy tính ưu việt; mặt

104

khác cần có những hỗ trợ cần thiết để DN làm tốt những vấn đề mang tính xã

hội.

Quy định rõ các chế tài về trách nhiệm của CTCP trong việc chủ động

xử lý theo thẩm quyền và theo quy định của pháp luật; những tồn tại về tài

chính trước khi xác định giá trị DN trong khi chuyển đổi từ DNNN sang

CTCP. Đến thời điểm quyết định công bố giá trị DN, phải bàn giao cho Công

ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của DN, chờ thanh lý mà chưa xử lý kịp

cũng như các khoản công nợ không có khả năng thu hồi đã loại khỏi giá trị

của CTCP.

Bổ sung quy định tính vào giá trị của CTCP các khoản đã trả trước cho

người cung cấp hàng hoá dịch vụ như tiền thuê nhà, tiền thuê đất, tiền mua

hàng, tiền lương.

Có chế tài bắt buộc các ngân hàng thương mại phải xử lý nợ cho CTCP

đúng với tinh thần quy định tại Điều 12 Nghị định 69/2002/NĐ-CP về và xử

lý nợ tồn đọng đối với DNNN.

Bổ sung các quy định khắc phục tình trạng lợi dụng CTCP làm thất

thoát tài sản Nhà nước như: DN phải dùng quỹ dự phòng tài chính và lợi

nhuận của CTCP để bù đắp các khoản lỗ. Nếu không bù đắp được thì mới

thực hiện các biện pháp xoá nợ ngân sách Nhà nước và nợ ngân hàng theo

quy định hiện hành của Nhà nước về xử lý nợ tồn đọng. Sau khi áp dụng các

giải pháp trên mà vẫn còn lỗ thì được giảm trừ vào vốn Nhà nước. Nếu sau

khi bù đắp mà còn thừa thì được tính vào vốn Nhà nước tại CTCP.

Tăng cường tiềm lực và lành mạnh nền tài chính quốc gia, thực hiện

nghiêm chỉnh luật ngân sách, chuyển mạnh chính sách tài chính, tiền tệ và

hoạt động ngân hàng phù hợp với cơ chế thị trường. Đổi mới về quản lý giá

cả cụ thể là Cục Giám định chất lượng, Vụ Pháp chế, Ban Vật giá Chính phủ

105

khuyến khích các đơn vị hạ giá thành, nâng cao chất lượng để kích thích nhu

cầu tiêu dùng của xã hội, tăng sức cạnh tranh của các CTCP.

2.2.2.2. Sửa đổi và hoàn thiện phương pháp xác định giá trị doanh

nghiệp

Hoàn thiện việc xác định giá trị DN (định giá tài sản của DN) - là toàn

bộ giá trị tài sản hiện có mà người mua, người bán cổ phần đều chấp nhận

được. Đó không phải là công việc mang tính kỹ thuật nghiệp vụ thuần túy, mà

có ý ‎nghĩa kinh tế xã hội quan trọng vì có liên quan đến việc bảo toàn vốn và

tài sản của nhà nước; liên quan đến tạo điều kiện tài chính thuận lợi cho

DNNN sau CPH; liên quan đến quyền lợi của người lao động; liên quan đến

khả năng đảm bảo hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của CTCP. Đây là

việc làm hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc thị trường. Song việc xác định giá

trị DN trong thực tế đang vấp phải nhiều khó khăn.

Theo các DNNN sau CPH diện tích đất đai nhà xưởng không thay đổi

nhiều. Các địa phương vẫn tiếp tục cho DN thuê đất với giá thấp thậm chí

giao đất với giá thấp hơn nhiều so với giá thị trường nhưng DN vẫn gặp khó

khăn khi giao dịch với ngân hàng. Nguyên nhân là do sự thiếu rõ ràng về

quyền sử dụng đất cũng như chưa giải quyết dứt điểm các quyền và nghĩa vụ

đất đai có liên quan trước khi đăng ký dưới hình thức CTCP.

Về vấn đề tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị DN, cần xác định rõ

DN CPH được lựa chọn hình thức thuê đất hoặc giao đất. Trong trường hợp

giao đất, thì giá trị DN CPH bắt buộc phải tính giá trị quyền sử dụng đất và

giá trị này phải sát giá chuyển nhượng trên thị trường đúng với tinh thần của

Khoản 3 Điều 59 Luật Đất đai mới.

Luật đất đai không chỉ tạo điều kiện cho các CTCP hoạt động thuận lợi

nâng cao hiệu quả kinh doanh mà còn tạo sức hấp dẫn cho các CTCP tham gia

106

vào thị trường chúng khoán nhằm cải thiện và giải quyết các vấn đề về mặt sở

hữu hiện đang bất cập, gây những trở ngại cho hoạt động kinh doanh của các

DNNN sau CPH.

Thí điểm tính giá trị quyền sử dụng đất vào phần vốn góp của nhà nước

trong CTCP theo giá thoả thuận trong hội đồng định giá trên khung giá phân

loại cụ thể. Đây là biện pháp để khai thác tối đa hiệu quả giá trị quyền sử

dụng đất, tạo điều kiện phát triển một thị trường đất đai, thi trường bất động

sản của VN.

Cho phép các DN sau CPH được mua lại quyền sử dụng đất theo

phương thức trả góp trong một khoảng thời gian nhất định. Nhà nước cũng có

thể cho thuê quyền sử dụng đất với thời hạn ít nhất là 50 năm, có điều chỉnh

giá 5 năm một lần theo mặt bằng chung của thị trường. Việc chỉnh giá thuê

đất không thể điều chỉnh ngay được vì phải tính lại đồng bộ tất cả các quận

huyện.

Nhà nước tiến hành bán đấu giá một số nhà đất đắc địa, dùng tiền đó bổ

sung vào quỹ hỗ trợ sắp xếp và nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN sau

CPH. Hoặc nhà nước cho đấu giá thuê đối với các nhà đất đó. Các cơ quan

quản lý nhà đất, Uỷ ban nhân dân phải đựoc giao trách nhiệm hướng dẫn xử

lý trực tiếp các tranh chấp quyền sử dụng đất như trường hợp các DNNN

cùng chung một lô đất hoặc DN này xây dựng trên đất thuê của DN khác, một

phần đất bị lấn chiếm chưa được giải toả, mặc dù DN đã trả tiền thuê đầy đủ.

Cơ quan hữu trách về nhà đất cần sớm giải quyết vấn đề hợp thức hoá

giấy tờ sở hữu nhà và ký hợp đồng chính thức về việc cho thuê đất đối với các

DN đã CPH. Đến nay mặc dù đã hơn bốn năm kể từ khi tiến hành CPH ở Hà

Nội, song tất cả 89 DN CPH vẫn chưa được cấp giấy chứng nhận sở hữu nhà

và hợp đồng thuê đất. Điều này gây khó khăn trong DN trong việc thế chấp tài

sản có giá trị để vay vốn ngân hàng.

107

Đất đai của DN sau CPH phải kiểm kê đánh giá lại tài sản DNCP;

vướng mắc về chính sách tài chính, tiền hậu kiểm khi xuất nhập khẩu (XNK),

hoàn thuế VAT, hoàn thuế NK, XK. Những cam kết về tài sản tồn đọng, dư

thừa khi CPH còn triển khai rất chậm... kiến nghị các cơ quan chức năng tập

trung giải quyết tháo gỡ cho DN, nhằm tạo cho DN hoạt động thuận lợi.

Xác định hợp lý giá trị DN không để xảy ra những thất thoát tiêu cực

làm thiệt hại đến tài sản quốc gia. Đặc biệt khi tính toán giá trị DN cần gắn

với thị truờng. Đối với những tài sản không cần thiết đối với hoạt động kinh

doanh của DN cần phải xử lý ngay và trả cho nhà nước; không đưa vào giá trị

của công ty bởi như vậy sẽ tạo gánh nặng cho hoạt động của DN sau CPH.

Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường, các

loại thị trường chưa phát triển đồng bộ. Việc tính toán và mua bán tài sản

chưa có cơ sở, mang nhiều tính ước lệ chủ quan. Có nhiều loại tài sản dùng

trong DNNN đã hết thời hạn khấu hao lại đựợc đánh giá và dùng lại, trình độ

kỹ thuật hết sức thấp kém.

Phân loại các tài sản mà trước đây Nhà nước đầu tư cho DNNN. Nếu

những tài sản này phù hợp với phương án kinh doanh mới của CTCP thì phải

bàn giao lại theo giá thị trường tại thời điểm DNNN chuyển thành CTCP, nếu

tài sản của nhà nước không phù hợp với phương án kinh doanh mới sẽ chuyển

giao lại cho nhà nước để điều chuyển cho DN khác hoặc thanh lý, không ép

buộc công ty mới phải nhận. Những tài sản mới đã hết khấu hao sẽ được

chuyển giao lại cho CTCP mà không tính vào giá trị phần vốn của nhà nước

tại DN.

Với những tài sản trước đây DNNN vay vốn để đầu tư nay đã hoàn lại

đủ vốn cho người vay, nên được chia thành hai phần: Một phần thuộc sở hữu

Nhà nước theo tinh thần DN của Nhà nước đầu tư phần vốn tăng thêm thuộc

sở hữu Nhà nước. Một phần tính cho người lao động trong DN, coi đó là sự

108

ưu đãi khuyến khích tính tích cực và chủ động phát triển vốn của người lao

động trong DN.

Xác định hợp lý, hợp tình những tồn đọng tài chính mà CTCP có thể kế

thừa từ DNNN. Có thể xóa bỏ cho DN những khoản nợ khó đòi, khoản lỗ

phát sinh trong quá trình sản xuất - kinh doanh trước đây do những nguyên

nhân khách quan (ví dụ: tình trạng lạm phát cao trong những năm đầu thập kỷ

90).

Phương pháp định giá DN cần linh hoạt hơn, những tài sản DN không

cần sử dụng thì phải xử lý kịp thời, không ép DN phải đưa vào CPH. Tất

nhiên cũng phải nhìn nhận từ phía người mua, để chống độc quyền tư nhân,

chống hiện tượng chuyển tài sản Nhà nước vào tay một số ít người, làm chệch

hướng, chủ trương CPH. Cần chú trọng chào bán cổ phiếu, trái phiếu trên các

trung tâm giao dịch chứng khoán, và trên các phương tiện thông tin hữu hiệu.

Ngoài các hình thức trên có thể áp dụng thêm các hình thức như thành

lập CTCP mới trên cơ sở một DNNN hiện có; bán cổ phần cho cán bộ công

nhân viên trong DN và người ngoài DN, kể cả cho DNNN khác và hình thức

hợp tác xã cổ phần. Trong đó có phần vốn DNNN định CPH (Nhà nước là

một cổ đông).

Thiết lập hệ thống kiểm tra, giám sát định giá DN. Cần có cơ chế kiểm

tra các đơn vị thực hiện định giá DN như qui trình hoạt động, chất lượng dịch

vụ, nhân sự… Cơ quan có thẩm quyền kiểm tra giám sát là cơ quan quy định

trong pháp lệnh thẩm định giá đã ban hành.

Ban hành một số chuẩn mực chung để căn cứ vào đó các tổ chức định

giá DN có cơ sở thực hiện và các cơ quan Nhà nước có thước đo chung trong

đánh giá DN. Đó là các quy định về báo cáo định giá DN, các tiêu chí để đánh

giá DN và đánh giá các chỉ tiêu tài chính DN.

109

Nâng cao năng lực và chất lượng của định giá viên và các cơ quan chức

năng của Chính phủ cần tổ chức những lớp bồi dưỡng chuyên môn về định

giá DN cho những người làm nhiệm vụ này ở các cơ quan nhà nước và các tổ

chức tư vấn. Nên mời chuyên gia nước ngoài tham gia đào tạo.

Đổi mới tổ chức xác định giá trị DN bằng cách: định giá thông qua các

tổ chức thẩm định giá, kiểm toán, tư vấn tài chính, thu hút các chuyên gia

kinh tế - kỹ thuật của các cơ quan khoa học, các trường vào việc định giá tài

sản. Đề cao ý kiến của các chuyên gia trong việc xác định giá trị DN. Bởi vì

họ là “đại diện của những người mua” theo tinh thần nghị định 44/CP về CPH

đã xác định.

Đối với DN vừa, DN lớn và tổng công ty thì nên thuê các tổ chức định

giá nước ngoài. Đối với DN có quy mô nhỏ dùng hình thức đấu giá DN thông

qua hội đồng đấu giá, hoặc dùng hình thức định giá thông qua hội đồng (có

chuyên môn). Các chính sách đối với người lao động vẫn phải được giải quyết

thoả đáng theo nguyên tắc đảm bảo lợi ích vật chất và tái tạo việc làm.

Cần có những quy định bổ sung về việc tính toán và định giá tài sản vô

hình như lợi thế DN để tránh thiệt thòi cho những DN có tỷ trọng vốn nhà

nước trên vốn huy động thấp. Cũng cần hướng dẫn cách xử lý trong trường

hợp DN làm ăn không hiệu quả. Trong xác định tài sản hữu hình bổ sung

thêm quy định cho phép sử dụng tài sản tương đương để so sánh khi định giá.

Mở rộng sự phân cấp trong việc xác định giá trị DN. Với DN có giá trị

trên 10 tỷ đồng, thay vì việc Bộ Tài chính thẩm định và Thủ Tướng Chính

Phủ quyết định, nên quy định là “cấp nào ra quyết định thành lập (hoặc thành

lập lại) DN sẽ có thẩm quyền quyết định giá trị DN khi chuyển sang CTCP”.

Đây là bước thực hiện rất quan trọng, điều này sẽ góp phần rút ngắn thời gian

và tiến độ CPH. Đã có nhiều văn bản của Bộ tài chính hướng dẫn thực hiện.

Trong đó, gần đây nhất là quy định tổ chức đấu thầu chọn cơ quan kiểm toán

110

độc lập để tiến hành xác định giá trị DN nhằm đảm bảo tính khách quan và

chính xác.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư kiện toàn danh mục ngành nghề, lĩnh vực cụ

thể mà các nhà đầu tư nước ngoài chỉ được tham gia tối đa 30% vốn đầu tư

theo quy định của Luật Khuyến khích đầu tư trong nước; đối với các ngành và

lĩnh vực khác thì không hạn chế. Cần quy định đấu giá cổ phiếu bao gồm cả

việc đấu giá niêm yết qua trung tâm giao dịch chứng khoán lẫn đấu giá trong

nội bộ DN. Cách làm này sẽ thực hiện được các nguyên tắc thị trường trong

việc định giá DN và giá trị DN sẽ do người mua quyết định. Hơn nữa, giá trị

vô hình, lợi thế của DN, thậm chí cả giá trị quyền sử dụng đất cũng sẽ gián

tiếp được xác định trong giá trị DN và được các nhà đầu tư cân nhắc, tính

toán khi mua. Qua đó sẽ tạo điều kiện nâng cao tính minh bạch, bảo đảm lợi

ích của Nhà nước và cổ đông. Ngay cả các DN không thể tiến hành đấu giá

cũng phải quy định lại để khắc phục tính chủ quan của cơ quan nhà nước khi

định giá theo cơ chế “hội đồng”. Nói cách khác là phải chuyển từ cơ chế “cơ

quan nhà nước định giá” sang cơ chế “người mua định giá”.

Tập trung tháo gỡ vướng mắc để đẩy mạnh quá trình sắp xếp, đổi mới

DNNN. Các bộ, ngành, Ban Chỉ đạo Ðổi mới và phát triển DN cần phối hợp

chặt chẽ trong việc theo dõi, kiểm tra, giám sát thực hiện các chương trình kế

hoạch được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, kịp thời tháo gỡ các vướng mắc

trong khi xác định giá trị DN, xử lý nợ đọng, giải quyết chế độ cho lao động

dôi dư, những vấn đề liên quan tổ chức công ty theo Luật DN. Bổ sung thêm

danh sách các tổ chức có chức năng định giá được định giá đảm bảo cho việc

CPH DNNN đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.

Cần phải giải quyết dứt điểm về quyền sử dụng đất đai, tài sản của DN

sau CPH. Đây là yếu tố tạo điều kiện cho DN sau CPH chủ động hoạch định

chiến lược đầu tư phát triển lâu dài. Đồng thời tạo nên sự an tâm cho các DN

111

sau CPH về tài sản đất đai cũng như điều kiện để thế chấp vay vốn của các tổ

chức tín dụng, xoá bỏ hiện tượng vay tạm bợ, rủi ro cao.

Những lý do về định giá, giải quyết nợ tồn đọng, tỉ lệ cổ phần nhà

nước… chẳng phải là quyết định. Nếu lãnh đạo DN thực sự muốn, mọi vấn đề

kỹ thuật CPH đều có thể giải quyết được. Nếu cấp quản lý thực sự muốn,

hoàn toàn có thể thay thế những giám đốc không tự tin vào khả năng của

mình sau khi CPH.

2.2.2.3. Xác định rõ quyền làm chủ trong doanh nghiệp cổ phần hoá

Cả cơ quan quản lý và lãnh đạo DNNN phải cùng chịu trách nhiệm tạo

ra đột phá để giải quyết dứt điểm được chữ “quyền”:

Uy quyền - vấn đề này không chỉ tác động đến lãnh đạo DN mà còn tác

động mạnh hơn đến lãnh đạo các địa phương và ban ngành. Trong các CTCP,

uy quyền, quyết định nhân sự, định hướng, chiến lược… lập tức chuyển vào

tay các cổ đông. Uy quyền của giám đốc DN cũng bị giám sát chặt chẽ bởi

các cổ đông.

Quảng Nam đang thử nghiệm một giải pháp mạnh mẽ cho chữ quyền

này. Ở đây DNNN lập ra các dự án, mời các nhà đầu tư chiến lược từ khu vực

tư nhân tham gia, còn nhà nước chỉ nắm 15% cổ phần. Với những con người

tự tin, họ sẵn sàng để quyền lực tùy thuộc vào tài năng, không tùy thuộc vào

mệnh lệnh hành chính.

Ủy quyền - Có lẽ đây là vấn đề cốt lõi của các CTCP. Trong mọi DN,

luôn luôn có vấn đề người chủ sở hữu (là cổ đông) phải giám sát để bảo đảm

người được ủy quyền (là lãnh đạo DN) hành động vì quyền lợi của chủ. Trong

DNNN, theo định nghĩa thì chủ sở hữu là toàn dân, không phải là một Ủy ban

nhân dân, hay một Bộ nào đó. Vai trò của người chủ quá mờ nhạt, khoảng

cách đến người chủ quá mênh mông. Vì thế mới có chuyện DN không hiệu

112

quả mà lãnh đạo vẫn nguyên vị. Cũng vì nhiều khi chủ sở hữu bị lãng quên,

mà những người làm công đã nghĩ mình là chủ. CPH khép kín chính là để

những người làm công hợp thức hóa vai trò làm chủ của mình. Thật sai lầm

khi lập luận “chúng tôi xây đắp tài sản này, chúng tôi phải được hưởng”. Xin

nhớ là tài sản tích lũy hay giá trị thương hiệu đều là của DN, nghĩa là sở hữu

của toàn dân.

2.2.2.4. Giải quyết các vấn đề về tổ chức quản lý đối với doanh nghiệp

nhà nước sau cổ phần hóa

Cần phải xác định rõ vai trò của Nhà nước đối với các CTCP. Nâng cao

trình độ xây dựng chiến lược, dự báo, nắm chắc thông tin thị trường, có giải

pháp xử lý. Chủ động đổi mới tổ chức, tổ chức lại sản xuất, kinh doanh, tổ

chức lao động... nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng và hạ giá

thành sản phẩm. Tổ chức tốt mạng lưới phân phối và xây dựng thương hiệu

cho DN.

Quy định cụ thể trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc tiếp tục

cung cấp thông tin, phổ biến chế độ chính sách cho DN sau chuyển đổi. Hoàn

thiện hệ thống cơ quan đăng ký kinh doanh và thông tin DN thuộc các cơ

quan kế hoạch và đầu tư để kết hợp đăng ký kinh doanh đối với CTCP và

cung cấp thông tin cho DN sau CPH.

Chính sách đối với cán bộ lãnh đạo của DN sau CPH là bồi dưõng,

nâng cao kiến thức, trình độ cho cán bộ quản lý DN sau CPH về mọi mặt (cơ

hội thách thức của hội nhập, phương thức xử lý các vấn đế sao cho phù hợp

với môi trường kinh doanh...). Đây là nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém về

hiệu quả và không ổn định trong hoạt động kinh doanh của DNNN sau CPH.

Đồng thời với chủ trương CPH DNNN phải có chương trình bồi dưỡng kiến

thức quản lý CTCP và cán bộ quản lý DN sau CPH. Mở rộng các lớp kiến

thức kỹ năng quản lý các CTCP. Kinh phí cho các lớp này cần có sự hộ trợ

113

nhất định của nhà nước, vì trên thực tế cho thấy sự hụt hẫng về kiến thức cũng

như kỹ năng quản lý của các CTCP, của cán bộ quản lý DN sau CPH. Khuyến

khích các cán bộ tham gia thi tuyển giám đốc để lựa chọn đảm nhận chức lãnh

đạo trong DN sau CPH. Khuyến khích cán bộ thiếu năng lực tự nguyện xin

rút khỏi ban lãnh đạo cũ của DN để được hưởng sự phân công tác phù hợp ở

DNNN khác không nằm trong diện CPH. Đồng thời ban hành chế tài xử lý

đối với cán bộ lãnh đạo DN chậm thực hiện CPH khi mà DN đã hội tụ đủ các

điều kiện CPH. Hạn chế ở mức thấp nhất sự kiêm nghiệm chức danh thành

viên Hội đồng quản trị DN CPH đối với cán bộ đang làm việc trong cơ quan

quản lý nhà nước hay ở các DNNN khác để tạo điều kiện giải quyết các việc

sản xuất kinh doanh kịp thời. Thực hiên tốt quy chế dân chủ cơ sở, tăng

cường công tác kiểm tra định kỳ và kỷ luật trong các CTCP được thực hiên

nghiêm túc và đạt kết quả cao.

Thực hiện việc thu hẹp và tiến tới xóa bỏ chức năng đại diện chủ sở

hữu của các bộ, UBND các tỉnh, thành phố đối với DN có vốn Nhà nước hoạt

động kinh doanh.

Nghiên cứu ban hành cơ chế quản lý vốn nhà nước đầu tư vào các DN

mọi thành phần kinh tế để theo dõi giám sát việc sử dụng vốn của DN trong

hoạt động sản xuất kinh doanh.

Kiện toàn bộ máy chỉ đạo điều hành CTCP ở các cấp để bộ máy chỉ đạo

ở các cấp thực sự là cơ quan tham mưu tích cực, chuyên tâm với nhiệm vụ

được giao.

Giao rõ trách nhiệm cho các cơ quan Nhà nước có liên quan đến giải

đáp các vướng mắc của DN sau CPH. Việc thay đổi về mô hình hoạt động của

cán bộ quản lý và người lao động đã có tác động tích cực đến hoạt động sản

xuất kinh doanh của DN. Bằng kết quả thực tế, 96% DN đã khẳng định cán bộ

quản lý đã quan tâm nhiều hơn đến kết quả sản xuất và hiệu quả kinh doanh;

114

trong khi đó 88% DN cho biết kết quả sản xuất của người lao động đã tăng

lên khi tiền lương được tính toán trên cơ sở hiệu quả sản xuất.

Đặc biệt, sau CPH, sự can thiệp trực tiếp của các tổ chức, cá nhân ngoài

bộ máy quản lý điều hành DN như chính quyền, cơ quan chủ quản, các tổ

chức khác đã giảm sút rõ rệt. Sự chuyển biến tích cực này đã giúp cho DN

chủ động trong các quyết định điều hành và tập trung vào mục tiêu cơ bản là

sản xuất kinh doanh.

Tăng cường vai trò của Tổng công ty Ðầu tư và kinh doanh vốn Nhà

nước. Các bộ, địa phương thực hiện nghiêm túc việc chuyển phần vốn Nhà

nước ở các DN độc lập và chuyển thành công ty TNHH một thành viên (trừ

các DN hoạt động công ích theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ) về

Tổng công ty Ðầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước và đầu tư.

Những CTCP hoạt động trong lĩnh vực Nhà nước không cần nắm giữ

cổ phần hoặc quy mô nhỏ thì Tổng công ty Ðầu tư và kinh doanh vốn Nhà

nước tiếp tục bán nốt phần vốn Nhà nước. Hạn chế nắm giữ phần vốn Nhà

nước ở các công ty độc lập quy mô vừa.

Một thay đổi lớn gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động các DN sau

CPH là tỷ trọng vay vốn từ ngân hàng thương mại Nhà nước đã giảm đi đáng

kể thay vào đó là các nguồn tín dụng khác kể cả tín dụng phi chính thức và tín

dụng người lao động, cổ động hoặc gia đình, bạn bè.

Bên cạnh đó, theo các DN, những điều kiện về tín dụng, thế chấp, cầm

cố tài sản và lòng tin khi cho vay của ngân hàng có sự thay đổi đáng kể đối

với DN trước và sau khi chuyển đổi. Đây là những trở ngại phát sinh gây hạn

chế đối với các DN chuyển đổi, trong khi vẫn còn có khoảng cách khá xa giữa

quy định và thực tế thực hiện các chính sách tín dụng ngân hàng, chưa tạo

được môi trường bình đẳng cho DN sau chuyển đổi.

115

Mặt khác, sự hỗ trợ tài chính thông qua vốn vay ưu đãi và các biện

pháp tài chính như khoanh nợ, dãn nợ, xoá nợ, chuyển vốn vay thành vốn Nhà

nước đầu tư... sau CPH đã không còn.

Sự không rõ ràng trong quản lý của Nhà nước với tư cách là đại diện

phần vốn của mình trong DN vừa là cơ quan chủ quản các DN (chi phối

những người đại diện của Nhà nước trong DN); sự giảm sút quy mô và tốc độ

tăng trưởng của các DNNN sau CPH là những vấn đề cần nhanh chóng được

khắc phục ở các DNNN sau CPH. Thực tế chưa có văn bản nào phân biệt sự

khác biệt về vay vốn giữa DNNN và DNNN sau CPH và vẫn tồn tại những tư

tưởng, những ứng xử khác nhau của các tổ chức tín dụng đối với các DN khác

nhau. Do đó phải giải quyết vấn đề này từ hai phía:

Đối với các CTCP - DNNN sau CPH: cần được hưởng các chế độ ưu

đãi như hưởng theo qui định của luật khuyến khích đầu tư trong nước, tiếp tục

hưởng các chế độ vay vốn của các tổ chức tín dụng nhà nước, tạo dựng niềm

tin đối với các tổ chức tín dụng để xóa đi những định kiến với DN. Thực chất

DNNN cũng không phải là DN có tín chấp trong vay vốn mà họ thường dễ

được chấp nhận trong vay vốn vì đứng đằng sau họ là Nhà nước với tư cách là

“khổ chủ” trong những khoản vay “khó đòi” của các DNNN.

Những năm qua, hoạt động của các CTCP từ các DNNN đã CPH có

những chuyển biến tích cực, những ưu việt của CPH đã đựợc bước đầu phát

huy, đã tạo được niềm tin cho các tổ chức tín dụng. Việc vay vốn đã từng

bước được cải thiện và đây là giải pháp cần thiết đối với DN.

Tăng cường vai trò của các tổ chức cơ sở tại DN: chăm lo xây dựng đội

ngũ cán bộ người lao động nhất là cán bộ quản lý DN, các chuyên gia giỏi có

đủ tài phục vụ hiệu quả việc triển khai phát triển DN thành CTCP.

116

Đối với nhà nước: cần nghiên cứu cơ chế vay vốn hoặc tạo lập những

cơ chế thuận lợi hơn nữa trong thu hút vốn, tạo sức cạnh tranh trong CTCP -

DNNN sau CPH trong việc thu hút vốn của các tổ chức tín dụng, trước hết là

các ngân hàng.

Người sở hữu và nắm quyền sở hữu DN, quản lý vốn và hoạt động kinh

doanh của DNNN sau CPH cần phải có giải pháp thay đổi mối tương quan về

quan hệ quản lý vốn, ban hành cơ chế quản lý theo hướng khoán vốn hoặc

giải quyết các vấn đề theo cơ chế hội đồng quản trị của CTCP nhằm tạo sự

chủ động cho DN trong hoạt động kinh doanh. Giải pháp tốt nhất là khoán

quỹ vốn theo các tiêu chí bảo toàn và tăng trưởng vốn, nhà nước tiếp nhận lợi

ích trên phần vốn của mình thông qua lợi tức cổ phiếu cũng như cổ đông

khác.

Những giải pháp về vốn về sở hữu, về quan hệ quản lý sẽ phát huy tác

dụng nếu triển khai tốt, nhờ đó mức độ tăng trưởng của các DNNN sau CPH

sẽ được đẩy mạnh; bên cạnh đó, các vấn đề về sắp xếp lại tổ chức, đào tạo đội

ngũ lao động, đầu tư thêm tài sản cố định... là những vấn đề cần được các DN

tập trung giải quyết.

Giải quyết dứt điểm các tồn đọng về vốn quỹ, các vấn đề công nợ giữa

DN CPH với Nhà nước; giữa các DN với nhau. Trong số các biện pháp, biện

pháp khoanh nợ và xóa nợ do DNNN trước đây là một biện pháp có tính tích

cực đối với DN. (Trong báo cáo của Chính Phủ trình Quốc Hội ngày

16/10/2006 đã nói rõ về vấn đề này: “Nợ xấu của các DNNN khi CP đã được

xử lý một cách cơ bản, tạo điều kiên lành mạnh thực sự về tài chính cho DN

khi chuyển sang CTCP. Trong quá trình sắp xếp CPH DNNN từ 2002 đến nay

có 154 DN có khó khăn do nguyên nhân khách quan đã được xử lý khoanh nợ

và giãn nợ, xóa nợ thuế và các khoản phải nộp ngân sách với tổng số tiền là

314,91 tỉ đồng. Trong số DN đã CPH có 2000 DN với 2.519 tỉ đồng nợ và tài

117

sản loại trừ không tính vào giá trị DN. Công ty mua bán nợ và tài sản tồn

đọng đã tiếp nhận nợ và tài sản loại trừ của 1.222 DN với giá trị là 1.411 tỉ

đồng; trong đó đã xử lý cho 331 DN với giá trị là 390 tỷ đồng, giá trị thu hồi

là 125 tỷ đồng” (Chính Phủ. Số 133/BC-CP,2006).

2.2.2.5. Cơ chế phân bổ cổ phiếu và việc tổ chức bán cổ phiếu

Phân bổ cổ phiếu một cách khoa học hợp lý làm cơ sở cho hoạt động

phát hành cổ phiếu là rất quan trọng và cần thiết, tạo sự bình đẳng cho các cổ

đông, đồng thời khuyến khích các thành phần tích cực tham gia mua cổ phiếu.

Đối với cán bộ quản lý trong DN: Nhằm mang lại quyền lợi và trách

nhiệm của họ cho DN cần xác định mức mua cao hơn người lao động

khác.một khi như cầu cổ phiếu trong nội bộ vượt quá số cổ phiếu phát hành.

Cán bộ lãnh đạo với số cổ phiếu vượt trội sẽ quan tâm hơn đến công việc hoạt

động sản xuất kinh doanh của DN. Mức cao hơn có thể là 30% so với người

lao động khác. Mức này chỉ áp dụng đối với cổ phiếu thông thường, không áp

dụng đối với cổ phiếu ưu đãi.

Đối với nhà cung cấp dịch vụ và sản phẩm đầu vào cúng như các đại lý

và các nhà phân phối sản phẩm đầu ra cho DN: Có thể dành cho họ 15% giá

trị phần vốn nhà nứoc tại DN. Trong đó 50% cổ phiếu đựoc bán đúng với

mệnh giá và 50% còn lại bán với giá ưu đãi, giảm 30% so với mệnh giá. Sự

ưu ái này chỉ nên áp dụng đối với các nhà cung cấp sản phẩm đầu vào và tiêu

thụ chủ chốt, có ảnh hưởng lớn đối với DN.

Đối với những nhà đầu tư cổ phiếu bên ngoài DN: cần thực hiện bán

đấu giá, saong giảm giá thắng đấu giá cho người lao động cùng cơ quan chủ

quản với mức 20%.

Việc bán cổ phiếu được phân thành hai giai đoạn:

118

Phát hành cổ phiếu lần đầu: Cổ phiếu DNNN sẽ được giao cho Công ty

hỗ trợ chuyển đổi sở hữu và mua bán nợ, tài sản của DN hoăch quỹ sắp xếp

DNNN đảm nhận theo phương thức: cổ phiếu ưu đãi hay mua theo quyền ưu

tiên, mua cổ phân thì phát hành theo quyền đăng ký của DN. Đối với các loại

cổ phiếu khác thì thực hiện đấu giá hoặc đấu thầu theo những điều kiện nhất

định.

Phát hành cổ phiếu các lần sau, và hoạt động mua bán cổ phiếu: trên cơ

sở chịu sự quản lý thông nhất của các quy phạm pháp luật, của Chính Phủ về

việc thi hành trái phiếu, cổ phiếu. Các DN đủ điều kiện niêm yết thì thực hiện

việc phát hành và mua bán chúng khoán thông qua các công ty chứng khoán

tại các trung tâm giao dịch chúng khoán. Với các DN chưa đủ diều kiện niêm

yết do nước ta chư hình thành thị trường thứ cấp nên việc mua bán, phát hành

thêm cổ phiếu sẽ được thực hiện thông qua các công ty chứng khoán, công ty

tài chính, công ty hỗ trợ chuyển đổi sở hữu hoặc hệ thống quỹ sắp xếp

DNNN.

Sự phát triển của các DNNN sau CPH- CTCP sẽ tạo ra những mức lãi

cổ tức cao và rất dễ nảy sinh tình trạng thu gom cổ phiếu vào tay một số

người thậm trí là cả những cách không lành mạnh, (biến CPH thành tư nhân

hóa). Những vấn đề tồn đọng, những bất cập cần phải xử lý về vấn đề sở hữu.

Đã gây ảnh hưởng rất lớn đối với hoạt động của DNNN sau CPH.

Cần phải rà soát lại, đưa ra các chiến lược tiếp tục bán cổ phần hay phát

hành cổ phiếu, một mặt làm tăng thêm vốn, mặt khác tạo sự thay đổi tương

quan giữa phần vốn nhà nước nắm giữ với các phần vốn khác.

Hoàn chỉnh chính sách bán cổ phần cho người nước ngoài. Cần dành

ưu tiên hơn cho nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phiếu của DN hoạt động trong

một số lĩnh vực như: Trong những nghành nghề, nhưng lĩnh vực có cạnh

tranh mãnh liệt đối với kinh tế khu vực và thế giới, Có như cầu về vốn để hiện

119

đại hoá thiết bị, đổi mới công nghệ, thay đổi phương thức quản lý và mở rộng

thị trường ngoài nước như dệt may, giấy, da giầy, chế biến nông sản, thuỷ

sản...; Trong những nghành công nghệ tiên tiến, hoặc những nghành nghề mới

yêu cầu chất lượng cao như sản xuất thiết bị điện tử tin học; Hay trong những

nghành nghề có nhu cầu vốn lớn, khả năng sinh lời chưa cao như các nghành

giao thông, xây dựng cơ sở hạ tầng hoặc dự án BOT, BT...Thực hiện bán cổ

phiếu không giới hạn số lượng ngoài phần bán nội bộ cho các nhà đầu tư nước

ngoài ở những DNNN không cần thiết phải nắm giữ cổ phần; gặp khó khăn

trong việc phát hành cổ phiếu. Kịp thời cung cấp thông tin, tổ chức bán đấu

giá cho các nhà đầu tư nước ngoài thông qua các công ty tài chính, thị trường

chúng khoán... để đảm bảo thực hiện tốt các mục tiêu huy động vốn, hoặc đổi

mới phương thức quản lý

120

2.2.2.6. Chính sách cổ tức đối với công ty cổ phần

Thời gian tới tiếp tục đẩy mạnh CPH các công ty độc lập, trong đó ưu

tiên thu hút các nhà đầu tư mua cổ phần. Còn đối với các tập đoàn các tổng

công ty lớn có vai trò đặc biệt đối với nền kinh tế và vai trò phát triển định

hướng XHCN của nền kinh tế thì không được đem phần vốn của nhà nước để

phát hành chứng khoán. Giảm tỷ lệ phần vốn nhà nước, làm mất vai trò kinh

tế thật sự của kinh tế nhà nước. Do đó, cần phải:

Một là, có chính sách cổ tức ổn định, nhất quán, tránh gây ra những

thay đổi đột ngột trong chính sách cổ tức, cân nhắc một cách kỹ lưỡng tác hại

của sự thay đổi này đối với giá trị của công ty.

Hai là, thực hiện chính sách cổ tức an toàn, đảm bảo sự ổn định, nhất

quán của chính sách cổ tức ngay cả trong trường hợp lợi nhuận hoạt động

giảm. Một chính sách cổ tức an toàn không đồng nghĩa với một chính sách cổ

tức thấp.

Chính sách cổ tức thấp đồng nghĩa với việc tăng tỷ lệ lợi nhuận giữ lại,

nếu quỹ tiền mặt tích lũy từ lợi nhuận giữ lại quá lớn sẽ: Khiến cho nhà đầu tư

suy diễn là công ty bế tắc trong sự tăng trưởng; Công ty vô tình sẽ trở thành

mục tiêu của một sự thao túng mua; lãng phí do tiền mặt quá nhiều. Tất cả

những điều này đều có ảnh hưởng không tốt lên giá trị cổ phiếu của công ty.

Chính sách cổ tức an toàn là một chính sách cổ tức có tỉ lệ chia cổ tức

hợp lý sao cho vừa thỏa mãn được nhu cầu có một nguồn thu nhập ổn định,

nhất quán của cổ đông (hiệu ứng nhóm khách hàng) vừa đảm bảo một tỷ lệ lợi

nhuận giữ lại đủ để tài trợ cho những nhu cầu đầu tư bình thường nhằm duy

trì sự tăng trưởng bền vững của công ty.

Ba là, tránh tối đa việc cắt giảm cổ tức, cho dù công ty đang có một cơ

hội đầu tư tuyệt vời. Để không bỏ lỡ cơ hội đầu tư, công ty nên chọn giải

121

pháp đi vay hay phát hành cổ phiếu mới. Nếu vì một lý do nào đó công ty

không thể huy động đủ vốn từ nguồn tài trợ bên ngoài mà buộc phải cắt giảm

cổ tức, thì công ty buộc phải cung cấp thông tin đầy đủ và giải thích một cách

rõ ràng cho các nhà đầu tư biết về chương trình đầu tư sắp tới cũng như nhu

cầu tài chính cần thiết để tài trợ cho dự án đó, để tối thiểu hóa những hậu quả

gây ra từ một sự cắt giảm cổ tức đột ngột.

2.2.2.7. Giải quyết các vấn đề về phần phối sau cổ phần hóa

Sớm nghiên cứu và xác lập cơ chế phân phối trong CTCP để có một

nền tảng pháp lý vững chắc. Sự thay đổi nội dung và phương pháp phân phối

theo cơ chế của CTCP đã tạo nên động lực mới cho các DNNN sau CPH. Tuy

nhiên mức tăng giảm bất thường của lợi nhuận ở các CTCP, mức tăng thu

nhập của người lao động thấp ở nhiều DN trong những năm qua là những vấn

đề cần tập trung giải quyết:

Để đổi mới phân phối của các DNNN phải dựa trên cơ sở cải thiện tình

trạnh kinh doanh - cần phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu

dùng. Mối quan hệ đó được biểu hiện thông qua xác lập tỷ lệ giữa các khoản

vốn quỹ: quỹ tái đầu tư mở rộng sản xuất, quỹ khen thưởng, quỹ lương, lợi

tức từ quỹ phúc lợi.

Đối với DN làm ăn có lãi: việc giải quyết các mối quan hệ trong phân

phối có nhiều lợi thuận lợi. Vì vậy lợi tức cổ phiếu của DN có thể đạt ở mức

cao. Để tái đầu tư và cải thiện điều kiện lao động của DN, nên duy trì ở mức

cổ tức cao không quá 2 lần mức lãi suất ngân hàng trong năm.

Đối với DN làm ăn không có lãi, cần duy trì mức cổ tức tương ứng mức

lãi suất ngân hàng. Vì thực chất mức cổ tức bao gồm hai phần: phần chi phí

tiền vay (như vay vốn từ các tổ chức tín dụng) và mức lợi nhuận phân phối

122

qua cổ phiếu. Chú trọng đảm bảo mức thu nhập, đảm bảo tiền lương tối thiểu

của người lao động.

Chú ý đến lợi ích của người lao động khi mua cổ phần, phần quyền lợi

với lao động dôi dư và chính sách ưu đãi đối với người lao động hậu CPH.

Đối với lao động nghèo: Cần bỏ mức khống chế “không được vượt quá

20% tổng số cổ phần nhà nước bán theo giá ưu đãi” đối với số cổ phần mua

trả dần của người lao động nghèo trong DN, thay vì bán chịu cổ phiếu cho

người nghèo theo giá ưu đãi, có thể áp dụng phương thức cấp không một số

cổ phiểu nhất định tương đương với mức ưu đãi 30%. DN sau CPH không

phải ghi nợ, vì rủi ro cổ phiếu bán chịu trở thành một khoản nợ khó đòi sau

này cũng sẽ bị loại trừ.

Cần có sự phân biệt mức độ ưu đãi (số cổ phần/cho mỗi năm làm việc

thực tế) đối với người lao động theo nghành nghề linh vực kinh doanh, khắc

phục tình trạng dàn trải, mang tính bình quân như hiện nay.

Nên mở rộng phạm vi đối tượng được hưởng chế độ ưu đãi đến các cán

bộ, công nhân viên của DN đã nghỉ hưu, nghỉ việc chờ giải quyết chế độ, nghỉ

mất sức lao động để ghi nhận sự đóng góp của họ trong quá trình tạo dựng

DN trước CPH. Tuy nhiên mức độ ưu đãi đối với đối tượng này cần có sự

phân biệt so với những người đang làm việc. Những băn khoăn, lo lắng của

người lao động đã gắn bó với DN trong suốt quá trình hình thành và phát triển

cho đến khi thực hiện chuyển đổi sang CTCP. Đảm bảo lợi ích người lao

động cần phải có sự quan tâm đúng mức của nhà nước và DN.

Đối với người lao động dôi dư sau CPH: Việc CPH tất yếu sẽ dẫn đến

một bộ phận người lao động mất việc hoặc thôi việc và con số này sẽ càng lớn

lên khi đẩy mạnh triển khai CPH. Giải quyết triệt để vẫn đề xã hội này sẽ giúp

giảm trở lực to lớn đối với tiến trình CPH DNNN.

123

2.2.2.8. Quy định về hệ thống thang bậc lương và nâng cao trình dộ

chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động trong công ty cổ phần

Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện chính sách đối với người lao động trong

DN sau CPH. Đây là những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền lợi (có tác

động tích cực cả về mặt kinh tế, cả về mặt xã hội) của mỗi cán bộ công nhân

viên làm tại DN.

Có biện pháp tuyên truyền giải thích cho người lao động nhận thức

đựoc đúng đắn, đầy đủ về quyền lợi trách nhiệm của họ đối với CTCP. Làm

cho người lao động thấy rõ lợi ích, vị trí, môi trường mới, mức đọ làm chủ

đến đâu, những gì học được phép... làm là rất quan trọng. Người lao động sẽ

tự giác, đồng tâm cùng nhà nước thực hiện tốt chủ truơng CPH, tạo nên sự ổn

định trong CTCP.

Tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động được hưởng đúng và đủ chế

độ ưu đãi mua cổ phần trong DN. Theo nghị định 44-198/NĐ-CP qui định

người lao động trong DNNN chuyển thành CTCP được bảo đảm công ăn việc

làm, ưu đãi tạo điều kiện có cổ phần, thực hiện quyền làm chủ... Ngoài ra, cần

tăng cường mức độ ưu đãi cho người lao động theo thâm niên công tác và

mức độ đóng góp của họ với DNNN dựa trên những nghành nghề và lĩnh vực

hoạt động.

Quy định hệ thống thang, bậc lương cho người lao động trong CTCP

bằng cách tự hoạch định một hệ thống tiền lương theo các nguyên tắc do Nhà

nước qui định (và phải đăng ký với cơ quan lao động địa phương). Khi đó,

các DN sẽ khuyến khích được lao động, giữ chân và thu hút được những lao

động có chuyên môn, kỹ thuật cao, tay nghề giỏi vào làm việc. Trong trường

hợp, các CTCP áp dụng hệ thống thang lương, bảng lương như các công ty

nhà nước thì phải xây dựng tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ, tiêu chuẩn cấp

124

bậc kỹ thuật công nhân; phải thực hiện nâng ngạch, nâng bậc lương theo đúng

qui định…

Giải quyết hợp lý lao động dôi dư, cần được các CTCP xét trên hai mặt:

bảo đảm việc làm và cuộc sống của người lao động; bảo đảm điều kiện để

CTCP đạt yêu cầu nâng cao hiệu quả sử dụng lao động.

Kịp thời phối kết hợp trong giải quyết các vấn đề cụ thể giữa nhà nước

và DN trong giải quyết chế độ đối với người lao động để họ không cảm thấy

bị thiệt trong CTCP.

Về đào tạo lại đội ngũ lao động, cần bố trí đội ngũ lao động theo hướng

tinh giản (những người lao động tuổi cao trình độ không còn phù hợp giải

quyết theo chế độ nghỉ việc hoặc nghỉ chế độ... Tuy vậy, việc lựa chọn này

mới chỉ dựa vào tiêu chí tuổi tác, bằng cấp trong số nguồn lao động hiện có

của DN. Vì vậy cần có kế hoạch đào tạo lại đội ngũ cán bộ, công nhân nâng

cao chất luợng đáp ứng yêu cầu lao động mới trong cơ chế hoạt động của

CTCP và trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Nội dung đào tạo đội ngũ

lao động rất rộng, từ những kiến thức chung đến những kiến thức chuyên

nghành nhằm làm cho đội ngũ lao động có thể thích ứng với kinh tế thị

trường, (các kiến thức pháp luật...). Do vậy các DN sau CPH cần xây dựng đề

án đào tạo, chuẩn bị kinh phí và lựa chọn phương thức đào tạo phù hợp với

điều kiện lao động của DN.

Phát triển DN sau CPH cần gắn với việc làm và thu nhập của người lao

động được tăng lên. DN tham gia tích cực vào việc giải quyết các vấn đề xã

hội và bảo vệ môi trường sinh thái. Còn nếu ngược lại thì không thể nói rằng

CPH DN đã thành công.

2.2.2.9. Thành lập Hội các doanh nghiệp sau cổ phần hoá

125

Hội này sẽ phát huy tác dụng rất tốt, đặc biệt trong những năm đầu sau

CPH. Hội là nơi DN trao đổi kinh nghiệm về cách thức huy động vốn,

phương thức mở rộng hoạt động kinh doanh, trao đổi thông tin về thị trường,

cơ chế chính sách của Đảng và nhà nước. Các DN có thể cùng trao đổi tư vấn

cho nhau để giải quyết vướng mắc về thủ tục nhà đất, vay vồn ngân hàng, các

vấn đề về tranh chấp trong mua bán cổ phiếu. Đây cũng đựoc coi là một đầu

mối để các cơ quan quản lý nhà nước tiếp xúc, tìm hiểu tình hình sản xuất

kinh doanh, các vấn đề xã hội của DNNN sau CPH. Thành phố sẽ quy định cụ

thể trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc tiếp tục cung cấp

thông tin về chính sách nhà nước, các thông tin về thị trường đầu vào và đầu

ra của sản phẩm... cho các DNNN sau CPH. Đại diện Hội các DN sau CPH sẽ

được mời tham gia các cuộc họp liên quan của thành phố, đề đạt nguyện vọng

và góp ý cho một số quyết sách phục vụ cho sự phát triển của DN.

Đẩy mạnh, triển khai tổ chức các hoạt động trong DNNN sau CPH.

Thực chất của giải pháp này là tạo ra các điều kiện khách quan cơ bản cần

thiết cho viêc tiến hành và đẩy nhanh hoạt động của DNNN sau CPH trong

thời gian tới.

Phương hướng bao trùm nhất là thực hiện nhất quán các chính sách tạo

môi trường thuận lợi cho hoạt động đầu tư, kinh doanh và phát triển mạnh mẽ

các loại hình DN. Tập trung làm tốt việc định hướng, tạo môi trường thuận lợi

để các DN hoạt động và phát triển theo cơ chế thị trường. Thực hiện nghiêm

túc, có hiệu quả Luật DN, Luật Ðầu tư. Tiếp tục hình thành và thúc đẩy hoạt

động của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty lớn, đa sở hữu, tạo sức mạnh cho

đất nước trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế. Thu hút ngày càng nhiều

tập đoàn kinh tế lớn của nước ngoài đến đầu tư kinh doanh tại Việt Nam. Coi

trọng phát triển DN dân doanh để tạo thêm môi trường và động lực đổi mới

DNNN.

126

Nhóm giải pháp thứ nhất, sẽ tạo ra những điều kiện tiền đề cần thiết về

môi trường kinh tế vĩ mô cho các DNNN sau CPH hoạt động có hiệu quả,

đồng thời tác động đến tiến trình CPH DNNN đạt được mục tiêu đã đặt ra.

Nhóm thứ hai, nhằm giúp các DNNN khi thực hiện CPH có nhiều

thuận lợi, hạn chế những phát sinh, tiêu cực, từ đó góp phần nâng cao hiệu

quả của các DNNN sau CPH; Đặc biệt là các vấn đề trong nội bộ tổ chức và

quản lý tài chính trong các DNNN.

127

KẾT LUẬN

Cổ phần hoá DNNN là giải pháp quan trọng và tích cực nhằm đổi mới

DNNN tạo động lực, tăng cường vai trò chủ đạo của DNNN thông qua sự

thay đổi về hình thức sở hữu, cơ cấu tổ chức và hoạt động kinh doanh. Bên

cạnh đó còn góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả quản trị DN tốt hơn

trước, nhờ đó tăng cường khả năng cạnh tranh của DNNN trên thị trường

hàng hóa và dịch vụ. Tuy nhiên, những ưu việt đó của CPH DNNN chỉ bộc lộ

khi xác định được những hình thức, bước đi và nội dung thực hiện CPH và

sau CPH phù hợp với đặc điểm và điều kiện cụ thể của từng DN.

Cổ phần hoá các DNNN là biên pháp đúng đắn của quá trình đổi mới

các DNNN, là quá trình chuyển các DNNN thành các CTCP. Điều đó có

nghĩa là chuyển từ sở hữu Nhà nước sang sở hữu của nhiều chủ thể, trong đó

tồn tại một phần sở hữu Nhà nước. Quá trình này tạo điều kiện huy động các

nguồn vốn đầu tư phát triển sản xuất, xử lý và khắc phục những tồn tại hiện

thời của DNNN; tạo điều kiện cho người góp vốn và người lao động thực sự

làm chủ DNNN; tất cả nhằm mục đích nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh

của DNNN, giảm nhẹ ghánh nặng Nhà nước đối với DN, từng bước làm cho

DNNN thực sự giữ vai trò chủ đạo và định hướng XHCN đối với các thành

phần kinh tế.

Cổ phần hoá DNNN có rất nhiều tính ưu việt, nhưng cũng nảy sinh

nhiều vấn đề trong và sau CPH. Nhưng vấn đề đặt ra sau CPH chủ yếu là: xóa

bỏ tư tuởng bao cấp do cơ chế cũ để lại, xu hướng tư nhân hóa DNNN, sự

chậm chuyển đổi trong quản trị điều hành DN và những vấn đề xã hội nảy

sinh. Những vấn đề đó cần được lý giải cả về lý luận và thực tiễn, làm cơ sở

cho việc đề xuất các giải pháp xử lý trong và sau CPH. Muốn CPH thành

công cần phải vào cuộc, phối hợp chặt chẽ giữa chính phủ, các bộ ban nghành

128

và các DNNN CPH. Cần xác lập môi trường pháp lý hoàn chỉnh, xác định rõ

chức năng nhiệm vụ và quyền hạn của các tổ chức tham gia vào quá trình

CPH. Cần phải đầu tư chi phí ban đầu, có sự hỗ trợ cho người lao động, giải

quyết các vấn đề phát sinh sau CPH.

Để nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN sau CPH cần phải giải

quyết đồng bộ các vấn đề cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Đó là hoàn thiện các văn

bản pháp quy, tạo môi truờng pháp lý lành mạnh; xây dựng kết cấu hạ tầng cơ

sở sản xuất kinh doanh; phát triển và hoàn thiện các yếu tố thị trường, nâng

cao trình độ và tính minh bạch trong quản trị DN; đổi mới phương thức lãnh

đạo và chỉ đạo của tổ chức Đảng trong DNNN sau CPH... Đồng thời cần tập

trung và thể chế hoá các quy định về xử lý tài chính; phương pháp xác định

giá trị DN; tổ chức bộ máy quản lý DN; nâng cao trình độ người lao động;

đảm bảo lợi ích chính đáng của các cổ đông và người lao động trong các

DNNN sau CPH.

129

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đinh Văn Ân (2004), Báo cáo tại Hội thảo cổ phần hóa doanh nghiệp

nhà nước, tháng 8, Hà Nội.

2. Ban chỉ đạo Đổi mới và phát triển DN (2007), Báo cáo về công tác sắp

xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước.

3. Báo cáo của Ban chỉ đạo đổi mới & phát triển doanh nghiệp (10/2005).

4. Báo cáo của Viện Nghiên cứu kinh tế Trung ương (CIEM) (22/9/2005).

5. Bộ Kế hoạch & Đầu tư (10/5/2002), Quy định số 260/2002/QĐ-BKH về

việc ban hành danh mục các ngành nghề người nước ngoài được mua

cổ phần trong các DN ngoài quốc doanh theo quy định của Luật Khuyến

khích đầu tư trong nước.

6. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (21/8/1998), Thông tư

11/1998/TT-LĐTBXH hướng dẫn chính sách đối với người lao động khi

chuyển DNNN thành CTCP theo Nghị định 44/1998/NĐ-CP.

7. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (16/4/2002), Công văn

1110/LĐTBXH-TL về thẩm định đơn giá tiền lương đối với DNNN đã

CPH.

8. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (12/6/2002), Thông tư

11/2002/TT-LĐTBXH của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội hướng

dẫn Nghị định 41/2002/NĐ-CP về chính sách đối với lao động dôi dư do

sắp xếp lại DNNN.

9. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (26/11/2002), Thông tư

15/2002/BLĐTBXH hướng dẫn về chính sách đối với người lao động khi

130

chuyển DNNN thành CTCP theo Nghị định số 64/2002/NĐ-CP của

Chính phủ.

10. Bộ Tài chính (18/7/1998), Thông tư 104/1998/TT-BTC về hướng dẫn

những vấn đề tài chính khi chuyển DNNN thành CTCP theo Nghị định

44/1998/NĐ-CP.

11. Bộ Tài chính (15/11/1999), Thông tư 132/1999/TT-BTC về hướng dẫn

bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài.

12. Bộ Tài chính (3/4/2001), Thông tư 22/2001/TT-BTC hướng dẫn thực

hiện việc miễn thuế, giảm thuế cho các đối tượng được hưởng ưu đãi

đầu tư theo Nghị định số 51/1999/NĐ-CP của Chính phủ.

13. Bộ Tài chính (18/02/2002), Công văn 1415 TC/TCT hướng dẫn về ưu

đãi đầu tư theo Nghị định 44/1998/NĐ-CP.

14. Bộ Tài chính (01/7/2002), Quyết định 85/2002/QĐ-BTC về ban hành

Quy chế và sử dụng Quỹ hỗ trợ lao động dôi dư do sắp xếp lại DNNN.

15. Bộ Tài chính (12/9/2002), Thông tư 79/2002/TT-BTC về hướng dẫn xác

định giá trị DN khi chuyển DNNN thành CTCP theo Nghị định

64/2002/NĐ-CP.

16. Bộ Tài chính (24/10/2002), Thông tư 98/2002/TT-BTC hướng dẫn việc

miễn giảm thuế cho các đối tượng được hưởng ưu đãi đầu tư theo Nghị

định 51/1999/NĐ-CP qui định chi tiết thi hành Luật khuyến khích đầu tư

trong nước.

17. Bộ Tài chính (9/9/2002), Thông tư số 76/2002/TT-BTC về hướng dẫn

những vấn đề tài chính khi chuyển DNNN thành CTCP.

18. Chính phủ (17/9/1994), Nghị định số 120/CP ban hành quy chế tạm thời

về việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu DNNN.

131

19. Chính phủ (7/5/1996), Nghị định 28/CP về chuyển một số DNNN thành

CTCP.

20. Chính phủ (29/6/1998), Nghị định 44/1998/NĐ-CP về chuyển DNNN

thành CTCP.

21. Chính phủ (11/7/1998), Nghị định 48/1998/NĐ-CP về chứng khoán và

thị trường chứng khoán.

22. Chính phủ (08/7/1999), Nghị định 51/1999/NĐ-CP quy định chi tiết thi

hành Luật Khuyến khích đầu tư trong nước 03/1998/QH10.

23. Chính phủ (11/4/2002), Nghị định 41/2002/NĐ-CP về chính sách đối

với lao động dôi dư do sắp xếp lại DNNN.

24. Chính phủ (19/6/2002), Nghị định 64/2002/NĐ-CP về chuyển DNNN

thành CTCP.

25. Chính phủ (16/11/2004), Nghị định 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển

công ty nhà nước thành CTCP.

26. Đảng Cộng sản Việt Nam (9/2005), Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội

X của Đảng.

27. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp

hành Trung ương Đảng (khóa IX) về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát

triển và nâng cao hiệu quả DNNN.

28. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp

hành Trung ương Đảng (khóa IX) về một số chủ trương, chính sách, giải

pháp lớn nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ

IX của Đảng.

29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi

mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

132

30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện đại hội Đảng thời kỳ đổi

mới, văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, NXB. Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi

mới,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, NXB. Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

32. Đảng công sản Việt Nam (2005), Văn kiện đại hội Đảng thời kỳ đổi mới,

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kì khoá VII, NXB.

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện đại hội Đảng thời kỳ đổi

mới, Văn kiện Hội nghị Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB. Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Dự thảo các văn kiện Đại hội Đảng

thời kì đổi mới, Văn kiện hội nghị Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB.

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

35. Hồ Xuân Hùng (2004), “Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước: Kết quả,

vướng mắc và giải pháp”, Tạp chí Cộng sản điện tử, (67).

36. C. Mác và Ph. Ăng-ghen (1994), Toàn tập, Tập 25, Phần II, Nxb. Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

37. C. Mác và Ph. Ăng-ghen (1994), Toàn tập, Tập 25, phần I, Nxb. Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

38. C. Mác và Ph.Ăng-ghen: sdđ, tr673

39. V.I. Lê – nin (1978)Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va, Tập 45, tr427

40. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa

IX, (2001), tr7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội

133

41. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (15/8/1998), Thông tư 06/1998/TT-

NHNN về hướng dẫn thực hiện một số nội dung liên quan đến ngân

hàng khi chuyển DNNN thành CTCP, Hà Nội.

42. Nghị quyết số 05-NQ/TW.

43. Luật Doanh nghiệp nhà nước(1995),(2003) Luật doanh nghiệp (2005)

44. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Luật

sửa đổi một số điều của Bộ Luật Lao động, khóa X, kỳ họp thứ 11, từ

ngày 15/3 đến ngày 02/4/2002.

45. Tô Huy Rứa (8/2004), Sự phát triển quan điểm, đường lối, cơ chế, chính

sách của Đảng và Nhà nước về CPH DNNN, Báo cáo Hội thảo CPH

DNNN, Hà Nội.

46. Trương Tấn Sang (8/9/2005), Báo cáo đề dẫn Hội thảo "Đánh giá 4

năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 và Nghị quyết Trung ương 9

(khoá IX) về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả

DNNN; đề xuất những kiến nghị mới", Hà Nội.

47. Thủ tướng Chính phủ (10/6/1999), Quyết định 139/1999/QĐ-TTg về tỷ

lệ tham gia của bên nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam.

48. Thủ tướng Chính phủ (28/6/1999), Quyết định 145/1999/QĐ-TTg về ban

hành Quy chế bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài.

49. Thủ tướng Chính phủ (30/8/1999), Quyết định 177/1999/QĐ-TTg về tổ

chức và hoạt động của Quỹ hỗ trợ sắp xếp và CPH DNNN.

50. Thủ tướng Chính phủ (08/2/2002), Chỉ thị 04/2002/CT-TTg về việc tiếp

tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN.

134

51. Thủ tướng Chính phủ (29/3/2002), Nghị định 35/2002/QĐ-TTg về sửa

đổi bổ sung Danh mục khuyến khích đầu tư theo Nghị định 51/1999/NĐ-

CP của Chính phủ.

52. Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (28/9/2001), Thông tư 02/2001/TT-

UBCK hướng dẫn thực hiện Nghị định 48/1998/NĐ-CP của Chính phủ

ngày 11/7/1998 về phát hành cổ phiếu, trái phiếu ra công chúng.

53. Văn phòng Chính phủ (29/8/1998), Công văn 3395/VPCP-ĐMDN về

việc hướng dẫn quy trình và phương án mẫu CPH.

54. Viện Khoa học xã hội Việt Nam - Viện Kinh tế Thế giới (1992), Chủ

nghĩa tư bản hiện đại, tư nhân hoá ở các nước tư bản phát triển, Hà

Nội.

55. Viện Nghiên cứu kinh tế Trung ương (22/9/2005), Báo cáo tình hình

thực hiện sắp xếp, đổi mới DNNN, Hà Nội.

56. Website Đảng Cộng sản Việt Nam (5/2/2004), Về một số chủ trương,

chính sách, giải pháp lớn nhằm thực hiện thắng lợi nghị quyết ĐH toàn

quốc lần thứ IX của Đảng.

135

Phụ lục: DANH MỤC CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT CÓ LIÊN QUAN TỚI SẮP XẾP LẠI DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC

1. Thông tư 80/2002/TT-BTC ngày 12/9/2002 hướng dẫn về bảo lãnh

phát hành và đấu giá bán cổ phần ra bên ngoài của các doanh nghiệp

nhà nước khi thực hiện cổ phần hoá.

2. Thông tư 79/2002/TT-BTC ngày 12/9/2002 về hướng dẫn xác định giá

trị doanh nghiệp khi chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ

phần theo Nghị định 64/2002/NĐ-CP của Chính phủ.

3. Thông tư số 76/2002/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 9/9/2002 hướng

dẫn những vấn đề tài chính khi chuyển doanh nghiệp nhà nước thành

công ty cổ phần.

4. Nghị định 187/2004/NĐ-CP của Chính phủ ngày 16 tháng 11 năm 2004

về việc chuyện công ty nhà nước thành công ty cổ phần.

5. Nghị định 64/2002/NĐ-CP của Chính phủ ngày 19/6/2002 về chuyển

doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần.

6. Ngị định 44/1998/NĐ-CP của Chính phủ ngày 29/6/1998 về chuyển

nhà nước thành công ty cổ phần.

7. Nghị định 28/CP ngày 07/5/1996 của Chính phủ về chuyển một số

doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần.

8. Nghị định số 120/CP của Chính phủ ngày 17 tháng 9 năm 1994 ban

hành quy chế tạm thời về việc phát hành trái phiếu,cổ phaieú doanh

nghiệp nhà nước.

9. Thông tư 104/1998/TT-BTC của Bộ tài chính ngày 18/7/1998 hướng

dẫn những vấn đề tài chính khi chuyển doanh nghiệp nhà nước thành

136

công ty cổ phần (theo Nghị định 44/1998/NĐ-CP) cua Chính phủ ngày

29/6/1998).

10. Công văn 3395/VPCP-ĐMDN cua Văn phòng Chính phủ ngày

29/8/1998 về việc hướng dẫn quy trình và phương án mẫu cổ phần hoá.

11. Công văn 3138/TC-TCDN của Bộ tài chính ngày 19/8/1998 về việc

hướng dẫn thực hiện cổ phầ hoá doanh nghiệp nhà nước.

12. Thông tư 117/1998/TT-BTC của Bộ tài chính ngày 22/8/1998 hướng

dẫn thực hiện ưu đãi về thuế và lệ phí trước bạ theo qui định tại điều 13

Nghị định 44/1998/NĐ-CP của Chính phủ ngày 29/6/1998 về chuyển

doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần.

13. Thông tư 06/1998/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

ngày 15/8/1998 hướng dẫn thực hiện một số nội dung liên quan đến

ngân hàng khi chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần.

14. Quyết định 145/1999/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ ngày

28/6/1999 về ban hành Quy chế bán cổ phần cho nhà đầu tư nước

ngoài.

15. Thông tư 132/1999/TT-BTC của Bộ tài chính ngày 15/11/1999 hướng

dẫn bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài.

16. Quy định số 260/2002/QĐ-BKH ban hành ngày 10/5/2002 của Bộ Kế

hoạch và đầu tư về việc ban hành danh mục các ngành nghề người

nước ngoài được mua cổ phần trong các doanh nghiệp ngoài quốc

doanh theo quy định của Luật Khuyến khích đầu tư trong nước .

17. Thông tư 15/2002/BLDTBXH ngày 26/11/2002 hướng dẫn về chính

sách đói với người lao động khi chuyển doanh nghiệp nhà nước thành

công ty cổ phần theo Nghị định số 64/2002/NĐ-CP ngày 19/6/2002.

137

18. Quyết định 85/2002/QĐ-BTC ngày 1/7/2002 ban hành Quy chế quản

lý và sử dụng Quỹ hỗ trợ lao động đôi dư do sắp xếp lại doanh nghiệp

nhà nước.

19. Thông tư 11/2002/TT-LĐTBXH của Bộ Lao Động,Thương binh và Xã

hội ngày 12/6/2002 hướng dẫn Nghị định 41/2002/NĐ-CP về chính

sách dối với người lao dộng đòi tự do sắp xếp lại doanh nghiệp nhà

nước.

20. Công văn 1110/LĐTBXH-TL của Bộ Lao động,Thương binh và Xã

hội ngày 16/4/2002 về thẩm định đơn giá tiền lương đối với doanh

nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá.

21. Nghị định 41/2002/NĐ-CP ngày 11/4/2002 của Chính phủ về chính

sách đối với lao động đòi tự do sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước.

22. Thông tư 11/1998/TT-LĐTBXH của Bộ Lao động,Thương binh và Xã

hội ngày 21/8/1998 hưóng dẫn chính sách đối với người lao động khi

chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần theo Nghị định

44/1998/NĐ-CP của Chính phủ ngày 29/6/1998.

23. Bộ Luật Lao động,ngày 23/6/1998.

24. Luật sửa đổi một số điều của Bộ Luật lao động,tháng 4/2002.

25. Quyết định 177/1999/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ ngày

30/8/1999 về tổ chức và hoạt động của Quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần

hoá doanh nghiệp nhà nước.

26. Thông tư 95/2000 QĐ-BTC của Bộ tài chính ngày 9/6/2000 về việc

Ban hành Quy chế quản lý,thu nộp va sử dụng Quỹ hỗ trợ sắp xếp và

cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.

138

27. Quyết định 163/2000/QĐ-BTC của Bộ tài chính ngày 9/10/2000 về

việc giao nhiệm vụ quản lý Quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hoá doanh

nghiệp nhà nước cho các đơn vị thuộc Bộ va trực thuộc Bộ.

28. |Thông tư 98/2002/TT-BTC ngày 24/10/1001 của Bộ tài chính hướng

dẫn việc miễn giảm thuế cho các đối tượng được hưởng ưu đãi đầu tư

theo NGhị định 51/1999/NĐ-CP qui định chi tiết thi hành Luật khuyến

khích đầu tư trong nước.

29. Nghị định 35/2002/QĐ-TTG ngày 29/3/2002 của Thủ tướng Chính

phủ về sửa đổi bổ sung Danh mục khuyến khích đầu tư theo Nghị định

51/1999/NĐ-CP của Chính phủ.

30. Công văn 1415 TC/TCT của Bộ tài chính ngày 18/02/2002 hướng dẫn

về ưu đãi đầu tư theo Nghị định 44/1998/NĐ-CP.

31. Thông tư 22/2001/TT-BTC của Bộ tài chính ngày 3/4/2001 hướng dẫn

thực hiện việc miễn thuế,giảm thuế cho các đối tượng được hưởng ưu

đãi đầu tư theo Nghị định số51/1999/NĐ-CP.

32. Nghị định 51/1999/NĐ-CP của Chính phủ ngày 08/7/1999 quy định

chi tiết thi hành Luật Khuyến khích đầu tư trong nước 03/1998/QH10.

33. Nghị định 48/1998/NĐ-CP của Chính phủ ngày 11/7/1998 về chứng

khoán và thị trường chứng khoán.

34. Thông tư 02/2001/TT-UBCK của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước ngày

28/9/2001 hướng dẫn Nghị địnhh 48/1998/NĐ-CP của Chính phủ ngày

11/7/1998 về phát hành cổ phiếu, trái phiếu ra công chúng.

35. Quyết định 139/1999/QĐ-TTG ngày 10/06/1999 của Thủ tướng chính

phủ về tỷ lệ tham gia của bên ngoài vào thị trường chứng khoán Việt

Nam.

139

36. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá

IX) về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh

nghiệp nhà nước.

37. Chỉ thị 04/2002/CT-TTG của Thủ tướng Chính phủ ngày 08/02/2002

về việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh

nghiệp nhà nước.

140