BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

............…/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

HÀ LƢƠNG ĐỨC

HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN XÃ

Ở HUYỆN TÂY HÒA, TỈNH PHÚ YÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính

Mã số: 60 38 01 02

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS NGUYỄN QUỐC SỬU

THỪA THIÊN HUẾ, NĂM 2017

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn “Hoạt động của Hội đồng nhân dân xã ở

huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên” là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự

hướng dẫn của PGS.TS. Nguyễn Quốc Sửu. Các số liệu, kết quả trình bày

trong Luận văn là trung thực, đảm bảo tính khách quan, khoa học và chưa

được ai công bố trong công trình nghiên cứu nào. Các tài liệu tham khảo,

những thông tin trích dẫn trong Luận văn đều có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.

Học viên

Hà Lƣơng Đức

Lời Câm Ơn Với lòng kính trọng và sự tri ån såu sắc, trước tiên tôi xin gửi lời câm ơn chån thành đến quý Thæy, Cô Học viện Hành chính Quốc gia đã trang bị cho tôi nhiều kiến thức quý báu trong suốt thời gian qua.

Đặc biệt, tôi xin chån thành câm ơn Giâng viên PGS.TS. Nguyễn Quốc Sửu đã hết lòng giúp đỡ, hướng dẫn tận tình từ lúc định hướng chọn đề tài cũng như quá trình hoàn thiện nghiên cứu, thæy luôn động viên và täo mọi điều kiện thuận lợi để giúp tôi có thể hoàn thành luận văn này.

Tôi cũng xin câm ơn các bän bè, đồng nghiệp đã luôn quan tåm giúp đỡ, cung cçp rçt nhiều số liệu, chia sẻ nhiều kinh nghiệm thực tế để giúp tôi có thể hoàn thành nghiên cứu này.

Trån trọng!

Thừa Thiên Huế, tháng năm 2017 Học viên Hà Lương Đức

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Mục lục

Danh mục từ viết tắt

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG

NHÂN DÂN XÃ ............................................................................................. 10

1.1. Khái lược sự hình thành và phát triển của Hội đồng nhân dân xã trong

lịch sử lập pháp của nước ta ........................................................................ 10

1.1.1. Giai đoạn Hiến pháp 1946 ............................................................ 10

1.1.2. Giai đoạn Hiến pháp năm 1959 .................................................... 11

1.1.3. Giai đoạn Hiến pháp năm 1980 .................................................... 13

1.1.4. Giai đoạn Hiến pháp năm 1992 .................................................... 15

1.1.5. Giai đoạn Hiến pháp năm 2013 .................................................... 15

1.2. Điều chỉnh pháp luật đối với tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân

dân xã hiện nay ............................................................................................ 17

1.2.1. Vị trí, chức năng, cơ cấu tổ chức của Hội đồng nhân dân xã ...... 17

1.2.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng nhân dân xã ..................... 23

1.2.3. Phương thức hoạt động của Hội đồng nhân dân xã ..................... 25

1.2.4. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân xã ........................... 37

1.3. Mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân xã với cấp ủy, Ủy ban nhân dân,

Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội cùng cấp ......... 38

1.3.1. Mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân xã với cấp ủy cùng cấp ............... 38

1.3.2. Mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân xã với Ủy ban nhân dân cùng

cấp ........................................................................................................... 39

1.3.3. Mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân xã với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc

và các tổ chức chính trị - xã hội cùng cấp ............................................... 41

1.4. Tiêu chí đánh giá và điều kiện đảm bảo chất lượng, hiệu quả hoạt động

của Hội đồng nhân dân xã ........................................................................... 43

1.4.1. Quan niệm về chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân

dân xã ...................................................................................................... 43

1.4.2. Tiêu chí đánh giá chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân

dân xã ....................................................................................................... 48

1.4.3. Điều kiện đảm bảo chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội đồng

nhân dân xã ............................................................................................. 51

Kết luận chương 1 ....................................................................................... 58

Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN

DÂN XÃ Ở HUYỆN TÂY HÒA, TỈNH PHÚ YÊN ................................... 59

2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội của huyện

Tây Hòa, tỉnh Phú Yên .......................................................................... 59

2.1.1. Về điều kiện tự nhiên ..................................................................... 59

2.1.2. Về kinh tế - xã hội, quốc phòng – an ninh .................................... 61

2.2. Thực trạng về tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân xã ở huyện

Tây Hòa, tỉnh Phú Yên .............................................................................. 644

2.2.1. Thực trạng về cơ cấu, tổ chức của Hội đồng nhân dân xã ở huyện

Tây Hòa, tỉnh Phú Yên từ năm 2011 đến nay ......................................... 65

2.2.2. Thực trạng hoạt động của Hội đồng nhân dân xã ở huyện Tây

Hòa, tỉnh Phú Yên từ năm 2011 đến nay. ............................................... 70

2.2.3. Thực trạng mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân xã với Đảng ủy,

Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã

hội của xã ................................................................................................ 81

2.2.4. Đánh giá những ưu điểm, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân ......... 85

Kết luận chương 2 ....................................................................................... 96

Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

VỀ HĐND XÃ VÀ NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG, HIỆU QUẢ HOẠT

ĐỘNG CỦA HĐND XÃ Ở HUYỆN TÂY HÒA, TỈNH PHÚ YÊN ......... 97

3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về Hội đồng nhân dân xã và

nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân xã ở

huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên ..................................................................... 97

3.1.1. Xuất phát từ bản chất của Nhà nước ta và yêu cầu xây dựng nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ......................................................... 97

3.1.2. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương ... 98

3.1.3. Xuất phát từ thực trạng hoạt động của Hội đồng nhân dân xã ở

huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên trong thời gian qua ................................. 99

3.2. Những giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội

đồng nhân dân xã ở huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên .................................. 100

3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến tổ chức và

hoạt động của Hội đồng nhân dân xã ................................................... 100

3.2.2. Những giải pháp cụ thể nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động

của Hội đồng nhân dân xã ở huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên ................. 102

Kết luận chương 3 ..................................................................................... 119

KẾT LUẬN .................................................................................................. 120

TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 122

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

HĐND: Hội đồng nhân dân

MTTQ: Mặt trận Tổ quốc

Nxb: Nhà xuất bản

THCS: Trung học cơ sở

THPT: Trung học phổ thông

UBHC: Ủy ban hành chính

UBND: Ủy ban nhân dân

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn

Như chúng ta đã biết, xã là địa bàn dân cư đã tồn tại hàng ngàn năm

cùng với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, là đơn vị hành chính của

nước ta ở cơ sở được ghi nhận trong Hiến pháp, cụ thể tại Khoản 1, Điều 110,

Hiến pháp năm 2013 quy định:

Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam được phân định như sau: Nước chia thành tỉnh,

thành phố trực thuộc trung ương; Tỉnh chia thành huyện, thị xã

và thành phố thuộc tỉnh; thành phố trực thuộc trung ương chia

thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính tương đương;

Huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố thuộc tỉnh

chia thành phường và xã; quận chia thành phường. Đơn vị hành

chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập[39].

Theo quy định của pháp luật, chính quyền địa phương được tổ chức ở

các đơn vị hành chính, gồm có HĐND và UBND. Điều 113 Hiến pháp năm

2013 quy định:

1. HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương,

đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân,

do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân

dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.

2. HĐND quyết định các vấn đề của địa phương do luật

định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa

phương và việc thực hiện nghị quyết của HĐND[39].

Theo đó, HĐND xã là cơ quan quyền lực nhà nước ở xã, có quan hệ

trực tiếp đến người dân, là cầu nối đưa mọi chủ trương, chính sách của Đảng,

pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống; là nơi trực tiếp quyết định những chủ

1

trương, biện pháp quan trọng để xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế

- xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh…

Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị, là công cụ chủ yếu để thực

hiện quyền làm chủ của nhân dân, HĐND xã là một tổ chức trong bộ máy nhà

nước. Khoản 1, Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước Cộng hòa

xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của

Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”[39]. Hiện nay, nước ta đang từng bước

xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Việc kiện

toàn tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước

là một trong những yêu cầu quan trọng để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa (XHCN) của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Mục đích là

làm cho các cơ quan nhà nước ở trung ương cũng như ở địa phương thực hiện

đúng và đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của mình theo quy định của Hiến pháp

và pháp luật. Trong bộ máy nhà nước, HĐND vừa là cơ quan quyền lực nhà

nước ở địa phương, vừa là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền

làm chủ của nhân dân. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của

Đảng khẳng định: “Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền

địa phương. Nâng cao chất lượng hoạt động của HĐND và UBND các cấp,

bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong việc quyết định và tổ chức

thực hiện những chính sách trong phạm vi được phân cấp”[4, tr. 251].

Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 ra đời, có hiệu lực

thực hiện từ ngày 01/01/2016, so với Luật Tổ chức HĐND và UBND năm

2003 có những điểm mới quy định về cơ cấu tổ chức và hoạt động của HĐND

xã như: Luật quy định rõ hơn về cơ cấu tổ chức của HĐND tạo cơ sở pháp lý

để củng cố, hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của

HĐND các cấp nói chung và HĐND xã nói riêng; thành lập các Ban của

HĐND xã, thành viên các ban này hoạt động kiêm nhiệm. Ngoài ra, một trong

2

những điểm mới nổi bật của Luật Tổ chức chính quyền địa phương so với

Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 đó là có sự phân biệt giữa chính

quyền địa phương ở nông thôn và ở đô thị, phù hợp với đặc điểm kinh tế, địa

lý, dân cư, kết cấu hạ tầng và yêu cầu quản lý ở mỗi địa bàn, từ đó quy định

rõ ràng, cụ thể hơn về nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND xã. Ngoài ra, Quốc

hội đã ban hành Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND, có hiệu lực

01/7/2016, đây là cơ sở pháp lý quan trọng để thực hiện tốt chức năng giám

sát của HĐND. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của

HĐND nói chung và HĐND xã nói riêng là một yêu cầu cần thiết hiện nay.

Huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên là huyện thuần nông, mới thành lập trên

cơ sở chia tách từ huyện Tuy Hòa thành hai huyện: Đông Hòa, Tây Hòa theo

Nghị định số 62/2005/NĐ-CP ngày 16/5/2005 của Chính phủ, chính thức đi

vào hoạt động ngày 01/7/2005, cơ sở vật chất, hạ tầng kinh tế kỹ thuật còn

nhiều thiếu thốn; là một trong những địa phương của tỉnh Phú Yên được chọn

làm thí điểm không tổ chức HĐND huyện theo Nghị quyết số 725/2009/NQ-

UBTVQH của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Trong những năm qua, hoạt

động của HĐND xã ở huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên đã có nhiều chuyển biến

tích cực, chất lượng và hiệu quả trong hoạt động từng bước được nâng lên

góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng –

an ninh ở địa phương, ngày càng khẳng định vị trí, vai trò của HĐND xã là cơ

quan quyền lực nhà nước ở địa phương, vừa là đại diện cho ý chí, nguyện

vọng, quyền làm chủ của nhân dân ở địa phương. Tuy nhiên, HĐND xã ở

huyện Tây Hòa do nhiều nguyên nhân khác nhau nên vẫn còn những tồn tại,

hạn chế trong hoạt động, chưa đáp ứng với yêu cầu phát triển trong tình hình

mới; năng lực, trình độ và nhận thức của đại biểu HĐND chưa xứng tầm với

yêu cầu đòi hỏi của xã hội và nguyện vọng của cử tri.

3

Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, học viên chọn đề tài: “Hoạt động

của HĐND xã ở huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên” để làm Luận văn Thạc sĩ luật

học. Qua nghiên cứu đề tài này nhằm tìm hiểu sâu hơn về hoạt động của

HĐND xã, qua đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về HĐND

xã và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND xã ở huyện Tây

Hòa, tỉnh Phú Yên.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

Vấn đề về tổ chức chính quyền địa phương, về HĐND nói chung và

hoạt động HĐND xã nói riêng luôn được các nhà khoa học quan tâm nghiên

cứu, tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau, đã có nhiều cuốn sách, báo, tạp

chí, bài viết và một số đề tài khoa học đề cập các nội dung liên quan đến hoạt

động của HĐND xã. Một số công trình nghiên cứu, bài viết như:

- GS.TS. Nguyễn Đăng Dung (chủ biên), HĐND trong nhà nước pháp

quyền, Nxb Tư pháp, Hà Nội - 2012. Tác giả đã phân tích sâu sắc các yêu cầu

của nhà nước pháp quyền đối với cơ quan đại diện của nhân dân địa phương,

đồng thời đi sâu phân tích cách thức, kỹ năng hoạt động của HĐND và các

ban của HĐND, đại biểu HĐND; khẳng định vị trí, vai trò của HĐND là cơ

quan đại diện, cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.

- GS.TSKH Đào Trí Úc, Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội - 2004. Tác

giả đã phân tích, làm rõ các nội dung liên quan đến tổ chức và hoạt động

của chính quyền địa phương, đề xuất và kiến nghị về mô hình tổ chức và

hoạt động của chính quyền địa phương trong đó chú trọng đến mô hình của

HĐND xã.

- GS.TS. Hoàng Chí Bảo (chủ biên), Hệ thống chính trị ở cơ sở nông

thôn ở nước ta hiện nay (sách tham khảo), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội -

2005. Tác giả nghiên cứu một số vấn đề nhằm củng cố và tăng cường hệ

4

thống chính trị ở cơ sở trong sự nghiệp đổi mới và phát triển của nước ta hiện

nay, trong đó có HĐND.

- TS. Chu Văn Thành, Hệ thống chính trị cơ sở. Thực trạng và một số

giải pháp đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2004. Tác giả đã nghiên

cứu, khảo sát có hệ thống về thực trạng tổ chức hoạt động của hệ thống chính

trị địa phương trên phạm vi cả nước và đi tới nhận định rằng HĐND, UBND

cấp xã luôn giữ vị trí vai trò trọng tâm trong nâng cao chất lượng hệ thống

chính trị cơ sở, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đổi mới. Từ đó các tác giả đã đề

ra phương hướng và một số giải pháp thiết thực để củng cố về tổ chức, hoạt

động của HĐND, UBND, góp phần đổi mới, nâng cao chất lượng của hệ thống

chính trị cơ sở.

- TS. Vũ Đức Đán, Vấn đề bồi dưỡng nâng cao năng lực hoạt động của

đại biểu Hội đồng nhân dân, Tạp chí Quản lý Nhà nước số 2/2005. Tác giả đã

lý giải một cách biện chứng về vai trò, vị trí của HĐND nói chung và đại biểu

HĐND nói riêng ở bộ máy chính quyền cấp xã.

- PGS.TS. Bùi Thế Vĩnh, “Phương thức và kỹ năng hoạt động của đại

biểu HĐND trong chương trình tập huấn đại biểu HĐND”, Tài liệu bồi dưỡng

đại biểu HĐND các cấp (khóa 1999-2004), Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội-

2000. Tác giả đã nghiên cứu những vấn đề liên quan đến cơ sở lý luận về

phương thức và kỹ năng hoạt động của đại biểu HĐND, qua đó góp phần

nâng cao chất lượng hoạt động của đại biểu HĐND.

- TS. Phạm Hồng Thái, CN. Lương Thanh Cường, “Tổ chức và hoạt

động của HĐND và UBND cấp xã”, Tài liệu bồi dưỡng cán bộ chính quyền

cấp xã về quản lý nhà nước, Nxb Văn hóa –Thông tin, Hà Nội - 2002. Các tác

giả đã nghiên cứu, nêu và phân tích khái quát vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm

vụ, quyền hạn của HĐND, UBND cấp xã và chức trách của từng chức danh

của HĐND và UBND cấp xã.

5

- ThS. Nguyễn Quốc Tuấn, Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt

động của HĐND và UBND các cấp, Tạp chí Tổ chức nhà nước số 4/2004.

Tác giả đã đề xuất tám vấn đề mà HĐND và UBND các cấp cần làm tốt để

nâng cao hơn nữa hiệu lực, chất lượng và hiệu quả hoạt động của HĐND và

UBND các cấp.

- Nguyễn Ký, Đổi mới phương thức hoạt động của HĐND đáp ứng sự

mong đợi của nhân dân, Tạp chí Quản lý Nhà nước số 2/2005. Tác giả đã

nghiên cứu về chức năng, nhiệm vụ của HĐND theo quy định của pháp luật.

Khẳng định nhiệm vụ của HĐND theo quy định của pháp luật là rất rộng và

bao quát nhiều lĩnh vực quan trọng, để thực hiện tốt cần phải được củng cố về

tổ chức, nâng cao chất lượng đại biểu và đổi mới phương thức tổ chức hoạt

động. Qua đó, tác giả đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đại

biểu HĐND và đổi mới phương thức tổ chức hoạt động của HĐND.

- TS. Phạm Văn Hùng, Nâng cao vai trò giám sát trong hoạt động của

cơ quan dân cử, Tạp chí Quản lý Nhà nước số 132/2007. Tác giả đã phân tích

vai trò của giám sát trong hoạt động cơ quan dân cử, chỉ ra giám sát trong

hoạt động của cơ quan dân cử ở nước ta có sự khác nhau về bản chất so với

giám sát của nghị viện tư sản; đánh giá thực trạng hoạt động giám sát của cơ

quan dân cử ở nước ta, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao

hiệu quả trong hoạt động giám sát của cơ quan dân cử ở nước ta.

- Bùi Thị Hải, “Tổ chức và hoạt động của chính quyền xã theo hướng

xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Luận văn Thạc

sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2008. Tác giả nghiên cứu tổ chức và

hoạt động của chính quyền xã từ năm 1945 đến nay. Từ đó, đánh giá thực

trạng về tổ chức và hoạt động của chính quyền xã trên các phương diện khác

nhau: phương diện về thể chế, phương diện thực tiễn… Kiến nghị một số giải

6

pháp về mô hình tổ chức và hoạt động của chính quyền xã theo hướng xây

dựng Nhà nước pháp quyền.

- Nguyễn Thị Nữ, “Tổ chức và hoạt động của HĐND xã – qua thực tiễn

tỉnh Thừa Thiên Huế”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc

gia Hà Nội, 2012. Tác giả đã khái quát sự ra đời, phát triển của HĐND cấp xã;

những quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của HĐND cấp xã;

đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động HĐND cấp xã ở tỉnh Thừa Thiên

Huế, từ đó đề ra các giải pháp đổi mới tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt

động của HĐND cấp xã.

Các công trình trên cho thấy vấn đề tổ chức và hoạt động của HĐND

đã được các nhà khoa học tiếp cận, nghiên cứu ở các khía cạnh và với các

mức độ khác nhau, đã luận giải, đánh giá khoa học có ý nghĩa lý luận và thực

tiễn. Tuy nhiên, các đề tài nghiên cứu chủ yếu trên cơ sở các quy định của Hiến

pháp 1992 và Luật Tổ chức hoạt động của HĐND và UBND năm 2003, trong khi

đó hiện nay vấn đề hoạt động của HĐND nói chung và HĐND xã nói riêng căn

cứ theo quy định của Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức quyền địa phương năm

2013, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015… Mặt khác

cho đến nay chưa có một đề tài độc lập đi sâu nghiên cứu hoạt động của

HĐND xã ở huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên để tổng kết, đánh giá những thành

tựu, hạn chế, tồn tại, trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp có giá trị thực tiễn

nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND xã ở huyện Tây

Hòa, tỉnh Phú Yên. Vì vậy, nghiên cứu “Hoạt động của HĐND xã ở huyện

Tây Hòa, tỉnh Phú Yên” sẽ cung cấp tư liệu thực tế về tổ chức và hoạt động của

HĐND xã ở huyện Tây Hòa, đề xuất những giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện

pháp luật về HĐND xã và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND

xã ở huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên.

7

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

3.1. Mục đích nghiên cứu

Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về HĐND xã và nâng

cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND xã ở huyện Tây Hòa, tỉnh Phú

Yên hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ

nghiên cứu sau:

- Hệ thống hóa, làm rõ cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của HĐND

xã.

- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động của HĐND xã ở huyện Tây

Hòa, tỉnh Phú Yên để tìm ra ưu điểm, hạn chế, tồn tại và nguyên nhân của

những ưu điểm, hạn chế, tồn tại.

- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về HĐND xã, nâng cao

chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND xã ở huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên

trong thời gian đến.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu quy định pháp luật và thực tiễn hoạt động của

HĐND xã ở huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về không gian: Các xã ở huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên.

- Về thời gian: Từ năm 2011 đến nay.

- Về nội dung: Luận văn nghiên cứu quy định pháp luật và thực tiễn

hoạt động của HĐND xã ở huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên.

5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn

- Phương pháp luận

8

Nghiên cứu đề tài dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng và

duy vật lịch sử.

- Phương pháp nghiên cứu

+ Phương pháp phân tích tài liệu;

+ Phương pháp thu thập và xử lý thông tin;

+ Phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp;

+ Phương pháp so sánh, đánh giá.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Kết quả nghiên cứu đề tài có những đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn

sau:

- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về hoạt động của HĐND xã.

- Phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của HĐND xã ở

huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên.

- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về HĐND xã và nâng

cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND xã ở huyện Tây Hòa, tỉnh Phú

Yên trong thời gian đến.

- Luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho HĐND các xã trên địa bàn

tỉnh Phú Yên nói riêng và cả nước nói chung.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

của luận văn gồm có 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động của HĐND xã

Chương 2: Thực trạng hoạt động của HĐND xã ở huyện Tây Hòa, tỉnh

Phú Yên

Chương 3: Những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về HĐND xã

và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND xã ở huyện Tây Hòa,

tỉnh Phú Yên

9

Chương 1:

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN XÃ

1.1. Khái lƣợc sự hình thành và phát triển của Hội đồng nhân dân xã

trong lịch sử lập pháp của nƣớc ta

1.1.1. Giai đoạn Hiến pháp 1946

Sau khi Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, ngày 02 tháng 9 năm

1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt

Nam dân chủ cộng hòa, đã chấm dứt chế độ quân chủ phong kiến hàng ngàn

năm, xóa bỏ chế độ thuộc địa của chủ nghĩa thực dân đế quốc kéo dài gần 100

năm trên lãnh thổ nước ta. Ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra

đời, Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng đến việc xây dựng và củng cố chính

quyền địa phương. Từ đó, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy định về

tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương nói chung và chính quyền

xã nói riêng. Văn bản pháp luật đầu tiên về HĐND là Sắc lệnh số 63/SL về tổ

chức HĐND và Ủy ban hành chính (UBHC) ở các xã, huyện, tỉnh và kỳ do

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành ngày 22 tháng 11 năm 1945. Tại Điều thứ

1 của Sắc lệnh quy định: "…Ở hai xã và tỉnh có HĐND và UBHC, ở các cấp

huyện và kỳ chỉ có UBHC …"; Điều thứ 2 quy định: "Ở mỗi xã sẽ đặt một

HĐND gồm có từ 15 đến 25 hội viên chính thức và từ 5 đến 7 hội viên dự

khuyết…"[2]. Sau đó là các Sắc lệnh sửa đổi Sắc lệnh số 63/SL, gồm có: Sắc

lệnh số 22A/SL ban hành ngày 18 tháng 02 năm 1946 về việc tổ chức các

HĐND và UBHC do Chính phủ lâm thời ban hành sửa đổi Điều thứ 65 của

Sắc lệnh số 63; Sắc lệnh số 10/SL ngày 10/01/1946 do Chủ tịch Chính phủ

lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa ban hành để sửa đổi Điều thứ 32, Điều

thứ 33, Điều thứ 53 trong Sắc lệnh số 63/SL ngày 22 tháng 11 năm 1945.

Theo quy định tại các Sắc lệnh này, chính quyền địa phương có 4 cấp: cấp kỳ,

cấp tỉnh, cấp huyện và xã, trong đó cấp tỉnh và xã là 2 cấp chính quyền hoàn

10

chỉnh có HĐND và UBHC, cấp kỳ và cấp huyện chỉ có UBHC. Chính quyền

xã gồm có HĐND và UBHC xã, HĐND do cử tri xã bầu ra có từ 15-25 hội

viên chính thức và 5-7 hội viên dự khuyết; có quyền quyết định những vấn đề

ở xã, nhưng có những vấn đề phải được Ủy ban hành chính cấp huyện, tỉnh

chuẩn y; còn UBHC xã do HĐND xã bầu trong số các hội viên HĐND;

UBHC xã có nhiệm vụ thi hành các mệnh lệnh của cấp trên, thực hiện Nghị

quyết của HĐND cùng cấp, triệu tập các kỳ họp HĐND xã và giải quyết các

công việc trong xã.

Ngày 9/11/1946, Quốc hội khóa I thông qua bản Hiến pháp đầu tiên

của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (gọi tắt là Hiến pháp 1946), đặt cơ sở

pháp lý vững chắc cho tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Theo Hiến

pháp 1946, tổ chức chính quyền địa phương mỗi cấp nói chung và xã nói

riêng về cơ bản vẫn như Sắc lệnh 63/SL. Hiến pháp 1946 đã xác định vai trò

quan trọng của HĐND, mối quan hệ giữa HĐND với cấp trên. Điều thứ 59

Hiến pháp 1946 quy định: “HĐND quyết nghị về những vấn đề thuộc địa

phương mình. Những nghị quyết ấy không được trái với chỉ thị của các cấp

trên”[45].

Ngày 29 tháng 4 năm 1958, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa

thông qua Luật Tổ chức chính quyền địa phương, đây là đạo luật đầu tiên quy

định về cách thức tổ chức HĐND. Theo quy định tại Điều 3 Luật Tổ chức

chính quyền địa phương năm 1958 thì “HĐND các cấp là cơ quan quyền lực

Nhà nước ở địa phương, do nhân dân bầu ra. Số lượng đại biểu HĐND mỗi

cấp và cách thức bầu cử do Luật Bầu cử quy định”[46].

1.1.2. Giai đoạn Hiến pháp năm 1959

Năm 1954, với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ ngày 07/5/1954, hòa

bình được lập lại ở miền Bắc, miền Nam còn nằm dưới sự kiểm soát của đế

quốc Mỹ. Đất nước ta tạm thời bị chia cắt thành 2 miền, miền Bắc có nhiệm

11

vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam đấu tranh thống nhất nước nhà. Để

đáp ứng và phục vụ cho yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng trong tình hình

mới, Quốc hội đã quyết định sửa đổi Hiến pháp 1946. Sau một thời gian

nghiên cứu, soạn thảo, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ban

hành Hiến pháp 1959 để thay thế Hiến pháp 1946. Trên cơ sở Hiến pháp

1959, tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoá II ngày 27 tháng 10 năm 1962 đã thông

qua Luật Tổ chức HĐND và UBHC các cấp, có hiệu lực thi hành từ

11/11/1962. Luật Tổ chức HĐND và UBHC năm 1962 đã cụ thể hóa quy định

của Hiến pháp 1959 về tổ chức hoạt động của chính quyền địa phương làm cơ

sở pháp lý cho việc kiện toàn chính quyền địa phương. Theo quy định của

Hiến pháp 1959 và Luật Tổ chức HĐND và UBHC năm 1962, các đơn vị

hành chính trong nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được phân định: Nước

chia thành tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương; Tỉnh chia thành

huyện, thành phố, thị xã; Huyện chia thành xã, thị trấn. Các khu tự trị chia

thành tỉnh; tỉnh chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh, thị xã; huyện chia

thành xã, thị trấn. Các thành phố có thể chia thành khu phố ở trong thành và

huyện ở ngoài thành. Các đơn vị hành chính này đều có HĐND và UBHC. Tổ

chức và hoạt động của chính quyền địa phương thời điểm này so với trước đã

có nhiều thay đổi:

- Xác định rõ địa vị pháp lý của HĐND và UBHC: HĐND là cơ quan

quyền lực nhà nước ở địa phương do nhân dân địa phương bầu ra và chịu

trách nhiệm trước nhân dân địa phương (vừa thay mặt cho nhân dân địa

phương, vừa thay mặt cho nhà nước ở địa phương); UBHC là cơ quan chấp

hành của HĐND, đồng thời là cơ quan hành chính của Nhà nước ở địa

phương;

- Luật Tổ chức HĐND và UBHC là cơ sở pháp lý chung cho tổ chức và

hoạt động của chính quyền địa phương không phân biệt nông thôn hay thành

12

phố; hạn chế, thu hẹp những vấn đề chính quyền cấp trên phê chuẩn những

quyết định của cấp dưới (trừ những vấn đề quan trọng như phê chuẩn kết quả

bầu cử hay bãi miễn…);

- Số lượng thành viên của các cơ quan trong bộ máy chính quyền địa

phương được bổ sung tăng lên, trong đó HĐND xã được bầu từ 20-30 đại

biểu chính thức; UBHC xã từ 5-7 người (xã miền núi có nhiều dân tộc từ 7-9

người);

- Nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp chính quyền mở rộng, cụ thể ở xã

được quy định như sau: HĐND khu phố quyết định các chủ trương và biện

pháp nhằm thực hiện nhiệm vụ và chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế, văn hoá

trong khu phố do thành phố giao cho; quyết định việc xây dựng các cơ sở

kinh tế, văn hoá và xã hội của cấp khu phố; xét duyệt dự trù và quyết toán chi

tiêu của khu phố. HĐND xã, thị trấn quyết định kế hoạch phát triển kinh tế,

văn hoá và những sự nghiệp lợi ích công cộng của xã, thị trấn; xét duyệt dự

toán và phê chuẩn quyết toán ngân sách của xã, thị trấn; ban hành những quy

định về trật tự trị an, về vệ sinh chung của xã, thị trấn…

1.1.3. Giai đoạn Hiến pháp năm 1980

Mùa xuân năm 1975, với thắng lợi trong cuộc tổng tiến công và nổi

dậy mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đất nước ta được thống

nhất, Bắc Nam sum họp một nhà. Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng,

nhân dân ta tiến hành tổng tuyển cử tự do trong cả nước, thực hiện thống

nhất Tổ quốc, cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tháng 7 năm

1976, nước ta lấy tên là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Để phù hợp

với tình hình thực tiễn của đất nước, ngày 30/12/1980 Quốc hội đã thông

qua Hiến pháp năm 1980 làm cơ sở cho việc xây dựng xã hội chủ nghĩa

trong phạm vi cả nước, xây dựng và củng cố bộ máy nhà nước thống nhất,

trong đó có tổ chức chính quyền địa phương. Theo Hiến pháp năm 1980

13

quy định thì các đơn vị hành chính ở nước ta đã có sự thay đổi so với Hiến

pháp năm 1959, cụ thể Điều 113 quy định:

Các đơn vị hành chính của nước Cộng hoà xã hội chủ

nghĩa Việt Nam được phân định như sau: Nước chia thành tỉnh,

thành phố trực thuộc Trung ương và đơn vị hành chính tương

đương; Tỉnh chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã;

thành phố trực thuộc Trung ương chia thành quận, huyện và thị

xã; Huyện chia thành xã và thị trấn; Thành phố thuộc tỉnh, thị xã

chia thành phường và xã; Quận chia thành phường. Các đơn vị

hành chính kể trên đều thành lập HĐND và UBND[37].

Thiết chế HĐND được quy định rõ tại Chương IX, Hiến pháp năm

1980. Để cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp năm 1980 về thiết chế

HĐND, ngày 30 tháng 6 năm 1983, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ

nghĩa Việt Nam khoá VII, kỳ họp thứ 5 đã thông qua Luật Tổ chức HĐND

và UBND, thay thế Luật Tổ chức HĐND và UBHC các cấp năm 1962. Theo

quy định của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 1983, chính quyền địa

phương chỉ có 3 cấp là cấp tỉnh, cấp huyện và xã (xã bao gồm xã, phường,

thị trấn); vị trí pháp lý của các cơ quan trong bộ máy chính quyền địa

phương cơ bản vẫn giữ nguyên, UBHC được đổi thành UBND; nhiệm vụ,

quyền hạn của chính quyền địa phương được tăng cường hơn trước nhiều.

Riêng xã, HĐND được bầu từ 15-45 đại biểu (tùy theo dân số, vùng, miền),

nhiệm kỳ là 2 năm, thực hiện các chủ trương, chính sách và công tác của

Nhà nước ở địa phương [40].

Năm 1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đề ra đường lối đổi

mới đất nước. Để phù hợp trong điều kiện mới, năm 1989, Quốc hội ban hành

Luật Tổ chức HĐND và UBND thay thế Luật Tổ chức HĐND và UBND năm

14

1983. Theo luật mới số lượng đại biểu HĐND xã từ 15-35, nhiệm kỳ hoạt

động là 5 năm, thành lập Ban thư ký HĐND xã; còn đối với UBND thì cơ bản

không thay đổi.

1.1.4. Giai đoạn Hiến pháp năm 1992

Công cuộc đổi mới đất nước đã đặt ra yêu cầu phải “đổi mới” pháp luật

để tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện đổi mới toàn diện trên mọi lĩnh vực

của đời sống xã hội, trong đó đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà

nước là hết sức cần thiết. Hiến pháp năm 1992 được xây dựng để đáp ứng nhu

cầu đó. Cũng như Hiến pháp năm 1980, thiết chế HĐND được quy định tại

Chương IX. Việc chia đơn vị hành chính vẫn giữ như trong Hiến pháp 1980.

Trên cơ sở Hiến pháp năm 1992, Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 5, ngày

21/6/1994 đã thông qua Luật Tổ chức HĐND và UBND thay Luật Tổ chức

HĐND và UBND năm 1989. Luật mới quy định HĐND xã có từ 19-25 đại

biểu, nhiệm kỳ hoạt động là 5 năm. Sau khi Hiến pháp 1992 được bổ sung,

sửa đổi một số điều cho phù hợp với yêu cầu phát triển của nhà nước trong

giai đoạn mới, ngày 26 tháng 11 năm 2003, Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 4

đã thông qua Luật Tổ chức HĐND và UBND thay Luật Tổ chức HĐND và

UBND năm 1994. Trong văn bản này, tổ chức và hoạt động của chính quyền

xã được quy định cụ thể như sau: HĐND xã có số lượng đại biểu tối thiểu là

15 (xã dưới 1000 dân) và tối đa không quá 35; được tổ chức Thường trực

HĐND (gồm Chủ tịch và Phó chủ tịch); nhiệm vụ, quyền hạn được quy định

cụ thể phù hợp hơn, có sự phân biệt giữa nhiệm vụ của HĐND xã, thị trấn với

HĐND phường.

1.1.5. Giai đoạn Hiến pháp năm 2013

Thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên

chủ nghĩa xã hội, kế thừa Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến

15

pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992, Quốc hội khóa XIII đã quyết định

sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIII, ngày

28/11/2013 đã biểu quyết thông qua Hiến pháp năm 2013. Trên cơ sở Hiến

pháp năm 2013 quy định về chế định chính quyền địa phương được quy định

tại Chương IX, ngày 19/6/2015 tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XIII đã thông

qua Luật Tổ chức chính quyền địa phương và có hiệu lực ngày 01/01/2016

thay Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003. Theo quy định của Hiến pháp

năm 2013 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, các đơn vị

hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm có: “Tỉnh,

thành phố trực thuộc trung ương; Huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh,

thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương; Xã, phường, thị trấn; Đơn

vị hành chính - kinh tế đặc biệt”[39], [41]. Luật Tổ chức chính quyền địa

phương năm 2015 cũng đã quy định cụ thể, rõ ràng về nhiệm vụ, quyền hạn

và cơ cấu tổ chức giữa chính quyền địa phương nông thôn, đô thị, hải đảo và

đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt. Về cơ cấu tổ chức của HĐND xã:

Số lượng đại biểu được quy định cụ thể, tối thiểu 15 đại biểu

(xã miền núi, vùng cao và hải đảo có từ một nghìn dân trở xuống)

và tối đa 35 đại biểu; Thường trực HĐND gồm Chủ tịch HĐND và

Phó Chủ tịch HĐND (Phó Chủ tịch HĐND là đại biểu HĐND hoạt

động chuyên trách); HĐND xã thành lập Ban pháp chế, Ban kinh tế

- xã hội (Ban của HĐND xã gồm có Trưởng ban, một Phó Trưởng

ban và các Ủy viên. Số lượng Ủy viên của các Ban của HĐND xã

do HĐND xã quyết định. Trưởng ban, Phó Trưởng ban và các Ủy

viên của các Ban của HĐND xã hoạt động kiêm nhiệm)[41].

16

1.2. Điều chỉnh pháp luật đối với tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân

dân xã hiện nay

1.2.1. Vị trí, chức năng, cơ cấu tổ chức của Hội đồng nhân dân xã

1.2.1.1. Vị trí, chức năng của HĐND xã

Ở nước ta nguồn gốc, bản chất quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân,

Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước của mình bằng dân chủ trực tiếp, dân

chủ đại diện. Vấn đề này được khẳng định trong Văn kiện Đảng và Hiến pháp,

pháp luật. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã

hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định "Nhà nước ta là Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân"[4, tr.85] là

một trong những nhiệm vụ để xây dựng đất nước; Điều 2 Hiến pháp năm 2013

quy định: "Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà

nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với

giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức"; Điều 6 Hiến pháp năm 2013 quy định:

"Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ

đại diện thông qua Quốc hội, HĐND và thông qua các cơ quan khác của Nhà

nước"[39]. Trong bài "Dân vận" đăng trên báo Sự thật, Bác Hồ đã viết: "Nước

ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của

dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Nói tóm lại,

quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân" [34, tr.698].

Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức chính quyền

địa phương năm 2015, cấp chính quyền địa phương gồm có HĐND và UBND

được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước ta. Trong hệ thống HĐND các

cấp, HĐND xã (xã, phường, thị trấn) nói chung và HĐND xã nói riêng có vị

trí, vai trò quan trọng, bởi vì đây là nơi gần dân, sát dân, thường xuyên tiếp

17

xúc với nhân dân, trực tiếp tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng,

chính sách, pháp luật của Nhà nước tại địa phương; là nơi để người dân bày tỏ

trực tiếp ý chí, nguyện vọng của mình, đóng góp ý kiến xây dựng chính quyền

của dân, do dân, vì dân và là nơi trực tiếp quyết định những chủ trương, biện

pháp quan trọng để xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc

phòng - an ninh ở địa phương.

Với vai trò quan trọng của HĐND cấp xã nên ngay từ những ngày đầu

của chính quyền cách mạng, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đến việc xây

dựng, củng cố và phát triển của HĐND; thiết chế HĐND xã đã được quy định

trong các bản Hiến pháp của Nhà nước ta, trong suốt quá trình tồn tại và phát

triển, HĐND cấp xã nói chung, HĐND xã nói riêng đã khẳng định được vị trí,

vai trò, trách nhiệm to lớn của mình, là tổ chức đại diện để Nhân dân thực hiện

quyền làm chủ Nhà nước và xã hội. Kế thừa các bản Hiến pháp trước, Hiếp pháp

năm 2013 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 tiếp tục khẳng

định: "HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý

chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương

bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp

trên"; "HĐND quyết định các vấn đề của địa phương do luật định" [39], [41].

Như vậy, HĐND nói chung và HĐND xã nói riêng có vị trí, vai trò

quan trọng trong bộ máy nhà nước ta, là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa

phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do

nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và

cơ quan nhà nước cấp trên. Có thể khái quát vị trí, vai trò của HĐND xã trên

các mặt sau:

Tính quyền lực nhà nước của HĐND xã thể hiện ở chỗ HĐND xã là

cơ quyền lực nhà nước ở xã. HĐND xã được thành lập bởi các đại biểu do

cử tri địa phương bầu ra, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ

18

của nhân dân. HĐND xã được nhân dân giao quyền, thay mặt nhân dân thực

hiện quyền lực nhà nước ở xã. Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và

Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, HĐND xã quyết định các

vấn đề của địa phương theo đúng quy định của pháp luật, giám sát việc tuân

theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ

tịch HĐND, Phó Chủ tịch HĐND, Trưởng ban, Phó Trưởng ban của HĐND

xã; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch UBND, Phó Chủ tịch UBND và

các Ủy viên UBND xã[41].

Tính đại diện của HĐND xã thể hiện ở chỗ là cơ quan duy nhất do cử

tri bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Đại

biểu HĐND xã là những người tiêu biểu, đại diện cho ý chí và quyền làm chủ

của nhân dân. Tính chất đại diện của HĐND về mặt hình thức thể hiện rõ nét

nhất ở chỗ HĐND có cơ cấu đại biểu thuộc mọi tầng lớp, mọi thành phần xã

hội, không đại diện cho một Đảng phái, tổ chức nào mà đại diện cho toàn thể

nhân dân địa phương; thành phần trong HĐND thể hiện khối đại đoàn kết

toàn dân. HĐND xã là đại diện tiêu biểu cho tiếng nói của các tầng lớp nhân

dân trong xã, đại diện cho trí tuệ của người dân địa phương, chịu trách nhiệm

trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Hoạt động của

HĐND xã chủ yếu thông qua kỳ họp toàn thể đại biểu HĐND. Mọi quyết định

của HĐND xã được thông qua bằng việc biểu quyết của đại biểu HĐND xã

tại kỳ họp.

Như vậy, để khẳng định được vị trí, vai trò quan trọng của HĐND xã

thì trong hoạt động của HĐND xã phải thể hiện được hai tính chất: Tính

quyền lực và tính đại diện.

Chức năng của HĐND xã: Chức năng của HĐND là những phương

diện hoạt động chủ yếu của HĐND. Khoản 2 Hiến pháp năm 2013 quy định:

"HĐND quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; giám sát việc

19

tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết

của HĐND"[39]. Như vậy, HĐND xã có hai chức năng cơ bản là: Quyết định

và giám sát.

Về chức năng quyết định, để thực hiện chức năng này, pháp luật đã quy

định nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND xã, cụ thể Khoản 2 Điều 33 Luật Tổ

chức chính quyền địa phương năm 2015 quy định: "Quyết định biện pháp bảo

đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh, phòng, chống tội phạm và các hành vi

vi phạm pháp luật khác, phòng, chống quan liêu, tham nhũng trong phạm vi

được phân quyền; biện pháp bảo vệ tài sản của cơ quan, tổ chức, bảo hộ tính

mạng, tự do, danh dự, nhân phẩm, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác

của công dân trên địa bàn xã"[41]; Khoản 4 Điều 33 quy định: "Quyết định dự

toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn; dự toán thu, chi ngân sách xã; điều

chỉnh dự toán ngân sách xã trong trường hợp cần thiết; phê chuẩn quyết toán

ngân sách xã. Quyết định chủ trương đầu tư chương trình, dự án của xã trong

phạm vi được phân quyền" [41].

Như vậy, căn cứ quy định của pháp luật cho thấy nội dung chức năng

quyết định của HĐND xã là rất rộng, điều này khẳng định vị trí, vai trò của

HĐND xã. Những nội dung được quy định trong Luật Tổ chức chính quyền

địa phương năm 2015 là cơ sở pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi để chính

quyền địa phương khai thác tiềm năng, lợi thế tại địa phương góp phần nâng

cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, thực hiện nhiệm vụ mà nhân

dân giao phó.

Về chức năng giám sát: Giám sát là một chức năng quan trọng của

HĐND nói chung và HĐND xã nói riêng. Theo Luật Hoạt động giám sát của

Quốc hội và HĐND năm 2015 quy định:

Giám sát là việc chủ thể giám sát theo dõi, xem xét, đánh

giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát

20

trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật về việc thực hiện

nhiệm vụ, quyền hạn của mình, xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu

cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý; Giám sát của

HĐND bao gồm giám sát của HĐND tại kỳ họp, giám sát của

Thường trực HĐND, các Ban của HĐND, Tổ đại biểu HĐND và

các đại biểu HĐND[42].

Theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015,

HĐND xã giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, việc

thực hiện Nghị quyết của HĐND xã; giám sát hoạt động của Thường trực

HĐND, UBND cùng cấp, ban của HĐND cấp mình; giám sát văn bản quy

phạm pháp luật của UBND cùng cấp. Thực hiện tốt chức năng giám sát giúp

HĐND xã đánh giá được tình hình hoạt động của các cơ quan, tổ chức ở địa

phương trong việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật, kết quả thực hiện các nghị

quyết của HĐND xã, đồng thời giúp HĐND xã thấy được sự không phù hợp,

thiếu thực tế của các Nghị quyết do HĐND xã ban hành để kịp thời sửa chữa,

bổ sung phù hợp; đánh giá được kết quả hoạt động của Thường trực HĐND,

UBND, các Ban của HĐND, việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của

UBND. Những kết quả của việc giám sát là cơ sở để HĐND xã thực hiện các

nhiệm vụ, quyền hạn của mình như: Miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch HĐND,

Phó Chủ tịch HĐND, Trưởng ban, Phó Trưởng ban của HĐND xã; miễn

nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch UBND, Phó Chủ tịch UBND và các Ủy viên

UBND xã; bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản trái pháp luật của UBND,

Chủ tịch UBND xã.

* Chức năng giám sát của HĐND xã luôn gắn liền với chức năng quyết

định, hai chức năng này có mối quan hệ chặt chẽ, tác động trực tiếp lẫn nhau.

Thực hiện tốt chức năng giám sát là một trong những yếu tố quan trọng đảm

bảo cho các quyết định của HĐND xã được thực hiện nghiêm túc. Đồng thời

21

giám sát là cơ sở kiểm nghiệm tính đúng đắn của các quyết định trên thực

tiễn, giúp phát hiện những điểm chưa phù hợp với tình hình thực tế để kịp

thời sửa chữa, bổ sung. Ngược lại, các quyết định của HĐND xã là cơ sở cho

hoạt động giám sát được tôn trọng trên thực tế, tạo định hướng cho hoạt động

giám sát tập trung vào các vấn đề bức xúc của địa phương. Như vậy, có thể

khẳng định HĐND xã có vị trí, tính chất, chức năng rất quan trọng trong bộ

máy Nhà nước. Để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới đất nước, đẩy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng Nhà nước pháp

quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân thì trước hết phải đổi

mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan dân cử và phải có nhận thức

đúng đắn về vị trí, vai trò, chức năng của cơ quan dân cử.

1.2.1.2. Cơ cấu tổ chức của HĐND xã

Điều 32 Luật Tổ chức chính quyền năm 2015 quy định về cơ cấu tổ

chức của HĐND xã hiện nay như sau:

1. HĐND xã gồm các đại biểu HĐND do cử tri ở xã bầu

ra. Việc xác định tổng số đại biểu HĐND xã được thực hiện theo

nguyên tắc sau đây:

a) Xã miền núi, vùng cao và hải đảo có từ một nghìn dân

trở xuống được bầu mười lăm đại biểu;

b) Xã miền núi, vùng cao và hải đảo có trên một nghìn dân

đến hai nghìn dân được bầu hai mươi đại biểu;

c) Xã miền núi, vùng cao và hải đảo có trên hai nghìn dân

đến ba nghìn dân được bầu hai mươi lăm đại biểu; có trên ba

nghìn dân thì cứ thêm một nghìn dân được bầu thêm một đại

biểu, nhưng tổng số không quá ba mươi lăm đại biểu;

d) Xã không thuộc quy định tại các điểm a, b và c khoản

này có từ bốn nghìn dân trở xuống được bầu hai mươi lăm đại

22

biểu; có trên bốn nghìn dân thì cứ thêm hai nghìn dân được

bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số không quá ba mươi lăm

đại biểu.

2. Thường trực HĐND xã gồm Chủ tịch HĐND, một Phó

Chủ tịch HĐND. Phó Chủ tịch HĐND xã là đại biểu HĐND hoạt

động chuyên trách.

3. HĐND xã thành lập Ban pháp chế, Ban kinh tế - xã hội.

Ban của HĐND xã gồm có Trưởng ban, một Phó Trưởng ban và

các Ủy viên. Số lượng Ủy viên của các Ban của HĐND xã do

HĐND xã quyết định. Trưởng ban, Phó Trưởng ban và các Ủy

viên của các Ban của HĐND xã hoạt động kiêm nhiệm"[41].

Như vậy so với Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003, Luật Tổ chức

chính quyền địa phương năm 2015 đã quy định một số điểm mới về cơ cấu tổ

chức của HĐND xã, theo đó số lượng đại biểu HĐND xã được quy định ngay

trong luật; thành lập mới các Ban của HĐND gồm Ban pháp chế và Ban kinh tế

- xã hội (các Ban này hoạt động kiêm nhiệm), bỏ việc tổ chức các Tổ đại biểu

HĐND theo quy định trong Quy chế hoạt động của HĐND ban hành kèm theo

Nghị quyết số 753/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 02/4/2005.

1.2.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng nhân dân xã

Với vị trí, vai trò quan trọng của HĐND nói chung và HĐND xã nói

riêng trong tổ chức bộ máy nhà nước, là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa

phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân. Để

thực hiện tốt chức chức năng của HĐND xã, Điều 33 Luật Tổ chức chính

quyền địa phương năm 2015 đã quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của

HĐND xã gồm có 8 nhiệm vụ, quyền hạn sau:

1. Ban hành nghị quyết về những vấn đề thuộc nhiệm vụ,

quyền hạn của HĐND xã;

23

2. Quyết định biện pháp bảo đảm trật tự, an toàn xã hội,

đấu tranh, phòng, chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp

luật khác, phòng, chống quan liêu, tham nhũng trong phạm vi

được phân quyền; biện pháp bảo vệ tài sản của cơ quan, tổ chức,

bảo hộ tính mạng, tự do, danh dự, nhân phẩm, tài sản, các quyền

và lợi ích hợp pháp khác của công dân trên địa bàn xã;

3. Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch HĐND, Phó Chủ

tịch HĐND, Trưởng ban, Phó Trưởng ban của HĐND xã; bầu,

miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch UBND, Phó Chủ tịch UBND và

các Ủy viên UBND xã;

4. Quyết định dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa

bàn; dự toán thu, chi ngân sách xã; điều chỉnh dự toán ngân

sách xã trong trường hợp cần thiết; phê chuẩn quyết toán ngân

sách xã. Quyết định chủ trương đầu tư chương trình, dự án của

xã trong phạm vi được phân quyền;

5. Giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa

phương, việc thực hiện nghị quyết của HĐND xã; giám sát

hoạt động của Thường trực HĐND, UBND cùng cấp, Ban của

HĐND cấp mình; giám sát văn bản quy phạm pháp luật của

UBND cùng cấp;

6. Lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người

giữ chức vụ do HĐND xã bầu theo quy định tại Điều 88 và Điều

89 của Luật này;

7. Bãi nhiệm đại biểu HĐND xã và chấp nhận việc đại

biểu HĐND xã xin thôi làm nhiệm vụ đại biểu;

8. Bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản trái pháp luật

của UBND, Chủ tịch UBND xã[41].

24

Ngoài ra, căn cứ vào kết quả giám sát, HĐND xã có các quyền: Yêu

cầu UBND, Chủ tịch UBND xã ban hành văn bản để thi hành Hiến pháp,

pháp luật và nghị quyết của HĐND; bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản

của UBND, Chủ tịch UBND xã trái với Hiến pháp, văn bản quy phạm pháp

luật của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của HĐND; ra nghị quyết

về trả lời chất vấn và trách nhiệm của người trả lời chất vấn khi xét thấy cần

thiết; miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch HĐND, Phó Chủ tịch HĐND, Trưởng

ban, Phó Trưởng ban của HĐND, Chủ tịch UBND, Phó Chủ tịch UBND và

Ủy viên UBND.

Với việc quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND xã trong luật

đã tạo thuận lợi cho hoạt động của HĐND xã trong thực tế, nâng cao chất

lượng hoạt động của HĐND xã. Trước đây, theo Luật Tổ chức HĐND và

UBND năm 2003, nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND xã, thị trấn quy định

chung, không có sự phân biệt rõ ràng giữa HĐND xã, HĐND phường và

HĐND thị trấn, đã ảnh hưởng phần nào đến chất lượng hoạt động của HĐND

xã. Theo quy định Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 đã có sự

quy định cụ thể, rành mạch nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND xã, phường, thị

trấn. Tuy nhiên, những nhiệm vụ, quyền hạn này vẫn còn có những nội dung

chung chung, theo phân quyền của cấp trên, vì vậy sẽ có những khó khăn

trong hoạt động. Do đó, cần sớm có quy định những nội dung được phân

quyền để chủ động tổ chức thực hiện ở địa phương, đảm bảo quản lý nhà

nước thống nhất, thông suốt.

1.2.3. Phương thức hoạt động của Hội đồng nhân dân xã

1.2.3.1. Kỳ họp của HĐND xã

Kỳ họp là hình thức hoạt động chủ yếu, chiếm vị trí đặc biệt quan trọng

trong hoạt động của HĐND nói chung và HĐND xã nói riêng. Bởi vì kỳ họp

là nơi tập trung đầy đủ nhất đại biểu HĐND xã, những người đại diện trí tuệ

25

của cử tri địa phương, thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân địa

phương. Mặt khác, tại kỳ họp, HĐND xã thảo luận dân chủ và quyết định

theo đa số các công việc quan trọng của địa phương thuộc nhiệm vụ, quyền

hạn của mình. Theo quy định tại Điều 78, Luật Tổ chức chính quyền địa

phương năm 2015 thì kỳ họp HĐND xã được thực hiện như sau: HĐND họp

mỗi năm ít nhất hai kỳ. HĐND quyết định kế hoạch tổ chức các kỳ họp

thường lệ vào kỳ họp thứ nhất của HĐND đối với năm bắt đầu nhiệm kỳ và

vào kỳ họp cuối cùng của năm trước đó đối với các năm tiếp theo của nhiệm

kỳ theo đề nghị của Thường trực HĐND. HĐND họp bất thường khi Thường

trực HĐND, Chủ tịch UBND cùng cấp hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại

biểu HĐND xã yêu cầu.

Cử tri ở xã có quyền làm đơn yêu cầu HĐND xã họp, bàn và quyết định

những công việc của xã. Khi trong đơn yêu cầu có chữ ký của trên mười phần

trăm tổng số cử tri của xã theo danh sách cử tri bầu cử đại biểu HĐND xã tại

cuộc bầu cử gần nhất thì Thường trực HĐND xã có trách nhiệm tổ chức kỳ

họp HĐND bất thường để bàn về nội dung mà cử tri kiến nghị. Đơn yêu cầu

của cử tri được xem là hợp lệ khi có kèm theo đầy đủ chữ ký, họ tên, ngày,

tháng, năm sinh và địa chỉ của từng người ký tên. Những người ký tên trong

đơn yêu cầu được cử một người làm đại diện tham dự kỳ họp HĐND bàn về

nội dung mà cử tri kiến nghị.

HĐND xã họp công khai. Trong trường hợp cần thiết, theo đề nghị của

Thường trực HĐND, Chủ tịch UBND xã hoặc yêu cầu của ít nhất một phần

ba tổng số đại biểu HĐND thì HĐND xã quyết định họp kín.

Căn cứ vào nghị quyết của HĐND xã, theo đề nghị của Chủ

tịch UBND, Chủ tịch UBMTTQ Việt Nam, các Ban của HĐND và đại biểu

HĐND xã, Thường trực HĐND xã dự kiến chương trình kỳ họp HĐND.

26

Chương trình kỳ họp thứ nhất của HĐND khóa mới do Thường trực

HĐND khóa trước dự kiến. Các Ban của HĐND khóa trước thẩm tra các nội

dung trong dự kiến chương trình kỳ họp thứ nhất của HĐND khóa mới, báo

cáo Thường trực HĐND khóa trước để xem xét tại kỳ họp thứ nhất của

HĐND khóa mới.

HĐND quyết định chương trình kỳ họp. Trong trường hợp cần thiết,

theo đề nghị của Chủ tịch UBND, Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam, các Ban

của HĐND và đại biểu HĐND cùng cấp, HĐND quyết định sửa đổi, bổ sung

chương trình kỳ họp đã được thông qua.

Kỳ họp thứ nhất của HĐND khóa mới được triệu tập chậm nhất là 45

ngày kể từ ngày bầu cử đại biểu HĐND; đối với địa phương có bầu cử lại, bầu

cử thêm đại biểu HĐND hoặc lùi ngày bầu cử thì thời hạn triệu tập kỳ họp thứ

nhất được tính từ ngày bầu cử lại, bầu cử thêm. Kỳ họp thứ nhất của mỗi khóa

HĐND do Chủ tịch HĐND khóa trước triệu tập. Trường hợp khuyết Chủ tịch

HĐND thì một Phó Chủ tịch HĐND khóa trước triệu tập kỳ họp; nếu khuyết

cả Chủ tịch HĐND, Phó Chủ tịch HĐND thì Thường trực HĐND

cấp trên trực tiếp chỉ định triệu tập viên.

Trong nhiệm kỳ, Thường trực HĐND xã quyết định triệu tập kỳ họp

thường lệ chậm nhất là 20 ngày, kỳ họp bất thường chậm nhất là 07 ngày

trước ngày khai mạc kỳ họp. Trường hợp khuyết Thường trực HĐND xã thì

Thường trực HĐND huyện trực tiếp chỉ định triệu tập viên.

Dự kiến chương trình kỳ họp HĐND được gửi đến đại biểu HĐND

cùng với quyết định triệu tập kỳ họp.

Quyết định triệu tập kỳ họp và dự kiến chương trình kỳ họp HĐND

được thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng tại địa phương chậm

nhất là 10 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp thường lệ và chậm nhất là 03

ngày trước ngày khai mạc kỳ họp bất thường.

27

Theo quy định tại Điều 81 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm

2015, đại biểu mời tham dự kỳ họp HĐND xã gồm có: Đại diện Thường trực

HĐND và UBND huyện; đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND cấp trên được

bầu tại xã; thành viên UBND xã không phải là đại biểu HĐND xã. Người

được mời tham dự kỳ họp HĐND được phát biểu ý kiến về vấn đề thuộc

ngành, lĩnh vực mà mình phụ trách nếu được chủ tọa phiên họp đồng ý hoặc

có trách nhiệm phát biểu ý kiến theo yêu cầu của HĐND hoặc chủ tọa phiên

họp. Ngoài ra, đại diện cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, Ủy ban MTTQ

Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội được mời tham dự các phiên họp

công khai của HĐND khi bàn về các vấn đề có liên quan; đại diện đơn vị vũ

trang nhân dân, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, cơ quan báo chí và công dân

có thể được tham dự các phiên họp công khai của HĐND.

1.2.3.2. Hoạt động của Thường trực HĐND xã

Thường trực HĐND xã gồm Chủ tịch, một Phó Chủ tịch. Phó Chủ tịch

HĐND xã là đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách. Thường trực HĐND xã

hoạt động thường xuyên, theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tổ chức các hoạt

động của HĐND, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước HĐND xã.

Theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, Thường

trực HĐND xã có các nhiệm vụ, quyền hạn: Triệu tập và chủ tọa các kỳ họp

của HĐND; phối hợp với UBND cùng cấp trong việc chuẩn bị kỳ họp của

HĐND; đôn đốc, kiểm tra UBND cùng cấp và các cơ quan nhà nước khác ở

địa phương thực hiện các Nghị quyết của HĐND; giám sát việc tuân theo

Hiến pháp và pháp luật tại địa phương; chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động

của các Ban của HĐND; xem xét kết quả giám sát của các Ban của HĐND

khi xét thấy cần thiết và báo cáo HĐND tại kỳ họp gần nhất; giữ mối liên hệ

với đại biểu HĐND; tổng hợp chất vấn của đại biểu HĐND để báo cáo

HĐND; yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân giải trình các vấn đề liên quan

28

đến nhiệm vụ, quyền hạn của Thường trực HĐND tại phiên họp Thường trực

HĐND; tổ chức để đại biểu HĐND tiếp công dân theo quy định của pháp

luật; đôn đốc, kiểm tra và xem xét tình hình giải quyết kiến nghị, khiếu nại, tố

cáo của công dân; tổng hợp ý kiến, nguyện vọng của nhân dân để báo cáo tại

kỳ họp HĐND; phê chuẩn danh sách Ủy viên của các Ban của HĐND trong số

đại biểu HĐND và việc cho thôi làm Ủy viên của Ban của HĐND theo đề

nghị của Trưởng ban của HĐND; trình HĐND lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu

tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND bầu theo quy định pháp luật;

quyết định việc đưa ra HĐND hoặc đưa ra cử tri bãi nhiệm đại biểu HĐND;

báo cáo về hoạt động của HĐND cùng cấp lên HĐND và UBND cấp trên trực

tiếp; giữ mối liên hệ và phối hợp công tác với Ban Thường trực Ủy ban

MTTQ Việt Nam cùng cấp; mỗi năm hai lần thông báo cho Ủy ban MTTQ

Việt Nam cùng cấp về hoạt động của HĐND[41].

Bên cạnh việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thường trực HĐND

xã, Luật Tổ chức chính quyền địa phương cũng đã quy định cụ thể nhiệm vụ

và quyền hạn của Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND. Theo đó, Chủ tịch HĐND

xã có nhiệm vụ và quyền hạn là lãnh đạo hoạt động của Thường trực HĐND

xã, thay mặt Thường trực HĐND xã giữ mối liên hệ với UBND, Ban Thường

trực Ủy ban MTTQ Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận xã, các tổ

chức xã hội khác và công dân; Phó Chủ tịch HĐND xã giúp Chủ tịch HĐND

xã thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo sự phân công của Chủ tịch HĐND xã.

Đối với việc tiếp công dân của Thường trực HĐND xã, theo quy định

của Luật Tổ chức chính quyền địa phương, thì Thường trực HĐND xã có

trách nhiệm tổ chức để đại biểu HĐND xã tiếp công dân; xây dựng các quy

định, thủ tục về tiếp công dân bảo đảm đúng pháp luật và phù hợp với tình

hình của địa phương; sắp xếp lịch tiếp công dân của đại biểu HĐND xã; bố trí

công chức có đủ trình độ, năng lực và am hiểu về pháp luật để làm nhiệm vụ

29

tiếp công dân; tổ chức để đại biểu HĐND tiếp công dân tại nơi tiếp công dân

ở địa phương mà đại biểu ứng cử. Chủ tịch HĐND phải có lịch tiếp công

dân. Tùy theo yêu cầu của công việc, Chủ tịch HĐND bố trí số lần tiếp công

dân trong tháng. Chủ tịch HĐND có thể ủy nhiệm cho Phó Chủ tịch HĐND

tiếp công dân, nhưng ít nhất mỗi quý Chủ tịch HĐND phải bố trí thời gian 01

ngày để trực tiếp tiếp công dân.

Các thành viên Thường trực HĐND xã chịu trách nhiệm tập thể về việc

thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Thường trực HĐND xã; chịu trách nhiệm

cá nhân trước Thường trực HĐND xã về nhiệm vụ, quyền hạn được Thường

trực HĐND xã phân công; tham gia các phiên họp Thường trực HĐND xã,

thảo luận và quyết định những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Thường

trực HĐND xã.

1.2.3.3. Hoạt động của các Ban của HĐND xã

Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 quy định trong cơ cấu

tổ chức của HĐND xã là thành lập các Ban của HĐND xã: Ban pháp chế, Ban

kinh tế - xã hội, thành viên các Ban này là đại biểu HĐND xã hoạt động kiêm

nhiệm. Đây là điểm mới so với Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003,

theo quy định của pháp luật, các Ban của HĐND xã phụ trách các lĩnh vực

theo quy định của pháp luật, cụ thể: Ban pháp chế của HĐND xã chịu trách

nhiệm trong các lĩnh vực thi hành Hiến pháp và pháp luật, quốc phòng, an

ninh, trật tự, an toàn xã hội, xây dựng chính quyền địa phương và quản lý địa

giới hành chính ở xã; Ban kinh tế - xã hội của HĐND xã chịu trách

nhiệm trong các lĩnh vực kinh tế, ngân sách, giao thông, xây dựng, giáo dục, y

tế, văn hóa, xã hội, thông tin, thể dục, thể thao, khoa học, công nghệ, tài

nguyên và môi trường, chính sách tôn giáo ở xã.

Về nhiệm vụ, quyền hạn các Ban của HĐND xã, theo quy định của

Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 thì các Ban của HĐND xã

30

có các nhiệm vụ và quyền hạn sau: (1) Tham gia chuẩn bị nội dung kỳ họp

của HĐND xã liên quan đến lĩnh vực phụ trách; (2) Thẩm tra dự thảo nghị

quyết, báo cáo, đề án liên quan đến lĩnh vực phụ trách do HĐND hoặc

Thường trực HĐND xã phân công; (3) Giúp HĐND xã giám sát hoạt động

của UBND xã trong các lĩnh vực phụ trách; giám sát văn bản quy phạm pháp

luật thuộc phạm vi phụ trách; (4) Tổ chức khảo sát tình hình thực hiện các

quy định của pháp luật về lĩnh vực phụ trách do HĐND hoặc Thường trực

HĐND xã phân công; (5) Báo cáo kết quả hoạt động giám sát với HĐND,

Thường trực HĐND xã; (6) Các Ban của HĐND xã chịu trách nhiệm và báo

cáo công tác trước HĐND xã; trong thời gian HĐND xã không họp thì báo

cáo công tác trước Thường trực HĐND xã.

Ngoài ra, Luật Tổ chức chính quyền năm 2015 cũng quy định về mỗi

quan hệ công tác các Ban của HĐND, theo đó, các Ban của HĐND phối

hợp công tác và trao đổi kinh nghiệm hoạt động về những vấn đề có liên

quan; Ban của HĐND cử thành viên tham gia hoạt động của Thường trực

HĐND theo yêu cầu của Thường trực HĐND xã; UBND xã và các bộ phận

chuyên môn của UBND xã, cơ quan, tổ chức hữu quan ở xã có trách nhiệm

cung cấp thông tin, tài liệu về những vấn đề mà Ban của HĐND yêu cầu.

Để thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong việc thẩm tra dự

thảo nghị quyết, báo cáo, đề án liên quan đến lĩnh vực phụ trách, Ban của

HĐND xã cử thành viên tham gia nghiên cứu dự thảo nghị quyết, báo cáo, đề

án; yêu cầu cơ quan soạn thảo và các cơ quan hữu quan cung cấp tài liệu và

trình bày về vấn đề mà Ban thẩm tra; tổ chức họp lấy ý kiến của những người

am hiểu về vấn đề đó; khảo sát tình hình thực tế tại địa phương về những nội

dung liên quan đến dự thảo nghị quyết, báo cáo, đề án.

Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành, tổ chức của HĐND xã

nhiệm kỳ 2016-2021 có thành lập Ban pháp chế, Ban kinh tế - xã hội, đây là

31

quy định mới so với trước đây, do đó, để các Ban của HĐND xã hoạt động có

chất lượng, hiệu quả theo nhiệm vụ, quyền hạn được giao cần phải thể chế

hóa cụ thể các quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương về lĩnh

vực phụ trách, nhiệm vụ, quyền hạn của các Ban của HĐND xã; đồng thời có

những quy định về thời gian hoạt động nhằm tạo điều kiện để các thành viên

thực hiện tốt nhiệm vụ vì thành viên các Ban này hoạt động kiêm nhiệm.

1.2.3.4. Hoạt động của đại biểu HĐND xã

Đại biểu HĐND xã là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân

dân địa phương, do cử tri địa phương bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình

đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín [43]. Với vị trí, vai trò như vậy, người đại biểu

HĐND nói chung và đại biểu HĐND xã nói riêng phải đảm bảo các tiêu chuẩn

theo quy định của pháp luật. Điều 7 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm

2015 quy định tiêu chuẩn đại biểu HĐND như sau:

1. Trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp, phấn

đấu thực hiện công cuộc đổi mới, vì mục tiêu dân giàu, nước

mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

2. Có phẩm chất đạo đức tốt, cần, kiệm, liêm, chính, chí

công vô tư, gương mẫu chấp hành pháp luật; có bản lĩnh, kiên

quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, mọi biểu hiện quan

liêu, hách dịch, cửa quyền và các hành vi vi phạm pháp luật

khác.

3. Có trình độ văn hóa, chuyên môn, đủ năng lực, sức

khỏe, kinh nghiệm công tác và uy tín để thực hiện nhiệm vụ đại

biểu; có điều kiện tham gia các hoạt động của HĐND.

4. Liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến của

Nhân dân, được Nhân dân tín nhiệm"[41].

Nhiệm kỳ của đại biểu HĐND theo nhiệm kỳ của HĐND, bắt đầu từ kỳ

32

họp thứ nhất của HĐND khóa đó đến kỳ họp thứ nhất của HĐND khóa sau.

Đại biểu HĐND được bầu bổ sung bắt đầu làm nhiệm vụ đại biểu từ ngày

khai mạc kỳ họp tiếp sau cuộc bầu cử bổ sung đến ngày khai mạc kỳ họp thứ

nhất của HĐND khóa sau.

Với địa vị pháp lý của đại biểu HĐND là người đại diện cho ý chí,

nguyện vọng của nhân dân, đại biểu HĐND xã phải thực hiện đầy đủ trách

nhiệm, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật.

Về trách nhiệm: Đại biểu HĐND có nhiệm vụ chấp hành nội quy kỳ

họp, tham dự đầy đủ các kỳ họp, phiên họp của HĐND, tham gia thảo luận

và biểu quyết các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND. Đại biểu

HĐND nào không tham dự được kỳ họp phải có lý do và phải báo cáo

trước với Chủ tịch HĐND. Đại biểu HĐND nào không tham dự được phiên

họp phải có lý do và phải báo cáo trước với Chủ tọa phiên họp. Khi có

thông báo về thời gian, dự kiến chương trình và tài liệu kỳ họp, đại biểu

HĐND phải nghiên cứu tài liệu. Ngoài ra, đại biểu HĐND xã tham các

cuộc họp của Ban của HĐND xã mà đại biểu là thành viên; tham gia các

hoạt động khác của HĐND. Trong kỳ họp HĐND, đại biểu HĐND có

nhiệm vụ tham gia thảo luận và quyết định chương trình kỳ họp, thảo luận

tại phiên họp về các vấn đề thuộc nội dung, chương trình kỳ họp và biểu

quyết thông qua những vấn đề đó.

Trách nhiệm tiếp xúc cử tri, đại biểu HĐND xã phải liên hệ chặt chẽ

với cử tri ở đơn vị bầu cử bầu ra mình, chịu sự giám sát của cử tri, có trách

nhiệm thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng, kiến nghị của cử

tri; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cử tri; thực hiện chế độ tiếp xúc cử

tri và ít nhất mỗi năm một lần báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của

HĐND nơi mình là đại biểu, trả lời những yêu cầu và kiến nghị của cử tri.

33

Sau mỗi kỳ họp HĐND, đại biểu HĐND có trách nhiệm báo cáo với cử

tri về kết quả của kỳ họp, phổ biến và giải thích các nghị quyết của HĐND,

vận động và cùng với Nhân dân thực hiện các nghị quyết đó.

Trách nhiệm tiếp công dân, tiếp nhận và xử lý khiếu nại, tố cáo, kiến

nghị của công dân: Đại biểu HĐND xã có trách nhiệm tiếp công dân theo quy

định của pháp luật. Khi nhận được khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân,

đại biểu HĐND có trách nhiệm nghiên cứu, kịp thời chuyển đến người có

thẩm quyền giải quyết và thông báo cho người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị

biết; đôn đốc, theo dõi và giám sát việc giải quyết. Trong trường hợp xét thấy

việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị không đúng pháp luật, đại biểu

HĐND có quyền gặp người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan để

tìm hiểu, yêu cầu xem xét lại; khi cần thiết, đại biểu HĐND yêu cầu người

đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức, đơn

vị đó giải quyết.

Theo quy định tại Nghị quyết 759/2014/NQ-UBTVQH13 ngày

15/5/2014 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIII quy định chi tiết về

hoạt động tiếp công dân của các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội,

HĐND và đại biểu HĐND các cấp thì HĐND và đại biểu HĐND các cấp có

trách nhiệm tiếp công dân đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; Chủ tịch

HĐND xã có trách nhiệm tổ chức để đại biểu HĐND cấp mình tiếp công dân;

đại biểu HĐND xã thực hiện việc tiếp công dân tại Trụ sở UBND xã; đại biểu

HĐND xã tiếp công dân theo sự bố trí của Chủ tịch HĐND xã. Việc tiếp công

dân của đại biểu HĐND xã được thực hiện theo quy định như sau: Chủ tịch

HĐND xã sắp xếp lịch tiếp công dân của đại biểu HĐND xã; đại biểu HĐND

xã thực hiện việc tiếp công dân theo lịch tiếp công dân đã được công bố,

trường hợp không thể thực hiện được việc tiếp công dân theo lịch tiếp công

dân đã được công bố do có lý do chính đáng thì đại biểu HĐND xã có trách

34

nhiệm thông báo đến Chủ tịch HĐND xã để điều chỉnh lịch; đồng thời dự

kiến thời gian cụ thể thực hiện việc tiếp công dân.

Thường trực HĐND thay mặt HĐND tiếp công dân đến khiếu nại, tố

cáo, kiến nghị, phản ánh theo quy định pháp luật có liên quan. Lịch tiếp

công dân phải được niêm yết công khai tại Trụ sở UBND xã và nơi tiếp công

dân, đồng thời công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng ở địa

phương. Thường trực HĐND cử đại diện tiếp công dân theo lịch tiếp công

dân đã được công bố.

Ngoài thực hiện trách nhiệm theo quy định của pháp luật, đại biểu

HĐND xã có các quyền sau:

Quyền chất vấn: Đại biểu HĐND xã có quyền chất vấn Chủ tịch UBND

xã, Phó Chủ tịch UBND xã và Ủy viên UBND xã. Người bị chất vấn phải trả

lời về những vấn đề mà đại biểu HĐND xã chất vấn. Trong thời gian HĐND

xã họp, đại biểu HĐND gửi chất vấn đến Thường trực HĐND xã. Người bị

chất vấn phải trả lời trước HĐND xã tại kỳ họp đó. Trong trường hợp cần

điều tra, xác minh thì HĐND xã có thể quyết định cho trả lời tại kỳ họp sau

của HĐND xã hoặc cho trả lời bằng văn bản gửi đến đại biểu đã chất vấn và

Thường trực HĐND xã. Trong thời gian giữa hai kỳ họp HĐND xã, chất vấn

của đại biểu HĐND được gửi đến Thường trực HĐND xã để chuyển đến

người bị chất vấn và quyết định thời hạn trả lời chất vấn.

Quyền kiến nghị: Đại biểu HĐND xã có quyền kiến nghị HĐND xã bỏ

phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND xã bầu, tổ chức phiên

họp bất thường, phiên họp kín của HĐND xã và kiến nghị về những vấn đề

khác mà đại biểu thấy cần thiết. Kiến nghị của đại biểu HĐND xã được gửi

bằng văn bản đến Thường trực HĐND xã, trong đó nêu rõ lý do, nội dung

kiến nghị. Thường trực HĐND xã có trách nhiệm tổng hợp, xử lý các kiến

nghị của đại biểu HĐND xã theo thẩm quyền và báo cáo HĐND xã trong các

35

trường hợp có từ một phần ba tổng số đại biểu HĐND xã trở lên kiến nghị

HĐND xã bỏ phiếu tín nhiệm đối với một người giữ chức vụ do HĐND xã

bầu, kiến nghị HĐND xã họp bất thường hoặc họp kín thì Thường trực

HĐND xã báo cáo để HĐND xã xem xét, quyết định; hoặc trong trường hợp

khác mà Thường trực HĐND xã xét thấy cần thiết.

Số lượng kiến nghị cần thiết nêu trên là tổng số kiến nghị mà Thường

trực HĐND xã tiếp nhận được trong khoảng thời gian từ ngày khai mạc kỳ

họp này đến trước ngày khai mạc kỳ họp tiếp theo hoặc đến trước ngày tiến

hành phiên họp HĐND xã về nội dung có liên quan trong trường hợp đại biểu

HĐND xã kiến nghị HĐND xã tổ chức phiên họp kín.

Đại biểu HĐND xã có quyền kiến nghị các cơ quan, tổ chức, cá nhân áp

dụng biện pháp cần thiết để thực hiện Hiến pháp, pháp luật, bảo vệ quyền và lợi

ích của Nhà nước, quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Quyền của đại biểu HĐND khi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật:

Khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà

nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, đại biểu HĐND xã có

quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức hữu quan thi hành những biện pháp cần thiết

để kịp thời chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật. Trong thời hạn 15 ngày kể từ

ngày nhận được yêu cầu của đại biểu HĐND, cơ quan, tổ chức phải giải quyết

và thông báo bằng văn bản cho đại biểu HĐND biết. Quá thời hạn này mà cơ

quan, tổ chức không trả lời thì đại biểu HĐND có quyền yêu cầu người đứng

đầu cơ quan, tổ chức cấp trên xem xét, giải quyết.

Quyền của đại biểu HĐND xã trong việc yêu cầu cung cấp thông tin:

Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu, đại biểu HĐND xã có quyền

yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến

nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân đó. Người đứng đầu cơ

36

quan, tổ chức hoặc cá nhân có trách nhiệm trả lời những vấn đề mà đại biểu

HĐND yêu cầu theo quy định của pháp luật.

1.2.4. Hoạt động giám sát của HĐND xã

Giám sát là một chức năng của HĐND nói chung và HĐND xã nói

riêng. Điều 87, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 quy định về

hoạt động giám sát của HĐND như sau:

1. HĐND thực hiện quyền giám sát của mình tại kỳ họp

HĐND và trên cơ sở hoạt động giám sát của Thường trực

HĐND, các Ban của HĐND, các Tổ đại biểu HĐND và đại biểu

HĐND.

2. HĐND quyết định nội dung giám sát theo đề nghị của

Thường trực HĐND trình trên cơ sở các kiến nghị của Ban của

HĐND, Tổ đại biểu HĐND, đại biểu HĐND, UBMTTQ Việt

Nam cùng cấp và ý kiến, kiến nghị của cử tri địa phương.

3. HĐND thực hiện quyền giám sát thông qua các hoạt

động sau đây:

a) Xem xét báo cáo công tác của Thường trực

HĐND, UBND, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp;

b) Xem xét báo cáo của UBND cùng cấp về tình hình thi

hành Hiến pháp, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà

nước cấp trên và nghị quyết của HĐND cùng cấp;

c) Xem xét văn bản của UBND cùng cấp có dấu hiệu trái

với Hiến pháp, các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà

nước cấp trên và nghị quyết của HĐND cùng cấp;

d) Xem xét trả lời chất vấn của Chủ tịch UBND, Phó Chủ

tịch UBND, Ủy viên UBND, Chánh án Tòa án nhân dân, Viện

trưởng Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp;

37

đ) Thành lập Đoàn giám sát về một vấn đề nhất định khi xét

thấy cần thiết và xem xét kết quả giám sát của Đoàn giám sát[41].

Như vậy, theo quy định của pháp luật, HĐND xã thực hiện quyền giám

sát của mình tại kỳ họp HĐND xã và trên cơ sở hoạt động giám sát của

Thường trực HĐND, các Ban của HĐND và đại biểu HĐND xã; HĐND xã

quyết định nội dung giám sát theo đề nghị của Thường trực HĐND xã trình

trên cơ sở các kiến nghị của các Ban của HĐND, đại biểu HĐND, Ủy ban

MTTQ Việt Nam xã và ý kiến, kiến nghị của cử tri địa phương.

1.3. Mối quan hệ giữa HĐND xã với cấp ủy, UBND, Ủy ban MTTQ và

các tổ chức chính trị - xã hội cùng cấp

1.3.1. Mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân xã với cấp ủy cùng cấp

Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội là một nguyên tắc đã được khẳng

định trong Hiến pháp. Điều 4 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Đảng Cộng sản

Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong

của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của

giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê

nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà

nước và xã hội”[39].

Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội bằng Cương

lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công

tác tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, vận động; bằng công tác tổ chức, cán

bộ và kiểm tra; bằng tổ chức của Đảng trong các tổ chức của hệ thống chính trị

và sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán

bộ và quản lý đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị; Đảng giới thiệu những đảng

viên có đủ phẩm chất, năng lực tham gia trong các cơ quan lãnh đạo của hệ

thống chính trị. Với vai trò lãnh đạo của Đảng, trong mối quan hệ giữa HĐND

xã với cấp ủy Đảng cùng cấp, HĐND xã chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy

38

Đảng cùng cấp thể hiện qua thể chế hóa về mặt nhà nước từ Nghị quyết của

cấp ủy bằng Nghị quyết của HĐND; cấp ủy, Ủy ban MTTQ và HĐND cùng

phối hợp kiểm tra, giám sát UBND xã trong việc tổ chức triển khai thực hiện

các Nghị quyết của cấp ủy Đảng, HĐND. Đảng ủy xã lãnh đạo công tác tổ

chức cán bộ ở xã, trong đó có nhân sự Thường trực HĐND xã, các Ban của

HĐND xã và đại biểu HĐND xã. Đối với nhân sự Thường trực HĐND xã

trình cấp thẩm quyền xem xét, quyết định trước khi HĐND xã bầu. Trong

công tác chuẩn bị nhân sự cho việc bầu cử đại biểu HĐND xã, cấp ủy Đảng

lãnh đạo, chỉ đạo trong việc lựa chọn và giới thiệu các ứng cử viên để bầu vào

HĐND theo quy chế về công tác cán bộ của Đảng, sự lãnh đạo đều tuân thủ

theo quy định của pháp luật.

Sự lãnh đạo của cấp ủy còn được thể hiện ở chủ trương, đường lối

trong các Nghị quyết dài hạn và ngắn hạn. Căn cứ vào nội dung Nghị quyết

của cấp ủy, Thường trực HĐND, các ban HĐND và các đại biểu HĐND vận

dụng và cụ thể hóa trong Nghị quyết của HĐND tại các kỳ họp; mọi hoạt

động của HĐND đều chấp hành sự lãnh đạo của Đảng và thực hiện nhiệm vụ

quyền hạn theo qui định của pháp luật.

1.3.2. Mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân xã với Ủy ban nhân dân cùng cấp

Mối quan hệ giữa HĐND xã với UBND xã được quy định trong Luật

Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, cụ thể tại khoản 1 Điều 8 Luật

Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015: “UBND do HĐND cùng cấp

bầu, là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan hành chính nhà nước ở địa

phương, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương, HĐND cùng cấp và cơ

quan hành chính nhà nước cấp trên”[41]. Với địa vị pháp lý là cơ quan quyền

lực nhà nước ở xã, HĐND xã có quyền bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch,

Phó Chủ tịch và các thành viên khác của UBND xã. Đối với việc bầu Chủ

tịch, Phó Chủ tịch và các thành viên khác của UBND được quy định trong

39

Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, cụ thể tại Khoản 3 Điều 83

quy định: “HĐND bầu Chủ tịch UBND theo giới thiệu của Chủ tịch HĐND.

Chủ tịch UBND được bầu tại kỳ họp thứ nhất của HĐND phải là đại biểu

HĐND. Chủ tịch UBND được bầu trong nhiệm kỳ không nhất thiết là đại biểu

HĐND”; Khoản 4 Điều 83 quy định: “HĐND bầu Phó Chủ tịch UBND, Ủy

viên UBND theo giới thiệu của Chủ tịch UBND. Phó Chủ tịch UBND, Ủy

viên UBND không nhất thiết là đại biểu HĐND”; Khoản 7 Điều 83 quy định:

“… kết quả bầu Chủ tịch UBND, Phó Chủ tịch UBND cấp xã phải được Chủ

tịch UBND cấp huyện phê chuẩn” [41]. Việc miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch,

Phó Chủ tịch và các thành viên khác của UBND xã được quy định tại Khoản

3 Điều 84 Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015 như sau: “HĐND miễn

nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch UBND theo đề nghị của Chủ tịch HĐND; miễn

nhiệm, bãi nhiệm Phó Chủ tịch UBND, Ủy viên UBND theo đề nghị của Chủ

tịch UBND”[41], kết quả miễn nhiệm, bãi nhiệm phải được Chủ tịch UBND

huyện phê chuẩn.

Trong hoạt động, HĐND và UBND xã có mối quan hệ chặt chẽ với

nhau. Thường trực và các Ban của HĐND xã phối hợp chặt chẽ với UBND

xã, các bộ phận chuyên môn thuộc UBND xã trong việc dự kiến nội dung,

chương trình kỳ họp HĐND xã; dự thảo nghị quyết, báo cáo, đề án trình

HĐND xã; giải quyết những vấn đề phát sinh khi thực hiện nghị quyết của

HĐND xã về nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng – an ninh, ngân sách xã;

tổ chức triển khai thực hiện nghị quyết của HĐND xã trong thời gian giữa hai

kỳ họp. Đại diện Thường trực HĐND xã được mời dự các phiên họp của

UBND xã. Đại diện UBND xã được mời dự các cuộc họp thường kỳ và các

cuộc họp khác của Thường trực HĐND xã khi xét thấy cần thiết. Thành viên

UBND xã được mời tham dự các kỳ họp HĐND xã; có trách nhiệm tham dự

các phiên họp toàn thể của HĐND khi thảo luận về những vấn đề có liên quan

40

đến ngành, lĩnh vực mà mình phụ trách; được phát biểu ý kiến về vấn đề

thuộc ngành, lĩnh vực mà mình phụ trách nếu được chủ tọa phiên họp đồng ý

hoặc có trách nhiệm phát biểu ý kiến theo yêu cầu của HĐND hoặc chủ tọa

phiên họp.

HĐND xã có quyền giám sát hoạt động của UBND xã trong việc tổ

chức thực hiện nghị quyết của HĐND và tổ chức việc thi hành Hiến pháp,

pháp luật tại địa phương. UBND xã và các đơn vị, bộ phận chuyên môn thuộc

UBND xã có trách nhiệm báo cáo và cung cấp các tài liệu liên quan khi có

yêu cầu của Thường trực và các Ban của HĐND xã. HĐND xã tổ chức lấy

phiếu tín nhiệm và bỏ phiếu tín nhiệm đối với Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các

Ủy viên UBND xã; đại biểu HĐND xã có quyền chất vấn Chủ tịch, Phó Chủ

tịch và các Ủy viên UBND xã.

Trong hoạt động của mình, HĐND và UBND xã phối hợp chặt chẽ với

Ủy ban MTTQ Việt Nam xã và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức

xã hội khác chăm lo và bảo vệ lợi ích của nhân dân, vận động nhân dân tham gia

vào việc quản lý nhà nước và thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước.

UBND xã là cơ quan chấp hành của HĐND xã, cơ quan hành chính nhà

nước ở xã. Do đó, UBND xã có trách nhiệm tổ chức và chỉ đạo việc thi hành

Hiến pháp, pháp luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và Nghị

quyết của HĐND xã.

HĐND và UBND xã có chức năng khác nhau nhưng có mối quan hệ

chặt chẽ với nhau, mối quan hệ này tạo ra sức mạnh để thực hiện có hiệu quả

quyền lực nhà nước ở địa phương.

1.3.3. Mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân xã với Ủy ban MTTQ và các tổ

chức chính trị - xã hội cùng cấp

41

Trong hệ thống chính trị nước ta, Ủy ban MTTQ Việt Nam có vị trí,

vai trò hết sức quan trọng, được ghi nhận trong Hiến pháp. Điều 9 Hiến

Pháp năm 2013 quy định:

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị,

liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị -

xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai

cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở

nước ngoài.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính

quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,

chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn

kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã

hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà

nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo

vệ Tổ quốc[39].

Mối quan hệ giữa HĐND và MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội được

quy định tại Điều 116, Hiến pháp năm 2013:

HĐND, UBND thực hiện chế độ thông báo tình hình của

địa phương cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể

nhân dân, lắng nghe ý kiến, kiến nghị của các tổ chức này về xây

dựng chính quyền và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương;

phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân

dân động viên Nhân dân cùng Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ

kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh ở địa phương.

Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người

đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương được mời tham

42

dự các kỳ họp HĐND và được mời tham dự hội nghị UBND cùng

cấp khi bàn các vấn đề có liên quan[39].

Như vậy, theo quy định của pháp luật, mối quan hệ giữa HĐND xã và

MTTQ Việt Nam, các tổ chức thành viên ở xã là quan hệ phối hợp. Mỗi năm

hai lần vào giữa năm và cuối năm, Chủ tịch HĐND xã thông báo bằng văn

bản đến Uỷ ban MTTQ xã và các tổ chức thành viên về tình hình hoạt động

của HĐND cấp mình. Trong kỳ họp thường lệ của HĐND, Uỷ ban MTTQ

báo cáo về hoạt động của MTTQ xã tham gia xây dựng chính quyền, về

những ý kiến, kiến nghị đối với HĐND và với đại biểu HĐND xã.

Chính quyền địa phương tạo điều kiện để Ủy ban MTTQ và các tổ chức

chính trị - xã hội động viên nhân dân tham gia xây dựng và củng cố chính

quyền nhân dân, tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước, giám

sát, phản biện xã hội đối với hoạt động của chính quyền địa phương. Chính

quyền địa phương có trách nhiệm lắng nghe, giải quyết và trả lời các kiến

nghị của Ủy ban MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương về xây

dựng chính quyền và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Ủy ban MTTQ

và các tổ chức thành viên của Mặt trận tạo điều kiện để đại biểu HĐND tiếp

xúc cử tri, thu thập ý kiến, nguyện vọng và kiến nghị của nhân dân với

HĐND.

1.4. Tiêu chí đánh giá và điều kiện đảm bảo chất lƣợng, hiệu quả hoạt

động của Hội đồng nhân dân xã

1.4.1. Quan niệm về chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân

dân xã

Để phân tích cụ thể các tiêu chí đánh giá chất lượng, hiệu quả hoạt

động của HĐND xã, trước hết ta cần phân tích, làm rõ các khái niệm “chất

lượng”, “hiệu quả” hoạt động của HĐND xã.

43

Theo Từ điển Tiếng Việt thì “chất lượng” hiểu theo nghĩa chung nhất

là: "cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một người, một sự vật, sự việc"[36,

tr.28]. Theo Từ điển bách khoa Việt Nam:

Chất lượng phạm trù triết học biểu thị những thuộc tính

bản chất của sự vật, chỉ rõ nó là cái gì, tính ổn định tương đối

của sự vật để phân biệt nó với các sự vật khác chất lượng là đặc

tính khách quan của sự vật. Chất lượng biểu hiện ra bên ngoài

qua các thuộc tính. Nó là cái liên kết các thuộc tính của sự vật

lại làm một, gắn bó với sự vật như một tổng thể, bao quát toàn

bộ sự vật và không tách khỏi sự vật. Sự vật trong khi vẫn còn là

bản thân nó thì không thể mất chất lượng của nó. Sự thay dổi

chất lượng kéo theo sự thay đổi của sự vật về căn bản. Chất

lượng của sự vật bao giờ cũng gắn liền với tính quy định về số

lượng của nó và không thể tồn tại ngoài tính quy luật ấy. Mọi sự

vật bao giờ cũng là sự thống nhất của chất lượng và số

lượng[29, tr.526].

Như vậy, nói đến chất lượng của một sự việc là nói đến khả năng đạt

được kết quả trong hoạt động nào đó của sự việc đó. Muốn hoạt động có kết

quả thì những cá nhân trong tập thể phải đảm bảo các điều kiện, yêu cầu của

hoạt động. Chất lượng không phải là những thuộc tính cá nhân riêng lẻ mà là

một tổ hợp các thuộc tính cá nhân đáp ứng yêu cầu cao của hoạt động. Chất

lượng hoạt động của tổ chức là chất lượng của từng hoạt động trong tổ chức

đó nhằm hướng tới kết quả chung của hoạt động. Hoạt động của sự việc do

yếu tố con người tạo ra, do đó chất lượng của con người liên quan đến sự việc

đó là yếu tố quan trọng tác động ảnh hưởng đến chất lượng chung của hoạt

động đó. Chất lượng của con người vừa là cái “tự nhiên” có sẵn, vừa là kết

quả của quá trình học tập, rèn luyện, hoạt động thực tiễn của con người.

44

HĐND xã bao gồm các đại biểu HĐND xã do cử tri ở xã bầu ra, là

cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng

và quyền làm chủ của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa

phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Phương thức hoạt động của HĐND

xã thực hiện theo các phương thức: Kỳ họp của HĐND xã, hoạt động của

Thường trực HĐND xã, hoạt động các Ban của HĐND xã, hoạt động của

đại biểu HĐND xã.

Để hoạt động của HĐND xã đạt chất lượng, đòi hỏi các hoạt động cấu

thành hoạt động HĐND xã phải đảm bảo chất lượng, hay nói cách khác là

chất lượng từng hoạt động của HĐND xã.

Từ sự phân tích trên có thể nhận diện được các yếu tố cấu thành chất

lượng hoạt động HĐND xã là chất lượng kỳ họp của HĐND xã, chất lượng

hoạt động của Thường trực HĐND, các Ban của HĐND xã và chất lượng hoạt

động của đại biểu HĐND xã. Như vậy, chất lượng hoạt động của HĐND xã là

tập hợp chất lượng các yếu tố cấu thành hoạt động của HĐND xã làm cho

HĐND xã thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của

pháp luật hiện hành.

Thuật ngữ "Hiệu quả" được sử dụng rộng rãi trong nhiều ngành, nhiều

lĩnh vực trong đời sống xã hội. Theo Từ điển Tiếng Việt phổ thông, “hiệu quả

là kết quả như yêu cầu của việc làm mang lại”[49, tr.389]. Theo Từ điển bách

khoa Việt Nam, hiệu quả là:

Kết quả mong muốn, cái sinh ra kết quả mà con người chờ

đợi và hướng tới; nó có nội dung khác nhau ở những lĩnh vực

khác nhau. Trong sản xuất, hiệu quả có nghĩa là hiệu suất, năng

suất. Trong kinh doanh, hiệu quả là lãi suất, lợi nhuận. Trong

lao động nói chung, hiệu quả lao động là năng suất lao động,

được đánh giá bằng số lượng thời gian hao phí để sản xuất ra

45

một đơn vị sản phẩm, hoặc bằng số lượng sản phẩm được sản

xuất ra trong một đơn vị thời gian[30, tr.289].

Trong lĩnh vực xã hội, hiệu quả là sự so sánh giữa kết quả trước và sau

khi tiến hành một hoạt động, giữa kết quả đã có và kết quả dự định sẽ có; giữa

kết quả đạt được và mục đích. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, hiệu quả

thường được đồng nhất với những kết quả đạt được về lợi nhuận, thương hiệu,

mở rộng thị trường…nó thường được tính toán chi tiết, cụ thể thông qua việc

trừ đi các chi phí về nguyên liệu, tài chính, lao động… Trong lĩnh vực quản lý

nhà nước, hiệu quả là kết quả hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước

trên các mặt công tác có sự đối chiếu, so sánh với các khoản kinh phí bỏ ra để

đạt được các kết quả. Hiệu quả của pháp luật là kết quả thực tế đạt được do sự

điều chỉnh, tác động của pháp luật mang lại trong những phạm vi và điều kiện

nhất định, biểu hiện ở trạng thái của các quan hệ xã hội, phù hợp với những

mục đích, yêu cầu và định hướng của pháp luật với mức chi phí thấp.

Các cách tiếp cận về hiệu quả thường lấy sự so sánh giữa "đầu vào" và

"đầu ra" để đánh giá. Như vậy, hiệu quả là sự so sánh giữa kết quả thu được

sau khi chủ thể thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn với chi phí mà

chủ thể bỏ ra để đạt được những kết quả đó trong những điều kiện cụ thể.

Hoạt động của HĐND xã là hoạt động chính trị - xã hội, do đó việc xác

định hiệu quả hoạt động của HĐND xã phải dựa trên chỉ số đánh giá mang

tính chất lượng tính (vừa định tính, vừa định lượng). Tính lưỡng tính ở đây

thể hiện các yếu tố đầu tư chi phí bỏ ra và kết quả thu về. Trong hoạt động

của HĐND xã, đầu tư, chi phí bỏ ra, yếu tố có thể định lượng bao gồm: cơ sở

vật chất, kinh phí, chi phí tổ chức kỳ họp, chi phí việc xây dựng chương trình,

báo cáo, nghị quyết, nội dung giám sát, tổ chức giám sát, số lượng thành viên

tham gia…; yếu tố định tính như năng lực, trình độ, uy tín, kỹ năng, kinh

nghiệm hoạt động của đại biểu HĐND, của Thường trực HĐND, các Ban của

46

HĐND xã. Ở kết quả thu về có thể định lượng như số lượng các kỳ họp, các

Nghị quyết, các đoàn giám sát; chất vấn, các cuộc tiếp xúc cử tri… hoặc kết

quả thu về có thể xác định bởi yếu tố định tính như thông qua giám sát của

HĐND xã, các chủ thể bị giám sát nâng cao tinh thần trách nhiệm của mình

hoạt động theo đúng quy định của Hiến pháp và pháp luật; củng cố niềm tin

của cử tri đối với HĐND. Như vậy, hiệu quả hoạt động của HĐND xã là chỉ

số so sánh giữa kết quả thu được trong thực tế so với chi phí bỏ ra. Mặt khác,

hiệu quả hoạt động của HĐND xã phải được xác định trên cơ sở thực hiện

đúng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của pháp luật.

Hiệu quả hoạt động của HĐND xã được biểu hiện ở khả năng tạo ra

những chuyển biến tích cực về kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, nâng

cao đời sống của nhân dân địa phương. Hoạt động của HĐND xã sẽ không đạt

hiệu quả nếu hoạt động đó không tạo ra được những chuyển biến tích cực về

kinh tế - xã hội của địa phương, không phản ánh và giải quyết được những

vấn đề bức xúc của địa phương hoặc chi phí dành cho hoạt động của HĐND

xã quá nhiều.

Qua phân tích như trên, có thể xác định: Hiệu quả hoạt động của

HĐND xã là kết quả thu được đảm bảo sự phù hợp giữa việc thực hiện chức

năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo luật định so với những chi phí hợp lý về thời

gian, trí lực, vật lực, nguồn lực lao động… phục vụ hoạt động của HĐND xã.

Từ những phân tích trên, có thể đưa ra quan niệm về chất lượng, hiệu

quả hoạt động của HĐND xã như sau: Chất lượng, hiệu quả hoạt động của

HĐND xã là tổng hòa chất lượng các yếu tố hoạt động cấu thành hoạt động

của HĐND xã nhằm đạt được những kết quả đảm bảo phù hợp giữa việc thực

hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo luật định so với chi phí hợp lý

phục vụ hoạt động của HĐND xã.

47

1.4.2. Tiêu chí đánh giá chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân

dân xã

1.4.2.1. Việc đảm bảo dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân

dân xã

Bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà

nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là

mục tiêu cao cả mà Đảng và Nhà nước ta luôn hướng tới, quyết tâm biến nó

thành hiện thực[47]. Đại hội XII của Đảng xác định rõ: “Tiếp tục phát huy

dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân

dân. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực

của đời sống xã hội. Bảo đảm dân chủ để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu

của quá trình đưa những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân

dân”[5, tr. 38]. Thể chế hóa đường lối của Đảng, vấn đề dân chủ, thực hành

và phát huy dân chủ được khẳng định trong Hiến pháp 2013:

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân,

vì Nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân…";

“Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân;

công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người,

quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân

chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do,

hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện[39].

Như vậy, ở nước ta nguồn gốc, bản chất quyền lực nhà nước là quyền

lực nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực của mình bằng hình thức dân chủ

trực tiếp, dân chủ đại diện thông qua Quốc hội và HĐND các cấp. HĐND xã là

một bộ phận của bộ máy nhà nước, có vị trí, vai trò quan trọng, là nơi gần dân,

sát dân, trực tiếp với nhân dân, để đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về nhân

48

dân thì trong tổ chức và hoạt động của HĐND xã phải đảm bảo tính dân chủ.

Hoạt động của HĐND xã đạt được hiệu quả khi nó phản ánh được nguyện

vọng của nhân dân địa phương, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân địa

phương. Đảm bảo tính dân chủ sẽ đảm bảo quyền lực của nhân dân, quyền lực

nhân dân sẽ được sử dụng đúng mục đích, không xảy ra tình trạng lạm quyền.

Đảm bảo dân chủ là nguyên tắc hoạt động của bộ máy nhà nước nói

chung và HĐND xã nói riêng, nó thể hiện bản chất của chế độ chính trị. Điều

5, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 quy định: “Một trong

những nguyên tắc hoạt động của chính quyền địa phương là nguyên tắc tập

trung dân chủ, HĐND làm việc theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa

số”[41]. Hoạt động của HĐND xã phải đảm bảo tính quyền lực và tính đại

diện, do đó yếu tố đảm bảo dân chủ trong tổ chức và hoạt động của HĐND xã

phải được thực hiện nghiêm túc tạo được sự đồng thuận xã hội - một trong

những điều kiện quan trọng, căn bản để hoạt động của HĐND xã đạt chất

lượng, hiệu quả trong thực tế.

1.4.2.2. Kết quả đạt được về tình hình kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh ở xã

Theo quy định của Hiến pháp 2013 và Luật Tổ chức chính quyền năm

2015, HĐND quyết định các vấn đề của địa phương do luật định. Theo đó,

HĐND xã quyết định các vấn đề của xã theo quy định của pháp luật. Như

vậy, kết quả đạt được về tình hình kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh ở xã là

tiêu chí quan trọng đánh giá chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND xã.

Hoạt động của HĐND xã là hoạt động mang tính chính trị - xã hội, kết

quả của nó thường phải có thời gian nhất định 01 năm, 05 năm… hoặc lâu

hơn nữa mới đem lại kết quả cụ thể, do đó việc đánh giá chất lượng, hiệu quả

hoạt động là rất khó khăn. Để đánh giá chất lượng, hiệu quả hoạt động của

HĐND xã, chúng ta phải so sánh tình hình kinh tế - xã hội, quốc phòng - an

ninh của địa phương trước và sau hoạt động theo nhiệm kỳ của HĐND xã

49

hoặc sau khi có những chủ trương phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.

Nếu tình hình kinh tế - xã hội, quốc phòng – an ninh trên địa bàn xã ổn định,

phát triển, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao thì điều đó cho thấy

hoạt động của HĐND xã đã mang lại hiệu quả. Ngược lại, nếu không có sự

chuyển biến tích cực, đời sống nhân dân vẫn còn khó khăn, an ninh, trật tự an

toàn xã hội trên địa bàn xã không ổn định tức là HĐND xã hoạt động không

có hiệu quả.

Tiêu chí đánh giá chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND xã không

chỉ là đánh giá sự phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng – an ninh của xã;

chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND xã còn chịu sự tác động của các

yếu tố khác. Vì vậy, khi đánh giá chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND

xã theo tiêu chí này cũng chỉ ở mức độ tương đối.

1.4.2.3. Kết quả đạt được so với chi phí bỏ ra

Nếu theo cách tiếp cận này thì hiệu quả chính là tỷ lệ giữa kết quả đạt

được với chi phí bỏ ra (trong đó: chi phí bỏ ra ít hơn, kết quả đạt được cao

hơn). Kết quả hoạt động mang lại là kết quả về kinh tế - xã hội đạt được, còn

chi phí cần thiết bỏ ra là những hao tổn cần thiết để đạt được kết quả, bao

gồm: vật chất, tinh thần, nguồn nhân lực... Tất cả chi phí cho hoạt động của

HĐND xã cần ở mức thấp nhưng phải đủ đảm bảo cho các chủ thể hoạt động

tốt, thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn luật định để đạt được

những kết quả ở mức cao nhất.

Hoạt động của HĐND xã chủ yếu mang tính chính trị - xã hội nên việc

tính kết quả thu về so với chi phí bỏ ra là điều rất khó. Bởi yếu tố vừa định

lượng, vừa định tính không chỉ thể hiện ở kết quả thu về mà ngay cả trong đầu

tư, chi phí bỏ ra. Vì vậy, khi căn cứ vào tiêu chí này để đánh giá hiệu quả hoạt

động của HĐND xã thì cũng chỉ tính toán ở mức độ tương đối. Có những hoạt

động nếu tính dưới góc độ kinh tế thì không mang lại lợi ích thiết thực nhưng

50

dưới góc độ xã hội lại mang lại hiệu quả rất lớn. Chẳng hạn trong một số lĩnh

vực nếu HĐND xã giám sát đến cùng và triệt để không những góp phần tích

cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội mà còn có tác dụng to lớn trong việc

chấn chỉnh các vấn đề xã hội. Do đó, khi căn cứ vào yếu tố chi phí, kết quả để

xem xét hiệu quả hoạt động của HĐND xã phải kết hợp xem xét cả hiệu quả

kinh tế và hiệu quả chính trị - xã hội.

Tùy vào từng địa phương có những điều kiện, hoàn cảnh thực tế khác

nhau nên khi đánh giá chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND xã phải dựa

trên nhiều tiêu chí khác nhau, bên cạnh những yếu tố bên trong thì cần quan

tâm đến các nhân tố bên ngoài có tác động ảnh hưởng đến hoạt động của

HĐND xã, có như vậy mới đảm bảo được tính khách quan và thực tế khi đánh

giá chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND xã.

1.4.3. Điều kiện đảm bảo chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội đồng

nhân dân xã

1.4.3.1. Sự quan tâm lãnh đạo của cấp ủy Đảng

Trong suốt chặng đường lịch sử đấu tranh cách mạng, giành độc lập

dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, sự lãnh đạo của Đảng

Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi. Đối với HĐND các

cấp, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thông qua đường lối, chủ trương,

công tác cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát trong việc xây dựng hệ thống

chính quyền nhà nước ở địa phương; thông qua sự lãnh đạo trực tiếp của các

cấp ủy Đảng đối với việc tổ chức và hoạt động của HĐND. Như vậy, chất

lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND xã không chỉ phụ thuộc vào chủ

trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam nói chung mà còn phụ thuộc

nhiều vào sự quan tâm và năng lực lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Đảng ủy xã.

Căn cứ vào chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam và

chức năng, nhiệm vụ của HĐND được quy định trong Hiến pháp năm 2013 và

51

Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, cấp ủy Đảng ở địa phương

lãnh đạo HĐND thông qua việc đề ra các chủ trương, chính sách phát triển

kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh ở địa phương, làm căn cứ cho HĐND

cụ thể hóa bằng Nghị quyết; thông qua lãnh đạo, chỉ đạo công tác tổ chức cán

bộ của HĐND; thông qua các đảng viên là đại biểu HĐND. Đối với hoạt động

của HĐND xã, sự lãnh đạo của Đảng ủy xã chính là yếu tố quan trọng đầu

tiên quyết định chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND xã. Hoạt động của

HĐND xã phải căn cứ vào lãnh đạo của cấp ủy, từ việc xây dựng chương

trình, nội dung kỳ họp, đến việc tổ chức kỳ họp… Trong quá trình hoạt động

của HĐND xã, những vấn đề nổi cộm, liên quan đến cơ chế, chính sách, đến

cán bộ lãnh đạo đều được tổng hợp, báo cáo tranh thủ ý kiến của cấp ủy để có

phương án giải quyết đúng đắn.

Để HĐND xã thực hiện tốt hoạt động của mình thì cần phải có sự lãnh

đạo của Đảng ủy cơ sở. Các cấp ủy Đảng chỉ nên thực hiện lãnh đạo HĐND

dựa trên những chủ trương, định hướng và kiểm tra việc thực hiện những chủ

trương, cấp ủy Đảng không được bao biện, làm thay để HĐND xã phát huy

được vai trò trong hoạt động của mình tại địa phương, thực hiện có hiệu quả

chức năng theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.

1.4.3.2. Có cơ sở pháp lý đầy đủ về hoạt động của HĐND xã

Chức năng của HĐND nói chung và HĐND xã nói riêng được ghi nhận

trong Hiến pháp, đó là chức năng quyết định và chức năng giám sát. Nếu

không thể chế hóa các quy định này bằng các quy định của luật, không quy

định đầy đủ về nhiệm vụ, quyền hạn, phương thức tổ chức, hoạt động... để

thực hiện các chức năng đó trong hoạt động của HĐND thì việc ghi nhận các

chức năng đó trong Hiến pháp chỉ là hình thức. Như vậy, các quy định của

pháp luật về hoạt động của HĐND nói chung, HĐND xã nói riêng có vai trò

52

tạo cơ sở pháp lý để HĐND hoạt động thực hiện chức năng quyết định và

giám sát của mình trong thực tiễn.

Điều đó đã được minh chứng trong thực tiễn phát triển của Luật Tổ

chức chính quyền địa phương. Trước đây, Luật Tổ chức HĐND và UBND

quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND cấp xã là chung, không có sự

phân biệt giữa HĐND xã, phường, thị trấn nên rất khó thực hiện, nhưng khi

Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 quy định đã có sự phân biệt giữa

quyền hạn của HĐND xã, thị trấn với HĐND phường; Luật Tổ chức chính

quyền địa phương năm 2015 quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND

phù hợp với điều kiện, đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, quy định cụ thể

nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND xã, phường, thị trấn. Với việc quy định như

vậy tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho hoạt động của HĐND xã, phường, thị

trấn, qua đó nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của cơ quan quyền lực

nhà nước ở địa phương.

Năm 2015, Quốc hội ban hành Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội

và HĐND, đây là cơ sở pháp lý quan trọng để hoạt động giám sát của HĐND

xã đạt hiệu quả hơn trong thời gian đến, tuy nhiên để thực hiện có hiệu quả

các quy định của các điều luật thì các cơ quan có thẩm quyền cần ban hành

những văn bản cụ thể thực hiện các điều luật của Luật này.

Như vậy, vấn đề đặt ra là muốn nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt

động của HĐND xã thì trước hết phải ban hành đầy đủ các quy định pháp luật

điều chỉnh các mối quan hệ trong tổ chức và hoạt động của HĐND xã như các

quy định cụ thể về cơ cấu, tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Các quy

định đó phải đảm bảo tính đồng bộ, phải cụ thể, rõ ràng, minh bạch, dễ hiểu,

dễ áp dụng, không phải chờ các văn bản pháp lý có hiệu lực thấp hơn hướng

dẫn, giải thích. Có như vậy, HĐND xã mới có cơ sở pháp lý vững chắc để

thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình.

53

1.4.3.3. Chất lượng của đại biểu HĐND xã

HĐND xã gồm các đại biểu HĐND do cử tri ở xã bầu ra, do đó chất

lượng của đại biểu HĐND xã là điều kiện rất quan trọng để bảo đảm cho hoạt

động của HĐND xã có chất lượng, hiệu quả. Điều 115 Hiến pháp 2013 quy

định rõ địa vị pháp lý của đại biểu HĐND: “Đại biểu HĐND là người đại diện

cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân địa phương”[39]. Đại biểu HĐND là

cầu nối quan trọng giữa Nhà nước với nhân dân, vừa chịu trách nhiệm trước

cử tri, vừa chịu trách nhiệm trước cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.

Chính vì vậy, đòi hỏi người đại biểu HĐND xã phải là những người có phẩm

chất, năng lực, trình độ, kỹ năng hoạt động và tinh thần trách nhiệm cao; phải

đảm bảo các tiêu chuẩn đại biểu HĐND theo quy định của Luật Tổ chức

chính quyền địa phương năm 2015.

Để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND xã, để đại biểu

HĐND xã thực sự xứng đáng là người đại biểu nhân dân đòi hỏi mỗi đại biểu

phải không ngừng tự giác rèn luyện trau dồi phẩm chất chính trị, đạo đức cách

mạng, nâng cao trình độ, rèn luyện kỹ năng giám sát, kỹ năng tiếp xúc cử tri, kỹ

năng tổng hợp, phân tích… phát huy tinh thần trách nhiệm được pháp luật quy

định và nhân dân trực tiếp giao cho. Điều này yêu cầu đặt ra trong thời gian đến

cần quan tâm thực hiện việc bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ, kinh nghiệm cho đại

biểu HĐND trong thực hiện trách nhiệm, quyền hạn của mình.

1.4.3.4. Về tổ chức bộ máy của HĐND xã

Bất kỳ cơ quan, tổ chức nào muốn nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt

động thì cần phải tổ chức bộ máy một cách hợp lý và đồng bộ. HĐND xã

muốn nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đòi hỏi phải có một bộ máy đủ

khả năng thực hiện một cách tốt nhất chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được

phân công.

54

Tổ chức bộ máy của HĐND xã gồm Thường trực HĐND và các Ban của

HĐND. Điều 32 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 quy định:

Thường trực HĐND xã gồm Chủ tịch HĐND, một Phó

Chủ tịch HĐND. Phó Chủ tịch HĐND xã là đại biểu HĐND hoạt

động chuyên trách.

HĐND xã thành lập Ban pháp chế, Ban kinh tế - xã hội.

Ban của HĐND xã gồm có Trưởng ban, một Phó Trưởng ban và

các Ủy viên. Số lượng Ủy viên của các Ban của HĐND xã do

HĐND xã quyết định. Trưởng ban, Phó Trưởng ban và các Ủy

viên của các Ban của HĐND xã hoạt động kiêm nhiệm[41].

Theo đó, Thường trực HĐND xã gồm Chủ tịch HĐND và một Phó Chủ

tịch HĐND, Phó Chủ tịch HĐND xã hoạt động chuyên trách; ngoài ra,

HĐND xã thành lập Ban pháp chế, Ban kinh tế - xã hội, thành viên của các

Ban của HĐND xã hoạt động kiêm nhiệm.

Như vậy, để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND xã,

một trong những yếu tố cần quan tâm hoàn thiện là tổ chức bộ máy. Hiện nay

theo quy định của pháp luật, Thường trực HĐND xã có hai thành viên nhưng

chỉ có Phó Chủ tịch HĐND hoạt động chuyên trách, đại đa số Chủ tịch

HĐND hoạt động kiêm nhiệm do Bí thư Đảng ủy xã kiêm nhiệm; đối với các

Ban của HĐND xã thì Trưởng ban, Phó Trưởng ban và các Ủy viên đều hoạt

động kiêm nhiệm. Với cơ cấu tổ chức bộ máy như vậy đòi hỏi phải nâng cao

năng lực hoạt động của Thường trực HĐND xã, nâng cao hiệu quả hoạt động

các Ban của HĐND xã, yêu cầu đặt ra phải có văn bản quy phạm pháp luật

điều chỉnh về hoạt động của các Ban của HĐND xã, tạo cơ sở pháp lý để các

Ban của HĐND xã hoạt động có chất lượng, hiệu quả nhiệm vụ quyền hạn

của mình; quy định cụ thể về trách nhiệm, nhiệm vụ từng thành viên của các

55

Ban, quy định về thời gian hoạt động của các thành viên của các Ban vì các

thành viên này hoạt động kiêm nhiệm.

1.4.3.5. Các điều kiện vật chất đảm bảo cho hoạt động của HĐND xã

Đảm bảo điều kiện vật chất cho hoạt động của HĐND xã là một trong

những điều kiện góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của

HĐND xã. Để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định

của pháp luật, HĐND xã cần phải có phòng làm việc riêng, bố trí sắp xếp hợp

lý nơi làm việc và nơi tiếp cử tri, bố trí không gian hợp lý để cử tri có điều

kiện trực tiếp bày tỏ tâm tư, nguyện vọng của mình đối với HĐND. Bên cạnh

đó, cần phải đầu tư nhiều hơn nữa các trang thiết bị cần thiết phục vụ cho hoạt

động của HĐND xã. Đối với đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách phải

đảm bảo phương tiện thông tin liên lạc, tài liệu, phòng làm việc hợp lý, tương

xứng với trách nhiệm của đại biểu. Đối với các chức danh kiêm nhiệm của

HĐND nên có chế độ thỏa đáng để động viên, khuyến khích họ nâng cao tinh

thần trách nhiệm của mình.

Tăng cường đầu tư chi phí theo yêu cầu của từng nội dung hoạt động.

Nếu có đầu tư thỏa đáng sẽ góp phần tích cực nâng cao chất lượng, hiệu quả

hoạt động của HĐND xã. Tuy nhiên đầu tư chi phí cho hoạt động của HĐND

xã phải tối ưu, đảm bảo đủ mức cần thiết và triệt để tiết kiệm, chống lãng phí.

Theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015,

các điều kiện bảo đảm về cơ sở vật chất, kinh phí cho hoạt động của HĐND

được quan tâm hơn. Điều 103 quy định đại biểu HĐND hoạt động chuyên

trách được bố trí nơi làm việc, được trả lương, phụ cấp và hưởng các chế độ

hỗ trợ cho hoạt động của đại biểu HĐND; đại biểu HĐND được cấp phí hoạt

động hằng tháng và được hỗ trợ các điều kiện cần thiết khác cho hoạt động

của đại biểu. Điều 103 cũng quy định Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ

Quốc hội quy định cụ thể chế độ, chính sách và điều kiện bảo đảm cho hoạt

56

động của đại biểu HĐND. Về trụ sở làm việc, kinh phí hoạt động của HĐND

được quy định tại Điều 126 của Luật Tổ chức chính quyền địa phương.

Hoạt động của HĐND có tính đặc thù, các khoản chi phục vụ tập trung

vào một số nội dung chủ yếu, như: Phục vụ các kỳ họp; phụ cấp phí hoạt động

hằng tháng cho đại biểu; hỗ trợ công tác tổ chức và phục vụ hoạt động tiếp

xúc cử tri; kinh phí cho công tác tiếp dân, xử lý đơn thư kiến nghị, khiếu nại,

tố cáo của công dân; kinh phí và xăng xe phục vụ hoạt động giám sát của

Thường trực, các Ban HĐND và một số hoạt động liên quan khác. Nội dung

chi, định mức chi của HĐND mỗi nơi còn có điểm khác nhau, phụ thuộc

nhiều vào khả năng bố trí ngân sách của mỗi địa phương. Nhìn chung, kinh

phí cho hoạt động của HĐND còn khó khăn, đặc biệt là các địa phương có

nguồn thu thấp.

Như vậy, để nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND xã đòi hỏi phải

đầu tư, chi phí thỏa đáng cho hoạt động này. Đảm bảo các điều kiện cần thiết,

chế độ chính sách hợp lý là một trong những yếu tố quan trọng đem lại chất

lượng, hiệu quả cho hoạt động của HĐND xã.

57

Kết luận chương 1

HĐND xã là cơ quan quyền lực nhà nước ở xã, đại diện cho ý chí,

nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân

dân trong xã và cơ quan nhà nước cấp trên; HĐND xã thực hiện hai chức

năng cơ bản là quyết định và giám sát. Trong xu hướng hiện nay, Nhà nước ta

đang thực hiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân

dân, do nhân dân, vì nhân dân; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; mở

cửa và hội nhập quốc tế sâu rộng. Do đó, vấn đề nâng cao chất lượng, hiệu

quả hoạt động của bộ máy nhà nước là rất cần thiết. Vì vậy, việc nâng cao

chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND cấp xã nói chung và HĐND xã nói

riêng là tất yếu khách quan; để hoạt động của HĐND xã đạt chất lượng, hiệu

quả đòi hỏi phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện và thực hiện tốt tất cả các nội

dung trên.

58

Chương 2:

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA HĐND XÃ

Ở HUYỆN TÂY HÒA, TỈNH PHÚ YÊN

2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội của

huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên

2.1.1. Về điều kiện tự nhiên

Vị trí địa lý: Tây Hòa là một huyện thuộc tỉnh Phú Yên, được thành lập

theo Nghị định số 62/2005/NĐ-CP ngày 16/5/2005 của Chính Phủ và chính

thức đi vào hoạt động ngày 01/7/2005; nằm phía Tây Nam của tỉnh Phú Yên; có tọa độ: 12045’07” đến 12045’15” Vĩ độ Bắc, 109015’13” đến 109015’29”

Kinh độ Đông. Phía Bắc giáp huyện Phú Hòa và Sơn Hòa; phía Đông giáp

huyện Đông Hòa; phía Tây giáp huyện Sông Hinh; phía Nam giáp huyện Vạn

Ninh (tỉnh Khánh Hoà)[48].

Về địa hình: Huyện Tây Hòa nằm ở sườn Đông của dãy Trường Sơn,

nơi tiếp giáp giữa đồng bằng và miền núi với nhiều dãy núi cao và đồi núi

thấp. Tây Hòa có hai dạng địa hình: Vùng đồi núi nằm về phía Nam, trải dài

từ Tây sang Đông, chiếm trên 50% diện tích tự nhiên, độ cao trung bình 500 –

600m so với mặt nước biển, các núi có độ cao lớn tập trung ở xã Hòa Mỹ

Tây: Hòn Giù (1.470 m), Hòn Chúa (1.310 m), Hòn Kỳ Đà (1.193 m), Hòn

Ông (1.110 m), Hòn Chảo (742 m); địa hình phức tạp, độ đốc lớn và chia cắt

mạnh; có một số hang động tự nhiên có giá trị về lĩnh vực quân sự quốc

phòng. Vùng đồng bằng nằm về phía Bắc, trải dài từ Tây sang Đông, chiếm

gần 50% diện tích tự nhiên. Phía Tây là vùng đất đỏ Bazan có độ cao trung

bình từ 30 - 40m, phù hợp cho phát triển cây công nghiệp ngắn và dài ngày.

Phía Đông là vùng đất phù sa, đây là vùng đồng bằng, trồng lúa lớn của tỉnh,

sản lượng lúa bình quân hằng năm chiếm gần 1/3 tổng sản lượng lúa toàn tỉnh

(trên 99.000/320.000 tấn), ngoài bảo đảm an ninh lương thực tại chỗ còn cung

59

cấp cho các vùng khác; đồng thời dọc theo các bờ sông, tương lai sẽ là vành

đai rau xanh của tỉnh, với sự bồi lắng phù sa của sông Ba (Đà Rằng) và sông

Bánh Lái (Bàn Thạch)[48].

Đơn vị hành chính: Huyện Tây Hòa có 10 xã và thị trấn Phú Thứ, trong

đó có 06 xã đồng bằng là Hòa Bình 1, Hòa Phong, Hòa Phú, Hòa Mỹ Đông,

Hòa Đồng, Hòa Tân Tây; 04 xã miền núi là Hòa Thịnh, Hòa Mỹ Tây, Sơn

Thành Đông và Sơn Thành Tây. Trung tâm của huyện nằm trên địa bàn thị

trấn Phú Thứ, là trung tâm hành chính, chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội,

quốc phòng - an ninh của huyện.

Diện tích tự nhiên là 62.375,16ha, trong đó: Đất sản xuất nông nghiệp

16.241,50ha, chiếm 26,04%; đất lâm nghiệp 37.409,20ha, chiếm 59,97%; đất

chuyên dung 3.297,02ha, chiếm 5,29%, đất ở 711,89ha, chiếm 1,14%[1].

Về dân số: Dân số trung bình 119.247 người, trong đó: Nam 59.723

người, nữ 59.524 người. Dân số trung bình thành thị phân theo xã/thị trấn

thuộc huyện 13.715 người, dân số trung bình nông thôn phân theo xã/thị trấn thuộc huyện 105.532 người. Mật độ dân số trung bình 191 người/km2[1].

Đồng bào dân tộc thiểu số có 581 người, gồm 11 dân tộc: Ê Đê, Tày, Nùng,

Ba Na, Chăm, Chăm H'roi, Thái, Hoa, Prai, Mường, Tà Ôi (chủ yếu sống tập

trung ở 02 thôn: Lạc Đạo, Đá Mài thuộc xã Sơn Thành Tây).

Nhìn chung, đất đai của huyện Tây Hòa chiếm phần lớn là đất nông

nghiệp và đất lâm nghiệp. Thế mạnh của huyện là trồng cây lương thực,

lúa nước, nuôi trồng thuỷ sản (trên diện tích chuyên nuôi và diện tích xen

canh một lúa, một cá). Ngoài ra, đất đai của huyện còn tạo thuận lợi cho

phát triển các loại cây công nghiệp dài ngày như hồ tiêu, cây ăn trái. Định

hướng đến năm 2020 huyện Tây Hòa vẫn là huyện nông nghiệp, diện tích

đất sử dụng cho nông nghiệp chiếm 79,56% so với tổng diện tích tự nhiên

của huyện.

60

2.1.2. Về kinh tế - xã hội, quốc phòng – an ninh

Về kinh tế: Là huyện mới được thành lập năm 2005, với sự nổ lực phấn

đấu vượt qua khó khăn của cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, kết cấu hạ

tầng của huyện từng bước được đầu tư xây dựng, nâng cấp hoàn thiện, tình

hình kinh tế - xã hội của địa phương ngày càng phát triển, đời sống nhân dân

từng bước được nâng lên.

Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2011-2015 (theo giá cố

định 1994) đạt 12,54%/năm [32, tr.5]. Năm 2016, tốc độ tăng giá trị sản xuất

đạt 7,58%; thu nhập bình quân đầu người (theo giá hiện hành) đạt 27,37 triệu

đồng. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng, ngành Nông nghiệp

chiếm tỷ trọng 32,04%, Công nghiệp – Xây dựng chiếm 34,73%, Dịch vụ

chiếm 33,23%. Thu ngân sách nhà nước năm 2016 đạt 102,891 tỷ đồng, tăng

53,51% so năm 2015[33].

Sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp duy trì được sự tăng trưởng ổn định.

Tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, giống mới, cơ giới hoá

vào sản xuất, giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích canh tác được nâng lên.

Công nghiệp - xây dựng có bước phát triển khá, giá trị sản xuất năm 2016 (giá so

sánh năm 2010) đạt 1.478 tỷ đồng. Các cơ sở sản xuất Công nghiệp - TTCN phát

triển về số lượng, hoạt động ổn định và hiệu quả. Vốn đầu tư phát triển toàn xã

hội trong 5 năm (2011-2015) đạt 3.881 tỷ đồng [32, tr.7]; năm 2016 đạt 1.390 tỷ

đồng [33]. Dịch vụ phát triển khá nhanh, chất lượng được nâng lên đáp ứng tốt

hơn cho sản xuất và đời sống nhân dân; giá trị sản xuất năm 2016 (theo giá so

sánh năm 2010) đạt 1.592,906 tỷ đồng [36]. Các thành phần kinh tế trên địa bàn

huyện phát triển theo đúng quy định của pháp luật. Kinh tế hợp tác xã được củng

cố, đổi mới, từng bước hoạt động hiệu quả theo Luật Hợp tác xã năm 2012. Kinh

tế tư nhân, kinh tế hộ gia đình phát triển nhanh. Toàn huyện có: 102 doanh

nghiệp đang hoạt động; 2.072 hộ kinh doanh cá thể.

61

Huyện đã triển khai thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu Quốc

gia về xây dựng nông thôn mới. Các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương đã

tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, đạt kết quả quan trọng, nổi bật là việc bê

tông hóa đường giao thông nông thôn được nhân dân đồng tình hưởng ứng, trở

thành phong trào lớn của huyện, kết quả đã bê tông hóa được 382,794km, đặc

biệt thực hiện Nghị quyết số: 75/2013/NQ-HĐND ngày 29/3/2013 của HĐND

tỉnh Phú Yên về đề án bê tông hóa đường giao thông nông thôn tỉnh Phú Yên

giai đoạn 2013-2015, trong 03 năm (2013, 2014 và 2015) đã làm được

361,632km; bình quân mỗi xã, thị trấn đạt hơn 34,8km, tăng gấp 11,6 lần so chỉ

tiêu nghị quyết. Đến cuối năm 2016, bình quân mỗi xã đạt 18,5 tiêu chí, có 08 xã

được UBND tỉnh Phú Yên công nhận "Xã đạt chuẩn nông thôn mới"[33].

Về văn hóa – xã hội:

Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa được triển

khai sâu rộng nhận được sự ủng hộ tích cực của người dân, hàng năm có

khoảng 85% số hộ gia đình, 89% số thôn, khu phố và 100% cơ quan được

công nhận danh hiệu văn hóa.

Quy mô, chất lượng giáo dục đào tạo được nâng lên. Giữ vững huyện

đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục, xóa mù chữ. Cơ sở vật chất, thiết bị

trường học được đầu tư theo hướng chuẩn quốc gia. Đến năm 2015, toàn

huyện có 21 trường đạt chuẩn quốc gia. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý

giáo dục đều có trình độ chuyên môn đạt chuẩn và trên chuẩn. Phong trào

khuyến học, khuyến tài tiếp tục được đẩy mạnh, đạt kết quả thiết thực.

Việc ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản xuất

và đời sống được đẩy mạnh, nhất là trong nông nghiệp góp phần tăng năng

suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi, thúc đẩy phát triển sản xuất và phục vụ

thiết thực đời sống nhân dân. Các phần mềm ứng dụng phục vụ cho công tác

quản lý theo các chuyên ngành được áp dụng rộng rãi trong các cơ quan, đơn

62

vị; tỷ lệ gửi, nhận văn bản điện tử giữa các cơ quan, đơn vị thay thế văn bản

giấy đạt khoảng 40%. Quản lý khoa học, công nghệ có tiến bộ; đội ngũ cán bộ

khoa học kỹ thuật phát triển cả số lượng và chất lượng.

Tỷ lệ lao động được đào tạo nghề tăng từ 25,27% năm 2010 lên 40%

năm 2015, đạt 100% chỉ tiêu; trong 05 năm giải quyết việc làm mới cho

15.659 lao động, vượt 1,03% chỉ tiêu. Nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở

khu vực nông thôn lên 87% năm 2015. Công tác giảm nghèo, chăm sóc

thương binh, gia đình liệt sỹ, người có công; bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ

em được triển khai thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng quy định. Xây dựng 416

nhà ở cho hộ nghèo, với tổng số tiền hơn 7,5 tỷ đồng; tỷ lệ hộ nghèo năm

2015 ước giảm xuống còn 2,78%; công tác bình đẳng giới được triển khai

thực hiện có hiệu quả.

Công tác y tế, dân số - kế hoạch hoá gia đình có nhiều tiến bộ; y tế dự

phòng được đẩy mạnh, khống chế và ngăn chặn kịp thời các dịch bệnh. Năm

2015 có 11/11 xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế; 05/11 trạm y tế xã, thị

trấn có bác sỹ; tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt 60% so dân số; tỷ lệ

trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm xuống còn 12,8%, tỷ lệ tăng dân số tự

nhiên đạt 1,1%.

An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; phát hiện và chỉ

đạo giải quyết kịp thời, có hiệu quả các vụ, việc phức tạp về an ninh trật tự

trên địa bàn; công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và đảm bảo an toàn

giao thông có chuyển biến tốt. Phong trào toàn dân tham gia bảo vệ an ninh

Tổ quốc được đẩy mạnh, có hiệu quả. 100% số xã, thị trấn vững mạnh về an

ninh - quốc phòng, trong đó có 60% số xã, thị trấn vững mạnh toàn diện.

* Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn những hạn chế, khuyết

điểm đó là: Năng lực cạnh tranh của các thành phần kinh tế còn thấp, chuyển

đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp còn

63

chậm; việc triển khai thực hiện các mô hình trong vùng kinh tế chưa rõ nét,

chưa có sự đột phá, liên kết hỗ trợ giữa các vùng; công tác quản lý, bảo vệ

rừng chưa tốt; thu ngân sách thiếu bền vững; quản lý nhà nước về tài nguyên,

môi trường có lúc, có nơi chưa chặt chẽ; công tác giảm nghèo, đào tạo nghề

và giải quyết việc làm ở một số xã chưa bền vững; chất lượng công tác bảo

vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân còn thấp; hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà

nước trên một số lĩnh vực chưa cao.

Như vậy, với những thuận lợi do điều kiện tự nhiên và những kết quả

đạt được trong phát triển kinh tế - xã hội đã động tích cực đến hoạt động của

các cấp chính quyền địa phương trên địa bàn huyện Tây Hòa. Tuy nhiên, kết

quả phát triển kinh tế - xã hội của huyện vẫn còn những hạn chế, khuyết điểm,

chưa tương xứng với thế mạnh của điều kiện tự nhiên, xã hội. Vấn đề đặt ra là

cần phải có những chủ trương, giải pháp phù hợp để kinh tế - xã hội trên địa

bàn huyện phát triển nhanh, bền vững, biến cơ hội thành hiện thực.

Thông qua những thuận lợi về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, quốc

phòng – an ninh đem lại, cũng như những hạn chế, khuyết điểm trong phát

triển kinh tế - xã hội chung của huyện đã có những tác động đối với hoạt động

của HĐND các xã trên địa bàn huyện. Nắm bắt các điều kiện trên giúp cho

HĐND xã có thể chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch hoạt động, nội

dung giám sát phù hợp, từ đó nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động để phát

triển kinh tế - xã hội của xã nhanh, bền vững, tương xứng với điều kiện của

từng xã. Vấn đề trên cũng đòi hỏi mỗi đại biểu HĐND xã phải không ngừng

nâng cao tinh thần trách nhiệm, năng lực, kỹ năng hoạt động, đề xuất những

nhiệm vụ, giải pháp phù hợp để phát triển kinh tế - xã hội của địa phương,

góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND xã.

2.2. Thực trạng về tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân xã ở

huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên

64

2.2.1. Thực trạng về cơ cấu, tổ chức của Hội đồng nhân dân xã ở huyện

Tây Hòa, tỉnh Phú Yên từ năm 2011 đến nay

Huyện Tây Hòa gồm có 10 xã, tổng số đại biểu HĐND xã được cử tri 10

xã bầu trong nhiệm kỳ 2011-2016 là 280 đại biểu, nhiệm kỳ 2016 – 2021 là 283

đại biểu, các đại biểu HĐND xã được bầu đều đảm bảo tiêu chuẩn của đại biểu

HĐND theo quy định của pháp luật. Cơ cấu từng nhiệm kỳ như sau:

Nhiệm kỳ 2011-2016: Tổng số đại biểu HĐND 10 xã trên địa bàn

huyện là 280 đại biểu, cơ cấu như sau: Đại biểu công tác tại cơ quan Đảng 24

đại biểu, tỷ lệ 8,57%; chính quyền 87 đại biểu, tỷ lệ 31,07%; MTTQ và các tổ

chức thành viên 42 đại biểu, tỷ lệ 15%; các thôn 87 đại biểu, tỷ lệ 31,07 %;

các thành phần khác (Y tế, Giáo dục, Hợp tác xã) 40 đại biểu, tỷ lệ 14,29%.

Đại biểu không phải là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam 26 đại biểu, tỷ lệ

9,29%; đại biểu nữ 47 đại biểu, tỷ lệ 16,79%; đại biểu tái cử 129 đại biểu, tỷ

lệ 46,07% (Cơ cấu, số lượng cụ thể từng xã theo phụ lục 2.1 kèm theo).

Nhiệm kỳ 2016 - 2021: Tổng số đại biểu HĐND 10 xã trên địa bàn

huyện 283 đại biểu, cơ cấu như sau: Đại biểu công tác tại cơ quan Đảng 27

đại biểu, tỷ lệ 9,54%; chính quyền 99 đại biểu, tỷ lệ 34,98%; MTTQ và các tổ

chức thành viên 46 đại biểu, tỷ lệ 16,26%; các thôn 81 đại biểu, tỷ lệ 28,62%;

các thành phần khác (Y tế, Giáo dục, Hợp tác xã) 30 đại biểu, tỷ lệ 10,60%.

Đại biểu không phải là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam 22 đại biểu, tỷ lệ

7,77%; đại biểu nữ 55 đại biểu, tỷ lệ 19,43%; đại biểu tái cử 145 đại biểu, tỷ

lệ 46,07% (Cơ cấu, số lượng cụ thể từng xã theo phụ lục 2.2 kèm theo).

Từ kết quả trên cho thấy: Cơ cấu đại biểu HĐND xã trên địa bàn huyện

tương đối hợp lý, chú trọng tỷ lệ đại biểu nữ, ngoài đảng, đại biểu đại diện

cho các lĩnh vực y tế, giáo dục, Hợp tác xã. Tuy nhiên số lượng đại biểu là

người ngoài Đảng chiếm tỉ lệ còn thấp, tỷ lệ chưa được 10% và có chiều

hướng giảm (nhiệm kỳ 2016 – 2021 số lượng đại biểu là người ngoài Đảng

65

chiếm tỷ lệ 7,77% thấp hơn so với nhiệm kỳ 2011 – 2016); đại biểu hoạt động

trong bộ máy chính quyền của xã còn chiếm tỷ lệ cao (nhiệm kỳ 2011-2016:

87 đại biểu, tỷ lệ 31,07%; nhiệm kỳ 2016-2021: 99 đại biểu, tỷ lệ 34,98%),

các đại biểu này chủ yếu thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, dành thời gian thực

hiện nhiệm vụ đại biểu HĐND còn ít, do đó sẽ hạn chế trong phát huy vị trí,

vai trò của người đại biểu đại diện cho nhân dân, thời gian để tiếp xúc, gặp gỡ

người dân để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng sẽ bị hạn chế; đồng thời các đại

biểu này có thể bị tác động, chi phối bởi cán bộ lãnh đạo của xã ảnh hưởng

đến hoạt động của đại biểu; mặt khác nhiều đại biểu là cán bộ, chuyên môn

trong bộ máy chính quyền xã, điều này ảnh hưởng đến tính đại diện và hiệu

quả hoạt động giám sát của HĐND xã.

Về độ tuổi của đại biểu HĐND xã trong hai nhiệm kỳ như sau: Nhiệm

kỳ 2011-2016: Tổng số đại biểu 280 đại biểu, trong đó: Đại biểu dưới 35 tuổi

66 đại biểu, chiếm 23,57%; đại biểu từ 35 đến 50 tuổi 173 đại biểu, chiếm tỷ

lệ 61,79%; đại biểu trên 50 tuổi 41 đại biểu, chiếm tỷ lệ 14,64%. Nhiệm kỳ

2016-2021: Tổng số đại biểu 283 đại biểu, trong đó: Đại biểu dưới 35 tuổi 74

đại biểu, chiếm 26,15%; đại biểu từ 35 đến 50 tuổi 142 đại biểu, chiếm tỷ lệ

50,18%; đại biểu trên 50 tuổi 67 đại biểu, chiếm tỷ lệ 23,67% (Số lượng cơ

cấu độ tuổi từng xã theo phụ lục 2.3 kèm theo).

Cơ cấu độ tuổi đại biểu HĐND xã trên địa bàn huyện Tây Hòa khá hợp

lý, đại biểu trẻ tuổi chiếm tỷ lệ cao (nhiệm kỳ 2011-2016, chiếm 23,57%,

nhiệm kỳ 2016-2021, chiếm 25,09%), nhiệm kỳ sau số lượng nhiều hơn

nhiệm kỳ trước. Việc tỷ lệ đại biểu trẻ tuổi tăng có ưu điểm là có trình độ,

nhạy bén trong công việc, tuy nhiên hạn chế là thiếu kinh nghiệm hoạt động

thực tiễn. Tỷ lệ đại biểu trong độ tuổi từ 35 – 50 tuổi chiếm trên 50%, đây là

những người trong độ chín, độ tuổi này đã trải qua hoạt động thực tiễn nên

cũng đã có kinh nghiệm trong công tác, trong tiếp xúc với nhân dân. Tỷ lệ đại

66

biểu trên 50 tuổi chiếm 14,64% (nhiệm kỳ 2011-2016) và chiếm 23,67%

(nhiệm kỳ 2016-2021), đây là những đại biểu đa phần là tái cử, có nhiều kinh

nghiệm trong hoạt động thực tiễn, những đại biểu này truyền đạt kinh nghiệm

cho các đại biểu trẻ trong việc thực hiện nhiệm vụ người đại biểu nhân dân,

tuy nhiên phần lớn số đại biểu này trình độ hạn chế, độ nhanh nhạy không

như trước, cập nhập thông tin chậm… Song với cơ cấu hợp lý giữa ba độ tuổi,

độ tuổi của đại biểu HĐND xã từ 35 trở lên tương đối cao, họ đã có bề dày

kinh nghiệm cuộc sống, góp phần quan trọng để thực hiện tốt nhiệm vụ của

người đại biểu nhân dân, qua đó nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của

HĐND xã.

Về trình độ học vấn và trình độ chuyên môn của đại biểu HĐND xã:

Nhiệm kỳ 2011-2016: Về trình độ học vấn: 76 đại biểu tốt nghiệp THCS, chiếm

27,14%; 204 đại biểu tốt nghiệp THPT, chiếm 72,86%. Trình độ chuyên môn:

Đại học 65 đại biểu, chiếm 23,21%; Cao đẳng, Trung cấp 88 đại biểu, chiếm

31,43%; chưa qua đào tạo chuyên môn 127 đại biểu, chiếm 45,36%. Trình độ lý

luận chính trị: Cao cấp 04 đại biểu, chiếm 1,43%; Trung cấp 129 đại biểu, chiếm

46,07%; Sơ cấp 48 đại biểu, chiếm 17,14%; chưa qua đào tạo 99 đại biểu, chiếm

35,36% (Cụ thể từng xã theo phụ lục 2.4 kèm theo).

Nhiệm kỳ 2016 – 2021: Về trình độ học vấn: có 38 đại biểu trình độ

THCS, chiếm 13,43%; 245 đại biểu tốt nghiệp THPT, chiếm 86,57%. Trình

độ chuyên môn: Sau đại học 02 đại biểu, chiếm 0,71%; Đại học 127 đại biểu,

chiếm 44,88%; Cao đẳng, Trung cấp 85 đại biểu, chiếm 30,04%; chưa qua

đào tạo chuyên môn 69 đại biểu, chiếm 24,37%. Trình độ lý luận chính trị:

Cao cấp 09 đại biểu, chiếm 3,18%; Trung cấp 155 đại biểu, chiếm 54,77%;

Sơ cấp 38 đại biểu, chiếm 13,43%; chưa qua đào tạo 81 đại biểu, chiếm

28,62% (Cụ thể từng xã theo phụ lục 2.5 kèm theo).

67

Qua kết quả bầu cử đại biểu HĐND xã ở huyện Tây Hòa trong hai

nhiệm kỳ (2011 - 2016 và 2016 - 2021) cho thấy chất lượng của đại biểu

HĐND xã ở huyện Tây Hòa ngày càng tăng, điều này tạo điều kiện thuận lợi

cho các đại biểu hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, góp phần nâng cao vị thế

của HĐND ở chính quyền địa phương. Bên cạnh đó, tỷ lệ đại biểu chưa qua

đào tạo vẫn còn chiếm tỷ lệ khá cao, vấn đề này có ảnh hưởng nhất định đến

chất lượng, hiệu quả hoạt động của đại biểu HĐND và HĐND xã. Vấn đề đặt

ra là cần phải có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, lý luận chính trị

cho số đại biểu này để đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ của người đại

biểu nhân dân.

Về tổ chức bộ máy của HĐND các xã: Căn cứ quy định của Luật Tổ

chức HĐND và UBND năm 2003 (nhiệm kỳ 2011-2016) và Luật Tổ chức

chính quyền địa phương năm 2015 (nhiệm kỳ 2016-2021), tại kỳ họp thứ

nhất, HĐND các xã trong huyện đã bầu đủ số lượng thành viên Thường trực

HĐND gồm Chủ tịch, một Phó Chủ tịch HĐND. Chủ tịch HĐND xã là Bí thư

Đảng ủy kiêm nhiệm, Phó Chủ tịch HĐND xã hoạt động chuyên trách. Việc

Bí thư Đảng ủy kiêm Chủ tịch HĐND xã đã góp phần tăng cường được sự

lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với hoạt động của HĐND.

Ngoài ra, theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015,

HĐND xã nhiệm kỳ 2016-2021 được thành lập Ban pháp chế và Ban kinh tế -

xã hội, hoạt động của các Ban của HĐND xã sẽ góp phần nâng cao chất

lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND xã, tuy nhiên thành viên các Ban của

HĐND xã là kiệm nhiệm nên trong quá trình hoạt động sẽ gặp những khó

khăn nhất định về thời gian, chịu sự tác động, chi phối trong hoạt động

chuyên môn, ảnh hưởng đến hoạt động giám sat và thẩm định.

68

Về trình độ chuyên môn và trình độ lý luận chính trị của Thường trực

HĐND xã ở huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên nhiệm kỳ 2011-2016 và nhiệm kỳ

2016- 2021:

Trình độ chuyên môn Lý luận chính trị

Nhiệm kỳ

Chức vụ Tổng số Đại học Cao cấp Trung cấp Sơ cấp Chƣa qua đào đào tạo Cao đẳng, Trung cấp

10 / Chủ tịch HĐND 2 (20%) 7 (70%) 1 (10%) 10 (100%)

2011-2016

/ 10 / 9 (90%) 1 (10%) 8 (80%) 2 (20%) Phó Chủ tịch HĐND

10 / / / Chủ tịch HĐND 10 (100%) 8 (80%) 2 (20%)

Phó Chủ 1 9 10 / / / 2016-2021 tịch 10 (90%) (10%) (100%)

HĐND Nguồn: Tổng hợp từ HĐND các xã ở huyện Tây Hòa

Qua số liệu trên cho thấy, trình độ chuyên môn và lý luận chính trị của

Thường trực HĐND xã được nâng lên, nhiệm kỳ sau cao hơn nhiệm kỳ trước,

cụ thể: nhiệm kỳ 2011-2016 có 02 người có trình độ chuyên môn là Đại học,

02 người chưa qua đào tạo, đến nhiệm kỳ 2016-2021 có 19 người có trình độ

chuyên môn đại học, 01 người trình độ trung cấp; về lý luận chính trị, nhiệm

kỳ 2011-2016 có 18 người có trình độ trung cấp, 02 người trình độ sơ cấp,

đến nhiệm kỳ 2016-2021 có 08 người trình độ cao cấp, 12 người trình độ

trung cấp. Với trình độ của Thường trực HĐND xã như vậy là điều kiện thuận

lợi để Thường trực HĐND xã thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn của mình,

góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Thường trực HĐND

xã trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND xã.

69

2.2.2. Thực trạng hoạt động của Hội đồng nhân dân xã ở huyện Tây Hòa,

tỉnh Phú Yên từ năm 2011 đến nay.

2.2.2.1. Kỳ họp của Hội đồng nhân dân xã

Xác định kỳ họp HĐND là hình thức hoạt động chủ yếu và quan trọng

của HĐND xã, trong thời gian qua HĐND xã ở huyện Tây Hòa đã tổ chức các

kỳ họp theo đúng quy định của Hiến pháp và pháp luật. Ngoài hai kỳ họp

thường lệ hàng năm, HĐND một số xã đã tổ chức các kỳ họp bất thường để

giải quyết những vấn đề quan trọng mang tính cấp thiết, bức xúc tại địa

phương. Trong nhiệm kỳ 2011-2016, HĐND các xã đã tổ chức 124 kỳ họp,

trong đó có 13 kỳ họp bất thường; nhiệm kỳ 2016-2021, HĐND các xã đã tổ

chức 30 kỳ họp. Các kỳ họp của HĐND xã được tổ chức theo đúng quy định

của pháp luật, chủ yếu là họp công khai, thời gian họp 01 ngày. Công tác

chuẩn bị, xây dựng nội dung, chương trình kỳ họp đúng quy trình quy định,

đảm bảo chất lượng, hiệu quả. Trước kỳ họp, Thường trực HĐND xã phối

hợp với UBND xã thống nhất dự kiến chương trình, nội dung, phân công

chuẩn bị các báo cáo và các điều kiện đảm bảo cho kỳ họp; phối hợp UBND

và Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam xã tổ chức cho đại biểu HĐND

xã tiếp xúc cử tri (trước đây theo Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003

và Quy chế hoạt động của HĐND ban hành kèm theo Nghị quyết số

753/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 02/4/2005 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội

khóa XI, HĐND xã thành lập các Tổ đại biểu, Tổ đại biểu tiếp xúc cử tri theo

chỉ đạo của HĐND xã và sự phối hợp của Ủy ban MTTQ xã).

Các báo cáo trình ra kỳ họp HĐND xã được Thường trực HĐND,

UBND, MTTQ Việt Nam xã chuẩn bị chu đáo. Đại biểu tham gia kỳ họp phát

huy dân chủ thẳng thắn phát biểu ý kiến. Chủ tọa kỳ họp đã phát huy vai trò

trong định hướng nội dung cần thảo luận, làm rõ để thống nhất ra nghị quyết.

Việc chất vấn và trả lời chất vấn được tiến hành nghiêm túc tại kỳ họp đảm

70

bảo phát huy dân chủ; các ý kiến chất vấn được trả lời nghiêm túc, rõ ràng,

đáp ứng cơ bản yêu cầu người chất vấn. Các nghị quyết của HĐND xã cơ bản

đã đáp ứng được yêu cầu của địa phương, thể hiện được vai trò là cơ quan

quyền lực nhà nước ở địa phương.

Tuy nhiên, với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND xã theo

quy định của pháp luật là rất rộng, với nhiều lĩnh vực khác nhau nhưng thời

gian mỗi kỳ họp quá ngắn, chỉ trong một ngày nên dẫn đến một số vấn đề

chưa được bàn bạc thảo luận đầy đủ đã đưa ra nghị quyết thực hiện, dẫn đến

nghị quyết có thể không phù hợp với thực tiễn, khó thực hiện; mặt khác các

nghị quyết chỉ điều chỉnh một số lĩnh vực, còn nhiều lĩnh vực khác chưa được

đưa ra bàn bạc, thảo luận. Công tác xây dựng nghị quyết của HĐND ở một số

xã chưa được quan tâm đúng mức, chưa bảo đảm quy trình xây dựng và tính

dân chủ trong việc lấy ý kiến nhân dân về một số vấn đề quan trọng theo quy

định của pháp luật. Một số báo cáo trình ra kỳ họp chất lượng chưa cao. Các

đại biểu HĐND chưa quan tâm phát biểu thảo luận, tranh luận để xây dựng

nghị quyết.

2.2.2.2. Hoạt động của Thường trực HĐND xã

Thường trực HĐND xã do HĐND xã bầu ra theo nhiệm kỳ của HĐND,

gồm Chủ tịch và một Phó Chủ tịch. Thường trực HĐND xã giữ vai trò quan

trọng trong việc điều hòa, phối hợp, duy trì các hoạt động của HĐND. Trong

thời gian qua, Thường trực HĐND xã đã khẳng định được vị trí, vai trò của

mình: hoạt động thường xuyên, đảm bảo việc tổ chức các hoạt động của HĐND

giữa hai kỳ họp, đảm bảo sự giám sát thường xuyên của HĐND với UBND. Chủ

tịch HĐND xã đã phối hợp với UBND trong việc chuẩn bị các nội dung điều

kiện cho kỳ họp, thực hiện tốt nhiệm vụ chủ tọa, điều hành các kỳ họp, đảm bảo

để các kỳ họp của HĐND thực hiện đúng chương trình đề ra, phát huy tính dân

chủ trong mỗi kỳ họp. Thường trực HĐND đã làm tốt nhiệm vụ điều hoà, giữ

71

mối liên hệ với các đại biểu, báo cáo hoạt động của mình lên cấp huyện. Công

tác tiếp dân, đôn đốc việc giải quyết, trả lời đơn thư khiếu nại, tố cáo của công

dân đã được Thường trực HĐND quan tâm hơn.

Thường trực HĐND xã đã chủ động phối hợp với UBND, Ban Thường

trực Ủy ban MTTQ Việt Nam xã thống nhất về thời gian tổ chức kỳ họp,

chuẩn bị nội dung, chương trình và các điều kiện cho kỳ họp. Phân công

nhiệm vụ và giao cho các cơ quan có liên quan chuẩn bị các báo cáo, tờ trình,

dự thảo Nghị quyết gửi về Thường trực HĐND xã để thẩm định.

Trước và sau các kỳ họp HĐND xã, Thường trực HĐND xã đã phối

hợp với Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam xã tổ chức hội nghị với

Tổ trưởng các tổ đại biểu HĐND xã để triển khai kế hoạch tiếp xúc cử tri

chuẩn bị cho kỳ họp HĐND và báo cáo kết quả kỳ họp. Tuy nhiên, hiện nay

theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 thì xã

không thành lập Tổ đại biểu nên mối quan hệ giữa các đại biểu HĐND trên

một đơn vị bầu cử sẽ không thường xuyên và việc phân công đại biểu đại diện

để thông tin tình hình liên quan đến kỳ họp không thuận lợi, không có sự bàn

bạc giữa các đại biểu. Vấn đề đặt ra là cần có văn bản điều chỉnh hoạt động

của các đại biểu HĐND ở từng đơn vị bầu cử (địa bàn ứng cử).

Thường trực HĐND xã đã thực hiện tốt việc giữ mối liên hệ thường

xuyên với đại biểu HĐND, đôn đốc và theo dõi được việc thực hiện chính

sách đối với đại biểu HĐND; đồng thời thực hiện tốt các mối quan hệ với các

cơ quan hữu quan. Tuy nhiên, trên thực tế hoạt động của Thường trực HĐND

xã còn nhiều hạn chế: hoạt động của Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND xã chưa

tương xứng với vị trí pháp lý được quy định trong luật. Thường trực chủ yếu

làm nhiệm vụ triệu tập và chủ tọa các kỳ họp còn các nhiệm vụ khác hầu như

ít được thực hiện hoặc được thực hiện mang hình thức. Thường trực HĐND

chưa đáp ứng được những điều kiện cung cấp thông tin kịp thời cho đại biểu,

72

tiến hành kỳ họp chưa thực sự có hiệu quả. Trong các kỳ họp, tiếp xúc cử tri,

công tác tổ chức giới thiệu đại biểu, trình bày báo cáo đã chiếm quá nhiều

thời gian, thời gian còn lại không đủ để đại biểu phát biểu thảo luận, bên cạnh

đó ưu tiên cán bộ lãnh đạo phát biểu; trong các cuộc tiếp xúc cử tri muốn

phản ánh bày tỏ nguyện vọng cũng không còn thời gian. Một trong những

nguyên nhân dẫn đến những hạn chế là pháp luật quy định cho HĐND xã

nhiều nhiệm vụ, quyền hạn mà giữa hai kỳ họp thực tế hoạt động của HĐND

xã chỉ gồm Chủ tịch và một Phó Chủ tịch HĐND xã, trong đó Phó Chủ tịch

hoạt động chuyên trách còn Chủ tịch HĐND thường là Bí thư Đảng uỷ kiêm

nhiệm. Do đó, hiệu quả hoạt động của HĐND xã phụ thuộc nhiều vào tinh

thần trách nhiệm của Phó Chủ tịch HĐND chuyên trách.

2.2.2.3. Hoạt động các Ban của HĐND xã

Các Ban của HĐND xã được thành lập trong nhiệm kỳ 2016-2021 theo

quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, gồm có: Ban

pháp chế và Ban kinh tế - xã hội, thành viên các Ban này là đại biểu HĐND

xã hoạt động kiêm nhiệm. Vì mới thành lập và hoạt động trong thời gian

ngắn, chưa có kinh nghiệm trong hoạt động nên các Ban của HĐND xã thực

hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình còn nhiều mặt hạn chế, bước đầu chỉ mới

tham gia vào việc chuẩn bị nội dung kỳ họp của HĐND xã liên quan đến lĩnh

vực phụ trách; thẩm tra dự thảo nghị quyết, báo cáo liên quan đến lĩnh vực

phụ trách theo phân công của Thường trực HĐND; giám sát hoạt động

của UBND xã trong các lĩnh vực phụ trách; giám sát văn bản quy phạm pháp

luật thuộc phạm vi phụ trách và báo cáo công tác cho HĐND xã Thường trực

HĐND xã.

Bên cạnh những việc làm được, các Ban của HĐND xã hoạt động còn

những mặt hạn chế như chưa thực hiện tốt hoạt động giám sát theo quy định

của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015; hoạt động

73

thẩm định, thẩm tra chất lượng chưa cao, HĐND huyện Tây Hòa xác định:

“Ban kinh tế - xã hội một số xã, thành viên của Ban không có chuyên môn

trong lĩnh vực công tác tài chính nên gặp nhiều khó khăn trong việc thẩm

định, thẩm tra hồ sơ dự toán, quyết toán ngân sách nhà nước”[6]; mặt khác

các thành viên hoạt động kiêm nhiệm nên thời gian dành cho hoạt động của

các Ban của HĐND xã còn ít, dẫn đến ảnh hưởng đến hoạt động chung của

Ban. Như vậy, trong thời gian đến để các Ban của HĐND xã thực hiện tốt

nhiệm vụ, quyền hạn của mình, đòi hỏi phải tập huấn, hướng dẫn chuyên môn

và kỹ năng cho thành viên các Ban của HĐND xã; từng thành viên các ban

này phải nâng cao tinh thần trách nhiệm thực hiện nhiệm được giao; đồng thời

cơ quan nhà nước cấp trên cần phải thể chế hóa cụ thể các quy định của Luật

Tổ chức chính quyền địa phương về lĩnh vực phụ trách, nhiệm vụ, quyền hạn

của các Ban của HĐND xã, cơ cấu, thành phần thành viên tham gia vào các

Ban của HĐND; đồng thời có những quy định về thời gian hoạt động nhằm

tạo điều kiện để các thành viên thực hiện tốt nhiệm vụ vì thành viên các Ban

này hoạt động kiêm nhiệm.

2.2.2.4. Hoạt động của đại biểu HĐND xã

Đại biểu HĐND xã là người đại diện cho nhân dân địa phương, do cử

tri địa phương bầu ra, là yếu tố cấu thành HĐND xã. Vị trí, vai trò của đại

biểu HĐND xã được quy định trong Hiến pháp và Luật Tổ chức chính quyền

địa phương năm 2015. Đại biểu HĐND xã là những người gần dân, sát dân

và thường xuyên tiếp xúc với dân, tạo nên sự gắn bó mật thiết của đại biểu

HĐND xã với cử tri, với nhân dân nơi cư trú. Với vai trò quan trọng như

vậy, trong những năm vừa qua đại biểu HĐND xã ở huyện Tây Hòa đã thực

hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, có nhiều đóng góp quan trọng trong

phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

74

Các đại biểu HĐND xã đã nghiêm túc tham dự đầy đủ các kỳ họp, chấp

hành tốt nội quy kỳ họp. Tại kỳ họp, đại biểu HĐND xã đã tham gia thảo

luận, đóng góp ý kiến về những vấn đề thuộc nội dung, chương trình của kỳ

họp, đồng thời thực hiện quyền chất vấn về những vấn đề được nhiều cử tri

quan tâm, đề nghị các ngành chức năng giải trình, làm rõ biện pháp xử lý.

Việc biểu quyết thông qua những vấn đề thuộc nội dung, chương trình kỳ họp

cũng được các đại biểu thực hiện một cách nghiêm túc, đúng quy định. Qua

đó tạo được không khí dân chủ, thẳng thắn, góp phần nâng cao chất lượng,

hiệu quả hoạt động của HĐND xã.

Đại biểu HĐND xã đã thực hiện tốt việc tiếp xúc cử tri theo quy định,

lắng nghe ý kiến tâm tư nguyện vọng của cử tri; đồng thời trao đổi với cử tri

địa phương về những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật

của Nhà nước, là hoạt động thông tin hai chiều. Qua tiếp xúc cử tri, những

kiến nghị của cử tri đã được các đại biểu phản ánh kịp thời tại kỳ họp. Sau

mỗi kỳ họp, các đại biểu đã báo cáo nghiêm túc nội dung, kết quả kỳ họp và

trả lời những yêu cầu, kiến nghị mà cử tri quan tâm. Nhìn chung, đại biểu

HĐND xã ở huyện Tây Hòa có nhiều cố gắng nâng cao chất lượng, hiệu quả

hoạt động tiếp xúc cử tri và giữ mối liên hệ với các tầng lớp nhân dân. Hoạt

động tiếp xúc cử tri được HĐND các xã thực hiện một cách nghiêm túc, đúng

luật. Hình thức tiếp xúc cử tri cũng được mở rộng. Ngoài việc tiếp xúc cử tri

trước và sau kỳ họp, một số đại biểu đã tiếp xúc cử tri nơi cư trú, nơi công tác.

Kỹ năng tiếp xúc cử tri được nâng lên, không khí tiếp xúc theo hướng đối

thoại nên khá thẳng thắn, cởi mở, đi vào những vấn đề cụ thể liên quan trực

tiếp đến đời sống kinh tế - xã hội ở địa phương.

Giữa hai kỳ họp, đại biểu HĐND xã đã thực hiện tốt nhiệm vụ được

giao, giữ vững phẩm chất, tư cách của người đại biểu nhân dân, gương mẫu

chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà nước. Mỗi đại biểu thực hiện nhiệm

75

vụ giám sát việc thực hiện Hiến pháp, pháp luật, Nghị quyết của HĐND xã

ngay tại nơi mình cư trú, cơ quan mình công tác. Thông qua hoạt động này

các đại biểu đã phát hiện những tồn tại, hạn chế của các cơ quan, tổ chức,

những khó khăn, vướng mắc, tâm tư nguyện vọng của cử tri, kịp thời kiến

nghị với cơ quan có thẩm quyền xem xét.

Bên cạnh đó, hoạt động của đại biểu HĐND xã vẫn còn nhiều hạn chế

như: Chất lượng hoạt động của các đại biểu mặc dù đã nâng lên nhưng chưa

đều. Một số đại biểu còn hạn chế về trình độ, năng lực, kỹ năng hoạt động nên

chưa thực hiện tốt vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu

HĐND; một số đại biểu chưa thường xuyên học tập, rèn luyện, nghiên cứu, tìm

hiểu Nghị quyết để nâng cao trình độ và phát huy vai trò của mình; một số đại

biểu chưa nắm vững các quy định của pháp luật, chưa nghiên cứu kỹ các tài

liệu liên quan đến kỳ họp nên còn hạn chế trong thảo luận và chất vấn tại các

kỳ họp HĐND xã. Nhiều đại biểu HĐND xã trong các kỳ họp chưa phát huy

được vị trí, vai trò của mình trong việc phát biểu thảo luận. Hoạt động tiếp xúc

cử tri chỉ tập trung trước và sau kỳ họp, quy trình và phương pháp tiếp xúc cử

tri chậm được đổi mớí, tỷ lệ cử tri tham dự các buổi tiếp xúc cử tri thấp, nhiều

cuộc tiếp xúc cử tri còn mang tính hình thức, chưa làm rõ hết các vấn đề bức

xúc của cử tri. Hoạt động tiếp dân, theo dõi việc giải quyết đơn thư khiếu nại,

tố cáo của công dân, giám sát việc thi hành pháp luật ở nơi cư trú, nơi công tác

chưa thường xuyên và hiệu quả chưa cao. Một số đại biểu chưa tận tâm, tận lực

với công việc, không đấu tranh, ngại va chạm. Một số đại biểu hoạt động kiêm

nhiệm nên thời gian làm nhiệm vụ người đại biểu nhân dân còn hạn chế, dẫn

đến chưa thực hiện tốt vai trò của người đại biểu HĐND.

Như vậy, hoạt động của đại biểu HĐND xã ở huyện Tây Hòa trong thời

gian qua đã đạt được những kết quả tích cực, góp phần quan trọng trong xây

dựng chính quyền địa phương vững mạnh. Bên cạnh đó, hoạt động của đại

76

biểu HĐND xã ở huyện vẫn còn nhiều hạn chế cần phải khắc phục trong thời

gian tới.

2.2.2.5. Hoạt động giám sát của HĐND xã

Giám sát là một chức năng quan trọng của HĐND nói chung và HĐND

xã nói riêng. Căn cứ quy định của pháp luật, trong những năm qua, HĐND

các xã ở huyện Tây Hòa đã quan tâm tổ chức thực hiện hoạt động giám sát,

góp phần thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,

pháp luật của Nhà nước, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND

xã – cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.

Giám sát tại kỳ họp: Giám sát tại kỳ họp là một nội dung quan trọng

trong hoạt động giám sát của HĐND xã. Tại kỳ họp, HĐND xã xem xét, thảo

luận các báo cáo trình bày tại kỳ họp. Sau khi nghe báo cáo và chủ tọa kỳ họp

gợi ý, các đại biểu tập trung thảo luận, góp ý về những vấn đề cùng quan tâm,

những vấn đề còn có ý kiến khác nhau, không khí phiên thảo luận ngày càng

sôi nổi, dân chủ, thẳng thắn, thiết thực hơn. Số đại biểu tham gia đóng góp ý

kiến, thảo luận, tranh luận ngày càng nhiều. Chất lượng thảo luận cũng được

nâng lên. Bước đầu khắc phục tình trạng qua loa, đại khái, hình thức.

Hoạt động xem xét báo cáo tại kỳ họp đã có nhiều đổi mới. Tuy nhiên,

hoạt động xem xét các báo cáo tại kỳ họp cũng còn có những hạn chế. Một số

đại biểu chưa phát huy hết vị trí, vai trò của mình, thảo luận qua loa, hình

thức, không nắm vững nội dung, không nghiên cứu trước tài liệu nên khi tham

gia thảo luận còn nhiều lúng túng; kỹ năng thảo luận, phương pháp thuyết

trình vấn đề chưa thực sự lôi cuốn, thuyết phục người nghe. Một số kỳ họp

thảo luận vẫn chưa sôi nổi, chưa tạo được không khí đối thoại giữa đại biểu và

các ban ngành chịu trách nhiệm trước những tồn tại, khuyết điểm để làm rõ

nguyên nhân, tìm giải pháp khắc phục.

77

Hoạt động chất vấn: Hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn là một

trong những nội dung quan trọng của kỳ họp HĐND. Đây là một hình thức

đối thoại trực tiếp vừa thể hiện quyền giám sát của các đại biểu tại kỳ họp,

vừa thể hiện tính dân chủ trực tiếp của các đại biểu. Đối tượng chất vấn: Chủ

tịch HĐND; Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND, các thành viên UBND và cán bộ

chuyên môn của UBND. Trong các kỳ họp vừa qua, HĐND các xã ở huyện

Tây Hòa đã coi trọng việc thực hiện chất vấn và giám sát trả lời chất vấn của

đại biểu HĐND. Các ý kiến chất vấn đều trên tinh thần xây dựng và phản ánh

đúng những vấn đề còn tồn tại của địa phương. Việc trả lời chất vấn của

UBND xã được chuẩn bị chu đáo, nghiêm túc bằng văn bản. Một số vấn đề

cần thời gian nghiên cứu được chủ tọa kỳ họp quyết định trả lời sau kỳ họp và

đã trả lời cho đại biểu theo đúng quy định.

Các đại biểu HĐND xã đã tham gia chất vấn sôi nổi, thẳng thắn, có tính

xây dựng, làm rõ được nguyên nhân, trách nhiệm và giải pháp khắc phục

những vướng mắc, làm rõ hơn những nhiệm vụ và giải pháp trong phát triển

kinh tế - xã hội ở địa phương. Thông qua hoạt động chất vấn và trả lời chất

vấn, vai trò của HĐND xã trong công tác giám sát hoạt động của các cơ quan

nhà nước tại địa phương được thể hiện rõ nét và ngày càng có tác dụng tích

cực, tác động nhất định đến tâm tư, tình cảm của nhân dân, củng cố lòng tin

của nhân dân vào Đảng, Nhà nước[13, tr.4].

Có thể khẳng định, hoạt động chất vấn của HĐND xã ở huyện Tây Hòa

trong nhiệm kỳ 2011-2016 đã có nhiều đổi mới, có chất lượng. Nội dung chất

vấn ngày càng rõ ràng, có trọng tâm, thể hiện được những vấn đề bức xúc của

cử tri. Tại kỳ họp việc tiến hành chất vấn và trả lời chất vấn cũng được thực

hiện khá đầy đủ, có tính khoa học. Một số xã đã truyền thanh trực tiếp kỳ họp

của HĐND xã cho nhân dân toàn xã theo dõi để có thể đóng góp kịp thời khi

phát hiện thấy những vấn đề của mình đưa ra chưa được kỳ họp HĐND giải

78

quyết. Điều này đã góp phần giúp cho HĐND xã có thể giải quyết kịp thời

những bức xúc của quần chúng nhân dân. Bên cạnh đó, hoạt động chất vấn vẫn

còn những hạn chế, có những nội dung chất vấn chưa thiết thực, chưa sát với

tình hình thực tế, chưa phản ánh được những bức xúc của cử tri. Có một số đại

biểu trong suốt cả nhiệm kỳ chưa một lần thực hiện quyền chất vấn của mình.

Một số đại biểu ít tham gia chất vấn, nhất là đại biểu hoạt động kiêm nhiệm.

Một số đại biểu còn hạn chế về kỹ năng chất vấn nên thiếu tự tin, không đủ

thông tin để đi sâu và đi đến tận cùng của sự việc. Trong các kỳ họp một số

đại biểu HĐND xã chưa phát huy tốt tinh thần trách nhiệm trong thảo luận,

chất vấn[18, tr. 3].

Hoạt động giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của

UBND xã: HĐND xã giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của

UBND cùng cấp là xem xét tính hợp hiến và hợp pháp của văn bản đó. Qua

báo cáo của HĐND các xã cho thấy hoạt động giám sát này của HĐND xã

hiện nay chưa được chú trọng, một số văn bản chưa được tổ chức lấy ý kiến

của các cơ quan, tổ chức có liên quan và nhân dân. Một trong những nguyên

nhân là do việc hiểu biết pháp luật của đại biểu HĐND xã còn hạn chế, chưa

đáp ứng được yêu cầu công việc.

Hoạt động giám sát thông qua hình thức bỏ phiếu tín nhiệm đối với

ngƣời giữ chức vụ do HĐND bầu: Các chức danh do HĐND xã bầu gồm có

Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND xã, Trưởng ban và thành viên các Ban của

HĐND xã (nhiệm kỳ 2016-2021); Chủ tịch, Phó Chủ tịch, thành viên UBND

xã. Đây là một công cụ rất hữu hiệu giúp tăng cường hiệu quả hoạt động giám

sát. Bỏ phiếu tín nhiệm vừa là công cụ, hình thức giám sát, vừa là hậu quả

pháp lý của hoạt động giám sát kết quả bỏ phiếu tín nhiệm có thể dẫn tới việc

miễn nhiệm, bãi nhiệm người không được tín nhiệm. Trong nhiệm kì 2011 -

2016, thực hiện Nghị quyết số 35/2012/NQ-QH13 ngày 21/11/2012 của Quốc

79

hội khóa XIII về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người

giữ chức vụ do Quốc hội, HĐND bầu hoặc phê chuẩn, HĐND các xã ở huyện

Tây Hòa đã tổ chức 2 lần (2013, 2015) lấy phiếu tín nhiệm những người giữ

chức vụ do HĐND xã bầu, tổng số người được lấy phiếu tín nhiệm là 60

người, 100% số người được lấy phiếu tín nhiệm đều đạt số phiếu tín nhiệm

cao trên 50%.

Hoạt động giám sát của Thƣờng trực HĐND:

Về xây dựng chương trình giám sát: Căn cứ quy định của pháp luật,

Thường trực HĐND các xã đã quan tâm xây dựng chương trình giám sát hàng

năm của HĐND xã trình kì họp cuối năm để HĐND xã thông qua bằng Nghị

quyết và có giá trị thực hiện trong năm sau. Tuy nhiên, một số HĐND xã chưa

xây dựng chương trình giám sát hàng năm trình HĐND thông qua bằng Nghị

quyết mà chỉ xây dựng chương trình giám sát thể hiện trong báo cáo hoạt

động của HĐND năm trước và nhiệm vụ năm sau. Thường trực HĐND tổ

chức thực hiện giám sát bằng cách thành lập các đoàn giám sát để thực hiện

giám sát, trong nhiệm kỳ 2011 – 2016, tổ chức 45 cuộc giám sát, một số đơn

vị thực hiện tương đối tốt như: HĐND xã Hòa Phong, HĐND xã Hòa Tân

Tây, HĐND xã Hòa Thịnh, HĐND xã Sơn Thành Đông. Nội dung giám sát

tập trung vào các lĩnh vực như: giám sát quản lý, sử dụng đất đai (điển hình là

HĐND xã Hòa Thịnh, HĐND xã Sơn Thành Đông); giám sát quản lý, sử

dụng tài chính, ngân sách (điển hình là HĐND xã Hòa Tân Tây, HĐND xã

Sơn Thành Đông); giám sát thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây

dựng nông thôn mới (điển hình là HĐND xã Hòa Đồng, HĐND xã Hòa

Phong, HĐND xã Hòa Tân Tây); giám sát điều tra, khảo sát hộ nghèo, hộ cận

nghèo (điển hình là HĐND xã Hòa Phong, HĐND xã Hòa Tân Tây); giám sát

việc xem xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân (HĐND xã Hòa

Đồng)… Qua giám sát đã góp phần giải quyết những vấn đề bức xúc của

80

nhân dân ngay tại cơ sở, nâng cao chất lượng phục vụ nhân dân của chính

quyền địa phương, đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động quản

lý, điều hành của UBND xã trong việc thực hiện chủ trương, đường lối của

Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, Nghị quyết của HĐND xã.

Thường trực HĐND xã thực hiện tốt việc tiếp công dân tại trụ sở theo định kỳ,

qua đó nghe và nắm bắt thông tin, diễn biến sự việc do nhân dân phản ánh,

kiến nghị và tham gia ý kiến trong việc giải quyết các kiến nghị đó; trong

nhiệm kỳ 2011-2016 đã giải quyết 79 khiếu nại, tố cáo của cử tri; các khiếu

nại, tố cáo, kiến nghị của cử tri được cơ quan chức năng có thẩm quyền xem

xét, giải quyết kịp thời.

Nhìn chung, hoạt động giám sát của Thường trực HĐND xã được quan

tâm thực hiện, tuy nhiên chưa được thường xuyên, số lượng các cuộc giám sát

quá ít, bình quân mỗi đơn vị trong nhiệm kỳ chỉ tổ chức 4 cuộc giám sát, nội

dung và phương pháp giám sát còn lúng túng, hiệu quả giám sát còn hạn chế.

Vì vậy, đổi mới và đề ra các giải pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt

động giám sát của Thường trực HĐND xã là vấn đề cần được quan tâm trong

việc đề ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của

HĐND xã ở huyện Tây Hòa.

2.2.3. Thực trạng mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân xã với Đảng ủy, Ủy

ban nhân dân, Ủy ban MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội của xã

2.2.3.1. Mối quan hệ giữa HĐND xã với Đảng ủy xã

Nhận thức được vai trò lãnh lãnh đạo của Đảng, trong mối quan hệ giữa

HĐND xã với Đảng ủy xã, HĐND xã luôn nắm vững, quán triệt nghiêm túc

và thể chế hóa kịp thời các Nghị quyết của Đảng ủy trong việc phát triển kinh

tế - xã hội, quốc phòng - an ninh của địa phương…; định kỳ báo cáo kết quả

hoạt động cho Đảng ủy, Thường trực HĐND xã tham dự đầy đủ các cuộc họp

81

của Đảng ủy, tiếp nhận những ý kiến chỉ đạo từ Đảng ủy, những vấn đề liên

quan đến hoạt động của HĐND và đại biểu HĐND xã.

Với vai trò lãnh đạo, Đảng ủy xã đã lãnh đạo tốt công tác nhân sự của

HĐND nhiệm kỳ 206-2021 gồm nhân sự Thường trực HĐND xã, các Ban của

HĐND xã và đại biểu HĐND xã. Đối với nhân sự Thường trực HĐND xã

trình cấp thẩm quyền xem xét, quyết định trước khi HĐND xã bầu. Trong

công tác chuẩn bị nhân sự cho việc bầu cử đại biểu HĐND xã, cấp ủy Đảng

lãnh đạo, chỉ đạo trong việc lựa chọn và giới thiệu các ứng cử viên để bầu vào

HĐND theo quy chế về công tác cán bộ của Đảng, sự lãnh đạo đều tuân thủ

theo đúng quy định của pháp luật.

Sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với HĐND xã ngoài thông qua các

chủ trương, Nghị quyết của Đảng ủy, còn thông qua công tác cán bộ, thông

qua đảng viên là đại biểu HĐND. Với tổ chức và cơ cấu hiện nay, Chủ tịch

HĐND các xã ở huyện Tây Hòa do đồng chí Bí thư Đảng ủy kiêm nhiệm, do

đó vai trò lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với HĐND xã được đảm bảo và phát

huy hiệu quả. Qua thực tế cho thấy, xã nào mà cấp ủy Đảng quan tâm lãnh

đạo, chỉ đạo đối với hoạt động của HĐND thì HĐND xã đó hoạt động có chất

lượng, hiệu quả, kinh tế - xã hội phát triển, đời sống nhân dân được nâng lên.

2.2.3.2. Mối quan hệ giữa HĐND xã với UBND xã

Trong mối quan hệ giữa HĐND xã với UBND xã, UBND xã là cơ quan

chấp hành của HĐND xã, hiệu quả hoạt động của HĐND xã một phần quan

trọng được đánh giá bằng kết quả hoạt động, điều hành của UBND xã. Với

địa vị pháp lý là cơ quan quyền lực nhà nước ở xã, HĐND các xã ở huyện

Tây Hòa đã thực hiện nghiêm túc, đúng quy định của pháp luật về việc bầu

Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các thành viên khác của UBND xã, kết quả bầu

Chủ tịch UBND, Phó Chủ tịch UBND xã được Chủ tịch UBND huyện thống

nhất phê chuẩn.

82

Trong hoạt động, HĐND và UBND xã có mỗi quan hệ chặt chẽ với

nhau. Trong công tác chuẩn bị, tổ chức kỳ họp và triển khai thực hiện Nghị

quyết của HĐND xã, Thường trực và các Ban của HĐND xã phối hợp chặt

chẽ với UBND xã, các bộ phận chuyên môn thuộc UBND xã trong việc chuẩn

bị nội dung, chương trình kỳ họp, dự thảo nghị quyết, báo cáo, đề án trình

HĐND xã, tổ chức họp liên tịch với Chủ tịch UBND xã để bàn bạc thống

nhất; phối hợp giải quyết những vấn đề phát sinh khi thực hiện nghị quyết của

HĐND xã về nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng – an ninh, ngân sách xã;

tổ chức triển khai thực hiện nghị quyết của HĐND xã trong thời gian giữa hai

kỳ họp. Đại diện Thường trực HĐND xã được mời dự các phiên họp của

UBND xã, đại diện UBND xã được mời dự các cuộc họp thường kỳ và các

cuộc họp khác của Thường trực HĐND xã khi xét thấy cần thiết; thành viên

UBND xã được mời tham dự các kỳ họp của HĐND xã, thực hiện tốt việc

thảo luận về những vấn đề có liên quan đến lĩnh vực phụ trách. Ngược lại,

UBND xã mời Thường trực HĐND xã tham dự các cuộc họp, hội nghị của

UBND xã.

UBND xã thực hiện tốt việc cung cấp các nội dung, tài liệu phục vụ cho

hoạt động giám sát của HĐND xã; dự thảo Nghị quyết của HĐND xã; tổ chức

và chỉ đạo việc thi hành Hiến pháp, pháp luật, các văn bản của cơ quan nhà

nước cấp trên và Nghị quyết của HĐND xã. UBND các xã thường xuyên báo

cáo và tranh thủ xin ý kiến của Thường trực HĐND xã để điều hành và giải

quyết những vấn đề cụ thể trong các Nghị quyết của HĐND xã đã đề ra.

Có thể nói rằng, trong nhiệm kỳ 2011- 2016 và năm đầu của nhiệm kỳ

2016-2021, HĐND và UBND các xã ở huyện Tây Hòa đã thực hiện tốt mối

quan hệ trong hoạt động của mình theo quy định của pháp luật, góp phần nâng

cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa

phương.

83

2.2.3.3. Mối quan hệ giữa HĐND xã với MTTQ và các tổ chức chính trị - xã

hội của xã

Mối quan hệ giữa HĐND xã với Ủy ban MTTQ và các tổ chức chính trị

- xã hội của xã là mối quan hệ phối hợp. Theo quy định của pháp luật, HĐND

các xã ở huyện đã thực hiện tốt việc thông báo định kỳ mỗi năm hai lần vào

giữa năm và cuối năm bằng văn bản đến Ủy ban MTTQ xã và các tổ chức

thành viên về tình hình hoạt động của HĐND xã, kiến nghị Ủy ban MTTQ xã

những vấn đề cần thiết trong công tác củng cố, xây dựng chính quyền, xây

dựng khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã.

HĐND xã tạo điều kiện để Ủy ban MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội

động viên nhân dân tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, tổ

chức thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước, giám sát, phản biện xã

hội đối với hoạt động của chính quyền địa phương. Trong kỳ họp thường lệ

của HĐND, các cuộc giám sát của Thường trực HĐND xã đều có mời

Thường trực Ủy ban MTTQ xã tham dự; tại kỳ họp, Uỷ ban MTTQ xã hoạt

động của Ủy ban MTTQ xã trong việc tham gia xây dựng chính quyền và

những ý kiến kiến nghị đối với HĐND và đại biểu HĐND xã. Ủy ban MTTQ

các xã đã thực hiện tốt việc chủ trì tổ chức tốt các cuộc tiếp xúc cử tri của đại

biểu HĐND xã, tổng hợp đầy đủ các ý kiến, kiến nghị của cử tri gửi đến

Thường trực HĐND xã; phối hợp giải quyết các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo

và những vấn đề bức xúc mà cử tri quan tâm.

2.2.3.4. Thực hiện một số điều kiện đảm bảo cho hoạt động của HĐND xã

HĐND các xã trên địa bàn huyện Tây Hòa đã triển khai thực hiện đầy

đủ các chế độ theo quy định tại Nghị quyết số 73/2012/NQ-HĐND ngày

13/12/2012 của HĐND tỉnh Phú Yên về việc quy định một số chế độ chi tiêu

bảo đảm hoạt động của HĐND các cấp tỉnh Phú Yên. Theo đó, đại biểu

HĐND xã được hỗ trợ kinh phí mua báo 200.000/tháng, hỗ trợ may trang

84

phục 1.500.000đồng/đại biểu, phụ cấp trách nhiệm hằng tháng bằng 0,3 mức

lương cơ sở (các chế độ này được thực hiện đến tháng 5/2016). Hiện nay, các

chế độ đối với HĐND và đại biểu HĐND xã thực hiện theo Nghị quyết số

81/2016/NQ-HĐND ngày16/12/2016 của HĐND tỉnh Phú Yên sửa đổi, bổ

sung Nghị quyết số 73/2012/NQ-HĐND ngày 13/12/2012 của HĐND tỉnh

Phú Yên về việc quy định một số chế độ chỉ tiêu bảo đảm hoạt động của

HĐND các cấp tỉnh Phú Yên.

Kinh phí hoạt động của HĐND xã được phân bổ trên cơ sở dự toán

ngân sách địa phương hằng năm, tuy ngân sách địa phương còn khó khăn

nhưng kinh phí hoạt động cho HĐND xã được phân bổ hợp lý đảm bảo cho

hoạt động của HĐND xã. Ngoài ra, HĐND xã được bố trí phòng làm việc,

các trang thiết bị cần thiết phục vụ cho hoạt động của HĐND xã.

Bên cạnh đó, vẫn còn một số xã như: Sơn Thành Đông, Sơn Thành

Tây, Hòa Mỹ Tây, Hòa Phong, Hòa Phú chưa bố trí được phòng làm việc

riêng cho Phó Chủ tịch HĐND xã; việc cấp phát tài liệu trước cho đại biểu

HĐND xã có lúc còn chậm đã phần nào ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả

hoạt động của HĐND xã.

2.2.4. Đánh giá những ưu điểm, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

2.2.4.1. Ưu điểm và nguyên nhân

Ƣu điểm

Hoạt động của HĐND, Thường trực HĐND xã ở huyện Tây Hòa từ

2011 đến nay có nhiều đổi mới và tiến bộ rõ nét, phát huy được vai trò là cơ

quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và

quyền làm chủ của nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, HĐND xã

phối hợp với UBND, Ủy ban Mặt trận, các đoàn thể chính trị - xã hội của xã

đã đề ra những nhiệm vụ, giải pháp phù hợp, góp phần thúc đẩy phát triển

85

kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng – an ninh, trật tự an toàn xã hội, không

ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân trên địa bàn xã.

Nhìn chung, các kỳ họp HĐND xã ở huyện Tây Hòa được chuẩn bị chu

đáo, đúng luật và ngày càng có chất lượng. Thường trực HĐND xã đã chủ

động phối hợp với UBND và Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận xã để thống

nhất về chương trình, nội dung kỳ họp; lựa chọn những vấn đề trọng tâm ở địa

phương để đưa ra thảo luận, xem xét và quyết định tại kỳ họp. Dự kiến

chương trình, nội dung kỳ họp, tài liệu của các kỳ họp được gửi đến các đại

biểu HĐND xã đúng hạn. Việc điều hành kỳ họp của Thường trực HĐND đã

được cải tiến đáng kể, chú trọng định hướng những vấn đề còn nhiều ý kiến

khác nhau, chưa được sự thống nhất cao, những vấn đề mà cử tri và nhân dân

quan tâm để các đại biểu thảo luận. Do vậy, kỳ họp HĐND ở nhiều xã đã tạo

được không khí dân chủ, cởi mở, phát huy được trí tuệ tập thể khi thảo luận

và biểu quyết.

Việc xây dựng Nghị quyết HĐND xã được chú trọng, các Nghị quyết

được HĐND thông qua nhìn chung đạt sự thống nhất cao, có tính khả thi, đem

lại hiệu quả thiết thực, tạo chuyển biến tích cực ở địa phương, đáp ứng được

nguyện vọng chính đáng của nhân dân, góp phần ổn định chính trị, phát triển

kinh tế - xã hội, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần trong nhân

dân. Nghị quyết HĐND xã được thông tin, tuyên truyền, phổ biến sâu rộng,

đồng thời vận động nhân dân cùng tham gia thực hiện.

Hoạt động giám sát của HĐND xã được chú trọng, nội dung chương

trình giám sát thiết thực, tập trung chủ yếu vào những lĩnh vực nhạy cảm, có

nhiều khuyết điểm, những vấn đề bức xúc được cử tri quan tâm như: quản lý,

sử dụng đất đai; xây dựng nông thôn mới; quản lý, thu chi ngân sách; xóa đói

giảm nghèo; giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân… HĐND xã thực hiện

quyền giám sát thông qua việc xem xét các báo cáo trình HĐND tại các kỳ

86

họp và tổ chức các cuộc giám sát giữa hai kỳ họp. Các đại biểu đã phát huy

tinh thần trách nhiệm, trí tuệ để nghiên cứu, xem xét các báo cáo, đóng góp

nhiều ý kiến, giải pháp, kiến nghị thiết thực để UBND xã, các cơ quan, tổ

chức liên quan triển khai thực hiện có hiệu quả các văn bản của cơ quan Nhà

nước cấp trên và Nghị quyết của HĐND xã. Hoạt động chất vấn và trả lời

chất vấn từng bước được chú trọng. Chất lượng chất vấn và trả lời chất vấn

ngày càng được nâng lên và đi vào thực chất; không khí trong phiên họp chất

vấn cởi mở, thoải mái, có tính xây dựng, làm rõ được nguyên nhân, trách

nhiệm và giải pháp khắc phục. Tổ chức thực hiện nghiêm túc việc lấy phiếu

tín nhiệm đối với các chức danh do HĐND xã bầu. Thường trực HĐND xã đã

phát huy được vai trò điều hòa, phối hợp với UBND, Ủy ban MTTQ và các

đoàn thể chính trị - xã hội của xã trong hoạt động giữa hai kỳ họp.

Phối hợp với Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận xã tổ chức tốt các buổi

tiếp xúc cử tri của đại biểu HĐND xã. Chất lượng, hiệu quả hoạt động tiếp

xúc cử tri từng bước được nâng lên. Đại biểu HĐND ngày càng nhận thức

được tầm quan trọng của hoạt động này, tham dự đầy đủ các buổi tiếp xúc cử

tri, không khí tiếp xúc theo hướng đối thoại thẳng thắn, cởi mở, tập trung vào

những vấn đề cụ thể liên quan đến đời sống kinh tế - xã hội ở địa phương, qua

đó, đại biểu HĐND xã nắm bắt được ý kiến, nguyện vọng của cử tri và ngược

lại cử tri hiểu rõ hơn về hoạt động của HĐND và đại biểu HĐND xã.

Nguyên nhân của những ƣu điểm:

Đảng ủy các xã đã quan tâm lãnh đạo và tạo điều kiện thuận lợi để

HĐND xã phát huy vai trò của mình trong tổ chức thực hiện các nhiệm vụ,

quyền hạn theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.

Các văn bản quy phạm pháp luật ban hành đã kịp thời thể chế hóa

đường lối, quan điểm đổi mới của Đảng về chính quyền địa phương, về tổ

chức và hoạt động của HĐND, đại biểu HĐND đã tạo hành lang pháp lý

87

thuận lợi cho HĐND xã thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình. Luật

Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 quy định đã có sự phân biệt giữa nhiệm

vụ, quyền hạn của HĐND xã, thị trấn với HĐND phường; quy định cụ thể

hơn về hoạt động giám sát của HĐND nói chung và HĐND xã nói riêng, đây

là những cơ sở pháp lý quan trọng giúp cho HĐND xã ở huyện Tây Hòa thực

hiện chức năng pháp luật quy định. Hiện nay với việc ban hành Luật Tổ chức

chính quyền địa phương 2015, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và

HĐND, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND... đây là những

hành lang pháp lý để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND xã

nhiệm kỳ 2016-2021 và những nhiệm kỳ tiếp theo.

Cơ cấu đại biểu tương đối hợp lý, đảm bảo tính đại diện cho các thành

phần dân cư, cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể ở địa phương, tỷ lệ nữ,

ngoài Đảng; cơ cấu hợp lý giữa ba độ tuổi; trình độ chuyên môn, lý luận

chính trị của đại biểu HĐND được nâng lên. Đây là những điều kiện thuận lợi

góp phần quan trọng để thực hiện tốt nhiệm vụ của đại biểu, nâng cao chất

lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND xã trên địa bàn huyện.

HĐND các xã ở huyện Tây Hòa đã thực hiện tương đối tốt mối quan hệ

với cấp ủy Đảng, UBND xã, Ủy ban MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội

của xã trong tổ chức và hoạt động của mình, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ,

quyền hạn theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.

Các điều kiện đảm bảo của HĐND đã được quan tâm, phân bổ kinh phí

hoạt động hàng năm được nâng lên. Các xã thực hiện tốt các chế độ, chính

sách đối với đại biểu HĐND xã theo quy định của pháp luật; quan tâm trang

bị phương tiện làm việc phục vụ cho hoạt động của HĐND xã, như: Trang bị

phòng làm việc cho Thường trực HĐND xã, máy vi tính, điện thoại, văn

phòng phẩm...

88

2.2.4.2. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

Tồn tại, hạn chế:

Chất lượng kỳ họp HĐND các xã chưa thực sự đồng đều. Công tác

chuẩn bị và tổ chức kỳ họp có nơi chưa đúng thời hạn theo quy định của pháp

luật, trong nhiệm kỳ 2011-2016, có kỳ họp HĐND xã gửi các tài liệu đến đại

biểu để nghiên cứu trước còn chậm, như HĐND các xã: Hòa Phong, Hòa Mỹ

Đông, Hòa Thịnh. Việc gửi tài liệu của kỳ họp cho đại biểu HĐND xã còn

chậm, chưa kịp thời nên đại biểu HĐND xã gặp khó khăn trong việc chuẩn bị

ý kiến phát biểu, ảnh hưởng nhất định đến chất lượng các quyết định của

HĐND xã [13, tr.9].

Thời gian tổ chức kỳ họp ngắn, chỉ trong 01 ngày nhưng nội dung

chương trình nhiều, công tác tổ chức và trình bày các báo cáo trước kỳ họp

chiếm nhiều thời gian, thời gian dành cho thảo luận, chất vấn ít nên đã ảnh

hưởng đến chất lượng hoạt động của HĐND xã. Một số kỳ họp ban hành

nhiều Nghị quyết trong khi thời gian tổ chức kỳ họp ngắn, do đó việc xem xét

thảo luận các vấn đề liên quan đến nội dung ban hành sẽ không cụ thể, rõ ràng

dẫn đến khi ban hành Nghị quyết không phát huy được hiệu quả trên thực tế,

phải sửa đổi, bổ sung như HĐND xã Hòa Mỹ Đông. Đa số HĐND xã ở huyện

Tây Hòa chưa quan tâm tổ chức kỳ họp chuyên đề để xử lý những vấn đề nổi

cộm ở địa phương.

Hoạt động của Thường trực HĐND xã còn nhiều hạn chế, chưa tương

xứng với vị trí pháp lý được pháp luật quy định. Thường trực chủ yếu làm

nhiệm vụ triệu tập và chủ tọa các kỳ họp còn các nhiệm vụ khác hầu như ít

được thực hiện hoặc thực hiện mang tính hình thức. Việc điều hành kỳ họp

của Thường trực HĐND một số xã chưa thực sự phát huy dân chủ và trí tuệ

tập thể; việc định hướng nội dung thảo luận còn chung chung, chưa nêu vấn

đề cụ thể cử tri quan tâm để thảo luận, giải quyết. Thường trực HĐND chưa

89

thực hiện tốt việc tổ chức để đại biểu HĐND xã tiếp công dân, việc tiếp công

dân chủ yếu do Thường trực HĐND xã thực hiện, chưa sắp xếp lịch tiếp công

dân của đại biểu HĐND xã; chưa xây dựng các quy định, thủ tục về tiếp công

dân theo quy định của pháp luật và phù hợp thực tế địa phương.

Hoạt động giám sát của HĐND xã được quan tâm thực hiện nhưng

chưa thường xuyên, số lượng các cuộc giám sát còn ít, bình quân chỉ có 4

cuộc giám sát. Một số HĐND xã hoạt động giám sát chất lượng chưa cao như

HĐND các xã: Hòa Mỹ Đông, Hòa Tân Tây, Hòa Đồng, Hòa Thịnh, Hòa Mỹ

Tây. Hoạt động giám sát của HĐND xã ở huyện Tây Hòa chủ yếu thực hiện

tại kỳ họp thông qua việc xem xét các báo cáo tại kỳ họp thông qua thảo luận

của đại biểu HĐND xã tham dự kỳ họp và hoạt động chất vấn của đại biểu.

Song, số đại biểu đăng ký phát biểu trong phiên thảo luận và chất vấn chưa

nhiều, chất lượng các ý kiến thảo luận, chất vấn cũng chưa cao như: đại biểu

HĐND các xã: Hòa Bình 1, Hòa Phú, Hòa Thịnh, Sơn Thành Tây; nhiều kiến

nghị thông qua hoạt động giám sát chưa được các cơ quan có trách nhiệm

quan tâm giải quyết kịp thời; việc giám sát giải quyết khiếu nại, tố cáo của

công dân, công tác hòa giải ở cơ sở còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu,

nguyện vọng chính đáng của nhân dân.

Số lượng chất vấn ở mỗi kỳ họp còn ít, chưa phản ánh hết những vấn

đề bức xúc ở địa phương. Cách nêu câu hỏi chất vấn của một số đại biểu

còn chung chung, không xác định rõ trọng tâm. Hoạt động chất vấn giữa

hai kỳ họp chưa được chú trọng. Tình trạng đại biểu nể nang, né tránh, ngại

va chạm trong hoạt động chất vấn vẫn còn phổ biến. Việc theo dõi, đôn đốc

trả lời chất vấn chưa được quan tâm đúng mức nên tỉ lệ trả lời ở một số địa

phương chưa cao.

Các Ban của HĐND xã hoạt động còn những mặt hạn chế, chưa thực

hiện tốt hoạt động giám sát theo quy định của Luật Hoạt động giám sát của

90

Quốc hội và HĐND năm 2015; hoạt động thẩm định, thẩm tra chất lượng

chưa cao; mặt khác các thành viên hoạt động kiêm nhiệm nên thời gian dành

cho hoạt động của các Ban của HĐND xã còn ít, dẫn đến ảnh hưởng đến hoạt

động chung của Ban. “Ban kinh tế - xã hội của HĐND một số xã, thành viên

không có chuyên môn trong lĩnh vực công tác tài chính nên gặp nhiều khó

khăn trong việc thẩm định, thẩm tra hồ sơ dự toán, quyết toán ngân sách nhà

nước”[6].

Hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu HĐND xã có nơi, có lúc còn

mang tính hình thức, chất lượng chưa cao như HĐND xã Hòa Thịnh; số lượng

cử tri tham gia tiếp xúc còn ít. Kỹ năng hoạt động tiếp xúc cử tri của một số

đại biểu còn yếu; việc phân loại ý kiến, kiến nghị cử tri chưa đúng lĩnh vực,

thẩm quyền; việc theo dõi đôn đốc giải quyết chưa sát sao và thường xuyên

nên tỉ lệ ý kiến, kiến nghị được giải quyết ở một số nơi còn thấp, không kịp

thời, vì vậy chưa thực sự đáp ứng được lòng mong đợi của nhân dân. Một số

đại biểu HĐND chưa làm tròn trách nhiệm của người đại biểu dân cử, chưa

dành thời gian cần thiết cho hoạt động của HĐND, chưa thường xuyên tiếp

công dân theo quy định. Một bộ phận đại biểu hoạt động kiêm nhiệm chưa

dành thời gian thích đáng cho việc nghiên cứu tài liệu, không tham gia hoặc ít

phát biểu ý kiến tại các buổi thảo luận, thậm chí có đại biểu chưa phát biểu

lần nào.

Công tác tham gia xây dựng và tuyên truyền, phổ biến pháp luật, chủ

trương của Đảng, Nhà nước, nghị quyết của HĐND thiếu chủ động; tuyên

truyền chưa thường xuyên, hình thức tuyên truyền chưa phong phú, đa dạng,

chưa đến được đông đảo nhân dân.

Chất lượng nghị quyết HĐND một số xã còn chưa cao, chưa đáp ứng

với tình hình thực tiễn.

91

Nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động của HĐND xã:

Để có cơ sở khoa học và thực tiễn đề xuất những phương hướng, giải

pháp nhằm hoàn thiện pháp luật HĐND xã và nâng cao chất lượng, hiệu quả

hoạt động của HĐND xã ở huyện Tây Hòa, cần phải xác định đúng đắn

những nguyên nhân hạn chế hiệu quả hoạt động của nó. Có thể xác định rằng,

hoạt động của HĐND xã ở huyện Tây Hòa còn những hạn chế là do những

nguyên nhân cơ bản sau:

- Một số cấp ủy Đảng, cán bộ, đảng viên nhận thức chưa thực sự đầy đủ

về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND xã; công tác quy

hoạch cán bộ HĐND xã có nơi, có lúc chưa được quan tâm đúng mức, một số

đại biểu sau khi được bầu đã không thực sự nhiệt tình, tâm huyết với hoạt

động HĐND xã.

Một số đại biểu HĐND xã và nhân dân nhận thức về vai trò của người

đại biểu nhân dân còn hạn chế. Đại biểu khi được nhân dân tin tưởng giao

nhiệm vụ là người đại diện cho quyền lực của nhân dân vẫn chưa ý thức đúng

về trọng trách được nhân dân giao phó. Một số đại biểu mặc dù nhận thức

được tầm quan trọng của người đại biểu nhưng lại thờ ơ, thiếu tinh thần trách

nhiệm với nhân dân khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.

- Các quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND xã

chưa cụ thể; pháp luật quy định cho HĐND xã nhiều nhiệm vụ, quyền hạn mà

giữa hai kỳ họp thực tế hoạt động của HĐND xã chỉ gồm Chủ tịch và một

Phó Chủ tịch HĐND xã, trong đó Phó Chủ tịch hoạt động chuyên trách còn

Chủ tịch HĐND thường là Bí thư Đảng uỷ kiêm nhiệm. Do đó, hiệu quả hoạt

động của HĐND xã phụ thuộc nhiều vào tinh thần trách nhiệm của Phó Chủ

tịch HĐND chuyên trách; HĐND xã quyết định các vấn đề quan trọng ở địa

phương với nhiều lĩnh vực khác nhau nhưng thời gian mỗi kỳ họp quá ngắn,

chỉ trong một ngày nên dẫn đến một số vấn đề chưa được bàn bạc thảo luận

92

đầy đủ đã đưa ra nghị quyết thực hiện sẽ dẫn đến nghị quyết có thể không phù

hợp với thực tiễn, khó thực hiện; mặt khác các nghị quyết chỉ điều chỉnh một

số lĩnh vực, còn nhiều lĩnh vực khác chưa được đưa ra bàn bạc, thảo luận.

- Tổ chức của HĐND xã chưa tương xứng với nhiệm vụ được giao, thể

hiện ở chỗ Thường trực HĐND xã chỉ gồm 2 thành viên là Chủ tịch và Phó

Chủ tịch HĐND, không có ủy viên thường trực. Trong đó, Phó chủ tịch

HĐND hoạt động chuyên trách, Chủ tịch HĐND xã hoạt động kiêm nhiệm

nên không có nhiều thời gian chỉ đạo, sâu sát tới mọi hoạt động thuộc nhiệm

vụ, quyền hạn của HĐND, do vậy hiệu quả hoạt động của HĐND xã chưa

cao. Nhiệm kỳ 2016-2021, HĐND xã được thành lập Ban pháp chế, Ban Kinh

tế - xã hội, tuy nhiên các ban này mới thành lập nên chưa có kinh nghiệm

trong hoạt động thực tiễn, thành viên của Ban hoạt động kiêm nhiệm nên thời

gian dành cho hoạt động của Ban còn hạn chế, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt

động của Ban của HĐND xã.

- Hoạt động giám sát của HĐND xã còn hạn chế. Năng lực giám sát của

Thường trực HĐND xã so với yêu cầu nhiệm vụ còn hạn chế, hoạt động giám

sát chuyên đề tuy đạt được những kết quả nhất định nhưng chưa đáp ứng so

với yêu cầu, thành viên đoàn giám sát đa số là đại biểu kiểm nhiệm, ít có thời

gian nghiên cứu những nội dung liên quan đến hoạt động giám sát nên chất

lượng tham gia góp ý kiến còn hạn chế[13, tr. 9]. Nhiệm kỳ 2011-2016, hoạt

động giám sát của HĐND chỉ được qui định trong một chương của Luật Tổ

chức HĐND và UBND năm 2003, Quy chế hoạt động của HĐND các cấp

năm 2005 chứ chưa có Luật giám sát của HĐND đã ảnh hưởng phần nào đến

hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND xã.

- Hoạt động tiếp công dân chưa được quan tâm đúng mức, Chủ tịch

HĐND xã chưa tổ chức cho đại biểu HĐND xã tiếp công dân.

93

- Một số đại biểu HĐND xã còn hạn chế về trình độ, năng lực, kỹ

năng hoạt động và tiếp xúc cử tri; chưa nắm bắt đầy đủ về pháp luật và

nhiệm vụ quyền hạn của người đại biểu, chưa phát huy được vai trò của

người đại biểu đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Một số đại

biểu trẻ tuổi chưa có kinh nghiệm trong hoạt động. Một số đại biểu trẻ ít

tham gia ý kiến thảo luận tại các kỳ họp và các cuộc hội nghị tổ chức ở

từng thôn, chưa phát huy tốt chức năng giám sát và vai trò đại diện cho cử

tri[13, tr.10]. Đại biểu HĐND xã đa số hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm,

rất bận rộn với công tác chuyên môn nên thời gian tập trung làm nhiệm vụ

đại biểu còn hạn chế[25, tr. 10].

- Chưa đổi mới phương thức tổ chức hoạt động tiếp xúc cử tri, tỷ lệ cử

tri tham gia các buổi tiếp xúc cử tri còn ít. Hiện nay thực hiện quy định của

Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, xã không thành lập Tổ đại

biểu nên mối quan hệ giữa các đại biểu HĐND trên một đơn vị bầu cử không

được thường xuyên và việc phân công đại biểu đại diện để thông tin tình hình

liên quan đến kỳ họp sẽ không thuận lợi, không có sự bàn bạc giữa các đại

biểu, có thể xảy ra tình trạng đùn đẩy trách nhiệm giữa các đại biểu trên đơn

vị bầu cử.

- Một số cơ quan, đơn vị ý thức chấp hành Nghị quyết của HĐND chưa

cao.

- Tỉ lệ đại biểu là cán bộ lãnh đạo của UBND, cấp ủy và đoàn thể trong

HĐND xã còn cao, đại biểu ngoài Đảng chiếm tỉ lệ thấp, do đó các đại biểu

vẫn còn tư tưởng nể nang, ngại va chạm, biết nhưng không dám nói hoặc nói

như thế nào để giữ hòa khí. Mối quan hệ giữa cơ cấu và chất lượng đại biểu ở

một số địa phương chưa được giải quyết hợp lý; năng lực, hiểu biết pháp luật

của một số đại biểu HĐND xã còn hạn chế, chưa phát huy được vai trò của

người đại biểu nhân dân.

94

- Các điều kiện vật chất đảm bảo hoạt động của HĐND xã còn hạn chế,

một số xã chưa bố trí được phòng làm việc cho Thường trực HĐND xã.

Thông tin phục vụ cho đại biểu còn quá ít dẫn đến việc nắm bắt tình hình kinh

tế - xã hội, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước còn hạn

chế; một số đại biểu chưa có điều kiện để tiếp nhận đầy đủ các thông tin cần

thiết phục vụ cho hoạt động của mình do thiếu những trang thiết bị cần thiết; các

kỳ họp HĐND, tài liệu báo cáo gửi cho các đại biểu có lúc còn chậm.

- Việc thực hiện các quy định về mối quan hệ giữa UBND xã, các cán

bộ chuyên môn của UBND với Thường trực HĐND cùng cấp của một số xã

chưa thật tốt; chưa tạo điều kiện cho Thường trực HĐND xã nắm bắt đầy đủ

thông tin về hoạt động của UBND và các cán bộ chuyên môn của UBND;

Thường trực HĐND xã chưa thường xuyên đôn đốc UBND cùng cấp để giải

quyết dứt điểm các ý kiến, kiến nghị của cử tri, điều đó đã ảnh hưởng đến

chất lượng hoạt động của HĐND xã.

- Một số dự thảo nghị quyết chưa tổ chức lấy ý kiến rộng rãi trong nhân

dân.

- Điều kiện kinh tế - xã hội của huyện còn thấp, đời sống của đại biểu

HĐND xã và người dân còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí còn thấp, không

đồng đều, ý thức người dân trong việc tham gia xây dựng chính quyền chưa

cao, ít tham gia hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu HĐND xã; môi trường

để đại biểu HĐND học tập, rèn luyện nâng cao trình độ còn nhiều hạn chế,

những ảnh hưởng tiêu cực của nền kinh tế thị trường đã tác động không nhỏ

đến chất lượng của người đại biểu.

95

Kết luận chương 2

Hoạt động của HĐND xã ở huyện Tây Hòa từ năm 2011 đến nay đã có

những đổi mới, đem lại những kết quả quan trọng trong hoạt động của HĐND

xã, góp phần nâng cao vị thế, vai trò của HĐND xã ở huyện Tây Hòa. Kỳ họp

HĐND đã có những cải tiến cả về công tác chuẩn bị, cách thức điều hành,

trình tự và thủ tục tiến hành nên chất lượng được nâng lên. Công tác giám sát

có những chuyển biến tích cực, đã kịp thời phát hiện các thiếu sót, bất cập,

vướng mắc. Việc quyết định các vấn đề quan trọng của địa phương ngày càng

thực chất hơn. Các hoạt động tiếp xúc cử tri, tiếp công dân đã góp phần gắn

kết mối quan hệ giữa cử tri và đại biểu, phản ánh được nhiều tâm tư, nguyện

vọng, ý kiến của cử tri tới HĐND và các cơ quan, tổ chức hữu quan. Kết quả

hoạt động của HĐND những năm qua đã góp phần tiếp tục khẳng định bản

chất của nhà nước, bản chất của chế độ chính trị nước ta. Việc phát huy vai

trò của cơ quan đại diện của nhân dân đã nói lên thiết chế dân chủ ngày càng

thể hiện sự tiến bộ, văn minh trong hệ thống chính trị ở nước ta. Dân chủ ngày

càng được mở rộng trong các tầng lớp nhân dân và trên các lĩnh vực của đời

sống xã hội, nhất là trong việc tạo điều kiện và môi trường nhằm phát huy sức

dân, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Bên cạnh những kết quả đã đạt

được, hoạt động của HĐND xã ở huyện Tây Hòa trong thời gian qua vẫn còn

không ít những hạn chế, yếu kém, ảnh hưởng không nhỏ đến tâm tư, nguyện

vọng, sự gửi gắm lòng tin của cử tri, của nhân dân địa phương. Vì vậy việc

đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của

HĐND xã ở huyện Tây Hòa là rất cần thiết.

96

Chương 3:

NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HĐND

XÃ VÀ NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG, HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA

HĐND XÃ Ở HUYỆN TÂY HÒA, TỈNH PHÚ YÊN

3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về Hội đồng nhân dân xã và

nâng cao chất lƣợng, hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân xã ở

huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên

3.1.1. Xuất phát từ bản chất của Nhà nước ta và yêu cầu xây dựng nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Bản chất Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của

nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Điều này đã được khẳng định trong

Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung,

phát triển 2011). Khoản 1 Điều 2 Hiến pháp năm 2013 xác định: "Nhà nước

cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước

thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai

cấp nông dân và đội ngũ trí thức"[39]. Quy định này đã phản ánh địa vị chính

trị - pháp lý của nhân dân Việt Nam là chủ thể của quyền lực trong Nhà nước

pháp quyền ở Việt Nam.

Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng

dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, HĐND và thông qua các cơ quan khác

của Nhà nước; các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn

trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng

nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống

tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền; Mặt

trận Tổ quốc Việt Nam là đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính

97

đáng của Nhân dân. Những quy định nêu trên tạo cơ sở hiến định cho việc

tiếp tục thể chế hóa các luật có liên quan về quyền lực nhà nước thuộc về

Nhân dân. Để xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền ở nước ta thì phải

phát huy dân chủ, bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, bảo đảm

quyền làm chủ của nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông

qua Quốc hội và HĐND các cấp. HĐND xã là cơ quan gần dân, sát dân nhất,

đại diện cho ý chí, nguyện vọng nhân dân địa phương. Do đó muốn phát huy

dân chủ, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân thì phải đổi mới tổ chức và

hoạt động của HĐND xã, đảm bảo cho HĐND xã có thực chất và thực quyền.

Từ thực trạng hoạt động của HĐND xã trong thời gian qua với yêu cầu "tiếp

tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa" như Văn

kiện Đại hội X và Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã đề ra: "Tiếp tục đẩy

mạnh việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,

bảo đảm Nhà nước ta thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do

Đảng lãnh đạo"[4, tr. 246]. Vì vậy, việc đề ra các giải pháp nhằm hoàn thiện

pháp luật về HĐND xã và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của

HĐND xã ở huyện Tây Hòa là một yêu cầu cần thiết.

3.1.2. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương

HĐND nói chung và HĐND xã nói riêng ngay từ khi thành lập được

xác định là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, do nhân dân địa

phương bầu ra, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân

dân địa phương, thực hiện hai chức năng cơ bản là quyết định và giám sát.

Đại biểu HĐND là người được nhân dân địa phương bầu ra, là người đại diện

cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương, gương

mẫu chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước;

tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng,

pháp luật của Nhà nước.

98

Với vị trí, chức năng, nhiệm vụ quan trọng được quy định trong Hiến

pháp, song thực trạng hoạt động của HĐND nói chung và HĐND xã ở huyện

Tây Hòa nói riêng, của các đại biểu HĐND xã trong những năm qua vẫn còn

nhiều mặt hạn chế, chưa phát huy hết vị trí, vai trò, quyền hạn của mình trong

việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Nghị quyết HĐND một số xã ban hành

trong thời gian qua hiệu quả chưa cao. Hoạt động tiếp xúc cử tri một số đại

biểu còn mang tính hình thức. Hoạt động giám sát còn mang tính thụ động,

tình trạng nể nang trong giám sát, cơ chế cung cấp thông tin, chế tài thực hiện

các kết luận giám sát chưa nghiêm túc nên hiệu quả hoạt động chưa cao. Để

khắc phục những hạn chế nêu trên, một trong những nhiệm vụ quan trọng là

tìm các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND

xã huyện Tây Hòa, đảm bảo HĐND xã thực sự là cơ quan quyền lực nhà nước

ở địa phương để HĐND xã làm tốt chức năng theo quy định của pháp luật.

3.1.3. Xuất phát từ thực trạng hoạt động của Hội đồng nhân dân xã ở

huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên trong thời gian qua

Trong công cuộc đổi mới và hội nhập, trong điều kiện xây dựng Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở

nước ta hiện nay, Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến vấn đề đổi mới tổ chức

và hoạt động của các cơ quan nhà nước, trong đó luôn quan tâm tới tổ chức và

hoạt động của HĐND, với mục đích làm cho HĐND thực hiện có chất lượng,

hiệu quả chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình theo quy định của Hiến

pháp và pháp luật.

Trong những năm gần đây có nhiều văn bản quy phạm pháp luật được

ban hành điều chỉnh về cơ cấu tổ chức và hoạt động của HĐND nói chung và

HĐND xã nói riêng, đã tạo cơ sở pháp lý để HĐND xã hoạt động có hiệu quả.

Đối với HĐND các xã ở huyện Tây Hòa, qua tổng kết hoạt động nhiệm

kỳ 2011-2016 và tổng kết hoạt động năm 2016 của HĐND xã nhiệm kỳ 2016-

99

2021, bên cạnh những thành tựu đạt được, hoạt động của HĐND xã vẫn còn

những mặt hạn chế, yếu kém như: Một số kỳ họp chất lượng chưa cao, hoạt

động giám sát của HĐND, chất vấn của đại biểu HĐND còn hạn chế, hoạt

động tiếp xúc cử tri chưa được đổi mới, việc giải quyết, trả lời các kiến nghị

của cử tri có việc chưa thỏa đáng…. Mặt khác, HĐND xã có thêm tổ chức

trực thuộc là các Ban của HĐND, đây là những tổ chức mới nên hoạt động sẽ

có những bỡ ngỡ, khó khăn nhất định…. Trước thực tế đó, HĐND xã ở huyện

Tây Hòa cần phải có những giải pháp phù hợp để bảo đảm thực hiện tốt chức

năng, nhiệm vụ và thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Xây dựng HĐND

có thực quyền để thực hiện đầy đủ vai trò là cơ quan đại diện của nhân dân,

cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Nâng cao chất lượng, hiệu quả

hoạt động trên các mặt: kỳ họp, hoạt động của Thường trực HĐND, các Ban

của HĐND và hoạt động của đại biểu HĐND để đảm bảo quyền dân chủ,

quyền tham gia quản lý của nhân dân đối với nhà nước và xã hội.

Do đó, đề ra những giải pháp nằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt

động của HĐND xã ở huyện Tây Hòa là một việc làm cần thiết.

3.2. Những giải pháp nâng cao chất lƣợng, hiệu quả hoạt động của Hội

đồng nhân dân xã ở huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên

3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt

động của Hội đồng nhân dân xã

Hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của

HĐND nói chung và HĐND xã nói riêng là cơ sở pháp lý để nâng cao chất

lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND nói chung và HĐND xã ở huyện Tây

Hòa nói riêng. Trong thời gian đến yêu cầu phải hoàn thiện các quy định pháp

luật về tổ chức và hoạt động của HĐND xã, cụ thể như sau:

- Theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, HĐND xã

được thành lập Ban pháp chế và Ban Kinh tế - xã hội, đây là điểm mới so với

100

Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003. Vì mới thành lập lần đầu nên

trong hoạt động còn nhiều lúng túng, bỡ ngỡ, chưa có kinh nghiệm, mặt khác

các thành viên đều kiêm nhiệm nên việc dành thời gian cho hoạt động của

Ban sẽ hạn chế, trong khi đó chức năng, nhiệm vụ của Ban được pháp luật

quy định là rất nhiều. Vì vậy, cần phải có văn bản điều chỉnh tạo cơ chế phù

hợp để thành viên các Ban có điều kiện thực hiện nhiệm vụ; quy định rõ cơ

cấu, số lượng, tiêu chuẩn cụ thể đối với Trưởng ban, Phó Trưởng ban và các

thành viên các Ban của HĐND xã - đây là yếu tố góp phần nâng cao chất

lượng, hiệu quả hoạt động của các Ban của HĐND xã. Đồng thời có văn bản

quy định cụ thể về cơ cấu, số lượng, tiêu chuẩn đối với thành viên các Ban

của HĐND cấp xã nói chung và HĐND xã nói riêng.

- Chức năng, nhiệm vụ của HĐND xã được quy định trong Luật Tổ

chức chính quyền địa phương 2015 có một số nội dung còn chung chung và

trong phạm vi được phân quyền. Vì vậy cần sớm ban hành văn bản dưới luật

hướng dẫn thi hành Luật Tổ chức chính quyền địa phương về những nhiệm

vụ, quyền hạn được phân quyền.

- Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 quy định: “Đại biểu

HĐND hoạt động không chuyên trách phải dành ít nhất một phần ba thời gian

làm việc trong năm để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu

HĐND”[40]. Quy định này còn nêu chung, chưa quy định cụ thể khoản thời

gian nào, do đó, cần có văn bản dưới luật quy định cụ thể về thời gian để đại

biểu HĐND hoạt động không chuyên trách thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn

của đại biểu, qua đó phát huy vai trò, trách nhiệm của các đại biểu HĐND

hoạt động không chuyên trách.

- Về tiêu chuẩn của đại biểu HĐND xã, Luật và các văn bản dưới luật

còn quy định chung chung, chưa quy định cụ thể về trình độ học vấn, trình độ

chuyên môn (tiêu chuẩn quan trọng nhất liên quan đến chất lượng đại biểu).

101

Vì vậy, cơ quan có thẩm quyền cần phải quy định chi tiết hơn và nhấn mạnh

người được giới thiệu ứng cử đại biểu HĐND xã phải có trình độ học vấn và

trình độ chuyên môn cụ thể. Số đại biểu sau khi trúng cử phải được bồi dưỡng

kiến thức quản lý nhà nước trình độ từ trung cấp trở lên, được bồi dưỡng

những kiến thức về văn bản quy phạm pháp luật cơ bản, kỹ năng hoạt động

của đại biểu. Có như vậy, đại biểu HĐND mới thực hiện tốt được nhiệm vụ,

quyền hạn của đại biểu HĐND theo quy định của luật.

- Quy định các cơ chế để các vị đại biểu HĐND dành nhiều thời gian

hoạt động HĐND, khắc phục sự nể nang, né tránh ngại va chạm, ít tham gia ý

kiến, ít chất vấn tại kỳ họp của đại biểu HĐND; việc chất vấn của đại biểu và

việc trả lợi chất vấn của các cơ quan, tổ chức, người có trách nhiệm được chất

vấn.

- Ủy ban Thường vụ Quốc hội sớm sửa đổi, bổ sung quy chế hoạt động

của HĐND ban hành kèm theo Nghị quyết số 753/2005/NQ-UBTVQH11

ngày 02/4/2015 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI cho phù hợp với

Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, Luật Hoạt động giám sát

của Quốc hội và HĐND năm 2015 và một số quy định pháp luật có liên quan.

3.2.2. Những giải pháp cụ thể nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động

của Hội đồng nhân dân xã ở huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên

3.2.2.1. Tiếp tục nâng cao nhận thức của cấp uỷ Đảng, cán bộ, đảng viên và

nhân dân về vị trí, vai trò của HĐND xã và yêu cầu cần thiết phải nâng cao

chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND xã

Thực tế trong thời gian qua, một số cấp ủy Đảng, cán bộ, đảng viên,

một bộ phận không nhỏ trong nhân dân, thậm chí cả một số đại biểu HĐND

xã chưa có nhận thức thật sự đúng đắn về vị trí, vai trò của HĐND và đại biểu

HĐND xã. Tỷ lệ nhân dân tham gia các cuộc tiếp xúc cử tri còn quá ít, chưa

phát huy được vai trò làm chủ của mình, do đó chưa nắm bắt được hết những

102

tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Vì vậy, cần phải có sự chuyển biến mạnh

mẽ trong nhận thức về vị trí, vai trò của HĐND và đại biểu HĐND trong cấp ủy

Đảng, cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân.

Trong thời gian đến, cấp ủy Đảng tăng cường quán triệt, tuyên truyền các chủ

trương, nghị quyết của Đảng về xây dựng chính quyền địa phương, đẩy mạnh tuyên

truyền sâu rộng Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm

2015 và các văn bản quy phạm pháp luật khác liên quan đến HĐND trong cán bộ,

đảng viên và nhân dân; bố trí cán bộ có đủ trình độ, năng lực tham gia HĐND,

nhất là Thường trực HĐND xã, các Ban của HĐND xã; tạo mọi điều kiện để

nâng cao dân trí, nâng cao nhận thức của người dân trong việc thực hiện

quyền làm chủ của mình. Cấp ủy, chính quyền địa phương đẩy mạnh tuyên

truyền giáo dục pháp luật để nhân dân thấy rõ quyền và nghĩa vụ của mình

trong tham gia quản lý nhà nước, trong bầu cử, lựa chọn những đại biểu xứng

đáng thay mặt mình trong cơ quan dân cử. Các đoàn thể quần chúng cũng

phải nhận thức đầy đủ về chức năng, thẩm quyền của HĐND để có sự phối

hợp chặt chẽ trong hoạt động nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp thực hiện các

nhiệm vụ chính trị của địa phương.

3.2.2.2. Tăng cường vai trò lãnh đạo của cấp ủy Đảng cùng cấp

Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã

hội, là một nguyên tắc Hiến định trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà

nước ta. Tăng cường vai trò lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với tổ chức và hoạt

động của HĐND là vấn đề có tính nguyên tắc, quyết định đến chất lượng,

hiệu quả hoạt động của HĐND. Thực tế cho thấy, ở đâu cấp ủy Đảng nhận

thức đúng vị trí, vai trò của HĐND và có phương thức lãnh đạo đúng đắn thì

ở đó chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND được nâng lên.

Vì vậy, để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND xã cần

tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng ủy đối với tổ chức và hoạt động

103

của HĐND xã. Trong quá trình đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt

động của HĐND xã cần phải đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện của Đảng ủy bằng

chủ trương, đường lối, Nghị quyết và lãnh đạo công tác bầu cử đại biểu HĐND.

Đảng ủy lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ việc bầu cử HĐND, xây dựng, kiện

toàn tổ chức HĐND; giới thiệu nhân sự để HĐND bầu vào các vị trí lãnh đạo

chủ chốt của HĐND và UBND xã. Một trong những yếu tố có ảnh hưởng đến

chất lượng và hiệu quả hoạt động của HĐND xã là chất lượng của đại biểu

HĐND, vì vậy cần định hướng giới thiệu những người ứng cử đại biểu

HĐND phải có trình độ, năng lực và kinh nghiệm…xứng đáng là người đại

biểu nhân dân, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân.

Đảng ủy lãnh đạo về chủ trương, định hướng lớn trong những quyết

định quan trọng của HĐND để HĐND thảo luận, quyết định; cho ý kiến về

những định hướng lớn trong quy hoạch tổng thể về phát triển kinh tế - xã hội,

về những chủ trương, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp lớn trong kế hoạch

phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và hằng năm; cho ý kiến về chủ trương,

nhiệm vụ trọng yếu công tác quốc phòng quân sự địa phương, vấn đề an ninh

chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn nhằm giữ vững ổn định chính trị,

phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.

3.2.2.3. Nâng cao chất lượng các kỳ họp HĐND xã

Kỳ họp là hình thức hoạt động chủ yếu của HĐND xã, là nơi biểu hiện

trực tiếp và tập trung trí tuệ cử tri địa phương. Vì vậy, để nâng cao chất lượng,

hiệu quả hoạt động của HĐND xã thì việc nâng cao chất lượng kỳ họp có vai

trò rất quan trọng. Để nâng cao chất lượng kỳ họp cần quan tâm đổi mới, nâng

cao chất lượng các mặt công tác sau:

Chuẩn bị kỳ họp: Công tác chuẩn bị cho kỳ họp có ý nghĩa rất quan

trọng đến chất lượng kỳ họp. Trước ngày khai mạc kỳ họp, Thường trực

HĐND phải chuẩn bị chương trình, xác định nội dung kỳ họp. Căn cứ nghị

104

quyết HĐND về chương trình xây dựng nghị quyết hằng năm và tình hình

thực tiễn của từng xã, chỉ đạo của HĐND và UBND huyện, Đảng ủy xã,

Thường trực HĐND cần phối hợp chặt chẽ với UBND, Ban Thường trực Ủy

ban Mặt trận xã tổ chức Hội nghị liên tịch thống nhất những vấn đề cần đưa ra

bàn, quyết định tại mỗi kỳ họp HĐND, bàn bạc thống nhất nội dung, chương

trình kỳ họp; xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan trong công tác chuẩn bị

kỳ họp; quy định cụ thể thời gian hoàn thành các văn bản trình kỳ họp đảm

bảo đúng tiến độ và chất lượng. Việc thống nhất chọn trúng, chọn đúng những

nội dung kỳ họp giúp cho mỗi kỳ họp của HĐND xã vừa đáp ứng được những

yêu cầu về thực tiễn quản lý, điều hành của xã; do đó nhận được sự quan tâm

theo dõi của đông đảo cử tri và nhân dân trong xã.

Xây dựng chương trình kỳ họp phải khoa học, bố trí hợp lý thời gian

trình bày các báo cáo, tờ trình. Chương trình cần dành nhiều thời gian cho hoạt

động thảo luận, chất vấn và trả lời chất vấn. Nội dung các báo cáo phải chủ

động chuẩn bị kỹ lưỡng, có chất lượng. Chương trình và thời gian kỳ họp phải

được thông báo cho nhân dân biết để theo dõi, giám sát. Các báo cáo, tài kiệu

cần thiết phải được gửi sớm cho đại biểu HĐND để đại biểu có thời gian

nghiên cứu, khắc phục tình trạng gửi tài liệu chậm như hiện nay của một số xã.

Các Ban của HĐND phải chủ động tiến hành các hoạt động giám sát,

khảo sát về những nội dung sẽ trình kỳ họp. Qua giám sát, khảo sát đó giúp

cho các Ban có cái nhìn tổng quan và thực tế về từng nội dung trình kỳ họp,

làm căn cứ cho báo cáo thẩm tra của Ban, đồng thời lựa chọn những nội dung

để đưa ra thảo luận, chất vấn tại kỳ họp. Các Ban của HĐND xã phải nâng

cao chất lượng công tác thẩm tra. Quá trình thẩm tra nên tranh thủ ý kiến phản

biện của Ủy ban Mặt trận xã và các tổ chức thành viên. Báo cáo thẩm tra của

các Ban phải rõ quan điểm, đủ căn cứ để tham mưu, định hướng cho việc bàn,

quyết định của HĐND.

105

Trước khi khai mạc kỳ họp, Thường trực HĐND và UBND cần phải tổ

chức họp để rà soát lại toàn bộ công việc chuẩn bị cho kỳ họp, thông tin về

những vấn đề cần quan tâm qua thẩm tra của các ban, quyết định các nội dung

trình ra kỳ họp và bàn bạc hướng xử lý những vấn đề có thể phát sinh trong

thảo luận, chất vấn tại kỳ họp HĐND. Đây là việc làm làm tăng tính chủ động

trong kỳ họp, góp phần cho thành công của kỳ họp.

Nâng cao hiệu quả hoạt động tiếp xúc cử tri: Hoạt động tiếp xúc cử

tri phải được tổ chức thường xuyên với những hình thức phù hợp, tạo không

khí dân chủ, cởi mở, tôn trọng nhân dân. Nội dung tiếp xúc cử tri theo hướng

giảm thời gian đọc báo cáo mà chỉ cần nêu tóm tắt ý chính, những thông tin

cần thiết, những vấn về liên quan đến cử tri; tăng thời gian cho cử tri được

phát biểu ý kiến của mình. Đại biểu HĐND phải nắm bắt đầy đủ các thông tin

liên quan đến tình hình chính trị, kinh tế - xã hội của địa phương; có kỹ năng

trả lời và giải quyết các thắc mắc, bức xúc của cử tri; chuẩn bị chu đáo các nội

dung cần trình bày với cử tri; biết lắng nghe các ý kiến của cử tri, gửi mở các

vấn đề để cùng với cử tri thảo luận nhằm tìm ra giải pháp tốt nhất. Tại mỗi

cuộc tiếp xúc cử tri cần phải có sự tham gia của cán bộ chuyên môn của

UBND xã để có thể giải đáp ngay tại chỗ, kịp thời một số ý kiến, kiến nghị

của cử tri. Các kiến nghị của cử tri phải được tổng hợp đầy đủ, khách quan,

gửi đến Thường trực HĐND xã; phải trả lời đúng tiến độ và đăng tải công

khai để cử tri và nhân dân quan tâm theo dõi.

Theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, HĐND xã

không thành lập Tổ đại biểu. Vì vậy, Thường trực HĐND xã phải phân công

trách nhiệm cụ thể đại biểu HĐND xã trong các cuộc tiếp xúc cử tri tại đơn vị

bầu cử, qua đó phát huy vai trò, trách nhiệm của đại biểu, tránh tình trạng đùn

đẩy trách nhiệm lẫn nhau.

106

Ngoài ra, đại biểu HĐND xã phải phát huy vai trò của mình thường

xuyên tiếp xúc với nhân dân để lắng nghe, kịp thời giải thích cho nhân dân về

những vướng mắc trong việc thực hiện pháp luật của nhà nước và Nghị quyết

của HĐND xã, đồng thời nắm bắt những tâm tư, nguyện vọng của cử tri kịp

thời phản ánh đến các cơ quan có thẩm quyền để giải quyết, tạo niềm tin của

nhân dân đối với chính quyền địa phương, phát huy được quyền làm chủ của

nhân dân.

Tăng thêm thời gian cho kỳ họp, hiện nay thời gian mỗi kỳ họp HĐND

xã chỉ trong một ngày, trong khi đó chương trình kỳ họp có nhiều nội dung,

khó có thể bàn bạc kỹ để quyết định đúng đắn, thiết thực. Mặt khác, với thời

gian như vậy kỳ họp HĐND xã sẽ chỉ là một hình thức hợp pháp hóa các báo

cáo, tờ trình của UBND. Do đó tính dân chủ và hiệu quả của kỳ họp HĐND

sẽ không được đảm bảo. Tổ chức nhiều hơn các kỳ họp chuyên đề nhằm giải

quyết những vấn đề bức xúc ở địa phương.

Nâng cao chất lƣợng, hiệu quả công tác điều hành kỳ họp: Thường

trực HĐND xã phải xây dựng chương trình chi tiết, cụ thể. Quá trình điều

hành kỳ họp cần thực hiện triệt để nguyên tắc tập trung dân chủ, không né

tránh những vấn đề phức tạp khi có các ý kiến trái ngược nhau.

Chủ tọa phải nâng cao năng lực, trí tuệ, có khả năng dự kiến, dự báo

được những tình huống có thể xảy ra ngoài chương trình nghị sự để tránh bị

động, lúng túng; đồng thời phải có phương pháp, nghệ thuật điều hành đảm

bảo cho kỳ họp đạt đúng mục đích, yêu cầu đề ra.

Nâng cao chất lƣợng xem xét báo cáo, thảo luận tại kỳ họp: Tại kỳ

họp, cần tiếp tục giảm bớt thời gian đọc báo cáo tại hội trường, một số báo

cáo đại biểu HĐND xã nên tự nghiên cứu; dành nhiều thời gian tập trung cho

thảo luận, chất vấn và trả lời chất vấn. Chủ tọa kỳ họp cần gợi ý, định hướng

cho các đại biểu tập trung vào những vấn đề trọng tâm, vấn đề lớn, những vấn

107

đề được cử tri quan tâm để đại biểu thảo luận. Như vậy phát huy được trí tuệ

của tập thể, nắm bắt được những ý kiến chung nhất để đưa ra giải pháp mang

tính đột phá, phù hợp với thực tiễn.

Nâng cao chất lƣợng, hiệu quả chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ

họp: Đại biểu HĐND phải nâng cao hơn nữa năng lực, trách nhiệm trong hoạt

động chất vấn; không ngừng rèn luyện, bồi dưỡng kỹ năng chất vấn, lựa chọn

ngôn ngữ đối thoại trong chất vấn... Các đại biểu cần phải am hiểu pháp luật,

thực tiễn, nghiên cứu kỹ các văn bản liên quan đến phiên chất vấn như: báo

cáo kết quả giải quyết những vấn đề mà cử tri quan tâm; văn bản tiếp nhận,

giải trình và hứa sẽ giải quyết những vấn đề cử tri và các đại biểu kiến nghị

đến kỳ họp…Những câu hỏi chất vấn phải ngắn gọn, mạch lạc, rõ ràng, dễ

hiểu, phải sát thực, đúng địa chỉ; nội dung chất vấn phải là những vấn đề có

tính bức xúc, có tầm ảnh hưởng lớn, được đông đảo cử tri và đại biểu HĐND

xã quan tâm.

Trả lời chất vấn là vấn đề đặc biệt quan trọng, có tính quyết định đối

với hiệu quả và ý nghĩa của quyền chất vấn. Vì vậy, người trả lời chất vấn

phải đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật, trường hợp có lý do chính

đáng mới ủy quyền cho cấp phó trả lời thay và phải được HĐND đồng ý.

Người trả lời chất vấn phải trả lời tất cả các ý kiến mà cử tri và đại biểu phản

ánh, nội dung trả lời phải trọng tâm, ngắn gọn, không phân tích viện dẫn các

lý do dài dòng. Những vấn đề đại biểu, cử tri phản ánh không đúng hoặc chỉ

đúng một phần thì đưa ra cơ sở chứng minh, đồng thời tư vấn cách tiếp cận và

phản ánh thông tin chuẩn xác hơn; phải có thái độ bình tĩnh và tinh thần trách

nhiệm cao trong việc trả lời chất vấn. Tiếp thu nghiêm túc, có thái độ thiện

chí, cầu thị, làm rõ trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm tập thể. Theo dõi, cập

nhật từng kỳ họp tất cả những vấn đề cử tri và đại biểu phản ánh để có kế

hoạch giải quyết minh bạch, không bỏ sót. Lưu lại bằng văn bản kết quả giải

108

quyết các kiến nghị, làm cơ sở để giải quyết đơn thư liên quan, đồng thời làm

căn cứ cho đại biểu khi tiếp xúc với cử tri.

HĐND xã cần có nghị quyết để quy kết rõ ràng trách nhiệm của cơ

quan, người trả lời chất vấn, tạo ra áp lực mang tính quy phạm buộc người trả

lời chất vấn phải thực hiện nghiêm túc lời hứa của mình.

Chủ tọa kỳ họp phát huy vị trí, vai trò của người điều hành để đảm

bảo cho việc chất vấn được thực hiện dân chủ, cởi mở, thẳng thắn với tinh

thần trách nhiệm cao của đại biểu cũng như của người trả lời chất vấn.

Trong mỗi vấn đề chất vấn, chủ tọa có thể đề nghị đại biểu đưa ra các chứng

cứ cụ thể để chứng minh. Chủ tọa cũng cần kiên quyết hơn đối với tình trạng

lợi dụng diễn đàn, chất vấn với động cơ cá nhân, gây không khí căng thẳng

làm giảm tác dụng của chất vấn. Những vấn đề được nêu ra, chủ tọa phải kịp

thời nắm bắt và thể hiện được chính kiến, thẳng thắn, cụ thể, công tâm,

khách quan. Tất cả các vấn đề đưa ra tranh luận cuối cùng phải được kết

luận rõ ràng, phân minh. Kết luận của Chủ tọa kỳ họp tại phiên chất vấn nên

ngắn gọn, đánh giá và nhận xét tóm tắt những nội dung đã đạt được và chưa

đạt được trong quá trình chất vấn và trả lời chất vấn, những điểm cần rút

kinh nghiệm cho kỳ họp sau. Những vấn đề đã được tiếp nhận để giải quyết

phải được theo dõi, từng bước giải quyết dứt điểm, như thế mới tăng cường

được trách nhiệm của cơ quan giải quyết, mới thỏa mãn tâm nguyện chính

đáng của đại biểu kiến nghị, chất vấn.

Kỳ họp HĐND xã cần phải được tổ chức một cách công khai, dân chủ,

các phiên chất vấn cần phát thanh trực tiếp để nhân dân có thể theo dõi và

phản ánh kịp thời những bức xúc chưa được giải quyết.

Nâng cao chất lƣợng ban hành Nghị quyết của HĐND xã: Nghị

quyết HĐND xã là văn bản quy phạm pháp luật, việc ban hành Nghị quyết

của HĐND xã phải tuân thủ nghiêm chỉnh những quy trình của Luật ban hành

109

văn bản quy phạm pháp luật năm 2015. Nghị quyết cần được UBND xã dự

thảo sớm, tùy vào tính chất và nội dung của dự thảo nghị quyết cần phải tổ

chức lấy ý kiến của cơ quan, tổ chức có liên quan của nhân dân bằng hình

thức phù hợp; các Ban của HĐND xã thực hiện nghiêm túc việc thẩm tra dự

thảo nghị quyết; dự thảo nghị quyết phải được gửi trước cho đại biểu để

nghiên cứu, sửa chữa, góp ý, đảm bảo Nghị quyết thực sự thể hiện tập trung

trí tuệ đại biểu HĐND xã.

3.2.2.4. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Thường trực HĐND xã

Thường trực HĐND xã có vai trò rất quan trọng đảm bảo cho hoạt

động của HĐND cùng cấp được thực hiện liên tục giữa hai kỳ họp. Ngoài

công việc chuẩn bị nội dung, chương trình kỳ họp, Thường trực HĐND xã

còn phải đảm nhiệm hầu hết công việc giữa hai kỳ họp và thực hiện chức

năng giám sát theo quy định của pháp luật. Hiện nay, Thường trực HĐND xã

chỉ có 02 người, Chủ tịch hoạt động kiêm nhiệm, Phó Chủ tịch hoạt động

chuyên trách, trong khi đó chức năng của HĐND xã là rất rộng, để hoạt động

HĐND xã có hiệu quả thì đòi hỏi Thường trực HĐND xã phải nâng cao vai

trò, trách nhiệm trong hoạt động. Cấp trên cần phải tổ chức tập huấn bồi

dưỡng nghiệp vụ cho Thường trực HĐND xã nhằm trang bị, cập nhật đầy đủ

các quy định của pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của HĐND, vì

sau khi Hiến pháp 2013 được ban hành thì nhiều luật mới cũng được ban hành

để phù hợp với quy định của Hiến pháp như: Luật Tổ chức chính quyền địa

phương năm 2015, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm

2015, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015…

Thường trực HĐND xã cần nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng,

chính sách, pháp luật của Nhà nước và tình hình thực tiễn tại địa phương; phải

nâng cao kỹ năng tiếp xúc cử tri; kỹ năng thu thập, lựa chọn và phân tích, xử

lý thông tin liên quan đến hoạt động giám sát; theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc

110

thực hiện các kết luận, kiến nghị sau giám sát; theo dõi, giám sát việc thực

hiện Nghị quyết của HĐND xã đã ban hành.

Thường trực HĐND cần phải rèn luyện kỹ năng chủ tọa, điều hành các

kỳ họp HĐND xã; tham gia đầy đủ các kỳ họp của UBND xã. Thực hiện

nghiêm túc việc tiếp công dân và tổ chức để đại biểu HĐND tiếp công dân

theo quy định của pháp luật.

Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát của Thường trực

HĐND và phiên họp của Thường trực HĐND xã.

3.2.2.5. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các Ban của HĐND xã

Ban của HĐND xã được thành lập trong nhiệm kỳ 2016-2021, mới thành

lập chưa có kinh nghiệm trong hoạt động, thành viên các Ban hoạt động kiêm

nhiệm. Vì vậy, để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các Ban của

HĐND xã, trước hết cấp thẩm quyền cần phải kịp thời tổ chức tập huấn kỹ năng,

nghiệp vụ cho các thành viên các Ban trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn

theo quy định của pháp luật, nhất là kỹ năng thẩm tra dự thảo nghị quyết, báo

cáo, đề án và trong hoạt động giám sát. Thành viên các Ban của HĐND xã phải

có chuyên môn, nắm vững các quy định của pháp luật liên quan đến lĩnh vực

được phân công để vận dụng trong thực hiện nhiệm vụ. Các cơ quan, đơn vị có

đại biểu HĐND xã là thành viên các Ban của HĐND xã phải tạo điều kiện về

thời gian để đại biểu thực hiện nhiệm vụ. Chú trọng cơ cấu, số lượng và trình độ

chuyên môn các thành viên khi thành lập các Ban của HĐND xã.

Hiện nay một số xã, các Ban của HĐND xã chưa đảm bảo về số lượng

và trình độ chuyên môn, các xã cần phải khẩn trương củng cố, kiện toàn để

đảm bảo các Ban của HĐND xã hoạt động có chất lượng, hiệu quả.

3.2.2.6. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của đại biểu HĐND xã

Đại biểu HĐND xã là thành phần tạo ra HĐND xã, để nâng cao chất

lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND xã thì cần phải nâng cao chất lượng,

111

hiệu quả hoạt động của đại biểu HĐND xã. Năng lực của đại biểu HĐND xã

là nhân tố quyết định chất lượng hoạt động của HĐND xã. Vì vậy cần thực

hiện những giải pháp sau:

- Thực trạng đại biểu HĐND các xã ở huyện Tây Hòa nhiệm kỳ 2016-

2021 vẫn còn một số đại biểu chưa có trình độ chuyên môn và lý luận chính

trị, do đó sẽ ảnh hưởng đến chất lượng của đại biểu, nhất là trong việc nghiên

cứu tài liệu, thảo luận và chất vấn tại kỳ họp, cũng như việc tham gia các hoạt

động giám sát của HĐND xã. Vì vậy, cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng

trình độ chuyên môn, lý luận chính trị cho số đại biểu này.

Thực trạng công tác hiệp thương nhân sự bầu cử đại biểu HĐND xã

huyện Tây Hòa cho thấy, một số đại biểu được giới thiệu ứng cử và trúng cử

vào HĐND chỉ đảm bảo về mặt cơ cấu mà chưa được chú trọng về chất lượng

hoạt động. Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần phải có cơ cấu đại biểu hợp lý, đảm

bảo cả về số lượng và chất lượng, tức là cần phải có một tỷ lệ thích hợp số đại

biểu có trình độ kiến thức về pháp luật, số đại biểu có kiến thức về quản lý

nhà nước, số đại biểu có kiến thức chuyên môn về các ngành nghề liên quan

trực tiếp đến tình hình phát triển kinh tế, xã hội của địa phương… Việc hiệp

thương danh sách ứng cử viên cho bầu cử HĐND xã không nên nặng về cơ

cấu, thành phần mà nên coi trọng tiêu chuẩn trình độ, năng lực và ý thức trách

nhiệm của đại biểu. Quan tâm, tạo điều kiện để những người trẻ tuổi, có đức,

có tài có thể tham gia ứng cử hoặc được đề cử vào cơ quan quyền lực nhà

nước ở địa phương; chú ý đúng mức đến nhu cầu “trẻ hoá” để khi vào khung

công chức và khi đảm nhận chức trách người đại biểu HĐND có đủ trình độ,

năng lực, phẩm chất hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

- Kịp thời, thường xuyên tập huấn, bồi dưỡng cho đại biểu HĐND xã

cả về kiến thức lý luận và kỹ năng hoạt động, chú trọng bồi dưỡng kiến thức

về nhà nước và pháp luật.

112

Về phương thức tổ chức tập huấn, bồi dưỡng phải có phù hợp với từng

đại biểu vì cơ cấu đại biểu đa dạng, các đại biểu có trình độ văn hóa, trình độ

chuyên môn, trình độ lý luận chính trị, nhận thức khác nhau. Vì vậy cần mở

các lớp nghiên cứu riêng cho các đại biểu có trình độ tương đương, đại biểu

tái cử, đại biểu mới, đại biểu là Thường trực HĐND. Trên nền kiến thức

chung, các lớp riêng cho những đối tượng riêng sẽ nâng cao chất lượng, hiệu

quả công tác bồi dưỡng, chẳng hạn: đại biểu là Thường trực HĐND phải vừa

nắm được những vấn đề chung thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu và

HĐND, vừa phải nghiên cứu sâu nhiệm vụ, quyền hạn của Thường trực

HĐND. Mặt khác, khi tổ chức các lớp nghiên cứu riêng như vậy sẽ giúp các

đại biểu trong Thường trực HĐND của các xã có điều kiện gặp gỡ, thảo luận,

trao đổi những kinh nghiệm hoạt động thực tế của các địa phương, giúp nhau

đi sâu tìm hiểu các biện pháp giải quyết các vấn đề đặt ra đối với Thường trực

HĐND từng xã.

- Việc tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng hoạt động cho đại biểu HĐND xã

cần được thực hiện ngay sau kỳ họp thứ nhất của HĐND xã, qua đó kịp thời

cập nhật kiến thức cho đại biểu, nâng cao chất lượng hoạt động của đại biểu

HĐND xã.

Kỹ năng hoạt động của người đại biểu đóng một vai trò hết sức quan

trọng, góp phần quyết định chất lượng hoạt động của từng đại biểu cũng như

hiệu quả hoạt động của HĐND. Vì vậy cần phải tăng cường bồi dưỡng kỹ

năng hoạt động cho các đại biểu để họ có thể chủ động trong thực thi nhiệm

vụ, quyền hạn được giao. Các đại biểu HĐND xã chủ yếu hoạt động kiêm

nhiệm, họ vừa phải làm việc tại đơn vị công tác, vừa thực hiện nhiệm vụ đại

biểu. Qua việc nâng cao kỹ năng hoạt động cho đại biểu sẽ tạo điều kiện cần

thiết để người đại biểu có thể sắp xếp thời gian công tác một cách khoa học,

hợp lý và nhờ đó thực hiện chức năng đại biểu đạt chất lượng cao nhất. Để

113

nâng cao hoạt động của đại biểu HĐND xã, cần quan tâm bồi dưỡng các kỹ

năng sau:

Kỹ năng xây dựng chương trình hoạt động cụ thể của đại biểu, chương

trình hoạt động càng cụ thể, chi tiết bao nhiêu thì hoạt động của đại biểu càng

đạt hiệu quả cao và thiết thực bấy nhiêu. Việc xây dựng chương trình hoạt

động của đại biểu HĐND xã phải căn cứ chương trình hoạt động của HĐND

xã, kết hợp chặt chẽ với hoạt động chuyên môn tại đơn vị công tác và phải

được xây dựng một cách chi tiết. Nội dung chương trình hoạt động của mỗi

đại biểu phải gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm

của đại biểu trước nhân dân địa phương.

Về kỹ năng tiếp xúc cử tri: Mỗi đại biểu đều có nhiệm vụ tiếp xúc cử tri

trước và sau mỗi kỳ họp, bồi dưỡng kỹ năng tiếp xúc cử tri bao gồm các kỹ

năng lắng nghe và tiếp nhận thông tin từ nhân dân; kỹ năng thu thập, tổng

hợp, xử lý thông tin; kỹ năng báo cáo, giải trình và nói chuyện trước công

chúng; kỹ năng tuyên truyền kết quả kỳ họp, giải thích chính sách pháp luật,

giải thích những vấn đề liên quan đến khiếu nại, tố cáo…

Kỹ năng chất vấn: Đây là một hình thức hoạt động của đại biểu HĐND

nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước tại địa

phương. Hiệu quả của hoạt động chất vấn cũng góp phần bổ trợ cho việc thực

hiện nhiệm vụ đại biểu đạt kết quả cao hơn. Bồi dưỡng kỹ năng chất vấn của

đại biểu gồm những nội dung về phương pháp thu thập tài liệu, chứng cứ; lựa

chọn vấn đề đưa ra chất vấn; lựa chọn ngôn ngữ đối thoại trong chất vấn và

trả lời chất vấn... với mục đích cần hướng tới nội dung làm cho đại biểu hiểu

rõ mục đích, yêu cầu của chất vấn; hiểu rõ nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn vị

liên quan đến nội dung được chất vấn của HĐND; có khả năng chuẩn bị các câu

hỏi cần thiết, rõ ràng, nêu các vấn đề cụ thể và phải định được mục đích cuối

cùng là xác định trách nhiệm của người bị chất vấn; có được kỹ năng thu thập,

114

phân tích, xử lý các thông tin có liên quan đến vấn đề đặt ra; kỹ năng đặt các câu

hỏi trúng và đúng.

Bồi dưỡng kỹ năng tự giám sát và tham gia đoàn giám sát; xác định

cách tiếp cận để nghiên cứu vấn đề cần giám sát; kinh nghiệm nêu vấn đề, đặt

câu hỏi hợp lý với cơ quan hữu quan để làm rõ các nội dung cần giám sát;

thảo luận và đi đến kết luận giám sát; xây dựng kiến nghị giám sát và theo dõi

kết quả thực hiện yêu cầu của đoàn giám sát.

Bên cạnh đó, hàng năm cần phải tổ chức các lớp tập huấn theo chuyên

đề, trang bị cho đại biểu các kiến thức về kinh tế - ngân sách, nông nghiệp,

lâm nghiệp, xây dựng cơ bản, thi hành pháp luật…

3.2.2.7. Nâng cao chất lượng, hiệu quả giám sát của HĐND xã

Giám sát là một chức năng quan trọng của HĐND, để nâng cao chất

lượng, hiệu quả giám sát của HĐND xã thì cần phải thực hiện các nội dung

sau:

- Nâng cao năng lực các chủ thể thực hiện chức năng giám sát của

HĐND xã: Năng lực giám sát của đại biểu HĐND xã, Thường trực HĐND xã

và các Ban của HĐND xã.

- Nâng cao chất lượng thực hiện các hình thức giám sát của HĐND xã,

cụ thể là: Chất lượng xem xét các báo cáo, chất lượng chất vấn và trả lời chất

vấn, việc lấy phiếu tín nhiệm và bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do

HĐND xã bầu.

- Nhiệm kỳ 2011-2016 số lượng các cuộc giám sát của HĐND các xã

trên địa bàn huyện Tây Hòa còn ít, đã ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả

hoạt động của HĐND xã. Vì vậy, HĐND các xã cần phải tăng cường tổ chức

các cuộc giám sát của Thường trực HĐND và các Ban của HĐND xã. Về

chương trình giám sát, ngoài việc xây dựng chương trình giám sát theo định

kỳ, cần phải dự báo những vấn đề phát sinh, nổi cộm, những vấn đề bức xúc

115

được nhân dân địa phương quan tâm để tổ chức giám sát. Các Ban của HĐND

xã xây dựng kế hoạch giám sát cụ thể, có trọng tâm, trọng điểm. Thành viên

các đoàn giám sát phải có trình độ chuyên môn, am hiểu pháp luật và các vấn

- Tuỳ thuộc vào từng đối tượng để lựa chọn hình thức, phương pháp

đề liên quan đến lĩnh vực giám sát.

giám sát phù hợp, đảm bảo tính khách quan, chính xác và triệt để. Giám sát

không chỉ dừng lại ở việc chỉ ra các ưu điểm, khuyết điểm, đề ra những biện

pháp khắc phục cho các tổ chức chịu giám sát mà điều quan trọng là tổ chức

đó khắc phục, sửa chữa khuyết điểm như thế nào. Tức là những kiến nghị, đề

xuất của Đoàn giám sát có được tổ chức được giám sát chịu trách nhiệm tiếp

thu, tổ chức thực hiện trong thực tế một cách triệt để hay không. HĐND xã

phải tổ chức đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các kết luận của Đoàn giám sát,

đồng thời pháp luật phải quy định cho HĐND xã có những chế tài cụ thể đối với

tổ chức được giám sát nếu họ không thực hiện tốt các đề xuất, kiến nghị của

Đoàn giám sát của HĐND xã.

3.2.2.8. Đảm bảo tốt các điều kiện cho hoạt động HĐND xã

Thực tiễn hoạt động của HĐND xã ở huyện Tây Hòa cho thấy, một số

xã chưa đảm bảo điều kiện cho hoạt động của HĐND xã như: một số xã chưa

bố trí được phòng làm việc cho Thường trực HĐND, cung cấp thông tin cho

đại biểu HĐND có lúc còn chậm. Vì vậy, để nâng cao chất lượng, hiệu quả

hoạt động của HĐND cần phải tạo các điều kiện thuận lợi cho hoạt động

HĐND xã, cụ thể:

- Đảm bảo điều kiện vật chất cần thiết cho hoạt động của HĐND xã:

Phân bổ kinh phí hợp lý cho hoạt động của HĐND xã, đây là điều kiện cần

thiết đảm bảo cho cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương thực hiện chức

năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật. Các xã Hòa Đồng, Hòa Mỹ Tây,

Sơn Thành Đông, Sơn Thành Tây sớm bố trí phòng làm việc, trang thiết bị

116

làm việc, phương tiện thông tin liên lạc… đảm bảo cho hoạt động của Thường

trực HĐND xã, tăng cường tính độc lập cho HĐND xã.

Hiện nay, đại biểu HĐND xã được hưởng chế độ hoạt động phí hàng

tháng bằng hệ số là 0,3 mức lương cơ sở và đối với đại biểu hoạt động không

chuyên trách mà không phải là người hưởng lương (kể cả người hưởng lương

hưu) hoặc hưởng trợ cấp hàng tháng từ ngân sách nhà nước hoặc từ quỹ bảo

hiểm xã hội thì được chi trả chế độ tiền công lao động theo ngày thực tế thực

hiện nhiệm vụ đại biểu HĐND là 0,10 mức lương cơ sở/ngày. Thực tế với

mức kinh phí hoạt động như vậy thì chưa tương xứng với những nhiệm vụ,

trách nhiệm của đại biểu HĐND xã. Đặc biệt là đối với những đại biểu không

phải là cán bộ, công chức, không có lương thì mức kinh phí hoạt động ấy sẽ

không thể tạo điều kiện cho đại biểu chuyên tâm làm công tác đại biểu được.

Với chủ trương cơ cấu đại biểu đủ các thành phần, tăng số đại biểu là dân, là

người ngoài Đảng, là đại biểu chuyên trách thì cần thiết phải tăng mức hoạt

động phí cho các đại biểu HĐND xã không phải là cán bộ, công chức được

hưởng lương từ ngân sách nhà nước lên ít nhất là bằng mức lương cơ sở.

Đồng thời thực hiện đầy đủ các chế độ về cung cấp báo chí, tài liệu, trang

phục. Như vậy mới thực sự đảm bảo cho người đại biểu HĐND có thể chuyên

tâm thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.

- Đảm bảo điều kiện thông tin cho hoạt động của đại biểu HĐND xã:

Phải cung cấp đầy đủ, kịp thời các Nghị quyết của Đảng, văn bản pháp luật,

báo cáo tình hình kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng của địa phương, thông

báo kết luận giám sát…đến từng đại biểu HĐND xã. Các tài liệu liên quan

đến nội dung kỳ họp cần phải được gửi sớm cho các đại biểu để có thời gian

nghiên cứu, phân tích, đối chiếu thông tin một cách kỹ lưỡng. Khắc phục tình

trạng gửi tài liệu chậm làm ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động của đại biểu

tại kỳ họp.

117

Ngoài ra, các đại biểu cần phải chủ động yêu cầu các cơ quan có liên

quan cung cấp các thông tin cần thiết để phục vụ cho hoạt động. Có như vậy,

đại biểu mới có khả năng chủ động trong việc giải quyết các vấn đề thuộc

phạm vi thẩm quyền của mình.

118

Kết luận chương 3

Trên cơ sở những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân tồn tại, hạn chế trong

hoạt động của HĐND xã ở huyện Tây Hòa, đề ra các nhóm giải pháp nhằm

góp phần hoàn thiện pháp luật về HĐND xã và nâng cao chất lượng, hiệu quả

hoạt động của HĐND xã ở huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên. Mỗi giải pháp có

một vị trí, vai trò riêng, có quan hệ bổ trợ lẫn nhau, những giải pháp này chỉ

đem lại hiệu quả thực sự nếu được tiến hành một cách đồng bộ, hợp lý và có

kế hoạch trên cơ sở quán triệt, triển khai thực hiện tốt các quy định của pháp

luật liên quan đến HĐND xã.

119

KẾT LUẬN

Bản chất Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của

nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Điều 3, Hiến pháp năm 2013 khẳng định:

“Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”[40]. Hiện nay nước

ta đang đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế

sâu rộng. Để đáp ứng với yêu cầu thực tiễn của đất nước và thực hiện xây

dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân

thì vấn đề đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ

máy nhà nước đang được đặt ra một cách bức xúc. Việc nâng cao chất lượng,

hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung, HĐND các cấp nói riêng

là một trong những yêu cầu quan trọng. Nghiên cứu thực trạng, đề ra các giải

pháp hoàn thiện pháp luật về HĐND xã và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt

động của HĐND xã là một trong những việc làm cần thiết góp phần nâng cao

hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước ở địa phương.

Nhiệm vụ đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND đã được đề cập

trong các nghị quyết của Đảng, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

XI của Đảng khẳng định: "Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của chính

quyền địa phương. Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân và

Ủy ban nhân dân các cấp, bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong

việc quyết định và tổ chức thực hiện những chính sách trong phạm vi được

phân cấp"[4, tr. 251] và được cụ thể hoá trong các chính sách, pháp luật của

nhà nước như: Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015, Luật Bầu cử đại

biểu Quốc hội và đại biểu HĐND năm 2015, Luật Hoạt động giám sát của

Quốc hội và HĐND năm 2015…

Quán triệt, triển khai thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản

Việt Nam, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tổ chức và hoạt động của

120

chính quyền địa phương, chất lượng và hiệu quả hoạt động của HĐND các

cấp ngày càng được nâng lên, vai trò của HĐND xã được phát huy. Bên cạnh

đó, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà hoạt động của HĐND nói chung và

HĐND xã nói riêng vẫn còn những tồn tại, hạn chế trong thực hiện chức

năng, nhiệm vụ của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương theo quy định

của pháp luật. Qua nghiên cứu thực trạng hoạt động của HĐND xã ở huyện

Tây Hòa từ năm 2011 đến nay cho thấy bên cạnh những thành tựu đạt được

góp phần ổn định, phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, hoạt động của

HĐND các xã ở huyện Tây Hòa vẫn còn những tồn tại, hạn chế cần phải được

khắc phục để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động trong thời gian đến.

Căn cứ kết quả phân tích, đánh giá những thành tựu và tồn tại, hạn chế

trong hoạt động của HĐND xã ở huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên, Luận văn đưa

ra một số giải pháp cụ thể nhằm góp phần tiếp tục hoàn thiện pháp luật về

HĐND xã và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND xã ở huyện

Tây Hòa, qua đó góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của

HĐND cấp xã nói chung. Qua nghiên cứu đề tài “Hoạt động của HĐND xã ở

huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên”, với những giải pháp mà Luận văn nêu ra

trong nội dung nghiên cứu nếu được thực hiện một cách đồng bộ sẽ nâng cao

chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND xã, thực hiện tốt chức năng, nhiệm

vụ, quyền hạn của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, xây dựng chính

quyền nhà nước tại địa phương ngày càng trong sạch, vững mạnh, đáp ứng

yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.

121

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Chi Cục thống kê huyện Tây Hòa(2016), Niên giám thống kê huyện Tây

Hòa năm 2015, Tây Hòa.

2. Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa(1945),

Sắc lệnh số 63/SL về tổ chức, quyền hạn, cách làm việc của Hội đồng

nhân dân và Ủy ban hành chính, Hà Nội.

3. Nguyễn Đăng Dung(2012), HĐND trong nhà nước pháp quyền, Nxb Tư

pháp, Hà Nội.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam(2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XI, Nxb Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam(2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XII, Nxb Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

6. HĐND huyện Tây Hòa(2016), Báo cáo kết quả khảo sát thực trạng tổ

chức và hoạt động của HĐND các xã, thị trấn trên địa bàn huyện, Tây

Hòa.

7. HĐND tỉnh Phú Yên(2012), Nghị quyết về việc quy định một số chế độ

chi tiêu bảo đảm hoạt động của HĐND các cấp tỉnh Phú Yên, Phú Yên.

8. HĐND tỉnh Phú Yên(2016), Nghị quyết sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số

73/2012/NQ-HĐND ngày 13/12/2012 của HĐND tỉnh Quy định một số

chế độ chi tiêu bảo đảm hoạt động của HĐND các cấp tỉnh Phú Yên, Phú

Yên.

9. HĐND xã Hòa Bình 1(2016), Báo cáo tổng kết tình hình tổ chức và hoạt

động của HĐND xã Hòa Bình 1, nhiệm kỳ 2011-2016, Hòa Bình 1.

10. HĐND xã Hòa Bình 1(2016), Báo cáo thực trạng tổ chức và hoạt động

của HĐND xã nhiệm kỳ 2016-2021, Hòa Bình 1.

122

11. HĐND xã Hòa Đồng(2016), Báo cáo tình hình tổ chức và hoạt động của

HĐND xã khóa XI, nhiệm kỳ 2011-2016, Hòa Đồng.

12. HĐND xã Hòa Đồng(2016), Báo cáo thực trạng tổ chức và hoạt động

của HĐND xã khóa XII, nhiệm kỳ 2016-2021, Hòa Đồng.

13. HĐND xã Hòa Mỹ Đông(2016), Báo cáo tổ chức và hoạt động của

HĐND nhiệm kỳ 2011-2016, Hòa Mỹ Đông.

14. HĐND xã Hòa Mỹ Đông(2016), Báo cáo thực trạng tổ chức và hoạt

động của HĐND xã nhiệm kỳ 2016-2021, Hòa Mỹ Đông.

15. HĐND xã Hòa Mỹ Tây(2016), Báo cáo tổng kết tình hình tổ chức và

hoạt động của HĐND xã nhiệm kỳ 2011-2016, Hòa Mỹ Tây.

16. HĐND xã Hòa Mỹ Tây(2016), Báo cáo thực trạng tổ chức và hoạt động

của HĐND xã Hòa Mỹ Tây khóa IX, nhiệm kỳ 2016-2021, Hòa Mỹ Tây.

17. HĐND xã Hòa Phong(2016), Báo cáo tổng kết hoạt động của HĐND xã

nhiệm kỳ 2011-2016, Hòa Phong.

18. HĐND xã Hòa Phong(2016), Báo cáo thực trạng tổ chức và hoạt động

của HĐND xã khóa XII, nhiệm kỳ 2016-2021, Hòa Phong.

19. HĐND xã Hòa Phú(2016), Báo cáo tổng kết hoạt động của HĐND xã

nhiệm kỳ 2011-2016, Hòa Phú.

20. HĐND xã Hòa Phú(2016), Báo cáo thực trạng tổ chức và hoạt động của

HĐND xã khóa XII, nhiệm kỳ 2016-2021, Hòa Phú.

21. HĐND xã Sơn Thành Đông(2016), Báo cáo tổng kết hoạt động của

HĐND xã nhiệm kỳ 2011-2016, Sơn Thành Đông.

22. HĐND xã Sơn Thành Đông(2016), Báo cáo thực trạng tổ chức và hoạt

động của HĐND xã nhiệm kỳ 2016-2021, Sơn Thành Đông.

23. HĐND xã Sơn Thành Tây(2016), Báo cáo tổng kết hoạt động của HĐND

xã nhiệm kỳ 2011-2016, Sơn Thành Tây.

123

24. HĐND xã Sơn Thành Tây(2016), Báo cáo thực trạng tổ chức và hoạt

động của HĐND xã nhiệm kỳ 2016-2021, Sơn Thành Tây.

25. HĐND xã Hòa Tân Tây(2016), Báo cáo tổng kết tình hình tổ chức và

hoạt động của HĐND khóa XI, nhiệm kỳ 2011-2016, Hòa Tân Tây.

26. HĐND xã Hòa Tân Tây(2016), Báo cáo thực trạng tổ chức và hoạt động

của HĐND xã, nhiệm kỳ 2016-2021, Hòa Tân Tây.

27. HĐND xã Hòa Thịnh(2016), Báo cáo tình hình tổ chức và hoạt động của

HĐND xã nhiệm kỳ 2011-2016, Hòa Thịnh.

28. HĐND xã Hòa Thịnh(2016), Báo cáo thực trạng tổ chức và hoạt động

của HĐND xã nhiệm kỳ 2016-2021, Hòa Thịnh.

29. Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam(2007),

Từ điển bách khoa Việt Nam, Tập 1, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.

30. Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam(2002),

Từ điển bách khoa Việt Nam, Tập 3, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.

31. Phạm Văn Hùng(2007), “Nâng cao vai trò giám sát trong hoạt động của

cơ quan dân cử”, Tạp chí Quản lý Nhà nước (số 132), tr.14-19.

32. Huyện ủy Tây Hòa(2015), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Tây

Hòa lần thứ XI nhiệm kỳ 2015-2020, Tây Hòa.

33. Huyện ủy Tây Hòa(2016), Báo cáo tổng kết công tác năm 2016 và

phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2017, Tây Hòa.

34. Hồ Chí Minh(2000), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

35. Nguyễn Thị Nữ(2012), Tổ chức và hoạt động của HĐND xã – qua thực

tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại

học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

36. Hoàng Phê(2000), “Từ điển Tiếng Việt”, Viện ngôn ngữ học, Nxb Đà

Nẵng, Đà Nẵng.

124

37. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam(1980), Hiến pháp

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980, Hà Nội.

38. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam(1992), Hiến pháp

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, Hà Nội.

39. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam(2013), Hiến pháp

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, Hà Nội.

40. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam(1983), Luật Tổ

chức chính quyền địa phương năm 1983, Hà Nội.

41. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam(2015), Luật Tổ

chức chính quyền địa phương năm 2015, Hà Nội.

42. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam(2015), Luật Hoạt

động giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015, Hà Nội.

43. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam(2015), Luật Bầu cử

đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND năm 2015, Hà Nội.

44. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam(2015), Luật Ban

hành văn bản quy phạm pháp luật, Hà Nội.

45. Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa(1946), Hiến pháp nước Việt

Nam dân chủ cộng hòa năm 1946, Hà Nội.

46. Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa(1958), Luật Tổ chức chính

quyền địa phương năm 1958, Hà Nội.

47. Nguyễn Quốc Sửu(2016), “Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt

Nam theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng”, Tạp chí Cộng sản

(số 887 tháng 9 năm 2016), tr.63-68.

48. Văn phòng UBND huyện Tây Hòa(2016), Báo cáo cung cấp một số

thông tin và số liệu cơ bản của huyện Tây Hòa, Tây Hòa.

49. Viện ngôn ngữ học(2002), Từ điển Tiếng Việt phổ thông, Nxb Thành phố

Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.

125

PHỤ LỤC

Phụ lục 2.1: Cơ cấu, số lƣợng đại biểu HĐND các xã ở huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên nhiệm kỳ 2011-2016.

Nữ

Tái cử

Các thôn

Ngoài đảng

Cơ quan Đảng

Chính quyền

Mặt trận, đoàn thể

HĐND xã

St t

Tổng số đại biểu

TS

TS

TS

TS

TS

TS

TS

TS

1 Hòa Tân Tây 2 Hòa Bình 1 3 Hòa Đồng

27 28 29

Tỷ lệ (%) 25.93 10.71 13.79

7 3 4

7 15 11

Tỷ lệ (%) 25.93 53.57 37.93

Tỷ lệ (%) 7.41 10.71 10.34

2 3 3

5 13 11

Tỷ lệ (%) 18.52 46.43 37.93

Tỷ lệ (%) 4 14.81 4 14.29 5 17.25

Tỷ lệ (%) 7 25.93 2 7.14 7 24.14

Thành phần khác Tỷ lệ (%) 33.33 21.43 10.34

9 6 3

2 4 3

Tỷ lệ (%) 7.41 14.29 10.34

31

4 Sơn Thành Đông

10

32.26

18

58.06

9.68

3

9

29.03

5 16.13

11 35.48

3

9.68

4

12.90

5 Sơn Thành Tây 6 Hòa Phong 7 Hòa Phú 8 Hòa Mỹ Tây

26 25 26 29

15.38 16.00 11.54 17.24

4 4 3 5

6 14 13 17

23.08 56.00 50.00 58.62

7.70 12.00 15.38 6.90

2 3 4 2

5 10 7 8

19.23 40.00 26.92 27.59

3 11.54 4 16.00 6 23.08 5 17.24

12 46.15 6 24.00 7 26.92 11 37.93

4 2 2 3

15.38 8.00 7.70 10.34

4 2 2 0

15.38 8.00 7.70 0.00

9 Hòa Mỹ Đông

28

17.86

5

11

39.29

3.57

1

8

28.57

2

7.14

11 39.29

6

21.43

1

3.57

6.45

54.84 46.07

3.23 8.57

1 24

11 87

35.48 31.07

10 Hòa Thịnh Tổng cộng

31 280

2 47

17 16.79 129

4 12.90 42 15.00

13 41.94 87 31.07

2 40

6.45 14.29

4 26

12.90 9.29

Nguồn: Tổng hợp từ HĐND các xã ở huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên.

126

Phụ lục 2.2: Cơ cấu, số lƣợng đại biểu HĐND các xã ở huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên nhiệm kỳ 2016-2021.

Nữ

Tái cử

Các thôn

Ngoài đảng

Chính quyền

Cơ quan Đảng

Stt Tên HĐND xã

TS

TS

TS

TS

TS

TS

TS

TS

Tỷ lệ (%)

1 Hòa Tân Tây 2 Hòa Bình 1 3 Hòa Đồng

Tổng số đại biểu 27 28 28

7 4 4

Tỷ lệ (%) 25.93 14.29 14.29

Tỷ lệ (%) 13 48.15 20 71.43 11 39.29

2 3 3

Tỷ lệ (%) 25.93 35.71 32.14

7 10 9

7.41 10.71 10.71

Mặt trận, đoàn thể Tỷ lệ (%) 18.52 17.86 14.29

5 5 4

8 6 8

Tỷ lệ (%) 29.63 21.43 28.57

Thành phần khác Tỷ lệ (%) 18.52 14.29 14.29

5 4 4

3 2 3

Tỷ lệ (%) 11.11 7.14 10.71

4 Sơn Thành Đông

31

8

25.81

17 54.84

2

41.94

13

6.45

5

16.13

9

29.03

2

6.45

3

9.68

5 Sơn Thành Tây 6 Hòa Phong 7 Hòa Phú 8 Hòa Mỹ Tây

25 29 26 29

8 5 3 5

32.00 17.24 11.54 17.24

12 48.00 17 58.62 12 46.15 15 51.72

2 4 4 2

40.00 37.93 26.92 27.59

10 11 7 8

8.00 13.79 15.39 6.90

4 4 6 5

16.00 13.79 23.08 17.24

5 8 7 11

20.00 27.59 26.92 37.93

4 2 2 3

16.00 6.90 7.69 10.34

2 3 2 2

8.00 10.34 7.69 6.89

9 Hòa Mỹ Đông

28

6

21.43

15 53.57

2

42.86

12

7.14

3

10.72

9

32.14

2

7.14

1

3.57

13 40.63

12 99

9.38 9.54

15.62 16.26

10 81

6.25 10.60

1 22

3.13 7.77

32 5 283 55

15.63 3 19.43 145 51.24 27

37.50 5 34.98 46

31.25 2 28.62 30

10 Hòa Thịnh Tổng cộng

Nguồn: HĐND huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên.

127

Phụ lục 2.3: Độ tuổi đại biểu HĐND các xã ở huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên nhiệm kỳ 2011-2016 và nhiệm kỳ 2016-2021.

Trên 50 tuổi

Trên 50 tuổi

Dƣới 35 tuổi

Dƣới 35 tuổi

Stt HĐND xã

Nhiệm kỳ 2011-2016 Từ 35 đến 50 tuổi

Nhiệm kỳ 2016-2021 Từ 35 đến 50 tuổi

Tổng số đại biểu

Tổng số đại biểu

TS

TS

TS

TS

TS

TS

Sơn Thành Đông Sơn Thành Tây

27 28 29 31 26 25 26 29 28 31 280

Tỷ lệ (%) 11.11 21.43 24.14 38.71 19.23 20.00 30.77 31.03 28.57 9.68 23.57

3 6 7 12 5 5 8 9 8 3 66

Tỷ lệ (%) 74.07 60.71 62.07 54.84 65.38 72.00 57.69 58.62 60.72 54.84 61.79

20 17 18 17 17 18 15 17 17 17 173

Tỷ lệ (%) 25.93 17.86 32.14 41.94 36.00 24.14 26.92 24.14 17.86 15.62 26.15

7 5 9 13 9 7 7 7 5 5 74

Tỷ lệ (%) 48.14 39.28 53.57 45.16 60.00 58.62 73.08 58.62 50.00 21.88 50.18

13 11 15 14 15 17 19 17 14 7 142

27 28 28 31 25 29 26 29 28 32 283

Tỷ lệ (%) 25.93 42.86 14.29 12.90 4.00 17.24 0.00 17.24 32.14 62.50 23.67

7 12 4 4 1 5 0 5 9 20 67

Tỷ lệ (%) 14.82 17.86 13.79 6.45 15.39 8.00 11.54 10.35 10.71 35.48 14.64

4 5 4 2 4 2 3 3 3 11 41

1 Hòa Tân Tây 2 Hòa Bình 1 3 Hòa Đồng 4 5 6 Hòa Phong 7 Hòa Phú 8 Hòa Mỹ Tây 9 Hòa Mỹ Đông 10 Hòa Thịnh Tổng cộng

Nguồn: Tổng hợp từ HĐND các xã ở huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên.

128

Phụ lục 2.4: Trình độ học vấn, chuyên môn và lý luận chính trị của đại biểu HĐND các xã ở huyện Tây Hòa nhiệm kỳ 2011-2016.

Trình độ học vấn

Trình độ chuyên môn

Trình độ lý luận chính trị

THCS

THPT

Đại học

Sơ cấp

Tr. Cấp

Cao cấp

Tr. Cấp, cao đẳng

Sau Đại học

Stt

HĐND xã

Tổng số đại biểu

TS

TS

TS

TS

TS

TS

TS

TS

Tỷ lệ (%)

Tỷ lệ (%)

Tỷ lệ (%)

Tỷ lệ (%)

Tỷ lệ (%)

Tỷ lệ (%)

Tỷ lệ (%)

Tỷ lệ (%)

27 28 29

5 18.52 3 10.71 7 24.14

22 81.48 25 89.29 22 75.86

14 51.85 7 25.00 6 20.69

2 7.41 4 14.29 12 41.38

0 0.00 0 0.00 0 0.00

8 29.63 3 10.71 0.00 0

12 12 10

44.44 42.86 34.48

1 0 1

3.70 0.00 3.45

31

12 38.71

19 61.29

8 25.81

4 12.90

0 0.00

6 19.35

15

48.39

1

3.23

1 Hòa Tân Tây 2 Hòa Bình 1 3 Hòa Đồng 4 Sơn Thành Đông 5 Sơn Thành Tây 6 Hòa Phong 7 Hòa Phú 8 Hòa Mỹ Tây 9 Hòa Mỹ Đông 10 Hòa Thịnh Tổng cộng

26 25 26 29 28 31 280

21 80.77 5 19.23 20 80.00 5 20.00 17 65.38 9 34.62 21 72.41 8 27.59 19 67.86 9 32.14 13 41.94 18 58.06 76 27.14 204 72.86

5 19.23 10 40.00 11 42.31 13 44.83 8 28.57 6 19.35 88 31.43

6 23.08 10 40.00 9 34.62 8 27.59 7 25.00 3 9.68 65 23.21

0 0.00 0 0.00 0 0.00 0 0.00 0 0.00 0 0.00 0 0.00

11 42.31 2 8.00 4 15.38 5 17.24 3 10.71 6 19.35 48 17.14

11 21 13 14 16 5 129

42.31 84.00 50.00 48.28 57.14 16.13 46.07

0 0 0 0 1 0 4

0.00 0.00 0.00 0.00 3.57 0.00 1.43

Nguồn: Tổng hợp từ HĐND các xã ở huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên.

129

Phục lục 2.5: Trình độ học vấn, chuyên môn và lý luận chính trị của đại biểu HĐND các xã ở huyện Tây Hòa nhiệmkỳ 2016-2021.

Trình độ học vấn

Trình độ lý luận chính trị

Trình độ lý luận chính trị

THCS

THPT

Đại học

Sơ cấp

Tr. Cấp

Cao cấp

Tr. Cấp, cao đẳng

Sau Đại học

Stt

HĐND xã

Tổng số đại biểu

TS

TS

TS

TS

TS

TS

TS

TS

Tỷ lệ (%)

Tỷ lệ (%)

Tỷ lệ (%)

Tỷ lệ (%)

Tỷ lệ (%)

Tỷ lệ (%)

27 28 28

7 25.93 7.14 2 3.57 1

20 26 27

74.07 10 37.04 92.86 11 39.29 6 21.43 96.43

12 44.44 16 57.14 12 42.86

6 22.22 4 14.29 6 21.43

14 51.85 18 64.29 17 60.71

Tỷ lệ (%) 0 0.00 1 3.57 0 0.00

Tỷ lệ (%) 2 7.41 2 7.14 0 0.00

4

31

4 12.90

27

87.10 10 32.26

12 38.71

0 0.00

0

0.00

18 58.06

1 3.23

1 Hòa Tân Tây 2 Hòa Bình 1 3 Hòa Đồng Sơn Thành Đông Sơn Thành Tây

84.00

25 29 26 29

4 16.00 0 0.00 4 15.38 6 20.69

21 6 24.00 29 100.00 12 41.38 7 26.92 22 4 13.79 23

84.62 79.31

13 52.00 12 41.38 12 46.15 16 55.17

0 0.00 1 3.45 0 0.00 0 0.00

4 16.00 1 3.45 6 23.08 6.90 2

12 48.00 20 68.97 13 50.00 13 44.83

0 0.00 0 0.00 0 0.00 2 6.90

9

28 32

23 5 17.86 27 5 15.62 283 38 13.43 245

9 32.14 82.14 10 35.71 84.38 13 40.63 9 28.13 86.57 85 30.04 127 44.88

14 50.00 4 14.29 0 0.00 0 0.00 16 50.00 5 15.63 2 0.71 38 13.43 155 54.77

0 0.00 2 6.25 9 3.18

5 6 Hòa Phong 7 Hòa Phú 8 Hòa Mỹ Tây Hòa Mỹ Đông 10 Hòa Thịnh Tổng cộng

Nguồn: HĐND huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên.

130

131