BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
............…/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
HÀ LƢƠNG ĐỨC
HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN XÃ
Ở HUYỆN TÂY HÒA, TỈNH PHÚ YÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 60 38 01 02
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS NGUYỄN QUỐC SỬU
THỪA THIÊN HUẾ, NĂM 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn “Hoạt động của Hội đồng nhân dân xã ở
huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên” là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS. Nguyễn Quốc Sửu. Các số liệu, kết quả trình bày
trong Luận văn là trung thực, đảm bảo tính khách quan, khoa học và chưa
được ai công bố trong công trình nghiên cứu nào. Các tài liệu tham khảo,
những thông tin trích dẫn trong Luận văn đều có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Học viên
Hà Lƣơng Đức
Lời Câm Ơn Với lòng kính trọng và sự tri ån såu sắc, trước tiên tôi xin gửi lời câm ơn chån thành đến quý Thæy, Cô Học viện Hành chính Quốc gia đã trang bị cho tôi nhiều kiến thức quý báu trong suốt thời gian qua.
Đặc biệt, tôi xin chån thành câm ơn Giâng viên PGS.TS. Nguyễn Quốc Sửu đã hết lòng giúp đỡ, hướng dẫn tận tình từ lúc định hướng chọn đề tài cũng như quá trình hoàn thiện nghiên cứu, thæy luôn động viên và täo mọi điều kiện thuận lợi để giúp tôi có thể hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin câm ơn các bän bè, đồng nghiệp đã luôn quan tåm giúp đỡ, cung cçp rçt nhiều số liệu, chia sẻ nhiều kinh nghiệm thực tế để giúp tôi có thể hoàn thành nghiên cứu này.
Trån trọng!
Thừa Thiên Huế, tháng năm 2017 Học viên Hà Lương Đức
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG
NHÂN DÂN XÃ ............................................................................................. 10
1.1. Khái lược sự hình thành và phát triển của Hội đồng nhân dân xã trong
lịch sử lập pháp của nước ta ........................................................................ 10
1.1.1. Giai đoạn Hiến pháp 1946 ............................................................ 10
1.1.2. Giai đoạn Hiến pháp năm 1959 .................................................... 11
1.1.3. Giai đoạn Hiến pháp năm 1980 .................................................... 13
1.1.4. Giai đoạn Hiến pháp năm 1992 .................................................... 15
1.1.5. Giai đoạn Hiến pháp năm 2013 .................................................... 15
1.2. Điều chỉnh pháp luật đối với tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân
dân xã hiện nay ............................................................................................ 17
1.2.1. Vị trí, chức năng, cơ cấu tổ chức của Hội đồng nhân dân xã ...... 17
1.2.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng nhân dân xã ..................... 23
1.2.3. Phương thức hoạt động của Hội đồng nhân dân xã ..................... 25
1.2.4. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân xã ........................... 37
1.3. Mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân xã với cấp ủy, Ủy ban nhân dân,
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội cùng cấp ......... 38
1.3.1. Mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân xã với cấp ủy cùng cấp ............... 38
1.3.2. Mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân xã với Ủy ban nhân dân cùng
cấp ........................................................................................................... 39
1.3.3. Mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân xã với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
và các tổ chức chính trị - xã hội cùng cấp ............................................... 41
1.4. Tiêu chí đánh giá và điều kiện đảm bảo chất lượng, hiệu quả hoạt động
của Hội đồng nhân dân xã ........................................................................... 43
1.4.1. Quan niệm về chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân
dân xã ...................................................................................................... 43
1.4.2. Tiêu chí đánh giá chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân
dân xã ....................................................................................................... 48
1.4.3. Điều kiện đảm bảo chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội đồng
nhân dân xã ............................................................................................. 51
Kết luận chương 1 ....................................................................................... 58
Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN
DÂN XÃ Ở HUYỆN TÂY HÒA, TỈNH PHÚ YÊN ................................... 59
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội của huyện
Tây Hòa, tỉnh Phú Yên .......................................................................... 59
2.1.1. Về điều kiện tự nhiên ..................................................................... 59
2.1.2. Về kinh tế - xã hội, quốc phòng – an ninh .................................... 61
2.2. Thực trạng về tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân xã ở huyện
Tây Hòa, tỉnh Phú Yên .............................................................................. 644
2.2.1. Thực trạng về cơ cấu, tổ chức của Hội đồng nhân dân xã ở huyện
Tây Hòa, tỉnh Phú Yên từ năm 2011 đến nay ......................................... 65
2.2.2. Thực trạng hoạt động của Hội đồng nhân dân xã ở huyện Tây
Hòa, tỉnh Phú Yên từ năm 2011 đến nay. ............................................... 70
2.2.3. Thực trạng mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân xã với Đảng ủy,
Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã
hội của xã ................................................................................................ 81
2.2.4. Đánh giá những ưu điểm, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân ......... 85
Kết luận chương 2 ....................................................................................... 96
Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ HĐND XÃ VÀ NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG, HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG CỦA HĐND XÃ Ở HUYỆN TÂY HÒA, TỈNH PHÚ YÊN ......... 97
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về Hội đồng nhân dân xã và
nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân xã ở
huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên ..................................................................... 97
3.1.1. Xuất phát từ bản chất của Nhà nước ta và yêu cầu xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ......................................................... 97
3.1.2. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương ... 98
3.1.3. Xuất phát từ thực trạng hoạt động của Hội đồng nhân dân xã ở
huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên trong thời gian qua ................................. 99
3.2. Những giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội
đồng nhân dân xã ở huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên .................................. 100
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến tổ chức và
hoạt động của Hội đồng nhân dân xã ................................................... 100
3.2.2. Những giải pháp cụ thể nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
của Hội đồng nhân dân xã ở huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên ................. 102
Kết luận chương 3 ..................................................................................... 119
KẾT LUẬN .................................................................................................. 120
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 122
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
HĐND: Hội đồng nhân dân
MTTQ: Mặt trận Tổ quốc
Nxb: Nhà xuất bản
THCS: Trung học cơ sở
THPT: Trung học phổ thông
UBHC: Ủy ban hành chính
UBND: Ủy ban nhân dân
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Như chúng ta đã biết, xã là địa bàn dân cư đã tồn tại hàng ngàn năm
cùng với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, là đơn vị hành chính của
nước ta ở cơ sở được ghi nhận trong Hiến pháp, cụ thể tại Khoản 1, Điều 110,
Hiến pháp năm 2013 quy định:
Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam được phân định như sau: Nước chia thành tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương; Tỉnh chia thành huyện, thị xã
và thành phố thuộc tỉnh; thành phố trực thuộc trung ương chia
thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính tương đương;
Huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố thuộc tỉnh
chia thành phường và xã; quận chia thành phường. Đơn vị hành
chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập[39].
Theo quy định của pháp luật, chính quyền địa phương được tổ chức ở
các đơn vị hành chính, gồm có HĐND và UBND. Điều 113 Hiến pháp năm
2013 quy định:
1. HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương,
đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân,
do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân
dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.
2. HĐND quyết định các vấn đề của địa phương do luật
định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa
phương và việc thực hiện nghị quyết của HĐND[39].
Theo đó, HĐND xã là cơ quan quyền lực nhà nước ở xã, có quan hệ
trực tiếp đến người dân, là cầu nối đưa mọi chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống; là nơi trực tiếp quyết định những chủ
1
trương, biện pháp quan trọng để xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế
- xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh…
Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị, là công cụ chủ yếu để thực
hiện quyền làm chủ của nhân dân, HĐND xã là một tổ chức trong bộ máy nhà
nước. Khoản 1, Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”[39]. Hiện nay, nước ta đang từng bước
xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Việc kiện
toàn tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước
là một trong những yêu cầu quan trọng để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa (XHCN) của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Mục đích là
làm cho các cơ quan nhà nước ở trung ương cũng như ở địa phương thực hiện
đúng và đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của mình theo quy định của Hiến pháp
và pháp luật. Trong bộ máy nhà nước, HĐND vừa là cơ quan quyền lực nhà
nước ở địa phương, vừa là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền
làm chủ của nhân dân. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng khẳng định: “Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền
địa phương. Nâng cao chất lượng hoạt động của HĐND và UBND các cấp,
bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong việc quyết định và tổ chức
thực hiện những chính sách trong phạm vi được phân cấp”[4, tr. 251].
Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 ra đời, có hiệu lực
thực hiện từ ngày 01/01/2016, so với Luật Tổ chức HĐND và UBND năm
2003 có những điểm mới quy định về cơ cấu tổ chức và hoạt động của HĐND
xã như: Luật quy định rõ hơn về cơ cấu tổ chức của HĐND tạo cơ sở pháp lý
để củng cố, hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của
HĐND các cấp nói chung và HĐND xã nói riêng; thành lập các Ban của
HĐND xã, thành viên các ban này hoạt động kiêm nhiệm. Ngoài ra, một trong
2
những điểm mới nổi bật của Luật Tổ chức chính quyền địa phương so với
Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 đó là có sự phân biệt giữa chính
quyền địa phương ở nông thôn và ở đô thị, phù hợp với đặc điểm kinh tế, địa
lý, dân cư, kết cấu hạ tầng và yêu cầu quản lý ở mỗi địa bàn, từ đó quy định
rõ ràng, cụ thể hơn về nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND xã. Ngoài ra, Quốc
hội đã ban hành Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND, có hiệu lực
01/7/2016, đây là cơ sở pháp lý quan trọng để thực hiện tốt chức năng giám
sát của HĐND. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của
HĐND nói chung và HĐND xã nói riêng là một yêu cầu cần thiết hiện nay.
Huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên là huyện thuần nông, mới thành lập trên
cơ sở chia tách từ huyện Tuy Hòa thành hai huyện: Đông Hòa, Tây Hòa theo
Nghị định số 62/2005/NĐ-CP ngày 16/5/2005 của Chính phủ, chính thức đi
vào hoạt động ngày 01/7/2005, cơ sở vật chất, hạ tầng kinh tế kỹ thuật còn
nhiều thiếu thốn; là một trong những địa phương của tỉnh Phú Yên được chọn
làm thí điểm không tổ chức HĐND huyện theo Nghị quyết số 725/2009/NQ-
UBTVQH của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Trong những năm qua, hoạt
động của HĐND xã ở huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên đã có nhiều chuyển biến
tích cực, chất lượng và hiệu quả trong hoạt động từng bước được nâng lên
góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng –
an ninh ở địa phương, ngày càng khẳng định vị trí, vai trò của HĐND xã là cơ
quan quyền lực nhà nước ở địa phương, vừa là đại diện cho ý chí, nguyện
vọng, quyền làm chủ của nhân dân ở địa phương. Tuy nhiên, HĐND xã ở
huyện Tây Hòa do nhiều nguyên nhân khác nhau nên vẫn còn những tồn tại,
hạn chế trong hoạt động, chưa đáp ứng với yêu cầu phát triển trong tình hình
mới; năng lực, trình độ và nhận thức của đại biểu HĐND chưa xứng tầm với
yêu cầu đòi hỏi của xã hội và nguyện vọng của cử tri.
3
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, học viên chọn đề tài: “Hoạt động
của HĐND xã ở huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên” để làm Luận văn Thạc sĩ luật
học. Qua nghiên cứu đề tài này nhằm tìm hiểu sâu hơn về hoạt động của
HĐND xã, qua đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về HĐND
xã và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND xã ở huyện Tây
Hòa, tỉnh Phú Yên.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Vấn đề về tổ chức chính quyền địa phương, về HĐND nói chung và
hoạt động HĐND xã nói riêng luôn được các nhà khoa học quan tâm nghiên
cứu, tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau, đã có nhiều cuốn sách, báo, tạp
chí, bài viết và một số đề tài khoa học đề cập các nội dung liên quan đến hoạt
động của HĐND xã. Một số công trình nghiên cứu, bài viết như:
- GS.TS. Nguyễn Đăng Dung (chủ biên), HĐND trong nhà nước pháp
quyền, Nxb Tư pháp, Hà Nội - 2012. Tác giả đã phân tích sâu sắc các yêu cầu
của nhà nước pháp quyền đối với cơ quan đại diện của nhân dân địa phương,
đồng thời đi sâu phân tích cách thức, kỹ năng hoạt động của HĐND và các
ban của HĐND, đại biểu HĐND; khẳng định vị trí, vai trò của HĐND là cơ
quan đại diện, cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.
- GS.TSKH Đào Trí Úc, Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội - 2004. Tác
giả đã phân tích, làm rõ các nội dung liên quan đến tổ chức và hoạt động
của chính quyền địa phương, đề xuất và kiến nghị về mô hình tổ chức và
hoạt động của chính quyền địa phương trong đó chú trọng đến mô hình của
HĐND xã.
- GS.TS. Hoàng Chí Bảo (chủ biên), Hệ thống chính trị ở cơ sở nông
thôn ở nước ta hiện nay (sách tham khảo), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội -
2005. Tác giả nghiên cứu một số vấn đề nhằm củng cố và tăng cường hệ
4
thống chính trị ở cơ sở trong sự nghiệp đổi mới và phát triển của nước ta hiện
nay, trong đó có HĐND.
- TS. Chu Văn Thành, Hệ thống chính trị cơ sở. Thực trạng và một số
giải pháp đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2004. Tác giả đã nghiên
cứu, khảo sát có hệ thống về thực trạng tổ chức hoạt động của hệ thống chính
trị địa phương trên phạm vi cả nước và đi tới nhận định rằng HĐND, UBND
cấp xã luôn giữ vị trí vai trò trọng tâm trong nâng cao chất lượng hệ thống
chính trị cơ sở, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đổi mới. Từ đó các tác giả đã đề
ra phương hướng và một số giải pháp thiết thực để củng cố về tổ chức, hoạt
động của HĐND, UBND, góp phần đổi mới, nâng cao chất lượng của hệ thống
chính trị cơ sở.
- TS. Vũ Đức Đán, Vấn đề bồi dưỡng nâng cao năng lực hoạt động của
đại biểu Hội đồng nhân dân, Tạp chí Quản lý Nhà nước số 2/2005. Tác giả đã
lý giải một cách biện chứng về vai trò, vị trí của HĐND nói chung và đại biểu
HĐND nói riêng ở bộ máy chính quyền cấp xã.
- PGS.TS. Bùi Thế Vĩnh, “Phương thức và kỹ năng hoạt động của đại
biểu HĐND trong chương trình tập huấn đại biểu HĐND”, Tài liệu bồi dưỡng
đại biểu HĐND các cấp (khóa 1999-2004), Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội-
2000. Tác giả đã nghiên cứu những vấn đề liên quan đến cơ sở lý luận về
phương thức và kỹ năng hoạt động của đại biểu HĐND, qua đó góp phần
nâng cao chất lượng hoạt động của đại biểu HĐND.
- TS. Phạm Hồng Thái, CN. Lương Thanh Cường, “Tổ chức và hoạt
động của HĐND và UBND cấp xã”, Tài liệu bồi dưỡng cán bộ chính quyền
cấp xã về quản lý nhà nước, Nxb Văn hóa –Thông tin, Hà Nội - 2002. Các tác
giả đã nghiên cứu, nêu và phân tích khái quát vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của HĐND, UBND cấp xã và chức trách của từng chức danh
của HĐND và UBND cấp xã.
5
- ThS. Nguyễn Quốc Tuấn, Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt
động của HĐND và UBND các cấp, Tạp chí Tổ chức nhà nước số 4/2004.
Tác giả đã đề xuất tám vấn đề mà HĐND và UBND các cấp cần làm tốt để
nâng cao hơn nữa hiệu lực, chất lượng và hiệu quả hoạt động của HĐND và
UBND các cấp.
- Nguyễn Ký, Đổi mới phương thức hoạt động của HĐND đáp ứng sự
mong đợi của nhân dân, Tạp chí Quản lý Nhà nước số 2/2005. Tác giả đã
nghiên cứu về chức năng, nhiệm vụ của HĐND theo quy định của pháp luật.
Khẳng định nhiệm vụ của HĐND theo quy định của pháp luật là rất rộng và
bao quát nhiều lĩnh vực quan trọng, để thực hiện tốt cần phải được củng cố về
tổ chức, nâng cao chất lượng đại biểu và đổi mới phương thức tổ chức hoạt
động. Qua đó, tác giả đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đại
biểu HĐND và đổi mới phương thức tổ chức hoạt động của HĐND.
- TS. Phạm Văn Hùng, Nâng cao vai trò giám sát trong hoạt động của
cơ quan dân cử, Tạp chí Quản lý Nhà nước số 132/2007. Tác giả đã phân tích
vai trò của giám sát trong hoạt động cơ quan dân cử, chỉ ra giám sát trong
hoạt động của cơ quan dân cử ở nước ta có sự khác nhau về bản chất so với
giám sát của nghị viện tư sản; đánh giá thực trạng hoạt động giám sát của cơ
quan dân cử ở nước ta, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả trong hoạt động giám sát của cơ quan dân cử ở nước ta.
- Bùi Thị Hải, “Tổ chức và hoạt động của chính quyền xã theo hướng
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Luận văn Thạc
sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2008. Tác giả nghiên cứu tổ chức và
hoạt động của chính quyền xã từ năm 1945 đến nay. Từ đó, đánh giá thực
trạng về tổ chức và hoạt động của chính quyền xã trên các phương diện khác
nhau: phương diện về thể chế, phương diện thực tiễn… Kiến nghị một số giải
6
pháp về mô hình tổ chức và hoạt động của chính quyền xã theo hướng xây
dựng Nhà nước pháp quyền.
- Nguyễn Thị Nữ, “Tổ chức và hoạt động của HĐND xã – qua thực tiễn
tỉnh Thừa Thiên Huế”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2012. Tác giả đã khái quát sự ra đời, phát triển của HĐND cấp xã;
những quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của HĐND cấp xã;
đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động HĐND cấp xã ở tỉnh Thừa Thiên
Huế, từ đó đề ra các giải pháp đổi mới tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt
động của HĐND cấp xã.
Các công trình trên cho thấy vấn đề tổ chức và hoạt động của HĐND
đã được các nhà khoa học tiếp cận, nghiên cứu ở các khía cạnh và với các
mức độ khác nhau, đã luận giải, đánh giá khoa học có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn. Tuy nhiên, các đề tài nghiên cứu chủ yếu trên cơ sở các quy định của Hiến
pháp 1992 và Luật Tổ chức hoạt động của HĐND và UBND năm 2003, trong khi
đó hiện nay vấn đề hoạt động của HĐND nói chung và HĐND xã nói riêng căn
cứ theo quy định của Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức quyền địa phương năm
2013, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015… Mặt khác
cho đến nay chưa có một đề tài độc lập đi sâu nghiên cứu hoạt động của
HĐND xã ở huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên để tổng kết, đánh giá những thành
tựu, hạn chế, tồn tại, trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp có giá trị thực tiễn
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND xã ở huyện Tây
Hòa, tỉnh Phú Yên. Vì vậy, nghiên cứu “Hoạt động của HĐND xã ở huyện
Tây Hòa, tỉnh Phú Yên” sẽ cung cấp tư liệu thực tế về tổ chức và hoạt động của
HĐND xã ở huyện Tây Hòa, đề xuất những giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện
pháp luật về HĐND xã và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND
xã ở huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên.
7
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về HĐND xã và nâng
cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND xã ở huyện Tây Hòa, tỉnh Phú
Yên hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ
nghiên cứu sau:
- Hệ thống hóa, làm rõ cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của HĐND
xã.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động của HĐND xã ở huyện Tây
Hòa, tỉnh Phú Yên để tìm ra ưu điểm, hạn chế, tồn tại và nguyên nhân của
những ưu điểm, hạn chế, tồn tại.
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về HĐND xã, nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND xã ở huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên
trong thời gian đến.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu quy định pháp luật và thực tiễn hoạt động của
HĐND xã ở huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Các xã ở huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên.
- Về thời gian: Từ năm 2011 đến nay.
- Về nội dung: Luận văn nghiên cứu quy định pháp luật và thực tiễn
hoạt động của HĐND xã ở huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
- Phương pháp luận
8
Nghiên cứu đề tài dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử.
- Phương pháp nghiên cứu
+ Phương pháp phân tích tài liệu;
+ Phương pháp thu thập và xử lý thông tin;
+ Phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp;
+ Phương pháp so sánh, đánh giá.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu đề tài có những đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn
sau:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về hoạt động của HĐND xã.
- Phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của HĐND xã ở
huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên.
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về HĐND xã và nâng
cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND xã ở huyện Tây Hòa, tỉnh Phú
Yên trong thời gian đến.
- Luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho HĐND các xã trên địa bàn
tỉnh Phú Yên nói riêng và cả nước nói chung.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động của HĐND xã
Chương 2: Thực trạng hoạt động của HĐND xã ở huyện Tây Hòa, tỉnh
Phú Yên
Chương 3: Những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về HĐND xã
và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND xã ở huyện Tây Hòa,
tỉnh Phú Yên
9
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN XÃ
1.1. Khái lƣợc sự hình thành và phát triển của Hội đồng nhân dân xã
trong lịch sử lập pháp của nƣớc ta
1.1.1. Giai đoạn Hiến pháp 1946
Sau khi Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, ngày 02 tháng 9 năm
1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa, đã chấm dứt chế độ quân chủ phong kiến hàng ngàn
năm, xóa bỏ chế độ thuộc địa của chủ nghĩa thực dân đế quốc kéo dài gần 100
năm trên lãnh thổ nước ta. Ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra
đời, Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng đến việc xây dựng và củng cố chính
quyền địa phương. Từ đó, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy định về
tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương nói chung và chính quyền
xã nói riêng. Văn bản pháp luật đầu tiên về HĐND là Sắc lệnh số 63/SL về tổ
chức HĐND và Ủy ban hành chính (UBHC) ở các xã, huyện, tỉnh và kỳ do
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành ngày 22 tháng 11 năm 1945. Tại Điều thứ
1 của Sắc lệnh quy định: "…Ở hai xã và tỉnh có HĐND và UBHC, ở các cấp
huyện và kỳ chỉ có UBHC …"; Điều thứ 2 quy định: "Ở mỗi xã sẽ đặt một
HĐND gồm có từ 15 đến 25 hội viên chính thức và từ 5 đến 7 hội viên dự
khuyết…"[2]. Sau đó là các Sắc lệnh sửa đổi Sắc lệnh số 63/SL, gồm có: Sắc
lệnh số 22A/SL ban hành ngày 18 tháng 02 năm 1946 về việc tổ chức các
HĐND và UBHC do Chính phủ lâm thời ban hành sửa đổi Điều thứ 65 của
Sắc lệnh số 63; Sắc lệnh số 10/SL ngày 10/01/1946 do Chủ tịch Chính phủ
lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa ban hành để sửa đổi Điều thứ 32, Điều
thứ 33, Điều thứ 53 trong Sắc lệnh số 63/SL ngày 22 tháng 11 năm 1945.
Theo quy định tại các Sắc lệnh này, chính quyền địa phương có 4 cấp: cấp kỳ,
cấp tỉnh, cấp huyện và xã, trong đó cấp tỉnh và xã là 2 cấp chính quyền hoàn
10
chỉnh có HĐND và UBHC, cấp kỳ và cấp huyện chỉ có UBHC. Chính quyền
xã gồm có HĐND và UBHC xã, HĐND do cử tri xã bầu ra có từ 15-25 hội
viên chính thức và 5-7 hội viên dự khuyết; có quyền quyết định những vấn đề
ở xã, nhưng có những vấn đề phải được Ủy ban hành chính cấp huyện, tỉnh
chuẩn y; còn UBHC xã do HĐND xã bầu trong số các hội viên HĐND;
UBHC xã có nhiệm vụ thi hành các mệnh lệnh của cấp trên, thực hiện Nghị
quyết của HĐND cùng cấp, triệu tập các kỳ họp HĐND xã và giải quyết các
công việc trong xã.
Ngày 9/11/1946, Quốc hội khóa I thông qua bản Hiến pháp đầu tiên
của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (gọi tắt là Hiến pháp 1946), đặt cơ sở
pháp lý vững chắc cho tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Theo Hiến
pháp 1946, tổ chức chính quyền địa phương mỗi cấp nói chung và xã nói
riêng về cơ bản vẫn như Sắc lệnh 63/SL. Hiến pháp 1946 đã xác định vai trò
quan trọng của HĐND, mối quan hệ giữa HĐND với cấp trên. Điều thứ 59
Hiến pháp 1946 quy định: “HĐND quyết nghị về những vấn đề thuộc địa
phương mình. Những nghị quyết ấy không được trái với chỉ thị của các cấp
trên”[45].
Ngày 29 tháng 4 năm 1958, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
thông qua Luật Tổ chức chính quyền địa phương, đây là đạo luật đầu tiên quy
định về cách thức tổ chức HĐND. Theo quy định tại Điều 3 Luật Tổ chức
chính quyền địa phương năm 1958 thì “HĐND các cấp là cơ quan quyền lực
Nhà nước ở địa phương, do nhân dân bầu ra. Số lượng đại biểu HĐND mỗi
cấp và cách thức bầu cử do Luật Bầu cử quy định”[46].
1.1.2. Giai đoạn Hiến pháp năm 1959
Năm 1954, với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ ngày 07/5/1954, hòa
bình được lập lại ở miền Bắc, miền Nam còn nằm dưới sự kiểm soát của đế
quốc Mỹ. Đất nước ta tạm thời bị chia cắt thành 2 miền, miền Bắc có nhiệm
11
vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam đấu tranh thống nhất nước nhà. Để
đáp ứng và phục vụ cho yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng trong tình hình
mới, Quốc hội đã quyết định sửa đổi Hiến pháp 1946. Sau một thời gian
nghiên cứu, soạn thảo, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ban
hành Hiến pháp 1959 để thay thế Hiến pháp 1946. Trên cơ sở Hiến pháp
1959, tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoá II ngày 27 tháng 10 năm 1962 đã thông
qua Luật Tổ chức HĐND và UBHC các cấp, có hiệu lực thi hành từ
11/11/1962. Luật Tổ chức HĐND và UBHC năm 1962 đã cụ thể hóa quy định
của Hiến pháp 1959 về tổ chức hoạt động của chính quyền địa phương làm cơ
sở pháp lý cho việc kiện toàn chính quyền địa phương. Theo quy định của
Hiến pháp 1959 và Luật Tổ chức HĐND và UBHC năm 1962, các đơn vị
hành chính trong nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được phân định: Nước
chia thành tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương; Tỉnh chia thành
huyện, thành phố, thị xã; Huyện chia thành xã, thị trấn. Các khu tự trị chia
thành tỉnh; tỉnh chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh, thị xã; huyện chia
thành xã, thị trấn. Các thành phố có thể chia thành khu phố ở trong thành và
huyện ở ngoài thành. Các đơn vị hành chính này đều có HĐND và UBHC. Tổ
chức và hoạt động của chính quyền địa phương thời điểm này so với trước đã
có nhiều thay đổi:
- Xác định rõ địa vị pháp lý của HĐND và UBHC: HĐND là cơ quan
quyền lực nhà nước ở địa phương do nhân dân địa phương bầu ra và chịu
trách nhiệm trước nhân dân địa phương (vừa thay mặt cho nhân dân địa
phương, vừa thay mặt cho nhà nước ở địa phương); UBHC là cơ quan chấp
hành của HĐND, đồng thời là cơ quan hành chính của Nhà nước ở địa
phương;
- Luật Tổ chức HĐND và UBHC là cơ sở pháp lý chung cho tổ chức và
hoạt động của chính quyền địa phương không phân biệt nông thôn hay thành
12
phố; hạn chế, thu hẹp những vấn đề chính quyền cấp trên phê chuẩn những
quyết định của cấp dưới (trừ những vấn đề quan trọng như phê chuẩn kết quả
bầu cử hay bãi miễn…);
- Số lượng thành viên của các cơ quan trong bộ máy chính quyền địa
phương được bổ sung tăng lên, trong đó HĐND xã được bầu từ 20-30 đại
biểu chính thức; UBHC xã từ 5-7 người (xã miền núi có nhiều dân tộc từ 7-9
người);
- Nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp chính quyền mở rộng, cụ thể ở xã
được quy định như sau: HĐND khu phố quyết định các chủ trương và biện
pháp nhằm thực hiện nhiệm vụ và chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế, văn hoá
trong khu phố do thành phố giao cho; quyết định việc xây dựng các cơ sở
kinh tế, văn hoá và xã hội của cấp khu phố; xét duyệt dự trù và quyết toán chi
tiêu của khu phố. HĐND xã, thị trấn quyết định kế hoạch phát triển kinh tế,
văn hoá và những sự nghiệp lợi ích công cộng của xã, thị trấn; xét duyệt dự
toán và phê chuẩn quyết toán ngân sách của xã, thị trấn; ban hành những quy
định về trật tự trị an, về vệ sinh chung của xã, thị trấn…
1.1.3. Giai đoạn Hiến pháp năm 1980
Mùa xuân năm 1975, với thắng lợi trong cuộc tổng tiến công và nổi
dậy mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đất nước ta được thống
nhất, Bắc Nam sum họp một nhà. Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng,
nhân dân ta tiến hành tổng tuyển cử tự do trong cả nước, thực hiện thống
nhất Tổ quốc, cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tháng 7 năm
1976, nước ta lấy tên là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Để phù hợp
với tình hình thực tiễn của đất nước, ngày 30/12/1980 Quốc hội đã thông
qua Hiến pháp năm 1980 làm cơ sở cho việc xây dựng xã hội chủ nghĩa
trong phạm vi cả nước, xây dựng và củng cố bộ máy nhà nước thống nhất,
trong đó có tổ chức chính quyền địa phương. Theo Hiến pháp năm 1980
13
quy định thì các đơn vị hành chính ở nước ta đã có sự thay đổi so với Hiến
pháp năm 1959, cụ thể Điều 113 quy định:
Các đơn vị hành chính của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam được phân định như sau: Nước chia thành tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương và đơn vị hành chính tương
đương; Tỉnh chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã;
thành phố trực thuộc Trung ương chia thành quận, huyện và thị
xã; Huyện chia thành xã và thị trấn; Thành phố thuộc tỉnh, thị xã
chia thành phường và xã; Quận chia thành phường. Các đơn vị
hành chính kể trên đều thành lập HĐND và UBND[37].
Thiết chế HĐND được quy định rõ tại Chương IX, Hiến pháp năm
1980. Để cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp năm 1980 về thiết chế
HĐND, ngày 30 tháng 6 năm 1983, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khoá VII, kỳ họp thứ 5 đã thông qua Luật Tổ chức HĐND
và UBND, thay thế Luật Tổ chức HĐND và UBHC các cấp năm 1962. Theo
quy định của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 1983, chính quyền địa
phương chỉ có 3 cấp là cấp tỉnh, cấp huyện và xã (xã bao gồm xã, phường,
thị trấn); vị trí pháp lý của các cơ quan trong bộ máy chính quyền địa
phương cơ bản vẫn giữ nguyên, UBHC được đổi thành UBND; nhiệm vụ,
quyền hạn của chính quyền địa phương được tăng cường hơn trước nhiều.
Riêng xã, HĐND được bầu từ 15-45 đại biểu (tùy theo dân số, vùng, miền),
nhiệm kỳ là 2 năm, thực hiện các chủ trương, chính sách và công tác của
Nhà nước ở địa phương [40].
Năm 1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đề ra đường lối đổi
mới đất nước. Để phù hợp trong điều kiện mới, năm 1989, Quốc hội ban hành
Luật Tổ chức HĐND và UBND thay thế Luật Tổ chức HĐND và UBND năm
14
1983. Theo luật mới số lượng đại biểu HĐND xã từ 15-35, nhiệm kỳ hoạt
động là 5 năm, thành lập Ban thư ký HĐND xã; còn đối với UBND thì cơ bản
không thay đổi.
1.1.4. Giai đoạn Hiến pháp năm 1992
Công cuộc đổi mới đất nước đã đặt ra yêu cầu phải “đổi mới” pháp luật
để tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện đổi mới toàn diện trên mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội, trong đó đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước là hết sức cần thiết. Hiến pháp năm 1992 được xây dựng để đáp ứng nhu
cầu đó. Cũng như Hiến pháp năm 1980, thiết chế HĐND được quy định tại
Chương IX. Việc chia đơn vị hành chính vẫn giữ như trong Hiến pháp 1980.
Trên cơ sở Hiến pháp năm 1992, Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 5, ngày
21/6/1994 đã thông qua Luật Tổ chức HĐND và UBND thay Luật Tổ chức
HĐND và UBND năm 1989. Luật mới quy định HĐND xã có từ 19-25 đại
biểu, nhiệm kỳ hoạt động là 5 năm. Sau khi Hiến pháp 1992 được bổ sung,
sửa đổi một số điều cho phù hợp với yêu cầu phát triển của nhà nước trong
giai đoạn mới, ngày 26 tháng 11 năm 2003, Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 4
đã thông qua Luật Tổ chức HĐND và UBND thay Luật Tổ chức HĐND và
UBND năm 1994. Trong văn bản này, tổ chức và hoạt động của chính quyền
xã được quy định cụ thể như sau: HĐND xã có số lượng đại biểu tối thiểu là
15 (xã dưới 1000 dân) và tối đa không quá 35; được tổ chức Thường trực
HĐND (gồm Chủ tịch và Phó chủ tịch); nhiệm vụ, quyền hạn được quy định
cụ thể phù hợp hơn, có sự phân biệt giữa nhiệm vụ của HĐND xã, thị trấn với
HĐND phường.
1.1.5. Giai đoạn Hiến pháp năm 2013
Thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, kế thừa Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến
15
pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992, Quốc hội khóa XIII đã quyết định
sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIII, ngày
28/11/2013 đã biểu quyết thông qua Hiến pháp năm 2013. Trên cơ sở Hiến
pháp năm 2013 quy định về chế định chính quyền địa phương được quy định
tại Chương IX, ngày 19/6/2015 tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XIII đã thông
qua Luật Tổ chức chính quyền địa phương và có hiệu lực ngày 01/01/2016
thay Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003. Theo quy định của Hiến pháp
năm 2013 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, các đơn vị
hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm có: “Tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương; Huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh,
thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương; Xã, phường, thị trấn; Đơn
vị hành chính - kinh tế đặc biệt”[39], [41]. Luật Tổ chức chính quyền địa
phương năm 2015 cũng đã quy định cụ thể, rõ ràng về nhiệm vụ, quyền hạn
và cơ cấu tổ chức giữa chính quyền địa phương nông thôn, đô thị, hải đảo và
đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt. Về cơ cấu tổ chức của HĐND xã:
Số lượng đại biểu được quy định cụ thể, tối thiểu 15 đại biểu
(xã miền núi, vùng cao và hải đảo có từ một nghìn dân trở xuống)
và tối đa 35 đại biểu; Thường trực HĐND gồm Chủ tịch HĐND và
Phó Chủ tịch HĐND (Phó Chủ tịch HĐND là đại biểu HĐND hoạt
động chuyên trách); HĐND xã thành lập Ban pháp chế, Ban kinh tế
- xã hội (Ban của HĐND xã gồm có Trưởng ban, một Phó Trưởng
ban và các Ủy viên. Số lượng Ủy viên của các Ban của HĐND xã
do HĐND xã quyết định. Trưởng ban, Phó Trưởng ban và các Ủy
viên của các Ban của HĐND xã hoạt động kiêm nhiệm)[41].
16
1.2. Điều chỉnh pháp luật đối với tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân
dân xã hiện nay
1.2.1. Vị trí, chức năng, cơ cấu tổ chức của Hội đồng nhân dân xã
1.2.1.1. Vị trí, chức năng của HĐND xã
Ở nước ta nguồn gốc, bản chất quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân,
Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước của mình bằng dân chủ trực tiếp, dân
chủ đại diện. Vấn đề này được khẳng định trong Văn kiện Đảng và Hiến pháp,
pháp luật. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định "Nhà nước ta là Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân"[4, tr.85] là
một trong những nhiệm vụ để xây dựng đất nước; Điều 2 Hiến pháp năm 2013
quy định: "Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức"; Điều 6 Hiến pháp năm 2013 quy định:
"Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ
đại diện thông qua Quốc hội, HĐND và thông qua các cơ quan khác của Nhà
nước"[39]. Trong bài "Dân vận" đăng trên báo Sự thật, Bác Hồ đã viết: "Nước
ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của
dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Nói tóm lại,
quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân" [34, tr.698].
Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức chính quyền
địa phương năm 2015, cấp chính quyền địa phương gồm có HĐND và UBND
được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước ta. Trong hệ thống HĐND các
cấp, HĐND xã (xã, phường, thị trấn) nói chung và HĐND xã nói riêng có vị
trí, vai trò quan trọng, bởi vì đây là nơi gần dân, sát dân, thường xuyên tiếp
17
xúc với nhân dân, trực tiếp tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước tại địa phương; là nơi để người dân bày tỏ
trực tiếp ý chí, nguyện vọng của mình, đóng góp ý kiến xây dựng chính quyền
của dân, do dân, vì dân và là nơi trực tiếp quyết định những chủ trương, biện
pháp quan trọng để xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc
phòng - an ninh ở địa phương.
Với vai trò quan trọng của HĐND cấp xã nên ngay từ những ngày đầu
của chính quyền cách mạng, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đến việc xây
dựng, củng cố và phát triển của HĐND; thiết chế HĐND xã đã được quy định
trong các bản Hiến pháp của Nhà nước ta, trong suốt quá trình tồn tại và phát
triển, HĐND cấp xã nói chung, HĐND xã nói riêng đã khẳng định được vị trí,
vai trò, trách nhiệm to lớn của mình, là tổ chức đại diện để Nhân dân thực hiện
quyền làm chủ Nhà nước và xã hội. Kế thừa các bản Hiến pháp trước, Hiếp pháp
năm 2013 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 tiếp tục khẳng
định: "HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý
chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương
bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp
trên"; "HĐND quyết định các vấn đề của địa phương do luật định" [39], [41].
Như vậy, HĐND nói chung và HĐND xã nói riêng có vị trí, vai trò
quan trọng trong bộ máy nhà nước ta, là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do
nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và
cơ quan nhà nước cấp trên. Có thể khái quát vị trí, vai trò của HĐND xã trên
các mặt sau:
Tính quyền lực nhà nước của HĐND xã thể hiện ở chỗ HĐND xã là
cơ quyền lực nhà nước ở xã. HĐND xã được thành lập bởi các đại biểu do
cử tri địa phương bầu ra, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ
18
của nhân dân. HĐND xã được nhân dân giao quyền, thay mặt nhân dân thực
hiện quyền lực nhà nước ở xã. Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và
Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, HĐND xã quyết định các
vấn đề của địa phương theo đúng quy định của pháp luật, giám sát việc tuân
theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ
tịch HĐND, Phó Chủ tịch HĐND, Trưởng ban, Phó Trưởng ban của HĐND
xã; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch UBND, Phó Chủ tịch UBND và
các Ủy viên UBND xã[41].
Tính đại diện của HĐND xã thể hiện ở chỗ là cơ quan duy nhất do cử
tri bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Đại
biểu HĐND xã là những người tiêu biểu, đại diện cho ý chí và quyền làm chủ
của nhân dân. Tính chất đại diện của HĐND về mặt hình thức thể hiện rõ nét
nhất ở chỗ HĐND có cơ cấu đại biểu thuộc mọi tầng lớp, mọi thành phần xã
hội, không đại diện cho một Đảng phái, tổ chức nào mà đại diện cho toàn thể
nhân dân địa phương; thành phần trong HĐND thể hiện khối đại đoàn kết
toàn dân. HĐND xã là đại diện tiêu biểu cho tiếng nói của các tầng lớp nhân
dân trong xã, đại diện cho trí tuệ của người dân địa phương, chịu trách nhiệm
trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Hoạt động của
HĐND xã chủ yếu thông qua kỳ họp toàn thể đại biểu HĐND. Mọi quyết định
của HĐND xã được thông qua bằng việc biểu quyết của đại biểu HĐND xã
tại kỳ họp.
Như vậy, để khẳng định được vị trí, vai trò quan trọng của HĐND xã
thì trong hoạt động của HĐND xã phải thể hiện được hai tính chất: Tính
quyền lực và tính đại diện.
Chức năng của HĐND xã: Chức năng của HĐND là những phương
diện hoạt động chủ yếu của HĐND. Khoản 2 Hiến pháp năm 2013 quy định:
"HĐND quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; giám sát việc
19
tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết
của HĐND"[39]. Như vậy, HĐND xã có hai chức năng cơ bản là: Quyết định
và giám sát.
Về chức năng quyết định, để thực hiện chức năng này, pháp luật đã quy
định nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND xã, cụ thể Khoản 2 Điều 33 Luật Tổ
chức chính quyền địa phương năm 2015 quy định: "Quyết định biện pháp bảo
đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh, phòng, chống tội phạm và các hành vi
vi phạm pháp luật khác, phòng, chống quan liêu, tham nhũng trong phạm vi
được phân quyền; biện pháp bảo vệ tài sản của cơ quan, tổ chức, bảo hộ tính
mạng, tự do, danh dự, nhân phẩm, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác
của công dân trên địa bàn xã"[41]; Khoản 4 Điều 33 quy định: "Quyết định dự
toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn; dự toán thu, chi ngân sách xã; điều
chỉnh dự toán ngân sách xã trong trường hợp cần thiết; phê chuẩn quyết toán
ngân sách xã. Quyết định chủ trương đầu tư chương trình, dự án của xã trong
phạm vi được phân quyền" [41].
Như vậy, căn cứ quy định của pháp luật cho thấy nội dung chức năng
quyết định của HĐND xã là rất rộng, điều này khẳng định vị trí, vai trò của
HĐND xã. Những nội dung được quy định trong Luật Tổ chức chính quyền
địa phương năm 2015 là cơ sở pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi để chính
quyền địa phương khai thác tiềm năng, lợi thế tại địa phương góp phần nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, thực hiện nhiệm vụ mà nhân
dân giao phó.
Về chức năng giám sát: Giám sát là một chức năng quan trọng của
HĐND nói chung và HĐND xã nói riêng. Theo Luật Hoạt động giám sát của
Quốc hội và HĐND năm 2015 quy định:
Giám sát là việc chủ thể giám sát theo dõi, xem xét, đánh
giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát
20
trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật về việc thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của mình, xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu
cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý; Giám sát của
HĐND bao gồm giám sát của HĐND tại kỳ họp, giám sát của
Thường trực HĐND, các Ban của HĐND, Tổ đại biểu HĐND và
các đại biểu HĐND[42].
Theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015,
HĐND xã giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, việc
thực hiện Nghị quyết của HĐND xã; giám sát hoạt động của Thường trực
HĐND, UBND cùng cấp, ban của HĐND cấp mình; giám sát văn bản quy
phạm pháp luật của UBND cùng cấp. Thực hiện tốt chức năng giám sát giúp
HĐND xã đánh giá được tình hình hoạt động của các cơ quan, tổ chức ở địa
phương trong việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật, kết quả thực hiện các nghị
quyết của HĐND xã, đồng thời giúp HĐND xã thấy được sự không phù hợp,
thiếu thực tế của các Nghị quyết do HĐND xã ban hành để kịp thời sửa chữa,
bổ sung phù hợp; đánh giá được kết quả hoạt động của Thường trực HĐND,
UBND, các Ban của HĐND, việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của
UBND. Những kết quả của việc giám sát là cơ sở để HĐND xã thực hiện các
nhiệm vụ, quyền hạn của mình như: Miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch HĐND,
Phó Chủ tịch HĐND, Trưởng ban, Phó Trưởng ban của HĐND xã; miễn
nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch UBND, Phó Chủ tịch UBND và các Ủy viên
UBND xã; bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản trái pháp luật của UBND,
Chủ tịch UBND xã.
* Chức năng giám sát của HĐND xã luôn gắn liền với chức năng quyết
định, hai chức năng này có mối quan hệ chặt chẽ, tác động trực tiếp lẫn nhau.
Thực hiện tốt chức năng giám sát là một trong những yếu tố quan trọng đảm
bảo cho các quyết định của HĐND xã được thực hiện nghiêm túc. Đồng thời
21
giám sát là cơ sở kiểm nghiệm tính đúng đắn của các quyết định trên thực
tiễn, giúp phát hiện những điểm chưa phù hợp với tình hình thực tế để kịp
thời sửa chữa, bổ sung. Ngược lại, các quyết định của HĐND xã là cơ sở cho
hoạt động giám sát được tôn trọng trên thực tế, tạo định hướng cho hoạt động
giám sát tập trung vào các vấn đề bức xúc của địa phương. Như vậy, có thể
khẳng định HĐND xã có vị trí, tính chất, chức năng rất quan trọng trong bộ
máy Nhà nước. Để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới đất nước, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân thì trước hết phải đổi
mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan dân cử và phải có nhận thức
đúng đắn về vị trí, vai trò, chức năng của cơ quan dân cử.
1.2.1.2. Cơ cấu tổ chức của HĐND xã
Điều 32 Luật Tổ chức chính quyền năm 2015 quy định về cơ cấu tổ
chức của HĐND xã hiện nay như sau:
1. HĐND xã gồm các đại biểu HĐND do cử tri ở xã bầu
ra. Việc xác định tổng số đại biểu HĐND xã được thực hiện theo
nguyên tắc sau đây:
a) Xã miền núi, vùng cao và hải đảo có từ một nghìn dân
trở xuống được bầu mười lăm đại biểu;
b) Xã miền núi, vùng cao và hải đảo có trên một nghìn dân
đến hai nghìn dân được bầu hai mươi đại biểu;
c) Xã miền núi, vùng cao và hải đảo có trên hai nghìn dân
đến ba nghìn dân được bầu hai mươi lăm đại biểu; có trên ba
nghìn dân thì cứ thêm một nghìn dân được bầu thêm một đại
biểu, nhưng tổng số không quá ba mươi lăm đại biểu;
d) Xã không thuộc quy định tại các điểm a, b và c khoản
này có từ bốn nghìn dân trở xuống được bầu hai mươi lăm đại
22
biểu; có trên bốn nghìn dân thì cứ thêm hai nghìn dân được
bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số không quá ba mươi lăm
đại biểu.
2. Thường trực HĐND xã gồm Chủ tịch HĐND, một Phó
Chủ tịch HĐND. Phó Chủ tịch HĐND xã là đại biểu HĐND hoạt
động chuyên trách.
3. HĐND xã thành lập Ban pháp chế, Ban kinh tế - xã hội.
Ban của HĐND xã gồm có Trưởng ban, một Phó Trưởng ban và
các Ủy viên. Số lượng Ủy viên của các Ban của HĐND xã do
HĐND xã quyết định. Trưởng ban, Phó Trưởng ban và các Ủy
viên của các Ban của HĐND xã hoạt động kiêm nhiệm"[41].
Như vậy so với Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003, Luật Tổ chức
chính quyền địa phương năm 2015 đã quy định một số điểm mới về cơ cấu tổ
chức của HĐND xã, theo đó số lượng đại biểu HĐND xã được quy định ngay
trong luật; thành lập mới các Ban của HĐND gồm Ban pháp chế và Ban kinh tế
- xã hội (các Ban này hoạt động kiêm nhiệm), bỏ việc tổ chức các Tổ đại biểu
HĐND theo quy định trong Quy chế hoạt động của HĐND ban hành kèm theo
Nghị quyết số 753/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 02/4/2005.
1.2.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng nhân dân xã
Với vị trí, vai trò quan trọng của HĐND nói chung và HĐND xã nói
riêng trong tổ chức bộ máy nhà nước, là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân. Để
thực hiện tốt chức chức năng của HĐND xã, Điều 33 Luật Tổ chức chính
quyền địa phương năm 2015 đã quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của
HĐND xã gồm có 8 nhiệm vụ, quyền hạn sau:
1. Ban hành nghị quyết về những vấn đề thuộc nhiệm vụ,
quyền hạn của HĐND xã;
23
2. Quyết định biện pháp bảo đảm trật tự, an toàn xã hội,
đấu tranh, phòng, chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp
luật khác, phòng, chống quan liêu, tham nhũng trong phạm vi
được phân quyền; biện pháp bảo vệ tài sản của cơ quan, tổ chức,
bảo hộ tính mạng, tự do, danh dự, nhân phẩm, tài sản, các quyền
và lợi ích hợp pháp khác của công dân trên địa bàn xã;
3. Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch HĐND, Phó Chủ
tịch HĐND, Trưởng ban, Phó Trưởng ban của HĐND xã; bầu,
miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch UBND, Phó Chủ tịch UBND và
các Ủy viên UBND xã;
4. Quyết định dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa
bàn; dự toán thu, chi ngân sách xã; điều chỉnh dự toán ngân
sách xã trong trường hợp cần thiết; phê chuẩn quyết toán ngân
sách xã. Quyết định chủ trương đầu tư chương trình, dự án của
xã trong phạm vi được phân quyền;
5. Giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa
phương, việc thực hiện nghị quyết của HĐND xã; giám sát
hoạt động của Thường trực HĐND, UBND cùng cấp, Ban của
HĐND cấp mình; giám sát văn bản quy phạm pháp luật của
UBND cùng cấp;
6. Lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người
giữ chức vụ do HĐND xã bầu theo quy định tại Điều 88 và Điều
89 của Luật này;
7. Bãi nhiệm đại biểu HĐND xã và chấp nhận việc đại
biểu HĐND xã xin thôi làm nhiệm vụ đại biểu;
8. Bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản trái pháp luật
của UBND, Chủ tịch UBND xã[41].
24
Ngoài ra, căn cứ vào kết quả giám sát, HĐND xã có các quyền: Yêu
cầu UBND, Chủ tịch UBND xã ban hành văn bản để thi hành Hiến pháp,
pháp luật và nghị quyết của HĐND; bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản
của UBND, Chủ tịch UBND xã trái với Hiến pháp, văn bản quy phạm pháp
luật của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của HĐND; ra nghị quyết
về trả lời chất vấn và trách nhiệm của người trả lời chất vấn khi xét thấy cần
thiết; miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch HĐND, Phó Chủ tịch HĐND, Trưởng
ban, Phó Trưởng ban của HĐND, Chủ tịch UBND, Phó Chủ tịch UBND và
Ủy viên UBND.
Với việc quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND xã trong luật
đã tạo thuận lợi cho hoạt động của HĐND xã trong thực tế, nâng cao chất
lượng hoạt động của HĐND xã. Trước đây, theo Luật Tổ chức HĐND và
UBND năm 2003, nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND xã, thị trấn quy định
chung, không có sự phân biệt rõ ràng giữa HĐND xã, HĐND phường và
HĐND thị trấn, đã ảnh hưởng phần nào đến chất lượng hoạt động của HĐND
xã. Theo quy định Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 đã có sự
quy định cụ thể, rành mạch nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND xã, phường, thị
trấn. Tuy nhiên, những nhiệm vụ, quyền hạn này vẫn còn có những nội dung
chung chung, theo phân quyền của cấp trên, vì vậy sẽ có những khó khăn
trong hoạt động. Do đó, cần sớm có quy định những nội dung được phân
quyền để chủ động tổ chức thực hiện ở địa phương, đảm bảo quản lý nhà
nước thống nhất, thông suốt.
1.2.3. Phương thức hoạt động của Hội đồng nhân dân xã
1.2.3.1. Kỳ họp của HĐND xã
Kỳ họp là hình thức hoạt động chủ yếu, chiếm vị trí đặc biệt quan trọng
trong hoạt động của HĐND nói chung và HĐND xã nói riêng. Bởi vì kỳ họp
là nơi tập trung đầy đủ nhất đại biểu HĐND xã, những người đại diện trí tuệ
25
của cử tri địa phương, thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân địa
phương. Mặt khác, tại kỳ họp, HĐND xã thảo luận dân chủ và quyết định
theo đa số các công việc quan trọng của địa phương thuộc nhiệm vụ, quyền
hạn của mình. Theo quy định tại Điều 78, Luật Tổ chức chính quyền địa
phương năm 2015 thì kỳ họp HĐND xã được thực hiện như sau: HĐND họp
mỗi năm ít nhất hai kỳ. HĐND quyết định kế hoạch tổ chức các kỳ họp
thường lệ vào kỳ họp thứ nhất của HĐND đối với năm bắt đầu nhiệm kỳ và
vào kỳ họp cuối cùng của năm trước đó đối với các năm tiếp theo của nhiệm
kỳ theo đề nghị của Thường trực HĐND. HĐND họp bất thường khi Thường
trực HĐND, Chủ tịch UBND cùng cấp hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại
biểu HĐND xã yêu cầu.
Cử tri ở xã có quyền làm đơn yêu cầu HĐND xã họp, bàn và quyết định
những công việc của xã. Khi trong đơn yêu cầu có chữ ký của trên mười phần
trăm tổng số cử tri của xã theo danh sách cử tri bầu cử đại biểu HĐND xã tại
cuộc bầu cử gần nhất thì Thường trực HĐND xã có trách nhiệm tổ chức kỳ
họp HĐND bất thường để bàn về nội dung mà cử tri kiến nghị. Đơn yêu cầu
của cử tri được xem là hợp lệ khi có kèm theo đầy đủ chữ ký, họ tên, ngày,
tháng, năm sinh và địa chỉ của từng người ký tên. Những người ký tên trong
đơn yêu cầu được cử một người làm đại diện tham dự kỳ họp HĐND bàn về
nội dung mà cử tri kiến nghị.
HĐND xã họp công khai. Trong trường hợp cần thiết, theo đề nghị của
Thường trực HĐND, Chủ tịch UBND xã hoặc yêu cầu của ít nhất một phần
ba tổng số đại biểu HĐND thì HĐND xã quyết định họp kín.
Căn cứ vào nghị quyết của HĐND xã, theo đề nghị của Chủ
tịch UBND, Chủ tịch UBMTTQ Việt Nam, các Ban của HĐND và đại biểu
HĐND xã, Thường trực HĐND xã dự kiến chương trình kỳ họp HĐND.
26
Chương trình kỳ họp thứ nhất của HĐND khóa mới do Thường trực
HĐND khóa trước dự kiến. Các Ban của HĐND khóa trước thẩm tra các nội
dung trong dự kiến chương trình kỳ họp thứ nhất của HĐND khóa mới, báo
cáo Thường trực HĐND khóa trước để xem xét tại kỳ họp thứ nhất của
HĐND khóa mới.
HĐND quyết định chương trình kỳ họp. Trong trường hợp cần thiết,
theo đề nghị của Chủ tịch UBND, Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam, các Ban
của HĐND và đại biểu HĐND cùng cấp, HĐND quyết định sửa đổi, bổ sung
chương trình kỳ họp đã được thông qua.
Kỳ họp thứ nhất của HĐND khóa mới được triệu tập chậm nhất là 45
ngày kể từ ngày bầu cử đại biểu HĐND; đối với địa phương có bầu cử lại, bầu
cử thêm đại biểu HĐND hoặc lùi ngày bầu cử thì thời hạn triệu tập kỳ họp thứ
nhất được tính từ ngày bầu cử lại, bầu cử thêm. Kỳ họp thứ nhất của mỗi khóa
HĐND do Chủ tịch HĐND khóa trước triệu tập. Trường hợp khuyết Chủ tịch
HĐND thì một Phó Chủ tịch HĐND khóa trước triệu tập kỳ họp; nếu khuyết
cả Chủ tịch HĐND, Phó Chủ tịch HĐND thì Thường trực HĐND
cấp trên trực tiếp chỉ định triệu tập viên.
Trong nhiệm kỳ, Thường trực HĐND xã quyết định triệu tập kỳ họp
thường lệ chậm nhất là 20 ngày, kỳ họp bất thường chậm nhất là 07 ngày
trước ngày khai mạc kỳ họp. Trường hợp khuyết Thường trực HĐND xã thì
Thường trực HĐND huyện trực tiếp chỉ định triệu tập viên.
Dự kiến chương trình kỳ họp HĐND được gửi đến đại biểu HĐND
cùng với quyết định triệu tập kỳ họp.
Quyết định triệu tập kỳ họp và dự kiến chương trình kỳ họp HĐND
được thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng tại địa phương chậm
nhất là 10 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp thường lệ và chậm nhất là 03
ngày trước ngày khai mạc kỳ họp bất thường.
27
Theo quy định tại Điều 81 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm
2015, đại biểu mời tham dự kỳ họp HĐND xã gồm có: Đại diện Thường trực
HĐND và UBND huyện; đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND cấp trên được
bầu tại xã; thành viên UBND xã không phải là đại biểu HĐND xã. Người
được mời tham dự kỳ họp HĐND được phát biểu ý kiến về vấn đề thuộc
ngành, lĩnh vực mà mình phụ trách nếu được chủ tọa phiên họp đồng ý hoặc
có trách nhiệm phát biểu ý kiến theo yêu cầu của HĐND hoặc chủ tọa phiên
họp. Ngoài ra, đại diện cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, Ủy ban MTTQ
Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội được mời tham dự các phiên họp
công khai của HĐND khi bàn về các vấn đề có liên quan; đại diện đơn vị vũ
trang nhân dân, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, cơ quan báo chí và công dân
có thể được tham dự các phiên họp công khai của HĐND.
1.2.3.2. Hoạt động của Thường trực HĐND xã
Thường trực HĐND xã gồm Chủ tịch, một Phó Chủ tịch. Phó Chủ tịch
HĐND xã là đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách. Thường trực HĐND xã
hoạt động thường xuyên, theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tổ chức các hoạt
động của HĐND, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước HĐND xã.
Theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, Thường
trực HĐND xã có các nhiệm vụ, quyền hạn: Triệu tập và chủ tọa các kỳ họp
của HĐND; phối hợp với UBND cùng cấp trong việc chuẩn bị kỳ họp của
HĐND; đôn đốc, kiểm tra UBND cùng cấp và các cơ quan nhà nước khác ở
địa phương thực hiện các Nghị quyết của HĐND; giám sát việc tuân theo
Hiến pháp và pháp luật tại địa phương; chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động
của các Ban của HĐND; xem xét kết quả giám sát của các Ban của HĐND
khi xét thấy cần thiết và báo cáo HĐND tại kỳ họp gần nhất; giữ mối liên hệ
với đại biểu HĐND; tổng hợp chất vấn của đại biểu HĐND để báo cáo
HĐND; yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân giải trình các vấn đề liên quan
28
đến nhiệm vụ, quyền hạn của Thường trực HĐND tại phiên họp Thường trực
HĐND; tổ chức để đại biểu HĐND tiếp công dân theo quy định của pháp
luật; đôn đốc, kiểm tra và xem xét tình hình giải quyết kiến nghị, khiếu nại, tố
cáo của công dân; tổng hợp ý kiến, nguyện vọng của nhân dân để báo cáo tại
kỳ họp HĐND; phê chuẩn danh sách Ủy viên của các Ban của HĐND trong số
đại biểu HĐND và việc cho thôi làm Ủy viên của Ban của HĐND theo đề
nghị của Trưởng ban của HĐND; trình HĐND lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu
tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND bầu theo quy định pháp luật;
quyết định việc đưa ra HĐND hoặc đưa ra cử tri bãi nhiệm đại biểu HĐND;
báo cáo về hoạt động của HĐND cùng cấp lên HĐND và UBND cấp trên trực
tiếp; giữ mối liên hệ và phối hợp công tác với Ban Thường trực Ủy ban
MTTQ Việt Nam cùng cấp; mỗi năm hai lần thông báo cho Ủy ban MTTQ
Việt Nam cùng cấp về hoạt động của HĐND[41].
Bên cạnh việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thường trực HĐND
xã, Luật Tổ chức chính quyền địa phương cũng đã quy định cụ thể nhiệm vụ
và quyền hạn của Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND. Theo đó, Chủ tịch HĐND
xã có nhiệm vụ và quyền hạn là lãnh đạo hoạt động của Thường trực HĐND
xã, thay mặt Thường trực HĐND xã giữ mối liên hệ với UBND, Ban Thường
trực Ủy ban MTTQ Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận xã, các tổ
chức xã hội khác và công dân; Phó Chủ tịch HĐND xã giúp Chủ tịch HĐND
xã thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo sự phân công của Chủ tịch HĐND xã.
Đối với việc tiếp công dân của Thường trực HĐND xã, theo quy định
của Luật Tổ chức chính quyền địa phương, thì Thường trực HĐND xã có
trách nhiệm tổ chức để đại biểu HĐND xã tiếp công dân; xây dựng các quy
định, thủ tục về tiếp công dân bảo đảm đúng pháp luật và phù hợp với tình
hình của địa phương; sắp xếp lịch tiếp công dân của đại biểu HĐND xã; bố trí
công chức có đủ trình độ, năng lực và am hiểu về pháp luật để làm nhiệm vụ
29
tiếp công dân; tổ chức để đại biểu HĐND tiếp công dân tại nơi tiếp công dân
ở địa phương mà đại biểu ứng cử. Chủ tịch HĐND phải có lịch tiếp công
dân. Tùy theo yêu cầu của công việc, Chủ tịch HĐND bố trí số lần tiếp công
dân trong tháng. Chủ tịch HĐND có thể ủy nhiệm cho Phó Chủ tịch HĐND
tiếp công dân, nhưng ít nhất mỗi quý Chủ tịch HĐND phải bố trí thời gian 01
ngày để trực tiếp tiếp công dân.
Các thành viên Thường trực HĐND xã chịu trách nhiệm tập thể về việc
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Thường trực HĐND xã; chịu trách nhiệm
cá nhân trước Thường trực HĐND xã về nhiệm vụ, quyền hạn được Thường
trực HĐND xã phân công; tham gia các phiên họp Thường trực HĐND xã,
thảo luận và quyết định những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Thường
trực HĐND xã.
1.2.3.3. Hoạt động của các Ban của HĐND xã
Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 quy định trong cơ cấu
tổ chức của HĐND xã là thành lập các Ban của HĐND xã: Ban pháp chế, Ban
kinh tế - xã hội, thành viên các Ban này là đại biểu HĐND xã hoạt động kiêm
nhiệm. Đây là điểm mới so với Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003,
theo quy định của pháp luật, các Ban của HĐND xã phụ trách các lĩnh vực
theo quy định của pháp luật, cụ thể: Ban pháp chế của HĐND xã chịu trách
nhiệm trong các lĩnh vực thi hành Hiến pháp và pháp luật, quốc phòng, an
ninh, trật tự, an toàn xã hội, xây dựng chính quyền địa phương và quản lý địa
giới hành chính ở xã; Ban kinh tế - xã hội của HĐND xã chịu trách
nhiệm trong các lĩnh vực kinh tế, ngân sách, giao thông, xây dựng, giáo dục, y
tế, văn hóa, xã hội, thông tin, thể dục, thể thao, khoa học, công nghệ, tài
nguyên và môi trường, chính sách tôn giáo ở xã.
Về nhiệm vụ, quyền hạn các Ban của HĐND xã, theo quy định của
Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 thì các Ban của HĐND xã
30
có các nhiệm vụ và quyền hạn sau: (1) Tham gia chuẩn bị nội dung kỳ họp
của HĐND xã liên quan đến lĩnh vực phụ trách; (2) Thẩm tra dự thảo nghị
quyết, báo cáo, đề án liên quan đến lĩnh vực phụ trách do HĐND hoặc
Thường trực HĐND xã phân công; (3) Giúp HĐND xã giám sát hoạt động
của UBND xã trong các lĩnh vực phụ trách; giám sát văn bản quy phạm pháp
luật thuộc phạm vi phụ trách; (4) Tổ chức khảo sát tình hình thực hiện các
quy định của pháp luật về lĩnh vực phụ trách do HĐND hoặc Thường trực
HĐND xã phân công; (5) Báo cáo kết quả hoạt động giám sát với HĐND,
Thường trực HĐND xã; (6) Các Ban của HĐND xã chịu trách nhiệm và báo
cáo công tác trước HĐND xã; trong thời gian HĐND xã không họp thì báo
cáo công tác trước Thường trực HĐND xã.
Ngoài ra, Luật Tổ chức chính quyền năm 2015 cũng quy định về mỗi
quan hệ công tác các Ban của HĐND, theo đó, các Ban của HĐND phối
hợp công tác và trao đổi kinh nghiệm hoạt động về những vấn đề có liên
quan; Ban của HĐND cử thành viên tham gia hoạt động của Thường trực
HĐND theo yêu cầu của Thường trực HĐND xã; UBND xã và các bộ phận
chuyên môn của UBND xã, cơ quan, tổ chức hữu quan ở xã có trách nhiệm
cung cấp thông tin, tài liệu về những vấn đề mà Ban của HĐND yêu cầu.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong việc thẩm tra dự
thảo nghị quyết, báo cáo, đề án liên quan đến lĩnh vực phụ trách, Ban của
HĐND xã cử thành viên tham gia nghiên cứu dự thảo nghị quyết, báo cáo, đề
án; yêu cầu cơ quan soạn thảo và các cơ quan hữu quan cung cấp tài liệu và
trình bày về vấn đề mà Ban thẩm tra; tổ chức họp lấy ý kiến của những người
am hiểu về vấn đề đó; khảo sát tình hình thực tế tại địa phương về những nội
dung liên quan đến dự thảo nghị quyết, báo cáo, đề án.
Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành, tổ chức của HĐND xã
nhiệm kỳ 2016-2021 có thành lập Ban pháp chế, Ban kinh tế - xã hội, đây là
31
quy định mới so với trước đây, do đó, để các Ban của HĐND xã hoạt động có
chất lượng, hiệu quả theo nhiệm vụ, quyền hạn được giao cần phải thể chế
hóa cụ thể các quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương về lĩnh
vực phụ trách, nhiệm vụ, quyền hạn của các Ban của HĐND xã; đồng thời có
những quy định về thời gian hoạt động nhằm tạo điều kiện để các thành viên
thực hiện tốt nhiệm vụ vì thành viên các Ban này hoạt động kiêm nhiệm.
1.2.3.4. Hoạt động của đại biểu HĐND xã
Đại biểu HĐND xã là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân
dân địa phương, do cử tri địa phương bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình
đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín [43]. Với vị trí, vai trò như vậy, người đại biểu
HĐND nói chung và đại biểu HĐND xã nói riêng phải đảm bảo các tiêu chuẩn
theo quy định của pháp luật. Điều 7 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm
2015 quy định tiêu chuẩn đại biểu HĐND như sau:
1. Trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp, phấn
đấu thực hiện công cuộc đổi mới, vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
2. Có phẩm chất đạo đức tốt, cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư, gương mẫu chấp hành pháp luật; có bản lĩnh, kiên
quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, mọi biểu hiện quan
liêu, hách dịch, cửa quyền và các hành vi vi phạm pháp luật
khác.
3. Có trình độ văn hóa, chuyên môn, đủ năng lực, sức
khỏe, kinh nghiệm công tác và uy tín để thực hiện nhiệm vụ đại
biểu; có điều kiện tham gia các hoạt động của HĐND.
4. Liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến của
Nhân dân, được Nhân dân tín nhiệm"[41].
Nhiệm kỳ của đại biểu HĐND theo nhiệm kỳ của HĐND, bắt đầu từ kỳ
32
họp thứ nhất của HĐND khóa đó đến kỳ họp thứ nhất của HĐND khóa sau.
Đại biểu HĐND được bầu bổ sung bắt đầu làm nhiệm vụ đại biểu từ ngày
khai mạc kỳ họp tiếp sau cuộc bầu cử bổ sung đến ngày khai mạc kỳ họp thứ
nhất của HĐND khóa sau.
Với địa vị pháp lý của đại biểu HĐND là người đại diện cho ý chí,
nguyện vọng của nhân dân, đại biểu HĐND xã phải thực hiện đầy đủ trách
nhiệm, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật.
Về trách nhiệm: Đại biểu HĐND có nhiệm vụ chấp hành nội quy kỳ
họp, tham dự đầy đủ các kỳ họp, phiên họp của HĐND, tham gia thảo luận
và biểu quyết các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND. Đại biểu
HĐND nào không tham dự được kỳ họp phải có lý do và phải báo cáo
trước với Chủ tịch HĐND. Đại biểu HĐND nào không tham dự được phiên
họp phải có lý do và phải báo cáo trước với Chủ tọa phiên họp. Khi có
thông báo về thời gian, dự kiến chương trình và tài liệu kỳ họp, đại biểu
HĐND phải nghiên cứu tài liệu. Ngoài ra, đại biểu HĐND xã tham các
cuộc họp của Ban của HĐND xã mà đại biểu là thành viên; tham gia các
hoạt động khác của HĐND. Trong kỳ họp HĐND, đại biểu HĐND có
nhiệm vụ tham gia thảo luận và quyết định chương trình kỳ họp, thảo luận
tại phiên họp về các vấn đề thuộc nội dung, chương trình kỳ họp và biểu
quyết thông qua những vấn đề đó.
Trách nhiệm tiếp xúc cử tri, đại biểu HĐND xã phải liên hệ chặt chẽ
với cử tri ở đơn vị bầu cử bầu ra mình, chịu sự giám sát của cử tri, có trách
nhiệm thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng, kiến nghị của cử
tri; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cử tri; thực hiện chế độ tiếp xúc cử
tri và ít nhất mỗi năm một lần báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của
HĐND nơi mình là đại biểu, trả lời những yêu cầu và kiến nghị của cử tri.
33
Sau mỗi kỳ họp HĐND, đại biểu HĐND có trách nhiệm báo cáo với cử
tri về kết quả của kỳ họp, phổ biến và giải thích các nghị quyết của HĐND,
vận động và cùng với Nhân dân thực hiện các nghị quyết đó.
Trách nhiệm tiếp công dân, tiếp nhận và xử lý khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị của công dân: Đại biểu HĐND xã có trách nhiệm tiếp công dân theo quy
định của pháp luật. Khi nhận được khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân,
đại biểu HĐND có trách nhiệm nghiên cứu, kịp thời chuyển đến người có
thẩm quyền giải quyết và thông báo cho người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị
biết; đôn đốc, theo dõi và giám sát việc giải quyết. Trong trường hợp xét thấy
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị không đúng pháp luật, đại biểu
HĐND có quyền gặp người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan để
tìm hiểu, yêu cầu xem xét lại; khi cần thiết, đại biểu HĐND yêu cầu người
đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức, đơn
vị đó giải quyết.
Theo quy định tại Nghị quyết 759/2014/NQ-UBTVQH13 ngày
15/5/2014 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIII quy định chi tiết về
hoạt động tiếp công dân của các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội,
HĐND và đại biểu HĐND các cấp thì HĐND và đại biểu HĐND các cấp có
trách nhiệm tiếp công dân đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; Chủ tịch
HĐND xã có trách nhiệm tổ chức để đại biểu HĐND cấp mình tiếp công dân;
đại biểu HĐND xã thực hiện việc tiếp công dân tại Trụ sở UBND xã; đại biểu
HĐND xã tiếp công dân theo sự bố trí của Chủ tịch HĐND xã. Việc tiếp công
dân của đại biểu HĐND xã được thực hiện theo quy định như sau: Chủ tịch
HĐND xã sắp xếp lịch tiếp công dân của đại biểu HĐND xã; đại biểu HĐND
xã thực hiện việc tiếp công dân theo lịch tiếp công dân đã được công bố,
trường hợp không thể thực hiện được việc tiếp công dân theo lịch tiếp công
dân đã được công bố do có lý do chính đáng thì đại biểu HĐND xã có trách
34
nhiệm thông báo đến Chủ tịch HĐND xã để điều chỉnh lịch; đồng thời dự
kiến thời gian cụ thể thực hiện việc tiếp công dân.
Thường trực HĐND thay mặt HĐND tiếp công dân đến khiếu nại, tố
cáo, kiến nghị, phản ánh theo quy định pháp luật có liên quan. Lịch tiếp
công dân phải được niêm yết công khai tại Trụ sở UBND xã và nơi tiếp công
dân, đồng thời công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng ở địa
phương. Thường trực HĐND cử đại diện tiếp công dân theo lịch tiếp công
dân đã được công bố.
Ngoài thực hiện trách nhiệm theo quy định của pháp luật, đại biểu
HĐND xã có các quyền sau:
Quyền chất vấn: Đại biểu HĐND xã có quyền chất vấn Chủ tịch UBND
xã, Phó Chủ tịch UBND xã và Ủy viên UBND xã. Người bị chất vấn phải trả
lời về những vấn đề mà đại biểu HĐND xã chất vấn. Trong thời gian HĐND
xã họp, đại biểu HĐND gửi chất vấn đến Thường trực HĐND xã. Người bị
chất vấn phải trả lời trước HĐND xã tại kỳ họp đó. Trong trường hợp cần
điều tra, xác minh thì HĐND xã có thể quyết định cho trả lời tại kỳ họp sau
của HĐND xã hoặc cho trả lời bằng văn bản gửi đến đại biểu đã chất vấn và
Thường trực HĐND xã. Trong thời gian giữa hai kỳ họp HĐND xã, chất vấn
của đại biểu HĐND được gửi đến Thường trực HĐND xã để chuyển đến
người bị chất vấn và quyết định thời hạn trả lời chất vấn.
Quyền kiến nghị: Đại biểu HĐND xã có quyền kiến nghị HĐND xã bỏ
phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND xã bầu, tổ chức phiên
họp bất thường, phiên họp kín của HĐND xã và kiến nghị về những vấn đề
khác mà đại biểu thấy cần thiết. Kiến nghị của đại biểu HĐND xã được gửi
bằng văn bản đến Thường trực HĐND xã, trong đó nêu rõ lý do, nội dung
kiến nghị. Thường trực HĐND xã có trách nhiệm tổng hợp, xử lý các kiến
nghị của đại biểu HĐND xã theo thẩm quyền và báo cáo HĐND xã trong các
35
trường hợp có từ một phần ba tổng số đại biểu HĐND xã trở lên kiến nghị
HĐND xã bỏ phiếu tín nhiệm đối với một người giữ chức vụ do HĐND xã
bầu, kiến nghị HĐND xã họp bất thường hoặc họp kín thì Thường trực
HĐND xã báo cáo để HĐND xã xem xét, quyết định; hoặc trong trường hợp
khác mà Thường trực HĐND xã xét thấy cần thiết.
Số lượng kiến nghị cần thiết nêu trên là tổng số kiến nghị mà Thường
trực HĐND xã tiếp nhận được trong khoảng thời gian từ ngày khai mạc kỳ
họp này đến trước ngày khai mạc kỳ họp tiếp theo hoặc đến trước ngày tiến
hành phiên họp HĐND xã về nội dung có liên quan trong trường hợp đại biểu
HĐND xã kiến nghị HĐND xã tổ chức phiên họp kín.
Đại biểu HĐND xã có quyền kiến nghị các cơ quan, tổ chức, cá nhân áp
dụng biện pháp cần thiết để thực hiện Hiến pháp, pháp luật, bảo vệ quyền và lợi
ích của Nhà nước, quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Quyền của đại biểu HĐND khi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật:
Khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, đại biểu HĐND xã có
quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức hữu quan thi hành những biện pháp cần thiết
để kịp thời chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật. Trong thời hạn 15 ngày kể từ
ngày nhận được yêu cầu của đại biểu HĐND, cơ quan, tổ chức phải giải quyết
và thông báo bằng văn bản cho đại biểu HĐND biết. Quá thời hạn này mà cơ
quan, tổ chức không trả lời thì đại biểu HĐND có quyền yêu cầu người đứng
đầu cơ quan, tổ chức cấp trên xem xét, giải quyết.
Quyền của đại biểu HĐND xã trong việc yêu cầu cung cấp thông tin:
Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu, đại biểu HĐND xã có quyền
yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến
nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân đó. Người đứng đầu cơ
36
quan, tổ chức hoặc cá nhân có trách nhiệm trả lời những vấn đề mà đại biểu
HĐND yêu cầu theo quy định của pháp luật.
1.2.4. Hoạt động giám sát của HĐND xã
Giám sát là một chức năng của HĐND nói chung và HĐND xã nói
riêng. Điều 87, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 quy định về
hoạt động giám sát của HĐND như sau:
1. HĐND thực hiện quyền giám sát của mình tại kỳ họp
HĐND và trên cơ sở hoạt động giám sát của Thường trực
HĐND, các Ban của HĐND, các Tổ đại biểu HĐND và đại biểu
HĐND.
2. HĐND quyết định nội dung giám sát theo đề nghị của
Thường trực HĐND trình trên cơ sở các kiến nghị của Ban của
HĐND, Tổ đại biểu HĐND, đại biểu HĐND, UBMTTQ Việt
Nam cùng cấp và ý kiến, kiến nghị của cử tri địa phương.
3. HĐND thực hiện quyền giám sát thông qua các hoạt
động sau đây:
a) Xem xét báo cáo công tác của Thường trực
HĐND, UBND, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp;
b) Xem xét báo cáo của UBND cùng cấp về tình hình thi
hành Hiến pháp, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà
nước cấp trên và nghị quyết của HĐND cùng cấp;
c) Xem xét văn bản của UBND cùng cấp có dấu hiệu trái
với Hiến pháp, các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà
nước cấp trên và nghị quyết của HĐND cùng cấp;
d) Xem xét trả lời chất vấn của Chủ tịch UBND, Phó Chủ
tịch UBND, Ủy viên UBND, Chánh án Tòa án nhân dân, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp;
37
đ) Thành lập Đoàn giám sát về một vấn đề nhất định khi xét
thấy cần thiết và xem xét kết quả giám sát của Đoàn giám sát[41].
Như vậy, theo quy định của pháp luật, HĐND xã thực hiện quyền giám
sát của mình tại kỳ họp HĐND xã và trên cơ sở hoạt động giám sát của
Thường trực HĐND, các Ban của HĐND và đại biểu HĐND xã; HĐND xã
quyết định nội dung giám sát theo đề nghị của Thường trực HĐND xã trình
trên cơ sở các kiến nghị của các Ban của HĐND, đại biểu HĐND, Ủy ban
MTTQ Việt Nam xã và ý kiến, kiến nghị của cử tri địa phương.
1.3. Mối quan hệ giữa HĐND xã với cấp ủy, UBND, Ủy ban MTTQ và
các tổ chức chính trị - xã hội cùng cấp
1.3.1. Mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân xã với cấp ủy cùng cấp
Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội là một nguyên tắc đã được khẳng
định trong Hiến pháp. Điều 4 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Đảng Cộng sản
Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong
của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê
nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà
nước và xã hội”[39].
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội bằng Cương
lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công
tác tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, vận động; bằng công tác tổ chức, cán
bộ và kiểm tra; bằng tổ chức của Đảng trong các tổ chức của hệ thống chính trị
và sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán
bộ và quản lý đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị; Đảng giới thiệu những đảng
viên có đủ phẩm chất, năng lực tham gia trong các cơ quan lãnh đạo của hệ
thống chính trị. Với vai trò lãnh đạo của Đảng, trong mối quan hệ giữa HĐND
xã với cấp ủy Đảng cùng cấp, HĐND xã chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy
38
Đảng cùng cấp thể hiện qua thể chế hóa về mặt nhà nước từ Nghị quyết của
cấp ủy bằng Nghị quyết của HĐND; cấp ủy, Ủy ban MTTQ và HĐND cùng
phối hợp kiểm tra, giám sát UBND xã trong việc tổ chức triển khai thực hiện
các Nghị quyết của cấp ủy Đảng, HĐND. Đảng ủy xã lãnh đạo công tác tổ
chức cán bộ ở xã, trong đó có nhân sự Thường trực HĐND xã, các Ban của
HĐND xã và đại biểu HĐND xã. Đối với nhân sự Thường trực HĐND xã
trình cấp thẩm quyền xem xét, quyết định trước khi HĐND xã bầu. Trong
công tác chuẩn bị nhân sự cho việc bầu cử đại biểu HĐND xã, cấp ủy Đảng
lãnh đạo, chỉ đạo trong việc lựa chọn và giới thiệu các ứng cử viên để bầu vào
HĐND theo quy chế về công tác cán bộ của Đảng, sự lãnh đạo đều tuân thủ
theo quy định của pháp luật.
Sự lãnh đạo của cấp ủy còn được thể hiện ở chủ trương, đường lối
trong các Nghị quyết dài hạn và ngắn hạn. Căn cứ vào nội dung Nghị quyết
của cấp ủy, Thường trực HĐND, các ban HĐND và các đại biểu HĐND vận
dụng và cụ thể hóa trong Nghị quyết của HĐND tại các kỳ họp; mọi hoạt
động của HĐND đều chấp hành sự lãnh đạo của Đảng và thực hiện nhiệm vụ
quyền hạn theo qui định của pháp luật.
1.3.2. Mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân xã với Ủy ban nhân dân cùng cấp
Mối quan hệ giữa HĐND xã với UBND xã được quy định trong Luật
Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, cụ thể tại khoản 1 Điều 8 Luật
Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015: “UBND do HĐND cùng cấp
bầu, là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương, HĐND cùng cấp và cơ
quan hành chính nhà nước cấp trên”[41]. Với địa vị pháp lý là cơ quan quyền
lực nhà nước ở xã, HĐND xã có quyền bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch,
Phó Chủ tịch và các thành viên khác của UBND xã. Đối với việc bầu Chủ
tịch, Phó Chủ tịch và các thành viên khác của UBND được quy định trong
39
Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, cụ thể tại Khoản 3 Điều 83
quy định: “HĐND bầu Chủ tịch UBND theo giới thiệu của Chủ tịch HĐND.
Chủ tịch UBND được bầu tại kỳ họp thứ nhất của HĐND phải là đại biểu
HĐND. Chủ tịch UBND được bầu trong nhiệm kỳ không nhất thiết là đại biểu
HĐND”; Khoản 4 Điều 83 quy định: “HĐND bầu Phó Chủ tịch UBND, Ủy
viên UBND theo giới thiệu của Chủ tịch UBND. Phó Chủ tịch UBND, Ủy
viên UBND không nhất thiết là đại biểu HĐND”; Khoản 7 Điều 83 quy định:
“… kết quả bầu Chủ tịch UBND, Phó Chủ tịch UBND cấp xã phải được Chủ
tịch UBND cấp huyện phê chuẩn” [41]. Việc miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch,
Phó Chủ tịch và các thành viên khác của UBND xã được quy định tại Khoản
3 Điều 84 Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015 như sau: “HĐND miễn
nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch UBND theo đề nghị của Chủ tịch HĐND; miễn
nhiệm, bãi nhiệm Phó Chủ tịch UBND, Ủy viên UBND theo đề nghị của Chủ
tịch UBND”[41], kết quả miễn nhiệm, bãi nhiệm phải được Chủ tịch UBND
huyện phê chuẩn.
Trong hoạt động, HĐND và UBND xã có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau. Thường trực và các Ban của HĐND xã phối hợp chặt chẽ với UBND
xã, các bộ phận chuyên môn thuộc UBND xã trong việc dự kiến nội dung,
chương trình kỳ họp HĐND xã; dự thảo nghị quyết, báo cáo, đề án trình
HĐND xã; giải quyết những vấn đề phát sinh khi thực hiện nghị quyết của
HĐND xã về nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng – an ninh, ngân sách xã;
tổ chức triển khai thực hiện nghị quyết của HĐND xã trong thời gian giữa hai
kỳ họp. Đại diện Thường trực HĐND xã được mời dự các phiên họp của
UBND xã. Đại diện UBND xã được mời dự các cuộc họp thường kỳ và các
cuộc họp khác của Thường trực HĐND xã khi xét thấy cần thiết. Thành viên
UBND xã được mời tham dự các kỳ họp HĐND xã; có trách nhiệm tham dự
các phiên họp toàn thể của HĐND khi thảo luận về những vấn đề có liên quan
40
đến ngành, lĩnh vực mà mình phụ trách; được phát biểu ý kiến về vấn đề
thuộc ngành, lĩnh vực mà mình phụ trách nếu được chủ tọa phiên họp đồng ý
hoặc có trách nhiệm phát biểu ý kiến theo yêu cầu của HĐND hoặc chủ tọa
phiên họp.
HĐND xã có quyền giám sát hoạt động của UBND xã trong việc tổ
chức thực hiện nghị quyết của HĐND và tổ chức việc thi hành Hiến pháp,
pháp luật tại địa phương. UBND xã và các đơn vị, bộ phận chuyên môn thuộc
UBND xã có trách nhiệm báo cáo và cung cấp các tài liệu liên quan khi có
yêu cầu của Thường trực và các Ban của HĐND xã. HĐND xã tổ chức lấy
phiếu tín nhiệm và bỏ phiếu tín nhiệm đối với Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các
Ủy viên UBND xã; đại biểu HĐND xã có quyền chất vấn Chủ tịch, Phó Chủ
tịch và các Ủy viên UBND xã.
Trong hoạt động của mình, HĐND và UBND xã phối hợp chặt chẽ với
Ủy ban MTTQ Việt Nam xã và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức
xã hội khác chăm lo và bảo vệ lợi ích của nhân dân, vận động nhân dân tham gia
vào việc quản lý nhà nước và thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước.
UBND xã là cơ quan chấp hành của HĐND xã, cơ quan hành chính nhà
nước ở xã. Do đó, UBND xã có trách nhiệm tổ chức và chỉ đạo việc thi hành
Hiến pháp, pháp luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và Nghị
quyết của HĐND xã.
HĐND và UBND xã có chức năng khác nhau nhưng có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau, mối quan hệ này tạo ra sức mạnh để thực hiện có hiệu quả
quyền lực nhà nước ở địa phương.
1.3.3. Mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân xã với Ủy ban MTTQ và các tổ
chức chính trị - xã hội cùng cấp
41
Trong hệ thống chính trị nước ta, Ủy ban MTTQ Việt Nam có vị trí,
vai trò hết sức quan trọng, được ghi nhận trong Hiến pháp. Điều 9 Hiến
Pháp năm 2013 quy định:
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị,
liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị -
xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai
cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở
nước ngoài.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính
quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã
hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà
nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc[39].
Mối quan hệ giữa HĐND và MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội được
quy định tại Điều 116, Hiến pháp năm 2013:
HĐND, UBND thực hiện chế độ thông báo tình hình của
địa phương cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể
nhân dân, lắng nghe ý kiến, kiến nghị của các tổ chức này về xây
dựng chính quyền và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương;
phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân
dân động viên Nhân dân cùng Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ
kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh ở địa phương.
Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người
đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương được mời tham
42
dự các kỳ họp HĐND và được mời tham dự hội nghị UBND cùng
cấp khi bàn các vấn đề có liên quan[39].
Như vậy, theo quy định của pháp luật, mối quan hệ giữa HĐND xã và
MTTQ Việt Nam, các tổ chức thành viên ở xã là quan hệ phối hợp. Mỗi năm
hai lần vào giữa năm và cuối năm, Chủ tịch HĐND xã thông báo bằng văn
bản đến Uỷ ban MTTQ xã và các tổ chức thành viên về tình hình hoạt động
của HĐND cấp mình. Trong kỳ họp thường lệ của HĐND, Uỷ ban MTTQ
báo cáo về hoạt động của MTTQ xã tham gia xây dựng chính quyền, về
những ý kiến, kiến nghị đối với HĐND và với đại biểu HĐND xã.
Chính quyền địa phương tạo điều kiện để Ủy ban MTTQ và các tổ chức
chính trị - xã hội động viên nhân dân tham gia xây dựng và củng cố chính
quyền nhân dân, tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước, giám
sát, phản biện xã hội đối với hoạt động của chính quyền địa phương. Chính
quyền địa phương có trách nhiệm lắng nghe, giải quyết và trả lời các kiến
nghị của Ủy ban MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương về xây
dựng chính quyền và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Ủy ban MTTQ
và các tổ chức thành viên của Mặt trận tạo điều kiện để đại biểu HĐND tiếp
xúc cử tri, thu thập ý kiến, nguyện vọng và kiến nghị của nhân dân với
HĐND.
1.4. Tiêu chí đánh giá và điều kiện đảm bảo chất lƣợng, hiệu quả hoạt
động của Hội đồng nhân dân xã
1.4.1. Quan niệm về chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân
dân xã
Để phân tích cụ thể các tiêu chí đánh giá chất lượng, hiệu quả hoạt
động của HĐND xã, trước hết ta cần phân tích, làm rõ các khái niệm “chất
lượng”, “hiệu quả” hoạt động của HĐND xã.
43
Theo Từ điển Tiếng Việt thì “chất lượng” hiểu theo nghĩa chung nhất
là: "cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một người, một sự vật, sự việc"[36,
tr.28]. Theo Từ điển bách khoa Việt Nam:
Chất lượng phạm trù triết học biểu thị những thuộc tính
bản chất của sự vật, chỉ rõ nó là cái gì, tính ổn định tương đối
của sự vật để phân biệt nó với các sự vật khác chất lượng là đặc
tính khách quan của sự vật. Chất lượng biểu hiện ra bên ngoài
qua các thuộc tính. Nó là cái liên kết các thuộc tính của sự vật
lại làm một, gắn bó với sự vật như một tổng thể, bao quát toàn
bộ sự vật và không tách khỏi sự vật. Sự vật trong khi vẫn còn là
bản thân nó thì không thể mất chất lượng của nó. Sự thay dổi
chất lượng kéo theo sự thay đổi của sự vật về căn bản. Chất
lượng của sự vật bao giờ cũng gắn liền với tính quy định về số
lượng của nó và không thể tồn tại ngoài tính quy luật ấy. Mọi sự
vật bao giờ cũng là sự thống nhất của chất lượng và số
lượng[29, tr.526].
Như vậy, nói đến chất lượng của một sự việc là nói đến khả năng đạt
được kết quả trong hoạt động nào đó của sự việc đó. Muốn hoạt động có kết
quả thì những cá nhân trong tập thể phải đảm bảo các điều kiện, yêu cầu của
hoạt động. Chất lượng không phải là những thuộc tính cá nhân riêng lẻ mà là
một tổ hợp các thuộc tính cá nhân đáp ứng yêu cầu cao của hoạt động. Chất
lượng hoạt động của tổ chức là chất lượng của từng hoạt động trong tổ chức
đó nhằm hướng tới kết quả chung của hoạt động. Hoạt động của sự việc do
yếu tố con người tạo ra, do đó chất lượng của con người liên quan đến sự việc
đó là yếu tố quan trọng tác động ảnh hưởng đến chất lượng chung của hoạt
động đó. Chất lượng của con người vừa là cái “tự nhiên” có sẵn, vừa là kết
quả của quá trình học tập, rèn luyện, hoạt động thực tiễn của con người.
44
HĐND xã bao gồm các đại biểu HĐND xã do cử tri ở xã bầu ra, là
cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng
và quyền làm chủ của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa
phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Phương thức hoạt động của HĐND
xã thực hiện theo các phương thức: Kỳ họp của HĐND xã, hoạt động của
Thường trực HĐND xã, hoạt động các Ban của HĐND xã, hoạt động của
đại biểu HĐND xã.
Để hoạt động của HĐND xã đạt chất lượng, đòi hỏi các hoạt động cấu
thành hoạt động HĐND xã phải đảm bảo chất lượng, hay nói cách khác là
chất lượng từng hoạt động của HĐND xã.
Từ sự phân tích trên có thể nhận diện được các yếu tố cấu thành chất
lượng hoạt động HĐND xã là chất lượng kỳ họp của HĐND xã, chất lượng
hoạt động của Thường trực HĐND, các Ban của HĐND xã và chất lượng hoạt
động của đại biểu HĐND xã. Như vậy, chất lượng hoạt động của HĐND xã là
tập hợp chất lượng các yếu tố cấu thành hoạt động của HĐND xã làm cho
HĐND xã thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của
pháp luật hiện hành.
Thuật ngữ "Hiệu quả" được sử dụng rộng rãi trong nhiều ngành, nhiều
lĩnh vực trong đời sống xã hội. Theo Từ điển Tiếng Việt phổ thông, “hiệu quả
là kết quả như yêu cầu của việc làm mang lại”[49, tr.389]. Theo Từ điển bách
khoa Việt Nam, hiệu quả là:
Kết quả mong muốn, cái sinh ra kết quả mà con người chờ
đợi và hướng tới; nó có nội dung khác nhau ở những lĩnh vực
khác nhau. Trong sản xuất, hiệu quả có nghĩa là hiệu suất, năng
suất. Trong kinh doanh, hiệu quả là lãi suất, lợi nhuận. Trong
lao động nói chung, hiệu quả lao động là năng suất lao động,
được đánh giá bằng số lượng thời gian hao phí để sản xuất ra
45
một đơn vị sản phẩm, hoặc bằng số lượng sản phẩm được sản
xuất ra trong một đơn vị thời gian[30, tr.289].
Trong lĩnh vực xã hội, hiệu quả là sự so sánh giữa kết quả trước và sau
khi tiến hành một hoạt động, giữa kết quả đã có và kết quả dự định sẽ có; giữa
kết quả đạt được và mục đích. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, hiệu quả
thường được đồng nhất với những kết quả đạt được về lợi nhuận, thương hiệu,
mở rộng thị trường…nó thường được tính toán chi tiết, cụ thể thông qua việc
trừ đi các chi phí về nguyên liệu, tài chính, lao động… Trong lĩnh vực quản lý
nhà nước, hiệu quả là kết quả hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước
trên các mặt công tác có sự đối chiếu, so sánh với các khoản kinh phí bỏ ra để
đạt được các kết quả. Hiệu quả của pháp luật là kết quả thực tế đạt được do sự
điều chỉnh, tác động của pháp luật mang lại trong những phạm vi và điều kiện
nhất định, biểu hiện ở trạng thái của các quan hệ xã hội, phù hợp với những
mục đích, yêu cầu và định hướng của pháp luật với mức chi phí thấp.
Các cách tiếp cận về hiệu quả thường lấy sự so sánh giữa "đầu vào" và
"đầu ra" để đánh giá. Như vậy, hiệu quả là sự so sánh giữa kết quả thu được
sau khi chủ thể thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn với chi phí mà
chủ thể bỏ ra để đạt được những kết quả đó trong những điều kiện cụ thể.
Hoạt động của HĐND xã là hoạt động chính trị - xã hội, do đó việc xác
định hiệu quả hoạt động của HĐND xã phải dựa trên chỉ số đánh giá mang
tính chất lượng tính (vừa định tính, vừa định lượng). Tính lưỡng tính ở đây
thể hiện các yếu tố đầu tư chi phí bỏ ra và kết quả thu về. Trong hoạt động
của HĐND xã, đầu tư, chi phí bỏ ra, yếu tố có thể định lượng bao gồm: cơ sở
vật chất, kinh phí, chi phí tổ chức kỳ họp, chi phí việc xây dựng chương trình,
báo cáo, nghị quyết, nội dung giám sát, tổ chức giám sát, số lượng thành viên
tham gia…; yếu tố định tính như năng lực, trình độ, uy tín, kỹ năng, kinh
nghiệm hoạt động của đại biểu HĐND, của Thường trực HĐND, các Ban của
46
HĐND xã. Ở kết quả thu về có thể định lượng như số lượng các kỳ họp, các
Nghị quyết, các đoàn giám sát; chất vấn, các cuộc tiếp xúc cử tri… hoặc kết
quả thu về có thể xác định bởi yếu tố định tính như thông qua giám sát của
HĐND xã, các chủ thể bị giám sát nâng cao tinh thần trách nhiệm của mình
hoạt động theo đúng quy định của Hiến pháp và pháp luật; củng cố niềm tin
của cử tri đối với HĐND. Như vậy, hiệu quả hoạt động của HĐND xã là chỉ
số so sánh giữa kết quả thu được trong thực tế so với chi phí bỏ ra. Mặt khác,
hiệu quả hoạt động của HĐND xã phải được xác định trên cơ sở thực hiện
đúng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của pháp luật.
Hiệu quả hoạt động của HĐND xã được biểu hiện ở khả năng tạo ra
những chuyển biến tích cực về kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, nâng
cao đời sống của nhân dân địa phương. Hoạt động của HĐND xã sẽ không đạt
hiệu quả nếu hoạt động đó không tạo ra được những chuyển biến tích cực về
kinh tế - xã hội của địa phương, không phản ánh và giải quyết được những
vấn đề bức xúc của địa phương hoặc chi phí dành cho hoạt động của HĐND
xã quá nhiều.
Qua phân tích như trên, có thể xác định: Hiệu quả hoạt động của
HĐND xã là kết quả thu được đảm bảo sự phù hợp giữa việc thực hiện chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo luật định so với những chi phí hợp lý về thời
gian, trí lực, vật lực, nguồn lực lao động… phục vụ hoạt động của HĐND xã.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra quan niệm về chất lượng, hiệu
quả hoạt động của HĐND xã như sau: Chất lượng, hiệu quả hoạt động của
HĐND xã là tổng hòa chất lượng các yếu tố hoạt động cấu thành hoạt động
của HĐND xã nhằm đạt được những kết quả đảm bảo phù hợp giữa việc thực
hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo luật định so với chi phí hợp lý
phục vụ hoạt động của HĐND xã.
47
1.4.2. Tiêu chí đánh giá chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân
dân xã
1.4.2.1. Việc đảm bảo dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân
dân xã
Bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà
nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là
mục tiêu cao cả mà Đảng và Nhà nước ta luôn hướng tới, quyết tâm biến nó
thành hiện thực[47]. Đại hội XII của Đảng xác định rõ: “Tiếp tục phát huy
dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Bảo đảm dân chủ để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu
của quá trình đưa những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân
dân”[5, tr. 38]. Thể chế hóa đường lối của Đảng, vấn đề dân chủ, thực hành
và phát huy dân chủ được khẳng định trong Hiến pháp 2013:
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân,
vì Nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân…";
“Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân;
công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người,
quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện[39].
Như vậy, ở nước ta nguồn gốc, bản chất quyền lực nhà nước là quyền
lực nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực của mình bằng hình thức dân chủ
trực tiếp, dân chủ đại diện thông qua Quốc hội và HĐND các cấp. HĐND xã là
một bộ phận của bộ máy nhà nước, có vị trí, vai trò quan trọng, là nơi gần dân,
sát dân, trực tiếp với nhân dân, để đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về nhân
48
dân thì trong tổ chức và hoạt động của HĐND xã phải đảm bảo tính dân chủ.
Hoạt động của HĐND xã đạt được hiệu quả khi nó phản ánh được nguyện
vọng của nhân dân địa phương, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân địa
phương. Đảm bảo tính dân chủ sẽ đảm bảo quyền lực của nhân dân, quyền lực
nhân dân sẽ được sử dụng đúng mục đích, không xảy ra tình trạng lạm quyền.
Đảm bảo dân chủ là nguyên tắc hoạt động của bộ máy nhà nước nói
chung và HĐND xã nói riêng, nó thể hiện bản chất của chế độ chính trị. Điều
5, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 quy định: “Một trong
những nguyên tắc hoạt động của chính quyền địa phương là nguyên tắc tập
trung dân chủ, HĐND làm việc theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa
số”[41]. Hoạt động của HĐND xã phải đảm bảo tính quyền lực và tính đại
diện, do đó yếu tố đảm bảo dân chủ trong tổ chức và hoạt động của HĐND xã
phải được thực hiện nghiêm túc tạo được sự đồng thuận xã hội - một trong
những điều kiện quan trọng, căn bản để hoạt động của HĐND xã đạt chất
lượng, hiệu quả trong thực tế.
1.4.2.2. Kết quả đạt được về tình hình kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh ở xã
Theo quy định của Hiến pháp 2013 và Luật Tổ chức chính quyền năm
2015, HĐND quyết định các vấn đề của địa phương do luật định. Theo đó,
HĐND xã quyết định các vấn đề của xã theo quy định của pháp luật. Như
vậy, kết quả đạt được về tình hình kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh ở xã là
tiêu chí quan trọng đánh giá chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND xã.
Hoạt động của HĐND xã là hoạt động mang tính chính trị - xã hội, kết
quả của nó thường phải có thời gian nhất định 01 năm, 05 năm… hoặc lâu
hơn nữa mới đem lại kết quả cụ thể, do đó việc đánh giá chất lượng, hiệu quả
hoạt động là rất khó khăn. Để đánh giá chất lượng, hiệu quả hoạt động của
HĐND xã, chúng ta phải so sánh tình hình kinh tế - xã hội, quốc phòng - an
ninh của địa phương trước và sau hoạt động theo nhiệm kỳ của HĐND xã
49
hoặc sau khi có những chủ trương phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
Nếu tình hình kinh tế - xã hội, quốc phòng – an ninh trên địa bàn xã ổn định,
phát triển, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao thì điều đó cho thấy
hoạt động của HĐND xã đã mang lại hiệu quả. Ngược lại, nếu không có sự
chuyển biến tích cực, đời sống nhân dân vẫn còn khó khăn, an ninh, trật tự an
toàn xã hội trên địa bàn xã không ổn định tức là HĐND xã hoạt động không
có hiệu quả.
Tiêu chí đánh giá chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND xã không
chỉ là đánh giá sự phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng – an ninh của xã;
chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND xã còn chịu sự tác động của các
yếu tố khác. Vì vậy, khi đánh giá chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND
xã theo tiêu chí này cũng chỉ ở mức độ tương đối.
1.4.2.3. Kết quả đạt được so với chi phí bỏ ra
Nếu theo cách tiếp cận này thì hiệu quả chính là tỷ lệ giữa kết quả đạt
được với chi phí bỏ ra (trong đó: chi phí bỏ ra ít hơn, kết quả đạt được cao
hơn). Kết quả hoạt động mang lại là kết quả về kinh tế - xã hội đạt được, còn
chi phí cần thiết bỏ ra là những hao tổn cần thiết để đạt được kết quả, bao
gồm: vật chất, tinh thần, nguồn nhân lực... Tất cả chi phí cho hoạt động của
HĐND xã cần ở mức thấp nhưng phải đủ đảm bảo cho các chủ thể hoạt động
tốt, thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn luật định để đạt được
những kết quả ở mức cao nhất.
Hoạt động của HĐND xã chủ yếu mang tính chính trị - xã hội nên việc
tính kết quả thu về so với chi phí bỏ ra là điều rất khó. Bởi yếu tố vừa định
lượng, vừa định tính không chỉ thể hiện ở kết quả thu về mà ngay cả trong đầu
tư, chi phí bỏ ra. Vì vậy, khi căn cứ vào tiêu chí này để đánh giá hiệu quả hoạt
động của HĐND xã thì cũng chỉ tính toán ở mức độ tương đối. Có những hoạt
động nếu tính dưới góc độ kinh tế thì không mang lại lợi ích thiết thực nhưng
50
dưới góc độ xã hội lại mang lại hiệu quả rất lớn. Chẳng hạn trong một số lĩnh
vực nếu HĐND xã giám sát đến cùng và triệt để không những góp phần tích
cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội mà còn có tác dụng to lớn trong việc
chấn chỉnh các vấn đề xã hội. Do đó, khi căn cứ vào yếu tố chi phí, kết quả để
xem xét hiệu quả hoạt động của HĐND xã phải kết hợp xem xét cả hiệu quả
kinh tế và hiệu quả chính trị - xã hội.
Tùy vào từng địa phương có những điều kiện, hoàn cảnh thực tế khác
nhau nên khi đánh giá chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND xã phải dựa
trên nhiều tiêu chí khác nhau, bên cạnh những yếu tố bên trong thì cần quan
tâm đến các nhân tố bên ngoài có tác động ảnh hưởng đến hoạt động của
HĐND xã, có như vậy mới đảm bảo được tính khách quan và thực tế khi đánh
giá chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND xã.
1.4.3. Điều kiện đảm bảo chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội đồng
nhân dân xã
1.4.3.1. Sự quan tâm lãnh đạo của cấp ủy Đảng
Trong suốt chặng đường lịch sử đấu tranh cách mạng, giành độc lập
dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi. Đối với HĐND các
cấp, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thông qua đường lối, chủ trương,
công tác cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát trong việc xây dựng hệ thống
chính quyền nhà nước ở địa phương; thông qua sự lãnh đạo trực tiếp của các
cấp ủy Đảng đối với việc tổ chức và hoạt động của HĐND. Như vậy, chất
lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND xã không chỉ phụ thuộc vào chủ
trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam nói chung mà còn phụ thuộc
nhiều vào sự quan tâm và năng lực lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Đảng ủy xã.
Căn cứ vào chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam và
chức năng, nhiệm vụ của HĐND được quy định trong Hiến pháp năm 2013 và
51
Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, cấp ủy Đảng ở địa phương
lãnh đạo HĐND thông qua việc đề ra các chủ trương, chính sách phát triển
kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh ở địa phương, làm căn cứ cho HĐND
cụ thể hóa bằng Nghị quyết; thông qua lãnh đạo, chỉ đạo công tác tổ chức cán
bộ của HĐND; thông qua các đảng viên là đại biểu HĐND. Đối với hoạt động
của HĐND xã, sự lãnh đạo của Đảng ủy xã chính là yếu tố quan trọng đầu
tiên quyết định chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND xã. Hoạt động của
HĐND xã phải căn cứ vào lãnh đạo của cấp ủy, từ việc xây dựng chương
trình, nội dung kỳ họp, đến việc tổ chức kỳ họp… Trong quá trình hoạt động
của HĐND xã, những vấn đề nổi cộm, liên quan đến cơ chế, chính sách, đến
cán bộ lãnh đạo đều được tổng hợp, báo cáo tranh thủ ý kiến của cấp ủy để có
phương án giải quyết đúng đắn.
Để HĐND xã thực hiện tốt hoạt động của mình thì cần phải có sự lãnh
đạo của Đảng ủy cơ sở. Các cấp ủy Đảng chỉ nên thực hiện lãnh đạo HĐND
dựa trên những chủ trương, định hướng và kiểm tra việc thực hiện những chủ
trương, cấp ủy Đảng không được bao biện, làm thay để HĐND xã phát huy
được vai trò trong hoạt động của mình tại địa phương, thực hiện có hiệu quả
chức năng theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
1.4.3.2. Có cơ sở pháp lý đầy đủ về hoạt động của HĐND xã
Chức năng của HĐND nói chung và HĐND xã nói riêng được ghi nhận
trong Hiến pháp, đó là chức năng quyết định và chức năng giám sát. Nếu
không thể chế hóa các quy định này bằng các quy định của luật, không quy
định đầy đủ về nhiệm vụ, quyền hạn, phương thức tổ chức, hoạt động... để
thực hiện các chức năng đó trong hoạt động của HĐND thì việc ghi nhận các
chức năng đó trong Hiến pháp chỉ là hình thức. Như vậy, các quy định của
pháp luật về hoạt động của HĐND nói chung, HĐND xã nói riêng có vai trò
52
tạo cơ sở pháp lý để HĐND hoạt động thực hiện chức năng quyết định và
giám sát của mình trong thực tiễn.
Điều đó đã được minh chứng trong thực tiễn phát triển của Luật Tổ
chức chính quyền địa phương. Trước đây, Luật Tổ chức HĐND và UBND
quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND cấp xã là chung, không có sự
phân biệt giữa HĐND xã, phường, thị trấn nên rất khó thực hiện, nhưng khi
Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 quy định đã có sự phân biệt giữa
quyền hạn của HĐND xã, thị trấn với HĐND phường; Luật Tổ chức chính
quyền địa phương năm 2015 quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND
phù hợp với điều kiện, đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, quy định cụ thể
nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND xã, phường, thị trấn. Với việc quy định như
vậy tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho hoạt động của HĐND xã, phường, thị
trấn, qua đó nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của cơ quan quyền lực
nhà nước ở địa phương.
Năm 2015, Quốc hội ban hành Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội
và HĐND, đây là cơ sở pháp lý quan trọng để hoạt động giám sát của HĐND
xã đạt hiệu quả hơn trong thời gian đến, tuy nhiên để thực hiện có hiệu quả
các quy định của các điều luật thì các cơ quan có thẩm quyền cần ban hành
những văn bản cụ thể thực hiện các điều luật của Luật này.
Như vậy, vấn đề đặt ra là muốn nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động của HĐND xã thì trước hết phải ban hành đầy đủ các quy định pháp luật
điều chỉnh các mối quan hệ trong tổ chức và hoạt động của HĐND xã như các
quy định cụ thể về cơ cấu, tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Các quy
định đó phải đảm bảo tính đồng bộ, phải cụ thể, rõ ràng, minh bạch, dễ hiểu,
dễ áp dụng, không phải chờ các văn bản pháp lý có hiệu lực thấp hơn hướng
dẫn, giải thích. Có như vậy, HĐND xã mới có cơ sở pháp lý vững chắc để
thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình.
53
1.4.3.3. Chất lượng của đại biểu HĐND xã
HĐND xã gồm các đại biểu HĐND do cử tri ở xã bầu ra, do đó chất
lượng của đại biểu HĐND xã là điều kiện rất quan trọng để bảo đảm cho hoạt
động của HĐND xã có chất lượng, hiệu quả. Điều 115 Hiến pháp 2013 quy
định rõ địa vị pháp lý của đại biểu HĐND: “Đại biểu HĐND là người đại diện
cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân địa phương”[39]. Đại biểu HĐND là
cầu nối quan trọng giữa Nhà nước với nhân dân, vừa chịu trách nhiệm trước
cử tri, vừa chịu trách nhiệm trước cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.
Chính vì vậy, đòi hỏi người đại biểu HĐND xã phải là những người có phẩm
chất, năng lực, trình độ, kỹ năng hoạt động và tinh thần trách nhiệm cao; phải
đảm bảo các tiêu chuẩn đại biểu HĐND theo quy định của Luật Tổ chức
chính quyền địa phương năm 2015.
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND xã, để đại biểu
HĐND xã thực sự xứng đáng là người đại biểu nhân dân đòi hỏi mỗi đại biểu
phải không ngừng tự giác rèn luyện trau dồi phẩm chất chính trị, đạo đức cách
mạng, nâng cao trình độ, rèn luyện kỹ năng giám sát, kỹ năng tiếp xúc cử tri, kỹ
năng tổng hợp, phân tích… phát huy tinh thần trách nhiệm được pháp luật quy
định và nhân dân trực tiếp giao cho. Điều này yêu cầu đặt ra trong thời gian đến
cần quan tâm thực hiện việc bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ, kinh nghiệm cho đại
biểu HĐND trong thực hiện trách nhiệm, quyền hạn của mình.
1.4.3.4. Về tổ chức bộ máy của HĐND xã
Bất kỳ cơ quan, tổ chức nào muốn nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động thì cần phải tổ chức bộ máy một cách hợp lý và đồng bộ. HĐND xã
muốn nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đòi hỏi phải có một bộ máy đủ
khả năng thực hiện một cách tốt nhất chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được
phân công.
54
Tổ chức bộ máy của HĐND xã gồm Thường trực HĐND và các Ban của
HĐND. Điều 32 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 quy định:
Thường trực HĐND xã gồm Chủ tịch HĐND, một Phó
Chủ tịch HĐND. Phó Chủ tịch HĐND xã là đại biểu HĐND hoạt
động chuyên trách.
HĐND xã thành lập Ban pháp chế, Ban kinh tế - xã hội.
Ban của HĐND xã gồm có Trưởng ban, một Phó Trưởng ban và
các Ủy viên. Số lượng Ủy viên của các Ban của HĐND xã do
HĐND xã quyết định. Trưởng ban, Phó Trưởng ban và các Ủy
viên của các Ban của HĐND xã hoạt động kiêm nhiệm[41].
Theo đó, Thường trực HĐND xã gồm Chủ tịch HĐND và một Phó Chủ
tịch HĐND, Phó Chủ tịch HĐND xã hoạt động chuyên trách; ngoài ra,
HĐND xã thành lập Ban pháp chế, Ban kinh tế - xã hội, thành viên của các
Ban của HĐND xã hoạt động kiêm nhiệm.
Như vậy, để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND xã,
một trong những yếu tố cần quan tâm hoàn thiện là tổ chức bộ máy. Hiện nay
theo quy định của pháp luật, Thường trực HĐND xã có hai thành viên nhưng
chỉ có Phó Chủ tịch HĐND hoạt động chuyên trách, đại đa số Chủ tịch
HĐND hoạt động kiêm nhiệm do Bí thư Đảng ủy xã kiêm nhiệm; đối với các
Ban của HĐND xã thì Trưởng ban, Phó Trưởng ban và các Ủy viên đều hoạt
động kiêm nhiệm. Với cơ cấu tổ chức bộ máy như vậy đòi hỏi phải nâng cao
năng lực hoạt động của Thường trực HĐND xã, nâng cao hiệu quả hoạt động
các Ban của HĐND xã, yêu cầu đặt ra phải có văn bản quy phạm pháp luật
điều chỉnh về hoạt động của các Ban của HĐND xã, tạo cơ sở pháp lý để các
Ban của HĐND xã hoạt động có chất lượng, hiệu quả nhiệm vụ quyền hạn
của mình; quy định cụ thể về trách nhiệm, nhiệm vụ từng thành viên của các
55
Ban, quy định về thời gian hoạt động của các thành viên của các Ban vì các
thành viên này hoạt động kiêm nhiệm.
1.4.3.5. Các điều kiện vật chất đảm bảo cho hoạt động của HĐND xã
Đảm bảo điều kiện vật chất cho hoạt động của HĐND xã là một trong
những điều kiện góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của
HĐND xã. Để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định
của pháp luật, HĐND xã cần phải có phòng làm việc riêng, bố trí sắp xếp hợp
lý nơi làm việc và nơi tiếp cử tri, bố trí không gian hợp lý để cử tri có điều
kiện trực tiếp bày tỏ tâm tư, nguyện vọng của mình đối với HĐND. Bên cạnh
đó, cần phải đầu tư nhiều hơn nữa các trang thiết bị cần thiết phục vụ cho hoạt
động của HĐND xã. Đối với đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách phải
đảm bảo phương tiện thông tin liên lạc, tài liệu, phòng làm việc hợp lý, tương
xứng với trách nhiệm của đại biểu. Đối với các chức danh kiêm nhiệm của
HĐND nên có chế độ thỏa đáng để động viên, khuyến khích họ nâng cao tinh
thần trách nhiệm của mình.
Tăng cường đầu tư chi phí theo yêu cầu của từng nội dung hoạt động.
Nếu có đầu tư thỏa đáng sẽ góp phần tích cực nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động của HĐND xã. Tuy nhiên đầu tư chi phí cho hoạt động của HĐND
xã phải tối ưu, đảm bảo đủ mức cần thiết và triệt để tiết kiệm, chống lãng phí.
Theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015,
các điều kiện bảo đảm về cơ sở vật chất, kinh phí cho hoạt động của HĐND
được quan tâm hơn. Điều 103 quy định đại biểu HĐND hoạt động chuyên
trách được bố trí nơi làm việc, được trả lương, phụ cấp và hưởng các chế độ
hỗ trợ cho hoạt động của đại biểu HĐND; đại biểu HĐND được cấp phí hoạt
động hằng tháng và được hỗ trợ các điều kiện cần thiết khác cho hoạt động
của đại biểu. Điều 103 cũng quy định Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quy định cụ thể chế độ, chính sách và điều kiện bảo đảm cho hoạt
56
động của đại biểu HĐND. Về trụ sở làm việc, kinh phí hoạt động của HĐND
được quy định tại Điều 126 của Luật Tổ chức chính quyền địa phương.
Hoạt động của HĐND có tính đặc thù, các khoản chi phục vụ tập trung
vào một số nội dung chủ yếu, như: Phục vụ các kỳ họp; phụ cấp phí hoạt động
hằng tháng cho đại biểu; hỗ trợ công tác tổ chức và phục vụ hoạt động tiếp
xúc cử tri; kinh phí cho công tác tiếp dân, xử lý đơn thư kiến nghị, khiếu nại,
tố cáo của công dân; kinh phí và xăng xe phục vụ hoạt động giám sát của
Thường trực, các Ban HĐND và một số hoạt động liên quan khác. Nội dung
chi, định mức chi của HĐND mỗi nơi còn có điểm khác nhau, phụ thuộc
nhiều vào khả năng bố trí ngân sách của mỗi địa phương. Nhìn chung, kinh
phí cho hoạt động của HĐND còn khó khăn, đặc biệt là các địa phương có
nguồn thu thấp.
Như vậy, để nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND xã đòi hỏi phải
đầu tư, chi phí thỏa đáng cho hoạt động này. Đảm bảo các điều kiện cần thiết,
chế độ chính sách hợp lý là một trong những yếu tố quan trọng đem lại chất
lượng, hiệu quả cho hoạt động của HĐND xã.
57
Kết luận chương 1
HĐND xã là cơ quan quyền lực nhà nước ở xã, đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân
dân trong xã và cơ quan nhà nước cấp trên; HĐND xã thực hiện hai chức
năng cơ bản là quyết định và giám sát. Trong xu hướng hiện nay, Nhà nước ta
đang thực hiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; mở
cửa và hội nhập quốc tế sâu rộng. Do đó, vấn đề nâng cao chất lượng, hiệu
quả hoạt động của bộ máy nhà nước là rất cần thiết. Vì vậy, việc nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND cấp xã nói chung và HĐND xã nói
riêng là tất yếu khách quan; để hoạt động của HĐND xã đạt chất lượng, hiệu
quả đòi hỏi phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện và thực hiện tốt tất cả các nội
dung trên.
58
Chương 2:
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA HĐND XÃ
Ở HUYỆN TÂY HÒA, TỈNH PHÚ YÊN
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội của
huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên
2.1.1. Về điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lý: Tây Hòa là một huyện thuộc tỉnh Phú Yên, được thành lập
theo Nghị định số 62/2005/NĐ-CP ngày 16/5/2005 của Chính Phủ và chính
thức đi vào hoạt động ngày 01/7/2005; nằm phía Tây Nam của tỉnh Phú Yên; có tọa độ: 12045’07” đến 12045’15” Vĩ độ Bắc, 109015’13” đến 109015’29”
Kinh độ Đông. Phía Bắc giáp huyện Phú Hòa và Sơn Hòa; phía Đông giáp
huyện Đông Hòa; phía Tây giáp huyện Sông Hinh; phía Nam giáp huyện Vạn
Ninh (tỉnh Khánh Hoà)[48].
Về địa hình: Huyện Tây Hòa nằm ở sườn Đông của dãy Trường Sơn,
nơi tiếp giáp giữa đồng bằng và miền núi với nhiều dãy núi cao và đồi núi
thấp. Tây Hòa có hai dạng địa hình: Vùng đồi núi nằm về phía Nam, trải dài
từ Tây sang Đông, chiếm trên 50% diện tích tự nhiên, độ cao trung bình 500 –
600m so với mặt nước biển, các núi có độ cao lớn tập trung ở xã Hòa Mỹ
Tây: Hòn Giù (1.470 m), Hòn Chúa (1.310 m), Hòn Kỳ Đà (1.193 m), Hòn
Ông (1.110 m), Hòn Chảo (742 m); địa hình phức tạp, độ đốc lớn và chia cắt
mạnh; có một số hang động tự nhiên có giá trị về lĩnh vực quân sự quốc
phòng. Vùng đồng bằng nằm về phía Bắc, trải dài từ Tây sang Đông, chiếm
gần 50% diện tích tự nhiên. Phía Tây là vùng đất đỏ Bazan có độ cao trung
bình từ 30 - 40m, phù hợp cho phát triển cây công nghiệp ngắn và dài ngày.
Phía Đông là vùng đất phù sa, đây là vùng đồng bằng, trồng lúa lớn của tỉnh,
sản lượng lúa bình quân hằng năm chiếm gần 1/3 tổng sản lượng lúa toàn tỉnh
(trên 99.000/320.000 tấn), ngoài bảo đảm an ninh lương thực tại chỗ còn cung
59
cấp cho các vùng khác; đồng thời dọc theo các bờ sông, tương lai sẽ là vành
đai rau xanh của tỉnh, với sự bồi lắng phù sa của sông Ba (Đà Rằng) và sông
Bánh Lái (Bàn Thạch)[48].
Đơn vị hành chính: Huyện Tây Hòa có 10 xã và thị trấn Phú Thứ, trong
đó có 06 xã đồng bằng là Hòa Bình 1, Hòa Phong, Hòa Phú, Hòa Mỹ Đông,
Hòa Đồng, Hòa Tân Tây; 04 xã miền núi là Hòa Thịnh, Hòa Mỹ Tây, Sơn
Thành Đông và Sơn Thành Tây. Trung tâm của huyện nằm trên địa bàn thị
trấn Phú Thứ, là trung tâm hành chính, chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội,
quốc phòng - an ninh của huyện.
Diện tích tự nhiên là 62.375,16ha, trong đó: Đất sản xuất nông nghiệp
16.241,50ha, chiếm 26,04%; đất lâm nghiệp 37.409,20ha, chiếm 59,97%; đất
chuyên dung 3.297,02ha, chiếm 5,29%, đất ở 711,89ha, chiếm 1,14%[1].
Về dân số: Dân số trung bình 119.247 người, trong đó: Nam 59.723
người, nữ 59.524 người. Dân số trung bình thành thị phân theo xã/thị trấn
thuộc huyện 13.715 người, dân số trung bình nông thôn phân theo xã/thị trấn thuộc huyện 105.532 người. Mật độ dân số trung bình 191 người/km2[1].
Đồng bào dân tộc thiểu số có 581 người, gồm 11 dân tộc: Ê Đê, Tày, Nùng,
Ba Na, Chăm, Chăm H'roi, Thái, Hoa, Prai, Mường, Tà Ôi (chủ yếu sống tập
trung ở 02 thôn: Lạc Đạo, Đá Mài thuộc xã Sơn Thành Tây).
Nhìn chung, đất đai của huyện Tây Hòa chiếm phần lớn là đất nông
nghiệp và đất lâm nghiệp. Thế mạnh của huyện là trồng cây lương thực,
lúa nước, nuôi trồng thuỷ sản (trên diện tích chuyên nuôi và diện tích xen
canh một lúa, một cá). Ngoài ra, đất đai của huyện còn tạo thuận lợi cho
phát triển các loại cây công nghiệp dài ngày như hồ tiêu, cây ăn trái. Định
hướng đến năm 2020 huyện Tây Hòa vẫn là huyện nông nghiệp, diện tích
đất sử dụng cho nông nghiệp chiếm 79,56% so với tổng diện tích tự nhiên
của huyện.
60
2.1.2. Về kinh tế - xã hội, quốc phòng – an ninh
Về kinh tế: Là huyện mới được thành lập năm 2005, với sự nổ lực phấn
đấu vượt qua khó khăn của cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, kết cấu hạ
tầng của huyện từng bước được đầu tư xây dựng, nâng cấp hoàn thiện, tình
hình kinh tế - xã hội của địa phương ngày càng phát triển, đời sống nhân dân
từng bước được nâng lên.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2011-2015 (theo giá cố
định 1994) đạt 12,54%/năm [32, tr.5]. Năm 2016, tốc độ tăng giá trị sản xuất
đạt 7,58%; thu nhập bình quân đầu người (theo giá hiện hành) đạt 27,37 triệu
đồng. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng, ngành Nông nghiệp
chiếm tỷ trọng 32,04%, Công nghiệp – Xây dựng chiếm 34,73%, Dịch vụ
chiếm 33,23%. Thu ngân sách nhà nước năm 2016 đạt 102,891 tỷ đồng, tăng
53,51% so năm 2015[33].
Sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp duy trì được sự tăng trưởng ổn định.
Tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, giống mới, cơ giới hoá
vào sản xuất, giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích canh tác được nâng lên.
Công nghiệp - xây dựng có bước phát triển khá, giá trị sản xuất năm 2016 (giá so
sánh năm 2010) đạt 1.478 tỷ đồng. Các cơ sở sản xuất Công nghiệp - TTCN phát
triển về số lượng, hoạt động ổn định và hiệu quả. Vốn đầu tư phát triển toàn xã
hội trong 5 năm (2011-2015) đạt 3.881 tỷ đồng [32, tr.7]; năm 2016 đạt 1.390 tỷ
đồng [33]. Dịch vụ phát triển khá nhanh, chất lượng được nâng lên đáp ứng tốt
hơn cho sản xuất và đời sống nhân dân; giá trị sản xuất năm 2016 (theo giá so
sánh năm 2010) đạt 1.592,906 tỷ đồng [36]. Các thành phần kinh tế trên địa bàn
huyện phát triển theo đúng quy định của pháp luật. Kinh tế hợp tác xã được củng
cố, đổi mới, từng bước hoạt động hiệu quả theo Luật Hợp tác xã năm 2012. Kinh
tế tư nhân, kinh tế hộ gia đình phát triển nhanh. Toàn huyện có: 102 doanh
nghiệp đang hoạt động; 2.072 hộ kinh doanh cá thể.
61
Huyện đã triển khai thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu Quốc
gia về xây dựng nông thôn mới. Các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương đã
tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, đạt kết quả quan trọng, nổi bật là việc bê
tông hóa đường giao thông nông thôn được nhân dân đồng tình hưởng ứng, trở
thành phong trào lớn của huyện, kết quả đã bê tông hóa được 382,794km, đặc
biệt thực hiện Nghị quyết số: 75/2013/NQ-HĐND ngày 29/3/2013 của HĐND
tỉnh Phú Yên về đề án bê tông hóa đường giao thông nông thôn tỉnh Phú Yên
giai đoạn 2013-2015, trong 03 năm (2013, 2014 và 2015) đã làm được
361,632km; bình quân mỗi xã, thị trấn đạt hơn 34,8km, tăng gấp 11,6 lần so chỉ
tiêu nghị quyết. Đến cuối năm 2016, bình quân mỗi xã đạt 18,5 tiêu chí, có 08 xã
được UBND tỉnh Phú Yên công nhận "Xã đạt chuẩn nông thôn mới"[33].
Về văn hóa – xã hội:
Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa được triển
khai sâu rộng nhận được sự ủng hộ tích cực của người dân, hàng năm có
khoảng 85% số hộ gia đình, 89% số thôn, khu phố và 100% cơ quan được
công nhận danh hiệu văn hóa.
Quy mô, chất lượng giáo dục đào tạo được nâng lên. Giữ vững huyện
đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục, xóa mù chữ. Cơ sở vật chất, thiết bị
trường học được đầu tư theo hướng chuẩn quốc gia. Đến năm 2015, toàn
huyện có 21 trường đạt chuẩn quốc gia. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục đều có trình độ chuyên môn đạt chuẩn và trên chuẩn. Phong trào
khuyến học, khuyến tài tiếp tục được đẩy mạnh, đạt kết quả thiết thực.
Việc ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản xuất
và đời sống được đẩy mạnh, nhất là trong nông nghiệp góp phần tăng năng
suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi, thúc đẩy phát triển sản xuất và phục vụ
thiết thực đời sống nhân dân. Các phần mềm ứng dụng phục vụ cho công tác
quản lý theo các chuyên ngành được áp dụng rộng rãi trong các cơ quan, đơn
62
vị; tỷ lệ gửi, nhận văn bản điện tử giữa các cơ quan, đơn vị thay thế văn bản
giấy đạt khoảng 40%. Quản lý khoa học, công nghệ có tiến bộ; đội ngũ cán bộ
khoa học kỹ thuật phát triển cả số lượng và chất lượng.
Tỷ lệ lao động được đào tạo nghề tăng từ 25,27% năm 2010 lên 40%
năm 2015, đạt 100% chỉ tiêu; trong 05 năm giải quyết việc làm mới cho
15.659 lao động, vượt 1,03% chỉ tiêu. Nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở
khu vực nông thôn lên 87% năm 2015. Công tác giảm nghèo, chăm sóc
thương binh, gia đình liệt sỹ, người có công; bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em được triển khai thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng quy định. Xây dựng 416
nhà ở cho hộ nghèo, với tổng số tiền hơn 7,5 tỷ đồng; tỷ lệ hộ nghèo năm
2015 ước giảm xuống còn 2,78%; công tác bình đẳng giới được triển khai
thực hiện có hiệu quả.
Công tác y tế, dân số - kế hoạch hoá gia đình có nhiều tiến bộ; y tế dự
phòng được đẩy mạnh, khống chế và ngăn chặn kịp thời các dịch bệnh. Năm
2015 có 11/11 xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế; 05/11 trạm y tế xã, thị
trấn có bác sỹ; tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt 60% so dân số; tỷ lệ
trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm xuống còn 12,8%, tỷ lệ tăng dân số tự
nhiên đạt 1,1%.
An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; phát hiện và chỉ
đạo giải quyết kịp thời, có hiệu quả các vụ, việc phức tạp về an ninh trật tự
trên địa bàn; công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và đảm bảo an toàn
giao thông có chuyển biến tốt. Phong trào toàn dân tham gia bảo vệ an ninh
Tổ quốc được đẩy mạnh, có hiệu quả. 100% số xã, thị trấn vững mạnh về an
ninh - quốc phòng, trong đó có 60% số xã, thị trấn vững mạnh toàn diện.
* Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn những hạn chế, khuyết
điểm đó là: Năng lực cạnh tranh của các thành phần kinh tế còn thấp, chuyển
đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp còn
63
chậm; việc triển khai thực hiện các mô hình trong vùng kinh tế chưa rõ nét,
chưa có sự đột phá, liên kết hỗ trợ giữa các vùng; công tác quản lý, bảo vệ
rừng chưa tốt; thu ngân sách thiếu bền vững; quản lý nhà nước về tài nguyên,
môi trường có lúc, có nơi chưa chặt chẽ; công tác giảm nghèo, đào tạo nghề
và giải quyết việc làm ở một số xã chưa bền vững; chất lượng công tác bảo
vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân còn thấp; hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước trên một số lĩnh vực chưa cao.
Như vậy, với những thuận lợi do điều kiện tự nhiên và những kết quả
đạt được trong phát triển kinh tế - xã hội đã động tích cực đến hoạt động của
các cấp chính quyền địa phương trên địa bàn huyện Tây Hòa. Tuy nhiên, kết
quả phát triển kinh tế - xã hội của huyện vẫn còn những hạn chế, khuyết điểm,
chưa tương xứng với thế mạnh của điều kiện tự nhiên, xã hội. Vấn đề đặt ra là
cần phải có những chủ trương, giải pháp phù hợp để kinh tế - xã hội trên địa
bàn huyện phát triển nhanh, bền vững, biến cơ hội thành hiện thực.
Thông qua những thuận lợi về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, quốc
phòng – an ninh đem lại, cũng như những hạn chế, khuyết điểm trong phát
triển kinh tế - xã hội chung của huyện đã có những tác động đối với hoạt động
của HĐND các xã trên địa bàn huyện. Nắm bắt các điều kiện trên giúp cho
HĐND xã có thể chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch hoạt động, nội
dung giám sát phù hợp, từ đó nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động để phát
triển kinh tế - xã hội của xã nhanh, bền vững, tương xứng với điều kiện của
từng xã. Vấn đề trên cũng đòi hỏi mỗi đại biểu HĐND xã phải không ngừng
nâng cao tinh thần trách nhiệm, năng lực, kỹ năng hoạt động, đề xuất những
nhiệm vụ, giải pháp phù hợp để phát triển kinh tế - xã hội của địa phương,
góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND xã.
2.2. Thực trạng về tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân xã ở
huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên
64
2.2.1. Thực trạng về cơ cấu, tổ chức của Hội đồng nhân dân xã ở huyện
Tây Hòa, tỉnh Phú Yên từ năm 2011 đến nay
Huyện Tây Hòa gồm có 10 xã, tổng số đại biểu HĐND xã được cử tri 10
xã bầu trong nhiệm kỳ 2011-2016 là 280 đại biểu, nhiệm kỳ 2016 – 2021 là 283
đại biểu, các đại biểu HĐND xã được bầu đều đảm bảo tiêu chuẩn của đại biểu
HĐND theo quy định của pháp luật. Cơ cấu từng nhiệm kỳ như sau:
Nhiệm kỳ 2011-2016: Tổng số đại biểu HĐND 10 xã trên địa bàn
huyện là 280 đại biểu, cơ cấu như sau: Đại biểu công tác tại cơ quan Đảng 24
đại biểu, tỷ lệ 8,57%; chính quyền 87 đại biểu, tỷ lệ 31,07%; MTTQ và các tổ
chức thành viên 42 đại biểu, tỷ lệ 15%; các thôn 87 đại biểu, tỷ lệ 31,07 %;
các thành phần khác (Y tế, Giáo dục, Hợp tác xã) 40 đại biểu, tỷ lệ 14,29%.
Đại biểu không phải là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam 26 đại biểu, tỷ lệ
9,29%; đại biểu nữ 47 đại biểu, tỷ lệ 16,79%; đại biểu tái cử 129 đại biểu, tỷ
lệ 46,07% (Cơ cấu, số lượng cụ thể từng xã theo phụ lục 2.1 kèm theo).
Nhiệm kỳ 2016 - 2021: Tổng số đại biểu HĐND 10 xã trên địa bàn
huyện 283 đại biểu, cơ cấu như sau: Đại biểu công tác tại cơ quan Đảng 27
đại biểu, tỷ lệ 9,54%; chính quyền 99 đại biểu, tỷ lệ 34,98%; MTTQ và các tổ
chức thành viên 46 đại biểu, tỷ lệ 16,26%; các thôn 81 đại biểu, tỷ lệ 28,62%;
các thành phần khác (Y tế, Giáo dục, Hợp tác xã) 30 đại biểu, tỷ lệ 10,60%.
Đại biểu không phải là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam 22 đại biểu, tỷ lệ
7,77%; đại biểu nữ 55 đại biểu, tỷ lệ 19,43%; đại biểu tái cử 145 đại biểu, tỷ
lệ 46,07% (Cơ cấu, số lượng cụ thể từng xã theo phụ lục 2.2 kèm theo).
Từ kết quả trên cho thấy: Cơ cấu đại biểu HĐND xã trên địa bàn huyện
tương đối hợp lý, chú trọng tỷ lệ đại biểu nữ, ngoài đảng, đại biểu đại diện
cho các lĩnh vực y tế, giáo dục, Hợp tác xã. Tuy nhiên số lượng đại biểu là
người ngoài Đảng chiếm tỉ lệ còn thấp, tỷ lệ chưa được 10% và có chiều
hướng giảm (nhiệm kỳ 2016 – 2021 số lượng đại biểu là người ngoài Đảng
65
chiếm tỷ lệ 7,77% thấp hơn so với nhiệm kỳ 2011 – 2016); đại biểu hoạt động
trong bộ máy chính quyền của xã còn chiếm tỷ lệ cao (nhiệm kỳ 2011-2016:
87 đại biểu, tỷ lệ 31,07%; nhiệm kỳ 2016-2021: 99 đại biểu, tỷ lệ 34,98%),
các đại biểu này chủ yếu thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, dành thời gian thực
hiện nhiệm vụ đại biểu HĐND còn ít, do đó sẽ hạn chế trong phát huy vị trí,
vai trò của người đại biểu đại diện cho nhân dân, thời gian để tiếp xúc, gặp gỡ
người dân để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng sẽ bị hạn chế; đồng thời các đại
biểu này có thể bị tác động, chi phối bởi cán bộ lãnh đạo của xã ảnh hưởng
đến hoạt động của đại biểu; mặt khác nhiều đại biểu là cán bộ, chuyên môn
trong bộ máy chính quyền xã, điều này ảnh hưởng đến tính đại diện và hiệu
quả hoạt động giám sát của HĐND xã.
Về độ tuổi của đại biểu HĐND xã trong hai nhiệm kỳ như sau: Nhiệm
kỳ 2011-2016: Tổng số đại biểu 280 đại biểu, trong đó: Đại biểu dưới 35 tuổi
66 đại biểu, chiếm 23,57%; đại biểu từ 35 đến 50 tuổi 173 đại biểu, chiếm tỷ
lệ 61,79%; đại biểu trên 50 tuổi 41 đại biểu, chiếm tỷ lệ 14,64%. Nhiệm kỳ
2016-2021: Tổng số đại biểu 283 đại biểu, trong đó: Đại biểu dưới 35 tuổi 74
đại biểu, chiếm 26,15%; đại biểu từ 35 đến 50 tuổi 142 đại biểu, chiếm tỷ lệ
50,18%; đại biểu trên 50 tuổi 67 đại biểu, chiếm tỷ lệ 23,67% (Số lượng cơ
cấu độ tuổi từng xã theo phụ lục 2.3 kèm theo).
Cơ cấu độ tuổi đại biểu HĐND xã trên địa bàn huyện Tây Hòa khá hợp
lý, đại biểu trẻ tuổi chiếm tỷ lệ cao (nhiệm kỳ 2011-2016, chiếm 23,57%,
nhiệm kỳ 2016-2021, chiếm 25,09%), nhiệm kỳ sau số lượng nhiều hơn
nhiệm kỳ trước. Việc tỷ lệ đại biểu trẻ tuổi tăng có ưu điểm là có trình độ,
nhạy bén trong công việc, tuy nhiên hạn chế là thiếu kinh nghiệm hoạt động
thực tiễn. Tỷ lệ đại biểu trong độ tuổi từ 35 – 50 tuổi chiếm trên 50%, đây là
những người trong độ chín, độ tuổi này đã trải qua hoạt động thực tiễn nên
cũng đã có kinh nghiệm trong công tác, trong tiếp xúc với nhân dân. Tỷ lệ đại
66
biểu trên 50 tuổi chiếm 14,64% (nhiệm kỳ 2011-2016) và chiếm 23,67%
(nhiệm kỳ 2016-2021), đây là những đại biểu đa phần là tái cử, có nhiều kinh
nghiệm trong hoạt động thực tiễn, những đại biểu này truyền đạt kinh nghiệm
cho các đại biểu trẻ trong việc thực hiện nhiệm vụ người đại biểu nhân dân,
tuy nhiên phần lớn số đại biểu này trình độ hạn chế, độ nhanh nhạy không
như trước, cập nhập thông tin chậm… Song với cơ cấu hợp lý giữa ba độ tuổi,
độ tuổi của đại biểu HĐND xã từ 35 trở lên tương đối cao, họ đã có bề dày
kinh nghiệm cuộc sống, góp phần quan trọng để thực hiện tốt nhiệm vụ của
người đại biểu nhân dân, qua đó nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của
HĐND xã.
Về trình độ học vấn và trình độ chuyên môn của đại biểu HĐND xã:
Nhiệm kỳ 2011-2016: Về trình độ học vấn: 76 đại biểu tốt nghiệp THCS, chiếm
27,14%; 204 đại biểu tốt nghiệp THPT, chiếm 72,86%. Trình độ chuyên môn:
Đại học 65 đại biểu, chiếm 23,21%; Cao đẳng, Trung cấp 88 đại biểu, chiếm
31,43%; chưa qua đào tạo chuyên môn 127 đại biểu, chiếm 45,36%. Trình độ lý
luận chính trị: Cao cấp 04 đại biểu, chiếm 1,43%; Trung cấp 129 đại biểu, chiếm
46,07%; Sơ cấp 48 đại biểu, chiếm 17,14%; chưa qua đào tạo 99 đại biểu, chiếm
35,36% (Cụ thể từng xã theo phụ lục 2.4 kèm theo).
Nhiệm kỳ 2016 – 2021: Về trình độ học vấn: có 38 đại biểu trình độ
THCS, chiếm 13,43%; 245 đại biểu tốt nghiệp THPT, chiếm 86,57%. Trình
độ chuyên môn: Sau đại học 02 đại biểu, chiếm 0,71%; Đại học 127 đại biểu,
chiếm 44,88%; Cao đẳng, Trung cấp 85 đại biểu, chiếm 30,04%; chưa qua
đào tạo chuyên môn 69 đại biểu, chiếm 24,37%. Trình độ lý luận chính trị:
Cao cấp 09 đại biểu, chiếm 3,18%; Trung cấp 155 đại biểu, chiếm 54,77%;
Sơ cấp 38 đại biểu, chiếm 13,43%; chưa qua đào tạo 81 đại biểu, chiếm
28,62% (Cụ thể từng xã theo phụ lục 2.5 kèm theo).
67
Qua kết quả bầu cử đại biểu HĐND xã ở huyện Tây Hòa trong hai
nhiệm kỳ (2011 - 2016 và 2016 - 2021) cho thấy chất lượng của đại biểu
HĐND xã ở huyện Tây Hòa ngày càng tăng, điều này tạo điều kiện thuận lợi
cho các đại biểu hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, góp phần nâng cao vị thế
của HĐND ở chính quyền địa phương. Bên cạnh đó, tỷ lệ đại biểu chưa qua
đào tạo vẫn còn chiếm tỷ lệ khá cao, vấn đề này có ảnh hưởng nhất định đến
chất lượng, hiệu quả hoạt động của đại biểu HĐND và HĐND xã. Vấn đề đặt
ra là cần phải có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, lý luận chính trị
cho số đại biểu này để đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ của người đại
biểu nhân dân.
Về tổ chức bộ máy của HĐND các xã: Căn cứ quy định của Luật Tổ
chức HĐND và UBND năm 2003 (nhiệm kỳ 2011-2016) và Luật Tổ chức
chính quyền địa phương năm 2015 (nhiệm kỳ 2016-2021), tại kỳ họp thứ
nhất, HĐND các xã trong huyện đã bầu đủ số lượng thành viên Thường trực
HĐND gồm Chủ tịch, một Phó Chủ tịch HĐND. Chủ tịch HĐND xã là Bí thư
Đảng ủy kiêm nhiệm, Phó Chủ tịch HĐND xã hoạt động chuyên trách. Việc
Bí thư Đảng ủy kiêm Chủ tịch HĐND xã đã góp phần tăng cường được sự
lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với hoạt động của HĐND.
Ngoài ra, theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015,
HĐND xã nhiệm kỳ 2016-2021 được thành lập Ban pháp chế và Ban kinh tế -
xã hội, hoạt động của các Ban của HĐND xã sẽ góp phần nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND xã, tuy nhiên thành viên các Ban của
HĐND xã là kiệm nhiệm nên trong quá trình hoạt động sẽ gặp những khó
khăn nhất định về thời gian, chịu sự tác động, chi phối trong hoạt động
chuyên môn, ảnh hưởng đến hoạt động giám sat và thẩm định.
68
Về trình độ chuyên môn và trình độ lý luận chính trị của Thường trực
HĐND xã ở huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên nhiệm kỳ 2011-2016 và nhiệm kỳ
2016- 2021:
Trình độ chuyên môn Lý luận chính trị
Nhiệm kỳ
Chức vụ Tổng số Đại học Cao cấp Trung cấp Sơ cấp Chƣa qua đào đào tạo Cao đẳng, Trung cấp
10 / Chủ tịch HĐND 2 (20%) 7 (70%) 1 (10%) 10 (100%)
2011-2016
/ 10 / 9 (90%) 1 (10%) 8 (80%) 2 (20%) Phó Chủ tịch HĐND
10 / / / Chủ tịch HĐND 10 (100%) 8 (80%) 2 (20%)
Phó Chủ 1 9 10 / / / 2016-2021 tịch 10 (90%) (10%) (100%)
HĐND Nguồn: Tổng hợp từ HĐND các xã ở huyện Tây Hòa
Qua số liệu trên cho thấy, trình độ chuyên môn và lý luận chính trị của
Thường trực HĐND xã được nâng lên, nhiệm kỳ sau cao hơn nhiệm kỳ trước,
cụ thể: nhiệm kỳ 2011-2016 có 02 người có trình độ chuyên môn là Đại học,
02 người chưa qua đào tạo, đến nhiệm kỳ 2016-2021 có 19 người có trình độ
chuyên môn đại học, 01 người trình độ trung cấp; về lý luận chính trị, nhiệm
kỳ 2011-2016 có 18 người có trình độ trung cấp, 02 người trình độ sơ cấp,
đến nhiệm kỳ 2016-2021 có 08 người trình độ cao cấp, 12 người trình độ
trung cấp. Với trình độ của Thường trực HĐND xã như vậy là điều kiện thuận
lợi để Thường trực HĐND xã thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn của mình,
góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Thường trực HĐND
xã trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND xã.
69
2.2.2. Thực trạng hoạt động của Hội đồng nhân dân xã ở huyện Tây Hòa,
tỉnh Phú Yên từ năm 2011 đến nay.
2.2.2.1. Kỳ họp của Hội đồng nhân dân xã
Xác định kỳ họp HĐND là hình thức hoạt động chủ yếu và quan trọng
của HĐND xã, trong thời gian qua HĐND xã ở huyện Tây Hòa đã tổ chức các
kỳ họp theo đúng quy định của Hiến pháp và pháp luật. Ngoài hai kỳ họp
thường lệ hàng năm, HĐND một số xã đã tổ chức các kỳ họp bất thường để
giải quyết những vấn đề quan trọng mang tính cấp thiết, bức xúc tại địa
phương. Trong nhiệm kỳ 2011-2016, HĐND các xã đã tổ chức 124 kỳ họp,
trong đó có 13 kỳ họp bất thường; nhiệm kỳ 2016-2021, HĐND các xã đã tổ
chức 30 kỳ họp. Các kỳ họp của HĐND xã được tổ chức theo đúng quy định
của pháp luật, chủ yếu là họp công khai, thời gian họp 01 ngày. Công tác
chuẩn bị, xây dựng nội dung, chương trình kỳ họp đúng quy trình quy định,
đảm bảo chất lượng, hiệu quả. Trước kỳ họp, Thường trực HĐND xã phối
hợp với UBND xã thống nhất dự kiến chương trình, nội dung, phân công
chuẩn bị các báo cáo và các điều kiện đảm bảo cho kỳ họp; phối hợp UBND
và Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam xã tổ chức cho đại biểu HĐND
xã tiếp xúc cử tri (trước đây theo Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003
và Quy chế hoạt động của HĐND ban hành kèm theo Nghị quyết số
753/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 02/4/2005 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
khóa XI, HĐND xã thành lập các Tổ đại biểu, Tổ đại biểu tiếp xúc cử tri theo
chỉ đạo của HĐND xã và sự phối hợp của Ủy ban MTTQ xã).
Các báo cáo trình ra kỳ họp HĐND xã được Thường trực HĐND,
UBND, MTTQ Việt Nam xã chuẩn bị chu đáo. Đại biểu tham gia kỳ họp phát
huy dân chủ thẳng thắn phát biểu ý kiến. Chủ tọa kỳ họp đã phát huy vai trò
trong định hướng nội dung cần thảo luận, làm rõ để thống nhất ra nghị quyết.
Việc chất vấn và trả lời chất vấn được tiến hành nghiêm túc tại kỳ họp đảm
70
bảo phát huy dân chủ; các ý kiến chất vấn được trả lời nghiêm túc, rõ ràng,
đáp ứng cơ bản yêu cầu người chất vấn. Các nghị quyết của HĐND xã cơ bản
đã đáp ứng được yêu cầu của địa phương, thể hiện được vai trò là cơ quan
quyền lực nhà nước ở địa phương.
Tuy nhiên, với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND xã theo
quy định của pháp luật là rất rộng, với nhiều lĩnh vực khác nhau nhưng thời
gian mỗi kỳ họp quá ngắn, chỉ trong một ngày nên dẫn đến một số vấn đề
chưa được bàn bạc thảo luận đầy đủ đã đưa ra nghị quyết thực hiện, dẫn đến
nghị quyết có thể không phù hợp với thực tiễn, khó thực hiện; mặt khác các
nghị quyết chỉ điều chỉnh một số lĩnh vực, còn nhiều lĩnh vực khác chưa được
đưa ra bàn bạc, thảo luận. Công tác xây dựng nghị quyết của HĐND ở một số
xã chưa được quan tâm đúng mức, chưa bảo đảm quy trình xây dựng và tính
dân chủ trong việc lấy ý kiến nhân dân về một số vấn đề quan trọng theo quy
định của pháp luật. Một số báo cáo trình ra kỳ họp chất lượng chưa cao. Các
đại biểu HĐND chưa quan tâm phát biểu thảo luận, tranh luận để xây dựng
nghị quyết.
2.2.2.2. Hoạt động của Thường trực HĐND xã
Thường trực HĐND xã do HĐND xã bầu ra theo nhiệm kỳ của HĐND,
gồm Chủ tịch và một Phó Chủ tịch. Thường trực HĐND xã giữ vai trò quan
trọng trong việc điều hòa, phối hợp, duy trì các hoạt động của HĐND. Trong
thời gian qua, Thường trực HĐND xã đã khẳng định được vị trí, vai trò của
mình: hoạt động thường xuyên, đảm bảo việc tổ chức các hoạt động của HĐND
giữa hai kỳ họp, đảm bảo sự giám sát thường xuyên của HĐND với UBND. Chủ
tịch HĐND xã đã phối hợp với UBND trong việc chuẩn bị các nội dung điều
kiện cho kỳ họp, thực hiện tốt nhiệm vụ chủ tọa, điều hành các kỳ họp, đảm bảo
để các kỳ họp của HĐND thực hiện đúng chương trình đề ra, phát huy tính dân
chủ trong mỗi kỳ họp. Thường trực HĐND đã làm tốt nhiệm vụ điều hoà, giữ
71
mối liên hệ với các đại biểu, báo cáo hoạt động của mình lên cấp huyện. Công
tác tiếp dân, đôn đốc việc giải quyết, trả lời đơn thư khiếu nại, tố cáo của công
dân đã được Thường trực HĐND quan tâm hơn.
Thường trực HĐND xã đã chủ động phối hợp với UBND, Ban Thường
trực Ủy ban MTTQ Việt Nam xã thống nhất về thời gian tổ chức kỳ họp,
chuẩn bị nội dung, chương trình và các điều kiện cho kỳ họp. Phân công
nhiệm vụ và giao cho các cơ quan có liên quan chuẩn bị các báo cáo, tờ trình,
dự thảo Nghị quyết gửi về Thường trực HĐND xã để thẩm định.
Trước và sau các kỳ họp HĐND xã, Thường trực HĐND xã đã phối
hợp với Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam xã tổ chức hội nghị với
Tổ trưởng các tổ đại biểu HĐND xã để triển khai kế hoạch tiếp xúc cử tri
chuẩn bị cho kỳ họp HĐND và báo cáo kết quả kỳ họp. Tuy nhiên, hiện nay
theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 thì xã
không thành lập Tổ đại biểu nên mối quan hệ giữa các đại biểu HĐND trên
một đơn vị bầu cử sẽ không thường xuyên và việc phân công đại biểu đại diện
để thông tin tình hình liên quan đến kỳ họp không thuận lợi, không có sự bàn
bạc giữa các đại biểu. Vấn đề đặt ra là cần có văn bản điều chỉnh hoạt động
của các đại biểu HĐND ở từng đơn vị bầu cử (địa bàn ứng cử).
Thường trực HĐND xã đã thực hiện tốt việc giữ mối liên hệ thường
xuyên với đại biểu HĐND, đôn đốc và theo dõi được việc thực hiện chính
sách đối với đại biểu HĐND; đồng thời thực hiện tốt các mối quan hệ với các
cơ quan hữu quan. Tuy nhiên, trên thực tế hoạt động của Thường trực HĐND
xã còn nhiều hạn chế: hoạt động của Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND xã chưa
tương xứng với vị trí pháp lý được quy định trong luật. Thường trực chủ yếu
làm nhiệm vụ triệu tập và chủ tọa các kỳ họp còn các nhiệm vụ khác hầu như
ít được thực hiện hoặc được thực hiện mang hình thức. Thường trực HĐND
chưa đáp ứng được những điều kiện cung cấp thông tin kịp thời cho đại biểu,
72
tiến hành kỳ họp chưa thực sự có hiệu quả. Trong các kỳ họp, tiếp xúc cử tri,
công tác tổ chức giới thiệu đại biểu, trình bày báo cáo đã chiếm quá nhiều
thời gian, thời gian còn lại không đủ để đại biểu phát biểu thảo luận, bên cạnh
đó ưu tiên cán bộ lãnh đạo phát biểu; trong các cuộc tiếp xúc cử tri muốn
phản ánh bày tỏ nguyện vọng cũng không còn thời gian. Một trong những
nguyên nhân dẫn đến những hạn chế là pháp luật quy định cho HĐND xã
nhiều nhiệm vụ, quyền hạn mà giữa hai kỳ họp thực tế hoạt động của HĐND
xã chỉ gồm Chủ tịch và một Phó Chủ tịch HĐND xã, trong đó Phó Chủ tịch
hoạt động chuyên trách còn Chủ tịch HĐND thường là Bí thư Đảng uỷ kiêm
nhiệm. Do đó, hiệu quả hoạt động của HĐND xã phụ thuộc nhiều vào tinh
thần trách nhiệm của Phó Chủ tịch HĐND chuyên trách.
2.2.2.3. Hoạt động các Ban của HĐND xã
Các Ban của HĐND xã được thành lập trong nhiệm kỳ 2016-2021 theo
quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, gồm có: Ban
pháp chế và Ban kinh tế - xã hội, thành viên các Ban này là đại biểu HĐND
xã hoạt động kiêm nhiệm. Vì mới thành lập và hoạt động trong thời gian
ngắn, chưa có kinh nghiệm trong hoạt động nên các Ban của HĐND xã thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình còn nhiều mặt hạn chế, bước đầu chỉ mới
tham gia vào việc chuẩn bị nội dung kỳ họp của HĐND xã liên quan đến lĩnh
vực phụ trách; thẩm tra dự thảo nghị quyết, báo cáo liên quan đến lĩnh vực
phụ trách theo phân công của Thường trực HĐND; giám sát hoạt động
của UBND xã trong các lĩnh vực phụ trách; giám sát văn bản quy phạm pháp
luật thuộc phạm vi phụ trách và báo cáo công tác cho HĐND xã Thường trực
HĐND xã.
Bên cạnh những việc làm được, các Ban của HĐND xã hoạt động còn
những mặt hạn chế như chưa thực hiện tốt hoạt động giám sát theo quy định
của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015; hoạt động
73
thẩm định, thẩm tra chất lượng chưa cao, HĐND huyện Tây Hòa xác định:
“Ban kinh tế - xã hội một số xã, thành viên của Ban không có chuyên môn
trong lĩnh vực công tác tài chính nên gặp nhiều khó khăn trong việc thẩm
định, thẩm tra hồ sơ dự toán, quyết toán ngân sách nhà nước”[6]; mặt khác
các thành viên hoạt động kiêm nhiệm nên thời gian dành cho hoạt động của
các Ban của HĐND xã còn ít, dẫn đến ảnh hưởng đến hoạt động chung của
Ban. Như vậy, trong thời gian đến để các Ban của HĐND xã thực hiện tốt
nhiệm vụ, quyền hạn của mình, đòi hỏi phải tập huấn, hướng dẫn chuyên môn
và kỹ năng cho thành viên các Ban của HĐND xã; từng thành viên các ban
này phải nâng cao tinh thần trách nhiệm thực hiện nhiệm được giao; đồng thời
cơ quan nhà nước cấp trên cần phải thể chế hóa cụ thể các quy định của Luật
Tổ chức chính quyền địa phương về lĩnh vực phụ trách, nhiệm vụ, quyền hạn
của các Ban của HĐND xã, cơ cấu, thành phần thành viên tham gia vào các
Ban của HĐND; đồng thời có những quy định về thời gian hoạt động nhằm
tạo điều kiện để các thành viên thực hiện tốt nhiệm vụ vì thành viên các Ban
này hoạt động kiêm nhiệm.
2.2.2.4. Hoạt động của đại biểu HĐND xã
Đại biểu HĐND xã là người đại diện cho nhân dân địa phương, do cử
tri địa phương bầu ra, là yếu tố cấu thành HĐND xã. Vị trí, vai trò của đại
biểu HĐND xã được quy định trong Hiến pháp và Luật Tổ chức chính quyền
địa phương năm 2015. Đại biểu HĐND xã là những người gần dân, sát dân
và thường xuyên tiếp xúc với dân, tạo nên sự gắn bó mật thiết của đại biểu
HĐND xã với cử tri, với nhân dân nơi cư trú. Với vai trò quan trọng như
vậy, trong những năm vừa qua đại biểu HĐND xã ở huyện Tây Hòa đã thực
hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, có nhiều đóng góp quan trọng trong
phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
74
Các đại biểu HĐND xã đã nghiêm túc tham dự đầy đủ các kỳ họp, chấp
hành tốt nội quy kỳ họp. Tại kỳ họp, đại biểu HĐND xã đã tham gia thảo
luận, đóng góp ý kiến về những vấn đề thuộc nội dung, chương trình của kỳ
họp, đồng thời thực hiện quyền chất vấn về những vấn đề được nhiều cử tri
quan tâm, đề nghị các ngành chức năng giải trình, làm rõ biện pháp xử lý.
Việc biểu quyết thông qua những vấn đề thuộc nội dung, chương trình kỳ họp
cũng được các đại biểu thực hiện một cách nghiêm túc, đúng quy định. Qua
đó tạo được không khí dân chủ, thẳng thắn, góp phần nâng cao chất lượng,
hiệu quả hoạt động của HĐND xã.
Đại biểu HĐND xã đã thực hiện tốt việc tiếp xúc cử tri theo quy định,
lắng nghe ý kiến tâm tư nguyện vọng của cử tri; đồng thời trao đổi với cử tri
địa phương về những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước, là hoạt động thông tin hai chiều. Qua tiếp xúc cử tri, những
kiến nghị của cử tri đã được các đại biểu phản ánh kịp thời tại kỳ họp. Sau
mỗi kỳ họp, các đại biểu đã báo cáo nghiêm túc nội dung, kết quả kỳ họp và
trả lời những yêu cầu, kiến nghị mà cử tri quan tâm. Nhìn chung, đại biểu
HĐND xã ở huyện Tây Hòa có nhiều cố gắng nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động tiếp xúc cử tri và giữ mối liên hệ với các tầng lớp nhân dân. Hoạt
động tiếp xúc cử tri được HĐND các xã thực hiện một cách nghiêm túc, đúng
luật. Hình thức tiếp xúc cử tri cũng được mở rộng. Ngoài việc tiếp xúc cử tri
trước và sau kỳ họp, một số đại biểu đã tiếp xúc cử tri nơi cư trú, nơi công tác.
Kỹ năng tiếp xúc cử tri được nâng lên, không khí tiếp xúc theo hướng đối
thoại nên khá thẳng thắn, cởi mở, đi vào những vấn đề cụ thể liên quan trực
tiếp đến đời sống kinh tế - xã hội ở địa phương.
Giữa hai kỳ họp, đại biểu HĐND xã đã thực hiện tốt nhiệm vụ được
giao, giữ vững phẩm chất, tư cách của người đại biểu nhân dân, gương mẫu
chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà nước. Mỗi đại biểu thực hiện nhiệm
75
vụ giám sát việc thực hiện Hiến pháp, pháp luật, Nghị quyết của HĐND xã
ngay tại nơi mình cư trú, cơ quan mình công tác. Thông qua hoạt động này
các đại biểu đã phát hiện những tồn tại, hạn chế của các cơ quan, tổ chức,
những khó khăn, vướng mắc, tâm tư nguyện vọng của cử tri, kịp thời kiến
nghị với cơ quan có thẩm quyền xem xét.
Bên cạnh đó, hoạt động của đại biểu HĐND xã vẫn còn nhiều hạn chế
như: Chất lượng hoạt động của các đại biểu mặc dù đã nâng lên nhưng chưa
đều. Một số đại biểu còn hạn chế về trình độ, năng lực, kỹ năng hoạt động nên
chưa thực hiện tốt vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu
HĐND; một số đại biểu chưa thường xuyên học tập, rèn luyện, nghiên cứu, tìm
hiểu Nghị quyết để nâng cao trình độ và phát huy vai trò của mình; một số đại
biểu chưa nắm vững các quy định của pháp luật, chưa nghiên cứu kỹ các tài
liệu liên quan đến kỳ họp nên còn hạn chế trong thảo luận và chất vấn tại các
kỳ họp HĐND xã. Nhiều đại biểu HĐND xã trong các kỳ họp chưa phát huy
được vị trí, vai trò của mình trong việc phát biểu thảo luận. Hoạt động tiếp xúc
cử tri chỉ tập trung trước và sau kỳ họp, quy trình và phương pháp tiếp xúc cử
tri chậm được đổi mớí, tỷ lệ cử tri tham dự các buổi tiếp xúc cử tri thấp, nhiều
cuộc tiếp xúc cử tri còn mang tính hình thức, chưa làm rõ hết các vấn đề bức
xúc của cử tri. Hoạt động tiếp dân, theo dõi việc giải quyết đơn thư khiếu nại,
tố cáo của công dân, giám sát việc thi hành pháp luật ở nơi cư trú, nơi công tác
chưa thường xuyên và hiệu quả chưa cao. Một số đại biểu chưa tận tâm, tận lực
với công việc, không đấu tranh, ngại va chạm. Một số đại biểu hoạt động kiêm
nhiệm nên thời gian làm nhiệm vụ người đại biểu nhân dân còn hạn chế, dẫn
đến chưa thực hiện tốt vai trò của người đại biểu HĐND.
Như vậy, hoạt động của đại biểu HĐND xã ở huyện Tây Hòa trong thời
gian qua đã đạt được những kết quả tích cực, góp phần quan trọng trong xây
dựng chính quyền địa phương vững mạnh. Bên cạnh đó, hoạt động của đại
76
biểu HĐND xã ở huyện vẫn còn nhiều hạn chế cần phải khắc phục trong thời
gian tới.
2.2.2.5. Hoạt động giám sát của HĐND xã
Giám sát là một chức năng quan trọng của HĐND nói chung và HĐND
xã nói riêng. Căn cứ quy định của pháp luật, trong những năm qua, HĐND
các xã ở huyện Tây Hòa đã quan tâm tổ chức thực hiện hoạt động giám sát,
góp phần thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND
xã – cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.
Giám sát tại kỳ họp: Giám sát tại kỳ họp là một nội dung quan trọng
trong hoạt động giám sát của HĐND xã. Tại kỳ họp, HĐND xã xem xét, thảo
luận các báo cáo trình bày tại kỳ họp. Sau khi nghe báo cáo và chủ tọa kỳ họp
gợi ý, các đại biểu tập trung thảo luận, góp ý về những vấn đề cùng quan tâm,
những vấn đề còn có ý kiến khác nhau, không khí phiên thảo luận ngày càng
sôi nổi, dân chủ, thẳng thắn, thiết thực hơn. Số đại biểu tham gia đóng góp ý
kiến, thảo luận, tranh luận ngày càng nhiều. Chất lượng thảo luận cũng được
nâng lên. Bước đầu khắc phục tình trạng qua loa, đại khái, hình thức.
Hoạt động xem xét báo cáo tại kỳ họp đã có nhiều đổi mới. Tuy nhiên,
hoạt động xem xét các báo cáo tại kỳ họp cũng còn có những hạn chế. Một số
đại biểu chưa phát huy hết vị trí, vai trò của mình, thảo luận qua loa, hình
thức, không nắm vững nội dung, không nghiên cứu trước tài liệu nên khi tham
gia thảo luận còn nhiều lúng túng; kỹ năng thảo luận, phương pháp thuyết
trình vấn đề chưa thực sự lôi cuốn, thuyết phục người nghe. Một số kỳ họp
thảo luận vẫn chưa sôi nổi, chưa tạo được không khí đối thoại giữa đại biểu và
các ban ngành chịu trách nhiệm trước những tồn tại, khuyết điểm để làm rõ
nguyên nhân, tìm giải pháp khắc phục.
77
Hoạt động chất vấn: Hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn là một
trong những nội dung quan trọng của kỳ họp HĐND. Đây là một hình thức
đối thoại trực tiếp vừa thể hiện quyền giám sát của các đại biểu tại kỳ họp,
vừa thể hiện tính dân chủ trực tiếp của các đại biểu. Đối tượng chất vấn: Chủ
tịch HĐND; Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND, các thành viên UBND và cán bộ
chuyên môn của UBND. Trong các kỳ họp vừa qua, HĐND các xã ở huyện
Tây Hòa đã coi trọng việc thực hiện chất vấn và giám sát trả lời chất vấn của
đại biểu HĐND. Các ý kiến chất vấn đều trên tinh thần xây dựng và phản ánh
đúng những vấn đề còn tồn tại của địa phương. Việc trả lời chất vấn của
UBND xã được chuẩn bị chu đáo, nghiêm túc bằng văn bản. Một số vấn đề
cần thời gian nghiên cứu được chủ tọa kỳ họp quyết định trả lời sau kỳ họp và
đã trả lời cho đại biểu theo đúng quy định.
Các đại biểu HĐND xã đã tham gia chất vấn sôi nổi, thẳng thắn, có tính
xây dựng, làm rõ được nguyên nhân, trách nhiệm và giải pháp khắc phục
những vướng mắc, làm rõ hơn những nhiệm vụ và giải pháp trong phát triển
kinh tế - xã hội ở địa phương. Thông qua hoạt động chất vấn và trả lời chất
vấn, vai trò của HĐND xã trong công tác giám sát hoạt động của các cơ quan
nhà nước tại địa phương được thể hiện rõ nét và ngày càng có tác dụng tích
cực, tác động nhất định đến tâm tư, tình cảm của nhân dân, củng cố lòng tin
của nhân dân vào Đảng, Nhà nước[13, tr.4].
Có thể khẳng định, hoạt động chất vấn của HĐND xã ở huyện Tây Hòa
trong nhiệm kỳ 2011-2016 đã có nhiều đổi mới, có chất lượng. Nội dung chất
vấn ngày càng rõ ràng, có trọng tâm, thể hiện được những vấn đề bức xúc của
cử tri. Tại kỳ họp việc tiến hành chất vấn và trả lời chất vấn cũng được thực
hiện khá đầy đủ, có tính khoa học. Một số xã đã truyền thanh trực tiếp kỳ họp
của HĐND xã cho nhân dân toàn xã theo dõi để có thể đóng góp kịp thời khi
phát hiện thấy những vấn đề của mình đưa ra chưa được kỳ họp HĐND giải
78
quyết. Điều này đã góp phần giúp cho HĐND xã có thể giải quyết kịp thời
những bức xúc của quần chúng nhân dân. Bên cạnh đó, hoạt động chất vấn vẫn
còn những hạn chế, có những nội dung chất vấn chưa thiết thực, chưa sát với
tình hình thực tế, chưa phản ánh được những bức xúc của cử tri. Có một số đại
biểu trong suốt cả nhiệm kỳ chưa một lần thực hiện quyền chất vấn của mình.
Một số đại biểu ít tham gia chất vấn, nhất là đại biểu hoạt động kiêm nhiệm.
Một số đại biểu còn hạn chế về kỹ năng chất vấn nên thiếu tự tin, không đủ
thông tin để đi sâu và đi đến tận cùng của sự việc. Trong các kỳ họp một số
đại biểu HĐND xã chưa phát huy tốt tinh thần trách nhiệm trong thảo luận,
chất vấn[18, tr. 3].
Hoạt động giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của
UBND xã: HĐND xã giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của
UBND cùng cấp là xem xét tính hợp hiến và hợp pháp của văn bản đó. Qua
báo cáo của HĐND các xã cho thấy hoạt động giám sát này của HĐND xã
hiện nay chưa được chú trọng, một số văn bản chưa được tổ chức lấy ý kiến
của các cơ quan, tổ chức có liên quan và nhân dân. Một trong những nguyên
nhân là do việc hiểu biết pháp luật của đại biểu HĐND xã còn hạn chế, chưa
đáp ứng được yêu cầu công việc.
Hoạt động giám sát thông qua hình thức bỏ phiếu tín nhiệm đối với
ngƣời giữ chức vụ do HĐND bầu: Các chức danh do HĐND xã bầu gồm có
Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND xã, Trưởng ban và thành viên các Ban của
HĐND xã (nhiệm kỳ 2016-2021); Chủ tịch, Phó Chủ tịch, thành viên UBND
xã. Đây là một công cụ rất hữu hiệu giúp tăng cường hiệu quả hoạt động giám
sát. Bỏ phiếu tín nhiệm vừa là công cụ, hình thức giám sát, vừa là hậu quả
pháp lý của hoạt động giám sát kết quả bỏ phiếu tín nhiệm có thể dẫn tới việc
miễn nhiệm, bãi nhiệm người không được tín nhiệm. Trong nhiệm kì 2011 -
2016, thực hiện Nghị quyết số 35/2012/NQ-QH13 ngày 21/11/2012 của Quốc
79
hội khóa XIII về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người
giữ chức vụ do Quốc hội, HĐND bầu hoặc phê chuẩn, HĐND các xã ở huyện
Tây Hòa đã tổ chức 2 lần (2013, 2015) lấy phiếu tín nhiệm những người giữ
chức vụ do HĐND xã bầu, tổng số người được lấy phiếu tín nhiệm là 60
người, 100% số người được lấy phiếu tín nhiệm đều đạt số phiếu tín nhiệm
cao trên 50%.
Hoạt động giám sát của Thƣờng trực HĐND:
Về xây dựng chương trình giám sát: Căn cứ quy định của pháp luật,
Thường trực HĐND các xã đã quan tâm xây dựng chương trình giám sát hàng
năm của HĐND xã trình kì họp cuối năm để HĐND xã thông qua bằng Nghị
quyết và có giá trị thực hiện trong năm sau. Tuy nhiên, một số HĐND xã chưa
xây dựng chương trình giám sát hàng năm trình HĐND thông qua bằng Nghị
quyết mà chỉ xây dựng chương trình giám sát thể hiện trong báo cáo hoạt
động của HĐND năm trước và nhiệm vụ năm sau. Thường trực HĐND tổ
chức thực hiện giám sát bằng cách thành lập các đoàn giám sát để thực hiện
giám sát, trong nhiệm kỳ 2011 – 2016, tổ chức 45 cuộc giám sát, một số đơn
vị thực hiện tương đối tốt như: HĐND xã Hòa Phong, HĐND xã Hòa Tân
Tây, HĐND xã Hòa Thịnh, HĐND xã Sơn Thành Đông. Nội dung giám sát
tập trung vào các lĩnh vực như: giám sát quản lý, sử dụng đất đai (điển hình là
HĐND xã Hòa Thịnh, HĐND xã Sơn Thành Đông); giám sát quản lý, sử
dụng tài chính, ngân sách (điển hình là HĐND xã Hòa Tân Tây, HĐND xã
Sơn Thành Đông); giám sát thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây
dựng nông thôn mới (điển hình là HĐND xã Hòa Đồng, HĐND xã Hòa
Phong, HĐND xã Hòa Tân Tây); giám sát điều tra, khảo sát hộ nghèo, hộ cận
nghèo (điển hình là HĐND xã Hòa Phong, HĐND xã Hòa Tân Tây); giám sát
việc xem xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân (HĐND xã Hòa
Đồng)… Qua giám sát đã góp phần giải quyết những vấn đề bức xúc của
80
nhân dân ngay tại cơ sở, nâng cao chất lượng phục vụ nhân dân của chính
quyền địa phương, đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động quản
lý, điều hành của UBND xã trong việc thực hiện chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, Nghị quyết của HĐND xã.
Thường trực HĐND xã thực hiện tốt việc tiếp công dân tại trụ sở theo định kỳ,
qua đó nghe và nắm bắt thông tin, diễn biến sự việc do nhân dân phản ánh,
kiến nghị và tham gia ý kiến trong việc giải quyết các kiến nghị đó; trong
nhiệm kỳ 2011-2016 đã giải quyết 79 khiếu nại, tố cáo của cử tri; các khiếu
nại, tố cáo, kiến nghị của cử tri được cơ quan chức năng có thẩm quyền xem
xét, giải quyết kịp thời.
Nhìn chung, hoạt động giám sát của Thường trực HĐND xã được quan
tâm thực hiện, tuy nhiên chưa được thường xuyên, số lượng các cuộc giám sát
quá ít, bình quân mỗi đơn vị trong nhiệm kỳ chỉ tổ chức 4 cuộc giám sát, nội
dung và phương pháp giám sát còn lúng túng, hiệu quả giám sát còn hạn chế.
Vì vậy, đổi mới và đề ra các giải pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động giám sát của Thường trực HĐND xã là vấn đề cần được quan tâm trong
việc đề ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của
HĐND xã ở huyện Tây Hòa.
2.2.3. Thực trạng mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân xã với Đảng ủy, Ủy
ban nhân dân, Ủy ban MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội của xã
2.2.3.1. Mối quan hệ giữa HĐND xã với Đảng ủy xã
Nhận thức được vai trò lãnh lãnh đạo của Đảng, trong mối quan hệ giữa
HĐND xã với Đảng ủy xã, HĐND xã luôn nắm vững, quán triệt nghiêm túc
và thể chế hóa kịp thời các Nghị quyết của Đảng ủy trong việc phát triển kinh
tế - xã hội, quốc phòng - an ninh của địa phương…; định kỳ báo cáo kết quả
hoạt động cho Đảng ủy, Thường trực HĐND xã tham dự đầy đủ các cuộc họp
81
của Đảng ủy, tiếp nhận những ý kiến chỉ đạo từ Đảng ủy, những vấn đề liên
quan đến hoạt động của HĐND và đại biểu HĐND xã.
Với vai trò lãnh đạo, Đảng ủy xã đã lãnh đạo tốt công tác nhân sự của
HĐND nhiệm kỳ 206-2021 gồm nhân sự Thường trực HĐND xã, các Ban của
HĐND xã và đại biểu HĐND xã. Đối với nhân sự Thường trực HĐND xã
trình cấp thẩm quyền xem xét, quyết định trước khi HĐND xã bầu. Trong
công tác chuẩn bị nhân sự cho việc bầu cử đại biểu HĐND xã, cấp ủy Đảng
lãnh đạo, chỉ đạo trong việc lựa chọn và giới thiệu các ứng cử viên để bầu vào
HĐND theo quy chế về công tác cán bộ của Đảng, sự lãnh đạo đều tuân thủ
theo đúng quy định của pháp luật.
Sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với HĐND xã ngoài thông qua các
chủ trương, Nghị quyết của Đảng ủy, còn thông qua công tác cán bộ, thông
qua đảng viên là đại biểu HĐND. Với tổ chức và cơ cấu hiện nay, Chủ tịch
HĐND các xã ở huyện Tây Hòa do đồng chí Bí thư Đảng ủy kiêm nhiệm, do
đó vai trò lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với HĐND xã được đảm bảo và phát
huy hiệu quả. Qua thực tế cho thấy, xã nào mà cấp ủy Đảng quan tâm lãnh
đạo, chỉ đạo đối với hoạt động của HĐND thì HĐND xã đó hoạt động có chất
lượng, hiệu quả, kinh tế - xã hội phát triển, đời sống nhân dân được nâng lên.
2.2.3.2. Mối quan hệ giữa HĐND xã với UBND xã
Trong mối quan hệ giữa HĐND xã với UBND xã, UBND xã là cơ quan
chấp hành của HĐND xã, hiệu quả hoạt động của HĐND xã một phần quan
trọng được đánh giá bằng kết quả hoạt động, điều hành của UBND xã. Với
địa vị pháp lý là cơ quan quyền lực nhà nước ở xã, HĐND các xã ở huyện
Tây Hòa đã thực hiện nghiêm túc, đúng quy định của pháp luật về việc bầu
Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các thành viên khác của UBND xã, kết quả bầu
Chủ tịch UBND, Phó Chủ tịch UBND xã được Chủ tịch UBND huyện thống
nhất phê chuẩn.
82
Trong hoạt động, HĐND và UBND xã có mỗi quan hệ chặt chẽ với
nhau. Trong công tác chuẩn bị, tổ chức kỳ họp và triển khai thực hiện Nghị
quyết của HĐND xã, Thường trực và các Ban của HĐND xã phối hợp chặt
chẽ với UBND xã, các bộ phận chuyên môn thuộc UBND xã trong việc chuẩn
bị nội dung, chương trình kỳ họp, dự thảo nghị quyết, báo cáo, đề án trình
HĐND xã, tổ chức họp liên tịch với Chủ tịch UBND xã để bàn bạc thống
nhất; phối hợp giải quyết những vấn đề phát sinh khi thực hiện nghị quyết của
HĐND xã về nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng – an ninh, ngân sách xã;
tổ chức triển khai thực hiện nghị quyết của HĐND xã trong thời gian giữa hai
kỳ họp. Đại diện Thường trực HĐND xã được mời dự các phiên họp của
UBND xã, đại diện UBND xã được mời dự các cuộc họp thường kỳ và các
cuộc họp khác của Thường trực HĐND xã khi xét thấy cần thiết; thành viên
UBND xã được mời tham dự các kỳ họp của HĐND xã, thực hiện tốt việc
thảo luận về những vấn đề có liên quan đến lĩnh vực phụ trách. Ngược lại,
UBND xã mời Thường trực HĐND xã tham dự các cuộc họp, hội nghị của
UBND xã.
UBND xã thực hiện tốt việc cung cấp các nội dung, tài liệu phục vụ cho
hoạt động giám sát của HĐND xã; dự thảo Nghị quyết của HĐND xã; tổ chức
và chỉ đạo việc thi hành Hiến pháp, pháp luật, các văn bản của cơ quan nhà
nước cấp trên và Nghị quyết của HĐND xã. UBND các xã thường xuyên báo
cáo và tranh thủ xin ý kiến của Thường trực HĐND xã để điều hành và giải
quyết những vấn đề cụ thể trong các Nghị quyết của HĐND xã đã đề ra.
Có thể nói rằng, trong nhiệm kỳ 2011- 2016 và năm đầu của nhiệm kỳ
2016-2021, HĐND và UBND các xã ở huyện Tây Hòa đã thực hiện tốt mối
quan hệ trong hoạt động của mình theo quy định của pháp luật, góp phần nâng
cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương.
83
2.2.3.3. Mối quan hệ giữa HĐND xã với MTTQ và các tổ chức chính trị - xã
hội của xã
Mối quan hệ giữa HĐND xã với Ủy ban MTTQ và các tổ chức chính trị
- xã hội của xã là mối quan hệ phối hợp. Theo quy định của pháp luật, HĐND
các xã ở huyện đã thực hiện tốt việc thông báo định kỳ mỗi năm hai lần vào
giữa năm và cuối năm bằng văn bản đến Ủy ban MTTQ xã và các tổ chức
thành viên về tình hình hoạt động của HĐND xã, kiến nghị Ủy ban MTTQ xã
những vấn đề cần thiết trong công tác củng cố, xây dựng chính quyền, xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã.
HĐND xã tạo điều kiện để Ủy ban MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội
động viên nhân dân tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, tổ
chức thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước, giám sát, phản biện xã
hội đối với hoạt động của chính quyền địa phương. Trong kỳ họp thường lệ
của HĐND, các cuộc giám sát của Thường trực HĐND xã đều có mời
Thường trực Ủy ban MTTQ xã tham dự; tại kỳ họp, Uỷ ban MTTQ xã hoạt
động của Ủy ban MTTQ xã trong việc tham gia xây dựng chính quyền và
những ý kiến kiến nghị đối với HĐND và đại biểu HĐND xã. Ủy ban MTTQ
các xã đã thực hiện tốt việc chủ trì tổ chức tốt các cuộc tiếp xúc cử tri của đại
biểu HĐND xã, tổng hợp đầy đủ các ý kiến, kiến nghị của cử tri gửi đến
Thường trực HĐND xã; phối hợp giải quyết các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo
và những vấn đề bức xúc mà cử tri quan tâm.
2.2.3.4. Thực hiện một số điều kiện đảm bảo cho hoạt động của HĐND xã
HĐND các xã trên địa bàn huyện Tây Hòa đã triển khai thực hiện đầy
đủ các chế độ theo quy định tại Nghị quyết số 73/2012/NQ-HĐND ngày
13/12/2012 của HĐND tỉnh Phú Yên về việc quy định một số chế độ chi tiêu
bảo đảm hoạt động của HĐND các cấp tỉnh Phú Yên. Theo đó, đại biểu
HĐND xã được hỗ trợ kinh phí mua báo 200.000/tháng, hỗ trợ may trang
84
phục 1.500.000đồng/đại biểu, phụ cấp trách nhiệm hằng tháng bằng 0,3 mức
lương cơ sở (các chế độ này được thực hiện đến tháng 5/2016). Hiện nay, các
chế độ đối với HĐND và đại biểu HĐND xã thực hiện theo Nghị quyết số
81/2016/NQ-HĐND ngày16/12/2016 của HĐND tỉnh Phú Yên sửa đổi, bổ
sung Nghị quyết số 73/2012/NQ-HĐND ngày 13/12/2012 của HĐND tỉnh
Phú Yên về việc quy định một số chế độ chỉ tiêu bảo đảm hoạt động của
HĐND các cấp tỉnh Phú Yên.
Kinh phí hoạt động của HĐND xã được phân bổ trên cơ sở dự toán
ngân sách địa phương hằng năm, tuy ngân sách địa phương còn khó khăn
nhưng kinh phí hoạt động cho HĐND xã được phân bổ hợp lý đảm bảo cho
hoạt động của HĐND xã. Ngoài ra, HĐND xã được bố trí phòng làm việc,
các trang thiết bị cần thiết phục vụ cho hoạt động của HĐND xã.
Bên cạnh đó, vẫn còn một số xã như: Sơn Thành Đông, Sơn Thành
Tây, Hòa Mỹ Tây, Hòa Phong, Hòa Phú chưa bố trí được phòng làm việc
riêng cho Phó Chủ tịch HĐND xã; việc cấp phát tài liệu trước cho đại biểu
HĐND xã có lúc còn chậm đã phần nào ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả
hoạt động của HĐND xã.
2.2.4. Đánh giá những ưu điểm, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
2.2.4.1. Ưu điểm và nguyên nhân
Ƣu điểm
Hoạt động của HĐND, Thường trực HĐND xã ở huyện Tây Hòa từ
2011 đến nay có nhiều đổi mới và tiến bộ rõ nét, phát huy được vai trò là cơ
quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và
quyền làm chủ của nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, HĐND xã
phối hợp với UBND, Ủy ban Mặt trận, các đoàn thể chính trị - xã hội của xã
đã đề ra những nhiệm vụ, giải pháp phù hợp, góp phần thúc đẩy phát triển
85
kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng – an ninh, trật tự an toàn xã hội, không
ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân trên địa bàn xã.
Nhìn chung, các kỳ họp HĐND xã ở huyện Tây Hòa được chuẩn bị chu
đáo, đúng luật và ngày càng có chất lượng. Thường trực HĐND xã đã chủ
động phối hợp với UBND và Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận xã để thống
nhất về chương trình, nội dung kỳ họp; lựa chọn những vấn đề trọng tâm ở địa
phương để đưa ra thảo luận, xem xét và quyết định tại kỳ họp. Dự kiến
chương trình, nội dung kỳ họp, tài liệu của các kỳ họp được gửi đến các đại
biểu HĐND xã đúng hạn. Việc điều hành kỳ họp của Thường trực HĐND đã
được cải tiến đáng kể, chú trọng định hướng những vấn đề còn nhiều ý kiến
khác nhau, chưa được sự thống nhất cao, những vấn đề mà cử tri và nhân dân
quan tâm để các đại biểu thảo luận. Do vậy, kỳ họp HĐND ở nhiều xã đã tạo
được không khí dân chủ, cởi mở, phát huy được trí tuệ tập thể khi thảo luận
và biểu quyết.
Việc xây dựng Nghị quyết HĐND xã được chú trọng, các Nghị quyết
được HĐND thông qua nhìn chung đạt sự thống nhất cao, có tính khả thi, đem
lại hiệu quả thiết thực, tạo chuyển biến tích cực ở địa phương, đáp ứng được
nguyện vọng chính đáng của nhân dân, góp phần ổn định chính trị, phát triển
kinh tế - xã hội, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần trong nhân
dân. Nghị quyết HĐND xã được thông tin, tuyên truyền, phổ biến sâu rộng,
đồng thời vận động nhân dân cùng tham gia thực hiện.
Hoạt động giám sát của HĐND xã được chú trọng, nội dung chương
trình giám sát thiết thực, tập trung chủ yếu vào những lĩnh vực nhạy cảm, có
nhiều khuyết điểm, những vấn đề bức xúc được cử tri quan tâm như: quản lý,
sử dụng đất đai; xây dựng nông thôn mới; quản lý, thu chi ngân sách; xóa đói
giảm nghèo; giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân… HĐND xã thực hiện
quyền giám sát thông qua việc xem xét các báo cáo trình HĐND tại các kỳ
86
họp và tổ chức các cuộc giám sát giữa hai kỳ họp. Các đại biểu đã phát huy
tinh thần trách nhiệm, trí tuệ để nghiên cứu, xem xét các báo cáo, đóng góp
nhiều ý kiến, giải pháp, kiến nghị thiết thực để UBND xã, các cơ quan, tổ
chức liên quan triển khai thực hiện có hiệu quả các văn bản của cơ quan Nhà
nước cấp trên và Nghị quyết của HĐND xã. Hoạt động chất vấn và trả lời
chất vấn từng bước được chú trọng. Chất lượng chất vấn và trả lời chất vấn
ngày càng được nâng lên và đi vào thực chất; không khí trong phiên họp chất
vấn cởi mở, thoải mái, có tính xây dựng, làm rõ được nguyên nhân, trách
nhiệm và giải pháp khắc phục. Tổ chức thực hiện nghiêm túc việc lấy phiếu
tín nhiệm đối với các chức danh do HĐND xã bầu. Thường trực HĐND xã đã
phát huy được vai trò điều hòa, phối hợp với UBND, Ủy ban MTTQ và các
đoàn thể chính trị - xã hội của xã trong hoạt động giữa hai kỳ họp.
Phối hợp với Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận xã tổ chức tốt các buổi
tiếp xúc cử tri của đại biểu HĐND xã. Chất lượng, hiệu quả hoạt động tiếp
xúc cử tri từng bước được nâng lên. Đại biểu HĐND ngày càng nhận thức
được tầm quan trọng của hoạt động này, tham dự đầy đủ các buổi tiếp xúc cử
tri, không khí tiếp xúc theo hướng đối thoại thẳng thắn, cởi mở, tập trung vào
những vấn đề cụ thể liên quan đến đời sống kinh tế - xã hội ở địa phương, qua
đó, đại biểu HĐND xã nắm bắt được ý kiến, nguyện vọng của cử tri và ngược
lại cử tri hiểu rõ hơn về hoạt động của HĐND và đại biểu HĐND xã.
Nguyên nhân của những ƣu điểm:
Đảng ủy các xã đã quan tâm lãnh đạo và tạo điều kiện thuận lợi để
HĐND xã phát huy vai trò của mình trong tổ chức thực hiện các nhiệm vụ,
quyền hạn theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Các văn bản quy phạm pháp luật ban hành đã kịp thời thể chế hóa
đường lối, quan điểm đổi mới của Đảng về chính quyền địa phương, về tổ
chức và hoạt động của HĐND, đại biểu HĐND đã tạo hành lang pháp lý
87
thuận lợi cho HĐND xã thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình. Luật
Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 quy định đã có sự phân biệt giữa nhiệm
vụ, quyền hạn của HĐND xã, thị trấn với HĐND phường; quy định cụ thể
hơn về hoạt động giám sát của HĐND nói chung và HĐND xã nói riêng, đây
là những cơ sở pháp lý quan trọng giúp cho HĐND xã ở huyện Tây Hòa thực
hiện chức năng pháp luật quy định. Hiện nay với việc ban hành Luật Tổ chức
chính quyền địa phương 2015, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và
HĐND, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND... đây là những
hành lang pháp lý để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND xã
nhiệm kỳ 2016-2021 và những nhiệm kỳ tiếp theo.
Cơ cấu đại biểu tương đối hợp lý, đảm bảo tính đại diện cho các thành
phần dân cư, cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể ở địa phương, tỷ lệ nữ,
ngoài Đảng; cơ cấu hợp lý giữa ba độ tuổi; trình độ chuyên môn, lý luận
chính trị của đại biểu HĐND được nâng lên. Đây là những điều kiện thuận lợi
góp phần quan trọng để thực hiện tốt nhiệm vụ của đại biểu, nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND xã trên địa bàn huyện.
HĐND các xã ở huyện Tây Hòa đã thực hiện tương đối tốt mối quan hệ
với cấp ủy Đảng, UBND xã, Ủy ban MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội
của xã trong tổ chức và hoạt động của mình, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ,
quyền hạn theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Các điều kiện đảm bảo của HĐND đã được quan tâm, phân bổ kinh phí
hoạt động hàng năm được nâng lên. Các xã thực hiện tốt các chế độ, chính
sách đối với đại biểu HĐND xã theo quy định của pháp luật; quan tâm trang
bị phương tiện làm việc phục vụ cho hoạt động của HĐND xã, như: Trang bị
phòng làm việc cho Thường trực HĐND xã, máy vi tính, điện thoại, văn
phòng phẩm...
88
2.2.4.2. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
Tồn tại, hạn chế:
Chất lượng kỳ họp HĐND các xã chưa thực sự đồng đều. Công tác
chuẩn bị và tổ chức kỳ họp có nơi chưa đúng thời hạn theo quy định của pháp
luật, trong nhiệm kỳ 2011-2016, có kỳ họp HĐND xã gửi các tài liệu đến đại
biểu để nghiên cứu trước còn chậm, như HĐND các xã: Hòa Phong, Hòa Mỹ
Đông, Hòa Thịnh. Việc gửi tài liệu của kỳ họp cho đại biểu HĐND xã còn
chậm, chưa kịp thời nên đại biểu HĐND xã gặp khó khăn trong việc chuẩn bị
ý kiến phát biểu, ảnh hưởng nhất định đến chất lượng các quyết định của
HĐND xã [13, tr.9].
Thời gian tổ chức kỳ họp ngắn, chỉ trong 01 ngày nhưng nội dung
chương trình nhiều, công tác tổ chức và trình bày các báo cáo trước kỳ họp
chiếm nhiều thời gian, thời gian dành cho thảo luận, chất vấn ít nên đã ảnh
hưởng đến chất lượng hoạt động của HĐND xã. Một số kỳ họp ban hành
nhiều Nghị quyết trong khi thời gian tổ chức kỳ họp ngắn, do đó việc xem xét
thảo luận các vấn đề liên quan đến nội dung ban hành sẽ không cụ thể, rõ ràng
dẫn đến khi ban hành Nghị quyết không phát huy được hiệu quả trên thực tế,
phải sửa đổi, bổ sung như HĐND xã Hòa Mỹ Đông. Đa số HĐND xã ở huyện
Tây Hòa chưa quan tâm tổ chức kỳ họp chuyên đề để xử lý những vấn đề nổi
cộm ở địa phương.
Hoạt động của Thường trực HĐND xã còn nhiều hạn chế, chưa tương
xứng với vị trí pháp lý được pháp luật quy định. Thường trực chủ yếu làm
nhiệm vụ triệu tập và chủ tọa các kỳ họp còn các nhiệm vụ khác hầu như ít
được thực hiện hoặc thực hiện mang tính hình thức. Việc điều hành kỳ họp
của Thường trực HĐND một số xã chưa thực sự phát huy dân chủ và trí tuệ
tập thể; việc định hướng nội dung thảo luận còn chung chung, chưa nêu vấn
đề cụ thể cử tri quan tâm để thảo luận, giải quyết. Thường trực HĐND chưa
89
thực hiện tốt việc tổ chức để đại biểu HĐND xã tiếp công dân, việc tiếp công
dân chủ yếu do Thường trực HĐND xã thực hiện, chưa sắp xếp lịch tiếp công
dân của đại biểu HĐND xã; chưa xây dựng các quy định, thủ tục về tiếp công
dân theo quy định của pháp luật và phù hợp thực tế địa phương.
Hoạt động giám sát của HĐND xã được quan tâm thực hiện nhưng
chưa thường xuyên, số lượng các cuộc giám sát còn ít, bình quân chỉ có 4
cuộc giám sát. Một số HĐND xã hoạt động giám sát chất lượng chưa cao như
HĐND các xã: Hòa Mỹ Đông, Hòa Tân Tây, Hòa Đồng, Hòa Thịnh, Hòa Mỹ
Tây. Hoạt động giám sát của HĐND xã ở huyện Tây Hòa chủ yếu thực hiện
tại kỳ họp thông qua việc xem xét các báo cáo tại kỳ họp thông qua thảo luận
của đại biểu HĐND xã tham dự kỳ họp và hoạt động chất vấn của đại biểu.
Song, số đại biểu đăng ký phát biểu trong phiên thảo luận và chất vấn chưa
nhiều, chất lượng các ý kiến thảo luận, chất vấn cũng chưa cao như: đại biểu
HĐND các xã: Hòa Bình 1, Hòa Phú, Hòa Thịnh, Sơn Thành Tây; nhiều kiến
nghị thông qua hoạt động giám sát chưa được các cơ quan có trách nhiệm
quan tâm giải quyết kịp thời; việc giám sát giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân, công tác hòa giải ở cơ sở còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu,
nguyện vọng chính đáng của nhân dân.
Số lượng chất vấn ở mỗi kỳ họp còn ít, chưa phản ánh hết những vấn
đề bức xúc ở địa phương. Cách nêu câu hỏi chất vấn của một số đại biểu
còn chung chung, không xác định rõ trọng tâm. Hoạt động chất vấn giữa
hai kỳ họp chưa được chú trọng. Tình trạng đại biểu nể nang, né tránh, ngại
va chạm trong hoạt động chất vấn vẫn còn phổ biến. Việc theo dõi, đôn đốc
trả lời chất vấn chưa được quan tâm đúng mức nên tỉ lệ trả lời ở một số địa
phương chưa cao.
Các Ban của HĐND xã hoạt động còn những mặt hạn chế, chưa thực
hiện tốt hoạt động giám sát theo quy định của Luật Hoạt động giám sát của
90
Quốc hội và HĐND năm 2015; hoạt động thẩm định, thẩm tra chất lượng
chưa cao; mặt khác các thành viên hoạt động kiêm nhiệm nên thời gian dành
cho hoạt động của các Ban của HĐND xã còn ít, dẫn đến ảnh hưởng đến hoạt
động chung của Ban. “Ban kinh tế - xã hội của HĐND một số xã, thành viên
không có chuyên môn trong lĩnh vực công tác tài chính nên gặp nhiều khó
khăn trong việc thẩm định, thẩm tra hồ sơ dự toán, quyết toán ngân sách nhà
nước”[6].
Hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu HĐND xã có nơi, có lúc còn
mang tính hình thức, chất lượng chưa cao như HĐND xã Hòa Thịnh; số lượng
cử tri tham gia tiếp xúc còn ít. Kỹ năng hoạt động tiếp xúc cử tri của một số
đại biểu còn yếu; việc phân loại ý kiến, kiến nghị cử tri chưa đúng lĩnh vực,
thẩm quyền; việc theo dõi đôn đốc giải quyết chưa sát sao và thường xuyên
nên tỉ lệ ý kiến, kiến nghị được giải quyết ở một số nơi còn thấp, không kịp
thời, vì vậy chưa thực sự đáp ứng được lòng mong đợi của nhân dân. Một số
đại biểu HĐND chưa làm tròn trách nhiệm của người đại biểu dân cử, chưa
dành thời gian cần thiết cho hoạt động của HĐND, chưa thường xuyên tiếp
công dân theo quy định. Một bộ phận đại biểu hoạt động kiêm nhiệm chưa
dành thời gian thích đáng cho việc nghiên cứu tài liệu, không tham gia hoặc ít
phát biểu ý kiến tại các buổi thảo luận, thậm chí có đại biểu chưa phát biểu
lần nào.
Công tác tham gia xây dựng và tuyên truyền, phổ biến pháp luật, chủ
trương của Đảng, Nhà nước, nghị quyết của HĐND thiếu chủ động; tuyên
truyền chưa thường xuyên, hình thức tuyên truyền chưa phong phú, đa dạng,
chưa đến được đông đảo nhân dân.
Chất lượng nghị quyết HĐND một số xã còn chưa cao, chưa đáp ứng
với tình hình thực tiễn.
91
Nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động của HĐND xã:
Để có cơ sở khoa học và thực tiễn đề xuất những phương hướng, giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật HĐND xã và nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động của HĐND xã ở huyện Tây Hòa, cần phải xác định đúng đắn
những nguyên nhân hạn chế hiệu quả hoạt động của nó. Có thể xác định rằng,
hoạt động của HĐND xã ở huyện Tây Hòa còn những hạn chế là do những
nguyên nhân cơ bản sau:
- Một số cấp ủy Đảng, cán bộ, đảng viên nhận thức chưa thực sự đầy đủ
về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND xã; công tác quy
hoạch cán bộ HĐND xã có nơi, có lúc chưa được quan tâm đúng mức, một số
đại biểu sau khi được bầu đã không thực sự nhiệt tình, tâm huyết với hoạt
động HĐND xã.
Một số đại biểu HĐND xã và nhân dân nhận thức về vai trò của người
đại biểu nhân dân còn hạn chế. Đại biểu khi được nhân dân tin tưởng giao
nhiệm vụ là người đại diện cho quyền lực của nhân dân vẫn chưa ý thức đúng
về trọng trách được nhân dân giao phó. Một số đại biểu mặc dù nhận thức
được tầm quan trọng của người đại biểu nhưng lại thờ ơ, thiếu tinh thần trách
nhiệm với nhân dân khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
- Các quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND xã
chưa cụ thể; pháp luật quy định cho HĐND xã nhiều nhiệm vụ, quyền hạn mà
giữa hai kỳ họp thực tế hoạt động của HĐND xã chỉ gồm Chủ tịch và một
Phó Chủ tịch HĐND xã, trong đó Phó Chủ tịch hoạt động chuyên trách còn
Chủ tịch HĐND thường là Bí thư Đảng uỷ kiêm nhiệm. Do đó, hiệu quả hoạt
động của HĐND xã phụ thuộc nhiều vào tinh thần trách nhiệm của Phó Chủ
tịch HĐND chuyên trách; HĐND xã quyết định các vấn đề quan trọng ở địa
phương với nhiều lĩnh vực khác nhau nhưng thời gian mỗi kỳ họp quá ngắn,
chỉ trong một ngày nên dẫn đến một số vấn đề chưa được bàn bạc thảo luận
92
đầy đủ đã đưa ra nghị quyết thực hiện sẽ dẫn đến nghị quyết có thể không phù
hợp với thực tiễn, khó thực hiện; mặt khác các nghị quyết chỉ điều chỉnh một
số lĩnh vực, còn nhiều lĩnh vực khác chưa được đưa ra bàn bạc, thảo luận.
- Tổ chức của HĐND xã chưa tương xứng với nhiệm vụ được giao, thể
hiện ở chỗ Thường trực HĐND xã chỉ gồm 2 thành viên là Chủ tịch và Phó
Chủ tịch HĐND, không có ủy viên thường trực. Trong đó, Phó chủ tịch
HĐND hoạt động chuyên trách, Chủ tịch HĐND xã hoạt động kiêm nhiệm
nên không có nhiều thời gian chỉ đạo, sâu sát tới mọi hoạt động thuộc nhiệm
vụ, quyền hạn của HĐND, do vậy hiệu quả hoạt động của HĐND xã chưa
cao. Nhiệm kỳ 2016-2021, HĐND xã được thành lập Ban pháp chế, Ban Kinh
tế - xã hội, tuy nhiên các ban này mới thành lập nên chưa có kinh nghiệm
trong hoạt động thực tiễn, thành viên của Ban hoạt động kiêm nhiệm nên thời
gian dành cho hoạt động của Ban còn hạn chế, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt
động của Ban của HĐND xã.
- Hoạt động giám sát của HĐND xã còn hạn chế. Năng lực giám sát của
Thường trực HĐND xã so với yêu cầu nhiệm vụ còn hạn chế, hoạt động giám
sát chuyên đề tuy đạt được những kết quả nhất định nhưng chưa đáp ứng so
với yêu cầu, thành viên đoàn giám sát đa số là đại biểu kiểm nhiệm, ít có thời
gian nghiên cứu những nội dung liên quan đến hoạt động giám sát nên chất
lượng tham gia góp ý kiến còn hạn chế[13, tr. 9]. Nhiệm kỳ 2011-2016, hoạt
động giám sát của HĐND chỉ được qui định trong một chương của Luật Tổ
chức HĐND và UBND năm 2003, Quy chế hoạt động của HĐND các cấp
năm 2005 chứ chưa có Luật giám sát của HĐND đã ảnh hưởng phần nào đến
hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND xã.
- Hoạt động tiếp công dân chưa được quan tâm đúng mức, Chủ tịch
HĐND xã chưa tổ chức cho đại biểu HĐND xã tiếp công dân.
93
- Một số đại biểu HĐND xã còn hạn chế về trình độ, năng lực, kỹ
năng hoạt động và tiếp xúc cử tri; chưa nắm bắt đầy đủ về pháp luật và
nhiệm vụ quyền hạn của người đại biểu, chưa phát huy được vai trò của
người đại biểu đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Một số đại
biểu trẻ tuổi chưa có kinh nghiệm trong hoạt động. Một số đại biểu trẻ ít
tham gia ý kiến thảo luận tại các kỳ họp và các cuộc hội nghị tổ chức ở
từng thôn, chưa phát huy tốt chức năng giám sát và vai trò đại diện cho cử
tri[13, tr.10]. Đại biểu HĐND xã đa số hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm,
rất bận rộn với công tác chuyên môn nên thời gian tập trung làm nhiệm vụ
đại biểu còn hạn chế[25, tr. 10].
- Chưa đổi mới phương thức tổ chức hoạt động tiếp xúc cử tri, tỷ lệ cử
tri tham gia các buổi tiếp xúc cử tri còn ít. Hiện nay thực hiện quy định của
Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, xã không thành lập Tổ đại
biểu nên mối quan hệ giữa các đại biểu HĐND trên một đơn vị bầu cử không
được thường xuyên và việc phân công đại biểu đại diện để thông tin tình hình
liên quan đến kỳ họp sẽ không thuận lợi, không có sự bàn bạc giữa các đại
biểu, có thể xảy ra tình trạng đùn đẩy trách nhiệm giữa các đại biểu trên đơn
vị bầu cử.
- Một số cơ quan, đơn vị ý thức chấp hành Nghị quyết của HĐND chưa
cao.
- Tỉ lệ đại biểu là cán bộ lãnh đạo của UBND, cấp ủy và đoàn thể trong
HĐND xã còn cao, đại biểu ngoài Đảng chiếm tỉ lệ thấp, do đó các đại biểu
vẫn còn tư tưởng nể nang, ngại va chạm, biết nhưng không dám nói hoặc nói
như thế nào để giữ hòa khí. Mối quan hệ giữa cơ cấu và chất lượng đại biểu ở
một số địa phương chưa được giải quyết hợp lý; năng lực, hiểu biết pháp luật
của một số đại biểu HĐND xã còn hạn chế, chưa phát huy được vai trò của
người đại biểu nhân dân.
94
- Các điều kiện vật chất đảm bảo hoạt động của HĐND xã còn hạn chế,
một số xã chưa bố trí được phòng làm việc cho Thường trực HĐND xã.
Thông tin phục vụ cho đại biểu còn quá ít dẫn đến việc nắm bắt tình hình kinh
tế - xã hội, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước còn hạn
chế; một số đại biểu chưa có điều kiện để tiếp nhận đầy đủ các thông tin cần
thiết phục vụ cho hoạt động của mình do thiếu những trang thiết bị cần thiết; các
kỳ họp HĐND, tài liệu báo cáo gửi cho các đại biểu có lúc còn chậm.
- Việc thực hiện các quy định về mối quan hệ giữa UBND xã, các cán
bộ chuyên môn của UBND với Thường trực HĐND cùng cấp của một số xã
chưa thật tốt; chưa tạo điều kiện cho Thường trực HĐND xã nắm bắt đầy đủ
thông tin về hoạt động của UBND và các cán bộ chuyên môn của UBND;
Thường trực HĐND xã chưa thường xuyên đôn đốc UBND cùng cấp để giải
quyết dứt điểm các ý kiến, kiến nghị của cử tri, điều đó đã ảnh hưởng đến
chất lượng hoạt động của HĐND xã.
- Một số dự thảo nghị quyết chưa tổ chức lấy ý kiến rộng rãi trong nhân
dân.
- Điều kiện kinh tế - xã hội của huyện còn thấp, đời sống của đại biểu
HĐND xã và người dân còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí còn thấp, không
đồng đều, ý thức người dân trong việc tham gia xây dựng chính quyền chưa
cao, ít tham gia hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu HĐND xã; môi trường
để đại biểu HĐND học tập, rèn luyện nâng cao trình độ còn nhiều hạn chế,
những ảnh hưởng tiêu cực của nền kinh tế thị trường đã tác động không nhỏ
đến chất lượng của người đại biểu.
95
Kết luận chương 2
Hoạt động của HĐND xã ở huyện Tây Hòa từ năm 2011 đến nay đã có
những đổi mới, đem lại những kết quả quan trọng trong hoạt động của HĐND
xã, góp phần nâng cao vị thế, vai trò của HĐND xã ở huyện Tây Hòa. Kỳ họp
HĐND đã có những cải tiến cả về công tác chuẩn bị, cách thức điều hành,
trình tự và thủ tục tiến hành nên chất lượng được nâng lên. Công tác giám sát
có những chuyển biến tích cực, đã kịp thời phát hiện các thiếu sót, bất cập,
vướng mắc. Việc quyết định các vấn đề quan trọng của địa phương ngày càng
thực chất hơn. Các hoạt động tiếp xúc cử tri, tiếp công dân đã góp phần gắn
kết mối quan hệ giữa cử tri và đại biểu, phản ánh được nhiều tâm tư, nguyện
vọng, ý kiến của cử tri tới HĐND và các cơ quan, tổ chức hữu quan. Kết quả
hoạt động của HĐND những năm qua đã góp phần tiếp tục khẳng định bản
chất của nhà nước, bản chất của chế độ chính trị nước ta. Việc phát huy vai
trò của cơ quan đại diện của nhân dân đã nói lên thiết chế dân chủ ngày càng
thể hiện sự tiến bộ, văn minh trong hệ thống chính trị ở nước ta. Dân chủ ngày
càng được mở rộng trong các tầng lớp nhân dân và trên các lĩnh vực của đời
sống xã hội, nhất là trong việc tạo điều kiện và môi trường nhằm phát huy sức
dân, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Bên cạnh những kết quả đã đạt
được, hoạt động của HĐND xã ở huyện Tây Hòa trong thời gian qua vẫn còn
không ít những hạn chế, yếu kém, ảnh hưởng không nhỏ đến tâm tư, nguyện
vọng, sự gửi gắm lòng tin của cử tri, của nhân dân địa phương. Vì vậy việc
đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của
HĐND xã ở huyện Tây Hòa là rất cần thiết.
96
Chương 3:
NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HĐND
XÃ VÀ NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG, HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA
HĐND XÃ Ở HUYỆN TÂY HÒA, TỈNH PHÚ YÊN
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về Hội đồng nhân dân xã và
nâng cao chất lƣợng, hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân xã ở
huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên
3.1.1. Xuất phát từ bản chất của Nhà nước ta và yêu cầu xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Bản chất Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Điều này đã được khẳng định trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung,
phát triển 2011). Khoản 1 Điều 2 Hiến pháp năm 2013 xác định: "Nhà nước
cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức"[39]. Quy định này đã phản ánh địa vị chính
trị - pháp lý của nhân dân Việt Nam là chủ thể của quyền lực trong Nhà nước
pháp quyền ở Việt Nam.
Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng
dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, HĐND và thông qua các cơ quan khác
của Nhà nước; các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn
trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng
nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống
tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền; Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam là đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính
97
đáng của Nhân dân. Những quy định nêu trên tạo cơ sở hiến định cho việc
tiếp tục thể chế hóa các luật có liên quan về quyền lực nhà nước thuộc về
Nhân dân. Để xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền ở nước ta thì phải
phát huy dân chủ, bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, bảo đảm
quyền làm chủ của nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông
qua Quốc hội và HĐND các cấp. HĐND xã là cơ quan gần dân, sát dân nhất,
đại diện cho ý chí, nguyện vọng nhân dân địa phương. Do đó muốn phát huy
dân chủ, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân thì phải đổi mới tổ chức và
hoạt động của HĐND xã, đảm bảo cho HĐND xã có thực chất và thực quyền.
Từ thực trạng hoạt động của HĐND xã trong thời gian qua với yêu cầu "tiếp
tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa" như Văn
kiện Đại hội X và Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã đề ra: "Tiếp tục đẩy
mạnh việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
bảo đảm Nhà nước ta thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do
Đảng lãnh đạo"[4, tr. 246]. Vì vậy, việc đề ra các giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật về HĐND xã và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của
HĐND xã ở huyện Tây Hòa là một yêu cầu cần thiết.
3.1.2. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương
HĐND nói chung và HĐND xã nói riêng ngay từ khi thành lập được
xác định là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, do nhân dân địa
phương bầu ra, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân
dân địa phương, thực hiện hai chức năng cơ bản là quyết định và giám sát.
Đại biểu HĐND là người được nhân dân địa phương bầu ra, là người đại diện
cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương, gương
mẫu chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước;
tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng,
pháp luật của Nhà nước.
98
Với vị trí, chức năng, nhiệm vụ quan trọng được quy định trong Hiến
pháp, song thực trạng hoạt động của HĐND nói chung và HĐND xã ở huyện
Tây Hòa nói riêng, của các đại biểu HĐND xã trong những năm qua vẫn còn
nhiều mặt hạn chế, chưa phát huy hết vị trí, vai trò, quyền hạn của mình trong
việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Nghị quyết HĐND một số xã ban hành
trong thời gian qua hiệu quả chưa cao. Hoạt động tiếp xúc cử tri một số đại
biểu còn mang tính hình thức. Hoạt động giám sát còn mang tính thụ động,
tình trạng nể nang trong giám sát, cơ chế cung cấp thông tin, chế tài thực hiện
các kết luận giám sát chưa nghiêm túc nên hiệu quả hoạt động chưa cao. Để
khắc phục những hạn chế nêu trên, một trong những nhiệm vụ quan trọng là
tìm các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND
xã huyện Tây Hòa, đảm bảo HĐND xã thực sự là cơ quan quyền lực nhà nước
ở địa phương để HĐND xã làm tốt chức năng theo quy định của pháp luật.
3.1.3. Xuất phát từ thực trạng hoạt động của Hội đồng nhân dân xã ở
huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên trong thời gian qua
Trong công cuộc đổi mới và hội nhập, trong điều kiện xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở
nước ta hiện nay, Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến vấn đề đổi mới tổ chức
và hoạt động của các cơ quan nhà nước, trong đó luôn quan tâm tới tổ chức và
hoạt động của HĐND, với mục đích làm cho HĐND thực hiện có chất lượng,
hiệu quả chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình theo quy định của Hiến
pháp và pháp luật.
Trong những năm gần đây có nhiều văn bản quy phạm pháp luật được
ban hành điều chỉnh về cơ cấu tổ chức và hoạt động của HĐND nói chung và
HĐND xã nói riêng, đã tạo cơ sở pháp lý để HĐND xã hoạt động có hiệu quả.
Đối với HĐND các xã ở huyện Tây Hòa, qua tổng kết hoạt động nhiệm
kỳ 2011-2016 và tổng kết hoạt động năm 2016 của HĐND xã nhiệm kỳ 2016-
99
2021, bên cạnh những thành tựu đạt được, hoạt động của HĐND xã vẫn còn
những mặt hạn chế, yếu kém như: Một số kỳ họp chất lượng chưa cao, hoạt
động giám sát của HĐND, chất vấn của đại biểu HĐND còn hạn chế, hoạt
động tiếp xúc cử tri chưa được đổi mới, việc giải quyết, trả lời các kiến nghị
của cử tri có việc chưa thỏa đáng…. Mặt khác, HĐND xã có thêm tổ chức
trực thuộc là các Ban của HĐND, đây là những tổ chức mới nên hoạt động sẽ
có những bỡ ngỡ, khó khăn nhất định…. Trước thực tế đó, HĐND xã ở huyện
Tây Hòa cần phải có những giải pháp phù hợp để bảo đảm thực hiện tốt chức
năng, nhiệm vụ và thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Xây dựng HĐND
có thực quyền để thực hiện đầy đủ vai trò là cơ quan đại diện của nhân dân,
cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động trên các mặt: kỳ họp, hoạt động của Thường trực HĐND, các Ban
của HĐND và hoạt động của đại biểu HĐND để đảm bảo quyền dân chủ,
quyền tham gia quản lý của nhân dân đối với nhà nước và xã hội.
Do đó, đề ra những giải pháp nằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động của HĐND xã ở huyện Tây Hòa là một việc làm cần thiết.
3.2. Những giải pháp nâng cao chất lƣợng, hiệu quả hoạt động của Hội
đồng nhân dân xã ở huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt
động của Hội đồng nhân dân xã
Hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của
HĐND nói chung và HĐND xã nói riêng là cơ sở pháp lý để nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND nói chung và HĐND xã ở huyện Tây
Hòa nói riêng. Trong thời gian đến yêu cầu phải hoàn thiện các quy định pháp
luật về tổ chức và hoạt động của HĐND xã, cụ thể như sau:
- Theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, HĐND xã
được thành lập Ban pháp chế và Ban Kinh tế - xã hội, đây là điểm mới so với
100
Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003. Vì mới thành lập lần đầu nên
trong hoạt động còn nhiều lúng túng, bỡ ngỡ, chưa có kinh nghiệm, mặt khác
các thành viên đều kiêm nhiệm nên việc dành thời gian cho hoạt động của
Ban sẽ hạn chế, trong khi đó chức năng, nhiệm vụ của Ban được pháp luật
quy định là rất nhiều. Vì vậy, cần phải có văn bản điều chỉnh tạo cơ chế phù
hợp để thành viên các Ban có điều kiện thực hiện nhiệm vụ; quy định rõ cơ
cấu, số lượng, tiêu chuẩn cụ thể đối với Trưởng ban, Phó Trưởng ban và các
thành viên các Ban của HĐND xã - đây là yếu tố góp phần nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động của các Ban của HĐND xã. Đồng thời có văn bản
quy định cụ thể về cơ cấu, số lượng, tiêu chuẩn đối với thành viên các Ban
của HĐND cấp xã nói chung và HĐND xã nói riêng.
- Chức năng, nhiệm vụ của HĐND xã được quy định trong Luật Tổ
chức chính quyền địa phương 2015 có một số nội dung còn chung chung và
trong phạm vi được phân quyền. Vì vậy cần sớm ban hành văn bản dưới luật
hướng dẫn thi hành Luật Tổ chức chính quyền địa phương về những nhiệm
vụ, quyền hạn được phân quyền.
- Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 quy định: “Đại biểu
HĐND hoạt động không chuyên trách phải dành ít nhất một phần ba thời gian
làm việc trong năm để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu
HĐND”[40]. Quy định này còn nêu chung, chưa quy định cụ thể khoản thời
gian nào, do đó, cần có văn bản dưới luật quy định cụ thể về thời gian để đại
biểu HĐND hoạt động không chuyên trách thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của đại biểu, qua đó phát huy vai trò, trách nhiệm của các đại biểu HĐND
hoạt động không chuyên trách.
- Về tiêu chuẩn của đại biểu HĐND xã, Luật và các văn bản dưới luật
còn quy định chung chung, chưa quy định cụ thể về trình độ học vấn, trình độ
chuyên môn (tiêu chuẩn quan trọng nhất liên quan đến chất lượng đại biểu).
101
Vì vậy, cơ quan có thẩm quyền cần phải quy định chi tiết hơn và nhấn mạnh
người được giới thiệu ứng cử đại biểu HĐND xã phải có trình độ học vấn và
trình độ chuyên môn cụ thể. Số đại biểu sau khi trúng cử phải được bồi dưỡng
kiến thức quản lý nhà nước trình độ từ trung cấp trở lên, được bồi dưỡng
những kiến thức về văn bản quy phạm pháp luật cơ bản, kỹ năng hoạt động
của đại biểu. Có như vậy, đại biểu HĐND mới thực hiện tốt được nhiệm vụ,
quyền hạn của đại biểu HĐND theo quy định của luật.
- Quy định các cơ chế để các vị đại biểu HĐND dành nhiều thời gian
hoạt động HĐND, khắc phục sự nể nang, né tránh ngại va chạm, ít tham gia ý
kiến, ít chất vấn tại kỳ họp của đại biểu HĐND; việc chất vấn của đại biểu và
việc trả lợi chất vấn của các cơ quan, tổ chức, người có trách nhiệm được chất
vấn.
- Ủy ban Thường vụ Quốc hội sớm sửa đổi, bổ sung quy chế hoạt động
của HĐND ban hành kèm theo Nghị quyết số 753/2005/NQ-UBTVQH11
ngày 02/4/2015 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI cho phù hợp với
Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, Luật Hoạt động giám sát
của Quốc hội và HĐND năm 2015 và một số quy định pháp luật có liên quan.
3.2.2. Những giải pháp cụ thể nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
của Hội đồng nhân dân xã ở huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên
3.2.2.1. Tiếp tục nâng cao nhận thức của cấp uỷ Đảng, cán bộ, đảng viên và
nhân dân về vị trí, vai trò của HĐND xã và yêu cầu cần thiết phải nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND xã
Thực tế trong thời gian qua, một số cấp ủy Đảng, cán bộ, đảng viên,
một bộ phận không nhỏ trong nhân dân, thậm chí cả một số đại biểu HĐND
xã chưa có nhận thức thật sự đúng đắn về vị trí, vai trò của HĐND và đại biểu
HĐND xã. Tỷ lệ nhân dân tham gia các cuộc tiếp xúc cử tri còn quá ít, chưa
phát huy được vai trò làm chủ của mình, do đó chưa nắm bắt được hết những
102
tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Vì vậy, cần phải có sự chuyển biến mạnh
mẽ trong nhận thức về vị trí, vai trò của HĐND và đại biểu HĐND trong cấp ủy
Đảng, cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân.
Trong thời gian đến, cấp ủy Đảng tăng cường quán triệt, tuyên truyền các chủ
trương, nghị quyết của Đảng về xây dựng chính quyền địa phương, đẩy mạnh tuyên
truyền sâu rộng Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm
2015 và các văn bản quy phạm pháp luật khác liên quan đến HĐND trong cán bộ,
đảng viên và nhân dân; bố trí cán bộ có đủ trình độ, năng lực tham gia HĐND,
nhất là Thường trực HĐND xã, các Ban của HĐND xã; tạo mọi điều kiện để
nâng cao dân trí, nâng cao nhận thức của người dân trong việc thực hiện
quyền làm chủ của mình. Cấp ủy, chính quyền địa phương đẩy mạnh tuyên
truyền giáo dục pháp luật để nhân dân thấy rõ quyền và nghĩa vụ của mình
trong tham gia quản lý nhà nước, trong bầu cử, lựa chọn những đại biểu xứng
đáng thay mặt mình trong cơ quan dân cử. Các đoàn thể quần chúng cũng
phải nhận thức đầy đủ về chức năng, thẩm quyền của HĐND để có sự phối
hợp chặt chẽ trong hoạt động nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp thực hiện các
nhiệm vụ chính trị của địa phương.
3.2.2.2. Tăng cường vai trò lãnh đạo của cấp ủy Đảng cùng cấp
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã
hội, là một nguyên tắc Hiến định trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước ta. Tăng cường vai trò lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với tổ chức và hoạt
động của HĐND là vấn đề có tính nguyên tắc, quyết định đến chất lượng,
hiệu quả hoạt động của HĐND. Thực tế cho thấy, ở đâu cấp ủy Đảng nhận
thức đúng vị trí, vai trò của HĐND và có phương thức lãnh đạo đúng đắn thì
ở đó chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND được nâng lên.
Vì vậy, để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND xã cần
tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng ủy đối với tổ chức và hoạt động
103
của HĐND xã. Trong quá trình đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động của HĐND xã cần phải đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện của Đảng ủy bằng
chủ trương, đường lối, Nghị quyết và lãnh đạo công tác bầu cử đại biểu HĐND.
Đảng ủy lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ việc bầu cử HĐND, xây dựng, kiện
toàn tổ chức HĐND; giới thiệu nhân sự để HĐND bầu vào các vị trí lãnh đạo
chủ chốt của HĐND và UBND xã. Một trong những yếu tố có ảnh hưởng đến
chất lượng và hiệu quả hoạt động của HĐND xã là chất lượng của đại biểu
HĐND, vì vậy cần định hướng giới thiệu những người ứng cử đại biểu
HĐND phải có trình độ, năng lực và kinh nghiệm…xứng đáng là người đại
biểu nhân dân, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân.
Đảng ủy lãnh đạo về chủ trương, định hướng lớn trong những quyết
định quan trọng của HĐND để HĐND thảo luận, quyết định; cho ý kiến về
những định hướng lớn trong quy hoạch tổng thể về phát triển kinh tế - xã hội,
về những chủ trương, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp lớn trong kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và hằng năm; cho ý kiến về chủ trương,
nhiệm vụ trọng yếu công tác quốc phòng quân sự địa phương, vấn đề an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn nhằm giữ vững ổn định chính trị,
phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
3.2.2.3. Nâng cao chất lượng các kỳ họp HĐND xã
Kỳ họp là hình thức hoạt động chủ yếu của HĐND xã, là nơi biểu hiện
trực tiếp và tập trung trí tuệ cử tri địa phương. Vì vậy, để nâng cao chất lượng,
hiệu quả hoạt động của HĐND xã thì việc nâng cao chất lượng kỳ họp có vai
trò rất quan trọng. Để nâng cao chất lượng kỳ họp cần quan tâm đổi mới, nâng
cao chất lượng các mặt công tác sau:
Chuẩn bị kỳ họp: Công tác chuẩn bị cho kỳ họp có ý nghĩa rất quan
trọng đến chất lượng kỳ họp. Trước ngày khai mạc kỳ họp, Thường trực
HĐND phải chuẩn bị chương trình, xác định nội dung kỳ họp. Căn cứ nghị
104
quyết HĐND về chương trình xây dựng nghị quyết hằng năm và tình hình
thực tiễn của từng xã, chỉ đạo của HĐND và UBND huyện, Đảng ủy xã,
Thường trực HĐND cần phối hợp chặt chẽ với UBND, Ban Thường trực Ủy
ban Mặt trận xã tổ chức Hội nghị liên tịch thống nhất những vấn đề cần đưa ra
bàn, quyết định tại mỗi kỳ họp HĐND, bàn bạc thống nhất nội dung, chương
trình kỳ họp; xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan trong công tác chuẩn bị
kỳ họp; quy định cụ thể thời gian hoàn thành các văn bản trình kỳ họp đảm
bảo đúng tiến độ và chất lượng. Việc thống nhất chọn trúng, chọn đúng những
nội dung kỳ họp giúp cho mỗi kỳ họp của HĐND xã vừa đáp ứng được những
yêu cầu về thực tiễn quản lý, điều hành của xã; do đó nhận được sự quan tâm
theo dõi của đông đảo cử tri và nhân dân trong xã.
Xây dựng chương trình kỳ họp phải khoa học, bố trí hợp lý thời gian
trình bày các báo cáo, tờ trình. Chương trình cần dành nhiều thời gian cho hoạt
động thảo luận, chất vấn và trả lời chất vấn. Nội dung các báo cáo phải chủ
động chuẩn bị kỹ lưỡng, có chất lượng. Chương trình và thời gian kỳ họp phải
được thông báo cho nhân dân biết để theo dõi, giám sát. Các báo cáo, tài kiệu
cần thiết phải được gửi sớm cho đại biểu HĐND để đại biểu có thời gian
nghiên cứu, khắc phục tình trạng gửi tài liệu chậm như hiện nay của một số xã.
Các Ban của HĐND phải chủ động tiến hành các hoạt động giám sát,
khảo sát về những nội dung sẽ trình kỳ họp. Qua giám sát, khảo sát đó giúp
cho các Ban có cái nhìn tổng quan và thực tế về từng nội dung trình kỳ họp,
làm căn cứ cho báo cáo thẩm tra của Ban, đồng thời lựa chọn những nội dung
để đưa ra thảo luận, chất vấn tại kỳ họp. Các Ban của HĐND xã phải nâng
cao chất lượng công tác thẩm tra. Quá trình thẩm tra nên tranh thủ ý kiến phản
biện của Ủy ban Mặt trận xã và các tổ chức thành viên. Báo cáo thẩm tra của
các Ban phải rõ quan điểm, đủ căn cứ để tham mưu, định hướng cho việc bàn,
quyết định của HĐND.
105
Trước khi khai mạc kỳ họp, Thường trực HĐND và UBND cần phải tổ
chức họp để rà soát lại toàn bộ công việc chuẩn bị cho kỳ họp, thông tin về
những vấn đề cần quan tâm qua thẩm tra của các ban, quyết định các nội dung
trình ra kỳ họp và bàn bạc hướng xử lý những vấn đề có thể phát sinh trong
thảo luận, chất vấn tại kỳ họp HĐND. Đây là việc làm làm tăng tính chủ động
trong kỳ họp, góp phần cho thành công của kỳ họp.
Nâng cao hiệu quả hoạt động tiếp xúc cử tri: Hoạt động tiếp xúc cử
tri phải được tổ chức thường xuyên với những hình thức phù hợp, tạo không
khí dân chủ, cởi mở, tôn trọng nhân dân. Nội dung tiếp xúc cử tri theo hướng
giảm thời gian đọc báo cáo mà chỉ cần nêu tóm tắt ý chính, những thông tin
cần thiết, những vấn về liên quan đến cử tri; tăng thời gian cho cử tri được
phát biểu ý kiến của mình. Đại biểu HĐND phải nắm bắt đầy đủ các thông tin
liên quan đến tình hình chính trị, kinh tế - xã hội của địa phương; có kỹ năng
trả lời và giải quyết các thắc mắc, bức xúc của cử tri; chuẩn bị chu đáo các nội
dung cần trình bày với cử tri; biết lắng nghe các ý kiến của cử tri, gửi mở các
vấn đề để cùng với cử tri thảo luận nhằm tìm ra giải pháp tốt nhất. Tại mỗi
cuộc tiếp xúc cử tri cần phải có sự tham gia của cán bộ chuyên môn của
UBND xã để có thể giải đáp ngay tại chỗ, kịp thời một số ý kiến, kiến nghị
của cử tri. Các kiến nghị của cử tri phải được tổng hợp đầy đủ, khách quan,
gửi đến Thường trực HĐND xã; phải trả lời đúng tiến độ và đăng tải công
khai để cử tri và nhân dân quan tâm theo dõi.
Theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, HĐND xã
không thành lập Tổ đại biểu. Vì vậy, Thường trực HĐND xã phải phân công
trách nhiệm cụ thể đại biểu HĐND xã trong các cuộc tiếp xúc cử tri tại đơn vị
bầu cử, qua đó phát huy vai trò, trách nhiệm của đại biểu, tránh tình trạng đùn
đẩy trách nhiệm lẫn nhau.
106
Ngoài ra, đại biểu HĐND xã phải phát huy vai trò của mình thường
xuyên tiếp xúc với nhân dân để lắng nghe, kịp thời giải thích cho nhân dân về
những vướng mắc trong việc thực hiện pháp luật của nhà nước và Nghị quyết
của HĐND xã, đồng thời nắm bắt những tâm tư, nguyện vọng của cử tri kịp
thời phản ánh đến các cơ quan có thẩm quyền để giải quyết, tạo niềm tin của
nhân dân đối với chính quyền địa phương, phát huy được quyền làm chủ của
nhân dân.
Tăng thêm thời gian cho kỳ họp, hiện nay thời gian mỗi kỳ họp HĐND
xã chỉ trong một ngày, trong khi đó chương trình kỳ họp có nhiều nội dung,
khó có thể bàn bạc kỹ để quyết định đúng đắn, thiết thực. Mặt khác, với thời
gian như vậy kỳ họp HĐND xã sẽ chỉ là một hình thức hợp pháp hóa các báo
cáo, tờ trình của UBND. Do đó tính dân chủ và hiệu quả của kỳ họp HĐND
sẽ không được đảm bảo. Tổ chức nhiều hơn các kỳ họp chuyên đề nhằm giải
quyết những vấn đề bức xúc ở địa phương.
Nâng cao chất lƣợng, hiệu quả công tác điều hành kỳ họp: Thường
trực HĐND xã phải xây dựng chương trình chi tiết, cụ thể. Quá trình điều
hành kỳ họp cần thực hiện triệt để nguyên tắc tập trung dân chủ, không né
tránh những vấn đề phức tạp khi có các ý kiến trái ngược nhau.
Chủ tọa phải nâng cao năng lực, trí tuệ, có khả năng dự kiến, dự báo
được những tình huống có thể xảy ra ngoài chương trình nghị sự để tránh bị
động, lúng túng; đồng thời phải có phương pháp, nghệ thuật điều hành đảm
bảo cho kỳ họp đạt đúng mục đích, yêu cầu đề ra.
Nâng cao chất lƣợng xem xét báo cáo, thảo luận tại kỳ họp: Tại kỳ
họp, cần tiếp tục giảm bớt thời gian đọc báo cáo tại hội trường, một số báo
cáo đại biểu HĐND xã nên tự nghiên cứu; dành nhiều thời gian tập trung cho
thảo luận, chất vấn và trả lời chất vấn. Chủ tọa kỳ họp cần gợi ý, định hướng
cho các đại biểu tập trung vào những vấn đề trọng tâm, vấn đề lớn, những vấn
107
đề được cử tri quan tâm để đại biểu thảo luận. Như vậy phát huy được trí tuệ
của tập thể, nắm bắt được những ý kiến chung nhất để đưa ra giải pháp mang
tính đột phá, phù hợp với thực tiễn.
Nâng cao chất lƣợng, hiệu quả chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ
họp: Đại biểu HĐND phải nâng cao hơn nữa năng lực, trách nhiệm trong hoạt
động chất vấn; không ngừng rèn luyện, bồi dưỡng kỹ năng chất vấn, lựa chọn
ngôn ngữ đối thoại trong chất vấn... Các đại biểu cần phải am hiểu pháp luật,
thực tiễn, nghiên cứu kỹ các văn bản liên quan đến phiên chất vấn như: báo
cáo kết quả giải quyết những vấn đề mà cử tri quan tâm; văn bản tiếp nhận,
giải trình và hứa sẽ giải quyết những vấn đề cử tri và các đại biểu kiến nghị
đến kỳ họp…Những câu hỏi chất vấn phải ngắn gọn, mạch lạc, rõ ràng, dễ
hiểu, phải sát thực, đúng địa chỉ; nội dung chất vấn phải là những vấn đề có
tính bức xúc, có tầm ảnh hưởng lớn, được đông đảo cử tri và đại biểu HĐND
xã quan tâm.
Trả lời chất vấn là vấn đề đặc biệt quan trọng, có tính quyết định đối
với hiệu quả và ý nghĩa của quyền chất vấn. Vì vậy, người trả lời chất vấn
phải đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật, trường hợp có lý do chính
đáng mới ủy quyền cho cấp phó trả lời thay và phải được HĐND đồng ý.
Người trả lời chất vấn phải trả lời tất cả các ý kiến mà cử tri và đại biểu phản
ánh, nội dung trả lời phải trọng tâm, ngắn gọn, không phân tích viện dẫn các
lý do dài dòng. Những vấn đề đại biểu, cử tri phản ánh không đúng hoặc chỉ
đúng một phần thì đưa ra cơ sở chứng minh, đồng thời tư vấn cách tiếp cận và
phản ánh thông tin chuẩn xác hơn; phải có thái độ bình tĩnh và tinh thần trách
nhiệm cao trong việc trả lời chất vấn. Tiếp thu nghiêm túc, có thái độ thiện
chí, cầu thị, làm rõ trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm tập thể. Theo dõi, cập
nhật từng kỳ họp tất cả những vấn đề cử tri và đại biểu phản ánh để có kế
hoạch giải quyết minh bạch, không bỏ sót. Lưu lại bằng văn bản kết quả giải
108
quyết các kiến nghị, làm cơ sở để giải quyết đơn thư liên quan, đồng thời làm
căn cứ cho đại biểu khi tiếp xúc với cử tri.
HĐND xã cần có nghị quyết để quy kết rõ ràng trách nhiệm của cơ
quan, người trả lời chất vấn, tạo ra áp lực mang tính quy phạm buộc người trả
lời chất vấn phải thực hiện nghiêm túc lời hứa của mình.
Chủ tọa kỳ họp phát huy vị trí, vai trò của người điều hành để đảm
bảo cho việc chất vấn được thực hiện dân chủ, cởi mở, thẳng thắn với tinh
thần trách nhiệm cao của đại biểu cũng như của người trả lời chất vấn.
Trong mỗi vấn đề chất vấn, chủ tọa có thể đề nghị đại biểu đưa ra các chứng
cứ cụ thể để chứng minh. Chủ tọa cũng cần kiên quyết hơn đối với tình trạng
lợi dụng diễn đàn, chất vấn với động cơ cá nhân, gây không khí căng thẳng
làm giảm tác dụng của chất vấn. Những vấn đề được nêu ra, chủ tọa phải kịp
thời nắm bắt và thể hiện được chính kiến, thẳng thắn, cụ thể, công tâm,
khách quan. Tất cả các vấn đề đưa ra tranh luận cuối cùng phải được kết
luận rõ ràng, phân minh. Kết luận của Chủ tọa kỳ họp tại phiên chất vấn nên
ngắn gọn, đánh giá và nhận xét tóm tắt những nội dung đã đạt được và chưa
đạt được trong quá trình chất vấn và trả lời chất vấn, những điểm cần rút
kinh nghiệm cho kỳ họp sau. Những vấn đề đã được tiếp nhận để giải quyết
phải được theo dõi, từng bước giải quyết dứt điểm, như thế mới tăng cường
được trách nhiệm của cơ quan giải quyết, mới thỏa mãn tâm nguyện chính
đáng của đại biểu kiến nghị, chất vấn.
Kỳ họp HĐND xã cần phải được tổ chức một cách công khai, dân chủ,
các phiên chất vấn cần phát thanh trực tiếp để nhân dân có thể theo dõi và
phản ánh kịp thời những bức xúc chưa được giải quyết.
Nâng cao chất lƣợng ban hành Nghị quyết của HĐND xã: Nghị
quyết HĐND xã là văn bản quy phạm pháp luật, việc ban hành Nghị quyết
của HĐND xã phải tuân thủ nghiêm chỉnh những quy trình của Luật ban hành
109
văn bản quy phạm pháp luật năm 2015. Nghị quyết cần được UBND xã dự
thảo sớm, tùy vào tính chất và nội dung của dự thảo nghị quyết cần phải tổ
chức lấy ý kiến của cơ quan, tổ chức có liên quan của nhân dân bằng hình
thức phù hợp; các Ban của HĐND xã thực hiện nghiêm túc việc thẩm tra dự
thảo nghị quyết; dự thảo nghị quyết phải được gửi trước cho đại biểu để
nghiên cứu, sửa chữa, góp ý, đảm bảo Nghị quyết thực sự thể hiện tập trung
trí tuệ đại biểu HĐND xã.
3.2.2.4. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Thường trực HĐND xã
Thường trực HĐND xã có vai trò rất quan trọng đảm bảo cho hoạt
động của HĐND cùng cấp được thực hiện liên tục giữa hai kỳ họp. Ngoài
công việc chuẩn bị nội dung, chương trình kỳ họp, Thường trực HĐND xã
còn phải đảm nhiệm hầu hết công việc giữa hai kỳ họp và thực hiện chức
năng giám sát theo quy định của pháp luật. Hiện nay, Thường trực HĐND xã
chỉ có 02 người, Chủ tịch hoạt động kiêm nhiệm, Phó Chủ tịch hoạt động
chuyên trách, trong khi đó chức năng của HĐND xã là rất rộng, để hoạt động
HĐND xã có hiệu quả thì đòi hỏi Thường trực HĐND xã phải nâng cao vai
trò, trách nhiệm trong hoạt động. Cấp trên cần phải tổ chức tập huấn bồi
dưỡng nghiệp vụ cho Thường trực HĐND xã nhằm trang bị, cập nhật đầy đủ
các quy định của pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của HĐND, vì
sau khi Hiến pháp 2013 được ban hành thì nhiều luật mới cũng được ban hành
để phù hợp với quy định của Hiến pháp như: Luật Tổ chức chính quyền địa
phương năm 2015, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm
2015, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015…
Thường trực HĐND xã cần nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước và tình hình thực tiễn tại địa phương; phải
nâng cao kỹ năng tiếp xúc cử tri; kỹ năng thu thập, lựa chọn và phân tích, xử
lý thông tin liên quan đến hoạt động giám sát; theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc
110
thực hiện các kết luận, kiến nghị sau giám sát; theo dõi, giám sát việc thực
hiện Nghị quyết của HĐND xã đã ban hành.
Thường trực HĐND cần phải rèn luyện kỹ năng chủ tọa, điều hành các
kỳ họp HĐND xã; tham gia đầy đủ các kỳ họp của UBND xã. Thực hiện
nghiêm túc việc tiếp công dân và tổ chức để đại biểu HĐND tiếp công dân
theo quy định của pháp luật.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát của Thường trực
HĐND và phiên họp của Thường trực HĐND xã.
3.2.2.5. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các Ban của HĐND xã
Ban của HĐND xã được thành lập trong nhiệm kỳ 2016-2021, mới thành
lập chưa có kinh nghiệm trong hoạt động, thành viên các Ban hoạt động kiêm
nhiệm. Vì vậy, để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các Ban của
HĐND xã, trước hết cấp thẩm quyền cần phải kịp thời tổ chức tập huấn kỹ năng,
nghiệp vụ cho các thành viên các Ban trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
theo quy định của pháp luật, nhất là kỹ năng thẩm tra dự thảo nghị quyết, báo
cáo, đề án và trong hoạt động giám sát. Thành viên các Ban của HĐND xã phải
có chuyên môn, nắm vững các quy định của pháp luật liên quan đến lĩnh vực
được phân công để vận dụng trong thực hiện nhiệm vụ. Các cơ quan, đơn vị có
đại biểu HĐND xã là thành viên các Ban của HĐND xã phải tạo điều kiện về
thời gian để đại biểu thực hiện nhiệm vụ. Chú trọng cơ cấu, số lượng và trình độ
chuyên môn các thành viên khi thành lập các Ban của HĐND xã.
Hiện nay một số xã, các Ban của HĐND xã chưa đảm bảo về số lượng
và trình độ chuyên môn, các xã cần phải khẩn trương củng cố, kiện toàn để
đảm bảo các Ban của HĐND xã hoạt động có chất lượng, hiệu quả.
3.2.2.6. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của đại biểu HĐND xã
Đại biểu HĐND xã là thành phần tạo ra HĐND xã, để nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND xã thì cần phải nâng cao chất lượng,
111
hiệu quả hoạt động của đại biểu HĐND xã. Năng lực của đại biểu HĐND xã
là nhân tố quyết định chất lượng hoạt động của HĐND xã. Vì vậy cần thực
hiện những giải pháp sau:
- Thực trạng đại biểu HĐND các xã ở huyện Tây Hòa nhiệm kỳ 2016-
2021 vẫn còn một số đại biểu chưa có trình độ chuyên môn và lý luận chính
trị, do đó sẽ ảnh hưởng đến chất lượng của đại biểu, nhất là trong việc nghiên
cứu tài liệu, thảo luận và chất vấn tại kỳ họp, cũng như việc tham gia các hoạt
động giám sát của HĐND xã. Vì vậy, cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
trình độ chuyên môn, lý luận chính trị cho số đại biểu này.
Thực trạng công tác hiệp thương nhân sự bầu cử đại biểu HĐND xã
huyện Tây Hòa cho thấy, một số đại biểu được giới thiệu ứng cử và trúng cử
vào HĐND chỉ đảm bảo về mặt cơ cấu mà chưa được chú trọng về chất lượng
hoạt động. Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần phải có cơ cấu đại biểu hợp lý, đảm
bảo cả về số lượng và chất lượng, tức là cần phải có một tỷ lệ thích hợp số đại
biểu có trình độ kiến thức về pháp luật, số đại biểu có kiến thức về quản lý
nhà nước, số đại biểu có kiến thức chuyên môn về các ngành nghề liên quan
trực tiếp đến tình hình phát triển kinh tế, xã hội của địa phương… Việc hiệp
thương danh sách ứng cử viên cho bầu cử HĐND xã không nên nặng về cơ
cấu, thành phần mà nên coi trọng tiêu chuẩn trình độ, năng lực và ý thức trách
nhiệm của đại biểu. Quan tâm, tạo điều kiện để những người trẻ tuổi, có đức,
có tài có thể tham gia ứng cử hoặc được đề cử vào cơ quan quyền lực nhà
nước ở địa phương; chú ý đúng mức đến nhu cầu “trẻ hoá” để khi vào khung
công chức và khi đảm nhận chức trách người đại biểu HĐND có đủ trình độ,
năng lực, phẩm chất hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
- Kịp thời, thường xuyên tập huấn, bồi dưỡng cho đại biểu HĐND xã
cả về kiến thức lý luận và kỹ năng hoạt động, chú trọng bồi dưỡng kiến thức
về nhà nước và pháp luật.
112
Về phương thức tổ chức tập huấn, bồi dưỡng phải có phù hợp với từng
đại biểu vì cơ cấu đại biểu đa dạng, các đại biểu có trình độ văn hóa, trình độ
chuyên môn, trình độ lý luận chính trị, nhận thức khác nhau. Vì vậy cần mở
các lớp nghiên cứu riêng cho các đại biểu có trình độ tương đương, đại biểu
tái cử, đại biểu mới, đại biểu là Thường trực HĐND. Trên nền kiến thức
chung, các lớp riêng cho những đối tượng riêng sẽ nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác bồi dưỡng, chẳng hạn: đại biểu là Thường trực HĐND phải vừa
nắm được những vấn đề chung thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu và
HĐND, vừa phải nghiên cứu sâu nhiệm vụ, quyền hạn của Thường trực
HĐND. Mặt khác, khi tổ chức các lớp nghiên cứu riêng như vậy sẽ giúp các
đại biểu trong Thường trực HĐND của các xã có điều kiện gặp gỡ, thảo luận,
trao đổi những kinh nghiệm hoạt động thực tế của các địa phương, giúp nhau
đi sâu tìm hiểu các biện pháp giải quyết các vấn đề đặt ra đối với Thường trực
HĐND từng xã.
- Việc tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng hoạt động cho đại biểu HĐND xã
cần được thực hiện ngay sau kỳ họp thứ nhất của HĐND xã, qua đó kịp thời
cập nhật kiến thức cho đại biểu, nâng cao chất lượng hoạt động của đại biểu
HĐND xã.
Kỹ năng hoạt động của người đại biểu đóng một vai trò hết sức quan
trọng, góp phần quyết định chất lượng hoạt động của từng đại biểu cũng như
hiệu quả hoạt động của HĐND. Vì vậy cần phải tăng cường bồi dưỡng kỹ
năng hoạt động cho các đại biểu để họ có thể chủ động trong thực thi nhiệm
vụ, quyền hạn được giao. Các đại biểu HĐND xã chủ yếu hoạt động kiêm
nhiệm, họ vừa phải làm việc tại đơn vị công tác, vừa thực hiện nhiệm vụ đại
biểu. Qua việc nâng cao kỹ năng hoạt động cho đại biểu sẽ tạo điều kiện cần
thiết để người đại biểu có thể sắp xếp thời gian công tác một cách khoa học,
hợp lý và nhờ đó thực hiện chức năng đại biểu đạt chất lượng cao nhất. Để
113
nâng cao hoạt động của đại biểu HĐND xã, cần quan tâm bồi dưỡng các kỹ
năng sau:
Kỹ năng xây dựng chương trình hoạt động cụ thể của đại biểu, chương
trình hoạt động càng cụ thể, chi tiết bao nhiêu thì hoạt động của đại biểu càng
đạt hiệu quả cao và thiết thực bấy nhiêu. Việc xây dựng chương trình hoạt
động của đại biểu HĐND xã phải căn cứ chương trình hoạt động của HĐND
xã, kết hợp chặt chẽ với hoạt động chuyên môn tại đơn vị công tác và phải
được xây dựng một cách chi tiết. Nội dung chương trình hoạt động của mỗi
đại biểu phải gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm
của đại biểu trước nhân dân địa phương.
Về kỹ năng tiếp xúc cử tri: Mỗi đại biểu đều có nhiệm vụ tiếp xúc cử tri
trước và sau mỗi kỳ họp, bồi dưỡng kỹ năng tiếp xúc cử tri bao gồm các kỹ
năng lắng nghe và tiếp nhận thông tin từ nhân dân; kỹ năng thu thập, tổng
hợp, xử lý thông tin; kỹ năng báo cáo, giải trình và nói chuyện trước công
chúng; kỹ năng tuyên truyền kết quả kỳ họp, giải thích chính sách pháp luật,
giải thích những vấn đề liên quan đến khiếu nại, tố cáo…
Kỹ năng chất vấn: Đây là một hình thức hoạt động của đại biểu HĐND
nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước tại địa
phương. Hiệu quả của hoạt động chất vấn cũng góp phần bổ trợ cho việc thực
hiện nhiệm vụ đại biểu đạt kết quả cao hơn. Bồi dưỡng kỹ năng chất vấn của
đại biểu gồm những nội dung về phương pháp thu thập tài liệu, chứng cứ; lựa
chọn vấn đề đưa ra chất vấn; lựa chọn ngôn ngữ đối thoại trong chất vấn và
trả lời chất vấn... với mục đích cần hướng tới nội dung làm cho đại biểu hiểu
rõ mục đích, yêu cầu của chất vấn; hiểu rõ nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn vị
liên quan đến nội dung được chất vấn của HĐND; có khả năng chuẩn bị các câu
hỏi cần thiết, rõ ràng, nêu các vấn đề cụ thể và phải định được mục đích cuối
cùng là xác định trách nhiệm của người bị chất vấn; có được kỹ năng thu thập,
114
phân tích, xử lý các thông tin có liên quan đến vấn đề đặt ra; kỹ năng đặt các câu
hỏi trúng và đúng.
Bồi dưỡng kỹ năng tự giám sát và tham gia đoàn giám sát; xác định
cách tiếp cận để nghiên cứu vấn đề cần giám sát; kinh nghiệm nêu vấn đề, đặt
câu hỏi hợp lý với cơ quan hữu quan để làm rõ các nội dung cần giám sát;
thảo luận và đi đến kết luận giám sát; xây dựng kiến nghị giám sát và theo dõi
kết quả thực hiện yêu cầu của đoàn giám sát.
Bên cạnh đó, hàng năm cần phải tổ chức các lớp tập huấn theo chuyên
đề, trang bị cho đại biểu các kiến thức về kinh tế - ngân sách, nông nghiệp,
lâm nghiệp, xây dựng cơ bản, thi hành pháp luật…
3.2.2.7. Nâng cao chất lượng, hiệu quả giám sát của HĐND xã
Giám sát là một chức năng quan trọng của HĐND, để nâng cao chất
lượng, hiệu quả giám sát của HĐND xã thì cần phải thực hiện các nội dung
sau:
- Nâng cao năng lực các chủ thể thực hiện chức năng giám sát của
HĐND xã: Năng lực giám sát của đại biểu HĐND xã, Thường trực HĐND xã
và các Ban của HĐND xã.
- Nâng cao chất lượng thực hiện các hình thức giám sát của HĐND xã,
cụ thể là: Chất lượng xem xét các báo cáo, chất lượng chất vấn và trả lời chất
vấn, việc lấy phiếu tín nhiệm và bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do
HĐND xã bầu.
- Nhiệm kỳ 2011-2016 số lượng các cuộc giám sát của HĐND các xã
trên địa bàn huyện Tây Hòa còn ít, đã ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả
hoạt động của HĐND xã. Vì vậy, HĐND các xã cần phải tăng cường tổ chức
các cuộc giám sát của Thường trực HĐND và các Ban của HĐND xã. Về
chương trình giám sát, ngoài việc xây dựng chương trình giám sát theo định
kỳ, cần phải dự báo những vấn đề phát sinh, nổi cộm, những vấn đề bức xúc
115
được nhân dân địa phương quan tâm để tổ chức giám sát. Các Ban của HĐND
xã xây dựng kế hoạch giám sát cụ thể, có trọng tâm, trọng điểm. Thành viên
các đoàn giám sát phải có trình độ chuyên môn, am hiểu pháp luật và các vấn
- Tuỳ thuộc vào từng đối tượng để lựa chọn hình thức, phương pháp
đề liên quan đến lĩnh vực giám sát.
giám sát phù hợp, đảm bảo tính khách quan, chính xác và triệt để. Giám sát
không chỉ dừng lại ở việc chỉ ra các ưu điểm, khuyết điểm, đề ra những biện
pháp khắc phục cho các tổ chức chịu giám sát mà điều quan trọng là tổ chức
đó khắc phục, sửa chữa khuyết điểm như thế nào. Tức là những kiến nghị, đề
xuất của Đoàn giám sát có được tổ chức được giám sát chịu trách nhiệm tiếp
thu, tổ chức thực hiện trong thực tế một cách triệt để hay không. HĐND xã
phải tổ chức đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các kết luận của Đoàn giám sát,
đồng thời pháp luật phải quy định cho HĐND xã có những chế tài cụ thể đối với
tổ chức được giám sát nếu họ không thực hiện tốt các đề xuất, kiến nghị của
Đoàn giám sát của HĐND xã.
3.2.2.8. Đảm bảo tốt các điều kiện cho hoạt động HĐND xã
Thực tiễn hoạt động của HĐND xã ở huyện Tây Hòa cho thấy, một số
xã chưa đảm bảo điều kiện cho hoạt động của HĐND xã như: một số xã chưa
bố trí được phòng làm việc cho Thường trực HĐND, cung cấp thông tin cho
đại biểu HĐND có lúc còn chậm. Vì vậy, để nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động của HĐND cần phải tạo các điều kiện thuận lợi cho hoạt động
HĐND xã, cụ thể:
- Đảm bảo điều kiện vật chất cần thiết cho hoạt động của HĐND xã:
Phân bổ kinh phí hợp lý cho hoạt động của HĐND xã, đây là điều kiện cần
thiết đảm bảo cho cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương thực hiện chức
năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật. Các xã Hòa Đồng, Hòa Mỹ Tây,
Sơn Thành Đông, Sơn Thành Tây sớm bố trí phòng làm việc, trang thiết bị
116
làm việc, phương tiện thông tin liên lạc… đảm bảo cho hoạt động của Thường
trực HĐND xã, tăng cường tính độc lập cho HĐND xã.
Hiện nay, đại biểu HĐND xã được hưởng chế độ hoạt động phí hàng
tháng bằng hệ số là 0,3 mức lương cơ sở và đối với đại biểu hoạt động không
chuyên trách mà không phải là người hưởng lương (kể cả người hưởng lương
hưu) hoặc hưởng trợ cấp hàng tháng từ ngân sách nhà nước hoặc từ quỹ bảo
hiểm xã hội thì được chi trả chế độ tiền công lao động theo ngày thực tế thực
hiện nhiệm vụ đại biểu HĐND là 0,10 mức lương cơ sở/ngày. Thực tế với
mức kinh phí hoạt động như vậy thì chưa tương xứng với những nhiệm vụ,
trách nhiệm của đại biểu HĐND xã. Đặc biệt là đối với những đại biểu không
phải là cán bộ, công chức, không có lương thì mức kinh phí hoạt động ấy sẽ
không thể tạo điều kiện cho đại biểu chuyên tâm làm công tác đại biểu được.
Với chủ trương cơ cấu đại biểu đủ các thành phần, tăng số đại biểu là dân, là
người ngoài Đảng, là đại biểu chuyên trách thì cần thiết phải tăng mức hoạt
động phí cho các đại biểu HĐND xã không phải là cán bộ, công chức được
hưởng lương từ ngân sách nhà nước lên ít nhất là bằng mức lương cơ sở.
Đồng thời thực hiện đầy đủ các chế độ về cung cấp báo chí, tài liệu, trang
phục. Như vậy mới thực sự đảm bảo cho người đại biểu HĐND có thể chuyên
tâm thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.
- Đảm bảo điều kiện thông tin cho hoạt động của đại biểu HĐND xã:
Phải cung cấp đầy đủ, kịp thời các Nghị quyết của Đảng, văn bản pháp luật,
báo cáo tình hình kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng của địa phương, thông
báo kết luận giám sát…đến từng đại biểu HĐND xã. Các tài liệu liên quan
đến nội dung kỳ họp cần phải được gửi sớm cho các đại biểu để có thời gian
nghiên cứu, phân tích, đối chiếu thông tin một cách kỹ lưỡng. Khắc phục tình
trạng gửi tài liệu chậm làm ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động của đại biểu
tại kỳ họp.
117
Ngoài ra, các đại biểu cần phải chủ động yêu cầu các cơ quan có liên
quan cung cấp các thông tin cần thiết để phục vụ cho hoạt động. Có như vậy,
đại biểu mới có khả năng chủ động trong việc giải quyết các vấn đề thuộc
phạm vi thẩm quyền của mình.
118
Kết luận chương 3
Trên cơ sở những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân tồn tại, hạn chế trong
hoạt động của HĐND xã ở huyện Tây Hòa, đề ra các nhóm giải pháp nhằm
góp phần hoàn thiện pháp luật về HĐND xã và nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động của HĐND xã ở huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên. Mỗi giải pháp có
một vị trí, vai trò riêng, có quan hệ bổ trợ lẫn nhau, những giải pháp này chỉ
đem lại hiệu quả thực sự nếu được tiến hành một cách đồng bộ, hợp lý và có
kế hoạch trên cơ sở quán triệt, triển khai thực hiện tốt các quy định của pháp
luật liên quan đến HĐND xã.
119
KẾT LUẬN
Bản chất Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Điều 3, Hiến pháp năm 2013 khẳng định:
“Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”[40]. Hiện nay nước
ta đang đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế
sâu rộng. Để đáp ứng với yêu cầu thực tiễn của đất nước và thực hiện xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân
thì vấn đề đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ
máy nhà nước đang được đặt ra một cách bức xúc. Việc nâng cao chất lượng,
hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung, HĐND các cấp nói riêng
là một trong những yêu cầu quan trọng. Nghiên cứu thực trạng, đề ra các giải
pháp hoàn thiện pháp luật về HĐND xã và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động của HĐND xã là một trong những việc làm cần thiết góp phần nâng cao
hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước ở địa phương.
Nhiệm vụ đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND đã được đề cập
trong các nghị quyết của Đảng, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI của Đảng khẳng định: "Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của chính
quyền địa phương. Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân và
Ủy ban nhân dân các cấp, bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong
việc quyết định và tổ chức thực hiện những chính sách trong phạm vi được
phân cấp"[4, tr. 251] và được cụ thể hoá trong các chính sách, pháp luật của
nhà nước như: Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015, Luật Bầu cử đại
biểu Quốc hội và đại biểu HĐND năm 2015, Luật Hoạt động giám sát của
Quốc hội và HĐND năm 2015…
Quán triệt, triển khai thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản
Việt Nam, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tổ chức và hoạt động của
120
chính quyền địa phương, chất lượng và hiệu quả hoạt động của HĐND các
cấp ngày càng được nâng lên, vai trò của HĐND xã được phát huy. Bên cạnh
đó, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà hoạt động của HĐND nói chung và
HĐND xã nói riêng vẫn còn những tồn tại, hạn chế trong thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương theo quy định
của pháp luật. Qua nghiên cứu thực trạng hoạt động của HĐND xã ở huyện
Tây Hòa từ năm 2011 đến nay cho thấy bên cạnh những thành tựu đạt được
góp phần ổn định, phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, hoạt động của
HĐND các xã ở huyện Tây Hòa vẫn còn những tồn tại, hạn chế cần phải được
khắc phục để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động trong thời gian đến.
Căn cứ kết quả phân tích, đánh giá những thành tựu và tồn tại, hạn chế
trong hoạt động của HĐND xã ở huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên, Luận văn đưa
ra một số giải pháp cụ thể nhằm góp phần tiếp tục hoàn thiện pháp luật về
HĐND xã và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND xã ở huyện
Tây Hòa, qua đó góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của
HĐND cấp xã nói chung. Qua nghiên cứu đề tài “Hoạt động của HĐND xã ở
huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên”, với những giải pháp mà Luận văn nêu ra
trong nội dung nghiên cứu nếu được thực hiện một cách đồng bộ sẽ nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND xã, thực hiện tốt chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, xây dựng chính
quyền nhà nước tại địa phương ngày càng trong sạch, vững mạnh, đáp ứng
yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
121
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chi Cục thống kê huyện Tây Hòa(2016), Niên giám thống kê huyện Tây
Hòa năm 2015, Tây Hòa.
2. Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa(1945),
Sắc lệnh số 63/SL về tổ chức, quyền hạn, cách làm việc của Hội đồng
nhân dân và Ủy ban hành chính, Hà Nội.
3. Nguyễn Đăng Dung(2012), HĐND trong nhà nước pháp quyền, Nxb Tư
pháp, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam(2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam(2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Nxb Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
6. HĐND huyện Tây Hòa(2016), Báo cáo kết quả khảo sát thực trạng tổ
chức và hoạt động của HĐND các xã, thị trấn trên địa bàn huyện, Tây
Hòa.
7. HĐND tỉnh Phú Yên(2012), Nghị quyết về việc quy định một số chế độ
chi tiêu bảo đảm hoạt động của HĐND các cấp tỉnh Phú Yên, Phú Yên.
8. HĐND tỉnh Phú Yên(2016), Nghị quyết sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số
73/2012/NQ-HĐND ngày 13/12/2012 của HĐND tỉnh Quy định một số
chế độ chi tiêu bảo đảm hoạt động của HĐND các cấp tỉnh Phú Yên, Phú
Yên.
9. HĐND xã Hòa Bình 1(2016), Báo cáo tổng kết tình hình tổ chức và hoạt
động của HĐND xã Hòa Bình 1, nhiệm kỳ 2011-2016, Hòa Bình 1.
10. HĐND xã Hòa Bình 1(2016), Báo cáo thực trạng tổ chức và hoạt động
của HĐND xã nhiệm kỳ 2016-2021, Hòa Bình 1.
122
11. HĐND xã Hòa Đồng(2016), Báo cáo tình hình tổ chức và hoạt động của
HĐND xã khóa XI, nhiệm kỳ 2011-2016, Hòa Đồng.
12. HĐND xã Hòa Đồng(2016), Báo cáo thực trạng tổ chức và hoạt động
của HĐND xã khóa XII, nhiệm kỳ 2016-2021, Hòa Đồng.
13. HĐND xã Hòa Mỹ Đông(2016), Báo cáo tổ chức và hoạt động của
HĐND nhiệm kỳ 2011-2016, Hòa Mỹ Đông.
14. HĐND xã Hòa Mỹ Đông(2016), Báo cáo thực trạng tổ chức và hoạt
động của HĐND xã nhiệm kỳ 2016-2021, Hòa Mỹ Đông.
15. HĐND xã Hòa Mỹ Tây(2016), Báo cáo tổng kết tình hình tổ chức và
hoạt động của HĐND xã nhiệm kỳ 2011-2016, Hòa Mỹ Tây.
16. HĐND xã Hòa Mỹ Tây(2016), Báo cáo thực trạng tổ chức và hoạt động
của HĐND xã Hòa Mỹ Tây khóa IX, nhiệm kỳ 2016-2021, Hòa Mỹ Tây.
17. HĐND xã Hòa Phong(2016), Báo cáo tổng kết hoạt động của HĐND xã
nhiệm kỳ 2011-2016, Hòa Phong.
18. HĐND xã Hòa Phong(2016), Báo cáo thực trạng tổ chức và hoạt động
của HĐND xã khóa XII, nhiệm kỳ 2016-2021, Hòa Phong.
19. HĐND xã Hòa Phú(2016), Báo cáo tổng kết hoạt động của HĐND xã
nhiệm kỳ 2011-2016, Hòa Phú.
20. HĐND xã Hòa Phú(2016), Báo cáo thực trạng tổ chức và hoạt động của
HĐND xã khóa XII, nhiệm kỳ 2016-2021, Hòa Phú.
21. HĐND xã Sơn Thành Đông(2016), Báo cáo tổng kết hoạt động của
HĐND xã nhiệm kỳ 2011-2016, Sơn Thành Đông.
22. HĐND xã Sơn Thành Đông(2016), Báo cáo thực trạng tổ chức và hoạt
động của HĐND xã nhiệm kỳ 2016-2021, Sơn Thành Đông.
23. HĐND xã Sơn Thành Tây(2016), Báo cáo tổng kết hoạt động của HĐND
xã nhiệm kỳ 2011-2016, Sơn Thành Tây.
123
24. HĐND xã Sơn Thành Tây(2016), Báo cáo thực trạng tổ chức và hoạt
động của HĐND xã nhiệm kỳ 2016-2021, Sơn Thành Tây.
25. HĐND xã Hòa Tân Tây(2016), Báo cáo tổng kết tình hình tổ chức và
hoạt động của HĐND khóa XI, nhiệm kỳ 2011-2016, Hòa Tân Tây.
26. HĐND xã Hòa Tân Tây(2016), Báo cáo thực trạng tổ chức và hoạt động
của HĐND xã, nhiệm kỳ 2016-2021, Hòa Tân Tây.
27. HĐND xã Hòa Thịnh(2016), Báo cáo tình hình tổ chức và hoạt động của
HĐND xã nhiệm kỳ 2011-2016, Hòa Thịnh.
28. HĐND xã Hòa Thịnh(2016), Báo cáo thực trạng tổ chức và hoạt động
của HĐND xã nhiệm kỳ 2016-2021, Hòa Thịnh.
29. Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam(2007),
Từ điển bách khoa Việt Nam, Tập 1, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.
30. Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam(2002),
Từ điển bách khoa Việt Nam, Tập 3, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.
31. Phạm Văn Hùng(2007), “Nâng cao vai trò giám sát trong hoạt động của
cơ quan dân cử”, Tạp chí Quản lý Nhà nước (số 132), tr.14-19.
32. Huyện ủy Tây Hòa(2015), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Tây
Hòa lần thứ XI nhiệm kỳ 2015-2020, Tây Hòa.
33. Huyện ủy Tây Hòa(2016), Báo cáo tổng kết công tác năm 2016 và
phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2017, Tây Hòa.
34. Hồ Chí Minh(2000), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Nguyễn Thị Nữ(2012), Tổ chức và hoạt động của HĐND xã – qua thực
tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
36. Hoàng Phê(2000), “Từ điển Tiếng Việt”, Viện ngôn ngữ học, Nxb Đà
Nẵng, Đà Nẵng.
124
37. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam(1980), Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980, Hà Nội.
38. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam(1992), Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, Hà Nội.
39. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam(2013), Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, Hà Nội.
40. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam(1983), Luật Tổ
chức chính quyền địa phương năm 1983, Hà Nội.
41. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam(2015), Luật Tổ
chức chính quyền địa phương năm 2015, Hà Nội.
42. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam(2015), Luật Hoạt
động giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015, Hà Nội.
43. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam(2015), Luật Bầu cử
đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND năm 2015, Hà Nội.
44. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam(2015), Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật, Hà Nội.
45. Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa(1946), Hiến pháp nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa năm 1946, Hà Nội.
46. Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa(1958), Luật Tổ chức chính
quyền địa phương năm 1958, Hà Nội.
47. Nguyễn Quốc Sửu(2016), “Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng”, Tạp chí Cộng sản
(số 887 tháng 9 năm 2016), tr.63-68.
48. Văn phòng UBND huyện Tây Hòa(2016), Báo cáo cung cấp một số
thông tin và số liệu cơ bản của huyện Tây Hòa, Tây Hòa.
49. Viện ngôn ngữ học(2002), Từ điển Tiếng Việt phổ thông, Nxb Thành phố
Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.
125
PHỤ LỤC
Phụ lục 2.1: Cơ cấu, số lƣợng đại biểu HĐND các xã ở huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên nhiệm kỳ 2011-2016.
Nữ
Tái cử
Các thôn
Ngoài đảng
Cơ quan Đảng
Chính quyền
Mặt trận, đoàn thể
HĐND xã
St t
Tổng số đại biểu
TS
TS
TS
TS
TS
TS
TS
TS
1 Hòa Tân Tây 2 Hòa Bình 1 3 Hòa Đồng
27 28 29
Tỷ lệ (%) 25.93 10.71 13.79
7 3 4
7 15 11
Tỷ lệ (%) 25.93 53.57 37.93
Tỷ lệ (%) 7.41 10.71 10.34
2 3 3
5 13 11
Tỷ lệ (%) 18.52 46.43 37.93
Tỷ lệ (%) 4 14.81 4 14.29 5 17.25
Tỷ lệ (%) 7 25.93 2 7.14 7 24.14
Thành phần khác Tỷ lệ (%) 33.33 21.43 10.34
9 6 3
2 4 3
Tỷ lệ (%) 7.41 14.29 10.34
31
4 Sơn Thành Đông
10
32.26
18
58.06
9.68
3
9
29.03
5 16.13
11 35.48
3
9.68
4
12.90
5 Sơn Thành Tây 6 Hòa Phong 7 Hòa Phú 8 Hòa Mỹ Tây
26 25 26 29
15.38 16.00 11.54 17.24
4 4 3 5
6 14 13 17
23.08 56.00 50.00 58.62
7.70 12.00 15.38 6.90
2 3 4 2
5 10 7 8
19.23 40.00 26.92 27.59
3 11.54 4 16.00 6 23.08 5 17.24
12 46.15 6 24.00 7 26.92 11 37.93
4 2 2 3
15.38 8.00 7.70 10.34
4 2 2 0
15.38 8.00 7.70 0.00
9 Hòa Mỹ Đông
28
17.86
5
11
39.29
3.57
1
8
28.57
2
7.14
11 39.29
6
21.43
1
3.57
6.45
54.84 46.07
3.23 8.57
1 24
11 87
35.48 31.07
10 Hòa Thịnh Tổng cộng
31 280
2 47
17 16.79 129
4 12.90 42 15.00
13 41.94 87 31.07
2 40
6.45 14.29
4 26
12.90 9.29
Nguồn: Tổng hợp từ HĐND các xã ở huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên.
126
Phụ lục 2.2: Cơ cấu, số lƣợng đại biểu HĐND các xã ở huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên nhiệm kỳ 2016-2021.
Nữ
Tái cử
Các thôn
Ngoài đảng
Chính quyền
Cơ quan Đảng
Stt Tên HĐND xã
TS
TS
TS
TS
TS
TS
TS
TS
Tỷ lệ (%)
1 Hòa Tân Tây 2 Hòa Bình 1 3 Hòa Đồng
Tổng số đại biểu 27 28 28
7 4 4
Tỷ lệ (%) 25.93 14.29 14.29
Tỷ lệ (%) 13 48.15 20 71.43 11 39.29
2 3 3
Tỷ lệ (%) 25.93 35.71 32.14
7 10 9
7.41 10.71 10.71
Mặt trận, đoàn thể Tỷ lệ (%) 18.52 17.86 14.29
5 5 4
8 6 8
Tỷ lệ (%) 29.63 21.43 28.57
Thành phần khác Tỷ lệ (%) 18.52 14.29 14.29
5 4 4
3 2 3
Tỷ lệ (%) 11.11 7.14 10.71
4 Sơn Thành Đông
31
8
25.81
17 54.84
2
41.94
13
6.45
5
16.13
9
29.03
2
6.45
3
9.68
5 Sơn Thành Tây 6 Hòa Phong 7 Hòa Phú 8 Hòa Mỹ Tây
25 29 26 29
8 5 3 5
32.00 17.24 11.54 17.24
12 48.00 17 58.62 12 46.15 15 51.72
2 4 4 2
40.00 37.93 26.92 27.59
10 11 7 8
8.00 13.79 15.39 6.90
4 4 6 5
16.00 13.79 23.08 17.24
5 8 7 11
20.00 27.59 26.92 37.93
4 2 2 3
16.00 6.90 7.69 10.34
2 3 2 2
8.00 10.34 7.69 6.89
9 Hòa Mỹ Đông
28
6
21.43
15 53.57
2
42.86
12
7.14
3
10.72
9
32.14
2
7.14
1
3.57
13 40.63
12 99
9.38 9.54
15.62 16.26
10 81
6.25 10.60
1 22
3.13 7.77
32 5 283 55
15.63 3 19.43 145 51.24 27
37.50 5 34.98 46
31.25 2 28.62 30
10 Hòa Thịnh Tổng cộng
Nguồn: HĐND huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên.
127
Phụ lục 2.3: Độ tuổi đại biểu HĐND các xã ở huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên nhiệm kỳ 2011-2016 và nhiệm kỳ 2016-2021.
Trên 50 tuổi
Trên 50 tuổi
Dƣới 35 tuổi
Dƣới 35 tuổi
Stt HĐND xã
Nhiệm kỳ 2011-2016 Từ 35 đến 50 tuổi
Nhiệm kỳ 2016-2021 Từ 35 đến 50 tuổi
Tổng số đại biểu
Tổng số đại biểu
TS
TS
TS
TS
TS
TS
Sơn Thành Đông Sơn Thành Tây
27 28 29 31 26 25 26 29 28 31 280
Tỷ lệ (%) 11.11 21.43 24.14 38.71 19.23 20.00 30.77 31.03 28.57 9.68 23.57
3 6 7 12 5 5 8 9 8 3 66
Tỷ lệ (%) 74.07 60.71 62.07 54.84 65.38 72.00 57.69 58.62 60.72 54.84 61.79
20 17 18 17 17 18 15 17 17 17 173
Tỷ lệ (%) 25.93 17.86 32.14 41.94 36.00 24.14 26.92 24.14 17.86 15.62 26.15
7 5 9 13 9 7 7 7 5 5 74
Tỷ lệ (%) 48.14 39.28 53.57 45.16 60.00 58.62 73.08 58.62 50.00 21.88 50.18
13 11 15 14 15 17 19 17 14 7 142
27 28 28 31 25 29 26 29 28 32 283
Tỷ lệ (%) 25.93 42.86 14.29 12.90 4.00 17.24 0.00 17.24 32.14 62.50 23.67
7 12 4 4 1 5 0 5 9 20 67
Tỷ lệ (%) 14.82 17.86 13.79 6.45 15.39 8.00 11.54 10.35 10.71 35.48 14.64
4 5 4 2 4 2 3 3 3 11 41
1 Hòa Tân Tây 2 Hòa Bình 1 3 Hòa Đồng 4 5 6 Hòa Phong 7 Hòa Phú 8 Hòa Mỹ Tây 9 Hòa Mỹ Đông 10 Hòa Thịnh Tổng cộng
Nguồn: Tổng hợp từ HĐND các xã ở huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên.
128
Phụ lục 2.4: Trình độ học vấn, chuyên môn và lý luận chính trị của đại biểu HĐND các xã ở huyện Tây Hòa nhiệm kỳ 2011-2016.
Trình độ học vấn
Trình độ chuyên môn
Trình độ lý luận chính trị
THCS
THPT
Đại học
Sơ cấp
Tr. Cấp
Cao cấp
Tr. Cấp, cao đẳng
Sau Đại học
Stt
HĐND xã
Tổng số đại biểu
TS
TS
TS
TS
TS
TS
TS
TS
Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ (%)
27 28 29
5 18.52 3 10.71 7 24.14
22 81.48 25 89.29 22 75.86
14 51.85 7 25.00 6 20.69
2 7.41 4 14.29 12 41.38
0 0.00 0 0.00 0 0.00
8 29.63 3 10.71 0.00 0
12 12 10
44.44 42.86 34.48
1 0 1
3.70 0.00 3.45
31
12 38.71
19 61.29
8 25.81
4 12.90
0 0.00
6 19.35
15
48.39
1
3.23
1 Hòa Tân Tây 2 Hòa Bình 1 3 Hòa Đồng 4 Sơn Thành Đông 5 Sơn Thành Tây 6 Hòa Phong 7 Hòa Phú 8 Hòa Mỹ Tây 9 Hòa Mỹ Đông 10 Hòa Thịnh Tổng cộng
26 25 26 29 28 31 280
21 80.77 5 19.23 20 80.00 5 20.00 17 65.38 9 34.62 21 72.41 8 27.59 19 67.86 9 32.14 13 41.94 18 58.06 76 27.14 204 72.86
5 19.23 10 40.00 11 42.31 13 44.83 8 28.57 6 19.35 88 31.43
6 23.08 10 40.00 9 34.62 8 27.59 7 25.00 3 9.68 65 23.21
0 0.00 0 0.00 0 0.00 0 0.00 0 0.00 0 0.00 0 0.00
11 42.31 2 8.00 4 15.38 5 17.24 3 10.71 6 19.35 48 17.14
11 21 13 14 16 5 129
42.31 84.00 50.00 48.28 57.14 16.13 46.07
0 0 0 0 1 0 4
0.00 0.00 0.00 0.00 3.57 0.00 1.43
Nguồn: Tổng hợp từ HĐND các xã ở huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên.
129
Phục lục 2.5: Trình độ học vấn, chuyên môn và lý luận chính trị của đại biểu HĐND các xã ở huyện Tây Hòa nhiệmkỳ 2016-2021.
Trình độ học vấn
Trình độ lý luận chính trị
Trình độ lý luận chính trị
THCS
THPT
Đại học
Sơ cấp
Tr. Cấp
Cao cấp
Tr. Cấp, cao đẳng
Sau Đại học
Stt
HĐND xã
Tổng số đại biểu
TS
TS
TS
TS
TS
TS
TS
TS
Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ (%)
27 28 28
7 25.93 7.14 2 3.57 1
20 26 27
74.07 10 37.04 92.86 11 39.29 6 21.43 96.43
12 44.44 16 57.14 12 42.86
6 22.22 4 14.29 6 21.43
14 51.85 18 64.29 17 60.71
Tỷ lệ (%) 0 0.00 1 3.57 0 0.00
Tỷ lệ (%) 2 7.41 2 7.14 0 0.00
4
31
4 12.90
27
87.10 10 32.26
12 38.71
0 0.00
0
0.00
18 58.06
1 3.23
1 Hòa Tân Tây 2 Hòa Bình 1 3 Hòa Đồng Sơn Thành Đông Sơn Thành Tây
84.00
25 29 26 29
4 16.00 0 0.00 4 15.38 6 20.69
21 6 24.00 29 100.00 12 41.38 7 26.92 22 4 13.79 23
84.62 79.31
13 52.00 12 41.38 12 46.15 16 55.17
0 0.00 1 3.45 0 0.00 0 0.00
4 16.00 1 3.45 6 23.08 6.90 2
12 48.00 20 68.97 13 50.00 13 44.83
0 0.00 0 0.00 0 0.00 2 6.90
9
28 32
23 5 17.86 27 5 15.62 283 38 13.43 245
9 32.14 82.14 10 35.71 84.38 13 40.63 9 28.13 86.57 85 30.04 127 44.88
14 50.00 4 14.29 0 0.00 0 0.00 16 50.00 5 15.63 2 0.71 38 13.43 155 54.77
0 0.00 2 6.25 9 3.18
5 6 Hòa Phong 7 Hòa Phú 8 Hòa Mỹ Tây Hòa Mỹ Đông 10 Hòa Thịnh Tổng cộng
Nguồn: HĐND huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên.
130
131