ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
NGUYỄN VĂN ĐÁP
HỘI NHẬP KHU VỰC THEO XU HƯỚNG CÁNH TẢ
CỦA CÁC NƯỚC MỸ LATINH ĐẦU THẾ KỈ 21
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUỐC TẾ HỌC
Hà Nội - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
NGUYỄN VĂN ĐÁP
HỘI NHẬP KHU VỰC THEO XU HƯỚNG CÁNH TẢ
CỦA CÁC NƯỚC MỸ LATINH ĐẦU THẾ KỈ 21
Chuyên ngành: Quan hệ Quốc tế
Mã số: 60 31 02 06
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUỐC TẾ HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Thế Quế
Hà Nội - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do chính tôi thực hiện, không
sao chép hay trích dẫn mà không dẫn nguồn từ bất kì một công trình nghiên cứu nào
khác.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, và chưa từng được ai
công bố trong bất kì công trình nào khác.
Học viên
Nguyễn Văn Đáp
LỜI CẢM ƠN
Để có thể hoàn thành được luận văn này, trước hết, tôi chân thành gửi lời
cảm ơn sâu sắc nhất tới thầy hướng dẫn khoa học của tôi – TS. Lê Thế Quế, người
thầy đáng kính cả về nhân cách lẫn chuyên môn. Thầy đã giúp tôi trong việc định
hướng, lựa chọn và quyết định đề tài. Thầy cũng là người đã theo sát quá trình
nghiên cứu của tôi để đưa ra những gợi ý, những lời khuyên xác đáng để luận văn
của tôi có thể đi đúng hướng và đảm bảo yêu cầu về tính khoa học. Thầy cũng chính
là người đã động viên cả về vật chất và tinh thần để tôi có thể vượt qua những khó
khăn để hoàn thành luận văn.
Tôi cũng muốn gửi lời cảm ơn tới các thầy cô của Khoa Quốc tế học đã tạo
điều kiện thuận lợi để tôi có thể tập trung nghiên cứu và hoàn thành luận văn đúng
hạn. Các bạn sinh viên trong Khoa cũng là những người tôi muốn gửi lời cảm ơn vì
đã là những người khiến tôi thấy thoải mái và mong muốn hoàn thành công việc.
Cuối cùng, tôi muốn gửi là cảm ơn đến tất cả những người thân trong gia
đình cũng như người bạn đặc biệt của tôi vì đã luôn bên cạnh và ủng hộ tôi vô điều
kiện và đầy yêu thương, cả trong những lúc khó khăn nhất.
Xin cảm ơn vì tất cả !
Hà Nội, tháng 11/2015
Học viên
Nguyễn Văn Đáp
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HỘI NHẬP KHU VỰC
THEO XU HƯỚNG CÁNH TẢ ................................................................... 12
1.1. Các yếu tố trong khu vực .................................................................... 12
1.1.1. Các điều kiện chính trị thuận lợi ................................................... 12
1.1.2. Các gắn kết về lịch sử, kinh tế, văn hóa- xã hội ............................ 19
1.2. Các yếu tố bên ngoài .......................................................................... 23
1.2.1. Xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa kinh tế ...................................... 23
1.2.2. Sự tái định hình cục diện thế giới .................................................. 25
1.3. Tiểu kết ................................................................................................ 35
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG HỘI NHẬP KHU VỰC THEO XU
HƯỚNG CÁNH TẢ ...................................................................................... 36
2.1. Các vấn đề chung ................................................................................ 36
2.2. Các tiến trình cụ thể ............................................................................ 39
2.3. Kết quả và tác động ............................................................................. 49
2.3.1. Về chính trị-an ninh .......................................................................... 49
2.3.2. Về kinh tế ........................................................................................... 59
2.3.3. Về các lĩnh vực khác ......................................................................... 61
2.4. Nhận xét .............................................................................................. 64
2.4.1. Mở rộng các lĩnh vực hội nhập ....................................................... 64
2.4.2. Các yếu tố chính trị có tác động lớn ............................................... 66
2.4.3. Chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Brazil và Venezuela ....................... 67
2.5. Tiểu kết ................................................................................................ 68
CHƯƠNG 3. TRIỂN VỌNG HỘI NHẬP .................................................. 70
3.1. Các thách thức gặp phải ..................................................................... 70
3.1.1. Sự suy yếu các chính quyền cánh tả trong khu vực ....................... 70
3.1.2. Các tồn tại trong quan hệ giữa các nước trong khu vực ............... 76
3.1.3. Sự thiếu sức hút của tư tưởng cánh tả trong bối cảnh sau Chiến
tranh Lạnh ................................................................................................. 77
3.1.4. Ảnh hưởng của nhân tố Mỹ ............................................................ 78
3.2. Các dự báo triển vọng ......................................................................... 80
3.2.1. Ngắn hạn ........................................................................................ 80
3.2.2. Trung và dài hạn ............................................................................ 84
3.3. Tiểu kết ................................................................................................ 87
KẾT LUẬN .................................................................................................... 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 91
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 95
TÊN CÁC TỔ CHỨC KHU VỰC Ở MỸ LATINH & CARIBE
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Stt Viết tắt Tên gốc tiếng Anh/Tây Ban Nha Tên tiếng Việt
- ACS - Association of Caribbean States - Hiệp hội các nước 1 - AEC - Asociación de Estados del Caribe vùng Caribe
- Bolivarian Alliance for the Peoples - Liên minh Bolívar of Our America 2 - ALBA cho các Dân tộc châu - Alianza Bolivariana para los Mỹ Pueblos de Nuestra América
- ACN - Andean Community of Nations - Cộng đồng các Quốc 3 - CAN - Comunidad Andina de Naciones gia vùng Andes
4 - CARICOM - Caribbean Community - Cộng đồng Caribe
- Community of Latin American and - Cộng đồng các Quốc Caribbean States 5 - CELAC gia Mỹ Latinh và - Comunidad de Estados Caribe Latinoamericanos y Caribeños
- LACES - Latin American and Caribbean
Economic System - Hệ thống kinh tế Mỹ 6 - SELA - Sistema Economico Latinh
Latinoamericano y del Caribe
- LAFTA - Latin American Free Trade
Association - Hiệp hội Thương 7 - ALALC mại Tự do Mỹ Latinh - Asociación Latinoamericana de
Libre Comercio
- LAIA - Latin American Integration
Association - Hiệp hội Hội nhập 8 - ALADI - Asociación Latinoamericana de Mỹ Latinh
Integración
- OCAS - Organization of Central American
States - Tổ chức các Quốc 9 - ODECA - Organización de Estados gia Trung Mỹ
Centroamericanos
- Organisation of Eastern Caribbean - Tổ chức các Quốc 10 - OECS States gia Đông Caribe
- PA - Pacific Alliance - Liên minh Thái Bình 11 - AP - Allianza del Pacifico Dương
- USAN - Union of South American Nations - Liên minh các quốc 12 - UNASUR - Unión de Naciones Suramericanas gia Nam Mỹ
- RG - Rio Group 13 - Nhóm/Khối Rio - GR - Grupo Rio
- Central American Integration
System - Hệ thống Hội nhập 14 - SICA - Sistema de la Integración Trung Mỹ
Centroamericana
CÁC TỪ VIẾT TẮT KHÁC
- SCM - Southern Common Market - Thị trường Chung 15 - MERCOSUR - Mercado Común del Sur Nam Mỹ
Stt Viết tắt Tiếng nước ngoài Tiếng Việt
Viết tắt tiếng nước ngoài (Tây Ban Nha/ Bồ Đào Nha/ Anh)
Asia-Pacific Economic Diễn đàn Hợp tác Kinh tế 16 APEC Cooperation châu Á – Thái Bình Dương
Cumbre de América Latina y del Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ 17 CALC Caribe Latinh và Caribe
18 CEED Centro de Estudios Estratégicos de Trung tâm Nghiên cứu
Defensa Chiến lược Quốc phòng
Ủy ban Kinh tế Mỹ Latinh Comisión Económica para América 19 CEPAL và Caribe (của Liên Hợp Latina y el Caribe Quốc)
Escuela Latinoamericana de 20 ELAM Trường Đại học Y MLT Medicina
Trường Quốc phòng Nam 21 ESUDE Escuela Suramericana de Defensa Mỹ
22 EU European Union Liên hiệp châu Âu
Hiệp định Thương mại Tự 23 FTA Free Trade Agreement do
24 IMF International Monetary Fund Quỹ Tiền tệ Quốc tế
Import Substittution Công nghiệp hóa thay thế 25 ISI Industrialization nhập khẩu (chiến lược)
26 JPC Joint Parliamentary Commission Ủy ban Nghị viện Chung
Tổ chức các Nhà nước châu 27 OAS Organization of America States Mỹ
Organización de Estados Tổ chức các Nhà nước châu 28 OEI Iberoamericanos Mỹ Ibero
Organización Latinoamericana de 29 OLADE Tổ chức Năng lượng MLT Enegía
Programa de Integración y Chương trình Hợp tác và
30 PICE Cooperación Económica Hội nhập Kinh tế Brazil-
Argentina-Brasil Argentina
Partido dos Trabalhadores (Bồ 31 PT Đảng Lao động Brazil ĐÀO NHA)
South America Defense Council Hội đồng Phòng thủ Nam 32 SADC (ANH) Mỹ
South America Free Trade Khu vực Thương mại Tự do 33 SAFTA Agreement (ANH) Nam Mỹ
34 SAI Sistema Andino de Integración Hệ thống Hội nhập Andes
35 SPF Sao Paulo Forum Diễn đàn Sao Paulo
Tratado de Comercio de los Hiệp định Thương mại của 36 TCP Pueblos các Dân tộc
37 WB World Bank Ngân hàng Thế giới
DANH MỤC CÁC HÌNH, BẢNG, BIÊU ĐỒ, HỘP
Bảng 1.1. Thống kê số nợ nước ngoài của các nước Mỹ Latinh và Caribe,
1991- 1997 ...................................................................................................... 16
Danh mục bảng
Biểu đồ 1.2. Số lượng và tỉ lệ người nghèo ở Mỹ Latinh và Caribe, 1981-
2012.. .............................................................................................................. 17
Biểu đồ 1.3. Chênh lệch phân phối thu nhập ở Mỹ Latinh và Caribe, 2012 . 17
Biểu đồ 1.7. Thương mại của Ấn Độ với Mỹ Latinh và Caribe, 1985- 2000 ..... 34
Biểu đồ 2.3. Mức tiêu thụ năng lượng và định mức dầu mua ưu đãi từ
Venezuela của các nước thành viên PetroCaribe (2011) ............................... 47
Danh mục biểu
Danh mục hình
Hình 1.4. Các chính quyền cánh tả ở Mỹ Latinh và Caribe, 2006 ................ 95
Hình 1.5. Phân bố sắc tộc và ngôn ngữ ở MLT, 1997 ................................... 96
Hình 1.6. Chiến tranh giành độc lập của các nước Mỹ Latinh và Caribe ...... 97
Hộp 2.1. Các thể chế chính của Cộng đồng Andes ........................................ 42
Hộp 2.2. Hiệp định Hợp tác Năng lượng PetroCaribe ................................... 46
Hộp 2.3. “Đảo chính nghị viện” tại Paraguay năm 2012 ............................... 51
Danh mục hộp
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Từ khi các nền cộng hòa ở Mỹ Latinh ra đời sau các cuộc chiến tranh giành
độc lập vào đầu thế kỉ 19 đã xuất hiện các ý tưởng về liên kết, hội nhập khu vực ở
Mỹ Latinh. Biểu hiện rực rỡ và sinh động nhất chính là tư tưởng và sự cống hiến cả
cuộc đời mình cho cuộc đấu tranh giải phóng và cho một nhà nước thống nhất cho
các dân tộc Mỹ Latinh của người anh hùng Mỹ Latinh, Simón Bolívar (1783-
1830). Chính những hạt giống tư tưởng đầu tiên ấy đã truyền cảm hứng cho các
sáng kiến, mô hình về sự thống nhất, liên kết khu vực trong các giai đoạn tiếp
theo của các nước Mỹ Latinh. Các tư tưởng về một khu vực Mỹ Latinh đoàn kết,
thống nhất ngày càng được truyền bá rộng rãi đã hình thành nên “chủ nghĩa Mỹ
Latinh” (Latinamericanismo), sau trở thành nền tảng tư tưởng cho quá trình hội
nhập khu vực.
Tuy nhiên, trải qua các giai đoạn thăng trầm của lịch sử, vấn đề liên kết, hội
nhập khu vực nhiều lần được đưa ra, đã đạt được những bước tiến rõ rệt nhưng cũng
không ít lần bị trì hoãn, gác lại, hay thậm chí thất bại. Trong thời kì Chiến tranh
Lạnh, theo làn sóng ở các khu vực trên thế giới, đặc biệt là quá trình hội nhập khu
vực ở Tây Âu, các mô hình liên kết, hội nhập cả về kinh tế và chính trị của Mỹ
Latinh đã ra đời như: Cộng đồng các Quốc gia Trung Mỹ (ODECA, 1951), Khu vực
Tự do Thương mại Mỹ Latinh (LAFTA,1960), Thị trường Chung Trung Mỹ
(CACM,1960), Cộng đồng các Quốc gia Andes (CAN, 1969), Hệ thống Kinh tế Mỹ
Latinh và Caribe (SELA, 1975) hay Hiệp hội Hội nhập Mỹ Latinh (LAIA, 1980) và
Thị trường Chung Nam Mỹ (MERCOSUR, 1991)… Tuy nhiên, các mô hình liên
kết, hội nhập này hoạt động kém hiệu quả về mặt chính trị bởi ảnh hưởng to lớn của
Mỹ, thông qua một loạt các cơ chế, đặc biệt là Tổ chức các nước châu Mỹ (OAS).
Về mặt kinh tế, vì nhiều nguyên nhân nội tại, bên cạnh sự can thiệp của Mỹ, nên các
làn sóng hội nhập của khu vực cũng chưa đạt được các mục tiêu.
Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, các xung đột, đối đầu Đông-Tây cũng
1
không còn, xu thế hội nhập khu vực trên thế giới trở nên sôi động hơn bao giờ hết,
cùng với sự mở rộng thương mại quốc tế được thúc đẩy mạnh mẽ. Khu vực Mỹ
Latinh cũng không nằm ngoài xu thế chung đó. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, sự
phát triển của liên kết, hội nhập khu vực vừa là động lực cho các hội nhập sâu hơn,
rộng lớn hơn ở quy mô toàn cầu cũng vừa là sự phản ứng lại, tự bảo vệ của các
nước yếu thế hơn trong bối cảnh toàn cầu hóa do các nước công nghiệp phát
triển, đặc biệt là Mỹ, dẫn dắt. Khía cạnh này rất đúng với các liên kết, hội nhập ở
Mỹ Latinh. Hội nhập khu vực của các nước này ở một khía cạnh là sự bày tỏ
quyết tâm thoát khỏi sự phụ thuộc vào Mỹ của các nước trong khu vực, cả về
kinh tế và chính trị.
Từ những năm 1970, các chính quyền quân sự trong khu vực, đi đầu là chính
quyền của Tướng Augusto Pinochet (1974- 1990) ở Chile, đã chấp nhận các chính
sách theo lý thuyết Tự do Mới (Neo-liberalism), theo các khuyến nghị của các học
giả theo trường phái Chicago (Chicago school). Về các chính sách trong nước,
trường phái này khuyến khích việc giảm can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế,
ủng hộ tư nhân hóa, mở cửa kinh tế với bên ngoài. Về mặt kinh tế đối ngoại, các
chính sách trong gói này đã ủng hộ tự do hóa thương mại liên quốc gia và thúc đẩy
làn sóng hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, việc áp dụng các “liều thuốc” này để
giải quyết tình trạng suy thoái của các nền kinh tế với số nợ nước ngoài cao ngất
ngưởng đã làm trầm trọng thêm những vấn đề bức bối của các nước trong khu vực.
Đó là tình trạng bất bình đẳng nghiêm trọng trong phân phối thu nhập dẫn đến việc
Mỹ Latinh là khu vực có chỉ số chênh lệch giàu – nghèo lớn nhất thế giới theo các
số liệu đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), các
vấn đề xã hội như nghèo đói, thất nghiệp cao, lan tràn bạo lực, ma túy,… nảy sinh
từ sự bất mãn do thiếu công bằng nghiêm trọng. Chính trong bối cảnh đó, các lực
lượng cánh tả, bao gồm các đảng dân chủ xã hội, đảng cộng sản và các lực lượng
tiến bộ ở các nước trong khu vực đã nổi lên và giành được chính quyền thông qua
bầu cử ở một loạt các nước như Venezuela, Ecuador, Bolivia, Nicaragua, Chile,
Argentina,… nhờ sự ủng hộ của đông đảo các tầng lớp nhân dân mong muốn thay
2
đổi hiện tình đất nước. Cũng từ đó, một xu thế hội nhập, liên kết khu vực mới được
kiến tạo với rất nhiều sáng kiến hợp tác, liên kết, hội nhập đa dạng bởi các nước
đang dưới sự lãnh đạo của các chính quyền cánh tả ở khu vực, cả về kinh tế và
chính trị, bên cạnh các mô hình hội nhập, liên kết theo xu hướng tự do hóa thương
mại đang tồn tại, được các nước còn lại trong khu vực và một phần các chính quyền
cánh tả ôn hòa ủng hộ.
Ở các nước Mỹ Latinh có một đặc điểm đáng chú ý là sự phân cực và đối lập
gay gắt giữa các khuynh hướng, lực lượng chính trị. Tình trạng này vừa có nguồn
gốc liên quan mật thiết với sự bất bình đẳng nghiêm trọng trong phát triển tại các
nước trong khu vực, vừa là hệ quả còn lại của tư duy chính trị thời Chiến tranh
Lạnh. Do đó, khi các lực lượng chính trị khác nhau lên cầm quyền sẽ có sự điều
chỉnh đáng kể, thậm chí thay đổi hẳn các chính sách đối nội và đối ngoại của các
chính phủ tiền nhiệm. Đó là lý do có thể giải thích tại sao các tổ chức hội nhập kinh
tế giữa các nước trong khu vực cũng mang màu sắc chính trị khác nhau, tùy vào bối
cảnh chính trị mà cụ thể là tương quan lực lượng giữa các bên. Trong bối cảnh đó,
đáng chú ý trong sự nổi lên của các liên kết, hội nhập theo xu hướng cánh tả là các
sáng kiến, mô hình do Venezuela, chủ yếu dưới thời Tổng thống Hugo Chavéz, dẫn
dắt và các mô hình liên kết, hội nhập ở khu vực do Brazil dưới sự lãnh đạo của các
chính quyền cánh tả ôn hòa làm chủ đạo.
Như vậy, các liên kết, hội nhập khu vực theo xu hướng cánh tả chỉ là một
trong những hướng nhằm tiến tới mục tiêu liên kết, hội nhập của khu vực, có liên
quan chặt chẽ tới việc cầm quyền của các lực lượng cánh tả trong khu vực. Trong
khi đó, nhìn lại trong lịch sử cũng như hiện tại, việc nở rộ các mô hình, tổ chức liên
kết và hội nhập khu vực, tiểu khu vực ở Mỹ Latinh nhưng ít có mô hình đạt được
các hiệu quả như mong muốn đặt ra câu hỏi về tính hiệu quả, tính bền vững của xu
thế; mức độ cũng như thực trạng và triển vọng của các sáng kiến, mô hình liên kết,
hội nhập hiện nay. Liệu xu thế liên kết, hội nhập này có bền vững, hiệu quả hay sẽ
dễ thay đổi vì phụ thuộc vào sự cầm quyền của cánh tả trong khu vực? Ngoài ra,
liệu các liên kết, hội nhập của các chính quyền cánh tả có tạo ra được điều gì khác
3
biệt với các làn sóng hội nhập trong lịch sử khu vực hay không? Những thuận lợi và
thách thức đối với các tiến trình này ra sao? Từ việc phân tích các nhân tố ảnh
hưởng cả trong và ngoài khu vực liệu có đưa ra được những dự báo cho triển vọng
của tiến trình này ở khu vực?
Để giải quyết những vấn đề trên, tôi quyết định chọn đề tài “Hội nhập khu
vực theo xu hướng cánh tả của các nước Mỹ Latinh đầu thế kỉ 21” để thực hiện
nghiên cứu.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Sự liên kết và hội nhập khu vực ở Mỹ Latinh xuất hiện khá sớm nên cũng có
rất nhiều công trình nghiên cứu ở cả trong và ngoài khu vực. Nội dung của các
nghiên cứu của các tác giả trong khu vực đề cập đến các vấn đề đa dạng của vấn đề
liên kết và hội nhập, có thể được xuất bản ở trong hoặc ngoài khu vực. Có thể kể
đến các công trình của C. Jose Angel Perez Garcia về ảnh hưởng của chủ nghĩa tự
do mới tới thương mại và liên kết khu vực, được dịch và đăng trên Tạp chí Nghiên
cứu Kinh tế số 361; hay bài viết của Jorge I. Domínguez và cộng sự về quan hệ kinh
tế của khu vực với bên ngoài “China’s relations with Latin America: shared gains,
asymetric hopes” năm 2006; về các mô hình hội nhập có thể kể đến nghiên cứu của
José Briceño Ruiz "The New Regionalism in South America and the South
American Community of Nations" năm 2007; hay bài viết về hội nhập khu vực,
thương mại và xung đột tại Mỹ Latinh của một nhóm tác giả do Alejandra Ruiz-
Dana phụ trách ““Regional Integration, Trade and Conflict in Latin America”
(2007). Nhiều công trình trong số này được xuất bản hoặc công bố tại các viện
nghiên cứu, hội thảo ở Mỹ và Canada.
Ngoài ra, nhiều nghiên cứu của các học giả Mỹ Latinh được công bố với tư
cách là các ấn phẩm của Ủy ban Kinh tế Liên Hợp Quốc khu vực Mỹ Latinh và
Caribe (ECLAC/CEPAL, có trụ sở chính tại Santiago de Chile) với các nội dung
mang tính tổng hợp, khái quát. Trong đó, có thể kể đến Renato Baumann (Văn
phòng ở Brasilia) với bài viết “Integration in Latin America - Trends and
4
Challenges”, vào năm 2008.
Ngoài khu vực, các nơi tập trung nhiều nghiên cứu sâu về vấn đề này của khu
vực chính là ở các nước, các khu vực đối tác chủ yếu của Mỹ Latinh. Trong đó, có
thể kể đến là Mỹ và Canada, EU, Trung Quốc, Australia,… Các nghiên cứu của các
học giả từ các viện nghiên cứu, các trường đại học này cũng tập trung vào hai vấn
đề chính là sự nổi lên của cánh tả khu vực và các sáng kiến, mô hình hội nhập kinh
tế khu vực của các nước Mỹ Latinh, cũng như khả năng thiết lập các quan hệ đối tác
khu vực-khu vực hay khu vực-quốc gia. Các nghiên cứu này gặp nhau ở điểm đánh
giá có sự khác biệt khá rõ hay chính là nhiều cấp độ khác nhau của cánh tả khu vực.
Do đó, quan điểm về vấn đề hội nhập kinh tế khu vực cũng như chống tự do hóa
thương mại là ở các cấp độ khác nhau, tùy mức độ “tả” của chính quyền các nước.
Từ phía các nước EU, với hướng tiếp cận nghiên cứu liên kết, hội nhập khu
vực Mỹ Latinh để thúc đẩy tiến trình liên kết giữa hai khối, có thể kể đến công trình
nghiên cứu của các tác giả tại Viện Quan hệ Kinh tế Quốc tế (Hy Lạp) là Bouga
Panagiota về “Latin American Integration: Mercosur, CELAC and EU-CELAC
partnership as a new form of inter-regionalism” (2013), trước đó có bài viết của
Anastasios I. Valvis về “Regional Integration in Latin America” (2008). Olivier
Dabène ở Học viện Chính trị Paris (Sciences Po, CERI/OPALC, Paris) có bài viết
đưa ra một cái nhìn xuyên suốt từ góc độ lịch sử đối với tiến trình hội nhập khu vực
Mỹ Latinh “Explaining Latin America’s fourth wave of regionalism: regional
integration of a third kind” (2012). Eric Toussalnt cũng có một bài viết đã được
dịch,“Cái nhìn toàn cảnh về phong trào cánh tả” (2009). Ở Italia cũng có nghiên cứu
của José Antonio Sanahuja (RSCAS-EUI, Florene) về “Post-liberal Regionalism in
South America: The Case of UNASUR” năm 2012. Nghiên cứu của các học giả Ấn
Độ có thể kể đến bài viết “UNASUR and Security in South America” của tác giả
Babjee Pothuraju tại Viện Nghiên cứu và Phân tích Quốc phòng (IDSA, New Dehli)
năm 20102…Đối với các công trình của các tác giả nước ngoài, cả trong và ngoài
khu vực, đều là các công trình chuyên sâu về các khía cạnh cụ thể hay mang tính
chuyên biệt về một vấn đề liên kết, hội nhập ở khu vực. Do đó, để hiểu được một
5
cách hệ thống và đầy đủ về vấn đề cần có một công trình nghiên cứu riêng.
Ở Việt Nam, dù đã có những công trình nghiên cứu về Mỹ Latinh và liên kết,
hội nhập ở khu vực từ cuối thế kỉ 20 như luận án tiến sĩ của Nguyễn Viết Thảo về
hội nhập khu vực ở Mỹ Latinh: kinh tế, văn hóa, xã hội nhưng hầu như vấn đề vẫn
còn khá mới mẻ. Các công trình nghiên cứu về phong trào cánh tả đầu thế kỉ 21
xuất hiện khá nhiều, các bài viết về các vấn đề của khu vực cũng khá phổ biến
nhưng vẫn thiếu một công trình nghiên cứu đầy đủ, toàn diện về quá trình liên kết
và hội nhập ở khu vực này kể từ sau Chiến tranh Lạnh đến nay. Các nghiên cứu ở
Việt Nam về vấn đề này thường từ hai nguồn chính. Một là các nghiên cứu của các
nhà nghiên cứu từ Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Các nghiên cứu của
nhóm tác giả này tập trung vào nghiên cứu cánh tả trong khu vực và mô hình “chủ
nghĩa xã hội thế kỉ 21” thường đi sâu vào các vấn đề trong nước và mang tính so
sánh các lực lượng cánh tả trong khu vực mà ít chú ý tới vấn đề hội nhập khu vực
của các chính phủ này. Các tác giả và bài viết có thể kể đến như: Thái Văn Long với
bài viết “Phong trào cánh tả Mỹ Latinh hiện nay và triển vọng trong thời gian tới”
(2009); Nguyễn Viết Thảo với bài viết “ALBA – 10 năm đoàn kết và thắng lợi”
(2014); Nguyễn An Ninh có bài “Cánh tả châu Âu và cánh tả Mỹ Latinh: khác biệt
tạo nên đột phá” (2012),…
Nhóm nghiên cứu thứ hai là của các nhà nghiên cứu ở Viện Nghiên cứu châu
Mỹ (Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam). Các nghiên cứu thuộc nhóm này có
đối tượng nghiên cứu khá đa dạng và gần với các hướng nghiên cứu của các học giả
phương Tây. Trong đó, vấn đề hội nhập kinh tế của các nước Mỹ Latinh, từ mô
hình, thực trạng, triển vọng đến vai trò lớn của Mỹ đối với hội nhập khu vực là
những nội dung được nghiên cứu nhiều. Các tác giả và bài viết của nhóm này là:
Nguyễn Lan Hương với các bài viết về “Mạng lưới liên kết chính trị dưới sự khởi
xướng của các nước Mỹ Latinh” (2012) và “Tác động của Hoa Kỳ tới liên kết
chính trị ở Mỹ Latinh” (2013) hay Nguyễn Anh Hùng với bài viết “Liên kết và hợp
tác Mỹ Latinh năm 2010” (2011)…Do đó, luận văn cố gắng để có thể trình bày một
cái nhìn toàn diện, mang tính tổng hợp về xu hướng hội nhập khu vực mới này cũng
6
như là một phần của hội nhập khu vực ở MLT.
3. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
+ Các tư tưởng, chính sách hội nhập khu vực theo xu hướng cánh tả
+ Các mô hình, sáng kiến hội nhập khu vực theo xu hướng cánh tả
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: nghiên cứu tập trung vào các nước trong khu vực Nam Mỹ,
một phần ở các nước Trung Mỹ và Caribe. Các sáng kiến, mô hình hội nhập ở khu
vực do các chính quyền cánh tả ở Nam Mỹ thiết lập và chi phối.
- Thời gian: nghiên cứu phân tích trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến
năm 2015. Đây là giai đoạn mà các chính phủ cánh tả nắm chính quyền ở các nước
Mỹ Latinh và tiến hành các chính sách về hội nhập khu vực theo định hướng mới.
4. Mục tiêu nghiên cứu
- Mục tiêu tổng quát: Làm sáng tỏ xu hướng hội nhập khu vực mới – xu
hướng hội nhập khu vực cánh tả của các nước Mỹ Latinh đầu thế kỉ 21
- Mục tiêu cụ thể: 1) Làm sáng tỏ những yếu tố tác động đến sự hình thành
và phát triển của xu hướng hội nhập khu vực cánh tả đầu thế kỉ 21; 2) Làm rõ thực
trạng của xu hướng hội nhập khu vực cánh tả đầu thế kỉ 21; 3) Đánh giá được triển
vọng của xu hướng cánh tả trong hội nhập khu vực ở Mỹ Latinh đầu thế kỉ 21.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Chỉ ra và phân tích những yếu tố trong và ngoài khu vực tác động đến xu
hướng hội nhập khu vực cánh tả của các nước MLT, làm cơ sở để đưa ra những
phân tích về thực trạng và triển vọng.
- Tái hiện tiến trình, nội dung hội nhập khu vực; chỉ ra đặc điểm của các mô
hình, sáng kiến liên kết, hội nhập của xu hướng này để chỉ ra tương đồng, khác biệt
với các làn sóng hội nhập khác ở khu vực và vai trò của xu hướng này đối với mục
tiêu hội nhập khu vực của các nước Mỹ Latinh.
- Chỉ ra và phân tích những tác động của xu hướng hội nhập cánh tả cũng
như những thách thức, thuận lợi để đưa ra các kịch bản triển vọng tiến trình hội
7
nhập khu vực theo xu hướng mới đầu thế kỉ 21.
6. Cơ sở lý luận và Phương pháp nghiên cứu
6.1. Cơ sở lý luận
Để xây dựng các lập luận, nghiên cứu dựa trên 04 cơ sở lý luận chính là: lý
thuyết phổ chính trị, lý thuyết về chủ nghĩa khu vực, lý thuyết về hội nhập kinh tế
quốc tế và lý thuyết phụ thuộc trong nghiên cứu quan hệ quốc tế.
Lý thuyết về phổ chính trị (the political spectrum)
Các thuật ngữ “cánh tả ôn hòa”, “cánh tả cấp tiến”, “trung tả” trong nghiên
cứu được sử dụng dựa trên khung lý thuyết về phổ chính trị. Theo lý thuyết này, các
đảng chính trị, các chính phủ cầm quyền được phân loại theo một thang dao động từ
cực tả đến cực hữu, qua các mức tả, trung tả, trung dung, trung hữu, hữu. Sự phân
chia này dựa trên quan điểm của các bên về vấn đề tự do kinh tế, vai trò của nhà
nước trong nền kinh tế, dân chủ, công bằng xã hội, và liên kết, hội nhập quốc tế. Sự
phân loại này có từ lâu trong lịch sử (theo quan điểm được chấp nhận rộng rãi hiện
nay là từ cuộc Cách mạng Pháp, 1789) nhưng các khái niệm cánh tả, cánh hữu cũng
đã có nhiều biến đổi qua thời gian về quan điểm, lực lượng. Đôi khi, các chính đảng
không thể thực sự được phân biệt rạch ròi về tư tưởng chính trị do xu hướng ngày
càng phổ biến của sự kết hợp, dung hòa quan điểm của các bên trong thực tế chính
trị thế giới hiện nay, ẩn sau đó là sự thỏa hiệp lẫn nhau, phân chia lợi ích. Tuy
nhiên, lý thuyết này có thể được sử dụng để chỉ ra mức độ khác nhau của lực lượng
cánh tả ở các nước Mỹ Latinh, những chủ thể có chủ trương khác nhau về liên kết,
hội nhập khu vực. Từ nhóm các thuật ngữ về tả, hữu theo lý thuyết này mà xuất
hiện thuật ngữ “theo xu hướng cánh tả”.
Lý thuyết về chủ nghĩa khu vực (the regionalism)
Lý thuyết về chủ nghĩa khu vực, đặc biệt là chủ nghĩa khu vực mới (neo-
regionalism), vốn tích hợp nhiều quan điểm của các lý thuyết quan hệ quốc tế khác,
là khung lý thuyết để nhận định các cách thức tiến hành hội nhập khu vực, dựa trên
quan điểm về các thành phần tạo nên chủ nghĩa khu vực: bản sắc khu vực, hợp tác
khu vực, và xu thế khu vực hóa, của các chính quyền cánh tả Mỹ Latinh. Khung lý
thuyết này sẽ giúp giải thích tại sao các nước cánh tả trong khu vực nói riêng, các
8
nước Mỹ Latinh nói chung cố gắng xây dựng các thể chế cấp độ khu vực cũng như
có các biện pháp nhằm xây dựng nhận thức chung, phổ biến về các vấn đề khu vực
giữa các nước thành viên. Đồng thời, lý thuyết về chủ nghĩa khu vực mới, đặc biệt
nhấn mạnh đến tính “mở” của chủ nghĩa khu vực sẽ giúp giải thích việc gia nhập
nhiều khối liên kết cùng lúc của các nước trong khu vực, cũng như việc xây dựng
các khối không hẳn dựa trên yếu tố gần gũi và tương đường về địa lý như trước đây.
Lý thuyết về hội nhập kinh tế khu vực (regional integration)
Lý thuyết về hội nhập kinh tế khu vực do nhà kinh tế học người Hungary Béla
Balassa (1928- 1991) đưa ra phân chia hội nhập khu vực thành 05 cấp độ. Đó lần
lượt từ thấp đến cao là: thỏa thuận thương mại ưu đãi (preferential trade
arrangement- PTA); thiết lập khu vực thương mại tự do (free trade area/agreement);
thiết lập liên minh thuế quan (custom union); thiết lập thị trường chung (common market) và thiết lập liên minh kinh tế (economic union)1. Lý thuyết này giúp phân tích
mức độ hội nhập của các mô hình, sáng kiến của các chính quyền cánh tả Mỹ Latinh về
hội nhập khu vực cũng như cho phép đưa ra dự đoán về những dự định trong xu hướng
hội nhập khu vực của các nước Mỹ Latinh, dù không phải là tuyệt đối.
Lý thuyết phụ thuộc trong quan hệ quốc tế (dependency theory)
Lý thuyết phụ thuộc trong quan hệ quốc tế, được đưa ra từ thập niên 1950 bởi
các học giả châu Âu và Nam Mỹ. Lý thuyết này phân chia thế giới thành khu vực
trung tâm và khu vực ngoại vi. Lý thuyết này cho rằng sự kém phát triển ở các nước
ngoại vi là do sự phụ thuộc của các nước này vào các nước trung tâm, các nước giàu, đặc biệt là Mỹ2. Tuy vậy, trong các nhà lý thuyết của chủ nghĩa phụ thuộc lại
chia thành hai nhóm quan điểm. Một nhóm cấp tiến thì cho rằng các nước chậm
phát triển cần cắt đứt những mối liên hệ kinh tế với các nước trung tâm để có thể
độc lập phát triển. Biểu hiện rõ ràng cho quan điểm này ở các nước Mỹ Latinh
là việc nhiều nước trong khu vực muốn loại bỏ sự can thiệp của Mỹ vào khu
vực. Một nhóm quan điểm khác thì cho rằng việc duy trì các mối liên hệ đó là
1 Bùi Trường Giang (2010), Hướng tới chiến lược FTA của Việt Nam: Cơ sở lý luận và thực tiễn Đông Á, NXB KHXH. 2 Sunil Kukreja (2012), “Hai khía cạnh của phát triển”2, (Khoa Quan hệ Quốc tế dịch), Tập bài đọc Kinh tế Chính trị Quốc tế, tp.HCM, trang 313- 352. (Bản gốc tiếng Anh xuất bản năm 2001)
9
cần thiết để các nước nghèo có thể phát triển kinh tế dần lên, dần chuyển thành
các nước giàu, nhưng mối quan hệ đó phải được điều chỉnh theo hướng công
bằng hơn cho các nước nghèo. Việc áp dụng khung lý thuyết này cho phép giải
thích các quan điểm, chính sách của các nước cánh tả, đặc biệt là các nước cánh
tả cấp tiến trong khu vực.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp lịch sử: được sử dụng để trình bày về tiến trình, các mốc
quan trọng trong sự hội nhập của các nước MLT.
- Phương pháp định lượng: sử dụng các số liệu, chỉ số, thống kê nhằm phân
tích thực trạng, mức độ hiệu quả của các sáng kiến hội nhập kinh tế.
- Phương pháp so sánh: so sánh hai xu hướng liên kết, hội nhập cánh tả ôn
hòa và theo xu hướng cánh tả cấp tiến nhằm phân tích các ưu, nhược điểm để đưa ra
các dự báo về triển vọng phát triển.
- Phương pháp phân tích chính sách: căn cứ các nội dung chính sách để tìm
hiểu mục tiêu, cách thức của các chủ thể liên quan đến tiến trình hội nhập, liên kết
khu vực.
7. Ý nghĩa nghiên cứu
- Ý nghĩa lý luận: góp phần làm sáng tỏ các lý thuyết về chủ nghĩa khu vực,
hội nhập khu vực và về phong trào cánh tả quốc tế thông qua nghiên cứu thực tiễn
tại khu vực Mỹ Latinh sau Chiến tranh Lạnh, đặc biệt là vào đầu thế kỉ 21. Làm cơ
sở cho các nghiên cứu tiếp theo về hội nhập, liên kết khu vực và nghiên cứu về Mỹ
Latinh.
- Ý nghĩa thực tiễn: làm cứ liệu gợi mở những suy nghĩ về hội nhập khu vực
mà Việt Nam là thành viên, đặc biệt là Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á
(Association of Southeast Asia Nations/ASEAN) trong cục diện thế giới đầu thế kỉ
21; sử dụng làm tài liệu giảng dạy về Mỹ Latinh.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu bởi ba chương. Cụ thể:
10
Chương 1: Các yếu tố tác động đến hội nhập khu vực theo xu hướng cánh tả
Phân tích các yếu tố trong và ngoài khu vực, đặc biệt là các yếu tố thuận lợi
đưa đến sự hình thành và thúc đẩy quá trình hội nhập khu vực theo xu hướng cánh
tả của các nước Mỹ Latinh.
Chương 2: Thực trạng hội nhập khu vực theo xu hướng cánh tả
Phân tích thực trạng của các sáng kiến, mô hình hội nhập khu vực ở cả hai xu
hướng ôn hòa và cấp tiến do hai nhóm chính quyền cánh tả tương ứng của khu vực
triển khai. Từ đó, chỉ ra các đặc điểm nổi bật của xu hướng hội nhập khu vực mới
này ở MLT.
Chương 3: Triển vọng của hội nhập khu vực theo xu hướng cánh tả
Phân tích các tác động của xu hướng hội nhập khu vực mới này của các nước
Mỹ Latinh ở cả góc độ trong và ngoài khu vực. Đồng thời, các kịch bản về triển
vọng ngắn hạn cũng như trung và dài hạn cũng được đưa ra thông qua việc chỉ ra
11
những thách thức các nước cánh tả gặp phải cũng như những thuận lợi đang có./.
CHƯƠNG 1. CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HỘI NHẬP KHU VỰC THEO
XU HƯỚNG CÁNH TẢ
Sự hình thành và phát triển của xu hướng hội nhập khu vực cánh tả ở Mỹ
Latinh vào đầu thế kỉ 21 là nhờ sự hội tụ của các điều kiện thuận lợi ở cả trong và
ngoài khu vực. Trong nội bộ khu vực, các điều kiện thuận lợi đến từ tình hình chính
trị chung của khu vực cũng như của riêng từng nước, đồng thời cũng đến từ các chia
sẻ về điều kiện về kinh tế, lịch sử, văn hóa, xã hội của các nước MLT. Đối với các
tác động từ bên ngoài, quá trình toàn cầu hóa kinh tế cũng như quá trình định hình
một trật tự thế giới mới là hai nhân tố tác động chủ yếu đến xu hướng hội nhập khu
vực mới này của các nước MLT.
1.1. Các yếu tố trong khu vực
1.1.1. Các điều kiện chính trị thuận lợi
Tình hình chính trị mới của các nước Mỹ Latinh sau khi thoát khỏi “bóng ma”
của chủ nghĩa độc tài quân sự từ cuối thế kỉ 20 đã tạo điều kiện cho các sinh hoạt
chính trị dân chủ được phát triển trong khu vực. Đây chính là một biến đổi sâu sắc
nhất của các nước Mỹ Latinh kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai (1939- 1945).
Các lực lượng cánh tả trong khu vực đã lên cầm quyền trong bối cảnh này, mở ra
một xu hướng mới trong tiến trình hội nhập khu vực.
Làn sóng dân chủ hóa ở Mỹ Latinh sau Chiến tranh Lạnh
Trong thời kì Chiến tranh Lạnh, đặc biệt là trong những thập niên 1970- 1980,
ở khu vực Mỹ Latinh tồn tại nhiều chính quyền độc tài quân sự kéo dài, từ gia đình
Somoza ở Nicaragua (1936- 1979), Alfredo Stroessner (1954- 1989) ở Paraguay,
Hugo Banzer ở Bolivia (1971- 1979), đến Agusto Pinochet Ugarte ở Chile (1973-
1990). Về mặt chính trị, các chính quyền độc tài của các tướng lĩnh quân sự đàn áp
các lực lượng đối lập, các phong trào xã hội, hạn chế các quyền dân sự của công
dân. Các lực lượng cánh tả trong khu vực thuộc nhóm đối tượng đàn áp chủ yếu của
các chính quyền quân sự cánh hữu này. Về mặt đối ngoại, các chính quyền quân sự
12
đều nhận được sự ủng hộ của chính quyền Mỹ trong việc duy trì quyền lực, do đó
có xu hướng thân Mỹ và gắn với các lợi ích của chính phủ và các tập đoàn của Mỹ
ở khu vực, ở một mức độ nhất định. Về mặt kinh tế, nhằm tranh thủ sự ủng hộ và
giúp đỡ của Mỹ trong phát triển kinh tế đất nước, các chính quyền quân sự ở Mỹ
Latinh đã chấp nhận các cải cách kinh tế theo khuôn khổ của lý thuyết “tự do mới”
(neo-liberalism) dưới hình thức các khuyến nghị chính sách của các học giả theo
trường phái Chicago. Chile dưới thời Tướng Pinochet (1973- 1990) là nước đầu tiên
áp dụng các biện pháp này từ năm 1973, sau khi Tướng Pinochet làm đảo chính lật
đổ chính phủ cánh tả của Tổng thống Salvador Allende (1970- 1973). Các nước
khác thì muộn hơn sau đó khoảng 10- 15 năm, khi các chính quyền quân sự dần đi
đến chỗ sụp đổ. Việc thực thi các chính sách theo lý thuyết “tự do mới” này đã đưa
đến chiến lược công nghiệp hóa hướng ra xuất khẩu (export-oriented
industrialization/EOI), thay cho chiến lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu
(import substitution industrialization/ISI) đã bộc lộ những hạn chế rõ ràng, cản trở
sự phát triển kinh tế của các nước trong khu vực. Tuy nhiên, đến cuối những năm
1980, khi các chính sách kinh tế “tự do mới” bước đầu được triển khai bởi các chế
độ độc tài quân sự chỉ giúp các nước đạt được những kết quả khiêm tốn về mặt phát
triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân. Không những vậy, các vấn đề về kinh tế
và chính trị của khu vực trở nên trầm trọng thêm. Thập kỉ 1980 được coi là “thập kỉ
mất mát” của các nước Mỹ Latinh. Sau thất bại của Argentina trước Anh trong việc
tranh chấp quần đảo Manvinas/Falkland (1982), chính quyền độc tài quân sự của
Tướng Jorge Rafael Videla (1976- 1983) ở nước này đã bị lật đổ. Kể từ đó, một làn
sóng kéo dài trong những năm 1980 là sự sụp đổ lần lượt và không thể tránh khỏi
của chính quyền quân sự ở các nước trong khu vực. Quá trình dân chủ hóa đất nước
được khởi động và đi vào hiện thực khi các chính phủ dân sự lên cầm quyền ở một
loạt nước Mỹ Latinh. Mọi mặt sinh hoạt của đất nước cũng dần được dân chủ hóa.
Cùng với quá trình dân sự hóa trong khu vực là sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh
trên thế giới, chấm dứt cuộc đối đầu Đông-Tây mang màu sắc phân chia ý thức hệ.
13
Khi cuộc đối đầu Đông-Tây chấm dứt thì các nước Mỹ Latinh cũng phải đối mặt
với những vấn đề căn bản và bức thiết của chính mình, vốn bị che lấp bởi những
xung đột và đối đầu của Chiến tranh Lạnh. Đó là độc lập, chủ quyền cả về kinh tế
và chính trị, giải quyết đói nghèo, bất bình đẳng và tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, quá
trình dân chủ hóa xã hội cũng đã mở ra nhiều khả năng cho các nước Mỹ Latinh
trong việc vận dụng tối đa nội lực cũng như liên kết với bên ngoài để giải quyết
những vấn đề nhức nhối của đất nước trên bước đường phát triển. Chính trong bối
cảnh này, các lực lượng cánh tả ở khu vực, sau khi tự điều chỉnh cho phù hợp với
yêu cầu của bối cảnh mới đã nổi lên như các lực lượng đi đầu trong các cải cách
mạnh bạo nhằm giải quyết những vấn đề của các nước, của khu vực.
Sự nổi lên của cánh tả và nhu cầu hội nhập mới
Sự nổi lên mạnh mẽ của các lực lượng cánh tả ở Mỹ Latinh đầu thế kỉ 21 có
liên quan chặt chẽ đến những bất ổn trong khu vực do sự thất bại của việc thực thi
các chính sách kinh tế “tự do mới”. Mặc dù, các chính sách kinh tế tự do mới cũng
đã đem lại những thay đổi đáng kể cho các nước Mỹ Latinh. Đó là giúp “giải
phóng” năng lực sản xuất, cải thiện tình trạng trì trệ của kinh tế trong nước nhờ mở
rộng thị trường tiêu thụ các sản phẩm khỏi quy mô thị trường nội địa nhỏ bé của các
nước Mỹ Latinh, vốn vẫn là các nước nghèo khó thuộc Thế giới thứ Ba, mở ra các
thị trường tiêu thụ ở châu Âu và Bắc Mỹ. Thứ hai, việc mở cửa nền kinh tế giúp tiếp
nhận dòng vốn từ các nước phát triển bên ngoài khu vực đã góp phần cải tạo hệ
thống cơ sở hạ tầng yếu kém, lạc hậu của các nước Mỹ Latinh sau khoảng 40 năm
(đến những năm 1980) thực hiện chiến lược phát triển kinh tế hướng nội. Mặt khác,
các chính sách khuyến khích tư nhân hóa nền kinh tế cũng như khuyến khích tự do
kinh doanh, giảm bớt các hàng rào ngăn cản tự do lưu thông hàng hóa giữa các
nước trong khu vực cũng như với các khu vực, quốc gia khác trên thế giới đã giúp
cho nền kinh tế các nước MLT, ở mức độ nào đó, trở nên năng động hơn, thích ứng
nhanh hơn với các nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, những vấn đề mà
chiến lược phát triển này để lại cho các nước Mỹ Latinh cũng vô cùng nặng nề.
14
Việc tư nhân hóa ồ ạt khu vực kinh tế quốc doanh đã dẫn đến sự thất thoát lớn tài
sản của nhà nước vào tay một số ít người lợi dụng kẽ hở pháp luật để trục lợi. Mặt
khác, việc tư nhân hóa triệt để các doanh nghiệp nhà nước cũng dẫn đến việc suy
giảm vai trò sâu sắc của các tổ chức công đoàn mạnh và được tổ chức tốt trước đó –
vốn là một điểm nổi bật của phong trào lao động ở Mỹ Latinh cũng như đẩy hàng
triệu người lâm vào cảnh khó khăn trong việc thích nghi và tìm kiếm công việc mới.
Điều này đặc biệt trở nên nghiêm trọng khi các nước trong khu vực bị cuốn vào một “cuộc chạy đua xuống đáy” (race-to-bottom3) nhằm thu hút dòng vốn đầu tư từ bên
ngoài vào khu vực. Các vấn đề về lao động, xã hội, môi trường bị đẩy xuống dưới
các thứ tự ưu tiên về kinh tế, thuận lợi hóa thương mại. Tình trạng khủng hoảng nợ
nước ngoài vẫn còn trầm trọng khi việc vay nợ ngày càng tăng về số lượng thì việc
sử dụng các khoản vay của các nước này lại thiếu hiệu quả một cách rõ rệt do yếu
kém về năng lực và tham nhũng phổ biến. Trong những năm 1990, nợ cả trong nước
và nước ngoài, của các nước Mỹ Latinh vẫn là một vấn đề nan giải, cản trở sự phát
triển kinh tế lành mạnh của các nước trong khu vực. Trong khoảng thời gian các cải
cách kinh tế “tự do mới” được áp dụng thì số nợ nước ngoài của Mỹ Latinh và
Caribe vẫn tăng lên 1,5 lần từ 453,3 tỉ USD năm 1991 lên 644,6 tỉ USD vào năm
1997. Ba nền kinh tế lớn nhất trong khu vực là Brazil, Mexico và Argentina cũng
3 “Race-to-bottom” được hiểu là thuật ngữ mang tính so sánh việc cạnh trạnh hạ thấp các điều kiện để nhằm tạo lợi thế so với các bên cạnh tranh, về lâu dài sẽ dẫn tới việc đưa các tiêu chuẩn xuống dưới mức hợp lí và gây hại.
15
lần lượt là những nước có số nợ lớn nhất. (xem bảng 1.1).
Bảng 1.1. Thống kê số nợ nước ngoài của các nước Mỹ Latinh và Caribe, 1991-
Nguồn: www.rrojasdatabank.info
1997
Về mặt xã hội, tỉ lệ người nghèo có giảm trong giai đoạn từ 1987- 1993, sau
đó chững lại và có xu hướng tăng lên vào giai đoạn 1999- 2002 (xem biểu đồ 1.2)
do những tác động của các cuộc khủng hoảng tài chính mà các nước Mỹ Latinh gặp
phải liên tiếp trong giai đoạn này: Mexico 1994, Brazil 1998, và Argentina năm
2001. Trong khi, còn một vấn đề nghiêm trọng nữa của Mỹ Latinh do các chính
sách kinh tế tự do mới để lại là sự bất bình đẳng sâu sắc về mặt kinh tế giữa các
nhóm, các tầng lớp trong xã hội. Sự bất bình đẳng thể hiện rõ rệt qua sự phân bổ thu
nhập, đặc biệt là chênh lệch giữa nhóm 20% giàu nhất, chiếm đến 50% thu nhập, và
16
nhóm 20% nghèo nhất là 10 lần (xem biểu đồ 1.3)
Nguồn: ECLAC (2012)
Biểu đồ 1.2. Số lượng và tỉ lệ người nghèo ở Mỹ Latinh và Caribe, 1981- 2012
17
Biểu đồ 1.3. Chênh lệch phân phối thu nhập ở Mỹ Latinh và Caribe, 2012
Nguồn: ECLAC (2012)
Sự bất bình đẳng về mặt kinh tế này đi liền với sự nghèo đói của một tỷ lệ lớn
người dân các nước khu vực Mỹ Latinh đã dẫn đến những bất ổn về mặt xã hội
cũng như sự lan tràn của bạo lực, ma túy ở các nước trong khu vực.
Chính sự thất bại này của các lực lượng cánh hữu ủng hộ quan điểm về tự do
kinh tế đã đưa đến sự ủng hộ rộng rãi của những tầng lớp dưới trong xã hội các
nước Mỹ Latinh đối với các lực lượng cánh tả trong khu vực – vốn đã tự cải biến
mình trong những năm 1990 từ những nhóm du kích vũ trang muốn tiến hành các
cải cách xã hội thông qua các cuộc cách mạng triệt để. Trong những năm 1990,
cánh tả Mỹ Latinh đã dần có sự tập hợp lực lượng mới, thông qua Diễn đàn Sao
Paolo (SPF) theo lời kêu gọi của Đảng Lao động Brazil (PT), làm tiền đề vững chắc
cho việc lên cầm quyền vào đầu thế kỉ 21. Các lực lượng cánh tả, giành thắng lợi
trong các cuộc bầu cử tự do, lên cầm quyền ở một loạt các nước Mỹ Latinh trong
thập niên đầu thế kỉ 21, sớm nhất là chính quyền cánh tả của Tổng thống Hugo
Chavéz vào năm 1998 ở Venezuela.
Không chỉ là lực lượng cánh tả cầm quyền sớm nhất ở khu vực vào đầu thế kỉ
18
21, chính quyền Venezuela dưới thời Tổng thống Hugo Chavéz (1999- 2013) còn là
lực lượng hăng hái và kiên định nhất trong việc triển khai các chính sách theo xu
hướng cánh tả, ủng hộ đoàn kết, liên kết khu vực Mỹ Latinh, chống lại sự bá quyền
của Mỹ trong khu vực. Tuy vậy, bên cạnh xu hướng cấp tiến của các chính quyền
cánh tả ở Venezuela, Bolivia, Ecuador và Nicaragua, các chính quyền cánh tả còn
lại trong khu vực như Brazil, Argentina, Uruguay, Chile lại có những cách tiếp cận
khác đối với nhu cầu mới về hội nhập khu vực.
1.1.2. Các gắn kết về lịch sử, kinh tế, văn hóa- xã hội
Sự tương đồng đáng kể về lịch sử, điều kiện kinh tế, văn hóa-xã hội
Sự tương đồng rõ rệt về nhiều mặt của các quốc gia trong khu vực là một
thành tố quan trọng làm cơ sở cho sự nổi lên và phát triển của chủ nghĩa khu vực và
tiến trình hội nhập ở Mỹ Latinh nói chung và hội nhập theo xu hướng cánh tả nói
riêng.
Về mặt lịch sử, các quốc gia trong khu vực đã cùng nhau chia sẻ gần hết
những thăng trầm trong suốt tiến trình gần 200 năm kể từ khi các nhà nước độc lập
hiện đại ra đời vào nửa đầu thế kỉ 19. Trước đó, lãnh thổ các nước Mỹ Latinh hiện
nay cũng đều là các thuộc địa trong thời gian khoảng 3 thế kỉ dưới sự cai trị của Tây
Ban Nha và Bồ Đào Nha. Trong quãng thời gian đó, sự hòa hợp về nhân chủng,
ngôn ngữ ở các nước trong khu vực là tương đối giống nhau. Do vậy, hiện nay ở các
nước Mỹ Latinh đều có các nhóm người châu Âu, châu Phi, bản địa và các nhóm
người lai giữa các nhóm trên. Tuy nhiên, ở mỗi nước thì tỉ lệ của các nhóm người là
khác nhau (xem phụ lục 2).
Đến đầu thế kỉ 19, hầu hết các thuộc địa Mỹ Latinh của Tây Ban Nha và Bồ
Đào Nha đều là những thuộc địa nông nghiệp. Các cuộc đấu tranh cách mạng vào
đầu thế kỉ 19 đã đưa đến sự ra đời của một loạt các nhà nước Mỹ Latinh độc lập
(xem phụ lục 3)
Cũng chính từ trong những cuộc đấu tranh giải phóng chống kẻ thù chung này,
nhận thức được vận mệnh chung, các dân tộc ở Mỹ Latinh đã xây dựng nên những
cơ sở đầu tiên cho sự hình thành của chủ nghĩa Mỹ Latinh (Latinamericanismo).
19
Tiêu biểu cho tinh thần thống nhất Mỹ Latinh này là khát vọng của người anh hùng
giải phóng Mỹ Latinh Simón Bolívar về một quốc gia vĩ đại, Đại Colombia (Gran
Colombia) cho các dân tộc MLT. Chính lý tưởng của người anh hùng giải phóng
Bolívar này được tuyên bố là một phần trong tư tưởng về chủ nghĩa xã hội thế kỉ 21
của cố Tổng thống Venezuela Hugo Chavéz và trong những tham vọng về hội nhập
khu vực ở MLT.
Trong những năm sau chiến tranh cách mạng, các nước Mỹ Latinh cũng chia
sẻ nhiều với nhau về các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, cũng như các trào
lưu chính trị. Các cuộc chiến tranh liên miên đi liền với chia tách, sáp nhập lãnh thổ
trong thế kỉ 19 ngoài những ảnh hưởng tiêu cực thì cũng đưa đến một hệ quả tích
cực là tăng cường sự giao lưu, chia sẻ văn hóa-xã hội, sắc tộc ở Mỹ Latinh ngày
càng sâu rộng.
Về kinh tế, các nước Mỹ Latinh khá giống nhau trong tiến trình phát triển
cũng như việc lựa chọn các chiến lược kinh tế cho từng thời kì nhất định. Từ giữa
thể kỉ 19 cho đến những năm 1930, các nước Mỹ Latinh đều là các nền kinh tế lấy
nông nghiệp làm chủ yếu, xuất khẩu nông phẩm phục vụ các thị trường Mỹ và châu
Âu. Công nghiệp chỉ tập trung vào khai khoáng, cũng để xuất khẩu và thu về ngoại
tệ và chi mua máy móc nông nghiệp và các mặt hàng tiêu dùng, xa xỉ phẩm. Cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới, đặc biệt ở Mỹ và châu Âu những năm 1930 đã làm
phá sản các nền kinh tế dựa vào xuất khẩu để tăng trưởng của MLT. Đến những
năm 1950, các nước trong khu vực lại cùng chuyển hướng sang chiến lược phát
triển mới được Ủy ban Kinh tế Mỹ Latinh của Liên Hợp Quốc (ECLAC) (lúc này
dưới sự điều hành của nhà kinh tế học người Argentina Raul Prebisch) khuyến nghị:
chiến lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu. Đến những thập niên 1980, 1990
thì nhiều nước Mỹ Latinh lại cùng chuyển hướng sang các cải cách kinh tế tự do
như những phân tích ở trên.
Trong khi đó, quá trình công nghiệp hóa không đáp ứng được nhu cầu giải
quyết việc làm khi ngành nông nghiệp suy giảm vai trò sử dụng lao động do cơ khí
hóa nông nghiệp đã khiến cho quá trình đô thị hóa ở các nước trong khu vực không
20
thể phát triển với tốc độ bình thường. Quy mô dân số quá lớn so với khả năng đáp
ứng các nhu cầu quá khiêm tốn, dù là các như cầu cơ bản về nhà ở, việc làm, y tế,
giáo dục, môi trường đã khiến các đô thị ở Mỹ Latinh hình thành những khu ổ chuột
nhếch nhác, nảy sinh các loại hình tệ nạn xã hội nghiêm trọng. Những vấn đề kinh
tế này đã dẫn tới những bất ổn xã hội dai dẳng mà các nước Mỹ Latinh đều gặp phải
kéo dài trong hàng chục năm qua. Tuy đây là những vấn đề của mỗi quốc gia trong
khu vực, nhưng các nước Mỹ Latinh đều phải thừa nhận rằng nếu không có những
nỗ lực chung của cả khu vực thì các nước này sẽ không thể thoát khỏi vòng luẩn
quẩn của sự kém phát triển và lệ thuộc vào bên ngoài. Đó chính là một trong những
lý do thúc đẩy quá trình hội nhập khu vực ở MLT, đặc biệt là các hội nhập khu vực
theo xu hướng cánh tả.
Các kinh nghiệm hội nhập khu vực
Mặc dù ý tưởng về một quốc gia thống nhất cho các dân tộc ở Mỹ Latinh xuất
hiện từ sớm trong lịch sử, nhưng các nỗ lực hiện thực hóa giấc mơ đó từ khi các nhà
nước Mỹ Latinh độc lập ra đời cho đến cuối thế kỉ 19 đã gặp phải thất bại. Điều này
đã biến Mỹ Latinh thành một khu vực có nhiều tương đồng về văn hóa-xã hội,
nhưng vẫn tồn tại những sự khác biệt. Những sự khác biệt đó ngày càng trở nên sâu
sắc theo tiến trình lịch sử tác động lên khu vực. Sự ra đời và bước đầu thành công
của mô hình hội nhập châu Âu sau Thế chiến thứ hai đã truyền cảm hứng cho việc
các nước Mỹ Latinh lập ra các tổ chức khu vực của riêng mình. Ban đầu là các thể
chế chung xuất hiện ở các tiểu khu vực có sự gần gũi hay tương đồng về mặt địa lý,
nhằm tiến tới việc xây dựng các thể chế cấp độ khu vực vào các giai đoạn tiếp theo.
Tổ chức khu vực đầu tiên ở khu vực phải kể đến Tổ chức các Quốc gia Trung Mỹ (ODECA) thành lập năm 1951 với 5 thành viên là các quốc gia Trung Mỹ4. Tuy
nhiên, tổ chức đầu tiên này lại ít đạt được những thành tựu và đổ vỡ do xung đột vũ
trang giữa các nước thành viên. Đến giai đoạn thập niên 1960- 1970, làn sóng hội
nhập khu vực lớn đầu tiên xuất hiện với sự ra đời của một loạt các tổ chức khu vực.
Đó là Khối Andes (1969), Cộng đồng Caribe (1973),… Các tổ chức này được thành
4 Bao gồm: Costa Rica, Guatemala, Honduras, Nicaragua và El Salvador
21
lập với mục đích thúc đẩy tự do hóa thương mại nội khu vực, thúc đẩy phát triển
Mỹ Latinh nhằm tiến tới giảm sự phụ thuộc vào các nước công nghiệp phát triển
phương Bắc. Dự án hội nhập kinh tế cấp độ toàn khu vực đầu tiên của Mỹ Latinh
cũng ra đời trong giai đoạn này. Đó là Hiệp hội Tự do Thương mại Mỹ Latinh
(LAFTA) được thành lập năm 1960 với sự tham gia của 7 nền kinh tế Mỹ Latinh
trong đó có các nền kinh tế lớn của khu vực là Brazil, Argentina và Mexico. Đến
năm 1975, một chương trình hội nhập ở cấp độ toàn khu vực khác được Venezuela
và Mexico đề xuất và giữ vai trò chủ đạo, nhờ nguồn dầu mỏ phong phú của mình,
trong bối cảnh cuộc khủng hoảng năng lượng 1973- 1974 vừa diễn ra. Đó là việc lập
ra Hệ thống Kinh tế Mỹ Latinh và Caribe (SELA) với sự tham gia của 25 nước
thành viên ban đầu.
Làn sóng hội nhập thứ hai ở Mỹ Latinh sau năm 1945 diễn ra mạnh mẽ vào
thập niên 1980- 1990 khi các mô hình liên kết kinh tế được thúc đẩy dưới ảnh
hưởng của việc áp dụng chủ nghĩa tự do mới của các nước MLT. Đầu tiên, lấy cảm
hứng từ Cộng đồng châu Âu (European Communities), vào năm 1980, Hiệp hội Hội
nhập Mỹ Latinh (ALADI) ra đời trên cơ sở sự chuyển đổi của Hiệp hội Thương mại
Tự do Mỹ Latinh (LAFTA) theo Hiệp ước Montevideo thứ hai để theo đuổi một
mục tiêu tham vọng hơn là cải thiện sự phát triển kinh tế và xã hội ở khu vực thông
qua sự thành lập một thị trường chung.
Tiếp theo đó, Thị trường chung Nam Mỹ (MERCOSUR) giữa bốn nước
Brazil, Paraguay, Uruguay và Argentina được kí kết vào năm 1991 để thúc đẩy tự
do thương mại và sự lưu thông dễ dàng hơn về hàng hóa, con người và tiền tệ, dựa
trên sự mở rộng một hiệp định song phương giữa Brazil và Argentina năm 1985.
Năm 1995, Mexico, Colombia và Venezuela đã lập Hiệp định Thương mại Tự do
G3 (G3 Free Trade Agreement) với định hướng tự do hóa mạnh mẽ. Đầu năm 1987,
Nghị viện Mỹ Latinh (Parlatino) được lập ra và đặt trụ sở tại Thành phố Panama
(Panama). Trước đó một năm, trên cơ cơ sở Nhóm Contadora và Nhóm Hỗ trợ
Contadora được lập ra vào đầu năm 1983 nhằm giải quyết các xung đột vũ trang tại
22
các quốc gia Trung Mỹ El Salvador, Nicaragua và Guatemala, Nhóm Rio (Rio
Group) đã được thành lập theo Tuyên bố Rio de Janeiro với 8 thành viên ban đầu5.
Đến khi tự chấm dứt hoạt động vào năm 2010 thì Nhóm Rio có 24 thành viên là các
quốc gia MLT. Ở một chừng mực nhất định, đây có thể coi là một nỗ lực của các
nước Mỹ Latinh nhằm thay thế vai trò của OAS. Từ 1987- 2010, Nhóm Rio đã tổ
chức 23 Hội nghị thượng đỉnh hằng năm giữa nguyên thủ các nước thành viên để
giải quyết các vấn đề của khu vực.
Sau khi giải quyết được cơ bản các cuộc xung đột vũ trang ở khu vực, các
nước Trung Mỹ đã thúc đẩy quá trình hội nhập khu vực bằng cách lập ra Hệ thống
Hội nhập Trung Mỹ (SICA) thông qua việc kí Công ước Tegucigalpa ngày
13/12/1991. Đây là sự mở rộng của Thị trường chung Trung Mỹ (CACM) được lập
ra từ năm 1960 nhằm theo đuổi những mục tiêu hội nhập sâu rộng hơn.
Hai thập niên đầu của thế kỉ 21 đang chứng kiến làn sóng hội nhập khu vực
lần thứ ba của các nước Mỹ Latinh với sự ra đời của một loạt các tổ chức liên chính
phủ khu vực lớn như Liên minh Bolívar cho các Dân tộc châu Mỹ (ALBA), Liên
minh các Quốc gia Nam Mỹ (UNASUR) và Cộng đồng các Quốc gia Mỹ Latinh và
Caribe (CELAC). Chính các kinh nghiệm hội nhập khu vực này là những tiền đề
quan trọng đối với các chính quyền Mỹ Latinh hiện nay nói chung và các chính
quyền cánh tả trong khu vực nói riêng khi thúc đẩy xu hướng hội nhập khu vực.
1.2. Các yếu tố bên ngoài
1.2.1. Xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa kinh tế
Từ sau sự “nâng cấp” Hiệp định Chung về Thương mại và Thuế quan (GATT)
thành Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) qua Vòng đàm phán Uruguay năm
1995, xu thế tự do hóa thương mại – một nhân tố chính yếu làm nên quá trình toàn
cầu hóa về mặt kinh tế, phát triển mạnh mẽ. Mục tiêu xây dựng một hệ thống
thương mại tự do toàn cầu là tham vọng lớn nhất của các nhà kinh tế, chính trị gia
tham dự Vòng đàm phán Doha, khởi động từ năm 2001 và dự định sẽ hoàn thành
5 Đó là các nước: Argentina, Brazil, Colombia, Mexico, Panama, Peru, Uruguay and Venezuela
23
vào năm 2005. Tuy nhiên, thời điểm gần nhất để đạt được thành công là vào năm
2008 thì các cuộc đàm phán cũng đổ vỡ. Để vượt qua những trở ngại do Vòng đàm
phán Doha trì trệ, các quốc gia trên thế giới, cả những nước phát triển, những quốc
gia mới nổi và những quốc gia đang phát triển đều đổi hướng, đẩy mạnh việc tự do
hóa thương mại ở cả cấp độ song phương và đa phương, cấp độ khu vực, liên khu
vực và toàn cầu thông qua việc kí kết các Hiệp định Thương mại Tự do (FTAs).
Các FTA này làm gia tăng nhanh chóng các dòng chảy về vốn, nguồn nhân lực,
hàng hóa, tiền tệ giữa các quốc gia, các khu vực trên thế giới.
Các nước MLT, kể từ các cải cách theo định hướng thị trường từ những năm
1990, cũng không nằm ngoài xu thế chung đó và nhiều nước trở thành các chủ thể
tích cực của quá trình này. Chile và Mexico là hai nước nổi bật nhất về việc kí kết
đa dạng các FTAs với các đối tác trong và ngoài khu vực. Tuy nhiên, tăng trưởng
thương mại chủ yếu là từ các đối tác ngoài Mỹ Latinh - các nền kinh tế phát triển
hoặc “mới nổi”. Trong khi, thương mại nội khu vực còn khá hạn chế. Xu thế tự do
hóa thương mại trên thế giới cũng như trong khu vực gián tiếp ảnh hưởng đến tiến
trình hội nhập khu vực theo xu hướng cánh tả. Lý do là bởi áp lực từ các lực lượng
thị trường của các nước cánh tả đòi hỏi chính phủ các nước này mở rộng các quan
hệ ngoại thương nhằm cạnh tranh thị phần với các nước trong khu vực, tránh “bị tụt
lại” trong cuộc cạnh tranh tới các thị trường ngoài khu vực, đặc biệt là thị trường
Mỹ và EU. Mặt khác, các nước vẫn duy trì theo đuổi các cải cách Đồng thuận Washington6 có các nền kinh tế mở trong khu vực đã tự tổ chức nhau lại thành các
khối thương mại hay cao hơn là nhằm tạo ra các thị trường chung, khu vực thuế
quan chung mạnh. Do đó, nhu cầu về liên kết, hội nhập khu vực của các chính
quyền cánh tả cũng là một đòi hỏi tất yếu để đảm bảo lợi ích quốc gia. Mặt khác, xu
thế cánh tả trong hội nhập khu vực ở Mỹ Latinh còn bao hàm nội dung bổ sung các
6 Đồng thuận Washington được các nhà kinh tế trong chính quyền Mỹ cùng với IMF và WB đưa ra năm 1989, bao gồm mười điểm: kỷ luật tài chính, các ưu tiên chi tiêu công, cải cách thuế, lãi suất, ngoại hối, tự do hóa thương mại, đầu tư trực tiếp nước ngoài, tư hữu hóa, giảm bớt sự can thiệp của chính phủ và quyền sở hữu.
24
mục tiêu hội nhập theo định hướng cánh tả hay điều chỉnh những thái quá của
khuynh hướng tự do kinh tế để đảm bảo một tiến trình liên kết, hội nhập khu vực
chắc chắn, hiệu quả và phát triển bền vững.
1.2.2. Sự tái định hình cục diện thế giới
Một đặc điểm lớn nhất của tình hình thế giới sau Chiến tranh Lạnh, đặc biệt
thể hiện rõ nét từ đầu thế kỉ 21, là sự tái định hình cục diện thế giới với xu hướng đa
cực, nhiều trung tâm. Sau sự sụp đổ của hệ thống quốc tế hai cực với đặc trưng và
sự đối đầu Đông – Tây vào thập niên cuối thế kì 20, một trật tự mới đang được định
hình với những sự cọ xát, va chạm và thỏa hiệp có tác động rất lớn đến tình hình các
khu vực trên thế giới. Trong đó có khu vực Mỹ Latinh. Từ góc độ chủ thể, các nước
Mỹ Latinh ý thức được cơ hội để giành lấy một vị trí có nhiều ảnh hưởng hơn và có
lợi hơn trong một trật tự thế giới mới đang được sắp xếp thông qua việc xây dựng
một tiếng nói chung trên trường quốc tế, đại diện cho toàn bộ khu vực. Các nước
lớn trong khu vực cũng muốn giành lấy một vai trò tích cực hơn với việc đứng ra
đại diện cho các nước đang phát triển còn nhiều khó khăn và lạc hậu trong cuộc đối
thoại toàn cầu với các nước đang phát triển. Từ góc độ khách thể, Mỹ Latinh là khu
vực vốn chịu ảnh hưởng truyền thống của Mỹ nhưng lại đang chứng kiến sự cạnh
tranh quyết liệt trong việc tranh giành ảnh hưởng của các nước lớn khác từ ngoài
khu vực.
Cạnh tranh quyền lực và ảnh hưởng của các nước lớn đến MLT
Cho đến đầu thế kỉ 21, nước Mỹ vốn duy trì được một quyền lực to lớn tại
MLT. Tuy nhiên, ảnh hưởng của Mỹ đối với khu vực không phải là không bị cạnh
tranh. Với sự phục hồi kinh tế và hội nhập khu vực thành công sau Thế chiến thứ
hai, Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC) đã tìm cách khôi phục ảnh hưởng và tìm
kiếm lợi ích ở Mỹ Latinh từ những năm 1970, đặc biệt gia tăng sự quan tâm khi Tây
Ban Nha và Bồ Đào Nha gia nhập khối vào năm 1986. Đến thập niên 1990, trong
những nỗ lực khôi phục tăng trưởng nhằm thoát ra khỏi trì trệ của Nhật Bản và các
cố gắng nhằm mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của Hàn Quốc, hai nước này đã
tìm đến MLT. Bước sang đầu thế kỉ 21, có thêm Trung Quốc, rồi Ấn Độ tham gia
25
vào cuộc cạnh tranh ảnh hưởng và lợi ích trong khu vực. Cùng thời điểm này, Nga
cũng thể hiện mong muốn quay lại tìm ảnh hưởng của mình trong khu vực. Tuy
nhiên, đến trước khi Trung Quốc tham gia vào cuộc cạnh tranh thì EU vẫn là đối thủ
cạnh tranh lớn nhất với ảnh hưởng của Mỹ trong khu vực.
Cho đến đầu thế kỉ 19, vì những lý do lịch sử, kinh tế, văn hóa-xã hội, các
nước Mỹ Latinh đã có mối quan hệ gắn bó rất mật thiết với các nước châu Âu, đặc
biệt là Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Trong khi, khu vực Caribe chủ yếu chịu ảnh
hưởng của các nước Anh, Pháp và Hà Lan. Đến nửa đầu thế kỉ 19, nước Mỹ vươn
tới khu vực Mỹ Latinh và tuyên bố gạt bỏ ảnh hưởng của các nước châu Âu tại đây với Học thuyết Monroe7 (1823). Kể từ thời điểm đó cho đến cuối thế kỉ 19 với cuộc
chiến tranh giành thuộc địa (Cuba, Puerto Rico, Philippines) với Tây Ban Nha,
nước Mỹ đã hoàn toàn xác lập được một ảnh hưởng vững chắc tại khu vực. Điều này được chính thức hóa với sự ra đời của Hệ luận Roosevelt8 (1901). Đây là sự kế
thừa và phát triển từ Học thuyết Monroe, không chỉ gạt bỏ vai trò ảnh hưởng của
các nước châu Âu vào khu vực mà còn bổ sung thêm khả năng can thiệp vào khu
vực nếu những lợi ích của Mỹ bị đe dọa xâm hại bởi các nước trong và ngoài khu
vực. Cho đến trước khi có sự cạnh tranh ảnh hưởng của Liên Xô đối với khu vực thì
Mỹ Latinh vẫn hoàn toàn nằm trong “vòng kiểm soát” của nước Mỹ. Trong bối
cảnh Chiến tranh Lạnh, sự ủng hộ của Liên Xô đối với Cuba và các chính phủ hay
các lực lượng vũ trang cánh tả trong khu vực nhằm đối đầu với các lực lượng, chính
phủ cánh hữu, độc tài quân sự đã gây ra một sự chia rẽ lớn trong khu vực, mặc dù ít
hơn so với các khu vực Á, Phi mới giành được độc lập sau Thế chiến thứ hai. Trong
thập niên đầu tiên sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, ảnh hưởng của nước Mỹ lên
cao trong khu vực khi các nước Mỹ Latinh chấp nhận các cải cách theo khuynh
hướng tự do mới thông qua cái gọi là Đồng thuận Washington với sự hỗ trợ to lớn
của các doanh nghiệp và chính phủ Mỹ. Việc áp dụng các các chính sách tự do mới
7 Đặt theo tên Tổng thống thứ 5 của nước Mỹ James Monroe (1817- 1825) với nội dung chính là nước Mỹ sẽ không can thiệp vào các thuộc địa của các nước châu Âu trong khu vực, nhưng nếu các nước châu Âu có ý định hay hành động nhằm thuộc địa hóa các quốc gia độc lập ở Mỹ Latinh thì nước Mỹ sẽ coi là những hành động thù nghịch với nước Mỹ. Khẩu hiệu “châu Mỹ của người châu Mỹ” được đưa ra trong bối cảnh này. 8 Đặt theo tên Tổng thống thứ 26 của nước Mỹ Theodore Roosevelt (1901- 1909).
26
cùng với sự gia tăng ảnh hưởng và lợi ích của Mỹ trong khu vực, trong khi, các vấn
đề kinh niên của Mỹ Latinh vẫn không thể được giải quyết đã khiến cho tinh thần
chống Mỹ, chống tự do hóa trong khu vực gia tăng, đặc biệt là ở những nước theo
xu hướng cánh tả cấp tiến như Venezuela, Bolivia, Ecuador.
Mỹ có ảnh hưởng vượt trội so với các cường quốc khác trong cuộc cạnh tranh
ảnh hưởng tại MLT, không chỉ về chính trị mà còn về kinh tế. Do sự gần gũi về địa
lí, Mỹ Latinh là khu vực quốc ngoại đầu tiên mà các tập đoàn của Mỹ vươn tới.
Thông qua các tập đoàn kinh tế này, Mỹ chi phối kinh tế, chính trị của hầu hết các
nước trong khu vực. Đây cũng chính là một thực tế mà các chính quyền cánh tả đưa
ra nhiều chỉ trích đối với ảnh hưởng của Mỹ trong khu vực cũng như đưa ra các
biện pháp nhằm hạn chế và dần đi tới việc loại bỏ sự can thiệp này. Trong khi ở
nhiều nước Mỹ Latinh khác, vai trò “lãnh đạo” của Mỹ trong các vấn đề của khu
vực vẫn tiếp tục được ủng hộ.
Đối với EU, Mỹ Latinh là một đối tác quan trọng về nhiều mặt và có nhiều sợi
dây gắn kết hai chủ thể, hai khu vực này với nhau. Kể từ khi Tây Ban Nha và Bồ
Đào Nha gia nhập EEC thì mối quan tâm của EU đối với Mỹ Latinh đã trở thành
mối quan tâm đặc biệt rõ rệt. Quan hệ kinh tế giữa EU và các nước Mỹ Latinh là
một trong những trụ cột của quan hệ song phương, cũng như là công cụ để EU có
thể gây ảnh hưởng tới khu vực. EU vốn vẫn là đối tác thương mại lớn thứ hai của
các nước MLT, sau Mỹ, cho đến khi bị Trung Quốc vượt qua. Tuy nhiên, EU cùng
với Mỹ vẫn là các thị trường trọng điểm truyền thống có ảnh hưởng quyết định tới
“sức khỏe” của các nền kinh tế Mỹ Latinh. Về đầu tư, EU hiện vẫn duy trì vị thế
dẫn đầu trong khu vực khi cung cấp đến 40% dòng đầu tư trực tiếp. Hiện EU đang
xúc tiến việc thành lập một FTA với khối Thị trường Chung Nam Mỹ
(MERCOSUR) để thúc đẩy quan hệ thương mại song phương. Không chỉ dừng lại ở
kinh tế, EU còn có những ảnh hưởng không nhỏ về chính trị với khu vực.
Từ năm 1949, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đã cùng với các nước Mỹ Latinh
vốn là các thuộc địa cũ của hai nước này lập ra Cơ quan Giáo dục Mỹ Latinh
(Office for Latin America Education), sau được tổ chức lại thành Tổ chức Giáo dục,
27
Khoa học và Văn hóa của các Quốc gia châu Mỹ Ibero, gọi tắt là Tổ chức các Quốc
gia Ibero châu Mỹ (OIE) vào năm 1985, ngay trước khi hai nước này gia nhập EC
vào năm sau đó. Từ đó đến nay, EU không chỉ tạo ảnh hưởng trong khu vực bằng
các nguồn hỗ trợ tài chính, kĩ thuật cho các nước trong khu vực cũng như với vai trò
là một đối tác thương mại và đầu tư chủ chốt mà còn tích cực xuất khẩu mô hình hội
nhập của mình sang MLT, đặc biệt là trong giai đoạn 1980- 1990. Hiện EU vẫn
được coi là mô hình hướng tới của nhiều quá trình, tổ chức hội nhập trong khu vực.
Ngoài Mỹ và EU, hai cường quốc kinh tế của Đông Á là Nhật Bản và phần
nào là Hàn Quốc cũng có sự xâm nhập đáng kể vào khu vực. Từ những năm 1970,
Nhật Bản đã nổi lên như một trong ba trung tâm kinh tế - tài chính lớn của thế giới.
Đến những năm 1980, Nhật Bản sử dụng nguồn vốn dồi dào của mình để đi tìm
kiếm các lợi ích kinh tế ở nhiều khu vực trên thế giới, trong đó có khu vực Mỹ
Latinh và Caribe. Tuy nhiên, cũng từ thập niên 1980, Nhật Bản bắt đầu lâm vào một
thời kì suy thoái kinh tế kéo dài khiến cho các hoạt động kinh tế đối ngoại cũng bị
thu hẹp. Phải đến đầu thế kỉ này, Nhật Bản mới chú trọng trở lại đến Mỹ Latinh
nhằm thiết lập các quan hệ kinh tế sâu rộng hơn, phục vụ cho nhu cầu khôi phục sự
tăng trưởng kinh tế sau hơn hai thập niên trì trệ. Ngoài ra, các chiến lược đối ngoại
mạnh mẽ dưới thời Thủ tưởng Shinzo Abe thể hiện mong muốn của Nhật Bản muốn
giữ một vai trò chủ động và lớn hơn trên trường quốc tế. Từ ngày 27/7- 3/8/2014,
Thủ tướng Nhật ShinzoAbe công du năm nước MLT: Mexico, Trinidad&Tobago,
Colombia, Chile và Brazil. Chuyến thăm của ông Abe trong bối cảnh có những
chuyến thăm tương tự của Tổng thống Nga Putin và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận
Bình đến khu vực và trước đó là của Phó Tổng thống Mỹ Joe Biden đã thể hiện một
cuộc cạnh tranh ảnh hưởng quyết liệt của các nước này đến Mỹ Latinh và Caribe.
Nhật Bản tìm thấy ở Mỹ Latinh một đối tác tiềm năng trong việc cung cấp các
nguồn kim khoáng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, cũng như một thị trường tiêu
thụ rộng lớn các sản phẩm đồ điện tử, xe hơi của Nhật Bản. Ngoài ra, Nhật Bản còn
9 Xem “Toyota sẽ xây dựng nhà máy mới trị giá 1 tỷ USD tại Mexico” tại http://www.vietnamplus.vn, truy cập ngày 16/8/2015
28
muốn tăng cường sức cạnh tranh của hàng hóa vào thị trường Mỹ khi đặt các cơ sở sản xuất ở Mexico9.
Hiện nay, Nhật Bản đã tìm cách tăng cường hợp tác với quốc gia lớn nhất
vùng Caribe là Cuba để tăng cường hợp tác sau khi Mỹ và Cuba tiến hành bình
thường hóa quan hệ sau hơn 50 năm. Cuba và Nhật tăng cường hợp tác trong lĩnh
vực cung cấp dịch vụ y tế. Hiện Nhật Bản và Cuba thúc đẩy mô hình xây dựng các
bệnh viện ở các nước đang phát triển ở Á, Phi và Mỹ Latinh với trang thiết bị y tế
do phía Nhật đầu tư trong khi các bác sĩ Cuba sẽ là những người trực tiếp vận hành
và tiến hành khám chữa bệnh. Đối với Nhật Bản, nước này đề ra chiến lược xuất
khẩu trang thiết bị y tế để tăng cường các nguồn thu trong bối cảnh kinh tế trì trệ
kéo dài. Đối với Cuba, ngành xuất khẩu dịch vụ y tế đã vượt ngành du lịch để trở
thành ngành đem lại nguồn thu lớn nhất cho nền kinh tế Cuba.
Đối với Hàn Quốc, Mỹ Latinh (đặc biệt là Nam Mỹ) là một thị trường mới mở
đầy tiềm năng với nước này. Sự quan tâm của Hàn Quốc đối với khu vực thể hiện
qua chuyến thăm khu vực dài ngày của Tổng thống Park Geun-hye tới 4 nước Nam
Mỹ là Colombia, Peru, Chile và Brazil trong năm 2015.
Hàn Quốc là bạn hàng quan trọng của khu vực Mỹ Latinh trong khoảng hai
thập niên trở lại đây. Theo số liệu của Ngân hàng Phát triển Mỹ Latinh, trao đổi
thương mại giữa hai bên tăng trung bình 16% mỗi năm trong vòng 20 năm qua, kể từ những năm 199010. Hiện Hàn Quốc đã kí các Hiệp định Thương mại Tự do song
phương (FTA) với Peru và Chile, đồng thời đang xúc tiến kí kết FTA tương tự với
Colombia. Ngoài việc tăng cường kết nối thông qua các thỏa thuận song phương,
Hàn Quốc và Mỹ Latinh còn tăng cường kết nối qua các diễn đàn liên khu vực như
Diễn đàn Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn Hợp tác Đông Á-Mỹ
Latinh (FEALAC). Hiện Hàn Quốc cũng đang tăng cường thâm nhập vào thị trường
cung cấp vũ khí cho các nước Nam Mỹ, cạnh tranh với các nước cung cấp vũ khí
truyền thống khác cho khu vực như Mỹ, Nga, EU hay như nguồn cung mới nổi là
Trung Quốc.
tăng cường họp
tác với các nước đồng minh ở Mỹ Latinh ”
tại
10 Xem “Hàn Quốc http://www.vietnamplus.vn, truy cập ngày 18/10/2015
29
Sự xuất hiện của các “cường quốc mới nổi”
Ngoại trừ Brazil nằm trong khu vực, trong khi Nam Phi thì chưa có sự hiện diện đáng kể, ba nước còn lại trong nhóm BRICS11 là Nga, Trung Quốc và Ấn Độ
đều có sự cạnh tranh vai trò, ảnh hưởng lớn tại Mỹ Latinh trong bối cảnh hiện nay,
đặc biệt là Trung Quốc. Sự nổi lên của các cường quốc này, trước hết là về mặt kinh
tế, góp phần định hình tiến trình liên kết, hội nhập khu vực của các nước Mỹ Latinh
với tư cách là các đối tác, đối thủ cạnh tranh chủ yếu với các nước trong khu vực.
Riêng với Brazil, cũng là một nước trong khu vực nhưng với sức mạnh tổng hợp
của mình, Brazil cố gắng giữ vai trò như một “tay chơi” toàn cầu. Với những hành
động nhằm xây dựng vai trò toàn cầu của mình, Brazil có vai trò to lớn trong việc
thúc đẩy tiến trình hội nhập khu vực, kể cả theo xu hướng cánh tả hay phi cánh tả.
Tuy nhiên, nỗ lực này của Brazil chưa đạt được sự công nhận hay ủng hộ của nhiều
nước trong khu vực.
Với Nga, sự can dự của nước này vào Mỹ Latinh suy giảm nhanh chóng sau
sự sụp đổ của Liên Xô (Nga kế thừa vị thế đối ngoại của Liên Xô) năm 1991. Đồng
minh chiến lược của Liên Xô tại khu vực là Cuba cũng phải chật vật xoay xở trong
bối cảnh 90% nguồn viện trợ từ Liên Xô bị cắt giảm trong những năm 1990, đặc
biệt là nguồn xăng dầu và mất trắng thị trường tiêu thụ đường – một mặt hàng nông
sản xuất khẩu chủ đạo của Cuba. Chính vì vậy mà Venezuela được coi là một đồng
minh chiến lược của Cuba trong bối cảnh nguồn xăng dầu của Cuba hầu như do
Venezuela cung cấp, bên cạnh lý do về gần gũi trong hệ tư tưởng cũng như mối
quan hệ cá nhân giữa lãnh đạo hai nước. Ngoài Cuba, các lực lượng vũ trang cánh tả
cũng mất đi sự ủng hộ của Liên Xô thông qua Cuba. Thập niên 1990, nước Nga trải
qua “mười năm sóng gió”, các hoạt động đối ngoại gần như bị thu hẹp đến những
khu vực có lợi ích sát sườn với Nga. Do đó, mối quan tâm với Mỹ Latinh chỉ duy trì
ở mức độ khiêm tốn. Bước sang đầu thế kỉ 21, với vị thế quốc tế từng bước được
khôi phục dưới thời Tổng thống V. Putin, nước Nga đẩy mạnh sự hiện diện của
mình tại khu vực MLT. Bởi trước hết, Mỹ Latinh vẫn là một thị trường đầy tiềm
11 Ghép từ chữ cái đầu của 5 nước trong tiếng Anh, bao gồm: Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi (Brazil, Russia, India, China, South Africa)
30
năng đối với Nga, đặc biệt là nhu cầu về vũ khí, khí tài quân sự - mặt hàng mạnh
truyền thống của Nga. Nhiều trang bị cho quân đội các nước trong khu vực là các
sản phẩm của Nga. Do đó, nhu cầu nâng cấp, thay thay thế phụ tùng cho các thế hệ
vũ khí này là khá ổn định. Từ 11- 17/7/2014, Tổng thống Putin đã có chuyến công
du tới 3 nước trong khu vực là Cuba, Argentina và Brazil, kết hợp dự Hội nghị
Thượng đỉnh khối BRICS. Chuyến công du này, ngoài việc tranh thủ sự ủng hộ của
các nước này trong bối cảnh phương Tây đang áp đặt các lệnh cấm vận lên Nga do
cuộc khủng hoảng Ukraina, Nga còn muốn giành được những lợi ích kinh tế và địa
chính trị từ khu vực quan trọng này. Trong chuyến đi đến Cuba, Tổng thống Putin tuyên bố xóa cho Cuba 90% khoản nợ từ thời Liên Xô, ước chừng 35 tỉ USD12. Với
một Cuba đang mở cửa và có nhu cầu cao về vốn cũng như kĩ thuật, đồng thời lại là
một đối tác truyền thống trong khu vực, Nga không muốn bỏ lỡ cơ hội để giành
được những lợi ích kinh tế tại nước này, cũng như các lợi ích từ khu vực qua cánh
cửa Cuba.
Đối với Trung Quốc, Mỹ Latinh đang dần trở thành một mắt xích kinh tế quan
trọng, bất chấp sự xa cách về địa lý, khác biệt về văn hóa, xã hội. Mỹ Latinh được
cho là có mối quan hệ bổ sung về kinh tế với Trung Quốc. Cụ thể, trong khi Mỹ
Latinh giàu tài nguyên, đặc biệt là các loại kim khoáng và năng lượng thì Trung
Quốc lại đang thiếu và các nước Mỹ Latinh gặp khó khăn trong việc thu hút nguồn
vốn để phát triển thì Trung Quốc lại rất sẵn sàng cung cấp các khoản tín dụng rộng
rãi với rất ít các điều kiện đi kèm. Tuy nhiên, không phải là không có các lời cảnh
báo về việc Mỹ Latinh gặp phải “cú ngã vì bám đuôi kinh tế Trung Quốc” cũng như
sự đe dọa về hàng hóa giá rẻ và kém phẩm cấp. Trong ba năm liên tiếp từ 2013-
2015, lãnh đạo cấp cao Trung Quốc đã thăm Mỹ Latinh ba lần, bên cạnh việc đứng
ra tổ chức Diễn đàn Trung Quốc-CELAC lần thứ nhất tại Bắc Kinh vào đầu năm
nay. Các chuyến thăm chính thức liên tiếp của những người đứng đầu Trung Quốc
cho thấy mối quan tâm đặc biệt cũng như sự gia tăng mối quan hệ lợi ích, nhất là về
mặt kinh tế giữa Trung Quốc và khu vực. Đối với khu vực MLT, Trung Quốc áp
12 “Tổng thống Nga Putin bắt đầu chuyến công du Mỹ Latinh ”, xem tại www.vietnamplus.vn, truy cập ngày 6/7/2015.
31
dụng cả hai cách tiếp cận song phương và đa phương. Thông qua các tổ chức khu
vực, Trung Quốc tổ chức các diễn đàn đa phương với các nước MLT. Đối với từng
nước, Trung Quốc có cách tiếp cận linh hoạt nhằm tối đa hóa lợi ích quốc gia. Cho
đến nay, Trung Quốc đã trở thành đối tác thương mại lớn thứ hai của Argentina, nhà
đầu tư và đối tác thương mại số một của Brazil, đứng thứ ba về đầu tư vào khu vực.
Theo thông tin của Đài Phát thanh Quốc tế Trung Quốc (CRI) đến năm 2014, Trung
Quốc hiện là đối tác thương mại lớn thứ hai của Mỹ Latinh với kim ngạch thương
mại hai chiều đạt 261,6 tỉ USD năm 2013, gấp 20 lần so với mức 12,6 tỉ USD năm 200013. Tham vọng của Trung Quốc là đưa con số này lên gấp đôi, tức đạt mức 500 tỉ trong vòng 10 năm tới (2025)14. Về khía cạnh đầu tư, các nền kinh tế Mỹ Latinh
hiện tiếp nhận 13% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Trung Quốc, khoảng 31 tỷ USD15.
Tuy nhiên, sự thâm nhập của Trung Quốc vào Mỹ Latinh không hoàn toàn chỉ
là vì mục đích kinh tế. Cuộc cạnh tranh ảnh hưởng chiến lược giữa một Trung Quốc
đang lên và một nước Mỹ đang giữ “vai trò lãnh đạo” trên thế giới đã đặt Mỹ Latinh
vào một vị thế địa chiến lược hết sức đặc biệt để Trung Quốc có thể vừa có được lợi
ích kinh tế, vừa gây ảnh hưởng ở “sân sau” của nước Mỹ. Việc Trung Quốc “hào
phóng” cung cấp các khoản tín dụng cho các nước cánh tả trong khu vực không chỉ
nhằm gia tăng ảnh hưởng về kinh tế mà còn vì các nước này thể hiện thái độ chống
Mỹ mạnh mẽ, đặc biệt là Venezuela trong bối cảnh khó khăn kinh tế từ năm 2014.
Trong khi Trung Quốc cho rằng chính sách xoay trục của Mỹ hướng sang châu Á-
Thái Bình Dương năm 2012 là để kiềm chế và bao vây Trung Quốc.
Trái ngược với với sự “tấn công” ồ ạt của Trung Quốc vào khu vực thì Ấn Độ
có cách tiếp cận có phần “kín tiếng” hơn, từ từ nhưng vững chắc vào khu vực.
Trong thời kì Chiến tranh Lạnh, Ấn Độ là một trong những nước khởi xướng Phong
trào Không Liên kết (NAM) và có quan hệ chủ yếu về mặt chính trị với các nước
13 Xem tại http://vietnamese.cri.cn/481/2014/07/25/1s201089.htm, ngày 2/7/2015. 14 Xem “ Mỹ Latinh là địa bàn chính để quốc tế hóa đồng Nhân dân tệ” tại http://www.vietnamplus.vn, ngày 2/7/2015 15 Xem “Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình công du châu Mỹ mở rộng ảnh hưởng” tại http://hanoimoi.com.vn, truy cập ngày 6/10/2015.
32
MLT, đặc biệt là các chính phủ cánh tả tiến bộ trong khu vực.
Kể từ khi Ấn Độ tiến hành cải cách và mở cửa nền kinh tế đầu những năm
1990 thì mối quan hệ giữa hai bên dần được bổ sung thêm những yếu tố mới, đặc
biệt là về kinh tế. Cùng với quá trình mở cửa nền kinh tế, tỉ lệ xuất khẩu hàng hóa
và dịch vụ của nước này đã tăng từ 7% lên 19% trong giai đoạn 1990- 2010, tương
đương với Brazil về tỉ lệ xuất khẩu của thế giới. Mặc dù được đánh giá là một thị
trường tiềm năng nhưng chỉ đến đầu thế kỉ 21 thì các doanh nghiệp Ấn Độ mới có
khả năng tiếp cận đến Mỹ Latinh và Caribe. Đặc biệt, từ sau cuộc khủng hoảng kinh
tế thế giới 2008- 2010, Ấn Độ đã gia tăng mạnh mẽ mối quan tâm với MLT. Trong
một báo cáo của ECLAC đưa ra vào năm 2010 đã khuyến nghị sự tái định vị lại vị
trí chiến lược và thúc đẩy mối quan hệ của cả hai bên. Về phía ngược lại, Ấn Độ
cũng được đánh giá sẽ là một thị trường có tiềm năng lớn cho các nước Mỹ Latinh
và Caribe với dân số 1,2 tỉ người và sẽ vươn lên thành nước đông dân nhất thế giới
vào năm 2030. Tầng lớp trung lưu của nước này cũng đã gia tăng nhanh chóng
trong hai thập kỉ gần đây, kể từ khi nền kinh tế được mở cửa với bên ngoài.
Từ năm 2003, Ấn Độ đã kí kết Hiệp định Khung Ấn Độ-MERCOSUR để làm
cơ sở cho đàm phán FTA song phương. Hiện nay, Ấn Độ là một trong những nhà
nhập khẩu và tiêu dùng các hàng hóa cơ bản của MLT: lúa mì, gạo, bông và đường,
cũng như dầu đậu nành (soybean oil), ngoài ra, còn có khoáng sản và kim loại, cùng
với dầu thô. Kim ngạch thương mại giữa Ấn Độ và CELAC đã vượt mức 25 tỷ
USD trong năm 2012. Trong đó, giai đoạn từ 2004- 2010, thương mại song phương
có sự gia tăng nhanh chóng về giá trị và Ấn Độ ở vị trí là nước nhập siêu từ Mỹ
33
Latinh (xem biểu đồ 1.4)
Nguồn: ECLAC, 2010
Về khía cạnh đầu tư, trong khi nguồn Đầu tư Trực tiếp Nước ngoài (FDI) của
Biểu đồ 1.4. Thương mại của Ấn Độ với Mỹ Latinh và Caribe, 1985- 2000
Ấn Độ chủ yếu là do các doanh nghiệp tư nhân thúc đẩy, thì của Trung Quốc lại do
các tập đoàn nhà nước tiến hành rót vốn. FDI của Ấn Độ chủ yếu là đổ vào các
ngành sản xuất ở các nước phát triển trong khi FDI của Trung Quốc chủ yếu đổ vào
các nước đang phát triển và vào lĩnh vực khai mỏ. Trung Quốc có lợi thế trong các
chiến lược được chính phủ đưa ra và ngoại giao kinh tế thì ngược lại, Ấn Độ lại lại
mạnh về các doanh nghiệp tư nhân năng động, thích ứng nhanh với thị trường. Gần
đây, FDI của Ấn Độ vào Mỹ Latinh và Caribe đã được mở rộng sang lĩnh vực thuê
ngoài (outsourcing), phát triển phần mềm, và sản xuất – vốn là những thế mạnh của
các doanh nghiệp nước này.
Sau khi Trung Quốc tổ chức Diễn đàn cấp Bộ trưởng Trung Quốc-CELAC lần
thứ nhất vào tháng 1/2015 thì vào tháng 8 vừa qua Ấn Độ và “bộ ba” cánh tả thuộc
CELAC gồm Cuba, Venezuela và Chile đã tiến hành hội nghị chung tại New Dehli
34
(Ấn Độ) để thảo luận về các biện pháp tăng cường quan hệ thương mại cũng như
việc phối hợp phản ứng trước các vấn đề khu vực và quốc tế. Hội nghị cũng nhất trí
sẽ thành lập Hội đồng Doanh nghiệp Ấn Độ-CELAC và Diễn đàn Giám đốc điều
hành (CEOs Forum) Ấn Độ-CELAC nhằm thúc đẩy các mối quan hệ thương mại
giữa hai bên. Hội nghị cũng thừa nhận rằng an ninh năng lượng giữ vai trò then chốt
trong phát triển kinh tế, do đó hai bên sẽ tăng cường hợp tác trong lĩnh vực này.
1.3. Tiểu kết
Như vậy, có thể nhận thấy sự nổi lên của xu hướng hội nhập khu vực theo
quan điểm cánh tả gắn liền với quá trình dân chủ hóa đời sống chính trị-xã hội ở Mỹ
Latinh từ những năm 1980. Tuy nhiên, yếu tố nội khu vực quan trọng nhất của xu
hướng hội nhập khu vực cánh tả là việc lên cầm quyền của các lực lượng cánh tả ở
nhiều nước trong khu vực, sau những thất bại của các chính quyền tự do cánh hữu
trong việc giải quyết triệt để các vấn đề chung của khu vực. Bên cạnh đó, sự chia sẻ
những đặc điểm về lịch sử, kinh tế, văn hóa, chủng tộc đã góp phần thúc đẩy nhu
cầu hội nhập khu vực nói chung, hội nhập khu vực theo xu hướng cánh tả nói riêng.
Đối với các nhân tố ngoài khu vực, xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ
với những tác động sâu sắc có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình hội nhập khu vực
của Mỹ Latinh theo cả hai hướng ủng hộ và tìm kiếm sự thay thế các FTA – biểu
hiện của toàn cầu hóa kinh tế thông qua tụ do hóa thương mại toàn cầu, cũng như
đối với quan điểm về hội nhập khu vực của các chính quyền cánh tả trong khu vực.
Cạnh tranh ảnh hưởng của các nước lớn đối với khu vực, từ EU, Nhật Bản với
sự tham gia của các “cường quốc mới nổi”, đặc biệt là Trung Quốc, Ấn Độ cũng
góp phần tác động đến xu hướng mới nổi đầu thế kỉ 21 ở MLT. Cuối cùng nhưng
không kém phần quan trọng là sự tác động to lớn của nhân tố Mỹ trong khu vực.
Loại bỏ ảnh hưởng bao trùm của Mỹ trong khu vực chính là một trong những mục
35
đích của nhiều chính quyền cánh tả khi thúc đẩy hội nhập khu vực.
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG HỘI NHẬP KHU VỰC
THEO XU HƯỚNG CÁNH TẢ
Liên tục trong 15 năm qua, các lực lượng cánh tả Mỹ Latinh đã lần lượt giành
thắng lợi trong các cuộc bầu cử dân chủ và duy trì được quyền lãnh đạo đất nước.
Đặc biệt đỉnh cao là vào năm 2006 khi lực lượng cánh tả cùng thắng cử và lên cầm
quyền tại 6 quốc gia trong khu vực là Brazil, Argentina, Chile, Venezuela, Bolivia
và Nicaragua. Cùng với sự cầm quyền liên tục của các lực lượng cánh tả trong khu
vực, xu hướng hội nhập khu vực mới cũng được hình thành và thúc đẩy. Tuy nhiên,
dù cùng là các lực lượng cánh tả nhưng vẫn tồn tại những khác biệt nhất định giữa
cánh tả các nước về cương lĩnh chính trị liên quan đến các vấn đề trọng yếu của khu
vực, trong đó có vấn đề liên kết và hội nhập khu vực. Điều này sẽ có tác động đến
cách thức lựa chọn và triển khai hội nhập khu vực giữa các nước, các nhóm nước.
Trên thực tế, xu hướng hội nhập khu vực cánh tả phụ chính vào hai nhóm chính
quyền cánh tả trong khu vực là: cánh tả ôn hòa và cánh tả cấp tiến, dựa trên các
quan điểm về vấn đề hội nhập khu vực cũng như các vấn đề trong nước và các vấn
đề khu vực khác. Thực tiễn xu hướng hội nhập khu vực cánh tả chủ yếu được
nghiên cứu từ góc độ nghiên cứu việc xây dựng, hoàn thiện các cơ chế, thể chế
chung.
2.1. Các vấn đề chung
Với cả hai nhóm nước cánh tả, liên kết và hội nhập khu vực đều có chung mục
tiêu tăng cường sự đoàn kết chính trị, hội nhập về kinh tế nhằm thúc đẩy phát triển
và giải quyết các vấn đề xã hội chung, cũng như nâng cao vị thế quốc tế của các
nước trong khu vực, hạn chế các ảnh hưởng tiêu cực từ môi trường ngoài khu vực.
Phương thức có thể là thông qua việc thúc đẩy hoàn thiện cơ chế thương mại trong
khối, trong khu vực hoặc xây dựng các mô hình trao đổi thay thế cho thương mại vì
lợi nhuận, về mặt kinh tế. Về chính trị, các nước Mỹ Latinh tập trung vào việc thiết
lập các cơ chế, thể chế chung cũng như sự phối hợp về chính sách nhằm mục tiêu
36
tạo ra một cộng đồng Mỹ Latinh đoàn kết rộng rãi, hội nhập sâu rộng về nhiều mặt.
Về chủ thể của xu hướng hội nhập mới chính là các lực lượng cánh tả ở các
nước thuộc hai nhóm ôn hòa và cấp tiến. Trong đó, đại diện cho xu hướng cánh tả
ôn hòa trong tiến trình hội nhập khu vực là các nước Brazil, Argentina, Uruguay và
ở một mức nào đó là Chile. Năm 2002 và 2003, hai quốc gia có nền kinh tế lớn nhất
của Nam Mỹ là Brazil và Argentina đã lần lượt chứng kiến sự thắng cử và lên cầm
quyền của hai Tổng thống theo đường lối cánh tả là Luiz Inacio Lula da Silva và
Nestor Kirchner. Các chính quyền cánh tả của hai nền kinh tế lớn nhất khu vực này
đã khởi đầu xu hướng cánh tả ôn hòa trong hội nhập ở Nam Mỹ. Đến năm 2005 và
2006 các ứng viên cánh tả là Tabare Vazquez và Michelle Bachelet cũng lần lượt
lên cầm quyền tại Uruguay và Chile, tiếp tục mở rộng xu hướng hội nhập mới này.
Cũng trong năm 2006 thì các ứng viên cánh tả lại giành thắng lợi trong bầu cử Tổng
thống ở Brazil và Argentina.
Trong khi đó, nhóm cánh tả cấp tiến nổi lên đại diện rất sớm từ Venezuela khi
Đại tá Hugo Chavéz Friás giành thắng lợi trong cuộc bầu cử dân chủ năm 1998 và
lên cầm quyền. Venezuela dưới thời Tổng thống Chavéz có mối quan hệ chiến lược
với Cuba – đất nước xã hội chủ nghĩa duy nhất ở Tây Bán cầu. Đến năm 2006, Evo
Morales - vị Tổng thống có nguồn gốc thổ dân đầu tiên đắc cử Tổng thống Bolivia lên
cầm quyền, một đất nước vốn chìm trong đói nghèo, lạc hậu và hỗn loạn bậc nhất Mỹ
Latinh. Cũng vào năm 2006, một vị Tổng thống cánh tả là Manuel Zelaya đã lên cầm
quyền ở Honduras. Khi Tiến sĩ Kinh tế học Rafael Correa lên cầm quyền ở Ecuador thì
đất nước này đang phải trải qua những bất ổn về chính trị với sự thay đổi liên tục của
các chính phủ cầm quyền do phải đối mặt với khủng hoảng về kinh tế mà một trong
những nguyên nhân là từ quá trình “đô la hóa” nền kinh tế. Trước đó một năm, 2007,
cựu du kích quân cách mạng và là lãnh đạo của Mặt trận Giải phóng Dân tộc Sandino
Daniel Ortega đã trở lại nắm quyền lần thứ hai ở Nicaragua – một đất nước còn nhiều
bất ổn và nghèo đói tại Trung Mỹ. Như vậy, có thể thấy là đến năm 2008 thì lực lượng
cánh tả đã chiếm ưu thế rõ rệt trên chính trường Mỹ Latinh.
Ở các quốc gia cánh tả ôn hòa, các lực lượng chính trị cánh tả không chiếm ưu
37
thế vượt trội hơn hẳn so với các lực lượng chính trị cánh hữu hay trung dung. Đồng
thời, các lực lượng chính trị cũng đa dạng hơn so với ở các nước cánh tả cấp tiến.
Do đó, các biện pháp, bước đi nhằm hội nhập khu vực đều được tính toán kĩ lưỡng
để tránh quá thiên tả, nhằm đảm bảo duy trì sự ủng hộ chính sách của các lực lượng
phi-tả, nhất là khu vực doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh, cả trong nước và khu vực.
Bên cạnh đó, mối quan hệ kinh tế tương thuộc với Mỹ cũng là một nhân tố có tác
động đáng kể đến việc lựa chọn chính sách hội nhập khu vực theo xu hướng cánh tả
của các nước này. Trong khi ở các nước cánh tả cấp tiến, các lực lượng cánh tả khi
lên cầm quyền đều có một thuận lợi lớn là giành được uy tín lớn trong nước và các
lực lượng chính trị ít bị phân hóa hơn trong quá trình triển khai các chính sách hội
nhập khu vực mới.
Về mặt phương thức, đối với các nước cánh tả theo đuổi chiến lược hội nhập
theo xu hướng ôn hòa, một mặt tiến hành hoàn thiện các thể chế, tổ chức, diễn đàn
khu vực hiện có, chủ yếu là đối với hai khối thương mại là Khối Thị trường Chung
Nam Mỹ (MERCOSUR) và Cộng đồng Andes (CAN) theo các định hướng cánh tả.
Trong khi đó, các chính quyền cánh tả cấp tiến lại chỉ trích gay gắt các khối thương
mại hiện có này ở khía cạnh thiếu vắng các chiều kích xã hội cần thiết để hội nhập
bền vững, vì chỉ là “những công cụ của tầng lớp tư sản trong khu vực chứ không phục vụ lợi ích của những người nghèo”16. Đây chính là một cơ sở về mặt chính trị
để các nước cánh tả cấp tiến đề ra các mô hình hội nhập phi-thương mại để thay thế.
Ở khía cạnh thứ hai, các nước cánh tả ở cả hai xu hướng lại thống nhất với
nhau ở một điểm là cùng kêu gọi, tổ chức một sự tập hợp rộng rãi nhất có thể nhằm
xây dựng nên các thể chế, tổ chức ở cấp độ toàn khu vực như Liên minh các Quốc
gia Nam Mỹ (UNASUR, 2008), Liên minh Bolívar cho các Dân tộc châu Mỹ
(ALBA, 2004) và rộng lớn hơn là Cộng đồng các Quốc gia Mỹ Latinh và Caribe
(CELAC, 2011).
Về mặt tiến trình, MERCOSUR và CAN được bổ sung các khía cạnh mới, tạo
ra một sự chuyển đổi sâu sắc và một lần nữa được nỗ lực để hợp nhất để trở thành
16 Xem “Mercosur – South Amrericas fractious trade bloc” tại http://www.cfr.org , truy cập ngày 21/10/2015
38
nền tảng kinh tế cho sự ra đời của một cộng đồng chính trị - an ninh mới của khu
vực, UNASUR. Trong khi đó, ALBA ra đời dựa trên nền tảng là mối quan hệ song
phương Venezuela - Cuba với sự tham gia của các nước cánh tả cấp tiến khác trong
khu vực. CELAC là một trường hợp khá đặc biệt. CELAC là sự kế thừa về mặt tổ
chức của Nhóm Rio (Rio Group) – một cơ chế đối thoại khu vực về chính trị và an
ninh kết hợp với Hội nghị thượng đỉnh Mỹ Latinh và Caribe về Hội nhập và Phát
triển (CALC) vào năm 2011.
2.2. Các tiến trình cụ thể
Đối với Khối Thị trường Chung Nam Mỹ và Cộng đồng Andes
Khi văn kiện thành lập MERCOSUR được kí kết vào tháng 3/1991 bởi bốn
nước Argentina, Brazil, Paraguay và Uruguay tại thủ đô Asuncion của Paraguay th ì
CAN đã có lịch sử tồn tại hơn 22 nãm.
CAN (đến trước năm 1996 vẫn được gọi là Khối Andes/Andean Pact) được
các nước thuộc khu vực Andes bao gồm Colombia, Ecuador, Peru, Bolivia và Chile
lập ra vào năm 1969. Sau có thêm Venezuela gia nhập vào năm 1973, nâng tổng số
thành viên lên 6. Tuy nhiên, đến năm 1976, với việc rút khỏi khối của Chile thì
CAN trở lại có 5 thành viên. CAN được lập ra nhằm thúc đẩy sự hợp tác về công
nghiệp, nông nghiệp, thương mại và xã hội giữa các nước thành viên. So với các cơ
chế hội nhập khu vực được hình thành từ những năm 1950 ở Mỹ Latinh thì đây là
một trong những mô hình tiến xa nhất trong việc thiết lập các khung thể chế chung,
dù các kết quả hội nhập về kinh tế là không đáng kể. Đến những năm 1980, 1990
cùng với xu thế hội nhập theo quan điểm tự do mới trong khu vực, CAN cũng có
những bước đi để bắt kịp xu thế này. Nghị định thư Quito (Quito Protocol 1987)
đưa ra một sự hài hòa hóa chính sách một cách linh hoạt, các nước thành viên đã
chấp nhận một chương trình nghị sự lấy thương mại làm trung tâm vào năm 1989,
với mục tiêu đặt ra là thành lập khu vực thương mại tự do từ năm 1992 và tiến tới
việc chuyển đổi tổ chức từ Cộng đồng các Quốc gia Andes (CAN) thành Cộng đồng
Andes (giữ nguyên viết tắt là CAN) vào năm 1996.
Đến những năm đầu thế kỉ 21, CAN tích cực trong việc đẩy mạnh quá trình
39
hội nhập khi đặt ra các mục tiêu cao hơn. Tại Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ 13 của
khối năm 2001, CAN đặt mục tiêu thiết lập khu vực thuế quan chung vào trước năm
2006 và dần mở rộng quyền đi lại nội khối từ 1/1/2002. Tiếp đó, tại Hội nghị
thượng đỉnh cấp Nguyên thủ đặc biệt tại Santa Cruz (Bolivia) năm 2002, các
nguyên thủ thống nhất việc triển khai mức thuế quan chung với bên ngoài, chính
sách nông nghiệp chung và tăng cường phối hợp về chính sách đối ngoại từ đầu
năm 2004.
Bước chuyển đến với CAN tại Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 14 của khối tại
Quirama, Colombia (2003) với sự tham dự của nguyên thủ các nước thành viên và
sự có mặt lần đầu tiên của Tổng thống Brazil Lula để bàn về sự phối hợp của
MERCOSUR và CAN. Ngoài ra, các bên còn thống nhất sẽ có một hội nghị cấp bộ trưởng sau đó để thảo luận về các phương hướng chung khi đàm phán về FTAA17
vào cuối năm (tháng 11/2003) tại Miami (Mỹ). Đồng thời, hội nghị quyết định việc
đẩy nhanh thực thi một chính sách đối ngoại và an ninh chung của khu vực.
Mặc dù ra đời muộn hơn nhiều so với CAN nhưng MERCOSUR đã tỏ ra là
một khối thương mại mạnh mẽ khi thành lập. Ban đầu, khi Argentina, Brazil,
Paraguay và Uruguay kí kết Hiệp ước Asuncion mục đích là thúc đẩy phát triển
kinh tế thông qua tự do hóa thương mại và tiến tới xây dựng một biểu thuế quan nội
khối chung. Hiệp định này là một bước đi tham vọng nhằm tận dụng tối đa những
điều kiện có sẵn để bắt kịp xu hướng tự do hóa thương mại theo quan điểm của chủ
nghĩa tự do mới về kinh tế vốn phổ biến từ giữa thập niên 1980 ở khu vực và trên
thế giới. Đến tháng 12/1994, gần một năm sau khi Hiệp định Thương mại Tự do
Bắc Mỹ (NAFTA) có hiệu lực, bốn nước sáng lập lại kí kết Nghị định thư Ouro
Preto (Brazil) để xây dựng bộ khung thể chế cho khối, nhằm thúc đẩy tiến trình hội
nhập khu vực. Từ 1993- 1999, các nước Nam Mỹ dưới sự thúc đẩy của Brazil đã cố
gắng tạo ra Khu vực Thương mại Tự do Nam Mỹ (SAFTA) dựa trên sự kết hợp
CAN và MERCOSUR, nhằm tạo nên một đối trọng với NAFTA. Tuy nhiên, cuộc
17 Khu vực Thương mại Tự do toàn châu Mỹ (FTAA) vốn được Mỹ đề xuất từ năm 1994 và đặt mục tiêu là sẽ hoàn thành trước ngày 1/1/2005. Tuy nhiên, kể từ sau khó khăn tại Hội nghị cấp Bộ trưởng vào tháng 11/2003 tại Miami thì dự án đã gần như bị phá sản.
40
khủng hoảng đồng Real (1998- 1999) của Brazil đã tác động đến MERCOSUR và
sự suy yếu của CAN do căng thẳng thường xuyên giữa Venezuela và Colombia đã
làm dự án này đi đến chỗ phá sản.
Vào năm 2000, Tổng thống Fernando H. Cardoso của Brazil khi đó đã kêu gọi
một hội nghị thượng đỉnh cấp nguyên thủ của CAN, MERCOSUR, cùng với sự
tham dự của nguyên thủ Chile, Suriname và Guyana (ba nước Nam Mỹ nằm ngoài
hai khối trên) để bàn về một Chương trình nghị sự của Nam Mỹ (South America
Agenda). Trong đó, thay vì chỉ tập trung vào thương mại thì đặt ra một chương trình
nghị sự phát triển, tuy vẫn giữ vai trò của thương mại nhưng được mở rộng thêm,
bàn đến sự phát triển bền vững của khu vực.
Từ Hội nghị thượng đỉnh Nguyên thủ năm 2002, MERCOSUR đã đề ra một
tiến trình thể chế hóa cũng như lập ra các cơ quan chung của khối, bao gồm các tòa
án của MERCOSUR được lập ra vào năm 2003 và 2004 sau khi có Nghị định thư
Olivos vào năm 2002, Ủy ban Nghị viện Chung (Joint Parliament Committee/JPC)
được nhất trí thành lập vào tháng 12/2004, tiến tới thành lập Nghị viện Chung của
khối vào tháng 6/2008 với phiên họp đầu tiên tại San Miguel de Tucuman
(Argentina), cùng với Hội nghị Nguyên thủ Nhà nước lần 35 của MERCOSUR..
Đây là một bước đi hết sức quan trọng của MERCOSUR trong tiến trình hoàn thiện
của khối về mặt thể chế.
Ý định về SAFTA nhằm hợp nhất hai khối thương mại lớn nhất Nam Mỹ này
đã thất bại vào cuối những năm 1990. Đến những năm 2000, vấn đề hợp nhất hai
khối lại được đặt ra. Vào năm 2000, tại Hội nghị thượng đỉnh Nguyên thủ các nước
Nam Mỹ, các nhà lãnh đạo của CAN và MERCOSUR đã quyết định khởi động các
vòng đàm phán để thành lập một khu vực thương mại tự do giữa hai khối với thời
hạn là trước tháng 1/2002. Vào tháng 8/2003, Ngoại trưởng các nước CAN và
MERCOSUR nhóm họp ở Montevideo (Uruguay) đã tái khẳng định cam kết về việc
thành lập khu vực thương mại tự do chung của các nguyên thủ và đưa ra một lộ
41
trình đàm phán cụ thể.
Hệ thống Hội nhập Andes của CAN bao gồm một vài thể chế, tất cả đều hướng đến việc tạo
thuận lợi cho hội nhập. Các thể chế này bao gồm Hội đồng Nguyên thủ Andes, một tổ chức của
nguyên thủ các nước thành viên nhằm điều phối các nỗ lực hội nhập; Ủy ban Cộng đồng Andes,
thể chế tạo lập chính sách cơ bản của CAN; Nghị viện Andes, bao gồm thành viên các cơ quan
lập pháp các nước, cơ quan này được lên kế hoạch tổ chức bầu cử trực tiếp vào đầu thế kỉ 21;
Tòa án Công lý với 5 thành viên của Cộng đồng Andes, cơ quan diễn giải các bộ luật của CAN để
đảm bảo chúng được thống nhất thi hành ở mỗi nước; Quỹ Dự trữ Mỹ Latinh (trước là Quỹ Dự
trữ Andes), cơ quan hài hòa hóa các chính sách tiền tệ và tài chính; Tập đoàn Phát triển Andes,
cơ quan khuyến khích thương mại và đầu tư; và một loạt các hội đồng tư vấn về kinh doanh và lao
động.
Hộp 2.1. Các thể chế chính của Cộng đồng Andes
Liên minh các Quốc gia Nam Mỹ
Vào tháng 10/2003, các Tổng thống Lula và Kirchner của hai nền kinh tế lớn
nhất Nam Mỹ là Brazil và Argentina đã ra một tuyên bố quan trọng, được biết đến
như là Đồng thuận Buenos Aires với nội dung cơ bản là sự chống lại các định
hướng chính sách ưu tiên phát triển thị trường được đưa ra trong Đồng thuận
Washington, đánh dấu một sự chuyển đổi mô hình, không chỉ cho hội nhập khu vực
mà còn cho một loạt các lựa chọn chính sách.
Sau khi có những bất đồng không thể giải quyết được trong Hội nghị cấp Bộ
trưởng tại Miami (Mỹ) vào tháng 11/2003, tiến trình thành lập Khu vực Thương
mại Tự do toàn châu Mỹ (FTAA) đã đi đến bờ vực phá sản. Các nước tham gia đàm
phán đều có sự chuyển hướng tiếp cận đối với vấn đề, trong đó có việc đề xuất
thành lập các khu vực thương mại tự do ở quy mô nhỏ và khả thi hơn. Trong khu
vực, sau khi có Đồng thuận Buenos Aires và những tiến bộ đạt được trong đường
hướng hợp nhất CAN và MERCOSUR chính quyền cánh tả của Tổng thống Lula da
Silva đã đề xuất triển khai một dự án đầy tham vọng là tạo ra một cộng đồng Nam
Mỹ thống nhất, đoàn kết rộng rãi. Theo đó, năm 2004 ghi nhận một dấu mốc quan
trọng của tiến trình hội nhập cánh tả khu vực Mỹ Latinh với hai sự kiện quan trọng.
Một là việc MERCOSUR và CAN thực hiện việc kí kết một “hiệp định quy chế
42
thành viên liên kết tương hỗ” (reciprocal associate-member status agreement). Theo
đó, hiệp định cho phép các thành viên của hai khối thương mại này được hưởng quy
chế thành viên liên kết của nhau và tạo nên một thực thể kinh tế hợp nhất, bao gồm hầu hết các quốc gia Nam Mỹ. Hai là Hội nghị Thượng đỉnh Nam Mỹ lần thứ 318, diễn ra từ ngày 7- 9/12/2004 tại Cusco và Ayacucho (Peru) đã ra Tuyên bố Cusco19
(Cusco Declaration). Trong đó, tuyên bố rằng các nước này sẽ tạo lập một cộng
đồng về mặt chính trị của các quốc gia Nam Mỹ, dựa trên trụ cột kinh tế đã có từ sự
kết hợp của MERCOSUR và CAN, nhằm thúc đẩy việc hội nhập khu vực. Các sáng
kiến tăng cường hội nhập khu vực được đưa ra trong Tuyên bố Cusco bao gồm kêu gọi một đơn vị tiền tệ (gaucho20), nghị viện (Parlasur) và thị thực chung, chủ yếu do
Brazil lúc đó dưới sự lãnh đạo của Tổng thống cánh tả Luiz Inacio Lula da Silva,
đưa ra và nhận được sự ủng hộ của nguyên thủ các nước Nam Mỹ tham dự hội nghị.
Sự tham gia của Venezuela dưới thời Tổng thống Hugo Chavéz cũng có ảnh hưởng
đáng kể đến sự thành công trong việc tạo lập thể chế khu vực mới này.
Sự thành lập Cộng đồng các Quốc gia Nam Mỹ (SACN) được cho là giải pháp
thay thế cho dự án tham vọng thành lập FTAA do Mỹ đề xướng. Đồng thời, đây
cũng là sự thay thế cho dự án SAFTA đã thất bại. Tuy nhiên, theo kế hoạch đây sẽ
không chỉ là một khối thương mại hay kinh tế đơn thuần, đó còn là sự kết hợp các nội
dung về chính trị-an ninh và văn hóa-xã hội, cũng như các vấn đề mới như môi trường.
Có thể thấy, SACN được thúc đẩy theo mô hình hội nhập toàn diện của Liên minh
châu Âu (EU), dành cho các nước Nam Mỹ. Trong khi đó, cũng vào năm 2004, cùng
với việc tham gia thành lập UNASUR, chính quyền cánh tả cấp tiến của Venezuela
dưới thời Tổng thống Hugo Chavéz đã tuyên bố nâng cấp quan hệ song phương
Venezuela – Cuba để thành lập tổ chức Sự lựa chọn Bolívar cho các Dân tộc châu Mỹ
18 Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ nhất được tổ chức ở Brasilia (Brasil) năm 2000, lần thứ hai được tổ chức tại Guayaquil (Ecuador) năm 2002. Kể từ sau Hội nghị ở Cusco năm 2004, các Hội nghị Nguyên thủ và Hội nghị Ngoại trưởng sẽ thay thế Hội nghị Thượng đỉnh nói chung. 19 Tên chính thức là “Lời nói đầu về Đạo luật thành lập Liên minh Nam Mỹ” (Preamble to the Foundation Act of the South American Union) 20 Đề xuất đơn vị tiền tệ mới này vốn được đưa ra từ khi Argentina và Brazil kí PICE vào năm 1985
43
(ALBA) và tổ chức được mở cho các nước khác trong khu vực tham gia.
Sau Tuyên bố Cusco, cơ chế hoạt động của SACN bắt đầu được hoạch định.
Theo đó, trong giai đoạn đầu, UNASUR sẽ hoạt động dựa trên các tổ chức và cơ
chế hiện có. Hội nghị Thượng đỉnh Nguyên thủ Nam Mỹ lần thứ hai năm 2006 ở
Cochabamba (Bolivia) đã ra Tuyên bố Cochabamba, chấp nhận Kế hoạch Chiến
lược làm sâu sắc thêm tiến trình hội nhập Nam Mỹ (Strategic Plan to Deepen the
South America Integration Process). Đây là sự hoàn thiện các định hướng hoạt động
chính và vai trò của SACN. Nhằm cấp vốn cho các các dự án hội nhập khu vực
cũng như làm cơ sở cho việc thống nhất tiền tệ, tại Hội nghị thượng đỉnh Đặc biệt
năm 2007 tại Margarita (Venezuela), nguyên thủ các nước đã thống nhất thành lập
Ngân hàng Nam Mỹ (Banco del Sur) với số vốn ban đầu của Ngân hàng là 7 tỉ
USD. Trong đó Venezuela Argentina, Brazil đóng góp 2 tỉ USD, còn lại do các
nước thành viên sáng lập khác (Bolivia, Argentina, Ecuador, Paraguay và Peru)
đóng góp. Ngân hàng phương Nam có trụ sở tại Caracas (Venezuela). Cũng tại hội
nghị này, tên của tổ chức được đổi thành Liên minh các Quốc gia Nam Mỹ (tên viết
tắt không đổi), hàm ý một sự liên kết sâu sắc hơn.
Hiệp ước Thành lập UNASUR được kí vào ngày 23/5/2008 tại Hội nghị
Thượng đỉnh Nguyên thủ Nam Mỹ lần thứ 3, tổ chức tại Brazilia (Brazil). Ngày
1/12/2010, Uruguay trở thành quốc gia thứ 9/12 phê chuẩn Hiệp ước, đảm bảo tính
pháp lý của tổ chức này. Cũng trong năm này, cựu Tổng thống theo đường lối cánh
tả Nestor Kirchner của Argentina đã được nhất trí bầu làm Tổng thư kí đầu tiên của
khối, với nhiệm kì hai năm, trong Hội nghị Thượng đỉnh cấp Nguyên thủ tại
Campana (Argentina) vào ngày 4/3/2010. Bên cạnh vị trí Tổng Thư ký, UNASUR
còn có vị trí Chủ tịch luân phiên, do nguyên thủ các quốc gia thành viên lân phiên
đảm nhiệm với nhiệm kì một năm. Ngoại trưởng các nước thành viên sẽ nhóm họp
6 tháng một lần để thảo luận các công việc chung. UNASUR chính thức đi vào hoạt
động với Hội nghị Ngoại trưởng tại Mitad del Mundo (Ecuador) - nơi đặt trụ sở Ban
Thư ký - vào ngày 11/3/2011. Ngoài ra, Nghị viện Nam Mỹ sẽ đặt trụ sở tại
Cochabamba (Bolivia), trong khi trụ sở chính của khối lại đặt tại Quito (Ecuador).
44
Như vậy, UNASUR không chọn một địa điểm duy nhất để đặt tất cả các cơ quan,
thể chế của mình vì các mục đích chính trị và biểu tượng hơn là sự tiện lợi và tính
kinh tế.
Liên minh Bolívar cho các Dân tộc châu Mỹ
Cùng được tuyên bố thành lập vào năm 2004 nhưng “số phận” của
UNASUR và ALBA rất khác nhau. Nếu như UNASUR đã tập hợp được trong khối
tất cả 12 nước Nam Mỹ thì ALBA khởi đầu chỉ có hai thành viên. Vào thời điểm
đỉnh cao ALBA bao gồm Venezuela, Cuba, Bolivia, Ecuador, Nicaragua, Honduras
(2006- 2009) – các chính quyền cánh tả cấp tiến nhất của Nam Mỹ, cùng một vài quốc gia độc lập nhỏ ở vùng Caribe21. Nền tảng của tổ chức này là mối quan hệ
song phương Venezuela - Cuba. Đầu năm 2000, Venezuela đã kí một “Hiệp định
Hợp tác Hội nhập” với Cuba, theo đó Cuba sẽ nhận được dầu giá rẻ, đổi lại là Cuba
cung cấp các hỗ trợ về y tế cho Venezuela. Năm 2001, đứng trước các vòng đàm
phán FTAA, Tổng thống Chavéz đã thông báo ý tưởng của ông về một logic hội
nhập thay thế, vốn sẽ không đặt thương mại làm trung tâm. Ba năm sau, Tổng thống
Chavéz đã có một chuyến thăm quan trọng tới Cuba vào tháng 12/2004. Cả hai
chính phủ đã quyết định nâng cấp hiệp định song phương để mở rộng lĩnh vực và
thiết lập tổ chức Sự lựa chọn Bolívar cho các Dân tộc châu Mỹ (ALBA). Đến năm
2009, tổ chức được đổi tên thành Liên minh Bolívar cho các Dân tộc châu Mỹ (cũng
giữ nguyên tên viết tắt). Lần lượt các nước cánh tả cấp tiếp khác tham gia vào khối:
Bolivia (2006), Nicaragua (2007), Honduras (2008) và Ecuador (2009).
Sau đó, ALBA được bổ sung bởi một Hiệp định Thương mại cho các Dân tộc
(TCP), nhằm thiết lập một khu vực thương mại chung giữa các nước thành viên và
thành lập các doanh nghiệp đa quốc gia do nhà nước quản lý, và các hiệp định khu
vực đặc biệt để cấp dầu giá rẻ, như PetroCaribe cho khu vực Caribe, PetroSur cho
các nước Nam Mỹ. Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ 6 của ALBA năm 2008 đã kí
Điều lệ thành lập Ngân hàng ALBA có số vốn điều lệ là 1 tỉ USD với sứ mệnh bảo
đảm sự độc lập kinh tế và chủ quyền tài chính cho các quốc gia thành viên. Sau đó,
45
vào tháng 11/2009, Hội nghị thượng đỉnh ALBA lần thứ 7 đã thiết lập cơ chế thanh 21 Đó là Dominica (2008), Antigua & Barbuda, St. Vincent & Grenadines (2009), St. Lucia (2013), St. Kitts & Nevis và Grenada (2014). Suriname được mời làm thành viên danh dự của khối vào năm 2012.
toán nội bộ (SUCRE) nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho mọi giao dịch kinh tế,
thương mại giữa các nước thành viên. Các nước thành viên dự hội nghị còn nhất trí
thành lập Công ty Xuất-Nhập khẩu ALBA (ALBAEXIM) để thiết lập cơ chế trao
đổi thương mại bổ sung giữa các nước trên tinh thần đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau.
Năm 2010, Tập đoàn Truyền thông ALBA (ALBATEL) được thành lập để
xây dựng các thiết chế, cơ quan truyền thông chung của khối. Đến năm 2012, Tổng
thống Chavéz còn đề xuất thành lập Hội đồng Phòng thủ ALBA với mục đích củng
cố sức mạnh các lực lượng vũ trang và có một chiến lược quốc phòng chung nhằm
đối phó với những mối đe dọa từ bên ngoài nhằm vào các quốc gia thành viên.
Hiệp định Hợp tác Năng lượng Caribe
PetroCaribe là một dự án được triển khai trước hết nhằm cũng cấp dầu giá
ưu đãi cho các nước Caribe và các nước Trung Mỹ bởi sáng kiến của cố Tổng thống
Venezuela Hugo Chavéz tại Hội nghị Thượng đỉnh ngày 29/6/2005 tổ chức ở Puerto
la Cruz (Venezuela). Cho đến đầu năm 2013, PetroCaribe có 17 thành viên chính
thức (trong đó có Honduras đang bị đình chỉ tư cách thành viên) với 12/15 quốc gia
là thành viên Cộng đồng Caribe (CARICOM) (chỉ trừ Barbados, Montserrat,
Trinidad & Tobago).
Tại Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ 7 của khối này vào năm 2013, Venezuela đã
đề xuất việc thành lập Khu vực Kinh tế PetroCaribe (ZEP) nhằm bảo đảm sự phát
triển năng lượng, kinh tế và tài chính trong khu vực. Việc này đã đánh dấu một
bước chuyển mới trong việc đa dạng hóa nội dung hợp tác của tổ chức này, thay vì
chỉ tập trung vào vấn đề năng lượng như trước đó. Cũng tại Hội nghị này, Honduras
được khôi phục tư cách thành viên, vốn bị đình chỉ sau cuộc đảo chính năm 2009.
Tuy nhiên, đến tháng 11/2013 thì Guatemala trở thành thành viên đầu tiên rút khỏi
Hộp 2.2. Hiệp định Hợp tác Năng lượng PetroCaribe
Theo chương trình PetroCaribe, các nước thành viên được mua dầu của
Venezuela chỉ phải trả một phần giá dầu (phụ thuộc vào giá dầu thế giới) trong vòng 90
ngày, và số còn lại được trả dần trong thời hạn 25 năm với lãi suất là 1%/năm khi giá
46
khối do không đạt được những thỏa thuận ưu đãi như kỳ vọng.
dầu ở mức trên 50 USD/thùng hoặc với lãi suất là 2%/năm và trả trong thời hạn 20 năm
khi giá dầu ở dưới 40 USD/thùng. Trong khi đó, một phần tiền mua dầu có thể trả bằng
việc cung cấp hàng hóa khác hoặc dịch vụ. (Cuba có một hiệp định tài chính và cung cấp
dầu riêng rẽ với Venezuela, theo đó, nước này sẽ nhận được nhiều hơn số lượng dầu và
đổi lại bằng việc hỗ trợ chăm sóc sức khỏe miễn phí cho các cộng đồng ở Venezuela).
Một bộ phận khác của PetroCaribe là Quỹ ALBA-Caribe, cung cấp hỗ trợ cho các các
chương trình xã hội và các dự án phát triển của các nước thành viên như xây dựng cơ sở
năng lượng và hóa lọc dầu và phát triển các nguồn năng lượng thay thế.
Biểu đồ 2.3. Mức tiêu thụ năng lượng và định mức dầu mua ưu đãi từ Venezuela của các
nước thành viên PetroCaribe (2011)
Nguồn: Số liệu được lấy từ www.petrocaribe.org
Đơn vị tính: KBD22 (nghìn thùng/ngày)
Đối với Cộng đồng các Quốc gia Mỹ Latinh và Caribe
Vào tháng 12/2008, Brazil đã tổ chức cuộc gặp lần đầu tiên của lãnh đạo
tất cả các nước Mỹ Latinh và Caribe, 33 nước châu Mỹ (trừ Mỹ và Canada), tại Hội
22 KBD: thousand barrels per day
47
nghị Thượng đỉnh Mỹ Latinh và Caribe về Hội nhập và Phát triển (CALC), để bàn
về việc thành lập một liên minh cánh tả dân chủ và các biện pháp đối phó với cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới nổ ra trong năm 2008. Tại Hội nghị này, Cuba đã được
Nhóm Rio - một diễn đàn khu vực, bao gồm 22 thành viên vào thời điểm đó, chấp
thuận làm thành viên chính thức. Việc này được Cuba cho là sự thất bại của chính
sách bao vây, cấm vận Cuba của Mỹ. Các nước Mỹ Latinh khác đều đánh giá cao sự
kiện này, khi quốc đảo lớn nhất vùng Caribe tham gia vào diễn đàn chung của khu
vực. Nhóm Rio, ngay từ khi thành lập đã đảm nhận vai trò của một diễn đàn chung
và độc lập nhằm giải quyết các vấn đề của khu vực giữa các nước Mỹ Latinh và
Caribe.
Ngày 23/2/2010, trong phiên họp toàn thể cuối cùng của Hội nghị Thượng
đỉnh Thống nhất, đồng thời là Hội nghị thượng đỉnh Nhóm Rio lần thứ 21 và Hội
nghị thượng đỉnh Mỹ Latinh và Caribe về Hội nhập và Phát triển lần thứ hai, diễn ra
tại khu nghỉ mát Cancun (Mexico), Tổng thống nước chủ nhà Felipe Calderon đã
đọc bản Tuyên bố thành lập “Cộng đồng các Quốc gia Mỹ Latinh và Caribe”
(CELAC), một tổ chức mới tại châu Mỹ, không bao gồm Mỹ và Canada. Trong
tuyên bố thành lập, các nguyên thủ đã thống nhất coi tổ chức mới này là một không
gian riêng của các quốc gia trong vùng, mang bản sắc riêng và thừa hưởng di sản
của tổ chức Nhóm Rio và Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ Latinh và Caribe về Hội nhập
và Phát triển (CALC), đề cao nguyên tắc tôn trọng dân chủ, chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ của tất cả các nước thành viên, không sử dụng hay đe dọa sử dụng vũ lực,
bảo vệ môi trường, nhân quyền và luật pháp quốc tế, kiến tạo hòa bình và an ninh
khu vực. Tại hội nghị, lãnh đạo các nước Cuba, Nicaragua và Venezuela chỉ trích
chính sách ngoại giao của Mỹ. Họ hy vọng CELAC sẽ thay thế cho Tổ chức các
quốc gia châu Mỹ (OAS) có trụ sở tại Washington (Mỹ). Trong khi đó, lãnh đạo của
Mexico và Chile, Costa Rica, Colombia muốn CELAC hoạt động song song với các
tổ chức hiện hành.
Hội nghị thượng đỉnh CELAC lần thứ nhất được tổ chức tại Caracas
48
(Venezuela) đã ra Kế hoạch Hành động Caracas. Hội nghị thượng đỉnh lần thứ hai
tổ chức tại Santiago (Chile), các nguyên thủ đã khẳng định các cam kết xây dựng
CELAC thành một khối liên kết độc lập, có chủ quyền và vững bước trên con
đường phát triển. Hội nghị thượng đỉnh lần thứ ba của khối diễn ra vào tháng
1/2015 tại Belem (Costa Rica) đã ra Tuyên bố Chính trị Belem và Kế hoạch Hành
động 2015.
2.3. Kết quả và tác động
2.3.1. Về chính trị-an ninh
Đối với các nước cánh tả trong khu vực, các tổ chức liên chính phủ cấp khu
vực từ UNASUR, ALBA cho đến CELAC, thậm chí là PetroCaribe không chỉ là
những mô hình hội nhập khu vực mà còn đều là những hình thức “tập hợp lực lượng
được thể chế hóa” của các chính quyền cánh tả hoặc chịu ảnh hưởng của các chính
quyền cánh tả trong khu vực. Đối với các nước cánh tả cấp tiến, thành tựu lớn nhất
chính là việc quy tụ được các nước trong một tổ chức thống nhất – ALBA. ALBA
được coi là một dự án chính trị đầy tham vọng, nhằm tạo ra một đối trọng công khai
với các thể chế do Mỹ lãnh đạo, nhằm đưa ra một phương án thay thế cho việc giải
quyết các vấn đề của khu vực MLT, rộng hơn, là phương tiện cho sự thay thế của “chủ nghĩa xã hội thế kỉ 21” đối với “chủ nghĩa tư bản hoang dã”23 như mục đích
của cố Tổng thống Venezuela Hugo Chavéz. Hợp tác về mặt chính trị - an ninh là
khía cạnh đạt được những kết quả nổi bật nhất.
Góp phần đảm bảo ổn định, dân chủ chính trị trong khu vực
Một trong những kết quả nổi bật nhất của xu hướng hội nhập khu vực cánh tả
ở Mỹ Latinh là đã góp phần đảm bảo ổn định, dân chủ chính trị trong khu vực. Có
được kết quả đó là nhờ các nước cánh tả trong xu hướng hội nhập khu vực mới đã
xây dựng được các cơ chế chung để duy trì trật tự hiến pháp, pháp quyền và dân chủ
trong các tiến trình chính trị, cũng như các tổ chức khu vực đã đóng vai trò trung
gian giữa các bên để giải quyết các xung đột chính trị trong khu vực, cũng như với
49
bên ngoài. 23 Hugo Chavéz, “Kế hoạch Tổ quốc: Chương trình Chính phủ Bolivár 2013- 2019 (Di chúc Tổng Tư lệnh Hugo Chavéz)”, 2013.
Trong số các tổ chức khu vực hình thành theo xu hướng cánh tả thì UNASUR
thể hiện rõ rệt nhất vai trò này. MERCOSUR cũng ngày càng gia tăng vai trò chính
trị của khối trong khía cạnh này. Tương tự, đối với các thể chế ALBA, PetroCaribe
cũng có những đóng góp vào việc duy trì sự ổn định của tiến trình dân chủ trong
khu vực.
Trong quá khứ, Nam Mỹ thường bị cai trị bởi các chế độ quân sự độc tài, hạn
chế các quyền cũng như sự giáo dục về chính trị cho đa số công dân. Điều này đã
ảnh hưởng tới văn hóa chính trị lành mạnh trong khu vực. Do đó, dân chủ như là
một hệ thống chính trị trở nên có tầm quan trọng đặc biệt trong tiến trình hội nhập
hiện nay. Để bảo vệ nền dân chủ trước các cuộc tấn công liên tục, UNASUR đã xây
dựng nên một cơ chế cho phép can thiệp vào các nước thành viên trong một số
trường hợp có các nỗ lực phi dân chủ để lật đổ các nền dân chủ như trong cuộc
khủng hoảng ở Bolivia năm 2008, cuộc đảo chính ở Honduras năm 2009 và cuộc
đảo chính vào tháng 9/2010 ở Ecuador. Đặc biệt, sau cuộc đảo chính hụt ở Ecuador
nhằm lật đổ Tổng thống Rafael Correa, UNASUR đã tổ chức một cuộc họp khẩn
cấp ở Argentina và bổ sung một “điều khoản dân chủ” (democracy clause) vào Hiệp
ước thành lập, khẳng định “cam kết mạnh mẽ đối với sự bảo vệ các thể chế dân chủ,
pháp quyền, trật tự hiến pháp, hòa bình xã hội và sự tôn trọng đầy đủ quyền con
người”. Sau đó, vào tháng 11/2010, UNASUR tổ chức một hội nghị tại Georgetown
(Guyana) và tuyên bố sẽ áp đặt các lệnh trừng phạt chống lại các quốc gia vi phạm
các nguyên tắc dân chủ, từ đình chỉ tư cách thành viên và đóng cửa biên giới cho tới
việc đình chỉ các dịch vụ đặc biệt như hàng không, thương mại, năng lượng và các
biện pháp bổ sung cần thiết khác. Sau này, CELAC đã kế thừa những bước tiến này
50
trong Tuyên bố đặc biệt về bảo vệ dân chủ và trật tự hiến pháp của CELAC.
Hộp 2.3. “Đảo chính nghị viện” tại Paraguay năm 2012
Mặc dù đã có thiết chế, một “cuộc đảo chính nghị viện” đã xảy ra ở Paraguay vào
tháng 6/2012 khi Quốc hội đã luận tội và phế truất Tổng thống đắc cử dân chủ Fernando
Lugo vì cáo buộc của một nghị sĩ cho rằng ông Lugo đã „lơ là trách nhiệm tổng thống”,
Phó Tổng thống Federico Franco lên nắm quyền. Phản ứng quyết liệt trước động thái
này, UNASUR và MERCOSUR ngay lập tức đình chỉ tư cách thành viên của Paraguay và
tuyên bố rằng sự đình chỉ này sẽ kéo dài cho tới khi trật tự hiến pháp và pháp quyền được
khôi phục ở nước này. Các nước thành viên khác như Brazil, Argentina và Uruguay cũng
rút đại sứ khỏi Paraguay. Ngoài ra, Ecuador đề xuất việc đóng cửa biên giới trong khi
Venezuela ngưng việc cung cấp dầu cho nước này. Tuy nhiên, các trừng phạt kinh tế đã
không được áp đặt chống lại Paraguay bởi sự phản đối của Argentina vì lý do nhân đạo.
Cuối cùng, lệnh trừng phạt chỉ được dỡ bỏ vào năm 2013 khi tổng thống dân cử mới
Horacio Cartes lên cầm quyền.
UNASUR cũng đã có những nỗ lực nhằm hỗ trợ việc tổ chức được các cuộc
bầu cử tự do và công bằng, một cơ chế thiết yếu, để đảm bảo nền dân chủ bền vững.
Từ năm 2011, UNASUR đã lập ra Hội đồng Bầu cử của UNASUR để giám sát các
cuộc bầu cử của các nước thành viên và báo cáo gian lận. Hội đồng này gửi phái
đoàn giám sát tới các cuộc bầu cử tại 9 nước thành viên, đầu tiên là tại Guyana vào
tháng 11/2011 và Venezuela vào năm 2012. Các biện pháp này chứng tỏ một sự
cam kết mạnh mẽ đối với việc tăng cường các chế độ, thể chế dân chủ ở Nam Mỹ.
Kể từ khi được chính thức lập ra năm 2008, UNASUR cũng đã thành công
trong việc làm trung gian trong việc giải quyết những bất đồng giữa các nước thành
viên trong khu vực cũng như hỗ trợ giải quyết các cuộc xung đột trong khu vực.
Gần đây nhất, UNASUR đã đứng ra làm trung gian hòa giải cuộc khủng hoảng liên
quan ðến vấn ðề biên giới giữa Venezuela và Colombia nổ ra từ tháng 8/2015.
Trýớc ðó, UNASUR cũng giữ một vai trò tích cực trong tiến trình hòa đàm chấm
dứt xung đột vũ trang giữa lực lượng chính phủ Colombia và Lực lượng Vũ trang
Cách mạng Colombia (FARC). Trong một diễn biến liên quan, ngày 8/4/2015 Tổng
51
thư kí UNASUR, cựu Tổng thống Colombia Ernesto Samper khẳng định: “với vai
trò tổ chức khu vực thúc đẩy hòa bình, dân chủ và quyền con người, UNASUR cần
tham dự với tư cách quan sát viên hoặc trung gian vào quá trình đàm phán (giữa chính phủ Colombia và FARC)”24.
Những đóng góp của các tổ chức khu vực cánh tả đối với sự ổn định và dân
chủ trong khu vực cũng đồng thời là những sự củng cố uy tín và năng lực về mặt
chính trị của các chính quyền cánh tả MLT. Đó là những nỗ lực của các chính
quyền cánh tả khu vực trong việc giải quyết các vấn đề quan trọng của khu vực,
trong đó có việc giải quyết các bất đồng, mâu thẫu để đạt được mục tiêu xây dựng
Mỹ Latinh thành một khu vực hòa bình, đoàn kết và thịnh vượng.
Đảm bảo an ninh, củng cố các chính quyền cánh tả trong khu vực
Ngoài sự củng cố về khía cạnh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh năng lượng
cũng như tạo dựng một cơ chế truyền thông độc lập cũng được các nước cánh tả
trong khu vực hết sức chú ý. Đối với việc đảm bảo An ninh Kinh tế, được cả
UNASUR cũng như ALBA tập trung để đưa ra các biện pháp nhằm giảm thiểu
những tác động tiêu cực về kinh tế từ bên ngoài, đảm bảo giữ vững chủ quyền về
kinh tế. Trong vấn đề an ninh năng lượng thì nổi lên vai trò của Venezuela thông
qua dự án hợp tác năng lượng, nổi trội và đạt được kết quả lớn nhất là PetroCaribe
nhằm đảm bảo quyền tiếp cận nguồn năng lượng an toàn và giá rẻ cho các nước
trong khối cũng như trong khu vực.
Liên quan đến nội dung này, việc thành lập Ngân hàng phương Nam25 (Banco
del Sur) vào năm 2007 nhằm ngăn chặn tình trạng “phi vốn hóa” ở Nam Mỹ
(decapitalisation) thông qua việc hài hòa hóa ngân khoản (accounts) của các nước
thành viên để đơn giản hóa và thống nhất trao đổi thương mại, và tạo lập một quỹ
khẩn cấp để cân bằng biến động trong hệ thống tiền tệ. Thể chế tài chính này còn
được sử dụng cho các dự án hạ tầng kinh tế và xã hội, cũng như phản ứng trong các
24 Xem “Unasur đề nghị hỗ trợ tiến trình tái thiết hòa bình ở Colombia” tại http://www.vietnamplus.vn , truy cập ngày 21/8/2015 25 Thể chế này chính thức bắt đầu hoạt động từ tháng 9/2009 tại Caracas với 7 thành viên: Argentina, Bolivia, Brazil, Ecuador, Paraguay, Uruguay và Venezuela là thành viên chính thức. Peru và Chile là hai nước quan sát viên
52
tình huống khẩn cấp như thảm họa thiên nhiên.
Các biện pháp tương tự cũng được ALBA triển khai để đảm bảo sự tự chủ về
tài chính cũng như thúc đẩy sự hội nhập kinh tế trong khối thông qua đề xuất thành
lập. Ngân hàng ALBA. Trong việc thống nhất tiền tệ, ALBA có bước đi xa hơn so
với UNASUR khi đưa ra sử dụng đồng tiền chung Sucre cho các giao dịch nội khối
trong bối cảnh nhiều nền kinh tế của ALBA ở Caribe và thậm chí cả Ecuador vẫn
dùng đô la Mỹ để thanh toán.
Về vấn đề đảm bảo an ninh năng lượng của các nước trong khu vực, cả hai
khối cũng đã đưa vào chương trinh nghị sự từ rất sớm. Lý do là bởi năng lượng là
một nhân tố thiết yếu đối với Nam Mỹ bởi vì sự tăng lên không ngừng của nhu cầu
và sự bất ổn định tương ứng trên thị trường dầu mỏ. Sự hợp tác trên lĩnh vực này
giữa các quốc gia Nam Mỹ đã được xây dựng. Tuy nhiên, tồn tại sự quan ngại ngày
càng tăng về an ninh năng lượng ở Nam Mỹ, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng năng
lượng của Brazil năm 2001, cuộc khủng hoảng của Argentina sau đó vài năm và
tranh chấp giữa Argentina và Chile về hợp đồng cung cấp. Kết quả là, Hội đồng
Năng lượng Nam Mỹ được thành lập theo Tuyên bố Margarita vào tháng 4/2007 để
nâng cao sự phối hợp về năng lượng giữa các nước Nam Mỹ. Sau đó, một cơ chế để
giải quyết tranh chấp năng lượng giữa các nước thành viên UNASUR cũng được
thông qua vào năm 2009. Hội nghị lần thứ ba của Hội đồng Năng lượng UNASUR
tại Caracas vào tháng 5/2012 đã đồng ý thiết lập một nhóm theo dự án (ad hoc
group) để nghiên cứu các đề xuất cho Hiệp ước Năng lượng Nam Mỹ với mục tiêu
bảo vệ các nguồn năng lượng trong khu vực. Hội đồng Năng lượng cũng đồng ý
tiếp tục hợp tác với Tổ chức Năng lượng Mỹ Latinh (OLADE) trong các hoạt động
vì mục đích hội nhập năng lượng. Hơn nữa, một Viện Khảo sát của UNASUR, một
cơ chế chung nhằm chia sẻ kiến thức về các vấn đề liên quan đến năng lượng, nâng
cao đào tạo và phát triển kĩ thuật trong khu vực cũng được thông qua. Tuy nhiên,
trong vấn đề năng lượng thì mô hình PetroCarribe để lại nhiều dấu ấn đậm nét.
Ra đời vào năm 2005, Hiệp định Hợp tác Năng lượng Caribe nhanh chóng thể
53
hiện một vai trò to lớn trong việc đảm bảo an ninh năng lượng cho các quốc gia
vùng Caribe vốn phụ thuộc hoàn toàn vào nhập khẩu dầu mỏ từ bên ngoài26. Hiệp
định Hợp tác Năng lượng được kí bởi 14 nước “cùng quan tâm về các xu hướng
kinh tế toàn cầu, và đặc biệt, với các chính sách và thực tiễn đang phổ biến tại các
nước phát triển dẫn đến sự loại bỏ các nước nhỏ hơn thuộc Thế giới thứ Ba có các nền kinh tế đang ngày càng phụ thuộc vào sự phát triển quốc tế”27. Nhận thức được
tình trạng dễ bị tổn thương về an ninh năng lượng của mình, các nước khu vực
Caribe đã tham gia vào dự án PetroCarribe, không chỉ nhằm đảm bảo an ninh năng
lượng mà còn có thể hỗ trợ hàng triệu người nghèo khổ ở các nước này, dựa trên lợi
ích từ các điều khoản mua dầu ưu đãi.
Kể từ khi kí Hiệp định Hợp tác Năng lượng PetroCaribe cho tới hết năm 2014,
trung bình 32% nhu cầu dầu mỏ của các nước kí kết hiệp định được đáp ứng qua
PetroCaribe, tương đương 307 triệu thùng dầu và một khoản tín dụng được cung cấp tương đương 28 tỉ USD theo dự án28. Các nguồn lực tiết kiệm được đã được sử
dụng cho các dự án phát triển. Hơn nữa, với việc lập ra các công ty góp vốn giữa
Tập đoàn Dầu khí Venezuela, Nam Mỹ (PDVSA) và các công ty dầu khí nhà nước
của tám quốc gia thành viên PetroCaribe, đã đầu tư chung 552 triệu USD cho việc
phát triển ba cơ sở hạ tầng lọc dầu, bảo quản và cung cấp nhiên liệu tại St. Vincent
& Grenadines và Cuba. Ngoài ra, còn có các dự án năng lượng đang được phát triển
tại Nicaragua, Haiti, Antigua và Barbuda, Dominica và St. Kitts và Nevis. Các dự
án đó là nhằm phát triển chiến lược cung cấp dài hạn nhằm khắc phục những trở
ngại mà các nước này gặp phải.
Trước khi có PetroCaribe, các nước trong khu vực không có quyền kiểm soát
dầu thô và các sản phẩm trong chuỗi cung, cũng như họ bị phụ thuộc vào các tập
đoàn xuyên quốc gia và sự đầu cơ của những bên trung gian. Một chiến lược đang
26Trong số 57 nước (trên thế giới) có thu nhập bình quân đầu người hàng năm thấp hơn 6.000 USD, và phải nhập khẩu hoàn toàn dầu thì có 14 nước ở MLT. 27 Xem Petrocaribe: a shield against misery, tại www.petrocaribe.org, truy cập ngày 21/10/2015. 28 Xem “Oil price and the future of PetroCaribe” tại http://www.huffingtonpost.com, truy cập ngày 21/10/2015.
54
được triển khai với sáng kiến này bao gồm thiết lập việc cung cấp và chi phí cạnh
tranh trong ngắn hạn, đồng thời, hạn chế về lâu dài sự trung gian với việc xây dựng các
cơ sở cho chính các nước này. Điều này cho phép việc đảm bảo an ninh năng lượng.
Ngoài chiến lược trên, PetroCaribe cũng đã thực hiện hợp tác trong việc phát
triển các nguồn năng lượng mới, để thoát khỏi sự phụ thuộc vào năng lượng hóa
thạch về lâu dài, góp phần bảo vệ môi trường sinh thái. Bộ trưởng năng lượng các
nước thành viên PetroCaribe đã chấp nhận bản dự thảo bao gồm 10 dự án về sử
dụng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng, 44 dự án thí điểm về các nguồn năng lượng
tái tạo, trong các lĩnh vực nhiệt lượng mặt trời, điện mặt trời, địa nhiệt và năng
lượng gió.
Một lĩnh vực có kết quả hội nhập đáng kể nữa của các nước cánh tả trong khu
vực là sự hợp tác trong lĩnh vực truyền thông, đặc biệt là truyền thông chính trị
nhằm xóa bỏ sự độc quyền của các thiết chế truyền thông của Mỹ trong khu vực.
Đồng thời, việc tạo ra các thiết chế truyền thông riêng cũng góp phần vào việc củng
cố, lan truyền các quan điểm hội nhập của khối cũng như những nỗ lực thúc đẩy hội
nhập khu vực và phát triển của các chính quyền cánh tả.
Trên lĩnh vực truyền thông, ALBA nhất quán với chủ trương tăng cường chủ
quyền quốc gia. Các nước thành viên đã xúc tiến nhiều phần mềm dùng chung ứng
dụng tin học; thành lập các Trung tâm Viễn thông Cộng đồng; lắp đặt Trạm Mặt đất
để sử dụng băng tần KU-NAM và Vệ tinh Simón Bolivar. Năm 2007, Tập đoàn liên
doanh Viễn thông Đại Caribe (TGC) ra đời, thiết lập đường truyền internet cáp
quang dưới biển, ban đầu kết nối ba nước Cuba, Jamaica, Venezuela và sau đó đến
nhiều quốc gia Trung Mỹ và Caribe. Năm 2010, Tập đoàn Truyền thông ALBA
(ALBATEL) được thành lập với mục đích triển khai các dự án hỗ trợ phát triển hạ
tầng, dịch vụ và nền công nghiệp viễn thông toàn khối. Đến nay, ALBA có Truyền
hình Phương Nam (TELESUR), Đài Phát thanh Phương Nam (RADIO DEL SUR)
và Truyền hình ALBA (ALBATV) như các thiết chế truyền thông chung.
Thúc đẩy tiến trình hội nhập an ninh khu vực
Trong khía cạnh này, UNASUR đã đạt được nhiều kết quả to lớn, đặc biệt là
55
trong lĩnh vực hợp tác phòng thủ - an ninh. Từ nhận thức về tầm quan trọng của lĩnh
vực hợp tác này trong việc xây dựng cấu trúc an ninh khu vực, đặc biệt với một khu
vực tồn tại nhiều thách thức như Mỹ Latinh, UNASUR đã xây dựng nên Hội đồng
Phòng thủ Nam Mỹ (SADC) với vai trò nòng cốt, điều phối hợp tác phòng thủ - an
ninh chung của khu vực vào năm 2008. Theo điều lệ, SADC hoạt động trên nguyên
tắc “không can thiệp, tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ”. SADC “không phải là một liên minh quân sự cũng như không phải là một tổ chức phòng thủ”29.
Đến hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng UNASUR đầu tiên năm 2010, SADC được bổ
sung thêm mục tiêu là thành lập một khu vực hòa bình ở Nam Mỹ, không có vũ khí
hạt nhân hay các vũ khí hủy diệt hàng loạt khác; tạo dựng một bản sắc riêng cho
khu vực trong vấn đề phòng thủ; và tăng cường hợp tác khu vực đảm bảo chủ quyền đối với các nguyền tài nguyên thiên nhiên trong khu vực30. Trong lễ kỉ niệm thành
lập lần thứ 8 ngày 17/4/2015, UNASUR đã chính thức mở cửa Trường Quốc phòng
Nam Mỹ (Esude) nhằm huấn luyện về các vấn đề và an ninh, ở cả cấp độ quân sự và
dân sự, theo “các nguyên tắc của tầm nhìn chiến lược khu vực”. Trong khi đó, các
nước khối ALBA cũng ủng hộ ý tưởng về một Hội đồng Phòng thủ ALBA cũng
như một lý thuyết phòng thủ riêng cho khu vực do Tổng thống Bolivia Evo Morales
đề xuất tại Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 11 của khối vào tháng 2/2012.
Tăng cường tính minh bạch trong chi tiêu quân sự và hợp tác trong công
nghiệp quốc phòng, dựa trên nền tảng kĩ thuật tiên tiến của Brazil và Argentina, là
những bước đi cụ thể tiếp theo của UNASUR. Lý do là sự nghi ngờ giữa các nước
thành viên về ý định, kế hoạch hiện đại hóa quân sự và liên minh dẫn tới sự hạn chế
hợp tác trong lĩnh vực quan trọng này. Trong Kế hoạch Hành động 2009- 2010,
được thông qua trong năm 2009, đã nhấn mạnh đến việc đảm bảo tính minh bạch
trong chi tiêu quốc phòng thông qua việc chia sẻ thông tin quốc phòng liên quan
đến chi tiêu cho mua sắm vũ khí và huấn luyện quân sự. Bản Kế hoạch cũng tuyên
bố SADC sẽ tăng cường hợp tác thông qua tạo dựng tiếng nói chung trong các diễn
29 Babjee Pothuraju (2012), “UNASUR and Security in South America”, IDSA, New Dehli, India. 30 Babjee Pothuraju (2012), “UNASUR and Security in South America”, IDSA, New Dehli, India.
56
đàn quốc phòng đa phương, phối hợp rà phá bom mìn và các hoạt động khác, đồng
thời, cung cấp hỗ trợ cho các sứ mệnh hòa bình cũng như trong các thảm họa thiên
nhiên. Trong hợp tác công nghiệp quốc phòng, Kế hoạch Hành động 2012 đã đề
xuất triển khai các sáng kiến đặc biệt về hợp tác sản xuất ở Nam Mỹ máy bay huấn
luyện cơ bản, máy bay không người lái (UAV), các thế hệ xe bọc thép “Gaucho” và
“Guarani”, và các hợp tác về máy bay vận tải quân sự Embraer C-390 của Brazil trong tương lai”31. UNASUR cũng đã lập ra một cơ quan tham vấn, Trung tâm
Nghiên cứu Chiến lược Quốc phòng (CEED) để xây dựng một học thuyết quân sự
của khu vực và phát triển các cơ chế chung cho sự minh bạch trong chi tiêu và
chính sách quốc phòng vào tháng 5/2010. Trong hội nghị ở Quito (Ecuador) ngày
10/5/2010, CEED đã ra bản báo cáo về chi tiêu quốc phòng của các nước thành viên
trong giai đoạn 2006- 2010. Cũng trong hội nghị này, các bộ trưởng đã nhất trí hội
nhập sâu hơn về quân sự và đề xuất thành lập Hội đồng An ninh Công dân (Citizen
Security Council).
Tội phạm là một thách thức chủ yếu đối với Nam Mỹ từ cấp độ địa phương tới
cấp độ khu vực, các hoạt động tội phạm xuyên quốc gia nảy sinh từ buôn bán ma
túy, vũ khí bất hợp pháp và buôn người qua biên giới. Các nước như Colombia,
Peru và Bolivia là nơi sản xuất và tiêu thụ chủ yếu chất gây nghiện (narcotics) trong
khi Ecuador được biết đến như là nơi sản xuất của thuốc phiện (poppy) và cần sa
(marijuana). Cách thức và phương pháp chống tội phạm và các vấn đề an ninh khác
ở Nam Mỹ đã được đưa ra thảo luận trong hội nghị bộ trưởng ngoại giao, quốc
phòng, nội vụ và tư pháp các nước ở Cartagena (Colombia) vào tháng 5/2012, và
các bộ trưởng đã đồng ý về việc lập một hội đồng an ninh chung, đặc biệt là đối với
tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia.
Tác động đến cấu trúc hội nhập trong và ngoài khu vực
Tác động lớn nhất của xu hướng hội nhập khu vực cánh tả của các nước Mỹ
Latinh trong lĩnh vực chính trị - an ninh là thay đổi cấu trúc và cách tiếp cận khu
vực. Kể từ khi được 33 nước Mỹ Latinh lập ra năm 12/2011, CELAC đã đảm nhận
31 Babjee Pothuraju (2012), “UNASUR and Security in South America”, IDSA, New Dehli, India.
57
vai trò là cơ chế thống nhất, đại diện cho toàn bộ các nước Mỹ Latinh và Caribe
trong việc tiếp cận các đối tác ngoài khu vực, ở cả góc độ khu vực - khu vực và khu
vực - quốc gia. Thông qua diễn đàn này, Cuba chính thức quay trở lại tham dự các
tổ chức chung của khu vực trong quan hệ với bên ngoài khi nước này đảm nhận vai
trò Chủ tịch luân phiên (President pro tempore) của CELAC trong năm 2013. Các
quốc gia, khu vực khác cũng thông qua CELAC để thực hiện việc tiếp cận các nước
Mỹ Latinh và Caribe từ góc độ toàn khu vực, bên cạnh các tiếp cận song phương, đa
phương.
Đối với Mỹ, CELAC rõ ràng không được chào đón vì nhiều nước Mỹ Latinh
mong muốn CELAC sẽ thay thế vai trò của OAS do Mỹ chi phối. Thậm chí, tại
buổi lễ thành lập CELAC, Tổng thống Nicaragua Daniel Ortega còn cho rằng sự ra đời của CELAC là “bản án tử hình với học thuyết Monroe”32. Tuy nhiên, dù không
hưởng ứng Mỹ cũng không đưa ra phản ứng nào chống lại CELAC khi tổ chức này
được thành lập. Trong khi, Tổng thư ký Tổ chức các nước châu Mỹ (OAS) ông
José Miguel Insulza còn tuyên bố: "Tôi không chống lại CELAC và tôi nghĩ rằng, chúng ta sẽ bổ sung cho nhau"33. Tuy nhiên, rõ ràng là Mỹ đã không lựa chọn
CELAC để tiếp cận và giải quyết các vấn đề với Mỹ Latinh.
Trong khi đó, Trung Quốc và EU là hai trong ba đối tác kinh tế lớn nhất của
Mỹ Latinh áp dụng cách tiếp cận này thông qua các diễn đàn CELAC - Trung Quốc
và CELAC - EU. EU là đối tác ngoài khu vực đầu tiên có cách tiếp cận toàn khu
vực thông qua CELAC, dựa trên cơ chế hợp tác đã có sẵn từ trước thông qua
CALC/LAC. Đến nay, CELAC-EU đã tổ chức được hai Hội nghị Thượng đỉnh, lần
thứ nhất diễn ra vào 26-27/1/2013 tại thủ đô Santiago của Chile và lần thứ 2 diễn ra
từ ngày 10-11/6/2015 tại Brussels, Bỉ. Tại hội nghị thượng đỉnh tại Santiago, hai
bên đã tập trung thảo luận về sự hợp tác thương mại, thúc đẩy đầu tư xã hội và chất
lượng môi trường. Đồng thời, hai bên cũng phê duyệt mở rộng kế hoạch hành động
trong hợp tác song phương. Trong Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ hai CELAC-EU,
58
bên lề sự kiện này là hai cuộc gặp cấp cao EU-CARIFORUM và EU-SICA nhằm 32 Xem “Khai mạc hội nghị thành lập cộng đồng các quốc gia Mỹ Latinh và caribe” tại http://baobinhphuoc.com.vn, truy cập ngày 21/10/2015 33 Xem “Tương lại nào cho Cộng đồng các nước Mỹ Latinh và Caribe” tại http://www.tapchicongsan.org.vn, truy cập ngày 21/10/2015.
tiếp cận cụ thể hơn, lần lượt, với tiểu khu vực Caribe và Trung Mỹ. Ngoài ra, các
nước tham dự Hội nghị Thượng đỉnh lần này đã kí hiệp định thành lập Quỹ EU-
CELAC với mục đích thúc đẩy các xã hội dân sự trong quan hệ giữa hai khối.
Trong khi đó, Hội nghị cấp Bộ trưởng đầu tiên Diễn đàn CELAC-Trung Quốc
đã diễn ra từ 8-9/1/2015 tại Bắc Kinh (Trung Quốc) nhằm thảo luận về cách thức
triển khai các dự án hợp tác giữa hai bên đã được kí kết nhân chuyến thăm Mỹ
Latinh của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình vào cuối tháng 7/2014. Đặc biệt
trong số đó là các dự án hạ tầng cơ sở rất lớn như: hệ thống đường sắt nối liền Thái
Bình Dương và Đại Tây Dương (đi qua lãnh thổ hai nước Brazil và Peru), các tuyến
vận tải kết nối các vùng sản xuất của Argentina ra các cảng ven biển của nước này
hay dự án kênh đào Nicaragua, nhằm cạnh tranh với kênh đào Panama…Đồng thời,
Trung Quốc cũng thông qua diễn đàn chung này để đưa ra những tuyên bố về đầu tư
và thương mại vào khu vực nhằm thúc đẩy mối quan hệ kinh tế chặt chẽ hơn giữa
hai bên, cũng như gây ảnh hưởng đối với khu vực vốn lâu nay được coi như “sân
sau” của nước Mỹ. Ấn Độ cũng đã có bước đầu tiếp cận theo cách này nhưng thông
qua các diễn đàn doanh nghiệp Ấn Độ - CELAC.
Ngoài ba đối tác ngoài khu vực đã thiết lập được cơ chế hợp tác cấp cao là EU
và Trung Quốc kể trên, CELAC cũng đã thiết lập được cơ chế hợp tác khác với
Nga, Hàn Quốc, Hội đồng Hợp tác các Nhà nước vùng Vịnh, và Thổ Nhĩ Kỳ.
2.3.2. Về kinh tế
Góp phần nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế khu vực
Kể từ khi kí kết Hiệp định Bổ sung Thương mại (Trade Complementary
Agreement, 2004), quan hê thương mại giữa hai khối MECOSUR và CAN cho đến
trước khi thành lập UNASUR đã đạt được những bước tiến đáng kể. Vào năm 2008,
thương mại giữa Cộng đồng Andes và MERCOSUR ước tính 16.430 triệu USD,
tăng 27% so với cùng kì năm trước (12.923 triệu USD). Thương mại đã gia tăng
nhanh chóng, từ 2.565 triệu USD vào năm 1999 lên đến 16.430 triệu USD vào năm
2008, với mức tăng trung bình hàng năm là 23% trong vòng 10 năm. CAN nhập
khẩu từ MERCOSUR 10.844 triệu USD năm 2008, tăng 21% so với năm 2007.
59
Thương mại giữa CAN và các nước thành viên của MERCOSUR cũng tăng trưởng
nhanh chóng. Thương mại giữa CAN và Argentina ước đạt 4.594 triệu USD, tăng
28% so với cùng kì năm trước (3.600 triệu USD); với Brazil đạt 11.263 triệu USD,
tăng 27% so với cùng kì năm trước (8.906 triệu USD); với Uruguay đạt 256 triệu
USD, tăng 45% so với cùng kì năm trước (176 triệu USD); với Paraguay đạt 318
triệu USD, tăng 32% so với cùng kì năm trước (240 triệu USD); và với Chile đạt 7.134 triệu USD, tăng 43% so với cùng kì năm trước (5.003 triệu USD)34.
Một diễn biến mới trong xu hướng hội nhập kinh tế của các nước cánh tả là sự
thâm nhập, hội tụ lẫn nhau của các khối liên kết kinh tế trong khu vực tạo nên trụ
cột hội nhập kinh tế thống nhất vững chắc cho tiến trình hội nhập khu vực ở MLT.
Đầu tiên là sự tham gia của Venezuela (thành viên cũ) và Bolivia, Ecuador vào
MERCOSUR khi vẫn còn là thành viên của CAN. Việc kết nạp Venezuela vào năm
2006 (được tất cả thành viên MERCOSUR thông qua đầy đủ năm 2012), lúc đó
đang dưới sự lãnh đạo của cố Tổng thống Hugo Chavéz là một bước đi quan trọng
tăng cường sức mạnh của khối cũng như củng cố việc điều hướng các ưu tiên hội
nhập của khối. Về thực lực, việc bổ sung thêm Venezuela đã giúp tăng thêm 378,9 tỉ USD GDP, đưa GDP của khối lên khoảng 3.300 tỉ USD35 và tăng thêm gần 30
triệu người vào thị trường tiêu thụ của khối.
Trong một diễn biến liên quan đến nhóm quốc gia cánh tả cấp tiến thì ALBA
được kết hợp với PetroCaribe vào năm 2014 để tạo ra Khu vực Kinh tế PetroCaribe
(ZEP). Hành động này được đại diện phía Venezuela là Tổng thống Maduro đặc
biệt nhấn mạnh là nhằm tạo ra một sự phát triển thực sự công bằng, bình đẳng và bổ
sung lẫn nhau, khác với các khu vực được thành lập theo các hiệp định thương mại
tự do do “đế quốc” thúc đẩy. Cũng trong năm 2014, tại Hội nghị thượng đỉnh lần
thứ 47 của MERCOSUR tại Caracas (Venezuela), các nguyên thủ quốc gia dự hội
nghị nhất trí thành lập một cơ chế đối thoại chính trị và hợp tác kinh tế thương mại,
34 Xem tại http://en.reingex.com/CAN-MERCOSUR.shtml, truy cập ngày 25/11/2015 35 Xem “ Mercosur nhất trí cam kết thúc đẩy thương mại trong khu vực” tại http://www.vietnamplus.vn, truy cập ngày 25/10/2015 36 Như mục 34
60
nhằm thúc đẩy một khu vực kinh tế bổ sung cho nhau giữa MERCOSUR với ALBA, PetroCarribe và CARICOM36.
Gián tiếp ảnh hưởng đến việc xây dựng hệ thống thương mại toàn cầu
Quá trình hình thành các khối thương mại khu vực là biểu hiện của quá trình
“phân mảnh” của trong lộ trình về một hệ thống thương mại toàn cầu. Nước Mỹ là
một trong những nước tích cực nhất trong việc thúc đẩy hình thành hệ thống thương
mại chung đó. Đặc biệt, thông qua dự án FTAA, Mỹ muốn hình thành một hệ thống
thương mại tự do cho toàn bộ Tây Bán cầu vào đầu thế kỉ 21. Tuy nhiên, “giấc mơ”
này bị dang dở bởi quá trình phân mảnh của các tiểu khu vực, đặc biệt là giữa Bắc
Mỹ (bao gồm Mexico) và khu vực Mỹ Latinh. Tiếp nối dự án về Khu vực Thương
mại Tự do Nam Mỹ (SAFTA) đoản mệnh, các dự án hội nhập của khu vực Mỹ
Latinh thiên về hội nhập kinh tế là MERCOSUR và các dự án kinh tế của CAN vốn
đã là những “thách thức” trong việc hiện thực hóa FTAA nói riêng và một hệ thống
thương mại toàn cầu nói chung. Hơn nữa, khi CAN và MERCOSUR trở nên mở
rộng hơn ngoài kinh tế cũng như xuất hiện thêm UNASUR, ALBA, CELAC – các
tổ chức vốn không đặt trọng tâm vào kinh tế, thì những tác động sẽ còn lớn hơn
nữa. Mặt khác, sự hình thành của các khối đặt trọng tâm vào thương mại như
MERCOSUR và CAN cũng chính là biểu hiện cho sự phản ứng của các nước Mỹ
Latinh nói riêng, các nước đang phát triển nói chung về cách thức giải quyết những
bất đồng căn bản giữa hai nhóm nước phát triển và đang phát triển trong chương
trình nghị sự Doha.
2.3.3. Về các lĩnh vực khác
Tăng cường hợp tác y tế, giáo dục, giao lưu văn hóa, thể thao
PetroCaribe không chỉ là một hiệp định cung cấp dầu thuần túy với giá ưu đãi
mà còn nhấn mạnh vào các dự án xã hội trong các lĩnh vực du lịch, giáo dục, y tế,
nhà ở, điều kiện môi trường, mạng lưới đường xá, thể thao và nông nghiệp thông
qua Quỹ ALBA Caribe. Quỹ này được thành lập để cung cấp tài chính cho các
chương trình kinh tế và xã hội với các nguồn lực bao gồm các công cụ tài chính và
phi tài chính, cũng như là các sự đóng góp, có thể từ một phần tiền tiết kiệm được
61
trong các khoản thanh toán dầu ưu đãi. 179 triệu USD từ Quỹ này đã được phân bổ
cho 85 dự án ở 11 quốc gia tham gia kí kết và 29 triệu USD cho 3 dự án năng điện tái tạo37.
Hợp tác trong lĩnh vực y tế rất nổi bật. Với tiềm lực to lớn về y tế của Cuba-
một thành viên chủ chốt trong khối, hợp tác trong lĩnh vực này đã được đẩy mạnh
với hàng loạt các chương trình, dự án nhằm cải thiện tình hình y tế các nước trong
khối. ALBA quyết tâm cải thiện tỷ lệ 1 bác sĩ/1.626 người dân năm 2004 lên 1 bác
sĩ/ 1.166 người dân năm 2008. Theo số liệu điều tra 2 năm 2009 – 2011, đã có hơn
3,8 triệu người nghèo được khám bệnh miễn phí, trong đó gần 1,3 triệu người được
chữa bệnh. Chương trình y tế “Sứ mệnh Diệu kỳ” đang được triển khai ở 21 quốc
gia trên thế giới, đã đem lại ánh sáng cho gần 3 triệu người khiếm thị. Chương trình
“Moto Mendez” dành riêng cho những người thiểu năng, đã xúc tiến các nghiên cứu
về gien và tâm lý – xã hội, đem lại cuộc sống bình thường cho hàng nghìn người
thuộc các quốc gia thành viên ALBA. Năm 2006, ALBA thành lập Bệnh viện Tim
mạch “Gilberrto Rodriguez Ochoa” tại thủ đô Caracas chuyên chữa trị các căn bệnh
tim bẩm sinh cho trẻ sơ sinh và trẻ em Mỹ La tinh. Ngoài ra, còn có chương trình
khám bệnh và cấp thuốc miễn phí cho các đối tượng nghiện hút...Tính trong giai
đoạn 2004 – 2012, tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh (dưới 5 tuổi) toàn khối đã hạ được
5%, trong đó có một số quốc gia tiêu biểu như Bolivia (20,5%), Nicaragua (8,7%), Ecuador (6,4%)...38. Các nước thành viên ALBA đã thành lập Tập đoàn Dược phẩm
Đại Quốc gia (ALBAFARMA), thống nhất 489 loại thuốc thiết yếu dùng trong khối
ALBA; tiến hành đăng ký y tế đối với các loại thuốc dùng cho người của Tổ chức Y
tế Thế giới và Tổ chức Y tế châu Mỹ.
Hợp tác trên lĩnh vực giáo dục của ALBA cũng đạt được kết quả ấn tượng.
Tính đến năm 2014, đã có 3.815.092 người được xóa mù chữ, biết đọc, biết viết.
Các nước Antigua-Barbuda, Cuba, Nicaragua và Venezuela tuyên bố trở thành các
37 Xem “Petrocaribe: a shield against misery” tại http://www.petrocaribe.org/, truy cập ngày 21/10/2015 38 Nguyễn Viết Thảo, “ALBA – 10 năm đoàn kết và thắng lợi”, tại http://www.cpv.org.vn , truy cập ngày 23/8/2015
62
lãnh thổ hoàn toàn xóa xong nạn mù chữ. Các quốc gia ALBA đã sớm ký nghị định
công nhận chứng chỉ cử nhân trong toàn khối; xúc tiến Chương trình Giáo dục quốc
tế đặt tại Caracas. Trong khuôn khổ chương trình này, có trên 4.000 sinh viên ngoại
quốc (Mỹ Latinh, châu Á, châu Phi, Trung Đông) được nhận học bổng theo học 88
chuyên ngành tại 36 trường đại học của Venezuela. Năm 1999, ALBA thành lập
Đại học Y Mỹ Latinh (ELAM) tại La Habana (Cuba). Tính đến năm 2013, đã có
20.786 bác sĩ y tế cộng đồng được tốt nghiệp, thuộc 123 quốc gia trên thế giới,
trong đó có 8.398 bác sĩ thuộc các nước ALBA; Tháng 11/2013, Đại học Y Mỹ
Latinh mang tên cố Tổng thống Chile theo tư tưởng Marxist Salvador Allende được
thành lập tại Venezuela, trao học bổng cho 1.000 đại học và 900 học bổng sau đại
học cho sinh viên nước ngoài. Tính chung cho đến nay, các chương trình đào tạo y tế của ALBA đã cung cấp thêm cho cộng đồng 21.075 bác sĩ và 1.590 sinh viên39
đang theo học các chuyên ngành y khoa khác nhau.
Hợp tác trên lĩnh vực văn hóa, thể thao được các nguyên thủ ALBA xác định
là một trong những con đường bảo vệ chủ quyền quốc gia và tự quyết tương lai của
đất nước mình. Ngôi nhà Văn hóa ALBA được xây dựng và hoạt động tại thủ đô
các nước Cuba, Venezuela và Bolivia như thiết chế nghiên cứu, giới thiệu, quảng
bá, triển lãm, giao dịch sản phẩm và dịch vụ. Bảo tàng Ảo Mỹ Latinh và Caribe
ðýợc xây dựng và hiện có 84.546 hiện vật ðã được số hóa. Các chương trình nghiên
cứu văn hóa Mỹ Latinh và Caribe được triển khai mạnh mẽ ở hầu hết các quốc gia
thành viên ALBA. Định kỳ, ALBA tổ chức thi và trao giải thưởng về văn xuôi, điện
ảnh, nghệ thuật... Đại hội Thể thao ALBA đã tổ chức được 4 kỳ, thu hút hơn 10.000
vận động viên đến từ 36 quốc gia tham dự ở 45 môn đấu, luôn luôn chiếm con số kỷ
lục trong toàn bộ khu vực Mỹ Latinh và Caribe.
Tình trạng các vấn đề xã hội trong khu vực được cải thiện
Với những kết quả đạt được trong lĩnh vực xã hội của các nước cánh tả thì tình
hình chung của khu vực đã được cải thiện rất nhiều trong hơn một thập niên qua.
Các chỉ số về tỉ lệ người nghèo, tình trạng bất bình đẳng trong phân phối thu nhập,
63
cũng như chỉ số phát triển còn người (Human Development Index/HDI) đều có 39 Nguyễn Viết Thảo, “ALBA – 10 năm đoàn kết và thắng lợi”, tại http://www.cpv.org.vn , truy cập ngày 23/8/2015
những chuyển biến tích cực. Đặc biệt là nhóm các nước tham gia các sáng kiến hội
nhập khu vực cấp tiến như Venezuela, Ecuador, Bolivia, Nicaragua và nhiều nước
Caribe khác. Các nước này vốn được Liên Hợp Quốc xếp vào danh sách các quốc
gia đang phát triển còn nhiều khó khăn. Do đó, khi các nước này tham gia vào các
sáng kiến hội nhập khu vực vốn chú trọng vào những khía cạnh xã hội đã giúp cải thiện tình hình trong nước, góp phần thực hiện các mục tiêu thiên niên kỉ40 của khu
vực. Các dự án về chăm sóc y tế cho người nghèo, giảm tỉ lệ tử vong ở trẻ em, xóa
mù chữ cũng như phát triển giáo dục – y tế qua các sáng kiến hội nhập khu vực của
ALBA và PetroCaribe đã có tác động rất lớn đến các kết quả trong lĩnh vực này của
MLT, cung cấp kinh nghiệm thực tiễn cho các nước thuộc Thế giới thứ Ba, cũng
như góp phần giải quyết các vấn đề này ở tầm quốc tế. Đối với các nước cánh tả ôn
hòa trong khu vực, việc đưa ra các cam kết, tuyên bố trong các chương trình và nghị
sự về hội nhập và phát triển cũng đã góp phần đưa các vấn đề về xã hội trở thành
nội dung để thảo luận và đưa ra các kế hoạch hành động nhằm giải quyết vấn đề.
2.4. Nhận xét
2.4.1. Mở rộng các lĩnh vực hội nhập
Những chuyển biến của MERCOSUR và CAN thể hiện rõ nhất sự mở rộng
các lĩnh vực hội nhập theo xu hướng cánh tả: sự gia tăng của các chiều kích xã hội
và chính trị - an ninh, bảo vệ môi trường. Trong khi MERCOSUR đang gia tăng
một cách mạnh mẽ khía cạnh chính trị trong những năm gần đây, một sự phát triển
đáng kể của khối thì CAN cũng đã có những biểu hiện thể hiện sự quan tâm đối với
các vấn đề xã hội. Đó là việc thông qua “Hiến chương Andes vì Thúc đẩy và bảo vệ
Nhân quyền” (Andean Charter for the Promotion and Protection of Human Rights).
Nghị định thư Dân chủ Andes cũng đã được kí năm 2000 và đang chờ phê chuẩn.
40 8 nhóm mục tiêu bao gồm: Xoá bỏ tình trạng nghèo đói cùng cực; Thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học; Tăng cường bình đẳng giới và nâng cao vị thể cho phụ nữ; Giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em; Cải thiện sức khoẻ bà
mẹ; Phòng chống HIV/A1DS, sốt rét và các dịch bệnh khác; Đảm bảo bền vừng về môi trường; Tạo lập quan
hệ đối tác toàn cầu vì sự phát triển.
64
Một “Nhóm Công tác về quyền của các dân tộc bản địa” đã được lập ra như một cơ
quan tư vấn mới trong Hệ thống Hội nhập Andes; một “Chiến lược Khu vực về đa
dạng sinh học cho các nước Andes nhiệt đới”; và một “Ủy ban Theo dõi và Phòng
chống Thảm họa (CAPRADE) cũng được thành lập.
Động lực chính trị mới đã tái khởi động lại tiến trình hội nhập của
MERCOSUR. vào năm 2000 MERCOSUR thông qua “Hiến chương Buenos Aires
về các cam kết xã hội”, với mục đích tăng cường chiều kích xã hội của
MERCOSUR. Tuy nhiên, chiều kích xã hội đạt đến đỉnh cao trong chương tình nghị sự năm 2004. Hiện nay, MERCOSUR bao gồm 11 tiểu nhóm công tác41, trong đó
có tiểu nhóm về các vấn đề lao động, việc làm và an sinh xã hội bên cạnh 10 tiểu
nhóm về kinh tế hoặc liên quan đến các vấn đề về kinh tế, thương mại.
Từ khi thành lập, UNASUR đã tập trung vào những vấn đề phi thương mại.
Điều 2 của Hiệp ước Thành lập UNASUR năm 2008 đã đặt trọng tâm vào các lĩnh
vực sau: đối thoại chính trị, các chính sách xã hội, giáo dục, năng lượng, cơ sở hạ
tầng, tài chính và môi trường. Điều 3 cụ thể hóa các mục tiêu và thêm vào một số
mục đích như “củng cố bản sắc Nam Mỹ thông qua việc công nhận dần dần các
quyền của công dân một nước thành viên ở một nước thành viên khác, với mục đích
đạt đến quy chế công dân Nam Mỹ”, hay hợp tác trong vấn đề nhập cư, quốc phòng
và an ninh. Tham vọng tổng thể là đạt tới một sự hội nhập công bằng, giảm sự bất đối xứng ở các tiểu khu vực42.
Việc đa dạng hóa các lĩnh vực hội nhập của các chính quyền cánh tả trong khu
vực có thể lý giải theo các nguyên nhân sau:
Thứ nhất, các hội nhập kinh tế của khu vực thông qua MERCOSUR và CAN
đã đạt được những kết quả nhất định, làm cơ sở kinh tế cho hội nhập trong các lĩnh
41Bao gồm: các vấn đề thương mại, các vấn đề thuế quan, các tiêu chuẩn kĩ thuật, các chính sách thuế và tiền tệ liên quan đến thương mại, vận tải đường bộ, vận tải đường biển, chính sách công nghệ và công nghiệp, chính sách nông nghiệp, chính sách năng lượng, phối hợp chính sách kinh tế vĩ mô, và các vấn đề lao động, việc làm và an sinh xã hội. 42 Olivier Dabène (2012), “Explaining Latin America’s fourth wave of regionalism: regional integration of a third kind”, 2012 Congress of the Latin America Studies Association (LASA), San Francisco, USA, 25/5/2012.
65
vực khác của khu vực. Nguyên nhân thứ hai, xuất phát từ nguyên nhân thứ nhất, các
chính quyền cánh tả các nước trong khu vực nhận ra những ảnh hưởng tiêu cực của
việc chỉ tập trung vào hội nhập kinh tế theo định hướng chủ nghĩa tự do mới dẫn
đến sự thiếu vắng các cơ chế hợp tác ở cấp độ khu vực về các lĩnh vực khác. Do đó,
đòi hỏi về sự mở rộng các lĩnh vực hội nhập khu vực là cần thiết. Thứ ba, là do các
ưu tiên chính trị-xã hội của các chính quyền cánh tả nhằm tạo nên một cộng đồng
Mỹ Latinh thống nhất, đoàn kết, dân chủ về mặt chính trị và khắc phục những tác
động tiêu cực của các chính sách kinh tế tự do mới thông qua các dự án xã hội. Thế
hệ lãnh đạo cánh tả Mỹ Latinh đầu thế kỉ 21 từ Hugo Chavéz, Nicolas Maduro cho
đến Lula da Silva, Cristina Fernandez, Daniel Ortega đều có những cam kết mạnh
mẽ về những ưu tiên này.
Riêng đối với ALBA-TCP, các lĩnh vực hợp tác phi thương mại được mở rộng
rất đa dạng, gồm có: giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao và truyền thông. PetroCaribe
là dự án hợp tác chuyên về năng lượng.
2.4.2. Các yếu tố chính trị có tác động lớn
Điều này thể hiện ở việc, khía cạnh chính trị của hội nhập được tập trung
để phát triển tương xứng với nền tảng hội nhập kinh tế được tạo lập từ trước. Mặt
khác, khía cạnh chính trị của hội nhập theo xu hướng cánh tả còn thể hiện ở mục
tiêu đoàn kết toàn khu vực vào một thể chế thống nhất nhằm tăng cường tình đoàn
kết, sức mạnh và vị thế của khu vực. Đặc biệt, đối với các nước cánh tả cấp tiến,
việc khơi dậy và sử dụng "giấc mơ Bolivar" về một quốc gia thống nhất cho các dân
tộc Mỹ Latinh được xem như là một biểu tượng chính trị cao nhất nhằm tập hợp, lôi
cuốn các nước vào việc thực hiện một giấc mơ về một quốc gia chung vĩ đại. Cuối
cùng, đó là việc nhấn mạnh đến sự hội nhập ở cấp độ toàn khu vực, loại bỏ ảnh
hưởng tiêu cực từ các thế lực ngoài khu vực, đặc biệt là ảnh hưởng của Mỹ.
Ngoài các dự án, mô hình hội nhập về kinh tế, các chính quyền cánh tả trong
khu vực đã lần lượt lập ra Liên minh các Quốc gia Nam Mỹ (UNASUR) và Cộng
đồng các Quốc gia Mỹ Latinh và Caribe (CELAC). Hai tổ chức này được kì vọng
trở thành các khối đoàn kết và vững chắc, nhân lên sức mạnh của các nước trong
66
khu vực trong bối cảnh có nhiều chuyển biến phức tạp và đa dạng của cục diện thế
giới trong đầu thế kỉ 21. Đối với UNASUR, đây là lần đầu tiên cả 12 nước Nam Mỹ
có chung một tổ chức được thể chế hóa đầy đủ. Đối với CELAC, đây cũng là lần
đầu tiên, cả 33 nước Mỹ Latinh và Caribe có một diễn đàn riêng, độc lập để bàn về
những vấn đề chung của khu vực cũng như đối thoại với thế giới mà không có sự
tham dự của Mỹ và Canada. Trong khi đó, các kế hoạch của cả ALBA-TCP và
PetroCaribe đều nhằm hướng đến một mô hình thay thế các mô hình của chủ nghĩa
tự do mới theo ảnh hưởng của Mỹ. Hiệp định Thương mại Nhân dân (TCP) của
ALBA, một khái niệm mới do các nước này đề ra, hướng đến việc xây dựng một
một quan hệ thương mại, kinh tế không vì mục đích lợi nhuận mà vì phúc lợi của
nhân dân, phục vụ nhân dân chứ không phải lợi ích của những tập đoàn kinh tế
hùng mạnh. Trong khi PetroCaribe lại là biểu hiện sinh động của mô hình hợp tác
mới về năng lượng do Venezuela đề xuất với các nước vùng Caribe. Đối với
UNASUR và CELAC, đều là các tổ chức cấp độ khu vực, ngoài sự tham gia của các
nước dưới sự lãnh đạo của các lực lượng cánh tả, chống Mỹ quyết liệt còn có sự
tham gia của các nước thân thiện với Mỹ trong khu vực. Do đó, hai thể chế khu vực
này tập trung vào việc giải quyết các vấn đề chung của khu vực, xây dựng lòng tin
và sự thống nhất ý chí chính trị trong khối nhằm tăng cường vị thế và sức mạnh
chung, thường nhấn mạnh đến một vai trò chủ động hơn của khối, hơn là việc cạnh
tranh trực tiếp hay loại bỏ vai trò của Mỹ.
Sự độc lập và chủ quyền được coi là điều kiện tiên quyết để các nước Mỹ
Latinh phát triển đúng với những tiềm năng mà các nước trong khu vực. Do đó, việc
xây dựng các thiết chế độc lập, tự chủ, riêng cho khu vực để giải quyết những vấn
đề chung của khu vực là điều cần thiết. Từ ALBA-TCP, PetroCaribe cho đến
UNASUR và CELAC đều thể hiện ý định chính trị đó của các nhà lãnh đạo cánh tả
Mỹ Latinh và Caribe.
2.4.3. Chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Brazil và Venezuela
Là nền kinh tế lớn nhất khu vực, cùng với uy tín của mình, thông qua việc xây
dựng UNASUR và CELAC, Brazil muốn giữ một vai trò lớn hơn trong "cuộc chơi"
67
toàn cầu với tư cách là "lãnh đạo" khu vực Nam Mỹ nói riêng, Mỹ Latinh nói
chung, cũng như là đại diện cho các nước đang phát triển trong các cuộc đối thoại
toàn cầu với các nước phát triển phương Bắc.
Nhìn từ góc độ thể chế, UNASUR và CELAC là những cơ chế ở cấp độ toàn
khu vực mà Brazil cũng các chính phủ cánh tả khác, cũng như các đại diện kinh tế
lớn của khu vực thúc đẩy. Đối với UNASUR, đây là một liên kết chính trị của toàn
bộ Nam Mỹ, dựa trên trụ cột kinh tế là sự kết hợp của hai khối thương mại là CAN
và MERCOSUR. Đối với CELAC, đây là tập hợp rộng rãi nhất của các nước MLT,
sau OAS ở cấp độ toàn châu lục. Các nước cánh tả cấp tiến thậm chí nhấn mạnh
việc coi CELAC là sự thay thế cho OAS, vốn bị cho là chịu sự chi phối của Mỹ.
Trong khi các sáng kiến hội nhập cấp tiến do Venezuela đề xuất là ALBA-
TCP và PetroCaribe, không nhận được sự ủng hộ của ba nước lớn của khu vực là
Brazil và Argentina, và Mexico nên không nhận được sự hưởng ứng rộng rãi của
các nước trong khu vực, bên cạnh lý do về hệ tư tưởng của các sáng kiến đó. Mặc
dù không đạt đến tầm vóc như của UNASUR và CELAC nhưng hai sáng kiến hội
nhập chủ chốt của Venezuela là Liên minh Bolívar cho các Dân tộc Nam Mỹ
(ALBA) và Hiệp định Hợp tác Năng lượng PetroCaribe cũng đã góp phần tích cực
vào xu hướng hội nhập khu vực cánh tả của khu vực. Đối với hai dự án này, vai trò
dẫn dắt của Venezuela là rõ ràng, thậm chí là mang dấu ấn cá nhân của cố Tổng
thống Hugo Chavéz. ALBA được xây dựng dựa trên mối quan hệ song phương giữa
Venezuela và Cuba, vốn chịu ảnh hưởng quan hệ cá nhân giữa cố Tổng thống Hugo
Chavéz và Chủ tịch Fidel Castro của Cuba, nhằm xây dựng một mô hình hội nhập
mới, thay thế cho các mô hình hội nhập tự do mới do Mỹ chi phối, điển hình là
FTAA. Tương tự, đối với PetroCaribe, Venezuela chủ động sử dụng nguồn dầu mỏ
dồi dào của mình để cung cấp cho các nước tham gia dự án theo một chương trình
ưu đãi, nhằm giúp các nước này đảm bảo an ninh năng lượng cũng như hỗ trợ
chống đói nghèo, bất bình đẳng và giúp đỡ nhóm dễ bị tổn thương trong xã hội.
2.5. Tiểu kết
Tiến trình hội nhập theo xu hướng cánh tả ở Mỹ Latinh đầu thế kỉ 21 bắt đầu
68
khi các lực lượng cánh tả lên nắm chính quyền ở một loạt các nước trong khu vực.
Chủ yếu, xu hướng diễn ra dựa trên hai nhóm cánh tả ôn òa và cấp tiến trong khu
vực, thể hiện qua việc bổ sung mới và làm sâu sắc thêm cho MERCOSUR, CAN về
khía cạnh chính trị - xã hội cũng như các vấn đề mới như môi trường và thiết lập
các thể chế mới như UNASUR, ALBA, PetroCaribe và CELAC. Bên cạnh đó là
việc xây dựng các cơ chế mới nhằm củng cố và mở rộng xu thế hội nhập cánh tả
trên cơ sở sự ổn định và tích cực của các nước cánh tả trong khu vực.
Các nội dung và kết quả to lớn và đa dạng ở nhiều mặt, nhất là khía cạnh
chính trị - an ninh và xã hội mà các dự án hội nhập theo xu hướng cánh tả đã đạt
được thể hiện những nỗ lực của các nước Mỹ Latinh trong việc xây dựng các thể
chế thống nhất, hiệu quả cho khu vực, cũng như duy trì sự ổn định của các nền dân
chủ trong khu vực, bên cạnh các hội nhập sâu rộng về kinh tế. MERCOSUR và
CAN đã được điều chỉnh chiến lược phát triển cho phù hợp với xu hướng trong hội
nhập khu vực. UNASUR và CELAC chính là những thành quả to lớn của hợp tác,
liên kết chính trị của các nước trong khu vực. Trong khi, ALBA-TCP và
PetroCaribe đã đưa ra những cách tiếp cận mới đối với quá trình liên kết và hội
nhập khu vực. Đó là sự hỗ trợ, bổ sung cho nhau dựa trên sự đoàn kết, tương trợ,
thay cho thương mại vì lợi nhuận.
Xu hướng hội nhập cánh tả ở Mỹ Latinh đầu thế kỉ 21 thể hiện yếu tố chính trị
đậm nét ở khía cạnh mục tiêu và nhu cầu hội nhập cũng như ở các bước đi hội nhập;
từng bước mở rộng phạm vi và lĩnh vực hội nhập cũng là một đặc điểm đáng chú ý
của xu hướng hội nhập mới ở MLT, không chỉ còn tập trung vào kinh tế - thương
mại như trước đây; cuối cùng, nổi bật trong vai trò dẫn dắt xu hướng hội nhập mới
của các nước cánh tả chủ chốt trong khu vực là Brazil và Venezuela là cũng là một
69
đặc điểm cần lưu ý khi xem xét về xu hướng hội nhập ở Mỹ Latinh đầu thế kỉ 21.
CHƯƠNG 3. TRIỂN VỌNG HỘI NHẬP KHU VỰC
THEO XU HƯỚNG CÁNH TẢ
Sau hơn một thập niên liên tục cầm quyền và đã thúc đẩy một xu hướng hội
nhập khu vực mới ở MLT, các chính quyền cánh tả trong khu vực đang đứng trước
một thời điểm quan trọng có liên quan trực tiếp đến việc duy trì quyền lực lãnh đạo
của mình cũng như tương lại của xu hướng hội nhập do các chính quyền này triển
khai. Lý do là bởi khu vực Mỹ Latinh lại sắp bước vào một giai đoạn liên tục có các
cuộc bầu cử để quyết định ai, lực lượng chính trị nào sẽ lên nắm quyền và thực thi
các chiến lược hội nhập khu vực. Thời gian sắp tới sẽ có ý nghĩa quyết định bởi vì
hầu hết các chính quyền cánh tả trong khu vực đã cầm quyền hai hay ba nhiệm kì
nên nhu cầu thay đổi hay tiếp tục duy trì ủng hộ trong quan điểm của người dân các
nước sẽ rõ rệt hơn. Thứ ba là bởi việc các lực lượng cánh tả trong khu vực đang
phải đối mặt với những khó khăn, thách thức rất lớn đối với việc cầm quyền trong
bối cảnh hiện nay.
3.1. Các thách thức gặp phải
Ở chiều ngược lại, thuận lợi lớn nhất có ảnh hưởng đến xu hướng hội nhập
khu vực cánh tả chính là việc các chính đảng cánh tả vẫn đang duy trì được quyền
lãnh đạo liên tục. Điều này cho phép các lực lượng cánh tả có được những điều
chỉnh, định hướng cần thiết để đảm bảo hiệu quả của các chiến lược hội nhập cũng
như duy trì sức thu hút của xu hướng hội nhập mới này ở MLT. Thuận lợi thứ hai
mà các nước cánh tả có được chính là những kết quả to lớn từ tiến trình hội nhập
khu vực đầu thế kỉ 21 mà các nước này đã nỗ lực đạt được. Điều này duy trì sự ủng
hộ của người dân trong nước đối với các chiến lược hội nhập của chính phủ. Đây
thực sự là một nguồn “vốn chính trị” rất quan trọng. Tuy vậy, các thách thức mà xu
hướng này gặp phải cũng là rất lớn.
3.1.1. Sự suy yếu các chính quyền cánh tả trong khu vực
Sự cầm quyền của các chính đảng cánh tả trong khu vực- điều kiện cần cho
70
việc thúc đẩy xu hướng hội nhập cánh tả trong khu vực- đang gặp những thách thức
hết sức nghiêm trọng. Về mặt kinh tế, hầu hết các nước cánh tả chủ chốt đều gặp
khó khăn, từ Venezuela cho đến Brazil và Argentina vốn giữ vai trò đặc biệt quan
trọng trong việc khởi xướng và thúc đẩy xu hướng cánh tả trong tiến trình hội nhập
của khu vực đều gặp phải những khó khăn. “Venezuela đã bắt đầu suy thoái nghiêm
trọng vào năm 2014 và tiếp tục nặng nề hơn trong năm 2015, và hai nền kinh tế lớn
nhất Nam Mỹ là Brazil và Argentina cũng gặp phải sự suy thoái tương đối từ năm 2015, theo số liệu của IMF (2015)”43
Về mặt chính trị, lợi dụng sự khó khăn về mặt kinh tế của đất nước, các lực
lượng đối lập chính trị đã đưa ra lý do yếu kém trong việc quản lý và điều hành kinh
tế để gây áp lực lên các chính đảng cánh tả đang cầm quyền. Kinh tế càng khó khăn,
sự chống đối càng mạnh và công khai. Về mặt xã hội, các tiến bộ về kinh tế trong
khoảng một thập kỉ cầm quyền của các chính quyền cánh tả, cũng như các dự án xã
hội rộng lớn với nhiều tham vọng dù đã cải thiện đáng kể các vấn đề về nhà ở, y tế,
giáo dục của một bộ phận người nghèo trong khu vực, nhưng vẫn chưa đủ để chấm
dứt tình trạng bất bình đẳng xã hội và chia rẽ nghiêm trọng trong xã hội các nước
Mỹ Latinh. Đó là các xă hội bị chia rẽ sâu sắc mà chỉ những kết quả về kinh tế hay
những ý chí chính trị, tinh thần nhiệt tình cách mạng không thể nào giải quyết được
tận gốc. Do đó, việc giải quyết được các khó khăn gặp phải, giữ vững quyền lực
chính trị hợp pháp để tiếp tục thúc đẩy xu hướng hội nhập khu vực cánh tả chính là
những thách thức đặt ra cho các chính quyền cánh tả trong khu vực, cũng như là yếu
tố quyết định triển vọng trong những năm tiếp theo của xu hướng này.
Ở Venezuela, việc phó Tổng thống Nicolas Maduro chỉ vượt qua đối thủ trực
tiếp là Henrique Capriles với một tỉ lệ sít sao trong cuộc bầu cử tổng thống sớm vào
năm 2013, để kế tục sự nghiệp của cố Tổng thống Hugo Chavéz cho thấy sự tụt
giảm uy tín của chính đảng cánh tả cách mạng cầm quyền tại Venezuela, Phong trào
Nền Cộng hòa thứ 5 (PSUV). Mặc dù kết quả này cũng có liên quan đến uy tín cá
nhân của phó Tổng thống Maduro. Tuy nhiên, không phải đến thời điểm đó thì sự
71
sụt giảm uy tín của người dân Venezuela đối với con đường cách mạng cũng như sự 43 Jose Antonia Ocampo (2015), “Uncertain times”, FINANCE & DEVELOPMENT, September 2015, Vol. 52, No. 3, IMF.
cầm quyền của PSUV mới xuất hiện. Thực tế, điều này đã xuất hiện từ trước đó. Số
phiếu bầu cho Tổng thống Hugo Chavéz giảm từ 62,57% số phiếu năm 2006 xuống
còn 55,14%, thấp hơn tỉ lệ lần đầu ông đắc cử Tổng thống là 56,2% năm 1998, trong cuộc bầu cử năm 2012 - cuộc tranh cử cuối cùng của ông44. Tuy đây chỉ là
một trong những thông số cơ bản thể hiện sự ủng hộ của quần chúng nhân dân đối
với người đứng đầu đất nước và cương lĩnh hành động của đảng cầm quyền. Nhưng
rõ ràng điều này cũng phản ánh sự sụt giảm uy tín của chính đảng cánh tả trên chính
trường Venezuela, đặc biệt là sau sự ra đi của ông Chavéz. Đây chính là "một tổn
thất", một thách thức không hề nhỏ cho Venezuela cũng như các chính quyền cánh
tả trong khu vực. "Chavéz là trung tâm của những thay đổi khu vực trong thập kỉ
này. Sự vắng mặt của ông không chỉ được cảm nhận ở Venezuela" và " Không có
sự dẫn dắt của ông Chavéz, một vài nước Mỹ Latinh có thể đối mặt với những phép
thử về kinh tế và chính trị" theo nhận định của nhà khoa học chính trị hàng đầu Colombia, Socorro Ramirez trên báo El Tiempo45.
Về kinh tế, việc giá dầu mỏ lao dốc, giảm đến 60% giá trị, từ 115 USD/thùng
vào tháng 6/2014 xuống còn khoảng 42 USD/thùng, mức thấp nhất kể từ cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2009, trong vòng 14 tháng (đến tháng 8/2015) trở
lại đây đã giáng một đòn chí tử vào ngân sách quốc gia phụ thuộc đến 90% nguồn
thu ngoại tệ từ xuất khẩu hàng hóa là dầu thô như Venezuela. Ngành công nghiệp
dầu mỏ của Venezuela vốn hạn chế trong việc kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài nhằm
cải tiến công nghệ kể từ khi chính phủ cách mạng cầm quyền thời cố Tổng thống
Hugo Chavéz quốc hữu hóa ngành công nghiệp này. Đến nay, tình hình giảm giá
chóng mặt của dầu thô trên thị trường thế giới đã khiến cho ngành công nghiệp
xương sống này của Venezuela càng trở nên khó khăn, trong khi, nhu cầu tiêu thụ
của Trung Quốc và Mỹ là hai khách hàng lớn nhất của Venezuela có xu hướng
giảm. Nhu cầu dầu của Trung Quốc giảm là do tình trạng giảm tốc về kinh tế của
44 Số liệu do tác giả tự tổng hợp 45 Santiago Wills, "After Hugo Chavéz who will lead in Latin America?", http://abcnews.go.com, truy cập ngày 21/11/2015.
72
nước này. Trong khi đó, sự giảm nhập khẩu của Mỹ là do nước này đã có nguồn
cung thay thế từ dầu đá phiến. Nguồn cung mới này, dù đòi hỏi chi phí sản xuất
cũng như kĩ thuật cao hơn cũng đã phát triển nhanh chóng trong một thập kỉ gần
đây tại Mỹ, không chỉ đáp ứng phần lớn nhu cầu trong nước của nền kinh tế lớn
nhất thế giới mà còn có khả năng được dùng để lôi kéo các nước Trung Mỹ và
Caribe về năng lượng, trực tiếp cạnh tranh với dự án PetroCaribe của Venezuela.
Trong khi nguồn thu từ dầu mỏ giảm mạnh thì chính phủ Venezuela vẫn duy trì việc
trợ giá tiêu thụ xăng dầu trong nước khiến cho Venezuela là nước có giá xăng rẻ nhất thế giới46. Điều này khiến cho ngân sách của Venezuela bị thâm thủng nặng nề,
không đủ ngoại tệ để nhập các hàng hóa cơ bản dẫn đến việc khan hiếm các mặt
hàng tiêu dùng này. Các dự án xã hội được triển khai nhờ nguồn tài chính dồi dào từ
xuất khẩu dầu mỏ cũng bị đe dọa nghiêm trọng. Từ hai vấn đề trên lại dẫn đến hàng
loạt các vấn đề khác khiến chính phủ của Tổng thống Maduro bị cuốn vào các vấn
đề trong nước cũng như với nước ngoài mà không thể tập trung triển khai các dự án
hội nhập khu vực.
Brazil
Kể từ khi nổ ra vụ bê bối chính trị liên quan đến tập đoàn dầu khí khổng lồ
Petrobras của nước này vào tháng 3/2014, Đảng Lao động cầm quyền của đương
kim Tổng thống Dilma Rousseff càng phải đối mặt với những thách thức to lớn
trong bối cảnh nền kinh tế nước này vẫn đang trong giai đoạn trì trệ sau một thời
gian tăng trưởng ấn tượng từ những năm 1990, chưa thấy có dấu hiệu khởi sắc.
Tháng 8/2014, Viện Địa lý và Thống kê Brazil đưa ra số liệu cho thấy GDP của
nước này đã giảm quý thứ hai liên tiếp, lần đầu tiên kể từ cuộc khủng hoảng kinh tế
năm 2009, khiến Brazil rơi vào tình trạng “suy thoái kĩ thuật”. Tuy chính phủ cánh
tả của Tổng thống Rousseff đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm cải thiện tình hình
kinh tế nhưng nền kinh tế Brazil vẫn ì ạch sau một năm (8/2015). Cụ thể, Ngân
hàng Trung ương Brazil dự báo tăng trưởng kinh tế nước này trong năm 2015 sẽ
giảm 0,58%, xuống mức thấp kỷ lục trong 20 năm trở lại đây. Trong khi đó, lạm
46 Xem “10 nền kinh tế có giá xăng dầu thấp nhất thế giới” tại http://vneconomy.vn, truy cập ngày 18/9/2015
73
phát của Brazil trong tháng 2/2015 là 7,7% - mức cao nhất trong 9 năm qua, theo số
liệu của Viện Thống kê Quốc gia Brazil (IBGE). Những dự báo kém lạc quan về
tình hình kinh tế u ám của nước này trong năm 2015 cùng với tình trạng căng thẳng
chính trị ngày càng gia tăng liên quan trực tiếp đến Đảng Lao động cầm quyền cũng
khiến Brazil không thể rảnh tay triển khai các dự án hội nhập khu vực do mình thúc
đẩy. Thậm chí, việc duy trì quyền lực dân cử của PT cũng bị đe dọa vì các cáo buộc
tham nhũng đối với các quan chức của Đảng đang giữ các vị trí chủ chốt trong
chính quyền vẫn chưa dừng lại và phe đối lập nhiều lần kêu gọi bà Rousseff từ
chức. Trong một cuộc thăm dò dư luận toàn quốc hồi tháng 4/2015 của Datafolha, tỉ
lệ ủng hộ bà Rousseff thậm chí xuống mức 37%, thấp nhất kể từ khi cựu Tổng thống Fernando Collor de Mello bị luận tội năm 199247. Thậm chí vị cựu Tổng
thống hai nhiệm kì được lòng dân của Đảng này là ông Lula da Silva phải đứng ra
thể hiện sự ủng hộ với đảng cầm quyền trong bối cảnh sóng gió nổi lên liên tiếp.
Argentina
Kể từ sau vụ vỡ nợ lớn năm 2001, vị thế kinh tế của Argentina trong khu vực
ngày càng suy giảm. Chật vật trong các cuộc đàm phán nhằm tái cơ cấu nợ với các
chủ nợ quốc tế cũng như nền kinh tế trong nước chậm được cải thiện, khiến cho
nước này khó tiếp cận được với các nguồn vốn vay quốc tế mà thường phải tự phát
hành trái phiếu với lãi suất cao để thay cho việc có ngân hàng đảm bảo các khoản
vay. Mặc dù tình hình tài chính của đất nước đã dần được cải thiện trong 3 nhiệm kì
của hai Tổng thống theo đường lối trung tả là Nestor và Cristina Kirchner (2003-
2015). Tuy nhiên, vấn đề nợ nước ngoài vẫn là nỗi ám ảnh nặng nề đối với nền kinh
tế nước này, điển hình là vào năm 2014, IMF lại tuyên bố Argentina rơi vào tình
trạng “vỡ nợ kĩ thuật” khi không thể giải quyết được khoản nợ của một nhóm các
công ty tài chính nước ngoài, vốn bị chính phủ Argentina coi như những “quỹ kền
kền” nhằm phá hoại nền tài chính quốc gia của nước này.
Đối với các nước cánh tả khác, bao gồm Bolivia và Ecuador cũng như
Nicaragua ở Trung Mỹ đều là các nền kinh tế nhỏ, phụ thuộc nhiều vào nguồn tài
47 Johnathan Watts, "Scandals, protests, weak growth: is Latin America’s left in retreat?", The Guardian, truy cập ngày 21/11/2015
74
nguyên thiên nhiên sẵn có và cũng không phải là các nước chủ yếu, làm “điểm tựa”
cho các nước khác trong xu hướng hội nhập cánh tả của khu vực. Mặt khác, ở cả ba
nước này, các chính quyền cánh tả cũng đã và đang gặp phải những sự chống đối
trong nước. Ở Bolivia, khu vực miền Đông giàu có hơn nhờ nguồn tài nguyên khí
đốt đã từng đe dọa việc ly khai vào năm 2008 để phản đổi các kế hoạch tái phân bổ
thu nhập quy mô lớn nhằm tài trợ cho các chương trình xã hội, cũng như hỗ trợ cho
các cộng đồng người thiểu số bản địa. Ở Ecuador, lực lượng quân đội đã từng tiến
hành đảo chính đối với chính quyền của Tổng thống Rafael Correa vào năm 2010.
Sự việc này tuy không thành công nhưng cũng đã cảnh báo một nguy cơ luôn hiện
hữu đối với các chính quyền cánh tả trong khu vực. Qua sự việc này, UNASUR đã
phải gấp rút bổ sung một “điều khoản dân chủ” vào trong hiệp ước của mình để
ngăn chặn tình huống tương tự tái diễn. Ở Nicaragua, các phong trào biểu tình phản
đối chính phủ cánh tả của Tổng thống Daniel Ortega chủ yếu xoay quanh việc nước
này đồng ý cho một Tập đoàn Hong Kong thân Trung Quốc tiến hành việc đào kênh
Nicaragua nhằm cạnh tranh với kênh đào Panama trong khu vực, với các lý do về
các tác động xã hội và môi trường.
Chính quyền trung tả của Tổng thống Bachelet ở Chile lựa chọn một chiến
lược hướng ngoại rộng mở, thiết lập hàng loạt FTA với các nước trong và ngoài khu
vực nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua các quan hệ thương mại tự do.
Chính sách kinh tế này tỏ ra gần với các chính sách của Liên minh Kinh tế Thái
Bình Dương (PA) hơn là với các chính sách của các cánh tả còn lại trong khu vực.
Về mặt chính trị, chính quyền cánh tả của Chile hiện nay cũng đang phải đối mặt
với các thách thức từ các lực lượng đối lập liên quan đến các cáo buộc tham nhũng,
thiếu hiệu quả cũng như thiếu khả năng huy động các nguồn lực cho phát triển kinh
tế. Tương tự, đối với Uruguay, nước này là một trong những nền kinh tế khá giả của
Nam Mỹ, cơ cấu xã hội cũng ít có sự mất cân đối lớn khi có được tầng lớp trung lưu
đông đảo nhất trong khu vực. Các chính sách kinh tế của nước này cũng hướng đến
75
việc thúc đẩy sự năng động của nền kinh tế, kết hợp với các chính sách xã hội hợp
lý để thúc đẩy phát triển. Tuy nhiên, Uruguay lại có nền kinh tế khá nhỏ và ít có
tiếng nói quyết định về chính trị trong khu vực.
Riêng với trường hợp của Cuba, nước này có thể xếp vào một nhóm riêng so
với các nước cánh tả còn lại. Do sự cấm vận của Mỹ trước đây nên Cuba gần như bị
cô lập về kinh tế với bên ngoài. Đầu thế kỉ 21, cùng với sự trợ giúp của chính phủ
cánh tả Venezuela, Cuba đã tích cực tham gia vào hai sáng kiến chủ chốt của nhóm
cánh tả cấp tiến là ALBA-TCP và PetroCaribe bằng những lợi thế về khoa học kĩ
thuật, đặc biệt là về y tế và giáo dục. Tuy nhiên, khi Venezuela gặp khủng hoảng
trong nước thì Cuba cũng vẫn chưa tự tháo gỡ được những vấn đề của mình khi tiến
trình cải cách chưa đạt được những kết quả như mong đợi, đặc biệt là việc năng cao
sức sản xuất cũng như tinh giản bộ máy nhà nước cồng kềnh trong bối cảnh kinh tế
tư nhân dần được cởi trói theo tiến trình cải cách. Đột phá lớn nhất trong chính sách
đối ngoại của Cuba lại là việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ sau hơn 50 năm
gián đoạn.
3.1.2. Các tồn tại trong quan hệ giữa các nước trong khu vực
Căng thẳng thường xuyên trong quan hệ giữa Colombia và Venezuela
Từng là hai bộ phận quan trọng của nước Đại Colombia vào thế kỉ 19,
Venezuela và Colombia lại là hai nước nảy sinh nhiều xung đột nhất trong các mối
quan hệ song phương giữa các nước Nam Mỹ. Đặc biệt, khi lực lượng cánh tả lên
cầm quyền ở Venezuela thì mối quan hệ song phương thường xuyên gián đoạn do
sự bất đồng quan điểm sâu sắc. Trước khi Venezuela rời Cộng đồng Andes vào năm
2006 thì trục quan hệ Bogota-Caracas vẫn là trục quan hệ chính trong Cộng đồng
này. Quan hệ giữa hai bên liên tục căng thẳng do Colombia cáo buộc Venezuela hỗ
trợ cho Lực lượng Vũ trang Cách mạng Colombia (FARC) tiến hành cuộc chiến
tranh du kích chống chính phủ Bogota, tính đến nay cũng đã kéo dài hơn nửa thế kỉ.
Trong khi, Venezuela cáo buộc rằng Colombia tiếp tay cho Mỹ chống phá nước
này, thậm chí là đe dọa về an ninh khi cho phép quân Mỹ sử dụng 7 căn cứ quân sự
tại nước này vào năm 2007. Hai bên thường xuyên cắt đứt quan hệ ngoại giao khi
xảy ra các xung đột hoặc tranh cãi căng thẳng. Gần đây quan hệ song phương lại trở
76
nên căng thẳng do liên quan đến vấn đề an ninh biên giới chung giữa hai nước. Vấn
đề căng thẳng song phương giữa hai nước lớn của vùng Andes này gây ra những
khó khăn không nhỏ cho sự đoàn kết toàn khu vực.
Vấn đề “đường ra biển có chủ quyền” của Bolivia với Chile
Hiện nay quan hệ giữa Chile và Bolivia đang xoay quanh vụ kiện của Bolivia
đối với Chile lên Tòa án Công lý Quốc tế về vấn đề “đường ra biển có chủ quyền”
cho Bolivia. Liên quan đến vấn đề này, quan hệ ngoại giao giữa hai nước đã bị gián
đoạn từ năm 1962 (trừ giai đoạn 1975- 1978) cho đến nay dù hai bên vẫn duy trì
Tổng Lãnh sự quán tại Santiago và La Paz. Bolivia đã gửi đơn và hồ sơ lên IJC và
IJC đã tuyên bố đồng ý xét xử vụ kiện vào tháng 4/2013. Sau đó, IJC đã bác khiếu
nại của Chile về thẩm quyền xét xử vụ việc của IJC vào năm 2014. Đến đầu tháng
5/2015 thì Chile đồng y tham gia vụ kiện và dự kiến IJC sẽ ra phán quyết vấn đề
này vào cuối năm nay. Mặc dù vậy, xác định việc theo kiện kéo dài, Tổng thống
Bolivia Evo Morales đưa ra thời hạn để hoàn thành việc này là vào năm 2025.
Chính vì việc này mà quan hệ giữa Santiago và La Paz đã nhiều lần trở nên căng thẳng vì những chỉ trích lẫn nhau.48
Ngoài vấn đề về lãnh thổ với Bolivia, Chile cũng từng có vấn đề về phân định
lãnh hải với Peru hồi năm 2008 và cũng được đưa ra IJC. Đến tháng 12/2012 thì IJC
bắt đầu xét xử và đến tháng 1/2014 thì đưa ra một phán quyết mang tính thỏa hiệp là
giao cho Peru quyền quản lý một phần lãnh hải mà Peru yêu cầu đang do phía Chile
quản lý.
3.1.3. Sự thiếu sức hút của tư tưởng cánh tả trong bối cảnh sau Chiến tranh
Lạnh
Kể từ sau sự sụp đổ của hệ thống XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu,
đưa đến sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh trên phạm vi thế giới, phong trào cánh tả
trên thế giới cũng đi vào suy thoái. Làn sóng tự do hóa kinh tế và thương mại đang
lan tràn trên thế giới, tác động sâu sắc đến tình hình chính trị các khu vực, các nước
trên thế giới, đặc biệt là ở hai khu vực tư tưởng cánh tả bám rễ sâu rộng là châu Âu
77
và Mỹ Latinh. Trong bối cảnh suy thoái chung, cánh tả ở khu vực Mỹ Latinh đã tập 48 Xem “Chile tố cáo tuyên bố xúc phạm của Tổng thống Bolivia” tại http://www.vietnamplus.vn, truy cập ngày 24/10/2015
hợp lại tại Diễn đàn Sao Paulo hàng năm, theo sự đề xuất của Đảng Lao động Brazil
(PT), nhằm thảo luận những đường hướng phát triển chung của cánh tả khu vực. Về
mặt tổ chức là như vậy, nhưng rõ ràng, về mặt tư tưởng thì cánh tả Mỹ Latinh nói
riêng, cánh tả thế giới nói chung chưa đưa ra được một mô hình phát triển thuyết
phục. Thậm chí, đã có các ý kiến về "con đường thứ ba" là sự kết hợp những lợi thế
của hai khuynh hướng tả-hữu để khắc phục nhược điểm của mỗi bên. Tuy nhiên, xét
về mặt tổng thể, ở một mức độ nhất định, đó là thể hiện sự khủng hoảng về mặt
đường lối của phong trào cánh tả. Lý giải về nguyên nhân, có các ý kiến cho rằng,
cánh tả thất bại là bởi vì nó “tìm cách thích nghi với chủ nghĩa tư bản”. Dẫu vậy, cả
tư tưởng cánh tả cũng như đường lối “chủ nghĩa xã hội thế kỉ 21” do cố Tổng thống
Hugo Chavéz đưa ra vẫn chưa bứt ra khỏi những kinh nghiệm đối với chủ nghĩa xã
hội ở Liên Xô và Đông Âu cũng như phong trào cánh tả trên thế giới thế kỉ 20. Như
ý kiến của nhà kinh tế và sử học người Bỉ Eric Toussalnt, Chủ tịch ủy ban xóa nợ
cho thế giới thứ ba (CADTM), người có nhiều năm nghiên cứu và từng tham gia cố
vấn cho một số chính phủ Mỹ Latinh thì "cánh tả thế giới đang kẹt giữa một bên là
ảnh hưởng tiêu cực từ sự điều hành của các lực lượng xã hội - tự do cầm quyền, hay
nói cách khác là thất bại của chính sách xã hội dân chủ, và một bên là cách điều
hành theo mô hình ''chủ nghĩa xã hội kiểu cũ", và do đó người ta vẫn chưa vượt qua được cuộc khủng hoảng về niềm tin"49. Do đó, xu hướng hội nhập cánh tả sẽ khó
đạt được những thành công lớn hay những bước phát triển mang tính chất quyết
định vận mệnh lâu dài.
3.1.4. Ảnh hưởng của nhân tố Mỹ
Các nhân tố ngoài khu vực cũng có những ảnh hưởng đáng kể đến tiến trình
hội nhập khu vực theo xu hướng cánh tả ở Mỹ Latinh đầu thế kỉ 21. Trong số đó,
nhân tố Mỹ là một nhân tố vô cùng quan trọng. Các chính sách của Mỹ đối với khu
vực cũng như từng nước trong khu vực đã nhiều lần gây chia rẽ giữa các nước này.
49 Eric Toussalnt (bản dịch), “Cái nhìn toàn cảnh về phong trào cánh tả”, http://reds.vn (6/3/2013), truy cập ngày 31/7/2014
78
Ngoài các tập đoàn kinh tế hùng mạnh, đang giữ vị thế tuyệt đối ở nhiều nền kinh tế
trong khu vực thì chính phủ Mỹ cũng có nhiều hoạt động, chiến dịch trong khu vực,
trong đó nổi bật là cuộc chiến chống buôn bán ma túy và buôn người. Đối với các
tập đoàn, các nước trong khu vực có quan điểm rất khác nhau. Các nước cánh tả,
đặc biệt là các nước cánh tả cấp tiến thì cho rằng nước Mỹ tìm cách thống trị khu
vực Mỹ Latinh về kinh tế thông qua các tập đoàn này và gây suy giảm chủ quyền về
kinh tế của các quốc gia trong khu vực. Trong khi các nền kinh tế mở của khu vực
thì cần vai trò của các tập đoàn kinh tế cũng như thị trường tiêu thụ khổng lồ của
Mỹ để thúc đẩy đầu tư, sản xuất trong nước, phát triển kinh tế. Đặc biệt, Mỹ sử
dụng các FTA song phương vừa để mở rộng quan hệ thương mại vừa để gây chia rẽ
các khối hợp tác của các nước trong khu vực. Điển hình là việc Mỹ kí FTA với Peru
và PTA với Colombia khiến Venezuela phản ứng bằng việc rút ra khỏi CAN, khiến
tổ chức này mất đi một trụ cột quan trọng và tiến trình hội nhập gặp thêm nhiều khó
khăn. Đối với khu vực Caribe, vốn gần đây trở nên phụ thuộc vào Venezuela về
năng lượng, nước Mỹ tiến hành việc giành lại ảnh hưởng của mình tại khu vực này
cũng thông qua lĩnh vực an ninh và năng lượng. Đầu năm 2015, Phó Tổng thống
Mỹ Joe Biden đã gặp gỡ nguyên thủ các nước Caribe tại Hội nghị thượng đỉnh An
ninh Năng lượng Caribe, tổ chức tại Washington. Tiếp đó, trong chuyến công du tới
Trung Mỹ để dự Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 7 của OAS tại Panama, Tổng thống
Mỹ Barack Obama đã ghé qua Jamaica và gặp gỡ các nguyên thủ Caribe để bàn về
vấn đề an ninh và năng lượng trong nỗ lực giành lại ảnh hưởng thống trị đối với tiểu
khu vực này. Đối với Trung Mỹ, nước Mỹ vẫn dùng phương thức tác động bằng
việc đưa ra lý do về đảm bảo an ninh chung, chống buôn người và lợi ích kinh tế từ
đầu tư của các doanh nghiệp Mỹ cũng như thị trường tiêu thụ khổng lồ các mặt
hàng nông sản và khoáng sản thô của các nước này bằng các FTA. Trong năm 2006,
Mỹ đã kí US-CAFTA với 5 nước Trung Mỹ là Costa Rica, El Salvador, Guatemala,
Honduras và Nicaragua. Đến 2007, có thêm Cộng hòa Dominica tham gia, tạo nên
US-DR-CAFTA.
Đối với cuộc chiến chống buôn bán ma túy và buôn người, vốn sẽ không gây
ra tình trạng chia rẽ, căng thẳng giữa các nước Mỹ Latinh nếu như không kéo theo
79
sự hiện diện của quân đội Mỹ tại một số căn cứ quân sự của một số nước trên khắp
khu vực, đặc biệt là ở Colombia và Peru. Việc sử dụng quân đội, Mỹ còn có các
công cụ thể chế khác để lôi kéo, phân hóa các nước trong khu vực nhằm đạt được
lợi ích cao nhất và ngăn cản việc các nước Mỹ Latinh thống nhất lại trong một mặt
trận chống Mỹ.
3.2. Các dự báo triển vọng
3.2.1. Ngắn hạn
Hiện nay, các nước cánh tả cấp tiến đang đứng trước nhiều khó khăn hơn, cả
về chiến lược cũng như tình hình cụ thể trong và ngoài nước, đặc biệt là Venezuela.
Tổng thống Nicolas Maduro bắt đầu nhiệm kì 6 năm vào năm 2013 và sẽ kết thúc
nhiệm kì vào năm 2019 - năm mà cố Tổng thống Hugo Chavéz tuyên bố Venezuela
sẽ trở thành nước xã hội chủ nghĩa, sau khi hoàn thành Kế hoạch Xã hội Chủ nghĩa
của Quốc gia (Socialist Plan of the Nation) 2013- 2019. Cuộc bầu cử Quốc hội vào
tháng 12 năm nay sẽ là một cuộc bầu cử khó khăn đối với chính đảng Phong trào
nền Cộng hòa thứ 5 (PSUV) của Tổng thống Maduro. Tổng thống Nicaragua Ortega
sẽ kết thúc nhiệm kì thứ 2 liên tiếp vào năm 2016, Tổng thống Ecuador R. Correa sẽ
kết thúc nhiệm kì vào năm 2017 và Tổng thống Bolivia E. Morales sẽ kết thúc
nhiệm kì vào năm 2020. Như vậy, từ nay đến 2020 chính là giai đoạn thử thách rất
lớn đối với phong trào cánh tả cấp tiến ở khu vực, khi các lực lượng cánh tả có thể
mất quyền lãnh đạo đất nước vào tay phe đối lập. Mặc dù các nước này đểu đã có
những bản hiến pháp mới cho phép các Tổng thống đương nhiệm ra tranh cử nhiều
nhiệm kì nhưng việc có giành được thắng lợi trong các cuộc bầu cử hay không lại là
một chuyện khác, dù cho các ứng cử viên đương nhiệm sẽ có nhiều lợi thế hơn. Đây
sẽ chính là phép thử cho việc đánh giá kết quả của việc theo đuổi con đường cấp
tiến nói chung và hội nhập khu vực nói riêng của các nước này. Bên cạnh đó, tình
hình kinh tế khó khăn của cả Venezuela và Cuba trong bối cảnh giá dầu giảm mạnh
và những cải cách trong nước chưa thực sự hiệu quả cũng tác động không nhỏ đến
triển vọng của các sáng kiến hội nhập. Trong ngắn hạn, có thể có 3 kịch bản sau cho
xu hướng hội nhập khu vực cánh tả cấp tiến:
Kịch bản thứ nhất, các lực lượng cánh tả sẽ giữ vững được quyền lãnh đạo
80
qua các cuộc bầu cử sắp tới và tiếp tục các sáng kiến hội nhập hiện có. Theo kịch
bản này, các nước cánh tả cấp tiến sẽ nhanh chóng vượt qua được các khó khăn về
kinh tế cũng như ổn định về chính trị trong nước để tiếp tục theo đuổi và thúc đẩy
các sáng kiến hội nhập khu vực, ALBA-TCP và PetroCaribe. Đây được coi là một
kịch bản được mong muốn nhất của các nước cánh tả nhóm này. Và nếu kịch bản
được hiện thực hóa thì uy tín trong nước của các chính quyền cánh tả sẽ được tăng
cường và là một sự đảm bảo cho việc tiếp tục kéo dài thời gian lãnh đạo cũng như
nâng cao uy tín quốc tế của cánh tả Mỹ Latinh nói chung, các nước cấp tiến nói
riêng. Tuy nhiên, căn cứ trên tình hình thực tiễn hiện nay thì kịch bản này khó có
khả năng xảy ra. Nguyên nhân là do cuộc khủng hoảng về kinh tế của Venezuela
vẫn chưa có được lời giải đáp thỏa đáng, nhất là trong bối cảnh “vũ khí dầu mỏ”
đầy quyền lực của Venezuela gần như mất hết tác dụng khi giá dầu giảm sâu như
hiện nay. Sáng kiến hợp tác năng lượng PetroCaribe là đối tượng chính chịu ảnh
hưởng từ điều này. Thực lực kinh tế yếu kém và ít mang tính bổ sung cho nhau của
các nước trong nhóm này cũng hạn chế kết quả của hội nhập kinh tế trong khuôn
khổ ALBA-TCP.
Đối với những nước ủng hộ hội nhập theo xu hướng cánh tả ôn hòa, đây sẽ là
một kịch bản có nhiều khả năng xảy ra hơn. Bởi ở ba trong bốn nước là Brazil,
Uruguay và Chile, các lực lượng cánh tả đã kéo dài thời gian cầm quyền của mình
sau khi giành thắng lợi trong các cuộc bầu cử từ cuối năm 2014 cho đến nay. Trong
khi đó, các sáng kiến hội nhập khu vực của nhóm nước này vừa dựa trên việc điều
chỉnh, bổ sung các thể chế đã có của khu vực, cả về kinh tế và chính trị, lại vừa xây
dựng các thể chế mới (UNASUR, CELAC) ở cấp độ toàn khu vực nên việc tiếp tục
thúc đẩy xu hướng hội nhập này là mục tiêu quan trọng của các nước nhóm này, đặc
biệt là với Brazil. Tuy nhiên, cũng chính Brazil là nước gặp vấn đề nhất, tiếp theo là
Chile, trong việc tiếp tục duy trì, đảm bảo quyền lãnh đạo của các lực lượng cánh tả
để tiếp tục thúc đẩy các sáng kiến hội nhập khu vực này trong bối cảnh hiện nay.
Kịch bản thứ hai là các lực lượng cánh tả sẽ tiếp tục cầm quyền qua nhiệm kì
này nhưng sẽ có những điều chỉnh đối với các sáng kiến hội nhập khu vực. Đối với
kịch bản này, các nước cánh tả cấp tiến sẽ tiến hành các điều chỉnh đối với các sáng
81
kiến hội nhập cho phù hợp trong bối cảnh bất lợi hiện nay, nhằm đảm bảo khả năng
duy trì các sáng kiến hội nhập này. Trên thực tế thì các nước cánh tả nhóm này đang
thực hiện theo kịch bản này. Có thể thấy qua việc: thứ nhất,Venezuela đã giảm bớt
các điều kiện ưu đãi đối với dự án PetroCaribe như giảm bớt số lượng xăng dầu hỗ
trợ thông qua chương trình, tăng điều kiện về giá và lãi suất, hạn chế thiết lập các
thỏa thuận năng lượng song phương mới; thứ hai, tích hợp hai sáng kiến hội nhập
PetroCaribe với ALB-TCP để lập ra Khu vực Kinh tế của PetroCaribe để giảm các
chi phí hành chính, đưa các hợp tác đi vào chiều sâu. Từ góc nhìn ngoài khối, đây sẽ
là sự suy giảm của các sáng kiến hội nhập khu vực của nhóm này. Ngoài sự suy
giảm về khả năng thúc đẩy dự án, các sáng kiến này còn chứng kiến sự chuyển
hướng của các nước thành viên tham gia dự án. Ngoài việc vẫn duy trì quan hệ với
Venezuela theo các sáng kiến hội nhập, các nước Caribe và thâm chí là các thành
viên chủ chốt của ALBA-TCP cũng đã tìm kiếm các phương án hợp tác khác để
tránh bị rơi và tình huống bị động, dẫn đến khủng hoảng về năng lượng. Các nước
Caribe đã tham dự Hội nghị thượng đỉnh về An ninh Năng lượng tại Washington
dưới sự chủ trì của Phó Tổng thống Joe Biden vào tháng 1/2015. Cuba đã hoàn
thành việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ vào giữa năm nay. Trong khi Bolivia,
Ecuador cũng đã cũng có những tuyên bố nhằm mở ra cánh cửa đối thoại với Mỹ.
Nicaragua thì đã cùng các nước Trung Mỹ có một FTA với Mỹ vào năm 2006.
Đối mặt với kịch bản này, các nước cánh tả cấp tiến, mà chủ chốt ở đây là
Venezuela và Cuba, nếu muốn tiếp tục củng cố và phát triển các sáng kiến hội nhập
của nhóm thì cần có những điều chỉnh mạnh mẽ, quyết liệt và căn bản hơn nữa. Thứ
nhất, đẩy mạnh việc tích hợp sáng kiến hội nhập cho hai tiểu khu vực là Caribe và
Nam Mỹ nhằm tăng hiệu quả điều hành, chỉ duy trì các chi phí cần thiết. Thứ hai,
tập trung vào các lĩnh vực chính yếu đảm bảo nền tảng cho sáng kiến hội nhập mà
các nước thành viên có ưu thế: năng lượng và phát triển nguồn năng lượng thay thế;
hỗ trợ y tế, giáo dục, các dự án xã hội; nông nghiệp. Thứ ba, nhưng không kém
phần quan trọng, duy trì sự ổn định chính trị và khôi phục sự phát triển kinh tế trong
nước để nâng cao thực lực, làm tiền đề cho các sáng kiến hội nhập khu vực.
Trong trường hợp, các bối cảnh trong nước và quốc tế diễn biến bất lợi kéo dài
82
thì để các sáng kiến hội nhập này không bị lãng phí sau một thập kỉ đầu tư tiền của,
công sức và tâm huyết để xây dựng thì các sáng kiến này có thể chuyển mạnh định
hướng hội nhập sang các lĩnh vực mà các sáng kiến, thể chế hội nhập hiện nay chưa
quan tâm đúng mức để làm mũi nhọn thúc đẩy hội nhập. Hoặc, tiến thêm một bước
là tích hợp các sáng kiến hội nhập sau khi được điều chỉnh này vào các thể chế hội
nhập mà cánh tả Mỹ Latinh đã tạo dựng được như UNASUR và CELAC để bổ trợ
cho các thể chế này nhằm tạo dựng các thể chế hội nhập khu vực toàn diện và đầy
đủ năng lực. Kịch bản này gần với thực tiễn hiện nay, nhưng sẽ khó để triển khai
trong ngắn hạn.
Đối với kịch bản này, các nước cánh tả theo xu hướng ôn hòa sẽ phải hướng
đến việc điều chỉnh theo hướng tăng cường thể chế hóa các cơ chế, tổ chức hợp tác,
hội nhập hiện có nhằm nâng cao vai trò cũng như hiệu quả hành động, nhằm duy trì
UNASUR và CELAC như những diễn đàn chung của toàn khu vực. Bởi hiện nay đã
có các ý kiến của một số nước, đặc biệt là Colombia đã đe dọa rằng nếu UNASUR
không thể đóng một vai trò tích cực hơn trong việc giải quyết xung đột giữa các
nước thành viên thì nước này sẽ rút khỏi khối.
Kịch bản thứ ba, các lực lượng cánh tả sớm bị mất quyền lãnh đạo và các dự
án hội nhập của nhóm cánh tả cấp tiến bị đình trệ. Trong bối cảnh, các nước Nam
Mỹ đã tăng cường cơ chế đảm bảo trật tự hiến pháp, pháp quyền của các nước trong
khu vực sau vụ đảo chính thất bại ở Ecuador năm 2010 thì kịch bản này sẽ có ít khả
năng xảy ra hơn. Như trường hợp xảy ra tại Paraguay năm 2012 thì cơ chế của
UNASUR sẽ khiến cho phe đảo chính không thể đạt được hoàn toàn mục đích của
mình. Tuy nhiên, kịch bản này vẫn có thể xảy ra, đặc biệt là trong bối cảnh các
nước này, đặc biệt là Venezuela đang lâm vào một cuộc khủng hoảng về kinh tế và
căng thẳng về chính trị, ngoại giao. Đây sẽ là kịch bản xấu nhất đối với xu hướng
hội nhập cánh tả khu vực cấp tiến ở tầm ngắn hạn. Nếu kịch bản này xảy ra, các
sáng kiến hội nhập có thể bị đình lại ngay lập tức hoặc sẽ gián đoạn và suy giảm
dần chứ hầu như không có khả năng được duy trì hay phát triển thêm bởi phe đối
lập, trong trường hợp lên cầm quyền.
Đối với nhóm các nước cánh tả ôn hòa, dù có xảy ra trường hợp mất quyền
83
lãnh đạo vào tay các lực lượng đối lập thì các dự án hội nhập có thể sẽ bị suy giảm
tạm thời do thiếu sự chú ý và đầu tư, bởi sự chuyển hướng sang thúc đẩy các quan
hệ kinh tế chính trị với Mỹ và các dự án hội nhập trước đó, chứ gần như không thể
bị bác bỏ hay đình hoãn. Lý do là bởi các dự án hội nhập khu vực này cũng chính là
những mục tiêu đối ngoại lớn của các nước, đặc biệt là của Brazil, nhằm củng cố vị
thế chủ chốt trong khu vực, dù đối với các lực lượng cánh tả hay phi cánh tả.
3.2.2. Trung và dài hạn
Xét về triển vọng trung và dài hạn, xu hướng hội nhập cánh tả ở Mỹ Latinh sẽ
phụ thuộc vào các yếu tố sau: một là, việc tiếp tục cầm quyền của các lực lượng
cánh tả trong khu vực; hai là, tiến trình hội nhập chung của Mỹ Latinh nói chung và
Nam Mỹ nói riêng; ba là, cạnh tranh chiến lược của các cường quốc ngoài khu vực,
đặc biệt là Mỹ và Trung Quốc. Đối với yếu tố thứ nhất, việc tiếp tục cầm quyền của
các lực lượng cánh tả ở các nước, điều này sẽ phụ thuộc vào các yếu tố sau: cương
lĩnh phát triển có tiếp tục đáp ứng được nhu cầu phát triển của đất nước hay không,
có tiếp tục nhận được sự ủng hộ rộng rãi của quần chúng nhân dân nữa hay không;
có đủ bản lĩnh và phương sách để vượt qua những thách thức cả trong và ngoài
nước hay không để tiếp tục phát triển, bởi cũng sẽ rất lâu nữa mới lại có một người
Mỹ Latinh xuất sắc và đầy nhiệt tình cách mạng như cố Tổng thống Hugo Chavéz.
Đối với yếu tố thứ hai, tiến trình hội nhập khu vực chung của MLT, điều này sẽ phụ
thuộc vào tiến trình toàn cầu hóa kinh tế như là tác nhân thúc đẩy các tiến trình
hưởng ứng toàn cầu hóa lẫn chống toàn cầu hóa, trong đó có hội nhập khu vực.
Ngoài ra, tiến trình hội nhập chung của Mỹ Latinh đòi hỏi rất lớn việc hài hòa các
lợi ích chiến lược mà các nước, các bên trong khu vực theo đuổi thông qua việc
nhấn mạnh đến những lợi ích chung, mối liên hệ về văn hóa, bản sắc và an ninh
chung. Đối với yếu tố thứ ba, sự cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung ở khu vực, điều
này sẽ phụ thuộc vào những chiến lược phát triển tiếp theo của Trung Quốc, cũng
như những thay đổi, điều chỉnh chính sách của Mỹ đối với khu vực sau cuộc bầu cử
Tổng thống năm 2016 – một năm ở Mỹ Latinh cũng sẽ có nhiều cuộc bầu cử tương
tự. Dựa trên những phân tích trên, có thể đưa ra 3 kịch bản sau đây cho sự phát triển
84
về lâu dài của xu hướng hội nhập cánh tả ở MLT:
Kịch bản thứ nhất, hội nhập khu vực theo xu hướng cánh tả được thúc đẩy
mạnh hơn nữa nhờ sự cầm quyền liên tục của lực lượng cánh tả khu vực. Đây rõ
ràng cũng là một kịch bản mà các lực lượng cánh tả các nước nói riêng, cánh tả Mỹ
Latinh mong muốn về lâu dài. Tuy nhiên, đây cũng là kịch bản mà điều kiện cần và
đủ để có thể xảy ra sẽ đòi hỏi rất lớn theo những phân tích ở trên. Theo kịch bản
này, lực lượng cánh tả ở các nước cánh tả hiện nay, đặc biệt là các nước cánh tả
thúc đẩy hội nhập khu vực chủ chốt là Brazil và Venezuela sẽ tiếp tục vượt qua
được những khó khăn để tiếp tục cầm quyền và là động lực thúc đẩy hội nhập khu
vực sâu hơn theo định hướng cánh tả. Hoặc, sẽ có lực lượng cánh tả ở một quốc gia
khác trong khu vực nổi lên và đảm đương vai trò chủ chốt thúc đẩy hội nhập theo
xu hướng này. Argentina cũng có thể trở thành nhân tố chính trong kịch bản này,
bởi cánh tả của Argentina hiện đang có uy tín cao trong nước và khu vực, cũng như
nước này có đủ tiềm năng về kinh tế, chính trị để giữ vai trò chủ chốt như đã từng
xuất hiện trong quá khứ. Tuy nhiên, để có thể đảm đương được vai trò này, lực
lượng cánh tả của Argentina nói riêng, chính quyền Argentina nói chung cần gắn
nhu cầu hội nhập khu vực với việc thực hiện các mục tiêu đối ngoại của mình dựa
trên nền tảng sự phục hồi tăng trưởng vững chắc của nền kinh tế.
Kịch bản thứ hai, xu hướng hội nhập cánh tả và việc cầm quyền của các lực
lượng cánh tả sẽ bị gián đoạn nhưng tiếp diễn về lâu dài. Đã từng có học giả Mỹ
cho rằng, các lực lượng cánh tả Mỹ Latinh sẽ không cầm quyền quá hai nhiệm kỳ.
Điều này không phải là không có cơ sở. Bởi vì hầu hết các nước trong khu vực cũng
đều chịu ảnh hưởng mô hình của Mỹ, giới hạn số nhiệm kì lãnh đạo liên tục là hai.
Đấy là vấn đề mang tính kĩ thuật. Ngoài ra, quan điểm này cũng có nghĩa là đường
lối cánh tả sẽ hết sức thu hút sau hai nhiệm kì của lực lượng cánh tả cầm quyền. Đối
chiếu với thực tiễn khu vực, quan điểm cũng nên được coi là sự báo đối với nguy cơ
mất quyền lãnh đạo của các lực lượng cánh tả nếu như không có được những nhìn
nhận khách quan về tình hình và có những điều chỉnh chiến lược phát triển cần thiết
về lâu dài. Theo như kịch bản thứ hai, cánh tả khu vực có thể mất quyền lănh đạo
trong một hoặc hai nhiệm ì ở một vài nước. Khi đó, các dự án hội nhập theo xu
85
hướng cánh tả sẽ không có được bước phát triển mới hoặc sẽ bị gián đoạn vì thiếu
động lực thúc đẩy. Đặc biệt trong tình huống PT và PSUV mất quyền lãnh đạo ở
Brazil và Venezuela. Tuy nhiên, trong trường hợp này, các sáng kiến hội nhập khu
vực do các chính quyền cánh tả triển khai và thúc đẩy cũng sẽ vẫn được duy trì, bởi
các sáng kiến hội nhập này được gắn với mục tiêu đối ngoại quốc gia của các nước
chứ không hoàn toàn chỉ là mục tiêu của các lực lượng cánh tả trong khu vực.
Beatriz Bissio, một nhà khoa học chính trị người Uruguay cho rằng quá sớm để kết
luận rằng các lực lượng cánh tả sẽ mất quyền lực, "Tiến trình thay đổi tiến bộ sẽ còn tiếp tục. Mỹ Latinh đã đạt đến sự trưởng thành về chính trị"50
Nhìn vào lịch sử quá trình hội nhập khu vực của Mỹ Latinh từ những năm
1950 có thế thấy là đứng trước những xu hướng hội nhập quá cứng nhắc hay đề ra
những mục tiêu vượt hẳn với điều kiện thực tế thì sẽ phải có những đợt điều chỉnh
sau đó. Làn sóng hội nhập từ cuối những năm 1980 theo khuynh hướng tự do mới
đã bộc lộ những hạn chế vì chỉ tập trung vào các vấn đề kinh tế và quá phụ thuộc
vào các đề xuất cải cách từ bên ngoài khu vực, khiến cho các vấn đề mà Mỹ Latinh
phải đối mặt trở nên trầm trọng thêm. Sự lên cầm quyền của các lực lượng cánh tả
nói chung và thúc đẩy hội nhập khu vực theo xu hướng này nói riêng chính là một
sự phản ứng lại đối với xu hướng hội nhập tự do mới, cũng như là nỗ lực của các
nước Mỹ Latinh trong việc tìm kiếm một con đường, phương thức hội nhập mới
phù hợp hơn. Do vậy, trong bối cảnh xu hướng hội nhập kinh tế tự do mới còn tiếp
tục trong khu vực và trên thế giới thì cũng vẫn sẽ còn xu hướng hội nhập khu vực
theo xu hướng cánh tả cùng với sự lên cầm quyền của các lực lượng cánh tả trong
khu vực.
Kịch bản thứ ba, xu hướng hội nhập khu vực cánh tả sẽ chấm dứt cùng với
việc cánh tả khu vực mất quyền lãnh đạo. Đây là kịch xấu nhất có thể xảy ra với các
lực lượng cánh tả khu vực và xu hướng hội nhập do các lực lượng này khởi xướng
và thúc đẩy trong hơn một thập niên qua. Theo như kịch bản này, các lực lượng
cánh tả sẽ mất quyền lãnh đạo ở các nước và các chính quyền kế tiếp sẽ đình hoãn
hoặc hủy bỏ các dự án, một phần dự án các sáng kiến hội nhập hiện nay. Hoặc trong
50 Johnathan Watts, "Scandals, protests, weak growth: is Latin America’s left in retreat?", The Guardian, truy cập ngày 21/11/2015
86
trường hợp các dự án, sáng kiến hội nhập không bị hủy bỏ nhưng sẽ được chuyển
hướng trở lại với xu hướng hội nhập tự do mới, tập trung vào các dự án hội nhập
kinh tế khu vực. Có thể sẽ là MERCOSUR và CAN lại tập trung vào hội nhập kinh
tế nội khối hoặc đi theo hướng tự do hóa mạnh mẽ như mô hình của Liên minh Thái Bình Dương51 hiện nay. Tuy nhiên, kịch bản này sẽ khó xảy ra hơn với trường hợp
của CELAC và UNASUR. Bởi đây là hai thể chế cấp độ toàn khu vực rộng lớn
đoàn kết tất cả các nước Mỹ Latinh và Caribe, không có sự phân biệt về tư tưởng
chính trị nhằm đoàn kết rộng rãi khu vực.
3.3. Tiểu kết
Hiện nay, xu hướng hội nhập khu vực cánh tả ở Mỹ Latinh đang gặp những
thách thức nghiêm trọng. Đó là sự suy yếu của các nước cánh tả, đặc biệt là ở hai
nước chủ chốt là Brazil và Venezuela; tiếp tục tồn tại sự khác biệt giữa các nước về
lợi ích chiến lược; trên hết là sự suy giảm sức thu hút của các tư tưởng cánh tả và sự
can thiệp của các nhân tố bên ngoài, đặc biệt là ảnh hưởng lớn của nhân tố Mỹ.
Trong tình hình hiện nay, xét về ngắn hạn, sẽ có ba kịch bản xảy ra đối với xu
hướng hội nhập khu vực cánh tả. Một là, các chính quyền cánh tả tiếp tục cầm
quyền và tiếp tục thúc đẩy các sáng kiến hội nhập. Hai là, các chính quyền cánh tả
vẫn sẽ duy trì được quyền lực nhưng phải điều chỉnh các sáng kiến hội nhập. Ba là,
các lực lượng cánh tả mất quyền lãnh đạo và các sáng kiến hội nhập vị đình hoãn,
bác bỏ.
Về trung và dài hạn, cũng sẽ có ba kịch bản có thể xảy ra với xu thế hội nhập khu
vực cánh tả. Thứ nhất, xu hướng hội nhập này sẽ được tiếp tục thúc đẩy nhờ việc cầm
quyền liên tục của các lực lượng cánh tả ở các nước trong khu vực. Thứ hai, xu hướng
hội nhập cũng như sự lãnh đạo của các lực lượng cánh tả sẽ bị gián đoạn nhưng vẫn
được tiếp tục. Thứ ba, xu hướng hội nhập này sẽ bị đình hoãn, bác bỏ hoặc bị chuyển
51 Các thành viên chính thức bao gồm: Mexico, Colombia, Peru, Chile. Costa Rica, Panama và Honduras đang trong tiến trình gia nhập khối. PA hiện nay có 32 nước quan sát viên.
87
hướng khi các lực lượng phi tả lên cầm quyền ở các nước trong khu vực.
KẾT LUẬN
Đầu thế kỉ 21, bối cảnh của khu vực Mỹ Latinh cũng như trên thế giới có
nhiều biến chuyển đưa đến việc xuất hiện một xu hướng cánh tả trong tiến trình hội
nhập khu vực ở MLT. Trước hết, cơ sở căn bản là việc lên cầm quyền của các lực
lượng cánh tả ở nhiều nước trong khu vực như Venezuela, Brazil, Argentina, Chile,
Uruguay, Bolivia, Ecuador và Nicaragua. Việc lực lượng cánh tả lên nắm quyền ở
khu vực lại có nguyên nhân từ quá trình dân chủ hóa và cải cách ở Mỹ Latinh từ
những năm 1980 đã tạo điều kiện cho các lực lượng cánh tả ở khu vực tự chuyển
đổi thành các đảng phái chính trị và tham gia tranh cử. Thứ nữa, các cải cách theo
quan điểm tự do mới đã đem lại một số tác động tích cực tới các nước Mỹ Latinh
nhưng cũng đã làm nghiêm trọng thêm các vấn đề căn bản mà các nước trong khu
vực phải đối mặt. Đó là tình trạng đói nghèo, tham nhũng, gánh nặng nợ nước
ngoài, bạo lực và chênh lệch giàu nghèo cực lớn dẫn đến căng thẳng xã hội. Vấn đề
hội nhập khu vực cũng vẫn tiếp tục gây chia rẽ các nước do bất bình đẳng trong cơ
hội hưởng lợi từ quá trình hội nhập. Chính trong bối cảnh kinh tế, chính trị-xã hội
đó, các lực lượng cánh tả với cương lĩnh chính trị mới, ủng hộ công bằng xã hội,
phát triển kinh tế đi liền giải quyết các vấn đề xã hội và hội nhập khu vực dựa trên
sự đoàn kết, bình đẳng đã giành được sự ủng hộ của các tầng lớp nhân dân đứng lên
lãnh đạo đất nước và thúc đẩy hội nhập khu vực theo đường lối cánh tả. Ngoài việc
các lực lượng cánh tả lên cầm quyền, quá trình hội nhập khu vực theo xu hướng
mới này ở Mỹ Latinh còn có cơ sở từ các kinh nghiệm hội nhập khu vực từ thập
niên 1950. Các nước Mỹ Latinh đã từng đưa ra nhiều mô hình, sáng kiến hội nhập
tương ứng với từng giai đoạn phát triển của khu vực sau Thế chiến thứ hai. Sâu xa
hơn nữa, tiến trình hội nhập khu vực cánh tả còn có nguồn gốc từ sự chia sẻ các đặc
điểm về kinh tế, văn hóa, xã hội và lịch sử, trước cả khi xuất hiện các làn sóng hội
nhập khu vực.
Bối cảnh quốc tế thập niên đầu thế kỉ 21 cũng góp phần định hình xu hướng
hội nhập khu vực mới này. Xu thế toàn cầu hóa kinh tế mạnh mẽ trên toàn thế giới
88
đã đặt ra những cơ hội và những thách thức với tất cả mọi quốc gia trên thế giới,
không loại trừ các nước MLT. Hội nhập khu vực, được các nước Mỹ Latinh coi là
cách thức quan trọng để tận dụng tốt nhất bối cảnh toàn cầu hóa đang lan rộng. Các
chính quyền cánh tả của khu vực cũng ủng hộ quan điểm này. Trong khi đó, với vị
trí địa-chính trị của mình, Mỹ Latinh trở thành nơi cạnh tranh quyết liệt của các
cường quốc, đặc biệt là ảnh hưởng truyền thống của Mỹ và sự cạnh tranh ngày càng
mạnh mẽ của Trung Quốc, cũng như EU, Nga, Ấn Độ,…Để có thể đứng vững và
hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực là những sự cạnh tranh này, việc hội nhập để xây
dựng một khu vực vững chắc và có tiếng nói thống nhất, đoàn kết là điều hết thức
thiết thực và cấp bách. Chính vì vậy, các chính quyền cánh tả càng trở nên năng nổ
hơn bao giờ hết trong việc hối thúc việc hội nhập khu vực.
Về mặt tiến trình, xu hướng cánh tả trong hội nhập khu vực ở Mỹ Latinh xuất
hiện từ khi các lực lượng cánh tả lên cầm quyền trong khu vực, đặc biệt là ở hai
nước giữ vai trò thúc đẩy hội nhập chủ chốt là Venezuela năm 1998 và ở Brazil năm
2002. Chính quyền cánh tả ở hai nước này, dù thống nhất với nhau ở mục tiêu thúc
đẩy hội nhập nhằm tăng cường đoàn kết, vị thế và tiềm lực của khu vực, nhưng lại
có những khác biệt trong cách thức triển khai và định hướng hành động. Hai nước
này cũng tiêu biểu cho hai xu hướng nhỏ trong tiến trình hội nhập là xu hướng hội
nhập cánh tả ôn hòa và xu hướng cánh tả cấp tiến trong hội nhập khu vực. Về mặt
nội dung, xu hướng cánh tả trong hội nhập khu vực ở Mỹ Latinh được biểu hiện qua
việc đưa ra những sáng kiến, mô hình hội nhập mới, bên cạnh việc điều chỉnh, bổ
sung các thể chế đã có nhằm thúc đẩy các dự án hội nhập khu vực theo xu hướng
mới. Cụ thể, xu hướng này thể hiện qua việc bổ sung các khía cạnh về xã hội, an
ninh, môi trường,…vào những khối thương mại, thể chế trước đây là CAN và
MERCOSUR. Ngoài ra, đó còn là xu hướng liên kết CAN và MERCOSUR để hình
thành lên một dự án hội nhập kinh tế rộng lớn cho toàn bộ khu vực Nam Mỹ nói
riêng và Mỹ Latinh nói chung. Bên cạnh đó, xu hướng này còn thể hiện qua việc
đưa ra các sáng kiến hội nhập mới cho khu vực như UNASUR, CELAC đối với
nhóm các nước cánh tả ôn hòa và ALBA-TCP và PetroCaribe đối với nhóm nước
89
cánh tả cấp tiến. Về kết quả, các sáng kiến mới này của các chính quyền cánh tả
trong khu vực đã đạt được những kết quả về nhiều mặt: từ chính trị-an ninh, kinh tế
cho đến phát triển văn hóa, giáo dục, thể thao và y tế, cũng như thực thi các dự án
xã hội mang ý nghĩa to lớn trong việc thúc đẩy phát triển khu vực.
Tuy nhiên, dù đạt được nhiều thành quả và có ý nghĩa to lớn thì hiện nay, xu
hướng hội nhập khu vực cánh tả trong khu vực cũng đang đứng trước những thách
thức có thể làm chệch hướng hoặc chấm dứt xu thế tích cực này. Một trong những
nguyên nhân quan trọng nhất là nguy cơ mất quyền lãnh đạo của các chính quyền
cánh tả - lực lượng thúc đẩy xu hướng hội nhập khu vực mới, do những khó khăn ở
cả trong và ngoài nước, nhất là đối với hai nước cánh tả chủ chốt là Brazil và
Venezuela. Điều này cũng có liên quan đến một nguyên nhân sâu xa hơn là sự kém
sức hút của tư tưởng cánh tả do chưa tìm được những định hướng, chiến lược mới,
hợp lý hơn và khoa học hơn. Ngoài ra, các thách thức đối với mọi xu hướng hội
nhập nào của khu vực cũng vẫn còn tồn tại như: sự yếu kém trong kết nối cơ sở hạ
tầng, tỷ lệ nghèo đói cao, sự khác biệt và lợi ích chiến lược mà các nước theo đuổi,
sự tác động của nhân tố ngoài khu vực, đặc biệt là nhân tố Mỹ. Do đó, các kịch bản
có thể xảy ra đối với xu hướng hội nhập cánh tả trong tầm ngắn hạn, trung và dài
hạn sẽ là: xu hướng sẽ tiếp tục phát triển hoặc duy trì với những điều chỉnh nhất
định khi các lực lượng cánh tả duy trì được quyền lực; hoặc,xu hướng này cũng có
thể bị đình hoãn, chuyển hướng khi các lực lượng phi tả lên nắm chính quyền ở các
90
nước trong khu vực./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
Sách
1. Bùi Trường Giang (2010), Hướng tới chiến lược FTA của Việt Nam: Cơ sở lý
luận và thực tiễn Đông Á, NXB KHXH.
2. Sunil Kukreja (2012), “Hai khía cạnh của phát triển”52, (Khoa Quan hệ Quốc
tế dịch), Tập bài đọc Kinh tế Chính trị Quốc tế, tp.HCM, trang 313- 352. (Bản
gốc tiếng Anh xuất bản năm 2001)
3. Võ Đại Lược (2013), “Bối cảnh quốc tế và kinh tế Việt Nam thời kì 2001-
2010”, NXB Khoa học Xã hội.
4.
Jose Gabriel Palma (2011), “Tại sao truyền thống tư duy phê phán của Mỹ Latinh trong khoa học xã hội trở nên gần như tuyệt chủng?”53, (Khoa Quốc tế
học dịch), Cẩm nang Kinh tế Chính trị Quốc tế: Kinh tế Chính trị Quốc tế với
tư cách là cuộc đối thoại mang tính toàn cầu, Hà Nội, trang 387- 422. (Bản
gốc tiếng Anh xuất bản năm 2009)
5. Nguyễn Ngọc Trân (2002), Một số vấn đề kinh tế toàn cầu hiện nay (tái bản
lần 1), NXB Thế giới, Hà Nội.
6. Trung tâm Nghiên cứu Bắc Mỹ (1998), “Mỹ Latinh – một vùng năng động”,
Nxb Chính trị Quốc gia
Bài viết
7. Lê Thu Hằng, “Thực trạng xã hội Mỹ Latinh giai đoạn 2005- 2012”, Tạp chí
Châu Mỹ ngày nay, số 3 (192), 2014, tr.40- 49
8. Nguyễn Lan Hương, “Tác động của Hoa Kỳ tới liên kết chính trị ở Mỹ Latinh
”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 1 (178), 2013, tr. 22- 31.
9. Nguyễn Lan Hương, “Mạng lưới liên kết chính trị dưới sự khởi xướng của các
52 Trong David N. Balaam & Michael Vaseth (2001), Introduction to International Political Economy, Pearson Education, New Jersey. 53 Trong Mark Blyth (chủ biên) (2009), “Routledge Handbook of International Political Economic (IPE): IPE as a Global conversation” (1st ed.), Routledge.
91
nước Mỹ Latinh ”, Tạp chí CMNN, số 12(177)-2012, tr. 26-38
10. Nguyễn Anh Hùng, “Liên kết và hợp tác Mỹ Latinh năm 2010”, Tạp chí
CMNN, số 3(156)-2011, tr. 16- 26.
11. Jose Angel Perez Garcia (2008) (bản dịch), Chủ nghĩa tự do mới ở Mỹ Latinh
và tác động của nó trong thương mại và liên kết”, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế
số 361, trang 67- 76
12. Vũ Minh Long (2013), “Khủng hoảng nợ công tại một số nền kinh tế trên thế
giới”, trang 29- 33
13. Nguyễn Ngọc Mạnh, “Mỹ Latinh bảo vệ quyền lợi của các nước đang phát
triển trong đàm phán thương mại đa phương của WTO”, Tạp chí CMNN, số 4
(157)-2011, tr. 16- 29
14. Nguyễn Nhâm, “Về khối Thị trường chung Nam Mỹ”, Tạp chí CMNN, số
2(155)-2011, tr. 30- 35
15. Nguyễn An Ninh (2012), “Cánh tả châu Âu và cánh tả Mỹ Latinh : khác biệt
tạo nên đột phá”, Tạp chí Thông tin Khoa học Xã hội, trang 19- 25
16. Nguyễn Hồng Sơn, “Quan hệ Mỹ và Brazil ở Nam Mỹ”, Tạp chí CMNN, số 4
(157)-2011, tr. 30- 37
Luận văn, luận án
17. Nguyễn Viết Thảo (1998), “Liên kết khu vực Mỹ Latinh : văn hóa, chính trị,
kinh tế”, Luận án Tiến sĩ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Tài liệu tiếng Anh
Sách
18. Paul Goodwin (2007), “Global Studies:Latin America” (12th edition) McGraw-
Hill.
Bài viết
19. Antonia Ocampo, Jose (2015), “Uncertain times”, FINANCE &
DEVELOPMENT, September 2015, Vol. 52, No. 3, IMF.
20. Briceño Ruiz, José (2007), "The New Regionalism in South America and the
South American Community of Nations", International Studies Association
92
48th Annual Convention, CHICAGO, IL, USA, 28/2/ 2007.
21. Baumann, Renato (2008), “Integration in Latin America – Trends and
Challenges”, ECLAC (Office in Brazil), Brazil.
22. Dabène, Olivier (2012), “Explaining Latin America’s fourth wave of
regionalism: regional integration of a third kind”, 2012 Congress of the Latin
America Studies Association (LASA), San Francisco, USA, 25/5/2012.
23. I. Domínguez, Jorge et al (2006), “China’s relation with Latin America:
shared gain, asymetric hopes”, Massachusetts, 59pg.
24. I. Valvis, Anastasios (2008), “Regional Integration in Latin America”,
Institute of International Economic Relations, Athens, 52pg.
25. José Antonio Perales, Sanahuja (2012), “Post-liberal Regionalism in South
America: The Case of UNASUR”, RSCAS-EUI, Florene, Italia.
26. Panagiota, Bouga (2013), “Latin American Integration: Mercosur, CELAC
and EU-CELAC partnership as a new form of inter-regionalism”, Athens, 37p.
27. Pothuraju, Babjee (2012), “UNASUR and Security in South America”, IDSA,
New Dehli, India.
28. Ruiz-Dana, Alejandra et al (2007), “Regional Integration, Trade and Conflict
in Latin America”, Manitoba, 48p.
Các trang web
Tiếng Việt
1. Nguyễn Viết Thảo, “ALBA – 10 năm đoàn kết và thắng lợi”, tại
http://www.cpv.org.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=30106&cn
_id=690654, truy cập ngày 23/8/2015
2. Eric Toussalnt (bản dịch), “Cái nhìn toàn cảnh về phong trào cánh tả”,
http://reds.vn/index.php/chinh-tri/cnxh-cntb/3754-cai-nhin-toan-canh-ve-
phong-trao-canh-ta-my-latinh (6/3/2013), truy cập ngày 31/7/2014
3. Thái Văn Long, “Phong trào cánh tả Mỹ Latinh hiện nay và triển vọng trong
thời gian tới”, http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-vn/61/43/tap-chi-quoc-phong-
toan-dan/phong-trao-canh-ta-my-la-tinh-hien-nay-va-trien-vong-trong-thoi-
93
gian-toi/78331.html (11/5/2009), truy cập ngày 31/7/2014
4. “Ngân hàng BRICS liệu có thay thế được WB và IMF”,
http://www.baohaiquan.vn/pages/ngan-hang-brics-lieu-co-thay-the-duoc-wb-
va-imf.aspx (26/7/2014), truy cập ngày 31/7/2014
5. TTXVN, “Kinh tế Mỹ Latinh 2006: Các mô hình liên kết và sự phân hóa”, tại
http://vietstock.vn, truy cập ngày 12/10/2015.
6. TTXVN, “MERCOSUR: Bước ngoặt mới sau 20 năm phát triển”, xem tại
http://www.mofahcm.gov.vn/mofa/nr091019080134/nr091019083649/ns1104
14090316, truy cập ngày 23/8/2015
Tiếng Anh
1. http://www.petrocaribe.org
2. http://celacinternational.org
3. http://alba-tcp.org
4. http://www.unasursg.org
94
5. http://www.telesurtv.net
PHỤ LỤC
Phụ lục 1. Các chính quyền cánh tả ở Mỹ Latinh và Caribe, 2006
95
Nguồn: www.ourlatinAmerica.blogspot.com
Nguồn: https://belgeo.revues.org (2013)
96
Phụ lục 2. Phân bố sắc tộc và ngôn ngữ ở MLT, 1997
Nguồn: www.en.wikipedia.org
97
Phụ lục 3. Chiến tranh giành độc lập của các nước Mỹ Latinh và Caribe
PHỤ LỤC 4. CÁC CHÍNH QUYỀN CÁNH TẢ MỸ LATINH
Stt Quốc gia Nhiệm kì Tổng thống Chính đảng
Nam Mỹ
- Phong trào Nền Cộng hòa thứ 5
(MVR) (1997-2007) - 12/1999- 3/2013 - Hugo Chavéz - Đảng Xã hội chủ nghĩa Thống nhất Venezuela 1 Venezuela - PSUV (2007- 2013)
- Đảng Xã hội chủ nghĩa Thống nhất – - 4/2013- 2015/2019 - Nicolas Maduro PSUV (2007- nay)
- 2006- 2010 Chile - Michelle Bachelet - Đảng Xã hội Chile (PS) 2 - 2014- 2015/2018
- 2003- 2007- 2011 - Lula da Silva - Đảng Lao động Brazil (PT) Brazil 3 - 2011- 2015- 2019 - Dilma Rousseff - Đảng Lao động Brazil (PT)
- 2003- 2007 - Nestor Kirchner - Đảng Công lý Argentina (PJ)
Argentina 4
98
- 2007- 2011- 2015 - Cristina Kirchner - Đảng Công lý Argentina (PJ)
Ecuador - 2007- 2009- 2013/2018 - Rafael Correa - Liên minh PAIS (Allianza PAIS) 5
- 3/2005- 3/2010 - Tabare Vazquez - Mặt trận Rộng rãi (Frente Amplio)
Uruguay 6 - 2010- 2015 - Jose Mujica - Mặt trận Rộng rãi (Frente Amplio)
- 2015- 2015/2020 - Tabare Vazquez - Mặt trận Rộng rãi (Frente Amplio)
Bolivia - 2006- 2010- 2015-2020 - Evo Morales - Phong trào Tiến lên CNXH (MAS) 7
- Liên minh Yêu nước vì sự Thay đổi
(PAC) (2007- 2010) Paraguay - 2008- 2012/2013 - Fernando Lugo 8 - Mặt trận Rộng rãi (Frente Guasu)
(2010- 2012/nay)
Trung Mỹ
- Mặt trận Giải phóng Dân tộc Sandino Nicaragua - 2007- 2012- 2015/2017 - Daniel Ortega 9 (FSLN)
Nguồn: Thống kê của tác giả
99
Honduras - 27/1/2006- 2009 - Manuel Zelaya - Đảng Tự do Honduras (PHL) 10
PHỤ LỤC 6. THỜI GIAN RA ĐỜI CÁC TỔ CHỨC KHU VỰC MỸ LATINH
Khu vực
1950
1960- 1970
1980-1990
2000- 2020
- OECS (1981)
- CARICOM (2001)
- CCCM (1973)
Caribe
- ACS (1994)
- PETROCARIBE (2005)
- ODECA (1951)
- CACM (1960)
- SICA (1991)
Trung Mỹ
- MERCOSUR (1991)
- ALBA (2004)
- CAN (1969)
Nam Mỹ
- ACTO (1995)
- UNASUR (2004)
- SELA (1975)
- LAIA (1980)
- CELAC (2010)
MLT
- LAFTA (1960)
- RG (1986)
- AP (2012)
Nguồn: Thống kê của tác giả
100
PHỤ LỤC 7. NIÊN BIỂU LỰC LƯỢNG CÁNH TẢ MỸ LATINH TỪ 1970- 2020 (1)
QG
Tt
7 4
Nhân vật/ Sự kiện
7 5
7 6
7 7
7 8
7 9
8 0
8 1
8 2
8 3
8 4
8 6
8 7
8 8
8 9
9 0
9 1
9 2
9 3
9 4
9 5
9 6
9 7
5 9
6 0
. .
7 1
8 5
NI.
1
7 0 1
7 7 2 3 C
LA.
2
NI.
3
1
E L.
4
GU.
5
CU.
6
VE.
7
BR.
8
UR.
9
AR.
10
BO.
11
EC.
12
HO.
13
TT. Allende Chống-Condor MT. Sandinista & TT. Ortega NC. El Savaldor NC. Guatemala CT. Fidel & CT. Raul TT. Chavéz & TT. Maduro TT. Lula & TT.Roussef TT. Tabare & TT. Mujica TT. Nestor & TT. Cristina TT. Morales TT. Correa TT. Zelaya
101
NIÊN BIỂU LỰC LƯỢNG CÁNH TẢ MỸ LATINH TỪ 1970- 2020 (2)
QG
Tt
Nhân vật/ Sự kiện
NI.
9 7
9 8
9 9
0 0
0 1
0 2
0 3
0 4
0 5
0 8
0 9
1 0
1 2
1 3
1 4
1 5
1 7
1 8
1 9
2 0
2 1
2 2
2 3
2 4
2 5
0 6
3
E L.
0 7 2
1 1 3
1 6 b
4
GU.
5
CU.
6
VE.
1 2
7
BR.
3 1
8
UR.
2
1
1
9
AR.
1
1
b b b
10
BO.
1
2
1
11
EC.
1
2
b
12
HO.
3
2
c
b 2 2 b 3 B
13
PA.
1 1
C
14
MT. Sandinista & TT. Ortega NC. El Savaldor NC. Guatemala CT. Fidel & CT. Raul TT. Chavéz & TT. Maduro TT. Lula & TT.Roussef TT. Tabare & TT. Mujica TT. Nestor & TT. Cristina TT. Morales TT. Correa TT. Zelaya TT. Lugo
CH.
1
15 TT. Bachelet
1
2
B
102
PHỤ LỤC 8. TỈ LỆ PHIẾU BẦU CỦA CÁC TỔNG THỐNG CÁNH TẢ MỸ LATINH, 1998- 2015
VEN.
BRA.
URU.
ARG.
ECU. BOL. NIC. CHI. PAR. HON.
Quốc gia
o r u d a
a g e t r
a n i t s i r
g n ổ T
g n ố h t
z é v a h C
M
f f e s s u o R
a l u L
e r a b a T
a c i j u M
r o t s e N
C
a e r r o C
s e l a r o M
O
t e l e h c a B
o g u L
a y e l a Z
1998
56, 20%
1999
2000
59, 76%
2001
2002
61, 30%
2003
22, 20%
2004
50, 70%
2005
53, 74%
49, 90%
2006
57, 05%
38, 07%
50, 40%
62, 57%
60, 79%
2007
44, 92%
2008
39, 20%
103
2009
54, 63%
51, 95%
64, 08%
2010
56, 05%
62, 60%
2011
53, 96%
2012
55, 14%
2013
50, 72%
62, 30%
57, 17%
2014
51, 64%
52, 80%
61, 04%
2015
g n ố h t
a l
z é v a h C
o r u d a M
f f e s s u o R
u L
e r a b a T
a c i j u M
r o t s e N
a n i t s i r C
a e r r o C
s e l a r o M
a g e t r O
t e l e h c a B
o g u L
a y e l a Z
g n ổ T
VEN.
BRA.
URU.
ARG.
ECU. BOL. NIC. CHI. PAR. HON.
Quốc gia
Nguồn: Thống kê của tác giả
104