ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------
NGUYỄN MẠNH HÙNG
HỢP TÁC QUỐC TẾ TRONG LĨNH VỰC DẦU KHÍ CỦA TỔNG CÔNG TY CỔ PHẦN KHOAN VÀ DỊCH VỤ KHOAN DẦU KHÍ (2001-2010)
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUỐC TẾ HỌC
Hà Nội – 2015
ĐAI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------
NGUYỄN MẠNH HÙNG
HỢP TÁC QUỐC TẾ TRONG LĨNH VỰC DẦU KHÍ CỦA TỔNG CÔNG TY CỔ PHẦN KHOAN VÀ DỊCH VỤ KHOAN DẦU KHÍ (2001-2010)
Chuyên ngành Quan hệ Quốc tế
Mã số: 60 31 02 06
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUỐC TẾ HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS Nguyễn Minh Mẫn
Hà Nội – 2015
MỤC LỤC
Trang
Phần mở đầu .................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TỔNG
CÔNG TY CỔ PHẦN KHOAN VÀ DỊCH VỤ KHOAN DẦU KHÍ (PV
DRILLING) ................................................................................................................... 9
1.1 Quá trình hình thành và phát triển của PV Drilling ........................................... 9
1.1.1 Quá trình hình thành của PV Drilling ............................................................... 9
1.1.2 Các giai đoạn phát triển của PV Drilling ........................................................ 12
1.1.3 Định hướng phát triển của PV Drilling .......................................................... 19
1.2 Vai trò của PV Drilling đối với ngành dầu khí Việt Nam ................................. 22
1.2.1 Đối với ngành dầu khí trong nước .................................................................. 23
1.2.2 Đối với ngành dầu khí quốc tế ........................................................................ 24
1.3 Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực dầu khí của PV Drilling ................................... 27
1.3.1 Cơ sở hoạch định ............................................................................................ 27
1.3.2 Quá trình triển khai hợp tác quốc tế ............................................................... 28
Tiểu kết chƣơng 1 ........................................................................................................ 29
CHƢƠNG 2: HOẠT ĐỘNG TRIỂN KHAI HỢP TÁC QUỐC TẾ TRONG
LĨNH VỰC DẦU KHÍ CỦA PV DRILLING ........................................................... 31
2.1. Đối với lĩnh vực khoan thăm dò .......................................................................... 31
2.1.1 Chính sách ưu đãi của nhà nước trong việc hợp tác quốc tế cho việc khoan
thăm dò dầu khí tại vùng biển Việt Nam ...................................................................... 31
2.1.2 Hợp tác với Vietsovpetro ............................................................................... 33
2.1.3 Hợp tác với JVPC .......................................................................................... 36
2.1.4 Hợp tác với các nhà thầu khoan của Hoa Kỳ ................................................ 38
2.1.5 Hợp tác với các nhà thầu khoan của khối ASEAN ...................................... 40
2.2 Đối với lĩnh vực khoan khai thác ......................................................................... 41
2.2.1 Hợp tác với Biển Đông POC ......................................................................... 41
2.2.2 Hợp tác với các đối tác từ Anh Quốc và Hoa Kỳ .......................................... 42
2.2.3 Chính sách của nhà nước về việc ưu đãi cho ngành khoan khai thác tại
vùng biển Việt Nam ..................................................................................................... 46
2.3 Đối với lĩnh vực đào tạo phát triển nguồn nhân lực .......................................... 49
2.3.1 Hợp tác với Hoa Kỳ ........................................................................................ 49
2.3.2 Hợp tác với Nhật Bản ..................................................................................... 51
2.3.3 Hợp tác với các nước trong tổ chức ASEAN ................................................. 52
2.3.4 Hợp tác với các tổ chức quốc tế ..................................................................... 55
2.4 Đối với lĩnh vực khoa học công nghệ ................................................................... 56
2.4.1 Chính sách ưu đãi của Việt Nam ................................................................... 56
2.4.2 Chiến lược của PV Drilling ............................................................................ 58
Tiểu kết chƣơng 2 ........................................................................................................ 60
CHƢƠNG 3: TÁC ĐỘNG VÀ TRIỂN VỌNG CỦA QUÁ TRÌNH HỢP TÁC
QUỐC TẾ TRONG LĨNH VỰC DẦU KHÍ CỦA PV DRILLING ........................ 61
3.1 Tác động của quá trình hợp tác quốc tế của PV Drilling ...................................... 61
3.1.1 Tác động đối với ngành công nghiệp dầu khí nội địa .................................... 61
3.1.2 Tác động đối với ngành công nghiệp dầu khí thế giới ................................... 62
3.2. Triển vọng phát triển ........................................................................................... 63
3.2.1 Triển vọng ....................................................................................................... 63
3.2.2 Thời cơ và thách thức ..................................................................................... 68
3.3 Giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển hợp tác quốc tế trong lĩnh vực dầu
khí của PV Drilling ................................................................................................... 70
3.3.1 Giải pháp ......................................................................................................... 70
3.3.2 Kiến nghị ........................................................................................................ 76
Tiểu kết chƣơng 3 ........................................................................................................ 78
Kết luận ........................................................................................................................ 79
Phụ lục .......................................................................................................................... 82
Danh mục tài liệu tham khảo ..................................................................................... 86
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
PVD: Petrovietnam Drilling and Well Services Corporation
Tổng Công Ty Cổ Phần Khoan và Dịch Vụ Khoan Dầu Khí
IADC: International Association of Drilling Contractors
Hiệp hội nhà thầu khoan thế giới
JVPC: Japan Vietnam Petroleum Corporation
Liên doanh dầu khí Việt Nhật
ASEAN: Association of Southeast Asian Nations
Hiệp hội các nước Đông Nam Á
OHSAS: Occupational Health and Safety Assessment Series
Tiêu chuẩn về Hệ thống quản lý an toàn sức khỏe nghề nghiệp
OPITO: The Offshore Petroleum Industry Training Organisation
Tên gọi của tổ chức đào tạo ngành công nghiệp dầu khí ngoài khơi
BOSIET: Basic Offshore Safety Induction and Emergency Training
Hướng dẫn cơ bản An toàn ngoài khơi vùng nhiệt đới và huấn
luyện các tình huống khẩn cấp
POC: Petroleum Operation Company
Công ty điều hành mỏ
JOC: Joint Operation Company
Công ty Liên doanh điều hành
TAD: Tender Assist Drilling
Giàn khoan tiếp trợ nửa nổi nửa chìm
LTI: Lost Time Incident
Tai nạn dẫn đến ngừng hoạt động giàn
PVD-BJ: Liên doanh PVD và Công ty BJ Services của USA
PVD-PTI: PV Drilling Production Testers International
Liên doanh giữa PVD và công ty EXPRO International BV.
DANH MỤC CÁC HÌNH ẢNH, BẢNG, BIỂU ĐỒ
STT Loại Tên Trang
Hình 2.1 Mô hình tháp khoan tại PVD Training 54 1
2 Bảng 3.1 68-69
Bảng ước tính trữ lượng dầu khí đã xác định và tiềm năng ở Biển Đông
3 Bảng 3.2 76
Số lượng người lao động trong PV Drilling
4 Bảng 3.3 77-78
Một vài chỉ số về đào tạo của PV Drilling qua các năm
5 Biểu đồ 3.1 70
Tổng số lượng giàn khoan biển cung cấp ở thị trường thế giới trong giai đoạn 2009 – 2013
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong một thế giới đang phát triển không ngừng như hiện nay, năng lượng nói
chung và dầu khí nói riêng đã và đang đóng một vai trò rất quan trọng trong mọi hoạt
động, mọi lĩnh vực của đời sống nhân loại. Việt Nam là thành viên của khu vực phát
triển năng động hàng đầu thế giới - ASEAN; trong đó Biển Đông là một trong những
khu vực có trữ lượng dầu khí tiềm năng trên bản đồ năng lượng thế giới. Do đó, Việt
Nam được đánh giá là một trong những quốc gia có tiềm năng về dầu khí, khí hóa lỏng
của khu vực và thế giới. Mặt khác, trong nhiều năm qua, ngành công nghiệp dầu khí
Việt Nam đã đóng góp rất lớn vào sự phát triển kinh tế xã hội của quốc gia. Chính vì
vậy, chính phủ Việt Nam đã tăng cường đầu tư vào ngành dầu khí, tiêu biểu là phát
triển đầu tư vào Tập đoàn Dầu Khí Việt Nam và các Tổng Công ty thành viên, Tổng
Công ty Xăng dầu Petrolimex, nhằm tạo ra một lực lượng chuyên môn cao, với đủ
tiềm lực kinh tế để khai thác hiệu quả những tiềm năng về kinh tế và chính trị của
nguồn “vàng đen” này. Đồng thời, chính phủ Việt Nam cũng khuyến khích hợp tác
quốc tế trong lĩnh vực dầu khí một cách hợp lý và phát triển bền vững trong bối cảnh
khu vực Biển Đông đang diễn ra những tranh chấp giữa Trung Quốc và các nước –
trong đó có Việt Nam.
Luận văn bước đầu phân tích quá trình hợp tác quốc tế trong lĩnh vực dầu khí
của Tổng công ty Cổ phần Khoan và Dịch vụ Khoan Dầu Khí (viết tắt là PV Drilling):
lịch sử hình thành, quá trình phát triển, hoạt động triển khai hợp tác trên lĩnh vực dầu
khí của PV Drilling với các đối tác nước ngoài ở các lĩnh vực chuyên môn mà công ty
đảm nhận trong thời gian từ khi thành lập vào năm 2001 đến năm 2010 – thời điểm mà
PV Drilling bắt đầu đóng giàn khoan nửa nổi nửa chìm. Từ đó, đưa ra những khuyến
nghị, đóng góp vào những hoạch định phát triển trong tương lai của PV Drilling nhằm
bảo đảm vai trò, vị trí của ngành năng lượng nói chung và ngành dầu khí nói riêng của
Việt Nam trên bản đồ năng lượng của khu vực và thế giới trong bối cảnh các nguồn tài
nguyên năng lượng đang dần cạn kiệt, và những nguồn năng lượng thay thế vẫn chưa
2
thực sự phát huy được hiệu quả. Đó là lý do tôi chọn đề tài này làm luận văn thạc sĩ
ngành Quan hệ quốc tế tại Khoa Quốc tế học, trường Đại Học Khoa học Xã Hội và
Nhân Văn Hà Nội.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Do tính chất đặc thù của Ngành Dầu khí nên hiện chưa có một công trình
nghiên cứu chính thức nào về đề tài này. Các Báo cáo thường niên của PV Drilling các
năm có phân tích và đánh giá các hoạt động hợp tác quốc tế của công ty ở thị trường
Châu Á - Thái Bình Dương nhưng chỉ đưa ra các đánh giá tổng quát nhất và chưa thật
sự cụ thể.
Ngoài ra, thời gian qua cũng có một vài bài báo viết và đánh giá chung về PV
Drilling trên các báo mạng như Vnexpress.net, Tuổi trẻ Online... Hoặc nhiều bài báo
đánh giá hiệu quả kinh doanh của PV Drilling trên tờ Năng Lượng Mới – cơ quan chủ
quản là Tập Đoàn Dầu Khí Việt Nam.
Tháng 3/2015 vừa qua, trên báo Năng Lượng Mới đã có chuỗi bài phóng sự về
hành trình chuyển giàn khoan tự nâng PV Drilling VI vừa mới đóng của PV Drilling từ
Singapore về Việt Nam, trong bài viết có đề cập khá nhiều vấn đề liên quan đến quá
trình hợp tác quốc tế của PV Drilling trong nhiều năm tìm kiếm và đầu tư khắp châu
Á.
Tuy nhiên, tác giả đã cố gắng tổng hợp và phân tích để khái quát vấn đề một
cách khách quan, tổng thể dựa trên những tài liệu có được.
2.1 Tài liệu Tiếng Việt
Ở Việt Nam, do là đề tài mới và chưa được khai thác nhiều nên chưa có một
cuốn sách hay tài liệu cụ thể nào về lĩnh vực cho thuê giàn khoan và ngành công
nghiệp phụ trợ mà PV Drilling đang hoạt động. Chủ yếu tác giả tìm hiểu thông qua
nhiều bài báo từ nhiều tòa soạn uy tín như Năng Lượng Mới, Thời báo Kinh tế Sài
Gòn..; bài báo cáo của Tập Đoàn Dầu Khí Việt Nam, báo cáo thường niên của PV
3
Drilling cũng là một trong những tài liệu tham khảo quan trọng phục vụ cho luận văn
này.
Một tài liệu khác, có sự đóng góp nhiều cho luận văn là cuốn sách “Lịch sử
ngành dầu khí Việt Nam” do Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia phát hành năm 2011,
Chủ tịch hội đồng biên soạn là ông Trần Ngọc Cảnh, ngoài ra còn có các cố vấn khoa
học là Giáo sư Đặng Phong và Tiến Sĩ Khổng Đức Thiêm. Cuốn sách này đã giúp tác
giả khái quát được bối cảnh ngành Dầu Khí Việt Nam giai đoạn 1990 – 2000, từ đó
dẫn luận đến giai đoạn 2001 – 2006, là giai đoạn mà PV Drilling mới thành lập và
chưa có nhiều tài liệu viết về PV Drilling giai đoạn này. Chương 1, phần 1 của luận
văn này được tổng hợp và phân tích dựa trên nhiều dữ liệu, sự kiện lịch sử và các văn
bản pháp luật được nêu trong cuốn sách này.
Một số tài liệu bổ trợ cho luận văn bao gồm các bài viết của tác giả Trịnh
Cường, “Châu Phi trong chiến lược của các nước lớn”, đăng tên Tạp chí Cộng Sản, số
7 (753) năm 2006. Bài viết này có đề cập đến quốc gia Algeria, nơi mà PV Drilling
đang là tiên phong trong việc khoan dầu, đánh dấu ý nghĩa chính trị của Việt Nam tại
quốc gia Bắc Phi đầy tiềm năng này. Bài viết có nêu một số điểm mạnh trong chính trị
của Algeria đối với các quốc gia khu vực Địa Trung Hải như Italy, Pháp, khu vực bán
đảo Balkan. Bài viết của tác giả Nguyễn Anh Tuấn, “An ninh dầu lửa: Vấn đề và giải
pháp tại các nước Đông Nam Á”, đăng trên Tạp chí Cộng Sản, mục Những vấn đề
kinh tế thế giới, số 5 (121) năm 2006 có đề cập đến an ninh tại Biển Đông khi mà các
giàn khoan của Hoa Kỳ, Châu Âu đang hiện diện dày đặc, gây ra nhiều ảnh hưởng xấu
đến chính trị an ninh trên biển, cũng như các vấn đề an ninh về nguồn dầu lửa bị khai
thác trộm tại Biển Đông. Vì Việt Nam thời kỳ 2000-2007 chưa phát triển ngành lọc
dầu và chế biến dầu thô, do đó các hợp đồng hợp tác với nước ngoài chủ yếu là chia
sản phẩm, nên gây ra nhiều vấn đề trong công tác quản lý, khi đối tác có thể khai man,
khai dối các sản lượng dầu để làm lợi riêng. Thông tấn xã Việt Nam năm 2006 cũng có
bài viết, “Hợp tác năng lượng Trung Quốc – ASEAN”, mục Tài liệu tham khảo đặc
biệt, số 96, 26/4. Bài viết đã có đề cập đến chiến lược dùng giàn khoan di động để gây
4
ảnh hưởng chính trị tại Biển Đông của Trung Quốc, đồng thời đề nghị chính phủ Việt
Nam quan tâm hơn đến ngành công nghiệp khoan dầu khí, đặc biệt là đóng giàn khoan
của Việt Nam. Đây chính là số ít tài liệu có đề cập đến ngành khoan dầu khí của Việt
Nam thời kỳ 2001-2007.
Các văn kiện Đại Hội Đảng lần thứ VI, lần thứ VII, lần thứ VIII, lần thứ IX, lần
thứ X cũng đóng góp cho tác giả các thông tin về chính sách ngoại giao của Việt Nam
thời kỳ 1990 – 2006, góp phần giúp cho tác giả bám sát đề tài theo ngành quan hệ quốc
tế, tránh việc đi quá sâu về các khía cạnh phân tích Marketing hay Kinh tế. Các văn
kiện này cũng góp phần giúp tác giả khái quát được các chính sách phát triển ngoại
giao của chính phủ Việt Nam thông qua nhiều chính sách như “Việt Nam muốn là bạn
của các quốc gia trên thế giới”- văn kiện Đại Hội Đảng lần thứ VII năm 1991, sang
chính sách “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác đối tác của các nước trên thế giới” –
văn kiện Đại Hội Đảng lần thứ X năm 2006.
Nguồn tài liệu quan trọng phục vụ cho việc nghiên cứu luận văn này chính là
các Báo Cáo Thường Niên của PV Drilling, tác giả đã sử dụng các số liệu của Báo Cáo
Thường Niên PV Drilling từ năm 2006 đến năm 2013 để phục vụ cho việc viết luận
văn. Các báo cáo này đề cập rất nhiều đến quá trình hình thành và phát triển của PV
Drilling, đồng thời cung cấp các số liệu về phát triển kinh doanh, về các công ty con,
về các công ty liên doanh nước ngoài… Tác giả cũng dựa vào nhiều tài liệu khác nhau
của các đơn vị thành viên PV Drilling để tổng hợp và cô đọng lại để hoàn thành luận
văn.
2.2 Tài liệu Tiếng Anh
Trong các tài liệu tiếng Anh, tác giả sử dụng chủ yếu là báo cáo của các tổ chức
quốc tế mà PV Drilling đang tham gia hoặc đang là thành viên. Trong số các tài liệu
này, cụ thể là báo cáo thường niên của Tổ Chức IADC và các công ty Dầu khí quốc tế
như BP, Vantage, SeaDrill… các tài liệu đã cung cấp cho tác giả các số liệu, dữ kiện
để đi đến so sánh mức độ tương quan và hình dung ra vị trí của PV Drilling trên bản đồ
thị trường khoan thế giới. Ngoài ra, căn cứ vào các tài liệu riêng của PV Drilling về
5
quan hệ hợp tác với các nhà thầu khoan quốc tế khác, tác giả đã có cái nhìn khách quan
về việc hợp tác quốc tế giữa PV Drilling với các nhà thầu khoan thế giới, từ đó đưa ra
được nhận xét cái được cái mất cho những mối quan hệ hợp tác này. Sau khi đánh giá
được mức độ thành công của mối quan hệ hợp tác, tác giả đã có nhận xét và đưa ra giải
pháp để cải tiến cho các mối quan hệ tiếp theo trong tương lai. Tuy nhiên, để những
giải pháp cải tiến này có hiệu quả thực sự, tác giả cần có những phép thử và trong giới
hạn của luận văn, cũng như tính chất doanh nghiệp, việc đánh giá hiệu quả của các giải
pháp đưa ra trong luận văn này chưa rõ ràng.
Ngoài những tài liệu nêu trên, tác giả còn sử dụng một số bài viết của các tác
giả viết về chính trị quốc tế, trong số đó có bài viết của tác giả Richard Giragosian ,
“East Asia tackles energy security”, đăng tên tạp chí Asia Times, số ra ngày 24 tháng
8 năm 2004. Bài viết này đề cập đến tình hình chính trị phức tạp tại Biển Đông, khi
vùng biển này được tìm thấy với trữ lượng dầu khí khổng lồ bên dưới. Các chi tiết này
đã giúp tác giả hiểu rõ hơn về cách nhìn nhận của các quốc gia khác về vị thế của Việt
Nam tại biển Đông, đồng thời cũng đưa ra được ý kiến về việc giàn khoan biển là các
công cụ chiến lược cho việc đảm bảo đường biên giới trên biển giữa các quốc gia.
Sách của tác giả Sonya Fatah, “A Pipeline or a Pipe Dream”, in tại nhà xuất
bản Fortune năm 2005, ấn phẩm số 23 (152), tại trang 24-26 của sách, tác giả có đề cập
đến việc các đường ống dẫn dầu khí chính là các vũ khí để đánh dấu lãnh thổ trên biển.
Đồng thời, tác phẩm này còn đưa ra một số quan điểm về ngoại giao dầu khí, mà trong
đó ngành khoan là một lĩnh vực thể hiện trình độ khoa học kỹ thuật một quốc gia. Tác
giả đã sử dụng quan điểm này để đưa ra các đánh giá về ngành khoan dầu khí Việt
Nam đã phát triển đến đâu và đã góp phần đẩy mạnh hình ảnh chính trị của Việt Nam
trên trường quốc tế như thế nào.
Trong sự hạn chế của tài liệu về đề tài, tác giả đã cố gắng tổng hợp những tài
liệu, số liệu, dữ kiện quan trọng để hoàn thành luận văn với những ý kiến khách quan
và chủ quan.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
6
Khái quát quá trình hình thành và phát triển của Tổng Công ty Cổ phần Khoan và
Dịch vụ Khoan Dầu khí trong giai đoạn 2001-2010, đồng thời phân tích, đánh giá quá
trình hợp tác quốc tế của đơn vị này đối với các đối tác nước ngoài trong lĩnh vực
khoan dầu khí – một lĩnh vực quan trọng của ngành năng lượng Việt Nam; luận văn
cũng bước đầu đưa ra những giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hợp tác
quốc tế trong lĩnh vực này đối với Tổng Công ty Cổ phần Khoan và Dịch vụ Khoan
Dầu khí nói riêng và ngành dầu khí Việt Nam nói chung.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn xác định nhiệm vụ nghiên cứu như
sau:
- Tìm hiểu về chủ trương hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này của chính phủ Việt
Nam.
- Tìm hiểu về các chỉ tiêu nâng cao năng lực hợp tác quốc tế trong việc cung
cấp dịch vụ giàn khoan biển.
- Tìm hiểu về các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động nâng cao năng lực hợp tác
quốc tế trong cung cấp dịch vụ giàn khoan biển.
- Tìm hiểu về thị trường khoan Châu Á Thái Bình Dương: đặc điểm thị trường,
tình hình cung cấp giàn khoan biển và các chính sách pháp lý có liên quan.
- Tìm hiểu về các quốc gia tiên tiến trong lĩnh vực cung cấp giàn khoan biển
trên thế giới, cụ thể là các đối tác tại khu vực Bắc Mỹ và Tây Âu.
- Tìm hiểu về thị trường khoan khu vực Bắc Phi: đặc điểm thị trường, tình hình
cung cấp giàn khoan đất liền và các chính sách pháp lý có liên quan.
- Nêu ra sự cần thiết phải nâng cao năng lực hợp tác quốc tế của dịch vụ cung
cấp giàn khoan biển của PV Drilling.
- Phân tích thực trạng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực khoan dầu khí giàn PV
Drilling ở thị trường Châu Á Thái Bình Dương trong giai đoạn 2001-2010.
- Tìm hiểu quan điểm của Nhà nước về phát triển Ngành Dầu khí, định hướng,
mục tiêu phát triển của PV Drilling trong giai đoạn 2011-2020.
7
- Đưa ra một số giải pháp đối với PV Drilling nhằm nâng cao năng lực hợp tác
quốc tế trong lĩnh vực khoan dầu khí của PV Drilling trong giai đoạn 2011-2020.
5. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hợp tác quốc tế trong lĩnh vực dầu khí của
Tổng Công Ty Cổ Phần Khoan và Dịch Vụ Khoan Dầu khí ở khu vực Châu Á Thái
Bình Dương, khu vực Bắc Phi, khu vực Bắc Mỹ, Khu vực Tây Âu .
Về thời gian: Đề tài tập trung phân tích thực trạng hợp tác quốc tế của dịch vụ
cung cấp giàn khoan biển của Tổng Công Ty Cổ Phần Khoan và Dịch Vụ Khoan Dầu
khí ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương, khu vực Bắc Phi, khu vực Bắc Mỹ, Khu vực
Tây Âu trong giai đoạn 2001-2010 và đưa ra giải pháp cho giai đoạn 2011-2020.
Về không gian: Đề tài phân tích năng lực hợp tác quốc tế của dịch vụ cung cấp
giàn khoan biển của Tổng Công Ty Cổ Phần Khoan và Dịch Vụ Khoan Dầu khí ở khu
vực Châu Á Thái Bình Dương, khu vực Bắc Phi, khu vực Bắc Mỹ, Khu vực Tây Âu
trên cơ sở so sánh với các đối thủ cạnh tranh như Transocean, Seadrill.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chính được sử dụng trong quá trình thực hiện đề tài là
phương pháp nghiên cứu tại bàn: thông qua việc tìm kiếm, tập hợp, phân tích các
thông tin, dữ liệu từ các báo cáo, tài liệu của Tổng Công Ty Cổ Phần Khoan và Dịch
Vụ Khoan Dầu khí; trang web của Hiệp hội các nhà thầu khoan thế giới, các tổ chức có
liên quan, các ấn phẩm, báo chí, bài viết, sách xuất bản, công trình nghiên cứu của các
tác giả trong và ngoài nước.
Phương pháp nghiên cứu lịch sử cũng được sử dụng trong quá trình thực hiện
đề tài, thông qua việc tìm hiểu quá trình hình thành ngành dầu khí; quá trình hình
thành PV Drilling; các sự kiện lịch sử nổi bật, có khả năng ảnh hưởng đến quá trình
hợp tác quốc tế của PV Drilling và chính sách đối ngoại Việt Nam qua các thời kỳ, từ
đó dẫn luận đến các đánh giá, phân tích và đưa ra kết quả của luận văn.
8
7. Kết cấu đề tài
Đề tài có kết cấu gồm 3 chương với 85 trang nội dung
Chƣơng 1: Quá trình hình thành và phát triển của Tổng Công ty Cổ phần khoan và
dịch vụ khoan dầu khí (PV Drilling)
Chƣơng 2: Hoạt động triển khai hợp tác quốc tế trong lĩnh vực dầu khí của PV Drilling.
Chƣơng 3: Tác động và triển vọng của quá trình hợp tác quốc tế trong lĩnh vực dầu
khí của PV Drilling.
9
CHƢƠNG 1: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TỔNG
CÔNG TY CỔ PHẦN KHOAN VÀ DỊCH VỤ KHOAN DẦU KHÍ (PV
DRILLING)
1.1 Quá trình hình thành và phát triển của PV Drilling
1.1.1 Quá trình hình thành của PV Drilling
1.1.1.1 Khái quá bối cảnh hình thành PV Drilling
Ngày 6 tháng 7 năm 1990, Tổng công ty Dầu mỏ và Khí đốt Việt Nam được
thành lập dựa trên tiền thân là Tổng cục Dầu mỏ và Khí đối Việt Nam, khởi đầu một kỷ nguyên phát triển mạnh mẽ và rực rỡ của ngành dầu khí Việt Nam1.
Tổng Công ty Dầu mỏ và Khí đốt Việt Nam được Hội đồng Bộ trưởng xác định
là đơn vị kinh tế chủ lực, cần được xây dựng để trở thành mũi nhọn của nền kinh tế.
Mô hình liên hiệp Xí nghiệp quốc doanh, đang được áp dụng cho Tổng Công ty Dầu
mỏ và Khí đốt Việt Nam, đã tỏ ra không còn phù hợp, cần được tổ chức lại theo mô
hình của tổng công ty mạnh. Xuất phát từ yêu cầu đó, ngày 31-7-1991, Chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng đã ký Chỉ thị số 235-CT về việc thành lập Tổ Xây dựng Đề án tổ chức lại ngành Dầu khí2.
Ngày 9-2-1993, Tổng Giám Đốc của Tổng Công ty Dầu mỏ và Khí đốt Việt
Nam đã ký quyết định số 131/DK-TCNS-ĐT với nội dung chính là sát nhập Công ty
Dịch vụ Dầu Khí (PSC) và Công ty Địa vật lý và Dịch vụ Dầu Khí (GPTS) thành Công ty Dịch vụ Kỹ thuật Dầu Khí (PTSC) do ông Nguyễn Xuân Nhậm làm giám đốc.3
Năm 1994, Xí Nghiệp Dịch vụ Kỹ Thuật Dầu Khí Biển (PTSC Offshore), đơn
1 Tập đoàn dầu khí Việt Nam (2011), Lịch sử ngành Dầu Khí Việt Nam (đến năm 2010), Tập 1, Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia – Sự Thật, Hà Nội – trang 38. 2 Tập đoàn dầu khí Việt Nam (2011), Lịch sử ngành Dầu Khí Việt Nam (đến năm 2010), Tập 1, Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia – Sự Thật, Hà Nội – trang 44. 3 Tập đoàn dầu khí Việt Nam (2011), Lịch sử ngành Dầu Khí Việt Nam (đến năm 2010), Tập 1, Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia – Sự Thật, Hà Nội – trang 50.
vị trực thuộc PTSC được thành lập với mục tiêu ban đầu nhằm cung cấp các dịch vụ
10
cho thuê các thiết bị khoan, dịch vụ ứng cứu sự cố tràn dầu và xưởng cơ khí sửa chữa,
bảo dưỡng các thiết bị khoan. Với việc Vietsovpetro cùng hàng loạt các nhà thầu
khoan nước ngoài đầu tư mạnh mẽ vào Việt Nam thời kỳ sau Đổi Mới, PTSC Offshore
đã phát triển mạnh mẽ khi các giàn khoan nước ngoài lần lượt tiến vào Việt Nam, một
số giàn khoan lớn nổi tiếng thời bấy giờ là Maersk Convincer, Topaz Driller… của các
nhà thầu khoan lớn của thế giới như Idemitsu, BP, Transoceans, Sea Drill, Baker
Hughes… đã xuất hiện tại Việt Nam thời kỳ này.
Tuy nhiên, việc các giàn khoan nước ngoài lần lượt tiến vào vùng biển Việt
Nam theo các hợp đồng khoan với Vietsopetro và các nhà đầu tư lớn như BP,
Gazrom…có hợp tác với Tổng Công ty Dầu Khí Việt Nam, nay là Tập đoàn Dầu khí
Việt Nam (Vietnam Oil and Gas Group, gọi tắt là PetroVietnam), vùng biển nước ta
bấy giờ tràn ngập các giàn khoan và các tàu hỗ trợ từ nước ngoài, gây khó khăn cho
công tác đảm bảo quốc phòng và an ninh trên biển. Chính vì thế, ngoài việc tạo điều
kiện cho việc ổn định an ninh trên biển theo yêu cầu của Bộ Quốc Phòng, đồng thời
nhận thấy một tiềm năng to lớn cho một ngành dịch vụ kỹ thuật cao – ngành khoan dầu
khí - Chính phủ đã yêu cầu Tổng Công ty Dầu Khí Việt Nam thành lập một công ty
chuyên trách cho lĩnh vực khoan và các dịch vụ khoan. Trên cơ sở đó, với việc đã có
kinh nghiệm trong việc quản lý và hoạt động trong lĩnh vực này một thời gian dài 7
năm, vào năm 2001 Công ty Khoan và Dịch vụ Khoan Dầu Khí (PV Drilling) được
thành lập dựa trên nhân sự và nền tảng từ PTSC Offshore chuyển giao sang.
Nhằm tạo ra sự phát triển vượt bậc cho công ty khoan còn non trẻ, chính phủ đã
có nhiều chính sách khuyến khích, hỗ trợ cho PV Drilling lúc bấy giờ, như miễn thuế
khấu trừ VAT cho đến năm 2016 (tổng cộng 15 năm), cung cấp các quota nhập khẩu
miễn thuế cho các vật tư của giàn khoan vào năm 2007 và năm 2013, ra chính sách hạn
chế đầu tư của các nhà thầu khoan lớn trên thế giới vào Việt Nam, tạo ra một cơ chế
gần như độc quyền cho PV Drilling. Do đó, chỉ trong một thời gian ngắn, PV Drilling
đã phát triển mạnh mẽ và vượt bậc, vươn vai trở thành một trong những nhà thầu
khoan nổi tiếng và lớn mạnh ở khu vực Châu Á.
11
1.1.1.2 Quá trình hình thành PV Drilling năm 2001
Năm 1999, khi các lô dầu khí gần bờ đã được xác định và khai thác, Tổng Công
ty Dầu Khí Việt Nam đã xác định được trữ lượng lớn dầu khí đang nằm ngoài khu vực
nước sâu của thềm lục địa Việt Nam, với yêu cầu kỹ thuật cao mới có thể khai thác
được khu vực này. Do đó, tiềm năng tuy rất cao nhưng năng lực hạn chế đã khiến cho
ngành dầu khí Việt Nam dần dần giảm sự thu hút với các công ty dầu khí nước ngoài.
Để tăng khả năng thu hút đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực khai thác dầu khí, Việt
Nam đã phải cho phép sự hoạt động của các giàn khoan nước ngoài ở vùng biển Việt
Nam, nhằm tận dụng các khoa học công nghệ tiên tiến bấy giờ, đồng thời tận dụng
kinh nghiệm của các chuyên gia nhằm đào tạo một đội ngũ lao động Việt Nam đủ sức
vận hành một giàn khoan hiện đại.
Đến năm 2000, với sự đầu tư mạnh của Chính Phủ vào ngành dầu khí, Tổng
công ty Dầu Khí Việt Nam đã tăng cường các hoạt động khai thác thông qua các giàn
khoan nước ngoài cũng như mua các dịch vụ khoan từ các nhà thầu khoan lớn của thế
giới lúc đấy. PTSC là công ty tiên phong trong việc cung cấp các dịch vụ khoan cho
các hoạt động giàn khoan nước ngoài tại Việt Nam, mà trong đó cụ thể là PTSC
Offshore là công ty trực tiếp điều hành và cung cấp các dịch vụ này.
Năm 2001, do nhu cầu cung cấp dịch vụ khoan thăm dò và khai thác dầu khí
cho các Công ty dầu khí trong nước và nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam ngày
càng tăng, bên cạnh PTSC Offshore vốn có truyền thống và năng lực cung cấp các dịch
vụ về khoan và cho thuê thiết bị khoan phát triển mạnh; Vì vậy, trên cơ sở năng lực
hiện có của PTSC Offshore, ngày 26 tháng 11 năm 2001, Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn
phòng Chính phủ đã ban hành quyết định số 647/QĐ-VPCP thành lập Công ty Khoan
và Dịch vụ khoan dầu khí (PetroVietnam Drilling and Well Services Company, viết tắt
12
là PV Drilling), đơn vị thành viên của Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam, dựa trên cơ sở nguồn lực và cơ sở vật chất từ PTSC Offshore4.
Tháng 12 năm 2001, chỉ một tháng sau khi thành lập, PV Drilling đã hoàn thành
hơn 80% công đoạn chuyển giao tất cả các cơ sở vật chất, máy móc và sắp xếp lại
nhân lực. Đồng thời, đảm bảo công suất 100% cho các dịch vụ mà PTSC Offshore
đang cung cấp cho Idemitsu và Shell Corporation. Ngoài ra, thời gian này, PV Drilling
đã có kế hoạch mở rộng sang các dịch vụ công nghệ cao như chống tràn dầu, cung cấp
các dịch vụ nhân lực cho giàn khoan…tạo những nền móng vững chắc cho các kế
hoạch dài hạn trong tương lai.
Với việc chính thức thành công ty trực thuộc Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam,
PV Drilling đã trở thành một trong những công ty tiên phong, là mũi nhọn chiến lược
của chính phủ trong việc hiện đại hóa ngành dầu khí còn non trẻ và lạc hậu so với thế
giới bấy giờ. Những năm tiếp theo, PV Drilling đã không ngừng tiến bộ, từ một Xí
Nghiệp nhỏ với nhiều hạn chế về nhân lực, công nghệ kỹ thuật, máy móc nhà xưởng,
PV Drilling đã dần hình thành thành một công ty có trình độ khá, nguồn nhân lực ổn
định, với những định hướng chắc chắn và kế hoạch dài hạn khả thi. Tuy nhiên, để trở
thành một ông lớn trong tương lai, PV Drilling giai đoạn này cần nhiều thứ hơn nữa,
đặc biệt phải nắm bắt công nghệ điều hành giàn khoan để đủ sức cạnh tranh với các
nhà thầu khoan thế giới.
1.1.2 Các giai đoạn phát triển của PV Drilling
1.1.2.1 Những năm đầu mới thành lập 2001 – 2003
Sau khi thành lập năm 2001, chỉ sau 3 tháng chuyển giao từ PTSC Offshore, PV
Drilling đã đi vào hoạt động ổn định và đã tìm kiếm thêm nhiều khách hàng mới, từ
Vietsopetro đến JVPC, những nhà điều hành mỏ - Joint Operation Company (JOC)
mới thành lập đã tìm đến PV Drilling như một nhà cung cấp đáng tin cậy. Tuy giai
4 Báo cáo thường niên PV Drilling năm 2006 – trang 34, 35
đoạn này còn gặp nhiều khó khăn do hạn chế về nhiều mặt, nhưng với sự nỗ lực của
13
tập thể cán bộ PV Drilling, công ty non trẻ này đã dần dần đảm bảo chất lượng cho các
dịch vụ, phù hợp với tiêu chuẩn ngày càng cao của khách hàng nước ngoài.
Hợp tác quốc tế của PV Drilling thời kỳ này rất yếu, chủ yếu là các hoạt động
cung cấp dịch vụ theo các hợp đồng chỉ định từ PVEP và các JOC của Tổng Công ty
Dầu khí Việt Nam, các nhà thầu khoan thế giới như Idemitsu hay Shell Corporation chỉ
thuê một phần dịch vụ rất nhỏ cho các hoạt động khoan của họ như cung cấp ống
khoan, cần khoan, bơm trám xi măng vỉa… hay cung cấp các công nhân lao động tay
nghề thấp ngoài giàn, những hoạt động sửa chữa nhỏ không đáng kể cũng được các
công ty nước ngoài sử dụng nhưng không thường xuyên.
Ngoài ra, hợp tác quốc tế còn nhiều khập khễnh do trình độ tay nghề cũng như
năng lực điều hành vẫn còn nhiều hạn chế so với quy mô và trình độ chuyên nghiệp
của các nhà thầu lớn thế giới. Nhưng cũng vì thế mà PV Drilling đã có cử nhiều cán bộ
đi đào tạo tại các quốc gia phát triển mạnh về ngành khoan như Nhật Bản, Hoa Kỳ,
Anh Quốc, Singapore… Năm 2003, đội ngũ cán bộ được cử đi học tại Singapore đạt tỷ
lệ 23% các cán bộ biên chế hiện hành của PV Drilling, góp phần nâng cao chất lượng
nhân sự tại công ty, tạo thêm uy tín và năng lực dự thầu của PV Drilling cho các dự án
lớn hơn trong tương lai.
Tháng 6 năm 2002, khi hợp đồng giữa PetroVietnam và Liên Hiệp các nhà điều
hành mỏ lớn nhất của Nga gồm tập đoàn Gazrom, tập đoàn Zarubezhneftgas cho hợp
tác khai thác tại lô 112 mỏ Bạch Trĩ chính thức có hiệu lực, PV Drilling đã thành công
trong việc cung cấp dịch vụ sửa chữa ống khoan, cần khoan, dịch vụ đo karota và cung
cấp công nhân lao động cho các vị trí thấp trên các giàn khoan của Nga (chẳng hạn
như vị trí painter, roustabout…), góp phần nâng cao kinh nghiệm và năng lực hợp tác
quốc tế của PV Drilling. Giai đoạn khoan tại lô 112 kéo dài hai năm, từ 2002 đến 2004
đã giúp cho PV Drilling có điều kiện học hỏi nhiều bài học kinh nghiệm quý báu trong
việc hợp tác với một quốc gia có nền công nghiệp dầu mỏ phát triển mạnh của thế giới.
Đồng thời cũng tạo một sức bật cho sự phát triển mạnh mẽ hơn cho giai đoạn tiếp theo.
14
1.1.2.2 Giai đoạn phát triển xây dựng nền tảng mạnh mẽ từ năm 2003 đến năm
2007
Năm 2003, Lam Sơn JOC được thành lập dựa trên sự hợp tác giữa Tổng Công
Ty Dầu Khí Việt Nam và Tập đoàn Petronas Carigali của Malaysia nhằm điều hành việc khai thác tại khu vực lô 01/97 và 02/975. Trong số các mỏ lớn của khu vực này,
PV Drilling đã giành được quyền cung cấp giàn khoan đầu tiên tại khu vực hai mỏ là
Đông Đô và Diamond. Đây chính là bước ngoặc lớn, đánh dấu sự trưởng thành vượt
bậc của PV Drilling chỉ sau 2 năm thành lập.
Giàn khoan mà PV Drilling cung cấp không phải là giàn của Việt Nam mà là
giàn được PV Drilling thuê lại từ các nhà thầu khoan lớn của nước ngoài, chính phát
kiến táo bạo này đánh dấu một con đường mới đầy thách thức nhưng cũng nhiều vinh
quang cho ngành khoan Việt Nam. Giàn Topaz Driller thuê từ nhà thầu khoan Vantage
Drilling Company của Hoa Kỳ chính là một trong những giàn khoan lớn nhất bấy giờ
và vẫn đang được sử dụng cho nhà thầu khoan PTTEP của Thái Lan hiện nay.
Sau khi điều hành thành công giàn khoan Topaz Driller tại mỏ Đông Đô, thừa
thắng xông lên, PV Drilling đã tiếp tục cung cấp giàn khoan này cho khu vực mỏ
Diamond, góp phần hoàn thành 10 giếng khoan tại hai mỏ, trong đó có 3 giếng khoan được tuyên bố là có dầu. 6
Thành công của hợp đồng với Lam Sơn JOC đã giúp PV Drilling chuyển mình,
nâng cao uy tín với Tổng Công Ty Dầu Khí Việt Nam trong việc lựa chọn các nhà thầu
khoan khi ngày càng có nhiều khu vực mỏ được phát triển.
Không dừng ở việc đi thuê và cho thuê lại giàn khoan, tháng 10 năm 2004, PV
Drilling đã thành lập Xí Nghiệp Địa Vật Lý Giếng Khoan và Thử vỉa (PVD Logging),
5 Thư giới thiệu hợp tác khai thác của Lam Sơn JOC gửi PV Drilling ngày 24 tháng 8 năm 2010, trang 01 6 Báo cáo nghiệm thu hợp đồng vận hành và thăm dò số 189/PVD-HO ngày 12 tháng 12 năm 2003- trang số 10
hiện nay đã trở thành Công ty TNHH Một thành viên Địa Vật Lý Giếng Khoan Dầu
15
Khí. Với mục tiêu và nhiệm vụ chính là chuyên cung cấp các dịch vụ kỹ thuật cao
trong hoạt động khoan dầu khí như Đo Karota khí, Đo Karota khai thác, Kéo thả thiết
bị trong giếng, thử vửa dầu khí, ngoài ra PVD Logging còn cung cấp các chuyên gia
trong lĩnh vực địa chất cho các nhà thầu khoan trên khắp thế giới… PVD Logging đã
tạo được một nền tảng cho việc hợp tác với các dự án lớn của các nhà thầu khoan nước
ngoài ở các khu vực lân cận. Ngay sau khi thành lập, PVD Logging đã ký kết hợp
đồng lớn cho việc cung cấp dịch vụ khảo sát và thử vỉa cho 3 giàn khoan của
Vietsopetro, góp phần tạo một nguồn doanh thu lớn và ổn định cho PV Drilling.
Năm 2004 còn đánh dấu thành công khác của PV Drilling khi dự án đóng mới
giàn khoan Jack up đầu tiên của Việt Nam được chính phủ thông qua và bắt đầu được
triển khai quá trình huy động vốn và lựa chọn nhà thầu đóng giàn khoan mới. PV
Drilling đã trở thành người tiên phong trong ngành khoan Dầu Khí của Việt Nam khi
mà một năm trước đó, vẫn chưa nhiều người nghĩ rằng Việt Nam có thể đóng và vận
hành giàn khoan dầu khí sớm như vậy.
Quá trình hợp tác quốc tế giai đoạn này cũng được hình thành và xây dựng quy
trình rất mạnh mẽ. Các cán bộ chuyên môn liên tục được cử đi tu nghiệp và học tập
liên tục. Quy trình ISO-9000 được áp dụng toàn bộ hệ thống quản lý của PV Drilling,
Hệ thống mua sắm hàng hóa được hiện đại hóa với việc áp dụng thí điểm tại phòng Hỗ
trợ sản xuất hệ thống Maximo được mua từ Hoa Kỳ, hệ thống quản lý và vận hành
doanh nghiệp Oracle cũng được triển khai cho các hoạt động quản lý tại PV Drilling.
Hợp tác quốc tế còn thể hiện ở việc PV Drilling đã thuê hơn 20 chuyên gia nước ngoài,
chiếm tổng số 1/5 nhân sự của công ty lúc bấy giờ, nhằm vừa làm vừa đào tạo, cũng
vừa tạo một sự gắn kết hợp tác với các đối tác nước ngoài có nhân sự đang cho thuê tại PV Drilling.7
Hình ảnh môt công ty trẻ và đang phát triển mạnh mẽ được Chính Phủ chú ý và
đặc biệt quan tâm. Một tiềm năng lớn lao đang được thể hiện tại công ty này với ngành
công nghiệp mũi nhọn là ngành khoan dầu, một ngành mới mẻ nhưng có một tiềm 7 Báo cáo thường niên PV Drilling năm 2006 – trang 82
16
năng lợi nhuận to lớn trong tương lai. Chính vì thế, để đưa PV Drilling lên một vị thế
mới, đồng thời đáp ứng theo Quyết định số 80/2000/QĐ-TTg với yêu cầu cổ phần hóa
06 doanh nghiệp của Tổng công ty Dầu Khí Việt Nam, Tổng Công ty Dầu Khí Việt
Nam đã có công văn số 543/CV-HĐQT trình “Báo cáo bổ sung Đề án tổng thể sắp xếp
doanh nghiệp nhà nước thuộc Tổng Công ty Dầu Khí Việt Nam”, trong đó, PV
Drilling sẽ trở thành công ty cổ phần vào năm 2005. Sau khi xem xét, Bộ trưởng Bộ
Công Nghiệp đã có Quyết định số 3477/QĐ-BCN với nội dung chuyển đổi hình thức
hoạt động của PV Drilling thành công ty cổ phần. Với việc trở thành một công ty cổ
phần, PV Drilling nhiều cơ hội thu hút sự đầu tư của các nhà thầu khoan thế giới và
các nhà đầu tư lớn trong và ngoài nước, từ đó tạo nền tảng cho việc phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong những năm kế tiếp8.
Năm 2006, PV Drilling đã tiến hành IPO, niêm yết cổ phiếu trên sàn chứng
khoán Việt Nam với tên gọi cổ phiếu là “PVD”, giá khởi điểm: 10.500VND/ cổ phiếu.
Từ khi niêm yết, cổ phiếu PVD luôn được đánh giá là một cổ phiếu“blue-chip”, rất
đáng quan tâm cho các nhà đầu tư. Đây là một bước trưởng thành khác của PV
Drilling, giúp cho công ty trở nên uy tín và lớn mạnh không những ở trong nước mà còn ở quốc tế.9
Cũng trong năm 2006 ngày, PV Drilling đã lần lượt thành lập Xí nghiệp
Thương mại & Dịch vụ Kỹ thuật Công nghiệp nay là Công ty TNHH Một thành viên
Thương mại & Dịch vụ Kỹ thuật Dầu khí PVD (PVD Tech), đơn vị này đã triển khai
thành công dịch vụ cung cấp các thiết bị đầu giếng mà trước đây các công ty nước
ngoài đảm nhận. Đầu năm 2007, PV Drilling đã thành lập Công ty Liên doanh BJ
Services - PV Drilling, chuyên thực hiện các dịch vụ kỹ thuật cao như dịch vụ bơm
trám xi măng; dịch vụ kích thích vỉa; dịch vụ ống mềm; dịch vụ bơm Nitơ. Với việc
xuất hiện thêm một Xí Nghiệp và một công ty Liên doanh chuyên thực hiện các công
8 Tập đoàn dầu khí Việt Nam (2011), Lịch sử ngành Dầu Khí Việt Nam (đến năm 2010), Tập 3, Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội – trang 112. 9 Báo cáo thường niên PV Drilling năm 2007 – trang 22
việc mà trước đây phải thuê của các công ty nước ngoài, PV Drilling đã sẵn sàng đưa
17
ra một quy trình toàn diện cho dịch vụ cung cấp giàn khoan và các dịch vụ khoan đi
kèm, thể hiện sự lớn mạnh và chuẩn bị toàn diện cho các hợp đồng thầu khoan chính
cho các dự án lớn trong và ngoài nước.
Cuối năm 2006, PV Drilling chính thức ký hợp đồng trị giá 300 triệu USD với
Tập đoàn Keppel Fels đóng mới giàn khoan Jack-up thế hệ mới nhất với tên gọi “PVD
1”, mở ra một kỷ nguyên mới cho PV Drilling nói riêng, và ngành khoan Việt Nam nói chung10. Sau khi hoàn thành, giàn PVD 1 sẽ trở thành giàn khoan đầu tiên thuộc sở
hữu của Việt Nam và sẽ thực hiện các hợp đồng khoan với Cửu Long JOC tại khu vực
mỏ Sư Tử Trắng, với trữ lượng dầu dự kiến lên tới 300 triệu thùng và trữ lượng khí đốt
dự kiến từ 3 đến 4 tỷ m3.
1.1.2.3 Giai đoạn phát triển bền vững 2007 - 2010
Năm 2007, giàn khoan PVD 1 chính thức được khánh thành, trở thành giàn
khoan đầu tiên người Việt sở hữu 100% vốn. Đây là giàn khoan biển tự nâng đa năng
(Jack-up) thế hệ mới nhất của Keppel Fels, đánh dấu một bước phát triển mạnh trong
việc hợp tác quốc tế chặt chẽ và mạnh mẽ, đưa PV Drilling trở thành một nhà thầu
khoan trẻ nhưng đầy uy tín trên thị trường khoan quốc tế.
Không dừng lại với giàn PVD 1, ngay trong cùng năm 2007, PV Drilling đã cho
khánh thành giàn khoan đất liền đầu tiên của Việt Nam, Giàn khoan PVD 11. Giàn
khoan này là kết quả của sự hợp tác giữa PV Drilling và tập đoàn Honghua, Trung
Quốc, một trong những Tập Đoàn đóng giàn khoan lớn nhất thế giới hiện nay.
Hai sự kiện liên tiếp, hai thành công liên tiếp đã đưa PV Drilling trở thành một
trong những công ty lớn nhất của Tập Đoàn Dầu Khí Việt Nam (tiền thân là Tổng công
ty Dầu Khí Việt Nam). Từ giữa năm 2007, sau khi tiếp tục thành lập thêm đơn vị trực
thuộc Xí Nghiệp Điều hành Khoan (Drilling Division) và hai công ty con gồm: Công
ty Cổ Phần Đào Tạo Kỹ Thuật PVD (PVD Training) chuyên phụ trách mảng đào tạo
10 Thư giới thiệu hợp tác khoan thăm dò của PV Drilling gửi Cửu Long JOC ngày 5 tháng 11 năm 2009, trang 02
huấn luyện và cung ứng dịch vụ tư vấn kỹ thuật liên quan đến các lĩnh vực hoạt động
18
của PV Drilling; công ty TNHH Một thành viên Dịch vụ Giếng khoan Dầu khí PVD
(PVD Well Services) chuyên về các lĩnh vực thử vỉa, bơm trám xi măng và hình thành
giếng khoan và kéo thả ống chống khoan, những lĩnh vực đòi hỏi những công nghệ rất
cao mà hiện nay chỉ có các nhà thầu khoan lớn của thế giới mới đủ sức đáp ứng. Trong
đó, Xí Nghiệp Điều Hành Khoan là đơn vị trực tiếp điều hành và quản lý hai giàn
khoan PVD 1 và PVD 11, đem lại 80% doanh thu và lợi nhuận cho toàn công ty.
Với việc thành lập thêm PVD Well Services và PVD Training đã góp phần
chuyển đổi hình thức của PV Drilling thành Tổng Công ty Cổ Phần Khoan và Dịch vụ
Khoan Dầu Khí với một đơn vị trực thuộc, ba công ty con và một công ty liên doanh,
có tổng giá trị tài sản đạt 4,330 tỷ đồng. Kết thúc năm 2007, PV Drilling đã dần chiếm
lĩnh được thị trường khoan trong nước với thị phần hơn 15%, trong đó ngoài giàn PVD
1, PV Drilling đã vận hành thành công thêm 3 giàn khoan thuê từ các nhà thầu khoan
khác. Đồng thời, tạo một bước ngoặc mang tính lịch sử cho chính trị Việt Nam khi
giàn khoan đất liền PVD 11 chính thức được lắp ráp hoàn thiện và sẵn sàng hoạt động
trên hoang mạc Sahara, tại quốc gia Bắc Phi Algeria, mở ra một hình ảnh Việt Nam
hiện đại, kỹ thuật tiên tiến và sẵn lòng hợp tác với mọi quốc gia trên thế giới, kể cả đó là những khu vực khô cằn, nguy hiểm như hoang mạc Sahara.11
Đến năm 2008, PV Drilling tiếp tục thành lập thêm một liên doanh PVD – PTI
(PV Drilling Production Testers International) giữa PVD Logging và công ty Expro
International BV, trong đó PV Drilling nắm 51% vốn sở hữu, nhằm tận dụng các khoa
học kỹ thuật tiên tiến về thử vỉa giếng khoan và các thiết bị tiên tiến mà công ty này
đang sở hữu. Góp phần nâng cao giá trị của PV Drilling trên thị trường khoan đầy cạnh
tranh hiện nay.
Năm 2009, PV Drilling đã đóng thành công 2 giàn khoan Jack-up PVD 2 và
PVD 3, đưa tổng số giàn sở hữu lên thành bốn giàn khoan, gồm ba giàn Jack – Up thế
11 Báo cáo kinh doanh Ban Tài Chính gửi Hội Đồng Quản Trị PV Drilling ngày 10 tháng 2 năm 2008- trang 05
hệ mới nhất và một giàn Land Rig. Sau khi đi vào hoạt động ổn định 2 giàn mới, PV
19
Drilling đã nắm gần 50% thị trường khoan tại Việt Nam. Doanh thu hàng năm trên
5.000 tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế giai đoạn này luôn đạt trên 800 tỷ mỗi năm tài khóa.
Ngoài ra, vào ngày 04 tháng 09 năm 2009, PV Drilling đã sát nhập Công ty Cổ
phần Đầu tư Khoan Dầu khí Việt Nam (PVD Invest) vào PV Drilling, nâng tổng giá trị
tài sản của Tổng Công ty lên đến trên 12.000 tỷ đồng và vốn điều lệ của Tổng Công ty lên đến 2.105 tỷ đồng.12
Năm 2010, PV Drilling chính thức được Thủ tướng Chính phủ thông qua dự án
đóng mới giàn khoan tiếp trợ, nửa nổi nửa chìm TAD với công nghệ khoan ở những
khu vực nước sâu mà các giàn đang hoạt động tại Việt Nam không thể khoan được.
Đây là một công trình vĩ đại của tập thể PV Drilling nói riêng, ngành khoan của Việt
Nam nói chung. Giàn TAD có tên là PVD 5 này sẽ trở thành một trong 7 giàn TAD
duy nhất trên thế giới với độ sâu có thể khoan tới hơn 10.000m, có thể hoạt động ở khu
vực có độ sâu nước biển trên 1000m.
Kết thúc năm 2010, PV Drilling có thể gọi là hoàn thành giai đoạn xây dựng
một nền tảng vững chắc cho những thành công tiếp theo trong tương lai. PV Drilling
đã trở thành một trong những Tổng Công ty có vốn nhà nước hoạt động hiệu quả nhất
và thành công nhất. Với Slogan “Pioneer of Vietnam Driller – Người tiên phong trong
ngành khoan dầu khí tại Việt Nam”, PV Drilling xứng đáng là một người tiên phong
đầy bản lĩnh và năng động trong một thị trường khoan đang rất sôi động và đầy tính
cạnh tranh như hiện nay.
1.1.3 Định hƣớng phát triển của PV Drilling
1.1.3.1 Thị trƣờng
Nhận thức được tầm quan trọng của việc tìm hiểu nhu cầu sử dụng dịch vụ của
12 Báo cáo kinh doanh Ban Tài Chính gửi Tổng Giám Đốc ngày 27 tháng 12 năm 2009 – trang 03
khách hàng, nhằm điều chỉnh kịp thời chính sách phát triển, chủ động thực hiện các
20
dịch vụ thế mạnh chuyên ngành của mình, PV Drilling luôn coi trọng công tác nghiên
cứu, phân tích, đánh giá thị trường.
Công tác nghiên cứu thị trường cho thấy, nền kinh tế Việt Nam nhiều năm qua,
trong xu thế chung của các nền kinh tế mới nổi, phát triển không ngừng dẫn đến nhu
cầu sử dụng năng lượng rất cao. Một thực tế khác là giá dầu luôn biến động theo xu
hướng tăng, vì vậy các công ty dầu khí luôn có nhu cầu đẩy mạnh hoạt động tìm kiếm,
thăm dò và khai thác của mình.
ODS Petrodata (Tổ chức hàng đầu thế giới chuyên nghiên cứu, đánh giá và dự
báo thị trường khoan) đã thống kê, để phục vụ hoạt động khoan, tính đến năm 2012,
toàn thế giới có nhu cầu sử dụng gần 700 giàn khoan, trong đó có 430 giàn tự nâng.
Khu vực châu Á – Thái Bình Dương sẽ là một trong những khu vực phát triển năng
động nhất. Riêng khu vực Đông Nam Á từ nay tới năm 2015, nhu cầu về giàn tự nâng là 42 giàn và thị trường Việt Nam cần 8 đến 10 giàn trong một năm.13
Với những điều kiện quyết định như: nhu cầu sử dụng năng lượng gia tăng, giá
dầu, tần suất sử dụng giàn khoan ở mức cao là những yếu tố dự báo và đảm bảo một
thị trường bền vững cho PV Drilling trong việc cung cấp giàn khoan, cung cấp các
dịch vụ kĩ thuật khoan trong những năm tiếp theo.
Trước năm 2007, thị trường cung cấp giàn khoan tại Việt Nam đều phụ thuộc
vào các công ty nước ngoài. Năm 2007 là một năm đánh dấu sự phát triển nhảy vọt của
ngành dịch vụ khoan qua việc PV Drilling đưa vào sử dụng giàn khoan biển PVD 1 và
giàn khoan đất liền PVD 11 đạt hiệu quả cao. Trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO), cạnh tranh kinh doanh ngày càng gay gắt, điều này
không những có ý nghĩa khẳng định một công ty Việt Nam hoàn toàn đủ khả năng
quản lý, vận hành và cung cấp giàn khoan với chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc tế, mà
còn chứng tỏ sự gia tăng, phát triển của PV Drilling trong thị trường cung cấp dịch vụ
khoan và kỹ thuật khoan. 13 Website ODS Petrodata, http://www.ihs.com/products/oil-gas/ei/drilling-rigs/offshore-weekly-data.aspx, truy cập ngày 01/03/2013.
21
1.1.3.2 Khách hàng
Với những lợi thế về vị trí trong khu vực, điều kiện thuận lợi của thị trường,
bằng chiến lược phát triển hợp lý và các nguồn lực vững chắc, PV Drilling đang và sẽ
là nhà cung cấp dịch vụ khoan có chất lượng và uy tín cho các công ty dầu khí trong
nước như JVPC, Hoan Vu JOC, Hoang Long JOC, Thang Long JOC, Con Son JOC,
Lam Son JOC, Truong Son JOC, VietsoPetro, VRJ và các công ty ngoài nước như BP,
Petronas, Premier Oil, Conoco Phillips, Vietgazprom…
Sự tín nhiệm từ khách hàng sử dụng dịch vụ của PV Drilling còn thể hiện qua doanh thu từ các hợp đồng thực hiện trong năm 2007 tăng 190% so với năm 200614.
Các khách hàng ngày càng đánh giá cao dịch vụ của PV Drilling. Do đó, thị phần của
PV Drilling ngày càng được mở rộng đối với thị trường trong và ngoài nước.
1.1.3.3 Chiến lƣợc phát triển của PV Drilling đến năm 2015 và định hƣớng
đến năm 2025
Đẩy mạnh phát triển dịch vụ trong nước (mở rộng thị trường lẫn nâng cao thị
phần) để trở thành nhà thầu khoan và cung cấp dịch vụ khoan hàng đầu:
o Dịch vụ cho thuê và điều hành giàn khoan: tiếp tục đầu tư mua thêm hoặc đóng
mới giàn khoan biển và các trang thiết bị chuyên ngành hiện đại.
o Dịch vụ kỹ thuật khoan: Tiếp tục đầu tư nghiên cứu phát triển những dịch vụ
chuyên ngành mới, đặc biệt chú trọng phát triển những dịch vụ như karota khí –
một kỹ thuật khảo sát địa vật lý như chiều dày, mức độ khe nứt, tầng lớp đất để
đánh giá mức độ an toàn, đảm bảo kỹ thuật cho lỗ khoan dầu, nhằm đưa ra các
14 Báo cáo hoạt động kinh doanh của Giám đốc Xí Nghiệp Điều Hành Khoan gửi Hội đồng quản trị ngày 29 tháng 12 năm 2007, trang 09
phương án kỹ thuật giếng khoan mang lại lợi nhuận cao.
22
o Một số dịch vụ kỹ thuật cao: tăng cường mối quan hệ với các đối tác hiện hữu
và tiếp tục mở rộng mối quan hệ hợp tác với các đối tác khác trên thế giới để
phát triển một số dịch vụ kỹ thuật cao mà hiện nay PV Drilling chưa tự thực
hiện được, cụ thể là:
Liên doanh, liên kết với các đối tác nước ngoài.
Mua một phần hay toàn bộ một công ty dịch vụ chuyên ngành những lĩnh
vực trên.
Nghiên cứu phát triển một số dịch vụ thế mạnh ra nước ngoài: thị trường các
nước có mỏ do Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam đầu tư và chủ động mở rộng mối
quan hệ hợp tác để phát triển các dịch vụ thế mạnh ra các nước trong khu vực.
Trong Báo cáo Thường niên năm 2010, Ban lãnh đạo của PV Drilling đã chỉ ra
định hướng phát triển cho PV Drilling đến năm 2030:
Phát triển công nghệ khoan nước sâu, ứng dụng khoa học công nghệ cao. Định
hướng phát triển này sẽ giúp cho PV Drilling mở rộng thị phần ở khu vực sâu nhằm
tăng cường an ninh năng lượng như chiến lược phát triển của Bộ Công Thương, Bộ
Quốc Phòng, Tập Đoàn Dầu khí Việt Nam, đồng thời thực hiện bảo vệ chủ quyền lãnh
thổ quốc gia.
Từng bước vững chắc tham gia vào thị trường dịch vụ khoan dầu khí khu vực
và thế giới. Về ngắn hạn, mở rộng ra thị trường mới, đầu tư vào thị trường nước ngoài
sẽ đem lại rủi ro cao do mức độ cạnh tranh lớn, chưa hiểu rõ về thị trường, trong khi đó
lại đòi hỏi vốn đầu tư cao. Về dài hạn, việc mở rộng ra thị trường nước ngoài sẽ giúp
đảm bảo nguồn doanh thu, gia tăng uy tín của PV Drilling cũng như của Tập Đoàn Dầu khí Việt Nam. 15
15 Báo cáo thường niên năm 2010 PV Drilling – trang 25, 26, 27.
1.2. Vai trò của PV Drilling đối với ngành dầu khí Việt Nam
23
1.2.1 Đối với ngành dầu khí trong nƣớc
1.2.1.1 Ngành khoan dầu khí
PV Drilling đang là một trong những nhà thầu khoan lớn nhất tại Việt Nam tính
tới năm 2010, khi mà nhà nước vẫn còn đang nhiều ưu đãi về thuế cho PV Drilling như
hiện nay. Theo số liệu thống kê từ Hiệp hội các nhà thầu khoan Thế Giới IADC
(International Association of Drilling Contractors), PV Drilling năm 2010 đã chiếm
hơn 30% thị phần khoan tại Việt Nam, với 3 giàn khoan sở hữu của PV Drilling PVD 1, PVD 2, PVD 3 và 4 giàn khoan thuê lại từ các nhà thầu khoan khác16. Với vai trò là
người tiên phong, cũng là người dẫn đầu của ngành khoan dầu khí của Việt Nam, PV
Drilling cần phải phát triển mạnh mẽ hơn nữa, nhất là khi thời gian mở cửa cho các
nhà thầu khoan lớn trên thế giới vào Việt Nam ngày càng tiến gần theo yêu cầu của
WTO. Những dự án giàn PVD 5, PVD 6 đang ngày càng hiện thực hóa và giúp PV
Drilling tự tin hơn và sẵn sàng đương đầu với các nhà thầu khác tại khu vực biển Đông
nói riêng, châu Á – Thái Bình Dương nói chung.
PV Shipyard, PTSC, PVEP và cả VietsoPetro đều đã có những giàn khoan cho
riêng mình, đặc biệt nhất là giàn khoan Tam Đảo 3 của PV Shipyard đóng 100% tại
Việt Nam đã giúp cho ngành khoan dầu khí của Việt Nam đang có một tương lai sáng
lạng, đồng thời cũng tạo ra một thách thức cho PV Drilling trong việc chiếm lĩnh thị
trường trong tương lai. Tuy hiện nay các giàn khoan này đều là những giàn khoan thế
hệ cũ, không đủ sức khoan ở những vùng nước sâu hơn 100m, nhưng với sự phát triển
ngày càng toàn diện của ngành dầu khí Việt Nam, việc có các giàn Jack-up đóng tại
Việt Nam khác cạnh tranh với các giàn khoan đóng tại Singapore của PV Drilling sẽ là
điều sớm muộn. Để tiếp tục giữ vai trò người tiên phong, PV Drilling cần phải đầu tư
mạnh mẽ hơn nữa, có những chiến lược phát triển dài hơn, khả thi hơn nữa.
16 Annual Report of IADC in 2010, International Association of Drilling Contractors, trang 18, trang 19
1.2.1.2 Ngành thăm dò và khai thác dầu khí
24
Ngành thăm dò và khai thác dầu khí chính là khách hàng chủ yếu của ngành
khoan dầu khí tại Việt Nam. Do đó, với PV Drilling, những JOC, PVEP, VietsovPetro,
JVPC…là những khách hàng rất quan trọng cho sự phát triển của PV Drilling.
Với việc chiếm lĩnh hơn 30% thị phần khoan tại Việt Nam vào năm 2010, PV
Drilling đang đóng một vai trò quan trọng cho việc thăm dò các khu vực mỏ tại biển
Đông và khai thác các giếng khoan đang có dầu và khí hiện nay. Ví dụ trong khoảng
thời gian từ năm 2007 – 2009, giàn PVD 1 đã khoan hơn 80 giếng khoan cho Cửu
Long JOC tại khu vực mỏ Sư Tử Trắng, trong đó có khoảng 10% giếng khoan đã phát
hiện có dầu. Dự kiến đến cuối năm 2010, tất cả 3 giàn khoan biển của PVD hoạt động
đạt hiệu suất cao nhất, mỗi tháng PV Drilling sẽ hoàn thành từ 10-15 giếng khoan cho
các khách hàng, trữ lượng dầu dự kiến có thể phát hiển tới 10 triệu thùng dầu, lượng khí hơn 25 triệu mét khối khí.17
1.2.2 Đối với ngành dầu khí quốc tế
1.2.2.1 Hợp tác trong lĩnh vực kỹ thuật khoan
Trong lĩnh vực kỹ thuật chuyên ngành khoan, PV Drilling đã vận dụng rất linh
hoạt chính sách “đi tắt đón đầu” của Việt Nam trong giai đoạn đầu thế kỷ XXI. Hàng
loạt các kỹ thuật tiên tiến nhất của ngành khoan thế giới lần lượt có mặt trong danh
sách dịch vụ cung cấp của PV Drilling, tiêu biểu những là những kỹ thuật chống tràn
dầu và thử vỉa, bơm trám vỉa… những kỹ thuật này đòi hỏi một quy trình kỹ thuật rất
tiên tiến và nó thay thế cho công nghệ mà các giàn khoan thế hệ cũ đang sử dụng
những năm 2001-2003 tại Việt Nam. Những công ty liên doanh lần lượt ra đời như
PVD – Baker Hughes, PVD – PTI, PVD – BJ đã cho thấy một uy tín lớn trên trường
quốc tế, những nhà thầu khoan lớn nhất trên thế giới sẵn sàng bắt tay hợp tác với PV
Drilling để cung cấp những kỹ thuật mới. Đến năm 2010, PV Drilling đã được công
nhận rộng rãi trên toàn cầu khi giàn khoan PVD 1 đạt chứng nhận 3 năm liên tiếp đạt
Zero LTI (một tiêu chuẩn về tính an toàn và làm việc hiệu quả trong ngành khoan). 17 Báo cáo kết quả hợp đồng của phòng Điều hành Khoan gửi Giám đốc Xí Nghiệp Điều hành Khoan ngày 01 tháng 6 năm 2009 – trang 17
25
Khi chúng ta bước chân lên giàn sẽ thấy trên giàn không những bao gồm cán bộ
của PV Drilling, mà còn nhiều cán bộ của các nhà thầu khoan lớn khác trên thế giới
như Keppel Fels, Baker Hughes, Petronas…Điều đó cho thấy, ngành khoan đang là
một ngành toàn cầu hóa rất mạnh mẽ về mặt kĩ thuật, mọi nhà thầu khoan trên thế giới
cần phải liên tục hợp tác về kỹ thuật với nhau để có thể học hỏi và vận hành tốt nhất
các giàn khoan đang hiện hữu trên những vùng biển có tiềm năng dầu khí.
1.2.2.2 Hợp tác trong lĩnh vực kinh tế biển
Biển là một nguồn tài nguyên vô tận, là một lợi thế kinh tế rất của một quốc gia,
nhất là Việt Nam với 3.200 km đường bờ biển, đây thực sự là một “kho tàng” của Việt
Nam, nhưng có thể nói, Việt Nam ta hiện nay vẫn chưa đủ sức để khai thác và tận
dụng nó triệt để bằng chính sức mạnh của mình. Do đó, dù rất cố gắng, Việt Nam vẫn
phải cần sự trợ giúp của các quốc gia tiên tiến khác. Ngành khoan dầu khí cũng vậy,
Việt Nam lúc nào cũng cần sự hỗ trợ của các quốc gia tiên tiến khác để có thể khoan
sâu, khoan nhiều hơn nữa để thăm dò và khai thác các nguồn dầu khí nằm bên dưới
lòng đất.
Một thực tế cho thấy rằng, trước khi PV Drilling trở nên mạnh mẽ, vùng ngoài
khơi Việt Nam chỉ toàn các giàn khoan nước ngoài hoạt động, chúng ta phải tìm rất vất
vả mới chỉ có thể thấy vài “giàn khoan cố định” nhỏ lẻ cắm cờ Việt Nam với một mức
độ hạn chế về kích thước và kỹ thuật. Do đó, cho dù PV Drilling có mạnh mẽ tới đâu,
nhiều giàn khoan tới đâu, chắc chắn cũng không thể một mình độc quyền vùng biển
Việt Nam mà phải cần sự hợp tác của các nhà thầu khoan uy tín trên khắp thế giới.
Việt Nam hiện nay được đánh giá nằm trong top 20 quốc gia có trữ lượng dầu
lớn nhất thế giới, với trữ lượng hơn 4,4 tỷ thùng dầu. Đủ nguồn cung năng lượng cho khu vực trong vòng 50 năm nữa.18 Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất của Việt Nam là trình
độ kỹ thuật để tận dụng triệt để nguồn tài nguyên này. Nếu kỹ thuật không đủ hiện đại,
18 Báo cáo thường niên PV Drilling năm 2008 , trang 10
nguy cơ xảy ra các tai nạn gây ra các thảm họa thiên nhiên là vô cùng lớn. Bài học về
26
các vụ tràn dầu lớn trên thế giới trong thời gian qua là minh chứng cho việc này. Nếu
PV Drilling là nhà thầu khoan tiên phong của Việt Nam, thì việc PV Drilling tiên
phong trong lĩnh vực hợp tác tăng cường trao dồi kỹ thuật, công nghệ, nhân lực với thế
giới là một điều hết sức quan trọng và cần thiết. Ngoài ra, do thị trường khoan trên thế
giới có hơn 200 nhà thầu khoan lớn nhỏ, việc chọn lọc đối tác và cảnh giác trong các
mối quan hệ kinh tế là điều hết sức cần lưu ý, vì không phải nhà thầu khoan nào cũng
mạnh và đủ kinh nghiệm để đưa PV Drilling tiến lên, nếu không chú ý, có thể gây
phản ứng ngược lại là kéo PV Drilling ngày càng tụt hậu với thế giới. Mà điều này đối
với một ngành công nghiệp cần sự hiện đại và cập nhật thường xuyên như ngành
khoan dầu khí là điều hết sức nguy hiểm.
1.2.2.3 Hợp tác trong lĩnh vực chính trị
PV Drilling hiện nay đang là nhà tiên phong của Tập đoàn dầu khí Việt Nam
trong việc tiến ra hợp tác với thế giới, văn phòng Venezuela và đặc biệt – giàn khoan
PVD 11 đặt tại Algeria – là một bước tiến quan trọng trong chính trị của Việt Nam,
phù hợp với phương châm của chính sách ngoại giao Việt Nam - “Việt Nam sẵn sàng
là bạn với tất cả các nước trên thế giới”.
Năm 2009, với việc khánh thành và di chuyển vượt hơn 10.000km đưa giàn
khoan đất liền PVD 11 từ Trung Quốc đến Algeria, PV Drilling nói riêng, Việt Nam
nói chung đã đặt viên gạch đầu tiên cho sự hợp tác phát triển bền vững với các nước
châu Phi, một thị trường tiềm năng mà Việt Nam đang nhắm tới. Từ năm 2011, giàn
khoan PVD 11 bắt đầu hợp đồng khoan với GBRS tại Location BRS-11, Block 433a,
7416b, giàn khoan luôn đạt chỉ số Free LTI trong nhiều năm và hiệu suất khoan luôn
đạt trên 80%, năng suất hơn 10.000 thùng dầu/ ngày, giúp đáp ứng hơn 5% nhu cầu năng lượng tại quốc gia Bắc Phi này19. Tuy nhiên, do nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố
kỹ thuật, đã hạn chế việc hợp tác đưa giàn khoan ra nước ngoài của PV Drilling. Trong
những năm tiếp theo, PV Drilling đã có kế hoạch đóng mới tiếp hai giàn khoan Jack-
up PVD 6 và PVD 7 để đáp ứng cho nhu cầu khoan thăm dò tại khu vực Đông Nam Á 19 Báo cáo của văn phòng PV Drilling tại Algeria gửi Ban Tổng Giám Đốc ngày 07 tháng 08 năm 2013 – trang 03
27
và khu vực Nam Mỹ, nơi mà Venezuela đang là đối tác chiến lược của Việt Nam, đặc
biệt là trong ngành dầu khí. Đây hứa hẹn là những bước tiến quan trọng cho việc tăng
cường sức mạnh mềm của Việt Nam trên trường quốc tế, gia tăng uy tín cho ngành
khoan Việt Nam, cũng như chứng minh cho thế giới thấy một Việt Nam đang có một
mức độ phát triển kỹ thuật tương đối cao và hiện đại, đủ sức đáp ứng cho những yêu
cầu khắt khe nhất của các đối tác trên thế giới.
Hơn thế nữa, giàn khoan luôn được xem như một pháo đài di động, cũng như
một đánh dấu lãnh thổ quan trọng trên biển. Do đó, việc tăng cường sự hiện diện của
các giàn khoan mang quốc tịch Việt Nam trên vùng biển Đông là hết sức cần thiết và
quan trọng trong bối cảnh căng thẳng đang leo thang tại biển Đông hiện nay. Năm
2010, với việc giàn khoan tiếp trợ nửa nổi nửa chìm (TAD – Tender Assist Drilling)
mang tên PVD 5 chính thức được đóng tại Singapore, sẽ mang một ý nghĩa hết sức
quan trọng cho Việt Nam. Đây là giàn khoan có khả năng hoạt động ở khu vực nước
sâu trên 3000m và mang sự hiện diện chủ quyền của Việt Nam đến những khu vực
nằm xa nhất trên thềm lục địa của Việt Nam.
1.3. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực dầu khí của PV Drilling
1.3.1 Cơ sở hoạch định
Chủ trương hợp tác quốc tế của PV Drilling được hình thành và thông qua chủ
yếu dựa trên ba cơ sở chính:
- Mục tiêu kinh doanh ngành công nghiệp khoan dầu khí chính thống và định
hướng phát triển các ngành phụ trợ.
- Cơ sở vật chất hiện tại và khả năng thu hút đầu tư, tăng nguồn vốn và xây dựng
hình ảnh hiện đại, chuyên nghiệp trên thị trường khoan thế giới.
- Nguồn nhân lực và hệ thống đào tạo các nhân sự cấp cao cho các vị trí lãnh đạo
cả ở offshore và onshore.
28
Ngoài ba cơ sở trên, để hình thành nên chủ trương của toàn Tổng Công ty về
hợp tác quốc tế, ban lãnh đạo của PV Drilling phải chú ý đến những cơ sở phụ nhưng
cũng có sức ảnh hưởng lớn, bao gồm các cơ sở phụ như sau:
- Chủ trương hợp tác quốc tế của Tập Đoàn Dầu Khí Việt Nam và Bộ Công
Thương.
- Khả năng của từng đơn vị trực thuộc, công ty con, công ty cháu và các công ty
liên doanh.
- Tình hình chính trị đối ngoại của Việt Nam với các quốc gia trên thế giới, đặc
biệt là các nước khu vực ASEAN và Trung Quốc.
- Các chỉ số về hợp tác quốc tế trong quá khứ cũng như các công ty cạnh tranh
trực tiếp để PV Drilling tham khảo và đưa ra chiến lược chủ trương hợp lý.
1.3.2 Quá trình triển khai hợp tác quốc tế
Chủ trương hợp tác quốc tế hiện nay của PV Drilling tuy đã được soạn thảo và
đưa ra từ năm đầu thành lập, nhưng đến nay vẫn chưa thực sự hoàn thiện, vẫn còn
mang tính cục bộ do hiện tại PV Drilling đang có sự giúp đỡ rất lớn từ Tập Đoàn Dầu
Khí Việt Nam và các bộ ban ngành liên quan.
Những chủ trương về hợp tác quốc tế hiện nay có thể chia thành 3 lĩnh vực
chính với những đặc điểm riêng biệt.
Về lĩnh vực đầu tư, PV Drilling chủ trương ưu tiên tăng cường hợp tác với các
quốc gia trong khu vực ASEAN về các mặt chuyên môn kỹ thuật như đóng mới giàn
khoan, cung cấp dịch vụ nhân lực cấp cao và tư vấn kỹ thuật. Ngoài ra, PV Drilling
cũng vươn ra hợp tác với các quốc gia phát triển về ngành khoan và có một hệ thống
toàn cầu. Tiêu biểu là trong năm 2006, liên doanh PV Drilling – Baker Hughes đã
được thành lập với số vốn kinh doanh ban đầu là 70 tỷ đồng. Trong năm 2007, liên
doanh này đã mang về cho PV Drilling lợi nhuận hơn 3 tỷ đồng.
29
Về lĩnh vực nhân sự đào tạo, PV Drilling chủ trương liên kết hợp tác với các đối
tác có quan hệ kinh doanh với nhau từ lâu như SeaDrill, Vantage, Transocean…để
tăng cường đội ngũ nhân lực người Việt Nam có tay nghề kỹ thuật cao để đảm đương
các vị trí từ thấp đến cao trên giàn như Routabout, Toolbusher, Senior Toolbusher,
Driller, STC…PVD Training được thành lập nhằm là đầu mối cho chủ trương này.
Hiện nay, PVD Training đã đạt cấp quốc tế trong lĩnh vực đào tạo lĩnh vực khoan và
các chứng chỉ đi kèm với ngành khoan như BOSIET, Well Control…
Về lĩnh vực kinh doanh, tuy khách hàng chính của PV Drilling là các JOC trong
nước, nhưng PV Drilling vẫn chú trọng các hợp đồng khoan từ các nước có quan hệ
đối ngoại tốt với Việt Nam như Venezuela, Algeria…Văn phòng của PV Drilling tại
Venezuela được thành lập từ năm 2009 và vẫn đang hoạt động hiệu quả trong việc
quảng bá hình ảnh ngành khoan Việt Nam với quốc gia giàu dầu mỏ này. Tại Algeria,
PV Drilling đang tiến hành khoan thăm dò cho các công ty dầu mỏ quốc gia của
Algeria. Nhưng chủ trương chính của PV Drilling về lĩnh vực này là tăng cường hợp
tác chặt chẽ với các nhà thầu khoan lớn của thế giới nhằm thuê lại giàn khoan để đáp
ứng các hợp đồng khoan trong nước. Những đối tác lớn nhất của PV Drilling là
ENSCO (thuê bốn giàn Jack-up), Vantage (thuê hai giàn Jack-up), Idemitsu (thuê hai
giàn Jack-up, một giàn SemiSub)… đã góp phần giúp PV Drilling chiếm lĩnh thị
trường khoan trong nước.
Tiểu kết chƣơng 1
Trong chương 1, luận văn đã làm rõ các nét tổng quan về quá trình hình thành,
quá trình phát triển và các nét chính trong giai đoạn phát triền từ năm 2001 đến năm
2010 của PV Drilling. Tác giả cũng đã làm rõ vai trò của PV Drilling trong ngành
khoan dầu khí tại Việt Nam hiện nay, các cơ sở hoạch định chủ trương hợp tác quốc tế
và những đặc điểm chính của chủ trương hợp tác quốc tế cho công cuộc nâng cao năng
lực và tầm ảnh hưởng của PV Drilling trên thị trường khoan Việt Nam nói riêng, của
30
thế giới nói chung. Những thông tin trong chương 1 sẽ là cơ sở để tác giả phát triển
thêm về các hoạt động triển khai hợp tác quốc tế của PV Drilling trong từng lĩnh vực ở
chương 2 và đánh giá các tác động cũng như triển vọng của quá trình này trong tương
lai của PV Drilling ở chương 3 luận văn này.
31
CHƢƠNG 2: HOẠT ĐỘNG TRIỂN KHAI HỢP TÁC QUỐC TẾ TRONG LĨNH
VỰC DẦU KHÍ CỦA PV DRILLING
2.1. Đối với lĩnh vực khoan thăm dò
2.1.1. Chính sách ƣu đãi của nhà nƣớc trong việc hợp tác quốc tế cho việc
khoan thăm dò dầu khí tại vùng biển Việt Nam
Hiện nay nhà nước đang có nhiều chính sách ưu đãi trong việc hợp tác quốc tế
cho việc khoan thăm dò của PV Drilling. Chẳng hạn một số chính sách tiêu biểu giúp
tăng lợi thế cạnh tranh cho Việt Nam như cấp quota nhập khẩu miễn thuế, ưu tiên nhập
cảnh cho các chuyên gia có hợp đồng lao động với PV Drilling, ưu tiên làm thủ tục tại
bộ phận biên phòng cho các thủ tục xuất nhập cảnh lên giàn, ưu tiên miễn thuế cho các
giàn khoan nước ngoài mà PV Drilling thuê lại nhập vào Việt Nam…
Riêng về hỗ trợ cho việc hợp tác quốc tế, PV Drilling được hỗ trợ rất nhiều khi
mở các liên doanh giữa PV Drilling với các đối tác lớn trên thế giới như Baker
Hughes, Viettubes, EXPRO… Những đối tác này khi liên kết với PV Drilling sẽ được
hỗ trợ rất nhiều trong việc đầu tư vào Việt Nam thông qua liên doanh với PV Drilling,
ví dụ như Baker Hughes sẽ được ưu tiên cho công việc cung cấp ống khoan cho các
hoạt động khai thác về sau khi mà mỏ thăm dò chuyển sang khai thác, cho dù nhà thầu
khoan có thay đổi không còn là PV Drilling vận hành giàn khoan khai thác.
Nghị định số 121/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 7 năm 2007 và Nghị định số
17/2009/NĐ-CP ngày 16 tháng 02 năm 2009 của Chính Phủ Việt Nam đã nhấn mạnh
nhiều điểm ưu đãi cho các doanh nghiệp dầu khí Việt Nam khi hợp tác đầu tư ra nước
ngoài, trong đó, PV Drilling đã tận dụng để tiến hành đóng mới lần lượt ba giàn khoan
Jack-up gồm PVD 1, PVD 2, PVD 3 và một giàn khoan đất liền PVD 11. Chính việc
ưu đãi này đã giúp PV Drilling tạo được nền tảng vững mạnh cho công cuộc chiếm
lĩnh thị trường khoan tại Việt Nam. Ngay khi ba giàn khoan Jack-up được hoàn thành,
hàng loạt các JOC tại Việt Nam đã ký hợp đồng cho các hoạt động thăm dò tại vùng
32
biển ngoài khơi Vũng Tàu, tiêu biểu là hàng loạt hợp đồng dài hạn với Vietsopetro,
Cửu Long JOC, Biển Đông JOC…
Luật Dầu Khí Việt Nam được Quốc Hội Việt Nam thông qua vào ngày 6 tháng
7 năm 1993 có một số điều khoản thuận lợi cho các hoạt động của PV Drilling như ở
điều 28, khoản 5 có đoạn ghi “Được miễn thuế nhập khẩu các thiết bị, vật tư cần thiết
cho hoạt động dầu khí và miễn thuế tái xuất khi các thiết bị nhập khẩu không được lắp
đặt cố định hoặc vật tư không sử dụng hết theo quy định của pháp luật Việt Nam.” –
cho thấy với chính sách ưu đãi này, khi PV Drilling trở thành nhà thầu khoan số một
tại Việt Nam, PV Drilling sẽ dễ dàng miễn được khoản thuế rất lớn cho các hoạt động
xuất nhập khẩu vật tư tạo tài sản cố định của mình.
Điều 17 và 18 của Luật Dầu Khí này cũng tạo nhiều thuận lợi cho các hoạt động
của PV Drilling khi quy định thời hạn thăm dò từ 5 - 7 năm và thời hạn khai thác từ 25
- 30 năm. Nó cho phép PV Drilling kiếm được nhiều hợp đồng khoan khi mà thời hạn
thăm dò chỉ khoảng 5 năm, nó bắt buộc các nhà thầu mỏ thay đổi nhà thầu khoan để ký
kết hợp đồng mới, hoặc gia hạn hợp đồng cũ, lúc đó PV Drilling sẽ có nhiều cơ hội
cạnh tranh do giá thuê rẻ, kỹ thuật hiện đại cùng với đội ngũ nhân công bản địa hóa
hơn 80%. Trên thực tế, đa số những hợp đồng khoan PV Drilling có được do cạnh
tranh thành công với các nhà thầu khoan thế giới. Vì một quy tắc mà chúng ta đều biết
“ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn.” Không một nhà thầu mỏ nào lựa
chọn một nhà thầu khoan quốc tế khi mà PV Drilling, nhà thầu khoan Việt Nam đáp
ứng đủ mọi yêu cầu được đưa ra.
Do dầu khí là một trong những tài nguyên thiên nhiên quý và là nhiên liệu quan
trọng chủ yếu để sản xuất ra các sản phẩm của ngành hóa dầu như dung môi, phân bón
hóa học, nhựa, thuốc trừ sâu, nhựa đường... nên nó đem lại hiệu quả kinh tế cao cho
nước sở hữu nguồn tài nguyên này. Dầu khí còn là nguồn tài nguyên không tái tạo
được nên việc khai thác phải thật sự hợp lý để không bị cạn kiệt. Vì vậy, việc tìm kiếm
thăm dò và khai thác dầu khí rất được chính phủ nước có nguồn tài nguyên dầu khí rất
quan tâm và quản lý chặt chẽ. Khi một nhà thầu khoan muốn tiến hành tìm kiếm thăm
33
dò khai thác dầu khí hoặc cung cấp giàn khoan trong một vùng biển đặc quyền kinh tế
của nước nào thì phải tiến hành đàm phán để liên doanh liên kết với công ty dầu khí
của quốc gia đó.
Điều này thể hiện ở luật và quy định của các nước ví dụ như mục 6.1 Luật PDA
ở Malaysia: "Các tổ chức, cá nhân nào được tiến hành tìm kiếm thăm dò và khai thác
dầu khí ở lãnh thổ Malaysia ngoại trừ PETRONAS, trừ trường hợp khác được Thủ tướng cho phép"20. Điều 3.5, điều 10 Luật Dầu khí Việt Nam có quy định: " Chính phủ
Việt Nam cho phép tổ chức, cá nhân tiến hành các hoạt động nghiên cứu khoa học, tìm
kiếm thăm dò và khai thác khoáng sản, tài nguyên thiên nhiên khác ngoài dầu khí
trong diện tích hợp đồng dầu khí (là văn bản ký kết giữa Tổng công ty dầu khí Việt
Nam với tổ chức, cá nhân để tiến hành hoạt động dầu khí) theo quy định của pháp luật
Việt Nam. Các hoạt động này không được gây cản trở và làm thiệt hại cho các hoạt động dầu khí" 21
Khi tiến hành liên doanh hoặc liên kết, các nhà thầu khoan sẽ phải tuân thủ chặt
chẽ các quy định của pháp luật; đảm bảo các yêu cầu nghiêm ngặt về môi trường, an
toàn lao động.
Ngoài ra, Thủ tướng Chính Phủ cũng có chỉ đạo Tập đoàn Dầu khí Việt Nam
cần phải ưu tiên các công ty trong ngành cho các dịch vụ đi kèm để tập trung phát triển
và phân ngành cho các Tổng Công ty, Công ty thành viên, và PV Drilling luôn được
nhắc đến cho các dịch vụ khoan hiện nay. Với năm 2010, việc PV Drilling có đến ba
giàn khoan Jack-up hiện đại 100% sở hữu của người Việt, đã tạo cơ sở cho PV Drilling
tự tin tham gia các hoạt động đấu thầu khoan cho các khu vực mỏ mới tại khu vực
ngoài khơi Cà Mau, ngoài khơi Hải Phòng.
2.1.2. Hợp tác với Vietsovpetro
20 Malaysia Chapter- Oil & Gas Regulation 2014, tr.6 21 Luật Dầu khí số 19/2000/QH10 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dầu khí số 10/2008/QH12 năm 2008
2.1.2.1 Giới thiệu sơ lƣợc Vietsovpetro
34
Vietsovpetro là Liên doanh đầu tiên của Việt Nam với nước ngoài trong lĩnh
vực dầu khí, và là một biểu tượng của tình Hữu nghị Việt Nam – Liên Bang Nga.
Liên doanh dầu khí Vietsopetro được thành lập trên cơ sở các Hiệp định Việt –
Xô về hợp tác thăm dò, khai thác dầu khí trên thềm lục địa Việt Nam ký ngày
03/07/1980 và Hiệp định Liên Chính phủ Việt Nam – Liên Xô ký ngày 19/06/1981 về
việc thành lập Liên doanh dầu khí Việt –Xô.
2.1.2.2 Hợp tác khoan thăm dò giữa PV Drilling và Vietsovpetro
Vietsovpetro đã có một quá trình hợp tác lâu dài từ khi PV Drilling mới thành
lập cho đến khi PV Drilling trở thành một trong những nhà thầu khoan lớn nhất tại
Việt Nam hiện nay.
Khi giàn PVD 3 được đóng thành công năm 2009, PV Drilling đã nhanh chóng
ký kết được một hợp đồng khoan thăm dò trong vòng 5 năm tính từ năm 2010. Điều
này cho phép PV Drilling đặt một viên gạch to lớn tiếp thêm cho mối quan hệ rất tốt
của hai bên. Trước đó, PV Drilling đã phụ trách chính cho các hoạt động phụ trợ khoan
cho Vietsopetro ở mỏ Đại Hùng và mỏ Bạch Hổ, như cung ứng nhân lực, cung cấp
thiết bị khoan, cần khoan, mũi khoan (drill bit), các dịch vụ quản lý an toàn trên giàn
khoan… Năm 2001, ông Trần Văn Hoạt, cựu Chánh kỹ sư và Giàn trưởng giàn khoan
Jack-up Cửu Long Xí nghiệp Liên doanh dầu khí Vietsopetro sang PV Drilling làm
Phó Tổng Giám Đốc đã góp phần nâng cao mối quan hệ đối tác làm ăn lâu dài giữa hai
bên PV Drilling và Vietsopetro, mặc dù lúc bấy giờ PV Drilling mới được thành lập và
còn non yếu.
Đến giai đoạn năm 2006-2010, PV Drilling đã là đối tác lớn nhất với
Vietsopetro khi có 3 công ty con của PV Drilling chuyên cung cấp dịch vụ thường
xuyên cho Liên doanh này, trong đó liên doanh PV Drilling – Baker Hughes chiếm
phần lớn nhất với hơn 51% doanh thu của PV Drilling với Vietsopetro. Còn lại là PVD
– PTI chiếm được hơn 29% và PVD Logging là 20%. Cán cân thương mại giữa PV
35
Drilling – Vietsopetro cũng tăng dần theo các năm khi hai bên cung cấp các dịch vụ cho nhau, với tổng khối lượng thương mại đạt hơn 100 triệu USD đến năm 201022.
Hoạt động khoan thăm dò cho Vietsopetro luôn được các cấp lãnh đạo của PV
Drilling quan tâm và theo dõi sát sao. Với chiến dịch khoan tại mỏ Thỏ Trắng, một
trong những mỏ có trữ lượng rất lớn tại vùng biển Vũng Tàu, PV Drilling đã tăng
cường nhiều chuyên gia giàu kinh nghiệm từ các giàn PVD 1, PVD 2 sang để tiếp ứng
cho các sự cố khi khoan tại khu vực này, đảm bảo LTI luôn đạt chuẩn và đáp ứng đầy
đủ các yêu cầu của Vietsopetro. Tại khu vực mỏ Bạch Hổ, lô 09/01, trong giai đoạn
2009-2010, PV Drilling đã khoan thành công hơn 10 giếng thăm dò, đáp ứng hơn
120% kế hoạch đặt ra. Với việc trung tâm ứng cứu sự cố tràn dầu NASOS của PV
Drilling được phát triển và trở thành thế mạnh mũi nhọn của PV Drilling từ năm 2010,
hứa hẹn sẽ giúp PV Drilling ổn định hơn trong các kế hoạch khoan với Vietsopetro,
một đơn vị liên doanh có gắn kết mạnh mẽ nhất với PV Drilling.
2.1.2.3 Hợp tác trong đào tạo giữa PV Drilling và Vietsovpetro
Trong năm 2010, PVD Training đã phối hợp thành công với các chuyên gia
Vietsopetro để khánh thành hệ thống huấn luyện BOSIET (Basic Offshore Safety
Induction and Emergency Training) đạt tiêu chuẩn quốc tế, một trong những bài huấn
luyện bắt buộc cho mọi kỹ sư, công nhân muốn làm việc trên giàn. Đây là một bước
phát triển mạnh mẽ cho PV Drilling, vì tại Việt Nam thời điểm đó, chỉ có Vietsopetro
là có hệ thống huấn luyện BOSIET cho các kỹ sư công nhân của họ. Mọi nhân lực của
PV Drilling đều phải sang Vietsopetro hoặc phải sang các quốc gia lân cận để học lấy
chứng chỉ này. Với việc thành công trong việc khánh thành hệ thống này, PV Drilling
đã tiết kiệm được hơn 10 triệu USD mỗi năm cho việc đào tạo, vì chứng chỉ BOSIET
chỉ có giới hạn 2 năm, và học phí cho chứng chỉ này rất đắt đỏ, theo báo giá của Trung
tâm ERGT Australia – trung tâm uy tín hàng đầu thế giới về huấn luyện kỹ sư khoan,
22 Báo cáo thương mại của Ban Phát triển thương mại gửi Tổng Giám Đốc PV Drilling ngày 07 tháng 05 năm 2011 – trang 04
giá cho một khóa BOSIET trong thời điểm 2001-2010 dao động từ 3.000 USD –
36
5.000USD/ người. Một con số khá lớn với quy mô và doanh thu của PV Drilling lúc bấy giờ23.
Tóm lại, mối quan hệ đối tác chiến lược giữa PV Drilling – Vietsopetro là một
mối quan hệ tương hỗ, gắn kết bền vững, PV Drilling cần những khách hàng giàu tiềm
năng về cả chính trị lẫn kinh tế như Vietsopetro. Bên cạnh đó, Vietsopetro cũng cần
một đối tác uy tín đầy tin cậy như PV Drilling cho các hoạt động thăm dò, khai thác
của mình.
2.1.3. Hợp tác với JVPC
2.1.3.1 Sơ nét về Japan Vietnam Petroletion Company (JVPC)
Đối tác chiến lược thứ hai của PV Drilling là JVPC – công ty liên doanh giữa
Tổng Công ty Thăm Dò và Khai Thác Dầu Khí Việt Nam (PVEP) với tập đoàn dầu khí
đa quốc gia Nhật Bản JX Nippon Oil and Gas Exploration. JVPC thành lập năm 1989,
được phân khai thác lô 15-2 tại mỏ Rạng Đông, và tới năm 1998 đã khai thác được
những dòng dầu thô đầu tiên.
2.1.3.2 Hợp tác trong các hoạt động khoan thăm dò giữa PV Drilling và
JVPC
JVPC là đối tác lớn thứ nhì đối với PV Drilling hiện nay. Với một nền công
nghệ hiện đại từ Nhật Bản, cũng như các phương pháp quản lý cao cấp mà JVPC đã
giúp cho PV Drilling ngày càng trở nên chuyên nghiệp và hoàn thiện khi hợp tác làm
ăn và có sự trao đổi các mức độ quản lý doanh nghiệp. Tại mỏ Rạng Đông, JVPC đã
có hợp tác với PVEP để thăm dò và khai thác từ năm 1989, mà trong đó PTSC
Offshore – tiền thân của PV Drilling là một trong những nhân tố quan trọng cho các
công tác khoan thăm dò. Từ năm 2003, JVPC chính thức thuê các giàn khoan của PV
Drilling bao gồm NAGA 3, Topaz, Maearsk Driller để phục vụ cho công tác khoan
23 Báo cáo hiệu quả của PVD Training gửi Ban Tổng Giám Đốc PV Drilling ngày 9 tháng 8 năm 2012 – trang 10
thăm dò mỏ mới của mình.
37
Vào tháng 01/2008, sau khi giàn PVD 1 được hoàn thành và hoạt động ổn định,
PV Drilling đã cung cấp cho JVPC thuê giàn khoan này để phục vụ công tác khoan
thăm dò tại khu vực mỏ Phương Đông, lô PDX-09, sau 8 tháng vất vả thăm dò, khoan
hơn 5 giếng thăm dò, đến ngày 2/8/2008, dòng dầu thô đầu tiên đã được tìm thấy, đánh
dấu một thành công vượt bậc cho công tác điều hành khoan của PV Drilling, khi chỉ
cần 5 giếng khoan đã tìm thấy dầu. Tuy sau đó giàn PVD 1 chưa được nâng cấp kỹ
thuật khoan khai thác nên JVPC đã thuê nhà thầu khoan ExxonMobile nước ngoài để
phục vụ công tác khoan khai thác, nhưng PV Drilling đã tạo được tiếng vang và tiếp
tục khẳng định năng lực của mình.
Trong giai đoạn 2009 – 2010, sau khi giàn PVD 2 chính thức được hạ thủy và đi
vào hoạt động, JVPC đã thuê giàn khoan này để thăm dò các lô mới thuộc mỏ Rạng
Đông. Trong hai năm khoan thăm dò tại mỏ Rạng Đông, PV Drilling đã vận hành giàn
PVD 2 khoan hơn 20 giếng khoan, trong đó có 3 giếng có dầu. Cũng trong năm 2010,
PV Drilling đã ký một hợp đồng ghi nhớ cho việc khoan khai thác tại đây cho JVPC
vào năm 2012. Sau khi giàn PVD 2 hoàn thành nghĩa vụ khoan thăm dò cho PVEP
POC trong năm 2011.
Những hợp đồng khoan thăm dò liên tiếp của JVPC với PV Drilling cho thấy sự
tin tưởng và quan trọng của PV Drilling đối với công ty liên doanh này. Trong tương
lại, khi giàn PVD 1 được nâng cấp kỹ thuật khoan khai thác, trong khi các giàn PVD 2,
PVD 3 đều đã có kỹ thuật khoan khai thác, hướng hẹn nhiều hợp đồng khoan thăm dò
hơn nữa giữa PV Drilling và JVPC.
2.1.2.3 Hợp tác đào tạo và cung cấp các dịch vụ hỗ trợ thăm dò
PV Drilling sau khi thành lập PVD Training đã không ngừng mở rộng hợp tác
với các đối tác lớn, mà về các đối tác nước ngoài, JVPC là một trong những đối tác
chiến lược, giúp đưa vị thế của PVD Training tiến xa hơn. Nhật Bản là một quốc gia
hàng đầu về kỹ thuật, đặc biệt là về kỹ thuật đóng giàn và vận hành giàn khoan. Do đó,
với sự hỗ trợ của chính phủ Nhật Bản và JX Nippon Oil and Gas Exploration – một
38
công ty dầu khí quốc gia Nhật Bản chuyên điều hành các liên doanh tại các quốc gia
đang phát triển như Việt Nam, Venezuela…PVD Training đã triền khai các lớp đào tạo
về Well Control, Safety Management có chứng chỉ cấp quốc tế, được các nước tiên
tiến như Hoa Kỳ, Anh Quốc chấp nhận. Ngoài ra, hệ thống mô phỏng Tháp Khoan
(Derrick) được nhập khẩu trực tiếp từ Nhật Bản sang cũng giúp PVD Training nâng
cấp các khóa đào tạo khác lên cấp độ quốc tế vì đạt các chứng nhận ISO và chứng
nhận từ IADC cho công tác an toàn khoan.
Hàng năm, các chuyên gia Nhật Bản đều có các buổi tham luận với các kỹ sư
chính, Ban Lãnh Đạo của PV Drilling để nâng cao trình độ nghiệp vụ cho công tác vận
hành giàn khoan. Ngoài ra JVPC còn có bộ phận tư vấn riêng cho PV Drilling về các
lĩnh vực vận hành giàn khoan chuyên nghiệp. Với sự hỗ trợ này, PV Drilling luôn
được cập nhật các kỹ thuật, các kinh nghiệm mới nhất từ các chuyên gia Nhật Bản
đang làm việc trên khắp thế giới.
Về các dịch vụ hỗ trợ thăm dò, dịch vụ được PV Drilling chú trọng nhất cho các
hoạt động khoan thăm dò cho JVPC chính là cung cấp các ống khoan thế hệ mới, đáp
ứng cho những nhu cầu khoan xiên (một kỹ thuật khoan giúp cho từ một giếng chính
khoan được nhiều giếng nhỏ xung quanh). Với việc PV Drilling cuối năm 2008 đã tiến
hành thành lập liên doanh PVD Tubulars với Marubeni-Itochu Tubulars Asia Pte Ltd,
một công ty Nhật Bản chuyên về lĩnh vực cung cấp ống khoan, cần khoan., JVPC đã
hoàn toàn tin tưởng giao cho PV Drilling 12 hợp đồng về cung cấp ống khoan cho 12
giàn khoan mà JVPC đang thuê, trong đó có hai giàn của PV Drilling cho thuê là PVD
1 và giàn MODEC. Sau này, đến năm 2012, PVD Tubulars đã hoàn thành việc sát
nhập PVD Tubulars vào PV Drilling, trở thành Vietubes – một trong những công ty
con của PV Drilling, đã giúp cho PV Drilling hoàn toàn làm chủ được các dịch vụ
cung cấp ống khoan và cần khoan tiên tiến hiện đại nhất trên thế giới.
2.1.4. Hợp tác với các nhà thầu khoan của Hoa Kỳ
39
PV Drilling những năm đầu thành lập, giai đoạn 2001 – 2007 là một nhà thầu
khoan nhưng lại không sở hữu giàn khoan nào. Do đó, để đáp ứng các nhu cầu khoan
tại Việt Nam bấy giờ đang phát triển mạnh, PV Drilling đã tiến hành thuê lại các giàn
khoan của các nhà thầu khoan lớn của Hoa Kỳ. Những giàn khoan lúc bấy giờ phải kể
đến là Topaz Driller của nhà thầu khoan Vantage Drilling Company của Hoa Kỳ,
Maersk Convincer của nhà thầu khoan Maersk Corporation, cũng là một hãng tàu Hoa
Kỳ nổi tiếng, rồi giàn Ocean Patriot của Diamond Offshore, nhà thầu khoan khổng lồ
của Hoa Kỳ với hơn 45 giàn khoan các loại, gấp 9 lần PV Drilling hiện nay.
Việc thuê giàn khoan rồi cho thuê lại là một hoạt động bình thường của ngành
khoan dầu khí thế giới, với đặc điểm nhiều thị trường khoan, nhiều kiểu địa chất khác
nhau mà sẽ cần từng loại giàn khoan khác nhau, nhưng trên thế giới này không một
nhà thầu khoan nào đủ mạnh để có thể có mặt đủ khắp thế giới và có thể cung cấp đủ
mọi loại giàn khoan. Do đó, chẳng hạn tại Việt Nam, thị trường khoan Việt Nam dưới
sự giám sát của chính quyền đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho PV Drilling phát triển
tiềm năng tối đa để sau khi tới hạn của WTO, Việt Nam phải mở cửa 100% ngành
khoan này thì PV Drilling đủ sức cạnh tranh với nhà thầu khoan thế giới, nên các nhà
thầu khoan nước ngoài sẽ rất hạn chế tại thị trường này. Ngoài ra đặc điểm địa chất tại
vùng biển Việt Nam cần nhiều loại giàn Jack-up, mà không phải nhà thầu khoan nào
cũng có giàn này, nên việc PV Drilling thuê lại các giàn khoan của nhà thầu Hoa Kỳ và
cho các JOC thuê lại là việc cần thiết để các nhà thầu khoan Hoa Kỳ tiếp cận sâu hơn
thị trường khoan Việt Nam và tạo tiền đề sau này có nhiều cơ hội hợp tác hơn. PV
Drilling cũng từ đó mà học hỏi thêm nhiều kinh nghiệm cho việc thuê lại này, và cũng
tạo tiền đề cho các bước phát triển mạnh mẽ về sau, khi mà kế hoạch cho đến năm
2020, PV Drilling sẽ có được 10 giàn khoan Jack-up và 2 giàn khoan nước sâu, đáp
ứng đủ cho hơn 60% thị trường khoan trong nước.
Năm 2004, PV Drilling chính thức thuê giàn Topaz Driller của Vantage Drilling
cho chiến dịch khoan tại mỏ Đông Đô và Diamond của Lam Sơn JOC. Đây là giàn
khoan đầu tiên của PV Drilling cung cấp ra thị trường khoan Việt Nam sau 3 năm
40
thành lập. Lúc bấy giờ, PV Drilling chỉ là một nhà thầu khoan non trẻ, chưa có giàn sở
hữu và chưa có nhiều nhân lực chuyên nghiệp, còn Vantage Drilling đã là một nhà
thầu khoan khổng lồ với hơn 30 giàn khoan các loại, sở hữu hàng chục ngàn kỹ sư
công nhân lành nghề. Nhưng với sự nỗ lực không ngừng của đội ngũ cán bộ kỹ sư, PV
Drilling đã thuyết phục và đàm phán thành công hợp đồng khoan với Lam Sơn JOC và
đáp ứng đầy đủ các yêu cầu gắt gao của Vantage Drilling. Sau hợp đồng này, PVD đã
thu về khoảng lợi nhuận khổng lồ vào thời điểm đó, hơn 10 triệu USD.
Hợp đồng thứ hai của PV Drilling cũng vào năm 2004, khi giàn Maersk
Convincer được đưa về Việt Nam nhằm phục vụ cho chiến dịch khoan thăm dò của
Hoàng Long JOC. Một hợp đồng khá thành công, tuy chiến dịch này không phát hiện
ra dầu hay khí, nhưng nó cũng góp phần đưa PV Drilling lên vị thế “nhà thầu khoan
non trẻ đầy tiềm năng” khi vận hành hoàn hảo giàn khoan này, đưa về khoảng lợi
nhuận hơn 05 triệu USD.
Những năm sau đó, từ năm 2005 đến năm 2007, PV Drilling liên tục thuê lại 3
đến 4 giàn khoan từ Hoa Kỳ mỗi năm để cung cấp dịch vụ khoan này, đồng thời tạo
nền tảng tài chính để đến năm 2007, giàn PVD 1 chính thức được triển khai thành
công, đội ngũ kỹ sư và cán bộ công nhân viên của PV Drilling bấy giờ hoàn toàn đủ
sức vận hành giàn khoan này.
2.1.5. Hợp tác với các nhà thầu khoan của khối ASEAN
Trong khối ASEAN, UMW Standard và ENSCO là hai đối tác được PV
Drilling tin cậy nhất, chỉ trong giai đoạn từ năm 2005 – 2007, PV Drilling đã lần lượt
đưa giàn NAGA 1, NAGA 2 của UMW Standard và ENSCO 107, ENSCO 109,
ENSCO 104 của ENSCO vào Việt Nam hoạt động. Các giàn khoan này được PV
Drilling cho các JOC lớn nhất của Việt Nam thuê như PVEP JOC, Hoàng Long JOC,
Hoàn Vũ JOC, Cửu Long JOC, Thăng Long JOC…
41
2.2. Đối với lĩnh vực khoan khai thác
2.2.1 Hợp tác lâu dài với Biển Đông POC
2.2.1.1 Sơ nét về Biển Đông POC
Biển Đông POC được thành lập vào ngày 26/2/2009 để thay mặt PVN nhận bàn
giao các hoạt động dầu khí từ BP và ConocoPhillips. Hiện nay, Biển Đông POC đã
triển khai dự án Biển Đông 01 tại khu vực Hải Thạch – Mộc Tinh.
2.2.1.2. Hợp tác khoan khai thác nguồn khí đốt trữ lƣợng cao với Biển
Đông POC
Năm 2010, PV Drilling và Biển Đông POC đã ký kết một hợp đồng khoan khai
thác kéo dài trong 06 năm khi giàn khoan hiện đại nhất của Việt Nam từ trước đến nay
được hoàn thành, PV Drilling 5 (gọi tắt là PVD 5). Giàn khoan PVD 5 này là giàn
khoan TAD (Tender Assist Drilling) tiếp trợ nửa nổi nửa chìm có khả năng khoan ở
những khu vực nước sâu tại biển Đông, chính vì khả năng này, Biển Đông JOC đã
được nhà nước giao cho quản lý các khu vực mỏ cận thềm lục địa, Hải Thạch và Mộc
Tinh là hai khu vực có độ sâu lớn nhất trong các khu vực mỏ khai thác. Đây là hai mỏ
khí có áp suất và nhiệt độ cao, được đánh giá là rất khó cho công tác khoan. Ngoài ra,
do thời tiết ngoài khu vực này khắc nghiệt hơn các khu vực hiện tại đang khai thác
khác ở vùng biển Vũng Tàu.
Sau 3 năm khai thác, tới tháng 9/2013, dòng khí đầu tiên đã xuất hiện. Và đến
nay, sản lượng đã vượt hơn 90% so với kế hoạch ban đầu đặt ra. Không dừng lại ở đó,
ngoài khí đốt thông thường, khí ở các khu vực này còn có thành phần condensate, đây
là thành phần có giá trị kinh tế rất cao. Thành phần của condensate chủ yếu là
hydrocarbon mạch thẳng, bao gồm pentane và các hydrocarbon nặng hơn (C5+).
Condensate có điểm sôi nằm trong dải điểm sôi của xăng. Tỷ trọng của condensate vào
42
khoảng 80 API. Condensate chủ yếu được sử dụng để sản xuất xăng, dung môi công nghiệp và làm nguyên liệu cho tổ hợp hóa dầu.24
Cho đến năm 2013, có thể khẳng định rằng, Dự án Biển Đông 1 đã hoàn thành
gần 100% công việc theo kế hoạch. Theo kế hoạch, đến năm 2014, dòng khí từ hai
ngôi sao dưới đáy biển là Hải Thạch - Mộc Tinh sẽ được đưa vào bờ để cung cấp cho
các nhà máy điện khu vực miền Đông Nam Bộ.
2.2.2 Hợp tác với các đối tác từ Anh Quốc và Hoa Kỳ
2.2.2.1 Anh Quốc
Tại Việt Nam hiện nay, có ba công ty dầu khí của Liên Hiệp Anh đang là những
đối tác lớn nhất cho các hoạt động khai thác dầu khí, bao gồm BP (hiện đang bị cấm
vận bởi chính phủ Mỹ sau sự cố giàn khoan Deepwater Horizon năm 2010), Premier
Oil và Royal Dutch Shell.
+ Hợp tác với BP
BP là một trong những công ty dầu khí đầu tiên có mặt tại Việt Nam vào thập
niên 90 của thế kỷ trước. BP vào Việt Nam với sự đầu tư vào hai dòng kinh doanh
chính trong ngành công nghiệp dầu khí: upstream - thăm dò, khai thác; và downstream
- sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
BP Corporation (viết tắt tiếng Anh: của Bristish Petroleum) là một công ty dầu
khí đóng trụ sở tại Luân Đôn, Anh quốc. Đây là một công ty năng lượng toàn cầu, là
công ty năng lượng lớn thứ 3 thế giới, là công ty lớn thứ 4 thế giới. Là một công ty dầu
khí đa quốc gia, BP là công ty lớn nhất Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Trụ
sở chính công ty đóng tại St James's, City of Westminster, London. Chi nhánh BP
America's đóng trụ sở ở One Westlake Park tại Houston Energy Corridor, Texas.. Hiện
24 Báo cáo của Biển Đông JOC gửi Tập Đoàn Dầu Khí Việt Nam tháng 8 năm 2013, trang 7.
nay công ty này đang được niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán Luân Đôn, là một
43
bộ phận của FTSE 100 Index. Năm 2009, công ty có doanh thu 246,1 tỷ USD, lợi nhuận ròng đạt 16,58 tỷ USD và sử dụng 80.300 nhân công trên toàn thế giới.25
Trong giai đoạn 2005-2010, PV Drilling là nhà thầu phụ chủ yếu của BP cho
các dịch vụ bơm trám vỉa và chống sự cố tràn dầu, doanh thu của PV Drilling từ các
dịch vụ này luôn đạt trên 15 triệu USD mỗi năm. Tuy nhiên, BP hiện nay đang bị cấm
vận cho những sự cố giàn khoan ngoài khơi Mexico năm 2010. Do vậy tại Việt Nam,
từ năm 2010, PV Drilling đã không còn hợp tác nhiều với BP như trước, chủ yếu là các
hoạt động hỗ trợ kho vận và cung cấp vật tư dầu khí nhỏ lẻ.
+ Hợp tác với Premier Oil
Premier Oil bắt đầu để ý đến thị trường Việt Nam từ năm 2006, tuy nhiên đến
năm 2008 công ty này mới chính thức được thành lập công ty con tại Việt Nam, nhận
phụ trách cung cấp các dịch vụ tư vấn hỗ trợ cho công tác khai thác của PVEP và các
JOC, POC khác.
PV Drilling trong giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2010 chỉ có hai lần thuê giàn
khoan của công ty Vantage Drilling tại UAE thông qua sự tư vấn và trung gian của
Premier Oil. Ngoài ra, Premier Oil còn hợp tác khai thác chia sản phẩm với Thăng
Long JOC tại khu vực mỏ Rồng. Tuy nhiên đến nay vẫn chưa có nhiều sản phẩm.
Tuy nhiên theo đánh giá, Premier Oil đang có nhiều tiềm năng phát triên khi mà
BP đang bị cấm vận của chính phủ Mỹ và có những hoạt động hạn chế tại Việt Nam,
trong khi Shell vẫn đang loay hoay trong các mảng kinh doanh dầu nhờn của mình.
+ Hợp tác với Royal Dutch Shell
Royal Dutch Shell,. thường được biết đến là Shell, là một công ty dầu khí đa
25 Website BP Corporation, http://www.bp.com/en/global/corporate/about-bp.html, truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2014
quốc gia liên kết giữa Hà Lan và Anh. Đây là tập đoàn năng lượng tư nhân lớn thứ hai
44
trên thế giới. Trụ sở của công ty đặt tại The Hague, Hà Lan và trụ sở đăng kí đặt
tại London.
Shell hiện nay không có nhiều hoạt động dầu khí mà chuyển sang đầu tư mạnh
vào mảng kinh doanh dầu nhờn. Shell chỉ phối hợp chủ yếu với Nhà máy lọc dầu Dung
Quất cho các chế phẩm khác xăng. PV Drilling hiện nay chỉ còn cung cấp dịch vụ sửa
chữa các thiết bị vận hành lọc dầu của Shell tại Vũng Tàu.
2.2.2.2 Hoa Kỳ
Nhà thầu khoan Transocean là một công ty Thụy Sĩ, được thành lập vào những
năm 1920, chuyên cung cấp các dịch vụ khoan và các giải pháp công nghệ về khoan
dầu khí. Năm 1954, Transocean đã sở hữu giàn khoan biển tự nâng đầu tiên. Đến nay
Transocean đã hoạt động được trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ giàn khoan biển hơn 50
năm. Với tầm nhìn và sứ mạng: đem đến cho khách hàng dịch vụ khoan tốt nhất, tin
tưởng nhất với sự kỷ luật và an toàn tuyệt đối, Transocean đã từng bước xây dựng hình ảnh là nhà thầu khoan nổi tiếng thế giới 26. Tổng tài sản tính đến năm 2013 của
Transocean là 32.546 triệu USD, doanh thu hoạt động năm 2013 đạt 9.484 triệu USD.
Transocean sở hữu 98 giàn khoan trong đó có 65 giàn đang trong chiến dịch khoan
(chiếm tỷ trọng 66,3% số lượng giàn khoan tại khu vực Châu Á Thái Bình Dương), 13
giàn đang đóng mới (chiếm tỷ trọng 13,2% số lượng giàn đang đóng mới trên toàn thế
giới). Về chủng loại, Transocean tập trung vào mảng cung cấp giàn khoan sâu và cực
sâu, cụ thể là Transocean có 49 giàn khoan nửa nổi nửa chìm (chiếm tỷ trọng 50% số
lượng giàn khoan trên toàn thế giới), 31 tàu khoan (chiếm tỷ trọng 31,63% số lượng
tàu khoan trên toàn thế giới).
Trong tương lai, Transocean sẽ phát triển và củng cố vị trí của mình ở thị
trường khoan nước sâu và nơi có thời tiết khắc nghiệt. Các khách hàng của Transocean
là Chervon Cooperation, BP America Production Co. Petrobras. Tính đến hết năm
26Transocean, Overview of Transocean, http://www.deepwater.com/, truy cập ngày 13 tháng 04 năm 2014
2013, Transcoean có 18,400 nhân viên, đội ngũ nhân lực của Transocean được tuyển
45
chọn và đào tạo để có trình độ tay nghề và chuyên môn cao, có thể vận hành được các thiết bị kỹ thuật hiện đại27
Như vậy, so với PV Drilling, Transocean là đối thủ có vị trí cao hơn, thể hiện ở
chỗ: Transocean đã hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ giàn khoan biển khá
lâu, do vậy có nhiều kinh nghiệm hơn PV Drilling. Tổng nguồn vốn của Transoean cao
hơn rất nhiều, gấp 31 lần so với PV Drilling, số lượng giàn khoan cũng nhiều gấp gần
20 lần, số lượng nhân sự làm việc cho Transocean cũng nhiều hơn gấp 10 lần. Qua đó,
ta có thể thấy Transocean có nguồn lực tài chính, con người rất dồi dào và với kinh
nghiệm lâu năm, Transocean sẽ có đủ khả năng để cạnh tranh và giành thị phần cao ở
thị trường Châu Á Thái Bình Dương.
Nhà thầu khoan Seadrill là một công ty của Na Uy, được thành lập vào những
năm 1970, là nhà thầu khoan chuyên về lĩnh vực khoan nước sâu. Năm 1972, Seadrill
sở hữu giàn khoan biển nửa nổi nửa chìm đầu tiên West Venture I. Đến nay, tuy có bề
dày kinh nghiệm không bằng Transocean nhưng Seadrill cũng đã hoạt động được trong
lĩnh vực cung cấp dịch vụ giàn khoan biển nước sâu hơn 40 năm. Với tầm nhìn và sứ
mạng: đem đến cho khách hàng dịch vụ cung cấp giàn khoan biển an toàn nhất và hiệu
quả kinh tế cao nhất. Giá trị cốt lõi của Seadrill là ý thức về an toàn, sự trung thành và
chuyên nghiệp, Seadrill đã từng bước xây dựng cho mình là nhà thầu nổi tiếng trong
lĩnh vực khoan nước sâu. Tổng tài sản của Seadrill tính đến hết năm 2013 là 20,632
triệu USD, tổng doanh thu năm 2013 là 5,478 triệu USD. Công ty hiện có 69 giàn
khoan biển đang hoạt động ở vùng biển sâu và vùng biển có khí hậu khắc nghiệt ở 15
quốc gia. Nhân lực của Seadrill tính đến hết năm 2013 là 7,900 người. Hầu hết nhân lực của Seadrill đều có trình độ chuyên môn và tay nghề cao 28.
Như vậy, Seadrill ngay từ đầu khi mới thành lập đã có tập trung vào mảng
khoan nước sâu, do đó so với PV Drilling, kinh nghiệm khoan nước sâu của Seadrill
hơn PV Drilling rất nhiều vì PV Drilling sẽ mới bắt đầu nghiên cứu và tiến hành cung 27 Transocean, 2013, tr.33 28Seadrill, Seadrill in brief, http://www.seadrill.com/about_seadrill/seadrill_in_brief truy cập ngày 13 tháng 04 năm 2014
46
cấp dịch vụ giàn khoan biển nước sâu từ năm 2012, số lượng giàn của Seadrill cũng
phong phú và đa dạng hơn. Nguồn vốn của Seadrill cũng cao hơn rất nhiều, gấp 20 lần
so với PV Drilling. Đây là một thách thức lớn đối PV Drilling trong việc cạnh tranh
với Seadrill ở mảng khoan nước sâu.
PV Drilling trong hợp tác với 2 đối tác này chủ yếu là đi thuê giàn khoan và cho
các nhà thầu mỏ khác thuê lại. Ngoài ra, đào tạo là mảng hợp tác mạnh mẽ nhất của
PV Drilling trong mối quan hệ làm ăn với hai đối tác khổng lồ này.
Từ năm 2004, PV Drilling đã trở thành đối tác thuê nhân lực rất tiềm năng đối
với Transocean, có thời điểm, hơn 80% kỹ sư của PV Drilling được đào tạo tại
Transocean, nhiều người trong số đó hiện nay đang giữ các chức vụ quan trọng tại PV
Drilling. Hiện nay, 30% nhân lực nước ngoài làm việc trên các giàn khoan của PV
Drilling là từ Transocean chuyển sang.
Seadrill là một đối tác quan trọng cho PV Drilling, đặc biệt là cho công ty con
PVD Offshore, khi mà 60% các dịch vụ của PVD Offshore cung ứng hiện nay đều
được đào tạo và thuê lại từ Seadrill. Các kỹ sư của Seadrill làm việc tại Việt Nam chủ
yếu là các kỹ sư từ Singapore, Malaysia, Indonesia…Chính vì việc cùng gần nhau về
vùng miền, các kỹ sư Việt Nam của PVD Offshore dễ dàng hợp tác và làm việc, học
hỏi khi làm việc trên giàn cũng như trong các nhà máy, xưởng cơ khí của PV Drilling.
2.2.3 Chính sách của nhà nƣớc về việc ƣu đãi cho ngành khoan khai thác
tại vùng biển Việt Nam
2.2.3.1 Chính sách xuất nhập khẩu, thuế quan
Dầu khí thường được khai thác ở 2 khu vực: một là ở thềm lục địa, vùng biển
đặc quyền kinh tế của một nước nào đó, hai là khu vực đại dương. Hiện tại, đa số
lượng dầu khí sử dụng trên thế giới đang được khai thác ở vùng thềm lục địa, vùng
biển đặc quyền kinh tế của các nước do ở đây mực nước không quá sâu (> 7,500 mét
nước) như ở vùng đại dương. Các giàn khoan khi tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu
47
khí ở khu vực này phải tuân thủ theo thủ tục xuất nhập khẩu giàn khoan, xuất nhập
khẩu các thiết bị, vật tư, phụ tùng phục vụ cho công tác bảo trì bảo dưỡng giàn khoan,
thủ tục xuất nhập cảnh cho kỹ sư, công nhân làm việc trên giàn...Những thủ tục này sẽ
được quy định cụ thể từng theo luật xuất nhập khẩu của từng nước.
Hiện nay, nhà nước Việt Nam đang thực hiện chính sách ưu đãi cho ngành
khoan khi đang cho miễn thuế nhập khẩu và thuế VAT đối với các giàn khoan thế hệ
mới, khoan được ở các vùng biển có độ sâu trên 90m nước. PV Drilling là công ty
được hưởng lợi nhiều nhất, khi mà cơ chế thuê giàn nước ngoài và cho các công ty dầu
mỏ thuê lại đang diễn ra rất sôi nổi và liên tục. Chính vì có chính sách này mà PV
Drilling đã tiết kiệm được rất nhiều chi phí vận hành và tăng lợi nhuận ròng. Góp phần
nâng cao tiềm lực tài chính và vị thế hình ảnh trên thị trường khoan quốc tế.
2.2.3.2 Chính sách khai thác dầu khí ở vùng biển đặc quyền kinh tế của các
nƣớc
Do dầu khí là một trong những tài nguyên thiên nhiên quý và là nhiên liệu
quan trọng chủ yếu để sản xuất ra các sản phẩm của ngành hóa dầu như dung môi,
phân bón hóa học, nhựa, thuốc trừ sâu, nhựa đường... nên nó đem lại hiệu quả kinh tế
cao cho nước sở hữu nguồn tài nguyên này. Dầu khí còn là nguồn tài nguyên không tái
tạo được nên việc khai thác phải thật sự hợp lý để không bị cạn kiệt. Vì vậy, việc tìm
kiếm thăm dò và khai thác dầu khí rất được chính phủ nước có nguồn tài nguyên dầu
khí rất quan tâm và quản lý chặt chẽ. Các công ty dầu khí khi hoặc một nhà thầu khoan
muốn tiến hành tìm kiếm thăm dò khai thác dầu khí hoặc cung cấp giàn khoan trong
một vùng biển đặc quyền kinh tế của nước nào thì phải tiến hành đàm phán để liên
doanh liên kết với công ty dầu khí của quốc gia đó.
Điều này thể hiện ở luật và quy định của các nước ví dụ như mục 6.1 Luật PDA
ở Malaysia: "Các tổ chức, cá nhân nào được tiến hành tìm kiếm thăm dò và khai thác
dầu khí ở lãnh thổ Malaysia ngoại trừ PETRONAS, trừ trường hợp khác được Thủ
48
tướng cho phép"29. Điều 3.5, điều 10 Luật Dầu khí Việt Nam có quy định: "Chính phủ
Việt Nam cho phép tổ chức, cá nhân tiến hành các hoạt động nghiên cứu khoa học, tìm
kiếm thăm dò và khai thác khoáng sản, tài nguyên thiên nhiên khác ngoài dầu khí
trong diện tích hợp đồng dầu khí (là văn bản ký kết giữa Tổng công ty dầu khí Việt
Nam với tổ chức, cá nhân để tiến hành hoạt động dầu khí) theo quy định của pháp luật
Việt Nam. Các hoạt động này không được gây cản trở và làm thiệt hại cho các hoạt động dầu khí" 30
Khi tiến hành liên doanh liên kết, các nhà thầu khoan sẽ phải tuân thủ chặt chẽ
các quy định của pháp luật; đảm bảo các yêu cầu nghiêm ngặt về môi trường, an toàn
lao động.
2.2.3.3. Trang thiết bị đầu vào phục vụ hoạt động sản xuất
Trong quá trình vận hành hoạt động giàn khoan biển, để đám bảo tính liên tục
trong hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động mua sắm các thiết bị, máy móc, vật tư,
thiết bị luôn được thực hiện để áp ứng nhu cầu bảo trì, bảo dưỡng. Việc thực hiện các
hoạt động mua sắm này sẽ do nhà thầu khoan tiến hành thực hiện và tính vào chi phí
hoạt động. Nhà thầu khoan sẽ có một hệ thống vận hành công tác mua sắm đồng thời
có một danh sách các nhà cung cấp tương ứng với các thiết bị, máy móc, vật tư đó. Các
nhà cung cấp các thiết bị, máy móc, vật tư này có ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh
tranh của PV Drilling, điều này thể hiện ở yếu tố số lượng nhà cung cấp.
Số lượng nhà cung cấp: đối với một chủng loại sản phẩm, số lượng nhà cung
cấp có thể cung cấp được chủng loại sản phẩm này càng cao thì khả năng lựa chọn
được nhà cung cấp có thể cung cấp sản phẩm chất lượng tốt với giá cả cạnh tranh cao
hơn, thời gian giao hàng nhanh hơn, PV Drilling sẽ chủ động hơn trong việc cung cấp
các thiết bị, vật tư, máy móc để bảo trì bảo dưỡng, từ đó tiết kiệm được chi phí hoạt
29 Malaysia Chapter- Oil & Gas Regulation 2014, tr.6 30 Luật Dầu khí số 19/2000/QH10 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dầu khí số 10/2008/QH12 năm 2008
động cũng như thời gian cho công tác mua sắm. Từ đó năng lực cạnh tranh của PV
49
Drilling sẽ được nâng cao, doanh thu và lợi nhuận của PV Drilling cũng tăng. Ngược
lại, nếu số lượng nhà cung cấp quá ít, PV Drilling sẽ ít có sự lựa chọn khi tiến hành lựa
chọn nhà cung cấp, sức ép từ nhà cung cấp sẽ hình thành. PV Drilling sẽ phải chấp
nhận mua hàng với giá cao hơn, thời gian giao hàng không đáp ứng tiến độ hoạt động
sản xuất. từ đó làm tăng chi phí hoạt động, giảm lợi nhuận, năng lực cạnh tranh của PV
Drilling ở thị trường Châu Á Thái Bình Dương cũng bị ảnh hưởng.
2.3 Đối với lĩnh vực đào tạo phát triển nguồn nhân lực
2.3.1 Hợp tác với Hoa Kỳ
Năm 2007, Công ty Cổ Phần Đào Tạo Kỹ Thuật PVD (PVD Training) được
thành lập, hoạt động trong ba lĩnh vực: Đào tạo và cấp chứng chỉ; các giải pháp nhân
sự (cung ứng và tư vấn nguồn nhân lực); các dịch vụ kỹ thuật bao gồm các giải pháp
an toàn bờ và biển, các dịch vụ hàng hải; các giải pháp về tự động hóa và điện công
nghiệp; dịch vụ đánh giá kỹ thuật; cung cấp các sản phẩm thiết bị an toàn và ứng dụng
hàng hải cùng với các dịch vụ khảo sát, kiểm tra, sửa chữa, bảo dưỡng, chiết nạp, thiết
kế giải pháp, kiểm định đối với các hệ thống thiết bị an toàn & hàng hải phục vụ trong
ngành công nghiệp Dầu khí và các ngành công nghiệp nặng. Với tầm nhìn trở thành
nhà cung cấp uy tín hàng đầu các dịch vụ đào tạo, dịch vụ kỹ thuật cũng như là nhà
cung cấp uy tín nguồn nhân lực có trình độ cho ngành công nghiệp Dầu khí và các
ngành công nghiệp mũi nhọn trong nước và quốc tế, PVD Training luôn cung cấp cho
khách hàng các giải pháp đào tạo, nhân lực và kỹ thuật tối ưu và kinh tế nhất, được
thực hiện bởi đội ngũ chuyên gia trình độ cao, giàu kinh nghiệm. PVD Training hiện là
thành viên và được cấp phép bởi các tổ chức đăng kiểm quốc tế quan trọng trong
ngành như OPITO, DNV, Lloyd, AWS, IFE…
Tháng 6 năm 2008, PVD Training đặt mối quan hệ hợp tác song phương đầu
tiên với Tập Đoàn MODEC, một trong những nhà thầu khoan, cũng như nhà đào tạo
ngành khoan lớn nhất của thế giới. Kết quả của quá trình hợp tác này là cuối năm
2008, PVD Training đã đạt đủ tiêu chuẩn để cấp chứng chỉ đào tạo MODEC -1,
50
MODEC -2 cho các kỹ sư an toàn trên giàn PVD 1. Các chứng chỉ này đều được công
nhận trên toàn thế giới do uy tín hàng đầu của Tập Đoàn MODEC.
Năm 2009, PVD Training ký hợp đồng hợp tác song phương với đối tác đào tạo
trong ngành cứu hỏa của Hoa Kỳ là the Institution of Fire Engineers, trở thành nhà
cung cấp các khóa học và cấp chứng chỉ cho an toàn chống cháy nổ trên giàn cho các
nhà thầu khoan trong khu vực Đông Nam Á. Không dừng ở đó, PVD Training đã liên
kết với Lloyd’s Hoa Kỳ để trở thành một nhà tư vấn các giải pháp về chống cháy nổ
trên giàn đạt chuẩn quốc tế.
Năm 2010, PVD Training đã được Tổ chức OPITO Hoa Kỳ - tổ chức chuyên
đào tạo kỹ sư khoan lớn của Hoa Kỳ và thế giới cấp giấy phép đào tạo cho ba khóa
học: Emergency Breathing System, Tropical Basic Offshore Safety Induction &
Emergency Training, Tropical HUET. Đây chính là ba chứng chỉ chính, bắt buộc mà
các kỹ sư Trainee cần phải có nếu muốn trở thành một kỹ sư khoan chuyên nghiệp,
chứng chỉ có hiệu lực trên toàn thế giới. Với việc cấp được ba chứng chỉ này, cộng với
các chứng chỉ quan trọng khác như BOSIET, HUET Advance, Well Control, Basic
Fire Emergency Training…PVD Training tương lai sẽ trở thành một trong những nhà
đào tạo lớn của khu vực Đông Nam Á. Hiện nay, 100% các kỹ sư khoan của PV
Drilling hằng năm đều được đào tạo nâng cao tay nghề tại PVD Training, ngay cả các
kỹ sư nước ngoài đều đánh giá rất cao các khóa học tại PVD Training và rất nghiêm
túc tham gia các khóa học khi có yêu cầu từ Ban Lãnh Đạo PV Drilling.
PVD Training hiện là thành viên của ba Hiệp hội lớn trên thế giới bao gồm:
Hiệp hội các nhà thầu hàng hải thế giới IMCA (International Marine Contractors
Association); Hiệp hội ngành hàn điện Hoa Kỳ AWS (American Welding Society),
Hiệp Hội nhà thầu khoan thế giới IADC (International Association of Drilling
Contractors).
Hiện nay, có đến gần 20 nhà thầu khoan trên toàn thế giới có hợp tác đào tạo
với PVD Training bao gồm: ENI, Santos, UMW, Maersk, SeaDrill, Exxon Mobile,
51
Transocean, Salamander Energy, Halliburton, BP, Petronas, Chevron, KS Drilling,
Shelf Drilling, Vietgazprom JOC, MODEC, Mitra…
2.3.2 Hợp tác với Nhật Bản
Nhật Bản là một quốc gia tiên tiến, phát triển, và trong lĩnh vực dầu khí cũng
vậy. PV Drilling có mối quan hệ rất thân thiết với các công ty dầu khí của Nhật thông
qua liên doanh JVPC, đặc biệt là trong lĩnh vực đào tạo kỹ thuật khoan.
PV Drilling với đại diện là PVD Training, đã liên kết rất chặt chẽ với các đối
tác từ Nhật, tiêu biểu là công ty JX Nippon Oil and Gas Exploration, đã triển khai
nhiều chương trình đào tạo liên kết cho các kỹ sư của PV Drilling về các chuyên môn
khoan kỹ thuật cao như Well Control, HSEQ...Ngoài ra, với một địa hình rất khó khăn
và nghèo tài nguyên, Nhật Bản đã phát triển và đưa ra kỹ thuật “khoan xiên”. Một kỹ
thuật khoan rất khó trong ngành. PV Drilling với tư cách là một nhà thầu khoan hàng
đầu tại Việt Nam đã hết sức cố gắng để tiếp thu kỹ thuật này. Và đến nay, PV Drilling
đã khoan thành công hơn 20 giếng khoan xiên, tiết kiệm cho nhà thầu mỏ và các nhà
thầu phụ hàng trăm triệu đô la.
Nhật Bản còn hỗ trợ cho PVD Training nhiều mô hình, dụng cụ chuyên môn
trong việc đào tạo các kỹ thuật cứu hộ, chống tràn dầu với trình độ kỹ thuật cao, đáp
ứng đủ mọi yêu cầu khắc nhiệt nhất của các nhà thầu cấp quốc tế.
Hình 2.1 Mô hình tháp khoan tại PVD Training
(Nguồn: Website PVD Training: http://www.pvdtraining.com.vn/vn/ )
52
Trong hình là mô hình tháp khoan được xây dựng với sự hỗ trợ của Nhật Bản
nhằm đào tạo cho các chức danh như Derrick Man, Toolsbusher…
Trong tương lai, PVD Training đang tiến hành thương thảo với Nhật Bản cho
các khóa học cấp bằng online cho các chứng chỉ ngắn hạn khác như HUET, Radio
Test…
2.3.3 Hợp tác với các nƣớc trong tổ chức ASEAN
Ở khu vực ASEAN, PV Drilling tập trung hợp tác với các cường quốc dầu khí
có các nhà khầu khoan lớn như Singapore, Thái Lan, Malaysia, Philippines. Trong số
này, Singapore là đối tác lớn hơn cả. 4 trong 5 giàn khoan PV Drilling đang sở hữu
hiện nay đều được đóng ở Singapore, cụ thể là tập đoàn Keppel Fels, một trong những
tập đoàn đa ngành lớn nhất Singapore và là một người khổng lồ của ngành công
nghiệp đóng giàn của thế giới.
2.3.3.1 Singapore
Singapore đang là nơi tập trung hợp tác mạnh mẽ nhất của PV Drilling từ năm
2007 đến nay, do địa lý gần, văn hóa tương đồng, múi giờ cũng gần như giống nhau
(chênh lệnh 1 giờ GMT). Các mảng kỹ thuật quan trọng nhất của PV Drilling đều được
chuyển sang cho các đối tác tại Singapore phụ trách.
+ Đóng giàn
Năm 2007, Keppel Fels đóng giàn PVD 1, giàn khoan đầu tiên của PV Drilling,
cũng là giàn khoan Jack up đầu tiên sở hữu 100% của người Việt Nam. Đây là bước
tiến quan trọng nhất của PV Drilling trên con đường thành nhà thầu khoan lớn mạnh
trên thế giới. giàn PVD 1 được đưa vào sử dụng đến nay vẫn liên tục đạt LTI hàng
năm, với công nghệ luôn được nâng cấp và bảo dưỡng tối đa.
Năm 2009, hai giàn Jack-up PVD 2 và PVD 3 tiếp tục được đóng mới với công
nghệ hiện tại nhất bấy giờ, sức chứa và khả năng hoạt động tối tân và lớn hơn hẳn so
với giàn PVD 1.
53
Năm 2010, giàn khoan tiếp trợ nước sâu TAD PVD 5 được khởi động, đây là
giàn khoan tối tân và có khả năng hoạt động ở các khu vực nước sâu. Đánh dấu bước
phát triển nhảy vọt trong quan hệ hợp tác giữa PV Drilling và Keppel Fels.
Nếu nhìn theo con số tài chính, việc Keppel Fels đóng mới 4 giàn khoan cho PV
Drilling đánh dấu con số hơn 2 tỷ USD cho quan hệ hợp tác kinh tế giữa hai bên. Nếu
như tính cả các chi phí bảo hành bảo dưỡng hàng năm, con số này còn lớn hơn rất nhiều.31
Trong giai đoạn 2010-2020, PV Drilling dự kiến đóng mới thêm 5 giàn Jack-up
để nâng tổng số giàn khoan sở hữu lên 10 giàn. Và Keppel Fels đã có hợp đồng đóng
mới hai giàn Jack-up PVD 6 và PVD 7 trong giai đoạn 2014-2016.
+ Cung cấp vật tư
Tại PV Drilling, con số nhập khẩu vật tư hàng năm luôn trên 200 triệu USD, và
hơn 60% con số này xuất phát từ các nhà cung cấp tại Singapore. Có thể đưa ra hàng
loạt các nhà cung cấp mà kim ngạch xuất khẩu sang PV Drilling đạt trên 10 triệu USD
năm như National Oilwell Varco (xuất khẩu sang Việt Nam hơn 30 triệu USD vào năm
2008, 45 triệu USD năm 2009 và 50 triệu USD năm 2010), Houston Electric (11 triệu
USD năm 2008, 15 triệu USD năm 2009 và 14.5 triệu USD năm 2010), Frankin Offshore (9 triệu USD năm 2008, 12 triệu USD năm 2009, 13 triệu USD năm 2010)32
Những con số trên con thấy, Singapore là một quốc gia quan trọng số một của
PV Drilling trong con đường phát triển. Các nhà cung cấp này hiểu rõ về nguyên tắc
làm ăn tại các nước phương Đông như Việt Nam, rộng hơn là chính phủ Việt Nam với
chính phủ Singapore có nhiều hợp tác trong công tác ngoại thương, thuế quan với
nhau. Qua đó nâng tầm quan hệ hợp tác giữa các tập đoàn kinh tế lớn của hai nước.
31 Quyết toán đóng mới giàn của Ban Tài Chính – PV Drilling ngày 10 tháng 10 năm 2008 – trang 05, ngày 11 tháng 5 năm 2010 – trang 04 32 Báo cáo thương mại của Xí Nghiệp Điều Hành Khoan gửi Tổng Giám Đốc PV Drilling ngày 01 tháng 12 năm 2009 – trang 20, 21, 22
+ Cung cấp nhân lực và đào tạo
54
PV Drilling rất chú trọng các kỹ sư đến từ Singapore, tiêu biểu là trong giai
đoạn từ năm 2007-2010, có hơn 200 kỹ sư đến làm việc trên các giàn khoan của PV
Drilling. Một hình ảnh quen thuộc trên các giàn khoan của PV Drilling hiện nay là các
kỹ sư mang đồng phục của Keppel Fels, NOV… Họ là các cầu nối để liên kết các kỹ
sư Việt Nam với các công nghệ tân tiến nhất, góp phần nâng cao tay nghề cho các kỹ
sư, công nhân Việt Nam trong việc vận hành giàn khoan.
Ngoài ra, về công tác đào tạo, PV Drilling hàng năm đều đưa những kỹ sư trong
diện quy hoạch sang Singapore huấn luyện, từ các khóa ngắn hạn trong 1-2 tuần đến
các khóa dài hạn 1-2 năm. Chính từ những khóa huấn luyện này mà đội ngũ kỹ sư,
công nhân Việt Nam của PV Drilling không ngừng được phát triển và trở nên lành
nghề, chuyên môn rất cao.
2.3.3.2 Malaysia
Malaysia là quốc gia phát triển về ngành dầu khí, với công ty Petronas nổi tiếng
toàn thế giới. Petronas cũng là một trong những khách hàng quen thuộc và thân thiết
của PV Drilling trong nhiều chiến dịch khoan.
Tuy nhiên, hợp tác của PV Drilling với các công ty dầu khí tại Malaysia rất ít và
nhỏ lẻ. Nhưng kim ngạch nhập khẩu của PV Drilling từ Malaysia trong năm 2010 chỉ
đạt 5 triệu USD, chủ yếu là nhập khẩu các máy cẩu lớn trên giàn do tại Malaysia đang
có công ty Favco Favelle là một trong những giàn cung cấp cẩu lớn nhất thế giới.
2.3.3.3 Thái Lan
Đối với các đối tác từ Thái Lan, PV Drilling luôn tăng cường hợp tác về các
hạng mục cơ bản như sửa chữa cần khoan, hệ thống bơm…Với việc PV Drilling thành
lập liên doanh PVD – PTI với Tập Đoàn Expro International BV năm 2009 để phụ
trách mảng cung ứng các dịch vụ sửa chữa và tư vấn về công tác chống ống, bơm xi
măng tráng vỉa… đã cho thấy một tiềm năng hợp tác lâu dài giữa PV Drilling và các
nhà cung cấp dịch vụ dầu khí tại Thái Lan.
55
Tuy nhiên, do tình hình chính trị tại Thái Lan liên tục bất ổn, do đó các lãnh đạo
của PV Drilling luôn rất dè dặt và cẩn trọng trong các hợp tác kinh tế với các đối tác từ
Thái Lan. Vì thực tế cho thấy, các đối tác Thái Lan luôn làm cho PV Drilling thất
vọng.
2.3.3.4 Phillipines
Phillipines là một quốc đảo tại ASEAN, cũng là một đồng minh thân cận của
Hoa Kỳ tại đây, Philippines hiện nay cũng đang có nhiều bất ổn chính trị với Trung
Quốc và cả chính Việt Nam trên khu vực quần đảo Trường Sa. Nhưng về các lĩnh vực
kinh tế, Philippines luôn là một đối tác đáng tin cậy của Việt Nam.
Tuy nhiên, PV Drilling đến năm 2010 vẫn chưa đẩy mạnh hợp tác với các đối
tác từ Philippines, tiêu biểu là PNOC – tập đoàn dầu khí quốc gia Philippines. Nguyên
nhân chính là do thực tế hợp tác dầu khí của Philippines với Việt Nam chỉ dừng ở mức
cung cấp một số dịch vụ nhỏ, riêng lẻ, tập đoàn PNOC chưa đẩy mạnh hợp tác khai
thác với PVN về các lô dầu tại Biển Đông, do đây vẫn là khu vực đang có nhiều điểm
nóng trong tranh chấp giữa hai nước. Do đó, PV Drilling vẫn đang đưa PNOC và các
đối tác từ Philippines vào dạng các đối tác tiềm năng cho tương lai về sau.
2.3.4. Hợp tác với các tổ chức quốc tế
PV Drilling hiện nay đang là thành viên của nhiều tổ chức của ngành khoan dầu
khí thế giới như Hiệp hội các nhà thầu khoan cơ bản (The International Association of
Foundation Drilling), Hiệp hội các nhà thầu khoan thế giới IADC (International
Association of Drilling Contractors)…
Đây chính là nơi để PV Drilling liên kết với hầu hết các nhà thầu khoan trên thế
giới nhằm tận dụng các nguồn cung giàn khoan cho các nhu cầu khoan tại Việt Nam.
Ngoài ra, đây cũng là tiền đề để PV Drilling tiếp cận với các nguồn khoa học kỹ thuật
tiên tiến khi mà các nhà thầu khoan trên thế giới liên tục phát minh ra những công
56
nghệ trong mọi lĩnh vực khoan như an toàn, nghiên cứu địa chất, khai thác thực địa,
nâng cao trình độ nhân lực…
2.3.4.1 Hợp tác với các nhà thầu khoan tiên tiến thế giới nhằm xây dựng
đội ngũ ngƣời Việt Nam có thể tự vận hành giàn khoan
Công tác đào tạo nguồn nhân lực chất lượng để người Việt có thể tự vận hành
các giàn khoan của người Việt là mục đích lớn nhất tại PV Drilling. Hiện nay trong 5
giàn khoan của PV Drilling, chỉ có giàn đất liền PVD 11 là có trưởng giàn và giám đốc
giàn là người Việt Nam. Còn lại 4 giàn khoan Jack up PVD 1, PVD 2, PVD 3 và giàn
TAD PVD 5, các trưởng giàn đều là người nước ngoài. Đây sẽ là trở ngại không nhỏ
cho PV Drilling khi mà sự khác biệt về văn hóa, cũng như các yêu cầu đi lại, xuất nhập
cảnh cho các kỹ sư nước ngoài này đang ngày càng được siết chặt.
Do đó, từ năm 2005, các cấp lãnh đạo đã không ngừng đưa sang các nhà thầu
khoan lớn khác trên thế giới như Transocean, SeaDrill, Ensco… các kỹ sư tiềm năng
của mình để đào tạo. Đồng thời, cũng đưa một số chuyên gia trong lĩnh vực Training
& Development về làm việc tại PV Drilling nhằm xây dựng một hệ thống đào tạo
chuyên nghiệp, với mục tiêu đến năm 2020, toàn bộ các giàn của PV Drilling sẽ có
trưởng giàn là người Việt Nam vận hành quản lý.
Đến năm 2010, PV Drilling đã từng bước thành công khi 20% vị trí chủ chốt
trên giàn đã được phụ trách bởi người Việt Nam như Sỹ quan an toàn cao cấp STC,
Toolbusher (từ chuyên ngành – một vị trí cấp cao trên giàn). Driller – (kỹ sư khoan
chính)…
2.4. Đối với lĩnh vực khoa học công nghệ
2.4.1. Chính sách ƣu đãi của Việt Nam
Các quy định về xuất nhập khẩu và thuế quan sẽ được áp dụng đối với 2 phần
đó là giàn khoan và các thiết bị, phụ tùng phục vụ cho công tác sửa chữa, bảo trì. Mỗi
quốc gia sẽ có các quy định cụ thể khác nhau nhưng sẽ có những nét chung như sau.
57
Khi giàn khoan được kéo đến vùng lãnh hải của một quốc gia, chủ của giàn khoan đó
phải liên lạc với hải quan và bộ đội hải quân để xin phép được nhập cảnh. Việc cho
nhập cảnh giàn chỉ được thực hiện hai nước bao gồm nước mà giàn khoan biển xin
phép nhập cảnh và nước mà giàn khoan biển mang quốc tịch có quan hệ hợp tác và
không tranh chấp, đối đầu với nhau. Bộ phận hải quan sẽ xem xét, tiến hành làm các
thủ tục nhập cảnh cho giàn khoan dựa trên chứng từ hồ sơ mà chủ giàn khoan biển tiến
hành khai báo, ngoài ra một số cơ quan ban ngành sẽ có những yêu cầu riêng ví dụ như
Malaysia yêu cầu phải có giấy chứng nhận phun trùng khi giàn khoan biển nhập cảnh. Việc thực hiện các thủ tục nhập cảnh giàn khoan biển mất khoảng 1 tháng.33
Đối với thiết bị, máy móc, vật tư phục vụ cho công tác sửa chữa, thay thế và
vận hành. Mỗi nước sẽ có danh mục các thiết bị, hàng hóa cấm nhập khẩu hoặc nhập
khẩu phải có giấy phép, ví dụ như đối với thị trường Việt Nam, việc nhập khẩu pháo
sáng phục vụ công tác cứu sinh cứu hộ là không thể, thuốc và các dụng cụ y tế nhập khẩu phải có giấy phép của Bộ Y Tế... 34. Đối với giàn khoan biển sẽ có các loại thuế
quan như thuế nhập khẩu giàn khoan biển, thuế môi trường, thuế nhà thầu... và đối với
các thiết bị, vật tư, máy móc nhập khẩu sẽ có các loại thuế như thuế nhập khẩu, thuế
môi trường, thuế giá trị gia tăng...
Hiện PV Drilling chưa có giàn khoan biển nào tham gia vào thị trường nước
ngoài khu vực Châu Á Thái Bình Dương. Đây là một trong những thách thức lớn đối
với PV Drilling khi các chính sách về xuất nhập khẩu và thuế quan ở thị trường này rất
nhiều và phức tạp, trong khi đó PV Drilling còn quá ít kinh nghiệm, chưa hiểu rõ về
những quy định, chính sách, đồng thời giàn khoan biển của PV Drilling chưa được kéo
đến vùng hải lãnh của các quốc gia khu vực này bao giờ.
Theo chính sách khai thác dầu khí của các nước, một công ty cung cấp dịch vụ
giàn khoan biển không thể hoạt động độc lập tại vùng biển đặc quyền kinh tế của các
33 Báo cáo thường niên PV Drilling năm 2011, trang 38 34 Nghị định số 12/2006/NĐ-CP, 2006
nước mà phải liên doanh, liên kết với các công ty dầu khí trực thuộc Tập Đoàn Dầu khí
58
Quốc gia đó. Để tạo thuận lợi cho các đơn vị con thực hiện liên doanh, liên kết, trong
những năm qua, Nhà nước cũng như là Tập Đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam đã
không ngừng mở rộng mối quan hệ, có những cuộc họp, đối thoại để tăng cường mối
quan hệ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc cung cấp các dịch vụ dầu khí. Năm 2011, Chủ
tịch nước Trương Tấn Sang đã tới thăm Tập Đoàn Dầu khí Quốc gia Malaysia
(Petronas) và đã đề nghị tăng cường hợp tác trong lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí 35 và đến ngày 4/4/2014, Việt Nam và Malaysia dã nhất trí nâng quan hệ lên đối tác chiến lược trong đó có lĩnh vực dầu khí 36. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang năm 2011 cũng đã tăng cường mối quan hệ về dầu khí với Singapore 37.
Tập Đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN) cũng đã nỗ lực tăng cường các
hợp tác quốc tế. Hội nghị và Triển lãm Dầu khí Đông Nam Á ASCOPE lần thứ 10,
Tổng Giám đốc PVN Đỗ Văn Hậu đã có những cuộc họp song phương với Tổng Giám
đốc các Tập Đoàn Dầu khí Quốc gia các nước Indonesia, Brunei, Thái Lan,
Malaysia...nhằm tăng cường mối quan hệ và hợp tác giữa các bên.
Với những nỗ lực về tăng cường hợp tác quan hệ về lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò
và khai thác dầu khí, PV Drilling đã có cơ hội tốt để tiếp tục thực hiện các hoạt động
liên doanh, liên kết với các công ty Dầu khí trực thuộc Tập Đoàn Dầu khí Quốc gia các
nước trong khu vực, tạo điều kiện để gia nhập thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh
trong việc cung cấp dịch vụ giàn khoan biển ở thị trường Châu Á Thái Bình Dương.
2.4.2. Chiến lƣợc của PV Drilling
Một số quốc gia có nền khoa học công nghệ về lĩnh vực khoan hiện đại nhất
hiện nay phải kế đến đầu tiên là Hoa Kỳ, đây là một quốc gia đi đầu trên thế giới về
khoa học công nghệ ở mọi lĩnh vực, ngành khoan cũng không phải là ngoại lệ. Hàng
năm, PV Drilling luôn có các chuyến công tác sang Hoa Kỳ để tìm kiếm các khóa huấn 35VOV, Việt Nam-Malaysia đẩy mạnh hợp tác dầu khí, http://www.tienphong.vn/xa-hoi/viet-nammalaysia-day- manh-hop-tac-dau-khi-553432.tpo, cập nhật ngày 30/9/2011 36Trúc Quỳnh, Việt Nam-Malaysia nhất trí nâng quan hệ lên đối tác chiến lược, http://www.tienphong.vn/the- gioi/viet-nam-malaysia-nhat-tri-nang-quan-he-len-doi-tac-chien-luoc-692766.tpo, cập nhật ngày 5/4/2014 37 Việt Nam-Singapore tăng cường hợp tác nhiều mặt, http://www.tienphong.vn/xa-hoi/viet-nam-singapore-tang- cuong-hop-tac-nhieu-mat-553076.tpo, cập nhật ngày 27/9/2011
59
luyện, các công nghệ tân tiến nhất để mua về áp dụng trên các giàn khoan của mình.
Trong năm 2010, trước khi giàn TAD PVD 5 hoàn thành, PV Drilling đã mua một loạt
các công nghệ tối tân về ngành khoan trị giá hơn 20 triệu USD từ ExxonMobile – tập
đoàn dầu khí lớn thứ hai thế giới để ứng dụng và công tác vận hành giàn TAD.
Quốc gia thứ hai phải kể đến là Trung Quốc, gã hàng xóm quyền lực khổng lồ
của Việt Nam. Giàn khoan dầu khí của Trung Quốc luôn có những công nghệ tối tân
nhất, hiện đại nhất, thậm chí nhiều công nghệ mà Hoa Kỳ chưa có thì Trung Quốc đã
áp dụng trên các giàn khoan của mình.
Singapore là nước thứ ba mà PV Drilling thường đặt các quan hệ hợp tác để học
hỏi các công nghệ hiện đại. Hiện nay, Singapore đang là một trong những nước có
ngành công nghiệp đóng giàn khoan phát triển nhất thế giới, bên cạnh Hoa Kỳ và
Trung Quốc.
2.4.2.1 Các chính sách của PV Drilling trong việc đi tắt đón đầu các công
nghệ tiên tiến và tăng cƣờng khả năng vận hành hiệu quả của các giàn khoan
PV Drilling có một chính sách rất hay trong việc đi tắt đón đầu các công nghệ
tiên tiến là mua các thiết bị tối tân nhất, và yêu cầu nhà cung cấp phải cho kỹ sư sang
hướng dẫn cách thức sử dụng. Thực tế có thể thiết bị này chưa cần phải sử dụng ngay,
nhưng từ những bài học vận hành từ các kỹ sư cao cấp, các kỹ sư Việt Nam đã phát
triển nó lên để vận hành cho các thiết bị tương tự khác. Sau đó, các thiết bị này sẽ được
chuyển về PVD Training phục vụ cho công tác đào tạo các khóa chuyên môn cao cấp,
mà giảng viên không ai khác chính là các kỹ sư Việt Nam đã được nhà cung cấp huấn
luyện bài bản.
Ngoài ra, việc thu hút nhân tài từ các nhà thầu khoan khác trên thế giới cũng là
cách để PV Drilling tiếp thu những bài học mới, vì các kỹ sư cao cấp nước ngoài có
một mối quan hệ rất lớn với các nhà khoa học, các nhà đào tạo về ngành khoan trên thế
giới. Do đó, khi có một công nghệ mới nào, họ cũng sẽ biết và đưa về cho PV Drilling
60
để đào tạo lại cho các kỹ sư Việt Nam. Từ đó, các công nghệ này cũng được đưa vào
sử dụng cho các giàn khoan của PV Drilling.
Tiểu kết chƣơng 2
Trong chương này, tác giả đã giới thiệu một cách chi tiết quá trình hợp tác quốc
tế của PV Drilling trong mọi lĩnh vực, với nhiều quốc gia, khu vực khác nhau.Tác giả
tiến hành phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực hợp tác quốc tế của PV Drilling
trong giai đoạn 2001-2010 bao gồm phân tích dự trên hai lĩnh vực khoan cơ bản là
khoan thăm dò và khoan khai thác. Trong đó, tác giả chia ra theo các quốc gia, khu vực
nhằm cụ thể hóa các chính sách, thành công trong hợp tác quốc tế ở lĩnh vực đó. Tác
giả còn phân tích một số các tiêu chí cơ bản như về đào tạo nguồn nhân lực, khoa học
công nghệ… Trên cơ sở đó, trong chương 3, tác giả đã diễn giải thêm một số tác động
của các quá trình hợp tác này đến ngành công nghiệp dầu khí của nội địa nói riêng và
thế giới nói chung, qua đó tác giả xin đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm phát
huy những ưu điểm, thành tựu cũng như khắc phục khuyết điểm, hạn chế để nhằm
nâng cao năng lực hợp tác quốc tế của PV Drilling.
61
CHƢƠNG 3: TÁC ĐỘNG VÀ TRIỂN VỌNG CỦA QUÁ TRÌNH HỢP TÁC
QUỐC TẾ TRONG LĨNH VỰC DẦU KHÍ CỦA PV DRILLING
3.1 Tác động của quá trình hợp tác quốc tế của PV Drilling
3.1.1 Tác động đối với ngành công nghiệp dầu khí nội địa
PV Drilling là một trong những Tổng Công Ty của Tập Đoàn Dầu Khí Việt
Nam có giá trị trên 1 tỷ USD tính đến năm 2013. Doanh thu hàng năm của PV Drilling
luôn đạt trên 10.000 tỷ VND từ năm 2010 đến nay. Ngân sách hàng năm PV Drilling
dành cho các hạng mục hợp tác quốc tế như đào tạo, mua bằng sáng chế công nghệ,
góp vốn thành lập liên doanh, đầu tư vào các giàn khoan nước ngoài… luôn đạt trên 50
triệu USD, liên tục trong 5 năm 2007 – 2012. Chính vì vậy, có thể thấy rằng, PV
Drilling là một trong những Tổng Công ty có vai trò đầu tàu về hợp tác quốc tế trong
ngành công nghiệp dầu khí còn non trẻ của nước ta.
PV Drilling đầu tư với nước ngoài để đóng mới các giàn khoan PVD 6, PVD 7,
đã gây tác động lớn đến ngành công nghiệp đóng giàn khoan biển nội địa, đặc biệt là
PV Shipyard, với thành tựu là giàn khoan biển Tam Đảo 03. Tuy nhiên, giàn khoan
Tam Đảo 03 hiện đang được Vietsopetro vận hành cầm chừng do hạn chế về khả năng
khoan và công nghệ chưa hiện đại. Do vậy, khi mà PV Drilling ngày càng có nhiều
giàn khoan Jack-up hiện đại, PV Shipyard phải liên tục đổi mới và nâng cao trình độ
kỹ thuật nhằm có thể đưa ra những giàn khoan có công nghệ tương tự để trong tương
lai Việt Nam sẽ đủ sức chế tạo giàn khoan hoạt động trên 400ft (90m) mực nước biển
và được chính người Việt Nam quản lý vận hành.
Không chỉnh với PV Shipyard mà với các công ty dịch vụ dầu khí khác như PV
Engineering, PVC, PV Trans… phải liên tục đổi mới cách thức quản lý và trình độ kỹ
thuật để cạnh tranh với các dịch vụ của PV Drilling đang ngày càng hiện đại hóa do có
một lực lượng kỹ sư nước ngoài hùng hậu và một đội ngũ người Việt chất lượng cao,
được đào tạo bài bản từ các quốc gia tiên tiến. Một ví dụ nho nhỏ, PVD Training là
đơn vị duy nhất ở Việt Nam đào tạo những chứng chỉ cấp quốc tế như BOSIET, Well
62
Control, HSEQ… trong khi đó những Tổng Công ty trong ngành dầu khí khác chưa
thể đạt được.
Tóm lại, khi PV Drilling ngày càng đẩy mạnh hợp tác quốc tế để đưa về Việt
Nam những tinh hoa công nghệ trong ngành dầu khí thì đã thúc đẩy cho một loạt các
Tổng Công ty trong ngành phải phấn đấu nỗ lực để vươn lên, để có thể hỗ trợ cho các
dịch vụ hỗ trợ đạt đến một trình độ cao cấp.
3.1.2 Tác động đối với ngành công nghiệp dầu khí thế giới
Đối với thế giới, PV Drilling hiện nay đã hai lần liên tiếp đạt danh hiệu “ Nhà
thầu khoan tốt nhất châu Á” trong hai năm 2012 và 2013. Nó cho thấy sự thừa nhận
của thế giới cho những nỗ lực của PV Drilling nói riêng, của ngành dầu khí Việt Nam
nói chung. PV Drilling hiện nay có 5 công ty liên doanh với các đối tác dầu khí nước
ngoài, là PVD – Baker Hughes, PVD – PTI, PVD – Oil States Industries, Vietubes,
PVD – BJ. Đây là những đối tác lớn trên thị trường khoan thế giới, có hàng chục năm
kinh nghiệm trong việc cung cấp các dịch vụ khoan dầu khí, đồng thời cũng sở hữu
hàng trăm bằng sáng chế trong lĩnh vực khoan. Liên kết với các công ty này, sẽ giúp
cho PV Drilling không những tiết kiệm được ngân sách cho việc mua bằng sáng chế,
mà còn tận dụng được nguồn nhân lực tinh nhuệ của các công ty đối tác trong việc
cung cấp các dịch vụ khoan, không chỉ cho các giàn của PV Drilling mà còn ở các giàn
khoan nước ngoài khác đang hoạt động tại Việt Nam.
Trong giai đoạn từ 2011 – 2020, PV Drilling hướng tới việc vươn ra các thị
trường nước ngoài như khởi động lại các dự án ở Venezuela, tiến hành cung cấp giàn
khoan đất liền tại Angola, đưa giàn khoan sang các vùng biển của Malaysia,
Philippines, Nhật Bản…Chính vì thế, việc ngày càng tăng cường hợp tác quốc tế, xuất
hiện nhiều hơn tại các diễn đàn dầu khí trong khu vực và trên toàn cầu giúp PV
Drilling ngày càng chuyên nghiệp, đủ sức cạnh tranh với các nhà thầu khoan hàng đầu
trong việc đưa ra các dịch vụ hiện đại, tối tân với chi phí thấp và hợp lý hơn.
63
3.2 Triển vọng phát triển
3.2.1 Triển vọng
3.2.1.1 Thành tựu
Về số lượng và chủng loại giàn: Số lượng giàn của PV Drilling ngày càng tăng
qua các năm, từ 1 giàn Jack up PVD 1 năm 2007 đến nay số lượng giàn đã tăng lên 5
giàn, ngoài ra PV Drilling còn vận hành thêm 4-6 giàn khoan thuê. Chủng loại giàn
cũng bắt đầu đa dạng hơn, bắt đầu đầu tư giàn nước sâu, cụ thể là giàn tiếp trợ nửa nổi
nửa chìm PVD 5.
Về chất lượng và an toàn trong vận hành: các giàn khoan biển của PV Drilling
luôn được Hiệp hội các nhà thầu khoan quốc tế (IADC) ghi nhận thành tích vận hành
an toàn, không xảy ra LTI trong suốt quá trình vận hành, tính đến tháng 3/2014, giàn
PVD 1 đã đạt 7 năm liên tục vận hành an toàn, không xảy ra LTI, giàn PVD 2, PVD 3 là 4 năm liên tục, giàn PVD 5 là 365 ngày.38
Về hiệu suất hoạt động: hiệu suất hoạt động của các giàn khoan biển của PV
Drilling luôn đạt mức rất cao, trên 99%.
Về thị trường cung cấp dịch vụ giàn khoan biển: những năm đầu hoạt động, PV
Drilling chỉ cung cấp dịch vụ giàn khoan biển ở thị trường trong nước nhưng những
năm gần đây, PV Drilling đã từng bước vươn ra thị trường cung cấp dịch vụ giàn
khoan biển Châu Á Thái Bình Dương như tháng 10/2012, PV Drilling đã mở văn
phòng đại diện ở Malaysia, có các cuộc gặp song phương với các công ty Dầu khí quốc
gia Thái Lan, Brunei, Singapore...
Về giá cả thuê giàn, bằng nỗ lực đàm phán và xây dựng hình ảnh, PV Drilling
38 Báo cáo An Toàn của PV Drilling gửi Tập Đoàn Dầu Khí Việt Nam năm 2014, trang 5
luôn ký hợp đồng cung cấp dịch vụ giàn khoan biển với giá cao, các hợp đồng cung
64
cấp giàn khoan tự nâng luôn đạt mức giá khoảng 130.000 USD/ngày (cao gấp 153% so với giá thị trường).39
Về hoạt động quảng bá: PV Drilling đã đạt được nhiều thành tựu trong việc xây
dựng hình ảnh nhà thầu chuyên nghiệp thông qua các giải thưởng trong nước cũng như
quốc tế: Sao Vàng Đất Việt qua các năm, huân chương lao động hạng nhất, top 10 giải
thưởng Báo cáo thường niên tốt nhất năm 2012 của Bộ Tài chính, 2 năm liền đạt giải
thưởng Nhà thầu khoan tốt nhất châu Á (năm 2012, 2013) do tạp chí World Finance
trao tặng.
Về doanh thu, lợi nhuận: doanh thu của PV Drilling luôn tăng đều, trung bình
20% qua các năm, năm 2010, doanh thu đạt 7.572 tỷ đồng (tăng 29,8% so với năm
2009), lợi nhuận sau thuế cũng luôn tăng, lợi nhuận năm 2010 của PV Drilling là 1.908
tỷ đồng (tăng 23,6% so với năm 2009).
3.2.1.2 Triển vọng phát triển
Trong buổi họp chuyên sâu về năng lượng trong khuôn khổ Hội nghị Tham tán
Thương mại 2011, ông Lê Tuấn Phong Phó tổng cục trưởng Tổng cục Năng lượng đã
trình bày tham luận của mình về “Tổng quan về hệ thống năng lượng Việt Nam và
định hướng phát triển năng lượng quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050".
Trong bài tham luận này, ông đã nêu lên quan điểm của Chính phủ về phát triển ngành
Dầu khí đó phát triển ngành Dầu khí đồng bộ, bao gồm các hoạt động tìm kiếm, thăm
dò, khai thác, vận chuyển, chế biến, tàng trữ, phân phối, dịch vụ và xuất nhập khẩu. Về
tìm kiếm, thăm dò (TKTD) dầu khí sẽ gia tăng trữ lượng đạt 35-45 triệu tấn quy
dầu/năm trong giai đoạn 2011 – 2015; trong đó: trong nước 25 – 30 triệu tấn quy
dầu/năm, ngoài nước 10 – 15 triệu tấn quy dầu/năm.
Lĩnh vực khai thác dầu khí: tập trung nghiên cứu các giải pháp nâng cao hệ số
thu hồi dầu và duy trì mức sản lượng khai thác dầu khí tối ưu, đảm bảo an toàn và hạn
39 Báo cáo thị trường của Ban Hỗ trợ Sản Xuất gửi Tổng Giám Đốc PV Drilling tháng 8 năm 2013
chế nguy cơ bị ngập nước của các mỏ đang khai thác; tích cực mở rộng hoạt động đầu
65
tư khai thác dầu khí ra nước ngoài. Phấn đấu khai thác 25-38 triệu tấn quy dầu/năm,
trong đó: khai thác dầu thô giữ ổn định ở mức 18-20 triệu tấn/năm và khai thác khí 8-
19 tỉ m³/năm. Định hướng giai đoạn 2016 – 2025 sẽ gia tăng trữ lượng đạt 35 – 45
triệu tấn quy dầu/năm, trong đó 25 – 35 triệu tấn quy dầu/năm ở trong nước và 15 triệu
tấn quy dầu/năm ở nước ngoài.
Lĩnh vực phát triển dịch vụ dầu khí: giai đoạn đến năm 2015 sẽ phấn đấu doanh
thu dịch vụ kỹ thuật dầu khí đạt tốc độ tăng trưởng 15 – 20%/năm so với năm trước.
Giai đoạn 2016 – 2025 Phấn đấu doanh thu dịch vụ kỹ thuật dầu khí đạt tốc độ tăng
trưởng 20 – 25%/năm so với năm trước.
Hoạt động khai thác và sản xuất dầu khí ngoài khơi ở vùng biển Châu Á Thái
Bình Dương, đặc biệt là Biển Đông đang phát triển, nhờ vào tiềm năng dầu khí ở các
vùng biển sâu trong khu vực và nhu cầu năng lượng tăng cao của châu Á. Cơ quan
Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) ước tính có khoảng xấp xỉ 11 tỷ thùng dầu và 190
nghìn tỷ feet khối khí tự nhiên đã được xác định và có tiềm năng trong khu vực trải dài từ Singapore và eo biển Malacca đến eo biển Đài Loan (3). Trong đó 70% trữ lượng dầu khí ở vùng biển giàu tài nguyên này nằm tại 1,54 triệu km2 các khu vực nước sâu.
Các khu vực khai thác dầu khí tập trung nhiều dự án nhất hiện tại có Vịnh Thái
Lan, bán đảo Mã Lai, Đông Malaysia, Việt Nam, Indonesia. Brunei lúc trước thực hiện
việc độc quyền khai thác các giếng dầu cho Shell nhưng hiện nay Brunei đang có xu
hướng sẽ mở rộng cho các tập đoàn năng lượng khác tham gia.
BẢNG 3.1: ƢỚC TÍNH TRỮ LƢỢNG DẦU KHÍ ĐÃ XÁC ĐỊNH VÀ TIỀM
NĂNG Ở BIỂN ĐÔNG
lượng
năng
ngạc
tiềm
kinh
dầu
khí
trữ
về
3 Linh Phương, Báo ở Biển cáo Đông,http://petrotimes.vn/news/vn/bien-dong/bi-mat-trong-long-bien-dong/bao-cao-kinh-ngac-ve-tru-luong-dau- khi-tiem-nang-o-bien-dong.html, cập nhật ngày 9/2/2013
Quốc gia Trữ lƣợng dầu thô và hóa lỏng (tỷ thùng) Trữ lƣợng khí tự nhiên (nghìn tỷ feet khối)
66
Brunei 1,5 15
Trung Quốc 1,3 15
Indonesia 0,3 55
Malaysia 5,0 80
Philippin 0,2 4
Thái Lan - 1
Việt Nam 4,4 20
(Nguồn: Cục Thông tin Năng lượng Mỹ, Báo cáo về Biển Đông, tháng 2 năm 2013)
Về thị trường cung cấp giàn khoan thế giới:từ năm 2009-2013, tuy kinh tế thế
giới trong giai đoạn khủng hoảng, các nước phát triển như Châu Âu, Nhật tiêu thụ dầu
giảm đi, các nước như Trung Quốc, Ấn Độ, Đông Nam Á số lượng dầu tiêu thụ vẫn
tăng nhưng ở mức độ thấp hơn so với các năm trước, nhưng theo Tổ chức các nước
xuất khẩu dầu mỏ (OPEC), nhu cầu dầu thế giới vẫn tăng trưởng, trung bình 750.000- 800.000 thùng/ngày, tổng lượng tiêu thụ dầu năm 2013 là 89,7 triệu thùng/ngày(40).
Với nhu cầu về dầu thô vẫn tiếp tục tăng trưởng, thị trường giàn khoan biển vẫn có
những bước phát triển. Tổng số lượng giàn khoan cung cấp cho thị trường vẫn tiếp tục
tăng. Nhìn vào biểu đồ 2 dưới đây ta có thể thấy, đến năm 2013, số lượng giàn khoan
biển ở thị trường thế giới đã tăng lên đến 801 giàn, tăng 104 giàn so với năm 2009,
trong đó năm 2010, số lượng giàn khoan biển tăng cao nhất (30 giàn, tăng khoảng 4%
so với năm 2009). Tốc độ tăng về số lượng giàn khoan biển trong giai đoạn 2009-2013
40Thị trường xăng dầu năm 2013 và dự báo cho năm 2014, http://www.hiephoixangdau.org/ndc/hoat-dong-su- kien/thi-truong-xang-dau-nam-2013-va-du-bao-cho-nam-2014/default.aspx
khoảng 3-4%/năm.
67
BIỂU ĐỒ 3.1: TỔNG SỐ LƢỢNG GIÀN KHOAN BIỂN CUNG CẤP Ở THỊ
TRƢỜNG THẾ GIỚI TRONG GIAI ĐOẠN 2009-2013
.
(Nguồn: Báo cáo thường niên qua các năm, PV Drilling)
Trong khi tốc độ tăng của số lượng giàn khoan biển ở thi trường thế giới trong
năm 2009-2013 là 3-4% thì tốc độ tăng nhu cầu về giàn khoan biển luôn ở mức cao
hơn (7-8%/năm).(Nguồn: PV Drilling. 2009-2013) làm cho số lượng giàn khoan biển
hiện có không đủ đáp ứng nhu cầu
Thị trường dịch vụ cung cấp giàn khoan khu vực Châu Á Thái Bình Dương
cũng trong trường hợp tương tự. Tuy số lượng giàn khoan biển ở thị trường này không
ngừng tăng lên, đến năm 2013, số lượng giàn khoan biển cung cấp trên thị trường là 99
giàn, tăng 5 giàn so với năm 2012 và tăng 15 giàn so với năm 2009, tốc độ tăng về số
lượng giàn khoan biển trong giai đoạn 2009-2013 là khoảng 3-5%, nhưng số lượng
giàn khoan biển này vẫn không đủ đáp ứng nhu cầu hiện có tại thị trường (108 giàn
khoan biển năm 2013) và tốc độ tăng của nhu cầu giàn khoan biển ở thị trường Châu Á
Thái Bình Dương cũng ở mức 7-8%/năm) (Nguồn: PV Drilling. 2009-2013).
68
Với nhu cầu về giàn khoan biển ngày một tăng cao và mức cung giàn chưa đáp
ứng được nhu cầu, PV Drilling sẽ có cơ hội rất lớn để nâng cao năng lực cạnh tranh ở
thị trườngChâu Á Thái Bình Dương, có thêm nhiều hợp đồng cung cấp giàn khoan
biển, tăng thêm doanh thu, lợi nhuận và mở rộng thị phần.
3.2.2. Thời cơ và thách thức
Nền kinh tế thế giới sau giai đoạn khủng hoảng vừa qua đã bắt đầu có tín hiệu
phục hồi nhờ các chính sác và nỗ lực khắc phục khủng hoảng của các quốc gia chịu
ảnh hưởng. Kinh tế Việt Nam đã có những bước chuyển biến tích cực, bắt đầu ổn định
tăng trưởng hơn sau thời gian dài tăng trưởng nóng dẫn đế lạm phát tăng, lãi suất luôn
ở mức cao, tình hình nợ xấu nghiêm trọng...Đây là cơ hội để PV Drilling có thể tăng
cường năng lực cạnh tranh của mình thông qua các hoạt động liên doanh liên kết, đầu
tư đóng mới giàn, dễ dàng hơn trong việc huy động vốn, vay vốn mở rộng quy mô.
Với việc tăng cường tham gia các hội chợ, triển lãm về dầu khí trong khu vực
cũng như trên thế giới đã giúp cho PV Drilling ngày được các công ty Dầu khí và các
Tập Đoàn dầu khí quốc gia các nước, đặc biệt là ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương
biết đến cụ thể như Tập đoàn Dầu khí Vương Quốc Brunei, Tập đoàn Dầu khí Quốc
gia Malaysia,...đồng thời được các công ty Dầu khí đang hợp tác như JVPC, CuuLong
JOC, Hoang Long JOC.. tin tưởng hơn.
Với nhu cầu về giàn khoan biển ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương ngày một
tăng, cơ hội mở rộng đầu tư và nâng cao năng lực cạnh tranh sẽ cao. Nhu cầu giàn
khoan biển tăng, PV Drilling sẽ có cơ hội tiếp cận với các công ty Dầu khí, các Tập
Đoàn dầu khí quốc gia nơi có các mỏ dầu khí ở khu vực. Và với uy tín cũng như
thương hiệu hiện có, PV Drilling sẽ dễ dàng ký kết được các hợp đồng cung cấp dịch
vụ giàn khoan biển. Đồng thời, với nhu cầu giàn khoan biển tăng, các công ty Dầu khí
sẽ nhiều hơn từ đó khả năng giành được hợp đồng dịch vụ cao hơn.
PV Drilling là một trong những đơn vị chủ chốt và mũi nhọn của Tập Đoàn Dầu
khí Quốc gia Việt Nam (PVN). Chính vì vậy, PVN luôn hỗ trợ PV Drilling trong các
69
hoạt động mở rộng ở nước ngoài thông qua các cuộc gặp song phương, đa phương với
các Tập đoàn quốc gia các nước khác. Đồng thời, ngành dầu khí là một ngành công
nghiệp mũi nhọn của Việt Nam vì vậy Chính phủ Việt Nam luôn có những chính sách
hỗ trợ như chính sách miễn giảm thuế nhập khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp, ưu đãi
về đầu tư, tổ chức các cuộc gặp song phương, đa phương bàn về hợp tác về dầu khí và
khai thác dầu khí. Đây là cơ hội tốt cho PV Drilling trong việc mở rộng thị phần, nâng
cao năng lực cạnh tranh của mình ở thị trường Châu Á Thái Bình Dương.
Như đã phân tích ở phần I chương này, do thị trường cung cấp giàn khoan trong
giai đoạn 2014-2030 ngày càng sôi động nên mức độ cạnh tranh ở thị trường này ngày
càng cao. Các nhà thầu khoan hiện tại trong thị trường như Transocean, Seadrill,
Diamond Offshore sẽ tăng cường hoạt động, mở rộng thị phần, tìm kiếm các hợp đồng
khoan dài hạn. Ngoài ra, thị trường sẽ xuất hiện thêm các nhà thầu khoan đang hoạt
động ở các Noble Drilling, China Oilfield Services Ltd, KCA Deutaq, Schlumberger,
Halliburton... Đây là thách thức lớn đối với PV Drilling trong việc nâng cao mức độ
cạnh tranh ở thị trường Châu Á Thái Bình Dương.
Nguồn nhân lực kỹ thuật cao của ngành dịch vụ cung cấp giàn khoan biển ở
Việt Nam còn hạn chế. Nguyên nhân là do ngành kỹ thuật dầu khí ở Việt Nam chưa
được chú trọng, chuyên gia, giảng viên giỏi trong ngành chưa nhiều, cơ sở vật chất còn
nghèo nàn giúp cho sinh viên ít có cơ hội tiếp xúc với thực tế của ngành để tiếp thu
kinh nghiệm thực tế, đặc biệt là đối với kỹ thuật khoan hiện đại. Số lượng học sinh
chọn khối kỹ thuật dầu khí không nhiều mà tập trung chủ yếu vào khối kinh tế nên
trong tương lai nguồn nhân lực trong ngành kỹ thuật dầu khí, trong đó có nguồn nhân
lực kỹ thuật cao sẽ bị khan hiếm.
Xu hướng tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí trong giai đoạn 2011-2020 sẽ
đẩy mạnh tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí ở khu vực nước sâu và cực sâu, cụ
thể là ở khu vực Biển Đông nơi có 70% dầu khí nằm ở khu vực nước cực sâu. Vì vậy,
các công ty Dầu khí trong giai đoạn 2011-2020 sẽ có nhu cầu cao về các giàn khoan
nước sâu như Semi-submersible, Drillship hơn giàn Jack-up. Đồng thời, vì kỹ thuật
70
khoan sẽ thay đổi và đảm bảo tính an toàn trong quá trình vận hành, các công ty dầu
khí sẽ ưa chuộng các giàn khoan thế hệ trẻ, kỹ thuật hiện đại.
3.3. Giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển hợp tác quốc tế trong lĩnh vực
dầu khí của PV Drilling
Dựa trên các cơ sở ở chương 2; việc phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến năng
lực hợp tác quốc tế của PV Drilling, thực trạng năng lực hợp tác quốc tế của PV
Drilling trong giai đoạn 2001-2010, cũng như nêu ra được những thành tựu đạt được
cũng như những tồn tại và nguyên nhân của quá trình hợp tác quốc tế của PV Drilling
ở thị trường Châu Á Thái Bình Dương ở chương 2; những dự báo về nhu cầu và mức
độ cạnh tranh, cơ hội và thách thức và xác định quan điểm, định hướng và mục tiêu
của công cuộc mở rộng hợp tác quốc tế ở đầu chương 3, tác giả xin đề xuất một số kiến
nghị và giải pháp nhằm nâng cao năng lực hợp tác quốc tế của PV Drilling trong giai
đoạn 2011-2020.
3.3.1 Giải pháp
3.3.1.1 Tăng ngân sách đào tạo và cải tiến quy trình tuyển dụng nhân tài
trong nƣớc.
Hiện tại số lượng nhân viên, kỹ sư đang làm việc chỉ vừa đáp ứng được nhu cầu
vận hành các giàn khoan hiện tại, nếu theo kế hoạch tăng số lượng giàn khoan, mở
rộng quy mô, PV Drilling cần có kế hoạch tăng cường đội ngũ nhân lực bằng cách:
- PV Drilling phối hợp với trường Đại học Bách Khoa, trường Đại học Mỏ Địa
Chất, trường Đại học Ngoại Thương để có thể tuyển dụng được nguồn sinh viên giỏi,
đúng chuyên ngành. PV Drilling có thể tổ chức các đợt tuyển dụng quy mô lớn như
chương trình Kỹ sư khoan tài năng hoặc chương trình quản trị viên tập sự, thông báo
rộng rãi trên báo đài, TV để nhiều sinh viên vừa tốt nghiệp nộp đơn đăng ký. PV
Drilling cần lên kế hoạch tuyển dụng sao cho có thể đáp ứng được ít nhất là 90% nhu
cầu, để đảm bảo, PV Drilling có thể tuyển dụng theo dự án, khi bắt đầu tiến hành đóng
71
mới giàn, PV Drilling sẽ tiến hành tuyển dụng nhân sự chủ chốt làm việc và theo sát
dự án đóng giàn cho tới khi giàn đưa vào hoạt động, trước khi giàn đưa vào hoạt động
3-6 tháng, PV Drilling sẽ tiến hành tuyển dụng các vị trí còn lại làm việc trên giàn, tiến
hành đào tạo và huấn luyện. Như vậy, số lượng nhân lực phục vụ cho các giàn khoan
sắp tới sẽ không bị thiếu hụt đồng thời kế hoạch tuyển dụng rõ ràng và bám sát theo kế
hoạch đóng giàn sẽ giúp PV Drilling không bị dư nguồn nhân lực trong hiện tại.
- Để có thể chủ động và tự chủ được ở các vị trí quan trọng trên giàn, PV
Drilling cần tập trung đào tạo nguồn kỹ sư trẻ, tương lai sẽ có thể nắm giữ được các vị
trí này. PV Drilling có thể tổ chức các chương trình như Quản trị viên tập sự giành cho
khối kỹ sư. Theo đó, các sinh viên giỏi tốt nghiệp từ các trường Bách Khoa hoặc Mỏ
Địa Chất sẽ được tuyển dụng và huấn luyện trong 2 năm. Trong hai năm đó, các kỹ sư
này được trải nghiệm qua tất cả các vị trí trên giàn: công nhân làm việc trên sàn khoan,
thợ sơn, lái cẩu...để hiểu rõ thực tế hoạt động trên giàn, nắm rõ được các thiết bị máy
móc chủ yếu trên giàn. Sau đó, các kỹ sư này sẽ được các Giám Đốc giàn, Trưởng giàn
hướng dẫn về vận hành giàn và các công tác khoan. Các kỹ sư này sẽ được tham gia
vào các cuộc họp giữa công ty và các công ty Dầu khí để nắm bắt được nhu cầu, đòi
hỏi của khách hàng và học hỏi được kinh nghiệm xử lý tình huống và sự cố trong quá
trình vận hành giàn khoan biển.
- Tăng cường chuyên môn và phát triển nghề nghiệp cho nhân viên bằng cách
luôn rà soát để biết được khả năng làm việc của nhân viên, từ đó tổ chức các khóa học
nghiệp vụ để nhân viên nâng cao tay nghề, chuyên môn. Ngành khoan và khối văn
phòng hỗ trợ cho công tác hoạt động giàn khoan khá đặc thù nên PV Drilling có thể
tìm kiếm các khóa học về quản lý ở nước ngoài như các khóa học về quản lý chuỗi
cung ứng, quản lý mua sắm Maximo, Oracle... để nhân viên hiểu rõ hơn về hệ thống
đang sử dụng tại PV Drilling, biết thêm được các hệ thống quản lý, kiểm soát mới từ
đó về vận hành hệ thống cũ hiệu quả hơn đồng thời tìm kiếm cơ hội ứng dụng hệ thống
quản lý, kiểm soát mới để nâng cao năng suất lao động. Ngoài ra, để giảm thiếu tối đa
về tai nạn lao động dẫn đến ngừng hoạt động của giàn khoan, PV Drilling cần tổ chức
72
các khóa học, khóa huấn luyện về an toàn nhằm nâng cao ý thức cũng như là trách
nhiệm của công nhân, kỹ sư về an toàn lao động trên giàn khoan biển từ đó hạn chế tối
đa các tai nạn lao động có thể xảy ra.
3.3.1.2 Tăng cƣờng tham gia hợp tác quốc tế, quảng bá hình ảnh của PV
Drilling nói riêng, ngành Dầu khí Việt Nam nói chung ra toàn thế giới
Hoạt động quảng bá và tạo dựng niềm tin từ khách hàng được PV Drilling chú
trọng ngay từ khi mới thành lập. Là một dịch vụ đặc thù, không thể quảng cáo tràn lan
và rầm rộ như các ngành dịch vụ khác, khách hàng của PV Drilling cũng rất đặc thù vì
vậy nên PV Drilling tập trung quảng bá hình ảnh thông qua các cuộc triển lãm, hội
thảo về dầu khí, tham dự để giành được các giải thưởng trong lĩnh vực dầu khí trong
khu vực và trên thế giới.
Đối với triển lãm, hội nghị về dầu khí, PV Drillings luôn cử người tham dự và
có gian hàng như hội nghị OTC Asia (Offshore Technical Conference Asia) được tổ
chức thường niên, hội nghị và triển lãm ASCOPE (ASEAN Council on Petroleum)
được tổ chức 4 năm một lần...Đối với các giải thưởng và bình chọn, PV Drilling luôn
đạt danh hiệu Sao Vàng Đất Việt qua các năm, huân chương lao động hạng nhất, top
10 giải thưởng Báo cáo thường niên tốt nhất năm 2012 của Bộ Tài chính, 2 năm liền
đạt giải thưởng Nhà thầu khoan tốt nhất châu Á (năm 2012, 2013) do tạp chí World
Finance trao tặng.
PV Drilling có riêng một ban phát triển kinh doanh nhằm mục đích quảng bá
hình ảnh và giới thiệu hình ảnh và dịch vụ của công ty đến với các công ty dầu khí
trong khu vực. Đầu năm 2014, PV Drilling vừa thành lập đội truyền thông chuyên
phục vụ công tác tuyên truyền và xây dựng hình ảnh và thương hiệu PV Drilling ở thị
trường khoan trong nước cũng như thị trường khoan thế giới. Với đội truyền thông
này, trong tương lai, hoạt động marketing của PV Drilling sẽ phát triển mạnh mẽ và
thương hiệu PV Drilling sẽ ngày càng được củng cố và được nhiều công ty dầu khí biết
đến và sử dụng dịch vụ.
73
3.3.1.3 Nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ của CBCNV
PV Drilling hiện có nguồn nhân lực chất lượng cao và dồi dào. Tổng số cán bộ
công nhân viên tính đến cuối năm 2013 là 1.810 người (tăng 64% so với năm mới
thành lập), trong đó chuyên gia kỹ thuật cao người nước ngoài có khoảng 100 người.
Nguồn nhân lực Việt Nam có trình độ cao (trình độ thạc sỹ, tiến sỹ chiếm 6%, trình độ
cao đẳng, đại học chiếm 45%). Nguồn nhân lực của PV Drilling hiện đang đáp ứng đủ
nhu cầu về nguồn nhân lực hoạt động trên giàn khoan biển cũng như là khối văn phòng
hỗ trợ sản xuất.
BẢNG 3.2: SỐ LƢỢNG NGƢỜI LAO ĐỘNG TRONG PV DRILLING
Số Tỷ Số Tỷ Trình độ Hợp đồng lao động
CBCNV trọng CBCNV trọng
2 14 0,8% Tiến sĩ 0,1% Thử việc
58 14 0,8% Thạc sỹ 3,1% Thời vụ
831 938 50,6% Đại học 44,8% Xác định thời hạn
750 887 47,9% Cao đẳng, công 40,5% Không xác định
nhân kỹ thuật thời hạn
Tổng cộng 1.853 100% Tổng cộng 1.853 100%
(Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2010, PV Drilling)
Về đào tạo, PV Drilling hiện đang chú trọng công tác đào tạo nguồn nhân lực.
Đối với khối nhân sự đi biển, PV Drilling luôn tổ chức hoặc thuê các trung tâm đào tạo
chuyên ngành để tổ chức các khóa học về kỹ thuật khoan, quản lý giếng khoan, khóa
học an toàn biển BOSIET, cử các cán bộ chủ chốt sang nước ngoài tham dự các khóa
74
học, các buổi hội thảo về ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào công tác điều hành
khoan...
Đối với các nhân viên khối văn phòng, bên cạnh các khóa học đã được tổ chức
về chuyên ngành như: khóa học về kiến thức về dầu khí và vận hành giàn khoan dành
cho người không phải là kỹ sư dầu khí, khóa học nghiệp vụ sử dụng hệ thống quản lý
hàng tồn kho và mua sắm MAXIMO, khóa học về nghiệp vụ ngoại thương xuất, nhập
khẩu, PV Drilling còn triển khai tìm hiểu nhu cầu đào tạo của các cán bộ công nhân
viên từ đó tổ chức các khóa học phù hợp. Cụ thể như trong 2 năm 2012, 2013, PV
Drilling đã tổ chức được các khóa học kỹ năng mềm như: xây dựng hình ảnh chuyên
nghiệp, quản lý công việc, nghệ thuật đàm phán...
PV Drilling còn có 1 đơn vị riêng tiêu chuẩn quốc tế để phục vụ công tác đào
tạo và huấn luyện đó là Công ty Cổ phần Đào tạo Kỹ thuật PVD (PVD Training). PVD
Training đã được tổ chức OPITO (Offshore Petroleum International Training
Organization) công nhận cấp phép đào tạo an toàn biển theo chuẩn mực quốc tế
OPITO. Đơn vị này đã hỗ trợ cho PV Drilling rất nhiều trong việc cung cấp nguồn
nhân lực chất lượng cao hoạt động trong lĩnh vực cung cấp giàn khoan biển.
BẢNG 3.3: MỘT VÀI CHỈ SỐ VỀ ĐÀO TẠO CỦA PV DRILLING
QUA CÁC NĂM
Chỉ tiêu ĐVT 2007 2008 2009 2010
Khóa 720 766 1.015 1.366 Số khóa đào tạo trong năm
Người 2.927 3.971 3.994 4.452 Số lƣợt ngƣời tham gia đào tạo
Tỷ đồng 19,5 29,8 35 37,5 Tổng chi phí đào tạo
Triệu đồng 12 17,3 21 21,2 Chi phí đào tạo bình
quân/CNCNV
75
Giờ 9,9 10,3 11,8 12,4 Thời gian đào tạo bình quân/
CBCNV
(Nguồn: Báo cáo thường niên của PV Drilling năm 2010, PV Drilling)
3.3.1.4. Xây dựng quy trình làm việc chuyên nghiệp theo các tiêu chuẩn
quốc tế
Ngay từ những ngày đầu thành lập, việc xây dựng và áp dụng thành công hệ
thống quản lý An toàn – Sức khỏe – Môi trường – Chất lượng (HSEQ) theo các tiêu
chuẩn quốc tế vào các hoạt động sản xuất kinh doanh của PV Drilling được xem là một
trong những mục tiêu quan trọng hàng đầu, là chìa khóa cho sự hội nhập thành công
của PV Drilling vào thị trường cung cấp dịch vụ dầu khí quốc tế. Được sự cam kết
mạnh mẽ từ cấp lãnh đạo cao nhất, hệ thống quản lý HSEQ theo các tiêu chuẩn quốc tế
lần lượt được xây dựng và áp dụng thành công trong thời gian ngắn tại PV Drilling
thông qua việc đạt chứng nhận quốc tế về các hệ thống như: :
Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2008
Hệ thống quản lý an toàn và sức khỏe nghề nghiệp theo Tiêu chuẩn OHSAS
18001:2007
Hệ thống quản lý môi trường theo Tiêu chuẩn ISO 14001:2004
Hệ thống quản lý An toàn – sức khỏe – môi trường của PV Drilling được quản
lý thống nhất từ Tổng Công ty đến các phòng ban, đơn vị trực thuộc để đảm bảo tính
thống nhất của toàn hệ thống. Ban An toàn – Chất lượng Tổng công ty chịu trách
nhiệm trong việc thiết lập, ban hành, và trực tiếp kiểm tra giám sát việc thực hiện và
tuân thủ đối với các chính sách, quy trình của hệ thống cũng như tham mưu cho Ban
lãnh đạo trong việc giám sát và định hướng phát triển hệ thống An toàn – Sức khỏe –
Môi trường tích hợp góp phần vào sự phát triển bền vững của Tổng Công ty. Tại các
đơn vị trực thuộc, phòng An toàn – Chất lượng chịu trách nhiệm triển khai thực hiện
các chính sách, quy trình của Tổng công ty cũng như tư vấn, hỗ trợ các phòng, bộ phận
76
sản xuất trực tiếp trong việc thực hiện, kiểm tra giám sát việc tuân thủ và kịp thời phản
ánh những vấn đề cần bổ sung, điều chỉnh nhằm đảm bảo hiệu lực và hiệu quả của hệ
thống trong thực tế.
Làm việc an toàn là một yêu cầu bắt buộc đối với người lao động khi làm việc
tại PV Drilling, yêu cầu này nhằm cung cấp một môi trường an toàn cho mọi người khi
tham gia PV Drilling như một phần cam kết của lãnh đạo PV Drilling.
Từ năm 2009, PV Drilling đã tiến hành triển khai hệ thống ERP ở các lĩnh vực
như Quản lý dự án, Nhân sự, Mua sắm vật tư, hàng hóa. Ngoài ra PV Drilling sẽ tiếp
tục phát huy việc ứng dụng thành công hệ thống phần mềm quản lý vật tư MAXIMO
và các hệ thống ứng dụng phục vụ chuyên ngành dầu khí khác nhằm quản lý tối ưu vật
tư, giảm thiểu chi phí lưu động, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh.
3.3.2 Kiến nghị
+ Về mặt nhân sự:
- Nhanh chóng nội địa hóa và xây dựng một chương trình đào tạo nhân lực
chuyên nghiệp và mang tính chất quốc tế cho các vị trí nhân sự giữ chức vụ cao
trên giàn để giảm chi phí cho việc thuê chuyên gia nước ngoài. Vì trong tương
lai gần, việc cạnh tranh với các nhà thầu khoan mạnh trên thế giới là điều chắc
chắn PV Drilling phải đối mặt, nên bản thân PV Drilling phải tự tạo thế mạnh
cho riêng mình để có thể đứng vững trên thị trường khoan. Việc giảm chi phí
thuê chuyên gia nước ngoài là một phương pháp hữu hiệu, ngoài ra có tăng
cường nhiều yếu tố phụ như giao tiếp, văn hóa, cách sống… từ đó công việc sẽ
dễ dàng trôi chảy và giảm được các yếu tối rủi ro do sốc văn hóa hay thiếu hụt
chuyên gia nước ngoài.
- Xem xét lại bảng lương cho các nhân sự nội địa đang đảm nhiệm các vị trí mà
chuyên gia nước ngoài. Hiện nay, có sự chênh lệch rất lớn cho cùng một vị trí
giữa chuyên gia nước ngoài và chuyên gia Việt Nam. Điều này sẽ dễ làm chảy
77
máu chất xám khi ngày càng nhiều chuyên gia Việt Nam chuyển sang làm cho
các nhà thầu khoan nước ngoài.
- Cần nâng cao hợp tác nghiên cứu đào tạo với các trung tâm chuyên về ngành
khoan dầu khí trên thế giới, đặc biệt là các cơ quan trung tâm tại Hoa Kỳ vì đây
là một quốc gia tiên tiến nhất trong lĩnh vực này. Các kỹ sư Việt Nam khi được
tham gia đào tạo, nghiên cứu tại đây sẽ mang về Việt Nam nhiều sáng kiến,
kinh nghiệm hay và có thể đại diện cho Việt Nam trong các cuộc đấu thầu lớn
tại các thị trường khó trên thế giới như Nam Mỹ, Trung Mỹ.
+ Về mặt kỹ thuật
- Cần nâng cao toàn cầu hóa trong việc hợp tác mua linh kiện, vật tư cho giàn
khoan. Hiện nay việc mua hàng hóa này chỉ tập trung tại hai quốc gia là
Singapore và Hoa Kỳ. PV Drilling bỏ qua nhiều nhà cung cấp lớn ở các quốc
gia tiên tiến khác vì ngại va chạm văn hóa và các rào cản thuế quan. Do vậy, để
nâng cao toàn cầu hóa, PV Drilling phải cải thiện hệ thống Logistics, xuất nhập
khẩu và các khâu thương mại mua sắm để nâng cao sự linh hoạt và đưa hình
ảnh, tên tuổi của PV Drilling đến toàn thế giới.
- PV Drilling cần nhanh chóng hợp tác với các quốc gia trong cùng khối Xã hội
chủ nghĩa để nhanh chóng chiếm lĩnh thị phần cho thuê giàn khoan và các công
nghiệp phụ trợ đi kèm. Tiêu biểu là Cuba. Đây là nơi có nguồn dầu mỏ lớn, hiện
nay Cuba vẫn chưa khai thác nhiều, Hoa Kỳ vẫn chưa thể xâm nhập vào thị
trường này. Do đó PV Drilling cần phải nhanh chóng nghiên cứu và tiến hành
thăm dò, mở ra các bước đầu hợp tác với quốc gia này, thay vì cứ theo sát quốc
gia Venezuela đã không còn là một thị trường mở khi mà cố tổng thống Hugo
Chavez đã qua đời.
- PV Drilling cần nghiên cứu và hợp tác với Nhật Bản trong việc nâng cao kỹ
thuật khoan xiên để tiết kiệm chi phí sản xuất và nâng cao hình ảnh của PV
Drilling với các nhà thầu mỏ trên thế giới. Vì trên thế giới hiện nay không một
78
quốc gia nào hiểu rõ kỹ thuật khoan xiên này bằng Nhật Bản, nên việc hợp tác
với quốc gia này là điều phải làm và cần đẩy nhanh tiến độ hơn.
Tiểu kết chƣơng 3
Trong chương này, tác giả đã phân tích dự báo về nhu cầu giàn khoan biển, mức
độ cạnh tranh ở thị trường Châu Á Thái Bình Dương trong giai đoạn 2011-2020, cơ
hội và thách thức cho PV Drilling trong giai đoạn này. Bên cạnh đó, tác giả cũng đã
nghiên cứu chiến lược phát triển của ngành Dầu khí, mục tiêu phát triển và định hướng
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của dịch vụ cung cấp giàn khoan biển của PV
Drilling trong giai đoạn 2011-2020. Từ việc nghiên cứu và phân tích những căn cứ trên
kết hợp với việc đánh giá năng lực hợp tác quốc tế của PV Drilling ở chương II và
những điểm tổng quan của PV Drilling ở chương I, tác giả đã đề ra một số kiến nghị,
giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của dịch vụ cung cấp giàn khoan biển
của PV Drilling trong giai đoạn 2011-2020.
79
KẾT LUẬN
Dịch vụ cung cấp giàn khoan biển là ngành mũi nhọn của PV Drilling nói riêng
là một trong những ngành dịch vụ chủ chốt trong lĩnh vực Dầu khí của Việt Nam. Thị
trường ngành khoan dầu tại Việt Nam được các nhà chuyên môn đánh giá là một trong
những thị trường sôi động, có trữ lượng dầu khí lớn và là thị trường có nhu cầu sử
dụng dịch vụ cung cấp giàn khoan biển lớn trên thế giới. Vì vậy, việc nâng cao năng
lực hợp tác quốc tế của PV Drilling để ngày càng phát triển và nâng cao năng lực cạnh
tranh là điều vô cùng cần thiết. Qua quá trình nghiên cứu đề tài: “Hợp tác quốc tế trong
lĩnh vực dầu khí tại Tổng Công Ty Cổ Phần Khoan và Dịch Vụ Khoan Dầu Khí (2001-
2010)”. Tác giả rút ra được các nhận định sau:
1. Hệ thống hóa các khái niệm về hợp tác quốc tế, tăng cường mở rộng các quan
hệ hợp tác hai bên, ba bên. Bên cạnh đó, tác giả cũng đã chứng minh tầm quan
trọng/ sự cần thiết phải nâng cao năng lực hợp tác quốc tế của PV Drilling vào
thời điểm hiện nay. Đồng thời, luận văn còn nêu ra các chỉ tiêu nâng cao năng
lực hợp tác quốc tế và các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động nâng cao năng lực
hợp tác quốc tế.
2. Luận văn cũng đã giới thiệu chi tiết về PV Drilling, tìm hiểu về các yếu tố ảnh
hưởng đến năng lực hợp tác quốc tế của PV Drilling.
3. Dựa trên các cơ sở lý thuyết, các khái niệm về hợp tác quốc tế, luận văn đã
nghiên cứu thực trạng năng lực hợp tác quốc tế của PV Drilling trong giai đoạn
2001-2010, đánh giá năng lực hợp tác quốc tế của PV Drilling trong giai đoạn
2001-2010 bằng những thành tựu đạt được và những tồn tại nguyên nhân như
sau:
+ Về hợp tác thăm dò dầu khí: tuy số lượng giàn đang tăng qua các năm
nhưng do PV Drilling chỉ mới thành lập từ năm 2001, tuổi đời còn trẻ nên số
lượng giàn khoan còn rất ít so với các đối thủ cạnh tranh. Chủng loại giàn chủ
yếu là giàn khoan tự nâng, chỉ mới bắt đầu chú trọng vào giàn khoan nước sâu
từ năm 2010 và cũng mới chỉ có 1 giàn tiếp trợ, chưa có các loại giàn khoan nửa
80
nổi nửa chìm và tàu khoan. Do đó, các hoạt động thăm dò thực sự vẫn còn yếu,
nhưng do cơ chế bảo hộ của nhà nước nên PV Drilling vẫn đang chiếm lĩnh thị
trường. Nếu muốn thành công khi mở cửa thị trường khoan, PV Drilling cần
phải đầu tư đa dạng về chủng loại giàn, số lượng giàn.
+ Về hợp tác khai thác dầu khí: PV Drilling chỉ mới bắt đầu mở rộng ra
thị trường khai thác từ tháng 10/2002, trong khi đó thì các nhà thầu khoan lớn
như Transocean và Seadrill đã và đang cung cấp giàn khoan biển cho công tác
khoan khai thác ở các nước lân cận Singapore, Malaysia, Indonesia, Thái Lan,
Brunei…và sẵn sàng tiến vào Việt Nam khi nhà nước mở cửa. Do vậy, PV
Drilling cần phải nhanh chóng phát triển mạnh mẽ hơn nữa để sẵn sàng cạnh
tranh lành mạnh với các nhà thầu khoan lớn trên thế giới.
+ Về nguồn nhân lực, đào tạo: hiện tại các vị trí cao và quan trọng trên
giàn đều do chuyên gia nước ngoài nắm giữ, chính vì vậy làm chi phí vận hành
bị tăng cao đồng thời thiếu sự chủ động và tự chủ trong quá trình vận hành. Do
đó, PV Drilling cần chú trọng đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực, đồng
thời nâng cao chất lượng tuyển dụng từ các trường đại học hàng đầu của Việt
Nam như Đại học Bách Khoa, Đại học Mỏ Địa Chất…
4. Trên cơ sở phân tích một số dự báo về nhu cầu và mức độ cạnh tranh trên thị
trường khoan ở Việt Nam giai đoạn 2011-2040, tìm hiểu về chiến lược phát
triển của ngành Dầu khí, định hướng và mục tiêu phát triển nhằm nâng cao năng
lực hợp tác quốc tế của PV Drilling ở thị trường khoan Việt Nam giai đoạn
2011-2040, tác giả đã đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao năng
lực hợp tác quốc tế của PV Drilling ở thị trường khoan Việt Nam giai đoạn
2011-2040 như sau:
Tăng số lượng giàn khoan
Đa dạng chủng loại giàn khoan biển
Nâng cao chất lượng giàn khoan
Tăng cường đội ngũ nhân lực
81
Xây dựng và mở rộng danh sách nhà cung cấp trang thiết bị đầu vào
Phát triển, mở rộng thị phần sang các nước Đông Nam Á.
Tác giả hy vọng rằng qua việc nghiên cứu và đưa ra giải pháp trên, đề tài sẽ
đóng góp phần nào trong việc nâng cao năng lực hợp tác quốc tế của PV Drilling ở thị
trường khoan Việt Nam nhằm đem lại nguồn doanh thu, lợi nhuận cao cho công ty
đồng thời nâng cao uy tín và thương hiệu PV Drilling nói riêng và ngành Dầu khí Việt
Nam nói chung.
82
PHỤ LỤC
1. Tìm hiểu thêm về Vietsovpetro
Một số sơ lược về quá trình hình thành và phát triển của Liên doanh
Vietsopetro:
- Trong gần 30 năm hoạt động, Viesovpetro đã khảo sát 115.000 kilômét
tuyến địa chấn, trong đó có 71.000 kilômét tuyến địa chấn không gian 3 chiều.
- Đã khoan được 368 giếng, bao gồm 61 giếng khoan tìm kiếm, thăm dò và
307 giếng khoan khai thác.
- Tại 2 mỏ Bạch Hổ và mỏ Rồng, đã xây dựng trên 40 công trình biển trong
có có các công trình chủ yếu như:
12 giàn khoan khai thác cố định, 10 giàn nhẹ, 02 giàn công nghệ trung
tâm, 02 giàn nén khí, 04 giàn duy trì áp suất vỉa, 03 trạm rót dầu không
bến.
Tất cả các công trình được kết nối thành một hệ thống đường ống ngầm
nội mỏ liên mỏ dài trên 400 kilômét.
Những thành tựu nổi bật trong hoạt động dầu khí tại Việt Nam của liên doanh
Vietsovpetro như:
- Đã phát hiện 3 mỏ dầu có giá trị thương mại và nhiều cấu tạo chứa dầu,
trong đó đặc biệt mỏ Bạch Hổ là mỏ lớn nhất Việt Nam và đứng vào hàng thứ 3 trong
các mỏ đã phát hiện ở khu vực vành đai Tây Bắc cung Thái Bình Dương (bao gồm:
Nhật Bản, Trung Quốc và các nước Asean), chỉ đứng sau mỏ Đại Khánh của Trung
Quốc (phát hiện năm 1959) và mỏ Minas của Indonesia (phát hiện năm 1944). Các
thân chứa sản phẩm của mỏ được phát hiện năm 1975(các thân chứa dầu tuổi Mioxen),
năm 1984 (các thân cát chứa dầu tuổi Oligoxen) và đặc biệt thân dầu lớn nhất trong đá
móng nứt nẻ tuổi mezozoi (năm 1987) với chiều cao thân dầu gần 2000 mét.
83
- Đã tìm và phát hiện thân dầu trong đá móng nứt nẻ là hiện tượng chưa từng
gặp ở hơn 400 mỏ đã phát hiện cho đến nay hơn 50 bể trầm tích tại khu vực vành đai
Tây Bắc cung Thái Bình Dương chính là điểm mới, nét đặc sắc và là sự đóng góp lớn
nhất của các nhà Địa chất dầu khí Vietsovpetro, các nhà Địa chất Việt Nam – Liên Xô,
vạch ra phương hướng mới trong công tác tìm kiếm thăm dò dầu khí ở khu vực.
- Trên thực tế, tiếp theo Bạch Hổ, hàng loạt các thân dầu khí mới từ tầng đá
móng đã được phát hiện trên mỏ Rồng (Vietsovpetro) 1987, Rạng Đông JVPC năm
1994, Hồng Ngọc (Petronas Carigaly năm 1994), Sư Tử Đen (Cửulong JOC năm
2000), Cá Ngừ Vàng (Hoàn Vũ JOC năm 2002), Nam Rồng - Đồi Mồi (Vietsovpetro
và VRJ năm 2004)... các phát dầu khí lớn từ tầng đá móng nứt nẻ, phong hóa ở mỏ
Bạch Hổ và các mỏ khác chính là nhân tố quyết định để ngành dầu khí non trẻ Việt
Nam nhanh chóng trưởng thành và hiện đứng hàng thứ 3 trong các nước xuất khẩu dầu
trong khối ASEAN, chỉ còn sau Indonesia, Malaysia và đã vượt qua các nước có nền công nghiệp dầu khí lâu đời như Myanmar, Brunei ...41
- Việc Vietsovpetro phát hiện dầu từ tầng đá móng với trữ lượng lớn đã tạo ra
một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử phát triển của ngành dầu khí Việt Nam, đồng
thời tạo ra sức hút đối với các Tập đoàn dầu khí lớn trên thế giới vào đầu tư tìm kiếm
thăm dò vào khai thác dầu khí ở Việt Nam.
- Điều có ý nghĩa khoa học và kinh tế vô cùng quan trọng đó là Vietsovpetro
đã nghiên cứu và tìm ra những giải pháp kỹ thuật và công nghệ phù hợp để khai thác
dầu từ tầng móng với những đặc trưng địa chất cực kỳ phức tạp mà trên thế giới chưa
từng có các mô hình tương tự. Ngoài ra Vietsovpetro còn tham gia xây dựng nhiều
công trình khai thác dầu khí cho các công ty dầu khí hoạt động trên thềm lục địa Việt
Nam và tại các nước khác trên thế giới, đồng thời Vietsovpetro cũng đã tham gia xây
41 Website Vietsovpetro, http://www.vietsov.com.vn/Pages/Default.aspx, truy cập ngày 08 tháng 12 năm 2013
dựng các công trình trọng điểm quốc gia như đường ống dẫn khí PM3- Cà Mau...
84
- Lắp đặt các thiết bị và đường ống kết nối mỏ Cá Ngừ Vàng (Lô 09-2) về
Bạch Hổ, đồng thời thực hiện dịch vụ khai thác dầu khí cho Mỏ Cá Ngừ Vàng cho
công ty Hoàn Vũ JOC.
- Sản lượng dầu đến nay Vietsovpetro đã khai thác đạt trên 200 triệu tấn, vận
chuyển về bờ cho các nhà máy khí điện đạm trên bờ trên 24 tỷ mét khối
Trong quá trình hoạt động, Vietsovpetro luôn luôn được sự quan tâm chỉ đạo,
động viên kịp thời của 2 Chính phủ Việt Nam và Liên Bang Nga về những thành tựu to
lớn mà Liên Doanh Việt Nga đạt được, đã phong tặng 2 lần danh hiệu Anh hùng Lao
Động, Huân chương cao quý Hồ Chí Minh, Huân chương Sao vàng và nhiều Huân
chương, Huy chương khác của 2 Nhà nước.
Vietsovpetro là Liên doanh dầu khí hoạt động đa ngành, hiện đại, cùng với đội ngũ các
nhà khoa học có trình độ chuyên môn cao, giàu kinh nghiệm, đội ngũ kỹ sư, công nhân
với độ dày kinh nghiệm trong các lĩnh vực Địa chất, Địa Vật lý giếng khoan, khai thác,
thiết kế và xây dựng các công trình dầu khí biển, sẵn sàng hợp tác với các công ty dầu
khí trong và ngoài nước trên tinh thần hợp tác cùng có lợi.
2. Tìm hiểu thêm về dự án Biển Đông 01
Dự án Biển Đông 01 là dự án khai thác ngoài khơi tại khu vực nước sâu trong
điều kiện “nhiệt độ cao, áp suất cao”, có quy mô lớn nhất từ trước tới nay tại Việt
Nam, đòi hỏi các tiêu chuẩn hết sức ngặt nghèo về kỹ thuật. Các giàn này sử dụng
công nghệ tiên tiến để có thể hoạt động khai thác trong môi trường nước sâu (140m)
với điều kiện địa chất phức tạp. Thành công của dự án này cũng khẳng định sự đúng
đắn của PVN về việc thành lập Chi nhánh Biển Đông POC của Tập đoàn để thực hiện
dự án mỏ khí/condensate Hải Thạch (Lô 05-2), Mộc Tinh (Lô 05-3).
Ngày 6/9/2013, dòng khí đầu tiên từ Dự án Biển Đông 01 đã được Biển Đông
POC đưa vào khai thác thương mại. Trải qua 9 tháng khai thác an toàn, hiệu quả, Biển
Đông POC đã đạt cột mốc 1 tỷ m3 khí, mỗi cột mốc đánh dấu những cố gắng của rất
85
nhiều cán bộ công nhân viên Biển Đông POC cùng nhiều đơn vị khác, đóng góp rất
thiết thực cho PVN, thành công ấy đến từ sự hăng say lao động, cống hiến của từng
cán bộ, công nhân viên.
86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tiếng Việt
1. Vương Dật Châu (2004), An ninh quốc tế trong thời đại toàn cầu hóa, NXB
Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 2004.
2. Nguyễn Anh Tuấn (2006), An ninh dầu lửa: Vấn đề và giải pháp tại các nước
Đông Nam Á, Những vấn đề kinh tế thế giới, số 5 (121).
3. Thông tấn xã Việt Nam (2006), Hợp tác năng lượng Trung Quốc – ASEAN, Tài
liệu tham khảo đặc biệt, số 96, 26/4.
4. Trịnh Cường (2006), Châu Phi trong chiến lược của các nước lớn, Tạp chí
Cộng Sản, số 7 (753).
5. Cốc Nguyên Dương (2006), Trung Quốc 10 năm đầu thế kỷ XXI: Phát triển và
hợp tác, Nghiên cứu Trung Quốc, số 1 (165).
6. Ban Tư tưởng Văn hóa Trung Ương (2004), Những vấn đề lớn của thế giới và
quá trình hội nhập, phát triển của nước ta, Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia,
Hà Nội.
7. Đảng Cộng Sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI, Nhà Xuất Bản Sự Thật, Hà Nội.
8. Đảng Cộng Sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII, Nhà Xuất Bản Sự Thật, Hà Nội.
9. Đảng Cộng Sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội.
10. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội.
11. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội.
12. Học viện Quan hệ Quốc tế (2001), Tình hình quốc tế và chính sách đối ngoại
của Việt Nam, quyển 1, Hà Nội.
13. Học viện Quan hệ Quốc tế (2001), Tình hình quốc tế và chính sách đối ngoại
của Việt Nam, quyển 2, Hà Nội.
87
14. Học viện Quan hệ Quốc tế (2002), Tình hình quốc tế và chính sách đối ngoại
của Việt Nam, quyển 3, Hà Nội.
15. Học viện Quan hệ Quốc tế (2002), Tình hình quốc tế và chính sách đối ngoại
của Việt Nam, quyển 4, Hà Nội.
16. Hà Mỹ Hương (2006), Quan hệ giữa các nước lớn khu vực Châu Á – Thái Bình
Dương: một vài phân tích và dự báo, Tạp chí Cộng Sản, số 10, (756).
17. Thông tấn xã Việt Nam (2006), Trung Quốc, chiến lược an ninh năng lượng,
Tài liệu tham khảo, số 4.
18. Thông tấn xã Việt Nam (2006), Chiến lược dầu mỏ của Mỹ gặp khó khăn, Tin
Tham khảo thế giới, số 42, ngày 25/2.
19. Thông tấn xã Việt Nam (2006), Chiến lược dầu mỏ toàn cầu của Trung Quốc,
Tin Tham Khảo thế giới, số 42, ngày 25/2.
20. Trầm Trọng (2005), Dầu mỏ và những biến động trong quan hệ quốc tế, Tạp
chí Cộng sản, số 13 (86).
21. Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (2001), Trật tự thế giới sau
Chiến tranh Lạnh, phân tích và dự báo, tập I, Viện Khoa học Xã hội, Hà Nội.
22. Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (2001), Trật tự thế giới sau
Chiến tranh Lạnh, phân tích và dự báo, tập II, Viện Khoa học Xã hội, Hà Nội.
23. Tập đoàn dầu khí Việt Nam (2011), Lịch sử ngành Dầu Khí Việt Nam (đến năm
2010), Tập 1, Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia – Sự Thật, Hà Nội.
24. Tập đoàn dầu khí Việt Nam (2011), Lịch sử ngành Dầu Khí Việt Nam (đến năm
2010), Tập 2, Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia – Sự Thật, Hà Nội.
25. Tập đoàn dầu khí Việt Nam (2011), Lịch sử ngành Dầu Khí Việt Nam (đến năm
2010), Tập 3, Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia – Sự Thật, Hà Nội.
26. PV Drilling (2006), Báo cáo thường niên của Tổng Công Ty Cổ Phần Khoan
và Dịch vụ Khoan Dầu Khí năm 2006.
27. PV Drilling (2007), Báo cáo thường niên của Tổng Công Ty Cổ Phần Khoan
và Dịch vụ Khoan Dầu Khí năm 2007.
88
28. PV Drilling (2008), Báo cáo thường niên của Tổng Công Ty Cổ Phần Khoan
và Dịch vụ Khoan Dầu Khí năm 2008.
29. PV Drilling (2009), Báo cáo thường niên của Tổng Công Ty Cổ Phần Khoan
và Dịch vụ Khoan Dầu Khí năm 2009.
30. PV Drilling (2010), Báo cáo thường niên của Tổng Công Ty Cổ Phần Khoan
và Dịch vụ Khoan Dầu Khí năm 2010.
2. Tiếng Anh
31. Energy Information Administration (2001), International Energy Outlook 2001,
DOE/EIA -0484-March.
32. Energy Information Administration (2002), International Energy Outlook 2002,
DOE/EIA – 0484-March.
33. Engery Information Administration (2003), International Energy Outlook 2003,
DOE/EIA -0484-May.
34. Energy Information Administration (2004), International Energy Outlook 2004,
DOE/EIA – 0484 – April.
35. Energy Information Administration (2005), International Energy Outlook 2005,
DOE/EIA – 0484 – July.
36. Energy Information Administration (2006), International Energy Outlook 2006,
DOE/EIA – 0484 – June.
37. Energy Information Administration (2007), International Energy Outlook 2007,
DOE/EIA – 0484 – May.
38. Energy Information Administration (2008), International Energy Outlook 2008,
DOE/EIA – 0484 – September.
39. Energy Information Administration (2009), International Energy Outlook 2009,
DOE/EIA – 0484 – May.
40. Energy Information Administration (2010), International Energy Outlook 2010,
DOE/EIA – 0484 – July.
41. Energy Information Administration (2011), International Energy Outlook 2011,
DOE/EIA – 0484 – September.
89
42. Energy Information Administration (2012), Annual Energy Outlook 2012,
DOE/EIA – 0484 – June.
43. Energy Information Administration (2013), International Energy Outlook 2013,
DOE/EIA – 0484 – July.
44. Arthur S.Ding (11-2005), China’s energy security demands and the East China
Sea: a growing likelihood of conflict in East Asia, The China and Eurasia
Forum Quarterly. Volume 3, No.3.
45. Richard Giragosian (2004), East Asia tackles energy security, Asia Times,
August 24.
46. Sonya Fatah (2005), A Pipeline or a Pipe Dream, Fortune, No.23 (152), pp. 24-
26.
47. BP (2012), Annual Report and Form 20-F 2012, 12-2012
48. Malaysia Chapter- Oil & Gas Regulation 2014, International Comparatives
Legal Guide.
3. Các trang web tham khảo
49. http://www.cpv.org.vn/
50. http://www.eia.gov/
51. http://www.tapchicongsan.org.vn/
52. http://news.vnanet.vn/
53. http://www.pvn.vn/
54. http://www.whitehouse.gov/
55. http://www.mofa.gov.vn/vi/