ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-------------------------------------

NGUYỄN MẠNH HÙNG

HỢP TÁC QUỐC TẾ TRONG LĨNH VỰC DẦU KHÍ CỦA TỔNG CÔNG TY CỔ PHẦN KHOAN VÀ DỊCH VỤ KHOAN DẦU KHÍ (2001-2010)

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUỐC TẾ HỌC

Hà Nội – 2015

ĐAI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-------------------------------------

NGUYỄN MẠNH HÙNG

HỢP TÁC QUỐC TẾ TRONG LĨNH VỰC DẦU KHÍ CỦA TỔNG CÔNG TY CỔ PHẦN KHOAN VÀ DỊCH VỤ KHOAN DẦU KHÍ (2001-2010)

Chuyên ngành Quan hệ Quốc tế

Mã số: 60 31 02 06

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUỐC TẾ HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS Nguyễn Minh Mẫn

Hà Nội – 2015

MỤC LỤC

Trang

Phần mở đầu .................................................................................................................... 1

CHƢƠNG 1: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TỔNG

CÔNG TY CỔ PHẦN KHOAN VÀ DỊCH VỤ KHOAN DẦU KHÍ (PV

DRILLING) ................................................................................................................... 9

1.1 Quá trình hình thành và phát triển của PV Drilling ........................................... 9

1.1.1 Quá trình hình thành của PV Drilling ............................................................... 9

1.1.2 Các giai đoạn phát triển của PV Drilling ........................................................ 12

1.1.3 Định hướng phát triển của PV Drilling .......................................................... 19

1.2 Vai trò của PV Drilling đối với ngành dầu khí Việt Nam ................................. 22

1.2.1 Đối với ngành dầu khí trong nước .................................................................. 23

1.2.2 Đối với ngành dầu khí quốc tế ........................................................................ 24

1.3 Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực dầu khí của PV Drilling ................................... 27

1.3.1 Cơ sở hoạch định ............................................................................................ 27

1.3.2 Quá trình triển khai hợp tác quốc tế ............................................................... 28

Tiểu kết chƣơng 1 ........................................................................................................ 29

CHƢƠNG 2: HOẠT ĐỘNG TRIỂN KHAI HỢP TÁC QUỐC TẾ TRONG

LĨNH VỰC DẦU KHÍ CỦA PV DRILLING ........................................................... 31

2.1. Đối với lĩnh vực khoan thăm dò .......................................................................... 31

2.1.1 Chính sách ưu đãi của nhà nước trong việc hợp tác quốc tế cho việc khoan

thăm dò dầu khí tại vùng biển Việt Nam ...................................................................... 31

2.1.2 Hợp tác với Vietsovpetro ............................................................................... 33

2.1.3 Hợp tác với JVPC .......................................................................................... 36

2.1.4 Hợp tác với các nhà thầu khoan của Hoa Kỳ ................................................ 38

2.1.5 Hợp tác với các nhà thầu khoan của khối ASEAN ...................................... 40

2.2 Đối với lĩnh vực khoan khai thác ......................................................................... 41

2.2.1 Hợp tác với Biển Đông POC ......................................................................... 41

2.2.2 Hợp tác với các đối tác từ Anh Quốc và Hoa Kỳ .......................................... 42

2.2.3 Chính sách của nhà nước về việc ưu đãi cho ngành khoan khai thác tại

vùng biển Việt Nam ..................................................................................................... 46

2.3 Đối với lĩnh vực đào tạo phát triển nguồn nhân lực .......................................... 49

2.3.1 Hợp tác với Hoa Kỳ ........................................................................................ 49

2.3.2 Hợp tác với Nhật Bản ..................................................................................... 51

2.3.3 Hợp tác với các nước trong tổ chức ASEAN ................................................. 52

2.3.4 Hợp tác với các tổ chức quốc tế ..................................................................... 55

2.4 Đối với lĩnh vực khoa học công nghệ ................................................................... 56

2.4.1 Chính sách ưu đãi của Việt Nam ................................................................... 56

2.4.2 Chiến lược của PV Drilling ............................................................................ 58

Tiểu kết chƣơng 2 ........................................................................................................ 60

CHƢƠNG 3: TÁC ĐỘNG VÀ TRIỂN VỌNG CỦA QUÁ TRÌNH HỢP TÁC

QUỐC TẾ TRONG LĨNH VỰC DẦU KHÍ CỦA PV DRILLING ........................ 61

3.1 Tác động của quá trình hợp tác quốc tế của PV Drilling ...................................... 61

3.1.1 Tác động đối với ngành công nghiệp dầu khí nội địa .................................... 61

3.1.2 Tác động đối với ngành công nghiệp dầu khí thế giới ................................... 62

3.2. Triển vọng phát triển ........................................................................................... 63

3.2.1 Triển vọng ....................................................................................................... 63

3.2.2 Thời cơ và thách thức ..................................................................................... 68

3.3 Giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển hợp tác quốc tế trong lĩnh vực dầu

khí của PV Drilling ................................................................................................... 70

3.3.1 Giải pháp ......................................................................................................... 70

3.3.2 Kiến nghị ........................................................................................................ 76

Tiểu kết chƣơng 3 ........................................................................................................ 78

Kết luận ........................................................................................................................ 79

Phụ lục .......................................................................................................................... 82

Danh mục tài liệu tham khảo ..................................................................................... 86

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

PVD: Petrovietnam Drilling and Well Services Corporation

Tổng Công Ty Cổ Phần Khoan và Dịch Vụ Khoan Dầu Khí

IADC: International Association of Drilling Contractors

Hiệp hội nhà thầu khoan thế giới

JVPC: Japan Vietnam Petroleum Corporation

Liên doanh dầu khí Việt Nhật

ASEAN: Association of Southeast Asian Nations

Hiệp hội các nước Đông Nam Á

OHSAS: Occupational Health and Safety Assessment Series

Tiêu chuẩn về Hệ thống quản lý an toàn sức khỏe nghề nghiệp

OPITO: The Offshore Petroleum Industry Training Organisation

Tên gọi của tổ chức đào tạo ngành công nghiệp dầu khí ngoài khơi

BOSIET: Basic Offshore Safety Induction and Emergency Training

Hướng dẫn cơ bản An toàn ngoài khơi vùng nhiệt đới và huấn

luyện các tình huống khẩn cấp

POC: Petroleum Operation Company

Công ty điều hành mỏ

JOC: Joint Operation Company

Công ty Liên doanh điều hành

TAD: Tender Assist Drilling

Giàn khoan tiếp trợ nửa nổi nửa chìm

LTI: Lost Time Incident

Tai nạn dẫn đến ngừng hoạt động giàn

PVD-BJ: Liên doanh PVD và Công ty BJ Services của USA

PVD-PTI: PV Drilling Production Testers International

Liên doanh giữa PVD và công ty EXPRO International BV.

DANH MỤC CÁC HÌNH ẢNH, BẢNG, BIỂU ĐỒ

STT Loại Tên Trang

Hình 2.1 Mô hình tháp khoan tại PVD Training 54 1

2 Bảng 3.1 68-69

Bảng ước tính trữ lượng dầu khí đã xác định và tiềm năng ở Biển Đông

3 Bảng 3.2 76

Số lượng người lao động trong PV Drilling

4 Bảng 3.3 77-78

Một vài chỉ số về đào tạo của PV Drilling qua các năm

5 Biểu đồ 3.1 70

Tổng số lượng giàn khoan biển cung cấp ở thị trường thế giới trong giai đoạn 2009 – 2013

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong một thế giới đang phát triển không ngừng như hiện nay, năng lượng nói

chung và dầu khí nói riêng đã và đang đóng một vai trò rất quan trọng trong mọi hoạt

động, mọi lĩnh vực của đời sống nhân loại. Việt Nam là thành viên của khu vực phát

triển năng động hàng đầu thế giới - ASEAN; trong đó Biển Đông là một trong những

khu vực có trữ lượng dầu khí tiềm năng trên bản đồ năng lượng thế giới. Do đó, Việt

Nam được đánh giá là một trong những quốc gia có tiềm năng về dầu khí, khí hóa lỏng

của khu vực và thế giới. Mặt khác, trong nhiều năm qua, ngành công nghiệp dầu khí

Việt Nam đã đóng góp rất lớn vào sự phát triển kinh tế xã hội của quốc gia. Chính vì

vậy, chính phủ Việt Nam đã tăng cường đầu tư vào ngành dầu khí, tiêu biểu là phát

triển đầu tư vào Tập đoàn Dầu Khí Việt Nam và các Tổng Công ty thành viên, Tổng

Công ty Xăng dầu Petrolimex, nhằm tạo ra một lực lượng chuyên môn cao, với đủ

tiềm lực kinh tế để khai thác hiệu quả những tiềm năng về kinh tế và chính trị của

nguồn “vàng đen” này. Đồng thời, chính phủ Việt Nam cũng khuyến khích hợp tác

quốc tế trong lĩnh vực dầu khí một cách hợp lý và phát triển bền vững trong bối cảnh

khu vực Biển Đông đang diễn ra những tranh chấp giữa Trung Quốc và các nước –

trong đó có Việt Nam.

Luận văn bước đầu phân tích quá trình hợp tác quốc tế trong lĩnh vực dầu khí

của Tổng công ty Cổ phần Khoan và Dịch vụ Khoan Dầu Khí (viết tắt là PV Drilling):

lịch sử hình thành, quá trình phát triển, hoạt động triển khai hợp tác trên lĩnh vực dầu

khí của PV Drilling với các đối tác nước ngoài ở các lĩnh vực chuyên môn mà công ty

đảm nhận trong thời gian từ khi thành lập vào năm 2001 đến năm 2010 – thời điểm mà

PV Drilling bắt đầu đóng giàn khoan nửa nổi nửa chìm. Từ đó, đưa ra những khuyến

nghị, đóng góp vào những hoạch định phát triển trong tương lai của PV Drilling nhằm

bảo đảm vai trò, vị trí của ngành năng lượng nói chung và ngành dầu khí nói riêng của

Việt Nam trên bản đồ năng lượng của khu vực và thế giới trong bối cảnh các nguồn tài

nguyên năng lượng đang dần cạn kiệt, và những nguồn năng lượng thay thế vẫn chưa

2

thực sự phát huy được hiệu quả. Đó là lý do tôi chọn đề tài này làm luận văn thạc sĩ

ngành Quan hệ quốc tế tại Khoa Quốc tế học, trường Đại Học Khoa học Xã Hội và

Nhân Văn Hà Nội.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Do tính chất đặc thù của Ngành Dầu khí nên hiện chưa có một công trình

nghiên cứu chính thức nào về đề tài này. Các Báo cáo thường niên của PV Drilling các

năm có phân tích và đánh giá các hoạt động hợp tác quốc tế của công ty ở thị trường

Châu Á - Thái Bình Dương nhưng chỉ đưa ra các đánh giá tổng quát nhất và chưa thật

sự cụ thể.

Ngoài ra, thời gian qua cũng có một vài bài báo viết và đánh giá chung về PV

Drilling trên các báo mạng như Vnexpress.net, Tuổi trẻ Online... Hoặc nhiều bài báo

đánh giá hiệu quả kinh doanh của PV Drilling trên tờ Năng Lượng Mới – cơ quan chủ

quản là Tập Đoàn Dầu Khí Việt Nam.

Tháng 3/2015 vừa qua, trên báo Năng Lượng Mới đã có chuỗi bài phóng sự về

hành trình chuyển giàn khoan tự nâng PV Drilling VI vừa mới đóng của PV Drilling từ

Singapore về Việt Nam, trong bài viết có đề cập khá nhiều vấn đề liên quan đến quá

trình hợp tác quốc tế của PV Drilling trong nhiều năm tìm kiếm và đầu tư khắp châu

Á.

Tuy nhiên, tác giả đã cố gắng tổng hợp và phân tích để khái quát vấn đề một

cách khách quan, tổng thể dựa trên những tài liệu có được.

2.1 Tài liệu Tiếng Việt

Ở Việt Nam, do là đề tài mới và chưa được khai thác nhiều nên chưa có một

cuốn sách hay tài liệu cụ thể nào về lĩnh vực cho thuê giàn khoan và ngành công

nghiệp phụ trợ mà PV Drilling đang hoạt động. Chủ yếu tác giả tìm hiểu thông qua

nhiều bài báo từ nhiều tòa soạn uy tín như Năng Lượng Mới, Thời báo Kinh tế Sài

Gòn..; bài báo cáo của Tập Đoàn Dầu Khí Việt Nam, báo cáo thường niên của PV

3

Drilling cũng là một trong những tài liệu tham khảo quan trọng phục vụ cho luận văn

này.

Một tài liệu khác, có sự đóng góp nhiều cho luận văn là cuốn sách “Lịch sử

ngành dầu khí Việt Nam” do Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia phát hành năm 2011,

Chủ tịch hội đồng biên soạn là ông Trần Ngọc Cảnh, ngoài ra còn có các cố vấn khoa

học là Giáo sư Đặng Phong và Tiến Sĩ Khổng Đức Thiêm. Cuốn sách này đã giúp tác

giả khái quát được bối cảnh ngành Dầu Khí Việt Nam giai đoạn 1990 – 2000, từ đó

dẫn luận đến giai đoạn 2001 – 2006, là giai đoạn mà PV Drilling mới thành lập và

chưa có nhiều tài liệu viết về PV Drilling giai đoạn này. Chương 1, phần 1 của luận

văn này được tổng hợp và phân tích dựa trên nhiều dữ liệu, sự kiện lịch sử và các văn

bản pháp luật được nêu trong cuốn sách này.

Một số tài liệu bổ trợ cho luận văn bao gồm các bài viết của tác giả Trịnh

Cường, “Châu Phi trong chiến lược của các nước lớn”, đăng tên Tạp chí Cộng Sản, số

7 (753) năm 2006. Bài viết này có đề cập đến quốc gia Algeria, nơi mà PV Drilling

đang là tiên phong trong việc khoan dầu, đánh dấu ý nghĩa chính trị của Việt Nam tại

quốc gia Bắc Phi đầy tiềm năng này. Bài viết có nêu một số điểm mạnh trong chính trị

của Algeria đối với các quốc gia khu vực Địa Trung Hải như Italy, Pháp, khu vực bán

đảo Balkan. Bài viết của tác giả Nguyễn Anh Tuấn, “An ninh dầu lửa: Vấn đề và giải

pháp tại các nước Đông Nam Á”, đăng trên Tạp chí Cộng Sản, mục Những vấn đề

kinh tế thế giới, số 5 (121) năm 2006 có đề cập đến an ninh tại Biển Đông khi mà các

giàn khoan của Hoa Kỳ, Châu Âu đang hiện diện dày đặc, gây ra nhiều ảnh hưởng xấu

đến chính trị an ninh trên biển, cũng như các vấn đề an ninh về nguồn dầu lửa bị khai

thác trộm tại Biển Đông. Vì Việt Nam thời kỳ 2000-2007 chưa phát triển ngành lọc

dầu và chế biến dầu thô, do đó các hợp đồng hợp tác với nước ngoài chủ yếu là chia

sản phẩm, nên gây ra nhiều vấn đề trong công tác quản lý, khi đối tác có thể khai man,

khai dối các sản lượng dầu để làm lợi riêng. Thông tấn xã Việt Nam năm 2006 cũng có

bài viết, “Hợp tác năng lượng Trung Quốc – ASEAN”, mục Tài liệu tham khảo đặc

biệt, số 96, 26/4. Bài viết đã có đề cập đến chiến lược dùng giàn khoan di động để gây

4

ảnh hưởng chính trị tại Biển Đông của Trung Quốc, đồng thời đề nghị chính phủ Việt

Nam quan tâm hơn đến ngành công nghiệp khoan dầu khí, đặc biệt là đóng giàn khoan

của Việt Nam. Đây chính là số ít tài liệu có đề cập đến ngành khoan dầu khí của Việt

Nam thời kỳ 2001-2007.

Các văn kiện Đại Hội Đảng lần thứ VI, lần thứ VII, lần thứ VIII, lần thứ IX, lần

thứ X cũng đóng góp cho tác giả các thông tin về chính sách ngoại giao của Việt Nam

thời kỳ 1990 – 2006, góp phần giúp cho tác giả bám sát đề tài theo ngành quan hệ quốc

tế, tránh việc đi quá sâu về các khía cạnh phân tích Marketing hay Kinh tế. Các văn

kiện này cũng góp phần giúp tác giả khái quát được các chính sách phát triển ngoại

giao của chính phủ Việt Nam thông qua nhiều chính sách như “Việt Nam muốn là bạn

của các quốc gia trên thế giới”- văn kiện Đại Hội Đảng lần thứ VII năm 1991, sang

chính sách “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác đối tác của các nước trên thế giới” –

văn kiện Đại Hội Đảng lần thứ X năm 2006.

Nguồn tài liệu quan trọng phục vụ cho việc nghiên cứu luận văn này chính là

các Báo Cáo Thường Niên của PV Drilling, tác giả đã sử dụng các số liệu của Báo Cáo

Thường Niên PV Drilling từ năm 2006 đến năm 2013 để phục vụ cho việc viết luận

văn. Các báo cáo này đề cập rất nhiều đến quá trình hình thành và phát triển của PV

Drilling, đồng thời cung cấp các số liệu về phát triển kinh doanh, về các công ty con,

về các công ty liên doanh nước ngoài… Tác giả cũng dựa vào nhiều tài liệu khác nhau

của các đơn vị thành viên PV Drilling để tổng hợp và cô đọng lại để hoàn thành luận

văn.

2.2 Tài liệu Tiếng Anh

Trong các tài liệu tiếng Anh, tác giả sử dụng chủ yếu là báo cáo của các tổ chức

quốc tế mà PV Drilling đang tham gia hoặc đang là thành viên. Trong số các tài liệu

này, cụ thể là báo cáo thường niên của Tổ Chức IADC và các công ty Dầu khí quốc tế

như BP, Vantage, SeaDrill… các tài liệu đã cung cấp cho tác giả các số liệu, dữ kiện

để đi đến so sánh mức độ tương quan và hình dung ra vị trí của PV Drilling trên bản đồ

thị trường khoan thế giới. Ngoài ra, căn cứ vào các tài liệu riêng của PV Drilling về

5

quan hệ hợp tác với các nhà thầu khoan quốc tế khác, tác giả đã có cái nhìn khách quan

về việc hợp tác quốc tế giữa PV Drilling với các nhà thầu khoan thế giới, từ đó đưa ra

được nhận xét cái được cái mất cho những mối quan hệ hợp tác này. Sau khi đánh giá

được mức độ thành công của mối quan hệ hợp tác, tác giả đã có nhận xét và đưa ra giải

pháp để cải tiến cho các mối quan hệ tiếp theo trong tương lai. Tuy nhiên, để những

giải pháp cải tiến này có hiệu quả thực sự, tác giả cần có những phép thử và trong giới

hạn của luận văn, cũng như tính chất doanh nghiệp, việc đánh giá hiệu quả của các giải

pháp đưa ra trong luận văn này chưa rõ ràng.

Ngoài những tài liệu nêu trên, tác giả còn sử dụng một số bài viết của các tác

giả viết về chính trị quốc tế, trong số đó có bài viết của tác giả Richard Giragosian ,

“East Asia tackles energy security”, đăng tên tạp chí Asia Times, số ra ngày 24 tháng

8 năm 2004. Bài viết này đề cập đến tình hình chính trị phức tạp tại Biển Đông, khi

vùng biển này được tìm thấy với trữ lượng dầu khí khổng lồ bên dưới. Các chi tiết này

đã giúp tác giả hiểu rõ hơn về cách nhìn nhận của các quốc gia khác về vị thế của Việt

Nam tại biển Đông, đồng thời cũng đưa ra được ý kiến về việc giàn khoan biển là các

công cụ chiến lược cho việc đảm bảo đường biên giới trên biển giữa các quốc gia.

Sách của tác giả Sonya Fatah, “A Pipeline or a Pipe Dream”, in tại nhà xuất

bản Fortune năm 2005, ấn phẩm số 23 (152), tại trang 24-26 của sách, tác giả có đề cập

đến việc các đường ống dẫn dầu khí chính là các vũ khí để đánh dấu lãnh thổ trên biển.

Đồng thời, tác phẩm này còn đưa ra một số quan điểm về ngoại giao dầu khí, mà trong

đó ngành khoan là một lĩnh vực thể hiện trình độ khoa học kỹ thuật một quốc gia. Tác

giả đã sử dụng quan điểm này để đưa ra các đánh giá về ngành khoan dầu khí Việt

Nam đã phát triển đến đâu và đã góp phần đẩy mạnh hình ảnh chính trị của Việt Nam

trên trường quốc tế như thế nào.

Trong sự hạn chế của tài liệu về đề tài, tác giả đã cố gắng tổng hợp những tài

liệu, số liệu, dữ kiện quan trọng để hoàn thành luận văn với những ý kiến khách quan

và chủ quan.

3. Mục đích nghiên cứu của đề tài

6

Khái quát quá trình hình thành và phát triển của Tổng Công ty Cổ phần Khoan và

Dịch vụ Khoan Dầu khí trong giai đoạn 2001-2010, đồng thời phân tích, đánh giá quá

trình hợp tác quốc tế của đơn vị này đối với các đối tác nước ngoài trong lĩnh vực

khoan dầu khí – một lĩnh vực quan trọng của ngành năng lượng Việt Nam; luận văn

cũng bước đầu đưa ra những giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hợp tác

quốc tế trong lĩnh vực này đối với Tổng Công ty Cổ phần Khoan và Dịch vụ Khoan

Dầu khí nói riêng và ngành dầu khí Việt Nam nói chung.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn xác định nhiệm vụ nghiên cứu như

sau:

- Tìm hiểu về chủ trương hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này của chính phủ Việt

Nam.

- Tìm hiểu về các chỉ tiêu nâng cao năng lực hợp tác quốc tế trong việc cung

cấp dịch vụ giàn khoan biển.

- Tìm hiểu về các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động nâng cao năng lực hợp tác

quốc tế trong cung cấp dịch vụ giàn khoan biển.

- Tìm hiểu về thị trường khoan Châu Á Thái Bình Dương: đặc điểm thị trường,

tình hình cung cấp giàn khoan biển và các chính sách pháp lý có liên quan.

- Tìm hiểu về các quốc gia tiên tiến trong lĩnh vực cung cấp giàn khoan biển

trên thế giới, cụ thể là các đối tác tại khu vực Bắc Mỹ và Tây Âu.

- Tìm hiểu về thị trường khoan khu vực Bắc Phi: đặc điểm thị trường, tình hình

cung cấp giàn khoan đất liền và các chính sách pháp lý có liên quan.

- Nêu ra sự cần thiết phải nâng cao năng lực hợp tác quốc tế của dịch vụ cung

cấp giàn khoan biển của PV Drilling.

- Phân tích thực trạng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực khoan dầu khí giàn PV

Drilling ở thị trường Châu Á Thái Bình Dương trong giai đoạn 2001-2010.

- Tìm hiểu quan điểm của Nhà nước về phát triển Ngành Dầu khí, định hướng,

mục tiêu phát triển của PV Drilling trong giai đoạn 2011-2020.

7

- Đưa ra một số giải pháp đối với PV Drilling nhằm nâng cao năng lực hợp tác

quốc tế trong lĩnh vực khoan dầu khí của PV Drilling trong giai đoạn 2011-2020.

5. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hợp tác quốc tế trong lĩnh vực dầu khí của

Tổng Công Ty Cổ Phần Khoan và Dịch Vụ Khoan Dầu khí ở khu vực Châu Á Thái

Bình Dương, khu vực Bắc Phi, khu vực Bắc Mỹ, Khu vực Tây Âu .

Về thời gian: Đề tài tập trung phân tích thực trạng hợp tác quốc tế của dịch vụ

cung cấp giàn khoan biển của Tổng Công Ty Cổ Phần Khoan và Dịch Vụ Khoan Dầu

khí ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương, khu vực Bắc Phi, khu vực Bắc Mỹ, Khu vực

Tây Âu trong giai đoạn 2001-2010 và đưa ra giải pháp cho giai đoạn 2011-2020.

Về không gian: Đề tài phân tích năng lực hợp tác quốc tế của dịch vụ cung cấp

giàn khoan biển của Tổng Công Ty Cổ Phần Khoan và Dịch Vụ Khoan Dầu khí ở khu

vực Châu Á Thái Bình Dương, khu vực Bắc Phi, khu vực Bắc Mỹ, Khu vực Tây Âu

trên cơ sở so sánh với các đối thủ cạnh tranh như Transocean, Seadrill.

6. Phƣơng pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu chính được sử dụng trong quá trình thực hiện đề tài là

phương pháp nghiên cứu tại bàn: thông qua việc tìm kiếm, tập hợp, phân tích các

thông tin, dữ liệu từ các báo cáo, tài liệu của Tổng Công Ty Cổ Phần Khoan và Dịch

Vụ Khoan Dầu khí; trang web của Hiệp hội các nhà thầu khoan thế giới, các tổ chức có

liên quan, các ấn phẩm, báo chí, bài viết, sách xuất bản, công trình nghiên cứu của các

tác giả trong và ngoài nước.

Phương pháp nghiên cứu lịch sử cũng được sử dụng trong quá trình thực hiện

đề tài, thông qua việc tìm hiểu quá trình hình thành ngành dầu khí; quá trình hình

thành PV Drilling; các sự kiện lịch sử nổi bật, có khả năng ảnh hưởng đến quá trình

hợp tác quốc tế của PV Drilling và chính sách đối ngoại Việt Nam qua các thời kỳ, từ

đó dẫn luận đến các đánh giá, phân tích và đưa ra kết quả của luận văn.

8

7. Kết cấu đề tài

Đề tài có kết cấu gồm 3 chương với 85 trang nội dung

Chƣơng 1: Quá trình hình thành và phát triển của Tổng Công ty Cổ phần khoan và

dịch vụ khoan dầu khí (PV Drilling)

Chƣơng 2: Hoạt động triển khai hợp tác quốc tế trong lĩnh vực dầu khí của PV Drilling.

Chƣơng 3: Tác động và triển vọng của quá trình hợp tác quốc tế trong lĩnh vực dầu

khí của PV Drilling.

9

CHƢƠNG 1: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TỔNG

CÔNG TY CỔ PHẦN KHOAN VÀ DỊCH VỤ KHOAN DẦU KHÍ (PV

DRILLING)

1.1 Quá trình hình thành và phát triển của PV Drilling

1.1.1 Quá trình hình thành của PV Drilling

1.1.1.1 Khái quá bối cảnh hình thành PV Drilling

Ngày 6 tháng 7 năm 1990, Tổng công ty Dầu mỏ và Khí đốt Việt Nam được

thành lập dựa trên tiền thân là Tổng cục Dầu mỏ và Khí đối Việt Nam, khởi đầu một kỷ nguyên phát triển mạnh mẽ và rực rỡ của ngành dầu khí Việt Nam1.

Tổng Công ty Dầu mỏ và Khí đốt Việt Nam được Hội đồng Bộ trưởng xác định

là đơn vị kinh tế chủ lực, cần được xây dựng để trở thành mũi nhọn của nền kinh tế.

Mô hình liên hiệp Xí nghiệp quốc doanh, đang được áp dụng cho Tổng Công ty Dầu

mỏ và Khí đốt Việt Nam, đã tỏ ra không còn phù hợp, cần được tổ chức lại theo mô

hình của tổng công ty mạnh. Xuất phát từ yêu cầu đó, ngày 31-7-1991, Chủ tịch Hội

đồng Bộ trưởng đã ký Chỉ thị số 235-CT về việc thành lập Tổ Xây dựng Đề án tổ chức lại ngành Dầu khí2.

Ngày 9-2-1993, Tổng Giám Đốc của Tổng Công ty Dầu mỏ và Khí đốt Việt

Nam đã ký quyết định số 131/DK-TCNS-ĐT với nội dung chính là sát nhập Công ty

Dịch vụ Dầu Khí (PSC) và Công ty Địa vật lý và Dịch vụ Dầu Khí (GPTS) thành Công ty Dịch vụ Kỹ thuật Dầu Khí (PTSC) do ông Nguyễn Xuân Nhậm làm giám đốc.3

Năm 1994, Xí Nghiệp Dịch vụ Kỹ Thuật Dầu Khí Biển (PTSC Offshore), đơn

1 Tập đoàn dầu khí Việt Nam (2011), Lịch sử ngành Dầu Khí Việt Nam (đến năm 2010), Tập 1, Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia – Sự Thật, Hà Nội – trang 38. 2 Tập đoàn dầu khí Việt Nam (2011), Lịch sử ngành Dầu Khí Việt Nam (đến năm 2010), Tập 1, Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia – Sự Thật, Hà Nội – trang 44. 3 Tập đoàn dầu khí Việt Nam (2011), Lịch sử ngành Dầu Khí Việt Nam (đến năm 2010), Tập 1, Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia – Sự Thật, Hà Nội – trang 50.

vị trực thuộc PTSC được thành lập với mục tiêu ban đầu nhằm cung cấp các dịch vụ

10

cho thuê các thiết bị khoan, dịch vụ ứng cứu sự cố tràn dầu và xưởng cơ khí sửa chữa,

bảo dưỡng các thiết bị khoan. Với việc Vietsovpetro cùng hàng loạt các nhà thầu

khoan nước ngoài đầu tư mạnh mẽ vào Việt Nam thời kỳ sau Đổi Mới, PTSC Offshore

đã phát triển mạnh mẽ khi các giàn khoan nước ngoài lần lượt tiến vào Việt Nam, một

số giàn khoan lớn nổi tiếng thời bấy giờ là Maersk Convincer, Topaz Driller… của các

nhà thầu khoan lớn của thế giới như Idemitsu, BP, Transoceans, Sea Drill, Baker

Hughes… đã xuất hiện tại Việt Nam thời kỳ này.

Tuy nhiên, việc các giàn khoan nước ngoài lần lượt tiến vào vùng biển Việt

Nam theo các hợp đồng khoan với Vietsopetro và các nhà đầu tư lớn như BP,

Gazrom…có hợp tác với Tổng Công ty Dầu Khí Việt Nam, nay là Tập đoàn Dầu khí

Việt Nam (Vietnam Oil and Gas Group, gọi tắt là PetroVietnam), vùng biển nước ta

bấy giờ tràn ngập các giàn khoan và các tàu hỗ trợ từ nước ngoài, gây khó khăn cho

công tác đảm bảo quốc phòng và an ninh trên biển. Chính vì thế, ngoài việc tạo điều

kiện cho việc ổn định an ninh trên biển theo yêu cầu của Bộ Quốc Phòng, đồng thời

nhận thấy một tiềm năng to lớn cho một ngành dịch vụ kỹ thuật cao – ngành khoan dầu

khí - Chính phủ đã yêu cầu Tổng Công ty Dầu Khí Việt Nam thành lập một công ty

chuyên trách cho lĩnh vực khoan và các dịch vụ khoan. Trên cơ sở đó, với việc đã có

kinh nghiệm trong việc quản lý và hoạt động trong lĩnh vực này một thời gian dài 7

năm, vào năm 2001 Công ty Khoan và Dịch vụ Khoan Dầu Khí (PV Drilling) được

thành lập dựa trên nhân sự và nền tảng từ PTSC Offshore chuyển giao sang.

Nhằm tạo ra sự phát triển vượt bậc cho công ty khoan còn non trẻ, chính phủ đã

có nhiều chính sách khuyến khích, hỗ trợ cho PV Drilling lúc bấy giờ, như miễn thuế

khấu trừ VAT cho đến năm 2016 (tổng cộng 15 năm), cung cấp các quota nhập khẩu

miễn thuế cho các vật tư của giàn khoan vào năm 2007 và năm 2013, ra chính sách hạn

chế đầu tư của các nhà thầu khoan lớn trên thế giới vào Việt Nam, tạo ra một cơ chế

gần như độc quyền cho PV Drilling. Do đó, chỉ trong một thời gian ngắn, PV Drilling

đã phát triển mạnh mẽ và vượt bậc, vươn vai trở thành một trong những nhà thầu

khoan nổi tiếng và lớn mạnh ở khu vực Châu Á.

11

1.1.1.2 Quá trình hình thành PV Drilling năm 2001

Năm 1999, khi các lô dầu khí gần bờ đã được xác định và khai thác, Tổng Công

ty Dầu Khí Việt Nam đã xác định được trữ lượng lớn dầu khí đang nằm ngoài khu vực

nước sâu của thềm lục địa Việt Nam, với yêu cầu kỹ thuật cao mới có thể khai thác

được khu vực này. Do đó, tiềm năng tuy rất cao nhưng năng lực hạn chế đã khiến cho

ngành dầu khí Việt Nam dần dần giảm sự thu hút với các công ty dầu khí nước ngoài.

Để tăng khả năng thu hút đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực khai thác dầu khí, Việt

Nam đã phải cho phép sự hoạt động của các giàn khoan nước ngoài ở vùng biển Việt

Nam, nhằm tận dụng các khoa học công nghệ tiên tiến bấy giờ, đồng thời tận dụng

kinh nghiệm của các chuyên gia nhằm đào tạo một đội ngũ lao động Việt Nam đủ sức

vận hành một giàn khoan hiện đại.

Đến năm 2000, với sự đầu tư mạnh của Chính Phủ vào ngành dầu khí, Tổng

công ty Dầu Khí Việt Nam đã tăng cường các hoạt động khai thác thông qua các giàn

khoan nước ngoài cũng như mua các dịch vụ khoan từ các nhà thầu khoan lớn của thế

giới lúc đấy. PTSC là công ty tiên phong trong việc cung cấp các dịch vụ khoan cho

các hoạt động giàn khoan nước ngoài tại Việt Nam, mà trong đó cụ thể là PTSC

Offshore là công ty trực tiếp điều hành và cung cấp các dịch vụ này.

Năm 2001, do nhu cầu cung cấp dịch vụ khoan thăm dò và khai thác dầu khí

cho các Công ty dầu khí trong nước và nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam ngày

càng tăng, bên cạnh PTSC Offshore vốn có truyền thống và năng lực cung cấp các dịch

vụ về khoan và cho thuê thiết bị khoan phát triển mạnh; Vì vậy, trên cơ sở năng lực

hiện có của PTSC Offshore, ngày 26 tháng 11 năm 2001, Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn

phòng Chính phủ đã ban hành quyết định số 647/QĐ-VPCP thành lập Công ty Khoan

và Dịch vụ khoan dầu khí (PetroVietnam Drilling and Well Services Company, viết tắt

12

là PV Drilling), đơn vị thành viên của Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam, dựa trên cơ sở nguồn lực và cơ sở vật chất từ PTSC Offshore4.

Tháng 12 năm 2001, chỉ một tháng sau khi thành lập, PV Drilling đã hoàn thành

hơn 80% công đoạn chuyển giao tất cả các cơ sở vật chất, máy móc và sắp xếp lại

nhân lực. Đồng thời, đảm bảo công suất 100% cho các dịch vụ mà PTSC Offshore

đang cung cấp cho Idemitsu và Shell Corporation. Ngoài ra, thời gian này, PV Drilling

đã có kế hoạch mở rộng sang các dịch vụ công nghệ cao như chống tràn dầu, cung cấp

các dịch vụ nhân lực cho giàn khoan…tạo những nền móng vững chắc cho các kế

hoạch dài hạn trong tương lai.

Với việc chính thức thành công ty trực thuộc Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam,

PV Drilling đã trở thành một trong những công ty tiên phong, là mũi nhọn chiến lược

của chính phủ trong việc hiện đại hóa ngành dầu khí còn non trẻ và lạc hậu so với thế

giới bấy giờ. Những năm tiếp theo, PV Drilling đã không ngừng tiến bộ, từ một Xí

Nghiệp nhỏ với nhiều hạn chế về nhân lực, công nghệ kỹ thuật, máy móc nhà xưởng,

PV Drilling đã dần hình thành thành một công ty có trình độ khá, nguồn nhân lực ổn

định, với những định hướng chắc chắn và kế hoạch dài hạn khả thi. Tuy nhiên, để trở

thành một ông lớn trong tương lai, PV Drilling giai đoạn này cần nhiều thứ hơn nữa,

đặc biệt phải nắm bắt công nghệ điều hành giàn khoan để đủ sức cạnh tranh với các

nhà thầu khoan thế giới.

1.1.2 Các giai đoạn phát triển của PV Drilling

1.1.2.1 Những năm đầu mới thành lập 2001 – 2003

Sau khi thành lập năm 2001, chỉ sau 3 tháng chuyển giao từ PTSC Offshore, PV

Drilling đã đi vào hoạt động ổn định và đã tìm kiếm thêm nhiều khách hàng mới, từ

Vietsopetro đến JVPC, những nhà điều hành mỏ - Joint Operation Company (JOC)

mới thành lập đã tìm đến PV Drilling như một nhà cung cấp đáng tin cậy. Tuy giai

4 Báo cáo thường niên PV Drilling năm 2006 – trang 34, 35

đoạn này còn gặp nhiều khó khăn do hạn chế về nhiều mặt, nhưng với sự nỗ lực của

13

tập thể cán bộ PV Drilling, công ty non trẻ này đã dần dần đảm bảo chất lượng cho các

dịch vụ, phù hợp với tiêu chuẩn ngày càng cao của khách hàng nước ngoài.

Hợp tác quốc tế của PV Drilling thời kỳ này rất yếu, chủ yếu là các hoạt động

cung cấp dịch vụ theo các hợp đồng chỉ định từ PVEP và các JOC của Tổng Công ty

Dầu khí Việt Nam, các nhà thầu khoan thế giới như Idemitsu hay Shell Corporation chỉ

thuê một phần dịch vụ rất nhỏ cho các hoạt động khoan của họ như cung cấp ống

khoan, cần khoan, bơm trám xi măng vỉa… hay cung cấp các công nhân lao động tay

nghề thấp ngoài giàn, những hoạt động sửa chữa nhỏ không đáng kể cũng được các

công ty nước ngoài sử dụng nhưng không thường xuyên.

Ngoài ra, hợp tác quốc tế còn nhiều khập khễnh do trình độ tay nghề cũng như

năng lực điều hành vẫn còn nhiều hạn chế so với quy mô và trình độ chuyên nghiệp

của các nhà thầu lớn thế giới. Nhưng cũng vì thế mà PV Drilling đã có cử nhiều cán bộ

đi đào tạo tại các quốc gia phát triển mạnh về ngành khoan như Nhật Bản, Hoa Kỳ,

Anh Quốc, Singapore… Năm 2003, đội ngũ cán bộ được cử đi học tại Singapore đạt tỷ

lệ 23% các cán bộ biên chế hiện hành của PV Drilling, góp phần nâng cao chất lượng

nhân sự tại công ty, tạo thêm uy tín và năng lực dự thầu của PV Drilling cho các dự án

lớn hơn trong tương lai.

Tháng 6 năm 2002, khi hợp đồng giữa PetroVietnam và Liên Hiệp các nhà điều

hành mỏ lớn nhất của Nga gồm tập đoàn Gazrom, tập đoàn Zarubezhneftgas cho hợp

tác khai thác tại lô 112 mỏ Bạch Trĩ chính thức có hiệu lực, PV Drilling đã thành công

trong việc cung cấp dịch vụ sửa chữa ống khoan, cần khoan, dịch vụ đo karota và cung

cấp công nhân lao động cho các vị trí thấp trên các giàn khoan của Nga (chẳng hạn

như vị trí painter, roustabout…), góp phần nâng cao kinh nghiệm và năng lực hợp tác

quốc tế của PV Drilling. Giai đoạn khoan tại lô 112 kéo dài hai năm, từ 2002 đến 2004

đã giúp cho PV Drilling có điều kiện học hỏi nhiều bài học kinh nghiệm quý báu trong

việc hợp tác với một quốc gia có nền công nghiệp dầu mỏ phát triển mạnh của thế giới.

Đồng thời cũng tạo một sức bật cho sự phát triển mạnh mẽ hơn cho giai đoạn tiếp theo.

14

1.1.2.2 Giai đoạn phát triển xây dựng nền tảng mạnh mẽ từ năm 2003 đến năm

2007

Năm 2003, Lam Sơn JOC được thành lập dựa trên sự hợp tác giữa Tổng Công

Ty Dầu Khí Việt Nam và Tập đoàn Petronas Carigali của Malaysia nhằm điều hành việc khai thác tại khu vực lô 01/97 và 02/975. Trong số các mỏ lớn của khu vực này,

PV Drilling đã giành được quyền cung cấp giàn khoan đầu tiên tại khu vực hai mỏ là

Đông Đô và Diamond. Đây chính là bước ngoặc lớn, đánh dấu sự trưởng thành vượt

bậc của PV Drilling chỉ sau 2 năm thành lập.

Giàn khoan mà PV Drilling cung cấp không phải là giàn của Việt Nam mà là

giàn được PV Drilling thuê lại từ các nhà thầu khoan lớn của nước ngoài, chính phát

kiến táo bạo này đánh dấu một con đường mới đầy thách thức nhưng cũng nhiều vinh

quang cho ngành khoan Việt Nam. Giàn Topaz Driller thuê từ nhà thầu khoan Vantage

Drilling Company của Hoa Kỳ chính là một trong những giàn khoan lớn nhất bấy giờ

và vẫn đang được sử dụng cho nhà thầu khoan PTTEP của Thái Lan hiện nay.

Sau khi điều hành thành công giàn khoan Topaz Driller tại mỏ Đông Đô, thừa

thắng xông lên, PV Drilling đã tiếp tục cung cấp giàn khoan này cho khu vực mỏ

Diamond, góp phần hoàn thành 10 giếng khoan tại hai mỏ, trong đó có 3 giếng khoan được tuyên bố là có dầu. 6

Thành công của hợp đồng với Lam Sơn JOC đã giúp PV Drilling chuyển mình,

nâng cao uy tín với Tổng Công Ty Dầu Khí Việt Nam trong việc lựa chọn các nhà thầu

khoan khi ngày càng có nhiều khu vực mỏ được phát triển.

Không dừng ở việc đi thuê và cho thuê lại giàn khoan, tháng 10 năm 2004, PV

Drilling đã thành lập Xí Nghiệp Địa Vật Lý Giếng Khoan và Thử vỉa (PVD Logging),

5 Thư giới thiệu hợp tác khai thác của Lam Sơn JOC gửi PV Drilling ngày 24 tháng 8 năm 2010, trang 01 6 Báo cáo nghiệm thu hợp đồng vận hành và thăm dò số 189/PVD-HO ngày 12 tháng 12 năm 2003- trang số 10

hiện nay đã trở thành Công ty TNHH Một thành viên Địa Vật Lý Giếng Khoan Dầu

15

Khí. Với mục tiêu và nhiệm vụ chính là chuyên cung cấp các dịch vụ kỹ thuật cao

trong hoạt động khoan dầu khí như Đo Karota khí, Đo Karota khai thác, Kéo thả thiết

bị trong giếng, thử vửa dầu khí, ngoài ra PVD Logging còn cung cấp các chuyên gia

trong lĩnh vực địa chất cho các nhà thầu khoan trên khắp thế giới… PVD Logging đã

tạo được một nền tảng cho việc hợp tác với các dự án lớn của các nhà thầu khoan nước

ngoài ở các khu vực lân cận. Ngay sau khi thành lập, PVD Logging đã ký kết hợp

đồng lớn cho việc cung cấp dịch vụ khảo sát và thử vỉa cho 3 giàn khoan của

Vietsopetro, góp phần tạo một nguồn doanh thu lớn và ổn định cho PV Drilling.

Năm 2004 còn đánh dấu thành công khác của PV Drilling khi dự án đóng mới

giàn khoan Jack up đầu tiên của Việt Nam được chính phủ thông qua và bắt đầu được

triển khai quá trình huy động vốn và lựa chọn nhà thầu đóng giàn khoan mới. PV

Drilling đã trở thành người tiên phong trong ngành khoan Dầu Khí của Việt Nam khi

mà một năm trước đó, vẫn chưa nhiều người nghĩ rằng Việt Nam có thể đóng và vận

hành giàn khoan dầu khí sớm như vậy.

Quá trình hợp tác quốc tế giai đoạn này cũng được hình thành và xây dựng quy

trình rất mạnh mẽ. Các cán bộ chuyên môn liên tục được cử đi tu nghiệp và học tập

liên tục. Quy trình ISO-9000 được áp dụng toàn bộ hệ thống quản lý của PV Drilling,

Hệ thống mua sắm hàng hóa được hiện đại hóa với việc áp dụng thí điểm tại phòng Hỗ

trợ sản xuất hệ thống Maximo được mua từ Hoa Kỳ, hệ thống quản lý và vận hành

doanh nghiệp Oracle cũng được triển khai cho các hoạt động quản lý tại PV Drilling.

Hợp tác quốc tế còn thể hiện ở việc PV Drilling đã thuê hơn 20 chuyên gia nước ngoài,

chiếm tổng số 1/5 nhân sự của công ty lúc bấy giờ, nhằm vừa làm vừa đào tạo, cũng

vừa tạo một sự gắn kết hợp tác với các đối tác nước ngoài có nhân sự đang cho thuê tại PV Drilling.7

Hình ảnh môt công ty trẻ và đang phát triển mạnh mẽ được Chính Phủ chú ý và

đặc biệt quan tâm. Một tiềm năng lớn lao đang được thể hiện tại công ty này với ngành

công nghiệp mũi nhọn là ngành khoan dầu, một ngành mới mẻ nhưng có một tiềm 7 Báo cáo thường niên PV Drilling năm 2006 – trang 82

16

năng lợi nhuận to lớn trong tương lai. Chính vì thế, để đưa PV Drilling lên một vị thế

mới, đồng thời đáp ứng theo Quyết định số 80/2000/QĐ-TTg với yêu cầu cổ phần hóa

06 doanh nghiệp của Tổng công ty Dầu Khí Việt Nam, Tổng Công ty Dầu Khí Việt

Nam đã có công văn số 543/CV-HĐQT trình “Báo cáo bổ sung Đề án tổng thể sắp xếp

doanh nghiệp nhà nước thuộc Tổng Công ty Dầu Khí Việt Nam”, trong đó, PV

Drilling sẽ trở thành công ty cổ phần vào năm 2005. Sau khi xem xét, Bộ trưởng Bộ

Công Nghiệp đã có Quyết định số 3477/QĐ-BCN với nội dung chuyển đổi hình thức

hoạt động của PV Drilling thành công ty cổ phần. Với việc trở thành một công ty cổ

phần, PV Drilling nhiều cơ hội thu hút sự đầu tư của các nhà thầu khoan thế giới và

các nhà đầu tư lớn trong và ngoài nước, từ đó tạo nền tảng cho việc phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong những năm kế tiếp8.

Năm 2006, PV Drilling đã tiến hành IPO, niêm yết cổ phiếu trên sàn chứng

khoán Việt Nam với tên gọi cổ phiếu là “PVD”, giá khởi điểm: 10.500VND/ cổ phiếu.

Từ khi niêm yết, cổ phiếu PVD luôn được đánh giá là một cổ phiếu“blue-chip”, rất

đáng quan tâm cho các nhà đầu tư. Đây là một bước trưởng thành khác của PV

Drilling, giúp cho công ty trở nên uy tín và lớn mạnh không những ở trong nước mà còn ở quốc tế.9

Cũng trong năm 2006 ngày, PV Drilling đã lần lượt thành lập Xí nghiệp

Thương mại & Dịch vụ Kỹ thuật Công nghiệp nay là Công ty TNHH Một thành viên

Thương mại & Dịch vụ Kỹ thuật Dầu khí PVD (PVD Tech), đơn vị này đã triển khai

thành công dịch vụ cung cấp các thiết bị đầu giếng mà trước đây các công ty nước

ngoài đảm nhận. Đầu năm 2007, PV Drilling đã thành lập Công ty Liên doanh BJ

Services - PV Drilling, chuyên thực hiện các dịch vụ kỹ thuật cao như dịch vụ bơm

trám xi măng; dịch vụ kích thích vỉa; dịch vụ ống mềm; dịch vụ bơm Nitơ. Với việc

xuất hiện thêm một Xí Nghiệp và một công ty Liên doanh chuyên thực hiện các công

8 Tập đoàn dầu khí Việt Nam (2011), Lịch sử ngành Dầu Khí Việt Nam (đến năm 2010), Tập 3, Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội – trang 112. 9 Báo cáo thường niên PV Drilling năm 2007 – trang 22

việc mà trước đây phải thuê của các công ty nước ngoài, PV Drilling đã sẵn sàng đưa

17

ra một quy trình toàn diện cho dịch vụ cung cấp giàn khoan và các dịch vụ khoan đi

kèm, thể hiện sự lớn mạnh và chuẩn bị toàn diện cho các hợp đồng thầu khoan chính

cho các dự án lớn trong và ngoài nước.

Cuối năm 2006, PV Drilling chính thức ký hợp đồng trị giá 300 triệu USD với

Tập đoàn Keppel Fels đóng mới giàn khoan Jack-up thế hệ mới nhất với tên gọi “PVD

1”, mở ra một kỷ nguyên mới cho PV Drilling nói riêng, và ngành khoan Việt Nam nói chung10. Sau khi hoàn thành, giàn PVD 1 sẽ trở thành giàn khoan đầu tiên thuộc sở

hữu của Việt Nam và sẽ thực hiện các hợp đồng khoan với Cửu Long JOC tại khu vực

mỏ Sư Tử Trắng, với trữ lượng dầu dự kiến lên tới 300 triệu thùng và trữ lượng khí đốt

dự kiến từ 3 đến 4 tỷ m3.

1.1.2.3 Giai đoạn phát triển bền vững 2007 - 2010

Năm 2007, giàn khoan PVD 1 chính thức được khánh thành, trở thành giàn

khoan đầu tiên người Việt sở hữu 100% vốn. Đây là giàn khoan biển tự nâng đa năng

(Jack-up) thế hệ mới nhất của Keppel Fels, đánh dấu một bước phát triển mạnh trong

việc hợp tác quốc tế chặt chẽ và mạnh mẽ, đưa PV Drilling trở thành một nhà thầu

khoan trẻ nhưng đầy uy tín trên thị trường khoan quốc tế.

Không dừng lại với giàn PVD 1, ngay trong cùng năm 2007, PV Drilling đã cho

khánh thành giàn khoan đất liền đầu tiên của Việt Nam, Giàn khoan PVD 11. Giàn

khoan này là kết quả của sự hợp tác giữa PV Drilling và tập đoàn Honghua, Trung

Quốc, một trong những Tập Đoàn đóng giàn khoan lớn nhất thế giới hiện nay.

Hai sự kiện liên tiếp, hai thành công liên tiếp đã đưa PV Drilling trở thành một

trong những công ty lớn nhất của Tập Đoàn Dầu Khí Việt Nam (tiền thân là Tổng công

ty Dầu Khí Việt Nam). Từ giữa năm 2007, sau khi tiếp tục thành lập thêm đơn vị trực

thuộc Xí Nghiệp Điều hành Khoan (Drilling Division) và hai công ty con gồm: Công

ty Cổ Phần Đào Tạo Kỹ Thuật PVD (PVD Training) chuyên phụ trách mảng đào tạo

10 Thư giới thiệu hợp tác khoan thăm dò của PV Drilling gửi Cửu Long JOC ngày 5 tháng 11 năm 2009, trang 02

huấn luyện và cung ứng dịch vụ tư vấn kỹ thuật liên quan đến các lĩnh vực hoạt động

18

của PV Drilling; công ty TNHH Một thành viên Dịch vụ Giếng khoan Dầu khí PVD

(PVD Well Services) chuyên về các lĩnh vực thử vỉa, bơm trám xi măng và hình thành

giếng khoan và kéo thả ống chống khoan, những lĩnh vực đòi hỏi những công nghệ rất

cao mà hiện nay chỉ có các nhà thầu khoan lớn của thế giới mới đủ sức đáp ứng. Trong

đó, Xí Nghiệp Điều Hành Khoan là đơn vị trực tiếp điều hành và quản lý hai giàn

khoan PVD 1 và PVD 11, đem lại 80% doanh thu và lợi nhuận cho toàn công ty.

Với việc thành lập thêm PVD Well Services và PVD Training đã góp phần

chuyển đổi hình thức của PV Drilling thành Tổng Công ty Cổ Phần Khoan và Dịch vụ

Khoan Dầu Khí với một đơn vị trực thuộc, ba công ty con và một công ty liên doanh,

có tổng giá trị tài sản đạt 4,330 tỷ đồng. Kết thúc năm 2007, PV Drilling đã dần chiếm

lĩnh được thị trường khoan trong nước với thị phần hơn 15%, trong đó ngoài giàn PVD

1, PV Drilling đã vận hành thành công thêm 3 giàn khoan thuê từ các nhà thầu khoan

khác. Đồng thời, tạo một bước ngoặc mang tính lịch sử cho chính trị Việt Nam khi

giàn khoan đất liền PVD 11 chính thức được lắp ráp hoàn thiện và sẵn sàng hoạt động

trên hoang mạc Sahara, tại quốc gia Bắc Phi Algeria, mở ra một hình ảnh Việt Nam

hiện đại, kỹ thuật tiên tiến và sẵn lòng hợp tác với mọi quốc gia trên thế giới, kể cả đó là những khu vực khô cằn, nguy hiểm như hoang mạc Sahara.11

Đến năm 2008, PV Drilling tiếp tục thành lập thêm một liên doanh PVD – PTI

(PV Drilling Production Testers International) giữa PVD Logging và công ty Expro

International BV, trong đó PV Drilling nắm 51% vốn sở hữu, nhằm tận dụng các khoa

học kỹ thuật tiên tiến về thử vỉa giếng khoan và các thiết bị tiên tiến mà công ty này

đang sở hữu. Góp phần nâng cao giá trị của PV Drilling trên thị trường khoan đầy cạnh

tranh hiện nay.

Năm 2009, PV Drilling đã đóng thành công 2 giàn khoan Jack-up PVD 2 và

PVD 3, đưa tổng số giàn sở hữu lên thành bốn giàn khoan, gồm ba giàn Jack – Up thế

11 Báo cáo kinh doanh Ban Tài Chính gửi Hội Đồng Quản Trị PV Drilling ngày 10 tháng 2 năm 2008- trang 05

hệ mới nhất và một giàn Land Rig. Sau khi đi vào hoạt động ổn định 2 giàn mới, PV

19

Drilling đã nắm gần 50% thị trường khoan tại Việt Nam. Doanh thu hàng năm trên

5.000 tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế giai đoạn này luôn đạt trên 800 tỷ mỗi năm tài khóa.

Ngoài ra, vào ngày 04 tháng 09 năm 2009, PV Drilling đã sát nhập Công ty Cổ

phần Đầu tư Khoan Dầu khí Việt Nam (PVD Invest) vào PV Drilling, nâng tổng giá trị

tài sản của Tổng Công ty lên đến trên 12.000 tỷ đồng và vốn điều lệ của Tổng Công ty lên đến 2.105 tỷ đồng.12

Năm 2010, PV Drilling chính thức được Thủ tướng Chính phủ thông qua dự án

đóng mới giàn khoan tiếp trợ, nửa nổi nửa chìm TAD với công nghệ khoan ở những

khu vực nước sâu mà các giàn đang hoạt động tại Việt Nam không thể khoan được.

Đây là một công trình vĩ đại của tập thể PV Drilling nói riêng, ngành khoan của Việt

Nam nói chung. Giàn TAD có tên là PVD 5 này sẽ trở thành một trong 7 giàn TAD

duy nhất trên thế giới với độ sâu có thể khoan tới hơn 10.000m, có thể hoạt động ở khu

vực có độ sâu nước biển trên 1000m.

Kết thúc năm 2010, PV Drilling có thể gọi là hoàn thành giai đoạn xây dựng

một nền tảng vững chắc cho những thành công tiếp theo trong tương lai. PV Drilling

đã trở thành một trong những Tổng Công ty có vốn nhà nước hoạt động hiệu quả nhất

và thành công nhất. Với Slogan “Pioneer of Vietnam Driller – Người tiên phong trong

ngành khoan dầu khí tại Việt Nam”, PV Drilling xứng đáng là một người tiên phong

đầy bản lĩnh và năng động trong một thị trường khoan đang rất sôi động và đầy tính

cạnh tranh như hiện nay.

1.1.3 Định hƣớng phát triển của PV Drilling

1.1.3.1 Thị trƣờng

Nhận thức được tầm quan trọng của việc tìm hiểu nhu cầu sử dụng dịch vụ của

12 Báo cáo kinh doanh Ban Tài Chính gửi Tổng Giám Đốc ngày 27 tháng 12 năm 2009 – trang 03

khách hàng, nhằm điều chỉnh kịp thời chính sách phát triển, chủ động thực hiện các

20

dịch vụ thế mạnh chuyên ngành của mình, PV Drilling luôn coi trọng công tác nghiên

cứu, phân tích, đánh giá thị trường.

Công tác nghiên cứu thị trường cho thấy, nền kinh tế Việt Nam nhiều năm qua,

trong xu thế chung của các nền kinh tế mới nổi, phát triển không ngừng dẫn đến nhu

cầu sử dụng năng lượng rất cao. Một thực tế khác là giá dầu luôn biến động theo xu

hướng tăng, vì vậy các công ty dầu khí luôn có nhu cầu đẩy mạnh hoạt động tìm kiếm,

thăm dò và khai thác của mình.

ODS Petrodata (Tổ chức hàng đầu thế giới chuyên nghiên cứu, đánh giá và dự

báo thị trường khoan) đã thống kê, để phục vụ hoạt động khoan, tính đến năm 2012,

toàn thế giới có nhu cầu sử dụng gần 700 giàn khoan, trong đó có 430 giàn tự nâng.

Khu vực châu Á – Thái Bình Dương sẽ là một trong những khu vực phát triển năng

động nhất. Riêng khu vực Đông Nam Á từ nay tới năm 2015, nhu cầu về giàn tự nâng là 42 giàn và thị trường Việt Nam cần 8 đến 10 giàn trong một năm.13

Với những điều kiện quyết định như: nhu cầu sử dụng năng lượng gia tăng, giá

dầu, tần suất sử dụng giàn khoan ở mức cao là những yếu tố dự báo và đảm bảo một

thị trường bền vững cho PV Drilling trong việc cung cấp giàn khoan, cung cấp các

dịch vụ kĩ thuật khoan trong những năm tiếp theo.

Trước năm 2007, thị trường cung cấp giàn khoan tại Việt Nam đều phụ thuộc

vào các công ty nước ngoài. Năm 2007 là một năm đánh dấu sự phát triển nhảy vọt của

ngành dịch vụ khoan qua việc PV Drilling đưa vào sử dụng giàn khoan biển PVD 1 và

giàn khoan đất liền PVD 11 đạt hiệu quả cao. Trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập Tổ

chức Thương mại Thế giới (WTO), cạnh tranh kinh doanh ngày càng gay gắt, điều này

không những có ý nghĩa khẳng định một công ty Việt Nam hoàn toàn đủ khả năng

quản lý, vận hành và cung cấp giàn khoan với chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc tế, mà

còn chứng tỏ sự gia tăng, phát triển của PV Drilling trong thị trường cung cấp dịch vụ

khoan và kỹ thuật khoan. 13 Website ODS Petrodata, http://www.ihs.com/products/oil-gas/ei/drilling-rigs/offshore-weekly-data.aspx, truy cập ngày 01/03/2013.

21

1.1.3.2 Khách hàng

Với những lợi thế về vị trí trong khu vực, điều kiện thuận lợi của thị trường,

bằng chiến lược phát triển hợp lý và các nguồn lực vững chắc, PV Drilling đang và sẽ

là nhà cung cấp dịch vụ khoan có chất lượng và uy tín cho các công ty dầu khí trong

nước như JVPC, Hoan Vu JOC, Hoang Long JOC, Thang Long JOC, Con Son JOC,

Lam Son JOC, Truong Son JOC, VietsoPetro, VRJ và các công ty ngoài nước như BP,

Petronas, Premier Oil, Conoco Phillips, Vietgazprom…

Sự tín nhiệm từ khách hàng sử dụng dịch vụ của PV Drilling còn thể hiện qua doanh thu từ các hợp đồng thực hiện trong năm 2007 tăng 190% so với năm 200614.

Các khách hàng ngày càng đánh giá cao dịch vụ của PV Drilling. Do đó, thị phần của

PV Drilling ngày càng được mở rộng đối với thị trường trong và ngoài nước.

1.1.3.3 Chiến lƣợc phát triển của PV Drilling đến năm 2015 và định hƣớng

đến năm 2025

Đẩy mạnh phát triển dịch vụ trong nước (mở rộng thị trường lẫn nâng cao thị

phần) để trở thành nhà thầu khoan và cung cấp dịch vụ khoan hàng đầu:

o Dịch vụ cho thuê và điều hành giàn khoan: tiếp tục đầu tư mua thêm hoặc đóng

mới giàn khoan biển và các trang thiết bị chuyên ngành hiện đại.

o Dịch vụ kỹ thuật khoan: Tiếp tục đầu tư nghiên cứu phát triển những dịch vụ

chuyên ngành mới, đặc biệt chú trọng phát triển những dịch vụ như karota khí –

một kỹ thuật khảo sát địa vật lý như chiều dày, mức độ khe nứt, tầng lớp đất để

đánh giá mức độ an toàn, đảm bảo kỹ thuật cho lỗ khoan dầu, nhằm đưa ra các

14 Báo cáo hoạt động kinh doanh của Giám đốc Xí Nghiệp Điều Hành Khoan gửi Hội đồng quản trị ngày 29 tháng 12 năm 2007, trang 09

phương án kỹ thuật giếng khoan mang lại lợi nhuận cao.

22

o Một số dịch vụ kỹ thuật cao: tăng cường mối quan hệ với các đối tác hiện hữu

và tiếp tục mở rộng mối quan hệ hợp tác với các đối tác khác trên thế giới để

phát triển một số dịch vụ kỹ thuật cao mà hiện nay PV Drilling chưa tự thực

hiện được, cụ thể là:

 Liên doanh, liên kết với các đối tác nước ngoài.

 Mua một phần hay toàn bộ một công ty dịch vụ chuyên ngành những lĩnh

vực trên.

Nghiên cứu phát triển một số dịch vụ thế mạnh ra nước ngoài: thị trường các

nước có mỏ do Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam đầu tư và chủ động mở rộng mối

quan hệ hợp tác để phát triển các dịch vụ thế mạnh ra các nước trong khu vực.

Trong Báo cáo Thường niên năm 2010, Ban lãnh đạo của PV Drilling đã chỉ ra

định hướng phát triển cho PV Drilling đến năm 2030:

Phát triển công nghệ khoan nước sâu, ứng dụng khoa học công nghệ cao. Định

hướng phát triển này sẽ giúp cho PV Drilling mở rộng thị phần ở khu vực sâu nhằm

tăng cường an ninh năng lượng như chiến lược phát triển của Bộ Công Thương, Bộ

Quốc Phòng, Tập Đoàn Dầu khí Việt Nam, đồng thời thực hiện bảo vệ chủ quyền lãnh

thổ quốc gia.

Từng bước vững chắc tham gia vào thị trường dịch vụ khoan dầu khí khu vực

và thế giới. Về ngắn hạn, mở rộng ra thị trường mới, đầu tư vào thị trường nước ngoài

sẽ đem lại rủi ro cao do mức độ cạnh tranh lớn, chưa hiểu rõ về thị trường, trong khi đó

lại đòi hỏi vốn đầu tư cao. Về dài hạn, việc mở rộng ra thị trường nước ngoài sẽ giúp

đảm bảo nguồn doanh thu, gia tăng uy tín của PV Drilling cũng như của Tập Đoàn Dầu khí Việt Nam. 15

15 Báo cáo thường niên năm 2010 PV Drilling – trang 25, 26, 27.

1.2. Vai trò của PV Drilling đối với ngành dầu khí Việt Nam

23

1.2.1 Đối với ngành dầu khí trong nƣớc

1.2.1.1 Ngành khoan dầu khí

PV Drilling đang là một trong những nhà thầu khoan lớn nhất tại Việt Nam tính

tới năm 2010, khi mà nhà nước vẫn còn đang nhiều ưu đãi về thuế cho PV Drilling như

hiện nay. Theo số liệu thống kê từ Hiệp hội các nhà thầu khoan Thế Giới IADC

(International Association of Drilling Contractors), PV Drilling năm 2010 đã chiếm

hơn 30% thị phần khoan tại Việt Nam, với 3 giàn khoan sở hữu của PV Drilling PVD 1, PVD 2, PVD 3 và 4 giàn khoan thuê lại từ các nhà thầu khoan khác16. Với vai trò là

người tiên phong, cũng là người dẫn đầu của ngành khoan dầu khí của Việt Nam, PV

Drilling cần phải phát triển mạnh mẽ hơn nữa, nhất là khi thời gian mở cửa cho các

nhà thầu khoan lớn trên thế giới vào Việt Nam ngày càng tiến gần theo yêu cầu của

WTO. Những dự án giàn PVD 5, PVD 6 đang ngày càng hiện thực hóa và giúp PV

Drilling tự tin hơn và sẵn sàng đương đầu với các nhà thầu khác tại khu vực biển Đông

nói riêng, châu Á – Thái Bình Dương nói chung.

PV Shipyard, PTSC, PVEP và cả VietsoPetro đều đã có những giàn khoan cho

riêng mình, đặc biệt nhất là giàn khoan Tam Đảo 3 của PV Shipyard đóng 100% tại

Việt Nam đã giúp cho ngành khoan dầu khí của Việt Nam đang có một tương lai sáng

lạng, đồng thời cũng tạo ra một thách thức cho PV Drilling trong việc chiếm lĩnh thị

trường trong tương lai. Tuy hiện nay các giàn khoan này đều là những giàn khoan thế

hệ cũ, không đủ sức khoan ở những vùng nước sâu hơn 100m, nhưng với sự phát triển

ngày càng toàn diện của ngành dầu khí Việt Nam, việc có các giàn Jack-up đóng tại

Việt Nam khác cạnh tranh với các giàn khoan đóng tại Singapore của PV Drilling sẽ là

điều sớm muộn. Để tiếp tục giữ vai trò người tiên phong, PV Drilling cần phải đầu tư

mạnh mẽ hơn nữa, có những chiến lược phát triển dài hơn, khả thi hơn nữa.

16 Annual Report of IADC in 2010, International Association of Drilling Contractors, trang 18, trang 19

1.2.1.2 Ngành thăm dò và khai thác dầu khí

24

Ngành thăm dò và khai thác dầu khí chính là khách hàng chủ yếu của ngành

khoan dầu khí tại Việt Nam. Do đó, với PV Drilling, những JOC, PVEP, VietsovPetro,

JVPC…là những khách hàng rất quan trọng cho sự phát triển của PV Drilling.

Với việc chiếm lĩnh hơn 30% thị phần khoan tại Việt Nam vào năm 2010, PV

Drilling đang đóng một vai trò quan trọng cho việc thăm dò các khu vực mỏ tại biển

Đông và khai thác các giếng khoan đang có dầu và khí hiện nay. Ví dụ trong khoảng

thời gian từ năm 2007 – 2009, giàn PVD 1 đã khoan hơn 80 giếng khoan cho Cửu

Long JOC tại khu vực mỏ Sư Tử Trắng, trong đó có khoảng 10% giếng khoan đã phát

hiện có dầu. Dự kiến đến cuối năm 2010, tất cả 3 giàn khoan biển của PVD hoạt động

đạt hiệu suất cao nhất, mỗi tháng PV Drilling sẽ hoàn thành từ 10-15 giếng khoan cho

các khách hàng, trữ lượng dầu dự kiến có thể phát hiển tới 10 triệu thùng dầu, lượng khí hơn 25 triệu mét khối khí.17

1.2.2 Đối với ngành dầu khí quốc tế

1.2.2.1 Hợp tác trong lĩnh vực kỹ thuật khoan

Trong lĩnh vực kỹ thuật chuyên ngành khoan, PV Drilling đã vận dụng rất linh

hoạt chính sách “đi tắt đón đầu” của Việt Nam trong giai đoạn đầu thế kỷ XXI. Hàng

loạt các kỹ thuật tiên tiến nhất của ngành khoan thế giới lần lượt có mặt trong danh

sách dịch vụ cung cấp của PV Drilling, tiêu biểu những là những kỹ thuật chống tràn

dầu và thử vỉa, bơm trám vỉa… những kỹ thuật này đòi hỏi một quy trình kỹ thuật rất

tiên tiến và nó thay thế cho công nghệ mà các giàn khoan thế hệ cũ đang sử dụng

những năm 2001-2003 tại Việt Nam. Những công ty liên doanh lần lượt ra đời như

PVD – Baker Hughes, PVD – PTI, PVD – BJ đã cho thấy một uy tín lớn trên trường

quốc tế, những nhà thầu khoan lớn nhất trên thế giới sẵn sàng bắt tay hợp tác với PV

Drilling để cung cấp những kỹ thuật mới. Đến năm 2010, PV Drilling đã được công

nhận rộng rãi trên toàn cầu khi giàn khoan PVD 1 đạt chứng nhận 3 năm liên tiếp đạt

Zero LTI (một tiêu chuẩn về tính an toàn và làm việc hiệu quả trong ngành khoan). 17 Báo cáo kết quả hợp đồng của phòng Điều hành Khoan gửi Giám đốc Xí Nghiệp Điều hành Khoan ngày 01 tháng 6 năm 2009 – trang 17

25

Khi chúng ta bước chân lên giàn sẽ thấy trên giàn không những bao gồm cán bộ

của PV Drilling, mà còn nhiều cán bộ của các nhà thầu khoan lớn khác trên thế giới

như Keppel Fels, Baker Hughes, Petronas…Điều đó cho thấy, ngành khoan đang là

một ngành toàn cầu hóa rất mạnh mẽ về mặt kĩ thuật, mọi nhà thầu khoan trên thế giới

cần phải liên tục hợp tác về kỹ thuật với nhau để có thể học hỏi và vận hành tốt nhất

các giàn khoan đang hiện hữu trên những vùng biển có tiềm năng dầu khí.

1.2.2.2 Hợp tác trong lĩnh vực kinh tế biển

Biển là một nguồn tài nguyên vô tận, là một lợi thế kinh tế rất của một quốc gia,

nhất là Việt Nam với 3.200 km đường bờ biển, đây thực sự là một “kho tàng” của Việt

Nam, nhưng có thể nói, Việt Nam ta hiện nay vẫn chưa đủ sức để khai thác và tận

dụng nó triệt để bằng chính sức mạnh của mình. Do đó, dù rất cố gắng, Việt Nam vẫn

phải cần sự trợ giúp của các quốc gia tiên tiến khác. Ngành khoan dầu khí cũng vậy,

Việt Nam lúc nào cũng cần sự hỗ trợ của các quốc gia tiên tiến khác để có thể khoan

sâu, khoan nhiều hơn nữa để thăm dò và khai thác các nguồn dầu khí nằm bên dưới

lòng đất.

Một thực tế cho thấy rằng, trước khi PV Drilling trở nên mạnh mẽ, vùng ngoài

khơi Việt Nam chỉ toàn các giàn khoan nước ngoài hoạt động, chúng ta phải tìm rất vất

vả mới chỉ có thể thấy vài “giàn khoan cố định” nhỏ lẻ cắm cờ Việt Nam với một mức

độ hạn chế về kích thước và kỹ thuật. Do đó, cho dù PV Drilling có mạnh mẽ tới đâu,

nhiều giàn khoan tới đâu, chắc chắn cũng không thể một mình độc quyền vùng biển

Việt Nam mà phải cần sự hợp tác của các nhà thầu khoan uy tín trên khắp thế giới.

Việt Nam hiện nay được đánh giá nằm trong top 20 quốc gia có trữ lượng dầu

lớn nhất thế giới, với trữ lượng hơn 4,4 tỷ thùng dầu. Đủ nguồn cung năng lượng cho khu vực trong vòng 50 năm nữa.18 Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất của Việt Nam là trình

độ kỹ thuật để tận dụng triệt để nguồn tài nguyên này. Nếu kỹ thuật không đủ hiện đại,

18 Báo cáo thường niên PV Drilling năm 2008 , trang 10

nguy cơ xảy ra các tai nạn gây ra các thảm họa thiên nhiên là vô cùng lớn. Bài học về

26

các vụ tràn dầu lớn trên thế giới trong thời gian qua là minh chứng cho việc này. Nếu

PV Drilling là nhà thầu khoan tiên phong của Việt Nam, thì việc PV Drilling tiên

phong trong lĩnh vực hợp tác tăng cường trao dồi kỹ thuật, công nghệ, nhân lực với thế

giới là một điều hết sức quan trọng và cần thiết. Ngoài ra, do thị trường khoan trên thế

giới có hơn 200 nhà thầu khoan lớn nhỏ, việc chọn lọc đối tác và cảnh giác trong các

mối quan hệ kinh tế là điều hết sức cần lưu ý, vì không phải nhà thầu khoan nào cũng

mạnh và đủ kinh nghiệm để đưa PV Drilling tiến lên, nếu không chú ý, có thể gây

phản ứng ngược lại là kéo PV Drilling ngày càng tụt hậu với thế giới. Mà điều này đối

với một ngành công nghiệp cần sự hiện đại và cập nhật thường xuyên như ngành

khoan dầu khí là điều hết sức nguy hiểm.

1.2.2.3 Hợp tác trong lĩnh vực chính trị

PV Drilling hiện nay đang là nhà tiên phong của Tập đoàn dầu khí Việt Nam

trong việc tiến ra hợp tác với thế giới, văn phòng Venezuela và đặc biệt – giàn khoan

PVD 11 đặt tại Algeria – là một bước tiến quan trọng trong chính trị của Việt Nam,

phù hợp với phương châm của chính sách ngoại giao Việt Nam - “Việt Nam sẵn sàng

là bạn với tất cả các nước trên thế giới”.

Năm 2009, với việc khánh thành và di chuyển vượt hơn 10.000km đưa giàn

khoan đất liền PVD 11 từ Trung Quốc đến Algeria, PV Drilling nói riêng, Việt Nam

nói chung đã đặt viên gạch đầu tiên cho sự hợp tác phát triển bền vững với các nước

châu Phi, một thị trường tiềm năng mà Việt Nam đang nhắm tới. Từ năm 2011, giàn

khoan PVD 11 bắt đầu hợp đồng khoan với GBRS tại Location BRS-11, Block 433a,

7416b, giàn khoan luôn đạt chỉ số Free LTI trong nhiều năm và hiệu suất khoan luôn

đạt trên 80%, năng suất hơn 10.000 thùng dầu/ ngày, giúp đáp ứng hơn 5% nhu cầu năng lượng tại quốc gia Bắc Phi này19. Tuy nhiên, do nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố

kỹ thuật, đã hạn chế việc hợp tác đưa giàn khoan ra nước ngoài của PV Drilling. Trong

những năm tiếp theo, PV Drilling đã có kế hoạch đóng mới tiếp hai giàn khoan Jack-

up PVD 6 và PVD 7 để đáp ứng cho nhu cầu khoan thăm dò tại khu vực Đông Nam Á 19 Báo cáo của văn phòng PV Drilling tại Algeria gửi Ban Tổng Giám Đốc ngày 07 tháng 08 năm 2013 – trang 03

27

và khu vực Nam Mỹ, nơi mà Venezuela đang là đối tác chiến lược của Việt Nam, đặc

biệt là trong ngành dầu khí. Đây hứa hẹn là những bước tiến quan trọng cho việc tăng

cường sức mạnh mềm của Việt Nam trên trường quốc tế, gia tăng uy tín cho ngành

khoan Việt Nam, cũng như chứng minh cho thế giới thấy một Việt Nam đang có một

mức độ phát triển kỹ thuật tương đối cao và hiện đại, đủ sức đáp ứng cho những yêu

cầu khắt khe nhất của các đối tác trên thế giới.

Hơn thế nữa, giàn khoan luôn được xem như một pháo đài di động, cũng như

một đánh dấu lãnh thổ quan trọng trên biển. Do đó, việc tăng cường sự hiện diện của

các giàn khoan mang quốc tịch Việt Nam trên vùng biển Đông là hết sức cần thiết và

quan trọng trong bối cảnh căng thẳng đang leo thang tại biển Đông hiện nay. Năm

2010, với việc giàn khoan tiếp trợ nửa nổi nửa chìm (TAD – Tender Assist Drilling)

mang tên PVD 5 chính thức được đóng tại Singapore, sẽ mang một ý nghĩa hết sức

quan trọng cho Việt Nam. Đây là giàn khoan có khả năng hoạt động ở khu vực nước

sâu trên 3000m và mang sự hiện diện chủ quyền của Việt Nam đến những khu vực

nằm xa nhất trên thềm lục địa của Việt Nam.

1.3. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực dầu khí của PV Drilling

1.3.1 Cơ sở hoạch định

Chủ trương hợp tác quốc tế của PV Drilling được hình thành và thông qua chủ

yếu dựa trên ba cơ sở chính:

- Mục tiêu kinh doanh ngành công nghiệp khoan dầu khí chính thống và định

hướng phát triển các ngành phụ trợ.

- Cơ sở vật chất hiện tại và khả năng thu hút đầu tư, tăng nguồn vốn và xây dựng

hình ảnh hiện đại, chuyên nghiệp trên thị trường khoan thế giới.

- Nguồn nhân lực và hệ thống đào tạo các nhân sự cấp cao cho các vị trí lãnh đạo

cả ở offshore và onshore.

28

Ngoài ba cơ sở trên, để hình thành nên chủ trương của toàn Tổng Công ty về

hợp tác quốc tế, ban lãnh đạo của PV Drilling phải chú ý đến những cơ sở phụ nhưng

cũng có sức ảnh hưởng lớn, bao gồm các cơ sở phụ như sau:

- Chủ trương hợp tác quốc tế của Tập Đoàn Dầu Khí Việt Nam và Bộ Công

Thương.

- Khả năng của từng đơn vị trực thuộc, công ty con, công ty cháu và các công ty

liên doanh.

- Tình hình chính trị đối ngoại của Việt Nam với các quốc gia trên thế giới, đặc

biệt là các nước khu vực ASEAN và Trung Quốc.

- Các chỉ số về hợp tác quốc tế trong quá khứ cũng như các công ty cạnh tranh

trực tiếp để PV Drilling tham khảo và đưa ra chiến lược chủ trương hợp lý.

1.3.2 Quá trình triển khai hợp tác quốc tế

Chủ trương hợp tác quốc tế hiện nay của PV Drilling tuy đã được soạn thảo và

đưa ra từ năm đầu thành lập, nhưng đến nay vẫn chưa thực sự hoàn thiện, vẫn còn

mang tính cục bộ do hiện tại PV Drilling đang có sự giúp đỡ rất lớn từ Tập Đoàn Dầu

Khí Việt Nam và các bộ ban ngành liên quan.

Những chủ trương về hợp tác quốc tế hiện nay có thể chia thành 3 lĩnh vực

chính với những đặc điểm riêng biệt.

Về lĩnh vực đầu tư, PV Drilling chủ trương ưu tiên tăng cường hợp tác với các

quốc gia trong khu vực ASEAN về các mặt chuyên môn kỹ thuật như đóng mới giàn

khoan, cung cấp dịch vụ nhân lực cấp cao và tư vấn kỹ thuật. Ngoài ra, PV Drilling

cũng vươn ra hợp tác với các quốc gia phát triển về ngành khoan và có một hệ thống

toàn cầu. Tiêu biểu là trong năm 2006, liên doanh PV Drilling – Baker Hughes đã

được thành lập với số vốn kinh doanh ban đầu là 70 tỷ đồng. Trong năm 2007, liên

doanh này đã mang về cho PV Drilling lợi nhuận hơn 3 tỷ đồng.

29

Về lĩnh vực nhân sự đào tạo, PV Drilling chủ trương liên kết hợp tác với các đối

tác có quan hệ kinh doanh với nhau từ lâu như SeaDrill, Vantage, Transocean…để

tăng cường đội ngũ nhân lực người Việt Nam có tay nghề kỹ thuật cao để đảm đương

các vị trí từ thấp đến cao trên giàn như Routabout, Toolbusher, Senior Toolbusher,

Driller, STC…PVD Training được thành lập nhằm là đầu mối cho chủ trương này.

Hiện nay, PVD Training đã đạt cấp quốc tế trong lĩnh vực đào tạo lĩnh vực khoan và

các chứng chỉ đi kèm với ngành khoan như BOSIET, Well Control…

Về lĩnh vực kinh doanh, tuy khách hàng chính của PV Drilling là các JOC trong

nước, nhưng PV Drilling vẫn chú trọng các hợp đồng khoan từ các nước có quan hệ

đối ngoại tốt với Việt Nam như Venezuela, Algeria…Văn phòng của PV Drilling tại

Venezuela được thành lập từ năm 2009 và vẫn đang hoạt động hiệu quả trong việc

quảng bá hình ảnh ngành khoan Việt Nam với quốc gia giàu dầu mỏ này. Tại Algeria,

PV Drilling đang tiến hành khoan thăm dò cho các công ty dầu mỏ quốc gia của

Algeria. Nhưng chủ trương chính của PV Drilling về lĩnh vực này là tăng cường hợp

tác chặt chẽ với các nhà thầu khoan lớn của thế giới nhằm thuê lại giàn khoan để đáp

ứng các hợp đồng khoan trong nước. Những đối tác lớn nhất của PV Drilling là

ENSCO (thuê bốn giàn Jack-up), Vantage (thuê hai giàn Jack-up), Idemitsu (thuê hai

giàn Jack-up, một giàn SemiSub)… đã góp phần giúp PV Drilling chiếm lĩnh thị

trường khoan trong nước.

Tiểu kết chƣơng 1

Trong chương 1, luận văn đã làm rõ các nét tổng quan về quá trình hình thành,

quá trình phát triển và các nét chính trong giai đoạn phát triền từ năm 2001 đến năm

2010 của PV Drilling. Tác giả cũng đã làm rõ vai trò của PV Drilling trong ngành

khoan dầu khí tại Việt Nam hiện nay, các cơ sở hoạch định chủ trương hợp tác quốc tế

và những đặc điểm chính của chủ trương hợp tác quốc tế cho công cuộc nâng cao năng

lực và tầm ảnh hưởng của PV Drilling trên thị trường khoan Việt Nam nói riêng, của

30

thế giới nói chung. Những thông tin trong chương 1 sẽ là cơ sở để tác giả phát triển

thêm về các hoạt động triển khai hợp tác quốc tế của PV Drilling trong từng lĩnh vực ở

chương 2 và đánh giá các tác động cũng như triển vọng của quá trình này trong tương

lai của PV Drilling ở chương 3 luận văn này.

31

CHƢƠNG 2: HOẠT ĐỘNG TRIỂN KHAI HỢP TÁC QUỐC TẾ TRONG LĨNH

VỰC DẦU KHÍ CỦA PV DRILLING

2.1. Đối với lĩnh vực khoan thăm dò

2.1.1. Chính sách ƣu đãi của nhà nƣớc trong việc hợp tác quốc tế cho việc

khoan thăm dò dầu khí tại vùng biển Việt Nam

Hiện nay nhà nước đang có nhiều chính sách ưu đãi trong việc hợp tác quốc tế

cho việc khoan thăm dò của PV Drilling. Chẳng hạn một số chính sách tiêu biểu giúp

tăng lợi thế cạnh tranh cho Việt Nam như cấp quota nhập khẩu miễn thuế, ưu tiên nhập

cảnh cho các chuyên gia có hợp đồng lao động với PV Drilling, ưu tiên làm thủ tục tại

bộ phận biên phòng cho các thủ tục xuất nhập cảnh lên giàn, ưu tiên miễn thuế cho các

giàn khoan nước ngoài mà PV Drilling thuê lại nhập vào Việt Nam…

Riêng về hỗ trợ cho việc hợp tác quốc tế, PV Drilling được hỗ trợ rất nhiều khi

mở các liên doanh giữa PV Drilling với các đối tác lớn trên thế giới như Baker

Hughes, Viettubes, EXPRO… Những đối tác này khi liên kết với PV Drilling sẽ được

hỗ trợ rất nhiều trong việc đầu tư vào Việt Nam thông qua liên doanh với PV Drilling,

ví dụ như Baker Hughes sẽ được ưu tiên cho công việc cung cấp ống khoan cho các

hoạt động khai thác về sau khi mà mỏ thăm dò chuyển sang khai thác, cho dù nhà thầu

khoan có thay đổi không còn là PV Drilling vận hành giàn khoan khai thác.

Nghị định số 121/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 7 năm 2007 và Nghị định số

17/2009/NĐ-CP ngày 16 tháng 02 năm 2009 của Chính Phủ Việt Nam đã nhấn mạnh

nhiều điểm ưu đãi cho các doanh nghiệp dầu khí Việt Nam khi hợp tác đầu tư ra nước

ngoài, trong đó, PV Drilling đã tận dụng để tiến hành đóng mới lần lượt ba giàn khoan

Jack-up gồm PVD 1, PVD 2, PVD 3 và một giàn khoan đất liền PVD 11. Chính việc

ưu đãi này đã giúp PV Drilling tạo được nền tảng vững mạnh cho công cuộc chiếm

lĩnh thị trường khoan tại Việt Nam. Ngay khi ba giàn khoan Jack-up được hoàn thành,

hàng loạt các JOC tại Việt Nam đã ký hợp đồng cho các hoạt động thăm dò tại vùng

32

biển ngoài khơi Vũng Tàu, tiêu biểu là hàng loạt hợp đồng dài hạn với Vietsopetro,

Cửu Long JOC, Biển Đông JOC…

Luật Dầu Khí Việt Nam được Quốc Hội Việt Nam thông qua vào ngày 6 tháng

7 năm 1993 có một số điều khoản thuận lợi cho các hoạt động của PV Drilling như ở

điều 28, khoản 5 có đoạn ghi “Được miễn thuế nhập khẩu các thiết bị, vật tư cần thiết

cho hoạt động dầu khí và miễn thuế tái xuất khi các thiết bị nhập khẩu không được lắp

đặt cố định hoặc vật tư không sử dụng hết theo quy định của pháp luật Việt Nam.” –

cho thấy với chính sách ưu đãi này, khi PV Drilling trở thành nhà thầu khoan số một

tại Việt Nam, PV Drilling sẽ dễ dàng miễn được khoản thuế rất lớn cho các hoạt động

xuất nhập khẩu vật tư tạo tài sản cố định của mình.

Điều 17 và 18 của Luật Dầu Khí này cũng tạo nhiều thuận lợi cho các hoạt động

của PV Drilling khi quy định thời hạn thăm dò từ 5 - 7 năm và thời hạn khai thác từ 25

- 30 năm. Nó cho phép PV Drilling kiếm được nhiều hợp đồng khoan khi mà thời hạn

thăm dò chỉ khoảng 5 năm, nó bắt buộc các nhà thầu mỏ thay đổi nhà thầu khoan để ký

kết hợp đồng mới, hoặc gia hạn hợp đồng cũ, lúc đó PV Drilling sẽ có nhiều cơ hội

cạnh tranh do giá thuê rẻ, kỹ thuật hiện đại cùng với đội ngũ nhân công bản địa hóa

hơn 80%. Trên thực tế, đa số những hợp đồng khoan PV Drilling có được do cạnh

tranh thành công với các nhà thầu khoan thế giới. Vì một quy tắc mà chúng ta đều biết

“ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn.” Không một nhà thầu mỏ nào lựa

chọn một nhà thầu khoan quốc tế khi mà PV Drilling, nhà thầu khoan Việt Nam đáp

ứng đủ mọi yêu cầu được đưa ra.

Do dầu khí là một trong những tài nguyên thiên nhiên quý và là nhiên liệu quan

trọng chủ yếu để sản xuất ra các sản phẩm của ngành hóa dầu như dung môi, phân bón

hóa học, nhựa, thuốc trừ sâu, nhựa đường... nên nó đem lại hiệu quả kinh tế cao cho

nước sở hữu nguồn tài nguyên này. Dầu khí còn là nguồn tài nguyên không tái tạo

được nên việc khai thác phải thật sự hợp lý để không bị cạn kiệt. Vì vậy, việc tìm kiếm

thăm dò và khai thác dầu khí rất được chính phủ nước có nguồn tài nguyên dầu khí rất

quan tâm và quản lý chặt chẽ. Khi một nhà thầu khoan muốn tiến hành tìm kiếm thăm

33

dò khai thác dầu khí hoặc cung cấp giàn khoan trong một vùng biển đặc quyền kinh tế

của nước nào thì phải tiến hành đàm phán để liên doanh liên kết với công ty dầu khí

của quốc gia đó.

Điều này thể hiện ở luật và quy định của các nước ví dụ như mục 6.1 Luật PDA

ở Malaysia: "Các tổ chức, cá nhân nào được tiến hành tìm kiếm thăm dò và khai thác

dầu khí ở lãnh thổ Malaysia ngoại trừ PETRONAS, trừ trường hợp khác được Thủ tướng cho phép"20. Điều 3.5, điều 10 Luật Dầu khí Việt Nam có quy định: " Chính phủ

Việt Nam cho phép tổ chức, cá nhân tiến hành các hoạt động nghiên cứu khoa học, tìm

kiếm thăm dò và khai thác khoáng sản, tài nguyên thiên nhiên khác ngoài dầu khí

trong diện tích hợp đồng dầu khí (là văn bản ký kết giữa Tổng công ty dầu khí Việt

Nam với tổ chức, cá nhân để tiến hành hoạt động dầu khí) theo quy định của pháp luật

Việt Nam. Các hoạt động này không được gây cản trở và làm thiệt hại cho các hoạt động dầu khí" 21

Khi tiến hành liên doanh hoặc liên kết, các nhà thầu khoan sẽ phải tuân thủ chặt

chẽ các quy định của pháp luật; đảm bảo các yêu cầu nghiêm ngặt về môi trường, an

toàn lao động.

Ngoài ra, Thủ tướng Chính Phủ cũng có chỉ đạo Tập đoàn Dầu khí Việt Nam

cần phải ưu tiên các công ty trong ngành cho các dịch vụ đi kèm để tập trung phát triển

và phân ngành cho các Tổng Công ty, Công ty thành viên, và PV Drilling luôn được

nhắc đến cho các dịch vụ khoan hiện nay. Với năm 2010, việc PV Drilling có đến ba

giàn khoan Jack-up hiện đại 100% sở hữu của người Việt, đã tạo cơ sở cho PV Drilling

tự tin tham gia các hoạt động đấu thầu khoan cho các khu vực mỏ mới tại khu vực

ngoài khơi Cà Mau, ngoài khơi Hải Phòng.

2.1.2. Hợp tác với Vietsovpetro

20 Malaysia Chapter- Oil & Gas Regulation 2014, tr.6 21 Luật Dầu khí số 19/2000/QH10 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dầu khí số 10/2008/QH12 năm 2008

2.1.2.1 Giới thiệu sơ lƣợc Vietsovpetro

34

Vietsovpetro là Liên doanh đầu tiên của Việt Nam với nước ngoài trong lĩnh

vực dầu khí, và là một biểu tượng của tình Hữu nghị Việt Nam – Liên Bang Nga.

Liên doanh dầu khí Vietsopetro được thành lập trên cơ sở các Hiệp định Việt –

Xô về hợp tác thăm dò, khai thác dầu khí trên thềm lục địa Việt Nam ký ngày

03/07/1980 và Hiệp định Liên Chính phủ Việt Nam – Liên Xô ký ngày 19/06/1981 về

việc thành lập Liên doanh dầu khí Việt –Xô.

2.1.2.2 Hợp tác khoan thăm dò giữa PV Drilling và Vietsovpetro

Vietsovpetro đã có một quá trình hợp tác lâu dài từ khi PV Drilling mới thành

lập cho đến khi PV Drilling trở thành một trong những nhà thầu khoan lớn nhất tại

Việt Nam hiện nay.

Khi giàn PVD 3 được đóng thành công năm 2009, PV Drilling đã nhanh chóng

ký kết được một hợp đồng khoan thăm dò trong vòng 5 năm tính từ năm 2010. Điều

này cho phép PV Drilling đặt một viên gạch to lớn tiếp thêm cho mối quan hệ rất tốt

của hai bên. Trước đó, PV Drilling đã phụ trách chính cho các hoạt động phụ trợ khoan

cho Vietsopetro ở mỏ Đại Hùng và mỏ Bạch Hổ, như cung ứng nhân lực, cung cấp

thiết bị khoan, cần khoan, mũi khoan (drill bit), các dịch vụ quản lý an toàn trên giàn

khoan… Năm 2001, ông Trần Văn Hoạt, cựu Chánh kỹ sư và Giàn trưởng giàn khoan

Jack-up Cửu Long Xí nghiệp Liên doanh dầu khí Vietsopetro sang PV Drilling làm

Phó Tổng Giám Đốc đã góp phần nâng cao mối quan hệ đối tác làm ăn lâu dài giữa hai

bên PV Drilling và Vietsopetro, mặc dù lúc bấy giờ PV Drilling mới được thành lập và

còn non yếu.

Đến giai đoạn năm 2006-2010, PV Drilling đã là đối tác lớn nhất với

Vietsopetro khi có 3 công ty con của PV Drilling chuyên cung cấp dịch vụ thường

xuyên cho Liên doanh này, trong đó liên doanh PV Drilling – Baker Hughes chiếm

phần lớn nhất với hơn 51% doanh thu của PV Drilling với Vietsopetro. Còn lại là PVD

– PTI chiếm được hơn 29% và PVD Logging là 20%. Cán cân thương mại giữa PV

35

Drilling – Vietsopetro cũng tăng dần theo các năm khi hai bên cung cấp các dịch vụ cho nhau, với tổng khối lượng thương mại đạt hơn 100 triệu USD đến năm 201022.

Hoạt động khoan thăm dò cho Vietsopetro luôn được các cấp lãnh đạo của PV

Drilling quan tâm và theo dõi sát sao. Với chiến dịch khoan tại mỏ Thỏ Trắng, một

trong những mỏ có trữ lượng rất lớn tại vùng biển Vũng Tàu, PV Drilling đã tăng

cường nhiều chuyên gia giàu kinh nghiệm từ các giàn PVD 1, PVD 2 sang để tiếp ứng

cho các sự cố khi khoan tại khu vực này, đảm bảo LTI luôn đạt chuẩn và đáp ứng đầy

đủ các yêu cầu của Vietsopetro. Tại khu vực mỏ Bạch Hổ, lô 09/01, trong giai đoạn

2009-2010, PV Drilling đã khoan thành công hơn 10 giếng thăm dò, đáp ứng hơn

120% kế hoạch đặt ra. Với việc trung tâm ứng cứu sự cố tràn dầu NASOS của PV

Drilling được phát triển và trở thành thế mạnh mũi nhọn của PV Drilling từ năm 2010,

hứa hẹn sẽ giúp PV Drilling ổn định hơn trong các kế hoạch khoan với Vietsopetro,

một đơn vị liên doanh có gắn kết mạnh mẽ nhất với PV Drilling.

2.1.2.3 Hợp tác trong đào tạo giữa PV Drilling và Vietsovpetro

Trong năm 2010, PVD Training đã phối hợp thành công với các chuyên gia

Vietsopetro để khánh thành hệ thống huấn luyện BOSIET (Basic Offshore Safety

Induction and Emergency Training) đạt tiêu chuẩn quốc tế, một trong những bài huấn

luyện bắt buộc cho mọi kỹ sư, công nhân muốn làm việc trên giàn. Đây là một bước

phát triển mạnh mẽ cho PV Drilling, vì tại Việt Nam thời điểm đó, chỉ có Vietsopetro

là có hệ thống huấn luyện BOSIET cho các kỹ sư công nhân của họ. Mọi nhân lực của

PV Drilling đều phải sang Vietsopetro hoặc phải sang các quốc gia lân cận để học lấy

chứng chỉ này. Với việc thành công trong việc khánh thành hệ thống này, PV Drilling

đã tiết kiệm được hơn 10 triệu USD mỗi năm cho việc đào tạo, vì chứng chỉ BOSIET

chỉ có giới hạn 2 năm, và học phí cho chứng chỉ này rất đắt đỏ, theo báo giá của Trung

tâm ERGT Australia – trung tâm uy tín hàng đầu thế giới về huấn luyện kỹ sư khoan,

22 Báo cáo thương mại của Ban Phát triển thương mại gửi Tổng Giám Đốc PV Drilling ngày 07 tháng 05 năm 2011 – trang 04

giá cho một khóa BOSIET trong thời điểm 2001-2010 dao động từ 3.000 USD –

36

5.000USD/ người. Một con số khá lớn với quy mô và doanh thu của PV Drilling lúc bấy giờ23.

Tóm lại, mối quan hệ đối tác chiến lược giữa PV Drilling – Vietsopetro là một

mối quan hệ tương hỗ, gắn kết bền vững, PV Drilling cần những khách hàng giàu tiềm

năng về cả chính trị lẫn kinh tế như Vietsopetro. Bên cạnh đó, Vietsopetro cũng cần

một đối tác uy tín đầy tin cậy như PV Drilling cho các hoạt động thăm dò, khai thác

của mình.

2.1.3. Hợp tác với JVPC

2.1.3.1 Sơ nét về Japan Vietnam Petroletion Company (JVPC)

Đối tác chiến lược thứ hai của PV Drilling là JVPC – công ty liên doanh giữa

Tổng Công ty Thăm Dò và Khai Thác Dầu Khí Việt Nam (PVEP) với tập đoàn dầu khí

đa quốc gia Nhật Bản JX Nippon Oil and Gas Exploration. JVPC thành lập năm 1989,

được phân khai thác lô 15-2 tại mỏ Rạng Đông, và tới năm 1998 đã khai thác được

những dòng dầu thô đầu tiên.

2.1.3.2 Hợp tác trong các hoạt động khoan thăm dò giữa PV Drilling và

JVPC

JVPC là đối tác lớn thứ nhì đối với PV Drilling hiện nay. Với một nền công

nghệ hiện đại từ Nhật Bản, cũng như các phương pháp quản lý cao cấp mà JVPC đã

giúp cho PV Drilling ngày càng trở nên chuyên nghiệp và hoàn thiện khi hợp tác làm

ăn và có sự trao đổi các mức độ quản lý doanh nghiệp. Tại mỏ Rạng Đông, JVPC đã

có hợp tác với PVEP để thăm dò và khai thác từ năm 1989, mà trong đó PTSC

Offshore – tiền thân của PV Drilling là một trong những nhân tố quan trọng cho các

công tác khoan thăm dò. Từ năm 2003, JVPC chính thức thuê các giàn khoan của PV

Drilling bao gồm NAGA 3, Topaz, Maearsk Driller để phục vụ cho công tác khoan

23 Báo cáo hiệu quả của PVD Training gửi Ban Tổng Giám Đốc PV Drilling ngày 9 tháng 8 năm 2012 – trang 10

thăm dò mỏ mới của mình.

37

Vào tháng 01/2008, sau khi giàn PVD 1 được hoàn thành và hoạt động ổn định,

PV Drilling đã cung cấp cho JVPC thuê giàn khoan này để phục vụ công tác khoan

thăm dò tại khu vực mỏ Phương Đông, lô PDX-09, sau 8 tháng vất vả thăm dò, khoan

hơn 5 giếng thăm dò, đến ngày 2/8/2008, dòng dầu thô đầu tiên đã được tìm thấy, đánh

dấu một thành công vượt bậc cho công tác điều hành khoan của PV Drilling, khi chỉ

cần 5 giếng khoan đã tìm thấy dầu. Tuy sau đó giàn PVD 1 chưa được nâng cấp kỹ

thuật khoan khai thác nên JVPC đã thuê nhà thầu khoan ExxonMobile nước ngoài để

phục vụ công tác khoan khai thác, nhưng PV Drilling đã tạo được tiếng vang và tiếp

tục khẳng định năng lực của mình.

Trong giai đoạn 2009 – 2010, sau khi giàn PVD 2 chính thức được hạ thủy và đi

vào hoạt động, JVPC đã thuê giàn khoan này để thăm dò các lô mới thuộc mỏ Rạng

Đông. Trong hai năm khoan thăm dò tại mỏ Rạng Đông, PV Drilling đã vận hành giàn

PVD 2 khoan hơn 20 giếng khoan, trong đó có 3 giếng có dầu. Cũng trong năm 2010,

PV Drilling đã ký một hợp đồng ghi nhớ cho việc khoan khai thác tại đây cho JVPC

vào năm 2012. Sau khi giàn PVD 2 hoàn thành nghĩa vụ khoan thăm dò cho PVEP

POC trong năm 2011.

Những hợp đồng khoan thăm dò liên tiếp của JVPC với PV Drilling cho thấy sự

tin tưởng và quan trọng của PV Drilling đối với công ty liên doanh này. Trong tương

lại, khi giàn PVD 1 được nâng cấp kỹ thuật khoan khai thác, trong khi các giàn PVD 2,

PVD 3 đều đã có kỹ thuật khoan khai thác, hướng hẹn nhiều hợp đồng khoan thăm dò

hơn nữa giữa PV Drilling và JVPC.

2.1.2.3 Hợp tác đào tạo và cung cấp các dịch vụ hỗ trợ thăm dò

PV Drilling sau khi thành lập PVD Training đã không ngừng mở rộng hợp tác

với các đối tác lớn, mà về các đối tác nước ngoài, JVPC là một trong những đối tác

chiến lược, giúp đưa vị thế của PVD Training tiến xa hơn. Nhật Bản là một quốc gia

hàng đầu về kỹ thuật, đặc biệt là về kỹ thuật đóng giàn và vận hành giàn khoan. Do đó,

với sự hỗ trợ của chính phủ Nhật Bản và JX Nippon Oil and Gas Exploration – một

38

công ty dầu khí quốc gia Nhật Bản chuyên điều hành các liên doanh tại các quốc gia

đang phát triển như Việt Nam, Venezuela…PVD Training đã triền khai các lớp đào tạo

về Well Control, Safety Management có chứng chỉ cấp quốc tế, được các nước tiên

tiến như Hoa Kỳ, Anh Quốc chấp nhận. Ngoài ra, hệ thống mô phỏng Tháp Khoan

(Derrick) được nhập khẩu trực tiếp từ Nhật Bản sang cũng giúp PVD Training nâng

cấp các khóa đào tạo khác lên cấp độ quốc tế vì đạt các chứng nhận ISO và chứng

nhận từ IADC cho công tác an toàn khoan.

Hàng năm, các chuyên gia Nhật Bản đều có các buổi tham luận với các kỹ sư

chính, Ban Lãnh Đạo của PV Drilling để nâng cao trình độ nghiệp vụ cho công tác vận

hành giàn khoan. Ngoài ra JVPC còn có bộ phận tư vấn riêng cho PV Drilling về các

lĩnh vực vận hành giàn khoan chuyên nghiệp. Với sự hỗ trợ này, PV Drilling luôn

được cập nhật các kỹ thuật, các kinh nghiệm mới nhất từ các chuyên gia Nhật Bản

đang làm việc trên khắp thế giới.

Về các dịch vụ hỗ trợ thăm dò, dịch vụ được PV Drilling chú trọng nhất cho các

hoạt động khoan thăm dò cho JVPC chính là cung cấp các ống khoan thế hệ mới, đáp

ứng cho những nhu cầu khoan xiên (một kỹ thuật khoan giúp cho từ một giếng chính

khoan được nhiều giếng nhỏ xung quanh). Với việc PV Drilling cuối năm 2008 đã tiến

hành thành lập liên doanh PVD Tubulars với Marubeni-Itochu Tubulars Asia Pte Ltd,

một công ty Nhật Bản chuyên về lĩnh vực cung cấp ống khoan, cần khoan., JVPC đã

hoàn toàn tin tưởng giao cho PV Drilling 12 hợp đồng về cung cấp ống khoan cho 12

giàn khoan mà JVPC đang thuê, trong đó có hai giàn của PV Drilling cho thuê là PVD

1 và giàn MODEC. Sau này, đến năm 2012, PVD Tubulars đã hoàn thành việc sát

nhập PVD Tubulars vào PV Drilling, trở thành Vietubes – một trong những công ty

con của PV Drilling, đã giúp cho PV Drilling hoàn toàn làm chủ được các dịch vụ

cung cấp ống khoan và cần khoan tiên tiến hiện đại nhất trên thế giới.

2.1.4. Hợp tác với các nhà thầu khoan của Hoa Kỳ

39

PV Drilling những năm đầu thành lập, giai đoạn 2001 – 2007 là một nhà thầu

khoan nhưng lại không sở hữu giàn khoan nào. Do đó, để đáp ứng các nhu cầu khoan

tại Việt Nam bấy giờ đang phát triển mạnh, PV Drilling đã tiến hành thuê lại các giàn

khoan của các nhà thầu khoan lớn của Hoa Kỳ. Những giàn khoan lúc bấy giờ phải kể

đến là Topaz Driller của nhà thầu khoan Vantage Drilling Company của Hoa Kỳ,

Maersk Convincer của nhà thầu khoan Maersk Corporation, cũng là một hãng tàu Hoa

Kỳ nổi tiếng, rồi giàn Ocean Patriot của Diamond Offshore, nhà thầu khoan khổng lồ

của Hoa Kỳ với hơn 45 giàn khoan các loại, gấp 9 lần PV Drilling hiện nay.

Việc thuê giàn khoan rồi cho thuê lại là một hoạt động bình thường của ngành

khoan dầu khí thế giới, với đặc điểm nhiều thị trường khoan, nhiều kiểu địa chất khác

nhau mà sẽ cần từng loại giàn khoan khác nhau, nhưng trên thế giới này không một

nhà thầu khoan nào đủ mạnh để có thể có mặt đủ khắp thế giới và có thể cung cấp đủ

mọi loại giàn khoan. Do đó, chẳng hạn tại Việt Nam, thị trường khoan Việt Nam dưới

sự giám sát của chính quyền đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho PV Drilling phát triển

tiềm năng tối đa để sau khi tới hạn của WTO, Việt Nam phải mở cửa 100% ngành

khoan này thì PV Drilling đủ sức cạnh tranh với nhà thầu khoan thế giới, nên các nhà

thầu khoan nước ngoài sẽ rất hạn chế tại thị trường này. Ngoài ra đặc điểm địa chất tại

vùng biển Việt Nam cần nhiều loại giàn Jack-up, mà không phải nhà thầu khoan nào

cũng có giàn này, nên việc PV Drilling thuê lại các giàn khoan của nhà thầu Hoa Kỳ và

cho các JOC thuê lại là việc cần thiết để các nhà thầu khoan Hoa Kỳ tiếp cận sâu hơn

thị trường khoan Việt Nam và tạo tiền đề sau này có nhiều cơ hội hợp tác hơn. PV

Drilling cũng từ đó mà học hỏi thêm nhiều kinh nghiệm cho việc thuê lại này, và cũng

tạo tiền đề cho các bước phát triển mạnh mẽ về sau, khi mà kế hoạch cho đến năm

2020, PV Drilling sẽ có được 10 giàn khoan Jack-up và 2 giàn khoan nước sâu, đáp

ứng đủ cho hơn 60% thị trường khoan trong nước.

Năm 2004, PV Drilling chính thức thuê giàn Topaz Driller của Vantage Drilling

cho chiến dịch khoan tại mỏ Đông Đô và Diamond của Lam Sơn JOC. Đây là giàn

khoan đầu tiên của PV Drilling cung cấp ra thị trường khoan Việt Nam sau 3 năm

40

thành lập. Lúc bấy giờ, PV Drilling chỉ là một nhà thầu khoan non trẻ, chưa có giàn sở

hữu và chưa có nhiều nhân lực chuyên nghiệp, còn Vantage Drilling đã là một nhà

thầu khoan khổng lồ với hơn 30 giàn khoan các loại, sở hữu hàng chục ngàn kỹ sư

công nhân lành nghề. Nhưng với sự nỗ lực không ngừng của đội ngũ cán bộ kỹ sư, PV

Drilling đã thuyết phục và đàm phán thành công hợp đồng khoan với Lam Sơn JOC và

đáp ứng đầy đủ các yêu cầu gắt gao của Vantage Drilling. Sau hợp đồng này, PVD đã

thu về khoảng lợi nhuận khổng lồ vào thời điểm đó, hơn 10 triệu USD.

Hợp đồng thứ hai của PV Drilling cũng vào năm 2004, khi giàn Maersk

Convincer được đưa về Việt Nam nhằm phục vụ cho chiến dịch khoan thăm dò của

Hoàng Long JOC. Một hợp đồng khá thành công, tuy chiến dịch này không phát hiện

ra dầu hay khí, nhưng nó cũng góp phần đưa PV Drilling lên vị thế “nhà thầu khoan

non trẻ đầy tiềm năng” khi vận hành hoàn hảo giàn khoan này, đưa về khoảng lợi

nhuận hơn 05 triệu USD.

Những năm sau đó, từ năm 2005 đến năm 2007, PV Drilling liên tục thuê lại 3

đến 4 giàn khoan từ Hoa Kỳ mỗi năm để cung cấp dịch vụ khoan này, đồng thời tạo

nền tảng tài chính để đến năm 2007, giàn PVD 1 chính thức được triển khai thành

công, đội ngũ kỹ sư và cán bộ công nhân viên của PV Drilling bấy giờ hoàn toàn đủ

sức vận hành giàn khoan này.

2.1.5. Hợp tác với các nhà thầu khoan của khối ASEAN

Trong khối ASEAN, UMW Standard và ENSCO là hai đối tác được PV

Drilling tin cậy nhất, chỉ trong giai đoạn từ năm 2005 – 2007, PV Drilling đã lần lượt

đưa giàn NAGA 1, NAGA 2 của UMW Standard và ENSCO 107, ENSCO 109,

ENSCO 104 của ENSCO vào Việt Nam hoạt động. Các giàn khoan này được PV

Drilling cho các JOC lớn nhất của Việt Nam thuê như PVEP JOC, Hoàng Long JOC,

Hoàn Vũ JOC, Cửu Long JOC, Thăng Long JOC…

41

2.2. Đối với lĩnh vực khoan khai thác

2.2.1 Hợp tác lâu dài với Biển Đông POC

2.2.1.1 Sơ nét về Biển Đông POC

Biển Đông POC được thành lập vào ngày 26/2/2009 để thay mặt PVN nhận bàn

giao các hoạt động dầu khí từ BP và ConocoPhillips. Hiện nay, Biển Đông POC đã

triển khai dự án Biển Đông 01 tại khu vực Hải Thạch – Mộc Tinh.

2.2.1.2. Hợp tác khoan khai thác nguồn khí đốt trữ lƣợng cao với Biển

Đông POC

Năm 2010, PV Drilling và Biển Đông POC đã ký kết một hợp đồng khoan khai

thác kéo dài trong 06 năm khi giàn khoan hiện đại nhất của Việt Nam từ trước đến nay

được hoàn thành, PV Drilling 5 (gọi tắt là PVD 5). Giàn khoan PVD 5 này là giàn

khoan TAD (Tender Assist Drilling) tiếp trợ nửa nổi nửa chìm có khả năng khoan ở

những khu vực nước sâu tại biển Đông, chính vì khả năng này, Biển Đông JOC đã

được nhà nước giao cho quản lý các khu vực mỏ cận thềm lục địa, Hải Thạch và Mộc

Tinh là hai khu vực có độ sâu lớn nhất trong các khu vực mỏ khai thác. Đây là hai mỏ

khí có áp suất và nhiệt độ cao, được đánh giá là rất khó cho công tác khoan. Ngoài ra,

do thời tiết ngoài khu vực này khắc nghiệt hơn các khu vực hiện tại đang khai thác

khác ở vùng biển Vũng Tàu.

Sau 3 năm khai thác, tới tháng 9/2013, dòng khí đầu tiên đã xuất hiện. Và đến

nay, sản lượng đã vượt hơn 90% so với kế hoạch ban đầu đặt ra. Không dừng lại ở đó,

ngoài khí đốt thông thường, khí ở các khu vực này còn có thành phần condensate, đây

là thành phần có giá trị kinh tế rất cao. Thành phần của condensate chủ yếu là

hydrocarbon mạch thẳng, bao gồm pentane và các hydrocarbon nặng hơn (C5+).

Condensate có điểm sôi nằm trong dải điểm sôi của xăng. Tỷ trọng của condensate vào

42

khoảng 80 API. Condensate chủ yếu được sử dụng để sản xuất xăng, dung môi công nghiệp và làm nguyên liệu cho tổ hợp hóa dầu.24

Cho đến năm 2013, có thể khẳng định rằng, Dự án Biển Đông 1 đã hoàn thành

gần 100% công việc theo kế hoạch. Theo kế hoạch, đến năm 2014, dòng khí từ hai

ngôi sao dưới đáy biển là Hải Thạch - Mộc Tinh sẽ được đưa vào bờ để cung cấp cho

các nhà máy điện khu vực miền Đông Nam Bộ.

2.2.2 Hợp tác với các đối tác từ Anh Quốc và Hoa Kỳ

2.2.2.1 Anh Quốc

Tại Việt Nam hiện nay, có ba công ty dầu khí của Liên Hiệp Anh đang là những

đối tác lớn nhất cho các hoạt động khai thác dầu khí, bao gồm BP (hiện đang bị cấm

vận bởi chính phủ Mỹ sau sự cố giàn khoan Deepwater Horizon năm 2010), Premier

Oil và Royal Dutch Shell.

+ Hợp tác với BP

BP là một trong những công ty dầu khí đầu tiên có mặt tại Việt Nam vào thập

niên 90 của thế kỷ trước. BP vào Việt Nam với sự đầu tư vào hai dòng kinh doanh

chính trong ngành công nghiệp dầu khí: upstream - thăm dò, khai thác; và downstream

- sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.

BP Corporation (viết tắt tiếng Anh: của Bristish Petroleum) là một công ty dầu

khí đóng trụ sở tại Luân Đôn, Anh quốc. Đây là một công ty năng lượng toàn cầu, là

công ty năng lượng lớn thứ 3 thế giới, là công ty lớn thứ 4 thế giới. Là một công ty dầu

khí đa quốc gia, BP là công ty lớn nhất Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Trụ

sở chính công ty đóng tại St James's, City of Westminster, London. Chi nhánh BP

America's đóng trụ sở ở One Westlake Park tại Houston Energy Corridor, Texas.. Hiện

24 Báo cáo của Biển Đông JOC gửi Tập Đoàn Dầu Khí Việt Nam tháng 8 năm 2013, trang 7.

nay công ty này đang được niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán Luân Đôn, là một

43

bộ phận của FTSE 100 Index. Năm 2009, công ty có doanh thu 246,1 tỷ USD, lợi nhuận ròng đạt 16,58 tỷ USD và sử dụng 80.300 nhân công trên toàn thế giới.25

Trong giai đoạn 2005-2010, PV Drilling là nhà thầu phụ chủ yếu của BP cho

các dịch vụ bơm trám vỉa và chống sự cố tràn dầu, doanh thu của PV Drilling từ các

dịch vụ này luôn đạt trên 15 triệu USD mỗi năm. Tuy nhiên, BP hiện nay đang bị cấm

vận cho những sự cố giàn khoan ngoài khơi Mexico năm 2010. Do vậy tại Việt Nam,

từ năm 2010, PV Drilling đã không còn hợp tác nhiều với BP như trước, chủ yếu là các

hoạt động hỗ trợ kho vận và cung cấp vật tư dầu khí nhỏ lẻ.

+ Hợp tác với Premier Oil

Premier Oil bắt đầu để ý đến thị trường Việt Nam từ năm 2006, tuy nhiên đến

năm 2008 công ty này mới chính thức được thành lập công ty con tại Việt Nam, nhận

phụ trách cung cấp các dịch vụ tư vấn hỗ trợ cho công tác khai thác của PVEP và các

JOC, POC khác.

PV Drilling trong giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2010 chỉ có hai lần thuê giàn

khoan của công ty Vantage Drilling tại UAE thông qua sự tư vấn và trung gian của

Premier Oil. Ngoài ra, Premier Oil còn hợp tác khai thác chia sản phẩm với Thăng

Long JOC tại khu vực mỏ Rồng. Tuy nhiên đến nay vẫn chưa có nhiều sản phẩm.

Tuy nhiên theo đánh giá, Premier Oil đang có nhiều tiềm năng phát triên khi mà

BP đang bị cấm vận của chính phủ Mỹ và có những hoạt động hạn chế tại Việt Nam,

trong khi Shell vẫn đang loay hoay trong các mảng kinh doanh dầu nhờn của mình.

+ Hợp tác với Royal Dutch Shell

Royal Dutch Shell,. thường được biết đến là Shell, là một công ty dầu khí đa

25 Website BP Corporation, http://www.bp.com/en/global/corporate/about-bp.html, truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2014

quốc gia liên kết giữa Hà Lan và Anh. Đây là tập đoàn năng lượng tư nhân lớn thứ hai

44

trên thế giới. Trụ sở của công ty đặt tại The Hague, Hà Lan và trụ sở đăng kí đặt

tại London.

Shell hiện nay không có nhiều hoạt động dầu khí mà chuyển sang đầu tư mạnh

vào mảng kinh doanh dầu nhờn. Shell chỉ phối hợp chủ yếu với Nhà máy lọc dầu Dung

Quất cho các chế phẩm khác xăng. PV Drilling hiện nay chỉ còn cung cấp dịch vụ sửa

chữa các thiết bị vận hành lọc dầu của Shell tại Vũng Tàu.

2.2.2.2 Hoa Kỳ

Nhà thầu khoan Transocean là một công ty Thụy Sĩ, được thành lập vào những

năm 1920, chuyên cung cấp các dịch vụ khoan và các giải pháp công nghệ về khoan

dầu khí. Năm 1954, Transocean đã sở hữu giàn khoan biển tự nâng đầu tiên. Đến nay

Transocean đã hoạt động được trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ giàn khoan biển hơn 50

năm. Với tầm nhìn và sứ mạng: đem đến cho khách hàng dịch vụ khoan tốt nhất, tin

tưởng nhất với sự kỷ luật và an toàn tuyệt đối, Transocean đã từng bước xây dựng hình ảnh là nhà thầu khoan nổi tiếng thế giới 26. Tổng tài sản tính đến năm 2013 của

Transocean là 32.546 triệu USD, doanh thu hoạt động năm 2013 đạt 9.484 triệu USD.

Transocean sở hữu 98 giàn khoan trong đó có 65 giàn đang trong chiến dịch khoan

(chiếm tỷ trọng 66,3% số lượng giàn khoan tại khu vực Châu Á Thái Bình Dương), 13

giàn đang đóng mới (chiếm tỷ trọng 13,2% số lượng giàn đang đóng mới trên toàn thế

giới). Về chủng loại, Transocean tập trung vào mảng cung cấp giàn khoan sâu và cực

sâu, cụ thể là Transocean có 49 giàn khoan nửa nổi nửa chìm (chiếm tỷ trọng 50% số

lượng giàn khoan trên toàn thế giới), 31 tàu khoan (chiếm tỷ trọng 31,63% số lượng

tàu khoan trên toàn thế giới).

Trong tương lai, Transocean sẽ phát triển và củng cố vị trí của mình ở thị

trường khoan nước sâu và nơi có thời tiết khắc nghiệt. Các khách hàng của Transocean

là Chervon Cooperation, BP America Production Co. Petrobras. Tính đến hết năm

26Transocean, Overview of Transocean, http://www.deepwater.com/, truy cập ngày 13 tháng 04 năm 2014

2013, Transcoean có 18,400 nhân viên, đội ngũ nhân lực của Transocean được tuyển

45

chọn và đào tạo để có trình độ tay nghề và chuyên môn cao, có thể vận hành được các thiết bị kỹ thuật hiện đại27

Như vậy, so với PV Drilling, Transocean là đối thủ có vị trí cao hơn, thể hiện ở

chỗ: Transocean đã hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ giàn khoan biển khá

lâu, do vậy có nhiều kinh nghiệm hơn PV Drilling. Tổng nguồn vốn của Transoean cao

hơn rất nhiều, gấp 31 lần so với PV Drilling, số lượng giàn khoan cũng nhiều gấp gần

20 lần, số lượng nhân sự làm việc cho Transocean cũng nhiều hơn gấp 10 lần. Qua đó,

ta có thể thấy Transocean có nguồn lực tài chính, con người rất dồi dào và với kinh

nghiệm lâu năm, Transocean sẽ có đủ khả năng để cạnh tranh và giành thị phần cao ở

thị trường Châu Á Thái Bình Dương.

Nhà thầu khoan Seadrill là một công ty của Na Uy, được thành lập vào những

năm 1970, là nhà thầu khoan chuyên về lĩnh vực khoan nước sâu. Năm 1972, Seadrill

sở hữu giàn khoan biển nửa nổi nửa chìm đầu tiên West Venture I. Đến nay, tuy có bề

dày kinh nghiệm không bằng Transocean nhưng Seadrill cũng đã hoạt động được trong

lĩnh vực cung cấp dịch vụ giàn khoan biển nước sâu hơn 40 năm. Với tầm nhìn và sứ

mạng: đem đến cho khách hàng dịch vụ cung cấp giàn khoan biển an toàn nhất và hiệu

quả kinh tế cao nhất. Giá trị cốt lõi của Seadrill là ý thức về an toàn, sự trung thành và

chuyên nghiệp, Seadrill đã từng bước xây dựng cho mình là nhà thầu nổi tiếng trong

lĩnh vực khoan nước sâu. Tổng tài sản của Seadrill tính đến hết năm 2013 là 20,632

triệu USD, tổng doanh thu năm 2013 là 5,478 triệu USD. Công ty hiện có 69 giàn

khoan biển đang hoạt động ở vùng biển sâu và vùng biển có khí hậu khắc nghiệt ở 15

quốc gia. Nhân lực của Seadrill tính đến hết năm 2013 là 7,900 người. Hầu hết nhân lực của Seadrill đều có trình độ chuyên môn và tay nghề cao 28.

Như vậy, Seadrill ngay từ đầu khi mới thành lập đã có tập trung vào mảng

khoan nước sâu, do đó so với PV Drilling, kinh nghiệm khoan nước sâu của Seadrill

hơn PV Drilling rất nhiều vì PV Drilling sẽ mới bắt đầu nghiên cứu và tiến hành cung 27 Transocean, 2013, tr.33 28Seadrill, Seadrill in brief, http://www.seadrill.com/about_seadrill/seadrill_in_brief truy cập ngày 13 tháng 04 năm 2014

46

cấp dịch vụ giàn khoan biển nước sâu từ năm 2012, số lượng giàn của Seadrill cũng

phong phú và đa dạng hơn. Nguồn vốn của Seadrill cũng cao hơn rất nhiều, gấp 20 lần

so với PV Drilling. Đây là một thách thức lớn đối PV Drilling trong việc cạnh tranh

với Seadrill ở mảng khoan nước sâu.

PV Drilling trong hợp tác với 2 đối tác này chủ yếu là đi thuê giàn khoan và cho

các nhà thầu mỏ khác thuê lại. Ngoài ra, đào tạo là mảng hợp tác mạnh mẽ nhất của

PV Drilling trong mối quan hệ làm ăn với hai đối tác khổng lồ này.

Từ năm 2004, PV Drilling đã trở thành đối tác thuê nhân lực rất tiềm năng đối

với Transocean, có thời điểm, hơn 80% kỹ sư của PV Drilling được đào tạo tại

Transocean, nhiều người trong số đó hiện nay đang giữ các chức vụ quan trọng tại PV

Drilling. Hiện nay, 30% nhân lực nước ngoài làm việc trên các giàn khoan của PV

Drilling là từ Transocean chuyển sang.

Seadrill là một đối tác quan trọng cho PV Drilling, đặc biệt là cho công ty con

PVD Offshore, khi mà 60% các dịch vụ của PVD Offshore cung ứng hiện nay đều

được đào tạo và thuê lại từ Seadrill. Các kỹ sư của Seadrill làm việc tại Việt Nam chủ

yếu là các kỹ sư từ Singapore, Malaysia, Indonesia…Chính vì việc cùng gần nhau về

vùng miền, các kỹ sư Việt Nam của PVD Offshore dễ dàng hợp tác và làm việc, học

hỏi khi làm việc trên giàn cũng như trong các nhà máy, xưởng cơ khí của PV Drilling.

2.2.3 Chính sách của nhà nƣớc về việc ƣu đãi cho ngành khoan khai thác

tại vùng biển Việt Nam

2.2.3.1 Chính sách xuất nhập khẩu, thuế quan

Dầu khí thường được khai thác ở 2 khu vực: một là ở thềm lục địa, vùng biển

đặc quyền kinh tế của một nước nào đó, hai là khu vực đại dương. Hiện tại, đa số

lượng dầu khí sử dụng trên thế giới đang được khai thác ở vùng thềm lục địa, vùng

biển đặc quyền kinh tế của các nước do ở đây mực nước không quá sâu (> 7,500 mét

nước) như ở vùng đại dương. Các giàn khoan khi tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu

47

khí ở khu vực này phải tuân thủ theo thủ tục xuất nhập khẩu giàn khoan, xuất nhập

khẩu các thiết bị, vật tư, phụ tùng phục vụ cho công tác bảo trì bảo dưỡng giàn khoan,

thủ tục xuất nhập cảnh cho kỹ sư, công nhân làm việc trên giàn...Những thủ tục này sẽ

được quy định cụ thể từng theo luật xuất nhập khẩu của từng nước.

Hiện nay, nhà nước Việt Nam đang thực hiện chính sách ưu đãi cho ngành

khoan khi đang cho miễn thuế nhập khẩu và thuế VAT đối với các giàn khoan thế hệ

mới, khoan được ở các vùng biển có độ sâu trên 90m nước. PV Drilling là công ty

được hưởng lợi nhiều nhất, khi mà cơ chế thuê giàn nước ngoài và cho các công ty dầu

mỏ thuê lại đang diễn ra rất sôi nổi và liên tục. Chính vì có chính sách này mà PV

Drilling đã tiết kiệm được rất nhiều chi phí vận hành và tăng lợi nhuận ròng. Góp phần

nâng cao tiềm lực tài chính và vị thế hình ảnh trên thị trường khoan quốc tế.

2.2.3.2 Chính sách khai thác dầu khí ở vùng biển đặc quyền kinh tế của các

nƣớc

Do dầu khí là một trong những tài nguyên thiên nhiên quý và là nhiên liệu

quan trọng chủ yếu để sản xuất ra các sản phẩm của ngành hóa dầu như dung môi,

phân bón hóa học, nhựa, thuốc trừ sâu, nhựa đường... nên nó đem lại hiệu quả kinh tế

cao cho nước sở hữu nguồn tài nguyên này. Dầu khí còn là nguồn tài nguyên không tái

tạo được nên việc khai thác phải thật sự hợp lý để không bị cạn kiệt. Vì vậy, việc tìm

kiếm thăm dò và khai thác dầu khí rất được chính phủ nước có nguồn tài nguyên dầu

khí rất quan tâm và quản lý chặt chẽ. Các công ty dầu khí khi hoặc một nhà thầu khoan

muốn tiến hành tìm kiếm thăm dò khai thác dầu khí hoặc cung cấp giàn khoan trong

một vùng biển đặc quyền kinh tế của nước nào thì phải tiến hành đàm phán để liên

doanh liên kết với công ty dầu khí của quốc gia đó.

Điều này thể hiện ở luật và quy định của các nước ví dụ như mục 6.1 Luật PDA

ở Malaysia: "Các tổ chức, cá nhân nào được tiến hành tìm kiếm thăm dò và khai thác

dầu khí ở lãnh thổ Malaysia ngoại trừ PETRONAS, trừ trường hợp khác được Thủ

48

tướng cho phép"29. Điều 3.5, điều 10 Luật Dầu khí Việt Nam có quy định: "Chính phủ

Việt Nam cho phép tổ chức, cá nhân tiến hành các hoạt động nghiên cứu khoa học, tìm

kiếm thăm dò và khai thác khoáng sản, tài nguyên thiên nhiên khác ngoài dầu khí

trong diện tích hợp đồng dầu khí (là văn bản ký kết giữa Tổng công ty dầu khí Việt

Nam với tổ chức, cá nhân để tiến hành hoạt động dầu khí) theo quy định của pháp luật

Việt Nam. Các hoạt động này không được gây cản trở và làm thiệt hại cho các hoạt động dầu khí" 30

Khi tiến hành liên doanh liên kết, các nhà thầu khoan sẽ phải tuân thủ chặt chẽ

các quy định của pháp luật; đảm bảo các yêu cầu nghiêm ngặt về môi trường, an toàn

lao động.

2.2.3.3. Trang thiết bị đầu vào phục vụ hoạt động sản xuất

Trong quá trình vận hành hoạt động giàn khoan biển, để đám bảo tính liên tục

trong hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động mua sắm các thiết bị, máy móc, vật tư,

thiết bị luôn được thực hiện để áp ứng nhu cầu bảo trì, bảo dưỡng. Việc thực hiện các

hoạt động mua sắm này sẽ do nhà thầu khoan tiến hành thực hiện và tính vào chi phí

hoạt động. Nhà thầu khoan sẽ có một hệ thống vận hành công tác mua sắm đồng thời

có một danh sách các nhà cung cấp tương ứng với các thiết bị, máy móc, vật tư đó. Các

nhà cung cấp các thiết bị, máy móc, vật tư này có ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh

tranh của PV Drilling, điều này thể hiện ở yếu tố số lượng nhà cung cấp.

Số lượng nhà cung cấp: đối với một chủng loại sản phẩm, số lượng nhà cung

cấp có thể cung cấp được chủng loại sản phẩm này càng cao thì khả năng lựa chọn

được nhà cung cấp có thể cung cấp sản phẩm chất lượng tốt với giá cả cạnh tranh cao

hơn, thời gian giao hàng nhanh hơn, PV Drilling sẽ chủ động hơn trong việc cung cấp

các thiết bị, vật tư, máy móc để bảo trì bảo dưỡng, từ đó tiết kiệm được chi phí hoạt

29 Malaysia Chapter- Oil & Gas Regulation 2014, tr.6 30 Luật Dầu khí số 19/2000/QH10 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dầu khí số 10/2008/QH12 năm 2008

động cũng như thời gian cho công tác mua sắm. Từ đó năng lực cạnh tranh của PV

49

Drilling sẽ được nâng cao, doanh thu và lợi nhuận của PV Drilling cũng tăng. Ngược

lại, nếu số lượng nhà cung cấp quá ít, PV Drilling sẽ ít có sự lựa chọn khi tiến hành lựa

chọn nhà cung cấp, sức ép từ nhà cung cấp sẽ hình thành. PV Drilling sẽ phải chấp

nhận mua hàng với giá cao hơn, thời gian giao hàng không đáp ứng tiến độ hoạt động

sản xuất. từ đó làm tăng chi phí hoạt động, giảm lợi nhuận, năng lực cạnh tranh của PV

Drilling ở thị trường Châu Á Thái Bình Dương cũng bị ảnh hưởng.

2.3 Đối với lĩnh vực đào tạo phát triển nguồn nhân lực

2.3.1 Hợp tác với Hoa Kỳ

Năm 2007, Công ty Cổ Phần Đào Tạo Kỹ Thuật PVD (PVD Training) được

thành lập, hoạt động trong ba lĩnh vực: Đào tạo và cấp chứng chỉ; các giải pháp nhân

sự (cung ứng và tư vấn nguồn nhân lực); các dịch vụ kỹ thuật bao gồm các giải pháp

an toàn bờ và biển, các dịch vụ hàng hải; các giải pháp về tự động hóa và điện công

nghiệp; dịch vụ đánh giá kỹ thuật; cung cấp các sản phẩm thiết bị an toàn và ứng dụng

hàng hải cùng với các dịch vụ khảo sát, kiểm tra, sửa chữa, bảo dưỡng, chiết nạp, thiết

kế giải pháp, kiểm định đối với các hệ thống thiết bị an toàn & hàng hải phục vụ trong

ngành công nghiệp Dầu khí và các ngành công nghiệp nặng. Với tầm nhìn trở thành

nhà cung cấp uy tín hàng đầu các dịch vụ đào tạo, dịch vụ kỹ thuật cũng như là nhà

cung cấp uy tín nguồn nhân lực có trình độ cho ngành công nghiệp Dầu khí và các

ngành công nghiệp mũi nhọn trong nước và quốc tế, PVD Training luôn cung cấp cho

khách hàng các giải pháp đào tạo, nhân lực và kỹ thuật tối ưu và kinh tế nhất, được

thực hiện bởi đội ngũ chuyên gia trình độ cao, giàu kinh nghiệm. PVD Training hiện là

thành viên và được cấp phép bởi các tổ chức đăng kiểm quốc tế quan trọng trong

ngành như OPITO, DNV, Lloyd, AWS, IFE…

Tháng 6 năm 2008, PVD Training đặt mối quan hệ hợp tác song phương đầu

tiên với Tập Đoàn MODEC, một trong những nhà thầu khoan, cũng như nhà đào tạo

ngành khoan lớn nhất của thế giới. Kết quả của quá trình hợp tác này là cuối năm

2008, PVD Training đã đạt đủ tiêu chuẩn để cấp chứng chỉ đào tạo MODEC -1,

50

MODEC -2 cho các kỹ sư an toàn trên giàn PVD 1. Các chứng chỉ này đều được công

nhận trên toàn thế giới do uy tín hàng đầu của Tập Đoàn MODEC.

Năm 2009, PVD Training ký hợp đồng hợp tác song phương với đối tác đào tạo

trong ngành cứu hỏa của Hoa Kỳ là the Institution of Fire Engineers, trở thành nhà

cung cấp các khóa học và cấp chứng chỉ cho an toàn chống cháy nổ trên giàn cho các

nhà thầu khoan trong khu vực Đông Nam Á. Không dừng ở đó, PVD Training đã liên

kết với Lloyd’s Hoa Kỳ để trở thành một nhà tư vấn các giải pháp về chống cháy nổ

trên giàn đạt chuẩn quốc tế.

Năm 2010, PVD Training đã được Tổ chức OPITO Hoa Kỳ - tổ chức chuyên

đào tạo kỹ sư khoan lớn của Hoa Kỳ và thế giới cấp giấy phép đào tạo cho ba khóa

học: Emergency Breathing System, Tropical Basic Offshore Safety Induction &

Emergency Training, Tropical HUET. Đây chính là ba chứng chỉ chính, bắt buộc mà

các kỹ sư Trainee cần phải có nếu muốn trở thành một kỹ sư khoan chuyên nghiệp,

chứng chỉ có hiệu lực trên toàn thế giới. Với việc cấp được ba chứng chỉ này, cộng với

các chứng chỉ quan trọng khác như BOSIET, HUET Advance, Well Control, Basic

Fire Emergency Training…PVD Training tương lai sẽ trở thành một trong những nhà

đào tạo lớn của khu vực Đông Nam Á. Hiện nay, 100% các kỹ sư khoan của PV

Drilling hằng năm đều được đào tạo nâng cao tay nghề tại PVD Training, ngay cả các

kỹ sư nước ngoài đều đánh giá rất cao các khóa học tại PVD Training và rất nghiêm

túc tham gia các khóa học khi có yêu cầu từ Ban Lãnh Đạo PV Drilling.

PVD Training hiện là thành viên của ba Hiệp hội lớn trên thế giới bao gồm:

Hiệp hội các nhà thầu hàng hải thế giới IMCA (International Marine Contractors

Association); Hiệp hội ngành hàn điện Hoa Kỳ AWS (American Welding Society),

Hiệp Hội nhà thầu khoan thế giới IADC (International Association of Drilling

Contractors).

Hiện nay, có đến gần 20 nhà thầu khoan trên toàn thế giới có hợp tác đào tạo

với PVD Training bao gồm: ENI, Santos, UMW, Maersk, SeaDrill, Exxon Mobile,

51

Transocean, Salamander Energy, Halliburton, BP, Petronas, Chevron, KS Drilling,

Shelf Drilling, Vietgazprom JOC, MODEC, Mitra…

2.3.2 Hợp tác với Nhật Bản

Nhật Bản là một quốc gia tiên tiến, phát triển, và trong lĩnh vực dầu khí cũng

vậy. PV Drilling có mối quan hệ rất thân thiết với các công ty dầu khí của Nhật thông

qua liên doanh JVPC, đặc biệt là trong lĩnh vực đào tạo kỹ thuật khoan.

PV Drilling với đại diện là PVD Training, đã liên kết rất chặt chẽ với các đối

tác từ Nhật, tiêu biểu là công ty JX Nippon Oil and Gas Exploration, đã triển khai

nhiều chương trình đào tạo liên kết cho các kỹ sư của PV Drilling về các chuyên môn

khoan kỹ thuật cao như Well Control, HSEQ...Ngoài ra, với một địa hình rất khó khăn

và nghèo tài nguyên, Nhật Bản đã phát triển và đưa ra kỹ thuật “khoan xiên”. Một kỹ

thuật khoan rất khó trong ngành. PV Drilling với tư cách là một nhà thầu khoan hàng

đầu tại Việt Nam đã hết sức cố gắng để tiếp thu kỹ thuật này. Và đến nay, PV Drilling

đã khoan thành công hơn 20 giếng khoan xiên, tiết kiệm cho nhà thầu mỏ và các nhà

thầu phụ hàng trăm triệu đô la.

Nhật Bản còn hỗ trợ cho PVD Training nhiều mô hình, dụng cụ chuyên môn

trong việc đào tạo các kỹ thuật cứu hộ, chống tràn dầu với trình độ kỹ thuật cao, đáp

ứng đủ mọi yêu cầu khắc nhiệt nhất của các nhà thầu cấp quốc tế.

Hình 2.1 Mô hình tháp khoan tại PVD Training

(Nguồn: Website PVD Training: http://www.pvdtraining.com.vn/vn/ )

52

Trong hình là mô hình tháp khoan được xây dựng với sự hỗ trợ của Nhật Bản

nhằm đào tạo cho các chức danh như Derrick Man, Toolsbusher…

Trong tương lai, PVD Training đang tiến hành thương thảo với Nhật Bản cho

các khóa học cấp bằng online cho các chứng chỉ ngắn hạn khác như HUET, Radio

Test…

2.3.3 Hợp tác với các nƣớc trong tổ chức ASEAN

Ở khu vực ASEAN, PV Drilling tập trung hợp tác với các cường quốc dầu khí

có các nhà khầu khoan lớn như Singapore, Thái Lan, Malaysia, Philippines. Trong số

này, Singapore là đối tác lớn hơn cả. 4 trong 5 giàn khoan PV Drilling đang sở hữu

hiện nay đều được đóng ở Singapore, cụ thể là tập đoàn Keppel Fels, một trong những

tập đoàn đa ngành lớn nhất Singapore và là một người khổng lồ của ngành công

nghiệp đóng giàn của thế giới.

2.3.3.1 Singapore

Singapore đang là nơi tập trung hợp tác mạnh mẽ nhất của PV Drilling từ năm

2007 đến nay, do địa lý gần, văn hóa tương đồng, múi giờ cũng gần như giống nhau

(chênh lệnh 1 giờ GMT). Các mảng kỹ thuật quan trọng nhất của PV Drilling đều được

chuyển sang cho các đối tác tại Singapore phụ trách.

+ Đóng giàn

Năm 2007, Keppel Fels đóng giàn PVD 1, giàn khoan đầu tiên của PV Drilling,

cũng là giàn khoan Jack up đầu tiên sở hữu 100% của người Việt Nam. Đây là bước

tiến quan trọng nhất của PV Drilling trên con đường thành nhà thầu khoan lớn mạnh

trên thế giới. giàn PVD 1 được đưa vào sử dụng đến nay vẫn liên tục đạt LTI hàng

năm, với công nghệ luôn được nâng cấp và bảo dưỡng tối đa.

Năm 2009, hai giàn Jack-up PVD 2 và PVD 3 tiếp tục được đóng mới với công

nghệ hiện tại nhất bấy giờ, sức chứa và khả năng hoạt động tối tân và lớn hơn hẳn so

với giàn PVD 1.

53

Năm 2010, giàn khoan tiếp trợ nước sâu TAD PVD 5 được khởi động, đây là

giàn khoan tối tân và có khả năng hoạt động ở các khu vực nước sâu. Đánh dấu bước

phát triển nhảy vọt trong quan hệ hợp tác giữa PV Drilling và Keppel Fels.

Nếu nhìn theo con số tài chính, việc Keppel Fels đóng mới 4 giàn khoan cho PV

Drilling đánh dấu con số hơn 2 tỷ USD cho quan hệ hợp tác kinh tế giữa hai bên. Nếu

như tính cả các chi phí bảo hành bảo dưỡng hàng năm, con số này còn lớn hơn rất nhiều.31

Trong giai đoạn 2010-2020, PV Drilling dự kiến đóng mới thêm 5 giàn Jack-up

để nâng tổng số giàn khoan sở hữu lên 10 giàn. Và Keppel Fels đã có hợp đồng đóng

mới hai giàn Jack-up PVD 6 và PVD 7 trong giai đoạn 2014-2016.

+ Cung cấp vật tư

Tại PV Drilling, con số nhập khẩu vật tư hàng năm luôn trên 200 triệu USD, và

hơn 60% con số này xuất phát từ các nhà cung cấp tại Singapore. Có thể đưa ra hàng

loạt các nhà cung cấp mà kim ngạch xuất khẩu sang PV Drilling đạt trên 10 triệu USD

năm như National Oilwell Varco (xuất khẩu sang Việt Nam hơn 30 triệu USD vào năm

2008, 45 triệu USD năm 2009 và 50 triệu USD năm 2010), Houston Electric (11 triệu

USD năm 2008, 15 triệu USD năm 2009 và 14.5 triệu USD năm 2010), Frankin Offshore (9 triệu USD năm 2008, 12 triệu USD năm 2009, 13 triệu USD năm 2010)32

Những con số trên con thấy, Singapore là một quốc gia quan trọng số một của

PV Drilling trong con đường phát triển. Các nhà cung cấp này hiểu rõ về nguyên tắc

làm ăn tại các nước phương Đông như Việt Nam, rộng hơn là chính phủ Việt Nam với

chính phủ Singapore có nhiều hợp tác trong công tác ngoại thương, thuế quan với

nhau. Qua đó nâng tầm quan hệ hợp tác giữa các tập đoàn kinh tế lớn của hai nước.

31 Quyết toán đóng mới giàn của Ban Tài Chính – PV Drilling ngày 10 tháng 10 năm 2008 – trang 05, ngày 11 tháng 5 năm 2010 – trang 04 32 Báo cáo thương mại của Xí Nghiệp Điều Hành Khoan gửi Tổng Giám Đốc PV Drilling ngày 01 tháng 12 năm 2009 – trang 20, 21, 22

+ Cung cấp nhân lực và đào tạo

54

PV Drilling rất chú trọng các kỹ sư đến từ Singapore, tiêu biểu là trong giai

đoạn từ năm 2007-2010, có hơn 200 kỹ sư đến làm việc trên các giàn khoan của PV

Drilling. Một hình ảnh quen thuộc trên các giàn khoan của PV Drilling hiện nay là các

kỹ sư mang đồng phục của Keppel Fels, NOV… Họ là các cầu nối để liên kết các kỹ

sư Việt Nam với các công nghệ tân tiến nhất, góp phần nâng cao tay nghề cho các kỹ

sư, công nhân Việt Nam trong việc vận hành giàn khoan.

Ngoài ra, về công tác đào tạo, PV Drilling hàng năm đều đưa những kỹ sư trong

diện quy hoạch sang Singapore huấn luyện, từ các khóa ngắn hạn trong 1-2 tuần đến

các khóa dài hạn 1-2 năm. Chính từ những khóa huấn luyện này mà đội ngũ kỹ sư,

công nhân Việt Nam của PV Drilling không ngừng được phát triển và trở nên lành

nghề, chuyên môn rất cao.

2.3.3.2 Malaysia

Malaysia là quốc gia phát triển về ngành dầu khí, với công ty Petronas nổi tiếng

toàn thế giới. Petronas cũng là một trong những khách hàng quen thuộc và thân thiết

của PV Drilling trong nhiều chiến dịch khoan.

Tuy nhiên, hợp tác của PV Drilling với các công ty dầu khí tại Malaysia rất ít và

nhỏ lẻ. Nhưng kim ngạch nhập khẩu của PV Drilling từ Malaysia trong năm 2010 chỉ

đạt 5 triệu USD, chủ yếu là nhập khẩu các máy cẩu lớn trên giàn do tại Malaysia đang

có công ty Favco Favelle là một trong những giàn cung cấp cẩu lớn nhất thế giới.

2.3.3.3 Thái Lan

Đối với các đối tác từ Thái Lan, PV Drilling luôn tăng cường hợp tác về các

hạng mục cơ bản như sửa chữa cần khoan, hệ thống bơm…Với việc PV Drilling thành

lập liên doanh PVD – PTI với Tập Đoàn Expro International BV năm 2009 để phụ

trách mảng cung ứng các dịch vụ sửa chữa và tư vấn về công tác chống ống, bơm xi

măng tráng vỉa… đã cho thấy một tiềm năng hợp tác lâu dài giữa PV Drilling và các

nhà cung cấp dịch vụ dầu khí tại Thái Lan.

55

Tuy nhiên, do tình hình chính trị tại Thái Lan liên tục bất ổn, do đó các lãnh đạo

của PV Drilling luôn rất dè dặt và cẩn trọng trong các hợp tác kinh tế với các đối tác từ

Thái Lan. Vì thực tế cho thấy, các đối tác Thái Lan luôn làm cho PV Drilling thất

vọng.

2.3.3.4 Phillipines

Phillipines là một quốc đảo tại ASEAN, cũng là một đồng minh thân cận của

Hoa Kỳ tại đây, Philippines hiện nay cũng đang có nhiều bất ổn chính trị với Trung

Quốc và cả chính Việt Nam trên khu vực quần đảo Trường Sa. Nhưng về các lĩnh vực

kinh tế, Philippines luôn là một đối tác đáng tin cậy của Việt Nam.

Tuy nhiên, PV Drilling đến năm 2010 vẫn chưa đẩy mạnh hợp tác với các đối

tác từ Philippines, tiêu biểu là PNOC – tập đoàn dầu khí quốc gia Philippines. Nguyên

nhân chính là do thực tế hợp tác dầu khí của Philippines với Việt Nam chỉ dừng ở mức

cung cấp một số dịch vụ nhỏ, riêng lẻ, tập đoàn PNOC chưa đẩy mạnh hợp tác khai

thác với PVN về các lô dầu tại Biển Đông, do đây vẫn là khu vực đang có nhiều điểm

nóng trong tranh chấp giữa hai nước. Do đó, PV Drilling vẫn đang đưa PNOC và các

đối tác từ Philippines vào dạng các đối tác tiềm năng cho tương lai về sau.

2.3.4. Hợp tác với các tổ chức quốc tế

PV Drilling hiện nay đang là thành viên của nhiều tổ chức của ngành khoan dầu

khí thế giới như Hiệp hội các nhà thầu khoan cơ bản (The International Association of

Foundation Drilling), Hiệp hội các nhà thầu khoan thế giới IADC (International

Association of Drilling Contractors)…

Đây chính là nơi để PV Drilling liên kết với hầu hết các nhà thầu khoan trên thế

giới nhằm tận dụng các nguồn cung giàn khoan cho các nhu cầu khoan tại Việt Nam.

Ngoài ra, đây cũng là tiền đề để PV Drilling tiếp cận với các nguồn khoa học kỹ thuật

tiên tiến khi mà các nhà thầu khoan trên thế giới liên tục phát minh ra những công

56

nghệ trong mọi lĩnh vực khoan như an toàn, nghiên cứu địa chất, khai thác thực địa,

nâng cao trình độ nhân lực…

2.3.4.1 Hợp tác với các nhà thầu khoan tiên tiến thế giới nhằm xây dựng

đội ngũ ngƣời Việt Nam có thể tự vận hành giàn khoan

Công tác đào tạo nguồn nhân lực chất lượng để người Việt có thể tự vận hành

các giàn khoan của người Việt là mục đích lớn nhất tại PV Drilling. Hiện nay trong 5

giàn khoan của PV Drilling, chỉ có giàn đất liền PVD 11 là có trưởng giàn và giám đốc

giàn là người Việt Nam. Còn lại 4 giàn khoan Jack up PVD 1, PVD 2, PVD 3 và giàn

TAD PVD 5, các trưởng giàn đều là người nước ngoài. Đây sẽ là trở ngại không nhỏ

cho PV Drilling khi mà sự khác biệt về văn hóa, cũng như các yêu cầu đi lại, xuất nhập

cảnh cho các kỹ sư nước ngoài này đang ngày càng được siết chặt.

Do đó, từ năm 2005, các cấp lãnh đạo đã không ngừng đưa sang các nhà thầu

khoan lớn khác trên thế giới như Transocean, SeaDrill, Ensco… các kỹ sư tiềm năng

của mình để đào tạo. Đồng thời, cũng đưa một số chuyên gia trong lĩnh vực Training

& Development về làm việc tại PV Drilling nhằm xây dựng một hệ thống đào tạo

chuyên nghiệp, với mục tiêu đến năm 2020, toàn bộ các giàn của PV Drilling sẽ có

trưởng giàn là người Việt Nam vận hành quản lý.

Đến năm 2010, PV Drilling đã từng bước thành công khi 20% vị trí chủ chốt

trên giàn đã được phụ trách bởi người Việt Nam như Sỹ quan an toàn cao cấp STC,

Toolbusher (từ chuyên ngành – một vị trí cấp cao trên giàn). Driller – (kỹ sư khoan

chính)…

2.4. Đối với lĩnh vực khoa học công nghệ

2.4.1. Chính sách ƣu đãi của Việt Nam

Các quy định về xuất nhập khẩu và thuế quan sẽ được áp dụng đối với 2 phần

đó là giàn khoan và các thiết bị, phụ tùng phục vụ cho công tác sửa chữa, bảo trì. Mỗi

quốc gia sẽ có các quy định cụ thể khác nhau nhưng sẽ có những nét chung như sau.

57

Khi giàn khoan được kéo đến vùng lãnh hải của một quốc gia, chủ của giàn khoan đó

phải liên lạc với hải quan và bộ đội hải quân để xin phép được nhập cảnh. Việc cho

nhập cảnh giàn chỉ được thực hiện hai nước bao gồm nước mà giàn khoan biển xin

phép nhập cảnh và nước mà giàn khoan biển mang quốc tịch có quan hệ hợp tác và

không tranh chấp, đối đầu với nhau. Bộ phận hải quan sẽ xem xét, tiến hành làm các

thủ tục nhập cảnh cho giàn khoan dựa trên chứng từ hồ sơ mà chủ giàn khoan biển tiến

hành khai báo, ngoài ra một số cơ quan ban ngành sẽ có những yêu cầu riêng ví dụ như

Malaysia yêu cầu phải có giấy chứng nhận phun trùng khi giàn khoan biển nhập cảnh. Việc thực hiện các thủ tục nhập cảnh giàn khoan biển mất khoảng 1 tháng.33

Đối với thiết bị, máy móc, vật tư phục vụ cho công tác sửa chữa, thay thế và

vận hành. Mỗi nước sẽ có danh mục các thiết bị, hàng hóa cấm nhập khẩu hoặc nhập

khẩu phải có giấy phép, ví dụ như đối với thị trường Việt Nam, việc nhập khẩu pháo

sáng phục vụ công tác cứu sinh cứu hộ là không thể, thuốc và các dụng cụ y tế nhập khẩu phải có giấy phép của Bộ Y Tế... 34. Đối với giàn khoan biển sẽ có các loại thuế

quan như thuế nhập khẩu giàn khoan biển, thuế môi trường, thuế nhà thầu... và đối với

các thiết bị, vật tư, máy móc nhập khẩu sẽ có các loại thuế như thuế nhập khẩu, thuế

môi trường, thuế giá trị gia tăng...

Hiện PV Drilling chưa có giàn khoan biển nào tham gia vào thị trường nước

ngoài khu vực Châu Á Thái Bình Dương. Đây là một trong những thách thức lớn đối

với PV Drilling khi các chính sách về xuất nhập khẩu và thuế quan ở thị trường này rất

nhiều và phức tạp, trong khi đó PV Drilling còn quá ít kinh nghiệm, chưa hiểu rõ về

những quy định, chính sách, đồng thời giàn khoan biển của PV Drilling chưa được kéo

đến vùng hải lãnh của các quốc gia khu vực này bao giờ.

Theo chính sách khai thác dầu khí của các nước, một công ty cung cấp dịch vụ

giàn khoan biển không thể hoạt động độc lập tại vùng biển đặc quyền kinh tế của các

33 Báo cáo thường niên PV Drilling năm 2011, trang 38 34 Nghị định số 12/2006/NĐ-CP, 2006

nước mà phải liên doanh, liên kết với các công ty dầu khí trực thuộc Tập Đoàn Dầu khí

58

Quốc gia đó. Để tạo thuận lợi cho các đơn vị con thực hiện liên doanh, liên kết, trong

những năm qua, Nhà nước cũng như là Tập Đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam đã

không ngừng mở rộng mối quan hệ, có những cuộc họp, đối thoại để tăng cường mối

quan hệ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc cung cấp các dịch vụ dầu khí. Năm 2011, Chủ

tịch nước Trương Tấn Sang đã tới thăm Tập Đoàn Dầu khí Quốc gia Malaysia

(Petronas) và đã đề nghị tăng cường hợp tác trong lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí 35 và đến ngày 4/4/2014, Việt Nam và Malaysia dã nhất trí nâng quan hệ lên đối tác chiến lược trong đó có lĩnh vực dầu khí 36. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang năm 2011 cũng đã tăng cường mối quan hệ về dầu khí với Singapore 37.

Tập Đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN) cũng đã nỗ lực tăng cường các

hợp tác quốc tế. Hội nghị và Triển lãm Dầu khí Đông Nam Á ASCOPE lần thứ 10,

Tổng Giám đốc PVN Đỗ Văn Hậu đã có những cuộc họp song phương với Tổng Giám

đốc các Tập Đoàn Dầu khí Quốc gia các nước Indonesia, Brunei, Thái Lan,

Malaysia...nhằm tăng cường mối quan hệ và hợp tác giữa các bên.

Với những nỗ lực về tăng cường hợp tác quan hệ về lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò

và khai thác dầu khí, PV Drilling đã có cơ hội tốt để tiếp tục thực hiện các hoạt động

liên doanh, liên kết với các công ty Dầu khí trực thuộc Tập Đoàn Dầu khí Quốc gia các

nước trong khu vực, tạo điều kiện để gia nhập thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh

trong việc cung cấp dịch vụ giàn khoan biển ở thị trường Châu Á Thái Bình Dương.

2.4.2. Chiến lƣợc của PV Drilling

Một số quốc gia có nền khoa học công nghệ về lĩnh vực khoan hiện đại nhất

hiện nay phải kế đến đầu tiên là Hoa Kỳ, đây là một quốc gia đi đầu trên thế giới về

khoa học công nghệ ở mọi lĩnh vực, ngành khoan cũng không phải là ngoại lệ. Hàng

năm, PV Drilling luôn có các chuyến công tác sang Hoa Kỳ để tìm kiếm các khóa huấn 35VOV, Việt Nam-Malaysia đẩy mạnh hợp tác dầu khí, http://www.tienphong.vn/xa-hoi/viet-nammalaysia-day- manh-hop-tac-dau-khi-553432.tpo, cập nhật ngày 30/9/2011 36Trúc Quỳnh, Việt Nam-Malaysia nhất trí nâng quan hệ lên đối tác chiến lược, http://www.tienphong.vn/the- gioi/viet-nam-malaysia-nhat-tri-nang-quan-he-len-doi-tac-chien-luoc-692766.tpo, cập nhật ngày 5/4/2014 37 Việt Nam-Singapore tăng cường hợp tác nhiều mặt, http://www.tienphong.vn/xa-hoi/viet-nam-singapore-tang- cuong-hop-tac-nhieu-mat-553076.tpo, cập nhật ngày 27/9/2011

59

luyện, các công nghệ tân tiến nhất để mua về áp dụng trên các giàn khoan của mình.

Trong năm 2010, trước khi giàn TAD PVD 5 hoàn thành, PV Drilling đã mua một loạt

các công nghệ tối tân về ngành khoan trị giá hơn 20 triệu USD từ ExxonMobile – tập

đoàn dầu khí lớn thứ hai thế giới để ứng dụng và công tác vận hành giàn TAD.

Quốc gia thứ hai phải kể đến là Trung Quốc, gã hàng xóm quyền lực khổng lồ

của Việt Nam. Giàn khoan dầu khí của Trung Quốc luôn có những công nghệ tối tân

nhất, hiện đại nhất, thậm chí nhiều công nghệ mà Hoa Kỳ chưa có thì Trung Quốc đã

áp dụng trên các giàn khoan của mình.

Singapore là nước thứ ba mà PV Drilling thường đặt các quan hệ hợp tác để học

hỏi các công nghệ hiện đại. Hiện nay, Singapore đang là một trong những nước có

ngành công nghiệp đóng giàn khoan phát triển nhất thế giới, bên cạnh Hoa Kỳ và

Trung Quốc.

2.4.2.1 Các chính sách của PV Drilling trong việc đi tắt đón đầu các công

nghệ tiên tiến và tăng cƣờng khả năng vận hành hiệu quả của các giàn khoan

PV Drilling có một chính sách rất hay trong việc đi tắt đón đầu các công nghệ

tiên tiến là mua các thiết bị tối tân nhất, và yêu cầu nhà cung cấp phải cho kỹ sư sang

hướng dẫn cách thức sử dụng. Thực tế có thể thiết bị này chưa cần phải sử dụng ngay,

nhưng từ những bài học vận hành từ các kỹ sư cao cấp, các kỹ sư Việt Nam đã phát

triển nó lên để vận hành cho các thiết bị tương tự khác. Sau đó, các thiết bị này sẽ được

chuyển về PVD Training phục vụ cho công tác đào tạo các khóa chuyên môn cao cấp,

mà giảng viên không ai khác chính là các kỹ sư Việt Nam đã được nhà cung cấp huấn

luyện bài bản.

Ngoài ra, việc thu hút nhân tài từ các nhà thầu khoan khác trên thế giới cũng là

cách để PV Drilling tiếp thu những bài học mới, vì các kỹ sư cao cấp nước ngoài có

một mối quan hệ rất lớn với các nhà khoa học, các nhà đào tạo về ngành khoan trên thế

giới. Do đó, khi có một công nghệ mới nào, họ cũng sẽ biết và đưa về cho PV Drilling

60

để đào tạo lại cho các kỹ sư Việt Nam. Từ đó, các công nghệ này cũng được đưa vào

sử dụng cho các giàn khoan của PV Drilling.

Tiểu kết chƣơng 2

Trong chương này, tác giả đã giới thiệu một cách chi tiết quá trình hợp tác quốc

tế của PV Drilling trong mọi lĩnh vực, với nhiều quốc gia, khu vực khác nhau.Tác giả

tiến hành phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực hợp tác quốc tế của PV Drilling

trong giai đoạn 2001-2010 bao gồm phân tích dự trên hai lĩnh vực khoan cơ bản là

khoan thăm dò và khoan khai thác. Trong đó, tác giả chia ra theo các quốc gia, khu vực

nhằm cụ thể hóa các chính sách, thành công trong hợp tác quốc tế ở lĩnh vực đó. Tác

giả còn phân tích một số các tiêu chí cơ bản như về đào tạo nguồn nhân lực, khoa học

công nghệ… Trên cơ sở đó, trong chương 3, tác giả đã diễn giải thêm một số tác động

của các quá trình hợp tác này đến ngành công nghiệp dầu khí của nội địa nói riêng và

thế giới nói chung, qua đó tác giả xin đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm phát

huy những ưu điểm, thành tựu cũng như khắc phục khuyết điểm, hạn chế để nhằm

nâng cao năng lực hợp tác quốc tế của PV Drilling.

61

CHƢƠNG 3: TÁC ĐỘNG VÀ TRIỂN VỌNG CỦA QUÁ TRÌNH HỢP TÁC

QUỐC TẾ TRONG LĨNH VỰC DẦU KHÍ CỦA PV DRILLING

3.1 Tác động của quá trình hợp tác quốc tế của PV Drilling

3.1.1 Tác động đối với ngành công nghiệp dầu khí nội địa

PV Drilling là một trong những Tổng Công Ty của Tập Đoàn Dầu Khí Việt

Nam có giá trị trên 1 tỷ USD tính đến năm 2013. Doanh thu hàng năm của PV Drilling

luôn đạt trên 10.000 tỷ VND từ năm 2010 đến nay. Ngân sách hàng năm PV Drilling

dành cho các hạng mục hợp tác quốc tế như đào tạo, mua bằng sáng chế công nghệ,

góp vốn thành lập liên doanh, đầu tư vào các giàn khoan nước ngoài… luôn đạt trên 50

triệu USD, liên tục trong 5 năm 2007 – 2012. Chính vì vậy, có thể thấy rằng, PV

Drilling là một trong những Tổng Công ty có vai trò đầu tàu về hợp tác quốc tế trong

ngành công nghiệp dầu khí còn non trẻ của nước ta.

PV Drilling đầu tư với nước ngoài để đóng mới các giàn khoan PVD 6, PVD 7,

đã gây tác động lớn đến ngành công nghiệp đóng giàn khoan biển nội địa, đặc biệt là

PV Shipyard, với thành tựu là giàn khoan biển Tam Đảo 03. Tuy nhiên, giàn khoan

Tam Đảo 03 hiện đang được Vietsopetro vận hành cầm chừng do hạn chế về khả năng

khoan và công nghệ chưa hiện đại. Do vậy, khi mà PV Drilling ngày càng có nhiều

giàn khoan Jack-up hiện đại, PV Shipyard phải liên tục đổi mới và nâng cao trình độ

kỹ thuật nhằm có thể đưa ra những giàn khoan có công nghệ tương tự để trong tương

lai Việt Nam sẽ đủ sức chế tạo giàn khoan hoạt động trên 400ft (90m) mực nước biển

và được chính người Việt Nam quản lý vận hành.

Không chỉnh với PV Shipyard mà với các công ty dịch vụ dầu khí khác như PV

Engineering, PVC, PV Trans… phải liên tục đổi mới cách thức quản lý và trình độ kỹ

thuật để cạnh tranh với các dịch vụ của PV Drilling đang ngày càng hiện đại hóa do có

một lực lượng kỹ sư nước ngoài hùng hậu và một đội ngũ người Việt chất lượng cao,

được đào tạo bài bản từ các quốc gia tiên tiến. Một ví dụ nho nhỏ, PVD Training là

đơn vị duy nhất ở Việt Nam đào tạo những chứng chỉ cấp quốc tế như BOSIET, Well

62

Control, HSEQ… trong khi đó những Tổng Công ty trong ngành dầu khí khác chưa

thể đạt được.

Tóm lại, khi PV Drilling ngày càng đẩy mạnh hợp tác quốc tế để đưa về Việt

Nam những tinh hoa công nghệ trong ngành dầu khí thì đã thúc đẩy cho một loạt các

Tổng Công ty trong ngành phải phấn đấu nỗ lực để vươn lên, để có thể hỗ trợ cho các

dịch vụ hỗ trợ đạt đến một trình độ cao cấp.

3.1.2 Tác động đối với ngành công nghiệp dầu khí thế giới

Đối với thế giới, PV Drilling hiện nay đã hai lần liên tiếp đạt danh hiệu “ Nhà

thầu khoan tốt nhất châu Á” trong hai năm 2012 và 2013. Nó cho thấy sự thừa nhận

của thế giới cho những nỗ lực của PV Drilling nói riêng, của ngành dầu khí Việt Nam

nói chung. PV Drilling hiện nay có 5 công ty liên doanh với các đối tác dầu khí nước

ngoài, là PVD – Baker Hughes, PVD – PTI, PVD – Oil States Industries, Vietubes,

PVD – BJ. Đây là những đối tác lớn trên thị trường khoan thế giới, có hàng chục năm

kinh nghiệm trong việc cung cấp các dịch vụ khoan dầu khí, đồng thời cũng sở hữu

hàng trăm bằng sáng chế trong lĩnh vực khoan. Liên kết với các công ty này, sẽ giúp

cho PV Drilling không những tiết kiệm được ngân sách cho việc mua bằng sáng chế,

mà còn tận dụng được nguồn nhân lực tinh nhuệ của các công ty đối tác trong việc

cung cấp các dịch vụ khoan, không chỉ cho các giàn của PV Drilling mà còn ở các giàn

khoan nước ngoài khác đang hoạt động tại Việt Nam.

Trong giai đoạn từ 2011 – 2020, PV Drilling hướng tới việc vươn ra các thị

trường nước ngoài như khởi động lại các dự án ở Venezuela, tiến hành cung cấp giàn

khoan đất liền tại Angola, đưa giàn khoan sang các vùng biển của Malaysia,

Philippines, Nhật Bản…Chính vì thế, việc ngày càng tăng cường hợp tác quốc tế, xuất

hiện nhiều hơn tại các diễn đàn dầu khí trong khu vực và trên toàn cầu giúp PV

Drilling ngày càng chuyên nghiệp, đủ sức cạnh tranh với các nhà thầu khoan hàng đầu

trong việc đưa ra các dịch vụ hiện đại, tối tân với chi phí thấp và hợp lý hơn.

63

3.2 Triển vọng phát triển

3.2.1 Triển vọng

3.2.1.1 Thành tựu

Về số lượng và chủng loại giàn: Số lượng giàn của PV Drilling ngày càng tăng

qua các năm, từ 1 giàn Jack up PVD 1 năm 2007 đến nay số lượng giàn đã tăng lên 5

giàn, ngoài ra PV Drilling còn vận hành thêm 4-6 giàn khoan thuê. Chủng loại giàn

cũng bắt đầu đa dạng hơn, bắt đầu đầu tư giàn nước sâu, cụ thể là giàn tiếp trợ nửa nổi

nửa chìm PVD 5.

Về chất lượng và an toàn trong vận hành: các giàn khoan biển của PV Drilling

luôn được Hiệp hội các nhà thầu khoan quốc tế (IADC) ghi nhận thành tích vận hành

an toàn, không xảy ra LTI trong suốt quá trình vận hành, tính đến tháng 3/2014, giàn

PVD 1 đã đạt 7 năm liên tục vận hành an toàn, không xảy ra LTI, giàn PVD 2, PVD 3 là 4 năm liên tục, giàn PVD 5 là 365 ngày.38

Về hiệu suất hoạt động: hiệu suất hoạt động của các giàn khoan biển của PV

Drilling luôn đạt mức rất cao, trên 99%.

Về thị trường cung cấp dịch vụ giàn khoan biển: những năm đầu hoạt động, PV

Drilling chỉ cung cấp dịch vụ giàn khoan biển ở thị trường trong nước nhưng những

năm gần đây, PV Drilling đã từng bước vươn ra thị trường cung cấp dịch vụ giàn

khoan biển Châu Á Thái Bình Dương như tháng 10/2012, PV Drilling đã mở văn

phòng đại diện ở Malaysia, có các cuộc gặp song phương với các công ty Dầu khí quốc

gia Thái Lan, Brunei, Singapore...

Về giá cả thuê giàn, bằng nỗ lực đàm phán và xây dựng hình ảnh, PV Drilling

38 Báo cáo An Toàn của PV Drilling gửi Tập Đoàn Dầu Khí Việt Nam năm 2014, trang 5

luôn ký hợp đồng cung cấp dịch vụ giàn khoan biển với giá cao, các hợp đồng cung

64

cấp giàn khoan tự nâng luôn đạt mức giá khoảng 130.000 USD/ngày (cao gấp 153% so với giá thị trường).39

Về hoạt động quảng bá: PV Drilling đã đạt được nhiều thành tựu trong việc xây

dựng hình ảnh nhà thầu chuyên nghiệp thông qua các giải thưởng trong nước cũng như

quốc tế: Sao Vàng Đất Việt qua các năm, huân chương lao động hạng nhất, top 10 giải

thưởng Báo cáo thường niên tốt nhất năm 2012 của Bộ Tài chính, 2 năm liền đạt giải

thưởng Nhà thầu khoan tốt nhất châu Á (năm 2012, 2013) do tạp chí World Finance

trao tặng.

Về doanh thu, lợi nhuận: doanh thu của PV Drilling luôn tăng đều, trung bình

20% qua các năm, năm 2010, doanh thu đạt 7.572 tỷ đồng (tăng 29,8% so với năm

2009), lợi nhuận sau thuế cũng luôn tăng, lợi nhuận năm 2010 của PV Drilling là 1.908

tỷ đồng (tăng 23,6% so với năm 2009).

3.2.1.2 Triển vọng phát triển

Trong buổi họp chuyên sâu về năng lượng trong khuôn khổ Hội nghị Tham tán

Thương mại 2011, ông Lê Tuấn Phong Phó tổng cục trưởng Tổng cục Năng lượng đã

trình bày tham luận của mình về “Tổng quan về hệ thống năng lượng Việt Nam và

định hướng phát triển năng lượng quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050".

Trong bài tham luận này, ông đã nêu lên quan điểm của Chính phủ về phát triển ngành

Dầu khí đó phát triển ngành Dầu khí đồng bộ, bao gồm các hoạt động tìm kiếm, thăm

dò, khai thác, vận chuyển, chế biến, tàng trữ, phân phối, dịch vụ và xuất nhập khẩu. Về

tìm kiếm, thăm dò (TKTD) dầu khí sẽ gia tăng trữ lượng đạt 35-45 triệu tấn quy

dầu/năm trong giai đoạn 2011 – 2015; trong đó: trong nước 25 – 30 triệu tấn quy

dầu/năm, ngoài nước 10 – 15 triệu tấn quy dầu/năm.

Lĩnh vực khai thác dầu khí: tập trung nghiên cứu các giải pháp nâng cao hệ số

thu hồi dầu và duy trì mức sản lượng khai thác dầu khí tối ưu, đảm bảo an toàn và hạn

39 Báo cáo thị trường của Ban Hỗ trợ Sản Xuất gửi Tổng Giám Đốc PV Drilling tháng 8 năm 2013

chế nguy cơ bị ngập nước của các mỏ đang khai thác; tích cực mở rộng hoạt động đầu

65

tư khai thác dầu khí ra nước ngoài. Phấn đấu khai thác 25-38 triệu tấn quy dầu/năm,

trong đó: khai thác dầu thô giữ ổn định ở mức 18-20 triệu tấn/năm và khai thác khí 8-

19 tỉ m³/năm. Định hướng giai đoạn 2016 – 2025 sẽ gia tăng trữ lượng đạt 35 – 45

triệu tấn quy dầu/năm, trong đó 25 – 35 triệu tấn quy dầu/năm ở trong nước và 15 triệu

tấn quy dầu/năm ở nước ngoài.

Lĩnh vực phát triển dịch vụ dầu khí: giai đoạn đến năm 2015 sẽ phấn đấu doanh

thu dịch vụ kỹ thuật dầu khí đạt tốc độ tăng trưởng 15 – 20%/năm so với năm trước.

Giai đoạn 2016 – 2025 Phấn đấu doanh thu dịch vụ kỹ thuật dầu khí đạt tốc độ tăng

trưởng 20 – 25%/năm so với năm trước.

Hoạt động khai thác và sản xuất dầu khí ngoài khơi ở vùng biển Châu Á Thái

Bình Dương, đặc biệt là Biển Đông đang phát triển, nhờ vào tiềm năng dầu khí ở các

vùng biển sâu trong khu vực và nhu cầu năng lượng tăng cao của châu Á. Cơ quan

Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) ước tính có khoảng xấp xỉ 11 tỷ thùng dầu và 190

nghìn tỷ feet khối khí tự nhiên đã được xác định và có tiềm năng trong khu vực trải dài từ Singapore và eo biển Malacca đến eo biển Đài Loan (3). Trong đó 70% trữ lượng dầu khí ở vùng biển giàu tài nguyên này nằm tại 1,54 triệu km2 các khu vực nước sâu.

Các khu vực khai thác dầu khí tập trung nhiều dự án nhất hiện tại có Vịnh Thái

Lan, bán đảo Mã Lai, Đông Malaysia, Việt Nam, Indonesia. Brunei lúc trước thực hiện

việc độc quyền khai thác các giếng dầu cho Shell nhưng hiện nay Brunei đang có xu

hướng sẽ mở rộng cho các tập đoàn năng lượng khác tham gia.

BẢNG 3.1: ƢỚC TÍNH TRỮ LƢỢNG DẦU KHÍ ĐÃ XÁC ĐỊNH VÀ TIỀM

NĂNG Ở BIỂN ĐÔNG

lượng

năng

ngạc

tiềm

kinh

dầu

khí

trữ

về

3 Linh Phương, Báo ở Biển cáo Đông,http://petrotimes.vn/news/vn/bien-dong/bi-mat-trong-long-bien-dong/bao-cao-kinh-ngac-ve-tru-luong-dau- khi-tiem-nang-o-bien-dong.html, cập nhật ngày 9/2/2013

Quốc gia Trữ lƣợng dầu thô và hóa lỏng (tỷ thùng) Trữ lƣợng khí tự nhiên (nghìn tỷ feet khối)

66

Brunei 1,5 15

Trung Quốc 1,3 15

Indonesia 0,3 55

Malaysia 5,0 80

Philippin 0,2 4

Thái Lan - 1

Việt Nam 4,4 20

(Nguồn: Cục Thông tin Năng lượng Mỹ, Báo cáo về Biển Đông, tháng 2 năm 2013)

Về thị trường cung cấp giàn khoan thế giới:từ năm 2009-2013, tuy kinh tế thế

giới trong giai đoạn khủng hoảng, các nước phát triển như Châu Âu, Nhật tiêu thụ dầu

giảm đi, các nước như Trung Quốc, Ấn Độ, Đông Nam Á số lượng dầu tiêu thụ vẫn

tăng nhưng ở mức độ thấp hơn so với các năm trước, nhưng theo Tổ chức các nước

xuất khẩu dầu mỏ (OPEC), nhu cầu dầu thế giới vẫn tăng trưởng, trung bình 750.000- 800.000 thùng/ngày, tổng lượng tiêu thụ dầu năm 2013 là 89,7 triệu thùng/ngày(40).

Với nhu cầu về dầu thô vẫn tiếp tục tăng trưởng, thị trường giàn khoan biển vẫn có

những bước phát triển. Tổng số lượng giàn khoan cung cấp cho thị trường vẫn tiếp tục

tăng. Nhìn vào biểu đồ 2 dưới đây ta có thể thấy, đến năm 2013, số lượng giàn khoan

biển ở thị trường thế giới đã tăng lên đến 801 giàn, tăng 104 giàn so với năm 2009,

trong đó năm 2010, số lượng giàn khoan biển tăng cao nhất (30 giàn, tăng khoảng 4%

so với năm 2009). Tốc độ tăng về số lượng giàn khoan biển trong giai đoạn 2009-2013

40Thị trường xăng dầu năm 2013 và dự báo cho năm 2014, http://www.hiephoixangdau.org/ndc/hoat-dong-su- kien/thi-truong-xang-dau-nam-2013-va-du-bao-cho-nam-2014/default.aspx

khoảng 3-4%/năm.

67

BIỂU ĐỒ 3.1: TỔNG SỐ LƢỢNG GIÀN KHOAN BIỂN CUNG CẤP Ở THỊ

TRƢỜNG THẾ GIỚI TRONG GIAI ĐOẠN 2009-2013

.

(Nguồn: Báo cáo thường niên qua các năm, PV Drilling)

Trong khi tốc độ tăng của số lượng giàn khoan biển ở thi trường thế giới trong

năm 2009-2013 là 3-4% thì tốc độ tăng nhu cầu về giàn khoan biển luôn ở mức cao

hơn (7-8%/năm).(Nguồn: PV Drilling. 2009-2013) làm cho số lượng giàn khoan biển

hiện có không đủ đáp ứng nhu cầu

Thị trường dịch vụ cung cấp giàn khoan khu vực Châu Á Thái Bình Dương

cũng trong trường hợp tương tự. Tuy số lượng giàn khoan biển ở thị trường này không

ngừng tăng lên, đến năm 2013, số lượng giàn khoan biển cung cấp trên thị trường là 99

giàn, tăng 5 giàn so với năm 2012 và tăng 15 giàn so với năm 2009, tốc độ tăng về số

lượng giàn khoan biển trong giai đoạn 2009-2013 là khoảng 3-5%, nhưng số lượng

giàn khoan biển này vẫn không đủ đáp ứng nhu cầu hiện có tại thị trường (108 giàn

khoan biển năm 2013) và tốc độ tăng của nhu cầu giàn khoan biển ở thị trường Châu Á

Thái Bình Dương cũng ở mức 7-8%/năm) (Nguồn: PV Drilling. 2009-2013).

68

Với nhu cầu về giàn khoan biển ngày một tăng cao và mức cung giàn chưa đáp

ứng được nhu cầu, PV Drilling sẽ có cơ hội rất lớn để nâng cao năng lực cạnh tranh ở

thị trườngChâu Á Thái Bình Dương, có thêm nhiều hợp đồng cung cấp giàn khoan

biển, tăng thêm doanh thu, lợi nhuận và mở rộng thị phần.

3.2.2. Thời cơ và thách thức

Nền kinh tế thế giới sau giai đoạn khủng hoảng vừa qua đã bắt đầu có tín hiệu

phục hồi nhờ các chính sác và nỗ lực khắc phục khủng hoảng của các quốc gia chịu

ảnh hưởng. Kinh tế Việt Nam đã có những bước chuyển biến tích cực, bắt đầu ổn định

tăng trưởng hơn sau thời gian dài tăng trưởng nóng dẫn đế lạm phát tăng, lãi suất luôn

ở mức cao, tình hình nợ xấu nghiêm trọng...Đây là cơ hội để PV Drilling có thể tăng

cường năng lực cạnh tranh của mình thông qua các hoạt động liên doanh liên kết, đầu

tư đóng mới giàn, dễ dàng hơn trong việc huy động vốn, vay vốn mở rộng quy mô.

Với việc tăng cường tham gia các hội chợ, triển lãm về dầu khí trong khu vực

cũng như trên thế giới đã giúp cho PV Drilling ngày được các công ty Dầu khí và các

Tập Đoàn dầu khí quốc gia các nước, đặc biệt là ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương

biết đến cụ thể như Tập đoàn Dầu khí Vương Quốc Brunei, Tập đoàn Dầu khí Quốc

gia Malaysia,...đồng thời được các công ty Dầu khí đang hợp tác như JVPC, CuuLong

JOC, Hoang Long JOC.. tin tưởng hơn.

Với nhu cầu về giàn khoan biển ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương ngày một

tăng, cơ hội mở rộng đầu tư và nâng cao năng lực cạnh tranh sẽ cao. Nhu cầu giàn

khoan biển tăng, PV Drilling sẽ có cơ hội tiếp cận với các công ty Dầu khí, các Tập

Đoàn dầu khí quốc gia nơi có các mỏ dầu khí ở khu vực. Và với uy tín cũng như

thương hiệu hiện có, PV Drilling sẽ dễ dàng ký kết được các hợp đồng cung cấp dịch

vụ giàn khoan biển. Đồng thời, với nhu cầu giàn khoan biển tăng, các công ty Dầu khí

sẽ nhiều hơn từ đó khả năng giành được hợp đồng dịch vụ cao hơn.

PV Drilling là một trong những đơn vị chủ chốt và mũi nhọn của Tập Đoàn Dầu

khí Quốc gia Việt Nam (PVN). Chính vì vậy, PVN luôn hỗ trợ PV Drilling trong các

69

hoạt động mở rộng ở nước ngoài thông qua các cuộc gặp song phương, đa phương với

các Tập đoàn quốc gia các nước khác. Đồng thời, ngành dầu khí là một ngành công

nghiệp mũi nhọn của Việt Nam vì vậy Chính phủ Việt Nam luôn có những chính sách

hỗ trợ như chính sách miễn giảm thuế nhập khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp, ưu đãi

về đầu tư, tổ chức các cuộc gặp song phương, đa phương bàn về hợp tác về dầu khí và

khai thác dầu khí. Đây là cơ hội tốt cho PV Drilling trong việc mở rộng thị phần, nâng

cao năng lực cạnh tranh của mình ở thị trường Châu Á Thái Bình Dương.

Như đã phân tích ở phần I chương này, do thị trường cung cấp giàn khoan trong

giai đoạn 2014-2030 ngày càng sôi động nên mức độ cạnh tranh ở thị trường này ngày

càng cao. Các nhà thầu khoan hiện tại trong thị trường như Transocean, Seadrill,

Diamond Offshore sẽ tăng cường hoạt động, mở rộng thị phần, tìm kiếm các hợp đồng

khoan dài hạn. Ngoài ra, thị trường sẽ xuất hiện thêm các nhà thầu khoan đang hoạt

động ở các Noble Drilling, China Oilfield Services Ltd, KCA Deutaq, Schlumberger,

Halliburton... Đây là thách thức lớn đối với PV Drilling trong việc nâng cao mức độ

cạnh tranh ở thị trường Châu Á Thái Bình Dương.

Nguồn nhân lực kỹ thuật cao của ngành dịch vụ cung cấp giàn khoan biển ở

Việt Nam còn hạn chế. Nguyên nhân là do ngành kỹ thuật dầu khí ở Việt Nam chưa

được chú trọng, chuyên gia, giảng viên giỏi trong ngành chưa nhiều, cơ sở vật chất còn

nghèo nàn giúp cho sinh viên ít có cơ hội tiếp xúc với thực tế của ngành để tiếp thu

kinh nghiệm thực tế, đặc biệt là đối với kỹ thuật khoan hiện đại. Số lượng học sinh

chọn khối kỹ thuật dầu khí không nhiều mà tập trung chủ yếu vào khối kinh tế nên

trong tương lai nguồn nhân lực trong ngành kỹ thuật dầu khí, trong đó có nguồn nhân

lực kỹ thuật cao sẽ bị khan hiếm.

Xu hướng tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí trong giai đoạn 2011-2020 sẽ

đẩy mạnh tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí ở khu vực nước sâu và cực sâu, cụ

thể là ở khu vực Biển Đông nơi có 70% dầu khí nằm ở khu vực nước cực sâu. Vì vậy,

các công ty Dầu khí trong giai đoạn 2011-2020 sẽ có nhu cầu cao về các giàn khoan

nước sâu như Semi-submersible, Drillship hơn giàn Jack-up. Đồng thời, vì kỹ thuật

70

khoan sẽ thay đổi và đảm bảo tính an toàn trong quá trình vận hành, các công ty dầu

khí sẽ ưa chuộng các giàn khoan thế hệ trẻ, kỹ thuật hiện đại.

3.3. Giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển hợp tác quốc tế trong lĩnh vực

dầu khí của PV Drilling

Dựa trên các cơ sở ở chương 2; việc phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến năng

lực hợp tác quốc tế của PV Drilling, thực trạng năng lực hợp tác quốc tế của PV

Drilling trong giai đoạn 2001-2010, cũng như nêu ra được những thành tựu đạt được

cũng như những tồn tại và nguyên nhân của quá trình hợp tác quốc tế của PV Drilling

ở thị trường Châu Á Thái Bình Dương ở chương 2; những dự báo về nhu cầu và mức

độ cạnh tranh, cơ hội và thách thức và xác định quan điểm, định hướng và mục tiêu

của công cuộc mở rộng hợp tác quốc tế ở đầu chương 3, tác giả xin đề xuất một số kiến

nghị và giải pháp nhằm nâng cao năng lực hợp tác quốc tế của PV Drilling trong giai

đoạn 2011-2020.

3.3.1 Giải pháp

3.3.1.1 Tăng ngân sách đào tạo và cải tiến quy trình tuyển dụng nhân tài

trong nƣớc.

Hiện tại số lượng nhân viên, kỹ sư đang làm việc chỉ vừa đáp ứng được nhu cầu

vận hành các giàn khoan hiện tại, nếu theo kế hoạch tăng số lượng giàn khoan, mở

rộng quy mô, PV Drilling cần có kế hoạch tăng cường đội ngũ nhân lực bằng cách:

- PV Drilling phối hợp với trường Đại học Bách Khoa, trường Đại học Mỏ Địa

Chất, trường Đại học Ngoại Thương để có thể tuyển dụng được nguồn sinh viên giỏi,

đúng chuyên ngành. PV Drilling có thể tổ chức các đợt tuyển dụng quy mô lớn như

chương trình Kỹ sư khoan tài năng hoặc chương trình quản trị viên tập sự, thông báo

rộng rãi trên báo đài, TV để nhiều sinh viên vừa tốt nghiệp nộp đơn đăng ký. PV

Drilling cần lên kế hoạch tuyển dụng sao cho có thể đáp ứng được ít nhất là 90% nhu

cầu, để đảm bảo, PV Drilling có thể tuyển dụng theo dự án, khi bắt đầu tiến hành đóng

71

mới giàn, PV Drilling sẽ tiến hành tuyển dụng nhân sự chủ chốt làm việc và theo sát

dự án đóng giàn cho tới khi giàn đưa vào hoạt động, trước khi giàn đưa vào hoạt động

3-6 tháng, PV Drilling sẽ tiến hành tuyển dụng các vị trí còn lại làm việc trên giàn, tiến

hành đào tạo và huấn luyện. Như vậy, số lượng nhân lực phục vụ cho các giàn khoan

sắp tới sẽ không bị thiếu hụt đồng thời kế hoạch tuyển dụng rõ ràng và bám sát theo kế

hoạch đóng giàn sẽ giúp PV Drilling không bị dư nguồn nhân lực trong hiện tại.

- Để có thể chủ động và tự chủ được ở các vị trí quan trọng trên giàn, PV

Drilling cần tập trung đào tạo nguồn kỹ sư trẻ, tương lai sẽ có thể nắm giữ được các vị

trí này. PV Drilling có thể tổ chức các chương trình như Quản trị viên tập sự giành cho

khối kỹ sư. Theo đó, các sinh viên giỏi tốt nghiệp từ các trường Bách Khoa hoặc Mỏ

Địa Chất sẽ được tuyển dụng và huấn luyện trong 2 năm. Trong hai năm đó, các kỹ sư

này được trải nghiệm qua tất cả các vị trí trên giàn: công nhân làm việc trên sàn khoan,

thợ sơn, lái cẩu...để hiểu rõ thực tế hoạt động trên giàn, nắm rõ được các thiết bị máy

móc chủ yếu trên giàn. Sau đó, các kỹ sư này sẽ được các Giám Đốc giàn, Trưởng giàn

hướng dẫn về vận hành giàn và các công tác khoan. Các kỹ sư này sẽ được tham gia

vào các cuộc họp giữa công ty và các công ty Dầu khí để nắm bắt được nhu cầu, đòi

hỏi của khách hàng và học hỏi được kinh nghiệm xử lý tình huống và sự cố trong quá

trình vận hành giàn khoan biển.

- Tăng cường chuyên môn và phát triển nghề nghiệp cho nhân viên bằng cách

luôn rà soát để biết được khả năng làm việc của nhân viên, từ đó tổ chức các khóa học

nghiệp vụ để nhân viên nâng cao tay nghề, chuyên môn. Ngành khoan và khối văn

phòng hỗ trợ cho công tác hoạt động giàn khoan khá đặc thù nên PV Drilling có thể

tìm kiếm các khóa học về quản lý ở nước ngoài như các khóa học về quản lý chuỗi

cung ứng, quản lý mua sắm Maximo, Oracle... để nhân viên hiểu rõ hơn về hệ thống

đang sử dụng tại PV Drilling, biết thêm được các hệ thống quản lý, kiểm soát mới từ

đó về vận hành hệ thống cũ hiệu quả hơn đồng thời tìm kiếm cơ hội ứng dụng hệ thống

quản lý, kiểm soát mới để nâng cao năng suất lao động. Ngoài ra, để giảm thiếu tối đa

về tai nạn lao động dẫn đến ngừng hoạt động của giàn khoan, PV Drilling cần tổ chức

72

các khóa học, khóa huấn luyện về an toàn nhằm nâng cao ý thức cũng như là trách

nhiệm của công nhân, kỹ sư về an toàn lao động trên giàn khoan biển từ đó hạn chế tối

đa các tai nạn lao động có thể xảy ra.

3.3.1.2 Tăng cƣờng tham gia hợp tác quốc tế, quảng bá hình ảnh của PV

Drilling nói riêng, ngành Dầu khí Việt Nam nói chung ra toàn thế giới

Hoạt động quảng bá và tạo dựng niềm tin từ khách hàng được PV Drilling chú

trọng ngay từ khi mới thành lập. Là một dịch vụ đặc thù, không thể quảng cáo tràn lan

và rầm rộ như các ngành dịch vụ khác, khách hàng của PV Drilling cũng rất đặc thù vì

vậy nên PV Drilling tập trung quảng bá hình ảnh thông qua các cuộc triển lãm, hội

thảo về dầu khí, tham dự để giành được các giải thưởng trong lĩnh vực dầu khí trong

khu vực và trên thế giới.

Đối với triển lãm, hội nghị về dầu khí, PV Drillings luôn cử người tham dự và

có gian hàng như hội nghị OTC Asia (Offshore Technical Conference Asia) được tổ

chức thường niên, hội nghị và triển lãm ASCOPE (ASEAN Council on Petroleum)

được tổ chức 4 năm một lần...Đối với các giải thưởng và bình chọn, PV Drilling luôn

đạt danh hiệu Sao Vàng Đất Việt qua các năm, huân chương lao động hạng nhất, top

10 giải thưởng Báo cáo thường niên tốt nhất năm 2012 của Bộ Tài chính, 2 năm liền

đạt giải thưởng Nhà thầu khoan tốt nhất châu Á (năm 2012, 2013) do tạp chí World

Finance trao tặng.

PV Drilling có riêng một ban phát triển kinh doanh nhằm mục đích quảng bá

hình ảnh và giới thiệu hình ảnh và dịch vụ của công ty đến với các công ty dầu khí

trong khu vực. Đầu năm 2014, PV Drilling vừa thành lập đội truyền thông chuyên

phục vụ công tác tuyên truyền và xây dựng hình ảnh và thương hiệu PV Drilling ở thị

trường khoan trong nước cũng như thị trường khoan thế giới. Với đội truyền thông

này, trong tương lai, hoạt động marketing của PV Drilling sẽ phát triển mạnh mẽ và

thương hiệu PV Drilling sẽ ngày càng được củng cố và được nhiều công ty dầu khí biết

đến và sử dụng dịch vụ.

73

3.3.1.3 Nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ của CBCNV

PV Drilling hiện có nguồn nhân lực chất lượng cao và dồi dào. Tổng số cán bộ

công nhân viên tính đến cuối năm 2013 là 1.810 người (tăng 64% so với năm mới

thành lập), trong đó chuyên gia kỹ thuật cao người nước ngoài có khoảng 100 người.

Nguồn nhân lực Việt Nam có trình độ cao (trình độ thạc sỹ, tiến sỹ chiếm 6%, trình độ

cao đẳng, đại học chiếm 45%). Nguồn nhân lực của PV Drilling hiện đang đáp ứng đủ

nhu cầu về nguồn nhân lực hoạt động trên giàn khoan biển cũng như là khối văn phòng

hỗ trợ sản xuất.

BẢNG 3.2: SỐ LƢỢNG NGƢỜI LAO ĐỘNG TRONG PV DRILLING

Số Tỷ Số Tỷ Trình độ Hợp đồng lao động

CBCNV trọng CBCNV trọng

2 14 0,8% Tiến sĩ 0,1% Thử việc

58 14 0,8% Thạc sỹ 3,1% Thời vụ

831 938 50,6% Đại học 44,8% Xác định thời hạn

750 887 47,9% Cao đẳng, công 40,5% Không xác định

nhân kỹ thuật thời hạn

Tổng cộng 1.853 100% Tổng cộng 1.853 100%

(Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2010, PV Drilling)

Về đào tạo, PV Drilling hiện đang chú trọng công tác đào tạo nguồn nhân lực.

Đối với khối nhân sự đi biển, PV Drilling luôn tổ chức hoặc thuê các trung tâm đào tạo

chuyên ngành để tổ chức các khóa học về kỹ thuật khoan, quản lý giếng khoan, khóa

học an toàn biển BOSIET, cử các cán bộ chủ chốt sang nước ngoài tham dự các khóa

74

học, các buổi hội thảo về ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào công tác điều hành

khoan...

Đối với các nhân viên khối văn phòng, bên cạnh các khóa học đã được tổ chức

về chuyên ngành như: khóa học về kiến thức về dầu khí và vận hành giàn khoan dành

cho người không phải là kỹ sư dầu khí, khóa học nghiệp vụ sử dụng hệ thống quản lý

hàng tồn kho và mua sắm MAXIMO, khóa học về nghiệp vụ ngoại thương xuất, nhập

khẩu, PV Drilling còn triển khai tìm hiểu nhu cầu đào tạo của các cán bộ công nhân

viên từ đó tổ chức các khóa học phù hợp. Cụ thể như trong 2 năm 2012, 2013, PV

Drilling đã tổ chức được các khóa học kỹ năng mềm như: xây dựng hình ảnh chuyên

nghiệp, quản lý công việc, nghệ thuật đàm phán...

PV Drilling còn có 1 đơn vị riêng tiêu chuẩn quốc tế để phục vụ công tác đào

tạo và huấn luyện đó là Công ty Cổ phần Đào tạo Kỹ thuật PVD (PVD Training). PVD

Training đã được tổ chức OPITO (Offshore Petroleum International Training

Organization) công nhận cấp phép đào tạo an toàn biển theo chuẩn mực quốc tế

OPITO. Đơn vị này đã hỗ trợ cho PV Drilling rất nhiều trong việc cung cấp nguồn

nhân lực chất lượng cao hoạt động trong lĩnh vực cung cấp giàn khoan biển.

BẢNG 3.3: MỘT VÀI CHỈ SỐ VỀ ĐÀO TẠO CỦA PV DRILLING

QUA CÁC NĂM

Chỉ tiêu ĐVT 2007 2008 2009 2010

Khóa 720 766 1.015 1.366 Số khóa đào tạo trong năm

Người 2.927 3.971 3.994 4.452 Số lƣợt ngƣời tham gia đào tạo

Tỷ đồng 19,5 29,8 35 37,5 Tổng chi phí đào tạo

Triệu đồng 12 17,3 21 21,2 Chi phí đào tạo bình

quân/CNCNV

75

Giờ 9,9 10,3 11,8 12,4 Thời gian đào tạo bình quân/

CBCNV

(Nguồn: Báo cáo thường niên của PV Drilling năm 2010, PV Drilling)

3.3.1.4. Xây dựng quy trình làm việc chuyên nghiệp theo các tiêu chuẩn

quốc tế

Ngay từ những ngày đầu thành lập, việc xây dựng và áp dụng thành công hệ

thống quản lý An toàn – Sức khỏe – Môi trường – Chất lượng (HSEQ) theo các tiêu

chuẩn quốc tế vào các hoạt động sản xuất kinh doanh của PV Drilling được xem là một

trong những mục tiêu quan trọng hàng đầu, là chìa khóa cho sự hội nhập thành công

của PV Drilling vào thị trường cung cấp dịch vụ dầu khí quốc tế. Được sự cam kết

mạnh mẽ từ cấp lãnh đạo cao nhất, hệ thống quản lý HSEQ theo các tiêu chuẩn quốc tế

lần lượt được xây dựng và áp dụng thành công trong thời gian ngắn tại PV Drilling

thông qua việc đạt chứng nhận quốc tế về các hệ thống như: :

 Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2008

 Hệ thống quản lý an toàn và sức khỏe nghề nghiệp theo Tiêu chuẩn OHSAS

18001:2007

 Hệ thống quản lý môi trường theo Tiêu chuẩn ISO 14001:2004

Hệ thống quản lý An toàn – sức khỏe – môi trường của PV Drilling được quản

lý thống nhất từ Tổng Công ty đến các phòng ban, đơn vị trực thuộc để đảm bảo tính

thống nhất của toàn hệ thống. Ban An toàn – Chất lượng Tổng công ty chịu trách

nhiệm trong việc thiết lập, ban hành, và trực tiếp kiểm tra giám sát việc thực hiện và

tuân thủ đối với các chính sách, quy trình của hệ thống cũng như tham mưu cho Ban

lãnh đạo trong việc giám sát và định hướng phát triển hệ thống An toàn – Sức khỏe –

Môi trường tích hợp góp phần vào sự phát triển bền vững của Tổng Công ty. Tại các

đơn vị trực thuộc, phòng An toàn – Chất lượng chịu trách nhiệm triển khai thực hiện

các chính sách, quy trình của Tổng công ty cũng như tư vấn, hỗ trợ các phòng, bộ phận

76

sản xuất trực tiếp trong việc thực hiện, kiểm tra giám sát việc tuân thủ và kịp thời phản

ánh những vấn đề cần bổ sung, điều chỉnh nhằm đảm bảo hiệu lực và hiệu quả của hệ

thống trong thực tế.

Làm việc an toàn là một yêu cầu bắt buộc đối với người lao động khi làm việc

tại PV Drilling, yêu cầu này nhằm cung cấp một môi trường an toàn cho mọi người khi

tham gia PV Drilling như một phần cam kết của lãnh đạo PV Drilling.

Từ năm 2009, PV Drilling đã tiến hành triển khai hệ thống ERP ở các lĩnh vực

như Quản lý dự án, Nhân sự, Mua sắm vật tư, hàng hóa. Ngoài ra PV Drilling sẽ tiếp

tục phát huy việc ứng dụng thành công hệ thống phần mềm quản lý vật tư MAXIMO

và các hệ thống ứng dụng phục vụ chuyên ngành dầu khí khác nhằm quản lý tối ưu vật

tư, giảm thiểu chi phí lưu động, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh.

3.3.2 Kiến nghị

+ Về mặt nhân sự:

- Nhanh chóng nội địa hóa và xây dựng một chương trình đào tạo nhân lực

chuyên nghiệp và mang tính chất quốc tế cho các vị trí nhân sự giữ chức vụ cao

trên giàn để giảm chi phí cho việc thuê chuyên gia nước ngoài. Vì trong tương

lai gần, việc cạnh tranh với các nhà thầu khoan mạnh trên thế giới là điều chắc

chắn PV Drilling phải đối mặt, nên bản thân PV Drilling phải tự tạo thế mạnh

cho riêng mình để có thể đứng vững trên thị trường khoan. Việc giảm chi phí

thuê chuyên gia nước ngoài là một phương pháp hữu hiệu, ngoài ra có tăng

cường nhiều yếu tố phụ như giao tiếp, văn hóa, cách sống… từ đó công việc sẽ

dễ dàng trôi chảy và giảm được các yếu tối rủi ro do sốc văn hóa hay thiếu hụt

chuyên gia nước ngoài.

- Xem xét lại bảng lương cho các nhân sự nội địa đang đảm nhiệm các vị trí mà

chuyên gia nước ngoài. Hiện nay, có sự chênh lệch rất lớn cho cùng một vị trí

giữa chuyên gia nước ngoài và chuyên gia Việt Nam. Điều này sẽ dễ làm chảy

77

máu chất xám khi ngày càng nhiều chuyên gia Việt Nam chuyển sang làm cho

các nhà thầu khoan nước ngoài.

- Cần nâng cao hợp tác nghiên cứu đào tạo với các trung tâm chuyên về ngành

khoan dầu khí trên thế giới, đặc biệt là các cơ quan trung tâm tại Hoa Kỳ vì đây

là một quốc gia tiên tiến nhất trong lĩnh vực này. Các kỹ sư Việt Nam khi được

tham gia đào tạo, nghiên cứu tại đây sẽ mang về Việt Nam nhiều sáng kiến,

kinh nghiệm hay và có thể đại diện cho Việt Nam trong các cuộc đấu thầu lớn

tại các thị trường khó trên thế giới như Nam Mỹ, Trung Mỹ.

+ Về mặt kỹ thuật

- Cần nâng cao toàn cầu hóa trong việc hợp tác mua linh kiện, vật tư cho giàn

khoan. Hiện nay việc mua hàng hóa này chỉ tập trung tại hai quốc gia là

Singapore và Hoa Kỳ. PV Drilling bỏ qua nhiều nhà cung cấp lớn ở các quốc

gia tiên tiến khác vì ngại va chạm văn hóa và các rào cản thuế quan. Do vậy, để

nâng cao toàn cầu hóa, PV Drilling phải cải thiện hệ thống Logistics, xuất nhập

khẩu và các khâu thương mại mua sắm để nâng cao sự linh hoạt và đưa hình

ảnh, tên tuổi của PV Drilling đến toàn thế giới.

- PV Drilling cần nhanh chóng hợp tác với các quốc gia trong cùng khối Xã hội

chủ nghĩa để nhanh chóng chiếm lĩnh thị phần cho thuê giàn khoan và các công

nghiệp phụ trợ đi kèm. Tiêu biểu là Cuba. Đây là nơi có nguồn dầu mỏ lớn, hiện

nay Cuba vẫn chưa khai thác nhiều, Hoa Kỳ vẫn chưa thể xâm nhập vào thị

trường này. Do đó PV Drilling cần phải nhanh chóng nghiên cứu và tiến hành

thăm dò, mở ra các bước đầu hợp tác với quốc gia này, thay vì cứ theo sát quốc

gia Venezuela đã không còn là một thị trường mở khi mà cố tổng thống Hugo

Chavez đã qua đời.

- PV Drilling cần nghiên cứu và hợp tác với Nhật Bản trong việc nâng cao kỹ

thuật khoan xiên để tiết kiệm chi phí sản xuất và nâng cao hình ảnh của PV

Drilling với các nhà thầu mỏ trên thế giới. Vì trên thế giới hiện nay không một

78

quốc gia nào hiểu rõ kỹ thuật khoan xiên này bằng Nhật Bản, nên việc hợp tác

với quốc gia này là điều phải làm và cần đẩy nhanh tiến độ hơn.

Tiểu kết chƣơng 3

Trong chương này, tác giả đã phân tích dự báo về nhu cầu giàn khoan biển, mức

độ cạnh tranh ở thị trường Châu Á Thái Bình Dương trong giai đoạn 2011-2020, cơ

hội và thách thức cho PV Drilling trong giai đoạn này. Bên cạnh đó, tác giả cũng đã

nghiên cứu chiến lược phát triển của ngành Dầu khí, mục tiêu phát triển và định hướng

nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của dịch vụ cung cấp giàn khoan biển của PV

Drilling trong giai đoạn 2011-2020. Từ việc nghiên cứu và phân tích những căn cứ trên

kết hợp với việc đánh giá năng lực hợp tác quốc tế của PV Drilling ở chương II và

những điểm tổng quan của PV Drilling ở chương I, tác giả đã đề ra một số kiến nghị,

giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của dịch vụ cung cấp giàn khoan biển

của PV Drilling trong giai đoạn 2011-2020.

79

KẾT LUẬN

Dịch vụ cung cấp giàn khoan biển là ngành mũi nhọn của PV Drilling nói riêng

là một trong những ngành dịch vụ chủ chốt trong lĩnh vực Dầu khí của Việt Nam. Thị

trường ngành khoan dầu tại Việt Nam được các nhà chuyên môn đánh giá là một trong

những thị trường sôi động, có trữ lượng dầu khí lớn và là thị trường có nhu cầu sử

dụng dịch vụ cung cấp giàn khoan biển lớn trên thế giới. Vì vậy, việc nâng cao năng

lực hợp tác quốc tế của PV Drilling để ngày càng phát triển và nâng cao năng lực cạnh

tranh là điều vô cùng cần thiết. Qua quá trình nghiên cứu đề tài: “Hợp tác quốc tế trong

lĩnh vực dầu khí tại Tổng Công Ty Cổ Phần Khoan và Dịch Vụ Khoan Dầu Khí (2001-

2010)”. Tác giả rút ra được các nhận định sau:

1. Hệ thống hóa các khái niệm về hợp tác quốc tế, tăng cường mở rộng các quan

hệ hợp tác hai bên, ba bên. Bên cạnh đó, tác giả cũng đã chứng minh tầm quan

trọng/ sự cần thiết phải nâng cao năng lực hợp tác quốc tế của PV Drilling vào

thời điểm hiện nay. Đồng thời, luận văn còn nêu ra các chỉ tiêu nâng cao năng

lực hợp tác quốc tế và các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động nâng cao năng lực

hợp tác quốc tế.

2. Luận văn cũng đã giới thiệu chi tiết về PV Drilling, tìm hiểu về các yếu tố ảnh

hưởng đến năng lực hợp tác quốc tế của PV Drilling.

3. Dựa trên các cơ sở lý thuyết, các khái niệm về hợp tác quốc tế, luận văn đã

nghiên cứu thực trạng năng lực hợp tác quốc tế của PV Drilling trong giai đoạn

2001-2010, đánh giá năng lực hợp tác quốc tế của PV Drilling trong giai đoạn

2001-2010 bằng những thành tựu đạt được và những tồn tại nguyên nhân như

sau:

+ Về hợp tác thăm dò dầu khí: tuy số lượng giàn đang tăng qua các năm

nhưng do PV Drilling chỉ mới thành lập từ năm 2001, tuổi đời còn trẻ nên số

lượng giàn khoan còn rất ít so với các đối thủ cạnh tranh. Chủng loại giàn chủ

yếu là giàn khoan tự nâng, chỉ mới bắt đầu chú trọng vào giàn khoan nước sâu

từ năm 2010 và cũng mới chỉ có 1 giàn tiếp trợ, chưa có các loại giàn khoan nửa

80

nổi nửa chìm và tàu khoan. Do đó, các hoạt động thăm dò thực sự vẫn còn yếu,

nhưng do cơ chế bảo hộ của nhà nước nên PV Drilling vẫn đang chiếm lĩnh thị

trường. Nếu muốn thành công khi mở cửa thị trường khoan, PV Drilling cần

phải đầu tư đa dạng về chủng loại giàn, số lượng giàn.

+ Về hợp tác khai thác dầu khí: PV Drilling chỉ mới bắt đầu mở rộng ra

thị trường khai thác từ tháng 10/2002, trong khi đó thì các nhà thầu khoan lớn

như Transocean và Seadrill đã và đang cung cấp giàn khoan biển cho công tác

khoan khai thác ở các nước lân cận Singapore, Malaysia, Indonesia, Thái Lan,

Brunei…và sẵn sàng tiến vào Việt Nam khi nhà nước mở cửa. Do vậy, PV

Drilling cần phải nhanh chóng phát triển mạnh mẽ hơn nữa để sẵn sàng cạnh

tranh lành mạnh với các nhà thầu khoan lớn trên thế giới.

+ Về nguồn nhân lực, đào tạo: hiện tại các vị trí cao và quan trọng trên

giàn đều do chuyên gia nước ngoài nắm giữ, chính vì vậy làm chi phí vận hành

bị tăng cao đồng thời thiếu sự chủ động và tự chủ trong quá trình vận hành. Do

đó, PV Drilling cần chú trọng đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực, đồng

thời nâng cao chất lượng tuyển dụng từ các trường đại học hàng đầu của Việt

Nam như Đại học Bách Khoa, Đại học Mỏ Địa Chất…

4. Trên cơ sở phân tích một số dự báo về nhu cầu và mức độ cạnh tranh trên thị

trường khoan ở Việt Nam giai đoạn 2011-2040, tìm hiểu về chiến lược phát

triển của ngành Dầu khí, định hướng và mục tiêu phát triển nhằm nâng cao năng

lực hợp tác quốc tế của PV Drilling ở thị trường khoan Việt Nam giai đoạn

2011-2040, tác giả đã đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao năng

lực hợp tác quốc tế của PV Drilling ở thị trường khoan Việt Nam giai đoạn

2011-2040 như sau:

 Tăng số lượng giàn khoan

 Đa dạng chủng loại giàn khoan biển

 Nâng cao chất lượng giàn khoan

 Tăng cường đội ngũ nhân lực

81

 Xây dựng và mở rộng danh sách nhà cung cấp trang thiết bị đầu vào

 Phát triển, mở rộng thị phần sang các nước Đông Nam Á.

Tác giả hy vọng rằng qua việc nghiên cứu và đưa ra giải pháp trên, đề tài sẽ

đóng góp phần nào trong việc nâng cao năng lực hợp tác quốc tế của PV Drilling ở thị

trường khoan Việt Nam nhằm đem lại nguồn doanh thu, lợi nhuận cao cho công ty

đồng thời nâng cao uy tín và thương hiệu PV Drilling nói riêng và ngành Dầu khí Việt

Nam nói chung.

82

PHỤ LỤC

1. Tìm hiểu thêm về Vietsovpetro

Một số sơ lược về quá trình hình thành và phát triển của Liên doanh

Vietsopetro:

- Trong gần 30 năm hoạt động, Viesovpetro đã khảo sát 115.000 kilômét

tuyến địa chấn, trong đó có 71.000 kilômét tuyến địa chấn không gian 3 chiều.

- Đã khoan được 368 giếng, bao gồm 61 giếng khoan tìm kiếm, thăm dò và

307 giếng khoan khai thác.

- Tại 2 mỏ Bạch Hổ và mỏ Rồng, đã xây dựng trên 40 công trình biển trong

có có các công trình chủ yếu như:

 12 giàn khoan khai thác cố định, 10 giàn nhẹ, 02 giàn công nghệ trung

tâm, 02 giàn nén khí, 04 giàn duy trì áp suất vỉa, 03 trạm rót dầu không

bến.

 Tất cả các công trình được kết nối thành một hệ thống đường ống ngầm

nội mỏ liên mỏ dài trên 400 kilômét.

Những thành tựu nổi bật trong hoạt động dầu khí tại Việt Nam của liên doanh

Vietsovpetro như:

- Đã phát hiện 3 mỏ dầu có giá trị thương mại và nhiều cấu tạo chứa dầu,

trong đó đặc biệt mỏ Bạch Hổ là mỏ lớn nhất Việt Nam và đứng vào hàng thứ 3 trong

các mỏ đã phát hiện ở khu vực vành đai Tây Bắc cung Thái Bình Dương (bao gồm:

Nhật Bản, Trung Quốc và các nước Asean), chỉ đứng sau mỏ Đại Khánh của Trung

Quốc (phát hiện năm 1959) và mỏ Minas của Indonesia (phát hiện năm 1944). Các

thân chứa sản phẩm của mỏ được phát hiện năm 1975(các thân chứa dầu tuổi Mioxen),

năm 1984 (các thân cát chứa dầu tuổi Oligoxen) và đặc biệt thân dầu lớn nhất trong đá

móng nứt nẻ tuổi mezozoi (năm 1987) với chiều cao thân dầu gần 2000 mét.

83

- Đã tìm và phát hiện thân dầu trong đá móng nứt nẻ là hiện tượng chưa từng

gặp ở hơn 400 mỏ đã phát hiện cho đến nay hơn 50 bể trầm tích tại khu vực vành đai

Tây Bắc cung Thái Bình Dương chính là điểm mới, nét đặc sắc và là sự đóng góp lớn

nhất của các nhà Địa chất dầu khí Vietsovpetro, các nhà Địa chất Việt Nam – Liên Xô,

vạch ra phương hướng mới trong công tác tìm kiếm thăm dò dầu khí ở khu vực.

- Trên thực tế, tiếp theo Bạch Hổ, hàng loạt các thân dầu khí mới từ tầng đá

móng đã được phát hiện trên mỏ Rồng (Vietsovpetro) 1987, Rạng Đông JVPC năm

1994, Hồng Ngọc (Petronas Carigaly năm 1994), Sư Tử Đen (Cửulong JOC năm

2000), Cá Ngừ Vàng (Hoàn Vũ JOC năm 2002), Nam Rồng - Đồi Mồi (Vietsovpetro

và VRJ năm 2004)... các phát dầu khí lớn từ tầng đá móng nứt nẻ, phong hóa ở mỏ

Bạch Hổ và các mỏ khác chính là nhân tố quyết định để ngành dầu khí non trẻ Việt

Nam nhanh chóng trưởng thành và hiện đứng hàng thứ 3 trong các nước xuất khẩu dầu

trong khối ASEAN, chỉ còn sau Indonesia, Malaysia và đã vượt qua các nước có nền công nghiệp dầu khí lâu đời như Myanmar, Brunei ...41

- Việc Vietsovpetro phát hiện dầu từ tầng đá móng với trữ lượng lớn đã tạo ra

một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử phát triển của ngành dầu khí Việt Nam, đồng

thời tạo ra sức hút đối với các Tập đoàn dầu khí lớn trên thế giới vào đầu tư tìm kiếm

thăm dò vào khai thác dầu khí ở Việt Nam.

- Điều có ý nghĩa khoa học và kinh tế vô cùng quan trọng đó là Vietsovpetro

đã nghiên cứu và tìm ra những giải pháp kỹ thuật và công nghệ phù hợp để khai thác

dầu từ tầng móng với những đặc trưng địa chất cực kỳ phức tạp mà trên thế giới chưa

từng có các mô hình tương tự. Ngoài ra Vietsovpetro còn tham gia xây dựng nhiều

công trình khai thác dầu khí cho các công ty dầu khí hoạt động trên thềm lục địa Việt

Nam và tại các nước khác trên thế giới, đồng thời Vietsovpetro cũng đã tham gia xây

41 Website Vietsovpetro, http://www.vietsov.com.vn/Pages/Default.aspx, truy cập ngày 08 tháng 12 năm 2013

dựng các công trình trọng điểm quốc gia như đường ống dẫn khí PM3- Cà Mau...

84

- Lắp đặt các thiết bị và đường ống kết nối mỏ Cá Ngừ Vàng (Lô 09-2) về

Bạch Hổ, đồng thời thực hiện dịch vụ khai thác dầu khí cho Mỏ Cá Ngừ Vàng cho

công ty Hoàn Vũ JOC.

- Sản lượng dầu đến nay Vietsovpetro đã khai thác đạt trên 200 triệu tấn, vận

chuyển về bờ cho các nhà máy khí điện đạm trên bờ trên 24 tỷ mét khối

Trong quá trình hoạt động, Vietsovpetro luôn luôn được sự quan tâm chỉ đạo,

động viên kịp thời của 2 Chính phủ Việt Nam và Liên Bang Nga về những thành tựu to

lớn mà Liên Doanh Việt Nga đạt được, đã phong tặng 2 lần danh hiệu Anh hùng Lao

Động, Huân chương cao quý Hồ Chí Minh, Huân chương Sao vàng và nhiều Huân

chương, Huy chương khác của 2 Nhà nước.

Vietsovpetro là Liên doanh dầu khí hoạt động đa ngành, hiện đại, cùng với đội ngũ các

nhà khoa học có trình độ chuyên môn cao, giàu kinh nghiệm, đội ngũ kỹ sư, công nhân

với độ dày kinh nghiệm trong các lĩnh vực Địa chất, Địa Vật lý giếng khoan, khai thác,

thiết kế và xây dựng các công trình dầu khí biển, sẵn sàng hợp tác với các công ty dầu

khí trong và ngoài nước trên tinh thần hợp tác cùng có lợi.

2. Tìm hiểu thêm về dự án Biển Đông 01

Dự án Biển Đông 01 là dự án khai thác ngoài khơi tại khu vực nước sâu trong

điều kiện “nhiệt độ cao, áp suất cao”, có quy mô lớn nhất từ trước tới nay tại Việt

Nam, đòi hỏi các tiêu chuẩn hết sức ngặt nghèo về kỹ thuật. Các giàn này sử dụng

công nghệ tiên tiến để có thể hoạt động khai thác trong môi trường nước sâu (140m)

với điều kiện địa chất phức tạp. Thành công của dự án này cũng khẳng định sự đúng

đắn của PVN về việc thành lập Chi nhánh Biển Đông POC của Tập đoàn để thực hiện

dự án mỏ khí/condensate Hải Thạch (Lô 05-2), Mộc Tinh (Lô 05-3).

Ngày 6/9/2013, dòng khí đầu tiên từ Dự án Biển Đông 01 đã được Biển Đông

POC đưa vào khai thác thương mại. Trải qua 9 tháng khai thác an toàn, hiệu quả, Biển

Đông POC đã đạt cột mốc 1 tỷ m3 khí, mỗi cột mốc đánh dấu những cố gắng của rất

85

nhiều cán bộ công nhân viên Biển Đông POC cùng nhiều đơn vị khác, đóng góp rất

thiết thực cho PVN, thành công ấy đến từ sự hăng say lao động, cống hiến của từng

cán bộ, công nhân viên.

86

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tiếng Việt

1. Vương Dật Châu (2004), An ninh quốc tế trong thời đại toàn cầu hóa, NXB

Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 2004.

2. Nguyễn Anh Tuấn (2006), An ninh dầu lửa: Vấn đề và giải pháp tại các nước

Đông Nam Á, Những vấn đề kinh tế thế giới, số 5 (121).

3. Thông tấn xã Việt Nam (2006), Hợp tác năng lượng Trung Quốc – ASEAN, Tài

liệu tham khảo đặc biệt, số 96, 26/4.

4. Trịnh Cường (2006), Châu Phi trong chiến lược của các nước lớn, Tạp chí

Cộng Sản, số 7 (753).

5. Cốc Nguyên Dương (2006), Trung Quốc 10 năm đầu thế kỷ XXI: Phát triển và

hợp tác, Nghiên cứu Trung Quốc, số 1 (165).

6. Ban Tư tưởng Văn hóa Trung Ương (2004), Những vấn đề lớn của thế giới và

quá trình hội nhập, phát triển của nước ta, Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia,

Hà Nội.

7. Đảng Cộng Sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

VI, Nhà Xuất Bản Sự Thật, Hà Nội.

8. Đảng Cộng Sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

VII, Nhà Xuất Bản Sự Thật, Hà Nội.

9. Đảng Cộng Sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

VIII, Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội.

10. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

IX, Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội.

11. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

X, Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội.

12. Học viện Quan hệ Quốc tế (2001), Tình hình quốc tế và chính sách đối ngoại

của Việt Nam, quyển 1, Hà Nội.

13. Học viện Quan hệ Quốc tế (2001), Tình hình quốc tế và chính sách đối ngoại

của Việt Nam, quyển 2, Hà Nội.

87

14. Học viện Quan hệ Quốc tế (2002), Tình hình quốc tế và chính sách đối ngoại

của Việt Nam, quyển 3, Hà Nội.

15. Học viện Quan hệ Quốc tế (2002), Tình hình quốc tế và chính sách đối ngoại

của Việt Nam, quyển 4, Hà Nội.

16. Hà Mỹ Hương (2006), Quan hệ giữa các nước lớn khu vực Châu Á – Thái Bình

Dương: một vài phân tích và dự báo, Tạp chí Cộng Sản, số 10, (756).

17. Thông tấn xã Việt Nam (2006), Trung Quốc, chiến lược an ninh năng lượng,

Tài liệu tham khảo, số 4.

18. Thông tấn xã Việt Nam (2006), Chiến lược dầu mỏ của Mỹ gặp khó khăn, Tin

Tham khảo thế giới, số 42, ngày 25/2.

19. Thông tấn xã Việt Nam (2006), Chiến lược dầu mỏ toàn cầu của Trung Quốc,

Tin Tham Khảo thế giới, số 42, ngày 25/2.

20. Trầm Trọng (2005), Dầu mỏ và những biến động trong quan hệ quốc tế, Tạp

chí Cộng sản, số 13 (86).

21. Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (2001), Trật tự thế giới sau

Chiến tranh Lạnh, phân tích và dự báo, tập I, Viện Khoa học Xã hội, Hà Nội.

22. Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (2001), Trật tự thế giới sau

Chiến tranh Lạnh, phân tích và dự báo, tập II, Viện Khoa học Xã hội, Hà Nội.

23. Tập đoàn dầu khí Việt Nam (2011), Lịch sử ngành Dầu Khí Việt Nam (đến năm

2010), Tập 1, Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia – Sự Thật, Hà Nội.

24. Tập đoàn dầu khí Việt Nam (2011), Lịch sử ngành Dầu Khí Việt Nam (đến năm

2010), Tập 2, Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia – Sự Thật, Hà Nội.

25. Tập đoàn dầu khí Việt Nam (2011), Lịch sử ngành Dầu Khí Việt Nam (đến năm

2010), Tập 3, Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia – Sự Thật, Hà Nội.

26. PV Drilling (2006), Báo cáo thường niên của Tổng Công Ty Cổ Phần Khoan

và Dịch vụ Khoan Dầu Khí năm 2006.

27. PV Drilling (2007), Báo cáo thường niên của Tổng Công Ty Cổ Phần Khoan

và Dịch vụ Khoan Dầu Khí năm 2007.

88

28. PV Drilling (2008), Báo cáo thường niên của Tổng Công Ty Cổ Phần Khoan

và Dịch vụ Khoan Dầu Khí năm 2008.

29. PV Drilling (2009), Báo cáo thường niên của Tổng Công Ty Cổ Phần Khoan

và Dịch vụ Khoan Dầu Khí năm 2009.

30. PV Drilling (2010), Báo cáo thường niên của Tổng Công Ty Cổ Phần Khoan

và Dịch vụ Khoan Dầu Khí năm 2010.

2. Tiếng Anh

31. Energy Information Administration (2001), International Energy Outlook 2001,

DOE/EIA -0484-March.

32. Energy Information Administration (2002), International Energy Outlook 2002,

DOE/EIA – 0484-March.

33. Engery Information Administration (2003), International Energy Outlook 2003,

DOE/EIA -0484-May.

34. Energy Information Administration (2004), International Energy Outlook 2004,

DOE/EIA – 0484 – April.

35. Energy Information Administration (2005), International Energy Outlook 2005,

DOE/EIA – 0484 – July.

36. Energy Information Administration (2006), International Energy Outlook 2006,

DOE/EIA – 0484 – June.

37. Energy Information Administration (2007), International Energy Outlook 2007,

DOE/EIA – 0484 – May.

38. Energy Information Administration (2008), International Energy Outlook 2008,

DOE/EIA – 0484 – September.

39. Energy Information Administration (2009), International Energy Outlook 2009,

DOE/EIA – 0484 – May.

40. Energy Information Administration (2010), International Energy Outlook 2010,

DOE/EIA – 0484 – July.

41. Energy Information Administration (2011), International Energy Outlook 2011,

DOE/EIA – 0484 – September.

89

42. Energy Information Administration (2012), Annual Energy Outlook 2012,

DOE/EIA – 0484 – June.

43. Energy Information Administration (2013), International Energy Outlook 2013,

DOE/EIA – 0484 – July.

44. Arthur S.Ding (11-2005), China’s energy security demands and the East China

Sea: a growing likelihood of conflict in East Asia, The China and Eurasia

Forum Quarterly. Volume 3, No.3.

45. Richard Giragosian (2004), East Asia tackles energy security, Asia Times,

August 24.

46. Sonya Fatah (2005), A Pipeline or a Pipe Dream, Fortune, No.23 (152), pp. 24-

26.

47. BP (2012), Annual Report and Form 20-F 2012, 12-2012

48. Malaysia Chapter- Oil & Gas Regulation 2014, International Comparatives

Legal Guide.

3. Các trang web tham khảo

49. http://www.cpv.org.vn/

50. http://www.eia.gov/

51. http://www.tapchicongsan.org.vn/

52. http://news.vnanet.vn/

53. http://www.pvn.vn/

54. http://www.whitehouse.gov/

55. http://www.mofa.gov.vn/vi/