BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ

HOẠT ĐỘNG HỢP TÁC TRONG LĨNH VỰC DẦU KHÍ

GIỮA VIỆT NAM VÀ LIÊN BANG NGA

TRONG GIAI ĐOẠN 2015 – 2019 VÀ ĐỊNH HƢỚNG

TRONG THỜI GIAN TỚI

Ngành: Kinh tế quốc tế

NGUYỄN TRIỀU TUẤN ANH

Hà Nội - 2020

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ

HOẠT ĐỘNG HỢP TÁC TRONG LĨNH VỰC DẦU KHÍ

GIỮA VIỆT NAM VÀ LIÊN BANG NGA

TRONG GIAI ĐOẠN 2015 – 2019 VÀ ĐỊNH HƢỚNG

TRONG THỜI GIAN TỚI

Ngành: Kinh tế quốc tế

Chuyên ngành: Kinh tế quốc tế

Mã số: 8310106

Họ và tên học viên: Nguyễn Triều Tuấn Anh

Ngƣời hƣớng dẫn: TS Bùi Duy Linh

Hà Nội - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sĩ: “Hoạt động hợp tác trong lĩnh vực dầu

khí giữa Việt nam và Liên bang Nga trong giai đoạn 2015 – 2019 và định hướng

trong thời gian tới” là kết quả của quá trình nghiên cứu khoa học độc lập và

nghiêm túc của cá nhân tôi.

Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và đáng tin cậy.

Hà Nội, ngày tháng năm 2020

Học viên

Nguyễn Triều Tuấn Anh

LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, tôi xin trân trọng cảm ơn TS. Bùi Duy Linh, người đã định

hướng cũng như giúp đỡ tôi trong suốt quá trình từ bước chọn đề tài đến khi hoàn

thành bài luận văn này.

Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô trong Khoa Sau đại học trường Đại học

Ngoại Thương Hà Nội đã tâm huyết giảng dạy và bổ sung kiến thức trong quá trình

hoàn thành khoá học thạc sĩ tại trường.

Do còn nhiều hạn chế về kinh nghiệm nghiên cứu thực tế và thời gian thực

hiện, nên luận văn không thể tránh khỏi những thiếu xót nhất định. Vì vậy, tôi mong

muốn nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các thầy cô để tôi hoàn thiện khả năng

nghiên cứu của mình.

Xin trân trọng cảm ơn!

Hà Nội, ngày tháng năm 2020

Học viên

Nguyễn Triều Tuấn Anh

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN

LỜI CẢM ƠN

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

DANH MỤC CÁC BẢNG

TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LUẬN VĂN

PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỢP TÁC QUỐC TẾ VÀ HỢP TÁC

QUỐC TẾ VIỆT NAM – LIÊN BANG NGA ......................................................... 6

1.1. Khái niệm hợp tác ......................................................................................... 6

1.2. Các hình thức hợp tác ................................................................................... 7

1.2.1. Hợp tác theo hình thức trực tiếp, gián tiếp ........................................... 7

1.2.2. Hợp tác theo cấp độ ................................................................................ 8

1.2.3. Hợp tác theo mục đích ............................................................................ 9

1.3. Hợp tác quốc tế ............................................................................................ 10

1.4. Hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực ............................................................ 11

1.4.1. Lĩnh vực quân sự .................................................................................. 11

1.4.2. Lĩnh vực giáo dục ................................................................................. 12

1.4.3. Lĩnh vực kinh tế .................................................................................... 12

1.4.4. Lĩnh vực dầu khí ................................................................................... 13

1.5. Hợp tác quốc tế Việt Nam và Liên bang Nga ........................................... 14

1.5.1. Khái quát mối quan hệ hợp tác Việt Nam và Liên bang Nga............. 14

1.5.2. Các lĩnh vực hợp tác ............................................................................. 15

TÓM TẮT CHƢƠNG 1 .......................................................................................... 22

CHƢƠNG 2: HOẠT ĐỘNG HỢP TÁC TRONG LĨNH VỰC DẦU KHÍ GIỮA

VIỆT NAM - LIÊN BANG NGA TRONG GIAI ĐOẠN 2015 – 2019 ............... 23

2.1. Các lĩnh vực trong hoạt động hợp tác dầu khí giai đoạn 2015 - 2019 .... 23

2.1.1. Chính sách ............................................................................................ 23

2.1.2. Đầu tư.................................................................................................... 28

2.2. Thực trạng hoạt động dầu khí trong giai đoạn 2015 – 2019 ................... 29

2.2.1. Tình hình hoạt động dầu khí của Liên doanh Vietsovpetro trong giai

đoạn 2015 - 2019 .............................................................................................. 29

2.2.2. Hoạt động hợp tác dầu khí của một số tập đoàn dầu khí của Liên

bang Nga tại Việt Nam giai đoạn 2015 – 2019 ............................................... 34

2.2.3. Kim ngạch xuất khẩu dầu khí vào Liên bang Nga từ Việt Nam ........ 43

2.2.4. Kim ngạch nhập nhẩu dầu khí vào Việt Nam từ Liên bang Nga ...... 45

2.2.5. Sản lượng xuất khẩu dầu khí vào Liên bang Nga từ Việt Nam ......... 46

2.2.6. Sản lượng nhập khẩu dầu khí vào Việt Nam từ Liên bang Nga ....... 48

2.3. Đánh giá hoạt động hợp tác trong lĩnh vực dầu khí giữa Việt Nam –

Liên bang Nga trong giai đoạn 2015 – 2019 ..................................................... 50

2.3.1. Thành công ........................................................................................... 50

2.3.2. Hạn chế, khó khăn ............................................................................... 54

TÓM TẮT CHƢƠNG 2 .......................................................................................... 57

CHƢƠNG 3: ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN HỢP TÁC DẦU KHÍ GIỮA HAI

NƢỚC TRONG THỜI GIAN TỚI ........................................................................ 58

3.1. Định hƣớng chung phát triển hợp tác dầu khí giữa hai nƣớc ................ 58

3.1.1. Định hướng phát triển hợp tác dầu khí giữa Liên bang Nga và

Việt Nam ........................................................................................................... 58

3.1.2. Định hướng phát triển hợp tác dầu khí giữa hai nước tại

Việt Nam ........................................................................................................... 60

3.2. Ý kiến đề xuất khắc phục những hạn chế và khó khăn ........................... 60

3.2.1. Đối với nhà nước .................................................................................. 61

3.2.2. Đối với doanh nghiệp ........................................................................... 64

3.2.3. Ý kiến khác ............................................................................................ 68

TÓM TẮT CHƢƠNG 3 .......................................................................................... 70

PHẦN KẾT LUẬN .................................................................................................. 71

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT Từ viết tắt Từ đƣợc viết tắt

ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á 1

2 CNG Khí thiên nhiên nén

3 EAEU Liên minh kinh tế Á - Âu

4 FTA Hiệp định thương mại tự do

5 JDC Công ty Khoan Nhật Bản

6 KNOC Tập đoàn Dầu khí Hàn Quốc

7 LNG Khí thiên nhiên hoá lỏng

8 MW Megawatt

9 NGV Nhiên liệu khí thiên nhiên

10 ONGC Tập đoàn Dầu khí Ấn Độ

11 OPEC Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ

12 PLD Phong Lan Dại

13 PVEP Tổng công ty Thăm dò Khai thác Dầu khí Việt Nam

14 PVGas Tổng Công ty khí Việt Nam

15 PVN Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petrovietnam)

16 PTTEP Công ty Dầu khí Thái Lan

17 USD Đô la Mỹ

18 VRJ Công ty Dầu khí Việt - Nga - Nhật

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1: Sản lƣợng khai thác dầu khí của Liên doanh Vietsovpetro ............... 30

Bảng 2.2: Doanh thu và lợi nhuận hàng năm của Vietsovpetro ......................... 32

Bảng 2.3: Các dự án chủ chốt mà Tập đoàn Gazprom đang tham gia tại

Việt Nam................................................................................................................... 35

Bảng 2.4: Các dự án chủ chốt mà Tập đoàn Rosneft đang tham gia tại

Việt Nam................................................................................................................... 38

Bảng 2.5. Kim ngạch xuất khẩu dầu khí vào Liên bang Nga từ Việt Nam ....... 43

Bảng 2.6: Kim ngạch nhập khẩu dầu khí vào Việt Nam từ Liên bang Nga ...... 45

Bảng 2.7: Sản lƣợng xuất khẩu dầu khí vào Liên bang Nga từ Việt Nam ........ 47

Bảng 2.8: Sản lƣợng nhập khẩu dầu khí vào Việt Nam từ Liên bang Nga ....... 48

TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LUẬN VĂN

Đề tài “Hoạt động hợp tác trong lĩnh vực dầu khí giữa Việt Nam và Liên bang

Nga trong giai đoạn 2015 - 2019 và định hướng trong thời gian tới” được thực hiện

từ tháng 3 đến tháng 5 năm 2020.

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu và phân tích hoạt động hợp tác

giữa Việt Nam và Liên bang Nga trong giai đoạn mới kể từ khi Việt Nam ký kết

thành công Hiệp định Thương mại tự do với liên minh kinh tế Á - Âu từ năm 2015.

Kể từ đó đến nay, giai đoạn mới được mở ra trong quan hệ hợp tác giữa hai nước

trở nên toàn diện hơn trong thời kỳ hội nhập mới. Qua đó, đưa ra những đánh giá về

thành tự và khó khăn còn gặp phải, đồng thời đưa ra những kiến nghị đề xuất nhằm

định hướng phát triển hợp tác quốc tế giữa hai nước trong thời gian tới.

Luận văn sử dụng những phương pháp nghiên cứu kết hợp giữa những phương

pháp nghiên cứu khác nhau như phương pháp lịch sử, phương pháp hệ thống,

phương pháp quan sát, phương pháp nghiên cứu tài liệu, phường pháp phân tích tác

động bên cạnh những kiến thức, lý luận và thông tin thực tế kết hợp với các sách

báo, số liệu thống kê với việc đi sâu phân tích thực trạng.

Với kết quả nghiên cứu của mình, tác giả mong muốn có thể đưa ra cái nhìn

tổng quát nhất về thực trạng hợp tác quốc tế giữa hai nước trong lĩnh vực dầu khí,

qua đó, đưa ra những ý kiến đóng góp chung cho sự phát triển hợp tác đa lĩnh vực

giữa Việt Nam và Liên bang Nga trong thời gian tới, đặc biệt là lĩnh vực dầu khí.

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong lịch sử, Liên bang Xô Viết là một trong những quốc gia đầu tiên trên

thế giới công nhận và đặt mối quan hệ ngoại giao với Việt Nam vào ngày 30 tháng

1 năm 1950, sự kiện này đã đặt nền móng cho mối quan hệ hợp tác bền chặt, tốt đẹp

giữa hai nước sau này. Đây cũng là tiền đề để Việt Nam và Liên bang Nga ký kết

hiệp ước về những nguyên tắc cơ bản của quan hệ hữu nghị năm 1994. Sau đó, hai

nước đã nâng cấp lên thành Đối tác chiến lược năm 2001, và tiếp tục trở thành Đối

tác chiến lược toàn diện vào năm 2012, đây là khuôn khổ quan hệ cao nhất của Việt

Nam. Năm 2015, Việt Nam trở thành quốc gia đầu tiên ký kết Hiệp định Thương

mại tự do với Liên minh kinh tế Á - Âu, trong đó, Liên bang Nga là thành viên chủ

chốt. Năm 2020, đánh dấu mốc 70 năm thiết lập quan hệ Ngoại giao giữa Liên bang

Nga và Việt Nam.

Liên bang Nga là một trong những nước xác lập nhiều cơ chế hợp tác với Việt

Nam trong tất cả các lĩnh vực. Trong đó, hợp tác kinh tế không ngừng phát triển,

theo số liệu cung cấp của Tổng cục Hải quan trong năm 2019, kim ngạch thương

mại song phương đạt 3,8 tỷ USD và hướng đến mục tiêu 10 tỷ USD trong năm

2020. Việt Nam đang là đối tác thương mại lớn nhất của Nga trong số các nước

ASEAN và đứng thứ sáu ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương khi chiếm tỷ trọng

0,75% trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Nga với các nước trên thế giới.

Trong thời gian này, cả hai nước tiếp tục mở rộng và triển khai các dự án đầu tư có

quy mô tại cả Việt Nam và Liên bang Nga, trong đó phải kể đến các dự án hợp tác

dầu khí giữa hai nước.

Sau khi Liên doanh Vietsovpetro hoạt động thành công kể từ khi hai nước

chính thức hợp tác trong lĩnh vực dầu khi từ năm 1981 đến nay, đã có rất nhiều Tập

đoàn dầu khí lớn của Liên bang Nga như Gazprom, Rosneft và Zarubezhneft tham

gia hoạt động khai thác và chế biến dầu khí tại Việt Nam. Ở chiều ngược lại, hiện

nay, Việt Nam cũng đang ngày càng tích cực tham gia vào hoạt động hợp tác khai

thác dầu khí tại các khu tự trị của Liên bang Nga, đóng góp một vai trò không nhỏ

trong thành công của quan hệ hợp tác giữa hai nước trong những năm gần đây.

2

Tính đến thời điểm hiện tại, dầu khí chính là lĩnh vực hợp tác truyền thống

chiến lược và hiệu quả nhất, đem lại nguồn thu đáng kể cho ngân sách Việt Nam

cũng như Liên bang Nga khi hàng năm đều đạt doanh thu trên 1 tỷ USD, hoàn thành

các chỉ tiêu đề ra về doanh thu, lợi nhuận và sản lượng, hướng đến chỉ tiêu doanh

thu năm 2020 ở mức cao hơn nữa.

Việc phân tích và đánh giá hoạt động hợp tác trong lĩnh vực dầu khí giữa Việt

Nam và Liên bang Nga trong giai đoạn 2015 – 2019 định hướng phát triển quan hệ

hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực dầu khí ở Việt Nam là rất quan trọng và cần

thiết. Chính vì vậy, việc thực hiện nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa lý luận và thực

tiễn cao.

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu của luận văn:

Nghiên cứu và phân tích hoạt động hợp tác giữa Việt Nam và Liên bang Nga

trong lĩnh vực dầu khí trong giai đoạn 2015 - 2019 gần đây. Giai đoạn này đánh dấu

những biến chuyển tích cực trong quan hệ hợp tác giữa hai nước khi năm 2015, Việt

Nam đã chính thức ký kết thành công Hiệp định Thương mại tự do với Liên minh

kinh tế Á – Âu bao gồm các nước Đông Âu, trong đó, Liên bang Nga là thành viên

chủ chốt. Hiệp định này mở ra cơ hội đầu tư và hợp tác toàn diện hơn nữa trong lĩnh

vực dầu khí giữa Việt Nam và Liên bang Nga trong thời kỳ hội nhập mới. Qua đó,

đưa ra những đánh giá về những thành tựu đạt được và khó khăn mắc phải, đồng

thời có những kiến nghị đề xuất nhằm định hướng phát triển quan hệ hợp tác hiệu

quả hơn trong thời gian tới.

Về nhiệm vụ nghiên cứu:

Thứ nhất: Cơ sở hình thành quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Liên bang Nga.

Thứ hai: Phân tích và đánh giá hoạt động hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực

dầu khí từ năm 2015 đến năm 2019.

3

Thứ ba: Đánh giá về những thành tựu và khó khăn trong quá trình hợp tác, đưa

ra những định hướng tiếp theo để duy trì cũng như phát triển mối quan hệ hợp tác

trở nên toàn diện và hiệu quả hơn trong tương lai.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động hợp tác trong lĩnh vực dầu khí giữa Việt

Nam và Liên bang Nga.

Phạm vi thời gian: từ năm 2015 đến năm 2019.

Năm 2015 đánh dấu mốc quan trọng trong quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và

Liên bang Nga khi Việt Nam trở thành nước đầu tiên ở khu vực châu Á – Thái Bình

Dương ý kết hiệp định Thương mại tự do với Liên minh kinh tế Á - Âu, trong đó,

Liên bang Nga là thành viên chủ chốt. Đó chính là cơ sở hình thành mối quan hệ

hợp tác chiến lược giữa hai nước, mang tính bước ngoặt trong sự phát triển ngành

dầu khí tại Việt Nam. Không chỉ gia tăng sản lượng, doanh thu mà còn mở rộng

thêm nhiều hoạt động khai thác liên quan như khí hóa lỏng, sản xuất nhiên liệu

động cơ… Năm 2020 đánh dấu mốc lịch sử 70 năm hình thành quan hệ ngoại giao

giữa hai nước và 38 năm thành lập Liên doanh dầu khí Vietsovpetro.

Với những hạn chế về tài liệu tham khảo và kiến thức về lĩnh vực dầu khí, do

đó, nội dung chính trong luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu về một số hoạt động hợp

tác giữa các Tập đoàn dầu khí hai nước, trao đổi thương mại dầu khí giữa Việt Nam

và Liên bang Nga trong giai đoạn 2015 – 2019.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Phương pháp tiếp cận được sử dụng trong bài luận văn bằng cách đặt mối

quan hệ giữa Việt Nam và Liên bang Nga trong hoàn cảnh mới với những tác động

từ những yếu tố nội tại trong mối quan hệ hai nước và cả những yếu tố bên ngoài.

Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong bài luận văn là sự kết hợp giữa

những phương pháp nghiên cứu khác nhau như phương pháp lịch sử, phương pháp

hệ thống, phương pháp quan sát, phương pháp nghiên cứu tài liệu, phường pháp

phân tích tác động bên cạnh những kiến thức, lý luận và thông tin thực tế kết hợp

với các sách báo, số liệu thống kê với việc đi sâu phân tích thực trạng. Do tính chất

liên ngành, đa ngành của khoa học xã hội nói chung và nghiên cứu quan hệ quốc tế

4

nói riêng nên những phương pháp nghiên cứu kể trên sẽ được kết hợp và vận dụng

trong bài luận văn một cách linh hoạt và logic.

Bên cạnh đó, tập trung phân tích lịch sử, mối quan hệ hợp tác quốc tế, tác

động, hoạt động hợp tác để tạo ra hướng đi thống nhất và hợp lý để giải quyết

những vấn đề được đặt ra trong đề tài này. Trên cơ sở đó, đưa ra những đánh giá,

phương hướng phát triển hoạt động hợp tác giữa hai nước trong thời gian tới.

5. Đóng góp của luận văn

Luận văn sau khi hoàn thành sẽ mang đến cái nhìn tổng quan nhất về quan hệ

hợp tác quốc tế giữa Việt Nam và Liên bang Nga trong lĩnh vực dầu khí. Đồng thời,

đưa ra những đánh giá về thành tựu đạt được cũng như khó khăn trong hoạt động

hợp tác dầu khí giữa hai nước. Qua đó, đưa ra những định hướng tiếp theo để duy

trì và phát triển mối quan hệ hợp tác trở nên toàn diện và hiệu quả hơn trong thời

gian tới.

Hướng đóng góp của luận văn như sau:

Một là, phân tích mối quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực dầu khí giữa Việt

Nam và Liên bang Nga.

Hai là, trở thành nguồn tài liệu tham khảo cho các công trình nghiên cứu khác

về mối quan hệ giữa Việt Nam và Liên bang Nga.

Ba là, trở thành nguồn tài liệu sử dụng trong giảng dạy và học tập về quan hệ

hợp tác quốc tế.

6. Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì kết cấu bài

luận văn gồm 3 chương:

Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về hợp tác quốc tế và hợp tác quốc tế Việt nam –

Liên bang Nga. Chương này tập trung chủ yếu vào 2 nội dung chính: Tổng quan về

hợp tác quốc tế và cơ sở hình thành hợp tác quốc tế Việt Nam – Liên bang Nga.

Chƣơng 2: Hoạt động hợp tác trong lĩnh vực dầu khí giữa Việt Nam - Liên

bang Nga trong giai đoạn 2015 – 2019. Chương này phân tích và trình bày 2 nội

dung chính: Hoạt động hợp tác trong lĩnh vực dầu khí giữa Việt Nam và Liên bang

5

Nga trong giai đoạn 2015 – 2019 và đánh giá những thành tựu đạt được cũng như

những khó khăn gặp phải.

Chƣơng 3: Định hướng phát triển hợp tác giữa hai nước trong thời gian tới.

Nội dung chính của chương này là đưa ra những đề xuất, kiến nghị nhằm phát huy

những giá trị truyền thống đã đạt được và khắc phục những khó khăn còn tồn đọng

nhằm phát triển mối quan hệ hợp tác trở nên toàn diện và hiệu quả hơn trong thời

gian tới trong lĩnh vực dầu khí.

6

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỢP TÁC QUỐC TẾ VÀ HỢP TÁC

QUỐC TẾ VIỆT NAM – LIÊN BANG NGA

1.1. Khái niệm hợp tác

Dựa trên thực tế và các nghiên cứu, đã có một số khái niệm về hợp tác được

đưa ra bởi các cá nhân và tổ chức khác nhau.

Cụ thể, trong nghiên cứu “Hợp tác đạt được dưới chế độ vô chính phủ: Chiến

lược và Tổ chức” đã nhắc đến khái niệm về sự hợp tác. Trong đó, sự hợp tác diễn ra

trong bối cảnh chứa đựng nhiều mâu thuẫn đối ngược và bổ sung nhau khi các chủ

thể điều chỉnh hành vi của họ trước các mong muốn thực tế hoặc dự đoán về mong

muốn của những người khác. Sự hợp tác không đồng nghĩa với sự hài hòa. Sự hài

hòa đòi hỏi sự đồng nhất hoàn toàn của các lợi ích (Axelrod & Keohane, 1985).

Theo Từ điển tiếng Việt, hợp tác là “cùng chung sức giúp đỡ lẫn nhau trong

một công việc, một lĩnh vực nào đó nhằm một mục đích chung” (Viện ngôn ngữ

học, 2010).

Với quan điểm của các tác giả nghiên cứu khoa học “Lý thuyết hợp tác quốc tế

và thể chế quốc tế” thì hợp tác không chỉ xảy ra giữa các cá nhân mà còn giữa các

thực thể tập thể, bao gồm các công ty, đảng chính trị, tổ chức dân tộc, nhóm khủng

bố và quốc gia (Dai, Snidal & Sampson, 2010).

Trong công ước Liên hợp Quốc về chống sa mạc hoá, thì hợp tác được diễn ra

giữa các thực thể hướng tới mục tiêu chung thể hiện thông qua sự phân công lao

động được hai bên thống nhất. Ở cấp quốc gia, điều này có nghĩa là tham gia dưới

sự lãnh đạo của chính phủ với các bên liên quan và các đối tác bên ngoài trong việc

phát triển, thực hiện và giám sát chiến lược phát triển của chính quốc gia đó (Liên

hợp Quốc, 2013).

Khái niệm mới nhất, trong Từ điển kinh doanh, về hợp tác được đưa ra là sự tự

nguyện thỏa thuận, trong đó, hai hoặc nhiều thực thể tham gia vào một cuộc trao đổi

có lợi thay vì cạnh tranh. Hợp tác có thể xảy ra khi tài nguyên phù hợp cho cả hai

bên tồn tại hoặc được tạo ra bởi sự tương tác giữa họ (WebFinance, Inc., 2020).

Qua sự tham khảo về một số khái niệm khác nhau về hợp tác, có thể thấy,

trong suốt chiều dài lịch sử của con người, vai trò đặc biệt của hợp tác xuất hiện

7

trong mọi vấn đề cuộc sống xã hội, dù muốn hay không, mỗi cá nhân, tổ chức hay

quốc gia vẫn không ngừng hợp tác với nhau để chinh phục những mục đích chung,

phục vụ cho lợi ích phát triển của bản thân hay toàn xã hội. Mong muốn hợp tác của

mỗi chủ thể đều dựa trên những nhận định về lợi ích, việc lợi ích tương đồng nhiều

hay ít sẽ quyết định đến hành vi hợp tác có xảy ra hay không. Khi lợi ích tương

đồng thì giữa các quốc gia sẽ dễ dàng hợp tác cùng nhau hơn khi lợi ích cách biệt

nhau. Tuy nhiên, ngày nay, khi xuất hiện nền kinh tế tri thức và xã hội tri thức, thì

một vấn đề khác liên quan đến lợi ích cũng tác động tới quyết định hợp tác của các

quốc gia, đó là những nhận thức về lợi phần tương đối và lợi phần tuyệt đối. Các

nhà hiện thực coi lợi phần tương đối, tức lợi ích mà mình thu được so với lợi ích mà

người khác thu được nếu hai bên cùng hợp tác, quan trọng hơn, và do đó các quốc

gia chỉ nên hợp tác nếu thu được nhiều lợi ích hơn so với các quốc gia khác.

Sự hợp tác được hình thành trên ba yếu tố quan trọng: tự nguyện, cùng chung

hành động và cùng đạt lợi ích lớn hơn. Điều này không chỉ cần thiết giữa các cá

nhân đơn thuần, mà còn cả giữa các quốc gia với nhau. Trong quá trình toàn cầu

hoá và tiến trình hội nhập quốc tế hiện nay, sự liên kết hợp tác giữa các quốc gia

càng đóng một vai trò quan trọng hơn bao giờ hết, những tiến bộ vượt trội về khoa

học và công nghệ, nông nghiệp và công nghiệp, giao thông vận tải và truyền thông

sẽ không thể thực hiện nếu thiếu đi sự hợp tác. Nhờ có thành tựu kỹ thuật công nghệ

hiện đại, con người ngày nay đã có thể vượt qua những rào cản về không gian và

thời gian để hợp tác với nhau trên đa phương diện để ngày một phát triển hơn.

1.2. Các hình thức hợp tác

1.2.1. Hợp tác theo hình thức trực tiếp, gián tiếp

Hình thức hợp tác hiện nay tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng theo

quan điểm của Maclver và Page (1962) thì được chia thành hai loại chính như sau:

Hợp tác trực tiếp là một hình thức gồm tất cả các hoạt động mà các cá nhân, tổ

chức cùng làm một việc như nhau. Mặc dù những hoạt động này hoàn toàn có thể

làm riêng biệt nhưng khi hợp tác lại dựa trên sự tự nguyện vì lợi ích chung hướng

đến sự gia tăng về sản lượng và giá trị lớn hơn gấp nhiều lần so với làm việc đơn

phương. Ví dụ, hình thức hợp tác trực tiếp được thể hiện qua việc Việt Nam gửi các

8

kiện hàng viện trợ gồm các trang thiết bị y tế như khẩu trang, đồ bảo hộ, bộ kit xét

nghiệm nhanh bệnh Covid-19 cho các quốc gia bị quá tải vì tình hình dịch bệnh như

Trung Quốc, Hàn Quốc, Italia hay Hợp chủng quốc Hoa Kỳ trong 4 tháng đầu năm

2020 vừa qua. Đây là hành động dựa trên tinh thần tự nguyện và cùng chung mục

đích đẩy lùi dịch bệnh trên toàn thế giới.

Hợp tác gián tiếp là một hình thức gồm một chuỗi các hoạt động, nhiệm vụ

không giống nhau nhưng có liên quan trực tiếp đến lợi ích chung cuối cùng. Sự hợp

tác này dựa trên nguyên tắc phân công lao động. Trong đó, vai trò và chức năng của

chủ thể là khác nhau nhưng cùng thực hiện trong một chuỗi hành động vì mục tiêu

chung đạt được. Ví dụ, hình thức hợp tác gián tiếp được thể hiện qua việc một chiếc

điện thoại di động đến tay người dùng cuối bao gồm một chuỗi các hoạt động hợp

tác gián tiếp bắt đầu từ công đoạn lắp ráp, hình thành nên chiếc điện thoại từ xưởng

sản xuất đến kiểm tra chất lượng sản phẩm, tiếp đến, sản phẩm sẽ được phân phối

đến các nhà bán lẻ, sau cùng, các nhà bán lẻ sẽ tiếp thị sản phẩm đến đúng người

tiêu dùng có nhu cầu sở hữu sản phẩm.

Trong thời đại theo xu hướng hội nhập toàn cầu hiện nay, việc chuyên môn

hóa các kỹ năng và chức năng được yêu cầu nhiều hơn đã khiến sự hợp tác gián tiếp

đang nhanh chóng thay thế hợp tác trực tiếp bởi lợi ích giữa các bên đạt được lớn

hơn rất nhiều lần.

1.2.2. Hợp tác theo cấp độ

Theo quan điểm của Green (n.d) thì hợp tác nên được phân loại thành ba hạng

mục chính:

Hợp tác sơ cấp là kiểu hợp tác dễ nhận thấy trong các nhóm nhỏ như gia đình.

Ở cấp độ này, lợi ích giữa cá nhân và tổ chức có sự đồng nhất. Việc đạt được các lợi

ích của nhóm này bao gồm việc thực hiện các quyền lợi của cá nhân.

Hợp tác thứ cấp là kiểu hợp tác thường được thấy ở nhóm cấp cao hơn như

trong Chính phủ, khu công nghiệp, công đoàn hay nhà thờ, v..v. Ví dụ, trong mỗi

ngành nghề, mỗi cá nhân, mỗi nhóm người sẽ hợp tác với nhau để đạt được lợi ích

về tiền lương, lợi nhuận, sự thăng tiến hay trong trường hợp đặc biệt thì đó còn là sự

9

uy tín và quyền lực. Ở cấp độ này, đã có sự chênh lệch về lợi ích giữa các cá nhân

nhưng họ vẫn có mục đích chung, lý tưởng chung với nhau để hướng đến.

Hợp tác siêu cấp là sự tương tác giữa các tổ chức, nhóm lớn và nhỏ khác nhau

trong tình huống cụ thể. Sự hợp tác này hoàn toàn mong manh và lỏng lẻo, thiếu

tính bền vững và chỉ vì một mục đích chung ngắn hạn. Sau đó, mối liên kết hợp tác

này sẽ tự tan vỡ sau khi các bên đã đạt được mục đích chung. Ví dụ, hai đảng chính

trị có ý thức hệ khác nhau có thể hợp nhất lại để đánh bại đảng đối thủ của họ trong

một cuộc bầu cử cụ thể.

Theo từng cấp độ hợp tác là tương ứng với sự phát triển mối quan hệ của mỗi

con người. Trước hết, bản thân mỗi chủ thể cần đảm nhiệm tốt sự hợp tác với các

thành viên trong gia đình để có một hậu phương vững chắc, cuộc sống hạnh phúc

hơn. Tiếp đến, trong môi trường làm việc, cần có sự liên kết hợp tác chặt chẽ với

các đồng nghiệp, cấp trên để đạt hiệu suất công việc cao hơn, đem lại thu nhập tốt

hơn. Dù ở cấp độ hợp tác nào thì bản thân chủ thể cũng cần phải hiểu rõ vai trò của

mình trong mối quan hệ hợp tác đó để đạt được lợi ích tối ưu.

1.2.3. Hợp tác theo mục đích

Dựa trên quan điểm của Ogburn và Nimikoff (n.d), hợp tác còn được chia

thành ba loại khác nhau dựa trên mục đích của việc hợp tác diễn ra:

Hợp tác vì mục đích chung xảy ra khi những người này có chung mục tiêu

hướng đến. Ví dụ, họ cùng có một đam mê tín ngưỡng, hoặc cùng chung một hệ văn

hóa.

Hợp tác thân ái xảy ra khi con người có mưu cầu của sự hạnh phúc và sự hài

lòng trong cuộc sống. Có thể dễ dàng nhận thấy sự hợp tác diễn ra trong cuộc sống

thường nhật như ca múa nhạc, ca hát, hẹn hò, lễ hội…

Hợp tác cứu trợ là hình thức hợp tác phổ biến trong xã hội loài người. Sự hợp

tác này xảy ra khi có những người sẵn sàng làm những công việc cứu giúp cho

những nạn nhân của sự đói nghèo, lũ lụt, thiên tai hay dịch bệnh xảy ra.

Hợp tác theo mục đích dựa trên sự tương tác giữa con người với nhau trong xã

hội. Những người có cùng chung mục đích thường dễ dàng hiểu nhau hơn trong quá

trình hợp tác và thường mang lại những hiệu quả tốt hơn.

10

1.3. Hợp tác quốc tế

Dựa trên bài viết “Điều luật của Liên hợp quốc”, từ năm 1945, hợp tác quốc tế

là sự liên kết giữa các quốc gia trên thế giới trong giải quyết các vấn đề quốc tế có

tính chất kinh tế, xã hội, văn hóa hoặc đạo đức, khuyến khích tôn trọng quyền con

người và các quyền tự do cơ bản mà không phân biệt chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ

hoặc tôn giáo (Kelsen, 2000).

Một cách nhìn khác về hợp tác quốc tế được đưa ra trong Từ điển bách khoa

quốc tế về Khoa học xã hội và hành vi, hợp tác quốc tế thường bị coi là đi ngược lại

với nguyễn tắc cốt lõi mà trật tự thế giới hiện tại dựa vào như không can thiệp các

vấn đề nội bộ và quyền hoạch định chính sách của mỗi quốc gia (Smelser & Baltes,

2001).

Trong bài viết trên Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, định nghĩa hợp tác quốc tế là

sự phối hợp hòa bình giữa các chủ thể quan hệ quốc tế nhằm thực hiện các mục đích

chung (Hoàng Khắc Nam, 2006, tr. 11).

Hợp tác quốc tế, theo Từ điển tiếng Việt, được định nghĩa là sự hợp tác nhằm

mục đích chung giữa các nước trên thế giới trong quan hệ với nhau. Có thể hiểu đây

là hành vi thực hiện bởi các chủ thể quốc tế cùng nhau thực hiện để đáp ứng lợi ích

hay nguyện vọng lẫn nhau, không mang tính chống đối (Viện ngôn ngữ học, 2010).

Trong nghiên cứu “Hợp tác quốc tế trong nửa đầu thế kỷ XX” cho rằng, hợp

tác quốc tế là sự đòi hỏi sự tương tác liên tục, có tổ chức và hợp tác giữa các nhóm

người ở các quốc gia khác nhau chứ không chỉ đơn thuần là bất kỳ kết nối xuyên

biên giới nào (Gorman, 2017).

Cuốn “Cẩm nang nghiên cứu về hợp tác quốc tế” có đưa ra khái niệm về hợp

tác quốc tế là chế độ tương tác phổ biến giữa hai hoặc nhiều quốc gia dựa trên việc

chia sẻ kết quả nghiên cứu, sản xuất, thương mại, bảo vệ đầu tư và bí quyết công

nghiệp (Erokhin, Gao & Zhang, 2018).

Tựu chung lại, hợp tác quốc tế là một một trong những mối quan hệ cơ bản

trong quan hệ quốc tế, là một hiện tượng xuyên suốt chiều dài lịch sử nhân loại. Nó

tồn tại song hành bất chấp thế giới đầy những xung đột và chiến tranh. Mục đích

chính của hợp tác quốc tế hướng đến hòa bình và phát triển bền vững giữa các quốc

11

gia trên thế giới. Cho đến thời đại hiện nay, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế

thì hợp tác quốc tế hiện đang giữ vai trò chủ đạo trong tăng cường tính cạnh tranh

và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia. Sự hợp tác quốc tế đã tạo nên một mạng

lưới kết nối các nước với nhau, xóa nhòa mọi biên giới, khoảng cách địa lý. Trong

thời đại hiện nay, việc hợp tác giữa các quốc gia trở nên chặt chẽ hơn, liên tục hơn

thông qua các chính sách tự do hóa thương mại, hợp tác đầu tư, quan hệ thương mại

giữa các nước trong cùng khối, cùng khu vực hay trên toàn thế giới.

1.4. Hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực

1.4.1. Lĩnh vực quân sự

Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quân sự là sự hợp tác giữa hai hay nhiều quốc

gia chỉ giới hạn trong phạm vi và đối tượng là lĩnh vực quân sự. Ngày nay, trong

thời bình hiện tại, việc hợp tác quân sự giữa các nước trên thế giới vẫn đang diễn ra

thường xuyên và chặt chẽ hơn bao giờ hết. Sự hợp tác này được nâng tầm lên hợp

tác quốc phòng giữa các quốc gia lẫn nhau, đây là hoạt động nhằm đảm bảo sự an

toàn và tồn vong của một quốc gia dân tộc.

Trên thế giới, tiêu biểu cho hợp tác quân sự phải kể đến Hoa Kỳ và Hàn Quốc

hàng năm vẫn diễn ra các cuộc tập trận chung lớn nhỏ trên phạm vi đất liền và ngoài

khơi vùng biển của Hàn Quốc nhằm củng cố năng lực quốc phòng cũng như duy trì

trật tự hoà bình trên bán đảo Triều Tiên.

Còn đối với Trung Quốc và Liên bang Nga thì đưa ra mô hình hợp tác quân sự

mới là “Trung Quốc, Nga +”. Mô hình này không phải là kiểu liên minh quân sự

giữa các nước phương Tây với nhau, cũng không phải là thể hiện uy hiếp quân sự

với nước thứ ba, mà là một mô hình hợp tác quân sự đa phương hoàn toàn mới với

trung tâm là hai nước Trung Quốc và Liên bang Nga.

Hiện nay, Việt Nam đang hợp tác quốc phòng với rất nhiều quốc gia trong và

ngoài khu vực như Nhật, Hoa Kỳ hay Liên bang Nga. Việc hợp tác quân sự với

Nhật Bản được thể hiện trong hợp tác chuyển giao công nghệ đóng tàu quân sự. Về

phía Hoa Kỳ, trong những năm gần đây, đã hỗ trợ lực lượng Cảnh sát biển Việt

Nam những chiếc xuồng tuần tra và thoả thuận cung cấp máy bay không người lái

cho phía Việt Nam. Mục đích của những hợp tác quân sự song phương này nhằm

12

đảm bảo an ninh khu vực, cũng như duy trì hòa bình trên đất liền và các quần đảo

trên biển Đông, tạo tiền đề vững chắc để tập trung phát triển kinh tế – xã hội.

Có thể thấy, hợp tác quân sự có tầm quan trọng hàng đầu trong thời đại hiện

nay giữa các quốc gia với nhau trong việc đảm bảo nền hoà bình quốc gia nói riêng

và thế giới nói chung. Nguyên nhân sâu xa bắt nguồn từ mục đích duy trì sự sinh

tồn của một quốc gia trước nguy cơ xâm lược từ các thế lực thù địch bên ngoài và

tạo nên sự hòa bình, thịnh trị cho dân tộc của mình.

1.4.2. Lĩnh vực giáo dục

Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục, khái niệm này còn được biết đến dưới

cái tên đào tạo hợp tác quốc tế. Đây là hình thức liên kết đào tạo giữa nhiều nước và

vùng lãnh thổ với nhau. Mục đích của việc hợp tác này nhằm phối hợp, trao đổi

giáo dục đào tạo để thúc đẩy sự phát triển về chất và lượng trong lĩnh vực giáo dục

giữa các quốc gia hiện nay. Hoạt động này chủ yếu đang diễn ra trong lĩnh vực đào

tạo đại học và sau đại học.

Tại Việt Nam, hầu hết các trường đại học lớn trên cả nước đều liên kết đào tạo

hợp tác quốc tế với các trường đại học nổi tiếng của các quốc gia trên thế giới.

Trong đó có trường Đại học Ngoại Thương, hiện nay nhà trường đang đối tác tin

cậy với 16 trường Đại học trên thế giới như: Hoa Kỳ, Trung Quốc, châu Âu,

Canada, Úc, New Zealand, Đài Loan... với mục tiêu đào tạo ra thế hệ sinh viên có

nền tảng kiến thức, kỹ năng vững vàng, đáp ứng được yêu cầu của xã hội và hội

nhập quốc tế. Ngành học chủ yếu tập trung vào khối kinh tế – thương mại vì đây

cũng chính là ngành học “trọng tâm” của trường Ngoại Thương.

Hợp tác trong lĩnh vực giáo dục sẽ giúp Việt Nam tiếp cận với các tiến bộ

trong giảng dạy và đào tạo nhằm phát triển hơn nguồn nhân lực tương lai. Qua đó,

không ngừng cố gắng nâng cao, thiết kế và cập nhật các chương trình học theo

những xu hướng giáo dục hiện đại, nâng cao chất lượng lao động tri thức, hướng tới

hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.

1.4.3. Lĩnh vực kinh tế

Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực kinh tế là một phạm trù hẹp hơn của sự hợp tác

khi phạm vi đối tượng và mục đích chính chỉ trong lĩnh vực kinh tế. Sự hình thành

13

mô hình hợp tác kinh tế khi mới xuất hiện còn mới chỉ ở hình thức tự phát mà thiếu

đi sự nhất quán, thống nhất cũng như bài bản để thực hiện. Nguyên nhân dẫn đến sự

hình thành mô hình này bắt nguồn từ các cá nhân, tổ chức kinh tế có trình độ quản

lý hạn chế cũng như chịu nhiều thiệt thòi, bất lợi trong sản xuất kinh doanh cạnh

tranh. Nhờ có sự hợp tác kinh tế này mà các chủ thể kinh tế có thể duy trì sự tồn tại

của mình, duy trì việc làm, lợi nhuận để tăng gia sản xuất dựa trên sự tự nguyện,

phối hợp và giúp đỡ lẫn nhau để tạo nên sức mạnh của một tập thể, giải quyết được

các vấn đề trong quản lý, sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả và gia tăng

lợi ích lên gấp nhiều lần so với hoạt động riêng lẻ.

Ngày nay, trong xu thế hội nhập toàn cầu, hợp tác kinh tế đang đóng một vai

trò thiết yếu trong phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Các quốc gia liên kết hợp tác

trong lĩnh vực kinh tế thông qua trao đổi thương mại song phương hay các dự án

đầu tư, vốn đầu tư viện trợ… Đối với Việt Nam, theo thông kê từ Tổng cục Thống

kê năm 2019, Hàn Quốc hiện là nước dẫn đầu về tổng số vốn đầu tư luỹ kế vào Việt

Nam ở mức 67,71 tỷ USD (chiếm 18,7% tổng vốn đầu tư). Kim ngạch thương mại

giữa hai nước trong cùng năm 2019 cũng đạt mức 72 tỷ USD và hướng tới mục tiêu

100 tỷ USD vào năm 2020.

Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực kinh tế giữa các quốc gia đem lại giá trị rất lớn,

đóng góp vào sự phát triển nền kinh tế chung giữa hai hay nhiều nước. Việc tăng

cường hợp tác kinh tế giữa các quốc gia hiện nay đang là xu thế chung của toàn thế

giới. Điều này mang lại những tác động thay đổi cả một nền kinh tế của những quốc

gia khác nếu không muốn biệt lập và thụt lùi so với sự phát triển của toàn thế giới.

Ngoài ra, sự hợp tác này còn giải quyết rất nhiều các vấn đề khác trong xã hội như

việc làm, tiền lương, trao đổi hàng hóa.

1.4.4. Lĩnh vực dầu khí

Hợp tác lĩnh vực dầu khí là sự hợp tác trong phạm vi và đối tượng là hoạt

động dầu khí. Trong đó, hoạt động dầu khí được quy định tại khoản 4 Điều 3 Luật

dầu khí 1993 như sau: "Hoạt động dầu khí" là hoạt động tìm kiếm thăm dò, phát

triển mỏ và khai thác dầu khí, kể cả các hoạt động phục vụ trực tiếp cho các hoạt

động này.

14

Như vậy, theo quy định tại Luật dầu khí 1993 thì hoạt động dầu khí bao gồm:

- Tìm kiếm thăm dò;

- Phát triển mỏ;

- Khai thác dầu khí;

- Và các hoạt động phục vụ trực tiếp cho các hoạt động trên.

Do đó, hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực dầu khí là sự hợp tác giữa hai

hay nhiều quốc gia với nhau. Đây là một trong những lĩnh vực hợp tác chủ chốt

giữa các quốc gia trên thế giới với mục đích chung là phát triển tìm kiếm thăm dò,

khai thác dầu khí, và các hoạt động phục vụ trực tiếp cho các hoạt động trên bao

gồm hình thức đầu tư cơ sở vật chất, chính sách hỗ trợ, công cuộc thăm dò, triển

khai khai thác dầu khí tại các mỏ dầu trên phạm vi lãnh thổ các nước sở hữu nhằm

gia tăng sản lượng khai thác, doanh thu và lợi nhuận cho các bên tham gia, hay trao

đổi thương mại dầu khí giữa các nước cũng như đóng góp vào việc điều chỉnh giá

dầu trong nước và quốc tế.

1.5. Hợp tác quốc tế Việt Nam và Liên bang Nga

1.5.1. Khái quát mối quan hệ hợp tác Việt Nam và Liên bang Nga

Trong lịch sử hình thành các mối quan hệ quốc tế của Việt Nam, phải nhắc

đến thời điểm bước ngoặt mang tính lịch sử khi Việt Nam và Liên bang Xô Viết

thiết lập ngoại giao chính thức năm 1950, đây chính là quốc gia đầu tiên trên thế

giới công nhận và đặt mối quan hệ ngoại giao với Việt Nam (30/01/1950). Theo

dòng lịch sử quan hệ thương mại và kinh tế của hai nước qua các thời kỳ khác nhau

có thể được phân biệt: từ sự thịnh vượng nhất của họ trong thời Liên bang Xô Viết,

khi Liên Xô đã hỗ trợ toàn diện cho Việt Nam, cho đến cuộc khủng hoảng sâu sắc

và đình trệ trong thập niên 90 và sau đó, nối lại một nền tảng chính trị, pháp lý và

cơ sở kinh tế mới.

Vào năm 1994, Việt Nam và Liên bang Nga chính thức ký kết hiệp ước về

những nguyên tắc cơ bản của quan hệ hữu nghị, nhằm kế thừa cũng như duy trì mối

quan hệ hợp tác lâu dài sau khi nhà nước Xô Viết tan rã (1991). Sau đó, hai nước đã

nâng cấp mối quan hệ lên Đối tác chiến lược năm 2001, và tiếp tục trở thành Đối tác

chiến lược toàn diện của nhau vào năm 2012, đây là khuôn khổ quan hệ cao nhất

15

của Việt Nam. Năm 2015, Việt Nam trở thành quốc gia đầu tiên ký kết hiệp định

Thương mại tự do với Liên minh kinh tế Á – Âu, trong đó, Liên bang Nga là thành

viên chủ chốt. Năm 2020, đánh dấu mốc 70 năm thiết lập quan hệ Ngoại giao giữa

Liên bang Nga và Việt Nam.

1.5.2. Các lĩnh vực hợp tác

Hiện nay, Liên bang Nga là nước hợp tác toàn diện nhất với Việt Nam đa dạng

tất cả các lĩnh vực, tiêu biểu phải kể đến một số lĩnh vực hợp tác như kinh tế, quốc

phòng, du lịch và dầu khí.

1.5.2.1. Hợp tác kinh tế

Trong những năm gần đây hợp tác giữa Việt Nam và Liên bang Nga trong lĩnh

vực kinh tế tiếp tục phát triển khá năng động.

Tính đến thời điểm năm 2019, theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan

Việt Nam, kim ngạch thương mại song phương đạt mức 4 tỷ USD, giảm 10% so với

năm 2018 (giá trị 6,1 tỷ USD). Tuy nhiên, hai nước vẫn đặt mục tiêu thương mại

hướng đến 10 tỷ USD trong những năm tới nhằm phát huy tối đa những tiềm năng

hợp tác mà hai nước đang có.

Hiện nay, hợp tác đầu tư tiếp tục được mở rộng tại cả Việt Nam và Liên bang

Nga trên các lĩnh vực như nông nghiệp, năng lượng, giao thông vận tải… Theo số

liệu thống kê của Bộ kế hoạch và đầu tư Việt Nam, Liên bang Nga hiện có 123 dự

án đầu tư trực tiếp vào Việt Nam ngoài lĩnh vực dầu khí với tổng số vốn khoảng 1

tỷ USD, xếp thứ 22 trong các quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam.

Trong khi Việt Nam có 20 dự án đầu tư vào Nga với tổng số vốn gần 3 tỷ USD.

Ngoài lĩnh vực dầu khí, thì một số dự án đầu tư nổi bật như Trung tâm đa chức năng

Hà Nội - Moskva; các dự án xây dựng tổ hợp công nông nghiệp về chăn nuôi bò sữa

và chế biến sản phẩm sữa sử dụng công nghệ cao tại Moskva và Kaluga của Tập

đoàn TH True Milk.

Hợp tác kinh tế luôn là ưu tiên hàng đầu trong mối quan hệ hữu nghị giữa hai

nước trong những năm trở lại đây. Đây là lĩnh vực chủ chốt, quan trọng mà cả Việt

Nam và Liên bang Nga đang nỗ lực thực hiện để tương xứng với tiềm năng mà hai

nước đang năm giữ trong tương lai tới.

16

1.5.2.2. Hợp tác quốc phòng

Hợp tác giữa hai nước trên lĩnh vực an ninh quốc phòng là một trong những

lĩnh vực hợp tác gắn bó truyền thống và là một trụ cột rất quan trọng trong quan hệ

hai nước tiếp tục được mở rộng. Nhằm đảm bảo tình hình hoà bình trên khu vực

biển Đông và khu vực Đông Nam Á.

Hợp tác quốc phòng giữa hai bên hiện tập trung chủ yếu vào kỹ thuật quân sự

như chuyển giao vũ khí, trang bị, công nghệ; hợp tác hải quân; đào tạo cán bộ; đấu

tranh chống khủng bố, buôn bán ma túy, tội phạm xuyên quốc gia. Liên bang Nga là

quốc gia cung cấp chính về vũ khí và trang bị kỹ thuật cho Việt Nam, đồng thời hợp

tác với Việt Nam trong việc bảo trì, hiện đại hóa vũ khí quân sự. Theo kênh thông

tin của Bộ Nội vụ Liên bang Nga, hàng năm, nước này tiếp nhận hàng nghìn lưu

học sinh Việt Nam sang đào tạo các ngành cho lĩnh vực quốc phòng.

Có thể nói, hợp tác quốc phòng với Liên bang Nga là chìa khoá để Việt Nam

thực hiện hiện đại hoá quân sự trong nước, tăng cường sức mạnh nội tại của quốc

gia. Đồng thời, giữ vững vị thế độc lập chủ quyền cũng như đảm bảo tình hình hoà

bình trong khu vực.

1.5.2.3. Hợp tác du lịch

Trong lĩnh vực du lịch, theo số liệu thống kê của Tổng cục Du lịch Việt Nam,

thì Việt Nam tiếp tục là điểm du lịch yêu thích của người dân Nga, với hơn 600.000

lượt khách Nga tới thăm Việt Nam năm 2018 và gần 800.000 lượt du khách đến

trong năm 2019, tăng 33% so với cùng kỳ năm 2018.

Trong số các quốc gia có công dân du lịch đến Việt Nam nhiều nhất thì Liên

bang Nga đứng đầu tại khu vực châu Âu và xếp thứ sáu trên thế giới, sau Trung

Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ và Đài Loan (Trung Quốc). Ngược lại, theo số

liệu thống kê chưa được kiểm chứng thì có hàng chục nghìn người Việt Nam chọn

Liên bang Nga du lịch trong hai năm trở lại đây.

Sự tăng trưởng trong những lượt du khách đến với Việt Nam từ Liên bang Nga

và ngược lại, đã cho thấy sự giao lưu con người giữa hai nước không ngừng được

tăng cường, gắn bó bền chặt, tiếp tục giữ vững và phát huy tình hữu nghị bền chặt

giữa hai nước trong thời đại mới hiện nay.

17

1.5.2.4. Hợp tác dầu khí

Tính đến thời điểm hiện tại, dầu khí chính là lĩnh vực hợp tác truyền thống

chiến lược, hiệu quả nhất và là điểm sáng nhất trong mối quan hệ hợp tác giữa Việt

Nam và Liên bang Nga. Tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương, Việt Nam là một

trong những đối tác quan trọng của Liên bang Nga. Trải qua nhiều giai đoạn khác

nhau, hai nước đã có thêm nhiều kinh nghiệm hợp tác lâu dài và hiệu quả trong việc

thực hiện các dự án dầu khí chung trên thềm lục địa.

Giai đoạn khởi đầu hợp tác dầu khí giữa Việt Nam và Liên Xô

Việt Nam là quốc gia có trữ lượng dầu và khí phong phú đầy triển vọng khi sở

hữu vùng biển và thềm lục địa rộng lớn. Tuy nhiên, thời gian đầu những năm 70 của

thế kỷ trước, khi vừa phải tham gia các cuộc chiến tranh chống xâm lược và thống

nhất đất nước kéo dài, vừa phải xây dựng kinh tế, phát triển đất nước nên phần nào

đã cản trở sự phát triển về nhân lực, khoa học kỹ thuật để tiến hành các hoạt động

khai thác dầu khí. Trong khoảng thời gian này, Việt Nam thể hiện sự quan tâm đến

việc phát triển các mỏ dầu khí và tìm cách mở rộng hợp tác với nước ngoài về phát

triển các dự án năng lượng trên thềm lục địa. Do đó, việc tiến hành hợp tác quốc tế

trong hoạt động khai thác dầu khí đã được triển khai từ rất sớm trong giai đoạn đầu

tiên sau khi thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với Liên bang Xô Viết.

Năm 1972, các chuyên gia Liên Xô đã lắp đặt một số giàn khoan để thăm dò

địa chất ở Vịnh Bắc bộ ngoài khơi miền bắc Việt Nam. Tuy nhiên, sự thăm dò này

không mang lại kết quả đáng kể. Đối với vùng biển Đông dưới sự kiểm soát của

chính phủ miền Nam Việt Nam, tình hình ở đây lại khác. Trong nửa đầu của thập

niên 70, các công ty phương Tây cũng tiến hành thăm dò ở đó. Năm 1974, các

chuyên gia của công ty Mobil của Mỹ đã phát hiện ra trữ lượng dầu lớn tại mỏ Bạch

Hổ. Tuy nhiên, việc phát triển các tài nguyên này bắt đầu được thực hiện với sự

tham gia của các công ty dầu mỏ không phải của Mỹ, mà là của Liên Xô. Ngay sau

khi Việt Nam được thống nhất, vào mùa hè năm 1975, các chuyên gia từ Liên Xô

bắt đầu làm việc ở miền nam Việt Nam.

Vào giữa năm 1980, một thỏa thuận liên chính phủ đã được ký kết về hợp tác

giữa Liên Xô và Việt Nam trong lĩnh vực thăm dò và sản xuất dầu khí trên thềm lục

18

địa Việt Nam. Tiêu biểu trong mối quan hệ hợp tác lĩnh vực dầu khí giữa hai nước

chính là sự kiện thành lập Xí nghiệp Liên doanh Vietsovpetro vào ngày 19 tháng 6

năm 1981. Vào ngày 26 tháng 6 năm 1986, Vietsovpetro đã khai thác được tấn dầu

đầu tiên tại mỏ Bạch Hổ – mỏ dầu lớn nhất của Việt Nam. Phía Liên Xô, hiệp hội

kinh tế nước ngoài Zarubezhneft đã tham gia vào công việc điều hành của doanh

nghiệp, và từ phía Việt Nam, đó là công ty nhà nước Tập đoàn dầu khí Việt Nam

(Petrovietnam).

Sự hình thành sơ khai trong giai đoạn này đã nền tảng quan trọng trong quan

hệ hợp tác giữa hai nước khi Việt Nam tận dụng được tiến bộ về khoa học kỹ thuật

cũng như kinh nghiệm đào tạo nguồn lực sẵn có từ phía Liên Xô, đã phần nào rút

ngắn được công đoạn khởi động với hoạt động dầu khí còn hoàn toàn mới mẻ vào

thời điểm đó.

Giai đoạn chuyển giao hợp tác dầu khí giữa Việt Nam – Liên bang Nga

Vào năm 1992, sau khi nhà nước Liên bang Xô Viết tan rã, quá trình phê

duyệt nghị định đầu tiên của Liên bang Nga về hợp tác Nga - Việt trong lĩnh vực

dầu khí trên thềm lục địa Nam Việt Nam trong khuôn khổ Liên doanh Vietsovpetro

được thực hiện. Do đó, Liên bang Nga sẽ là nhà nước kế thừa Liên bang Xô Viết và

tiếp tục đảm bảo hoạt động của Liên doanh Vietsovpetro.

Đến cuối những năm 90 của thế kỷ trước, Liên doanh Việt – Nga Vietsovpetro

sau khi bảo đảm hoàn trả các khoản vốn đầu tư, đã bắt đầu mang lại lợi nhuận đáng

kể cho cả hai quốc gia.

Trong giai đoạn chuyển giao này, việc tái cấu trúc cơ chế hợp tác giữa hai

nước trong lĩnh vực dầu khí đã được hoàn thành vào giữa những năm 90. Được bắt

đầu như một cuộc cải cách mới, xác định hình thức quan hệ đối tác kinh tế đối ngoại

mới giữa một Liên bang Nga vươn lên từ sự sụp đổ của Liên Xô cũ và một Việt Nam

trong thời kỳ đổi mới đất nước. Sự kiện này chính là quyết định đúng đắn, có tầm

nhìn chiến lược quyết định đến sự phát triển của ngành Dầu khí Việt Nam sau này.

Giai đoạn phát triển mới từ đầu thế kỷ XXI đến nay

Một trang sử mới đã được mở ra đầu những năm 2000 của thiên niên kỷ mới,

sau khi giai đoạn chuyển giao hợp tác dầu khí giữa Việt Nam và Liên bang Nga đạt

19

được những thành công tốt đẹp, Tập đoàn Năng lượng Gazprom một lần nữa đã trở

lại Việt Nam và nhiều tập đoàn dầu khí khác của Liên bang Nga cũng bắt đầu đặt

chân đến Việt Nam.

Tập đoàn Zarubezhneft tiếp tục giữ vững vị trí dẫn đầu trong hoạt động dầu

khí tại Việt Nam khi tham gia góp vốn thành lập Công ty Dầu khí Việt - Nga - Nhật

(VRJ) cùng các đối tác gồm Tổng công ty Thăm dò Khai thác Dầu khí Việt Nam

(PVEP) của Việt Nam và Tập đoàn Idemitsu của Nhật Bản, theo tỷ lệ như sau:

Zarubezhneft góp 50%, PVEP góp 35% vốn và Idemitsu góp 15% vốn. Thời hạn hoạt

động của VRJ là 30 năm kể từ ngày hợp đồng được ký kết vào tháng 2 năm 2002.

Các dự án của VRJ đang chủ yếu hợp tác với Vietsovpetro khai thác các lô thuộc mỏ

Nam Rồng - Đồi Mồi thuộc bể Cửu Long, với tỷ lệ sở hữu chia đều là 50%.

Cũng trong năm 2002, Tập đoàn Gazprom đã thành lập một liên doanh

Vietgazprom với Petrovietnam (PVN) để thăm dò thềm lục địa miền trung Việt Nam.

Vào năm 2008, Vietgazprom tham gia việc phát triển khai thác ở vùng nước

sâu của thềm phía Nam, nơi có tài nguyên ước tính khoảng 1.430 tỷ mét khối khí và

1.150 triệu tấn dầu theo các chuyên gia dầu khí của Tập đoàn Gazprom nghiên cứu.

Về phía Liên bang Nga, Liên doanh Rusvietpetro, dự án song song với

Vietsovpetro, bắt đầu hoạt động tại thị trường nước này. Các chủ thể tham gia vào

liên doanh này cũng là Zarubezhneft và Petrovietnam, trong đó tỷ lệ của phía Tập

đoàn của Nga là 51%.

Tiếp nối thành công của các dự án đầu tư hợp tác dầu khí tại Liên bang Nga,

đến cuối năm 2009, một thỏa thuận hợp tác chiến lược đã được ký giữa Tập đoàn

Gazprom và Petrovietnam. Đồng thời, Gazprom và Petrovietnam đã ký kết một thỏa

thuận về việc thành lập Liên doanh Gazpromviet. Thị phần của công ty Nga là 51%

và cổ phần của Petrovietnam là 49%. Thỏa thuận cung cấp cho sự tương tác của

những chủ thể tham gia phát triển các dự án dầu khí ở Nga, Việt Nam và các nước

thứ ba.

Sau khi thành lập hai năm, thì đến năm 2010, Rusvietpetro bắt đầu sản xuất

dầu thương mại tại các mỏ trong Khu tự trị Nenetski thuộc Liên bang Nga.

20

Tiếp sau đó, vào năm 2012 Gazpromviet cũng đã bắt đầu phát triển mỏ ngưng

tụ dầu và khí Nagumanov ở vùng Orenburg và mỏ ngưng tụ khí trong Khu tự trị

Nenetski. Vào tháng 11 năm 2014, Gazprom và Petrovietnam đã đồng ý hợp tác

khai thác khu vực Dolginskoye trên thềm Biển Pechora.

Trở lại phía thị trường Việt Nam, vào giữa năm 2012, một thỏa thuận khác

được ký giữa Gazprom và Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, theo đó, Tập đoàn của Nga

nhận 49% lượng khí đốt từ các khối trên thềm lục địa phía Nam với trữ lượng 55,6

tỷ mét khối.

Vào giữa năm 2018, Petrovietnam và Gazprom đã thảo luận về một loạt lĩnh

vực hợp tác song phương trong thời gian tới tại Việt Nam. Đặc biệt, hai bên đề cập

tới vấn đề thăm dò địa chất và khai thác hydrocacbon trên lãnh thổ Việt Nam, cũng

như triển vọng thực hiện các dự án chung trong lĩnh vực sản xuất khí đốt và nhiên

liệu động cơ khí, cũng như vấn đề đào tạo cán bộ cho Petrovietnam. Hai bên cùng

thảo luận vấn đề cùng triển khai thực hiện dự án chung về xây dựng khu liên hợp

sản xuất khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) có trọng tải thấp và dự án sử dụng khí hóa

lỏng làm nhiên liệu cho động cơ và kế hoạch thành lập một mạng lưới cung cấp

LNG tại các trạm bán xăng dầu ở Việt Nam.

Tính đến năm 2020, trong khoảng 10 năm hoạt động tại khu tự trị Nenetski

thuộc Liên bang Nga, theo báo cáo hoạt động thường niên của Tập đoàn dầu khí

Việt Nam, tổng sản lượng khai thác của Liên doanh Rusvietpetro đã đạt mức 25

triệu tấn dầu, doanh thu luỹ kế của Liên doanh này đạt trên 10 tỷ USD. Mỗi năm

các mỏ của Rusvietpetro đóng góp khoảng 15% sản lượng của Tập đoàn Dầu khí

Quốc gia Việt Nam. Có thể nói đây là dự án đầu tư thành công nhất ở thị trường

nước ngoài. Hiệu quả trong hoạt động tại Nga chính là thành quả của việc những

thỏa thuận cấp cao giữa hai nước xác định dầu khí là một trong những điểm sáng

lớn nhất của hợp tác Việt - Nga. Trong tương lai tới, Liên doanh này tiếp tục mở

rộng tìm kiếm các mỏ mới, áp dụng công nghệ mới để mở rộng khai thác.

Có thể nói đây là giai đoạn hoạt động hợp tác dầu khí có những bước phát

triển vượt bậc không chỉ tại Việt Nam mà còn ở Liên bang Nga. Sự hợp tác giữa các

tập đoàn dầu khí hàng đầu của Liên bang Nga và Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đã

21

mang đến những thành công tốt đẹp cả về sản lượng khai thác lẫn doanh thu. Cũng

trong giai đoạn này, sau sự thành công của hoạt động dầu khí, hai nước tiếp tục đổi

mới và tìm kiếm cơ hội hợp tác những dự án mới về khai thác và sản xuất khí tự

nhiên tại Việt Nam, đồng thời từng bước nâng tầm ngành Dầu khí Việt Nam trong

tương lai tới có thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu thị trường trong nước và hướng đến

cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

22

TÓM TẮT CHƢƠNG 1

Có thể nói quan hệ hợp tác quốc tế đóng vai trò rất quan trọng trong thời đại

hiện nay giữa các quốc gia với nhau, điều này như là nhu cầu tất yếu trong thời đại

hội nhập giữa các quốc gia và phù hợp với lợi ích của các bên tham gia. Hợp tác

quốc tế hiện diện trong tất cả các lĩnh vực từ kinh tế, xã hội đến giáo dục, quốc

phòng. Đây chính là nền tảng để hình thành lên mối quan hệ hợp tác quốc tế giữa

Việt Nam và Liên bang Nga. Các nhân tố đóng vai trò tác động đến mối quan hệ

này quan trọng nhất vẫn là tình hữu nghị bền chặt theo thời gian mà hai nước đã

hình thành từ trong quá khứ. Bên cạnh đó, những yếu tố lịch sử, chính trị và tình

hình quốc tế đã góp phẩn không nhỏ thúc đẩy mối quan hệ giữa hai nước trở nên

đặc biệt hơn. Ngoài ra, trong thời kỳ đổi mới, hai nước là lựa chọn lĩnh vực dầu khí

làm trọng điểm trong quan hệ hợp tác giữa hai nước đã mở ra một thời kỳ hợp tác

thành công nhất trong quan hệ ngoại giao giữa hai nước, và là tiền đề để thúc đẩy

quan hệ hợp tác giữa hai nước đi lên một tầm cao mới.

23

CHƢƠNG 2: HOẠT ĐỘNG HỢP TÁC TRONG LĨNH VỰC DẦU KHÍ GIỮA

VIỆT NAM - LIÊN BANG NGA TRONG GIAI ĐOẠN 2015 – 2019

2.1. Các lĩnh vực trong hoạt động hợp tác dầu khí giai đoạn 2015 - 2019

2.1.1. Chính sách

Quan hệ hợp tác dầu khí giữa Liên bang Nga và Việt Nam có thể nói là thành

công nhất trong các hoạt động hợp tác trao đổi giữa hai nước trong suốt 70 năm kể

từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao đến nay. Chính sự hợp tác này đã đem lại hiệu

quả lớn cho sự phát triển kinh tế tại cho Việt Nam. Ngoài ra, còn giúp Việt Nam

đào tạo được đội ngũ chuyên gia dầu khí có năng lực, xây dựng ngành dầu khí vững

mạnh, có tên tuổi trong khu vực và trên thế giới.

Trong quan hệ hợp tác dầu khí 38 năm vừa qua, cùng với sự ủng hộ của Chính

phủ hai nước, ngành dầu khí Việt Nam hoàn toàn có khả năng phát triển hơn nữa

với những bước tiến mới trong tương lai. Phía Việt Nam vẫn luôn tạo điều kiện

thuận lợi cho doanh nghiệp dầu khí hai nước mở rộng hợp tác với nhau, bao gồm

thăm dò và khai thác dầu khí, cũng như các lĩnh vực mới như nhiệt điện khí, cung

cấp khí hóa lỏng, nhiên liệu động cơ. Về phía Nga, chính phủ luôn ủng hộ các

doanh nghiệp dầu khí nước này tham gia vào các dự án trên vùng biển của Việt

Nam. Chính điều này đã hình thành nên mối quan hệ hợp tác gắn bó, bền chặt, tháo

gỡ kịp thời các khó khăn trong quá trình đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho các

doanh nghiệp tham gia vào hoạt động khai thác, sản xuất dầu khí trên thềm lục địa

tại Việt Nam, phần nào được thể hiện qua các văn bản hiệp định, chính sách hợp tác

giữa hai nước tiến triển trong giai đoạn từ năm 2015 đến nay.

Năm 2015, Việt Nam là quốc gia đầu tiên ký Hiệp định thương mại tự do

(FTA) với Liên minh kinh tế Á – Âu (EAEU), bao gồm các nước Belarus,

Kazakhstan, Armenia, Kyrgyzstan và đặc biệt Liên bang Nga là chính là thành viên

chủ chốt. Đây là một trong những hiệp định quan trọng của Việt Nam khi hướng tới

trọng tâm là thị trường các nước Đông Âu, không chỉ thế, mà còn nâng tầm trao đổi

thương mại với Liên bang Nga. Trong nội dung hiệp định, phía EAEU cam kết

giảm thuế với một số mặt hàng chủ lực của Việt Nam như may mặc, đồ gỗ, thuỷ sản

từ 70 – 100% với lộ trình từ 5 đến 10 năm. Còn đối với phía Việt Nam cũng cam

24

kết cắt giảm thuế với các mặt hàng chủ lực đến từ EAEU trong đó, trọng tâm là mặt

hàng xăng dầu nhập khẩu từ thị trường Liên bang Nga. Nội dung chính là việc Việt

Nam sẽ tiến tới xóa bỏ hoàn toàn thuế nhập khẩu với mặt hàng này vào năm 2027.

Việc thực thi hiệp định này mở ra cơ hội lớn cho Việt Nam dễ dàng tiếp cận thị

trường Liên bang Nga rộng lớn vẫn đang tương đối đóng với hàng hoá nước ngoài.

Cùng với đó là kỳ vọng nhập khẩu xăng dầu từ thị trường Liên bang Nga sẽ trở nên

cạnh tranh hơn với các thị trường cung cấp xăng dầu chủ lực khác như Hàn Quốc,

Trung Quốc, Singapore… Ngoài ra, tăng trưởng kim ngạch thương mại giữa Việt

Nam và Liên bang Nga đã có bước tiến mạnh mẽ với mức tăng trung bình khoảng

30%/năm.

Vào giữa năm 2015, nghị quyết số 41 được ban hành, nội dung về định hướng

Chiến lược phát triển ngành Dầu khí Việt Nam đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm

2035 với trọng tâm là: tìm kiếm, thăm dò, khai thác, vận chuyển, chế biến, tồn trữ,

phân phối, dịch vụ và xuất nhập khẩu; trong đó tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu

khí là lĩnh vực cốt lõi, cần phải được quan tâm chú trọng, cần phải tăng cường đầu

tư phát triển không chỉ ở trong nước mà vươn ra nước ngoài. Sự ra đời của Nghị

quyết này bắt nguồn từ việc khủng hoảng giá dầu trên thế giới suy giảm vào cuối

năm 2015, Chính phủ đã thể hiện tầm nhìn chiến lược với sự phát triển của ngành

Dầu khí trong giai đoạn khó khăn này. Nội dung chính của Nghị quyết hướng đến

việc hoàn thiện thể chế hoạt động và làm rõ vai trò của Tập đoàn dầu khí Việt Nam

trong giai đoạn 10 năm và 20 năm. Trong đó, hoàn thiện thể chế về hoạt động khai

thác dầu khí, lên kế hoạch để phát triển ngành Dầu khí trong giai đoạn khó khăn,

qua đó tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài bổ sung để phát triển ngành Dầu

khí. Chính phủ cam kết đảm bảo nguồn vốn cho PVN phát triển các dự án và các

mục tiêu chiến lược đề ra nhưng phải đúng mục đích và có sự hiệu quả nhất định.

Phát triển nguồn nhân lực dầu khí theo tiêu chuẩn quốc tế; ưu tiên đào tạo bổ sung

cho những khâu còn thiếu, chuyên gia thuộc các lĩnh vực mũi nhọn. Xây dựng chế

độ thù lao và các chế độ, chính sách đặc thù áp dụng cho các hoạt động tìm kiếm,

thăm dò và khai thác dầu khí ở trong nước và nước ngoài. Tăng cường nghiên cứu,

ứng dụng và chuyển giao công nghệ. Xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ

25

đầu ngành, có trình độ cao. Có thể kết luận rằng, Nghị quyết 41 của Bộ Chính trị là

động lực bứt phá cho sự tăng trưởng trong ngành Dầu khí Việt Nam khi đảm bảo sự

phát triển nội lực trong nước trước tình hình diễn biến phức tạp của thị trường xăng

dầu thế giới và tạo điều kiện để ngành Dầu khí phát triển trong giai đoạn khó khăn

từ năm 2015 đến 2025 hay 2035.

Đến cuối năm 2015, nghị định số 95 được ban hành với nội dung về quy định

chi tiết một số điều cần sửa đổi và bổ sung dành cho Luật Dầu khí Việt Nam, tạo ra

một khung khổ pháp lý hoàn chỉnh, quy định đầy đủ chức năng, quyền hạn, trách

nhiệm của các bộ, ngành, địa phương, Bộ Công Thương và Tập đoàn Dầu khí Việt

Nam trong các nội dung về đấu thầu dự án tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí;

hợp đồng dầu khí; thực hiện hoạt động dầu khí; trữ lượng và phát triển mỏ; thu dọn

công trình cố định, thiết bị và phương tiện phục vụ hoạt động dầu khí cũng như các

quy định quản lý nhà nước về hoạt động dầu khí. Ngoài ra, tiếp tục duy trì ký kết

hợp hợp tác cũng như tạo điều kiện khai thác và sản xuất dầu khí với các doanh

nghiệp, tổ chức trong và ngoài nước trên lãnh thổ Việt Nam và phù hợp với Công

ước của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982.

Năm 2016, Việt Nam và Liên bang Nga đã đi đến ký kết Hiệp định thư và

Nghị định thư Liên chính phủ về hợp tác thăm dò địa chất, khai thác dầu khí trong

khuôn khổ các liên doanh Rusvietpetro và Vietsovpetro nhằm tạo điều kiện cho các

liên doanh này tiếp tục hoạt động hiệu quả trong thời gian tới. Việc ký kết hai văn

bản này thể hiện sự quan tâm, ủng hộ mạnh mẽ của Chính phủ hai nước đối với lĩnh

vực hợp tác năng lượng dầu khi trong quan hệ giữa hai nước, tạo điều kiện thuận lợi

cho hoạt động sản xuất kinh doanh của 2 doanh nghiệp liên doanh. Đây là hai biểu

tượng tốt đẹp nhất của quan hệ hợp tác hữu nghị toàn diện, truyền thống giữa Việt

Nam và Liên bang Nga. Tại Việt Nam, Vietsovpetro luôn là đầu tàu chủ lực trong

khai thác dầu khí của PVN với lịch sử hơn 30 năm phát triển, đóng vai trò định

hướng quan trọng cho việc PVN tiếp tục mở rộng hợp tác cùng các đối tác của Liên

bang Nga trong hoạt động khai thác dầu khí trên thềm lục địa Việt Nam. Tại Nga,

doanh nghiệp Rusvietpetro đã dần có những đóng góp trong công nghiệp khai thác

dầu tại Nga kể từ năm 2010. Hoạt động hợp tác này dựa trên quan hệ hợp tác truyền

26

thống đặc biệt giữa hai nước được hình thành và củng cố qua nhiều thế hệ, tiếp tục

khẳng định vai trò đối tác chiến lược toàn diện giữa Việt Nam và Liên bang Nga.

Năm 2018, thỏa thuận về các điều kiện cơ bản tham gia Hợp đồng phân chia

sản phẩm dầu khí Lô 09-2/09 trên thềm lục địa Việt Nam giữa Tập đoàn Dầu khí

Việt Nam (PVN) và Zarubezhneft được ký kết. Cụ thể, việc ký kết Thỏa thuận trên

phù hợp với chủ trương chuyển nhượng của PVN và PVEP, thông lệ ngành công

nghiệp dầu khí được thực hiện vào tháng 5 năm 2019. Với nội dung chính là việc

chuyển nhượng một phần quyền lợi tham gia của PVEP tại Dự án Lô 09-2/09 sẽ

giúp cho PVEP chia sẻ rủi ro trong việc triển khai dự án, giảm bớt áp lực về nguồn

vốn đầu tư đặc biệt trong bối cảnh thủ tục đầu tư dự án dầu khí còn nhiều khó khăn,

vướng mắc, góp phần sớm đưa dự án vào giai đoạn phát triển để có được dòng dầu

khai thác trong một tương lai không xa. Đồng thời đây là minh chứng cho việc tiếp

tục duy trì và nâng tầm quan hệ hợp tác kinh doanh giữa PVEP và Vietsovpetro nói

riêng cũng như các đối tác của Nga nói chung trên nguyên tắc các bên liên quan

cùng có lợi.

Cũng trong năm 2018, bản ghi nhớ giữa Bộ Công thương Việt Nam và Bộ

Năng lượng Liên bang Nga về hợp tác cung cấp khí tự nhiên hóa lỏng và phát triển

nhiệt điện khí tại Việt Nam. Việc ký kết văn bản này nhằm bổ sung thêm những

điều kiện cần thiết để mở rộng lĩnh vực dầu khí tại Việt Nam, nâng cao và củng cố

mối quan hệ bền vững giữa hai nước trong các lĩnh vực hợp tác từ trước tới nay.

Đây chính là tiền đề cho việc ký kết biên bản ghi nhớ về hợp tác giữa Công ty cổ

phần Đại chúng Gazprom, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và UBND tỉnh Quảng Trị

đã được hoàn thành vào cuối năm. Nội dung chính của biên bản hợp tác hướng đến

lĩnh vực năng lượng khí triển khai tại tỉnh Quảng Trị, trong đó, PVN có vai trò tư

vấn giúp đỡ cả hai phía để thực hiện hoá dự án hợp tác, phía Gazprom đóng vai trò

là nhà đầu tư dự án xây dựng Nhà máy điện khí Quảng Trị 340 MW để xử lý khí lấy

nguồn khí từ mỏ Báo Vàng, theo đó, dự án này sẽ đóng góp tích cực vào phát triển

kinh tế – xã hội của tỉnh Quảng Trị. Việc một trong những công ty dầu khí hàng đầu

nước Nga đặt trọng tâm đầu tư vào Việt Nam cho thấy sự quyết tâm và coi trọng

trong hợp tác kinh tế trong lĩnh vực dầu khí tại nước ta. Cả hai quốc gia đều tiếp tục

27

khẳng định tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng hoạt động của các doanh

nghiệp đến từ Việt Nam hay Nga trong lĩnh vực này trên phạm vi lãnh thổ hai nước;

đẩy mạnh phát triển hợp tác trong các lĩnh vực tiềm năng như lọc dầu và hóa dầu,

xây dựng các nhà máy điện sử dụng nhiên liệu từ khí, cung cấp cho Việt Nam khí

thiên nhiên hóa lỏng và xây dựng hạ tầng phù hợp, sản xuất nhiên liệu cho động cơ

chạy bằng khí đốt.

Đầu năm 2020, quyết định 84 của Tổng cục Hải quan được ban hành với nội

dung gia hạn áp dụng chế độ doanh nghiệp ưu tiên đối với Liên doanh Dầu khí Việt

- Nga Vietsovpetro. Với vị thế là doanh nghiệp hàng đầu trong lĩnh vực dầu khí và

có kinh nghiệm hơn 30 năm nay, Vietsovpetro tiếp tục là một trong những doanh

nghiệp được hưởng chế độ ưu tiên đầu tiên trong lĩnh vực hải quan. Cụ thể, được

hưởng các chế độ như miễn kiểm tra chứng từ, miễn kiểm tra thực tế hàng hóa;

thông quan bằng tờ khai chưa hoàn chỉnh; ưu tiên thứ tự làm thủ tục hải quan…

Đây tiếp tục là một trong những chính sách ưu đãi hàng đầu dành cho doanh nghiệp

liên doanh hoạt động trong lĩnh vực dầu khí tại Việt Nam, một lần nữa thể hiện sự

quan tâm kịp thời, tái khẳng định vai trò của Việt Nam trong việc tạo điều kiện cho

sự phát triển trong hoạt động dầu khí dành cho sự hợp tác với Liên bang Nga trong

thời kỳ mới.

Ở các hạng mục khác, ngân hàng SHB, Ngân hàng Đầu tư quốc tế và Ngân

hàng Hợp tác Kinh tế quốc tế cũng đã có các thỏa thuận hợp tác để tài trợ vốn cho

các dự án đầu tư của doanh nghiệp hai nước cũng như danh mục 20 dự án ưu tiên

hợp tác đầu tư giữa Việt Nam - Liên bang Nga, với vốn đầu tư 10 tỷ USD. Ngoài ra,

còn có các dự án triển vọng trong các lĩnh vực mới như nông nghiệp, dược liệu, vốn

đầu tư khoảng 500 triệu USD…

Việc tham gia các hiệp định tự do thương mại và thực thi các chính sách khác

giữa Việt Nam và Liên bang Nga đã phần nào đẩy mạnh hợp tác dầu khí giữa hai

nước trong những năm trở lại đây. Để từ đó, làm nền tảng để phát triển hợp tác toàn

diện trên các lĩnh vực khác mà hai nước đang nỗ lực thực hiện để tương xứng với

tiềm năng của tình hữu nghị của cả hai phía Việt Nam và Liên bang Nga.

28

2.1.2. Đầu tư

Việt Nam trong những năm gần đây đã trở thành một trong những nước hấp

dẫn nhất thu hút đầu tư nước ngoài. Theo các chuyên gia, đây là quốc gia thứ hai ở

châu Á, sau Trung Quốc, về độ hấp dẫn đầu tư. Sự gia tăng nhanh chóng đầu tư

trong nước cũng gắn liền với cải cách kinh tế đang diễn ra và tài nguyên thiên nhiên

phong phú.

Đầu tư trực tiếp nước ngoài tập trung vào hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế

Việt Nam. Theo Báo cáo tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2019 của Bộ Kế

hoạch và Đầu tư Việt Nam, cơ cấu địa lý của các khoản đầu tư luỹ kế tính đến năm

2019 như sau, đứng đầu trong số 135 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vẫn là Hàn

Quốc với 67,7 tỷ USD, chiếm 16,1% tổng vốn đầu tư; tiếp sau đó là Nhật Bản (58,4

tỷ USD, chiếm 18,7% tổng vốn đầu tư). Trong bảng xếp hạng này, Liên bang Nga

đứng ở vị trí thứ 22. Số tiền đầu tư đăng ký tích lũy vào cuối năm 2019 lên tới 1,1 tỷ

USD (123 dự án). Ở chiều ngược lại Việt Nam cũng đã có 22 dự án đầu tư vào Liên

bang Nga với tổng số vốn đầu tư mới và tăng vốn đạt gần 3 tỷ USD. Các dự án nuôi

bò sữa và chế biến sữa hơn 2 tỷ USD do TH True Milk đầu tư tại Moscow và Kaluga

đã trở thành điểm sáng trong quan hệ Việt Nam – Liên bang Nga.

Hiện nay, Nga đang thực hiện hơn một trăm dự án đầu tư tại Việt Nam với số

vốn đăng ký khoảng 1 tỷ USD. Đầu tư của Nga tập trung chủ yếu vào lĩnh vực dầu

khí, công nghiệp, chế tạo, khai khoáng, giao thông vận tải, viễn thông… Khối

lượng vốn lớn nhất của Nga tập trung vào khai thác dầu khí và sản xuất dầu khí

chiếm 50% tổng vốn đầu tư (khoảng 556 triệu USD). Ưu tiên và lĩnh vực tương tác

hứa hẹn nhất giữa hai nước vẫn là tổ hợp nhiên liệu và năng lượng, chủ yếu là sản

xuất dầu khí và công nghiệp điện.

Giai đoạn gần đây, tập đoàn Rosneft đẩy mạnh đầu tư vào lĩnh vực dầu khí tại

thềm lục địa Việt Nam khi tham gia vào các dự án thăm dò, một dự án sản xuất khí

ngưng tụ tại Lô 06.1 chứa ba trường khí ngưng tụ, cụ thể là Lan Tài, Lan Đô và PLD.

Trong số những dự án đầu tư dầu khí tại Việt Nam, phải kể đến dự án đầu tư

xây dựng Nhà máy Nhiệt điện khí Quảng Trị được ký kết vào cuối năm 2018 giữa

Tập đoàn Gazprom, Tập đoàn dầu khí Việt Nam và UBND tỉnh Quảng Trị. Hiện dự

29

án đang trong giai đoạn triển khai xây dựng từ giữa năm 2019, đây là một trong

những dự án trọng điểm trong giai đoạn gần đây với ý nghĩa phát triển trung tâm

điện năng ở miền Trung.

Đến năm 2019, Liên doanh Vietsovpetro cùng các công ty liên doanh khác

như Rosneft Vietnam và Vietgazprom đang đầu tư phát triển dự án mỏ Cá Tầm với

mục tiêu trở thành mỏ thứ sáu trong số các mỏ dầu đang được khai thác đang vào

thực hiện.

Với việc đang thực thi các chính sách thu hút đầu tư nước ngoài trong hầu hết

các lĩnh vực của nền kinh tế, trong đó có lĩnh vực dầu khí, thì đây là điều kiện thuận

lợi để các công ty liên doanh của Liên bang Nga và Việt Nam tiếp tục tìm kiếm đối

tác mới và các dự án mới để mở rộng hợp tác trong lĩnh vực này tại Việt Nam.

Quan hệ hữu nghị chiến lược giữa Liên bang Nga và Việt Nam dựa trên cơ sở

lâu dài nền tảng hợp tác song phương, tương trợ và hữu nghị của hai nước. Trong

thế kỷ XXI, quan hệ Việt – Nga đã đạt được động lực mới trong hệ thống quan hệ

quốc tế ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương với mô hình mới dựa trên lẫn nhau.

Liên bang Nga luôn đề cao Việt Nam trong chính sách hướng Đông bởi nhiều lý do

từ lịch sử, vị trí địa lý, nguồn tài nguyên, kinh tế – xã hội ổn định, các chính sách

thể hiện sự quan tâm và coi trọng đối tác truyền thống, trong đó yếu tố lịch sử quan

hệ giữa hai nước đóng vai trò quan trọng nhất.

2.2. Thực trạng hoạt động dầu khí trong giai đoạn 2015 – 2019

2.2.1. Tình hình hoạt động dầu khí của Liên doanh Vietsovpetro trong giai đoạn

2015 - 2019

Tính đến nay, lịch sử hoạt động dầu khí của Vietsovpetro đã trải qua gần 40

năm thăng trầm. Trong thời gian khoảng thời gian đó, Vietsovpetro đã tiến hành các

công tác tìm kiếm, thăm dò trên hàng chục lô hợp đồng ở thềm lục địa Việt Nam,

đồng thời tiến hành khoan, tìm kiếm, thăm dò và đã phát hiện các mỏ dầu chủ đạo,

đặt nền móng phát triển ngành Dầu khí Việt Nam.

30

2.1.1.1. Sản lượng khai thác dầu khí của Liên doanh Vietsovpetro

Trong giai đoạn 5 năm trở lại đây, theo Báo cáo tình hình hoạt động sản xuất -

kinh doanh của Liên doanh Vietsovpetro qua các năm từ 2015 đến 2019, doanh

nghiệp này đã liên tiếp cố gắng vượt qua nhiều khó khăn và tiếp tục hoàn thành

những chỉ tiêu về sản lượng khai thác dầu khí. Sản lượng khai thác dầu khí của

Vietsovpetro thể hiện qua bảng 2.1 như sau:

Bảng 2.1: Sản lƣợng khai thác dầu khí của Liên doanh Vietsovpetro

Năm Năm Năm Năm Năm Sản lượng khai thác 2015 2016 2017 2018 2019

Dầu thô 5,2 5,04 4,772 4,77 3,75 (đơn vị: triệu tấn)

1,4 1,68 1,6 1,7 1,09 Khí tự nhiên (đơn vị: tỷ m3)

Nguồn: Vietsovpetro, 2019

Theo số liệu cung cấp trong Báo cáo tình hình hoạt động sản xuất – kinh

doanh thường niên của Doanh nghiệp Liên doanh Vietsovpetro, tình hình sản lượng

khai thác dầu thô và khí tự nhiên có xu hướng chung giảm dần theo từng năm.

Trong năm 2015, sản lượng khai thác vượt chỉ tiêu đề ra trong Báo cáo tình hình

hoạt động năm 2014 của Vietsovpetro khi đạt mức 5,2 triệu tấn dầu thô và 1,4 tỷ

mét khối khí. Việc khai thác vượt chỉ tiêu đến từ nhiều yếu tố như nghiên cứu khoa

học, khảo sát thiết kế, địa vật lý, vận tải biển, vận tải ô tô, cơ điện, kho cảng cùng

các hoạt động phụ trợ đã tiến hành đồng bộ, đáp ứng kịp thời cho nhu cầu sản xuất,

góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kế hoạch của Vietsovpetro năm 2015.

Năm 2016, sản lượng khai thác khí tự nhiên có chiều hướng gia tăng khi sản

lượng đạt 1,68 tỷ mét khối, tăng 20% so với cùng kỳ năm 2015. Xu hướng sản

lượng khai thác giảm bắt đầu từ năm 2016 khi đạt 5,04 triệu tấn, thấp hơn 0,16 triệu

tấn, giảm tương đương 3,07% so với năm 2015. Tuy nhiên, đây là hệ quả của việc

Vietsovpetro bắt đầu thực hiện chính sách kiệm chi phí trong bối cảnh tình hình giá

31

dầu thế giới tiếp tục giảm trong năm 2016 ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh

doanh và sản xuất của doanh nghiệp.

Sang đến năm 2017, sản lượng khai thác dầu thô và khí tự nhiên tiếp tục giảm

trung bình 5% so với năm 2016. Đây có thể nói là năm đáng quên của doanh nghiệp

khi không thể hoàn thành chỉ tiêu khai thác đề ra trong Báo cáo hoạt động thường

niên cuối năm 2016 ở mức 5 triệu tấn dầu thô khai thác cùng 1,88 tỷ mét khối khí tự

nhiên. Nguyên nhân được chỉ ra do doanh nghiệp đã mắc sai lầm trong phân tích

đánh giá tình hình ngập nước tại các mỏ khai thác đã có tuổi đời đến 30 năm, cùng

với đó là điều kiện địa chất đặc biệt phức tạp và sự lắng đọng muối trong thiết bị

lòng giếng của một số mỏ cũng cản trở quá trình khai thác trong năm.

Nhận thấy những khó khăn gặp phải năm 2017, Vietsovpetro đã nhận được sự

trợ giúp kịp thời từ hội đồng lãnh đạo tập đoàn hai nước là Petrovietnam và

Zarubezhneft cùng Đại sứ quán Nga tại Việt Nam. Để trong năm 2018, doanh

nghiệp đã vượt qua những khó khăn và ổn định lại tình hình sản xuất - kinh doanh,

sản lượng khai thác trong năm, đồng thời, sản lượng khí tự nhiên gia tăng tương

đương 6,25% so với cùng kỳ năm 2017.

Tuy nhiên sang năm 2019, doanh nghiệp tiếp tục gặp khó khăn trong khai thác

khi sản lượng dầu thô và khí tự nhiên giảm trung bình 29% so với năm 2018.

Nguyên nhân được được ra khi tình trạng khai thác dần trở nên phức tạp, điều kiện

thời tiết ngày càng khắc nghiệt và bất lợi cho công cuộc khai thác, cùng với đó là

giá dầu trên thế giới vẫn duy trì ở mức thấp. Năm 2019 là năm ghi dấu nhiều mốc

quan trọng về những kết quả đạt được trong 38 năm hoạt động của Vietsovpetro.

Theo đó, sau 38 năm hoạt động, Vietsovpetro đã đạt tổng luỹ kế 235 triệu tấn dầu

khai thác; 35 tỷ m3 khí cung cấp về bờ.

2.1.1.2. Doanh thu của Liên doanh Vietsovpetro

Trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019, tình hình kinh doanh – sản xuất

của Liên doanh Vietsovpetro gặp nhiều khó khăn đã kéo theo tình trạng tổng doanh

thu cũng như lợi nhuận về phía Nga và Việt Nam không được ổn định, điều này được

thể hiện qua bảng 2.2 về tổng doanh thu và lợi nhuận của Vietsovpetro như sau:

32

Bảng 2.2: Doanh thu và lợi nhuận hàng năm của Vietsovpetro

Đơn vị: triệu USD

Năm Năm Năm Năm Năm Danh mục 2015 2016 2017 2018 2019

Tổng doanh thu 2.190 1.700 1.970 2.290 1.790

Lợi nhuận phía Nga 208,1 121 143,1 200,3 223,2

Lợi nhuận phía Việt Nam 216,6 126 146,4 208,5 223,2

Nguồn: Vietsovpetro, 2019

Xét về tổng doanh thu của doanh nghiệp, nhìn vào tình hình hoạt động sản

xuất kinh doanh của Vietsovpetro có thể thấy, tốc độ tăng trưởng trung bình chỉ ở

mức âm 3%. Trong đó, những năm có tổng doanh thu cao nhất là năm 2015 và 2018

ở mức trên 2 tỷ USD. Đây là những năm thành công về mặt sản xuất kinh doanh của

doanh nghiệp khi hoàn thành các chỉ tiêu mà Ban lãnh đạo đề ra trong năm hoạt

đọng. Nguyên nhân dẫn đến thắng lợi này nằm ở việc các cơ sở hạ tầng liên quan

được đồng bộ từ khảo sát thiết kế, địa vật lý; đến vận tải biển, vận tải ô tô, cơ điện,

kho cảng cùng các hoạt động phụ trợ; đáp ứng kịp thời cho nhu cầu sản xuất. Ngoài

ra, một phần nhờ sự trợ giúp kịp thời từ chính phủ hai nước với các chính sách hỗ

trợ doanh nghiệp tái cơ cấu bộ máy tổ chức, tiết kiệm chi phí phát sinh để đảm bảo

hoạt động khai thác diễn ra được thuận lợi nhất.

Tổng doanh thu của doanh nghiệp ở mức thấp nhất vào năm 2016 với chỉ 1,7

tỷ USD, nguyên nhân dẫn đến tình trạng giảm sút trong năm này đến từ việc sản

lượng khai thác chỉ đạt mức thấp và giá dầu liên tục giảm trong những tháng đầu

năm đã ảnh hưởng rất lớn đến tình hình hoạt động của liên doanh.

Đến năm 2019, tình hình sản xuất gặp nhiều khó khăn đã dẫn đến sự suy giảm

về tổng doanh thu trong năm chỉ đạt 1,79 tỷ USD, giảm 21,83% so với năm 2018.

Nguyên nhân dẫn đến sự giảm sút doanh thu trong năm này bắt nguồn từ việc khai

thác sản xuất gặp nhiều khó khăn khi các mỏ dầu lâu đời đã dần cạn kiệt, cùng với

33

đó là điều kiện khí hậu ngày càng trở nên khắc nghiệt khiến công cuộc thăm dò,

triển khai các dự án khoan và tìm kiếm các mỏ dầu mới gặp nhiều trở ngại hơn.

Xét về lợi nhuận giữa hai phía Việt Nam và Liên bang Nga trong Liên doanh

Vietsovpetro, tốc độ tăng trưởng trung bình ở mức 7%. Giai đoạn năm 2016 – 2017

là giai đoạn hai phía Tập đoàn dầu khí Việt Nam và Zarubezhneft của Liên bang

Nga có lợi nhuận thấp nhất trong giai đoạn 5 năm trở lại đây. Nguyên nhân dẫn đến

tình trạng suy giảm lợi nhuận trong 2 năm này do hoạt động kinh doanh gặp nhiều

khó khăn khi giá dầu thế giới có xu hướng giảm kể từ sau cuộc khủng hoảng giá

dầu từ cuối năm 2014, thêm vào đó, là những khó khăn về thời tiết, khí hậu khi khu

vực thềm lục địa Việt Nam hàng năm vẫn chịu ảnh hưởng bởi các áp thấp nhiệt đới

và các cơn bão gây cản trở tình hình khai thác sản xuất của doanh nghiệp.

Đến năm 2019, lợi nhuận về hai phía Việt Nam và Liên bang Nga ở mức cao

nhất trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019, với tốc độ tăng trưởng 11,5% so

với cùng kỳ năm 2018. Có ba yếu tố chính dẫn đến việc lợi nhuận đạt ở mức cao

như vậy bao gồm: một là, giá dầu trên thế giới bắt đầu tăng trở lại từ giữa năm 2017

và ổn định đều trong các năm sau đó; hai là, các chính sách hỗ trợ từ phía chính phủ

hai nước giúp doanh nghiệp tái cơ cấu ổn định, cắt giảm chi phí sản xuất; ba là,

doanh nghiệp tập trung phát huy sức mạnh đoàn kết nội bộ và cải tiến các kỹ thuật

trong khâu khai thác sản xuất.

Theo báo cáo thống kê mới nhất của Liên doanh Vietsovpetro thì sau 35 năm

hoạt động, liên doanh đã khai thác luỹ kế được 220 triệu tấn dầu thô, doanh thu bán

dầu đạt trên 74 tỷ USD, nộp ngân sách và lợi nhuận của Việt Nam là 47 tỷ USD.

Liên bang Nga thu lợi nhuận khoảng 11 tỷ USD.

Không thể phủ nhận Liên doanh Vietsovpetro chính là mô hình hợp tác quốc

tế kiểu mẫu thành công nhất ở Việt Nam. Tính đến thời điểm hiện tại, chưa có

doanh nghiệp liên doanh nào hoạt động hiệu quả như Vietsovpetro trong tìm kiếm

thăm dò và khai thác dầu khí, đóng góp to lớn vào sự phát triển của nền kinh tế Việt

Nam, đồng thời, góp phần củng cố mối quan hệ hữu nghị truyền thống và đối tác

chiến lược toàn diện giữa Việt Nam và Liên bang Nga. Trích lời Tổng thống Nga

Vladimir Putin khi nhắc đến tầm quan trọng của Liên doanh Vietsovpetro: “Ngày

34

nay, Vietsovpetro không chỉ là một tổ hợp sản xuất dầu khí lớn trong khu vực mà

còn là đòn bẩy thúc đẩy sự hợp tác/đa dạng giữa Liên bang Nga và Việt Nam”.

2.2.2. Hoạt động hợp tác dầu khí của một số tập đoàn dầu khí của Liên bang

Nga tại Việt Nam giai đoạn 2015 – 2019

Trước những thành công mang tính biểu tượng của Liên doanh Vietsovpetro

dưới sự hợp tác của Tập đoàn dầu khí Việt Nam và Tập đoàn Zarubezhneft, thì đã

xuất hiện nhiều hơn các tập đoàn dầu khí hàng đầu của Liên bang Nga đặt quan hệ

hợp tác với Việt Nam, không thể không kể đến hai tập đoàn lớn mạnh như Rosneft và

Gazprom. Trong những năm trở lại đây hai tập đoàn này đã có những sự đầu tư mạnh

mẽ vào hoạt động dầu khí tại thềm lục địa Việt Nam. Cả hai tập đoàn trên đều thể

hiện sự quyết tâm tham gia cạnh tranh tại thị trường Việt Nam trong thời kỳ mới.

2.2.2.1. Hoạt động hợp tác dầu khí của Tập đoàn Gazprom

Đôi nét về Tập đoàn Gazprom, đây là công ty năng lượng toàn cầu lớn nhất

nước Nga, còn được biết đến là công ty tinh lọc khí thiên nhiên lớn nhất thế giới.

Lĩnh vực hoạt động chủ yếu tập trung vào thăm dò địa chất, sản xuất, vận chuyển,

lưu trữ, xử lý và bán khí đốt, khí ngưng tụ và dầu, bán khí đốt làm nhiên liệu

phương tiện, cũng như sản xuất và tiếp thị nhiệt điện. Gazprom hiện chiếm 12% sản

lượng khí toàn cầu và 69% sản lượng khí đốt tại Liên bang Nga. Mục tiêu chiến

lược của Gazprom là trở thành công ty dẫn đầu trong số các công ty năng lượng

toàn cầu bằng cách đa dạng hóa thị trường bán hàng, đảm bảo nguồn cung đáng tin

cậy, nâng cao hiệu quả hoạt động và đáp ứng tiềm năng khoa học và kỹ thuật. Công

ty xem phân khúc phát điện là một trong những động lực mạnh mẽ nhất cho sự tăng

trưởng tiềm năng trong tiêu thụ khí đốt toàn cầu. Do đó, Gazprom tiếp tục theo dõi

thị trường về các cơ hội kinh doanh hấp dẫn, bao gồm xem xét việc mua lại cổ phần

tiềm năng trong các tài sản sản xuất điện nước ngoài để đảm bảo nguồn cung cấp

khí đốt và LNG cho các tài sản đó. Hiện tại, Gazprom đang tích cực triển khai các

dự án phát triển khí đốt trên phạm vi toàn cầu, trong đó có những dự án quy mô ở

Việt Nam trong những năm trở lại đây.

Tập đoàn Gazprom cũng có cổ phần trong một số dự án dầu khí tại Việt Nam

ở giai đoạn sản xuất. Về sản xuất khí ngưng tụ và khí tự nhiên, cổ phần lớn nhất

35

trong số đó bao gồm các dự án trong các ở khu vực Việt Nam trên Biển Đông (49%

tỷ lệ tham gia của Tập đoàn) như sau:

Bảng 2.3: Các dự án chủ chốt mà Tập đoàn Gazprom đang tham gia tại

Việt Nam

Năm tham gia Tên dự án Công suất/Mục đích

1,9 tỷ mét khối khí 2015 Lô 129-132 435.900 tấn khí ngưng tụ

Bể Mộc Tinh và Hải Thạch 2,14 tỷ mét khối khí 2016 (Lô 05-2 và 05-3) 573.000 tấn khí ngưng tụ

Xây dựng các cơ sở LNG và Cung cấp nhiên liệu cho giao thông

2017 Trạm nạp LNG/CNG tại công cộng đô thị và ngoại thành

miền Nam Việt Nam của thành phố Hồ Chí Minh

Xây dựng nhà máy sản xuất Cung cấp thêm nguồn điện cho 2018 LNG tại Quảng trị toàn khu vực miền trung

Nguồn: Tập đoàn Gazprom, 2019

Trong báo cáo thường niên năm 2015, Tập đoàn Gazprom tiếp tục triển khai

tìm kiếm, khám phá và phát triển các lĩnh vực bên ngoài Liên bang Nga, đồng thời

tuân thủ nghiêm ngặt các hợp đồng liên quan. Các dự án quốc tế hiện tại trên phạm

vi toàn thế giới bao gồm cả các dự án tại Việt Nam. Hoạt động trong năm này chủ

yếu là khoan thăm dò (hai giếng có tổng cộng 8.740 m) tại Lô 129-132 ngoài khơi

Việt Nam, sản lượng khai thác tổng cộng 1,9 tỷ mét khối khí và 435.900 tấn khí

ngưng tụ trong năm 2015.

Bước sang năm 2016, hai bể Mộc Tinh và Hải Thạch đưa vào khai thác nằm

trong Lô 05-2 và 05-3 tại thềm lục địa Việt Nam trong khu vực biển Đông (49% cổ

phần nắm giữ bởi Gazprom). Năm 2016, tổng lượng sản xuất đạt 2,14 tỷ mét khối

khí và 573 nghìn tấn khí ngưng tụ (so sánh tương ứng với năm 2015 tăng về sản

lượng 0,24 tỷ mét khối khí và 137,1 nghìn tấn). Cùng năm, Gazprom Gazmotor

Toplivo tham gia cùng với Gazprom EP International và PVGas đã thành lập một

36

liên doanh Pvgazprom cung cấp khí tự nhiên cho các phương tiện tại Việt Nam.

Vốn đầu tư của liên doanh ước tính 9,5 tỷ USD được phân phối như sau: Gazprom

Gazmotor Toplivo - 35,5%; Gazprom EP International. - 35,5%; và PVGas - 29%.

Liên doanh khi đi vào hoạt động sẽ đóng vai trò là nhà điều hành để thúc đẩy thị

trường nhiên liệu khí thiên nhiên NGV trên toàn quốc. Tất cả các bước cần thiết đã

được thực hiện để cập nhật nghiên cứu khả thi của dự án về mặt khảo sát thị trường,

công nghệ được lựa chọn và vị trí của cơ sở hạ tầng sản xuất và phân phối, bao gồm

hồ sơ kỹ thuật và tài chính quan trọng của dự án thí điểm: nhà máy hóa lỏng khí tự

nhiên quy mô nhỏ sản xuất tới 20 tỷ mét khối mỗi năm. Ngoài ra, Công ty đã ký

thỏa thuận về ý định tìm hiểu chung triển khai các dự án phát điện tại Trung Quốc

(với Tập đoàn dầu khí Trung Quốc) và Việt Nam (với Tập đoàn Dầu khí Việt Nam).

Công ty có kế hoạch tiếp tục những nỗ lực này vào năm 2017. Theo chỉ dẫn của Hội

đồng quản trị của Gazprom, công ty giám sát thị trường phát điện của các nước

châu Á triển vọng nhất - Trung Quốc và Việt Nam.

Thời điểm năm 2017, hoạt động khai thác và sản xuất tại hai bể Mộc Tinh và

Hải Thạch tiếp tục đạt 2,1 tỷ mét khối khí tương đương sản lượng năm 2016. Ngoài

ra, Công ty tiếp tục dự án thúc đẩy thị trường nhiên liệu khí thiên nhiên NGV tại

Việt Nam khi Liên doanh Pvgazprom NGV đã hoàn thành nghiên cứu khả thi về

Xây dựng các cơ sở LNG và Trạm nạp LNG/CNG ở miền Nam Việt Nam. Tại Việt

Nam, công ty kinh doanh nhiên liệu NGV của Công ty chủ yếu nhằm vào giao

thông công cộng đô thị và ngoại thành của thành phố Hồ Chí Minh.

Đến năm 2018, theo báo cáo thường niên của Tập đoàn Gazprom, sản lượng

khai thác khí tự nhiên tại hai bể lớn nhất là Mộc Tinh và Hải Thạch đạt mức 2,2 tỷ

mét khối, tăng 4,8% so với năm 2017. Hiện trạng dự án thúc đẩy thị trường nhiên

liệu NGV tại Việt Nam vào năm này bao gồm:

- Tập đoàn đã hoàn thành và phê duyệt một nghiên cứu khả thi về dự án cung

cấp cho việc xây dựng nhà máy hóa lỏng khí tự nhiên quy mô nhỏ với công suất

hàng năm là 20 tỷ mét khối, và một mạng lưới trạm nạp LNG/CNG ở các tỉnh phía

Nam Việt Nam.

37

- Một xác nhận chính thức về việc cung cấp khí đốt tự nhiên cho một dự án

thí điểm cho đến năm 2033 được lấy từ PVGas.

- Tập đoàn đã thuê một khu đất để xây dựng cơ sở LNG tại Quảng Trị. Dự án

đã được phê duyệt để thực hiện theo hợp tác giữa các chính phủ với sự tư vấn của

PVN. Các tài liệu liên quan đã được chuẩn bị để bắt đầu các thủ tục đấu thầu.

Kể từ khi gia nhập thị trường dầu khí Việt Nam vào năm 2008, sau 10 năm,

Tập đoàn Gazprom đang ngày càng đầu tư mở rộng thêm trong hoạt động dầu khí

và năng lượng tại Việt Nam. Điều này thể hiện sự quan tâm đặc biệt đến tiềm năng

phát triển của ngành dầu khí Việt Nam trong những năm trở lại đây. Với thế mạnh

của mình trong cung cấp khí tự nhiên hàng đầu thế giới, Tập đoàn Gazprom hứa hẹn

sẽ đưa lĩnh khai thác và sản xuất vực khí tự nhiên, khí ngưng tụ và khí thiên nhiên

hóa lỏng tại Việt Nam lên một tầm cao mới trong tương lai gần với các dự án đầu

tư đang được gấp rút triển khai để sớm đưa vào hoạt động. Việc hợp tác giữa Tập

đoàn Gazprom với Tập đoàn dầu khí Việt Nam tiếp tục cho thấy tầm quan trọng

của Việt Nam trong quan hệ đối tác chiến lược của Liên bang Nga trong mục tiêu

gia tăng tầm ảnh hưởng tại khu vực biển Đông nói riêng và châu Á - Thái Bình

Dương nói chung.

2.2.2.2. Hoạt động hợp tác dầu khí của Tập đoàn Rosneft

Tại Liên bang Nga, có rất nhiều tập đoàn dầu khí hàng đầu thế giới, và

Rosneft chính là một trong số đó. Được biết đến là Tập đoàn dầu khí công cộng

toàn cầu lớn nhất thế giới, đồng thời cũng là tập đoàn hàng đầu tại xứ sở Bạch

Dương. Lĩnh vực hoạt động chủ yếu tập trung vào thăm dò và thẩm định các mỏ

hydrocacbon, sản xuất dầu khí, khí ngưng tụ, các dự án phát triển mỏ ngoài khơi,

chế biến nguyên liệu, bán dầu, khí đốt và các sản phẩm tinh chế trên lãnh thổ Nga

và nước ngoài. Quy mô hoạt động của Tập đoàn: 25 quốc gia trên thế giới, 78 khu

vực hoạt động tại Nga, 70% mức độ nội địa hóa sản xuất thiết bị nước ngoài trong

lãnh thổ Liên bang Nga được dự báo vào năm 2025, 13 nhà máy lọc dầu ở Nga, 6%

cổ phần trong sản xuất dầu toàn cầu, 41% cổ phần trong sản xuất dầu ở Nga. Tập

đoàn Rosneft bước vào thị trường Việt Nam năm 2013 thông qua TNK Việt Nam,

công ty hiện nắm giữ 35% cổ phần, đồng thời là nhà điều hành Lô 06-1 và 32,67%

38

cổ phần của đường ống Nam Côn Sơn dùng vận chuyển khí đốt và condensat về nhà

máy khí Dinh Cố và nhà máy khí điện đạm Phú Mỹ. Hiện thời, Rosneft hiện diện tại

Việt Nam với 2 công ty con là Rosneft Vietnam tham gia điều hành khai thác Lô

06-1 và Rosneft Pipelines Vietnam tham gia vào đường ống Nam Côn Sơn.

Trong giai đoạn 5 năm trở lại đây, Rosneft tiếp tục đẩy mạnh các dự án hoạt

động tại các thị trường mới bên ngoài lãnh thổ nước Nga, trong đó phải kể đến Việt

Nam. Rosneft tham gia vào nhiều dự án sản xuất khí và khí ngưng đọng tại Việt

Nam, trong đó phải kể đến một số dự án tiêu biểu là dự án thăm dò ở PLDD Lô 06-

1 trong đó 35% nắm giữ bởi Rosneft Vietnam (một công ty con thuộc Tập đoàn

Rosneft được thành lập tại Việt Nam), 45% của ONGC (Tập đoàn Dầu khí Ấn Độ)

và 20% còn lại của PVN (Tập đoàn Dầu khí Việt Nam), dự án Lô 06-1 và đường

ống Nam Côn Sơn… được thể hiện chi tiết như sau:

Bảng 2.4: Các dự án chủ chốt mà Tập đoàn Rosneft đang tham gia tại

Việt Nam

Năm tham gia Tên dự án Công suất/Mục đích

Khoan thăm dò PLDD-1X Thăm dò các bể mới trên thềm lục địa 2015 (Lô 06.1) Việt Nam

Lô 06.1 và đường ống 0,6 tỷ mét khối khí 2016 Nam Côn Sơn 15,8 nghìn tấn khí ngưng tụ

Thăm dò bể mới nhằm tìm kiếm tiềm 2017 Thăm dò Lô 05.3/11 năng khai thác mới

Khoan thăm dò TTN-1X Thăm dò nhằm tìm kiếm tiềm năng 2018 (Lô 05.3/11) khai thác mới

Nguồn: Tập đoàn Rosneft, 2019

Vào đầu năm 2015, Rosneft Vietnam đã bắt đầu khoan thăm dò PLDD-1X tại

Lô 06.1 ở ngoài khơi Việt Nam. Lần đầu tiên, Rosneft sẽ trở thành nhà điều hành dự

án khoan ngoài khơi quốc tế và được xác nhận là công ty có năng lực thực hiện các

chương trình khoan ngoài khơi phức tạp, đầy thách thức về mặt kỹ thuật. Đến tháng

8, Rosneft và Công ty Khoan Nhật Bản (JDC) đã ký thỏa thuận cung cấp và vận

39

hành Hakuryu-5, giàn khoan ngoài khơi được sử dụng để khoan giếng thăm dò

trong các dự án Rosneft tại Việt Nam. Giàn khoan này dự kiến sẽ được sử dụng để

khoan hai giếng tại các Lô 06.1 và 05.3/11 tại Nam Côn Sơn ngoài khơi vào năm

2016. Công ty cũng đã ký thỏa thuận chia sẻ sản xuất để phát triển Lô 05.3/11 năm

2013. Rosneft cũng là một thành viên của dự án đường ống Nam Côn Sơn ngoài

khơi liên quan đến xuất khẩu và xử lý khí ngưng tụ được sản xuất tại các khối ngoài

khơi trong lưu vực Nam Côn Sơn (32,7% cổ phần do Rosneft Vietnam nắm giữ,

16,3% do Perenco nắm giữ và 51% do Tập đoàn Dầu khí Việt Nam nắm giữ).

Rosneft Vietnam đã có một số sự kiện quan trọng trong năm 2015 được đánh

dấu bằng kỷ niệm 13 năm hoạt động khai thác ngoài khơi. Đây là một trong những

sự kiện lớn của ngành dầu khí với những số liệu thống kê tốt nhất trên toàn cầu như

vào ngày 1 tháng 5 năm 2015 với 46,6 tỷ mét khối khí được sản xuất tại Lô 06.1

(lưu vực Nam Côn Sơn) do Rosneft Vietnam điều hành kể từ khi bắt đầu đưa vào

khai thác. Những sự kiện này được ban lãnh đạo Petrovietnam đánh giá cao. Và vào

tháng 11 năm 2015, Rosneft Vietnam đã nhận được giải thưởng Quốc gia cao quý,

Huân chương Lao động hạng hai. Các thỏa thuận đã được ký kết vào tháng 8 năm

2015 về việc cung cấp một giàn khoan ngoài khơi và cung cấp thiết bị tải trọng dài

trong khi chuẩn bị khoan hai giếng thăm dò (trong PLD Lô 06.1 và Lô 05.3/11).

Việc khoan giếng thăm dò này đã được lên kế hoạch cho năm 2016 gồm các khảo

sát địa chấn 3D bổ sung trong Lô 06.1 để đánh giá tiềm năng của sự hình thành đầy

hứa hẹn mới.

Bước sang năm 2016, Rosneft bắt đầu khoan giếng thăm dò PLDD-1X tại Lô

06.1 trên thềm lục địa Việt Nam với tư cách là nhà điều hành dự án. Việc khoan

giếng thăm dò đã hoàn thành vào tháng Tư. Dự trữ khí thương mại đã được phát

hiện. Trích lời ông Igor Sechin, Giám đốc điều hành của Tập đoàn, nói về hoạt động

này khi được khởi công vào tháng 3 năm 2016: “Tôi đảm bảo rằng kinh nghiệm của

chúng tôi tại Việt Nam sẽ giúp ích không chỉ cho hoạt động của công ty tại Đông

Nam Á mà còn ứng dụng được trong công tác quy hoạch và thực hiện các dự án ở

những khu vực xa hơn. Tôi muốn nhấn mạnh rằng việc thực hiện dự án này như là

minh chứng tiêu biểu cho quá trình hợp tác với các đối tác tại châu Á - TBD bao

40

gồm Petrovietnam và ONGC. Chúng tôi đánh giá cao vai trò của Chính phủ Việt

Nam khi tạo điều kiện thực hiện và phát triển dự án này trong tương lai”. Giếng

khoan này được hoàn thành vào ngày 11 tháng 4 năm 2016. Việc khoan giếng đã

phát hiện ra trữ lượng khí thương mại lên tới 3,4 tỷ mét khối (trữ lượng có thể phục

hồi). Vào tháng 11 năm 2016, báo cáo đánh giá dự trữ đã được các cơ quan chức

năng của Việt Nam phê duyệt. Dự trữ được khám phá có thể được phát triển bằng

cơ sở hạ tầng hiện có của Lô 06.1.

Lô 06.1 được khai thác trong năm 2016 đã nâng tỷ trọng của Rosneft trong sản

xuất lên tới 0,6 tỷ mét khối khí và 15,9 nghìn tấn khí ngưng tụ. Vào tháng 3 năm

2016, một giếng thăm dò cũng được khoan nhắm mục tiêu sự hình thành PLD tại

Lô 06.1, và vào đầu tháng nó đã được thử nghiệm; Vào tháng 6 năm 2016, các cuộc

điều tra địa chấn 3D ngoài khơi đã được hoàn thành; họ đã nhắm đến việc lập bản

đồ hình thành địa chất đầy hứa hẹn để đảm bảo tăng trưởng hữu cơ hơn nữa. Hiện

tại, dữ liệu thu được trong các cuộc khảo sát đang được xử lý và giải thích.

Với những thành tựu đạt được và đóng góp vào sự phát triển ngành dầu khí

Việt Nam trong những năm qua, Bộ Công Thương của Việt Nam đã trao cho

Rosneft danh hiệu Nhà điều hành của năm 2016. Cũng trong năm này, Công ty tiếp

tục thăm dò thành công tại Lô 05.3/11. Các nghĩa vụ liên quan đến khảo sát địa chấn đã

được đáp ứng đầy đủ và việc khoan giếng thăm dò đầu tiên đã hoàn thành. Theo giấy

phép hiện có, Công ty bắt buộc phải khoan giếng thăm dò thứ hai và đã được lên kế

hoạch cho nửa đầu năm 2018. Ngoài ra, Rosneft đã ký thỏa thuận hợp tác trong lĩnh

vực đào tạo với Tập đoàn dầu khí Việt Nam và Tập đoàn dầu khí Ấn Độ.

Năm 2017, Công ty đã ký thỏa thuận chia sẻ sản xuất để phát triển Lô 05.3/11

– dự án hiện đang ở giai đoạn thăm dò. Rosneft cũng tham gia dự án đường ống

Nam Côn Sơn ngoài khơi, bao gồm vận chuyển và xử lý khí ngưng tụ được sản xuất

tại các khối ngoài khơi trong lưu vực Nam Côn Sơn.

Tình hình sản xuất tại Lô 06.1 năm 2017 (100% dự án) tổng cộng 2,99 tỷ mét

khối khí và 0,07 tỷ tấn khí ngưng tụ (chia sẻ cổ phần sản xuất của Rosneft: 0,6 tỷ

mét khối khí và 14,7 nghìn tấn khí ngưng tụ). Ước tính 3,4 tỷ mét khối trữ lượng

khí thương mại tại chỗ đã được phát hiện tại triển vọng ở PLD của Lô 06.1 thông

41

qua khoan thăm dò, có thể được gắn lại với cơ sở hạ tầng hiện tại của Lô 06.1. Việc

huy động một giàn khoan nửa nổi được lên kế hoạch vào tháng 4 năm 2018 để kích

hoạt lại PLD-1X tốt bằng phương thức mới. Các khảo sát địa chấn 3D đã được thực

hiện trên Lô 06.1 năm 2016 để lập bản đồ có triển vọng hữu ích cho sự hỗ trợ của

tăng trưởng sản lượng trong tương lai. Xử lý và giải thích địa chấn 3D được thực

hiện trong năm 2017 đã xác định một số triển vọng tiềm năng để thăm dò trong thời

gian tới. Đối với Lô 05.3/11, nghĩa vụ cấp phép đối với các cuộc khảo sát địa chấn

tại đây đã được đáp ứng đầy đủ và việc khoan giếng thăm dò đầu tiên đã hoàn thành

vào năm 2016. Công ty đã nỗ lực bảo đảm việc mở rộng chương trình khảo sát của

mình và đã được xác nhận từ Tập đoàn dầu khí Việt Nam và Bộ Công Thương đã

phê duyệt việc gia hạn thăm dò giai đoạn 1 cho đến cuối năm 2018. Việc khoan

giếng thăm dò thứ hai trên Lô 05.3/11 được lên kế hoạch cho nửa cuối năm 2018.

Đường ống Nam Côn Sơn có công suất 7,7 tỷ mét khối mỗi năm, mang theo khoảng

6,03 tỷ mét khối khí đốt trong năm 2017, bao gồm cả khí được sản xuất từ Lô 06.1

và các nhà khai thác khác ở lưu vực Nam Côn Sơn. Năm 2017, Chính phủ Việt

Nam và Indonesia đã ký một bản ghi nhớ về nguồn cung hydrocarbon tiềm năng từ

các lĩnh vực của Indonesia cho Việt Nam. Cơ sở hạ tầng của Lô 06.1 và đường ống

Nam Côn Sơn có thể được sử dụng để hỗ trợ thực hiện thỏa thuận này, sẽ cung cấp

một nguồn doanh thu bổ sung cho Công ty từ các dự án tại Việt Nam.

Vào giữa năm 2018, Rosneft Vietnam, một trong những Công ty con của Tập

đoàn hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, đã đạt được một cột mốc quan trọng trong

hoạt động của mình – 16 năm hoạt động hàng hải không có tai nạn. Không một

trường hợp tai nạn nghề nghiệp nào được đăng ký trong thời gian này. Vào tháng 6

năm 2018, việc khoan giếng sản xuất PLD-1P đã được hoàn thành thành công bằng

cách khai thác giếng PLD-1X, xác nhận sự tồn tại của tiền gửi sản xuất tại lĩnh vực

PLD. Cũng trong tháng 6 năm 2018, giếng LD-3P đã được khoan như một phần của

hoạt động khoan dầu tại mỏ Lan Đỗ. Cả hai giếng đã được vận hành thành công vào

ngày 28 tháng 9 năm 2018. Chính phủ Việt Nam đánh giá cao hiệu suất của Công ty

Rosneft Vietnam BV và tiến hành trao tặng Huân chương Lao động hạng nhất, đây

là một trong những giải thưởng quốc gia cao quý nhất tại Việt Nam.

42

Sản xuất thực tế năm 2018 (100% dự án) tổng cộng 3,28 tỷ mét khối khí và

0,06 tỷ tấn khí ngưng tụ (Rosneft tựa chia sẻ: 0,78 tỷ mét khối khí và 0,01 tỷ tấn khí

ngưng tụ). Vào tháng 6 năm 2018, việc khoan giếng thăm dò thứ hai TTN-1X trên

Lô 05.3/11 đã được hoàn thành. Các giếng xác nhận sự tồn tại của khí sản xuất. Vào

cuối năm 2018, Công ty đã thông báo cho Tập đoàn Dầu khí Việt Nam về quyết

định tiến hành giai đoạn thăm dò thứ hai. Tình hình khai thác tại đường ống Nam

Côn Sơn có công suất 7,7 tỷ mét khối mỗi năm, mang theo khoảng 6,4 tỷ mét khối

khí, bao gồm cả khí được sản xuất từ Lô 06.1 và các nhà khai thác khác trong lưu

vực Nam Côn Sơn.

Tại Việt Nam, Rosneft hiện tham gia vào các dự án thăm dò mỏ dầu khí, một

dự án sản xuất khí và ngưng tụ chung tại Lô 06.1 (Rosneft Vietnam B.V. với tư

cách là nhà điều hành dự án nắm giữ 35% cổ phần, ONGC - 45%, PVN - 20%).

Trong Lô 06.1 chứa ba trường khí ngưng tụ, cụ thể là Lan Tài, Lan Đô và PLD, các

bể trên nằm cách bờ biển Nam Côn Sơn 370 km. Sản xuất thực tế năm 2019 (100%

dự án) tổng cộng 4,16 tỷ mét khối khí và 0,04 tỷ tấn khí ngưng tụ (Rosneft tựa chia

sẻ: 0,78 tỷ mét khối khí và 0,01 tỷ tấn khí ngưng tụ). Công ty đã ký một thoả thuận

để phát triển Lô 05.3/11 và dự án hiện đang ở giai đoạn thăm dò. Khu vực cấp phép

nằm trong khu vực có tiềm năng về dầu khí và cơ sở hạ tầng rộng lớn, và giáp danh

với các bể hiện đang phát triển của Lô 06.1. Rosneft cũng tham gia dự án đường

ống Nam Côn Sơn ngoài khơi (Rosneft Vietnam Pipelines – 32,67%, Perenco –

16,33%, PVN - 51%), liên quan đến việc vận chuyển khí và khí ngưng tụ được sản

xuất tại các khối ngoài khơi trong lưu vực Nam Côn Sơn đến cơ sở chế biến trên bờ

và sau đó đến các nhà máy điện tua-bin khí để phát điện. Các đường ống có công

suất 7,7 tỷ mét khối mỗi năm, sản xuất tổng cộng 7 tỷ mét khối khí gas vào năm

2019, bao gồm cả khí được sản xuất từ Lô 06.1 và các bể khai thác khác trong lưu

vực Nam Côn Sơn. Hiệu quả hoạt động của nó là 100%.

Tính đến thời điểm năm 2019, Tập đoàn Rosneft hoạt động tại Việt Nam đã

đánh dấu 17 năm hoạt động ngoài khơi an toàn không có thương tích mất mất trong

khoảng thời gian này, một cột mốc quan trọng trong hoạt động của mình. Với

những đóng góp lớn trong hoạt động dầu khí tại Việt Nam, Tập đoàn đã được Nhà

43

nước Việt Nam ghi nhận công lao cho những đóng góp chung cho sự phát triển

ngành dầu khí bằng những giải thưởng cao quý cấp Quốc gia như Huân chương lao

động dành cho doanh nghiệp xuất sắc nhất. Đồng thời, Chính phủ hai nước luôn

tăng cường sự hợp tác thông qua những chính sách tạo điều kiện cho các doanh

nghiệp dầu khí hoạt động khai thác hiệu quả trên lãnh thổ hai nước. Về phía Tập

đoàn Rosneft, việc đặt trọng tâm vào điều hành, khai thác dầu khí tại thềm lục địa

Việt Nam luôn là tiêu chí hàng đầu trong chính sách mở rộng phạm vi hoạt động

của mình ra ngoài lãnh thổ Nga cũng như hướng đến thị trường tiềm năng tại châu

Á - Thái Bình Dương nhằm tăng cường sản lượng sản xuất và nguồn cung dầu khí

mang lại doanh thu lớn hơn về phía Tập đoàn.

2.2.3. Kim ngạch xuất khẩu dầu khí vào Liên bang Nga từ Việt Nam

Hiện nay, Việt Nam vẫn duy trì vai trò của một đối tác hợp tác dầu khí với

Liên bang Nga thể hiện qua kim ngạch xuất khẩu dầu khí vào thị trường Nga trong

giai đoạn gần đây từ năm 2015 đến năm 2019. Sản phẩm chủ lực và duy nhất được

xuất khẩu vào thị trường Liên bang Nga là Dầu mỏ và dầu thu từ khoáng bitum, đây

là một trong những danh mục được thống kê trong trị giá xuất khẩu phân theo vùng

và lãnh thổ của Tổng cục thống kê Việt Nam hàng năm, cụ thể được trình bày trong

bảng sau:

Bảng 2.5. Kim ngạch xuất khẩu dầu khí vào Liên bang Nga từ Việt Nam

Đơn vị: triệu USD

Năm Năm Năm Năm Năm Sản phẩm 2015 2016 2017 2018 2019

Dầu mỏ và dầu thu từ 12,29 13,13 23,34 34,37 35,22 khoáng bitum

Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2019

Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm dầu khí chủ lực duy nhất sang thị trường Liên

bang Nga qua các năm, giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019, tăng trưởng trung

bình trong 5 năm khoảng 33%. Kim ngạch xuất khẩu ở mức thấp nhất vào những

năm 2015 và 2016 khi chỉ đạt mức 12,29 và 13,13 triệu USD vì trong khoảng thời

44

gian này chịu ảnh hưởng của giá dầu thế giới giảm mạnh xuống mức dưới 30

USD/thùng bắt nguồn từ việc dư cung toàn cầu và sự bùng nổ dầu đá phiến tại Mỹ

đã khiến giá dầu lao dốc.

Sự bùng nổ tăng trưởng trong kim ngạch xuất khẩu sản phẩm dầu khí sang thị

trường Liên bang Nga nổi bật trong năm 2017 và 2018 với tốc độ tăng trưởng trung

bình đến khoảng 63%/năm. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng này bởi giá dầu thế

giới được khôi phục nhanh chóng từ giữa năm 2017, cùng với đó, tình hình các nhà

máy lọc dầu trong nước hoạt động ổn định, đáp ứng tốt cho thị trường nội địa và

xuất khẩu.

Đến năm 2019, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm dầu khí của Việt Nam đạt mức

35,22 triệu USD, tăng ở mức 2,5% so với năm 2018. Tuy nhiên, đây vẫn là mức

tăng trưởng ổn định qua từng năm. Nguyên nhân dẫn đến mức độ tăng trưởng thấp

trong năm này bắt nguồn từ việc Việt Nam thi hành các chính sách giảm toàn diện

xuất nhập khẩu xăng dầu cả lượng, kim ngạch và giá từ các thị trường lớn khác trên

thế giới, trong đó có Liên bang Nga, nhằm đảm bảo ổn định thị trường trong nước

cũng như đảm bảo công suất sản xuất cho các nhà máy lọc dầu chủ chốt như Nhà

máy lọc dầu Dung Quất (bắt đầu hoạt động từ năm 2009), các liên hợp lọc hóa dầu và

hóa khí Nghi Sơn, Long Sơn, Phú Mỹ, Cà Mau, Miền Trung với sản phẩm đa dạng,

làm nền tảng để các ngành công nghiệp có liên quan phát triển, cung cấp nguyên liệu

trong nước ổn định cho và tăng khả năng cạnh tranh, hội nhập với quốc tế.

Có thể thấy, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm dầu khí của Việt Nam sang Liên

bang Nga đã có những tăng trưởng rõ rệt qua từng năm. Điều này cho thấy dấu hiệu

khởi sắc trong chuyển biến cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam vào Nga trong những

năm trở lại đây. Mở ra một cơ hội mới cho Việt Nam và Liên bang Nga trong hoạt

động hợp tác thương mại chiến lược giữa đôi bên trong bối cảnh tình hình kinh tế

thế giới đang có những chuyển biến hết sức phức tạp tạp gần đây. Đồng thời, lĩnh

vực dầu khí tại Việt Nam đang có những sự chuyển mình từ một nước chủ yếu đi

nhập siêu các sản phẩm dầu khí thì đến nay cũng đã từng bước trở thành nước có

khả năng cung cấp sản phẩm dầu khí đến các thị trường khác như Liên bang Nga.

45

2.2.4. Kim ngạch nhập nhẩu dầu khí vào Việt Nam từ Liên bang Nga

Trong kim ngạch nhập khẩu dầu khí vào Việt Nam, thì Liên bang Nga vẫn là

một trong những thị trường cung cấp các sản phẩm dầu khí lớn nhất vào Việt Nam.

Kim ngạch nhập khẩu giữa hai nước trong giai đoạn 5 năm trở lại đây cũng có

những biến chuyển rõ rệt được thể hiện như sau:

Bảng 2.6: Kim ngạch nhập khẩu dầu khí vào Việt Nam từ Liên bang Nga

Đơn vị: triệu USD

Năm Năm Năm Năm Năm Các sản phẩm 2015 2016 2017 2018 2019

Dầu mỏ và dầu thu từ 93,2 75,98 58,55 130,83 50,24 khoáng bitum

Dầu và các sản phẩm

khác của quá trình 0,26 1,22 0,84 chưng cất nhựa than

nhiệt độ cao

Thạch dầu mỏ, sáp 0,2 0,22 0,18 dầu mỏ vi tinh thể

Nguồn: Trademap, 2019

Kim ngạch nhập khẩu dầu khí vào Việt Nam từ Liên bang Nga qua các năm từ

2015 đến năm 2019 đã có những biến động lớn, tăng trưởng không đồng đều qua

các năm, trung bình chỉ ở mức thấp khoảng 5,5%. Kim ngạch nhập khẩu sản phẩm

dầu khí cao nhất trong giai đoạn này vào năm 2015 và 2018 với tổng giá trị tương

ứng là 93,2 triệu USD và 132,27 triệu USD. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng tăng

trưởng đột ngột về kim ngạch nhập khẩu này bắt nguồn từ tình hình giá dầu thế giới

biến động vào giữa năm 2014 và 2018 có xu hướng giảm, tạo điều kiện thuận lợi để

nước nhập khẩu như Việt Nam gia tăng nhập khẩu sản phẩm dầu khí từ các thị

trường lớn bị ảnh hưởng. Đồng thời, một phần nguyên nhân đến từ chính sách bình

ổn giá và giữ trạng thái nguồn cung dồi dào để đảm bảo cân bằng cho nền kinh tế

46

trong nước mà Việt Nam thực thi để tránh ảnh hưởng tiêu cực bởi tình hình giá dầu

thế giới.

Năm 2017 tuy kim ngạch nhập khẩu ở mức thấp nhưng đáng chú ý hơn khi

Việt Nam bắt đầu tìm kiếm nhập khẩu những sản phẩm mới như các sản phẩm từ

lọc hóa dầu bao gồm dầu và các sản phẩm khác của quá trình chưng cất nhựa than

nhiệt độ cao; thạch dầu mỏ, sáp dầu mỏ vi tinh thể chỉ là mặt hàng thứ yếu nhập

khẩu về với mục đích tăng nguồn cung cho thị trường trong nước. Các sản phẩm từ

lọc hóa dầu chủ yếu được sử dụng trong hầu hết các lĩnh vực sản xuất như các

phương tiện giao thông, đồ điện tử, thời trang, nông nghiệp hay y tế. Trong mọi lĩnh

vực của cuộc sống, từ bao bì thức ăn đến vật dụng trong nhà, ngoài đường và nơi

làm việc đều là các sản phẩm bắt nguồn hoặc có liên quan đến công nghiệp dầu khí.

Năm 2019, trị giá nhập khẩu chỉ đạt 54,55 triệu USD, giảm mạnh 61,6% so

với năm 2018. Tình hình này diễn ra trong xu thế chung của chiều hướng giảm nhập

khẩu xăng dầu từ các thị trường, bởi lý do Việt Nam bắt đầu thực hiện chính sách

giảm nhập khẩu các sản phẩm dầu khí bởi nguồn dự trữ mặt hàng này và công suất

các nhà máy lọc dầu vẫn đảm bảo được sự ổn định cho thị trường và người tiêu

dùng trong nước.

Theo số liệu thống kê hàng năm từ Tổng cục Thống kê Việt Nam, mặt hàng

xăng dầu và các sản phẩm lọc hóa dầu luôn là một trong những mặt hàng nhập khẩu

thiết yếu của Việt Nam, Liên bang Nga luôn năm trong 6 nước cung cấp xăng dầu

lớn nhất vào thị trường Việt Nam trong 5 năm trở lại đây sau các nước Hàn Quốc,

Malaysia, Singapore, Trung Quốc, Thái Lan. Điều này cho thấy, Việt Nam vẫn luôn

coi trọng và tin tưởng mối quan hệ hợp tác thương mại chiến lược giữa hai nước

trong bất kỳ hoàn cảnh nào.

2.2.5. Sản lượng xuất khẩu dầu khí vào Liên bang Nga từ Việt Nam

Tương tự như kim ngạch xuất khẩu dầu khí vào Liên bang Nga, sản lượng

xuất khẩu duy trì mức độ tăng trưởng tốt trong 5 năm trở lại đây. Chi tiết sản lượng

xuất khẩu sản phẩm từ dầu khí chủ lực sang thị trường Liên bang Nga được thể hiện

qua bảng thống kê sau:

47

Bảng 2.7: Sản lƣợng xuất khẩu dầu khí vào Liên bang Nga từ Việt Nam

Đơn vị: tấn

Sản phẩm Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018 Năm 2019

Dầu mỏ và dầu thu 21.030 23.044 37.329 42.587 47.323

từ khoáng bitum

Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam, 2019

Theo thống kê của Tổng cục thống kê, trong những năm trở lại đây, sản lượng

xuất khẩu dầu khí của Việt Nam sang thị trường Liên bang Nga đang có chiều

hướng tăng dần đều, tốc độ tăng trưởng trung bình khoảng 24%. Trong đó, mức

tăng trưởng cao nhất vào năm 2017 đạt 62% so với cùng kỳ năm 2016. Nguyên

nhân mức tăng trưởng cao này do tình hình giá dầu thế giới bắt đầu phục hồi nhanh

chóng từ giữa năm 2017, tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu

trong giai đoạn này.

Năm 2019 là năm mà sản lượng xuất khẩu lớn nhất sang thị trường Liên bang

Nga đạt 47.323 tấn sản phẩm dầu mỏ và dầu thu từ khoáng bitum. Nguyên nhân bắt

nguồn từ cuối năm 2018 khi lượng dự trữ xăng dầu và công suất sản xuất từ các nhà

máy lọc hoá dầu trong nước dồi dào, không chỉ đáp ứng đầy đủ cho thị trường nội

địa mà còn là nguồn cung ổn định cho thị trường xuất khẩu.

Có thể thấy, từ năm 2015 đến 2019, sản lượng xuất khẩu dầu khí sang thị

trường Liên bang Nga gia tăng nhanh chóng từ 21.030 tấn lên 47.323 tấn, tương

đương tăng 125% chỉ trong vòng 5 năm. Điều này cho thấy tiềm năng về hướng

xuất khẩu sản phẩm dầu khí hứa hẹn sẽ trở thành một trong những mặt hàng thiết

yếu trong trao đổi thương mại giữa Việt Nam và Liên bang Nga trong tương lai tới.

Đồng thời cho thấy, sự chuyển dịch cơ cấu từ một nước chuyển đi nhập khẩu lượng

lớn các sản phẩm dầu khí từ các thị trường trên thế giới thành một nước hạn chế sự

phụ thuộc vào nguồn cung dầu khí từ các thị trường khác. Cùng với đó là việc thi

hành chính sách hạn chế nhập khẩu xăng dầu để đảm bảo nguồn cung và công suất

cho các nhà máy lọc dầu trong nước. Theo Bộ Công thương công bố năm 2019,

48

tổng sản lượng của hai nhà máy lọc dầu lớn nhất Việt Nam là Dung Quất và Nghi

Sơn có thể đáp ứng đến 90% nhu cầu của thị trường trong nước.

2.2.6. Sản lượng nhập khẩu dầu khí vào Việt Nam từ Liên bang Nga

Bên cạnh kim ngạch nhập khẩu dầu khí giữa hai nước Việt Nam và Liên bang

Nga, sản lượng nhập khẩu giữa hai nước trong 5 năm trở lại đây cũng có chiều

hướng không ổn định, điều này phụ thuộc vào tình hình giá dầu trên thế giới luôn có

những biến động trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019. Điều này được thể

hiện qua bảng thống kê sau:

Bảng 2.8: Sản lƣợng nhập khẩu dầu khí vào Việt Nam từ Liên bang Nga

Đơn vị: tấn

Các sản phẩm 2015 2016 2017 2018 2019

Dầu mỏ và dầu thu 120.382 99.478 72.401 95.521 72.826

từ khoáng bitum

(không bao gồm

dầu thô)

Dầu và các sản 425 2.069 1.608

phẩm khác của quá

trình chưng cất

nhựa than nhiệt độ

cao

Thạch dầu mỏ, sáp 389 431 323

dầu mỏ vi tinh thể

Nguồn: Trademap, 2019

Thực trạng sản lượng nhập khẩu dầu khí vào Việt Nam từ Liên bang Nga có

những biến động lớn trong vòng 5 năm trở lại đây, tốc độ tăng trường trung bình

giảm 14%. Trong đó, năm 2015 là năm sản lượng nhập khẩu lớn nhất đạt 120.382

tấn, nguyên nhân gia tăng nhập khẩu dầu khí mạnh mẽ trong năm này bắt nguồn từ

việc giá dầu thế giới suy giảm vào cuối năm 2014, đây chính là yếu tố thuận lợi

49

dành cho nước nhập khẩu như Việt Nam gia tăng sản lượng nhập khẩu trong thời

gian này.

Năm 2017 là năm có sản lượng nhập khẩu dầu khí thấp nhất khi chỉ đạt 72.401

tấn, nguyên nhân dẫn đến tình trạng giảm sản lượng nhập khẩu do hai yếu tố: một

là, giá dầu thế giới đã được phục hồi từ giữa năm 2017; hai là, nguồn dự trữ sản

lượng dầu khí dồi dào nhờ đẩy mạnh nhập khẩu trong 2 năm trước. Cũng trong năm

này, Việt Nam bắt đầu tìm đến thị trường Liên bang Nga để nhập khẩu thêm các sản

phẩm khác của dầu khí như dầu và các sản phẩm khác của quá trình chưng cất nhựa

than nhiệt độ cao; thạch dầu mỏ, sáp dầu mỏ vi tinh thể nhằm đa dạng hóa nguồn

cung các sản phẩm lọc hoá dầu cho các lĩnh vực sản xuất trong nước.

Năm 2018 là năm tăng trưởng dương duy nhất về sản lượng nhập khẩu dầu khí

từ Liên bang Nga ở mức tăng 32% so với cùng kỳ năm 2017. Kéo theo đó, các sản

phẩm lọc hoá dầu cũng gia tăng theo với sản lượng của dầu và các sản phẩm khác

của quá trình chưng cất nhựa than nhiệt độ cao đạt mức 2.069 tấn, tương đương

tăng 387%; còn sản phẩm thạch dầu mỏ, sáp dầu mỏ vi tinh thể đạt mức 431 tấn,

tăng 11%. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này bởi tình hình giá dầu trên thị trường

thế giới trong năm này có xu hướng giảm, tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam tiếp

tục chiến lược dự trữ xăng dầu nhằm duy trì bình ổn giá và giữ trạng thái nguồn

cung dồi dào cho thị trường trong nước.

Ngay sau đó, vào năm 2019, tổng sản lượng nhập dầu khí từ Liên bang Nga lại

suy giảm trung bình 24% so với năm 2018. Nguyên nhân bắt nguồn từ khi Việt

Nam chủ động điều chỉnh giảm sản lượng nhập dầu khí từ các thị trường lớn, trong

đó có Liên bang Nga. Đồng thời, các nhà máy sản xuất trong nước đang dần cung

cấp ổn định nguồn nguyên liệu và nguồn xăng dầu nhập khẩu vẫn dồi dào sản lượng

cho thị trường trong nước. Theo số liệu cung cấp từ Công ty cổ phần Lọc hóa dầu

Bình Sơn, nhà máy lọc dầu Dung Quất đạt sản lượng sản xuất 6,93 triệu tấn sản

phẩm xăng dầu. Bên cạnh đó, nhà máy lọc dầu Nghi Sơn cũng cung cấp tới 4,65

triệu tấn. Theo công bố của Bộ Công thương, ước tính tổng sản lượng hai nhá máy

lọc dầu này có thể đáp ứng 80-90% nhu cầu của thị trường trong nước.

50

2.3. Đánh giá hoạt động hợp tác trong lĩnh vực dầu khí giữa Việt Nam – Liên

bang Nga trong giai đoạn 2015 – 2019

Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, Việt Nam và Liên bang Nga dần trở nên

mở cửa thị trường nước mình hơn. Việc Việt Nam tích cực tham gia các hiệp định

tự do thương mại với các quốc gia, tổ chức kinh tế trong và ngoài khu vực thể hiện

sự nỗ lực cũng như quyết tâm hơn trong thúc đẩy sự phát triển kinh tế chung của cả

nước trong thời đại mới. Từ việc phân tích thực trạng hoạt động hợp tác trong lĩnh

vực dầu khí giữa Việt Nam và Liên bang Nga trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm

2019, có thể thấy được những thành công đáng chú ý, bên cạnh đó là những khó

khăn và hạn chế đang dần hiện hữu ngày một rõ ràng hơn trong hoạt động hợp tác

quốc tế giữa hai nước. Cụ thể như sau:

2.3.1. Thành công

Thứ nhất, lĩnh vực dầu khí là điểm sáng lớn nhất trong quan hệ hợp tác quốc tế

giữa Việt Nam và Liên bang Nga trong những năm trở lại đây.

Hiện nay, tới hai phần ba lượng khí đốt tự nhiên và một phần ba nguyên liệu

dầu mỏ tại Việt Nam được sản xuất thông qua sự tham gia của các tập đoàn dầu khí

hàng đầu của Nga như Zarubezhneft, Gazprom và Rosneft cũng như liên doanh của

họ. Tại thị trường Liên bang Nga, hoạt động thành công liên doanh của Rusvietpetro

và Gazpromviet để sản xuất dầu khí tại khu tự trị Nenetski cũng là điểm nhấn quan

trọng trong nỗ lực hợp tác giữa hai nước trong những năm trở lại đây.

Thứ hai, ngành dầu khí Việt Nam đã có bước phát triển vượt bậc khi gia tăng

cả về kim ngạch và sản lượng xuất khẩu sang thị trường Liên bang Nga trong những

năm trở lại đây.

Đây có thể nói là thành quả xứng đáng sau những nỗ lực hợp tác dầu khí sau 4

thập kỷ từ thời Liên Xô cũ đến Liên bang Nga. Cùng với đó là những chính sách,

chiến lược hợp lý nhằm thúc đẩy công suất sản xuất của các Liên doanh dầu khí

cũng như các nhà máy lọc dầu nhằm đảm bảo nguồn cung ổn định cho thị trường

trong nữa và mở rộng hơn là xuất khẩu sang thị trường nước ngoài. Đồng thời, đây

cũng là hướng đi mới dành cho ngành dầu khí Việt Nam trong tương lai tới nhằm

chuyển dịch cơ cấu xuất nhập khẩu các sản phẩm dầu khí.

51

Thứ ba, Liên doanh Vietsovpetro khẳng định vị thế và vai trò quan trọng hàng

đầu của ngành Dầu khí Việt Nam khi liên tục đảm bảo tình hình sản xuất kinh

doanh ổn định.

Tình hình khai thác hiện nay, tài sản khai thác chính của Vietsovpetro là mỏ

dầu và khí Bạch Hổ, được coi là lớn nhất tại Việt Nam và lớn thứ ba tại vành đai

Tây Bắc Thái Bình Dương, bao gồm Nhật bản, Trung Quốc và các nước ASEAN.

Sự phát triển của lĩnh vực này góp phần đưa ngành dầu khí Việt Nam xếp vị trí thứ

ba trong khu vực ASEAN, sau Indonesia và Malaysia. Kể từ khi đi vào hoạt động

cho đến nay, Liên doanh dầu khí Vietsovpetro đã có những đóng góp không nhỏ

cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, đồng thời, là hạt nhân của

tất cả các hoạt động dầu khí, từ đào tạo cán bộ chuyên ngành, nghiên cứu địa chất

dầu khí, đến phát hiện và khai thác các mỏ quan trọng. Ngoài ra, còn là đối tác hợp

tác chủ đạo thu hút đầu tư quốc tế lẫn tư nhân trong nước để phát triển ngành công

nghiệp dầu khí trong dài hạn. Quan trọng hơn cả, Vietsovpetro đã góp phần bảo vệ

chủ quyền biển đảo và thềm lục địa hợp pháp của Việt Nam.

Thứ tư, thu hút nhiều Tập đoàn Dầu khí của Liên bang Nga tham gia hợp tác

và triển khai những lĩnh vực mới của hoạt động dầu khí.

Sau sự hợp tác thành công mang tính biểu tượng của ngành dầu khí là Liên

doanh Vietsovpetro, lĩnh vực dầu khí nói riêng, đã thu hút được thêm những Tập

đoàn Dầu khí hàng đầu thế giới của Liên bang Nga như Gazprom hay Rosneft tham

gia hợp tác trong hoạt động dầu khí. Trong giai đoạn hiện nay, hai tập đoàn này chủ

yếu tìm kiếm cơ hội hợp tác trên lĩnh vực mới về năng lượng, sản xuất khí tự nhiên

nhằm khai thác đúng tiềm năng mà Việt Nam đang sở hữu. Ngoài ra, cả Gazprom

và Rosneft đều thành lập những công ty liên doanh tại Việt Nam để tham gia trực

tiếp vào những dự án dầu khí tại thềm lục địa Việt Nam cùng với Liên doanh

Vietsovpetro. Đây là một yếu tố quan trọng để gia tăng nguồn lực trong công tác

tìm kiếm, thăm dò các mỏ dầu mới trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt tình trạng hiện

nay các mỏ dầu chủ chốt đang có dấu hiệu giảm sút về sản lượng khi đã trải qua quá

trình khai thác hàng chục năm.

52

Thứ năm, chính sách hiệu quả thúc đẩy phát triển hợp tác dầu khí thành công

trong giai đoạn mới hiện nay.

Việc cả Việt Nam và Liên bang Nga cùng tham gia thực hiện các chính sách

hợp tác hiệu quả, cũng như cùng thống nhất chiến lược phát triển hoạt động dầu khí

theo từng giai đoạn đã đánh dấu những năm tháng hưng thịnh nhất trong sự phát

triển chung của ngành dầu khí, góp phần không nhỏ vào công tác phát triển kinh tế -

xã hội tại Việt Nam. Hàng loạt các Nghị định, chính sách hợp tác khác nhau trong

những năm trở lại đây góp phần không nhỏ duy trì sự phát triển cho ngành dầu khí

giữa hai nước Việt Nam và Liên bang Nga. Với lợi thế dồi dào về trữ lượng nguồn

tài nguyên thiên nhiên dầu mỏ và khí đốt tại thềm lục địa Việt Nam, các tập đoàn

dầu khí hàng đầu của Nga đã và đang chú trọng hơn nữa trong đầu tư máy móc,

thiết bị, áp dụng khoa học kỹ thuật vào khai thác và sản xuất tại các mỏ lớn như

Bạch Hổ, Sư Tử Trắng, Lan Tây - Lan Đỏ… đã mang lại hiệu quả khi lượng khai

thác dầu mỏ và khí đốt gia tăng cả về số lượng cũng như chất lượng. Không chỉ đầu

tư về cơ sở vật chất, Liên bang Nga còn cam kết đào tạo các cán bộ trong ngành dầu

khí tại các tập đoàn dầu khí lớn nhất nước Nga như Zarubezhneft, Gazprom hay

Rosneft. Chương trình hợp tác đào tạo vẫn diễn ra hàng năm, cung cấp lượng lớn kỹ

sư, kỹ thuật viên tay nghề cao phục vụ công cuộc phát triển ngành dầu khí nước

nhà. Hiện nay, các chuyên gia Nga đóng vai trò điều hành và tư vấn giám sát trong

các dự án tại Việt Nam, phần còn lại đều được đảm nhận bởi các kỹ sư được đào tạo

bài bản tại quốc gia có nền dầu khí phát triển hàng đầu thế giới hiện nay.

Thứ sáu, khai phá thành công lĩnh vực hợp tác khai thác và cung cấp khí tự

nhiên tại Việt Nam.

Nhận thấy trữ lượng khai thác khí tại Việt Nam còn chưa tương xứng với

tiềm năng vốn có, Tập đoàn Gazprom đã nắm lấy cơ hội bước vào lĩnh vực còn mới

mẻ này từ năm 2008 với các hợp đồng dài hạn được ký kết với Tập đoàn dầu khí

Việt Nam trong công tác thăm dò và sản xuất. Việc điều hành hoạt động khai thác

được thực hiện thông qua Liên doanh Vietgazprom. Đến nay, hai mỏ lớn nhất đang

được chiết xuất khí là Mộc Tinh và Hải Thạch cùng đường ống Nam Côn Sơn với

công suất 8,5 triệu mét khối khí và 3.500 tấn condensate mỗi ngày. Theo một thỏa

53

thuận đã được ký kết với tập đoàn dầu khí Việt Nam, hình thức hợp tác chuyển sang

liên doanh theo một hướng mới, đó là việc sử dụng khí tự nhiên để sản xuất nhiên

liệu động cơ khí trên lãnh thổ của Việt Nam. Sự tham gia của Gazprom trong liên

doanh sẽ được đại diện bởi Công ty Gazprom gas và dầu khí, Gazprom quốc tế với

cổ phiếu đầu tư bình đẳng là 25%. Gazprom đã đặt ra mục tiêu cung cấp 500 triệu

mét khối khí nhiên liệu động cơ khí cho thị trường Việt Nam mỗi năm. Việc phát

hiện ra lĩnh vực và hoạt động mới bên cạnh lĩnh vực dầu khí, một lần nữa đã chỉ ra

rằng hợp tác trong hoạt động dầu khí tại Việt Nam là điểm sáng lớn nhất trong quan

hệ hai nước, đóng góp cho nền kinh tế của đất nước và tăng cường quan hệ đối tác

chiến lược toàn diện giữa Việt Nam và Liên bang Nga.

Thứ bảy, các dự án mới về dầu khí đang được triển khai bước đầu đạt được

những kết quả tốt đẹp.

Đối với hợp tác lĩnh vực dầu khí hai nước Liên bang Nga - Việt Nam mới

nhất, việc phát triển dự án mỏ Cá Tầm sẽ trở thành mỏ thứ sáu trong số các mỏ dầu

khai thác đang được đưa vào thực hiện. Trước đó trong những năm khác nhau, các

mỏ dầu của Bạch Hổ, Rồng, Gấu Trắng, Thỏ Trắng, Nam Rồng - Đồi Mồi đã lần

lượt được phát hiện và đưa vào khai thác hiệu quả. Mỏ Cá Tầm được phát hiện vào

năm 2014, cách 20km về phía đông mỏ Bạch Hổ, theo ước tính khi đưa vào khai

thác sẽ cung cấp 1.300 mét khối khí mỗi ngày. Với dự án mỏ Cá Tầm mới này được

kỳ vọng sẽ giúp ổn định mức độ sản xuất của ngành dầu khi Việt Nam nói chung và

Liên doanh Vietsovpetro nói riêng, không những giảm sản xuất tại trường bạch hổ,

mà còn đảm bảo việc thực hiện các chỉ số kế hoạch và ảnh hưởng tích cực đến hiệu

quả kinh tế chung của Liên doanh trong tương lai. Theo các tính toán của các nhà

địa chất Vietsovpetro, hoạt động thương mại của Cá Tầm sẽ được thực hiện vào

cuối năm 2032. Trong số các lĩnh vực để mở rộng hơn nữa hợp tác hoạt động dầu khí,

phải kể đến lọc dầu và hóa thạch, cung cấp cho Việt Nam khí tự nhiên hóa lỏng, sản

xuất và tiếp thị trên thị trường nhiên liệu động cơ khí Việt Nam. Viễn cảnh kết nối

các công ty của Nga với các lĩnh vực hợp tác mới như trong lĩnh vực năng lượng, bao

gồm các nguồn cung cấp LNG và phát triển các lĩnh vực hydrocarbon mới không chỉ

ở Việt Nam mà còn ở Nga đang được khám phá tích cực.

54

Ở chiều ngược lại, một hướng hợp tác mới và rất hứa hẹn giữa Moskva và Hà

Nội trong lĩnh vực dầu khí là nguồn cung cấp khí thiên nhiên hóa lỏng từ các nhà

máy tinh lọc từ Siberia và vùng Viễn Đông Nga. Tập đoàn Gazprom và PVN đã mở

rộng quan hệ sản xuất bằng cách ký một thỏa thuận khuôn khổ phát triển chung

trong khu tự trị Yamalo - Nenetski của mỏ dầu khí lớn nhất phía bắc Prerovsky.

2.3.2. Hạn chế, khó khăn

Thứ nhất, các mỏ dầu khí chủ lực đã có sự suy giảm rất nhanh về sản lượng.

Bước vào giai đoạn hiện nay, các mỏ dầu khí chủ lực đã có sự suy giảm rất

nhanh về sản lượng với độ ngập nước, khí tiếp tục tăng nhanh và diễn biến phức

tạp, tiến độ triển khai khoan tại một số giếng còn chậm… Hiện tại, những giếng dầu

tại mỏ Bạch Hổ, mỏ Rồng do Vietsovpetro tiến hành thăm dò khai thác hơn 30 năm

qua đã ở vào giai đoạn cuối. Tài nguyên thiên nhiên là hữu hạn, do đó, sản lượng

các mỏ đang khai thác theo thời gian sẽ suy giảm, các mỏ lớn dễ phát hiện có thể

hiếm hơn. Tuy nhiên, cần có những cơ sở khoa học chắc chắn, cũng như cần thêm

những cuộc thăm dò khai thác để mang lại kết quả khả quan hơn.

Thứ hai, công tác tìm kiếm, thăm dò trong hoạt động hợp tác dầu khí giữa Việt

Nam và Liên bang Nga những năm qua gặp nhiều khó khăn.

Các nguyên nhân khách quan bao gồm: các Lô mở có tiềm năng dầu khí hạn

chế, trữ lượng nhỏ, mà vị trí lại nằm tại vùng nước sâu, xa bờ hoặc có cấu trúc địa

chất phức tạp. Cùng với đó, khu vực thềm lục địa Việt Nam nằm trong khu vực

nhạy cảm với ảnh hưởng bởi thời tiết thất thường hiện nay như những áp thấp nhiệt

đới, cơn bão lớn nhỏ từ biển Đông, gây cản trở trong công tác thăm dò, tìm kiếm

các mỏ dầu mới hiện nay.

Thứ ba, thách thức lớn đối với việc gia tăng sản lượng khai thác cũng như tìm

kiếm, thăm dò trong hoạt động dầu khí là vốn đầu tư.

Ngành Dầu khí có đóng góp nhiều cho ngân sách Nhà nước, nhưng cũng đòi

hỏi vốn đầu tư lớn và vào các dự án rủi ro cao. Việc kêu gọi đầu tư hiện nay còn

gặp nhiều khó khăn, các nhà đầu tư ít hoặc không quan tâm đến các lô hợp đồng

dầu khí mới. Điều đó được thể hiện trong những năm gần đây, theo báo cáo hoạt

động của PVN ký được rất ít hợp đồng dầu khí, khiến hoạt động tìm kiếm, thăm dò

55

bị hạn chế, vốn đầu tư cho hoạt động này chỉ còn bằng 25% so với những năm

trước… Vấn đề đáng quan ngại nhất là đầu tư cho tìm kiếm thăm dò ở mức thấp kỷ

lục trong nhiều năm qua và nhiều dự án phát triển quan trọng đều đang chậm tiến

độ. Do đó, dẫn đến tình trạng gặp khó khăn trong cải tiến kỹ thuật, đầu tư máy móc

để triển khai thăm dò các mỏ có địa hình phức tạp trong điều kiện khắc nghiệt.

Trong khi đó, hằng năm, vẫn phải thực hiện các hoạt động tìm kiếm, thăm dò để

đảm bảo mục tiêu gia tăng trữ lượng mà Chính phủ giao cho PVN. Ngoài ra, với

điều kiện giá dầu thế giới biến động như hiện nay khi trong nửa đầu năm 2020 đã

giảm xuống mức chỉ còn dưới 30 USD/thùng thì doanh thu không đủ bù đắp chi phí

(bao gồm cả chi phí các dự án thăm dò không thành công) sẽ dẫn tới mất cân đối tài

chính của việc triển khai các dự án hiện nay.

Thứ tư, hành lang pháp lý còn nhiều vướng mắc và rườm rà.

Việc sửa đổi và bổ sung về Luật dầu khí chưa mang tính thực tiễn trong vòng

26 năm qua. Chưa có những ưu đãi đặc thù như chia sẻ rủi ro với các nhà đầu tư

tiềm năng, quy chế về thủ tục trình duyệt các dự án mỏ nhỏ lẻ còn phức tạp khi mọi

dự án đều phải trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và yêu cầu xác định chính

xác tổng mức đầu tư trong khi dự án còn chưa được triển khai thực tế. Ngoài ra, do

cơ chế đặc thù trong xây dựng nhà máy chế biến dầu khí khác xa với một công trình

xây dựng thông thường nhưng vẫn phải thi hành theo Luật xây dựng hiện hành, điều

này gây rất nhiều trở ngại trong công tác triển khai và làm trì trệ thời gian hoàn

thành dự án, dẫn đến thiếu hiệu quả trong triển khai các dự án mang tính cấp thiết.

Thứ năm, sự phụ thuộc toàn diện vào sự hợp tác dầu khí với Liên bang Nga.

Kể từ khi Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế, tăng sự cạnh

tranh trong ngành dầu khí, hàng loạt các đại gia dầu khí trên thế giới đến từ Anh,

Mỹ, Hàn Quốc, Hà Lan… đều đã đặt chân đến thị trường Việt Nam với niềm kỳ

vọng sẽ mang lại những thành công như những gì Liên bang Nga đã thực hiện tại

Việt Nam. Tuy nhiên, chỉ sau một thời gian ngắn, các tập đoàn dầu khí từ các nước

trên đều lần lượt huỷ bỏ dự án và dần rút vốn khỏi thị trường Việt Nam. Hiện nay,

chỉ còn vài công ty, tập đoàn lớn trụ lại ở khâu dầu như KNOC (Hàn Quốc),

Petronas (Malaysia), PTTEP (Thái Lan), ExxonMobil (Mỹ), Total và Neon Energy

56

(Pháp). Các công ty này phần lớn đầu tư dưới hình thức góp vốn với Việt Nam để

thực hiện các hợp đồng dầu mỏ.

Hiện nay, tới hai phần ba lượng khí đốt tự nhiên và một phần ba nguyên liệu

dầu mỏ tại Việt Nam được sản xuất thông qua sự tham gia của các tập đoàn dầu khí

hàng đầu của Nga như Zarubezhneft, Gazprom và Rosneft cũng như liên doanh của

họ. Điều này đã cho thấy sự phụ thuộc không hề nhỏ của ngành Dầu khí Việt Nam,

điều này vừa có mặt lợi và cũng vừa có mặt hại như sự canh tranh thiếu cân bằng,

không đa dạng hoá được nguồn đầu tư, giảm sức hút đối với những nhà đầu tư tiềm

năng nhằm cải tiến công nghệ, kỹ thuật trong hoạt động dầu khí.

Thứ sáu, giá dầu thế giới giảm mạnh dưới tác động của dịch bệnh Covid-19 đã

gây khó khăn cho ngành Dầu khí Việt Nam.

Theo thông tin từ Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, hiện nay các nhà cung cấp dầu

thô trên thế giới đang rất lao đao vì ảnh hưởng của dịch Covid-19. Trong khi đó, giá

dầu thô, giá sản phẩm dầu khí giảm liên tục do ảnh hưởng dịch bệnh và cuộc chiến

giá giữa Liên bang Nga và Saudi Arabia đe dọa nhấn chìm thị trường bằng cách

tăng cung ứng dầu thô. Tại thị trường trong nước, các nhà máy lọc hoá dầu luôn

trong tình trạng tồn kho trên 50% khi Chính phủ gia tăng nhập khẩu sản phẩm dầu

khí trong nửa đầu năm 2020 và khối lượng tiếp nhận sản lượng dầu thô từ các mỏ

khai thác vẫn ở mức cao. Tổng sản lượng sản phẩm tiêu thụ của các nhà máy giảm

mạnh; lợi nhuận âm gây khó khăn trong duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh.

57

TÓM TẮT CHƢƠNG 2

Thực trạng hợp tác trong hoạt động dầu khí giữa Việt Nam và Liên bang Nga

trong 5 năm trở lại đây (2015 – 2019) đã cho thấy sự phát triển không ngừng, đạt

được nhiều thành công đáng ghi nhận, góp phần củng cố và tăng cường mối quan hệ

toàn diện giữa hai nước. Điểm sáng trong hoạt động hợp tác dầu khí giữa hai nước

nằm ở ba vấn đề chính:

Một là, kim ngạch và sản lượng xuất khẩu sản phẩm dầu khí từ Việt Nam sang

Liên bang Nga tăng trưởng đều trung bình đạt gần 30% trong giai đoạn này.

Hai là, những hoạt động hợp tác thành công của các công ty liên doanh giữa

Việt Nam và Liên bang Nga tại cả hai thị trường của nhau.

Ba là, mở rộng hợp tác trong lĩnh vực mới về sản xuất khí tự nhiên bên cạnh

lĩnh vực hợp tác dầu khí truyền thống.

Hai nước ngày càng thắt chặt hơn nữa mối quan hệ ngoại giao thông qua các

hoạt động hợp tác dầu khí thực tế giữa Tập đoàn Dầu khí Việt Nam với các tập đoàn

dầu khí lớn nhất Liên bang Nga không chỉ trong hoạt động khai thác sản xuất các

mỏ dầu hiện tại, mà còn triển khai thăm dò và tìm kiếm các mỏ dầu mới nhằm giảm

tải cho các mỏ dầu cũ. Đây là cơ hội thuận lợi để tạo dựng sức mạnh nội lực vững

chắc và từng bước khẳng định vị thế của mối quan hệ hợp tác quốc tế giữa Việt

Nam và Liên bang Nga trên trường quốc tế.

58

CHƢƠNG 3: ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN HỢP TÁC DẦU KHÍ GIỮA HAI

NƢỚC TRONG THỜI GIAN TỚI

3.1. Định hƣớng chung phát triển hợp tác dầu khí giữa hai nƣớc

Suốt chiều dài lịch sử mối quan hệ hợp tác giữa hai nước trong 70 năm qua, sự

kết nối giữa Việt Nam và Liên bang Nga không chỉ gần gũi về con người, xã hội

hay văn hoá mà còn tạo nên sự hợp tác kinh tế đa dạng trong suốt những thập kỷ

qua. Hiện tại, Việt Nam đang là đối tác chiến lược toàn diện của Liên bang Nga

trong mục tiêu nâng cao tầm ảnh hưởng tại khu vực biển Đông nói riêng và châu Á

- Thái Bình Dương nói chung. Phía Liên bang Nga cũng cam kết tăng cường hợp

tác chặt chẽ hơn nữa với Việt Nam trên mọi lĩnh vực kinh tế - chính trị, trong đó có

hoạt động dầu khí. Không những thế, hai nước tiếp tục định hướng xa hơn khi tăng

cường trao đổi hợp tác song phương trên mọi lĩnh vực trong bối cảnh mới hiện nay

sẽ tạo ra một động lực mới cho sự phát triển của quan hệ đối tác chiến lược toàn

diện Việt Nam – Liên bang Nga.

3.1.1. Định hướng phát triển hợp tác dầu khí giữa Liên bang Nga và Việt Nam

Định hướng cơ bản trong thời gian tới trong quan hệ hợp tác giữa hai nước sẽ

tiếp tục thừa hưởng và phát huy truyền thống vốn có trên cả ba tiêu chí, đó là bền

chặt, thịnh vượng, phát triển. Trong đó, sự bền chặt phải được ưu tiên hàng đầu bởi

đó chính là yếu tố tạo nên tình hữu nghị đặc biệt giữa hai nước trong suốt chiều dài

lịch sử. Tiếp tục nhấn mạnh mối quan hệ dài lâu và bền vững qua sự trao đổi thương

mại, đầu tư, giao lưu văn hoá - giáo dục, du lịch giữa hai nước trong thời kỳ mới

hiện nay, tận dụng tối đa lợi ích từ mối quan hệ đối tác chiến lực nhằm hướng tới sự

thịnh vượng chung trong quan hệ hai nước.

Thịnh vượng trong quan hệ hợp tác hai nước là yếu tố tiếp theo cần được chú

trọng đến, bởi lẽ, với tiềm năng thực sự lớn mạnh của hai nền kinh tế Việt – Nga

hiện hoàn toàn chưa được tận dụng và khai thác tương xứng, cần tìm cách tăng

cường hơn nữa trao đổi thương mại song phương, cũng như tiếp tục có những chính

sách tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp Nga phát triển tại thị trường Việt

Nam nhằm gặt hái những lợi ích tối đa từ những cơ hội đang có bên cạnh lĩnh vực

dầu khí đang là điểm sáng lớn nhất trong quan hệ hai nước. Một trọng tâm phát

59

triển khác cần được cải thiện đó là khả năng kết nối giao thông vận tải nhằm tạo

điều kiện thuận lợi thúc đẩy phát triển trao đổi thương mại, đầu tư và du lịch giữa

hai bên. Đồng thời, cần tận dụng tốt hơn những cơ chế, chính sách hiện có để tiếp

tục hợp tác hiệu quả hơn và cũng không ngừng sửa đổi, bổ sung để thu hút đầu tư

trao đổi song phương. Về phía Liên bang Nga, mặc dù trở thành thành viên thứ 156

của WTO từ năm 2012, tuy nhiên thị trường kinh tế của Nga vẫn tương đối khép kín

và hạn chế nhập khẩu các sản phẩm từ các quốc gia khác trên thế giới. Do đó, phía

Nga cần nỗ lực mở cửa hơn trong các chính sách ưu đãi dành cho Việt Nam dựa

trên mối quan hệ đối tác chiến lược giữa hai bên nhằm hướng đến chiều sâu và tính

thực tiễn trong việc nâng tầm quan hệ song phương trong thời gian tới.

Việt Nam vẫn luôn là đối tác kinh tế quan trọng của Liên bang Nga khi là

quốc gia đầu tiên của khu vực ASEAN tham gia vào Hiệp định thương mại tự do

với Liên minh Á – Âu, trong đó, Liên bang Nga chính là thành viên chủ chốt. Đồng

thời, Việt Nam luôn là một trong những thị trường nhập khẩu xăng dầu lớn của

Nga, đồng thời cũng là thị trường đầu tư hoạt động dầu khí lâu năm nhất của Liên

bang Nga trên thế giới. Sau khi Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên

minh châu Âu chính thức có hiệu lực từ tháng 2 năm 2020, các khối nhà nước và

doanh nghiệp Liên bang Nga cần tận dụng cơ hội này để cùng nhau xúc tiến hợp tác

trên đa lĩnh vực như bất động sản, nghiên cứu cơ hội để đầu tư vào thị trường bất

động sản của nhau, tạo điều kiện để các ngân hàng thương mại giữa hai nước lập

các chi nhánh tại thị trường của nhau nhiều hơn, giảm thiểu thủ tục trong cấp phép

làm việc, cũng như đăng ký đầu tư.

Phát triển mối quan hệ trong thời đại mới, cụ thể, hai bên cần thực hiện hoá

các chính sách hợp tác cấp cao giữa chính phủ hai nước trong thời gian trở lại đây.

Tận dụng sự quan tâm và tạo điều kiện phát triển tại thị trường Việt Nam, các doanh

nghiệp dầu khí phía Liên bang Nga cần đẩy mạnh hơn công tác thăm dò và khai

thác lượng khí tự nhiên trên thềm lục địa Việt Nam. Nhanh chóng thực hiện các dự

án đầu đã cam kết đối với ngành dầu khí Việt Nam như xây dựng các nhà máy chiết

xuất khí tự nhiên tại Quảng Trị, đưa vào khai thác dự án mỏ Cá Tầm, hợp tác hơn

nữa trong lĩnh vực năng lượng và trao đổi kinh tế thương mại trong năm 2020 theo

60

đúng kế hoạch đề ra cũng như hướng đến mục tiêu phát triển mối quan hệ lên tầm

cao mới trong tương lai gần.

3.1.2. Định hướng phát triển hợp tác dầu khí giữa hai nước tại Việt Nam

Một là, tiếp tục tăng cường sự hợp tác bền chặt hơn dựa trên cơ sở lợi ích

chiến lược lâu dài được đặt trong bối cảnh kinh tế quốc tế đang có những biến đổi

sâu sắc, đồng thời khẳng định không gì có thể lay chuyển mối quan hệ hợp tác lâu

dài, cùng có lợi của Liên bang Nga và Việt Nam trong hoạt động hợp tác dầu khí

giữa hai nước trên thềm lục địa Việt Nam.

Hai là, tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa những hoạt động hợp tác trong lĩnh vực

chiết xuất khí và khí tự nhiên hóa lỏng với các Tập đoàn Gazprom và Rosneft trong

lĩnh vực đầy tiềm năng này. Đặc biệt, đẩy nhanh hoạt động xây dựng của dự án nhà

máy sản xuất khí tự nhiên tại Quảng Trị trong thời gian tới.

Ba là, tăng cường thu hút nguồn đầu tư lớn về cơ sở vật chất cũng như nguồn

lực chất lượng cao trong công tác thăm dò và tìm kiếm những mỏ dầu mới bên cạnh

những mỏ đã có tuổi đời khai thác đã lâu và nguồn dự trữ đang dần cạn kiệt.

Bốn là, đảm bảo vai trò hoạt động sản xuất của các nhà máy lọc dầu Dung

Quất và các liên hợp lọc hóa dầu và hóa khí Nghi Sơn, Long Sơn, Phú Mỹ, Cà Mau,

Miền Trung trong việc đảm bảo nguồn cung xăng dầu cho thị trường trong nước,

góp phần dần làm giảm sự phụ thuộc vào nhập khẩu xăng dầu trong giai đoạn hiện

nay. Điều đó minh chứng cho những chuyển biến tích cực trong công cuộc phát

triển ngành dầu khí tại Việt Nam, từ đó đưa ra những sáng kiến hợp tác trong các

lĩnh vực mới sẽ góp phần thúc đẩy phát triển toàn diện hơn trong quan hệ hợp tác

giữa hai nước.

Năm là, hoàn thiện cơ chế pháo lý và thủ tục hành lang nhằm tạo điều kiện

thuận lợi triển khai các dự án thăm dò các mỏ dầu mới ngoài thềm lục địa Việt

Nam. Thúc đẩy hơn nữa sức mạnh nội lực về sáng tạo khoa học, kỹ thuật nhằm cải

tiến công cuộc thăm dò, tìm kiếm trở nên hiệu quả hơn.

3.2. Ý kiến đề xuất khắc phục những hạn chế và khó khăn

Để có thể khắc phục những khó khăn còn tồn đọng và hướng đến phát triển

hơn nữa trong hoạt động hợp tác dầu khí giữa hai nước tương xứng với tiềm năng

61

của mối quan hệ hữu nghị Việt – Nga, dưới đây là một số đề xuất đối với nhà nước

và doanh nghiệp như sau:

3.2.1. Đối với nhà nước

Thứ nhất, sớm hình thành lang pháp lý chuẩn cho hoạt động dầu khí. Theo

Luật Dầu khí hiện hành, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam được chỉ định với tư cách là

công ty dầu khí quốc gia duy nhất được tiến hành các hoạt động dầu khí và ký kết

hợp đồng hợp tác dầu khí với các tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật. Đối

với Hợp đồng dầu khí mẫu thì còn khá nhiều khái niệm, quy định chưa rõ ràng,

thiếu logic về vấn đề chuyển nhượng quyền lợi tham gia (trực tiếp và gián tiếp), về

thuế chuyển nhượng vốn trong mỗi trường hợp để nhà đầu tư biết và tuân thủ ngay

từ khi đàm phán hợp đồng chuyển nhượng tạo thành rào cản trong quá trình PVN

đàm phán, thuyết phục các nhà đầu tư, nhà thầu tham gia vào những dự án hoạt

động dầu khí tại Việt Nam.

Trong tình hình thế giới nhiều biến động như hiện nay, các quốc gia đều

thường xuyên linh hoạt các chính sách về ngoại giao, kinh tế, mở rộng các hoạt

động đàm phán ký kết hợp tác kinh tế - thương mại song phương, đa phương… thì

việc sửa đổi, điều chỉnh hoạt động thương mại, đổi mới nội dung, phương thức ký

kết các hợp đồng kinh tế cho phù hợp với thông lệ quốc tế và xu hướng toàn cầu

hóa là hết sức cần thiết. Kiến nghị Nhà nước cần có những văn bản dưới luật quy

định bổ sung cụ thể về quyền hạn nhằm tăng tính chủ động cho Tập đoàn Dầu khí

Việt Nam trong thực hiện hợp tác dầu khí với các đối tác cũng như cơ chế đầu tư ra

nước ngoài, về công tác tự tổ chức thực hiện các dịch vụ dầu khí đặc thù trong nội

bộ. Ngoài ra, cần tiếp tục thực hiện công tác tái cấu trúc doanh nghiệp chuyển

hướng theo cơ chế thị trường, phù hợp với xu hướng phát triển và hội nhập, trong

đó Tập đoàn Dầu khí Việt Nam - doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước vẫn giữ vai trò

là nòng cốt của ngành Dầu khí; tiếp đến, cổ phần hóa các doanh nghiệp con trực

thuộc tập đoàn mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn, không cần nắm giữ vốn

chi phối; nghiên cứu phát triển các tổng công ty/công ty chuyên ngành, tập trung

vào lĩnh vực cốt lõi, đủ mạnh và xóa bỏ sự cạnh tranh nội bộ theo các lĩnh vực hoạt

động chính. Qua đó, hình thành hệ thống quản lý, quản trị doanh nghiệp hiện đại

62

theo chuẩn mực quốc tế. Thường xuyên rà soát và tiến hành công tác cải cách hành

chính trong quản lý, điều hành nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy quản

lý. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát; trong đó, tăng cường quản lý, giám sát

thông qua người đại diện; xây dựng tiêu chuẩn và cơ chế cử người đại diện dựa trên

loại hình doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Hợp đồng dầu khí mẫu mới cần được xem xét

chỉnh lý kịp thời quy định rõ ràng về những vấn đề chuyển nhượng vốn dự án,

quyền lợi của nhà đầu tư cần được đề cao để tạo môi trường đầu tư thuận lợi, minh

bạch, nhằm thu hút các công ty dầu khí thế giới vào hợp tác với Việt Nam. Ngoài

ra, cũng cần có các văn bản dưới luật nhằm giải quyết nhanh những tranh chấp có

thể xảy ra trong quá trình triển khai hoạt động dầu khí theo quy định của các Hợp

đồng dầu khí.

Thứ hai, cải thiện cơ chế chính sách thu hút đầu tư trong lĩnh vực thăm dò

khai thác dầu khí.

Hiện nay, để tuân thủ đầy đủ những điều chỉnh của các luật cho một dự án dầu

khí đối với PVN là rất phức tạp và kéo dài, ảnh hưởng đến tiến độ chung của dự án

và các nhà thầu nước ngoài. Trong đó, công tác triển khai những dự án đầu tư tìm

kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí tại Việt Nam phải tuân thủ rất nhiều nguồn luật

khác nhau như Luật Dầu khí, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Xây dựng,

Luật Đấu thầu… tạo nên một mạng lưới chồng chéo, xung đột ở nhiều điều khoản

gây cản trở, khó khăn khi triển khai hợp đồng dầu khí, dẫn đến tâm lý e ngại, giảm

sức hút với các nhà đầu tư tiềm năng nước ngoài. Trên thực tế, việc thăm dò và khai

thác dầu khí là một hoạt động có nhiều rủi ro, không thể hoạch định chính xác tuyệt

đối 100% trong giai đoạn trước khi thực nghiệm. Trong Luật Dầu khí hoặc Hợp

đồng dầu khí hiện nay, việc áp dụng các điều kiện khuyến khích được quy định

được đánh giá là vẫn chưa phù hợp khi nhà nước vẫn đóng vai trò bảo hộ cho các

hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp trong và ngoài nước khi tham gia dự án dầu

khí, không đưa được tiêu chí lượng hóa vào hồ sơ mời thầu để ưu đãi, mỗi nhà điều

hành có lại cách thức ưu đãi khác nhau, quy định nhà thầu nước ngoài khi tham gia đấu

thầu sẽ phải liên doanh hoặc sử dụng thầu phụ là doanh nghiệp trong nước dẫn đến hệ

quả các nhà đầu tư nước ngoài gặp nhiều khó khăn nếu muốn rót vốn cho dự án.

63

Nhiều quốc gia trên thế giới đã nhanh chóng cải tiến những cơ chế ưu đãi

nhằm thu hút đầu tư dầu khí như áp dụng nhiều chính sách khuyến khích công tác

nghiên cứu và áp dụng các giải pháp tăng cường thu hồi dầu, miễn giảm thuế tài

nguyên, thuế xuất khẩu dầu, thuế thu nhập doanh nghiệp, hoặc tăng tỉ lệ phân chia

dầu lãi cho nhà đầu tư... Do vậy, Việt Nam cần sớm cải cách những chính sách một

cách phù hợp với cơ chế cởi mở hơn khi đặt trọng tâm vào doanh nghiệp, dành

những điều kiện tốt nhất về ưu đãi thuế, tăng tỉ lệ phân chia dầu lãi về phía doanh

nghiệp đầu tư để chia sẻ rủi ro trong đầu tư công nghệ, tận thăm dò, tận khai thác tài

nguyên, phục vụ cho mục đích lớn hơn là phát triển kinh tế đất nước. Nhà nước sớm

xem xét kiến nghị điều chỉnh Luật Dầu khí phù hợp hơn với thực trạng tiềm năng và

cơ cấu trữ lượng dầu khí trong nước hiện nay, tạo điều kiện cho các nhà thầu nước

ngoài mạnh dạn đầu tư vào lĩnh vực Dầu khí tại Việt Nam. Đồng thời, cần có quy

định thống nhất, loại trừ mâu thuẫn giữa các văn bản pháp luật, tạo hành lang pháp

lý chuẩn, nhằm giảm bớt các thủ tục, thời gian và chi phí cho doanh nghiệp, phù

hợp với thông lệ quốc tế trong thời kỳ hội nhập kinh tế sâu rộng hiện nay.

Thứ ba, đa dạng hóa các hình thức huy động vốn để đáp ứng nhu cầu vốn phụ

vụ cho các dự án dầu khí trong tương lai. Về nội tại, những bước đi cần thực hiện

bao gồm: hằng năm, để lại khoảng một phần ba lãi dầu khí từ các hợp đồng phân

chia sản phẩm dầu khí; chuyển hóa toàn bộ lợi nhuận từ hoạt động dầu khí thường

niên của Liên doanh Vietsovpetro và nguồn thu từ cổ phần hóa hoặc thoái vốn tại

các công ty con. Nếu thực hiện được một cách quyết liệt và nghiêm túc, có thể nói,

đây sẽ là nguồn lực vốn nội tại rất lớn để phát triển ngành Dầu khí Việt Nam hơn

nữa. Ngoài ra, cần chủ động xây dựng lộ trình thoái vốn, cổ phần hóa hợp lý để thu

hồi vốn, đáp ứng yêu cầu bổ sung vốn chủ sở hữu. Tăng cường thu hút vốn đầu tư

trực tiếp nước ngoài (FDI) và vốn của các thành phần kinh tế khác trong nước bằng

cách gia tăng lợi ích, ưu đãi cho các bên tham gia.

Đa dạng hóa các hình thức vay vốn: tín dụng thông thường, tín dụng xuất

khẩu, vay ưu đãi của Chính phủ, phát hành trái phiếu trong nước và quốc tế…; xây

dựng mối quan hệ tốt, cùng có lợi với các ngân hàng thương mại truyền thống; mở

rộng hợp tác với các ngân hàng có uy tín trong khu vực và trên thế giới; bảo lãnh

64

Chính phủ đối với các khoản vay cho các dự án trọng điểm dầu khí. Để duy trì dòng

tiền hoạt động, nhà nước cần đưa các nhà máy lọc dầu vào danh sách ưu tiên được

giãn thời gian nộp thuế và được vay ngân hàng với lãi suất ưu đãi để bổ sung nguồn

vốn lưu động đang bị thiếu hụt.

Thứ tư, nâng cao vai trò của Nhà nước trước ảnh hưởng kép bởi dịch bệnh

Covid-19 hiện nay. Kể từ khi dịch Covid-19 bùng phát trên thế giới, giá dầu trên thế

giới liên tục giảm, trung bình chỉ đạt 30 USD/thùng. Theo quy luật thị trường, chỗ

nào rẻ hơn thì doanh nghiệp mua hàng để tối ưu hoá hiệu quả kinh doanh và nhập

khẩu rẻ sẽ kéo theo giá xăng dầu bán lẻ trong nước giảm, có lợi cho người tiêu

dùng. Và trong tình hình hiện tại, Việt Nam đang trong tình trạng quá tải kho chứa.

Trong khi các nhà máy lọc dầu vẫn đảm bảo công suất đều đặn thì lượng nhập khẩu

xăng dầu đầu năm tăng cao trong khi nhu cầu tiêu thụ giảm sút vì dịch bệnh.

Trong bối cảnh tiêu thụ giảm sút mạnh trên toàn cầu, khủng hoảng giá dầu

ngày càng nặng nề, các quốc gia trên toàn thế giới như Liên bang Nga, Indonesia,

Trung Quốc,… đồng loạt thực hiện các biện pháp ngưng nhập khẩu xăng dầu, tăng

bảo hộ, chống bán phá giá, nỗ lực hỗ trợ doanh nghiệp trong nước vượt qua suy

thoái. Do đó, biện pháp thiết thực nhất lúc này về phía Chính phủ là nên tạm dừng

nhập khẩu xăng dầu trong giai đoạn này để thực hiện vai trò bảo hộ đối với thị

trường xăng dầu trong nước, đặt sự ưu tiên sử dụng những mặt hàng xăng dầu sản

xuất trong nước, giảm tình trạng tồn kho các doanh nghiệp. Đồng thời, kiến nghị Bộ

Tài chính và Bộ Công thương sớm xem xét loại bỏ các sản phẩm được chế biến từ

tài nguyên dầu thô ra khỏi danh sách các sản phẩm không chịu thuế Giá trị gia tăng

khi xuất khẩu, nhất là trong bối cảnh nhu cầu trong nước đang giảm mạnh và cần

một biện pháp thúc đẩy doanh nghiệp xuất khẩu.

3.2.2. Đối với doanh nghiệp

Thứ nhất, đối với PVEP cần phát huy vai trò chủ đạo trong công tác quản lý

và giám sát hoạt động dầu khí. Hiện nay, quy trình quản lý và báo cáo của PVEP

chỉ mang tính tổng hợp thống kê đơn thuần dựa trên những báo cáo chủ quan từ

phía đơn vị phụ trách các Lô khai thác Do đó, PVEP cần phát huy vai trò của mình

trong giám sát động thái khai thác các mỏ, cập nhật mô hình khai thác thường

65

xuyên nhằm tối ưu các chế độ khai thác Đồng thời, cần chú trọng hơn trong đánh

giá những báo cáo sản lượng khai thác thực tế so với kế hoạch được giao, thường

xuyên cập nhật tình hình khai thác, rà soát và phân tích một cách kỹ lưỡng cũng như

nghiên cứu đề xuất giải pháp theo tình hình thực tế của mỏ và đưa ra những phương

thức xử lý công việc kịp thời, hiệu quả... Không những thế, PVEP cần chủ động hơn

trong công tác làm việc với PVN và các đối tác nhằm cập nhật thông tin, nhìn nhận

được những khó khăn, thách thức từ đó đề ra các giải pháp ngắn hạn, dài hạn, các

vấn đề PVN/PVEP có thể hỗ trợ nhà điều hành để giải quyết vấn đề sản lượng khai

thác cũng như các vấn đề còn tồn tại, tìm các giải pháp gia tăng sản lượng khai thác

trong những năm tiếp theo. PVEP nên tiếp tục phối hợp nghiên cứu nhằm triển khai

hiệu quả công tác gia tăng sản lượng khai thác và chú trọng các mỏ trong nước theo

đúng chủ trương của PVN, cũng như khoan và đưa các giếng vào khai thác đúng kế

hoạch; tối ưu hóa công tác vận hành, bố trí lịch bảo dưỡng, sửa chữa các thiết bị

khai thác hợp lý; tối ưu vị trí giếng khoan, đưa hoạt động các dự án giếng mới kể từ

năm 2020 vào vận hành đúng kế hoạch và đạt hiệu quả cao nhất.

Hiện tại, PVEP cần đưa ra những đề xuất, kiến nghị cấp thiết với PVN hỗ trợ

giải quyết về thủ tục và ngân sách bảo đảm cho công tác triển khai các giếng khoan

kể từ năm 2020 theo đúng kế hoạch. Bên cạnh đó, PVN cần hỗ trợ thủ tục pháp lý

và ngân sách đối với những công việc can thiệp giếng, chuyển vỉa bổ sung khi nhà

điều hành đề xuất nhằm bù đắp phần sản lượng khai thác bị thiếu hụt. Bên cạnh đó,

PVN và PVEP cũng cần đưa ra những giải pháp dài hạn, đặc biệt là việc bảo đảm

nguồn vốn đầu tư cho thăm dò, khai thác cũng như đề xuất lên các cấp có thẩm

quyền xem xét, ban hành những chính sách, ưu đãi phù hợp cho từng dự án để gia

tăng sản lượng khai thác cũng như gia tăng trữ lượng, vì mục tiêu chung là phát

triển ngành dầu khí một cách bền vững.

Thứ hai, xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực. Thực trạng hiện nay,

nguồn nhân lực chủ yếu cho ngành Dầu khí Việt Nam được đào tạo đến từ nhiều

đơn vị trong nước và nước ngoài. Trong đó, ở trong nước, tập trung chủ yếu vào các

đơn vị gồm: Trường Đại học Mỏ - Địa chất, Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học

Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh và các đơn vị trực thuộc PVN như Viện Dầu

66

khí Việt Nam, Trường Đại học Dầu khí Việt Nam, Trường Cao đẳng nghề Dầu khí.

Còn ở nước ngoài, chủ yếu các cán bộ tốt nghiệp ở các trường đào tạo dầu khí của

Nga, Mỹ và Pháp... Điều này làm cho bức tranh về cung ứng nhân lực cho ngành

Dầu khí Việt Nam trở nên đa dạng, phong phú, tạo sự cạnh tranh và thúc đẩy phát

triển sự nghiệp đào tạo nhân lực cho ngành. Tuy nhiên, trong thời kỳ hội nhập hiện

nay, cùng với đó là những yêu cầu thị trường trong lĩnh vực dầu khi đòi hỏi sự sáng

tạo, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào công tác thăm dò, hoạt động sản xuất với trình

độ cao hơn. Thì bản thân các doanh nghiệp cần liên tục tổ chức đào tạo, nâng cao

trình độ đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật hiện có; đào tạo bổ sung cho những

khâu còn thiếu, còn yếu; ưu tiên đào tạo chuyên gia thuộc các lĩnh vực mũi nhọn

như ứng dụng khoa học công nghệ trong hoạt động dầu khí. Tăng cường hợp tác với

các nhà thầu dầu khí, liên doanh với nước ngoài trong công tác đào tạo, phát triển

nguồn nhân lực; nâng cao năng lực của các cơ sở đào tạo; hoàn thiện hệ thống cán

bộ làm công tác đào tạo từ tập đoàn đến các đơn vị thành viên.

Thứ ba, tăng cường các giải pháp về khoa học công nghệ. Bước vào giai đoạn

hiện nay, các mỏ dầu khí chủ lực đã có sự suy giảm rất nhanh về sản lượng với độ

ngập nước, khí tiếp tục tăng nhanh và diễn biến phức tạp, tiến độ triển khai khoan

tại một số giếng còn chậm. Các Lô mở có tiềm năng dầu khí hạn chế, trữ lượng nhỏ,

mà vị trí lại nằm tại vùng nước sâu, xa bờ hoặc có cấu trúc địa chất phức tạp. Trước

tình hình hiện tại, càng đề ra sự cấp bách cần đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu, ứng

dụng, chuyển giao công nghệ phục vụ phát triển bền vững, bảo vệ tài nguyên, môi

trường và nâng cao khả năng cạnh tranh trong khai thác sản xuất. Đổi mới nhận

thức, tư duy, đẩy mạnh đào tạo, sử dụng đội ngũ cán bộ làm công tác khoa học công

nghệ, xây dựng quy chế ưu đãi, tăng đầu tư, xây dựng kế hoạch nghiên cứu, đặt

hàng cho công tác nghiên cứu khoa học.

Tiếp tục đổi mới cơ chế hoạt động, nâng cao hiệu quả quản lý theo tinh thần

đổi mới của Luật Khoa học và Công nghệ theo hướng bám sát nhu cầu thị trường và

yêu cầu của ngành Dầu khí. Xây dựng lộ trình công nghệ thích hợp cho Tập đoàn:

xác định công nghệ cần phải triển khai trong từng lĩnh vực cụ thể như từ các bước

nghiên cứu địa chất, khoan thăm dò, phân tích độ hiệu quả và khai thác sản xuất. Sử

67

dụng hiệu quả Quỹ nghiên cứu khoa học của Tập đoàn đến từ cam kết tài chính của

các hợp đồng dầu khí; các đơn vị thành viên Tập đoàn phải dành chi phí nhất định

cho công tác nghiên cứu khoa học. Trên cơ sở đó, khuyến khích nghiên cứu, phát

triển, đầu tư, thử nghiệm chuyển đổi và ứng dụng các công nghệ mới, đào tạo nguồn

nhân lực phù hợp, tiến tới làm chủ các công nghệ. Tăng cường đầu tư cho trang

thiết bị phục vụ nghiên cứu, đầu tư mua và đổi mới công nghệ; trước mắt cần thực

hiện giải pháp đầu tư có trọng điểm nhằm tăng cường năng lực trang thiết bị phục

vụ nghiên cứu.

Thứ tư, thực hiện các giải pháp về an toàn, môi trường và phát triển bền vững:

Tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam về đảm bảo an toàn và bảo vệ môi

trường, thực hiện đầy đủ các cam kết tại báo cáo đánh giá tác động môi trường/cam

kết bảo vệ môi trường của tất cả các dự án. Hoàn thiện và vận hành hiệu quả hệ

thống quản lý công tác an toàn - sức khỏe - môi trường trong các công ty thành viên

thuộc Tập đoàn trong đó, cần tổ chức và đầu tư trang thiết bị để nâng cao năng lực

ứng cứu các tình huống khẩn cấp trong toàn Tập đoàn. Qua đó, hoàn thiện và vận

hành hiệu quả hệ thống dự báo, quản trị rủi ro về tác động của hoạt động dầu khí

với an toàn lao động và môi trường. Phát triển hệ thống quản lý và xử lý chất thải

dầu khí với công nghệ tiên tiến, phù hợp với điều kiện Việt Nam, bảo đảm có đủ

năng lực tự xử lý các nguồn thải của ngành; lựa chọn và sử dụng công nghệ cao,

hiệu quả, thân thiện môi trường, công nghệ có độ tin cậy và an toàn cao. Xây dựng

định mức cho hoạt động an toàn sức khỏe môi trường để có thể thực hiện hoạt động

này đạt hiệu quả cao nhất; xây dựng cơ sở dữ liệu về an toàn vệ sinh môi trường

toàn Tập đoàn nhằm phục vụ công tác quản lý và nghiên cứu khoa học; xây dựng và

triển khai chương trình tiết kiệm năng lượng và sản xuất năng lượng sạch.

Thứ năm, cần tiếp tục phát huy vai trò của các nhà máy lọc dầu trong nước

đảm bảo sản lượng cung cấp ra thị trường. Đồng thời các doanh nghiệp quản lý cần

có những kế hoạch và kế sách linh hoạt trong cung ứng xăng dầu ra thị trường, đưa

ra những lợi thế cạnh tranh đối với sản phẩm xăng dầu nhập khẩu về giá và chất

lượng. Đồng thời, linh hoạt điều chỉnh công suất nhà máy theo nhu cầu thị trường,

68

giải phóng hàng tồn kho giá cao càng nhanh càng tốt để có chỗ chứa các lô dầu thô

giá thấp. Qua đó, đưa doanh nghiệp vượt khó trong tình hình giá dầu trong những

năm gần đây luôn có những biến động không ngừng.

3.2.3. Ý kiến khác

Nâng cao hơn nữa vai trò của PVN trong những liên doanh dầu khí hiện nay

không chỉ trong nước mà còn ở nước ngoài để tăng tính hoạt động hiệu quả, rút ra

những kinh nghiệm, bài học quý báu có thể áp dụng để cải thiện tình hình kinh

doanh và sản xuất trong nước được hiệu quả tốt hơn trong những năm tới.

Cần tập trung nâng cao, tối ưu bộ máy hoạt động của các doanh nghiệp liên

doanh trong lĩnh vực dầu khí tại Việt Nam bằng cách tăng cường đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ ưu tú về chuyên môn nghiệp vụ với sự giúp đỡ từ các Tập đoàn dầu khí dày

dặn kinh nghiệm của Liên bang Nga.

Đầu tư cơ sở hạ tầng hiện đại, tiến bộ hơn phục vụ phụ trợ cho các dự án thăm

dò và tìm kiếm các mỏ dầu mới trên thềm lục địa Việt Nam đạt được kết quả khả

quan hơn nhằm tiết kiệm chi phí mà hiệu quả đạt được cao hơn.

Đẩy mạnh công tác thu hút đầu tư từ các địa phương trong khu vực miền nam

Việt Nam với những chính sách ưu đãi riêng dành cho các Tập đoàn, doanh nghiệp

hàng đầu về dầu khí của Nga được thuê đất, xây dựng nhà máy phục vụ các hoạt

động chiết xuất khí tự nhiên đang rất tiềm năng tại những khu vực này.

Tiếp cận những ứng dụng khoa học kỹ thuật mới thay thế cho quá trình khai

thác và sản xuất cũ tồn tại nhiều năm qua để có thể tiết kiệm chi phí hơn, tối ưu lợi

nhuận dành cho các doanh nghiệp. Để làm được điều đó, cần có sự phối hợp chặt

chẽ, hợp tác toàn diện không chỉ giữa các Tập đoàn dầu khí với nhau mà còn cả ở

tầm vĩ mô giữa các cấp chính quyền liên quan, chính phủ hai nước trong việc nâng

tầm hiệu quả hợp tác dầu khí giữa hai nước lên tầm cao mới để đạt được mục tiêu

trong những năm tới. Nhà nước cần có những giải pháp dài hạn, đặc biệt là việc bảo

đảm nguồn vốn đầu tư cho thăm dò, khai thác cũng như đề xuất lên các cấp có thẩm

quyền xem xét, ban hành những chính sách, ưu đãi phù hợp cho từng dự án để gia

tăng sản lượng khai thác cũng như gia tăng trữ lượng, vì mục tiêu chung là phát

triển ngành dầu khí một cách bền vững.

69

Tiếp tục xây dựng mục tiêu phát triển trọng điểm các lĩnh vực mới bên cạnh

lĩnh vực dầu khí truyền thống như chiết xuất khí và khí tự nhiên hóa lỏng. Cần tạo

điều kiện tốt nhất cho các Tập đoàn dầu khí của Nga đầu tư xây dựng các nhà máy,

hỗ trợ hành lang pháp lý nhanh chóng để đưa vào khai thác và sản xuất khí tự nhiên

tại Việt Nam trong thời gian tới.

Tiếp tục thúc đẩy hợp tác song phương trên các cấp độ. Một trong những yếu

tố quan trọng để cải thiện những khó khăn kể trên chính là nền tảng, sự thấu hiểu

lẫn nhau dựa trên tình hữu nghị tốt đẹp giữa hai nước. Việt Nam cần chủ động đàm

phán, gia tăng đầu tư vào thị trường Liên bang Nga còn rất mới mẻ và tiềm năng

nhằm đa dạng thị trường cũng như tận dụng những ưu đãi mà phía Liên bang Nga

cam kết khuyến khích các doanh nghiệp của Việt Nam đẩy mạnh đầu tư vào thị

trường của mình. Cần phát huy vai trò tối đa và phát triển hơn nữa quan hệ Đối tác

chiến lược toàn diện Việt – Nga, từ đó thúc đẩy hợp tác, cùng nhau nắm lấy cơ hội

mà khu vực và thế giới mang lại trong thời gian này.

70

TÓM TẮT CHƢƠNG 3

Có thể nói, trên cơ sở thực tiễn phát triển quan hệ đối tác chiến lược Việt

Nam – Liên bang Nga trong hoạt động dầu khí đang có cơ hội phát triển đầy hứa

hẹn trong thời gian tới. Tiềm năng thương mại hay dầu khí của hai nước là vô

cùng to lớn. Để thực hiện hoá những tiềm năng đó, đồng thời cải thiện các thế

mạnh hợp tác của cả hai nước cần sự nỗ lực đồng bộ, then chốt giữa Nhà nước và

doanh nghiệp. Đối với nhà nước, cần tiếp tục hợp tác chặt chẽ hơn nữa quan hệ

hợp tác quốc tế với Liên bang Nga, là nền tảng quan trọng cho mọi mối quan hệ

hợp tác khác trong lĩnh vực dầu khí chủ chốt; tích cực sửa đổi hành lang pháp lý

và thủ tục pháp lý để hấp dẫn thu hút các nhà đầu tư tiềm năng tham gia công

cuộc khai thác, thăm dò, tìm kiếm những mỏ dầu mới trên thềm lục địa Việt

Nam; cần thể hiện rõ vai trò trong hỗ trợ doanh nghiệp trong công tác triển khai

các dự án hợp tác dầu khí được đảm bảo sự hiệu quả trong tiến độ. Đối với các

doanh nghiệp, về cơ bản cần thay đổi tư duy, phát huy giá trị sáng tạo trong nội

bộ, không ngừng đổi mới, áp dụng khoa học kỹ thuật vào hoạt động dầu khí để

giảm thiểu rủi ro, tiết kiệm chi phí nhằm tối đa hoá lợi nhuận và đảm bảo mục

tiêu chung là phát triển ngành dầu khí một cách bền vững.

71

PHẦN KẾT LUẬN

Năm 2020 đã đánh dấu mốc quan trọng trong quan hệ hữu nghị và hợp tác

giữa hai nước Việt Nam và Liên bang Nga khi kỷ niệm 70 năm quan hệ ngoại giao.

Bên cạnh đó, hoạt động hợp tác dầu khí giữa hai nước cũng đã trải qua gần 35 năm

được củng cố và phát triển.

Trải qua khoảng thời gian dài phát triển, cùng định hướng hợp tác đúng đắn,

hoạt động hợp tác trong lĩnh vực dầu khí giữa hai nước tiếp tục thể hiện là điểm

sáng lớn nhất trong quan hệ ngoại giao giữa hai nước từ trước đến nay. Cũng trong

giai đoạn này, biểu tượng của sự hợp tác trong hoạt động dầu khí giữa PVN và

Zarubezhneft, Vietsovpetro tiếp tục thể hiện là đầu tàu trong lĩnh vực dầu khí nước

nhà và là thành viên chủ chốt trong Tập đoàn dầu khí Việt Nam khi hàng năm đều

xuất sắc vượt khó và đạt được những chỉ tiêu về sản lượng khai thác dầu khí cũng

như doanh thu, đóng góp một phần không nhỏ vào ngân sách nhà nước trong những

năm qua. Đây cũng chính là cầu nối vững chắc để thu hút các Tập đoàn dầu khí

hàng đầu của Nga như Gazprom và Rosneft tham gia vào hợp tác trong lĩnh vực dầu

khí và năng lượng tại Việt Nam.

Những kết quả đạt được trong hoạt động dầu khí giữa hai nước là những điểm

sáng đáng khích lệ nhưng chưa thực sự tương xứng với tiềm năng của mối quan hệ

hợp tác chiến lược toàn diện tốt đẹp vốn có giữa hai nước.

Thứ nhất, trong hợp tác lĩnh vực dầu khí, Liên bang Nga luôn ở vị trí là nước

đầu tư hàng đầu vào Việt Nam. Với tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên dầu mỏ và

khí tự nhiên ở thềm lục địa nhưng Việt Nam chưa có đủ điều kiện về cơ sở vật chất

cũng như nhân lực để có thể làm chủ trong khai thác và sản xuất. Qua đó, có thể

thấy tầm quan trọng của Liên bang Nga là không thể thay thế đối với sự phát triển

chung của ngành dầu khí Việt Nam.

Thứ hai, việc hợp tác dầu khí tại thị trường Nga còn hạn chế khi chỉ mới dừng

ở hai công ty liên doanh là Rusvietpetro và Gazpromviet hoạt động khai thác chủ

yếu tại khu tự trị Nenetski. Những hoạt động của những công ty liên doanh này đã

mang lại những thành công nhất định, mở ra cơ hội hợp tác sâu rộng hơn nữa giữa

72

hai nước trong thời gian tới không chỉ trong lĩnh vực dầu khí mà còn ở nhiều lĩnh

vực khác nữa.

Thứ ba, dù đều là thành viên của WTO cũng như các Hiệp định thương mại tự

do mà hai nước cùng tham gia nhưng thị trường hai nước vẫn tương đối đóng trong

quan hệ thương mại. Tuy nhiên, đây cũng chính là cơ hội để thể hiện vai trò của đối

tác chiến lược toàn diện giữa hai nước trong thời gian tới với các chính sách, nghị

định khuyến khích các doanh nghiệp hai nước tham gia vào thị trường của nhau.

Để có thể khắc phục những hạn chế còn tồn tại trong quan hệ hợp tác giữa hai

nước để đi đến giai đoạn phát triển thịnh vượng bền vững hơn nữa thì hai nước cần

nhìn nhận đánh giá những thành công đạt được mà tìm ra những giải pháp, thực thi

những chính sách phù hợp mang tính thực tiễn hơn nữa. Hi vọng với những ý kiến

đề xuất trong bài luận văn này sẽ là cơ sở tham khảo hữu ích dành cho các cơ quan

hoạch định chính sách cũng như các doanh nghiệp trong quan hệ hợp tác với Liên

bang Nga.

Tiến tới thập kỷ thứ tám trong mối quan hệ ngoại giao, triển vọng của quan hệ

hợp tác giữa hai nước vẫn luôn rất rộng lớn. Điều này hoàn toàn có cơ sở từ thực

tiễn trong suốt chiều dài lịch sử kể từ khi hai nước chính thức thiết lập quan hệ hợp

tác song phương. Trong bối cảnh mới hiện nay, hai nước Việt - Nga cần phải thể hiện

rõ hơn vai trò của mình với vị thế là đối tác chiến lược toàn diện của nhau. Đặc biệt là

về lĩnh vực dầu khí, cần phát huy thế mạnh của Liên bang Nga cũng như tiềm năng

của Việt Nam để tạo thành nội lực vững chắc và cùng nhau phát triển dựa trên lợi ích

chung giữa hai quốc gia cũng như đảm bảo an ninh, an toàn trong khu vực.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tham khảo tiếng Việt

1. Tô Thanh Loan, Hợp tác quốc tế của Việt Nam trong việc xúc tiến hoạt động

du lịch, Luận văn thạc sĩ, Trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà

Nội năm 2015.

2. Hoàng Khắc Nam, Khái niệm và cơ sở của xung đột trong quan hệ quốc tế,

Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 2/2006, tr. 11-21.

3. Tổng cục thống kê, Thống kê xuất nhập khẩu phân theo vùng và lãnh thổ các

năm 2015 – 2019, Hà Nội.

4. Viện Ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội

2010.

5. Vietsovpetro, Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất – kinh doanh các năm 2015

– 2019, Vũng Tàu.

Internet

6. Lâm Anh (2019), Hợp tác Dầu khí: Điểm sáng trong quan hệ hữu nghị Việt

Nam- LB Nga, tại địa chỉ: https://petrovietnam.petrotimes.vn/hop-tac-dau-khi-

diem-sang-trong-quan-he-huu-nghi-viet-nam-lb-nga-537167.html, truy cập

ngày 10/04/2020.

7. Nguyễn Trần Bạt (2013), Vai trò và khả năng hợp tác trong đời sống hiện đại,

tại địa chỉ: https://voer.edu.vn/m/vai-tro-va-kha-nang-hop-tac-trong-doi-song-

hien-dai/a626a3e1, truy cập ngày 11/04/2020.

8. Tôn Thất Bình (2019), Những mỏ dầu lớn nhất ở nước ta, tại địa chỉ:

http://nganhmoitruong.edu.vn/kien-thuc-ky-nang/nhung-mo-dau-lon-nhat-o-

nuoc-ta/, truy cập ngày 14/04/2020.

9. Thái Bình (2019), Dầu thô xuất giảm, nhập tăng, tại địa chỉ:

https://www.pvoil.com.vn/truyen-thong/tin-lien-quan/dau-tho-xuat-giam-

nhap-tang, truy cập ngày 16/04/2020.

10. Trần Kim Chung (2018), Bối cảnh toàn cầu và những vấn đề đặt ra với ngành

Dầu khí, tại địa chỉ: http://www.pvn.vn/Pages/detail.aspx?NewsID=8242748c-

0b03-4530-9e41-8c349c9b7ba5, truy cập ngày 19/04/2020.

11. Thuỷ Chung (2020), Xuất khẩu xăng dầu năm 2019 giảm cả lượng, kim ngạch

và giá, tại địa chỉ: http://vinanet.vn/thuong-mai-cha/xuat-khau-xang-dau-nam-

2019-giam-ca-luong-kim-ngach-va-gia-724291.html, truy cập ngày

16/04/2020.

12. Thuỷ Chung (2019), Nhập khẩu xăng dầu từ hầu hết các thị trường bị sụt

giảm, tại địa chỉ: http://vinanet.vn/thuong-mai-cha/nhap-khau-xang-dau-tu-

hau-het-cac-thi-truong-bi-sut-giam-721357.html, truy cập ngày 16/04/2020.

13. Duyên Duyên (2019), 8 nhóm hàng mà Việt Nam phải nhập khẩu nhiều nhất

năm 2018, tại địa chỉ: https://cafef.vn/8-nhom-hang-ma-viet-nam-phai-nhap-

khau-nhieu-nhat-nam-2018-20190121160901078.chn, truy cập ngày

16/04/2020.

14. Duyên Duyên (2019), Việt Nam giảm mạnh nhập khẩu xăng dầu từ hầu hết

các thị trường, tại địa chỉ: http://vneconomy.vn/viet-nam-giam-manh-nhap-

khau-xang-dau-tu-hau-het-cac-thi-truong-20191124212828746.htm, truy cập

ngày 17/04/2020.

15. Nguyễn Tiến Dũng (2016), 55 năm ngành Dầu khí Việt Nam: Hành trình của

bản lĩnh và khát vọng, tại địa chỉ: https://www.pvcfc.com.vn/55-nam-nganh-

dau-khi-viet-nam-hanh-trinh-cua-ban-linh-va-khat-vong, truy cập ngày

15/04/2020.

16. Ngân Hà (2019), Kỳ XIV: Những tấn dầu đầu tiên, tại địa chỉ:

https://petrovietnam.petrotimes.vn/ky-xiv-nhung-tan-dau-dau-tien-

543036.html, truy cập ngày 14/04/2020.

17. Hoàng Thị Hoa (2019), Quan hệ Đối tác Chiến lược toàn diện Việt Nam - LB

Nga sẽ tiếp tục phát triển, tại địa chỉ: http://dangcongsan.vn/lanh-dao-dang-

nha-nuoc/quan-he-doi-tac-chien-luoc-toan-dien-viet-nam-lb-nga-se-tiep-tuc-

phat-trien-544718.html, truy cập ngày 11/04/2020.

18. Thạch Huê (2019), Việt Nam sẽ luôn tạo thuận lợi để các doanh nghiệp Nga

đầu tư tại Việt Nam, tại địa chỉ: https://bnews.vn/viet-nam-se-luon-tao-thuan-

loi-de-cac-doanh-nghiep-nga-dau-tu-tai-viet-nam/138593.html, truy cập ngày

12/04/2020.

19. Mạnh Hùng (2019), Hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và

Liên bang Nga phát triển năng động, tại địa chỉ: http://dangcongsan.vn/doi-

ngoai/hop-tac-kinh-te-thuong-mai-va-dau-tu-giua-viet-nam-va-lien-bang-nga-

phat-trien-nang-dong-540904.html, truy cập ngày 11/04/2020.

20. Nguyễn Hương (2017), Thương mại Việt - Nga năm 2016 tăng 25,4%, tại địa

chỉ: http://vinanet.vn/thuong-mai-cha/thuong-mai-viet-nga-nam-2016-tang-

254-662389.html, truy cập ngày 11/04/2020.

21. Nguyễn An Hà và Nguyễn Thanh Lan (2019), Tăng cường quan hệ thương

mại và đầu tư Việt Nam - Nga trong bối cảnh mới, tại địa chỉ:

http://www.tapchicongsan.org.vn/tin-binh-luan/-

/asset_publisher/DLIYi5AJyFzY/content/tang-cuong-quan-he-thuong-mai-

dau-tu-viet-nam-va-nga-trong-boi-canh-moi#, truy cập ngày 11/04/2020.

22. Trúc Lâm (2019), Ngành Dầu khí 58 năm tự hào phát triển cùng đất nước, tại

địa chỉ: http://www.pvi.com.vn/tin-tuc-new/tin-hoat-dong-pvi/nganh-dau-khi-

58-nam-tu-hao-phat-trien-cung-dat-nuoc.html, truy cập ngày 15/04/2020.

23. Nhật Linh (2020), Kỷ niệm 70 năm quan hệ ngoại giao Việt Nam – Liên bang

Nga, tại địa chỉ: https://vtv.vn/viet-nam-va-the-gioi/ky-niem-70-nam-quan-he-

ngoai-giao-viet-nam-lien-bang-nga-20200123184540265.htm, truy cập ngày

10/04/2020.

24. Vũ Mạnh (2019), Việt - Nga khó đạt mục tiêu thương mại 10 tỷ USD năm

2020, tại địa chỉ: https://zingnews.vn/viet-nga-kho-dat-muc-tieu-thuong-mai-

10-ty-usd-nam-2020-post1023880.html, truy cập ngày 10/04/2020.

25. Nhật (Minh), 2019, Nga đã đầu tư 116 dự án vào Việt Nam, tại địa chỉ:

https://giaoduc.net.vn/kinh-te/nga-da-dau-tu-116-du-an-vao-viet-nam-

post196529.gd, truy cập ngày 11/04/2020.

26. Lê Ngà (2019), Vietsovpetro đặt mục tiêu doanh thu năm 2020 dự kiến 1,38 tỷ

USD, tại địa chỉ: https://vietnamfinance.vn/vietsovpetro-dat-muc-tieu-doanh-

thu-nam-2020-du-kien-138-ty-usd-20180504224232822.htm, truy cập ngày

15/04/2020.

27. Minh Ngọc (2019), Cuộc tháo chạy của hàng loạt đại gia dầu khí ở Việt Nam,

tại địa chỉ: https://tuoitre.vn/cuoc-thao-chay-cua-hang-loat-dai-gia-dau-khi-o-

viet-nam-2019032110455301.htm, truy cập ngày 14/04/2020.

28. Nguyễn Thị Hồng Trang (2016), Tầm quan trọng của hợp tác quốc tế với các

trường đại học tại Việt Nam, tại địa chỉ: http://eba.htu.edu.vn/gioi-thieu/tam-

quan-trong-cua-hop-tac-quoc-te-voi-cac-truong-dai-hoc-tai-viet-nam.html,

truy cập ngày 10/04/2020.

29. Duy Trinh (2019), Việt Nam-Nga tăng cường hợp tác kinh tế, thương mại và

đầu tư, tại địa chỉ: http://www.baodongnai.com.vn/chinhtri/201912/viet-nam-

nga-tang-cuong-hop-tac-kinh-te-thuong-mai-va-dau-tu-2978210/, truy cập

ngày 11/04/2020.

30. Nam Trung (2018), Giá xăng dầu nhập khẩu giảm, vì sao giá nội địa tăng?,

tại địa chỉ: https://www.pvoil.com.vn/truyen-thong/tin-lien-quan/gia-xang-

dau-nhap-khau-giam-vi-sao-gia-noi-dia-tang?pagenumber=10, truy cập ngày

16/04/2020.

31. Toàn Việt (2017), 5 điều cần biết về ngành dầu khí Việt Nam, tại địa chỉ:

https://www.bbc.com/vietnamese/business-41027914, truy cập ngày

15/04/2020.

32. Ban Thời sự (2020), Việt Nam - Liên bang Nga hợp tác khai thác dầu khí, tại

địa chỉ: https://vtv.vn/viet-nam-va-the-gioi/viet-nam-lien-bang-nga-hop-tac-

khai-thac-dau-khi-

2020012819123975.htm?fbclid=IwAR0Ku6TehGXxILXJP0L3RMkzOsmQH

M7eb32rqs16iBPPXdceO59o3LzCWJg, truy cập ngày 18/04/2020.

33. BSR (2017), Nguồn cung xăng dầu cho người tiêu dùng Việt năm 2018 ra

sao?, tại địa chỉ: https://bsr.com.vn/vi/nguon-cung-xang-dau-cho-nguoi-tieu-

dung-viet-nam-2018-ra-sao.htm, truy cập ngày 16/04/2020.

34. Báo Công thương (2019), Việt Nam – Nga: Bàn giải pháp thúc đẩy hợp tác

công nghiệp, tại địa chỉ: https://www.moit.gov.vn/tin-chi-tiet/-/chi-tiet/viet-

nam-nga-ban-giai-phap-thuc-%C4%91ay-hop-tac-cong-nghiep-16915-

22.html, truy cập ngày 12/04/2020.

35. Báo Công thương (2019), Thương mại Việt - Nga kỳ vọng hồi phục mạnh mẽ,

tại địa chỉ: http://trungtamwto.vn/chuyen-de/14569-thuong-mai-viet--nga-ky-

vong-hoi-phuc-manh-me, truy cập ngày 12/04/2020.

36. Thường vụ Việt Nam (2019), Kim ngạch thương mại Việt Nam - LB Nga năm

2018, tại địa chỉ: http://vietnamexport.com/kim-ngach-thuong-mai-viet-nam-

lb-nga-nam-2018/vn2530150.html, truy cập ngày 13/04/2020.

37. Vietnamnet (2018), 30 năm hợp tác dầu khí Việt – Nga, Vietnamnet, tại địa

chỉ: https://vietnam.vnanet.vn/vietnamese/30-nam-hop-tac-dau-khi-viet-

%E2%80%93-nga/383257.html, truy cập ngày 13/04/2020.

38. BusinessDictionary.com, Cooperation, WebFinance, Inc., tại địa chỉ:

http://www.businessdictionary.com/definition/cooperation.html, truy cập ngày

10/04/2020.

39. Article1000 (2017), Type of Cooperation and Role of Cooperation,

Article1000, tại địa chỉ: https://article1000.com/types-cooperation-role-

cooperation/, truy cập ngày 10/04/2020.

Website:

40. Website Bộ Kế hoạch và đầu tư, http://www.mpi.gov.vn/

41. Website của Tổng cục Thống kê, http://www.gso.gov.vn/

42. Website của Tổng cục Hải quan, http://www.customs.gov.vn

43. Website Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, http://www.pvn.vn

44. Website Trung tâm WTO, http://trungtamwto.vn

45. Website Tạp chí năng lượng Việt Nam, http://nangluongvietnam.vn

46. Website Tập đoàn Gazprom, https://www.gazprom.com/

47. Website Tập đoàn Rosneft, https://www.rosneft.com/

48. Website Trademap, https://www.trademap.org/

Tài liệu tham khảo tiếng Anh

49. Gorman D., International Cooperation in the Early Twentieth Century, NXB

Bloomsbury, London 2017.

50. Erokhin V., Gao T., & Zhang X., Handbook of Research on International

Collaboration, Economic Development, and Sustainability in the Arctic, NXB

IGI Global, Pennsylvania 2018.

51. Kelsen H., The Law of the United Nations: A Critical Analysis of Its

Fundamental Problems. New Jersey: The Lawbook Exchange, NXB The

London Institute of World Affairs, London 2000.

52. Robert Axelrod và Robert O. Keohane, World Politics, NXB Cambridge

University Press, 1985.

53. Smelser, N. J., & Baltes, P. B., International Encyclopedia of Social &

Behavioral Sciences, NXB Elsevier BV, Amsterdam 2001, tái bản lần 2.