ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ HOÀI

QUAN HỆ HỢP TÁC VIỆT NAM – LIÊN XÔ TRONG LĨNH VỰC ĐÀO

TẠO (1950-1991) QUA TÀI LIỆU LƢU TRỮ ĐANG BẢO QUẢN TẠI

TRUNG TÂM LƢU TRỮ QUỐC GIA III

LUẬN VĂN THẠC SỸ

Chuyên ngành: Lƣu trữ học

Hà Nội - 2016

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ HOÀI

QUAN HỆ HỢP TÁC VIỆT NAM – LIÊN XÔ TRONG LĨNH VỰC ĐÀO

TẠO (1950-1991) QUA TÀI LIỆU LƢU TRỮ ĐANG BẢO QUẢN TẠI

TRUNG TÂM LƢU TRỮ QUỐC GIA III

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lƣu trữ học

Mã số: 60 32 03 01

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Đào Xuân Chúc

Hà Nội-2016

MỤC LỤC

Trang 03 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

PHẦN MỞ ĐẦU 04

16

CHƢƠNG 1: THÀNH PHẦN VÀ ĐẶC ĐIỂM KHỐI TÀI LIỆU VỀ QUAN HỆ HỢP TÁC VIỆT NAM – LIÊN XÔ TRONG LĨNH VỰC ĐÀO TẠO (1950-1991) ĐANG BẢO QUẢN TẠI TRUNG TÂM LƢU TRỮ QUỐC GIA III

16

1.1. Khái quát khối tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô (1950-1991) đang bảo quản tại TTLTQGIII

18

1.2. Thành phần, đặc điểm khối tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991) tại Trung tâm Lƣu trữ quốc gia III

18

1.2.1. Sơ lược lịch sử hoạt động của các cơ quan hình thành tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950- 1991)

30

1.2.2. Khối lượng, thành phần và đặc điểm khối tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991)

1.2.2.1. Khối lượng tài liệu 30

1.2.2.2. Thành phần tài liệu 31

1.2.2.3. Đặc điểm của tài liệu 33

38

CHƢƠNG 2: NỘI DUNG VÀ GIÁ TRỊ KHỐI TÀI LIỆU VỀ QUAN HỆ HỢP TÁC VIỆT NAM – LIÊN XÔ TRONG LĨNH VỰC ĐÀO TẠO (1950-1991) ĐANG BẢO QUẢN TẠI TRUNG TÂM LƢU TRỮ QUỐC GIA III

38

2.1. Nội dung quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991)

2.1.1. Thời kì kháng chiến chống Pháp từ năm 1950 đến năm 1954 38

41

2.1.2. Thời kì xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước từ năm 1955 đến năm 1964

50

2.1.3. Thời kì cả nước kháng chiến chống Mỹ từ năm 1965 đến năm 1975

57

1

2.1.4. Thời kì từ sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước năm 1976 đến khi kết thúc quan hệ ngoại giao Việt Nam – Liên Xô năm 1991

64

2.2. Giá trị của khối tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991)

64

2.2.1. Là cơ sở để nghiên cứu lịch sử hợp tác ngoại giao Việt Nam – Liên Xô, góp phần củng cố tình hữu nghị và phát triển quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên bang Nga ngày nay

67

2.2.2. Góp phần nghiên cứu lịch sử ngành giáo dục và đào tạo Việt Nam, trọng tâm là giáo dục đại học

71

2.2.3. Giúp các nhà lãnh đạo, quản lý đúc rút bài học kinh nghiệm, đề ra các chủ trương, biện pháp đúng đắn trong công tác quản lý LHS

74

2.2.4. Là một trong những nguồn tư liệu phục vụ nghiên cứu về giới trí thức Việt Nam

79

CHƢƠNG 3: TÌNH HÌNH TỔ CHỨC KHOA HỌC VÀ KHAI THÁC, SỬ DỤNG KHỐI TÀI LIỆU VỀ QUAN HỆ HỢP TÁC VIỆT NAM – LIÊN XÔ TRONG LĨNH VỰC ĐÀO TẠO (1950- 1991) VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP

3.1. Tình hình tổ chức khoa học và khai thác, sử dụng tài liệu 79

3.1.1. Tình hình tổ chức khoa học tài liệu 79

3.1.2. Tình hình khai thác, sử dụng tài liệu 84

91

3.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong công tác tổ chức khoa học và khai thác, sử dụng tài liệu về hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo

93

3.2. Một số kiến nghị, giải pháp nhằm tổ chức khoa học và khai thác, sử dụng hiệu quả tài liệu về hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991)

93

3.2.1. Giải pháp về thu thập, bổ sung và sưu tầm tài liệu từ các cơ quan, tổ chức và cá nhân để đảm bảo sự hoàn chỉnh của thành phần tài liệu

94

3.2.2. Giải mật tài liệu lưu trữ và tạo điều kiện cho phép khai thác, sử phù hợp với quy định của Nhà nước

3.3.3. Hoàn thiện công tác tổ chức khoa học tài liệu 95

96

3.3.4. Tăng cường các hình thức công bố, tổ chức khai thác, sử dụng tài liệu

KẾT LUẬN 97

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 98

2

BẢNG THỐNG KÊ PHỤ LỤC 109

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CHXHCN - Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

CNXH - Chủ nghĩa xã hội

DCCH – Dân chủ cộng hòa

ĐSQ- Đại sứ quán

KHKT – Khoa học kỹ thuật

LHS – Lƣu học sinh

NCS – Nghiên cứu sinh

SV – Sinh viên

THCN – Trung học chuyên nghiệp

TTLTQGIII – Trung tâm Lƣu trữ quốc gia III

TTS – Thực tập sinh

TTSKH – Thực tập sinh khoa học

UBKHNN - Ủy ban Kế hoạch Nhà nƣớc

3

UBKhHNN - Ủy ban Khoa học Nhà nƣớc

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong tiến trình phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc, hợp tác quốc tế luôn giữ

một vai trò quan trọng và không một nước nào có thể tồn tại, phát triển một cách bình

thường nếu không có quan hệ với thế giới bên ngoài. Lịch sử ngoại giao của Việt

Nam chúng ta đã cho thấy, quan hệ Việt Nam – Liên Xô đã có ảnh hưởng to lớn tới

tiến trình cách mạng Việt Nam và góp phần tích cực vào sự phát triển của mỗi quốc

gia. Từ sau khi nước Việt Nam DCCH thành lập, năm 1950, Liên Xô là một trong

những nước đầu tiên trên thế giới công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam,

đặt nền móng cho tình hữu nghị bền chặt và phát triển quan hệ hợp tác lâu dài Việt -

Xô trước đây và Việt – Nga ngày nay. Mối quan hệ tốt đẹp này được biểu hiện sinh

động và hiệu quả trên nhiều lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội

của hai nước, trong đó giáo dục đào tạo là hướng hợp tác trọng tâm và đã thu được

nhiều kết quả tốt đẹp trong lịch sử quan hệ ngoại giao giữa hai quốc gia.

Hiện nay, Liên bang Nga đang là đối tác hợp tác chiến lược toàn diện của Việt

Nam trên mọi lĩnh vực. Tuyên bố chung về tăng cường quan hệ đối tác chiến lược

toàn diện giữa Việt Nam và Liên bang Nga hồi tháng 7/2012 nêu rõ, hai bên đều

khẳng định quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện Việt – Nga là tài sản

quý giá của hai nước và cần tiếp tục phát triển để đáp ứng lợi ích lâu dài của hai dân

tộc. Trong chiến lược ngoại giao Việt – Nga, giáo dục và đào tạo luôn được xác định

là một trong những nội dung hợp tác quan trọng, đưa quan hệ song phương trong lĩnh

vực này lên tầm chiến lược.

Về quan hệ hợp tác đào tạo giữa hai nước, trải qua gần 65 năm thiết lập quan

hệ ngoại giao, Liên Xô trước đây và Liên bang Nga hiện nay đã đào tạo, bồi dưỡng

và nâng cao nghiệp vụ cho hàng chục ngàn công dân Việt Nam ở mọi trình độ từ

nghiên cứu sinh, đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề với đa dạng

lĩnh vực và ngành nghề đào tạo. Có thể nhận định, giai đoạn phát triển mạnh mẽ và

đạt nhiều kết quả tốt đẹp nhất trong quan hệ hợp tác đào tạo Việt – Nga là từ đầu năm

1950 khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao cho đến khi Liên Xô tan rã vào năm

4

1991, quan hệ ngoại giao hai nước chuyển sang một bước ngoặt mới. Thời gian này,

Liên Xô đã có công lao to lớn trong việc đào tạo, nâng cao trình độ cho đội ngũ cán

bộ Việt Nam để phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Nhiều

công dân Việt Nam được đào tạo tại Liên Xô đã trở thành các cán bộ cao cấp của

Đảng và Nhà nước; lãnh đạo các Bộ, ban ngành; các nhà khoa học, sư phạm và các

nhà hoạt động văn hóa – xã hội nổi tiếng của Việt Nam. Ngược lại, Việt Nam cũng

giúp Liên Xô đào tạo nhiều cán bộ trong một số chuyên ngành của lĩnh vực khoa học

xã hội và nhân văn như ngôn ngữ, lịch sử, văn học Việt Nam…Quan hệ hợp tác Việt

Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991) đã đem lại rất nhiều kết quả tốt

đẹp cho cả hai phía và đặc biệt có ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc xây dựng,

bảo vệ và phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam.

Năm 2015, kỉ niệm tròn 65 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam – Liên

bang Nga. Đây là dịp thích hợp để chúng ta xem xét, đánh giá lại một cách tổng thể

mối quan hệ Việt Nam – Liên Xô (nay là Việt Nam – Liên bang Nga) đã qua, trong

đó, việc làm rõ và giới thiệu sâu sắc hơn mối quan hệ hợp tác giữa hai nước trong

lĩnh vực đào tạo giai đoạn 1950-1991 qua tài liệu lưu trữ ở TTLTQGIII là thực sự cần

thiết và có ý nghĩa đối với hai quốc gia, góp phần củng cố và tiếp tục đẩy mạnh quan

hệ ngoại giao Việt – Nga trong thời gian tới. Qua đây, nhiều bài học lịch sử sẽ được

rút ra và chắc chắn sẽ giúp quan hệ đối tác chiến lược toàn diện nói chung và hợp tác

đào tạo nói riêng giữa Việt Nam và Liên bang Nga những năm tiếp theo xứng tầm với

bề dày của quan hệ lịch sử giữa hai nước.

Hiện nay, TTLTQGIII đang bảo quản một khối lượng rất lớn tài liệu lưu trữ có

giá trị lịch sử hình thành trong quá trình hoạt động của các cơ quan, tổ chức trung

ương và cá nhân, gia đình, dòng họ tiêu biểu của nước Việt Nam DCCH và

CHXHCN Việt Nam từ năm 1945 đến nay. Qua khảo sát và tìm hiểu ban đầu, chúng

tôi được biết, hiện Trung tâm có khoảng 20 phông lưu trữ cơ quan, tổ chức có thành

phần tài liệu về quan hệ hợp tác giáo dục đào tạo Việt Nam – Liên Xô giai đoạn

1950-1991 và mức độ nhiều ít khác nhau. Rất nhiều tài liệu trong số đó có nội dung

thông tin quan trọng và có giá trị sử dụng cao đối với việc nghiên cứu lịch sử hợp tác

đào tạo giữa hai nước. Đó là những văn bản hợp tác song phương có giá trị pháp lý

quốc tế gồm hiệp ước, hiệp định, nghị định thư, kế hoạch, thỏa thuận hợp tác được kí

kết giữa hai Nhà nước; tài liệu về hoạt động chuyên gia (chủ yếu là chuyên gia Liên

5

Xô giúp Việt Nam) ở hầu hết các lĩnh vực, ngành nghề; các số liệu, báo cáo về kết

quả đào tạo công dân Việt Nam tại Liên Xô ở mọi trình độ; các bức ảnh quý về lễ đón

tiếp, hội đàm giữa lãnh đạo hai nước…

Nhận thức rõ việc tăng cường phát huy giá trị tài liệu lưu trữ quốc gia có ý

nghĩa chính trị, xã hội và nhân văn hết sức sâu sắc, trong những năm qua,

TTLTQGIII đã thực hiện nhiều hình thức phát huy giá trị của tài liệu lưu trữ nhằm

mục đích đưa tài liệu lưu trữ đến gần hơn với công chúng, phục vụ hiệu quả hơn nhu

cầu khai thác, sử dụng tài liệu lưu trữ trong đời sống xã hội. Về chủ đề quan hệ hợp

tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo, năm 2008, Trung tâm đã thực hiện

một cuộc triển lãm với quy mô tương đối lớn, tại đó trưng bày, giới thiệu hàng trăm

tài liệu lưu trữ và tư liệu tiêu biểu được chọn lọc từ các cơ quan lưu trữ của hai nước

và tài liệu sưu tầm từ các cá nhân đã từng học tập, công tác tại Liên Xô trước đây và

Liên bang Nga hiện nay. So với khối lượng tài liệu hiện đang được bảo quản tại

TTLTQGIII về vấn đề hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô, những tài liệu của Trung

tâm được trưng bày tại Triển lãm khá ít (khoảng vài chục văn bản), tự thân nó không

thể phản ánh một cách đầy đủ nội dung chủ đề triển lãm. Hơn nữa, Triển lãm mới chỉ

công bố, giới thiệu được nội dung những tài liệu tiêu biểu và chỉ dẫn địa chỉ lưu trữ là

các cơ quan (kho) lưu trữ của hai nước, trong đó có TTLTQGIII, hoàn toàn chưa giới

thiệu chi tiết địa chỉ lưu trữ đến từng phông, từng hồ sơ và trang tài liệu để người đọc

có thể tiếp cận tài liệu một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất. Rõ ràng, công tác phát

huy giá trị của khối tài liệu lưu trữ về quan hệ hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô

đang bảo quản tại TTLTQGIII đến với công chúng chưa thực sự tương xứng với

nguồn tài liệu khá phong phú, đa dạng về nội dung thông tin và khối lượng tương đối

nhiều tại Trung tâm hiện nay.

Quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên bang Nga dù đã có lịch sử lâu dài và đang

được xác định là trọng tâm trong chiến lược ngoại giao của Việt Nam, tuy nhiên, hiện

vẫn còn một bộ phận không nhỏ công chúng chưa có điều kiện và cơ sở để hiểu hết

được mối quan hệ hợp tác hữu nghị tốt đẹp giữa hai dân tộc trong quá khứ, hoặc chưa

thể nhìn nhận và đánh giá được một cách toàn diện và khách quan về các hoạt động

hợp tác đào tạo giữa hai phía trong thời gian qua. Như đã nêu trên, mặc dù hai Nhà

nước Việt – Nga đã phối hợp tổ chức Triển lãm “Quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên

bang Nga trong lĩnh vực đào tạo qua tài liệu lưu trữ” tại Việt Nam và gặt hái được

6

nhiều thành công, để lại ấn tượng tốt đẹp trong một số đối tượng công chúng. Tuy

nhiên, Triển lãm không thể giúp người xem, người nghiên cứu có cái nhìn nhận và

đánh giá trọn vẹn, đầy đủ về quan hệ hợp tác đào tạo giữa hai nước trong quá khứ.

Chúng tôi thiết nghĩ, ngoài Triển lãm nói trên, rất cần có thêm nhiều công trình

nghiên cứu, giới thiệu sâu rộng và chi tiết hơn nữa, nhiều sản phẩm của hoạt động

phát huy giá trị tài liệu lưu trữ liên quan đến chủ đề quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên

bang Nga nói chung và quan hệ hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô nói riêng trong

lĩnh vực đào tạo (1950-1991) để đông đảo các đối tượng công chúng có thể tiếp cận

được với nguồn tài liệu lưu trữ liên quan đến nội dung này.

Xuất phát từ nhận thức và thực tế trên, dưới góc độ nghiên cứu lưu trữ học,

chúng tôi quyết định lựa chọn vấn đề “Quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong

lĩnh vực đào tạo (1950-1991) qua tài liệu lưu trữ đang bảo quản tại TTLTQGIII”

làm đề tài luận văn cao học. Đề tài nghiên cứu này nếu thực hiện tốt sẽ có ý nghĩa hết

sức quan trọng đối với bản thân chúng tôi trong việc nâng cao ý thức, trách nhiệm

nghề nghiệp gắn liền với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan

TTLTQGIII – nơi bản thân đang công tác. Đồng thời, qua đây tác giả cũng mong

muốn được đóng góp một phần công sức nhỏ bé của mình vào một trong những

nhiệm vụ quan trọng của ngành và của cơ quan là đẩy mạnh phát huy giá trị của tài

liệu lưu trữ với tư cách là “di sản văn hóa đặc biệt của dân tộc”, góp phần đắc lực

vào sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

2. Mục tiêu của đề tài

Đề tài được thực hiện với hai mục tiêu chính sau:

- Giới thiệu nội dung và giá trị tiềm năng của khối tài liệu về quan hệ hợp tác

Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991) đang bảo quản tại

TTLTQGIII;

- Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm phát huy hơn nữa giá trị nghiên

cứu và sử dụng khối tài liệu trên, đặc biệt trong nghiên cứu lịch sử hợp tác Việt Nam

– Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991)

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

+ Đối tượng nghiên cứu:

7

- Khối lượng, đặc điểm, thành phần nội dung và giá trị của khối tài liệu về

quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô giai đoạn 1950- 1991 đang bảo quản tại Trung

tâm;

- Công tác tổ chức khoa học và tổ chức khai thác, sử dụng khối tài liệu về hợp

tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô giai đoạn 1950-1991 tại Trung tâm trong thời gian

qua;

+ Phạm vi nghiên cứu:

- Về phạm vi thời gian: Chúng tôi lựa chọn nghiên cứu tài liệu lưu trữ về quan

hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo từ năm 1950-1991. Sở dĩ

chúng tôi lấy mốc bắt đầu là từ năm 1950 là vì, ngày 14/01/1950, Chính phủ Việt

Nam ra Tuyên bố về việc sẵn sàng thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước trên thế

giới vào ngày, ngay sau đó, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản

Liên Xô có Nghị quyết về việc thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam vào ngày

30/01/1950. Chúng tôi lấy năm 1991 là mốc kết thúc vì năm này, Liên Xô tan rã, 15

nước cộng hòa thành viên của Liên Xô trở thành các quốc gia độc lập. Riêng Liên

bang Nga trở thành nước kế thừa Liên Xô tiếp nối quan hệ ngoại giao với Việt Nam

và quan hệ hợp tác giữa hai nước chuyển sang một bước ngoặt mới.

- Về phạm vi không gian: Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ của mình, chúng

tôi chỉ khảo sát, nghiên cứu và giới thiệu khối tài liệu lưu trữ về quan hệ hợp tác Việt

Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo đang được bảo quản và phục vụ khai thác, sử

dụng tại TTLTQGIII.

- Về phạm vi đối tượng nghiên cứu:

Hiện nay, loại hình tài liệu lưu trữ đang được bảo quản và phát huy giá trị tại

TTLTQGIII rất đa dạng, hình thành từ hoạt động của các cơ quan, tổ chức và cá nhân

thuộc khu vực thẩm quyền của Trung tâm, gồm tài liệu hành chính, tài liệu KHKT, tài

liệu nghe nhìn và tài liệu có xuất xứ cá nhân; trong đó tài liệu hành chính chiếm

khoảng 70% khối lượng tài liệu Trung tâm thu thập được, với thành phần nội dung vô

cùng phong phú, đa dạng. Về vấn đề nghiên cứu quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô

trong lĩnh vực đào tạo giai đoạn 1950-1991, chúng tôi sẽ tập trung nghiên cứu và khai

thác loại hình tài liệu hành chính chữ viết (tài liệu giấy) đang bảo quản tại Trung tâm.

8

Như đã giới thiệu, TTLTQGIII hiện đang bảo quản và phục vụ khai thác tài

liệu của 20 phông lưu trữ cơ quan, tổ chức, trong đó có thành phần tài liệu về quan hệ

hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô thuộc giai đoạn 1950-1991 và mức độ nhiều ít

tài liệu của mỗi phông khác nhau. Tuy nhiên, trong phạm vi giới hạn đề tài này, đối

tượng nghiên cứu của chúng tôi sẽ chỉ tập trung giới thiệu các phông lưu trữ có nhiều

nhất khối lượng tài liệu về hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo và

thành phần nội dung tài liệu tương đối hoàn chỉnh để nghiên cứu vấn đề; đồng thời

phản ánh đúng chức năng, nhiệm vụ của đơn vị hình thành phông như các phông Phủ

Thủ tướng, UBKHNN, UBKhHNN, Bộ Giáo dục, Bộ Đại học và Trung học chuyên

nghiệp đang bảo quản tại Trung tâm. Đối với các phông còn lại, thành phần tài liệu về

vấn đề nghiên cứu tương đối ít, nội dung thông tin không đầy đủ để phản ánh vấn đề,

vì vậy, chúng tôi chỉ giới thiệu khái quát, chủ yếu là thông tin đến các đối tượng

nghiên cứu về tên các phông lưu trữ, chức năng chính của đơn vị hình thành phông và

số lượng hồ sơ về nội dung hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo ở giai

đoạn này thuộc các phông đó.

- Về phạm vi nội dung vấn đề nghiên cứu: Trên cơ sở khảo sát toàn bộ mục lục

hồ sơ tài liệu đang được quản lý tại Phòng Đọc - TTLTQGIII cũng như tiếp cận trực

tiếp tài liệu lưu trữ ban đầu (khoảng 120 hồ sơ), chúng tôi nhận thấy rằng, nội dung

hợp tác giữa Việt Nam và Liên Xô trong lĩnh vực giáo dục đào tạo rất phong phú về

trình độ đào tạo và lĩnh vực, ngành nghề đào tạo, dàn trải trong khoảng 20 phông lưu

trữ cơ quan, tổ chức và khối tài liệu các công trình XDCB. Trình độ đào tạo phong

phú, từ trung học chuyên nghiệp (học nghề), cao đẳng, ĐH đến NCS, TTSKH và

trình độ cao nhất là đào tạo chuyên gia. Ngành nghề và lĩnh vực hợp tác đào tạo giữa

hai nước rất đa dạng, gồm hầu hết các ngành KHKT và khoa học xã hội nhân văn;

trong lĩnh vực kinh tế ở tất cả các ngành giao thông, xây dựng, công nghiệp, nông -

lâm - ngư nghiệp; trong lĩnh vực văn hóa xã hội có các ngành văn hóa thông tin, nghệ

thuật, thể thao, y tế…Tuy nhiên, trong phạm vi đề tài này, chúng tôi không có tham

vọng nghiên cứu được đầy đủ, chi tiết toàn bộ nội dung hợp tác đào tạo giữa hai nước

gồm tất cả các trình độ và lĩnh vực đào tạo kể trên. Do đó, chúng tôi chỉ giới hạn

nghiên cứu và làm sáng tỏ quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô giai đoạn 1950-1991

về đào tạo các trình độ từ cử nhân trở lên ở tất cả các ngành nghề và lĩnh vực.

9

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra, chúng tôi sẽ thực hiện một

số nhiệm vụ sau đây:

- Khái quát loại hình, khối lượng và thành phần nội dung nguồn tài liệu lưu trữ

về quan hệ ngoại giao Việt Nam – Liên Xô đang bảo quản tại TTLTQGIII;

- Giới thiệu tóm tắt quá trình hình thành và phát triển, chức năng, nhiệm vụ

của các cơ quan, tổ chức hình thành tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô

trong lĩnh vực đào tạo; khái quát khối lượng và giới thiệu, phân tích một số đặc điểm

chính của khối tài liệu này, có gắn với việc xem xét, phê phán tính xác thực của tài

liệu;

- Phân tích, làm rõ nội dung quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh

vực đào tạo thông qua tài liệu lưu trữ và đánh giá giá trị của khối tài liệu này đối với

công tác nghiên cứu được xác định là nhiệm vụ trọng tâm của đề tài;

- Nhận xét tình hình tổ chức khoa học và phát huy giá trị khối tài liệu trên tại

TTLTQGIII trong thời gian qua;

- Đề xuất một số kiến nghị, giải pháp đối với công tác tổ chức khoa học tài liệu

và phát huy giá trị khối tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô tại Trung tâm

trong thời gian tới.

5. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Phát huy giá trị tài liệu lưu trữ luôn được xác định là một trong những nhiệm

vụ và mục đích chính của công tác lưu trữ, nhằm đưa tài liệu lưu trữ đến gần với công

chúng với tư cách là một nguồn tư liệu lịch sử vô cùng quý giá và có ý nghĩa to lớn

đối với công tác nghiên cứu khoa học, nghiên cứu lịch sử cũng như đối với đời sống

xã hội nói chung.

Về chủ đề quan hệ hợp tác ngoại giao Việt Nam – Liên Xô/Liên bang Nga

nghiên cứu dưới góc độ lưu trữ, cho đến nay, đã có một số đề tài nghiên cứu được

chia thành các nhóm sau đây:

- Các công trình nghiên cứu khoa học, có đề tài nghiên cứu cấp Đại học Quốc

gia Hà Nội với tên gọi “Các nguồn tài liệu lưu trữ về quan hệ Việt Nam – Liên Xô

(1950-1991)” của tác giả Đào Xuân Chúc năm 2011. Trong đề tài của mình, tác giả

10

tập trung khảo sát, giới thiệu các nguồn tài liệu đang bảo quản tại Việt Nam, là

TTLTQGIII, Kho Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Viện Phim Việt Nam, khối

tài liệu cá nhân…về mối quan hệ hợp tác ngoại giao giữa hai nước Việt Nam và Liên

Xô giai đoạn 1950-1991. Trong mỗi cơ quan lưu trữ nói trên, tác giả đã giới thiệu một

cách khái quát về loại hình, số lượng và thành phần nội dung của khối tài liệu lưu trữ

có liên quan đến vấn đề nghiên cứu và đánh giá giá trị của nguồn tài liệu cũng như

khả năng khai thác, sử dụng chúng vào mục đích nghiên cứu khoa học, nghiên cứu

lịch sử về quan hệ ngoại giao Việt Nam – Liên Xô giai đoạn này.

- Các bài tham luận tại Hội thảo khoa học “Quan hệ Việt – Nga: Quá khứ và

hiện tại” do Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà

Nội tổ chức ngày 02/11/2007, gồm: “Quan hệ Việt – Nga: Lưu trữ và khai thác các

nguồn tài liệu” của tác giả Nguyễn Thị Hiệp; “Mối quan hệ Việt Nam – Liên Xô

thông qua tài liệu lưu trữ tại Kho Lưu trữu Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam”

của tác giả Nguyễn Văn Lanh; “Quan hệ Việt – Nga qua tài liệu lưu trữ” của tác giả

Nguyễn Lệ Nhung và “Quan hệ Việt Nam – Liên Xô qua tài liệu lưu trữ bảo quản tại

TTLTQGIII” của tác giả Nguyễn Minh Sơn.

- Trên Tạp chí Văn thư Lưu trữ Việt Nam, số 1, 2010 có bài viết “Các nguồn

tài liệu lưu trữ về quan hệ Việt Nam – Liên Xô (1950-1991)” của tác giả Đào Xuân

Chúc đã giới thiệu một cách tóm tắt và khái quát các nguồn tài liệu lưu trữ đang bảo

quản trong các Lưu trữ của Việt Nam về quan hệ Việt Nam – Liên Xô giai đoạn

1950-1991, chính là nội dung của công trình nghiên cứu khoa học cùng tên của tác

giả đã nêu trên.

- Ngoài các công trình nghiên cứu và bài viết của các tác giả cụ thể nói trên về

quan hệ hợp tác ngoại giao Việt Nam – Liên Xô/Liên bang Nga, còn phải kể đến các

hoạt động công bố, giới thiệu tài liệu lưu trữ theo chuyên đề trong quan hệ hợp tác

ngoại giao Việt - Nga đang được lưu trữ tại hai quốc gia. Đó là Triển lãm “Lịch sử

hợp tác KHKT Việt Nam – Liên Xô trong những năm 1950-1990” do Cục Văn thư và

Lưu trữ Nhà nước Việt Nam phối hợp với Cục Lưu trữ Liên bang Nga tổ chức năm

2005 nhân kỉ niệm 55 năm Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam – Liên Xô

(30/01/1950-30/01/2005). Triển lãm trưng bày gần 400 tài liệu bằng văn bản, phim,

ảnh, ghi âm, ấn phẩm, bài báo và các hiện vật phản ánh sinh động lịch sử hoạt động

hợp tác kinh tế và KHKT giữa Việt Nam và Liên Xô, Liên bang Nga trong hơn nửa

11

thế kỷ qua. Ðây là những tài liệu được tuyển chọn từ các kho lưu trữ của Việt

Nam và Liên bang Nga hoặc từ các sưu tập lưu trữ.

Trực tiếp về quan hệ hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô/Liên bang Nga, năm

2009, nhân kỉ niệm 59 năm Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao hai nước (30/01/1950-

30/01/2009), Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước Việt Nam phối hợp với Cục Lưu trữ

Liên bang Nga tổ chức Triển lãm với chủ đề “Hợp tác Việt Nam và Liên bang Nga

trong lĩnh vực đào tạo”. Gần 300 tài liệu, hình ảnh, hiện vật được chọn lọc từ các

Lưu trữ của Việt Nam, Liên bang Nga và của các cá nhân đã từng học tập, công tác

tại Liên bang Xô viết trước đây và Liên bang Nga ngày nay. Trên cơ sở các tài liệu và

hiện vật được trưng bày tại Triển lãm, TTLTQGIII đã biên soạn thành cuốn sách

“Hợp tác Việt Nam và Liên bang Nga trong lĩnh vực đào tạo qua triển lãm tài liệu

lưu trữ” được Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia – Sự thật xuất bản năm 2011. Cuốn

sách giới thiệu đến bạn đọc các văn bản ngoại giao kí kết hợp tác đào tạo công dân

hai nước, hoạt động chuyên gia của nhiều ngành nghề, lĩnh vực.

Như vậy, các công trình nghiên cứu, bài viết và ấn phẩm nêu trên đã hướng tới

việc giới thiệu tài liệu lưu trữ về quan hệ hợp tác ngoại giao Việt Nam – Liên

Xô/Liên bang Nga nói chung cũng như đã đi sâu làm rõ một số lĩnh vực hợp tác giữa

hai nước, trong đó có lĩnh vực đào tạo – vấn đề nghiên cứu của tác giả trong đề tài

này. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu và ấn phẩm kể trên mới chỉ công bố và

giới thiệu một cách khái quát và điển hình các nguồn tài liệu lưu trữ về quan hệ hợp

tác trong lĩnh vực đào tạo xuyên suốt lịch sử ngoại giao hai nước đến ngày nay. Đi

sâu giới thiệu và làm rõ nội dung quan hệ hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô trong

giai đoạn 1950-1991 thể hiện qua tài liệu lưu trữ đang bảo quản tại TTLTQGIII, cho

đến nay, chưa có một tài liệu nào đề cập tới.

6. Các nguồn tƣ liệu tham khảo

Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sẽ sử dụng một số nguồn tư liệu tham khảo

chính sau đây:

- Hồ sơ, tài liệu lưu trữ về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực

đào tạo (1950-1991) đang bảo quản tại TTLTQGIII, Hà Nội là nguồn tư liệu chính;

- Các công trình nghiên cứu khoa học, bài viết của các tác giả trên các báo, tạp

chí, kỷ yếu hội nghị khoa học, hội thảo chuyên đề liên quan đến quan hệ Việt Nam –

12

Liên Xô/Liên bang Nga, trong đó có nội dung hợp tác giữa hai nước;

- Một số xuất bản phẩm nghiên cứu lịch sử ngoại giao Việt Nam, quan hệ

ngoại giao Việt Nam – Liên Xô/Liên bang Nga, bao gồm các cuốn sách: “Việt Nam –

Liên Xô – 30 năm quan hệ (1950-1980)” do Nhà xuất bản Tiến bộ, Matxcova và Nhà

xuất bản Sự thật, Hà Nội hợp tác xuất bản năm 1983;“Hợp tác Việt Nam và Liên

bang Nga trong lĩnh vực đào tạo qua triển lãm tài liệu lưu trữ” xuất bản năm 2011

bởi Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia – Sự thật; “Đối ngoại Việt Nam qua các thời kì

lịch sử (1945-2012)” của Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2013; "Lịch sử

giáo dục Việt Nam” của Nhà xuất bản Đại học Sư phạm năm 2013 và cuốn “Lịch sử

ngoại giao Việt Nam 1945-2000” do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia ấn hành năm

2015…

- Khai thác tư liệu trên mạng Internet, Báo Nhân dân, Tạp chí Văn thư Lưu trữ

Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, Tạp chí Khoa học Xã hội Nhân văn…

7. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để nghiên cứu đề tài này, trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lê

nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng tôi sẽ vận dụng các phương pháp nghiên cứu cụ

thể sau đây:

- Phương pháp khảo sát: Để khảo sát về loại hình, đặc điểm và thành phần nội

dung tài liệu về vấn đề nghiên cứu đang bảo quản tại TTLTQGIII;

- Phương pháp sử liệu học: Để xem xét, xác định giá trị, độ tin cậy của tài liệu

đề cập đến vấn đề nghiên cứu;

- Phương pháp thống kê: Được áp dụng khi chúng tôi thống kê số lượng hồ sơ và

ĐVBQ có trong các phông lưu trữ; số lượng các tài liệu đề cập đến vấn đề trong các phông;

- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Để tổng hợp thông tin có trong hồ sơ tài liệu

thành các mặt của nội dung vấn đề nghiên cứu; phân tích giá trị của tài liệu, ưu điểm và

nhược điểm của công tác tổ chức khoa học, tổ chức khai thác sử dụng tài liệu;

- Ngoài ra, chúng tôi sẽ sử dụng thêm phương pháp phỏng vấn, trao đổi và

phương pháp so sánh, đối chiếu giữa tài liệu lưu trữ và các nguồn tư liệu khác trong

việc đánh giá tính xác thực, độ tin cậy của tài liệu.

8. Đóng góp của đề tài

13

Thứ nhất, luận văn giúp người đọc, người nghiên cứu nắm được khái

quát nội dung và giá trị tiềm năng của khối tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam –

Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991) đang bảo quản tại TTLTQGIII;

Thứ hai, luận văn có đưa ra một số đề xuất, giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện

công tác tổ chức khoa học, tổ chức khai thác, sử dụng và phát huy một cách tích cực

giá trị của khối tài liệu này tại TTLTQGIII trong thời gian tới;

Thứ ba, luận văn góp phần nâng cao nhận thức của các nhà lãnh đạo, nhà

nghiên cứu và nhân dân về giá trị của tài liệu lưu trữ nói chung và giá trị của tài liệu

lưu trữ về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo nhằm góp phần

củng cố và tăng cường hơn nữa mối quan hệ hữu nghị tốt đẹp giữa Việt Nam với Liên

Xô trước đây và Liên bang Nga ngày nay.

9. Bố cục nội dung của luận văn

Chƣơng 1: Thành phần và đặc điểm khối tài liệu về quan hệ hợp tác Việt

Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991) đang bảo quản tại Trung

tâm Lƣu trữ quốc gia III

1.1. Khái quát khối tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô (1950-

1991) đang bảo quản tại TTLTQGIII

1.2. Thành phần, đặc điểm khối tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô

trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991) tại TTLTQGIII

1.2.1. Sơ lược lịch sử hoạt động của các cơ quan hình thành tài liệu về quan

hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991)

1.2.2. Khối lượng, thành phần và đặc điểm của khối tài liệu về quan hệ hợp tác

Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991)

Chƣơng 2: Nội dung và giá trị của khối tài liệu về quan hệ hợp tác Việt

Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991) đang bảo quản tại Trung

tâm Lƣu trữ quốc gia III

2.1. Nội dung quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô

2.1.1. Thời kì kháng chiến chống Pháp từ năm 1950 đến năm 1954

2.1.2. Thời kì xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước từ

năm 1955 đến năm 1964

2.1.3. Thời kì cả nước kháng chiến chống Mỹ từ năm 1965 đến năm 1975

2.1.4. Thời kì từ sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước năm 1976 đến

14

khi kết thúc quan hệ ngoại giao Việt Nam – Liên Xô năm 1991

2.2. Giá trị của khối tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh

vực đào tạo (1950-1991)

2.2.1. Là cơ sở để nghiên cứu lịch sử hợp tác ngoại giao Việt Nam – Liên Xô,

góp phần củng cố tình hữu nghị và phát triển quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên bang

Nga ngày nay

2.2.2. Góp phần nghiên cứu lịch sử ngành giáo dục và đào tạo Việt Nam, trọng

tâm là giáo dục đại học

2.2.3. Giúp các nhà lãnh đạo, quản lý đúc rút bài học kinh nghiệm, đề ra các

chủ trương, biện pháp đúng đắn trong công tác quản lý LHS

2.2.4. Là một trong những nguồn tư liệu lịch sử phục vụ nghiên cứu về giới trí

thức Việt Nam

Chƣơng 3: Tình hình tổ chức khoa học và khai thác, sử dụng khối tài liệu

về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991) và

một số kiến nghị, giải pháp

3.1. Tình hình tổ chức khoa học và khai thác, sử dụng tài liệu

3.1.1. Tình hình tổ chức khoa học tài liệu

3.1.2. Tình hình khai thác, sử dụng tài liệu

3.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong công tác tổ chức khoa học và khai

thác, sử dụng tài liệu về hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo

3.2. Một số kiến nghị, giải pháp nhằm tổ chức khoa học và khai thác, sử dụng

hiệu quả tài liệu về hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo

3.2.1. Giải pháp về thu thập, bổ sung và sưu tầm tài liệu từ các cơ quan, tổ chức

và cá nhân để đảm bảo sự hoàn chỉnh của thành phần tài liệu

3.2.2. Giải mật tài liệu lưu trữ và tạo điều kiện cho phép khai thác, sử dụng phù

hợp với quy định của Nhà nước

3.3.3. Hoàn thiện công tác tổ chức khoa học tài liệu

15

3.2.4. Tăng cường các hình thức công bố, tổ chức khai thác, sử dụng tài liệu

CHƢƠNG 1

THÀNH PHẦN VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA KHỐI TÀI LIỆU VỀ QUAN HỆ

HỢP TÁC VIỆT NAM – LIÊN XÔ TRONG LĨNH VỰC ĐÀO TẠO (1950-1991)

ĐANG BẢO QUẢN TẠI TRUNG TÂM LƢU TRỮ QUỐC GIA III

1.1. Khái quát khối tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô

(1950-1991) đang bảo quản tại TTLTQGIII

Với vai trò là một trong bốn Trung tâm Lưu trữ quốc gia thuộc Cục Văn thư và

Lưu trữ nhà nước, hàng năm liên tục thu thập, bổ sung tài liệu lưu trữ từ các cơ quan,

tổ chức thuộc khu vực thẩm quyền lưu trữ, TTLTQGIII hiện nay đang bảo quản

khoảng 14 km giá tài liệu lưu trữ có giá trị lịch sử, hình thành trong quá trình hoạt

động của các cơ quan, tổ chức Trung ương của bộ máy Nhà nước; các đoàn thể, cá

nhân, gia đình và dòng họ tiêu biểu của nước Việt Nam DCCH và nước CHXHCN

Việt Nam và các tài liệu khác được giao quản lý trên địa bàn từ tỉnh Quảng Bình trở

ra phía Bắc. Với sự đa dạng về loại hình tài liệu gồm tài liệu quản lý hành chính, tài

liệu nghe nhìn, tài liệu KHKT và khối tài liệu có xuất xứ cá nhân và sự phong phú về

nội dung thông tin, những tài liệu này là những chứng cứ lịch sử phản ánh chân thực,

khách quan và toàn diện cả quá trình thành lập, xây dựng và bảo vệ đất nước Việt

Nam suốt mấy chục năm qua, trong đó có các hoạt động đối ngoại của Nhà nước Việt

Nam với các nước trên thế giới trong mọi lĩnh vực.

Quan hệ Việt Nam - Liên Xô là một phần của lịch sử ngoại giao của Việt Nam

được phản ánh trong tất cả các loại hình tài liệu giấy và tài liệu nghe nhìn đang bảo

quản tại TTLTQGIII. Để có thông tin khái quát nhất và tương đối chính xác về thành

phần, khối lượng và nội dung khối tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô tại

Trung tâm, chúng tôi đã kế thừa một phần kết quả nghiên cứu của đề tài khoa học cấp

16

Đại học Quốc gia Hà Nội “Các nguồn tài liệu lưu trữ ở Việt Nam về quan hệ hợp tác

Việt Nam – Liên Xô (1950-1991)” của PGS.TS. Đào Xuân Chúc được thực hiện từ

năm 2007-2009, kết hợp với việc rà soát toàn bộ mục lục hồ sơ các phông lưu trữ cơ

quan, tổ chức và các khối tài liệu khác được tiếp tục bổ sung và thu thập mới vào

Trung tâm từ năm 2010 (sau khi đề tài hoàn thành) đến thời điểm hiện tại. Một số nét

khái quát về khối tài liệu này như sau:

Thứ nhất, về loại hình tài liệu giấy, chúng tôi đã thống kê được khoảng 1900

hồ sơ/ĐVBQ có nội dung về hợp tác Việt Nam – Liên Xô giai đoạn 1950-1991 trong

35 phông lưu trữ cơ quan, tổ chức trung ương và một số công trình xây dựng cơ bản

tiêu biểu là Nhà máy Thủy điện Hòa Bình, Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh và Cầu Thăng

Long...Một số phông có khối lượng tài liệu nhiều nhất là phông Phủ Thủ tướng (488

hồ sơ), phông UBKHNN (128 hồ sơ), phông Bộ Văn hóa (87 hồ sơ) và phông

UBKhHNN (76 hồ sơ); tài liệu còn lại rải rác ở các phông lưu trữ cơ quan, tổ chức

Trung ương khác trong bộ máy Nhà nước, gồm các cơ quan quản lý và các doanh

nghiệp nhà nước. Nội dung hợp tác giữa các cơ quan, tổ chức của Nhà nước Việt

Nam với Liên Xô (thể hiện qua các tiêu đề hồ sơ) rất phong phú và toàn diện trên mọi

lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội...Đó là những hồ sơ về các cuộc gặp gỡ,

trao đổi, đàm phán, kí kết các văn kiện hợp tác song phương giữa hai nước; tài liệu

thực hiện quan hệ hợp tác trên các lĩnh vực; tài liệu về sự ủng hộ và giúp đỡ của Liên

Xô trong công cuộc kháng chiến kiến quốc của Việt Nam ngay từ khi hai nước thiết

lập quan hệ...Qua khảo sát, chúng tôi thấy tài liệu lưu trữ chữ viết về quan hệ hợp tác

Việt Nam – Liên Xô tại Trung tâm hiện nay chủ yếu phản ánh quan hệ hợp tác trong

các lĩnh vực kinh tế, văn hóa và KHKT.

Thứ hai, về loại hình tài liệu nghe nhìn, hiện nay, Trung tâm đang bảo quản

hàng chục bộ phim thời sự - tài liệu do Liên Xô quay hoặc giúp Việt Nam quay, hơn

2000 tấm ảnh trong tổng số 300.000 tấm ảnh đang được bảo quản tại Trung tâm và

khoảng 60 giờ băng ghi âm, đã ghi chép và phản ánh sinh động các cuộc kháng chiến

của nhân dân Việt Nam chống thực dân và đế quốc, về các cuộc gặp gỡ, trao đổi và

làm việc giữa hai Đảng và hai Nhà nước cũng như ghi lại những dấu mốc quan trọng

đánh dấu sự phát triển của quan hệ hợp tác giữa hai nước trong suốt chặng đường hơn

40 năm quan hệ.

Có thể khẳng định, khối tài liệu về hợp tác ngoại giao Việt Nam – Liên Xô thể

hiện ở tất cả loại hình tài liệu, đang bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia III 17

hiện nay đã phản ánh tương đối đầy đủ và hoàn chỉnh mối quan hệ hợp tác hữu nghị,

toàn diện và tình cảm sâu đậm giữa hai nước kể từ khi Liên Xô công nhận và đồng ý

thiết lập quan hệ với Việt Nam từ năm 1950 đến năm 1991 khi Liên Xô tan rã và

chuyển tiếp sang quan hệ Việt Nam – Liên bang Nga. Nổi bật trên hết là sự giúp đỡ,

ủng hộ về mọi mặt của Liên Xô trong gần nửa thế kỉ đã góp phần quan trọng vào

thắng lợi của cách mạng Việt Nam và tạo nên mối quan hệ đặc biệt thân cận giữa hai

nước trong thời gian này.

1.2. Thành phần, đặc điểm khối tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam –

Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991) đang bảo quản tại Trung tâm Lƣu

trữ quốc gia III

1.2.1. Sơ lược lịch sử hoạt động của các cơ quan hình thành tài liệu về

quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991)

Qua khảo sát toàn bộ hệ thống mục lục hồ sơ và khảo sát trực tiếp tài liệu lưu

trữ đang bảo quản tại TTLTQGIII liên quan đến vấn đề nghiên cứu, chúng tôi thống

kê được 12 phông lưu trữ cơ quan, tổ chức có thành phần nội dung tài liệu về quan hệ

hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô (1950-1991) thuộc phạm vi đối tượng và nội

dung vấn đề nghiên cứu đã được giới hạn tại Phần mở đầu của luận văn. Đó là các cơ

quan, tổ chức trung ương của bộ máy hành chính Nhà nước thời kì 1950-1991 gồm

Phủ Thủ tướng, UBKHNN, UBKhHNN, Bộ Giáo dục, Bộ Đại học và THCN, Bộ Văn

hóa, Bộ Văn hóa Thông tin, Bộ Nội vụ, Bộ Nông lâm, Bộ Công nghiệp và Bộ Y tế.

Tuy nhiên, giữa các phông lưu trữ kể trên có sự chênh lệch về khối lượng hồ sơ, tài

liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu và nội dung thông tin tài liệu được phản ánh ở

nhiều mức độ khác nhau. Trong phạm vi đề tài nghiên cứu của mình, chúng tôi sẽ tập

trung giới thiệu các cơ quan, tổ chức có nhiều nhất khối tài liệu về quan hệ hợp tác

đào tạo Việt Nam – Liên Xô và thành phần nội dung tài liệu tương đối hoàn chỉnh

gồm Phủ Thủ tướng, UBKHNN, UBKhHNN và các cơ quan, tổ chức thực hiện chức

năng quản lý nhà nước về lĩnh vực giáo dục, đào tạo là Bộ Giáo dục, Bộ Đại học và

THCN, không xét đến mức độ nhiều ít của tài liệu trong hai phông này. Với các

phông nêu trên, chúng tôi sẽ giới thiệu sự hình thành của các cơ quan cũng như tập

trung làm rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan này có liên quan đến sự hình thành

các tài liệu về quan hệ hợp tác đào tạo giữa hai nước trong thành phần tài liệu của

18

mỗi phông.

Riêng đối với phông lưu trữ Bộ Văn hóa, mặc dù số lượng hồ sơ tương đối

nhiều (20 hồ sơ), nhưng tài liệu không liên tục để có thể phản ánh tương đối đầy đủ

nội dung vấn đề; hơn nữa, thông tin tài liệu hầu hết là nội dung các văn kiện hợp tác

giữa hai nước trong một số năm và hoàn toàn trùng lặp thông tin trong khối tài liệu

thuộc các phông quan trọng kể trên và các tài liệu xây dựng, đề nghị phê duyệt kế

hoạch đào tạo LHS của ngành văn hóa tại các nước, do vậy, tài liệu thuộc phông gần

như chỉ có giá trị tham khảo mà ít khai thác, sử dụng để nghiên cứu vấn đề. Cùng với

các phông Bộ Văn hóa Thông tin, Bộ Nội vụ, Bộ Y tế, Bộ Tài chính, Bộ Công nghiệp

và Bộ Nông lâm, số lượng hồ sơ tài liệu về vấn đề nghiên cứu khá ít (mỗi phông dưới

10 hồ sơ), chính vì vậy, chúng tôi chỉ giới thiệu sơ lược nhất về các cơ quan, tổ chức

hình thành phông, không đi sâu và chi tiết đến lịch sử hoạt động, chức năng, nhiệm

vụ cơ cấu tổ chức cụ thể của nhóm cơ quan này trong luận văn.

* Phủ Thủ tướng

Ngày 28/8/1945, Chính phủ Lâm thời Việt Nam DCCH ra tuyên cáo trước

quốc dân đồng bào và cả thế giới về việc thành lập Chính phủ của nước Việt Nam

mới. Phủ Thủ tướng khởi thủy là bộ máy giúp việc cho Chính phủ Lâm thời Việt

Nam DCCH cũng như cho Chủ tịch Hồ Chí Minh với tên gọi Văn phòng Chủ tịch

Chính phủ, được thành lập ngay từ khi Chính phủ Lâm thời ra đời. Là bộ máy giúp

việc của Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch Chính phủ nắm tình hình tổ chức, nhân viên,

hoạt động của các Bộ; điều hòa và phối hợp hoạt động các Bộ; theo dõi tổ chức và

hoạt động chung của Chính phủ; liên lạc với Ban vận động Thi đua ái quốc; theo dõi

dư luận các tầng lớp dân chúng về hoạt động của chính quyền; thông tin trong và

ngoài nước các hoạt động của Chính phủ; tổ chức các cuộc trưng bày; tổ chức các kì

họp Hội đồng Chính phủ [144, tr.18].

Ngày 02/8/1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Sắc lệnh số 87/SL về việc Văn

phòng Chủ tịch Chính phủ đổi tên thành Văn phòng Thủ tướng phủ. Đây là bộ máy

giúp việc cho Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Hội đồng

Chính phủ, Hội đồng Quốc phòng tối cao [146, tr.2 ]. Đến năm 1960, Văn phòng Thủ

tướng phủ được đổi tên thành Văn phòng Phủ Thủ tướng theo Luật Tổ chức Hội đồng

Chính phủ ban hành ngày 14/7/1960 [115, tr.34]. Thời kì này, Văn phòng Phủ Thủ

tướng có các bộ phận giúp việc về lĩnh vực kinh tế đối ngoại (gọi tắt là VP9) và bộ

phận phụ trách lĩnh vực văn xã (gọi tắt là VP15) cùng các bộ phận giúp việc khác. 19

Đến năm 1972, để phù hợp với tình hình mới của cách mạng Việt Nam, chức

năng, nhiệm vụ cơ bản của Văn phòng Phủ Thủ tướng được quy định: “là bộ máy làm

việc của Hội đồng Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ trong việc quản lý mọi mặt

công tác của Chính phủ, đảm bảo cho sự chỉ đạo của Hội đồng Chính phủ và Thủ

tướng Chính phủ đối với toàn bộ hoạt động của các ngành, các địa phương được tập

trung, thống nhất và thông suốt; đảm bảo giúp Hội đồng Chính phủ, Thủ tướng

Chính phủ chỉ đạo các ngành, các cấp tổ chức có hiệu quả các Nghị quyết của Hội

đồng Chính phủ; đảm bảo sinh hoạt của Hội đồng Chính phủ được đều đặn” [118,

tr.8].

Ngày 18/12/1980, Quốc hội Khóa VI, Kỳ họp thứ 7 đã nhất trí thông qua Hiến

pháp mới, trong đó quy định cơ cấu tổ chức mới của bộ máy lãnh đạo Nhà nước, Văn

phòng Phủ Thủ tướng được đổi tên thành Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng.

Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng Bộ trưởng ngày 14/7/1981, Quyết định số

161/HĐBT ngày 29/12/1981 của Hội đồng Bộ trưởng ban hành Điều lệ về chế độ làm

việc và quan hệ công tác của Hội đồng Bộ trưởng trong phiên họp Thường vụ của

Hội đồng Bộ trưởng ngày 24/8/1982, Văn phòng Phủ Thủ tướng có tên là Văn phòng

Hội đồng Bộ trưởng, là bộ máy giúp việc của Hội đồng Bộ trưởng, có nhiệm vụ phục

vụ sự quản lý tập trung thống nhất của Hội đồng Bộ trưởng; phục vụ sự chỉ đạo và

điều hành công việc hàng ngày của Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng

[119, tr.88].

* Ủy ban Kế hoạch Nhà nước

UBKHNN có tên gọi đầu tiên là Ủy ban Nghiên cứu Kế hoạch kiến thiết được

thành lập theo Sắc lệnh số 78 ngày 31/12/1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt

Nam DCCH, thực hiện nhiệm vụ “nghiên cứu một kế hoạch thiết thực để kiến thiết

quốc gia về các ngành kinh tế, tài chính, hành chính, văn hóa và thảo ra những đề án

kiến thiết đưa lên Chính phủ” [01, tr.136]. Năm 1955, Ủy ban Nghiên cứu Kế hoạch

kiến thiết được đổi tên thành Ủy ban Kế hoạch Quốc gia tại phiên họp ngày

08/10/1955 của Hội đồng Chính phủ. Thông tư số 603/TTg ngày 14/10/1955 của Thủ

tướng Chính phủ quy định Ủy ban Kế hoạch Quốc gia thực hiện nhiệm vụ “kế hoạch

hóa công cuộc kiến thiết kinh tế và văn hóa, tổ chức và chỉ đạo công tác thống kê và

20

kế toán trong nước” [08, tr.25].

Năm 1961, Ủy ban Kế hoạch Quốc gia được đổi tên thành UBKHNN và thực

hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Nghị định số 158/CP ngày 09/10/1961 của Hội

đồng Chính phủ. Theo đó, UBKHNN “là cơ quan của Hội đồng Chính phủ có trách

nhiệm xây dựng kế hoạch hàng năm và kế hoạch dài hạn phát triển kinh tế và văn

hóa quốc dân theo đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, làm cho các mặt

của nền kinh tế, văn hóa được phát triển theo đúng những quy luật của chủ nghĩa xã

hội và nâng cao không ngừng đời sống vật chất và văn hóa của quốc dân” [02, tr.28].

Một số nhiệm vụ cụ thể của Ủy ban là “xây dựng kế hoạch Nhà nước hàng năm và kế

hoạch Nhà nước dài hạn phát triển nền kinh tế quốc dân về các mặt, trình Hội đồng

Chính phủ phê chuẩn; nghiên cứu các vấn đề hợp tác kinh tế đối với các nước xã hội

chủ nghĩa anh em, hợp tác KHKT với các nước, tức là các vấn đề có quan hệ đến

công tác xây dựng và thực hiện các loại kế hoạch [02, tr.28-29]. Thành phần tài liệu

trong phông lưu trữ UBKHNN đã phản ánh rõ nét chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban

trong quá trình hoạt động. UBKHNN là cơ quan xây dựng kế hoạch hàng năm và dài

hạn ở các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội của Nhà nước. Trong lĩnh vực hợp tác đào

tạo ở nước ngoài (có Liên Xô), UBKHNN tổng hợp từ kế hoạch của các Bộ, ban

ngành trung ương và địa phương đề xuất, cân đối và trình Chính phủ phê duyệt. Cũng

như với mọi vấn đề về hợp tác kinh tế và KHKT với nước ngoài, UBKHNN được

Chính phủ giao nhiệm vụ xây dựng và thực hiện các loại kế hoạch hợp tác giữa nước

ta với các nước. Những nhiệm vụ này đã lý giải vì sao phông lưu trữ UBKHNN là

một trong những đơn vị hình thành nhiều nhất tài liệu về kế hoạch và kết quả hợp tác

Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo.

Sau này, để thu gọn đầu mối quản lý theo xu hướng cải cách hành chính nhà

nước, ngày 21/10/1995, Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 8 đã ra Nghị quyết thành lập

Bộ Kế hoạch và Đầu tư trên cơ sở hợp nhất UBKHNN và Ủy ban Nhà nước về Hợp

tác và Đầu tư.

* Ủy ban Khoa học Nhà nước

Năm 1954, sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng, bước vào thời kì khôi phục

và phát triển kinh tế, KHKT được Đảng và Nhà nước xác định là nguồn lực và động

lực vô cùng quan trọng đối với công cụộc khôi phục và phát triển kinh tế xã hội nói

chung. Trong hoàn cảnh đó, tại kì họp thứ 8, Quốc hội Khóa I ngày 29/4/1958 đã

thông qua Nghị quyết về việc thành lập UBKhHNN. Ủy ban thực sự hoạt động 21

ngay sau Nghị quyết của Quốc hội, nhưng tới ngày 04/3/1959, Chủ tịch nước ban

hành Sắc lệnh số 016-SL thành lập UBKhHNN có quyền hạn và trách nhiệm ngang

một Bộ.

Nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của UBKhHNN được quy định tại

Nghị định số 43-CP ngày 04/04/1962 của Hội đồng Chính phủ. Ủy ban “là cơ quan

của Hội đồng Chính phủ có trách nhiệm quản lý công tác khoa học, kỹ thuật theo

đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ và

kế hoạch phát triển khoa học, kỹ thuật, mở rộng hợp tác với nước ngoài về mặt

nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, đưa nền khoa học kỹ thuật Việt Nam lên trình độ tiên

tiến, nhằm phục vụ sản xuất, phục vụ dân sinh, phục vụ quốc phòng, góp phần đẩy

mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện thống

nhất nước nhà” [65, tr.1].

Một số nhiệm vụ cụ thể của Ủy ban được quy định tại Nghị định bao gồm:

- Xây dựng chế độ đào tạo nghiên cứu sinh (gồm đào tạo trong nước và nước

ngoài) và theo dõi việc thực hiện chế độ ấy [65, tr.1-2]. Theo Thông tư số 445/LHS-

QL ngày 07/02/1963 của Bộ Giáo dục về việc thống nhất danh từ các loại LHS do Bộ

Giáo dục quản lý, hàng năm, NCS và TTSKH đi học nước ngoài qua con đường ĐSQ

của ta hoặc qua con đường kí hiệp định trao đổi văn hóa mà trung gian là Ủy ban

Liên lạc văn hóa với nước ngoài. Ngoài ra, còn có con đường thương lượng trực tiếp

giữa UBKhHNN với Viện Hàn lâm Khoa học nước bạn. Tuy nhiên, chế độ tổ chức và

chế độ đào tạo đều giống nhau, do UBKhHNN xây dựng và theo những quy chế

chung của Bộ Giáo dục Cao đẳng nước bạn.

- Trong phạm vi uỷ quyền của Chính phủ, UBKhHNN ký kết với các cơ quan

khoa học, kỹ thuật nước ngoài các hiệp định về hợp tác KHKT và các nhiệm vụ,

quyền hạn khác [65, tr.1-2]. Điều này lý giải cho việc có một số hiệp định và kế

hoạch hợp tác KHKT được kí kết giữa UBKhHNN Việt Nam và Viện Hàn lâm Khoa

học Liên Xô trong thành phần khối tài liệu về hợp tác đào tạo giữa hai nước giai đoạn

1950-1991 tại TTLTQGIII.

Ngoài ra, UBKhHNN được Chính phủ giao thêm các nhiệm vụ: Nghiên cứu và

trình Hội đồng Chính phủ phê chuẩn phương hướng, kế hoạch phát triển khoa học, kỹ

22

thuật của Nhà nước; tổ chức việc điều hòa, phối hợp công tác nghiên cứu khoa học,

kỹ thuật giữa các Bộ, các ngành, các cấp nhằm thực hiện phương hướng, kế hoạch ấy;

theo dõi tình hình đội ngũ cán bộ KHKT; thi hành các hiệp định mà nước ta đã ký kết

với nước ngoài về mặt nghiên cứu KHKT [65, tr.1-2]

Năm 1965, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã quyết định tách UBKhHNN thành

2 cơ quan độc lập là Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước và Viện Khoa học Xã

hội. Ngày 27/5/1967, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 67-CP quy định

nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Uỷ ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước.

Trách nhiệm của Ủy ban “vừa quản lý thống nhất và tập trung công tác khoa học tự

nhiên và kỹ thuật, vừa làm công tác của một Viện nghiên cứu khoa học (khoa học tự

nhiên và kỹ thuật) của Nhà nước theo đường lối của Đảng, các chủ trương, chính

sách của Đảng và Nhà nước nhằm thực hiện cuộc cách mạng kỹ thuật ở nước ta một

cách tốt nhất và nhanh nhất, phục vụ đắc lực cho sản xuất, chiến đấu và đời sống

nhân nhân, phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ CNXH ở miền Bắc, đấu tranh thực

hiện thống nhất nước nhà” [05, tr.155].

Đến năm 1990, Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước được đổi tên thành

UBKhHNN, thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực khoa học tự nhiên,

KHKT, khoa học xã hội nhằm khuyến khích việc sáng tạo và ứng dụng rộng rãi các

thành tựu khoa học và kỹ thuật, đưa lại hiệu quả thiết thực cho thời kỳ phát triển mới

của đất nước. Quá trình hoạt động của UBKhHNN kết thúc vào năm 1992, khi Bộ

Khoa học, Công nghệ và Môi trường được thành lập.

* Bộ Giáo dục

Bộ Quốc gia Giáo dục (sau này là Bộ Giáo dục) là một trong 13 Bộ được

thành lập ngay từ thời kỳ đầu của chính quyền dân chủ nhân dân (trong bản Tuyên

cáo ngày 28/8/1945 của Chính phủ Việt Nam DCCH). Ngày 09/7/1946, Chính phủ

ban hành Sắc lệnh số 119/SL về việc tổ chức Bộ Quốc gia Giáo dục [143, tr.2].

Nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Giáo dục được quy định tại

Nghị định 198CP ngày 07/11/1961 của Hội đồng Chính phủ. Nghị định quy định “Bộ

Giáo dục có trách nhiệm quản lý công tác giáo dục theo đường lối, chính sách của

Đảng và Nhà nước; bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm và kế hoạch phát triển sự nghiệp

giáo dục phổ thông, bổ túc văn hóa, nhằm bồi dưỡng thế hệ trẻ thành những người

23

lao động có giác ngộ XHCN, có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ văn hóa và kỹ

thuật, có sức khỏe và góp phần nâng cao không ngừng trình độ văn hóa, kỹ thuật cho

cán bộ và nhân dân lao động; cùng với các Bộ có liên quan phụ trách việc đào tạo

cán bộ khoa học kỹ thuật để thỏa mãn nhu cầu phát triển kinh tế, văn hóa XHCN”

[03, tr.24].

Một số nhiệm vụ và quyền hạn chính Bộ Giáo dục:

“- Nghiên cứu và trình Hội đồng Chính phủ ban hành các chính sách, chế độ,

thể lệ về giáo dục, tổ chức và chỉ đạo thực hiện các chính sách, chế độ, thể lệ ấy;

- Xây dựng và trình Hội đồng Chính phủ phê chuẩn kế hoạch phát triển giáo

dục trong phạm vi Bộ phụ trách; tổ chức và chỉ đạo thực hiện kế hoạch ấy;

- Xây dựng và ban hành các quy chế, chế độ về chuyên môn áp dụng cho các

trường phổ thông, bổ túc văn hóa, đại học, trung cấp chuyên nghiệp nói chung; chỉ

đạo thực hiện các quy chế, chế độ ấy;

- Quản lý các trường đại học, trung cấp chuyên nghiệp trực thuộc Bộ; theo

dõi, tổng hợp tình hình chung ngành đại học và ngành trung cấp chuyên nghiệp (kể

cả các trường trực thuộc các Bộ khác);

- Quản lý lưu học sinh, nghiên cứu sinh Việt Nam ở nước ngoài và lưu học

sinh, NCS nước ngoài ở Việt Nam;

- Thi hành các hiệp định mà nước ta đã kí kết với nước ngoài về mặt giáo dục;

thực hiện việc trao đổi kinh nghiệm công tác giáo dục với nước ngoài” [03, tr.24-25].

Ngày 11/10/1965, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành Quyết định số

165/NQ-TVQH phê chuẩn việc tách Bộ Giáo dục thành Bộ Giáo dục và Bộ Đại học

và Trung học chuyên nghiệp [116, tr.206]. Sau đó, Hội đồng Chính phủ quy định

chức năng, nhiệm vụ của Bộ Giáo dục mới tại Nghị định số 19/CP ngày 29/01/1966,

Bộ Giáo dục thực hiện chức năng giúp Hội đồng Chính phủ quản lý công tác giáo dục

phổ thông, mẫu giáo và bổ túc văn hóa trong cả nước [117, tr.7].

Ngày 31/3/1990, Hội đồng Nhà nước ban hành Quyết định số 244/NQ thành

lập Bộ Giáo dục và Đào tạo trên cơ sở hợp nhất 03 cơ quan là Bộ Giáo dục, Bộ Đại

học và Trung học chuyên nghiệp và Tổng cục Dạy nghề [121, tr.459].

* Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp

24

Bộ Đại học và THCN được thành lập năm 1965 trên cơ sở tách ra từ Bộ Giáo

dục theo Quyết định số 165-NQ/TVQH ngày 11/10/1965 của Ủy ban Thường vụ

Quốc hội [116, tr.206]. Ngày 13/12/1965, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số

242-CP quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Đại học và Trung

học chuyên nghiệp. Theo đó, Bộ Đại học và THCN “là cơ quan của Hội đồng Chính

phủ có trách nhiệm quản lý công tác đào tạo cán bộ KHKT có trình độ trung học, đại

học và cao hơn đại học theo đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước, bảo đảm

hoàn thành tốt nhiệm vụ và kế hoạch phát triển sự nghiệp giáo dục đại học và trung

học chuyên nghiệp nhằm thỏa mãn nhu cầu phát triển kinh tế, văn hóa, củng cố quốc

phòng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh

thực hiện thống nhất nước nhà” [04, tr.98].

Bộ Đại học và THCN có nhiệm vụ và quyền hạn sau:

“- Nghiên cứu và trình Hội đồng Chính phủ ban hành hoặc tự mình ban hành

theo thẩm quyền đã được quy định các chính sách, chế độ, thể lệ về giáo dục đại học

(kể cả các bậc cao hơn đại học) và trung học chuyên nghiệp…

- Căn cứ vào phương hướng, chủ trương, kế hoạch của Nhà nước, hướng dẫn

các ngành, các cấp lập kế hoạch phát triển các trường đại học và trung học chuyên

nghiệp;

- Tham gia với Ủy ban Kế hoạch Nhà nước trong việc tổng hợp và trình Hội

đồng Chính phủ phê duyệt kế hoạch phân phối học sinh và sinh viên tốt nghiệp trung

học chuyên nghiệp và đại học (kể cả số có trình độ cao hơn đại học) ở các trường

trong nước và ngoài nước về;

- Nghiên cứu và trình Hội đồng Chính phủ ban hành hoặc tự mình ban hành

theo thẩm quyền đã được quy định các quy chế, thể lệ về công tác nghiên cứu khoa

học trong các trường đại học và trung học chuyên nghiệp;

- Quản lý các trường, lớp đại học và trung học chuyên nghiệp trực thuộc Bộ;

- Quản lý lưu học sinh, nghiên cứu sinh và thực tập sinh Việt Nam học ở nước

ngoài và LHS nước ngoài học ở Việt Nam

- Thi hành các hiệp định nước ta đã ký kết với nước ngoài về mặt giáo dục đại

học và trung học chuyên nghiệp, thực hiện việc trao đổi kinh nghiệm về giáo dục đại

25

học và trung học chuyên nghiệp với nước ngoài;

- Quản lý tổ chức, cán bộ, lao động, tiền lương, tài sản, tài vụ, vật tư trong các

cơ quan và đơn vị thuộc Bộ theo chế độ chung của Nhà nước” [04, tr.98-100].

Nghị quyết số 782-NQ-HĐNN7 ngày 16/02/1987 của Hội đồng Nhà nước về

việc kiện toàn một bước các cơ quan thuộc Hội đồng Bộ trưởng, cử và miễn nhiệm

một số thành viên của Hội đồng Bộ trưởng, trong đó quy định “thống nhất công tác

dạy nghề vào Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp trên cơ sở sáp nhập Tổng cục

Dạy nghề vào Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp”. Theo đó, chức năng, nhiệm

vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp có sự

thay đổi [120, tr.134].

Theo quy định tại Nghị định số 151-HĐBT ngày 30/9/1987 của Hội đồng Bộ

trưởng, Bộ Đại học và THCN “là cơ quan của Hội đồng Bộ trưởng có chức năng

quản lý thống nhất trong cả nước về sự nghiệp đào tạo và bồi dưỡng cán bộ khoa học

– kỹ thuật, cán bộ quản lý (phần được giao cho ngành), công nhân kỹ thuật, nhân

viên kỹ thuật, nghiệp vụ thuộc các ngành nghề; quản lý về công tác nghiên cứu và

ứng dụng tiến bộ khoa học và kỹ thuật của các trường đại học, trung học chuyên

nghiệp và dạy nghề nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, khoa

học, kỹ thuật của đất nước, góp phần thực hiện nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội

và bảo vệ Tổ quốc” [120, tr.251].

Nhiệm vụ và quyền hạn của Bộ Đại học và THCN được quy định tại Nghị

định như sau:

“- Chủ trì hoặc phối hợp với các cơ quan hữu quan xây dựng và trình Hội

đồng Bộ trưởng các quy hoạch, kế hoạch (dài hạn, ngắn hạn) về đào tạo, bồi dưỡng

và phân phối cán bộ khoa học - kỹ thuật, cán bộ quản lý (phần được giao cho ngành),

công nhân kỹ thuật, nhân viên kỹ thuật, nghiệp vụ thuộc các ngành và các cơ quan tổ

chức trong phạm vi cả nước; quyết định việc xây dựng mạng lưới các trường đại học,

trung học chuyên nghiệp, dạy nghề và phân công, phân cấp quản lý các trường;

- Chỉ đạo xây dựng, xét duyệt, ban hành, tổ chức và kiểm tra việc thực hiện

các danh mục ngành học, mục tiêu, chương trình, nội dung, phương thức đào tạo bồi

dưỡng sau đại học, đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề trong cả nước;

- Trực tiếp tổ chức thực hiện phần kế hoạch được giao cho Bộ và hướng dẫn

26

thực hiện phần kế hoạch được giao cho ngành, địa phương;

- Trình Hội đồng Bộ trưởng ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền, các

chính sách, chế độ liên quan đến công tác đào tạo, bồi dưỡng (bao gồm cả tuyển sinh

và phân phối học sinh đã tốt nghiệp) cán bộ khoa học, kỹ thuật, cán bộ quản lý (phần

được giao cho ngành), công nhân kỹ thuật, nhân viên kỹ thuật, nghiệp vụ và các

chính sách, chế độ, tiêu chuẩn liên quan đến đội ngũ cán bộ, công nhân viên chức

của ngành;

- Căn cứ đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, xây

dựng kế hoạch và chính sách khuyến khích các đơn vị thuộc ngành trong cả nước tiến

hành hoạt động khoa học, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật phục vụ nền kinh tế quốc dân và

sự nghiệp phát triển đại học và giáo dục chuyên nghiệp;

- Trình Hội đồng Bộ trưởng quyết định những chính sách, kế hoạch hợp tác

với nước ngoài trong lĩnh vực liên quan tới chức năng, nhiệm vụ của Bộ; quản lý

LHS, thực tập sinh, nghiên cứu sinh, học sinh học nghề của Việt Nam ở nước ngoài

và LHS, thực tập sinh, nghiên cứu sinh, học sinh học học nghề người nước ngoài ở

Việt Nam;

- Tổ chức và quản lý cán bộ, lao động, tiền lương, tài chính, tài sản, vật tư

thiết bị phục vụ sự nghiệp đào tạo, của các đơn vị trực thuộc Bộ theo chế độ, chính

sách quy định của Nhà nước;

- Thanh tra, kiểm tra các Bộ, ngành, địa phương và các trường trong cả nước

về những vấn đề thuộc chức năng quản lý thống nhất của ngành; về việc chấp hành

pháp luật, chính sách, chế độ, quy chế trong lĩnh vực đào tạo và bồi dưỡng cán bộ

khoa học, kỹ thuật, cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật, nhân viên kỹ thuật, nghiệp vụ

(kể cả tập trung, tại chức, chính quy và không chính quy)” [120, tr.251].

* Bộ Văn hóa

Lịch sử hình thành và hoạt động của cơ quan Bộ Văn hóa - tiền thân của cơ

quan Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ngày nay trải qua hai giai đoạn sau:

+ Giai đoạn 1954-1977:

Trong Thông cáo của Hội đồng Chính phủ tại kỳ họp trung tuần tháng 8/1954,

Hội đồng Chính phủ đã quyết định thành lập Bộ Tuyên truyền – đơn vị tiền thân của

27

Bộ Văn hóa. Sau đó, phiên họp ngày 20/9/1955 Quốc hội Khóa V đã đổi tên Bộ

Tuyên truyền thành Bộ Văn hóa. Chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và tổ chức bộ máy

của Bộ Văn hóa được quy định tại Nghị định số 135-CP ngày 29/9/1961 của Hội

đồng Chính phủ. Nghị định nêu rõ, Bộ Văn hóa là cơ quan của Hội đồng Chính phủ

có trách nhiệm quản lý công tác văn hóa theo đường lối, chính sách của Đảng và Nhà

nước; bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ và kế hoạch phát triển sự nghiệp văn học,

nghệ thuật, điện ảnh, xuất bản, thư viện, câu lạc bộ, văn hóa quần chúng, bảo tồn bảo

tàng và triển lãm. Hoạt động đến năm 1977, Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn

Bộ Văn hóa và Tổng cục Thông tin thành Bộ Văn hóa và Thông tin, như vậy, kết thúc

thời kì hoạt động của cơ quan Bộ Văn hóa.

+ Giai đoạn 1985-1990:

Tại Biên bản phiên họp ngày 24/6/1981 của Quốc hội khóa VII có ghi: Chủ

tịch Hội đồng Bộ trưởng giới thiệu danh sách thành viên của Hội đồng, trong đó Bộ

trưởng Bộ Văn hóa là ông Nguyễn Văn Hiếu. Bốn năm sau đó, ngành Văn hóa tiếp

tục được kiện toàn theo Nghị định số 88-HĐBT ngày 27/3/1985 của Hội đồng Bộ

trưởng. Nghị định quy định Bộ Văn hóa là cơ quan quản lý nhà nước về công tác văn

hóa. Đến đây, trong cơ cấu của Hội đồng Chính phủ không còn Bộ Văn hóa và Thông

tin khi đã tách riêng hai lĩnh vực quản lý là văn hóa và thông tin, lĩnh vực văn hóa

thuộc quyền quản lý của Bộ Văn hóa như giai đoạn trước.

Ngày 31/3/1990, Hội đồng Nhà nước ban hành Quyết định số 244NQ/HĐNN8

về việc thành lập, đổi tên một số Bộ, Ủy ban Nhà nước và phê chuẩn việc giải thể

một số Tổng cục; cụ thể thành lập Bộ Văn hóa – Thông tin – Thể thao và Du lịch trên

cơ sở hợp nhất Bộ Văn hóa, Bộ Thông tin, Tổng cục Thể dục Thể thao và Tổng cục

Du lịch để thống nhất quản lý nhà nước về văn hóa, thông tin, phát thanh, truyền

hình, báo chí, xuất bản, thể dục thể thao và du lịch. Đến đây, cơ quan Bộ Văn hóa

chấm dứt hoạt động.

* Bộ Văn hóa Thông tin

Năm 1977 là thời gian bắt đầu hoạt động của cơ quan Bộ Văn hóa Thông tin

sau khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn Bộ Văn hóa và Tổng cục Thông tin

thành Bộ Văn hóa và Thông tin. Sau gần chục năm hoạt động, thực hiện nhiệm vụ

quản lý lĩnh vực văn hóa và thông tin, năm 1985, Hội đồng Bộ trưởng đã phê duyệt

28

Bộ Văn hóa là cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa tại Nghị định số 88-HĐBT ngày

27/3/1985; thành lập Bộ Thông tin phụ trách lĩnh vực thông tin được tách ra từ Bộ

Văn hóa Thông tin. Sau đó, Bộ Văn hóa tiếp tục được đổi tên thành Bộ Văn hóa

Thông tin trên cơ sở hợp nhất 04 cơ quan Bộ Văn hóa, Bộ Thông tin, Tổng cục Thể

dục Thể thao và Tổng cục Du lịch năm 1989 và từ năm 2007 đến nay, có tên gọi là

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

* Bộ Nội vụ (1945-1970)

Là một trong 13 Bộ đầu tiên được Chính phủ Lâm thời Việt Nam DCCH thành

lập năm 1945, trong quá trình hoạt động của mình, Bộ Nội vụ thực hiện chức năng

quản lý nhà nước về công tác tổ chức và dân chính nhằm phát huy tác dụng của bộ

máy chính quyền nhân dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước [127, tr.68].

* Bộ Y tế

Bộ Y tế ra đời trong khoảng tháng 9 năm 1945, ngay sau khi Cách mạng tháng

Tám thành công và nước Việt Nam DCCH ra đời. Tại Nghị định số 153-CP ngày

05/10/1961 của Hội đồng Chính phủ, Bộ Y tế được quy định là cơ quan của Hội đồng

Chính phủ có trách nhiệm quản lý công tác y tế theo đường lối, chính sách của Đảng

và Nhà nước; kết hợp chặt chẽ đông y với tây y trong công tác y tế, bảo đảm hoàn

thành tốt nhiệm vụ và kế hoạch công tác vệ sinh, phòng bệnh, phòng dịch, chữa bệnh

nhằm bảo vệ và tăng cường sức khỏe của nhân dân để phục vụ sản xuất, phục vụ dân

sinh, phục vụ quốc phòng. Hai trong nhiều nhiệm vụ cụ thể của Bộ Y tế là quản lý,

đào tạo cán bộ chuyên môn của ngành và thi hành các hiệp định hợp tác về y tế mà

nước ta đã kí kết với nước ngoài [127, tr.226].

* Bộ Tài chính

Ngày 28/8/1945, cùng với Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng

hòa, Bộ Tài chính là 1 trong 13 bộ đầu tiên được thành lập và cũng là một trong nhiều

Bộ ngành có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời nhất. Hơn 70 năm qua, tên gọi cơ

quan Bộ Tài chính không thay đổi và vẫn thực hiện thống nhất chức năng quản lý nhà

nước về lĩnh vực tài chính, kế toán, ngân sách trong phạm vi cả nước. Bộ Tài chính

cũng như ngành tài chính nói chung đã không ngừng lớn mạnh và trưởng thành, cùng

với nhân dân cả nước góp phần to lớn vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất

29

nước.

* Bộ Công nghiệp

Bộ Công nghiệp được thành lập năm 1955 trên cơ sở được tách ra cùng Bộ

Thương nghiệp từ Bộ Công thương. Nhiệm vụ chính của Bộ là nghiên cứu, xây dựng

chương trình, kế hoạch sản xuất công nghiệp, kế hoạch phục hồi và phát triển công

nghiệp và quản lý các xí nghiệp quốc doanh và hợp doanh; nghiên cứu, thăm dò hầm

mỏ, bảo vệ tài nguyên khoáng sản quốc gia [127, tr.118]...

* Bộ Nông lâm

Tiền thân của Bộ Nông lâm là Bộ Canh nông, được thành lập từ năm 1945.

Đến tháng 02/1955, Bộ Canh nông được đổi tên thành Bộ Nông lâm. Nhiệm vụ của

Bộ là thực hiện chương trình tăng gia sản xuất ở Bắc bộ và Bắc Trung bộ, đồng thời

với việc xây dựng nền tảng và phát triển nền kinh tế nông nghiệp của cả nước. Một

trong các nhiệm vụ cụ thể của Bộ Nông lâm thời kì này là hợp tác nghiên cứu khoa

học nông nghiệp và lâm nghiệp, đẩy mạnh công tác chuyên gia nông lâm nghiệp và

đào tạo cán bộ trong và ngoài nước phục vụ phát triển nền kinh tế nông nghiệp nước

nhà [127, tr.84-85].

1.2.2. Khối lƣợng, thành phần và đặc điểm khối tài liệu về quan hệ hợp

tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991)

1.2.2.1. Khối lượng tài liệu

Với giới hạn nội dung nghiên cứu quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong

lĩnh vực đào tạo các trình độ từ cử nhân trở lên (1950-1991) qua tài liệu lưu trữ chữ

viết trên nền giấy đang bảo quản tại TTLTQGIII, chúng tôi đã khảo sát tài liệu và

thống kê được 171/1900 hồ sơ (ĐVBQ) về quan hệ hợp tác ngoại giao Việt Nam –

Liên Xô đã nêu, thuộc 12 phông lưu trữ cơ quan, tổ chức và là nguồn tư liệu trực tiếp

được sử dụng để thực hiện nội dung chính của luận văn. Dưới đây là bảng thống kê

chi tiết số lượng hồ sơ về hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô giai đoạn 1950-1991

trong từng phông lưu trữ.

Stt Tên phông Thời gian tài liệu Số lƣợng hồ sơ

01 Phủ Thủ tướng 1954-1985 36

02 Ủy ban Kế hoạch Nhà nước 1955-1995 27

30

03 Ủy ban Khoa học Nhà nước 1958-1992 20

04 Bộ Giáo dục 1945-1980 35

05 Bộ Đại học và THCN 1965-1991 15

Bộ Văn hóa 06 1955-1990 19

Bộ Văn hóa Thông tin (tài liệu 1975-1995 07 03

Vụ Hợp tác quốc tế)

08 Bộ Nội vụ 1945-1970 06

09 Bộ Y tế 1945-1995 10

10 Bộ Tài chính 1945-1997 06

11 Bộ Công nghiệp 1953-1960 02

12 Bộ Nông lâm 1945-1960 05

1.2.2.2. Thành phần tài liệu

Trước khi làm rõ các thành phần tài liệu về hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh

vực đào tạo (1950-1991) trong 12 phông lưu trữ cơ quan nêu trên, chúng tôi có một số khái

quát chung về thành phần tài liệu của các phông này để độc giả và các nhà nghiên cứu có cái

nhìn tổng thể về khối tài liệu các phông này đang bảo quản tại TTLTQGIII. Về cơ bản, tài

liệu của 12 phông lưu trữ được tổ chức phân loại, lập hồ sơ theo phương án Mặt hoạt động –

Thời gian, hoàn toàn phù hợp với đặc điểm của các đơn vị hình thành phông (10/12 phông

đóng). Đó là các nhóm tài liệu tổng hợp, hợp tác quốc tế, tổ chức cán bộ, tài chính kế toán,

xây dựng cơ bản, KHKT và các nhóm tài liệu cụ thể của các ngành kinh tế, văn hóa xã hội.

Riêng đối với các phông lưu trữ Phủ Thủ tướng và UBKHNN, khối lượng tài liệu của các

phông này nhiều nhất trong toàn bộ hơn 100 phông lưu trữ cơ quan, tổ chức đang được lưu

trữ tại Trung tâm (hơn 600 trăm mét giá) và thành phần tài liệu vô cùng phong phú, phản

ánh toàn diện mọi mặt của đời sống xã hội theo đúng chức năng, nhiệm vụ được giao cho

các cơ quan ở từng thời kì lịch sử.

Về phông lưu trữ Bộ Giáo dục giai đoạn 1945-1980, trong tổng số 78.3 mét tài liệu

thuộc phông, ngoài các nhóm tài liệu phổ biến như tổng hợp, tổ chức cán bộ, tài vụ kế toán,

các nhóm tài liệu quản lý lĩnh vực chuyên môn giáo dục bao gồm tài liệu về xây dựng, chỉ

đạo thực hiện và tổng kết công tác bổ túc văn hóa, giáo dục các bậc học từ mẫu giáo, phổ

thông, THCN và đại học; nhóm tài liệu về cải cách giáo dục theo đúng chức năng, nhiệm vụ

của Bộ đã được giới thiệu chi tiết ở trên. Cũng như Bộ Giáo dục, thành phần nội dung của

31

10 mét tài liệu phông lưu trữ Bộ Đại học và THCN bao gồm các nhóm tài liệu hình thành

phổ biến và các nhóm tài liệu quản lý lĩnh vực đào tạo đại học và THCN trong phạm vi cả

nước.

Đối với phông lưu trữ các Bộ còn lại, thành phần tài liệu gồm các nhóm tài liệu hành

chính phổ biến hình thành trong hoạt động của các cơ quan như tài liệu về quy hoạch, kế

hoạch, tổ chức cán bộ, tài chính kế toán, thi đua khen thưởng... và các nhóm tài liệu quản lý

ngành, lĩnh vực chuyên môn được giao, đó là các ngành nông lâm nghiệp, y tế, nội vụ, giao

thông và bưu điện; tuy nhiên khối lượng tài liệu các phông này không nhiều, chỉ dưới 10 mét

giá trong mỗi phông.

Từ tổng thể tình hình tài liệu về hợp tác ngoại giao Việt Nam –Liên Xô thuộc 12

phông lưu trữ nêu trên, chúng tôi đi sâu khảo sát, nghiên cứu khối tài liệu quản lý hành chính

nhà nước trên nền giấy về hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo giai đoạn

1950-1991 đang bảo quản tại Trung tâm. Thành phần nội dung khối tài liệu này bao gồm các

nhóm sau cụ thể sau:

- Nhóm tài liệu văn kiện là cơ sở pháp lý cho việc thực hiện quan hệ hợp tác Việt

Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo. Thành phần tài liệu của nhóm này là các văn bản hợp

tác song phương gồm hiệp ước, hiệp định, nghị định thư, kế hoạch hợp tác văn hóa, KHKT

và hợp tác đào tạo được kí kết giữa hai nước trong suốt chặng đường hơn 40 năm quan hệ.

Các văn bản này tập trung hầu hết ở phông Phủ Thủ tướng, UBKHNN và rải rác ở các

phông UBKhHNN, Bộ Giáo dục, Bộ Đại học và THCN, Bộ Văn hóa, Bộ Văn hóa Thông

tin và Bộ Tài chính.

- Nhóm tài liệu về việc triển khai quan hệ hợp tác đào tạo sau khi đã thiết lập các cơ

sở pháp lý giữa hai Nhà nước. Đó là tài liệu về xây dựng và phê duyệt chương trình, chỉ tiêu

kế hoạch đào tạo LHS Việt Nam ở nước ngoài, trong đó có Liên Xô, gồm các văn bản là

công văn, quyết định, tờ trình của các cơ quan và danh sách LHS đi nước ngoài. Nhóm này

có nhiều nhất trong các phông UBKHNN, Phủ Thủ tướng, Bộ Giáo dục và Đại học và

THCN và nội dung tài liệu tương đối hoàn chỉnh.

- Nhóm tài liệu về thực hiện chương trình, kế hoạch hợp tác đào tạo với Liên Xô

hàng năm và nhiều năm của các cơ quan, tổ chức Trung ương. Đó là các công văn, báo cáo

của ĐSQ Việt Nam tại Liên Xô, Phủ Thủ tướng và các Bộ ngành về tình hình công tác quản

lý LHS ở nước ngoài, kết quả đào tạo cán bộ tại Liên Xô thể hiện ở số lượng và chất lượng

32

đào tạo, các buổi trao đổi, làm việc giữa các cơ quan của hai Nhà nước trong vấn đề đào tạo

cán bộ; một số thư từ trao đổi của cá nhân và báo cáo tình hình, kết quả học tập của một số

LHS Việt Nam tại Liên Xô. Các thành phần tài liệu này có trong hầu hết 12 phông lưu trữ kể

trên và mức độ nhiều ít khác nhau, tập trung chủ yếu ở các phông UBKHNN, Phủ Thủ

tướng, UBKHNN, UBKhHNN, Bộ Giáo dục, Bộ Đại học và THCN.

1.2.2.3. Đặc điểm của tài liệu

+ Về vật mang tin và kỹ thuật chế tác: Tài liệu được viết tay, đánh máy và in

rô-nê-ô trên nhiều vật mang tin khác nhau gồm giấy dó, giấy pơ luya, giấy có độ

trắng kém. Có thể khẳng định, văn bản được ban hành trong thời kì 1950-1991 về vấn

đề nghiên cứu khá logic và phù hợp giữa thời gian tài liệu được hình thành và vật

mang tin với các kỹ thuật chế tác đặc trưng từng thời kì.

+ Tình trạng vật lý tài liệu: Hiện nay, hầu như tất cả các tài liệu về quan hệ

hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo đều đã được tổ chức khoa học và

được tu bổ, phục chế. Nhiều tài liệu còn nguyên vẹn, có thể khai thác, sử dụng mà

không gặp quá nhiều khó khăn. Nhưng bên cạnh đó cũng có không ít tài liệu đã bị ăn

mòn nên rất mỏng, bị mủn, bị thủng, rách, mất chữ, nhòe chữ hoặc mất một phần văn

bản.

+ Ngôn ngữ của tài liệu: Hầu hết tài liệu về hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong

lĩnh vực đào tạo hình thành trong quá trình hoạt động của các cơ quan Trung ương

của bộ máy hành chính Nhà nước, được đánh máy và viết tay bằng ngôn ngữ tiếng

Việt có dấu. Bên cạnh đó, có khá nhiều tài liệu của các tổ chức, cá nhân nước ngoài

được đánh máy hoặc viết tay bằng tiếng nước ngoài (tiếng Nga, tiếng Pháp và tiếng

Anh), đó là một số bản dự thảo văn kiện hợp tác do phía Liên Xô lập, một vài thư từ

trao đổi, góp ý của phía Liên Xô và các bản lý lịch, kế hoạch học tập, nghiên cứu của

LHS Liên Xô tại Việt Nam…Nhìn chung, các tài liệu tiếng nước ngoài kể trên đã

được lược dịch sang tiếng Việt. Ví dụ, các hồ sơ 4309, 4327, 4364, 4415 thuộc phông

Bộ Giáo dục, hồ sơ 147, 152 thuộc phông Bộ Văn hóa (tài liệu Vụ Trao đổi văn hóa

với nước ngoài), hồ sơ 3590 trong phông UBKhHNN…

+ Một số yếu tố thể thức văn bản: Trong phần này, chúng tôi chỉ tập trung

khảo sát và nhận xét một số yếu tố thể thức có liên quan đến nguồn gốc xuất xứ của

văn bản gồm tác giả, địa danh và ngày tháng năm ban hành văn bản, chữ kí của người

33

có thẩm quyền và con dấu của cơ quan, cùng với việc nhận xét, đối chiếu thành phần

nội dung của một số tài liệu với các nguồn tư liệu khác. Qua đó, chúng tôi có thể

khuyến nghị đối với người đọc về tính xác thực và độ tin cậy của khối tài liệu về quan

hệ hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô đang bảo quản tại TTLTQGIII hiện nay. Cụ

thể:

- Về tác giả của tài liệu: Có thể nói, đánh giá độ tin cậy của tài liệu thực chất

là xem xét độ tin cậy của tác giả văn bản. Qua nghiên cứu, chúng tôi thấy, đại đa số

tài liệu về quan hệ hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô đều xác định rõ tác giả của

văn bản. Phần lớn tác giả là các cơ quan của Đảng; các cơ quan, tổ chức trong bộ máy

hành chính Nhà nước ở cấp trung ương; các cơ sở nghiên cứu, đào tạo công lập đóng

trụ sở tại TP.Hà Nội; ĐSQ Việt Nam tại Matxcova - Liên Xô và một số ít tác giả khác

(cá nhân, tập thể cá nhân, các cơ quan ở địa phương)

Trong số tài liệu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu tiếp cận được, chúng tôi

cũng gặp một số tài liệu không có thành phần tác giả văn bản hoặc khó nhận biết tác

giả. Trường hợp này thường là các tài liệu phục vụ họp, một số báo cáo tóm tắt hoặc

tổng kết một vấn đề cụ thể được đánh máy, không có bất cứ thành phần thể thức nào

của văn bản, tuy nhiên nội dung thông tin trong nhiều tài liệu lại rất có giá trị để

nghiên cứu vấn đề. Ví dụ, Báo cáo tóm tắt về tình hình hợp tác KHKT Việt – Xô [45,

tr.34-37; Đề cương Báo cáo của Bộ Giáo dục về việc tổng kết công tác trao đổi văn

hóa từ khi hòa bình lập đến năm 1963 [87, tr1-18]...

- Về địa danh và ngày, tháng, năm ban hành văn bản: Hầu hết văn bản của các

cơ quan, tổ chức nêu trên ban hành thời kì 1950-1991 về vấn đề hợp tác đào tạo Việt

Nam – Liên Xô đều xác định rõ địa điểm và thời gian văn bản được hình thành. Địa

danh văn bản thường là Hà Nội – nơi đóng trụ sở của các cơ quan, tổ chức Trung

ương của Đảng và Nhà nước qua các thời kì, là Matxcova đối với các văn bản, tài liệu

của ĐSQ Việt Nam tại Liên Xô và một số địa danh cụ thể khác. Bên cạnh đó, có

nhiều văn bản không ghi ngày, tháng, chỉ ghi năm ban hành; một số ít văn bản không

ghi cả ngày, tháng, năm ban hành nên rất khó xác định chính xác về thời gian của tài

liệu

- Về chữ ký của người có thẩm quyền và con dấu của cơ quan: Có thể khẳng

định rằng, chức vụ, họ tên, chữ ký của người có thẩm quyền và dấu của cơ quan ban

34

hành văn bản được coi là những yếu tố quan trọng bậc nhất để đảm bảo tính xác thực

của văn bản và độ tin cậy của thông tin tài liệu. Tuy vậy, khi nghiên cứu tài liệu về

quan hệ hợp tác Việt Nam –Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo, chúng tôi thấy chủ yếu là

các văn bản sao (gồm sao y bản chính, sao lục và trích sao), có chữ kí và con dấu của

cơ quan sao văn bản; văn bản là bản gốc có chữ kí trực tiếp của người có thẩm quyền

cũng khá nhiều. Nhóm tài liệu bản sao hầu hết là các văn kiện ngoại giao như hiệp

ước, hiệp định, nghị định thư và kế hoạch hợp tác song phương được Phủ Thủ tướng,

các Bộ sao y bản chính và có dấu của cơ quan sao văn bản. Số lượng văn bản là bản

gốc, bản chính, có đầy đủ các yếu tố thông tin về chức vụ, họ tên và chữ ký của người

có thẩm quyền ước tính khoảng gần một nửa trong tổng số văn bản có nội dung về

vấn đề nghiên cứu.

Đáng nói hơn, trong số tất cả các văn kiện ngoại giao chúng tôi tiếp cận được,

chỉ duy nhất một văn bản là bản gốc, có đầy đủ chữ kí trực tiếp của người đại diện và

con dấu của cơ quan hai bên, đó là Hiệp định về việc thiết lập quan hệ hợp tác trực

tiếp giữa Nhạc viện TP.Hồ Chí Minh và Nhạc viện Quốc gia Novosibirisk mang tên

Glinka, kí tại TP.Hồ Chí Minh ngày 01/12/1990 [110, tr.1-2].

- Về thành phần nội dung tài liệu:

Về quan hệ ngoại giao Việt Nam –Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo, có rất nhiều

văn kiện hợp tác song phương là các hiệp định, hiệp ước, nghị định thư, kế hoạc hợp

tác...được kí kết giữa hai Nhà nước trong suốt thời gian từ năm 1950-1991. Đại đa số

các văn kiện này là bản sao y bản chính, có đóng dấu chỉ các mức độ mật. Theo quy

định, chúng tôi không được phép tiếp cận và khai thác, sử dụng những tài liệu này do

chưa được giải mật. Tuy nhiên, qua xem xét tính chất và mức độ nhạy cảm của vấn

đề nghiên cứu, đồng thời xem xét nguyện vọng chính đáng của chúng tôi muốn hoàn

thành đề tài nghiên cứu thực sự có chất lượng, Ban lãnh đạo TTLTQGIII đã tạo điều

kiện, cho phép tôi được tiếp cận các tài liệu mật đã được công bố, giới thiệu rộng rãi

với điều kiện chỉ được xem xét các đặc điểm bề ngoài của tài liệu và đối chiếu nội

dung với các tài liệu đã được công bố, giới thiệu trong các nguồn tư liệu khác; cam

kết không sử dụng, trích dẫn bất cứ thông tin nào trong tài liệu mật. Chúng tôi đã tiến

hành so sánh, đối chiếu một số văn kiện trong hồ sơ tài liệu của các phông và với các

văn bản đã được công bố trên một số nguồn tư liệu khác. Kết quả so sánh một số văn

kiện này cho thấy, nội dung thông tin tài liệu lưu trữ và văn kiện đã được công bố

35

hoàn toàn trùng khớp. Một vài ví dụ cụ thể sau:

Ví dụ 1: Hiệp định hợp tác khoa học giữa UBKhHNN nước Việt Nam DCCH

và Viện Hàn lâm Khoa học Liên bang CHCNXH Xô Viết, ký tại Matxcova ngày

26/5/1961 đã được công bố trong cuốn “Việt Nam – Liên Xô – 30 năm quan hệ (1950-

1980)” (trang 60-68) hoàn toàn trùng khớp thông tin với tờ số 13-20 của hồ sơ 7820,

phông Phủ Thủ tướng và tờ số 01-04 của hồ sơ 2963, phông UBKHNN;

Ví dụ 2: Tờ số 397-404 của cuốn “Việt Nam – Liên Xô – 30 năm quan hệ

(1950-1980)” là Hiệp định hợp tác văn hóa và khoa học giữa Chính phủ nước Việt

Nam DCCH và Chính phủ Liên bang CHXHCN Xô Viết, ký tại Matxcova ngày

11/11/1974 đã được công bố hoàn toàn xác thực, phù hợp với thông tin văn kiện là tờ

số 50-57 của hồ sơ 9470, phông Phủ Thủ tướng;

Ví dụ 3: Chúng tôi đã đối chiếu và thấy sự phù hợp về nội dung Hiệp định hợp

tác văn hóa và KHKT giữa Chính phủ Việt Nam DCCH và Chính phủ Liên bang

CHXHCN Xô viết năm 1959 đăng trên Báo Nhân dân ngày 03/02/1960 (tr.45-46) với

văn kiện trong hồ sơ 2928 phông UBKhHNN đang bảo quản tại TTLTQGIII.

Ngoài nhóm văn kiện ngoại giao nói trên, đối với các tài liệu còn lại về quan

hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991), chúng tôi cũng

tiến hành so sánh, đối chiếu một vài số liệu thống kê trong tài liệu lưu trữ thuộc các

phông với nhau và với một số nguồn tư liệu khác. Dưới đây là một số ví dụ cụ thể:

Ví dụ 1: Tờ số 06 của hồ sơ 21890 thuộc phông UBKHNN với tiêu đề là

“Công văn, báo cáo của Vụ Giáo dục đào tạo – UBKHNN, Tổng cục Dạy nghề về

đào tạo cán bộ chuyên môn và công nhân kỹ thuật gửi đi các nước XHCN năm 1984”

và tờ số 16 của hồ sơ 19430 “Báo cáo của Ban Khoa giáo Trung ương về tình hình

công tác LHS ở các nước XHCN từ năm 1951-1983” thuộc phông Phủ Thủ tướng

(Mục lục 3) đều là Bảng thống kê LHS đại học và trên đại học gửi đi đào tạo ở các

nước (tính đến 31/12/1982) và cùng cho một con số thống nhất là 21.351 người.

Ví dụ 2: Tại Báo cáo số 1617/LHS ngày 27/8/1973 của Bộ Đại học và THCN

về tình hình công tác đào tạo ở nước ngoài (phần đại học và dưới đại học) [58, tr.20-

21], chúng tôi đã tổng hợp số liệu thống kê LHS đi Liên Xô từ năm 1951-1954 và con

số chính xác là 161 LHS. Tuy nhiên, trong bài viết “Tìm hiểu sự giúp đỡ của Liên Xô

trong hai cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam (1945-1975”của tác giả Hồng

36

Hạnh và Hải Hà đăng trên Tạp chí Lịch sử quân sự năm 2000, số lượng LHS Việt

Nam tại Liên Xô từ năm 1953-1954 đã là 200 người.

Ví dụ 3: Tại văn bản Đề cương tổng kết công tác trao đổi văn hóa của Bộ Giáo

dục ban hành trong năm 1963, số lượng LHS Việt Nam ở các nước XHCN tính đến

năm 1963 là 6.500 người [87, tr.10]. Tuy nhiên, trong Công văn số 265CV-KGTW

ngày 14/11/1963 của Ban Khoa Giáo – Ban Chấp hành Trung ương về tình hình công

tác LHS Việt Nam ở các nước XHCN từ năm 1951-1983, số lượng LHS Việt Nam

học tại các nước tính đến năm 1964 mới là 5.776 người [32, tr.3]. Ở đây có sự chênh

lệch khá lớn về số lượng LHS Việt Nam, do đó, các nhà nghiên cứu cần thiết phải xác

minh tính xác thực của thông tin tài liệu trước khi sử dụng tài liệu để nghiên cứu vấn

đề…

Tóm lại, từ các kết quả khái quát và nhận xét các đặc điểm chính của khối tài

liệu về hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo kể trên, chúng tôi thấy, về

cơ bản khối tài liệu này đảm bảo độ chân thực và chính xác tương đối cao, phản ánh

sự việc, vấn đề một cách khách quan. Tuy nhiên, qua một vài trường hợp so sánh, đối

chiếu có sự khác nhau về một vài số liệu thống kê giữa tài liệu thuộc các phông lưu

trữ với nhau và với một số nguồn tư liệu khác nêu trên, chúng tôi khuyến nghị các

nhà nghiên cứu, trước khi sử dụng tài liệu cần có sự xác minh độ tin cậy và phù hợp

của số liệu giữa các tài liệu để có thể lựa chọn và sử dụng được những thông tin chính

xác, phù hợp nhất cho vấn đề nghiên cứu.

Tiểu kết chƣơng 1

Có thể khẳng định rằng sự ra đời và hoạt động hầu hết các cơ quan trong 13 cơ

quan, tổ chức có thành phần tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong

lĩnh vực đào tạo (1950-1991) gắn liền với sự ra đời của nước Việt Nam DCCH và hai

cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của dân tộc Việt Nam. Đây là

những cơ quan trung ương, có vị trí và vai trò lớn trong điều hành hoạt động chung

của Chính phủ và quản lý nhà nước trong từng ngành, lĩnh vực. Đối với chức năng

quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo trong thời gian từ năm 1950-1991, Nhà nước

giao cho Bộ Giáo dục và Đại học và THCN đảm nhiệm. Quá trình hoạt động của Bộ

Giáo dục và Đại học và THCN đã hình thành một khối lượng tài liệu tương đối lớn,

phản ánh đầy đủ các nhiệm vụ cụ thể để thực hiện chức năng quản lý lĩnh vực giáo

37

dục đào tạo trong phạm vi cả nước, cùng với thành phần tài liệu của cơ quan Phủ Thủ

tướng và UBKHNN đã thể hiện rõ nét lịch sử ngành giáo dục đào tạo Việt Nam nói

riêng và vấn đề đào tạo cán bộ của Nhà nước Việt Nam nói riêng, trong đó có nội

dung hợp tác đào tạo giữa Việt Nam và Liên Xô. Với những đặc điểm chính của khối

tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô đang bảo quản tại TTLTQGIII hiện

nay, theo đánh giá của chúng tôi, đây là những tài liệu lưu trữ có tính xác thực và độ

tin cậy tương đối cao, thực sự là một trong những nguồn tư liệu lịch sử có giá trị, có

thể phục vụ đắc lực trong công tác nghiên cứu lịch sử cũng như các mục đích nghiên

cứu khác trong đời sống xã hội.

CHƢƠNG 2

NỘI DUNG VÀ GIÁ TRỊ KHỐI TÀI LIỆU VỀ QUAN HỆ HỢP TÁC

VIỆT NAM – LIÊN XÔ TRONG LĨNH VỰC ĐÀO TẠO (1950-1991)

ĐANG BẢO QUẢN TẠI TRUNG TÂM LƢU TRỮ QUỐC GIA III

2.1. Nội dung quan hệ hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô

Quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo bắt đầu ngay từ

năm 1950, khi Liên Xô chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam, kết

thúc bằng sự tan rã của Nhà nước Liên bang CHXHCN Xô viết năm 1991 và chuyển

tiếp sang quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga ngày nay. Để làm rõ nội dung vấn đề

nghiên cứu, chúng tôi phân chia chặng đường hơn 40 năm hợp tác đào tạo Việt Nam

– Liên Xô thành 4 thời kì nhỏ gắn liền với hoàn cảnh lịch sử Việt Nam cũng như phù

hợp với các chặng đường phát triển của ngành giáo dục đại học nước nhà. Cơ sở để

phân kì quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo được dựa trên

một số xuất bản phẩm về lịch sử giáo dục đào tạo Việt Nam cũng như căn cứ nội

dung nhiều tài liệu có tính chất tổng hợp về tình hình quản lý đào tạo LHS Việt Nam

ở nước ngoài của Ban Khoa giáo Trung ương, Bộ Giáo dục, Bộ Đại học và THCN

trong thành phần khối tài liệu hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô đang bảo quản tại

TTLTQGIII đã tổng kết, đánh giá công tác này trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể.

Đó là:

38

2.1.1. Thời kì kháng chiến chống Pháp từ năm 1950 đến năm 1954

a. Đặc điểm tình hình

Ngày 14/01/1950, trong bối cảnh cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam

chống thực dân Pháp xâm lược đang diễn ra ác liệt, Chính phủ nước Việt Nam DCCH

đã ra tuyên bố “sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ nước nào trọng

quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam để

cùng nhau bảo vệ hoà bình và xây đắp dân chủ thế giới” [135, tr.121]. Trên tinh thần

đó, ngày 23/01/1950, Bộ trưởng Ngoại giao Hoàng Minh Giám thay mặt Chính phủ

Việt Nam gửi công hàm cho Bộ trưởng Ngoại giao Liên Xô, đề nghị hai nước kiến

lập quan hệ ngoại giao chính thức và trao đổi đại sứ. Ngày 30/01/1950, Liên Xô đáp

lại công hàm, đồng ý thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam, khẳng định địa vị

pháp lý chính đáng của chính thể dân chủ cộng hòa lần đầu tiên được xác lập ở Việt

Nam. Tháng 4/1950, Việt Nam chính thức đặt Đại sứ quán tại Matxcova, ông Nguyễn

Lương Bằng được cử là Đại sứ Việt Nam đầu tiên tại Liên Xô. Việc Liên Xô công

nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam DCCH là sự kiện có ý nghĩa quan trọng

trong lịch sử hợp tác Việt Nam – Liên Xô, tạo ra những tiền đề pháp lý quốc tế cho sự

hợp tác toàn diện giữa hai dân tộc.

Cũng trong năm này, nhận thức rõ vai trò của đội ngũ trí thức nói chung và trí

thức giáo dục đại học Việt Nam nói riêng trong sự nghiệp xây dựng đất nước, Chủ

tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị cho ngành Giáo dục phải chăm lo việc đưa học sinh đi

học đại học và THCN ở nước ngoài. Thực hiện chỉ thị đó, Đảng và Nhà nước bắt đầu

gửi học sinh, sinh viên sang các nước XHCN để học tập, nâng cao trình độ và đoàn

LHS đầu tiên của Việt Nam được cử đi học ở Liên Xô.

b. Tình hình thực hiện quan hệ hợp tác

Qua khảo sát thực tế tài liệu lưu trữ tại TTLTQGIII, chúng tôi nhận thấy, các

tài liệu phản ánh quan hệ hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô được hình thành trong

thời gian từ năm 1950-1954 rất ít để có thể làm rõ nội dung quan hệ hợp tác giữa hai

Nhà nước trong lĩnh vực đào tạo giai đoạn này. Chúng tôi chỉ tìm được 04/172 hồ sơ

về hợp tác đào tạo Việt – Xô của giai đoạn 1950-1954 thuộc các phông Phủ Thủ

tướng, UBKHNN, Bộ Giáo dục và Bộ Nông lâm và văn bản trong các hồ sơ được

hình thành cùng thời gian này. Hồ sơ 646 phông Bộ Nông lâm là các báo cáo viết tay

39

của 02 du học sinh ngành nông lâm về tình hình học tập tại Liên Xô và Trung Quốc

khóa học 1951-1952. Trong đó, có báo cáo của sinh viên Lê Duy Thước học tập tại

Liên Xô. Trong phông Bộ Nông lâm, có thêm hồ sơ 6530 “Tập tài liệu của Bộ Nông

Lâm, Ban Kinh tế TW, Bộ Giáo dục về gửi và thống kê LHS ngành nông, lâm học ở

nước ngoài năm 1954”, trong đó, có tờ số 31-35 là Báo cáo của Bộ Canh nông về vấn

đề du học sinh, đã thống kê số lượng du học sinh học về các ngành canh nông tại Liên

Xô từ năm 1951-1953 gồm 16 người, trong đó có 06 “Asp” (trích theo tài liệu) và 10

kĩ sư; các ngành học cụ thể là sinh học, nông hóa học, nông nghiệp cơ giới, côn trùng

bệnh cây, thú y, trồng trọt chuyên khoa, chăn nuôi, lâm nghiệp, ngư nghiệp thủy lợi

[112, tr.36].

Để có thêm thông tin về tình hình hợp tác đào tạo giữa hai nước trong giai

đoạn này, chúng tôi phải dựa vào hàng loạt Báo cáo của các cơ quan, tổ chức tổng kết

công tác đào tạo và quản LHS Việt Nam ở nước ngoài qua các thời kì, trong đó có

Liên Xô. Cụ thể là Báo cáo của Vụ Giáo dục - Đào tạo của Bộ Đại học và THCN về

tình hình đào tạo cán bộ chuyên môn và công nhân kỹ thuật gửi đi các nước XHCN

trong hồ sơ 21890, phông UBKHNN. Tài liệu này cho biết thêm,“từ những năm

kháng chiến chống Pháp, Đảng và Nhà nước ta đã sớm quan tâm đến công tác đào

tạo cán bộ khoa học kỹ thuật ở trong nước và kết hợp với việc gửi đi đào tạo ở ngoài

nước…1950-1954, giai đoạn kháng chiến chống Pháp, ta bắt đầu gửi học sinh với số

lượng ít và không liên tục, trong 4 năm ta đã gửi đi 574 LHS đại học. 1951 đoàn đầu

tiên sang Liên Xô chỉ có 21 người” [60, tr.01]. Và sinh viên Lê Duy Thước (sau này

là Hiệu trưởng Trường Đại học Nông nghiệp) của Bộ Nông lâm đã nêu trên chính là

một thành viên trong số 21 LHS đầu tiên của Việt Nam được Chính phủ Việt Nam

DCCH cử đi học ở Liên Xô, ngành học cụ thể là khoa học nông nghiệp tại Học viện

Nông nghiệp toàn Liên bang mang tên K.A.Ti-mi-ri-a-giép ở thủ đô Matxcova [111,

tr.01-82]. Trong phần Phụ lục thống kê học sinh đi học nước ngoài từ năm 1951-1973

của Báo cáo này, chúng tôi đã thống kê được tổng số 161 LHS Việt Nam được gửi đi

học ở Liên Xô trong 04 năm từ 1950-1954, chủ yếu đi vào năm 1954 (138 người) và

chiếm số lượng nhiều nhất trong toàn bộ LHS đã gửi đi học tập ở các nước giai đoạn

này [56, tr.20-21].

Về việc thiết lập cơ sở pháp lý cũng như kết quả cụ thể của quan hệ hợp tác,

Chúng tôi không khai thác được bất cứ văn kiện pháp lý nào làm cơ sở cho việc thực

40

hiện quan hệ hợp tác đào tạo giữa hai nước, cụ thể là các văn bản kí kết giữa Chính

phủ hai nước và các tài liệu đề cập đến ngành học, chất lượng học tập, nghiên cứu của

LHS Việt Nam tại Liên Xô thời gian này.

Như vậy, tất cả tài liệu phản ánh quan hệ hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô

giai đoạn này đã thông tin đến người đọc Liên Xô chính là nước đầu tiên tiếp nhận

LHS Việt Nam đến học tập, nghiên cứu ngay sau khi Đảng và Nhà nước thực hiện chỉ

thị của Hồ Chủ tịch về việc chăm lo gửi học sinh đi học đại học và THCN ở nước

ngoài. Các tài liệu này đã cho thấy sự giúp đỡ của Liên Xô đối với sự nghiệp đào tạo

cán bộ của Việt Nam giai đoạn này thể hiện ở số lượng LHS Việt Nam đi học tại Liên

Xô trong các năm từ 1950-1954 luôn lớn hơn so với các nước khác trong hệ thống

XHCN. Việc còn rất ít tài liệu liệu lưu trữ về quan hệ hợp tác đào tạo giữa hai nước

hình thành trong thời gian này, theo chúng tôi là điều hoàn toàn dễ hiểu bởi trong

điều kiện vật chất vô vàn thiếu thốn, nhiệm vụ trọng tâm của chúng ta là kháng chiến

chống Pháp, do đó, vấn đề bảo quản tốt và giữ gìn được đầy đủ tài liệu lưu trữ của

Nhà nước là điều khó thực hiện.

2.1.2. Thời kì xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất

nước từ năm 1955 đến năm 1964

a. Đặc điểm tình hình

Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, ngày 21/7/1954, Hiệp định Giơnevơ về

Đông Dương được kí kết, đã chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp

đối với Việt Nam. Miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, cuộc cách mạng dân tộc, dân

chủ nhân dân đã hoàn thành, tạo điều kiện cho miền Bắc bước vào thời kì quá độ lên

CNXH. Ở miền Nam, Mỹ nhảy vào thay chân Pháp, đưa Ngô Đình Diệm lên nắm

chính quyền, âm mưu chia cắt lâu dài nước Việt Nam, biến miền Nam thành thuộc

địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ. Đặc điểm cơ bản của tình hình đất nước ta từ

năm 1955 đến năm 1964 là đất nước bị chia cắt làm hai miền, cách mạng nước ta có

hai nhiệm vụ chiến lược khác nhau. Đó là miền Bắc bước vào thời kì khôi phục kinh

tế, hàn gắn vết thương chiến tranh và bước vào công cuộc xây dựng CNXH; miền

Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân. Hai nhiệm vụ chiến lược đó

có mối quan hệ mật thiết và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau, miền Bắc trở thành căn cứ

địa cách mạng của cả nước, hậu phương lớn của cách mạng miền Nam.

41

Đối với nền giáo dục và đào tạo Việt Nam thời kì này, cụ thể là giáo dục bậc

đại học, qua nghiên cứu, tìm hiểu một số xuất bản phẩm về lịch sử ngành, chúng tôi

biết được, đây là thời kì có vị trí đặc biệt trong lịch sử phát triển của giáo dục đại học

nước ta và đã hình thành ra đường lối giáo dục XHCN. Đường lối này được chính

thức hóa trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, được cụ thể hóa và

phát triển thêm trong các nghị quyết của Hội nghị Trung ương khóa III, đã chỉ ra

những phương hướng, nhiệm vụ, bước đi của giáo dục đại học XHCN. Đảng và Nhà

nước đã rất chú trọng đẩy mạnh việc gửi cán bộ, học sinh đi học tập, nghiên cứu ở

các nước XHCN anh em song song với việc đào tạo trong nước để đáp ứng yêu cầu

ngày càng tăng của công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc.

Từ danh mục 172 hồ sơ, tài liệu liên quan vấn đề nghiên cứu, chúng tôi đã

thống kê được 77 hồ sơ (ĐVBQ) có nội dung thông tin phản ánh quan hệ hợp tác đào

tạo giữa hai nước thuộc thời gian từ 1955-1964, tập trung nhiều trong các phông

UBKHNN, UBKhHNN, Bộ Giáo dục và Bộ Văn hóa. Trong thời gian này, hai nước

đã ký kết hàng loạt hiệp định, hình thành một hành lang pháp lý thông thoáng, thuận

tiện cho hợp tác giữa hai nước trong các lĩnh vực trao đổi thương mại, hàng hóa; hợp

tác văn hóa, KHKT; cung cấp và viện trợ kinh tế, kỹ thuật…đã đóng vai trò quan

trọng đối với công cuộc cải tạo, xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng cuộc sống mới

của nhân dân miền Bắc Việt Nam. Quan hệ hợp tác trong lĩnh vực đào tạo giữa hai

nước đã phát triển hơn một bước so với thời kì trước, mở đầu bằng Hiệp nghị giữa

Chính phủ Việt Nam DCCH và Chính phủ Liên bang CHXHCN Xô viết về vấn đề

học tập của những người công dân nước Việt Nam DCCH tại các trường trung và cao

cấp ở Liên Xô, kí tại Matxcova ngày 27/8/1955 [113, tr.20-23].

b. Tình hình thực hiện quan hệ hợp tác đào tạo

* Thiết lập cơ sở pháp lý

Trong 77 hồ sơ tài liệu kể trên, chúng tôi tìm thấy 03 văn kiện hợp tác song

phương cấp Nhà nước làm cơ sở pháp lý cho việc thực hiện quan hệ hợp tác đào tạo

Việt Nam – Liên Xô thời gian này. Đó là các Hiệp định hợp tác giữa Chính phủ nước

Việt Nam DCCH và Chính phủ Liên bang CHXHCN Xô viết về văn hóa và KHKT,

được kí kết vào các năm 1957, năm 1959 [45, tr.5-6] và năm 1961 [34]. Đây là những

văn kiện hợp tác quốc tế có giá trị pháp lý cao nhất, nội dung là những thỏa thuận

42

giữa hai Nhà nước mang tính chất cơ sở và khái quát về lĩnh vực giáo dục đào tạo, từ

đó, hàng loạt các kế hoạch và biện pháp cụ thể (gồm hiệp nghị, nghị định thư, kế

hoạch hợp tác song phương) được thiết lập để thực hiện quan hệ hợp tác giữa hai

nước hàng năm. Ngoài ra, có thêm 02 văn kiện hợp tác giữa các cơ quan KHKT của

hai nước gồm Hiệp định hợp tác khoa học giữa Ủy ban Khoa học Nhà nước Việt Nam

DCCH và Viện Hàn lâm Khoa học Liên bang CHCNXH Xô Viết, ký tại Matxcova

ngày 26/5/1961 [09, tr.13-20] và Nghị định thư khóa họp thứ 5 của Ủy ban hợp tác

KHKT Việt – Xô giữa nước Việt Nam DCCH và Liên bang CHXHCN Xô Viết, ký

tại Hà Nội ngày 03/4/1963 [73, tr.28-43].

Căn cứ các hiệp định, nghị định song phương đã thiết lập, hàng năm, Chính

phủ hai nước Việt Nam và Liên Xô đã kí kết các kế hoạch (biện pháp) hợp tác cụ thể

để thực hiện trong từng năm. Chúng tôi đã thống kê được 05 văn kiện trong khối tài

liệu giai đoạn này là các Kế hoạch hợp tác văn hóa và KHKT giữa Chính phủ nước

Việt Nam DCCH và Chính phủ Liên bang CHXHCN Xô viết, được kí kết từ năm

1958-1964. Nội dung các cam kết và biện pháp cụ thể về hợp tác đào tạo được thống

nhất trong mỗi bản kế hoạch hợp tác (nằm trong phần Giáo dục và Đại học) là, Chính

phủ hai nước thống nhất vẫn tiếp tục trao đổi học sinh, sinh viên, NCS và thực tập

sinh để học tập và bổ túc nghiệp vụ; số lượng người cử đi, ngành chuyên môn và thời

gian học của LHS được quy định cụ thể chiểu theo sự thỏa thuận của hai bên và cụ

thể hóa mối quan hệ hợp tác giữa các trường trong hệ thống giáo dục đại học, cao

đẳng của hai Nhà nước. Cụ thể, về số lượng đào tạo, phía Liên Xô đồng ý tiếp nhận

mỗi năm hàng trăm sinh viên, NCS, TTSKH của Việt Nam sang học tập và nghiên

cứu, số lượng năm sau thường cao hơn năm trước để phù hợp với nhu cầu cán bộ đáp

ứng tình hình mới của đất nước. Về phía Việt Nam, nhìn chung số lượng SV, NCS và

cán bộ khoa học trẻ tuổi của Liên Xô đến Việt Nam để thực tập và bổ túc kiến thức

thường chỉ giới hạn dưới 10 người trong 01 năm. Trong các văn kiện này, hai nước

cũng thống nhất cụ thể về danh sách các trường đại học mỗi nước tiếp tục hoặc sẽ

thiết lập quan hệ hợp tác trên các mặt hàng năm. Ví dụ như, quan hệ trực tiếp của một

số trường đại học lớn và có uy tín của hai nước là:

Trường Đại học Bách khoa Hà Trường Đại học Bách khoa hàm thụ

Matxcova và Trường Đại học Bách khoa Nội

43

Khắc - cốp

Trường Đại học Kinh tế tài chính Hà Trường Đại học Kinh tế quốc dân Plê-kha-

Nội nốp ở Matxcova

Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội Trường Đại học Tổng hợp Nô-vô-xi-biếc

* Kết quả thực hiện

Thứ nhất, Liên Xô đào tạo cho Việt Nam

- Về số lượng đào tạo: Hồ sơ 19430, phông Phủ Thủ tướng là Báo cáo của Ban

Khoa giáo Trung ương về tình hình công tác LHS Việt Nam ở các nước XHCN từ

năm 1951-1983 đã nêu rõ: “...trong giai đoạn này, nhu cầu cán bộ ngày càng tăng. Vì

vậy, công tác đào tạo cán bộ đã được mở rộng cả ở trong nước và gửi đi nước ngoài.

Trong 10 năm ta đã gửi đi 5.776 LHS các loại. Trong đó, số LHS đại học được tăng

nhiều và bắt đầu có 289 NCS, 294 TTS...". Chúng tôi không thấy văn bản nào đề cập

chính xác số lượng LHS đại học và NCS Việt Nam đi học tại Liên Xô trong 10 năm

này. Căn cứ các số liệu cụ thể của từng năm từ 1955-1964 trong Báo cáo của Bộ Đại

học và THCN về tình hình công tác đào tạo ở nước ngoài (phần đại học và dưới đại

học), chúng tôi đã tổng hợp được 1988 LHS Việt Nam đi học tại Liên Xô thời gian

này [57, tr.21]. Bảng kê dưới đây được triết xuất từ tài liệu này cho chúng ta thấy rõ

số lượng LHS Việt Nam đi Liên Xô trong từng năm và so sánh với một số nước

Nước

Tổng

1955 1956 1957 1958 1959 1960 1961 11962 1963 1964

số

1988

209

56

13

244

1134 805

244

67

Liên

Trung

271

114

84

11

104

02

10

28

18

Quốc

CHDC

165

14

11

61

45

24

09

Đức

37

03

01

03

04

26

Tiệp

khắc

XHCN khác như sau:

44

Các số liệu trên cho thấy, tổng số LHS Việt Nam cũng như số lượng được cử

đi học ở Liên Xô hàng năm trong thời gian 1955-1964 lớn gấp nhiều lần so với số

LHS Việt Nam đi học ở các nước XHCN khác, đặc biệt trong các năm từ 1961- 1963.

Qua tìm hiểu một số tư liệu về lịch sử ngành giáo dục đào tạo Việt Nam, chúng tôi

biết được, đến năm học 1960-1961, số trường đại học và cao đẳng của nước ta đã lên

tới 14 trường, số sinh viên tuyển vào đại học năm học này tăng gấp 8.4 lần so với

năm học 1955-1956. Đây là kết quả của công tác cải tổ toàn bộ hệ thống giáo dục đại

học với sự giúp đỡ của chuyên gia Liên Xô ngay từ năm học 1956-1957 và thực hiện

cuộc vận động “Xây dựng nhà trường xã hội chủ nghĩa” bắt đầu từ năm 1958, nhằm

xác lập những quan điểm giáo dục XHCN [139, tr.310-311]. Điều này lý giải cho số

lượng LHS Việt Nam được cử đi học đại học ở Liên Xô trong hai năm 1961 và 1962

tăng rất nhiều so với những năm trước.

Bằng phương pháp tổng hợp, chúng tôi xác định được số lượng LHS tốt

nghiệp đã về nước trong thời gian này là gần 2000 người, trong đó, ở Trung Quốc có

hơn 1000, còn lại đại bộ phận ở Liên Xô và rải rác các nước XHCN khác. Trong số

đã về nước có 19 phó tiến sĩ [90, tr.10]. Hầu hết các tài liệu cho chúng tôi biết, số

lượng LHS Việt Nam được cử đi Liên Xô học tập và số lượng tốt nghiệp về nước

luôn chiếm tỉ lệ nhiều nhất trên tổng số LHS gửi đi đào tạo nước ngoài. Chẳng hạn,

năm học 1957-1958, Thủ tướng Phủ đồng ý cho các ngành giáo dục, tư pháp, ngân

hàng, ngoại giao gửi LHS sang các nước bạn LHS là 81 người, trong đó 42 người đi

Liên Xô và 39 người đi Trung Quốc [50, tr.4]. Chỉ tính riêng trong năm 1963, Nhà

nước đã gửi đi học ở nước ngoài 507 LHS (tính cả sinh viên, NCS, TTS và BTS),

trong đó, 311 người đi Liên Xô gồm 250 sinh viên và 37 NCS và 18 TTS. Cũng trong

năm này, số LHS Việt Nam tốt nghiệp ở Liên Xô về nước là 167 người trong tổng số

375 LHS của ta tốt nghiệp ở các nước [87, tr.49].

- Về đối tượng (nguồn) được đào tạo: Như chúng tôi đã giới thiệu trong phần

Lịch sử đơn vị hình thành các phông, giai đoạn này, Bộ Giáo dục được Nhà nước

được giao nhiệm vụ “quản lý LHS, NCS Việt Nam ở nước ngoài và LHS, NCS nước

ngoài ở Việt Nam; thi hành các hiệp định mà nước ta đã kí kết với nước ngoài về mặt

giáo dục; thực hiện việc trao đổi kinh nghiệm công tác giáo dục với nước ngoài…”

[03, tr.24-25]. Qua khảo sát tài liệu lưu trữ, chúng tôi thấy, hầu hết các văn bản chỉ

tiêu, kế hoạch và báo cáo tình hình thực hiện công tác đào tạo sinh viên, NCS từ năm

45

1955-1964 là của Bộ Giáo dục và các trường trực thuộc Bộ. Số lượng LHS được cử

đi Liên Xô học đại học hàng năm tập trung hầu hết là sinh viên các trường đại học lớn

của Bộ Giáo dục, điển hình là Trường Đại học Bách khoa và Trường Đại học Tổng

hợp.

- Về ngành nghề đào tạo và phân phối LHS: Tài liệu lưu trữ về quan hệ hợp

tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô giai đoạn này cho chúng tôi biết, ngành nghề đào tạo

tại Liên Xô phong phú và đa dạng hơn rất nhiều so với giai đoạn trước. Nước bạn có

đầy đủ các ngành học ta đã gửi đi đào tạo trong suốt thời kì từ năm 1955 đến năm

1963. Ví dụ, trong Công văn số 2738.Vg ngày 09/01/1963 của Phủ Thủ tướng là tờ số

01 của hồ sơ 4343 thuộc phông Bộ Giáo dục, Thủ tướng Chính phủ duyệt kế hoạch

cử NCS, TTSKH và bổ túc sinh đi học nước ngoài năm 1963 là 187 người, riêng đi

Liên Xô có 140 người và phân phối trong 12 ngành học gồm khoa học tự nhiên, khoa

học xã hội, nông lâm thủy lợi, kiến trúc xây dựng, khí tượng thủy văn, kinh tế tài

chính, kĩ sư kinh tế, ngoại ngữ, văn hóa thể dục thể thao và y tế. Trong số này, số

lượng LHS các ngành khoa học tự nhiên, công nghiệp và nông lâm thủy lợi luôn

chiếm tỉ lệ cao nhất [88, tr.1]. Riêng các ngành khoa học xã hội, bắt đầu từ năm 1964,

chúng ta tạm dừng gửi LHS đi học nước ngoài và chúng tôi khai thác được thông tin

này trong Báo cáo của Ban Khoa giáo Trung ương về tình hình LHS và công tác LHS

của ta ở các nước XHCN từ năm 1951-1982 là hồ sơ 19430 thuộc phông Phủ Thủ

tướng. Tuy nhiên, chúng tôi không tìm thấy nguyên nhân của việc tạm dừng này được

đề cập trong tài liệu về quan hệ hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô.

Về công tác phân phối LHS, Báo cáo của Bộ Giáo dục vể tình hình làm việc với

các đoàn đại biểu Bộ Giáo dục Cao đẳng Liên Xô sang Việt Nam để phân phối LHS

Việt Nam theo Hiệp nghị hợp tác văn hóa năm 1963 đã nêu rõ: “...Đây là lần đầu tiên

ta đã tiến hành phân phối LHS ngay từ ở trong nước. Việc làm này rất có lợi (nhất là đối với NCS và TTSKH) và bước đầu cho bạn1 nắm được yêu cầu của ta, tạo điều

kiện cho ta chủ động cùng tham gia phân phối với bạn...Kết quả buổi làm việc, bạn

chính thức phân phối 232/250 sinh viên đại học theo đề nghị của ta. Công tác phân

phối cơ bản được tiến hành thuận lợi, LHS của ta đã được phân phối vào những

trường đại học, viện nghiên cứu có truyền thống của bạn và phù hợp với đề nghị của

ta (20% sinh viên Việt Nam được phân vào Lomonosov). Tuy nhiên, phía Liên Xô

46

1 Bạn: Liên Xô

cũng có một số đề nghị đối với Bộ Giáo dục của ta là cần đảm bảo việc lập kế hoạch

LHS đi Liên Xô hàng năm phải đúng thời hạn theo yêu cầu của bạn (tháng 3 hàng

năm phải gửi bạn kế hoạch LHS) và cố gắng đảm bảo tính chính xác về ngành

học...Qua buổi làm việc này, ta cũng có dịp để tìm hiểu, học tập và trao đổi ý kiến, kinh nghiệm với Bạn để lập kế hoạch, tuyển chọn và quản lý học tập cho LHS tốt hơn

nữa [87, tr.136-138].

- Về sự giúp đỡ, tạo điều kiện của Liên Xô: Tài liệu này cho biết, “Liên Xô đã

nhận LHS của ta một cách dễ dàng, gửi bao nhiêu cũng nhận, học ngành nào cũng

bố trí (trừ những ngành thuộc bí mật quốc gia). Học bổng của sinh Việt Nam có

nhiều loại, một loại thì do quỹ viện trợ tức là ta đài thọ và một loại thì Liên Xô cấp học bổng và đài thọ. Bạn đã góp ý cho ta về việc gửi học sinh vào các ngành trên tinh

thần lợi ích về đào tạo của ta. Đối với học sinh đuối, nơi nào bạn cũng tổ chức phụ

đạo, đặc biệt giúp đỡ anh em kém về ngoại ngữ. LHS nào khá, Liên Xô tìm cách giúp

đỡ để trở thành NCS hoặc để thi phó tiến sĩ. Trong thời gian thực tập, bạn tổ chức

lựa chọn, cho một số học sinh giỏi đi vào học những ngành rất hiện đại. Bạn giúp đỡ

nhiệt tình sinh viên ta làm luận án tốt nghiệp. Về vật chất, bạn tiếp rất chu đáo, đặc

biệt chú ý đến vấn đề bồi dưỡng sức khỏe cho anh em LHS [52, tr.11].

- Về chất lượng đào tạo: Với sự giúp đỡ nhiệt tình của Liên Xô nêu trên, công

tác đào tạo cán bộ Việt Nam tại Liên Xô trong giai đoạn này đã đạt được nhiều kết

quả tốt đẹp. So sánh giữa các nước, Bộ Giáo dục nhận định, Liên Xô là nước đào tạo

trình độ lý luận tốt hơn các nước khác. Cụ thể, trong Báo cáo của Đoàn cán bộ nghiên

cứu thuộc Ban Tổ chức Trung ương về tình hình LHS ở các nước anh em Trung

Quốc, Liên Xô, Ba Lan, Tiệp Khắc, CHDC Đức năm 1958 của hồ sơ 20782 thuộc

phông UBKHNN có nêu rõ: “LHS đại học tốt nghiệp ở Liên Xô về nước, anh em có

trình độ lý luận vững hơn, đem theo kiến thức khoa học tiên tiến của nước bạn, một

số vẫn tiếp tục tự học, tự nghiên cứu đã đi lên...Tuy vậy, có một số LHS ta sử dụng

chưa hết khả năng vì lãnh đạo thiếu chuyên môn nên việc chỉ đạo, hướng dẫn anh em

trong công tác có khó khăn. Trong số đã tốt nghiệp về nước từ năm 1955-1964, nhìn

chung phẩm chất đạo đức tốt” [52, tr.12].

Thứ hai, Việt Nam đào tạo cho Liên Xô

Trong tổng số 172 hồ sơ về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô đang bảo

47

quản tại TTLTQGIII, chúng tôi chỉ tìm được 04 hồ sơ đề cập đến nội dung Việt Nam

đào tạo cho Liên Xô và đều thuộc giai đoạn này. Đó là các hồ sơ 4309, 4364, 4334 và

4377 thuộc phông lưu trữ Bộ Giáo dục. Các tài liệu trong một số hồ sơ nêu trên chỉ

thông tin về số lượng LHS nước ngoài nói chung tại Việt Nam và không thống kê cụ

thể đối với từng nước. Không có một văn bản nào cho chúng tôi thông tin về số lượng

chính xác, chất lượng LHS Liên Xô tại Việt Nam cũng như sự giúp đỡ cụ thể của

Việt Nam đối với LHS Liên Xô trong thời gian này.

Nội dung tài liệu về việc Việt Nam đào tạo cho Liên Xô giai đoạn này như

sau:

- Về số lượng đào tạo: Đề cương Báo cáo tổng kết công tác trao đổi văn hóa

năm 1963 của Bộ Giáo dục trong hồ sơ 4334 nêu rõ, từ năm 1956 - 1964, ta đã nhận

đào tạo khoảng 58 SV và NCS của nước ngoài, đại bộ phận là SV Liên Xô và Trung

Quốc; còn các nước khác, mỗi nước chỉ có 2 hay 3 người mỗi năm. Theo Kế hoạch

hợp tác giữa hai nước, hàng năm Việt Nam nhận khoảng dưới 10 SV, NCS và cán bộ

khoa học Liên Xô vào học tập, nghiên cứu. Thực tế tài liệu cho thấy, năm học 1963-

1964, trong tổng số 21 LHS nước ngoài ta nhận đào tạo có 06 LHS Liên Xô (01NCS

và 05 SV) [87, tr.44]. Đến năm học 1946-1965, số LHS Liên Xô ta nhận đào tạo là 07

người [85, tr.1]. Như vậy, số lượng học sinh Liên Xô được cử sang Việt Nam học tập

và nghiên cứu hoàn toàn phù hợp với Kế hoạch hợp tác văn hóa, KHKT giữa hai

nước hàng năm.

- Về ngành nghề đào tạo: Cũng như hầu hết LHS nước ngoài tại Việt Nam

trong thời gian này, LHS Liên Xô được cử sang ta học tập và nghiên cứu các ngành

khoa học xã hội, gồm ngôn ngữ, văn học, địa lý, lịch sử và trực tiếp học tại Trường

Đại học Tổng hợp của ta.

- Về tình hình học tập và sinh hoạt của LHS: LHS đại học Liên Xô nói riêng

và nước ngoài nói chung, ban đầu đến Việt Nam sẽ được học tiếng Việt khoảng 01

năm trước khi chuyển vào học các chuyên ngành kể trên. Thời gian nghiên cứu ở Việt

Nam đối với NCS ngắn hơn SV, từ 2 đến 3 tháng và nhiều nhất là 01 năm, ta giúp

bạn tài liệu để xây dựng các đề tài luận án tốt nghiệp phó tiến sĩ. Nhìn chung, việc ăn

ở, sinh hoạt của LHS bạn được ta tổ chức chu đáo (trong 02 kí túc xá của Bộ Giáo

dục và kinh phí do phía Liên Xô đài thọ). Đại bộ phận LHS đều tôn trọng và tuân thủ

48

nội quy của nhà trường, có ý thức tổ chức cao [87, tr.14-15].

Một số công văn của Trường Đại học Tổng hợp về tình hình công tác LHS

nước ngoài tại Việt Nam trong các hồ sơ 4309, 4364 và 4377 thuộc phông Bộ Giáo

dục cho thấy, nhà trường đã quan tâm và có nhiều cố gắng trong công tác đào tạo

LHS cho các nước trong thời gian này. Tuy vậy, bên cạnh sự cố gắng, nỗ lực trong

công tác LHS nước ngoài, nhà trường đã tự kiểm điểm và nhận trách nhiệm về một số

tồn tại trong công tác đào tạo LHS nước ngoài của các năm học này. Cụ thể, trong

Công văn số 393/GV ngày 28/5/1964 của Trường Đại học Tổng hợp về một số công

tác LHS vào dịp cuối năm, có đoạn viết: “... LHS Liên Xô đã về nước ngày

26/5/1964, Đại sứ quán Liên Xô đã gặp Bộ Giáo dục và nhà trường nhận một số

khuyết điểm về việc học tập của lưu sinh viên và gửi lời hết sức cám ơn sự quan tâm

săn sóc của trường, khoa, các giáo sư Việt Nam. Nhưng về phía mình, trường nhận

thấy cần rút ra một số kinh nghiệm...Khoa chưa thật chủ động quản lý kế hoạch học

tập cho số lưu sinh viên này chặt chẽ, chưa thường xuyên theo rõi, nhắc nhở lưu sinh

viên thực hiện kế hoạch. Cho đến khi về nước, cả 5 lưu sinh viên Liên Xô chưa hoàn

thành kế hoạch. Trừ có nghiên cứu sinh ngành Sử Tô – nhiên hoàn thành kế hoạch.

Có sinh viên cả học kì chỉ đến học một hai buổi (tuy khoa có nhắc nhở họ một đôi lần

nhưng không có biện pháp giải quyết thích đáng)...” [87, tr.108].

Thứ ba, hoạt động trao đổi văn hóa và kết nghĩa giữa các trường đại học

Về nội dung này, chúng tôi tìm thấy trong một số văn bản của hồ sơ 4334 và

hồ sơ 4335 thuộc phông Bộ Giáo dục. Các tài liệu này cho chúng tôi biết, hầu hết các

trường của ta đều có quan hệ trao đổi với trường đại học của các nước bạn ở thời kì

này, trong đó, nhiều nhất là các trường của Liên Xô, ta bắt đầu tiến hành kết nghĩa từ

năm 1961. Mục đích của công tác kết nghĩa này là “giáo dục tinh thần quốc tế vô sản

cho học sinh, giáo viên và công nhân viên nhà trường; trao đổi kinh nghiệm về tổ

chức lãnh đạo, về phương pháp dạy và học, đồng thời thắt chặt hơn nữa tình hữu

nghị sẵn có giữa giáo viên, học sinh ta với giáo viên và học sinh trường Bạn và nhân

dân hai nước” [87, tr.11].

Kết quả cụ thể về công tác kết nghĩa giữa các trường đại học của hai nước

được nêu trong tài liệu này là, ta nhận đã được rất nhiều tài liệu, sách báo, đồ dùng

học tập và dụng cụ thí nghiệm phục vụ giảng dạy, nghiên cứu từ Liên Xô. Tính đến

cuối năm 1963 (sau 02 năm kết nghĩa), Trường Đại học Bách khoa đã nhận được gần

600 cuốn sách bằng tiếng Nga là các loại sách giáo khoa, sách kỹ thuật chuyên 49

môn, tài liệu hướng dẫn, tài liệu nghiên cứu khoa học... từ Trường Đại học Bách khoa

Khắc Cốp, Trường Kĩ sư Kinh tế và Trường Đại học Bách khoa hàm thụ toàn Liên

bang. Chỉ riêng trong năm 1963, Trường Đại học Tổng hợp đã nhận được 488 cuốn

gồm các sách giáo khoa và tài liệu về chủ nghĩa Mác – Lê nin, chính trị - xã hội, sử

học, văn học, khảo cổ học, toán, lý, hóa, sinh, họa báo...từ các tổ chức và trường học

của Liên Xô Đặc biệt, toàn bộ thiết kế và xây dựng của Trường Đại học Bách khoa

trong thời gian này là được Liên Xô giúp đỡ. Về phía ta, do khả năng hạn chế nên

trong thời gian này chỉ gửi tặng trường bạn những vật kỉ niệm như tranh treo, cờ thêu,

khăn thêu, đồ đeo hoặc sách vở hay thư từ của học sinh [87, tr.36-48].

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả nổi bật đã nêu trên, tài liệu này có nêu, vẫn

còn một vài thiếu sót trong công tác kết nghĩa giữa các trường đại học của ta với

trường bạn. Đó là hai nước “chưa có kế hoạch, biện pháp duy trì tốt và tăng cường

quan hệ thường xuyên với trường bạn; một số trường chỉ hăng hái lúc đầu hay khi có

dịp nhắc nhở đến, còn thường xuyên thì lơ là; việc trao đổi với trường bạn bị hạn chế

vì một số trường của ta không biết tiếng bạn; nội dung kết nghĩa còn nghèo nàn, Bộ

Giáo dục không có hướng dẫn cụ thể; phần lợi dụng việc kết nghĩa đối với một số nơi

đã có xảy ra, vì trường không giáo dục học sinh, nên một số học sinh tự động viết thư

sang trường bạn xin máy ảnh, radio” [87, tr.5-9].

Tính đến năm 1964, có 18 trường đại học của ta đã kết nghĩa với các trường

đại học của các nước, trong đó nhiều nhất là các trường Việt Nam với Liên Xô và

điển hình là quan hệ kết nghĩa giữa Trường Đại học Bách khoa với Trường Đại học

Bách khoa Khắc Cốp và Trường Đại học Bách khoa Hàm thụ toàn Liên bang.

Như vậy, tất cả nội dung thông tin tài liệu lưu trữ tại TTLTQGIII về quan hệ

hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô thời kì 1955-1964 đã cho chúng ta thấy rõ quan

hệ hợp tác hai chiều Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo, tình cảm hữu nghị

và sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô đối với sự nghiệp đào tạo cán bộ đại học và trên đại

học, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành đại học Việt Nam cũng như sự giúp

đỡ từ phía Việt Nam trong việc đào tạo một số ngành khoa học xã hội ở trình độ đại

học và NCS cho LHS Liên Xô. Số lượng hồ sơ và thành phần nội dung tài liệu giai

đoạn này khá phong phú, theo chúng tôi, đã phản ánh tương đối đầy đủ và hoàn chỉnh

nội dung quan hệ hợp tác đào tạo giữa hai nước trong 10 năm xây dựng CNXH ở

miền Bắc và đấu tranh, thống nhất đất nước, đồng thời cho thấy sự phát triển 50

của ngành giáo dục đại học nước ta so với giai đoạn trước.

2.1.3. Thời kì cả nước kháng chiến chống Mỹ từ năm 1965 đến năm 1975

a. Đặc điểm tình hình

Năm 1965, hoạt động bắn phá miền Bắc của đế quốc Mỹ ngày càng ác liệt và

mở rộng, nhằm ngăn chặn sự chi viện co lớn của miền Bắc đối với cuộc kháng chiến

chống Mỹ của đồng bào miền Nam, phá hoại công cuộc xây dựng CHXN ở miền

Bắc. Thời kì này, hai miền Bắc – Nam đều phải thực hiện nhiệm vụ cách mạng trọng

tâm là kháng chiến chống Mỹ cứu nước, điều kiện đào tạo trong nước khó khăn. Vì

vậy, Đảng ta đã chỉ đạo phải đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở

miền Bắc và ra sức tăng cường lực lượng miền Bắc về mọi mặt nhằm đảm bảo chi

viện đắc lực cho miền Nam đánh Mỹ. Để chuẩn bị nguồn nhân lực có chất lượng

phục vụ công cuộc xây dựng, cải tạo XHCN trong giai đoạn này, Chính phủ đã ra Chỉ

thị số 88TTg/VG ngày 05/8/1965 về việc chuyển hướng công tác giáo dục. Đó là

“phải gấp rút đào tạo cho trước mắt và tương lai một đội ngũ cán bộ KHKT, có bộ

quản lý đông đảo vững mạnh và tương đối hoàn chỉnh về ngành nghề, về trình độ, có

đức, có tài…song song với việc đào tạo cán bộ trong nước, cần đẩy mạnh việc gửi

sinh viên đi học ở nước ngoài”.

Chặng đường 1965 - 1975 đã chứng kiến sự thay đổi về chất trong quan hệ hai

nước và sự giúp đỡ của Liên Xô là vô cùng to lớn. Liên Xô luôn là chỗ dựa vững

chắc của Việt Nam trong công cuộc kháng chiến kiến quốc đầy khó khăn, thử thách

và quan hệ hợp tác giữa hai nước được đẩy mạnh trên nhiều lĩnh vực. Trên tinh thần

hợp tác chặt chẽ, thấu hiểu và tôn trọng lẫn nhau, giai đoạn 1965 - 1975 là giai đoạn

hợp tác rất hiệu quả giữa 2 nước. Sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô trong giai đoạn này

là một trong những nhân tố dẫn đến thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong cuộc

kháng chiến chống Mỹ.

b. Tình hình thực hiện

Về thành phần tài liệu phản ánh quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô thuộc

giai đoạn 1965-1975 đang bảo quản tại TTLTQGIII, chúng tôi thống kê được 60/172

hồ sơ (ĐVBQ). Số lượng hồ sơ tài liệu nhiều nhất thuộc các phông Phủ Thủ tướng

51

(19 hồ sơ), UBKHNN (10 hồ sơ) và Bộ Đại học và THCN (10 hồ sơ). Nội dung quan

hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo giai đoạn này được thể hiện

qua tài liệu lưu trữ cụ thể như sau:

* Thiết lập cơ sở pháp lý

Thực tế tài liệu cho thấy, về cơ bản, cơ sở pháp lý cao nhất cho việc thực hiện

quan hệ hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô giai đoạn này vẫn là các hiệp định hợp

tác văn hóa và KHKT giữa hai nước được kí kết trong các năm 1957, 1959 và 1961

như giai đoạn 1955-1964 và chủ yếu là thực hiện Hiệp định kí năm 1957 (Kế hoạch

năm 1972 vẫn căn cứ Hiệp định năm 1957). Đến năm 1974, có thêm Hiệp định giữa

Chính phủ CHXHCN Việt Nam và Chính phủ Liên bang CHXHCN Xô viết về hợp

tác văn hóa, KHKT, kí tại Matxcova [16, tr.50-57], làm cơ sở cho việc thực hiện hợp

tác trong những năm sau đó.

Để thực hiện các hiệp định song phương kể trên, trong thời gian từ 1965-1975,

hai nước đã kí kết 06 kế hoạch hợp tác văn hóa, khoa học cụ thể hàng năm. So với

thời gian trước, nội dung hợp tác trong những năm này rất phong phú về trình độ đào

tạo và số lượng LHS Việt Nam đi Liên Xô hàng năm lớn hơn rất nhiều. Cụ thể, trong

bản Kế hoạch hợp tác năm 1969, Liên Xô nhận 1200 SV và 300 NCS [13, tr.3] và kế

hoạch năm 1970 nhận 850 SV, 150 NCS [133, tr.2] của Việt Nam để học tập và thực

tập tại các trường đại học của Liên Xô. Về LHS Liên Xô sang Việt Nam hàng năm,

cơ bản số lượng vẫn không tăng hơn so với thời gian trước đó (khoảng dưới 10 LHS

mỗi năm). Công tác trao đổi văn hóa và kết nghĩa giữa các trường đại học của hai

nước hàng năm sẽ được đẩy mạnh hơn rất nhiều. Một mặt, hai nước vẫn củng cố, duy

trì quan hệ hợp tác giữa các trường đã thiết lập từ trước; mặt khác, đẩy mạnh việc xúc

tiến xây dựng và giúp đỡ quan hệ trực tiếp giữa các trường đại học mới trong hệ

thống đại học và cao đẳng của hai Nhà nước, cụ thể là quan hệ của một số trường lớn

sau:

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Trường Đại học Thủy lợi và Cơ khí nông

nghiệp Ta-sơ-ken

Trường Đại học Kinh tế tài chính Hà Trường Đại học Kinh tế quốc dân Plê-kha-

Nội nốp

52

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Trường Đại học Sư phạm V.I.Lê nin

Trường Đại học Sư phạm Vinh Trường Đại học Sư phạm Ô-đét-xa

Trường Đại học Sư phạm Khu tự trị Tây Trường Đại học Sư phạm An-na An-ta

Bắc

Trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Trường Đại học Quốc gia Sư phạm Ngoại

Nội ngữ Matxcova

Ngoài ra, trong kế hoạch hợp tác hàng năm, hai nước cũng sẽ tiến hành tổ

chức các hội nghị, hội thảo quốc tế, viết sách chuyên khảo, các sách giáo khoa và các

tài liệu học tập và nghiên cứu ở trình độ đại học và trên đại học.

* Tình hình thực hiện quan hệ hợp tác

Nghiên cứu toàn bộ tài liệu phản ánh quan hệ hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên

Xô trong thời gian 1965-1975, chúng tôi thấy, hầu hết các văn bản chỉ đề cập đến số

lượng LHS hàng năm và nhiều năm (gồm số được cử đi và số đã tốt nghiệp về nước)

và ngành nghề đào tạo tại Liên Xô. Ngoài ra, trong một số tài liệu có đề cập tình hình

học tập, sinh hoạt và chất lượng học tập của LHS ta ở nước ngoài, trong đó có Liên

Xô và các yêu cầu, điều kiện của Liên Xô đối với LHS ta. Chúng tôi không tìm thấy

thông tin từ tài liệu nào phản ánh tình hình hợp tác, kết nghĩa giữa các trường đại học

của hai nước đã được thiết lập trong các bản kế hoạch hợp tác đã kí giữa hai Nhà

nước cũng như không có một tài liệu nào cho thấy sự giúp đỡ của Việt Nam trong

việc đào cán bộ cho Liên Xô tại các trường đại học của Việt Nam như giai đoạn

trước. Một số nội dung chính về kết quả hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô được

thể hiện trong khối tài liệu giai đoạn này như sau:

- Về số lượng đào tạo: Trong Báo cáo tình hình công tác đào tạo ở nước ngoài

từ năm 1951- 1973 của Bộ Đại học và THCN (tài liệu họp Thường vụ Hội đồng

Chính phủ ngày 17/3/1973), có nêu, “trong 8 năm vừa qua (1965-1973), kế hoạch

đào tạo cán bộ ở trong nước và ngoài nước đã có sự chuyển biến mạnh mẽ. Riêng về

đào tạo nước ngoài, trong 8 năm ta đã cử đi 19.092 đại học... LHS được cử đi nhiều

nhất ở Liên Xô” [72, tr.2]. Tổng hợp số liệu thống kê các năm cho thấy, đã có 10.455

LHS Việt Nam đi học tập, nghiên cứu tại Liên Xô và 3111 LHS đã tốt nghiệp về

nước trong 8 năm qua, chủ yếu là đào tạo bậc đại học [72, tr.20-21]. Số lượng LHS

53

Việt Nam đi Liên Xô hàng năm từ 1965-1973 thể hiện trong Báo cáo cụ thể như sau:

Năm 1965 1966 1967 1968 1969 1970 1971 1972 1973

Số lượng 104 851 1305 1468 914 655 831 785 612

Thời gian này, hầu hết các Bộ ngành đã có kế hoạch hàng năm về việc cử cán

bộ, học sinh đi học đại học và NCS ở các nước XHCN, chủ yếu là Liên Xô với số

lượng LHS có năm lên đến hàng nghìn người. Riêng năm 1968, số lượng LHS Việt

Nam được cử đi học ở Liên Xô tăng vượt bậc là vì, ngay sau tháng 01/1968, đế quốc

Mỹ tuyên bố chấm dứt không điều kiện việc ném bom và bắn phá trên toàn lãnh thổ

Việt Nam DCCH, ngành giáo dục và đào tạo cùng với các ngành kinh tế khác nhanh

chóng bắt tay vào khắc phục hậu quả chiến tranh, tiếp tục đưa sự nghiệp giáo dục đào

tạo lên tầm cao mới, trong đó có có việc đẩy mạnh đào tạo cán bộ ở nước ngoài [139,

tr.355].

Về đào tạo nghiên cứu sinh, chúng tôi không tìm thấy văn bản nào cho số liệu

chính xác về số lượng LHS đi đào tạo tại Liên Xô từ năm 1965-1975. Duy nhất, trong

Báo cáo của Bộ Đại học và THCN về việc tăng cường quản lý LHS tại Hội nghị quản lý học

sinh tháng 01/1972, có số liệu về đào tạo NCS trong 13 năm (1951-1972) là 3.093 người, còn

1670 người đang học ở nước ngoài, trong đó Liên Xô có 718 người và chiếm tỉ lệ cao nhất [137,

tr.3].

- Về ngành nghề đào tạo: Thời kì này, ngành học của LHS Việt Nam tại Liên

Xô rất đa dạng, phong phú. Ngay từ năm 1965 Liên Xô đã gửi ta Danh mục ngành

nghề đại học của Liên Xô năm 1965 (loại đào tạo 5 năm), trong đó, chúng tôi thống

kê được 335 mã ngành chuyên môn thuộc 24 ngành học chính trong hệ đào tạo đại

học của Liên Xô. Đó là các ngành địa chất, khoáng sản, năng lượng, luyện kim, chế

tạo máy và dụng cụ, kỹ thuật điện tử và tự động hóa, xây dựng, đo đạc, khí tượng

thủy văn, kinh tế, nông nghiệp... và các chuyên ngành nhỏ thuộc “chuyên nghiệp trong Trường Đại học Tổng hợp”2 của Liên Xô gồm tiếng Nga, chính trị kinh tế học,

triết học, tâm lý học, toán học, cơ học, thiên văn học, vật lý, hóa học, sinh vật học,

động vật học và thực vật học, nhân chủng học và địa lý [64, tr.78-84]. Đến năm học

1972-1973, số lượng ngành nghề đại học vẫn như cũ. Trong Báo cáo của Bộ Đại học

54

2 Trích theo Danh mục ngành nghề đại học của Liên Xô năm 1965

và THCN về tình hình khảo sát việc quản lý LHS thực tập và nghiên cứu ở Ba Lan,

Liên Xô năm 1973, Bộ Đại học và THCN đã so sánh và nhận xét về các Danh mục

ngành nghề đào tạo NCS tại Liên Xô như sau:

“Đối chiếu với danh mục cũ thì lần này có một số điểm khác. Trước hết là tên

gọi thì lần này nói cụ thể là đào tạo NCS cho các nước XHCN, chứ không gọi chung

là đào tạo cho người nước ngoài. Số lượng ngành đào tạo thì cho học 438 ngành và

chỉ hạn chế 78 ngành. Trước đó chỉ cho học 324 ngành và hạn chế 160 ngành. Trong

bản danh mục mới chỉ có một số ngành quan trọng trước bạn hạn chế nay đã nhận

đào tạo như: động lực học và sức bền của máy, quang học, phương pháp thăm dò địa

hóa, điện khí hóa các ngành sản xuất, luyện kim bột, vận tải công nghiệp, lái tàu

thủy, tổ chức kinh tế lao động, luật nhà nước và hành chính, pháp y, tâm lý lao

động… Như vậy so với trước thì Liên Xô đã bắt đầu mở rộng số lượng ngành nghề

đào tạo ở bậc đại học cho người nước ngoài nói chung và trên đại học cho các nước

XHCN. Nhưng mặt khác, bạn hạn chế tới mức tối đa phân phối LHS ta vào các tường

đại học lớn, có truyền thống đào tạo tốt như Đại học Tổng hợp Matxcova,, Đại học

Tổng hợp Lênin-grat, Đại học Năng lượng Matxcova, Đại học Hóa Men-đê-lê-ép,

Đại học Bách khoa Ki-ép… mà bố trí nhiều vào các trường xa như Tatstakeu, Bacu,

Kisi nhốp…” [14, tr.20-25].

Về tổ chức học tập, tài liệu về Một số ý kiến về tình hình LHS và nhiệm vụ quản

lý LHS của Bộ Đại học và THCN năm 1970 (tài liệu làm việc giữa Bộ trưởng Bộ Đại

học và THCN với đại sứ Việt Nam tại các nước) cho biết: “…LHS ta học ở rất nhiều

địa phương, nhiều trường; số lượng đơn vị cũng tăng nhanh, có nước tăng gấp 10

lần. Ở Liên Xô, LHS ta học ở 24 thành phố, 110 trường, viện và gần 40 đơn vị có từ

35 đến 250 học sinh” [101, tr.5].

- Về mục tiêu, yêu cầu đào tạo của Việt Nam và điều kiện của Liên Xô:

Qua nghiên cứu tài liệu về hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô giai đoạn này,

chúng tôi biết, từ những năm 1965-1966 trở đi, trước yêu cầu của cuộc cách mạng

KHKT và để đảm bảo có trình độ KHKT tiên tiến trên thế giới, đáp ứng yêu cầu của

công cuộc đổi mới, phát triển đất nước, yêu cầu về chất lượng và mục tiêu đào tạo

của hai nước thời gian này cao hơn những năm trước và Liên Xô có nhiều biện pháp

mạnh mẽ để nâng cao chất lượng đào tạo [57, tr.2]. Trong các báo cáo tổng kết, đánh

55

giá về tình hình quản lý LHS của Bộ Giáo dục, Bộ Đại học và THCN cũng như của

ĐSQ Việt Nam tại Liên Xô, chúng tôi thấy, nội dung các văn bản này đề cập nhiều

đến mục tiêu đào tạo của ta và yêu cầu, điều kiện của Bạn trong hợp tác đào tạo trình

độ đại học và trên đại học. Điển hình là Công văn số 123/LHS ngày 23/7/1973 của

ĐSQ Việt Nam tại Liên Xô về việc tăng cường và cải tiến quản lý NCS (báo cáo

chuyên đề), trong đó nói rất rõ về sự phù hợp giữa mục tiêu đào tạo NCS của ta với

yêu cầu đào tạo của Liên Xô, cụ thể:

“Về luận án, Bạn đòi hỏi “phục vụ phát triển khoa học kỹ thuật hiện đại, thực

tiễn xây dựng chủ nghĩa Cộng sản. Yêu cầu đấu tranh vì sự nghiệp phát triển và bảo

vệ sự trong sáng của học thuyết Mác – Lê nin, không khoan nhượng với tư tưởng tư

sản và xuất phát từ yêu cầu của nền kinh tế quốc dân và văn hóa của đất nước (Bạn).

Đề tài do hội đồng bác học của trường (viện) quy định, thông thường phải theo kế

hoạch nghiên cứu của trường (viện) và nội dung cơ bản của luận án phải được công

bố trước khi bảo vệ...

Đối với NCS ta:

- Yêu cầu bổ túc và nâng cao trình độ khoa học cơ bản, cơ sở là rất quan

trọng, có tính chất quyết định cho việc “làm ăn” khi về nước, thích ứng kịp thời với

yêu cầu nghiên cứu và công tác ở trong nước, thì lại không phải là một yêu cầu quan

trọng của Bạn đối với NCS nói chung...

- Về yêu cầu giảng dạy ở bậc đại học, Bạn yêu cầu cao đối với NCS, thì trên

thực tế Bạn miễn hẳn cho NCS ta: không phải học tâm lý, giáo dục, phương pháp

giảng dạy bộ môn theo chương trình, không làm công tác giảng dạy thực tế...

- Về yêu cầu nghiên cứu khoa học, tức là hoàn thành và bảo vệ luận án, nếu

không khéo léo vận dụng yêu cầu của Bạn và tích cực tranh thủ sự giúp đỡ của Bạn,

thì có điểm không hoàn toàn phù hợp với yêu cầu của ta, trong đó điểm rõ nhất là đề

tài theo kế hoạch nghiên cứu của trường (viện) Bạn, có thể, nhiều trường hợp không

phù hợp với yêu cầu kế hoạch ngành nghề, hướng nghiên cứu của ta. Hơn thế nữa,

trong việc hoàn thành và bảo vệ luận án, có một số khâu, một số điểm, Bạn châm

chước cho NCS ta. Ví dụ, việc công bố nội dung của luận án nối chung, Bạn không

bắt buộc NCS ta phải thực hiện như NCS Bạn, nhiều NCS ta không viết báo vẫn được

bảo vệ luận án.

56

- Về các yêu cầu khác như: tìm hiểu tình hình, xu hướng phát triển khoa

học, học tập kinh nghiệm tổ chức và hướng dẫn nghiên cứu khoa học, sưu tầm thu

thập tài liệu, thiết bị...Bạn không đòi hỏi cụ thể với NCS nói chung, nhưng đối với ta

rất cần thiết cho việc chuẩn bị công tác độc lập và phát huy nhanh tác dụng nhanh

chóng khi tốt nghiệp

Như vậy, nếu theo yêu cầu của Bạn đối với NCS ta thì NCS của ta chỉ còn làm

một việc chủ yếu (nếu không muốn nói là duy nhất) là hoàn thành và bảo vệ được

luận án. Thêm vào đó, luận án ấy phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế, KHKT của

Bạn, chưa chắc đã phù hợp với ta, vì Bạn châm chước việc viết và đăng báo khoa học

(một khâu rất quan trọng để xác minh ý nghĩa khoa học và thực tiễn của công trình

nghiên cứu), nên chất lượng luận án chưa được hoàn toàn đảm bảo, mặc dù được hội

đồng bác học, thông thường đánh giá “đạt yêu cầu của học vị phó tiến sĩ” (có khi sự

đánh giá mang tính chất “hữu nghị”” [25, tr.4-5].

Trên đây là toàn bộ nội dung quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh

vực đào tạo thời kì cả nước kháng chiến chống Mỹ cứu nước từ 1965-1975, được

phản ánh qua khối tài liệu lưu trữ đang bảo quản tại TTLTQGIII. Quan hệ hợp tác

đào tạo giữa hai Nhà nước Việt Nam và Liên Xô vẫn luôn được chú trọng và phát

triển hơn, đã đạt được những kết quả tốt đẹp và ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp đấu

tranh giành độc lập dân tộc và cải tạo, xây dựng CNXH ở miền Bắc Việt Nam. Bên

cạnh đó, khối tài liệu này đã phản ánh khá rõ nét tiến trình phát triển của ngành giáo

dục Việt Nam trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ.

2.1.4. Thời kì từ sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước năm 1976

đến khi kết thúc quan hệ ngoại giao Việt Nam – Liên Xô năm 1991

a. Đặc điểm tình hình

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975) là một bước

ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, hòa bình

được lập lại, đất nước độc lập, thống nhất về mặt lãnh thổ và về mặt Nhà nước, cả

nước đi lên CNXH. Để đạt được thắng lợi to lớn ấy, ngoài sự nỗ lực, hy sinh của toàn

thể dân tộc còn có sự giúp đỡ của các nước XHCN, trong đó, Liên Xô là quốc gia giữ

vai trò hết sức quan trọng. Kể từ đây, quan hệ Việt - Xô bước sang một trang mới, sự

hợp tác hữu nghị giữa hai nước tiếp diễn trong điều kiện hòa bình đã được lập lại ở

57

Việt Nam. Một trong những sự kiện đặc biệt, có ý nghĩa trong quan hệ ngoại giao

Việt - Xô là Chính phủ hai nước đã kí Hiệp ước hữu nghị và hợp tác vào ngày

03/11/1978 tại Matxcova. Bản Hiệp ước gồm 9 điều khoản, có giá trị trong 25 năm

[113, tr.580-583]. Thông qua bản Hiệp ước, hai bên khẳng định sẽ tăng cường hợp

tác trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, KHKT…Việc kí kết Hiệp ước

hữu nghị và hợp tác Việt - Xô chính là “bước ngoặt lịch sử và một sự phát triển

mang ý nghĩa chiến lược trong chính sách đối ngoại của Việt Nam thời kì hiện đại,

tác động to lớn đến nhiều mối quan hệ quốc tế trọng yếu và truyền thống của Việt

Nam” [135, tr.297]. Ngay sau đó, Liên Xô đã đẩy mạnh hợp tác và giúp đỡ Việt Nam

trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa, khoa học, kỹ thuật, trong

đó có nội dung hợp tác giáo dục đào tạo.

b. Tình hình thực hiện

Về nội dung hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô giai đoạn này, chúng tôi

thống kê được 52 hồ sơ trong tổng số 172 hồ sơ (ĐVBQ) về quan hệ hợp tác đào tạo

giữa hai nước, tập trung nhiều trong các phông Phủ Thủ tướng (28 hồ sơ), phông

UBKhHNN (09 hồ sơ) và phông Bộ Đại học và THCN (07 hồ sơ). Thành phần chủ

yếu của khối tài liệu giai đoạn này là hồ sơ về việc đàm phán, kí kết các văn kiện hợp

tác giữa hai nước; tài liệu xây dựng phương hướng, kế hoạch hợp tác đào tạo KHKT

của UBKHNN, UBKhHNN và Bộ Đại học và THCN; tài liệu về việc phê duyệt kế

hoạch đào tạo tại Liên Xô của Phủ Thủ tướng và một số ít công văn, báo cáo tình

hình và kết quả thực hiện kế hoạch hợp tác đào tạo dài hạn với Liên Xô đến năm

1983 của Bộ Đại học và THCN.

* Thiết lập cơ sở pháp lý

Nghiên cứu tài liệu về hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô qua các giai đoạn

trong hơn 40 năm quan hệ, chúng tôi thấy, giai đoạn này có sự khác biệt về việc thiết

lập các cơ sở pháp lý về hợp tác đào tạo so với các giai đoạn trước. Các văn kiện hợp

tác song phương thường thiết lập cơ sở thực hiện quan hệ đào tạo Việt Nam – Liên

Xô trong nhiều năm và có tính kế hoạch hóa, chiến lược lâu dài.

Về hiệp định song phương, chúng tôi thống kê trong khối tài liệu lưu trữ tại

TTLTQGIII có 02 hiệp định hợp tác ở cấp Nhà nước thuộc phông Phủ Thủ tướng. Đó

là Hiệp định hợp tác văn hóa và KHKT giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và

58

Chính phủ Liên bang CHXHCN Xô viết trong năm 1978 -1980, kí tại Matxcova năm

1978 và Hiệp định về giá trị tương đương của các văn bằng đào tạo và các học vị,

chức vụ khoa học được cấp hoặc công nhận ở nước CHXHCN Việt Nam và Liên

bang CHXHCN Xô viết, kí tại Matxcova năm 1978. Bên cạnh đó, trong thành phần

tài liệu phông lưu trữ Bộ Đại học và THCN, có thêm Hiệp định về việc thiết lập quan

hệ hợp tác trực tiếp giữa Nhạc viện TP.HCM và Nhạc viện Quốc gia Novosibirisk

mang tên Glinka, kí tại TP. Hồ Chí Minh ngày 01/12/1990. Nội dung của văn kiện

này như sau:

“Nhạc viện thành phố Hồ Chí Minh và Nhạc viện quốc gia Novosibirisk mong

muốn thiết lập quan hệ văn hóa, hữu nghị, coi sự phát triển của các mối quan hệ xích

lại gần nhau giữa các nhạc sĩ Liên Xô và Việt Nam phù hợp với những mục đích tốt

đẹp là giáo dục các nhạc sĩ chuyên nghiệp bậc cao, tinh thần quốc tế, truyền thống

hữu nghị giữa nhân dân chúng ta. Coi hoạt động sáng tạo chung, như cải tiến quá

trình đào tạo, khuyến khích công tác sư phạm, nâng cao nghiệp vụ là quan trọng.

Hai bên đi đến những thỏa thuận như sau:

I. – Nhạc viện TP.Hồ Chí Minh và Nhạc viện Novosibirisk hàng năm trao đổi

các giảng viên bằng những hình thức sau:

1)- Thực tập.

2)- Biểu diễn.

3)- Giảng bài và báo cáo.

4)- Giảng bài mở rộng.

5)- Nghiên cứu phương pháp giảng dạy, quá trình giảng dạy.

6)- Trao đổi kinh nghiệm hoạt động Đảng và Công đoàn.

II.- Cả hai trường, tùy khả năng sẽ tổ chức trao đổi sinh viên trên cơ sở không

ngoại tệ với những mục đích:

1)- Trình diễn chuyên môn.

2)- Tham gia hội thảo sinh viên.

3)- Trao đổi kinh nghiệm hoạt động của đoàn thể thanh niên.

III.- Hai trường sẽ chú ý tới việc trao đổi các thông tin khoa học trong lĩnh

vực lý luận âm nhạc và sư phạm, trao đổi nốt nhạc, nhạc cụ, băng ghi âm, có trách 59

nhiệm tổ chức hòa nhạc tuyên truyền âm nhạc của Việt Nam tại Novosibirisk và âm

nhạc của các nhạc sĩ Sô Viết, Sibery tại TP.Hồ Chí Minh.

IV.- Ban Giám đốc Nhạc viện Novosibirisk đặt vấn đề với Khu Ủy

Novosibirisk và bộ phận quỹ văn hóa Novosibirisk xin học bổng cho các học sinh tài

năng của Nhạc viện TP.Hồ Chí Minh theo học tại trường trung học trực thuộc Nhạc

viện Novosibirisk.

V.- Hiệp định này có tính chất chung. Cụ thể hóa nó được phản ánh trong các

vấn đề bổ xung, phù hợp với sự hợp tác giữa hai trường trong từng năm.

VI.- Hiệp định có giá trị trong 5 năm từ 1991-1995. Nó là cơ sở cho sự phát

triển quan hệ hợp tác dài lâu giữa hai Nhạc viện đến năm 2000” [110, tr.1-2].

Về mghị định thư, trong giai đoạn này, cơ quan quản lý đại học và THCN của

hai nước đã kí kết Nghị định thư về hợp tác giữa Bộ Đại học và THCN nước

CHXHCN Việt Nam và Bộ Đại học và THCN Liên bang CHXHCN Xô viết trong

những năm 1986-1990, tại Matxcova ngày 29/5/1987. Nội dung Nghị định thư liên

quan trực tiếp đến hợp tác đào tạo trình độ từ cử nhân trở lên giữa Bộ Đại học và

THCN hai nước như sau:

“Hai bên thỏa thuận tiếp tục trao đổi sinh viên, NCS và cán bộ giảng dạy để

học tập, nâng cao trình độ chuyên môn và giảng dạy ở các trường đại học.

1/ Hằng năm phía Liên Xô sẽ nhận và phía Việt Nam sẽ gửi:

- Đến 450 sinh viên học toàn khóa tại các trường đại học của Liên Xô...

- Đến 200 NCS, trong đó đến 30 người thuộc khoa học xã hội và đến 30 công

dân Việt Nam chuyển tiếp làm NCS sau khi tốt nghiệp đại học của Liên Xô...

- Đến 200 thực tập sinh sau đại học cho những người đã tốt nghiệp tại Liên Xô

thời gian không quá 1 năm...

2/ Hàng năm phía Liên Xô sẽ gửi và phía Việt Nam sẽ nhận:

- Đến 20 sinh viên, NCS và cán bộ khoa học sư phạm thực tập tiếng Việt thời

gian 10 tháng”[97, tr.1-3]

Về kế hoạch hợp tác song phương, nội dung chủ yếu của tài liệu về hợp tác

60

Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo giai đoạn 1976-1991 đang bảo quản tại

TTLTQGIII chủ yếu là các bản kế hoạch hợp tác giữa hai nước; các tài liệu về việc

xây dựng kế hoạch hợp tác giáo dục đào tạo với Liên Xô trong 3 năm và 5 năm của

Bộ Đại học và THCN. Công văn số 2321/QLHS ngày 29/10/1977 của Bộ Đại học và

THCN về kế hoạch gửi LHS 3 năm 1978-1980 và đàm phán, cho biết, những năm

trước đó, “ta chỉ đàm phán với các nước XHCN anh em để gửi LHS theo kế hoạch

hàng năm. Từ khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, nói chung các nước

anh em đều có ý kiến chính thức với ĐSQ ta đề nghị đàm phán theo kế hoạch dài hạn

3-5 năm (có nơi như Liên Xô, Bạn đề nghị cử đàm phán theo kế hoạch dài hạn, nên

hàng năm ta cần điều chỉnh, Bạn vẫn sẵn sàng chấp nhận).

Về phía ta, việc đàm phán theo kế hoạch dài hạn là một bước quan trọng để

đảm bảo tính kế hoạch hóa trong đào tạo, mặt khác, tạo thuận lợi cho cho việc tuyển

chọn, sắp xếp ngành chuyên sâu và đồng bộ, tranh thủ Bạn nhận đào tạo ở những

ngành tốt, trường tốt, đưa công tác quản lý học sinh ngoài nước vào nền nếp và

chuẩn bị đội ngũ cán bộ quản lý” [60, tr.1].

Trên tinh thần đó, Bộ Đại học và THCN đã xây dựng và trình UBKHNN, Phủ

Thủ tướng phê duyệt nội dung 02 bản kế hoạch dài hạn hợp tác đào tạo với Liên Xô

từ năm 1977-1985, gồm Kế hoạch gửi LHS đi Liên Xô 3 năm 1977-1980 [60, tr.12];

Kế hoạch hợp tác dài hạn với Liên Xô trong 5 năm 1981-1985 [21, tr1-25]. Trong

Công văn của bộ Đại học và THCN về việc gửi LHS đi nước ngoài năm 1978-1980,

Bộ đã nhấn mạnh yêu cầu gửi đi đào tạo ở nước ngoài (trong đó có Liên Xô) là

“nhằm tranh thủ chất lượng, tranh thủ khoa học kỹ thuật tiên tiến, hiện đại của thế

giới về cho đất nước ta...Theo yêu cầu đào tạo nói trên, cần từng bước giảm số lượng

học sinh đại học, tăng số lượng NCS và TTS” [60, tr.3]. Đến kế hoạch hợp tác với

Liên Xô 5 năm 1981-1985, yêu cầu chủ yếu của ta là “tranh thủ Liên Xô giúp đào tạo

và bồi dưỡng cán bộ nhằm tăng cường chất lượng, bổ khuyết số lượng, góp phần tích

cực hoàn chỉnh nhanh một bước cơ cấu đội ngũ cãn bộ chuyên môn của nước ta”

[21, tr.1]. Sau đó là bản chính thức Kế hoạch hợp tác văn hóa và khoa học giữa

CHXHCN Việt Nam và Liên bang CHXHCN Xô viết trong những năm 1986-1990,

kí tại Hà Nội ngày 28/10/1986, là hồ sơ số 1828 thuộc phông UBKHNN. Kế hoạch

này được thiết lập “xuất phát từ Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác giữa CHXHCN Việt

Nam và Liên bang CHXHCN Xô viết kí năm 1978 và phù hợp với Hiệp định hợp tác

61

văn hóa và KHKT kí ngày 19/4/1978 giữa Chính phủ CHXHCN Việt Nam và Chính

phủ Liên bang CHXHCN Xô viết, đồng thời dựa trên những kinh nghiệm tích lũy

được trong việc phát triển quan hệ văn hóa và khoa học giữa hai nước trên cơ sở dài

hạn và có kế hoạch nhằm tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả của các mối quan

hệ đó” [45, tr.1]. Nội dung bản Kế hoạch gồm 84 Điều, trong đó từ Điều 1-10 là kế

hoạch hợp tác giáo dục đại học và THCN, trực tiếp là hợp tác giữa Bộ Đại học và

THCN Việt Nam với Bộ Đại học và THCN Liên Xô. Một số nội dung cụ thể về hợp

tác đào tạo đại học và NCS được thống nhất là: hàng năm Liên Xô nhận 450 sinh viên

Việt Nam sang học toàn khóa tại các trường đại học của Liên Xô, 160 NCS sang học

toàn khóa tại Liên Xô, trong đó đến 30 người là chuyển tiếp sinh từ các trường đại

học của Liên Xô và đến 30 người nghiên cứu khoa học xã hội, phía Việt Nam nhận

đến 10 sinh viên, NCS và cán bộ khoa học sang học và thực tập tiếng Việt; hai nước

sẽ thúc đẩy việc hợp tác trực tiếp trong việc tiến hành công tác nghiên cứu khoa học,

tổ chức các hội nghị, hội thảo, biên soạn các sách chuyên khảo, sách giáo khoa và các

giáo trình giảng dạy khác. Trong bản Kế hoạch này, danh sách các trường đại học của

hai nước sẽ được thúc đẩy quan hệ hợp tác trong kế hoạch 5 năm từ 1981-1985 gồm

21 trường, viện nghiên cứu thuộc Bộ Đại học và THCN và Bộ Giáo dục hai nước.

Ngoài ra, trong phông Phủ Thủ tướng có hồ sơ 9756 là “Hồ sơ về việc thực

hiện quan hệ hợp tác giữa Trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội và Viện Tiếng Nga

Puskin từ năm 1975-1980”, trong đó, tờ số 51-58 là hai bản Kế hoạch hợp tác giữa

Trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội và Trường Cao đẳng bổ túc Ngoại ngữ Hà Nội

với Viện Tiếng Nga mang tên Puskin trong lĩnh vực dạy tiếng Nga cho người Việt

Nam trong các năm 1978-1980. Trong phông Bộ Đại học và THCN có hồ sơ 93 với

tiêu đề “Hồ sơ về quan hệ hợp tác giữa Trường Đại học Bách khoa Khắc Cốp – Liên

Xô với Trường Đại học Bách khoa Hà Nội năm 1976-1980”, trong đó có Kế hoạch

công tác về hợp tác KHKT và văn hóa giữa Trường Đại học Bách khoa Khắc cốp

mang tên Lê – nin và Trường Đại học Bách khoa Hà Nội trong thời gian 1976-1980

[100, tr.9-13].

* Kết quả thực hiện

Tài liệu về hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô giai đoạn 1976-1991 có số

lượng ít nhất trong tổng số 172 hồ sơ, tài liệu về quan hệ hợp tác đào tạo Việt Nam –

Liên Xô (1950-1991). Như chúng tôi đã giới thiệu ở trên, chủ yếu tài liệu giai đoạn

này phản ánh việc xây dựng, thiết lập các kế hoạch hợp tác đào tạo song phương 62

Việt Nam – Liên Xô trong nhiều năm liên tục. Kết quả thực hiện quan hệ hợp tác thời

kì này được phản ánh trong 03 văn bản là Công văn số 283/KH (gọi tắt là Công văn

283) ngày 23/02/1980 của Bộ Đại học và THCN về kế hoạch hợp tác với Liên Xô

trong 5 năm 1981-1985 là hồ sơ 12084 thuộc phông Phủ Thủ tướng; Công văn số

265CV-KGTW ngày 14/11/1983 của Ban Khoa giáo Trung ương về việc báo cáo tình

hình LHS và công tác LHS của ta ở các nước XHCN trong hồ sơ 21890, thuộc phông

UBKHNN và Bảng thống kê số LHS Việt Nam được cử đi học ở các nước thuộc khối

SEV (Hội đồng Tương trợ kinh tế) từ năm 1951-1982 là hồ sơ 2647 thuộc phông

UBKhHNN. Chúng tôi không tìm thấy hồ sơ tài liệu nào phản ánh nội dung hợp tác

đào tạo giữa hai nước từ sau năm 1983 đến năm 1991, khi hai nước kết thúc quan hệ

hợp tác ngoại giao. Nội dung kết quả hợp tác đào tạo được thể hiện trong 02 văn bản

nêu trên như sau:

- Về số lượng đào tạo: Trong giai đoạn từ 1976-1982, số lượng LHS Việt Nam

học tại nước ngoài nói chung là“...đã giảm bớt số lượng so với giai đoạn trước.

Trong 8 năm ta chỉ gửi đi đào tạo 9.229 LHS. Về cơ cấu, đã giảm số lượng học sinh

đại học, căn bản giữ ổn định số lượng NCS và tăng thêm số lượng TTS với nhiều hình

thức khác nhau” [60, tr.3]. Trong số này, LHS Việt Nam tại Liên Xô luôn chiếm tỉ lệ

nhiều nhất từ 50-70% tổng số LHS ta gửi hàng năm ra nước ngoài học tập và thực

tập. Số lượng cụ thể đã gửi đi Liên Xô thuộc kế hoạch hợp tác 5 năm 1976-1980 giữa

hai nước được phản ánh trong Công văn 283 của Bộ Đại học và THCN, như sau:

Tổng số 1976 1977 1978 1979 1980

Đào tạo đại học 2798 409 631 648 510 600

Đào tạo nghiên cứu sinh 593 105 111 147 145 85

Thực tập sinh cao cấp 48 05 09 13 20 01

Từ hồ sơ 2647 “Thống kê số LHS Việt Nam được cử đi đào tạo ở các nước thuộc khối SEV năm 1951-1982” trong phông UBKhHNN, chúng tôi lập biểu so sánh

số LHS Việt Nam đi học ở Liên Xô từ năm 1975-1982 với một số nước XHCN sau

đây:

63

Bậc đào tạo Nước Tổng số NCS Đại học

Liên Xô 7941 1132 577

Tiệp Khắc 1285 358 876

CHDC Đức 1374 419 791

Ba Lan 517 176 306

Số liệu trên cho thấy, như các thời kì trước, Liên Xô vẫn là nước tiếp nhận

nhiều nhất số LHS Việt Nam sang học tập, nghiên cứu và tỉ lệ đào tạo NCS cho Việt

Nam vẫn chiếm ưu thế tuyệt đối. Tuy nhiên, thời gian này đã có sự khác biệt giữa tỉ lệ

đào tạo NCS và đào tạo đại học tại Liên Xô so với các giai đoạn trước. Nếu như trước

đây, số lượng LHS Việt Nam cử đi học tại Liên Xô chủ yếu là trình độ đại học, thì

thời gian này, tỉ lệ LHS đại học tại Liên Xô đã giảm bớt so với đào tạo NCS và tập

trung nhiều ở Tiệp Khắc và CHDC Đức.

- Về ngành nghề đào tạo: Tài liệu này cũng cho biết, từ năm 1979, ta bắt đầu

gửi trở lại một số ngành khoa học xã hội. Trong 5 năm 1976-1980, ta đã bước đầu

xác định một số hướng ngành đào tạo cán bộ đại học cần tập trung gửi ở Liên Xô như

các ngành về pháp luật, về kinh tế, về điều tra cơ bản, về kỹ thuật, xây dựng, cơ

khí...[60, tr.3]

- Về chất lượng đào tạo: Công văn số 265CV-KGTW ngày 14/11/1982 của

Ban Khoa giáo Trung ương về việc báo cáo tình hình LHS và công tác LHS của ta ở

các nước XHCN anh em, đã đánh giá về tình hình học tập của LHS ở nước ngoài,

trong đó cụ thể ở Liên Xô như sau:

“Trong học sinh đại học, số khá, giỏi và xuất sắc hàng năm chiếm tỉ lệ khá

cao, thường trên 70-80%, trong năm học 1981-1982 ở Liên Xô có 80.54%...Số học

sinh tốt nghiệp bằng đỏ ngày càng tăng (ở Liên Xô: 1979 có 25%; 1980 có 25%;

1981 có 39%; 1982 có 44%; 1983 có 45%)... Số tốt nghiệp đại học được Bạn đề nghị

cho chuyển tiếp NCS tương đối nhiều (ở Liên Xô sau năm học 1982-1983 có

100/600)...” [60, tr.6].

“Tổng kết chung về kết quả thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976-1980),

Liên Xô đã nhận đào tạo và bồi dưỡng cho ngành đại học và THCN nước ta gần

5000 người với phần lớn những ngành học ta gửi đào tạo ngoài nước. Chất lượng

64

học tập và nghiên cứu của LHS ta trong những năm qua ngày một nâng lên, vì chất

lượng tuyển chọn hàng năm của ta tăng lên, số lượng gửi hàng năm tương đối ổn

định hơn, nên việc tổ chức đào tạo của Bạn đối với LHS tương đối thuận lợi hơn

trước. Tuy nhiên về ngành học, về hình thức đào tạo ở Liên Xô trong những năm qua,

ta chưa xác định rõ mục đích nhằm giải quyết những yêu cầu cụ thể trong việc hình

thành cơ cấu đội ngu cán bộ KHKT và nghiệp vụ trong nước. Đặc biệt ta chưa đạt

yêu cầu là làm chuyển biến nhanh ngành đại học và THCN của ta bằng việc tranh

thủ sự giúp đỡ của Liên Xô”[21, tr.6].

2.2. Giá trị của khối tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong

lĩnh vực đào tạo (1950-1991)

2.2.1. Là cơ sở để nghiên cứu lịch sử hợp tác ngoại giao Việt Nam – Liên

Xô, góp phần củng cố tình hữu nghị và phát triển quan hệ hợp tác Việt Nam –

Liên bang Nga ngày nay

Theo chúng tôi, đây là giá trị nghiên cứu cơ bản và nổi bật nhất của khối tài

liệu về hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo đang được bảo quản tại

TTLTQGIII. Khối tài liệu này có thể không khái quát được toàn bộ các nội dung của

quan hệ hợp tác đào tạo giữa hai nước nhưng cơ bản đã phản ánh được tương đối rõ

nét về quá trình hình thành và phát triển quan hệ hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực

giáo dục đào tạo, thể hiện sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô trong việc đào tạo đội ngũ trí

thức cho Việt Nam gần nửa thế kỉ, đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của cách

mạng Việt Nam và tạo nên mối quan hệ đặc biệt thân cận giữa hai nước. Sự hợp tác

và giúp đỡ của Liên Xô đối với Việt Nam về đào tạo là một trong những nội dung

hợp tác chủ yếu trong quan hệ đối ngoại Việt Nam – Liên Xô, bên cạnh các nội dung

hợp tác về chính trị - ngoại giao, quân sự và kinh tế. Do vậy, khối tài liệu này thực sự

là một trong những nguồn tư liệu lịch sử cần thiết đối với các nhà nghiên cứu lịch sử

ngoại giao Việt Nam với Liên Xô.

Như chúng tôi đã trình bày, nội dung hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô

trong từng giai đoạn nhỏ của chặng đường hơn 40 năm quan hệ ngoại giao giữa hai

nước đã phần nào thể hiện sự phát triển trong quan hệ đối ngoại giữa hai Nhà nước ở

từng giai đoạn lịch sử. Theo đó, từ năm 1950-1954 là thời kì hai nước thiết lập quan

hệ ngoại giao và sự hợp tác chủ yếu là sự giúp đỡ của Liên Xô dành cho Việt Nam

65

trên các mặt chính trị - ngoại giao, quân sự và văn hóa. Trong sự giúp đỡ về văn hóa,

khối tài liệu này cho thấy Liên Xô chính là nước tiếp nhận công dân Việt Nam đầu

tiên được Nhà nước cử đi đào tạo ở nước ngoài từ năm 1951 và kết quả hợp tác đào

tạo trong thời gian này chưa nổi bật do ta mới chỉ gửi số lượng ít học sinh đi học.

Qua nội dung hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô trong giai đoạn nhân dân

Việt Nam phải tiến hành cuộc kháng chiến gian chổ chống đế quốc Mỹ từ 1955-1975,

có thể khẳng định đây là giai đoạn quan hệ Việt Nam – Liên Xô phát triển lên một

tầm cao mới, có sự thay đổi về chất trong quan hệ hai nước và sự giúp đỡ của Liên

Xô là vô cùng to lớn. Với các văn kiện hợp tác song phương giữa hai Nhà nước trong

lĩnh vực văn hóa, KHKT và được cụ thể hóa trong những bản Kế hoạch hợp tác hàng

năm thời kì này, cho thấy, số lượng công dân Việt Nam được cử đi Liên Xô đào tạo

ngày một lớn, đặc biệt trong các năm từ 1966-1969 [60, tr.3], sau khi Bộ Chính trị ra

Nghị quyết số 142-CP/TW ngày 28/6/1966 về việc đẩy mạnh đào tạo cán bộ ở nước

ngoài, chủ yếu là các nước XHCN anh em. Trên cơ sở các tài liệu báo cáo tổng kết

công tác đào tạo LHS Việt Nam ở Liên Xô và các nước thuộc khối tài liệu hợp tác

đào tạo Liên Xô – Việt Nam tại TTLTQGIII hiện nay, người đọc và các nhà nghiên

cứu lịch sử thấy được sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô trong việc đào tạo đội ngũ cán

bộ KHKT và công nhân lành nghề phục vụ công cuộc xây dựng, cải tạo CNXH ở

miền Bắc Việt Nam thời kì này. Các tài liệu này cũng cho biết, từ năm 1965-1975 là

giai đoạn hợp tác rất hiệu quả giữa hai Nhà nước trên tinh thần hợp tác chặt chẽ, thấu

hiểu và tôn trọng lẫn nhau; giáo dục đào tạo vẫn là một trong những lĩnh vực hợp tác

trọng tâm và mang lại nhiều kết quả tốt đẹp. Sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô trên các

mặt trong giai đoạn này là một trong những nhân tố dẫn đến thắng lợi của nhân dân

Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Ngay trong diễn văn đọc tại cuộc chiêu

đãi của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Đoàn Chủ tịch Xô viết tối cao và Chính

phủ Liên Xô ngày 10/7/1973, Tổng Bí thư Lê Duẩn đã nhấn mạnh: “Sự ủng hộ mạnh

mẽ, sự giúp đỡ to lớn về nhiều mặt của Liên Xô cùng với muôn vàn việc làm đẹp đẽ

và cảm động của anh em xô-viết đã tiếp thêm sức mạnh cho nhân dân Việt Nam, động

viên mạnh mẽ tinh thần đồng bào và chiến sĩ cả nước chúng tôi tiến lên giành những

thắng lợi ngày càng to lớn cho đến thắng lợi huy hoàng ngày nay. Sự ủng hộ và giúp

đỡ đó là biểu hiện rực rỡ của tình đoàn kết chiến đấu giữa những đồng chí, những

người anh em cùng chung lý tưởng” [122, tr.37-38].

66

Một trong những nguồn tư liệu có giá trị để nghiên cứu lịch sử hợp tác ngoại

giao Việt Nam – Liên Xô giai đoạn từ sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước

đến khi kết thúc quan hệ Việt – Xô (1991) là các hồ sơ, tài liệu về hợp tác đào tạo

giữa hai nước hình thành trong giai đoạn này. Tuy thành phần tài liệu về nội dung

hợp tác đào tạo giữa hai nước giai đoạn 1976-1991 không nhiều so với các giai đoạn

trước đó, nhưng đã cơ bản thể hiện sự hợp tác giữa hai Nhà nước trong lĩnh vực

nghiên cứu khoa học và sự giúp đỡ của Liên Xô trong việc đào tạo cán bộ chuyên

môn, công nhân kỹ thuật cho Việt Nam trong một số kế hoạch dài hạn 5 năm. Giai

đoạn này, quan hệ giữa hai nước tiếp tục được củng cố và phát triển thêm một tầm

cao mới, đặc biệt từ sau khi hai nước kí Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác toàn diện vào

năm 1978, quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô phát triển mạnh mẽ trên tất cả các

lĩnh vực. Các tài liệu cho biết thêm, trong giai đoạn xây dựng và thực hiện các kế

hoạch hợp tác 5 năm từ 1976-1985, Liên Xô đã giúp đỡ Việt Nam rất nhiều trong

việc trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật cho ngành đại học và THCN và các nguồn ủng

hộ viện trợ to lớn khác, gấp nhiều lần so với các giai đoạn trước. Nhấn mạnh tình

đoàn kết chiến đấu và quan hệ hợp tác hữu nghị giữa nước ta với Liên Xô kể từ khi

hai nước kí kết Hiệp ước hữu nghị và hợp tác, Tổng bí thư Lê Duẩn đã khẳng định

Liên Xô “là bạn đồng minh hùng hậu và vững chắc nhất của Việt Nam... Đoàn kết và

hợp tác toàn diện với Liên Xô luôn là hòn đá tảng của chính sách đối ngoại của Đảng

và Nhà nước ta” [122, tr.124-125].

Tóm lại, khối tài liệu về hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo

(1950-1991) đang bảo quản tại TTLTQGIII hiện nay, thực sự là nguồn tư liệu lịch sử

cần thiết và có ý nghĩa quan trọng đối với việc nghiên cứu lịch sử hợp tác ngoại giao

Việt Nam – Liên Xô trong hơn 40 năm quan hệ. Nổi bật hơn cả, khối tài liệu này đã

phản ánh sự hợp tác và giúp đỡ to lớn của Liên Xô đối với Việt Nam trên phương

diện văn hóa giáo dục, là một trong những nhân tố quan trọng góp phần vào thắng lợi

của cách mạng Việt Nam. Trong từng ấy năm gắn bó, hàng chục ngàn sinh viên, thực

tập sinh, nghiên cứu sinh đã được tiếp nhận nền học vấn bài bản từ mái trường Xô

Viết, đã trở thành lực lượng nòng cốt trong công cuộc đổi mới của Việt Nam. Lực

lượng trí thức đó đã có những đóng góp đáng kể trong sự phát triển của nền KHKT

Việt Nam và là cầu nối vững chắc cho tình hữu nghị giữa 2 dân tộc.

Quan hệ ngoại giao Việt Nam – Liên bang Nga ngày nay là sự kế thừa và tiếp

67

nối của quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô. Nhìn lại chặng đường 65 năm quan hệ

hợp tác, cùng nhau xây đắp tượng đài hữu nghị Việt – Nga bằng tình cảm, công sức

và sự hi sinh hết mình của nhiều thế hệ nhân dân hai nước, Việt Nam sẽ luôn trân

trọng và ghi nhớ sự ủng hộ và giúp đỡ to lớn của người anh em Nga trong việc đào

tạo đội ngũ cán bộ KHKT phục vụ sự nghiệp bảo vệ, khôi phục và phát triển đất

nước. Giờ đây, cũng chính với những tình cảm chân thành và gắn bó đó, cùng với

những thành quả và kinh nghiệm hợp tác quý báu, hai nước Việt Nam và Liên bang

Nga ngày nay tiếp tục nỗ lực đưa quan hệ Việt - Nga lên tầm cao mới vì sự phát triển

và phồn vinh của hai dân tộc.

2.2.2. Góp phần nghiên cứu lịch sử ngành giáo dục và đào tạo Việt Nam,

trọng tâm là giáo dục đại học

Tìm hiểu và nghiên cứu nội dung quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong

lĩnh vực đào tạo tại TTLTQGIII hiện nay, không chỉ cho người đọc thấy được giá trị

của tài liệu đối với việc nghiên cứu lịch sử hợp tác giữa hai nước, bản thân chúng đã

phản ánh lịch sử phát triển của nền giáo dục Việt Nam hiện đại, chủ yếu là quá trình

phát triển của ngành đại học. Như đã trình bày, căn cứ để chúng tôi phân chia quan hệ

hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô thành các giai đoạn cụ thể là dựa theo các giai

đoạn phát triển của ngành giáo dục đào tạo Việt Nam được thể hiện trong nhiều tài

liệu lưu trữ tại Trung tâm và một số tư liệu khác nghiên cứu lịch sử ngành.

Với khối tài liệu này, độc giả sẽ thấy rất rõ diễn biến và sự phát triển của

ngành đại học Việt Nam được thể hiện qua những văn bản tổng kết, đánh giá tình

hình hợp tác đào tạo nước ngoài, qua các số liệu tổng hợp, so sánh về tình hình LHS

Việt Nam tại Liên Xô và các nước chủ yếu trong các phông Phủ Thủ tướng, Bộ Giáo

dục, Bộ Đại học và THCN và UBKhHNN. Cụ thể về sự phát triển ngành giáo dục

đào tạo Việt Nam và giáo dục đại học chúng tôi rút ra từ việc nghiên cứu khối tài liệu

này như sau:

+ Thời kì từ 1950-1954

Về mặt tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo, thông qua các

yếu tố thể thức văn bản thời kì này và đối chiếu lịch sử hoạt động của các đơn vị hình

thành tài liệu, Bộ Giáo dục (trước có tên gọi là Bộ Quốc gia Giáo dục) được giao

trách nhiệm quản lý, chỉ đạo toàn diện ngành giáo dục Việt Nam, trong đó có các

68

trường đại học. Các yếu tố tác giả chữ kí của người có thẩm quyền và con dấu của

văn bản do cơ quan Bộ Giáo dục ban hành cho chúng tôi biết được, thời kì này, Bộ

Giáo dục có Vụ Giáo dục chuyên nghiệp do ông Lê Văn Giạng làm Giám đốc, là cơ

quan giúp Bộ phụ trách công tác gửi LHS ra nước ngoài.

Qua nội dung hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô thời kì này, chúng ta đã xác

định được dấu mốc 1951 là năm đầu tiên ngành giáo dục gửi học sinh đi học tập ở

nước ngoài (Liên Xô). Do mới bắt đầu gửi LHS đi nước ngoài nên số lượng gửi đi

còn ít, trong 4 năm mới chỉ có 574 LHS đại học [87, tr.3] và chủ yếu đi Liên Xô [57,

tr.20-21].

+ Thời kì từ 1955-1964

Thành phần tài liệu lưu trữ tại TTLTQGIII về quan hệ hợp tác đào tạo Việt

Nam – Liên Xô đã phản ánh nội dung hợp tác đào tạo giữa hai nước thời kì này khá

phong phú, cơ bản đã thể hiện hoàn chỉnh quan hệ hai chiều Việt Nam và Liên Xô

trong vấn đề đào tạo cán bộ có trình độ đại học và NCS của hai nước. Theo chúng tôi,

khối tài liệu này thực sự là một trong những nguồn tư liệu lịch sử rất có giá trị để làm

sáng tỏ các kết quả và thành tựu của ngành đại học nói riêng cũng như nghiên cứu

lịch sử ngành giáo dục Việt Nam nói chung từ năm 1955-1964. Sự phát triển của

ngành đại học nước ta thông qua nội dung hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô giai

đoạn này thể hiện ở những điểm nổi bật sau đây.

Thứ nhất, số lượng LHS và số lượng ngành học đại học tại nước ngoài đã tăng

lên đáng kể so với những năm trước đó. Trong giai đoạn này, lần đầu tiên ta gửi đi

đào tạo nước ngoài trình độ NCS và bắt đầu từ năm 1964, chúng ta tạm dừng gửi đi

đào tạo các ngành khoa học xã hội [87, tr.3]. Số lượng LHS được cử đi các nước học

đại học hàng năm tập trung hầu hết là sinh viên các trường đại học lớn của Bộ Giáo

dục, nhiều nhất là sinh viên các Trường Đại học Bách khoa và Đại học Tổng hợp.

Thứ hai, các tài liệu lưu trữ cho biết thêm, đây là lần đầu tiên ngành giáo dục

của ta đã tiến hành phân phối LHS ngay từ trong nước và việc làm này thực sự rất có

lợi trong việc tuyển chọn và phân phối ngành nghề đào tạo cho LHS tại các nước [87,

tr.136-138].

Thứ ba, sự phát triển của ngành đại học giai đoạn này thể hiện ở số lượng các

trường đại học của Việt Nam hợp tác, kết nghĩa với các trường đại học của Liên Xô

69

trong các bản Kế hoạch hợp tác văn hóa, KHKT giữa hai nước hàng năm. Theo đó,

rất nhiều trường đại học lớn của ngành giáo dục được hình thành trong những năm

này, điển hình là các trường Đại học Bách Khoa, Đại học Tổng hợp, Đại học Nông –

Lâm Hà Nội, Đại học Sư phạm Vinh và Đại học Thủy lợi Hà Nội ở miền Bắc...được

xây dựng theo mô hình XHCN của Liên Xô.

Thứ tư, nghiên cứu khối tài liệu về hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô tại

Trung tâm cho chúng ta biết sự giúp đỡ từ phía Việt Nam trong việc đào tạo LHS

nước ngoài, duy nhất thời kì này có thông tin và thông tin tương đối rõ nét. Tài liệu

cho thấy Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội đã nhận đào tạo rất nhiều sinh viên người

nước ngoài vào học tập và nghiên cứu một số ngành ngôn ngữ, văn hóa, lịch sử Việt

Nam...Rõ ràng, ngành giáo dục Việt Nam đến đây đã thực sự phát triển và chú trọng

hơn tới lĩnh vực hợp tác quốc tế trong đào tạo và chúng ta đã có nhiều điều kiện để

đào tạo cán bộ cho các nước XHCN so với những năm trước.

Như vậy, bằng tất cả những điểm nổi bật trong lịch sử ngành đại học giai đoạn

1955-1964 kể trên, đã phần nào phản ánh rõ sự lớn mạnh và vai trò của ngành giáo

dục nói chung, trực tiếp là của Bộ Giáo dục đối với sự nghiệp cải tạo, xây dựng

CNXH ở miền Bắc.

+ Thời kì từ 1965-1975

Về mặt tổ chức bộ máy quản lý giáo dục, như chúng tôi đã giới thiệu trong lịch

sử hình thành và phát triển của Bộ Giáo dục, ngày 01/10/1965, Ủy ban Thường vụ

Quốc hội đã quyết định phê chuẩn việc tách Bộ Giáo dục thành Bộ Giáo dục và Bộ

Đại học và THCN để chỉ đạo các ngành học đã phát triển với quy mô lớn. Nhiệm vụ

của Bộ Đại học và THCN là phụ trách lĩnh vực giáo dục đại học và THCN, trong đó

có quản lý các trường đại học, các trường THCN, quản lý học sinh trong và LHS đại

học ở nước ngoài. Từ yếu tố chữ kí của người có thẩm quyền và con dấu của văn bản

trong khối tài liệu về hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô đã cho biết lãnh đạo của

Bộ Giáo dục thời kì này vẫn là ông Nguyễn Văn Huyên và ông Tạ Quang Bửu là Bộ

trưởng Bộ Đại học và THCN.

Tài liệu về nội dung hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô thời kì này tuy

không nhiều và thông tin ít phong phú hơn so với thời gian trước, nhưng qua các số

liệu cụ thể về LHS Việt Nam được cử đi Liên Xô và các nước phần nào cho thấy hoạt

70

động hợp tác quốc tế về đào tạo đại học và THCN của chúng ta đã được đẩy mạnh

hơn nhiều so với thời kì trước, xuất phát từ thực tế cả nước có chiến tranh, điều kiện

đào tạo trong nước gặp nhiều khó khăn. Cụ thể, trong 11 năm, ta đã gửi đi gần 25.000

LHS các loại, trong đó có trên 3000 NCS và cao nhất là các năm từ 1966-1969 [87,

tr.3]. Ngoài ra, sự phát triển của giáo dục đại học Việt Nam thời kì này còn thể hiện ở

số lượng ngành nghề đào tạo đại học và NCS Việt Nam tại Liên Xô cũng như tại các

nước XHCN khác đều tăng so với các năm trước, đặc biệt là các ngành đào tạo NCS.

+ Thời kì từ 1976-1982

Nghiên cứu khối tài liệu về quan hệ hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô

(1950-1991) cho chúng tôi những thông tin quý giá về sự phát triển của giáo dục Việt

Nam nói chung và ngành đại học nói riêng từ khi hòa bình, giải phóng miền Nam,

thống nhất đất nước đến năm 1982 (tài liệu chỉ phản ánh kết quả thực hiện đến năm

này). Bộ Đại học và THCN lúc này vẫn là cơ quan giúp Chính phủ quản lý lĩnh vực

giáo dục đại học và THCN, trong đó có theo dõi và quản lý các hoạt động hợp tác

quốc tế về đào tạo.

Công văn số 265CV-KGTW ngày 14/11/1963 của Ban Khoa Giáo – Ban Chấp

hành Trung ương về tình hình công tác LHS Việt Nam ở các nước XHCN từ năm

1951-1983 đã chỉ rõ, “trong giai đoạn này, ta đã giảm bớt số lượng so với giai đoạn

trước. Trong 8 năm chỉ gửi đi đào tạo 9.229. Về cơ cấu, đã giảm số lượng học sinh

đại học, căn bản giữ ổn định số lượng nghiên cứu sinh, và tăng thêm số lượng thực

tập sinh với nhiều hình thức khác nhau. Kể từ năm 1979, ta bắt đầu gửi trở lại một số

ngành khoa học xã hội. Trong hoàn cảnh mới, chúng ta cũng bắt đầu gửi một số í đi

học tập, bồi dưỡng ở một số nước tư bản chủ nghĩa và dân tộc chủ nghĩa” [87, tr.3].

Tài liệu về hợp tác Việt Nam – Liên Xô giai đoạn này cho biết thêm, từ chỗ

trước đây chỉ làm kế hoạch và ký kết với Liên Xô và các nước kế hoạch một năm, ta

đã tiến lên làm kế hoạch 3 năm (1978-1980) và kế hoạch 5 năm (1981-1985) và đã có

nhiều hình thức đào tạo, bồi dưỡng và chú ý tăng nhanh tỉ lệ đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ có trình độ sau và trên đại học.

Tóm lại, với tất cả những nội dung kể trên, chúng ta thấy được giá trị của khối

tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo đang bảo quản

tại TTLTQGIII là một trong những nguồn tư liệu đáng tin cậy để nghiên cứu tiến

71

trình phát triển của nền giáo dục đào tạo Việt Nam hiện đại, chủ yếu là sự phát triển

của ngành đại học, được thể hiện hầu hết qua các số liệu thống kê và các tài liệu tổng

kết, đánh giá tình hình hợp tác đào tạo giữa Việt Nam với Liên Xô và các nước khác

từ năm 1950-1982. Đây thực sự là một gợi ý rất có ý nghĩa đối với các đối tượng độc

giả có nhu cầu khai thác, sử dụng tài liệu lưu trữ tại Trung tâm thực hiện các đề tài

nghiên cứu về ngành giáo dục đào tạo của Việt Nam những năm tháng đã qua.

2.2.3. Giúp các nhà lãnh đạo, quản lý đúc rút bài học kinh nghiệm, đề ra

các chủ trương, biện pháp đúng đắn trong công tác quản lý LHS

Như chúng ta đã biết, một trong những tác dụng to lớn mà tài liệu lưu trữ nói

chung mang lại đó là giúp cho các nhà quản lý, lãnh đạo đúc rút kinh nghiệm, đề ra

những chiến lược, biện pháp đúng đắn trong công tác chuyên môn. Nhà quản lý phải

phân tích và xử lý rất nhiều thông tin trước khi đưa ra một quyết định quản lý. Tính

đúng đắn và hiệu quả của các quyết định quản lý không chỉ phụ thuộc vào sự nhanh

nhạy, thông minh, sắc bén của nhà quản lý mà còn chịu sự chi phối không nhỏ từ các

nguồn thông tin mà nhà quản lý có được. Trong những nguồn thông tin này, chiếm đa

số là nguồn thông tin từ quá khứ, một trong những nguồn thông tin đã được kiểm

chứng và có độ chân thực cao. Nhờ việc nghiên cứu, tìm hiểu các thông tin trong quá

khứ được thể hiện chủ yếu dưới dạng văn bản mà nhà quản lý có thể kế thừa được

những thành tựu của những nhà quản lý trước đó, đồng thời, rút ra được những bài

học, kinh nghiệm thông qua việc tìm hiểu những quyết định sai lầm của những nhà

quản lý trước.

Tương tự như vậy, thông qua việc nghiên cứu, tìm hiểu khối tài liệu về quan

hệ hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô đang bảo quản tại TTLTQGIII, các nhà quản

lý có thể tiếp cận được với rất nhiều thông tin hữu ích đối với lĩnh vực hợp tác quốc

tế về giáo dục đào tạo. Trong một số tài liệu về xây dựng kế hoạch LHS đi Liên Xô

cũng như trong nhiều báo cáo tổng kết công tác LHS Việt Nam tại Liên Xô và các

nước của các cơ quan chuyên môn, chúng tôi thấy những vấn đề cơ bản cần chấn

chỉnh, rút kinh nghiệm từ tình hình công tác LHS bao gồm vấn đề tổ chức quản lý

LHS; lập kế hoạch gửi đi đào tạo và công tác tuyển chọn LHS, phân phối ngành nghề

đào tạo.

Ngay trong Báo cáo về tình hình LHS ở các nước anh em của Đoàn cán bộ

72

nghiên cứu Ban Tổ chức Trung ương năm 1958, là văn bản tổng hợp sớm nhất chúng

tôi khai thác được, đã chỉ ra mối tầm quan trọng của công tác phân phối và điều chỉnh

ngành nghề đào tạo LHS, đó là:

“Phân phối, điều chỉnh ngành nghề có quan hệ đến Kế hoạch nhà nước, đến

kết quả học tập, đến tư tưởng sinh viên.

Công tác này làm tốt thì đảm bảo tốt yêu cầu kế hoạch Nhà nước, đảm bảo tốt

kết quả học tập, ổn định tốt tư tưởng lưu học sinh, tránh được gây khó khăn cho bạn

và cho cả chúng ta. Đây là một công tác rất khó khăn, đòi hỏi phải nắm vững yêu cầu

toàn diện trong nước, tình hình trường sở, ngành nghề các nước anh em, đòi hỏi phải

có một trình độ nghiệp vụ và phương pháp làm việc đi sâu đi sát và thật cụ thể, có khi

tỉ mỉ. [52, tr.16].

Đến năm 1964, khi tổng kết công tác đào tạo cán bộ ở nước ngoài từ năm

1950-1964, Bộ Giáo dục đã khá nhấn mạnh đến công tác quản lý LHS gồm quản lý

chính trị tư tưởng và học tập của LHS. Theo Bộ Giáo dục, “muốn làm tốt công tác

quản lý LHS, trước hết và bất kì lúc nào cũng phải xem trọng tư tưởng là gốc, chính

trị dẫn đầu. Do đó, quản lý chính trị tư tưởng trong LHS là một công tác vận động

quần chúng sinh động, công phu và sáng tạo. Vai trò Đảng là chủ chốt, thứ đến vai

trò Đoàn. Có quản lý tốt chinh trị tư tưởng mới giải quyết tốt việc lãnh đạo LHS nỗ

lực học giỏi về chuyên môn kỹ thuật đúng ngành nghề được phân công và chuẩn bị

thái độ về nước phục vụ sau khi tốt nghiệp [92, tr.4]. Về quản lý học tập chuyên môn,

Bộ cũng chỉ ra rằng: “Đây là một mặt công tác chủ chốt trong toàn bộ công tác quản

lý LHS. Có quản lý tốt được học tập chuyên môn mới nắm chắc ngành nghề cho công

tác kế hoạch đào tạo được sát và công tác phân phối tốt nghiệp, sử dụng hay chọn

học thêm mới chính xác, phát huy tài năng của mỗi người” [92, tr.7]

Trong Báo cáo tổng kết công tác tuyển sinh ra nước ngoài năm 1968 và

phương hướng nghiên cứu kế hoạch năm 1969 của Bộ Đại học và THCN, Bộ đã rút

ra một số bài học kinh nghiệm, đó là:

“- Nắm vững trình độ, khả năng của học sinh, chú trọng học sinh có năng

khiếu, giải quyết đúng đắn việc phân ngành học…

- Cần củng cố bộ máy tổ chức ở các cấp, các ngành để đảm bảo thực hiện

73

công tác tuyển sinh tốt hơn…

- Đối với Bộ Đại học và THCN: đối với công tác tuyển sinh ra ngoài nước, Bộ

Đại học và THCN phải trực tiếp xét duyệt, phân ngành, phân nước và tổ chức đưa đi.

Tất cả những việc này đòi hỏi phải thật chính xác…Để đảm bảo thực hiện tốt cần

kiên quyết tổ chức một bộ máy hoàn chỉnh, xem đó là một đơn vị thực hiện thống nhất

kế hoạch tuyển chọn và đưa học sinh…Kinh nghiệm cho thấy ràng, muốn đảm bảo

đúng yêu cầu đào tạo cán bộ KHKT của Đảng ở nước ngoài, không những chỉ cần

làm tốt các khâu xét duyệt, phân ngành phân nước học… mà còn phải làm tốt các

khâu như triệu tập, tổ chức học chính trị, tổ chức phiên chế các đoàn đi cho một

nước, việc kiểm tra tiêu chuẩn sức khỏe, các thủ tục xuất cảnh và các công việc phải

xử lý khi thiếu và thừa học sinh… Mọi sự thay đổi tùy tiện do một tổ chức khác giải

quyết sẽ ảnh hưởng đến việc chấp hành chính sách của cơ quan xét duyệt và cuối

cùng của việc đảm bảo thực hiện kế hoạch của ngoài nước..”[23, tr.32-33].

Hoặc trong Báo cáo của Vụ Giáo dục – Đào tạo của Bộ Đại học và THCN về

tình hình đào tạo cán bộ chuyên môn và công nhân kỹ thuật gửi đi các nước XHCN

năm 1984, có đưa ra một số kinh nghiệm trong việc xây dựng kế hoạch LHS, cụ thể:

“a/ Phải làm kế hoạch gửi LHS một cách nghiêm túc, chặt chẽ, kết hợp việc

đào tạo trong nước và ngoài nước, chỉ gửi đào tạo những ngành mà trong nước cần

có trình độ cao, những ngành cần nhưng chưa có điều kiện đào tạo được, những

ngành cần mà trong nước đào tạo không kịp nhu cầu.

Phải tuyển chọn chặt chẽ và xác định nhiệm vụ học theo ngành nghề cần cho

nền kinh tế mà học sinh có nghĩa vụ phải phục vụ sau khi tốt nghiệp (không gây khó

khăn khi phân phối, sử dụng…

d/ Củng cố lại bộ máy quản lý công tác kế hoạch hóa ở các bộ quản lý ngành:

Bộ Đại học, Tổng cục Dạy nghề để xây dựng được kế hoạch toàn ngành, Ủy ban Kế

hoạch Nhà nước tổng hợp và cân đối kế hoạch trước khi trình Hội đồng Bộ trưởng.

Ủy ban KHKT Nhà nước quản lý đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, làm kế hoạch đào

tạo trên đại học..” [60, tr.5].

Trong khối tài liệu về hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô, có hồ sơ 18382

thuộc phông Phủ Thủ tướng là Công văn số 123/LHS ngày 23/7/1973 của ĐSQ Việt

Nam tại Liên Xô về việc tăng cường và cải tiến quản lý NCS (báo cáo chuyên đề),

74

nội dung văn bản này là các kết quả tổng kết, nghiên cứu chuyên đề đào tạo NCS tại

Liên Xô và các biện pháp cụ thể để nâng cao hiệu quả của công tác quản lý LHS tại

Liên Xô trong thời gian tới nói riêng và đào tạo NCS ở ngoài nước nói chung. Theo

đó, tài liệu này thực sự là tư liệu có giá trị đối với việc nghiên cứu, đúc rút kinh

nghiệm trong công tác đào tạo NCS của ta cho phù hợp với điều kiện hiện nay…

Những bài học kinh nghiệm nói trên được rút ra từ nội dung khối tài liệu lưu

trữ về quan hệ Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo thực sự là những thông tin

hữu ích và cần thiết đối với công tác quản lý, điều hành hoạt động đối ngoại về giáo

dục đào tạo, cụ thể với Bộ Giáo dục và Đào tạo – cơ quan thực hiện nhiệm vụ hợp tác

quốc tế về giáo dục đào tạo và quản lý đào tạo ở nước ngoài theo quy định của Nhà

nước hiện nay.

2.2.4. Là một trong những tư liệu lịch sử phục vụ nghiên cứu về giới trí

thức Việt Nam

Ngoài những giá trị cơ bản nêu trên, nguồn tài liệu về quan hệ hợp tác Việt

Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo đang bảo quản tại TTLTQGIII hiện nay còn có

ý nghĩa trong việc cung cấp thông tin sử liệu để nghiên cứu về giới trí thức Việt Nam

trong sự nghiệp giải phóng và xây dựng đất nước, cụ thể là đội ngũ trí thức trong hai

cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và từ sau giải phóng miền Nam,

thống nhất Tổ quốc, xây dựng và đổi mới đất nước đến những năm cuối của thập niên

80 của thế kỉ XX.

Trước hết, khối tài liệu này cho biết sự hình thành và phát triển của đội ngũ trí

thức Việt Nam được đào tạo ở nước ngoài trong giai đoạn này, thể hiện qua các số

liệu thống kê, tổng hợp về tình hình LHS đi Liên Xô và các nước khác, ngành nghề

đào tạo và sự phân phối ngành nghề sau tốt nghiệp được đề cập trong tài liệu. Tư

tưởng đào tạo cán bộ, trí thức đã được Đảng và Nhà nước quan tâm từ rất sớm, ngay

đầu những năm 1950, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định gửi con em

nhân dân lao động đi đào tạo ở các nước tiên tiến, dù trong điều kiện cuộc kháng

chiến chống Pháp đang diễn ra quyết liệt, đầy khó khăn. Sự hình thành và phát triển

của đội ngũ trí thức Việt Nam đào tạo ngoài nước được thể hiện khái quát trong Báo

cáo của Vụ Giáo dục - Đào tạo của Bộ Đại học và THCN về tình hình đào tạo cán bộ

chuyên môn và công nhân kỹ thuật gửi đi các nước XHCN thuộc hồ sơ 21890, phông

UBKHNN. Cụ thể, trong 32 năm (1951-1983), ta đã gửi đi đào tạo 41.246 học sinh

ngành đại học và THCN đi các nước và tính đến đầu năm 1983, đã có 30923 người

75

tốt nghiệp về nước công tác. Đoàn LHS đầu tiên của Việt Nam gồm 21 người, được

Nhà nước cử đi Liên Xô đào tạo trình độ vào năm 1951, là năm bắt đầu đào tạo trí

thức Việt Nam tại nước ngoài. Trong 4 năm kháng chiến chống Pháp, ta không có

LHS trình độ tiến sĩ gồm cả đào tạo trong và ngoài nước. Bước sang giai đoạn hòa

bình, xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước, nhu cầu cán bộ

giai đoạn này tăng nhanh, công tác đào tạo cán bộ KHKT ở ngoài nước được chú

trọng, thể hiện ở số lượng cán bộ, học sinh được cử đi đào tạo hàng năm tăng nhiều

so với năm trước. Thời gian này, ta bắt đầu gửi đi đào tạo trình độ NCS. Nhận xét

chung về tình hình đội ngũ trí thức Việt Nam từ ngày hòa bình lập lại đến năm 1958,

Báo cáo của Đoàn cán bộ nghiên cứu của Ban Tổ chức Trung ương về tình hình LHS

ở các nước anh em Trung Quốc, Liên Xô, Ba Lan, Tiệp Khắc, CHDC Đức năm 1958

đã khái quát: “So với tổng số sinh viên đại học trong nước là 5000 thì 1864 LHS

nước ngoài, chiếm tỉ số là 2/5. So với tổng số trí thức ở miền Bắc hiện nay là 4000

(kể cả trung cấp) thì số LHS này chiếm tỉ số gần phân nửa (1/2). Số trí thức có trình

độ tương đương đại học trở lên là 1650 thì số LHS nước ngoài hơn 214 người...”

Đặc biệt đến giai đoạn 1965-1975, ta đã đẩy mạnh việc gửi đi đào tạo nước

ngoài tất cả các cấp từ trên đại học, đại học và công nhân kỹ thuật. Trong 11, năm ta

đã gửi đi 24.999 LHS các loại, trong đó có trên 3000 NCS. Qua các số liệu tổng hợp

kết quả đào tạo cán bộ ở ngoài nước của các cơ quan, tổ chức, chúng tôi nhận thấy, từ

năm 1955 đến năm 1975 là giai đoạn hình thành nhiều nhất đội ngũ trí thức Việt Nam

được đào tạo ở ngoài nước. Cùng với những lớp trí thức đào tạo trong nước, những trí

thức được đào tạo ở nước ngoài (chủ yếu là Liên Xô) là lực lượng nòng cốt trong các

trường đại học, viện nghiên cứu ở miền Bắc, đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp

xây dựng miền Bắc và giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Từ sau giải phóng

miền Nam, thống nhất đất nước, cả nước xây dựng CHXH, chúng ta đã giảm bớt việc

gửi đi đào tạo ngoài nước và tăng mạnh tốc độ, quy mô đào tạo trong nước [60, tr.1-

2].

Thông qua các tài liệu là chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về

công tác giáo dục đào tạo nói chung và đào tạo cán bộ ngoài nước nói riêng; chương

trình, kế hoạch của các Bộ ngành, địa phương về việc gửi LHS đi đào tạo ở Liên Xô

và các nước hàng năm và nhiều năm; các báo cáo tổng kết công tác đào tạo cán bộ ở

nước ngoài của từng giai đoạn và danh sách LHS được cử đi học cũng như danh sách

LHS tốt nghiệp về nước được thống kê chi tiết, chúng tôi có một số nhận xét về các

76

đặc điểm chính của giới trí thức Việt Nam trong thời kì này như sau:

Về giới tính, nhìn chung, trong đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ có học vị

cao ở nước ta, nam chiếm ưu thế tuyệt đối. Số lượng và tỉ lệ cử nhân đại học và tiến sĩ

là nam giới thường gấp nhiều lần nữ giới. Ví dụ, trong Báo cáo của Đoàn cán bộ

nghiên cứu của Ban Tổ chức Trung ương về tình hình LHS ở các nước anh em Trung

Quốc, Liên Xô, Ba Lan, Tiệp Khắc, CHDC Đức năm 1958, thành phần LHS cử đi

nước ngoài từ năm 1953-1958 là 1170 nam và chỉ có 98 nữ [101, tr.2]. Theo số liệu

thống kê LHS đang học ở các nước anh em trong tài liệu Một số ý kiến về tình hình

LHS và nhiệm vụ quản lý LHS của Bộ Đại học và THCN, trong tổng số 12.390 LHS

gửi đi nước ngoài, số lượng LHS là nữ chỉ có 2.483 người [101, tr.6]. Tỉ lệ chênh lệch

giữa trí thức nam và nữ như trên thể hiện, những năm trước đây, phụ nữ ít có điều

kiện để học ở những bậc cao, song đáng mừng là đã có mặt ở hầu hết các ngành và

lĩnh vực. Theo chúng tôi, tỉ lệ trí thức là nữ giới có sự chênh lệch rất lớn so với nam

giới, một mặt do tàn dư của văn hóa phong kiến, tư tưởng Nho giáo đã hạn chế sự học

tập, vươn lên của phụ nữ; mặt khác, do đặc điểm tâm lý của phụ nữ Việt Nam

thường bị chi phối bởi yếu tố gia đình nhiều hơn so với nam giới.

Về thành phần bản thân và gia đình, hầu hết các tài liệu cho thấy, đội ngũ trí

thức Việt Nam thời kì này được chọn đi đào tạo nước ngoài phần lớn là cán bộ các

ngành và học sinh thanh niên thuộc các thành phần cơ bản và con em cán bộ kháng

chiến, trong đó, tỉ lệ trí thức là tiểu tư sản và đảng viên luôn chiếm số đông [52, tr.2].

Về ngành đào tạo, từ các bảng thống kê ngành nghề đào tạo LHS ở nước

ngoài, các tài liệu xây dựng, phê duyệt kế hoạch LHS đi nước ngoài (chủ yếu là Liên

Xô) và các bản Danh mục ngành nghề đào tạo đại học và đào tạo NCS của Liên Xô

gửi Việt Nam, chúng tôi thấy, đội ngũ trí thức Việt Nam đào tạo ở nước ngoài chủ

yếu là các ngành khoa học tự nhiên, KHKT và khoa học xã hội nhân văn. Nhìn

chung, cơ cấu đội ngũ cán bộ khoa học có trình độ tiến sĩ và thạc sĩ ở các ngành nói

chung được phân bố tương đối phù hợp, tuy nhiên số lượng cán bộ khoa học có trình

độ cao ở những ngành khoa học mũi nhọn chiếm tỉ lệ không cao.

Về nước đào tạo của đội ngũ trí thức Việt Nam từ đầu những năm 1950 đến

cuối thập kỉ 80 của thế kỉ XX, khối tài liệu về hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh

vực đào tạo đang bảo quản tại TTLTQGIII hiện nay đã phản ánh tương đối đầy đủ

danh sách các nước chúng ta gửi cán bộ đi đào tạo do có nhiều văn bản tổng hợp

chung tình hình đào tạo LHS Việt Nam ở nước ngoài như chúng tôi đã giới thiệu 77

trong các phần trên. Khối tài liệu này cho biết, tính đến cuối năm 1983, LHS ta có

mặt ở 9 nước XHCN anh em, phân bổ nhiều nhất ở các nước Liên Xô, Tiệp Khắc và

CHDC Đức. Số lượng tiến sĩ khoa học theo các nước đào tạo cho thấy, tuyệt đại bộ

phận số cán bộ khoa học này được đào tạo ở Liên Xô (670/1333 NCS) [60, tr.3]. Các

số liệu về nước đào tạo cán bộ Việt Nam giai đoạn này cho thấy, chúng ta mới chỉ

chủ yếu đào tạo tiến sĩ tại các nước trong phe XHCN, số đào tạo tại các nước TBCN

không đáng kể, trong khi các nước này lại nắm giữ phần lớn khoa học và công nghệ

hiện đại, tiên tiến nhất thế giới.

Trên đây là một số đặc điểm của đội ngũ trí thức Việt Nam chúng tôi rút ra từ

khối tài liệu về quan hệ hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô (1950-1991) đang bảo

quản tại TTLTQGIII. Tuy nội dung tài liệu chủ yếu phản ánh quan hệ hợp tác đào tạo

giữa Việt Nam với nước cụ thể là Liên Xô, nhưng trong thành phần tài liệu có rất

nhiều nội dung thông tin về tình hình đào tạo đội ngũ cán bộ của nước ta tại các nước

khác trên thế giới. Hơn nữa, các tài liệu này cho thấy, hợp tác đào tạo với nước ngoài

của Việt Nam chủ yếu là với Liên Xô. Đây là một trong những nguồn tư liệu lịch sử

thực sự có giá trị đối với việc nghiên cứu về quá trình hình thành và phát triển của các

thế hệ trí thức Việt Nam đã được đào tạo ở nước ngoài với tư cách là một bộ phận cấu

thành của đội ngũ trí thức Việt Nam trong khoảng thời gian từ năm 1950 đến những

năm 80 của thế kỉ XX.

Tiểu kết chƣơng 2

Quan hệ Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991) qua tài liệu

lưu trữ đang bảo quản tại TTLTQGIII đã được chúng tôi trình bày cụ thể trong

chương này. Thành phần nội dung cơ bản của khối tài liệu này phản ánh sự giúp đỡ to

lớn của Liên Xô trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ KHKT ở trình độ đại học và trên

đại học cho Việt Nam trong cả chặng đường hơn 40 năm quan hệ. Về phía Việt Nam,

một số tài liệu lưu trữ tại TTLTQGIII cho thấy sự giúp đỡ của Việt Nam trong việc

đào tạo cho Liên Xô nhiều cán bộ khoa học xã hội, gồm các chuyên ngành ngôn ngữ,

văn học, địa lý, lịch sử và trực tiếp học tại Trường Đại học Tổng hợp của ta; tuy

nhiên nội dung và kết quả giúp đỡ đào tạo của Việt Nam phản ánh qua tài liệu không

thực sự nổi bật và bao quát.

78

Từ việc phân tích, tổng hợp nội dung quan hệ hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên

Xô qua tài liệu lưu trữ, chúng tôi thấy rằng, đây là khối tài liệu này thực sự cần thiết

và rất có giá trị trong việc nghiên cứu lịch sử quan hệ ngoại giao Việt Nam – Liên

Xô/Liên bang Nga trong lĩnh vực giáo dục đào tạo. Từ khối tài liệu này, các nhà quản

lý, lãnh đạo đúc rút được những bài học kinh nghiệm quý báu, đồng thời đề ra được

các biện pháp đúng đắn trong công tác quản lý LHS nói riêng và trong hợp tác quốc

tế về giáo dục đào tạo nói chung. Bên cạnh đó, giá trị tiềm năng của khối tài liệu này

còn thể hiện ở chỗ, chúng là nguồn tư liệu quan trọng đối với việc nghiên cứu lịch sử

ngành giáo dục đào tạo Việt Nam và nghiên cứu về đội ngũ trí thức Việt Nam. Với

những ý nghĩa đó, khối tài liệu về hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô tại

TTLTQGIII cần được tổ chức hoàn chỉnh và đẩy mạnh khai thác, sử dụng phục vụ

các mục đích nghiên cứu khác nhau của đời sống xã hội, cũng là để phù hợp với chủ

trương, chính sách của Đảng và Nhà nước là tăng cường bảo vệ và phát huy giá trị

của tài liệu lưu trữ trong điều kiện hiện nay.

CHƢƠNG 3

TÌNH HÌNH TỔ CHỨC KHOA HỌC VÀ KHAI THÁC, SỬ DỤNG

KHỐI TÀI LIỆU VỀ QUAN HỆ HỢP TÁC VIỆT NAM – LIÊN XÔ TRONG

LĨNH VỰC ĐÀO TẠO (1950-1991) VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP

3.1. Tình hình tổ chức khoa học và khai thác, sử dụng tài liệu

3.1.1. Tình hình tổ chức khoa học tài liệu

* Ƣu điểm

Thứ nhất, khối tài liệu về hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo

giai đoạn 1950-1991 thuộc 12 phông lưu trữ nêu trên đã được TTLTQGIII thu thập,

bổ sung tương đối triệt để, gần như không còn tình trạng tài liệu về vấn đề này có giá

trị bảo quản vĩnh viễn vẫn đang để tại Lưu trữ các cơ quan.

79

Sở dĩ chúng tôi có thể khẳng định được điều này là vì, trong quá trình thực

hiện công tác chuyên môn được giao tại cơ quan TTLTQGIII, chúng tôi có điều kiện

được làm việc và trao đổi thường xuyên với Lưu trữ của các cơ quan, tổ chức thuộc

nguồn nộp lưu cũng như được tiếp cận tài liệu lưu trữ của các cơ quan để có cơ sở

xây dựng và thực hiện kế hoạch thu thập, bổ sung tài liệu vào Trung tâm. Đối với các

cơ quan đã quản lý và nộp lưu tài liệu của 12 phông lưu trữ kể trên, chúng tôi có tiến

hành phỏng vấn trao đổi với cán bộ làm công tác lưu trữ của các cơ quan (điển hình

như Văn phòng Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Văn

hóa, Thể thao và Du lịch) về tình hình quản lý và nộp lưu tài liệu lưu trữ có liên quan

đến nội dung nghiên cứu. Nội dung phỏng vấn phục vụ cho đề tài nghiên cứu của

chúng tôi tập trung vào các câu hỏi về thành phần nội dung tài liệu có liên quan đến

hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô, tình hình giao nộp tài liệu vào Lưu trữ cơ quan,

tình hình quản lý tài liệu và mức độ xử lý các nghiệp vụ lưu trữ. Trên cơ sở các thông

tin thu thập được bằng việc phỏng vấn và dựa vào số liệu thu thập của TTLTQGIII

trong hơn 20 năm qua, chúng tôi đánh giá, hầu hết tài liệu của 12 phông được được

nộp lưu triệt để theo từng giai đoạn, điển hình là các phông Phủ Thủ tướng,

UBKHNN, Bộ Đại học và THCN với số lượng hồ sơ, tài liệu về vấn đề nghiên cứu

nhiều nhất trong tổng số 12 phông. Một số phông giao nộp tài liệu qua các đợt, như

tài liệu phông Bộ Giáo dục, UBKhHNN, Bộ Nội vụ, cho đến nay đã đảm bảo việc

nộp lưu khá hoàn chỉnh và triệt để toàn bộ tài liệu có giá trị bảo quản vĩnh viễn vào

Trung tâm.

Thứ hai, toàn bộ tài liệu ngay từ khi nộp lưu vào Trung tâm đã được lập hồ sơ

và xác định giá trị tương đối hợp lý. Qua quá trình chỉnh sửa và hoàn thiện về mặt

nghiệp vụ tại Trung tâm đối với phần lớn các phông (09/12 phông), chúng tôi đánh

giá chất lượng tổ chức khoa học tài liệu nhìn chung khá tốt, đã và đang hỗ trợ, tạo

điều kiện cho công tác phát huy giá trị tài liệu tại Trung tâm hiện nay. Trong số này,

có các phông quan trọng, khối lượng tài liệu rất lớn và tần suất khai thác, sử dụng tài

liệu liên tục là phông Phủ Thủ tướng, phông UBKHNN và phông Bộ Giáo dục. Tài

liệu của các phông này đều được phân loại và hệ thống hóa khá triệt để theo phương

án Mặt hoạt động – Thời gian, là phương án tối ưu dành cho các phông đã kết thúc

hoạt động. Kết quả đánh giá giá trị của tài liệu trong các phông để lập mục lục hồ sơ

tài liệu bảo quản vĩnh viễn như hiện tại, theo chúng tôi, là hoàn toàn phù hợp và có

80

thể thấy rõ sự vận dụng linh hoạt các nguyên tắc, phương pháp và tiêu chuẩn xác định

giá trị tài liệu của TTLTQGIII trong nội dung nghiệp vụ này. Nhờ đó, rất nhiều tài

liệu tuy không hoàn thiện về mặt pháp lý nhưng nội dung thông tin tài liệu vô cùng có

giá trị để nghiên cứu các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, đã được giữ lại bảo

quản và phục vụ nhu cầu khai thác của đông đảo đối tượng độc giả hiện nay.

* Hạn chế

Bên cạnh những ưu điểm của công tác tổ chức khoa học khối tài liệu về quan

hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo tài liệu nêu trên, qua khảo sát

và nghiên cứu, chúng tôi đưa ra một số hạn chế của công tác này như sau:

Thứ nhất, thành phần tài liệu về hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô trong

một số phông không đầy đủ để có thể phản ánh được nội dung hợp tác đào tạo với

Liên Xô của các cơ quan, đơn vị hình thành phông một cách tương đối hoàn chỉnh.

Cụ thể là các phông Bộ Nội vụ, Bộ Nông lâm và Bộ Y tế, số lượng hồ sơ tài liệu nói

chung cũng như tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam –Liên Xô trong lĩnh vực đào

tạo của mỗi phông rất ít và không liên tục trong các năm. Đơn vị hình thành các

phông không phải là các cơ quan chuyên môn phụ trách về đối ngoại hoặc được giao

quản lý nhà nước về lĩnh vực giáo dục đào tạo, nhưng với vai trò là các cơ quan quản

lý ngành, lĩnh vực nội vụ, nông lâm, y tế và giao thông bưu điện, chắc chắn trong

hoạt động của các cơ quan này có thành phần tài liệu về hợp tác quốc tế nói chung và

hợp tác đào tạo cán bộ của từng ngành hàng năm. Đó phải là các tài liệu xây dựng kế

hoạch đào tạo cán bộ, học sinh của từng ngành; tài liệu chỉ đạo, thẩm định, phê duyệt

kế hoạch đào tạo gửi từ Phủ Thủ tướng, UBKHNN và các cơ quan hữu quan cũng

như các tài liệu tổng kết, báo cáo tình hình thực hiện hợp tác đào tạo nước

ngoài...Tuy nhiên, hầu hết tài liệu về vấn đề nghiên cứu chúng tôi thống kê được từ

các phông này cơ bản chỉ là các tài liệu xây dựng kế hoạch đào tạo LHS của các Bộ ở

nước ngoài trong một số năm không liên tục và một số bảng thống kê danh sách LHS

của các Bộ được cử đi học và đã tốt nghiệp tại Liên Xô, Trung Quốc và các nước

khác.

Như chúng tôi đã trình bày trong phần ưu điểm của công tác giao nộp tài liệu

thuộc 12 phông vào Trung tâm, đến nay, các cơ quan đã nộp lưu tương đối triệt để hồ

sơ, tài liệu có giá trị bảo quản vĩnh viễn liên quan đến nội dung hợp tác đào tạo Việt

81

Nam – Liên Xô giai đoạn 1950-1991. Điều này có nghĩa lưu trữ lịch sử phải chấp

nhận sự thiếu hoàn chỉnh của thành phần tài liệu thuộc một số phông nêu trên. Theo

chúng tôi, nguyên nhân của tình trạng này xuất phát từ chính hạn chế trong công tác

văn thư lưu trữ của các cơ quan thời gian trước đây, đã không có điều kiện hoặc

không chú trọng đến việc quản lý và tổ chức tài liệu lưu trữ nên tỉ lệ tài liệu giữ lại và

phát huy giá trị không nhiều đề phản ánh vấn đề nghiên cứu được hoàn chỉnh.

Thứ hai, tài liệu còn thiếu nhiều bản chính, nhiều văn bản không đảm bảo thể

thức. Về nguyên tắc, tài liệu được giữ lại để lập hồ sơ thường là bản chính, bản gốc;

trong trường hợp không có bản chính và bản gốc thì giữ lại bản sao hợp pháp. Tuy

nhiên, khá nhiều tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào

tạo giai đoạn 1950-1991 là bản sao (gồm sao y bản chính và sao lục), bản dự thảo,

bản đánh máy, viết tay còn thiếu rất nhiều các yếu tố thông tin như ngày, tháng, năm

ban hành văn bản; số, ký hiệu văn bản; chữ ký của người có thẩm quyền và dấu cơ

quan…Đứng về mặt sử liệu học và tư liệu học, những văn bản này không đảm bảo

tính xác thực và độ tin cậy cao đối với người sử dụng.

Thứ ba, mặc dù phần lớn tài liệu của các phông đã được chỉnh lý nâng cấp, cơ

bản đáp ứng yêu cầu về mặt nghiệp vụ tổ chức khoa học tài liệu, tuy vậy, chúng tôi

vẫn gặp tương đối nhiều hồ sơ tài liệu được lập chưa hợp lý, gồm các vấn đề sau:

- Tình trạng trùng lặp văn bản trong hồ sơ

Tổng hợp kết quả khảo sát tình hình tổ chức khoa học tài liệu về quan hệ hợp tác

Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo, chúng tôi thống kê có khoảng 20/172 hồ sơ

trong các phông có tình trạng trùng lặp văn bản ngay trong hồ sơ, phổ biến ở những

phông lưu trữ chưa được tác động nghiệp vụ kể từ khi thu thập, bổ sung về Trung tâm

(phông Bộ Văn hóa, phông Bộ Văn hóa Thông tin, phông Bộ Đại học và THCN và

phông UBKhHNN…). Tuy nhiên, chúng tôi vẫn bắt gặp tình trạng này ở một số phông

đã được chỉnh lý nâng cấp và số lượng không đáng kể. Ngoài ra, có thêm tình trạng một

văn bản được lập ở các hồ sơ khác nhau trong cùng một phông.

Ví dụ:

Hồ sơ 633, phông Bộ Đại học và THCN có tờ số 18-21 trùng với tờ số 23-26

cùng là Nghị quyết số 199-CP ngày 31/12/1973 của Phủ Thủ tướng về việc cải tiến và

82

tăng cường công tác LHS ở các nước XHCN;

Hồ sơ 4309, phông Bộ Giáo dục (đã chỉnh lý nâng cấp) có tờ số 14, 15 và 16 đều

là Kế hoạch học tập, nghiên cứu của LHS Tô-nhi-a tại Việt Nam (03 bản); từ tờ số 46-50

là Chương trình công tác của nữ sinh viên Di-ê-men-chi ở Việt Nam (05 bản)

Tờ số 17 của hồ sơ 8387 trùng với tờ số 03 của hồ sơ 8442, phông Phủ Thủ

tướng, đều là Công văn số 529VG ngày 11/3/1969 của Phủ Thủ tướng v/v hợp tác

khoa học với Lx trong lĩnh vực giáo dục…

- Nhiều tiều đề hồ sơ không phản ánh đúng, đủ nội dung các văn bản bên trong

hồ sơ

Cũng giống như tình trạng trùng lặp văn bản nêu trên, khá nhiều hồ sơ trong

khối tài liệu về quan hệ Việt Nam – Liên Xô về lĩnh vực đào tạo được lập không phản

ánh đúng và đầy đủ các nội dung bên trong tài liệu, ngay cả đối với các phông đã

được chỉnh lý nâng cấp. Một số trường hợp có thể lập hồ sơ hợp lý nhưng vẫn chưa

thể hiện đầy đủ hết nội dung tài liệu trong hồ sơ như sau:

Ví dụ:

Tiêu đề hồ sơ 4327, phông Bộ Giáo dục là “Công văn, quyết định, kế hoạch,

báo cáo của Thủ tướng, Bộ Giáo dục, Bộ Công an về công tác NCS, TTS đi các nước

năm 1962-1963” gồm 324 tờ, trong đó tờ số 10 là Công văn số 706/CB ngày

27/02/1964 của Bộ Giáo dục vv đề nghị Bộ Nội vụ đăng kí hộ khẩu cho cán bộ giảng

dạy về công tác tại các trường của Bộ [4327, tr.10], văn bản không ghi trích yếu nội

dung;

Hồ sơ 10703, phông Phủ Thủ tướng với tiêu đề “Công văn của Phủ Thủ tướng,

Bộ Đại học và THCN về hợp tác với các trường đại học ở Liên Xô năm 1978”, nhưng

trong thành phần tài liệu còn có thêm Nghị định thư về việc hợp tác trong lĩnh vực

đại học và trung học chuyên nghiệp giữa Việt Nam với Rumani, Bungari và tác giả

tài liệu có thêm Bộ Thủy lợi, Trường Đại học Thủy lợi;

Hồ sơ 3013 “Biên bản, nghị định, kế hoạch hợp tác khoa học với LX năm

1963” trong phông UBKhHNN, có tờ sau tờ 09 (bỏ sót đánh số) là Công văn của Bộ

Nội vụ vv thành lập Phòng Miền Nam tại Ngân hàng Trung ương;

Hồ sơ 655, phông Bộ Đại học và THCN có tiêu đề là “Quyết định của Phủ Thủ

83

tướng, UBKHNN, Bộ Đại học và THCN v/v giao chỉ tiêu kế hoạch đào tạo LHS, NCS, TTS ở

nước ngoài năm 1966-1974” gồm 43 tờ, tuy nhiên chỉ có các tờ số 19-25, 29-35 và 39-43 là các

quyết định, còn lại là tờ trình, công văn của Bộ Đại học và THCN, UBKHNN về chỉ tiêu đào

tạo LHS và vấn đề gửi LHS đi học nước ngoài…

- Các văn bản bên trong khá nhiều hồ sơ sắp xếp lộn xộn, không theo trật tự

logic vấn đề hoặc theo trình tự thời gian

Thực trạng văn bản trong hồ sơ sắp xếp không theo trình tự giải quyết vấn đề

hoặc theo thứ tự thời gian khá phổ biến ở nhóm hồ sơ tài liệu thuộc phông

UBKhHNN, phông Bộ Đại học và THCN, phông Bộ Văn hóa giai đoạn 1955-1975

và Bộ Văn hóa (tài liệu Vụ Trao đổi văn hóa với nước ngoài). Đây là những phông

chưa được chỉnh lý nâng cấp tại Trung tâm, tình trạng tài liệu vẫn giữ nguyên từ khi

Trung tâm tiếp nhận về. Tuy vậy, chúng tôi cũng vẫn gặp tình trạng này ở một số hồ

sơ thuộc các phông đã được chỉnh lý nâng cấp như phông Phủ Thủ tướng, phông

UBKHNN, phông Bộ Giáo dục giai đoạn 1945-1985. Chẳng hạn:

Các hồ sơ 13152, 18382, 20596… thuộc phông Phủ Thủ tướng;

Hồ sơ 4309, phông Bộ Giáo dục: Tờ số 01-02 là Công văn của Bộ Giáo dục

ngày 11 tháng 8 năm 1964; tờ số 03-04 là Công văn của Trường Đại học Tổng hợp

ngày 25 tháng 9 năm 1963; tờ số 31 là Công văn của Văn phòng Bộ Giáo dục ngày

08 tháng 01 năm 1962 và tờ số 44 là Công văn của Bộ Giáo dục ngày 27 tháng 01

năm 1961 về tình hình LHS, NCS Liên Xô từ năm 1961-1964 như tiêu đề hồ sơ phản

ánh…

Các văn bản trong hồ sơ sắp xếp không theo trình tự thời gian không những

không phản ánh được mối liên hệ giữa các văn bản này mà còn gây rất nhiều khó khăn

khi cần tra cứu thông tin văn bản.

- Nhiều hồ sơ biên mục chưa hoàn chỉnh và thống nhất

Chúng tôi ước tính có khoảng một nửa khối hồ sơ về quan hệ hợp tác đào tạo

Việt Nam – Liên Xô thời kì 1950-1991 mới chỉ dừng lại ở biên mục bên ngoài mà

chưa viết mục lục văn bản trong hồ sơ. Thực trạng này gặp ở hầu hết các phông lưu

trữ chưa được xử lý nghiệp vụ tại Trung tâm. Đối với khối hồ sơ tài liệu đã được biên

mục bên trong, chúng tôi đã tra tìm ngẫu nhiên từ tờ mục lục văn bản của 10 hồ sơ,

84

thì có 03 tờ mục lục không thể hiện hết toàn bộ văn bản bên trong hồ sơ hoặc chỉ biên

mục những văn bản chính. Do vậy, khi muốn tìm bất cứ văn bản nào bên trong hồ sơ,

độc giả phải đọc từng văn bản bên trong hồ sơ mới tìm được tài liệu cần thiết. Theo

đó, có rất nhiều tài liệu trùng, thừa như chúng tôi đã nói ở trên mà chỉ khi khai thác,

sử dụng độc giả mới có thể phát hiện ra.

3.1.2. Tình hình khai thác, sử dụng tài liệu

* Ƣu điểm

Thứ nhất, TTLTQGIII cùng các cơ quan và các nhà nghiên cứu và đã khá chú

trọng đến hoạt động công bố, giới thiệu và nghiên cứu nguồn tài liệu về quan hệ hợp

tác ngoại giao Việt Nam – Liên Xô/Liên bang Nga đang bảo quản tại TTLTQGIII,

trong đó có thành phần tài liệu về hợp tác đào tạo giữa hai nước (1950-1991).

Căn cứ kết quả công tác công bố, giới thiệu tài liệu tại TTLTQGIII thời gian

qua, chúng tôi có thể khẳng định rằng, nguồn tài liệu về quan hệ ngoại giao Việt Nam

– Liên Xô/Liên bang Nga nói chung và khối tài liệu hợp tác đào tạo giữa hai nước nói

riêng đã được Trung tâm chủ động giới thiệu đến đông đảo công chúng trong nước và

quốc tế. Hoạt động này được thực hiện dựa trên cơ sở sự hợp tác của Lưu trữ hai Nhà

nước Việt Nam và Liên bang Nga với mục đích khơi gợi và tôn vinh những kết quả

tốt đẹp trong quan hệ hợp tác kinh tế, văn hóa và KHKT của hai nước được phản ánh

qua tài liệu lưu trữ. Cụ thể là Triển lãm “Lịch sử hợp tác KHKT Việt Nam – Liên Xô

trong những năm 1950-1990” do Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước Việt Nam phối

hợp với Cục Lưu trữ Liên bang Nga tổ chức năm 2005 nhân kỉ niệm 55 năm Ngày

thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam – Liên Xô (30/01/1950-30/01/2005). Trong số

gần 400 tài liệu được triển lãm, có khoảng 50 tài liệu được lựa chọn từ kho lưu trữ

của Trung tâm, gồm cả tài liệu chữ viết và một số tài liệu ảnh góp phần phản ánh sinh

động lịch sử hoạt động hợp tác kinh tế và KHKT giữa Việt Nam và Liên Xô, Liên

bang Nga trong hơn nửa thế kỷ qua.

Đặc biệt, năm 2009, nhân kỉ niệm 59 năm Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao

hai nước (30/01/1950-30/01/2009), Triển lãm với chủ đề “Hợp tác Việt Nam và Liên

bang Nga trong lĩnh vực đào tạo” được thực hiện với sự phối hợp của Lưu trữ hai

Nhà nước và đã được Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia – Sự thật ấn hành năm 2011.

Tại triển lãm, có 30 tài liệu được tuyển chọn từ TTLTQGIII phản ánh nội dung quan

85

hệ hợp tác đào tạo giữa hai nước ở tất cả các trình độ và ngành nghề đào tạo. Dĩ

nhiên, chúng tôi cũng có khai thác và sử dụng các tài liệu này trong đề tài nghiên cứu

của mình.

Ngoài TTLTQGIII, về nội dung quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên bang Nga,

ngày 02/11/2007, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia

Hà Nội đã tổ chức Hội thảo khoa học “Quan hệ Việt – Nga: Quá khứ và hiện tại”

nhằm nhận diện toàn diện và đầy đủ, sâu sắc hơn về mối quan hệ Việt - Nga, nhất là

trong vòng 90 năm qua từ sau Cách mạng tháng Mười. Nhìn lại quá khứ để hướng tới

tương lai, trên tinh thần trân trọng các giá trị của truyền thống và lịch sử, dưới nhiều

góc độ tiếp cận khác nhau, các tham luận đã cung cấp nhiều tư liệu mới, những hiểu

biết mới để có những định hướng đúng đắn, chiến lược cho sự phát triển mối quan hệ

hợp tác và đối tác chiến lược, vì cuộc sống phồn vinh, hạnh phúc của nhân dân hai

nước và hai dân tộc Việt - Nga trong thế kỷ XXI. Hội thảo thu hút trên 60 tham luận

của các chuyên gia, các nhà khoa học đến từ Đại học Quốc gia Hà Nội, Học viện

Quan hệ quốc tế, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia, Viện Khoa học Xã hội

Việt Nam, Viện Lịch sử Quân sự, Cục Văn thư lưu trữ Nhà nước...Một số bài tham

luận tại Hội thảo có giới thiệu và khai thác, sử dụng tài liệu lưu trữ tại Trung tâm bao

gồm: “Quan hệ Việt – Nga: Lưu trữ và khai thác các nguồn tài liệu” của tác giả

Nguyễn Thị Hiệp; “Quan hệ Việt – Nga qua tài liệu lưu trữ” của tác giả Nguyễn Lệ

Nhung; “Quan hệ Việt Nam – Liên Xô qua tài liệu lưu trữ bảo quản tại TTLTQGIII”

của tác giả Nguyễn Minh Sơn là các cá nhân đang công tác tại Cục Văn thư và Lưu

trữ Nhà nước.

Về phía cá nhân các nhà nghiên cứu, trước hết là đề tài khoa học cấp Đại học

Quốc gia Hà Nội của tác giả Đào Xuân Chúc với tên gọi “Các nguồn tài liệu lưu trữ

về quan hệ Việt Nam – Liên Xô (1950-1991)” được nghiệm thu năm 2011. Trong đề

tài này, tác giả tập trung khảo sát, giới thiệu các nguồn tài liệu đang bảo quản tại Việt

Nam, đó là TTLTQGIII, Kho Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Viện Phim Việt

Nam, khối tài liệu cá nhân…về mối quan hệ hợp tác ngoại giao giữa hai nước Việt

Nam và Liên Xô giai đoạn 1950-1991. Đối với nguồn TTLTQGIII, tác giả đã thống

kê chi tiết các tiêu đề hồ sơ tài liệu liên quan đến hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong

từng phông lưu trữ cũng như đánh giá giá trị của nguồn tài liệu này và khả năng khai

thác, sử dụng chúng vào mục đích nghiên cứu khoa học, nghiên cứu lịch sử về quan

86

hệ ngoại giao Việt Nam – Liên Xô giai đoạn 1950-1991. Trong số đó có rất nhiều hồ

sơ, tài liệu về nội dung hợp tác trong lĩnh vực đào tạo giữa hai nước được chúng tôi

khai thác, sử dụng trong luận văn này. Với mức độ thống kê chi tiết đến từng hồ sơ,

đề tài này thực sự giúp ích cho các đối tượng độc giả có nhu cầu khai thác, nghiên

cứu nguồn tài liệu lưu trữ về quan hệ Việt Nam – Liên Xô bảo quản tại Trung tâm.

Đáng nói là tất cả các cá nhân có tham luận tại Hội thảo khoa học “Quan hệ

Việt – Nga: Quá khứ và hiện tại” kể trên cùng với tác giả đề tài “Các nguồn tài liệu

lưu trữ về quan hệ Việt Nam – Liên Xô (1950-1991)” đều là những “chuyên gia” hàng

đầu của ngành Lưu trữ, đồng thời họ từng là những LHS Việt Nam được Nhà nước

cử đi học tập và nâng cao trình độ chuyên ngành lưu trữ tại Liên Xô trong một thời

gian dài, nên có tình cảm đặc biệt gắn bó và yêu mến đất nước Liên Xô.

Tiếp đến, trong đề tài luận án tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử của tác giả Lê Văn

Thịnh thực hiện năm 1999 có tên gọi “Quan hệ giữa cách mạng Việt Nam và Liên Xô

trong giai đoạn 1930-1954”, chúng tôi đã tìm thấy 02 hồ sơ (ĐVBQ) về hợp tác giáo

dục đào tạo Việt Nam – Liên Xô thuộc phông Phủ Thủ tướng đã được tác giả đề cập

trong phần nghiên cứu về quan hệ hợp tác giáo dục đào tạo giữa hai nước. Tài liệu

lưu trữ được sử dụng về vấn đề này chỉ có 02 hồ sơ trong phông Phủ Thủ tướng. Tuy

nhiên, đến nay, phông Phủ Thủ tướng đã được nâng cấp, số hồ sơ cũ trong phông đã

thay đổi. Đó là là các tài liệu của Thủ tướng Phủ, Ban Tuyên huấn Trung ương, ĐSQ

Việt Nam tại Liên Xô và Bộ Giáo dục về kế hoạch tuyển chọn học sinh đi học ở các

nước XHCN năm 1952-1954, trong đó có Liên Xô.

Qua tìm hiểu công tác phục vụ độc giả tại TTLTQGIII từ ngày thành lập

(1995) đến nay, chủ yếu từ việc tổng hợp thông tin trong hệ thống sổ sách của Phòng

Đọc (trước đây là Phòng Tổ chức sử dụng) và phỏng vấn một vài cán bộ làm công tác

phục vụ độc giả, chúng tôi có số liệu khá chi tiết về tình hình khai thác và sử dụng tài

liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô, trong đó có thành phần tài liệu hợp tác

về đào tạo của các đối tượng độc giả để có thể khẳng định đây chính là ưu điểm của

công tác tổ chức khai thác, sử dụng tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu tại Trung

tâm thời gian qua. Các sổ đăng kí độc giả và sổ giao nhận tài liệu giữa Phòng Đọc của

Trung tâm với độc giả đã cho biết, trong 10 năm trở lại đây, số lượt độc giả khai thác

tài liệu về hợp tác ngoại giao Việt Nam với các nước đã tăng lên đáng kể và là một

trong những mục đích phục vụ nghiên cứu chính của Trung tâm. Từ năm 2005-2015,

chúng tôi thống kê có khoảng 35 lượt độc giả nghiên cứu tài liệu có liên quan đến 87

ngoại giao Việt Nam – Liên Xô; tập trung nhiều nhất trong năm 2005, 2010 và 2015,

là những năm kỉ niệm trọng thể các chặng đường 55 năm, 60 năm và 65 năm thiết lập

quan hệ hợp tác ngoại giao Việt Nam – Liên Xô/Liên bang Nga (30/01/1950). Đối

tượng độc giả hầu hết là các cán bộ đến từ các Viện thành viên của Viện Hàn lâm

Khoa học Xã hội Việt Nam (trước là Viện Khoa học Xã hội Việt Nam), một số Trung

tâm nghiệp vụ trực thuộc Bộ Ngoại giao và thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ

Chí Minh cùng cán bộ giảng dạy, sinh viên của một số Trường Đại học như Đại học

Sư phạm Hà Nội, Đại học Sư phạm TP.Hồ Chí Minh, Đại học Thương mại…Ngoài

ra còn có nhiều đối tượng độc giả khác không xác định được đơn vị công tác, học tập

do Phòng Đọc không thống kê chi tiết. Đặc biệt, trong số này, có 08 độc giả người

nước ngoài nghiên cứu tài liệu về ngoại giao Việt Nam với các nước, hầu hết là quan

hệ với các nước XHCN là Trung Quốc và Liên Xô, đến từ các Trường Đại học của

Hoa Kỳ như Đại học Hawai Pacific, Trường Đại học Brooklyn, Văn phòng Tùy viên

quân sự - ĐSQ Liên bang Nga tại Việt Nam và các tổ chức khác...

Mục đích nghiên cứu của các đối tượng độc giả kể trên là thực hiện các đề tài

khoa học, luận án tiến sĩ và khóa luận tốt nghiệp đại học về quan hệ hợp tác Việt

Nam – Liên Xô/Liên bang Nga trên các lĩnh vực kinh tế, KHKT, sự giúp đỡ của Liên

Xô đối với Việt Nam…phản ánh qua tài liệu lưu trữ chữ viết trên nền giấy và khối tài

liệu ảnh đang bảo quản tại Trung tâm. Theo sổ giao nhận tài liệu giữa Phòng Đọc và

độc giả, chúng tôi thống kê đã có khoảng 30 hồ sơ về hợp tác đào tạo Việt Nam –

Liên Xô giai đoạn 1950-1991 được đưa ra phục vụ độc giả, chủ yếu là tài liệu các

phông Phủ Thủ tướng, Bộ Giáo dục và UBKHNN.

Với tất cả những thông tin nêu trên, chúng tôi thấy, đây chính là ưu điểm nổi

bật trong hoạt động công bố, giới thiệu và khai thác, sử dụng tài liệu lưu trữ về quan

hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô nói chung và quan hệ hợp tác đào tạo giữa hai nước

nói riêng. Điều này có nghĩa, vấn đề hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô đã được các

cơ quan, tổ chức và cá nhân chú trọng nghiên cứu và khai thác thông tin từ tài liệu

lưu trữ - nguồn tư liệu lịch sử có độ chân thực và chính xác cao. Nhất là đối với

TTLTQGIII, thời gian qua, quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô qua tài liệu lưu trữ,

trong đó có nội dung hợp tác đào tạo, thực sự là chủ đề hấp dẫn và đầy tiềm năng đối

với Trung tâm trong thực hiện nhiệm vụ phát huy giá trị tài liệu lưu trữ hiện có và đã

88

đạt được nhiều kết quả tốt đẹp.

Thứ hai, thủ tục khai thác, sử dụng tài liệu nói chung và khối tài liệu về quan

hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô nói riêng tại TTLTQGIII ngày càng đơn giản, gọn

nhẹ. Qua quá trình khai thác tài liệu để thực hiện đề tài, chúng tôi thấy rằng, hầu hết

các tài liệu được kê trong phiếu yêu cầu khai thác, sử dụng đều được đáp ứng nếu tài

liệu vẫn ở trong kho và không thuộc danh mục tài liệu hạn chế sử dụng (liên quan đến

tình trạng vật lý tài liệu hoặc đang được xử lý nghiệp vụ). Trung tâm cũng hết sức tạo

điều kiện cho độc giả nếu có nhu cầu sao, chụp tài liệu Phông. Đặc biệt đối với những độc

giả là sinh viên, học viên cao học hoặc nghiên cứu sinh, nếu có đề cương nghiên cứu thì sẽ

được hỗ trợ một phần phí khai thác, sử dụng và sao, chụp tài liệu. Đây cũng chính là một

trong những biện pháp nhằm khuyến khích độc giả đến khai thác, sử dụng tài liệu phục vụ

cho công tác nghiên cứu.

Thứ ba, hệ thống công cụ quản lý, tra cứu nguồn tài liệu về hợp tác đào tạo

Việt Nam – Liên Xô tại Trung tâm hiện nay tương đối khoa học và hợp lý, cũng là

điều kiện thuận lợi cho độc giả khai thác, sử dụng tài liệu. Bên cạnh các công cụ tra

cứu truyền thống là các quyển mục lục hồ, toàn bộ thông tin về tiều đề hồ sơ, tài liệu

về vấn đề nghiên cứu trong tất cả các phông lưu trữ này đã được lập cơ sở dữ liệu

quản lý và tra tìm tự động trên máy vi tính. Hiện tại, Trung tâm đã hoàn thành việc số

hóa, lập bản sao bảo hiểm đối với toàn bộ tài liệu phông Phủ Thủ tướng, phông

UBKHNN và phông Bộ Nông lâm là 3/12 phông có thành phần tài liệu về quan hệ

ngoại giao Việt Nam – Liên Xô. Đối với tài liệu các phông đã số hóa, độc giả hoàn

toàn khai thác, sử dụng tài liệu là bản số hóa (trên máy tính) nên đã giảm bớt được rất

nhiều thời gian, thủ tục kiểm đếm, bàn giao tài liệu từ giữa bộ phận quản lý kho với

cán bộ Phòng Đọc, nhờ đó độc giả được tiếp cận với tài liệu được nhanh chóng, đơn

giản hơn.

* Hạn chế

Bên cạnh những ưu điểm nổi bật như chúng tôi đã đề cập ở trên, việc khai thác,

sử dụng tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-

1991) còn có những hạn chế cơ bản sau:

Thứ nhất, tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào

tạo có đóng dấu chỉ các mức độ mật chiếm số lượng tương đối nhiều và chưa được

89

giải mật, do đó độc giả hoàn toàn không thể khai thác và sử dụng những tài liệu này.

Chúng tôi ước tính số lượng hồ sơ có tài liệu mật chiếm đến 2/3 trong tổng số hồ

sơ/ĐVBQ liên quan trực tiếp đến vấn đề nghiên cứu. Các mức độ mật của văn bản

gồm mật và tối mật. Có khoảng 25/172 hồ sơ mật hoàn toàn, chủ yếu là các Hiệp

định, Hiệp ước, Nghị định song phương được kí kết trong quá trình hợp tác giữa hai

Nhà nước và nhiều văn bản có giá trị quan trọng đối với nghiên cứu và tổng hợp vấn

đề hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô (dạng văn bản là công văn, báo cáo…)

Căn cứ Luật Lưu trữ năm 2011, tính ở thời điểm hiện tại, những tài liệu có

đóng dấu “mật” hình thành từ năm 1975 trở về trước đã được phép đưa ra khai thác,

sử dụng. Tuy nhiên, ngay cả đối với những tài liệu này, chúng tôi cũng chỉ được phép

tiếp cận mà không được sử dụng và trích dẫn bất cứ thông tin nào trong tài liệu. Điều

này thực sự là khó khăn lớn nhất của chúng tôi trong quá trình thực hiện đề tài. Với

hạn chế mang tính khách quan này, chúng tôi không thể đạt được mong muốn là có

thể làm rõ nội dung quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo giai

đoạn 1950-1991 qua toàn bộ tài liệu lưu trữ đang bảo quản tại Trung tâm được triệt

để và hoàn chỉnh; đương nhiên cũng sẽ là khó khăn, hạn chế đối với bất cứ đối tượng

độc giả nào muốn nghiên cứu nguồn tài liệu này tại Trung tâm hiện nay.

Thứ hai, từ thực tế nghiên cứu, khai thác tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam

– Liên Xô đang bảo quản tại TTLTQGIII, chúng tôi thấy, gần như chưa có một bài

viết, công trình khoa học hoặc xuất bản phẩm nào giới thiệu và nghiên cứu chuyên

sâu về khối tài liệu hợp tác đào tạo cán bộ có trình độ đại học và trên đại học giữa hai

Nhà nước. So với những giá trị tiềm năng của khối tài liệu này trên các lĩnh vực

nghiên cứu lịch sử và khoa học xã hội như đã trình bày trong chương 2 thì thực tế

khai thác và phát huy giá trị tài liệu còn khá hạn chế. Trong các công trình nghiên

cứu, bài viết dưới góc độ lịch sử và lưu trữ đã nêu, các tác giả hầu hết chỉ giới thiệu

khái quát, sơ lược nhóm hồ sơ tài liệu phản ánh nội dung hợp tác Việt Nam – Liên Xô

về giáo dục đào tạo, là một thành phần nhỏ trong nội dung hợp tác ngoại giao hai

nước. Duy nhất có đề tài tiến sĩ “Quan hệ giữa cách mạng Việt Nam và Liên Xô trong

giai đoạn 1930-1954” của tác giả Lê Văn Thịnh đã khai thác nội dung thông tin về

quan hệ hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô qua 02 hồ sơ, tài liệu thuộc phông Phủ

Thủ tướng.

Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã tìm hiểu vấn đề khai thác, sử

dụng các nguồn tài liệu tham khảo trong một số xuất bản phẩm nghiên cứu lịch sử 90

ngoại giao Việt Nam và Liên Xô và nghiên cứu lịch sử giáo dục đào tạo Việt Nam.

Cụ thể là các cuốn: “Đối ngoại Việt Nam qua các thời kì lịch sử (1945-2012)” của

Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2012; “Lịch sử giáo dục Việt Nam” của

Nhà xuất bản Đại học Sư phạm 2013 và “Ngoại giao Việt Nam 1945-2000” của Nhà

xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 2015. Trong nội dung và danh mục tài liệu

tham khảo của các công trình này, chúng tôi hoàn toàn không thấy đề cập đến nguồn

tài liệu lưu trữ tại TTLTQGIII về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô nói chung

cũng như về nội dung hợp tác đào tạo nói riêng. Rõ ràng, vấn đề phát huy giá trị của

khối tài liệu hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo đang bảo quản tại

Trung tâm hiện nay trong công tác nghiên cứu khoa học xã hội thực sự vẫn chưa

được đẩy mạnh tối đa.

Thứ ba, khó khăn của chúng tôi trong quá trình khai thác tài liệu gặp phải khá

nhiều tài liệu cũ, đã xuống cấp, bị mờ, nhòe chữ hoặc là bản đánh máy không dấu,

nên mất nhiều thời gian để đọc và hiểu nội dung văn bản. Bên cạnh đó, nhiều hồ sơ

có tài liệu bằng tiếng nước ngoài (tiếng Nga, Pháp), một số tài liệu không có bản lược

dịch sang tiếng Việt, do đó không phải tất cả độc giả đều có thể đọc và khai thác được

thông tin tài liệu nước ngoài này.

3.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong công tác tổ chức khoa học và

khai thác, sử dụng tài liệu về hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo

Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong công tác tổ chức khoa học và khai

thác, sử dụng khối tài liệu về hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo

(1950-1991) được chúng tôi xếp vào hai nhóm chính là nguyên nhân khách quan và

nguyên nhân chủ quan.

* Nguyên nhân khách quan

Thứ nhất, khối tài liệu lưu trữ về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong

lĩnh vực đào tạo hình thành từ những năm 1950 và chiếm số lượng nhiều nhất là tài

liệu hình thành trong giai đoạn 1960-1980. Đây là những năm tháng khó khăn của đất

nước, trải qua hai cuộc chiến tranh gian khổ, điều kiện vật chất vô cùng thiếu thốn.

Điều này giải thích cho tình trạng vật lý tài liệu không đảm bảo, nhiều tài liệu bị cũ,

91

rách, mờ, mất chữ, rời lẻ nên rất khó để lập hồ sơ, dễ dẫn đến những sai sót trong

quá trình lập hồ sơ, phần nào gây khó khăn cho việc khai thác, sử dụng tài liệu. Hầu

hết các tài liệu cũ, ngay từ khi TTLTQGIII nhận về không hoàn toàn đầy đủ thành

phần tài liệu do hoàn cảnh chiến tranh, nhiều hồ sơ chỉ được lập dựa trên bản lưu giữ

lại được nên không hoàn chỉnh về mặt nội dung hoặc không đồng đều về giá trị của

các tài liệu bên trong hồ sơ.

Thứ hai, việc thực hiện chế độ giao nộp tài liệu vào Lưu trữ lịch sử của một số

cơ quan chưa thực sự tuân thủ quy định và chất lượng tài liệu nộp lưu không cao.

Điều này lý giải cho tình trạng nhiều hồ sơ được lập không hoàn chỉnh, tài liệu bị xé

lẻ giữa các mục lục hồ sơ của một phông lưu trữ (như phông UBKhHNN có hai mục

lục hồ sơ hoàn toàn trùng nhau về thời gian tài liệu và các thành phần tài liệu bên

trong và khối tài liệu các phông Bộ Văn hóa, Bộ Văn hóa Thông tin (3 mục lục hồ sơ)

do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch nộp lưu qua các đợt).

Tài liệu về quan hệ ngoại giao Việt Nam – Liên Xô/Liên bang Nga, chúng tôi

chắc chắn có trong thành phần phông lưu trữ Bộ Ngoại giao như đã nêu. Trong khu

vực thẩm quyền của TTLTQGIII, Bộ Ngoại giao cũng là nguồn giao nộp tài liệu vào

Trung tâm như các Bộ khác. Tuy nhiên, cho đến nay, Bộ Ngoại giao mới chỉ nộp lưu

được khối tài liệu ảnh hình thành trong hoạt động hợp tác quốc tế và TTLTQGIII

chưa thu thập được bất cứ hồ sơ, tài liệu chữ viết nào hình thành trong hoạt động của

Bộ. Đây là nguyên nhân lý giải vì sao phần lớn tài liệu văn kiện ngoại giao giữa hai

nước đang bảo quản tại TTLTQGIII chỉ là bản sao y bản chính.

Thứ ba, vấn đề giải mật tài liệu lưu trữ hiện nay đang là khó khăn đối với

TTLTQGIII do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, trực tiếp là Bộ Công an và Bộ

Nội vụ vẫn chưa có sự thống nhất trong việc thẩm định và quyết định giải mật tài liệu

đã đến hạn giải mật. Điều này thực sự đang là bất cập lớn đối với Trung tâm trong

việc quyết định cho phép khai thác sử dụng tài liệu mật nói chung và tài liệu mật về

quan hệ ngoại giao Việt Nam – Liên Xô nói riêng.

* Nguyên nhân chủ quan

Thứ nhất, trình độ và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức

khoa học tài liệu (chủ yếu là lập hồ sơ) của một số phông lưu trữ có tài liệu về hợp tác

Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào còn nhiều hạn chế. Ngay cả đối với những

phông đã được cán bộ TTLTQGIII chỉnh lý nâng cấp, chúng tôi vẫn gặp một số sai sót

92

trong việc lập hồ sơ tài liệu như: nhiều hồ sơ còn có những tài liệu trùng thừa, tiêu đề

hồ sơ không phản ánh đúng nội dung hồ sơ, văn bản trong hồ sơ sắp xếp còn lộn xộn,

chưa đúng như yêu cầu của lập hồ sơ…

Thứ hai, đội ngũ cán bộ làm công tác công bố, giới thiệu tài liệu còn chưa đáp

ứng được trình độ của các chuyên gia công bố, giới thiệu tài liệu lưu trữ. Hiện nay, đội

ngũ làm công tác này vẫn chưa ai có trình độ tiến sĩ về lịch sử hoặc tương đương. Mặt

khác, đội ngũ này chưa thực sự chủ động trong việc tập hợp tài liệu lưu trữ về quan hệ

hợp tác Việt Nam – Liên Xô nói chúng và trong lĩnh vực đào tạo nói riêng từ các nguồn,

kèm theo những phân tích, đánh giá về giá trị của từng nguồn tài liệu và giới thiệu các tài

liệu có liên quan mà độc giả có thể tham khảo thêm khi tìm hiểu về chủ đề đó.

Thứ ba, hình thức công bố, giới thiệu tài liệu tại TTLTQGIII còn chưa thực sự

phong phú, đa dạng, sáng tạo, mới chỉ dừng lại chủ yếu ở việc xuất bản sách giới thiệu

tài liệu, triển lãm, giới thiệu tài liệu theo chuyên đề, giới thiệu thông tin trên website.

Những hình thức này vẫn chưa được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, chú ý và chưa thu

hút được nhiều độc giả đến khai thác, sử dụng vì họ vẫn chưa thấy được hết tiềm năng và

giá trị thực sự của khối tài liệu này phục vụ các công trình nghiên cứu về quan hệ ngoại

giao Việt Nam nói chung và quan hệ hợp tác đào tạo nói riêng giữa hai Nhà nước giai

đoạn 1950-1991.

3.2. Một số kiến nghị, giải pháp nhằm tổ chức khoa học và khai thác, sử

dụng hiệu quả tài liệu về hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo

Từ việc phân tích những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong công

tác tổ chức khoa học và khai thác, sử dụng tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam –Liên

Xô trong lĩnh vực đào tạo đang bảo quản tại TTLTQGIII, chúng tôi đưa ra một số kiến

nghị và giải pháp cơ bản, nhằm hoàn thiện hơn nữa các công tác này trong thời gian

tới, phục vụ hiệu quả hơn cho nhu cầu khai thác, sử dụng tài liệu của cá nhân và xã hội

đối với khối tài liệu này như sau:

3.2.1. Giải pháp thu thập, bổ sung và sưu tầm tài liệu từ các cơ quan, tổ chức

và cá nhân để đảm bảo mức độ hoàn chỉnh của thành phần tài liệu

Để công tác tổ chức khoa học và tổ chức khai thác, sử dụng khối tài liệu về quan

hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo đạt hiệu quả tối ưu, theo chúng

tôi, việc làm cần thiết và trước hết chính là thu thập và bổ sung các tài liệu về vấn đề

93

nghiên cứu còn thiếu thuộc các phông lưu trữ đang bảo quản tại TTLTQGIII hiện nay.

Căn cứ kết quả công tác thu thập tài liệu của Trung tâm từ năm 1995-2015, chúng tôi

nhận định, các cơ quan Bộ đã cơ bản giao nộp tương đối đầy đủ tài liệu có giá trị bảo

quản vĩnh viễn giai đoạn 1950-1991 (cùng thời gian tài liệu về vấn đề hợp tác Việt

Nam – Liên Xô). Tuy vậy, về phía Trung tâm vẫn cần rà soát và có kế hoạch, biện pháp

thu thập triệt để tài liệu của các cơ quan thuộc giai đoạn này để bổ sung hoàn chỉnh

thành phần tài liệu của các phông lưu trữ Trung tâm đang bảo quản và phát huy.

Đặc biệt đối với trường hợp Bộ Ngoại giao như chúng tôi đã nói ở trên, vấn đề

thu thập tài liệu của Bộ đối với TTLTQGIII hiện nay là hết sức khó khăn, thậm chí gần

như chưa được tiếp cận tài liệu do đặc thù của ngành Ngoại giao. Sự thiếu hụt tài liệu

phông Bộ Ngoại giao, đối với chúng tôi là khó khăn lớn nhất trong nghiên cứu quan hệ

hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô nói riêng và nghiên cứu về lĩnh vực hợp tác quốc

tế của Việt Nam với các nước nói chung tại TTLTQGIII. Với chức năng của một cơ

quan quản lý nhà nước về đối ngoại, chúng tôi chắc chắn, phông lưu trữ Bộ Ngoại giao

có rất nhiều tài liệu có giá trị pháp lý cao, thông tin tài liệu quan trọng, phản ánh chân

thực và khách quan quan hệ ngoại giao Việt Nam – Liên Xô trên mọi lĩnh vực qua các

thời kì. Chúng tôi kiến nghị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần thống nhất và

quyết định vấn đề thu thập, nộp lưu tài liệu của Bộ Ngoại giao, trước hết là nộp lưu

khối tài liệu hình thành từ năm 1986 trở về trước vào TTLTQGIII theo đúng quy định,

nhằm đẩy mạnh phát huy giá trị của khối tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên

Xô tại Trung tâm trong thời gian tới, khi tài liệu đã đảm bảo mức độ hoàn chỉnh.

Đồng thời với việc đẩy mạnh công tác thu thập, bổ sung tài liệu từ các cơ quan,

tổ chức thuộc nguồn nộp lưu vào TTLTQGIII, theo chúng tôi, ý tưởng về sưu tầm tài

liệu của các cá nhân đã từng học tập, nghiên cứu tại Liên Xô trong thời gian từ 1950-

1991 và lập các bộ sưu tập tài liệu tại Trung tâm, nếu được thực hiện sẽ rất có hiệu quả

đối với việc hoàn thiện thành phần hồ sơ, tài liệu lưu trữ về quan hệ hợp tác ngoại giao

Việt Nam – Liên Xô nói chung và về quan hệ hợp tác đào tạo giữa hai nước nói riêng.

Từ hàng vạn LHS Việt Nam đã từng học tập dưới mái trường Xô viết, đối tượng để sưu

tầm tài liệu có thể là các cá nhân điển hình trong những thế hệ LHS gắn liền với các

dấu mốc lịch sử của quan hệ hợp tác đào tạo giữa hai nước, chẳng hạn nhóm 21 nhà

khoa học đầu tiên được cử đi học tại Liên Xô vào năm 1951, đã đóng góp rất nhiều cho

công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước và việc sưu tầm tài liệu về quá trình học tập,

nghiên cứu của họ tại Liên Xô thực sự có ý nghĩa. Cùng với đó, các cá nhân là những

nhà lãnh đạo Đảng, lãnh đạo Nhà nước, các nhà quản lý và các cá nhân tiêu biểu, 94

điển hình trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội…đã học tập tại Liên Xô cũng sẽ là

những nguồn sưu tầm tài liệu về quan hệ hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô đầy tiềm

năng và có giá trị để hoàn thiện hơn nữa thành phần tài liệu về hợp tác đào tạo giữa hai

nước tại Trung tâm nhằm phát huy tối đa giá trị của khối tài liệu này, đặc biệt đối với

việc nghiên cứu lịch sử ngoại giao của Việt Nam với Liên Xô, trong đó có nội dung

hợp tác đào tạo.

3.2.2. Giải mật tài liệu lưu trữ và tạo điều kiện cho phép khai thác sử dụng tài

liệu phù hợp với quy định của Nhà nước

Tài liệu sản sinh trong hơn 40 năm thực hiện quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên

Xô trong lĩnh vực đào tạo có đóng dấu chỉ các mức độ mật, đến nay có rất nhiều tài liệu

đã đến hạn giải mật theo quy định của Luật Lưu trữ. Chúng tôi đề xuất các cơ quan có

thẩm quyền khẩn trương giải mật tài liệu để giúp các nhà nghiên cứu có điều kiện tiếp

cận với tài liệu, nhằm phát huy hơn nữa giá trịcủa khối tài liệu này trong nghiên cứu

lịch sử.

Trong trường hợp tài liệu đã đến hạn giải mật nhưng chưa được giải mật, theo

chúng tôi, lãnh đạo cơ quan TTLTQGIII cân nhắc và cho phép khai thác, sử dụng.

Trong khối này có rất nhiều văn kiện ngoại giao đã được kí kết giữa hai Nhà nước

trong thời gian từ 1950-1991, vì lý do phải bảo vệ bí mật nhà nước nên không được

đưa ra khai thác và sử dụng. Theo chúng tôi, vấn đề hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên

Xô giai đoạn 1950-1991 không còn là vấn đề nhạy cảm và việc đưa ra khai thác, sử

dụng tài liệu mật hình thành cách đây 40 năm, 60 năm không ảnh hưởng đến chính trị,

quốc phòng, an ninh quốc gia, do vậy không cần thiết phải bảo mật. Trong khi đó, một

số tài liệu đã được công bố trên các nguồn tư liệu khác. Vì vậy, chúng tôi đề xuất lãnh

đạo Trung tâm cho phép độc giả được tiếp cận với tài liệu mật đã đến hạn giải mật, để

người nghiên cứu có đủ tư liệu lịch sử nghiên cứu quan hệ ngoại giao Việt Nam – Liên

Xô cũng như quan hệ hợp tác giáo dục đào tạo giữa hai nước.

3.3.3. Hoàn thiện công tác tổ chức khoa học tài liệu

Như chúng tôi đã trình bày, ưu điểm lớn nhất của khối tài liệu về quan hệ hợp

tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo là cơ bản đã được lập hồ sơ và chất

lượng hồ sơ khá tốt. Tuy vậy, về phía TTLTQGIII vẫn cần phải rà soát, kiểm tra chất

95

lượng các hồ sơ , tìm ra những hồ sơ chưa đạt yêu cầu chất lượng, từ đó chỉnh sửa,

lập lại những hồ sơ chưa đạt yêu cầu như: loại bỏ những văn bản trùng thừa trong các

hồ sơ, sắp xếp lại tài liệu bên trong hồ sơ nhằm phản ánh đúng mối quan hệ lịch sử

của tài liệu, biên mục đầy đủ toàn bộ hồ sơ trong các phông nhằm tạo điều kiện thuận

lợi hơn nữa cho độc giả trong việc tra tìm tài liệu, đồng thời cũng dễ dàng hơn trong

việc phát hiện và loại bỏ văn bản trùng thừa. Riêng tài liệu phông UBKhHNN đang

để trong 02 mục lục hồ sơ và có khá nhiều tài liệu về hợp tác đào tạo NCS và TTSKH

giữa hai nước, Trung tâm cần đưa vào kế hoạch chỉnh lý nâng cấp phông nhằm tối ưu

hóa chất lượng hồ sơ tài liệu để phục vụ khai thác, sử dụng tại Trung tâm.

Khối tài liệu về hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô được hình thành từ khá

lâu, tình trạng vật lý không còn tốt nên việc viết chứng từ kết thúc là việc làm cần

thiết để độc giả có thể dễ dàng nắm bắt được tình trạng của tài liệu để có những lưu ý

phù hợp khi khai thác, sử dụng tài liệu để bảo vệ tài liệu hiệu quả hơn.

Cần kiểm tra lại việc viết tiêu đề hồ sơ, nếu tiêu đề hồ sơ nào chưa chính xác,

cần sửa lại nhằm đảm bảo độ chính xác và phản ánh đúng nội dung tài liệu trong hồ

sơ, tạo điều kiện thuận lợi cho độc giả khi tìm kiếm nội dung văn bản bên trong hồ sơ

thông qua tiêu đề hồ sơ.

3.3.4. Tăng cường các hình thức công bố, tổ chức khai thác, sử dụng tài liệu

Hiện nay, hình thức tổ chức khai thác, sử dụng tài liệu tại TTLTQGIII chủ yếu

là độc giả đọc trực tiếp tại Phòng Đọc. Cán bộ Phòng Đọc cần có sự phân loại độc giả

dựa trên nội dung nghiên cứu và mục đích khai thác thông tin của độc giả, từ đó có

thể giới thiệu, gợi ý cho độc giả tham khảo những hồ sơ, tài liệu phù hợp nhằm tạo

điều kiện thuận lợi hơn nữa cho độc giả khi khai thác, sử dụng tài liệu tại Trung tâm,

thu hút nhiều hơn nữa số lượng độc giả đến với Trung tâm.

Trung tâm cần chủ động hơn nữa trong việc tổ chức những hình thức công bố,

khai thác, sử dụng tài liệu về quan hệ hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô như giới

thiệu tài liệu, công bố tài liệu, tổ chức triển lãm, trưng bày tài liệu, cung cấp thông tin

tài liệu lưu trữ từ xa…để các nhà nghiên cứu, các độc giả quan tâm có thể nắm được

những nguồn thông tin tài liệu quí báu, có độ tin cậy cao về quan hệ hợp tác Việt

Nam – Liên Xô.

96

Bên cạnh đó, TTLTQGIII có thể xây dựng các chuyên đề liên quan đến quan

hệ hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô (1950-1991) bằng việc tập hợp các tài liệu

hiện đang lưu trữ trong các phông lưu trữ Phủ Thủ tướng, UBKHNN, UBKhHNN,

Bộ Giáo dục, Bộ Đại học và THCN, Bộ Văn hóa, Bộ Văn hóa Thông tin, Bộ Tài

chính và Bộ Y tế như chúng tôi đã thống kê. Việc tập hợp, sưu tầm tài liệu lưu trữ

theo chuyên đề chắc chẵn sẽ là một biện pháp tốt thu hút được sự quan tâm của các

nhà nghiên cứu và các độc giả quan tâm.

Tiểu kết chƣơng 3

Những nội dung chúng tôi đã trình bày trong chương 3 cho thấy rõ tình hình công

tác tổ chức khoa học và tổ chức khai thác, sử dụng nguồn tài liệu về quan hệ Việt Nam –

Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo đang bảo quản tại TTLTQGIII. Theo chúng tôi, ưu điểm

chính của khối tài liệu này là đã được lập hồ sơ tương đối tốt, cơ bản đáp ứng yêu cầu

khai thác, sử dụng tài liệu tại Trung tâm. Tuy nhiên, với những hạn chế trong công tác

khai thác và sử dụng tài liệu chúng tôi đã nêu, đang ảnh hưởng đến vấn đề phát huy giá

trị của khối tài liệu này trong nghiên cứu khoa học. Với một số kiến nghị, giải pháp của

mình, trọng tâm là các giải pháp về thu thập, bổ sung và giải mật tài liệu, nếu được lưu ý

và thực hiện, chúng tôi hi vọng công tác tổ chức khoa học và tổ chức khai thác, sử dụng

khối tài liệu về quan hệ hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô sẽ được hoàn thiện hơn nữa

để phát huy tối đa giá trị nghiên cứu của khối tài liệu này trong đời sống xã hội.

KẾT LUẬN

Khối tài liệu lưu trữ về quan hệ Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo nằm

trong thành phần tài liệu của 12 phông lưu trữ cơ quan, tổ chức hiện đang bảo quản tại

TTLTQGIII, tập trung chủ yếu ở các phông có vị trí quan trọng trong bộ máy hành chính

nhà nước là Phủ Thủ tướng, UBKHNN, UBKhHNN và phông Bộ Đại học và THCN –

cơ quan quan lý nhà nước về giáo dục đào tạo đại học và THCN thời kì từ 1991 trở về

trước. Về cơ bản, đây là những tài liệu có độ tin cậy và tính xác thực cao, phản ánh tương

đối đầy đủ nội dung quan hệ hợp tác đào tạo giữa hai nước trong chặng đường hơn 40

năm quan hệ (1950-1991). Qua việc phân tích nội dung khối tài liệu này cho chúng ta

thấy được sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô trong việc đào tạo cán bộ có trình độ cao cho

Việt Nam. Hàng chục ngàn LHS Việt Nam được đào tạo tại Liên Xô đã trở thành lực

lượng nòng cốt của công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước, đóng góp đáng kể trong

sự phát triển của nền KHKT Việt Nam và là cầu nối vững chắc cho tình hữu nghị

97

giữa 2 dân tộc. Cùng với những nguồn tư liệu khác, khối tài liệu này thực sự là những

tư liệu có giá trị và là cơ sở cần thiết đối với việc nghiên cứu lịch sử hợp tác ngoại

giao Việt Nam – Liên Xô, góp phần củng cố và thúc đẩy quan hệ hợp tác Việt – Nga

ngày nay. Bên cạnh đó, giá trị tiềm năng khác của khối tài liệu này còn thể hiện ở

chỗ, chúng là một trong những nguồn tư liệu đáng tin cậy để nghiên cứu lịch sử

ngành giáo dục đào tạo và tìm hiểu về đội ngũ trí thức của Việt Nam. Đối với những

nhà quản lý, việc nghiên cứu khối tài liệu này còn giúp ích trong việc đúc rút các bài

học kinh nghiệm trong công tác quản lý đào tạo ngoài nước và các vấn đề khác của

lĩnh vực hợp tác quốc tế về giáo dục đào tạo...

Trên cơ sở đánh giá giá trị tiềm năng của khối tài liệu về hợp tác đào tạo Việt

Nam – Liên Xô cũng như phân tích, nhận xét tình hình thực tế của công tác tổ chức

khoa học và tổ chức khai thác, sử dụng khối tài liệu này tại TTLTQGIII hiện nay,

chúng tôi đưa ra một vài kiến nghị, giải pháp cho các công tác này với mong muốn

phát huy hơn nữa giá trị sử dụng tài liệu vào các mục đích nghiên cứu khác nhau của

đời sống xã hội. Như vậy, với tất cả những nội dung đã được trình bày trong các

chương, về cơ bản, chúng tôi đã đạt được mục đích nghiên cứu và đóng góp của đề

tài luận văn thạc sĩ của mình./.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. TÀI LIỆU LƢU TRỮ ĐANG BẢO QUẢN TẠI TRUNG TÂM LƢU

TRỮ QUỐC GIA III

I.1. HỒ SƠ, TÀI LIỆU PHÔNG PHỦ THỦ TƢỚNG

Phông Phủ Thủ tướng giai đoạn 1945-1954 (Mục lục số 2)

01. Hồ sơ 01: Tập lưu Sắc lệnh năm 1945 của Chủ tịch nước, từ số 01-81;

02. Hồ sơ 1159: Tập lưu nghị định, nghị quyết, quyết định, thông tư, chỉ thị

tháng 10/1961 của Hội đồng Chính phủ, từ số 141-181;

03. Hồ sơ 1160: Tập lưu nghị định, nghị quyết, quyết định, thông tư, chỉ thị

tháng 11-12/1961 của Hội đồng Chính phủ, từ số 182-221;

04. Hồ sơ 1173: Tập lưu nghị định, quyết định, thông tư từ tháng 9-12/1965 của

98

Hội đồng Chính phủ, từ số 182-261;

05. Hồ sơ 1177: Tập lưu nghị định, nghị quyết, quyết định, thông tư, chỉ thị từ

tháng 7-9/1966 của Hội đồng Chính phủ, từ số 116-219;

06. Hồ sơ 1190: Tập lưu nghị quyết, nghị định, quyết định từ tháng 01-3/1971

của Hội đồng Chính phủ, từ số 01-58;

07. Hồ sơ 1209: Tập lưu nghị định, nghị quyết, quyết định từ tháng 10-12/1975

của Hội đồng Chính phủ, từ số 188-234;

08. Hồ sơ 1223: Tập lưu nghị định, quyết định, thông tư từ tháng 10-12/1955

của Thủ tướng, từ số 595-651;

Phông Phủ Thủ tướng giai đoạn 1954-1985 (Mục lục số 03)

09. Hồ sơ 7820: Hiệp định, nghị định, kế hoạch, biên bản, hợp đồng về hợp tác

văn hóa, khoa học năm 1961 với Liên Xô;

10. Hồ sơ 8087: Kế hoạch hợp tác văn hóa và khoa học với Liên Xô năm 1965;

11. Hồ sơ 8114: Báo của Ban hợp tác KHKT với nước ngoài về hợp tác KHKT

giữa nước tà với các nước từ năm 1961-1966;

12. Hồ sơ 8434: Kế hoạch hợp tác văn hóa năm 1969 với Liên Xô;

13. Hồ sơ 8738: Hồ sơ vv hợp tác văn hóa, khoa học kỹ thuật năm 1971 với

Liên Xô;

14. Hồ sơ 9094: Báo cáo của Bộ Đại học và THCN về tình hình khảo sát việc

quản lý lưu học sinh thực tập và nghiên cứu ở Ba Lan, Liên Xô năm 1973.

15. Hồ sơ 9470: Hiệp định hợp tác văn hóa và khoa học năm 1974 với Liên Xô;

16. Hồ sơ 10006: Báo cáo của ĐSQ Việt Nam tại Liên Xô về trao đổi văn hóa

khoa học năm 1976 với Liên Xô;

17. Hồ sơ 10692: Hiệp định, biên bản, kế hoạch hợp tác kinh tế và KHKT với

Liên Xô năm 1978-1980 và năm 1978;

18. Hồ sơ 10702: Hiệp định về sự giá trị tương đương của các văn bằng đào tạo

và các học vị, chức vụ khoa học được cấp hoặc công nhận ở Việt Nam và

Liên Xô năm 1978;

19. Hồ sơ 10703: Công văn của Phủ Thủ tướng, Bộ Đại học và THCN về hợp tác

với các trường đại học ở Liên Xô năm 1978;

20. Hồ sơ 11741: Chương trình hợp tác khoa học xã hội của Bộ ĐHTHCN năm

99

học 1980-1981 và 1981-1982 và Bộ THCN Liên Xô;

21. Hồ sơ 12084: Công văn của Phủ Thủ tướng, Bộ Đại học và THCN về hợp tác

đào tạo với Liên Xô trong kế hoạch 5 năm 1981-1985;

22. Hồ sơ 13152: Hồ sơ v/v hợp tác trong công tác nghiên cứu KHKT và đào

tạo cán bộ với Liên Xô của Bộ Đại học và THCN năm 1984;

23. Hồ sơ 18100: Biên bản đàm phán và kí kết hiệp định, nghị định thư v/v Liên

Xô đào tạo cán bộ KHKT, công nhân kỹ thuật cho Việt Nam năm 1967;

24. Hồ sơ 18256: Quyết định của Phủ Thủ tướng về kế hoạch gửi LHS đại học,

trên đại học năm 1971- 1972 đi các nước XHCN;

25. Hồ sơ 18372: Báo cáo của Bộ ĐHTHCN, ĐSQ Việt Nam tại Liên Xô về tình

hình LHS ở Liên Xô và Đông Âu tốt nghiệp năm học 1972-1973;

26. Hồ sơ 18261: Báo cáo của Bộ ĐHTHCN v/v đưa LHS đi Liên Xô năm 1976;

27. Hồ sơ 18380: Danh mục các ngành nghề đào tạo NCS các nước XHCN ở

Liên Xô năm 1973 của Bộ ĐHTHCN;

28. Hồ sơ 18382: Báo cáo của Đại sứ quán Việt Nam tại Liên Xô v/v cải tiến

công tác quản lý NCS năm 1973;

29. Hồ sơ 18621: Báo cáo của Bộ Đại học và THCN v/v đưa LHS đi Liên Xô

năm 1976;

30. Hồ sơ 19184: Công văn của Bộ Giáo dục, Bộ ĐHTHCN v/v Liên Xô bổ

sung 15 NCS cho Bộ Giáo dục năm 1980;

31. Hồ sơ 19261: Công văn của Phủ Thủ tướng v/v đào tạo cán bộ đại học tại

Liên Xô trong kế hoạch 5 năm 1981-1983 của Bộ Đại học và THCN;

32. Hồ sơ 19430: Báo cáo của Ban Khoa giáo Trung ương về tình hình công tác

LHS Việt Nam ở các nước XHCN từ năm 1951-1983;

I. 2. HỒ SƠ, TÀI LIỆU PHÔNG ỦY BAN KẾ HOẠCH NHÀ NƢỚC (1955-

1995)

33. Hồ sơ 17091: Hiệp định giữa Chính phủ Việt Nam DCCH với Chính phủ Liên

bang CHXHCN Xô viết năm 1952;

34. Hồ sơ 17440: Hiệp định, nghị định thư và kế hoạch hợp tác văn hóa và

KHKT giữa Chính phủ VN và các nước XHCN năm 1961;

35. Hồ sơ 17503: Hồ sơ v/v đàm phán, hợp tác với LX về kinh tế, ngoại thương

100

và văn hóa, KHKT năm 1962;

36. Hồ sơ 17661: Báo cáo tổng kết công tác hợp tác KHKT với các nước cho

đến năm 1966 và phương hướng hợp tác trong thời gian tới của Ban Hợp tác

KHKT – UBKHNN;

37. Hồ sơ 17674: Kế hoạch hợp tác văn hóa và khoa học giữa Việt Nam và Liên

Xô năm 1966;

38. Hồ sơ 17694: Kế hoạch đào tạo cán bộ và công nhân kỹ thuật ở nước ngoài

và báo cáo tình hình TTS, LHS và NCS gửi đi các nước XHCN trong các

năm 1966-1969 của UBKHNN;

39. Hồ sơ 17710: Nghị định thư và tài liệu của Đại sứ quán Việt Nam tại Liên

Xô v/v thỏa thuận danh mục ngành nghề và thời gian học tập của công dân

Việt Nam tại Liên Xô năm 1967;

40. Hồ sơ 17732: Công văn, kế hoạch, báo cáo của Phủ Thủ tướng, UBKHNN,

các Bộ ngành v/v cử các đoàn tham quan, khảo sát, TTS đi các nước năm

1967;

41. Hồ sơ 17790: Hồ sơ v/v cử đoàn khảo sát, TTS đi Liên Xô và Trung Quốc

và kết quả công tác của đoàn năm 1969;

42. Hồ sơ 17858: Hiệp nghị, hiệp định và báo cáo thực hiện Hiệp định giữa VN

và LX về trao đổi hang hóa, giúp đỡ kinh tế cho VN, KHKT, xuất bản bằng

tiếng Việt bộ Toàn tập Lê nin trong năm 1971;

43. Hồ sơ 17905: Hiệp định, nghị định thư, thỏa thuận, biên bản, kế hoạch giữa

VN và LX v/v trao đổi hang hóa và thanh toán, viện trợ, giúp đỡ kinh tế cho

VN, hợp tác văn hóa, giáo dục, KHKT, bưu chính và điện chính trong năm

1972;

44. Hồ sơ 17977: Hiệp định, nghị định thư, kế hoạch, biên bản giữa Chính phủ

Việt Nam và Chính phủ Liên Xô v/v hợp tác văn hóa, KHKT, đào tạo nghề,

y học và y tế trong năm 1973-1976;

45. Hồ sơ 18928: Hồ sơ v/v hợp tác giữa Việt Nam và Liên Xô giai đoạn 1986-

1990.

Tập 11: Tài liệu hợp tác về văn hóa khoa học, giáo dục đào tạo, y tế, lao

động;

46. Hồ sơ 20617: Công văn, kế hoạch, báo cáo của Ban Chấp hành TƯ Đảng

Lao động Việt Nam, Phủ Thủ tướng, Ủy ban Kế hoạch quốc gia và các Bộ

101

ngành về tình hình LHS, TTS ở nước ngoài năm 1956;

47. Hồ sơ 20690: Công văn, kế hoạch LHS, TTS năm 1957 của UBKHNN;

48. Hồ sơ 20963: Công văn, kế hoạch, báo cáo về công tác TTS và LHS năm

1957 của Bộ Giáo dục;

49. Hồ sơ 20706: Báo cáo tổng kết v/v học sinh, cán bộ đi học ở các nước trong

năm 1957 của Bộ Giáo dục;

50. Hồ sơ 20777: Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch LHS trong 2 năm 1957-

1958 của Đảng bộ Bộ Giáo dục;

51. Hồ sơ 20778: Công văn, kế hoạch về LHS, TTS năm 1958 của UBKHNN;

52. Hồ sơ 20782: Báo cáo của Đoàn cán bộ nghiên cứu Ban Tổ chức Trung

ương về tình hình LHS ở các nước Trung Quốc, Liên Xô, Ba Lan, Tiệp

Khắc, Đức năm 1958;

53. Hồ sơ 20967: Công văn, kế hoạch LHS, NCS, TTS năm 1960 của UBKHNN

và các Bộ, ngành;

54. Hồ sơ 21110: Biểu tổng hợp của UBKHNN về LHS tốt nghiệp theo bậc,

nước, ngành và theo thành phần năm 1963;

55. Hồ sơ 21193: Kế hoạch, báo cáo về đào tạo cán bộ và công nhân kỹ thuật ở

nước ngoài năm 1966,1966-1967, 1966-1969 của UBKHNN;

56. Hồ sơ 21291: Quyết định, công văn, chỉ thị của Thủ tướng, Ban Chấp hành

Trung ương Đảng Lao động Việt Nam về công tác đào tạo, sử dụng cán bộ

năm 1971;

57. Hồ sơ 21341: Công văn, báo cáo của Bộ Đại học và THCN về tình hình

công tác NCS, TTS về nước năm 1972;

58. Hồ sơ 21382: Quyết định của Phủ Thủ tướng về kế hoạch gửi LHS đại học

và trên đại học năm 1973-1974;

59. Hồ sơ 21738: Công văn, kế hoạch của Bộ ĐHTHCN v/v gửi LHS 3 năm

1978-1980;

60. Hồ sơ 21890: Công văn, báo cáo của Vụ Giáo dục đào tạo – UBKHNN,

Tổng cục Dạy nghề về đào tạo cán bộ chuyên môn và công nhân kỹ thuật

gửi đi các nước XHCN năm 1984;

I.3. HỒ SƠ, TÀI LIỆU PHÔNG ỦY BAN KHOA HỌC NHÀ NƢỚC (1958-

1992)

61. Hồ sơ 2060: Đề án, báo cáo của UBKhHNN về tình hình cán bộ KHKT và

102

vấn đề đào tạo năm 1959;

62. Hồ sơ 2067: Công văn của Phủ Thủ tướng v/v duyệt kế hoạch LHS năm

1959 cho các Bộ ngành;

63. Hồ sơ 2106: Báo cáo của UBKhHNN về số LHS gửi đi các nước năm 1960;

64. Hồ sơ 2141: Kế hoạch gửi NCS và học sinh đi nước ngoài của UBKhHNN

và các đơn vị thuộc Ủy ban năm 1961;

65. Hồ sơ 2149: Nghị định số 43/CP ngày 04/4/1962 của Hội đồng Chính phủ

quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của UBKhHNN;

66. Hồ sơ 2173: Báo cáo của UBKhHNN thống kê số lượng học sinh và ngành

học chuyên môn của LHS năm 1961-1962.

67. Hồ sơ 2258: Nghị định số 67 và số 117-CP của Hội đồng Chính phủ quy

định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của UBKhHNN;

68. Hồ sơ 2447: Nghị định số 192-CP của Hội đồng Chính phủ ban hành Điều lệ

tổ chức và hoạt động của UBKhHNN năm 1975;

69. Hồ sơ 2781: Báo cáo của Bộ ĐHTHCN về sử dụng cán bộ KHKT có trình

độ cao được đào tạo với sự tham gia giữa các nước XHCN và công tác giảng

dạy, nghiên cứu khoa học trong các Trường ĐH Việt Nam năm 1986;

70. Hồ sơ 2838: Chỉ tiêu kế hoạch đào tạo cán bộ khoa học ngoài nước theo chế

độ NCS năm 1988 của UBKHKTNN giao cho các Bộ, ngành;

71. Hồ sơ 2928: Hiệp định hợp tác văn hóa, KHKT giữa VN và LX năm 1959;

72. Hồ sơ 2963: Biên bản, hiệp định, nghị định thư về hợp tác KHKT giữa VN

với LX năm 1961;

73. Hồ sơ 3013: Biên bản, nghị định, kế hoạch hợp tác khoa học với LX năm

1963;

74. Hồ sơ 3590: Báo cáo của UBKHKTNN, Phòng KHKT – ĐSQ Việt Nam tại

LX về hợp tác KHKT giữa hai nước năm 1989 và thời gian 1976-1989;

75. Hồ sơ 3731: Báo cáo của Viện Khoa học Xã hội VN về tình hình hợp tác

quốc tế năm 1985-1991;

76. Hồ sơ 7310: Báo cáo của Phòng KHKT - ĐSQ Việt Nam tại Liên Xô về tình

hình hợp tác KHKT giữa hai nước năm 1980-1983;

77. Hồ sơ 7314: Báo cáo về kết quả hợp tác giữa VN và LX năm 1981-1985 và

một số biện pháp nâng cao hiệu quả hợp tác trong thời gian tới;

103

I.4. HỒ SƠ, TÀI LIỆU PHÔNG BỘ GIÁO DỤC

Phông Bộ Giáo dục giai đoạn 1945-1980

78. Hồ sơ 4218: Hiệp định, biên bản, kế hoạch hợp tác văn hóa và khoa học giữa

Việt Nam và Liên Xô năm 1955-1975;

79. Hồ sơ 4249: Kế hoạch, báo cáo gửi LHS, NCS từ năm 1958-1963 của

UBKHNN, Bộ Giáo dục và các trường;

80. Hồ sơ 4256: Công văn, kế hoạch, báo cáo của Thủ tướng, Ban Nghiên cứu

Văn Sử Địa, Bộ Giáo dục v/v trao đổi hợp tác văn hóa với nước ngoài năm

1959 và 1959-1960;

81. Hồ sơ 4264: Báo cáo tình hình LHS năm 1959, 1959-1960 của ĐSQ Việt

Nam tại các nước;

82. Hồ sơ 4266: Thống kê tình hình tổng quát LHS đang học nước ngoài đến

ngày 30.6.1959 của Phòng LHS - Vụ Đại học và Chuyên nghiệp;

83. Hồ sơ 4277: Báo cáo tình hình LHS năm 1960-1961 của ĐSQ Việt Nam tại

các nước;

84. Hồ sơ 4305: Công văn, báo cáo của Vụ Đại học và THCN, ĐSQ Việt Nam

tại các nước về quản lý LHS năm 1961;

85. Hồ sơ 4309: Tài liệu của Bộ Giáo dục về LHS, NCS Liên Xô sang Việt Nam

năm 1961-1964;

86. Hồ sơ 4327: Công văn, quyết định, kế hoạch, báo cáo của Thủ tướng, Bộ

Giáo dục, Bộ Công an về công tác NCS, TTS đi các nước năm 1962-1963;

87. Hồ sơ 4334: Đề cương Báo cáo công tác trao đổi văn hóa với nước ngoài

trong năm 1963 của Bộ Giáo dục và các đơn vị trực thuộc;

88. Hồ sơ 4343: Tập công văn, quyết định, thông tư của Thủ tướng, Bộ Giáo

dục, UBKHNN, ĐSQ Việt Nam tại Trung Quốc về NCS, TTS năm 1963;

89. Hồ sơ 4344: Báo cáo của ĐSQ Việt Nam tại các nước về tình hình LHS năm

1963-1964;

90. Hồ sơ 4345: Bảng thống kê NCS, TTS nước ngoài năm học 1963-1964 của

Bộ Giáo dục;

91. Hồ sơ 4364: Báo cáo của Trường Đại học Tổng hợp về LHS các nước ở Việt

Nam năm 1963;

92. Hồ sơ 4376: Báo cáo tổng kết công tác đào tạo ở nước ngoài từ năm 1950-

104

1964 của Bộ Giáo dục.

93. Hồ sơ 4377: Thông tư, công văn, báo cáo của Liên bộ Ngoại giao - Nội vụ-

Tài chính về công tác TTS, LHS năm 1964;

94. Hồ sơ 4415: Công văn của Bộ Giáo dục, ĐSQ Việt Nam tại các nước về đối

ngoại năm 1970;

95. Hồ sơ 446: Công văn, báo cáo của Phủ Thủ tướng, Bộ Giáo dục về công tác

của đoàn cán bộ đi nghiên cứu và học tập ở Liên Xô năm 1970;

96. Hồ sơ 4437: Hồ sơ v/v cử các đoàn cán bộ, học sinh đi công tác, học tập tại

các nước XHCN năm 1974;

Phông Bộ Giáo dục (Tài liệu của Bộ trưởng Nguyễn Hồng Quân)

97. Hồ sơ 598: Nghị định thư về hợp tác giữa Bộ Đại học và THCN Việt Nam

với Bộ Đại học và THCN Liên bang CHXHCN Xô Viết trong những năm

1986-1990, 1987;

I.5. HỒ SƠ, TÀI LIỆU PHÔNG BỘ ĐẠI HỌC VÀ TRUNG HỌC

CHUYÊN NGHIỆP (1965-1991)

98. Hồ sơ 84: Hồ sơ về quan hệ hợp tác giữa Trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội

với Viện Puskin – Liên Xô năm 1975-1980;

99. Hồ sơ 90: Hiệp định, kế hoạch hợp tác và nghị định thư giữa Bộ Đại học và

THCN Việt Nam với Liên Xô và một số nước anh em năm 1970-1980;

100. Hồ sơ 93: Hồ sơ về quan hệ hợp tác giữa Trường Đại học Bách khoa Khắc

Cốp – Liên Xô với Trường Đại học Bách khoa Hà Nội năm 1976-1980;

101. Hồ sơ 633: Nghị quyết, thông báo, báo cáo của Phủ Thủ tướng, Bộ Đại học và

THCN về tình hình LHS và công tác quản lý học sinh năm 1970-1977;

102. Hồ sơ 638: Báo cáo của Bộ Đại học và THCN về công tác đào tạo cán bộ KHKT

có trình độ trên đại học năm 1973;

103. Hồ sơ 647: Chương trình, báo cáo tổng kết công tác quý và cả năm của Vụ Quản lý

học sinh và Bộ ĐHTHCN từ năm 1970-1979;

104. Hồ sơ 655: Quyết định của Phủ thủ tướng, UBKHNN, Bộ Đại học và THCN v/v

giao chỉ tiêu kế hoạch đào tạo LHS, NCS, TTS ở nước ngoài năm 1966-1974;

I.6. HỒ SƠ, TÀI LIỆU PHÔNG BỘ VĂN HÓA

(Tài liệu Vụ Trao đổi văn hóa với nước ngoài)

105. Hồ sơ 147: Kế hoạch hợp tác văn hóa và tình hình thực hiện kế hoạch hợp tác giữa

105

Việt Nam và Liên Xô trong năm 1958;

106. Hồ sơ 152: Kế hoạch và tình hình thực hiện kế hoạch hợp tác văn hóa và khoa học với

Liên Xô trong năm 1959;

107. Hồ sơ 155: Hồ sơ v/v trao đổi LHS, TTS với Liên Xô trong năm 1959;

108. Hồ sơ 159: Hồ sơ v/v trao đổi LHS, TTS với Liên Xô trong năm 1960;

109. Hồ sơ 160: Hồ sơ v/v trao đổi văn hóa với Liên Xô năm 1961, 1962, 1963;

I.7. HỒ SƠ, TÀI LIỆU PHÔNG BỘ VĂN HÓA THÔNG TIN (1976-1995)

(Tài liệu Vụ Hợp tác quốc tế)

110 Hồ sơ 660: Hiệp định về quan hệ hợp tác giữa Nhạc viện TP.HCM và Nhạc viện

Quốc gia Novosibirsk mang tên Gilinka năm 1990;

I.8. HỒ SƠ, TÀI LIỆU BỘ NÔNG LÂM (1946-1960)

111. Hồ sơ 6462: Báo cáo của du học sinh nông học ở Liên Xô và Trung Quốc về

tình hình học tập khóa học 1951-1952;

112. Hồ sơ 6936: Tập công văn của Đại sứ quan Việt Nam ở Bắc Kinh,

UBKHNN, Bộ Giáo dục, Bộ Nông lâm về du học sinh ngành nông lâm ở

Liên Xô và Trung Quốc năm 1959;

II. CÁC GIÁO TRÌNH, BÀI VIẾT, CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU, BÀI

VIẾT KỶ YẾU HỘI THẢO, TÀI LIỆU THAM KHẢO KHÁC

113. Bộ Ngoại giao Việt Nam - Bộ Ngoại giao Liên bang Nga (1983), Việt Nam -

Liên Xô, 30 năm quan hệ (1950 - 1980), Nhà xuất bản Ngoại giao, Hà Nội

và Nhà xuất bản in Tiến bộ, Mát-xcơ-va;

114. Nguyễn Đình Bin, Nguyễn Xuân, Lưu Văn Lợi (2015), Ngoại giao Việt Nam

1945-2000, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội;

115. Công báo nước Việt Nam DCCH năm 1960;

116. Công báo nước Việt Nam DCCH năm 1965;

117. Công báo nước Việt Nam DCCH năm 1966;

118. Công báo nước Việt Nam DCCH năm 1972;

119. Công báo nước CHXHCN Việt Nam năm 1982;

120. Công báo nước CHXHCN Việt Nam năm 1987;

121. Công báo nước CHXHCN Việt Nam năm 1990;

122. Lê Duẩn (1982), Đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô là nguyên tắc là

106

chiến lược và tình cảm của chúng ta, Nhà máy In Tiến Bộ, Hà Nội;

123. Đào Xuân Chúc, Nguyễn Văn Hàm, Vương Đình Quyền, Nguyễn Văn Thâm

(1990), Lý luận và thực tiễn công tác lưu trữ, Nhà xuất bản Đại học và Giáo

dục chuyên nghiệp, Hà Nội;

124. Đào Xuân Chúc, Các nguồn tài liệu lưu trữ ở Việt Nam về quan hệ hợp tác

Việt Nam – Liên Xô (1950-1991), Đề tài nghiên cứu khoa học đặc biệt cấp

Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007-2009;

125. Đào Xuân Chúc (2010), Các nguồn tài liệu lưu trữ về quan hệ Việt Nam –

Liên Xô (1950-1991) Tạp chí Văn thư Lưu trữ Việt Nam, số 1;

126. Hồng Hạnh, Hải Hà (2000), Tìm hiểu sự giúp đỡ của Liên Xô trong hai cuộc

kháng chiến của nhân dân Việt Nam (1945-1975, Tạp chí Lịch sử quân sự,

số 4;

127. Phạm Thị Bích Hải, Vũ Thị Minh Hương, Trần Thị Hương, Philipe Le

Failler, Nguyễn Minh Sơn (2006), Sách chỉ dẫn các phông lưu trữ bảo quản

tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, Hà Nội;

128. Phạm Xuân Hằng (1996), Vấn đề xử lý sử liệu học đối với tài liệu chữ viết,

Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 1, tr.20-25;

129. Bùi Minh Hiển (2013), Lịch sử giáo dục Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học Sư

phạm, Hà Nội;

130. Hiệp định về hợp tác khoa học kỹ thuật giữa nước Việt Nam Dân chủ cộng

hòa và Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô-viết năm 1959, Báo Nhân

dân, năm 1960, Trung tâm Lưu trữ quốc gia III;

131. Hiệp định về hợp tác khoa học kỹ thuật giữa nước Việt Nam Dân chủ cộng

hòa và Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô-viết năm 1974, Báo Nhân

dân, năm 1974, Trung tâm Lưu trữ quốc gia III;

132. Kế hoạch hợp tác văn hóa và khoa học kỹ thuật giữa Chính phủ Việt Nam

Dân chủ cộng hòa và Chính phủ Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô-

viết năm 1976, Báo Nhân dân, số 2, năm 1976, Trung tâm Lưu trữ quốc gia

III,

133. Đinh Xuân Lý (2013), Đối ngoại Việt Nam qua các thời kì lịch sử (1945-

2012), Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội;

134. Nguyễn Ngọc Mao, Vũ Thị Hồng Chuyên (2005), Nhìn lại quan hệ Xô –

107

Việt thời kì 1945-1975, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 1;

135. Ngoại giao Việt Nam 1945-2000, (2015), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia,

Hà Nội;

136. Vũ Dương Ninh (2015), Lịch sử quan hệ đối ngoại Việt Nam (1940-2010),

Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội;

137. Vũ Thị Phụng (2009), Khai thác và phát huy giá trị tài liệu lưu trữ phục vụ

sự nghiệp bảo vệ tổ quốc, Tạp chí Văn thư Lưu trữ Việt Nam, số 1, tr. 14–

16;

138. Nguyễn Lan Phương (2008), Công bố tài liệu tại Trung tâm Lưu trữ quốc

gia III – Đánh giá kết quả và kiến nghị, Luận văn thạc sĩ khoa học chuyên

ngành Lưu trữ học và Tư liệu Khoa Lưu trữ học và Quản trị văn phòng;

139. Nguyễn Minh San (2006), Bách khoa thư giáo dục và đào tạo Việt Nam,

Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội;

140. Lê Văn Thịnh (1999), Quan hệ giữa cách mạng Việt Nam và Liên Xô trong

giai đoạn 1930-1945, Luận án tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử, tư liệu Khoa

Lịch sử;

141. Nguyễn Thị Trâm (2011), Hành trình tìm lại những cán bộ đầu tiên đi học ở

Liên Xô, Website Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam,

http://cpd.vn;

142. Trần Thị Minh Tuyết (2015), Quan hệ Việt Nam – Liên Xô giai đoạn 1945-

1991, Website Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, http://vssr.vass.gov.vn;

143. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III (2010), Các cuộc trưng bày triển lãm của

Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III 1995-2010, Nhà Xuất bản Lao động, Hà

Nội;

144. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III (2011), Hợp tác Việt Nam và Liên bang Nga

trong lĩnh vực đào tạo qua triển lãm tài liệu lưu trữ, Nhà Xuất bản Chính trị

Quốc gia;

145. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (2007), Kỷ yếu Hội thảo

khoa học “Quan hệ Việt Nga: Quá khứ và hiện tại”;

146. Việt Nam Dân quốc Công báo năm 1945;

147. Việt Nam Dân quốc Công báo năm 1948;

108

148. Việt Nam Dân quốc Công báo năm 1949.

BẢNG THỐNG KÊ PHỤ LỤC

109

Trang

Phụ lục 1: Bảng kê hồ sơ, tài liệu lƣu trữ tại TTLTQGIII về quan hệ hợp tác 01-14

Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991)

Phụ lục 2: Một số tài liệu lƣu trữ về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô 15-91

trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991) đang bảo quản tại TTLTQGIII

1. Nhóm tài liệu văn kiện

Phụ lục 2.1: Kế hoạch hợp tác văn hóa khoa học giữa nước Việt Nam DCCH và 15

Liên bang CHXHCN Xô viết năm 1961.

(Tờ số 02-04, Hồ sơ 7820, Mục lục số 3, Phông Phủ Thủ tướng

Phụ lục 2.2: Hiệp định về việc thiết lập quan hệ hợp tác trực tiếp giữa Nhạc 18

viện TP.Hồ Chí Minh và Nhạc viện Quốc gia Novosibirsk mang tên Glinka, ký

tại TP.Hồ Chí Minh ngày 01/12/1990.

(Tờ số 01-02, Hồ sơ 660, Phông Bộ Văn hóa Thông tin (tài liệu Vụ Hợp tác

quốc tế)

2. Nhóm tài liệu về việc Liên Xô đào tạo cho Việt Nam

Phụ lục 2.3: Công văn số 1110UB/LĐCB ngày 05/7/1957 của Ủy ban Kế 20

hoạch Nhà nước về kế hoạch LHS năm 1957 của Bộ Giáo dục

(Tờ số 112, Hồ sơ 20693, Phông Ủy ban Kế hoạch Nhà nước)

Phụ lục 2.4: Quyết định số 203TT ngày 20/7/1971 của Phủ Thủ tướng về kế hoạch 21

gửi LHS đại học và trên đại học năm học 1971-1972 đi các nước XHCN.

(Tờ số 25-26, Hồ sơ 21291, Mục lục số 3, Phông Phủ Thủ tướng)

Phụ lục 2.5: Báo cáo số 1017/QLHS ngày 27/8/1973 của Bộ Đại học và THCN về 23

tình hình công tác đào tạo ở nước ngoài (đại học và dưới đại học).

(Tờ số 01-21, Hồ sơ 2341, Phông Ủy ban Kế hoạch Nhà nước)

Phụ lục 2.6: Thống kê số LHS ở nước ngoài thuộc khối SEV từ năm 1951- 46

1982 và từ 1973-1982.

(Tờ số 01-04, Hồ sơ 2647, Phông Ủy ban Khoa học Nhà nước)

Phụ lục 2.7: Công văn số 265CV-KGTW ngày 14/11/1983 của Ban Khoa giáo 50

Trung ương về tình hình LHS và công tác LHS Việt Nam ở các nước XHCN

từ năm 1951-1983.

(Tờ số 01-17, Hồ sơ 19430, Mục lục số 3, Phông Phủ Thủ tướng)

110

3. Nhóm tài liệu về việc Việt Nam đào tạo cho Liên Xô

Phụ lục 2.8: Công văn số 2811Đ/N ngày 11/8/1964 của Bộ Giáo dục v/v nhận 80

LHS Liên Xô vào Việt Nam học.

(Tờ số 01-02, Hồ sơ 4309, Phông Bộ Giáo dục)

Phụ lục 2.9: Công văn số 393/GV ngày 28/5/1964 của Trường Đại học Tổng 82

hợp về một số công tác lưu sinh viên vào dịp cuối năm.

(Tờ số 108-112, Hồ sơ 4377, Phông Bộ Giáo dục)

Phụ lục 2.10: Công văn số 06/LHS ngày 07/10/1964 của Ban Lưu học sinh – 87

Trường Đại học Tổng hợp v/v báo cáo nội bộ đầu năm học 1964-1965.

111

(Tờ số 115-119, Hồ sơ 4377, Phông Bộ Giáo dục)