ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ HOÀI
QUAN HỆ HỢP TÁC VIỆT NAM – LIÊN XÔ TRONG LĨNH VỰC ĐÀO
TẠO (1950-1991) QUA TÀI LIỆU LƢU TRỮ ĐANG BẢO QUẢN TẠI
TRUNG TÂM LƢU TRỮ QUỐC GIA III
LUẬN VĂN THẠC SỸ
Chuyên ngành: Lƣu trữ học
Hà Nội - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ HOÀI
QUAN HỆ HỢP TÁC VIỆT NAM – LIÊN XÔ TRONG LĨNH VỰC ĐÀO
TẠO (1950-1991) QUA TÀI LIỆU LƢU TRỮ ĐANG BẢO QUẢN TẠI
TRUNG TÂM LƢU TRỮ QUỐC GIA III
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lƣu trữ học
Mã số: 60 32 03 01
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Đào Xuân Chúc
Hà Nội-2016
MỤC LỤC
Trang 03 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU 04
16
CHƢƠNG 1: THÀNH PHẦN VÀ ĐẶC ĐIỂM KHỐI TÀI LIỆU VỀ QUAN HỆ HỢP TÁC VIỆT NAM – LIÊN XÔ TRONG LĨNH VỰC ĐÀO TẠO (1950-1991) ĐANG BẢO QUẢN TẠI TRUNG TÂM LƢU TRỮ QUỐC GIA III
16
1.1. Khái quát khối tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô (1950-1991) đang bảo quản tại TTLTQGIII
18
1.2. Thành phần, đặc điểm khối tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991) tại Trung tâm Lƣu trữ quốc gia III
18
1.2.1. Sơ lược lịch sử hoạt động của các cơ quan hình thành tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950- 1991)
30
1.2.2. Khối lượng, thành phần và đặc điểm khối tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991)
1.2.2.1. Khối lượng tài liệu 30
1.2.2.2. Thành phần tài liệu 31
1.2.2.3. Đặc điểm của tài liệu 33
38
CHƢƠNG 2: NỘI DUNG VÀ GIÁ TRỊ KHỐI TÀI LIỆU VỀ QUAN HỆ HỢP TÁC VIỆT NAM – LIÊN XÔ TRONG LĨNH VỰC ĐÀO TẠO (1950-1991) ĐANG BẢO QUẢN TẠI TRUNG TÂM LƢU TRỮ QUỐC GIA III
38
2.1. Nội dung quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991)
2.1.1. Thời kì kháng chiến chống Pháp từ năm 1950 đến năm 1954 38
41
2.1.2. Thời kì xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước từ năm 1955 đến năm 1964
50
2.1.3. Thời kì cả nước kháng chiến chống Mỹ từ năm 1965 đến năm 1975
57
1
2.1.4. Thời kì từ sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước năm 1976 đến khi kết thúc quan hệ ngoại giao Việt Nam – Liên Xô năm 1991
64
2.2. Giá trị của khối tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991)
64
2.2.1. Là cơ sở để nghiên cứu lịch sử hợp tác ngoại giao Việt Nam – Liên Xô, góp phần củng cố tình hữu nghị và phát triển quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên bang Nga ngày nay
67
2.2.2. Góp phần nghiên cứu lịch sử ngành giáo dục và đào tạo Việt Nam, trọng tâm là giáo dục đại học
71
2.2.3. Giúp các nhà lãnh đạo, quản lý đúc rút bài học kinh nghiệm, đề ra các chủ trương, biện pháp đúng đắn trong công tác quản lý LHS
74
2.2.4. Là một trong những nguồn tư liệu phục vụ nghiên cứu về giới trí thức Việt Nam
79
CHƢƠNG 3: TÌNH HÌNH TỔ CHỨC KHOA HỌC VÀ KHAI THÁC, SỬ DỤNG KHỐI TÀI LIỆU VỀ QUAN HỆ HỢP TÁC VIỆT NAM – LIÊN XÔ TRONG LĨNH VỰC ĐÀO TẠO (1950- 1991) VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP
3.1. Tình hình tổ chức khoa học và khai thác, sử dụng tài liệu 79
3.1.1. Tình hình tổ chức khoa học tài liệu 79
3.1.2. Tình hình khai thác, sử dụng tài liệu 84
91
3.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong công tác tổ chức khoa học và khai thác, sử dụng tài liệu về hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo
93
3.2. Một số kiến nghị, giải pháp nhằm tổ chức khoa học và khai thác, sử dụng hiệu quả tài liệu về hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991)
93
3.2.1. Giải pháp về thu thập, bổ sung và sưu tầm tài liệu từ các cơ quan, tổ chức và cá nhân để đảm bảo sự hoàn chỉnh của thành phần tài liệu
94
3.2.2. Giải mật tài liệu lưu trữ và tạo điều kiện cho phép khai thác, sử phù hợp với quy định của Nhà nước
3.3.3. Hoàn thiện công tác tổ chức khoa học tài liệu 95
96
3.3.4. Tăng cường các hình thức công bố, tổ chức khai thác, sử dụng tài liệu
KẾT LUẬN 97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 98
2
BẢNG THỐNG KÊ PHỤ LỤC 109
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CHXHCN - Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
CNXH - Chủ nghĩa xã hội
DCCH – Dân chủ cộng hòa
ĐSQ- Đại sứ quán
KHKT – Khoa học kỹ thuật
LHS – Lƣu học sinh
NCS – Nghiên cứu sinh
SV – Sinh viên
THCN – Trung học chuyên nghiệp
TTLTQGIII – Trung tâm Lƣu trữ quốc gia III
TTS – Thực tập sinh
TTSKH – Thực tập sinh khoa học
UBKHNN - Ủy ban Kế hoạch Nhà nƣớc
3
UBKhHNN - Ủy ban Khoa học Nhà nƣớc
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong tiến trình phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc, hợp tác quốc tế luôn giữ
một vai trò quan trọng và không một nước nào có thể tồn tại, phát triển một cách bình
thường nếu không có quan hệ với thế giới bên ngoài. Lịch sử ngoại giao của Việt
Nam chúng ta đã cho thấy, quan hệ Việt Nam – Liên Xô đã có ảnh hưởng to lớn tới
tiến trình cách mạng Việt Nam và góp phần tích cực vào sự phát triển của mỗi quốc
gia. Từ sau khi nước Việt Nam DCCH thành lập, năm 1950, Liên Xô là một trong
những nước đầu tiên trên thế giới công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam,
đặt nền móng cho tình hữu nghị bền chặt và phát triển quan hệ hợp tác lâu dài Việt -
Xô trước đây và Việt – Nga ngày nay. Mối quan hệ tốt đẹp này được biểu hiện sinh
động và hiệu quả trên nhiều lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội
của hai nước, trong đó giáo dục đào tạo là hướng hợp tác trọng tâm và đã thu được
nhiều kết quả tốt đẹp trong lịch sử quan hệ ngoại giao giữa hai quốc gia.
Hiện nay, Liên bang Nga đang là đối tác hợp tác chiến lược toàn diện của Việt
Nam trên mọi lĩnh vực. Tuyên bố chung về tăng cường quan hệ đối tác chiến lược
toàn diện giữa Việt Nam và Liên bang Nga hồi tháng 7/2012 nêu rõ, hai bên đều
khẳng định quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện Việt – Nga là tài sản
quý giá của hai nước và cần tiếp tục phát triển để đáp ứng lợi ích lâu dài của hai dân
tộc. Trong chiến lược ngoại giao Việt – Nga, giáo dục và đào tạo luôn được xác định
là một trong những nội dung hợp tác quan trọng, đưa quan hệ song phương trong lĩnh
vực này lên tầm chiến lược.
Về quan hệ hợp tác đào tạo giữa hai nước, trải qua gần 65 năm thiết lập quan
hệ ngoại giao, Liên Xô trước đây và Liên bang Nga hiện nay đã đào tạo, bồi dưỡng
và nâng cao nghiệp vụ cho hàng chục ngàn công dân Việt Nam ở mọi trình độ từ
nghiên cứu sinh, đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề với đa dạng
lĩnh vực và ngành nghề đào tạo. Có thể nhận định, giai đoạn phát triển mạnh mẽ và
đạt nhiều kết quả tốt đẹp nhất trong quan hệ hợp tác đào tạo Việt – Nga là từ đầu năm
1950 khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao cho đến khi Liên Xô tan rã vào năm
4
1991, quan hệ ngoại giao hai nước chuyển sang một bước ngoặt mới. Thời gian này,
Liên Xô đã có công lao to lớn trong việc đào tạo, nâng cao trình độ cho đội ngũ cán
bộ Việt Nam để phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Nhiều
công dân Việt Nam được đào tạo tại Liên Xô đã trở thành các cán bộ cao cấp của
Đảng và Nhà nước; lãnh đạo các Bộ, ban ngành; các nhà khoa học, sư phạm và các
nhà hoạt động văn hóa – xã hội nổi tiếng của Việt Nam. Ngược lại, Việt Nam cũng
giúp Liên Xô đào tạo nhiều cán bộ trong một số chuyên ngành của lĩnh vực khoa học
xã hội và nhân văn như ngôn ngữ, lịch sử, văn học Việt Nam…Quan hệ hợp tác Việt
Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991) đã đem lại rất nhiều kết quả tốt
đẹp cho cả hai phía và đặc biệt có ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc xây dựng,
bảo vệ và phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam.
Năm 2015, kỉ niệm tròn 65 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam – Liên
bang Nga. Đây là dịp thích hợp để chúng ta xem xét, đánh giá lại một cách tổng thể
mối quan hệ Việt Nam – Liên Xô (nay là Việt Nam – Liên bang Nga) đã qua, trong
đó, việc làm rõ và giới thiệu sâu sắc hơn mối quan hệ hợp tác giữa hai nước trong
lĩnh vực đào tạo giai đoạn 1950-1991 qua tài liệu lưu trữ ở TTLTQGIII là thực sự cần
thiết và có ý nghĩa đối với hai quốc gia, góp phần củng cố và tiếp tục đẩy mạnh quan
hệ ngoại giao Việt – Nga trong thời gian tới. Qua đây, nhiều bài học lịch sử sẽ được
rút ra và chắc chắn sẽ giúp quan hệ đối tác chiến lược toàn diện nói chung và hợp tác
đào tạo nói riêng giữa Việt Nam và Liên bang Nga những năm tiếp theo xứng tầm với
bề dày của quan hệ lịch sử giữa hai nước.
Hiện nay, TTLTQGIII đang bảo quản một khối lượng rất lớn tài liệu lưu trữ có
giá trị lịch sử hình thành trong quá trình hoạt động của các cơ quan, tổ chức trung
ương và cá nhân, gia đình, dòng họ tiêu biểu của nước Việt Nam DCCH và
CHXHCN Việt Nam từ năm 1945 đến nay. Qua khảo sát và tìm hiểu ban đầu, chúng
tôi được biết, hiện Trung tâm có khoảng 20 phông lưu trữ cơ quan, tổ chức có thành
phần tài liệu về quan hệ hợp tác giáo dục đào tạo Việt Nam – Liên Xô giai đoạn
1950-1991 và mức độ nhiều ít khác nhau. Rất nhiều tài liệu trong số đó có nội dung
thông tin quan trọng và có giá trị sử dụng cao đối với việc nghiên cứu lịch sử hợp tác
đào tạo giữa hai nước. Đó là những văn bản hợp tác song phương có giá trị pháp lý
quốc tế gồm hiệp ước, hiệp định, nghị định thư, kế hoạch, thỏa thuận hợp tác được kí
kết giữa hai Nhà nước; tài liệu về hoạt động chuyên gia (chủ yếu là chuyên gia Liên
5
Xô giúp Việt Nam) ở hầu hết các lĩnh vực, ngành nghề; các số liệu, báo cáo về kết
quả đào tạo công dân Việt Nam tại Liên Xô ở mọi trình độ; các bức ảnh quý về lễ đón
tiếp, hội đàm giữa lãnh đạo hai nước…
Nhận thức rõ việc tăng cường phát huy giá trị tài liệu lưu trữ quốc gia có ý
nghĩa chính trị, xã hội và nhân văn hết sức sâu sắc, trong những năm qua,
TTLTQGIII đã thực hiện nhiều hình thức phát huy giá trị của tài liệu lưu trữ nhằm
mục đích đưa tài liệu lưu trữ đến gần hơn với công chúng, phục vụ hiệu quả hơn nhu
cầu khai thác, sử dụng tài liệu lưu trữ trong đời sống xã hội. Về chủ đề quan hệ hợp
tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo, năm 2008, Trung tâm đã thực hiện
một cuộc triển lãm với quy mô tương đối lớn, tại đó trưng bày, giới thiệu hàng trăm
tài liệu lưu trữ và tư liệu tiêu biểu được chọn lọc từ các cơ quan lưu trữ của hai nước
và tài liệu sưu tầm từ các cá nhân đã từng học tập, công tác tại Liên Xô trước đây và
Liên bang Nga hiện nay. So với khối lượng tài liệu hiện đang được bảo quản tại
TTLTQGIII về vấn đề hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô, những tài liệu của Trung
tâm được trưng bày tại Triển lãm khá ít (khoảng vài chục văn bản), tự thân nó không
thể phản ánh một cách đầy đủ nội dung chủ đề triển lãm. Hơn nữa, Triển lãm mới chỉ
công bố, giới thiệu được nội dung những tài liệu tiêu biểu và chỉ dẫn địa chỉ lưu trữ là
các cơ quan (kho) lưu trữ của hai nước, trong đó có TTLTQGIII, hoàn toàn chưa giới
thiệu chi tiết địa chỉ lưu trữ đến từng phông, từng hồ sơ và trang tài liệu để người đọc
có thể tiếp cận tài liệu một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất. Rõ ràng, công tác phát
huy giá trị của khối tài liệu lưu trữ về quan hệ hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô
đang bảo quản tại TTLTQGIII đến với công chúng chưa thực sự tương xứng với
nguồn tài liệu khá phong phú, đa dạng về nội dung thông tin và khối lượng tương đối
nhiều tại Trung tâm hiện nay.
Quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên bang Nga dù đã có lịch sử lâu dài và đang
được xác định là trọng tâm trong chiến lược ngoại giao của Việt Nam, tuy nhiên, hiện
vẫn còn một bộ phận không nhỏ công chúng chưa có điều kiện và cơ sở để hiểu hết
được mối quan hệ hợp tác hữu nghị tốt đẹp giữa hai dân tộc trong quá khứ, hoặc chưa
thể nhìn nhận và đánh giá được một cách toàn diện và khách quan về các hoạt động
hợp tác đào tạo giữa hai phía trong thời gian qua. Như đã nêu trên, mặc dù hai Nhà
nước Việt – Nga đã phối hợp tổ chức Triển lãm “Quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên
bang Nga trong lĩnh vực đào tạo qua tài liệu lưu trữ” tại Việt Nam và gặt hái được
6
nhiều thành công, để lại ấn tượng tốt đẹp trong một số đối tượng công chúng. Tuy
nhiên, Triển lãm không thể giúp người xem, người nghiên cứu có cái nhìn nhận và
đánh giá trọn vẹn, đầy đủ về quan hệ hợp tác đào tạo giữa hai nước trong quá khứ.
Chúng tôi thiết nghĩ, ngoài Triển lãm nói trên, rất cần có thêm nhiều công trình
nghiên cứu, giới thiệu sâu rộng và chi tiết hơn nữa, nhiều sản phẩm của hoạt động
phát huy giá trị tài liệu lưu trữ liên quan đến chủ đề quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên
bang Nga nói chung và quan hệ hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô nói riêng trong
lĩnh vực đào tạo (1950-1991) để đông đảo các đối tượng công chúng có thể tiếp cận
được với nguồn tài liệu lưu trữ liên quan đến nội dung này.
Xuất phát từ nhận thức và thực tế trên, dưới góc độ nghiên cứu lưu trữ học,
chúng tôi quyết định lựa chọn vấn đề “Quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong
lĩnh vực đào tạo (1950-1991) qua tài liệu lưu trữ đang bảo quản tại TTLTQGIII”
làm đề tài luận văn cao học. Đề tài nghiên cứu này nếu thực hiện tốt sẽ có ý nghĩa hết
sức quan trọng đối với bản thân chúng tôi trong việc nâng cao ý thức, trách nhiệm
nghề nghiệp gắn liền với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan
TTLTQGIII – nơi bản thân đang công tác. Đồng thời, qua đây tác giả cũng mong
muốn được đóng góp một phần công sức nhỏ bé của mình vào một trong những
nhiệm vụ quan trọng của ngành và của cơ quan là đẩy mạnh phát huy giá trị của tài
liệu lưu trữ với tư cách là “di sản văn hóa đặc biệt của dân tộc”, góp phần đắc lực
vào sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
2. Mục tiêu của đề tài
Đề tài được thực hiện với hai mục tiêu chính sau:
- Giới thiệu nội dung và giá trị tiềm năng của khối tài liệu về quan hệ hợp tác
Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991) đang bảo quản tại
TTLTQGIII;
- Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm phát huy hơn nữa giá trị nghiên
cứu và sử dụng khối tài liệu trên, đặc biệt trong nghiên cứu lịch sử hợp tác Việt Nam
– Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991)
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
+ Đối tượng nghiên cứu:
7
- Khối lượng, đặc điểm, thành phần nội dung và giá trị của khối tài liệu về
quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô giai đoạn 1950- 1991 đang bảo quản tại Trung
tâm;
- Công tác tổ chức khoa học và tổ chức khai thác, sử dụng khối tài liệu về hợp
tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô giai đoạn 1950-1991 tại Trung tâm trong thời gian
qua;
+ Phạm vi nghiên cứu:
- Về phạm vi thời gian: Chúng tôi lựa chọn nghiên cứu tài liệu lưu trữ về quan
hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo từ năm 1950-1991. Sở dĩ
chúng tôi lấy mốc bắt đầu là từ năm 1950 là vì, ngày 14/01/1950, Chính phủ Việt
Nam ra Tuyên bố về việc sẵn sàng thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước trên thế
giới vào ngày, ngay sau đó, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Liên Xô có Nghị quyết về việc thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam vào ngày
30/01/1950. Chúng tôi lấy năm 1991 là mốc kết thúc vì năm này, Liên Xô tan rã, 15
nước cộng hòa thành viên của Liên Xô trở thành các quốc gia độc lập. Riêng Liên
bang Nga trở thành nước kế thừa Liên Xô tiếp nối quan hệ ngoại giao với Việt Nam
và quan hệ hợp tác giữa hai nước chuyển sang một bước ngoặt mới.
- Về phạm vi không gian: Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ của mình, chúng
tôi chỉ khảo sát, nghiên cứu và giới thiệu khối tài liệu lưu trữ về quan hệ hợp tác Việt
Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo đang được bảo quản và phục vụ khai thác, sử
dụng tại TTLTQGIII.
- Về phạm vi đối tượng nghiên cứu:
Hiện nay, loại hình tài liệu lưu trữ đang được bảo quản và phát huy giá trị tại
TTLTQGIII rất đa dạng, hình thành từ hoạt động của các cơ quan, tổ chức và cá nhân
thuộc khu vực thẩm quyền của Trung tâm, gồm tài liệu hành chính, tài liệu KHKT, tài
liệu nghe nhìn và tài liệu có xuất xứ cá nhân; trong đó tài liệu hành chính chiếm
khoảng 70% khối lượng tài liệu Trung tâm thu thập được, với thành phần nội dung vô
cùng phong phú, đa dạng. Về vấn đề nghiên cứu quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô
trong lĩnh vực đào tạo giai đoạn 1950-1991, chúng tôi sẽ tập trung nghiên cứu và khai
thác loại hình tài liệu hành chính chữ viết (tài liệu giấy) đang bảo quản tại Trung tâm.
8
Như đã giới thiệu, TTLTQGIII hiện đang bảo quản và phục vụ khai thác tài
liệu của 20 phông lưu trữ cơ quan, tổ chức, trong đó có thành phần tài liệu về quan hệ
hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô thuộc giai đoạn 1950-1991 và mức độ nhiều ít
tài liệu của mỗi phông khác nhau. Tuy nhiên, trong phạm vi giới hạn đề tài này, đối
tượng nghiên cứu của chúng tôi sẽ chỉ tập trung giới thiệu các phông lưu trữ có nhiều
nhất khối lượng tài liệu về hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo và
thành phần nội dung tài liệu tương đối hoàn chỉnh để nghiên cứu vấn đề; đồng thời
phản ánh đúng chức năng, nhiệm vụ của đơn vị hình thành phông như các phông Phủ
Thủ tướng, UBKHNN, UBKhHNN, Bộ Giáo dục, Bộ Đại học và Trung học chuyên
nghiệp đang bảo quản tại Trung tâm. Đối với các phông còn lại, thành phần tài liệu về
vấn đề nghiên cứu tương đối ít, nội dung thông tin không đầy đủ để phản ánh vấn đề,
vì vậy, chúng tôi chỉ giới thiệu khái quát, chủ yếu là thông tin đến các đối tượng
nghiên cứu về tên các phông lưu trữ, chức năng chính của đơn vị hình thành phông và
số lượng hồ sơ về nội dung hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo ở giai
đoạn này thuộc các phông đó.
- Về phạm vi nội dung vấn đề nghiên cứu: Trên cơ sở khảo sát toàn bộ mục lục
hồ sơ tài liệu đang được quản lý tại Phòng Đọc - TTLTQGIII cũng như tiếp cận trực
tiếp tài liệu lưu trữ ban đầu (khoảng 120 hồ sơ), chúng tôi nhận thấy rằng, nội dung
hợp tác giữa Việt Nam và Liên Xô trong lĩnh vực giáo dục đào tạo rất phong phú về
trình độ đào tạo và lĩnh vực, ngành nghề đào tạo, dàn trải trong khoảng 20 phông lưu
trữ cơ quan, tổ chức và khối tài liệu các công trình XDCB. Trình độ đào tạo phong
phú, từ trung học chuyên nghiệp (học nghề), cao đẳng, ĐH đến NCS, TTSKH và
trình độ cao nhất là đào tạo chuyên gia. Ngành nghề và lĩnh vực hợp tác đào tạo giữa
hai nước rất đa dạng, gồm hầu hết các ngành KHKT và khoa học xã hội nhân văn;
trong lĩnh vực kinh tế ở tất cả các ngành giao thông, xây dựng, công nghiệp, nông -
lâm - ngư nghiệp; trong lĩnh vực văn hóa xã hội có các ngành văn hóa thông tin, nghệ
thuật, thể thao, y tế…Tuy nhiên, trong phạm vi đề tài này, chúng tôi không có tham
vọng nghiên cứu được đầy đủ, chi tiết toàn bộ nội dung hợp tác đào tạo giữa hai nước
gồm tất cả các trình độ và lĩnh vực đào tạo kể trên. Do đó, chúng tôi chỉ giới hạn
nghiên cứu và làm sáng tỏ quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô giai đoạn 1950-1991
về đào tạo các trình độ từ cử nhân trở lên ở tất cả các ngành nghề và lĩnh vực.
9
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra, chúng tôi sẽ thực hiện một
số nhiệm vụ sau đây:
- Khái quát loại hình, khối lượng và thành phần nội dung nguồn tài liệu lưu trữ
về quan hệ ngoại giao Việt Nam – Liên Xô đang bảo quản tại TTLTQGIII;
- Giới thiệu tóm tắt quá trình hình thành và phát triển, chức năng, nhiệm vụ
của các cơ quan, tổ chức hình thành tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô
trong lĩnh vực đào tạo; khái quát khối lượng và giới thiệu, phân tích một số đặc điểm
chính của khối tài liệu này, có gắn với việc xem xét, phê phán tính xác thực của tài
liệu;
- Phân tích, làm rõ nội dung quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh
vực đào tạo thông qua tài liệu lưu trữ và đánh giá giá trị của khối tài liệu này đối với
công tác nghiên cứu được xác định là nhiệm vụ trọng tâm của đề tài;
- Nhận xét tình hình tổ chức khoa học và phát huy giá trị khối tài liệu trên tại
TTLTQGIII trong thời gian qua;
- Đề xuất một số kiến nghị, giải pháp đối với công tác tổ chức khoa học tài liệu
và phát huy giá trị khối tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô tại Trung tâm
trong thời gian tới.
5. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Phát huy giá trị tài liệu lưu trữ luôn được xác định là một trong những nhiệm
vụ và mục đích chính của công tác lưu trữ, nhằm đưa tài liệu lưu trữ đến gần với công
chúng với tư cách là một nguồn tư liệu lịch sử vô cùng quý giá và có ý nghĩa to lớn
đối với công tác nghiên cứu khoa học, nghiên cứu lịch sử cũng như đối với đời sống
xã hội nói chung.
Về chủ đề quan hệ hợp tác ngoại giao Việt Nam – Liên Xô/Liên bang Nga
nghiên cứu dưới góc độ lưu trữ, cho đến nay, đã có một số đề tài nghiên cứu được
chia thành các nhóm sau đây:
- Các công trình nghiên cứu khoa học, có đề tài nghiên cứu cấp Đại học Quốc
gia Hà Nội với tên gọi “Các nguồn tài liệu lưu trữ về quan hệ Việt Nam – Liên Xô
(1950-1991)” của tác giả Đào Xuân Chúc năm 2011. Trong đề tài của mình, tác giả
10
tập trung khảo sát, giới thiệu các nguồn tài liệu đang bảo quản tại Việt Nam, là
TTLTQGIII, Kho Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Viện Phim Việt Nam, khối
tài liệu cá nhân…về mối quan hệ hợp tác ngoại giao giữa hai nước Việt Nam và Liên
Xô giai đoạn 1950-1991. Trong mỗi cơ quan lưu trữ nói trên, tác giả đã giới thiệu một
cách khái quát về loại hình, số lượng và thành phần nội dung của khối tài liệu lưu trữ
có liên quan đến vấn đề nghiên cứu và đánh giá giá trị của nguồn tài liệu cũng như
khả năng khai thác, sử dụng chúng vào mục đích nghiên cứu khoa học, nghiên cứu
lịch sử về quan hệ ngoại giao Việt Nam – Liên Xô giai đoạn này.
- Các bài tham luận tại Hội thảo khoa học “Quan hệ Việt – Nga: Quá khứ và
hiện tại” do Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà
Nội tổ chức ngày 02/11/2007, gồm: “Quan hệ Việt – Nga: Lưu trữ và khai thác các
nguồn tài liệu” của tác giả Nguyễn Thị Hiệp; “Mối quan hệ Việt Nam – Liên Xô
thông qua tài liệu lưu trữ tại Kho Lưu trữu Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam”
của tác giả Nguyễn Văn Lanh; “Quan hệ Việt – Nga qua tài liệu lưu trữ” của tác giả
Nguyễn Lệ Nhung và “Quan hệ Việt Nam – Liên Xô qua tài liệu lưu trữ bảo quản tại
TTLTQGIII” của tác giả Nguyễn Minh Sơn.
- Trên Tạp chí Văn thư Lưu trữ Việt Nam, số 1, 2010 có bài viết “Các nguồn
tài liệu lưu trữ về quan hệ Việt Nam – Liên Xô (1950-1991)” của tác giả Đào Xuân
Chúc đã giới thiệu một cách tóm tắt và khái quát các nguồn tài liệu lưu trữ đang bảo
quản trong các Lưu trữ của Việt Nam về quan hệ Việt Nam – Liên Xô giai đoạn
1950-1991, chính là nội dung của công trình nghiên cứu khoa học cùng tên của tác
giả đã nêu trên.
- Ngoài các công trình nghiên cứu và bài viết của các tác giả cụ thể nói trên về
quan hệ hợp tác ngoại giao Việt Nam – Liên Xô/Liên bang Nga, còn phải kể đến các
hoạt động công bố, giới thiệu tài liệu lưu trữ theo chuyên đề trong quan hệ hợp tác
ngoại giao Việt - Nga đang được lưu trữ tại hai quốc gia. Đó là Triển lãm “Lịch sử
hợp tác KHKT Việt Nam – Liên Xô trong những năm 1950-1990” do Cục Văn thư và
Lưu trữ Nhà nước Việt Nam phối hợp với Cục Lưu trữ Liên bang Nga tổ chức năm
2005 nhân kỉ niệm 55 năm Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam – Liên Xô
(30/01/1950-30/01/2005). Triển lãm trưng bày gần 400 tài liệu bằng văn bản, phim,
ảnh, ghi âm, ấn phẩm, bài báo và các hiện vật phản ánh sinh động lịch sử hoạt động
hợp tác kinh tế và KHKT giữa Việt Nam và Liên Xô, Liên bang Nga trong hơn nửa
11
thế kỷ qua. Ðây là những tài liệu được tuyển chọn từ các kho lưu trữ của Việt
Nam và Liên bang Nga hoặc từ các sưu tập lưu trữ.
Trực tiếp về quan hệ hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô/Liên bang Nga, năm
2009, nhân kỉ niệm 59 năm Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao hai nước (30/01/1950-
30/01/2009), Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước Việt Nam phối hợp với Cục Lưu trữ
Liên bang Nga tổ chức Triển lãm với chủ đề “Hợp tác Việt Nam và Liên bang Nga
trong lĩnh vực đào tạo”. Gần 300 tài liệu, hình ảnh, hiện vật được chọn lọc từ các
Lưu trữ của Việt Nam, Liên bang Nga và của các cá nhân đã từng học tập, công tác
tại Liên bang Xô viết trước đây và Liên bang Nga ngày nay. Trên cơ sở các tài liệu và
hiện vật được trưng bày tại Triển lãm, TTLTQGIII đã biên soạn thành cuốn sách
“Hợp tác Việt Nam và Liên bang Nga trong lĩnh vực đào tạo qua triển lãm tài liệu
lưu trữ” được Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia – Sự thật xuất bản năm 2011. Cuốn
sách giới thiệu đến bạn đọc các văn bản ngoại giao kí kết hợp tác đào tạo công dân
hai nước, hoạt động chuyên gia của nhiều ngành nghề, lĩnh vực.
Như vậy, các công trình nghiên cứu, bài viết và ấn phẩm nêu trên đã hướng tới
việc giới thiệu tài liệu lưu trữ về quan hệ hợp tác ngoại giao Việt Nam – Liên
Xô/Liên bang Nga nói chung cũng như đã đi sâu làm rõ một số lĩnh vực hợp tác giữa
hai nước, trong đó có lĩnh vực đào tạo – vấn đề nghiên cứu của tác giả trong đề tài
này. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu và ấn phẩm kể trên mới chỉ công bố và
giới thiệu một cách khái quát và điển hình các nguồn tài liệu lưu trữ về quan hệ hợp
tác trong lĩnh vực đào tạo xuyên suốt lịch sử ngoại giao hai nước đến ngày nay. Đi
sâu giới thiệu và làm rõ nội dung quan hệ hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô trong
giai đoạn 1950-1991 thể hiện qua tài liệu lưu trữ đang bảo quản tại TTLTQGIII, cho
đến nay, chưa có một tài liệu nào đề cập tới.
6. Các nguồn tƣ liệu tham khảo
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sẽ sử dụng một số nguồn tư liệu tham khảo
chính sau đây:
- Hồ sơ, tài liệu lưu trữ về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực
đào tạo (1950-1991) đang bảo quản tại TTLTQGIII, Hà Nội là nguồn tư liệu chính;
- Các công trình nghiên cứu khoa học, bài viết của các tác giả trên các báo, tạp
chí, kỷ yếu hội nghị khoa học, hội thảo chuyên đề liên quan đến quan hệ Việt Nam –
12
Liên Xô/Liên bang Nga, trong đó có nội dung hợp tác giữa hai nước;
- Một số xuất bản phẩm nghiên cứu lịch sử ngoại giao Việt Nam, quan hệ
ngoại giao Việt Nam – Liên Xô/Liên bang Nga, bao gồm các cuốn sách: “Việt Nam –
Liên Xô – 30 năm quan hệ (1950-1980)” do Nhà xuất bản Tiến bộ, Matxcova và Nhà
xuất bản Sự thật, Hà Nội hợp tác xuất bản năm 1983;“Hợp tác Việt Nam và Liên
bang Nga trong lĩnh vực đào tạo qua triển lãm tài liệu lưu trữ” xuất bản năm 2011
bởi Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia – Sự thật; “Đối ngoại Việt Nam qua các thời kì
lịch sử (1945-2012)” của Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2013; "Lịch sử
giáo dục Việt Nam” của Nhà xuất bản Đại học Sư phạm năm 2013 và cuốn “Lịch sử
ngoại giao Việt Nam 1945-2000” do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia ấn hành năm
2015…
- Khai thác tư liệu trên mạng Internet, Báo Nhân dân, Tạp chí Văn thư Lưu trữ
Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, Tạp chí Khoa học Xã hội Nhân văn…
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này, trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lê
nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng tôi sẽ vận dụng các phương pháp nghiên cứu cụ
thể sau đây:
- Phương pháp khảo sát: Để khảo sát về loại hình, đặc điểm và thành phần nội
dung tài liệu về vấn đề nghiên cứu đang bảo quản tại TTLTQGIII;
- Phương pháp sử liệu học: Để xem xét, xác định giá trị, độ tin cậy của tài liệu
đề cập đến vấn đề nghiên cứu;
- Phương pháp thống kê: Được áp dụng khi chúng tôi thống kê số lượng hồ sơ và
ĐVBQ có trong các phông lưu trữ; số lượng các tài liệu đề cập đến vấn đề trong các phông;
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Để tổng hợp thông tin có trong hồ sơ tài liệu
thành các mặt của nội dung vấn đề nghiên cứu; phân tích giá trị của tài liệu, ưu điểm và
nhược điểm của công tác tổ chức khoa học, tổ chức khai thác sử dụng tài liệu;
- Ngoài ra, chúng tôi sẽ sử dụng thêm phương pháp phỏng vấn, trao đổi và
phương pháp so sánh, đối chiếu giữa tài liệu lưu trữ và các nguồn tư liệu khác trong
việc đánh giá tính xác thực, độ tin cậy của tài liệu.
8. Đóng góp của đề tài
13
Thứ nhất, luận văn giúp người đọc, người nghiên cứu nắm được khái
quát nội dung và giá trị tiềm năng của khối tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam –
Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991) đang bảo quản tại TTLTQGIII;
Thứ hai, luận văn có đưa ra một số đề xuất, giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện
công tác tổ chức khoa học, tổ chức khai thác, sử dụng và phát huy một cách tích cực
giá trị của khối tài liệu này tại TTLTQGIII trong thời gian tới;
Thứ ba, luận văn góp phần nâng cao nhận thức của các nhà lãnh đạo, nhà
nghiên cứu và nhân dân về giá trị của tài liệu lưu trữ nói chung và giá trị của tài liệu
lưu trữ về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo nhằm góp phần
củng cố và tăng cường hơn nữa mối quan hệ hữu nghị tốt đẹp giữa Việt Nam với Liên
Xô trước đây và Liên bang Nga ngày nay.
9. Bố cục nội dung của luận văn
Chƣơng 1: Thành phần và đặc điểm khối tài liệu về quan hệ hợp tác Việt
Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991) đang bảo quản tại Trung
tâm Lƣu trữ quốc gia III
1.1. Khái quát khối tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô (1950-
1991) đang bảo quản tại TTLTQGIII
1.2. Thành phần, đặc điểm khối tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô
trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991) tại TTLTQGIII
1.2.1. Sơ lược lịch sử hoạt động của các cơ quan hình thành tài liệu về quan
hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991)
1.2.2. Khối lượng, thành phần và đặc điểm của khối tài liệu về quan hệ hợp tác
Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991)
Chƣơng 2: Nội dung và giá trị của khối tài liệu về quan hệ hợp tác Việt
Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991) đang bảo quản tại Trung
tâm Lƣu trữ quốc gia III
2.1. Nội dung quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô
2.1.1. Thời kì kháng chiến chống Pháp từ năm 1950 đến năm 1954
2.1.2. Thời kì xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước từ
năm 1955 đến năm 1964
2.1.3. Thời kì cả nước kháng chiến chống Mỹ từ năm 1965 đến năm 1975
2.1.4. Thời kì từ sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước năm 1976 đến
14
khi kết thúc quan hệ ngoại giao Việt Nam – Liên Xô năm 1991
2.2. Giá trị của khối tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh
vực đào tạo (1950-1991)
2.2.1. Là cơ sở để nghiên cứu lịch sử hợp tác ngoại giao Việt Nam – Liên Xô,
góp phần củng cố tình hữu nghị và phát triển quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên bang
Nga ngày nay
2.2.2. Góp phần nghiên cứu lịch sử ngành giáo dục và đào tạo Việt Nam, trọng
tâm là giáo dục đại học
2.2.3. Giúp các nhà lãnh đạo, quản lý đúc rút bài học kinh nghiệm, đề ra các
chủ trương, biện pháp đúng đắn trong công tác quản lý LHS
2.2.4. Là một trong những nguồn tư liệu lịch sử phục vụ nghiên cứu về giới trí
thức Việt Nam
Chƣơng 3: Tình hình tổ chức khoa học và khai thác, sử dụng khối tài liệu
về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991) và
một số kiến nghị, giải pháp
3.1. Tình hình tổ chức khoa học và khai thác, sử dụng tài liệu
3.1.1. Tình hình tổ chức khoa học tài liệu
3.1.2. Tình hình khai thác, sử dụng tài liệu
3.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong công tác tổ chức khoa học và khai
thác, sử dụng tài liệu về hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo
3.2. Một số kiến nghị, giải pháp nhằm tổ chức khoa học và khai thác, sử dụng
hiệu quả tài liệu về hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo
3.2.1. Giải pháp về thu thập, bổ sung và sưu tầm tài liệu từ các cơ quan, tổ chức
và cá nhân để đảm bảo sự hoàn chỉnh của thành phần tài liệu
3.2.2. Giải mật tài liệu lưu trữ và tạo điều kiện cho phép khai thác, sử dụng phù
hợp với quy định của Nhà nước
3.3.3. Hoàn thiện công tác tổ chức khoa học tài liệu
15
3.2.4. Tăng cường các hình thức công bố, tổ chức khai thác, sử dụng tài liệu
CHƢƠNG 1
THÀNH PHẦN VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA KHỐI TÀI LIỆU VỀ QUAN HỆ
HỢP TÁC VIỆT NAM – LIÊN XÔ TRONG LĨNH VỰC ĐÀO TẠO (1950-1991)
ĐANG BẢO QUẢN TẠI TRUNG TÂM LƢU TRỮ QUỐC GIA III
1.1. Khái quát khối tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô
(1950-1991) đang bảo quản tại TTLTQGIII
Với vai trò là một trong bốn Trung tâm Lưu trữ quốc gia thuộc Cục Văn thư và
Lưu trữ nhà nước, hàng năm liên tục thu thập, bổ sung tài liệu lưu trữ từ các cơ quan,
tổ chức thuộc khu vực thẩm quyền lưu trữ, TTLTQGIII hiện nay đang bảo quản
khoảng 14 km giá tài liệu lưu trữ có giá trị lịch sử, hình thành trong quá trình hoạt
động của các cơ quan, tổ chức Trung ương của bộ máy Nhà nước; các đoàn thể, cá
nhân, gia đình và dòng họ tiêu biểu của nước Việt Nam DCCH và nước CHXHCN
Việt Nam và các tài liệu khác được giao quản lý trên địa bàn từ tỉnh Quảng Bình trở
ra phía Bắc. Với sự đa dạng về loại hình tài liệu gồm tài liệu quản lý hành chính, tài
liệu nghe nhìn, tài liệu KHKT và khối tài liệu có xuất xứ cá nhân và sự phong phú về
nội dung thông tin, những tài liệu này là những chứng cứ lịch sử phản ánh chân thực,
khách quan và toàn diện cả quá trình thành lập, xây dựng và bảo vệ đất nước Việt
Nam suốt mấy chục năm qua, trong đó có các hoạt động đối ngoại của Nhà nước Việt
Nam với các nước trên thế giới trong mọi lĩnh vực.
Quan hệ Việt Nam - Liên Xô là một phần của lịch sử ngoại giao của Việt Nam
được phản ánh trong tất cả các loại hình tài liệu giấy và tài liệu nghe nhìn đang bảo
quản tại TTLTQGIII. Để có thông tin khái quát nhất và tương đối chính xác về thành
phần, khối lượng và nội dung khối tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô tại
Trung tâm, chúng tôi đã kế thừa một phần kết quả nghiên cứu của đề tài khoa học cấp
16
Đại học Quốc gia Hà Nội “Các nguồn tài liệu lưu trữ ở Việt Nam về quan hệ hợp tác
Việt Nam – Liên Xô (1950-1991)” của PGS.TS. Đào Xuân Chúc được thực hiện từ
năm 2007-2009, kết hợp với việc rà soát toàn bộ mục lục hồ sơ các phông lưu trữ cơ
quan, tổ chức và các khối tài liệu khác được tiếp tục bổ sung và thu thập mới vào
Trung tâm từ năm 2010 (sau khi đề tài hoàn thành) đến thời điểm hiện tại. Một số nét
khái quát về khối tài liệu này như sau:
Thứ nhất, về loại hình tài liệu giấy, chúng tôi đã thống kê được khoảng 1900
hồ sơ/ĐVBQ có nội dung về hợp tác Việt Nam – Liên Xô giai đoạn 1950-1991 trong
35 phông lưu trữ cơ quan, tổ chức trung ương và một số công trình xây dựng cơ bản
tiêu biểu là Nhà máy Thủy điện Hòa Bình, Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh và Cầu Thăng
Long...Một số phông có khối lượng tài liệu nhiều nhất là phông Phủ Thủ tướng (488
hồ sơ), phông UBKHNN (128 hồ sơ), phông Bộ Văn hóa (87 hồ sơ) và phông
UBKhHNN (76 hồ sơ); tài liệu còn lại rải rác ở các phông lưu trữ cơ quan, tổ chức
Trung ương khác trong bộ máy Nhà nước, gồm các cơ quan quản lý và các doanh
nghiệp nhà nước. Nội dung hợp tác giữa các cơ quan, tổ chức của Nhà nước Việt
Nam với Liên Xô (thể hiện qua các tiêu đề hồ sơ) rất phong phú và toàn diện trên mọi
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội...Đó là những hồ sơ về các cuộc gặp gỡ,
trao đổi, đàm phán, kí kết các văn kiện hợp tác song phương giữa hai nước; tài liệu
thực hiện quan hệ hợp tác trên các lĩnh vực; tài liệu về sự ủng hộ và giúp đỡ của Liên
Xô trong công cuộc kháng chiến kiến quốc của Việt Nam ngay từ khi hai nước thiết
lập quan hệ...Qua khảo sát, chúng tôi thấy tài liệu lưu trữ chữ viết về quan hệ hợp tác
Việt Nam – Liên Xô tại Trung tâm hiện nay chủ yếu phản ánh quan hệ hợp tác trong
các lĩnh vực kinh tế, văn hóa và KHKT.
Thứ hai, về loại hình tài liệu nghe nhìn, hiện nay, Trung tâm đang bảo quản
hàng chục bộ phim thời sự - tài liệu do Liên Xô quay hoặc giúp Việt Nam quay, hơn
2000 tấm ảnh trong tổng số 300.000 tấm ảnh đang được bảo quản tại Trung tâm và
khoảng 60 giờ băng ghi âm, đã ghi chép và phản ánh sinh động các cuộc kháng chiến
của nhân dân Việt Nam chống thực dân và đế quốc, về các cuộc gặp gỡ, trao đổi và
làm việc giữa hai Đảng và hai Nhà nước cũng như ghi lại những dấu mốc quan trọng
đánh dấu sự phát triển của quan hệ hợp tác giữa hai nước trong suốt chặng đường hơn
40 năm quan hệ.
Có thể khẳng định, khối tài liệu về hợp tác ngoại giao Việt Nam – Liên Xô thể
hiện ở tất cả loại hình tài liệu, đang bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia III 17
hiện nay đã phản ánh tương đối đầy đủ và hoàn chỉnh mối quan hệ hợp tác hữu nghị,
toàn diện và tình cảm sâu đậm giữa hai nước kể từ khi Liên Xô công nhận và đồng ý
thiết lập quan hệ với Việt Nam từ năm 1950 đến năm 1991 khi Liên Xô tan rã và
chuyển tiếp sang quan hệ Việt Nam – Liên bang Nga. Nổi bật trên hết là sự giúp đỡ,
ủng hộ về mọi mặt của Liên Xô trong gần nửa thế kỉ đã góp phần quan trọng vào
thắng lợi của cách mạng Việt Nam và tạo nên mối quan hệ đặc biệt thân cận giữa hai
nước trong thời gian này.
1.2. Thành phần, đặc điểm khối tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam –
Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991) đang bảo quản tại Trung tâm Lƣu
trữ quốc gia III
1.2.1. Sơ lược lịch sử hoạt động của các cơ quan hình thành tài liệu về
quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991)
Qua khảo sát toàn bộ hệ thống mục lục hồ sơ và khảo sát trực tiếp tài liệu lưu
trữ đang bảo quản tại TTLTQGIII liên quan đến vấn đề nghiên cứu, chúng tôi thống
kê được 12 phông lưu trữ cơ quan, tổ chức có thành phần nội dung tài liệu về quan hệ
hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô (1950-1991) thuộc phạm vi đối tượng và nội
dung vấn đề nghiên cứu đã được giới hạn tại Phần mở đầu của luận văn. Đó là các cơ
quan, tổ chức trung ương của bộ máy hành chính Nhà nước thời kì 1950-1991 gồm
Phủ Thủ tướng, UBKHNN, UBKhHNN, Bộ Giáo dục, Bộ Đại học và THCN, Bộ Văn
hóa, Bộ Văn hóa Thông tin, Bộ Nội vụ, Bộ Nông lâm, Bộ Công nghiệp và Bộ Y tế.
Tuy nhiên, giữa các phông lưu trữ kể trên có sự chênh lệch về khối lượng hồ sơ, tài
liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu và nội dung thông tin tài liệu được phản ánh ở
nhiều mức độ khác nhau. Trong phạm vi đề tài nghiên cứu của mình, chúng tôi sẽ tập
trung giới thiệu các cơ quan, tổ chức có nhiều nhất khối tài liệu về quan hệ hợp tác
đào tạo Việt Nam – Liên Xô và thành phần nội dung tài liệu tương đối hoàn chỉnh
gồm Phủ Thủ tướng, UBKHNN, UBKhHNN và các cơ quan, tổ chức thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về lĩnh vực giáo dục, đào tạo là Bộ Giáo dục, Bộ Đại học và
THCN, không xét đến mức độ nhiều ít của tài liệu trong hai phông này. Với các
phông nêu trên, chúng tôi sẽ giới thiệu sự hình thành của các cơ quan cũng như tập
trung làm rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan này có liên quan đến sự hình thành
các tài liệu về quan hệ hợp tác đào tạo giữa hai nước trong thành phần tài liệu của
18
mỗi phông.
Riêng đối với phông lưu trữ Bộ Văn hóa, mặc dù số lượng hồ sơ tương đối
nhiều (20 hồ sơ), nhưng tài liệu không liên tục để có thể phản ánh tương đối đầy đủ
nội dung vấn đề; hơn nữa, thông tin tài liệu hầu hết là nội dung các văn kiện hợp tác
giữa hai nước trong một số năm và hoàn toàn trùng lặp thông tin trong khối tài liệu
thuộc các phông quan trọng kể trên và các tài liệu xây dựng, đề nghị phê duyệt kế
hoạch đào tạo LHS của ngành văn hóa tại các nước, do vậy, tài liệu thuộc phông gần
như chỉ có giá trị tham khảo mà ít khai thác, sử dụng để nghiên cứu vấn đề. Cùng với
các phông Bộ Văn hóa Thông tin, Bộ Nội vụ, Bộ Y tế, Bộ Tài chính, Bộ Công nghiệp
và Bộ Nông lâm, số lượng hồ sơ tài liệu về vấn đề nghiên cứu khá ít (mỗi phông dưới
10 hồ sơ), chính vì vậy, chúng tôi chỉ giới thiệu sơ lược nhất về các cơ quan, tổ chức
hình thành phông, không đi sâu và chi tiết đến lịch sử hoạt động, chức năng, nhiệm
vụ cơ cấu tổ chức cụ thể của nhóm cơ quan này trong luận văn.
* Phủ Thủ tướng
Ngày 28/8/1945, Chính phủ Lâm thời Việt Nam DCCH ra tuyên cáo trước
quốc dân đồng bào và cả thế giới về việc thành lập Chính phủ của nước Việt Nam
mới. Phủ Thủ tướng khởi thủy là bộ máy giúp việc cho Chính phủ Lâm thời Việt
Nam DCCH cũng như cho Chủ tịch Hồ Chí Minh với tên gọi Văn phòng Chủ tịch
Chính phủ, được thành lập ngay từ khi Chính phủ Lâm thời ra đời. Là bộ máy giúp
việc của Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch Chính phủ nắm tình hình tổ chức, nhân viên,
hoạt động của các Bộ; điều hòa và phối hợp hoạt động các Bộ; theo dõi tổ chức và
hoạt động chung của Chính phủ; liên lạc với Ban vận động Thi đua ái quốc; theo dõi
dư luận các tầng lớp dân chúng về hoạt động của chính quyền; thông tin trong và
ngoài nước các hoạt động của Chính phủ; tổ chức các cuộc trưng bày; tổ chức các kì
họp Hội đồng Chính phủ [144, tr.18].
Ngày 02/8/1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Sắc lệnh số 87/SL về việc Văn
phòng Chủ tịch Chính phủ đổi tên thành Văn phòng Thủ tướng phủ. Đây là bộ máy
giúp việc cho Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Hội đồng
Chính phủ, Hội đồng Quốc phòng tối cao [146, tr.2 ]. Đến năm 1960, Văn phòng Thủ
tướng phủ được đổi tên thành Văn phòng Phủ Thủ tướng theo Luật Tổ chức Hội đồng
Chính phủ ban hành ngày 14/7/1960 [115, tr.34]. Thời kì này, Văn phòng Phủ Thủ
tướng có các bộ phận giúp việc về lĩnh vực kinh tế đối ngoại (gọi tắt là VP9) và bộ
phận phụ trách lĩnh vực văn xã (gọi tắt là VP15) cùng các bộ phận giúp việc khác. 19
Đến năm 1972, để phù hợp với tình hình mới của cách mạng Việt Nam, chức
năng, nhiệm vụ cơ bản của Văn phòng Phủ Thủ tướng được quy định: “là bộ máy làm
việc của Hội đồng Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ trong việc quản lý mọi mặt
công tác của Chính phủ, đảm bảo cho sự chỉ đạo của Hội đồng Chính phủ và Thủ
tướng Chính phủ đối với toàn bộ hoạt động của các ngành, các địa phương được tập
trung, thống nhất và thông suốt; đảm bảo giúp Hội đồng Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ chỉ đạo các ngành, các cấp tổ chức có hiệu quả các Nghị quyết của Hội
đồng Chính phủ; đảm bảo sinh hoạt của Hội đồng Chính phủ được đều đặn” [118,
tr.8].
Ngày 18/12/1980, Quốc hội Khóa VI, Kỳ họp thứ 7 đã nhất trí thông qua Hiến
pháp mới, trong đó quy định cơ cấu tổ chức mới của bộ máy lãnh đạo Nhà nước, Văn
phòng Phủ Thủ tướng được đổi tên thành Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng.
Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng Bộ trưởng ngày 14/7/1981, Quyết định số
161/HĐBT ngày 29/12/1981 của Hội đồng Bộ trưởng ban hành Điều lệ về chế độ làm
việc và quan hệ công tác của Hội đồng Bộ trưởng trong phiên họp Thường vụ của
Hội đồng Bộ trưởng ngày 24/8/1982, Văn phòng Phủ Thủ tướng có tên là Văn phòng
Hội đồng Bộ trưởng, là bộ máy giúp việc của Hội đồng Bộ trưởng, có nhiệm vụ phục
vụ sự quản lý tập trung thống nhất của Hội đồng Bộ trưởng; phục vụ sự chỉ đạo và
điều hành công việc hàng ngày của Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
[119, tr.88].
* Ủy ban Kế hoạch Nhà nước
UBKHNN có tên gọi đầu tiên là Ủy ban Nghiên cứu Kế hoạch kiến thiết được
thành lập theo Sắc lệnh số 78 ngày 31/12/1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt
Nam DCCH, thực hiện nhiệm vụ “nghiên cứu một kế hoạch thiết thực để kiến thiết
quốc gia về các ngành kinh tế, tài chính, hành chính, văn hóa và thảo ra những đề án
kiến thiết đưa lên Chính phủ” [01, tr.136]. Năm 1955, Ủy ban Nghiên cứu Kế hoạch
kiến thiết được đổi tên thành Ủy ban Kế hoạch Quốc gia tại phiên họp ngày
08/10/1955 của Hội đồng Chính phủ. Thông tư số 603/TTg ngày 14/10/1955 của Thủ
tướng Chính phủ quy định Ủy ban Kế hoạch Quốc gia thực hiện nhiệm vụ “kế hoạch
hóa công cuộc kiến thiết kinh tế và văn hóa, tổ chức và chỉ đạo công tác thống kê và
20
kế toán trong nước” [08, tr.25].
Năm 1961, Ủy ban Kế hoạch Quốc gia được đổi tên thành UBKHNN và thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Nghị định số 158/CP ngày 09/10/1961 của Hội
đồng Chính phủ. Theo đó, UBKHNN “là cơ quan của Hội đồng Chính phủ có trách
nhiệm xây dựng kế hoạch hàng năm và kế hoạch dài hạn phát triển kinh tế và văn
hóa quốc dân theo đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, làm cho các mặt
của nền kinh tế, văn hóa được phát triển theo đúng những quy luật của chủ nghĩa xã
hội và nâng cao không ngừng đời sống vật chất và văn hóa của quốc dân” [02, tr.28].
Một số nhiệm vụ cụ thể của Ủy ban là “xây dựng kế hoạch Nhà nước hàng năm và kế
hoạch Nhà nước dài hạn phát triển nền kinh tế quốc dân về các mặt, trình Hội đồng
Chính phủ phê chuẩn; nghiên cứu các vấn đề hợp tác kinh tế đối với các nước xã hội
chủ nghĩa anh em, hợp tác KHKT với các nước, tức là các vấn đề có quan hệ đến
công tác xây dựng và thực hiện các loại kế hoạch [02, tr.28-29]. Thành phần tài liệu
trong phông lưu trữ UBKHNN đã phản ánh rõ nét chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban
trong quá trình hoạt động. UBKHNN là cơ quan xây dựng kế hoạch hàng năm và dài
hạn ở các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội của Nhà nước. Trong lĩnh vực hợp tác đào
tạo ở nước ngoài (có Liên Xô), UBKHNN tổng hợp từ kế hoạch của các Bộ, ban
ngành trung ương và địa phương đề xuất, cân đối và trình Chính phủ phê duyệt. Cũng
như với mọi vấn đề về hợp tác kinh tế và KHKT với nước ngoài, UBKHNN được
Chính phủ giao nhiệm vụ xây dựng và thực hiện các loại kế hoạch hợp tác giữa nước
ta với các nước. Những nhiệm vụ này đã lý giải vì sao phông lưu trữ UBKHNN là
một trong những đơn vị hình thành nhiều nhất tài liệu về kế hoạch và kết quả hợp tác
Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo.
Sau này, để thu gọn đầu mối quản lý theo xu hướng cải cách hành chính nhà
nước, ngày 21/10/1995, Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 8 đã ra Nghị quyết thành lập
Bộ Kế hoạch và Đầu tư trên cơ sở hợp nhất UBKHNN và Ủy ban Nhà nước về Hợp
tác và Đầu tư.
* Ủy ban Khoa học Nhà nước
Năm 1954, sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng, bước vào thời kì khôi phục
và phát triển kinh tế, KHKT được Đảng và Nhà nước xác định là nguồn lực và động
lực vô cùng quan trọng đối với công cụộc khôi phục và phát triển kinh tế xã hội nói
chung. Trong hoàn cảnh đó, tại kì họp thứ 8, Quốc hội Khóa I ngày 29/4/1958 đã
thông qua Nghị quyết về việc thành lập UBKhHNN. Ủy ban thực sự hoạt động 21
ngay sau Nghị quyết của Quốc hội, nhưng tới ngày 04/3/1959, Chủ tịch nước ban
hành Sắc lệnh số 016-SL thành lập UBKhHNN có quyền hạn và trách nhiệm ngang
một Bộ.
Nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của UBKhHNN được quy định tại
Nghị định số 43-CP ngày 04/04/1962 của Hội đồng Chính phủ. Ủy ban “là cơ quan
của Hội đồng Chính phủ có trách nhiệm quản lý công tác khoa học, kỹ thuật theo
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ và
kế hoạch phát triển khoa học, kỹ thuật, mở rộng hợp tác với nước ngoài về mặt
nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, đưa nền khoa học kỹ thuật Việt Nam lên trình độ tiên
tiến, nhằm phục vụ sản xuất, phục vụ dân sinh, phục vụ quốc phòng, góp phần đẩy
mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện thống
nhất nước nhà” [65, tr.1].
Một số nhiệm vụ cụ thể của Ủy ban được quy định tại Nghị định bao gồm:
- Xây dựng chế độ đào tạo nghiên cứu sinh (gồm đào tạo trong nước và nước
ngoài) và theo dõi việc thực hiện chế độ ấy [65, tr.1-2]. Theo Thông tư số 445/LHS-
QL ngày 07/02/1963 của Bộ Giáo dục về việc thống nhất danh từ các loại LHS do Bộ
Giáo dục quản lý, hàng năm, NCS và TTSKH đi học nước ngoài qua con đường ĐSQ
của ta hoặc qua con đường kí hiệp định trao đổi văn hóa mà trung gian là Ủy ban
Liên lạc văn hóa với nước ngoài. Ngoài ra, còn có con đường thương lượng trực tiếp
giữa UBKhHNN với Viện Hàn lâm Khoa học nước bạn. Tuy nhiên, chế độ tổ chức và
chế độ đào tạo đều giống nhau, do UBKhHNN xây dựng và theo những quy chế
chung của Bộ Giáo dục Cao đẳng nước bạn.
- Trong phạm vi uỷ quyền của Chính phủ, UBKhHNN ký kết với các cơ quan
khoa học, kỹ thuật nước ngoài các hiệp định về hợp tác KHKT và các nhiệm vụ,
quyền hạn khác [65, tr.1-2]. Điều này lý giải cho việc có một số hiệp định và kế
hoạch hợp tác KHKT được kí kết giữa UBKhHNN Việt Nam và Viện Hàn lâm Khoa
học Liên Xô trong thành phần khối tài liệu về hợp tác đào tạo giữa hai nước giai đoạn
1950-1991 tại TTLTQGIII.
Ngoài ra, UBKhHNN được Chính phủ giao thêm các nhiệm vụ: Nghiên cứu và
trình Hội đồng Chính phủ phê chuẩn phương hướng, kế hoạch phát triển khoa học, kỹ
22
thuật của Nhà nước; tổ chức việc điều hòa, phối hợp công tác nghiên cứu khoa học,
kỹ thuật giữa các Bộ, các ngành, các cấp nhằm thực hiện phương hướng, kế hoạch ấy;
theo dõi tình hình đội ngũ cán bộ KHKT; thi hành các hiệp định mà nước ta đã ký kết
với nước ngoài về mặt nghiên cứu KHKT [65, tr.1-2]
Năm 1965, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã quyết định tách UBKhHNN thành
2 cơ quan độc lập là Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước và Viện Khoa học Xã
hội. Ngày 27/5/1967, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 67-CP quy định
nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Uỷ ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước.
Trách nhiệm của Ủy ban “vừa quản lý thống nhất và tập trung công tác khoa học tự
nhiên và kỹ thuật, vừa làm công tác của một Viện nghiên cứu khoa học (khoa học tự
nhiên và kỹ thuật) của Nhà nước theo đường lối của Đảng, các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước nhằm thực hiện cuộc cách mạng kỹ thuật ở nước ta một
cách tốt nhất và nhanh nhất, phục vụ đắc lực cho sản xuất, chiến đấu và đời sống
nhân nhân, phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ CNXH ở miền Bắc, đấu tranh thực
hiện thống nhất nước nhà” [05, tr.155].
Đến năm 1990, Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước được đổi tên thành
UBKhHNN, thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực khoa học tự nhiên,
KHKT, khoa học xã hội nhằm khuyến khích việc sáng tạo và ứng dụng rộng rãi các
thành tựu khoa học và kỹ thuật, đưa lại hiệu quả thiết thực cho thời kỳ phát triển mới
của đất nước. Quá trình hoạt động của UBKhHNN kết thúc vào năm 1992, khi Bộ
Khoa học, Công nghệ và Môi trường được thành lập.
* Bộ Giáo dục
Bộ Quốc gia Giáo dục (sau này là Bộ Giáo dục) là một trong 13 Bộ được
thành lập ngay từ thời kỳ đầu của chính quyền dân chủ nhân dân (trong bản Tuyên
cáo ngày 28/8/1945 của Chính phủ Việt Nam DCCH). Ngày 09/7/1946, Chính phủ
ban hành Sắc lệnh số 119/SL về việc tổ chức Bộ Quốc gia Giáo dục [143, tr.2].
Nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Giáo dục được quy định tại
Nghị định 198CP ngày 07/11/1961 của Hội đồng Chính phủ. Nghị định quy định “Bộ
Giáo dục có trách nhiệm quản lý công tác giáo dục theo đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước; bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm và kế hoạch phát triển sự nghiệp
giáo dục phổ thông, bổ túc văn hóa, nhằm bồi dưỡng thế hệ trẻ thành những người
23
lao động có giác ngộ XHCN, có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ văn hóa và kỹ
thuật, có sức khỏe và góp phần nâng cao không ngừng trình độ văn hóa, kỹ thuật cho
cán bộ và nhân dân lao động; cùng với các Bộ có liên quan phụ trách việc đào tạo
cán bộ khoa học kỹ thuật để thỏa mãn nhu cầu phát triển kinh tế, văn hóa XHCN”
[03, tr.24].
Một số nhiệm vụ và quyền hạn chính Bộ Giáo dục:
“- Nghiên cứu và trình Hội đồng Chính phủ ban hành các chính sách, chế độ,
thể lệ về giáo dục, tổ chức và chỉ đạo thực hiện các chính sách, chế độ, thể lệ ấy;
- Xây dựng và trình Hội đồng Chính phủ phê chuẩn kế hoạch phát triển giáo
dục trong phạm vi Bộ phụ trách; tổ chức và chỉ đạo thực hiện kế hoạch ấy;
- Xây dựng và ban hành các quy chế, chế độ về chuyên môn áp dụng cho các
trường phổ thông, bổ túc văn hóa, đại học, trung cấp chuyên nghiệp nói chung; chỉ
đạo thực hiện các quy chế, chế độ ấy;
- Quản lý các trường đại học, trung cấp chuyên nghiệp trực thuộc Bộ; theo
dõi, tổng hợp tình hình chung ngành đại học và ngành trung cấp chuyên nghiệp (kể
cả các trường trực thuộc các Bộ khác);
- Quản lý lưu học sinh, nghiên cứu sinh Việt Nam ở nước ngoài và lưu học
sinh, NCS nước ngoài ở Việt Nam;
- Thi hành các hiệp định mà nước ta đã kí kết với nước ngoài về mặt giáo dục;
thực hiện việc trao đổi kinh nghiệm công tác giáo dục với nước ngoài” [03, tr.24-25].
Ngày 11/10/1965, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành Quyết định số
165/NQ-TVQH phê chuẩn việc tách Bộ Giáo dục thành Bộ Giáo dục và Bộ Đại học
và Trung học chuyên nghiệp [116, tr.206]. Sau đó, Hội đồng Chính phủ quy định
chức năng, nhiệm vụ của Bộ Giáo dục mới tại Nghị định số 19/CP ngày 29/01/1966,
Bộ Giáo dục thực hiện chức năng giúp Hội đồng Chính phủ quản lý công tác giáo dục
phổ thông, mẫu giáo và bổ túc văn hóa trong cả nước [117, tr.7].
Ngày 31/3/1990, Hội đồng Nhà nước ban hành Quyết định số 244/NQ thành
lập Bộ Giáo dục và Đào tạo trên cơ sở hợp nhất 03 cơ quan là Bộ Giáo dục, Bộ Đại
học và Trung học chuyên nghiệp và Tổng cục Dạy nghề [121, tr.459].
* Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp
24
Bộ Đại học và THCN được thành lập năm 1965 trên cơ sở tách ra từ Bộ Giáo
dục theo Quyết định số 165-NQ/TVQH ngày 11/10/1965 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội [116, tr.206]. Ngày 13/12/1965, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số
242-CP quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Đại học và Trung
học chuyên nghiệp. Theo đó, Bộ Đại học và THCN “là cơ quan của Hội đồng Chính
phủ có trách nhiệm quản lý công tác đào tạo cán bộ KHKT có trình độ trung học, đại
học và cao hơn đại học theo đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước, bảo đảm
hoàn thành tốt nhiệm vụ và kế hoạch phát triển sự nghiệp giáo dục đại học và trung
học chuyên nghiệp nhằm thỏa mãn nhu cầu phát triển kinh tế, văn hóa, củng cố quốc
phòng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh
thực hiện thống nhất nước nhà” [04, tr.98].
Bộ Đại học và THCN có nhiệm vụ và quyền hạn sau:
“- Nghiên cứu và trình Hội đồng Chính phủ ban hành hoặc tự mình ban hành
theo thẩm quyền đã được quy định các chính sách, chế độ, thể lệ về giáo dục đại học
(kể cả các bậc cao hơn đại học) và trung học chuyên nghiệp…
- Căn cứ vào phương hướng, chủ trương, kế hoạch của Nhà nước, hướng dẫn
các ngành, các cấp lập kế hoạch phát triển các trường đại học và trung học chuyên
nghiệp;
- Tham gia với Ủy ban Kế hoạch Nhà nước trong việc tổng hợp và trình Hội
đồng Chính phủ phê duyệt kế hoạch phân phối học sinh và sinh viên tốt nghiệp trung
học chuyên nghiệp và đại học (kể cả số có trình độ cao hơn đại học) ở các trường
trong nước và ngoài nước về;
- Nghiên cứu và trình Hội đồng Chính phủ ban hành hoặc tự mình ban hành
theo thẩm quyền đã được quy định các quy chế, thể lệ về công tác nghiên cứu khoa
học trong các trường đại học và trung học chuyên nghiệp;
- Quản lý các trường, lớp đại học và trung học chuyên nghiệp trực thuộc Bộ;
- Quản lý lưu học sinh, nghiên cứu sinh và thực tập sinh Việt Nam học ở nước
ngoài và LHS nước ngoài học ở Việt Nam
- Thi hành các hiệp định nước ta đã ký kết với nước ngoài về mặt giáo dục đại
học và trung học chuyên nghiệp, thực hiện việc trao đổi kinh nghiệm về giáo dục đại
25
học và trung học chuyên nghiệp với nước ngoài;
- Quản lý tổ chức, cán bộ, lao động, tiền lương, tài sản, tài vụ, vật tư trong các
cơ quan và đơn vị thuộc Bộ theo chế độ chung của Nhà nước” [04, tr.98-100].
Nghị quyết số 782-NQ-HĐNN7 ngày 16/02/1987 của Hội đồng Nhà nước về
việc kiện toàn một bước các cơ quan thuộc Hội đồng Bộ trưởng, cử và miễn nhiệm
một số thành viên của Hội đồng Bộ trưởng, trong đó quy định “thống nhất công tác
dạy nghề vào Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp trên cơ sở sáp nhập Tổng cục
Dạy nghề vào Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp”. Theo đó, chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp có sự
thay đổi [120, tr.134].
Theo quy định tại Nghị định số 151-HĐBT ngày 30/9/1987 của Hội đồng Bộ
trưởng, Bộ Đại học và THCN “là cơ quan của Hội đồng Bộ trưởng có chức năng
quản lý thống nhất trong cả nước về sự nghiệp đào tạo và bồi dưỡng cán bộ khoa học
– kỹ thuật, cán bộ quản lý (phần được giao cho ngành), công nhân kỹ thuật, nhân
viên kỹ thuật, nghiệp vụ thuộc các ngành nghề; quản lý về công tác nghiên cứu và
ứng dụng tiến bộ khoa học và kỹ thuật của các trường đại học, trung học chuyên
nghiệp và dạy nghề nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, khoa
học, kỹ thuật của đất nước, góp phần thực hiện nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ Tổ quốc” [120, tr.251].
Nhiệm vụ và quyền hạn của Bộ Đại học và THCN được quy định tại Nghị
định như sau:
“- Chủ trì hoặc phối hợp với các cơ quan hữu quan xây dựng và trình Hội
đồng Bộ trưởng các quy hoạch, kế hoạch (dài hạn, ngắn hạn) về đào tạo, bồi dưỡng
và phân phối cán bộ khoa học - kỹ thuật, cán bộ quản lý (phần được giao cho ngành),
công nhân kỹ thuật, nhân viên kỹ thuật, nghiệp vụ thuộc các ngành và các cơ quan tổ
chức trong phạm vi cả nước; quyết định việc xây dựng mạng lưới các trường đại học,
trung học chuyên nghiệp, dạy nghề và phân công, phân cấp quản lý các trường;
- Chỉ đạo xây dựng, xét duyệt, ban hành, tổ chức và kiểm tra việc thực hiện
các danh mục ngành học, mục tiêu, chương trình, nội dung, phương thức đào tạo bồi
dưỡng sau đại học, đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề trong cả nước;
- Trực tiếp tổ chức thực hiện phần kế hoạch được giao cho Bộ và hướng dẫn
26
thực hiện phần kế hoạch được giao cho ngành, địa phương;
- Trình Hội đồng Bộ trưởng ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền, các
chính sách, chế độ liên quan đến công tác đào tạo, bồi dưỡng (bao gồm cả tuyển sinh
và phân phối học sinh đã tốt nghiệp) cán bộ khoa học, kỹ thuật, cán bộ quản lý (phần
được giao cho ngành), công nhân kỹ thuật, nhân viên kỹ thuật, nghiệp vụ và các
chính sách, chế độ, tiêu chuẩn liên quan đến đội ngũ cán bộ, công nhân viên chức
của ngành;
- Căn cứ đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, xây
dựng kế hoạch và chính sách khuyến khích các đơn vị thuộc ngành trong cả nước tiến
hành hoạt động khoa học, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật phục vụ nền kinh tế quốc dân và
sự nghiệp phát triển đại học và giáo dục chuyên nghiệp;
- Trình Hội đồng Bộ trưởng quyết định những chính sách, kế hoạch hợp tác
với nước ngoài trong lĩnh vực liên quan tới chức năng, nhiệm vụ của Bộ; quản lý
LHS, thực tập sinh, nghiên cứu sinh, học sinh học nghề của Việt Nam ở nước ngoài
và LHS, thực tập sinh, nghiên cứu sinh, học sinh học học nghề người nước ngoài ở
Việt Nam;
- Tổ chức và quản lý cán bộ, lao động, tiền lương, tài chính, tài sản, vật tư
thiết bị phục vụ sự nghiệp đào tạo, của các đơn vị trực thuộc Bộ theo chế độ, chính
sách quy định của Nhà nước;
- Thanh tra, kiểm tra các Bộ, ngành, địa phương và các trường trong cả nước
về những vấn đề thuộc chức năng quản lý thống nhất của ngành; về việc chấp hành
pháp luật, chính sách, chế độ, quy chế trong lĩnh vực đào tạo và bồi dưỡng cán bộ
khoa học, kỹ thuật, cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật, nhân viên kỹ thuật, nghiệp vụ
(kể cả tập trung, tại chức, chính quy và không chính quy)” [120, tr.251].
* Bộ Văn hóa
Lịch sử hình thành và hoạt động của cơ quan Bộ Văn hóa - tiền thân của cơ
quan Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ngày nay trải qua hai giai đoạn sau:
+ Giai đoạn 1954-1977:
Trong Thông cáo của Hội đồng Chính phủ tại kỳ họp trung tuần tháng 8/1954,
Hội đồng Chính phủ đã quyết định thành lập Bộ Tuyên truyền – đơn vị tiền thân của
27
Bộ Văn hóa. Sau đó, phiên họp ngày 20/9/1955 Quốc hội Khóa V đã đổi tên Bộ
Tuyên truyền thành Bộ Văn hóa. Chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và tổ chức bộ máy
của Bộ Văn hóa được quy định tại Nghị định số 135-CP ngày 29/9/1961 của Hội
đồng Chính phủ. Nghị định nêu rõ, Bộ Văn hóa là cơ quan của Hội đồng Chính phủ
có trách nhiệm quản lý công tác văn hóa theo đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước; bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ và kế hoạch phát triển sự nghiệp văn học,
nghệ thuật, điện ảnh, xuất bản, thư viện, câu lạc bộ, văn hóa quần chúng, bảo tồn bảo
tàng và triển lãm. Hoạt động đến năm 1977, Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn
Bộ Văn hóa và Tổng cục Thông tin thành Bộ Văn hóa và Thông tin, như vậy, kết thúc
thời kì hoạt động của cơ quan Bộ Văn hóa.
+ Giai đoạn 1985-1990:
Tại Biên bản phiên họp ngày 24/6/1981 của Quốc hội khóa VII có ghi: Chủ
tịch Hội đồng Bộ trưởng giới thiệu danh sách thành viên của Hội đồng, trong đó Bộ
trưởng Bộ Văn hóa là ông Nguyễn Văn Hiếu. Bốn năm sau đó, ngành Văn hóa tiếp
tục được kiện toàn theo Nghị định số 88-HĐBT ngày 27/3/1985 của Hội đồng Bộ
trưởng. Nghị định quy định Bộ Văn hóa là cơ quan quản lý nhà nước về công tác văn
hóa. Đến đây, trong cơ cấu của Hội đồng Chính phủ không còn Bộ Văn hóa và Thông
tin khi đã tách riêng hai lĩnh vực quản lý là văn hóa và thông tin, lĩnh vực văn hóa
thuộc quyền quản lý của Bộ Văn hóa như giai đoạn trước.
Ngày 31/3/1990, Hội đồng Nhà nước ban hành Quyết định số 244NQ/HĐNN8
về việc thành lập, đổi tên một số Bộ, Ủy ban Nhà nước và phê chuẩn việc giải thể
một số Tổng cục; cụ thể thành lập Bộ Văn hóa – Thông tin – Thể thao và Du lịch trên
cơ sở hợp nhất Bộ Văn hóa, Bộ Thông tin, Tổng cục Thể dục Thể thao và Tổng cục
Du lịch để thống nhất quản lý nhà nước về văn hóa, thông tin, phát thanh, truyền
hình, báo chí, xuất bản, thể dục thể thao và du lịch. Đến đây, cơ quan Bộ Văn hóa
chấm dứt hoạt động.
* Bộ Văn hóa Thông tin
Năm 1977 là thời gian bắt đầu hoạt động của cơ quan Bộ Văn hóa Thông tin
sau khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn Bộ Văn hóa và Tổng cục Thông tin
thành Bộ Văn hóa và Thông tin. Sau gần chục năm hoạt động, thực hiện nhiệm vụ
quản lý lĩnh vực văn hóa và thông tin, năm 1985, Hội đồng Bộ trưởng đã phê duyệt
28
Bộ Văn hóa là cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa tại Nghị định số 88-HĐBT ngày
27/3/1985; thành lập Bộ Thông tin phụ trách lĩnh vực thông tin được tách ra từ Bộ
Văn hóa Thông tin. Sau đó, Bộ Văn hóa tiếp tục được đổi tên thành Bộ Văn hóa
Thông tin trên cơ sở hợp nhất 04 cơ quan Bộ Văn hóa, Bộ Thông tin, Tổng cục Thể
dục Thể thao và Tổng cục Du lịch năm 1989 và từ năm 2007 đến nay, có tên gọi là
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
* Bộ Nội vụ (1945-1970)
Là một trong 13 Bộ đầu tiên được Chính phủ Lâm thời Việt Nam DCCH thành
lập năm 1945, trong quá trình hoạt động của mình, Bộ Nội vụ thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về công tác tổ chức và dân chính nhằm phát huy tác dụng của bộ
máy chính quyền nhân dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước [127, tr.68].
* Bộ Y tế
Bộ Y tế ra đời trong khoảng tháng 9 năm 1945, ngay sau khi Cách mạng tháng
Tám thành công và nước Việt Nam DCCH ra đời. Tại Nghị định số 153-CP ngày
05/10/1961 của Hội đồng Chính phủ, Bộ Y tế được quy định là cơ quan của Hội đồng
Chính phủ có trách nhiệm quản lý công tác y tế theo đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước; kết hợp chặt chẽ đông y với tây y trong công tác y tế, bảo đảm hoàn
thành tốt nhiệm vụ và kế hoạch công tác vệ sinh, phòng bệnh, phòng dịch, chữa bệnh
nhằm bảo vệ và tăng cường sức khỏe của nhân dân để phục vụ sản xuất, phục vụ dân
sinh, phục vụ quốc phòng. Hai trong nhiều nhiệm vụ cụ thể của Bộ Y tế là quản lý,
đào tạo cán bộ chuyên môn của ngành và thi hành các hiệp định hợp tác về y tế mà
nước ta đã kí kết với nước ngoài [127, tr.226].
* Bộ Tài chính
Ngày 28/8/1945, cùng với Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, Bộ Tài chính là 1 trong 13 bộ đầu tiên được thành lập và cũng là một trong nhiều
Bộ ngành có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời nhất. Hơn 70 năm qua, tên gọi cơ
quan Bộ Tài chính không thay đổi và vẫn thực hiện thống nhất chức năng quản lý nhà
nước về lĩnh vực tài chính, kế toán, ngân sách trong phạm vi cả nước. Bộ Tài chính
cũng như ngành tài chính nói chung đã không ngừng lớn mạnh và trưởng thành, cùng
với nhân dân cả nước góp phần to lớn vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất
29
nước.
* Bộ Công nghiệp
Bộ Công nghiệp được thành lập năm 1955 trên cơ sở được tách ra cùng Bộ
Thương nghiệp từ Bộ Công thương. Nhiệm vụ chính của Bộ là nghiên cứu, xây dựng
chương trình, kế hoạch sản xuất công nghiệp, kế hoạch phục hồi và phát triển công
nghiệp và quản lý các xí nghiệp quốc doanh và hợp doanh; nghiên cứu, thăm dò hầm
mỏ, bảo vệ tài nguyên khoáng sản quốc gia [127, tr.118]...
* Bộ Nông lâm
Tiền thân của Bộ Nông lâm là Bộ Canh nông, được thành lập từ năm 1945.
Đến tháng 02/1955, Bộ Canh nông được đổi tên thành Bộ Nông lâm. Nhiệm vụ của
Bộ là thực hiện chương trình tăng gia sản xuất ở Bắc bộ và Bắc Trung bộ, đồng thời
với việc xây dựng nền tảng và phát triển nền kinh tế nông nghiệp của cả nước. Một
trong các nhiệm vụ cụ thể của Bộ Nông lâm thời kì này là hợp tác nghiên cứu khoa
học nông nghiệp và lâm nghiệp, đẩy mạnh công tác chuyên gia nông lâm nghiệp và
đào tạo cán bộ trong và ngoài nước phục vụ phát triển nền kinh tế nông nghiệp nước
nhà [127, tr.84-85].
1.2.2. Khối lƣợng, thành phần và đặc điểm khối tài liệu về quan hệ hợp
tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991)
1.2.2.1. Khối lượng tài liệu
Với giới hạn nội dung nghiên cứu quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong
lĩnh vực đào tạo các trình độ từ cử nhân trở lên (1950-1991) qua tài liệu lưu trữ chữ
viết trên nền giấy đang bảo quản tại TTLTQGIII, chúng tôi đã khảo sát tài liệu và
thống kê được 171/1900 hồ sơ (ĐVBQ) về quan hệ hợp tác ngoại giao Việt Nam –
Liên Xô đã nêu, thuộc 12 phông lưu trữ cơ quan, tổ chức và là nguồn tư liệu trực tiếp
được sử dụng để thực hiện nội dung chính của luận văn. Dưới đây là bảng thống kê
chi tiết số lượng hồ sơ về hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô giai đoạn 1950-1991
trong từng phông lưu trữ.
Stt Tên phông Thời gian tài liệu Số lƣợng hồ sơ
01 Phủ Thủ tướng 1954-1985 36
02 Ủy ban Kế hoạch Nhà nước 1955-1995 27
30
03 Ủy ban Khoa học Nhà nước 1958-1992 20
04 Bộ Giáo dục 1945-1980 35
05 Bộ Đại học và THCN 1965-1991 15
Bộ Văn hóa 06 1955-1990 19
Bộ Văn hóa Thông tin (tài liệu 1975-1995 07 03
Vụ Hợp tác quốc tế)
08 Bộ Nội vụ 1945-1970 06
09 Bộ Y tế 1945-1995 10
10 Bộ Tài chính 1945-1997 06
11 Bộ Công nghiệp 1953-1960 02
12 Bộ Nông lâm 1945-1960 05
1.2.2.2. Thành phần tài liệu
Trước khi làm rõ các thành phần tài liệu về hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh
vực đào tạo (1950-1991) trong 12 phông lưu trữ cơ quan nêu trên, chúng tôi có một số khái
quát chung về thành phần tài liệu của các phông này để độc giả và các nhà nghiên cứu có cái
nhìn tổng thể về khối tài liệu các phông này đang bảo quản tại TTLTQGIII. Về cơ bản, tài
liệu của 12 phông lưu trữ được tổ chức phân loại, lập hồ sơ theo phương án Mặt hoạt động –
Thời gian, hoàn toàn phù hợp với đặc điểm của các đơn vị hình thành phông (10/12 phông
đóng). Đó là các nhóm tài liệu tổng hợp, hợp tác quốc tế, tổ chức cán bộ, tài chính kế toán,
xây dựng cơ bản, KHKT và các nhóm tài liệu cụ thể của các ngành kinh tế, văn hóa xã hội.
Riêng đối với các phông lưu trữ Phủ Thủ tướng và UBKHNN, khối lượng tài liệu của các
phông này nhiều nhất trong toàn bộ hơn 100 phông lưu trữ cơ quan, tổ chức đang được lưu
trữ tại Trung tâm (hơn 600 trăm mét giá) và thành phần tài liệu vô cùng phong phú, phản
ánh toàn diện mọi mặt của đời sống xã hội theo đúng chức năng, nhiệm vụ được giao cho
các cơ quan ở từng thời kì lịch sử.
Về phông lưu trữ Bộ Giáo dục giai đoạn 1945-1980, trong tổng số 78.3 mét tài liệu
thuộc phông, ngoài các nhóm tài liệu phổ biến như tổng hợp, tổ chức cán bộ, tài vụ kế toán,
các nhóm tài liệu quản lý lĩnh vực chuyên môn giáo dục bao gồm tài liệu về xây dựng, chỉ
đạo thực hiện và tổng kết công tác bổ túc văn hóa, giáo dục các bậc học từ mẫu giáo, phổ
thông, THCN và đại học; nhóm tài liệu về cải cách giáo dục theo đúng chức năng, nhiệm vụ
của Bộ đã được giới thiệu chi tiết ở trên. Cũng như Bộ Giáo dục, thành phần nội dung của
31
10 mét tài liệu phông lưu trữ Bộ Đại học và THCN bao gồm các nhóm tài liệu hình thành
phổ biến và các nhóm tài liệu quản lý lĩnh vực đào tạo đại học và THCN trong phạm vi cả
nước.
Đối với phông lưu trữ các Bộ còn lại, thành phần tài liệu gồm các nhóm tài liệu hành
chính phổ biến hình thành trong hoạt động của các cơ quan như tài liệu về quy hoạch, kế
hoạch, tổ chức cán bộ, tài chính kế toán, thi đua khen thưởng... và các nhóm tài liệu quản lý
ngành, lĩnh vực chuyên môn được giao, đó là các ngành nông lâm nghiệp, y tế, nội vụ, giao
thông và bưu điện; tuy nhiên khối lượng tài liệu các phông này không nhiều, chỉ dưới 10 mét
giá trong mỗi phông.
Từ tổng thể tình hình tài liệu về hợp tác ngoại giao Việt Nam –Liên Xô thuộc 12
phông lưu trữ nêu trên, chúng tôi đi sâu khảo sát, nghiên cứu khối tài liệu quản lý hành chính
nhà nước trên nền giấy về hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo giai đoạn
1950-1991 đang bảo quản tại Trung tâm. Thành phần nội dung khối tài liệu này bao gồm các
nhóm sau cụ thể sau:
- Nhóm tài liệu văn kiện là cơ sở pháp lý cho việc thực hiện quan hệ hợp tác Việt
Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo. Thành phần tài liệu của nhóm này là các văn bản hợp
tác song phương gồm hiệp ước, hiệp định, nghị định thư, kế hoạch hợp tác văn hóa, KHKT
và hợp tác đào tạo được kí kết giữa hai nước trong suốt chặng đường hơn 40 năm quan hệ.
Các văn bản này tập trung hầu hết ở phông Phủ Thủ tướng, UBKHNN và rải rác ở các
phông UBKhHNN, Bộ Giáo dục, Bộ Đại học và THCN, Bộ Văn hóa, Bộ Văn hóa Thông
tin và Bộ Tài chính.
- Nhóm tài liệu về việc triển khai quan hệ hợp tác đào tạo sau khi đã thiết lập các cơ
sở pháp lý giữa hai Nhà nước. Đó là tài liệu về xây dựng và phê duyệt chương trình, chỉ tiêu
kế hoạch đào tạo LHS Việt Nam ở nước ngoài, trong đó có Liên Xô, gồm các văn bản là
công văn, quyết định, tờ trình của các cơ quan và danh sách LHS đi nước ngoài. Nhóm này
có nhiều nhất trong các phông UBKHNN, Phủ Thủ tướng, Bộ Giáo dục và Đại học và
THCN và nội dung tài liệu tương đối hoàn chỉnh.
- Nhóm tài liệu về thực hiện chương trình, kế hoạch hợp tác đào tạo với Liên Xô
hàng năm và nhiều năm của các cơ quan, tổ chức Trung ương. Đó là các công văn, báo cáo
của ĐSQ Việt Nam tại Liên Xô, Phủ Thủ tướng và các Bộ ngành về tình hình công tác quản
lý LHS ở nước ngoài, kết quả đào tạo cán bộ tại Liên Xô thể hiện ở số lượng và chất lượng
32
đào tạo, các buổi trao đổi, làm việc giữa các cơ quan của hai Nhà nước trong vấn đề đào tạo
cán bộ; một số thư từ trao đổi của cá nhân và báo cáo tình hình, kết quả học tập của một số
LHS Việt Nam tại Liên Xô. Các thành phần tài liệu này có trong hầu hết 12 phông lưu trữ kể
trên và mức độ nhiều ít khác nhau, tập trung chủ yếu ở các phông UBKHNN, Phủ Thủ
tướng, UBKHNN, UBKhHNN, Bộ Giáo dục, Bộ Đại học và THCN.
1.2.2.3. Đặc điểm của tài liệu
+ Về vật mang tin và kỹ thuật chế tác: Tài liệu được viết tay, đánh máy và in
rô-nê-ô trên nhiều vật mang tin khác nhau gồm giấy dó, giấy pơ luya, giấy có độ
trắng kém. Có thể khẳng định, văn bản được ban hành trong thời kì 1950-1991 về vấn
đề nghiên cứu khá logic và phù hợp giữa thời gian tài liệu được hình thành và vật
mang tin với các kỹ thuật chế tác đặc trưng từng thời kì.
+ Tình trạng vật lý tài liệu: Hiện nay, hầu như tất cả các tài liệu về quan hệ
hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo đều đã được tổ chức khoa học và
được tu bổ, phục chế. Nhiều tài liệu còn nguyên vẹn, có thể khai thác, sử dụng mà
không gặp quá nhiều khó khăn. Nhưng bên cạnh đó cũng có không ít tài liệu đã bị ăn
mòn nên rất mỏng, bị mủn, bị thủng, rách, mất chữ, nhòe chữ hoặc mất một phần văn
bản.
+ Ngôn ngữ của tài liệu: Hầu hết tài liệu về hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong
lĩnh vực đào tạo hình thành trong quá trình hoạt động của các cơ quan Trung ương
của bộ máy hành chính Nhà nước, được đánh máy và viết tay bằng ngôn ngữ tiếng
Việt có dấu. Bên cạnh đó, có khá nhiều tài liệu của các tổ chức, cá nhân nước ngoài
được đánh máy hoặc viết tay bằng tiếng nước ngoài (tiếng Nga, tiếng Pháp và tiếng
Anh), đó là một số bản dự thảo văn kiện hợp tác do phía Liên Xô lập, một vài thư từ
trao đổi, góp ý của phía Liên Xô và các bản lý lịch, kế hoạch học tập, nghiên cứu của
LHS Liên Xô tại Việt Nam…Nhìn chung, các tài liệu tiếng nước ngoài kể trên đã
được lược dịch sang tiếng Việt. Ví dụ, các hồ sơ 4309, 4327, 4364, 4415 thuộc phông
Bộ Giáo dục, hồ sơ 147, 152 thuộc phông Bộ Văn hóa (tài liệu Vụ Trao đổi văn hóa
với nước ngoài), hồ sơ 3590 trong phông UBKhHNN…
+ Một số yếu tố thể thức văn bản: Trong phần này, chúng tôi chỉ tập trung
khảo sát và nhận xét một số yếu tố thể thức có liên quan đến nguồn gốc xuất xứ của
văn bản gồm tác giả, địa danh và ngày tháng năm ban hành văn bản, chữ kí của người
33
có thẩm quyền và con dấu của cơ quan, cùng với việc nhận xét, đối chiếu thành phần
nội dung của một số tài liệu với các nguồn tư liệu khác. Qua đó, chúng tôi có thể
khuyến nghị đối với người đọc về tính xác thực và độ tin cậy của khối tài liệu về quan
hệ hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô đang bảo quản tại TTLTQGIII hiện nay. Cụ
thể:
- Về tác giả của tài liệu: Có thể nói, đánh giá độ tin cậy của tài liệu thực chất
là xem xét độ tin cậy của tác giả văn bản. Qua nghiên cứu, chúng tôi thấy, đại đa số
tài liệu về quan hệ hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô đều xác định rõ tác giả của
văn bản. Phần lớn tác giả là các cơ quan của Đảng; các cơ quan, tổ chức trong bộ máy
hành chính Nhà nước ở cấp trung ương; các cơ sở nghiên cứu, đào tạo công lập đóng
trụ sở tại TP.Hà Nội; ĐSQ Việt Nam tại Matxcova - Liên Xô và một số ít tác giả khác
(cá nhân, tập thể cá nhân, các cơ quan ở địa phương)
Trong số tài liệu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu tiếp cận được, chúng tôi
cũng gặp một số tài liệu không có thành phần tác giả văn bản hoặc khó nhận biết tác
giả. Trường hợp này thường là các tài liệu phục vụ họp, một số báo cáo tóm tắt hoặc
tổng kết một vấn đề cụ thể được đánh máy, không có bất cứ thành phần thể thức nào
của văn bản, tuy nhiên nội dung thông tin trong nhiều tài liệu lại rất có giá trị để
nghiên cứu vấn đề. Ví dụ, Báo cáo tóm tắt về tình hình hợp tác KHKT Việt – Xô [45,
tr.34-37; Đề cương Báo cáo của Bộ Giáo dục về việc tổng kết công tác trao đổi văn
hóa từ khi hòa bình lập đến năm 1963 [87, tr1-18]...
- Về địa danh và ngày, tháng, năm ban hành văn bản: Hầu hết văn bản của các
cơ quan, tổ chức nêu trên ban hành thời kì 1950-1991 về vấn đề hợp tác đào tạo Việt
Nam – Liên Xô đều xác định rõ địa điểm và thời gian văn bản được hình thành. Địa
danh văn bản thường là Hà Nội – nơi đóng trụ sở của các cơ quan, tổ chức Trung
ương của Đảng và Nhà nước qua các thời kì, là Matxcova đối với các văn bản, tài liệu
của ĐSQ Việt Nam tại Liên Xô và một số địa danh cụ thể khác. Bên cạnh đó, có
nhiều văn bản không ghi ngày, tháng, chỉ ghi năm ban hành; một số ít văn bản không
ghi cả ngày, tháng, năm ban hành nên rất khó xác định chính xác về thời gian của tài
liệu
- Về chữ ký của người có thẩm quyền và con dấu của cơ quan: Có thể khẳng
định rằng, chức vụ, họ tên, chữ ký của người có thẩm quyền và dấu của cơ quan ban
34
hành văn bản được coi là những yếu tố quan trọng bậc nhất để đảm bảo tính xác thực
của văn bản và độ tin cậy của thông tin tài liệu. Tuy vậy, khi nghiên cứu tài liệu về
quan hệ hợp tác Việt Nam –Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo, chúng tôi thấy chủ yếu là
các văn bản sao (gồm sao y bản chính, sao lục và trích sao), có chữ kí và con dấu của
cơ quan sao văn bản; văn bản là bản gốc có chữ kí trực tiếp của người có thẩm quyền
cũng khá nhiều. Nhóm tài liệu bản sao hầu hết là các văn kiện ngoại giao như hiệp
ước, hiệp định, nghị định thư và kế hoạch hợp tác song phương được Phủ Thủ tướng,
các Bộ sao y bản chính và có dấu của cơ quan sao văn bản. Số lượng văn bản là bản
gốc, bản chính, có đầy đủ các yếu tố thông tin về chức vụ, họ tên và chữ ký của người
có thẩm quyền ước tính khoảng gần một nửa trong tổng số văn bản có nội dung về
vấn đề nghiên cứu.
Đáng nói hơn, trong số tất cả các văn kiện ngoại giao chúng tôi tiếp cận được,
chỉ duy nhất một văn bản là bản gốc, có đầy đủ chữ kí trực tiếp của người đại diện và
con dấu của cơ quan hai bên, đó là Hiệp định về việc thiết lập quan hệ hợp tác trực
tiếp giữa Nhạc viện TP.Hồ Chí Minh và Nhạc viện Quốc gia Novosibirisk mang tên
Glinka, kí tại TP.Hồ Chí Minh ngày 01/12/1990 [110, tr.1-2].
- Về thành phần nội dung tài liệu:
Về quan hệ ngoại giao Việt Nam –Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo, có rất nhiều
văn kiện hợp tác song phương là các hiệp định, hiệp ước, nghị định thư, kế hoạc hợp
tác...được kí kết giữa hai Nhà nước trong suốt thời gian từ năm 1950-1991. Đại đa số
các văn kiện này là bản sao y bản chính, có đóng dấu chỉ các mức độ mật. Theo quy
định, chúng tôi không được phép tiếp cận và khai thác, sử dụng những tài liệu này do
chưa được giải mật. Tuy nhiên, qua xem xét tính chất và mức độ nhạy cảm của vấn
đề nghiên cứu, đồng thời xem xét nguyện vọng chính đáng của chúng tôi muốn hoàn
thành đề tài nghiên cứu thực sự có chất lượng, Ban lãnh đạo TTLTQGIII đã tạo điều
kiện, cho phép tôi được tiếp cận các tài liệu mật đã được công bố, giới thiệu rộng rãi
với điều kiện chỉ được xem xét các đặc điểm bề ngoài của tài liệu và đối chiếu nội
dung với các tài liệu đã được công bố, giới thiệu trong các nguồn tư liệu khác; cam
kết không sử dụng, trích dẫn bất cứ thông tin nào trong tài liệu mật. Chúng tôi đã tiến
hành so sánh, đối chiếu một số văn kiện trong hồ sơ tài liệu của các phông và với các
văn bản đã được công bố trên một số nguồn tư liệu khác. Kết quả so sánh một số văn
kiện này cho thấy, nội dung thông tin tài liệu lưu trữ và văn kiện đã được công bố
35
hoàn toàn trùng khớp. Một vài ví dụ cụ thể sau:
Ví dụ 1: Hiệp định hợp tác khoa học giữa UBKhHNN nước Việt Nam DCCH
và Viện Hàn lâm Khoa học Liên bang CHCNXH Xô Viết, ký tại Matxcova ngày
26/5/1961 đã được công bố trong cuốn “Việt Nam – Liên Xô – 30 năm quan hệ (1950-
1980)” (trang 60-68) hoàn toàn trùng khớp thông tin với tờ số 13-20 của hồ sơ 7820,
phông Phủ Thủ tướng và tờ số 01-04 của hồ sơ 2963, phông UBKHNN;
Ví dụ 2: Tờ số 397-404 của cuốn “Việt Nam – Liên Xô – 30 năm quan hệ
(1950-1980)” là Hiệp định hợp tác văn hóa và khoa học giữa Chính phủ nước Việt
Nam DCCH và Chính phủ Liên bang CHXHCN Xô Viết, ký tại Matxcova ngày
11/11/1974 đã được công bố hoàn toàn xác thực, phù hợp với thông tin văn kiện là tờ
số 50-57 của hồ sơ 9470, phông Phủ Thủ tướng;
Ví dụ 3: Chúng tôi đã đối chiếu và thấy sự phù hợp về nội dung Hiệp định hợp
tác văn hóa và KHKT giữa Chính phủ Việt Nam DCCH và Chính phủ Liên bang
CHXHCN Xô viết năm 1959 đăng trên Báo Nhân dân ngày 03/02/1960 (tr.45-46) với
văn kiện trong hồ sơ 2928 phông UBKhHNN đang bảo quản tại TTLTQGIII.
Ngoài nhóm văn kiện ngoại giao nói trên, đối với các tài liệu còn lại về quan
hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991), chúng tôi cũng
tiến hành so sánh, đối chiếu một vài số liệu thống kê trong tài liệu lưu trữ thuộc các
phông với nhau và với một số nguồn tư liệu khác. Dưới đây là một số ví dụ cụ thể:
Ví dụ 1: Tờ số 06 của hồ sơ 21890 thuộc phông UBKHNN với tiêu đề là
“Công văn, báo cáo của Vụ Giáo dục đào tạo – UBKHNN, Tổng cục Dạy nghề về
đào tạo cán bộ chuyên môn và công nhân kỹ thuật gửi đi các nước XHCN năm 1984”
và tờ số 16 của hồ sơ 19430 “Báo cáo của Ban Khoa giáo Trung ương về tình hình
công tác LHS ở các nước XHCN từ năm 1951-1983” thuộc phông Phủ Thủ tướng
(Mục lục 3) đều là Bảng thống kê LHS đại học và trên đại học gửi đi đào tạo ở các
nước (tính đến 31/12/1982) và cùng cho một con số thống nhất là 21.351 người.
Ví dụ 2: Tại Báo cáo số 1617/LHS ngày 27/8/1973 của Bộ Đại học và THCN
về tình hình công tác đào tạo ở nước ngoài (phần đại học và dưới đại học) [58, tr.20-
21], chúng tôi đã tổng hợp số liệu thống kê LHS đi Liên Xô từ năm 1951-1954 và con
số chính xác là 161 LHS. Tuy nhiên, trong bài viết “Tìm hiểu sự giúp đỡ của Liên Xô
trong hai cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam (1945-1975”của tác giả Hồng
36
Hạnh và Hải Hà đăng trên Tạp chí Lịch sử quân sự năm 2000, số lượng LHS Việt
Nam tại Liên Xô từ năm 1953-1954 đã là 200 người.
Ví dụ 3: Tại văn bản Đề cương tổng kết công tác trao đổi văn hóa của Bộ Giáo
dục ban hành trong năm 1963, số lượng LHS Việt Nam ở các nước XHCN tính đến
năm 1963 là 6.500 người [87, tr.10]. Tuy nhiên, trong Công văn số 265CV-KGTW
ngày 14/11/1963 của Ban Khoa Giáo – Ban Chấp hành Trung ương về tình hình công
tác LHS Việt Nam ở các nước XHCN từ năm 1951-1983, số lượng LHS Việt Nam
học tại các nước tính đến năm 1964 mới là 5.776 người [32, tr.3]. Ở đây có sự chênh
lệch khá lớn về số lượng LHS Việt Nam, do đó, các nhà nghiên cứu cần thiết phải xác
minh tính xác thực của thông tin tài liệu trước khi sử dụng tài liệu để nghiên cứu vấn
đề…
Tóm lại, từ các kết quả khái quát và nhận xét các đặc điểm chính của khối tài
liệu về hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo kể trên, chúng tôi thấy, về
cơ bản khối tài liệu này đảm bảo độ chân thực và chính xác tương đối cao, phản ánh
sự việc, vấn đề một cách khách quan. Tuy nhiên, qua một vài trường hợp so sánh, đối
chiếu có sự khác nhau về một vài số liệu thống kê giữa tài liệu thuộc các phông lưu
trữ với nhau và với một số nguồn tư liệu khác nêu trên, chúng tôi khuyến nghị các
nhà nghiên cứu, trước khi sử dụng tài liệu cần có sự xác minh độ tin cậy và phù hợp
của số liệu giữa các tài liệu để có thể lựa chọn và sử dụng được những thông tin chính
xác, phù hợp nhất cho vấn đề nghiên cứu.
Tiểu kết chƣơng 1
Có thể khẳng định rằng sự ra đời và hoạt động hầu hết các cơ quan trong 13 cơ
quan, tổ chức có thành phần tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong
lĩnh vực đào tạo (1950-1991) gắn liền với sự ra đời của nước Việt Nam DCCH và hai
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của dân tộc Việt Nam. Đây là
những cơ quan trung ương, có vị trí và vai trò lớn trong điều hành hoạt động chung
của Chính phủ và quản lý nhà nước trong từng ngành, lĩnh vực. Đối với chức năng
quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo trong thời gian từ năm 1950-1991, Nhà nước
giao cho Bộ Giáo dục và Đại học và THCN đảm nhiệm. Quá trình hoạt động của Bộ
Giáo dục và Đại học và THCN đã hình thành một khối lượng tài liệu tương đối lớn,
phản ánh đầy đủ các nhiệm vụ cụ thể để thực hiện chức năng quản lý lĩnh vực giáo
37
dục đào tạo trong phạm vi cả nước, cùng với thành phần tài liệu của cơ quan Phủ Thủ
tướng và UBKHNN đã thể hiện rõ nét lịch sử ngành giáo dục đào tạo Việt Nam nói
riêng và vấn đề đào tạo cán bộ của Nhà nước Việt Nam nói riêng, trong đó có nội
dung hợp tác đào tạo giữa Việt Nam và Liên Xô. Với những đặc điểm chính của khối
tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô đang bảo quản tại TTLTQGIII hiện
nay, theo đánh giá của chúng tôi, đây là những tài liệu lưu trữ có tính xác thực và độ
tin cậy tương đối cao, thực sự là một trong những nguồn tư liệu lịch sử có giá trị, có
thể phục vụ đắc lực trong công tác nghiên cứu lịch sử cũng như các mục đích nghiên
cứu khác trong đời sống xã hội.
CHƢƠNG 2
NỘI DUNG VÀ GIÁ TRỊ KHỐI TÀI LIỆU VỀ QUAN HỆ HỢP TÁC
VIỆT NAM – LIÊN XÔ TRONG LĨNH VỰC ĐÀO TẠO (1950-1991)
ĐANG BẢO QUẢN TẠI TRUNG TÂM LƢU TRỮ QUỐC GIA III
2.1. Nội dung quan hệ hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô
Quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo bắt đầu ngay từ
năm 1950, khi Liên Xô chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam, kết
thúc bằng sự tan rã của Nhà nước Liên bang CHXHCN Xô viết năm 1991 và chuyển
tiếp sang quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga ngày nay. Để làm rõ nội dung vấn đề
nghiên cứu, chúng tôi phân chia chặng đường hơn 40 năm hợp tác đào tạo Việt Nam
– Liên Xô thành 4 thời kì nhỏ gắn liền với hoàn cảnh lịch sử Việt Nam cũng như phù
hợp với các chặng đường phát triển của ngành giáo dục đại học nước nhà. Cơ sở để
phân kì quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo được dựa trên
một số xuất bản phẩm về lịch sử giáo dục đào tạo Việt Nam cũng như căn cứ nội
dung nhiều tài liệu có tính chất tổng hợp về tình hình quản lý đào tạo LHS Việt Nam
ở nước ngoài của Ban Khoa giáo Trung ương, Bộ Giáo dục, Bộ Đại học và THCN
trong thành phần khối tài liệu hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô đang bảo quản tại
TTLTQGIII đã tổng kết, đánh giá công tác này trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Đó là:
38
2.1.1. Thời kì kháng chiến chống Pháp từ năm 1950 đến năm 1954
a. Đặc điểm tình hình
Ngày 14/01/1950, trong bối cảnh cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam
chống thực dân Pháp xâm lược đang diễn ra ác liệt, Chính phủ nước Việt Nam DCCH
đã ra tuyên bố “sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ nước nào trọng
quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam để
cùng nhau bảo vệ hoà bình và xây đắp dân chủ thế giới” [135, tr.121]. Trên tinh thần
đó, ngày 23/01/1950, Bộ trưởng Ngoại giao Hoàng Minh Giám thay mặt Chính phủ
Việt Nam gửi công hàm cho Bộ trưởng Ngoại giao Liên Xô, đề nghị hai nước kiến
lập quan hệ ngoại giao chính thức và trao đổi đại sứ. Ngày 30/01/1950, Liên Xô đáp
lại công hàm, đồng ý thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam, khẳng định địa vị
pháp lý chính đáng của chính thể dân chủ cộng hòa lần đầu tiên được xác lập ở Việt
Nam. Tháng 4/1950, Việt Nam chính thức đặt Đại sứ quán tại Matxcova, ông Nguyễn
Lương Bằng được cử là Đại sứ Việt Nam đầu tiên tại Liên Xô. Việc Liên Xô công
nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam DCCH là sự kiện có ý nghĩa quan trọng
trong lịch sử hợp tác Việt Nam – Liên Xô, tạo ra những tiền đề pháp lý quốc tế cho sự
hợp tác toàn diện giữa hai dân tộc.
Cũng trong năm này, nhận thức rõ vai trò của đội ngũ trí thức nói chung và trí
thức giáo dục đại học Việt Nam nói riêng trong sự nghiệp xây dựng đất nước, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị cho ngành Giáo dục phải chăm lo việc đưa học sinh đi
học đại học và THCN ở nước ngoài. Thực hiện chỉ thị đó, Đảng và Nhà nước bắt đầu
gửi học sinh, sinh viên sang các nước XHCN để học tập, nâng cao trình độ và đoàn
LHS đầu tiên của Việt Nam được cử đi học ở Liên Xô.
b. Tình hình thực hiện quan hệ hợp tác
Qua khảo sát thực tế tài liệu lưu trữ tại TTLTQGIII, chúng tôi nhận thấy, các
tài liệu phản ánh quan hệ hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô được hình thành trong
thời gian từ năm 1950-1954 rất ít để có thể làm rõ nội dung quan hệ hợp tác giữa hai
Nhà nước trong lĩnh vực đào tạo giai đoạn này. Chúng tôi chỉ tìm được 04/172 hồ sơ
về hợp tác đào tạo Việt – Xô của giai đoạn 1950-1954 thuộc các phông Phủ Thủ
tướng, UBKHNN, Bộ Giáo dục và Bộ Nông lâm và văn bản trong các hồ sơ được
hình thành cùng thời gian này. Hồ sơ 646 phông Bộ Nông lâm là các báo cáo viết tay
39
của 02 du học sinh ngành nông lâm về tình hình học tập tại Liên Xô và Trung Quốc
khóa học 1951-1952. Trong đó, có báo cáo của sinh viên Lê Duy Thước học tập tại
Liên Xô. Trong phông Bộ Nông lâm, có thêm hồ sơ 6530 “Tập tài liệu của Bộ Nông
Lâm, Ban Kinh tế TW, Bộ Giáo dục về gửi và thống kê LHS ngành nông, lâm học ở
nước ngoài năm 1954”, trong đó, có tờ số 31-35 là Báo cáo của Bộ Canh nông về vấn
đề du học sinh, đã thống kê số lượng du học sinh học về các ngành canh nông tại Liên
Xô từ năm 1951-1953 gồm 16 người, trong đó có 06 “Asp” (trích theo tài liệu) và 10
kĩ sư; các ngành học cụ thể là sinh học, nông hóa học, nông nghiệp cơ giới, côn trùng
bệnh cây, thú y, trồng trọt chuyên khoa, chăn nuôi, lâm nghiệp, ngư nghiệp thủy lợi
[112, tr.36].
Để có thêm thông tin về tình hình hợp tác đào tạo giữa hai nước trong giai
đoạn này, chúng tôi phải dựa vào hàng loạt Báo cáo của các cơ quan, tổ chức tổng kết
công tác đào tạo và quản LHS Việt Nam ở nước ngoài qua các thời kì, trong đó có
Liên Xô. Cụ thể là Báo cáo của Vụ Giáo dục - Đào tạo của Bộ Đại học và THCN về
tình hình đào tạo cán bộ chuyên môn và công nhân kỹ thuật gửi đi các nước XHCN
trong hồ sơ 21890, phông UBKHNN. Tài liệu này cho biết thêm,“từ những năm
kháng chiến chống Pháp, Đảng và Nhà nước ta đã sớm quan tâm đến công tác đào
tạo cán bộ khoa học kỹ thuật ở trong nước và kết hợp với việc gửi đi đào tạo ở ngoài
nước…1950-1954, giai đoạn kháng chiến chống Pháp, ta bắt đầu gửi học sinh với số
lượng ít và không liên tục, trong 4 năm ta đã gửi đi 574 LHS đại học. 1951 đoàn đầu
tiên sang Liên Xô chỉ có 21 người” [60, tr.01]. Và sinh viên Lê Duy Thước (sau này
là Hiệu trưởng Trường Đại học Nông nghiệp) của Bộ Nông lâm đã nêu trên chính là
một thành viên trong số 21 LHS đầu tiên của Việt Nam được Chính phủ Việt Nam
DCCH cử đi học ở Liên Xô, ngành học cụ thể là khoa học nông nghiệp tại Học viện
Nông nghiệp toàn Liên bang mang tên K.A.Ti-mi-ri-a-giép ở thủ đô Matxcova [111,
tr.01-82]. Trong phần Phụ lục thống kê học sinh đi học nước ngoài từ năm 1951-1973
của Báo cáo này, chúng tôi đã thống kê được tổng số 161 LHS Việt Nam được gửi đi
học ở Liên Xô trong 04 năm từ 1950-1954, chủ yếu đi vào năm 1954 (138 người) và
chiếm số lượng nhiều nhất trong toàn bộ LHS đã gửi đi học tập ở các nước giai đoạn
này [56, tr.20-21].
Về việc thiết lập cơ sở pháp lý cũng như kết quả cụ thể của quan hệ hợp tác,
Chúng tôi không khai thác được bất cứ văn kiện pháp lý nào làm cơ sở cho việc thực
40
hiện quan hệ hợp tác đào tạo giữa hai nước, cụ thể là các văn bản kí kết giữa Chính
phủ hai nước và các tài liệu đề cập đến ngành học, chất lượng học tập, nghiên cứu của
LHS Việt Nam tại Liên Xô thời gian này.
Như vậy, tất cả tài liệu phản ánh quan hệ hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô
giai đoạn này đã thông tin đến người đọc Liên Xô chính là nước đầu tiên tiếp nhận
LHS Việt Nam đến học tập, nghiên cứu ngay sau khi Đảng và Nhà nước thực hiện chỉ
thị của Hồ Chủ tịch về việc chăm lo gửi học sinh đi học đại học và THCN ở nước
ngoài. Các tài liệu này đã cho thấy sự giúp đỡ của Liên Xô đối với sự nghiệp đào tạo
cán bộ của Việt Nam giai đoạn này thể hiện ở số lượng LHS Việt Nam đi học tại Liên
Xô trong các năm từ 1950-1954 luôn lớn hơn so với các nước khác trong hệ thống
XHCN. Việc còn rất ít tài liệu liệu lưu trữ về quan hệ hợp tác đào tạo giữa hai nước
hình thành trong thời gian này, theo chúng tôi là điều hoàn toàn dễ hiểu bởi trong
điều kiện vật chất vô vàn thiếu thốn, nhiệm vụ trọng tâm của chúng ta là kháng chiến
chống Pháp, do đó, vấn đề bảo quản tốt và giữ gìn được đầy đủ tài liệu lưu trữ của
Nhà nước là điều khó thực hiện.
2.1.2. Thời kì xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất
nước từ năm 1955 đến năm 1964
a. Đặc điểm tình hình
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, ngày 21/7/1954, Hiệp định Giơnevơ về
Đông Dương được kí kết, đã chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp
đối với Việt Nam. Miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, cuộc cách mạng dân tộc, dân
chủ nhân dân đã hoàn thành, tạo điều kiện cho miền Bắc bước vào thời kì quá độ lên
CNXH. Ở miền Nam, Mỹ nhảy vào thay chân Pháp, đưa Ngô Đình Diệm lên nắm
chính quyền, âm mưu chia cắt lâu dài nước Việt Nam, biến miền Nam thành thuộc
địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ. Đặc điểm cơ bản của tình hình đất nước ta từ
năm 1955 đến năm 1964 là đất nước bị chia cắt làm hai miền, cách mạng nước ta có
hai nhiệm vụ chiến lược khác nhau. Đó là miền Bắc bước vào thời kì khôi phục kinh
tế, hàn gắn vết thương chiến tranh và bước vào công cuộc xây dựng CNXH; miền
Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân. Hai nhiệm vụ chiến lược đó
có mối quan hệ mật thiết và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau, miền Bắc trở thành căn cứ
địa cách mạng của cả nước, hậu phương lớn của cách mạng miền Nam.
41
Đối với nền giáo dục và đào tạo Việt Nam thời kì này, cụ thể là giáo dục bậc
đại học, qua nghiên cứu, tìm hiểu một số xuất bản phẩm về lịch sử ngành, chúng tôi
biết được, đây là thời kì có vị trí đặc biệt trong lịch sử phát triển của giáo dục đại học
nước ta và đã hình thành ra đường lối giáo dục XHCN. Đường lối này được chính
thức hóa trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, được cụ thể hóa và
phát triển thêm trong các nghị quyết của Hội nghị Trung ương khóa III, đã chỉ ra
những phương hướng, nhiệm vụ, bước đi của giáo dục đại học XHCN. Đảng và Nhà
nước đã rất chú trọng đẩy mạnh việc gửi cán bộ, học sinh đi học tập, nghiên cứu ở
các nước XHCN anh em song song với việc đào tạo trong nước để đáp ứng yêu cầu
ngày càng tăng của công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc.
Từ danh mục 172 hồ sơ, tài liệu liên quan vấn đề nghiên cứu, chúng tôi đã
thống kê được 77 hồ sơ (ĐVBQ) có nội dung thông tin phản ánh quan hệ hợp tác đào
tạo giữa hai nước thuộc thời gian từ 1955-1964, tập trung nhiều trong các phông
UBKHNN, UBKhHNN, Bộ Giáo dục và Bộ Văn hóa. Trong thời gian này, hai nước
đã ký kết hàng loạt hiệp định, hình thành một hành lang pháp lý thông thoáng, thuận
tiện cho hợp tác giữa hai nước trong các lĩnh vực trao đổi thương mại, hàng hóa; hợp
tác văn hóa, KHKT; cung cấp và viện trợ kinh tế, kỹ thuật…đã đóng vai trò quan
trọng đối với công cuộc cải tạo, xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng cuộc sống mới
của nhân dân miền Bắc Việt Nam. Quan hệ hợp tác trong lĩnh vực đào tạo giữa hai
nước đã phát triển hơn một bước so với thời kì trước, mở đầu bằng Hiệp nghị giữa
Chính phủ Việt Nam DCCH và Chính phủ Liên bang CHXHCN Xô viết về vấn đề
học tập của những người công dân nước Việt Nam DCCH tại các trường trung và cao
cấp ở Liên Xô, kí tại Matxcova ngày 27/8/1955 [113, tr.20-23].
b. Tình hình thực hiện quan hệ hợp tác đào tạo
* Thiết lập cơ sở pháp lý
Trong 77 hồ sơ tài liệu kể trên, chúng tôi tìm thấy 03 văn kiện hợp tác song
phương cấp Nhà nước làm cơ sở pháp lý cho việc thực hiện quan hệ hợp tác đào tạo
Việt Nam – Liên Xô thời gian này. Đó là các Hiệp định hợp tác giữa Chính phủ nước
Việt Nam DCCH và Chính phủ Liên bang CHXHCN Xô viết về văn hóa và KHKT,
được kí kết vào các năm 1957, năm 1959 [45, tr.5-6] và năm 1961 [34]. Đây là những
văn kiện hợp tác quốc tế có giá trị pháp lý cao nhất, nội dung là những thỏa thuận
42
giữa hai Nhà nước mang tính chất cơ sở và khái quát về lĩnh vực giáo dục đào tạo, từ
đó, hàng loạt các kế hoạch và biện pháp cụ thể (gồm hiệp nghị, nghị định thư, kế
hoạch hợp tác song phương) được thiết lập để thực hiện quan hệ hợp tác giữa hai
nước hàng năm. Ngoài ra, có thêm 02 văn kiện hợp tác giữa các cơ quan KHKT của
hai nước gồm Hiệp định hợp tác khoa học giữa Ủy ban Khoa học Nhà nước Việt Nam
DCCH và Viện Hàn lâm Khoa học Liên bang CHCNXH Xô Viết, ký tại Matxcova
ngày 26/5/1961 [09, tr.13-20] và Nghị định thư khóa họp thứ 5 của Ủy ban hợp tác
KHKT Việt – Xô giữa nước Việt Nam DCCH và Liên bang CHXHCN Xô Viết, ký
tại Hà Nội ngày 03/4/1963 [73, tr.28-43].
Căn cứ các hiệp định, nghị định song phương đã thiết lập, hàng năm, Chính
phủ hai nước Việt Nam và Liên Xô đã kí kết các kế hoạch (biện pháp) hợp tác cụ thể
để thực hiện trong từng năm. Chúng tôi đã thống kê được 05 văn kiện trong khối tài
liệu giai đoạn này là các Kế hoạch hợp tác văn hóa và KHKT giữa Chính phủ nước
Việt Nam DCCH và Chính phủ Liên bang CHXHCN Xô viết, được kí kết từ năm
1958-1964. Nội dung các cam kết và biện pháp cụ thể về hợp tác đào tạo được thống
nhất trong mỗi bản kế hoạch hợp tác (nằm trong phần Giáo dục và Đại học) là, Chính
phủ hai nước thống nhất vẫn tiếp tục trao đổi học sinh, sinh viên, NCS và thực tập
sinh để học tập và bổ túc nghiệp vụ; số lượng người cử đi, ngành chuyên môn và thời
gian học của LHS được quy định cụ thể chiểu theo sự thỏa thuận của hai bên và cụ
thể hóa mối quan hệ hợp tác giữa các trường trong hệ thống giáo dục đại học, cao
đẳng của hai Nhà nước. Cụ thể, về số lượng đào tạo, phía Liên Xô đồng ý tiếp nhận
mỗi năm hàng trăm sinh viên, NCS, TTSKH của Việt Nam sang học tập và nghiên
cứu, số lượng năm sau thường cao hơn năm trước để phù hợp với nhu cầu cán bộ đáp
ứng tình hình mới của đất nước. Về phía Việt Nam, nhìn chung số lượng SV, NCS và
cán bộ khoa học trẻ tuổi của Liên Xô đến Việt Nam để thực tập và bổ túc kiến thức
thường chỉ giới hạn dưới 10 người trong 01 năm. Trong các văn kiện này, hai nước
cũng thống nhất cụ thể về danh sách các trường đại học mỗi nước tiếp tục hoặc sẽ
thiết lập quan hệ hợp tác trên các mặt hàng năm. Ví dụ như, quan hệ trực tiếp của một
số trường đại học lớn và có uy tín của hai nước là:
Trường Đại học Bách khoa Hà Trường Đại học Bách khoa hàm thụ
Matxcova và Trường Đại học Bách khoa Nội
43
Khắc - cốp
Trường Đại học Kinh tế tài chính Hà Trường Đại học Kinh tế quốc dân Plê-kha-
Nội nốp ở Matxcova
Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội Trường Đại học Tổng hợp Nô-vô-xi-biếc
* Kết quả thực hiện
Thứ nhất, Liên Xô đào tạo cho Việt Nam
- Về số lượng đào tạo: Hồ sơ 19430, phông Phủ Thủ tướng là Báo cáo của Ban
Khoa giáo Trung ương về tình hình công tác LHS Việt Nam ở các nước XHCN từ
năm 1951-1983 đã nêu rõ: “...trong giai đoạn này, nhu cầu cán bộ ngày càng tăng. Vì
vậy, công tác đào tạo cán bộ đã được mở rộng cả ở trong nước và gửi đi nước ngoài.
Trong 10 năm ta đã gửi đi 5.776 LHS các loại. Trong đó, số LHS đại học được tăng
nhiều và bắt đầu có 289 NCS, 294 TTS...". Chúng tôi không thấy văn bản nào đề cập
chính xác số lượng LHS đại học và NCS Việt Nam đi học tại Liên Xô trong 10 năm
này. Căn cứ các số liệu cụ thể của từng năm từ 1955-1964 trong Báo cáo của Bộ Đại
học và THCN về tình hình công tác đào tạo ở nước ngoài (phần đại học và dưới đại
học), chúng tôi đã tổng hợp được 1988 LHS Việt Nam đi học tại Liên Xô thời gian
này [57, tr.21]. Bảng kê dưới đây được triết xuất từ tài liệu này cho chúng ta thấy rõ
số lượng LHS Việt Nam đi Liên Xô trong từng năm và so sánh với một số nước
Nước
Tổng
1955 1956 1957 1958 1959 1960 1961 11962 1963 1964
số
1988
209
56
13
244
1134 805
244
67
Liên
Xô
Trung
271
114
84
11
104
02
10
28
18
Quốc
CHDC
165
14
11
61
45
24
09
Đức
37
03
01
03
04
26
Tiệp
khắc
XHCN khác như sau:
44
Các số liệu trên cho thấy, tổng số LHS Việt Nam cũng như số lượng được cử
đi học ở Liên Xô hàng năm trong thời gian 1955-1964 lớn gấp nhiều lần so với số
LHS Việt Nam đi học ở các nước XHCN khác, đặc biệt trong các năm từ 1961- 1963.
Qua tìm hiểu một số tư liệu về lịch sử ngành giáo dục đào tạo Việt Nam, chúng tôi
biết được, đến năm học 1960-1961, số trường đại học và cao đẳng của nước ta đã lên
tới 14 trường, số sinh viên tuyển vào đại học năm học này tăng gấp 8.4 lần so với
năm học 1955-1956. Đây là kết quả của công tác cải tổ toàn bộ hệ thống giáo dục đại
học với sự giúp đỡ của chuyên gia Liên Xô ngay từ năm học 1956-1957 và thực hiện
cuộc vận động “Xây dựng nhà trường xã hội chủ nghĩa” bắt đầu từ năm 1958, nhằm
xác lập những quan điểm giáo dục XHCN [139, tr.310-311]. Điều này lý giải cho số
lượng LHS Việt Nam được cử đi học đại học ở Liên Xô trong hai năm 1961 và 1962
tăng rất nhiều so với những năm trước.
Bằng phương pháp tổng hợp, chúng tôi xác định được số lượng LHS tốt
nghiệp đã về nước trong thời gian này là gần 2000 người, trong đó, ở Trung Quốc có
hơn 1000, còn lại đại bộ phận ở Liên Xô và rải rác các nước XHCN khác. Trong số
đã về nước có 19 phó tiến sĩ [90, tr.10]. Hầu hết các tài liệu cho chúng tôi biết, số
lượng LHS Việt Nam được cử đi Liên Xô học tập và số lượng tốt nghiệp về nước
luôn chiếm tỉ lệ nhiều nhất trên tổng số LHS gửi đi đào tạo nước ngoài. Chẳng hạn,
năm học 1957-1958, Thủ tướng Phủ đồng ý cho các ngành giáo dục, tư pháp, ngân
hàng, ngoại giao gửi LHS sang các nước bạn LHS là 81 người, trong đó 42 người đi
Liên Xô và 39 người đi Trung Quốc [50, tr.4]. Chỉ tính riêng trong năm 1963, Nhà
nước đã gửi đi học ở nước ngoài 507 LHS (tính cả sinh viên, NCS, TTS và BTS),
trong đó, 311 người đi Liên Xô gồm 250 sinh viên và 37 NCS và 18 TTS. Cũng trong
năm này, số LHS Việt Nam tốt nghiệp ở Liên Xô về nước là 167 người trong tổng số
375 LHS của ta tốt nghiệp ở các nước [87, tr.49].
- Về đối tượng (nguồn) được đào tạo: Như chúng tôi đã giới thiệu trong phần
Lịch sử đơn vị hình thành các phông, giai đoạn này, Bộ Giáo dục được Nhà nước
được giao nhiệm vụ “quản lý LHS, NCS Việt Nam ở nước ngoài và LHS, NCS nước
ngoài ở Việt Nam; thi hành các hiệp định mà nước ta đã kí kết với nước ngoài về mặt
giáo dục; thực hiện việc trao đổi kinh nghiệm công tác giáo dục với nước ngoài…”
[03, tr.24-25]. Qua khảo sát tài liệu lưu trữ, chúng tôi thấy, hầu hết các văn bản chỉ
tiêu, kế hoạch và báo cáo tình hình thực hiện công tác đào tạo sinh viên, NCS từ năm
45
1955-1964 là của Bộ Giáo dục và các trường trực thuộc Bộ. Số lượng LHS được cử
đi Liên Xô học đại học hàng năm tập trung hầu hết là sinh viên các trường đại học lớn
của Bộ Giáo dục, điển hình là Trường Đại học Bách khoa và Trường Đại học Tổng
hợp.
- Về ngành nghề đào tạo và phân phối LHS: Tài liệu lưu trữ về quan hệ hợp
tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô giai đoạn này cho chúng tôi biết, ngành nghề đào tạo
tại Liên Xô phong phú và đa dạng hơn rất nhiều so với giai đoạn trước. Nước bạn có
đầy đủ các ngành học ta đã gửi đi đào tạo trong suốt thời kì từ năm 1955 đến năm
1963. Ví dụ, trong Công văn số 2738.Vg ngày 09/01/1963 của Phủ Thủ tướng là tờ số
01 của hồ sơ 4343 thuộc phông Bộ Giáo dục, Thủ tướng Chính phủ duyệt kế hoạch
cử NCS, TTSKH và bổ túc sinh đi học nước ngoài năm 1963 là 187 người, riêng đi
Liên Xô có 140 người và phân phối trong 12 ngành học gồm khoa học tự nhiên, khoa
học xã hội, nông lâm thủy lợi, kiến trúc xây dựng, khí tượng thủy văn, kinh tế tài
chính, kĩ sư kinh tế, ngoại ngữ, văn hóa thể dục thể thao và y tế. Trong số này, số
lượng LHS các ngành khoa học tự nhiên, công nghiệp và nông lâm thủy lợi luôn
chiếm tỉ lệ cao nhất [88, tr.1]. Riêng các ngành khoa học xã hội, bắt đầu từ năm 1964,
chúng ta tạm dừng gửi LHS đi học nước ngoài và chúng tôi khai thác được thông tin
này trong Báo cáo của Ban Khoa giáo Trung ương về tình hình LHS và công tác LHS
của ta ở các nước XHCN từ năm 1951-1982 là hồ sơ 19430 thuộc phông Phủ Thủ
tướng. Tuy nhiên, chúng tôi không tìm thấy nguyên nhân của việc tạm dừng này được
đề cập trong tài liệu về quan hệ hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô.
Về công tác phân phối LHS, Báo cáo của Bộ Giáo dục vể tình hình làm việc với
các đoàn đại biểu Bộ Giáo dục Cao đẳng Liên Xô sang Việt Nam để phân phối LHS
Việt Nam theo Hiệp nghị hợp tác văn hóa năm 1963 đã nêu rõ: “...Đây là lần đầu tiên
ta đã tiến hành phân phối LHS ngay từ ở trong nước. Việc làm này rất có lợi (nhất là đối với NCS và TTSKH) và bước đầu cho bạn1 nắm được yêu cầu của ta, tạo điều
kiện cho ta chủ động cùng tham gia phân phối với bạn...Kết quả buổi làm việc, bạn
chính thức phân phối 232/250 sinh viên đại học theo đề nghị của ta. Công tác phân
phối cơ bản được tiến hành thuận lợi, LHS của ta đã được phân phối vào những
trường đại học, viện nghiên cứu có truyền thống của bạn và phù hợp với đề nghị của
ta (20% sinh viên Việt Nam được phân vào Lomonosov). Tuy nhiên, phía Liên Xô
46
1 Bạn: Liên Xô
cũng có một số đề nghị đối với Bộ Giáo dục của ta là cần đảm bảo việc lập kế hoạch
LHS đi Liên Xô hàng năm phải đúng thời hạn theo yêu cầu của bạn (tháng 3 hàng
năm phải gửi bạn kế hoạch LHS) và cố gắng đảm bảo tính chính xác về ngành
học...Qua buổi làm việc này, ta cũng có dịp để tìm hiểu, học tập và trao đổi ý kiến, kinh nghiệm với Bạn để lập kế hoạch, tuyển chọn và quản lý học tập cho LHS tốt hơn
nữa [87, tr.136-138].
- Về sự giúp đỡ, tạo điều kiện của Liên Xô: Tài liệu này cho biết, “Liên Xô đã
nhận LHS của ta một cách dễ dàng, gửi bao nhiêu cũng nhận, học ngành nào cũng
bố trí (trừ những ngành thuộc bí mật quốc gia). Học bổng của sinh Việt Nam có
nhiều loại, một loại thì do quỹ viện trợ tức là ta đài thọ và một loại thì Liên Xô cấp học bổng và đài thọ. Bạn đã góp ý cho ta về việc gửi học sinh vào các ngành trên tinh
thần lợi ích về đào tạo của ta. Đối với học sinh đuối, nơi nào bạn cũng tổ chức phụ
đạo, đặc biệt giúp đỡ anh em kém về ngoại ngữ. LHS nào khá, Liên Xô tìm cách giúp
đỡ để trở thành NCS hoặc để thi phó tiến sĩ. Trong thời gian thực tập, bạn tổ chức
lựa chọn, cho một số học sinh giỏi đi vào học những ngành rất hiện đại. Bạn giúp đỡ
nhiệt tình sinh viên ta làm luận án tốt nghiệp. Về vật chất, bạn tiếp rất chu đáo, đặc
biệt chú ý đến vấn đề bồi dưỡng sức khỏe cho anh em LHS [52, tr.11].
- Về chất lượng đào tạo: Với sự giúp đỡ nhiệt tình của Liên Xô nêu trên, công
tác đào tạo cán bộ Việt Nam tại Liên Xô trong giai đoạn này đã đạt được nhiều kết
quả tốt đẹp. So sánh giữa các nước, Bộ Giáo dục nhận định, Liên Xô là nước đào tạo
trình độ lý luận tốt hơn các nước khác. Cụ thể, trong Báo cáo của Đoàn cán bộ nghiên
cứu thuộc Ban Tổ chức Trung ương về tình hình LHS ở các nước anh em Trung
Quốc, Liên Xô, Ba Lan, Tiệp Khắc, CHDC Đức năm 1958 của hồ sơ 20782 thuộc
phông UBKHNN có nêu rõ: “LHS đại học tốt nghiệp ở Liên Xô về nước, anh em có
trình độ lý luận vững hơn, đem theo kiến thức khoa học tiên tiến của nước bạn, một
số vẫn tiếp tục tự học, tự nghiên cứu đã đi lên...Tuy vậy, có một số LHS ta sử dụng
chưa hết khả năng vì lãnh đạo thiếu chuyên môn nên việc chỉ đạo, hướng dẫn anh em
trong công tác có khó khăn. Trong số đã tốt nghiệp về nước từ năm 1955-1964, nhìn
chung phẩm chất đạo đức tốt” [52, tr.12].
Thứ hai, Việt Nam đào tạo cho Liên Xô
Trong tổng số 172 hồ sơ về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô đang bảo
47
quản tại TTLTQGIII, chúng tôi chỉ tìm được 04 hồ sơ đề cập đến nội dung Việt Nam
đào tạo cho Liên Xô và đều thuộc giai đoạn này. Đó là các hồ sơ 4309, 4364, 4334 và
4377 thuộc phông lưu trữ Bộ Giáo dục. Các tài liệu trong một số hồ sơ nêu trên chỉ
thông tin về số lượng LHS nước ngoài nói chung tại Việt Nam và không thống kê cụ
thể đối với từng nước. Không có một văn bản nào cho chúng tôi thông tin về số lượng
chính xác, chất lượng LHS Liên Xô tại Việt Nam cũng như sự giúp đỡ cụ thể của
Việt Nam đối với LHS Liên Xô trong thời gian này.
Nội dung tài liệu về việc Việt Nam đào tạo cho Liên Xô giai đoạn này như
sau:
- Về số lượng đào tạo: Đề cương Báo cáo tổng kết công tác trao đổi văn hóa
năm 1963 của Bộ Giáo dục trong hồ sơ 4334 nêu rõ, từ năm 1956 - 1964, ta đã nhận
đào tạo khoảng 58 SV và NCS của nước ngoài, đại bộ phận là SV Liên Xô và Trung
Quốc; còn các nước khác, mỗi nước chỉ có 2 hay 3 người mỗi năm. Theo Kế hoạch
hợp tác giữa hai nước, hàng năm Việt Nam nhận khoảng dưới 10 SV, NCS và cán bộ
khoa học Liên Xô vào học tập, nghiên cứu. Thực tế tài liệu cho thấy, năm học 1963-
1964, trong tổng số 21 LHS nước ngoài ta nhận đào tạo có 06 LHS Liên Xô (01NCS
và 05 SV) [87, tr.44]. Đến năm học 1946-1965, số LHS Liên Xô ta nhận đào tạo là 07
người [85, tr.1]. Như vậy, số lượng học sinh Liên Xô được cử sang Việt Nam học tập
và nghiên cứu hoàn toàn phù hợp với Kế hoạch hợp tác văn hóa, KHKT giữa hai
nước hàng năm.
- Về ngành nghề đào tạo: Cũng như hầu hết LHS nước ngoài tại Việt Nam
trong thời gian này, LHS Liên Xô được cử sang ta học tập và nghiên cứu các ngành
khoa học xã hội, gồm ngôn ngữ, văn học, địa lý, lịch sử và trực tiếp học tại Trường
Đại học Tổng hợp của ta.
- Về tình hình học tập và sinh hoạt của LHS: LHS đại học Liên Xô nói riêng
và nước ngoài nói chung, ban đầu đến Việt Nam sẽ được học tiếng Việt khoảng 01
năm trước khi chuyển vào học các chuyên ngành kể trên. Thời gian nghiên cứu ở Việt
Nam đối với NCS ngắn hơn SV, từ 2 đến 3 tháng và nhiều nhất là 01 năm, ta giúp
bạn tài liệu để xây dựng các đề tài luận án tốt nghiệp phó tiến sĩ. Nhìn chung, việc ăn
ở, sinh hoạt của LHS bạn được ta tổ chức chu đáo (trong 02 kí túc xá của Bộ Giáo
dục và kinh phí do phía Liên Xô đài thọ). Đại bộ phận LHS đều tôn trọng và tuân thủ
48
nội quy của nhà trường, có ý thức tổ chức cao [87, tr.14-15].
Một số công văn của Trường Đại học Tổng hợp về tình hình công tác LHS
nước ngoài tại Việt Nam trong các hồ sơ 4309, 4364 và 4377 thuộc phông Bộ Giáo
dục cho thấy, nhà trường đã quan tâm và có nhiều cố gắng trong công tác đào tạo
LHS cho các nước trong thời gian này. Tuy vậy, bên cạnh sự cố gắng, nỗ lực trong
công tác LHS nước ngoài, nhà trường đã tự kiểm điểm và nhận trách nhiệm về một số
tồn tại trong công tác đào tạo LHS nước ngoài của các năm học này. Cụ thể, trong
Công văn số 393/GV ngày 28/5/1964 của Trường Đại học Tổng hợp về một số công
tác LHS vào dịp cuối năm, có đoạn viết: “... LHS Liên Xô đã về nước ngày
26/5/1964, Đại sứ quán Liên Xô đã gặp Bộ Giáo dục và nhà trường nhận một số
khuyết điểm về việc học tập của lưu sinh viên và gửi lời hết sức cám ơn sự quan tâm
săn sóc của trường, khoa, các giáo sư Việt Nam. Nhưng về phía mình, trường nhận
thấy cần rút ra một số kinh nghiệm...Khoa chưa thật chủ động quản lý kế hoạch học
tập cho số lưu sinh viên này chặt chẽ, chưa thường xuyên theo rõi, nhắc nhở lưu sinh
viên thực hiện kế hoạch. Cho đến khi về nước, cả 5 lưu sinh viên Liên Xô chưa hoàn
thành kế hoạch. Trừ có nghiên cứu sinh ngành Sử Tô – nhiên hoàn thành kế hoạch.
Có sinh viên cả học kì chỉ đến học một hai buổi (tuy khoa có nhắc nhở họ một đôi lần
nhưng không có biện pháp giải quyết thích đáng)...” [87, tr.108].
Thứ ba, hoạt động trao đổi văn hóa và kết nghĩa giữa các trường đại học
Về nội dung này, chúng tôi tìm thấy trong một số văn bản của hồ sơ 4334 và
hồ sơ 4335 thuộc phông Bộ Giáo dục. Các tài liệu này cho chúng tôi biết, hầu hết các
trường của ta đều có quan hệ trao đổi với trường đại học của các nước bạn ở thời kì
này, trong đó, nhiều nhất là các trường của Liên Xô, ta bắt đầu tiến hành kết nghĩa từ
năm 1961. Mục đích của công tác kết nghĩa này là “giáo dục tinh thần quốc tế vô sản
cho học sinh, giáo viên và công nhân viên nhà trường; trao đổi kinh nghiệm về tổ
chức lãnh đạo, về phương pháp dạy và học, đồng thời thắt chặt hơn nữa tình hữu
nghị sẵn có giữa giáo viên, học sinh ta với giáo viên và học sinh trường Bạn và nhân
dân hai nước” [87, tr.11].
Kết quả cụ thể về công tác kết nghĩa giữa các trường đại học của hai nước
được nêu trong tài liệu này là, ta nhận đã được rất nhiều tài liệu, sách báo, đồ dùng
học tập và dụng cụ thí nghiệm phục vụ giảng dạy, nghiên cứu từ Liên Xô. Tính đến
cuối năm 1963 (sau 02 năm kết nghĩa), Trường Đại học Bách khoa đã nhận được gần
600 cuốn sách bằng tiếng Nga là các loại sách giáo khoa, sách kỹ thuật chuyên 49
môn, tài liệu hướng dẫn, tài liệu nghiên cứu khoa học... từ Trường Đại học Bách khoa
Khắc Cốp, Trường Kĩ sư Kinh tế và Trường Đại học Bách khoa hàm thụ toàn Liên
bang. Chỉ riêng trong năm 1963, Trường Đại học Tổng hợp đã nhận được 488 cuốn
gồm các sách giáo khoa và tài liệu về chủ nghĩa Mác – Lê nin, chính trị - xã hội, sử
học, văn học, khảo cổ học, toán, lý, hóa, sinh, họa báo...từ các tổ chức và trường học
của Liên Xô Đặc biệt, toàn bộ thiết kế và xây dựng của Trường Đại học Bách khoa
trong thời gian này là được Liên Xô giúp đỡ. Về phía ta, do khả năng hạn chế nên
trong thời gian này chỉ gửi tặng trường bạn những vật kỉ niệm như tranh treo, cờ thêu,
khăn thêu, đồ đeo hoặc sách vở hay thư từ của học sinh [87, tr.36-48].
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả nổi bật đã nêu trên, tài liệu này có nêu, vẫn
còn một vài thiếu sót trong công tác kết nghĩa giữa các trường đại học của ta với
trường bạn. Đó là hai nước “chưa có kế hoạch, biện pháp duy trì tốt và tăng cường
quan hệ thường xuyên với trường bạn; một số trường chỉ hăng hái lúc đầu hay khi có
dịp nhắc nhở đến, còn thường xuyên thì lơ là; việc trao đổi với trường bạn bị hạn chế
vì một số trường của ta không biết tiếng bạn; nội dung kết nghĩa còn nghèo nàn, Bộ
Giáo dục không có hướng dẫn cụ thể; phần lợi dụng việc kết nghĩa đối với một số nơi
đã có xảy ra, vì trường không giáo dục học sinh, nên một số học sinh tự động viết thư
sang trường bạn xin máy ảnh, radio” [87, tr.5-9].
Tính đến năm 1964, có 18 trường đại học của ta đã kết nghĩa với các trường
đại học của các nước, trong đó nhiều nhất là các trường Việt Nam với Liên Xô và
điển hình là quan hệ kết nghĩa giữa Trường Đại học Bách khoa với Trường Đại học
Bách khoa Khắc Cốp và Trường Đại học Bách khoa Hàm thụ toàn Liên bang.
Như vậy, tất cả nội dung thông tin tài liệu lưu trữ tại TTLTQGIII về quan hệ
hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô thời kì 1955-1964 đã cho chúng ta thấy rõ quan
hệ hợp tác hai chiều Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo, tình cảm hữu nghị
và sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô đối với sự nghiệp đào tạo cán bộ đại học và trên đại
học, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành đại học Việt Nam cũng như sự giúp
đỡ từ phía Việt Nam trong việc đào tạo một số ngành khoa học xã hội ở trình độ đại
học và NCS cho LHS Liên Xô. Số lượng hồ sơ và thành phần nội dung tài liệu giai
đoạn này khá phong phú, theo chúng tôi, đã phản ánh tương đối đầy đủ và hoàn chỉnh
nội dung quan hệ hợp tác đào tạo giữa hai nước trong 10 năm xây dựng CNXH ở
miền Bắc và đấu tranh, thống nhất đất nước, đồng thời cho thấy sự phát triển 50
của ngành giáo dục đại học nước ta so với giai đoạn trước.
2.1.3. Thời kì cả nước kháng chiến chống Mỹ từ năm 1965 đến năm 1975
a. Đặc điểm tình hình
Năm 1965, hoạt động bắn phá miền Bắc của đế quốc Mỹ ngày càng ác liệt và
mở rộng, nhằm ngăn chặn sự chi viện co lớn của miền Bắc đối với cuộc kháng chiến
chống Mỹ của đồng bào miền Nam, phá hoại công cuộc xây dựng CHXN ở miền
Bắc. Thời kì này, hai miền Bắc – Nam đều phải thực hiện nhiệm vụ cách mạng trọng
tâm là kháng chiến chống Mỹ cứu nước, điều kiện đào tạo trong nước khó khăn. Vì
vậy, Đảng ta đã chỉ đạo phải đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở
miền Bắc và ra sức tăng cường lực lượng miền Bắc về mọi mặt nhằm đảm bảo chi
viện đắc lực cho miền Nam đánh Mỹ. Để chuẩn bị nguồn nhân lực có chất lượng
phục vụ công cuộc xây dựng, cải tạo XHCN trong giai đoạn này, Chính phủ đã ra Chỉ
thị số 88TTg/VG ngày 05/8/1965 về việc chuyển hướng công tác giáo dục. Đó là
“phải gấp rút đào tạo cho trước mắt và tương lai một đội ngũ cán bộ KHKT, có bộ
quản lý đông đảo vững mạnh và tương đối hoàn chỉnh về ngành nghề, về trình độ, có
đức, có tài…song song với việc đào tạo cán bộ trong nước, cần đẩy mạnh việc gửi
sinh viên đi học ở nước ngoài”.
Chặng đường 1965 - 1975 đã chứng kiến sự thay đổi về chất trong quan hệ hai
nước và sự giúp đỡ của Liên Xô là vô cùng to lớn. Liên Xô luôn là chỗ dựa vững
chắc của Việt Nam trong công cuộc kháng chiến kiến quốc đầy khó khăn, thử thách
và quan hệ hợp tác giữa hai nước được đẩy mạnh trên nhiều lĩnh vực. Trên tinh thần
hợp tác chặt chẽ, thấu hiểu và tôn trọng lẫn nhau, giai đoạn 1965 - 1975 là giai đoạn
hợp tác rất hiệu quả giữa 2 nước. Sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô trong giai đoạn này
là một trong những nhân tố dẫn đến thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ.
b. Tình hình thực hiện
Về thành phần tài liệu phản ánh quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô thuộc
giai đoạn 1965-1975 đang bảo quản tại TTLTQGIII, chúng tôi thống kê được 60/172
hồ sơ (ĐVBQ). Số lượng hồ sơ tài liệu nhiều nhất thuộc các phông Phủ Thủ tướng
51
(19 hồ sơ), UBKHNN (10 hồ sơ) và Bộ Đại học và THCN (10 hồ sơ). Nội dung quan
hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo giai đoạn này được thể hiện
qua tài liệu lưu trữ cụ thể như sau:
* Thiết lập cơ sở pháp lý
Thực tế tài liệu cho thấy, về cơ bản, cơ sở pháp lý cao nhất cho việc thực hiện
quan hệ hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô giai đoạn này vẫn là các hiệp định hợp
tác văn hóa và KHKT giữa hai nước được kí kết trong các năm 1957, 1959 và 1961
như giai đoạn 1955-1964 và chủ yếu là thực hiện Hiệp định kí năm 1957 (Kế hoạch
năm 1972 vẫn căn cứ Hiệp định năm 1957). Đến năm 1974, có thêm Hiệp định giữa
Chính phủ CHXHCN Việt Nam và Chính phủ Liên bang CHXHCN Xô viết về hợp
tác văn hóa, KHKT, kí tại Matxcova [16, tr.50-57], làm cơ sở cho việc thực hiện hợp
tác trong những năm sau đó.
Để thực hiện các hiệp định song phương kể trên, trong thời gian từ 1965-1975,
hai nước đã kí kết 06 kế hoạch hợp tác văn hóa, khoa học cụ thể hàng năm. So với
thời gian trước, nội dung hợp tác trong những năm này rất phong phú về trình độ đào
tạo và số lượng LHS Việt Nam đi Liên Xô hàng năm lớn hơn rất nhiều. Cụ thể, trong
bản Kế hoạch hợp tác năm 1969, Liên Xô nhận 1200 SV và 300 NCS [13, tr.3] và kế
hoạch năm 1970 nhận 850 SV, 150 NCS [133, tr.2] của Việt Nam để học tập và thực
tập tại các trường đại học của Liên Xô. Về LHS Liên Xô sang Việt Nam hàng năm,
cơ bản số lượng vẫn không tăng hơn so với thời gian trước đó (khoảng dưới 10 LHS
mỗi năm). Công tác trao đổi văn hóa và kết nghĩa giữa các trường đại học của hai
nước hàng năm sẽ được đẩy mạnh hơn rất nhiều. Một mặt, hai nước vẫn củng cố, duy
trì quan hệ hợp tác giữa các trường đã thiết lập từ trước; mặt khác, đẩy mạnh việc xúc
tiến xây dựng và giúp đỡ quan hệ trực tiếp giữa các trường đại học mới trong hệ
thống đại học và cao đẳng của hai Nhà nước, cụ thể là quan hệ của một số trường lớn
sau:
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Trường Đại học Thủy lợi và Cơ khí nông
nghiệp Ta-sơ-ken
Trường Đại học Kinh tế tài chính Hà Trường Đại học Kinh tế quốc dân Plê-kha-
Nội nốp
52
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Trường Đại học Sư phạm V.I.Lê nin
Trường Đại học Sư phạm Vinh Trường Đại học Sư phạm Ô-đét-xa
Trường Đại học Sư phạm Khu tự trị Tây Trường Đại học Sư phạm An-na An-ta
Bắc
Trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Trường Đại học Quốc gia Sư phạm Ngoại
Nội ngữ Matxcova
Ngoài ra, trong kế hoạch hợp tác hàng năm, hai nước cũng sẽ tiến hành tổ
chức các hội nghị, hội thảo quốc tế, viết sách chuyên khảo, các sách giáo khoa và các
tài liệu học tập và nghiên cứu ở trình độ đại học và trên đại học.
* Tình hình thực hiện quan hệ hợp tác
Nghiên cứu toàn bộ tài liệu phản ánh quan hệ hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên
Xô trong thời gian 1965-1975, chúng tôi thấy, hầu hết các văn bản chỉ đề cập đến số
lượng LHS hàng năm và nhiều năm (gồm số được cử đi và số đã tốt nghiệp về nước)
và ngành nghề đào tạo tại Liên Xô. Ngoài ra, trong một số tài liệu có đề cập tình hình
học tập, sinh hoạt và chất lượng học tập của LHS ta ở nước ngoài, trong đó có Liên
Xô và các yêu cầu, điều kiện của Liên Xô đối với LHS ta. Chúng tôi không tìm thấy
thông tin từ tài liệu nào phản ánh tình hình hợp tác, kết nghĩa giữa các trường đại học
của hai nước đã được thiết lập trong các bản kế hoạch hợp tác đã kí giữa hai Nhà
nước cũng như không có một tài liệu nào cho thấy sự giúp đỡ của Việt Nam trong
việc đào cán bộ cho Liên Xô tại các trường đại học của Việt Nam như giai đoạn
trước. Một số nội dung chính về kết quả hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô được
thể hiện trong khối tài liệu giai đoạn này như sau:
- Về số lượng đào tạo: Trong Báo cáo tình hình công tác đào tạo ở nước ngoài
từ năm 1951- 1973 của Bộ Đại học và THCN (tài liệu họp Thường vụ Hội đồng
Chính phủ ngày 17/3/1973), có nêu, “trong 8 năm vừa qua (1965-1973), kế hoạch
đào tạo cán bộ ở trong nước và ngoài nước đã có sự chuyển biến mạnh mẽ. Riêng về
đào tạo nước ngoài, trong 8 năm ta đã cử đi 19.092 đại học... LHS được cử đi nhiều
nhất ở Liên Xô” [72, tr.2]. Tổng hợp số liệu thống kê các năm cho thấy, đã có 10.455
LHS Việt Nam đi học tập, nghiên cứu tại Liên Xô và 3111 LHS đã tốt nghiệp về
nước trong 8 năm qua, chủ yếu là đào tạo bậc đại học [72, tr.20-21]. Số lượng LHS
53
Việt Nam đi Liên Xô hàng năm từ 1965-1973 thể hiện trong Báo cáo cụ thể như sau:
Năm 1965 1966 1967 1968 1969 1970 1971 1972 1973
Số lượng 104 851 1305 1468 914 655 831 785 612
Thời gian này, hầu hết các Bộ ngành đã có kế hoạch hàng năm về việc cử cán
bộ, học sinh đi học đại học và NCS ở các nước XHCN, chủ yếu là Liên Xô với số
lượng LHS có năm lên đến hàng nghìn người. Riêng năm 1968, số lượng LHS Việt
Nam được cử đi học ở Liên Xô tăng vượt bậc là vì, ngay sau tháng 01/1968, đế quốc
Mỹ tuyên bố chấm dứt không điều kiện việc ném bom và bắn phá trên toàn lãnh thổ
Việt Nam DCCH, ngành giáo dục và đào tạo cùng với các ngành kinh tế khác nhanh
chóng bắt tay vào khắc phục hậu quả chiến tranh, tiếp tục đưa sự nghiệp giáo dục đào
tạo lên tầm cao mới, trong đó có có việc đẩy mạnh đào tạo cán bộ ở nước ngoài [139,
tr.355].
Về đào tạo nghiên cứu sinh, chúng tôi không tìm thấy văn bản nào cho số liệu
chính xác về số lượng LHS đi đào tạo tại Liên Xô từ năm 1965-1975. Duy nhất, trong
Báo cáo của Bộ Đại học và THCN về việc tăng cường quản lý LHS tại Hội nghị quản lý học
sinh tháng 01/1972, có số liệu về đào tạo NCS trong 13 năm (1951-1972) là 3.093 người, còn
1670 người đang học ở nước ngoài, trong đó Liên Xô có 718 người và chiếm tỉ lệ cao nhất [137,
tr.3].
- Về ngành nghề đào tạo: Thời kì này, ngành học của LHS Việt Nam tại Liên
Xô rất đa dạng, phong phú. Ngay từ năm 1965 Liên Xô đã gửi ta Danh mục ngành
nghề đại học của Liên Xô năm 1965 (loại đào tạo 5 năm), trong đó, chúng tôi thống
kê được 335 mã ngành chuyên môn thuộc 24 ngành học chính trong hệ đào tạo đại
học của Liên Xô. Đó là các ngành địa chất, khoáng sản, năng lượng, luyện kim, chế
tạo máy và dụng cụ, kỹ thuật điện tử và tự động hóa, xây dựng, đo đạc, khí tượng
thủy văn, kinh tế, nông nghiệp... và các chuyên ngành nhỏ thuộc “chuyên nghiệp trong Trường Đại học Tổng hợp”2 của Liên Xô gồm tiếng Nga, chính trị kinh tế học,
triết học, tâm lý học, toán học, cơ học, thiên văn học, vật lý, hóa học, sinh vật học,
động vật học và thực vật học, nhân chủng học và địa lý [64, tr.78-84]. Đến năm học
1972-1973, số lượng ngành nghề đại học vẫn như cũ. Trong Báo cáo của Bộ Đại học
54
2 Trích theo Danh mục ngành nghề đại học của Liên Xô năm 1965
và THCN về tình hình khảo sát việc quản lý LHS thực tập và nghiên cứu ở Ba Lan,
Liên Xô năm 1973, Bộ Đại học và THCN đã so sánh và nhận xét về các Danh mục
ngành nghề đào tạo NCS tại Liên Xô như sau:
“Đối chiếu với danh mục cũ thì lần này có một số điểm khác. Trước hết là tên
gọi thì lần này nói cụ thể là đào tạo NCS cho các nước XHCN, chứ không gọi chung
là đào tạo cho người nước ngoài. Số lượng ngành đào tạo thì cho học 438 ngành và
chỉ hạn chế 78 ngành. Trước đó chỉ cho học 324 ngành và hạn chế 160 ngành. Trong
bản danh mục mới chỉ có một số ngành quan trọng trước bạn hạn chế nay đã nhận
đào tạo như: động lực học và sức bền của máy, quang học, phương pháp thăm dò địa
hóa, điện khí hóa các ngành sản xuất, luyện kim bột, vận tải công nghiệp, lái tàu
thủy, tổ chức kinh tế lao động, luật nhà nước và hành chính, pháp y, tâm lý lao
động… Như vậy so với trước thì Liên Xô đã bắt đầu mở rộng số lượng ngành nghề
đào tạo ở bậc đại học cho người nước ngoài nói chung và trên đại học cho các nước
XHCN. Nhưng mặt khác, bạn hạn chế tới mức tối đa phân phối LHS ta vào các tường
đại học lớn, có truyền thống đào tạo tốt như Đại học Tổng hợp Matxcova,, Đại học
Tổng hợp Lênin-grat, Đại học Năng lượng Matxcova, Đại học Hóa Men-đê-lê-ép,
Đại học Bách khoa Ki-ép… mà bố trí nhiều vào các trường xa như Tatstakeu, Bacu,
Kisi nhốp…” [14, tr.20-25].
Về tổ chức học tập, tài liệu về Một số ý kiến về tình hình LHS và nhiệm vụ quản
lý LHS của Bộ Đại học và THCN năm 1970 (tài liệu làm việc giữa Bộ trưởng Bộ Đại
học và THCN với đại sứ Việt Nam tại các nước) cho biết: “…LHS ta học ở rất nhiều
địa phương, nhiều trường; số lượng đơn vị cũng tăng nhanh, có nước tăng gấp 10
lần. Ở Liên Xô, LHS ta học ở 24 thành phố, 110 trường, viện và gần 40 đơn vị có từ
35 đến 250 học sinh” [101, tr.5].
- Về mục tiêu, yêu cầu đào tạo của Việt Nam và điều kiện của Liên Xô:
Qua nghiên cứu tài liệu về hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô giai đoạn này,
chúng tôi biết, từ những năm 1965-1966 trở đi, trước yêu cầu của cuộc cách mạng
KHKT và để đảm bảo có trình độ KHKT tiên tiến trên thế giới, đáp ứng yêu cầu của
công cuộc đổi mới, phát triển đất nước, yêu cầu về chất lượng và mục tiêu đào tạo
của hai nước thời gian này cao hơn những năm trước và Liên Xô có nhiều biện pháp
mạnh mẽ để nâng cao chất lượng đào tạo [57, tr.2]. Trong các báo cáo tổng kết, đánh
55
giá về tình hình quản lý LHS của Bộ Giáo dục, Bộ Đại học và THCN cũng như của
ĐSQ Việt Nam tại Liên Xô, chúng tôi thấy, nội dung các văn bản này đề cập nhiều
đến mục tiêu đào tạo của ta và yêu cầu, điều kiện của Bạn trong hợp tác đào tạo trình
độ đại học và trên đại học. Điển hình là Công văn số 123/LHS ngày 23/7/1973 của
ĐSQ Việt Nam tại Liên Xô về việc tăng cường và cải tiến quản lý NCS (báo cáo
chuyên đề), trong đó nói rất rõ về sự phù hợp giữa mục tiêu đào tạo NCS của ta với
yêu cầu đào tạo của Liên Xô, cụ thể:
“Về luận án, Bạn đòi hỏi “phục vụ phát triển khoa học kỹ thuật hiện đại, thực
tiễn xây dựng chủ nghĩa Cộng sản. Yêu cầu đấu tranh vì sự nghiệp phát triển và bảo
vệ sự trong sáng của học thuyết Mác – Lê nin, không khoan nhượng với tư tưởng tư
sản và xuất phát từ yêu cầu của nền kinh tế quốc dân và văn hóa của đất nước (Bạn).
Đề tài do hội đồng bác học của trường (viện) quy định, thông thường phải theo kế
hoạch nghiên cứu của trường (viện) và nội dung cơ bản của luận án phải được công
bố trước khi bảo vệ...
Đối với NCS ta:
- Yêu cầu bổ túc và nâng cao trình độ khoa học cơ bản, cơ sở là rất quan
trọng, có tính chất quyết định cho việc “làm ăn” khi về nước, thích ứng kịp thời với
yêu cầu nghiên cứu và công tác ở trong nước, thì lại không phải là một yêu cầu quan
trọng của Bạn đối với NCS nói chung...
- Về yêu cầu giảng dạy ở bậc đại học, Bạn yêu cầu cao đối với NCS, thì trên
thực tế Bạn miễn hẳn cho NCS ta: không phải học tâm lý, giáo dục, phương pháp
giảng dạy bộ môn theo chương trình, không làm công tác giảng dạy thực tế...
- Về yêu cầu nghiên cứu khoa học, tức là hoàn thành và bảo vệ luận án, nếu
không khéo léo vận dụng yêu cầu của Bạn và tích cực tranh thủ sự giúp đỡ của Bạn,
thì có điểm không hoàn toàn phù hợp với yêu cầu của ta, trong đó điểm rõ nhất là đề
tài theo kế hoạch nghiên cứu của trường (viện) Bạn, có thể, nhiều trường hợp không
phù hợp với yêu cầu kế hoạch ngành nghề, hướng nghiên cứu của ta. Hơn thế nữa,
trong việc hoàn thành và bảo vệ luận án, có một số khâu, một số điểm, Bạn châm
chước cho NCS ta. Ví dụ, việc công bố nội dung của luận án nối chung, Bạn không
bắt buộc NCS ta phải thực hiện như NCS Bạn, nhiều NCS ta không viết báo vẫn được
bảo vệ luận án.
56
- Về các yêu cầu khác như: tìm hiểu tình hình, xu hướng phát triển khoa
học, học tập kinh nghiệm tổ chức và hướng dẫn nghiên cứu khoa học, sưu tầm thu
thập tài liệu, thiết bị...Bạn không đòi hỏi cụ thể với NCS nói chung, nhưng đối với ta
rất cần thiết cho việc chuẩn bị công tác độc lập và phát huy nhanh tác dụng nhanh
chóng khi tốt nghiệp
Như vậy, nếu theo yêu cầu của Bạn đối với NCS ta thì NCS của ta chỉ còn làm
một việc chủ yếu (nếu không muốn nói là duy nhất) là hoàn thành và bảo vệ được
luận án. Thêm vào đó, luận án ấy phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế, KHKT của
Bạn, chưa chắc đã phù hợp với ta, vì Bạn châm chước việc viết và đăng báo khoa học
(một khâu rất quan trọng để xác minh ý nghĩa khoa học và thực tiễn của công trình
nghiên cứu), nên chất lượng luận án chưa được hoàn toàn đảm bảo, mặc dù được hội
đồng bác học, thông thường đánh giá “đạt yêu cầu của học vị phó tiến sĩ” (có khi sự
đánh giá mang tính chất “hữu nghị”” [25, tr.4-5].
Trên đây là toàn bộ nội dung quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh
vực đào tạo thời kì cả nước kháng chiến chống Mỹ cứu nước từ 1965-1975, được
phản ánh qua khối tài liệu lưu trữ đang bảo quản tại TTLTQGIII. Quan hệ hợp tác
đào tạo giữa hai Nhà nước Việt Nam và Liên Xô vẫn luôn được chú trọng và phát
triển hơn, đã đạt được những kết quả tốt đẹp và ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp đấu
tranh giành độc lập dân tộc và cải tạo, xây dựng CNXH ở miền Bắc Việt Nam. Bên
cạnh đó, khối tài liệu này đã phản ánh khá rõ nét tiến trình phát triển của ngành giáo
dục Việt Nam trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ.
2.1.4. Thời kì từ sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước năm 1976
đến khi kết thúc quan hệ ngoại giao Việt Nam – Liên Xô năm 1991
a. Đặc điểm tình hình
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975) là một bước
ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, hòa bình
được lập lại, đất nước độc lập, thống nhất về mặt lãnh thổ và về mặt Nhà nước, cả
nước đi lên CNXH. Để đạt được thắng lợi to lớn ấy, ngoài sự nỗ lực, hy sinh của toàn
thể dân tộc còn có sự giúp đỡ của các nước XHCN, trong đó, Liên Xô là quốc gia giữ
vai trò hết sức quan trọng. Kể từ đây, quan hệ Việt - Xô bước sang một trang mới, sự
hợp tác hữu nghị giữa hai nước tiếp diễn trong điều kiện hòa bình đã được lập lại ở
57
Việt Nam. Một trong những sự kiện đặc biệt, có ý nghĩa trong quan hệ ngoại giao
Việt - Xô là Chính phủ hai nước đã kí Hiệp ước hữu nghị và hợp tác vào ngày
03/11/1978 tại Matxcova. Bản Hiệp ước gồm 9 điều khoản, có giá trị trong 25 năm
[113, tr.580-583]. Thông qua bản Hiệp ước, hai bên khẳng định sẽ tăng cường hợp
tác trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, KHKT…Việc kí kết Hiệp ước
hữu nghị và hợp tác Việt - Xô chính là “bước ngoặt lịch sử và một sự phát triển
mang ý nghĩa chiến lược trong chính sách đối ngoại của Việt Nam thời kì hiện đại,
tác động to lớn đến nhiều mối quan hệ quốc tế trọng yếu và truyền thống của Việt
Nam” [135, tr.297]. Ngay sau đó, Liên Xô đã đẩy mạnh hợp tác và giúp đỡ Việt Nam
trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa, khoa học, kỹ thuật, trong
đó có nội dung hợp tác giáo dục đào tạo.
b. Tình hình thực hiện
Về nội dung hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô giai đoạn này, chúng tôi
thống kê được 52 hồ sơ trong tổng số 172 hồ sơ (ĐVBQ) về quan hệ hợp tác đào tạo
giữa hai nước, tập trung nhiều trong các phông Phủ Thủ tướng (28 hồ sơ), phông
UBKhHNN (09 hồ sơ) và phông Bộ Đại học và THCN (07 hồ sơ). Thành phần chủ
yếu của khối tài liệu giai đoạn này là hồ sơ về việc đàm phán, kí kết các văn kiện hợp
tác giữa hai nước; tài liệu xây dựng phương hướng, kế hoạch hợp tác đào tạo KHKT
của UBKHNN, UBKhHNN và Bộ Đại học và THCN; tài liệu về việc phê duyệt kế
hoạch đào tạo tại Liên Xô của Phủ Thủ tướng và một số ít công văn, báo cáo tình
hình và kết quả thực hiện kế hoạch hợp tác đào tạo dài hạn với Liên Xô đến năm
1983 của Bộ Đại học và THCN.
* Thiết lập cơ sở pháp lý
Nghiên cứu tài liệu về hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô qua các giai đoạn
trong hơn 40 năm quan hệ, chúng tôi thấy, giai đoạn này có sự khác biệt về việc thiết
lập các cơ sở pháp lý về hợp tác đào tạo so với các giai đoạn trước. Các văn kiện hợp
tác song phương thường thiết lập cơ sở thực hiện quan hệ đào tạo Việt Nam – Liên
Xô trong nhiều năm và có tính kế hoạch hóa, chiến lược lâu dài.
Về hiệp định song phương, chúng tôi thống kê trong khối tài liệu lưu trữ tại
TTLTQGIII có 02 hiệp định hợp tác ở cấp Nhà nước thuộc phông Phủ Thủ tướng. Đó
là Hiệp định hợp tác văn hóa và KHKT giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và
58
Chính phủ Liên bang CHXHCN Xô viết trong năm 1978 -1980, kí tại Matxcova năm
1978 và Hiệp định về giá trị tương đương của các văn bằng đào tạo và các học vị,
chức vụ khoa học được cấp hoặc công nhận ở nước CHXHCN Việt Nam và Liên
bang CHXHCN Xô viết, kí tại Matxcova năm 1978. Bên cạnh đó, trong thành phần
tài liệu phông lưu trữ Bộ Đại học và THCN, có thêm Hiệp định về việc thiết lập quan
hệ hợp tác trực tiếp giữa Nhạc viện TP.HCM và Nhạc viện Quốc gia Novosibirisk
mang tên Glinka, kí tại TP. Hồ Chí Minh ngày 01/12/1990. Nội dung của văn kiện
này như sau:
“Nhạc viện thành phố Hồ Chí Minh và Nhạc viện quốc gia Novosibirisk mong
muốn thiết lập quan hệ văn hóa, hữu nghị, coi sự phát triển của các mối quan hệ xích
lại gần nhau giữa các nhạc sĩ Liên Xô và Việt Nam phù hợp với những mục đích tốt
đẹp là giáo dục các nhạc sĩ chuyên nghiệp bậc cao, tinh thần quốc tế, truyền thống
hữu nghị giữa nhân dân chúng ta. Coi hoạt động sáng tạo chung, như cải tiến quá
trình đào tạo, khuyến khích công tác sư phạm, nâng cao nghiệp vụ là quan trọng.
Hai bên đi đến những thỏa thuận như sau:
I. – Nhạc viện TP.Hồ Chí Minh và Nhạc viện Novosibirisk hàng năm trao đổi
các giảng viên bằng những hình thức sau:
1)- Thực tập.
2)- Biểu diễn.
3)- Giảng bài và báo cáo.
4)- Giảng bài mở rộng.
5)- Nghiên cứu phương pháp giảng dạy, quá trình giảng dạy.
6)- Trao đổi kinh nghiệm hoạt động Đảng và Công đoàn.
II.- Cả hai trường, tùy khả năng sẽ tổ chức trao đổi sinh viên trên cơ sở không
ngoại tệ với những mục đích:
1)- Trình diễn chuyên môn.
2)- Tham gia hội thảo sinh viên.
3)- Trao đổi kinh nghiệm hoạt động của đoàn thể thanh niên.
III.- Hai trường sẽ chú ý tới việc trao đổi các thông tin khoa học trong lĩnh
vực lý luận âm nhạc và sư phạm, trao đổi nốt nhạc, nhạc cụ, băng ghi âm, có trách 59
nhiệm tổ chức hòa nhạc tuyên truyền âm nhạc của Việt Nam tại Novosibirisk và âm
nhạc của các nhạc sĩ Sô Viết, Sibery tại TP.Hồ Chí Minh.
IV.- Ban Giám đốc Nhạc viện Novosibirisk đặt vấn đề với Khu Ủy
Novosibirisk và bộ phận quỹ văn hóa Novosibirisk xin học bổng cho các học sinh tài
năng của Nhạc viện TP.Hồ Chí Minh theo học tại trường trung học trực thuộc Nhạc
viện Novosibirisk.
V.- Hiệp định này có tính chất chung. Cụ thể hóa nó được phản ánh trong các
vấn đề bổ xung, phù hợp với sự hợp tác giữa hai trường trong từng năm.
VI.- Hiệp định có giá trị trong 5 năm từ 1991-1995. Nó là cơ sở cho sự phát
triển quan hệ hợp tác dài lâu giữa hai Nhạc viện đến năm 2000” [110, tr.1-2].
Về mghị định thư, trong giai đoạn này, cơ quan quản lý đại học và THCN của
hai nước đã kí kết Nghị định thư về hợp tác giữa Bộ Đại học và THCN nước
CHXHCN Việt Nam và Bộ Đại học và THCN Liên bang CHXHCN Xô viết trong
những năm 1986-1990, tại Matxcova ngày 29/5/1987. Nội dung Nghị định thư liên
quan trực tiếp đến hợp tác đào tạo trình độ từ cử nhân trở lên giữa Bộ Đại học và
THCN hai nước như sau:
“Hai bên thỏa thuận tiếp tục trao đổi sinh viên, NCS và cán bộ giảng dạy để
học tập, nâng cao trình độ chuyên môn và giảng dạy ở các trường đại học.
1/ Hằng năm phía Liên Xô sẽ nhận và phía Việt Nam sẽ gửi:
- Đến 450 sinh viên học toàn khóa tại các trường đại học của Liên Xô...
- Đến 200 NCS, trong đó đến 30 người thuộc khoa học xã hội và đến 30 công
dân Việt Nam chuyển tiếp làm NCS sau khi tốt nghiệp đại học của Liên Xô...
- Đến 200 thực tập sinh sau đại học cho những người đã tốt nghiệp tại Liên Xô
thời gian không quá 1 năm...
2/ Hàng năm phía Liên Xô sẽ gửi và phía Việt Nam sẽ nhận:
- Đến 20 sinh viên, NCS và cán bộ khoa học sư phạm thực tập tiếng Việt thời
gian 10 tháng”[97, tr.1-3]
Về kế hoạch hợp tác song phương, nội dung chủ yếu của tài liệu về hợp tác
60
Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo giai đoạn 1976-1991 đang bảo quản tại
TTLTQGIII chủ yếu là các bản kế hoạch hợp tác giữa hai nước; các tài liệu về việc
xây dựng kế hoạch hợp tác giáo dục đào tạo với Liên Xô trong 3 năm và 5 năm của
Bộ Đại học và THCN. Công văn số 2321/QLHS ngày 29/10/1977 của Bộ Đại học và
THCN về kế hoạch gửi LHS 3 năm 1978-1980 và đàm phán, cho biết, những năm
trước đó, “ta chỉ đàm phán với các nước XHCN anh em để gửi LHS theo kế hoạch
hàng năm. Từ khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, nói chung các nước
anh em đều có ý kiến chính thức với ĐSQ ta đề nghị đàm phán theo kế hoạch dài hạn
3-5 năm (có nơi như Liên Xô, Bạn đề nghị cử đàm phán theo kế hoạch dài hạn, nên
hàng năm ta cần điều chỉnh, Bạn vẫn sẵn sàng chấp nhận).
Về phía ta, việc đàm phán theo kế hoạch dài hạn là một bước quan trọng để
đảm bảo tính kế hoạch hóa trong đào tạo, mặt khác, tạo thuận lợi cho cho việc tuyển
chọn, sắp xếp ngành chuyên sâu và đồng bộ, tranh thủ Bạn nhận đào tạo ở những
ngành tốt, trường tốt, đưa công tác quản lý học sinh ngoài nước vào nền nếp và
chuẩn bị đội ngũ cán bộ quản lý” [60, tr.1].
Trên tinh thần đó, Bộ Đại học và THCN đã xây dựng và trình UBKHNN, Phủ
Thủ tướng phê duyệt nội dung 02 bản kế hoạch dài hạn hợp tác đào tạo với Liên Xô
từ năm 1977-1985, gồm Kế hoạch gửi LHS đi Liên Xô 3 năm 1977-1980 [60, tr.12];
Kế hoạch hợp tác dài hạn với Liên Xô trong 5 năm 1981-1985 [21, tr1-25]. Trong
Công văn của bộ Đại học và THCN về việc gửi LHS đi nước ngoài năm 1978-1980,
Bộ đã nhấn mạnh yêu cầu gửi đi đào tạo ở nước ngoài (trong đó có Liên Xô) là
“nhằm tranh thủ chất lượng, tranh thủ khoa học kỹ thuật tiên tiến, hiện đại của thế
giới về cho đất nước ta...Theo yêu cầu đào tạo nói trên, cần từng bước giảm số lượng
học sinh đại học, tăng số lượng NCS và TTS” [60, tr.3]. Đến kế hoạch hợp tác với
Liên Xô 5 năm 1981-1985, yêu cầu chủ yếu của ta là “tranh thủ Liên Xô giúp đào tạo
và bồi dưỡng cán bộ nhằm tăng cường chất lượng, bổ khuyết số lượng, góp phần tích
cực hoàn chỉnh nhanh một bước cơ cấu đội ngũ cãn bộ chuyên môn của nước ta”
[21, tr.1]. Sau đó là bản chính thức Kế hoạch hợp tác văn hóa và khoa học giữa
CHXHCN Việt Nam và Liên bang CHXHCN Xô viết trong những năm 1986-1990,
kí tại Hà Nội ngày 28/10/1986, là hồ sơ số 1828 thuộc phông UBKHNN. Kế hoạch
này được thiết lập “xuất phát từ Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác giữa CHXHCN Việt
Nam và Liên bang CHXHCN Xô viết kí năm 1978 và phù hợp với Hiệp định hợp tác
61
văn hóa và KHKT kí ngày 19/4/1978 giữa Chính phủ CHXHCN Việt Nam và Chính
phủ Liên bang CHXHCN Xô viết, đồng thời dựa trên những kinh nghiệm tích lũy
được trong việc phát triển quan hệ văn hóa và khoa học giữa hai nước trên cơ sở dài
hạn và có kế hoạch nhằm tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả của các mối quan
hệ đó” [45, tr.1]. Nội dung bản Kế hoạch gồm 84 Điều, trong đó từ Điều 1-10 là kế
hoạch hợp tác giáo dục đại học và THCN, trực tiếp là hợp tác giữa Bộ Đại học và
THCN Việt Nam với Bộ Đại học và THCN Liên Xô. Một số nội dung cụ thể về hợp
tác đào tạo đại học và NCS được thống nhất là: hàng năm Liên Xô nhận 450 sinh viên
Việt Nam sang học toàn khóa tại các trường đại học của Liên Xô, 160 NCS sang học
toàn khóa tại Liên Xô, trong đó đến 30 người là chuyển tiếp sinh từ các trường đại
học của Liên Xô và đến 30 người nghiên cứu khoa học xã hội, phía Việt Nam nhận
đến 10 sinh viên, NCS và cán bộ khoa học sang học và thực tập tiếng Việt; hai nước
sẽ thúc đẩy việc hợp tác trực tiếp trong việc tiến hành công tác nghiên cứu khoa học,
tổ chức các hội nghị, hội thảo, biên soạn các sách chuyên khảo, sách giáo khoa và các
giáo trình giảng dạy khác. Trong bản Kế hoạch này, danh sách các trường đại học của
hai nước sẽ được thúc đẩy quan hệ hợp tác trong kế hoạch 5 năm từ 1981-1985 gồm
21 trường, viện nghiên cứu thuộc Bộ Đại học và THCN và Bộ Giáo dục hai nước.
Ngoài ra, trong phông Phủ Thủ tướng có hồ sơ 9756 là “Hồ sơ về việc thực
hiện quan hệ hợp tác giữa Trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội và Viện Tiếng Nga
Puskin từ năm 1975-1980”, trong đó, tờ số 51-58 là hai bản Kế hoạch hợp tác giữa
Trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội và Trường Cao đẳng bổ túc Ngoại ngữ Hà Nội
với Viện Tiếng Nga mang tên Puskin trong lĩnh vực dạy tiếng Nga cho người Việt
Nam trong các năm 1978-1980. Trong phông Bộ Đại học và THCN có hồ sơ 93 với
tiêu đề “Hồ sơ về quan hệ hợp tác giữa Trường Đại học Bách khoa Khắc Cốp – Liên
Xô với Trường Đại học Bách khoa Hà Nội năm 1976-1980”, trong đó có Kế hoạch
công tác về hợp tác KHKT và văn hóa giữa Trường Đại học Bách khoa Khắc cốp
mang tên Lê – nin và Trường Đại học Bách khoa Hà Nội trong thời gian 1976-1980
[100, tr.9-13].
* Kết quả thực hiện
Tài liệu về hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô giai đoạn 1976-1991 có số
lượng ít nhất trong tổng số 172 hồ sơ, tài liệu về quan hệ hợp tác đào tạo Việt Nam –
Liên Xô (1950-1991). Như chúng tôi đã giới thiệu ở trên, chủ yếu tài liệu giai đoạn
này phản ánh việc xây dựng, thiết lập các kế hoạch hợp tác đào tạo song phương 62
Việt Nam – Liên Xô trong nhiều năm liên tục. Kết quả thực hiện quan hệ hợp tác thời
kì này được phản ánh trong 03 văn bản là Công văn số 283/KH (gọi tắt là Công văn
283) ngày 23/02/1980 của Bộ Đại học và THCN về kế hoạch hợp tác với Liên Xô
trong 5 năm 1981-1985 là hồ sơ 12084 thuộc phông Phủ Thủ tướng; Công văn số
265CV-KGTW ngày 14/11/1983 của Ban Khoa giáo Trung ương về việc báo cáo tình
hình LHS và công tác LHS của ta ở các nước XHCN trong hồ sơ 21890, thuộc phông
UBKHNN và Bảng thống kê số LHS Việt Nam được cử đi học ở các nước thuộc khối
SEV (Hội đồng Tương trợ kinh tế) từ năm 1951-1982 là hồ sơ 2647 thuộc phông
UBKhHNN. Chúng tôi không tìm thấy hồ sơ tài liệu nào phản ánh nội dung hợp tác
đào tạo giữa hai nước từ sau năm 1983 đến năm 1991, khi hai nước kết thúc quan hệ
hợp tác ngoại giao. Nội dung kết quả hợp tác đào tạo được thể hiện trong 02 văn bản
nêu trên như sau:
- Về số lượng đào tạo: Trong giai đoạn từ 1976-1982, số lượng LHS Việt Nam
học tại nước ngoài nói chung là“...đã giảm bớt số lượng so với giai đoạn trước.
Trong 8 năm ta chỉ gửi đi đào tạo 9.229 LHS. Về cơ cấu, đã giảm số lượng học sinh
đại học, căn bản giữ ổn định số lượng NCS và tăng thêm số lượng TTS với nhiều hình
thức khác nhau” [60, tr.3]. Trong số này, LHS Việt Nam tại Liên Xô luôn chiếm tỉ lệ
nhiều nhất từ 50-70% tổng số LHS ta gửi hàng năm ra nước ngoài học tập và thực
tập. Số lượng cụ thể đã gửi đi Liên Xô thuộc kế hoạch hợp tác 5 năm 1976-1980 giữa
hai nước được phản ánh trong Công văn 283 của Bộ Đại học và THCN, như sau:
Tổng số 1976 1977 1978 1979 1980
Đào tạo đại học 2798 409 631 648 510 600
Đào tạo nghiên cứu sinh 593 105 111 147 145 85
Thực tập sinh cao cấp 48 05 09 13 20 01
Từ hồ sơ 2647 “Thống kê số LHS Việt Nam được cử đi đào tạo ở các nước thuộc khối SEV năm 1951-1982” trong phông UBKhHNN, chúng tôi lập biểu so sánh
số LHS Việt Nam đi học ở Liên Xô từ năm 1975-1982 với một số nước XHCN sau
đây:
63
Bậc đào tạo Nước Tổng số NCS Đại học
Liên Xô 7941 1132 577
Tiệp Khắc 1285 358 876
CHDC Đức 1374 419 791
Ba Lan 517 176 306
Số liệu trên cho thấy, như các thời kì trước, Liên Xô vẫn là nước tiếp nhận
nhiều nhất số LHS Việt Nam sang học tập, nghiên cứu và tỉ lệ đào tạo NCS cho Việt
Nam vẫn chiếm ưu thế tuyệt đối. Tuy nhiên, thời gian này đã có sự khác biệt giữa tỉ lệ
đào tạo NCS và đào tạo đại học tại Liên Xô so với các giai đoạn trước. Nếu như trước
đây, số lượng LHS Việt Nam cử đi học tại Liên Xô chủ yếu là trình độ đại học, thì
thời gian này, tỉ lệ LHS đại học tại Liên Xô đã giảm bớt so với đào tạo NCS và tập
trung nhiều ở Tiệp Khắc và CHDC Đức.
- Về ngành nghề đào tạo: Tài liệu này cũng cho biết, từ năm 1979, ta bắt đầu
gửi trở lại một số ngành khoa học xã hội. Trong 5 năm 1976-1980, ta đã bước đầu
xác định một số hướng ngành đào tạo cán bộ đại học cần tập trung gửi ở Liên Xô như
các ngành về pháp luật, về kinh tế, về điều tra cơ bản, về kỹ thuật, xây dựng, cơ
khí...[60, tr.3]
- Về chất lượng đào tạo: Công văn số 265CV-KGTW ngày 14/11/1982 của
Ban Khoa giáo Trung ương về việc báo cáo tình hình LHS và công tác LHS của ta ở
các nước XHCN anh em, đã đánh giá về tình hình học tập của LHS ở nước ngoài,
trong đó cụ thể ở Liên Xô như sau:
“Trong học sinh đại học, số khá, giỏi và xuất sắc hàng năm chiếm tỉ lệ khá
cao, thường trên 70-80%, trong năm học 1981-1982 ở Liên Xô có 80.54%...Số học
sinh tốt nghiệp bằng đỏ ngày càng tăng (ở Liên Xô: 1979 có 25%; 1980 có 25%;
1981 có 39%; 1982 có 44%; 1983 có 45%)... Số tốt nghiệp đại học được Bạn đề nghị
cho chuyển tiếp NCS tương đối nhiều (ở Liên Xô sau năm học 1982-1983 có
100/600)...” [60, tr.6].
“Tổng kết chung về kết quả thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976-1980),
Liên Xô đã nhận đào tạo và bồi dưỡng cho ngành đại học và THCN nước ta gần
5000 người với phần lớn những ngành học ta gửi đào tạo ngoài nước. Chất lượng
64
học tập và nghiên cứu của LHS ta trong những năm qua ngày một nâng lên, vì chất
lượng tuyển chọn hàng năm của ta tăng lên, số lượng gửi hàng năm tương đối ổn
định hơn, nên việc tổ chức đào tạo của Bạn đối với LHS tương đối thuận lợi hơn
trước. Tuy nhiên về ngành học, về hình thức đào tạo ở Liên Xô trong những năm qua,
ta chưa xác định rõ mục đích nhằm giải quyết những yêu cầu cụ thể trong việc hình
thành cơ cấu đội ngu cán bộ KHKT và nghiệp vụ trong nước. Đặc biệt ta chưa đạt
yêu cầu là làm chuyển biến nhanh ngành đại học và THCN của ta bằng việc tranh
thủ sự giúp đỡ của Liên Xô”[21, tr.6].
2.2. Giá trị của khối tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong
lĩnh vực đào tạo (1950-1991)
2.2.1. Là cơ sở để nghiên cứu lịch sử hợp tác ngoại giao Việt Nam – Liên
Xô, góp phần củng cố tình hữu nghị và phát triển quan hệ hợp tác Việt Nam –
Liên bang Nga ngày nay
Theo chúng tôi, đây là giá trị nghiên cứu cơ bản và nổi bật nhất của khối tài
liệu về hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo đang được bảo quản tại
TTLTQGIII. Khối tài liệu này có thể không khái quát được toàn bộ các nội dung của
quan hệ hợp tác đào tạo giữa hai nước nhưng cơ bản đã phản ánh được tương đối rõ
nét về quá trình hình thành và phát triển quan hệ hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực
giáo dục đào tạo, thể hiện sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô trong việc đào tạo đội ngũ trí
thức cho Việt Nam gần nửa thế kỉ, đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của cách
mạng Việt Nam và tạo nên mối quan hệ đặc biệt thân cận giữa hai nước. Sự hợp tác
và giúp đỡ của Liên Xô đối với Việt Nam về đào tạo là một trong những nội dung
hợp tác chủ yếu trong quan hệ đối ngoại Việt Nam – Liên Xô, bên cạnh các nội dung
hợp tác về chính trị - ngoại giao, quân sự và kinh tế. Do vậy, khối tài liệu này thực sự
là một trong những nguồn tư liệu lịch sử cần thiết đối với các nhà nghiên cứu lịch sử
ngoại giao Việt Nam với Liên Xô.
Như chúng tôi đã trình bày, nội dung hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô
trong từng giai đoạn nhỏ của chặng đường hơn 40 năm quan hệ ngoại giao giữa hai
nước đã phần nào thể hiện sự phát triển trong quan hệ đối ngoại giữa hai Nhà nước ở
từng giai đoạn lịch sử. Theo đó, từ năm 1950-1954 là thời kì hai nước thiết lập quan
hệ ngoại giao và sự hợp tác chủ yếu là sự giúp đỡ của Liên Xô dành cho Việt Nam
65
trên các mặt chính trị - ngoại giao, quân sự và văn hóa. Trong sự giúp đỡ về văn hóa,
khối tài liệu này cho thấy Liên Xô chính là nước tiếp nhận công dân Việt Nam đầu
tiên được Nhà nước cử đi đào tạo ở nước ngoài từ năm 1951 và kết quả hợp tác đào
tạo trong thời gian này chưa nổi bật do ta mới chỉ gửi số lượng ít học sinh đi học.
Qua nội dung hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô trong giai đoạn nhân dân
Việt Nam phải tiến hành cuộc kháng chiến gian chổ chống đế quốc Mỹ từ 1955-1975,
có thể khẳng định đây là giai đoạn quan hệ Việt Nam – Liên Xô phát triển lên một
tầm cao mới, có sự thay đổi về chất trong quan hệ hai nước và sự giúp đỡ của Liên
Xô là vô cùng to lớn. Với các văn kiện hợp tác song phương giữa hai Nhà nước trong
lĩnh vực văn hóa, KHKT và được cụ thể hóa trong những bản Kế hoạch hợp tác hàng
năm thời kì này, cho thấy, số lượng công dân Việt Nam được cử đi Liên Xô đào tạo
ngày một lớn, đặc biệt trong các năm từ 1966-1969 [60, tr.3], sau khi Bộ Chính trị ra
Nghị quyết số 142-CP/TW ngày 28/6/1966 về việc đẩy mạnh đào tạo cán bộ ở nước
ngoài, chủ yếu là các nước XHCN anh em. Trên cơ sở các tài liệu báo cáo tổng kết
công tác đào tạo LHS Việt Nam ở Liên Xô và các nước thuộc khối tài liệu hợp tác
đào tạo Liên Xô – Việt Nam tại TTLTQGIII hiện nay, người đọc và các nhà nghiên
cứu lịch sử thấy được sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô trong việc đào tạo đội ngũ cán
bộ KHKT và công nhân lành nghề phục vụ công cuộc xây dựng, cải tạo CNXH ở
miền Bắc Việt Nam thời kì này. Các tài liệu này cũng cho biết, từ năm 1965-1975 là
giai đoạn hợp tác rất hiệu quả giữa hai Nhà nước trên tinh thần hợp tác chặt chẽ, thấu
hiểu và tôn trọng lẫn nhau; giáo dục đào tạo vẫn là một trong những lĩnh vực hợp tác
trọng tâm và mang lại nhiều kết quả tốt đẹp. Sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô trên các
mặt trong giai đoạn này là một trong những nhân tố dẫn đến thắng lợi của nhân dân
Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Ngay trong diễn văn đọc tại cuộc chiêu
đãi của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Đoàn Chủ tịch Xô viết tối cao và Chính
phủ Liên Xô ngày 10/7/1973, Tổng Bí thư Lê Duẩn đã nhấn mạnh: “Sự ủng hộ mạnh
mẽ, sự giúp đỡ to lớn về nhiều mặt của Liên Xô cùng với muôn vàn việc làm đẹp đẽ
và cảm động của anh em xô-viết đã tiếp thêm sức mạnh cho nhân dân Việt Nam, động
viên mạnh mẽ tinh thần đồng bào và chiến sĩ cả nước chúng tôi tiến lên giành những
thắng lợi ngày càng to lớn cho đến thắng lợi huy hoàng ngày nay. Sự ủng hộ và giúp
đỡ đó là biểu hiện rực rỡ của tình đoàn kết chiến đấu giữa những đồng chí, những
người anh em cùng chung lý tưởng” [122, tr.37-38].
66
Một trong những nguồn tư liệu có giá trị để nghiên cứu lịch sử hợp tác ngoại
giao Việt Nam – Liên Xô giai đoạn từ sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
đến khi kết thúc quan hệ Việt – Xô (1991) là các hồ sơ, tài liệu về hợp tác đào tạo
giữa hai nước hình thành trong giai đoạn này. Tuy thành phần tài liệu về nội dung
hợp tác đào tạo giữa hai nước giai đoạn 1976-1991 không nhiều so với các giai đoạn
trước đó, nhưng đã cơ bản thể hiện sự hợp tác giữa hai Nhà nước trong lĩnh vực
nghiên cứu khoa học và sự giúp đỡ của Liên Xô trong việc đào tạo cán bộ chuyên
môn, công nhân kỹ thuật cho Việt Nam trong một số kế hoạch dài hạn 5 năm. Giai
đoạn này, quan hệ giữa hai nước tiếp tục được củng cố và phát triển thêm một tầm
cao mới, đặc biệt từ sau khi hai nước kí Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác toàn diện vào
năm 1978, quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô phát triển mạnh mẽ trên tất cả các
lĩnh vực. Các tài liệu cho biết thêm, trong giai đoạn xây dựng và thực hiện các kế
hoạch hợp tác 5 năm từ 1976-1985, Liên Xô đã giúp đỡ Việt Nam rất nhiều trong
việc trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật cho ngành đại học và THCN và các nguồn ủng
hộ viện trợ to lớn khác, gấp nhiều lần so với các giai đoạn trước. Nhấn mạnh tình
đoàn kết chiến đấu và quan hệ hợp tác hữu nghị giữa nước ta với Liên Xô kể từ khi
hai nước kí kết Hiệp ước hữu nghị và hợp tác, Tổng bí thư Lê Duẩn đã khẳng định
Liên Xô “là bạn đồng minh hùng hậu và vững chắc nhất của Việt Nam... Đoàn kết và
hợp tác toàn diện với Liên Xô luôn là hòn đá tảng của chính sách đối ngoại của Đảng
và Nhà nước ta” [122, tr.124-125].
Tóm lại, khối tài liệu về hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo
(1950-1991) đang bảo quản tại TTLTQGIII hiện nay, thực sự là nguồn tư liệu lịch sử
cần thiết và có ý nghĩa quan trọng đối với việc nghiên cứu lịch sử hợp tác ngoại giao
Việt Nam – Liên Xô trong hơn 40 năm quan hệ. Nổi bật hơn cả, khối tài liệu này đã
phản ánh sự hợp tác và giúp đỡ to lớn của Liên Xô đối với Việt Nam trên phương
diện văn hóa giáo dục, là một trong những nhân tố quan trọng góp phần vào thắng lợi
của cách mạng Việt Nam. Trong từng ấy năm gắn bó, hàng chục ngàn sinh viên, thực
tập sinh, nghiên cứu sinh đã được tiếp nhận nền học vấn bài bản từ mái trường Xô
Viết, đã trở thành lực lượng nòng cốt trong công cuộc đổi mới của Việt Nam. Lực
lượng trí thức đó đã có những đóng góp đáng kể trong sự phát triển của nền KHKT
Việt Nam và là cầu nối vững chắc cho tình hữu nghị giữa 2 dân tộc.
Quan hệ ngoại giao Việt Nam – Liên bang Nga ngày nay là sự kế thừa và tiếp
67
nối của quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô. Nhìn lại chặng đường 65 năm quan hệ
hợp tác, cùng nhau xây đắp tượng đài hữu nghị Việt – Nga bằng tình cảm, công sức
và sự hi sinh hết mình của nhiều thế hệ nhân dân hai nước, Việt Nam sẽ luôn trân
trọng và ghi nhớ sự ủng hộ và giúp đỡ to lớn của người anh em Nga trong việc đào
tạo đội ngũ cán bộ KHKT phục vụ sự nghiệp bảo vệ, khôi phục và phát triển đất
nước. Giờ đây, cũng chính với những tình cảm chân thành và gắn bó đó, cùng với
những thành quả và kinh nghiệm hợp tác quý báu, hai nước Việt Nam và Liên bang
Nga ngày nay tiếp tục nỗ lực đưa quan hệ Việt - Nga lên tầm cao mới vì sự phát triển
và phồn vinh của hai dân tộc.
2.2.2. Góp phần nghiên cứu lịch sử ngành giáo dục và đào tạo Việt Nam,
trọng tâm là giáo dục đại học
Tìm hiểu và nghiên cứu nội dung quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong
lĩnh vực đào tạo tại TTLTQGIII hiện nay, không chỉ cho người đọc thấy được giá trị
của tài liệu đối với việc nghiên cứu lịch sử hợp tác giữa hai nước, bản thân chúng đã
phản ánh lịch sử phát triển của nền giáo dục Việt Nam hiện đại, chủ yếu là quá trình
phát triển của ngành đại học. Như đã trình bày, căn cứ để chúng tôi phân chia quan hệ
hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô thành các giai đoạn cụ thể là dựa theo các giai
đoạn phát triển của ngành giáo dục đào tạo Việt Nam được thể hiện trong nhiều tài
liệu lưu trữ tại Trung tâm và một số tư liệu khác nghiên cứu lịch sử ngành.
Với khối tài liệu này, độc giả sẽ thấy rất rõ diễn biến và sự phát triển của
ngành đại học Việt Nam được thể hiện qua những văn bản tổng kết, đánh giá tình
hình hợp tác đào tạo nước ngoài, qua các số liệu tổng hợp, so sánh về tình hình LHS
Việt Nam tại Liên Xô và các nước chủ yếu trong các phông Phủ Thủ tướng, Bộ Giáo
dục, Bộ Đại học và THCN và UBKhHNN. Cụ thể về sự phát triển ngành giáo dục
đào tạo Việt Nam và giáo dục đại học chúng tôi rút ra từ việc nghiên cứu khối tài liệu
này như sau:
+ Thời kì từ 1950-1954
Về mặt tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo, thông qua các
yếu tố thể thức văn bản thời kì này và đối chiếu lịch sử hoạt động của các đơn vị hình
thành tài liệu, Bộ Giáo dục (trước có tên gọi là Bộ Quốc gia Giáo dục) được giao
trách nhiệm quản lý, chỉ đạo toàn diện ngành giáo dục Việt Nam, trong đó có các
68
trường đại học. Các yếu tố tác giả chữ kí của người có thẩm quyền và con dấu của
văn bản do cơ quan Bộ Giáo dục ban hành cho chúng tôi biết được, thời kì này, Bộ
Giáo dục có Vụ Giáo dục chuyên nghiệp do ông Lê Văn Giạng làm Giám đốc, là cơ
quan giúp Bộ phụ trách công tác gửi LHS ra nước ngoài.
Qua nội dung hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô thời kì này, chúng ta đã xác
định được dấu mốc 1951 là năm đầu tiên ngành giáo dục gửi học sinh đi học tập ở
nước ngoài (Liên Xô). Do mới bắt đầu gửi LHS đi nước ngoài nên số lượng gửi đi
còn ít, trong 4 năm mới chỉ có 574 LHS đại học [87, tr.3] và chủ yếu đi Liên Xô [57,
tr.20-21].
+ Thời kì từ 1955-1964
Thành phần tài liệu lưu trữ tại TTLTQGIII về quan hệ hợp tác đào tạo Việt
Nam – Liên Xô đã phản ánh nội dung hợp tác đào tạo giữa hai nước thời kì này khá
phong phú, cơ bản đã thể hiện hoàn chỉnh quan hệ hai chiều Việt Nam và Liên Xô
trong vấn đề đào tạo cán bộ có trình độ đại học và NCS của hai nước. Theo chúng tôi,
khối tài liệu này thực sự là một trong những nguồn tư liệu lịch sử rất có giá trị để làm
sáng tỏ các kết quả và thành tựu của ngành đại học nói riêng cũng như nghiên cứu
lịch sử ngành giáo dục Việt Nam nói chung từ năm 1955-1964. Sự phát triển của
ngành đại học nước ta thông qua nội dung hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô giai
đoạn này thể hiện ở những điểm nổi bật sau đây.
Thứ nhất, số lượng LHS và số lượng ngành học đại học tại nước ngoài đã tăng
lên đáng kể so với những năm trước đó. Trong giai đoạn này, lần đầu tiên ta gửi đi
đào tạo nước ngoài trình độ NCS và bắt đầu từ năm 1964, chúng ta tạm dừng gửi đi
đào tạo các ngành khoa học xã hội [87, tr.3]. Số lượng LHS được cử đi các nước học
đại học hàng năm tập trung hầu hết là sinh viên các trường đại học lớn của Bộ Giáo
dục, nhiều nhất là sinh viên các Trường Đại học Bách khoa và Đại học Tổng hợp.
Thứ hai, các tài liệu lưu trữ cho biết thêm, đây là lần đầu tiên ngành giáo dục
của ta đã tiến hành phân phối LHS ngay từ trong nước và việc làm này thực sự rất có
lợi trong việc tuyển chọn và phân phối ngành nghề đào tạo cho LHS tại các nước [87,
tr.136-138].
Thứ ba, sự phát triển của ngành đại học giai đoạn này thể hiện ở số lượng các
trường đại học của Việt Nam hợp tác, kết nghĩa với các trường đại học của Liên Xô
69
trong các bản Kế hoạch hợp tác văn hóa, KHKT giữa hai nước hàng năm. Theo đó,
rất nhiều trường đại học lớn của ngành giáo dục được hình thành trong những năm
này, điển hình là các trường Đại học Bách Khoa, Đại học Tổng hợp, Đại học Nông –
Lâm Hà Nội, Đại học Sư phạm Vinh và Đại học Thủy lợi Hà Nội ở miền Bắc...được
xây dựng theo mô hình XHCN của Liên Xô.
Thứ tư, nghiên cứu khối tài liệu về hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô tại
Trung tâm cho chúng ta biết sự giúp đỡ từ phía Việt Nam trong việc đào tạo LHS
nước ngoài, duy nhất thời kì này có thông tin và thông tin tương đối rõ nét. Tài liệu
cho thấy Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội đã nhận đào tạo rất nhiều sinh viên người
nước ngoài vào học tập và nghiên cứu một số ngành ngôn ngữ, văn hóa, lịch sử Việt
Nam...Rõ ràng, ngành giáo dục Việt Nam đến đây đã thực sự phát triển và chú trọng
hơn tới lĩnh vực hợp tác quốc tế trong đào tạo và chúng ta đã có nhiều điều kiện để
đào tạo cán bộ cho các nước XHCN so với những năm trước.
Như vậy, bằng tất cả những điểm nổi bật trong lịch sử ngành đại học giai đoạn
1955-1964 kể trên, đã phần nào phản ánh rõ sự lớn mạnh và vai trò của ngành giáo
dục nói chung, trực tiếp là của Bộ Giáo dục đối với sự nghiệp cải tạo, xây dựng
CNXH ở miền Bắc.
+ Thời kì từ 1965-1975
Về mặt tổ chức bộ máy quản lý giáo dục, như chúng tôi đã giới thiệu trong lịch
sử hình thành và phát triển của Bộ Giáo dục, ngày 01/10/1965, Ủy ban Thường vụ
Quốc hội đã quyết định phê chuẩn việc tách Bộ Giáo dục thành Bộ Giáo dục và Bộ
Đại học và THCN để chỉ đạo các ngành học đã phát triển với quy mô lớn. Nhiệm vụ
của Bộ Đại học và THCN là phụ trách lĩnh vực giáo dục đại học và THCN, trong đó
có quản lý các trường đại học, các trường THCN, quản lý học sinh trong và LHS đại
học ở nước ngoài. Từ yếu tố chữ kí của người có thẩm quyền và con dấu của văn bản
trong khối tài liệu về hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô đã cho biết lãnh đạo của
Bộ Giáo dục thời kì này vẫn là ông Nguyễn Văn Huyên và ông Tạ Quang Bửu là Bộ
trưởng Bộ Đại học và THCN.
Tài liệu về nội dung hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô thời kì này tuy
không nhiều và thông tin ít phong phú hơn so với thời gian trước, nhưng qua các số
liệu cụ thể về LHS Việt Nam được cử đi Liên Xô và các nước phần nào cho thấy hoạt
70
động hợp tác quốc tế về đào tạo đại học và THCN của chúng ta đã được đẩy mạnh
hơn nhiều so với thời kì trước, xuất phát từ thực tế cả nước có chiến tranh, điều kiện
đào tạo trong nước gặp nhiều khó khăn. Cụ thể, trong 11 năm, ta đã gửi đi gần 25.000
LHS các loại, trong đó có trên 3000 NCS và cao nhất là các năm từ 1966-1969 [87,
tr.3]. Ngoài ra, sự phát triển của giáo dục đại học Việt Nam thời kì này còn thể hiện ở
số lượng ngành nghề đào tạo đại học và NCS Việt Nam tại Liên Xô cũng như tại các
nước XHCN khác đều tăng so với các năm trước, đặc biệt là các ngành đào tạo NCS.
+ Thời kì từ 1976-1982
Nghiên cứu khối tài liệu về quan hệ hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô
(1950-1991) cho chúng tôi những thông tin quý giá về sự phát triển của giáo dục Việt
Nam nói chung và ngành đại học nói riêng từ khi hòa bình, giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước đến năm 1982 (tài liệu chỉ phản ánh kết quả thực hiện đến năm
này). Bộ Đại học và THCN lúc này vẫn là cơ quan giúp Chính phủ quản lý lĩnh vực
giáo dục đại học và THCN, trong đó có theo dõi và quản lý các hoạt động hợp tác
quốc tế về đào tạo.
Công văn số 265CV-KGTW ngày 14/11/1963 của Ban Khoa Giáo – Ban Chấp
hành Trung ương về tình hình công tác LHS Việt Nam ở các nước XHCN từ năm
1951-1983 đã chỉ rõ, “trong giai đoạn này, ta đã giảm bớt số lượng so với giai đoạn
trước. Trong 8 năm chỉ gửi đi đào tạo 9.229. Về cơ cấu, đã giảm số lượng học sinh
đại học, căn bản giữ ổn định số lượng nghiên cứu sinh, và tăng thêm số lượng thực
tập sinh với nhiều hình thức khác nhau. Kể từ năm 1979, ta bắt đầu gửi trở lại một số
ngành khoa học xã hội. Trong hoàn cảnh mới, chúng ta cũng bắt đầu gửi một số í đi
học tập, bồi dưỡng ở một số nước tư bản chủ nghĩa và dân tộc chủ nghĩa” [87, tr.3].
Tài liệu về hợp tác Việt Nam – Liên Xô giai đoạn này cho biết thêm, từ chỗ
trước đây chỉ làm kế hoạch và ký kết với Liên Xô và các nước kế hoạch một năm, ta
đã tiến lên làm kế hoạch 3 năm (1978-1980) và kế hoạch 5 năm (1981-1985) và đã có
nhiều hình thức đào tạo, bồi dưỡng và chú ý tăng nhanh tỉ lệ đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ có trình độ sau và trên đại học.
Tóm lại, với tất cả những nội dung kể trên, chúng ta thấy được giá trị của khối
tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo đang bảo quản
tại TTLTQGIII là một trong những nguồn tư liệu đáng tin cậy để nghiên cứu tiến
71
trình phát triển của nền giáo dục đào tạo Việt Nam hiện đại, chủ yếu là sự phát triển
của ngành đại học, được thể hiện hầu hết qua các số liệu thống kê và các tài liệu tổng
kết, đánh giá tình hình hợp tác đào tạo giữa Việt Nam với Liên Xô và các nước khác
từ năm 1950-1982. Đây thực sự là một gợi ý rất có ý nghĩa đối với các đối tượng độc
giả có nhu cầu khai thác, sử dụng tài liệu lưu trữ tại Trung tâm thực hiện các đề tài
nghiên cứu về ngành giáo dục đào tạo của Việt Nam những năm tháng đã qua.
2.2.3. Giúp các nhà lãnh đạo, quản lý đúc rút bài học kinh nghiệm, đề ra
các chủ trương, biện pháp đúng đắn trong công tác quản lý LHS
Như chúng ta đã biết, một trong những tác dụng to lớn mà tài liệu lưu trữ nói
chung mang lại đó là giúp cho các nhà quản lý, lãnh đạo đúc rút kinh nghiệm, đề ra
những chiến lược, biện pháp đúng đắn trong công tác chuyên môn. Nhà quản lý phải
phân tích và xử lý rất nhiều thông tin trước khi đưa ra một quyết định quản lý. Tính
đúng đắn và hiệu quả của các quyết định quản lý không chỉ phụ thuộc vào sự nhanh
nhạy, thông minh, sắc bén của nhà quản lý mà còn chịu sự chi phối không nhỏ từ các
nguồn thông tin mà nhà quản lý có được. Trong những nguồn thông tin này, chiếm đa
số là nguồn thông tin từ quá khứ, một trong những nguồn thông tin đã được kiểm
chứng và có độ chân thực cao. Nhờ việc nghiên cứu, tìm hiểu các thông tin trong quá
khứ được thể hiện chủ yếu dưới dạng văn bản mà nhà quản lý có thể kế thừa được
những thành tựu của những nhà quản lý trước đó, đồng thời, rút ra được những bài
học, kinh nghiệm thông qua việc tìm hiểu những quyết định sai lầm của những nhà
quản lý trước.
Tương tự như vậy, thông qua việc nghiên cứu, tìm hiểu khối tài liệu về quan
hệ hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô đang bảo quản tại TTLTQGIII, các nhà quản
lý có thể tiếp cận được với rất nhiều thông tin hữu ích đối với lĩnh vực hợp tác quốc
tế về giáo dục đào tạo. Trong một số tài liệu về xây dựng kế hoạch LHS đi Liên Xô
cũng như trong nhiều báo cáo tổng kết công tác LHS Việt Nam tại Liên Xô và các
nước của các cơ quan chuyên môn, chúng tôi thấy những vấn đề cơ bản cần chấn
chỉnh, rút kinh nghiệm từ tình hình công tác LHS bao gồm vấn đề tổ chức quản lý
LHS; lập kế hoạch gửi đi đào tạo và công tác tuyển chọn LHS, phân phối ngành nghề
đào tạo.
Ngay trong Báo cáo về tình hình LHS ở các nước anh em của Đoàn cán bộ
72
nghiên cứu Ban Tổ chức Trung ương năm 1958, là văn bản tổng hợp sớm nhất chúng
tôi khai thác được, đã chỉ ra mối tầm quan trọng của công tác phân phối và điều chỉnh
ngành nghề đào tạo LHS, đó là:
“Phân phối, điều chỉnh ngành nghề có quan hệ đến Kế hoạch nhà nước, đến
kết quả học tập, đến tư tưởng sinh viên.
Công tác này làm tốt thì đảm bảo tốt yêu cầu kế hoạch Nhà nước, đảm bảo tốt
kết quả học tập, ổn định tốt tư tưởng lưu học sinh, tránh được gây khó khăn cho bạn
và cho cả chúng ta. Đây là một công tác rất khó khăn, đòi hỏi phải nắm vững yêu cầu
toàn diện trong nước, tình hình trường sở, ngành nghề các nước anh em, đòi hỏi phải
có một trình độ nghiệp vụ và phương pháp làm việc đi sâu đi sát và thật cụ thể, có khi
tỉ mỉ. [52, tr.16].
Đến năm 1964, khi tổng kết công tác đào tạo cán bộ ở nước ngoài từ năm
1950-1964, Bộ Giáo dục đã khá nhấn mạnh đến công tác quản lý LHS gồm quản lý
chính trị tư tưởng và học tập của LHS. Theo Bộ Giáo dục, “muốn làm tốt công tác
quản lý LHS, trước hết và bất kì lúc nào cũng phải xem trọng tư tưởng là gốc, chính
trị dẫn đầu. Do đó, quản lý chính trị tư tưởng trong LHS là một công tác vận động
quần chúng sinh động, công phu và sáng tạo. Vai trò Đảng là chủ chốt, thứ đến vai
trò Đoàn. Có quản lý tốt chinh trị tư tưởng mới giải quyết tốt việc lãnh đạo LHS nỗ
lực học giỏi về chuyên môn kỹ thuật đúng ngành nghề được phân công và chuẩn bị
thái độ về nước phục vụ sau khi tốt nghiệp [92, tr.4]. Về quản lý học tập chuyên môn,
Bộ cũng chỉ ra rằng: “Đây là một mặt công tác chủ chốt trong toàn bộ công tác quản
lý LHS. Có quản lý tốt được học tập chuyên môn mới nắm chắc ngành nghề cho công
tác kế hoạch đào tạo được sát và công tác phân phối tốt nghiệp, sử dụng hay chọn
học thêm mới chính xác, phát huy tài năng của mỗi người” [92, tr.7]
Trong Báo cáo tổng kết công tác tuyển sinh ra nước ngoài năm 1968 và
phương hướng nghiên cứu kế hoạch năm 1969 của Bộ Đại học và THCN, Bộ đã rút
ra một số bài học kinh nghiệm, đó là:
“- Nắm vững trình độ, khả năng của học sinh, chú trọng học sinh có năng
khiếu, giải quyết đúng đắn việc phân ngành học…
- Cần củng cố bộ máy tổ chức ở các cấp, các ngành để đảm bảo thực hiện
73
công tác tuyển sinh tốt hơn…
- Đối với Bộ Đại học và THCN: đối với công tác tuyển sinh ra ngoài nước, Bộ
Đại học và THCN phải trực tiếp xét duyệt, phân ngành, phân nước và tổ chức đưa đi.
Tất cả những việc này đòi hỏi phải thật chính xác…Để đảm bảo thực hiện tốt cần
kiên quyết tổ chức một bộ máy hoàn chỉnh, xem đó là một đơn vị thực hiện thống nhất
kế hoạch tuyển chọn và đưa học sinh…Kinh nghiệm cho thấy ràng, muốn đảm bảo
đúng yêu cầu đào tạo cán bộ KHKT của Đảng ở nước ngoài, không những chỉ cần
làm tốt các khâu xét duyệt, phân ngành phân nước học… mà còn phải làm tốt các
khâu như triệu tập, tổ chức học chính trị, tổ chức phiên chế các đoàn đi cho một
nước, việc kiểm tra tiêu chuẩn sức khỏe, các thủ tục xuất cảnh và các công việc phải
xử lý khi thiếu và thừa học sinh… Mọi sự thay đổi tùy tiện do một tổ chức khác giải
quyết sẽ ảnh hưởng đến việc chấp hành chính sách của cơ quan xét duyệt và cuối
cùng của việc đảm bảo thực hiện kế hoạch của ngoài nước..”[23, tr.32-33].
Hoặc trong Báo cáo của Vụ Giáo dục – Đào tạo của Bộ Đại học và THCN về
tình hình đào tạo cán bộ chuyên môn và công nhân kỹ thuật gửi đi các nước XHCN
năm 1984, có đưa ra một số kinh nghiệm trong việc xây dựng kế hoạch LHS, cụ thể:
“a/ Phải làm kế hoạch gửi LHS một cách nghiêm túc, chặt chẽ, kết hợp việc
đào tạo trong nước và ngoài nước, chỉ gửi đào tạo những ngành mà trong nước cần
có trình độ cao, những ngành cần nhưng chưa có điều kiện đào tạo được, những
ngành cần mà trong nước đào tạo không kịp nhu cầu.
Phải tuyển chọn chặt chẽ và xác định nhiệm vụ học theo ngành nghề cần cho
nền kinh tế mà học sinh có nghĩa vụ phải phục vụ sau khi tốt nghiệp (không gây khó
khăn khi phân phối, sử dụng…
d/ Củng cố lại bộ máy quản lý công tác kế hoạch hóa ở các bộ quản lý ngành:
Bộ Đại học, Tổng cục Dạy nghề để xây dựng được kế hoạch toàn ngành, Ủy ban Kế
hoạch Nhà nước tổng hợp và cân đối kế hoạch trước khi trình Hội đồng Bộ trưởng.
Ủy ban KHKT Nhà nước quản lý đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, làm kế hoạch đào
tạo trên đại học..” [60, tr.5].
Trong khối tài liệu về hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô, có hồ sơ 18382
thuộc phông Phủ Thủ tướng là Công văn số 123/LHS ngày 23/7/1973 của ĐSQ Việt
Nam tại Liên Xô về việc tăng cường và cải tiến quản lý NCS (báo cáo chuyên đề),
74
nội dung văn bản này là các kết quả tổng kết, nghiên cứu chuyên đề đào tạo NCS tại
Liên Xô và các biện pháp cụ thể để nâng cao hiệu quả của công tác quản lý LHS tại
Liên Xô trong thời gian tới nói riêng và đào tạo NCS ở ngoài nước nói chung. Theo
đó, tài liệu này thực sự là tư liệu có giá trị đối với việc nghiên cứu, đúc rút kinh
nghiệm trong công tác đào tạo NCS của ta cho phù hợp với điều kiện hiện nay…
Những bài học kinh nghiệm nói trên được rút ra từ nội dung khối tài liệu lưu
trữ về quan hệ Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo thực sự là những thông tin
hữu ích và cần thiết đối với công tác quản lý, điều hành hoạt động đối ngoại về giáo
dục đào tạo, cụ thể với Bộ Giáo dục và Đào tạo – cơ quan thực hiện nhiệm vụ hợp tác
quốc tế về giáo dục đào tạo và quản lý đào tạo ở nước ngoài theo quy định của Nhà
nước hiện nay.
2.2.4. Là một trong những tư liệu lịch sử phục vụ nghiên cứu về giới trí
thức Việt Nam
Ngoài những giá trị cơ bản nêu trên, nguồn tài liệu về quan hệ hợp tác Việt
Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo đang bảo quản tại TTLTQGIII hiện nay còn có
ý nghĩa trong việc cung cấp thông tin sử liệu để nghiên cứu về giới trí thức Việt Nam
trong sự nghiệp giải phóng và xây dựng đất nước, cụ thể là đội ngũ trí thức trong hai
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và từ sau giải phóng miền Nam,
thống nhất Tổ quốc, xây dựng và đổi mới đất nước đến những năm cuối của thập niên
80 của thế kỉ XX.
Trước hết, khối tài liệu này cho biết sự hình thành và phát triển của đội ngũ trí
thức Việt Nam được đào tạo ở nước ngoài trong giai đoạn này, thể hiện qua các số
liệu thống kê, tổng hợp về tình hình LHS đi Liên Xô và các nước khác, ngành nghề
đào tạo và sự phân phối ngành nghề sau tốt nghiệp được đề cập trong tài liệu. Tư
tưởng đào tạo cán bộ, trí thức đã được Đảng và Nhà nước quan tâm từ rất sớm, ngay
đầu những năm 1950, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định gửi con em
nhân dân lao động đi đào tạo ở các nước tiên tiến, dù trong điều kiện cuộc kháng
chiến chống Pháp đang diễn ra quyết liệt, đầy khó khăn. Sự hình thành và phát triển
của đội ngũ trí thức Việt Nam đào tạo ngoài nước được thể hiện khái quát trong Báo
cáo của Vụ Giáo dục - Đào tạo của Bộ Đại học và THCN về tình hình đào tạo cán bộ
chuyên môn và công nhân kỹ thuật gửi đi các nước XHCN thuộc hồ sơ 21890, phông
UBKHNN. Cụ thể, trong 32 năm (1951-1983), ta đã gửi đi đào tạo 41.246 học sinh
ngành đại học và THCN đi các nước và tính đến đầu năm 1983, đã có 30923 người
75
tốt nghiệp về nước công tác. Đoàn LHS đầu tiên của Việt Nam gồm 21 người, được
Nhà nước cử đi Liên Xô đào tạo trình độ vào năm 1951, là năm bắt đầu đào tạo trí
thức Việt Nam tại nước ngoài. Trong 4 năm kháng chiến chống Pháp, ta không có
LHS trình độ tiến sĩ gồm cả đào tạo trong và ngoài nước. Bước sang giai đoạn hòa
bình, xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước, nhu cầu cán bộ
giai đoạn này tăng nhanh, công tác đào tạo cán bộ KHKT ở ngoài nước được chú
trọng, thể hiện ở số lượng cán bộ, học sinh được cử đi đào tạo hàng năm tăng nhiều
so với năm trước. Thời gian này, ta bắt đầu gửi đi đào tạo trình độ NCS. Nhận xét
chung về tình hình đội ngũ trí thức Việt Nam từ ngày hòa bình lập lại đến năm 1958,
Báo cáo của Đoàn cán bộ nghiên cứu của Ban Tổ chức Trung ương về tình hình LHS
ở các nước anh em Trung Quốc, Liên Xô, Ba Lan, Tiệp Khắc, CHDC Đức năm 1958
đã khái quát: “So với tổng số sinh viên đại học trong nước là 5000 thì 1864 LHS
nước ngoài, chiếm tỉ số là 2/5. So với tổng số trí thức ở miền Bắc hiện nay là 4000
(kể cả trung cấp) thì số LHS này chiếm tỉ số gần phân nửa (1/2). Số trí thức có trình
độ tương đương đại học trở lên là 1650 thì số LHS nước ngoài hơn 214 người...”
Đặc biệt đến giai đoạn 1965-1975, ta đã đẩy mạnh việc gửi đi đào tạo nước
ngoài tất cả các cấp từ trên đại học, đại học và công nhân kỹ thuật. Trong 11, năm ta
đã gửi đi 24.999 LHS các loại, trong đó có trên 3000 NCS. Qua các số liệu tổng hợp
kết quả đào tạo cán bộ ở ngoài nước của các cơ quan, tổ chức, chúng tôi nhận thấy, từ
năm 1955 đến năm 1975 là giai đoạn hình thành nhiều nhất đội ngũ trí thức Việt Nam
được đào tạo ở ngoài nước. Cùng với những lớp trí thức đào tạo trong nước, những trí
thức được đào tạo ở nước ngoài (chủ yếu là Liên Xô) là lực lượng nòng cốt trong các
trường đại học, viện nghiên cứu ở miền Bắc, đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp
xây dựng miền Bắc và giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Từ sau giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước, cả nước xây dựng CHXH, chúng ta đã giảm bớt việc
gửi đi đào tạo ngoài nước và tăng mạnh tốc độ, quy mô đào tạo trong nước [60, tr.1-
2].
Thông qua các tài liệu là chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về
công tác giáo dục đào tạo nói chung và đào tạo cán bộ ngoài nước nói riêng; chương
trình, kế hoạch của các Bộ ngành, địa phương về việc gửi LHS đi đào tạo ở Liên Xô
và các nước hàng năm và nhiều năm; các báo cáo tổng kết công tác đào tạo cán bộ ở
nước ngoài của từng giai đoạn và danh sách LHS được cử đi học cũng như danh sách
LHS tốt nghiệp về nước được thống kê chi tiết, chúng tôi có một số nhận xét về các
76
đặc điểm chính của giới trí thức Việt Nam trong thời kì này như sau:
Về giới tính, nhìn chung, trong đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ có học vị
cao ở nước ta, nam chiếm ưu thế tuyệt đối. Số lượng và tỉ lệ cử nhân đại học và tiến sĩ
là nam giới thường gấp nhiều lần nữ giới. Ví dụ, trong Báo cáo của Đoàn cán bộ
nghiên cứu của Ban Tổ chức Trung ương về tình hình LHS ở các nước anh em Trung
Quốc, Liên Xô, Ba Lan, Tiệp Khắc, CHDC Đức năm 1958, thành phần LHS cử đi
nước ngoài từ năm 1953-1958 là 1170 nam và chỉ có 98 nữ [101, tr.2]. Theo số liệu
thống kê LHS đang học ở các nước anh em trong tài liệu Một số ý kiến về tình hình
LHS và nhiệm vụ quản lý LHS của Bộ Đại học và THCN, trong tổng số 12.390 LHS
gửi đi nước ngoài, số lượng LHS là nữ chỉ có 2.483 người [101, tr.6]. Tỉ lệ chênh lệch
giữa trí thức nam và nữ như trên thể hiện, những năm trước đây, phụ nữ ít có điều
kiện để học ở những bậc cao, song đáng mừng là đã có mặt ở hầu hết các ngành và
lĩnh vực. Theo chúng tôi, tỉ lệ trí thức là nữ giới có sự chênh lệch rất lớn so với nam
giới, một mặt do tàn dư của văn hóa phong kiến, tư tưởng Nho giáo đã hạn chế sự học
tập, vươn lên của phụ nữ; mặt khác, do đặc điểm tâm lý của phụ nữ Việt Nam
thường bị chi phối bởi yếu tố gia đình nhiều hơn so với nam giới.
Về thành phần bản thân và gia đình, hầu hết các tài liệu cho thấy, đội ngũ trí
thức Việt Nam thời kì này được chọn đi đào tạo nước ngoài phần lớn là cán bộ các
ngành và học sinh thanh niên thuộc các thành phần cơ bản và con em cán bộ kháng
chiến, trong đó, tỉ lệ trí thức là tiểu tư sản và đảng viên luôn chiếm số đông [52, tr.2].
Về ngành đào tạo, từ các bảng thống kê ngành nghề đào tạo LHS ở nước
ngoài, các tài liệu xây dựng, phê duyệt kế hoạch LHS đi nước ngoài (chủ yếu là Liên
Xô) và các bản Danh mục ngành nghề đào tạo đại học và đào tạo NCS của Liên Xô
gửi Việt Nam, chúng tôi thấy, đội ngũ trí thức Việt Nam đào tạo ở nước ngoài chủ
yếu là các ngành khoa học tự nhiên, KHKT và khoa học xã hội nhân văn. Nhìn
chung, cơ cấu đội ngũ cán bộ khoa học có trình độ tiến sĩ và thạc sĩ ở các ngành nói
chung được phân bố tương đối phù hợp, tuy nhiên số lượng cán bộ khoa học có trình
độ cao ở những ngành khoa học mũi nhọn chiếm tỉ lệ không cao.
Về nước đào tạo của đội ngũ trí thức Việt Nam từ đầu những năm 1950 đến
cuối thập kỉ 80 của thế kỉ XX, khối tài liệu về hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh
vực đào tạo đang bảo quản tại TTLTQGIII hiện nay đã phản ánh tương đối đầy đủ
danh sách các nước chúng ta gửi cán bộ đi đào tạo do có nhiều văn bản tổng hợp
chung tình hình đào tạo LHS Việt Nam ở nước ngoài như chúng tôi đã giới thiệu 77
trong các phần trên. Khối tài liệu này cho biết, tính đến cuối năm 1983, LHS ta có
mặt ở 9 nước XHCN anh em, phân bổ nhiều nhất ở các nước Liên Xô, Tiệp Khắc và
CHDC Đức. Số lượng tiến sĩ khoa học theo các nước đào tạo cho thấy, tuyệt đại bộ
phận số cán bộ khoa học này được đào tạo ở Liên Xô (670/1333 NCS) [60, tr.3]. Các
số liệu về nước đào tạo cán bộ Việt Nam giai đoạn này cho thấy, chúng ta mới chỉ
chủ yếu đào tạo tiến sĩ tại các nước trong phe XHCN, số đào tạo tại các nước TBCN
không đáng kể, trong khi các nước này lại nắm giữ phần lớn khoa học và công nghệ
hiện đại, tiên tiến nhất thế giới.
Trên đây là một số đặc điểm của đội ngũ trí thức Việt Nam chúng tôi rút ra từ
khối tài liệu về quan hệ hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô (1950-1991) đang bảo
quản tại TTLTQGIII. Tuy nội dung tài liệu chủ yếu phản ánh quan hệ hợp tác đào tạo
giữa Việt Nam với nước cụ thể là Liên Xô, nhưng trong thành phần tài liệu có rất
nhiều nội dung thông tin về tình hình đào tạo đội ngũ cán bộ của nước ta tại các nước
khác trên thế giới. Hơn nữa, các tài liệu này cho thấy, hợp tác đào tạo với nước ngoài
của Việt Nam chủ yếu là với Liên Xô. Đây là một trong những nguồn tư liệu lịch sử
thực sự có giá trị đối với việc nghiên cứu về quá trình hình thành và phát triển của các
thế hệ trí thức Việt Nam đã được đào tạo ở nước ngoài với tư cách là một bộ phận cấu
thành của đội ngũ trí thức Việt Nam trong khoảng thời gian từ năm 1950 đến những
năm 80 của thế kỉ XX.
Tiểu kết chƣơng 2
Quan hệ Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991) qua tài liệu
lưu trữ đang bảo quản tại TTLTQGIII đã được chúng tôi trình bày cụ thể trong
chương này. Thành phần nội dung cơ bản của khối tài liệu này phản ánh sự giúp đỡ to
lớn của Liên Xô trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ KHKT ở trình độ đại học và trên
đại học cho Việt Nam trong cả chặng đường hơn 40 năm quan hệ. Về phía Việt Nam,
một số tài liệu lưu trữ tại TTLTQGIII cho thấy sự giúp đỡ của Việt Nam trong việc
đào tạo cho Liên Xô nhiều cán bộ khoa học xã hội, gồm các chuyên ngành ngôn ngữ,
văn học, địa lý, lịch sử và trực tiếp học tại Trường Đại học Tổng hợp của ta; tuy
nhiên nội dung và kết quả giúp đỡ đào tạo của Việt Nam phản ánh qua tài liệu không
thực sự nổi bật và bao quát.
78
Từ việc phân tích, tổng hợp nội dung quan hệ hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên
Xô qua tài liệu lưu trữ, chúng tôi thấy rằng, đây là khối tài liệu này thực sự cần thiết
và rất có giá trị trong việc nghiên cứu lịch sử quan hệ ngoại giao Việt Nam – Liên
Xô/Liên bang Nga trong lĩnh vực giáo dục đào tạo. Từ khối tài liệu này, các nhà quản
lý, lãnh đạo đúc rút được những bài học kinh nghiệm quý báu, đồng thời đề ra được
các biện pháp đúng đắn trong công tác quản lý LHS nói riêng và trong hợp tác quốc
tế về giáo dục đào tạo nói chung. Bên cạnh đó, giá trị tiềm năng của khối tài liệu này
còn thể hiện ở chỗ, chúng là nguồn tư liệu quan trọng đối với việc nghiên cứu lịch sử
ngành giáo dục đào tạo Việt Nam và nghiên cứu về đội ngũ trí thức Việt Nam. Với
những ý nghĩa đó, khối tài liệu về hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô tại
TTLTQGIII cần được tổ chức hoàn chỉnh và đẩy mạnh khai thác, sử dụng phục vụ
các mục đích nghiên cứu khác nhau của đời sống xã hội, cũng là để phù hợp với chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước là tăng cường bảo vệ và phát huy giá trị
của tài liệu lưu trữ trong điều kiện hiện nay.
CHƢƠNG 3
TÌNH HÌNH TỔ CHỨC KHOA HỌC VÀ KHAI THÁC, SỬ DỤNG
KHỐI TÀI LIỆU VỀ QUAN HỆ HỢP TÁC VIỆT NAM – LIÊN XÔ TRONG
LĨNH VỰC ĐÀO TẠO (1950-1991) VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP
3.1. Tình hình tổ chức khoa học và khai thác, sử dụng tài liệu
3.1.1. Tình hình tổ chức khoa học tài liệu
* Ƣu điểm
Thứ nhất, khối tài liệu về hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo
giai đoạn 1950-1991 thuộc 12 phông lưu trữ nêu trên đã được TTLTQGIII thu thập,
bổ sung tương đối triệt để, gần như không còn tình trạng tài liệu về vấn đề này có giá
trị bảo quản vĩnh viễn vẫn đang để tại Lưu trữ các cơ quan.
79
Sở dĩ chúng tôi có thể khẳng định được điều này là vì, trong quá trình thực
hiện công tác chuyên môn được giao tại cơ quan TTLTQGIII, chúng tôi có điều kiện
được làm việc và trao đổi thường xuyên với Lưu trữ của các cơ quan, tổ chức thuộc
nguồn nộp lưu cũng như được tiếp cận tài liệu lưu trữ của các cơ quan để có cơ sở
xây dựng và thực hiện kế hoạch thu thập, bổ sung tài liệu vào Trung tâm. Đối với các
cơ quan đã quản lý và nộp lưu tài liệu của 12 phông lưu trữ kể trên, chúng tôi có tiến
hành phỏng vấn trao đổi với cán bộ làm công tác lưu trữ của các cơ quan (điển hình
như Văn phòng Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch) về tình hình quản lý và nộp lưu tài liệu lưu trữ có liên quan
đến nội dung nghiên cứu. Nội dung phỏng vấn phục vụ cho đề tài nghiên cứu của
chúng tôi tập trung vào các câu hỏi về thành phần nội dung tài liệu có liên quan đến
hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô, tình hình giao nộp tài liệu vào Lưu trữ cơ quan,
tình hình quản lý tài liệu và mức độ xử lý các nghiệp vụ lưu trữ. Trên cơ sở các thông
tin thu thập được bằng việc phỏng vấn và dựa vào số liệu thu thập của TTLTQGIII
trong hơn 20 năm qua, chúng tôi đánh giá, hầu hết tài liệu của 12 phông được được
nộp lưu triệt để theo từng giai đoạn, điển hình là các phông Phủ Thủ tướng,
UBKHNN, Bộ Đại học và THCN với số lượng hồ sơ, tài liệu về vấn đề nghiên cứu
nhiều nhất trong tổng số 12 phông. Một số phông giao nộp tài liệu qua các đợt, như
tài liệu phông Bộ Giáo dục, UBKhHNN, Bộ Nội vụ, cho đến nay đã đảm bảo việc
nộp lưu khá hoàn chỉnh và triệt để toàn bộ tài liệu có giá trị bảo quản vĩnh viễn vào
Trung tâm.
Thứ hai, toàn bộ tài liệu ngay từ khi nộp lưu vào Trung tâm đã được lập hồ sơ
và xác định giá trị tương đối hợp lý. Qua quá trình chỉnh sửa và hoàn thiện về mặt
nghiệp vụ tại Trung tâm đối với phần lớn các phông (09/12 phông), chúng tôi đánh
giá chất lượng tổ chức khoa học tài liệu nhìn chung khá tốt, đã và đang hỗ trợ, tạo
điều kiện cho công tác phát huy giá trị tài liệu tại Trung tâm hiện nay. Trong số này,
có các phông quan trọng, khối lượng tài liệu rất lớn và tần suất khai thác, sử dụng tài
liệu liên tục là phông Phủ Thủ tướng, phông UBKHNN và phông Bộ Giáo dục. Tài
liệu của các phông này đều được phân loại và hệ thống hóa khá triệt để theo phương
án Mặt hoạt động – Thời gian, là phương án tối ưu dành cho các phông đã kết thúc
hoạt động. Kết quả đánh giá giá trị của tài liệu trong các phông để lập mục lục hồ sơ
tài liệu bảo quản vĩnh viễn như hiện tại, theo chúng tôi, là hoàn toàn phù hợp và có
80
thể thấy rõ sự vận dụng linh hoạt các nguyên tắc, phương pháp và tiêu chuẩn xác định
giá trị tài liệu của TTLTQGIII trong nội dung nghiệp vụ này. Nhờ đó, rất nhiều tài
liệu tuy không hoàn thiện về mặt pháp lý nhưng nội dung thông tin tài liệu vô cùng có
giá trị để nghiên cứu các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, đã được giữ lại bảo
quản và phục vụ nhu cầu khai thác của đông đảo đối tượng độc giả hiện nay.
* Hạn chế
Bên cạnh những ưu điểm của công tác tổ chức khoa học khối tài liệu về quan
hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo tài liệu nêu trên, qua khảo sát
và nghiên cứu, chúng tôi đưa ra một số hạn chế của công tác này như sau:
Thứ nhất, thành phần tài liệu về hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô trong
một số phông không đầy đủ để có thể phản ánh được nội dung hợp tác đào tạo với
Liên Xô của các cơ quan, đơn vị hình thành phông một cách tương đối hoàn chỉnh.
Cụ thể là các phông Bộ Nội vụ, Bộ Nông lâm và Bộ Y tế, số lượng hồ sơ tài liệu nói
chung cũng như tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam –Liên Xô trong lĩnh vực đào
tạo của mỗi phông rất ít và không liên tục trong các năm. Đơn vị hình thành các
phông không phải là các cơ quan chuyên môn phụ trách về đối ngoại hoặc được giao
quản lý nhà nước về lĩnh vực giáo dục đào tạo, nhưng với vai trò là các cơ quan quản
lý ngành, lĩnh vực nội vụ, nông lâm, y tế và giao thông bưu điện, chắc chắn trong
hoạt động của các cơ quan này có thành phần tài liệu về hợp tác quốc tế nói chung và
hợp tác đào tạo cán bộ của từng ngành hàng năm. Đó phải là các tài liệu xây dựng kế
hoạch đào tạo cán bộ, học sinh của từng ngành; tài liệu chỉ đạo, thẩm định, phê duyệt
kế hoạch đào tạo gửi từ Phủ Thủ tướng, UBKHNN và các cơ quan hữu quan cũng
như các tài liệu tổng kết, báo cáo tình hình thực hiện hợp tác đào tạo nước
ngoài...Tuy nhiên, hầu hết tài liệu về vấn đề nghiên cứu chúng tôi thống kê được từ
các phông này cơ bản chỉ là các tài liệu xây dựng kế hoạch đào tạo LHS của các Bộ ở
nước ngoài trong một số năm không liên tục và một số bảng thống kê danh sách LHS
của các Bộ được cử đi học và đã tốt nghiệp tại Liên Xô, Trung Quốc và các nước
khác.
Như chúng tôi đã trình bày trong phần ưu điểm của công tác giao nộp tài liệu
thuộc 12 phông vào Trung tâm, đến nay, các cơ quan đã nộp lưu tương đối triệt để hồ
sơ, tài liệu có giá trị bảo quản vĩnh viễn liên quan đến nội dung hợp tác đào tạo Việt
81
Nam – Liên Xô giai đoạn 1950-1991. Điều này có nghĩa lưu trữ lịch sử phải chấp
nhận sự thiếu hoàn chỉnh của thành phần tài liệu thuộc một số phông nêu trên. Theo
chúng tôi, nguyên nhân của tình trạng này xuất phát từ chính hạn chế trong công tác
văn thư lưu trữ của các cơ quan thời gian trước đây, đã không có điều kiện hoặc
không chú trọng đến việc quản lý và tổ chức tài liệu lưu trữ nên tỉ lệ tài liệu giữ lại và
phát huy giá trị không nhiều đề phản ánh vấn đề nghiên cứu được hoàn chỉnh.
Thứ hai, tài liệu còn thiếu nhiều bản chính, nhiều văn bản không đảm bảo thể
thức. Về nguyên tắc, tài liệu được giữ lại để lập hồ sơ thường là bản chính, bản gốc;
trong trường hợp không có bản chính và bản gốc thì giữ lại bản sao hợp pháp. Tuy
nhiên, khá nhiều tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào
tạo giai đoạn 1950-1991 là bản sao (gồm sao y bản chính và sao lục), bản dự thảo,
bản đánh máy, viết tay còn thiếu rất nhiều các yếu tố thông tin như ngày, tháng, năm
ban hành văn bản; số, ký hiệu văn bản; chữ ký của người có thẩm quyền và dấu cơ
quan…Đứng về mặt sử liệu học và tư liệu học, những văn bản này không đảm bảo
tính xác thực và độ tin cậy cao đối với người sử dụng.
Thứ ba, mặc dù phần lớn tài liệu của các phông đã được chỉnh lý nâng cấp, cơ
bản đáp ứng yêu cầu về mặt nghiệp vụ tổ chức khoa học tài liệu, tuy vậy, chúng tôi
vẫn gặp tương đối nhiều hồ sơ tài liệu được lập chưa hợp lý, gồm các vấn đề sau:
- Tình trạng trùng lặp văn bản trong hồ sơ
Tổng hợp kết quả khảo sát tình hình tổ chức khoa học tài liệu về quan hệ hợp tác
Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo, chúng tôi thống kê có khoảng 20/172 hồ sơ
trong các phông có tình trạng trùng lặp văn bản ngay trong hồ sơ, phổ biến ở những
phông lưu trữ chưa được tác động nghiệp vụ kể từ khi thu thập, bổ sung về Trung tâm
(phông Bộ Văn hóa, phông Bộ Văn hóa Thông tin, phông Bộ Đại học và THCN và
phông UBKhHNN…). Tuy nhiên, chúng tôi vẫn bắt gặp tình trạng này ở một số phông
đã được chỉnh lý nâng cấp và số lượng không đáng kể. Ngoài ra, có thêm tình trạng một
văn bản được lập ở các hồ sơ khác nhau trong cùng một phông.
Ví dụ:
Hồ sơ 633, phông Bộ Đại học và THCN có tờ số 18-21 trùng với tờ số 23-26
cùng là Nghị quyết số 199-CP ngày 31/12/1973 của Phủ Thủ tướng về việc cải tiến và
82
tăng cường công tác LHS ở các nước XHCN;
Hồ sơ 4309, phông Bộ Giáo dục (đã chỉnh lý nâng cấp) có tờ số 14, 15 và 16 đều
là Kế hoạch học tập, nghiên cứu của LHS Tô-nhi-a tại Việt Nam (03 bản); từ tờ số 46-50
là Chương trình công tác của nữ sinh viên Di-ê-men-chi ở Việt Nam (05 bản)
Tờ số 17 của hồ sơ 8387 trùng với tờ số 03 của hồ sơ 8442, phông Phủ Thủ
tướng, đều là Công văn số 529VG ngày 11/3/1969 của Phủ Thủ tướng v/v hợp tác
khoa học với Lx trong lĩnh vực giáo dục…
- Nhiều tiều đề hồ sơ không phản ánh đúng, đủ nội dung các văn bản bên trong
hồ sơ
Cũng giống như tình trạng trùng lặp văn bản nêu trên, khá nhiều hồ sơ trong
khối tài liệu về quan hệ Việt Nam – Liên Xô về lĩnh vực đào tạo được lập không phản
ánh đúng và đầy đủ các nội dung bên trong tài liệu, ngay cả đối với các phông đã
được chỉnh lý nâng cấp. Một số trường hợp có thể lập hồ sơ hợp lý nhưng vẫn chưa
thể hiện đầy đủ hết nội dung tài liệu trong hồ sơ như sau:
Ví dụ:
Tiêu đề hồ sơ 4327, phông Bộ Giáo dục là “Công văn, quyết định, kế hoạch,
báo cáo của Thủ tướng, Bộ Giáo dục, Bộ Công an về công tác NCS, TTS đi các nước
năm 1962-1963” gồm 324 tờ, trong đó tờ số 10 là Công văn số 706/CB ngày
27/02/1964 của Bộ Giáo dục vv đề nghị Bộ Nội vụ đăng kí hộ khẩu cho cán bộ giảng
dạy về công tác tại các trường của Bộ [4327, tr.10], văn bản không ghi trích yếu nội
dung;
Hồ sơ 10703, phông Phủ Thủ tướng với tiêu đề “Công văn của Phủ Thủ tướng,
Bộ Đại học và THCN về hợp tác với các trường đại học ở Liên Xô năm 1978”, nhưng
trong thành phần tài liệu còn có thêm Nghị định thư về việc hợp tác trong lĩnh vực
đại học và trung học chuyên nghiệp giữa Việt Nam với Rumani, Bungari và tác giả
tài liệu có thêm Bộ Thủy lợi, Trường Đại học Thủy lợi;
Hồ sơ 3013 “Biên bản, nghị định, kế hoạch hợp tác khoa học với LX năm
1963” trong phông UBKhHNN, có tờ sau tờ 09 (bỏ sót đánh số) là Công văn của Bộ
Nội vụ vv thành lập Phòng Miền Nam tại Ngân hàng Trung ương;
Hồ sơ 655, phông Bộ Đại học và THCN có tiêu đề là “Quyết định của Phủ Thủ
83
tướng, UBKHNN, Bộ Đại học và THCN v/v giao chỉ tiêu kế hoạch đào tạo LHS, NCS, TTS ở
nước ngoài năm 1966-1974” gồm 43 tờ, tuy nhiên chỉ có các tờ số 19-25, 29-35 và 39-43 là các
quyết định, còn lại là tờ trình, công văn của Bộ Đại học và THCN, UBKHNN về chỉ tiêu đào
tạo LHS và vấn đề gửi LHS đi học nước ngoài…
- Các văn bản bên trong khá nhiều hồ sơ sắp xếp lộn xộn, không theo trật tự
logic vấn đề hoặc theo trình tự thời gian
Thực trạng văn bản trong hồ sơ sắp xếp không theo trình tự giải quyết vấn đề
hoặc theo thứ tự thời gian khá phổ biến ở nhóm hồ sơ tài liệu thuộc phông
UBKhHNN, phông Bộ Đại học và THCN, phông Bộ Văn hóa giai đoạn 1955-1975
và Bộ Văn hóa (tài liệu Vụ Trao đổi văn hóa với nước ngoài). Đây là những phông
chưa được chỉnh lý nâng cấp tại Trung tâm, tình trạng tài liệu vẫn giữ nguyên từ khi
Trung tâm tiếp nhận về. Tuy vậy, chúng tôi cũng vẫn gặp tình trạng này ở một số hồ
sơ thuộc các phông đã được chỉnh lý nâng cấp như phông Phủ Thủ tướng, phông
UBKHNN, phông Bộ Giáo dục giai đoạn 1945-1985. Chẳng hạn:
Các hồ sơ 13152, 18382, 20596… thuộc phông Phủ Thủ tướng;
Hồ sơ 4309, phông Bộ Giáo dục: Tờ số 01-02 là Công văn của Bộ Giáo dục
ngày 11 tháng 8 năm 1964; tờ số 03-04 là Công văn của Trường Đại học Tổng hợp
ngày 25 tháng 9 năm 1963; tờ số 31 là Công văn của Văn phòng Bộ Giáo dục ngày
08 tháng 01 năm 1962 và tờ số 44 là Công văn của Bộ Giáo dục ngày 27 tháng 01
năm 1961 về tình hình LHS, NCS Liên Xô từ năm 1961-1964 như tiêu đề hồ sơ phản
ánh…
Các văn bản trong hồ sơ sắp xếp không theo trình tự thời gian không những
không phản ánh được mối liên hệ giữa các văn bản này mà còn gây rất nhiều khó khăn
khi cần tra cứu thông tin văn bản.
- Nhiều hồ sơ biên mục chưa hoàn chỉnh và thống nhất
Chúng tôi ước tính có khoảng một nửa khối hồ sơ về quan hệ hợp tác đào tạo
Việt Nam – Liên Xô thời kì 1950-1991 mới chỉ dừng lại ở biên mục bên ngoài mà
chưa viết mục lục văn bản trong hồ sơ. Thực trạng này gặp ở hầu hết các phông lưu
trữ chưa được xử lý nghiệp vụ tại Trung tâm. Đối với khối hồ sơ tài liệu đã được biên
mục bên trong, chúng tôi đã tra tìm ngẫu nhiên từ tờ mục lục văn bản của 10 hồ sơ,
84
thì có 03 tờ mục lục không thể hiện hết toàn bộ văn bản bên trong hồ sơ hoặc chỉ biên
mục những văn bản chính. Do vậy, khi muốn tìm bất cứ văn bản nào bên trong hồ sơ,
độc giả phải đọc từng văn bản bên trong hồ sơ mới tìm được tài liệu cần thiết. Theo
đó, có rất nhiều tài liệu trùng, thừa như chúng tôi đã nói ở trên mà chỉ khi khai thác,
sử dụng độc giả mới có thể phát hiện ra.
3.1.2. Tình hình khai thác, sử dụng tài liệu
* Ƣu điểm
Thứ nhất, TTLTQGIII cùng các cơ quan và các nhà nghiên cứu và đã khá chú
trọng đến hoạt động công bố, giới thiệu và nghiên cứu nguồn tài liệu về quan hệ hợp
tác ngoại giao Việt Nam – Liên Xô/Liên bang Nga đang bảo quản tại TTLTQGIII,
trong đó có thành phần tài liệu về hợp tác đào tạo giữa hai nước (1950-1991).
Căn cứ kết quả công tác công bố, giới thiệu tài liệu tại TTLTQGIII thời gian
qua, chúng tôi có thể khẳng định rằng, nguồn tài liệu về quan hệ ngoại giao Việt Nam
– Liên Xô/Liên bang Nga nói chung và khối tài liệu hợp tác đào tạo giữa hai nước nói
riêng đã được Trung tâm chủ động giới thiệu đến đông đảo công chúng trong nước và
quốc tế. Hoạt động này được thực hiện dựa trên cơ sở sự hợp tác của Lưu trữ hai Nhà
nước Việt Nam và Liên bang Nga với mục đích khơi gợi và tôn vinh những kết quả
tốt đẹp trong quan hệ hợp tác kinh tế, văn hóa và KHKT của hai nước được phản ánh
qua tài liệu lưu trữ. Cụ thể là Triển lãm “Lịch sử hợp tác KHKT Việt Nam – Liên Xô
trong những năm 1950-1990” do Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước Việt Nam phối
hợp với Cục Lưu trữ Liên bang Nga tổ chức năm 2005 nhân kỉ niệm 55 năm Ngày
thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam – Liên Xô (30/01/1950-30/01/2005). Trong số
gần 400 tài liệu được triển lãm, có khoảng 50 tài liệu được lựa chọn từ kho lưu trữ
của Trung tâm, gồm cả tài liệu chữ viết và một số tài liệu ảnh góp phần phản ánh sinh
động lịch sử hoạt động hợp tác kinh tế và KHKT giữa Việt Nam và Liên Xô, Liên
bang Nga trong hơn nửa thế kỷ qua.
Đặc biệt, năm 2009, nhân kỉ niệm 59 năm Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao
hai nước (30/01/1950-30/01/2009), Triển lãm với chủ đề “Hợp tác Việt Nam và Liên
bang Nga trong lĩnh vực đào tạo” được thực hiện với sự phối hợp của Lưu trữ hai
Nhà nước và đã được Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia – Sự thật ấn hành năm 2011.
Tại triển lãm, có 30 tài liệu được tuyển chọn từ TTLTQGIII phản ánh nội dung quan
85
hệ hợp tác đào tạo giữa hai nước ở tất cả các trình độ và ngành nghề đào tạo. Dĩ
nhiên, chúng tôi cũng có khai thác và sử dụng các tài liệu này trong đề tài nghiên cứu
của mình.
Ngoài TTLTQGIII, về nội dung quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên bang Nga,
ngày 02/11/2007, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia
Hà Nội đã tổ chức Hội thảo khoa học “Quan hệ Việt – Nga: Quá khứ và hiện tại”
nhằm nhận diện toàn diện và đầy đủ, sâu sắc hơn về mối quan hệ Việt - Nga, nhất là
trong vòng 90 năm qua từ sau Cách mạng tháng Mười. Nhìn lại quá khứ để hướng tới
tương lai, trên tinh thần trân trọng các giá trị của truyền thống và lịch sử, dưới nhiều
góc độ tiếp cận khác nhau, các tham luận đã cung cấp nhiều tư liệu mới, những hiểu
biết mới để có những định hướng đúng đắn, chiến lược cho sự phát triển mối quan hệ
hợp tác và đối tác chiến lược, vì cuộc sống phồn vinh, hạnh phúc của nhân dân hai
nước và hai dân tộc Việt - Nga trong thế kỷ XXI. Hội thảo thu hút trên 60 tham luận
của các chuyên gia, các nhà khoa học đến từ Đại học Quốc gia Hà Nội, Học viện
Quan hệ quốc tế, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia, Viện Khoa học Xã hội
Việt Nam, Viện Lịch sử Quân sự, Cục Văn thư lưu trữ Nhà nước...Một số bài tham
luận tại Hội thảo có giới thiệu và khai thác, sử dụng tài liệu lưu trữ tại Trung tâm bao
gồm: “Quan hệ Việt – Nga: Lưu trữ và khai thác các nguồn tài liệu” của tác giả
Nguyễn Thị Hiệp; “Quan hệ Việt – Nga qua tài liệu lưu trữ” của tác giả Nguyễn Lệ
Nhung; “Quan hệ Việt Nam – Liên Xô qua tài liệu lưu trữ bảo quản tại TTLTQGIII”
của tác giả Nguyễn Minh Sơn là các cá nhân đang công tác tại Cục Văn thư và Lưu
trữ Nhà nước.
Về phía cá nhân các nhà nghiên cứu, trước hết là đề tài khoa học cấp Đại học
Quốc gia Hà Nội của tác giả Đào Xuân Chúc với tên gọi “Các nguồn tài liệu lưu trữ
về quan hệ Việt Nam – Liên Xô (1950-1991)” được nghiệm thu năm 2011. Trong đề
tài này, tác giả tập trung khảo sát, giới thiệu các nguồn tài liệu đang bảo quản tại Việt
Nam, đó là TTLTQGIII, Kho Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Viện Phim Việt
Nam, khối tài liệu cá nhân…về mối quan hệ hợp tác ngoại giao giữa hai nước Việt
Nam và Liên Xô giai đoạn 1950-1991. Đối với nguồn TTLTQGIII, tác giả đã thống
kê chi tiết các tiêu đề hồ sơ tài liệu liên quan đến hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong
từng phông lưu trữ cũng như đánh giá giá trị của nguồn tài liệu này và khả năng khai
thác, sử dụng chúng vào mục đích nghiên cứu khoa học, nghiên cứu lịch sử về quan
86
hệ ngoại giao Việt Nam – Liên Xô giai đoạn 1950-1991. Trong số đó có rất nhiều hồ
sơ, tài liệu về nội dung hợp tác trong lĩnh vực đào tạo giữa hai nước được chúng tôi
khai thác, sử dụng trong luận văn này. Với mức độ thống kê chi tiết đến từng hồ sơ,
đề tài này thực sự giúp ích cho các đối tượng độc giả có nhu cầu khai thác, nghiên
cứu nguồn tài liệu lưu trữ về quan hệ Việt Nam – Liên Xô bảo quản tại Trung tâm.
Đáng nói là tất cả các cá nhân có tham luận tại Hội thảo khoa học “Quan hệ
Việt – Nga: Quá khứ và hiện tại” kể trên cùng với tác giả đề tài “Các nguồn tài liệu
lưu trữ về quan hệ Việt Nam – Liên Xô (1950-1991)” đều là những “chuyên gia” hàng
đầu của ngành Lưu trữ, đồng thời họ từng là những LHS Việt Nam được Nhà nước
cử đi học tập và nâng cao trình độ chuyên ngành lưu trữ tại Liên Xô trong một thời
gian dài, nên có tình cảm đặc biệt gắn bó và yêu mến đất nước Liên Xô.
Tiếp đến, trong đề tài luận án tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử của tác giả Lê Văn
Thịnh thực hiện năm 1999 có tên gọi “Quan hệ giữa cách mạng Việt Nam và Liên Xô
trong giai đoạn 1930-1954”, chúng tôi đã tìm thấy 02 hồ sơ (ĐVBQ) về hợp tác giáo
dục đào tạo Việt Nam – Liên Xô thuộc phông Phủ Thủ tướng đã được tác giả đề cập
trong phần nghiên cứu về quan hệ hợp tác giáo dục đào tạo giữa hai nước. Tài liệu
lưu trữ được sử dụng về vấn đề này chỉ có 02 hồ sơ trong phông Phủ Thủ tướng. Tuy
nhiên, đến nay, phông Phủ Thủ tướng đã được nâng cấp, số hồ sơ cũ trong phông đã
thay đổi. Đó là là các tài liệu của Thủ tướng Phủ, Ban Tuyên huấn Trung ương, ĐSQ
Việt Nam tại Liên Xô và Bộ Giáo dục về kế hoạch tuyển chọn học sinh đi học ở các
nước XHCN năm 1952-1954, trong đó có Liên Xô.
Qua tìm hiểu công tác phục vụ độc giả tại TTLTQGIII từ ngày thành lập
(1995) đến nay, chủ yếu từ việc tổng hợp thông tin trong hệ thống sổ sách của Phòng
Đọc (trước đây là Phòng Tổ chức sử dụng) và phỏng vấn một vài cán bộ làm công tác
phục vụ độc giả, chúng tôi có số liệu khá chi tiết về tình hình khai thác và sử dụng tài
liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô, trong đó có thành phần tài liệu hợp tác
về đào tạo của các đối tượng độc giả để có thể khẳng định đây chính là ưu điểm của
công tác tổ chức khai thác, sử dụng tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu tại Trung
tâm thời gian qua. Các sổ đăng kí độc giả và sổ giao nhận tài liệu giữa Phòng Đọc của
Trung tâm với độc giả đã cho biết, trong 10 năm trở lại đây, số lượt độc giả khai thác
tài liệu về hợp tác ngoại giao Việt Nam với các nước đã tăng lên đáng kể và là một
trong những mục đích phục vụ nghiên cứu chính của Trung tâm. Từ năm 2005-2015,
chúng tôi thống kê có khoảng 35 lượt độc giả nghiên cứu tài liệu có liên quan đến 87
ngoại giao Việt Nam – Liên Xô; tập trung nhiều nhất trong năm 2005, 2010 và 2015,
là những năm kỉ niệm trọng thể các chặng đường 55 năm, 60 năm và 65 năm thiết lập
quan hệ hợp tác ngoại giao Việt Nam – Liên Xô/Liên bang Nga (30/01/1950). Đối
tượng độc giả hầu hết là các cán bộ đến từ các Viện thành viên của Viện Hàn lâm
Khoa học Xã hội Việt Nam (trước là Viện Khoa học Xã hội Việt Nam), một số Trung
tâm nghiệp vụ trực thuộc Bộ Ngoại giao và thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh cùng cán bộ giảng dạy, sinh viên của một số Trường Đại học như Đại học
Sư phạm Hà Nội, Đại học Sư phạm TP.Hồ Chí Minh, Đại học Thương mại…Ngoài
ra còn có nhiều đối tượng độc giả khác không xác định được đơn vị công tác, học tập
do Phòng Đọc không thống kê chi tiết. Đặc biệt, trong số này, có 08 độc giả người
nước ngoài nghiên cứu tài liệu về ngoại giao Việt Nam với các nước, hầu hết là quan
hệ với các nước XHCN là Trung Quốc và Liên Xô, đến từ các Trường Đại học của
Hoa Kỳ như Đại học Hawai Pacific, Trường Đại học Brooklyn, Văn phòng Tùy viên
quân sự - ĐSQ Liên bang Nga tại Việt Nam và các tổ chức khác...
Mục đích nghiên cứu của các đối tượng độc giả kể trên là thực hiện các đề tài
khoa học, luận án tiến sĩ và khóa luận tốt nghiệp đại học về quan hệ hợp tác Việt
Nam – Liên Xô/Liên bang Nga trên các lĩnh vực kinh tế, KHKT, sự giúp đỡ của Liên
Xô đối với Việt Nam…phản ánh qua tài liệu lưu trữ chữ viết trên nền giấy và khối tài
liệu ảnh đang bảo quản tại Trung tâm. Theo sổ giao nhận tài liệu giữa Phòng Đọc và
độc giả, chúng tôi thống kê đã có khoảng 30 hồ sơ về hợp tác đào tạo Việt Nam –
Liên Xô giai đoạn 1950-1991 được đưa ra phục vụ độc giả, chủ yếu là tài liệu các
phông Phủ Thủ tướng, Bộ Giáo dục và UBKHNN.
Với tất cả những thông tin nêu trên, chúng tôi thấy, đây chính là ưu điểm nổi
bật trong hoạt động công bố, giới thiệu và khai thác, sử dụng tài liệu lưu trữ về quan
hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô nói chung và quan hệ hợp tác đào tạo giữa hai nước
nói riêng. Điều này có nghĩa, vấn đề hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô đã được các
cơ quan, tổ chức và cá nhân chú trọng nghiên cứu và khai thác thông tin từ tài liệu
lưu trữ - nguồn tư liệu lịch sử có độ chân thực và chính xác cao. Nhất là đối với
TTLTQGIII, thời gian qua, quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô qua tài liệu lưu trữ,
trong đó có nội dung hợp tác đào tạo, thực sự là chủ đề hấp dẫn và đầy tiềm năng đối
với Trung tâm trong thực hiện nhiệm vụ phát huy giá trị tài liệu lưu trữ hiện có và đã
88
đạt được nhiều kết quả tốt đẹp.
Thứ hai, thủ tục khai thác, sử dụng tài liệu nói chung và khối tài liệu về quan
hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô nói riêng tại TTLTQGIII ngày càng đơn giản, gọn
nhẹ. Qua quá trình khai thác tài liệu để thực hiện đề tài, chúng tôi thấy rằng, hầu hết
các tài liệu được kê trong phiếu yêu cầu khai thác, sử dụng đều được đáp ứng nếu tài
liệu vẫn ở trong kho và không thuộc danh mục tài liệu hạn chế sử dụng (liên quan đến
tình trạng vật lý tài liệu hoặc đang được xử lý nghiệp vụ). Trung tâm cũng hết sức tạo
điều kiện cho độc giả nếu có nhu cầu sao, chụp tài liệu Phông. Đặc biệt đối với những độc
giả là sinh viên, học viên cao học hoặc nghiên cứu sinh, nếu có đề cương nghiên cứu thì sẽ
được hỗ trợ một phần phí khai thác, sử dụng và sao, chụp tài liệu. Đây cũng chính là một
trong những biện pháp nhằm khuyến khích độc giả đến khai thác, sử dụng tài liệu phục vụ
cho công tác nghiên cứu.
Thứ ba, hệ thống công cụ quản lý, tra cứu nguồn tài liệu về hợp tác đào tạo
Việt Nam – Liên Xô tại Trung tâm hiện nay tương đối khoa học và hợp lý, cũng là
điều kiện thuận lợi cho độc giả khai thác, sử dụng tài liệu. Bên cạnh các công cụ tra
cứu truyền thống là các quyển mục lục hồ, toàn bộ thông tin về tiều đề hồ sơ, tài liệu
về vấn đề nghiên cứu trong tất cả các phông lưu trữ này đã được lập cơ sở dữ liệu
quản lý và tra tìm tự động trên máy vi tính. Hiện tại, Trung tâm đã hoàn thành việc số
hóa, lập bản sao bảo hiểm đối với toàn bộ tài liệu phông Phủ Thủ tướng, phông
UBKHNN và phông Bộ Nông lâm là 3/12 phông có thành phần tài liệu về quan hệ
ngoại giao Việt Nam – Liên Xô. Đối với tài liệu các phông đã số hóa, độc giả hoàn
toàn khai thác, sử dụng tài liệu là bản số hóa (trên máy tính) nên đã giảm bớt được rất
nhiều thời gian, thủ tục kiểm đếm, bàn giao tài liệu từ giữa bộ phận quản lý kho với
cán bộ Phòng Đọc, nhờ đó độc giả được tiếp cận với tài liệu được nhanh chóng, đơn
giản hơn.
* Hạn chế
Bên cạnh những ưu điểm nổi bật như chúng tôi đã đề cập ở trên, việc khai thác,
sử dụng tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-
1991) còn có những hạn chế cơ bản sau:
Thứ nhất, tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào
tạo có đóng dấu chỉ các mức độ mật chiếm số lượng tương đối nhiều và chưa được
89
giải mật, do đó độc giả hoàn toàn không thể khai thác và sử dụng những tài liệu này.
Chúng tôi ước tính số lượng hồ sơ có tài liệu mật chiếm đến 2/3 trong tổng số hồ
sơ/ĐVBQ liên quan trực tiếp đến vấn đề nghiên cứu. Các mức độ mật của văn bản
gồm mật và tối mật. Có khoảng 25/172 hồ sơ mật hoàn toàn, chủ yếu là các Hiệp
định, Hiệp ước, Nghị định song phương được kí kết trong quá trình hợp tác giữa hai
Nhà nước và nhiều văn bản có giá trị quan trọng đối với nghiên cứu và tổng hợp vấn
đề hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô (dạng văn bản là công văn, báo cáo…)
Căn cứ Luật Lưu trữ năm 2011, tính ở thời điểm hiện tại, những tài liệu có
đóng dấu “mật” hình thành từ năm 1975 trở về trước đã được phép đưa ra khai thác,
sử dụng. Tuy nhiên, ngay cả đối với những tài liệu này, chúng tôi cũng chỉ được phép
tiếp cận mà không được sử dụng và trích dẫn bất cứ thông tin nào trong tài liệu. Điều
này thực sự là khó khăn lớn nhất của chúng tôi trong quá trình thực hiện đề tài. Với
hạn chế mang tính khách quan này, chúng tôi không thể đạt được mong muốn là có
thể làm rõ nội dung quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo giai
đoạn 1950-1991 qua toàn bộ tài liệu lưu trữ đang bảo quản tại Trung tâm được triệt
để và hoàn chỉnh; đương nhiên cũng sẽ là khó khăn, hạn chế đối với bất cứ đối tượng
độc giả nào muốn nghiên cứu nguồn tài liệu này tại Trung tâm hiện nay.
Thứ hai, từ thực tế nghiên cứu, khai thác tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam
– Liên Xô đang bảo quản tại TTLTQGIII, chúng tôi thấy, gần như chưa có một bài
viết, công trình khoa học hoặc xuất bản phẩm nào giới thiệu và nghiên cứu chuyên
sâu về khối tài liệu hợp tác đào tạo cán bộ có trình độ đại học và trên đại học giữa hai
Nhà nước. So với những giá trị tiềm năng của khối tài liệu này trên các lĩnh vực
nghiên cứu lịch sử và khoa học xã hội như đã trình bày trong chương 2 thì thực tế
khai thác và phát huy giá trị tài liệu còn khá hạn chế. Trong các công trình nghiên
cứu, bài viết dưới góc độ lịch sử và lưu trữ đã nêu, các tác giả hầu hết chỉ giới thiệu
khái quát, sơ lược nhóm hồ sơ tài liệu phản ánh nội dung hợp tác Việt Nam – Liên Xô
về giáo dục đào tạo, là một thành phần nhỏ trong nội dung hợp tác ngoại giao hai
nước. Duy nhất có đề tài tiến sĩ “Quan hệ giữa cách mạng Việt Nam và Liên Xô trong
giai đoạn 1930-1954” của tác giả Lê Văn Thịnh đã khai thác nội dung thông tin về
quan hệ hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô qua 02 hồ sơ, tài liệu thuộc phông Phủ
Thủ tướng.
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã tìm hiểu vấn đề khai thác, sử
dụng các nguồn tài liệu tham khảo trong một số xuất bản phẩm nghiên cứu lịch sử 90
ngoại giao Việt Nam và Liên Xô và nghiên cứu lịch sử giáo dục đào tạo Việt Nam.
Cụ thể là các cuốn: “Đối ngoại Việt Nam qua các thời kì lịch sử (1945-2012)” của
Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2012; “Lịch sử giáo dục Việt Nam” của
Nhà xuất bản Đại học Sư phạm 2013 và “Ngoại giao Việt Nam 1945-2000” của Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 2015. Trong nội dung và danh mục tài liệu
tham khảo của các công trình này, chúng tôi hoàn toàn không thấy đề cập đến nguồn
tài liệu lưu trữ tại TTLTQGIII về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô nói chung
cũng như về nội dung hợp tác đào tạo nói riêng. Rõ ràng, vấn đề phát huy giá trị của
khối tài liệu hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo đang bảo quản tại
Trung tâm hiện nay trong công tác nghiên cứu khoa học xã hội thực sự vẫn chưa
được đẩy mạnh tối đa.
Thứ ba, khó khăn của chúng tôi trong quá trình khai thác tài liệu gặp phải khá
nhiều tài liệu cũ, đã xuống cấp, bị mờ, nhòe chữ hoặc là bản đánh máy không dấu,
nên mất nhiều thời gian để đọc và hiểu nội dung văn bản. Bên cạnh đó, nhiều hồ sơ
có tài liệu bằng tiếng nước ngoài (tiếng Nga, Pháp), một số tài liệu không có bản lược
dịch sang tiếng Việt, do đó không phải tất cả độc giả đều có thể đọc và khai thác được
thông tin tài liệu nước ngoài này.
3.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong công tác tổ chức khoa học và
khai thác, sử dụng tài liệu về hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo
Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong công tác tổ chức khoa học và khai
thác, sử dụng khối tài liệu về hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo
(1950-1991) được chúng tôi xếp vào hai nhóm chính là nguyên nhân khách quan và
nguyên nhân chủ quan.
* Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, khối tài liệu lưu trữ về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong
lĩnh vực đào tạo hình thành từ những năm 1950 và chiếm số lượng nhiều nhất là tài
liệu hình thành trong giai đoạn 1960-1980. Đây là những năm tháng khó khăn của đất
nước, trải qua hai cuộc chiến tranh gian khổ, điều kiện vật chất vô cùng thiếu thốn.
Điều này giải thích cho tình trạng vật lý tài liệu không đảm bảo, nhiều tài liệu bị cũ,
91
rách, mờ, mất chữ, rời lẻ nên rất khó để lập hồ sơ, dễ dẫn đến những sai sót trong
quá trình lập hồ sơ, phần nào gây khó khăn cho việc khai thác, sử dụng tài liệu. Hầu
hết các tài liệu cũ, ngay từ khi TTLTQGIII nhận về không hoàn toàn đầy đủ thành
phần tài liệu do hoàn cảnh chiến tranh, nhiều hồ sơ chỉ được lập dựa trên bản lưu giữ
lại được nên không hoàn chỉnh về mặt nội dung hoặc không đồng đều về giá trị của
các tài liệu bên trong hồ sơ.
Thứ hai, việc thực hiện chế độ giao nộp tài liệu vào Lưu trữ lịch sử của một số
cơ quan chưa thực sự tuân thủ quy định và chất lượng tài liệu nộp lưu không cao.
Điều này lý giải cho tình trạng nhiều hồ sơ được lập không hoàn chỉnh, tài liệu bị xé
lẻ giữa các mục lục hồ sơ của một phông lưu trữ (như phông UBKhHNN có hai mục
lục hồ sơ hoàn toàn trùng nhau về thời gian tài liệu và các thành phần tài liệu bên
trong và khối tài liệu các phông Bộ Văn hóa, Bộ Văn hóa Thông tin (3 mục lục hồ sơ)
do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch nộp lưu qua các đợt).
Tài liệu về quan hệ ngoại giao Việt Nam – Liên Xô/Liên bang Nga, chúng tôi
chắc chắn có trong thành phần phông lưu trữ Bộ Ngoại giao như đã nêu. Trong khu
vực thẩm quyền của TTLTQGIII, Bộ Ngoại giao cũng là nguồn giao nộp tài liệu vào
Trung tâm như các Bộ khác. Tuy nhiên, cho đến nay, Bộ Ngoại giao mới chỉ nộp lưu
được khối tài liệu ảnh hình thành trong hoạt động hợp tác quốc tế và TTLTQGIII
chưa thu thập được bất cứ hồ sơ, tài liệu chữ viết nào hình thành trong hoạt động của
Bộ. Đây là nguyên nhân lý giải vì sao phần lớn tài liệu văn kiện ngoại giao giữa hai
nước đang bảo quản tại TTLTQGIII chỉ là bản sao y bản chính.
Thứ ba, vấn đề giải mật tài liệu lưu trữ hiện nay đang là khó khăn đối với
TTLTQGIII do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, trực tiếp là Bộ Công an và Bộ
Nội vụ vẫn chưa có sự thống nhất trong việc thẩm định và quyết định giải mật tài liệu
đã đến hạn giải mật. Điều này thực sự đang là bất cập lớn đối với Trung tâm trong
việc quyết định cho phép khai thác sử dụng tài liệu mật nói chung và tài liệu mật về
quan hệ ngoại giao Việt Nam – Liên Xô nói riêng.
* Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, trình độ và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức
khoa học tài liệu (chủ yếu là lập hồ sơ) của một số phông lưu trữ có tài liệu về hợp tác
Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào còn nhiều hạn chế. Ngay cả đối với những
phông đã được cán bộ TTLTQGIII chỉnh lý nâng cấp, chúng tôi vẫn gặp một số sai sót
92
trong việc lập hồ sơ tài liệu như: nhiều hồ sơ còn có những tài liệu trùng thừa, tiêu đề
hồ sơ không phản ánh đúng nội dung hồ sơ, văn bản trong hồ sơ sắp xếp còn lộn xộn,
chưa đúng như yêu cầu của lập hồ sơ…
Thứ hai, đội ngũ cán bộ làm công tác công bố, giới thiệu tài liệu còn chưa đáp
ứng được trình độ của các chuyên gia công bố, giới thiệu tài liệu lưu trữ. Hiện nay, đội
ngũ làm công tác này vẫn chưa ai có trình độ tiến sĩ về lịch sử hoặc tương đương. Mặt
khác, đội ngũ này chưa thực sự chủ động trong việc tập hợp tài liệu lưu trữ về quan hệ
hợp tác Việt Nam – Liên Xô nói chúng và trong lĩnh vực đào tạo nói riêng từ các nguồn,
kèm theo những phân tích, đánh giá về giá trị của từng nguồn tài liệu và giới thiệu các tài
liệu có liên quan mà độc giả có thể tham khảo thêm khi tìm hiểu về chủ đề đó.
Thứ ba, hình thức công bố, giới thiệu tài liệu tại TTLTQGIII còn chưa thực sự
phong phú, đa dạng, sáng tạo, mới chỉ dừng lại chủ yếu ở việc xuất bản sách giới thiệu
tài liệu, triển lãm, giới thiệu tài liệu theo chuyên đề, giới thiệu thông tin trên website.
Những hình thức này vẫn chưa được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, chú ý và chưa thu
hút được nhiều độc giả đến khai thác, sử dụng vì họ vẫn chưa thấy được hết tiềm năng và
giá trị thực sự của khối tài liệu này phục vụ các công trình nghiên cứu về quan hệ ngoại
giao Việt Nam nói chung và quan hệ hợp tác đào tạo nói riêng giữa hai Nhà nước giai
đoạn 1950-1991.
3.2. Một số kiến nghị, giải pháp nhằm tổ chức khoa học và khai thác, sử
dụng hiệu quả tài liệu về hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo
Từ việc phân tích những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong công
tác tổ chức khoa học và khai thác, sử dụng tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam –Liên
Xô trong lĩnh vực đào tạo đang bảo quản tại TTLTQGIII, chúng tôi đưa ra một số kiến
nghị và giải pháp cơ bản, nhằm hoàn thiện hơn nữa các công tác này trong thời gian
tới, phục vụ hiệu quả hơn cho nhu cầu khai thác, sử dụng tài liệu của cá nhân và xã hội
đối với khối tài liệu này như sau:
3.2.1. Giải pháp thu thập, bổ sung và sưu tầm tài liệu từ các cơ quan, tổ chức
và cá nhân để đảm bảo mức độ hoàn chỉnh của thành phần tài liệu
Để công tác tổ chức khoa học và tổ chức khai thác, sử dụng khối tài liệu về quan
hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo đạt hiệu quả tối ưu, theo chúng
tôi, việc làm cần thiết và trước hết chính là thu thập và bổ sung các tài liệu về vấn đề
93
nghiên cứu còn thiếu thuộc các phông lưu trữ đang bảo quản tại TTLTQGIII hiện nay.
Căn cứ kết quả công tác thu thập tài liệu của Trung tâm từ năm 1995-2015, chúng tôi
nhận định, các cơ quan Bộ đã cơ bản giao nộp tương đối đầy đủ tài liệu có giá trị bảo
quản vĩnh viễn giai đoạn 1950-1991 (cùng thời gian tài liệu về vấn đề hợp tác Việt
Nam – Liên Xô). Tuy vậy, về phía Trung tâm vẫn cần rà soát và có kế hoạch, biện pháp
thu thập triệt để tài liệu của các cơ quan thuộc giai đoạn này để bổ sung hoàn chỉnh
thành phần tài liệu của các phông lưu trữ Trung tâm đang bảo quản và phát huy.
Đặc biệt đối với trường hợp Bộ Ngoại giao như chúng tôi đã nói ở trên, vấn đề
thu thập tài liệu của Bộ đối với TTLTQGIII hiện nay là hết sức khó khăn, thậm chí gần
như chưa được tiếp cận tài liệu do đặc thù của ngành Ngoại giao. Sự thiếu hụt tài liệu
phông Bộ Ngoại giao, đối với chúng tôi là khó khăn lớn nhất trong nghiên cứu quan hệ
hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô nói riêng và nghiên cứu về lĩnh vực hợp tác quốc
tế của Việt Nam với các nước nói chung tại TTLTQGIII. Với chức năng của một cơ
quan quản lý nhà nước về đối ngoại, chúng tôi chắc chắn, phông lưu trữ Bộ Ngoại giao
có rất nhiều tài liệu có giá trị pháp lý cao, thông tin tài liệu quan trọng, phản ánh chân
thực và khách quan quan hệ ngoại giao Việt Nam – Liên Xô trên mọi lĩnh vực qua các
thời kì. Chúng tôi kiến nghị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần thống nhất và
quyết định vấn đề thu thập, nộp lưu tài liệu của Bộ Ngoại giao, trước hết là nộp lưu
khối tài liệu hình thành từ năm 1986 trở về trước vào TTLTQGIII theo đúng quy định,
nhằm đẩy mạnh phát huy giá trị của khối tài liệu về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên
Xô tại Trung tâm trong thời gian tới, khi tài liệu đã đảm bảo mức độ hoàn chỉnh.
Đồng thời với việc đẩy mạnh công tác thu thập, bổ sung tài liệu từ các cơ quan,
tổ chức thuộc nguồn nộp lưu vào TTLTQGIII, theo chúng tôi, ý tưởng về sưu tầm tài
liệu của các cá nhân đã từng học tập, nghiên cứu tại Liên Xô trong thời gian từ 1950-
1991 và lập các bộ sưu tập tài liệu tại Trung tâm, nếu được thực hiện sẽ rất có hiệu quả
đối với việc hoàn thiện thành phần hồ sơ, tài liệu lưu trữ về quan hệ hợp tác ngoại giao
Việt Nam – Liên Xô nói chung và về quan hệ hợp tác đào tạo giữa hai nước nói riêng.
Từ hàng vạn LHS Việt Nam đã từng học tập dưới mái trường Xô viết, đối tượng để sưu
tầm tài liệu có thể là các cá nhân điển hình trong những thế hệ LHS gắn liền với các
dấu mốc lịch sử của quan hệ hợp tác đào tạo giữa hai nước, chẳng hạn nhóm 21 nhà
khoa học đầu tiên được cử đi học tại Liên Xô vào năm 1951, đã đóng góp rất nhiều cho
công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước và việc sưu tầm tài liệu về quá trình học tập,
nghiên cứu của họ tại Liên Xô thực sự có ý nghĩa. Cùng với đó, các cá nhân là những
nhà lãnh đạo Đảng, lãnh đạo Nhà nước, các nhà quản lý và các cá nhân tiêu biểu, 94
điển hình trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội…đã học tập tại Liên Xô cũng sẽ là
những nguồn sưu tầm tài liệu về quan hệ hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô đầy tiềm
năng và có giá trị để hoàn thiện hơn nữa thành phần tài liệu về hợp tác đào tạo giữa hai
nước tại Trung tâm nhằm phát huy tối đa giá trị của khối tài liệu này, đặc biệt đối với
việc nghiên cứu lịch sử ngoại giao của Việt Nam với Liên Xô, trong đó có nội dung
hợp tác đào tạo.
3.2.2. Giải mật tài liệu lưu trữ và tạo điều kiện cho phép khai thác sử dụng tài
liệu phù hợp với quy định của Nhà nước
Tài liệu sản sinh trong hơn 40 năm thực hiện quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên
Xô trong lĩnh vực đào tạo có đóng dấu chỉ các mức độ mật, đến nay có rất nhiều tài liệu
đã đến hạn giải mật theo quy định của Luật Lưu trữ. Chúng tôi đề xuất các cơ quan có
thẩm quyền khẩn trương giải mật tài liệu để giúp các nhà nghiên cứu có điều kiện tiếp
cận với tài liệu, nhằm phát huy hơn nữa giá trịcủa khối tài liệu này trong nghiên cứu
lịch sử.
Trong trường hợp tài liệu đã đến hạn giải mật nhưng chưa được giải mật, theo
chúng tôi, lãnh đạo cơ quan TTLTQGIII cân nhắc và cho phép khai thác, sử dụng.
Trong khối này có rất nhiều văn kiện ngoại giao đã được kí kết giữa hai Nhà nước
trong thời gian từ 1950-1991, vì lý do phải bảo vệ bí mật nhà nước nên không được
đưa ra khai thác và sử dụng. Theo chúng tôi, vấn đề hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên
Xô giai đoạn 1950-1991 không còn là vấn đề nhạy cảm và việc đưa ra khai thác, sử
dụng tài liệu mật hình thành cách đây 40 năm, 60 năm không ảnh hưởng đến chính trị,
quốc phòng, an ninh quốc gia, do vậy không cần thiết phải bảo mật. Trong khi đó, một
số tài liệu đã được công bố trên các nguồn tư liệu khác. Vì vậy, chúng tôi đề xuất lãnh
đạo Trung tâm cho phép độc giả được tiếp cận với tài liệu mật đã đến hạn giải mật, để
người nghiên cứu có đủ tư liệu lịch sử nghiên cứu quan hệ ngoại giao Việt Nam – Liên
Xô cũng như quan hệ hợp tác giáo dục đào tạo giữa hai nước.
3.3.3. Hoàn thiện công tác tổ chức khoa học tài liệu
Như chúng tôi đã trình bày, ưu điểm lớn nhất của khối tài liệu về quan hệ hợp
tác Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo là cơ bản đã được lập hồ sơ và chất
lượng hồ sơ khá tốt. Tuy vậy, về phía TTLTQGIII vẫn cần phải rà soát, kiểm tra chất
95
lượng các hồ sơ , tìm ra những hồ sơ chưa đạt yêu cầu chất lượng, từ đó chỉnh sửa,
lập lại những hồ sơ chưa đạt yêu cầu như: loại bỏ những văn bản trùng thừa trong các
hồ sơ, sắp xếp lại tài liệu bên trong hồ sơ nhằm phản ánh đúng mối quan hệ lịch sử
của tài liệu, biên mục đầy đủ toàn bộ hồ sơ trong các phông nhằm tạo điều kiện thuận
lợi hơn nữa cho độc giả trong việc tra tìm tài liệu, đồng thời cũng dễ dàng hơn trong
việc phát hiện và loại bỏ văn bản trùng thừa. Riêng tài liệu phông UBKhHNN đang
để trong 02 mục lục hồ sơ và có khá nhiều tài liệu về hợp tác đào tạo NCS và TTSKH
giữa hai nước, Trung tâm cần đưa vào kế hoạch chỉnh lý nâng cấp phông nhằm tối ưu
hóa chất lượng hồ sơ tài liệu để phục vụ khai thác, sử dụng tại Trung tâm.
Khối tài liệu về hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô được hình thành từ khá
lâu, tình trạng vật lý không còn tốt nên việc viết chứng từ kết thúc là việc làm cần
thiết để độc giả có thể dễ dàng nắm bắt được tình trạng của tài liệu để có những lưu ý
phù hợp khi khai thác, sử dụng tài liệu để bảo vệ tài liệu hiệu quả hơn.
Cần kiểm tra lại việc viết tiêu đề hồ sơ, nếu tiêu đề hồ sơ nào chưa chính xác,
cần sửa lại nhằm đảm bảo độ chính xác và phản ánh đúng nội dung tài liệu trong hồ
sơ, tạo điều kiện thuận lợi cho độc giả khi tìm kiếm nội dung văn bản bên trong hồ sơ
thông qua tiêu đề hồ sơ.
3.3.4. Tăng cường các hình thức công bố, tổ chức khai thác, sử dụng tài liệu
Hiện nay, hình thức tổ chức khai thác, sử dụng tài liệu tại TTLTQGIII chủ yếu
là độc giả đọc trực tiếp tại Phòng Đọc. Cán bộ Phòng Đọc cần có sự phân loại độc giả
dựa trên nội dung nghiên cứu và mục đích khai thác thông tin của độc giả, từ đó có
thể giới thiệu, gợi ý cho độc giả tham khảo những hồ sơ, tài liệu phù hợp nhằm tạo
điều kiện thuận lợi hơn nữa cho độc giả khi khai thác, sử dụng tài liệu tại Trung tâm,
thu hút nhiều hơn nữa số lượng độc giả đến với Trung tâm.
Trung tâm cần chủ động hơn nữa trong việc tổ chức những hình thức công bố,
khai thác, sử dụng tài liệu về quan hệ hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô như giới
thiệu tài liệu, công bố tài liệu, tổ chức triển lãm, trưng bày tài liệu, cung cấp thông tin
tài liệu lưu trữ từ xa…để các nhà nghiên cứu, các độc giả quan tâm có thể nắm được
những nguồn thông tin tài liệu quí báu, có độ tin cậy cao về quan hệ hợp tác Việt
Nam – Liên Xô.
96
Bên cạnh đó, TTLTQGIII có thể xây dựng các chuyên đề liên quan đến quan
hệ hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô (1950-1991) bằng việc tập hợp các tài liệu
hiện đang lưu trữ trong các phông lưu trữ Phủ Thủ tướng, UBKHNN, UBKhHNN,
Bộ Giáo dục, Bộ Đại học và THCN, Bộ Văn hóa, Bộ Văn hóa Thông tin, Bộ Tài
chính và Bộ Y tế như chúng tôi đã thống kê. Việc tập hợp, sưu tầm tài liệu lưu trữ
theo chuyên đề chắc chẵn sẽ là một biện pháp tốt thu hút được sự quan tâm của các
nhà nghiên cứu và các độc giả quan tâm.
Tiểu kết chƣơng 3
Những nội dung chúng tôi đã trình bày trong chương 3 cho thấy rõ tình hình công
tác tổ chức khoa học và tổ chức khai thác, sử dụng nguồn tài liệu về quan hệ Việt Nam –
Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo đang bảo quản tại TTLTQGIII. Theo chúng tôi, ưu điểm
chính của khối tài liệu này là đã được lập hồ sơ tương đối tốt, cơ bản đáp ứng yêu cầu
khai thác, sử dụng tài liệu tại Trung tâm. Tuy nhiên, với những hạn chế trong công tác
khai thác và sử dụng tài liệu chúng tôi đã nêu, đang ảnh hưởng đến vấn đề phát huy giá
trị của khối tài liệu này trong nghiên cứu khoa học. Với một số kiến nghị, giải pháp của
mình, trọng tâm là các giải pháp về thu thập, bổ sung và giải mật tài liệu, nếu được lưu ý
và thực hiện, chúng tôi hi vọng công tác tổ chức khoa học và tổ chức khai thác, sử dụng
khối tài liệu về quan hệ hợp tác đào tạo Việt Nam – Liên Xô sẽ được hoàn thiện hơn nữa
để phát huy tối đa giá trị nghiên cứu của khối tài liệu này trong đời sống xã hội.
KẾT LUẬN
Khối tài liệu lưu trữ về quan hệ Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo nằm
trong thành phần tài liệu của 12 phông lưu trữ cơ quan, tổ chức hiện đang bảo quản tại
TTLTQGIII, tập trung chủ yếu ở các phông có vị trí quan trọng trong bộ máy hành chính
nhà nước là Phủ Thủ tướng, UBKHNN, UBKhHNN và phông Bộ Đại học và THCN –
cơ quan quan lý nhà nước về giáo dục đào tạo đại học và THCN thời kì từ 1991 trở về
trước. Về cơ bản, đây là những tài liệu có độ tin cậy và tính xác thực cao, phản ánh tương
đối đầy đủ nội dung quan hệ hợp tác đào tạo giữa hai nước trong chặng đường hơn 40
năm quan hệ (1950-1991). Qua việc phân tích nội dung khối tài liệu này cho chúng ta
thấy được sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô trong việc đào tạo cán bộ có trình độ cao cho
Việt Nam. Hàng chục ngàn LHS Việt Nam được đào tạo tại Liên Xô đã trở thành lực
lượng nòng cốt của công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước, đóng góp đáng kể trong
sự phát triển của nền KHKT Việt Nam và là cầu nối vững chắc cho tình hữu nghị
97
giữa 2 dân tộc. Cùng với những nguồn tư liệu khác, khối tài liệu này thực sự là những
tư liệu có giá trị và là cơ sở cần thiết đối với việc nghiên cứu lịch sử hợp tác ngoại
giao Việt Nam – Liên Xô, góp phần củng cố và thúc đẩy quan hệ hợp tác Việt – Nga
ngày nay. Bên cạnh đó, giá trị tiềm năng khác của khối tài liệu này còn thể hiện ở
chỗ, chúng là một trong những nguồn tư liệu đáng tin cậy để nghiên cứu lịch sử
ngành giáo dục đào tạo và tìm hiểu về đội ngũ trí thức của Việt Nam. Đối với những
nhà quản lý, việc nghiên cứu khối tài liệu này còn giúp ích trong việc đúc rút các bài
học kinh nghiệm trong công tác quản lý đào tạo ngoài nước và các vấn đề khác của
lĩnh vực hợp tác quốc tế về giáo dục đào tạo...
Trên cơ sở đánh giá giá trị tiềm năng của khối tài liệu về hợp tác đào tạo Việt
Nam – Liên Xô cũng như phân tích, nhận xét tình hình thực tế của công tác tổ chức
khoa học và tổ chức khai thác, sử dụng khối tài liệu này tại TTLTQGIII hiện nay,
chúng tôi đưa ra một vài kiến nghị, giải pháp cho các công tác này với mong muốn
phát huy hơn nữa giá trị sử dụng tài liệu vào các mục đích nghiên cứu khác nhau của
đời sống xã hội. Như vậy, với tất cả những nội dung đã được trình bày trong các
chương, về cơ bản, chúng tôi đã đạt được mục đích nghiên cứu và đóng góp của đề
tài luận văn thạc sĩ của mình./.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. TÀI LIỆU LƢU TRỮ ĐANG BẢO QUẢN TẠI TRUNG TÂM LƢU
TRỮ QUỐC GIA III
I.1. HỒ SƠ, TÀI LIỆU PHÔNG PHỦ THỦ TƢỚNG
Phông Phủ Thủ tướng giai đoạn 1945-1954 (Mục lục số 2)
01. Hồ sơ 01: Tập lưu Sắc lệnh năm 1945 của Chủ tịch nước, từ số 01-81;
02. Hồ sơ 1159: Tập lưu nghị định, nghị quyết, quyết định, thông tư, chỉ thị
tháng 10/1961 của Hội đồng Chính phủ, từ số 141-181;
03. Hồ sơ 1160: Tập lưu nghị định, nghị quyết, quyết định, thông tư, chỉ thị
tháng 11-12/1961 của Hội đồng Chính phủ, từ số 182-221;
04. Hồ sơ 1173: Tập lưu nghị định, quyết định, thông tư từ tháng 9-12/1965 của
98
Hội đồng Chính phủ, từ số 182-261;
05. Hồ sơ 1177: Tập lưu nghị định, nghị quyết, quyết định, thông tư, chỉ thị từ
tháng 7-9/1966 của Hội đồng Chính phủ, từ số 116-219;
06. Hồ sơ 1190: Tập lưu nghị quyết, nghị định, quyết định từ tháng 01-3/1971
của Hội đồng Chính phủ, từ số 01-58;
07. Hồ sơ 1209: Tập lưu nghị định, nghị quyết, quyết định từ tháng 10-12/1975
của Hội đồng Chính phủ, từ số 188-234;
08. Hồ sơ 1223: Tập lưu nghị định, quyết định, thông tư từ tháng 10-12/1955
của Thủ tướng, từ số 595-651;
Phông Phủ Thủ tướng giai đoạn 1954-1985 (Mục lục số 03)
09. Hồ sơ 7820: Hiệp định, nghị định, kế hoạch, biên bản, hợp đồng về hợp tác
văn hóa, khoa học năm 1961 với Liên Xô;
10. Hồ sơ 8087: Kế hoạch hợp tác văn hóa và khoa học với Liên Xô năm 1965;
11. Hồ sơ 8114: Báo của Ban hợp tác KHKT với nước ngoài về hợp tác KHKT
giữa nước tà với các nước từ năm 1961-1966;
12. Hồ sơ 8434: Kế hoạch hợp tác văn hóa năm 1969 với Liên Xô;
13. Hồ sơ 8738: Hồ sơ vv hợp tác văn hóa, khoa học kỹ thuật năm 1971 với
Liên Xô;
14. Hồ sơ 9094: Báo cáo của Bộ Đại học và THCN về tình hình khảo sát việc
quản lý lưu học sinh thực tập và nghiên cứu ở Ba Lan, Liên Xô năm 1973.
15. Hồ sơ 9470: Hiệp định hợp tác văn hóa và khoa học năm 1974 với Liên Xô;
16. Hồ sơ 10006: Báo cáo của ĐSQ Việt Nam tại Liên Xô về trao đổi văn hóa
khoa học năm 1976 với Liên Xô;
17. Hồ sơ 10692: Hiệp định, biên bản, kế hoạch hợp tác kinh tế và KHKT với
Liên Xô năm 1978-1980 và năm 1978;
18. Hồ sơ 10702: Hiệp định về sự giá trị tương đương của các văn bằng đào tạo
và các học vị, chức vụ khoa học được cấp hoặc công nhận ở Việt Nam và
Liên Xô năm 1978;
19. Hồ sơ 10703: Công văn của Phủ Thủ tướng, Bộ Đại học và THCN về hợp tác
với các trường đại học ở Liên Xô năm 1978;
20. Hồ sơ 11741: Chương trình hợp tác khoa học xã hội của Bộ ĐHTHCN năm
99
học 1980-1981 và 1981-1982 và Bộ THCN Liên Xô;
21. Hồ sơ 12084: Công văn của Phủ Thủ tướng, Bộ Đại học và THCN về hợp tác
đào tạo với Liên Xô trong kế hoạch 5 năm 1981-1985;
22. Hồ sơ 13152: Hồ sơ v/v hợp tác trong công tác nghiên cứu KHKT và đào
tạo cán bộ với Liên Xô của Bộ Đại học và THCN năm 1984;
23. Hồ sơ 18100: Biên bản đàm phán và kí kết hiệp định, nghị định thư v/v Liên
Xô đào tạo cán bộ KHKT, công nhân kỹ thuật cho Việt Nam năm 1967;
24. Hồ sơ 18256: Quyết định của Phủ Thủ tướng về kế hoạch gửi LHS đại học,
trên đại học năm 1971- 1972 đi các nước XHCN;
25. Hồ sơ 18372: Báo cáo của Bộ ĐHTHCN, ĐSQ Việt Nam tại Liên Xô về tình
hình LHS ở Liên Xô và Đông Âu tốt nghiệp năm học 1972-1973;
26. Hồ sơ 18261: Báo cáo của Bộ ĐHTHCN v/v đưa LHS đi Liên Xô năm 1976;
27. Hồ sơ 18380: Danh mục các ngành nghề đào tạo NCS các nước XHCN ở
Liên Xô năm 1973 của Bộ ĐHTHCN;
28. Hồ sơ 18382: Báo cáo của Đại sứ quán Việt Nam tại Liên Xô v/v cải tiến
công tác quản lý NCS năm 1973;
29. Hồ sơ 18621: Báo cáo của Bộ Đại học và THCN v/v đưa LHS đi Liên Xô
năm 1976;
30. Hồ sơ 19184: Công văn của Bộ Giáo dục, Bộ ĐHTHCN v/v Liên Xô bổ
sung 15 NCS cho Bộ Giáo dục năm 1980;
31. Hồ sơ 19261: Công văn của Phủ Thủ tướng v/v đào tạo cán bộ đại học tại
Liên Xô trong kế hoạch 5 năm 1981-1983 của Bộ Đại học và THCN;
32. Hồ sơ 19430: Báo cáo của Ban Khoa giáo Trung ương về tình hình công tác
LHS Việt Nam ở các nước XHCN từ năm 1951-1983;
I. 2. HỒ SƠ, TÀI LIỆU PHÔNG ỦY BAN KẾ HOẠCH NHÀ NƢỚC (1955-
1995)
33. Hồ sơ 17091: Hiệp định giữa Chính phủ Việt Nam DCCH với Chính phủ Liên
bang CHXHCN Xô viết năm 1952;
34. Hồ sơ 17440: Hiệp định, nghị định thư và kế hoạch hợp tác văn hóa và
KHKT giữa Chính phủ VN và các nước XHCN năm 1961;
35. Hồ sơ 17503: Hồ sơ v/v đàm phán, hợp tác với LX về kinh tế, ngoại thương
100
và văn hóa, KHKT năm 1962;
36. Hồ sơ 17661: Báo cáo tổng kết công tác hợp tác KHKT với các nước cho
đến năm 1966 và phương hướng hợp tác trong thời gian tới của Ban Hợp tác
KHKT – UBKHNN;
37. Hồ sơ 17674: Kế hoạch hợp tác văn hóa và khoa học giữa Việt Nam và Liên
Xô năm 1966;
38. Hồ sơ 17694: Kế hoạch đào tạo cán bộ và công nhân kỹ thuật ở nước ngoài
và báo cáo tình hình TTS, LHS và NCS gửi đi các nước XHCN trong các
năm 1966-1969 của UBKHNN;
39. Hồ sơ 17710: Nghị định thư và tài liệu của Đại sứ quán Việt Nam tại Liên
Xô v/v thỏa thuận danh mục ngành nghề và thời gian học tập của công dân
Việt Nam tại Liên Xô năm 1967;
40. Hồ sơ 17732: Công văn, kế hoạch, báo cáo của Phủ Thủ tướng, UBKHNN,
các Bộ ngành v/v cử các đoàn tham quan, khảo sát, TTS đi các nước năm
1967;
41. Hồ sơ 17790: Hồ sơ v/v cử đoàn khảo sát, TTS đi Liên Xô và Trung Quốc
và kết quả công tác của đoàn năm 1969;
42. Hồ sơ 17858: Hiệp nghị, hiệp định và báo cáo thực hiện Hiệp định giữa VN
và LX về trao đổi hang hóa, giúp đỡ kinh tế cho VN, KHKT, xuất bản bằng
tiếng Việt bộ Toàn tập Lê nin trong năm 1971;
43. Hồ sơ 17905: Hiệp định, nghị định thư, thỏa thuận, biên bản, kế hoạch giữa
VN và LX v/v trao đổi hang hóa và thanh toán, viện trợ, giúp đỡ kinh tế cho
VN, hợp tác văn hóa, giáo dục, KHKT, bưu chính và điện chính trong năm
1972;
44. Hồ sơ 17977: Hiệp định, nghị định thư, kế hoạch, biên bản giữa Chính phủ
Việt Nam và Chính phủ Liên Xô v/v hợp tác văn hóa, KHKT, đào tạo nghề,
y học và y tế trong năm 1973-1976;
45. Hồ sơ 18928: Hồ sơ v/v hợp tác giữa Việt Nam và Liên Xô giai đoạn 1986-
1990.
Tập 11: Tài liệu hợp tác về văn hóa khoa học, giáo dục đào tạo, y tế, lao
động;
46. Hồ sơ 20617: Công văn, kế hoạch, báo cáo của Ban Chấp hành TƯ Đảng
Lao động Việt Nam, Phủ Thủ tướng, Ủy ban Kế hoạch quốc gia và các Bộ
101
ngành về tình hình LHS, TTS ở nước ngoài năm 1956;
47. Hồ sơ 20690: Công văn, kế hoạch LHS, TTS năm 1957 của UBKHNN;
48. Hồ sơ 20963: Công văn, kế hoạch, báo cáo về công tác TTS và LHS năm
1957 của Bộ Giáo dục;
49. Hồ sơ 20706: Báo cáo tổng kết v/v học sinh, cán bộ đi học ở các nước trong
năm 1957 của Bộ Giáo dục;
50. Hồ sơ 20777: Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch LHS trong 2 năm 1957-
1958 của Đảng bộ Bộ Giáo dục;
51. Hồ sơ 20778: Công văn, kế hoạch về LHS, TTS năm 1958 của UBKHNN;
52. Hồ sơ 20782: Báo cáo của Đoàn cán bộ nghiên cứu Ban Tổ chức Trung
ương về tình hình LHS ở các nước Trung Quốc, Liên Xô, Ba Lan, Tiệp
Khắc, Đức năm 1958;
53. Hồ sơ 20967: Công văn, kế hoạch LHS, NCS, TTS năm 1960 của UBKHNN
và các Bộ, ngành;
54. Hồ sơ 21110: Biểu tổng hợp của UBKHNN về LHS tốt nghiệp theo bậc,
nước, ngành và theo thành phần năm 1963;
55. Hồ sơ 21193: Kế hoạch, báo cáo về đào tạo cán bộ và công nhân kỹ thuật ở
nước ngoài năm 1966,1966-1967, 1966-1969 của UBKHNN;
56. Hồ sơ 21291: Quyết định, công văn, chỉ thị của Thủ tướng, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Lao động Việt Nam về công tác đào tạo, sử dụng cán bộ
năm 1971;
57. Hồ sơ 21341: Công văn, báo cáo của Bộ Đại học và THCN về tình hình
công tác NCS, TTS về nước năm 1972;
58. Hồ sơ 21382: Quyết định của Phủ Thủ tướng về kế hoạch gửi LHS đại học
và trên đại học năm 1973-1974;
59. Hồ sơ 21738: Công văn, kế hoạch của Bộ ĐHTHCN v/v gửi LHS 3 năm
1978-1980;
60. Hồ sơ 21890: Công văn, báo cáo của Vụ Giáo dục đào tạo – UBKHNN,
Tổng cục Dạy nghề về đào tạo cán bộ chuyên môn và công nhân kỹ thuật
gửi đi các nước XHCN năm 1984;
I.3. HỒ SƠ, TÀI LIỆU PHÔNG ỦY BAN KHOA HỌC NHÀ NƢỚC (1958-
1992)
61. Hồ sơ 2060: Đề án, báo cáo của UBKhHNN về tình hình cán bộ KHKT và
102
vấn đề đào tạo năm 1959;
62. Hồ sơ 2067: Công văn của Phủ Thủ tướng v/v duyệt kế hoạch LHS năm
1959 cho các Bộ ngành;
63. Hồ sơ 2106: Báo cáo của UBKhHNN về số LHS gửi đi các nước năm 1960;
64. Hồ sơ 2141: Kế hoạch gửi NCS và học sinh đi nước ngoài của UBKhHNN
và các đơn vị thuộc Ủy ban năm 1961;
65. Hồ sơ 2149: Nghị định số 43/CP ngày 04/4/1962 của Hội đồng Chính phủ
quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của UBKhHNN;
66. Hồ sơ 2173: Báo cáo của UBKhHNN thống kê số lượng học sinh và ngành
học chuyên môn của LHS năm 1961-1962.
67. Hồ sơ 2258: Nghị định số 67 và số 117-CP của Hội đồng Chính phủ quy
định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của UBKhHNN;
68. Hồ sơ 2447: Nghị định số 192-CP của Hội đồng Chính phủ ban hành Điều lệ
tổ chức và hoạt động của UBKhHNN năm 1975;
69. Hồ sơ 2781: Báo cáo của Bộ ĐHTHCN về sử dụng cán bộ KHKT có trình
độ cao được đào tạo với sự tham gia giữa các nước XHCN và công tác giảng
dạy, nghiên cứu khoa học trong các Trường ĐH Việt Nam năm 1986;
70. Hồ sơ 2838: Chỉ tiêu kế hoạch đào tạo cán bộ khoa học ngoài nước theo chế
độ NCS năm 1988 của UBKHKTNN giao cho các Bộ, ngành;
71. Hồ sơ 2928: Hiệp định hợp tác văn hóa, KHKT giữa VN và LX năm 1959;
72. Hồ sơ 2963: Biên bản, hiệp định, nghị định thư về hợp tác KHKT giữa VN
với LX năm 1961;
73. Hồ sơ 3013: Biên bản, nghị định, kế hoạch hợp tác khoa học với LX năm
1963;
74. Hồ sơ 3590: Báo cáo của UBKHKTNN, Phòng KHKT – ĐSQ Việt Nam tại
LX về hợp tác KHKT giữa hai nước năm 1989 và thời gian 1976-1989;
75. Hồ sơ 3731: Báo cáo của Viện Khoa học Xã hội VN về tình hình hợp tác
quốc tế năm 1985-1991;
76. Hồ sơ 7310: Báo cáo của Phòng KHKT - ĐSQ Việt Nam tại Liên Xô về tình
hình hợp tác KHKT giữa hai nước năm 1980-1983;
77. Hồ sơ 7314: Báo cáo về kết quả hợp tác giữa VN và LX năm 1981-1985 và
một số biện pháp nâng cao hiệu quả hợp tác trong thời gian tới;
103
I.4. HỒ SƠ, TÀI LIỆU PHÔNG BỘ GIÁO DỤC
Phông Bộ Giáo dục giai đoạn 1945-1980
78. Hồ sơ 4218: Hiệp định, biên bản, kế hoạch hợp tác văn hóa và khoa học giữa
Việt Nam và Liên Xô năm 1955-1975;
79. Hồ sơ 4249: Kế hoạch, báo cáo gửi LHS, NCS từ năm 1958-1963 của
UBKHNN, Bộ Giáo dục và các trường;
80. Hồ sơ 4256: Công văn, kế hoạch, báo cáo của Thủ tướng, Ban Nghiên cứu
Văn Sử Địa, Bộ Giáo dục v/v trao đổi hợp tác văn hóa với nước ngoài năm
1959 và 1959-1960;
81. Hồ sơ 4264: Báo cáo tình hình LHS năm 1959, 1959-1960 của ĐSQ Việt
Nam tại các nước;
82. Hồ sơ 4266: Thống kê tình hình tổng quát LHS đang học nước ngoài đến
ngày 30.6.1959 của Phòng LHS - Vụ Đại học và Chuyên nghiệp;
83. Hồ sơ 4277: Báo cáo tình hình LHS năm 1960-1961 của ĐSQ Việt Nam tại
các nước;
84. Hồ sơ 4305: Công văn, báo cáo của Vụ Đại học và THCN, ĐSQ Việt Nam
tại các nước về quản lý LHS năm 1961;
85. Hồ sơ 4309: Tài liệu của Bộ Giáo dục về LHS, NCS Liên Xô sang Việt Nam
năm 1961-1964;
86. Hồ sơ 4327: Công văn, quyết định, kế hoạch, báo cáo của Thủ tướng, Bộ
Giáo dục, Bộ Công an về công tác NCS, TTS đi các nước năm 1962-1963;
87. Hồ sơ 4334: Đề cương Báo cáo công tác trao đổi văn hóa với nước ngoài
trong năm 1963 của Bộ Giáo dục và các đơn vị trực thuộc;
88. Hồ sơ 4343: Tập công văn, quyết định, thông tư của Thủ tướng, Bộ Giáo
dục, UBKHNN, ĐSQ Việt Nam tại Trung Quốc về NCS, TTS năm 1963;
89. Hồ sơ 4344: Báo cáo của ĐSQ Việt Nam tại các nước về tình hình LHS năm
1963-1964;
90. Hồ sơ 4345: Bảng thống kê NCS, TTS nước ngoài năm học 1963-1964 của
Bộ Giáo dục;
91. Hồ sơ 4364: Báo cáo của Trường Đại học Tổng hợp về LHS các nước ở Việt
Nam năm 1963;
92. Hồ sơ 4376: Báo cáo tổng kết công tác đào tạo ở nước ngoài từ năm 1950-
104
1964 của Bộ Giáo dục.
93. Hồ sơ 4377: Thông tư, công văn, báo cáo của Liên bộ Ngoại giao - Nội vụ-
Tài chính về công tác TTS, LHS năm 1964;
94. Hồ sơ 4415: Công văn của Bộ Giáo dục, ĐSQ Việt Nam tại các nước về đối
ngoại năm 1970;
95. Hồ sơ 446: Công văn, báo cáo của Phủ Thủ tướng, Bộ Giáo dục về công tác
của đoàn cán bộ đi nghiên cứu và học tập ở Liên Xô năm 1970;
96. Hồ sơ 4437: Hồ sơ v/v cử các đoàn cán bộ, học sinh đi công tác, học tập tại
các nước XHCN năm 1974;
Phông Bộ Giáo dục (Tài liệu của Bộ trưởng Nguyễn Hồng Quân)
97. Hồ sơ 598: Nghị định thư về hợp tác giữa Bộ Đại học và THCN Việt Nam
với Bộ Đại học và THCN Liên bang CHXHCN Xô Viết trong những năm
1986-1990, 1987;
I.5. HỒ SƠ, TÀI LIỆU PHÔNG BỘ ĐẠI HỌC VÀ TRUNG HỌC
CHUYÊN NGHIỆP (1965-1991)
98. Hồ sơ 84: Hồ sơ về quan hệ hợp tác giữa Trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội
với Viện Puskin – Liên Xô năm 1975-1980;
99. Hồ sơ 90: Hiệp định, kế hoạch hợp tác và nghị định thư giữa Bộ Đại học và
THCN Việt Nam với Liên Xô và một số nước anh em năm 1970-1980;
100. Hồ sơ 93: Hồ sơ về quan hệ hợp tác giữa Trường Đại học Bách khoa Khắc
Cốp – Liên Xô với Trường Đại học Bách khoa Hà Nội năm 1976-1980;
101. Hồ sơ 633: Nghị quyết, thông báo, báo cáo của Phủ Thủ tướng, Bộ Đại học và
THCN về tình hình LHS và công tác quản lý học sinh năm 1970-1977;
102. Hồ sơ 638: Báo cáo của Bộ Đại học và THCN về công tác đào tạo cán bộ KHKT
có trình độ trên đại học năm 1973;
103. Hồ sơ 647: Chương trình, báo cáo tổng kết công tác quý và cả năm của Vụ Quản lý
học sinh và Bộ ĐHTHCN từ năm 1970-1979;
104. Hồ sơ 655: Quyết định của Phủ thủ tướng, UBKHNN, Bộ Đại học và THCN v/v
giao chỉ tiêu kế hoạch đào tạo LHS, NCS, TTS ở nước ngoài năm 1966-1974;
I.6. HỒ SƠ, TÀI LIỆU PHÔNG BỘ VĂN HÓA
(Tài liệu Vụ Trao đổi văn hóa với nước ngoài)
105. Hồ sơ 147: Kế hoạch hợp tác văn hóa và tình hình thực hiện kế hoạch hợp tác giữa
105
Việt Nam và Liên Xô trong năm 1958;
106. Hồ sơ 152: Kế hoạch và tình hình thực hiện kế hoạch hợp tác văn hóa và khoa học với
Liên Xô trong năm 1959;
107. Hồ sơ 155: Hồ sơ v/v trao đổi LHS, TTS với Liên Xô trong năm 1959;
108. Hồ sơ 159: Hồ sơ v/v trao đổi LHS, TTS với Liên Xô trong năm 1960;
109. Hồ sơ 160: Hồ sơ v/v trao đổi văn hóa với Liên Xô năm 1961, 1962, 1963;
I.7. HỒ SƠ, TÀI LIỆU PHÔNG BỘ VĂN HÓA THÔNG TIN (1976-1995)
(Tài liệu Vụ Hợp tác quốc tế)
110 Hồ sơ 660: Hiệp định về quan hệ hợp tác giữa Nhạc viện TP.HCM và Nhạc viện
Quốc gia Novosibirsk mang tên Gilinka năm 1990;
I.8. HỒ SƠ, TÀI LIỆU BỘ NÔNG LÂM (1946-1960)
111. Hồ sơ 6462: Báo cáo của du học sinh nông học ở Liên Xô và Trung Quốc về
tình hình học tập khóa học 1951-1952;
112. Hồ sơ 6936: Tập công văn của Đại sứ quan Việt Nam ở Bắc Kinh,
UBKHNN, Bộ Giáo dục, Bộ Nông lâm về du học sinh ngành nông lâm ở
Liên Xô và Trung Quốc năm 1959;
II. CÁC GIÁO TRÌNH, BÀI VIẾT, CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU, BÀI
VIẾT KỶ YẾU HỘI THẢO, TÀI LIỆU THAM KHẢO KHÁC
113. Bộ Ngoại giao Việt Nam - Bộ Ngoại giao Liên bang Nga (1983), Việt Nam -
Liên Xô, 30 năm quan hệ (1950 - 1980), Nhà xuất bản Ngoại giao, Hà Nội
và Nhà xuất bản in Tiến bộ, Mát-xcơ-va;
114. Nguyễn Đình Bin, Nguyễn Xuân, Lưu Văn Lợi (2015), Ngoại giao Việt Nam
1945-2000, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội;
115. Công báo nước Việt Nam DCCH năm 1960;
116. Công báo nước Việt Nam DCCH năm 1965;
117. Công báo nước Việt Nam DCCH năm 1966;
118. Công báo nước Việt Nam DCCH năm 1972;
119. Công báo nước CHXHCN Việt Nam năm 1982;
120. Công báo nước CHXHCN Việt Nam năm 1987;
121. Công báo nước CHXHCN Việt Nam năm 1990;
122. Lê Duẩn (1982), Đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô là nguyên tắc là
106
chiến lược và tình cảm của chúng ta, Nhà máy In Tiến Bộ, Hà Nội;
123. Đào Xuân Chúc, Nguyễn Văn Hàm, Vương Đình Quyền, Nguyễn Văn Thâm
(1990), Lý luận và thực tiễn công tác lưu trữ, Nhà xuất bản Đại học và Giáo
dục chuyên nghiệp, Hà Nội;
124. Đào Xuân Chúc, Các nguồn tài liệu lưu trữ ở Việt Nam về quan hệ hợp tác
Việt Nam – Liên Xô (1950-1991), Đề tài nghiên cứu khoa học đặc biệt cấp
Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007-2009;
125. Đào Xuân Chúc (2010), Các nguồn tài liệu lưu trữ về quan hệ Việt Nam –
Liên Xô (1950-1991) Tạp chí Văn thư Lưu trữ Việt Nam, số 1;
126. Hồng Hạnh, Hải Hà (2000), Tìm hiểu sự giúp đỡ của Liên Xô trong hai cuộc
kháng chiến của nhân dân Việt Nam (1945-1975, Tạp chí Lịch sử quân sự,
số 4;
127. Phạm Thị Bích Hải, Vũ Thị Minh Hương, Trần Thị Hương, Philipe Le
Failler, Nguyễn Minh Sơn (2006), Sách chỉ dẫn các phông lưu trữ bảo quản
tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, Hà Nội;
128. Phạm Xuân Hằng (1996), Vấn đề xử lý sử liệu học đối với tài liệu chữ viết,
Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 1, tr.20-25;
129. Bùi Minh Hiển (2013), Lịch sử giáo dục Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học Sư
phạm, Hà Nội;
130. Hiệp định về hợp tác khoa học kỹ thuật giữa nước Việt Nam Dân chủ cộng
hòa và Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô-viết năm 1959, Báo Nhân
dân, năm 1960, Trung tâm Lưu trữ quốc gia III;
131. Hiệp định về hợp tác khoa học kỹ thuật giữa nước Việt Nam Dân chủ cộng
hòa và Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô-viết năm 1974, Báo Nhân
dân, năm 1974, Trung tâm Lưu trữ quốc gia III;
132. Kế hoạch hợp tác văn hóa và khoa học kỹ thuật giữa Chính phủ Việt Nam
Dân chủ cộng hòa và Chính phủ Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô-
viết năm 1976, Báo Nhân dân, số 2, năm 1976, Trung tâm Lưu trữ quốc gia
III,
133. Đinh Xuân Lý (2013), Đối ngoại Việt Nam qua các thời kì lịch sử (1945-
2012), Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội;
134. Nguyễn Ngọc Mao, Vũ Thị Hồng Chuyên (2005), Nhìn lại quan hệ Xô –
107
Việt thời kì 1945-1975, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 1;
135. Ngoại giao Việt Nam 1945-2000, (2015), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia,
Hà Nội;
136. Vũ Dương Ninh (2015), Lịch sử quan hệ đối ngoại Việt Nam (1940-2010),
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội;
137. Vũ Thị Phụng (2009), Khai thác và phát huy giá trị tài liệu lưu trữ phục vụ
sự nghiệp bảo vệ tổ quốc, Tạp chí Văn thư Lưu trữ Việt Nam, số 1, tr. 14–
16;
138. Nguyễn Lan Phương (2008), Công bố tài liệu tại Trung tâm Lưu trữ quốc
gia III – Đánh giá kết quả và kiến nghị, Luận văn thạc sĩ khoa học chuyên
ngành Lưu trữ học và Tư liệu Khoa Lưu trữ học và Quản trị văn phòng;
139. Nguyễn Minh San (2006), Bách khoa thư giáo dục và đào tạo Việt Nam,
Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội;
140. Lê Văn Thịnh (1999), Quan hệ giữa cách mạng Việt Nam và Liên Xô trong
giai đoạn 1930-1945, Luận án tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử, tư liệu Khoa
Lịch sử;
141. Nguyễn Thị Trâm (2011), Hành trình tìm lại những cán bộ đầu tiên đi học ở
Liên Xô, Website Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam,
http://cpd.vn;
142. Trần Thị Minh Tuyết (2015), Quan hệ Việt Nam – Liên Xô giai đoạn 1945-
1991, Website Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, http://vssr.vass.gov.vn;
143. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III (2010), Các cuộc trưng bày triển lãm của
Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III 1995-2010, Nhà Xuất bản Lao động, Hà
Nội;
144. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III (2011), Hợp tác Việt Nam và Liên bang Nga
trong lĩnh vực đào tạo qua triển lãm tài liệu lưu trữ, Nhà Xuất bản Chính trị
Quốc gia;
145. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (2007), Kỷ yếu Hội thảo
khoa học “Quan hệ Việt Nga: Quá khứ và hiện tại”;
146. Việt Nam Dân quốc Công báo năm 1945;
147. Việt Nam Dân quốc Công báo năm 1948;
108
148. Việt Nam Dân quốc Công báo năm 1949.
BẢNG THỐNG KÊ PHỤ LỤC
109
Trang
Phụ lục 1: Bảng kê hồ sơ, tài liệu lƣu trữ tại TTLTQGIII về quan hệ hợp tác 01-14
Việt Nam – Liên Xô trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991)
Phụ lục 2: Một số tài liệu lƣu trữ về quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên Xô 15-91
trong lĩnh vực đào tạo (1950-1991) đang bảo quản tại TTLTQGIII
1. Nhóm tài liệu văn kiện
Phụ lục 2.1: Kế hoạch hợp tác văn hóa khoa học giữa nước Việt Nam DCCH và 15
Liên bang CHXHCN Xô viết năm 1961.
(Tờ số 02-04, Hồ sơ 7820, Mục lục số 3, Phông Phủ Thủ tướng
Phụ lục 2.2: Hiệp định về việc thiết lập quan hệ hợp tác trực tiếp giữa Nhạc 18
viện TP.Hồ Chí Minh và Nhạc viện Quốc gia Novosibirsk mang tên Glinka, ký
tại TP.Hồ Chí Minh ngày 01/12/1990.
(Tờ số 01-02, Hồ sơ 660, Phông Bộ Văn hóa Thông tin (tài liệu Vụ Hợp tác
quốc tế)
2. Nhóm tài liệu về việc Liên Xô đào tạo cho Việt Nam
Phụ lục 2.3: Công văn số 1110UB/LĐCB ngày 05/7/1957 của Ủy ban Kế 20
hoạch Nhà nước về kế hoạch LHS năm 1957 của Bộ Giáo dục
(Tờ số 112, Hồ sơ 20693, Phông Ủy ban Kế hoạch Nhà nước)
Phụ lục 2.4: Quyết định số 203TT ngày 20/7/1971 của Phủ Thủ tướng về kế hoạch 21
gửi LHS đại học và trên đại học năm học 1971-1972 đi các nước XHCN.
(Tờ số 25-26, Hồ sơ 21291, Mục lục số 3, Phông Phủ Thủ tướng)
Phụ lục 2.5: Báo cáo số 1017/QLHS ngày 27/8/1973 của Bộ Đại học và THCN về 23
tình hình công tác đào tạo ở nước ngoài (đại học và dưới đại học).
(Tờ số 01-21, Hồ sơ 2341, Phông Ủy ban Kế hoạch Nhà nước)
Phụ lục 2.6: Thống kê số LHS ở nước ngoài thuộc khối SEV từ năm 1951- 46
1982 và từ 1973-1982.
(Tờ số 01-04, Hồ sơ 2647, Phông Ủy ban Khoa học Nhà nước)
Phụ lục 2.7: Công văn số 265CV-KGTW ngày 14/11/1983 của Ban Khoa giáo 50
Trung ương về tình hình LHS và công tác LHS Việt Nam ở các nước XHCN
từ năm 1951-1983.
(Tờ số 01-17, Hồ sơ 19430, Mục lục số 3, Phông Phủ Thủ tướng)
110
3. Nhóm tài liệu về việc Việt Nam đào tạo cho Liên Xô
Phụ lục 2.8: Công văn số 2811Đ/N ngày 11/8/1964 của Bộ Giáo dục v/v nhận 80
LHS Liên Xô vào Việt Nam học.
(Tờ số 01-02, Hồ sơ 4309, Phông Bộ Giáo dục)
Phụ lục 2.9: Công văn số 393/GV ngày 28/5/1964 của Trường Đại học Tổng 82
hợp về một số công tác lưu sinh viên vào dịp cuối năm.
(Tờ số 108-112, Hồ sơ 4377, Phông Bộ Giáo dục)
Phụ lục 2.10: Công văn số 06/LHS ngày 07/10/1964 của Ban Lưu học sinh – 87
Trường Đại học Tổng hợp v/v báo cáo nội bộ đầu năm học 1964-1965.
111
(Tờ số 115-119, Hồ sơ 4377, Phông Bộ Giáo dục)