ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ 

ĐẶNG THỊ LY

CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÔNG BỐ THÔNG TIN CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KẾ TOÁN

Mã số: 60 34 03 01

Đà Nẵng – Năm 2018

Công trình được hoàn thành tại

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ, ĐHĐN

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Trần Đình Khôi Nguyên

Phản biện 1: PGS. TS. Đoàn Ngọc Phi Anh

Phản biện 2: TS. Nguyễn Hữu Phú

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận văn tốt nghiệp

thạc sĩ kế toán họp tại Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng vào

ngày 28 tháng 01 năm 2018

Có thể tìm hiểu luận văn tại:

 Trung tâm Thông tin-Học liệu, Đại học Đà Nẵng  Thư viện trường Đại học Kinh tế, ĐHĐN

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) đóng vai trò quan trọng và là

nòng cốt của nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, trong khu vực DNNN

lại diễn ra tình trạng thiếu minh bạch trong việc công bố thông tin

(CBTT). Do đó, dẫn đến hoạt động của các DNNN trong thời gian

qua còn tồn tại khá nhiều vấn đề bất cập, xuất hiện hàng loạt những

sai phạm tại nhiều Tổng công ty, Tập đoàn kinh tế như: Tổng công ty

Đường sắt Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản

Việt nam, Vinashin …. Nguyên nhân của sự không minh bạch trong

việc CBTT cơ bản là do khung pháp lý về CBTT của DNNN chưa

thực sự đồng bộ. Các yêu cầu CBTT về hoạt động SXKD của DNNN

chưa tạo thành một khuôn khổ thống nhất. Đồng thời, trách nhiệm,

trình tự, thủ tục CBTT của DN và các bên liên quan cũng chưa được

quy định đầy đủ, thống nhất. Vì vậy, để bảo đảm yêu cầu công khai,

minh bạch về hoạt động, bảo đảm tính hiệu quả, hiệu lực trong hoạt

động quản lý và giám sát của cơ quan Nhà nước và của xã hội đối

với DNNN, ngày 18/6/2014 Thủ tướng Chính phủ đã ban

hành Quyết định số 36/2014/QĐ-TTg về quy chế CBTT của công ty

TNHH MTV do Nhà nước làm chủ sở hữu. Tuy nhiên, tính đến thời

điểm tháng 10/2015 (hơn 1 năm sau khi Quyết định số 36/2014/QĐ-

TTg được ban hành), thì chỉ mới có 82/478 DN cung cấp thông tin,

chiếm tỷ lệ khoảng 16,8% và chưa có DN nào thực hiện công bố đầy

đủ các nội dung theo đúng quy định, nội dung thông tin công bố còn

sơ sài, chưa đầy đủ; quy trình công bố cũng chưa được đảm bảo theo

quy định. Để khắc phục tình trạng trên, đồng thời nhằm hướng dẫn

2

các nội dung CBTT của DNNN, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ban

hành Nghị định số 81/2015/NĐ-CP vào ngày 18/9/2015. Song đến

31/12/2016, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết mới nhận được báo cáo

của 241 DN, chiếm tỷ lệ 38,87% Ngoài ra, không ít DNNN công bố

không đúng thời gian và thiếu thông tin theo quy định.

Về phía các cá nhân, tổ chức cũng như người dân thì họ luôn có

nhu cầu được biết đầy đủ các thông tin để giám sát tình hình hoạt

động của DNNN. Bởi lẽ họ có thể được xem như là những người có

quyền lợi gián tiếp ở các DNNN khi đã thực hiện nghĩa vụ công dân

vào ngân sách Nhà Nước thông qua các khoản thuế, phục vụ cho

hoạt động của Nhà nước và trong đó có cả việc đầu tư cho DNNN.

Trong khi phần lớn các DN này lại lơ là trong việc cung cấp thông

tin của mình. Câu hỏi đặt ra là mức độ CBTT của các DNNN hiện

nay như thế nào? Đâu là những yếu tố ảnh hưởng đến CBTT của

DNNN 2 năm sau khi Nghị định 81/2015/NĐ-CP được áp dụng.

Xuất phát từ thực tiễn và vấn đề nêu trên, đề tài “Các nhân tố ảnh

hưởng đến công bố thông tin của doanh nghiệp Nhà nước ở Việt

Nam” được lựa chọn để nghiên cứu.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Luận văn sẽ tập trung vào các mục tiêu sau:

 Đánh giá mức độ CBTT của các DNNN ở Việt Nam.

 Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT của DNNN ở

Việt Nam.

 Đề xuất một số hàm ý chính sách nhằm đẩy mạnh CBTT của

DNNN ở Việt Nam.

3

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

 Đối tượng nghiên cứu: việc CBTT của các DNNN ở Việt Nam

thông qua các báo cáo và bảng kế hoạch của các DN này.

 Phạm vi nghiên cứu: Các DNNN trong nghiên cứu này là các DN

Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ. Các công ty cổ phần có tỷ lệ

sở hữu Nhà nước không thuộc phạm vi của nghiên cứu này.

Ngoài ra, nghiên cứu được tiến hành chỉ trong năm 2016, do năm

2015 NĐ 81/2015 mới đi vào thực hiện nên việc CBTT ở giai

đoạn đầu quá ít.

4. Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu dựa trên nguồn dữ liệu thứ cấp là các báo cáo và các

bảng kế hoạch năm 2016 của 90 DNNN được công bố trên cổng

thông tin DN của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Thông qua việc xây dựng

các chỉ mục CBTT từ các báo cáo và các bảng kế hoạch trên, tiến

hành tính chỉ số CBTT. Phương pháp phân tích hồi quy bội được sử

dụng để xác định các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT của các

DNNN tại Việt Nam.

5. Bố cục đề tài

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia thành 4

chương:

Mở đầu

Chương 1: Cơ sở lý luận chung về các nhân tố ảnh hưởng đến công

bố thông tin của doanh nghiệp

Chương 2: Thiết kế nghiên cứu

Chương 3: Phân tích kết quả nghiên cứu

Chương 4: Hàm ý chính sách

4

Kết luận

6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu

Các nghiên cứu trong nước

Vấn đề CBTT nói chung trong DN luôn nhận được sự quan tâm

từ nhiều đối tượng khác nhau. Vì thế không ít các nghiên cứu đã

được thực hiện. Các nghiên cứu này được thực hiện ở các DN trong

các ngành khác nhau. Tuy nhiên cách thức và phương pháp thực hiện

tương tự nhau từ khâu thu thập, xử lý số liệu đến phân tích kết quả.

Kết quả của các nghiên cứu cũng có sự tương đồng nhau về nhân tố

tác động đến CBTT. Cụ thể, trong nghiên cứu của Phạm Thị Thu

Đông về “Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố

thông tin trong báo cáo tài chính của các doanh nghiệp niêm yết trên

sở giao dịch chứng khoán Hà Nội”. Kết quả cho thấy các nhân tố ảnh

hưởng đến mức độ CBTT gồm: khả năng sinh lời và tài sản cố định.

Còn trong nghiên cứu của Huỳnh Thị Vân “Nghiên cứu mức độ công

bố thông tin kế toán của các doanh nghiệp ngành xây dựng yết giá tại

sở giao dịch chứng khoán Hà Nội”, chỉ có nhân tố quy mô DN có

ảnh hưởng đến mức độ CBTT. Trong đề tài “Nghiên cứu các nhân tố

ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin trong báo cáo tài chính của

các doanh nghiệp thuộc nhóm ngành vận tải niêm yết trên thị trường

chứng khoán Việt Nam” của Phan Tôn Nữ Nguyên Hồng, kết quả

cho thấy các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT bao gồm: quy mô

DN, khả năng thanh toán, chủ thể kiểm toán. Một nghiên cứu khác

thực hiện trong ngành lương thực thực phẩm của Nguyễn Thị Thủy

Hưởng “Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố

thông tin trong báo cáo tài chính của các doanh nghiệp chế biến

5

lương thực thực phẩm niêm yết tại sở giao dịch chứng khoán thành

phố Hồ Chí Minh”, kết quả cho thấy chỉ có nhân tố khả năng thanh

toán tác động đến mức độ CBTT của DN. Thực hiện trong phạm vi

rộng hơn, Nguyễn Thị Thu Hảo đã nghiên cứu “Các nhân tố ảnh

hưởng đến mức độ công bố thông tin tự nguyện của các doanh

nghiệp niêm yết trên HOSE”. Kết quả phân tích cho thấy 3 nhân tố:

quy mô, loại hình sở hữu có yếu tố nước ngoài, và lợi nhuận có ảnh

hưởng đến mức độ CBTT tự nguyện của các DN niêm yết trên

HOSE.

Các nghiên cứu nước ngoài

Trên thế giới cũng đã có nhiều nghiên cứu về CBTT được thực

hiện với các mục tiêu khác nhau nhưng đa số đều xoay quanh vấn đề

chất lượng thông tin công bố, sử dụng thông tin và các nhân tố ảnh

hưởng đến CBTT. Liên quan đến chất lượng và sử dụng thông tin

công bố thì có nghiên cứu của Byard về “Chất lượng công bố thông

tin doanh nghiệp và tính chất của môi trường thông tin trong phân

tích”. Bài báo xem xét các mối quan hệ giữa chất lượng thông tin mà

DN công bố và tính chính xác của thông tin từ các nhà phân tích để

hiểu rõ hơn cách mà các nhà phân tích sử dụng thông tin công bố

trong dự báo thu nhập. Kết quả cho thấy rằng chất lượng thông tin

công bố cao sẽ làm tăng độ chính xác của thông tin từ các nhà phân

tích. Ngoài ra, các nhà phân tích dựa nhiều vào dữ liệu tài chính

được công bố sẵn hơn là lấy thông tin từ việc trao đổi với quản lý để

đưa ra dự báo lợi nhuận hàng năm.

Các nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến CBTT tự nguyện

thì có nghiên cứu của Ismail “Điều tra thực nghiệm về các yếu tố ảnh

6

hưởng đến công bố thông tin tài chính tự nguyện trên Internet tại các

nước thuộc Hội đồng hợp tác vùng vịnh (GCC)”. Kết quả cho thấy

việc CBTT tài chính của DN trên internet không chỉ phụ thuộc vào

đặc điểm mà còn phụ thuộc vào ảnh hưởng của sự tương tác giữa đặc

điểm của DN (quy mô, đòn bẩy và lợi nhuận), ngành công nghiệp và

quốc gia. Mở rộng đối tượng nghiên cứu sang các công ty đa quốc

gia ở Mỹ, Anh và châu Âu, Meek thực hiện đề tài “Các nhân tố ảnh

hưởng đến công bố thông tin tự nguyện trên báo cáo hàng năm của

các công ty đa quốc gia ở Mỹ, Anh và châu Âu”. Kết quả chung cho

thấy các công ty đa quốc gia ở châu Âu công bố nhiều thông tin tự

nguyện hơn các công ty đa quốc gia ở Mỹ và Anh. Việc CBTT tự

nguyện tùy vào loại thông tin. Các công ty đa quốc gia nằm ở vùng

châu Âu và Anh công bố nhiều thông tin tự nguyện phi tài chính hơn

ở Mỹ. Các nhóm ngành: dầu, hóa chất và khai thác mỏ công bố nhiều

thông tin hơn các ngành khác. Các công ty có quy mô càng lớn thì có

xu hướng công bố nhiều thông tin tài chính và phi tài chính hơn.

Ngoài ra, các công ty đa quốc gia nằm ở Anh sẽ cung cấp nhiều

thông tin tài chính hơn. Các công ty niêm yết quốc tế sẽ cung cấp

nhiều thông tin tài chính hơn là chỉ niêm yết trong nước. Chuyển đối

tượng nghiên cứu sang nước đang phát triển, Barako đã thực hiện

nghiên cứu “Các nhân tố ảnh hưởng đến công bố thông tin tự nguyện

của các công ty ở Kenyan”. Kết quả cho thấy mức độ công bố tự

nguyện bị ảnh hưởng bởi: quản trị DN, cấu trúc quyền sở hữu và đặc

điểm của công ty. Ủy ban kiểm toán là yếu tố quan trọng tác động

đến mức độ CBTT tự nguyện, và tỷ lệ các thành viên không điều

hành trong hội đồng quản trị được coi là có tác động tương quan

7

nghịch đến mức độ CBTT tự nguyện. Nghiên cứu cũng cho thấy mức

độ sở hữu là các tổ chức và sở hữu nước ngoài có tác động tích cực

đáng kể đến việc CBTT tự nguyện. Các công ty lớn và các công ty

có đòn bẩy tài chính cao thì mức độ CBTT tự nguyện cao hơn.

CBTT trách nhiệm xã hội có liên quan đến yếu tố sở hữu của

Chính phủ thì có nghiên cứu của Mohd Ghazali về “Cơ cấu sở hữu

và công bố trách nhiệm xã hội của công ty: một số bằng chứng ở

Malaysia”. Kết quả cho thấy hai biến số: sở hữu của giám đốc điều

hành và sở hữu của chính phủ (là các cổ đông lớn), là những thuộc

tính kinh doanh chung của Malaysia, có ảnh hưởng đáng kể đến việc

CBTT trách nhiệm xã hội trong các báo cáo hàng năm. Những kết

quả này làm nổi bật rằng việc phân loại các quyền sở hữu khác nhau

rất quan trọng trong việc xác định tác động của cơ cấu quyền sở hữu

đối với CBTT trách nhiệm xã hội. Cũng liên quan đến sở hữu của

Chính phủ (Nhà nước) thì Eng đã thực hiện nghiên cứu “Quản trị

doanh nghiệp và mức độ công bố thông tin”. Trong đó tác giả có

xem xét đến yếu tố sở hữu Nhà nước (các công ty có sở hữu Nhà

nước từ 20% trở lên). Kết quả cho thấy rằng sở hữu quản lý thấp và

quyền sở hữu Nhà nước có ý nghĩa quan trọng trong việc tăng mức

độ CBTT tự nguyện. Sự gia tăng các giám đốc bên ngoài làm giảm

việc CBTT tự nguyện. Các DN lớn CBTT càng nhiều, trong khi đó

những công ty có nợ thấp thì CBTT nhiều hơn.

Có khá nhiều nghiên cứu về CBTT trong nước cũng như trên thế

giới. Tuy nhiên các nghiên cứu này chủ yếu tập trung vào đối tượng

là các DN thuộc các loại hình: công ty đa quốc gia, công ty cổ phần,

tập đoàn niêm yết trên thị trường chứng khoán. Cho đến nay có ít

8

nghiên cứu thực hiện trên đối tượng là DNNN (DN có 100% sở hữu

của Nhà nước). Tại Việt Nam, hiện nay vẫn chưa có nghiên cứu nào

đánh giá về mức độ CBTT của DNNN cũng như tìm hiểu các nhân tố

ảnh hưởng đến CBTT của DN này.

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG

ĐẾN CÔNG BỐ THÔNG TIN CỦA DOANH NGHIỆP

1.1. KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI VÀ VAI TRÒ CỦA CÔNG BỐ

THÔNG TIN

1.1.1 Khái Niệm

CBTT là việc cung cấp các loại thông tin liên quan đến hoạt động

của DN cho các đối tượng bên trong và bên ngoài đơn vị thông qua

các phương tiện thông tin đại chúng.

1.1.2 Phân Loại

a. Phân loại theo thời điểm công bố

- Công bố định kỳ

- Công bố bất thường

- Công bố theo yêu cầu

b. Phân loại theo tính chất bắt buộc hay tự nguyện

- Công bố bắt buộc

- Công bố tự nguyện

c. Phân loại theo tính chất của thông tin

- Thông tin tài chính

- Thông tin phi tài chính

1.1.3 Vai trò của công bố thông tin

9

Chất lượng CBTT của công ty trong báo cáo thường niên có ảnh

hưởng đáng kể đến phạm vi và chất lượng các quyết định của nhà

đầu tư. Ngoài ra, CBTT còn là một công cụ chiến lược, làm tăng khả

năng huy động vốn của công ty với chi phí thấp nhất có thể. Các

công ty cải thiện việc CBTT của họ thì kết quả sẽ làm tăng lợi nhuận

chứng khoán, quyền sở hữu của tổ chức và khả năng phân tích.

Healy đã đưa ra 3 hiệu quả kinh tế của CBTT, bao gồm: cải thiện

giá chứng khoán; Giảm chi phí vốn; Và gia tăng trung gian thông tin.

1.2 ĐO LƯỜNG CÔNG BỐ THÔNG TIN

1.2.1 Đo lường không trọng số

1.2.2 Đo lường có trọng số

1.3 CÁC LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG BỐ THÔNG

TIN VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG

1.3.1 Các lý thuyết liên quan đến công bố thông tin

a. Lý thuyết đại diện (Agency theory)

b. Lý thuyết tín hiệu (Signaling theory)

c. Lý thuyết chi phí chính trị (Political costs theory)

d. Lý thuyết chi phí sở hữu (Proprietary cost theory)

1.3.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến công bố thông tin

a. Quy mô doanh nghiệp

b. Thời gian hoạt động

c. Lĩnh vực (ngành) hoạt động

d. Đòn bẩy tài chính

e. Khả năng sinh lời

f. Khả năng thanh toán

g. Chủ thể kiểm toán

10

h. Cấu trúc sở hữu

 Sở hữu của nhà quản lý

 Sở hữu của cổ đông có ảnh hưởng đáng kể

(Blockholder ownership)

 Sở hữu của cổ đông nước ngoài

 Sở hữu Nhà nước/Chính phủ

i. Tình trạng niêm yết

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Trong chương 1, luận văn đã hệ thống hóa được các vấn đề cơ

bản chung về CBTT và các nhân tố ảnh hưởng đến CBTT. Trong đó,

luận văn đã đưa ra khái niệm, các tiêu thức phân loại và vai trò của

CBTT. Đồng thời khái quát về hai phương pháp đo lường CBTT là

đo lường không trọng số và đo lường có trọng số.

Để làm cơ sở xác định các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT

trong chương sau, chương 1 của luận văn cũng đã tóm tắt các lý

thuyết liên quan đến CBTT và đưa ra một số các nhân tố ảnh hưởng

cũng như kết quả của các nghiên cứu có liên quan trước đó. Ngoài ra,

tác giả cũng làm rõ thêm tác động của yếu tố sở hữu Nhà nước đến

CBTT để bước đầu có cái nhìn rõ hơn về CBTT của DNNN.

Tính đến thời hiện tại thì vẫn chưa có nghiên cứu nào về CBTT

của DNNN được thực hiện tại Việt Nam. Do đó lý thuyết được đưa

ra chủ yếu dựa trên lý thuyết về CBTT của các công ty niêm yết. Tuy

nhiên giữa hai đối tượng này vẫn sự liên hệ với nhau do trong các

công ty niêm yết vẫn có sở hữu Nhà nước chỉ khác nhau về mức độ

sở hữu. Ngoài ra, do quá trình cổ phần hóa nên một lượng lớn các

công ty niêm yết có “xuất thân” từ DNNN nên những đặc điểm cũng

11

như cách thức hoạt động, vận hành cũng có một số điểm giống với

DNNN. Riêng các nhân tố ảnh hưởng đến CBTT đưa vào mô hình

của nghiên cứu này sẽ được xem xét kỹ trong chương 2.

CHƯƠNG 2

THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU

2.1 YÊU CẦU THỰC HIỆN CÔNG BỐ THÔNG TIN CỦA

DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM

Theo điều 4 Nghị định số 81/2015/NĐ-CP về CBTT của DNNN

2.2 MÔ HÌNH VÀ GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU

Quy mô DN

Thời gian hoạt động

Lĩnh vực hoạt động

Khả năng thanh toán Mức độ CBTT

Khả năng sinh lời

Đòn bẩy tài chính

Loại DNNN

Chủ thể kiểm toán

Hình 2.1: Mô hình nghiên cứu

Các giả thuyết của nghiên cứu được xây dựng như sau:

H1: Quy mô DNNN càng lớn thì mức độ CBTT càng nhiều.

12

H2: Thời gian hoạt động càng lâu thì mức độ CBTT càng cao.

H3: Các DNNN hoạt động trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp

công bố nhiều thông tin hơn các DNNN hoạt động trong các lĩnh vực

khác.

H4: Khả năng thanh toán càng cao, DN CBTT càng nhiều.

H5: Khả năng sinh lời càng cao thì DN CBTT càng nhiều.

H6: Đòn bẩy tài chính càng cao thì DN CBTT càng nhiều.

H7: DNNN thuộc Bộ Ngành CBTT nhiều hơn so với DNNN địa

phương

H8: DNNN là Tập đoàn kinh tế CBTT nhiều hơn so với DNNN

địa phương

H9: Các DNNN được kiểm toán bởi Big4 CBTT nhiều hơn so với

các DNNN khác

2.3 THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU VỀ MỨC ĐỘ CÔNG BỐ

THÔNG TIN

2.3.1 Đo lường mức độ công bố thông tin của DNNN

Các mục thông tin được lựa chọn để đánh giá là các yêu cầu chi

tiết của 10 loại thông tin cần báo cáo trong Nghị định số

81/2015/NĐ-CP về CBTT đối với DNNN, theo đó có 108 chỉ mục

thông tin.

Việc đo lường mức độ CBTT của DNNN thực hiện theo 2 bước

sau:

Bước 1: Xây dựng các chỉ mục thông tin cần công bố.

Bước 2: Cho điểm các mục thông tin đã thiết lập và tính chỉ số

CBTT

13

2.3.2 Đo lường các biến độc lập

Việc đo lường các biến độc lập được thực hiện như sau:

Bảng 2.2: Bảng tóm tắt đo lường các biến độc lập

Tên biến Đo lường biến

Quy mô DN Logarit cơ số 10 của tổng tài sản

Thời gian hoạt động Số năm hoạt động tính từ năm thành lập

Biến giả (0: không thuộc lĩnh vực sản xuất Lĩnh vực (ngành) công nghiệp; 1: thuộc lĩnh vực sản xuất hoạt động công nghiệp)

Khả năng thanh toán Tài sản ngắn hạn/Nợ ngắn hạn

Khả năng sinh lời Lợi nhuận sau thuế/Tổng vốn chủ sở hữu

Đòn bẩy tài chính Nợ phải trả/Tổng vốn chủ sở hữu

Biến giả: D1(1 - DNNN thuộc Bộ Ngành; 0

- DNNN không thuộc Bộ Ngành); D2 (1 - Loại DNNN DNNN là Tập đoàn kinh tế; 0 - DNNN

không phải là Tập đoàn kinh tế)

Biến giả (1 - được kiểm toán bởi Big 4; 0 - Chủ thể kiểm toán không được kiểm toán bởi Big4)

2.4 CHỌN MẪU NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP PHÂN

TÍCH

2.4.1. Chọn mẫu nghiên cứu

Tổng thể nghiên cứu là 620 DNNN. Tiêu chí được đưa ra để chọn

mẫu nghiên cứu là DNNN phải có công bố BCTC năm 2016 đã được

kiểm toán. Theo đó có 90 DNNN thỏa điều kiện trên.

14

2.4.2. Phương pháp phân tích

Nghiên cứu sử dụng phương pháp thống kê mô tả, kết hợp với

phân tích so sánh để làm rõ thực trạng cũng như những đặc trưng về

CBTT của các DNNN ở Việt Nam. Ngoài ra, phương pháp phân tích

hồi quy cũng được sử dụng để xem xét sự ảnh hưởng của các nhân tố

đến mức độ CBTT.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Phần đầu của chương 2 đã nêu ra các yêu cầu thực hiện CBTT

của DNNN dựa vào Nghị định số 81/2015/NĐ-CP.

Trên cơ sở các lý thuyết có liên quan, đặc điểm của DNNN và các

nhân tố ảnh hưởng đến CBTT trong các nghiên cứu trước đã đề cập ở

chương 1, tác giả đã đưa ra mô hình nghiên cứu gồm có 8 nhân tố

với 9 biến độc lập bao gồm: quy mô DN, thời gian hoạt động, lĩnh

vực hoạt động, đòn bẩy tài chính, khả năng sinh lời, khả năng thanh

toán, chủ thể kiểm toán và loại DNNN (D1 và D2), cùng với 1 biến

phụ thuộc là mức độ CBTT. Đồng thời luận văn cũng xây dựng và

đưa ra các giả thuyết của nghiên cứu. Ngoài ra, chương 2 cũng đề

cập đến việc chọn mẫu, đo lường các biến độc lập, cách đo lường và

tính chỉ số CBTT cho DNNN. Kết thúc chương 2, tác giả đưa ra

phương pháp phân tích làm cơ sở cho chương 3.

Chương 3 sẽ đánh giá mức độ CBTT của DNNN và trình bày kết

quả kiểm định phân tích nhân tố nhằm xác định nhân tố nào ảnh

hưởng đến mức độ CBTT của DNNN ở Việt Nam.

15

CHƯƠNG 3

PHÂN TÍCH KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1 ĐÁNH GIÁ CHỈ SỐ CÔNG BỐ THÔNG TIN CỦA DOANH

NGHIỆP NHÀ NƯỚC

3.1.1 Thống kê mô tả chỉ số công bố thông tin

a. Chỉ số công bố thông tin chung

Kết quả thống kê cho thấy chỉ số CBTT trung bình của các

DNNN đạt 36,94% và còn một tỷ lệ lớn (63,06%) các thông tin chưa

được các DN này công bố. Trong đó, giá trị lớn nhất của chỉ số

CBTT là 80,72% và giá trị nhỏ nhất là 5%.

Trong 90 DNNN của mẫu nghiên cứu thì có 11 DN là Tập đoàn

kinh tế, 19 DN thuộc các Bộ Ngành và 60 DN là DNNN địa phương.

Đối với DNNN là Tập đoàn kinh tế thì mức độ CBTT trung bình ở

mức 43,56%. Mức độ CBTT của các DN thuộc Bộ Ngành xấp xỉ

mức độ công bố của các DNNN là Tập đoàn kinh tế với mức trung

bình là 43,73%.

Để xác định xem liệu có sự khác biệt về mức độ CBTT giữa các

nhóm đối tượng DNNN hay không, thì phân tích phương sai một yếu

tố One-Way Anova được sử dụng. Kết quả cho thấy rằng nếu độ tin

cậy của phép kiểm định là 95% thì có thể kết luận rằng không có sự

khác biệt có ý nghĩa thống kê về mức độ CBTT giữa các DNNN là

Tập đoàn kinh tế, DNNN thuộc Bộ Ngành và DNNN địa phương.

Còn nếu độ tin cậy của phép kiểm định là 90% thì mức độ CBTT của

DNNN thuộc Bộ Ngành cao hơn mức độ CBTT của DNNN địa

phương.

16

b. Chỉ số công bố thông tin của các nhóm thông tin riêng

Nhìn chung đa số các nhóm thông tin riêng được DN công bố ở

mức rất thấp. Cụ thể, nhóm thông tin về chiến lược phát triển của DN

có giá trị CBTT trung bình thấp nhất với mức độ là 7,56%, cao nhất

là thông tin BCTC với 79,88%, Thông tin về Báo cáo kết quả thực

hiện các nhiệm vụ công ích và trách nhiệm xã hội công bố ở mức

trung bình là 64,57%. Các nhóm thông tin còn lại đều dưới 50%.

3.1.2 Đánh giá mức độ công bố thông tin

Kết quả về chỉ số CBTT cho thấy rằng mức độ CBTT trung bình

của các DNNN là rất thấp, chỉ ở mức là 36,94%.

Trong 9 loại thông tin bắt buộc cần công bố theo định kỳ thì chỉ

có thông tin về BCTC 6 tháng và BCTC năm được công bố ở mức

tương đối (79,88%), 8 loại thông tin còn lại đều được công bố ở mức

rất thấp. Mặc dù giá trị CBTT trung bình của DNNN là Tập đoàn

kinh tế và DNNN thuộc Bộ Ngành có phần cao hơn so với DNNN

địa phương nhưng mức độ công bố của 3 đối tượng này đều thấp.

Việc CBTT của các DNNN còn rất sơ sài và mang tính đối phó,

chậm trễ so với thời gian quy định. Từ đó, có thể thấy rằng các

DNNN chưa quan tâm đến việc CBTT cũng như chưa chấp hành tốt

các quy định về CBTT đã được Chính phủ ban hành.

3.2 PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN MỨC

ĐỘ CÔNG BỐ THÔNG TIN CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ

NƯỚC

3.2.1 Phân tích thống kê mô tả các biến độc lập

3.2.2 Phân tích liên hệ giữa mức độ công bố thông tin với các

biến đặc trưng của doanh nghiệp

17

Kiểm định Independent Sample T-Test được sử dụng để kiểm tra

xem có sự khác khau về mức độ CBTT giữa các DNNN trong lĩnh

vực sản xuất công nghiệp và trong các lĩnh vực khác; giữa các

DNNN được kiểm toán bởi Big4 và DNNN khác.

Kết quả cho thấy với độ tin cậy 95% thì không có sự khác biệt có

ý nghĩa thống kê về mức độ CBTT của những DNNN trong ngành

sản xuất công nghiệp và trong các ngành khác; và giữa những

DNNN được kiểm toán bởi Big4 với DNNN khác.

3.2.3 Phân tích tương quan giữa các biến trong mô hình

Phân tích tương quan Pearson được thực hiện cho biến phụ thuộc

chỉ số CBTT và 9 biến độc lập: D1, D2, ngành, chủ thể kiểm toán,

quy mô DN, thời gian hoạt động, khả năng thanh toán, khả năng sinh

lời và đòn bẩy tài chính. Kết quả cho thấy sự tương quan giữa các

biến độc lập và biến phụ thuộc ở mức thấp. Trong đó biến D1, D2,

chủ thể kiểm toán, quy mô DN và khả năng sinh lời có liên hệ tương

quan thuận với biến chỉ số CBTT. Các biến ngành, thời gian hoạt

động, khả năng thanh toán và đòn bẩy tài chính có mối liên hệ tương

quan nghịch với chỉ số CBTT.

3.2.4 Kết quả hồi quy và kiểm định mô hình

Phân tích chọn lọc các biến độc lập trong mô hình sẽ được thực

hiện nhằm loại bỏ bớt các biến không có ảnh hưởng đến biến phụ

thuộc. Hồi quy theo phương pháp Enter được thực hiện với biến phụ

thuộc chỉ số CBTT và 9 biến độc lập: D1, D2, ngành, chủ thể kiểm

toán, quy mô DN, thời gian hoạt động, khả năng thanh toán, khả

năng sinh lời và đòn bẩy tài chính. Tiêu chí để giữ lại biến độc lập là

mức ý nghĩa của biến đó phải nhỏ hơn 0,1. Theo đó, các biến độc

18

lập: chủ thể kiểm toán, quy mô DN, thời gian hoạt động, khả năng

sinh lời, đòn bẩy tài chính không có ảnh hưởng đến mức độ CBTT.

Biến ngành và khả năng thanh toán có ảnh hưởng đến CBTT với

mức ý nghĩa 10%, còn hai biến D1 và D2 có ảnh hưởng ở mức ý

nghĩa 5%. Do đó, các biến: D1, D2, ngành và khả năng thanh toán

được chọn để tiến hành các bước phân tích tiếp theo nhằm tìm ra mô

hình tối ưu nhất.

Tiếp theo, phân tích hồi quy bằng phương pháp Backward được

thực hiện với các biến đã được chọn và tìm ra mô hình hồi quy tối ưu

với 3 biến: D1, D2, ngành. Các biến này đều ảnh hưởng đến mức độ

CBTT ở mức ý nghĩa 10%, trong đó biến D1 và D2 ảnh hưởng ở

mức ý nghĩa 5%.

Trong kết quả hồi quy mô hình tối ưu, mức ý nghĩa của kiểm định

F bằng 0,025 (nhỏ hơn 0,05) cho thấy mô hình có ý nghĩa về mặt

thống kê, biến chỉ số CBTT phụ thuộc vào các biến độc lập của mô hình. Giá trị R2 = 10,3% đồng nghĩa với mô hình đã giải thích được 10,3% biến động của chỉ số CBTT là do ảnh hưởng của các biến độc

lập, còn 89,7% là do ảnh hưởng của các yếu tố khác ngoài mô hình.

Mô hình tối ưu không có các hiện tượng: đa cộng tuyến, tự tương

quan và phương sai sai số thay đổi.

3.2.5 Đánh giá và bàn luận kết quả nghiên cứu

Kết quả nghiên cứu cho thấy một số vấn đề sau:

Thứ nhất: Quy mô DN có quan hệ nghịch chiều với mức độ

CBTT nhưng không có ý nghĩa thống kê. Đối chiếu với giả thuyết

H1, chúng ta kết luận giả thuyết này không được ủng hộ. Nói cách

19

khác, việc CBTT ở các DNNN ở Việt Nam trong thời điểm nghiên

cứu không liên quan đến quy mô DN.

Thứ hai: kết quả cũng không ủng hộ giả thuyết DNNN có thời

gian hoạt động càng lâu thì mức độ CBTT càng nhiều. Điều này có

thể giải thích là do các DNNN có đặc thù về sở hữu cũng như các

vấn đề trong công tác quản trị và các quy định về CBTT đối với

DNNN còn khá mới mẻ nên chưa tạo ra được sự khác biệt có ý nghĩa

về mức độ CBTT giữa các công ty có thời gian hoạt động khác nhau.

Thứ ba: Các DNNN hoạt động trong ngành sản xuất công nghiệp

công bố ít thông tin hơn so với các ngành khác. Đối với DN hoạt

động trong ngành sản xuất công nghiệp thì đòi hỏi phải cần nhiều

vốn để đầu tư vào máy móc thiết bị, dây chuyền phục vụ cho sản

xuất, do đó CBTT là phương tiện tốt để các công ty niêm yết thu hút

vốn từ nhà đầu tư. Tuy nhiên trên phương diện là DN 100% vốn của

Nhà nước, thì việc thu hút vốn từ đầu tư bên ngoài không cần thiết

dẫn đến mức độ CBTT của DNNN trong lĩnh vực sản xuất thấp hơn.

Thứ tư: các nhân tố khả năng thanh toán, khả năng sinh lời và đòn

bẩy tài chính đều không có ý nghĩa thống kê trong mô hình nghiên

cứu. Nói cách khác, giả thuyết H4, H5, H6 đều không được ủng hộ.

Ở phương diện quản trị công ty, đây là những tín hiệu không mấy lạc

quan vì tình hình tài chính của một DNNN tốt hay xấu hơn cũng

không có tác động đến việc CBTT. CBTT là cơ chế để giảm thiểu sự

bất cân xứng thông tin, nhưng ở các DNNN tại Việt Nam, đây không

phải là vấn đề được coi trọng.

Thứ năm: Kết quả nghiên cứu ủng hộ các giả thuyết H7 và H8.

Theo đó, các DNNN là Tập đoàn kinh tế và DNNN thuộc Bộ Ngành

20

CBTT nhiều hơn so với DNNN địa phương. Điều này có thể hiểu là

do các DNNN là Tập đoàn kinh tế và DNNN thuộc Bộ ngành thường

là các DN hoạt động trong các lĩnh vực đóng vai trò quan trọng và là

xương sống của nền kinh tế cũng như thiết yếu phục vụ cho đời sống

xã hội, nên đã áp lực về CBTT cho các DN này.

Thứ sáu: nhân tố chủ thể kiểm toán không có ý nghĩa thống kê

trong mô hình, nghĩa là giả thuyết H9 không được chấp nhận. Nói

cách khác, hoạt động kiểm toán đối với các DNNN là bắt buộc

nhưng tác động của nó đối với việc công bố thông tin không được

coi trọng.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Nghiên cứu đã thực hiện xử lý các số liệu về chỉ số CBTT và tiến

hành các bước nghiên cứu định lượng khác. Kết quả cho thấy rằng

mức độ CBTT của các DNNN ở Việt Nam rất thấp, trung bình là

36,94%, chỉ mới cung bố được một phần ba lượng thông tin yêu cầu

theo quy định. Điều đó cũng chứng tỏ rằng các DNNN chưa quan

tâm đến việc CBTT của đơn vị mình, đặc biệt là các thông tin phi tài

chính.

Kết quả phân tích hồi quy cho thấy các DNNN là Tâp đoàn kinh

tế và DNNN thuộc Bộ Ngành công bố nhiều thông tin hơn các

DNNN địa phương. Ngoài ra, các DNNN hoạt động trong ngành sản

xuất công nghiệp công bố ít thông tin hơn các DNNN khác. Các

nhân tố truyền thống như: quy mô DN, thời gian hoạt động, chủ thể

kiểm toán, khả năng thanh toán, khả năng sinh lời và đòn bẩy tài

chính lại không ảnh hưởng đến mức độ CBTT của DNNN.

21

CHƯƠNG 4

HÀM Ý CHÍNH SÁCH

4.1 SỰ CẦN THIẾT PHẢI CÔNG BỐ THÔNG TIN CỦA CÁC

DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM

Việc tăng cường công khai hoá, minh bạch hoá sẽ tạo điều kiện

thuận lợi để các cơ quan quản lý Nhà nước cũng như toàn xã hội

giám sát hoạt động của các DNNN, từ đó tạo sức ép để các DN này

hoạt động hiệu quả hơn. Ngoài ra, thiếu công khai thông tin có thể

dẫn đến những hành vi mờ ám, sai trái, từ đó làm thất thoát vốn của

Nhà nước và đem lại những tác động tiêu cực cho nền kinh tế.

Thúc đẩy các DNNN nghiêm túc tuân thủ các quy định về CBTT,

là một trong các giải pháp góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả

cho tiến tình cổ phần hóa, thu hút được dòng vốn từ nhà đầu tư nước

ngoài tham gia.

4.2 HÀM Ý CHÍNH SÁCH

4.2.1 Chế tài xử phạt nghiêm khắc

4.2.2 Nâng cao ý thức trách của các doanh nghiệp Nhà nước

về công bố thông tin

4.2.3 Tăng cường quản lý việc công bố thông tin của các

doanh nghiệp Nhà nước

4.2.4 Tăng cường công tác quản trị doanh nghiệp

 Tách biệt giữa chủ tịch công ty/Hội đồng thành viên và ban

giám đốc

 Tăng cường vai trò của Ban kiểm soát

4.2.5 Hoàn tất các báo cáo cần công bố

22

4.2.6 Nâng cao vai trò của truyền thông trong việc đẩy mạnh

công bố thông tin của doanh nghiệp Nhà nước

4.3 HẠN CHẾ CỦA ĐỀ TÀI

Đây là nghiên cứu đầu tiên về CBTT của DNNN ở Việt Nam nên

gặp nhiều khó khăn về nguồn tài liệu, trên thế giới cũng có rất ít các

nghiên cứu cũng như tài liệu liên quan đến CBTT của DN có 100%

vốn Nhà nước/Chính phủ, nên trong nghiên cứu này tác giả chủ yếu

dựa trên cơ sở lý thuyết về CBTT của các công ty niêm yết.

Chưa xét đến các yếu tố về quản trị DN, văn hóa, trình độ của nhà

quản trị và của đội ngũ kế toán trong DNNN.

Một hạn chế khác của đề tài là mẫu nghiên cứu. Mặc dù tổng thể

của nghiên cứu là 620 DN, nhưng chỉ có 90 DNNN đáp ứng được

điều kiện chọn mẫu là phải có BCTC năm 2016 được kiểm toán.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 4

Trong chương này, tác giả đã đưa ra một số lý do mà DNNN cần

phải CBTT, đồng thời đề xuất các chính sách cũng như giải pháp

nhằm đẩy mạnh việc CBTT của DNNN ở Việt Nam. Trong đó, cần

chú trọng đến việc áp dụng các chế tài xử phạt nghiêm khắc các DN

không thực hiện nghiêm túc quy định về CBTT, đồng thời phải quy

trách nhiệm cho người đứng đầu cơ quan đại diện chủ sở hữu quản lý

DN đó. Ngoài ra, cần phải hoàn thiện việc lập các loại báo cáo cần

công bố theo quy định, tăng cường việc quản lý CBTT, nâng cao vai

trò của truyền thông để tạo sức ép, thúc đẩy các DNNN cung cấp

thông tin. Bên cạnh đó, tác giả cũng đưa ra một số hàm ý chính sách

liên quan đến yếu tố quản trị với mong muốn sẽ cải thiện được việc

23

CBTT của các DN này. Cuối cùng, tác giả nêu ra một số hạn chế còn

tồn tại của đề tài để làm định hướng cho các nghiên cứu tiếp theo.

KẾT LUẬN

Qua quá trình tìm hiểu tài liệu, thu thập, xử lý và phân tích số

liệu, luận văn đã hoàn thành được các nội dung liên quan đến đề tài

“Các nhân tố ảnh hưởng đến công bố thông tin của doanh nghiệp

Nhà nước ở Việt Nam” như sau:

 Hệ thống hóa một số lý thuyết liên quan và các nhân tố tác

động đến CBTT nói chung.

 Phân tích và đánh giá thực trạng CBTT của các DNNN ở Việt

Nam.

 Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT của các

DNNN ở Việt Nam.

Đồng thời, nghiên cứu cũng đã thực hiện được các mục tiêu mà

đề tài đặt ra và kết quả cho thấy như sau:

Thứ nhất, các DNNN ở Việt Nam chưa quan tâm đến việc CBTT

của đơn vị mình, đặc biệt là các thông tin phi tài chính. Điều này thể

hiện ở mức độ CBTT rất thấp (36,94%), chỉ mới cung bố được một

phần ba lượng thông tin yêu cầu theo quy định.

Thứ hai, các DNNN là Tâp đoàn kinh tế và DNNN thuộc Bộ

Ngành công bố nhiều thông tin hơn các DNNN địa phương. Ngoài

ra, các DNNN hoạt động trong ngành sản xuất công nghiệp công bố

ít thông tin hơn các DNNN khác. Trong khi đó, các nhân tố như: quy

mô DN, thời gian hoạt động, chủ thể kiểm toán, khả năng thanh toán,

khả năng sinh lời và đòn bẩy tài chính lại không có ý nghĩa thống kê.

24

Trên cơ sở đó, đề tài cũng đưa ra một số hàm ý chính sách nhằm

thúc đẩy việc CBTT của các DNNN ở Việt Nam.

Bên cạnh những kết quả thì đề tài vẫn còn tồn tại những hạn chế

về cơ sở lý thuyết liên quan đến CBTT của DN có 100% vốn Nhà

nước/Chính phủ, mẫu nghiên cứu, và nhân tố đưa vào mô hình

nghiên cứu. Trên cơ sở đó sẽ định hướng cho các nghiên cứu tiếp

theo nhằm để khắc phục những hạn chế trên.