B Ù I T H
Ị
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
BÙI THỊ HƯƠNG LIỄU
H Ư Ơ N G L I Ễ U
KIỂM SÁT ĐIỀU TRA VỤ ÁN TRỘM CẮP TÀI SẢN
L U Ậ T H
TỪ THỰC TIỄN QUẬN PHÚ NHUẬN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ì N H S Ự V À T Ố T Ụ N G H
Ì N H S Ự
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HÀ NỘI, năm 2020
K H Ó A I X Đ Ợ T 2 N Ă M 2 0 1 8
HÀ NỘI - năm
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
BÙI THỊ HƯƠNG LIỄU
KIỂM SÁT ĐIỀU TRA VỤ ÁN TRỘM CẮP TÀI SẢN
TỪ THỰC TIỄN QUẬN PHÚ NHUẬN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. PHẠM MẠNH HÙNG
HÀ NỘI, năm 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Kiểm sát điều tra vụ án trộm cắp tài sản từ
thực tiễn quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh” là công trình nghiên cứu
khoa học của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Phạm Mạnh
Hùng. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn được sử dụng trong luận văn có nguồn
dẫn rõ ràng đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi hoàn toàn chịu
trách nhiệm về kết quả nghiên cứu và tính trung thực của luận văn.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan trên của mình.
Tác giả luận văn
Bùi Thị Hương Liễu
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA
CÁC VỤ ÁN TRỘM CẮP TÀI SẢN ............................................................... 8
1.1. Khái niệm, đặc điểm kiểm sát điều tra các vụ án trộm cắp tài sản .............. 8
1.2. Phân biệt kiểm sát điều tra với thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra các vụ án trộm cắp tài sản ............................................................. 12
1.3. Nội dung kiểm sát điều tra các vụ án trộm cắp tài sản ................................ 16
1.4. Các yếu tố bảo đảm chất lượng kiểm sát điều tra các vụ án trộm cắp tài
sản ........................................................................................................................ 17
Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VÀ THỰC
TRẠNG KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN TRỘM CẮP TÀI SẢN
TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN PHÚ NHUẬN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ... 21
2.1. Quy định của pháp luật hiện hành về kiểm sát điều tra các vụ án trộm
cắp tài sản ............................................................................................................ 21
2.2. Thực trạng kiểm sát điều tra các tội trộm cắp tài sản trên địa bàn quận
Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2015 đến năm 2019 .................... 45
Chương 3. NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN TRỘM CẮP TÀI
SẢN ..................................................................................................................... 68
3.1. Tăng cường giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật .................................. 68
3.2. Nâng cao trình độ, năng lực, ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ,
KSV ..................................................................................................................... 69
3.3. Tăng cường quan hệ phối hợp và ước chế giữa Viện kiểm sát với Cơ
quan điều ra trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự ..................................... 71
3.4. Chú trọng công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của Lãnh đạo VKS và
của VKS cấp trên đối với VKS cấp dưới ............................................................ 73
3.5. Các giải pháp khác ....................................................................................... 75
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS Bộ luật Hình sự
BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự
CQĐT Cơ quan điều tra
Cơ quan CSĐT Cơ quan cảnh sát điều tra
ĐTV Điều tra viên
KSĐT Kiểm sát điều tra
KSV Kiểm sát viên
THTT Tiến hành tố tụng
THQCT Thực hành quyền công tố
TTHS Tố tụng hình sự
VKS Viện kiểm sát
Viện KSND Viện kiểm sát nhân dân
DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ
Biểu đồ 2.1. Tổng số vụ án trộm cắp tài sản khởi tố mới so với tổng số vụ án
hình sự khởi tố trong giai đoạn 2015 - 2019……………………...……..…..47
Biểu đồ 2.2. Tổng số vụ án và bị can phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn
quận Phú Nhuận giai đoạn 2015 – 2019……….………………………….48
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phú Nhuận là quận trung tâm, nội thành của Thành phố Hồ Chí Minh,
tuy diện tích nhỏ nhưng mật độ dân cư cao, các dịch vụ cao cấp như tài chính,
tín dụng, thương mại, du lịch… có xu hướng phát triển mạnh. Đời sống vật
chất, tinh thần của cư dân trên địa bàn quận Phú Nhuận ngày càng được nâng
cao. Bên cạnh những thành tựu đạt được thì mặt trái của nền kinh tế thị
trường, nơi tập trung đông dân cư cũng gây không ít khó khăn trong công tác
quản lý nhà nước về an ninh trật tự - an toàn xã hội, tình hình tội phạm trên
địa bàn diễn biến hết sức phức tạp như: cướp tài sản, cướp giật tài sản, trộm
cắp… có xu hướng ngày càng gia tăng.
Tình hình an ninh trật tự bất ổn kéo theo tỷ lệ tội phạm bị phát hiện,
xử lý ngày càng cao. Để đảm bảo hoạt động điều tra được thực hiện đúng quy
định của pháp luật, Đảng và Nhà nước giao cho Viện kiểm sát nhân dân là cơ
quan thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các hoạt
động tư pháp, trong đó có hoạt động điều tra vụ án hình sự.
Công tác kiểm sát hoạt động điều tra các vụ án hình sự đóng vai trò
hết sức quan trọng trong hoạt động tố tụng hình sự. Công tác KSĐT hiệu quả
góp phần bảo đảm hoạt động điều tra được thực hiện đầy đủ, chính xác, kịp
thời, tội phạm được phát hiện kịp thời, nhanh chóng, đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật, tránh oan sai, bỏ lọt tội phạm.
Trong những năm qua, Viện KSND quận Phú Nhuận đã có nhiều cố
gắng thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao và đã đạt được những thành
tích đáng ghi nhận trong công tác kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung, kiểm
sát hoạt động điều tra nói riêng. Tuy nhiên, so với yêu cầu của cải cách tư
1
pháp trong thời kỳ mới, công tác KSĐT của Viện KSND quận Phú Nhuận còn
có những tồn tại, thiếu sót nhất định và công tác KSĐT các vụ án trộm cắp tài
sản cũng không nằm trực trạng chung đó.
Từ những thực tế nêu trên, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và
thực tiễn trong công tác kiểm sát hoạt động điều tra các vụ án hình sự nói
chung, vụ án trộm cắp tài sản nói riêng trên địa bàn quận Phú Nhuận là hết
sức cần thiết để tìm ra những nguyên nhân, yếu kém tồn đọng. Qua đó, đề
xuất những giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại, yếu kém, nâng cao hơn
nữa chất lượng kiểm sát hoạt động điều tra các vụ án hình sự nói chung, vụ án
trộm cắp tài sản nói riêng của Viện KSND quận Phú Nhuận. Do vậy, tôi đã
lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Kiểm sát điều tra vụ án trộm cắp tài sản từ
thực tiễn quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài luận văn
thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu về KSĐT
vụ án hình sự nói chung được công bố trên các sách báo, trong các luận văn
thạc sỹ, luận văn tiến sỹ, các tạp chí chuyên ngành và các đề tài nghiên cứu
cấp bộ do Viện KSND tối cao thực hiện. Đáng chú ý là các công trình nghiên
cứu đã được công bố như:
Giáo trình luật Tố tụng hình sự của các trường đại học như: Đại học
Luật Hà Nội, Đại học Kiểm sát Hà Nội; Đại học Luật Thành phố Hồ Chí
Minh, Khoa Luật trường đại học Quốc Gia Hà Nội…; Giáo trình đào tạo
nghiệp vụ kiểm sát hình sự dùng cho kiểm sát viên tập 2, 3 của trường Đào
tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát năm 2018; “Sổ tay Kiểm sát viên hình sự”
của Viện KSND tối cao tập I -2006; “Kỹ năng thực hành quyền công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự”, Nxb Đại học Quốc
2
gia Hà Nội năm 2006…
Luận văn thạc sỹ: “Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố
ở giai đoạn điều tra các vụ án hình sự” của tác giả Trần Văn Ngọc; “Gắn công
tố với hoạt động điều tra trong tố tụng hình sự theo tinh thần Nghị quyết Đại
hội Đảng lần thứ X – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Bùi
Mạnh Cường năm 2012….
Đề tài nghiên cứu cấp bộ: “Nâng cao chất lượng kiểm sát hoạt động tư
pháp và thực hành quyền công tố trong công tác kiểm sát hình sự”, năm 2004
của tác giả Ngô Văn Đọn chủ biên; “Nâng cao chất lượng thực hành quyền
công tố và kiểm sát điều tra các vụ án về trật tự xã hội theo yêu cầu cải cách
tư pháp của Việt Nam hiện nay”, năm 2012 của tác giả Vũ Việt Hùng và các
KSV Vụ 1A – Viện KSND tối cao…
Một số bài viết trên các tạp chí chuyên ngành luật như: “Bản chất của
hoạt động điều tra trong tố tụng hình sự” của tác giả Nguyễn Viết Hoạt đăng
trên tạp chí Khoa học pháp luật số 03/2007; “Điểm mới về kiểm sát điều tra
trong BLTTHS năm 2015” của tác giả Trần Thanh Thủy đăng trên tạp chí
Kiểm sát số 16/2016…
Tuy đã có một số công trình nghiên cứu về chức năng KSĐT trong tố
tụng hình sự, song các công trình này chưa đi vào nghiên cứu về kiểm sát hoạt
động điều tra trong từng loại vụ án cụ thể. Việc nghiên cứu làm rõ cơ sở lý
luận để áp dụng quy định của pháp luật về KSĐT trong vụ án trộm cắp tài sản
hiện nay còn rất ít được nghiên cứu. Hiện nay chưa có công trình nào nghiên
cứu về KSĐT các vụ án trộm cắp tài sản từ thực tiễn quận Phú Nhuận, Thành
phố Hồ Chí Minh. Do vậy, việc nghiên cứu, hoàn thiện đề tài “Kiểm sát điều
tra vụ án trộm cắp tài sản từ thực tiễn quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ
Chí Minh” là vấn đề mang tính cấp thiết góp phần hoàn thiện, nâng cao chất
lượng hoạt động KSĐT của VKS trong quá trình KSĐT vụ án hình sự nói
3
chung, các vụ án trộm cắp tài sản nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài phân tích làm sáng tỏ lý luận, cơ sở pháp lý và thực tiễn hoạt
động KSĐT các vụ án trộm cắp tài sản theo pháp luật TTHS Việt Nam từ
thực tiễn quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh, từ đó đề xuất một số giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động KSĐT các
vụ án trộm cắp tài sản trên địa bàn quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh
nói riêng và trên toàn quốc nói chung trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về KSĐT các vụ án
trộm cắp tài sản như: Khái niệm, đặc điểm, mối quan hệ giữa KSĐT và
THQCT, các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động KSĐT…
- Nghiên cứu, phân tích các quy định của pháp luật hình sự, TTHS về
KSĐT nói chung và KSĐT các vụ án trộm cắp tài sản nói riêng.
- Nghiên cứu, khảo sát, đánh giá thực trạng việc thực hiện công tác
KSĐT các vụ án trộm cắp tài sản của Viện KSND quận Phú Nhuận, đồng thời
phân tích làm rõ những tồn tại, hạn chế của công tác này và những nguyên
nhân cơ bản của nó.
- Đề xuất những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động
KSĐT các vụ án trộm cắp tài sản trên địa bàn quận Phú Nhuận.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn đúng là những vấn đề lý luận và
thực tiễn về kiểm sát điều tra vụ án trộm cắp tài sản từ thực tiễn quận Phú
Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh.
Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận cũng như những quy định của
4
pháp luật hình sự và TTHS Việt Nam về hoạt động KSĐT và thực tiễn về
hoạt động KSĐT vụ án trộm cắp tài sản do Cơ quan CSĐT - Công an quận
Phú Nhuận thụ lý; Viện KSND quận Phú Nhuận THQCT và kiểm sát hoạt
động điều tra.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Luận văn nghiên cứu dưới góc độ luật TTHS Việt Nam,
trong đó, tập trung nghiên cứu hoạt động KSĐT các vụ án trộm cắp tài sản
theo pháp luật TTHS Việt Nam.
Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu việc thực hiện các quy
định có liên quan đến hoạt động KSĐT vụ án hình sự nói chung và KSĐT vụ
án trộm cắp tài sản nói riêng từ năm 2015 đến năm 2019.
Về chủ thể, địa bàn: án do Cơ quan CSĐT - Công an quận Phú Nhuận
thụ lý; Viện KSND quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh THQCT và
kiểm sát hoạt động điều tra.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên sự vận dụng phương pháp luận của Chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; các
chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước về cải cách tư pháp và đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học như:
Phương pháp phân tích, tổng hợp; Phương pháp thống kê, so sánh; Phương
pháp tổng kết thực tiễn… trên cơ sở lý luận khoa học TTHS để làm sáng tỏ
nội dung cần nghiên cứu của đề tài.
Cụ thể, tác giả sử dụng những số liệu thống kê, tổng kết hàng năm của
Viện KSND quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh – cơ quan chủ quản
công tác thống kê tội phạm; nghiên cứu các quyết định tố tụng liên quan đến
hoạt động KSĐT vụ án, tổng hợp các tri thức khoa học pháp luật TTHS và
5
các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn. Ngoài ra, tác giả tham
khảo ý kiến của các ĐTV của Cơ quan CSĐT – Công an quận Phú Nhuận
trực tiếp tiến hành các hoạt động điều tra vụ án trộm cắp tài sản cũng như
quan điểm, nhận thức của bản thân tác giả cùng với các ý kiến của KSV trực
tiếp THQCT và kiểm sát hoạt động điều tra các vụ án trộm cắp tài sản của
Viện KSND quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về mặt lý luận
Đây là công trình khoa học được nghiên cứu, phân tích toàn diện và sâu
sắc để làm sáng tỏ về mặt lý luận của hoạt động KSĐT vụ án trộm cắp tài sản
theo luật TTHS Việt Nam.
Luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học có tính hệ thống và
tương đối toàn diện về hoạt động KSĐT vụ án trộm cắp tài sản từ thực tiễn
quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh ở cấp độ luận văn thạc sĩ . Kết quả
nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa nhất định về mặt khoa học góp phần xây
dựng một cách nhìn toàn diện về công tác KSĐT vụ các vụ án trộm cắp tài
sản của VKS, vai trò của công tác này trong công cuộc đấu tranh phòng, ngừa
tội phạm.
- Về mặt thực tiễn
Luận văn đã cố gắng phân tích thực trạng hoạt động KSĐT vụ án trộm
cắp tài sản từ năm 2015 đến năm 2019 do Cơ quan CSĐT- Công an quận Phú
Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh thụ lý, Viện KSND quận Phú Nhuận KSĐT.
Kết quả nghiên cứu của luận văn là tư liệu tham khảo cho VKS và các KSV
nâng cao hiệu quả hoạt đọng KSĐT các vụ án hình sự, trong đó có KSĐT các
vụ án trộm cắp tài sản. Bên cạnh đó, tác giả cũng hy vọng luận văn có thể
được sử dụng là tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu đào tạo, bồi
6
dưỡng của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ về luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, các phụ lục và danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung của luận văn được chia thành 03 chương:
Chương 1. Những vấn đề chung về KSĐT các vụ án về trộm cắp tài
sản
Chương 2. Quy định của pháp luật hiện hành và thực trạng kiểm sát
điều tra các vụ án trộm cắp tài sản trên địa bàn quận Phú Nhuận, Thành phố
Hồ Chí Minh.
Chương 3. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động KSĐT
7
các vụ án trộm cắp tài sản
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN
TRỘM CẮP TÀI SẢN
1.1. Khái niệm, đặc điểm kiểm sát điều tra các vụ án trộm cắp tài
sản
1.1.1. Khái niệm kiểm sát điều tra các vụ án trộm cắp tài sản
Để có thể đưa ra khái niệm về KSĐT các vụ án trộm cắp tài sản, trước
hết, cần thiết phải làm rõ một số khái niệm có liên quan như: “giai đoạn điều
tra vụ án hình sự”, “hoạt động điều tra vụ án hình sự”, “kiểm sát hoạt động tư
pháp”, “kiểm sát hoạt động điều tra”…
Quá trình giải quyết vụ án hình sự nói chung được chia thành nhiều giai
đoạn, mỗi giai đoạn TTHS sẽ có nhiệm vụ giải quyết những yêu cầu khác
nhau và tương ứng với nó là cơ quan THTT có thẩm quyền thực hiện những
nhiệm vụ, quyền hạn nhất định do pháp luật quy định. Giai đoạn điều tra vụ
án hình sự là giai đoạn thứ hai trong quá trình TTHS, được bắt đầu từ khi
khởi tố vụ án hình sự cho đến khi kết thúc điều tra, đề nghị truy tố. Trong
trường hợp vụ án bị đình chỉ, giai đoạn điều tra kết thúc khi cơ quan THTT
ban hành quyết định đình chỉ điều tra.
Giai đoạn điều tra vụ án hình sự có chức năng chứng minh sự kiện
phạm tội và người thực hiện hành vi phạm tội, bên cạnh đó nhằm xác định rõ
những nguyên nhân và điều kiện phạm tội, để kịp thời kiến nghị các cơ quan
và tổ chức hữu quan áp dụng đầy đủ các biện pháp phòng ngừa tội phạm.
Có quan điểm cho rằng, giai đoạn điều tra vụ án hình sự được hiểu là
“một giai đoạn tố tụng hình sự trong đó Cơ quan điều tra sử dụng các biện
pháp do luật tố tụng hình sự quy định để thu thập chứng cứ chứng minh tội
phạm, người phạm tội và những vấn đề khác làm cơ sở cho việc xét xử của
8
Tòa án” [24, tr.09].
Hoạt động điều tra là “tổng hợp tất cả các hành vi, quyết định của
CQĐT, cơ quan được giao một số hoạt động điều tra tiến hành trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự nhằm xác định sự thật của vụ án một cách khách
quan, toàn diện và đúng pháp luật”.
Hoạt động điều tra vụ án hình sự của CQĐT phải chịu sự chế ước và
kiểm sát chặt chẽ của VKS. Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Viện
KSND năm 2014 quy định Viện KSND có chức năng, nhiệm vụ THQCT và
kiểm sát hoạt động tư pháp. Đây là chức năng hiến định của Viện KSND,
thuật ngữ “kiểm sát hoạt động tư pháp” đã xuất hiện trong các văn kiện của
Đảng lần thứ IX và trong các Nghị quyết của Bộ chính trị… tuy nhiên, các
nhà lập pháp nước ta chưa đưa ra được một định nghĩa pháp lý cụ thể về
“kiểm sát hoạt động tư pháp”, dẫn đến nhiều quan điểm, nhận thức khác nhau
về khái niệm này.
Theo tác giả, kiểm sát các hoạt động tư pháp là sự giám sát trực tiếp các
hoạt động cụ thể của các cơ quan tư pháp trong quá trình tiến hành tố tụng với
mục đích là nhằm bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và
thống nhất trong quá trình giải quyết các vụ, việc. Bản chất của chức năng
này trong TTHS là kiểm sát tính có căn cứ và tính hợp pháp trong các quyết
định của các cơ quan có thẩm quyền THTT, và các hành vi của người có thẩm
quyền THTT.
Như vậy, có thể đưa ra khái niệm chung nhất về kiểm sát các hoạt động
tư pháp trong TTHS là: việc giám sát trực tiếp các hoạt động của các cơ quan
tư pháp trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, nhằm bảo đảm cho pháp
luật TTHS được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, thống nhất.
Có thể nói, kiểm sát hoạt động tư pháp trong đó có kiểm sát hoạt động
điều tra vụ án hình sự của VKS thực chất là kiểm sát việc tuân theo pháp luật
9
của CQĐT và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra cùng với hành vi của người tiến hành tố tụng cũng như người
tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Bản chất của chức
năng này là việc kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp của CQĐT khi thực
hiện các hoạt động TTHS trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự nhằm bảo
đảm việc khởi tố, điều tra, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt
tội phạm, không làm oan người vô tội. Như vậy, KSĐT là một trong số các
nhiệm vụ và quyền hạn của VKS được pháp luật quy định khi thực hiện chức
năng kiểm sát hoạt động tư pháp. Hoạt động điều tra của CQĐT, Thủ trưởng,
Phó Thủ trưởng CQĐT, ĐTV là phải chịu sự kiểm sát của VKS.
KSĐT các vụ án hình sự là hoạt động của Viện KSND để kiểm sát tính
hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành các hoạt động điều tra, nhằm bảo đảm các hành vi, quyết
định đó tuân thủ đúng pháp luật và giải quyết đúng đắn vụ án hình sự, chống
oan sai bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự.
Cơ sở để phát sinh hoạt động KSĐT của VKS là các quyết định tố tụng
của CQĐT, Cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra, các hành
vi tố tụng của những người THTT trong giai đoạn điều tra các vụ án trộm cắp
tài sản.
Viện kiểm sát có trách nhiệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật của
CQĐT, cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra, Thủ trưởng,
Phó thủ trưởng CQĐT, các ĐTV và những người tham gia tố tụng. Từ đó
VKS ban hành các văn bản pháp lý thể hiện rõ quyền hạn và trách nhiệm khi
thực hiện chức năng kiểm sát điều tra như kiến nghị, yêu cầu hoặc áp dụng
các biện pháp khác theo quy định của pháp luật để việc điều tra vụ án trộm
cắp tài sản được đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, kịp thời yêu
cầu khắc phục, sửa chữa những hạn chế, thiếu sót, vi phạm trong hoạt động
10
điều tra.
Từ những phân tích trên đây, có thể đưa ra khái niệm KSĐT các vụ án
trộm cắp tài sản như sau: Kiểm sát điều tra vụ án trộm cắp tài sản là hoạt
động của Viện kiểm sát sử dụng các quyền năng pháp lý để kiểm sát việc tuân
theo pháp luật các hoạt động của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao tiến
hành một số hoạt động điều tra, của các cá nhân có liên quan đến quá trình
điều tra vụ án trộm cắp tài sản nhằm bảo đảm cho hoạt động điều tra theo
đúng các quy định của pháp luật.
1.1.2. Đặc điểm kiểm sát điều tra các vụ án trộm cắp tài sản
Thứ nhất, KSĐT tội phạm nói chung và tội trộm cắp tài sản chỉ do
VKS là cơ quan Nhà nước duy nhất thực hiện. Pháp luật chỉ quy định cho
Viện trưởng, Phó Viện trưởng, KSV, Kiểm tra viên có thẩm quyền theo quy
định của BLTTHS là chủ thể tiến hành kiểm sát hoạt động điều tra vụ án hình
sự nói chung, vụ án trộm cắp tài sản nói riêng.
Thứ hai, KSĐT tội phạm nói chung và KSĐT các vụ án trộm cắp tài
sản của VKS phải tuân thủ theo trình tự, thủ tục do pháp luật TTHS quy định.
VKS chỉ được áp dụng các biện pháp được pháp luật quy định và theo chức
năng, quyền hạn được quy định trong giai đoạn điều tra để KSĐT hiệu quả.
Thứ ba, KSĐT tội phạm nói chung và trong KSĐT các vụ án trộm cắp
tài sản của VKS được diễn ra trực tiếp, đồng thời và toàn diện mọi hành vi tố
tụng của CQĐT, cơ quan được giao thực hiện một số hoạt động điều tra và
của người có thẩm quyền THTT cũng như người tham gia tố tụng của giai
đoạn điều tra nhằm mục đích bảo đảm tuân thủ pháp luật trong giai đoạn điều
tra; tạo điều kiện thuận lợi cho giai đoạn truy tố, xét xử vụ án trộm cắp tài
sản.
Thứ tư, hoạt động KSĐT các vụ án trộm cắp tài sản của VKS được tiến
hành từ thời điểm khởi tố vụ án và kết thúc khi vụ án được chuyển sang giai
11
đoạn truy tố hoặc vụ án được đình chỉ điều tra theo quy định của pháp luật
TTHS. Hoạt động KSĐT của Viện KSND được tiến hành công khai theo
đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự cũng như các văn bản hướng
dẫn thực hiện Bộ luật Tố tụng hình sự.
Thứ năm, đối tượng của hoạt động KSĐT các vụ án trộm cắp tài sản
của VKS là các hành vi và quyết định của Cơ quan CSĐT, cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác
có liên quan đến hoạt động điều tra.
Như vậy, KSĐT các vụ án trộm cắp tài sản của Viện kiểm sát là hoạt
động mang tính quyền lực Nhà nước, được Hiến pháp và pháp luật quy định,
được thực hiện bởi Viện kiểm sát nhân dân và do các chủ thể có thẩm quyền
như: Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên hoặc Kiểm tra viên thực
hiện, thông qua những trình tự, thủ tục pháp lý chặt chẽ do pháp luật quy
định, nhằm cá thể hóa những quy phạm pháp luật hình sự vào các trường hợp
vi phạm cụ thể đối với những cá nhân cụ thể nhằm thực hiện đúng chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của VKS.
Khi KSĐT các vụ án hình sự nói chung và các vụ án trộm cắp tài sản
nói riêng, Viện KSND phải trên cơ sở vụ án cụ thể đã xảy ra trong thực tiễn,
lựa chọn quy phạm pháp luật phù hợp cho trường hợp cụ thể của vụ án trộm
cắp tài sản đã xảy ra để áp dụng. Việc KSĐT các vụ án trộm cắp tài sản phải
tuân thủ đúng những quy định của pháp luật, quy chế của ngành kiểm sát về
trình tự, thủ tục khi thực hiện công tác KSĐT đối với loại án này; KSĐT phải
giải quyết và xử lý đúng người có hành vi trộm cắp tài sản một cách nhanh
chóng, kịp thời, chính xác với những chi phí thấp nhất cho Nhà nước và xã
hội, đảm bảo tính răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.
1.2. Phân biệt kiểm sát điều tra với thực hành quyền công tố trong
12
giai đoạn điều tra các vụ án trộm cắp tài sản
Trong hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam, Viện KSND thực hiện hai chức năng cơ bản là THQCT và kiểm sát
hoạt động tư pháp trong đó có KSĐT vụ án hình sự.
Quyền công tố được hiểu là: “quyền nhân danh Nhà nước thực hiện
việc buộc tội”, hay nói cách khác là quyền nhân danh quyền lực công thực
hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội [15, tr.21].
Ở nước ta, chức năng THQCT được giao cho Viện KSND. Điều 3 Luật
Tổ chức Viện KSND 2014 quy định: “Thực hành quyền công tố là hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội
của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự” [16, tr.01]. Căn cứ vào các quy định
của Hiến pháp, BLTTHS, các luật về tổ chức và các văn bản pháp luật có liên
quan cùng khái niệm, phạm vi quyền công tố, thì THQCT được hiểu là “việc
xử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để
thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các
giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử” [15, tr.21].
Trong giai đoạn điều tra các vụ án trộm cắp tài sản, THQCT là việc
Viện KSND sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền
công tố do pháp luật TTHS quy định để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với người phạm tội trộm cắp tài sản trong giai đoạn này.
BLTTHS 2015 và Luật tổ chức Viện KSND năm 2014 quy định cho
Viện KSND THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án trộm cắp tài sản, với
những nội dung cơ bản sau đây: Yêu cầu CQĐT khởi tố hoặc thay đổi quyết
định khởi tố vụ án, quyết định phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định
13
của CQĐT…; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ,
tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình
chỉ điều tra vụ án và bị can…
Căn cứ vào phạm vi quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án trộm
cắp tài sản, thì phạm vi THQCT bắt đầu từ khi khởi tố vụ án đến khi kết thúc
việc điều tra, CQĐT ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc đình chỉ điều
tra.
KSĐT vụ án hình sự là hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của
Viện KSND trong việc điều tra của CQĐT, của các cơ quan khác được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong quá trình điều tra vụ án
hình sự nhằm bảo đảm cho việc điều tra được tiến hành theo đúng các quy
định của pháp luật, qua đó bảo đảm pháp chế XHCN trong TTHS, tôn trọng
và bảo vệ các quyền và tự do của con người, của công dân, góp phần đấu
tranh phòng, chống tội phạm.
Như vậy, KSĐT vụ án hình sự nói chung, vụ án trộm cắp tài sản nói
riêng là những hoạt động do Viện KSND chịu trách nhiệm trực tiếp thực hiện.
Đây là các hoạt động có tính quyền lực Nhà nước nhằm bảo đảm cho pháp
luật được áp dụng nghiêm chỉnh và thống nhất trong quá trình điều tra vụ án.
KSĐT vụ án hình sự, vụ án trộm cắp tài sản là những hoạt động phát
hiện vi phạm và yêu cầu xử lý vi phạm của các cơ quan và người có thẩm
quyền tiến hành các hoạt động điều tra, nhằm đảm bảo cho pháp luật được
chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất trong quá trình điều tra vụ án. Trong
điều tra các vụ án trộm cắp tài sản, Viện KSND tiến hành KSĐT với những
nhiệm vụ cơ bản sau đây: Kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều
tra và việc lập hồ sơ vụ án của CQĐT; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của
người THTT, người tham gia tố tụng; giải quyết các tranh chấp về thẩm
14
quyền điều tra…
Tóm lại, ở giai đoạn điều tra các vụ án trộm cắp tài sản, THQCT và
KSĐT có những điểm khác nhau sau đây:
Về mục đích: THQCT là nhằm chứng minh tội phạm và người phạm
tội, đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện nhanh chóng, xử
lý kịp thời, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Còn mục đích
KSĐT là nhằm phát hiện vi phạm trong hoạt động điều tra, kiến nghị, yêu cầu
khắc phục vi phạm đảm bảo cho các hoạt động điều tra mang tính chính xác,
khách quan, tuân thủ đúng các nguyên tắc, trình tự, thủ tục do pháp luật quy
định.
Về đối tượng tác động: Đối tượng của công tác THQCT là tội phạm
trộm cắp tài sản, còn đối tượng của KSĐT là việc tuân theo pháp luật trong
hoạt động điều tra của CQĐT, người THTT và người tham gia tố tụng hình sự
trong vụ án trộm cắp tài sản;
Về hình thức hoạt động: THQCT được thực hiện thông qua các hình
thức ban hành các quyết định có tính chất mệnh lệnh như quyết định phê
chuẩn, hủy bỏ… còn KSĐT thì ban hành các văn bản có tính chất kiến nghị,
yêu cầu thực hiện.
Về hậu quả pháp lý: khi THQCT ban hành các văn bản pháp lý sẽ dẫn
đến các hậu quả pháp lý như: Truy cứu hoặc không truy cứu trách nhiệm hình
sự… Còn khi tiến hành KSĐT thì các văn bản pháp lý được ban hành sẽ dẫn
đến việc xử lý các vi phạm, thiếu sót trong hoạt động điều tra của CQĐT, cơ
quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra và các cá nhân tiến hành
tố tụng có liên quan.
THQCT trong giai đoạn điều tra và KSĐT có mối quan hệ mật thiết với
nhau, phần lớn đều đan xen, hỗ trợ, tác động qua lại và bổ sung cho nhau.
Mối quan hệ giữa chúng song song cùng tồn tại cho đến khi CQĐT kết thúc
15
điều tra. Chỉ thi thực hiện tốt cả hai chức năng này thì VKS mới có thể đáp
ứng và hoàn thiện tốt yêu cầu nhiệm vụ đặt ra: không để người nào bị bắt, bị
khởi tố, bị tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế quyền công dân, bị xâm hại tính
mạng, sức khỏe, tài sản… một cách trái pháp luật; không để lọt tội phạm,
không làm oan người vô tội, việc truy cứu trách nhiệm hình sự với người
phạm tội phải đúng quy định của pháp luật, có căn cứ rõ ràng, việc điều tra
phải được tiến hành một cách khách quan, toàn diện…
1.3. Nội dung kiểm sát điều tra các vụ án trộm cắp tài sản
Đối tượng của KSĐT các vụ án hình sự chính là các hành vi xử sự của
các cơ quan có thẩm quyền tiến hành hoạt động điều tra, người tham gia tố
tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Khi tiến hành KSĐT thì VKS
phải dựa trên các căn cứ pháp lý để kiểm tra, xem xét bảo đảm sự tuân theo
pháp luật, bảo đảm tính có căn cứ và hợp pháp của các hành vi TTHS mà chủ
thể bị kiểm sát thực hiện.
Hoạt động KSĐT các vụ án trộm cắp tài sản gồm:
Thứ nhất, kiểm tra tính hợp pháp của hành vi, quyết định... của cơ quan
tiến hành điều tra tội trộm cắp tài sản: Kiểm sát việc khởi tố bị can; kiểm sát
các hoạt động điều tra trong vụ án trộm cắp tài sản như kiểm sát khám nghiệm
hiện trường; khám dấu vết phương tiện, kiểm sát hoạt động hỏi cung bị can;
kiểm sát hoạt động lấy lời khai người làm chứng; kiểm sát hoạt động thu giữ,
tạm giữ tài sản, phương tiên, công cụ, của CQĐT...; kiểm sát quyết định đình
chỉ, tạm đình chỉ điều tra tội trộm cắp tài sản của Cơ quan CSĐT; kiểm sát
hoạt động lập hồ sơ vụ án trộm cắp tài sản; kiểm sát việc áp dụng, thay đổi,
hủy bỏ biện pháp ngăn chặn trong vụ án trộm cắp tài sản.
Thứ hai, kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người tiến hành tố tụng
trong điều tra vụ án trộm cắp tài sản: Theo quy định của pháp luật thì, VKS
kiểm sát hoạt động TTHS của người THTT; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ
16
chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người THTT vi phạm pháp
luật. Kiến nghị các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng biện pháp phòng ngừa
tội phạm và vi phạm pháp luật. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong
kiểm sát hoạt động tư pháp theo quy định của BLTTHS. Thực hiện quyền
năng này thể hiện qua việc KSV chủ động yêu cầu ĐTV giải thích và đảm bảo
quyền và nghĩa vụ của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can và những người tham
gia tố tụng khác trong hoạt động điều tra được thực hiện theo quy định của
pháp luật. Việc giải thích quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng phải
được ghi vào biên bản và đưa vào hồ sơ vụ án theo quy định của BLTTHS.
Mọi vi phạm pháp luật liên quan đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của
người tham gia tố tụng phải được phát hiện và khắc phục kịp thời.
Thứ ba, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát điều tra vụ
án trộm cắp tài sản: Đó là các hoạt động như giải quyết việc tranh chấp về
thẩm quyền điều tra; Yêu cầu CQĐT cung cấp tài liệu liên quan để kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố, điều tra khi cần thiết; Kiến nghị,
yêu cầu CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra khắc phục vi phạm trong việc khởi tố, điều tra; Yêu cầu Thủ trưởng
CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thay
đổi ĐTV, cán bộ điều tra; xử lý nghiêm minh ĐTV, cán bộ điều tra vi phạm
pháp luật trong hoạt động tố tụng; Kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp
dụng biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật; Thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn khác trong KSĐT án hình sự theo quy định của BLTTHS.
1.4. Các yếu tố bảo đảm chất lượng kiểm sát điều tra các vụ án
trộm cắp tài sản
Mục đích của KSĐT các vụ án hình sự nói chung, vụ án trộm cắp tài
sản nói riêng là phát hiện vi phạm trong hoạt động điều tra, kiến nghị, yêu cầu
17
khắc phục vi phạm nhằm đảm bảo cho các hoạt động điều tra chính xác,
khách quan và tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc, trình tự, thủ tục theo
đúng quy định của pháp luật.
Để KSĐT vụ án hình sự, vụ án trộm cắp tài sản đảm bảo chất lượng cần
phải chú trọng các yếu tố sau:
Thứ nhất, bảo đảm yêu cầu về tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa
trong công tác KSĐT: pháp chế là tình trạng xã hội khi pháp luật được các cơ
quan nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân tôn trọng và thực hiện
một cách nghiêm chỉnh. Pháp chế bao gồm hệ thống pháp luật và việc thực
hiện pháp luật trong cuộc sống, tăng cường pháp chế là một đòi hỏi khách
quan của quá trình quản lý và lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, đó là nguyên
tắc hiến định ở Việt Nam. Việc KSĐT các vụ án trộm cắp tài sản phải được
thực hiện đúng thẩm quyền, tuân thủ đúng quy định của pháp luật, quy chế
của ngành kiểm sát về trình tự, thủ tục khi thực hiện công tác KSĐT đối với
loại án này.
Thứ hai, yêu cầu đảm bảo nguyên tắc xử lý đúng người, đúng tội: Xử lý
đúng người, đúng hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm cũng như không
làm oan người vô tội là yêu cầu cần thiết của TTHS. Việc thực hiện tốt chức
năng KSĐT có ý nghĩa vô cùng quan trọng, bảo đảm tính hiệu quả của hoạt
động đề ra, giải quyết và xử lý đúng người có hành vi trộm cắp tài sản một
cách nhanh chóng, kịp thời, chính xác với những chi phí thấp nhất cho Nhà
nước và xã hội, đảm bảo tính răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.
Thứ ba, yêu cầu bảo đảm việc bố trí cán bộ: công tác KSĐT là một
trong những khâu công tác trọng tâm, quan trọng của ngành kiểm sát vì công
tác này liên quan trực tiếp đến việc phát hiện, xử lý những vi phạm trong quá
trình điều tra vụ án của CQĐT, của Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT, ĐTV,
người có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra và các cơ quan hữu
18
quan. Vì vậy, khi bố trí cán bộ, KSV thực hiện nhiệm vụ của khâu công tác
này là rất quan trọng, ngoài việc bố trí những cán bộ, KSV có bản lĩnh chính
trị tốt, có đạo đức nghề nghiệp cùng trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, có
năng lực sở trường công tác còn phải đảm bảo tiêu chí có kinh nghiệm thực
tiễn. Người thực hiện quyền năng nhân danh VKS phải đảm bảo và khẳng
định quy phạm pháp luật đã lựa chọn để áp dụng là hoàn toàn đúng và phù
19
hợp mà không thể là quy phạm pháp luật nào khác.
Tiểu kết Chương 1
Trong chương 1 luận văn tác giả đi sâu, phân tích làm rõ những vấn đề
lý luận về KSĐT các vụ án hình sự nói chung, các vụ án trộm cắp tài sản nói
riêng. Về khái niệm, dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật TTHS Việt
Nam, tác giả đưa ra được khái niệm KSĐT vụ án hình sự, KSĐT các vụ án
trộm cắp tài sản. Về đặc điểm tác giả làm rõ các đặc điểm của KSĐT vụ án
hình sự nói chung và nêu ra được các đặc điểm riêng biệt của KSĐT các vụ
án trộm cắp tài sản. Chương 1 luận văn đã làm rõ được nội hàm của KSĐT
các vụ án trộm cắp tài sản bao gồm: Thứ nhất, kiểm tra tính hợp pháp của
hành vi, quyết định... của cơ quan tiến hành điều tra tội trộm cắp tài sản; Thứ
hai, kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng trong trong
điều tra vụ án trộm cắp tài sản; Thứ ba, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác
trong kiểm sát điều tra vụ án trộm cắp tài sản. Bên cạnh đó tác giả còn phân
biệt được chức năng THQCT và KSĐT của Viện KSND trong các vụ án trộm
cắp tài sản. Từ đó, nêu được các yếu tố nhằm bảo đảm chất lượng công tác
20
hoạt động KSĐT vụ án trộm cắp tài sản.
Chương 2 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VÀ THỰC TRẠNG KIỂM
SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN
QUẬN PHÚ NHUẬN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Quy định của pháp luật hiện hành về kiểm sát điều tra các vụ
án trộm cắp tài sản
Trong giai đoạn điều tra vụ án, Viện KSND có nhiệm vụ KSĐT, tức là
kiểm sát việc khởi tố, điều tra, lập hồ sơ của CQĐT và các cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; kiểm sát hoạt động tố tụng của
người THTT, người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến nghị xử lý nghiêm minh
người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật...
Điều 166 BLTTHS năm 2015 quy định 09 nhiệm vụ, quyền hạn của
VKS khi KSĐT vụ án hình sự:
“1. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố, điều tra và lập
hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra.
2. Kiểm sát hoạt động tố tụng hình sự của người tham gia tố tụng; yêu
cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý nghiêm minh
người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật.
....
9. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc kiểm sát điều tra vụ
án hình sự theo quy định của Bộ luật này”.
Để cụ thể hóa các quy định của pháp luật, Viện KSND tối cao đã ban
hành Quy chế về công tác THQCT, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố
21
các vụ án hình sự (kèm theo Quyết định số 111/QĐ-VKSTC ngày 7/4/2020)
trong đó phản ánh rõ nội dung, quy trình, thời gian, đối tượng và các công
việc VKS phải thực hiện.
2.1.1. Quy định về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi
tố vụ án, khởi tố bị can và lập hồ sơ vụ án
Kiểm sát chặt chẽ việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can là bước đầu tiên và
quan trọng nhất của công tác KSĐT vụ án hình sự nói chung, vụ án trộm cắp
tài sản nói riêng. Khởi tố vụ án trộm cắp tài sản là giai đoạn đầu tiên của quá
trình TTHS, sau khi kết thúc việc giải quyết nguồn tin tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố này. Khởi tố bị can là hành vi pháp lý của cơ quan
THTT xác định một người đã thực hiện hành vi phạm tội và cần phải tiến
hành điều tra để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đó.
Để nhằm hạn chế những vi phạm pháp luật của CQĐT trong việc khởi
tố bị can, đảm bảo việc khởi tố có căn cứ, hợp pháp, đúng người, đúng tội thì
tại khoản 1 Điều 166 BLTTHS năm 2015 có quy định cho VKS có chức năng,
nhiệm vụ “Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố, điều tra và
lập hồ sơ vụ án của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra”. Việc khởi tố vụ án hình sự không chỉ bao gồm việc bảo
đảm mọi tội phạm được phát hiện đều bị khởi tố, việc khởi tố vụ án có căn cứ
và đúng quy định của pháp luật, mà còn bao gồm cả việc không khởi tố vụ án
hình sự đúng căn cứ, tránh để lọt tội phạm.
Sau khi vụ án trộm cắp tài sản được khởi tố, VKS phải kiểm tra kỹ
càng và cẩn thận hồ sơ, nghiên cứu, đánh giá các chứng cứ, tài liệu thể hiện ở
biên bản khám nghiệm hiện trường; các bản ghi lời khai của bị can, bị hại,
người làm chứng…; xem xét, đánh giá các tài liệu chứng cứ phản ánh mức độ
thiệt hại... để xác định có hay không có các căn cứ để khởi tố vụ án, khởi tố bị
can về tội trộm cắp tài sản, hành vi có đủ yếu tố cấu thành tội phạm trộm cắp
22
tài sản hay không? tài liệu phục vụ cho việc phê chuẩn đã đủ chưa?…
Việc xem xét, đánh giá này phải dựa trên các tiêu chí về nội dung và
hình thức: phải xem xét Quyết định khởi tố có đúng quy định hay không?
thẩm quyền ký ban hành văn bản, căn cứ ra quyết định khởi tố đúng hay
không? đánh giá toàn diện có hành vi phạm tội trộm cắp tài sản xảy ra không?
VKS phải đánh giá quyết định khởi tố của CQĐT có dựa trên các căn cứ theo
quy định của pháp luật và có đúng với hành vi phạm tội mà bị can đã thực
hiện hay không? v.v.
Khi có vụ việc phạm tội phát sinh thì CQĐT phải thu thập tài liệu theo
quy định và đưa vào hồ sơ vụ án. Kiểm sát việc lập hồ sơ của ĐTV phải được
thiết lập một cách khoa học, toàn diện, chính xác theo tiến độ giải quyết mà
BLTTHS quy định. KSV cần nghiên cứu kỹ cả về hình thức và nội dung ghi
trong các lệnh, quyết định tố tụng ban hành, thẩm quyền ký các lệnh, quyết
định tố tụng đó; Kiểm sát chặt chẽ nội dung các biên bản hỏi cung, lời khai
người làm chứng và bị hại… về tính khách quan khi tiến hành, việc lập các
bản cung, lời khai cũng phải được thực hiện theo mẫu quy định, việc tẩy xóa
trong các biên bản phải được ký xác nhận. Việc kiểm sát chặt chẽ hoạt động
động lập hồ sơ sẽ tránh tình trạng phải trả hồ sơ điều tra bổ sung giữa các cơ
quan tiến hành tố tụng hoặc bị can phản cung…
2.1.2. Quy định về kiểm sát hỏi cung bị can, kiểm sát việc lấy lời khai
người làm chứng, người bị hại và kiểm sát việc đối chất
Kiểm sát việc hỏi cung bị can
Hỏi cung bị can là một trong những biện pháp thu thập chứng cứ của
CQĐT. Bị can là người thực hiện hành vi phạm tội và biết rất rõ về hành vi
phạm tội. Sau khi có quyết định khởi tố bị can, việc hỏi cung bị can phải được
tiến hành ngay. Theo quy định của Ngành kiểm sát trong thời gian gần đây,
Kiểm sát viên bắt buộc phải tham gia hoặc trực tiếp tiến hành hỏi cung bị can
23
trong quá trình thụ lý, kiểm sát việc giải quyết vụ án.
Kiểm sát việc hỏi cung bị can là hoạt động để kiểm sát việc tuân theo
pháp luật của ĐTV trong quá trình hỏi cung bị can nhằm đảm bảo việc hỏi
cung được tiến hành một cách khách quan, toàn diện, đúng pháp luật.
Hỏi cung bị can phải được tiến hành ngay sau khi có quyết định khởi tố
bị can, nếu thấy CQĐT tiến hành hỏi cung bị can trước khi có quyết định khởi
tố thì VKS phải yêu cầu CQĐT hủy bỏ kết quả hỏi cung.
Khi kiểm sát trực tiếp việc hỏi cung bị can trong vụ án hình sự nói
chung, bị can thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nó riêng, KSV kiểm sát việc
ĐTV thực hiện các thủ tục như kiểm tra lý lịch, phổ biến quyền nghĩa vụ của
bị can và người tham gia tố tụng khác, giải quyết các đề nghị của bị can; quan
sát đến thái độ, để ý phương pháp hỏi cung, nội dung các câu hỏi của ĐTV,
kịp thời đề nghị ĐTV khắc phục vi phạm nếu có và hỏi thêm các vấn đề chưa
được làm rõ; quan sát hành vi cử chỉ, thái độ của bị can để có thông tin đánh
giá sự thành thật hay gian dối trong việc khai báo. VKS phải đảm bảo việc hỏi
cung bị can mà ĐTV tiến hành phải làm rõ được hành vi phạm tội của bị can,
những mâu thuẫn trong lời khai của bị can cần được phân tích làm rõ. Nếu
phát hiện có dấu hiệu mớm cung, bức cung, nhục hình thì KSV được phân
công KSĐT phải trực tiếp hỏi cung bị can nhằm kiểm tra lại toàn bộ các lời
khai của bị can có phù hợp với các chứng cứ khác đã thu thập được hay
không.
Trường hợp kiểm sát qua biên bản hỏi cung bị can, KSV phải đối chiếu
biên bản đang kiểm sát với các biên bản hỏi cung trước và các biên bản hỏi
cung của bị can khác để xác định giữa các bản cung có thống nhất với nhau
hay không? Việc hỏi cung bị can đã đầy đủ chưa? Nếu chưa đầy đủ thì còn
thiếu các vấn đề gì, hướng xử lý thế nào? Việc hỏi cung của ĐTV có vi phạm
24
gì cần khắc phục không?
Tóm lại, kiểm sát hỏi cung bị can phải bảo đảm được các yếu tố như
khách quan, trung thực đúng pháp luật. Lời khai nhận tội của bị can trong vụ
án chỉ được coi là chứng cứ nếu lời khai đó phù hợp với các tài liệu, chứng cứ
khác có trong hồ sơ vụ án. Nếu bị can kêu oan thì KSV cần trực tiếp phúc
cung. Nếu hoạt động hỏi cung không đúng pháp luật, lời khai không trung
thực, không khách quan thì không có giá trị chứng minh tội phạm, dẫn đến
việc đưa ra kết luận có thể không đúng với sự thật khách quan, dẫn đến việc
giải quyết vụ án oan sai. Do đó, việc thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động
hỏi cung bị can của VKS có ý nghĩa rất quan trọng trong việc truy cứu trách
nhiệm hình sự đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Nếu có phát hiện căn cứ
xác định ĐTV vi phạm pháp luật trong việc hỏi cung bị can thì KSV cần kịp
thời kiến nghị, yêu cầu CQĐT khắc phục và xử lý ngay để đảm bảo quyền và
lợi ích hợp pháp của bị can, đảm bảo sự vô tư, khách quan khi giải quyết vụ
án.
Kiểm sát việc lấy lời khai của người làm chứng
Lấy lời khai người làm chứng là hoạt động điều tra, nhằm phát hiện,
thu thập thêm tài liệu, chứng cứ để góp phần đánh giá một cách khách quan
và toàn diện về vụ án. Việc lấy lời khai người làm chứng được thực hiện theo
quy định tại Điều 186 BLTTHS năm 2015.
Người làm chứng trong vụ án trộm cắp tài sản là người biết được
những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và được cơ quan
có thẩm quyền THTT triệu tập đến làm chứng. Họ có thể là người dân sinh
sống xung quanh nơi xảy ra vụ án, người phát hiện hành vi, người đuổi bắt
đối tượng trộm cắp tài sản… Khi tiến hành kiểm sát hoạt động lấy lời khai
của họ phải luôn chú ý đến độ tin cậy khi họ trình bày về một vấn đề nào đó
25
có liên quan đến vụ án.
Khi kiểm sát trực tiếp việc lấy lời khai người làm chứng, KSV cần thực
hiện các hoạt động như: Kiểm sát chặt chẽ thành phần tham gia, chủ thể lấy
lời khai; việc kiểm tra tình trạng sức khỏe của người làm chứng…
Khi kiểm sát biên bản lấy lời khai người làm chứng, KSV phải xem xét
đảm bảo các quy định về hình thức và đầy đủ các thông tin về thẩm quyền lấy
lời khai, sự có mặt của những người liên quan, ngày giờ tiến hành, địa điểm
lấy lời khai; kiểm sát việc tiến hành các thủ tục trước khi lấy lời khai (kiểm
tra lý lịch của người làm chứng, xem xét tình trạng sức khỏe, giải thích quyền,
nghĩa vụ của người làm chứng)… Nghiên cứu nội dung lời khai của người
làm chứng, đối chiếu, so sánh với các lời khai trước đó và với các tài liệu,
chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, để phát hiện những vấn đề ĐTV chưa
làm rõ, những mâu thuẫn cần giải quyết và cả các vấn đề cần bổ sung, từ đó
ghi chép lại để trao đổi hoặc yêu cầu ĐTV có biện pháp bổ sung, khắc phục,
sửa chữa.
Trong quá trình kiểm sát lấy lời khai người làm chứng trong trường
phợp việc lấy lời khai chưa đạt yêu cầu về mặt nội dung, chưa đảm bảo các
quy định về thủ tục và hình thức thì tùy từng trường hợp, VKS phải yêu cầu
CQĐT thực hiện lại hoặc bổ sung khắc phục. Nếu cần thiết thì KSV trực tiếp
tham gia lấy lời khai người làm chứng.
Kiểm sát việc lấy lời khai của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
Lấy lời khai của bị hại, đương sự phải được thực hiện đúng theo quy
định tại các Điều 185, 186, 187 BLTTHS năm 2015. Ngoài việc kiểm sát chặt
chẽ về mặt thủ tục, trình tự theo quy định của pháp luật TTHS, VKS phải
kiểm tra kỹ về mặt nội dung của việc lấy lời khai đối với từng trường hợp vì
26
lời khai của những đối tượng này không chỉ góp phần vào việc làm sáng tỏ sự
thật vụ án mà còn là căn cứ để giải quyết toàn diện vụ án kể cả vấn đề dân sự
trong vụ án hình sự.
Khi kiểm sát lấy lời khai của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan phải có những nhận định
đánh giá khách quan, phải đối chiếu với các tài liệu chứng cứ khác để xác
định xem lời khai của họ có trung thực, khách quan, toàn diện hay không; yêu
cầu, đề xuất của họ có hợp lý, hợp pháp hay không. Trong trường hợp có căn
cứ nghi ngờ lời khai của những người này không trung thực, không khách
quan hoặc còn những vấn đề chưa được làm rõ thì VKS yêu cầu CQĐT tiến
hành lấy lời khai lại hoặc trực tiếp tham gia lấy lời khai của họ.
Bị hại trong vụ án trộm cắp tài sản là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về tài
sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản do tội phạm trộm cắp tài
sản gây ra. Khi kiểm sát việc lấy lời khai bị hại, KSV cần thực hiện các hoạt
động như: Kiểm sát chặt chẽ thành phần tham gia, chủ thể lấy lời khai; việc
kiểm tra tình trạng sức khỏe của bị hại; KSV kiểm sát quá trình lấy lời khai
của ĐTV, đánh giá thái độ khai báo của bị hại; KSV không làm thay nhiệm
vụ của ĐTV, KSV chỉ hỏi bị hại khi phát hiện những vấn đề chưa được làm rõ
có mâu thuẫn. Kiểm sát việc lập biên bản lấy lời khai của ĐTV, bảo đảm
đúng diễn biến thực tế, đúng mẫu quy định, có đầy đủ chữ ký của những
người tham gia.
Kiểm sát việc lấy lời khai của những người tham gia tố tụng này phải
đảm bảo tính chính xác, khách quan theo đúng quy định tại BLTTHS năm
2015.
Kiểm sát việc đối chất
Đối chất là biện pháp điều tra do ĐTV hoặc KSV tiến hành theo trình
tự, thủ tục do BLTTHS quy định khi có mâu thuẫn trong lời khai giữa hai hay
27
nhiều người mà đã tiến hành các biện pháp điều tra khác nhưng chưa giải
quyết được mâu thuẫn. Mục đích của việc đối chất là nhằm giải quyết các
mâu thuẫn, xác định tính đúng đắn trong lời khai giữa hai hay nhiều người đề
tìm ra sự thật của vụ án, có thể cho đối chất giữa bị can này với bị can khác,
giữa bị can với bị hại, giữa bị hại với người làm chứng… theo quy định tại
Điều 189 BLTTHS năm 2015.
Chủ thể có nhiệm vụ, quyền hạn kiểm sát việc đối chất là KSV. Căn cứ
pháp lý để KSV kiểm sát việc đối chất được quy định tại Điểm d Khoản 1
Điều 42, Điều 166 và Khoản 1 Điều 189 BLTTHS năm 2015. KSV kiểm sát
việc đối chất bằng các hình thức trực tiếp kiểm sát hoặc kiểm sát gián tiếp.
Khi kiểm sát đối chất với vụ án hình sự nói chung, vụ án trộm cắp tài
sản nói riêng, pháp luật TTHS quy định để nâng cao trách nhiệm của KSV
trong kiểm sát hoạt động điều tra, bảo đảm tính khách quan của việc đối chất
thì KSV phải có mặt để kiểm sát việc đối chất. Nếu KSV vắng mặt thì có thể
kiểm sát gián tiếp thông qua nghiên cứu, xem xét biên bản đối chất do ĐTV
chuyển đến. Nếu phát hiện có vi phạm trong việc đối chất thì tùy mức độ vi
phạm, KSV yêu cầu ĐTV khắc phục nếu có thể hoặc KSV báo cáo lãnh đạo
VKS xem xét, quyết định áp dụng biện pháp phù hợp để loại xử lý vi phạm,
bảo đảm việc đối chất thực hiện đúng quy định của pháp luật.
2.1.3 Quy định về kiểm sát các hoạt động điều tra khác
Kiểm sát hoạt động khám nghiệm hiện trường
Hiện trường vụ án trộm cắp tài sản chính là nơi xảy ra, nơi phát hiện vụ
trộm cắp tài sản. Hiện trường có thể ở trong nhà, ngoài trời, tại cửa hàng, trên
các phương tiện giao thông... Khám nghiệm hiện trường được quy định tại
Điều 201 BLTTHS năm 2015, khám nghiệm hiện trường là một hoạt động
điều tra nhằm phát hiện, xem xét, ghi nhận dấu vết tội phạm, vật chứng, và
làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án. Do tính chất quan trọng của hoạt động
28
khám nghiệm hiện trường, nên pháp luật TTHS quy định sự bắt buộc tham gia
của KSV. Kiểm sát khám nghiệm hiện trường là hoạt động của VKS kiểm sát
việc tuân theo pháp luật của ĐTV, các thành viên Hội đồng khám nghiệm và
những người có liên quan khác nhằm đảm bảo cho việc khám nghiệm hiện
trường đúng quy định của pháp luật, để có căn cứ xác định có hay không sự
việc phạm tội xảy ra, ai là người thực hiện hành vi phạm tội đó, từ đó quyết
định có khởi tố vụ án hình sự hay không. Đối tượng của kiểm sát khám
nghiệm hiện trường là việc tuân theo pháp luật của các thành viên Hội đồng
khám nghiệm và những người có liên quan như: ĐTV, giám định viên, kỹ
thuật viên…
Trong quá trình kiểm sát khám nghiệm vụ án trộm cắp tài sản, KSV
phải bám sát các bước khám nghiệm, các nguyên tắc, quy trình và các yêu cầu
cần đạt được của một cuộc khám nghiệm, kịp thời đề ra các yêu cầu để ĐTV
và kỹ thuật viên kỹ thuật hình sự làm rõ. Cần quán triệt nguyên tắc cơ bản của
một cuộc khám nghiệm hiện trường là đảm bảo, khách quan, tỉ mỉ… Khi
kiểm sát khám nghiệm hiện trường, KSV phải kiểm sát chặt chẽ công tác phát
hiện, ghi nhận, thu thập, bảo quản và đánh giá dấu vết, bảo đảm công tác này
được thực hiện đầy đủ, kịp thời, theo đúng trình tự, thủ tục BLTTHS quy
định. Nếu KSV phát hiện có nơi tồn tại dấu vết nhưng cán bộ khám nghiệm
chưa xem xét, thì KSV phải kịp thời yêu cầu cán bộ khám nghiệm thực hiện,
bảo đảm không bỏ sót bất kỳ dấu vết gì, dù là nhỏ nhất. Đồng thời với đó,
KSV phải kiểm sát chặt chẽ việc lập biên bản khám nghiệm hiện trường, bảo
đảm biên bản phản ánh đúng thực tế công tác khám nghiệm, ghi nhận, mô tả
đầy đủ các dấu vết, có đầy đủ chữ ký của những người tham gia.
Như vậy, VKS thực hiện chức năng kiểm sát khám nghiệm hiện trường
là nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động điều tra, hạn
chế những thiếu sót, vi phạm của CQĐT ngay từ đầu để có cơ sở cho quá
29
trình tiến hành tố tụng đối với vụ án hình sự.
Kiểm sát hoạt động thực nghiệm điều tra
Thực nghiệm điều tra là hoạt động điều tra quan trọng và cần thiết
nhằm giải quyết những mâu thuẫn trong các lời khai của người tham gia tố
tụng để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án. Thực nghiệm điều tra là hoạt động
mô phỏng lại diễn biến của sự việc trên cơ sở lời khai của bị can, bị hại, người
làm chứng đã thu thập được để kiểm tra, xác minh thêm về những tình tiết có
ý nghĩa đối với việc điều tra vụ án. VKS phải đảm bảo phương pháp tiến hành
hoạt động thực nghiệm điều tra đúng quy định của BLTTHS.
Trong điều tra các vụ án trộm cắp tài sản, thực nghiệm điều tra được
tiến hành khi cần kiểm tra tính chính xác, khách quan trong lời khai của bị
can, bị hại, người làm chứng, người tham gia tố tụng khác về các tình tiết liên
quan đến vụ án. Khi trực tiếp kiểm sát việc thực nghiệm điều tra các vụ án
trộm cắp tài sản, KSV cần phải kiểm sát chặt chẽ thành phần tiến hành, tham
gia thực nghiệm điều tra, bảo đảm đúng theo quy định tại BLTTHS năm
2015; KSV chủ động yêu cầu ĐTV tiến hành các hoạt động thực nghiệm nếu
qua KSĐT vụ án nhận thấy chưa đầy đủ; KSV kiểm sát chặt chẽ việc lập biên
bản thực nghiệm, kiểm tra, đối chiếu kỹ giữa bản ảnh, sơ đồ và biên bản thực
nghiệm điều tra với thực tế diễn biến quá trình thực nghiệm trước khi ký tên
vào sơ đồ, biên bản; Khi kiểm sát gián tiếp qua biên bản thực nghiệm điều tra
của CQĐT, KSV phải kiểm sát chặt chẽ về thành phần tiến hành, tham gia
việc thực nghiệm điều tra.... Nghiên cứu nội dung biên bản để xác định các
tình tiết, sự việc, hiện tượng nào đã được kiểm tra, xác minh và kết quả thế
nào? Các tình tiết, sự việc, hiện tượng nào cần thiết phải kiểm tra, xác minh
bằng thực nghiệm điều tra nhưng chưa được thực hiện và hướng giải quyết; so
sánh, đối chiếu sự phù hợp giữa kết quả thực nghiệm điều tra với các chứng
cứ, tài liệu khác của vụ án.
30
Kiểm sát hoạt động trưng cầu giám định
Tại khoản 1, điều 205 BLTTHS năm 2015 quy định về trường hợp ra
quyết định trưng cầu giám định như sau:
“1. Khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 206 của Bộ
luật này hoặc khi xét thấy cần thiết thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng ra quyết định trưng cầu giám định”.
Giám định là một trong những vấn đề quan trọng đối với việc phát
hiện, xử lý vụ án hình sự nói chung, vụ án trộm cắp tài sản riêng. Kết quả
giám định là tài liệu, chứng cứ quan trọng trong vụ án hình sự. Việc trưng cầu
giám định trong điều tra các vụ án trộm cắp tài sản được tiến hành nhằm xác
định đối tượng gây án, thu thập, củng cố các chứng cứ của vụ án. Các giám
định thường được tiến hành: giám định dấu vết chân, giày, dép, dấu vết vân
tay, dấu vết công cụ cạy phá… Khi kiểm sát việc trưng cầu giám định, KSV
phải kiểm sát chặt chẽ hình thức và nội dung quyết định trưng cầu giám định,
bảo đảm quyết định được ban hành đúng mẫu, đúng thẩm quyền, chính xác
căn cứ pháp luật, nội dung yêu cầu giám định phải rõ ràng, đầy đủ; kiểm sát
kết luận giám định cần lưu ý đến phương pháp, phương tiện mà người giám
định dùng để kết luận giám định. KSV được phân công KSĐT các vụ án trộm
cắp tài sản phải nắm vững các quy định của BLTTHS về giám định tư pháp
để áp dụng thực hiện đảm bảo đúng pháp luật, phải chủ động phát hiện các
vấn đề cần phải giám định để yêu cầu CQĐT tiến hành trưng cầu làm rõ
những vấn đề gì cần phải chứng minh.
Kiểm sát hoạt động định giá tài sản
Định giá tài sản là quy định mới và là hoạt động thu thập chứng cứ của
cơ quan có thẩm quyền THTT để giải quyết vụ án hình sự.
Tại khoản 1, điều 215 BLTTHS năm 2015 quy định về trường hợp ra
31
quyết định trưng cầu giám định như sau:
“Khi cần xác định giá của tài sản để giải quyết vụ án hình sự, cơ quan
có thẩm quyền tiến hành tố tụng ra văn bản yêu cầu định giá tài sản”.
Trong điều tra tội phạm trộm cắp tài sản, CQĐT phải yêu cầu định giá
tài sản trộm cắp để làm căn cứ xác định hành vi của đối tượng đã cấu thành
tội phạm hay chưa, mức bồi thường thiệt hại về tài sản, khung hình phạt áp
dụng… Khi kiểm sát việc yêu cầu định giá tài sản, KSV phải kiểm sát chặt
chẽ hình thức và nội dung văn bản yêu cầu định giá tài sản, bảo đảm văn bản
được ban hành đúng mẫu, đúng thẩm quyền, đầy đủ nội dung và chính xác về
căn cứ pháp luật; kiểm sát thời hạn định giá, thời hạn có kết quả định giá tài
sản; khi nhận được kết luận định giá tài sản, KSV cần lưu ý đến các căn cứ để
hội đồng định giá kết luận về giá của tài sản.
Kiểm sát hoạt động khám xét
Khám xét là hoạt động điều tra nhằm tìm kiếm dấu vết về tội phạm, vật
chứng, tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ án hình sự hoặc nhằm phát hiện
người đang bị truy nã. Khám xét sẽ trực tiếp đụng chạm đến các quyền thuộc
nhân thân của công dân, do vậy, hoạt động khám xét của CQĐT phải đặt dưới
sự kiểm sát chặt chẽ của VKS nhằm đảm bảo hoạt động này phải tuân thủ
theo đúng quy định của pháp luật TTHS. Pháp luật TTHS của Việt Nam hiện
hành quy định “Lệnh khám xét của những người được quy định tại khoản 2
Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát
có thẩm quyền phê chuẩn trước khi thi hành” và “Trước khi tiến hành khám
xét, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp về thời gian và
địa điểm tiến hành khám xét để cử Kiểm sát viên kiểm sát việc khám xét, trừ
trường hợp khám xét khẩn cấp. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát hoạt
động khám xét”.
Khi kiểm sát hoạt động khám xét trong các vụ án hình sự nói chung, vụ
32
án trộm cắp tài sản nói riêng, VKS cần yêu cầu CQĐT và những người tham
gia khám xét thực hiện đúng quy định của pháp luật TTHS. Khi kiểm sát hoạt
động khám xét, VKS phải đảm bảo chỉ khi có căn cứ theo quy định của pháp
luật TTHS thì mới quyết định việc áp dụng biện pháp khám xét; hoạt động
khám xét phải đảm bảo tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân;
qua quá trình kiểm sát nếu thấy rằng việc khám xét khẩn cấp không có căn cứ
và không hợp pháp thì VKS yêu cầu CQĐT khắc phục ngay hậu quả, đồng
thời ra quyết định hủy bỏ kết quả khám xét đó.
Kiểm sát hoạt động nhận dạng
Mục đích tiến hành nhận dạng là nhằm xác nhận sự giống hay khác
nhau giữa đối tượng nhận dạng với hình ảnh của đối tượng mà người nhận
dạng đã nhìn thấy trước đây. Trong điều tra vụ án trộm cắp tài sản, ĐTV có
thể đưa người, ảnh hoặc vật cho bị hại, người làm chứng, bị can nhận dạng để
xác định người phạm tội, công cụ phương tiện dùng vào việc phạm tội, tài sản
bị trộm cắp, xác định chủ sở hữu của vật chứng…
Trong quá trình kiểm sát hoạt động điều tra, nếu thấy cần thiết, KSV
yêu cầu ĐTV tiến hành việc nhận dạng. Nếu ĐTV không thực hiện thì KSV
báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện để kiến nghị CQĐT khắc phục. KSV
kiểm sát việc kiểm tra tình trạng sức khỏe của những người tham gia việc
nhận dạng; Kiểm sát việc đặt câu hỏi của ĐTV và lời khai báo của người nhận
dạng, nếu phát hiện ĐTV đặt câu hỏi mang tính chất gợi ý đối với người nhận
dạng thì KSV phải yêu cầu ĐTV khắc phục. Trường hợp kiểm sát qua biên
bản nhận dạng thì KSV kiểm sát tính cần thiết tiến hành biện pháp nhận dạng;
kiểm sát thẩm quyền tiến hành nhận dạng, việc kiểm tra sức khỏe người tham
gia, việc giải thích cho bị hại hoặc người làm chứng trách nhiệm về việc từ
chối khai báo hoặc khai báo gian dối khi họ là người nhận dạng... Nghiên cứu
33
các câu hỏi mà ĐTV đặt ra cho người nhận dạng để xác định có việc ĐTV đặt
câu hỏi gợi ý hay không? Nghiên cứu lời khai báo của những người tham gia
việc nhận dạng, so sánh với các chứng cứ, tài liệu khác của vụ án...
Qua các công tác trên, nếu phát hiện có vi phạm trong quá trình tiến
hành các hoạt động đó thì VKS phải yêu cầu CQĐT khắc phục kịp thời, VKS
cần kịp thời ban hành các văn bản yêu cầu, kiến nghị nhằm giúp CQĐT kịp
thời phát hiện sai phạm để khắc phục.
2.1.4. Quy định về kiểm sát việc tạm đình chỉ, đình chỉ điều tra và
phục hồi điều tra.
Kiểm sát việc tạm định chỉ điều tra và đình chỉ điều tra
Tạm đình chỉ điều tra là việc CQĐT tạm dừng hoạt động điều tra. Theo
quy định tại Điều 229 BLTTHS năm 2015, Quyết định tạm đình chỉ điều tra
phải được gửi cho VKS cùng cấp. Trường hợp vụ án hình sự được tạm đình
chỉ điều tra thì KSV có trách nhiệm kiểm tra, xem xét nhằm đảm bảo tính có
căn cứ, tính hợp pháp trong việc tạm đình chỉ điều tra. Nếu bị can bỏ trốn thì
VKS phải yêu cầu CQĐT ra quyết định truy nã đối với bị can. Nếu xét thấy
việc tạm đình chỉ điều tra chưa đủ hoặc không có căn cứ thì KSV báo cáo
lãnh đạo ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ điều tra của CQĐT,
yêu cầu CQĐT phục hồi điều tra và tiếp tục điều tra vụ án. KSV phải kiểm sát
thời hạn điều tra, chủ thể ban hành quyết định và căn cứ tạm đình chỉ. Căn cứ
tạm đình chỉ điều tra vụ án, bị can nói chung và vụ án, bị can thực hiện hành
vi trộm cắp tài sản nói riêng được quy định tại Điều 229 BLTTHS năm 2015
Khi kiểm sát tạm đình chỉ điều tra vụ án trộm cắp tài sản, VKS phải
kiểm sát chặt chẽ việc ra quyết định tạm đình chỉ của CQĐT, đảm bảo có căn
cứ, đúng pháp luật, tránh việc lạm dụng các lý do không đúng để tạm đình
chỉ. Giữa CQĐT và VKS cần có sự trao đổi thống nhất trước khi CQĐT ra
quyết định tạm đình chỉ điều tra; KSV cần tích cực phát hiện những thiếu sót,
34
những mâu thuẫn trong hồ sơ vụ án để kịp thời yêu cầu CQĐT làm rõ hoặc
giải thích rõ nguyên nhân chưa thực hiện các yêu cầu điều tra của VKS, phối
hợp giải quyết triệt để các mâu thuẫn có trong hồ sơ, tránh để xảy ra vi phạm
tố tụng dẫn đến áp dụng các căn cứ tạm đình chỉ thiếu chính xác; KSV phải
kiểm tra chặt chẽ lý do tạm đình chỉ, căn cứ tạm đình chỉ, điều luật áp dụng
cũng như hình thức, nội dung và thẩm quyền ban hành. Hồ sơ kiểm sát phải
được trích cứu, photo lưu trữ đầy đủ các tài liệu tố tụng, các tài liệu chứng cứ
quan trọng, các biên bản họp (nếu có), các báo cáo đề xuất của KSV và ý kiến
chỉ đạo của Lãnh đạo đơn vị.
Đình chỉ điều tra là việc chấm dứt toàn bộ hoạt động điều tra đối với vụ
án hình sự. Khoản 1 Điều 230 BLTTHS năm 2015 quy định CQĐT ra quyết
định đình chỉ điều tra vụ án khi:
“a) Có một trong các căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 155 và Điều
157 của Bộ luật này hoặc có căn cứ quy định tại Điều 16 hoặc Điều 29 hoặc
khoản 2 Điều 91 của Bộ luật hình sự;
b) Đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã
thực hiện tội phạm”.
Pháp luật TTHS quy định, khi ban hành quyết định đình chỉ điều tra,
CQĐT phải gửi ngay cho VKS để tiến hành kiểm sát việc đình chỉ điều tra
của CQĐT. VKS thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật của CQĐT trong
việc đình chỉ điều tra nhằm phát hiện và ngăn chặn kịp thời các vi phạm pháp
luật của CQĐT với hoạt động này. Khi tiến hành kiểm sát việc đình chỉ điều
tra thì KSV phải nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án để kiểm tra các căn cứ của việc
đình chỉ điều tra theo quy định của BLTTHS. Kiểm sát chặt chẽ việc ra quyết
định đình chỉ điều tra của CQĐT, đảm bảo tính có căn cứ và tính hợp pháp
trong quyết định đình chỉ điều tra của CQĐT trong đó tính có căn cứ được
35
đặc biệt chú trọng.
Đối với quyền hạn của VKS khi thực hiện chức năng kiểm sát đình chỉ
điều tra của CQĐT, BLTTHS năm 2015 quy định: “Trong thời hạn 15 ngày
kể từ ngày nhận được quyết định đình chỉ điều tra kèm theo hồ sơ vụ án của
Cơ quan điều tra, nếu thấy quyết định đình chỉ điều tra có căn cứ thì Viện
kiểm sát phải trả lại hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra để giải quyết theo thẩm
quyền; nếu thấy quyết định đình chỉ điều tra không có căn cứ thì hủy bỏ quyết
định đình chỉ điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra phục hồi điều tra; nếu
thấy đủ căn cứ để truy tố thì hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra và ra quyết
định truy tố theo thời hạn, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật này”. Quy
định này đã thể hiện trách nhiệm và quyền hạn của VKS đối với việc đình chỉ
điều tra, bảo đảm quyết định đình chỉ điều tra của CQĐT là có căn cứ và hợp
pháp. Khi kiểm sát quyết định đình chỉ điều tra, KSV phải kiểm tra cả về căn
cứ đình chỉ lẫn hình thức của quyết định đình chỉ, quyết định đình chỉ điều tra
phải đúng về thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục tố tụng do luật định.
Khi kiểm sát điều tra đối với vụ án, KSV cần tích cực phát hiện những
thiếu sót, những vấn đề còn mâu thuẫn trong hồ sơ vụ án để kịp thời yêu cầu
CQĐT làm rõ hoặc giải thích rõ nguyên nhân chưa thực hiện các yêu cầu điều
tra của VKS, phối hợp giải quyết triệt để các mâu thuẫn có trong hồ sơ, tránh
để xảy ra vi phạm tố tụng dẫn đến việc áp dụng các căn cứ đình chỉ thiếu
chính xác. Nếu thấy việc đình chỉ điều tra vụ án, đình chỉ điều tra vụ án đối
với bị can là đúng thì phải báo cáo lãnh đạo VKS ra văn bản thông báo kết
quả kiểm sát cho CQĐT biết. Nếu thấy lý do việc đình chỉ điều tra không
đúng thì KSV báo cáo lãnh đạo VKS ra quyết định hủy bỏ đồng thời có công
văn yêu cầu CQĐT ra quyết định phục hồi điều tra đối với vụ án.
Tóm lại, việc thực hiện chức năng kiểm sát đình chỉ điều tra là rất quan
36
trọng để bảo đảm việc tuân theo pháp luật của CQĐT trong hoạt động đình
chỉ điều tra, hạn chế đến mức thấp nhất các vi phạm pháp luật của cơ quan
tiến hành tố tụng dẫn đến bỏ lọt tội phạm.
Kiểm sát việc phục hồi điều tra
Theo quy định tại Điều 235 BLTTHS năm 2015, nếu chưa hết thời hiệu
truy cứu trách nhiệm hình sự, khi có lý do để hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ
điều tra, đình chỉ điều tra, CQĐT ra quyết định phục hồi điều tra. Trong thời
hạn hai ngày, kể từ ngày ra quyết định phục hồi điều tra, CQĐT phải gửi
quyết định phục hồi điều tra cho VKS cùng cấp. Khi nhận được quyết định
phục hồi điều tra của CQĐT, VKS phải kiểm tra tính có căn cứ của việc phục
hồi điều tra theo quy định của BLTTHS. Sau khi xem xét các căn cứ để phục
hồi điều tra, nếu thấy quyết định phục hồi điều tra có căn cứ thì VKS cử KSV
tiến hành tố tụng đối với vụ án, KSV được phân công có trách KSĐT đối với
vụ án theo quy định của pháp luật; nếu quyết định phục hồi điều tra không có
căn cứ thì ra quyết định hủy bỏ quyết định phục hồi điều tra của CQĐT.
2.1.5. Quy định về kiểm sát việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện
pháp ngăn chặn
- Kiểm sát việc áp dụng biện pháp bắt người
Bắt người là biện pháp ngăn chặn được quy định tại các điều 110, 111,
112, 113 BLTTHS năm 2015. Bắt người là một trong các biện pháp cưỡng
chế được áp dụng đối người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người phạm tội
quả tang, người đang bị truy nã, bị can, bị cáo, người bị yêu cầu dẫn độ.
Khi xác định có sự việc phạm tội xảy ra, xác định rõ đối tượng đã thực
hiện hành vi phạm tội, CQĐT ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can. Xét
thấy có đủ căn cứ để áp dụng biện pháp bắt bị can để tạm giam thì CQĐT ra
lệnh bắt bị can để tạm giam, chuyển lệnh bắt và các tài liệu, hồ sơ liên quan
37
đến VKS cùng cấp để xem xét, quyết định việc phê chuẩn trước khi thi hành.
Khi kiểm sát hoạt động bắt bị can để tạm giam, VKS phải kiểm sát chặt chẽ
cả tính có căn cứ và tính hợp pháp trong việc áp dụng biện pháp bắt này.
Để thực hiện việc kiểm sát hoạt động bắt bị can để tạm giam đúng theo
quy định của pháp luật, KSV phải nắm vững những nội dung quy định ở Điều
113 BLTTHS năm 2015. Nếu đánh giá thấy việc áp dụng pháp luật của
CQĐT là có căn cứ thì VKS ban hành quyết định phê chuẩn lệnh bắt bị can để
tạm giam của CQĐT và khi đó lệnh bắt bị can để tạm giam này mới có hiệu
lực thi hành. Ngược lại, nếu xét thấy không hoặc chưa đủ căn cứ để áp dụng
thì VKS ban hành quyết định không phê chuẩn lệnh bắt người của CQĐT.
VKS phải kiểm tra về điều kiện áp dụng biện pháp tạm giam bằng việc kiểm
tra xem bị can bị khởi tố về tội gì, thuộc loại nào, mức hình phạt mà BLHS
quy định đối với tội đó là bao nhiêu… Việc áp dụng biện pháp bắt bị can để
tạm giam đúng đối tượng cũng là một nội dung quan trọng khi thực hiện chức
năng kiểm sát.
Bên cạnh đó, VKS phải tiến hành kiểm sát chặt chẽ về thẩm quyền áp
dụng lệnh bắt người của CQĐT, đối tượng bị áp dụng, thời hạn cũng như
kiểm sát mẫu biên bản tố tụng của CQĐT…
Tóm lại, khi thực hiện chức năng kiểm sát việc áp dụng biện pháp bắt
bị can để tạm giam trong vụ án trộm cắp tài sản VKS phải chú trọng phát hiện
vi phạm của CQĐT, kiên quyết trong việc không phê chuẩn lệnh bắt không có
căn cứ để tránh khả năng xâm phạm đến các quyền nhân thân của công dân.
Kiểm sát việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp,giữ người phạm tội
quả tang hoặc truy nã (Điều 110, Điều 111, Điều 112 BLTTHS)
Pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành quy định cho phép CQĐT có
quyền bắt người trong trường hợp khẩn cấp mà không cần phải có sự phê
chuẩn trước của VKS cùng cấp. Tuy nhiên, khi áp dụng biện pháp này cũng
38
đòi hỏi phải có sự giám sát chặt chẽ của VKS nhằm đảm bảo việc áp dụng
đúng quy định của pháp luật. Kiểm sát hoạt động này chỉ được thực hiện sau
khi CQĐT đã thực hiện xong việc bắt khẩn cấp. VKS kiểm sát thông qua
phương pháp gián tiếp là nghiên cứu hồ sơ và các tài liệu có liên quan và
trong trường hợp cần thiết phải trực tiếp gặp, hỏi người bị bắt để xem xét,
quyết định việc phê chuẩn. Khi kiểm sát việc CQĐT áp dụng biện pháp bắt
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp,VKS phải đảm bảo tính có căn cứ và
tính hợp pháp để áp dụng biện pháp này.
Đối với các trường hợp sau khi thực hiện hành vi phạm tội trộm cắp tài
sản mà người phạm tội có hành vi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm, xóa dấu
vết tại hiện trường... thì cần phải tiến hành việc ngăn chặn ngay hành vi trốn
tránh hoặc cản trở, gây khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng trong việc
điều tra, xử lý vụ án. Ngay sau khi họ đã bị bắt, hoạt động KSĐT của VKS
phải được tiến hành chặt chẽ. KSV phải kiểm sát việc bắt người trong trường
hợp khẩn căn cứ theo quy định của BLTTHS và yêu cầu Cơ quan CSĐT sau
khi bắt khẩn cấp phải báo ngay cho VKS bằng văn bản kèm theo tài liệu, hồ
sơ liên quan đến việc bắt khẩn cấp để VKS xem xét, quyết định việc phê
chuẩn. Trong trường hợp cần thiết KSV phải tiến hành kiểm tra trực tiếp các
căn cứ bắt khẩn cấp. Nếu thấy không đủ căn cứ thì báo cáo lãnh đạo Viện để
ban hành quyết định không phê chuẩn và yêu cầu CQĐT hoặc VKS trực tiếp
ra quyết định trả tự do cho người bị bắt.
Như vậy, khi kiểm sát việc áp dụng biện pháp bắt người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp thì yêu cầu đặt ra cho VKS là xem xét việc áp dụng đó
có đảm bảo đúng một trong các căn cứ quy định tại Điều 110 BLTTHS năm
2015 hay không. Đồng thời phải kiểm sát thẩm quyền ra lệnh bắt, trình tự, thủ
tục có được áp dụng đúng quy định hay không.
39
Kiểm sát việc áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam
Tạm giữ là biện pháp ngăn chặn do cơ quan THTT có thẩm quyền áp
dụng đối với người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bắt người bị
giữ trong trường hợp khẩn cấp, truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú.
Trách nhiệm của VKS phải đảm bảo không được để xảy ra tình trạng áp dụng
biện pháp tạm giữ sai quy định. Như vậy, sau khi nhận được quyết định tạm
giữ, quyết định gia hạn tạm giữ của CQĐT chuyển đến, VKS phải kiểm tra
tính căn cứ và tính hợp pháp của việc gia quyết định tạm giữ, gia hạn tạm giữ.
Khi kiểm sát việc tạm giữ, VKS chủ yếu sử dụng phương pháp kiểm sát thông
qua việc nghiên cứu hồ sơ, tài liệu của CQĐT. Trong trường hợp cần thiết,
KSV có thể trực tiếp gặp, lấy lời khai người bị tạm giữ để có cơ sở khẳng
định việc áp dụng biện pháp tạm giữ của CQĐT có đúng theo quy định của
pháp luật tố tụng hình sự hay không.
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn có tính cưỡng chế nghiêm khắc nhất,
ở giai đoạn điều tra, việc áp dụng biện pháp tạm giam của CQĐT phải chịu sự
kiểm sát chặt chẽ thông qua quyền phê chuẩn của VKS. Những căn cứ để áp
dụng biện pháp tạm giam cũng chính là những căn cứ để áp dụng biện pháp
bắt bị can để tạm giam và CQĐT chỉ được thi hành khi đã có sự phê chuẩn
bằng văn bản của Viện KSND. Nội dung chủ yếu mà hoạt động của VKS
hướng tới là kiểm tra tính có căn cứ của việc áp dụng biện pháp tạm giam của
CQĐT. Qua hoạt động kiểm sát của mình, nếu VKS xem xét, đánh giá thấy
việc áp dụng biện pháp tạm giam của CQĐT là có căn cứ theo quy định pháp
luật thì VKS ra quyết định phê chuẩn, ngược lại nếu không có căn cứ và
không cần thiết thì để tránh trường hợp CQĐT lạm dụng trong việc áp dụng
biện pháp tạm giam, VKS ra quyết định không phê chuẩn. Trong quá trình
KSĐT, VKS phải luôn chủ động trong việc kiểm sát tính cần thiết có tiếp tục
40
tạm giam bị can hay không. Nếu xét thấy không cần thiết hoặc lý do tạm giam
không còn thì VKS ra quyết định huỷ bỏ hoặc quyết định thay đổi biện pháp
ngăn chặn đối với bị can.
Kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn khác
Theo quy định tại khoản 1 Điều 123 BLTTHS năm 2015, cấm đi khỏi
nơi cư trú là một trong những biện pháp ngăn chặn có thể được áp dụng đối
với bị can khi thuộc trường hợp có nơi cư trú rõ ràng nhằm đảm bảo sự có
mặt của bị can theo giấy triệu tập của CQĐT, VKS. Đặc biệt đối với những
vụ án trộm cắp tài sản thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng, CQĐT thường
xuyên áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Khi áp dụng, thay đổi, hủy
bỏ biện pháp này không cần có sự phê chuẩn của VKS, nhưng phải gửi lệnh,
quyết định đến cho VKS để thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp
luật đối với hoạt động này theo đúng quy định của pháp luật. Qua công tác
kiểm sát nếu phát hiện thấy có vi phạm trong việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ
biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú thì VKS yêu cầu CQĐT khắc phục hoặc áp
dụng biện pháp ngăn chặn khác.
Kiểm sát việc hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn
Qua thực tiễn công tác kiểm sát hoạt động áp dụng, thay thế, hủy bỏ
biện pháp ngăn chặn đối với bị can phạm tội trộm cắp tài sản cho thấy
BLTTHS quy định có 8 biện pháp ngăn chặn nhưng CQĐT và VKS mới chỉ
chú trọng đến biện pháp tạm giữ, tạm giam còn đối với các biện pháp khác
chưa thực sự được chú ý. VKS phải kiểm sát chặt chẽ các căn cứ, điều kiện áp
dụng cũng như thủ tục đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đối với
bị can của CQĐT để đảm bảo việc thay đổi, hủy bỏ biện pháp đó có căn cứ và
đúng pháp luật.
Vì vậy, khi áp dụng một biện pháp ngăn chặn nào đó VKS cần kịp thời
theo sát quá trình áp dụng trong suốt quá trình điều tra. Đồng thời cần nghiên
41
cứu kỹ, xem xét, đánh giá một cách thận trọng các tài liệu, chứng cứ, tính hợp
pháp khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với bị can của CQĐT. Khi tính
nguy hiểm của hành vi phạm tội không còn, thấy việc thay thế biện pháp ngăn
chặn không ảnh hưởng tới việc giải quyết vụ án thì nhanh chóng yêu cầu
CQĐT hoặc tự VKS quyết định thay thế biện pháp ngăn chặn khác phù hợp
hơn để đảm bảo quyền công dân được pháp luật bảo vệ.
2.1.6. Quy định về kiểm sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của
những người tham gia tố tụng và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác
Kiểm sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của những người tham gia
tố tụng.
Quy định về kiểm sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của những
người tham gia tố tụng tại chương IV, V BLTTHS năm 2015 bao gồm 30 điều
được quy định cụ thể từ Điều 55 đến Điều 84, quy định người tham gia tố
tụng, nội dung của từng điều luật đã quy định chi tiết đối với từng chủ thể
tham gia tố tụng bên cạnh đó cũng quy định chi tiết về quyền hạn đối với từng
chủ thể khi tham gia tố tụng bao gồm như quyền con người, quyền tự do dân
chủ, quyền trình bày ý kiến, quyền khiếu nại…, bên cạnh các quyền mà pháp
luật quy định đối với những người tham gia tố tụng thì còn phải có nghĩa vụ
trong việc tham gia tố tụng như phải có mặt theo giấy triệu tập, chấp hành các
quyết định của cơ quan có thẩm quyền, trình bày trung thực, trả lời những yêu
cầu một cách khách quan… Để pháp luật được áp dụng đồng bộ, thống nhất
và đảm bảo những quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng được
bảo vệ thì trách nhiệm của Viện KSND trong khi thực hiện chức năng kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra, đối với vụ án hình sự nói
chung và đối với vụ án trộm cắp tài sản nói riêng, phải rất thận trọng và tỉ mỉ,
khách quan trong quá trình nghiên cứu các tài liệu do CQĐT thu thập, xem
xét đối chiếu các tài liệu chứng cứ đã thu thập có đảm bảo để làm căn cứ
42
chứng minh trong vụ án hình sự.
Giải quyết tranh chấp về thẩm quyền điều tra
Khoản 3 Điều 166 BLTTHS năm 2015 đã quy định, khi KSĐT vụ án
hình sự, vụ án trộm cắp tài sản, Viện KSND có nhiệm vụ, quyền hạn giải
quyết tranh chấp về thẩm quyền điều tra.
BLTTHS năm 2015 quy định “Khi có tranh chấp về thẩm quyền điều
tra giữa Cơ quan điều tra thuộc các ngành khác nhau thì Viện trưởng Viện
kiểm sát cùng cấp nơi tội phạm xảy ra hoặc nơi phát hiện tội phạm có thẩm
quyền quyết định; Khi có tranh chấp về thẩm quyền điều tra giữa các Cơ
quan điều tra cùng ngành ở cấp nào thì Viện trưởng cấp đó yêu cầu Thủ
trưởng quản lý cùng cấp giải quyết… ”
Điểm k khoản 2, khoản 3 Điều 41 BLTTHS năm 2015 Viện trưởng
hoặc Phó Viện trưởng (khi được phân công) của VKS có quyền giải quyết
tranh chấp về thẩm quyền điều tra trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
Yêu cầu thay đổi ĐTV, Cán bộ điều tra và xử lý nghiêm minh ĐTV, Cán
bộ điều tra vi phạm pháp luật trong hoạt động tố tụng.
Theo nội dung quy định này thì KSV được phân công thụ lý, giải quyết
vụ án hình sự phải kịp thời phát hiện vi phạm pháp luật trong hoạt động điều
tra để báo cáo Viện trưởng, Phó viện trưởng yêu cầu Thủ trưởng CQĐT khắc
phục, tùy mức độ để có biện pháp xử lý nghiêm minh đối với ĐTV có vi
phạm pháp luật trong khi tiến hành điều tra vụ án. Trong trường hợp vi phạm
của ĐTV có dấu hiệu tội phạm thì Viện trưởng, Phó viện trưởng yêu cầu
CQĐT có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự. Còn trong trường hợp hành vi
của ĐTV có dấu hiệu xâm phạm hoạt động tư pháp thì Viện trưởng, Phó viện
trưởng Viện KSND cấp tỉnh báo cáo Viện trưởng Viện KSND tối cao giao
cho Cục điều tra của Viện KSND tối cao khởi tố, điều tra theo thẩm quyền.
Khi KSĐT các vụ án trộm cắp tài sản, nếu phát hiện có trường hợp ĐTV, Cán
43
bộ điều tra thuộc một trong những trường hợp phải từ chối tiến hành tố tụng
hoặc bị thay đổi, thì KSV trao đổi để ĐTV, Cán bộ điều tra từ chối THTT;
trường hợp ĐTV, Cán bộ điều tra không nhất trí thì KSV báo cáo Viện
trưởng, Phó viện trưởng VKS có văn bản yêu cầu Thủ trưởng CQĐT xem xét,
thay đổi ĐTV, Cán bộ điều tra.
Kiến nghị, yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra khắc phục vi phạm trong việc khởi tố, điều
tra; Kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa
tội phạm và vi phạm pháp luật.
Kiến nghị khắc phục vi phạm trong hoạt động khởi tố, điều tra là một
trong những chức năng của Viện KSND được quy định tại Điều 4 Luật Tổ
chức Viện KSND năm 2014. Trong KSĐT vụ án hình sự nói chung, vụ án
trộm cắp tài sản nói riêng, khi phát hiện việc khởi tố, điều tra của CQĐT, cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có vi phạm
pháp luật thì VKS có nhiệm vụ, quyền hạn ban hành kiến nghị, yêu cầu Cơ
quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra khắc phục vi phạm trong việc khởi tố, điều tra.
Tại khoản 7, Điều 15 và khoản 2, Điều 17 Luật Tổ chức Viện KSND
năm 2014 đã quy định khi KSĐT vụ án hình sự, VKS có quyền “Kiến nghị cơ
quan, tổ chức hữu quan áp dụng biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm
pháp luật”. Mặc dù đây không phải là vấn đề mới, nhưng với việc quy định
như trong luật đã khẳng định rõ trách nhiệm của Viện kiểm sát đối với công
tác này. Thực hiện quyền này chính là nhằm mục đích phòng ngừa tội phạm
và vi phạm pháp luật, qua đó từng bước để hạn chế tội phạm thông qua hoạt
động KSĐT các vụ án hình sự của Viện KSND. Trên cơ sở KSĐT các vụ án
hình sự nếu phát hiện các cơ quan Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội,
44
các đơn vị hữu quan có những sơ hở, thiếu sót… là nguyên nhân, điều kiện
dẫn đến các đối tượng lợi dụng để vi phạm thì Viện KSND phải ban hành văn
bản kiến nghị nhằm tiến hành các biện pháp phòng ngừa tội phạm.
2.2. Thực trạng kiểm sát điều tra các tội trộm cắp tài sản trên địa
bàn quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2015 đến năm
2019
2.2.1. Sơ lược tình hình, đặc điểm quận Phú Nhuận.
Quận Phú Nhuận được thành lập theo Nghị quyết ngày 09/5/1975 của
Ban chấp hành Đảng bộ Đảng lao động Việt Nam thành phố Sài Gòn - Gia
Định. Ngày nay, Phú Nhuận là một quận trung tâm nội thành của Thành phố
Hồ Chí Minh, phía Tây giáp với quận Tân Bình, phía Nam giáp với Quận 1
và Quận 3, phía Đông giáp với quận Bình Thạnh, phía Bắc giáp với quận Gò
Vấp. Quận Phú Nhuận có 15 phường trực thuộc: từ Phường 1 đến Phường 17
(không có Phường 6 và 16). Diện tích quận Phú Nhuận khoảng 4,88 km2, với
dân số khoảng 182.477 nhân khẩu, bao gồm nhiều dân tộc khác nhau nhưng
chủ yếu là dân tộc Kinh, Hoa, Khơ me… Tôn giáo phong phú với Phật giáo,
Thiên chúa giáo, Tin lành, Cao đài….
Quận Phú Nhuận nằm ở hướng Tây Bắc của thành phố, là nơi có vị trí
giao thông đường bộ, đường sắt tương đối phát triển và quan trọng. Đường
Nguyễn Văn Trỗi và đường Hoàng Văn Thụ là những trục đường chính, đồng
thời là cửa ngõ ra vào sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất. Vì là quận trung tâm nội
thành của Thành phố Hồ Chí Minh, mặc dù diện tích nhỏ nhưng mật độ dân
số rất cao (37.393 người/km2). Cơ cấu kinh tế của quận Phú Nhuận phát triển
theo xu hướng dịch vụ thương mại dịch vụ, các loại hình dịch vụ cao cấp như
tài chính, tín dụng, dịch vụ du lịch… phát triển mạnh. Đời sống vật chất cũng
như tinh thần của người dân trên địa bàn quận ngày càng được nâng cao.
Bên cạnh những mặt tích cực, những thành tựu đạt được thì tác động
45
trái chiều của nền kinh tế thị trường trong thời kỳ hội nhập cũng gây không ít
khó khăn trong công tác quản lý nhà nước về an ninh trật tự, xu hướng tình
hình tội phạm trên địa bàn dân cư diễn biến hết sức phức tạp, các loại tội
phạm như cướp giật tài sản, cướp tài sản, trộm cắp tài sản … vẫn còn xảy ra
nhiều, phương thức thủ đoạn tinh vi, tính chất và mức độ cũng ngày càng
nguy hiểm hơn so với trước đây. Hậu quả mà các loại tội phạm này gây ra đã
ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tài sản, ảnh hưởng nghiêm
trọng đến tình hình an ninh trật tự trên địa bàn quận cũng như đến cuộc sống
thường ngày của quần chúng nhân dân,
Đặc điểm về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội riêng có của quận Phú
Nhuận đã có ảnh hưởng không nhỏ đến công tác THQCT và kiểm sát điều tra
của VKSND quận Phú Nhuận, TP. Hồ Chí Minh.
2.2.2. Một số đặc điểm của Viện kiểm sát nhân dân Quận Phú Nhuận
thành phố Hồ Chí Minh có ảnh hưởng đến hoạt động kiểm sát điều tra các
vụ án trộm cắp tài sản
Để thực hiện nhiệm vụ chung của toàn ngành, cũng như nhiệm vụ riêng
của Viện KSND quận Phú Nhuận, hàng năm Viện KSND quận Phú Nhuận,
TP. Hồ Chí Minh căn cứ vào các chỉ đạo tại chỉ thị của Viện trưởng Viện
KSND tối cao về công tác của ngành KSND; bên cạnh đó, tiếp tục thực hiện
nhiệm vụ cải cách tư pháp theo Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của
Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020;
Chương trình số 08-CTr/BCS ngày 29/02/2012 của Ban cán sự Đảng VKSND
tối cao về Chương trình trọng tâm công tác cải cách tư pháp của ngành Kiểm
sát nhân dân giai đoạn 2011-2016; Chương trình số 06-CTr/BCĐ ngày
08/8/2016 của Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp TP. Hồ Chí Minh về Chương
trình công tác cải cách tư pháp giai đoạn 2016 – 2021. Ngoài ra, còn chú
46
trọng thực hiện Kế hoạch số 110/KH-VKSTC-V9 ngày 12/12/2014 của
VKSND tối cao về việc triển khai thực hiện Luật tổ chức Viện KSND năm
2014 và các văn bản liên quan.
Theo quy định về biên chế của Viện KSND Phú Nhuận được phân bổ
17 biên chế nhưng hiện nay đơn vị có 16 biên chế. Trong đó: KSV: 12 (Trung
cấp: 02; Sơ cấp: 10) – Chiếm tỉ lệ 75%; Chuyên viên: 03; Kế toán: 01. Chi bộ
gồm: 12 đảng viên. Chi ủy gồm: 03 đồng chí.
Lãnh đạo Viện KSND quận Phú Nhuận, TP. Hồ Chí Minh luôn quan
tâm đến đào tạo thế hệ trẻ để tiếp nối những người đi trước trong công tác của
ngành. Về trình độ học vấn, hiện nay, Thạc sĩ luật có 03 người, còn lại đều đã
tốt nghiệp Đại học luật và được đào tạo nghiệp vụ kiểm sát. Lãnh đạo Viện
KSND quận Phú Nhuận, TP. Hồ Chí Minh đang tiếp tục khuyến khích, tạo
điều kiện để cán bộ đang công tác trong ngành được theo học các chương
trình đào tạo sau đại học.
Trong số 16 biên chế của đơn vị, hiện nay có 05 biên chế làm công tác
THQCT và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự (chiếm 31,3%), trong đó có 05
KSV và 01 Chuyên viên.
Mặc dù hiện nay, số án hình sự của Phú Nhuận không nhiều như các
địa bàn khác, nhưng vẫn còn tiếp nhận với số lượng nhiều và diễn biến ngày
càng phức tạp, do đó với số lượng KSV thực hiện khâu công tác kiểm sát này
chưa đáp ứng được nhu cầu để giải quyết các công việc, cũng đã phần nào
ảnh hưởng đến việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Viện KSND trong
THQCT và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự nói chung, vụ án trộm cắp tài
sản nói riêng.
2.2.3. Tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn quận Phú
Nhuận từ năm 2015 đến năm 2019.
Trong 05 năm qua phần lớn các vụ án hình sự được phát hiện nhanh
47
chóng, giải quyết kịp thời, công tác kiểm sát việc điều tra các vụ án hình sự
nói chung, vụ án trộm cắp tài sản nói riêng đã đạt được một số thành tựu đáng
kể.
Tổng quan tình hình tội phạm từ năm 2015 đến năm 2019 trên địa bàn
quận Phú Nhuận, đã khởi tố: 701 vụ/581 bị can, trong đó khởi tố về vụ án
trộm cắp tài sản là: 306 vụ/163 bị can (chiếm tỷ lệ 43.7% tổng số vụ án khởi
tố trong thời gian 05 năm của quận Phú Nhuận). Trong 05 năm qua Cơ quan
CSĐT đã đình chỉ điều tra: 05 vụ/04 bị can, trong đó đình chỉ điều tra đối với
tội phạm trộm cắp tài sản là: 01 vụ/01 bị can chiến tỷ lệ 25% so với tỷ lệ đình
chỉ điều tra của Cơ quan CSĐT. Án tạm đình chỉ điều tra của Cơ quan CSĐT
- Công an quận Phú Nhuận là: 304 vụ /09 bị can, trong đó tạm đình chỉ điều
tra đối với tội phạm trộm cắp tài sản là: 181 vụ/05 bị can (chiếm tỷ lệ 59.5%).
Số kết thúc điều tra, đề nghị truy tố là: 416 vụ/597 bị can, trong đó đề nghị
48
truy tố về tội trộm cắp tài sản là: 136 vụ/166 bị can (chiếm tỷ lệ 32.7%).
Biểu đồ 2.1. Tổng số vụ án trộm cắp tài sản khởi tố mới so với tổng
số vụ án hình sự khởi tố trong giai đoạn 2015-2019
(Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác THQCT và KS hoạt động tư pháp
của Văn phòng Viện KSND quận Phú Nhuận các năm từ 2015 đến 2019)
Trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019 Viện KSND quận Phú
Nhuận, TP. Hồ Chí Minh đã ban hành Cáo trạng truy tố ra trước Tòa án nhân
dân là: 417 vụ/598 bị can, trong đó truy tố tội trộm cắp tài sản là: 138 vụ/166
bị can (chiếm tỷ lệ 33.1% tổng số vụ án Viện KSND truy tố).
Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, TP. Hồ Chí Minh đã đưa ra xét xử
trong 05 năm qua là: 433 vụ/620 bị can, trong đó đã xét xử tội trộm cắp tài
sản là: 143 vụ/172 bị can (chiếm tỷ lệ 33% tổng số vụ án đã xét xử).
Cụ thể, tình hình tội phạm trộm cắp tài sản diễn ra trong các năm từ
49
2015 đến 2019 tại quận Phú Nhuận TP. Hồ Chí Minh như sau:
Biểu đồ 2.2. Tổng số vụ án và bị can phạm tội trộm cắp tài sản trên
địa bàn quận Phú Nhuận giai đoạn 2015 – 2019
(Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác THQCT và KS hoạt động tư pháp
của Văn phòng Viện KSND quận Phú Nhuận các năm từ 2015 đến 2019)
Năm 2015 CQĐT khởi tố mới là: 73 vụ/42 bị can; kết thúc điều tra, đề
nghị truy tố: 37 vụ/50 bị can, tạm đình chỉ điều tra: 42 vụ; VKS đã ban hành
Cáo trạng truy tố: 37 vụ/50 bị can; Tòa án nhân dân đã xét xử 41 vụ/ 54 bị
can.
Năm 2016 CQĐT khởi tố mới là: 74 vụ/34 bị can; kết thúc điều tra, đề
nghị truy tố: 29 vụ/33 bị can, đình chỉ điều tra 01 vụ/01 bị can, tạm đình chỉ
điều tra: 46 vụ/01 bị can; VKS đã ban hành Cáo trạng truy tố: 29 vụ/33 bị
can; Tòa án nhân dân đã xét xử 29 vụ/ 34 bị can.
Năm 2017 CQĐT khởi tố mới là: 58 vụ/29 bị can; kết thúc điều tra, đề
nghị truy tố: 22 vụ/24 bị can, tạm đình chỉ điều tra: 30 vụ/02 bị can; VKS đã
ban hành Cáo trạng truy tố: 23 vụ/25 bị can; Tòa án nhân dân đã xét xử 23
50
vụ/25 bị can.
Năm 2018 CQĐT khởi tố mới là: 58 vụ/26 bị can, kết thúc điều tra, đề
nghị truy tố: 22 vụ/28 bị can, tạm đình chỉ điều tra: 41 vụ/02 bị can; VKS đã
ban hành Cáo trạng truy tố: 22 vụ/28 bị can; Tòa án nhân dân đã xét xử 25
vụ/31 bị can.
Năm 2019 CQĐT khởi tố mới là: 43 vụ/32 bị can, kết thúc điều tra, đề
nghị truy tố: 26 vụ/31 bị can, tạm đình chỉ điều tra: 22 vụ; VKS đã ban hành
Cáo trạng truy tố: 27 vụ/32 bị can; Tòa án nhân dân đã xét xử 25 vụ/28 bị can.
Như vậy, có thể thấy tội trộm cắp tài sản là một tội đứng “đầu bảng”
trong những tội về xâm phạm sở hữu nói riêng, đồng thời cũng là loại tội
chiếm tỷ lệ cao trong tổng số vụ án xảy ra tại quận Phú Nhuận. Nhìn chung,
tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn quận Phú Nhuận có xu hướng giảm
nhẹ, tuy vậy tội phạm này vẫn là loại tội chiếm tỷ lệ cao so với tổng số tội
phạm diễn ra trên địa bàn quận trong các năm.
2.2.3. Thực tiễn kiểm sát điều tra các tội trộm cắp tài sản
2.2.3.1. Những kết quả đạt được
Công tác KSĐT của Viện KSND quận Phú Nhuận trong hoạt động điều
tra tội phạm nói chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng những năm gần đây đã
đạt được nhiều kết quả, đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không
làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội.
Cụ thể, từ năm 2015 đến năm 2019 kết quả KSĐT của Viện kiểm sát
trong KSĐT các vụ án trộm cắp tài sản quận Phú Nhuận được thể hiện như
sau:
Kiểm sát quyết định khởi tố vụ án, quyết định khởi tố bị can
Với chức năng, nhiệm vụ được giao, trong những năm qua, Viện
KSND quận Phú Nhuận đã thực hiện tốt công tác kiểm sát này. Quá trình
kiểm sát hoạt động xử lý tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, khi
51
phát hiện thấy có dấu hiệu tội phạm nhưng CQĐT chưa tiến hành khởi tố thì
VKS yêu cầu CQĐT ra quyết định khởi tố. Nếu trường hợp, CQĐT vẫn
không ban hành quyết định khởi tố thì Viện kiểm sát trực tiếp ra quyết định
khởi tố vụ án.
Trường hợp CQĐT đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can thì
ngay sau khi VKS nhận được quyết định khởi tố cùng hồ sơ vụ án, Viện
trưởng phân công cho một Phó Viện trưởng phụ trách bộ phận để thực hiện
việc phân công KSV thực hiện chức năng kiểm sát quyết định khởi tố cùng hồ
sơ vụ án, nếu thấy các tài liệu đã thu thập được chưa đủ căn cứ để khởi tố vụ
án, khởi tố bị can thì VKS phải yêu cầu CQĐT tiếp tục xác minh hoặc tự
mình xác minh làm rõ. Nếu sau khi có kết quả xác minh vẫn chưa đủ căn cứ
để chứng minh có dấu hiệu phạm tội xảy ra thì VKS ra quyết định hủy bỏ
quyết định khởi tố vụ án và quyết định khởi tố bị can nhằm không để xảy ra
tình trạng làm oan người vô tội. Qua việc nghiên cứu kỹ, nắm chắc hồ sơ vụ
án dẫn đến chất lượng công tác kiểm sát hoạt động khởi tố vụ án, khởi tố bị
can tội trộm cắp tài sản trên địa bàn quận Phú Nhuận ngày càng được nâng
cao.
Từ năm 2015 đến 2019, Viện KSND quận Phú Nhuận đã yêu cầu Cơ
quan điều tra ra quyết định khởi tố vụ án hình sự 05 vụ, yêu cầu khởi tố 03 bị
can về tội trộm cắp tài sản. Các yêu cầu của VKS đều được CQĐT cùng cấp
chấp nhận và thực hiện. Viện KSND quận Phú Nhuận đã thụ lý kiểm sát 306
quyết định khởi tố vụ án và 163 quyết định khởi tố bị can về tội trộm cắp tài
sản.
Kiểm sát việc áp dụng, thay thế các biện pháp ngăn chặn
Đa số những vụ trộm cắp tài sản xảy ra trên địa bàn quận là loại tội ít
nghiêm trọng, số lượng tội phạm nghiêm trọng và rất nghiêm trọng không
nhiều. Thông thường sau khi khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tạm giam trong quá
52
trình điều tra, hoàn thiện hồ sơ vụ án thì CQĐT có công văn đề nghị Viện
kiểm sát quyết định thay thế biện pháp ngăn chặn bằng biện pháp ngăn chặn
cấm đi khỏi nơi cư trú.
Tuy nhiên, đối với các đối tượng phạm tội nghiêm trong, rất nghiêm
trọng, hay đã tái phạm, hoặc bị bắt theo quyết định truy nã thì khi tiến hành
điều tra việc áp dụng biện pháp ngăn chặn là bắt tạm giam để phục vụ việc
giải quyết vụ án, đối với những trường hợp này thường là không được thay
thế biện pháp ngăn chặn. Viện KSND quận Phú Nhuận đã thực hiện tốt công
tác kiểm sát việc bắt, tạm giữ, tạm giam theo đúng quy định của Luật tạm giữ,
tạm giam và thi hành án hình sự cùng các quy định khác của BLTTHS, đáp
ứng được tinh thần Chỉ thị 53 của Bộ Chính trị trong đó có nhấn mạnh trách
nhiệm của Viện KSND trong việc để CQĐT tiến hành áp dụng biện pháp bắt,
tạm giữ, tạm giam khi giải quyết vụ án hình sự: “Oan sai trong việc bắt, tạm
giữ, tạm giam trước hết thuộc về trách nhiệm của Viện KSND”.
Cụ thể như sau:
+ Việc áp dụng biện pháp bắt: Theo số liệu của Văn phòng Viện KSND
quận Phú Nhuận từ năm 2015 đến 2019, CQĐT đã bắt tổng số 157 đối tượng
có hành vi trộm cắp tài sản, trong đó: Bắt khẩn cấp 71 đối tượng, bắt quả tang
51 đối tượng; bắt theo lệnh truy nã 02 đối tượng, ra lệnh bắt tạm giam 33 bị
can.
+ Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn: Từ năm 2015 đến 2019, CQĐT
đã ra quyết định tạm giữ về hành vi trộm cắp tài sản tổng số 123 người; gia
hạn tạm giữ lần thứ nhất 113 người; gia hạn tạm giữ lần thứ hai 113 người.
Trong đó, tạm giữ chuyển tạm giam 118 bị can. Các quyết định gia hạn thời
hạn tạm giữ, lệnh tạm giam đều được VKS phê chuẩn, không có trường hợp
nào tạm giữ hình sự sau đó phải trả tự do hay chuyển xử lý hành chính do
không có hành vi phạm tội, không xảy ra trường hợp nào bị khởi tố, bị tạm
53
giam nhưng sau đó phải đình chỉ điều tra vì không phạm tội.
Kiểm sát việc tạm đình chỉ, đình chỉ vụ án:
Do thực hiện tốt công tác KSĐT, đồng thời tăng cường phối hợp với
CQĐT nên việc điều tra loại tội trộm cắp tài sản đã đạt được những kết quả
đáng khích lệ, qua công tác KSĐT và công tác kiểm tra trong thời gian từ năm
2015 đến năm 2019 cho thấy chỉ có 01 vụ/01 bị can CQĐT phải đình chỉ do
bị can chết, có 167 vụ án phải tạm đình chỉ điều tra do đã hết thời hạn điều tra
mà chưa xác định được bị can, 02 vụ/ 02 bị can phải tạm đình chỉ điều tra do
không biết rõ bị can đang ở đâu nhưng đã hết thời hạn điều tra vụ án, các vụ
án phải tạm đình chỉ đều đảm bảo có căn cứ, đúng pháp luật.
Kiểm sát hoạt động khám nghiệm hiện trường và các hoạt động
khác:
Kiểm sát khám nghiệm hiện trường: Kiểm sát khám nghiệm hiện
trường, đối với các vụ án trộm cắp tài sản là bắt buộc vì kết quả công tác
khám nghiệm có ý nghĩa rất quan trọng, quyết định trong việc đánh giá có sự
việc xảy ra trên thực tế hay không, từ đó làm căn cứ để có khởi tố hay không
khởi tố vụ án hình sự. Từ năm 2015 đến 2019, Viện KSND quận Phú Nhuận
đã tham gia kiểm sát khám nghiệm 164 vụ trộm cắp tài sản.
Kiểm sát các hoạt động khác: Trong hoạt động kiểm sát việc lấy lời
khai những người tham gia tố tụng, Viện KSND quận Phú Nhuận đã thực
hiện tốt nội dung này, đã chủ động yêu cầu ĐTV lấy lời khai kịp thời những
người làm chứng và người bị hại. Trong công tác kiểm sát biên bản lấy lời
khai nếu thấy vụ án có tính chất phức tạp hoặc có mâu thuẫn thì KSV sẽ trực
tiếp tiến hành lấy lời khai hoặc hỏi cung bị can để kiểm tra tính xác thực của
chứng cứ do CQĐT công an quận Phú Nhuận đã thu thập đồng thời làm rõ
những vấn đề còn mâu thuẫn trong hồ sơ, từ việc trực tiếp lấy lời khai, hỏi
54
cung KSV nắm chắc hơn hồ sơ vụ án, diễn biến, hành vi phạm tội.
Kiểm sát việc trưng cầu giám định, kết luận định giá tài sản bị thiệt
hại: Đối với các vụ án trộm cắp tài sản thì kết quả định giá tài sản bị trộm cắp
của cơ quan chuyên môn có ý nghĩa rất quan trọng, nhằm xác định hành vi
trộm cắp tài sản đó có phải là tội phạm hay không, tính chất mức độ của hành
vi mà bị can gây ra, thiệt hại thực tế của nạn nhân... Khi kiểm sát trưng cầu
giám định tư pháp trong vụ án hình sự, Viện KSND quận Phú Nhuận đã chủ
động đề ra yêu cầu giám định và yêu cầu CQĐT gửi quyết định trưng cầu
giám định để nghiên cứu đối với những vấn đề cần trưng cầu, kịp thời phát
hiện những vấn đề cần trưng cầu để bổ sung, kịp thời phát hiện các vấn đề cần
phải giám định bổ sung để yêu cầu CQĐT trưng cầu giám định cũng như
những vấn đề cần phải giải đáp. Nếu thấy có nghi ngờ về tính khách quan,
tính khoa học của bản kết luận giám định hoặc thấy kết luận giám định không
phù hợp với các chứng cứ khác thì trao đổi với CQĐT yêu cầu Cơ quan giám
định giải thích hoặc có trường hợp cần thiết thì ra quyết định trưng cầu giám
định bổ sung hoặc giám định lại. Từ năm 2015 đến năm 2019, Viện KSND
Phú Nhuận đã yêu cầu CQĐT ra 05 văn bản yêu cầu Cơ quan giám định giải
thích làm rõ nội dung trong các kết luận giám định làm căn cứ xử lý.
Nguyên nhân của những kết quả đã đạt được.
Một là, Đảng và Nhà nước ta đã và đang ngày càng quan tâm đến công
tác tư pháp nói chung và công tác của ngành kiểm sát nói riêng. Hiến pháp
năm 2013 đã tiếp tục khẳng định chức năng của Viện KSND là THQCT và
kiểm sát hoạt động tư pháp. Luật tổ chức Viện KSND năm 2014 và BLTTHS
năm 2015 cũng quy định rõ vị trí, vai trò, nhiệm vụ và quyền hạn của VKS
trong hoạt động điều tra, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho VKS thực hiện tốt
chức năng THQCT và KSĐT.
Quận ủy và Ủy ban nhân dân quận Phú nhuận đã kịp thời chỉ đạo cả về
55
hoạt động, công tác tổ chức cán bộ của các cơ quan tư pháp nói chung trong
đó có Viện KSND, Viện KSND quận Phú Nhuận cũng thường xuyên nhận
được sự quan tâm tạo điều kiện về cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ cho
công tác cũng như thường xuyên được tuyên dương, khen thưởng khi hoàn
thành xuất sắc chức năng nhiệm vụ của mình.
Hai là, liên ngành Bộ Công an - Viện KSND tối cao - Tòa án nhân dân
tối cao và Hội đồng thẩm phán TAND tối cao đã ban hành nhiều Thông tư,
Nghị quyết hướng dẫn, kịp thời giải quyết những vấn đề còn tồn tại, khó
khăn, vướng mắc trong việc điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm trong đó có
tội trộm cắp tài sản.
Viện trưởng Viện KSND tối cao cũng đã quan tâm ban hành các văn
bản, hướng dẫn rõ quy trình nghiệp vụ, chế độ, trách nhiệm của lãnh đạo,
KSV như: “Quy chế THQCT và KSĐT các vụ án hình sự”, “Quy chế THQCT
và kiểm sát khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi”… đã tạo sơ sở
pháp lý thuận lợi cho hoạt động THQCT và kiểm sát hoạt động điều tra các
vụ án hình sự nói chung.
Ba là, lãnh đạo Viện KSND Thành phố Hồ Chí Minh và Viện KSND
quận Phú Nhuận đã tập trung công tác lãnh đạo, chỉ đạo ngay từ khâu xây
dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện, đảm bảo các điều kiện cho công tác
THQCT và KSĐT các vụ án hình sự nói chung, vụ án trộm cắp tài sản nói
riêng, đề cao kỷ luật, trách nhiệm công vụ; đối với những vụ án có tính chất
phức tạp khi cần thiết lãnh đạo phải trực tiếp THQCT và KSĐT đối với các
vụ án hình sự nói chung và các vụ án trộm cắp tài sản nói riêng.
Công tác hướng dẫn, tổng kết rút kinh nghiệm công tác THQCT và
KSĐT, kiểm sát xét xử các vụ án hình sự nói chung và các vụ án trộm cắp tài
sản nói riêng được Viện KSND Thành phố Hồ Chí Minh coi trọng. Bên cạnh
đó, các Viện KSND trong cụm thi đua của Viện KSND Thành phố Hồ Chí
56
Minh thường xuyên tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm về những vụ án phức
tạp. Những công tác này đã tạo điều kiện thuận lợi, giúp cho Viện KSND
quận Phú Nhuận nhận thức đúng đắn, đầy đủ hơn, các KSV, kiểm tra viên
thông qua đó sẽ học hỏi được nhiều kinh nghiệm của các KSV giỏi, có kinh
nghiệm của các Viện KSND khác, đồng thời cũng kịp thời khắc phục thiếu
sót và nâng cao chất lượng trong KSĐT.
Bốn là, đội ngũ cán bộ, KSV trực tiếp thực hiện công tác KSĐT các vụ
án hình sự của Viện KSND quận Phú Nhuận ngày càng bản lĩnh, ý thức trách
nhiệm nghề nghiệp, trách nhiệm công vụ và năng lực trình độ chuyên môn
ngày càng được nâng cao đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp trong giai
đoạn hiện nay.
2.2.3.2. Những tồn tại, hạn chế
Bên cạnh những ưu điểm đã đạt được như đã nêu trên, trong hoạt động
KSĐT các vụ án trộm cắp tài sản của Viện KSND quận Phú Nhuận còn một
số tồn tại, hạn chế sau
Thứ nhất, về hoạt động kiểm sát khám nghiệm hiện trường
Tình trạng vi phạm Điều 201 BLTTHS năm 2015 về thành phần khám
nghiệm không đúng, không đầy đủ theo quy định. Trên thực tế có những vụ
việc tham gia khám nghiệm chỉ có cán bộ điều tra hoặc cán bộ Viện kiểm sát
mà không phải ĐTV, KSV tham gia khám nghiệm, có những vụ có thành
phần là đủ lực lượng chức năng nhưng thiếu thành phần là người chứng
kiến….
Điển hình là vụ án sau: Khoảng 01 giờ 00 phút ngày 12/6/2019, Lễ
đang chơi game bắn cá tại 205 Phan Xích Long, Phường 7, quận Phú Nhuận
thì gặp Lê Kim Ngân, tên thường gọi là “Bé cá”, tại đây Ngân rủ Lễ đi trộm
cắp tài sản thì Lễ đồng ý, sau đó Lễ điều khiển xe mô tô Honda Wave màu
đen, biển số 71S2-8324 của Lễ chở Ngân đi lòng vòng tìm tài sản sơ hở thì
57
lấy trộm. Khi đi đến cổng khu E, cư xá Nguyễn Văn Trỗi, Phường 17, quận
Phú Nhuận thì Lễ dừng xe và nói Ngân vào kiểm tra cổng, Ngân đi lại xem
thấy cửa cổng không khóa nên nói cho Lễ biết, Lễ kêu Ngân đứng ngoài giữ
xe để Lễ đi vào bên trong, quan sát khu vực để xe gần cầu thang thấy có nhiều
xe, không người trông coi, Lễ dùng đoản mang theo sẵn mở khóa xe mô tô
Honda Airblade, biển số 60B2-262.33 (của chị Hồ Nữ Diệu Hiền) rồi dẫn ra
ngoài đường nổ máy và cùng Ngân mỗi người một xe chạy về khách sạn Yến
Nhi (không rõ địa chỉ) tại quận Bình Thạnh. Sau đó, Lễ nói với Ngân bên
trong cư xá Nguyễn Văn Trỗi còn nhiều xe nên Ngân gọi điện thoại rủ đối
tượng tên Chuối (không rõ nhân thân, lai lịch) đến khách sạn để Lễ, Ngân và
Chuối cùng nhau đi lấy trộm xe. Sau đó, Lễ lấy xe biển số 71S2-8324 chở
Ngân và Chuối quay trở lại cư xá. Đến nơi thì Ngân đứng ngoài giữ xe và
cảnh giới, còn Lễ và Chuối vào bên trong cư xá. Lễ dùng đoản mở khóa hai
xe mô tô hiệu Honda Lead, biển số 60R2-6479 (của chị Nguyễn Hồ Nhật
Linh) và xe mô tô hiệu Yamaha Sirius, biển số 60R4-0605 (của chị Đỗ Thị
Khánh Ngân) sau khi lấy được xe Lễ điều khiển xe mô tô hiệu Honda Lead đi
gửi tại chung cư Mỹ Đức, quận Bình Thạnh rồi quay về Khách sạn chụp hình
gửi cho Trầm Phước An để bán xe mô tô hiệu Honda Airblade, biển số 60B2-
262.33 nhưng An chưa trả lời, Ngân về nhà nghỉ, còn Chuối đi đâu không rõ.
Đến khoảng 07 giờ 00 cùng ngày, Ngân đến Khách sạn gặp Lễ để trả xe và
nói Chuối chạy xe mô tô hiệu Yamaha Sirius, biển số 60R4-0605 đến chung
cư Mỹ Đức để gửi. Sau đó Lễ điều khiển xe hiệu Honda Airblade, biển số
60B2-262.33 đến chung cư Mỹ Đức gặp Chuối để cả hai gửi xe vào chung cư
rồi Lễ giữ cả 03 thẻ xe đã lấy trộm nêu trên. Sau khi gửi xe xong, Lễ gửi tiếp
hình ảnh hai xe mà Lễ và Chuối vừa gửi vào chung cư cho Trầm Phước An để
hỏi giá bán. Lúc này, An báo giá xe hiệu Honda Airblade, biển số 60B2-
262.33 giá 2.000.000 đồng, xe hiệu Honda Lead, biển số 60R2-6479 giá
58
1.300.000 đồng và xe hiệu Yamaha Sirius, biển số 60R4-0605 giá 2.000.000
đồng. Lễ đồng ý và giao 03 thẻ giữ xe lại cho An, Lễ không nhận trực tiếp
tiền bán xe của An mà nói Ngân đến lấy. Sau khi bán được xe, Ngân cầm
5.300.000 đồng về đưa cho Lễ, Lễ chia cho Ngân 2.100.000 đồng.
Khi tiến hành khám nghiệm hiện trường vụ án trên, CQĐT đã không
mời người chứng kiến việc khám nghiệm hiện trường, KSV kiểm sát việc
khám nghiệm hiện trường cũng không yêu cầu CQĐT mời người chứng kiến
việc khám nghiệm hiện trường. Như vậy, là vi phạm quy định tại Điều 201
BLTTHS năm 2015.
Thứ hai, một số vụ án trộm cắp tài sản ĐTV và KSV còn xem nhẹ kết
luận định giá tài sản bị thiệt hại hoặc thực hiện nhưng không đúng quy định
của pháp luật nên đã gây khó khăn trong việc giải quyết vụ án, dẫn đến thời
gian giải quyết vụ án bị kéo dài.
Điển hình là vụ án sau: Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 04/02/2019, Đỗ
Quốc Huy sử dụng xe gắn máy Biến số 59S1-42907 chở Phạm Doãn Sang đi
mua cơm. Khi đi ngang số 150 Trần Kế Xương, Phường 7, quận Phú Nhuận
thì Sang phát hiện trong có 01 cái ba lô của anh Lê Hoàng Duy để trên ghế,
nên nảy sinh ý định lấy trộm balo trên, Huy liền quay xe lại rồi xuống xe đi
bộ vào lấy ba lô, còn Sang ở ngoài xe chờ. Sau khi lấy được tài sản Sang chở
Huy về nhà ở đường Nguyễn Thượng Hiền, cả hai kiểm tra thấy bên trong có
01 laptop hiệu Macbook Air, 03 đồng hồ điện thoại. Huy chở Sang đến cửa
hàng Quỳnh Như, số 40 Phùng Văn Cung, Phường 7, quận Phú Nhuận bán
máy laptop hiệu Macbook Air được 4.300.000đ, chia mỗi người 2.000.000đ
còn 300.000đ thì ăn uống và đổ xăng xe. Riêng 03 đồng hồ điện thoại, Huy
giữ 01 cái và Sang giữ 02 cái. Cơ quan CSĐT đã tiến hành định giá 03 đồng
hồ điện thoại được 5.000.000đ.
Trong quá trình điều tra, CQĐT đã không tiến hành định giá lại chiếc
59
máy laptop hiệu Macbook Air, mà lấy giá tiền đối tượng bán được để tính tài
sản bị can đã chiếm đoạt. Do đó, vấn đề dân sự của vụ án đã không được giải
quyết đúng đắn khi xác định thiệt hại của bị hại chỉ có 9.300.000đ.
Thứ ba, việc áp dụng biện pháp ngăn chặn
Trong quá trình THQCT và KSĐT vụ án, KSV khi kiểm sát việc áp
dụng biện pháp ngăn chặn đôi khi còn để xảy ra tình trạng VKS vẫn phê
chuẩn việc bắt bị can để tạm giam trong khi hồ sơ không đủ căn cứ và không
thực sự cần thiết phải áp dụng biện pháp ngăn chặn.
Điển hình là vụ án sau: Khoảng 20 giờ 00 ngày 25/4/2015. Lê Minh
Quân đi chơi về ngang qua nhà số 50/37/1 Đỗ Tấn Phong, Phường 9, quận
Phú Nhuận, TP. Hồ Chí Minh thì nhìn thấy nhà không đóng cửa, thấy bên
trong nhà có 01 chiếc máy tính bảng mini màu trắng hiệu Ipad đế dưới đất
gần chân bàn không có người trong coi nên nảy sinh lòng tham muốn chiếm
đoạt chiếc Ipad trên. Quân đến nhà bạn là Nguyễn Trung Hiếu số 94/3 Trần
Khắc Chân, Phường 09, quận Phú Nhuận, TP. Hồ Chí Minh và rủ Hiếu đi lấy
trộm chiếc Ipad trên, Hiếu đồng ý. Khi cả hai đi bộ đến trước nhà số 50/37/1
Đỗ Tấn Phong, Phường 9, quận Phú Nhuận, TP. Hồ Chí Minh, Quân nói với
Hiếu đứng ngoài canh chừng cho Quân vào lấy trộm Ipad để dưới đất bỏ vào
trong áo phía trước và cùng Hiếu đi bộ về nhà. Sau đó, Quân nói với Hiếu
mang chiếc Ipad vừa mới trộm được cầm cho chị dâu của Quân là chị Bùi
Nguyễn Thanh Phương được 2.000.000 đồng và Quân chia cho Hiếu 200.000
đồng, số tiền còn lại Quân giữ và cùng Hiếu đi chơi bắn cá thua hết. Khoảng
22 giờ cùng ngày, Quân gặp lại chị Phương nói đưa thêm 300.000 đồng nữa
thì Hiếu bán chiếc Ipad nói trên cho chị Phương, chị Phương đồng ý và đưa
thêm cho Quân số tiền 300.000 đồng. Khoảng 16 giờ ngày 26/4/2015, chị Lại
Bích Thảo về nhà và phát hiện bị mất trộm chiếc Ipad nên đã đến công an
Phường 09, quận Phú Nhuận, TP. Hồ Chí Minh trình báo. Qua quá trình điều
60
tra Công an đã bắt giữ Quân và Hiếu.
Trong vụ án, Quân và Hiếu đều có nơi cư trú rõ ràng, thực hiện hành vi
ít nghiêm trọng, nhưng CQĐT vẫn gia quyết định tạm giam đối với cả Quân
và Hiếu. VKS cũng ra quyết định phê chuẩn lệnh tạm giam của CQĐT. Như
vậy, Quân và Hiếu đủ điều kiện và không cần thiết phải áp dụng biện pháp
tạm giam, nhưng CQĐT và VKS vẫn áp dụng biện pháp ngăn chặn này.
Thứ tư, Kiểm sát việc khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can còn để xảy
ra tình trạng khởi tố chưa đúng tội danh, còn nhầm lẫn giữa tội trộm cắp tài
sản với những tội phạm khác trong nhóm các tội xâm phạm sở hữu.
Điển hình là vụ án sau: Khoảng 19g 20 ngày 22.02.2016 Nguyễn
Thành Duy Phong di bộ trên đường Phan Văn Trị, quận Bình Thạnh, Tp.Hồ
Chí Minh thì gặp Ngô Chánh Trực đang điều khiển xe mô tô hiệu Luvias,
Phong kêu Trực và cả 2 cùng vào quán cà phê nói chuyện. Tại dây, Phong rủ
Trực qua quận Phú Nhuận trộm xe bán lấy tiên tiêu xài. Trực đồng ý. Khi đến
trước nhà số 20/35 đường Cô Bắc, Phường 1, quận Phú Nhuận Tp.Hồ Chí
Minh, Phong nhìn thấy chiếc xe Wave biển số 54R2-2780 cùa bị hại Trân Thị
Thùy Trang đang dựng trước nhà không người trông coi. Phong kêu Trực
ngừng xe và chạy lên phía trước đứng đợi, còn Phong đi bộ lại dùng cây đoản
mở khóa cổ và công tắc xe rồi leo lên nổ máy bỏ chạy thì bị té ngã. Lúc này,
người nhà chị Trang phát hiện chạy ra giữ xe lại và truy hô, Phong đã dùng
chân đạp chị Trang té ngã để lấy xe chạy đi. Phong đã bị người dân xung
quanh bắt được, sau khi thấy Phong bị đuổi bắt, Trực đã nổ máy xe chạy
trước. Phong bị bắt giao về Công an Phường 1 quận Phú Nhuận, Tp.Hồ Chí
Minh xử lý. Riêng cây đoản Phong đã làm rơi mất trong lúc bỏ chạy.
Trong vụ án, CQĐT chỉ khởi tố bị can về hành vi trộm cắp tài sản. Tuy
nhiên, qua tình tiết vụ án cho thấy, hành vi của bị can đã chuyển hóa thành
61
hành vi “Cướp tài sản”, nhưng CQĐT vẫn nhận định đây là hành vi trộm cắp
tài sản. Sau quá trình điều tra, VKS đã trả hồ sơ bổ sung, yêu cầu CQĐT thay
đổi hành vi bị can đã thực hiện thành tội “Cướp tài sản”.
Thứ năm, KSV được giao nhiệm vụ THQCT, KSĐT do thiếu kinh
nghiệm, không thận trọng trong việc kiểm sát khám nghiệm hiện trường, khi
tiếp cận hiện trường không thu thập thông tin, lấy lời khai người làm chứng,
hỏi cung bị can của ĐTV, không tham gia hỏi cung hoặc tự hỏi cung bị can
dẫn đến tình trạng định tội danh sai. Khi vụ án kết thúc điều tra, CQĐT đề
nghị truy tố và chuyển hồ sơ đến VKS, trong quá trình nghiên cứu toàn bộ hồ
sơ để hoàn thiện quá trình điều tra, quyết định việc truy tố mới phát hiện ra,
VKS đã phải trả hồ sơ cho CQĐT để điều tra bổ sung.
Điển hình là vụ án sau: Khoảng 02 giờ ngày 24.7.2016 Chung Chí
Dinh, Trương Đỗ Hà Minh (vợ Dinh) đang chơi game ở tiệm internet trên
đường Lý Chính Thắng, Quận 3 thì Trịnh Xuân Sơn gọi điện cho Dinh nói
đên nhà chở Sơn đi chơi. Dinh đi xe wave biên số 76V2- 6502 đến chở Sơn
lại tiệm game trên đường Trần Quang Khải, Quận 1. Tại đây, Sơn gọi điện
cho Đinh Đức Trọng rủ Trọng đi trộm. Sau đó Dinh về tiệm internet chở vợ
đến cùng tham gia. Sau khi gặp nhau thì Trọng chạy xe gắn máy hiệu
Airblade biển số 59S1-443.18 chở Sơn còn Dinh chở Minh. Tất cả chạy xe
lòng vòng trong các con hẻm ở quận Phú Nhuận tìm xem có nhà nào sơ hở thì
đột nhập vào lấy trộm. Khi vào hẻm sô 352 đường Cô Giang, Phường 2, quận
Phú Nhuận thì Sơn phát hiện nhà sô 352/1 đường Cô Giang, Phường 2, quận
Phú Nhuận, Tp.Hồ Chí Minh để chùm chìa khóa nhà gần cửa; Sơn phân công
Dinh và Minh chạy xe ra đầu đường đứng cảnh giới, Trọng đậu xe Airblade
chờ trước cửa nhà số 352/1 chờ Sơn; Sơn trèo qua hàng rào vào trong sân nhà
dùng một đoạn cây dài khoảng l,2m móc lấy chùm chìa khóa nhà, rồi dùng
chùm chìa khóa mở cửa vào trong nhà lấy trộm được 01 điện thoại Samsung
62
màu đen, 01 điện thoại hiệu LG 350 inh màu đen, 01 điện thoại Nokia Lumia
màu trắng, 01 điện thoại Oppo màu trắng và 01 xe gắn máy hiệu wave màu đỏ
biển số 55Y2 - 4881. Sau khi lấy được số tài sản trên Sơn đem chiếc xe wave
lấy trộm được cùng với Trọng, Dinh, Minh bán cho Nguyễn Thanh Thuận
được 3.000.000 đồng. Sau đó, cả nhóm chạy về phía bờ kè thuộc khu vực
Quận 3. Sơn chia cho Dinh và Minh chiếc điện thoại di động SamSung màu
đen, 02 ổ khóa, 01 chùm chìa khóa và 1.000.000 đồng. Trên đường về nhà
Dinh và Minh bị Công an kiểm tra và bắt giữ cùng tang vật. Sơn và Trọng đi
vê Quận 1 chơi game và bị bắt sau đó - Sơn khai đã chơi game hết số tiền
2.000.000 đồng, còn 3 chiếc điện thoại Sơn đưa cho một người tên “Chó con”
giữ - không thu hồi được.
Trong vụ án, CQĐT không làm rõ ý thức của Nguyễn Thanh Thuận có
biết tài sản mua của nhóm Trọng, Dinh, Minh là tài sản trộm cắp mà có hay
không? Do đó, CQĐT chưa giải quyết hết các vấn đề của vụ án, vì vậy, vụ án
đã bị trả điều tra bổ sung để làm rõ hành vi của Nguyễn Thanh Thuận.
Thứ sáu, trong quá trình KSĐT các vụ án hình sự nói chung, vụ án
trộm cắp tài sản nói riêng, Viện KSND quận Phú Nhuận chưa kịp thời phát
hiện những vi phạm của CQĐT công an quận Phú Nhuận trong việc thực hiện
các quy định của BLTTHS hoặc sau khi phát hiện những vi phạm, hạn chế
còn tình trạng nể nang không ban hành văn bản kiến nghị, yêu cầu khắc phục
vi phạm hoặc đã kiến nghị nhưng thực hiện chưa triệt để dẫn đến hoạt động
điều tra của CQĐT có những vi phạm nghiêm trọng kéo dài. Đó cũng là
những nguyên nhân dẫn đến các vụ án phải điều tra lại, điều tra bổ sung trong
các vụ án trộm cắp tài sản trong thời gian qua trên địa quận Phú Nhuận Thành
phố Hồ Chí Minh.
Nguyên nhân của hạn chế, tồn tại:
Những hạn chế, tồn tại nêu trên trong quá trình điều tra và KSĐT vụ án
63
trộm cắp tài sản tại địa bàn quận Phú Nhuận có nhiều nguyên nhân, nhưng
qua nghiên cứu đối với công tác KSĐT tội phạm trộm cắp tài sản của Viện
KSND quận Phú Nhuận cho thấy chủ yếu là do những nguyên nhân cơ bản
sau:
Thứ nhất, việc ban hành các văn bản luật và hướng dẫn áp dụng pháp
luật chưa kịp thời. Khi văn bản Luật có hiệu lực thi hành cần được hướng dẫn
kịp thời nhằm giúp các cơ quan, người áp dụng pháp luật ngặp thuận lợi khi
thi hành pháp luật. Về ban hành văn bản hướng dẫn thi hành luật, qua rà soát
26 dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết được Quốc hội thông qua thì có đến
khoảng 10 văn bản có tiến độ chậm.
Thứ hai, về trình độ, năng lực, ý thức trách nhiệm của KSV
Trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực công tác, trách nhiệm cá
nhân, bản lĩnh nghề nghiệp của một bộ phận KSV còn có hạn chế nhất định.
Đội ngũ KSV là nhân tố quan trọng nhất quyết định đến hiệu quả thực hiện
chức năng nhiệm vụ của ngành KSND. Những tồn tại, hạn chế trong công tác
KSĐT các vụ án hình sự nói chung, các vụ án trộm cắp tài sản nói riêng có
nguyên nhân cơ bản từ hạn chế về trình độ nhận thức, kỹ năng, kinh nghiệm,
trách nhiệm, bản lĩnh nghề nghiệp của KSV.
Về trình độ chuyên môn: Một số KSV hiểu chưa sâu và chưa đầy đủ,
chưa có tính tổng hợp về hệ thống các quy phạm pháp luật về hình sự, tố tụng
hình sự, các quy phạm pháp luật có liên quan, các văn bản hướng dẫn công
tác KSĐT của Viện KSND tối cao từ đó làm giảm hiệu quả của hoạt động
này.
Về kỹ năng kinh nghiệm nghề nghiệp: Một số KSV chưa được đào tạo
bài bản, hầu hết chỉ được đào tạo chung về kiến thức pháp luật, về kỹ năng
nghề nghiệp chủ yếu được tích luỹ, tự học tập và hình thành qua quá trình
công tác thực tiễn, trong khi đó có nhiều KSV trẻ mới vào ngành, còn ít kinh
64
nghiệm công tác nên đã ảnh hưởng đến chất lượng hiệu quả công tác KSĐT.
Bên cạnh đó, vẫn còn có KSV chưa đề cao trách nhiệm của người
KSV, nghiên cứu các quy định của pháp luật không sâu, thực hiện không đầy
đủ quy trình công tác, ngại vất vả, khó khăn khi đấu tranh mở rộng vụ án hoặc
lo ngại phải chịu trách nhiệm nếu để xảy ra oan sai hoặc áp lực tác động của
dư luận, cơ quan ngôn luận nên cá biệt có KSV do trách nhiệm, bản lĩnh nghề
nghiệp hạn chế đã bộc lộ tư tưởng né tránh, thiếu kiên quyết đấu tranh trong
một số vụ án trộm cắp tài sản.
Đội ngũ KSV thực hiện công tác THQCT và KSĐT các vụ án hình sự
cũng như các vụ án trộm cắp tài sản còn thiếu về số lượng; trong việc bố trí
phân công nhiệm vụ đôi khi còn có mặt chưa hợp lý. Biên chế Viện kiểm sát
nhân dân quận Phú Nhuận được giao ít nhưng phải thực hiện chức năng kiểm
sát hoạt động tư pháp trên nhiều lĩnh vực và kiêm nhiệm nhiều khâu công tác
nên ảnh hưởng đến việc nghiên cứu chuyên sâu, tích luỹ kinh nghiệm công
tác, rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp của KSV, từ đó làm giảm hiệu quả, chất
lượng công việc.
Thứ ba, công tác quản lý chỉ đạo điều hành, kiểm tra, thanh tra chưa
được quan tâm đúng mức.
Thứ tư, sự phối hợp giữa VKS với Cơ quan điều tra và các cơ quan hữu
quan chưa tốt.
Hiệu quả công tác phối hợp liên ngành giữa Viện KSND với CQĐT
cũng như với các cơ quan, tổ chức có liên quan là một trong những nguyên
nhân quan trọng để đảm bảo kết quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội
phạm nói chung và kết quả KSĐT tội phạm trộm cắp tài sản nói riêng. Thực
tiễn ở quận Phú Nhuận đã cho thấy chỉ khi CQĐT và Viện KSND có sự phối
hợp chặt chẽ, nhịp nhàng thì việc giải quyết các vụ án hình sự nói chung và án
trộm cắp tài sản nói riêng được đảm bảo thực hiện nhanh chóng, kịp thời,
65
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm cũng như không
làm oan người vô tội, hoạt động điều tra và giải quyết vụ án sẽ đạt hiệu quả
cao; Bên cạnh đó, sẽ hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng cơ quan THTT và
người THTT vi phạm quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án.
Việc phối hợp giữa CQĐT và VKS còn bộc lộ hạn chế trong việc phối hợp
tổng kết kinh nghiệm giải quyết án trộm cắp tài sản trên địa bàn.
Sự phối hợp giữa các cơ quan THTT với các cơ quan, tổ chức có liên
quan còn hạn chế, công tác định giá tài sản trong TTHS nói chung, trong giải
quyết vụ án trộm cắp tài sản nói riêng vẫn còn nhiều bất cập.
Giữa KSV và ĐTV chưa có sự phối hợp nhịp nhàng trong quá trình
điều tra và kiểm sát điều tra, dẫn đến nhiều yêu cầu điều tra của KSV không
được ĐTV thực hiện hiệu quả.
Thứ năm, cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của VKS, CQĐT còn thiếu và đã lỗi thời so với thời đại
công nghệ 4.0.
Thứ sáu, chế độ chính sách đãi ngộ đối với các cán bộ VKS nói riêng,
các cơ quan tư pháp nói chung chưa có sức thu hút những người giỏi vào
66
ngành kiểm sát và các cơ quan tư pháp khác.
Tiểu kết chương 2
Trong chương 2, tác giả đã nghiên cứu làm rõ các quy định của pháp
luật về KSĐT các vụ án hình sự nói chung, các vụ án trộm cắp tài sản nói
riêng đó là các quy định về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi
tố vụ án, khởi tố bị can và lập hồ sơ vụ án; quy định về kiểm sát hỏi cung bị
can, kiểm sát việc lấy lời khai người làm chứng, người bị hại; quy định về
kiểm sát các hoạt động điều tra khác; quy định về kiểm sát việc tạm đình chỉ,
đình chỉ điều tra và phục hồi điều tra; quy định về kiểm sát việc áp dụng, thay
đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn; quy định về kiểm sát việc thực hiện
quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng và thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn khác. Tác giả nêu một số nét khái quát về đặc điểm địa bàn quận
Phú Nhuậnn TP. Hồ Chí Minh và tổng quan tình hình tội phạm xảy ra tại địa
bàn quận. Trên cơ sở những vấn đề có liên quan trên, tác giả đi sâu vào
nghiên cứu thực trạng KSĐT các vụ án trộm cắp tài sản xảy ra trên địa bàn
quận Phú Nhuận, TP. Hồ Chí Minh từ năm 2015 đến năm 2019. Trong đó, tác
giả chỉ rõ thực tiễn hoạt động KSĐT các vụ án trộm cắp tài sản; đã đánh giá
những kết quả thành công đạt được, nhưng cũng chỉ ra được những hạn chế,
thiếu sót đang tồn tại trong hoạt động KSĐT các vụ án trộm cắp tài sản của
Viện KSND quận Phú Nhuận, tác giả đưa ra những nguyên nhân của các tồn
tại, hạn chế trong hoạt động KSĐT các vụ án trộm cắp tài sản. Trên cơ sở đó,
có căn cứ để đề xuất những giải pháp cụ thể, hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động KSĐT của Viện KSND nói chung, KSĐT các vụ án trộm cắp
67
tài sản nói riêng.
Chương 3
NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN TRỘM CẮP TÀI SẢN
3.1. Tăng cường giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật
Cần tăng cường triển khai thực hiện quy định của BLHS năm 2015 sửa
đổi bổ sung năm 2017 và BLTTHS năm 2015 về tội trộm cắp tài sản và hoạt
động kiểm sát điều tra tội phạm nói chung, tội trộm cắp tài sản nói riêng.
Về mặt lý luận cũng như thực tiễn, công tác KSĐT các vụ án trộm cắp
tài sản cho thấy các tình huống xảy ra trong thực tế luôn đa dạng phong phú
hơn so với các quy định của pháp luật. Trong khi đó các quy định pháp luật
hình sự, tố tụng hình sự thường được xây dựng mang tính khái quát cao, nên
thường thiếu cụ thể, khó nhận thức thống nhất khi áp dụng trực tiếp vào thực
tiễn. Do đó, công tác giải thích, hướng dẫn pháp luật đóng một vai trò rất
quan trọng, là một trong những điều kiện cơ bản đảm bảo chất lượng, hiệu
quả thi hành pháp luật.
Việc hướng dẫn pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền còn chậm và
còn bộc lộ sự thiếu thống nhất, có nội dung chưa phù hợp với thực tiễn. Để
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giải thích, hướng dẫn pháp luật theo
tác giả cần nghiên cứu, đưa ra các giải pháp thật cụ thể.
Cần nghiên cứu tổng rà soát các quy phạm pháp luật cần hướng dẫn
nhưng chưa được hướng dẫn, các quy phạm pháp luật đã được hướng dẫn
nhưng chưa đầy đủ, còn thiếu sót, chưa phù hợp với thực tiễn… Quá trình
nghiên cứu cần phải coi trọng yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn, xuất phát từ thực
tiễn công tác KSĐT tại các Viện KSND địa phương trong quá trình giải quyết
68
các vụ án hình sự nói chung và các vụ án trộm cắp tài sản nói riêng.
Cần ưu tiên tập trung hướng dẫn những vấn đề có nhiều bức xúc, mới
được bổ sung, sửa đổi hướng dẫn chưa đầy đủ, chưa phù hợp… cần tăng
cường xây dựng các văn bản hướng dẫn của liên ngành trung ương, hạn chế
việc ban hành văn bản hướng dẫn pháp luật đơn ngành để tránh tình trạng
chồng chéo, thiếu thống nhất trong việc hướng dẫn trong hoạt động thi hành
và áp dụng pháp luật. Cùng với việc tăng cường công tác hướng dẫn pháp luật
liên ngành cần tăng cường công tác hệ thống hoá các văn bản hướng dẫn pháp
luật một cách khoa học, hoàn thiện để đảm bảo thuận lợi cho hoạt động ở cấp
áp dụng trực tiếp.
Đối với Viện KSND cấp tỉnh cần coi trọng và thực hiện tốt công tác
nghiên cứu tổng kết thực tiễn công tác KSĐT các vụ án hình sự nói chung, vụ
án trộm cắp tài sản nói riêng, để kịp thời phát hiện tổng hợp những khó khăn,
vướng mắc, những vấn đề còn có nhận thức khác nhau khi áp dụng các quy
phạm pháp luật để kiến nghị với Viện KSND tối cao với liên ngành Trung
ương để nghiên cứu hướng dẫn, giải thích.
3.2. Nâng cao trình độ, năng lực, ý thức trách nhiệm của đội ngũ
cán bộ, KSV
Nâng cao hơn nữa nhận thức và năng lực chuyên môn, ý thức trách
nhiệm của KSV kiểm sát điều tra các tội trộm cắp tài sản. Nâng cao nhận thức
công tác giáo dục chính trị tư tưởng để có đội ngũ cán bộ, KSV có lập trường
tư tưởng chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức, có ý thức trách nhiệm
và năng lực trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, phải “Công minh, chính trực,
khách quan, thận trọng, khiêm tốn” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy cán bộ
ngành Kiểm sát. Đây là tôn chỉ, là kim chỉ nam cho mỗi cán bộ, KSV trong
ngành kiểm sát luôn tuân theo trong công cuộc bảo vệ Hiến pháp và pháp luật.
Các cấp có thẩm quyền cần phải có kế hoạch đào tạo phù hợp, tạo điều
69
kiện thuận lợi để cán bộ, KSV có thể tham gia các khóa học tập nâng cao
trình độ nhận thức chính trị, đạo đức cách mạng, chuyên môn nghiệp vụ; đồng
thời tạo điều kiện, khuyến khích động viên cán bộ, KSV có ý thức tự nghiên
cứu, học tập nâng cao trình độ nghiệp vụ của bản thân và trau dồi đạo đức
nghề nghiệp, đạo đức công vụ của người Kiểm sát nhân dân.
Coi trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho đội ngũ cán bộ,
KSV, công tác này phải được thực hiện thường xuyên và liên tục trong từng
đơn vị trong thời gian dài, mỗi KSV phải nắm vững các quy định của pháp
luật, chính sách hình sự của Nhà nước, vận dụng tốt vào công tác kiểm sát để
thực hiện chức năng của ngành đặc biệt là chức năng KSĐT các vụ án hình
sự.
Đồng thời với việc tiếp tục nâng cao nghiệp vụ, kỹ năng KSĐT tội trộm
cắp tài sản cho cán bộ, công chức ngành kiểm sát là việc gắn với cuộc vận
động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”
theo đúng tinh thần Nghị quyết Trung ương IV khóa XII của Đảng đã đề ra.
Cùng với đó là gắn với cuộc vận động xây dựng đội ngũ cán bộ, Kiểm sát
viên “Vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, công tâm
và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm” trong toàn ngành KSND. Cùng với
việc giáo dục về chính trị, tư tưởng cho Lãnh đạo, KSV cần phải gắn liền với
việc đề cao trách nhiệm, tính gương mẫu của người đứng đầu, của cán bộ lãnh
đạo quản lý, của Kiểm sát viên và toàn thể cán bộ ngành kiểm sát. Xây dựng
cho mỗi người cán bộ, KSV ý thức tự tôn pháp luật, xây dựng đạo đức công
vụ, kỷ cương, kỷ luật nghiệp vụ của đơn vị, của ngành, ý thức trách nhiệm,
trên tinh thần học hỏi cầu thị.
Cần coi trọng việc định kỳ đào tạo chuyên sâu theo hình thức tập huấn
nghiên cứu các chuyên đề án hình sự nói chung, án trộm cắp tài sản nói riêng,
như chuyên đề về kiểm sát khám nghiệm hiện trường, kiểm sát việc hỏi cung
70
bị can; kiểm sát hoạt động đối chất, chuyên đề công tác THQCT, kiểm sát
điều tra các vụ án hình sự …, nội dung chủ yếu của công tác tập huấn tập
trung vào công tác rút kinh nghiệm từ thực tiễn công tác ở các đơn vị và kỹ
năng của các chuyên gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Chú trọng việc tổ
chức các loại hình đào tạo thích hợp để tất cả các cán bộ, KSV có thời gian
học tập tích luỹ kinh nghiệm, kỹ năng nghề nghiệp như tổ chức cho KSV, cán
bộ tham dự trực tiếp các phiên toà xét xử, các buổi thực nghiệm điều tra, buổi
hỏi cung của các KSV có kinh nghiệm và năng lực trình độ, kết thúc buổi
thực nghiệm thực tế có tổ chức rút kinh nghiệm.
Định kỳ hoặc đột xuất Viện KSND cùng cấp hoặc Viện KSND cấp trên
thực hiện tổng kết rút kinh nghiệm để KSV, cán bộ ngành kiểm sát tích luỹ
kinh nghiệm, kỹ năng nghề nghiệp chuyên môn nghiệp vụ; Tăng cường việc
chú trọng thực hiện công tác tổng kết, rút kinh nghiệm theo chuyên đề như:
“chuyên đề nâng cao chất lượng kiểm sát điều tra tội phạm trộm cắp tài sản;
chuyên đề tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra theo yêu
cầu cải cách tư pháp; chuyên đề tổng hợp vướng mắc trong việc giải quyết các
vụ án trộm cắp tài sản trên địa bàn” [14, tr.40-45]…
Lãnh đạo phụ trách đơn vị tăng cường công tác kiểm tra, giám sát qua
đó kịp thời phát hiện vi phạm, thiếu sót của cán bộ, KSV để có biện pháp
chấn chỉnh, khắc phục kịp thời, tùy tính chất, mức độ của từng trường hợp cụ
thể để áp dụng các hình thức kỷ luật tương xứng như khiển trách, cảnh cáo,
kỷ luật hay xử lý hình sự...
3.3. Tăng cường quan hệ phối hợp và ước chế giữa Viện kiểm sát
với Cơ quan điều tra trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự
Mỗi cơ quan THTT có một chức năng, nhiệm vụ khác nhau nhưng liên
hệ mật thiết, ràng buộc và chế ước lẫn nhau. Để thực hiện tốt chức năng,
nhiệm vụ của mình thì các Viện KSND phải giải quyết tốt mối quan hệ với
71
các cơ quan THTT khác đặc biệt là mối quan hệ với CQĐT và Tòa án nhân
dân trong toàn bộ quá trình giải quyết một vụ án hình sự nói chung, vụ án
trộm cắp tài sản nói riêng.
Mục đích của hoạt động THQCT và KSĐT các vụ án hình sự nói
chung và THQCT và KSĐT vụ án trộm cắp tài sản nói riêng là đảm bảo cho
mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện nhanh chóng, điều tra và xử lý kịp
thời, nghiêm minh đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội
phạm và không làm oan người vô tội, đồng thời bảo đảm các quyết định tố
tụng và hành vi tố tụng của các cơ quan THTT được thực hiện đúng quy định
của pháp luật. Để có thể đạt được mục đích trên việc bảo đảm sự thông suốt
trong quan hệ giữa các cơ quan THTT đặc biệt là mối quan hệ giữa Viện
KSND với CQĐT trên cơ sở chức năng nhiệm vụ của từng cơ quan là yêu cầu
quan trọng, có ý nghĩa rất lớn đối với hiệu quả của hoạt động điều tra và
KSĐT. Trong thực tiễn công tác tại địa bàn quận Phú Nhuận Thành phố Hồ
Chí Minh nói riêng cho thấy nếu Viện KSND và CQĐT có sự phối hợp chặt
chẽ thì hoạt động điều tra và KSĐT sẽ đạt chất lượng và hiệu quả rất cao.
Trong mối quan hệ này, sự phối hợp giữa hai ngành không có nghĩa là luôn
luôn đồng tình, ủng hộ lẫn nhau, mà còn phải chế ước lẫn nhau, phối hợp dựa
trên cơ sở mỗi cơ quan phải thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình theo
quy định của pháp luật để cùng nhau phối hợp tháo gỡ những khó khăn vướng
mắc trong quá trình điều tra và giải quyết các vụ án trộm cắp tài sản.
Lãnh đạo Viện KSND và Thủ trưởng CQĐT phải tăng cường và
thường xuyên coi trọng công tác quán triệt giáo dục để nâng cao nhận thức
cho đội ngũ cán bộ, KSV, ĐTV, Cán bộ điều tra về chức năng, nhiệm vụ, địa
vị pháp lý của từng cơ quan; ý thức tôn trọng pháp luật, ý nghĩa vai trò đặc
biệt quan trọng của việc tăng cường phối hợp giữa Viện KSND với CQĐT và
giữa KSV, Kiểm tra viên với ĐTV, Cán bộ điều tra trong hoạt động TTHS nói
72
chung và hoạt động tố tụng trong giải quyết vụ án trộm cắp tài sản nói riêng.
Đồng thời phải kịp thời sửa đổi, hoàn thiện quy chế phối hợp liên
ngành giữa Viện KSND với CQĐT, Toà án trong giải quyết án hình sự, xác
định rõ nội dung phối hợp cụ thể, trách nhiệm của VKS, KSV; trách nhiệm
của CQĐT, ĐTV; phương thức, hình thức phối hợp khi giải quyết các vụ án
hình sự cụ thể; đề ra các chế tài nếu cơ quan, cá nhân để xảy ra sai phạm khi
áp dụng thực hiện hoạt động theo quy chế phối hợp đã ký kết.
3.4. Chú trọng công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của Lãnh đạo
VKS và của VKS cấp trên đối với VKS cấp dưới
Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành luôn là vấn đề quan trọng, việc đổi
mới công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành là yêu cầu cần thiết, cấp bách của bất
cứ cơ quan, tổ chức nào trong quá trình tổ chức và hoạt động. Viện KSND
ngoài hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ còn hoạt động theo nguyên
tắc vận hành đặc thù đó là nguyên tắc tập trung thống nhất, yếu tố này đóng
vai trò quan trọng, quyết định trong việc thành, bại trong lãnh đạo, chỉ đạo
công tác của ngành KSND.
Để hoạt động quản lý, chỉ đạo, điều hành có hiệu quả trước hết lãnh
đạo các đơn vị thuộc Viện KSND, cán bộ, công chức, KSV phải nhận thức
đầy đủ sâu sắc, nguyên tắc tập trung thống nhất trong hoạt động của ngành.
Từ đó, trong thực hiện nhiệm vụ được phân công nói chung và hoạt động
KSĐT tội trộm cắp tài sản nói riêng; thực hiện triệt để nguyên tắc thống nhất,
tuân thủ chấp hành sự chỉ đạo, điều hành của Viện trưởng; Viện KSND cấp
dưới phải tuân thủ sự chỉ đạo, điều hành của Viện KSND cấp trên trực tiếp và
chịu sự chỉ đạo điều hành của Viện KSND tối cao.
Để nâng cao hơn nữa chất lượng hiệu quả hoạt động quản lý, chỉ đạo,
điều hành của Viện KSND đối với hoạt động thực hiện chức năng nhiệm vụ
nói chung, thực hiện KSĐT tội trộm cắp tài sản nói riêng, cần tập trung thực
73
hiện tốt một số công việc sau:
Một là, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện quy chế tổ chức, hoạt động của
từng đơn vị, Quy chế hoạt động của Viện KSDND cấp dưới dựa trên các quy
định của pháp luật và quy chế hoạt động của Viện KSND cấp trên, nội dung
của quy chế phải đảm bảo đúng nguyên tắc hoạt động, làm rõ nhiệm vụ trách
nhiệm của từng chức danh, vị trí công tác; mối quan hệ giữa các chức danh
với đối tượng quản lý, chỉ đạo, điều hành … gắn việc thực hiện nghiêm túc
quy chế tổ chức hoạt động của đơn vị với thực hiện nghiêm túc quy chế dân
chủ ở cơ sở.
Hai là, việc sắp xếp, bố trí, phân công cán bộ, KSV phải phù hợp với
khả năng, trình độ chuyên môn, tinh thần trách nhiệm cũng như yêu cầu đòi
hỏi cụ thể của từng vị trí công tác trong đơn vị.
Ba là, xây dựng chương trình kế hoạch công tác phải gắn với việc quán
triệt tổ chức chỉ đạo thực hiện nghiêm túc, đồng bộ và phải coi trọng công tác
kiểm tra theo chuyên đề, kiểm tra đột xuất việc thực hiện chương trình kế
hoạch, nhiệm vụ được giao.
Tăng cường thực hiện thông báo rút kinh nghiệm, thỉnh thị và trả lời
thỉnh thị về khó khăn vướng mắc và những vi phạm, thiếu sót trong quá trình
giải quyết các vụ án hình sự nói chung, vụ án trộm cắp tài sản nói riêng. Đối
với hoạt động KSĐT tội phạm trộm cắp tài sản cần tăng cường sơ, tổng kết,
rút kinh nghiệm theo chuyên đề; như chuyên đề nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác THQCT, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án trộm cắp tài
sản; chuyên đề tổng kết rút kinh nghiệm về phối hợp giữa các cơ quan Cảnh
sát điều tra – Viện kiểm sát – Tòa án trong giải quyết các vụ án trọng điểm, có
tính chất phức tạp và nghiêm trọng kéo dài; chuyên đề tổng hợp những khó
khăn, vướng mắc trong việc giải quyết án trộm cắp tài sản. Đồng thời với đó,
Viện KSND cấp dưới trong quá trình KSĐT các vụ án hình sự, vụ án trộm
74
cắp tài sản nếu gặp khó khăn vướng mắc trong thi hành, áp dụng pháp luật
cần chủ động thỉnh thị Viện KSND cấp trên trực tiếp để được hướng dẫn kịp
thời tránh tình trạng giải quyết vụ án bị kéo dài.
3.5. Các giải pháp khác
Thứ nhất, bảo đảm đủ số lượng, chất lượng cho đội ngũ cán bộ, kiểm
sát viên: Biên chế cán bộ cho các VKS cấp huyện nói chung, Viện KSND
quận Phú Nhuận Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng còn thiếu về số lượng và
yếu về chất lượng; việc bố trí điều chuyển cán bộ trong từng đơn vị VKS và
giữa các đơn vị còn bộc lộ sự bất cập; có đơn vị thì có đủ số lượng cán bộ,
KSV có năng lực đáp ứng được yêu cầu trong khi có đơn vị hầu hết là cán bộ
mới, kinh nghiệm công tác còn hạn chế. Để khắc phục tồn tại thiếu sót đối với
vấn đề này cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau:
Nghiên cứu, đánh giá đúng thực trạng tình hình biên chế, nhu cầu về
biên chế của các đơn vị, của Viện KSND quận Phú Nhuận và nhu cầu KSV
chuyên trách của bộ phận THQCT và KSĐT các vụ án hình sự trong đó có
hoạt động KSĐT đối với tội trộm cắp tài sản. Từ đó, đề nghị Viện KSND tối
cao, Viện KSND Thành phố Hồ Chí Minh căn cứ phân bổ biên chế phù hợp
cho Viện KSND quận Phú Nhuận và thực hiện bố trí sắp xếp cán bộ, KSV
cho phù hợp với yêu cầu công tác tại Viện KSND quận Phú Nhuận, phù hợp
và thích đáng với năng lực sở trường của cán bộ, KSV.
Thứ hai, tăng cường điều kiện cơ sở vật chất để đảm bảo cho hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân: Trong điều kiện xã hội phát triển như hiện nay,
thì việc trang bị cơ sở hạ tầng hiện đại có ý nghĩa rất quan trọng. Bên cạnh đó,
cần trang bị phương tiện để hỗ trợ cho các cơ quan có thẩm quyền khi thi
hành công vụ. Đảng và Nhà nước cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kỹ
thuật, trang thiết bị hiện đại, cải cách chế độ chính sách đãi ngộ đối với ngành
KSND nói chung, Viện KSND quận Phú Nhuận nói riêng. Chính quyền địa
75
phương cần tạo điều kiện hỗ trợ về mặt kinh phí để đầu tư cơ sở vật chất hiện
đại, cải thiện điều kiện làm việc, xây dựng trụ sở làm việc, mua sắm trang
thiết bị kỹ thuật cao cho Viện KSND ở địa phương. Việc đầu tư cơ sở vật chất
kỹ thuật, phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật làm việc cho ngành KSND cần
phải thiết thực, đảm bảo chất lượng hiện đại, yêu cầu kỹ thuật công nghệ cao
đáp ứng yêu cầu trong thời đại công nghệ mới; gắn việc đầu tư trang thiết bị
với việc nâng cao hiệu quả khai thác sử dụng, ứng dụng phục vụ công tác
chuyên môn. Coi trọng việc đầu tư trang thiết bị chuyên dùng như phương
tiện thông tin liên lạc, máy ghi âm, ghi hình, máy vi tính xách tay với các
phần mềm ứng dụng có hiệu quả cao… để đảm bảo cho Viện KSND thực
hiện tốt nhất chức năng KSĐT các vụ án hình sự.
Thứ ba, có chính sách phù hợp về chế độ đãi ngộ cho cán bộ, Kiểm sát
viên: đảm bảo thực sự có sức hấp dẫn để thu hút nguồn nhân lực có chất
lượng cho ngành Kiểm sát. Cần có chính sách đãi ngộ tốt hơn đối với VKS,
KSV khi hoàn thành xuất sắc chức trách, nhiệm vụ được giao, cũng như chăm
sóc tốt hơn cho đời sống vật chất, tinh thần của những cán bộ, KSV. Đồng
thời đáp ứng được yêu cầu quản lý, sử dụng bồi dưỡng cán bộ vừa đảm bảo
việc động viên khuyến khích cán bộ yên tâm công tác phấn đấu cống hiến cho
ngành, cho sự nghiệp bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Thứ tư, nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân, vận động toàn dân
tham gia vào đấu tranh phòng, chống vi phạm, tội phạm về trộm cắp tài sản:
Đảng và Nhà nước cần vào cuộc một cách mạnh mẽ, chú trọng tới công tác
tuyên truyền, giáo dục ý thức tham gia phòng, chống tội phạm và vi phạm
pháp luật đến từng địa phương, cơ quan, trường học, nơi làm việc, các tổ chức
đoàn thể chính trị - xã hội và cộng đồng. Với chức năng THQCT, kiểm sát
các hoạt động tư pháp đối với mỗi cán bộ kiểm sát, Đoàn viên thanh niên
Viện KSND cần phối hợp lồng ghép tuyên truyền tới mọi người dân ở địa
76
phương, về công tác nâng cao ý thức trách nhiệm phòng, chống tội phạm nói
chung. Nâng cao ý thức của quần chúng nhân dân, nêu cao tinh thần cảnh
giác, bảo vệ tài sản của bản thân cũng như của những người xung quanh, tích
cực tham gia phòng ngừa, đấu tranh tố giác các loại tội phạm nhất là tội phạm
77
trộm cắp tài sản.
Tiểu kết chương 3
Từ kết quả phân tích thực trạng hoạt động KSĐT các tội trộm cắp tài
sản trên địa bàn quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2015 đến
năm 2019, nguyên nhân kết quả đã đạt được, nguyên nhân những tồn tại, hạn
chế trong lĩnh vực này của Viện KSND quận Phú Nhuận. Luận văn đưa ra hệ
thống quan điểm cần quán triệt khi KSĐT các vụ án trộm cắp tài sản và giải
pháp cụ thể nhằm đảm bảo việc KSĐT các vụ án trộm cắp tài sản của Viện
KSND quận Phú Nhuận đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp hiện nay. Đó là
các nhóm giải pháp: Nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự, pháp luật
TTHS… nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giải thích pháp luật, hướng
dẫn công tác KSĐT; giải pháp nâng cao trình độ, năng lực, ý thức trách nhiệm
của đội ngũ cán bộ, KSV; giải pháp nhằm tăng cường quan hệ phối hợp và
ước chế giữa VKS với Cơ quan điều ra trong giai đoạn điều tra các vụ án hình
sự nói chung, các vụ án trộm cắp tài sản nói riêng; giải pháp nhằm chú trọng
công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của Lãnh đạo VKS và của VKS cấp trên
đối với VKS cấp dưới và một số giải pháp cụ thể khác… Những giải pháp này
được quan tâm chỉ đạo đồng thời thực hiện sẽ nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác KSĐT các vụ án hình sự nói chung, các vụ án trộm cắp tài sản nói
78
riêng.
KẾT LUẬN
Thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp trong đó có hoạt
động kiểm sát điều tra các vụ án hình sự là một trong các hoạt động quan
trọng của Viện kiểm sát, vì các hoạt động này sẽ trực tiếp tác động đến các
quyền tự do thân thể, sức khỏe, tính mạng và tài sản… của công dân. Trong
quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ, nếu để xảy ra việc khởi tố, điều tra,
bắt, giam, giữ hoặc xử lý oan sai đối với công dân không những gây ảnh
hưởng đến đời sống của bản thân họ mà còn làm mất lòng tin của quần chúng
nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Mặt khác, nếu những kẻ thực hiện hành
vi phạm tội không bị phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh là sự biểu hiện
của pháp luật không nghiêm minh, tạo môi trường cho tội phạm phát triển dẫn
đến tình hình xã hội sẽ bất ổn. Vì vậy, đòi hỏi Viện kiểm sát phải thực hiện tốt
và có hiệu quả chức năng kiểm sát điều tra các vụ án hình sự nói chung, vụ án
trộm cắp tài sản nói riêng.
Đề tài luận văn “Kiểm sát điều tra vụ án trộm cắp tài sản từ thực tiễn
quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh” là đề tài mới. Trong quá trình
làm luận văn, tác giả đã thực hiện nghiêm túc, đúng phương pháp nghiên cứu
khoa học và bám sát mục tiêu, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài đã
được xác định. Luận văn trên cơ bản đã giải quyết được những nội dung sau
đây:
Thứ nhất, luận văn đi sâu phân tích làm rõ những vấn đề lý luận về
KSĐT các vụ án hình sự nói chung, các vụ án trộm cắp tài sản nói riêng. Luận
văn đã đưa ra được các khái niệm có liên quan, đồng thời đã chỉ ra được đặc
điểm cũng như nội dung của hoạt động KSĐT các vụ án trộm cắp tài sản.
Luận văn đã phân biệt được chức năng THQCT và KSĐT của Viện KSND
trong các vụ án trộm cắp tài sản. Từ đó, nêu được các yếu tố nhằm bảo đảm
79
chất lượng công tác hoạt động KSĐT vụ án trộm cắp tài sản.
Thứ hai, luận văn đã nghiên cứu làm rõ các quy định của pháp luật về
KSĐT các vụ án hình sự nói chung, các vụ án trộm cắp tài sản nói. Luận văn
nêu một số nét khái quát về đặc điểm địa bàn quận Phú Nhuận TP. Hồ Chí
Minh, khái quát sơ qua tình hình Viện KSND quận Phú Nhuận và tổng quan
tình hình tội phạm xảy ra tại địa bàn quận. Trên cơ sở những vấn đề có liên
quan trên, luận văn đi sâu vào nghiên cứu thực trạng KSĐT các vụ án trộm
cắp tài sản xảy ra trên địa bàn quận Phú Nhuận từ năm 2015 đến năm 2019,
luận văn nêu ra được nguyên nhân kết quả đã đạt được, nguyên nhân những
tồn tại, hạn chế trong lĩnh vực này của Viện KSND quận Phú Nhuận.
Thứ ba, từ kết quả phân tích thực trạng hoạt động KSĐT các tội trộm
cắp tài sản trên địa bàn quận Phú Nhuận, TP. Hồ Chí Minh từ năm 2015 đến
năm 2019 luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc
KSĐT các vụ án trộm cắp tài sản đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp trong
giai đoạn hiện nay.
Tác giả xin chân thành cảm ơn Ban giám đốc, các thầy cô giáo trong
Học viện Khoa học Xã hội, các đồng chí lãnh đạo, các Kiểm sát viên và tập
thể công chức Văn phòng Viện KSND quận Phú Nhuận đã tận tình giúp đỡ,
cung cấp nhiều tư liệu và kinh nghiệm thực tế, tạo điều kiện tốt nhất cho tác
giả hoàn thiện đề tài luận văn này. Đặc biệt, tác giả xin chân thành cảm ơn
thầy hướng dẫn khoa học, Tiến sỹ Phạm Mạnh Hùng đã đầu tư thời gian, trí
80
tuệ và hướng dẫn tận tình để tác giả hoàn thành đề tài luận văn này./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. GS.TS.Nguyễn Ngọc Anh, LS.TS.Phan Trung Hoài (2018), Bình luận
khoa học Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, Nxb Chính trị quốc gia sự
thật.
2. Nguyễn Cao Cường (2017), “Những vấn đề cần quan tâm khi lấy lời
khai và kiểm sát lấy lời khai người làm chứng”, Tạp chí Kiểm sát, số 16,
tr.11-17.
3. Nguyễn Cao Cường (2017), “Một số vấn đề cần quan tâm khi tiến hành
đối chất và kiểm sát việc đối chất”, Tạp chí Khoa học Kiểm sát, số 06,
tr.09-15.
4. Nguyễn Cao Cường (2019), “Kinh nghiệm thực hành quyền công tố và
kiểm sát điều tra các vụ án trộm cắp tài sản”, Tạp chí Kiểm sát online
https://kiemsat.vn/kinh-nghiem-thuc-hanh-quyen-cong-to-va-kiem-sat-
dieu-tra-cac-vu-an-trom-cap-tai-san-51779.html, ngày 19/12/2019.
5. Hoàng Xuân Đàn (2016), “Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự
theo BLTTHS 2015”, Tạp chí Khoa học Kiểm sát, số 02, tr.47-51.
6. Nguyễn Văn Đồng (2003), "Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa
trong thực hiện quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện
kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội", Luận văn thạc sỹ luật học, Học
viện chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
7. Nguyễn Đức Giang (2017), “Kỹ năng của Kiểm sát viên khi kiểm sát
hoạt động hỏi cung bị can”, Tạp chí Kiểm sát, số 07, tr.19-23.
8. Nguyễn Thị Thúy Hạnh (2019), “Một số dạng vi phạm trong hoạt động
giám định tư pháp, khám nghiệm hiện trường”, Tạp chí Kiểm sát, số 11,
tr.33-38.
9. Trần Đình Hải (2019), “Cơ sở lý luận của hoạt động kiểm sát điều tra vụ
án hình sự”, Tạp chí Kiểm sát, số 13, tr.9-13.
10. Trần Việt Hùng, Trần Hưng Bình (2012), “Nâng cao chất lượng thực
hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án về trật tự xã hội theo
yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay”, Đề tài khoa học cấp bộ,
Vụ 1A – Viện KSND tối cao.
11. Lê Đức Hiếu (2016), “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quan hệ phối
hợp giữa Viện kiểm sát với Cơ quan điều tra trong điều tra vụ án hình
sự”, Tạp chí Kiểm sát, số 23, tr.19-21.
12. PhúNhuận,https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%BA_Nhu%E1%BA%
AD, ngày 15/7/2020.
13. TS. Võ Thị Kim Oanh (chủ biên) (2018), Giáo trình Luật tố tụng hình
sự Việt Nam Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, Nxb Hồng Đức – Hội luật
gia Việt Nam.
14. Trần Công Phàn (2012), “Một số vấn đề về chủ trương tăng cường trách
nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều
tra theo yêu cầu cải cách tư pháp “, Tạp chí Kiểm sát, số Tết, tr.40-45.
15. Phạm Hồng Quân (2012), “Về chức năng và nhiệm vụ của Viện kiểm sát
nhân dân trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự”, Tạp chí Khoa học
ĐHQHN, Luật học, số 28, tr.186-198.
16. Quốc hội (2014), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
17. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật tố
tụng hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2017), Bộ luật
hình sự, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2015,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp
năm 2013, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
20. Nguyễn Minh Tuấn (2018), “Kiểm sát hoạt động nghiên cứu dấu vết
hình sự trong khám nghiệm hiện trường các vụ trộm cắp tài sản”, Tạp chí
Kiểm sát (số 15), tr.41-46.
21. Nguyễn Quang Tuấn (2016), “Kiểm sát điều tra vụ án vi phạm quy định
về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ từ thực tiễn tại tỉnh Bắc
Ninh”, Luận văn thạc sỹ Luật học, Học viện khoa học xã hội.
22. Vũ Viết Tuấn (2006), "Nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong
kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc
Ninh", Luận văn thạc sỹ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà
Nội.
23. Lê Hữu Thể (2008), “Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp trong giai đoạn điều tra”, Nxb Tư Pháp Hà Nội.
24. Nguyễn Thị Hồng Thủy (2014), “Kiểm sát hoạt động điều tra – một số
vấn đề lý luận và thực tiễn (trên cơ sở nghiên cứu số liệu thực tiễn tại
địa bàn tỉnh Nam Định)”, Luận văn thạc sỹ Luật học, Khoa Luật - Đại
học Quốc gia Hà Nội.
25. Đặng Văn Thực (2019), “Một số nội dung cần chú ý khi kiểm sát việc áp
dụng, thay thế, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn tạm giam cuả cơ quan điều
tra”, Tạp chí Kiểm sát, số 24, tr.15-20.
26. Viện khoa học kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2006), Sổ tay
kiểm sát viên hình sự, Nxb Văn hóa dân tộc.
27. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2006), Kỹ năng thực hành quyền công tố
và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, Nxb Đại học
quốc gia Hà Nội.
28. Viện kiểm sát nhân dân quận Phú Nhuận, TP. Hồ Chí Minh, Văn phòng,
Báo cáo tổng kết công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động điều tra các năm 2015.
29. Viện kiểm sát nhân dân quận Phú Nhuận, TP. Hồ Chí Minh, Văn phòng,
Báo cáo tổng kết công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động điều tra các năm 2016.
30. Viện kiểm sát nhân dân quận Phú Nhuận, TP. Hồ Chí Minh, Văn phòng,
Báo cáo tổng kết công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động điều tra các năm 2017.
31. Viện kiểm sát nhân dân quận Phú Nhuận, TP. Hồ Chí Minh, Văn phòng,
Báo cáo tổng kết công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động điều tra các năm 2018.
32. Viện kiểm sát nhân dân quận Phú Nhuận, TP. Hồ Chí Minh, Văn phòng,
Báo cáo tổng kết công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động điều tra các năm 2019.
PHỤ LỤC
1. Tổng số vụ án, bị can được khởi tố, đề nghị truy tố, truy tố, xét xử tại quận Phú Nhuận (giai đoạn 2015
– 2019)
Đề nghị truy tố Truy tố Xét xử Tiêu chí Khởi tố mới Bc Vụ Vụ Bc Vụ Bc Vụ Bc
Tổng số vụ án, bị can 701 581 416 597 417 598 433 620
Số vụ án, bị can trộm cắp tài sản 306 163 136 166 138 168 143 172
Nguồn: Văn phòng Viện kiểm sát nhân dân quận Phú Nhuận
2. Số vụ án, bị can phạm tội trộm cắp tài sản Cơ quan điều tra quận Phú Nhuận thụ lý giải quyết (giai
đoạn 2015 – 2019)
Tổng thụ lý Khởi tố mới Đình chỉ Tạm đình chỉ Đề nghị truy tố Tiêu chí
Vụ Bc Vụ Bc Vụ Bc Vụ Bc Vụ Bc
Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018 Năm 2019 95 89 66 72 52 63 43 33 32 34 73 74 58 58 43 42 34 29 26 32 37 29 22 22 26 50 33 24 28 31 0 1 0 0 0 0 1 0 0 0 42 46 30 41 22 0 1 2 2 0
Nguồn: Văn phòng Viện kiểm sát nhân dân quận Phú Nhuận
3. Số vụ án, bị can phạm tội trộm cắp tài sản Viện KSND quận Phú Nhuận
Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra (giai đoạn 2015 - 2019)
Tổng thụ lý Truy tố Đình chỉ Tạm đình chỉ Tiêu chí
Vụ Bc Vụ Bc Vụ Bc Vụ Bc
37 50 37 50 0 0 0 0 Năm 2015
29 33 29 33 0 0 0 0 Năm 2016
24 26 23 25 0 0 0 0 Năm 2017
22 28 22 28 0 0 0 0 Năm 2018
27 32 27 32 0 0 0 0 Năm 2019
Nguồn: Văn phòng Viện kiểm sát nhân dân quận Phú Nhuận
4. Số vụ án, bị can phạm trộm cắp tài sản Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận thụ lý xét xử (giai đoạn 2015 - 2019)
Tổng thụ lý Xét xử Đình chỉ Tạm đình chỉ Tiêu chí
Vụ Bc Vụ Bc Vụ Bc Vụ Bc
45 60 41 54 0 0 0 0 Năm 2015
33 38 29 34 0 0 0 0 Năm 2016
27 29 23 35 0 0 0 0 Năm 2017
26 32 25 31 0 0 0 0 Năm 2018
27 32 25 28 0 0 0 0 Năm 2019
Nguồn: Văn phòng Viện kiểm sát nhân dân quận Phú Nhuận