BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN MINH HÙNG

THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI CHƯƠNG TRÌNH BÌNH ỔN THỊ TRƯỜNG CÁC MẶT HÀNG LƯƠNG THỰC, THỰC PHẨM THIẾT YẾU TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH GIAI ĐOẠN 2010 -2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2015

-1-

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN MINH HÙNG

THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI CHƯƠNG TRÌNH BÌNH ỔN THỊ TRƯỜNG CÁC MẶT HÀNG LƯƠNG THỰC, THỰC PHẨM THIẾT YẾU TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH GIAI ĐOẠN 2010 -2015

: 60310102

Chuyên ngành : Kinh tế chính trị Mã số

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. NGUYỄN VĂN TRÌNH

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2015

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn: “THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI CHƯƠNG

TRÌNH BÌNH ỔN THỊ TRƯỜNG CÁC MẶT HÀNG LƯƠNG THỰC, THỰC

PHẨM THIẾT YẾU TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH GIAI ĐOẠN

2010 -2015” là công trình nghiên cứu của chính tác giả, nội dung được đúc kết từ

quá trình công tác, học tập và nghiên cứu trong thời gian qua, số liệu sử dụng là

trung thực và có trích dẫn rõ ràng. Luận văn được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa

học của PGS.TS. Nguyễn Văn Trình.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Minh Hùng

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các bảng biểu

PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................... 1

CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁ CẢ THỊ

TRƯỜNG VÀ ĐIỀU HÀNH GIÁ Ở VIỆT NAM. ............................................... 5

5 1.1. Lý luận về giá cả, giá cả thị trường và các nhân tố ảnh hưởng..................

1.1.1. Học thuyết “Lý luận về giá trị, giá cả” của C.Mác,

Ph.Ăngghen............................................................................................................. 5

1.1.2. Giá cả thị trường. ................................................................................ 6

1.1.3. Đặc trưng của giá cả thị trường. .......................................................... 7

1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến giá cả thị trường....................................... 8

1.2. Một số nghiên cứu khoa học về bình ổn giá. ........................................ 14

1.3. Điều hành giá các mặt hàng thiết yếu ở Việt Nam hiện nay.................. 16

1.3.1. Chủ trương quản lý giá trong nền kinh tế thị trường định hướng

Xã hội chủ nghĩa ở nước ta. ................................................................................... 17

1.3.2. Khuôn khổ pháp lý............................................................................ 19

1.3.3. Kinh nghiệm điều hành giá trên cả nước do các cơ quan trung

ương thực hiện....................................................................................................... 20

1.3.4. Điều hành giá tại các địa phương do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh

thực hiện................................................................................................................ 23

TÓM TẮT CHƯƠNG I. ........................................................................... 24

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI CHƯƠNG TRÌNH

BÌNH ỔN THỊ TRƯỜNG CÁC MẶT HÀNG LƯƠNG THỰC, THỰC

PHẨM THIẾT YẾU TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH. .......... 25

2.1. Khái quát Chương trình Bình ổn thị trường trên địa bàn thành

phố Hồ Chí Minh................................................................................................... 25

2.1.1. Từ nhận thức “bình ổn giá” đến nhận thức “bình ổn thị

trường”. ................................................................................................................. 25

2.1.2. Ý nghĩa của Chương trình Bình ổn thị trường trên địa bàn

Thành phố Hồ Chí Minh........................................................................................ 26

2.2. Nội dung thực hiện Chương trình Bình ổn thị trường các mặt

27 hàng lương thực, thực phẩm thiết yếu trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh...............

2.2.1. Công tác xác định mặt hàng thực hiện bình ổn thị trường.................. 27

2.2.2. Công tác dự báo, đánh giá thị trường................................................. 29

31 2.2.3. Phương thức tạo nguồn cung hàng hóa để bình ổn thị trường. ...............

2.2.3.1. Lựa chọn doanh nghiệp tham gia Chương trình Bình ổn thị

................................................................................................................. 32 trường.

2.2.3.2. Chính sách hỗ trợ thúc đẩy đầu tư, phát triển sản xuất. ................... 35

2.2.3.3. Chính sách kết nối cung – cầu với các tỉnh, thành. ......................... 36

2.2.4. Phân phối hàng hóa bình ổn thị trường. ............................................. 38

2.2.5. Giá bán hàng bình ổn thị trường. ....................................................... 42

2..2.5.1. Xác định giá bán. .......................................................................... 42

2.2.5.2. Kiểm tra giá bán............................................................................. 43

2.2.6. Nguồn vốn thực hiện Chương trình Bình ổn thị trường. .................... 44

2.2.7. Phân công, phối hợp tổ chức triển khai thực hiện. ............................. 46

2.3. Đánh giá kết quả thực hiện Chương trình Bình ổn thị trường các

mặt hàng lương thực, thực phẩm thiết yếu trên địa bàn thành phố Hồ Chí

Minh giai đoạn 2010 - 2014................................................................................... 48

2.3.1. Đánh giá kết quả thực hiện các mục tiêu. .......................................... 48

2.3.2. Những mặt tích cực........................................................................... 49

2.3.3. Những mặt hạn chế. .......................................................................... 50

2.3.4. Nguyên nhân tồn tại. ......................................................................... 51

2.3.4.1. Nguyên nhân khách quan. .............................................................. 51

2.3.4.2. Nguyên nhân chủ quan. .................................................................. 52

2.3.5. Bài học kinh nghiệm. ........................................................................ 53

TÓM TẮT CHƯƠNG II. ......................................................................... 55

CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC

HIỆN CHƯƠNG TRÌNH BÌNH ỔN THỊ TRƯỜNG CÁC MẶT HÀNG

LƯƠNG THỰC, THỰC PHẨM THIẾT YẾU TRÊN ĐỊA BÀN

TPHCM GIAI ĐOẠN 2015 – 2025. .................................................................... 56

3.1. Quan điểm, định hướng........................................................................ 56

3.2. Định hướng thực hiện Chương trình Bình ổn thị trường. ...................... 57

3.3. Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện Chương trình

Bình ổn thị trường các mặt hàng lương thực, thực phẩm thiết yếu trên địa

bàn thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2015 – 2025. .............................................. 57

3.3.1. Nâng cao hiệu quả công tác dự báo, đánh giá thị trường để định

hướng sản xuất, tạo nguồn hàng............................................................................. 57

3.3.2. Giải pháp tạo nguồn cung hàng hóa bền vững. .................................. 59

3.3.2.1. Xây dựng Chuỗi cung ứng tối ưu các sản phẩm bình ổn thị

trường. 60

3.3.2.2. Xã hội hóa, huy động mọi nguồn lực thực hiện Chương trình

Bình ổn thị trường. ................................................................................................ 61

3.3.3. Giải pháp thúc đẩy phát triển hạ tầng thương mại, gia tăng hiệu

quả lưu thông hàng hóa.......................................................................................... 62

3.3.4. Giải pháp quản lý thị trường, kiểm tra, kiểm soát, phòng chống

gian lận thương mại. .............................................................................................. 63

3.4. Một số khuyến nghị đối với cơ quan điều hành giá cấp Trung

................................................................................................................. 64 ương.

TÓM TẮT CHƯƠNG III. ........................................................................ 67

PHẦN KẾT LUẬN ................................................................................... 68

Danh mục tài liệu tham khảo

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

- Bảng 2.1: Chi tiêu đời sống bình quân đầu người một tháng theo giá

thực tế. .................................................................................................................. 28

- Bảng 2.2: Nhu cầu tiêu thụ một số nhóm mặt hàng thiết yếu năm 2015.... 28

- Bảng 2.3: nhu cầu tiêu thụ một số nhóm mặt hàng thiết yếu năm 2015. ... 30

- Bảng 2.4: So sánh chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của TPHCM và cả nước. ... 49

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Chính phủ Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 2013. Nghị

định Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giá.

2. Cục Thống kê thành phố Hồ Chí Minh, 2014. Niên giám Thống kê

năm 2013. TPHCM: Nhà xuất bản Thanh Niên.

3. Cục Thống kê thành phố Hồ Chí Minh, 2015. Niên giám Thống kê

năm 2014. TPHCM: Nhà xuất bản Thanh Niên.

4. Cục Quản lý Giá – Bộ Tài chính, 2007. Tài liệu bồi dưỡng kiến thức

ngắn hạn chuyên ngành thẩm định giá: chuyên đề Nguyên lý hình thành giá cả thị

trường.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam, 2013. Văn kiện Đại hội Đảng Thời kỳ đổi

mới và hội nhập (Đại hội VI, VII, VIII, IX, X, XI). Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị

Quốc Gia.

6. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn Giáo trình Quốc gia các bộ

môn khoa học Mác – Lê Nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, 2014. Giáo trình Kinh tế học

chính trị Mác – Lê Nin. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia.

7. Sở Công Thương thành phố Hồ Chí Minh, 2011. Báo cáo sơ kết

Chương trình Bình ổn thị trường trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh năm 2010 –

Tết Tân Mão 2011.

8. Sở Công Thương thành phố Hồ Chí Minh, 2012. Báo cáo sơ kết

Chương trình Bình ổn thị trường trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh năm 2011 –

Tết Nhâm Thìn 2012.

9. Sở Công Thương thành phố Hồ Chí Minh, 2013. Báo cáo sơ kết

Chương trình Bình ổn thị trường trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh năm 2012 –

Tết Quý Tỵ 2013.

10. Sở Công Thương thành phố Hồ Chí Minh, 2014. Báo cáo sơ kết

Chương trình Bình ổn thị trường trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh năm 2013 –

Tết Giáp Ngọ 2014.

11. Sở Công Thương thành phố Hồ Chí Minh, 2015. Báo cáo sơ kết

Chương trình Bình ổn thị trường trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh năm 2014 –

Tết Ất Mùi 2015.

12. Sở Công Thương thành phố Hồ Chí Minh, 2015. Báo cáo tình hình

triển khai Chương trình Bình ổn thị trường trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh

năm 2014 – Tết Bính Thân 2016.

13. Quốc Hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 2012. Luật

Giá. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia.

14. Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, 2010. Báo cáo tổng kết 09

năm thực hiện Chương trình Bình ổn thị trường trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh

(giai đoạn 2002 – 2010).

15. Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, 2015. Quyết định Về ban

hành Kế hoạch thực hiện Chương trình Bình ổn thị trường các mặt hàng lương thực,

thực phẩm thiết yếu trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh năm 2015 và Tết Bính

Thân 2016.

16. Website:

- Vũ Văn Phúc, 2008. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. http://dangcongsan.vn.

- Vương Đình Huệ, 2015. Chủ trương và giải pháp tiếp tục hoàn thiện thể

ta. chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước

http://daihoi12.dangcongsan.vn.

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài.

Sau gần 30 năm đổi mới, phát triển đất nước và trong bối cảnh hội nhập quốc

tế ngày càng sâu rộng, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về nền kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta cần được tổng kết để bổ sung, hoàn chỉnh.

Từ chủ trương ban đầu xác định tại Đại hội VI (1986) là “phát triển nền kinh tế

hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế

thị trường có sự quản lý của nhà nước”; đến Đại hội IX (2001) Đảng ta đã xác định

“thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều

thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định

hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa” và tiếp tục khẳng định tại Đại hội XI (2011) “nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận

hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng

Cộng sản”; trong đó, “Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủ nghĩa bằng luật pháp, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và

các nguồn lực kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, tạo lập, phát triển đầy đủ ,

đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường, cải thiện môi trường kinh

doanh, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, định hướng phát triển, phát huy

mặt tích cực, hạn chế, khắc phục mặt trái, tiêu cực của cơ chế thị trường”.

Nhận thức sâu sắc quan điểm trên, thành phố Hồ Chí Minh với vai trò là đô

thị đặc biệt, là đầu tàu, động lực, có sức thu hút và sức lan tỏa lớn của vùng kinh tế

trọng điểm phía Nam, đã không ngừng sáng tạo, triển khai nhiều cơ chế, chính sách,

giải pháp đồng bộ, linh hoạt, góp phần tích cực cùng cả nước ổn định kinh tế vĩ mô,

đảm bảo an sinh xã hội. Trong đó, Chương trình Bình ổn thị trường đã thể hiện rõ

vai trò quản lý nhà nước trong điều tiết, ổn định thị trường các mặt hàng thiết yếu.

Năm 2015, cả nước có 48 tỉnh, thành phố thực hiện Chương trình Bình ổn thị

trường, có nhiều cách làm khác nhau, hiệu quả mang lại cũng khác nhau. Riêng tại

2

thành phố Hồ Chí Minh, Chương trình Bình ổn thị trường hoàn toàn không sử dụng

nguồn lực nhà nước, điều tiết thị trường chủ yếu thông qua cân đối cung - cầu và hỗ

trợ lưu thông hàng hóa; do đó nhận được nhiều phản ánh tích cực của dư luận, các

chuyên gia kinh tế, đồng thời Thủ tướng Chính phủ cũng đã chỉ đạo nhân rộng mô

hình trên cả nước.

Những năm tới đây, trong bối cảnh đất nước hội nhập quốc tế ngày càng sâu

rộng; chính sách quản lý nhà nước nói chung, Chương trình Bình ổn thị trường trên

địa bàn thành phố Hồ Chí Minh nói riêng cần phải được nghiên cứu, đúc kết lý

luận, hoàn thiện nội dung thực hiện; qua đó nâng cao hiệu quả xã hội, hiệu quả kinh

tế của Chương trình; đáp ứng chủ trương của Đảng, Nhà nước và phù hợp xu thế

phát triển của thế giới.

2. Mục tiêu nghiên cứu.

Luận văn làm rõ phương thức thực hiện Chương trình Bình ổn thị trường

trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2010 - 2015; đề xuất các giải pháp

hoàn thiện nội dung, nâng cao hiệu quả thực hiện Chương trình giai đoạn 2015 –

2020.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.

- Đối tượng nghiên cứu: đối tượng nghiên cứu của Luận văn là nội dung thực

hiện Chương trình Bình ổn thị trường các mặt hàng lương thực, thực phẩm thiết yếu

của chính quyền thành phố Hồ Chí Minh.

- Giới hạn phạm vi nghiên cứu:

+ Giới hạn về góc độ nghiên cứu: Luận văn đề cập đến Chương trình Bình

ổn thị trường trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh; thị trường của 09 nhóm hàng

lương thực, thực phẩm: gạo, đường, dầu ăn, thịt gia súc, thịt gia cầm, trứng gia cầm,

thực phẩm chế biến, rau – củ - quả, thủy hải sản và các vấn đề liên quan.

3

+ Giới hạn về không gian, thời gian: Luận văn nghiên cứu về Chương trình

Bình ổn thị trường tại thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2010 – 2014, đề xuất giải

pháp giai đoạn 2015 – 2025.

4. Phương pháp nghiên cứu.

- Đề tài được thực hiện dựa trên nền tảng thế giới quan, phương pháp luận

duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp phân tích – so sánh, tổng hợp…

- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử: xem xét, đánh giá một

cách khách quan, toàn diện Chương trình Bình ổn thị trường trên địa bàn thành phố

Hồ Chí Minh trong trạng thái luôn luôn biến đổi của tiến trình phát triển kinh tế xã

hội của đất nước.

- Phương pháp thu thập thông tin: tập hợp dữ liệu theo các mốc thời gian,

thành phần, yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến Chương trình Bình ổn thị trường trên

địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.

- Phương pháp chuyên gia, tham khảo các ý kiến đóng góp về lý luận của các

chuyên gia chuyên ngành kinh tế trong nước.

5. Nguồn thông tin nghiên cứu.

- Tài liệu của Sở Công Thương thành phố Hồ Chí Minh về triển khai thực

hiện Chương trình Bình ổn thị trường từ năm 2002 đến nay.

- Luật Giá được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông

qua ngày 20/6/2012, có hiệu lực từ ngày 01/01/2013 và các văn bản quy phạm pháp

luật liên quan đến quản lý nhà nước về giá.

- Các Văn kiện Đại hội Đảng từ năm 1986 đến nay.

- Tài liệu chuyên ngành kinh tế chính trị, kinh tế vĩ mô, lịch sử các học

thuyết kinh tế đề cập đến thị trường, giá cả, giá cả thị trường, thương mại.

4

6. Ý nghĩa nghiên cứu.

Bằng việc đi sâu nghiên cứu về Chương trình Bình ổn thị trường trên địa bàn

thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2010 – 2015, đề tài đề xuất các nhóm giải pháp

thực hiện hiệu quả Chương trình Bình ổn thị trường trong giai đoạn 2015 – 2025, có

thể áp dụng tại thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh, thành trên cả nước.

7. Kết cấu của nghiên cứu.

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được

chia làm ba chương:

- Chương 1: Một số vấn đề lý luận về giá cả thị trường và cơ chế điều hành

giá ở Việt Nam hiện nay.

- Chương 2: Thực trạng triển khai Chương trình Bình ổn thị trường các mặt

hàng lương thực, thực phẩm thiết yếu trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.

- Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện Chương trình Bình ổn thị

trường các mặt hàng lương thực, thực phẩm thiết yếu trên địa bàn thành phố Hồ Chí

Minh giai đoạn 2015 – 2025.

5

CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁ CẢ THỊ TRƯỜNG VÀ

ĐIỀU HÀNH GIÁ Ở VIỆT NAM.

1.1. Lý luận về giá cả, giá cả thị trường và các nhân tố ảnh hưởng.

1.1.1. Học thuyết “Lý luận về giá trị, giá cả” của C.Mác, Ph.Ăngghen.

C.Mác khẳng định, hàng hoá là sự thống nhất biện chứng của 2 mặt: giá trị

sử dụng và giá trị.

Giá trị sử dụng là công dụng của sản phẩm có thể thoả mãn nhu cầu nào đó

của con người. Ví dụ, cơm để ăn, xe đạp để đi lại... vật phẩm nào cũng có một số

công dụng nhất định. Công dụng của vật phẩm là do thuộc tính tự nhiên của vật chất

quyết định. Giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh viễn và là vật mang giá trị trao đổi.

Giá trị được xem xét như là quan hệ sản xuất xã hội của những người sản

xuất hàng hoá, còn hàng hoá là nhân tố tế bào của xã hội tư sản. Ông đã phân tích

tính chất 2 mặt của lao động sản xuất hàng hoá là lao động cụ thể và lao động trừu

tượng, lao động tư nhân và lao động xã hội. Ông khẳng định chỉ có lao động trừu

tượng tạo ra giá trị hàng hoá.

Giá trị hàng hoá là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh

trong hàng hoá - chất của giá trị là lao động. Sản phẩm nào lao động hao phí để sản

xuất ra chúng càng nhiều thì giá trị càng cao. Giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị

trao đổi; còn giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện của giá trị ra bên ngoài. Giá trị là

1 phạm trụ lịch sử gắn liền với sản xuất hàng hoá.

Chất của giá trị là lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hoá, kết tinh

trong hàng hoá. Lượng giá trị là do lượng lao động hao phí để sản xuất ra hàng hoá

đó quyết định, lượng giá trị của hàng hoá do thời gian lao động quyết định.

Từ việc phân tích các phạm trù giá trị nêu trên, C.Mác đã đưa ra định nghĩa

về giá cả: “Giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá”. Giá cả ở đây là giá

cả hàng hoá, là mức giá mà được xã hội thừa nhận. Giá trị hàng hoá là giá trị xã hội,

6

được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá, chứ không

phải là giá trị cá biệt của từng người sản xuất.

1.1.2. Giá cả thị trường.

Giá cả thị trường là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị thị trường và giá

cả sản xuất. Trong điều kiện tự do cạnh tranh, sự hình thành của giá cả thị trường

phụ thuộc vào 03 nhân tố: giá trị thị trường của hàng hóa, quan hệ cung – cầu về

hàng hóa và sức mua của đồng tiền trong lưu thông. Giá trị thị trường có những đặc

trưng cơ bản sau:

- Một là, giá cả thị trường hình thành trên cơ sở giá trị thị trường. Để sản

xuất hàng hoá, người sản xuất phải bỏ ra chi phí cho các yếu tố “đầu vào” như

nguyên, nhiên vật liệu, năng lượng, tiền lương, … chi phí sản xuất cho một đơn vị

sản phẩm là bộ phận cơ bản tạo ra giá trị hàng hoá. Giá trị hàng hoá của một người

sản xuất là giá trị cá biệt. Nhưng khi người sản xuất mang hàng hoá ra bán trên thị

trường, được thị trường chấp nhận thì đó là giá trị thị trường.

- Hai là, giá cả thị trường là giá được thị trường chấp nhận. Trên thị trường,

khi người mua chấp nhận mua hàng và trả cho người bán một lượng tiền nhất định

để được quyền sử hữu, sử dụng sản phẩm; tức là thị trường đã thừa nhận trực tiếp,

cũng có nghĩa là về cơ bản quá trình sản xuất xã hội của hàng hoá đã hoàn thành.

Thị trường thừa nhận quan hệ cung-cầu, thừa nhận giá trị và giá trị sử dụng của

hàng hoá.

- Ba là, giá cả thị trường biểu hiện quan hệ trực tiếp giữa người mua và

người bán hàng hoá. Giá cả hàng hoá được hình thành trên thị trường thông qua

hoạt động trao đổi giữa người mua và người bán, người mua bao giờ cũng muốn

mua rẻ, người bán bao giờ cũng muốn bán giá cao. Mâu thuẫn này được giải quyết

khi người mua và người bán thống nhất được mức giá hàng hoá, khi đó giá cả thị

trường hình thành.

- Bốn là, giá cả thị trường biểu hiện sự thống nhất giữa giá trị và giá trị sử

dụng. Giá cả hình thành thống nhất theo một đơn vị giá trị sử dụng. Giá trị sử dụng

7

được thể hiện trên các mặt: Chất lượng chi phí sử dụng hàng hoá và tính thay thế

lẫn nhau trong sử dụng. Vì vậy, giá cả hình thành theo chất lượng hàng hoá, hàng có

chất lượng cao thì giá cao và ngược lại, hàng có chất lượng thấp thì giá thấp.

1.1.3. Đặc trưng của giá cả thị trường.

Từ việc nghiên cứu bản chất kinh tế của phạm trù giá cả, có thể rút ra những

đặc trưng cơ bản của giá cả thị trường như sau:

- Một là, giá cả thị trường hình thành trên cơ sở giá trị thị trường: để sản xuất

hàng hoá, người sản xuất phải bỏ ra chi phí cho các yếu tố “đầu vào” như nguyên,

nhiên vật liệu, năng lượng, tiền lương, … chi phí sản xuất cho một đơn vị sản phẩm

là bộ phận cơ bản tạo ra giá trị hàng hoá. Giá trị hàng hoá của một người sản xuất là

giá trị cá biệt. Nhưng khi người sản xuất mang hàng hoá ra bán trên thị trường,

được thị trường chấp nhận thì đó là giá trị thị trường.

- Hai là, giá cả thị trường là giá được thị trường chấp nhận: trên thị trường,

khi người mua chấp nhận mua hàng và trả cho người bán một lượng tiền nhất định

để được quyền sử hữu, sử dụng sản phẩm; tức là thị trường đã thừa nhận trực tiếp,

cũng có nghĩa là về cơ bản quá trình sản xuất xã hội của hàng hoá đã hoàn thành.

Thị trường thừa nhận quan hệ cung-cầu, thừa nhận giá trị và giá trị sử dụng của

hàng hoá.

- Ba là, giá cả thị trường biểu hiện quan hệ trực tiếp giữa người mua và

người bán hàng hoá. Giá cả hàng hoá được hình thành trên thị trường thông qua

hoạt động trao đổi giữa người mua và người bán, người mua bao giờ cũng muốn

mua rẻ, người bán bao giờ cũng muốn bán giá cao. Mâu thuẫn này được giải quyết

khi người mua và người bán thống nhất được mức giá hàng hoá, khi đó giá cả thị

trường hình thành.

- Bốn là, giá cả thị trường biểu hiện sự thống nhất giữa giá trị và giá trị sử

dựng. Giá cả hình thành thống nhất theo một đơn vị giá trị sử dụng. Giá trị sử dụng

được thể hiện trên các mặt: Chất lượng chi phí sử dụng hàng hoá và tính thay thế

8

lẫn nhau trong sử dụng. Vì vậy, giá cả hình thành theo chất lượng hàng hoá, hàng có

chất lượng cao thì giá cao và ngược lại, hàng có chất lượng thấp thì giá thấp.

1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến giá cả thị trường.

- Giá trị thị trường.

Giá cả thị trường là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị thị trường hàng hoá -

Tức là phụ thuộc rất lớn vào giá trị thị trường.

Giá trị thị trường nói ở đây, là giá trị xã hội – giá trị được xã hội thừa nhận

và được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết. Vậy, giá trị thị trường hình

thành như thế nào? Như chúng ta đã biết, trên thị trường hầu hết các loại hàng hoá

được sản xuất ra không chỉ một hoặc hai nhà sản xuất sản xuất ra mà có khi rất

nhiều nhà sản xuất cùng sản xuất hàng hoá đó. Ví dụ, để sản xuất lúa, gạo, không

chỉ có tỉnh Hậu Giang sản xuất mà nhiều tỉnh như: An Giang, Đồng Tháp, Sóc

Trăng… sản xuất. Mỗi địa phương, để sản xuất một tấn gạo đều phải hao phí một

lượng lao động nhất định (tức là một giá trị cá biệt nhất định), và như vậy trên thị

trường về gạo sẽ có nhiều người cung cấp gạo, mỗi loại ứng với 1 giá trị cá biệt

nhất định. Nhưng khi đưa sản phẩm gạo ra thị trường thì xã hội chỉ chấp nhận một

mức giá (nếu không tính đến các yếu tố khác như; phẩm chất, tỷ lệ tấm, …) đó là

giá trị thị trường. Vậy, giá trị thị trường là kết quả của sự san bằng các giá trị cá biệt

của hàng hoá trong cùng một ngành thông qua cạnh tranh. Cạnh tranh trong nội bộ

ngành dẫn tới hình thành một giá trị xã hội trung bình. Tuỳ thuộc vào trình độ phát

triển của sức sản xuất của mỗi ngành mà giá trị thị trường có thể ứng với một trong

ba trường hợp sau đây:

- Trường hợp thứ nhất: Giá trị thị trường của hàng hoá do giá trị của đại bộ

phận hàng hoá được sản xuất ra trong điều kiện trung bình quyết định. Đây là

trường hợp phổ biến nhất, ở hầu hết các loại hàng hoá.

Ví dụ: Để sản xuất quần áo, thì có nhiều doanh nghiệp cùng tham gia sản

xuất, các doanh nghiệp này về cơ bản có điều kiện sản xuất như; máy móc thiết bị,

9

nguyên vật liệu, nhân công… là như nhau. Trên thị trường, giá trị thị trường của

quần, áo sẽ do giá trị cá biệt trung bình của các doanh nghiệp quyết định.

- Trường hợp thứ hai: Giá trị thị trường của hàng hoá do giá trị của bộ phận

hàng hoá được sản xuất ra trong điều kiện sấu quyết định.

Ví dụ: Trong ngành khai thác than, do chịu ảnh hưởng của điều kiện tự

nhiên, các doanh nghiệp khai thác than ngày càng phải khai thác ở những điều kiện

khó khăn hơn như; khai thác hầm lò phải đi vào sâu trong lòng đất, điều kiện vận

chuyển than từ nơi khai thác ra bến cảng xa hơn, năng xuất lao động có thể thấp

hơn… nhưng những doanh nghiệp này vẫn chiếm một tỷ trọng lớn sản lượng tiêu

thụ của ngành khai thác than và xã hội vẫn cần than để sản xuất và tiêu dùng. Cho

nên, giá trị cá biệt của những doanh nghiệp này có ảnh hưởng quan trọng, đôi khi

quyết định giá trị thị trường của sản phẩm than.

- Trường hợp thứ ba: Giá trị thị trường hàng hoá do giá trị của đại bộ phận

hàng hoá được sản xuất ra trong điều kiện tốt quyết định.

Ví dụ: Trong ngành trồng lúa ở nước ta. Đồng bằng Sông hồng và đồng bằng

Nam bộ là 2 vùng trồng lúa chính, cung cấp đại bộ phận gạo cho cả nước và xuất

khẩu. Đây là 2 vùng có điều kiện tự nhiên thuận lợi hơn so với các vùng khác. Vì

vậy, giá trị cá biệt để sản xuất ra gạo ở 2 vùng này có ảnh hưởng quyết định đến giá

thị trường của gạo trong cả nước.

- Giá trị (sức mua) của tiền.

Trong nền sản xuất hàng hoá, tiền tệ dùng để biểu hiện và đo lường giá trị

của các hàng hoá. Muốn đo lường giá trị của hàng hoá, bản thân tiền phải có giá trị.

Vì vậy, tiền tệ làm chức năng thước đo giá trị phải là tiền vàng. Để đo lường giá trị

hàng hoá không cần thiết phải là tiền mặt, mà chỉ cần so sách với lượng vàng nào

đó một cách tưởng tượng. Sở dĩ có thể làm được như vậy, vì giữa giá trị của vàng

và giá trị của hàng hoá trong thực tế đã có một tỷ lệ nhất định. Cơ sở của tỷ lệ đó là

thời gian lao động xã hội cần thiết hao phí để sản xuất ra hàng hoá đó. Trong quá

trình trao đổi hàng hoá, tiền đứng ra làm môi giới và đó là tiền mặt. Như vậy, Giá trị

10

thực của tiền tách rời giá trị doanh nghĩa của nó và để làm phương tiện lưu thông,

người ta đã sử dụng tiền giấy.

Bản thân tiền giấy không có giá trị mà chỉ là dấu hiệu của giá trị và được

công nhận trong phạm vi quốc gia. Vì vậy, trong việc phát hành, lưu thông tiền giấy

phải được tính toán kỹ lưỡng, chính xác, phù hợp với lượng tiền cần thiết trong lưu

thông. Nếu nhu cầu về tiền thực tế không thay đổi theo thời gian, thì sự gia tăng

mức cung tiền danh nghĩa nhất định phải dẫn đến một lượng tăng tương ứng trong

mức giá. Có thể nói, sự thay đổi trong mức cung tiền gây ra sự thay đổi về giá cả.

Sự thay đổi giá cả này phụ thuộc vào hai yếu tố sau:

+ Sự tăng lượng cung tiền gây ra sự tăng giá.

+ Do tác động của một số nhân tố làm cho giá cả tăng lên và Chính phủ điều

tiết sự tăng lên của giá cả bằng cách in thêm tiền thì cả khối lượng tiền và giá cả

cũng tăng lên.

Trên thực tế, nếu như sự tăng lượng cung tiền danh nghĩa kéo theo sự thay

đổi tương ứng của tiền lương và giá cả thì điều đó sẽ dẫn đến hậu quả nguy hiểm

đối với nền kinh tế. Khi tiền lương doanh nghĩa tăng nhanh, về cơ bản nó sẽ làm

cho giá tăng lên nhanh, để đảm bảo ổn định nền kinh tế thì mức cung tiền thực tế

chỉ thay đối một cách chậm chạp tương ứng với những thay đổi về nhu cầu tiền tệ.

Từ sự phân tích trên cho thấy, giá cả thị trường tỷ lệ thuận với giá trị thị

trường của hàng hoá và tỷ lệ nghịch với giá trị (hay sức mua) của tiền. Khi giá trị

thị trường của hàng hoá có thể không thay đổi thì giá cả thị trường hàng hoá vẫn có

thể thay đổi, tăng lên hay giảm xuống do sự thay đổi sức mua của tiền.

- Cung và cầu hàng hoá.

Trong nền kinh tế thị trường, cung và cầu là những lực lượng hoạt động trên

thị trường. Cung – cầu không chỉ có mối quan hệ với nhau mà còn ảnh hưởng tới

giá cả thị trường.

11

Trong thực tế, khi cung = cầu, thì giá cả thị trường ngang bằng với giá trị của

hàng hoá. Khi cung > cầu, thì giá cả thị trường xuống thấp hơn giá trị hàng hoá.

Còn khi cung < cầu, thì giá cả thị trường lên cao hơn giá trị. Như vậy, cung và cầu

thay đổi, dẫn đến làm thay đổi giá cả thị trường của hàng hoá. Đồng thời, giá cả thị

trường cũng có sự tác động ngược trở lại tới cung và cầu. Nhìn chung, trong cơ chế

thị trường khi không có sự nhất trí giữa cung và cầu, thì giá cả có tác động điều tiết

đưa cungcầu trở về xu hướng cân bằng nhau.

Vậy, yếu tố nào ảnh hưởng và quyết định đến quan hệ cung cầu? Đó chính là

chu kỳ kinh doanh. Sự vận động của chu kỳ kinh doanh trên thị trường quyết định

sự vận động của quan hệ cung – cầu.

Một chu kỳ kinh doanh xuất hiện trên thị trường thường có một số thời kỳ

chủ yếu sau:

+ Suy thoái; tức là giai đoạn mà kinh doanh giảm sút nghiêm trọng. Trong

thời kỳ nay có giai đoạn tiêu điều và giai đoạn ảm đạm.

+ Phát triển; tức là kinh doanh được phục hồi, có phát triển và tăng trưởng.

+ Ổn định; tức là kinh doanh phát triển và sau đó ổn định ở mức cao.

Hiện tượng trên được lặp đi lặp lại trên thị trường. Khi kinh doanh bước vào

thời kỳ suy thoái, nhu cầu tiêu dùng bị hạn chế, hàng hoá có ít người mua, sản xuất

bị thu hẹp nghiệm trọng. Ở thời kỳ suy thoái, do những khuyết tật của sản phẩm, do

sự yếu kém trong quản lý hoặc do sự lạc hậu về công nghệ và thiết bị, nên sản phẩm

có ít người mua. Từ đó dẫn đến tình trạng cung lớn hơn cầu và giá cả hàng hoá

giảm xuống, đến một lúc nào đó giá cả sẽ giảm đến mức doanh nghiệp có thể lỗ

vốn. Để tồn tại và đứng vững trên thị trường doanh nghiệp phải cải tiến máy móc,

thiết bị hoặc công tác quản lý, mẫu mã sản phẩm,… để đưa ra thị trường những sản

phẩm ưu việt hơn, doanh nghiệp sẽ dần dần bán được hàng với mức giá cao hơn,

hàng hoá có thể ngày càng bán được nhiều hơn, doanh thu và lợi nhuận tăng lên.

Đây là thời kỳ phát triển của doanh nghiệp, giá cả trở thành sức hút mạnh nhất đối

với các doanh nghiệp và là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất

12

để có nhiều hàng cung cấp cho thị trường. Tuy nhiên, không phải nhu cầu về hàng

hoá lúc nào cũng tăng, mà đến một giai đoạn nhất định, quan hệ cung- cầu trên thị

trường tương đối ổn định và về cơ bản là phù hợp với nhau, đây là thời kỳ ổn định

của doanh nghiệp. Trong thời kỳ này, các doanh nghiệp thường ít đổi mới công

nghệ và thiết bị, ít cải tiến kỹ thuật và quản lý… Do đó, ngay trong thời kỳ này đã

bắt đầu chứa đựng những yếu tố, mầm mống của thời kỳ suy thoái, và nếu doanh

nghiệp không chú ý đến các yếu tố; cải tiến quy trình công nghệ, công tác quản lý,

chất lượng sản phẩm… thì thời kỳ suy thoái đến nhanh hơn.

Trên đây là xu hướng vận động của giá cả hàng hoá- dịch vụ trên thị trường.

Xu hướng này được thể hiện trên nhiều hình thái thị trường, song sự vận động trên

của giá cả cần phải chú ý đến thị trường độc quyền. Trên thị trường độc quyền, các

yếu tố độc quyền có vai trò rất lớn đối với việc điều tiết quan hệ cung- cầu (độc

quyền bán). Thông thường các nhà độc quyền đưa một lượng hàng hoá ra thị trường

nhỏ hơn nhu cầu và họ sẽ bán với giá cao, nhưng đến một lúc nào đó, do giá cao

nhu cầu sẽ giảm xuống, các nhà độc quyền sẽ nghiên cứu hạ giá xuống để tăng nhu

cầu hoặc phải cải tiến kỹ thuật, quy trình công nghệ… để có sản phẩm mới. Như

vậy, có thể sẽ xuất hiện thời kỳ tăng giá mới, thời kỳ phục hồi và phát triển.

Vậy, chu kỳ kinh doanh là hiện tượng tất yếu của kinh tế thị trường. Chu kỳ

kinh doanh trên mỗi nền kinh tế thị trường có những đặc thù của nó. Sự vận động

của chu kỳ kinh doanh và các đặc thù của nó dựa trên sự chi phối rất lớn của các

yếu tố phát sinh trên thị trường trong nước và thế giới. Bất kỳ một hàng hoá nào

trên thị trường, hay một nhà kinh doanh nào trên thị trường đều bị chi phối bởi chu

kỳ kinh doanh. Tuy nhiên, các nhà độc quyên có khả năng hạn chế bớt sự tác động

tự phát của chu kỳ kinh doanh tới quan hệ cung- cầu và giá cả hàng hoá của doanh

nghiệp mình. Chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp có ảnh hưởng rất lớn tới cung và

cầu hàng hoá, tới quan hệ cung- cầu và giá cả thị trường. Ngược lại, giá cả thị

trường cũng tác động trở lại tới chu kỳ kinh doanh, làm cho quá trình sản xuất kinh

doanh của doanh nghiệp luôn biến động theo cơ chế thị trường.

13

- Cạnh tranh.

Cạnh tranh là sự ganh đua về kinh tế giữa những chủ thể trong nền kinh tế thị

trường nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng

hoá.

Cạnh tranh có thể diễn ra giữa người sản xuất với người sản xuất, người sản

xuất với người tiêu dùng hoặc giữa người tiêu dùng với người tiêu dùng. Do có mâu

thuẫn về lợi ích kinh tế, nên những người sản xuất và người tiêu dùng cạnh tranh

gay gắt với nhau. Sự cạnh tranh này dẫn đến sự thoả thuận trực tiếp giữa họ để hình

thành nên mức giá thị trường mà 2 bên đều chấp nhận. Cạnh tranh giữa người sản

xuất với người sản xuất, nhằm mục đích bán được nhiều hàng hoá với giá hợp lý để

thu được lợi nhuận cao nhất. Kết quả của cạnh tranh này, buộc những người sản

xuất, muốn chiếm lĩnh thị trường phải áp dụng tiến bộ kỹ thuật mới, đưa công nghệ

mới vào sản xuất, cải tiến công tác quản lý… để sản xuất ra những sản phẩm mới,

chất lượng cao, giá thành thấp. Đây là yếu tố tích cực, không những tạo điều kiện

cho nhà sản xuất thu được lợi nhuận cao, mà đứng trên phạm vi toàn xã hội, nó có

tác dụng rất lớn để thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động, hạ giá

thành, giá bán sản phẩm. Cạnh tranh giữa người tiêu dùng với người tiêu dùng

nhằm tối đa hoá lợi ích sử dụng, người tiêu dùng (người mua) để đạt được nhu cầu

tiêu dùng của mình (trong điều kiện khả năng cung về hàng hoá có hạn) thường

phải trả giá cao hơn những người khác để mua được hàng hoá và trong sự cạnh

tranh này, làm cho giá cả thị trường thay đổi theo xu hướng tăng lên.

- Một số liên hệ thực tiễn.

Từ sự phân tích các nhân tố tác động đến sự vận động của giá cả thị trường,

có thể rút ra một số nhận xét sau:

- Trong nền kinh tế thị trường, giá cả thị trường là một hiện tượng kinh tế

phức tạp, tổng hợp, là bàn tay vô hình điều tiết sản xuất, là tấm gương phản ánh

thực trạng nền kinh tế.

14

- Nhà nước cần phải quản lý giá. Việc quản lý giá phải được thực hiện đồng

bộ từ tài chính đến tiền tệ, từ cầu đến cung, từ giá thị trường trong nước đến giá thị

trường thế giới, từ cạnh tranh đến chống độc quyền và các biện pháp hạn chế tự do

kinh doanh.

- Để quản lý giá, Nhà nước cần có hệ thống luật pháp hoàn chỉnh và đồng bộ

về các lĩnh vực tài chính- tiền tệ- giá cả, củng cố hệ thống pháp luật đối với các

doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh. Có như vậy, mới có thị trường lành mạnh, cơ

chế thị trường hoạt động theo đúng nghĩa của nó và giá cả thị trường đóng vai trò

quan trọng trong việc phân bổ các nguồn lực kinh tế, thúc đẩy tiến bộ khoa học- kỹ

thuật, làm cho sản xuất phát triển lành mạnh, hiệu quả.

1.2. Một số nghiên cứu khoa học về bình ổn giá.

Nghiên cứu của W. Allen Wallis về bình ổn giá và tăng trưởng kinh tế, dẫn

chứng trường hợp của Hoa Kỳ trong nhiều giai đoạn lịch sử cho rằng việc ổn định

giá cả (hay bình ổn giá) có ý nghĩa quan trọng. Trước tiên là đối với việc kiểm soát

lạm phát có thể trở nên căng thẳng trong thời kỳ trước, trong và sau chiến tranh

hoặc trong những giai đoạn nhất định của chu kỳ kinh tế và gây ra những ảnh

hưởng trực tiếp tới các nhóm người dân có thu nhập không tăng nhanh bằng mức

tăng của lạm phát hoặc thu nhập thấp, gâp tâm lý hoang mang trong dân chúng, ảnh

hưởng tới những quyết định kinh doanh, gây ra những mất cân bằng các cán cân và

kết quả là ảnh hưởng tới hiệu quả và tăng trưởng kinh tế. Để chạy theo mục tiêu

tăng trưởng kinh tế, Chính phủ luôn phải điều chỉnh và thay đổi các chính sách. Tuy

nhiên, trên thực tế cho thấy các con số tăng trưởng qua các thời kỳ không có mối

liên hệ trực tiếp nào với sự gia tăng của giá cả, sự thay đổi của giá không có mối

tương quan nào với tăng trưởng. Ngược lại, sự ổn định của lao động và thu nhập có

ý nghĩa tích cực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tác giả cho rằng thậm chí có thể đạt

được cả 3 mục tiêu là giá cả ổn định, thất nghiệp thấp và tăng trưởng cùng 1 lúc.

Chính vì vậy, việc ổn định giá cả hay bình ổn giá có quan hệ với tăng trưởng vì

những hiệu ứng tích cực của nó tới hiệu quả kinh tế.

15

Sử dụng các mô hình phân tích định lượng khác nhau về chi phí và lợi ích

của bình ổn giá, nghiên cứu của Martin Feldstein (1999) xem xét trường hợp của

các nước trong khối OECD cho rằng lạm phát cao có nhiều tác hại. Mặc dù việc

giảm lạm phát từ cao xuống mức vừa phải có thể làm giảm sản lượng hoặc tăng tỷ

lệ thất nghiệp tạm thời nhưng vẫn là một mục tiêu cần thiết phải thực hiện. Các chi

phí bỏ ra để kiểm soát lạm phát sẽ lớn hơn nhiều so với chi phí cho việc ổn định giá

cả. Việc tác động vào lạm phát, cho dù chỉ là mức tăng nhỏ có thể làm giảm đáng

kể phúc lợi xã hội. Vì vậy, ổn định giá cả là chính sách tiền tệ hữu hiệu nhất.

Nhìn từ khía cạnh chính sách tiền tệ và mối liên hệ giữa chính sách tiền tệ và

lạm phát qua các thời kỳ tại các nước phát triển như Hoa Kỳ, New Zealand, Canada,

Anh, Thụy Điển và khu vực sử dụng đồng Euro, nghiên cứu của Marc Labonte và

Gail Markine chỉ ra rằng chính sách tiền tệ được thực hiện thông qua các động thái,

chỉ thị, quyết định, tuyên bố từ Ngân hàng trung ương và có những ảnh hưởng lớn

tới tổng cầu và GDP thực tế, thất nghiệp, tỷ giá hối đoái thực tế, lãi suất, sản lượng

v.v… nhưng nhìn chung chỉ trong ngắn hạn và nhất thời. Trong dài hạn, ảnh hưởng

chủ yếu của chính sách tiền tệ là đối với lạm phát. Điều này đặc trưng với các quốc

gia có lạm phát cao. Chính vì vậy, sau một giai đoạn nhận thấy việc sử dụng M1,

M2, M3 không còn hiệu quả, Cục dự trữ Liên bang Hoa Kỳ đã thực thi chính sách

tiền tệ thông qua việc thiết lập mục tiêu cho lãi suất qua đêm. Lãi suất thấp là dấu

hiệu của chính sách tiền tệ nới lỏng và lãi suất cao và tăng là dấu hiệu của chính

sách tiền tệ thắt chặt. Nghiên cứu thêm các trường hợp đặt mục tiêu ổn định giá cả

khác thấy rằng chính sách lạm phát mục tiêu phải không bao gồm việc thay đổi giá

các hàng hóa cơ bản như lương thực, năng lượng và tăng các loại thuế. Một kết luận

của nghiên cứu là sự cải thiện của nền kinh tế sau khi thực hiện chính sách lạm phát

mục tiêu đang dần rõ nét tại các quốc gia trên thế giới sau khi trải qua nhiều bất ổn

về kinh tế và chính trị.

Đối với trường hợp của Việt Nam, một báo cáo ngắn của Ngô Trí Long có đề

cập tới thể chế xác định giá cho các hàng hóa cơ bản (chính là những hàng hóa

trong danh mục bình ổn giá) cho rằng thể chế xác định giá cho những hàng hóa cơ

16

bản thuộc diện bình ổn giá trong những năm qua tại Việt Nam theo Pháp lệnh giá có

nhiều bất cập. Ví dụ những hàng hóa do Nhà nước định giá như giá điện được xác

định hiện nay chủ yếu dựa trên chi phí thống kê hạch toán giá thành của Tập đoàn

Điện lực Việt Nam, chứa đựng nhiều điều bất hợp lý. Giá xăng dầu được xác định

theo kiểu “lưỡng tính” hay “nửa vời”, không phù hợp đối với loại thị trường độc

quyền – cạnh tranh (độc quyền nhóm). Giá đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc diện

bình ổn giá khác như giá gas, giá thuốc, giá sữa luôn bất ổn, gây bức xúc đối với

người tiêu dùng. Có rất nhiều khía cạnh cần phải điều chỉnh để thực sự thực hiện

bình ổn giá thị trường cho những mặt hàng này.

Nhìn chung, các nghiên cứu trên đều cho rằng giá cả ổn định hay bình ổn giá

có những tác dụng tích cực đối với người dân nói riêng và nền kinh tế nói chung.

Vấn đề quan trọng là các Chính phủ phải xác định được mức độ ổn định của giá cả

và thời gian thực hiện bình ổn. Tuy nhiên việc bình ổn giá theo đúng nghĩa phải

thông qua các công cụ của chính sách kinh tế vĩ mô như tiền tệ và tài khóa. Việc sử

dụng các công cụ hành chính hay chính phủ can thiệp trực tiếp vào việc quyết định

giá cả các mặt hàng cụ thể trên thị trường cần được đánh giá khách quan về tính

hiệu quả cũng như sự cần thiết trong bối cảnh nền kinh tế thị trường.

Đối với trường hợp của Việt Nam cũng tương tự. Tuy nhiên, cho tới hiện

nay, chưa có những nghiên cứu tổng thể về các chính sách bình ổn giá tại Việt Nam

một cách đầy đủ và hệ thống để có thể đưa ra những khuyến nghị cụ thể, đầy đủ và

cần thiết.

1.3. Điều hành giá các mặt hàng thiết yếu ở Việt Nam hiện nay.

Có thể nói, trong những năm qua, Việt Nam được quốc tế đánh giá khá cao

trong công tác kiểm soát lạm phát để tạo một sự bình ổn nhất định đối với mặt bằng

giá cả nói chung trên bình diện toàn nền kinh tế bằng một hệ thống các giải pháp và

chính sách kinh tế vĩ mô kết hợp với nhau trong tổng thể hài hòa với các mục tiêu

phát triển kinh tế - xã hội khác. Đặc biệt đối với những giai đoạn lạm phát tăng cao,

đột biến và có nhiều dấu hiệu căng thẳng, gây bất ổn vĩ mô, sự phản ứng khá chủ

17

động và quyết liệt từ Chính phủ đã nhanh chóng đưa lạm phát về ngưỡng an toàn.

Theo đó, mặt bằng giá cả nói chung cũng ổn định và giảm bớt tâm lý hoang mang,

lo lắng cho người dân và cho các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, việc phối hợp điều hành

của các cơ quan quản lý Nhà nước nhằm bình ổn một số mặt hàng thiết yếu trong

thời gian qua, cụ thể là từ năm 2000 đến nay cũng luôn được chú ý và có những

bước tiến đáng kể.

1.3.1. Chủ trương quản lý giá trong nền kinh tế thị trường định hướng

Xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Trong thời gian qua, tư tưởng, đường lối phát triển kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa đã từng bước được thể chế hóa thành pháp luật, cơ chế,

chính sách. Sự quản lý, điều hành của Nhà nước đối với kinh tế thị trường sát thực

và hiệu quả hơn. Thị trường hàng hóa, dịch vụ tăng về số lượng, chủng loại, chất

lượng; đã có bước phát triển và hoàn thiện về quy mô, cơ cấu, kết cấu hạ tầng

thương mại, dịch vụ, cơ chế quản lý, năng lực cạnh tranh. Giá cả hàng hóa, dịch vụ

hầu hết vận hành theo cơ chế giá thị trường và được xác định dựa trên quan hệ cung

- cầu... Hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách chưa hoàn chỉnh và đồng bộ; chất

lượng chưa cao, tiến độ ban hành còn chậm; việc tuyên truyền, phổ biến, thực thi và

bảo đảm kỷ cương pháp luật còn nhiều hạn chế. Giá cả một số hàng hóa, dịch vụ

thiết yếu chưa thật sự tuân thủ theo nguyên tắc và quy luật kinh tế thị trường. Đây

là thách thức, khó khăn không nhỏ.

Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, để

đảm bảo lợi ích và phúc lợi của toàn xã hội, trong điều kiện kinh tế thị trường chưa

phát triển thì quản lý nhà nước về giá đối với các doanh nghiệp độc quyền và thống

lĩnh thị trường là yêu cầu cần thiết. Tuy nhiên, kiểm soát không có nghĩa là Nhà

nước định giá đối với tất cả các hàng hóa, dịch vụ do các doanh nghiệp độc quyền

hoặc thống lĩnh thị trường kinh doanh mà ưu tiên các quy định kiểm soát các hành

vi hạn chế cạnh tranh. Nhà nước chỉ quy định giá đối với một số ít hàng hóa, dịch

vụ độc quyền nhà nước trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc thị trường.

18

Để góp phần kiểm soát, ngăn ngừa và xử lý các hành vi lạm dụng sức mạnh

thị trường của các doanh nghiệp để định giá bất lợp lý, gây tổn hại đến lợi ích người

tiêu dùng và lợi ích của Nhà nước, góp phần khuyến khích cạnh tranh về giá, tăng

cường hiệu quả phân bổ nguồn lực xã hội; sau đó là góp phần bình ổn giá cũng như

đảm bảo vai trò quản lý của Nhà nước trong việc khắc phục những khuyết tật của

thị trường.

Về phương hướng quản lý giá:

- Đối với quản lý nhà nước về giá, tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý giá

hàng hóa, dịch vụ độc quyền hoặc do doanh nghiệp thống lĩnh thị trường sản xuất -

kinh doanh theo hướng: Tôn trọng nguyên tắc thị trường, Nhà nước không can thiệp

bằng mệnh lệnh hành chính; định giá đối với những hàng hóa, dịch vụ độc quyền

nhà nước (dịch vụ kết nối viễn thông, truyền tải điện, dịch vụ phụ trợ hệ thống

điện,…), kịp thời điều chỉnh giá (tăng/giảm) khi các yếu tố đầu vào thay đổi. Đồng

thời, tăng cường kiểm soát, kiểm tra chi phí sản xuất - kinh doanh thực tế; kiểm soát

chặt chẽ các yếu tố hình thành giá đối với những hàng hóa, dịch vụ quan trọng, thiết

yếu có thị trường cạnh tranh hạn chế thuộc danh mục bình ổn giá, kê khai giá, quản

lý giá gián tiếp thông qua các biện pháp kinh tế như: Điều hòa cung ứng hàng hóa

dịch vụ, sử dụng linh hoạt các công cụ tài chính, tiền tệ để tác động vào giá cả trong

trường hợp có biến động bất thường, tăng cường tính hiệu quả trong việc thu thập,

công khai và minh bạch thông tin về giá, cũng như công tác dự báo thị trường.

- Đối với quản lý nhà nước về cạnh tranh, tiếp tục hoàn thiện các quy định

quản lý cạnh tranh cho phù hợp với thực tế thực hiện; tăng cường hiệu quả các biện

pháp kiểm soát các hành vi hạn chế cạnh tranh hoặc lạm dụng vị trí thống lĩnh thị

trường:

+ Hoàn thiện và phát triển cơ cấu thị trường cạnh tranh theo hướng: Ưu tiên

cho các doanh nghiệp mới gia nhập thị trường được tiếp cận với công nghệ hiện đại,

tạo môi trường thuận lợi để các doanh nghiệp huy động vốn. Giảm những thủ tục

đăng ký phiền hà, tốn kém; ưu đãi hay miễn thuế cho những doanh nghiệp tham gia

19

thị trường trong những năm đầu. Thực hiện tái cấu trúc thị trường, rà soát và dỡ bỏ

những rào cản thị trường không cần thiết, bất hợp lý đang “bảo hộ độc quyền” để

các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp tiềm năng, có cơ hội đầu tư phát triển.

+ Thực hiện tái cấu trúc ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh; điều chỉnh cấu

trúc thị trường góp phần thúc đẩy cạnh tranh, giảm thiểu độc quyền, thông qua các

biện pháp: Nhà nước từng bước tổ chức sắp xếp sản xuất theo hướng tiếp tục phân

định, xác định và công bố những ngành sản xuất nào Nhà nước còn duy trì độc

quyền ở mức độ nhất định gắn liền với việc tái cấu trúc doanh nghiệp. Rà soát lại

chiến lược và quy hoạch phát triển, đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp

nhà nước, thu hút sự tham gia của các thành phần kinh tế khác, kể cả nhà đầu tư

nước ngoài (trừ những lĩnh vực nhạy cảm về quốc phòng, an ninh); giảm dần ưu đãi

cho các doanh nghiệp nhà nước, trong đó có những doanh nghiệp sản xuất hàng hóa

ở những lĩnh vực độc quyền, thống lĩnh thị trường trong việc tiếp cận các yếu tố đầu

vào của sản xuất - kinh doanh như: Đất đai, tiền vốn, hạ tầng thương mại… tách

chức năng sản xuất - kinh doanh ra khỏi nhiệm vụ an sinh xã hội.

1.3.2. Khuôn khổ pháp lý.

Khuôn khổ pháp lý đối với hoạt động này cũng đã có những dấu mốc quan

trọng. Để góp phần phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,

bình ổn giá, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh

doanh, của ngườitiêu dùng và lợi ích của Nhà nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội

khóa X đã ban hành Pháp lệnh Giá số 40/2002/PL-UBTVQH10 ngày 26 tháng 4

năm 2002. Mục tiêu chung của Pháp lệnh Giá chính là thực hiện kiểm soát Nhà

nước trong lĩnh vực giá cả đối với tất cả các hàng hóa trên thị trường nhằm tránh

những biến động bất thường có thể xảy ra. Bên cạnh đó, Pháp lệnh Giá đã có phần

quy định cụ thể về bình ổn giá với mục tiêu thực hiện các chính sách, biện pháp cần

thiết tác động vào quan hệ cung cầu để bình ổn giá thị trường đối với những hàng

hóa, dịch vụ quan trọng, thiết yếu. Các biện pháp này bao gồm: (a) Điều chỉnh cung

cầu hàng hóa sản xuất trong nước và hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; hàng hóa giữa

20

các vùng, các địa phương trong nước; (b) Mua vào hoặc bán ra hàng hóa dự trữ; (c)

Kiểm soát hàng hóa tồn kho; (d) Quy định giá tối đa, giá tối thiểu, khung giá; (đ)

Kiểm soát các yếu tố hình thành giá; (e) Trợ giá nông sản khi giá thị trường xuống

quá thấp gây thiệt hại cho người sản xuất; trợ giá hàng hóa, dịch vụ quan trọng,

thiết yếu khác.

Gần đây, Luật Giá đã được thông qua ngày 20 tháng 6 năm 2012 thay thế

cho Pháp lệnh Giá. Luật Giá đã có những quy định chi tiết, cụ thể và chặt chẽ hơn

về quản lý nhà nước đối với giá cả hàng hóa nói chung trên thị trường và cũng chi

tiết hơn cả nội dung bình ổn giá so với Pháp lệnh Giá trước đây. Điều 4, Luật Giá

đưa khái niệm: “Bình ổn giá là việc Nhà nước áp dụng biện pháp thích hợp về điều

hòa cung cầu, tài chính, tiền tệ và biện pháp kinh tế, hành chính cần thiết khác để

tác động vào sự hình thành và vận động của giá, không để giá hàng hóa, dịch vụ

tăng quá cao hoặc giảm quá thấp bất hợp lý”. Luật Giá cũng đưa ra danh mục hàng

hóa thuộc diện bình ổn1 với 7 biện pháp bình ổn khác nhau. Sau đó, Nghị định số

177/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ ban hành đã quy định chi tiết và

hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giá, trong đó có những quy định về bình

ổn giá.

Bên cạnh đó, tùy từng mặt hàng trong danh mục bình ổn giá, Chính phủ, các

Bộ, ban, ngành đã ban hành những quy định riêng nhằm quản lý thị trường cũng

như giá cả trong từng thời điểm nhằm thực hiện mục tiêu chung đưa ra trong Pháp

lệnh Giá trước đây và Luật Giá sau này.

1.3.3. Kinh nghiệm điều hành giá trên cả nước do các cơ quan trung

ương thực hiện.

Trong những năm vừa qua, trước những đợt biến động liên tiếp và khó lường

1 Bao gồm: (i) Xăng, dầu thành phẩm; (ii) Điện; (iii) Khí dầu mỏ hóa lỏng; (iv) Phân đạm; phân NPK; (v) Thuốc bảo vệ thực vật theo quy định của pháp luật; (vi) Vac-xin phòng bệnh cho gia súc, gia cầm; (viig) Muối ăn; (viii) Sữa dành cho trẻ em dưới 06 tuổi; (ix)) Đường ăn, bao gồm đường trắng và đường tinh luyện; (x) Thóc, gạo tẻ thường; (xi) Thuốc phòng bệnh, chữa bệnh cho người thuộc danh mục thuốc chữa bệnh thiết yếu sử dụng tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của pháp luật.

ở thị trường trong nước cũng như thị trường thế giới của giá cả các mặt hàng thiết

21

yếu thuộc diện bình ổn giá do Chính phủ trực tiếp quản lý, chủ trương bình ổn giá là

hết sức thiết thực và những biện pháp thực hiện cũng đã phần nào kịp thời tác động

đến giá cả nhằm đưa giá hàng hóa về một mặt bằng bình ổn nhất định sau đó, không

làm giá cả có những biến động quá xấu và kéo dài làm ảnh hưởng tới đời sống của

người dân và nền kinh tế. Đối với những mặt hàng luôn có xu hướng tăng giá như

xăng dầu, điện, sữa bột, thuốc thông dụng, phân bón cây trồng v.v…, Chính phủ đã

có nhiều biện pháp khác nhau nhằm kiểm soát giá khi giá tăng tùy từng mặt hàng và

thời điểm (bình ổn giá lên). Đối với mặt hàng đặc thù như lúa gạo do người dân sản

xuất nhưng giá không ổn định và có những đợt xuống thấp khiến người sản xuất

thua lỗ, Chính phủ cũng đã có những biện pháp bình ổn như thu mua, tạm trữ với

mức giá hợp lý (bình ổn giá xuống).

Tuy nhiên, có thể nhận thấy một số hạn chế trong việc thực hiện hệ thống

chính sách và biện pháp bình ổn giá một số mặt hàng thiết yếu đối với đời sống

người dân do Chính phủ trực tiếp chỉ đạo và các Bộ trực tiếp điều hành như sau:

Việc kiểm tra, kiểm soát giá còn mang tính hình thức, hành chính, các Bộ,

ban, ngành còn lỏng lẻo hoặc chậm trễ trong việc đưa ra những biện pháp thực sự

hữu hiệu giúp bình ổn thị trường một cách bền vững. Mặc dù đã có một hệ thống

các văn bản pháp luật quy định cụ thể về chính sách, biện pháp bình ổn giá và các

mặt hàng cụ thể thuộc diện bình ổn nhưng trong những năm qua, dường như sự bất

ổn chính của giá cả lại tập trung vào những mặt hàng này. Điều này có thể xuất phát

từ những nguyên nhân khách quan nhưng cũng không thể phủ nhận nguyên nhân

chủ quan là sự quản lý lỏng lẻo của các cơ quan Nhà nước và có những thời điểm

đã buông lỏng hoặc không có động thái thực sự tích cực bình ổn thị trường. Sau đó,

khi giá tăng bất thường hoặc khó kiểm soát, những phản ứng kiểm soát giá lại lúng

túng, bị động, đối phó hoặc bắt buộc phải sử dụng các công cụ áp đặt, phi thị trường

nhằm bình ổn giá trong một giai đoạn ngắn hạn nhất định.

Sự bất ổn về giá cả và những điều chỉnh tăng đột ngột (giá điện hoặc giá

xăng dầu) trong nhiều năm đã gây bức xúc trong xã hội, giảm niềm tin thực sự của

22

người dân vào các cơ quan điều hành giá. Bên cạnh đó, đôi khi vẫn có những giải

thích khó hiểu2 hoặc việc “đùn đẩy” trách nhiệm từ các Bộ, ban, ngành cho nhau3.

Việc sử dụng các biện pháp hành chính can thiệp vào thị trường, điều chỉnh

giá còn là tư tưởng chủ đạo hiện nay đối với hầu hết các mặt hàng thuộc diện bình

ổn giá do Chính phủ điều hành, kể cả bình ổn giá lên và bình ổn giá xuống (như đã

phân tích ở các phần trên). Điều này có thể dẫn tới việc làm méo mó sự phát triển

của thị trường theo hướng cạnh tranh lành mạnh hoặc nghiêm trọng hơn là gây thất

thoát, lãng phí lớn cho ngân sách nhà nước.

Chính sự chồng chéo của các quy định và chưa phân định rõ trách nhiệm,

quyền hạn và chế tài đối với các cơ quan quản lý và tham gia bình ổn giá nên sự

phối hợp giữa các cơ quan quản lý chưa tốt dẫn tới tình trạng lũng đoạn giá, đầu cơ

giá. Có thể nói những hiện tượng đầu cơ, tích trữ hay câu kết, độc quyền thâu tóm

giá cả để vô hiệu hóa các biện pháp bình ổn giá đã trở thành phổ biến. Điều này đã

tạo điều kiện cho những doanh nghiệp “sân sau”, có quan hệ kinh doanh chụp giật

hoặc lợi dụng thế độc quyền áp đặt thị trường. Ví dụ điển hình là các đại lý xăng

dầu, các công ty phân phối sữa bột, các công ty dược (thậm chí, trong một thời gian

dài, các hãng sữa đã “làm mưa, làm gió” giá cả sữa cho trẻ em nhưng “không ai làm

gì” hoặc “không làm gì được” v.v…

Chưa có một chế tài thực sự hữu hiệu đối với doanh nghiệp hoạt động kinh

doanh trong thị trường hàng hóa thiết yếu khi có những dấu hiệu vi phạm hoặc né,

tránh, lách các biện pháp thực hiện bình ổn giá. Điển hình là trường hợp các doanh

nghiệp kinh doanh sữa trẻ em dưới 6 tuổi. Những mức xử phạt hành chính hiện quá

thấp so với lợi nhuận các doanh nghiệp thu được.

1.3.4. Điều hành giá tại các địa phương do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện.

Theo quy định hiện hành, công tác bình ổn giá tại địa phương chủ yếu gồm

2 Như việc tuyên bố “Giá điện tăng có lợi cho người dân”. 3 Như việc quản lý giá sữa, Bộ Tài chính và Bộ Công thương đã không xác định rõ được trách nhiệm của mình.

03 nội dung chính:

23

- Tổ chức triển khai các biện pháp bình ổn giá do Chính phủ quyết định.

- Tổ chức triển khai thanh tra chuyên ngành về giá, việc chấp hành pháp luật

về giá theo quy định của Luật Giá và quy định khác của pháp luật có liên quan trên

địa bàn.

- Theo dõi, tổng hợp, phân tích, dự báo tình hình giá cả thị trường trên địa

bàn, quyết định loại hàng hóa, dịch vụ cụ thể để áp dụng biện pháp bình ổn giá phù

hợp trong từng thời kỳ.

Về nội dung này, năm 2014 cả nước có 48 tỉnh, thành xây dựng kế hoạch cụ

thể hàng năm với mục tiêu góp phần giữ ổn định thị trường, đảm bảo an sinh xã hội

trên địa bàn. Cụ thể:

+ Nhóm hàng bình ổn giá có tính chất sau:

* Có tính chất thiết yếu và nhu cầu sử dụng lớn đối với đời sống sinh hoạt

hàng ngày của người dân thành phố.

* Có tính nhạy cảm về cung cầu, giá cả nhưng khó chủ động về số lượng và

nguồn hàng cung ứng một cách ổn định.

* Các mặt hàng lương thực thực phẩm cân đối cung - cầu tại chỗ trên địa bàn

còn thiếu phải khai thác thu mua ở thị trường bên ngoài.

+ Tiêu chí lựa chọn doanh nghiệp về cơ bản qua các năm có điểm chung sau:

* Doanh nghiệp có quy mô kinh doanh lớn (vốn, hệ thống mạng lưới bán

buôn, bán lẻ, kho dự trữ, có năng lực và kinh nghiệm tổ chức nguồn hàng, phân

phối) phù hợp với nhóm hàng thuộc danh mục bình ổn; hoạt động kinh doanh có

hiệu quả (qua các báo cáo tài chính hoặc báo cáo kiểm toán 2 năm gần nhất, không

có nợ xấu, nợ quá hạn…).

* Có lượng hàng hóa thuộc danh mục Bình ổn giá cung ứng cho thị trường

với số lượng lớn và xuyên suốt trong thời gian thực hiện chương trình.

* Có phương án tổ chức sản xuất, kinh doanh, tạo nguồn hàng, phát triển

mạng lưới bán lẻ đáp ứng được mục tiêu, nhiệm vụ bình ổn thị trường.

24

* Quy định doanh nghiệp có số lượng điểm bán hàng hoặc điểm cung ứng

hàng hóa bình ổn giá ổn định trên địa bàn. (Không áp dụng đối với doanh nghiệp

sản xuất).

TÓM TẮT CHƯƠNG I.

Để xây dựng nền tảng lý thuyết thực hiện Đề tài, Chương I tập trung phân

tích các vấn đề sau:

- Khái niệm về giá cả, giá cả thị trường, đặc trưng của giá cả thị trường và

các nhân tố ảnh hưởng đến giá cả thị trường theo Học thuyết “Lý luận về giá trị, giá

cả” của C.Mác, Ph.Ăngghen. Qua đó làm nền tảng lý thuyết trong việc giải thích và

xây dựng giải pháp bình ổn thị trường thông qua việc tác động vào các yếu tố hình

thành giá cả thị trường.

- Nêu một số nghiên cứu khoa học về bình ổn giá cả tại các nước và Việt

Nam, qua đó giải thích yêu cầu cần thiết phải thực hiện bình ổn giá trong nền kinh

tế thị trường và tham khảo cách thức bình ổn giá đã thực hiện tại các nước phát triển

và tại Việt Nam.

- Nghiên cứu cơ sở pháp lý, thực trạng, hạn chế trong việc thực hiện bình ổn

giá cả tầm vĩ mô tại Việt Nam, qua đó xác định môi trường thực hiện Chương trình

Bình ổn thị trường tại thành phố Hồ Chí Minh.

25

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI CHƯƠNG TRÌNH BÌNH ỔN

THỊ TRƯỜNG CÁC MẶT HÀNG LƯƠNG THỰC, THỰC PHẨM THIẾT

YẾU TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.

2.1. Khái quát Chương trình Bình ổn thị trường trên địa bàn thành phố

Hồ Chí Minh.

Thành phố Hồ Chí Minh là 01 trung tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học

kỹ thuật quan trọng, GDP chiếm hơn 20%, giá trị sản xuất công nghiệp chiếm hơn

30%, tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ chiếm hơn 25% của cả nước; luôn giữ

vai trò trung tâm sản xuất, phân phối, trung chuyển, tiêu thụ hàng hóa sôi động và

nhiều tiềm năng. Sức tiêu thụ hàng hóa của thành phố Hồ Chí Minh tăng bình quân

hàng năm 10 - 15% giúp quy mô thị trường ngày càng lớn, thu hút đầu tư và mở

rộng kết nối giao thương đi khắp nơi trong cả nước và vươn ra thế giới. Đây chính

là yếu tố tích cực, là động lực phát triển sản xuất, thương mại của cả khu vực, góp

phần phát triển kinh tế. Đồng thời thành phố Hồ Chí Minh trở thành nơi chịu nhiều

tác động từ những biến động tiêu cực của thị trường trong nước và thế giới. Vì vậy,

cùng với việc tập trung thúc đẩy hoạt động sản xuất - kinh doanh, đầu tư phát triển;

Chính quyền thành phố Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến công tác

bình ổn thị trường, chăm lo an sinh xã hội; một trong những công cụ thực hiện

nhiệm vụ này là Chương trình Bình ổn thị trường.

2.1.1. Từ nhận thức “bình ổn giá” đến nhận thức “bình ổn thị trường”.

Chương trình Bình ổn giá trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh được triển

khai lần đầu năm 2002, chủ yếu nhằm ổn định giá cả các mặt hàng Tết (chưa xác

định cụ thể) trong dịp Tết Nguyên đán; theo đó Chính quyền thành phố Hồ Chí

Minh ứng vốn ngân sách không tính lãi cho doanh nghiệp dự trữ hàng hóa, doanh

nghiệp tham gia có trách nhiệm giữ cố định giá trong 03 tháng Tết.

Sau hơn 13 năm thực hiện, từ nhận thức “bình ổn giá” đơn thuần, chính

quyền Thành phố đã có bước chuyển biến căn bản sang nhận thức “bình ổn thị

trường” với nhiều điều chỉnh phù hợp:

26

- Từ mục tiêu ban đầu nhằm ổn định giá cả ngắn hạn mùa Tết; nay Chương

trình tập trung thực hiện các mục tiêu chính:

+ Trở thành công cụ điều tiết giá cả thị trường các mặt hàng thiết yếu thông

qua điều hòa cung - cầu hàng hóa, ổn định thị trường trong dài hạn và thúc đẩy phát

triển hệ thống phân phối, gia tăng hiệu quả lưu thông hàng hóa. Góp phần kiềm chế

lạm phát, đảm bảo an sinh xã hội.

+ Thúc đẩy sản xuất trong nước theo hướng hiện đại, năng suất cao, đạt tiêu

chuẩn an toàn. Góp phần thực hiện Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng

hàng Việt Nam” của Bộ Chính trị.

- Thời gian thực hiện ban đầu chỉ trong dịp Tết Nguyên đán, đến nay

Chương trình được triển khai xuyên suốt cả năm.

- Từ chưa xác định cụ thể danh mục hàng hóa, đến nay Chương trình thực

hiện bình ổn thị trường đối với 40 nhóm hàng cụ thể: 09 nhóm hàng lương thực

thực phẩm thiết yếu, 04 nhóm hàng phục vụ mùa khai giảng, 06 nhóm hàng sữa và

21 nhóm hàng dược phẩm thiết yếu.

- Đối tượng doanh nghiệp tham gia được mở rộng về thành phần, ban đầu chỉ

có kinh tế nhà nước, hiện đã có thêm kinh tế tập thể, tư nhân và khu vực có vốn đầu

tư nước ngoài cùng tham gia.

- Nguồn vốn thực hiện Chương trình từ hình thức nhà nước ứng vốn ngân

sách cho doanh nghiệp dự trữ hàng hóa sang hình thức xã hội hóa, kết nối ngân

hàng với doanh nghiệp.

2.1.2. Ý nghĩa của Chương trình Bình ổn thị trường trên địa bàn Thành

phố Hồ Chí Minh.

- Thứ nhất, Chương trình góp phần thúc đẩy hoạt động sản xuất, kinh doanh;

tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động về nguồn vốn, kế hoạch sản xuất, tăng

cường mối liên kết giữa các doanh nghiệp sản xuất và giữa sản xuất với phân phối,

giúp doanh nghiệp chủ động được đầu ra, mạnh dạn đầu tư đổi mới công nghệ nhằm

27

nâng cao hiệu quả sản xuất, chất lượng sản phẩm, an toàn thực phẩm, đáp ứng tốt

nhu cầu tiêu dùng của người dân.

- Thứ hai, Chương trình góp phần đảm bảo hiệu lực quản lý thị trường của

Nhà nước, đồng thời góp phần thực hiện Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên

dùng hàng Việt Nam” của Bộ Chính trị trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.

+ Thứ ba: Chương trình góp phần cân đối cung cầu hàng hóa, đáp ứng nhu

cầu của người dân, hạn chế tốc độ tăng giá, kiềm chế lạm phát, đảm bảo anh sinh xã

hội trên địa bàn.

2.2. Nội dung thực hiện Chương trình Bình ổn thị trường các mặt hàng

lương thực, thực phẩm thiết yếu trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.

2.2.1. Công tác xác định mặt hàng thực hiện bình ổn thị trường.

Từ năm 2011 - 2015, Chương trình Bình ổn thị trường trên địa bàn thành phố

Hồ Chí Minh triển khai đối với 04 ngành hàng: các mặt hàng lương thực, thực phẩm

thiết yếu; các mặt hàng phục vụ mùa khai giảng; các mặt hàng sữa và các mặt hàng

dược phẩm thiết yếu.

Trong đó các mặt hàng lương thực, thực phẩm thiết yếu có 09 nhóm mặt

hàng: lương thực (gạo, mì, bún, bánh phở…), đường ăn, dầu ăn, thịt heo, thịt gia

cầm, trứng gia cầm, thực phẩm chế biến, rau củ quả, thủy hải sản. Chính quyền

thành phố Hồ Chí Minh thực hiện bình ổn thị trường các nhóm mặt hàng này vì các

lý do:

- Các nhóm mặt hàng này có tính thiết yếu cao, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong

tổng chi tiêu của người dân. Thống kê giai đoạn 2004 – 2012 cho thấy nội dung

“Chi ăn, uống, hút” luôn chiếm từ 43,91% đến 52,13% mức chi tiêu đời sống bình

quân đầu người một tháng.

28

Bảng 2.1: Chi tiêu đời sống bình quân đầu người một tháng theo giá thực tế.

2006 2010

Nội dung chi tiêu Tổng số Chi ăn, uống, hút Chi may mặc Chi nhà ở, điện nước, vệ sinh Chi thiết bị, đồ dùng Chi y tế, chăm sóc sức khỏe Chi đi lại và bưu điện Chi giáo dục Văn hóa thể thao, giải trí Chi khác

2004 2012 2008 100% 100% 100% 100% 100% 48,35% 43,91% 45,87% 47,96% 52,13% 3,48% 6,37% 3,63% 3,21% 2,94% 6,08% 6,65% 6,55% 8,55% 7,79% 8,13% 6,27% 7,44% 6,51% 4,95% 6,76% 7,6% 5,22% 3,45% 3,74% 13,42% 12,17% 17,05% 13,22% 12,06% 6,26% 7,41% 6,11% 8,84% 8,15% 2,53% 6,18% 4,52% 2,67% 2,62% 4,97% 3,52% 3,5% 5,59% 5,62% (Nguồn: Niên giám thống kê TPHCM năm 2014)

- Với thẩm quyền của địa phương cấp tỉnh, bình ổn thị trường các nhóm mặt

hàng này là lựa chọn tối ưu để thực hiện chính sách quản lý thị trường, kiềm chế

lạm phát do chiếm tỷ trọng cao trong rổ hàng hóa tính chỉ số giá tiêu dùng – CPI.

Bảng 2.2: 20 nhóm hàng hóa, dịch vụ có trọng số cao nhất trong rổ hàng hóa

tính chỉ số giá tiêu dùng – CPI.

STT Nhóm mặt hàng, dịch vụ

Trọng số 1.236/10.000 541/10.000 512/10.000 429/10.000 376/10.000 360/10.000 351/10.000 319/10.000 315/10.000 314/10.000 287/10.000 284/10.000 264/10.000 241/10.000 237/10.000 228/10.000 194/10.000 151/10.000 Dịch vụ ăn, uống ngoài gia đình 1 Dịch vụ giáo dục 2 Gạo 3 Nhiên liệu 4 Thịt gia súc tươi sống 5 Dịch vụ y tế 6 Quần áo may sẵn 7 Cước dịch vụ viễn thông 8 Sữa, bơ, pho mát 9 Phương tiện đi lại 10 Thủy sản tươi sống 11 12 Vật liệu bảo dưỡng nhà ở 13 Xà phòng và chất tẩy rửa 14 Điện sinh hoạt 15 Rau tươi, khô và chế biến 16 Gas và các loại chất đốt khác 17 Thịt gia cầm tươi sống 18 Quả tươi và chế biến (Nguồn: tham khảo thông tin nội bộ Cục Thống kê TPHCM)

29

- Do đáp ứng nhu cầu cơ bản nên mức chi tiêu (tuyệt đối) các mặt hàng này

không phân biệt tầng lớp dân cư; vì vậy sự tăng giá của các mặt hàng này sẽ tác

động trực tiếp và tác động lớn nhất đối với tầng lớp dân cư có mức sống thấp nhất.

- Vì tính thiết yếu cao nên giá cả thị trường các nhóm hàng này tương đối

nhạy cảm, thường bị một số đối tượng thực hiện đầu cơ, găm hàng, tung tin đồn thất

thiệt, gây sốt giá để trục lợi.

Nhìn chung, bình ổn thị trường hiệu quả các nhóm mặt hàng này là giải pháp

tối ưu mà chính quyền địa phương cấp tỉnh có thể lựa chọn để thực hiện các nhiệm

vụ kềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội.

2.2.2. Công tác dự báo, đánh giá thị trường.

Công tác dự báo là vô cùng quan trọng bởi lẽ nó cung cấp các thông tin cần

thiết nhằm phát hiện và bố trí sử dụng các nguồn lực trong tương lai một cách có

căn cứ thực tế. Với những thông tin mà dự báo đưa ra cho phép các nhà hoạch định

chính sách có những quyết định về chính sách kinh tế vĩ vô. Dự báo không chỉ tạo

cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính sách mà còn cho phép xem xét khả năng

thực hiện kế hoạch và hiệu chỉnh kế hoạch.

Công tác dự báo, đánh giá thị trường các mặt hàng lương thực, thực phẩm

thiết yếu là bước đầu tiên và là cơ sở để xây dựng, thực hiện, hiệu chỉnh kế hoạch

triển khai Chương trình Bình ổn thị trường; bao gồm 4 nội dung: dự báo nhu cầu

tiêu thụ, thống kê nguồn cung hàng hóa, diễn biến giá cả thị trường, đánh giá thị

trường.

- Dự báo nhu cầu tiêu thụ:

+ Nội dung dự báo: tổng nhu cầu tiêu thụ từng nhóm hàng của toàn Thành

phố bình quân một tháng.

+ Nguồn thông tin: Cục Thống kê thành phố Hồ Chí Minh, Sở Nông nghiệp

và Phát triển Nông thôn.

+ Phương pháp dự báo: hiện nay công tác dự báo nhu cầu thị trường của Sở

Công Thương chưa áp dụng mô hình định lượng cụ thể; chủ yếu sử dụng kết quả

30

thống kê, phân tích của Cục Thống kê TP.HCM, Sở Nông nghiệp và Phát triển

Nông thôn, Sở Y tế để nhận định, đánh giá, ước lượng.

Bảng 2.3: nhu cầu tiêu thụ một số nhóm mặt hàng thiết yếu năm 2015.

Nhóm hàng Nhu cầu tiêu thụ

Gạo Đường Dầu ăn Thịt gia súc Thịt gia cầm Trứng gia cầm Thực phẩm chế biến Rau củ quả Thủy hải sản 55.000 tấn/tháng 7.100 tấn/tháng 5.000 tấn/tháng 18.000 tấn/tháng 10.800 tấn/tháng 85,5 triệu quả/tháng 7.000 tấn/tháng 72.000 tấn/tháng 11.000 tấn/tháng (Nguồn: tham khảo thông tin nội bộ Sở Công Thương TPHCM)

- Thống kê nguồn cung hàng hóa:

+ Nội dung thống kê: tổng nguồn cung ứng từng nhóm hàng vào thị trường

Thành phố bình quân một tháng; nguồn cung ứng của doanh nghiệp tham gia

Chương trình Bình ổn thị trường.

+ Nguồn thông tin:

* Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn: cung cấp tình hình sản xuất, nuôi

trồng tại TP.HCM; số liệu kiểm soát hàng hóa nông sản thực phẩm nhập về thành

phố Hồ Chí Minh từ các tỉnh, thành và từ thành phố Hồ Chí Minh chuyển đi các

tỉnh, thành.

* Sở Công Thương các tỉnh, thành: cung cấp thông tin tình hình sản xuất,

nuôi trồng tại địa phương; tình hình lưu thông hàng hóa giữa các tỉnh, thành và

TP.HCM.

* Cục Hải quan thành phố Hồ Chí Minh: cung cấp số liệu lượng hàng nhập

khẩu, xuất khẩu tại thành phố Hồ Chí Minh.

* Doanh nghiệp tham gia Chương trình Bình ổn thị trường: khả năng sản

xuất, kinh doanh, dự trữ hàng hóa của đơn vị. Năm 2015, khả năng cung ứng của

các doanh nghiệp bình ổn thị trường như sau:

31

+ Phương pháp thống kê:

* Định tính: thống kê tổng hợp đơn thuần số liệu của các đơn vị.

* Định lượng: đánh giá, nhận định, ước lượng khả năng cung ứng trong

tương lai của tổng các nguồn và của doanh nghiệp tham gia Chương trình Bình ổn

thị trường.

- Đánh giá diễn biến thị trường:

+ Nội dung: bám sát diễn biến giá cả thị trường các mặt hàng trong Chương

trình Bình ổn thị trường định kỳ hàng tuần đối với ngày thường, hàng ngày đối với

dịp Lễ, Tết.

+ Nguồn thông tin: Ban Quản lý các chợ đầu mối, chợ truyền thống; Công ty

chủ quản các hệ thống siêu thị, cửa hàng tiện lợi; kênh theo dõi thị trường của 24

quận – huyện.

+ Phương pháp thực hiện:

* Định lượng: thống kê, tổng hợp số liệu báo cáo từ các đơn vị, so sánh mức

độ tăng giảm giá trung bình giữa các kỳ báo cáo.

* Định tính: đánh giá, nhận định mức độ tăng, giảm giá các mặt hàng trong

kỳ báo cáo; dự báo mức độ tăng, giảm giá bán trong kỳ báo cáo tiếp theo.

Nhìn chung, công tác dự báo, đánh giá diễn biến thị trường được Sở Công

Thương thực hiện liên tục, định kỳ, đột xuất nhằm nắm chắc diễn biến thị trường,

kịp thời đề xuất Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh các giải pháp ổn định thị

trường khi có biến động giá bất hợp lý. Tuy nhiên, do nguồn nhân lực có giới hạn,

chưa được đầu tư nghiên cứu chuyên sâu nên công tác dự báo, đánh giá thị trường

hiện nay chủ yếu là tổng hợp số liệu, đánh giá chủ quan, dựa vào kinh nghiệm của

cán bộ theo dõi; chưa có mô hình chuẩn, mang tính khoa học.

2.2.3. Phương thức tạo nguồn cung hàng hóa để bình ổn thị trường.

Một trong những nội dung quan trọng của Chương trình Bình ổn thị trường

trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh là tạo nguồn hàng cung ứng ổn định, chủ động,

chất lượng, giá cả hợp lý, số lượng đủ để chi phối thị trường. Để có được nguồn

hàng đáp ứng yêu cầu của Chương trình, Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

32

áp dụng các phương thức sau: lựa chọn doanh nghiệp có uy tín, năng lực để tham

gia Chương trình; triển khai các chính sách hỗ trợ thúc đẩy đầu tư, phát triển sản

xuất; tăng cường hợp tác thương mại, kết nối cung – cầu với các tỉnh, thành lân cận.

2.2.3.1. Lựa chọn doanh nghiệp tham gia Chương trình Bình ổn thị

trường.

Hàng năm, vào đầu tháng 4, Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh công

bố Kế hoạch thực hiện Chương trình Bình ổn thị trường cho năm đó đến hết tháng 3

năm sau, công khai danh sách cụ thể từng doanh nghiệp tham gia. Từ đầu năm, Sở

Công Thương thông báo rộng rãi mời gọi doanh nghiệp tham gia. Đối tượng, điều

kiện, quyền lợi, nghĩa vụ tham gia đối với doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh là:

+ Đối tượng tham gia: doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được

thành lập, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã (gọi chung là doanh

nghiệp), đáp ứng đầy đủ điều kiện đăng ký tham gia Chương trình và chấp hành các

quy định của Chương trình.

+ Điều kiện tham gia:

* Doanh nghiệp đăng ký tham gia phải có chức năng sản xuất - kinh doanh

phù hợp với các nhóm hàng trong Chương trình; có thương hiệu, uy tín, năng lực

sản xuất, kinh nghiệm kinh doanh các mặt hàng trong Chương trình; có nguồn hàng

cung ứng cho thị trường với số lượng lớn, ổn định và xuyên suốt thời gian thực hiện

Chương trình.

* Có trụ sở chính, văn phòng, chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh; có hệ

thống nhà xưởng, kho bãi, trang thiết bị - công nghệ sản xuất hiện đại và đảm bảo

tiêu chuẩn chất lượng; có phương tiện vận chuyển phục vụ việc phân phối hàng hóa

và bán hàng lưu động theo yêu cầu của Chương trình.

* Cam kết sản xuất, cung ứng hàng hóa tham gia Chương trình đúng chủng

loại, đủ số lượng, đáp ứng các tiêu chuẩn về chất lượng, an toàn thực phẩm, nguồn

gốc xuất xứ và nhãn mác sản phẩm; thực hiện việc niêm yết giá theo quy định, bán

đúng giá đăng ký đã được Sở Tài chính thẩm định và phê duyệt.

33

* Có ít nhất 12 điểm bán (siêu thị, cửa hàng tiện lợi ...) hoạt động ổn định

trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh; đăng ký danh sách, địa chỉ các điểm bán và kế

hoạch phát triển hệ thống phân phối trong thời gian thực hiện Chương trình kèm

theo hồ sơ đăng ký tham gia Chương trình.

* Có kế hoạch sản xuất - kinh doanh, tạo nguồn hàng khả thi; có năng lực tài

chính lành mạnh; không có nợ xấu, nợ quá hạn (thể hiện qua báo cáo tài chính hoặc

báo cáo kiểm toán trong 2 năm gần nhất).

+ Quyền lợi:

* Được kết nối với các tổ chức tín dụng tham gia Chương trình để vay vốn

với lãi suất phù hợp nhằm đầu tư chăn nuôi, sản xuất, đổi mới công nghệ, phát triển

hệ thống phân phối và dự trữ hàng hóa cung ứng phục vụ bình ổn thị trường thành

phố xuyên suốt thời gian thực hiện Chương trình. Hạn mức vay tương ứng lượng

hàng được giao thực hiện bình ổn thị trường theo Kế hoạch do Ủy ban nhân dân

thành phố ban hành.

* Được hỗ trợ lãi vay nếu có dự án đầu tư đúng đối tượng theo quy định tại

Quyết định số 33/2011/QĐ-UBND ngày 28 tháng 5 năm 2011 của Ủy ban nhân dân

thành phố quy định về thực hiện các dự án đầu tư thuộc Chương trình Kích cầu của

thành phố Hồ Chí Minh, Quyết định số 38/2013/QĐ-UBND ngày 23 tháng 9 năm

2013 của Ủy ban nhân dân thành phố về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của

Quyết định số 33/2011/QĐ-UBND và Quyết định số 13/2013/QĐ-UBND ngày 20

tháng 3 năm 2013 của Ủy ban nhân dân thành phố về khuyến khích chuyển dịch cơ

cấu nông nghiệp đô thị trên địa bàn thành phố giai đoạn 2013 - 2015.

* Được hỗ trợ truyền thông, quảng bá đối với hàng hóa bình ổn thị trường,

điểm bán bình ổn thị trường khi đăng ký tham gia Chương trình và các hoạt động

nhằm thực hiện nhiệm vụ bình ổn thị trường.

* Được giới thiệu mặt bằng để đầu tư mở rộng sản xuất và phát triển hệ

thống phân phối phục vụ bình ổn thị trường trên địa bàn thành phố; ưu tiên giới

thiệu cung ứng hàng hóa bình ổn thị trường vào mạng lưới điểm bán hiện hữu của

34

Chương trình, chợ truyền thống, bệnh viện, trường học, bếp ăn tập thể tại các khu

chế xuất - khu công nghiệp…

* Được ưu tiên tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại trong khuôn khổ

Chương trình Hợp tác thương mại giữa thành phố với các tỉnh, thành miền Đông -

Tây Nam bộ và các địa phương khác trong cả nước.

* Được sử dụng Biểu trưng (Logo) Chương trình Bình ổn thị trường Thành

phố Hồ Chí Minh theo các điều khoản quy định về quản lý, khai thác, sử dụng Biểu

trưng này và các quy định pháp luật có liên quan.

+ Nghĩa vụ:

* Thực hiện đăng ký chủng loại, số lượng sản phẩm tham gia Chương trình.

* Tổ chức sản xuất - kinh doanh theo đúng kế hoạch tạo nguồn hàng và cung

ứng hàng hóa đủ số lượng đăng ký đã được Ủy ban nhân dân thành phố phê duyệt;

đảm bảo hàng hóa tham gia Chương trình đạt chất lượng, an toàn thực phẩm và bán

đúng giá đăng ký đã được Sở Tài chính thẩm định và phê duyệt.

* Tích cực phát triển hệ thống phân phối và tăng số điểm bán hàng bình ổn

thị trường; chú trọng phát triển điểm bán tại quận ven, huyện ngoại thành, chợ

truyền thống, khu chế xuất - khu công nghiệp, khu lưu trú công nhân, trường học,

bệnh viện, bếp ăn tập thể…

* Thông tin công khai, rộng rãi địa chỉ các điểm bán; treo băng-rôn, bảng

hiệu, niêm yết bảng giá… theo đúng quy cách hướng dẫn của Sở Công Thương;

trưng bày hàng hóa tại các vị trí thuận tiện, riêng biệt để người tiêu dùng dễ nhìn, dễ

nhận biết và mua sắm.

* Sử dụng vốn vay đúng mục đích, hoàn trả vốn vay và lãi vay đúng quy

định theo hợp đồng đã ký kết với các tổ chức tín dụng tham gia Chương trình.

Trong trường hợp doanh nghiệp sử dụng vốn vay không đúng mục đích, không thực

hiện đúng cam kết về cung ứng lượng hàng theo kế hoạch; doanh nghiệp phải hoàn

trả toàn bộ phần vốn vay và chịu phạt lãi suất theo quy định pháp luật hiện hành.

35

* Trong thời gian tham gia Chương trình, trường hợp có sự thay đổi về vốn

điều lệ, doanh nghiệp phải thông báo bằng văn bản cho Sở Tài chính, Sở Công

Thương và tổ chức tín dụng thực hiện cho vay trước 30 ngày kể từ ngày nộp hồ sơ

xin thay đổi.

Năm 2016, thành phố Hồ Chí Minh đã mời gọi được 86 doanh nghiệp tham

gia Chương trình Bình ổn thị trường, trong đó có 42 doanh nghiệp sản xuất, kinh

doanh các mặt hàng lương thực, thực phẩm; chủ yếu là các doanh nghiệp lớn, có uy

tín trên thị trường như: Saigon Co.op, Satra, BigC, Vissan, Cầu Tre, Phạm Tôn, San

Hà… Lượng hàng các doanh nghiệp này cung ứng đáp ứng 25% đến 30% nhu cầu

thị trường.

2.2.3.2. Chính sách hỗ trợ thúc đẩy đầu tư, phát triển sản xuất.

Để thực hiện Chương trình Bình ổn thị trường trong dài hạn, đi vào chiều

sâu, Thành phố đã thực hiện song song nhiều Chương trình, Đề án bổ sung để hỗ

trợ, thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư, phát triển. Trong đó cơ bản là Chương trình

khuyến khích chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp đô thị trên địa bàn thành phố và

Chương trình kích cầu:

- Chương trình khuyến khích chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp đô thị trên địa

bàn thành phố: doanh nghiệp, tổ hợp tác, hợp tác xã, các hộ gia đình, chủ trang trại,

cá nhân trực tiếp sử dụng đất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp trên địa bàn thành phố và

có phương án, dự án để đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp, ngành nghề nông

thôn không gây ô nhiễm môi trường và phù hợp với mục tiêu phát triển nông nghiệp

đô thị của thành phố được hỗ trợ từ 60-100% lãi suất vay vốn ngân hàng trong vòng

01 năm để triển khai dự án.

- Chương trình kích cầu: doanh nghiệp được xét duyệt tham gia Chương

trình Bình ổn thị trường khi đầu tư xây dựng chuồng trại chăn nuôi gia súc, gia cầm;

dự án đầu tư cơ sở giết mổ; sản xuất giống gia súc, gia cầm; đáp ứng yêu cầu bảo

đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, không gây ô nhiễm môi trường sẽ được hỗ trợ 50%

lãi suất vay vốn ngân hàng trong vòng 07 năm để triển khai dự án.

36

Qua đó, đến nay các doanh nghiệp trong Chương trình đã thực hiện 75 dự án

đầu tư sản xuất, liên kết đầu tư với tổng số vốn đầu tư 27.428 tỷ đồng gồm các dự

án nuôi trồng, chế biến thực phẩm, xây dựng nhà máy, trang trại, Trung tâm

Thương mại, siêu thị… trong đó, liên kết cung ứng vốn cho nông dân chăn nuôi,

trang trại rau sạch 2.500 tỷ đồng.

2.2.3.3. Chính sách kết nối cung – cầu với các tỉnh, thành.

Nguồn hàng lương thực, thực phẩm thiết yếu Thành phố tự cung ứng khá hạn

chế, chủ yếu có nguồn gốc xuất xứ từ các địa phương lân cận. Cụ thể, thịt heo, thịt

gà, trứng gà chủ yếu từ Long An, Đồng Nai, Bình Dương...; thịt vịt, trứng vịt chủ

yếu từ các tỉnh Sóc Trăng, Đồng Tháp, Kiên Giang...; rau củ quả chủ yếu từ Lâm

Đồng, Tiền Giang; gạo chủ yếu từ An Giang, Cần Thơ, Hậu Giang... Do đó, công

tác tạo nguồn hàng bình ổn thị trường trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh luôn gắn

chặt với Chương trình Hợp tác thương mại, kết nối cung – cầu với các tỉnh, thành

lân cận để tạo điều kiện thuận lợi và kiểm soát trong lưu thông hàng hóa.

Trước năm 2011, doanh nghiệp hoàn toàn chủ động trong hoạt động đầu tư,

phát triển sản xuất, thu mua hàng hóa tại các tỉnh, thành; do đó lưu thông hàng hóa

từ các tỉnh, thành về thành phố Hồ Chí Minh mang tính tự phát, nguồn hàng không

ổn định do thiếu thông tin thị trường, lúc thừa, lúc thiếu; không được kiểm soát về

an toàn thực phẩm; không được sơ chế tại nguồn nên gia tăng chi phí vận chuyển...

Từ năm 2011, thành phố triển khai Chương trình Hợp tác thương mại với các

tỉnh, thành; theo đó Sở Công Thương các địa phương có trách nhiệm phối hợp các

nội dung:

- Hỗ trợ, cung cấp thông tin, trao đổi kinh nghiệm thực tiễn trong hoạt động

quản lý nhà nước, điều phối cung cầu hàng hóa, ổn định thị trường, công tác quy

hoạch thương mại – dịch vụ, thương mại điện tử, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng,

cải cách hành chính.

37

- Tổ chức các hoạt động trao đổi hàng hóa, hỗ trợ doanh nghiệp các bên liên

kết trong đầu tư sản xuất, khai thác nguồn nguyên liệu, phát triển kinh doanh và

phát triển hệ thống hạ tầng thương mại - dịch vụ, mở rộng thị trường.

- Phối hợp tổ chức và triển khai hoạt động Xúc tiến Thương mại, liên kết

giới thiệu đối tác, giới thiệu doanh nghiệp tham gia các chương trình hội chợ, lễ hội,

phiên chợ, phối hợp trong công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, chống buôn lậu

và gian lận thương mại, vệ sinh an toàn thực phẩm.

- Liên kết hợp tác trong lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực nhằm nâng cao

năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ quản lý ngành thương mại, ứng dụng Thương

mại điện tử trong hoạt động sản xuất kinh doanh.

Sau 04 năm triển khai, trên cơ sở trao đổi thông tin xác định tiềm năng thế

mạnh của từng địa phương, cơ chế chính sách đầu tư gắn với Chương trình Bình ổn

thị trường thành phố Hồ Chí Minh, thông qua Chương trình Hợp tác Thương mại

các địa phương đã tạo điều kiện thuận lợi cho Doanh nghiệp thành phố Hồ Chí

Minh an tâm đầu tư, liên kết phát triển sản xuất kinh doanh, xây dựng nhà máy, mở

rộng trang trại... phát triển hệ thống phân phối, xây dựng vùng nguyên liệu đảm bảo

cung cầu hàng hóa, bình ổn thị trường cho thành phố Hồ Chí Minh và cả khu vực.

Thông qua hoạt động kết nối cung – cầu hàng hóa, kết nối tiêu thụ hàng

nông sản, đặc sản từng địa phương; hệ thống phân phối, nhà tiêu thụ thành phố Hồ

Chí Minh tìm được nhiều nhà cung cấp có uy tín, các sản phẩm chất lượng, các sản

phẩm làng nghề, sản phẩm của các Hợp tác xã có điều kiện tiếp cận đưa hàng hóa

vào hệ thống phân phối hiện đại.

Các Doanh nghiệp thành phố Hồ Chí Minh có thế mạnh trong sản xuất, chế

biến và phân phối hàng hóa, có thị phần và nguồn lực vốn thực hiện liên kết, hợp

tác với Doanh nghiệp các địa phương có kinh nghiệm, tiềm năng trong sản xuất

nguồn nguyên liệu, các sản phẩm đặc sản… góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động

đầu tư, thực hiện các dự án sản xuất, phát triển vùng nguyên liệu và mở rộng mạng

38

lưới phân phối gắn với thu mua, tiêu thụ sản phẩm, giải quyết việc làm cho lực

lượng lao động và thực hiện nhiệm vụ bình ổn thị trường ngay tại các địa phương.

Công tác phối hợp kiểm tra, kiểm soát chất lượng hàng hóa, An toàn thực

phẩm đã tạo được sự gắn kết với Chi Cục Quản lý thị trường tại các địa phương;

kiểm soát lưu thông hàng hóa từ các tỉnh, thành cung ứng về thị trường thành phố

Hồ Chí Minh, đảm bảo xuất xứ hàng hóa, an toàn thực phẩm, góp phần nêu cao tinh

thần trách nhiệm, hoàn thành nhiệm vụ chung của ngành.

2.2.4. Phân phối hàng hóa bình ổn thị trường.

Một nhiệm vụ trọng tâm tiếp theo của Chương tình Bình ổn thị trường là gia

tăng hiệu quả lưu thông hàng hóa, giảm tối đa chênh lệch giá do khâu trung gian từ

nhà sản xuất đến người tiêu dùng bằng cách thúc đẩy phát triển hệ thống phân phối

nói chung và mạng lưới bán hàng bình ổn thị trường nói riêng; bao gồm hệ thống

bán buôn và hệ thống bán lẻ. Hiện trạng hệ thống phân phối trên địa bàn thành phố

Hồ Chí Minh đến hết năm 2014 như sau:

- Hệ thống bán buôn trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh cơ bản được tổ

chức theo các loại hình sau:

+ Các đại lý (cấp 1, cấp 2 và cấp 3) chuyên tiêu thụ những sản phẩm hoặc

hàng hoá có nhãn hiệu của một ngành sản xuất. Những đại lý này có các cửa hàng

kinh doanh, chuyên doanh tại các khu vực của chính doanh nghiệp sản xuất; hoặc là

công ty bán buôn đã liên kết chặt chẽ với các doanh nghiệp sản xuất.

+ Các doanh nghiệp bán buôn là các công ty thương mại theo ngành hàng

hoặc kinh doanh tổng hợp, đa số các doanh nghiệp này vẫn còn hoạt động bán buôn

và chủ yếu là các loại hàng hoá truyền thống. Sự thu hẹp quy mô bán buôn của các

loại doanh nghiệp này đang diễn ra rõ rệt. Hầu hết các doanh nghiệp này phải kết

hợp đầu tư sản xuất, bán buôn và bán lẻ.

+ Các doanh nghiệp sản xuất – bán buôn. Do nhu cầu mở rộng tiêu thụ sản

phẩm, một số doanh nghiệp sản xuất tự tổ chức hệ thống bán buôn sản phẩm trên thị

trường. Tuy nhiên, do qui mô sản lượng và khả năng tài chính, nên mạng lưới bán

39

buôn của các doanh nghiệp sản xuất thường mỏng và tập trung vào thị trường tiêu

thụ chính.

+ Các hộ bán buôn thường phát triển tự phát và trình độ quản lý không

chuyên nghiệp nên khó có thể phát triển thành quy mô lớn.

+ Trên địa bàn TP.HCM hiện có 6 chợ đầu mối, chủ yếu là bán buôn mặt

hàng nông, hải sản, trong đó có một số chợ có qui mô lớn, được tổ chức hoạt động

qui củ, áp dụng các phương thức giao dịch hiện đại.

+ Ngoài ra, thành phố Hồ Chí Minh còn có hệ thống các kho hàng hóa; tổng

kho quy mô lớn với mô hình hệ thống phân phối hiện đại như mô hình phân phối

Cash & Cary hay tổ chức định kỳ các hội chợ bán buôn, tạo điều kiện cho các chủ

thể tham gia kinh doanh trực tiếp gặp gỡ, trao đổi và nắm bắt thông tin, ký kết các

hợp đồng giao dịch.

- Hệ thống thương mại bán lẻ:

+ Hệ thống chợ: tính đến ngày 30/10/2014, trên địa bàn TP.HCM có 208

chợ các loại1, trong đó có 14 chợ hạng I, 43 chợ hạng II, 99 chợ hạng III, 3 chợ đầu

mối bán buôn hàng nông sản và có khá nhiều chợ tạm (49 chợ tạm). Nhìn chung, cơ

sở vật chất kỹ thuật của phần lớn các chợ được xây dựng kiên cố và bán kiến cố,

đáp ứng khá tốt nhu cầu trao đổi, giao lưu hàng hoá của dân cư. Với tổng số 208

chợ trên 322 đơn vị xã, phường, TP.HCM có mật độ chợ tính theo đơn vị hành

chính xã, phường là 0,65 chợ/xã, phường – thấp hơn mức bình quân cả nước là 0,71

chợ/xã, phường, thị trấn. Diện tích đất tự nhiên của toàn TP.HCM là 2.095 km2,

như vậy, bán kính phục vụ bình quân của 01 chợ là 1,7 km (thấp hơn 2,2 lần so với

mức bình quân của cả nước là 3,66 km) và bình quân 1 chợ phục vụ khoảng 32.000

nguời (cao gấp gần 3 lần so với mức bình quân chung của cả nước là hơn 10.800

người/chợ). Lực lượng tham gia kinh doanh chủ yếu trên chợ đều thuộc thành phần

kinh tế tư nhân kinh doanh bán buôn, bán lẻ và người sản xuất nhỏ trực tiếp bán sản

phẩm. Về quy mô của các chợ trên địa bàn TP.HCM, trung bình 1 chợ chiếm 1.741

m2 diện tích đất, thấp hơn mức bình quân chung của cả nước về diện tích đất và

diện tích kinh doanh của chợ.

40

Nhìn chung, mạng lưới chợ trên địa bàn TP.HCM trong giai đoạn vừa qua đã

đáp ứng tốt nhu cầu mua bán và trao đổi hàng hoá của các đối tượng tham gia. So

sánh các tiêu chí về thực trạng phát triển chợ của TP.HCM với các tiêu chí chung

của cả nước có thể nhận thấy nếu xét số lượng chợ trên đơn vị 1 xã, phường thì chỉ

tiêu này cao hơn với mức bình quân của cả nước, nhưng tiêu chí về mật độ chợ theo

diện tích tự nhiên thì ở mức khá thấp, trong khi số dân phục vụ của 1 chợ lại ở mức

quá cao. Ngoài chỉ tiêu về cơ sở vật chất các chợ hiện có, nếu xét về độ tương xứng

của các chỉ tiêu về phân bố chợ, có thể thấy sự không phù hợp giữa các chỉ tiêu,

điều này có thể dẫn đến những hạn chế về khả năng khai thác các lợi thế của chợ

trong việc phát triển thương mại trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên,

việc đánh giá các chỉ tiêu này phục vụ cho công tác qui hoạch cũng cần xem xét

trong điều kiện cụ thể đối với các địa bàn là các tỉnh, thành phố lớn như TP.HCM

với đặc thù hạn chế về diện tích cũng như mức độ tập trung cao của dân cư tại các

đô thị trên địa bàn.

+ Hệ thống siêu thị: trên địa bàn Thành phố hiện có 178 siêu thị với diện tích

chiếm đất là 716.808 m2, bình quân 1 siêu thị có diện tích chiếm đất là 4.027 m2.

Trong số đó, có 90 siêu thị tổng hợp (chiếm 50,6%) và 88 siêu thị chuyên doanh

(chiếm 49,4%). Địa bàn có số lượng siêu thị nhiều nhất là quận 7 với 18 siêu thị,

sau đó là quận 1 với 16 siêu thị, quận Tân Bình và Gò Vấp đều có 15 siêu thị, quận

Tân Phú và Bình Thạnh đều có 13 siêu thị và quận Thủ Đức có 10 siêu thị. Đáng

chú ý hiện nay có khá nhiều địa bàn chỉ có 1 đến 2 siêu thị, chủ yếu là các địa bàn

huyện như Củ Chi, Cần Giờ, Hóc Môn, Nhà Bè, ngoài ra có một số địa bàn quận có

số lượng siêu thị rất ít như quận 9 chỉ có 3 siêu thị, quận 8 có 2 siêu thị... Có thể

nhận thấy, về số lượng siêu thị hiện nay chưa đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của dân

cư trên địa bàn TP, mặt khác phân bố không đồng đều, có địa bàn tập trung số

lượng lớn siêu thị trong khi các địa bàn khác số lượng siêu thị rất ít. Về cơ cấu siêu

thị trên địa bàn các quận, huyện, số lượng siêu thị chuyên doanh nhỏ chiếm tỷ lệ lớn

và siêu thị tổng hợp còn ít, chưa tương xứng với điều kiện về qui mô và dân số cần

phục vụ. Bên cạnh đó, diện tích chiếm đất bình quân của siêu thị trên địa bàn TP rất

41

nhỏ, điều này dẫn đến việc hạn chế phát huy khả năng khai thác cũng như việc duy

tu, cải tạo, nâng cấp và mở rộng các siêu thị trong kỳ qui hoạch.

Nhìn chung, hệ thống siêu thị trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh hiện chưa

tương xứng với nhu cầu, việc phân bố siêu thị trên địa bàn chưa phù hợp, cần có

định hướng qui hoạch hợp lý để sau này đi vào hoạt động có hệ thống, có hiệu quả,

đem lại lợi ích cho xã hội cũng như cho sự phát triển kinh tế thành phố Hồ Chí

Minh.

+ Hệ thống trung tâm thương mại, trung tâm mua sắm (gọi chung là TTTM):

Trên địa bàn TP.HCM hiện có 38 TTTM gồm 8 TTTM hạng 1, 11 TTTM hạng 2,

14 TTTM hạng 3 và 5 TTTM chưa phân hạng với tổng diện tích chiếm đất khoảng

125 ha.

Nhìn chung, việc đầu tư phát triển hệ thống trung tâm thương mại trên địa

bàn TP.HCM còn chưa triển khai được nhiều và đồng bộ, do đó chưa hình thành

được một hệ thống đầy đủ, phân bố hợp lý để có thể đáp ứng được nhu cầu tiêu

dùng của dân cư cũng như theo kịp sự phát triển của thành phố Hồ Chí Minh trong

tương lai.

+ Hệ thống cửa hàng thương mại, cửa hàng tiện lợi và đường phố thương

mại: ngoài hệ thống phân phối bán buôn bán lẻ như chợ, siêu thị, trung tâm thương

mại, trung tâm mua sắm, hiện nay còn có loại hình phát triển khá mạnh đó là hệ

thống cửa hàng tiện lợi. Loại hình này đang phát triển phổ biến vào các khu dân cư,

đường phố, các khu chung cư, các khu đô thị mới, khu công nghiệp, các khu vực xa

trung tâm. Hiện nay, trên địa bàn thành phố có trên 251 cửa hàng tiện lợi tập trung

vào các chuỗi như: Co.opFood, SatraFood, Foodcomart, Vissan, G7 mart,

Minimart, Citimart, Shop & Go, Family, Selecmart.

Ngoài ra, các cửa hàng thương mại của các doanh nghiệp, hộ kinh doanh

được hình thành và chủ yếu tập trung ở các đường phố trung tâm trên địa bàn các

phường. Mạng lưới này đã góp phần làm phong phú, sống động thị trường, nâng

cao văn minh thương mại, là điểm “nhấn” quan trọng và sẽ phát triển mạnh trong

42

thời gian tới. Tại thành phố Hồ Chí Minh, nhiều tuyến phố thương mại đã hoạt động

mạnh từ nhiều năm nay, là điểm đến mua sắm của nhân dân và khách du lịch không

chỉ thành phố mà còn của cả các vùng khác trong cả nước.

Nhìn chung, hệ thống phân phối trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh tương

đối phát triển, cơ bản đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân và nhu cầu phát

triển kinh tế. Nhờ đó, mạng lưới bán hàng bình ổn thị trường phát triển trên nền

tảng hệ thống phân phối đã phủ kín khu vực nội thành, đang phát triển khu vực

ngoại thành với hơn 9.000 điểm bán; trong đó có 3.962 điểm bán hàng lương thực,

thực phẩm thiết yếu.

2.2.5. Giá bán hàng bình ổn thị trường.

2..2.5.1. Xác định giá bán.

Trước năm 2010, giá bán hàng bình ổn thị trường được Sở Tài chính tính

toán trên cơ sở giá cả thị trường, ấn định thấp hơn thị trường 10% (cùng chủng loại)

và giữ cố định trong suốt thời gian thực hiện Chương trình. Sau năm 2010 đến nay,

giá bán hàng bình ổn thị trường được áp dụng theo cơ chế sau:

- Doanh nghiệp tham gia Chương trình xây dựng và đăng ký giá bán bình ổn

thị trường với Sở Tài chính theo nguyên tắc xác định đầy đủ, chính xác cơ cấu tính

giá theo các yếu tố hình thành giá và phải thấp hơn giá thị trường của sản phẩm

cùng quy cách, chủng loại, chất lượng tại thời điểm đăng ký giá ít nhất từ 5% đến

10%.

- Trường hợp thị trường biến động tăng hoặc giảm đối với giá nguyên vật

liệu, chi phí đầu vào làm ảnh hưởng đến cơ cấu giá thành sản xuất, doanh nghiệp

thực hiện điều chỉnh giá bán bình ổn thị trường như sau:

+ Trường hợp giá nguyên vật liệu, chi phí đầu vào biến động tăng từ 5% đến

10% so với thời điểm doanh nghiệp đăng ký giá bán bình ổn thị trường, doanh

nghiệp thực hiện đăng ký lại giá bán tại Sở Tài chính. Doanh nghiệp được điều

chỉnh giá bán sau khi Sở Tài chính thẩm định, chấp thuận bằng văn bản.

43

+ Trường hợp thị trường giảm giá từ 5% trở lên (nghĩa là giá bán bình ổn thị

trường chỉ còn thấp hơn giá thị trường dưới 5%), doanh nghiệp chủ động điều chỉnh

giảm giá bán tương ứng và gửi thông báo về Sở Tài chính.

+ Trường hợp thị trường giảm giá chưa đến 5%, doanh nghiệp chủ động thực

hiện các chương trình khuyến mãi phù hợp với tình hình thực tế và gửi thông báo về

Sở Công Thương, Sở Tài chính.

- Giá thị trường là giá do Cục Thống kê công bố tại thời điểm doanh nghiệp

đăng ký giá hoặc thời điểm doanh nghiệp đề nghị điều chỉnh, có tham khảo từ mạng

lưới thông báo giá của Sở Tài chính.

- Trường hợp thị trường biến động do có hiện tượng nâng giá gây khan hiếm

giả tạo, doanh nghiệp tham gia Chương trình phải chấp hành việc cung ứng lượng

hàng hóa có khả năng điều tiết thị trường theo sự điều phối của Sở Công Thương.

- Doanh nghiệp chịu trách nhiệm xây dựng kế hoạch chuẩn bị nguồn nguyên

liệu, sản xuất và dự trữ hàng hóa đầy đủ, ổn định để cung ứng và giữ ổn định giá

bán trong thời gian 2 tháng trước, trong và sau Tết Bính Thân 2016 (tháng trước Tết

và tháng sau Tết).

- Các hệ thống phân phối khi tham gia Chương trình tạo mọi điều kiện thuận

lợi cho doanh nghiệp tham gia Chương trình cung ứng hàng hóa bình ổn thị trường

vào hệ thống với mức chiết khấu ưu đãi, thực hiện việc chia sẻ chiết khấu và các chi

phi khác khi có biến động giá nhằm bình ổn thị trường.

2.2.5.2. Kiểm tra giá bán.

Giá bán hàng bình ổn thị trường sau khi được Sở Tài chính thẩm sẽ được

công bố rộng rãi đến người dân thông qua báo, đài; đồng thời thông báo đến các cơ

quan ban ngành liên quan, 24 quận huyện, ban quản lý các chợ truyền thống để tổ

chức kiểm tra, giám sát. Hoạt động kiểm tra giá bán hàng bình ổn thị trường được

thực hiện thường xuyên, đột xuất, do các cơ quan sau phụ trách:

44

- Thanh tra giá của Sở Tài chính: kiểm tra việc chấp hành các quy định về

giá bán như niêm yết giá, bán đúng giá; hàng bình ổn thị trường niêm yết đúng giá

Sở Tài chính thẩm định.

- Chi cục Quản lý Thị trường: kiểm tra, kiểm soát thị trường nhằm phát hiện,

xử lý theo thẩm quyền, theo quy định của pháp luật đối với các hành vi vi phạm

pháp luật như đầu cơ, găm hàng, sản xuất - kinh doanh hàng cấm, hàng nhập lậu,

hàng gian, hàng giả, hàng không có hóa đơn, chứng từ, hàng không có nguồn gốc

xuất xứ, hàng không có không nhãn mác, hàng không đảm bảo an toàn thực phẩm

…; kiểm tra, phát hiện, xử lý theo thẩm quyền, theo quy định pháp luật đối với các

trường hợp lợi dụng thương hiệu của Chương trình gây nhầm lẫn cho người tiêu

dùng và làm ảnh hưởng uy tín của Chương trình.

- Ủy ban nhân dân 24 quận huyện: chịu trách nhiệm kiểm tra, giám sát việc

chấp hành quy định của Chương trình tại các điểm bán hàng bình ổn thị trường trên

địa bàn; quản lý giá, kiểm tra, kiểm soát việc niêm yết giá và bán theo giá niêm yết

trên địa bàn. Theo dõi sát, chủ động thông tin và phối hợp Sở Công Thương, Sở Tài

chính xử lý kịp thời các trường hợp biến động giá trên địa bàn.

- Ban Quản lý các chợ: chịu trách nhiệm giám sát, nhắc nhở, tuyên truyền

tiểu thương kinh doanh trong chợ thực hiện đúng các quy định về giá, niêm yết và

bán đúng giá; giám sát, hỗ trợ những tiểu thương có bán hàng bình ổn thị trường.

2.2.6. Nguồn vốn thực hiện Chương trình Bình ổn thị trường.

Giai đoạn đầu thực hiện Chương trình Bình ổn thị trường, thành phố Hồ Chí

Minh phải ứng tiền ngân sách, hỗ trợ doanh nghiệp vay không lãi suất để dự trữ

hàng hóa.

Từ năm 2013, bằng chủ trương, cơ chế chính sách, thông qua hoạt động kết

nối ngân hàng – doanh nghiệp, Chính quyền thành phố Hồ Chí Minh đã thành công

trong việc xã hội hóa nguồn vốn thực hiện Chương trình Bình ổn thị trường, thu hút

được nhiều tổ chức tín dụng tham gia cung ứng nguồn vốn để thực hiện Chương

trình. Theo đó, doanh nghiệp chủ động sử dụng nguồn vốn tự có, vốn vay từ các tổ

45

chức tín dụng tham gia Chương trình với hạn mức và lãi suất phù hợp nhằm đầu tư

chăn nuôi, sản xuất, đổi mới công nghệ, phát triển hệ thống phân phối và dự trữ

hàng hóa để cung ứng hàng hóa phục vụ bình ổn thị trường Thành phố; doanh

nghiệp thực hiện các thủ tục vay vốn và giải ngân vốn vay theo quy trình thủ tục do

các tổ chức tín dụng tham gia Chương trình công bố, hướng dẫn và theo đúng quy

định của pháp luật hiện hành. Lịch trả nợ vay, hạn mức vay và lãi suất cụ thể sẽ do

các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp tham gia Chương trình thỏa thuận và tự chịu

trách nhiệm trong hợp đồng vay vốn.

Thành phố mời gọi các tổ chức tín dụng tham gia cung ứng vốn thực hiện

Chương trình đáp ứng các điều kiện sau:

- Căn cứ nhu cầu, khả năng và các quy định của pháp luật có liên quan để

thực hiện việc đăng ký hạn mức tín dụng cho vay với lãi suất phù hợp và các sản

phẩm dịch vụ khác (nếu có) dành cho doanh nghiệp tham gia Chương trình.

- Xây dựng phương án cho vay và quy trình thẩm định cụ thể, chặt chẽ, đúng

quy định pháp luật; tạo điều kiện thuận lợi, nhanh chóng và kịp thời giải quyết thủ

tục cho vay và giải ngân vốn vay theo quy định cho doanh nghiệp tham gia Chương

trình.

- Chịu trách nhiệm về việc xét duyệt, quyết định cho vay theo quy định pháp

luật, theo nội dung đăng ký tham gia Chương trình và các quy định khác có liên

quan của Chương trình.

Phương thức kết nối ngân hàng – doanh nghiệp đạt được lợi ích của các bên,

đảm bảo khả năng áp dụng trong dài hạn:

- Đối với doanh nghiệp: nguồn vốn thực hiện Chương trình tăng lên rất đáng

kể, đáp ứng mọi nhu cầu vốn của doanh nghiệp: dự trữ hàng hóa, đầu tư phát triển

sản xuất, liên kết phát triển sản xuất, mở rộng hệ thống phân phối, xuất khẩu… Cụ

thể: năm 2011 ngân sách ứng cho vay 436,43 tỷ đồng, năm 2012 ngân sách ứng cho

vay 282 tỷ đồng, năm 2013 ngân hàng cam kết cho vay 1.960 tỷ đồng, năm 2014

ngân hàng cam kết cho vay 8.300 tỷ đồng, năm 2015 ngân hàng cam kết cho vay

46

11.850 tỷ đồng. Ngoài ra, doanh nghiệp hoàn toàn chủ động sử dụng nguồn vốn vay

ưu đãi từ các ngân hàng, theo quy định của ngân hàng cho vay, không bị bó buộc

như trường hợp sử dụng ngân sách nhà nước, phải đáp ứng các điều kiện, quy định

chặt chẽ.

- Đối với Chính quyền: tiết kiệm được khoản ngân sách đáng kể, sử dụng để

tập trung vào các nhiệm vụ kinh tế, chính trị khác của thành phố Hồ Chí Minh.

- Đối với các tổ chức tín dụng: tiếp cận, thiết lập được quan hệ khách hàng là

các doanh nghiệp lớn, uy tín; qua đó cung cấp thêm nhiều dịch vụ tín dụng khác,

vừa gia tăng doanh số của tổ chức tín dụng, vừa tăng tiện ích, công cụ tài chính hỗ

trợ hoạt động của doanh nghiệp.

Như vậy, thành phố Hồ Chí Minh là địa phương đầu tiên trong cả nước

không sử dụng ngân sách để thực hiện Chương trình Bình ổn thị trường; đây là

bước tiến lớn trong quá trình hoàn thiện nội dung thực hiện Chương trình, được

Chính phủ, Bộ ngành trung ương và các tầng lớp nhân dân đánh giá cao.

2.2.7. Phân công, phối hợp tổ chức triển khai thực hiện.

Công tác tổ chức triển khai Chương trình Bình ổn thị trường liên quan đến

nhiều cơ quan, ban ngành; do đó cần sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ; đảm bảo thông

tin xuyên suốt, thống nhất giữa các sở ngành chức năng thành phố. Ủy ban nhân dân

thành phố Hồ Chí Minh đã có sự phân công rất cụ thể nhiệm vụ của từng đơn vị

trong triển khai Chương trình:

- Sở Công Thương: là cơ quan thường trực của Chương trình Bình ổn thị

trường. Chịu trách nhiệm chủ trì, phối hợp các cơ quan có liên quan xác định danh

mục các mặt hàng thiết yếu, lượng hàng phù hợp và tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa

tham gia Chương trình; xây dựng và công khai thông tin về tiêu chí xét chọn các

đơn vị tham gia Chương trình; hướng dẫn thủ tục, vận động tham gia, tiếp nhận hồ

sơ đăng ký tham gia, tổ chức thẩm định chặt chẽ để xét chọn và phân bổ lượng hàng

phù hợp giao các đơn vị đủ điều kiện tham gia thực hiện Chương trình; hoàn chỉnh

47

Kế hoạch thực hiện Chương trình trình Ủy ban nhân dân Thành phố phê duyệt để tổ

chức triển khai thực hiện Kế hoạch.

- Sở Tài chính: phối hợp các cơ quan có liên quan xác định hạn mức vay của

từng doanh nghiệp (có nhu cầu vay vốn) tương ứng với lượng hàng được giao thực

hiện bình ổn thị trường. Theo dõi sát diễn biến giá cả thị trường; tổ chức kiểm tra

trong các trường hợp biến động giá (nếu có); tổng hợp, báo cáo kết quả kiểm tra và

đề xuất Ủy ban nhân dân Thành phố biện pháp xử lý.

- Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn: giới thiệu các đơn vị chăn nuôi,

sản xuất sản phẩm nông nghiệp an toàn và có nguồn hàng ổn định (ưu tiên các sản

phẩm đạt chuẩn Viet GAP, Global GAP, HACCP ...) tham gia phân phối hoặc cung

ứng hàng hóa vào mạng lưới điểm bán của Chương trình.

- Sở Kế hoạch và Đầu tư: phối hợp các cơ quan có liên quan theo dõi tiến độ

thực hiện và hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện các dự án trong các Chương trình Hợp

tác phát triển kinh tế - xã hội đã ký giữa Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh, thành

trong nước.

- Sở Thông tin và Truyền thông: chỉ đạo các cơ quan truyền thông đưa tin

chính xác, kịp thời và phù hợp; tránh sai lệch làm ảnh hưởng đến Chương trình;

chấn chỉnh, xử lý đối với việc đưa tin không chính xác, sai lệch, làm ảnh hưởng uy

tín và hoạt động của Chương trình; phối hợp Sở Công Thương và các cơ quan có

liên quan thực hiện công tác thông tin - tuyên truyền về Chương trình.

- Sở Giao thông Vận tải: hướng dẫn thủ tục; cấp phép lưu thông vào giờ cao

điểm đối với phương tiện vận tải của doanh nghiệp tham gia Chương trình thực hiện

nhiệm vụ vận chuyển, phân phối hàng hoá bình ổn thị trường đến các điểm bán

trong Chương trình theo đề nghị của Sở Công Thương; ưu tiên, tạo điều kiện thuận

lợi để doanh nghiệp hoàn tất thủ tục đề nghị cấp phép lưu thông trong thời gian cao

điểm của Chương trình (Lễ, Tết) hoặc khi thị trường có biến động.

- Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Y tế, Ban Quản lý các Khu chế xuất và công

nghiệp, Ban Quản lý Khu Công nghệ cao: tạo điều kiện, bố trí địa điểm phù hợp để

48

tổ chức bán lưu động hàng hóa bình ổn thị trường phục vụ nhu cầu tại các trường

học, bệnh viện, khu chế xuất - khu công nghiệp, khu công nghệ cao; đăng ký danh

sách địa điểm, thời gian, quy mô tổ chức và các yêu cầu khác (nếu có) gửi về Sở

Công Thương để tổng hợp, lập kế hoạch tổ chức bán hàng lưu động.

- Ngân hàng Nhà nước - Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh: theo dõi, đôn

đốc, kiểm tra các tổ chức tín dụng tham gia Chương trình thực hiện việc cho vay

theo quy định pháp luật hiện hành, theo nội dung ký kết khi tham gia Chương trình

và các quy định khác có liên quan của Chương trình.

- Chi cục Quản lý thị trường: xây dựng và triển khai kế hoạch kiểm tra, kiểm

soát thị trường nhằm phát hiện, xử lý theo thẩm quyền, theo quy định của pháp luật

đối với các hành vi vi phạm pháp luật như đầu cơ, găm hàng, sản xuất - kinh doanh

hàng cấm, hàng nhập lậu, hàng gian, hàng giả, hàng không có hóa đơn, chứng từ,

hàng không có nguồn gốc xuất xứ, hàng không có không nhãn mác, hàng không

đảm bảo an toàn thực phẩm …

- Ủy ban nhân dân các quận - huyện: Chịu trách nhiệm kiểm tra, giám sát

việc chấp hành quy định của Chương trình tại các điểm bán hàng bình ổn thị trường

trên địa bàn; quản lý giá, kiểm tra, kiểm soát việc niêm yết giá và bán theo giá niêm

yết trên địa bàn. Theo dõi sát, chủ động thông tin và phối hợp Sở Công Thương, Sở

Tài chính xử lý kịp thời những bất ổn trong diễn biến cung - cầu hàng hóa và các

trường hợp biến động giá trên địa bàn (nếu có).

2.3. Đánh giá kết quả thực hiện Chương trình Bình ổn thị trường các

mặt hàng lương thực, thực phẩm thiết yếu trên địa bàn thành phố Hồ Chí

Minh giai đoạn 2010 - 2014.

2.3.1. Đánh giá kết quả thực hiện các mục tiêu.

- Chương trình đã đạt được mục tiêu hàng đầu, trở thành một trong những

công cụ điều tiết thị trường hữu hiệu. Đến nay, hàng hóa tham gia Chương trình

Bình ổn thị trường có nguồn cung ổn định, dồi dào và chiếm thị phần lớn, chất

lượng đảm bảo, giá cả hợp lý và được phân phối thông qua hệ thống phân phối bán

49

lẻ rộng khắp; do đó có khả năng điều hòa cung – cầu, dẫn dắt thị trường, ổn định thị

trường, kềm chế lạm phát và đảm bảo an sinh xã hội. Cụ thể, trong suốt giai đoạn

2010 – 2014, Chương trình được triển khai cả năm, mở rộng cả lượng và chất; chỉ

số tăng giá tiêu dùng của thành phố luôn thấp hơn trung bình cả nước.

Bảng 2.4: so sánh chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của TPHCM và cả nước.

2010 2011 2012 2013 2014 Địa phương

9,58% 15,86% 4,07% 5,2% 1,65%

11,75% 18,13% 6,81% 6,04% 1,84% CPI TP.HCM CPI cả nước

- Chương trình góp phần thực hiện tốt cuộc vận động “Người Việt ưu tiên

dùng hàng Việt”, các mặt hàng trong chương trình đều sản xuất trong nước, bên

cạnh đó thông qua Chương trình, hệ thống phân phối, điểm bán hàng bình ổn luôn

tạo điều kiện thuận lợi đưa hàng sản xuất trong nước vào hệ thống, trong đó hàng

Việt hiện chiếm từ 90%-95%.

2.3.2. Những mặt tích cực.

- Chương trình được triển khai với quy mô năm sau lớn hơn năm trước, đi

vào chiều sâu, không sử dụng vốn ngân sách nhà nước nên nhận được sự ủng hộ của

các cơ quan ban ngành trung ương, sự đồng thuận cao của hệ thống chính trị và

được người dân thành phố tin tưởng.

- Chương trình đã thúc đẩy phát triển hợp tác thương mại giữa thành phố Hồ

Chí Minh với các địa phương lân cận, kịp thời tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp

tham gia Chương trình tạo điều kiện các doanh nghiệp liên kết với doanh nghiệp

tỉnh bạn đầu tư sản xuất kinh doanh, kết nối cung cầu hàng hóa, tiêu thụ sản phẩm,

tham gia thực hiện bình ổn tại các địa phương bạn nhằm tạo nguồn cung ổn định

cho thị trường Thành phố.

- Hệ thống phân phối, Cửa hàng tiện lợi xen kẽ trong khu dân cư phát triển

nhanh chóng, có trọng tâm, trọng điểm đạt yêu cầu mục tiêu Chương trình đặt ra.

50

Thông qua sự gắn kết chặt chẽ giữa Ủy ban nhân dân các quận – huyện, Ban Quản

lý Chợ truyền thống, lãnh đạo Ban Quản lý Khu Công nghiệp – Khu Chế xuất, hệ

thống chính trị như Đoàn thanh niên và Hội Liên hiệp Phụ nữ và sự nỗ lực của các

Doanh nghiệp tham gia chương trình.

- Chương trình có sự phối hợp của các cơ quan truyền thông thường xuyên

cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác, định hướng người tiêu dùng; hỗ trợ

doanh nghiệp giới thiệu sản phẩm, quảng bá thương hiệu giúp người tiêu dùng chọn

lựa, mua sắm sản phẩm phù hợp.

2.3.3. Những mặt hạn chế.

- Công tác dự báo thị trường hiện đã đáp ứng nhu cầu triển khai thực hiện

Chương trình Bình ổn thị trường. Tuy nhiên trong thời gian tới, trong điều kiện đất

nước hội nhập sâu kinh tế thế giới, xu hướng thay đổi thói quen tiêu dùng của người

dân; công tác dự báo với cách thức thực hiện như hiện nay chưa được nghiên cứu,

áp dụng mô hình khoa học sẽ khó đáp ứng yêu cầu cung cấp thông tin kịp thời,

chính xác cho nhà hoạch định, cơ quan tham mưu thực hiện Chương trình.

- Hoạt động đầu tư, phát triển sản xuất của doanh nghiệp tham gia Chương

trình Bình ổn thị trường được thúc đẩy mạnh nhưng chưa tạo được bước ngoặt về

năng suất, tạo lập các mối liên kết sản xuất – lưu thông hàng hóa giữa các doanh

nghiệp tham gia Chương trình với nhau và với các đơn vị ngoài Chương trình nhằm

đa dạng hóa các kênh tạo nguồn hàng ổn định.

- Một số loại nguyên liệu hoặc hàng hóa còn phải nhập khẩu như: thức ăn gia

súc, đường, dầu cọ... làm cho chi phí sản xuất, giá cả hàng hóa phụ thuộc giá thị

trường thế giới gây khó khăn cho công tác dự báo, xây dựng kế hoạch. Để giải

quyết được vấn đề này đòi hỏi phải có kế hoạch dài hạn từ nghiên cứu lợi thế so

sánh, liên kết đầu tư sản xuất, tự chủ nguyên liệu...

- Hệ thống hạ tầng thương mại phát triển nhanh ở khu vực trung tâm nhưng

phát triển chậm ở các khu vực nông thôn và khu công nghiệp tập trung. Hoạt động

thương mại có sức lan tỏa còn chậm và chưa thực sự thể hiện tốt được vai trò hỗ trợ

51

tích cực các ngành khác trong phát triển kinh tế. Điều này thể hiện rõ ở hạn chế

trong việc mở rộng thị trường tiêu thụ, thúc đẩy phát triển sản xuất, đáp ứng nhu

cầu tiêu dùng của dân cư.

- Công tác quản lý Nhà nước về kinh tế nói chung, quản lý Nhà nước về

thương mại nói riêng đã được đổi mới nhưng còn nhiều mặt chưa theo kịp với thực

tiễn hoạt động thương mại. Đầu tư hạ tầng thiếu đồng bộ, chậm trễ và khó khăn, thủ

tục hành chính còn rườm rà,... Công tác cải cách hành chính còn chậm, thiếu đồng

bộ nên việc xử lý, tháo gỡ các vướng mắc chưa kịp thời. Công tác kiểm tra, kiểm

soát thị trường chưa đáp ứng nhu cầu thực tiễn, vẫn còn hiện tượng hàng gian, hàng

giả, hàng kém chất lượng được đưa vào lưu thông trên thị trường.

2.3.4. Nguyên nhân tồn tại.

2.3.4.1. Nguyên nhân khách quan.

- Nền sản xuất nông nghiệp ở nước ta có quy mô lớn nhưng cơ bản còn ở

trình độ thấp, năng suất chưa cao; nguồn nguyên liệu đầu vào như thức ăn chăn

nuôi, phân bón... còn phụ thuộc vào nhập khẩu, vì vậy chi phí sản xuất nông nghiệp

nước ta chưa bền vững, khó xây dựng được chuỗi cung ứng hiệu quả.

- Cơ sở pháp lý về quản lý giá, môi trường nền tảng thực hiện Chương trình

Bình ổn thị trường còn nhiều bất cập. Việc thực hiện hệ thống chính sách và biện

pháp bình ổn giá một số mặt hàng thiết yếu đối với đời sống người dân do Chính

phủ trực tiếp chỉ đạo và các Bộ trực tiếp điều hành còn nhiều hạn chế, việc kiểm tra,

kiểm soát giá còn mang tính hình thức, hành chính; sự chồng chéo của các quy định

và chưa phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn và chế tài đối với các cơ quan quản lý

và tham gia bình ổn giá nên sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý chưa tốt dẫn tới

tình trạng lũng đoạn giá, đầu cơ giá đối với các sản phẩm thiết yếu, cơ bản.

- Nhiều nhóm hàng thuộc danh mục hàng bình ổn thị trường như thịt gia súc,

gia cầm, rau củ phụ thuộc vào diễn biến thời tiết, bệnh dịch nên khó dự trữ và chủ

động về nguồn cung, doanh nghiệp phải khai thác thêm từ những tỉnh thành khác

52

nên tại một số thời điểm có biến động, lượng hàng hóa tại các điểm bán không dồi

dào, bị gián đoạn.

- Hệ thống kho dự trữ phân tán, nhỏ lẻ, việc vận chuyển hàng hóa vào nội

thành gặp nhiều khó khăn do tình hình giao thông thường xuyên trong tình trạng ùn

tắc và quy định cấm xe tải trong một số giờ nhất định. Các địa phương đã tạo điều

kiện cho các xe được lưu thông 24/24h hoặc gắn biển để vận chuyển hàng vào các

kho, cửa hàng trong nội thành. Tuy nhiên thời gian cấp phép ngắn (03 tháng/lần) và

hạn chế về tuyến đường lưu thông mà tại đó lại có hệ thống kho và điểm bán hàng

của doanh nghiệp. Vì vậy, việc vận chuyển hàng hóa bị gián đoạn, đặc biệt là khi

xảy ra mưa, bão hoặc thị trường xảy ra biến động.

2.3.4.2. Nguyên nhân chủ quan.

- Công tác tuyên truyền tại chỗ ở các điểm bán hàng để người dân biết về

chương trình bình ổn thị trường còn hạn chế, đặc biệt là tại các vùng ven.

- Công tác kiểm tra, kiểm soát của lực lượng chức năng còn hạn chế, vẫn còn

hàng nhập lậu, hàng gian, hàng giả, hàng kém chất lượng lưu thông trên thị trường;

tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh với doanh nghiệp chân chính nói chung,

doanh nghiệp bình ổn thị trường nói riêng.

- Những tiêu cực có thể phát sinh: từ hiệu quả đã đạt được và uy tín của

Chương trình có thể nảy sinh việc một số doanh nghiệp cố gắng tìm cách tham gia

Chương trình nhằm lấy uy tín, tạo thương hiệu chứ không thực sự chú ý tới mục

tiêu là giá cả và chất lượng hàng hóa. Việc có được logo “bình ổn thị trường” giống

như một tầm bình phong để doanh nghiệp từ chỗ xa lạ đối với người tiêu dùng trở

nên được chú ý và tin tưởng (đã qua sàng lọc về chất lượng sản phẩm, các tiêu

chuẩn sản xuất, năng lực xây dựng hệ thống phân phối v.v...).

53

2.3.5. Bài học kinh nghiệm.

Qua 13 năm triển khai Chương trình Bình ổn thị trường, từ thực tiễn quản lý,

điều hành, thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước, thành phố Hồ Chí Minh rút ra

05 bài học kinh nghiệm trong quá trình triển khai Chương trình Bình ổn thị trường:

- Thứ nhất, bài học về sự thống nhất tư tưởng trong hệ thống chính trị và tạo

sự đồng thuận trong nhân dân, sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa các cơ quan

quản lý nhà nước và doanh nghiệp: Chương trình Bình ổn thị trường của thành phố

là một chủ trương đúng đắn; nhờ sự thống nhất cao về tư tưởng, kiên trì và quyết

tâm cao trong tổ thức thực hiện, tất cả đều hướng tới mục tiêu ổn định kinh tế, bảo

đảm an sinh xã hội, phát triển bền vững, phát huy tính chủ động, sáng tạo của các

cấp, các ngành, sự năng động của doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế tham

gia thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ chính trị được Đảng và Nhà nước giao, nên

Chương trình đã đạt được những kết quả tích cực, góp phần tăng trưởng kinh tế ổn

định, củng cố lòng tin, tâm lý xã hội; chăm lo thiết thực đời sống nhân dân trong bối

cảnh tình hình suy thoái kinh tế, khủng hoảng tài chính thế giới tác động đến tình

hình kinh tế - xã hội nước ta trong những năm qua.

- Thứ hai, bài học về nhận định thị trường, cập nhật thông tin, dự báo cung

cầu: Chương trình ngày càng được hoàn thiện và cập nhật bổ sung nhiều nội dung

mới, điều đó xuất phát từ sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành trong việc

chủ động nắm bắt thông tin, những tín hiệu từ thị trường, thường xuyên theo dõi

diễn biến cung cầu, giá cả thị trường để xây dựng những giải pháp phù hợp; kịp thời

tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp nhằm thúc đẩy sản xuất, tạo nguồn hàng hóa

dồi dào, phong phú, đa dạng phục vụ người tiêu dùng; tạo sự hình thành, liên kết,

phối hợp, cộng đồng trách nhiệm giữa doanh nghiệp sản xuất, phân phối, tiêu

dùng... phục vụ cho xã hội nhất là trong tình hình lạm phát, khủng hoảng tài chính

và suy thoái kinh tế toàn cầu; sự hợp tác giữa thành phố và các tỉnh ngày càng hiệu

quả, góp phần tiêu thụ hàng hóa với giá cả ổn định, góp phần chống nạn ép giá, độc

quyền…

54

- Thứ ba, bài học về sự chủ động trong việc chuẩn bị nguồn hàng: xác định

rõ các phương thức tạo nguồn hàng, chọn đúng mặt hàng thiết yếu, đúng đối tượng

doanh nghiệp để giao nhiệm vụ, đầu tư chiều sâu, tạo ra sản phẩm, chủ động trong

cung ứng hàng hóa; kiểm tra giám sát chặt chẽ từ khâu chuẩn bị đầu tư đến sản

phẩm được hình thành, đưa vào thị trường nên hàng hóa đảm bảo cân đối cung cầu,

không để thiếu hàng hóa cục bộ, dẫn đến giá cả tăng đột biến.

- Thứ tư, bài học về phát triển mạng lưới phân phối: Thành công của chương

trình thể hiện ở sự kết nối chặt chẽ giữa các khâu sản xuất, phân phối và tiêu dùng;

tập trung phát triển mạnh mạng lưới phân phối tạo điều kiện để hàng hóa đến tận

tay người tiêu dùng, giảm các tầng nấc trung gian, giảm chi phí. Trong thực tiễn,

nhiều doanh nghiệp đã phát triển kênh phân phối phủ rộng vào các khu dân cư,

vùng sâu, vùng xa, các khu công nghiệp - khu chế xuất; loại hình các kênh phân

phối cũng rất đa dạng, không chỉ xây dựng mới, nâng cấp, sửa chữa, thành phố còn

chú trọng việc sử dụng, khai thác mặt bằng của hợp tác xã, của doanh nghiệp, chợ

truyền thống và trong dân cư; đồng thời tập trung phục vụ hàng hóa tại những nơi

mạng lưới phân phối chưa đáp ứng đủ bằng nhiều phương tiện bán hàng lưu động;

hội chợ đưa hàng Việt về nông thôn để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng với giá

cả hợp lý. Qua các phương thức đưa hàng hoá đến tay người tiêu dùng nêu trên, mới

thực sự đạt được ý nghĩa của chương trình với mục tiêu là đưa hàng hóa nội địa

phục vụ cho người dân thành phố và đặc biệt là người lao động thu nhập thấp ở các

vùng còn nhiều khó khăn, nâng cao lòng yêu nước, ý thức tiết kiệm của người dân

trong tiêu dùng và ưu tiên dùng hàng Việt.

- Thứ năm, bài học về tăng cường thông tin tuyên truyền: Chủ động phối hợp

các cơ quan thông tin truyền thông để tiếp nhận thông tin, cung cấp thông tin, thiết

lập đường dây nóng để tiếp nhận phản hồi của người dân, các tổ chức đoàn thể, cơ

quan báo đài để kịp thời chỉ đạo, điều chỉnh. Đồng thời, thành phố luôn chủ động

phối hợp các Bộ ngành trung ương trong công tác ổn định cung cầu hàng hóa, giá cả

thị trường, nâng cao vai trò của các Hiệp hội trong việc thực hiện vai trò là cầu nối

55

giữa doanh nghiệp và các cơ quan quản lý nhà nước, góp phần kiềm chế lạm phát,

ổn định xã hội.

TÓM TẮT CHƯƠNG II.

Trước hết, trong Chương II, Luận văn tập trung mô tả, phân tích quá trình

phát triển, cách thức thực hiện Chương trình Bình ổn thị trường các mặt hàng lương

thực, thực thực phẩm thiết yếu trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2010

– 2015; các vấn đề trọng tâm:

- Cách thức, lý do lựa chọn nhóm hàng hóa thực hiện bình ổn thị trường.

- Phương pháp, nội dung dự báo thị trường, đánh giá tính hiệu quả, mặt hạn

chế của công tác dự báo thị trường hiện nay.

- Phương thức tạo nguồn hàng thực hiện Chương trình Bình ổn thị trường, cụ

thể là phương thức huy động nguồn lực về cơ sở vật chất phục vụ sản xuất, nguồn

vốn hỗ trợ; các chính sách hỗ trợ hoạt động sản xuất, liên kết sản xuất, xây dựng

vùng nguyên liệu…

- Hiện trạng và đánh giá hệ thống phân phối, phân tích các chính sách thúc

đẩy phát triển hạ tầng thương mại, hỗ trợ lưu thông hàng hóa.

- Phân tích cơ chế hình thành giá cả bình ổn thị trường.

- Phân tích cơ chế phối hợp thực hiện Chương trình Bình ổn thị trường giữa

các bên liên quan.

Đồng thời, Chương II đánh giá kết quả thực hiện các mục tiêu của Chương

trình Bình ổn thị trường, phân tích mặt được, mặt hạn chế, nguyên nhân khách

quan, chủ quan tồn tại những mặt hạn chế và rút ra một số bài học kinh nghiệm từ

thực tiễn triển khai Chương trình Bình ổn thị trường giai đoạn 2010 – 2015; làm cơ

sở để xây dựng giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện Chương trình giai đoạn 2015

– 2020.

56

CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHƯƠNG

TRÌNH BÌNH ỔN THỊ TRƯỜNG CÁC MẶT HÀNG LƯƠNG THỰC, THỰC

PHẨM THIẾT YẾU TRÊN ĐỊA BÀN TPHCM GIAI ĐOẠN 2015 – 2025.

3.1. Quan điểm, định hướng.

Từ chủ trương “Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủ nghĩa bằng luật pháp, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và

các nguồn lực kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, tạo lập, phát triển đầy đủ ,

đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường, cải thiện môi trường kinh

doanh, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, định hướng phát triển, phát huy

mặt tích cực, hạn chế, khắc phục mặt trái, tiêu cực của cơ chế thị trường”; trong bối

cảnh đất nước hội nhập kinh tế thế gới, là thành viên của tổ chức thương mại thế

giới (WTO); công tác triển khai Chương trình Bình ổn thị trường trên địa bàn thành

phố Hồ Chí Minh vừa phải đảm bảo đúng quy định pháp luật; vừa đảm bảo hiệu

lực, hiệu quả quản lý, điều tiết kinh tế vĩ mô của Nhà nước; đồng thời phải đảm bảo

để thị trường vận hành hiệu quả. Do đó Thành phố cần tiếp tục những quan điểm

thực hiện Chương trình Bình ổn thị trường sau:

- Bình ổn thị trường thông qua điều hòa cung – cầu hàng hóa: dự báo chính

xác thị trường, khuyến nghị sản xuất theo thị trường; hỗ trợ phát triển sản xuất theo

hướng hiện đại, nâng cao năng suất, hiệu quả kinh tế. Huy động mọi nguồn lực xã

hội, mọi đối tượng doanh nghiệp đều có cơ hội như nhau trong việc tiếp cận các

chính sách phát triển sản xuất, thực hiện bình ổn thị trường.

- Bình ổn thị trường thông qua gia tăng hiệu quả lưu thông hàng hóa, phát

triển hệ thống phân phối, giảm khâu trung gian; từ đó giảm giá thành đến tay người

tiêu dùng, đảm bảo lợi nhuận nhà sản xuất.

- Quản lý thị trường hiệu quả, đảm bảo cạnh tranh công bằng giữa các nhà

sản xuất.

57

3.2. Định hướng thực hiện Chương trình Bình ổn thị trường.

Trong dài hạn, trên cơ sở tổng kết lý luận và thực tiễn, thành phố Hồ Chí

Minh tiếp tục nghiên cứu, cập nhật và bổ sung mới phương thức triển khai thực hiện

Chương trình Bình ổn thị trường, trong đó chú trọng phát huy mạnh mẽ và có hiệu

quả các nguồn lực xã hội tham gia Chương trình Bình ổn thị trường nhằm đáp ứng

yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn trong bối cảnh chung của đất nước ở

từng giai đoạn phát triển dưới tác động ngày càng trực tiếp và mạnh mẽ của toàn

cầu hóa, hội nhập quốc tế. Theo đó, Chương trình Bình ổn thị trường sẽ được hoạch

định phát triển theo hướng xã hội hóa nhằm khai thác tối đa tiềm năng của các

nguồn lực xã hội và tạo điều kiện cho các nguồn lực lôi cuốn lẫn nhau và gắn kết

cùng nhau để tăng cường lực lượng vật chất cho Chương trình nhưng vẫn đảm bảo

hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều tiết kinh tế vĩ mô của Nhà nước và đảm bảo hài hòa

với những định hướng lớn về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an

ninh, đối ngoại của đất nước và Thành phố.

3.3. Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện Chương trình

Bình ổn thị trường các mặt hàng lương thực, thực phẩm thiết yếu trên địa bàn

thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2015 – 2025.

3.3.1. Nâng cao hiệu quả công tác dự báo, đánh giá thị trường để định

hướng sản xuất, tạo nguồn hàng.

Hiện nay công tác dự báo nhu cầu tiêu thụ chủ yếu sử dụng thông tin số liệu

của Cục Thống kê, cơ quan tham mưu triển khai Chương trình Bình ổn thị trường

chỉ xác định tổng cầu, việc đánh giá thị trường còn cảm quan, chưa tham tham khảo

ý kiến chuyên gia, chưa phản ánh rõ xu hướng tiêu dùng, thói quen mua hàng.

Trong giai đoạn hiện nay, sự bùng phát của các dịch bệnh đã ảnh hưởng đến

tâm lý tiêu dùng thực phẩm của người tiêu dùng. Nhu cầu về thực phẩm an toàn,

thực phẩm sạch xuất hiện và trở thành nhu cầu thiết yếu của người tiêu dùng. Sự

tuyên truyền hiểu biết về an toàn thực phẩm, khuyến khích người tiêu dùng sử dụng

thực phẩm an toàn ngày càng phổ biến trên các phương tiện truyền thông; giúp

người tiêu dùng hiểu được vai trò của thực phẩm an toàn trong việc bảo vệ sức

58

khỏe. Do đó, người tiêu dùng có xu hướng lựa chọn những loại thực phẩm có nguồn

gốc rõ ràng, thương hiệu uy tín, chất lượng thực phẩm đảm bảo để tránh vấn đề ngộ

độc thực phẩm.

Vì vậy, bên cạnh tiêu chí tổng cầu, tổng cung; công tác dự báo, đánh giá

thị trường cần bổ sung thêm các tiêu chí:

- Sự thay đổi nhu cầu tiêu dùng do tác động của dịch bệnh: Có 3 yếu tố quan

trọng nhất có thể làm thay đổi hành vi của người tiêu dùng trong bối cảnh dịch bệnh

đó là khả năng về thu nhập, thị hiếu thói quen tiêu dùng và mức độ nguy hiểm của

dịch bệnh. Khả năng về thu nhập cho phép người tiêu dùng có cơ hội thay đổi loại

thực phẩm khi có dịch bệnh theo hai hướng: (i) vẫn sử dụng loại thực phẩm thường

dùng (bị ảnh hưởng bởi thói quen) nhưng chọn loại thực phẩm của nhà cung cấp có

uy tín, thương hiệu và được đảm bảo về vấn đề an toàn thực phẩm; (ii) chuyển sang

sử dụng một loại thực phẩm khác để thay thế khi loại thực phẩm thường dùng đang

bị dịch bệnh. Thói quen và thị hiếu tiêu dùng cũng góp phần qui định hành vi người

tiêu dùng ngay cả trong bối cảnh dịch bệnh. Rõ ràng nếu như người tiêu dùng có

thói quen sử dùng thịt gia cầm trong bữa ăn hàng ngày, và việc sử dụng này khá

thường xuyên thì khả năng để họ chuyển sang sử dụng một loại thực phẩm khác

như thịt lợn cũng sẽ khó xảy ra hơn. Mức độ nguy hiểm của dịch bệnh thể hiện ở

phạm vi ảnh hưởng, hậu quả có thể có và sự cảnh báo của các cơ quan chức năng.

Nếu như phạm vi dịch bệnh không rộng, hậu quả không lớn và sự cảnh báo của giới

truyền thông yếu thì phần đông người tiêu dùng ở xa vùng dịch vẫn sự dụng loại

thực phẩm đó và ngược lại.

- Tỷ lệ sử dụng thực phẩm an toàn: năm 2008, sự bùng phát của dịch cúm

gia cầm, dịch bệnh heo tai xanh và dịch lở mồm, long móng ở gia súc đã ảnh hưởng

không nhỏ đến tâm lý của người tiêu dùng. Nhu cầu về thực phẩm sạch, thực phẩm

đảm bảo vệ sinh an toàn tăng cao. Người tiêu dùng cẩn trọng và khắt khe hơn trong

việc lựa chọn các loại thực phẩm sử dụng cho bữa ăn thường ngày. Một bộ phận

người tiêu dùng có điều kiện sẵn sàng chuyển sang sự dụng các loại thực phẩm bày

bán trong siêu thị có nguồn gốc rõ ràng và được bảo quản tốt hơn. Số còn lại, phần

59

đông những người tiêu dùng vẫn chấp nhận sử dụng các loại thực phẩm mua ở chợ

bất chấp những lo ngại về vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm. Khảo sát tại Tp.Hồ

Chí Minh cho thấy, các loại thực phẩm sạch có mức giá bán chênh lệch cao hơn từ

10-20% so với thực phẩm bán tại chợ dân sinh. Điều này có thể làm ảnh hưởng đến

xu hướng tiêu dùng thực phẩm an toàn của đại đa số người tiêu dùng mặc dù tăng

trưởng kinh tế đã nâng cao hơn mức thu nhập trung bình của người dân và nhu cầu

chuyển sang sử dụng thực phẩm an toàn là rất lớn.

- Xu hướng lựa chọn điểm mua hàng: Chợ truyền thống vẫn là kênh phân

phối thực phẩm tươi sống quan trọng nhất hiện nay bất chấp sự canh tranh của các

siêu thị. Tại thị trường Tp.Hồ Chí Minh, hơn 80% các bà nội trợ vẫn mua thực

phẩm tại các chợ truyền thống, điều này đúng với nhóm thực phẩm tươi sống như

các loại thịt, thuỷ hải sản và giò, chả. Trước sự canh tranh quyết liệt của loại hình

phân phối hiện đại là siêu thị, chợ truyền thống vẫn giữ được những thế mạnh trong

kinh doanh thực phẩm tươi sống đó là sự tiện lợi, người mua có nhiều lựa chọn phù

hợp với mức thu nhập, được mặc cả và quan trọng nhất đó là thói quen đi chợ của

người tiêu dùng Việt Nam.

Xu hướng lựa chọn siêu thị là kênh mua sắm chính sẽ tăng mạnh trong thời

gian tới đối với các loại hàng hoá nói chung trong đó có thực phẩm. Hình thức phân

phối hiện đại này đang canh tranh mạnh mẽ với kênh phân phối truyền thống. Tuy

vậy, ở thời điểm hiện tại chợ truyền thống vẫn là kênh phân phối thực phẩm quan

trọng nhất.

3.3.2. Giải pháp tạo nguồn cung hàng hóa bền vững.

Để điều hòa cung – cầu hàng hóa thực hiện Chương trình Bình ồn thị trường,

cần phải chủ động nguồn cung bền vững với quy mô sản xuất lớn, chi phí sản xuất

thấp, chất lượng sản phẩm được tiêu chuẩn hóa, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng. Bên

cạnh những giải pháp tạo nguồn cung hàng hóa đang thực hiện, từ kinh nghiệm thực

tiễn và xuất phát từ quan điểm triển khai Chương trình Bình ổn thị trường của

Thành phố; trong dài hạn, cần triển khai các giải pháp sau:

60

3.3.2.1. Xây dựng Chuỗi cung ứng tối ưu các sản phẩm bình ổn thị

trường.

Chuỗi cung ứng là một chuỗi hay một tiến trình bắt đầu từ nguyên liệu thô

cho tới khi sản phẩm làm ra hay dịch vụ tới tay người tiêu dùng cuối cùng. Chuỗi

cung ứng là một mạng lưới các lựa chọn về phân phối và các phương tiện để thực

hiện thu mua nguyên liệu, biến đổi các nguyên liệu này qua khâu trung gian để sản

xuất ra sản phẩm, phân phối sản phẩm này tới tay người tiêu dùng.

Chuỗi cung ứng tối ưu là chuỗi cung ứng vận hành nhịp nhàng, có khả năng

đáp ứng nhu cầu khách hàng ở mức cao nhất với chi phí vận hành thấp nhất. Đồng

thời, nó phải có hệ thống thông tin được tổ chức khoa học và cập nhật thường xuyên

để giúp các bộ phận phối hợp ăn ý với nhau nhằm phản ứng nhanh nhạy với những

biến động thường xuyên và liên tục của môi trường kinh doanh. Xây dựng Chuỗi

cung ứng tối ưu các sản phẩm bình ổn thị trường nhằm chia sẻ lợi nhuận hợp lý, bền

vững giữa các mắt xích, bao gồm các nhà sản xuất, nhà phân phối; đồng thời giảm

giá thành, bình ổn định thị trường trong dài hạn.

Trong điều kiện hiện nay, từ lợi thế có nhà máy chế biến lúa gạo, nhà máy

giết mổ, chế biến thực phẩm… quy mô lớn, thị trường xuất khẩu, mạng lưới phân

phối nội địa ổn định và thương hiệu uy tín của các doanh nghiệp bình ổn thị trường;

Chính quyền Thành phố cần phối hợp Chính quyền các địa phương lân cận hỗ trợ,

thúc đẩy xây dựng Chuỗi cung ứng đối với các nhóm sản phẩm: lúa gạo, thịt gia

súc, thịt gia cầm, trứng gia cầm, rau củ quả. Cụ thể:

- Hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng chiến lược ổn định nguyên liệu, từ thu

mua đơn thuần sang liên kết hợp tác, ứng vốn và bao tiêu sản phẩm với các hộ nông

dân, hợp tác xã, tổ hợp tác tại các địa phương lân cận để canh tác, nuôi trồng theo

định hướng quy mô lớn, đáp ứng các tiêu chuẩn an toàn.

- Hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp liên kết các đơn vị hỗ trợ nông

nghiệp (phân bón, thức ăn chăn nuôi, con giống, cây giống…) ứng dụng khoa học

công nghệ, nâng cao năng suất, nâng cao chất lượng, đáp ứng nhu cầu người tiêu

dùng.

61

- Hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng hệ thống kho bãi, logistic khoa học; đảm

bảo lưu thông hàng hóa xuyên suốt.

- Tăng cường truyền thông, định vị để sản phẩm an toàn của các Chuỗi cung

ứng có vị trí xứng đáng trong tâm trí người tiêu dùng; qua đó mở rộng thị trường

cho các sản phẩm được nuôi trồng, sản xuất theo quy trình, đúng tiêu chuẩn của các

Chuỗi.

3.3.2.2. Xã hội hóa, huy động mọi nguồn lực thực hiện Chương trình

Bình ổn thị trường.

Huy động nguồn lực xã hội để thực hiện Chương trình Bình ổn thị trường là

tất yếu trong dài hạn, vì trong thị trường cạnh tranh, rất khó để một doanh nghiệp

hay nhóm doanh nghiệp nhỏ nào có thể chi phối thị trường. Để thu hút, huy động

được các thành phần kinh tế tham gia Chương trình Bình ổn thị trường cần có cơ

chế đảm bảo hài hòa lợi ích xã hội và lợi ích kinh tế của doanh nghiệp. Đối tượng

doanh nghiệp cần huy động là các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp sản xuất, kinh

doanh và các doanh nghiệp phân phối.

Để nâng cao khả năng thu hút các thành phần kinh tế cần công khai, minh

bạch thông tin các tiêu chuẩn, quyền lợi, nghĩa vụ khi doanh nghiệp tham gia

Chương trình Bình ổn thị trường. Đồng thời có cơ chế, chính sách hỗ trợ hợp lý,

không vi phạm các cam kết quốc tế trong điều kiện đất nước hội nhập. Cụ thể:

- Chương trình cần tập trung hỗ trợ doanh nghiệp về công tác dự báo thị

trường, truyền thông, xây dựng thương hiệu, kết nối cung – cầu hàng hóa, xây dựng

Chuỗi cung ứng.

- Xây dựng hình ảnh, nâng cao uy tín của Chương trình Bình ổn thị trường,

qua đó gián tiếp nâng cao uy tín doanh nghiệp, sản phẩm bình ổn thị trường.

Đồng thời, khi đánh giá và khuyến khích các Doanh nghiệp tham gia

Chương trình: (i) cần ưu tiên các doanh nghiệp có uy tín trong kinh doanh; (ii) các

doanh nghiệp có sản xuất hoặc phân phối các sản phẩm có trong danh mục hàng hóa

bình ổn thị trường; (iii) các doanh nghiệp có báo cáo tài chính rõ ràng, khả quan.

Tránh tình trạng một số doanh nghiệp cố gắng tìm cách tham gia Chương trình

62

nhằm lấy uy tín, tạo thương hiệu chứ không thực sự chú ý tới mục tiêu là giá cả và

chất lượng hàng hóa.

3.3.3. Giải pháp thúc đẩy phát triển hạ tầng thương mại, gia tăng hiệu

quả lưu thông hàng hóa.

Để tăng cường khả năng huy động các nguồn vốn xã hội vào đầu tư phát

triển kết cấu hạ tầng thương mại trên địa bàn thành phố, căn cứ vào các văn bản quy

phạm pháp luật hiện hành, cần cụ thể hóa thành các chính sách khuyến khích các

thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển hạ tầng thương mại trên địa bàn. Cụ

thể:

- Chính sách đất đai:

+ Nhà đầu tư tự chuyển nhượng quyền sử dụng đất để thực hiện dự án đầu

tư như xây dựng siêu thị, cửa hàng tiện lợi trên địa bàn phù hợp với qui hoạch được

phê duyệt thì được miễn nộp tiền sử dụng đất.

+ Nếu nhà đầu tư được Nhà nước giao đất, có thu tiền sử dụng đất (trường

hợp đất do Nhà nước quản lý và không thuộc diện đấu giá đất) để đầu tư xây dựng,

kinh doanh, khai thác chợ, trung tâm thương mại, siêu thị, trung tâm hội chợ triển

lãm, trung tâm logistics, kho hàng công phù hợp với qui hoạch được duyệt thì giảm

tiền sử dụng đất (mức độ giảm tuỳ theo loại hình, cấp độ).

+ Trong trường hợp có dự án phát triển kết cấu hạ tầng thương mại theo qui

hoạch được duyệt và công bố công khai nhưng chỉ có một nhà đầu tư xin giao đất

hoặc xin thuê đất để thực hiện dự án thì tuỳ theo từng dự án cụ thể, Hội đồng thẩm

định dự án của thành phố sẽ trình UBND thành phố quyết định giá đất giao hoặc

cho thuê trên cơ sở khung giá đất được Nhà nước công bố hàng năm;

+ Đối với các nhà đầu tư chợ, trung tâm thương mại, siêu thị chọn hình thức

thuê đất thì thời hạn cho thuê đủ độ dài cần thiết để nhà đầu tư có thể hoàn vốn đầu

tư. Riêng đối với những dự án có vốn đầu tư lớn nhưng khả năng thu hồi vốn chậm

thì thời hạn thuê đất có thể dài hơn các dự án khác và được xem xét gia hạn sử dụng

đất nếu chủ đầu tư có nhu cầu tiếp tục sử dụng đất và chấp hành đúng pháp luật về

đất đai;

63

+ Nhà đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng thương mại có thể được xem xét miễn

tiền thuê đất trong thời gian xây dựng cơ bản và những năm kế tiếp theo tuỳ từng

điều kiện cụ thể.

+ Đối với chợ thuộc địa bàn vùng nông thôn thì nhà đầu tư không phải trả

tiền sử dụng đất.

- Chính sách tài chính, tín dụng:

+ Nhà đầu tư được xem xét cho vay tín dụng trung hạn và dài hạn với lãi suất

ưu đãi trong khoảng thời gian nhất định (mức cụ thể tuỳ theo từng dự án cụ thể và

năng lực của chủ đầu tư).

+ Nhà đầu tư xây dựng chợ, trung tâm thương mại, siêu thị, trung tâm

logistics, kho hàng công được dùng quyền sử dụng đất và các công trình trong phạm

vi thuộc quyền sử dụng của mình để thế chấp vay vốn ngân hàng theo qui định hiện

hành để đầu tư sửa chữa lớn, cải tạo, nâng cấp công trình…

+ Các doanh nghiệp kinh doanh và quản lý các công trình kết cấu hạ tầng

thương mại (chợ, trung tâm thương mại, trung tâm hội chợ - triển lãm, trung tâm

logistics) được phép quy định giá cho thuê diện tích kinh doanh, các loại phí dịch

vụ dựa trên khung giá quy định của cấp có thẩm quyền.

- Các chính sách khác:

+ Các nhà đầu tư được cung cấp kịp thời và đầy đủ thông tin về các loại qui

hoạch có liên quan trong quá trình lập dự án đầu tư.

+ Nhà đầu tư được ưu tiên áp dụng rút gọn thời gian qui định trong thủ tục

hành chính hiện hành đối với quá trình thụ lý, giải quyết hồ sơ có liên quan đến qui

hoạch và kiến trúc của dự án đầu tư xây dựng tại cơ quan chức năng.

+ Nhà đầu tư được huy động vốn của doanh nghiệp, cá nhân, hộ sản xuất

kinh doanh để xây dựng nhà các hạng mục công trình.

3.3.4. Giải pháp quản lý thị trường, kiểm tra, kiểm soát, phòng chống

gian lận thương mại.

Để phát huy tối đa hiệu quả thực hiện Chương trình Bình ổn thị trường, công

tác quản lý thị trường, kiểm tra, kiểm soát, phòng chống gian lận thương mại là rất

64

quan trọng, đảm bảo thị trường hoạt động lành mạnh, giá cả thị trường vận động

đúng quy luật cung - cầu, các thành phần tham gia thị trường cạnh tranh lành mạnh,

công bằng, sản phẩm bình ổn thị trường đến tay người tiêu dùng đúng giá Chương

trình công bố. Các nội dung trọng tâm là:

- Tuyên truyền, vận động các doanh nghiệp phân phối, thương nhân chợ đầu

mối, tiểu thương chợ truyền thống, các cửa hàng bán lẻ… nâng cao ý thức văn minh

thương mại, chấp hành nghiêm quy định pháp luật về giá như: bán hàng phải niêm

yết giá và bán đúng giá niêm yết.

- Tăng cường kiểm tra, kiểm soát giá bán hàng bình ổn thị trường, phân công

nhiệm vụ cụ thể của quận – huyện, ban quản lý các chợ… Không để hàng bình ổn

thị trường bị một số đối tượng lợi dụng trục lợi bất hợp lý, gây thiệt hại cho người

tiêu dùng và giảm hiệu quả chính sách của nhà nước.

- Tăng cường kiểm tra, kiểm soát thị trường, chống hàng hoá nhập lậu, hàng

cấm, chống sản xuất - buôn bán hàng giả và các hành vi kinh doanh trái phép khác;

xử lý nghiêm các vi phạm.

Tóm lại, để nâng cao hiệu quả thực hiện Chương trình Bình ổn thị trường

cần tập trung 04 nhóm giải pháp: (1) Nâng cao hiệu quả công tác dự báo, đánh giá

thị trường để định hướng sản xuất, tạo nguồn hàng, (2) tạo nguồn cung hàng hóa

bền vững, (3) thúc đẩy phát triển hạ tầng thương mại, gia tăng hiệu quả lưu thông

hàng hóa và (4) quản lý thị trường, kiểm tra, kiểm soát, phòng chống gian lận

thương mại. Trong đó theo chủ quan của tác giả, nhóm giải pháp tạo nguồn cung

hàng hóa bền vững là quan trọng nhất và quyết định hiệu quả thực hiện Chương

trình Bình ổn thị trường trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong dài hạn.

3.4. Một số khuyến nghị đối với cơ quan điều hành giá cấp Trung ương.

Trong danh mục hàng hóa thiết yếu thuộc diện bình ổn giá của Chính phủ, có

nhiều mặt hàng là đầu vào quan trọng cho các ngành sản xuất sản phẩm vật chất và

dịch vụ cũng như ảnh hưởng lớn tới đời sống hàng ngày của người dân như xăng

dầu, điện, phân bón, thuốc trừ sâu, thức ăn gia súc và những sản phẩm nông nghiệp

là đầu vào cho công nghiệp chế biến.

65

Giá cả của những sản phẩm này nếu thực sự được bình ổn giá sẽ có ý nghĩa

quyết định tới Chương trình Bình ổn thị trường tại các địa phương nói chung và

thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Vì vậy, chính sách bình ổn giá hàng hóa thiết yếu

thuộc diện bình ổn giá của Chính phủ cần có các định hướng và điều chỉnh thích

hợp và cân nhắc sử dụng các giải pháp sau:

- Thứ nhất, cần đánh giá lại các quy định pháp luật trong Luật Quản lý giá

và các quy định pháp luật liên quan đến bình ổn giá. Trong nền kinh tế thị trường,

những quy định cụ thể nêu trong Luật Giá không còn thích hợp trong khi trên thực

tế, Chính phủ luôn khẳng định việc tiến tới cơ chế thị trường cho các hàng hóa như

xăng, điện đang được thực hiện theo lộ trình. Có thể nhận thấy các quy định trong

Luật Quản lý giá và những văn bản pháp luật khác liên quan tới việc điều tiết giá

một số hàng hóa cụ thể có vẻ như không thích hợp trong một nền kinh tế thị trường.

Việc sử dụng các biện pháp hành chính quá cứng nhắc và áp đặt đã phá vỡ cơ chế tự

điều chỉnh và các cơ chế cạnh tranh lành mạnh. Mặt khác, những biện pháp có tính

chất tạm thời và tình thế này đã tạo tâm lý đối phó hoặc nhiều khi là đối đầu vì chế

tài xử phạt về kinh tế của chúng ta quá thấp. Việc hoàn thiện Luật Cạnh tranh là rất

cần thiết để đảm bảo cơ quan cạnh tranh được độc lập và “bình ổn giá” thông qua

công cụ thị trường là kiểm soát cạnh tranh, thay vì tìm cách can thiệp trực tiếp vào

mức giá cả hàng hóa cụ thể trên thị trường (ví dụ việc kiểm soát giá vận tải).

- Thứ hai, tuy hai hình thức bình ổn giá được thực hiện là bình ổn giá lên

(đối với các hàng hóa cơ bản) thông qua các chính sách bình ổn như quỹ bình ổn,

yêu cầu kê khai giá, đăng ký giá, áp trần giá v.v… và bình ổn giá xuống (đối với

lúa, gạo) thông qua công cụ thu mua tạm trữ có khác nhau nhưng về cơ bản là ngân

sách đã phải chi ra một khoản để thực hiện các hoạt động này trong khi trên thực tế,

lợi ích về kinh tế của các đối tượng thụ hưởng không đạt được như mong đợi và

tương xứng với chi phí bỏ ra.

- Thứ ba, công cụ điều tiết vĩ mô cơ bản của nhà nước chính là chính sách

thuế, Chính phủ cần ưu tiên sử dụng chính sách thuế như giảm thuế suất cho những

ngành sản xuất những sản phẩm là đầu vào của những sản phẩm quan trọng khi

66

nhắm tới mục tiêu bình ổn thị trường. Để thực sự bình ổn thị trường và hỗ trợ sản

xuất (đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp) nên đưa các doanh nghiệp cần hỗ trợ vào

diện thuế suất bằng 0 để giá thành và giá bán thực sự giảm và người nông dân lúc

đó mới thực sự được hỗ trợ. Hỗ trợ theo hình thức này, thay vì doanh nghiệp không

phải chịu thuế, có thể giúp cho doanh nghiệp bán sản phẩm của mình trong nước có

thể cạnh tranh về giá thành, tạo động lực đầu tư để làm các sản phẩm phụ trợ, vì sản

phẩm phụ trợ đương nhiên phải bán trong nước; ngành nọ bán sản phẩm cho ngành

kia làm chi phí đầu vào.

- Thứ tư, trong bối cảnh hiện nay Chính phủ cần hết sức thận trọng trong

việc sử dụng các công cụ chính sách vĩ mô để điều tiết lợi ích giữa việc tạo thuận

lợi nhất cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thông qua giảm giá các đầu vào

cơ bản trên thị trường trong nước và thế giới và lợi ích của Nhà nước với mục tiêu

tăng thu ngân sách, theo đó sẽ tăng một số sắc thuế cũng như giá cả các hàng hóa

độc quyền (điện, xăng).

- Thứ năm, trong nền kinh tế thị trường có những thiết chế cơ bản nhằm

đảm bảo cho cơ chế thị trường được vận hành minh bạch và đầy đủ. Kinh nghiệm ở

nhiều nước phát triển cho thấy những thiết chế đó thường bao gồm cơ quan giám sát

cạnh tranh, chứng khoán, giám sát tài chính, kiểm toán, thống kê v.v… nhưng hầu

như không có một cơ quan quản lý về giá theo hướng chủ yếu sử dụng các công cụ

hành chính phi thị trường. Chức năng này thường thuộc về cơ quan giám sát cạnh

tranh. Do đó, cần tiến tới xóa bỏ thiết chế này, thay vào đó là đảm bảo tính độc lập

của những thiết chế cơ bản nói trên nói chung, đặc biệt là cơ quan giám sát về cạnh

tranh nói riêng, đảm bảo việc can thiệp phải thông qua các công cụ kinh tế. Cụ thể,

việc độc lập không phải chỉ ở hình thức mà phải mang tính thực chất, đứng trên 3

khía cạnh cơ bản là: (i) Độc lập về tổ chức – nhân sự: người đứng đầu cơ quan giám

sát cạnh tranh phải do Quốc hội phê chuẩn, hệ thống các chi nhánh (nếu có) ở trung

ương và địa phương do Cơ quan giám sát cạnh tranh quyết định cả về ngân sách và

nhân sự (không được quyết định bởi chính quyền địa phương các cấp); (ii) Độc lập

về tài chính: ngân sách hoạt động của cơ quan giám sát cạnh tranh do Quốc hội phê

67

duyệt; và (iii) Độc lập về các công cụ, biện pháp thực hiện chức năng, nhiệm vụ

được giao.

TÓM TẮT CHƯƠNG III.

Từ phân tích thực trạng triển khai Chương trình Bình ổn thị trường các mặt

hàng lương thực, thực phẩm giai đoạn 2010 – 2015 trên địa bàn thành phố Hồ Chí

Minh; trên cơ sở lý thuyết về giá cả thị trường và định hướng xây dựng nền kinh tế

thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở nước ta giai đoạn hiện nay; Luận văn đã

nêu quan điểm, định hướng và đề ra 04 nhóm giải pháp, 05 kiến nghị nhằm nâng

cao hiệu quả thực hiện Chương trình giai đoạn 2015 – 2020. Cụ thể:

- Về quan điểm, định hướng, công tác triển khai Chương trình Bình ổn thị

trường trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh phải đảm bảo đúng quy luật vận động

của thị trường, đồng thời đúng định hướng phát triển nền kinh tế thị trường định

hướng Xã hội chủ nghĩa ở nước ta, đúng quy định pháp luật; vừa đảm bảo hiệu lực,

hiệu quả quản lý, điều tiết kinh tế vĩ mô của Nhà nước, đồng thời đảm bảo để thị

trường vận hành hiệu quả.

- Về giải pháp, 04 nhóm giải pháp gồm: nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả

dự báo thị trường, nhóm giải pháp tạo nguồn hàng bền vững, nhóm giải pháp nâng

cao hiệu quả lưu thông hàng hóa và nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm soát,

quản lý thị trường. Trong đó nhóm giải pháp tạo nguồn hàng bền vững, trọng tâm là

xây dựng Chuỗi cung ứng tối ưu là giải pháp quan trọng nhất, quyết định hiệu quả

thực hiện Chương trình Bình ổn thị trường thời gian tới đây.

- Đồng thời, để có được môi trường vĩ mô tốt nhất trong triển khai thực hiện

Chương trình Bình ổn thị trường trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn

cũng đề xuất 05 kiến nghị đối với cơ quan điều hành giá cấp trung ương, trong đó

quan trọng nhất là kiến nghị Chính phủ cần ưu tiên sử dụng chính sách thuế để thúc

đẩy phát triển những ngành sản xuất phụ trợ với sản phẩm là đầu vào của sản phẩm

thiết yếu.

68

PHẦN KẾT LUẬN

Quá trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế mang đến cả những vận hội

mới lẫn thách thức ngày càng gia tăng đối với nước ta, trong đó có thách thức đối

với vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước trong ổn định và phát triển kinh tế cả

nước nói chung và thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.

Thời gian qua, Chính quyền thành phố Hồ Chí Minhđã triển khai nhiều giải

pháp nhằm kiềm chế lạm phát, thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh và đảm bảo

an sinh xã hội, qua đó góp phần thực hiện nhiệm vụ ổn định kinh tế vĩ mô của cả

nước. Chương trình Bình ổn thị trường các mặt hàng thiết yếu là một trong số các

giải pháp cơ bản mà Chính quyền thành phố Hồ Chí Minh đã triển khai trong nhiều

năm qua và đạt được những kết quả tích cực.

Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài “Thực trạng triển khai Chương trình

Bình ổn thị trường các mặt hàng lương thực, thực phẩm thiết yếu trên địa bàn thành

phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2010 – 2015”; Luận văn đã làm rõ phương thức thực

hiện Chương trình Bình ổn thị trường trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn

2010 - 2015; đánh giá kết quả thực hiện các mục tiêu của Chương trình Bình ổn thị

trường, phân tích mặt được, mặt hạn chế, nguyên nhân khách quan, chủ quan tồn tại

những mặt hạn chế và rút ra một số bài học kinh nghiệm từ thực tiễn triển khai

Chương trình Bình ổn thị trường giai đoạn 2010 – 2015; làm cơ sở để xây dựng giải

pháp nâng cao hiệu quả thực hiện Chương trình giai đoạn 2015 – 2020. Trong đó

nhóm giải pháp tạo nguồn hàng bền vững, trọng tâm là xây dựng Chuỗi cung ứng

tối ưu là giải pháp quan trọng nhất, quyết định hiệu quả thực hiện Chương trình

Bình ổn thị trường thời gian tới đây.

Qua nghiên cứu cho thấy, song song với mục tiêu xây dựng các thị trường

hàng hóa ngày một tự do và cạnh tranh hơn, trong những năm qua Chính phủ và các

địa phương nói chung, thành phố Hồ Chí Minh nói riêng cũng rất nỗ lực thực hiện

kiểm soát giá cả những mặt hàng thiết yếu, có ảnh hưởng lớn tới đời sống người dân

theo hướng tránh những biến động bất thường (chủ yếu là giá tăng), giữ bình ổn

69

trong phạm vi nhất định có thể. Tuy nhiên, hiệu quả thực hiện lại hoàn toàn khác

nhau. Trong bối cảnh đó, công tác bình ổn thị trường các mặt hàng thiết yếu dường

như được thực hiện tốt hơn tại các địa phương, ban đầu tại thành phố Hồ Chí Minh,

tiếp đó lan tỏa sang các địa phương khác trên toàn quốc. Các địa phương khá chủ

động đưa ra các biện pháp bình ổn giá và giải quyết các vấn đề phát sinh từ cơ chế

này khá linh hoạt nhằm đạt được mục tiêu ban đầu.

Qua việc đúc kết thực tiễn triển khai Chương trình Bình ổn thị trường, Luận

văn còn góp phần luận giải một số vấn đề lý luận về vai trò của Nhà nước trong nền

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo đó, trong thời gian tới, sự phát

triển tư duy lý luận sẽ ngày càng từng bước hoàn thiện vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô

của Nhà nước và làm cơ sở lý luận cho các cơ chế, chính sách áp dụng trong thực

tiễn của công tác quản lý nhà nước về kinh tế.