BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
--------------------
NGUYỄN THỊ HOÀNG OANH
NGHIÊN CỨU CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG
ĐẾN CUNG LAO ĐỘNG NỮ Ở NÔNG THÔN
VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Tp. Hồ Chí Minh, 10/2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
--------------------
NGUYỄN THỊ HOÀNG OANH
NGHIÊN CỨU CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG
ĐẾN CUNG LAO ĐỘNG NỮ Ở NÔNG THÔN
VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ PHÁT TRIỂN
MÃ SỐ: 60310105
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN:
TS. TRƯƠNG ĐĂNG THỤY
Tp. Hồ Chí Minh, 10/2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến cung lao động
nữ ở nông thôn Việt Nam” do chính tôi thực hiện. Các đoạn trích dẫn và số liệu sử
dụng trong bài nghiên cứu đều được dẫn nguồn và có độ chính xác cao nhất trong
phạm vi hiểu biết của tôi. Dữ liệu và kết quả phân tích trong bài luận văn này là
trung thực.
Học viên
Nguyễn Thị Hoàng Oanh
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BIỂU ĐỒ, HÌNH
DANH MỤC BẢNG BIỂU
TÓM TẮT
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ...................................................................................... 1
1.1 Vấn đề nghiên cứu ............................................................................................. 1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu .......................................................................................... 4
1.3 Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................... 4
1.4 Dữ liệu và phương pháp .................................................................................... 5
1.5 Cấu trúc luận văn ............................................................................................... 5
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN .. 6
2.1 Tổng quan lý thuyết ........................................................................................... 6
2.1.1 Cung lao động cá nhân (Individual Labor Supply Theory) ........................ 6
2.1.2 Cung lao động hộ gia đình (Household Model) ........................................ 12
2.1.3 Mô hình cung lao động hộ gia đình nhất thể và tập hợp (Unitary and
Collective Household Labor Supply Models) .................................................... 16
2.2 Các nghiên cứu liên quan................................................................................. 19
CHƯƠNG 3: MÔ TẢ DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP ...................................... 29
3.1 Khung phân tích ............................................................................................... 29
3.2 Mô hình cung lao động .................................................................................... 30
3.3 Quy trình ước lượng ........................................................................................ 35
3.4 Mô tả dữ liệu .................................................................................................... 39
3.4.1 Bộ dữ liệu Điều tra tiếp cận nguồn lực hộ gia đình Việt Nam (VARHS) 39
3.4.2 Mô tả dữ liệu ............................................................................................. 40
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ ƯỚC LƯỢNG ............................................................... 47
4.1 Phân tích đơn biến tác động đến cung lao động .............................................. 47
4.2 Kết quả hồi quy ................................................................................................ 51
4.2.1 Hồi quy nhóm lao động nam giới .............................................................. 53
4.2.2 Hồi quy nhóm lao động nữ giới ................................................................ 55
4.2.3 Hồi quy nhóm lao động nam và nữ ........................................................... 57
4.3 Kết quả kiểm tra giả thuyết .............................................................................. 62
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN ...................................................................................... 64
5.1 Kết luận ............................................................................................................ 64
5.2 Hàm ý chính sách ............................................................................................. 66
5.3 Hạn chế của nghiên cứu ................................................................................... 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Viết tắt Viết đầy đủ
ILO Tổ chức Lao động Quốc tế (International Labour Organization)
VHLSS Khảo sát mức sống hộ gia đình Việt Nam
VARHS Điều tra tiếp cận nguồn lực hộ gia đình nông thôn Việt Nam
2SLS Phương pháp hồi quy hai giai đoạn (Two-Stage Least Square)
DANH MỤC BIỂU ĐỒ, HÌNH
Hình 2.1 Đường ngân sách và đường bàng quan ........................................................ 7
Hình 2.2 Tác động thu nhập và tác động thay thế ....................................................... 9
Hình 2.3 Tác động của thu nhập ngoài lao động ...................................................... 10
Hình 2.4 Cung lao động uốn ngược .......................................................................... 11
Hình 3.1 Khung phân tích mối quan hệ giữa mức lương và cung lao động ............. 29
Hình 4.1.a và 4.1.b Tác động của mức lương cá nhân (PW) và mức lương vợ/chồng
(SW) đến cung lao động (LS). .................................................................................. 47
Hình 4.2.a và 4.2.b Tác động của mức lương bình quân các thành viên khác (OW)
và thu nhập phi lao động (Y) đến cung lao động (LS). ............................................. 48
Hình 4.3.a và 4.3.b Tác động của quy mô gia đình (FS) và số con dưới 6 tuổi (NC5)
đến cung lao động (LS). ............................................................................................ 48
Hình 4.4.a và 4.4.b Tác động của số con từ 6 đến 15 tuổi (NC15) và số con từ 16
tuổi trở lên (NP16) đến cung lao động (LS). ............................................................ 49
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1 Cơ cấu lao động có việc làm chia theo giới tính qua các năm .................... 1
Bảng 1.2 Cơ cấu dân số không hoạt động kinh tế chia theo nguyên nhân ................. 2
Bảng 3.1 Tóm tắt biến trong mô hình ....................................................................... 40
Bảng 3.2 Mô tả thống kê biến định lượng................................................................. 44
Bảng 3.3 Mô tả biến giả ............................................................................................ 45
Bảng 4.1 Phân tích cung lao động theo nhóm ........................................................... 50
Bảng 4.2 Tổng hợp kết quả hồi quy hàm cung lao động theo nhóm ........................ 52
Bảng 4.3 So sánh tác động biên của mức lương giữa các nhóm............................... 59
Bảng 4.4 Kết quả kiểm định giả thuyết ..................................................................... 62
TÓM TẮT
Bài nghiên cứu tìm hiểu về Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến cung lao động
nữ ở nông thôn Việt Nam. Cung lao động được phân tích dựa trên dữ liệu VARHS
năm 2010 với 5128 quan sát và mô hình cung lao động cá nhân. Cung lao động cá
nhân bị tác động bởi nhiều yếu tố khác nhau như đặc điểm cá nhân và đặc điểm gia
đình. Trong đó, bài nghiên cứu xem xét biến mức lương vợ/chồng tác động đến
cung lao động, cụ thể là mức lương người chồng tác động đến cung lao động người
vợ. Kết quả phân tích cho thấy rằng khi mức lương vợ/chồng tăng 1 nghìn
đồng/ngày thì cung lao động cá nhân giảm 0,718 ngày làm việc/năm đối với cá nhân
nữ, và cung lao động cá nhân giảm 0,716 ngày làm việc/năm đối với cá nhân nam.
Mức lương vợ/chồng tăng không khuyến khích cá nhân người lao động làm việc.
Khi phân tích nhóm lao động nữ, mức lương người chồng tăng 1 nghìn đồng/ngày
thì cung lao động người vợ giảm 0,759 ngày lao động/năm (tương ứng giảm 6,072
giờ lao động/năm).
1
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU
1.1 Vấn đề nghiên cứu
Trong cuộc sống hiện đại, sự tham gia của phụ nữ trong thị trường lao động đang
trở nên quan trọng hơn đối với nền kinh tế phát triển, đặc biệt là đối với một nước
đang phát triển. Hiện nay trong các doanh nghiệp ở nước ta, tầm quan trọng của các
lao động nữ là rất lớn trong những ngành đòi hỏi sự khéo léo và linh hoạt như may
mặc, giày da hay lắp ráp linh kiện điện tử. Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO),
khoảng 72% phụ nữ tham gia lực lượng lao động ở Việt Nam. Tỷ lệ này cao hơn
phần lớn các nước khác trên toàn cầu. Tuy nhiên, Việt Nam cũng là một trong số ít
những nước có khoảng cách lương về giới ngày càng tăng.
Cơ cấu lao động có việc làm chia theo giới tính qua các năm của Tổng Cục
Thống Kê như sau:
Bảng 1.1 Cơ cấu lao động có việc làm chia theo giới tính qua các năm
Năm 2010 2011 2012 2013 2014
Nam (%) 51,6 51,7 51,5 51,4 51,2
Nữ (%) 48,4 48,3 48,5 48,6 48,8
Nguồn: Tổng cục Thống kê (2014, 2015)
Theo thống kê, tỷ lệ lao động nữ trong các doanh nghiệp xấp xỉ 49%. Điều này
cho thấy trong các doanh nghiệp, lao động nữ cũng đóng vai trò quan trọng như
nam giới, vai trò của nữ giới và nam giới ngày càng bình đẳng. Hơn nữa các doanh
nghiệp có các vị trí lãnh đạo chủ chốt là nữ cũng không hiếm. Như vậy, phụ nữ
đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, phụ nữ thường
tham gia vào các công việc không chính thức và dễ bị tổn thương. Theo bộ dữ liệu
Khảo sát mức sống hộ gia đình ở Việt nam (VHLSS) năm 2008, chỉ có 24,22% phụ
nữ làm các công việc phi nông nghiệp, trong khi tỷ lệ làm các công việc phi nông
nghiệp ở nam giới là 35,5%. Nhiều người trong số lao động nữ giới phải tự tạo việc
2
làm hoặc làm việc trong gia đình mà không được trả công. Theo số liệu về Xu
hướng việc làm tại Việt Nam (2009), 53% phụ nữ làm việc gia đình mà không được
trả công, trong khi con số này đối với nam là 32%. Phụ nữ làm việc trong các khu
vực không chính thức có tiền công thấp hơn, tay nghề thấp hơn, ít cơ hội nâng cao
tay nghề và được đào tạo so với nam giới. Thu nhập của nữ giới hiện chỉ bằng
khoảng 75% của nam giới, cũng như các chế độ đãi ngộ cho nữ giới cũng thường
thấp hơn. Theo Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, số lao động nữ tại các doanh
nghiệp được hưởng chế độ nghỉ ngơi dưỡng sức rất ít và một số chế độ thai sản bị vi
phạm. Ngoài ra, nữ giới còn phải chịu nhiều áp lực từ các vấn đề bức xúc khác khi
tham gia lao động. Theo Tổng cục Thống kê (2015), cả nước có khoảng 15,2 triệu
người (tương ứng 21,9%) từ 15 tuổi trở lên không hoạt động kinh tế. Trong số đó,
tỷ lệ nữ giới nhiều hơn nam giới (62,0% so với 38,0%).
Bảng 1.2 Cơ cấu dân số không hoạt động kinh tế chia theo nguyên nhân
Đơn vị tính: %
Giới tính Lý do không làm việc Tổng số % Nữ Nam Nữ
Tổng 100 100 100 62,0
Sinh viên/học sinh 30,6 40,4 24,6 49,8
Nội trợ 18,7 1,9 29,0 96,1
Ốm đau/tàn tật 5,8 8,9 3,8 41,4
Quá già/quá trẻ 29,1 27,7 29,9 63,7
Khác 15,8 21,0 12,6 49,4
Nhóm tuổi
15-24 34,9 43,9 29,4 52,2
25-54 16,7 10,2 20,7 76,9
55-59 6,7 4,9 7,7 72,2
Trên 60 41,7 41,1 42,2 62,6
Nguồn: Tổng cục Thống kê (2015)
3
Theo Bảng 1.2, những người không tham gia hoạt động kinh tế vì nhiều lý do
như đi học, làm nội trợ, ốm đau, quá trẻ hoặc quá già. Trong số những lý do đó, số
người không hoạt động kinh tế vì đang đi học chiếm tỷ trọng cao nhất (với 30,6%).
Tuy nhiên, con số này của nam giới khá cao với 40,4%, trong khi của nữ chỉ có
24,6%. Những người không hoạt động kinh tế vì lý do nội trợ chiếm 18,7%, trong
đó gần như toàn bộ số người nội trợ là nữ giới (96,1%). Đối với nhóm tuổi, nhóm
từ 60 tuổi trở lên chiếm tỷ trọng cao nhất (41,7%) và cao thứ hai là nhóm tuổi
thanh niên từ 15 đến 24 tuổi (với 34,9%) trong số những người không tham gia
hoạt động kinh tế.
Trong tương lai, vai trò của nữ giới ngày càng bình đẳng với nam giới trong xã
hội, các mức đãi ngộ cũng tăng lên dần. Các chính sách của nhà nước cũng coi
trọng và đánh giá cao vai trò của nữ giới đối với xã hội. Với các mức thu nhập, chế
độ thai sản, nghỉ phép hợp lý hơn.
Trách nhiệm song song của người phụ nữ vừa chăm sóc con cái vừa làm nội trợ,
cũng như tạo thu nhập cản trở người phụ nữ tham gia vào các công việc được trả
công, đặc biệt công việc trong khu vực chính thức. Để hỗ trợ sự tham gia của phụ
nữ, như vậy, cần xem xét các yếu tố tác động đến cung lao động của nữ giới, nhất là
nữ giới đã lập gia đình. Trong gia đình, cả hai vợ chồng tham gia công việc bên
ngoài đều có ít thời gian chăm lo cho gia đình. Khi chồng được tăng lương thì lại
mong muốn người vợ làm việc ít hơn để dành thời gian cho gia đình.
Các nghiên cứu về cung ứng lao động nữ đã được thực hiện bởi nhiều nhà nghiên
cứu (Blundell, Ham và Meghir, 1987; Arellano và Meghir, 1992; Nakamura và
Nakamura, 1994; Eissa và Liebman, 1996; Greenwood và cộng sự, 2005; Khan và
Khan, 2009; Dostie và Kromann, 2012; Ismail và Sulaiman, 2013). Ở nhiều quốc
gia, đặc biệt là các nền kinh tế đang phát triển, sự tham gia của lao động nữ đã tăng
lên, cả về số lượng và loại công việc.
Sự lựa chọn của phụ nữ để tham gia vào lực lượng lao động thường bị chi phối
bởi nhiều yếu tố khác nhau. Nói cách khác, các quyết định của người phụ nữ cho dù
4
làm việc hay không làm việc, đặc biệt là những người đã lập gia đình sẽ được quyết
định bởi các đặc điểm cá nhân người lao động và đặc điểm gia đình. Người phụ nữ
làm việc tạo thu nhập cho gia đình sẽ hỗ trợ chi phí và làm tăng lợi ích của hộ gia
đình, nhưng điều này sẽ làm giảm thời gian chăm sóc con nhỏ và làm công việc
nhà. Như vậy, người phụ nữ quyết định làm việc hay ở nhà được xác định bởi các
đặc điểm gia đình và đặc điểm cá nhân, đặc biệt là mức lương của người chồng.
Những thông tin về các yếu tố tác động đến quyết định tham gia lao động của phụ
nữ sẽ rất hữu ích cho các nhà hoạch định chính sách liên quan đến lao động, việc
làm và bình đẳng giới.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Bài nghiên cứu xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến cung lao động của phụ nữ, đặc
biệt chú trọng đến tác động của mức lương người chồng. Các mục tiêu của bài
nghiên cứu như sau:
Đánh giá tác động của mức lương người chồng đến cung lao động của
người vợ.
Đánh giá tác động của các yếu tố gia đình đến cung lao động của người
vợ, cung lao động của người chồng và cung lao động của lao động nam và
nữ.
Bài nghiên cứu giúp nhận thấy các yếu tố ảnh hưởng đến cung lao động cá nhân,
đặc biệt các yếu tố khuyến khích hay hạn chế người phụ nữ làm việc hay không làm
việc.
1.3 Phạm vi nghiên cứu
Bài luận văn nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến cung lao động nữ ở nông thôn
Việt Nam.
Về mặt không gian: Bài luận văn nghiên cứu trường hợp 12 tỉnh thành của
Việt Nam, phân tích các yếu tố tác động đến cung lao động cá nhân.
Về mặt thời gian: Bài luận văn nghiên cứu bộ dữ liệu VARHS năm 2010.
5
1.4 Dữ liệu và phương pháp
Dữ liệu được sử dụng trong bài luận văn là Khảo sát hộ gia đình (VARHS) được
thực hiện năm 2010. Bộ VARHS là bộ dữ liệu khảo sát hộ gia đình được thực hiện
mỗi hai năm một lần và bắt đầu từ năm 2002. Bộ dữ liệu này chủ yếu tập trung khảo
sát đất đai, lao động và vốn của các hộ gia đình ở 12 tỉnh thành của Việt Nam ( Hà
Tây, Phú Thọ, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Nghệ An, Quảng Nam, Khánh Hòa,
Đăk Lak, Đak Nông, Lâm Đồng, Long An). Cuộc khảo sát được thực hiện để bổ
sung cho VHLSS và VARHS được khảo sát sâu hơn. Bộ dữ liệu VARHS năm 2010
với 3208 hộ gia đình, bài nghiên cứu sử dụng 5128 quan sát cá nhân người lao động
đã kết hôn và trong nhóm 15 đến 65 tuổi.
Bài nghiên cứu sử dụng mô hình cung lao động cá nhân với các biến độc lập là
các đặc điểm cá nhân và đặc điểm hộ gia đình như mức lương cá nhân, mức lương
vợ/chồng, mức lương các thành viên khác, giới tính, quy mô hộ gia đình, thu nhập
phi lao động, nghèo, chủ hộ, sức khỏe, số trẻ em dưới 6 tuổi, số trẻ em từ 6 đến 15
tuổi, số con từ 16 tuổi trở lên. Phương pháp hồi quy biến công cụ giải quyết vấn đề
nội sinh và mô hình tobit cũng được tác giả sử dụng trong bài nghiên cứu này.
1.5 Cấu trúc luận văn
Luận văn này có năm chương. Chương tiếp theo tóm tắt những nghiên cứu trước
và lý thuyết liên quan. Chương 3 trình bày phương pháp và mô tả dữ liệu. Kết quả
nghiên cứu được trình bày trong Chương 4. Và cuối cùng phần kết luận được đưa
vào Chương 5.
6
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
Chương 2 trình bày về lý thuyết cung lao động cá nhân (Individual Labor Supply
Theory), cung lao động hộ gia đình (Household Model), cung lao động nhất thể và
tập hợp (Unitary and Collective Household Labor Supply Models). Các lý thuyết về
cung lao động đều có ưu và nhược điểm, tuy nhiên, cung lao động cá nhân có thêm
các đặc điểm gia đình được sử dụng trong bài nghiên cứu này. Các bài nghiên cứu
liên quan đến đề tài được thực hiện trước đây cũng được đề cập trong chương này
như Mincer (1962), Barton và Zabalza (1980), Smith và Stelcner (1988), Juhn và
Murphy (1997), Juhn và Murph (1997), Merz (2006), Blau và Kahn (2006),
Morissette và Hou (2008), Dostie và Kromann (2012), Ismail và Sulaiman (2013).
2.1 Tổng quan lý thuyết
2.1.1 Cung lao động cá nhân (Individual Labor Supply Theory)
Cung lao động đề cập đến tổng số giờ mà một cá nhân sẵn sàng làm việc tại một
mức lương nhất định. Về mặt lý thuyết, các quyết định cung lao động của một cá
nhân được phân tích dựa trên giả định rằng mỗi cá nhân tối đa hóa hữu dụng của
mình bằng cách phân bổ thời gian có hạn giữa làm việc và giải trí. Làm việc để tạo
ra thu nhập và dùng thu nhập đó để chi tiêu cho hàng hóa và dịch vụ. Giải trí được
xem như là một hàng hóa tiêu thụ và nó mang lại hữu dụng cho cá nhân tiêu dùng
nó. Điều này có nghĩa là với số tiền cố định của thời gian có sẵn, có một sự đánh
đổi giữa công việc và giải trí: dành nhiều thời gian làm việc và kiếm thêm thu nhập
thì ít thời gian nghỉ ngơi và ngược lại (Mincer, 1962; Becker, 1965).
Giả sử hàm hữu dụng của một cá nhân có dạng như sau:
(2.1) 𝑈(𝑦, 𝑙)
Với 𝑦 là thu nhập, 𝑙 là thời gian giải trí. Gọi ℎ là thời gian làm việc và 𝑇 là tổng
thời gian (giới hạn thời gian) mà một cá nhân làm việc và giải trí. 𝐺 là thu nhập phi
lao động và 𝑤 là tiền lương theo giờ của một cá nhân
(2.2) 𝑇 = ℎ + 𝑙
7
(2.3) 𝑦 = 𝑤ℎ + 𝐺
Cá nhân sẽ chọn h sao cho tối đa hữu dụng:
(2.4) 𝑈(𝑤ℎ + 𝐺, 𝑇 − ℎ)
Điều kiện để tối đa hữu dụng:
(2.5) 𝑤𝑈1 (𝑤ℎ + 𝐺, 𝑇 − ℎ) − 𝑈2 (𝑤ℎ + 𝐺, 𝑇 − ℎ) = 0
Hay
𝑤 = = 𝑀𝑈 (𝑙) 𝑀𝑈 (𝑦) 𝑈2 𝑈1
là điều kiện tiếp tuyến giữa độ dốc của đường giới hạn ngân sách và độ dốc
y
A
B
Y1
C
Y2
Đường bàng quan
Đường ngân sách
G
D
E
l
H1
H2
Nghỉ ngơi, giải trí
Làm việc
đường bàng quan.
Hình 2.1 Đường ngân sách và đường bàng quan
8
Hình 2.1 thể hiện sự lựa chọn giữa thu nhập và giải trí. Đường AD là đường ngân
sách. Đường ngân sách thể hiện sự kết hợp giữa thu nhập và giải trí của người lao
động. Độ dốc đường ngân sách bằng với mức lương của người lao động. Tại A là
mức thu nhập tối đa có thể đạt được. Kết hợp các sự lựa chọn giữa thu nhập và giải
trí cùng đem lại một mức hữu dụng sẽ lập thành một đường bàng quan. Mỗi điểm
trên đường bàng quan đại diện cho mỗi mức thu nhập và giải trí tương ứng. Mỗi cá
nhân điều muốn tối đa hóa mức hữu dụng, tuy nhiên lại bị giới hạn bởi thu nhập, đó
là đường giới hạn ngân sách. Điểm tiếp tuyến giữa đường ngân sách và đường bàng
quan là C. Tại điểm C, cá nhân người lao động nhận được mức hữu dụng tối ưu.
Tuy nhiên, tại điểm C, người lao động không tối đa hóa mức thu nhập của mình. Vì
tại điểm B, cá nhân nhận được mức thu nhập cao hơn điểm C (Y1 > Y2).
Khi mức lương thay đổi sẽ tạo ra hai hiệu ứng là hiệu ứng thay thế và hiệu ứng
thu nhập, tuy nhiên hai tác động này lại đối lập với nhau. Hiệu ứng thay thế cho
thấy khi mức lương tăng sẽ làm tăng chi phí cơ hội của giải trí vì người lao động
phải hy sinh thời gian nghỉ ngơi để có được số tiền công này. Các lý thuyết về nhu
cầu chỉ ra rằng các cá nhân sẽ mua ít hàng hóa hơn khi giá của nó tăng lên. Do đó,
người lao động sẽ giải trí ít hơn và làm việc nhiều hơn. Trong khi đó, tác động thu
nhập cho thấy thời gian làm việc thay đổi khi thu nhập thay đổi. Một cá nhân sẽ sử
dụng một phần thu nhập tăng do tăng lương để mua thêm của tất cả các loại hàng
thông thường, bao gồm cả giải trí. Thu nhập càng cao sẽ khuyến khích người lao
động "mua" nhiều thời gian cho sự nghỉ ngơi hơn và do vậy giảm thời gian làm việc
làm việc. Như vậy, nếu giải trí là hàng hóa thông thường, thu nhập tăng lên sẽ dẫn
đến giải trí nhiều hơn và làm việc ít hơn.
Hình 2.2 thể hiện tác động thay thế và tác động thu nhập. Đường ngân sách ban
đầu là AB và đường bàng quan là U1. Và điểm F1 là điểm tiếp xúc giữa AB và U1.
Khi mức lương tăng dẫn đến đường ngân sách AB di chuyển thành CB. Chi phí cơ
hội của giải trí tăng nên người lao động làm việc nhiều hơn và giải trí ít hơn. Tạo
một đường ngân sách DE song song với CB. Hình minh họa cho thấy, điểm F1 di
chuyển đến điểm F2, với F2 là tiếp điểm giữa DE và U1. Đoạn H1H2 thể hiện thời
9
gian làm việc tăng. Đó là tác động thay thế. Trong khi đó, việc tăng lương cũng tạo
thu nhập cao hơn, hữu dụng của người lao động tăng từ U1 đến U2. Điểm F2 di
chuyển đến điểm F3, với F3 là tiếp điểm giữa CB và U2. Trong trường hợp này,
người lao động giảm thời gian làm việc và tăng thời gian giải trí. Đoạn H2H3 thể
y
C
D
F3
A
Y3
F2
Y2
U2
F1
Y1
U1
B
G
E
H
H2
l
H3
H1
hiện thời gian làm việc giảm. Đây là tác động thu nhập.
Hình 2.2 Tác động thu nhập và tác động thay thế
Như vậy, với một mức lương cao hơn, tác động thay thế khuyến khích người lao
động làm việc nhiều hơn, còn tác động thu nhập khuyến khích người lao động làm
việc ít hơn và nghỉ ngơi nhiều hơn. Trong trường hợp hiệu ứng thay thế lớn hơn
hiệu ứng thu nhập thì khi tăng lương sẽ dẫn đến tăng thời gian làm việc. Nhưng nếu
tác động thu nhập lớn hơn hiệu ứng thay thế thì khi tăng lương sẽ dẫn đến giảm thời
10
gian làm việc. Theo như hình vẽ trên thì tác động thay thế lớn hơn tác động thu
nhập nên khi tăng lương dẫn đến tăng thời gian làm việc, đó là đoạn H1H3.
Nguồn thu nhập thu phi lao động từ tiền cho thuê tài sản, bán tài sản, khoản tiền
được cho hoặc tặng. Khi thu nhập phi lao động tăng sẽ làm cho đường giới hạn
ngân sách dịch chuyển sang bên phải lên phía trên với cùng độ dốc so với độ dốc
đường ngân sách ban đầu. Nếu giải trí là một hàng hóa thông thường, sự thay đổi
trong thu nhập phi lao động chỉ có tác động thu nhập. Vì vậy khi thu nhập phi lao
động tăng sẽ dẫn đến thời gian làm việc ít đi, đó là tác động nghịch biến của thu
y
B
Y2
A
Y1
l
H1 H2
nhập phi lao động đối với thời gian lao động.
Hình 2.3 Tác động của thu nhập ngoài lao động
Hình 2.3 cho thấy, ban đầu điểm A là điểm tiếp xúc giữa đường ngân sách và
đường bàng quan. Khi thu nhập ngoài lao động tăng dẫn đến đường ngân sách dịch
chuyển lên trên bên phải, và điểm tiếp xúc mới giữa đường ngân sách và đường
bàng quan là điểm B. Tại điểm B, người lao động nghỉ ngơi nhiều hơn và làm việc
11
ít hơn so với điểm A. Do đó, thu nhập ngoài lao động tăng lên dẫn đến người lao
động làm việc ít hơn và nghỉ ngơi nhiều hơn.
Tác động thay thế và tác động thu nhập trở thành lý do cho đặc điểm uốn ngược
của cung lao động. Mối quan hệ giữa cung lao động và mức lương được thể hiện
bằng đặc điểm uốn ngược của cung lao động. Khi mức lương tăng lên, ban đầu,
người lao động sẽ làm việc nhiều hơn. Tuy nhiên, khi mức lương đạt một mức nhất
định thì người lao động sẽ giảm thời gian làm việc bởi vì người lao động muốn nghỉ
ngơi nhiều hơn và làm việc ít đi khi thu nhập cao hơn.
Khi mức lương dưới mức lương giới hạn, thời gian làm việc sẽ bằng 0. Mức
lương giới hạn là mức thu nhập tối thiểu làm cho người lao động bàng quan giữa
không làm việc hay bắt đầu làm việc. Khi lương tăng lên, thời gian làm việc tăng
lên (hiệu ứng thay thế trội hơn so với hiệu ứng thu nhập). Tại một thời điểm nào đó,
tình hình đảo ngược, lương tăng nhưng thời gian làm việc giảm, lúc này hiệu ứng
thu nhập vượt trội hơn so với hiệu ứng thay thế. Như vậy, khi tăng lương thì thời
gian làm việc của người lao động có thể tăng hoặc giảm tùy theo hiệu ứng thay thế
Mức lương
C
W3
B
W2
A
W1
Cung lao động
L1 L3 L2
hay hiệu ứng thu nhập trội hơn.
Hình 2.4 Cung lao động uốn ngược
12
Hình 2.4 cho thấy đặc điểm uốn ngược của cung lao động. Tại điểm A đến điểm
B, khi tăng mức lương (từ W1 đến W2) dẫn đến cung lao động tăng (từ L1 đến L2).
Tuy nhiên, từ điểm B trở đi (điểm C), khi tăng lương (từ W2 đến W3) sẽ làm giảm
cung lao động (từ L2 xuống L3). Như vậy, khi mức lương nhỏ hơn W2, người lao
động sẽ muốn làm việc nhiều hơn để kiếm được thu nhập cao hơn nhưng khi mức
lương vượt quá W2, người lao động sẽ làm việc ít hơn để dành nhiều thời gian hơn
cho giải trí.
2.1.2 Cung lao động hộ gia đình (Household Model)
Mô hình cung lao động cá nhân như trình bày ở trên thể hiện sự đánh đổi giữa
thu nhập và giải trí chỉ dựa trên các đặc điểm cá nhân mà bỏ qua các đặc điểm hộ
gia đình. Phần này trình bày quyết định cung lao động theo quan điểm của mô hình
hộ gia đình (household model). Mô hình này giả định rằng các quyết định, bao gồm
cả quyết định cung lao động, không phải do cá nhân quyết định mà do tất cả các
thành viên cùng nhau quyết định như là một chủ thể duy nhất: hộ gia đình.
Trong nền kinh tế nông nghiệp, hộ gia đình tham gia vào các hoạt động khác
nhau như hoạt động nông nghiệp và hoạt động phi nông nghiệp. Ở nông thôn, hộ
gia đình tham gia nông nghiệp là chủ yếu. Bên cạnh đó, hộ gia đình còn phân bổ
nguồn lực cho công việc được trả lương, kinh doanh nhỏ lẻ hay sử dụng tài nguyên
chung để kiếm thêm thu nhập. Các mô hình hộ gia đình nông nghiệp được phát triển
cho mục đích phân tích các quyết định liên quan đến các hộ nông dân bao gồm cả
các quyết định cung lao động (Rosenzweig, M.R., 1980; Singh, Squire và Strauss,
1986).
Hộ gia đình tối đa hóa hữu dụng thông qua tiêu dùng và tái sản xuất. Mô hình hộ
gia đình nông nghiệp được giả định rằng một hộ gia đình nông nghiệp giải quyết
đồng thời ba vấn đề về sản xuất, tiêu dùng và cung lao động. Ban đầu, các quyết
định liên quan đến sản xuất, tiêu dùng và lao động được phân tích một cách riêng
biệt thông qua tối đa hóa hữu dụng/lợi nhuận của các nhà sản xuất, người tiêu dùng
và người lao động. Đối với các nhà sản xuất, họ bị hạn chế về công nghệ, giá cả thị
13
trường và yếu tố cố định để tối đa hóa lợi nhuận. Người lao động đứng giữa việc
đánh đổi giữa thu nhập và giải trí. Muốn có thu nhập nhiều hơn thì họ phải dành
thời gian cho giải trí ít đi và ngược lại, muốn nghỉ ngơi nhiều hơn thì họ phải chấp
nhận một mức thu nhập thấp hơn. Người tiêu dùng muốn tối đa hóa hữu dụng
nhưng lại bị hạn chế về thời gian và thu nhập. Mô hình hộ gia đình (household
model) liên kết ba vấn đề này lại với nhau.
Khi hộ gia đình là một nhà sản xuất, hộ gia đình quan tâm đến vấn đề tối đa hóa
lợi nhuận.
Giả sử mô hình tối đa hóa lợi nhuận được cho như sau:
(2.6) 𝑀𝑎𝑥𝑞𝑎,𝑥,𝑙𝜋 = 𝑝𝑎𝑞𝑎 − 𝑝𝑥𝑥 − 𝑤𝑙
Với 𝜋 là lợi nhuận, 𝑞𝑎 là sản lượng sản xuất, 𝑝𝑎 là giá sản phẩm, hai yếu tố đầu
vào là 𝑥 và 𝑙 (là lao động), 𝑝𝑥 là giá đầu vào 𝑥 và 𝑤 là giá lao động.
Hàm sản xuất được cho như sau:
(2.7) 𝑞 (𝑞𝑎, 𝑥, 𝑙, 𝑧𝑞) = 0
Với 𝑧𝑞 bao gồm các yếu tố cố định và công nghệ trong hàm sản xuất.
Khi hộ gia đình là người tiêu dùng, hộ gia đình mong muốn tối đa hóa hữu dụng
thông qua tiêu dùng sản phẩm. Giả sử, ở đây có hai loại sản phẩm là sản phẩm nông
nghiệp a và chế thành phẩm b. Tuy nhiên, với tư cách là người tiêu dùng thì hộ gia
đình bị giới hạn bởi đường ngân sách và đặc điểm người tiêu dùng. Mô hình tối đa
hóa hữu dụng được cho như sau:
(2.8) 𝑀𝑎𝑥𝑐𝑎,𝑐𝑏𝑈(𝑐𝑎, 𝑐𝑏, 𝑧𝑐)
Với 𝑐𝑎 là sản phẩm nông nghiệp, 𝑐𝑏 là các hàng hóa tiêu dùng khác và 𝑧𝑐 là đặc
điểm người tiêu dùng.
Với 𝑝𝑎 là giá của sản phẩm a và 𝑝𝑏 là giá của sản phẩm b, đường giới hạn ngân
sách với hai sản phẩm được cho như sau:
(2.9) 𝑦 = 𝑝𝑎𝑐𝑎 + 𝑝𝑏𝑐𝑏
14
Hàm cầu thu được như sau:
(2.10) 𝑐𝑖 = 𝑐𝑖(𝑝𝑎, 𝑝𝑏, 𝑦; 𝑧𝑐); 𝑖 = (𝑐𝑎, 𝑐𝑏)
Khi hộ gia đình với tư cách là người lao động, họ mong muốn tối đa hóa hữu
dụng:
(2.11) 𝑀𝑎𝑥𝑦,𝑐𝑙𝑈(ℎ, 𝑦, 𝑧𝑤)
Với ℎ là thời gian làm việc, 𝑦 là thu nhập, 𝑧𝑤 là đặc điểm người lao động và 𝑐𝑙 là thời gian nghỉ ngơi, giải trí. Các quyết định cung lao động đã được đề cập ở phần
cung lao động cá nhân. Và người lao động bị giới hạn thu nhập và thời gian khi tối
đa hóa hữu dụng.
𝑦 = 𝑤ℎ
𝑐𝑙 + ℎ = 𝑇
Với 𝑤 là mức lương được trả theo giờ, 𝑇 là tổng thời gian. Nhân 𝑤 vào hai vế
của phương trình thời gian:
(2.12) 𝑤𝑐𝑙 + 𝑦 = 𝑤𝑇
Khi sử dụng hết thời gian cho công việc, hàm cầu của giải trí thu được như sau:
(2.13) 𝑐𝑙 = 𝑐𝑙(𝑤, 𝑇, 𝑧𝑤)
Khi hộ gia đình vừa là người tiêu dùng, vừa là người lao động thì hộ mong muốn
tối đa hóa hữu dụng:
(2.14) 𝑀𝑎𝑥𝑐𝑎,𝑐𝑏,𝑐𝑙𝑈(𝑐𝑎, 𝑐𝑏, 𝑐𝑙; 𝑧𝑤𝑐)
Với các ràng buộc sau:
Đường giới hạn ngân sách
(2.15) 𝑦 = 𝑤ℎ = 𝑝𝑎𝑐𝑎 + 𝑝𝑏𝑐𝑏
Giới hạn về thời gian
(2.16) 𝑐𝑙 + ℎ = 𝑇
15
(2.17) 𝑤𝑐𝑙 + 𝑦 = 𝑤𝑇
(2.18) 𝑝𝑎𝑐𝑎 + 𝑝𝑏𝑐𝑏 + 𝑤𝑐𝑙 = 𝑤𝑇
Hàm cầu của giải trí thu được như sau:
(2.19) 𝑐𝑙 = 𝑐𝑙(𝑝𝑎, 𝑝𝑏, 𝑤, 𝑇; 𝑧𝑤𝑐)
Khi vừa là nhà sản xuất, người tiêu dùng, vừa là người lao động thì hộ gia đình
mong muốn được tối đa hóa lợi nhuận và hữu dụng. Tuy nhiên, lúc này hộ gia đình
bị giới hạn về công nghệ sản xuất, đầu vào, cũng như giới hạn ngân sách và giới hạn
về mặt thời gian.
Hàm hữu dụng:
(2.20) 𝑀𝑎𝑥𝑞𝑎,𝑥,𝑙,𝑐𝑎,𝑐𝑏,𝑐𝑙𝑈(𝑐𝑎, 𝑐𝑏, 𝑐𝑙; 𝑧ℎ)
Với 𝑧ℎ là đặc điểm của hộ gia đình. Hàm sản xuất như sau:
(2.21) 𝑄 = 𝑓(𝑞𝑎, 𝑥, 𝑙, 𝑧𝑞) = 0
Giới hạn về tiền
(2.22) 𝑝𝑥𝑥 + 𝑝𝑏𝑐𝑏 = 𝑝𝑎(𝑞𝑎 − 𝑐𝑎) + 𝑤(ℎ − 𝑙)
Giới hạn về thời gian
(2.23) 𝑐𝑙 + ℎ = 𝑇
Thay ℎ = 𝑇 − 𝑐𝑙 cho phương trình (2.22)
(2.24) 𝑝𝑥𝑥 + 𝑝𝑏𝑐𝑏 = 𝑝𝑎(𝑞𝑎 − 𝑐𝑎) + 𝑤(𝑇 − 𝑐𝑙 − 𝑙)
𝑝𝑥𝑥 + 𝑝𝑏𝑐𝑏 = 𝑝𝑎𝑞𝑎 − 𝑝𝑎𝑐𝑎 + 𝑤𝑇 − 𝑤𝑐𝑙 − 𝑤𝑙
Với 𝜋 = 𝑝𝑎𝑞𝑎 − 𝑝𝑥𝑥 − 𝑤𝑙
𝑝𝑎𝑐𝑎 + 𝑝𝑏𝑐𝑏 + 𝑤𝑐𝑙 = 𝜋 + 𝑤𝑇
Theo lý thuyết lao động cá nhân, người lao động đạt tối đa thu nhập khi dành tất
cả thời gian cho công việc. Trong thị trường hoàn hảo, giá hàng hóa được cho trước
và tất cả hàng hóa đều có được thị trường. Khi hộ gia đình sản xuất, hộ gia đình sử
16
dụng tối ưu lao động để tối đa lợi nhuận. Dựa trên lợi nhuận này, xem xét giá cả thị
trường và mức lương, hộ gia đình sẽ quyết định tiêu dùng và lao động tối ưu để
phân bổ cho hoạt động phi nông nghiệp. Tiền lương liên quan đến tiêu dùng và sản
xuất. Khi hộ gia đình đóng vai trò là người thuê lao động thì tiền lương được xem
như chi phí, do đó, khi tăng tiền lương dẫn đến thu nhập giảm, và làm việc nhiều
hơn. Trong khi đó, khi hộ gia đình đóng vai trò là người lao động, lúc này tiền
lương được xem như lợi ích. Do đó, khi tăng lương dẫn đến tăng thu nhập, nhu cầu
giải trí cao hơn và thời gian làm việc ít đi.
Không phải giả định về thị trường hoàn hảo luôn đúng so với thực tế, chẳng hạn
như bị rủi ro về giá thấp hay giá đầu vào cao, do đó không có sự phân chia giữa tiêu
dùng và sản xuất mà thực hiện đồng thời cả ba hoạt động sản xuất, tiêu dùng và
cung lao động. Trong trường hợp này, quyết định cung lao động phụ thuộc qua lại
với hoạt động nông nghiệp đang có nhu cầu về lao động. Do đó, là tiền lương ẩn,
hay còn gọi là chi phí cơ hội của thời gian, tốt hơn tiền lương thị trường khi xác
định cung loa động. Skoufias (1994) ước tính lương ẩn từ hàm sản xuất và sử dụng
mức lương này để hồi quy tổng giờ làm việc dựa trên lương ẩn và thu nhập ẩn.
2.1.3 Mô hình cung lao động hộ gia đình nhất thể và tập hợp (Unitary and
Collective Household Labor Supply Models)
Cả hai mô hình cung lao động cá nhân và hộ gia đình đều có nhược điểm. Mô
hình cá nhân bỏ qua các yếu tố hộ gia đình. Mô hình hộ gia đình giả định rằng cá
nhân không có quyền tự quyết định cung lao động của bản thân. Vì vậy, các mô
hình thay thế đã được phát triển. Hai mô hình phổ biến nhất là unitary household
supply model và collective houeshold supply model.
Cung lao động hộ gia đình nhất thể và tập hợp thường dựa trên giả định hộ gia
đình hai thành viên. Với mô hình nhất thể (unitary), hộ gia đình được xem như một
chủ thể ra quyết định tối đa hóa hữu dụng theo một giới hạn ngân sách (Fotin và
Lacroix, 1997). Hàm hữu dụng của hộ gia đình hai thành viên được cho như sau:
(2.25) 𝑀𝑎𝑥𝑐1,𝑐2,ℎ1,ℎ2𝑈(𝑐1, 𝑐2, ℎ1, ℎ2)
17
𝑤1ℎ1 + 𝑤2ℎ2 + 𝑦1 + 𝑦2 ≥ 𝑐1 + 𝑐2
𝑤1ℎ1 + 𝑤2ℎ2 + 𝑦 ≥ 𝑐
Với 𝑐1 và 𝑐2 là tiêu dùng hàng hóa tư nhân Hicksian của hai thành viên với giá
được chuẩn hóa bằng 1, ℎ1 và ℎ2 là cung lao động của hai thành viên, 𝑤1 và 𝑤2 là
mức lương, 𝑦1 và 𝑦2 là thu nhập phi lao động. Áp dụng định lý tổng hợp của Hicks
và giả định rằng hàm hữu dụng hộ gia đình phụ thuộc vào tiêu dùng tổng hợp
(𝑐 = 𝑐1 + 𝑐2), hành vi hộ gia đình thể hiện kết quả của tối đa hóa với ràng buộc
ngân sách của hộ gia đình.
(2.26) 𝑀𝑎𝑥𝑐,ℎ1,ℎ2𝑈(𝑐, ℎ1, ℎ2)
𝑤1ℎ1 + 𝑤2ℎ2 + 𝑦1 + 𝑦2 ≥ 𝑐
Để giải quyết vấn đề (2.26) cho ℎ1 và ℎ2, có thể lấy dạng hàm cung lao động của
hộ gia đình như sau:
(2.27) ℎ1(𝑤1, 𝑤2, 𝑦1, 𝑦2) = 𝐻1(𝑤1, 𝑤2, 𝑦)
(2.28) ℎ2(𝑤1, 𝑤2, 𝑦1, 𝑦2) = 𝐻2(𝑤1, 𝑤2, 𝑦)
Với 𝑦 = 𝑦1 + 𝑦2 là tổng thu nhập phi lao động của hộ gia đình. Tuy nhiên, vấn
đề chủ yếu của (2.26) cho ℎ1 và ℎ2 phải đáp ứng đồng thời hai ràng buộc. Thứ nhất,
từ (2.27) và (2.28) là sự phân bố của tổng thu nhập phi lao động 𝑦 qua các thành
viên trong hộ gia đình không có vai trò trong việc xác định cung lao động cá nhân.
Thứ hai là điều kiện xác định tích cực (positive definite) và đối xứng (symmetry)
của ma trận Slutsky.
Tuy nhiên, mô hình nhất thể của hộ gia đình đã bị chỉ trích. Trong một số nghiên
cứu, tác động lý thuyết của mô hình nhất thể đã bị bác bỏ dựa trên các bằng chứng
thực nghiệm (Blundell và Meghir, 1986; Blundell và Walker, 1986; Lundberg,
1988; Fortin và Lacroix, 1997).
Những hạn chế của mô hình nhất thể dẫn đến sự phát triển của mô hình cung lao
động tập hợp (collective household labor supply model) (Apps và Rees, 1988;
18
Chiappori, 1992). Mô hình tập hợp được chứng minh là được nâng cao hơn so với
mô hình nhất thể trong việc mô tả hành vi cung lao động gia đình (Fortin và
Lacroix, 1997; Blundell và cộng sự, 2007; Bloemen, 2004). Mô hình cung lao động
tập hợp xem xét những ưu đãi và thương lượng để đạt hiệu quả Pareto cho các thành
viên hộ gia đình. Quá trình ra quyết định của hộ gia đình bao gồm hai giai đoạn.
Thứ nhất, thu nhập phi lao động được phân chia giữa các thành viên hộ gia đình
theo nguyên tắc chia sẻ. Thứ hai, cá nhân thành viên trong hộ gia đình quyết định
cung lao động sao cho tối đa hóa hữu dụng của mình với mức giới hạn ngân sách
tương ứng của mỗi cá nhân.
Mô hình cung lao động tập hợp được phát triển dựa trên cơ sở các mô hình nhất
thể, sau đó được thêm vào nhân tố phân chia thu nhập (Fortin và Lacroix, 1997).
Mô hình được mở rộng đến các hộ gia đình với các cặp vợ chồng làm việc, sau đó
các yếu tố phân bố đã được giới thiệu (Chiappori và cộng sự, 2002). Donni (2003)
khái quát các giả định chính của mô hình Chiappori (1992) bằng cách đưa vào mục
quyết định tham gia và xem xét hạn chế ngân sách phi tuyến tính. Trong phương
pháp này, hàm cung lao động trên cơ sở tiền lương và thu nhập phi lao động đã
được sử dụng để phục hồi các thông số của các quy luật phân chia. Như vậy, cung
lao động của các hộ gia đình với hai thành viên được định nghĩa là hàm của tiền
lương, thu nhập được phân chia, yếu tố phân bố (kết hôn và sự khác biệt giáo dục
giữa vợ và chồng) và yếu tố sở thích (tuổi tác, giáo dục và giới tính) (Chiappori,
Fortin và Lacroix , 2002).
𝐻1 = 𝑓(𝑤1, 𝜙(𝑤1, 𝑤2, 𝑦, 𝑠, 𝑧)𝑧)
𝐻2 = 𝑓(𝑤2, 𝑦 − 𝜙(𝑤1, 𝑤2, 𝑦, 𝑠, 𝑧)𝑧)
Trong đó, 𝐻1 và 𝐻2 là giờ làm việc của các thành viên hộ gia đình; 𝑤1 và 𝑤2 là
mức lương của các thành viên hộ gia đình; 𝜙 là quy luật phân chia; 𝑦, 𝑠, 𝑧 là thu
nhập phi lao động, vecto của yếu tố phân bổ và yếu tố sở thích tương ứng.
Tuy nhiên, mô hình cung lao động hộ gia đình tập hợp cũng có những hạn chế.
Chẳng hạn, mô hình này không cho phép sự có mặt của hàng hóa công, và ứng dụng
19
bị hạn chế trong phạm vi các cặp vợ chồng không có con (Blundell và cộng sự,
2007), đồng thời khả năng áp dụng mô hình này trong phân tích tác động của chính
sách về lao động thì rất hạn chế. Khi nghiên cứu ở nông thôn, một số đặc điểm đặc
biệt của các hộ nông dân lại được các mô hình hộ gia đình nông nghiệp giải quyết
tốt, do đó mô hình hộ gia đình tập hợp thường bị bỏ qua khi phân tích trong nền
kinh tế nông nghiệp. Tuy nhiên, mô hình này đã được chứng minh là hiệu quả trong
việc mô tả các hành vi cung lao động của hộ gia đình ở các nước phát triển và một
số nền kinh tế chuyển đổi (Bielenka, 2008; Berulava, G., và Chikava, G., 2011).
2.2 Các nghiên cứu liên quan
Đã có nhiều bài nghiên cứu trước đây nghiên cứu về cung lao động của phụ nữ
đã kết hôn ở nhiều nước khác nhau như Canada, Malaysia, Đức, Pakistan ở các giai
đoạn khác nhau và đã đưa ra nhiều kết quả có giá trị. Bài nghiên cứu của Mincer
(1962) sử dụng dữ liệu từ cuộc điều tra Chi Phí Tiêu Dùng BLS 1950. Mô hình kinh
tế lượng, hàm cung lao động thị trường cho phụ nữ đã kết hôn:
𝑚 = 𝛽𝑝𝑥𝑝 + 𝛼𝑤 + 𝜇
Với 𝑚 là số lượng cung lao động cho thị trường, 𝑥𝑝 thu nhập của người chồng, 𝑤
là tiền lương toàn thời gian của người vợ, 𝜇 là phản ứng của các yếu tố khác hay
“thị hiếu”. Ngoài thu nhập của người chồng, tiền lương của người vợ, các biến khác
được thêm vào để xác định cung lao động của phụ nữ đã kết hôn là trình độ học
vấn, tỷ lệ thất nghiệp của nam và tỷ lệ gia đình có trẻ em dưới 6 tuổi.
Mincer (1962) đã cho thấy rằng tỷ lệ tham gia lực lượng lao động người vợ quan
hệ nghịch biến đối với thu nhập của chồng: nghĩa là người chồng kiếm được nhiều
tiền hơn, thì người vợ làm việc ít hơn. Tuy nhiên, người vợ càng kiếm được nhiều
tiền thì càng muốn làm việc nhiều hơn. Người vợ muốn làm việc nhiều hơn nếu thu
nhập hiện tại của người chồng dưới mức thu nhập thường xuyên. Lao động và thu
nhập có mối quan hệ yếu hơn khi người đứng đầu gia đình trên 35 tuổi có trình độ
học vấn cao, vì người đứng đầu được giáo dục tốt hơn sẽ có những tài sản khác, do
đó, người vợ không cần thiết phải làm việc khi thu nhập thấp.
20
Barton và Zabalza (1980) đã sử dụng dữ liệu trên 3.877 gia đình (với phụ nữ đã
kết hôn từ 60 tuổi trở xuống) từ Tổng cuộc điều tra hộ gia đình năm 1974 (OPCS)
để giải thích sự tham gia của phụ nữ đã kết hôn với các biến tổng thu nhập theo giờ
của vợ, tổng thu nhập theo giờ của chồng, thu nhập phi lao động ròng hàng năm,
tuổi của trẻ em nhỏ nhất, số con, lý lịch dân tộc, bệnh dài ngày, tuổi, khu vực và
chồng đang thất nghiệp. Barton và Zabalza (1980) đã cho thấy rằng sự tham gia của
phụ nữ đã kết hôn tăng trong giai đoạn 1973-1977, và cũng trong giai đoạn này thì
tiền lương thực tế của người chồng giảm nhẹ trong khi tiền lương thực tế của người
vợ tăng lên đáng kể. Thêm vào đó, biến tuổi của đứa con nhỏ nhất có ảnh hưởng
đến sự tham gia của phụ nữ kết hôn, và quy mô gia đình giảm cũng một phần làm
tăng sự tham gia của phụ nữ trẻ tuổi, nhưng lại không có tác dụng trong nhóm phụ
nữ lớn tuổi hơn. Ít có sự khác nhau trong tỷ lệ tham gia của phụ nữ kết hôn ở các
khu vực khác nhau. Nếu chồng thất nghiệp, thì người vợ ít có khả năng được tìm
được việc làm, nhưng không hẳn là do tác dụng không khuyến khích của các hệ
thống an sinh xã hội.
Smith và Stelcner (1988) đã sử dụng dữ liệu Tổng điều tra năm 1981, các mẫu
được giới hạn trong 2851 cặp vợ chồng kết hôn với điều kiện người vợ từ 20-54
tuổi, để xem xét các hành vi cung lao động của phụ nữ đã lập gia đình ở Canada.
Smith và Stelcner đã đưa ra kết quả là những người vợ trẻ tuổi hơn, mà sống ở khu
vực đô thị lớn hơn, có xu hướng làm việc nhiều giờ hơn. Trẻ em trước tuổi đi học
quan hệ nghịch biến với cung lao động của người vợ trẻ tuổi hơn, trong khi đó trẻ
em trong độ tuổi đi học không khuyến khích làm việc cho cả hai nhóm người vợ
này. Tôn giáo chỉ có ý nghĩa cho những người vợ lớn tuổi hơn. Đối với biến ngôn
ngữ, chỉ nói được tiếng Pháp làm giảm cung lao động của những người vợ lớn tuổi
hơn. Hệ số mức lương của vợ gần bằng 0 (ở mức 5%). Đối với các nhóm tuổi khác
nhau, kết quả cho thấy rằng mức lương càng tăng thì cung lao động của phụ nữ trẻ
tuổi hơn càng tăng (ở mức 5%), đối với cung lao động của những người phụ nữ lớn
tuổi hơn cũng tăng nhưng không đáng kể. Như vậy, kết quả của bài nghiên cứu cho
thấy rằng có sự khác biệt trong thay đổi cung lao động của hai nhóm tuổi: người vợ
21
trẻ dường như là hơi nhạy cảm hơn với các biến như tiền lương, thu nhập phi lao
động và sự hiện diện của trẻ em; trong khi những người vợ lớn tuổi hơn bị ảnh
hưởng nhiều hơn bởi các biến như tôn giáo và các thuộc tính ngôn ngữ học.
Juhn và Murphy (1997) đã sử dụng bộ dữ liệu CPS từ năm 1968 đến năm 1992
và điều tra dân số năm 1960 để mô tả thay đổi trong thu nhập và việc làm của các
cặp vợ chồng trong các hộ gia đình khác nhau được phân tầng bởi tiền lương theo
giờ của người chồng. Mục tiêu đầu tiên của Juhn và Murph là để mô tả những thay
đổi trong việc làm và thu nhập của người đàn ông và phụ nữ đã lập gia đình. Và
mục tiêu thứ hai là xem xét mức độ thay đổi nhanh chóng trong thu nhập của vợ
hoặc chồng đã tác động đến cung lao động của đàn ông và phụ nữ đã lập gia đình.
′ 𝑍𝑚 + 𝑒
Mô hình cung lao động của người đàn ông được cho như sau:
𝐸𝑚 = 𝛼0 + 𝛼1 ln(𝑊𝑚) + 𝛼2𝑌𝑚 + 𝛼3
Với 𝐸𝑚 là cung lao động của người chồng; 𝑊𝑚 là mức tiền lương theo giờ của
người chồng; 𝑌𝑚 là thu nhập phi lao động của người chồng, bao gồm thu nhập của
người vợ; 𝑍𝑚 là biến khác tác động đến việc làm của người chồng; 𝑒 là sai số. Lưu
ý rằng, tác động của thu nhập của người vợ thông qua hệ số 𝛼2, được đo lường tác
động của thu nhập phi lao động lên việc làm. Cung lao động người phụ nữ, Juhn và
′ 𝑍𝑓 + 𝜀
Murph cũng có phương trình cung lao động tương tự như sau:
𝐸𝑓 = 𝛽0 + 𝛽1 ln(𝑊𝑓) + 𝛽2𝑌𝑓 + 𝛽3
Với 𝐸𝑓 là cung lao động của người vợ; 𝑊𝑓 là mức tiền lương theo giờ của người
vợ; 𝑌𝑓 là thu nhập phi lao động của người vợ, bao gồm thu nhập của người chồng;
𝑍𝑓 là biến khác tác động đến việc làm của người vợ.
Juhn và Murph (1997) đưa ra kết quả cho thấy rằng thu nhập của nam giới tăng
chậm lại đã làm tăng việc làm của phụ nữ đã kết hôn trong những thập kỷ đó. Thêm
vào đó, thu nhập của chồng tác động lên việc làm của vợ thì lớn hơn so với tác động
thu nhập của vợ lên tỷ lệ việc làm của người chồng. Với sự có mặt của trẻ em, Juhn
và Murph ước tính rằng khi giảm 1,000$ trong thu nhập của người chồng sẽ làm
22
tăng tỷ lệ việc làm của người vợ lên 0,7% trong giai đoạn 1968-1970 và tăng 0,4%
trong giai đoạn 1988-1990. Việc làm tăng khoảng 27% đối với phụ nữ đã lập gia
đình trong giai đoạn 1969-1989. Trẻ em từ 1 đến 6 tuổi làm giảm tỷ lệ việc làm của
vợ trong khoảng từ 18 đến 22%. Nhưng mối quan hệ nghịch biến giữa trẻ em và lao
động phụ nữ đã trở nên yếu hơn trong giai đoạn 1969-1989. Trong hai thập kỷ này,
Juhn và Murph đã nhận thấy rằng tỷ lệ tham gia của phụ nữ đã lập gia đình đã dịch
chuyển rất nhiều, đối với người vợ của những người đàn ông có mức lương cao thì
tỷ lệ việc làm của họ tăng nhiều hơn so với người vợ của những người có mức
lương thấp.
Merz (2006) nghiên cứu thay đổi hành vi của thị trường lao động phụ nữ đã kết
hôn hoặc sống chung ở Tây Đức để xác định các yếu tố quyết định hành vi của họ.
Ông tập trung nghiên cứu thay đổi giữa năm 1986 và 2000. Merz sử dụng dữ liệu vi
mô từ Tiểu ban Kinh tế Xã hội Đức (SOEP), một mẫu đại diện của hộ gia đình cá
nhân đang sống ở Đức, để phân tích tỷ lệ việc làm của phụ nữ và giờ làm việc hàng
tuần của họ. Ông sử dụng các biến đặc điểm riêng của phụ nữ có chồng như trình độ
học vấn của họ, với đặc điểm của người chồng và bối cảnh gia đình trong đó bao
gồm có hay không có con nhỏ trong gia đình. Dựa trên một phương pháp mà lần
đầu tiên được sử dụng bởi Juhn và cộng sự (1997) trong nghiên cứu về cung lao
động phụ nữ kết hôn ở Mỹ, Merz phân tầng người vợ bằng mức lương của chồng.
Do đó Merz (2006) có thể định lượng vai trò tiền lương của phụ nữ trong quyết định
cung lao động của họ đối lập với tiền lương của người chồng. Kết quả trong nghiên
cứu của Merz (2006) cho thấy, tỷ lệ việc làm của phụ nữ có chồng ở Đức tăng đều
đặn. Tỷ lệ việc làm cho phụ nữ có con nhỏ và có trình độ học vấn cao tăng nhanh
nhất. Tỷ lệ việc làm tăng ở tất cả các phụ nữ trong mẫu nghiên cứu, giờ làm việc
hàng tuần vẫn quan hệ nghịch biến với mức lương của người chồng. Merz (2006) đã
cung cấp bằng chứng mạnh mẽ rằng tiền lương của phụ nữ có tay nghề thấp đã tăng
nhiều hơn hơn so với tiền lương của phụ nữ có tay nghề cao trong thời gian nghiên
cứu. Điều này có thể đã góp phần giải thích rằng người vợ có tay nghề cao giảm giờ
làm hàng tuần của họ.
23
Cũng trong năm 2006, Blau và Kahn sử dụng dữ liệu điều tra dân số (CPS) để
điều tra hành vi cung lao động của phụ nữ đã kết hôn từ năm 1980 đến năm 2000.
Mô hình cung lao động được sử dụng để phân tích trong nghiên cứu như sau:
𝐻 = 𝑎0 + 𝑎1𝑙𝑛𝑊 + 𝑎2𝐼 + 𝐵′𝑋 + 𝑢𝑎
𝐻 = 𝑏0 + 𝑏1𝑙𝑛𝑊 + 𝑏2𝑙𝑛𝑊𝑠 + 𝐵3𝐴 + 𝐶′𝑋 + 𝑢𝑏
Với mỗi cá nhân i, 𝐻 là giờ làm việc, 𝑊 là mức lương theo giờ của chính người
đó, 𝐼 là thu nhập tài sản gia đình cộng với thu nhập của vợ hoặc chồng, 𝑋 là biến
kiểm soát, 𝑊𝑠 là mức lương theo giờ của vợ hoặc chồng, 𝐴 là thu nhập tài sản gia
đình, 𝑢𝑎 và 𝑢𝑏 là sai số.
Blau và Kahn (2006) cho thấy cung lao động của phụ nữ có quan hệ đồng biến
với tiền lương của họ và quan hệ nghịch biến với mức lương của người chồng.
Cung lao động phụ nữ đã lập gia đình tăng lên đáng kể trong những năm 1980, và
tăng ít hơn trong những năm 1990. Tiền lương thực tế của phụ nữ đã kết hôn tăng
trong cả năm 1980 và 1990. Hàm cung lao động của những người phụ nữ này đã
chuyển mạnh sang phải trong những năm 1980, và thay đổi rất ít trong những năm
1990. Sự khác biệt này là do cung lao động nữ tăng nhanh trong năm 1980 so với
năm 1990. Ngoài ra, tiền lương thực tế của người chồng đã giảm nhẹ trong năm
1980 nhưng đã tăng trong những năm 1990, điều này cũng giải thích một phần sự
tăng trưởng chậm lại của cung lao động phụ nữ trong những năm 1990.
Một nghiên cứu khác ở Canada về cung lao động phụ nữ đã kết hôn, Morissette
và Hou (2008) sử dụng cả dữ liệu vi mô và dữ liệu nhóm để xem xét liệu những
người vợ của Canada có tăng cung lao động của họ do sự sụt giảm trong tiền lương
của chồng qua các giai đoạn 1980-1990 và 1990-2000. Mô hình cung lao động phụ
𝑚 + 𝛽3𝑌𝑖 + 𝛽4𝑍𝑖 + 𝜀𝑖
𝑓 + 𝛽2𝑤𝑖
nữ đã kết hôn được sử dụng cho dữ liệu vi mô như sau:
𝐻𝑖 = 𝛽0 + 𝛽1𝑤𝑖
Với 𝐻𝑖 là cung lao động của người vợ i (sự tham gia, giờ hàng năm, giờ trên tuần, 𝑓 là logarit của mức lương theo tuần trên năm, hoặc là giá trị logarit của chúng), 𝑤𝑖
24
𝑚 là logarit của mức lương theo giờ của chồng hoặc là thu nhập hàng
giờ của vợ, 𝑤𝑖
năm của chồng, 𝑌𝑖 thu nhập tài sản của gia đình, 𝑍𝑖 là biến kiểm soát, 𝜀𝑖 là sai số.
Ngoài việc sử dụng dữ liệu vi mô để ước lượng phương trình trên thông qua OLS,
đối với dữ liệu nhóm Morissette và Hou xác định phương trình cung lao động sau
𝑚 + 𝛼3𝑌𝑗𝑟𝑡 + 𝛼4𝑍𝑗𝑟𝑡 + 𝛼5𝑡 + 𝑣𝑗𝑡 + 𝜇𝑗𝑡 + 𝜂𝑟𝑡
𝑓 + 𝛼2𝑤𝑗𝑟𝑡
đây:
𝐻𝑗𝑟𝑡 = 𝛼0 + 𝛼1𝑤𝑗𝑟𝑡
+ 𝜀𝑗𝑟𝑡
Với t là chỉ số thời gian, j là một trong 30 nhóm vợ chồng được xác định theo
tuổi của chồng (3 loại) và trình động học vấn của vợ (10 hạng mục), r đề cập đến
𝑚 ; logarit trung bình tiền lương theo giờ của
tỉnh. Biến giải thích bao gồm logarit trung bình tiền lương theo giờ của người chồng
𝑓 ; 𝑌𝑗𝑟𝑡 là thu nhập phi lao động trung bình; 𝑍𝑗𝑟𝑡 là
của cặp thứ j ở vùng r tại thời gian t, 𝑤𝑗𝑟𝑡
người vợ của những cặp này, 𝑤𝑗𝑟𝑡
biến kiểm soát được xác định ở cấp độ nhóm (bao gồ số lượng trẻ em dưới 6 tuổi).
Yếu tố 𝑣𝑗𝑡 đại diện các hiệu ứng cố định cho phép phụ nữ trong mỗi 300 nhóm để
có sự khác biệt nội tại trong cung lao động của họ, vì các thuộc tính không quan sát
được như động lực, định hướng nghề nghiệp, và thị hiếu cho giải trí. Thuật ngữ 𝛼5𝑡
đo lường tổng thời gian cho phép cung lao động của vợ thay đổi theo thời gian do
thay đổi trong thái độ, chuẩn mực xã hội, và các yếu tố kinh tế có ảnh hưởng đến sở
thích của phụ nữ đối với công việc.
Morissette và Hou (2008) đưa ra kết quả của nghiên cứu dựa trên dữ liệu nhóm
cho thấy hành vi của những người phụ nữ Canada thay đổi lớn đối với những thay
đổi trong tiền lương của người chồng trong những năm 1980. Nhưng đối với năm
1990 thì ước tính không chắc chắn. Tuy nhiên, tỷ lệ tham gia vào thị trường lao
động của những người vợ ngày càng tăng, những người vợ tăng cung lao động của
họ ở bình diện rộng (bằng cách gia nhập vào thị trường lao động) hoặc ở bình diện
sâu (bằng cách làm việc nhiều giờ hơn) dự kiến sẽ giảm. Morissette và Hou cho
thấy cung lao động người vợ trở nên ít bị ảnh hưởng bởi tiền lương của chồng và
tiền lương của họ theo thời gian.
25
Một nghiên cứu tại Pakistan, Khan và Khan (2009) nêu lên những yếu tố ảnh
hưởng đến quyết định tham gia vào các hoạt động lao động của phụ nữ đã kết hôn
(ở nhóm tuổi từ 16 đến 60 tuổi). Khan và Khan (2009) sử dụng mô hình probit trên
3,911 quan sát. Mô hình bao gồm biến phụ thuộc là tham gia lực lượng lao động
của phụ nữ kết hôn và các biến độc lập là tuổi của phụ nữ đã kết hôn, tuổi của phụ
nữ đã kết hôn bình phương, trình độ học vấn của phụ nữ đã kết hôn, trình độ học
vấn của phụ nữ đã kết hôn bình phương, tình trạng biết đọc biết viết của phụ nữ đã
lập gia đình, phụ nữ là chủ hộ gia đình, quyền sở hữu tài sản của hộ gia đình, thu
nhập bình quân đầu người của hộ gia đình, tình trạng nghèo của hộ gia đình, quy
mô gia đình, gia đình có quy mô nhỏ, số trẻ em đến 4 tuổi, số bé trai trong độ tuổi đi
học từ 5 đến 15 tuổi, số bé gái trong độ tuổi đi học từ 5 đến 15 tuổi, số con trai chủ
lực trong gia đình từ 16 tuổi trở lên, số con gái chủ lực trong gia đình từ 16 tuổi trở
lên, trình độ học vấn của người chồng, tình trạng biết đọc biết viết của người chồng,
việc làm của chồng, thu nhập của chồng, địa bàn cư trú của hộ gia đình.
Khan và Khan (2009) cho thấy rằng độ tuổi của phụ nữ, phụ nữ là chủ hộ gia
đình, trình độ học vấn của phụ nữ, hộ nghèo, quy mô gia đình, số lượng con gái (từ
5 đến 15 tuổi), số con gái trên 15 tuổi, thu nhập và thu nhập thấp của người chồng,
và địa bàn nông thôn quan hệ đồng biến với tham gia lực lượng lao động của phụ nữ
đã kết hôn. Mặt khác, quyền sở hữu tài sản của các hộ gia đình, thu nhập bình quân
đầu người của hộ gia đình, một gia đình chủ lực, số lượng trẻ sơ sinh, số con trai
trên 15 tuổi, trình độ học vấn của người chồng thì quan hệ nghịch biến với biến phụ
thuộc. Phát hiện của Khan và Khan là tình trạng hộ gia đình nghèo càng thúc đẩy
phụ nữ đã kết hôn tham gia lực lượng lao động. Điều đó phản ánh rằng phần lớn
phụ nữ có chồng làm việc trong khu vực phi chính thức.
Cũng ở Canada, Dostie và Kromann (2012) đã ước tính cung lao động và độ co
giãn tham gia lao động với lương của người vợ, lương của người chồng, và thu nhập
phi lao động cho phụ nữ đã lập gia đình, bằng việc sử dụng dữ liệu từ Điều tra Lao
động và Thu nhập (SLID) giai đoạn 1996-2005. Phương pháp ước tính độ co giãn
cung lao động có bốn bước tính:
26
̂ = 𝜆𝑖𝑡 𝛷 (𝛿0 𝜙(𝛿0 ̂ + 𝛿3 ̂ + 𝛿3 ̂𝐼𝑖𝑡 + 𝛿̂𝑋𝑖𝑡) ̂𝐼𝑖𝑡 + 𝛿̂𝑋𝑖𝑡)
Với 𝐼𝑖𝑡 là thu nhập phi lao động trong gia đình, 𝑋𝑖𝑡 bao gồm các biến số khác mà
giải thích sự tham gia của một người trong thị trường lao động. Các biến trong 𝑋𝑖𝑡là
một hàm bậc hai của tuổi người đó và của vợ/chồng, giáo dục, biến giả tỉnh, và một
biến giả chỉ ra nếu gia đình có một đứa trẻ mầm non. Trong các biến này, chỉ có thu
nhập phi lao động và biến giả trẻ em mầm non được loại ra khỏi phương trình
𝜔 + 𝜌𝜔𝜆𝑖𝑡
lương.
̂ + 𝑢𝑖𝑡 ln 𝜔𝑖𝑡 = 𝛽0 + 𝛽𝑍𝑖𝑡
𝜔 là đặc điểm cá nhân bao gồm cả vốn con người. Tác giả sử dụng 𝜆𝑖𝑡
̂ để Với 𝑍𝑖𝑡
ℎ + 𝜌ℎ𝜆𝑖𝑡
chính xác cho sự tham gia lực lượng lao động nội sinh.
𝜔 + 𝛼2 ln 𝜔𝑖𝑡
ℎ + 𝛼3𝐼𝑖𝑡 + 𝛼𝑍𝑖𝑡
ℎ là
̂ + 𝜐𝑖𝑡 ℎ𝑖𝑡 = 𝛼0 + 𝛼1 ln 𝜔𝑖𝑡
𝜔 là lương theo giờ của người vợ, 𝜔𝑖𝑡
ℎ là các biến khác giải thích giờ lao động.
Với ℎ𝑖𝑡 là giờ làm việc hàng năm, 𝜔𝑖𝑡
lương theo giờ của người chồng, 𝑍𝑖𝑡
Cuối cùng, ở bước thứ tư Dostie và Kromann ước tính tham gia lực lượng lao
động bằng cách sử dụng một mô hình probit, bao gồm cả các biến giải thích các
quan sát tiền lương cho phụ nữ làm việc và mức lương từ phương trình thứ 2 cho
ℎ̂ + 𝛿3𝐼𝑖𝑡 + 𝛿𝑋𝑖𝑡)
phụ nữ không làm việc:
𝜔̂ + 𝛿2 ln 𝜔𝑖𝑡
𝑃 (𝑃𝑎𝑟𝑡𝑖𝑐𝑖𝑝𝑎𝑡𝑖𝑜𝑛𝑖𝑡 = 1) = 𝛷 (𝛿0 + 𝛿1 ln 𝜔𝑖𝑡
ℎ =
Độ co giãn thay thế và thu nhập của giờ làm việc được tính như sau:
ℎ =
∈𝜔𝑡 𝛼1̂ ̅ ℎ𝑡
𝐼𝑡̅ ∈𝐼𝑡 𝛼2̂ ̅ ℎ𝑡
27
Với ℎ𝑡
̅ là giờ làm việc trung bình, 𝐼𝑡̅ là thu nhập phi lao động trung bình cho các cá nhân giống nhau. Độ co giãn thay thế và thu nhập của tham gia lao động được
𝑃 =
tính như sau:
𝑃 =
∈𝜔𝑡 ̂ 𝜙̅(. ) 𝛿1 𝑝𝑡̅
𝐼𝑡̅ ∈𝐼𝑡 ̂𝜙̅(. ) 𝛿2 𝑝𝑡̅
Với 𝜙̅ là trung bình của 𝛷 trong phương trình P, 𝑝𝑡̅ là tỷ trọng trung bình của
mẫu trong lực lượng lao động.
Kết quả Dostie và Kromann (2012) đưa ra của bài nghiên cứu cho thấy các chính
sách công ít ảnh hưởng đến giờ làm việc hơn so với 10 năm trước đó. Tuy nhiên,
kết quả cũng cho thấy những người vợ làm việc ít giờ mỗi tuần thì bị ảnh hưởng
nhiều hơn với những thay đổi trong mức lương của họ hoặc mức lương của người
chồng. Trong nghiên cứu này cũng đề cập đến vấn đề mức lương cá nhân bị nội
sinh. Và Dostie và Kromann (2012) đã chỉ ra rằng mức lương nội sinh trong bài
nghiên cứu của họ do hai trường hợp. Thứ nhất, có thể các yếu tố không quan sát
được quyết định giờ làm việc tương quan với các yếu tố quyết định mức lương
không quan sát được. Thứ hai, mức thuế suất trung bình và biên được xác định trực
tiếp bằng thu nhập của cá nhân người lao động.
Ismail và Sulaiman (2013) xác định các yếu tố quyết định cung lao động của phụ
nữ đã lập gia đình ở Malaysia. Việc phân tích dựa trên các dữ liệu được thu thập từ
các cuộc khảo sát thực địa vào năm 2011; với 4.000 hộ gia đình ở bán đảo
Malaysia, được lựa chọn lấy mẫu ngẫu nhiên phân tầng; tuy nhiên, chỉ có 3.885
bảng câu hỏi được hoàn thành. Vì mục tiêu chính của bài viết này là để xem xét
quyết định cung lao động của phụ nữ đã lập gia đình, nên dữ liệu của người vợ được
sử dụng trong phân tích, trong đó bao gồm 3.520 phụ nữ đã lập gia đình. Nghiên
cứu này chỉ bao gồm các tiểu bang ở bán đảo Malaysia. Mô hình cung lao động cho
28
phụ nữ đã kết hôn với giả định rằng những phụ nữ này vẫn sống với chồng, có ít
nhất một con và cô ấy là người tốt nhất để chăm sóc đứa con của mình.
𝐿𝑆𝑖 = 𝛽0 + 𝛽1𝐻𝑊𝑖 + 𝛽2𝐹𝑊𝑖 + 𝛽3𝐹𝐸𝐷𝑈𝑖 + 𝛽4𝐹𝐴𝐺𝐸𝑖 + 𝛽5𝑁𝐿𝑌𝑖 + 𝛽6𝑁𝑈𝑀𝐶𝑖
+ 𝛽7𝐺𝐿𝑂𝐵𝑖 + 𝜇𝑖
Với 𝐿𝑆 là cung lao động nữ cho dù có làm việc hay không làm việc, 𝐻𝑊 là tiền
lương hàng tháng của chồng, 𝐹𝑊 là tiền lương hàng tháng của phụ nữ, 𝐹𝐸𝐷𝑈 là
trình độ học vấn của phụ nữ, 𝐹𝐴𝐺𝐸 là tuổi của phụ nữ, 𝑁𝐿𝑌 là thu nhập phi lao
động của gia đình, 𝑁𝑈𝑀𝐶 là số trẻ em, 𝐺𝐿𝑂𝐵 là nhận thức của phụ nữ về ảnh
hưởng của toàn cầu hóa đến cơ hội việc làm của họ và i là cá nhân. Cung lao động
của những người phụ nữ được xác định bằng mức lương của họ, mức lương của
người chồng và thu nhập phi lao động. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này Ismail và
Sulaiman (2013) cho thấy rằng các yếu tố quyết định quan trọng là số năm đi học và
tuổi. Số năm học quan hệ đồng biến với cung lao động của phụ nữ đã kết hôn, trong
khi đó tuổi lại quan hệ nghịch biến với biến phụ thuộc. Tiền lương của người chồng
và lương của vợ tác động không đáng kể đến cung lao động phụ nữ đã lập gia đình
trong nghiên cứu này.
Bài nghiên cứu sử dụng dữ liệu các hộ gia đình ở nông thôn Việt Nam để phân
tích các yếu tố ảnh hưởng đến cung lao động ở nông thôn Việt Nam. Có nhiều lý
thuyết về cung lao động được đưa ra, tuy nhiên quyết định cung lao động là quyết
định cá nhân có xem xét các yếu tố hộ gia đình. Nên việc áp dụng mô hình cung lao
động cá nhân có thêm đặc điểm hộ gia đình dường như là sự lựa chọn thích hợp
trong bài nghiên cứu này. Các bài nghiên cứu trước đưa ra những kết quả khác
nhau. Chẳng hạn Mincer (1962) đã cho thấy rằng tỷ lệ tham gia lực lượng lao động
người vợ quan hệ nghịch biến đối với thu nhập của chồng. Tuy nhiên, Morissette và
Hou (2008) cho thấy cung lao động người vợ trở nên ít bị ảnh hưởng bởi tiền lương
của chồng và tiền lương của họ theo thời gian.
29
CHƯƠNG 3: MÔ TẢ DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
Các mô hình trình bày ở chương trước đều có ưu nhược điểm khi áp dụng để
phân tích tác động của mức lương của người chồng đến cung lao động của người vợ
ở các hộ gia đình. Ở Việt Nam, quyết định cung lao động tuy là của cá nhân nhưng
có sự ảnh hưởng đáng kể của yếu tố gia đình. Vì vậy, mô hình cung lao động cá
nhân có tính đến các đặc điểm hộ gia đình (household model), và mô hình hộ gia
đình tập hợp (collective household labor supply model) có thể là phù hợp trong việc
giải thích cung lao động ở Việt Nam. Tuy nhiên, mô hình hộ gia đình tập hợp
(collective household labor supply model) có nhược điểm, do đó, mô hình cung lao
động cá nhân có sự tham gia của các đặc điểm gia đình được áp dụng trong bài
nghiên cứu này. Chương này mô tả dữ liệu, định nghĩa biến, trình bày phương pháp
thực hiện. Ngoài ra, quy trình giải quyết vấn đề nội sinh của biến mức lương cá
nhân cũng được mô tả chi tiết trong chương này.
3.1 Khung phân tích
Cung lao động
Mức lương cá nhân Thu nhập phi lao động Đặc điểm cá nhân Đặc điểm hộ gia đình
Sức khỏe
Chủ hộ Mức lương vợ/ chồng Quy mô hộ gia đình Số con dưới 6 tuổi Tình trạng nghèo của hộ gia đình Số con từ 6 đến 15 tuổi Số con từ 16 tuổi trở lên
Giới tính Mức lương bình quân của các thành viên khác
Hình 3.1 Khung phân tích mối quan hệ giữa mức lương và cung lao động
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
30
3.2 Mô hình cung lao động
Nghiên cứu này giả định rằng chủ thể quyết định cung lao động ở Việt Nam là cá
nhân. Tuy nhiên, cung lao động không chỉ bị tác động bởi các đặc điểm cá nhân như
sở thích, các ràng buộc mà còn bị ảnh hưởng bởi đặc điểm hộ gia đình chẳng hạn
như thu nhập của các thành viên khác trong hộ gia đình, thu nhập phi lao động của
hộ gia đình, quy mô hộ gia đình, và số con trong gia đình.
Không có sự phân chia sản xuất, tiêu dùng và cung lao động trong một hộ gia
đình. Do đó, mức lương cá nhân người lao động được dùng trong hàm cung lao
động được tính dựa trên sự tham gia của cá nhân người lao động trong các hoạt
động như công việc được trả lương, sản xuất nông nghiệp, kinh doanh hộ gia đình
và sử dụng tài nguyên chung để tạo thu nhập. Tuy nhiên, khi kiểm tra mức lương
với phần dư của mô hình thì phát hiện mức lương tương quan với phần dư. Như
vậy, mức lương bị nội sinh. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến nội sinh, chẳng hạn như
sai số trong quá trình tính toán do mức lương được tính theo tổng thu nhập của cá
nhân trên tổng thời gian mà cá nhân đó tham gia lao động, hoặc do biến bị bỏ sót.
Vì mức lương này bị nội sinh nên trong hàm cung lao động sẽ được thay bằng một
mức lương dự báo để giải quyết vấn đề này.
Theo mô hình cá nhân, cung lao động là một hàm của mức lương (W), thu nhập
phi lao động (Y) và các thuộc tính cá nhân đại diện cho sở thích (Z). Đưa các thuộc
tính của hộ gia đình (X) vào, thì hàm cung lao động có dạng tổng quát sau:
(3.1) 𝐿𝑆 = 𝑓(𝑊, 𝑌, 𝑍, 𝑋)
Mức lương của vợ/chồng được xem là một đặc điểm của hộ gia đình. Thu nhập
phi lao động cá nhân được gom chung với thu nhập phi lao động của hộ gia đình.
Kết quả là phương trình cụ thể cho hàm cung lao động như sau:
31
3
𝐿𝑆 = 𝛼0 + 𝛼1𝑙𝑛𝑃𝑊𝑓𝑖𝑡 + 𝛼2𝑙𝑛𝑃𝑊𝑓𝑖𝑡𝑙𝑛𝑆𝑊 + 𝛼3𝑙𝑛𝑃𝑊𝑓𝑖𝑡𝑙𝑛𝑂𝑊 + 𝛼4𝐺𝐸𝑙𝑛𝑃𝑊𝑓𝑖𝑡
𝑖=1
7 + ∑ 𝛾𝑖𝑋𝑖 𝑖=1
+ 𝜇 + 𝛼5𝐺𝐸𝑙𝑛𝑆𝑊 + 𝛼6𝐺𝐸𝑙𝑛𝑂𝑊 + 𝛼7𝑌 + ∑ 𝛽𝑖𝑍𝑖
Với 𝐿𝑆 là cung lao động, thể hiện bằng số ngày làm việc trong một năm và được
tính bằng tổng số ngày mà cá nhân đó tham gia vào công việc được trả lương, kinh
doanh hộ gia đình, sản xuất nông nghiệp và sử dụng tài nguyên chung năm 2010.
𝑙𝑛𝑃𝑊𝑓𝑖𝑡 tương ứng với logarit của mức lương cá nhân dự báo. Mức lương được tính
theo mức lương của các hoạt động công việc được trả lương, kinh doanh hộ gia
đình, sản xuất nông nghiệp và sử dụng tài nguyên chung năm 2010. Biến 𝑌 là thu
nhập phi lao động của hộ gia đình và được tính bằng tổng thu nhập từ việc cho thuê
tài sản, doanh thu của tài sản và các khoản chuyển giao (hỗ trợ). Biến 𝑍𝑖 bao gồm
các biến như sức khỏe (HE), chủ hộ (HH) và biến giới tính (GE). Biến 𝑋𝑖 bao gồm
các biến như mức lương vợ/chồng (lnSW), mức lương bình quân các thành viên
khác trong hộ gia đình (lnOW), quy mô hộ gia đình (FS), nghèo (HP), số con dưới 6
tuổi (NC5), số con từ 6 đến 15 tuổi (NC15), số con từ 16 tuổi trở lên (NP16).
Khi xem xét các biến độc lập ảnh hưởng đến quyết định cung lao động; cung lao
động không chỉ bị ảnh hưởng bởi mức lương của cá nhân đó; thu nhập phi lao động
về mặt lý thuyết mà còn bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khác như mức lương của vợ
chồng; mức lương bình quân của các thành viên khác trong gia đình; giới tính; sức
khỏe; cá nhân có phải là chủ hộ hay không; quy mô hộ gia đình; số con dưới 6 tuổi,
từ 6 đến 15 tuổi và từ 16 tuổi trở lên và hộ gia đình có thuộc diện nghèo của chính
quyền hay không.
Các biến độc lập được chia làm bốn nhóm, thứ nhất là mức lương cá nhân, thứ
hai là thu nhập phi lao động, thứ ba là đặc tính cá nhân và thứ tư là đặc điểm hộ gia
đình. Đặc điểm cá nhân như biến tình trạng sức khỏe người lao động, giới tính và
người lao động có phải là chủ hộ hay không. Các biến mức lương của vợ/chồng;
mức lương bình quân của các thành viên khác trong gia đình; quy mô hộ gia đình;
32
số con dưới 6 tuổi, từ 6 đến 15 tuổi và từ 16 tuổi trở lên; và hộ gia đình có thuộc
diện nghèo của chính quyền hay không là các biến thuộc đặc điểm hộ gia đình.
Sự lựa chọn các biến độc lập dựa trên các bài nghiên cứu thực nghiệm trước đây.
Về mặt lý thuyết, mức lương của một cá nhân có thể ảnh hưởng đến cung lao động
của cá nhân đó thông qua hai tác động là tác động thu nhập và tác động thay thế.
Mức lương của vợ chồng đóng vai trò quan trọng đối với cung lao động của cá nhân
đó (Mincer, 1962; Juhn và Murphy, 1997; Blau và Kahn, 2006; Merz, 2006; Dostie
và Kromann, 2012). Mức lương vợ/chồng tăng sẽ dẫn đến thu nhập của hộ gia đình
tăng và do đó cá nhân sẽ làm việc ít đi và giải trí nhiều hơn khi giảm bớt gánh nặng
về thu nhập của gia đình. Như vậy, mức lương bình quân của các thành viên khác
trong hộ gia đình cũng góp phần làm tăng thu nhập cho hộ gia đình.
Hơn nữa, về mặt lý thuyết, thu nhập phi lao động quan hệ nghịch biến với cung
lao động hộ gia đình. Do đó, biến thu nhập phi lao động được đưa vào phương trình
cung lao động. Số con dưới 6 tuổi, số con từ 6 đến 15 tuổi và số con từ 16 tuổi trở
lên được cho là có ảnh hưởng đến quyết định làm việc của một cá nhân. Tuy nhiên,
ảnh hưởng của các biến này là khá phức tạp. Số con dưới 6 tuổi được dự kiến sẽ có
tác động tiêu cực về cung lao động vì gia đình phải chăm sóc những đứa trẻ này,
đặc biệt là người phụ nữ, do đó sẽ làm giảm thời gian làm việc. Ngược lại, số con từ
6 đến 15 tuổi lại có hai khả năng ảnh hưởng đến cung lao động các thành viên trong
gia đình. Thứ nhất, số con từ 6 đến 15 tuổi có thể chia sẻ công việc gia đình với các
thành viên trong gia đình, do đó, tăng thời gian cho các thành viên khác tham gia
vào các hoạt động có thu nhập. Thứ hai, số con từ 6 đến 15 tuổi gây trở ngại đối với
cha mẹ của chúng vì họ phải làm việc để có thu nhập nhiều hơn. Số con từ 16 tuổi
trở lên với hi vọng sẽ tham gia vào các công việc tạo thu nhập, dẫn đến tăng thu
nhập cho hộ gia đình và do đó cá nhân sẽ làm việc ít đi và giải trí nhiều hơn. Biến
cá nhân là chủ hộ hộ gia đình, tình trạng nghèo của hộ gia đình, quy mô gia đình, số
con từ 6 đến 15 tuổi và từ 16 tuổi trở lên có tác động đến sự tham gia lao động của
phụ nữ đã kết hôn (Khan và Khan, 2009). Biến độc lập số trẻ em dưới 6 tuổi cũng
33
có ảnh hưởng đến cung lao động của phụ nữ đã lập gia đình (Morissette và Hou,
2008).
Đặc điểm của từng cá nhân người lao động như trình độ giáo dục, tuổi và giới
tính và tình trạng sức khỏe được giả định ảnh hưởng đến lựa chọn làm việc của một
cá nhân. Biến giới tính được đưa vào hàm cung lao động với giả thuyết là nam sẽ có
xu hướng tham gia việc làm nhiều hơn so với nữ vì nữ làm việc nhà và chăm sóc
con nhiều hơn so với nam, và các hoạt động này chiếm khá nhiều thời gian lại
không được tính trong các hoạt động có thu nhập. Biến sức khỏe được đưa vào mô
hình với giả định rằng với tình trạng sức khỏe cá nhân đủ tốt, thì cá nhân đó tham
gia việc làm nhiều hơn so với những người có tình trạng sức khỏe kém.
Dostie và Kromann (2012) có đề cập đến biến trình độ giáo dục bình phương và
tuổi bình phương được sử dụng như những biến công cụ cho mức lương. Biến trình
độ giáo dục và tuổi có tương quan cao với mức lương cá nhân nên không được đưa
vào hàm cung lao động, mà chỉ được đưa vào mô hình mức lương cá nhân để ước
tính mức lương cá nhân dự báo. Biến trình độ giáo dục và tuổi được đưa vào hàm
mức lương cá nhân dưới dạng bình phương (với vai trò là biến công cụ) để ước tính
mức lương cá nhân dự báo cùng với các biến khác như mức lương của vợ chồng,
mức lương bình quân của các thành viên khác trong gia đình, giới tính, thu nhập phi
lao động, sức khỏe, cá nhân có phải là chủ hộ hay không, quy mô hộ gia đình, số
con dưới 6 tuổi, từ 6 đến 15 tuổi và từ 16 tuổi trở lên và tình trạng nghèo của hộ gia
đình.
Kiểm định mức ý nghĩa thống kê của các hệ số của các biến trong mô hình cung
lao động để kiểm tra giả thuyết tất cả các hệ số đồng thời bằng không:
𝐻0: 𝛼1 = 𝛼2 = ⋯ = 𝛼7 = 𝛽1 = 𝛽2 = 𝛽3 = 𝛾1 = ⋯ = 𝛾7 = 0
𝐻1: 𝐶ó í𝑡 𝑛ℎấ𝑡 𝑚ộ𝑡 ℎệ 𝑠ố 𝑘ℎá𝑐 0
34
Với 𝛼𝑖, 𝛽𝑖, 𝛾𝑖 là các hệ số của các biến trong hàm cung lao động. Với giả thuyết
𝐻0, các hệ số của phương trình đồng thời bằng 0, giả thuyết 𝐻1 cho thấy có ít nhất
một hệ số khác 0. Sử dụng phương pháp F-test.
p-value > mức ý nghĩa: chấp nhận H0
p-value < mức ý nghĩa: bác bỏ H0
Kiểm tra xem biến mức lương cá nhân dự báo có ý nghĩa hay không. Giả thuyết
như sau:
𝐻0: 𝛼1 = 𝛼2 = 𝛼3 = 0
𝐻1: 𝐶ó í𝑡 𝑛ℎấ𝑡 𝑚ộ𝑡 ℎệ 𝑠ố 𝑘ℎá𝑐 0
Với 𝛼1, 𝛼2, 𝛼3 là các hệ số của mức lương cá nhân dự báo, tương tác giữa mức
lương cá nhân dự báo và mức lương vợ/chồng, tương tác giữa mức lương cá nhân
dự báo và tổng mức lương của các thành viên trong gia đình. Phương pháp F-test
cũng được sử dụng như trên.
Kiểm định các biến thuộc đặc tính cá nhân như giới tính, biến tương tác giữa giới
tính và mức lương cá nhân dự báo, biến tương tác giữa giới tính và mức lương
vợ/chồng, biến tương tác giữa giới tính và mức lương bình quân các thành viên
khác, biến tình trạng sức khỏe và biến cá nhân người lao động là chủ hộ. Bài nghiên
cứu sử dụng phương pháp F-test và giả thuyết được cho như sau:
𝐻0: α4 = α5 = α6 = β1 = β2 = β3 = 0
𝐻1: 𝐶ó í𝑡 𝑛ℎấ𝑡 𝑚ộ𝑡 ℎệ 𝑠ố 𝑘ℎá𝑐 0
Kiểm định các biến thuộc đặc điểm hộ gia đình như mức lương vợ/chồng, mức
lương thành viên khác, quy mô gia đình, tình trạng nghèo, số con dưới 6 tuổi, từ 6
đến 15 tuổi và từ 16 tuổi trở lên với các hệ số tương ứng. Và phương pháp F-test
cũng được áp dụng tương tự để kiểm định.
35
Giả thuyết:
𝐻0: 𝛾1 = 𝛾2 = 𝛾3 = 𝛾4 = 𝛾5 = 𝛾6 = 𝛾7 = 0
𝐻1: 𝐶ó í𝑡 𝑛ℎấ𝑡 𝑚ộ𝑡 ℎệ 𝑠ố 𝑘ℎá𝑐 0
3.3 Quy trình ước lượng
Có nhiều cá nhân trong mẫu không làm việc và do đó mức lương bằng 0. Tuy
nhiên, điều này không đúng với thực tế, vì mức lương của một người không làm
việc là không quan sát được chứ không phải là bằng 0. Nhưng nếu bài nghiên cứu
bỏ đi những giá trị này thì mẫu không còn tính đại diện. Mô hình Heckman thường
được sử dụng để giải quyết vấn đề này.
Những biến giải thích trong mô hình cần phải là những biến ngoại sinh. Tuy
nhiên như đã chỉ ra bởi Dostie và Kromann (2012), biến mức lương có thể bị nội
sinh. Mặc dù mức lương cá nhân được quyết định bởi người thuê lao động, tuy
nhiên cá nhân có thể lựa chọn mức lương phù hợp với bản thân. Người lao động có
thể từ chối nhận công việc với mức lương thấp và lựa chọn công việc có mức lương
cao hơn, phù hợp với bản thân.
Bài nghiên cứu sử dụng kiểm định Durbin – Wu – Hausman để kiểm tra biến độc
lập của mô hình có phải là biến nội sinh hay không.
Giả thuyết như sau:
H0: Biến không bị nội sinh.
Kết quả kiểm định Durbin – Wu – Hausman cho thấy biến mức lương cá nhân là
biến bị nội sinh (Phụ lục 2). Do mức lương bị nội sinh nên bài nghiên cứu sử dụng
biến công cụ để hồi quy mô hình mức lương. Sau đó, dự báo mức lương và hồi quy
mô hình cung lao động với mô hình Tobit với giá trị chặn dưới bằng 0 do cung lao
động không âm.
Hiện tượng nội sinh sẽ làm cho các hệ số ước lượng bị sai lệnh. Ước lượng biến
công cụ (instrumental variables) là một cách để giải quyết vấn đề nội sinh. Phương
pháp này đòi hỏi phải xác định biến công cụ.
36
Biến công cụ cần thỏa mãn hai điều kiện. Thứ nhất, biến công cụ không tương
quan với biến phụ thuộc và phần dư. Thứ hai, biến công cụ tương quan với biến bị
nội sinh.
Phương pháp 2SLS (Two-Stage Least Square) giải quyết vấn đề nội sinh bằng ba
bước. Ở bước 1, biến nội sinh (mức lương) được hồi quy theo biến công cụ và các
biến giải thích khác của hàm cung lao động. Mức lương sau đó được dự báo để sử
dụng làm biến giải thích trong hàm cung lao động, thay cho mức lương quan sát
thực tế. Quy trình này giải quyết được hiện tượng nội sinh, đồng thời giải quyết cả
vấn đề selection bias vì khi dự báo mức lương, mức lương của những người không
tham gia lao động (không quan sát được trên thực tế) cũng được dự báo. Với hồi
quy mô hình mức lương, bài nghiên cứu sử dụng biến công cụ là tuổi bình phương
và trình độ học vấn bình phương.
Mô hình mức lương như sau:
𝑙𝑛𝑃𝑊 = 𝛼0 + 𝛼1𝑙𝑛𝑆𝑊 + 𝛼2𝑙𝑛𝑂𝑊 + 𝛼3𝑌 + 𝛼4𝐹𝑆 + 𝛼5𝐺𝐸 + 𝛼6𝐻𝑃 + 𝛼7𝐻𝐸
+ 𝛼8𝐻𝐻 + 𝛼9𝑁𝐶5 + 𝛼10𝑁𝐶15 + 𝛼11𝑁𝑃16 + 𝛼12𝐴𝐺𝐸2 + 𝛼13𝐸𝐷𝑈2
Ước lượng mức lương cá nhân theo các biến như mức lương vợ/chồng, mức
lương các thành viên khác trong hộ gia đình, giới tính, quy mô gia đình, thu nhập
phi lao động, nghèo, sức khỏe, chủ hộ, số con dưới 6 tuổi, số con từ 6 đến 15 tuổi,
số con từ 16 tuổi trở lên và hai biến công cụ là tuổi bình phương, trình độ học vấn
(số năm đi học) bình phương.
Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp F-test để kiểm tra biến công cụ tuổi bình
phương và trình độ học vấn bình phương có ý nghĩa hay không với giả thuyết được
cho như sau:
𝐻0: 𝛼12 = 𝛼13 = 0
Sau khi thực hiện bước thứ nhất, hồi quy mô hình của biến bị nội sinh. Sau đó dự
báo mức lương, và khi đó mức lương của những cá nhân không đi làm cũng được
37
dự báo. Bước thứ ba, sử dụng mức lương cá nhân dự báo này trong ước tính mô
hình Tobit cung lao động với giá trị chặn dưới bằng 0. Cung lao động không âm, do
đó mô hình Tobit với giá trị chặn dưới bằng 0 thỏa điều kiện này.
3
𝐿𝑆 = 𝛼0 + 𝛼1𝑙𝑛𝑃𝑊𝑓𝑖𝑡 + 𝛼2𝑙𝑛𝑃𝑊𝑓𝑖𝑡𝑙𝑛𝑆𝑊 + 𝛼3𝑙𝑛𝑃𝑊𝑓𝑖𝑡𝑙𝑛𝑂𝑊 + 𝛼4𝐺𝐸𝑙𝑛𝑃𝑊𝑓𝑖𝑡
𝑖=1
7 + ∑ 𝛾𝑖𝑋𝑖 𝑖=1
+ 𝜇 + 𝛼5𝐺𝐸𝑙𝑛𝑆𝑊 + 𝛼6𝐺𝐸𝑙𝑛𝑂𝑊 + 𝛼7𝑌 + ∑ 𝛽𝑖𝑍𝑖
Tobin (1958) đã đưa ra một trong những ứng dụng đầu tiên (trong kinh tế học)
của mô hình biến phụ thuộc giới hạn. Những mô hình được nhắc đến như mô hình
Tobit hay hồi quy kiểm duyệt. Trong mô hình Tobit, có một sự không đối xứng giữa
các quan sát với giá trị dương của y và giữa các quan sát với giá trị âm. Giả sử giá
trị kiểm duyệt bằng không, trong trường hợp này, mô hình trở thành:
𝑦 = { 𝛼 + 𝛽𝑋 + 𝑢 𝑛ế𝑢 𝑦 > 0 0 𝑛ế𝑢 𝑦 ≤ 0
Với mô hình Tobit, có 4 loại tác động biên đáng quan tâm tùy thuộc vào ứng
dụng:
Thứ nhất, tác động biên các biến tiềm ẩn
= 𝛽𝑘 𝜕𝐸(𝑦∗|𝑥) 𝜕𝑥𝑘
Với 𝑦∗ = 𝑥𝛽 + 𝑢, 𝑢|𝑥~𝑁𝑜𝑟𝑚𝑎𝑙(0, 𝜎2)
𝑦 = max (0, 𝑦∗)
𝑦 = { 0 𝑛ế𝑢 𝑦∗ < 0 𝑦∗ 𝑛ế𝑢 𝑦∗ ≥ 0
Thứ hai, tác động biên biến thực
) = 𝛽𝑘𝛷( 𝑥𝛽 𝜎 𝜕𝐸(𝑦|𝑥) 𝜕𝑥𝑘
38
𝑥𝛽
𝜎
Với 𝛷( ) là xác suất mà một quan sát khác 0 (nếu 1, thì OLS=Tobit)
Thứ ba, tác động biên của quan sát dương
= 𝛽𝑘 + 𝛽𝑘 = 𝛽𝑘{1 − 𝜆(𝑐)[𝑐 + 𝜆(𝑐)]} < 𝛽𝑘 = 𝛽𝑘 (1 − 𝛿𝑘) 𝜕𝜆(𝑐) 𝜕𝑐 𝜕𝐸(𝑦|𝑥, 𝑦 > 0) 𝜕𝑥𝑘
Với 𝜆(𝑐) gọi là tỷ lệ Mills
𝜙( ) 𝜆(𝑐) = = 𝜙(𝑐) 𝛷(𝑐) 𝛷( ) 𝑥𝛽 𝜎 𝑥𝛽 𝜎
Thứ tư, tác động biên của xác suất,
) Pr(𝑦 > 0|𝑥) = 1 − 𝛷 (− ) = 𝛷 ( 𝑥𝛽 𝜎 𝑥𝛽 𝜎
= 𝜙( ) 𝑥𝛽 𝜎 𝛽𝑘 𝜎 𝜕Pr (𝑦 > 0|𝑥) 𝜕𝑥𝑘
Ước tính hệ số 𝛽𝑘 đo lường tác động của 𝑥 lên 𝑦∗, nhưng tác động của 𝑥 lên 𝑦 thường được quan tâm hơn so với tác động của 𝑥 lên 𝑦∗. Do đó, bài nghiên cứu
không sử dụng cách tính tác động biên thứ nhất. Cách tính thứ ba đo lường tác động
của 𝑥𝑘 lên 𝑦, 𝛽𝑘 phóng đại tác động biên của sự thay đổi trong 𝑥𝑘. Cách tính tác
động biên thứ tư đo lường những thay đổi trong xác suất của việc không bị kiểm
duyệt. Trong khi đó, cách tính tác động biên thứ hai đo lường tác động tổng thể của
𝑥 lên 𝑦. Do đó, trong bài nghiên cứu này, cách tính tác động biên thứ hai được sử
dụng để tính tác động biên của các biến độc lập trong mô hình cung lao động.
Bài nghiên cứu này được phân tích dựa trên hai nhóm được chia như sau: nhóm
cá nhân lao động là nam giới đã lập gia đình và nhóm cá nhân lao động nữ giới đã
lập gia đình. Các phân tích hồi quy trong bài sẽ được thực hiện riêng cho từng nhóm
cũng như gộp lại để phân tích chung. Mục tiêu của bài nghiên cứu là tìm hiểu tác
động mức lương của người chồng đến cung lao động người vợ, nên phân tích theo
39
nhóm sẽ cho phép so sánh giữa các nhóm để thấy sự khác biệt về thời gian lao động
giữa nam và nữ khi có sự tác động của mức lương vợ/chồng.
3.4 Mô tả dữ liệu
3.4.1 Bộ dữ liệu Điều tra tiếp cận nguồn lực hộ gia đình Việt Nam
(VARHS)
VARHS được thực hiện bởi Đại học Copenhagen, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội từ
năm 2002. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội chịu trách nhiệm về phần lập kế
hoạch và thực hiện của cuộc khảo sát. Khoa Kinh tế của Đại học Copenhagen hợp
tác với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Lao
động, Thương binh và Xã hội trong hỗ trợ kỹ thuật, hướng cung cấp và hỗ trợ về
mặt năng lực. Sau năm 2006, Danida đã tham gia vào dự án như một cơ quan được
ủy thác tài chính của Ngân hàng Thế giới.
Bộ dữ liệu Điều tra tiếp cận nguồn lực hộ gia đình Việt Nam (VARHS) bắt đầu
vào năm 2002 với khoảng 932 hộ gia đình trong 4 tỉnh: Hà Tây, Phú Thọ, Quảng
Nam và Long An. Sau đó, cuộc điều tra được lặp đi lặp lại 2 năm một lần với các
mẫu khảo sát càng được mở rộng. Năm 2006, VARHS được thực hiện tại 12 tỉnh
với 2.324 hộ gia đình và trong năm 2008 VARHS được thực hiện tại 12 tỉnh với
3.223 hộ gia đình. Cuộc điều tra khảo sát 3.208 hộ gia đình trong năm 2010, với dữ
liệu bảng là 2.200 hộ gia đình. Năm 2012, bộ dữ liệu được khảo sát với 3.700 hộ gia
đình và 2.197 hộ gia đình được khảo sát lại vào năm này. Cuộc điều tra đã thu thập
được một lượng lớn các thông tin kinh tế-xã hội, từ các vấn đề như tiết kiệm và thu
nhập đến sở hữu đất đai và di cư, qua thực hiện phỏng vấn ở khu vực nông thôn của
12 tỉnh, bao gồm Hà Tây, Phú Thọ, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Nghệ An, Quảng
Nam, Khánh Hòa, Đắc Lắc, Đắk Nông, Lâm Đồng và Long An. Các tỉnh được phân
bố đều khắp cả nước để dữ liệu có thể đại diện cho khu vực.
Mục đích của cuộc khảo sát để cung cấp thông tin chi tiết về tình hình tiếp cận
của các hộ gia đình nông thôn đến các nguồn tài nguyên như đất đai, tín dụng ,
40
thông tin thị trường cũng như các nguồn tài liệu khác cho phát triển kinh tế và đời
sống. Dự án này được sử dụng để bổ sung vào Khảo sát mức sống hộ gia đình
(VHLSS) bằng cách lặp lại cuộc khảo sát với những hộ gia đình đó. Nhưng VARHS
mở rộng VHLSS về tiếp cận nguồn lực và trở ngại mà các hộ gia đình nông thôn
phải đối mặt với quản lý sinh kế của họ.
3.4.2 Mô tả dữ liệu
Bài nghiên cứu sử dụng dữ liệu được lấy từ kết quả Điều tra tiếp cận nguồn lực
hộ gia đình nông thôn Việt Nam (VARHS) thực hiện vào những năm 2010 tại 12
tỉnh thành Việt Nam với 3.208 hộ gia được khảo sát. Mẫu của bộ dữ liệu được lấy
từ các cá nhân đã lập gia đình và được giới hạn trong độ tuổi từ 15 đến 65 tuổi. Do
đó, số quan sát được giới hạn còn lại với 5.128 với 3.208 hộ gia đình năm 2010.
Các biến được sử dụng trong mô hình cung lao động được định nghĩa và tính toán
như sau.
Biến phụ thuộc:
Cung lao động (LS) được tính theo ngày làm việc của mỗi năm. Và ngày làm
việc trong bài nghiên cứu này được tính 8 tiếng một ngày. Công việc được đề cập
như công việc có trả lương, hoạt động sản xuất nông lâm ngư nghiệp, gia đình tự
làm kinh doanh, sử dụng tài nguyên chung để tạo thu nhập.
Biến độc lập:
Mức lương của cá nhân người lao động (PW) là mức lương được trả theo ngày
của cá nhân đó. Mức lương được tính từ thu nhập của công việc có trả lương, hoạt
động sản xuất nông lâm ngư nghiệp, gia đình tự làm kinh doanh, sử dụng tài nguyên
chung để tạo thu nhập và thời gian làm việc của cá nhân. Và mức lương được đo
lường theo đơn vị là nghìn đồng/ngày. Trong bài nghiên cứu, mức lương cá nhân
được kỳ vọng tác động tích cực.
Thu nhập phi lao động (Y) là tổng thu nhập từ việc cho thuê tài sản, doanh thu
của tài sản và các khoản chuyển giao (hỗ trợ). Thu nhập phi lao động được đo lường
41
theo đơn vị là nghìn đồng và biến này được kỳ vọng sẽ tác động tiêu cực đến cung
lao động trong nghiên cứu này.
Bảng 3.1 Tóm tắt biến trong mô hình
Biến Định nghĩa biến Đơn vị Dấu kỳ vọng
Biến phụ thuộc
Cung lao động Mức lương cá nhân Thu nhập phi lao động Ngày/năm Nghìn đồng/ngày Nghìn đồng + -
LS Biến độc lập PW Y Đặc điểm cá nhân
HE +
HH +
GE +
Sức khỏe là biến giả, nếu người lao động không bị bệnh (trong 2 tuần vừa qua không bị ốm đau/tai nạn) thì nhận giá trị 1, trường hợp khác là 0 Cá nhân là chủ hộ. Nếu cá nhân là chủ hộ thì nhận giá trị 1, nếu trường hợp khác là 0 Giới tính là biến giả. Nếu cá nhân là nam thì nhận giá trị 1, nếu trường hợp khác là 0
Nghìn đồng/ngày - Đặc điểm gia đình SW
OW Nghìn đồng/ngày -
FS +
HP +
Mức lương vợ/chồng Mức lương bình quân của các thành viên khác trong hộ gia đình Quy mô gia đình Tình trạng nghèo của hộ gia đình. Đây là biến giả, nếu thuộc diện nghèo là 1, trường hợp khác là 0 Số con dưới 6 tuổi Số con từ 6 đến 15 tuổi Số con từ 16 tuổi trở lên - +/- -
NC5 NC15 NP16
42
Đặc điểm cá nhân
Sức khỏe (HE) là biến giả được đưa vào mô hình. Nếu người lao động không bị
bệnh, đến mức không thể làm việc và hoạt động thì nhận giá trị 1, và nhận giá trị 0
nếu trường hợp khác. Biến này được đưa vào mô hình với kỳ vọng là người lao
động có sức khỏe tốt sẽ có thời gian làm việc nhiều hơn so với những người có sức
khỏe kém.
Biến cá nhân là chủ hộ (HH) được đưa vào mô hình là biến giả, nếu cá nhân là
chủ hộ thì nhận giá trị 1, trường hợp khác là 0. Biến này được kỳ vọng là tác động
tích cực.
Giới tính (GE) được đưa vào mô hình như một biến giả. Nếu cá nhân người lao
động là nam thì nhận giá trị bằng 1, nếu cá nhân người lao động là nữ thì nhận giá
trị bằng 0. Biến giả này được đưa vào mô hình với kỳ vọng cá nhân người lao động
nam giới sẽ có thời gian làm việc nhiều hơn nữ giới.
Đặc điểm hộ gia đình
Mức lương của vợ chồng (SW) là mức lương được trả theo ngày của vợ/chồng.
Mức lương bình quân của các thành viên khác trong gia đình (OW) là mức lương
bình quân theo ngày của các thành viên khác trong gia đình. Mức lương được tính
từ thu nhập của công việc có trả lương, hoạt động sản xuất nông lâm ngư nghiệp,
gia đình tự làm kinh doanh, sử dụng tài nguyên chung để tạo thu nhập và thời gian
làm việc của cá nhân. Và mức lương được đo lường theo đơn vị là nghìn đồng/ngày.
Mức lương của vợ chồng và của các thành viên khác trong gia đình được kỳ vọng sẽ
tác động tiêu cực đến cung lao động trong bài nghiên cứu.
Mức lương cá nhân, vợ chồng và các thành viên khác trong hộ gia đình được tính
toán dựa theo thu nhập và thời gian lao động của từng công việc của hộ gia đình.
Mức lương của một cá nhân sẽ bằng tổng thu nhập các hoạt động chia cho tổng thời
gian mà cá nhân đó tham gia vào các hoạt động để tạo thu nhập cho gia đình.
43
Đầu tiên, thu nhập của từng cá nhân được tính trong từng hoạt động mà cá nhân
đó tham gia:
𝑌𝑖𝑘 = × 𝑇𝑖𝑘 𝑌𝑓𝑘 𝑇𝑓𝑘
Với 𝑌𝑖𝑘 là thu nhập của thành viên i trong hoạt động k, 𝑇𝑖𝑘 là thời gian cá nhân i
tham gia vào hoạt động k, 𝑌𝑓𝑘 là thu nhập của hộ gia đình trong hoạt động k, 𝑇𝑓𝑘 là
tổng thời gian của hộ gia đình tham gia vào hoạt động k.
Sau đó, mức lương của từng cá nhân được tính theo công thức như sau:
𝑊𝑖 = ∑ 𝑌𝑖𝑘 ∑ 𝑇𝑖𝑘
Trong đó 𝑊𝑖 là mức lương của một cá nhân, ∑ 𝑌𝑖𝑘 là tổng thu nhập của cá nhân i trong các hoạt động k, ∑ 𝑇𝑖𝑘 là tổng thời gian mà cá nhân i tham gia các hoạt động
k.
Mức lương cá nhân và vợ chồng được tính riêng. Mức lương của các thành viên
còn lại trong hộ gia đình được tính như mức lương của một cá nhân.
Quy mô gia đình (FS) là số thành viên trong gia đình. Và biến FS được kỳ vọng
sẽ tác động tích cực đến biến phụ thuộc của bài nghiên cứu.
Số người con tác động lên cung lao động được chia làm ba loại. Thứ nhất là số
trẻ em dưới 6 tuổi (NC5), thứ hai là số trẻ em từ 6 đến 15 tuổi (NC15) của gia đình
và thứ ba là số người con từ 16 tuổi trở lên (NP16). Số trẻ em dưới 6 tuổi được kỳ
vọng sẽ tác động tiêu cực đến cung lao động của người phụ nữ.
Tình trạng nghèo của hộ gia đình (HP) là biến giả được đưa vào mô hình. Nếu
hộ gia đình thuộc diện nghèo của Chính quyền ( Bộ Lao Động Thương Binh và Xã
Hội) sẽ nhận giá trị là 1, nếu trường hợp khác thì nhận giá trị là 0. Và biến này được
kỳ vọng sẽ tác động tích cực trong bài nghiên cứu này.
44
Các biến trong mô hình được mô tả cụ thể như sau:
Bảng 3.2 Mô tả thống kê biến định lượng
LS
5128
180,171
92,741
0
745
Tổng số ngày (8 giờ) làm việc của cá nhân (ngày/năm)
PW
5128
95,777
119,728
-530,119
2684,903
Mức lương của cá nhân (nghìn đồng/ngày)
SW
5128
90,452
112,245
-530,119
1757,697
Mức lương vợ/chồng (nghìn đồng/ngày)
OW
5128
61,503
120,363
-1599,333
2684,902
Mức lương trung bình của các thành viên khác (nghìn đồng/ngày)
FS
5128
4,911
1,824
1
15
Số thành viên trong gia đình (người)
Y
5128 10.941,750 61.419,210
0
2.001.000
Tổng thu nhập không phải từ lao động (nghìn đồng)
NC5
Số con dưới 6 tuổi
5128
0,386
0,670
0
5
NC15
5128
1,051
1,134
0
7
Số con từ 6 đến 15 tuổi
NP16
5128
1,333
1,293
0
8
Số con từ 16 tuổi trở lên
Biến Định nghĩa Trung bình Độ lệch chuẩn Giá trị thấp nhất Giá trị cao nhất Số quan sát
Cung lao động có giá trị trung bình bằng 180,2 ngày lao động trong một năm.
Trong 5.128 quan sát, dữ liệu có 117 quan sát cá nhân (tương ứng với 2%) không
tham gia các công việc tạo thu nhập nên có LS bằng 0. Và cung lao động có giá trị
lớn nhất là 745 ngày lao động /năm do có nhiều cá nhân làm việc hơn 8 giờ/ ngày,
nên khi được tính với thời gian làm việc 8 tiếng một ngày thì số ngày lao động trong
45
năm lớn hơn 365 ngày. Mức lương cá nhân trung bình bằng 95,777 nghìn
đồng/ngày năm 2010. Một số quan sát có mức lương cá nhân có giá trị âm (chẳng
hạn giá trị thấp nhât là âm 530,2 nghìn đồng/ngày) vì lỗ trong sản xuất nông nghiệp
hoặc kinh doanh hộ gia đình. Tương tự, mức lương vợ/chồng và mức lương bình
quân của các thành viên khác cũng có giá trị âm. Mức lương vợ/chồng trung bình là
90,5 nghìn đồng/ngày và tổng mức lương trung bình của các thành viên khác trong
hộ gia đình bằng 61,5 nghìn đồng/ngày. Trung bình mỗi hộ gia đình có khoảng 5
thành viên. Thu nhập phi lao động trung bình của hộ gia đình bằng 10.941,8 nghìn
đồng/năm, tuy nhiên, không phải hộ gia đình nào cũng nhận được thu nhập phi lao
động (với 1.095 quan sát có Y bằng 0, tương ứng với 21%). Và các hộ gia đình có
thu nhập phi lao động chênh lệch khá đáng kể. Về số con trong gia đình, bộ dữ liệu
có 29,5% hộ gia đình có số con dưới 6 tuổi, 58,6% hộ gia đình có con từ 6 đến 15
tuổi và 65,3% số hộ gia đình có con trên 16 tuổi.
Bảng 3.3 Mô tả biến giả
Biến Định nghĩa Số quan sát Phần trăm
GE = 1 nếu cá nhân là nam 2.417 47,13
GE
GE = 0 nếu cá nhân là nữ 2.711 52,87
HH = 1 nếu cá nhân là chủ hộ 2.678 52,22
HH
HH = 0 nếu trường hợp khác 2.450 47,78
HE = 1 nếu cá nhân không bệnh 4.307 83,99
HE
HE = 0 nếu trường hợp khác 821 16,01
HP = 1 nếu hộ gia đình thuộc diện nghèo 984 19,19
HP
HP = 0 nếu trường hợp khác 4.144 80,81
46
Từ bảng mô tả biến giả ở trên, bộ dữ liệu có hơn một nửa số lao động là nữ giới
(tương ứng với 52,87%), 52,22% trường hợp cá nhân là chủ hộ, số người lao động
không bị bệnh chiếm đa số (với 83,99%) và có 984 hộ gia đình thuộc diện nghèo
của Bộ Lao Động Thương Binh và Xã Hội.
Biến độc lập ảnh hưởng đến quyết định cung lao động được sử dụng trong bài
nghiên cứu này bao gồm mức lương của cá nhân đó, thu nhập phi lao động, mức
lương của vợ chồng, mức lương bình quân của các thành viên khác trong hộ gia
đình, giới tính, sức khỏe, cá nhân có phải là chủ hộ hay không, quy mô hộ gia đình,
số con dưới 6 tuổi, số con từ 6 đến 15 tuổi, số con từ 16 tuổi trở lên và hộ gia đình
có thuộc diện nghèo của chính quyền hay không. Phương pháp 2SLS (Two-Stage
Least Square) giải quyết vấn đề nội sinh bằng ba bước. Phương pháp này giải quyết
được hiện tượng nội sinh, đồng thời giải quyết cả vấn đề selection bias vì khi dự
báo mức lương, mức lương của những người không tham gia lao động (không quan
sát được trên thực tế) cũng được dự báo.
47
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ ƯỚC LƯỢNG
Kết quả ước lượng được trình bày trong chương này. Đầu tiên, từng biến độc lập
mức lương cá nhân, mức lương vợ/chồng, mức lương bình quân của các thành viên
khác trong hộ gia đình, thu nhập phi lao động, quy mô hộ gia đình và số con trong
hộ gia đình được phân tích tác động đến cung lao động dựa theo biểu đồ scatter. Sau
đó, kết quả các hệ số của cả mô hình cung lao động nhóm nữ, nhóm nam, cả nam và
nữ được trình bày thông qua mô hình Tobit. Chương này cũng trình bày cách tính
tác động biên của các biến tác động đến cung lao động của nhóm lao động nam giới,
nhóm lao động nữ giới, nhóm lao động nam và nữ.
4.1 Phân tích đơn biến tác động đến cung lao động
Hình 4.1.a và 4.1.b Tác động của mức lương cá nhân (PW) và mức lương
vợ/chồng (SW) đến cung lao động (LS).
Hình 4.1.a cho thấy mối quan hệ giữa cung lao động (LS) và mức lương cá nhân
(PW). Hình 4.1.b lại thể hiện tác động của mức lương vợ/chồng (SW) đến cung lao
động (LS). Tuy nhiên Hình 4.1.a và Hình 4.1.b chưa thể hiện rõ điều này.
Mức lương bình quân các thành viên khác cũng có mối quan hệ nghịch biến với
biến LS. Khi tăng mức lương bình quân của các thành viên khác của hộ gia đình
dẫn đến thời gian làm việc giảm (Hình 4.2.a). Hình 4.2.b thể hiện mối quan hệ giữa
cung lao động (LS) và thu nhập phi lao động của hộ gia đình. Khi thu nhập phi lao
48
động của hộ gia đình tăng làm cho thời gian làm việc của cá nhân người lao động
giảm. Tuy nhiên, mối quan hệ này khá mờ nhạt và tác động không đáng kể.
Hình 4.2.a và 4.2.b Tác động của mức lương bình quân các thành viên
khác (OW) và thu nhập phi lao động (Y) đến cung lao động (LS).
Hình 4.3.a và 4.3.b Tác động của quy mô gia đình (FS) và số con dưới 6 tuổi
(NC5) đến cung lao động (LS).
Hình 4.3.a thể hiện quy mô hộ gia đình tác động đến cung lao động. Hình 4.3.b
thể hiện mối quan hệ giữa số con dưới 6 tuổi và LS. Khi số con dưới 6 tuổi trong hộ
gia đình càng tăng thì thời gian làm việc của một cá nhân giảm.
Theo Hình 4.4.a thể hiện số con từ 6 đến 15 tuổi tác động đến cung lao động
(LS). Hình 4.4.b cho thấy số con trên 15 tuổi càng tăng thì cung lao động càng
giảm.
49
Hình 4.4.a và 4.4.b Tác động của số con từ 6 đến 15 tuổi (NC15) và số con từ
16 tuổi trở lên (NP16) đến cung lao động (LS).
Các biến định lượng tác động đến cung lao động được thể hiện qua biểu đồ
scatter. Bài nghiên cứu so sánh cung lao động trung bình của các nhóm khác nhau
được phân theo các biến giả như giới tính, tình trạng nghèo, chủ hộ và sức khỏe. Và
cung lao động trung bình của các nhóm được phân theo thu nhập phi lao động và số
con trong gia đình theo từng độ tuổi cũng được trình bày trong Bảng 4.1.
Như vậy, khi so sánh hai nhóm lao động theo giới tính, cung lao động là nam
giới có thời gian làm việc nhiều hơn nữ giới. Chẳng hạn, cung lao động nam giới
trung bình bằng 190,206 ngày/nămvà giá trị cao nhất cho cung lao động nam là 745
ngày/năm. Trong khi đó, giá trị cao nhất cho cung lao động nữ là 576 ngày/năm và
cung lao động trung bình của nữ chỉ bằng 171,225 ngày/năm. Tình trạng nghèo của
hộ gia đình càng làm giảm cung lao động. Khi hộ gia đình nghèo thì trung bình
cung lao động bằng 161,298 ngày/năm, và bằng 184,653 ngày/năm trong trường
hợp không nghèo. Với vai trò là chủ hộ của hộ gia đình, người lao động sẽ làm việc
nhiều hơn (187,532 ngày/năm so với 172,126 ngày/năm). Tình trạng sức khỏe cũng
có tác động không nhỏ đến cung lao động, khi người lao động không bị bệnh thì giá
trị trung bình cung lao động (184,114 ngày/năm) cao hơn so với cá nhân bị bệnh
(159,486 ngày/năm).
50
Bảng 4.1 Phân tích cung lao động theo nhóm
Biến Nhóm Định nghĩa Trung bình (ngày làm việc/năm) Độ lệch chuẩn Giá trị thấp nhất Giá trị cao nhất
Nam 190,206 95,655 0 745
GE Nữ 171,225 89,133 0 576 Giới tính người lao động
Nghèo 161,298 79,036 0 489 HP Không nghèo 184,653 95,167 0 745 Tình trạng nghèo của hộ gia đình
Chủ hộ 187,532 95,409 0 745 HH Không là chủ hộ 172,126 89,058 0 633 Người lao động là chủ hộ
Không bị bệnh 184,114 91,557 0 665 HE Bị bệnh 159,486 96,161 0 745 Sức khỏe người lao động
200,104 95,746 0 633
Không có thu nhập phi lao động Y
Thu nhập phi lao động 174,759 91,171 0 745 Có thu nhập phi lao động
183,906 94,031 0 745
NC5 Số con dưới 6 tuổi 171,257 88,984 0 609
170,769 98,870 0 665
NC15 Số con từ 6 đến 15 tuổi 186,803 87,573 0 745
190,983 89,830 0 609
NP16
Số con từ 16 tuổi trở lên 174,423 93,758 0 745 Không có con dưới 6 tuổi Có con dưới 6 tuổi Không có con từ 6 đến 15 tuổi Có con từ 6 đến 15 tuổi Không có con từ 16 tuổi trở lên Có con từ 16 tuổi trở lên
51
Như đã nói ở Hình 4.2.b, cá nhân người lao động sẽ ít làm việc khi thu nhập phi
lao động (Y) tăng. Cụ thể, khi không có Y thì cung lao động trung bình bằng
200,104 ngày/năm, và bằng 174,759 ngày/năm khi Y lớn hơn không. Số con trong
gia đình ảnh hưởng đến cung lao động với nhiều hướng trái ngược nhau. Chẳng
hạn, số con dưới 6 tuổi càng đông thì cung lao động càng giảm (183,906 ngày/năm
so với 171,257 ngày/năm), số con từ 6 đến 15 tuổi càng đông thì cung lao động
càng tăng (170,769 ngày/năm so với 186,803 ngày/năm) và sự hiện diện số con từ
16 tuổi trở lên làm giảm cung lao động (190,983 ngày/năm so với 174,423
ngày/năm).
Mức lương của một người không làm việc là không quan sát được chứ không
phải là bằng 0. Nhưng nếu bỏ đi những giá trị này thì mẫu không còn tính đại diện.
Nhiều bài nghiên cứu thực nghiệm trước đã sử dụng phương pháp mô hình
Heckman để giải quyết vấn đề này (Dostie và Kromann, 2012). Quy trình ước lượng
hai bước của Heckman (1979) được đề xuất áp dụng kiểm soát quyết định tham gia
dù làm việc hay không. Nghiên cứu này đã thử áp dụng mô hình Heckman nhưng
kết quả ngược với lý thuyết về mức lương cá nhân và cung lao động (phần phụ lục).
Do vậy, kết quả từ mô hình Heckman không được sử dụng. Hơn nữa khi giải quyết
vấn đề nội sinh như đã trình bày ở Chương 3, vấn đề selection bias do không quan
sát được mức lương của những người không làm việc cũng được giải quyết.
4.2 Kết quả hồi quy
Hồi quy mức lương cá nhân theo các biến độc lập và hai biến công cụ là tuổi
bình phương và trình độ học vấn bình phương. Sau đó, kiểm tra biến công cụ có ý
nghĩa hay không. Kết quả cho thấy rằng hai biến công cụ có ý nghĩa thống kê (phụ
lục). Dự báo mức lương cá nhân và sử dụng mức lương dự báo để hồi quy cung lao
động. Kết quả hồi quy được chia theo ba nhóm. Nhóm thứ nhất là nam, nhóm thứ
hai là nữ, nhóm thứ ba là tổng hợp nam và nữ. Mục đích của việc phân tích theo
nhóm để xem các biến mức lương tác động khác nhau như thế nào đến cung lao
động giữa các nhóm.
52
Bảng 4.2 Tổng hợp kết quả hồi quy hàm cung lao động theo nhóm
Biến
lnPW_fit
lnSW
lnOW
lnSW_lnPW_fit *** *** ** ***
lnOW_lnPW_fit Nhóm nam 177,417 (11,51) -38,619 (-4,95) -17,239 (-2,49) -5,857 (-3,40) 1,798 (1.14) Nhóm nữ 203,176 (12,32) -25,809 (-3,25) -37,770 (-5,80) -10,729 (-6,04) 4,558 (3,01) *** *** *** *** *** *** *** *** *** ***
GE
GE_lnPW_fit **
GE_lnSW
GE_lnOW
FS *** ** ***
Y *** **
HP
HE
HH
NC5
NC15
NP16 *** *** *** *** *** *** *** *** *** *** *** ***
Constant 18,376 (5,48) -6,e-05 (-2,16) 9,366 (1,53) *** -29,341 (-3,83) -18,081 * (-1,90) *** -14,977 (-3,41) ** -9,503 (-2,55) *** -17,761 (-5,15) -278,924 (-6,29) 34,572 (8,64) 2,e-05 (0,70) 21,053 (3,95) -28,497 (-5,19) -129,955 (-10,46) -39,179 (-8,73) -25,776 (-6,36) -27,919 (-7,76) -386,448 (-7,77) Tổng hợp 190,326 (15,56) -30,538 (-5,21) -27,623 (-5,70) -8,652 (-6,62) 3,303 (2,94) 14,686 (0,54) 21,448 (2,38) 0,185 (0,05) -2,997 (-2,36) 30,110 (11,38) -2,e-05 (-1,02) 19,492 (4,73) -30,820 (-6,74) -100,912 (-12,59) -29,701 (-9,48) -19,886 (-7,24) -25,592 (-10,19) -355,495 (-9,63)
Lưu ý: (***), (**), (*) cho thấy biến có ý nghĩa ở mức 1%, 5% và 10%.
Nguồn: Ước lượng từ dữ liệu VARHS năm 2010.
53
4.2.1 Hồi quy nhóm lao động nam giới
Với nhóm cá nhân người lao động nam giới đã lập gia đình, đầu tiên, mức lương
cá nhân lao động nam giới được hồi quy theo các biến độc lập như logarit của mức
lương người vợ, logarit của mức lương bình quân các thành viên khác trong gia
đình, quy mô hộ gia đình, thu nhập phi lao động, tình trạng nghèo, sức khỏe, chủ
hộ, số con dưới 6 tuổi, số con từ 6 đến 15 tuổi, số con từ 16 tuổi trở lên, tuổi bình
phương và trình độ học vấn bình phương với điều kiện GE bằng 1. Đây chính là hồi
quy bước 1 trong kỹ thuật hồi quy biến công cụ.
Sau đó, mức lương dự báo này được dùng để hồi quy mô hình cung lao động
nam giới. Hàm cung lao động nam giới như sau:
𝐿𝑆 = −278,924 + 177,417𝑙𝑛𝑃𝑊𝑓𝑖𝑡 − 38,619𝑙𝑛𝑆𝑊 − 17,239𝑙𝑛𝑂𝑊
− 5,857𝑙𝑛𝑃𝑊𝑓𝑖𝑡𝑙𝑛𝑆𝑊 + 1,798𝑙𝑛𝑃𝑊𝑓𝑖𝑡𝑙𝑛𝑂𝑊 + 18,376𝐹𝑆
− 0,00006𝑌 + 9,366𝐻𝑃 − 29,341HE − 18,081HH − 14,977NC5
− 9,503NC15 − 17,761NP16 + 𝜇
Hàm phân bố xác suất tích lũy tại giá trị trung bình của các biến giải thích:
𝛷 ( ) = 0,98085 𝑥′̅ 𝛽 𝜎
Tác động biên của mức lương cá nhân lao động nam:
𝛷( ) − 𝛷( ) + 𝛷( ) 177,417 𝑃𝑊 𝑥′̅ 𝛽 𝜎 5,857 ln 𝑆𝑊 𝑃𝑊 𝑥′̅ 𝛽 𝜎 1,798 ln 𝑂𝑊 𝑃𝑊 𝑥′̅ 𝛽 𝜎
( − + )𝛷( ) 177,417 𝑃𝑊 5,857 ln 𝑆𝑊 𝑃𝑊 1,798 ln 𝑂𝑊 𝑃𝑊 𝑥′̅ 𝛽 𝜎
Khi cá nhân lao động là nam giới thì kết quả bằng 1,542. Như vậy, khi mức
lương cá nhân nam giới tăng 1 nghìn đồng/ngày thì cung lao động nam giới (LS)
tăng 1,542 ngày làm việc/năm.
Tác động biên của mức lương người vợ:
54
𝛷( ) − 𝛷( ) −38,619 𝑆𝑊 𝑥′̅ 𝛽 𝜎 5,857 ln 𝑃𝑊𝑚 𝑆𝑊 𝑥′̅ 𝛽 𝜎
( − )𝛷( ) −38,619 𝑆𝑊 5,857 ln 𝑃𝑊𝑚 𝑆𝑊 𝑥′̅ 𝛽 𝜎
Khi cá nhân lao động là nam giới thì kết quả bằng -0,677. Như vậy, khi mức
lương người vợ tăng 1 nghìn đồng/ngày thì cung lao động nam giới (LS) giảm
0,677 ngày làm việc/năm (tương đương giảm 5,416 giờ/năm).
Tác động biên của mức lương bình quân của các thành viên khác:
𝛷( ) + 𝛷( ) −17,239 𝑂𝑊 𝑥′̅ 𝛽 𝜎 1,798 ln 𝑃𝑊𝑚 𝑂𝑊 𝑥′̅ 𝛽 𝜎
( + )𝛷( ) −17,239 𝑂𝑊 1,798 ln 𝑃𝑊𝑚 𝑂𝑊 𝑥′̅ 𝛽 𝜎
Khi cá nhân lao động là nam thì kết quả bằng -0,155. Như vậy, khi mức lương
bình quân các thành viên khác tăng 1 nghìn đồng/ngày thì cung lao động nam giới
(LS) giảm 0,155 ngày làm việc/năm (tương đương giảm 1,240 giờ/năm).
Ngoài các biến mức lương còn những biến khác tác động đến cung lao động của
các nhân lao động nam. Chẳng hạn, tác động biên biến quy mô gia đình bằng
18,024, khi quy mô hộ gia đình tăng thêm một người thì cung lao động cá nhân nam
tăng 18,024 ngày lao động/năm. Quy mô hộ gia đình tăng dẫn đến làm tăng gánh
nặng chi phí cho hộ gia đình nên cá nhân nam làm việc nhiều hơn để tăng thêm thu
nhập. Với biến thu nhập phi lao động có tác động biên bằng âm 0,000059, khi thu
nhập phi lao động tăng thêm 1000 đồng thì cung lao động cá nhân giảm 0,000059
ngày lao động/năm (tương đương giảm 0,00047 giờ lao động/năm).
Hộ gia đình thuộc diện nghèo (HP=1) làm cung lao động cá nhân nam tăng 9,187
ngày làm việc/năm. Tuy nhiên, với một người lao động nam không bị bệnh (HE=1),
cung lao động cá nhân nam giảm 28,779 ngày lao động/năm. Vì những người có
sức khỏe tốt sẽ làm việc năng suất cao hơn, do đó họ giảm thời gian làm việc. Khi
một cá nhân nam làm chủ hộ gia đình thì cung lao động giảm 17,735 ngày làm
55
việc/năm. Các biến số con trong hộ gia đình đều tác động nghịch biến đến cung lao
động. Cụ thể, số con dưới 6 tuổi tăng thêm một người thì cung lao động nam giảm
14,690 ngày lao động/năm vì họ phải dành thời gian chăm sóc con nhỏ. Số con từ 6
đến 15 tuổi tăng thêm một người thì cung lao động giảm 9,321 ngày làm việc/năm.
Và số con từ 16 tuổi trở lên tăng thêm một người thì cung lao động cá nhân nam
giảm 17,421 ngày làm việc/năm vì những người này sẽ lao động kiếm tiền để giảm
bớt gánh nặng cho hộ gia đình.
4.2.2 Hồi quy nhóm lao động nữ giới
Cũng tương tự như nhóm nam giới, trước tiên mức lương cá nhân nữ giới được
dự báo. Sau đó mức lương dự báo này được dùng để hồi quy mô hình cung lao động
nữ giới. Hàm cung lao động nữ giới như sau:
𝐿𝑆 = −386,448 + 203,176𝑙𝑛𝑃𝑊𝑓𝑖𝑡 − 25,809𝑙𝑛𝑆𝑊 − 37,770𝑙𝑛𝑂𝑊
− 10,729𝑙𝑛𝑃𝑊𝑓𝑖𝑡𝑙𝑛𝑆𝑊 + 4,558𝑙𝑛𝑃𝑊𝑓𝑖𝑡𝑙𝑛𝑂𝑊 + 34,572𝐹𝑆
+ 0,00002𝑌 + 21,053𝐻𝑃 − 28,497HE − 129,955HH
− 39,179NC5 − 25,776NC15 − 27,919NP16 + 𝜇
Hàm phân bố xác suất tích lũy:
𝛷 ( ) = 0,97519 𝑥′̅ 𝛽 𝜎
Tác động biên của mức lương cá nhân lao động nữ:
𝛷( ) − 𝛷( ) + 𝛷( ) 203,176 𝑃𝑊 𝑥′̅ 𝛽 𝜎 10,729 𝑙𝑛 𝑆𝑊 𝑃𝑊 𝑥′̅ 𝛽 𝜎 4,558 𝑙𝑛 𝑂𝑊 𝑃𝑊 𝑥′̅ 𝛽 𝜎
( − + )𝛷( ) 203,176 𝑃𝑊 10,729 ln 𝑆𝑊 𝑃𝑊 4,558 ln 𝑂𝑊 𝑃𝑊 𝑥′̅ 𝛽 𝜎
Khi cá nhân lao động là nữ giới thì kết quả bằng 1,886. Như vậy, khi mức lương
cá nhân nữ giới tăng 1 nghìn đồng/ngày thì cung lao động nữ giới (LS) tăng 1,886
ngày làm việc/năm.
Tác động biên của mức lương người chồng:
56
𝛷( ) − 𝛷( ) −25,809 𝑆𝑊 𝑥′̅ 𝛽 𝜎 10,729 ln 𝑃𝑊𝑓 𝑆𝑊 𝑥′̅ 𝛽 𝜎
( − )𝛷( ) −25,809 𝑆𝑊 10,729 ln 𝑃𝑊𝑓 𝑆𝑊 𝑥′̅ 𝛽 𝜎
Khi cá nhân lao động là nữ giới thì kết quả bằng -0,759. Như vậy, khi mức lương
người chồng tăng 1 nghìn đồng/ngày thì cung lao động nữ giới (LS) giảm 0,759
ngày làm việc/năm (tương đương giảm 6,072 giờ/năm).
Tác động biên của mức lương bình quân các thành viên khác:
𝛷( ) + 𝛷( ) −37,770 𝑂𝑊 𝑥′̅ 𝛽 𝜎 4,558 ln 𝑃𝑊𝑓 𝑂𝑊 𝑥′̅ 𝛽 𝜎
( + )𝛷( ) −37,770 𝑂𝑊 4,558 ln 𝑃𝑊𝑓 𝑂𝑊 𝑥′̅ 𝛽 𝜎
Khi cá nhân lao động là nữ thì kết quả bằng -0,307. Như vậy, khi mức lương bình
quân các thành viên khác tăng 1 nghìn đồng/ngày thì cung lao động nữ giới (LS)
giảm 0,307 ngày làm việc/năm (tương đương giảm 2,456 giờ/năm).
Cũng tương tự như nhóm lao động nam giới, ngoài các biến lương còn nhiều biến
khác tác động đến cung lao động nữ. Với đặc điểm cá nhân khác như sức khỏe, chủ
hộ có tác động nghịch biến đến cung lao động cá nhân nữ. Chẳng hạn, khi một
người lao động nữ không bị bệnh (HE=1) thì cung lao động giảm 27,790 ngày làm
việc/năm. Vì những người bị bệnh sẽ có động lực làm việc nhiều hơn để kiếm thêm
tiền chữa bệnh. Khi cá nhân người lao động làm chủ hộ thì cung lao động giảm
126,731 ngày lao động/năm và giảm rất nhiều so với nam giới.
Tiếp theo, các biến đặc điểm hộ gia đình như hộ nghèo, thu nhập phi lao động,
quy mô hộ gia đình và số con tác động đến cung lao động nữ giới đã lập gia đình.
Nếu hộ gia đình thuộc diện nghèo thì cung lao động nữ tăng 20,531 ngày lao
động/năm. Khi thu nhập phi lao động của hộ gia đình tăng 1000 đồng thì cung lao
động giảm 0,00002 ngày lao động/năm (tương đương giảm 0,00016 giờ lao
động/năm), tuy nhiên tác động của biến này không đáng kể. Với nhóm lao động nữ,
57
quy mô hộ gia đình tăng một người thì cung lao động tăng 33,714 ngày lao
động/năm. Vì họ phải kiếm thêm thu nhập để giảm bớt gánh nặng chi phí do thêm
thành viên trong hộ gia đình. Đối với số con trong hộ gia đình, các biến này cũng có
dấu tác động đến cung lao động giống với nhóm nam. Khi số con dưới 6 tuổi tăng
thêm một người thì cung lao động nữ giảm 38,207 ngày lao động/năm và giảm
nhiều hơn so với nam giới. Vì những người phụ nữ phải dành thời gian chăm sóc
con nhỏ nhiều hơn so với nam giới. Số con từ 6 đến 15 tuổi tăng thêm một người thì
cung lao động giảm 25,136 ngày làm việc/năm và cũng giảm mạnh hơn so với nam
giới. Vì những người con trong độ tuổi này có thể phụ giúp cha mẹ tham gia vào
việc làm nông nghiệp ở những gia đình nông thôn. Và số con từ 16 tuổi trở lên tăng
thêm một người thì cung lao động cá nhân nam giảm 27,226 ngày làm việc/năm vì
những người con này sẽ tham gia vào thị trường lao động để kiếm thu nhập, do đó
cá nhân lao động nữ sẽ ít làm việc hơn.
4.2.3 Hồi quy nhóm lao động nam và nữ
Với cách làm tương tự như nhóm nam và nhóm nữ, hàm cung lao động tổng hợp
như sau:
𝐿𝑆 = −355,495 + 190,326𝑙𝑛𝑃𝑊𝑓𝑖𝑡 − 30,538𝑙𝑛𝑆𝑊 − 27,623𝑙𝑛𝑂𝑊
− 8,652𝑙𝑛𝑃𝑊𝑓𝑖𝑡𝑙𝑛𝑆𝑊 + 3,303𝑙𝑛𝑃𝑊𝑓𝑖𝑡𝑙𝑛𝑂𝑊 + 14,686𝐺𝐸
+ 21,448𝐺𝐸𝑙𝑛𝑃𝑊𝑓𝑖𝑡 + 0,185𝐺𝐸𝑙𝑛𝑆𝑊 − 2,997𝐺𝐸𝑙𝑛𝑂𝑊
+ 30,110𝐹𝑆 + 0,00002𝑌 + 19,492𝐻𝑃 − 30,820HE − 100,912HH
− 29,701NC5 − 19,886NC15 − 25,592NP16 + 𝜇
Hàm phân bố xác suất tích lũy tại giá trị trung bình của các biến giải thích:
𝛷 ( ) = 0,97882 𝑥′̅ 𝛽 𝜎
Tác động biên của mức lương cá nhân:
58
𝛷( ) − 𝛷( ) + 𝛷( ) 190,326 𝑃𝑊 𝑥′̅ 𝛽 𝜎 8,652 ln 𝑆𝑊 𝑃𝑊 𝑥′̅ 𝛽 𝜎 3,303 ln 𝑂𝑊 𝑃𝑊 𝑥′̅ 𝛽 𝜎
+ 𝛷( ) 21,448𝐺𝐸 𝑃𝑊 𝑥′̅ 𝛽 𝜎
( − + + )𝛷( ) 190,326 𝑃𝑊 8,652 ln 𝑆𝑊 𝑃𝑊 3,303 ln 𝑂𝑊 𝑃𝑊 21,448𝐺𝐸 𝑃𝑊 𝑥′̅ 𝛽 𝜎
Khi cá nhân lao động là nữ thì kết quả bằng 1,699, nếu là nam thì kết quả bằng
1,918. Như vậy, khi mức lương cá nhân tăng 1 nghìn đồng/ngày thì LS tăng 1,699
ngày làm việc/năm đối với cá nhân nữ, và LS tăng 1,918 ngày làm việc/năm đối
với cá nhân nam.
Tác động biên của mức lương vợ/chồng:
𝛷( ) − 𝛷( ) + 𝛷( ) −30,538 𝑆𝑊 𝑥′̅ 𝛽 𝜎 8,652 ln 𝑃𝑊𝑓𝑖𝑡 𝑆𝑊 𝑥′̅ 𝛽 𝜎 0,185𝐺𝐸 𝑆𝑊 𝑥′̅ 𝛽 𝜎
( − + )𝛷( ) −30,538 𝑆𝑊 8,652 ln 𝑃𝑊𝑓𝑖𝑡 𝑆𝑊 0,185𝐺𝐸 𝑆𝑊 𝑥′̅ 𝛽 𝜎
Khi cá nhân lao động là nữ thì kết quả bằng -0,718, nếu là nam thì kết quả bằng -
0,716. Như vậy, khi mức lương vợ/chồng tăng 1 nghìn đồng/ngày thì LS giảm 0,718
ngày làm việc/năm (tương đương giảm 5,744 giờ/năm) đối với cá nhân nữ, LS giảm
0,716 ngày làm việc/năm (tương đương giảm 5,728 giờ/năm) đối với cá nhân nam.
Tác động biên của mức lương bình quân của thành viên khác:
𝛷( ) + 𝛷( ) − 𝛷( ) −27,623 𝑂𝑊 𝑥′̅ 𝛽 𝜎 3,303 ln 𝑃𝑊𝑓𝑖𝑡 𝑂𝑊 𝑥′̅ 𝛽 𝜎 2,997𝐺𝐸 𝑂𝑊 𝑥′̅ 𝛽 𝜎
( + − )𝛷( ) −27,623 𝑂𝑊 3,303 ln 𝑃𝑊𝑓𝑖𝑡 𝑂𝑊 2,997𝐺𝐸 𝑂𝑊 𝑥′̅ 𝛽 𝜎
Khi cá nhân lao động là nữ thì kết quả bằng -0,222, nếu là nam thì kết quả bằng -
0,270. Như vậy, khi mức lương bình quân các thành viên khác tăng 1 nghìn
đồng/ngày thì LS giảm 0,222 ngày làm việc/năm (tương đương giảm 1,776
59
giờ/năm) đối với cá nhân nữ, LS giảm 0,270 ngày làm việc/năm (tương đương giảm
2,160 giờ/năm) đối với cá nhân nam .
Bảng 4.3 So sánh tác động biên của mức lương giữa các nhóm
Ngày làm việc/năm
Nhóm nam Nhóm nữ Nam và nữ
Nam +1,918 Mức lương cá nhân tác động +1,542 +1,886 đến cung lao động Nữ +1,699
Nam -0,716 Mức lương vợ/chồng tác -0,677 -0,759 động đến cung lao động Nữ -0,718
Mức lương bình quân các Nam -0,270
thành viên khác tác động -0,155 -0,307
Nữ -0,222 đến cung lao động
Khi bị tác động bởi yếu tố mức lương, người lao động nữ đã lâp gia đình thay đổi
thời gian làm việc nhiều hơn so với nam giới đã lập gia đình. Mức lương cá nhân
tăng thì nữ giới làm nhiều hơn so với nam giới với 0,344 ngày làm việc/năm (tương
ứng 2,752 giờ làm việc/năm). Khi mức lương người chồng tăng thì thời gian làm
việc của người vợ giảm và giảm nhiều hơn so với thời gian làm việc của người
chồng giảm khi mức lương người vợ tăng. Và kết quả này giống như kết quả của
Juhn và Murph (1997). Cụ thể, khi mức lương người vợ tăng 1 nghìn đồng/ngày thì
cung lao động người chồng giảm 0,677 ngày/năm, khi mức lương người chồng tăng
1 nghìn đồng/ngày thì cung lao động người vợ giảm 0,759 ngày/năm và cung lao
động người vợ giảm mạnh hơn cung lao động người chồng khoảng 0,082 ngày/năm
(tương đương 0,656 giờ/năm). Và phụ nữ cũng giảm giờ làm nhiều hơn nam giới
khi mức lương bình quân của các thành viên khác trong gia đình tăng (giảm hơn
0,152 ngày làm việc/năm, tương ứng 1,216 giờ/năm).
60
Người phụ nữ ngoài thời gian làm việc, họ phải làm công việc nhà và chăm sóc
con cái. Nhiều gia đình, với thu nhập khá, người vợ không đi làm mà dành thời gian
làm việc nội trợ và chăm sóc con cái. Tuy nhiên, với một số gia đình, với nguồn thu
nhập hạn hẹp nên người vợ phải đi làm để giảm gánh nặng về chi phí cho gia đình.
Nên khi vấn đề thu nhập được giải quyết (mức lương người chồng và các thành viên
khác trong gia đình tăng), người phụ nữ sẽ giảm thời gian làm việc (nhiều hơn nam
giới) để dành thời gian cho gia đình và chăm sóc con cái.
Tác động biên của giới tính được tính như sau:
) (14,686 + 21,448𝑙𝑛𝑃𝑊𝑓𝑖𝑡 + 0,185𝑙𝑛𝑆𝑊 − 2,997𝑙𝑛𝑂𝑊)𝛷( 𝑥′̅ 𝛽 𝜎
Với các yếu tố khác không đổi, nếu cá nhân lao động là nam sẽ có 93,342 số
ngày làm việc/năm nhiều hơn so với cá nhân lao động là nữ. Như vậy, nam giới
dành thời gian cho những công việc được trả lương và có thu nhập nhiều hơn phụ
nữ vì phụ nữ phải làm việc gia đình và chăm sóc con cái nhiều hơn so với nam giới.
Tác động của biến quy mô hộ gia đình:
Với các yếu tố khác không đổi, khi quy mô hộ gia đình tăng thêm một người thì
cung lao động (LS) tăng 29,472 ngày làm việc/năm. Và biến này có ý nghĩa ở mức
1%. Khi quy mô hộ gia đình tăng sẽ làm tăng chi phí tiêu dùng, do đó, người lao
động phải làm việc nhiều hơn để kiếm thêm thu nhập.
Tác động của biến thu nhập phi lao động:
Với các yếu tố khác không đổi, khi thu nhập phi lao động tăng thêm 1.000 đồng
thì cung lao động (LS) giảm 0,0000196 ngày lao động/năm (tương đương giảm
0,00016 giờ lao động/năm) (không đáng kể). Thu nhập phi lao động càng tăng dẫn
đến thu nhập càng tăng, do đó người lao động ít làm việc và giải trí nhiều hơn.
Tác động của biến tình trạng nghèo của hộ gia đình:
Biến này được đưa vào mô hình như một biến giả. Với các yếu tố khác không
đổi, khi hộ gia đình thuộc diện nghèo theo quy định của chính quyền (HP=1) thì
61
cung lao động (LS) tăng 19,079 ngày lao động/năm. Biến này có ý nghĩa ở mức 1%.
Những hộ gia đình nghèo có thu nhập thấp và không có tài sản, do đó, người lao
động làm việc nhiều hơn để kiếm thêm thu nhập trang trải cuộc sống.
Tác động của biến tình trạng sức khỏe người lao động:
Biến này cũng được đưa vào mô hình như một biến giả. Với các yếu tố khác
không đổi, khi người lao động không bị bệnh (HE=1) thì cung lao động giảm
30,167 ngày làm việc/năm. Biến này đi ngược lại với kỳ vọng ban đầu của bài
nghiên cứu và biến này có ý nghĩa ở mức 1%. Mặc dù, giả định cho rằng người lao
động có sức khỏe tốt hơn sẽ làm việc nhiều hơn. Tuy nhiên, không nhất thiết khi
người lao động có sức khỏe tốt hơn sẽ làm việc nhiều hơn. Có thể giả định rằng,
những người lao động có sức khỏe tốt hơn sẽ có năng suất cao hơn, đo đó họ sẽ
nhận mức lương cao hơn. Mức lương cao hơn dẫn đến thu nhập tăng. Trong trường
hợp tác động thu nhập lớn hơn tác động thay thế thì người lao động sẽ làm việc ít
đi.
Tác động của biến cá nhân là chủ hộ gia đình:
Với các yếu tố khác không đổi, khi cá nhân là chủ hộ gia đình (HH=1) thì cung
lao động (LS) giảm 98,775 ngày lao động/năm. Biến cá nhân là chủ hộ được đưa
vào mô hình như một biến giả và biến này có ý nghĩa ở mức 1%. Hầu như ở các hộ
gia đình ở Việt Nam, người chủ hộ thường là người lớn tuổi. Tuy nhiên, người lao
động càng lớn tuổi thì họ làm việc ít đi.
Tác động của biến số con trong hộ gia đình dưới 6 tuổi (NC5):
Với các yếu tố khác không đổi, khi số trẻ em dưới 6 tuổi trong hộ gia đình tăng
thêm một người thì cung lao động giảm 29,072 ngày lao động/năm. Và biến này có
ý nghĩa ở mức 1%. Số con dưới 6 tuổi là những đứa con chưa tự chăm sóc được bản
thân, vì thế, ba mẹ những đứa trẻ này phải dành thời gian để chăm sóc chúng. Do
đó, thời gian họ tham gia vào các hoạt động tạo thu nhập giảm đi.
Tác động của biến số con trong hộ gia đình từ 6 đến 15 tuổi (NC15):
62
Biến NC15 được đưa vào mô hình đại diện cho số con trong gia đình từ 6 đến 15
tuổi. Biến số con trong hộ gia đình từ 6 đến 15 tuổi có ý nghĩa ở mức 1%. Với các
yếu tố khác không đổi, khi số con từ 6 đến 15 tuổi tăng thêm một người thì cung lao
động (LS) giảm 19,465 ngày lao động/năm. Ở những hộ gia đình ở nông thôn,
những đứa con tuy còn nhỏ tuổi nhưng cũng có thể giúp trong công việc sản xuất
nông nghiệp. Do đó, người lao động sẽ ít làm việc hơn.
Tác động của biến số con trong hộ gia đình từ 16 tuổi trở lên (NP16):
Biến NP16 được đưa vào mô hình đại diện cho số con từ 16 tuổi trở lên và biến
này có ý nghĩa ở mức 1%. Với các yếu tố khác không đổi, khi số con trong hộ gia
đình từ 16 tuổi trở lên tăng thêm một người thì cung lao động (LS) giảm 25,050
ngày lao động/năm. Những người con từ 16 tuổi trở lên trong hộ gia đình có thể
tham gia vào các hoạt động tạo thu nhập, dẫn đến thu nhập tăng. Khi thu nhập hộ
gia đình tăng lên, người lao động sẽ làm việc ít đi và giải trí nhiều hơn.
4.3 Kết quả kiểm tra giả thuyết
Kiểm định các hệ số của các biến trong mô hình cung lao động.
Bảng 4.4 Kết quả kiểm định giả thuyết
STT Giả thuyết Số biến F Prob > F
α1 = α2 = α3 = α4 = α5 = α6 = α7 = β1 = β2 17 46,66 0.0000 1 = β3 = γ1 = γ2 = γ3 =γ4 = γ5 = γ6 = γ7 = 0
92,97 0.0000 3 2 α1 = α2 = α3 = 0
34,44 0.0000 6 3 α4 = α5 = α6 = β1 = β2 = β3 = 0
28,74 0.0000 7 4 γ1 = γ2 = γ3 = γ4 = γ5 = γ6 = γ7 = 0
Bảng trên thể hiện bốn giả thuyết và kết quả. Với giả thuyết đầu tiên là kiểm định
các biến trong mô hình, giả thuyết thứ hai là các biến của mức lương cá nhân bao
gồm mức lương cá nhân, tương tác mức lương cá nhân và mức lương vợ/chồng,
63
tương tác mức lương cá nhân và mức lương các thành viên khác trong hộ gia đình.
Giả thuyết thứ ba là các đặc điểm cá nhân (ngoại trừ mức lương cá nhân) và giả
thuyết thứ 4 tư là các biến đặc điểm hộ gia đình. Từ Bảng 4.4 thấy được các giả
thuyết H0 được bác bỏ do p-value nhỏ hơn mức ý nghĩa 1%.
Kết quả ước lượng được trình bày trong chương 4. Biến mức lương cá nhân, quy
mô hộ gia đình, giới tính, tình trạng nghèo của hộ gia đình tác động tích cực đến
cung lao động. Trong khi đó, mức lương vợ/chồng, mức lương bình quân của các
thành viên khác trong hộ gia đình, thu nhập phi lao động, cá nhân là chủ hộ, sức
khỏe, số con dưới 6 tuổi, số con từ 6 đến 15 tuổi, số con từ 16 tuổi trở lên tác động
tiêu cực đến cung lao động cá nhân.
64
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN
5.1 Kết luận
Bài nghiên cứu này nhằm phân tích tác động của các yếu tố tác động đến cung
lao động người vợ để kiểm tra xem các yếu tố này khuyến khích hay hạn chế người
vợ làm việc và người vợ hay người chồng bị ảnh hưởng bởi các yếu tố này nhiều
hơn. Dữ liệu VARHS năm 2010 được sử dụng để phân tích hàm cung lao động. Đối
với người lao động không tham gia lao động (LS=0) mà có mức lương cá nhân bằng
0 là không đúng với thực tế. Mô hình cung lao động cá nhân được ước lượng với kỹ
thuật hồi quy biến công cụ. Mức lương cá nhân được ước lượng theo các biến độc
lập và hai biến công cụ là tuổi bình phương, trình độ học vấn (số năm đi học) bình
phương. Mức lương cá nhân dự báo được sử dụng để ước tính mô hình Tobit cung
lao động với giá trị chặn dưới bằng 0.
Bài nghiên cứu đưa ra một số kết quả như sau:
Đầu tiên, mức lương cá nhân, mức lương vợ/chồng và mức lương bình quân của
các thành viên khác ảnh hưởng đến cung lao động cá nhân. Mức lương cá nhân ảnh
hưởng tích cực đến cung lao động cá nhân, trong khi đó, mức lương vợ/chồng và
mức lương bình quân của các thành viên khác trong gia đình lại hạn chế lao động cá
nhân. Nhóm nam và nữ, khi mức lương cá nhân tăng thêm 1 nghìn đồng/ngày thì
cung lao động tăng 1,699 ngày làm việc/năm đối với cá nhân nữ, và cung lao động
tăng 1,918 ngày làm việc/năm đối với cá nhân nam. Tuy nhiên, khi phân tích riêng
cho từng nhóm lao động theo giới tính, kết quả cho thấy đối với nhóm nữ, khi mức
lương cá nhân tăng 1 nghìn đồng/ngày thì cung lao động tăng 1,886 ngày làm
việc/năm và đối với nhóm nam tăng ít hơn với 1,542 ngày làm việc/năm.
Mức lương vợ/chồng tác động tiêu cực đến cung lao động cá nhân. Khi mức
lương vợ/chồng tăng 1 nghìn đồng/ngày thì cung lao động giảm 0,718 ngày lao
động/năm đối với cá nhân nữ và giảm 0,716 ngày lao động/năm đối với cá nhân
nam. Tuy nhiên, khi phân tích riêng cho từng nhóm lao động theo giới tính, mức
lương người chồng tác động đến cung lao động vợ nhiều hơn so với mức lương của
65
người vợ tác động đến cung lao động của chồng. Cụ thể, mức lương người chồng
tăng 1 nghìn đồng/ngày thì cung lao động người vợ giảm 0,759 ngày lao động/năm
(tương ứng giảm 6,072 giờ lao động/năm). Trong khi đó, mức lương vợ tăng 1
nghìn đồng/ngày thì cung lao động người chồng giảm 0,677 ngày lao động/năm
(tương ứng giảm 5,416 giờ lao động/năm). Khi mức lương các thành viên khác tăng
1 nghìn đồng/ngày thì cung lao động giảm 0,222 ngày lao động/năm đối với cá
nhân nữ và giảm 0,270 đối với cá nhân nam. Đối với nhóm nữ, cung lao động nữ
giảm 0,307 ngày lao động/năm khi mức lương các thành viên khác tăng 1 nghìn
đồng/ngày. Đối với nhóm nam, cung lao động nam giảm 0,155 ngày lao động/năm.
Thứ hai, với các yếu tố khác không đổi, nếu cá nhân lao động là nam sẽ có
93,342 ngày làm việc/năm nhiều hơn so với cá nhân lao động là nữ. Trong hộ gia
đình, người phụ nữ thường bị chi phối thời gian bởi công việc gia đình và chăm sóc
con cái nhiều hơn so với nam giới. Nên nam giới sẽ tham gia các công việc được trả
lương và tạo thu nhập nhiều hơn so với nữ giới.
Thứ ba, quy mô gia đình tác động đồng biến đến cung lao động. Khi quy mô hộ
gia đình tăng dẫn đến chi phí tiêu dùng tăng, do đó, người lao động cần làm việc
nhiều hơn để kiếm thêm thu nhập. Như lý thuyết cung lao động được trình bày, thu
nhập phi lao động tác động tiêu cực đến cung lao động cá nhân. Tuy nhiên, trong
bài nghiên cứu này, tác động của biến này không đáng kể.
Thứ tư, khi hộ gia đình thuộc diện nghèo thì người lao động làm việc nhiều hơn.
Hộ gia đình nghèo không có tài sản nên nguồn thu từ việc cho thuê hay bán tài sản
thấp, mặc khác, người lao động không có tiền đi học nên thu nhập thấp. Do đó, họ
làm việc nhiều hơn để trang trải cuộc sống. Và nữ giới làm việc nhiều hơn so với
nam giới khi hộ gia đình thuộc diện nghèo theo quy định của chính quyền. Khi cá
nhân người lao động là chủ hộ gia đình thì cung lao động giảm. Theo phong tục ở
Việt Nam, chủ hộ gia đình thường là người lớn tuổi, do đó họ làm việc ít hơn.
Người lao động không bị bệnh thì cung lao động thấp hơn. Mặc dù, với kỳ vọng
người lao động có sức khỏe tốt hơn sẽ làm việc nhiều hơn. Tuy nhiên, có thể giả
66
định rằng, những người lao động có sức khỏe tốt hơn sẽ có năng suất cao hơn, đo đó
họ sẽ nhận mức lương cao hơn. Hoặc người lao động bị bệnh sẽ có động lực làm
việc nhiều hơn để có thêm kinh phí trị bệnh.
Thứ năm, số con trong gia đình cũng tác động đến cung lao động cá nhân. Số con
dưới 6 tuổi cản trở cá nhân lao động làm việc, nhất là lao động nữ. Con dưới 6 tuổi
còn nhỏ nên người phụ nữ dành nhiều thời gian để chăm sóc. Trong khi đó, số con
từ 6 đến 15 tuổi cũng tác động tiêu cực đến cung lao động cá nhân. Vì ở nông thôn,
những đứa con tuy còn nhỏ tuổi nhưng cũng có thể giúp đỡ trong công việc sản xuất
nông nghiệp. Số con từ 16 tuổi trở lên có thể đi làm để kiếm thêm thu nhập phụ
giúp gia đình. Nên người lao động ít làm việc hơn khi trong hộ gia đình có càng
nhiều con từ 16 tuổi trở lên.
5.2 Hàm ý chính sách
Cá nhân người lao động nữ khá nhạy cảm hơn so với nam giới vì khi bị tác động
bởi mức lương cá nhân và mức lương bình quân của các thành viên khác trong hộ
gia đình, người lao động nữ giới bị ảnh hưởng nhiều hơn. Người phụ nữ khi tham
gia vào lực lượng lao động ngoài sở thích cá nhân còn bị ràng buộc bởi hoàn cảnh
gia đình. Khi lao động nữ bị áp lực về chi phí tiêu dùng trong hộ gia đình, họ tham
gia vào các hoạt động lao động để kiếm thêm thu nhập nhằm san sẻ gánh nặng về
kinh tế. Nhưng khi mức lương của người chồng và các thành viên khác trong hộ gia
đình tăng lên, giảm bớt áp lực về vấn đề chi tiêu, họ sẽ dành thời gian nhiều hơn
cho gia đình và chăm sóc con cái, do đó họ làm việc ít hơn. Và người phụ nữ khi ở
nhà làm nội trợ cũng gặp nhiều vấn đề về tâm lý, họ buồn khi không được tiếp xúc
nhiều với bên ngoài xã hội, họ cảm thấy mặc cảm khi bị người ngoài đánh giá là
sống dựa vào chồng. Do đó, phụ nữ nên đi làm hơn là ở nhà làm nội trợ vì khi đi
làm phụ nữ có thể tự chủ về tài chính, phát triển bản thân, làm cho cuộc sống thêm
ý nghĩa. Hơn nưa, đi làm giúp người phụ nữ phát triển các mối quan hệ xã hội tốt
hơn. Như vậy, nên có chính sách khuyến khích phụ nữ đi làm, chẳng hạn như tuyên
truyền về lợi ích của việc đi làm, giúp họ tiếp cận với những công việc phù hợp với
sở thích và thời gian của họ (đối với những người phụ nữ có con nhỏ). Và chính
67
sách này nên được áp dụng ở những trường hợp thu nhập người chồng cao thì
khuyến khích phụ nữ làm công việc nhẹ nhàng, còn trường hợp thu nhập người
chồng không cao thì khuyến khích phụ nữ làm những công việc có thu nhập cao.
Mức lương cá nhân khuyến khích cá nhân người lao động nói chung và lao động
phụ nữ nói riêng tham gia lao động, trong khi đó mức lương người chồng lại hạn
chế phụ nữ làm việc. Trên thực tế, định kiến xã hội vẫn còn tồn tại ở một số nơi,
người sử dụng lao động thường sử dụng lao động nam cao hơn nữ. Mặc khác, mức
lương của nữ giới lại thấp hơn so với nam giới. Do đó, cần có nhiều chính sách
quan tâm nhiều hơn đến bình đẳng giới, đặc biệt là vấn đề bình đẳng giới trong vấn
đề việc làm. Cụ thể, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ bằng cách trang bị kiến
thức cho lao động nữ trình độ thấp, cơ hội được đào tạo nghề để phụ nữ tham gia
vào thị trường lao động và góp phần giảm bất bình đẳng trong tiền lương và thu
nhập. Vận động những người phụ nữ tham gia lao động mặc dù mức lương của
người chồng khá cao. Và vận động những người chồng nên ủng hộ người vợ tham
gia lao động mặc dù bản thân những người chồng này có thể trang trải chi phí trong
gia đình.
Những đứa con dưới 6 tuổi tác động tiêu cực đến cung lao động phụ nữ. Những
đứa trẻ này không thể tự chăm sóc bản thân. Do đó, khi người lao động nữ có con
nhỏ và họ không tìm được người giữ con thì họ sẽ nghỉ làm để chăm sóc con.
Doanh nghiệp cần quan tâm và hỗ trợ về vấn đề này thì người phụ nữ có thể tham
gia lao động trở lại. Chẳng hạn như cho người lao động nữ về sớm hai tiếng hay
tăng thời gian nghỉ phép đối với những lao động nữ có con dưới 6 tuổi.
Về bình đẳng giới, nên thúc đẩy tuyên truyền bình đẳng giới giữa lao động nam
và nữ. Tăng cường mức độ bình đẳng giới trong pháp luật lao động như cấm phân
biết đối xử trên mọi hình thức trực tiếp hay gián tiếp, và thúc đẩy bình đẳng thu
nhập.
68
5.3 Hạn chế của nghiên cứu
Do có vấn đề đa cộng tuyến giữa biến mức lương cá nhân và biến tuổi, biến trình
độ học vấn nên tuổi và trình độ học vấn đã không được đưa vào mô hình Tobit để
phân tích (chỉ được đưa vào hàm mức lương để dự báo mức lương cá nhân). Hai
biến này cũng là những biến quan trọng tác động đến cung lao động cá nhân. Do đó,
khi không đưa những biến này vào mô hình cũng có thể cho kết quả không có ý
nghĩa.
Thêm vào đó, bài nghiên cứu chỉ nghiên cứu ở năm 2010 nên chưa thể hiện được
tác động của các yếu tố đến cung lao động qua thời gian.
Trong tương lai, tác giả sẽ khai thác thêm dữ liệu để làm phát triển bài nghiên
cứu sâu hơn về việc làm và bình đẳng giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tham khảo Tiếng Việt
Tổng cục Thống kê, 2014. Báo Cáo Điều Tra Lao Động Việc Làm Năm 2013. Hà
Nội: Nhà xuất bản Thống kê.
Tổng cục Thống kê, 2015. Báo Cáo Điều Tra Lao Động Việc Làm Năm 2014. Hà
Nội: Nhà xuất bản Thống kê.
Tài liệu tham khảo Tiếng Anh
Apps, P. F. & Rees, R., 1997.Collective labor supply and household production.
Journal of political Economy, 178-190.
Arellano, M. & Meghir, C., 1992. Female labour supply and on-the-job search:
An empirical model estimated using complementary data sets. Review of Economic
Studies, 59(3), 537-559.
Becker, G. S., 1965. A Theory of the Allocation of Time. The economic journal,
493-517.
Berulava, G., & Chikava, G., 2011. The determinants of the household labour
supply: a comparative study. Economic Education and Research Consortium
Working Waper.
Bielenka G., 2008. Labor market participation in Ukraine as a household
decision. Master Thesis. National University “Kyiv-Mohyla Academy”, Kyiv.
Blau, F. D. & Kahn, L. M., 2006. Changes in the labor supply behavior of
married women: 1980-2000. National Bureau of Economic Research.
Bloemen, H., 2004. An empirical model of collective household labor supply
with nonparticipation. Tinbergen Institute Discussion Paper TI 2004-010/3, VU
University of Amsterdam, and Tinbergen Institute.
Blundell, R. & Meghir, C., 1986. Selection criteria for a microeconometric model
of labor supply, Journal of Applied Econometric 1, 55–80.
Blundell, R. & Walker, I., 1986. A life-cycle consistent empirical model of
family labor supply using cross-section data. Review of Economic Studies 53, 539–
558.
Blundell, R., Chiappori, P.A., Magnac, T. & Meghir, C., 2007. Collective labor
supply: Heterogeneity and nonparticipation. Review of Economic Studies 74, 417-
455.
Blundell, R., Ham, W. J., & Meghir, C., 1987. Unemployment and female labour
supply. Economic Journal, 97, 44-64.
Chiappori, P. A., 1992. Collective labor supply and welfare. Journal of political
Economy, 437-467.
Chiappori, P. A., Fortin, B., & Lacroix, G., 2002. Marriage market, divorce
legislation, and household labor supply. Journal of political Economy, 110(1), 37-
72.
Donni O., 2003. Collective household labor supply: Non-participation and
income taxation, Journal of Public Economics 87, 1179–1198.
Dostie, B. & Kromann, L., 2012. Labour Supply and Taxes: New Estimates of
the Responses of Wives to Husbands’ Wages. Institute of Applied Economics.
Eissa, N., & Liebman, J., 1996. Labour supply response to the earned income tax
credit. Quarterly Journal of Economics, 111(2), 605-637.
Fortin, B., & Lacroix, G., 1997. A Test Of The Unitary And Collective Models
Of Household Labour Supply. The economic journal, 107(443), 933-955.
Greenwood, J., Seshadri, A., & Yorukoglu, M., 2005. Engines of liberation.
Review of Economic Studies, 72(1), 109-133.
Ismail, R. & Sulaiman, N., 2013. Married Women Labor Supply Decision in
Malaysia. Asian Social Science; Vol. 10, No. 3; 2014.
Juhn, C. & Murphy, K. M., 1997. Wage Inequality and Family Labor Supply.
Journal of Labor Economics, 1997, vol. 15, no. 1, pt. 1.
Khan, R. E. A. & Khan, T., 2009. Labor Force Participation of Married Women
in Punjab (Pakistan). Journal of Economic and Social Research 11(2) 2009, 77-106.
Layard, R., Barton, M. & Zabalza, A., 2014. Married Women's Participation and
Hours. Economica, New Series, Vol. 47, No. 185 (Feb., 1980), pp. 51-72.
Lundberg, S., 1988. Labor supply of husbands and wives: A simultaneous
equations approach. The Review of Economics and Statistics, 224-235.
Merz, M., 2006. Collective Female Labor Supply: Evidence From Germany.
University of Bonnand IZA.
Mincer, J., 1962. Labor Force Participation of Married Women: A Study of
Labor Supply. Columbia university and national bureau of economic research.
Morissette, R. & Hou, F., 2008. Does the labour supply of wives respond to
husbands’ wages? Canadian evidence from micro data and grouped data. Canadian
Journal of Economics / Revue canadienne d’Economique, Vol. 41, No. 4.
Nakamura, A., & Nakamura, M., 1994. Predicting female labor supply: Effects
of children and recent work experience. Journal of Human Resources, 29(2), 304-
327.
Rosenzweig, M. R., 1980. Neoclassical theory and the optimizing peasant: An
econometric analysis of market family labor supply in a developing country. The
Quarterly Journal of Economics, 31-55.
Singh, I., Squire, L., & Strauss, J., 1986. A survey of agricultural household
models: Recent findings and policy implications. The World Bank Economic
Review, 1(1), 149-179.
Skoufias, E., 1994. Using shadow wages to estimate labor supply of agricultural
households. American Journal of Agricultural Economics, 76(2), 215-227.
Smith, J. B. & Stelcner, M., 2014. Labour Supply of Married Women in Canada,
1980. The Canadian Journal of Economics / Revue canadienne d'Economique, Vol.
21, No. 4 (Nov., 1988), pp. 857-870.
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Mô hình Heckman
𝐿𝑆 = 211.474 + 1.424 ln 𝑃𝑊 − 1.562 ln 𝑆𝑊 − 6.114 ln 𝑂𝑊
− 0.952 ln 𝑃𝑊 ln 𝑆𝑊 + 0.126 ln 𝑃𝑊 ln 𝑂𝑊 − 7.331𝐺𝐸 + 2.525𝐺𝐸 ln 𝑃𝑊 + 6.530𝐺𝐸 ln 𝑆𝑊 − 1.223𝐺𝐸 ln 𝑂𝑊 + 2.662𝐹𝑆 − 0.0000256𝑌 + 9.651𝐻𝐸 − 7.778𝐻𝐻 − 25.580𝐻𝑃 − 11.296𝑁𝐶5 − 0.738𝑁𝐶15 − 8.460𝑁𝑃16 − 50.742𝑀𝑖𝑙𝑙𝑠
Như vậy, tác động của mức lương của cá nhân được tính như sau:
− + + 1.424 𝑃𝑊 0.952 ln 𝑆𝑊 𝑃𝑊 0.126 ln 𝑂𝑊 𝑃𝑊 2.525𝐺𝐸 𝑃𝑊
Khi cá nhân lao động là nữ thì kết quả bằng âm 0.02, nếu là nam thì kết quả bằng
0.006. Như vậy khi mức lương cá nhân tăng 1 nghìn đồng/ngày thì LS giảm 0.02
ngày làm việc/năm (tương đương giảm 0.16 giờ/năm) đối với cá nhân nữ, và LS
tăng 0.006 ngày làm việc/năm (tương đương tăng 0.048 giờ/năm) đối với cá nhân
nam .
Tác động của mức lương của vợ chồng được tính như sau:
− + −1.562 𝑆𝑊 0.952 ln 𝑃𝑊 𝑆𝑊 6.53𝐺𝐸 𝑆𝑊
Khi cá nhân lao động là nữ thì kết quả bằng âm 0.06, nếu là nam thì kết quả bằng
1.031. Như vậy khi mức lương vợ/chồng tăng 1 nghìn đồng/ngày thì LS giảm 0.06
ngày làm việc/năm (tương đương giảm 0.48 giờ/năm) đối với cá nhân nữ, LS tăng
1.031 ngày làm việc/năm đối với cá nhân nam .
Tác động của tổng mức lương của thành viên khác trong hộ gia đình được tính
như sau:
+ − −6.114 𝑂𝑊 0.126 ln 𝑃𝑊 𝑂𝑊 1.223𝐺𝐸 𝑂𝑊
Khi cá nhân lao động là nữ thì kết quả bằng âm 0.09, nếu là nam thì kết quả bằng
âm 0.111. Như vậy khi mức lương thành viên khác tăng 1 nghìn đồng/ngày thì LS
giảm 0.09 ngày làm việc/năm (tương đương giảm 0.72 giờ/năm) đối với cá nhân nữ,
LS giảm 0.111 ngày làm việc/năm (tương đương giảm 0.888 giờ/năm) đối với cá
nhân nam .
Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, khi Y tăng lên 1000 đồng thì LS sẽ
giảm 0.0000256 ngày làm việc/năm (không đáng kể).
Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, khi hộ gia đình tăng thêm 1 thành
viên thì LS sẽ tăng 2.662 ngày làm việc/năm.
Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, nếu cá nhân là chủ hộ gia đình
(HH=1) thì LS sẽ giảm 7.778 ngày làm việc/năm.
Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, nếu cá nhân không bị bệnh (HE=1)
thì LS sẽ tăng 9.651 ngày làm việc/năm.
Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, nếu hộ gia đình thuộc diện nghèo
(HP=1) thì LS sẽ giảm 25.580 ngày làm việc/năm.
Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, khi NC5 tăng thêm 1 người thì LS sẽ
giảm 11.296 ngày làm việc/năm.
Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, khi NC15 tăng thêm 1 người thì LS
sẽ giảm 0.738 ngày làm việc/năm.
Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, khi NP16 tăng thêm 1 người thì LS
sẽ giảm 8.460 ngày làm việc/năm.
Nếu cá nhân là nam (GE=1) thì cung lao động (LS) sẽ tăng 25.020 ngày làm
việc/năm, với các yếu tố khác không đổi.
Phụ lục 2: Kiểm tra nội sinh
Kết quả kiểm tra nội sinh:
Phụ lục 3: Phân tích nhóm lao động nam
Mức lương cá nhân:
Kết quả kiểm tra ý nghĩa của biến công cụ:
Cung lao động:
Phụ lục 4: Phân tích nhóm lao động nữ
Mức lương cá nhân:
Kết quả kiểm tra ý nghĩa biến công cụ:
Cung lao động:
Phụ lục 5: Phân tích nhóm lao động nam và nữ
Mức lương cá nhân:
Kết quả kiểm tra ý nghĩa của biến công cụ:
Cung lao động: