intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Cải cách các doanh nghiệp nhà nước theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam

Chia sẻ: Minh Tú | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:100

17
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ thực trạng cải cách DNNN ở Việt Nam hiện nay và đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả của các DNNN trong bối cảnh Hội nhập kinh tế quốc tế một cách có hiệu quả. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Cải cách các doanh nghiệp nhà nước theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ ----------***---------- Hồ Kim Hương Cải cách các Doanh nghiệp nhà nước theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam Chuyên ngành : kinh tế Mã số : 60 31 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ Người hướng dẫn: PGS.TS Mai Thị Thanh Xuân HÀ NỘI - 2008
  2. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ và trở thành xu thế tất yếu của thời đại. Ngày nay, không một quốc gia nào có thể đứng ngoài quá trình ấy nếu không muốn tụt hậu, Việt Nam cũng không nằm ngoài quá trình đó. Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng đã chỉ rõ “ xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả” 8 “Điều chỉnh cơ cấu thị trường để vừa hội nhập khu vực vừa hội nhập toàn cầu, xử lý đúng đắn lợi ích giữa ta và các đối tác. Chủ động tham gia thương mại thế giới, các diễn đàn, các tổ chức, các định chế quốc tế một cách có chọn lọc, với bước đi thích hợp” 8 . Trải qua hơn hai thập kỷ đổi mới kinh tế, từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới, Việt Nam đã đạt được những kết quả bước đầu quan trọng trên các mặt thương mại, đầu tư, ngoại giao..., phá bỏ thế cô lập, tạo ra môi trường cùng hợp tác phát triển với các đối tác trên thế giới. Tuy nhiên hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ mang lại những cơ hội mà nó cũng đặt ra nhiều thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam, trong đó các Doanh nghiệp Nhà nước là những chủ thể chịu ảnh hưởng nhiều nhất và trực tiếp nhất. Trong nền kinh tế thị trường Việt Nam, sự tồn tại và phát triển của Kinh tế Nhà nước mà nòng cốt là Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) là một tất yếu khách quan. Nghị quyết Trung ương 3 khoá IX đã khẳng định: DNNN có vai trò Quyết định trong ổn định và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Muốn vậy, DNNN phải không ngừng đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả, giữ vững vị trí then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô, làm lực lượng nòng cốt, góp phần chủ yếu để kinh tế Nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường mở cửa. 1
  3. Để các DNNN vừa hội nhập ngày càng sâu hơn vào nền kinh tế thế giới, vừa giữ được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì cần phải tiếp tục tiến hành quá trình cải cách theo hướng nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh trên thị trường, đặc biệt là thị trường quốc tế. Xuất phát từ yêu cầu đó, chúng tôi chọn đề tài luận văn thạc sỹ của mình là: “Cải cách các Doanh nghiệp nhà nƣớc theo hƣớng hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam”. 2. Tình hình nghiên cứu: Đã có nhiều công trình nghiên cứu về cải cách DNNN cũng như hoạt động của DNNN trước và sau thời kỳ đổi mới. Liên quan trực tiếp đến đề tài có các công trình tiêu biểu sau: - “Doanh nghiệp Nhà nước trong phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam đến năm 2010”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2004 của PGS.TS Ngô Thắng Lợi. Trong công trình này, tác giả đã đánh giá thực trạng DNNN trong phát triển kinh tế – xã hội thời kỳ đồi mới, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của các DNNN trong phát triển kinh tế – xã hội ở Việt Nam. - “Sở hữu Nhà nước và doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” của PGS. TS Nguyễn Cúc – PGS. TS Kim Văn Chính, Nxb Lý luận Chính trị, 2006. Các tác giả đã làm rõ bản chất, vai trò, phạm vi hoạt động và sự cần thiết của sở hữu Nhà nước và DNNN trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, từ đó đề xuất hệ thống chính sách, giải pháp nhằm đổi mới hệ thống DNNN phù hợp với yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. -“Kinh tế Nhà nước và quá trình đổi mới doanh nghiệp Nhà nước” của Ngô Quang Minh, Nxb chính trị quốc gia Hà nội, 2001. Trong ấn phẩm này, tác giả nghiên cứu về kinh tế Nhà nước và quá trình cải cách các DNNN, từ đó đề ra các giải pháp nhằm phát triển DNNN trong thời kỳ đổi mới. 2
  4. -“Những bài học kinh nghiệm từ cải cách kinh tế ở Trung Quốc”, Dương Hoàng Oanh, Nxb Đại Học Quốc gia Hà Nội, 2003 đã phân tích đánh giá những thành tựu của quá trình cải cách kinh tế ở Trung Quốc, từ đó đưa ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Ngoài ra còn một loạt các bài nghiên cứu về DNNN và cái cách DNNN trên các tạp chí chuyên ngành cụ thể như: - “Cải cách doanh nghiệp Nhà nước là công việc hết sức cấp bách” của TS Đinh Văn Ân đăng trên Báo Đầu tư, ngày 19-3-2004 đã đưa ra những lý luận chứng minh cho việc cần thiết phải tiến hành cải cách các DNNN. - “Những giải pháp nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước” của PGS. TS Đỗ Nguyễn Khoát trên Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 5-2006. Trong bài nghiên cứu này, tác giả đã đề cập đến những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN. - “Tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước”, Trương Tấn Sang, Tạp chí Cộng sản, tháng 4/2006 đã phân tích thực trạng của cái cách DNNN và đề ra một số giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến trình cải cách này. Mặc dù các nghiên cứu trên đã nghiên cứu khá toàn diện về DNNN và giải pháp thúc đẩy hoạt động của hệ thống DNNN trong thời gian tới, song còn ít công trình đề cập đến cải cách DNNN trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy việc đi sâu nghiên cứu để đưa ra biện pháp cải cách DNNN theo hướng Hội nhập kinh tế quốc tế một cách hiệu quả là hết sức cần thiết, nhất là trong điều kiện Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức Thương mại thế giới (WTO). 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: 3.1. Mục đích nghiên cứu: Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ thực trạng cải cách DNNN ở Việt Nam hiện nay và đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả của các DNNN trong bối cảnh Hội nhập kinh tế quốc tế một cách có hiệu quả. 3
  5. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: - Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về DNNN và cải cách doanh nghiệp Nhà nước. - Phân tích, đánh giá thực trạng cải cách DNNN trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, rút ra những vấn đề bất cập của DNNN trước yêu cầu của Hội nhập kinh tế quốc tế. - Đề xuất giải pháp để đẩy mạnh cải cách DNNN theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả hơn 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu quá trình cải cách các DNNN ở Việt Nam trong điều kiện Hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng thời, luận văn cũng nghiên cứu một số nét cơ bản về quá trình cải cách DNNN của Trung Quốc để rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: - Phạm vị không gian: Nghiên cứu quá trình cải cách DNNN ở Việt Nam. - Phạm vi thời gian: Từ năm 1996 đến nay và những năm tiếp theo. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Các phương pháp cụ thể là: phương pháp trừu tượng hoá khoa học, phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê và có sự kế thừa chắt lọc kết quả kháo sát tình hình nghiên cải cách DNNN của nhiều công trình, nhiều tác giả đi trước.. 6. Đóng góp mới của luận văn: - Đánh giá một cách toàn diện và hệ thống về thực trạng cải cách DNNN ở Việt Nam từ 1996 đến nay. 4
  6. - Làm rõ những vấn đề đặt ra đối với tiến trình cải cách DNNN trong bối cảnh Hội nhập kinh tế quốc tế. - Đề xuất một số những giải pháp tiếp tục cải cách DNNN để hội nhập kinh tế quốc tế hiệu quả hơn. 5
  7. 7. Bố cục của Luận văn: Ngoài mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương: - Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận và kinh nghiệm quốc tế về cải cách DNNN trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. - Chƣơng 2: Thực trạng cải cách DNNN Việt Nam và những vấn đề đặt ra trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. - Chƣơng 3: Định hƣớng và giải pháp tiếp tục cải cách DNNN theo hƣớng hội nhập kinh tế quốc tế. 6
  8. CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ CẢI CÁCH DNNN TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 1.1. DNNN VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM 1.1.1. Khái niệm DNNN Trước đổi mới kinh tế (năm 1986), ở Việt Nam quan niệm DNNN là doanh nghiệp được thành lập bằng 100% vốn của Nhà nước. Sau đổi mới, Việt Nam chủ trương chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường thì quan niệm về DNNN đã có sự thay đổi. Theo luật DNNN Việt nam năm 1995, DNNN được hiểu là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu Nhà nước giao. Doanh nghiệp Nhà nước có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh trong phạm vi số vốn do Nhà nước quản lý. Theo luật này thì các DNNN phải là các doanh nghiệp có 100% vốn thuộc Nhà nước, nhưng Nhà nước không quản lý trực tiếp tất cả mọi hoạt động kinh doanh. Quan điểm về DNNN sau đó có thay đổi cho phù hợp hơn với đặc điểm của DNNN. Luật DNNN năm 2003 có sự điều chỉnh về khái niệm DNNN như sau: DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty Nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn. Như vậy, theo luật này, DNNN không nhất thiết là nhà nước phải đầu tư 100% vốn như đã quy định tại luật DNNN Việt nam năm 1995, có thể nhà nước chỉ cần giữ phần vốn góp chi phối. Năm 2005, Quốc hội ban hành luật Doanh nghiệp chung (thay cho luật DNNN và Doanh nghiệp tư nhân như trước đây). Theo luật này, DNNN là doanh nghiệp do nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ (Khoản 22, điều 4, Luật 7
  9. Doanh nghiệp 2005). Theo luật này, khái niệm về DNNN đã được mở rộng hơn trước đó là chỉ cần nhà nước giữ cổ phần chi phối trong các DNNN. Như vậy, DNNN là doanh nghiệp được thành lập bởi 100% vốn Nhà nước hoặc những doanh nghiệp mà Nhà nước giữ cổ phần chi phối. 1.1.2 Phân loại DNNN Căn cứ vào từng tiêu chí khác nhau, người ta có nhiều cách phân loại DNNN khác nhau. Theo Luật doanh nghiệp Việt nam , có 3 cách phân loại DNNN: a. Phân loại theo chức năng: Theo cách phân loại này, DNNN bao gồm 2 loại là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh và doanh nghiệp hoạt động công ích. Trong đó doanh nghiệp hoạt động kinh doanh: là DNNN hoạt động với mục tiêu là lợi nhuận, căn cứ vào lợi nhuận để đề ra các chiến lược hoạt động còn doanh nghiệp hoạt động công ích: là những doanh nghiệp hoạt động sản xuất cung ứng dịch vụ công cộng theo các chính sách của nhà nước hoặc trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng. b. Phân loại theo sở hữu: Theo cách phân loại này, DNNN gồm có 2 loại là DNNN chỉ có một chủ sở hữu, DNNN có nhiều chủ sở hữu vốn. Loại DNNN chỉ có một chủ sở hữu là doanh nghiệp trong đó nhà nước nắm giữ 100% vốn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu lại bao gồm 2 loại: Một là các loại DNNN mà nhà nước nắm giữ dưới 50% cổ phần nhưng trong đó cổ phần của nhà nước ít nhất gấp 2 lần cổ phần của cổ đông lớn nhất. Hai là loại DNNN mà trong đó nhà nước không có cổ phần chi phối, nhưng có quyền quyết định một số vấn đề quan trọng của doanh nghiệp theo thoả thuận trong điều lệ. c. Phân loại doanh nghiệp theo cấp quản lý: Theo cách phân loại này có 2 loại DNNN là DNNN địa phương và DNNN trung ương. Doanh nghiệp trung ương là những doanh nghiệp do cơ quan trung ương nhà nước giữ cổ phần chi phối. Còn doanh nghiệp địa phương 8
  10. là những doanh nghiệp do các cơ sở địa phương quản lý và chịu sự điều hành của cấp địa phương này. 1.1.3. Vai trò của DNNN trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN ở Việt Nam DNNN có ba vai trò cơ bản, đó là: Vai trò kinh tế, vai trò chính trị, vai trò xã hội. Do vậy nó có vai trò quan trọng trong nền kinh tế của mỗi quốc gia: tạo tiềm lực vật chất cho Nhà nước, là công cụ để Nhà nước can thiệp, điều tiết nền kinh tế, đồng thời DNNN giúp thực hiện những nhiệm vụ chính trị, xã hội của Nhà nước. 1.1.3.1. Vai trò kinh tế Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhà nước tác động vào nền kinh tế theo hai cách: điều tiết thông qua các công cụ, chính sách quản lý vĩ mô chung và tác động trực tiếp thông qua hoạt động của các DNNN. Do đó vai trò kinh tế của các DNNN trong nền kinh tế thị trường được thể hiện ở các mặt cơ bản sau: Thứ nhất, DNNN giúp khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường và khu vực tư nhân. Đây là vai trò quan trọng nhất của các DNNN trong nền kinh tế thị trường nói chung. Với tính định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò này càng phải được đề cao vì tất cả những khuyết tật của thị trường đều làm giảm hiệu quả xã hội của hệ thống kinh tế do đó cần khắc phục. Vai trò của DNNN thể hiện rõ nét ở hai lĩnh vực đó là: đảm nhận sản xuất các hàng hoá công cộng và đảm nhận vai trò quan trọng trong các ngành độc quyền tự nhiên. Đối với các hàng hoá công cộng, nhất là hàng hoá công cộng thuần tuý, do tính chất của loại hàng hoá này là không loại trừ và không thể phân chia nên các doanh nghiệp tư nhân sẽ không tham gia mà chỉ có DNNN tham gia sản xuất mới tạo ra được tính hiệu quả. Còn đối với những ngành độc quyền, đây là những ngành mà chi phí sản xuất chỉ có thể tối thiểu nếu toàn bộ sản lượng ngành chỉ do một nhà sản xuất cung cấp. Do vậy DNNN đảm nhiệm trong lĩnh vực này là cần thiết. 9
  11. Thứ hai, DNNN đảm nhận các lĩnh vực sản xuất kinh doanh có tính chiến lược đối với sự phát triển kinh tế xã hội đòi hỏi vốn đầu tư lớn vượt quá khả năng của tư nhân Vai trò này được đề cao đặc biệt ở nước ta. Đó là vì nền kinh tế Việt Nam chưa phát triển, khả năng tích tụ và tập trung vốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa cao. Do vậy các DNNN với tiềm lực mạnh mẽ sẽ đảm nhiệm các lĩnh vực này. Để thực hiện được vai trò nêu trên cần có các điều kiện như sau: Một là, phải thực sự xuất hiện lĩnh vực, ngành có tính chiến lược của quốc gia; Hai là, khả năng thực hiện đầu tư tư nhân thấp; Ba là, đội ngũ cán bộ và bộ máy nhà nước đủ sức vận hành dự án đầu tư từ khâu lập dự án đến tổ chức và giám sát thực hiện. Thứ ba, tham gia vào những lĩnh vực mới, có hệ số rủi ro cao. DNNN có vai trò mở đường trong phát triển nền kinh tế nói chung. Do vậy khi tham gia vào những lĩnh vực mới, có hệ số rủi ro cao tức là các DNNN đang làm đúng theo vị trí, vai trò then chốt của mình. Để thực hiện được vai trò này, phải là những doanh nghiệp nhà nước đặc biệt, có quy mô lớn, được cơ quan nhà nước quy định chức năng, nhiệm vụ rõ ràng. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như Việt Nam, DNNN thực hiện nhiệm vụ này theo hai hướng là vừa trực tiếp tham gia cạnh tranh với các doanh nghiệp tư nhân, vừa có các doanh nghiệp tài chính thực hiện hoạt động đầu tư, tài trợ cho các doanh nghiệp khác thông qua cơ chế vốn, mua cổ phần. Thứ tư. tham gia vào một số ngành có lợi thế cạnh tranh Đây là vai trò vừa mang tính chất kinh tế, vừa mang tính chất chính trị. Đối với Việt nam trong giai đoạn hiện nay, vai trò tham gia vào những ngành có lợi thế cạnh tranh và thu ngân sách cao vẫn còn phát huy tác dụng, ít nhất cho đến khi tiềm lực tài chính công đủ mạnh. Tuy nhiên, trong tương lai, vai trò này dần sẽ mất đi, những DNNN trong khu vực này sẽ được chuyển đổi sở hữu, nhường chỗ cho khu vực tư nhân. 10
  12. 1.1.3.2.Vai trò chính trị Doanh nghiệp nhà nước dù ở mô hình nào cũng có vai trò chính trĩ rõ rệt. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vai trò chính trị của các DNNN có thể thay đổi theo từng thời kỳ, tuỳ thuộc vào các yếu tố khách quan và chủ quan. Tuy nhiên về nguyên tắc, vai trò chính trị thể hiện ở hai nội dung cơ bản: Thứ nhất, nắm giữ những ngành đặc biệt quan trọng liên quan đến an ninh quốc phòng của quốc gia. Thứ hai, tham gia chiếm giữ một số vị trí thiết yếu, quan trọng (tuỳ theo từng thời kỳ phát triển kinh tế) để chủ động định hướng xã hội, làm đối trọng trong phát triển hội nhập kinh tế quốc tế. 1.1.3.3. Vai trò xã hội Vai trò xã hội của DNNN trong nền kinh tế thị trường thường gắn liền với vai trò kinh tế và vai trò chính trị của khu vực này. Vai trò xã hội của các DNNN được thể hiện ở các nội dung sau: Thứ nhất, DNNN có vai trò là công cụ của nhà nước làm bà đỡ cho hệ thống doanh nghiệp phát triển ổn định. Thực hiện vai trò này, nhà nước với tư cách là chủ sở hữu phải gánh chịu những thiệt hại về kinh tế nhưng do quy mô tác động ở nhiều ngành, có thể bù trừ thu nhập về tổng thể, hoàn toàn có thể không cần hỗ trợ lớn từ ngân sách. Thứ hai, DNNN đảm nhận những ngành ở những địa bàn khó khăn có ý nghĩa chính trị – xã hội mà tư nhân không đầu tư, thực hiện sự bảo đảm cân bằng về đầu tư phát triển theo vùng, địa bàn. Vai trò này rất quan trọng vì nó vừa bảo đảm mục tiêu xã hội, vừa bảo đảm các mục tiêu chính trị của đầu tư và quản lý nhà nước. Thứ ba, DNNN có vai trò xã hội khi trực tiếp đảm nhận các ngành sản xuất hàng hoá công cộng. Khi DNNN tham gia khắc phục khuyết tật thị trường về sản xuất hàng hoá công cộng, chúng đã thực hiện vai trò xã hội. Các hàng hoá công cộng có tác động xã hội lớn là kết cấu hạ tầng kỹ thuật (đường giao thông, 11
  13. điện, nước, thông tin, chợ…) và các dịch vụ thiết yếu khác (giao thông công cộng, cây xanh, chiếu sáng công cộng, vệ sinh công cộng, xử lý nước thải…). Như vậy kinh tế Nhà nước mà chủ yếu là các DNNN với vai trò của mình nhằm đảm bảo các cân đối vĩ mô lớn của nền kinh tế cũng như tạo đà tăng trưởng lâu dài và bền vững cho nền kinh tế. 1.2. CẢI CÁCH DNNN VÀ YÊU CẦU CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ ĐỐI VỚI CẢI CÁCH DNNN 1.2.1. Cải cách DNNN 1.2.1.1. Quan niệm cải cách DNNN Theo từ điển Bách khoa Việt Nam, cải cách kinh tế được hiểu là “sự thay đổi trong nền kinh tế quốc dân trên cơ sở quan điểm đường lối, chính sách đổi mới nhằm giải quyết mâu thuẫn trong từng thời kỳ giữa yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất một cách năng động với tình trạng lạc hậu của quan hệ sản xuất và của những hình thức tổ chức và cơ chế quản lý” 3,tr 336 . Ở Việt nam, cải cách kinh tế được khởi động từ đầu những năm 80 của thể kỷ trước và được đẩy mạnh từ giữa những năm 80 (gọi là đổi mới kinh tế), nhằm mục tiêu thay đổi cơ cấu kinh tế (cơ cấu ngành, cơ cấu vùng, cơ cấu thành phần) phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội trong nước và quan hệ quốc tế; thay đổi cơ chế tổ chức quản lý kinh tế – xã hội, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, chuyển từ cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu và bao cấp sang cơ chế thi trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kết hợp chặt chẽ đổi mới chủ trương, chính sách kinh tế, tổ chức quản lý của Nhà nước ở tầm trên vĩ mô trên cơ sở vận dụng các quy luật kinh tế khách quan của nền kinh tế hàng hoá; phát huy các mặt tích cực, hạn chế các nhân tố tiêu cực của kinh tế thị trường; đổi mới cơ chế kinh tế, tổ chức ở tầm vi mô, phát huy triệt để vai trò chủ động, khả năng sáng tạo tinh thần tự chủ trong sản xuất kinh doanh, tự chủ về tài chính. Kết hợp cải cách kinh tế với cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị. Những phương hướng đó đã thu được những thành tựu nổi bật, khắc phục tình trạng sản xuất trì 12
  14. trệ và khủng hoảng kinh tế, kiềm chế lạm phát, giải phóng mọi năng lực sản xuất, tạo ra nhịp độ phát triển kinh tế – xã hội cao, cải thiện một bước đời sống nhân dân về vật chất cũng như tinh thần. Như vậy, cải cách kinh tế cũng chính là những biện pháp được đưa ra để giải quyết những đòi hỏi của thực tiễn với mục tiêu rõ ràng, chương trình cụ thể nhằm để quan hệ sản xuất phải luôn luôn phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất của từng thời kỳ, từng giai đoạn cụ thể. Cải cách DNNN về thực chất là sự “đổi mới và sắp xếp lại” các DNNN. Đó là yếu tố cơ bản của quá trình cải cách kinh tể nhằm chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường. Cải cách DNNN là bộ phận hợp thành quan trọng và là nội dung ngày càng mang tính quyết định phương hướng, triển vọng cải cách chuyển đổi cơ chế và mở cửa kinh tế nói chung của Việt Nam. Trong khuôn khổ phạm vi nghiên cứu này, cải cách DNNN được hiểu là biện pháp được thực hiện để giải quyết những đòi hỏi của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra, nhằm mục tiêu nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, năng lực cạnh tranh của các DNNN để giữ vững ví trí then chốt trong nền kinh tế. 1.2.1.2. Nội dung của cải cách DNNN Trong nền kinh tế thị trường Việt nam, sự tồn tại và phát triển của kinh tế Nhà nước mà nòng cốt là DNNN là một tất yếu khách quan. Nghị quyết Trung ương 3 khóa IX đã khẳng định: DNNN có vai trò quyết định trong ổn định và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước 8 Mục tiêu của cải cách DNNN là nhằm giúp các DNNN nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh trong nền kinh tế nhằm giữ vững vị trí then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ quan trọng để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô, làm lực lượng nòng cốt, góp phần chủ yếu để kinh tế Nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế hội nhập như hiện nay. 13
  15. Theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 Khoá IX, cải cách DNNN Việt Nam trong giai đoạn hiện nay có ba nội dung chủ yếu sau: Tiến hành phân loại, sắp xếp hợp lý khu vực DNNN và xử lý các DNNN không phù hợp. Khi tiến hành cải cách, nhà nước tiến hành phân loại, sắp xếp lại khu vực DNNN, những DNNN cần thiết sẽ được giữ lại, còn đối với những DNNN không phù hợp, nhà nước sẽ tiến hành sắp xếp và xử lý. Việc sắp xếp lại các DNNN hay còn gọi là tư nhân hoá những DNNN không cần thiết được tiến hành dưới các hình thức cụ thể sau: + Hình thức bán DNNN: Nhà nước bán toàn bộ tài sản của doanh nghiệp đó. Tuy nhiên trong hình thức này, nhà nước vẫn có thể quyết định giữ lại một phần sở hữu của mình trong doanh nghiệp đó, đưa đến kết quả hình thành một doanh nghiệp hỗn hợp. + Hình thức cho thuê DNNN: Nhà nước chuyển giao quyền điều hành doanh nghiệp này cho một doanh nghiệp tư nhân, nhà nước lấy tiền thuê hoặc thu một phần lợi nhuận. Trong phương thức này, nhà nước giữ nguyên quyền sở hữu doanh nghiệp, còn người thuê được hưởng lợi do sử dụng những tài sản hiện có của DNNN, và vì mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, doanh nghiệp tư nhân sẽ thúc đẩy hiệu quả sản xuất của DNNN. + Hình thức cho thầu là cách nhà nước ký hợp đồng doanh nghiệp tư nhân để sản xuất một loại hàng hoá và dịch vụ nào đó, hoặc thuê một doanh nghiệp tư nhân quản lý một doanh nghiệp hiện có. Đó là phương thức nhượng quyền kiểm soát DNNN mà không từ bỏ quyền sở hữu doanh nghiệp. +Hình thức xây dựng khai thác và chuyển giao được xem như một phương thức cho thầu đặc biệt. Phương thức này cho phép chính phủ tạo ra những tài sản cố định mà không phải đi vay. Doanh nghiệp tư nhân thầu xây dựng các tài sản cố định này và được quyền thu lãi trong một thời gian nhất định. 14
  16. + Hình thức cổ phần hoá DNNN: Mục tiêu của cổ phần hoá DNNN là tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động, phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của cổ đông và tăng cường sự giám sát của xã hội đối với doanh nghiệp; bảo đảm hài hoà lợi ích nhà nước, doanh nghiệp và người lao động. Với hình thức này nhà nước vẫn có thể giữ lại quyền sở hữu với tư cách là cổ động. Cải tiến tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN Những DNNN được giữ lại đều phải thay đổi cơ cấu hoạt động nhằm mục tiêu chủ yếu là làm cho doanh nghiệp đó đạt được các mục tiêu chính sách với phí tổn ít nhất cho nhà nước, nâng cao hiệu quả hoạt động của từng doanh nghiệp và toàn bộ khu vực DNNN. Hướng chung của việc cải cách này đó là tăng cường tính công khai của các hoạt động doanh nghiệp, mọi hoạt động chi tiêu liên quan đến tài chính nhà nước đều được thẩm định kỹ và kết quả của hoạt động chi đều được đánh giá, xác định lại mọi quan hệ lợi ích và ổn định rõ ràng những mục tiêu thương mại và những mục tiêu phi thương mại của từng doanh nghiệp để có biện pháp phù hợp. Một số hướng cải cách đối với các DNNN như sau: + Nâng cao tính tự chủ tài chính của các DNNN nhằm giảm gánh nặng cho nhà nước. Để thực hiện phương hướng này, nhà nước cho phép DNNN toàn quyền sử dụng doanh thu để chi trả các chi phí sản xuất, mở rộng phạm vi kinh doanh. + Hạn chế cho các DNNN vay tiền tràn lan để trợ cấp giá bán của đầu ra hoặc để giảm bớt cổ phần của nhà nước trong doanh nghiệp vì với cả hai hình thức này, đều dẫn đến hậu quả tích luỹ nợ. + Cải tiến chế độ báo cáo và phương pháp theo dõi các DNNN tạo cho các doanh nghiệp này hoạt động hiệu quả hơn. Đối với chế độ báo cáo phải rõ ràng, minh bạch, công khai. Đối với kiểm toán cần chặt chẽ để nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN. 15
  17. + Quy định lại chế độ trách nhiệm đối với mọi khâu quản lý các DNNN. Những người quản lý DNNN chỉ cần chịu trách nhiệm trước hội đồng quản trị còn hội đồng quản trị chịu trách nhiệm trước một cơ quan chính phủ thích hợp. + Cải cách cơ chế kích thích đối với người lao động và nhà quản lý. Quyền lợi của họ được gắn với tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Thay đổi thể chế kinh tế, tạo cho các DNNN một môi trường cạnh tranh để nâng cao hiệu quả hoạt động. Để thúc đẩy các DNNN hoạt động có hiệu quả, tiến hành thay đổi thể chế kinh tế, tạo ra mội trường cạnh tranh lành mạnh bằng cách khuyến khích khu vực tư nhân, tự do hoá thương mại, tạo ra cơ chế tài chính linh hoạt... nhằm đặt các DNNN vào môi trường cạnh tranh bình đẳng. Trên đây là những nội dung chính mà cải cách DNNN ta thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN. Tuy nhiên để phát huy tối đa được hiệu quả thì cần tiến hành đồng bộ cả ba nội dung trên. 1.2.2. Yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế đối với cải cách DNNN 1.2.2.1. Hội nhập kinh tế quốc tế - cơ hội và thách thức đối với DNNN Hội nhập kinh tế quốc tế chính là quá trình các doanh nghiệp của một quốc gia tham gia một cách chủ động, tích cực vào nền kinh tế thế giới. Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế khách quan trong thế giới hiện nay. Hội nhập kinh tế quốc tế có nghĩa là mở cửa nền kinh tế, thực hiện tự do hoá thương mại đưa các doanh nghiệp nhà nước vào cuộc cạnh tranh quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế mang lại cho các DNNN rất nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách thức. Để việc cải cách DNNN Việt nam có hiệu quả thì việc nắm được các cơ hội và thách thức do quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mang lại là rất cần thiết. Hội nhập kinh tế quốc tế đem lại cho các DNNN Việt nam nhiều cơ hội trong phát triển. Đó là: 16
  18. - Cơ hội mở cửa thị trường với dung lượng lớn và nhu cầu có khả năng thanh toán cao. Khi đó các DNNN có điều kiện tiếp cận với các thị trường tiềm năng lớn như Châu Âu, Bắc Mỹ, Nhât Bản,… và các khu vực thị trường rộng lớn khác với hơn 5 tỷ người tiêu dùng. Cả trong lý thuyết lẫn thực tế, vai trò của thị trường đã được khẳng định rõ nét trong việc điều tiết mọi đầu mối sản xuất kinh doanh, kích thích tăng cường sức mua, làm đa dạng hoá và khác biệt hoá nhu cầu, tạo ra sức hút cao đối với khả năng cung ứng của các DNNN. Hội nhập kinh tế quốc tế mở rộng tự do thương mại có khả năng tạo ra những cơ hội thị trường cho các DNNN. - Hàng hoá dịch vụ của Việt nam được đối xử bình đẳng như các nước khác trong quá trình hội nhập, do đó sẽ cải thiện được sức cạnh tranh của hàng hóa cũng như của doanh nghiệp và quốc gia. Các hoạt động xuất nhập khẩu được mở rộng, góp phần phát triển sản xuất trong nước, tạo việc làm, tăng thu nhập quốc dân và nâng cao đời sống nhân dân. Khi đó các DNNN cần được cải cách theo hướng đầu tư vào việc nâng cao chất lượng sản phẩm để từ đó nâng cao thị phần trong thị trường tự do. - Các DNNN có thêm nhiều điều kiện để tiếp nhận nguồn vốn quốc tế với nhiều hình thức đa dạng khi môi trường kinh doanh và đầu tư được mở rộng đặc biệt là hiện nay nguồn vốn của các DNNN đang thiếu. Cải cách DNNN cần theo hướng mở rộng hợp tác kinh doanh để từ đó thu hút được nhiều nguồn vốn quốc tế. - Tiếp cận nhanh chóng công nghệ kỹ thuật tiên tiến hiện đại thông qua con đường chuyển giao công nghệ, rút ngắn những bước đi dò dẫm, giảm chi phí trong công tác nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng, thông qua nhiều con đường nước ngoài, chuyển giao công nghệ… các doanh nghiệp Việt Nam có thể tiếp nhận nhanh chóng công nghệ, kỹ thuật hiện đại, nâng cao năng suất lao động, cải tiến chất lượng sản phẩm, bảo vệ thị trường nội địa và chủ động tham gia thị trường quốc tế. Đây sẽ là thuận lợi cho tiến trình cải cách DNNN trong việc nâng cao công nghệ trong các doanh nghiệp. 17
  19. - Có điều kiện tham gia nhanh chóng vào phân công lao động quốc tế theo dây chuyền sản xuất hoặc công đoạn kinh doanh của các doanh nghiệp lớn. Với việc mở rộng quan hệ thương mại quốc tế, sự vận động của các yếu tố nguồn lực cũng bắt đầu mang tính chuyên môn hoá trên cấp độ quốc tế trong đó có lao động. Chúng ta từ đó sẽ căn cứ vào tình hình phân công lao động để đưa ra các biện pháp cải cách DNNN cho phù hợp hơn. - Có khả năng tiếp cận, học tập những kinh nghiệm và kỹ năng quản lý tiên tiến của thế giới. Do vậy có thể áp dụng để thúc đẩy nhanh tiến trình cải cách DNNN theo hướng tích cực. Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội mà hội nhập kinh tế quốc tế mang lại cho các DNNN, thì nó cũng đem đến những thách thức. Các thách thức lớn là: - Việt nam phải mở cửa, vai trò bảo hộ của nhà nước yếu dần và không còn nữa. Các DNNN phải cạnh tranh ngay tại thị trường trong nước. Đó là sự cạnh tranh quyết liệt trên cả ba cấp độ do hàng rào bảo hộ bị dỡ bỏ, do phải thực hiện chế độ đãi ngộ tối huệ quốc và đổi xử quốc gia, nên các sản phẩm nước ta cạnh tranh bình đẳng với các sản phẩm nước khác không chỉ trên thị trường thế giới mà ngay cả trên thị trường nội địa. Điều đó không chỉ đòi hỏi bản thân sản phẩm phải có chất lượng cao, giá thành hạ (điều này chủ yếu do công nghệ sản xuất, công nghệ quản lý của doanh nghiệp quyết định). - Năng lực canh tranh của Việt nam nói chung còn ở thứ bậc thấp trên cả ba cấp độ: quốc gia, doanh nghiệp và hàng hoá. Ngày 31/10 năm 2007, Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) lại công bố báo cáo thường niên về khả năng cạnh tranh toàn cầu của các quốc gia trong đó vị trí xếp hạng của Việt nam là 68 trong danh sách 131 quốc gia và vùng lãnh thổ. Xét về các tiêu chí cạnh tranh sản phẩm như giá cả, chất lượng, tổ chức, tiêu thụ và uy tín của doanh nghiệp, sức cạnh tranh của hàng Việt Nam cũng thấp hơn so với các nước trên thế giới và trong khu vực. Nhiều mặt hàng được coi là có khả năng cạnh tranh như gạo, cà phê, dệt may, giày dép đang có nguy cơ giảm sút về sức cạnh tranh. Trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ lực chưa có nhiều mặt hàng có hàm lượng công nghệ cao, giá trị tăng lớn. Hơn nữa, phần lớn trong số đó hiện nay đang gặp phải những 18
  20. khó khăn mang tính cơ cấu như hạn chế về năng suất, diện tích canh tác, khả năng khai thác, đánh bắt. Việc phát triển các mặt hàng mới đang gặp phải những khó khăn lớn về vốn, công nghệ và định hướng thị trường tiêu thụ. - Hệ thống pháp luật, chính sách chế độ quản lý của Việt nam chưa thống nhất và đồng bộ, vẫn còn nhiều bất cập về pháp lý và thể chế, về cấu trúc thị trường và hành vi cạnh tranh. Quá trình hội nhập đòi hỏi phải có sự điều chỉnh lớn về chính sách và pháp luật để phù hợp với các cam kết, thông lệ quốc tế đảm bảo cho tự do cạnh tranh. Các DNNN Việt Nam đang tham gia tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện của nền kinh tế quá độ, có sự chênh lệch lớn về hệ thống pháp luật. Điều này có thể tạo sự nhất quán trong cơ cấu hành chính vĩ mô. - Tử tưởng ỷ lại của các DNNN vào sự bảo hộ của Nhà nước còn lớn. Nhiều ngành, nhiều doanh nghiệp còn coi công việc hội nhập kinh tế là việc của Nhà nước, trong khi đó các cam kết hội nhập yêu cầu Việt Nam phải xây dựng được môi trường kinh doanh cạnh tranh bình đẳng theo hướng xóa bỏ mọi bảo hộ, trợ cấp không phù hợp với thông lệ quốc tế. 1.2.2.2. Yêu cầu của hội nhập kinh tế đối với cải cách DNNN Việt Nam Do Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế nên khó có thể xác định một cách chính xác, đầy đủ về những yêu cầu của hội nhập đặt ra đối với cải cách DNNN cho phù hợp với hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy, cách tiếp cận thực tiễn hơn cả là xem xét các định chế của toàn cầu hóa hiện nay - tức là xem xét các nội dung của toàn cầu hóa thể hiện trong các Hiệp định của WTO về mở cửa thị trường. Theo đó, các nước tham gia vào tổ chức này phải mở cửa thị trường nước mình cho các nước thành viên cả về thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ và đầu tư. Mở cửa thị trường về thương mại hàng hóa: các nước phải loại bỏ các hàng rào phi thuế quan cản trở thương mại, phải giảm thuế nhập khẩu (mức độ và lộ trình cắt giảm còn phụ thuộc vào kết quả đàm phán) để hàng hóa có thể lưu thông tự do từ nước này sang nước khác không bị hạn chế. Vì vậy, trong cải 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2