ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA KINH TẾ
NGUYỄN VĂN THIỀNG
CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC KINH TẾ
HÀ NỘI - 2004
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA KINH TẾ
NGUYỄN VĂN THIỀNG
CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Kinh tế chính trị Mã số: 5.02.01
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC KINH TẾ.
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm Văn Dũng
HÀ NỘI - 2004
MỤC LỤC
TRANG
MỞ ĐẦU CHƢƠNG 1: CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI DNVVN TRONG NỀN KINH TẾ HIỆN ĐẠI CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN
1 6 6 6 11 12 16 23 23 23 24 25 25 25 25 30 33 35 38 38 40 43 50
61
61 66 76 79 79
79 80
1.1. DNVVN và vai trò của nó trong nền kinh tế hiện đại 1.1.1. Khái niệm và các tiêu thức chủ yếu để xác định DNVVN ở các nƣớc 1.1.2. Vai trò của DNVVN trong nền kinh tế 1.1.3. Đặc điểm của DNVVN 1.1.4. Sự cần thiết phải hỗ trợ và phát triển DNVVN 1.2. Một số nhân tố ảnh hưởng đến chính sách đối với các DNVVN 1.2.1. Trình độ phát triển kinh tế - xã hội 1.2.2. Chất lƣợng đội ngũ cán bộ hoạch định chính sách 1.2.3. Đội ngũ các nhà quản lý doanh nghiệp 1.2.4. Sự phát triển và khả năng ứng dụng tiến bộ KH&CN 1.2.5. Tình hình thị trƣờng 1.3. Chính sách phát triển DNVVN ở một số quốc gia 1.3.1. Hàn Quốc 1.3.2. Singapore 1.3.3. Đài Loan 1.3.4. Một số kinh nghiệm của các nƣớc về chính sách phát triển các DNVVN CHƢƠNG 2: CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DNVVN Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA 2.1. Tiến trình chính sách và tác động tới sự phát triển DNVVN ở Việt Nam 2.1.1. Giai đoạn 1986 - 1990 2.1.2. Giai đoạn 1991 - 1999 2.1.3. Giai đoạn 2000 đến nay 2.2. Những kết quả đạt được và những tồn tại, yếu kém trong chính sách phát triển DNVVN ở Việt Nam thời gian qua 2.2.1. Những kết quả chủ yếu 2.2.2. Những tồn tại, yếu kém chủ yếu 2.2.3. Một số nguyên nhân chủ yếu của những tồn tại, yếu kém CHƢƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ VỀ CHÍNH SÁCH 3.1. Một số quan điểm chính trong việc xây dựng chính sách phát triển DNVVN 3.1.1. Không phân biệt đối xử, tạo môi trƣờng cạnh tranh hoàn toàn bình đẳng 3.1.2. Tìm mọi biện pháp để huy động nguồn nội lực tiềm ẩn của đất nƣớc, tiếp tục xoá bỏ những rào cản kìm hãm
80
81 81 81 81 83 86 88 90 92 95 96 97 98
3.1.3. Nhà nƣớc không làm thay doanh nghiệp mà chỉ hỗ trợ những gì doanh nghiệp không thể làm đƣợc 3.1.4. Chính sách phát triển DNVVN đặt trong quan hệ với các chính sách khác 3.1.5. Tính ổn định cao và rõ ràng của chính sách 3.2. Một số khuyến nghị về chính sách phát triển DNVVN 3.2.1. Chính sách cạnh tranh 3.2.2. Chính sách khoa học và công nghệ 3.2.3. Chính sách thƣơng mại 3.2.4. Chính sách đầu tƣ 3.2.5. Chính sách vốn, tài chính, tín dụng 3.2.6. Chính sách thuế 3.2.7. Chính sách đất đai 3.2.8. Chính sách đào tạo nguồn nhân lực 3.2.9. Khuyến khích phát triển hiệp hội DNVVN Kết luận Tài liệu tham khảo Phụ lục
NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
Chủ nghĩa xã hội Tiếng Việt: - CNXH
- DNVVN Doanh nghiệp vừa và nhỏ
- DNNN Doanh nghiệp nhà nước
- DNNQD Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
- CTCP Công ty cổ phần
- KH&CN Khoa học và công nghệ
- KHKT Khoa học kỹ thuật
- CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
- TNHH Trách nhiệm hữu hạn
Khu công nghiệp - KCN
Khu chế xuất - KCX
Đăng ký kinh doanh - ĐKKD
Giải phóng mặt bằng - GPMB
Đầu tư nước ngoài - ĐTNN
Lực lượng sản xuất - LLSX
Quan hệ sản xuất - QHSX
Giá trị gia tăng - GTGT
Xuất nhập khẩu - XNK
Ngân hàng Thế giới Tiếng Anh: - WB
Công ty tài chính quốc tế - IFC
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam đã có bước phát
triển rõ rệt. Theo như đánh giá của nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VIII thì thành công của đổi mới đã đưa "nước ta ra khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng và kéo dài". Một trong những
điểm mấu chốt đem lại sự thàng công đó chính là chúng ta đã biết huy
động các nguồn lực của đất nước, tính năng động, chủ động, sáng tạo
của tất cả các doanh nghiệp, trong đó có đóng góp rất quan trọng của
các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN).
Trong giai đoạn đầu phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa thì loại hình DNVVN chiếm số lượng lớn
trong nền kinh tế ở nước ta và có xu hướng phát triển nhanh. DNVVN
không chỉ thích hợp với nền kinh tế của các nước đang phát triển mà
ngay cả với những nước phát triển. Những ưu thế của loại hình
DNVVN không chỉ được đưa ra trong lý luận mà còn được thể hiện
một cách rõ ràng và thuyết phục trong thực tiễn ở nhiều nước trên thế
giới.
Trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, vấn đề cạnh tranh
ngày càng trở nên gay gắt và có sự thay đổi căn bản trong tư duy kinh
tế so với cách đây một thập kỷ. Trình độ phát triển của nền kinh tế
Việt Nam hiện nay còn hết sức thấp kém, lạc hậu, do đó việc mong
muốn có những doanh nghiệp lớn, những tập đoàn mạnh chiếm lĩnh
thị trường thế giới là một điều khó có thể thực hiện được ngay lúc này.
Thiết thực hơn, chúng ta nên tìm cách phát triển những loại hình
doanh nghiệp phù hợp với đặc thù, trình độ KH&CN, tiềm lực kinh tế
của mình trên cơ sở phát huy tốt những lợi thế so sánh về thị trường,
1
về nguồn nguyên liệu và lao động rẻ,… chiếm lĩnh thị phần ở các thị
trường ngách, cung ứng ở những phần nhỏ của thị trường quốc tế rộng
lớn có nhiều đối thủ cạch tranh, từng bước tăng dần thực lực, tự tin hội
nhập một cách vững chắc.
Tuy nhiên, DNVVN dù sao cũng có nhưng hạn chế của nó, để
có thể phát huy tối đa năng lực còn tiềm ẩn của loại hình doanh nghiệp
này thì rất cần phải có những chính sách hỗ trợ hợp lý của Chính phủ.
Thực tiễn kinh nghiệm quốc tế cho thấy chỉ khi nào có được những
chính sách đúng đắn định hướng cho chiến lược phát triển DNVVN thì
mới có thể phát huy tốt những ưu thế của nó, phục vụ đắc lực cho sự
phát triển kinh tế - xã hội.
Xuất phát từ suy nghĩ đó nên tôi đã chọn đề tài "Chính sách phát
triển DNVVN ở Việt Nam" nhằm phân tích, luận giải về DNVVN trước
những đòi hỏi của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; quan điểm, cách
đánh giá thực trạng chính sách phát triển DNVVN Việt Nam hiện nay;
đưa ra những khuyến nghị, giải pháp về mặt cơ chế, chính sách góp phần
vào thúc đẩy sự phát triển DNVVN Việt Nam trong xu thế toàn cầu hóa
kinh tế, trước yêu cầu chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
2.Tình hình nghiên cứu
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về đề tài DNVVN đã được
thực hiện ở nước ta, chẳng hạn: Báo cáo định hướng chiến lược và chính
sách phát triển DNVVN ở Việt Nam đến năm 2010 ( của Bộ Kế hoạch và
Đầu tư - MPI), Phát triển DNVVN: Kinh nghiệm nước ngoài và phát
triển DNVVN ở Việt Nam ( của Vũ Quốc Tuấn, Hoàng Thu Hòa),… Đề
tài này không chỉ nhận được sự quan tâm nghiên cứu của Chính phủ, các
Bộ, Ngành, Viện nghiên cứu, các nhà khoa học trong nước mà còn có sự
hỗ trợ tích cực của các tổ chức phi chính phủ (NGOs), các tổ chức quốc
tế như: DNVVN Việt Nam: Trên đường đi đến phồn vinh ( Leila Webster,
MPDF 1999), Báo cáo nghiên cứu hoàn thiện chính sách kinh tế vĩ mô và
2
đổi mới các thủ tục hành chính nhằm thúc đẩy sự phát triển của các
DNVVN tại Việt Nam (Dự án US/VIE/95/004), DNVVN-Hiện trạng và
những kiến nghị giải pháp (Viện Friedrich Ebert, 2000),… những nghiên
cứu đó đã góp phần rất quan trọng trong công việc nhận thức đầy đủ rõ
ràng hơn về DNVVN. Nhiều kiến nghị và giải pháp đã được trình cho
chính phủ làm cơ sở cho việc hoạch định những chính sách kinh tế quan
trọng khuyến khích phát triển loại hình doanh nghiệp này.
Mặc dù đã có những chuyển biến về nhận thức đối với các
DNVVN nhưng các chính sách của chính phủ vẫn còn tồn tại nhiều bất
cập đòi hỏi cần phải tiếp tục sủă đổi bổ sung cho phù hợp. Bên cạnh đó,
xu thế toàn cầu hóa kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạng
mẽ và có những tác động rất lớn tới tất cả các quốc gia trên thế giới,
đặc biệt là về kinh tế, đòi hỏi Việt Nam cần phải nhanh chóng điều
chỉnh về mặt chính sách kinh tế theo xu thế chung của thời đại, phù hợp
với thông lệ quốc tế. Do vậy cũng đã có một số công trình chỉ tập trung
nghiên cứu về chính sách phát triển của Chính phủ đối với các DNVVN.
Nhiều công trình đuợc biên soạn khá công phu và đã đưa ra được nhiều
giải pháp hay, chẳng hạn như: Chính sách hỗ trợ phát triển DNVVN Việt
Nam (PGS. TS. Nguyễn Cúc), Giải pháp phát triển DNVVN ở Việt Nam
(của GS. TS. Nguyễn Đình Hương),… Tuy nhiên, những kết quả nghiên
cứu trên chưa thể coi là kết luận cuối cùng, đặc biệt trong giai đoạn nền
kinh tế nước ta đang đẩy nhanh tiến trình hội nhập khu vực và thế giới.
Do đó, việc nghiên cứu các chính sách phát triển DNVVN Việt
Nam cần được tiếp tục nhằm bổ sung những cơ sở khoa học giúp Chính
phủ trong việc hoạch định chính sách kinh tế trong tình hình mới. Luận
văn này cũng chỉ hy vọng và mong muốn sẽ góp một phần nhỏ bé vào
sự nghiệp phát triển kinh tế chung của đất nước.
3. Mục đích của luận văn
Qua việc nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tế về sự phát triển
3
của DNVVN, tác động của chính sách phát triển đối với DNVVN, luận
văn đưa ra khuyến nghị về các chính sách cụ thể như: chính sách công
nghệ, chính sách hỗ trợ tín dụng đối với các DNVVN, chính sách
thương mại,… nhằm hoàn thiện các chính sách đối với DNVVN, góp
phần nâng cao năng lực cạnh tranh của DNVVN trước những yêu cầu
bức xúc của hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng:
Nghiên cứu các chính sách của Nhà nước đối với các DNVVN
khu vực kinh tế tư bản tư nhân từ khi thực hiện công cuộc Đổi mới đến
nay.
b. Phạm vi nghiên cứu:
Trong luận văn này, tác giả có chủ đích tập trung vào nghiên cứu
đối tượng các DNVVN trong khu vực kinh tế tư bản tư nhân (xét theo
thành phần kinh tế), bao gồm các loại hình doanh nghiệp sau: Công ty cổ
phần, công ty TNHH, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng phương pháp luận
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Những phương pháp cụ thể đước
sử dụng là: nghiên cứu tổng hợp các tài liệu lý luận khoa học, khảo sát
thực tiễn có đối chứng, so sánh với lý luận khoa học kết hợp với việc tư
duy phân tích kinh tế; sử dụng phương pháp thống kê, so sánh để giải
quyết vấn đề đặt ra.
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn
- Làm rõ những tác động của các chính sách của Chính phủ đối
với các DNVVN trong thời gian qua, từ đó phát hiện ra những mâu
4
thuẫn, hạn chế trong các chính sách phát triển DNVVN.
- Đề xuất các khuyến nghị trong việc hoạch định và hoàn thiện
các chính sách phát triển DNVVN ở Việt Nam.
7. Bố cục luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận, mục đích, mục lục, danh mục các tài
liệu tham khảo (và phụ lục), luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Chính sách đối với DNVVN trong nền kinh tế hiện đại: Cơ
sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn
Chương 2: Chính sách phát triển DNVVN ở Việt Nam thời gian qua
Chương 3: Quan điểm và một số khuyến nghị về chính sách phát triển
5
đối với DNVVN Việt Nam
Chƣơng 1 CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI DNVVN TRONG NỀN KINH TẾ HIỆN ĐẠI. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN
1.1. DNVVN và vai trò của nó trong nền kinh tế hiện đại
1.1.1. Khái niệm và các tiêu thức chủ yếu để xác định DNVVN ở một số
nước và Việt Nam
Nhiều chuyên gia kinh tế và pháp luật của Việt Nam cho rằng, khái
niệm DNVVN được "du nhập" từ bên ngoài vào Việt Nam. Vấn đề tiêu chí
DNVVN là trung tâm của nhiều cuộc tranh luận về sự phát triển của khu
vực này trong nhiều năm qua. Định nghĩa về DNVVN rõ ràng phải dựa
trước tiên vào quy mô doanh nghiệp. Thông thường, đó là các tiêu chí về số
nhân công, vốn đăng k ý, doanh thu,… các tiêu chí này thay đổi theo từng
quốc gia, từng thời điểm khác nhau.
Ở Việt Nam, vấn đề này đã được giải quyết tạm thời bằng Công văn
số 681/CP-KTN ngày 20/6/1998 của Chính phủ, theo đó DNVVN là những
doanh nghiệp có số vốn kinh doanh dưới 5 tỷ đồng (tương đương 387.600
USD vào thời điểm ban hành Công văn số 681) và có số lao động trung bình
hàng năm dưới 200 người. Tiêu chí này được xác định nhằm xây dựng một
bức tranh chung về các DNVVN ở Việt Nam phục vụ cho việc hoạch định
chính sách. Tiếp sau đó Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 đưa
ra định nghĩa chính thức DNVVN như sau: "DNVVN là cơ sở sản xuất,
kinh doanh độc lập, đã đăng k ý kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có
vốn đăng k ý không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm
không quá 300 người."
* Các tiêu thức chủ yếu để xác định DNVVN ở các nước và ở Việt Nam:
Trong thực tế việc xác định DNVVN của một nước thường được cân
nhắc đối với từng giai đoạn phát triển kinh tế, tình hình việc làm nói chung
trong cả nước và tính chất nền kinh tế của nước đó. Như vậy việc xác định
DNVVN không có tính chất "cố định" mà có xu hướng thay đổi theo tính
6
chất hoạt động của nó, mục đích của việc xác định và mức độ phát triển của
doanh nghiệp. Tiêu chuẩn để xác định DNVVN có thể là: Tổng vốn đầu tư
giá trị tài sản cố định, số lao động sử dụng thường xuyên, doanh thu, lợi
nhuận, vốn bình quân trong lao động ... Mỗi nước có những quan niệm khác
nhau và lựa chọn tiêu thức không hoàn toàn giống nhau. Chúng tôi nghiên
cứu cách phân loại DNVVN một số quốc gia, lãnh thổ trên thế giới và trong
khu vực sau:
Đài Loan: DNVVN trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng: là
doanh nghiệp có vốn dưới 40 triệu đô la Đài Loan, số lao động thường
xuyên dưới 300 người; trong khai khoáng có vốn dưới 40 triệu đô la Đài
Loan, số lao động thường xuyên dưới 500 người; trong thương mại, vận tải
và dịch vụ khác: có tổng doanh thu hàng năm dưới 40 triệu đô la Đài Loan,
số lao động dưới 50 người.
Thái Lan: Là một trong những nước có tốc độ phát triển kinh tế nhanh.
Họ quan niệm doanh nghiệp quy mô vừa có từ 50 đến 200 lao động, doanh
nghiệp quy mô nhỏ có dưới 50 lao động. Thái Lan chỉ quan tâm đến một tiêu
thức là lao động và cũng không tính đến tính chất đặc thù của ngành kinh tế
(tiêu thức này gần giống với Việt Nam).
Phillipines: Trong sản xuất, doanh nghiệp được chia thành 4 loại:
Doanh nghiệp cực nhỏ và hộ gia đình: có vốn dưới 1,5 triệu pêsô.
Doanh nghiệp nhỏ có vốn từ 1,5 triệu đến 15 triệu pê sô.
Doanh nghiệp vừa có vốn từ 15 triệu đến 100 triệu pê sô.
Doanh nghiệp lớn có vốn trên 100 triệu pê sô.
Philipines lấy tiêu thức chủ yếu là vốn.
Nhật Bản: DNVVN được phân loại như sau:
Đối với doanh nghiệp sản xuất: doanh nghiệp có dưới 300 lao động
và vốn đầu tư dưới 100 triệu Yên. Trong số này, doanh nghiệp có dưới 20
lao động được coi là doanh nghiệp nhỏ. Đối với doanh nghiệp bán buôn:
doanh nghiệp có dưới 100 lao động và vốn đầu tư dưới 30 triệu Yên. Trong
số này, doanh nghiệp có dưới 20 lao động được coi là doanh nghiệp nhỏ.
7
Đối với doanh nghiệp bán lẻ và dịch vụ: doanh nghiệp có dưới 50 lao động
và vốn đầu tư dưới 10 triệu Yên. Trong số này, doanh nghiệp có dưới 20
lao động được coi là doanh nghiệp nhỏ.
Như vậy, Nhật Bản chỉ quan tâm đến 2 tiêu thức là vốn và lao động.
Đối với tiêu thức lao động của loại hình doanh nghiệp nhỏ thì Nhật Bản quan
niệm gần giống với Hàn Quốc, rất thấp so với các nước trong khu vực châu Á.
Phải chăng các nước có tiềm lực kinh tế mạnh, nguồn nhân lực có hạn thì họ
quan tâm đến tiêu thức đầu tư vốn nhiều hơn.
Có thể nói, hầu hết các nước khi xác định DNVVN đều dựa vào 2
tiêu chí cơ bản đó là vốn và lao động. Hai tiêu chí này là hai tiêu chí cơ
bản hợp thành doanh nghiệp. Song do đặc điểm của một số ngành nghề
kinh doanh, ngoài hai tiêu chí trên còn tham khảo thêm doanh số hoặc
doanh thu bán hàng. Việc phân chia doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ ở các
nước theo ngành nghề có khác nhau trong từng thời kỳ. Còn trị số các tiêu
chí thì rất khác nhau phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế của từng
nước. Trong một nước lại có sự khác nhau theo từng thời kỳ và từng lĩnh
vực sản xuất kinh doanh, nhưng tựu chung lại, những doanh nghiệp được
gọi là DNVVN có tổng số vốn pháp định hoặc tổng giá trị tài sản dưới 1
triệu USD và số lao động dưới 500 người.
Do tiêu chí xác định DNVVN ở các nước khác nhau tuỳ thuộc vào điều
kiện của từng nước, cũng như quan điểm về chính sách của từng nước.
Bảng 1: TIÊU CHÍ XÁC ĐỊNH DNVVN Ở MỘT SỐ NƢỚC.
Các tiêu chí áp dụng
Nƣớc
Lao động
Doanh thu
Tổng vốn hoặc giá trị tài sản
< 20 triệu $Canada <2 tỷ Rupi
Ôxtrâylia Canada Hồng Kông Inđônêxia Nhật
<500 trong CN và DV <500 trong CN và DV <100 trong CN và <50 trong DV <100 <50 trong bán lẻ <100 trong bán buôn <300 trong các ngành khác <200 <100 <200 <500
<0.6 tỷ Rupi <10 triệu Yên <30 triệu Yên <100 triệu Yên <100 triệu Pêsô <499 triệu $ Singapore
Philippin Singapore Thái Lan Mỹ
Nguồn: [22, tr.47].
8
Tiêu chí xác định DNVVN phụ thuộc vào ý đồ chính sách, khả năng
hỗ trợ của Chính phủ ở từng thời kỳ nên các tiêu chí xác định DNVVN ở
một số nước cũng không phải là không thay đổi. Trái lại các tiêu chí này
cũng thay đổi theo thời gian tuỳ thuộc vào ý đồ và chiến lược của Chính
phủ muốn hỗ trợ ngành nào hoặc doanh nghiệp có quy mô nào ở từng thời
kỳ phát triển của nước đó.
Ngay trong cùng một nước, các tiêu chí để xác định doanh nghiệp
được nhận hỗ trợ của một tổ chức nào đó cũng không phải bao giờ cũng
trùng với tiêu chí của các tổ chức khác hoặc trùng với tiêu chí theo quy
định trong luật của Chính phủ (đối với những nước có luật về DNVVN).
Tuy nhiên nếu là chính sách của Nhà nước thì tất nhiên chính sách đó phải
tuân thủ luật pháp và phải lấy tiêu chí do luật định để xác định các đối
tượng được hưởng chính sách đó. Do vậy, tiêu chí xác định DNVVN của các
nước là căn cứ tham khảo tốt đối với Việt Nam.
Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 của Chính phủ quy
định DNVVN là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập đã đăng ký kinh doanh
theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao
động trung bình hàng năm không quá 300 người. Căn cứ vào tình hình kinh tế
- xã hội cụ thể của ngành, địa phương, hai tiêu chí trên có thể linh hoạt áp
dụng đồng thời hoặc một trong hai chỉ tiêu trên (Điều 3, Định nghĩa
DNVVN).
Theo Nghị định này, chúng tôi xin cụ thể hoá thêm: "Doanh nghiệp
nhỏ là doanh nghiệp có số lao động ít hơn 50 người hoặc có tổng số vốn
dưới 1 tỷ đồng; doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp có số lao động từ 51
đến 300 người hoặc có tổng số vốn từ 1 tỷ đồng đến 10 tỷ đồng; doanh
nghiệp lớn là doanh nghiệp có số lao động trên 300 người hoặc có tổng giá
trị vốn trên 10 tỷ đồng".
Tóm lại, DNVVN là tổ chức kinh tế, có đầu tư và xúc tiến hoạt động
9
sản xuất, kinh doanh thực hiện các nghĩa vụ về tài chính, đăng ký và chịu
sự quản lý của các cấp chính quyền Nhà nước theo luật pháp, đáp ứng
những quy định của Chính phủ về quy mô lao động và vốn.
Tuy nhiên tiêu thức xác định DNVVN nêu trên chỉ nên coi là tiêu chí
chung có tính chất "khung" để định hướng và điều chỉnh các chủ trương,
chính sách phát triển khu vực kinh tế này. Trong quá trình điều hành cũng
cần có sự xem xét, cụ thể hoá tiêu chí xác định DNVVN cho từng lĩnh vực
kinh tế từng ngành nghề cho phù hợp.
Trong luận văn này, tác giả có chủ đích tập trung vào nghiên cứu đối
tượng là các DNVVN trong khu vực kinh tế tư bản tư nhân (xét theo thành
phần kinh tế), bao gồm các loại hình doanh nghiệp sau: Công ty cổ phần,
công ty TNHH, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có
vốn ĐTNN.
Tuy nhiên, theo phân loại về thành phần kinh tế như Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng Cộng sản Việt Nam, thì thành phần
kinh tế tư bản tư nhân không bao gồm thành phần kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài, mà thành phần này được xếp là một thành phần kinh tế riêng
(Xin xem thêm Bảng phụ lục 15 Sơ đồ phân loại doanh nghiệp). Bên cạnh
đó, nếu xét về quy mô DNVVN thì các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài chủ yếu là các doanh nghiệp quy mô lớn, số DNVVN trong loại hình
này rất ít (quy mô vốn lớn hơn 10 tỷ đồng).
Cho đến nay, việc phân loại các doanh nghiệp theo quy mô vẫn chưa
được thực hiện trên phạm vi toàn quốc, Những tiêu chí phân loại quy mô đôi
khi cũng rất khác nhau khiến cho việc tổng hợp số liệu không thực hiện được
một cách có hệ thống. Có một số nghiên cứu từ nhiều nguồn khác nhau cho
phép khẳng định kết luận: "DNVVN chiếm tỷ lệ đa số trong khu vực kinh tế
tư nhân"[19, tr.42] và quy mô các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay theo
thống kê của Tổng cục Thống kê năm 2002 cũng cho thấy điều này (xin tham
khảo Phụ lục số 9). Thêm vào đó, những quan sát đầu tiên về DNVVN ở Việt
10
Nam cũng thường được thực hiện ở khối tư nhân, nơi có tỷ lệ DNVVN chiếm
đa số. Điều này đã giúp cho các nhà nghiên cứu vượt qua được vấn đề thiếu số
liệu và đưa ra được các kết luận đa chiều.
1.1.2. Vai trò của DNVVN trong nền kinh tế
Ở Việt Nam, cũng như nhiều nước khác trên thế giới, các DNVVN
hoạt động trong môi trường chính sách và pháp lý phù hợp sẽ đóng một vai
trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Vai trò
của các DNVVN và tiềm năng phát triển của các DNVVN được thể hiện ở
các điểm sau:
+ Cung cấp cho xã hội khối lượng đáng kể hàng hoá và dịch vụ: Các
DNVVN có thể sản xuất nhiều loại hàng hoá đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong
nước và các loại máy móc, thiết bị, công cụ và linh kiện cần thiết cho các
ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và các ngành thủ công nghiệp.
+ Tạo ra nhiều việc làm với chi phí thấp: Nhiều DNVVN có thể tạo
ra công ăn việc làm cho số lượng lớn người lao động. ở những nước khác,
DNVVN là một trong những khu vực tạo ra nhiều việc làm nhất, giải quyết
cơ bản một trong những vấn đề phức tạp mà các quốc gia phải đương đầu
với nạn thất nhiệp trong quá trình phát triển.
+ Tăng nguồn tiết kiệm và đầu tư của dân cư địa phương làm cho
nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn: Các DNVVN có thể phát triển và
sử dụng hiệu quả nguồn tài chính được huy động trong nước và các nguồn
nguyên liệu vật liệu hoặc các sản phẩm trung gian có sẵn trong nước.
+ Các DNVVN có thể đóng góp vào nỗ lực phân bổ các ngành công
nghiệp đến nhiều vùng dân cư khác nhau, nhờ đó giảm bớt được khoảng
cách phát triển giữa các khu vực khác nhau và tạo ra được sự phát triển cân
đối giữa các vùng khác nhau trên toàn quốc.
+ Các DNVVN có thể hỗ trợ cho các ngành công nghiệp lớn cung
cấp đầu vào cho các ngành này và tạo sự cạnh tranh cần thiết để đẩy mạnh
11
quá trình phát triển và nâng cao tính cạnh tranh trên thị trường.
+ Các DNVVN có thể đóng góp đáng kể vào việc duy trì và phát
triển các ngành nghề thủ công truyền thống nhằm sản xuất các loại hàng
hoá mang bản sắc dân tộc.
Nói tóm lại, vai trò của các DNVVN thể hiện ở mức độ đóng góp vào
sự phát triển kinh tế của quốc gia, thu hút lao động, vốn đầu tư, tạo ra giá
trị gia tăng, góp phần tăng trưởng kinh tế là tầng cơ sở trong cấu trúc của
nền sản xuất xã hội. Số liệu thống kê của các nước cho thấy, tỷ trọng thu
hút lao động, tạo ra giá trị gia tăng của khu vực các DNVVN ở một số nước
khu vực châu Á là rất đáng kể.
Từ số liệu thống kê ở bảng ta có thể thấy các DNVVN chiếm từ 81
đến 98% số doanh nghiệp, thu hút 30 - 60% lao động và tạo ra 20 - 40% giá
trị gia tăng trong nền kinh tế ở các nước này. Như vậy, dù ở trình độ phát
triển kinh tế cao hay thấp, DNVVN vẫn có vai trò rất quan trọng trong nền
kinh tế của các nước.
Bảng 2: Tỷ trọng thu hút lao động và tạo ra giá trị gia tăng
của các DNVVN ở một số nƣớc châu Á
Nƣớc
Tỷ trọng thu hút lao động (%) 35,2 47,8 37,2 55,2 59,3
Giá trị gia tăng tạo ra (%) 26,6 36,4 21,1 38,8 40,1
Singapore Malaysia Hàn Quốc Nhật Bản Hồng Công Nguồn: [22, tr.48]
1.1.3. Đặc điểm của DNVVN:
- Nhu cầu vốn không lớn, phù hợp với khả năng đầu tư của một
người, một hộ gia đình hoặc một nhóm người, không cần có sự đầu tư của
Nhà nước. Vốn của các DNVVN thường có vòng quay nhanh hơn các
12
doanh nghiệp lớn.
- Sử dụng được đông đảo lao động xã hội và sử dụng được đa dạng
các loại thiết bị với trình độ và công nghệ khác nhau. Hoạt động với chi phí
thấp nhưng dễ mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao, nhanh chóng góp
phần hạn chế được nạn thất nghiệp. Nước ta có nguồn lao động dồi dào,
DNVVN lại có ưu thế trong việc tạo việc làm, bên cạnh đó, vốn đầu tư cho
mỗi chỗ làm việc thấp hơn, tạo ra việc làm mới nhanh chóng hơn so với
doanh nghiệp lớn; tổng đầu tư không quá lớn nên tính khả thi cao, có thể
phát triển ở mọi nơi để thu hút lao động, yêu cầu đối với người lao động và
trình độ tay nghề không cao.
- Doanh nghiệp nhỏ có thể phát triển gắn với nguồn nguyên liệu và
cung ứng hàng hoá, do đó rất thích hợp với lĩnh vực sản xuất, chế biến
nông lâm sản, chế biến thuỷ hải sản và lĩnh vực bán lẻ.
- Tổ chức quản trị kinh doanh, quản trị doanh nghiệp rất gọn nhẹ; cơ
chế tổ chức không có bộ máy gián tiếp cồng kềnh dẫn đến chi phí kinh
doanh hoặc giá sản phẩm quá cao.
Với quy mô vừa và nhỏ các doanh nghiệp loại hình này còn rất linh
hoạt, ứng biến nhanh nhạy với sự biến đổi nhanh chóng của thị trường. Do
đó, phát triển DNVVN là rất thích hợp với điều kiện của Việt Nam hiện nay.
Từ những đặc điểm trên, có thể thấy DNVVN có những lợi thế sau:
DNVVN có những lợi thế rõ ràng, đó là khả năng thoả mãn nhu cầu có
hạn trong những thị trường chuyên môn hoá, khuynh hướng sử dụng nhiều lao
động với trình độ khoa học kỹ thuật trung bình thấp, đặc biệt là sự mềm mại
và nhanh chóng thích nghi với các nhu cầu thay đổi của kinh tế thị trường, do
vậy nó có nhiều lợi thế:
+ Dễ dàng khởi sự và năng động nhạy bén với thị trường
Thành lập DNVVN rất dễ dàng vì đòi hỏi ít vốn, diện tích mặt bằng
kinh doanh không nhiều, các điều kiện sản xuất đơn giản; có thể thay đổi
nhanh chóng với những thay đổi nhu cầu của thị trường; sẵn sàng đầu tư
13
vào các lĩnh vực mới, lĩnh vực có mức độ rủi ro cao.
DNVVN chỉ cần một số vốn hạn chế, một mặt bằng nhỏ hẹp đã có
thể khởi sự doanh nghiệp, vòng quay sản phẩm nhanh, do đó có thể sử
dụng vốn tự có hoặc vay bạn bè, người thân dễ dàng; tổ chức quản lý gọn
nhẹ, dễ quyết định khi nhu cầu thị trường thay đổi. Khi doanh nghiệp gặp
khó khăn có thể dễ dàng thay đổi tình thế, nội bộ dễ thống nhất.
+ Dễ phát huy bản chất hợp tác:
DNVVN chỉ tiến hành một hoặc một vài công đoạn trong quá trình
sản xuất một sản phẩm hoàn chỉnh, mà các công đoạn sản xuất phải kết hợp
với nhau để hoàn thành một sản phẩm hoàn chỉnh đưa ra tiêu thụ trên thị
trường. Do đó các doanh nghiệp phải tự hoàn thiện bản thân mình và tiến
hành hợp tác sản xuất nếu không sẽ bị đào thải.
+ Thu hút nhiều lao động, hoạt động có hiệu quả với chi phí cố định thấp
Các DNVVN do nguồn vốn ít vì vậy đầu tư vào tài sản cố định cũng
ít và số lao động không nhiều nhưng vẫn có thể đem lại những dịch vụ về
sản phẩm mới một cách có hiệu quả. Việc đào tạo đội ngũ thợ lành nghề và
lực lượng lao động cũng ít tốn kém và cần ít thời gian hơn doanh nghiệp
lớn nên có thể khai thác triệt để được nguồn lực sẵn có. Họ thường tận
dụng lao động thay thế cho vốn, đặc biệt là các nước có lực lượng lao động
dồi dào và giá lao động thấp như nước ta để tiến hành sản xuất - kinh doanh
phục vụ dân sinh, và thường họ đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao.
+ Không có hoặc ít có xung đột giữa người sử dụng lao động và
người lao động.
Do quy mô vừa và nhỏ, sự ngăn cách giữa người sử dụng lao động
và người lao động không lớn và bản thân người chủ, người sử dụng lao
động luôn sát với công việc của người lao động, do vậy nếu có xung đột,
mâu thuẫn cũng dễ dàng giải quyết.
+ Có thể duy trì sự tự do cạnh tranh
Các DNVVN thường không có tình trạng độc quyền, dễ dàng và sẵn
sàng chấp nhận tự do cạnh tranh. Tự do cạnh tranh là con đường tốt nhất để
14
phát huy mọi tiềm lực.
+ Có thể phát huy tiềm lực thị trường trong nước
Sự phát triển DNVVN ở giai đoạn ban đầu là phương thức tốt để sản
xuất thay thế nhập khẩu. Các nước đang phát triển như nước ta, chỉ cần lựa
chọn một số mặt hàng để sản xuất thay thế nhập khẩu với mức chi phí và
vốn đầu tư thấp, kỹ thuật không phức tạp, sản phẩm phù hợp với sức mua
của dân, từ đó nâng cao năng lực sản xuất và sức mua của thị trường.
+ Dễ dàng tạo nên sự phát triển cân bằng giữa các vùng
DNVVN có thể phát triển ở khắp mọi nơi, mọi vùng của đất nước
như vùng sâu, vùng xa, vùng miền núi,… lấp vào khoảng trống và thiếu
vắng của doanh nghiệp lớn, tạo nên sự phát triển cân bằng giữa các vùng
góp phần ổn định kinh tế trong cả nước, đây là một chiến lược kinh tế xã
hội quan trọng của đất nước.
+ DNVVN là một trong những nơi đào tạo huấn luyện các nhà doanh
nghiệp và là cơ sở kinh tế ban đầu để phát triển thành doanh nghiệp lớn.
Qua thực tế hoạt động sản xuất - kinh doanh, một mạng lưới
DNVVN trên khắp mọi miền của đất nước đã đào tạo, sàng lọc các nhà
doanh nghiệp. Có thể nói đây là một trong những nơi đào tạo hữu hiệu
nhất. Mặt khác, quá trình phát triển DNVVN cũng là quá trình tích tụ vốn,
tìm kiếm mở mang thị trường… để phát triển thành doanh nghiệp lớn. Nhìn
lại lịch sử, hầu hết các doanh nghiệp ở các nước phát triển đều trải qua mô
hình vừa và nhỏ, trừ một số doanh nghiệp lớn của Nhà nước. Riêng ở Việt
Nam, DNVVN còn có một lợi thế là mới phát triển, quy mô nhỏ bé, tồn tại
ở mọi thành phần kinh tế và đang trong quá trình vận động chuyển hoá, có
khả năng chuyển hoá dễ dàng nhanh chóng các công nghệ mới thành cơ hội
làm ăn, có điều kiện đi vào ngành nghề truyền thống, đạt hiệu quả cao, do
đó có nhiều thuận lợi để phát triển, nó chưa chịu ảnh hưởng lớn của độc
quyền và cạnh tranh quyết liệt với nhau.
Tuy nhiên, xuất phát từ những đặc điểm của nó, DNVVN cũng có những
15
hạn chế và khó khăn về nhiều mặt, trong đó tập trung vào các mặt sau đây:
- Thứ nhất, DNVVN gặp nhiều khó khăn về vốn để sản xuất và mở
rộng sản xuất.
Thị trường cung ứng vốn cho DNVVN chủ yếu là thị trường tài
chính không chính thức. Chủ doanh nghiệp thường phải vay với lãi suất
cao, vay của thân nhân, bạn bè, ít được tiếp cận với nguồn vốn tín dụng
chính thức của hệ thống ngân hàng.
Tình trạng thiếu vốn của DNVVN có nhiều nguyên nhân, trong đó
đáng chú ý là: Hệ thống tín dụng ngân hàng chưa tiếp cận với cầu tín dụng
của các loại doanh nghiệp này vì nguồn vốn bị phân tán, chi phí cho vay lớn,
khó đòi nợ và độ rủi ro cao; nhiều DNVVN không có khả năng đáp ứng đòi
hỏi của ngân hàng về thủ tục lập dự án, thủ tục thế chấp và điều kiện lãi suất;
một số chủ DNVVN không muốn vay ngân hàng mà thường vay của tư nhân;
trình độ kinh doanh yếu, rủi ro lớn nên khó tích tụ vốn và khó trả nợ ngân
hàng.
Thứ hai, trình độ trang bị kỹ thuật và công nghệ yếu.
Trình độ trang thiết bị, máy móc và công nghệ của DNVVN nói
chung là yếu kém và lạc hậu. Nhiều DNVVN sử dụng thiết bị thải loại của
DNNN, thiết bị chế tạo trong nước hoặc tự thiết kế, chế tạo với trình độ
thiết kế và gia công thấp. Đáng chú ý là trang thiết bị và công nghệ của
DNVVN phổ biến thiếu trang bị xử lý môi trường như tiếng ồn, chất thải
rắn, chất thải lỏng, khí độc nên thường gây ô nhiễm môi trường xung quanh
rất nặng, có hại tới sức khoẻ người lao động và người dân sống xung
quanh.
Thứ ba, trình độ tay nghề của lao động và đội ngũ quản lý thấp.
Lao động trong các DNVVN chủ yếu là lao động phổ thông, ít được
đào tạo cơ bản, thiếu kỹ năng, trình độ văn hoá thấp, đặc biệt đối với các
doanh nghiệp quy mô nhỏ. Khó khăn nhất đối với đội ngũ quản lý DNVVN
là trình độ và kỹ năng quản trị kinh doanh yếu, thiếu cơ bản và rất lúng túng
16
trước sự biến động của thị trường.
Thứ tƣ, với dân số khoảng 80 triệu dân, trong đó có khoảng 75% dân
số sống ở nông thôn là điều kiện thuận lợi về mặt thị trường cho DNVVN.
Tuy nhiên thị trường rộng lớn của DNVVN đang bị thu hẹp lại do sức mua
của người nông dân quá thấp; do hàng hoá nhập lậu qua biên giới không thể
nào kiểm soát đã làm giảm đáng kể thị phần của DNVVN; do khả năng cạnh
tranh của hàng hóa của loại hình doanh nghiệp này lại rất yếu, do công nghệ
lạc hậu, trình độ tay nghề của người lao động và trình độ quản trị kinh doanh
yếu. Khả năng tiêu thụ hàng trong nước đã khó, xuất khẩu lại càng khó hơn.
1.1.4. Sự cần thiết phải hỗ trợ và phát triển DNVVN
Xuất phát từ vai trò của loại hình doanh nghiệp này và những lợi ích
to lớn do việc hỗ trợ đó mang lại cả cho chính các DNVVN cũng như có lợi
cho Nhà nước trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội.
* Lợi ích của chính sách hỗ trợ đối với Nhà nƣớc và xã hội
Thực tế của nhiều nước cho thấy, sự hỗ trợ không chỉ có lợi đối với các
doanh nghiệp mà có lợi cho cả Nhà nước và xã hội. Lợi ích đó thể hiện trên các
mặt:
+ Trước hết sự hỗ trợ các doanh nghiệp là cách thức để nuôi dưỡng
các nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
+ Hỗ trợ doanh nghiệp là một cách đầu tư gián tiếp của Nhà nước thay
vì Nhà nước phải đầu tư trực tiếp để thành lập các DNNN như mô hình
kinh tế hiện vật trước đây bằng việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp đã có, đặc
biệt là các DNVVN khu vực tư nhân.
+ Thông qua chính sách hỗ trợ của Nhà nước, việc đầu tư phát triển
sản xuất hiệu quả hơn vì vừa huy động được tiềm năng sáng tạo trong dân,
vừa thực hiện tốt chức năng quản lý của Nhà nước.
+ Bằng việc hỗ trợ các DNVVN, Nhà nước cũng có thể giải quyết
những vấn đề xã hội (như vấn đề lao động thất nghiệp) mà bất cứ nước nào
cũng phải đương đầu, tạo việc làm rất hiệu quả với nguồn vốn hạn hẹp của
17
Nhà nước: thay vì chỉ thành lập mới các DNNN, thì với số vốn đó có thể hỗ
trợ cho một số lượng doanh nghiệp đã có nhiều gấp bội. Ngoài ra, Nhà
nước có thể thông qua chính sách hỗ trợ để định hướng phát triển các
DNVVN.
Các DNVVN ở Việt Nam hiện nay còn tồn tại rất nhiều hạn chế như
đã đề cập ở phần trên. Do đó, để các doanh nghiệp này phát huy được vai
trò của mình, cần thiết phải có sự hỗ trợ của Nhà nước. Hơn nữa có nhiều
vấn đề mà các doanh nghiệp không thể tự giải quyết được như tạo môi
trường kinh doanh thuận lợi, xây dựng cơ sở hạ tầng, mở rộng thị trường,
đào tạo nguồn nhân lực,... Nhiều vấn đề khác nếu được sự hỗ trợ của Nhà
nước sẽ làm giảm bớt những khó khăn cho doanh nghiệp, tạo điều kiện cho
doanh nghiệp đứng vững trên thị trường và phát triển thuận lợi. Kinh
nghiệm cho thấy, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có chính sách hỗ
trợ phát triển DNVVN.
Phát triển DNVVN cũng là một cách nhằm thúc đẩy sự cạnh tranh
bình đẳng trong nền kinh tế, tận dụng được ưu thế riêng của loại hình này
trong việc sử dụng các nguồn lực trong nước phục vụ những nhu cầu đa
dạng của người dân trong điều kiện nền kinh tế đang phát triển. Cạnh tranh
là sức sống, là động lực và là một đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường
so với cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Để cạnh tranh thì trên thị trường phải
có nhiều chủ thể tham gia. Phát triển DNVVN chính là để duy trì cạnh
tranh cần thiết trong nền kinh tế thị trường, tránh những méo mó do sự độc
quyền gây ra, duy trì được tính năng động và linh hoạt của các chủ thể kinh
tế trong một môi trường kinh doanh mà tính năng động và linh hoạt có vai
trò cho sự sống còn của một doanh nghiệp.
DNVVN, một bộ phận tuy còn nhỏ bé trong nền kinh tế nước ta hiện
nay nhưng lại tiềm ẩn khả năng phát triển mạnh mẽ trong tương lai đang còn
hạn chế nhiều mặt. Nếu không có những chính sách hỗ trợ phát triển hợp lý
thì khó có thể phát triển phù hợp với những yêu cầu đòi hỏi mới của tình
hình. Sự hỗ trợ hợp lý của Nhà nước đối với DNVVN, chính là phải đảm
18
bảo được sự bình đẳng trong hoạt động kinh tế chống lại sự độc quyền trong
kinh doanh của các công ty lớn và mạnh nhằm đẩy các DNVVN vào tình
trạng phá sản do mất thị trường.
Như vậy, khuyến khích phát triển DNVVN chính là để duy trì sự cạnh
tranh trong nền kinh tế, tức là duy trì và tạo ra động lực cho sự phát triển.
Phát triển DNVVN chính là huy động mọi nguồn vốn phát triển kinh tế,
tăng thu nhập bình quân đầu người, tạo thêm nhiều việc làm góp phần thực
hiện mục tiêu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm
2020. Nước ta đang cần nhiều vốn để đầu tư phát triển, Nhà nước chỉ có
khả năng dùng ngân sách để đầu tư vào cơ sở hạ tầng là chính thay vì chủ
yếu đầu tư vào các ngành sản xuất như trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung,
các ngành sản xuất cần được đầu tư từ các nguồn khác. Phát triển DNVVN
chính là cách tốt nhất huy động có hiệu quả các nguồn đầu tư của nhân dân
để phát triển kinh tế.
Phát triển DNVVN chính là cách để thực hiện công nghiệp hoá, hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn chuyển dần lao động sản xuất nông nghiệp
sang lao động công nghiệp có quy mô vừa và nhỏ phát triển ở các vùng
nông thôn; giải quyết sức ép về lao động, việc làm và vấn đề xã hội do tình
trạng di cư vào các trung tâm đô thị và thành phố lớn.
Phát triển DNVVN tạo ra sự năng động, linh hoạt cho toàn bộ nền
kinh tế, giúp các doanh nghiệp thích ứng được trước những biến đổi nhanh
chóng của thị trường trong nước cũng như quốc tế.
Các DNVVN có ưu thế là năng động, dễ thay đổi cơ cấu sản xuất thích
ứng nhanh với tình hình. Đó là những yếu tố rất quan trọng trong kinh tế thị
trường để đảm bảo khả năng cạnh tranh và tính hiệu quả của sản xuất kinh
doanh. Phát triển DNVVN còn góp phần đẩy nhanh quá trình hội nhập của
nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Với những căn cứ đã phân tích ở trên, chúng ta có thể khẳng định rằng
Nhà nước cần phải có những chính sách hỗ trợ tích cực nhằm phát triển DNVVN
trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
19
* Các chính sách đối với DNVVN
Thuật ngữ "chính sách” được sử dụng phổ biến trên sách báo, các
phương tiện thông tin và đời sống xã hội. Mọi chủ thể kinh tế - xã hội đều
có chính sách của mình. Ví dụ có chính sách của các cá nhân, chính sách
của doanh nghiệp, chính sách của Đảng, chính sách của một quốc gia,
chính sách của một liên minh các nước, hay tổ chức quốc tế vv…
Tuyên bố chính sách có nghĩa là một cá nhân hay một tổ chức đã
quyết định một cách thận trọng và có ý thức, cách giải quyết những vấn đề
tương tự. Chính sách xác định những chỉ dẫn chung cho quá trình ra quyết
định. Vạch ra phạm vi hay giới hạn cho phép của các quyết định, nhắc nhở
những nhà quản lý những quyết định nào là có thể và những quyết định nào
là không thể. Bằng cách đó, các chính sách hướng suy nghĩ và hành động
của mọi thành viên trong tổ chức vào việc thực hiện mục tiêu chung của tổ
chức. Ta có thể hiểu theo nghĩa rộng về chính sách của một đất nước là: tổng
thể các quan điểm tư tưởng phát triển, những mục tiêu tổng quát và những
phương thức cơ bản để thực hiện mục tiêu phát triển của đất nước. Hoặc có
thể hiểu một cách ngắn gọn: “Chính sách là những hành động của Nhà
nước nhằm hướng tới những mục tiêu của đất nước”. Với quan niệm này
chính sách là một bộ phận của chiến lược, bao gồm những giải pháp và
công cụ để thực hiện mục tiêu chiến lược. Hay “chính sách là quyết sách
của Nhà nước nhằm giải quyết một vấn đề chín muồi đã đặt ra của đất
nước, thông qua hoạt động thực thi của các ngành các cấp có liên quan
trong bộ máy Nhà nước".
Tóm lại, chính sách là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các giải
pháp và công cụ mà Nhà nước sử dụng để tác động lên các chủ thể kinh tế -
xã hội nhằm giải quyết các vấn đề chính sách, thực hiện những mục tiêu
nhất định theo định hướng mục tiêu tổng thể của đất nước.
Một số chính sách chủ yếu có tác động quan trọng tới DNVVN
20
- Chính sách hỗ trợ tín dụng.
Chính sách hỗ trợ tín dụng là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các
giải pháp và công cụ mà Nhà nước sử dụng để đảm bảo cung cấp tín dụng
cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Chính sách hỗ trợ tín dụng là một
trong những chính sách của Nhà nước, là công cụ thúc đẩy sự phát triển các
doanh nghiệp nói chung, DNVVN nói riêng trong nền kinh tế.
Cùng với sự ổn định kinh tế vĩ mô, chính sách hỗ trợ tín dụng đã có
tác dụng tích cực thúc đẩy hoạt động của các DNVVN. Trong tổng dư nợ
tín dụng, tỷ lệ dành cho các doanh nghiệp ngoài dân doanh có chiều hướng
tăng lên mặc dù chưa tương xứng với số lượng các doanh nghiệp đó.
- Chính sách khoa học và công nghệ
Khoa học và công nghệ là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng
năng suất lao động, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường.
Chính vì vậy việc đổi mới chính sách khoa học và công nghệ theo hướng lựa
chọn công nghệ phù hợp (thông qua đầu tư của nước ngoài, mua bằng phát
minh, sáng chế), khuyến khích đầu tư nước ngoài có công nghệ tiên tiến, các
ưu đãi về công nghệ mới, chuyển giao công nghệ, thúc đẩy hoạt động nghiên
cứu - triển khai, khuyến khích và hỗ trợ các hoạt động đào tạo kỹ năng và xây
dựng kết cấu hạ tầng khoa học và công nghệ, tạo môi trường thị trường và
thông tin khoa học và công nghệ thuận lợi cho DNVVN hoạt động hiệu quả là
rất cần thiết.
Nhà nước đã có nhiều nỗ lực tạo lập khuôn khổ pháp lý cho doanh
nghiệp, đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân yên tâm đầu tư, đổi mới công
nghệ, thành lập và khuyến khích thành lập các tổ chức hỗ trợ công nghiệp
như: các trung tâm hỗ trợ công nghệ, các trường dạy nghề góp phần đào tạo
tay nghề, nâng cao kiến thức và hiểu biết về công nghệ cho người lao động,…
Đồng thời, nhà nước đã và đang triển khai nghiên cứu các chương trình khoa
học và công nghệ. Nhờ đó, bước đầu đã tạo môi trường cho các chủ thể kinh
doanh, trong đó có DNVVN tiếp cận với công nghệ, đầu tư phát triển công
21
nghệ, chuyển giao công nghệ, tiếp thu công nghệ mới.
Bên cạnh khó khăn về môi trường pháp lý, hoạt động chuyển giao
công nghệ vẫn còn một số khó khăn ở các chính sách như: thủ tục xuất
nhập cảnh, chính sách thuế, quy định về nhập khẩu máy móc thiết bị chưa
phù hợp với điều kiện tình hình của DNVVN,…Do đó, việc Nhà nước có
chính sách hỗ trợ DNVVN đổi mới công nghệ, tiếp cận KH&CN hiện đại
là một trong những bước đi đúng đắn và cần thiết.
- Chính sách thương mại
Chính sách thương mại bao gồm hệ thống các nguyên tắc, công cụ và
các biện pháp thích hợp mà Nhà nước áp dụng để điều chỉnh các hoạt động
thương mại trong mỗi thời kỳ nhất định nhằm đạt được những mục tiêu đã
định trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Theo Luật Thương mại năm 1992 thì chính sách thương mại đối với
các DNVVN là: Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu, quyền và lợi ích hợp pháp
của khu vực DNVVN trong thương mại, có chính sách ưu đãi và hỗ trợ, tạo
điều kiện thuận lợi cho các cá nhân, tổ chức thuộc các thành phần này hợp
tác liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp Nhà nước dưới các hình thức
đại lý hoặc các doanh nghiệp tư bản Nhà nước, các hình thức sở hữu hỗn
hợp khác, nhằm phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế, tạo nội lực
cho các doanh nghiệp Việt Nam phát triển, mở rộng thương mại hàng hoá
và thương mại dịch vụ.
Trong chính sách thương mại gồm nhiều chính sách khác, có một số
chính sách ảnh hưởng mạnh tới các DNVVN: chính sách xuất, nhập khẩu,
chính sách mậu dịch tự do, chính sách bảo hộ mậu dịch, chính sách phát
triển thị trường,…
- Chính sách thuế
Thuế là một công cụ quản lý vĩ mô quan trọng, sắc bén và có hiệu lực
nhà nước đối với mọi doanh nghiệp trong nền kinh tế. Thuế có vai trò tạo
nguồn thu cho ngân sách, bảo đảm bình đẳng, công bằng giữa các cơ sơ kinh
22
tế, nâng cao hiệu quả kinh tế điều tiết các hoạt động kinh tế. Thời gian qua,
thuế và chính sách thuế được đổi mới theo hướng chuyển từ ba hệ thống (thuế
quốc doanh đối với doanh nghiệp nhà nước, thuế nông nghiệp và thuế công
thương đối với hộ tiểu thủ - cá thể) sang một hệ thống thuế thống nhất cho tất
cả các thành phần kinh tế. Nhờ đó, thuế thực sự trở thành một công cụ quản lý
vĩ mô có hiệu lực và hiệu quả trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Từ năm
1987 đến nay, Nhà nước đã ban hành nhiều sắc thuế và đã nhiều lần điều
chỉnh, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với sự thay đổi của nền kinh tế gồm: thuế
giá trị gia tăng (VAT); thuế thu nhập doanh nghiệp; thuế sử dụng đất nông
nghiệp; thuế nhà đất; thuế xuất nhập khẩu; thuế tiêu thụ đặc biệt; thuế môn
bài; thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao; thuế sử dụng vốn ngân sách
nhà nước. Đồng thời, thuế cũng được sử dụng trong các luật khác như Luật
Khuyến khích đầu tư trong nước, Luật Đầu tư nước ngoài,… làm công cụ
khuyến khích đầu tư.
Chính sách thuế có những mặt tích cực hỗ trợ cho các cơ sở kinh tế phát
triển sản xuất kinh doanh. Hệ thống thuế ngày càng hoàn chỉnh hơn, mục đích
của các sắc thuế rõ ràng hơn; đối tượng chịu thuế được mở rộng. Về cơ bản,
thuế không phân biệt đối xử theo thành phần kinh tế, thuế suất theo chiều
hướng áp dụng thống nhất cho các đối tượng và đơn giản hóa cả về số lượng
và mức thuế suất.
1.2. Một số nhân tố ảnh hưởng đến chính sách đối với các DNVVN
1.2.1. Trình độ phát triển kinh tế - xã hội
Trình độ phát triển càng cao thì những vấn đề của doanh nghiệp càng
được bộc lộ đầy đủ, do đó các chính sách càng có khả năng đáp ứng yêu
cầu của doanh nghiệp. Trình độ phát triển kinh tế càng cao thì sự phát triển
của doanh nghiệp lớn càng nhiều, tính cạnh tranh càng gay gắt nhưng có
thuận lợi là mối quan hệ giữa các loại hình doanh nghiệp càng chặt chẽ, sự
hỗ trợ của các doanh nghiệp lớn đối với các DNVVN càng nhiều. Nhận
thức của các bộ phận kinh doanh càng rõ ràng, cụ thể hơn. Các doanh
23
nghiệp tự nhận thấy cần thiết phải liên kết, hỗ trợ nhau. Đồng thời, trình độ
phát triển kinh tế - xã hội càng cao thì sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển của
các DNVVN ổn định hơn, có phương hướng rõ ràng hơn, vững bền hơn.
1.2.2. Chất lượng đội ngũ cán bộ hoạch định chính sách
Đây là yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của
các DNVVN. Một chính sách và cơ chế đúng đắn, hợp lý sẽ tạo ra môi
trường thuận lợi cho sự phát triển DNVVN. Chất lượng đội ngũ cán bộ
hoạch định chính sách trực tiếp quyết định chất lượng các chính sách và cơ
chế đối với DNVVN.
Ở các nước đang phát triển, vì nhiều lý do, chất lượng đội ngũ cán bộ
hoạch định chính sách không cao. Do đó, chính sách phát triển các
DNVVN không phải lúc nào cũng phù hợp với thực tế. Bởi vậy, chính sách
và cơ chế với DNVVN chưa thật sự tạo lập được môi trường pháp lý và
những điều kiện cụ thể cần thiết để các DNVVN có khả năng phát triển
một cách tự do, không bị chèn ép thiếu công bằng của các doanh nghiệp
lớn. Ngoài ra, chính sách và cơ chế chưa thật sự kết hợp chặt chẽ giữa các
doanh nghiệp lớn, vừa và nhỏ trong phát triển nền kinh tế của mỗi nước,
chưa phát huy sức mạnh tổng thể của toàn bộ nền kinh tế và của từng khu
vực. Những chính sách ưu tiên, những cơ chế khuyến khích, kể cả những
quy định về giới hạn dưới và trên của từng loại hình doanh nghiệp sẽ là cơ
sở để đánh giá, chính phủ mỗi nước đưa ra những quy định về ưu tiên.
Những quy định này ảnh hưởng trực tiếp tới sự tồn tại và khả năng phát
triển của các DNVVN. Những ưu tiên về vốn, tín dụng, chế độ thuế, sử
dụng công nghệ, quy chế mối quan hệ giữa các loại hình doanh nghiệp
thuộc các quy mô khác nhau kể cả chính sách chống độc quyền… đều tác
động đến hoạt động của các DNVVN. Các chính sách đất đai, lãi suất, đào
tạo… tạo ra những điều kiện cần thiết quan trọng hỗ trợ các DNVVN phát
triển và thực hiện được những nhiệm vụ kinh tế - xã hội to lớn đặt ra đối
với khu vực này. Trên thực tế, do chất lượng đội ngũ cán bộ hoạch định
24
chính sách không cao nên những điều nêu trên vẫn còn nhiều bất cập.
Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, cơ chế, chính sách đang được
từng bước hoàn thiện nhằm tạo điều kiện và môi trường pháp lý cần thiết,
thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động. Tuy nhiên, hệ thống chính sách
vẫn còn nhiều bất cập, thiếu, không đồng bộ và cơ chế khuyến khích doanh
nghiệp chủ yếu vẫn tập trung vào DNNN. Trong thực tế vẫn còn sự phân
biệt đối xử trong việc cho vay tín dụng giữa khu vực ngoài quốc doanh và
khu vực Nhà nước mặc dù Chính phủ đang ra sức cải thiện tình hình này.
Tất cả những yếu tố đó gây ảnh hưởng không nhỏ đến họat động của các
DNVVN nước ta.
1.2.3. Đội ngũ các nhà quản lý doanh nghiệp
Sự xuất hiện và khả năng phát triển của mỗi doanh nghiệp phụ thuộc
rất nhiều vào những người sáng lập ra chúng. Do khả năng hạn chế về tri
thức, về khả năng tiếp cận thông tin của các nhà quản lý DNVVN, nhiều
chính sách của nhà nước ít có tác động đến doanh nghiệp. Điều này ảnh
hưởng lớn đến phương hướng, tốc độ phát triển của các DNVVN trong mỗi
quốc gia. Trên bình diện quốc gia, sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia
phụ thuộc rất lớn vào sự có mặt của đội ngũ này. Việc xây dựng đội ngũ
các nhà sáng lập nhiệm vụ quan trọng đối với mỗi quốc gia, đây cũng là
một khâu yếu trong chiến lược phát triển các DNVVN ở nước ta trong
những năm qua. Nhà nước chưa xác định chiến lược và quy hoạch phát
triển đội ngũ các chủ doanh nghiệp. Đây là nguyên nhân cơ bản làm cho
hiệu lực các chính sách với DNVVN ở Việt Nam còn nhiều hạn chế.
1.2.4. Sự phát triển và khả năng ứng dụng tiến bộ KH&CN
Sự phát triển của KH&CN và đặc biệt là công nghệ thông tin đã mở
ra khả năng rộng lớn hơn cho việc hoạch định và thực thi các chính sách
với DNVVN. KH&CN tạo điều kiện và khả năng cho các nhà hoạch định
chính sách có thể trang bị kỹ thuật hiện đại hơn, năng động và linh hoạt
hơn trong việc tiếp cận và lựa chọn thông tin, đưa ra các chính sách phù
25
hợp hơn với thực tế.
Trình độ và khả năng ứng dụng công nghệ hiện đại của các DNVVN ở
Việt Nam có nhiều hạn chế là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng
đến năng suất, chất lượng và hiệu quả của chúng. Ngoài những khó khăn về
vốn là một trong những nguyên nhân dẫn đến công nghệ lạc hậu chậm đổi
mới trong các DNVVN ở Việt Nam còn khó khăn nữa là do chưa quan tâm
đúng mức tới phát triển công nghệ, thiếu thông tin về công nghệ và trình độ
tiếp nhận, khai thác những tác động tích cực từ các chính sách.
1.2.5. Tình hình thị trường
Thị trường là một trong những vấn đề nan giải và khó khăn nhất cho
các DNVVN ở nước ta và cho cả các nhà hoạch định chính sách. Do thị
trường nước ta còn phát triển ở trình độ chưa cao, nhu cầu thấp, đặc biệt ở
các vùng nông thôn. Hơn nữa, sản phẩm lại bị chèn ép bởi sản phẩm ngoại
nhập, sản phẩm nhập lậu, trốn thuế… lại càng gây khó khăn không nhỏ cho
DNVVN. Việc quản lý thị trường đầu ra còn nhiều sơ hở, buông lỏng tạo
điều kiện cho các đối tượng làm ăn phi pháp phát triển, còn các doanh
nghiệp họat động trung thực thua thiệt vì cạnh tranh không lành mạnh. Thị
trường các yếu tố đầu vào như đất đai, vốn đang là những khó khăn lớn,
những thách thức đặt ra đối với các DNVVN. Những nhân tố trên làm cho
các tác động của chính sách bị méo mó.
1.3. Chính sách phát triển DNVVN ở một số quốc gia
1.3.1. Hàn Quốc
DNVVN của Hàn Quốc chiếm khoảng 98,5% số lượng các doanh
nghiệp sản xuất (năm 1991), 63,5% lao động và 45,8% giá trị gia tăng trong
các doanh nghiệp công nghiệp. Do chiến lược phát triển DNVVN được xây
dựng nhằm phục vụ ưu tiên cho việc củng cố các tập đoàn kinh tế (Chaebol),
lấy nó làm xương sống của nền kinh tế quốc dân, nên doanh nghiệp vừa và
nhỏ trong một thời gian khá dài đã không được chú ý đúng mức.
Tuy nhiên, từ sau năm 1980, các chính sách đối với các DNVVN năng
26
động hơn, Chính phủ bắt đầu chú ý xây dựng các thể chế và biện pháp hỗ trợ
cụ thể, vạch ra kế hoạch mục tiêu dài hạn để thực hiện. Nhà nước tập trung hỗ
trợ cho các ngành công nghiệp địa phương, ngành công nghiệp mới và doanh
nghiệp mới được thành lập. Năm 1986, Hàn Quốc đã ban hành luật “tăng
cường việc hình thành các DNVVN” là cơ sở pháp lí quan trọng để phát triển
khu vực này. Từ năm 1990 đến nay, Hàn Quốc ban hành nhiều đạo luật (có 12
luật về DNVVN). Trước hết, xác định khái niệm DNVVN, các định hướng
phát triển DNVVN, hỗ trợ tài chính, tạo điều kiện và môi trường cho các
DNVVN tham gia cạnh tranh, quy định việc mua sản phẩm của các DNVVN,
tài trợ các doanh nghiệp nhỏ sử dụng công nghệ mới… Các chính sách
khuyến khích về tài chính, công nghệ, marketing được áp dụng rộng rãi.
Chính phủ đã thành lập một quỹ xúc tiến công nghiệp vừa và nhỏ (Small
and Medium Industries Promotion Fund) để cung cấp những khoản tín
dụng dài hạn, lãi suất thấp. Ngân hàng thương mại quốc gia phải dành một
tỷ lệ nhất định là 25% tín dụng để đầu tư cho các DNVVN.
Các chính sách hỗ trợ và phát triển các DNVVN của Hàn Quốc là
nhằm xây dựng một nền móng phát triển cho các DNVVN. Hệ thống chính
sách này được xây dựng trên nguyên tắc bảo đảm tính độc lập, tự chủ cho
các DNVVN trong quá trình thành lập cũng như trong hoạt động sản xuất
kinh doanh, đồng thời có biện pháp giúp đỡ hợp lý các DNVVN ở các tỉnh
để phát triển cân đối giữa thành thị và nông thôn.
Khái quát toàn bộ quá trình hình thành các chính sách và biện pháp hỗ
trợ DNVVN của Hàn Quốc, Chính phủ tập trung vào các điểm chính sau:
+ Phát triển thầu phụ công nghiệp.
+ Khuyến khích phát triển công nghệ mới và thương mại hóa sản phẩm mới.
+ Hỗ trợ phát triển thị trường.
+ Hỗ trợ vốn, tín dụng, thuế.
+ Khuyến khích thành lập và bảo vệ sự phát triển của DNVVN.
27
Một số biện pháp hỗ trợ cụ thể là:
- Tổ chức thầu phụ công nghiệp:
+ Ban hành đạo luật khuyến khích hệ thống hợp đồng thầu phụ để bảo
vệ cho các DNVVN trong mối quan hệ với các doanh nghiệp lớn.
+ Triển khai thành lập ủy ban hỗ trợ cho việc ký kết hợp đồng và ủy ban
tư vấn cho những người làm hợp đồng phụ; xây dựng “Tổ chức hỗ trợ cho sự
liên kết các dự án trong ngành công nghiệp” giúp cho các DNVVN được ưu
tiên thực hiện các hợp đồng sản xuất các sản phẩm chuyên dụng của doanh
nghiệp lớn và khuyến khích họ mua sản phẩm của DNVVN. Việc này đã giúp
cho các doanh nghiệp duy trì ổn định hoạt động của mình và tạo điều kiện để
có sự liên kết tổ chức sản xuất giữa doanh nghiệp lớn và nhỏ.
+ Bắt buộc các bên ký kết hợp đồng sản xuất và mua sản phẩm của
DNVVN phải thanh toán bằng tiền mặt ngay sau khi được giao hàng. Đối
với doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp nhỏ sẽ được vay
50% vốn. Những doanh nghiệp giao hợp đồng phụ sẽ được giảm thuế 10%
nếu đầu tư vào các dự án thử nghiệm hoặc đầu tư vào nâng cao kỹ thuật của
doanh nghiệp thực hiện hợp đồng phụ.
- Hỗ trợ để phát triển, thương mại hóa sản phẩm mới và công nghệ mới:
Chính phủ công bố chọn các ngành công nghiệp ưu tiên, các DNVVN
trong những ngành này sẽ được tăng cường hỗ trợ trong việc hiện đại hóa
các cơ sở vật chất, hợp lý hóa quản lý và cải tiến công nghệ.
Hỗ trợ việc nâng cấp dần trình độ kỹ thuật của các DNVVN để nâng
cao giá trị gia tăng và phát minh sáng chế kỹ thuật; khuyến khích các tổ
chức (cả tư nhân và Nhà nước) tham gia tích cực vào việc cung cấp các
dịch vụ thông tin và tư vấn cho DNVVN.
Chính phủ cũng hỗ trợ tài chính cho các ngành công nghiệp vừa và
nhỏ sử dụng kỹ thuật hiện đại. Thành lập 3 tổ chức tài chính khuyến khích
phát minh và sáng chế công nghệ là “Tổ chức hợp tác phát triển công nghệ
28
Hàn Quốc”, “Tổ chức hợp tác đầu tư phát triển” và “Tổ chức hợp tác tài
chính công nghệ”, bảo đảm cho các tổ chức này nhận được 70% vốn vay
của ngân hàng để làm dịch vụ hỗ trợ.
- Hỗ trợ phát triển thị trường: Nhà nước hỗ trợ thị trường bằng cách
công bố những mặt hàng độc quyền sản xuất dành riêng cho DNVVN. Số
lượng các mặt hàng này tăng dần từ 103 lên đến 205 vào tháng 12/1984.
Thành lập tổ chức xúc tiến thương mại Kotra hỗ trợ DNVVN trong
việc xâm nhập thị trường quốc tế. Hỗ trợ một phần chi phí quảng cáo, chi
phí hội chợ và tiếp thị, tìm kiếm thị trường cho những doanh nghiệp nhỏ và
những sản phẩm của họ ở ngoài nước.
- Các biện pháp hỗ trợ vốn, tín dụng, thuế:
+ Thông qua chính sách cho vay của Ngân hàng, Chính phủ buộc các
ngân hàng phải dành 35% toàn bộ vốn vay của mình cho các DNVVN, đối
với ngân hàng nước ngoài và các tổ chức tài chính bảo hiểm là 25% và
75% đối với các ngân hàng địa phương.
+ Ban hành một chính sách áp thuế ưu tiên cho DNVVN, mức thuế
suất giảm 50% so với doanh nghiệp lớn cùng loại, đặc biệt đối với các
doanh nghiệp nằm trong lĩnh vực ưu tiên như ở vùng xa, vùng sâu hoặc
nằm trong chương trình giúp đỡ nông thôn của Chính phủ, mức thuế suất
có thể giảm tới 100%.
Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu, Ngân hàng TW Hàn Quốc bảo
đảm cung cấp khoảng 90% tổng số vốn vay trong các lĩnh vực nhập khẩu
công nghệ, hoạt động nghiên cứu và phát triển, nhập máy móc để sản xuất
nguyên vật liệu, phụ tùng. Vốn đầu tư vào tài sản cố định của các doanh
nghiệp xuất khẩu sẽ được miễn thuế trong 3 năm.
- Khuyến khích thành lập và phát triển DNVVN trong nước cũng như
ngoài nước:
Đơn giản hóa thủ tục hành chính, hỗ trợ tài chính và cung cấp dịch vụ
29
thông tin trong nước và ngoài nước để tạo ra môi trường đầu tư thông thoáng,
thuận lợi và hạn chế rủi ro cho doanh nghiệp, như lập Quỹ hỗ trợ đầu tư hải
ngoại (150 triệu USD), ký hiệp định đảm bảo vốn đầu tư với các nước,...
Lập quỹ hỗ trợ song phương 300 triệu USD với sự đóng góp 50-50
của Chính phủ và doanh nghiệp để cho trường hợp doanh nghiệp không thể
trả được nợ vì phá sản hay vì những lí do khác, quỹ đó trả một khoản tiền
gấp 10 lần so với lệ phí hội viên. Mục tiêu của Quỹ là: Ngăn ngừa tình
trạng phá sản có tính dây chuyền của các DNVVN và giảm thiểu những
ảnh hưởng kinh tế xã hội có thể phát sinh; hỗ trợ song phương giữa các
doanh nghiệp; Cung cấp vốn theo nhu cầu của các tổ chức hợp tác nhằm
thực hiện liên doanh mua và bán.
Khuyến khích phát triển công nghiệp địa phương, trong đó tạo điều kiện
thuận lợi để các địa phương xây dựng các khu công nghiệp của mình, buộc họ
có trách nhiệm tìm kiếm địa điểm để xây dựng các khu công nghiệp trong địa
bàn mình phụ trách và Chính phủ sẽ cùng hỗ trợ vốn chỉ xây dựng cơ sở hạ
tầng, đồng thời các doanh nghiệp nằm trong khu công nghiệp sẽ được vay vốn
với lãi suất thấp cho xây dựng nhà xưởng và mua sắm thiết bị.
Khi hỗ trợ DNVVN, Nhà nước thường có xu thế bảo vệ các doanh
nghiệp này, trong khi các doanh nghiệp đều là những thực thể kinh doanh
bình đẳng trên thị trường. Do đó các chính sách nên hướng đến việc tạo
điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp này hoạt động có lãi trong một
môi trường cạnh tranh lành mạnh hơn là hỗ trợ bằng bao cấp và bảo hộ.
Nhận thức điều này, Hàn Quốc đã điều chỉnh chiến lược hướng vào đẩy
mạnh cạnh tranh lành mạnh của các doanh nghiệp lớn, kết hợp với hỗ trợ
các DNVVN và đào tạo lại lực lượng lao động. Xây dựng cơ chế trách
nhiệm rõ ràng, các doanh nghiệp phải tự gánh chịu những thiệt hại và có
trách nhiệm đối với sản xuất kinh doanh, không chịu thay cho doanh
nghiệp, Chính phủ tìm mọi cách tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở
rộng đầu tư và nắm lấy cơ hội kinh doanh. Do vậy, các DNVVN của Hàn
30
Quốc thời gian qua đã có nhiều đóng góp to lớn trong thành tựu phát triển
kinh tế, giúp Hàn Quốc trở thành một trong những quốc gia được đánh giá
cao trên trường quốc tế.
1.3.2. Singapore
Các DNVVN Singapore là các đối tác liên kết, liên doanh của các
công ty đa quốc gia ở Singapore. Sự hợp tác được thiết lập trên cơ sở đôi
bên cùng có lợi và hỗ trợ lẫn nhau. Các công ty đa quốc gia mang theo
công nghệ và khả năng sản xuất cao. Các DNVVN của Singapore hỗ trợ họ
bằng các sản phẩm và dịch vụ có chất lượng cao. Ngoài ra các DNVVN
của Singapore còn cùng các công ty đa quốc gia đột phá vào thị trường mới
trong khu vực.
Tình hình ở Singapore khác với nhiều nước khác. Khu vực DNVVN
to lớn không phải là lợi thế của nước này. Mặc dù DNVVN giúp tạo ra
nhiều việc làm, họ cũng cạnh tranh với nhau do tình trạng khan hiếm lao
động. Các DNVVN có ít khả năng tiếp cận công nghệ, tài chính và thị
trường sống còn để phát triển. Do vậy mà DNVVN được khuyến khích liên
kết với các công ty lớn để phát triển kinh tế.
Mục tiêu của Singapore là phát triển một nhóm DNVVN năng động
có tiềm năng phát triển trong tất cả các ngành công nghiệp. Các công ty
này không những đóng góp đáng kể vào GDP mà chúng còn là động lực để
các DNVVN khác phát triển mạnh mẽ hơn. Triết lí cơ bản của Singapore
cho việc phát triển DNVVN là giúp DNVVN thông qua các chính sách hỗ
trợ phát triển để nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài
nước.
Bốn nguyên tắc cơ bản trong các kế hoạch của Chính phủ nhằm giúp
DNVVN cải thiện hoạt động của mình là:
1. Giúp DNVVN để họ tự giúp mình.
2. Chỉ giúp DNVVN chứ không bảo hộ họ.
31
3. Đưa DNVVN vào guồng máy phát triển kinh tế chung.
4. Duy trì một môi trường kinh doanh thân thiện.
Do thấy rõ tầm quan trọng của các DNVVN, một kế hoạch phát triển
DNVVN, kế hoạch tổng thể phát triển DNVVN đã được phát triển với nỗ lực
của nhiều phía. Kế hoạch này được đưa vào thực hiện năm 1998 nhằm biến các
DNVVN thành các doanh nghiệp có sức sống và sức hồi phục. Kế hoạch 5 mũi
chủ chốt giúp cải cách các DNVVN và giảm thiểu rủi ro thành lập. Đó là:
1. Tài chính và kế hoạch kinh doanh.
2. Tiếp nhận, áp dụng và cải tiến công nghệ.
3. Quản lý nguồn nhân lực.
4. Cải thiện và huấn luyện khả năng sản xuất.
5. Hợp tác thị trường và kinh doanh.
Để giúp các DNVVN qua 5 điểm mấu chốt trên, các kế hoạch nhằm
giúp các DNVVN tiếp cận công nghệ, phát triển nguồn nhân lực, thị
trường, thông tin và tài trợ đã được vạch ra và thực hiện. Nhiều chương
trình khác nhau đã được các cơ quan chính phủ thiết kế nhằm giúp
DNVVN cải tiến hệ thống hoạt động. Một số chương trình tiêu biểu như:
a) Chương trình nâng cấp công nghiệp địa phương.
Chương trình này nhằm tăng cường mối quan hệ phát triển kinh doanh
chặt chẽ hơn giữa các công ty địa phương và các công ty đa quốc gia ở
Singapore. Qua chương trình này, các công ty đa quốc gia tham gia sẽ cho
các nhà quản lý chủ chốt làm việc trực tiếp với DNVVN. Các DNVVN có
khả năng khai thác kỹ năng quản lý và kỹ thuật của các công ty đa quốc
gia, khách hàng của họ để nâng cấp khả năng sản xuất và quản lý của mình
nhằnm đáp ứng các yêu cầu chất lượng và độ tin cậy cao hơn, Chương trình
này đựơc thực hiện trong 3 giai đoạn:
1. Cải thiện khả năng họat động.
32
2. Giới thiệu nhiều loại sản phẩm.
3. Phát triển các sản phẩm nói chung với các công ty đa quốc gia. Gần
200 DNVVN đã tham gia chương trình này.
b) Viện trợ không hoàn lại đê huấn luyện DNVVN.
Để nâng cao năng suất cho DNVVN, quỹ phát triển kỹ năng
Singapore đã thực hiện nhiều chương trình nhằm khuyến khích huấn luyện
người lao động trong các DNVVN. Quỹ này hỗ trợ cho việc phân tích nhu
cầu huấn luyện trong công ty, huấn luyện tại nơi làm việc, cũng như huấn
luyện các kỹ năng nhất định. Khoảng 32.000 hãng và 2000 nhân viên đã
được hưởng quỹ này qua các chương trình huấn luyện nâng cao.
c) Hình thành các nhóm kinh tế trong DNVVN
Năm 1992, Chính phủ Singapore bắt đầu xúc tiến hình thành các nhóm
kinh tế trong các DNVVN địa phương giúp cho họ gặt hái thành quả kinh tế và
trở nên có sức cạnh tranh và hiệu quả hơn. Một trung tâm đã được thành lập để
huấn luyện và tư vấn cho việc phát triển chi nhánh, thực hiện hình thành nhóm,
phát triển các mẫu nhóm và hỗ trợ tài chính cho việc hình thành nhóm.
Do đó mức độ phát triển khác nhau giữa các công ty, Chính phủ
Singapore đã áp dụng chiến lược ba mũi nhọn, là sự hỗ trợ có trọng điểm,
trong cả ngành công nghiệp và trên cơ sở rộng rãi. Với sự giúp đỡ này, tất
cả các doanh nghiệp địa phương lớn hay nhỏ đều có thể tham gia vào các
chương trình giúp đỡ phát triển của Chính phủ.
Bên cạnh đó, Trung tâm một cửa đã được thành lập trong Cục năng suất và
Tiêu chuẩn năm 1996 nhằm dễ dàng phối hợp cố gắng trợ giúp DNVVN. Nó áp
dụng quan điểm trung tâm – vệ tinh, nối liền DNVVN với nguồn kinh nghiệm
chuyên ngành. Trung tâm một cửa có 3 vai trò: Cung cấp “một cửa” thuận tiện
cho các doanh nghiệp địa phương cần giúp đỡ; Phối hợp các nỗ lực của
Chính phủ nhằm giúp đỡ khu công nghiệp địa phương phát triển; Làm
trung tâm thu thập thông tin để giúp đỡ đáp ứng các nhu cầu nâng cấp và
33
cơ cấu lại của các doanh nghiệp địa phương.
Chính phủ cũng lựa chọn để trợ giúp có trọng điểm, đó là các
DNVVN có triển vọng đứng đầu trong lĩnh vực kinh doanh của mình tại
Singapore. Những DNVVN này sẽ nhận được sự giúp đỡ nhằm giúp tăng
tốc độ phát triển. Cơ hội này dành cho các công ty trong tất cả các ngành
công nghiệp chừng nào họ có quyết tâm ý chí giành thắng lợi ở mức cao
hơn.
Có 4 công đoạn chủ chốt trong chương trình hỗ trợ có trọng điểm:
+ Thứ nhất, giúp các công ty xây dựng hình ảnh, phương hướng, chiến
lược rõ ràng. Ngoài việc thuê các chuyên gia bên ngoài để phát triển kế
hoạch kinh doanh chiến lược, Chính phủ đang làm việc chặt chẽ với
DNVVN nhằm chia sẻ thông tin về xu hướng công nghiệp.
+ Thứ hai, giúp DNVVN cạnh tranh bằng cách tăng cường năng lực
trong các lĩnh vực có triển vọng của họ.
+ Thứ ba, giúp DNVVN mở rộng cơ sở kinh doanh bằng mở rộng cơ
sở sản phẩm và khách hàng.
+ Thứ tư, Chính phủ giúp DNVVN vượt ra khỏi phạm vi đất nước,
trọng tâm là để giúp DNVVN tăng cường hoạt động tại Singapore và làm
cho các hoạt động tại nước ngoài dễ dàng hơn.
1.3.3. Đài Loan
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới trong báo cáo "Sự thần kỳ Đông
Á" đã cho rằng, chính sách phát triển DNVVN của Đài Loan là chính sách tốt
nhất trong khu vực Đông Á. Hệ thống chính sách và biện pháp trợ giúp
DNVVN tương đối toàn diện và có tính ổn định cao, được thể chế bằng văn
bản "Đại cương các chính sách và biện pháp nhằm vào các DNVVN" do Cục
quản lý DNVVN ban hành, trong đó tập trung vào 3 nhóm lớn:
- Xây dựng môi trường kinh doanh tối ưu.
- Thúc đẩy sự hợp tác.
34
- Thúc đẩy sự tăng trưởng độc lập của các DNVVN.
Ở Đài Loan, các DNVVN chiếm tỷ trọng cao và hoạt động trong
nhiều ngành sản xuất của nền kinh tế quốc dân. Năm 1997, Đài Loan có
hơn 800.000 DNVVN, chiếm hơn 96% tổng số doanh nghiệp và hơn 65%
tổng số lao động xã hội. Các DNVVN hoạt động trong tất cả các ngành
công nghiệp, dịch vụ, từ công nghiệp thủ công truyền thống đến các ngành
công nghiệp kỹ thuật cao. Trong mỗi sản phẩm công nghiệp, sản xuất của
các DNVVN đều chiếm hơn 50% giá trị sản xuất kinh doanh, đặc biệt trong
thương mại các DNVVN chiếm tới hơn 80%.
DNVVN của Đài Loan có vai trò quan trọng trong giải quyết việc làm,
tăng thu nhập cho người dân. Số lao động làm việc trong ngành chế tạo chiếm
59,6%, lao động trong ngành thương mại là 95%, trong ngành dịch vụ 66,2%.
Các chính sách của chính quyền Đài Loan chủ yếu đặt mục tiêu là
gia tăng khả năng sản xuất của các DNVVN và cải thiện các hỗ trợ về tài
chính, sản xuất, quản lý, kế toán và tiếp thị; xúc tiến tổ chức hệ thống nhà
máy vệ tinh nhằm nâng cấp chất lượng sản phẩm, cải thiện chuyên môn hóa
sản xuất và đẩy nhanh phát triển công nghiệp nhờ sự hợp tác tốt hơn giữa
các doanh nghiệp hiện tại.
Duy trì hệ thống hiệp hội phối hợp chặt chẽ với các tổ chức tư nhân trong
và ngoài nước nhằm cung cấp, hỗ trợ tập trung về quản lý, tài chính, công nghệ
cho các DNVVN. Điều này được thực hiện rất có hiệu quả, và chính quyền còn
đầu tư rất nhiều cho việc truyền bá các thông tin về công nghệ; thúc đẩy chuyển
giao công nghệ thông qua quan hệ với các công ty nước ngoài.
Để tạo nguồn vốn, Đài Loan thành lập "Quỹ phát triển DNVVN" để
giúp cho các doanh nghiệp này cải thiện môi trường kinh doanh, đẩy mạnh
hợp tác với nhau, đồng thời hướng dẫn cho quỹ tự phát triển nhằm thúc đẩy
các DNVVN phát triển lành mạnh. Quỹ này cấp tín dụng cho các DNVVN
với lãi suất thấp hơn lãi suất bình thường của các ngân hàng nhằm giúp các
doanh nghiệp phát triển theo chuyên ngành hoặc chuyển hướng ngành nghề
35
của các doanh nghiệp. Quỹ này sử dụng nguồn lợi nhuận để bảo lãnh tín
dụng cho các trường hợp phát triển chuyên ngành, mức bảo hiểm cao nhất
là 90% và chấp nhận chịu một nửa rủi ro.
Đài Loan cũng theo đuổi chính sách khuyến khích xuất khẩu để cố
gắng tạo một môi trường kinh doanh ổn định, khuyến khích đầu tư từ các
nguồn vốn trong nước. Trong lĩnh vực này, vai trò các công ty thương mại
vừa và nhỏ được tăng cường và khuyến khích phát triển mạnh mẽ vì đây là
đầu mối để khu vực chế tạo của Đài Loan tiếp cận với thị trường thế giới.
1.3.4. Một số kinh nghiệm về chính sách phát triển DNVVN
Mục tiêu hỗ trợ các DNVVN ở các nước đều nhằm vào việc trợ giúp khắc
phục những bất lợi của chúng và tạo điều kiện phát triển các doanh nghiệp
này, giúp chúng khai thác tốt hơn các tiềm năng kinh tế, đặc biệt là các tiềm
năng trong nước. Đồng thời góp phần khắc phục những khuyết tật của các
doanh nghiệp lớn, dân chủ hóa nền kinh tế và duy trì động lực tăng trưởng của
nền kinh tế. Tuy nhiên khi áp dụng kinh nghiệm của nước ngoài cần phải có sự
sàng lọc cho phù hợp với điều kiện kinh tế văn hóa của nước ta. Cụ thể là:
- Một là, để hỗ trợ các DNVVN có hiệu quả, Chính phủ các nước đều
coi trọng vai trò khu vực này, ban hành nhiều chính sách và hình thành các
chương trình mục tiêu để hỗ trợ cho các DNVVN.
Do nhận thức đầy đủ vai trò của các DNVVN nên Chính phủ các nước
rất quan tâm đến việc khuyến khích, hỗ trợ sự phát triển của các doanh nghiệp
này. Hầu hết các nước đều ban hành một văn bản pháp lý xác định đối tượng
của chính sách, sau đó mới đề cập đến định hướng phát triển, khuyến khích sự
phát triển DNVVN và các chính sách, biện pháp hỗ trợ DNVVN.
Hệ thống các chính sách hỗ trợ này bao gồm việc đưa ra các chính
sách hỗ trợ, tạo lập môi trường thuận lợi cho DNVVN phát triển, tổ chức
các cơ quan hỗ trợ chính thức của Chính phủ, khuyến khích việc thành lập
tổ chức hỗ trợ theo các mô hình khác nhau… Một số nước có đưa ra những
36
ưu đãi nhất định cho các DNVVN như ưu đãi về thuế, về tín dụng, về đất
đai… Tuy nhiên, các nước thường sử dụng biện pháp hỗ trợ là chính, tránh
sự bao cấp đối với các doanh nghiệp. Để các chính sách hỗ trợ đạt được
kết quả mong muốn, Chính phủ các nước thường hình thành các chương
trình mục tiêu để trợ giúp các DNVVN. Các chương trình này thường tập
trung vào các lĩnh vực sau đây:
+ Ở những nước thành công trong phát triển kinh tế, thuế được sử
dụng như là phương tiện điều tiết hữu hiệu nhất. Hệ thống thuế được xây
dựng nhằm khuyến khích các doanh nghiệp phát triển chứ không nhằm để
rút kiệt tiềm năng phát triển của chúng.
+ Hỗ trợ về vốn, tín dụng và tài trợ hoặc trợ cấp cho DNVVN là biện
pháp xét về mức độ phổ biến đứng thứ hai sau các biện pháp về thuế. Các
hình thức là cấp tín dụng trực tiếp, cho vay với lãi suất thấp, bảo lãnh tín
dụng, trợ cấp nghiên cứu và phát triển và phát triển, trợ cấp qua giá…
+ Các Chính phủ đều sử dụng chính sách tài chính kết hợp với chính
sách tiền tệ đúng đắn nhằm vừa ổn định nền kinh tế, vừa tạo điều kiện cho
các DNVVN phát triển. Trong chính sách tiền tệ, các nước đều chú ý đến
lãi suất cho vay có tác dụng khuyến khích hay hạn chế đầu tư tư nhân.
Thay đổi tỷ giá hối đoái có tác động mạnh đến hoạt động xuất – nhập khẩu.
Nhiều nước đã chủ động phá giá đồng tiền để làm tăng khả năng cạnh tranh
của hàng hóa trong nước. Nhờ phá giá đồng tiền nhiều nước đã thay đổi
được cán cân xuất nhập khẩu của mình do tăng mạnh xuất khẩu.
+ Trợ giúp marketing, phát triển thị trường được nhiều nước áp dụng.
Việc mua bán với các cơ quan Chính phủ được khuyến khích thông qua
thầu hoặc một bên thứ ba, giúp các doanh nghiệp nhỏ trao đổi hợp đồng
thầu phụ. Giảm chi phí cho việc khảo sát và xúc tiến bán hàng ra thị trường
nước ngoài gồm: Quảng cáo, mẫu quảng cáo, tham gia triển lãm, chi phí ở
37
nước ngoài và chi phí cho văn phòng bán hàng ở nước ngoài.
+ Hỗ trợ về công nghệ và đào tạo cũng là một chính sách được áp
dụng dưới nhiều hình thức chuyển giao công nghệ với giá ưu đãi, hỗ trợ kỹ
thuật của các viện nghiên cứu, trực tiếp tổ chức các trung tâm đào tạo…
- Hai là, hệ thống tổ chức hỗ trợ được xây dựng rất linh hoạt, đa dạng,
hướng về doanh nghiệp, theo tiêu thức hiệu quả là chính.
Để thực hiện các chính sách hỗ trợ DNVVN, các tổ chức hỗ trợ
thường bao gồm các cơ quan chính phủ và phi chính phủ, được tổ chức
thành một hệ thống khá hoàn chỉnh, đó là các cơ quan của chính phủ, các tổ
chức ngân hàng và tài chính, các trường đại học, viện nghiên cứu, trung
tâm tư vấn, cơ quan phát triển thương mại, các hiệp hội… Nhìn chung
trong cơ cấu của bộ máy quản lý Nhà nước về kinh tế của các quốc gia đều
có cơ quan chuyên trách quản lý, thực hiện chính sách phát triển DNVVN.
Song song với cơ quan Nhà nước về hoạch định chính sách, quản lý
hỗ trợ DNVVN, các tổ chức hỗ trợ và các tổ chức đại diện cho DNVVN
đựơc khuyến khích thành lập. Một số ít do Nhà nước thành lập, còn phần
lớn do tư nhân hoặc các DNVVN thành lập ra tổ chức đại diện cho mình và
hoạt động có sự hỗ trợ, tài trợ của Nhà nước. Các tổ chức này thực hiện các
chức năng chủ yếu như: Cung cấp vốn, nghiên cứu và chuyển giao công
nghệ, hỗ trợ tiếp thị, đào tạo quản lý, tay nghề, tư vấn cho DNVVN.
- Ba là, sự hợp tác chặt chẽ giữa Chính phủ và cộng đồng doanh
nghiệp, giữa các doanh nghiệp với nhau là một trong những điều kiện
không thể thiếu để phát triển các DNVVN.
Để phát triển khu vực DNVVN có sức cạnh tranh không chỉ cần có
chương trình, chính sách hỗ trợ. Để các chương trình, chính sách có hiệu quả
phải được bổ sung bằng nhiệt tình và cam kết giữa Chính phủ và cộng đồng
doanh nghiệp. Ngoài việc khuyến khích các doanh nghiệp chủ động tự lực,
38
Chính phủ cũng tạo cho họ môi trường hợp tác kinh doanh thuận lợi. Điều này
cho phép DNVVN hành động vừa độc lập, vừa kết hợp với nhau để nâng cao
sức cạnh tranh trong khu vực cũng như trên thị trường quốc tế.
Chƣơng 2
CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DNVVN Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA
2.1. Tiến trình chính sách và tác động của nó tới sự phát triển của
DNVVN ở Việt Nam
Ngay từ năm 1953, trong tác phẩm "Thường thức chính trị", Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nói đến sự tồn tại của năm loại kinh tế khác nhau trong
chế độ mới:
"A- Kinh tế quốc doanh (thuộc CNXH, vì nó là của chung của nhân dân).
B- Các hợp tác xã (nó là nửa CNXH và sẽ tiến đến CNXH).
C- Kinh tế cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào
hợp tác xã, tức là nửa CNXH).
D- Tư bản tư nhân.
E- Tư bản của Nhà nước (Nhà nước hùn vốn với tư bản tư nhân để
kinh doanh)"[25, tr.247]
Trong thời kỳ khôi phục kinh tế (1954 - 1959), quan điểm kinh tế
nhiều thành phần đã được Đảng và Nhà nước quan tâm, chú trọng phát
triển. Trên cơ sở quan điểm của Lênin về nền kinh tế nhiều thành phần,
Đảng đã phát triển và vận dụng quan điểm đó cho phù hợp với điều kiện
của nước ta. Nhờ kiên trì thực hiện quan điểm phát triển kinh tế nhiều
thành phần trong suốt thời kỳ khôi phục kinh tế nên đã huy động được sức
lực và trí tuệ của toàn dân vào việc phát triển kinh tế, góp phần nâng cao đời sống của các tầng lớp nhân dân ở miền Bắc.
Với việc chuyển sang mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao
cấp, kinh tế tư nhân không được thừa nhận, là đối tượng cải tạo, xóa bỏ. Từ
năm 1959, với chủ trương cải tạo XHCN đối với công thương nghiệp tư bản
tư doanh ở miền Bắc, khu vực kinh tế tư nhân được chuyển dần sang hình
thức công tư hợp doanh và hợp tác xã. Các biện pháp cải tạo XHCN cũng được áp dụng đối với kinh tế tư nhân ở miền Nam sau ngày thống nhất đất
39
nước.
Sau chiến thắng năm 1975, chúng ta mắc phải bệnh chủ quan, nóng
vội, duy y chí trong cải tạo XHCN nên đã muốn xóa bỏ ngay các thành
phần kinh tế "phi XHCN", nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành
quốc doanh, muốn hoàn thành trong thời gian ngắn cải tạo XHCN. Thêm
vào đó, công cuộc cải tạo quan hệ sản xuất và xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật đạt kết quả không cao; nông nghiệp bị thiên tai nặng vào những năm
1977 - 1978, xảy ra chiến tranh biên giới Tây Nam năm 1979 càng làm cho
bức tranh kinh tế đất nước ngày càng xấu đi.
Đứng trước tình hình tình hình khủng hoảng kinh tế - xã hội của đất
nước, Hội nghị BCHTW lần thứ 6 khóa IV (9/1979) đưa ra Nghị quyết về
tình hình và nhiệm vụ cấp bách. Nghị quyết chỉ rõ: "Việc xây dựng kế hoạch
kinh tế vẫn tập trung quan liêu, thiếu căn cứ thực tế và khoa học, chưa kết
hợp chặt chẽ kế hoạch với sử dụng thị trường; chưa chú ý đầy đủ tăng cường
và phát huy kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể và cũng chưa chú ý sử dụng
đúng đắn các thành phần kinh tế cá thể và tư bản dân tộc ở miền Nam". Nghị
quyết là bước chuyển đầu tiên có ý nghĩa lớn đối với việc đưa nền kinh tế
từng bước thoát ra khỏi cơ chế quản l ý kế hoạch hóa tập trung cao độ, mở
đường cho những cải cách kinh tế cho những năm sau này.
Để đưa nghị quyết vào cuộc sống, giải quyết những khó khăn, bế tắc
trong phát triển kinh tế, Đảng và Nhà nước ta đã có những chính sách kinh tế
hết sức quan trọng, có tác động to lớn tới toàn bộ nền kinh tế. Cụ thể là:
Thứ nhất, ngày 13/01/1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị
số 100 về công tác khoán và mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người
lao động.
Thứ hai, ngày 21/01/1981, Chính phủ ban hành Quyết định 25/CP về một số chủ trương và biện pháp nhằm tiếp tục phát huy quyền chủ động sản
xuất kinh doanh và quyền tự chủ tài chính của xí nghiệp quốc doanh.
Thứ ba, trong kế hoạch 5 năm 1981 - 1985 đã công nhận chính thức
vai trò của khu vực kinh tế tư nhân. Nông dân sau khi hoàn thành định mức
bán nông sản cho Nhà nước, được phép bán sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi
ra thị trường tự do. Thương gia và thợ thủ công được phép hoạt động như
40
những nhà kinh doanh hợp pháp.
Thứ tư, tìm cách xóa bỏ bao cấp, trước hết là xóa chính sách hai giá
và thực hiện chính sách bù giá vào lương. Ngày 17/6/1985, Hội nghị lần
thứ 8 (khóa V) BCHTW Đảng đã ra nghị quyết về "Giá - Lương - Tiền".
Làn gió tư duy kinh tế mới đã bắt đầu thổi vào kế hoạch 5 năm 1981 -
1985 làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế khá hơn kế hoạch 5 năm 1976 - 1980.
Bình quân mỗi năm trong kế hoạch 5 năm 1981 - 1985, tổng sản phẩm xã hội
tăng 7,3%; thu nhập quốc dân tăng 6,4%; giá trị tổng sản lượng nông nghiệp
tăng 5,1%; giá trị tổng sản lượng nông nghiệp 5,1%; giá trị tổng sản lượng
công nghiệp tăng 9,5%; kim ngạch xuất khẩu tăng 15,6%.
Tuy nhiên, thực chất nền kinh tế vẫn vận hành theo mô hình cũ, do
vậy vẫn chưa tạo ra động lực mới mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất kinh doanh
phát triển. Kết thúc kế hoạch 5 năm (1981 - 1985), nhiều mục tiêu chưa đạt
mức đề ra ban đầu. Kinh tế phát triển chậm, đất nước lâm vào khủng hoảng
trầm trọng, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.
Trong điều kiện nền kinh tế khó khăn như vậy nhưng những người
tham gia sản xuất, kinh doanh thương nhiệp nhỏ bị Nhà nước cấm đoán lại
có cuộc sống sung túc hơn những người làm trong các hợp tác xã, cơ quan,
xí nghiệp quốc doanh, những người chỉ biết đến khoản tiền lương hết sức
eo hẹp trong khi đồng tiền bị mất giá trầm trọng. Điều này một mặt khẳng
định sức sống bền bỉ của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, mặt
khác cho thấy được sự cần thiết phải có các thành phần kinh tế khác ngoài
các thành phần kinh tế tập thể và quốc doanh trong tiến trình phát triển kinh
tế của đất nước trong thời kỳ quá độ.
Nhận thức được vấn đề này, Đảng ta đã nghiêm túc, thẳng thắn thừa
nhận những sai lầm, khuyết điểm, kiên quyết tìm mọi biện pháp xóa bỏ cơ chế kế hoạch hóa tập trung mang nặng tính quan liêu hành chính, vạch ra
đường lối đổi mới, chỉ đạo Chính phủ nỗ lực đẩy mạnh cải cách trong các
giai đoạn sau này.
2.1.1. Giai đoạn 1986 - 1990
Đại hội lần thứ VI (12/1986) Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định
41
đổi mới nền kinh tế. Công cuộc đổi mới này được đặt ra nhằm đưa nền kinh tế thoát khỏi trạng thái suy thoái, bế tắc và khủng hoảng, điều cơ bản là thay đổi trong phương thức và mô hình phát triển kinh tế. Thực chất của sự
đổi mới kinh tế là chuyển kinh tế từ mô hình kế hoạch hóa tập trung sang
kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nội dung của công cuộc đổi mới
kinh tế là thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, khôi phục và cho
phép các thành phần kinh tế phát triển. Đại hội đã chỉ ra sai lầm trong việc
xóa bỏ thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa và các thành phần kinh tế tư
nhân khác. Quan điểm và chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần là
một nội dung trọng tâm của đổi mới kinh tế. Có thể nói, đây là chính sách
nền tảng quan trọng tạo tiền đề cho sự phát triển DNVVN ở Việt Nam.
Đại hội VI đã khẳng định: "Trong nhận thức cũng như hành động,
chúng ta chưa thật sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta
còn tồn tại trong một thời gian tương đối dài, chưa nắm vững và vận dụng
đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất"[11, tr.23].
Khắc phục sai lầm trên, Đảng ta đã xác định, nền kinh tế có cơ cấu
nhiều thành phần là một đặc trưng trong thời kỳ quá độ, phát triển kinh tế
nhiều thành phần là một chủ trương chiến lược, lâu dài trong suốt thời kỳ
quá độ lên CNXH. Đại hội chỉ rõ: "Đối với kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa,
Nhà nước thừa nhận sự cần thiết của bộ phận kinh tế này trong thời kỳ quá
độ, hướng dẫn và giúp đỡ nó sản xuất, kinh doanh, liên kết với kinh tế quốc
doanh và kinh tế tập thể… Đối với tiểu thương, thông qua nhiều hình thức
tùy theo ngành hàng, để sắp xếp, cải tạo và sử dụng họ thành lực lượng bổ
sung cho thương nghiệp XHCN… Nhà nước cho phép những nhà tư sản
nhỏ sử dụng vốn, kiến thức kỹ thuật và quản lý của họ để tổ chức sản
xuất, kinh doanh trong một số ngành nghề thuộc khu vực sản xuất và dịch vụ ở những nơi cần thiết trong cả nước [11, tr.60].
Nhờ đó, các thành phần kinh tế tư bản tư nhân, tiểu chủ, kinh tế hộ
gia đình mới có điều kiện hình thành và phát triển trở lại một cách công
khai, hợp pháp. Trong những năm 1987 - 1989, Đảng và Nhà nước đã ban
hành hàng loạt chỉ thị, nghị quyết nhằm từng bước xác lập cơ chế quản lý
kinh tế mới. Cụ thể như:
Ngày 05/4/1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 10 về đổi mới quản
42
lý trong nông nghiệp.
Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành Quyết định
217/HĐBT trao quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp
quốc doanh.
Nghị quyết số 16 của Bộ Chính trị (1988) và Hội nghị lần thứ sáu, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI) năm 1989 tiếp tục khẳng định đường
lối đổi mới của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI và đã bổ sung, cụ thể
hóa một bước quan trọng và khẳng định, kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa
chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ lên CNXH và thể hiện dân
chủ hóa về kinh tế. Kinh tế tư nhân được phát triển không hạn chế cả về địa
bàn lẫn quy mô, trong các ngành, nghề mà pháp luật không cấm.
Chính phủ đã ban hành các văn bản quan trọng như Nghị định
27/HĐBT (1988) quy định về chính sách đối với kinh tế tư nhân, cá thể; các
Nghị định số 28, 29 nhằm tạo môi trường pháp lý bảo đảm cho các chủ doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế quốc doanh yên tâm bỏ vốn đầu tư và mở
rộng sản xuất kinh doanh.
Ngày 14/11/1988, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số
170/HĐBT về chính sách đối với hộ kinh tế cá thể, xí nghiệp tư doanh
trong nông - lâm - ngư nghiệp, công nhận sự tồn tại và tác dụng tích cực
của các hộ kinh tế cá thể, xí nghiệp tư doanh nông nghiệp.
* Một số kết quả phát triển khu vực kinh tế tư nhân giai đoạn
1986 - 1989
Nhờ có chính sách đổi mới, kinh tế tư nhân được thừa nhận, tạo điều
kiện phát triển và đã nhanh chóng đạt được kết quả tốt đẹp ngay trong
những năm đầu của thời kỳ đổi mới. Điều này đã khẳng định sự đúng đắn trong tư duy đổi mới của Đảng và Nhà nước ta.
Trong công nghiệp, kinh tế tư nhân đã đầu tư thêm tiền vốn để mở rộng
các cơ sở hiện có, hoặc xây dựng thêm cơ sở mới. Năm 1988 khu vực này đã
đầu tư thêm 80 tỷ đồng, thành lập mới 17.000 cơ sở, trong đó có 46 xí nghiệp
tư nhân; 1.100 cơ sở tiểu thủ công nghiệp và hơn 15.000 hộ cá thể. Năm 1989,
số vốn đầu tư tăng thêm 102 tỷ đồng, số xí nghiệp tư nhân tăng gấp 4 lần so
43
với năm 1988 (từ 318 xí nghiệp tăng lên 1.284 xí nghiệp); hộ tiểu thủ công nghiệp và cá thể từ 31,85 vạn lên 33,33 vạn, tăng 4,6%.
Năm 1989 thành phần kinh tế tư nhân thu hút thêm 39.500 lao động,
giá trị tổng sản lượng tăng thêm 34,5% so với năm 1988, trong đó: xí
nghiệp tư doanh tăng 51,9%; hộ tiểu thủ công nghiệp và cá thể tăng 34%.
Tỷ trọng giá trị sản lượng công nghiệp khu vực tư nhân cá thể chiếm
trong giá trị tổng sản lượng toàn ngành công nghiệp tăng khá đều đặn: năm
1986: 15,6%; năm 1987: 25,69%; năm 1988: 19,6%; năm 1989: 27,2%.
Trong thương nghiệp, lao động trong khu vực kinh tế tư nhân tăng
lên nhanh chóng: Năm 1986: 567.900 lao động; năm 1987: 640.000 lao
động; năm 1988: 718.900 lao động; năm 1989: 793.000 người; năm 1990:
811.000 người. Ngoài ra còn có lực lượng thương nghiệp không chuyên
tham gia hoạt động khoảng 160.000 người.
Tỷ trọng doanh thu hàng hóa dịch vụ của khu vực tư nhân trong tổng
mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng xã hội ngày càng lớn: năm 1986:
45,6%; năm 1987: 46,1%; năm 1988: 50,4%; năm 1989: 60,8%.
2.1.2. Giai đoạn 1991 - 1999
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (năm 1991) của Đảng tiếp tục
thực hiện đường lối đổi mới được khởi xướng từ Đại hội VI và khẳng định,
Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, không
phân biệt đối xử, không tước đoạt tài sản hợp pháp, không gò ép tập thể hóa,
không áp đặt hình thức kinh doanh, khuyến khích các hoạt động có lợi cho
quốc kế dân sinh.
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn công cuộc đổi mới, Hội nghị lần thứ hai
Ban Chấp hành Trung ương khóa VII (năm 1992), chuyên đề về kinh tế ngoài
quốc doanh đã đưa ra một số chủ trương, biện pháp lớn để phát huy tiềm năng
của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh với những nội dung chính sau:
- Bổ sung, sửa đổi thể chế nhằm bảo đảm cho kinh tế tư nhân được phát
huy không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những lĩnh vực mà
pháp luật không cấm; được tự do lựa chọn hình thức kinh doanh, kể cả liên
44
doanh với nước ngoài theo những điều kiện do luật định.
- Xóa bỏ những cấm đoán và ràng buộc vô lý, những thủ tục phiền hà
gây khó khăn cho việc phát triển sản xuất, kinh doanh của nhân dân.
- Cải cách bộ máy quản l ý nhà nước từ Trung ương đến địa phương
để thực hiện tốt nhiệm vụ quản l ý nhà nước đối với tất cả các thành phần
kinh tế.
- Khuyến khích thành lập các tổ chức kinh tế - xã hội của các doanh
nghiệp tư nhân và cá thể, làm người đại diện cho các thành viên trong việc đối
nội, đối ngoại và làm cầu nối giữa doanh nghiệp với Nhà nước.
Đại hội VIII của BCHTW (năm 1996) khẳng định vai trò quan trọng
của kinh tế tư nhân ở nước ta và nhấn mạnh: "Khuyến khích kinh tế tư bản tư
nhân đầu tư vào sản xuất, yên tâm làm ăn lâu dài; bảo hộ quyền sở hữu và lợi
ích hợp pháp"[13, tr.96].
Hội nghị lần thứ tư BCHTW khóa VIII (12/1997) khẳng định: "Tiếp
tục cụ thể hóa chủ trương nhất quán xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần"
[14, tr.72] và "Khuyến khích phát triển và quản l ý tốt kinh tế tư bản tư
nhân"[14, tr.73], đồng thời chủ trương phát triển các hình thức hợp tác, liên
doanh, liên kết giữa các thành phần kinh tế với các biện pháp cụ thể. Nhà
nước chủ động đầu tư và gọi vốn của các thành phần kinh tế,… nghiên cứu thí
điểm việc Nhà nước góp vốn mua cổ phần của các công ty tư nhân, doanh
nghiệp nhà nước thuê nhà kinh doanh tư nhân quản lý doanh nghiệp.
Trong giai đoạn này, Đảng và Nhà nước ta nỗ lực không ngừng đổi
mới, liên tục đưa ra những chủ trương cởi mở và thông thoáng, ban hành
các chính sách thuận lợi cho sự hình thành và phát triển các doanh nghiệp
trong cả nước. Cụ thể như:
- Ban hành Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty (năm 1990)
đã đặt dấu mốc quan trọng đánh dấu bước phát triển vượt bậc của các loại
hình doanh nghiệp ở Việt Nam. Đây là cơ sở pháp l ý hết sức quan trọng
cho việc hình thành và phát triển các DNVVN ở Việt Nam. Các loại hình
doanh nghiệp ở Việt Nam ngày càng trở nên phong phú hơn với những loại
45
hình doanh nghiệp như: cá nhân, nhóm kinh doanh (kinh tế cá thể, tiểu
chủ), công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH và công ty
cổ phần, hình thành nên khu vực tư nhân chính thức ở Việt Nam.
- Hiến pháp Việt Nam 1992 - cơ sở pháp lý có hiệu lực cao nhất - đã đưa
ra những đảm bảo pháp lý cơ bản cho sự phát triển lâu dài và bình đẳng của các
DNVVN. Hiến pháp 1992 nêu rõ: Nền kinh tế Việt Nam là một "nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng XHCN". Như
vậy, Hiến pháp 1992 đã xóa bỏ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, xóa bỏ sự
độc tôn của kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, thừa nhận và bảo hộ các các
thành phần kinh tế cá thể và tư bản tư nhân. So với các quy định trước đây của
Hiến pháp năm 1980, sự tồn tại lâu dài của các DNVVN đã được thừa nhận
một cách hợp pháp. Mọi công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định
của pháp luật. Trong khuôn khổ pháp luật quy định, quyền tự do kinh doanh
của công dân bao hàm các nhóm quyền cụ thể sau đây:
+ Quyền tự do lựa chọn hình thức, lĩnh vực, quy mô, thời gian, địa điểm
kinh doanh theo quy định của pháp luật;
+ Quyền tự do sử dụng lao động làm thuê, tự do giao kết hợp đồng lao
động trong khuôn khổ của pháp luật;
+ Quyền tự do tích lũy, sử dụng và định đoạt tài sản phù hợp với pháp
luật hiện hành.
+ Quyền tự do giao kết hợp đồng trong kinh doanh theo quy định của
pháp luật;
+ Quyền tự do hợp tác kinh tế với các tổ chức và cá nhân trong và ngoài
nước trong khuôn khổ pháp luật;
+ Quyền tự chủ trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, thay đổi
ngành nghề, hình thức kinh doanh, chủng loại sản phẩm phù hợp với yêu
cầu của thị trường;
+ Quyền được bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, có quyền yêu cầu Nhà
nước bảo hộ các quyền lợi hợp pháp khi bị người thứ ba vi phạm.
Có thể kết luận rằng, các quy định của Chương II và Chương V của
46
Hiến pháp năm 1992 đã đặt những nền móng vững chắc và đầy đủ cho sự
phát triển lâu dài và ổn định của các DNVVN. Những nguyên lý chung về
bảo hộ sở hữu tư nhân, thừa nhận sự tồn tại lâu dài của các DNVVN, thực
hiện tự do kinh doanh và bảo đảm sự bình đẳng trước pháp luật của các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần sở hữu đã ngày càng được thể hiện một
cách cụ thể hơn trong các đạo luật và văn bản dưới luật do Nhà nước ta ban
hành. Những quy định này đã là những cơ sở pháp lý toàn diện đảm bảo
cho các DNVVN tồn tại và phát triển.
- Đất đai là lĩnh vực phức tạp nhất và chứa đựng nhiều mâu thuẫn,
tranh chấp nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Các quan hệ về sử dụng
đất ở Việt Nam không ổn định, thiếu bằng chứng do trải qua nhiều biến cố
lịch sử và không có cách giải quyết mang tính hệ thống. Luật Đất đai được
ban hành lần đầu tiên vào ngày 29/12/1987, sau đó được thay thế bằng Luật
Đất đai năm 1993, sau đó lại được sửa đổi, bổ sung vào năm 1998, gần đây
nhất được sửa đổi và áp dụng từ 01/7/2004. Ủy ban thường vụ Quốc hội đã
ban hành 6 pháp lệnh, Chính phủ và các cơ quan hành chính đã ban hành
hơn 400 văn bản quản lý đất đai (gồm nghị định, thông tư, quyết định, chỉ
thị, hướng dẫn thi hành).
Đánh giá một cách chung nhất, một số nội dung cơ bản của chính sách
đất đai có tác động quan trọng đối với DNVVN ở Việt Nam là:
+ Đất đai thuộc sở hữu toàn dân1. Các doanh nghiệp không có quyền
sở hữu đất đai, mà chỉ có quyền thuê đất để sử dụng ổn định lâu dài vào mục
đích kinh doanh. Thời hạn cho thuê không quá 50 năm, trường hợp đặc biệt
có thể xem xét tối đa là 70 năm.
+ Nhà nước Việt Nam không thừa nhận các yêu cầu đòi lại đất đã giao
cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai (Điều 2,
Luật Đất đai). Quy định này có ý nghĩa hết sức quan trọng, đảm bảo tính ổn
định trong quan hệ sử dụng đất đai, bảo vệ quyền lợi của các DNVVN thuê
1 Điều 17, 18 Hiến pháp 1992; Điều 1 Luật Đất đai; Điều 205 Bộ luật Dân sự.
47
đất của Nhà nước một cách hợp pháp.
+ Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Đất đai ban hành năm
1998 đã tăng cường vị trí pháp lý cho các tổ chức thuê đất kinh doanh, tùy
theo cách thức trả tiền thuê đất hàng năm hay trả tiền cho cả thời gian thuê
đất, các doanh nghiệp có quyền:
(a) thế chấp tài sản gắn liền với đất để vay vốn.
(b) chuyển nhượng tài sản gắn liền với đất; nếu đã trả tiền thuê cho
toàn bộ thời gian thuê, thì doanh nghiệp thuê đất có quyền:
thế chấp giá trị quyền sử dụng đất để vay vốn
chuyển nhượng quyền sử dụng đất
góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất để liên kết kinh doanh với
các đối tác trong và ngoài nước
có quyền cho thuê lại quyền sử dụng đất.
Những quy định này đã tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho các
DNVVN trong việc sử dụng đất phát triển sản xuất kinh doanh.
+ Ban hành một số các văn bản pháp quy nhằm đơn giản hóa các yêu
cầu khi thực hiện quyền của người sử dụng đất (Nghị định 17/1999/NĐ-CP
ngày 29/3/1999 cụ thể hóa thủ tục chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho
thuê lại, thừa kế quyền sử dụng đất và thế chấp, góp vốn bằng giá trị quyền
sử dụng đất; làm rõ các quyền của người sử dụng đất và cải cách cơ bản các
thủ tục hành chính liên quan đến việc thực hiện các quyền này).
+ Các chính sách đất đai ngày càng quy định rõ ràng hơn trong việc
tạo điều kiện cho các DNVVN thuê đất của Nhà nước hoặc thuê lại quyền sử
dụng đất trong các khu công nghiệp tập trung với các thủ tục ngày càng được
đơn giản hóa (Thông tư số 293/TT-ĐC ngày 14/3/1997 của Tổng cục Địa
chính về việc lập hồ sơ thuê đất của các tổ chức trong nước và thuê đất lại
trong các KCN, KCX). Hồ sơ xin thuê đất được lập thành 2 bộ: (a) Đơn xin
thuê đất theo mẫu của Tổng cục địa chính, (b) dự án đầu tư đã được cấp có
thẩm quyền phê duyệt, (c) bản đồ địa chính khu đất, (d) phương án đền bù
48
giải tỏa mặt bằng, (e) bản sao chứng nhận ĐKKD của doanh nghiệp thuê đất.
- Tiếp đó, năm 1994, Luật Khuyến khích Đầu tư trong nước được ban
hành đã tạo ra động lực quan trọng trong đầu tư sản xuất kinh doanh cho các
doanh nghiệp trong nước; năm 1995 Việt Nam trở thành thành viên chính
thức của ASEAN, là bước phát triển tích cực trong việc mở rộng quan hệ
thương mại trong khu vực ASEAN và quảng bá hình ảnh Việt Nam trong
khu vực và thế giới; năm 1998: Nhà nước đẩy mạnh việc xây dựng các biện
pháp để đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa các DNNN…
Các quan điểm và chính sách đổi mới đã được các nhà đầu tư tư
nhân trong nước cũng như nước ngoài hưởng ứng và có những phản ứng
tích cực, hiệu quả được thể hiện qua kết quả phát triển các loại hình doanh
nghiệp khu vực kinh tế tư nhân.
- Về số lượng các doanh nghiệp:
Năm 1991, tổng số các doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH và công
ty cổ phần là 110 doanh nghiệp, thì đến năm 1992 là 3.985 doanh nghiệp
(tăng 3.522%); năm 1993 là: 7.421 doanh nghiệp (tăng 86,2% so với năm
trước), năm 1994: 7.176 doanh nghiệp (giảm 3,3% so với năm trước), năm
1995: 6.158 doanh nghiệp (giảm 14,19% so với năm trước), năm 1996:
5.484 doanh nghiệp (giảm 10,95% so với năm trước), năm 1997: 4.636
doanh nghiệp (giảm 15,46% so với năm trước), năm 1998 là 4.252 doanh
nghiệp (giảm 8,28% so với năm trước), năm 1999: 5.782 doanh nghiệp (tăng
35,98% so với năm trước). Xin xem bảng 3 và biểu đồ số 1.
Bảng 3: Số lƣợng doanh nghiệp khu vực kinh tế tƣ nhân và số vốn đăng k ý hàng năm
Năm
49
1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 Số lượng doanh nghiệp 110 3985 7421 7176 6158 5484 4636 4252 5782 Vốn (Tỷ đồng) 118 3015 3458 2588 2880 2506 2987 4042 6575
45.004 28.169
Giai đoạn 1991-1999 Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Biểu đồ 1:
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Tính bình quân giai đoạn 1991 - 1999, mỗi năm tăng thêm 5.000
doanh nghiệp. Nổi bật nhất là năm 1992, dưới tác động tích cực của Luật
Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty số lượng công ty tư nhân đã có tốc
độ tăng rất cao (3.522%). Trong giai đoạn này, các DNVVN tăng nhanh về
số lượng, nhất là trong giai đoạn 1992 - 1994, điều này có nguyên nhân sâu
xa là sự khuyến khích của các chính sách vĩ mô, đặc biệt là Luật Doanh
nghiệp tư nhân và Luật Công ty; tuy vậy sự suy giảm về số lượng doanh
nghiệp giai đoạn 1997 - 1998 là do có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó có tác động quan trọng của cuộc khủng hoảng tài chính khu
vực, sự phát triển chậm lại của nền kinh tế nước ta nói chung và những yếu
kém của bản thân các doanh nghiệp, cùng với sự hạn chế của chính sách,
giải pháp kinh tế vĩ mô chưa theo kịp với tình hình… Tính chung từ năm
1991 - 1999, số lượng ba loại hình doanh nghiệp nêu trên đã tăng tới 409
lần, tốc độ phát triển bình quân là 449%/năm.
- Số vốn của các doanh nghiệp: Vốn của các doanh nghiệp tăng nhanh cả về vốn đăng k ý kinh doanh,
50
tổng vốn thực tế sử dụng và vốn đầu tư phát triển.
Tổng vốn đăng k ý của các loại hình doanh nghiệp tư nhân, công ty
TNHH, công ty cổ phần từ năm 1991 đến hết năm 1999 đạt 27.452,836 tỷ
đồng; tuy năm 1997, 1998 tổng vốn đăng ký có sự sụt giảm nhưng năm 1999
vốn đăng ký tăng 34,7 lần so với năm 1991. Trong giai đoạn này, doanh
nghiệp tư nhân đăng k ý 6.715,282 tỷ đồng (chiếm 24,46%); công ty TNHH
đăng k ý 15.422,113 tỷ đồng (đạt 56,18%); công ty cổ phần đăng k ý
5.315,341 tỷ đồng (chiếm 19,36%). Xin xem bảng 4:
Bảng 4: Vốn đăng k
ý thành lập doanh nghiệp qua các năm
(giai đoạn 1991-1999)
Năm
Doanh nghiệp Tư nhân
Đơn vị tính: Tỷ đồng Công ty Cổ phần
Công ty TNHH
Tổng vốn đăng k ý
1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 Tổng Tỷ lệ (%)
158,155 2786,123 4288,556 3298,799 3070,176 3050,100 2548,098 2769,731 5483,098 27452,836 100
24,095 97,307 1375,187 1121,712 953,985 910,727 701,667 652,858 877,744 6715,282 24,46
52,560 1700,887 2304,943 1770,485 1916,507 1734,220 1563,862 1479,724 2898,925 15422,113 56,18
81,500 987,829 608,426 406,602 199,684 405,153 282,569 637,149 1706,429 5315,341 19,36
Nguồn: [1, tr.15] Theo số liệu thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, mức vốn đăng k ý
bình quân/doanh nghiệp trong giai đoạn này là 0,625 tỷ đồng, tuy nhiên
trong cả giai đoạn và nhất là sau khi Luật Doanh nghiệp được thực thi, con
số này ngày càng có xu hướng tăng cao, chứng tỏ được sức phát triển mạnh
mẽ của các DNVVN.
Tóm lại, ngay sau khi Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân
được Quốc hội thông qua (21/12/1990) và chính thức công nhận về mặt pháp
l ý khu vực kinh tế tư nhân như một bộ phận của nền kinh tế, ngay sau đó, khu vực này đã phát triển một cách nhanh chóng và đạt được những kết quả
rất đáng khích lệ. Trong khoảng 9 năm thực hiện hai Luật này, đã có khoảng 45.000 doanh nghiệp khu vực tư nhân được thành lập và đăng k ý kinh
doanh, tổng số vốn đăng k ý khoảng 28.000 tỷ đồng. Theo ước tính sơ bộ, trong khoảng thời gian này, các DNVVN khu vực tư nhân đã tạo được hơn
500.000 chỗ làm việc mới, hàng năm tạo ra khoảng 8% GDP và đóng góp
51
không nhỏ vào ngân sách Nhà nước.
2.1.3. Giai đoạn 2000 đến nay
Những năm đầu sau khi ban hành Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp
tư nhân, số lượng các doanh nghiệp thuộc các loại hình mà hai luật này chế
định tăng nhanh và đạt tốc độ về số lượng cao nhất vào những năm 1992-
1993, sau đó tốc độ tăng giảm dần, nhất là trong những năm cuối thập kỷ 90
khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính ở Đông Nam Á; số lượng các doanh
nghiệp khu vực tư nhân chỉ tăng 4% (1998) so với 60% (1994). Tương tự số
lượng doanh nghiệp thuộc các loại hình khác cũng có xu hướng tăng chậm lại
vào cuối những năm 90, thậm chí có loại hình suy giảm về số lượng. Điều này
đòi hỏi chúng ta phải xem xét và sửa đổi, bổ sung Luật DNNN, Luật Công ty,
Luật Doanh nghiệp tư nhân cho phù hợp với tình hình mới.
Luật Doanh nghiệp có hiệu lực thay thế cho Luật Công ty và Luật
Doanh nghiệp tư nhân kể từ ngày 01/01/2000 đã tạo ra một bước đột phá
rất quan trọng. Luật Doanh nghiệp là một đổi mới hết sức kịp thời trong hệ
thống pháp luật để cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh ở nước ta.
Luật này được ban hành nhằm mục tiêu: "Giải phóng và phát huy mọi lực
lượng, mọi tiềm năng, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho mọi người, mọi gia
đình, mọi doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả... Tạo môi trường và điều
kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển, không hạn chế về quy mô và
địa bàn hoạt động trong những lĩnh vực mà pháp luật không cấm, khắc
phục sự giảm sút của khu vực kinh tế này...". Nội dung cơ bản được thể
hiện trong Luật là: tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng môi trường kinh
doanh bình đẳng đối với tất cả các loại hình doanh nghiệp, tiến tới xây
dựng luật thống nhất áp dụng cho các chủ thể kinh doanh; chủ trương cải
cách hành chính, tạo môi trường kinh doanh thực sự thuận lợi, khuyến
khích và thúc đẩy các nguồn nội lực; cụ thể hóa và phát triển nguyên tắc tự
do kinh doanh theo quy định của pháp luật,... và nội dung của Luật Doanh
nghiệp về cơ bản phù hợp với thông lệ quốc tế quy định về các loại hình
52
doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Luật KH&CN được Quốc hội thông qua ngày 09/6/2000 đã xác định
rõ "Khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, giữ vai trò then chốt trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là nền tảng và động lực cho CNH,
HĐH, phát triển nhanh và bền vững đất nước". Nhà nước đã có nhiều nỗ
lực trong việc đổi mới chính sách KH&CN như: Xác định cách thức tiếp
nhận công nghệ hợp lý thông qua đầu tư nước ngoài, mua bằng phát minh,
sáng chế; khuyến khích đầu tư nước ngoài có công nghệ tiên tiến; thúc đảy
hoạt động nghiên cứu triển khai ứng dụng; khuyến khích và hỗ trợ các hoạt
động đào tạo kỹ năng và xây dựng kết cấu hạ tầng KHCN, tạo thị trường và
thông tin KHCN cho khu vực DNVVN hoạt động; triển khai nghiên cứu
các chương trình KHCN, trong đó tạo môi trường cho các DNNQD có thể
tiếp cận với công nghệ, tiếp thu công nghệ mới, nhanạ chuyển giao công
nghệ, đầu tư và phát triển công nghệ.
Tháng 7/2000, Việt Nam đã ký Hiệp định thương mại song phương
với Hoa Kỳ. Hiệp định này chính thức có hiệu lực từ ngày 10/12/2001, đây
cũng là một nội dung hết sức quan trọng có ảnh hưởng lớn tới các doanh
nghiệp Việt Nam cũng như các doanh nghiệp Mỹ và có tác động rất tích
cực tới việc cải thiện sự nhìn nhận của các nước khác đối với Việt Nam
trong lĩnh vực kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực xuất nhập khẩu (Thương mại
song phương đã tăng trưởng nhanh chóng. Kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam sang Hoa Kỳ đã tăng gấp 4 lần chỉ trong vòng 2 năm, từ 1,05 tỷ USD
năm 2001 lên tới 4,55 tỷ USD năm 2003)
Tháng 4/2001: Đại hội Đảng lần thứ IX tiếp tục phát triển chính sách
kinh tế nhiều thành phần, bổ sung thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài và sắp xếp các thành phần kinh tế theo thứ tự phù hợp hơn, coi trọng
kinh tế tư nhân trong nước, chú trọng hơn đến nội lực của nền kinh tế. Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định, Đảng ta chủ
trương thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận
53
cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cùng
phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Đại hội cũng vạch ra
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, tiếp tục tiến trình CNH, HĐH nền
kinh tế. Hai mục tiêu chính là: tăng gấp đôi GDP và giảm lao động ở khu
vực nông thôn xuống còn 50% vào năm 2010.
Có thể nói, quá trình đổi mới quan điểm của Đảng ta cũng là quá trình
nhận thức ngày càng đầy đủ và đúng đắn hơn đối với các doanh nghiệp
thuộc khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta.
Những quan điểm, đường lối của Đảng là định hướng chính trị quan trọng và
được thể chế hóa một cách cụ thể trong Hiến pháp, các Luật, Nghị định của
Chính phủ, các quy định,.. Đây là những cơ sở pháp l ý quan trọng nhằm
khẳng định địa vị pháp lý của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt
Nam, quyền tự do kinh doanh và bảo hộ sở hữu tư nhân hợp pháp.
Chính phủ Việt Nam hết sức nỗ lực và cố gắng trong việc cụ thể hóa
quan điểm, đường lối của Đảng, kịp thời ban hành các chính sách cần thiết
tạo môi trường pháp l ý thuận lợi cho sự hoạt động của các DNVVN. Cụ
thể đã ban hành: Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 về trợ
giúp phát triển DNVVN; Quyết định số 504 /QĐ-BKH ngày 29 tháng 7
năm 2003 của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư về chức năng, nhiệm vụ
và cơ cấu tổ chức của Cục Phát triển DNVVN; Quy chế hoạt động của Hội
đồng khuyến khích phát triển DNVVN (Ban hành theo Quyết định số
185/QĐ-BKH ngày 24/3/2003 của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Chủ
tịch Hội đồng khuyến khích phát triển DNVVN); Quyết định số 185/QĐ-
BKH ngày 24/3/2003 của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Chủ tịch Hội
đồng khuyến khích phát triển DNVVN về ban hành quy chế hoạt động của
Hội đồng khuyến khích phát triển DNVVN; Quyết định của Thủ tướng
Chính phủ số 12/2003/QĐ-TTg ngày 17/01/2003 về chức năng, nhiệm vụ
và thành viên Hội đồng khuyến khích phát triển DNVVN; Chỉ thị số
27/2003/CT-TTg ngày 11/12/2003 của Thủ tướng Chính phủ về tiếp tục
đẩy mạnh thực hiện Luật Doanh nghiệp, khuyến khích phát triển DNVVN;
54
Nghị định số 109/2003/NĐ-CP ngày 02/4/2004 về đăng k ý kinh doanh;
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 53/2004/QĐ-TTg ngày 05/4/2004
về một số chính sách khuyến khích đầu tư tại khu công nghệ cao,…
* Một số kết quả giai đoạn từ năm 2000 đến 7 tháng đầu năm 2003 Những tác động tích cực của Luật Doanh nghiệp tới quá trình cải
cách kinh tế như thúc đẩy đổi mới tư duy kinh tế, giải phóng lực lượng sản
xuất, thúc đẩy chuyển đổi tư duy về vai trò nhà nước và phương thức quản
lý nhà nước, v.v... trong cơ chế thị trường vẫn tiếp tục phát huy tác dụng.
Môi trường kinh doanh được cải thiện nhờ tác động tích cực trước hết của
Luật Doanh nghiệp đã làm nên sự khác biệt trong đời sống kinh tế trên
nhiều mặt như giải phóng tư duy và sức sáng tạo về ý tưởng kinh doanh và
phương thức tổ chức kinh doanh, số lượng doanh nghiệp và số vốn đầu tư
trực tiếp phát triển kinh doanh đã liên tục tăng nhanh, tạo thêm được hàng
triệu chỗ làm việc mới, đóng góp tích cực vào tăng kim ngạch xuất khẩu,
tăng nguồn thu cho ngân sách; là nhân tố đáng kể góp phần phục hồi và
thúc đẩy tăng trưởng trong mấy năm qua.
Về số lượng doanh nghiệp: Theo Báo cáo đánh giá tình hình thi hành
Luật Doanh nghiệp của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, kể từ năm 2000 số lượng
doanh nghiệp mới đăng ký liên tục tăng nhanh với tốc độ chưa từng thấy.
Cho đến hết tháng 9/2003 đã có 72.601 doanh nghiệp mới đăng ký (trong 9
năm 1991-1999 có 45.000 doanh nghiệp đăng ký); đưa tổng số doanh
nghiệp đăng ký của khu vực tư nhân ở nước ta lên khoảng 120.000 doanh
nghiệp. Số doanh nghiệp đăng ký trung bình hàng năm hiện nay bằng 3,75
lần so với trung bình hàng năm của thời kỳ 1991-1999. Số doanh nghiệp
mới đăng ký trong 4 năm (2000-2003) ước cao gấp gần 2 lần so với 9 năm
trước đây (1991-1999). Xin xem biểu đồ sau:
55
Biểu đồ số 2:
Biểu đồ số 3:
Nguồn: [3, tr.38]
Về cơ cấu loại hình doanh nghiệp đã có thay đổi tích cực. Tỷ trọng doanh
nghiệp tư nhân trong tổng số doanh nghiệp đăng ký giảm từ 64% trong giai đoạn
1991-1999 xuống còn 34%; trong khi đó, tỷ trọng công ty trách nhiệm hữu hạn
và công ty cổ phần tăng từ 36% lên 66% (công ty cổ phần:tăng từ 1,1% lên
10%). Đặc biệt, trong gần 4 năm qua đã có khoảng 7.000 công ty cổ phần đăng ký, gấp gần 10 lần so với giai đoạn 1991-1999. Thay đổi nói trên chứng tỏ các nhà đầu tư trong nước đã ý thức được những điểm lợi và bất lợi của từng loại
hình doanh nghiệp; có xu hướng lựa chọn loại hình doanh nghiệp hiện đại, tạo cơ sở để doanh nghiệp có thể ổn định, phát triển không hạn chế về quy mô và thời
56
hạn hoạt động với quản trị nội bộ ngày càng chính quy và minh bạch hơn. Thực
tế nói trên phần nào chứng tỏ các nhà đầu tư đã có xu hướng đầu tư dài hạn hơn,
công khai hơn và quy mô lớn hơn.
Số vốn huy động được qua đăng ký thành lập mới và mở rộng quy mô
kinh doanh tiếp tục tăng. Trong gần 4 năm qua số vốn đăng ký (gồm cả đăng
ký mới và đăng ký bổ sung) đạt hơn 145.000 tỷ đồng (tương đương khoảng
9.5 tỷ USD, cao hơn số vốn đầu tư nước ngoài đăng ký trong cùng thời kỳ);
trong đó năm 2000 là 1,33 tỷ USD, năm 2001 là 2,33 tỷ USD, và năm 2002 là
gần 3 tỷ USD, và 7 tháng đầu năm 2003 khoảng 2,8 tỷ USD. Riêng số vốn
mới đăng ký giai đoạn 2000-2003 cao gấp hơn 4 lần so với giai đoạn 1991-
1999. Xin xem thêm biểu đồ sau:
Biểu đồ số 4:
Biểu đồ số 5:
57
Nguồn: [3, tr.39].
Kết quả là tỷ trọng đầu tư của dân cư và doanh nghiệp trong tổng đầu
tư toàn xã hội đã tăng từ 20% năm 2000 lên 23% năm 2001 và 25,3% năm
2002; và năm 2003 ước khoảng gần 27%. Tỷ trọng đầu tư của các doanh
nghiệp tư nhân trong nước liên tục tăng và đã vượt lên hơn hẳn tỷ trọng đầu tư của DNNN1, gần bằng tổng vốn đầu tư của DNNN và tín dụng nhà nước. Vốn đầu tư của các DNVVN khu vực kinh tế tư nhân đã đóng vai trò quan trọng,
thậm chí là nguồn vốn đầu tư chủ yếu đối với phát triển kinh tế địa phương.
Ví dụ, đầu tư của các DNVVN năm 2002 ở Thành phố Hồ Chí Minh đã
chiếm 38% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội, cao hơn tỷ trọng vốn đầu tư của
DNNN và ngân sách nhà nước gộp lại (36,5%).
Mức vốn đăng ký trung bình/doanh nghiệp đang có xu hướng tăng
lên. Thời kỳ 1991-1999 vốn đăng ký bình quân/doanh nghiệp là gần 0,57 tỷ
đồng, năm 2000 là 0,96 tỷ đồng, năm 2001 là 1,3 tỷ đồng, năm 2002 là 1,8
Biểu đồ số 4:
tỷ đồng; 7 tháng đầu năm 2003 là 2,12 tỷ đồng. Doanh nghiệp đăng ký vốn
cao nhất là 200 tỷ đồng (hơn 13 triệu USD). Nhìn chung, số vốn đăng ký
cao nhất phổ biến ở các địa phương khoảng gần 10 tỷ đồng (hầu hết thuộc
đối tượng các DNVVN).
Về số lao động làm việc trong các doanh nghiệp: Hiện nay, ở nước ta
hàng năm có thêm khoảng 1,2-1,4 triệu người đến tuổi lao động; ngoài ra,
số lao động nông nghiệp có nhu cầu chuyển sang làm việc trong các ngành
phi nông nghiệp cũng không nhỏ. Yêu cầu mỗi năm phải tạo thêm được
hàng triệu việc làm đang là một áp lực xã hội mạnh đối với Chính phủ và
các cấp chính quyền địa phương. Báo cáo điều tra của Viện Nghiên cứu
Quản lý Kinh tế Trung ương cho thấy đối với các DNVVN trung bình 70 đến 100 triệu vốn đầu tư tạo ra được một chỗ làm việc; trong khi đó đối với
doanh nghiệp nhà nước, thì số tương ứng là từ 210 đến 280 triệu (tức là cao
gấp khoảng 3 lần). Tuy nhiên, chỉ trong gần bốn năm qua ước tính đều cho
thấy đã có khoảng 1,6 đến 2 triệu chỗ làm việc mới đã được tạo ra nhờ các
DNVVN, hộ kinh doanh cá thể mới thành lập và mở rộng quy mô kinh
doanh theo Luật Doanh nghiệp; đưa tổng số lao động trực tiếp làm việc
58
trong các doanh nghiệp dân doanh xấp xỉ bằng tổng số lao động trong các 1 Tỷ trọng đầu tư của doanh nghiệp dân doanh và DNNN trong tổng đầu tư toàn xã hội tương ứng là: năm 2000 19,5% và 18,25%; năm 2001 là 23,5% và 19,3%; năm 2002 là 25,3% và 16,87%; ước năm 2003 là 27,74% và 26,73%.
doanh nghiệp nhà nước1; và tổng số lao động làm việc trong DNVVN khu vực kinh tế tư nhân và hộ kinh doanh cá thể lên đến khoảng hơn 6 triệu
người, chiếm hơn 16% lực lượng lao động xã hội.
Đóng góp của DNVVN hoạt động theo Luật Doanh nghiệp vào ngân
sách trung ương vẫn còn nhỏ, nhưng đang có xu hướng tăng lên trong mấy năm gần đây từ khoảng 6,4% năm 2001 lên hơn 7%2 năm 2002 (tỷ lệ tương ứng của doanh nghiệp FDI là 5,2 và 6%, của DNNN là 21,6 và 23,4%).
Theo kết quả điều tra doanh nghiệp của Tổng cục Thống kê đến ngày
1/7/2002 tổng nguồn vốn của các doanh nghiệp ở nước ta khoảng 1.066,7
ngàn tỷ đồng, tăng gấp 4,2 lần so với năm 1995. Trong đó DNNN có 625,1
ngàn tỷ đồng, chiếm 58,6% (tăng 3,5 lần so với năm 1995); doanh nghiệp FDI
có 274,5 ngàn tỷ đồng, chiếm 27,75% (tăng 5,8 lần so với năm 1995); và
doanh nghiệp ngoài quốc doanh có 168,1 ngàn tỷ đồng, chiếm 15,65% (tăng
10,8 lần so với năm 1995, tức là tốc độ tăng gấp 3 lần so với khu vực DNNN).
- Đóng góp của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân chiếm chưa đầy 10% GDP;3 sử dụng khoảng hơn 1,8 triệu lao động, chiếm khoảng 5% lực lượng lao động cả nước; số việc làm mới tăng thêm do cộng đồng
doanh nghiệp dân doanh tạo ra hàng năm chỉ bằng khoảng 1/3 tổng số lao
động mới tăng thêm. Nếu tính cả hộ kinh doanh cá thể, thì khu vực kinh tế
dân doanh phi nông nghiệp chiếm khoảng 17% GDP và sử dụng khoảng 16%
lực lượng lao động xã hội.
- Cơ cấu DNVVN phân theo vùng lãnh thổ:
Vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long có số lượng DNVVN
rất lớn. Nếu không tính khu vực kinh tế hộ, các nhóm và cơ sở kinh doanh thì
khu vực này (năm 1996-1997) chiếm trên 55% tổng số DNVVN đã đăng ký
theo các Luật doanh nghiệp Nhà nước, Luật HTX, Luật doanh nghiệp. Hai
vùng có số lượng DNVVN lớn tiếp theo là Đồng Bằng sông Hồng (18,1%) và
1 Số lao động trong DNNN đến 1/7/2002 là 1.845.200 người. 2 Có ý kiến cho rằng đóng góp của kinh tế tư nhân vào thu ngân sách đang bị đánh giá thấp; ít nhất, kinh tế dân doanh còn đóng góp thông qua thuế môn bài (license tax), thuế doanh thu, và thuế khác đang được tính cho DNNN; và VAT nhập khẩu, phụ thu nhập khẩu v.v... Họ còn đóng các khoản phi chính thức với mức khá lớn. Tỷ lệ “huy động” thực tế là rất lớn. 3 Có ý kiến cho rằng đóng góp của các doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân trong GDP đang bị đánh giá thấp; bởi vì, kinh tế tập thể với số lượng đơn vị kinh doanh chỉ bằng chưa đầy 10% của khu vực tư nhân, có quy mô nhỏ hơn, năng suất thấp hơn lại chiếm tới hơn 8% GDP năm 2001.
59
vùng duyên hải miền Trung (10,1%) (xem bảng 5). Trên địa bàn bốn thành phố
có số lượng lớn các DNVVN, chiếm tới 37% tổng số DNVVN của cả nước
như: Hà Nội có 4.714 doanh nghiệp (trong đó doanh nghiệp Nhà nước là 718
doanh nghiệp), thành phố Hồ Chí Minh có 9.083 doanh nghiệp (trong đó doanh
nghiệp Nhà nước là 185 doanh nghiệp), thành phố Hải Phòng có 995 doanh
nghiệp (trong đó doanh nghiệp Nhà nước là 222 doanh nghiệp).
Đối với các DNVVN được phân loại theo lao động thì ở khu vực
thành thị phần lớn là các cơ sở kinh doanh hoạt động trong lĩnh vực thương
mại và dịch vụ đời sống, phần còn lại trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp,
ở khu vực nông thôn, tuyệt đại bộ phận là các cơ sở sản xuất nông, lâm,
ngư nghiệp, chế biến (chủ yếu là sơ chế) Nông sản thực phẩm, một phần
quan trọng các cơ sở hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ đời sống, thương
mại và các ngành nghề truyền thống.
Bảng 5: Cơ cấu DNVVN phân theo vùng lãnh thổ
1996
1998
2001
Phân theo vùng lãnh thổ
Tổng số
Tổng số
Tổng số
Tỷ trọng (%)
Tỷ trọng (%)
Tỷ trọng (%)
1866
5,30
2010
5,24
3819
5,27
Vùng núi và trung du
6096
17,30
6613
17,24
12563
17,33
Đồng Bằng sông Hồng
2694
7,65
2922
7,62
5551
7,66
Khu bốn cũ
3402
9,65
3690
9,62
7010
9,67
Duyên Hải miền Trung
1098
3,12
1191
3,10
2263
3,12
Tây Nguyên
10104
28,68
10959
28,57
20820
28,72
Đông Nam bộ
8420
23,90
9145
23,84
17374
23,97
Đồng Bằng sông Cửu Long
Tổng số DNVVN(*)
33680
95,58
36530
95,23
69400
95,73
35236
100
38360
100
72496
100
Tổng số doanh nghiệp(*)
Nguồn: [ 30, tr.115], [32, tr.29]; Vụ Doanh nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
(*) Kể cả các DNVVN khu vực Nhà nước.
- Cơ cấu ngành nghề trong các DNVVN:
DNVVN nước ta tập trung vào một số ngành có tỷ suất lợi nhuận cao,
60
vốn đầu tư tương đối thấp và khả năng thu hồi vốn nhanh. Theo số liệu điều
tra thì có tới 25.000 DNVVN tập trung trong lĩnh vực kinh doanh thương mại,
dịch vụ sửa chữa và nhà hàng, khách sạn, du lịch, 20.000 DNVVN hoạt động
trong lĩnh vực sản xuất, số lượng DNVVN ở lĩnh vực nông nghiệp nhỏ lẻ
không đáng kể. Tình hình này có thể là mất cân đối trong cơ cấu kinh tế. Lược
đồ sau thể hiện điều này.
Biểu đồ số 6:
Nguồn: [38, tr. 55].
Thực tế cho thấy, trong thời gian qua ở lĩnh vực thương mại, dịch vụ,
các DNVVN đang chiếm ưu thế so với các doanh nghiệp lớn, do vốn đầu tư
không lớn lắm, vòng quay vốn nhanh, đặc biệt về kinh doanh du lịch, bán
lẻ hàng hóa, dịch vụ cá nhân,… Năm 2000, các DNVVN đã chiếm 78%
tổng mức luân chuyển hàng hóa bán lẻ toàn xã hội. Sự lớn mạnh của
DNVVN ngoài quốc doanh có vai trò quan trọng trong việc hình thành và
phát triển thị trường hàng hóa, trở thành đối thủ cạnh tranh và thay thế
nhiều lĩnh vực trước đây vốn do thương nghiệp quốc doanh đảm nhận,
đồng thời đã tác động mạnh mẽ đến việc hình thành mạng lưới marketing
mới ở nước ta.
Trong lĩnh vực sản xuất, các DNVVN chiếm tỷ trọng còn thấp. Đây là
61
lĩnh vực cần nhiều vốn, công nghệ hiện đại, trình độ quản lý tiên tiến. Tuy
nhiên, các DNVVN cũng đã đạt được những kết quả nhất định. Hàng năm,
tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất của DNVVN vào khoảng 10 - 14%. Năm
2000, giá trị sản xuất của các DNVVN chiếm khoảng 31% tổng giá trị sản
xuất của ngành công nghiệp chế biến. Sản phẩm của các DNVVN nhằm
phục vụ nhu cầu tiêu dùng thiết yếu của xã hội.
Các lĩnh vực khác, số DNVVN không nhiều do nhiều nguyên nhân
khác nhau. Lĩnh vực nông nghiệp không có điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ
tầng, địa lý, giao dịch, trao đổi, mặt khác lại phụ thuộc quá nhiều vào thời
vụ. Các lĩnh vực khác như xây dựng, ngân hàng, tín dụng đòi hỏi vốn khá
lớn và mức độ rủi ro cao… Đó là lý do giải thích vì sao chỉ có khoảng 18%
số DNVVN hoạt động trong các ngành nghề trên.
Về hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các DNVVN: Nếu như năm 1991,
các DNVVN đạt doanh thu 1.112 tỷ đồng, năm 1995 doanh thu đã tăng lên
35.547 tỷ đồng (tính theo giá hiện hành) [26, tr.20], gấp 32 lần, và đến năm
2000 ước đạt 137.000 tỷ đồng. Doanh thu tăng lên hàng năm chứng tỏ các
DNVVN có một quá trình phát triển thuận lợi và dần khẳng định vị thế của
mình trên thị trường. Theo kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê và những
khảo sát nghiên cứu gần đây cho thấy, tính bình quân một đồng vốn đem lại
cho mỗi DNVVN 3,2 đồng doanh thu và 0,057 đồng lợi nhuận.
Nếu xét trên chỉ tiêu sử dụng tài sản cố định trên doanh thu của
DNVVN để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của DNVVN, cho thấy: Để tạo
ra một đồng doanh thu, các DNNN thuộc TW quản lý phải đầu tư 0,562
đồng vốn cố định, trong khi đó DNNN địa phương quản lý chỉ phải đầu tư
0,220 đồng, công ty cổ phần 0,298 đồng, doanh nghiệp tư nhân 0,197 đồng,
công ty TNHH 0,188 đồng. Chỉ tiêu này cho thấy các DNVVN sử dụng tài
sản cố định hiệu quả và năng suất hơn các doanh nghiệp có quy mô lớn.
Nguyên nhân là do các DNVVN có chu kỳ kinh doanh ngắn, tốc độ luân
chuyển vốn nhanh, lại chạy theo mục tiêu lợi nhuận nên phát huy hết được
62
năng lực vốn có của mình.
Các số liệu nói trên đã minh chứng rõ ràng về vai trò và sự đóng góp
của các loại hình doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân, trong đó tỷ trọng
DNVVN chiếm đa số, đối với sự phát triển của nền kinh tế nước ta. Sự phát
triển ngày càng nhanh chóng của doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng đồng
thời tạo ra sức ép cạnh tranh mới, làm cho các DNVVN phải luôn luôn tìm
mọi cách đổi mới phương thức quản lý, sản xuất, kinh doanh. Bên cạnh những
thuận lợi thì các DNVVN ở Việt Nam cũng còn gặp rất nhiều khó khăn mà
bản thân các doanh nghiệp cũng không thể tự giải quyết. Do vậy, DNVVN rất
cần có sự hỗ trợ về mặt cơ chế, chính sách của Chính phủ nhằm thúc đẩy
mạnh mẽ và phát huy được những tiềm năng vốn có của loại hình doanh
nghiệp này, góp phần tích cực vào sự phát triển chung của đất nước trong thời
kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
2.2. Những kết quả đạt đƣợc và những tồn tại yếu kém trong chính sách phát triển DNVVN ở Việt Nam thời gian qua 1
2.2.1. Những kết quả chủ yếu
Thực hiện mục tiêu lớn nhất của Đảng và Nhà nước là "Lấy việc giải
phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài
cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội, cải
thiện đời sống của nhân dân làm mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến
khích phát triển các thành phần kinh tế và các hình thức tổ chức kinh
doanh"[14, tr.91,92], huy động sức mạnh tổng lực của nền kinh tế cho phát
triển đất nước, xây dựng nước Việt Nam "Dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh"…, thì chính sách khuyến khích phát triển
khu vực kinh tế tư nhân nói chung, các DNVVN nói riêng những năm qua
đã góp phần thực hiện có kết quả mục tiêu đó. Nhìn tổng thể sự phát triển
DNVVN trong những năm đổi mới vừa qua đã mang lại nhiều kết quả kinh
tế - xã hội to lớn, mà nổi bật là:
63
- Huy động mọi nguồn vốn đầu tư phát triển
Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã huy động được lượng vốn
kinh doanh là 58.191 tỷ đồng (tính đến hết năm 2003), bình quân mỗi năm
trong giai đoạn 1991 - 2003 tăng thêm 4.476 tỷ đồng, chiếm khoảng gần
3% tổng số vốn đầu tư phát triển của toàn xã hội và 6,9% vốn kinh doanh
của các ngành. Mặc dù trong những năm đổi mới vừa qua với chính sách
mở cửa, kêu gọi đầu tư nước ngoài của Nhà nước đã thu hút thêm nguồn
FDI ngày một tăng (từ 13,7% tổng số vốn đầu tư phát triển của cả nước
năm 1990 lên đến trên 17,3% năm 1999), nhưng khu vực kinh tế tư nhân
trong nước vẫn đóng góp lượng vốn đầu tư rất đáng kể cho nền kinh tế:
24% năm 1999 và 26,7% năm 2003, tức là chiếm gần 1/4 tổng lượng vốn
đầu tư toàn xã hội - là tỷ trọng không nhỏ, trong đó phần đóng góp của các
DNVVN là rất lớn. Xem thêm bảng sau:
Tỷ trọng (%)
Chỉ tiờu
Quy mụ vốn đầu tư thực hiện (Nghỡn tỷ đồng)
Bảng 6: Quy mô, cơ cấu vốn đầu tƣ phát triển
1999 2000 2001 2002 2003 1999 2000 2001 2002 2003
Tổng số
131,2 145,3 163,5 183,8 217,6 100
100
100
100
100
Vốn nhà nước
77 83,6
95 103,3 123,0 58,7 57,5 58,1 56,2 56,5
Vốn ngoài quốc doanh 31,5 34,6 38,5 46,5 58,1 24,0 23,8 23,5 25,3 26,7
Vốn FDI
22,7 27,1
30
34
36,5 17,3 18,7 18,4 18,5 16,8
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2002, Tổng cục Thống kê năm 2003
- Tạo việc làm, toàn dụng lao động xã hội và tăng thu nhập dân cư
Hiện nay, ở nước ta hàng năm có thêm khoảng 1,2-1,4 triệu người
đến tuổi lao động; ngoài ra, số lao động nông nghiệp có nhu cầu chuyển
sang làm việc trong các ngành phi nông nghiệp cũng không nhỏ. Yêu cầu
mỗi năm phải tạo thêm được hàng triệu việc làm đang là một áp lực xã hội
mạnh đối với Chính phủ và các cấp chính quyền địa phương. Việc tạo thêm
64
nhiều công ăn việc làm mới không chỉ giải quyết vấn đề xã hội, mà là giải
quyết vấn đề cơ bản của phát triển hiện nay ở nước ta. Chính việc tạo thêm
được công ăn việc làm mới trong các ngành phi nông nghiệp mới tạo cơ hội
cho nông nghiệp phát triển, mở rộng được thị trường, thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, nâng cao năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh
tế; mới tăng được mức công bằng trong phân phối thu nhập, nâng cao đời
sống nhân dân.
Theo báo cáo "Hoàn thiện các chính sách kinh tế vĩ mô cải cách thủ
tục hành chính để thúc đẩy phát triển các DNVVN ở Việt Nam" (năm 1999)
của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương thì lao động trong các
DNVVN hiện có khoảng 7,8 triệu người, chiếm 79,2 tổng số lao động phi
nông nghiệp và chiếm khoảng 22,5% lực lượng lao động của cả nước. Sự
lớn mạnh của các DNVVN, đặc biệt là các DNVVN ngoài quốc doanh hiện
đang là nơi giải quyết việc làm cho người lao động một cách hiệu quả nhất,
hạn chế tệ nạn xã hội, nâng cao đời sống văn hóa, vật chất cho mọi tầng lớp
dân cư trong xã hội.
Với lượng vốn trung bình cho một chỗ làm việc trong doanh nghiệp
tư nhân chỉ có 35 triệu đồng, công ty TNHH là 45 triệu đồng, trong khi
lượng vốn trung bình cho một chỗ làm việc tại DNNN là 87,5 triệu đồng
[38, tr.35]. Theo một nghiên cứu gần đây cho thấy: Kinh tế cá thể thu hút
165 lao động/1 tỷ đồng vốn; DNVVN thu hút 20 lao động/1 tỷ đồng vốn
trong khi doanh nghiệp nhà nước chỉ thu hút được 11,5 lao động/1 tỷ đồng
vốn; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thu hút được 1,7 lao động/1 tỷ
đồng vốn [33, tr.135].
Tỷ lệ lao động trong các DNVVN so với lao động của các ngành
65
kinh tế cũng đang có xu hướng gia tăng áp đảo. Xem biểu đồ sau:
Biểu đồ số 7:
Nguồn: [29, tr. 56].
Các DNVVN đang là nơi có nhiều thuận lợi tiếp nhận số lao động đang
gia tăng hiện nay. Có thể nói, với kết quả phân tích ở trên cho thấy, đây thực sự
là khu vực kinh tế có vai trò quan trọng trong việc tạo việc làm cho lao động xã
hội cả hiện tại và tương lai.
- Đóng góp quan trọng trong GDP và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Bên cạnh mục tiêu cơ bản là huy động tiềm năng về vốn và giải quyết việc
làm cho lao động xã hội, kinh tế tư bản tư nhân còn đóng góp đáng kể vào tổng
sản phẩm xã hội. Năm 1995, khu vực tư nhân đóng góp 43,5% GDP, trong đó hộ
gia đình và nông dân chiếm tỷ trọng 35,95% GDP, khối tư bản tư nhân chiếm
7,5% GDP. Mặc dù các năm 1996, 1997 có sự giảm sút nhưng năm 1998 khu
vực này vẫn chiếm tỷ trọng 41,1% GDP, trong đó: hộ gia đình và nông dân
chiếm 33,6% GDP, khu vực tư bản tư nhân chiếm 7,47% GDP.
Năm 2000, 2001, 2002, kinh tế tư nhân trong nước vẫn tiếp tục có những
đóng góp lớn trong tổng sản phẩm trong nước theo giá trị thực tế tương ứng là:
39,61%, 39,79% và 39,8%, trong đó: các DNVVN khu vực kinh tế tư bản tư
nhân cũng có những đóng góp quan trọng và ngày càng tăng trong GDP của cả
nước: 7,3%, 7,95% và 8,38%. Nhờ vậy, đã góp phần tích cực cùng với khu vực
66
kinh tế khác (Nhà nước, tập thể và đầu tư nước ngoài) thúc đẩy nền kinh tế nước
ta đạt tốc độ tăng trưởng cao trên 8%/năm liên tục trong giai đoạn 1992 - 1997.
Xin xem bảng sau:
Đơn vị: %
Bảng 7: Cơ cấu tổng sản phẩm trong nƣớc theo giá trị thực tế
Thành phần kinh tế
1995
2000
2001
2002
Tổng số
100
100
100
100
Kinh tế nhà nước
40,18
38,53
38,40
38,31
Kinh tế tập thể
10,06
8,58
8,06
7,98
Kinh tế tư nhân
3,12
3,38
3,73
3,93
Kinh tế cỏ thể
36,02
32,31
31,84
31,42
Kinh tế hỗn hợp
4,32
3,92
4,22
4,45
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
6,30
13,28
13,75
13,91
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2002
- Hình thành và phát triển đội ngũ doanh nhân mới trong cơ chế thị
trường. Hiện nay đội ngũ các nhà doanh nghiệp nhìn chung vẫn còn nhiều
yếu kém và bất cập trước yêu cầu, đòi hỏi mới của nền kinh tế thị trường,
nhất là trước yêu cầu CNH, HĐH đất nước. Nhờ đổi mới và phát triển kinh
tế tư nhân, các chủ DNVVN được hoạt động trong một môi trường cạnh
tranh thực sự, đã từng bước hình thành được đội ngũ các nhà doanh nghiệp
hoạt động trong hầu hết các lĩnh vực, ngành nghề của nền kinh tế quốc dân
với số lượng ngày một lớn. Đây là một trong những thành tựu được đánh giá
cao.
Tóm lại, DNVVN Việt Nam tuy thời gian phát triển chưa dài, song
đã chứng tỏ được vai trò tích cực của mình trong việc thúc đẩy sự cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế khác nhau, làm
cho nền kinh tế trở nên hết sức năng động, đầy sức sống; đồng thời tạo
ra được sức ép lớn buộc cơ chế quản lý hành chính của Nhà nước phải
67
đổi mới đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thị trường, của các doanh nghiệp
nói chung, DNVVN nói riêng. Trong hội thảo quốc tế thường niên về các
nền kt chuyển đổi vừa diễn ra tại Hà Nội (31/5/2004), Trợ lý Tổng thư
ký LHQ - TS Kalman Mizsei đánh giá rất cao thành công từ khu vực
kinh tế tư nhân của Việt Nam, trong đó, chủ yếu là các DNVVN. Chỉ
trong thời gian ngắn từ năm 2000 đến tháng 2/2004, Việt Nam đã có
88.000 doanh nghiệp tư nhân thành lập, gấp đôi so với số lượng công ty
ra đời trong 9 năm trước. Thành phần kinh tế này đang tạo ra 25% GDP
của đất nước với nhiều công ty tên tuổi ở các ngành viễn thông, dệt may,
giấy, thủy sản,... Trong 4 năm qua, tổng số vốn đăng ký mới đã đạt hơn
10 tỷ USD, cao hơn cả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đây là kết quả
quan trọng có sức thuyết phục rất lớn, mà phần đóng góp không nhỏ là
từ các DNVVN, trong tiến trình đổi mới gần 20 năm qua của Việt Nam.
2.2.2. Những tồn tại, yếu kém và hạn chế chủ yếu trong chính sách phát
triển DNVVN:
(a) Đối với một số điểm trong Hiến pháp năm 1992:
Quá trình cụ thể hóa các nguyên tắc của Hiến pháp năm 1992 trong
các văn bản luật và văn bản dưới luật do Nhà nước ban hành còn nhiều vấn
đề bất cập. Nhiều nguyên tắc của Hiến pháp chưa thực sự đi vào cuộc sống,
có thể dẫn chứng ra đây:
+ Thứ nhất, Điều 22, Hiến pháp năm 1992 quy định các cơ sở kinh
doanh thuộc mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật song
trong thực tiễn nguyên tắc này chưa được thực hiện triệt để.
+ Thứ hai, mối quan tâm hàng đầu của chủ các DNVVN là vốn và tài
sản hợp pháp của họ được Nhà nước bảo hộ; Hiến pháp đã có đầy đủ các
quy định tuyên bố không quốc hữu hóa và bảo hộ tài sản hợp pháp của
công dân, tuy vậy, thực tiễn thời gian qua cho thấy: hệ thống pháp luật Việt
Nam chưa ổn định, các chính sách điều tiết kinh tế liên tục được thay đổi,
68
điều này xét trong giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam là hoàn toàn
hợp lý, song đối với các DNVVN sự bất ổn định của hệ thống luật pháp là
một rủi ro lớn. Bên cạnh đó, Nhà nước Việt Nam đã cam kết giải quyết
thỏa đáng quyền lợi của nhà đầu tư nước ngoài trong trường hợp pháp luật
thay đổi làm thiệt hại đến lợi ích của họ, song đối với các doanh nghiệp dân
doanh trong nước hoàn toàn chưa có các quy định tương tự. Hơn thế nữa,
cần phải có các thiết chế hữu hiệu bảo vệ tài sản của người kinh doanh
trước hành vi xâm hại của bên thứ ba, ví dụ: vấn đề vi phạm về bản quyền,
mẫu mã, hình dáng; sản xuất hàng nhái, hàng giả và vi phạm các sở hữu
công nghiệp khác của người kinh doanh…
+ Thứ ba, quyền tự do kinh doanh đã được Hiến pháp 1992 thừa
nhận, song nhận thức của người dân và sự tôn trọng luật pháp của các cơ
quan Nhà nước đối với quyền tự do chưa đúng mức. Cơ chế "xin cho" tồn
tại như một lẽ đương nhiên và tất nhiên đã bị lên án từ nhiều năm nay. Đến
nay đã được Chính phủ quyết tâm thực hiện thông qua Luật Doanh nghiệp
1999, nhưng thực tế, nhiều cơ quan công quyền vẫn chưa thực hiện đúng
chức năng hỗ trợ cho người dân, giúp họ nhận thức và thực hiện quyền tự
do hiến định của mình.
(b) Đối với Luật Doanh nghiệp:
+ Các nhà làm luật dự liệu sẽ áp dụng luật này cho các doanh nghiệp
nhà nước hoặc doanh nghiệp đoàn thể được chuyển thành công ty TNHH.
Điều này có thể gắn liền với việc giao, bán, khoán, cho thuê DNNN quy mô
nhỏ, làm ăn thua lỗ cho người lao động hoặc tư nhân. Đối với các nhà đầu tư
đây là một cơ hội thuận lợi, một lợi thế quan trọng để có được những doanh
nghiệp ở những vị trí kinh doanh thuận lợi, mặt bằng phù hợp, đã có sẵn
trang thiết bị cũng như cơ sở vật chất ban đầu. Tuy nhiên, pháp luật và các
chính sách hiện nay quy định quá nhiều nghĩa vụ của người mua hoặc tiếp
nhận doanh nghiệp. Nhiều quy định hiện nay không rõ ràng đã làm cho quá
69
trình giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp theo Nghị định số
103/1999/NĐ-CP1 trở nên không hấp dẫn với các chủ đầu tư và do đó chủ
trương này đến nay chưa thành công.
+ Mô hình công ty hợp danh chưa được Luật Doanh nghiệp thiết kế
thành công. Khi góp vốn, thủ tục chuyển quyền sở hữu vốn góp (nhà đất
chẳng hạn) sang cho công ty hợp danh chưa rõ ràng. Cũng tương tự như vậy,
pháp luật còn bỏ ngỏ khả năng của công ty hợp danh có đủ tư cách để tham
gia giao kết hợp đồng, mở tài khoản, tham gia khởi kiện hoặc bị kiện, có thể
bị tuyên bố phá sản doanh nghiệp hay không. Những điều chưa rõ ràng về
pháp lý như vậy đã làm cho không những người dân, mà cả các cơ quan
đăng ký kinh doanh đều lúng túng trước mô hình mới này.
+ Việc bãi bỏ các giấy phép con và nguyên tắc "tiền đăng hậu kiểm" cần
được thực hiện một cách triệt để hơn nữa. Thủ tướng Chính phủ đã quyết định
bãi bỏ 84 loại giấy phép trái với quy định của Luật Doanh nghiệp (trong số gần
240 giấy phép hành nghề và điều kiện kinh doanh các loại do các bộ, ngành, địa phương ban hành hiện nay)2. Theo pháp luật hiện hành, chỉ có 6 ngành nghề
kinh doanh phải có chứng chỉ hành nghề (dịch vụ pháp lý; khám chữa bệnh,
kinh doanh dược phẩm; dịch vụ thú y, kinh doanh thuốc thú y; thiết kế công trình; kiểm toán; môi giới chứng khoán)3. Ngoài ra, những ngành nghề kinh
doanh có điều kiện phải do luật, pháp lệnh hoặc nghị định quy định.
+ Ngày 02/4/2004, Chính phủ ban hành Nghị định số 109/2004/NĐ -
CP về đăng ký kinh doanh, là văn bản hướng dẫn thực hiện việc đăng ký
kinh doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp, thay thế Nghị định số
02/2000/NĐ-CP ngày 03/2/2000, nhằm tiếp tục hoàn thiện các thủ tục đăng
k ý kinh doanh theo tinh thần đổi mới của Luật. Tuy nhiên, theo ý kiến của
các doanh nghiệp, một số loại giấy phép "cha" đã được bãi bỏ nhưng vẫn
1 Điều 10, Nghị định 103 quy định điều kiện để tiếp nhận doanh nghiệp: Đảm bảo công ăn việc làm cho tất cả người lao động trong 3 năm liên tiếp và trả tất cả các khoản nợ cũ làm cho việc tiếp nhận doanh nghiệp trở nên không kinh tế và kém hấp dẫn hơn là thành lập doanh nghiệp mới. 2 Quyết định số 19/2000/QĐ-TTg ngày 03/02/2000. 3 Điều 6 khoản II, Nghị định số 03/2000/NĐ-CP.
70
còn nhiều giấy phép "con" và giấy phép "cháu". Theo đó, việc cấp ĐKKD
theo quy định vẫn chưa được thực thi, làm cho hoạt động ĐKKD trở nên
xáo trộn. Vấn đề các DNVVN quan tâm hiện nay là Chính phủ cần tiếp tục
xóa bỏ các giấy phép con, bằng hình thức tiêu chuẩn hóa và luật pháp hóa
các điều kiện kinh doanh để khắc phục tình trạng không rõ ràng như hiện
nay, bởi dù vô tình hay cố ý thì nó đã tạo ra một thực tế là cơ quan quản lý
và doanh nghiệp không biết vận dụng như thế nào dẫn đến việc hoặc là
doanh nghiệp không thể kinh doanh được hoặc không thể tránh được việc bị
quy kết là vi phạm pháp luật. Bên cạnh việc xác định khâu ĐKKD là khâu đột
phá nhằm giải phóng LLSX ngoài quốc doanh, Chính phủ cần phải tiếp tục nỗ
lực thúc đẩy hoàn thiện, đồng bộ sự hình thành của thị trường hàng hóa cũng
như thị trường các yếu tố sản xuất và khắc phục hiện tượng văn bản pháp quy
do bộ, ngành nào soạn thảo thì thường nghiêng về quyền lực và lợi ích của bộ,
ngành đó, không đứng về phía người thi hành là doanh nghiệp, thậm chí
không đứng về lợi ích của xã hội, do đó, văn bản thường không có tính khả thi
cao, không đi vào cuộc sống mà ngược lại làm gò bó, kìm hãm sự phát triển
của xã hội. Ví dụ như việc: đánh thuế xe ôm, đánh thuế thu nhập đối với hộ
nông dân có thu nhập cao, những thủ tục trong viễ thành lập chi nhánh, văn
phòng đại diện, buộc người bán thuốc lá vỉa hè phải xin giấy phép, buộc
doanh nghiệp xây dựng phải đăng ký hoạt động xây dựng và được xác nhận
mới được đăng ký kinh doanh,...
(c) Đối với chính sách đất đai: còn một số điểm chưa hợp lý, cụ thể là:
+ Đối với các dự án đầu tư nước ngoài, nếu chủ đầu tư thuế đất,
UBND tỉnh nơi có đất có nghĩa vụ tổ chức thực hiện đền bù, GPMB và
hoàn tất thủ tục cho thuê đất nhưng đối với dự án đầu tư trong nước hiện
nay chưa có quy định nào như vậy, ngược lại, các doanh nghiệp muốn thuê
đất còn phải tự mình hoàn tất mọi thủ tục để có được xác nhận cần thiết của
nhiều cơ quan hành chính. Chính sách "một cửa, một dấu" chưa được áp
71
dụng trong lĩnh vực này.
+ Thời điểm tính thời hạn cho thuê đất hiện nay chưa được Luật Đất
đai quy định. Các cơ quan quản lý đất đai cho rằng thời điểm đó bắt đầu từ
ngày ra quyết định cho thuê đất và việc tính tiền thuê đất cũng được tính từ
ngày đó. Các DNVVN khó có thể chấp nhận được điều này vì họ còn phải
hoàn tất rất nhiều thủ tục (bồi thường, di dời, giải tỏa, san lấp mặt bằng) để
có thể sử dụng được mảnh đất đó cho mục đích kinh doanh, do vậy, các
doanh nghiệp cho rằng thời điểm thuê đất sớm nhất cũng chỉ có thể là ngày
doanh nghiệp nhận được đất, thậm chí từ ngày doanh nghiệp có thể sử dụng
được đất trên thực tế.
+ Cơ sở để tính tiền thuê đất hiện nay được xác định dựa theo ngành
nghề kinh doanh, đối tượng thuê đất và nhiều tiêu chí khác. Nhiều tiêu chí
hiện nay đã không còn phù hợp, do vậy cần xây dựng những phương pháp
xác định giá thuê đất khách quan và sát với thời giá thị trường hơn. Làm
được như vậy sẽ hạn chế được các tiêu cực trong quá trình cho thuê đất làm
mặt bằng sản xuất kinh doanh.
+ Ưu đãi về giao và thuê đất còn không ít vướng mắc. Nhiều
DNVVN phải đi thuê lại đất của các DNNN và không được hưởng ưu đãi
về đất đai. Trong khi Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm
theo Nghị định 52/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 và Nghị định bổ sung, sửa
đổi Nghị định này quy định các dự án đầu tư không sử dụng vốn ngân sách,
vốn tín dụng ưu đãi, vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh và vốn đầu tư của các
doanh nghiệp tư nhân thì không phải cấp phép. Nhưng thủ tục thuê đất theo
Luật Đất đai sửa đổi lại đòi hỏi phải có dự án khả thi được cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền phê duyệt nên nội dung ưu đãi về tiền thuê đất không khả thi.
Quốc hội đã bổ sung, sửa đổi một số điều của Luật Đất đai; Chính phủ
đã ban hành nhiều Nghị định bổ sung quyền và đơn giản bớt nhiều thủ tục về
đất đai, nhưng việc thực hiện các chính sách cho thuê đất còn không ít phức
tạp nên nhiều nhà đầu tư không thuê được đất để làm mặt bằng sản xuất, kinh
72
doanh. Hiện nay, Luật Đất đai chưa cho phép doanh nghiệp trong nước được
thế chấp quyền sử dụng đất để vay vốn ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.
Đây là sự bất hợp lý, thiếu bình đẳng so với doanh nghiệp có vốn ĐTNN.
(d) Chính sách phát triển KH&CN:
+ Nguồn vốn đầu tư cho phát triển KH&CN vẫn chủ yếu lấy từ
NSNN. Nguồn kinh phí bình quân hàng năm dành cho mỗi cán bộ KHCN
chưa tới 1.000 USD/năm (theo thống kê của Bộ Khoa học, công nghệ & Môi
trường), trong khi đó ở Thái Lan là: 18.000 USD, Nhật Bản: 194.000 USD.
Kinh phí cho một đề tài nghiên cứu khoa học ở nước ta chưa tới 5.000
USD/đề tài (cao nhất là đề tài KHKT 6.000 USD, thấp nhất là ở lĩnh vực
khoa học y dược 2.000 USD). Tổng mức đầu tư KHCN cho DNVVN chiếm
tỷ lệ rất thấp, chính sách tín dụng chưa hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong
việc phát hiện và giải quyết những vấn đề KHKT của chính bản thân doanh
nghiệp đó. Chính sách tín dụng cũng chưa hỗ trợ các DNVVN trong việc
khắc phục những rủi ro trong quá trình đổi mới, chuyển giao công nghệ. Các
doanh nghiệp gặp rủi ro phải tự gánh chịu, còn khi thành công (thường rất ít)
thì Nhà nước thu thuế cao đối với sản phẩm làm ra. Đây là một hạn chế lớn
làm cho DNVVN không đủ sức để đổi mới công nghệ.
+ Quan hệ giữa các DNVVN với các cơ quan nghiên cứu khoa học còn
lỏng lẻo. Các DNVVN chủ yếu thông qua các trung gian ở thị trường bên ngoài
để mua máy móc, thiết bị, công nghệ phục vụ sản xuất kinh doanh. Họ không
thông qua, hoặc rất ít liên hệ với các cơ quan nghiên cứu khoa học để có thể nhận
được ý kiến, thông tin tư vấn về thị trường của sản phẩm đó và ngược lại.
(e) Chính sách thuế, tín dụng, đầu tư đối với DNVVN:
Bên cạnh những tích cực trong quá trình cải cách, pháp luật chính sách
thuế hiện hành còn rất nhiều bất cập, gây khó khăn cho hoạt động doanh nghiệp:
+ Điều 18 Luật thuế GTGT, cơ quan thuế có quyền ấn định mức thuế
trong 4 trường hợp: Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng chế độ kế toán,
hóa đơn, chứng từ; không kê khai hoặc kê khai nộp thuế không kịp thời; từ chối
73
việc xuất trình sổ kế toán, chứng từ; kinh doanh không có đăng ký. Quy định này
cũng không xác định tiêu chí định lượng, tạo điều kiện cho sự tùy tiện khi xác
định mức thu của cơ quan thuế. Mặt khác quy định này cũng có thể gián tiếp kích
thích các doanh nghiệp không thực hiện chế độ kế toán không đăng ký nộp thuế
để có cơ hội "thỏa thuận" mức thuế đối với cán bộ thuế.
+ Chính sách thuế của Việt Nam hiện nay còn nặng về thu, chưa phải
là công cụ động viên các doanh nghiệp nuôi dưỡng nguồn thu, tạo điều kiện
cho doanh nghiệp tái đầu tư, nâng cao tiềm lực tài chính. Còn có những phân
biệt đối xử bất hợp lý trong việc thi hành các thuế suất giữa doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, ví dụ các doanh nghiệp có vônd
ĐTNN chịu thuế thu nhập doanh nghiệp là 25%, trong khi các doanh nghiệp
trong nước chịu thuế suất 35%.
+ Pháp lệnh thuế thu nhập cá nhân đối với người có thu nhập cao
đang áp dụng theo các biểu riêng biệt, phân biệt đối xử giữa người nước
ngoài với người Việt Nam: Đối với người nước ngoài mức thuế giới hạn
trần là 50%, đối với người Việt Nam mức trần là 60%. So với các nước
trong khu vực, thuế suất này là quá cao một cách bất hợp lý (mức thuế thu
nhập cá nhân giới hạn tối đa ở Inđônêxia và Malaysia là 30%, Phillipines là
35% và ở Thái Lan là 37%). Nhìn chung, tất cả các loại thuế của Việt Nam
với các mức thuế đang có xu thế tồn tại ở mức cao so với tiêu chuẩn quốc
tế, còn tồn tại quá nhiều thuế suất và chính sách phân biệt đối xử giữa các
thành phần kinh tế khác nhau; hệ thống thuế phức tạp và các chính sách
điều tiết thuế lại thường được ban hành ở các dạng văn bản có giá trị pháp
lý thấp như thông tư, công văn, chỉ thị, hướng dẫn của ngành thuế,… nên
dễ bị thay đổi và khó tiếp cận đối với các DNVVN.
+ Một vướng mắc rất lớn hiện nay trong chính sách thuế chính là việc
xác định chi phí hợp lý (CPHL) được trừ để xác định thu nhập chịu thuế. Theo
quy định hiện hành, doanh nghiệp chỉ được phép đưa vào chi phí quảng cáo,
tiếp thị... là 10% của tổng các CPHL quy định tại mục B.III, Thông tư 128.
Trong điều kiện hiện nay, chi phí quảng cáo, tiếp thị là khoản chi đặc biệt
74
quan trọng để tạo lập và khai thác cơ hội thị trường và là một hoạt động trọng
tâm của các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp mới thành lập. Và nếu không
có tiếp thị, doanh nghiệp không thể tiếp cận được người tiêu dùng. Tuy nhiên,
tỷ lệ khống chế 10% là quá thấp cho quảng cáo, tiếp thị, do vậy, quảng cáo
trên báo, đài dường như chỉ là sân chơi của các doanh nghiệp lớn còn
DNVVN thì vắng bóng.
Tóm lại, khi thuế suất bị áp ở mức cao, không phù hợp và nếu các
doanh nghiệp cảm nhận bị đối xử không công bằng thì người nộp thuế sẽ tìm
mọi biện pháp che dấu thu nhập, lợi dụng kẽ hở của pháp luật để trốn thuế
thông qua các hành vi: gian lận, lừa đảo, hối lộ, móc ngoặc, tiến hành các
hoạt động không chính thức…Ngược lại, nếu chính sách thuế phù hợp với
thực tế cuộc sống và được đông đảo doanh nghiệp chấp nhận thì khả năng
thu thuế cho Ngân sách Nhà nước sẽ đạt mức tối đa và hạn chế được tiêu
cực.
(f) Đối với Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (KKĐTTN):
+ Về đối tượng xét cấp ưu đãi: Chưa có sự thống nhất cao trong các
văn bản hướng dẫn luật là nguyên nhân lớn làm cản trở Luật KKĐTTN đi
vào cuộc sống. Cụ thể: Thông tư 146/1999/TT-BTC không chấp nhận
trường hợp các doanh nghiệp chia, tách, đổi tên hoặc chuyển đổi sở hữu
được hưởng ưu đãi đầu tư. Trong khi đó, Nghị định 103/1999/NĐ-CP thì lại
quy định hình thức chuyển đổi sở hữu được hưởng ưu đãi đầu tư; Nghị định
44 về cổ phần hóa cũng coi việc cổ phần hóa DNNN là đầu tư thành lập mới
và được hưởng ưu đãi đầu tư.
Theo Luật KKĐTTN, tất cả các dự án thuộc danh mục A, B, C đều
được Quỹ hỗ trợ phát triển cho vay vốn, nhưng theo Nghị định 43/CP về tín
dụng đầu tư trong nước thì chỉ một số dự án đầu tư tại các vùng khó khăn
mới được quỹ cho vay, bên cạnh đó, trên thực tế xuất hiện nhiều ngành nghề
mới hoặc đan xen vào trong các ngành không được ưu đãi nên không phân
định được để hưởng chính sách ưu tiên. Ví dụ: dịch vụ sản xuất trong các
75
hoạt động đào tạo nghề, bồi dưỡng nângcao kiến thức chuyên môn, kỹ thuật;
hoạt động y tế, giáo dục ngoài công lập,... Những ngành nghề hoạt động này
chưa có hướng dẫn cụ thể nên chưa được thực hiện chính sách đầu tư.
+ Về các tiêu chí khuyến khích đầu tư trong nước: Danh mục ưu đãi
đầu tư theo Luật KKĐTTN mang tính dàn trải, không rõ ràng, gây khó khăn
cho việc áp dụng danh mục ưu đãi. Đối tượng xét cấp ưu đãi đầu tư, lĩnh vực
đầu tư còn chưa rõ ràng. Chẳng hạn, việc đánh đồng giữa dự án đầu tư mới
và dự án thành lập doanh nghiệp mới đã không khuyến khích các doanh
nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất, đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ. Ngoài
ra, danh mục đầu tư quá dàn trải không rõ ràng lại gây khó khăn cho việc áp
dụng danh mục ưu đãi.
Thủ tục đề nghị được hưởng ưu đãi đầu tư còn thiếu thống nhất, phức
tạp và khó thực hiện. Nguyên nhân là một số các ngành, địa phương tự ban
hành cơ chế riêng; một số luật có liên quan chưa được sửa đổi, bổ sung kịp
thời; các văn bản hướng dẫn chưa đầy đủ,… Nhiều doanh nghiệp kiến nghị
nên bỏ thủ tục này và ban hành một danh mục ngành nghề rõ ràng mà doanh
nghiệp đầu tư đương nhiên được hưởng. Thực tế cho thấy, sự phiền hà, sách
nhiễu và tham nhũng qua các thủ tục hành chính ở các địa phương lại đang
chính là trở ngại lớn cho việc thực hiện khuyến khích đầu tư, bởi theo các
điều luật và nghị định hướng dẫn thực hiện thủ tục xét, cấp chứng nhận
doanh nghiệp và ưu đãi đầu tư, hồ sơ đề nghị ưu đãi đã được cải tiến theo
hướng thông thoáng và đầy đủ. Việc làm này lại được Chính phủ phân cấp
và chủ yếu giao cho các cấp địa phương trực tiếp xem xét, quyết định nên
dẫn tới trở ngại nêu trên.
+ Về nội dung ưu đãi của Luật (ưu đãi về thuế, đất đai và tín dụng):
đều còn nhiều vướng mắc trong quá trình đến với doanh nghiệp. Cụ thể là:
Một là, ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN): do thiếu các
hướng dẫn cụ thể nên nhiều cơ quan thuế không dám vận dụng thuế suất
thuế TNDN ưu đãi; Nghị định 51/CP quy định những nhà đầu tư có dự án
đầu tư thuộc các danh mục ưu đãi thì được hưởng thuế suất ưu đãi, song
76
Thông tư số 146/1999/TT-BTC lại chỉ cho phép các dự án thành lập doanh
nghiệp mới được hưởng. Hệ thống sổ sách kế toán chưa được hướng dẫn thi
hành thống nhất nên cũng cản trở thực hiện chính sách ưu đãi thuế.
Hai là, ưu đãi về tín dụng chưa được triển khai rộng: Nghị định 52/CP
quy định doanh nghiệp muốn vay vốn tín dụng phải được "sự chấp thuận của
cơ quan chủ quản"; các DNVVN khu vực tư nhân phải chờ sự chấp thuận
của địa phương. Song thực tế không ít địa phương không muốn tham gia vào
việc chứng nhận xin vay vốn này. Thủ tục phức tạp và còn sự phân biệt đối
xử nên thực tế là Nhà nước chỉ khuyến khích DNNN. Năm 1999, khối doanh
nghiệp tư nhân chỉ được vay 27,8% trong tổng số cho vay ưu đãi từ Quỹ hỗ
trợ đầu tư quốc gia. Thêm vào đó, việc giải ngân từ quỹ này thường chậm trễ
trong khi lãi suất cao và nguồn vốn cho vay ưu đãi nhỏ,... Còn nhiều bất cập
liên quan đến cơ chế hoạt động của quỹ, nhiều nhiệm vụ quan trọng của quỹ
vẫn chưa được triển khai.
Ba là, việc vay vốn từ "Quỹ hỗ trợ đầu tư" còn nhiều khó khăn, phiền
hà. Vấn đề nổi cộm là chậm trễ trong giải ngân; sự phiền hà trong thủ tục
hành chính; khâu thẩm định kéo dài hàng tháng, có dự án thậm chí hàng
năm; lãi suất cho vay ưu đãi từ Quỹ còn khá cao, không chênh lệch nhiều so
với lãi suất cho vay của ngân hàng và các tổ chức tín dụng nên chưa thực sự
thu hút; nguồn vốn cho vay còn nhỏ,... Nguyên nhân là do các nhà đầu tư
muốn vay được vốn phải làm các thủ tục với nhiều loại giấy tờ, tốn kém và
mất nhiều thời gian. Các nhà đầu tư tư nhân, cá thể vướng mắc đối với việc
xác định tài sản, đất đai thế chấp vay vốn,...
+ Các chính sách ưu đãi đầu tư trong nước khác: Ngoài KKĐTTN,
hiện nay các chính sách ưu đãi đầu tư trong nước được quy định rải rác trong
nhiều văn bản pháp luật khác nhau, các doanh nghiệp rất khó đối chiếu với
hoạt động của mình với các nội dung ưu đãi của Luật KKĐTTN nói riêng và
các ưu đãi ĐTTN nói chung. Điều này còn gây khó khăn cho cấp thực thi và
77
khó khăn trong việc giám sát hoạt động cấp ưu đãi đầu tư.
Tóm lại, sau hơn 17 năm thực hiện đường lối đổi mới, kiên trì thực hiện
chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hưỡng XHCN, các DNVVN
đã hình thành và phát triển khá mạnh, nhưng vẫn mang dấu ấn tự phát, chủ
yếu phát triển dựa theo tín hiệu của thị trường chứ không dựa vào chiến lược,
định hướng phát triển cụ thể. Bên cạnh đó, vấn đề xây dựng chính sách phát
triển DNVVN dường như chưa có sự nhất quán trong tư duy của những
người hoạch định chính sách đối với các DNVVN khu vực tư nhân, còn
khoảng cách khá lớn giữa những phát biểu về vai trò và tầm quan trọng của
việc phát huy nội lực, khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi người dân
làm giàu một cách hợp pháp với thái độ phân biệt đối xử giữa kinh tế nhà
nước với khu vực kinh tế dân doanh, thậm chí ngay cả giữa doanh nghiệp có
vốn ĐTNN với doanh nghiệp trong nước. Các ưu đãi về thuế trong quá trình
thực hiện có nhiều trở ngại và bất hợp lý, chưa bình đẳng so với ĐTNN. Có
thể nêu một số ví dụ về sự phân biệt đối xử: DNVVN khu vực kinh tế tư
nhân muốn thuê đất để xây dựng nhà xưởng, muốn vay vốn của ngân hàng
để mở rộng sản xuất, muốn đi nước ngoài để khảo sát thị trường,... đều gặp
khó khăn, không dễ có được ưu ái như DNNN. Đối với thuế TNDN, tùy
mức độ ưu đãi với từng ngành nghề mà doanh nghiệp ĐTNN hưởng thuế
suất 20%, 15% và 10%; trong khi đó, doanh nghiệp trong nước chịu mức
thuế suất 32%, 25%, 20% và 15%. Về thời gian miễn thuế TNDN: doanh
nghiệp ĐTNN được 8 năm và miễn thuế nhập khẩu các thiết bị máy móc,
phương tiện vận tải, vật tư xây dựng trong dây chuyền công nghệ để tạo
TSCĐ của doanh nghiệp, còn doanh nghiệp trong nước chỉ có 4 năm và
không được hưởng ưu đãi về nhập khẩu như các doanh nghiệp ĐTNN. Ưu
đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp là chính sách quan trọng mà nhà đầu tư
được hưởng, song khi thực hiện không có hướng dẫn cụ thể hoặc hướng dẫn
triển khai chậm làm cho nhiều cơ quan thuế không thực hiện thuế suất ưu đãi
thu nhập doanh nghiệp cho nhà đầu tư. Hệ thống sổ sách kế toán (đối với
doanh nghiệp cùng lúc thực hiện nhiều hạng mục kinh doanh khác nhau)
78
chưa được hướng dẫn thi hành thống nhất,... càng làm cản trở hơn việc thực
hiện chính sách ưu đãi về thuế đối với DNVVN. Tất cả các vấn đề này cho
thấy, nguyên nhân các DNVVN khu vực kinh tế tư nhân bị phân biệt đối xử
là hậu quả của các quyết định nằm ngoài tầm kiểm soát của các DNVVN, là
do chính sách của Chính phủ chứ không phải do bản thân hay hành vi của
các DNVVN gây ra.
2.2.3. Một số nguyên nhân chủ yếu của những tồn tại, yếu kém
1. Luật pháp, chính sách, cơ chế quản lý vĩ mô của Nhà nước chưa
hoàn toàn tạo được lòng tin cho các nhà đầu tư tư nhân, nhất là đối với
những doanh nghiệp có vốn lớn, yên tâm đầu tư lâu dài.
Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã hết sức cố gắng trong
việc tạo ra môi trường pháp l ý, môi trường kinh doanh lành mạnh, thông
thoáng; thông qua việc ban hành hàng loạt các chính sách, luật pháp, mà nổi
bật là Luật Doanh nghiệp (2000). Nhưng trên thực tế, nhiều chủ trương,
chính sách đã bị các yếu tố khác làm cho biến dạng qua các tầng nấc hành
chính; tiến độ và kết quả cải cách các thủ tục hành chính còn chậm trễ; đội
ngũ cán bộ nhà nước còn chưa làm hết trách nhiệm, còn tệ sách nhiễu, gây
khó khăn; tệ nạn tham nhũng có chiều hướng tăng,… nên vẫn chưa tạo được
niềm tin vững chắc cho các nhà đầu tư, các chủ doanh nghiệp tư bản tư nhân.
Mặt khác, tuy đã thành lập được các tổ chức để hỗ trợ phát triển các
DNVVN như Cục Phát triển DNVVN (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), Hội đồng
khuyến khích phát triển DNVVN, Hiệp hội DNVVN,… nhằm mục đích đề
xuất các định hướng chiến lược phát triển, chính sách hỗ trợ, tổ chức đào
tạo, chuyển giao công nghệ, cung cấp thông tin thị trường, giáo dục pháp
luật,… cho các DNVVN. Nhưng các tổ chức này vẫn chưa phát huy được
vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mình. Tình trạng tự phát mạnh ai nấy làm,
phát triển thiếu định hướng, thiếu phối hợp và hỗ trợ lẫn nhau còn phổ
biến, đã không tạo nên sức mạnh chung mà nhiều khi còn kìm hãm lẫn
nhau. Đó là những khó khăn lớn cả về vật chất và tinh thần, cả khách quan
79
lẫn chủ quan đối với sự hình thành và phát triển các DNVVN. Vì thế thời
gian qua, các DNVVN tuy có sự phát triển khá nhanh chóng về số lượng,
nhưng phổ biến vẫn là quy mô nhỏ, tiềm lực chưa mạnh, khả năng liên
doanh, hợp tác, đẩy mạnh phát triển các sản phẩm xuất khẩu và vươn ra thị
trường nước ngoài còn rất hạn chế.
2. Chưa có sự phân công rõ ràng giữa Bộ, ngành và địa phương trong
việc quản lý và phát triển các DNVVN. Cụ thể là chưa có cơ quan nào
được giao trách nhiệm chính trong việc quản lý các doanh nghiệp này trong
khu vực kinh tế tư nhân. Sở Kế hoạch và đầu tư chỉ chịu trách nhiệm đăng
ký kinh doanh đối với các doanh nghiệp tư bản tư nhân, còn việc quản lý,
chỉ đạo thì chưa có cơ quan nào đảm nhận. Hiện thời việc quản lý các
DNVVN đang bị buông lỏng, không có cơ quan nhà nước cụ thể nào chịu
trách nhiệm kiểm tra và hướng dẫn hoạt động của doanh nghiệp một cách
chặt chẽ và thường xuyên. Do đó, tình trạng hoạt động không theo đăng ký
kinh doanh, trốn lậu thuế, gian lận thương mại,… cũng như hiệu quả sản
xuất kinh doanh của các DNVVN trên thực tế rất khó kiểm soát.
3. Hiện nay, có một thực trạng là việc xác định cụ thể những tiêu chí
để xác định DNVVN trong các ngành kinh tế nhiều khi còn chưa rõ ràng và
thống nhất; sự nhìn nhận đánh giá các loại hình doanh nghiệp này còn tùy
tiện, chủ quan, do đó mà nhiều chính sách, giải pháp quản lý kinh tế vĩ mô
tỏ ra chưa thực sự sát hợp đối với khu vực kinh tế tư nhân nói chung và
DNVVN nói riêng; đồng thời các cơ chế, chính sách ưu đãi dành cho các
DNVVN nhiều khi cũng không đến được với các doanh nghiệp do bất cập
trong việc xác định đối tượng được hưởng ưu đãi, chính vì vậy đã làm hạn
chế một phần sự phát triển của DNVVN.
4. Hiện tại, sau khi Luật Doanh nghiệp được ban hành và đã có một
số nỗ lực nhằm giảm bớt các thủ tục hành chính trong việc đăng ký thành
80
lập doanh nghiệp, nên đã khuyến khích các chủ tư bản tư nhân đầu tư vốn
vào sản xuất, kinh doanh. Tuy vậy, đó mới chỉ là bước đầu, nạn quan liêu
giấy tờ với những thủ tục hành chính phức tạp vẫn là trở ngại lớn làm nản
lòng những người muốn thành lập doanh nghiệp, chưa thật sự tạo điều kiện
thuận lợi cho người dân. Bên cạnh đó, cơ chế phê duyệt và thủ tục cấp giấy
phép phức tạp vẫn tồn tại trong hệ thống luật pháp cũng là một trong những
trở ngại đáng kể.
5. Cơ chế, chính sách của Nhà nước ta hiện vẫn còn nhiều bất cập,
chưa đồng bộ; hiệu lực của một số văn bản pháp quy chưa cao, chồng chéo,
mâu thuẫn hoặc thiếu thực tế, không sát hợp thực tiễn; một số cơ chế, chính
sách quan trọng trong việc hỗ trợ các DNVVN còn thiếu và yếu kém.
6. Việc thiếu vắng các thị trường cơ bản của nền kinh tế thị trường:
thị trường lao động, thị trường đất đai, bất động sản còn hoạt động ngoài
tầm kiểm soát của Nhà nước, thị trường vốn (thị trường chứng khoán đang
phát triển ì ạch, hàng hóa nghèo nàn, chưa thực sự là kênh huy động vốn
hiệu quả đối với nền kinh tế), thị trường KH&CN… đang là những cản trở
lớn trong tiến trình phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung,
81
DNVVN nói riêng.
Chƣơng 3
QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ VỀ CHÍNH SÁCH
PHÁT TRIỂN DNVVN Ở VIỆT NAM
3.1. Quan điểm chính trong việc xây dựng chính sách phát triển
DNVVN ở Việt Nam
Mỗi quốc gia đều có những chính sách khuyến khích phát triển
DNVVN tùy theo điều kiện mỗi nước. Kinh nghiệm của các nước như Nhật
Bản và Hàn Quốc cho thấy: Thời kỳ đầu phát triển kinh tế thị trường thì giải
quyết các nhóm yếu tố liên quan đến chính sách, pháp luật giữ vị trí vô cùng
quan trọng, vì nó tạo ra khuôn khổ pháp lý, môi trường kinh tế - xã hội
thuận lợi để khuyến khích phát triển DNVVN.
Đối với Việt Nam hiện nay, nguồn ngân sách Nhà nước nhỏ bé và còn
eo hẹp, nguồn lực trong dân còn tiềm ẩn, chưa được khai thác thì quan
điểm chính cho các chính sách khuyến khích phát triển là tiếp tục "cởi trói"
các nguồn lực, sử dụng chủ yếu là những biện pháp "phi tài trợ". Quan
điểm này đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách phải đổi mới tư duy một
cách cơ bản; có những quyết định mạnh mẽ trong việc cải cách hành chính,
cải cách khu vực kinh tế Nhà nước. Cụ thể là trong chính sách phát triển
DNVVN cần quán triệt một số quan điểm sau:
3.1.1. Không phân biệt đối xử, tạo môi trường cạnh tranh hoàn toàn
bình đẳng
Mặc dù đã được chính thức thừa nhận là một thành phần cấu thành trong
nền kinh tế, nhưng khu vực kinh tế ngoài quốc doanh vẫn còn bị phân biệt, đối
xử bất bình đẳng trong nhiều lĩnh vực. Đây là một thực tế. Điều này không chỉ
được thể hiện trong nội dung các quy định chính sách mà còn thể hiện thông
qua cả hành vi của một số người có trách nhiệm liên quan. Việc đối xử bình
82
đẳng giữa các thành phần kinh tế sẽ là một nguồn động viên khuyến khích vô
cùng to lớn đối với khu vực ngoài quốc doanh và chắc chắn sẽ góp phần
không nhỏ cho sự phát triển kinh tế, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực
kinh tế - xã hội ở Việt Nam.
3.1.2. Tìm mọi biện pháp để huy động nguồn nội lực tiềm ẩn của đất nước,
tiếp tục xóa bỏ những rào cản kìm hãm
Nhờ việc giải phóng năng lực bị kìm hãm trong cơ chế bao cấp trước
đây, công cuộc cải cách kinh tế ở Việt Nam đã thu được những thắng lợi to
lớn trong gần hai thập kỷ qua. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân chủ quan và
khách quan, mức độ tăng trưởng kinh tế vẫn chưa đạt yêu cầu đặt ra đối với
sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Nhiều cuộc điều tra, nghiên cứu đã chỉ ra
rằng: tiềm lực phát triển kinh tế ở Việt Nam vấn còn tiềm ẩn rất lớn, vấn đề
quan trọng hàng đầu và có tính quyết định đối với các nhà hoạch định chính
sách là phải tìm ra nguồn động lực mới để có thể tiếp tục khai thác những
nguồn tiềm lực này. Khuyến khích, hỗ trợ, có cơ chế, chính sách thúc đẩy sự
phát triển DNVVN, đặc biệt là các DNVVN ngoài quốc doanh, chính là một
trong số những chính sách quan trọng phục vụ mục tiêu đó.
3.1.3. Nhà nước không làm thay doanh nghiệp mà chỉ hỗ trợ những gì
doanh nghiệp không thể làm được
Như phần trên đã nói, biện pháp sử dụng chủ yếu là biện pháp "phi tài
trợ", Nhà nước không bao cấp, không làm thay cho doanh nghiệp. Đối với
những vấn đề nằm ngoài khả năng giải quyết của doanh nghiệp thì Nhà nước
cần có các biện pháp tích cực, hỗ trợ kịp thời như: về mặt cơ chế, chính sách,
thủ tục hành chính, đầu tư các công trình công cộng, cơ sở hạ tầng,… Tuy
nhiên, cũng cần tránh tình trạng chính sách, pháp luật can thiệp quá sâu hoặc hỗ
trợ trực tiếp vào các hoạt động của các DNVVN. Sự can thiệp này sẽ làm giảm
tính độc lập của các doanh nghiệp của khu vực này. Chính phủ càng can thiệp
mạnh thì các DNVVN càng phụ thuộc nhiều hơn vào Chính phủ, đây chính là
83
nguyên nhân dẫn đến tan vỡ "ý chí kinh doanh", một yếu tố sống còn để các
doanh nghiệp khẳng định mình và tồn tại trong môi trường cạnh tranh khắc
nghiệt.
3.1.4. Chính sách phát triển DNVVN đặt trong quan hệ với các chính
sách khác
Chính sách phát triển DNVVN nằm trong hệ thống chính sách phát
triển kinh tế của Chính phủ, do vậy tính tương tác giữa các chính sách
trong hệ thống chính sách phát triển kinh tế có ảnh hưởng quan trọng tới
việc phát triển DNVVN, đặc biệt là tính đồng bộ trong việc triển khai và
thực thi các chính sách kinh tế, đảm bảo sự tương tác, phối hợp nhịp nhàng
và ăn khớp giữa chúng, có như vậy mới đảm bảo điều chỉnh tốt các hành vi,
hoạt động kinh tế, tránh hiện tượng các chính sách chồng chéo hay phủ
định, mẫu thuẫn, trái ngược nhau. Chính sách pháp luật càng rõ ràng, ổn
định và minh bạch bao nhiêu càng tạo điều kiện cho các DNVVN dự đoán
được trước các rủi ro cũng như dự tính được trước các cơ hội để đầu tư
kinh doanh.
3.1.5. Tính ổn định cao, rõ ràng của chính sách
Chính sách phát triển DNVVN rất cần có một tầm nhìn chiến lược và
có tính ổn định cao, rõ đối tượng, phạm vi điều chỉnh; chính sách phải đảm
bảo không có sự biến động liên tục, nhưng cần phải được cập nhật, bổ sung
một cách thường xuyên, kịp thời cho phù hợp với thực tiễn. Bên cạnh đó,
quan điểm, chính kiến của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế phải
được tuyên bố một cách rõ ràng, cụ thể, nhất quán, trước sau như một đối
với việc nỗ lực xây dựng và phát triển lâu dài nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, trong đó, tôn trọng và bảo hộ quyền sở hữu và kinh doanh
hợp pháp của các nhà đầu tư tư nhân.
3.2. Một số khuyến nghị về chính sách phát triển DNVVN
84
3.2.1. Đối với chính sách cạnh tranh
Trong bối cảnh nền kinh tế nước ta đang đổi mới và hội nhập kinh tế
quốc tế, Luật cạnh tranh là nhu cầu tất yếu nhằm bảo vệ quyền kinh doanh
chính đáng của doanh nghiệp, xóa bỏ tình trạng lợi dụng độc quyền gây thiệt
hại cho đối thủ, người tiêu dùng và ảnh hưởng chung tới nền kinh tế, tạo ra
môi trường kinh doanh thực sự bình đẳng,... Đây là những công việc hết sức
cấp bách và cần thiết, không chỉ khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân mà
còn tạo điều kiện cho các DNVVN phát huy khả năng của mình. Chính
sách cạnh tranh không chỉ bao gồm Luật Cạnh tranh mà nó cần thể hiện
ngay trong tư duy trong quá trình xây dựng chính sách ở các lĩnh vực khác.
Một điểm cần hết sức quan tâm, đó là phải hạn chế được độc quyền
Nhà nước. Có nghĩa là, Luật Cạnh tranh phải áp dụng đối với mọi thành
phần kinh tế, ngoại trừ một số ngành, lĩnh vực quan trọng mà Nhà nước cần
thiết phải nắm độc quyền thì Luật cũng phải có tác dụng trong việc ngăn cản
các hành vi lạm dụng độc quyền, không cho phép biến độc quyền Nhà nước
thành độc quyền doanh nghiệp.
+ Có các biện pháp tuyên truyền nhận thức đúng đắn về cạnh tranh
trên các phương tiện thông tin đại chúng nhằm thúc đẩy việc thực thi Luật
Cạnh tranh cũng như khuyến khích tinh thần cạnh tranh lành mạnh.
+ Sau khi Chính phủ ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện, các
bộ, ngành, địa phương cần tiến hành đồng bộ việc rà soát lại các quy định
trong phạm vi quản lý để từng bước xóa bỏ những quy định mang tính phân
biệt đối xử đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
+ Nới lỏng các điều kiện gia nhập và rút lui khỏi thị trường, khuyến
khích các nhà đầu tư thực hiện nghiêm túc Luật doanh nghiệp và tiến hành
sửa đổi, bổ sung Luật Phá sản doanh nghiệp.
+ Đẩy mạnh quá trình cải cách DNNN.
+ Có biện pháp xây dựng đội ngũ cán bộ về lĩnh vực chính sách cạnh
85
tranh và tiến hành xây dựng cơ quan chuyên trách cho lĩnh vực này.
+ Khuyến khích việc thành lập các hiệp hội người tiêu dùng nhằm
cung cấp thông tin phục vụ người tiêu dùng và phát hiện kịp thời các hành
vi gian lận, không tuân thủ Luật cạnh tranh và cạnh tranh không lành mạnh.
+ Cải thiện việc cung cấp thông tin pháp luật và kinh tế theo hướng
minh bạch và kịp thời hơn; nhanh chóng cải cách thủ tục hành chính nhằm
tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp.
3.2.2. Đối với chính sách khoa học và công nghệ
Khoa học và công nghệ (KH&CN) là một trong những yếu tố then chốt,
quyết định sự thành bại của doanh nghiệp trong cạnh tranh trên thị trường. Trên
thực tế, chỉ có một số rất ít DNVVN có điều kiện tiếp cận và ứng dụng tiến bộ
KH&CN để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh doanh và nhìn
chung DNVVN còn rất hạn chế trong việc đổi mới công nghệ.
Vấn đề đặt ra hiện nay đối với nền kinh tế nói chung và DNVVN nói
riêng là đẩy nhanh ứng dụng tiến bộ KH&CN vào sản xuất để nâng cao chất
lượng và sức cạnh tranh của hàng hóa. Điều đó một mặt do yếu tố tác động và
kích thích của thị trường, nhưng tác động hỗ trợ của Nhà nước hết sức quan
trọng. Cụ thể là:
- Nhà nước cần tiếp tục loại bỏ những trở ngại về luật pháp và chính
sách đối với việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam:
+ Tiếp tục đơn giản hóa các thủ tục và giảm bớt các phí tổn đối với thị
thực nhập cảnh, đặc biệt là đối với cán bộ kỹ thuật, các nhà khoa học và
những người điều hành kinh doanh nước ngoài, bởi họ chính là phương tiện
chuyển giao công nghệ và bí quyết sản xuất đạt hiệu quả cao nhất thông qua
việc đào tạo và thực nghiệm mà học cung cấp cho các nhà quản lý, cán bộ kỹ
thuật và công nhân Việt Nam.
+ Giảm thuế thu nhập cá nhân đánh vào người nước ngoài xuống mức
86
bằng và thấp hơn mức thuế đang áp dụng ở các nước Đông Nam Á khác.
+ Chú trọng xây dựng và phát triển hạ tầng kỹ thuật mạng thông tin toàn
cầu Internet, đồng thời giảm cước phí truy cập In ternet, liên lạc viễn thông
quốc tế xuống mức hợp lý theo tiêu chuẩn quốc tế. Đây là những công cụ và
phương tiện chuyển giao công nghệ hữu hiệu nhất, là nền tảng quan trọng cho
việc tiếp nhận chuyển giao cũng như tiếp cận nguồn thông tin phong phú, đa
dạng phục vụ cho phát triển kinh tế.
+ Cần xem xét việc nới lỏng các quy định nghiêm ngặt về hạn chế nhập
khẩu máy móc và thiết bị cũ để cho phép nhập khẩu máy móc, thiết bị cũ
nhưng vẫn có thể sử dụng được để giúp các doanh nghiệp với điều kiện tài
chính nhỏ bé có thể nâng cao năng lực sản xuất của mình một cách tiết kiệm
mà vẫn không biến đất nước thành một "bãi rác công nghiệp".
- Tiếp tục khuyến khích, tạo môi trường thuận lợi cho việc nghiên
cứu, ứng dụng KHCN vào sản xuất kinh doanh, cụ thể là:
+ Sớm quan tâm và chuẩn bị các điều kiện cần thiết thúc đẩy hình thành
thị trường KH&CN. Hoàn thiện các chính sách bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.
Xây dựng mạng lưới thông tin, hình thành mạng lưới dự báo giúp các doanh
nghiệp lựa chọn công nghệ, xây dựng phương án kinh doanh và mở rộng thị
trường; hỗ trợ việc mở rộng thương mại điện tử.
+ Cần có sự hỗ trợ về KH&CN của Nhà nước thông qua các viện, trung
tâm nghiên cứu triển khai của Nhà nước; đẩy mạnh chuyển giao công nghệ
cho các DNVVN trên cơ sở quan hệ thị trường, các bên cùng có lợi. Các trung
tâm, viện nghiên cứu KH&CN coi đây vừa là trách nhiệm, vừa là quyền lợi để
phát huy vai trò của mình. Hàng năm Nhà nước cần đầu tư 2% ngân sách trở
lên cho hoạt động khoa học - công nghệ, khuyến khích và khơi dậy các nguồn
vốn nhàn rỗi trong nhân dân để đầu tư đổi mới và phát triển công nghệ thông
qua việc miễn thuế các loại, hỗ trợ tín dụng cho hoạt động đầu tư, nghiên cứu,
triển khai và đào tạo nhân lực tư nhân, cho phép khấu hao nhanh công nghệ,
thiết bị nghiên cứu triển khai, kích thích tài chính cho các hoạt động phát triển
87
công nghệ bằng các quỹ hỗ trợ và quỹ đầu tư cần thiết.
+ Thiết lập mạng lưới các trung tâm và ngân hàng dữ liệu thông tin thị
trường, nghiên cứu và ứng dụng khoa học kỹ thuật của địa phương, của cả
nước và thế giới để cung cấp rộng rãi cho các nhà quản lý, các nhà nghiên cứu
và các doanh nghiệp những thông tin cập nhật mới nhất, làm tăng động lực và
định hướng đúng đắn việc đổi mới hiệu quả công nghệ.
+ Miễn thuế nhập khẩu đối với các thiết bị công nghệ tiên tiến. Miễn mọi
loại thuế cho các sản phẩm đang trong thời kỳ sản xuất thử bằng công nghệ
mới. Giảm thuế TNDN trong một số năm cho các sản phẩm làm ra bằng công
nghệ mới lần đầu tiên được áp dụng trong nước, có chính sách ưu đãi toàn
diện đối với việc áp dụng các công nghệ trong nước sáng tạo ra. Các doanh
nghiệp đầu tư trang thiết bị tiên tiến, công nghệ cao, tạo ra sản phẩm xuất
khẩu và thay thế hàng nhập khẩu được miễn giảm thuế 3 - 5 năm tương ứng
với giá trị sản phẩm tăng thêm. Đồng thời để khuyến khích các DNVVN đầu
tư máy móc, thiết bị mới, cần cho phép doanh nghiệp khấu hao nhanh máy
móc và thiết bị mới.
+ Khuyến khích các hợp đồng thuê tài chính, thuê mua và bán trả góp để các
DNVVN có thể tiếp cận hoặc nâng cấp máy móc, thiết bị mới một cách tốt hơn.
Hình thức thuê mua là một giải pháp hữu hiệu giúp doanh nghiệp có thể mua được
máy móc thiết bị mới mà không phải thanh toán toàn bộ số tiền khi mua hàng,
thay vào đó, doanh nghiệp phải trả tiền thuê máy móc nhỏ hơn rất nhiều.
+ Khuyến khích DNVVN đẩy mạnh nghiên cứu - triển khai và ứng dụng
tiến bộ khoa học và công nghệ, đồng thời phát triển các tổ chức nghiên cứu -
phát triển (R&D) ngoài khu vực Nhà nước do các nhà khoa học và kỹ thuật tự
nguyện tổ chức dưới hình thức các trung tâm chuyển giao công nghệ, trung
tâm nghiên cứu - phát triển.
+ Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ về vốn để DNVVN đầu tư đổi mới
công nghệ qua việc thành lập Quỹ hỗ trợ phát triển KH&CN, giúp DNVVN
ứng dụng công nghệ mới; có chính sách khen thưởng về khoa học và công
nghệ đối với DNVVN mạnh dạn ứng dụng KH&CN mới, nâng cao chất
88
lượng sản phẩm, năng lực cạnh tranh.
+ Coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức KH&CN cho đội ngũ
cán bộ quản lý doanh nghiệp để kịp thời ứng phó với những biến động của thị
trường. Tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp tiếp cận, tham quan học
tập công nghệ và phương pháp quản lý kinh doanh ở nước ngoài.
+ Nghiên cứu và xem xét sửa đổi một số nội dung trong quy định về hợp
đồng chuyển giao công nghệ theo hướng phù hợp với cơ chế thị trường:
Chỉ nên quy định khung giá cho các hợp đồng có liên quan đến nguồn
Ngân sách Nhà nước.
Đơn giản hóa việc phê chuẩn hợp đồng chuyển giao công nghệ, giảm
thời gian và chi phí cho doanh nghiệp.
Chấp nhận việc nhập khẩu một số thiết bị đã qua sử dụng trong một
số lĩnh vực phù hợp với khả năng vốn và nhu cầu của nhiều doanh
nghiệp, nhất là DNVVN.
3.2.3. Chính sách thương mại
Hệ thống pháp luật điều chỉnh các hoạt động thương mại khi ra đời
phải đáp ứng các yêu cầu sau:
Một là, phải phù hợp với điều kiện phát triển thực tế của nền kinh tế,
từng bước thúc đẩy hội nhập đồng thời đáp ứng được thông lệ quốc tế.
Hai là, đảm bảo sự phối hợp hài hòa, đồng bộ cả về kinh tế lẫn nội
dung pháp lý giữa các văn bản.
Ba là, các chính sách thương mại phải có chiến lược cụ thể, lộ trình và
bước đi thích hợp nhằm hướng tới 3 mục tiêu sau:
+ Nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
+ Chủ động thâm nhập thị trường.
+ Khai thác triệt để thế mạnh của nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành
phần.
Muốn đáp ứng các yêu cầu đó, hệ thống pháp luật thương mại và
89
chính sách thương mại cần:
+ Phải tạo điều kiện cho tất cả các chủ thể hoạt động thương mại thực sự
bình đẳng trên thị trường, từ đó tự khẳng định mình trong quá trình phát triển.
+ Hoàn thiện hệ thống pháp luật thương mại đảm bảo sự thống nhất,
đồng bộ giữa các văn bản pháp luật.
+ Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh
thương mại.
Mặc dù đã có những đổi mới cơ bản trong chính sách thương mại
nhưng vẫn cần tiếp tục cải cách thì mới có thể đáp ứng được đòi hỏi của
quá trình hội nhập kinh tế trong thời gian tới. Những biện pháp cải cách cần
hướng đến một số điểm sau:
- Tiếp tục thu hẹp danh sách các mặt hàng cấm xuất nhập khẩu, đặc biệt
là những mặt hàng xuất nhập khẩu có điều kiện. Điều kiện để XNK những
loại mặt hàng hạn chế XNK cần cụ thể, rõ ràng để tránh hiện tượng phân biệt
đối xử trong cấp giấy phép, nhất là giữa các DNNN và các DNNQD.
- Nền kinh tế nước ta có tỷ trọng nông nghiệp còn tương đối lớn, hơn
70% dân số ở nông thôn, chúng ta không nên đưa ra những biện pháp trợ giá
cho xuất khẩu nông sản giống như ở một số nước công nghiệp phát triển.
- Xóa bỏ cơ chế "đầu mối XNK" đối với một số mặt hàng, tạo điều
kiện cho các DNVVN chủ động hơn trong việc tìm đối tác XNK. Việc thực
hiện "đầu mối XNK" nếu có cũng chỉ nên thực hiện thông qua một Hiệp
hội XNK do các thành viên tham gia một cách tự nguyện.
- Cải thiện môi trường thương mại thông qua việc thúc đẩy hình các loại
thị trường (thị trường vốn trung và dài hạn, thị trường bất động sản, thị trường
khoa học và công nghệ,…).
- Cải cách một bước các công cụ hành chính trong chính sách thương
mại. Hạn chế việc cấm xuất nhập khẩu bằng hạn ngạch, bằng giấy phép và
chuyển sang điều tiết chủ yếu thông qua hệ thống thuế quan.
- Mở rộng thị trường ngoài nước, phát huy lợi thế so sánh của nước ta
trên thị trường thế giới. Đổi mới quản lý hệ thống kinh tế đối ngoại phù hợp
90
với xu thế hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
- Cần khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân trực tiếp xuất
khẩu, cũng như gián tiếp tham gia vào hoạt động xuất khẩu. Hỗ trợ những
DNVVN trực tiếp tham gia vào các hợp đồng xuất khẩu, không phân biệt
mặt hàng xuất khẩu; mở rộng các nghiệp vụ bảo hiểm xuất khẩu. Đối với
các DNVVN, trong quá trình đẩy mạnh xuất khẩu cần chú trọng tư vấn cho
doanh nghiệp chú ý đến thương hiệu sản phẩm…
- Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại: xúc tiến thương mại là
điều kiện quan trọng cho sự hình thành và phát triển thương mại, giúp các
DNVVN tiến hành các hoạt động thương mại một cách có hiệu quả, thiết
thực. Xúc tiến thương mại được thực hiện bằng nhiều phương thức, quy mô
khác nhau:
+ Giới thiệu sản phẩm, hàng hóa của DNVVN thông qua triển lãm trong
và ngoài nước, nhất là các thị trường tiềm năng.
+ Hỗ trợ, tư vấn giúp các hiệp hội DNVVN thuộc các ngành nghề tiếp
cận thị trường nước ngoài, tiếp xúc doanh nhân các nước khác nhau, mở rộng
thị trường, thu nhập kiến thức kinh doanh tiên tiến.
+ Hỗ trợ qua các hội thảo, các thông tin chuyên đề liên quan đến hoạt
động thương mại của DNVVN từ đầu tư, chiến lược phát triển đến việc trang
bị các kiến thức về kỹ năng quản lý thương mại trong và ngoài nước.
+ Cung cấp các ấn phẩm cần thiết về lĩnh vực thương mại, dịch vụ, đầu
tư, XNK cho các tổ chức DNVVN.
- Chuẩn bị tốt các điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam trong tiến
trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế; tích cực tham gia vào các tổ chức
kinh tế quốc tế; thực hiện nghiêm túc các cam kết của AFTA; thực hiện ưu đãi
thuế quan đối với hàng hóa của các nước mà Việt Nam đã ký Hiệp định
thương mại. Đồng thời quan tâm đến biện pháp chống đỡ với các hàng hóa
của Việt Nam bị các nước khác phân biệt đối xử.
91
3.2.4. Chính sách đầu tư
Đầu tư là hoạt động rất quan trọng tác động đến tổng cung và do đó ảnh
hưởng tới sản lượng, việc làm. Chính sách đầu tư là công cụ quản lý nhà nước
quan trọng, góp phần tạo lập môi trường đầu tư thuận lợi và định hướng,
khuyến khích đầu tư đối với các DNVVN. Vấn đề có ý nghĩa hàng đầu của
chính sách đầu tư của Nhà nước là đảm bảo tính thiết thực, có cơ sở khoa
học và đảm bảo tính hiệu quả của đầu tư, tránh hình thức, lãng phí, phân
tán và thất thoát tiền của nhân dân.
Trong thời gian tới, chính sách đầu tư cần phải tiếp tục được chú trọng theo
các hướng sau nhằm góp phần tích cực thúc đẩy sự phát triển của DNVVN:
- Nhất thể hóa Luật Đầu tư nước ngoài với Luật Đầu tư trong nước.
Coi trọng đầu tư tư nhân trong nước cũng như đầu tư nước ngoài. Sớm xóa bỏ
sự ưu đãi nhiều hơn cho đầu tư nước ngoài (thuế thu nhập doanh nghiệp của
các công ty nước ngoài thấp hơn, thời hạn thuê đất dài hơn,...).
- Cần đẩy mạnh việc hỗ trợ đầu tư như cung cấp thông tin, dự báo về đầu
tư, xây dựng các khu công nghiệp cho DNVVN thuê với giá cả hợp l ý.
- Phối hợp có hiệu quả các công cụ của chính sách đầu tư như lãi suất
và thuế.
- Trong những năm trước mắt, Nhà nước coi trọng chính sách khuyến
khích đầu tư vào sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn và đầu tư vào các ngành sản xuất thu hút
nhiều lao động xã hội.
- Mở rộng diện khuyến khích, ưu đãi đầu tư bao gồm các hoạt động
thành lập mới doanh nghiệp, mở rộng quy mô nghiên cứu - phát triển
(R&D), cải thiện môi trường sinh thái, đầu tư góp vốn, đầu tư theo hình
thức hợp đồng xây dựng - vận hành - chuyển giao (Build- Operate-
Transfer: BOT), hợp đồng xây dựng- chuyển giao - vận hành (Build -
Transfer -Operate: BTO), hợp đồng xây dựng - chuyển giao (Build -
92
Transfer: BT).
- Tăng mức độ hỗ trợ, khuyến khích và ưu đãi đầu tư, một mặt Nhà
nước tạo thuận lợi về đất đai, vốn cho nhà đầu tư, mặt khác Nhà nước hỗ
trợ bằng cách đầu tư kết cấu hạ tầng; lập quỹ hỗ trợ đầu tư, phát triển các
loại dịch vụ hỗ trợ đầu tư; có chính sách ưu đãi về thuế đối với doanh
nghiệp đầu tư theo quy định của Luật Khuyến khích đầu tư trong nước.
Việc khuyến khích đầu tư không chỉ cần chú trọng vào đầu tư thành lập mới,
mà cả đầu tư mở rộng và đầu tư chiều sâu.
- Nhà nước tập trung đầu tư có hiệu quả các công trình kết cấu hạ tầng,
nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng có khó khăn, vừa tạo điều kiện cho
các DNVVN ở các vùng này có cơ hội phát triển sản xuất hàng hóa vừa cải
thiện được điều kiện sống cho nhân dân vùng sâu, vùng xa.
- Giảm bớt các thủ tục xin cấp ưu đãi đầu tư, vì thời gian qua thủ tục xin cấp
ưu đãi đầu tư quá nhiều, mất nhiều thời gian và tốn kém tiền của nên các nhà đầu
tư tư nhân nản lòng không quan tâm tới việc xin ưu đãi. Bên cạnh đó, các ưu đãi
về đầu tư cần thiết thực, rõ ràng và cụ thể hơn. Có chính sách ưu đãi thỏa đáng
đối với các doanh nghiệp đầu tư công nghệ tiên tiến. Mức độ ưu đãi đủ sức hấp
dẫn như thời gian miễn, giảm thuế dài hơn,... Mở rộng và đa dạng hóa các hình
thức ưu đãi đầu tư như trợ cấp đầu tư, khấu hao nhanh tài sản cố định, ưu đãi
thuế đối với đầu tư nghiên cứu và phát triển, đào tạo nâng cao tay nghề.
- Đề nghị chỉnh sửa, bổ sung và có hướng dẫn cụ thể về danh mục các
ngành, nghề thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư, danh mục địa bàn, khuyến khích
đầu tư ban hành theo Nghị định 35/2002/NĐ-CP;
- Về các chính sách ưu đãi đầu tư, Chính phủ và các bộ ngành hữu quan cần
thống nhất trước khi ký ban hành, tránh có những quy định chồng chéo và phủ
định nhau, gây rắc rối, khó khăn trong quá trình giải quyết và thực hiện của các
cơ quan quản l ý ở địa phương và doanh nghiệp. Đồng thời sớm ban hành một
luật đầu tư chung hạn chế tối đa sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế.
Bên cạnh đó, các chính sách ưu đãi đầu tư trong nước hiện đang được
quy định rải rác trong nhiều văn bản khác nhau, doanh nghiệp rất khó tiếp cận
93
để biết được doanh nghiệp có thuộc diện được ưu đãi đầu tư hay không. Do
vậy, cần sớm xúc tiến, rà soát tất cả các chính sách ưu đãi tại các văn bản pháp
luật, tổng hợp lại và phổ biến rộng rãi cho doanh nghiệp cũng như các cơ quan
quản lý về ưu đãi đầu tư trong nước. Làm tốt việc này còn có tác dụng phát
hiện được những mâu thuẫn trong các văn bản pháp luật về ưu đãi đầu tư.
Không ít doanh nghiệp cho rằng khi bàn về thuật ngữ khuyến khích đầu tư
trong nước, phạm vi tác động đến đầu tư trong nước của Luật KKĐTTN còn
quá hẹp. Trong bối cảnh hiện nay nên bổ sung vào Luật một số nội dung thực
tế cấp bách để thực sự khuyến khích được đầu tư trong nước như: tăng cường
các hoạt động hỗ trợ về thị trường, đào tạo, tư vấn, bảo hộ và bảo vệ các hoạt
động đầu tư lành mạnh, hợp pháp.
3.2.5. Chính sách vốn, tài chính, tín dụng
Tiếp tục các biện pháp lành mạnh hóa thị trường tài chính để hạ thấp
chi phí vốn vay cho doanh nghiệp, xây dựng và áp dụng một hệ thống giám
sát đối với thị trường tài chính theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế theo cơ
chế giám sát từ xa (giám sát thông qua chế độ báo cáo trên cơ sở hình thành
một số chỉ số giám sát).
- Hỗ trợ về tài chính của Nhà nước cho các DNVVN là rất cần thiết,
nhất là khi các doanh nghiệp này mới được thành lập. Về nguyên tắc, chính
sách hỗ trợ này cần bảo đảm được sự bình đẳng giữa các thành phần kinh
tế. Tuy nhiên, để phù hợp với khả năng của ngân sách Nhà nước trong quá
trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế thì các chính sách ưu đãi, hỗ trợ đặc
biệt của Nhà nước chỉ nên tập trung vào một số DNVVN được xác định là
cần thiết, không nên áp dụng chính sách này một cách tràn lan, phân tán.
Việc hỗ trợ của Nhà nước có thể thực hiện thông qua hai hình thức:
thành lập Công ty đầu tư tài chính nhằm giúp các DNVVN mua cổ phần
hoặc trái phiếu chuyển nhượng; thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng để bảo
lãnh một phần cho các DNVVN tiếp cận được các khoản vay tại các tổ
chức tín dụng thông qua việc cấp bảo lãnh, tái bảo lãnh tín dụng và chia sẻ
94
rủi ro khi xảy ra bất khả kháng không trả được nợ vay…
Việc hình thành và phát triển các loại hình dịch vụ tài chính, tín dụng
là hướng cơ bản giải quyết vấn đề nguồn vốn đầu tư cho các DNVVN.
Trong đó, vấn đề trước mắt là phải làm lành mạnh hoá tình hình tài chính
của tổ chức tín dụng. Xây dựng thêm loại hình tổ chức tín dụng mới để hỗ
trợ lẫn nhau. Khuyến khích việc phát triển dịch vụ tư vấn tài chính kế toán,
kiểm toán và những dịch vụ có liên quan đến tài chính của các DNVVN.
Có chính sách hỗ trợ thông tin, đào tạo nhằm hình thành hệ thống
thông tin về kinh tế – tài chính doanh nghiệp trong phạm vi cả nước… Nhà
nước thực hiện việc hướng dẫn và hỗ trợ về nghiệp vụ, về phương pháp
quản lý,... công bố công khai những thông tin về cách định hướng đầu tư
phát triển của từng ngành, vùng và lãnh thổ; hỗ trợ về cơ sở hạ tầng để
giảm thiểu chi phí kinh doanh. Cần quy hoạch đô thị, xây dựng các cụm
công nghiệp, quy mô nhỏ ở một số thành phố nhằm đảm bảo được sự ổn
định về địa bàn kinh doanh cho các DNVVN.
Xây dựng chính sách và cơ chế huy động vốn theo hướng tổng hợp các
nguồn lực, tập trung các nguồn vốn từ trong nước, trong dân cư và vốn nước
ngoài thành một dòng vốn lớn. Đẩy mạnh giao lưu vốn thông qua nhiều kênh
như hệ thống tín dụng ngân hàng, quỹ tín dụng nhân dân, quỹ hỗ trợ đầu tư
phát triển,…
- Đổi mới chính sách huy động vốn, chuyển từ cấp phát vốn qua ngân
sách cho doanh nghiệp nhà nước là chủ yếu sang việc tạo môi trường thuận
lợi cho tất cả các thành phần kinh tế đều có thể tiếp cận các nguồn vốn, trong
đó có DNVVN dưới nhiều hình thức:
+ Cho phép các doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân được mở rộng
hình thức vay vốn như vay thế chấp, tín chấp, phát hành trái phiếu, cổ phiếu
để bổ sung vốn và cho phép các DNVVN được vay trực tiếp vốn của nước
ngoài.
- Hỗ trợ vốn cho các DNVVN dưới nhiều hình thức như:
+ Cho vay lãi suất thấp, lãi suất ưu đãi và hỗ trợ vốn đối với một số
95
ngành, lĩnh vực, vùng có nhiều khó khăn, miền núi, hải đảo, vùng sâu.
+ Thành lập một số hình thức hỗ trợ như Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia,
Quỹ bảo lãnh tín dụng ở một số địa phương, Quỹ cho vay theo các chương
trình hỗ trợ phát triển.
+ Xây dựng mối quan hệ kinh doanh, bạn hàng, đối tác giữa hệ thống ngân
hàng thương mại với DNVVN, khắc phục quan hệ xin - cho, cửa quyền, tạo mối
quan hệ hai bên cùng có lợi để ngân hàng thương mại đến với doanh nghiệp.
+ Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân huy
động vốn trung và dài hạn qua thị trường chứng khoán.
Chính phủ cần sửa đổi Điều 26, Nghị định 52/1999/NĐ-CP ngày
8/7/1999 về Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng theo hướng: cho phép các
dự án của DNVVN vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước không
cần phải có sự "phê duyệt của cơ quan chủ quản", vì các doanh nghiệp này
không cơ quan chủ quản. Mặt khác, Chủ tịch UBND tỉnh không phải là
người phê duyệt hay ra quyết định đầu tư đối với các dự án của họ.
3.2.6. Chính sách thuế
Trong quá trình soạn thảo và xây dựng pháp luật, các nhà hoạch định
chính sách thuế cần tăng cường lấy ý kiến của doanh nghiệp. Cần hạn chế
điều tiết thông qua các văn bản có giá trị pháp l ý thấp như thông tư hoặc
công văn, mà ngược lại các quy định về thuế cần ban hành dưới dạng đạo luật.
Điều này có thể giúp cho doanh nghiệp tính toán được các yếu tố về thuế
trước khi đầu tư, không bị bất ngờ bởi những thay đổi liên tục của chính sách.
- Nếu luật pháp của Nhà nước có sơ hở và những người kinh doanh lợi
dụng những sơ hở đó để hạn chế mức thuế phải nộp mà vẫn không vi phạm
các quy định pháp luật khác thì Nhà nước và dư luận xã hội nên chấp nhận
các hành vi đó, không nên quy kết các hành vi đó là gian lận. Trách nhiệm của
các nhà hoạch định chính sách là phải nhanh chóng phát hiện ra những sơ hở
96
và có biện pháp khắc phục một cách hiệu quả, đồng bộ.
- Tiếp tục cải cách và hoàn thiện hệ thống thuế phù hợp với tình hình,
yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và cam kết
quốc tế, khắc phục tình trạng vừa bất hợp lý, vừa sơ hở, lại vừa bất bình đẳng
hiện nay. Cần thực hiện nguyên tắc bình đẳng về thuế giữa các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần sở hữu, không nên duy trì chính sách phân biệt đối xử
về thuế giữa người Việt Nam và người nước ngoài, giữa các doanh nghiệp
Việt Nam và doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc
đối xử quốc gia (NT) trong các Hiệp định thương mại đã ký với nước ngoài,
Việt Nam ngày càng phải hạn chế các phân biệt đối xử này.
- Thực hiện miễn, giảm thuế có điều kiện và có thời hạn, trước mắt,
thực hiện đối với thuế sử dụng đất nông nghiệp đối với hộ nông dân có thu
nhập thấp, gặp rủi ro, tiến tới miễn giảm thuế sử dụng đất, chuyển sang thuế
thu nhập đối với hộ kinh doanh nông nghiệp. Xây dựng và ban hành các luật
thuế tài sản, thuế thu nhập cá nhân, pháp lệnh phí và lệ phí, để trong vòng 5
năm tới nước ta có thể hoàn chỉnh cơ bản về hệ thống thuế.
- Để khắc phục tình trạng trốn lậu thuế, khai khống hoá đơn liên tục
xảy ra trong thời gian qua, cần thực hiện nguyên tắc bình đẳng về thuế giữa
các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; xác định mức thuế hợp lý để
vừa bảo đảm thu đủ cho ngân sách Nhà nước, vừa bảo đảm cho doanh nghiệp
tích luỹ vốn đầu tư phát triển, hạn chế được hiện tượng trốn thuế.
- Thuế GTGT được ban hành với 4 mức thuế suất và một số trường hợp
miễn giảm thuế. Nhiều mức thuế suất và nhiều trường hợp miễn giảm thuế
chắc chắn sẽ tạo ra những cơ hội và động cơ trốn thuế. Vì vậy để giải quyết
vấn đề này cần giảm số lượng thuế suất xuống còn một loại thuế suất hợp lý,
giảm số trường hợp được miễn giảm thuế xuống chỉ còn vài trường hợp,
chẳng hạn như trường hợp của các hoạt động tài chính, tín dụng.
- Đối với hàng hóa sản xuất để xuất khẩu thuộc diện chịu thuế tiêu thụ
đặc biệt (nhưng không chịu thuế GTGT), khi xuất khẩu cũng được hoàn thuế.
97
Đối với việc thoái thuế, đề nghị không khấu trừ mà thực hiện hoàn thuế trực
tiếp cho doanh nghiệp. Việc khấu trừ thuế đang làm hiện nay đưa tới sự dây
dưa, chồng chéo, gây khó khăn cho các doanh nghiệp.
- Trong trường hợp các kết quả giám định không thống nhất hoặc khi có
một mặt hàng có thể áp mã ở các mức thuế suất khác nhau, cho phép cơ quan hải
quan được áp mã thuế ở mức thấp nhất nhằm tạo thuận lợi cho doanh nghiệp.
- Thực hiện nghiêm túc công tác kiểm tra thực hiện quy trình thủ tục hải
quan. Niêm yết công khai chính sách, chế độ mới ban hành, các mẫu hồ sơ, giấy
tờ... nhằm tạo điều kiện thuận lợi giúp doanh nghiệp trong khâu tự khai báo, áp
mã, áp giá. Đẩy mạnh hoạt động của các tổ chức khai thuê, làm thủ tục hải quan
thuê, giao nhận hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu trên địa bàn cả nước.
- Có chính sách ưu đãi thuế đối với các doanh nghiệp đầu tư đổi mới thiết
bị, hiện đại hóa công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, có khả năng cạnh
tranh và xuất khẩu, đầu tư xây dựng mới và mở rộng quy mô doanh nghiệp
tạo nhiều việc làm.
- Thực hiện tốt cơ chế định thuế - thu thuế - kiểm tra thuế một cách khoa
học, đảm bảo sự độc lập và kiểm tra lẫn nhau giữa ba bộ phận này, tranh hiện
tượng mặc cả thuế khá phổ biến đối với các DNVVN như hiện nay.
- Tăng cường các biện pháp chế tài, kết hợp quy định về thưởng phạt, rõ
ràng trong công tác nộp thuế, thu thuế, chống gian lận, chống thất thu thuế,
chống gian lận thương mại, buôn lậu trốn thuế,… chống tham nhũng trong
hoạt động thuế.
3.2.7. Chính sách đất đai:
Cần đảm bảo thực hiện đồng thời nhiều mục tiêu:
(a) ổn định quan hệ sử dụng đất,
(b) tăng cường quản lý Nhà nước về đất đai,
(c) tạo điều kiện cho doanh nhân dễ dàng thuê đất, đảm bảo sử dụng
98
đất có hiệu quả.
(d) từng bước tạo điều kiện thực hiện các quyền của người sử dụng đất
một cách linh hoạt nhất, làm cho quyền tài sản đó thực sự là một thứ vốn
(tư bản) được tự do trao đổi trên thị trường.
- Các chính sách về đất đai cần thực hiện theo hướng cho phép các
doanh nghiệp có những quyền hạn pháp lý về đất đai giống như đất thổ cư
đô thị để các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận đất, được thuê đất lâu dài và ổn
định, nhất là trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ.
- Mở rộng quyền của doanh nghiệp trong việc chuyển nhượng, cho
thuê, thế chấp, cầm cố tài sản thuộc quyền quản lý của doanh nghiệp. Đẩy
nhanh quá trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giảm mức thu lệ
phí và thuế chuyển nhượng nhà ở, quyền sử dụng đất để tạo điều kiện khai
thông các hoạt động giao dịch trên thị trường, khuyến khích các giao dịch
chính thức, nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về đất đai.
- Thị trường bất động sản và chính sách đất đai phải xây dựng được hệ
thống đăng ký, khắc phục sự bất bình đẳng trong việc phân phối đất. Hình
thành loại hình dịch vụ chuyển nhượng quyền sử dụng đất làm cho việc
kinh doanh quyền sử dụng đất được thuận lợi, trôi chảy.
- Thúc đẩy việc phát triển thị trường chính thức về chuyển nhượng
quyền sử dụng đất và bất động sản. Thực hiện cơ chế giá thỏa thuận trực
tiếp trên thị trường chính thức hoặc đấu giá quyền sử dụng đất, hạn chế
việc phân biệt giá đất quá lớn theo ngành nghề hay đối tượng sử dụng đất.
- Đối với các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, dịch vụ, nhu cầu đất
đai là bước đầu tiên để lập nghiệp hoặc mở rộng kinh doanh, do đó việc
chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê quyền sử dụng đất phải rất đơn giản,
rõ ràng, công khai, tránh thủ tục phiền hà, gây khó khăn cho doanh nghiệp.
- Xác định đúng đắn và công khai hóa giá cho thuê đất, giá đền bù đất
trên cơ sở quan hệ thị trường về đất đai và khả năng sinh lợi của đất đai,
đảm bảo mặt bằng chung trên phạm vi cả nước.
- Quy hoạch tổng thể sử dụng đất về sản xuất nông nghiệp, công
99
nghiệp và dịch vụ, quy hoạch các vùng tập trung chuyên canh sản xuất
nông sản hàng hóa và các khu công nghiệp - dịch vụ để thu hút các nhà đầu
tư trong nước vào kinh doanh, vừa có lợi cho các doanh nhân, vừa bảo đảm
thực hiện định hướng chiến lược của nền kinh tế nói chung.
- Việc chuyển mục đích sử dụng đất khi phát triển nền nông nghiệp
hàng hóa là cần thiết, song phải thực hiện có cơ sở khoa học, được tính
toán và cân nhắc cẩn thận, tránh tình trạng chạy theo phong trào, kém hiệu
quả, vừa thiệt thòi cho nhà kinh doanh, vừa phá hoại môi trường sinh thái.
3.2.8. Chính sách đào tạo nguồn nhân lực
- Các DNVVN được mở rộng quyền thuê và tuyển dụng lao động. Có
chính sách khuyến khích các DNVVN tiến hành các hoạt động đào tạo, dạy
nghề nâng cao trình độ chuyên môn của người lao động. Nhà nước có thể cấp
lại một phần hay toàn bộ số tiền thuế thu nhập mà các cơ sở đào tạo, dạy nghề
đã nộp vào ngân sách để dùng vào đầu tư phát triển.
- Khắc phục tình trạng mất cân đối trong đào tạo ngành, nghề giữa các
cấp học. Nhanh chóng có chính sách điều chỉnh cơ cấu lao động trong nền
kinh tế, giữa tỷ lệ lao động được đào tạo tốt nghiệp cao đẳng, đại học với
trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật hợp lý, đặc biệt chú trọng về
đào tạo công nhân kĩ thuật lành nghề, công nhân kỹ thuật cao. Gắn hệ thống
đào tạo nghề với nhu cầu thị trường. Đầu tư thích đáng cho công tác đào tạo
nghề nhằm nâng cao cả về số lượng và chất lượng lao động được đào tạo. Đầu
tư, nâng cấp cơ sở vật chất cho đào tạo nghề phù hợp với yêu cầu và đòi hỏi
của thị trường.
- Có biện pháp cụ thể và thiết thực hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong
việc tự đào tạo tay nghề cho công nhân, cho cán bộ quản lý của các DNVVN.
Nhà nước cần có những chính sách và biện pháp phù hợp để khuyến khích và
hỗ trợ các doanh nghiệp tự đào tạo, thông qua việc miễn, giảm thuế đối với
chi phí đào tạo của các doanh nghiệp, hỗ trợ thành lập các trung tâm đào tạo
100
nghề.
3.2.9. Khuyến khích phát triển hiệp hội DNVVN
Khuyến khích hoạt động của các tổ chức hỗ trợ DNVVN, các tổ chức
phi chính phủ, các hiệp hội ngành nghề nhằm bảo vệ quyền lợi và giúp đỡ
DNVVN. Coi trọng và nâng cao hơn nữa vai trò của các hiệp hội, câu lạc bộ
giám đốc và tổ chức chuyên môn đối với sự phát triển của DNVVN.
Chú trọng nâng cao vai trò của hiệp hội DNVVN trên các mặt sau:
1- Thường xuyên tập hợp kiến nghị của các DNVVN về pháp luật, cơ
chế, chính sách, cách thức quản lý, điều hành của cơ quan quản lý các cấp để
tổng hợp, phân tích và đề đạt các kiến nghị đó đến các cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền giải quyết;
2- Nâng cao chất lượng cung cấp thông tin; đa dạng hoá hình thức trao
đổi kinh nghiệm và cơ hội kinh doanh, hỗ trợ lẫn nhau trong phát triển kinh
doanh giữa các DNVVN;
3- Tích cực bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên trước
những can thiệp hành chính trái pháp luật cũng như trước những biến động
của thị trường.
KẾT LUẬN
Công cuộc Đổi mới của đất nước ta sau gần 2 thập kỷ đã thu được
101
những thành tựu to lớn, khẳng định quan điểm đúng đắn của Đảng và Nhà
nước ta về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trên cơ sở
tôn trọng, phát huy và bảo vệ lợi ích hợp pháp của các thành phần kinh tế.
Kinh nghiệm trên thế giới cũng như ở nước ta thời gian qua cho thấy
DNVVN chiếm số lượng lớn trong nền kinh tế và có xu hướng phát triển
ngày càng nhanh, xét về lâu dài sẽ là xu thế áp đảo. DNVVN không chỉ
phù hợp với điều kiện kinh tế của các nước đang phát triển mà ngay cả với
những nước phát triển.
Qua nghiên cứu đề tài về DNVVN, tác giả khẳng định: Khuyến khích
phát triển khu vực kinh tế tư nhân nói chung, DNVVN nói riêng là chính
sách kinh tế hết sức đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, có thể coi đây là
"kim chỉ nam" cho chính sách phát triển kinh tế của chúng ta.
Phát triển DNVVN chính là nhằm để duy trì sự cạnh tranh bình đẳng
trong nền kinh tế, là yếu tố quan trọng tạo ra động lực cho sự phát triển,
duy trì tính năng động và linh hoạt của tất cả các chủ thể trong nền kinh tế
trong điều kiện môi trường kinh doanh đầy biến động, khắc nghiệt...
Phát triển DNVVN chính là huy động có hiệu quả các nguồn đầu tư
của nhân dân để phát triển kinh tế; là cách để thực hiện công nghiệp hoá,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; giải quyết sức ép về lao động, việc
làm, xóa đói giảm nghèo, tăng thu nhập dân cư, giảm khoảng cách giàu
nghèo giữa các vùng, giải quyết tốt các vấn đề thất nghiệp, đối phó hiệu
quả với khủng hoảng kinh tế và các vấn đề xã hội khác,... DNVVN ở nước
ta hiện nay tuy còn nhỏ bé song lại tiềm ẩn khả năng phát triển rất mạnh mẽ
trong tương lai đang còn hạn chế nhiều mặt.
Bên cạnh những ưu thế, DNVVN Việt Nam cũng có những hạn chế
của nó xuất phát chính từ quy mô vừa và nhỏ: nguồn vốn hạn hẹp, máy
móc, trang thiết bị lạc hậu, khả năng tiếp cận với các nguồn lực (đất đai, tài
chính, KHCN, thông tin thị trường) còn hạn chế, năng lực, trình độ của nhà
102
quản lý và lao động trong các DNVVN thấp, bị phân biệt đối xử,... dẫn đến
năng lực cạnh tranh yếu. Đồng thời chính sách phát triển DNVVN ở Việt
Nam hiện nay còn rất nhiều trở ngại: Môi trường kinh doanh chưa thông
thoáng, kém hấp dẫn; hệ thống chính sách kinh tế còn chồng chéo, mẫu
thuẫn, chưa đồng bộ; thủ tục hành chính rườm rà, phức tạp... đang thực sự
gây khó khăn cho doanh nghiệp, chứng tỏ Nhà nước ta chưa thực sự coi
trọng vai trò của DNVVN.
Những điều này đã và đang cản trở tới tiến trình phát triển kinh tế ở
Việt Nam. Trên cơ sở phân tích tiến trình chính sách phát triển DNVVN và
những tác động của chính sách tới sự phát triển DNVVN, luận văn đi đến
kết luận: Nhà nước cần phải có những chính sách tích cực nhằm hỗ trợ phát
triển DNVVN. Sự hỗ trợ của Nhà nước đối với DNVVN, điều quan trọng
nhất chính là phải đảm bảo được sự bình đẳng trong hoạt động kinh tế, tức
là phải xây dựng được môi trường kinh doanh rõ ràng, minh bạch, thông
thoáng; xây dựng hệ thống chính sách kinh tế đồng bộ, đảm bảo tính hiệu
lực pháp lý cao...
Để có được những chính sách phát triển DNVVN hợp lý, tác giả đề
xuất hệ thống các khuyến nghị giải pháp về cơ chế, từng chính sách cụ thể.
Tác giả mong muốn những khuyến nghị giải pháp trong luận văn có thể
góp phần vào tiến trình đổi mới và phát triển các DNVVN Việt Nam, giúp
DNVVN Việt Nam đạt được những mục tiêu phát triển đầy tham vọng của
103
mình, đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế Việt Nam./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Ban Kinh tế Trung ương, Báo cáo tổng hợp tình hình và phương hướng
giải pháp phát triển kinh tế tư nhân, ngày 26-11-2001.
[2]. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (1998), Báo cáo định hướng chiến lược và
chính sách phát triển DNVVN ở Việt Nam đến năm 2010.
[3]. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2003), Báo cáo đánh giá tình hình thi hành
Luật Doanh nghiệp.
[4]. Bộ Kinh tế Đài Loan (1996), Kinh nghiệm và thành tựu trong việc
hướng dẫn và giúp đỡ DNVVN, Cục quản lý DNVVN.
[5]. Nguyễn Cúc (1997), Chính sách hỗ trợ phát triển Doanh nghiệp vừa
và nhỏ Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[6]. Nguyễn Cúc (2000), Đổi mới cơ chế và chính sách hỗ trợ phát triển
DNVVN ở Việt Nam đến năm 2005, NXB Chính trị Quốc gia, 2000.
[7]. Nguyễn Đình Cung, Trần Kim Hào, Lê Viết Thái, Tô Đình Thái,
Hoàng Văn Thành (2000), Doanh nghiệp vừa và nhỏ - Hiện trạng
và những kiến nghị giải pháp, NXB Giao thông Vận tải, Hà Nội.
[8]. Lê Đăng Doanh, J. Bentley, Nguyễn Đình Cung, Trần Kim Hào, Tô
Đình Thái, Lê Viết Thái, Hoàng Văn Thành, Phan Nguyên Toàn
(1999), Báo cáo nghiên cứu hoàn thiện chính sách kinh tế vĩ mô và
đổi mới các thủ tục hành chính nhằm thúc đẩy sự phát triển của các
DNVVN tại Việt Nam, Hà Nội.
[9]. Võ Hùng Dũng (2002), Tăng trưởng công nghiệp - Phân tích từ cơ
cấu (tiếp theo và hết), Tạp chí NCKT, số 3 (286).
[10]. Nguyễn Hữu Dũng (2002), Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và hội nhập KTQT. Tạp chí lý
luận chính trị số 8/2002.
[11]. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI, NXB Sự thật, Hà Nội.
[12]. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Chiến lược ổn định và phát triển
kinh tế - xã hội đến năm 2000, NXB Sự thật, Hà Nội.
[13]. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII, NXB Sự thật, Hà Nội.
[14]. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư
BCHTW khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[15]. Vũ Vân Đình (2003), Doanh nghiệp trước ngưỡng cửa hội nhập,
NXB Lao động - xã hội, Hà Nội.
[16]. Đỗ Đức Định (1999), Phát triển xí nghiệp vừa và nhỏ ở một số nước
trên thế giới, NXB Thống kê, Hà Nội.
[17]. Phạm Hồng Giang, Vị thế của các DNVVN đối với nền kinh tế Việt
Nam hiện nay.
[18]. Nghiêm Quý Hào (9/1998), Làm gì để hỗ trợ DNVVN, Thời báo
Kinh tế số 76, Hà Nội.
[19]. Phạm Thị Thu Hằng (2002), Tạo việc làm tốt bằng các chính sách
phát triển Doanh nghiệp nhỏ, NXB. Chính trị quốc gia, 2002.
[20]. Nguyễn Thị Hiền (2002), Hội nhập Kinh tế khu vực của một số nước
ASEAN, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[21]. Nguyễn Đình Hương (2002), Giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa
và nhỏ ở Việt Nam, NXB CTQG, Hà Nội.
[22]. Kỷ yếu khoa học (1996), Dự án chính sách hỗ trợ phát triển DNVVN
ở Việt Nam, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
[23]. Leila Webster (11/1999), Doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam: Trên
đường đi đến phồn vinh, (Báo cáo của MPDF, số 10).
[24]. Luật Doanh nghiệp (1999), NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.
[25]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, t7.
[26]. Nghiên cứu kinh tế, tháng 7/1996 (số 218).
[27]. Nguyễn Đình Phan (1/1998), Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ
trong quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam.
[28]. Tào Hữu Phùng (Chủ nhiệm đề tài), Nghiên cứu cơ sở lý luận và
thực tiễn của hệ thống giải pháp đảm bảo an ninh tài chính của Việt
Nam trong phát triển và hội nhập quốc tế, Đề tài cấp Nhà nước, Cơ
quan chủ trì Học viện Tài chính, Hà Nội, 2002.
[29]. Hồ Xuân Phương (2002), Tài chính hỗ trợ phát triển DNVVN, Nxb
Tài chính, Hà Nội.
[30]. Lê Văn Sang (1997), Vai trò của các DNVVN trong phát triển kinh tế
Nhật Bản: khả năng hợp tác với Việt Nam, NXB KHXH, Hà Nội.
[31]. Stoyan Tenev, Amanda Carlier, Omar Chaudry và Nguyễn Quỳnh
Trang, Hoạt động không chính thức và môi trường kinh doanh ở Việt
Nam, NXB Thông tấn, Washington. D.C, 2003.
[32]. Tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, học tập các nghị quyết
TW5(IX), HN, 2002.
[33]. Hà Huy Thành (2002), Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản
tư nhân - L ý luận và chính sách, NXb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[34]. Hoài Thu (9/1998), Tín dụng cho các DNVVN, Báo Đầu tư số 75, Hà Nội.
[35]. Bình Thu, Làm gì để hội nhập kinh tế Quốc tế, Báo Hà Nội mới,
ngày 30/9/2000, Hà Nội.
[36]. Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê (các năm 1995, 1996, 1997,
1998, 2000, 2001, 2002), NXB Thống kê, Hà Nội.
[37]. Tổng cục Thống kê (2002), Kết quả điều tra toàn bộ Doanh nghiệp
01/4/2001, NXB Thống kê, Hà Nội.
[38]. Vũ Quốc Tuấn, Hoàng Thu Hòa (2002), Phát triển DNVVN: Kinh
nghiệm nước ngoài và phát triển DNVVN ở Việt Nam, NXB Thống
kê, Hà Nội.
[39]. Nguyễn Ty (4/2002), Xây dựng luận cứ khoa học hình thành khung
chính sách, tổ chức quản lý và hệ thống hỗ trợ thúc đẩy đổi mới
công nghệ sản xuất đối với các DNVVN, Báo cáo tổng hợp đề tài cấp
Nhà Nước, Hà Nội.
[40]. Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương bang Nordhein -
Westfalen - CHLB Đức, Viện Friedrich - Ebert CHLB Đức (1990),
Quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ, Hà Nội.
[41]. Hồ Văn Vĩnh (2003), Kinh tế tư nhân và QLNN đối với kinh tế tư
nhân ở nước ta hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Phụ lục số 1: Số lượng các DNVVN được cấp đăng ký kinh doanh.
1994
1996
1998
2001
Số DN
Số DN
Số DN
Số DN
Vốn (tỷ đồng)
Vốn (tỷ đồng)
Vốn (tỷ đồng)
Vốn (tỷ đồng)
Tổng số
24129
36751
33680
55243
36530
59994
69400
81325
39,58
50,32
8,46
8,60
89,98
35,56
Tốc độ tăng trưởng (%)
DNTN
13689
1988
19880
3380
21868
5069
39009
9042
45,23
70,02
10,00
49,97
78,38
78,38
Tốc độ tăng trưởng (%)
4844
3404
7852
6149
8987
8041
24438
21868
Công ty TNHH
62,10
80,64
14,45
30,77
171,93
171,96
Tốc độ tăng trưởng (%)
Công ty CP
56
432
79
774
173
1623
709
6921
41,07
79,17
118,99
109,69
309,83
326,42
Tốc độ tăng trưởng (%)
DNNN
5540
30927
5869
44940
5502
45261
5244
43134
5,94
45,31
-6,25
0,71
-4,69
-4,70
Tốc độ tăng trưởng (%)
Nguồn: [32, tr 115]
Phụ lục số 2:
Số doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân và số vốn đăng k ý hàng năm Giai đoạn 1991 - 1999
Năm Vốn
Tỷ lệ doanh nghiệp tăng hàng năm (%) 3622,73 181,22 62,31 32,94 22,07 15,28 12,16 14,74
Tỷ lệ vốn đăng ký tăng hàng năm (%) 2555,08 110,37 39,27 31,38 20,78 20,51 23,03 30,45
1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 1991-1999 Số doanh nghiệp 110 3985 7421 7176 6158 5484 4636 4252 5782 45004 118 3015 3458 2588 2880 2506 2987 4042 6575 28169
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Phụ lục 7: Cơ cấu ngành nghề trong các DNVVN
Ngành Tỷ trọng
42,2% 35,4% 10,0% 4,4% 3,3% 2,1% 1,2% 1,4%
Thương nghiệp, sửa chữa Công nghiệp chế biến Xây dựng Khách sạn, nhà hàng Vận tải, kho bãi, thông tin Bất động sản, dịch vụ tư vấn Khai thác mỏ Ngành nghề khác Nguồn: [17, tr.55]
Phụ lục 8: Tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư giai đoạn 1990 - 2000 (%GDP)
Nguồn: [39, tr88]
Tiết kiệm - Nhà nước - Tư nhân Đầu tư - Nhà nước - Tư nhân 1990 7,4 0 7,4 11,7 5,1 6,6 1991 13,2 1,3 11,9 15,1 2,8 12,3 1992 16,3 4,1 12,2 17 5,8 11,2 1993 17,4 2,5 14,6 24,9 7,0 17,9 1994 16,9 5,0 11,9 25,5 6,6 18,9 1995 17,1 5,2 11,9 27,1 5,7 21,4 1998 17,0 - - 23,6 - - 2000 27,0 - - 29,3 - 29,5
Phụ lục 5: Số lượng doanh nghiệp và số vốn đăng ký của các DNVVN qua các năm
1994 1996 1998 2001
Số DN Số DN Số DN Số DN Vốn (tỷ đồng) Vốn (tỷ đồng) Vốn (tỷ đồng) Vốn (tỷ đồng)
DNTN Tốc độ tăng trưởng (%) 19880 45,23 3380 70,02 21868 10 5069 49,97 39009 78,38 9042 78,38
7852 62,1 6149 80,64 8987 14,45 8041 30,77 24438 171,93 21868 171,96 Công ty TNHH Tốc độ tăng trưởng (%)
Công ty CP Tốc độ tăng trưởng (%) Tổng số
79 41,07 27811 49,61 774 79,17 10303 76,91 173 118,99 31028 11,57 1623 109,69 14733 43 709 309,83 64156 106,77 6921 326,42 37831 156,78 13689 4844 56 18589 1988 3404 432 5824
Tốc độ tăng trưởng (%)
Nguồn: [32, tr. 117] và tính toán của tác giả.
Phụ lục 9: Bảng số lượng và cơ cấu doanh nghiệp phân theo quy mô vốn
Loại hình doanh nghiệp Tổng số < 5tỷ 5-10 tỷ 10-50 tỷ 50 -200 tỷ >200 tỷ
Tổng số
1. Khu vực kinh tế trong nước a. Doanh nghiệp 100% vốn nhà nước Doanh nghiệp nhà nước Trung ương Doanh nghiệp nhà nước địa phương b. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh Hợp tác xã Doanh nghiệp tư nhân Công ty hợp danh Công ty TNHH Công ty cổ phần có vốn Nhà nước Công ty cổ phần không có vốn Nhà nước 2. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 39.762 100% 38.233 96,15% 5.531 1.877 3.654 32.702 3.178 18.226 - 10.485 368 432 1.529 3,85% 31.130 78,28% 30.943 77,82% 1.492 178 1.314 29.451 2.873 17.778 3 8.418 117 262 187 0,47% 2.714 6,83% 2.525 6,35% 888 201 687 1.637 180 300 1 1.012 84 60 189 0,48% 3.939 9,91% 3.355 8,44% 2.002 797 1.205 1.353 121 137 - 911 110 74 584 1,47% 1.494 3,67% 1.150 2,89% 933 557 376 217 12 11 - 128 44 22 344 0,87% 485 1,22% 260 0,65% 216 144 72 44 1 - - 16 13 14 325 0,82%
Nguồn: Tổng cục Thống kê (2002): Kết quả điều tra toàn bộ doanh nghiệp 01/4/2001
Phụ lục 3: Vốn của các DNVVN được cấp ĐKKD năm 1998, 2001.
Tỷ lệ (%)
Vốn (tỷ đồng)
Tỷ trọng (%)
Vốn (tỷ đồng)
Tỷ trọng (%)
Tuyệt đối (tỷ đồng)
Tỷ trọng (%)
Tổng vốn của DN
92600
100
124861
100
32261
34,84
Tổng vốn của DNVVN
59994
64,79
81325
65,13
21331
35,56
0,34
DNTN
5069
5,48
9402
7,53
4333
85,48
2,05
Công ty TNHH
8041
8,68
21868
17,51
13827
171,96
8,83
Công ty cổ phần
1623
1,75
6921
5,54
5298
326,43
3,79
DNNN
45261
48,88
43134
34,55
-2127
-4,70
-14,33
12668
13,68
12075
9,67
-593
-4,68
-4,01
Trong đó:
- TW quản lý
- Địa phương quản lý
32593
35,20
31059
24,88
-1534
-4,71
-10,32
Nguồn: Vụ Doanh nghiệp - Bộ Kế hoạch & Đầu tư và tính toán của tác giả.
1998 2001 So sánh 2001/1998
Phụ lục 4: Tỷ trọng các DNVVN được cấp đăng ký kinh doanh tính đến năm 2001.
1994
1998
2001
1996
Tỷ trọng DN (%)
Tỷ trọng vốn (%)
Tỷ trọng DN (%)
Tỷ trọng vốn (%)
Tỷ trọng DN (%)
Tỷ trọng vốn (%)
Tỷ trọng DN (%)
Tỷ trọng vốn (%)
100
100
100
100
100
100
100
100
Tổng số doanh nghiệp
Tổng số DNVVN
95,2
65,24
95,58
65,84
95,23
64,79
95,73
65,13
- DNTN
54,01
3,53
56,42
4,03
57,01
5,48
53,81
7,53
- Công ty TNHH
19,11
6,04
22,28
7,33
23,43
8,68
33,71
17,51
- Công ty CP
0,22
0,77
0.22
0,92
0,45
1,75
0,98
5,54
- DNNN
21,86
54,90
16,66
53,56
14,34
48,88
7,23
34,55
Trong đó:
6,4
16,08
4,68
15,05
4,01
13,68
2,02
9,67
-TW quản lý
15,46
38,82
11,98
38,51
10,33
35,20
5,21
24,88
Địa phương quản lý
Nguồn: [32, tr. 117] và Vụ Doanh nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Phụ lục 6: Sự tăng trưởng số lượng doanh nghiệp DNVVN ngoài quốc doanh (giai đoạn 1995 - 2000)
1995*
1996
1997
1998
1999
6 tháng đầu năm 2000
46.523
Tổng số các doanh nghiệp 15.276 31.143 33.713 36.753 39.915
40,4%
8,35%
8,9%
8,6%
16,6%
Tốc độ tăng trưởng
30.077
Số doanh nghiệp tư nhân 10.916 21.905 23.009 24.998 26.989
40,1%
5%
8,6%
7,9%
11,5%
Tốc độ tăng trưởng
4.242
9.316
10.420 11.384 12.473
15.701
Số công ty TNHH
42,9%
11,8%
9,2%
9,5%
25,9%
Tốc độ tăng trưởng
118
276
302
371
453
743
Số công ty cổ phần
-0,8%
9,4%
22,8%
21,1%
64,45%
Tốc độ tăng trưởng
Nguồn: Leila Webster và Markus Taussig “Động lực tăng trưởng chưa đủ lớn của Việt Nam”, Báo cáo của Dự
án Mê Kông MPDF, số 8, tháng 6 năm 1999, Tr.71).
* Số liệu năm 1995 khác với số liệu của các năm khác vì Tổng cục Thống kê dùng cách phân loại khác.
Phụ lục 10: Bảng số lượng và cơ cấu doanh nghiệp phân theo quy mô lao động
Tổng số
Loại hình doanh nghiệp
< 50 lao động
50-199 lao động
200-499 lao động
> 500 lao động
Tổng số 1.Khu vực kinh tế trong nước
Tỷ lệ (%)
39.762 38.233 96,15 5.531 30.731 30.038 75,54 1.120 5.554 4.977 12,52 2.237 2.149 1.859 4,68 1.276 1.328 1.159 2,91 898
a. DNNN b. Doanh nghiệp ngoài 32.072 29.118 2.740 583 261
1.529 493 577 290 169 quốc doanh 2.Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
Tỷ lệ (%) 3,85 1,24 1,45 0,73 0,43
Nguồn: Tổng cục Thống kê (2002): Kết quả điều tra toàn bộ doanh nghiệp 01/4/2001 Phụ lục 11: So sánh trình độ công nghệ Việt Nam và một số nước trong khu vực
Đơn vị: %
Nước Nhóm công nghệ thấp Nhóm công nghệ trung bình Nhóm công nghệ cao
42,7 26,5 30,8 Thái Lan
10,5 16,5 73,0 Singapore
24,3 24,8 51,1 Malaysia
47,7 22,6 29,7 Indonesia
45,2 25,7 29,1 Philippine
58,7 20,7 20,6 Việt Nam
Nguồn: [41, tr. 22]
Phụ lục 12: Cơ cấu trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động Việt Nam từ năm 1996 - 2000 Đơn vị: %
Năm 1995 1997 1998 1999 2000
87,69 12,31 87,71 12,29 86,69 13,31 86,13 13,87 84,49 15,51
4,38 4,38 4,75 5,44 6,78
Không có chuyên môn kỹ thuật Có chuyên môn kỹ thuật Trong đó: + Công nhân kỹ thuật + Sơ cấp + Trung cấp + Cao đẳng, Đại học 1,77 3,84 2,30 1,50 3,80 2,60 1,45 4,01 3,10 1,76 4,90 3,5 6,78 4,84 3,89
Nguồn: [42, tr.22]
DNNN
Trình độ công nghệ
Tổng số cơ sở sản xuất công nghiệp
Doanh nghiệp có vốn ĐTNN
Khu vực ngoài quốc doanh
Phụ lục 13: Trình độ công nghệ của ngành công nghiệp Việt Nam Đơn vị: %
1,88 19,63 26,57 35,57 16,19 100 2,91 31,34 29,82 29,98 5,88 100 9,85 45,85 22,86 17,06 4,38 100 0,6 13,13 26,25 39,64 20,49 100
Tự động hóa Bán tự động Cơ khí Bán cơ khí Thủ công Tổng số Nguồn: [43, tr.71]
Phụ lục 14: Kết quả thực hiện Luật KKĐTTN theo thành phần kinh tế
Số dự ỏn
Vốn đầu tư thực hiện
Số lao động sử dụng
Khu vực kinh tế
Số lượng
Tỷ trọng (%)
Tổng vốn (Tỷ đồng)
Tỷ trọng (%)
Số lượng (người)
Tỷ trọng (%)
276
10,20
2.442
9,60
54.845
15,30
Doanh nghiệp nhà nước
2.408
89,80
22.947
90,40
302.662
84,70
Doanh nghiệp dõn doanh
Tổng số
2.684
100
25.389
100
357.507
100
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Phụ lục 15: Cơ cấu đầu tư theo loại hỡnh doanh nghiệp
Tổng số dự ỏn
Vốn đầu tư thực hiện
Số lao động sử dụng
Loại hỡnh doanh nghiệp
DNNN
Số lượng 276
Tỷ trọng (%) 10,20
Tổng vốn (Tỷ đồng) 2.442
Tỷ trọng (%) 9,60
Số lượng (người) 54.845
Tỷ trọng (%) 15,30
TNHH
1.121
41,80
14.550
57,30
203.104
57,00
CTCP
231
8,60
6.137
24,20
58.086
16,20
DNTN
682
25,40
1.823
7,20
33.775
9,40
HTX
214
8
282
1,10
4.708
1,30
HKD
160
6,00
155
0,60
2.989
0,80
Tổng
2.684
100
25.389
100
357.507
100
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Phụ lục 16: Sơ đồ phân loại doanh nghiệp.
2
3
4
5
6
7
8
9
Công ty TNHH
1 Doanh nghiệp Nhà nước *
Hợp tác xã
Công ty cổ phần
Doanh nghiệp có vốn ĐTNN
Công ty hợp danh
Doanh nghiệp tư nhân
Hộ kinh doanh cá thể
Bán hàng rong, vỉa hè
Loại hình doanh nghiệp
a. Một thành viên b. Nhiều thành viên
a. TW b. Địa phương
Luật HTX
Luật ĐTNN
Luật Doanh nghiệp
Không có
Luật Doanh nghiệp Nhà nước
Luật điều chỉnh
Sở hữu Nhà nước
Sở hữu tư nhân hoặc hỗn hợp
Sở hữu tư nhân
Sở hữu
Kinh tế Nhà nước
Kinh tế tư nhân
Sở hữu tập thể Kinh tế tập thể
Kinh tế tư nhân hoặc tư bản Nhà nước
Kinh tế cá thể và tiểu chủ
Thành phần kinh tế
Khu vực ngoài quốc doanh
Khu vực quốc doanh
Khu vực chính thức
Bán chính thức
Phi chính thức
Tính pháp nhân đầy đủ
Ghi chú: Tổng cục Thống kê Việt Nam còn đưa ra khái niệm "Doanh nghiệp hỗn hợp", là loại hình doanh nghiệp có vốn đầu tư từ các nguồn sở hữu khác nhau (ví
dụ loại hình 3 hoặc 4). Tuy nhiên, loại hình 3 thường được tách riêng, nằm trong khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (có thể 100% vốn ĐTNN hoặc ít hơn). * Một số ít DNNN trực thuộc các tổ chức đoàn thể. Số doanh nghiệp thuộc loại này không đáng kể và đang được chuyển đổi thành công ty TNHH một thành viên.