ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ ------------------
LÊ THỊ HỒNG KHUYÊN
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH Ở VIỆT
NAM
TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
1
Hà Nội - 2009
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ ------------------ LÊ THỊ HỒNG KHUYÊN
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH Ở VIỆTNAM
TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI
Chuyên ngành: Kinh tế Chính trị Mã số: 60 31 01
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS NGUYỄN NGỌC THANH
2
Hà Nội – 2009
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa Mục lục Danh mục chữ viết tắt Danh mục bảng biểu Danh mục biểu đồ Mở đầu
Chƣơng 1. Những vấn đề lí luận chung về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành 1
1.1. Khái niệm và phân loại cơ cấu kinh tế ngành 1
1.1.1. Một số khái niệm 1
1.1.2. Phân loại cơ cấu kinh tế ngành 4
1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành 9
1.3. Những chỉ tiêu và các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu 11
kinh tế ngành
1.3.1. Chỉ tiêu phản ánh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành 11
1.3.2. Các nhân tố tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành 17
23 Kết luận chƣơng 1
Chƣơng 2. Thực trạng quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở
24 Việt Nam trong quá trình đổi mới
2.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành 24
ở Việt Nam
2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở Việt Nam trong quá trình đổi 30
mới từ năm 1990 đến nay
2.3. Chuyển dịch cơ cấu nội bộ các ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ 41
2.3.1. Chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản
2.3.1.1. Theo phân ngành của Tổng cục Thống kê
3
2.3.1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong khu vực I theo phân ngành của 41 41 48
Liên Hợp Quốc
2.3.2. Chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp và xây dựng 51
2.3.2.1. Theo phân ngành Tổng cục Thống kê 51
2.3.2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong khu vực II theo phân ngành của 57
Liên Hợp Quốc
2.3.3. Chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành dịch vụ 61
2.3.3.1. Theo phân ngành Tổng cục Thống kê 61
2.3.3.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong khu vực III theo phân ngành của 66
Liên Hợp Quốc
2.4. Chuyển dịch cơ cấu lao động giữa các ngành trong nền kinh tế 70
2.4.1. Theo phân ngành Tổng cục Thống kê 70
2.4.2. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo phân ngành của Liên Hợp Quốc 72
2.5. Đánh giá chung về quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong 74
quá trình đổi mới
Kết luận chƣơng 2 78
Chƣơng 3. Quan điểm và giải pháp chủ yếu đẩy nhanh quá trình 81
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở Việt Nam trong thời gian sắp tới
3.1. Những quan điểm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong thời 81
gian sắp tới
3.1.1. Dự báo tình hình kinh tế vĩ mô 81
3.1.2. Quan điểm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành 83
3.2. Các giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong các khu vực 87
Kết luận chƣơng 3 99
Kết luận 101
Tài liệu tham khảo 103
4
Më ®Çu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cơ cấu kinh tế có vai trò rất quan trọng với nền kinh tế quốc dân của
mỗi quốc gia trên thế giới, là nền tảng của nền kinh tế; mặt khác, cơ cấu kinh
tế hợp lí sẽ thúc đẩy kinh tế-xã hội phát triển.
Hiện nay, khi toàn cầu hoá hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta đã trở
thành xu thế tất yếu khách quan thì việc đánh giá lại sự chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nói chung và cơ cấu kinh tế ngành nói riêng là vấn đề quan trọng.
Việt Nam, trong quá trình đổi mới nền kinh tế, vấn đề chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ngành được Đảng và Nhà nước rất quan tâm. Trong các văn kiện
của Đảng và Nhà nước, nhất là văn kiện của Đại hội Đảng và các hội nghị
chuyên đề của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, quan điểm sự chuyển dịch
cơ cấu kinh tế ngành đã được đề cập ở các mức độ khác nhau
Từ thực tiễn của đất nước sau những năm đổi mới nền kinh tế, Việt
Nam trong tiến trình hội nhập các tổ chức ASEAN, ASEM, APEC, WTO…đã
tác động tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành; trong đó cơ cấu kinh tế ngành
biến đổi theo hướng tăng nhanh tỷ trọng của ngành công nghiệp và dịch vụ,
đồng thời giảm tỉ trọng của ngành nông nghiệp trong GDP, bước đầu cơ cấu
đầu tư về lao động theo ngành đã có những chuyển biến tích cực. Tuy nhiên,
trên cơ sở các chỉ số kinh tế vĩ mô ở Việt Nam cho thấy cơ cấu kinh tế ngành
còn lạc hậu, có nhiều hạn chế. Đặc biệt, từ trước đến nay chúng ta mới chỉ
nghiên cứu cơ cấu kinh tế theo phân ngành của Tổng cục Thống kê là: Nông
nghiệp-Công nghiệp-Dịch vụ và chưa theo chuẩn quốc tế; còn nếu phân tích
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo phân ngành của Liên Hợp Quốc thì thực trạng
cơ cấu kinh tế ngành của Việt Nam sẽ như thế nào so với các nước trong khu
vực và trên thế giới? Đây là câu hỏi lớn chưa có lời giải đáp.
Công nghiệp hoá, hiện đại hóa với chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
5
của nền kinh tế trong những năm đổi mới là những vấn đề mang ý nghĩa chiến
lược, tầm vóc lớn lao cả về phương tiện lý luận và thực tiễn trước những
thách thức lớn. Với mong muốn tìm hiểu, nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu kinh
tế ngành theo một cách tiếp cận khác và góp phần luận giải vấn đề nóng bỏng
mang tính thời sự trên, tôi chọn “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở Việt
Nam trong quá trình đổi mới ” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở nước ta trong những năm đổi mới
nền kinh tế và trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế tuy không phải là vấn
đề mới nhưng được nhiều cơ quan, nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu.
Có nhiều công trình công bố như:
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa nền kinh tế
quốc dân của GS.TS Ngô Đình Giao 1994; công trình này đã đề cập cơ sở lí
luận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế; phân tích thực trạng, quan điểm và biện
pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế với số liệu thống kê tính đến năm 1994 đến
nay đã cũ.
Các nhân tố ảnh hưởng tới sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong
thời kỳ công nghiệp hóa ở Việt Nam” của TS. Bùi Tất Thắng, 1997; tác giả đã
đề cập các nhân tố có tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành những
năm 1990 đến nay còn phù hợp, mặt khác xu hướng mở của hội nhập nền
kinh tế hiện nay ở nước trong thời kì đổi mới một số nhân tố tác động đến
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành tính khả thi và hiệu quả thấp.
“Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam: phác thảo lộ trình” của
PGS. TS Trần Đình Thiên, 2002; Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế
nước ta trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế của GS. TS Chu Văn
Cấp, 2003 và nhiều bài viết có liên quan đăng tải trên các báo, tạp chí.
Các công trình trên đã đề cập đến cơ sở lý luân về chuyển dịch cơ cấu
6
kinh tế nói chung, cơ cấu kinh tế ngành nói riêng trong các mô hình công
nghiệp hóa, xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế trong tiến trình Việt
Nam hội nhập kinh tế quốc tế và thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
Với cách tiếp cận khác nhau hầu hết các công trình nghiên cứu sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở Việt Nam trong quá trình đổi mới nền
kinh tế đã đáp ứng vấn đề mang tính thời sự và thực tiễn ở nước ta hiện nay;
tuy nhiên, các công trình trên chỉ nghiên cứu theo phân ngành của Tổng cục
Thống kê Việt Nam. Hiện nay, chưa có đề tài nào nghiên cứu sự chuyển dịch
cơ cấu kinh tế ngành ở nước ta theo phân ngành của Liên Hợp Quốc; trên cơ
sở đó tác giả có sự đánh giá, so sánh một cách khách quan khoa học theo
chuẩn mực quốc tế về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành của Việt Nam so với
các nước khác.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích của luận văn
Đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở Việt Nam từ
năm 1990 đến nay và đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở Việt Nam trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Hệ thống hóa lí luận chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo các phân
ngành ở Việt Nam và của Liên Hợp Quốc.
- Phân tích chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và sự chuyển dịch trong
từng nội bộ ngành ở nước ta từ năm 1990 đến nay.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm xây dựng cơ cấu kinh tế
ngành ở Việt Nam hợp lí, hiện đại.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở Việt Nam
7
trong quá trình đổi mới nền kinh tế
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: nghiên cứu cơ cấu kinh tế ngành của toàn bộ nền
kinh tế
+ Thời gian: chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành từ năm 1990 đến nay
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trên cơ sở của nghiên cứu duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận
văn sử dụng phương pháp nghiên cứu lôgic kết hợp với lịch sử; phương pháp
thống kê và so sánh, phân tích và tổng hợp để tính toán, xử lí các nguồn số
liệu và thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra.
Đồng thời, luận văn cũng tham khảo, kế thừa kết quả của những nghiên
cứu đã được công bố của thế giới và ở Việt Nam về cơ cấu ngành kinh tế để
làm cơ sở cho việc nghiên cứu đề tài này.
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn
Hệ thống hóa một số vấn đề lí luận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo phân ngành của Liên Hợp Quốc.
Đánh giá được thực trạng và làm rõ chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở
nước ta theo phân ngành của Việt Nam và của Liên Hợp Quốc từ năm 1990 đến
nay.
Đề xuất một số quan điểm và giải pháp thúc đẩy nhanh chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ngành ở nước ta trong quá trình đổi mới nền kinh tế, thực hiện sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo; nội dung của luận văn
gồm có 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lí luận chung về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
8
ngành
Chương 2. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở Việt Nam
trong quá trình đổi mới nền kinh tế
Chương 3. Quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ngành ở Việt Nam trong thời gian sắp tới.
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
1 APEC Asia- Pacific Economic Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á –
Cooperation Forum Thái Bình Dương
2 ASEAN Association of Southeast Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á
Asian Nations
3 ASEM The Asia-Europe Meeting Diễn đàn hợp tác á-âu
4 EU European Union Liên minh Châu Âu
5 FDI Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài
6 GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội
7 GNP Gross National Product Tổng sản phẩm quốc dân
8 IMF International Monetary Quĩ Tiền tệ Quốc tế
Fund
9 ICOR Incremental Capital - Hệ số sản lượng vốn tăng thêm
Output Ratio
10 NICs Newly Industrialized Các nước công nghiệp mới
Countries
11 ODA Official Development Hỗ trợ phát triển chính thức
Assistance
12 WTO World Trade Organization Tổ chức Thương mại Thế giới
9
13 WB World Bank Ngân hàng Thế giới
DANH MỤC BẢNG
STT Tên bảng chƣơng 2 Trang
Bảng 2.1 Cơ cấu GDP theo phân ngành của Tổng cục thống kê 31
Bảng 2.2 Tốc độ tăng giá trị sản xuất giai đoạn 1995-2008 36
C¬ cÊu GDP theo ph©n ngµnh cña kinh tÕ theo ph©n ngµnh 39 Bảng 2.3
cña Liªn Hîp Quèc
TØ träng cña ba khu vùc kinh tÕ cña mét sè n íc trong khu 40 Bảng 2.4
vùc vµ trªn thÕ giíi n¨m 2005
Bảng 2.5 Cơ cấu GDP của ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản trong nền 41
kinh tế
Bảng 2.6 Cơ cấu GDP của toàn ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản 42
DiÖn tÝch vµ s¶n l îng lóa giai ®o¹n 1995-2008 43 Bảng 2.7
Gi¸ trÞ s¶n xuÊt ngµnh trång trät giai ®o¹n 1996-2007 44 Bảng 2.8
Bảng 2.9 Cơ cấu GDP của khu vựcI trong nền kinh tế 48
Bảng 2.10 Cơ cấu GDP của toàn khu vực I qua các năm 48
50 Bảng 2.11 Tèc ®é t¨ng tr ëng khu vùc I vµ GDP cña ViÖt Nam, NhËt
B¶n, Hµn Quèc vµ §µi Loan
53 Bảng 2.12 TØ träng ngµnh c«ng nghiÖp vµ x©y dùng trong GDP giai
®o¹n 1996-2008
Bảng 2.13 Cơ cấu GDP toàn ngành công nghiệp và xây dựng trong 53
GDP giai đoạn 1996-2008
Bảng 2.14 Tỉ trọng của khu vực II trong GDP qua các năm 58
10
59 Bảng 2.15 Tèc ®é t¨ng tr ëng khu vùc II vµ GDP cña ViÖt Nam,
NhËt B¶n, Hµn Quèc vµ §µi Loan
63 Bảng 2.16 §ãng gãp cña mét sè ngµnh dÞch vô chñ chèt vµo GDP
giai ®o¹n 1995-2008
67 Bảng 2.17 Đóng góp của một số ngành dịch vụ chủ chốt vào GDP
giai đoạn 1995-2008 theo phân ngành của Liên Hợp Quốc
68 Bảng 2.18 Tốc độ tăng trưởng khu vực III và GDP của Việt Nam,
Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan
71 Bảng 2.19 C¬ cÊu lao ®éng ph©n theo ngµnh cña Tæng côc Thèng kª
72 Bảng 2.20 C¬ cÊu lao ®éng ph©n theo ngµnh cña Liªn Hîp Quèc
74 Bảng 2.21 Chuyển dịch cơ cấu lao động của Việt Nam, Nhật Bản,
Hàn Quốc và Đài Loan
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Stt Tên biểu đồ chƣơng 2 Trang
35 Biểu đồ 2.1 Tăng trưởng GDP và tỉ lệ đầu tư/GDP giai đoạn 1997 - quí 1/2009
38 Biểu đồ 2.2 Tỉ trọng đầu tư phân theo ngành trong giai đoạn 2003-2007
47 Biểu đồ 2.3 Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang EU
62 Biểu đồ 2.4 Tốc độ tăng trưởng GDP của ngành dịch vụ qua các năm
Chƣơng 1.
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH
1.1. Khái niệm và phân loại cơ cấu kinh tế ngành
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
11
1.1.1.1. Khái niệm cơ cấu kinh tế
“Cơ cấu” là một phạm trù triết học phản ánh cấu trúc bên trong của một
đối tượng. Khi nghiên cứu, chúng ta thường tiếp cận đến tập hợp những mối
quan hệ cơ bản và tỷ lệ giữa các bộ phận hợp thành của một hệ thống trong
một thời gian nhất định. Như vậy, cơ cấu không chỉ là những biểu hiện tỷ lệ
bằng số đơn thuần giữa các bộ phận hợp thành, mà còn thể hiện mối quan hệ
biện chứng, mối liên kết hữu cơ giữa các yếu tố, các bộ phận hợp thành của
một chỉnh thể, hay nói cách khác, cơ cấu là thuộc tính của một hệ thống. Bởi
vậy, khi nghiên cứu về cơ cấu của một đối tượng nào đó không thể không có
cách tiếp cận hệ thống đối với nó.
Theo cách tiếp cận như vậy, cơ cấu của nền kinh tế quốc dân (trên
phương diện cơ cấu của ngành kinh tế vĩ mô) là tổng thể những mối quan hệ
giữa các bộ phận hợp thành nền kinh tế như: các lĩnh vực sản xuất, phân phối,
lưu thông, tiêu dùng…, các ngành kinh tế (công nghiệp, nông nghiệp, dịch
vụ…), các thành phần kinh tế, các loại hình sở hữu, các vùng kinh tế… Đó là
những yếu tố, những bộ phận hợp thành một chỉnh thể - nền kinh tế quốc dân.
Như vậy, “cơ cấu kinh tế” là một khái niệm rộng và quá trình hình
thành, phát triển của nó chính là quá trình thực tế ra đời và xác lập của một
phương thức sản xuất. Chính toàn bộ quan hệ giữa những người đảm nhiệm
sản xuất với nhau và giữa họ với tự nhiên - tức là những điều kiện trong đó
họ tiến hành sản xuất - toàn bộ những quan hệ đó hợp thành những quan hệ
xã hội, xét về mặt cơ cấu kinh tế của nó.[21].
Xét theo lý luận kinh tế chính trị học, cơ cấu kinh tế gồm hai mặt hợp
thành là hệ thống quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Khi phân tích quá
trình sản xuất xã hội, học thuyết của C.Mác cũng nhấn mạnh, cơ cấu kinh tế
của xã hội là toàn bộ những quan hệ sản xuất phù hợp với một quá trình phát
triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất, đó là tính thống nhất giữa
12
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, trong khái niệm cơ cấu kinh tế là kết
quả của sự phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất, quan hệ
sản xuất và kiến trúc thượng tầng.
Cơ cấu kinh tế còn thể hiện trên cả hai mặt: chất lượng và số lượng. Cơ
cấu là một sự phân chia về chất lượng và một tỷ lệ về số lượng của những quá
trình sản xuất xã hội.
Tựu trung lại, cơ cấu kinh tế là một phạm trù kinh tế, là tổng thể các
mối quan hệ lao động và phát triển kỹ thuật một cách mạnh mẽ làm thay đổi
toàn bộ hay phần lớn về chất lượng cũng như số lượng tương đối ổn định của
các yếu tố kinh tế hoặc các bộ phận của lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất trong một hệ thống tái sản xuất xã hội, với những điều kiện kinh tế xã
hội nhất định, vào một khoảng thời gian nhất định.
1.1.1.2. Khái niệm cơ cấu kinh tế ngành
Cơ cấu kinh tế ngành là tổ hợp ngành kinh tế được hình thành trên các
tương quan tỷ lệ, biểu hiện mối quan hệ tổng hợp giữa các ngành với nhau và
phản ánh trình độ phân công lao động xã hội của nền kinh tế và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất. Cơ cấu ngành kinh tế quyết định cơ cấu lãnh thổ
và cơ cấu thành phần kinh tế.
Cơ cấu lãnh thổ là sự hợp lý hoá cơ cấu ngành trên mỗi vùng lãnh thổ,
kết hợp giữa chúng một cách tối ưu, cơ cấu thành phần kinh tế là sự vận động
của từng loại thành phần kinh tế trong quá trình phát triển các ngành và các
vùng lãnh thổ nhằm phát huy đến mức cao nhất sức mạnh kinh tế của từng
vùng và toàn bộ nền kinh tế. Việc nghiên cứu cơ cấu ngành kinh tế là nhằm
tìm ra những cách thức duy trì tỷ lệ hợp lý của chúng và những lĩnh vực cần
ưu tiên tập trung các nguồn lực có hạn của quốc gia trong mỗi thời kỳ, thúc
đẩy sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân một cách nhanh nhất, hiệu
13
quả nhất. [35, tr. 32 - 33].
Biểu thị cơ cấu kinh tế ngành bằng vị trí, tỷ trọng của mỗi ngành trong
hệ thống nền kinh tế quốc dân. Cơ cấu ngành kinh tế là biểu hiện quan trọng
nhất và đặc trưng nhất của cơ cấu kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
cần căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ và vai trò của từng ngành trong phát
triển kinh tế - xã hội, căn cứ vào điều kiện thực tế để phát triển chúng.[13].
Thay đổi nhanh chóng và mạnh mẽ cơ cấu ngành là nét đặc trưng của nền
kinh tế nước ta cũng như của nhiều nước đang phát triển khác.
Một số đặc trưng của cơ cấu ngành kinh tế bao gồm: bị chi phối bởi các
quy trình kỹ thuật, công nghệ và yêu cầu thị trường; bị ràng buộc bởi tính hệ
thống và yêu cầu cân đối (hay ở chừng mực nào đó là yêu cầu đồng bộ); đan
xen tính hiện đại và tính lạc hậu; bị chi phối nhiều bởi các yếu tố chính trị, xã hội.
Để xem xét số lượng các ngành tạo nên nền kinh tế và chất lượng các
mối quan hệ giữa chúng với nhau ra sao, người ta thường chia nền kinh tế
thành các nhóm ngành để quan sát. Theo quan điểm của tác giả Ngô Doãn
Vịnh, về mặt định lượng, cơ cấu ngành kinh tế bao gồm số ngành kinh tế và
tỷ trọng mỗi ngành đó trong tổng thể nền kinh tế quốc dân; về mặt định tính,
cơ cấu ngành thể hiện mối quan hệ giữa các ngành kinh tế và vị trí của mỗi
ngành trong nền kinh tế quốc dân. Trong mối quan hệ giữa các ngành kinh tế
thường biểu hiện hai mối quan hệ chủ yếu, gồm: ngành có mối quan hệ trực
tiếp, trong đó có các ngành quan hệ ngược chiều, các ngành quan hệ xuôi
chiều và ngành quan hệ gián tiếp.[36, tr. 99 - 100], [35, tr. 221- 228].
14
1.1.2. Phân loại cơ cấu kinh tế ngành
1.1.2.1. Phân loại cơ cấu kinh tế ngành theo quan điểm của Việt Nam
Có nhiều cách phân loại các ngành hợp thành trong cơ cấu ngành kinh
tế. Tuy nhiên, căn cứ vào phân ngành của Tổng cục Thống kê Việt Nam, có
thể nhìn nhận nền kinh tế quốc dân ở nước ta là tổng hòa của ba nhóm ngành sau:
Nhóm ngành nông, lâm, ngư nghiệp (ngành nông nghiệp), gồm các
ngành trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và ngư nghiệp; Nhóm ngành công
nghiệp và xây dựng (ngành công nghiệp), gồm các ngành công nghiệp chế
biến, công nghiệp khai thác, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và xuất
khẩu, công nghiệp lọc dầu, ngành xây dựng; Nhóm ngành dịch vụ gồm các
ngành thương mại, du lịch, giao thông vận tải, tài chính ngân hàng, bưu điện
và các ngành dịch vụ khác.
Cơ cấu theo hai nhóm ngành dựa trên phương thức, công nghệ sản
xuất: nông nghiệp và phi nông nghiệp. Việc phân chia cơ cấu kinh tế thành
hai nhóm ngành này để quan sát trình độ của cơ cấu, yếu tố quan trọng để
thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế. Khi phân tích theo hai nhóm ngành này,
chúng ta cần quan sát phương thức, công nghệ tạo ra sản phẩm. Khi nhóm
ngành phi nông nghiệp càng phát triển và chiếm tỷ trọng càng lớn thì nền kinh
tế càng phát triển ở trình độ cao. Nhóm ngành nông nghiệp gồm các ngành
nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp; nhóm ngành phi nông nghiệp gồm các
ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Đối với các nước đang phát triển thì
việc xem xét cơ cấu kinh tế theo kiểu này có ý nghĩa to lớn. Việc chuyển dân
cư nông thôn sang sống tại các đô thị và chuyển lao động nông nghiệp sang
làm việc trong các khu vực phi nông nghiệp là vấn đề có tính quy luật tiến tới
sự hiện đại; sự chuyển động này đến một mức độ nào đó thì nền kinh tế được
coi là đã phát triển. Ở các nước đang phát triển, các ngành nông nghiệp thường
chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế; khi đó công nghệ của nền kinh tế không cao.
15
[36, tr. 100].
Căn cứ vào phương thức sản xuất, người ta còn chia các ngành thành 2
nhóm sau đây:
- Cơ cấu giữa các doanh nghiệp theo quy mô. Tức là, cơ cấu giữa doanh
nghiệp quy mô nhỏ, vừa và doanh nghiệp quy mô lớn. Trong điều kiện kinh tế
thị trường, doanh nghiệp nhỏ và vừa ứng nhạy nhanh, kịp thời với những biến
động kinh tế trong một quốc gia hay trên phạm vi toàn thế giới. Nhờ đó, có
thể giảm thiểu tổn thất cho đầu tư và cho sản xuất. Mặt khác, một vấn đề quan
trọng cần chú ý trong bối cảnh toàn cầu hoá là luôn tồn tại sự cạnh tranh khốc
liệt. Những tập đoàn kinh tế lớn mạnh có điều kiện cạnh tranh tốt hơn. Vì thế
bên cạnh việc khuyến khích phát triển những doanh nghiệp nhỏ và vừa, cần
đặc biệt chú ý tạo dựng những tập đoàn kinh tế lớn.
- Cơ cấu giữa các doanh nghiệp có công nghệ trình độ cao với các
doanh nghiệp có công nghệ trình độ trung bình. Dù hiển nhiên là những
doanh nghiệp có công nghệ cao sẽ quyết định sự phát triển của cơ cấu kinh tế,
nhưng trong khi lao động cần việc làm có số lượng lớn và lực lượng lao động
có chất lượng không cao nhiều thì việc phát triển các doanh nghiệp sử dụng
nhiều lao động vô cùng cần thiết. Nó không chỉ góp phần giải quyết việc làm
mà còn có ý nghĩa toàn dụng lao động để tăng trường kinh tế.
Cơ cấu theo hai nhóm ngành dựa vào tính chất sản phẩm cuối cùng:
nhóm ngành sản xuất sản phẩm vật chất và nhóm ngành sản xuất sản phẩm
dịch vụ. Việc phân chia cơ cấu kinh tế theo hai nhóm ngành này nhằm nghiên
cứu về mức độ hài hoà giữa các ngành trong nền kinh tế quốc dân. Trong quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế không thể không quan sát
quan hệ giữa hai khối ngành này. Dịch vụ phát triển được coi như làm "trơn
tru" các quá trình sản xuất kinh doanh. Nếu khu vực sản xuất phát triển mà
khu vực dịch vụ không phát triển thì sản xuất cũng sẽ bị ngưng trệ. Sự hài hoà
16
giữa hai khối ngành này là rất cần thiết.[36 tr.101]. Nếu xét theo hành vi tăng
trưởng (hành vi tham gia tăng trưởng) thì các ngành sản xuất ra các sản phẩm
vật chất và các ngành sản xuất sản phẩm dịch vụ có quan hệ khăng khít với
nhau theo một tương quan nhất định. Đặc trưng tiêu biểu nhất là các ngành
dịch vụ phải tăng nhanh hơn các ngành sản xuất vật chất.
Khi xem xét cơ cấu ngành kinh tế, chúng ta cũng phải chú ý đến tỷ
trọng hay mức đóng góp của các sản phẩm chủ lực cho nền kinh tế, cũng như
của các sản phẩm chứa hàm lượng công nghệ cao, hàm lượng chất xám cao.
Nếu như các sản phẩm này chiếm tỷ trọng càng lớn thì nền kinh tế càng tốt và
ngược lại. Một nền kinh tế được xem là phát triển phải có các ngành chế tạo
chiếm tỷ trọng lớn trong GDP (trên 30%). Mặt khác, phải chú ý đến cơ cấu
nội bộ của các ngành kinh tế. Tính hợp lý trong nội bộ của các ngành và cơ
cấu ngành kinh tế sẽ bảo đảm tính hiệu quả cho sự phát triển nền kinh tế.
Cơ cấu giữa hai nhóm ngành sản xuất vật chất và khối sản xuất sản
phẩm dịch vụ cần được nghiên cứu kỹ nhằm phát huy toàn diện, đầy đủ quan
hệ giữa chúng làm cho nền kinh tế có sức mạnh tổng hợp, phát triển cân đối,
hài hoà giữa các mặt, giữa đầu vào và đầu ra. Cơ cấu ngành kinh tế quốc dân
luôn vận động và phát triển, việc phân tích và đưa ra hướng điều chỉnh cơ cấu
ngành kinh tế thích hợp trong quá trình đổi mới là cần thiết.
1.1.2.2. Phân loại cơ cấu kinh tế ngành theo cách phân ngành của Liên Hợp Quốc
Theo cách phân ngành quốc tế sử dụng trong các khu vực các ngành có
sự điều chỉnh khác biệt so với phân ngành của Tổng cục Thống kê. Vì vậy, có
thể nhìn nhận nền kinh tế tổng hòa như của ba khu vực sau:
Khu vực I (Ngành nông nghiệp) gồm các ngành trồng trọt, chăn nuôi,
lâm nghiệp, ngư nghiệp và công nghiệp khai mỏ.
Khu vực II (Ngành công nghiệp) gồm các ngành công nghiệp chế biến,
17
công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu, công nghiệp lọc dầu.
Khu vực III: (Ngành dịch vụ) gồm các ngành thương mại, du lịch, giao
thông vận tải, tài chính ngân hàng, bưu điện, xây dựng và các ngành dịch vụ khác.
Về phương diện lí luận cho thấy, sự phân ngành của Liên Hợp Quốc sử
dụng có sự khác nhau so với phân ngành của Tổng cục Thống kê trong ba khu
vực; cụ thể, khu vực I thêm ngành khai mỏ được cắt đi từ khu vực II và khu
vực III bổ sung thêm ngành xây dựng, sản xuất và phân phối điện nước. Khu
vực I thể hiện sự phát triển chủ yếu dựa vào tự nhiên giá trị gia tăng thấp, ở
giai đoạn đầu của sự phát triển thì khu vực này luôn chiếm tỉ trọng cao. Khu
vực II thể hiện trình độ kĩ thuật, công nghệ sản xuất của một nước khả năng
tạo ra giá trị gia tăng lớn; một nước có nền khoa học kĩ thuật, công nghiệp lớn
mạnh, phát triển thường tỉ trọng khu vực II cao trong nền kinh tế. Khu vực III
thể hiện sự phát triển hơn nữa của một nền kinh tế phát triển cao với các
ngành dịch vụ huyết mạch, hiện đại của một nền kinh tế.
Theo xu hướng phát triển hiện đại của một nền kinh tế thì giai đoạn đầu
của sự phát triển khu vực I chủ yếu dựa vào nông nghiệp và khai thác thường
phát triển mạnh, chiếm tỉ trọng lớn trong GDP. Sau đó, khi khoa học-công
nghệ, công nghiệp chế biến phát triển , năng suất lao động cao, giá trị gia tăng
lớn thì khu vực II tăng trưởng nhanh và chiếm tỉ trọng lớn trong GDP. Khi
một nền kinh tế phát triển cao thì dịch vụ phát triển đáp ứng nhu cầu phát
triển hơn nữa của toàn bộ nền kinh tế và lúc này khu vực III thường chiếm tỉ
trọng cao nhất trong nền kinh tế.
Việc phân tích cơ cấu của nền kinh tế theo các khu vực dựa trên cơ sở
phân công lao động xã hội, tuy nhiên vẫn chưa thể thấy rõ những hạt nhân cần
có của chính cơ cấu. Không phải khi nào tỷ trọng công nghiệp cao cũng nói
lên cơ cấu kinh tế hiện đại hoặc cơ cấu kinh tế có hiệu quả. Chẳng hạn, khi tỷ
trọng công nghiệp chiếm trong GDP lớn và tỷ lệ nông, lâm, thủy sản qua chế
18
biến tuy cao nhưng năng suất lao động thấp, ngân sách thu được ít, để tạo ra
một đơn vị GDP cần mức tiêu hao điện năng lớn... thì cơ cấu kinh tế đó không
hiệu quả .[33, tr.100].
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành là hướng tới một cơ cấu ngành hợp
lý đã xác định. Vì thế, việc xác định cơ cấu ngành kinh tế hợp lý, phù hợp với
các giai đoạn phát triển, nhằm phát huy cao nhất lợi thế của ngành kinh tế là
khâu vô cùng quan trọng, không những góp phần đảm bảo cho sự tăng trưởng
nhanh, mà còn bền vững. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế có ảnh hưởng
mạnh mẽ và trực tiếp đến nhịp độ và quy mô tăng trưởng kinh tế. Sự chuyển
dịch và hình thành một cơ cấu ngành kinh tế hợp lý tạo tiền đề vật chất cho sự
tăng hiệu quả của nền kinh tế. Và chính sự tăng trưởng của nền kinh tế do có
cơ cấu ngành hợp lý là điều kiện cần thiết cho việc hoàn thiện hơn nữa cơ cấu
ngành kinh tế để phát triển bền vững trong tương lai.
Để xác định một quốc gia đã thuộc vào nhóm các nước phát triển hay
chưa, chúng ta cần dựa trên kết quả phân tích cơ cấu giữa các nhóm ngành
nông nghiệp và phi nông nghiệp và so sánh với cách phân ngành của Liên
Hợp Quốc để đánh giá chính xác hơn xu hướng phát triển và chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế ở nước ta hiện nay. Theo nhiều nhà kinh tế, một nước khi
các ngành phi nông nghiệp chiếm trên 85% lao động xã hội và tạo ra khoảng
trên 80% GDP thì nước đó được coi là quốc gia phát triển.
Cơ cấu giữa hai nhóm ngành sản xuất vật chất và khối sản xuất sản
phẩm dịch vụ cần được nghiên cứu kỹ nhằm phát huy toàn diện, đầy đủ quan
hệ giữa chúng làm cho nền kinh tế có sức mạnh tổng hợp, phát triển cân đối,
hài hòa giữa các mặt, giữa đầu vào và đầu ra.
Cơ cấu kinh tế ngành cũng được thể hiện trên các mặt xác định:
- Phương hướng sản xuất của toàn bộ cơ cấu, trong đó phương hướng
19
sản xuất của các ngành làm điều kiện cho nhau;
- Quy mô và tỷ lệ giữa các ngành được tính dựa vào vốn đầu tư xây dựng cơ
bản, số lượng lao động, khối lượng sản phẩm, giá trị tài sản cố định…;
- Các hình thức kết hợp giữa các ngành sản xuất: liên kết sản xuất, liên
kết kinh tế… để đảm bảo cho cơ cấu hoạt động.
Những quan hệ tỷ lệ và các mặt biểu hiện có thể được xác định của cơ
cấu ngành kinh tế chứng tỏ tính tất yếu khách quan, và tính quy luật của sự
hình thành và phát triển của cơ cấu ngành kinh tế.
Cơ cấu ngành kinh tế không phải là một phạm trù hay khái niệm có tính
chất tự thân; bản thân nó chỉ là biểu hiện sự vận động nội tại của một hiện
tượng hay đối tượng kinh tế mà thôi. Vì vậy, cơ cấu kinh tế ngành chính là
biểu hiện của một tỷ lệ giữa các ngành, là biểu hiện của sự huy động và sử
dụng một cách có hiệu quả nhất các nguồn lực hiện có của một địa phương,
một doanh nghiệp hay một ngành cụ thể.
1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
Quá trình phát triển kinh tế đồng thời cũng là quá trình làm thay đổi cơ
cấu kinh tế tỷ lệ về số lượng và chất lượng. Sự ổn định của cơ cấu kinh tế chỉ
là tương đối, nó thường xuyên ở trạng thái vận động và biến đổi không
ngừng. Sự biến đổi ấy phụ thuộc vào cả những điều kiện khách quan và nhân
tố chủ quan, như: điều kiện tự nhiên, khoa học công nghệ, trình độ phân công
lao động xã hội, sự liên kết hợp tác kinh tế và nhân tố chủ quan của nhà
nước… Trong những điều kiện ấy, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chủ yếu phụ
thuộc vào sự phát triển của lực lượng sản xuất, đặc biệt là khoa học, công
nghệ. C.Mác đã chỉ rõ tổ chức quá trình lao động và phát triển kỹ thuật một
cách mạnh mẽ sẽ làm đảo lộn toàn bộ cơ cấu kinh tế.[2]. Như vậy, với sự biến
đổi tổ chức phân công lao động và sự phát triển khoa học, công nghệ mà nó
được triển khai, ứng dụng vào quá trình sản xuất, tất yếu sẽ làm cho cơ cấu
20
kinh tế biến đổi.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành là sự biến đổi vị trí, vai trò, tỷ trọng
và tính cân đối vốn có giữa các yếu tố, các bộ phận trong ngành, các vùng,
các thành phần của nền kinh tế sao cho phù hợp với điều kiện lịch sử, kinh tế,
xã hội và tự nhiên của một nước trong một giai đoạn nhất định.
Mục tiêu của sự chuyển dịch là đạt được sự hài hòa, hợp lý giữa các bộ
phận trong một chỉnh thể thống nhất của nền kinh tế quốc dân hay của khu
vực nào đó. Một cơ cấu kinh tế hợp lý phải phản ánh được sự tác động của
quy luật khách quan và phù hợp với các quy luật phát triển khách quan đó.
Trên cơ sở nhận thức sâu sắc các quy luật ấy, người ta phân tích và đánh giá
những xu thế phát triển để tìm ra phương án thay đổi cơ cấu có hiệu lực nhất
trong từng điều kiện cụ thể.
Ngày nay, kinh tế học phát triển coi chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một
trong những nội dung trụ cột phản ánh mức độ phát triển của nền kinh tế. Sự
khẳng đinh này là bước tiến quan trọng trong lí luận nhận thức và tư duy
chính sách kinh tế. Thực tế, những quốc gia đạt mức độ tăng trưởng kinh tế
cao nhưng cơ cấu của nền kinh tế vẫn ít có sự thay đổi, thậm chí có sự tách
rời giữa khu vực sản xuất công nghiệp hiện đại với các khu vực nông nghiệp
lạc hậu; vì vậy, khu vực nông nghiệp với đông đảo nông dân nghèo khó vẫn
không chia sẻ những thành quả của tăng trưởng kinh tế.
Trong quá trình phát triển, tỉ trọng của khu vực công nghiệp và dịch vụ
trong GDP tăng, nhất là công nghiệp chế biến trong khi tỉ trọng của nông
nghiệp trong GDP giảm. Sự thay đổi cơ cấu kinh tế phản ánh mức độ thay đổi
của phương thức sản xuất theo hướng ngày càng hiện đại, những khu vực có
năng suất lao động cao, giá trị gia tăng lớn có tốc độ phát triển cao hơn và
thay thế những khu vực sản xuất kinh doanh có năng suất lao động và giá trị
gia tăng thấp. Đặc biệt, một vài thập kỉ gần đây, sự phát triển của khu vực
21
dịch vụ được xem là một trong những đặc trưng mới của xu hướng phát triển
thế giới nên cách tiếp cận vấn đề cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu trong quá trình
phát triển nền kinh tế có những thay đổi.
Tuy nhiên, phải lưu ý đến tính khách quan của chuyển dịch cơ cấu kinh
tế mang tính qui luật thông qua các xu hướng dưới đây:
- Xu hướng chuyển dịch cơ cấu của kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng
hóa, tức là từ một nền kinh tế có kết cấu giản đơn sang nền kinh tế có mối
quan hệ phức tạp và ở một trình độ cao hơn. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện
nay, việc tận dụng, khai thác lợi thế so sánh và lợi thế tuyệt đối, tranh thủ sự
phân công lao động quốc tế để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng này
được nhiều quốc gia chọn lựa.
- Xu hướng tăng tỷ trọng giá trị sản xuất và lao động trong công nghiệp
và dịch vụ, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp. Nguyên nhân là do chi tiêu cho
các loại hàng hóa thiết yếu sẽ giảm khi thu nhập tăng. Do vậy, nhu cầu về sản
phẩm công nghiệp và dịch vụ sẽ phát triển nhanh hơn nhu cầu về sản phẩm
nông nghiệp. Mặt khác, do đặc tính sinh học của cây trồng, vật nuôi và đất
canh tác có tác hại nên nông nghiệp phát triển chậm hơn công nghiệp và dịch vụ.
- Xu hướng đa dạng hóa sản phẩm để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
của con người luôn tịnh tiến cùng với thu nhập. Chính quy luật thị trường và
lợi ích là động lực tác động đến sản xuất, làm cho sản xuất phát triển nhanh
theo xu hướng đa dạng hóa sản phẩm.
Như vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành là một quá trình khách quan
và tất yếu, gắn liền với sự biến đổi không ngừng của các yếu tố, bộ phận và
những quan hệ hợp thành của nền kinh tế quốc dân.
1.3. Các chỉ tiêu và nhân tố tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
1.3.1. Chỉ tiêu phản ánh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
Cơ cấu kinh tế phản ánh cả về lượng lẫn về chất mối tương quan tỷ lệ
22
giữa các bộ phận hợp thành của nền kinh tế khi đánh giá quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế. Cần chú ý cả những quan hệ tỷ lệ về mặt lượng cũng như
phân tích sự thay đổi về chất (theo quan điểm lượng đổi chất đổi) của các mối
tương quan ấy. Hơn nữa, trong quá trình phân tích, đánh giá, không thể không
chú ý tới những đặc điểm riêng của mỗi loại cơ cấu kinh tế (và cả cơ cấu kinh
tế theo lãnh thổ, cơ cấu các thành phần kinh tế…) tiêu chí cơ bản phản ánh sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế vĩ mô trong đó có cơ cấu GDP.
Cơ cấu GDP
Mặc dù có những hạn chế nhất định, nhưng khoa học kinh tế hiện đại
đã sử dụng chỉ tiêu GDP như một trong những thước đo khái quát nhất, phổ
biến nhất để đo lường, đánh giá về tốc độ tăng trưởng, trạng thái và xu hướng
chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế.
Trong đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu GDP giữa
các ngành kinh tế là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất phản ánh xu
hướng vận động và mức độ thành công của công nghiệp hóa. Tỷ lệ phần trăm
GDP của các ngành cấp I (khu vực nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ) là
một trong những tiêu chí đầu tiên thường được dùng để đánh giá quá trình
chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế. Trong quá trình đổi mới nền kinh
tế và thực hiện công nghiệp hóa, mối tương quan này có xu hướng chung là
khu vực nông nghiệp có tỷ lệ ngày càng giảm, còn khu vực phi nông nghiệp
(công nghiệp và dịch vụ) ngày càng tăng lên. Và trong điều kiện của khoa học
công nghệ hiện đại, khu vực dịch vụ đang trở thành khu vực chiếm tỷ trọng
cao nhất, sau đó là công nghiệp và cuối cùng là nông nghiệp.
Ở góc độ cơ cấu ngành kinh tế vĩ mô và cơ cấu các thành phần kinh tế,
một chỉ số kinh tế khác cũng thường được sử dụng cơ cấu GNP chỉ ở chỗ, chỉ
tiêu GNP chỉ phần giá trị tăng thêm hàng năm được sản xuất ra thuộc sở hữu
của một nền kinh tế, còn GDP thì ở trong nền kinh tế đó. Tuy nhiên, sự ưa
23
dùng cơ cấu GDP đối với những nền kinh tế đang phát triển, đang công
nghiệp hóa không phải bởi nhìn chung quy mô GDP ở đây thường lớn hơn
GNP (do phần FDI ở đây thường lớn hơn là đầu tư của họ ra nước ngoài),
điều quan trọng là ở chỗ quy mô GDP phản ánh rõ hơn những khía cạnh khác
nhau của môi trường kinh doanh và đặc biệt là cùng với cơ cấu GDP, cơ cấu
lao động của nền kinh tế cũng được phản ánh rõ ràng hơn.
Để đánh giá sát thực hơn sự chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế
trong quá trình đổi mới nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá,
việc phân tích cơ cấu các ngành (cấp II, cấp III…) có một ý nghĩa rất quan
trọng. Thông thường, cơ cấu phân ngành phản ánh sát hơn khía cạnh chất
lượng và mức độ hiện đại hóa của nền kinh tế.
Theo phân ngành của Liên Hợp Quốc, đối với cơ cấu kinh tế ngành
trong GDP ở nước ta, khu vực I do cộng thêm ngành khai thác sẽ nên tỉ trọng
có sự gia tăng cao và do giảm đi ngành xây dựng nên tỉ trọng ở khu vực II
(công nghiệp chế biến) giảm, khu vực III tăng trưởng cao do cộng thêm ngành
xây dựng, sản xuất và phân phối điện nước. Ví dụ, trong khu vực công
nghiệp, những ngành công nghiệp chế biến đòi hỏi tay nghề kỹ thuật cao, vốn
lớn hay công nghệ hiện đại như cơ khí chế tạo, điện tử công nghiệp, dược
phẩm, hóa mỹ phẩm… chiếm tỷ trọng cao sẽ chứng tỏ nền kinh tế đạt mức độ
công nghiệp hóa, hiện đại hoá cao hơn so với những lĩnh vực công nghiệp
khai khoáng, sơ chế nông sản, công nghiệp lắp ráp…Trong khu vực dịch vụ,
những lĩnh vực dịch vụ chất lượng cao, gắn với công nghệ hiện đại như bảo
hiểm, ngân hàng, tư vấn, viễn thông, hàng không .v.v. chiếm tỷ lệ cao sẽ rất
khác với những lĩnh vực dịch vụ phục vụ sinh hoạt dân sự với công nghệ thủ
công hoặc trình độ thấp, quy mô nhỏ lẻ..[33].
Cơ cấu lao động đang làm việc trong nền kinh tế
Trong quá trình đổi mới nền kinh tế, thực hiện công nghiệp hóa-hiện
24
đại hoá, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành được đánh giá qua một chỉ tiêu
rất quan trọng là cơ cấu lao động đang làm việc trong nền kinh tế được phân
bố như thế nào vào các lĩnh vực sản xuất khác nhau. Các nhà kinh tế học đánh
giá rất cao chỉ tiêu cơ cấu lực lượng lao động đang làm việc trong nền kinh tế,
vì ở góc độ phân tích kinh tế vĩ mô, cơ cấu lao động xã hội mới là chỉ tiêu
phản ánh sát thực nhất mức độ thành công về mặt kinh tế-xã hội của quá trình
công nghiệp hóa-hiện đại hoá. Bởi vì công nghiệp hóa, hiểu theo nghĩa đầy đủ
của nó, không phải chỉ đơn thuần là sự gia tăng tỷ trọng giá trị của sản xuất
công nghiệp, mà là cùng với mức đóng góp vào GDP ngày càng tăng của lĩnh
vực công nghiệp (hiện nay, công nghiệp và dịch vụ dựa trên công nghệ kỹ
thuật hiện đại), phải là quá trình công nghiệp hóa-hiện đại hoá đời sống xã hội
con người, trong đó, cơ sở quan trọng nhất là số lượng lao động đang làm việc
trong lĩnh vực phi nông nghiệp chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng lực
lượng lao động đang làm việc trong nền kinh tế.
So với cơ cấu GDP, cơ cấu lao động phân theo ngành sở dĩ được các
nhà kinh tế học đánh giá cao và coi trọng là do chỉ tiêu này không chỉ phản
ánh xác thực hơn mức độ chuyển biến xã hội công nghiệp của một đất nước,
mà nó còn ít bị ảnh hưởng bởi các nhân tố ngoại lai hơn. Ở một số nền kinh
tế, trong khi tỷ trọng lao động phi nông nghiệp (nhất là khu vực sản xuất công
nghiệp) còn chiếm tỷ trọng nhỏ, nhưng trong cơ cấu GDP lại chiếm tỷ trọng
lớn hơn nhiều. Lý giải cho hiện tượng này, các nhà kinh tế học đã chỉ ra tình
trạng “méo mó” về giá cả, nhất là trong những trường hợp có sự chênh lệch
giá cánh kéo lớn giữa sản phẩm công nghiệp va dịch vụ so với sản phẩm nông
nghiệp. Vì thế, cơ cấu GDP giữa các ngành kinh tế đôi khi không phản ánh
đúng thực trạng chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế.
Tầm quan trọng của chuyển dịch cơ cấu lao động thậm chí còn được
một số kinh tế gia xem như chỉ tiêu quyết định nhất để đánh giá mức độ thành
25
công của quá trình công nghiệp hóa trong nghiên cứu so sánh giữa các nền
kinh tế. Chẳng hạn, Iungho Yoo (KDI School of Public Policy and
Management, Korea) đã so sánh thời kỳ công nghiệp hóa giữa các nước dựa
trên một tiêu chí duy nhất là coi trọng lao động nông nghiệp chiếm 50% tổng
lao động xã hội và kết thúc khi tỷ trọng lao động nông nghiệp chỉ còn 20%
tổng lao động xã hội.
Có thể còn có những tranh luận về điểm khởi đầu và điểm kết thúc của
quá trình công nghiệp theo quan điểm này, nhưng cách tiếp cận ở đây là đã
xuất phát từ chỉ tiêu chuyển dịch cơ cấu lao động trong mối tương quan giữa
tỷ trọng lao động nông nghiệp và phi nông nghiệp để đánh giá tiến trình công
nghiệp hóa.[33].
Cơ cấu hàng xuất khẩu
Trong điều kiện đổi mới một nền kinh tế đang công nghiệp hóa, cơ cấu
các mặt hàng xuất khẩu cũng được xem như một trong những tiêu chí quan
trọng đánh giá mức độ thành công của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quy luật phổ biến của quá trình
công nghiệp hóa (đối với phần lớn các nước đang phát triển hiện nay) là xuất
phát từ một nền kinh tế nông nghiệp, ở đó sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ
trọng lớn trong cơ cấu GDP và số lượng lao động làm nông nghiệp chiếm
phần lớn nhất trong tổng lực lượng lao động xã hội và do đó, trong tổng giá trị
xuất khẩu ít ỏi mà họ có được, một phần rất lớn là sản phẩm nông nghiệp
hoặc sản phẩm của công nghiệp khai thác ở dạng nguyên liệu thô (chưa qua
chế biến hoặc chỉ ở dạng sơ chế). Trong khi đó, nhu cầu nhập khẩu máy móc,
thiết bị, công nghệ, nguyên vật liệu phục vụ quá trình phát triển công nghiệp
lại rất lớn nên tình trạng khan hiếm và thiếu hụt ngoại tệ luôn là một điểm yếu
mang tính kinh niên.
Hầu hết các nước đã trải qua quá trình công nghiệp hóa để trở thành
26
một nước công nghiệp phát triển đều cơ bản trải qua một mô hình chung trong
cơ cấu sản xuất và cơ cấu hàng xuất khẩu là: từ chỗ chủ yếu sản xuất và xuất
khẩu hàng sơ chế sang các mặt hàng công nghiệp chế biến, lúc đầu là các loại
sản phẩm của công nghiệp chế biến sử dụng nhiều lao động, kỹ thuật thấp như
lắp ráp, sản phẩm dệt may, chế biến nông lâm thủy sản…chuyển dần sang các
loại sản phẩm sử dụng nhiều công nghệ kỹ thuật cao như sản phẩm cơ khí chế
tạo, hóa chất, điện tử, v.v…Chính vì vậy, sự chuyển dịch cơ cấu hàng xuất
khẩu, từ những mặt hàng sơ chế sang những loại sản phẩm chế biến dựa trên
cơ sở công nghệ-kỹ thuật cao luôn được xem như một trong những thước đo
rất quan trọng đánh giá mức độ thành công của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Hơn nữa, đối với nhiều nước chậm phát triển, do những chỉ số tiêu chuẩn kỹ
thuật quốc gia nhiều khi thấp hơn tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế nên cơ cấu sản
phẩm xuất khẩu (được thị trường quốc tế chấp nhận) sẽ là một tiêu chí tốt để
bổ sung đánh giá kết quả của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đồng thời, với cơ cấu giá trị của các sản phẩm xuất khẩu, cơ cấu nguồn
lao động trực tiếp và gián tiếp tham gia vào chế tạo sản phẩm xuất khẩu cũng
có ý nghĩa trong phân tích, đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu nguồn lao
động xã hội.
Tóm lại, khi phân tích và đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành, các nhà kinh tế học thường sử dụng các chỉ tiêu chủ yếu gồm cơ cấu
GDP, cơ cấu lao động, cơ cấu hàng xuất khẩu để xem xét. Mức độ chi tiết, cụ
thể và các khía cạnh tiếp cận của những phân tích này trước hết phụ thuộc vào
yêu cầu mục tiêu cần đánh giá, vào nguồn tài liệu sẵn có và nhiều yếu tố khác.
Ngoài ra, có thể tập hợp rất nhiều các tiêu chí có ý nghĩa bổ trợ quan trọng
khác như quan hệ giữa khu vực sản xuất vật chất và khu vực phi sản xuất vật
chất, giữa khu vực nông nghiệp và phi nông nghiệp; những chỉ tiêu về quá
27
trình chuyển giao tiến bộ công nghệ, sự cải thiện của cấu tạo hữu cơ (c/v), cơ
cấu hàng nhập khẩu, sự nâng cấp chất lượng nguồn lao động, cơ cấu các
doanh nghiệp mới gia nhập thị trường phân theo ngành .v.v. Mỗi tiêu chí nêu
trên đều hàm chứa một ý nghĩa kinh tế nhất định trong phân tích quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vì vậy,
tùy theo mục đích, yêu cầu của mỗi đề tài nghiên cứu mà có thể lựa chọn,
quyết định việc có cần phân tích hay không, cũng như nên đề cập sâu sắc đến
mức độ nào.
Một nhóm các chỉ tiêu khác góp phần đánh giá tính hiệu quả của cơ cấu
kinh tế với tư cách là kết quả của cơ cấu phân bổ các nguồn lực xã hội, trước
hết là cơ cấu đầu tư. Đó là các chỉ số về tốc độ tăng trưởng kinh tế, năng suất
lao động xã hội, chỉ số ICOR, mức độ tiêu hao năng lượng trên mỗi đơn vị
GDP được tạo ra, số chỗ việc làm mới được tạo ra, tỷ lệ thất nghiệp, tốc độ
giảm nghèo…Những chỉ tiêu này vốn là những chỉ tiêu tổng hợp phân tích
tình hình phát triển kinh tế của đất nước, nhưng trong một chừng mực nhất
định, chúng góp phần đáng kể vào việc đánh giá tính hiệu quả của cơ cấu kinh
tế đang được xây dựng của một nền kinh tế.[33].
1.3.2. Các nhân tố tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
Quá trình hình thành và phát triển ngành công nghiệp, nông nghiệp,
dịch vụ, một mặt vận động theo những quy luật khách quan nội tại; mặt khác
chịu sự tác động của nhiều yếu tố khách quan khác nhau. Vì thế, ở mỗi giai
đoạn cụ thể, mối quan hệ này có những đặc điểm khác nhau. Bên cạnh những
nhân tố bên trong như điều kiện địa lý, dân cư, thể chế chính trị, còn có những
yếu tố bên ngoài ảnh hưởng trực tiếp đến sự vận động, phát triển của mối
quan hệ giữa các ngành công nghiệp-nông nghiệp-dịch vụ. Có thể kể đến một
số yếu tố sau:
Điều kiện môi trường, tự nhiên, xã hội và dân cư tạo cơ sở để tiến hành
28
phân công lao động xã hội ở mỗi vùng lãnh thổ trên phạm vi cả nước. Các yếu
tố này chi phối sự lựa chọn, mức độ phát triển, quy hoạch từng vùng, từng
ngành kinh tế của mỗi quốc gia hay khu vực khác nhau. Nó liên quan đến
toàn bộ các biện pháp hình thành và phát triển mối quan hệ công nghiệp, nông
nghiệp, dịch vụ trong từng giai đoạn của quá trình đổi mới nền kinh tế.
Để thực hiện thành công quá trình đổi mới nền kinh tế phải xác định
các ngành mũi nhọn, các ngành cần ưu tiên trên cơ sở xác định lợi thế so sánh
và các nguồn lực có khả năng khai thác (cả trong nước và ngoài nước) để
chuyển hướng mạnh mẽ sang phát triển các ngành mà đất nước có lợi thế, tạo
đà hội nhập và tham gia có hiệu quả vào phân công lao động quốc tế.
Tài nguyên thiên nhiên và các điều kiện tự nhiên phong phú và thuận
lợi, tạo điều kiện để phát triển các ngành du lịch, ngư nghiệp, nông nghiệp..,
là cơ sở tự nhiên cho việc hình thành thế mạnh những vùng kinh tế và các
ngành kinh tế khác nhau của đất nước. Công nghiệp sẽ phát triển nhanh hoặc
được bố trí tập trung ở những vùng có điều kiện đất đai, khí hậu, nguồn nước
thuận lợi. Dịch vụ tập trung ở đô thị, trung tâm công nghiệp hay những vùng
có điều kiện phát huy thế mạnh du lịch, nghỉ ngơi…
Ở mỗi giai đoạn phát triển, người ta thường tập trung khai thác các tài
nguyên có lợi thế, trữ lượng lớn, giá trị kinh tế cao, nhu cầu thị trường lớn và
ổn định…Như vậy, sự đa dạng và phong phú của tài nguyên thiên nhiên và
các điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng lớn đến quá trình hình thành và phát triển
quan hệ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ là nhân tố không thể không tính
đến trong quá trình hoạch định chiến lược cơ cấu kinh tế.
Bên cạnh đó, dân số lao động được xem là nguồn lực quan trọng cho
phát triển kinh tế, đó cũng là một yếu tố có tác động quan trọng đến cơ cấu
kinh tế của từng vùng quốc gia hay lãnh thổ. Sự tác động của nhân tố này lên
quá trình hình thành và phát triển quan hệ công nghiệp-nông nghiệp-dịch vụ
29
được xem xét trên các mặt chủ yếu sau:
- Trình độ dân trí, khả năng tiếp thu khoa học và kỹ thuật mới…là cơ
sở quan trọng để phát triển các ngành công nghiệp kỹ thuật cao và nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh trong các ngành, là nhân tố thúc đẩy khoa học
và kỹ thuật trong sản xuất của các ngành kinh tế quốc dân.
- Quy mô dân số, kết cấu dân cư và thu nhập của họ cũng có ảnh hưởng
lớn đến quy mô và cơ cấu nhu cầu thị trường; đó là cơ sở để phát triển các
ngành công nghiệp và các ngành phục vụ tiêu dùng.
- Sự phát triển các ngành nghề truyền thống trong công nghiệp cũng
như trong các ngành kinh tế khác thường gắn liền với tập quán, truyền thống,
phong tục của một địa phương, của một cộng đồng người. Sản phẩm của các
ngành nghề này hầu hết là các sản phẩm độc đáo, có ưu thế và được ưa
chuộng trên thị trường thế giới. Sự chuyển hóa và phát triển của các ngành
nghề này gắn chặt với đội ngũ các nghệ nhân, do đó, đây cũng là một trong
những yếu tố có ảnh hưởng đến cơ cấu kinh tế của một địa phương.
- Vị trí địa lý cũng là yếu tố phải được lưu ý xem xét khi hình thành và
phát triển các ngành kinh tế. Yếu tố này càng trở nên quan trọng trong điều
kiện xây dựng nền kinh tế mở, tăng cường mở rộng các quan hệ kinh tế quốc
tế, hội nhập vào đời sống khu vực và thế giới.
Vai trò của nhà nước trong việc phát triển các ngành kinh tế luôn đóng
vai trò quyết định bằng việc đưa ra các thể chế chính trị và đường lối xây
dựng kinh tế và định hướng sự phát triển tổng thể cũng như sự phát triển các
bộ phận cấu thành nền kinh tế. Đây là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp và rõ nét
đến sự chuyển đổi quan hệ kinh tế giữa các ngành công nghiệp, nông nghiệp,
dịch vụ của đất nước. Vai trò của nhà nước đối với sự phát triển quan hệ này
được cụ thể hóa ở đường lối phát triển của các ngành, đầu tư cho việc xây
dựng cơ sở hạ tầng và các chính sách kinh tế xã hội đối với nông nghiệp,
30
nông thôn…
Tác động của cách mạng khoa học và công nghệ là một nhân tố tạo ra
những bước nhảy vọt trong việc cách mạng hóa các yếu tố của quá trình sản
xuất; tạo ra những phương tiện sản xuất hiện đại. Nó thúc đẩy cơ cấu ngành
kinh tế chuyển dịch, sự xuất hiện hàng loạt ngành nghề mới có hàm lượng
khoa học và kỹ thuật cao làm cho các ngành nghề cũ được cải tạo, cơ cấu
ngành nghề cùng với vị trí vai trò của từng ngành trong nội bộ mỗi khu vực
công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ cũng có nhiều thay đổi.
Vì thế, bước đi của công nghiệp hóa không nhất thiết phải công nghiệp
nặng đi trước, công nghiệp nhẹ đi sau như những thời kỳ trước. Vì vậy, xu
hướng chung về sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở các nước hiện nay
phải đảm bảo là nông nghiệp giảm trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân; tỷ lệ
ngành công nghiệp từ mở rộng đi đến thu nhỏ lại; tỷ lệ ngành du lịch mở
rộng; tỷ trọng những ngành kinh tế sản xuất vật chất ngày càng thấp, tỷ trọng
của ngành kinh tế sản xuất phi vật chất ngày càng cao.
Xu hướng quốc tế hóa đời sống kinh tế trở nên mạnh, thu hút mọi nước
vào nền kinh tế thế giới, cũng là một yếu tố ảnh hưởng lớn đến sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế:
Ngày nay, xu hướng toàn cầu hóa và khu vực hóa kinh tế đã trở thành
một trong những xu thế phát triển tất yếu của quan hệ quốc tế, thúc đẩy mạnh
mẽ quá trình chuyên môn hóa làm cho cơ cấu kinh tế mỗi nước được hình
thành có xu hướng gắn với bên ngoài nhiều hơn; tính cạnh tranh và lợi thế so
sánh của nền kinh tế đều rất năng động, đòi hỏi phải thường xuyên điều chỉnh
cơ cấu kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh. Mặt khác, dẫn đến việc tự do
luân chuyển trên phạm vi toàn cầu các yếu tố của tái sản xuất xã hội như tài
nguyên lao động, vốn tư bản. Hiệu quả là, làn sóng chuyển giao công nghệ từ
các nước công nghiệp phát triển trước đây với mục đích dọn chỗ để phát triển
31
những ngành công nghiệp mới có công nghệ cao hơn, đồng thời di chuyển
một số công nghệ đã lạc hậu và đầu tư tư bản sang các nước chậm phát triển
để tận dụng nguồn nguyên liệu tại chỗ, nhân công rẻ, tránh ô nhiễm môi
trường… Chính trong điều kiện đó, một số nước đang phát triển đã “tận dụng
thời cơ” để tiếp nhận chuyển giao, thực hiện chiến lược “rút ngắn” để “bắt
kịp” trong quá trình công nghiệp hóa.
Nghiên cứu kinh nghiệm công nghiệp hóa của các nước NICs châu Á
và các nước ASEAN, điều dễ nhận thấy là việc giải quyết mối quan hệ công
nghiệp-nông nghiệp-dịch vụ ở đây không nhất thiết lặp lại như trong quá trình
công nghiệp hóa “kinh điển”. Công nghiệp hóa ở các nước này dựa trên sự ồ
ạt đầu tư của tư bản nước ngoài (làn sóng chuyển giao công nghệ những năm
60-70 của thế kỷ XX) đã phát triển nhanh những ngành công nghiệp có lợi thế
so sánh trong chiến lược hướng vào xuất khẩu. Còn các nước ASEAN (trừ
Xing-ga-po) lại bắt đầu từ nông nghiệp xuất khẩu chuyển sang công nghiệp hóa
nhờ tiếp thu chuyển giao công nghệ ở tầng thấp hơn.
Đối với các nước đang phát triển, điều kiện thực tế này sẽ dẫn đến hai
khả năng: nước nào biết tận dụng thời cơ có chiến lược phát triển đúng đắn sẽ
thực hiện được quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao trình độ sản
xuất phù hợp với chiến lược đi tắt đón đầu, rút ngắn dần khoảng cách với các
nước phát triển; ngược lại, nguy cơ tụt hậu về kinh tế sẽ khó tránh khỏi.
Trong sự tác động của các yếu tố bên ngoài cũng phải kể đến tác động
của các hoạt động thương mại và đầu tư nước ngoài. Đây là những yếu tố cực
kỳ quan trọng và nhạy cảm, nó liên quan trực tiếp đến sự phát triển quan hệ
công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Việc tham gia vào các tổ chức thương mại
khu vực và thế giới tạo ra những cơ hội cũng như những thách thức to lớn đòi
hỏi phải thay đổi cơ cấu trong từng ngành cũng như sự hỗ trợ cao trong các
32
ngành, trong đó đặc biệt nổi lên vai trò của các ngành công nghiệp có kỹ thuật
công nghệ cao, công nghiệp chế biến hỗ trợ cho xuất khẩu nông sản và hoạt
động có hiệu quả của thương mại và dịch vụ.
- Mức độ hoàn thiện của yếu tố kinh tế thị trường:
Sự phát triển của nền kinh tế nói chung cũng như đặc điểm phát triển
của từng ngành riêng biệt chịu ảnh hưởng rất lớn bởi nhân tố khách quan này.
Những nhân tố này còn tác động trực tiếp đến xu hướng vận động của quan hệ
công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, tỷ trọng và các quan hệ kinh tế xã hội, đặc
biệt là các quan hệ lợi ích giữa những người lao động ở cả ba khu vực ở từng
giai đoạn nhất định trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Như trên đã phân tích, quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp được
thực hiện thông qua việc trao đổi sản phẩm nhờ hoạt động của thương mại và
dịch vụ. Vì thế sự hình thành và phát triển quan hệ này có ảnh hưởng trực tiếp
tới sự phát triển các yếu tố của kinh tế thị trường. Những bất ổn về mặt thị
trường, chẳng hạn như một số nông sản sản xuất ra không được bảo quản,
không có thị trường tiêu thụ là biểu hiện của sự bất hợp lý trong sự kết hợp
giữa nông nghiệp với công nghiệp chế biến và hoạt động thương mại, dịch vụ
bao tiêu sản phẩm. Sự hình thành và biến đổi nhiệm vụ sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp để thích ứng với các điều kiện của thị trường dẫn tới từng
bước thúc đẩy sự hình thành và phát triển cơ cấu kinh tế của đất nước. Các thị
trường trong nước hình thành và phát triển đồng bộ có tác động mạnh mẽ đến
quá trình hình thành và phát triển quan hệ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ.
- Yếu tố giá cả ảnh hưởng đến quan hệ công nghiệp, nông nghiệp, dịch
vụ; trong khi các mặt hàng phi lương thực (bao gồm các mặt hàng công
nghiệp và dịch vụ) tăng lên sẽ dẫn đến tình trạng sức mua của thị trường nông
thôn giảm xuống, làm giảm khả năng thanh toán của bà con nông dân đối với
các mặt hàng công nghiệp cũng như dịch vụ; ảnh hưởng trực tiếp đến đời
33
sống của người nông dân, đến quá trình trao đổi sản phẩm giữa hai ngành
công nghiệp và nông nghiệp, từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của
các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Đây là vấn đề cần được chính
phủ các quốc gia quan tâm trong các chính sách hỗ trợ cho nông nghiệp để
đẩy mạnh sự phát triển quan hệ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ.
Kết luận chƣơng 1
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành là sự biến đổi vị trí, vai trò, tỷ trọng
và tính cân đối vốn có giữa các yếu tố, các bộ phận trong ngành, các vùng,
các thành phần của nền kinh tế sao cho phù hợp với điều kiện lịch sử, kinh tế,
xã hội và tự nhiên của một nước trong một giai đoạn nhất định.
Luận văn lần đầu tiên đề cập cơ sở lí luận về phân ngành theo quan
điểm của Liên Hợp Quốc theo các khu vực: khu vực I (Ngành nông nghiệp và
công nghiệp khai thác), khu vực II (Ngành công nghiệp chế biến), khu vực III
(Ngành dịch vụ bao gồm cả ngành xây dựng…); trên cơ sở đó đưa ra các chỉ
tiêu về cơ cấu GDP, cơ cấu lao động và cơ cấu hàng xuất khẩu để đánh giá, so
sánh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở Việt Nam theo hai quan điểm;
đồng thời đề cập những nhân tố tác động cơ cấu kinh tế trong bối cảnh hội
nhập, thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
CHƢƠNG 2.
THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH
Ở VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI
2.1. Những nhân tố ảnh hƣởng đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
ở Việt Nam
Cơ cấu kinh tế là một tổng thể hệ thống kinh tế bao gồm nhiều yếu tố
34
có quan hệ, tác động qua lại với nhau trong một không gian và thời gian nhất
định. Trong quá trình đổi mới phát triển đất nước, cơ cấu kinh tế thường thay
đổi đó chính là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chịu tác động của nhiều khách quan và
chủ quan, có nhân tố thúc đẩy sự chuyển dịch theo hướng tích cực, song cũng
có nhân tố làm cho cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiêu cực, vì thế kìm
hãm sự phát triển.
2.1.1. Nhóm nhân tố tác động từ bên ngoài
Các nhân tố bên trong tác động rất lớn và trực tiếp tới sự chuyển dịch
cơ cấu kinh tế của một nước, ngày nay những nhân tố bên ngoài ảnh hưởng
rất quan trọng đến những quyết định phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Vì
vậy, khi định hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở nước ta, phải tính
đến các nhân tố tác động từ bên ngoài, nếu không khả năng cạnh tranh thấp,
dẫn đến tụt hậu trong phát triển kinh tế từ đó dẫn đến những ảnh hưởng bất lợi
khác về chính trị xã hội. Nhóm nhân tố tác động từ bên ngoài đối với quá
trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở nước ta bao gồm:
Xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa tạo ra sự phát triển đan xen với
nhau, khai thác thế mạnh về các nguồn lực sẵn có trong sản xuất và trao đổi
hàng hóa, dịch vụ. Do đó, toàn cầu hóa kinh tế tác động rất mạnh mẽ đến sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước ta, đối với nước nền kinh tế hướng các
sản phẩm nông sản hướng về xuất khẩu là chủ yếu thì yếu tố này càng trở thành
nhân tố quan trọng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Việt Nam có những
chiến lược kinh tế, phát triển những sản phẩm là thế mạnh của ta xuất khẩu ra
các thị trường nước ngoài... Những xu hướng kinh tế xã hội của khu vực và
thế giới, đặc biệt là cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu có những ảnh hưởng
đến cơ cấu kinh tế nước ta. Hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt
Nam năm 2008, các nhà tài trợ đã cam kết tài trợ hơn 5 tỉ đô la Mĩ hỗ trợ Việt
35
Nam trong quá trình phát triển, đảm bảo tăng trưởng bền vững. Chính phủ cẩn
trọng cho mục tiêu tăng trưởng và đầu tư; trong bối cảnh khủng hoảng suy
thoái toàn cầu tác động tiêu cực đến nền kinh tế nước ta. Vì vậy, thị trường và
sự phân phối nguồn lực thay đổi, Việt Nam phải điều chỉnh chiến lược phát
triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bảo đảm cho nền kinh tế trong nước ổn
định và phát triển theo động thái chung của thế giới.
Các thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ và sự bùng nổ thông
tin. Những thành tựu to lớn đạt được trong cách mạng khoa học kỹ thuật và sự
chuyển đổi công nghệ giữa các quốc gia tạo điều kiện để nước ta đổi mới
công nghệ, chuyển đổi mô hình tăng trưởng nhằm phát triển theo chiều sâu.
Tiếp nhận công nghệ thích hợp với điều kiện cụ thể của mình nhằm phát triển
các ngành, sản phẩm có triển vọng thị trường, khai thác được lợi thế cạnh
tranh của đất nước. Sự thay đổi to lớn trong lĩnh vực thông tin trên toàn cầu
cũng tạo ra những bước chuyển cơ bản trong sản xuất xã hội, cho phép các
nhà sản xuất, phân phối nắm bắt thông tin, tìm hiểu thị trường và đối tác một
cách nhanh chóng và đầy đủ hơn. Thực tế ở nước ta, phải có những định
hướng sản xuất, kinh doanh hợp lý hơn, làm thay đổi cơ cấu sản xuất phù hợp
với xu thế của thị trường và lợi thế cạnh tranh của từng chủ thể kinh tế.
2.1.2. Nhóm nhân tố tác động từ bên trong nền kinh tế
- Các điều kiện về tự nhiên, kinh tế, xã hội của đất nước. Các lợi thế về
tự nhiên cho phép nước ta có thể phát triển ngành sản xuất một cách thuận lợi,
có sức cạnh tranh như du lịch, các sản phẩm ngành nông nghiệp... Bên cạnh
đó, những điều kiện về xã hội như quy mô dân số của quốc gia, trình độ
nguồn nhân lực, trình độ kinh tế và những nét văn hóa riêng biệt của nước ta
cũng ảnh hưởng rất lớn đến việc quyết định phát triển ngành sản xuất nào phù
hợp, tức là ảnh hưởng đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Dân số và lao động là tiềm năng lớn để hưng thịnh đất nước. Nước ta,
36
tính đến năm 2008, có khoảng 86 triệu người. Nguồn lao động đang làm việc
đầu năm 2008 có khoảng 52 triệu người, chiếm 60,7% tổng số dân cả nước.
Với cơ cấu lao động trong độ tuổi hoạt động kinh tế chiếm 50% dân số vừa là
cơ hội, lại vừa là thách thức đối với việc lựa chọn ngành nghề để thúc đẩy sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở Việt Nam.
Chất lượng nguồn lao động được nâng cao, tỷ lệ lao động qua đào tạo
tăng từ 25% năm 2005 lên 30 - 40% năm 2020, sẽ là nguồn lực quan trọng
cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, xuất phát điểm của một
nước nông nghiệp, số lao động hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp chiếm tỉ
lệ cao trong các khu vực của nền kinh tế ở nước ta.
Việt Nam có diện tích tự nhiên khoảng 329000 km2. Ba phần tư diện tích là đồi núi và khoảng 1 triệu km2 vùng biển. Quỹ đất đóng vai trò quan
trọng đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi phát triển sản
xuất nông nghiệp, gắn liền các khu cụm công nghiệp chế biến và các cơ sở
dịch vụ góp phần thúc đẩy sự phát triển giữa các ngành và giải quyết việc
làm. Diện tích đất nông nghiệp chiếm khoảng 22%, đất lâm nghiệp chiếm 29%
tổng diện tích tự nhiên. Hình thành các vùng kinh tế trọng điểm như: đồng bằng
sông Hồng và vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, miền Đông Nam Bộ và vùng kinh
tế trọng điểm phía Nam, vùng kinh tế trọng điểm miền trung và Tây Nguyên khai
thác thế mạnh của từng vùng, đóng góp vào tỉ trọng GDP của các ngành ...
Khai thác dầu thô dự tính năm 2020 đạt khoảng 30 triệu tấn, tăng 11,5 triệu tấn so với năm 2005. Sản lượng khí tăng khoảng 31 tỷ m3, với sản lượng
dầu thô 360.000 thùng/ngày, Việt Nam hiện là nước sản xuất dầu lớn thứ 3 ở
khu vực Đông Nam Á, chỉ sau Malaysia và Indonesia. Với việc Petro
Vietnam xây dựng nhà máy lọc dầu đầu tiên của Việt Nam tại Dung Quất,
tiềm năng của Việt Nam trong việc cung cấp các sản phẩm lọc hóa dầu cho thị
trường khu vực và nội địa tăng lên nhanh chóng. Đây là một dự án nhà máy
37
lọc dầu trị giá 2,5 tỷ USD với công suất 130.000 thùng mỗi ngày sẽ đi vào
hoạt động vào đầu năm 2009. Đến nay, Petro Vietnam vẫn xuất khẩu toàn bộ
sản lượng dầu thô của tập đoàn khai thác được cũng như lượng dầu được chia
phần từ sản lượng của các nhà thầu nước ngoài và các liên doanh với nước
ngoài. Cùng với khai thác than tăng 30 triệu tấn, thép tăng khoảng 11 triệu tấn
so với năm 2005, sắt ở Thạch Khê (Hà Tĩnh), bô-xít ở Lâm Đồng, đá vôi làm
vật liệu chế biến xi măng và vật liệu xây dựng (sản lượng xi măng tăng
khoảng 80 triệu tấn so với năm 2005).. sẽ được khai thác đóng góp tỷ trọng
GDP trong nông nghiệp.
Tiềm năng thủy điện có thể phát huy là tương đối lớn, dự kiến ứng dụng
công nghệ mới vào sản xuất điện năng, trong đó đặc biệt quan trọng là năng
lượng mặt trời, năng lượng gió và năng lượng nguyên tử. Đến năm 2020, tổng
công suất các nhà máy điện của nước ta vào khoảng 62 nghìn MW, tăng
khoảng 240 tỷ kwh so với năm 2005. Trong đó, thủy điện chiếm 22,4%, nhiệt
điện khí dầu chiếm 23,9%, nhiệt điện than: 36%, điện nhập khẩu: 8,5%, điện
hạt nhân: 6,8% và điện năng lượng mới: 2,3% sẽ thúc đẩy ngành dịch vụ phát
triển ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Nhu cầu của thị trường, xã hội trong từng giai đoạn phát triển của đất
nước là cơ sở để sản xuất phát triển, do đó tác động trực tiếp đến quy mô,
trình độ phát triển của các cơ sở kinh tế, đến xu hướng phát triển và phân
công lao động xã hội, đến vị trí, tỷ trọng của các ngành, lĩnh vực trong cơ cấu nền
kinh tế.
Mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế của nước ta giữa các ngành
cùng với nguồn lao động có tác động quan trọng đến sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế. Định hướng phát triển của Nhà nước nhằm khuyến khích mọi lực lượng
sản xuất xã hội đạt được mục tiêu đề ra mà còn trực tiếp hay gián tiếp để tổ chức
38
sản xuất, bảo đảm sự cân đối giữa các ngành, các lĩnh vực trong sản xuất xã hội.
Trình độ phát triển lực lượng sản xuất của đất nước. Sự phát triển của
lực lượng sản xuất sẽ góp phần làm thay đổi quy mô sản xuất, thay đổi công
nghệ, thiết bị, từ đó thay đổi cơ cấu ngành nghề khai thác hiệu quả hơn nguồn
lực trong và ngoài nước. Sự phát triển về cơ bản sẽ luôn phá vỡ các cân đối
cũ, hình thành một cơ cấu kinh tế mới với tỷ trọng, vị trí các ngành và lĩnh
vực phù hợp hơn, thích ứng được yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất,
đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Tuy nhiên, những biến đổi của cơ cấu kinh
tế dưới tác động của lực lượng sản xuất thường diễn ra chậm, không mang
tính đột biến như tác động của các cơ chế, chính sách nhà nước.
Những yếu tố tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
Việt Nam cho thấy, nguồn nội lực với tư cách là các yếu tố vật chất trong
nước được sử dụng cho phát triển, như tài nguyên đất đai, dân số, lao động,
khí hậu thời tiết, các giá trị văn hóa, khoáng sản... được xem như vấn đề then
chốt.
Ngoài ra, các yếu tố vật chất ở bên ngoài được thu hút sử dụng cho phát
triển của đất nước, trong đó đáng quan tâm là cộng đồng người Việt Nam ở
nước ngoài, nguyên liệu nhập khẩu, vốn đầu tư, khoa học công nghệ và các
chuyên gia từ nước ngoài. Nguồn lực bên ngoài phụ thuộc vào thế và lực của
nước ta trên trường quốc tế. Trong những năm tới, nguồn lực này sẽ rất lớn,
mỗi năm Việt Nam có thể huy động được khoảng trên 10 tỷ USD vốn FDI và vốn ODA.
Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường và quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu sắc trong việc quản lí, duy trì sự cân đối
hợp lí và bền vững của các ngành trong nền kinh tế nước ta càng trở nên quan
trọng. Đặc biệt, trong việc ứng phó với khủng hoảng tài chính toàn cầu sự can
thiệp của nhà nước trở nên cấp thiết; Chính phủ lựa chọn, hoạch định chính
sách - các gói kích thích kinh tế giúp nền kinh tế nước ta tháo gỡ khó khăn,
39
thúc đẩy sự vận hành thông suốt của cơ cấu nền kinh tế. Cơ cấu lại đầu tư nhà
nước, sản xuất, các ngành kinh tế, mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hóa và
dịch vụ đến những thị trường tiềm năng, những mặt hàng có thế mạnh như
nông sản với giá hợp lí; những sản phẩm nào, ngành nào cần khuyến khích,
Nhà nước miễn thuế hoặc quy định mức thuế suất thấp để người sản xuất có
lợi nhuận cao từ đó đầu tư phát triển ngành sản xuất đó, và ngược lại, tạo lập
cơ sở bền vững cho quá trình tăng trưởng kinh tế lâu dài. Trước hết là khu vực
xuất khẩu gắn nhiều với nông dân, năm 2008 mức đầu tư của Việt Nam đã lên
tới 44% trong GDP; các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn như các doanh
nghiệp sử dụng nhiều lao động: dệt may, da giày... Bài toán đặt ra đối với
nước ta, giữ được tăng trưởng GDP cao là tốt gắn với việc tạo việc làm cho
người lao động chống suy thoái kinh tế.
Từ khi chính thức khởi xướng công cuộc đổi mới nền kinh tế đến nay,
Việt Nam đã có nhiều thay đổi to lớn, trước hết là sự đổi mới về tư duy kinh
tế: chuyển sang kinh tế thị trường, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, đa dạng hóa và đa phương hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại, thực
hiện mở cửa, hội nhập quốc tế. Chính phủ đã ban hành các luật, pháp lệnh,
nghị định nhằm cụ thể hóa việc thực hiện luật phục vụ phát triển kinh tế-xã
hội như: Luật Đất đai, các luật về thuế, luật phá sản, Luật Môi trường, Luật
Lao động. Mặt khác, Chính phủ tập trung vào các biện pháp quản lý kinh tế,
thành lập hàng loạt các tổ chức tài chính, ngân hàng, hình thành các thị trường
cơ bản như thị trường tiền tệ, thị trường lao động, thị trường hàng hóa, thị
trường đất đai…Đặc biệt, chiến lược cải cách hành chính giai đoạn 2001-2010
là một quyết tâm của Chính phủ Việt Nam, trong đó nhấn mạnh việc sửa đổi
thủ tục hành chính, luật pháp, cơ chế quản lý kinh tế…để tạo ra một thể chế
năng động, đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới.
Để thực hiện các mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế xã hội, Nhà
40
nước phải sử dụng những chính sách, cơ chế quản lý có tác động trực tiếp đến
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Mặt khác, Nhà nước cũng có thể khuyến
khích sự dịch chuyển lao động đến những khu vực có tài nguyên nhưng đang
khan hiếm lao động...Sự tác động của các cơ chế quản lý sẽ tạo ra được một
cơ cấu sản xuất, cơ cấu dân cư cân đối, phát triển được lực lượng sản xuất,
giảm bớt khoảng cách trong phát triển giữa các ngành, vùng, giảm bớt sự cách
biệt thu nhập và đời sống giữa nông thôn và thành thị.
Hiện nay, khi Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương
mại Thế giới, mối quan hệ của Việt Nam đối với các nước lớn trên thế giới là
mối quan hệ hợp tác với các cường quốc trên nhiều phương diện. Sự tác động
của quá trình phân công lao động mang tính quốc tế càng có ý nghĩa lớn đối
quá trình lựa chọn cơ cấu kinh tế hợp lý và hiệu quả của Việt Nam.
Tóm lại, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mỗi nước chịu tác
động của nhiều nhân tố vì thế quá trình này vừa mang tính khách quan, lịch
sử, xã hội, lại vừa mang tính chủ quan, nên để xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý
phải mang tính chiến lược và có kế hoạch định hướng lâu dài.
2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở Việt Nam trong quá trình đổi
mới từ năm 1990 đến nay
Trong thời kỳ đổi mới, bức tranh về cơ cấu kinh tế nước ta phát triển và
đạt được nhiều thành tựu. Từ thực tế trong những năm đổi mới, đến Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã có sự thay đổi trong xu hướng
chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng như quan hệ trong các ngành công nghiệp,
nông nghiệp, dịch vụ. Cơ cấu công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ được cụ thể
hóa thành đường lối: phát triển nông - lâm - ngư nghiệp gắn với công nghiệp
chế biến và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn
định kinh tế - xã hội, tăng tỷ trọng và tốc độ của công nghiệp, mở rộng kinh tế
41
dịch vụ…Chủ trương đặt ra khi kết thúc thời kỳ quá độ, phải hình thành về cơ
bản một nền kinh tế công nghiệp với cơ cấu kinh tế công - nông - dịch vụ gắn với
phân công và hợp tác kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Khâu đột phá “Ba chương trình kinh tế lớn” vào năm 1991 đã tạo ra
bước chuyển biến vượt bậc trong nông nghiệp đồng thời chuyển biến “tự điều
chỉnh” trong công nghiệp, đặc biệt lĩnh vực lưu thông khởi sắc, sôi động, hình
thành khu vực dịch vụ hóa rõ nét. Nhờ sự thay đổi mô hình kinh tế, chuyển đổi
cơ cấu kinh tế mà quan hệ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ nước ta có những biến
đổi quan trọng. Kể từ khi quá trình đổi mới kinh tế nhất là từ thập kỷ 90 trở lại
đây, cơ cấu ngành kinh tế nước ta đã có nhiều thay đổi theo hướng tích cực,
những lợi thế so sánh trong từng ngành đã từng bước được khai thác, góp
phần thúc đẩy kinh tế phát triển với tốc độ cao, ổn định và cải thiện rõ rệt đời sống của
nhân dân.
2.2.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo phân ngành của Tổng cục
thống kê
Cơ cấu ngành tính theo GDP của nền kinh tế hơn 18 năm qua (từ năm
1990 đến nay) đã có sự dịch chuyển khá rõ.
Trong những năm đổi mới, sự thay đổi cơ cấu ngành kinh tế chủ yếu
diễn ra giữa hai ngành sản xuất vật chất cơ bản: nông nghiệp có xu hướng
giảm gần như vừa bằng mức công nghiệp tăng.
Bảng 2.1: Cơ cấu GDP theo phân ngành kinh tế của Tổng cục thống kê
Năm
Dịch vụ
Công nghiệp và xây dựng
1990 1995 2000 2001 2002 2003 2004
Nông, lâm, ngư nghiệp 38,74 27,18 24,54 23,24 23,03 22,54 21,76
22,67 28,76 36,73 38,13 38,49 39,47 40,09
38,59 44,06 38,73 38,63 38,48 37,99 38,73
42
(%)
20,50 20,40 20,30 21,99
41,00 41,53 41,58 39,91
38,50 38,07 38,12 38,10
2005 2006 2007 2008 Nguồn: Niên giám thống kê năm 2000, 2007, 2008
Cùng với tốc độ tăng cao của GDP, cơ cấu kinh tế trong nước đã có sự
thay đổi đáng kể. Từ năm 1990 đến 2008, tỷ trọng của khu vực nông nghiệp
đã giảm từ 38,74% xuống 21,99% GDP, nhường chỗ cho sự tăng lên về tỷ
trọng của khu vực công nghiệp và xây dựng từ 22,67% lên 39,91%, còn khu
vực dịch vụ được duy trì ở mức gần như không thay đổi: 38,59% năm 1990 và
38,10% năm 2008, trong từng nhóm ngành, cơ cấu cũng có sự thay đổi tích cực.
Ngành nông nghiệp có bước phát triển quan trọng, tạo cơ sở cho quá
trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tỷ trọng GDP trong nông, lâm nghiệp, thủy sản đã giảm từ 38,74%
năm 1990 xuống còn 27,2% năm 1995, có xu hướng giảm đến năm 2007 tiếp
tục giảm còn 20,30%, bình quân giảm 1,2% và tăng trong năm 2008 đạt 21,99%.
Nông nghiệp nước ta chuyển từng bước sang nền kinh tế hàng hóa và
hướng mạnh ra xuất khẩu, giá trị xuất khẩu đạt mức tăng bình quân 16%.
Năm 1990, kim ngạch xuất khẩu đạt 1,106 tỉ USD, năm 2000 đạt 4,5 tỉ USD,
chiếm 40% tổng giá trị xuất khẩu.
Nông nghiệp, nông thôn nước ta triển khai thực hiện kế hoạch năm
2007 với nhiều khó khăn, thuận lợi đan xen lẫn nhau. Tuy nhiên, với những
kinh nghiệm tổ chức, quản lý, điều hành, nỗ lực to lớn của cả hệ thống chính
trị cả nước, nên nông nghiệp và nông thôn nước ta tiếp tục duy trì được tốc độ
phát triển theo chiều hướng tích cực. Tính đến năm 2007, tổng sản phẩm khu
vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 20,30% trong cơ cấu nền kinh tế
43
quốc dân, tăng 3,4% so với năm 2006, tăng trưởng của toàn ngành đã đóng
góp 0,61 điểm phần trăm năm 2007 và năm 2008 là 0,68% cho tăng trưởng
chung của nền kinh tế.
Tỷ trọng nông, lâm nghiệp, thủy sản trong GDP của Việt Nam còn khá
cao, hiện đứng hàng thứ 4 trong 10 nước ở khu vực (cao hơn tỷ trọng 16%
của In-đô-nê-xia, 15% của Phi-lip-pin, 10% của Thái Lan, 8% của Ma-lay-xi-
a).
Ngành công nghiệp và xây dựng có những bước tiến mới trong chuyển
đổi cơ cấu sản xuất, cơ cấu sản phẩm và cơ cấu công nghệ theo hướng hiện
đại. Tốc độ tăng trưởng bình quân trong năm (2000-2008) đạt 14%, nhiều sản
phẩm quan trọng có ý nghĩa chiến lược, có tác động lớn đến nhiều ngành kinh
tế đều đạt tốc độ tăng trưởng khá. Cơ cấu các ngành công nghiệp đã có
chuyển dịch đáng kể, hình thành một số sản phẩm mũi nhọn, một số khu công
nghiệp với nhiều cơ sở sản xuất công nghệ hiện đại.
Trong những năm đổi mới, tỷ trọng ngành công nghiệp và xây dựng
tăng khá nhanh, từ 22,67% năm 1990 năm 2007 tăng lên 41,58% và năm 2008
nền kinh tế có những biến động nên giảm xuống còn 39,91%; bình quân mỗi
năm tăng hơn 1,2%. Như vậy, khu vực công nghiệp đã thực sự đóng vai trò đầu
tàu trong sự phát triển và chuyển dịch cơ cấu toàn bộ nền kinh tế.
Đối với ngành xây dựng, kim ngạch nhập khẩu đạt khoảng 789,2 triệu
USD, bằng 117,8% so với kế hoạch năm, tăng 46,2% so với cùng kỳ năm
2007. Kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 214,5 triệu USD, đạt 104% so với kế
hoạch năm, tăng 89,6% so với cùng kỳ năm 2007.
Năm 2008 giá trị sản xuất công nghiệp tăng 14,6% so với năm 2007,
cùng thời gian trên trong các ngành công nghiệp, giá trị sản xuất công
nghiệp chế biến chiếm tỉ trọng lớn nhất trong tổng giá trị sản xuất toàn
44
ngành với 88,9% tăng 16%; công nghiệp điện, ga, nước tăng 13,4% chiếm
5,7% và giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp khai thác giảm 3,5% do
lượng dầu thô khai thác giảm, chiếm tỉ trọng 5,4%.
Trong công nghiệp, phát triển mạnh các ngành mũi nhọn có giá trị gia
tăng cao (công nghiệp khai thác, công nghiệp chế tạo, công nghiệp chế biến
thực phẩm, công nghiệp điện…) phục vụ nghiên cứu trong nước và xuất khẩu,
giảm tỷ trọng xuất khẩu khoáng sản và sản phẩm công nghiệp nặng. Đặc biệt,
nhịp độ tăng trưởng của ngành công nghiệp đạt mức cao hơn nhịp độ của nền
kinh tế quốc dân, thúc đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu ngành của thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Ngành dịch vụ có những bước phát triển nhanh và ngày càng đa dạng.
Tuy nhiên, khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng thấp hơn công nghiệp và
xây dựng, trong hơn 15 năm qua có xu hướng giảm sút, bình quân giảm
0,03%, từ 38,6% năm 1990 giảm nhẹ qua các năm 38,5% năm 2005, năm
2007 đạt 38,12% đến năm 2008 đạt 38,1% (xem bảng 2.1).
Lĩnh vực thương nghiệp phát triển toàn diện, tạo ra sự sôi động của nền
kinh tế, tăng hiệu quả kinh tế-xã hội và thúc đẩy sản xuất phát triển. Du lịch
từ quy mô rất nhỏ đã trở thành một ngành dịch vụ quan trọng với nhiều loại
hình du lịch đa dạng, doanh thu đạt 7- 8 ngàn tỉ đồng/năm. Vận tải đã đáp ứng
cơ bản nhu cầu lưu chuyển hàng hóa để phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao
đời sống nhân dân. Bưu chính viễn thông phát triển nhanh đi trước đón đầu vào
công nghệ hiện đại
Trong khu vực dịch vụ, một số ngành dịch vụ quan trọng đang chiếm tỷ
trọng thấp và lại có xu hướng giảm dần, đặc biệt là tài chính, tín dụng (năm
2007 chỉ đạt 1,81%); khoa học công nghệ năm 2007 chiếm 0,62%. Dịch vụ
ngân hàng còn quá ít so với thế giới. Giữa các nhóm ngành bước đầu đã có sự
hỗ trợ lẫn nhau tạo ra sự phát triển nói chung trong nền kinh tế cũng như sự
45
phát triển của từng ngành.
Trong quá trình đổi mới nền kinh tế, thực hiện công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, Việt Nam đã bước vào thời kì tăng trưởng nhanh và ổn định (biểu đồ
2.1), tiềm lực kinh tế của đất nước đã thay đổi, tốc độ tăng trưởng GDP hàng
năm thời kì 1991-2002 đạt 7,04%; GDP của nền kinh tế năm 2002 cao gấp
2,37 lần năm 1990 và tính đến năm 2003 - 2008 đạt 7,74%, trong đó công
nghiệp tăng gấp 3,5 lần, xuất khẩu gấp gần 6,9 lần và dịch vụ tăng nhanh hơn
tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp. Năm 2007 tăng trưởng 8,48% đây là mức
tăng trưởng cao nhất từ sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997.
Năm 2008, chịu ảnh hưởng từ bất ổn kinh tế vĩ mô và khủng hoảng tài chính
tăng trưởng GDP đạt 6,19% và quí I năm 2009 tăng trưởng GDP đạt 3,1%.
Biểu đồ 2.1: Tăng trưởng GDP và tỉ lệ đầu tư/GDP giai đoạn 1997- Q1/2009
Động thái tiến triển của tốc độ tăng trưởng kinh tế phản ánh thực trạng
khả quan vẫn giữ được đà tăng trưởng năm sau tăng so với năm trước diễn ra
liên tục đến năm 2007 (loại trừ năm 1998 và 1999 có sự suy giảm tương đối
do chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu Á, GDP giảm
xuống còn 5,26%); vì vậy, nền kinh tế nước ta đứng thứ hai khu vực Đông Á
46
và cả thế giới chỉ sau Trung Quốc về thành tựu tốc độ tăng trưởng GDP trong
hơn hai thập niên vừa qua. Riêng năm 2008 trong bối cảnh khó khăn và thách
thức của suy giảm kinh tế toàn cầu, kinh tế nước ta lâm vào tình trạng lạm
phát, dẫn đến suy giảm tương đối về tăng trưởng kinh tế và GDP đạt 6,23%.
Tổng giá trị sản phẩm trong nước tăng đều qua các năm, trong cơ cấu
ngành kinh tế có sự dịch chuyển, tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp và dịch
vụ tăng ở mức thấp và tăng cao hơn so với ngành nông nghiệp (xem bảng 2.2). Đặc
biệt, năm 2008 tốc độ gia tăng giá trị tổng sản phẩm trong nước của ngành
công nghiệp, xây dựng giảm mạnh từ 10,60% năm 2007 xuống còn 6,33%
năm 2008 và dịch vụ năm 2007 đạt 8,68% đến năm 2008 còn 7,2%.
Bảng 2.2: Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất giai đoạn 1995-2008
Tốc độ tăng trưởng trong các ngành (%)
Năm
Tổng giá trị sản phẩm (tỷ đồng)
Dịch vụ
1995 1997 2000 2002 2004 2006 2007 2008
195567 231264 273666 313247 362435 425373 461443 490181
Nông, lâm, ngư nghiệp 4,8 4,33 4,63 4,17 4,36 3,7 3,82 3,8
Công nghiệp và xây dựng 13,60 12,62 10,07 9,48 10,22 10.38 10,60 6,33
9,83 7,14 5,32 6,54 7,62 8,3 8,68 7,2
Nguồn: Niên giám thống kê 2007, 2008
theo phân ngành của Tổng cục Thống kê
Thực tế sự thay đổi cơ cấu ngành kinh tế thời gian qua bắt nguồn từ
mức độ gia tăng nhanh chóng của khu vực công nghiệp và xây dựng. Tính
bình quân từ năm 1990 đến năm 2008, khu vực công nghiệp và xây dựng mỗi
năm tăng 10,4% gấp hơn 1,4 lần mức tăng GDP của toàn nền kinh tế 7,3% và
gấp 2,7 lần khu vực nông nghiệp. Khu vực dịch vụ có mức tăng ngang bằng
với mức tăng GDP của cả nền kinh tế nên tỷ trọng không đổi. Dù đạt tốc độ
tăng trưởng cao hơn gần 3 lần so với khu vực nông nghiệp, nhưng vì qui mô
47
tuyệt đối nhỏ hơn nên mức độ thay đổi tương quan tỷ lệ giữa hai khu vực
nông nghiệp và công nghiệp không tương ứng với mức tăng trưởng công
nghiệp. Trong thời gian từ 1990 đến nay, sự thay đổi tương quan tỷ lệ GDP
giữa các ngành chủ yếu do sự gia tăng sản lượng và sự tác động của yếu tố giá cả.
Cơ cấu ngành kinh tế đã biến đổi theo chính sách mở cửa, hội nhập kinh tế
quốc tế, khu vực và định hướng tăng trưởng xuất khẩu, thể hiện sự biến đổi cơ cấu
đầu tư phát triển xã hội đã hỗ trợ, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
Đầu tư xã hội tăng cả về qui mô và tốc độ tăng trưởng tạo nguồn lực
cho phát triển sản xuất sản phẩm trong nước hướng vào xuất khẩu. Từ năm
1990 đến nay, tăng trưởng GDP cao, tích lũy nội bộ nền kinh tế tăng lên và
cùng với nguồn vốn bổ sung của đầu tư nước ngoài, vốn đầu tư phát triển đã
tăng lên cả về số lượng và tỷ trọng. Đến năm 1998, do chịu tác động xấu từ
cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, đầu tư nước ngoài giảm sút, vốn
đầu tư phát triển vẫn tăng 8% so với năm trước đó. Từ những năm 2000 đến
nay, vẫn đạt tốc độ tăng trưởng ổn định, đầu tư phát triển xã hội năm 2008 đạt
637,3 nghìn tỉ đồng bằng 43,1% GDP và tăng 22,2% so với năm 2007. Kết
quả này cho thấy tiềm lực kinh tế nước ta đã tăng lên, là cơ sở nguồn lực đảm
bảo cơ sở cho tiến trình biến đổi cơ cấu ngành kinh tế.
Cơ cấu đầu tư phát triển theo ngành có nhiều biến đổi tích cực chuyển
hướng chú trọng khai thác lợi thế từng ngành, từng vùng để phát triển. Sự
chuyển dịch của các ngành kinh tế, tỷ trọng vốn đầu tư cho ngành nông, lâm
nghiệp, thủy sản trong tổng số vốn đầu tư phát triển đã giảm từ 13,2% năm
1995 xuống còn 6,5% năm 2007, vốn đầu tư bình quân hàng năm chiếm
khoảng 11%. Tỷ trọng ngành dịch vụ có xu hướng tăng từ 52,7% năm 1995
đến năm 2007 giảm còn 50%, mặc dù vào năm 2000 giảm còn 48,8% nhưng đạt
mức cao và tỷ trọng bình quân hàng năm giai đoạn này vốn đầu tư phát triển
ngành dịch vụ chiếm 53,9% tổng vốn đầu tư phát triển xã hội. Tỷ trọng vốn đầu tư
48
phát triển ngành công nghiệp và xây dựng thay đổi không đáng kể 43,1% năm
1995 và năm 2007 đạt 43,50% trong tổng vốn đầu tư phát triển, bình quân hàng
Nguồn: Tổng cục Thống kê năm 2007
Biểu đồ 2.2: Tỉ trọng đầu tư phân theo ngành trong giai đoạn 2003 -2007
năm giai đoạn này đạt 36,38%.
Đặc biệt từ năm 2003 tỉ trọng đầu tư vào ngành kinh tế thay đổi không
nhiều. Tỉ trọng đầu tư vào ngành nông nghiệp chiếm tỉ trọng tương đối nhỏ.
Tỉ trọng đầu tư vào ngành công nghiệp-xây dựng và dịch vụ khá cao.Tăng
cường đầu tư vào ngành công nghiệp-xây dựng và dịch vụ nhằm chuyển đổi
cơ cấu kinh tế. Tuy vậy, tốc độ chuyển đổi cơ cấu kinh tế của Việt Nam còn
chậm. Do tác động của thị trường, ngành dịch vụ cơ cấu đầu tư được chú
trọng phát triển dựa vào thế mạnh của từng vùng, tỷ trọng ngành công
nghiệp và nông nghiệp có xu hướng giảm. Cùng với việc tăng khối lượng
và tốc độ tăng trưởng đầu tư phát triển xã hội, vấn đề tăng hiệu quả sử
dụng vốn đầu tư đối với khu vực kinh tế nhà nước.
2.2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo phân ngành của Liên Hợp Quốc
So sánh theo cách phân ngành của Liên Hợp Quốc có sự chuyển dịch
cơ cấu ngành kinh tế vĩ mô ở nước ta có sự thay đổi. Tính đến năm 2007, cơ
49
cấu ngành kinh tế ở nước ta đã có sự chuyển dịch, khu vực I còn quá cao
chiếm trên 30,05% GDP, khu vực II (công nghiệp chế biến) còn thấp đạt
21,38% và khu vực III là 48,57%. Mỗi năm, khu vực I giảm 0,68% chỉ bằng
1/2 mức tăng gộp chung của cả công nghiệp và xây dựng theo cách phân loại
thống kê của Việt Nam; khu vực III tăng 0,24%/năm do sự gia tăng mạnh mẽ
về cung cấp điện, nước và xây dựng trong thời gian qua (xem bảng 2.3).
Bảng 2.3: Cơ cấu GDP ngành kinh tế của Việt Nam (%)
Năm 1990 1995 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Khu vực I 43,95 31,99 34,18 32,45 31,64 31,88 31,93 31,57 30,63
Khu vực II 12,26 14,99 18,56 19,78 20,58 20,45 20,32 20,63 21,25
Khu vực III 43,79 53,01 47,25 47,75 47,77 47,66 47,75 47,80 48,12
2007
30,05
21,38
48,57
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2000, 2007
theophân ngành của Liên Hợp Quốc
Thực tế, cơ cấu ngành kinh tế của Việt Nam còn có sự chênh lệch lớn
giữa các nước trong khu vực và trên thế giới. Hiện trạng cơ cấu kinh tế ngành
của Việt Nam trong khu vực I còn chiếm tỷ trọng cao trong GDP ở mức
31,57% năm 2005, trong khi tỉ trọng này ở các nước trong khu vực ở mức rất
thấp như Trung Quốc chiếm 11,71%, một số nước NIC như Hàn Quốc 3,41%,
Singapore là 0,09% và một số nước công nghiệp phát triển như Mĩ chiếm
1,19% và Nhật Bản 1,50%. Thực trạng trên đặt ra đối với khu vực I ở nước ta
phải có chính sách và biện pháp giảm tỉ trọng khu vực I vào trong thời gian
50
tới, đạt mục tiêu năm 2010 còn 15-16% (xem bảng 2.4).
Bảng 2.4: Tỷ trọng của ba khu vực kinh tế theo GDP
Nước Mỹ Nhật Bản Singapore Hàn Quốc Thái Lan Trung Quốc Việt Nam (2005)
Khu vực I Khu vực II Khu vực III 22,84 29,88 33,77 40,27 41,18 47,52 20,63
1,19 1,50 0,09 3,41 9,83 11,71 31,57
75,97 68,61 66,14 56,32 45,85 39,94 47,80
Việt Nam (2007)
30,05
21,38
48,57
Nguồn: Tổng cục thống kê năm 2007
của một số nước trong khu vực và trên thế giới năm 2005(%)
Đối với khu vực II chiếm tỷ trọng thấp so với các nước trong khu vực.
Thực tế, nước ta có rất nhiều tiềm năng để phát triển khu vực II, nhưng do
chưa khai thác triệt để thế mạnh của các vùng miền trong nước nên chiếm tỉ
trọng thấp năm 2005 là 20,36% so với Trung Quốc đạt 47,52%, Hàn Quốc
40,27%. Hiện trạng trên đặt ra phải có cơ chế, chính sách và biện pháp để
thúc đẩy ngành công nghiệp chế biến ở nước ta phát triển mạnh hơn; giảm tỉ
trọng đối với khu vực I và thu hẹp khoảng cách với các nước trong khu vực.
Khu vực III ở nước ta trong những năm đổi mới đã được cải thiện nhưng vẫn
còn thua kém xa các nước trong khu vực và thế giới; mức tăng trưởng thấp
qua năm 2005 đạt 47,80% đến năm 2007 đạt 48,57%. So với Nhật Bản là
68,61% và Hàn Quốc là 56,32% thì, khu vực III ở nước ta còn tụt hậu dẫn đến
sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm.
Theo phân ngành của Liên Hợp Quốc, sự chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế ở nước ta diễn biến chậm và lạc hậu, tỷ trọng của GDP trong khu vực
nông nghiệp quá còn cao và trong công nghiệp chế biến quá thấp, ngành dịch
vụ gia tăng chậm. Thực tiễn trên đặt ra thách thức với nền kinh tế nước ta, mục tiêu
51
phấn đấu 2020 về cơ bản nước ta trở thành một nước công nghiệp trở nên khó khăn.
2.3. Chuyển dịch cơ cấu nội bộ các ngành trong nền kinh tế quốc dân
2.3.1. Chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản
2.3.1.1. Theo phân ngành của Tổng cục Thống kê
Trong những năm đổi mới, cơ cấu GDP trong nội bộ ngành nông
nghiệp tiếp tục có những chuyển dịch tích cực, cơ cấu nội bộ ngành nông,
lâm, thủy sản đã có sự biến đổi giảm tỷ trọng nông nghiệp, lâm nghiệp và
tăng tỷ trọng ngành thủy sản; từng bước được khai thác và phát huy, góp phần
thúc đẩy sản xuất phát triển, cải thiện chất lượng tăng trưởng (xem bảng 2.5).
% GDP toàn ngành
Nông nghiệp
Lâm nghiệp
Thủy sản
Năm
trong nền kinh tế
1995
27,18
1,24
2,91
23,03
2000
24,53
1,34
3,37
19,82
2001
23,25
1,27
3,72
18,26
2002
23,03
1,21
3,80
18,02
2003
22,54
1,27
3,93
17,34
2004
21,81
1,32
3,84
16,65
2005
20,94
1,20
3,89
15,85
2006
20,40
1,11
3,93
15,36
2007
20,30
1,05
4,02
15,22
2008
21,99
1,07
3,94
16,98
Nguồn: Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê từ 1995 đến 2008
52
Bảng 2.5: Cơ cấu GDP của ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản trong nền kinh tế (%)
GDP toàn
Nông nghiệp
Lâm nghiệp
Thủy sản
Năm
ngành
1995
100
84,73
4,60
10,70
2000
100
80,80
5,50
13,70
2001
100
78,50
5,50
16,00
2002
100
78,25
5,25
16,50
2003
100
76,93
5,63
17,44
2004
100
76,34
6,05
17,61
2005
100
75,69
5,73
18,58
2006
100
75,30
5,44
19,26
2007
100
75,00
5,20
19,80
2008
100
77,21
4,87
17,92
Nguồn: Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê từ 1995 đến 2008
Bảng 2.6: Cơ cấu GDP của toàn ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản (%)
Mặc dù, trong nội bộ ngành nông nghiệp đã có sự chuyển dịch, từ năm
1995 đến nay tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm cụ thể năm 1995 là
23,03%, đến năm 2007 còn 15,22% nhưng năm 2008 tăng đạt 16,98%. Tỷ
trọng lâm nghiệp giảm từ 1,24% năm 1995 đến năm 2007 còn 1,05% trong
khi lâm nghiệp còn nhiều tiềm năng về rừng và đất rừng. Trong khi đó, tỷ
trọng thủy sản trong GDP tăng từ 2,91% năm 1995 lên 4,02% năm 2007
nhưng tốc độ tăng còn thấp.
Việc cơ cấu lại khu vực nông-lâm nghiệp-thủy sản theo hướng chuyển
từ nuôi, trông cây, con có giá trị gia tăng thấp sang cây, con có giá trị gia tăng
cao để tăng thu nhập; chuyển từ sản xuất những sản phẩm có cung vượt quá
cầu sang các sản phẩm có thị trường tiêu thụ rộng lớn. Cơ cấu giá trị sản xuất
ngành nông, lâm, thủy sản cũng có sự dịch chuyển. Trong tổng giá trị sản xuất
53
ngành nông, lâm, thủy sản, tỷ trọng của ngành nông nghiệp đã giảm từ 87,1%
năm 1991 xuống 78,3% năm 2002, cùng thời gian tỷ trọng ngành lâm nghiệp
giảm từ 5,6% xuống còn 3,9%; tỷ trọng ngành thủy sản tăng từ 7,3% lên 17,8%.
Trong nội bộ ngành nông nghiệp, ngành chăn nuôi tiếp tục được chú
trọng phát triển và đưa lên lên thành ngành sản xuất chính. Tính đến năm
2008 giá trị sản xuất của khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản theo giá so
sánh 1994 ước tính đạt gần 212 nghìn tỷ đồng, tăng 5,6% so với năm 2007,
trong đó nông nghiệp tăng 5,4%, lâm nghiệp tăng 2,2% và thủy sản tăng
6,7%. [31].
- Trong nông nghiệp
Ngành nông nghiệp đã bắt đầu chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi
theo hướng sản xuất những sản phẩm có chất lượng và giá trị gia tăng cao,
đảm bảo an toàn vệ sinh.
Sự phát triển của nông nghiệp và sự thay đổi trong cơ cấu của nó đã tạo
cơ hội và điều kiện mới cho sự phát triển của ngành công nghiệp, dịch vụ ở
nông thôn, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung. Sự phát
triển của ngành nông nghiệp đã đi vào chiều sâu, sản lượng và năng suất lúa
gạo tăng liên tục qua các năm, không còn thuần túy do tăng diện tích, tăng lao
động mà bắt đầu chuyển sang tăng sản lượng nhờ vào tăng năng suất.
Bảng 2.7: Diện tích và sản lượng lúa giai đoạn 1995 - 2008
Năm
1995
1996
2000
2002
2006
2007
2008
Sản lượng 24963,7
26396,7
32529,5
34447,2
35849,5
35876,5
38000,6
Diện tích
6765,6
7003,8
7666,3
7504,3
7324,8
7201,0
7400,5
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2007, tr 239
Đơn vị tính: nghìn tấn, nghìn ha
Kể từ những năm 1991 đến năm 2000 sản lượng lúa tăng chủ yếu do
tăng diện tích và tăng lao động. Năm 2002 đến nay, sản lượng lúa tăng năng
54
suất lao động, diện tích trồng lúa giảm từ 7666,2 nghìn ha năm 2000 xuống
còn 7201,0 nghìn ha năm 2007. Năng suất lúa tăng cao là nhờ chuyển diện
tích cấy lúa bấp bênh, năng suất thấp, chi phí cao sang nuôi trồng thủy sản và
các cây trồng khác có hiệu quả. Ở Tây Nguyên, diện tích đất trồng lương thực
năng suất và hiệu quả thấp đã chuyển sang trồng cây công nghiệp phát huy
thế mạnh có giá trị xuất khẩu cao như cà phê, hồ tiêu...
Năm 2007, sản lượng nhiều loại cây công nghiệp hàng năm như đay,
mía, lạc, đậu tương đều tăng cả về diện tích và năng suất so với năm trước.
Những loại cây trồng này đã và đang trở thành cây trồng mũi nhọn, phát triển
ổn định và có thị trường xuất khẩu. Sản lượng cây có giá trị xuất khẩu cao
như cao su, hồ tiêu, điều, chè tăng từ 8,3 đến 14,4% do mở rộng diện tích và
tăng năng suất. Riêng cà phê, tuy diện tích tăng 1,9% nhưng do sâu bệnh nên
năng suất thấp, kéo theo sản lượng giảm 2,4%.
Đặc biệt, Việt Nam được đánh giá là nước có vườn tiêu năng suất cao
nhất thế giới hiện nay ở mức phổ biến 4-5 tấn/ha so với mức chung của thế
giới khoảng 0,8-1,2 tấn/ ha. Nước ta hiện đứng đầu thế giới về xuất khẩu sản
phẩm này, đã xuất khẩu khoảng 16.000 tấn và đạt kim ngạch 55 triệu USD.
Tuy nhiên, tỷ trọng ngành trồng trọt giảm xuống, sản lượng và tốc độ
tăng trưởng vẫn nhanh bắt đầu phát triển theo hướng nền nông nghiệp hàng
hóa và hướng vào xuất khẩu. Tốc độ tăng trưởng ngành trồng trọt không đều,
có xu hướng giảm về lương thực và cây công nghiệp, tăng ở cây ăn quả và rau
đậu.
Tèc ®é t¨ng tr ëng gi¸ trÞ s¶n xuÊt (%)
[N¨m
Tæng gi¸ trÞ s¶n xuÊt (tû ®ång)
1996
66183,4
Tæng sè L ¬ng thùc Rau, ®Ëu C©y CN C©y ¨n qu¶ 2,1
14,9
2,0
6,0
6,9
1997
70778,8
7,0
6,9
13,2
7,8
5,1
2000
90858,2
5,2
2,5
9,4
- 0,4
8,3
55
Bảng 2.8: Giá trị sản xuất ngành trồng trọt giai đoạn 1996 - 2007
2003
101786,3
3,8
2,4
3,3
8,7
1,8
2004
106422,5
4,6
4,2
3,2
5,9
4,8
2006
111613,0
3,4
0,5
5,1
11,1
0,8
2007
114333,2
8,2
0,8
2,6
8,8
2,4 Nguån: Niªn gi¸m thèng kª 2007
Sự chuyển đổi cơ cấu nội bộ ngành trồng trọt rõ nét ở tốc độ tăng
trưởng cây công nghiệp, năm 2006 đạt 11,1%, năm 2007 giảm xuống còn
2,6%; đối với rau, đậu từ năm 2000 đến nay tốc độ tăng trưởng qua các năm
tương đối đều và đặc biệt cây ăn quả năm 2007 tăng trưởng đạt 8,8%, các
vùng cây ăn quả có giá trị cao gắn với công nghiệp chế biến và phục vụ xuất
khẩu phát triển nhanh: vải thiều ở Hải Dương, xoài ở Nam Bộ, Vĩnh Long,
bưởi da xanh…Qua bảng trên, chúng ta có thể nhận thấy, tổng giá trị sản xuất
ngành trồng trọt chiếm tỷ trọng lớn, tăng đều hàng năm và cao hơn ngành
thủy sản.
- Lĩnh vực chăn nuôi
Chăn nuôi là ngành kinh tế quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, đáp
ứng nhu cầu thực phẩm cho tiêu dùng hàng ngày trong xã hội và còn là nguồn
thu nhập của hàng triệu người dân hiện nay. Hiện nay, chăn nuôi vẫn chưa
phát triển với qui mô lớn; vì vậy, chất lượng và chủng loại sản phẩm chăn
nuôi còn thấp, giá cả chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của cả thị trường
trong nước và xuất khẩu.
Chăn nuôi gia súc, gia cầm đang từng bước khôi phục sau những thiệt
hại do thiên tai và dịch bệnh. Nước ta, tính đến năm 2006 các đàn gia súc, gia
cầm đa dạng nhưng nguồn thực phẩm từ đàn gia súc, gia cầm này chưa đáp
ứng đủ cho nhu cầu tiêu dùng hiện nay 24,5kg/người/năm. Vì vậy, Đảng và
56
Chính phủ đề ra chính sách phát triển kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi
góp phần thúc đẩy phát triển ngành chăn nuôi theo hướng hàng hóa bền vững.
Do những yếu tố trên nên tỷ lệ xuất khẩu đạt rất thấp so với sản lượng
sản xuất, mặc dù đã có lúc về số lượng gia súc, gia cầm Việt Nam đã từng
đứng thứ hạng cao (số lượng lớn đứng thứ nhất trong khu vực Đông Nam Á,
thứ hai ở châu Á, thứ năm trên thế giới, chỉ sau Mỹ, Trung Quốc, Braxin,
Đức; số lượng bò đứng thứ tư trong khu vực, thứ 14 châu Á, thứ 53 thế giới,
số lượng trâu đứng thứ hai ở khu vực, thứ sáu châu Á, thứ 18 thế giới).
- Trong lĩnh vực lâm nghiệp
Do chính sách đóng cửa rừng để khoanh nuôi, bảo vệ và trồng rừng
mới nhằm khôi phục lại diện tích che phủ đã bị khai thác và tàn phá tới mức
cạn kiệt nên đóng góp cho GDP của lâm nghiệp còn nhỏ về trị số tuyệt đối và
tỷ trọng đóng góp trong tổng GDP ngành nông-lâm-ngư nghiệp có xu hướng
giảm đi; từ 3% GDP năm 1990 giảm dần còn hơn 1% năm 2004; số lượng lao
động chuyên làm lâm nghiệp rất nhỏ và số người sinh sống trong môi trường
có liên quan đến rừng khá lớn.
Lâm nghiệp tiếp tục chuyển từ một nền lâm nghiệp nặng về khai thác tự
nhiên sang nền lâm nghiệp dựa vào lâm sinh; từ chỗ chủ yếu dựa vào quốc
doanh sang nền sản xuất có tính xã hội cao với nhiều thành phần kinh tế tham
gia. Tính đến năm 2007, diện tích trồng rừng cả năm ước tính đạt 194,7 nghìn
ha, tăng 1% so với năm trước; nhờ đẩy mạnh trồng, khoanh nuôi tái sinh nên
diện tích rừng cả nước ước tính đạt 12,58 triệu ha, tăng 311 nghìn ha so với
năm 2006, nâng tỉ lệ che phủ rừng từ 37,9% năm 2006 lên 38,8% năm 2007.
- Lĩnh vực thủy sản là ngành kinh tế mũi nhọn của quốc gia, vai trò
đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và mở rộng quan hệ thương mại quốc
tế, tao việc làm, xóa đói giảm nghèo. Trong quá trình đổi mới nền kinh tế,
57
ngành thủy sản có bước chuyển biến rất mạnh, các sản phẩm đánh bắt và nuôi
trồng cũng được chú ý tập trung vào những sản phẩm có giá trị kinh tế cao, dễ
được chấp nhận trên thị trường trong nước và trên thế giới.
Về sản lượng nuôi thủy sản phát huy lợi thế rõ rệt và sản lượng khai
thác hàng năm đều tăng: năm 1990 đạt 709.000 tấn, năm 2000 tăng 1.280.590
tấn, sản lượng tăng nhanh vào năm 2006, đạt 3.695.927 tấn.
Năm 2007, giá trị sản xuất thủy sản theo giá so sánh năm 1994 ước
tính đạt 46,7 nghìn tỷ đồng, tăng 11% so với năm 2006. Đặc biệt, ngành thủy
sản đã phát huy thế mạnh thị trường xuất khẩu, giá trị xuất khẩu ngành thủy
sản phát triển, năm 1990 đạt giá trị 205 nghìn USD, năm 1996 đạt 670 nghìn
USD, tăng liên tục đến năm 2006 giá trị xuất khẩu đạt 3.357.960 USD.
Xuất khẩu thủy sản chiếm ưu thế đối với thị trường EU, mặc dù sản
lượng xuất khẩu thủy sản giảm mạnh vào năm 2002. Từ năm 2003 đến năm
2005, tỉ lệ tăng trưởng bình quân hàng năm của xuất khẩu thủy sản Việt Nam
Nguồn: Bộ Thủy sản qua các năm
sang thị trường này là 61% về khối lượng và 73% về giá trị (biểu đồ 2.3).
Biểu đồ 2.3: Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang EU
Vì vậy, những năm qua, ngành thủy sản đã đóng góp rất lớn trong việc
giải quyết công ăn việc làm cho nông dân, tăng thu nhập cho bà con, đem lại
58
nguồn ngoại tệ lớn cho đất nước. Thủy sản chiếm tỷ trọng ngày càng tăng
trong ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản là nhờ tăng liên tục sản lượng và giá
trị sản xuất.
Tóm lại, quá trình chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành nông nghiệp
thời gian qua ở nước ta là nhờ có chủ trương đúng đắn của Nhà nước. Mặt
khác, Nhà nước có những chính sách khuyến khích, đầu tư và tạo thuận lợi về
nhiều mặt cho phát triển; sự phát triển của công nghệ sinh học cũng là yếu tố
rất cơ bản để chuyển dịch cơ cấu vật nuôi, cây trồng và nâng cao năng suất
lao động. Tiếp đó, cũng cần tính đến sự chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh
tế, nhất là mô hình kinh tế trang trại. Trang trại của các hộ gia đình đã làm
đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp. Sự phát triển của
ngành dịch vụ trong nông nghiệp, nông thôn cũng có ý nghĩa trong quá trình
chuyển dịch trên.
2.3.1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế khu vực I theo phân ngành của Liên Hợp Quốc
Trong quá trình đổi mới nền kinh tế, tốc độ tăng trưởng của khu vực I
và GDP của Việt Nam và một số nước trong khu vực vẫn còn khoảng cách
lớn.
Thủy sản Khai thác
Nông nghiệp
Lâm nghiệp
Năm
mỏ
1995 2000
% Khu vực I trong GDP 31,99 34,18
23,03 19,82
1,24 1,34
2,91 3,37
4,81 9,65
2001
32,45
18,26
1,27
3,72
9,21
2003
31,88
17,34
1,27
3,93
9,34
2005
31,53
15,85
1,20
3,89
10,59
2006 2007
30,63 30,05
15,36 15,22
1,11 1,05
3,93 4,02
10,23 9,76
2008
30,91
16,98
1,07
3,94
8,92
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2004, 2007 trang 76
Bảng 2.9: Cơ cấu GDP của khu vực I trong nền kinh tế
59
Bảng 2.10: Cơ cấu GDP của khu vực I qua các năm
Năm
Thủy sản
1995 2000
GDP toàn khu vực I 100 100
Nông nghiệp 72,00 57,99
Lâm nghiệp 3,88 3,92
9,09 9,86
Khai thác mỏ 15,03 28,23
2001
100
56,27
3,90
11,46
28,37
2003
100
54,40
3,98
12,32
29,30
2005
100
50,27
3,80
12,34
33,59
2006 2007
100 100
50,20 50,65
3,62 3,50
12,83 13,38
33,40 32,47
2008
100
54,93
3,46
12,75
28,86
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2004, 2007
Tỉ trọng GDP của toàn khu vực I còn rất cao, năm 2008 đạt 30,91% so
với chỉ tiêu đặt ra ở nước ta đến năm 2010 là khu vực I còn 15-16% và tỉ lệ
lao động làm việc trong khu vực này cũng giảm. Thực tế, sự chuyển dịch còn
rất chậm, năm 1995 chiếm 30,05% đến năm 2008 là 30,91%. Trong nội bộ
khu vực I, nông nghiệp chiếm tỉ trọng cao nhất, do vậy khi công nghiệp tăng
trưởng âm song với sự tăng trưởng mạnh của nông nghiệp, dịch vụ đã giúp
nền kinh tế Việt Nam thoát khỏi khủng hoảng. Năm 1995 tỉ trọng từ 72%
giảm xuống còn 54,93% vào năm 2008 khiến tốc độ tăng GDP trong nông
nghiệp giảm rõ rệt; vì chi phí trung gian trên một đơn vị sản phẩm nông
nghiệp có xu hướng tăng, nên giá trị gia tăng trên một đơn vị sản phẩm nông
nghiệp có xu hướng giảm. Do sự sụt giảm các yếu tố đầu vào của sản xuất
nông nghiệp các chí phí tăng; nông sản xuất khẩu giảm, giá nông sản không
giữ được ở mức cao nguyên nhân lớn nhất sự sụt giảm là do khủng hoảng tài
chính nặng nề tại các thị trường chủ chốt như Mĩ, EU, Trung Quốc, Nhật Bản
khiến sức cầu giảm mạnh; các ngành khai thác và thủy sản giảm tỉ lệ không
đáng kể.
Thực tế, tốc độ tăng trưởng ngành này ở các nước trong khu vực thấp, ở
nước ta lại quá cao dù tính đến thời điểm sau vài chục năm. Đặc biệt so sánh
60
tỉ trọng khu vực I ở nước ta theo phân ngành của Tổng cục Thống kê và Liên
Hợp Quốc đã có sự chênh lệch, năm 1995 có xu hướng thu hẹp là 27,17%/
31,99% đến năm 2006 là 20,40%/30,63% và năm 2008 có xu hướng nới rộng
hơn là 21,99%/30,91%. Sự chênh lệch gần 10% là con số đáng lưu ý.
Ở các nước trong khu vực, tính đến năm 2006 tỉ trọng của khu vực I ở
các nước trong khu vực thấp như Thái Lan là 9,83%, Hàn Quốc là 3,25%,
Singapore là 0,09%. Qua số liệu trên, so sánh mục tiêu đặt ra đối với khu vực
I ở nước ta sự chuyển dịch quá chậm và cao gấp Thái Lan khoảng 3,5 lần, Hàn
Quốc khoảng 9,5 lần (bảng 2.11).
Bảng 2.11: Tốc độ tăng trưởng khu vực I và GDP của Việt Nam,
Nước
Thời gian
Việt Nam Việt Nam *
Nhật Bản
Hàn Quốc
Đài Loan
1991- 2004 1991- 2004 Thập kỉ 1960 Thập kỉ 1970 Thập kỉ 1960 Thập kỉ 1970 Thập kỉ 1960 Thập kỉ 1970
Tốc độ tăng trưởng khu vực I (A) 4,06 5,27 4,00 1,10 4,40 3,20 4,10 1,60
Tốc độ tăng trưởng GDP (B) 7,48 7,48 10.9 5,00 8,60 9,50 9,60 8,80
Chênh lệch: (A): (B) lần 0,54 0,70 0,37 0,22 0,51 0,34 0,43 0,18
Việt Nam *: Theo phân ngành của Liên hợp quốc
Việt Nam: Theo phân ngành của Thống kê Việt Nam
Nguồn: Tổng cục thống kê năm 2007
Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan (%)
Qua bảng trên, cho thấy tốc độ tăng trưởng khu vực I so với mức tăng
trưởng GDP của toàn bộ nền kinh tế quốc dân ở nước ta giai đoạn 1991-2004
61
về cơ bản so với nhóm NICs Đông Á chênh lệch thấp trong thời kì đầu quá
trình đổi mới nền kinh tế. Mức tăng trưởng của khu vực I so với mức tăng
trưởng GDP của toàn bộ nền kinh tế khá cao, nhưng sự chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa cho thấy tỉ trọng của
khu vực còn cao so với cơ cấu nền kinh tế ở nước ta và các nước trong khu
vực. Tính theo phân ngành của Liên Hợp Quốc tốc độ tăng trưởng của khu
vực I ở Việt Nam trên tốc độ tăng trưởng của GDP rất lớn (5,27%/ 7,48%)
chưa có xu hướng giảm; so với các nước NICs Đông Á cùng với quá trình
công nghiệp hóa, tốc độ tăng trưởng khu vực nông nghiệp giảm dần đi như
Hàn Quốc ở thập kỉ 1960 là 4,4%/8,6%, Đài Loan là 4,1%/9,6%. Ở các NICs
Đông Á, cùng với quá trình công nghiệp hóa tốc độ tăng trưởng của khu vực I
giảm dần.
Ở nước ta, khu vực I được bổ sung thêm ngành khai thác - ngành đóng
góp tỉ trọng lớn thứ hai trong khu vực I, do đó sẽ dẫn đến tỉ trọng của khu vực
I tăng lên cao hơn khu vực II; ở giai đoạn đầu của sự phát triển khu vực I mới
chủ yếu dựa vào nông nghiệp và khai thác, khu vực III tỉ trọng tương đối lớn
nhưng tốc độ tăng chậm.
So với các nước trong khu vực, sự tăng trưởng của khu vực này còn
quá cao và tất yếu sự chuyển dịch cơ cấu ngành còn chậm, có sự chênh lệch
quá lớn cụ thể tính đến năm 2005 ở Hàn Quốc chiếm 3,41%, Thái Lan là
9,97%, Phi-lip-pin là 14,35%; ở Việt Nam cùng thời gian trên theo phân
ngành của Tổng cục Thống kê là 20,97% và theo phân ngành của Liên Hợp
Quốc là 31,57% cho thấy còn ở khoảng cách quá xa so với các nước trong
khu vực. Đặc biệt, đánh giá theo cách phân ngành của Liên Hợp Quốc cho
thấy tỉ trọng khu vực I trong nền kinh tế ở nước ta lớn hơn và lạc hậu hơn so
với cách phân ngành của Tổng cục Thống kê. Như vậy, dù lựa chọn cách tính
62
nào cho thấy cơ cấu kinh tế ngành ở Việt Nam còn quá lạc hậu biểu hiện trình
độ phát triển của nền kinh tế còn rất thấp, khu vực I ở nước ta vẫn chiếm tỉ
trọng cao trong ba khu vực của nền kinh tế quốc dân.
2.3.2. Chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp và xây dựng
2.3.2.1. Theo phân ngành của Tổng cục Thống kê
Trong những năm đổi mới ngành công nghiệp đã được đẩy mạnh, góp
phần tăng trưởng kinh tế của đất nước nhờ phát huy được lợi thế so sánh trong
việc khai thác tài nguyên, và sử dụng nguồn lao động. Cơ cấu ngành công
nghiệp có sự chuyển dịch mạnh trong nền kinh tế quốc dân nói chung.
Giai đoạn 1990-1995, tỷ trọng bình quân hàng năm của toàn ngành
chiếm 27,5% GDP, cao hơn giai đoạn 1986-1990 (25,36%).
Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm công nghiệp và xây dựng đạt tốc độ
cao hơn tăng trưởng tổng sản phẩm của nền kinh tế, toàn ngành công nghiệp
đã vượt qua khó khăn như thiếu vốn đầu tư và cơ chế một giá được thực hiện.
Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của toàn ngành công nghiệp và xây
dựng tăng lên 13,68%/năm, tăng trưởng của nền kinh tế đạt 8,2%.
Sau thời kì suy giảm do chuyển đổi cơ chế, từ đầu năm 1990 phần lớn
các ngành công nghiệp được phục hồi và phát triển. Cơ cấu ngành công
nghiệp đã chuyển mạnh từ chỗ phát triển công nghiệp nặng với sự trợ giúp
vốn, kĩ thuật từ các nước xã hội chủ nghĩa, chuyển hướng phát triển các ngành
công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, chế biến nông sản thực phẩm và các
ngành có lợi thế về nguồn lực trong nước như khai khoáng, nhiên liệu…
Thời kì này, Mĩ bỏ cấm vận và được vay vốn trở lại của các tổ chức
kinh tế quốc tế như IMF, WB để phát triển, Việt Nam lần đầu tiên sản xuất
được dầu thô và khí đốt. Thời điểm này, Việt Nam cải cách và mở cửa kinh
tế, gia nhập ASEAN…nên sản xuất trong nước bắt đầu phát triển, đặc biệt là
63
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Giai đoạn 1996 đến nay, với mức tăng trưởng bình quân 11,97%/năm
(1990-2004), cao gấp 1,6 lần mức tăng GDP của toàn bộ nền kinh tế 7,48%.
Công nghiệp và xây dựng là lĩnh vực tạo ra sự biến đổi rõ nét nhất về động
thái phát triển và tương quan cơ cấu trong những năm đổi mới. Khu vực công
nghiệp đã thực sự đóng vai trò đầu tàu trong sự phát triển và dịch chuyển cơ
cấu của toàn bộ nền kinh tế. Tỷ trọng ngành công nghiệp và xây dựng trong
GDP tăng từ 22,67% năm 1990 và đạt 36,73% năm 2000; năm 2007 tăng
41,28% tức là tăng gấp đôi trong thời gian 18 năm.
Cơ cấu công nghiệp đã từng bước chuyển dịch giữa các ngành theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Bảng 2.12 : Tỷ trọng ngành công nghiệp và xây dựng trong GDP
1995 2000
28,75
36,73
2001 38,12
2002 38,49
2003 39,46
2004 40,09
2005 41,10
2006 2007 2008 41,58
41,53
39,90
4,81
9,65
9,21
8,62
9,34
10,17 10,59 10,23
8,92
9,76
14,99 18,56 19,78 20,59 20,45 20,32 20,70 21,25
21,38 21,23
2,05
3,17
3,33
3,40
3,62
3,35
3,45
3,43
3,26
Năm % KV công nghiệp và XD trong GDP Công nghiệp khai thác Công nghiệp chế biến Công nghiệp điện nước
3,48
64
giai đoạn 1996 - 2008 (theo giá thực tế)
Xây dựng
6,9
5,35
5,80
5,89
6,05
6,25
6,36
6,62
6,49
6,96
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2000, 2007
Tính theo GDP toàn ngành kinh tế là 100% thì trong nội bộ ngành công
nghiệp và xây dựng đóng góp của từng ngành trong GDP có sự khác nhau về
lượng khá rõ (xem bảng 2.13).
Bảng 2.13 : Cơ cấu GDP toàn ngành công nghiệp và xây dựng
1995 2000 100 100
2001 100
2002 100
2003 100
2004 100
2005 100
2006 2007 2008 100 100 100
Năm GDP toàn ngành CN & XD
16,73 26,27 24,16 22,39 23,67 25,37 25,77 24,63
23,47 22,36
52,14 50,53 51,88 53,48 51,82 50,69 50,36 51,17
51,42 53,21
7,13
8,63
8,74
8,83
9,18
8,35
8,39
8,26
8,17
Công nghiệp khai thác Công nghiệp chế biến Công nghiệp điện nước
8,37
Xây dựng
24,00 14,57 15,22 15,30 15,33 15,59 15,48 15,94
16,74 16,26
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2000, 2007
giai đoạn 1996 - 2008 của nền kinh tế (theo giá thực tế)
Công nghiệp chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong GDP năm 1995 là
28,75%, từ năm 2001 là 38,13% tăng đều đến năm 2007 đạt 41,58% nhưng
năm 2008 giảm còn 39,90%. Cơ cấu GDP toàn ngành, ngành công nghiệp
khai thác chiếm tỉ trọng cao trên 50% so với các ngành còn lại. Tỷ phần của
tất cả các phân ngành công nghiệp và xây dựng đều có sự gia tăng với mức độ
khác nhau. Công nghiệp khai thác tăng trong giai đoạn 1995-2005 do chủ yếu
phát triển khai thác dầu thô và có xu hướng giảm trong 3 năm gần đây trong
cơ cấu công nghiệp, do công nghiệp chế biến tăng nhanh hơn trong cùng thời
kỳ, tăng từ 5,21% GDP năm 1990 lên 10,13% đến năm 2007 giảm còn
9,76%, năm 2008 giá trị tăng thêm giảm 3,8%. Trong công nghiệp khai thác
đáng chú ý là ngành khai thác dầu mỏ, triển vọng ngành này sẽ còn tăng
65
nhanh trong những năm tới, tạo cơ sở cho sự phát triển của các ngành công
nghiệp khác như điện, phân bón, hóa chất. Ngoài ra, một số ngành công
nghiệp khai thác khác có tốc độ phát triển cao đang dần chiếm vị trí quan
trọng trong sự phát triển công nghiệp những năm tới sẽ là công nghiệp khai
thác nguyên nhiên liệu như than, quặng kim loại, đá để phục vụ cho sản xuất
vật liệu xây dựng...
Công nghiệp chế biến đóng vai trò rất quan trọng trong hệ thống công
nghiệp Việt Nam. Tỷ trọng công nghiệp chế biến tăng từ 12,6% năm 1990
tăng lên 21,23% năm 2008, tỷ trọng trong GDP bình quân tăng 0,62%/năm,
đến năm 2008 chiếm tỉ trọng 63,5% tổng giá trị tăng thêm công nghiệp nhưng giá
trị tăng thêm là 10% thấp hơn mức tăng 12,8% năm 2007. Ngành này bao gồm:
- Nhóm ngành công nghiệp sử dụng nguyên liệu từ nông, lâm, thủy, hải
sản chiếm tỷ trọng cao nhất. Tỷ trọng nguyên liệu nông sản được chế biến sâu
còn thấp, mới khoảng 30% so với nội bộ ngành công nghiệp.
- Nhóm ngành sử dụng nhiều nhân công như dệt may, da giày, chế biến
thực phẩm... chiếm trên 40% giá trị sản xuất công nghiệp. Nhóm này thu hút
được vốn đầu tư nước ngoài, chủ yếu phát triển theo hướng xuất khẩu và trở
thành một trong những ngành có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất.
- Nhóm ngành lắp ráp ô tô, xe máy, điện tử cũng là ngành sử dụng
nhiều nhân công có kỹ thuật cao. Tuy nhiên, nhóm này chưa tạo được sự gắn
kết giữa lắp ráp với chế tạo linh kiện, phụ tùng và có thể tham gia vào mạng
lưới sản xuất trong khu vực.
Các ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện nước kết cấu hạ
tầng cho sản xuất và tiêu dùng xã hội, nên trong những năm qua được quan
tâm phát triển. Tốc độ tăng trưởng GDP trong những năm gần đây đạt bình
quân khoảng 0,13%/năm, từ 1,37% năm 1990 tăng lên 3,51% năm 2004 đến
năm 2008 giảm còn 3,26%. Về ngành điện, đã phát triển nguồn thủy điện kết
66
hợp với nhiệt điện; nguồn nước cũng được đầu tư nên đã thực hiện đồng bộ quy
hoạch cung cấp điện nước cho các khu công nghiệp, tăng lượng nước cho tiêu dùng
trong các vùng đô thị. Xét toàn ngành công nghiệp và xây dựng, công nghiệp
điện nước chiếm tỉ trọng thấp nhất từ năm 1995 đến năm 2008 khoảng 9,67%.
Trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp thì giá trị sản xuất công nghiệp
chế biến chiếm tỷ phần lớn và có xu hướng tăng lên; ngược lại tỷ trọng công
nghiệp khai thác tài nguyên thiên nhiên có xu hướng giảm xuống trên phạm vi
toàn ngành cũng như từng khu vực kinh tế. Theo đánh giá của một số chuyên
gia, nếu 17 năm nữa ngành công nghiệp chế biến của chúng ta vẫn chỉ phát
triển ở tiến độ như hiện nay thì đến năm 2020 sẽ chỉ đạt khoảng 32%, còn
thấp so với mức 37% để được đánh giá là một nước nông nghiệp đã chuyển
sang sang nước công nghiệp.
Ngành xây dựng là ngành liên quan đến đầu vào sản xuất, tạo thành
năng lực và tài sản cố định của các ngành, tạo ra kết cấu hạ tầng kinh tế-xã
hội của đất nước; là kênh tiêu thụ lớn sản phẩm do các ngành sản xuất tạo ra,
làm gia tăng thu nhập và sức mua có khả năng thanh toán của người lao động.
Những năm 1990, tỷ trọng của ngành này trong GDP còn thấp chỉ đạt 3,8%,
đến năm 1995 tăng lên 6,9 % đến năm 2007 giảm xuống 6,69%, tỷ trọng
trong GDP bình quân tăng 0,16%/năm, năm 2008 giá trị tăng thêm của ngành
xây dựng không tăng trong khi năm 2007 ngành này tăng 12%. Kết quả trên
chủ yếu do việc thực hiện Luật Doanh nghiệp, đầu tư ở khu vực dân doanh
tăng với tốc độ cao, góp phần làm tăng vốn đầu tư phát triển. Nếu so với
GDP, riêng năm 2003 ngành xây dựng đã đạt 36,3% vượt xa tỷ lệ 31,7% của
năm 1995 đến năm 2007 đạt 41,58%.
Năm 2008, đánh dấu sự nỗ lực của các doanh nghiệp thuộc Bộ Xây
dựng, khi phải đối mặt với những biến động của nền kinh tế thế giới và trong
nước. Tốc độ tăng trưởng của các doanh nghiệp thuộc Bộ Xây dựng tiếp tục
67
được duy trì cao hơn năm 2007. Tổng giá trị sản xuất kinh doanh thực hiện
năm 2008 đạt 105.607 tỷ đồng, bằng 105% kế hoạch năm, tăng 20% so với
cùng kỳ năm 2007. Giá trị thực hiện đầu tư là 31.570,5 tỷ đồng, đạt 91,7% kế
hoạch năm, tăng 30,4% so với cùng kỳ năm 2007, với hơn 450 dự án đã và
đang được triển khai.
Số liệu thống kê cho thấy, so với các phân ngành khác trong nội bộ
ngành công nghiệp và xây dựng, tỷ trọng của công nghiệp chế biến giá trị gia
tăng cao nhất; tương đương với mức tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến/GDP
bình quân hàng năm của một số nước NICs Đông Á thời kì “cất cánh”.[33].
Phân tích cơ cấu ngành cho thấy, những ngành công nghiệp đóng vai
trò then chốt trong tương lai lại phát triển chậm và chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Lấy
ví dụ ngành công nghệ thông tin của nước ta còn phát triển rất chậm. Những
ngành công nghệ cao khác trong tổng số ngành công nghiệp nước ta còn ở tỷ
lệ thấp so với các nước trong khu vực.
Trong cơ cấu sản phẩm công nghiệp chủ yếu, đã có các sản phẩm có tỷ
lệ xuất khẩu cao như dệt may, giày da…có những sản phẩm sơ chế trở thành
xuất khẩu chủ lực. Nhóm ngành có tốc độ tăng trưởng nhanh là những ngành
khai thác có hàm lượng vốn lớn như thép, xi măng, khai thác dầu khí…Các
sản phẩm lắp ráp có hàm lượng công nghệ, kĩ thuật và trình độ lao động cao
như sản phẩm điện tử, đồ dân dụng cao cấp, công nghệ thông tin, bưu chính
viễn thông, thực phẩm cao cấp…đã hướng vào xuất khẩu, tuy tỷ trọng trong
giá trị kim ngạch xuất khẩu còn nhỏ. Thực tế, đại đa số sản phẩm công nghiệp
mới chỉ hướng vào khai thác lợi thế có sẵn, còn các sản phẩm chế tạo sử dụng
công nghệ, kĩ thuật cao được xác định là sản phẩm mũi nhọn chưa đủ sức
cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Ngành công nghiệp Việt Nam mang tính hướng nội ngay từ khi mới
được xây dựng; các chính sách của Nhà nước về thay thế hàng nhập khẩu, bảo
68
hộ công nghiệp trong nước qua mức thuế xuất, nhập cao và những hàng rào
phi thuế. Tuy nhiên, do hạn chế về nguồn vốn, khả năng phát triển của thị
trường trong nước nên đã hạn chế sự phát triển của ngành này, cho thấy sự
mâu thuẫn giữa chính sách công nghiệp với các chính sách khác.
Trong những năm qua, vị trí và vai trò của ngành công nghiệp trong
nền kinh tế quốc dân đã tăng lên, song nội bộ công nghiệp chuyển biến chậm.
Thực chất, đóng góp cho tăng trưởng công nghiệp những năm qua chủ yếu là
ngành công nghiệp khai thác, tỷ trọng công nghiệp chế biến và chế tạo còn
thấp. Trong khi đó, các ngành công nghiệp mới như công nghiệp điện tử,
công nghiệp cơ khí mới đang phát triển ở giai đoạn đầu, giai đoạn lắp ráp
CKD. Các ngành công nghiệp đáp ứng đầu vào và đầu ra của nông nghiệp còn
nhỏ bé.
2.3.2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế khu vực II theo phân ngành của Liên Hợp Quốc
Theo phân ngành của Liên Hợp Quốc, từ năm 1990 đến nay, tỉ trọng
của khu vực II (ngành công nghiệp chế biến) ở nước ta còn rất thấp và tăng
trưởng chậm; trong khi khu vực I tăng trưởng quá cao, mất cân đối vì công
nghiệp khai thác và nông nghiệp chiếm tỉ phần lớn, nhưng đó là qui luật tất
yếu của các nước đang phát triển.
Vì vậy, trong thời kì đổi mới phải đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế khu vực II, khắc phục sự “chuyển dịch ngược” mất cân đối trong
cơ cấu kinh tế của một nước công nghiệp vào năm 2020. Theo số liệu thống
kê qua các năm 1990 đến 2008 khu vực II đạt mức tăng trưởng đáng kể trong
GDP, năm 1990 đạt 12,56% đến năm 2003 tăng nhanh đạt 20,54%, sau đó tốc
độ tăng lại có xu hướng chững lại đến năm 2007 đạt 21,38% giảm nhẹ vào
năm 2008 đạt 21,23% (xem bảng 2.14).
Năm
1990 1995 2000 2003 2004 2005 2006 2007 2008
GDP nền kinh tế
100
100
100
100
100
100
100
100
100
69
Bảng 2.14. Tỉ trọng của khu vực II trong GDP (%) qua các năm
Khu vực II
12,56 14,99 18,56 20,45 20,34 20,63 21,25 21,38 21,23 Nguồn: Niên giám thống kê năm từ năm 1996, 2002, 2007
Trong nội bộ khu vực II đã có sự chuyển dịch nhưng còn chậm, mức
tăng trưởng có xu hướng giảm nhẹ, tỉ trọng trong GDP từ năm 1990 đến năm
2008 bình quân tăng 0,47%/năm. Trong nội bộ khu vực II, ngành sản xuất
thực phẩm và đồ uống chiếm giá trị cao nhất từ năm 2000 đến 2006 khoảng
20%. Xếp sau là ngành sản xuất sản phẩm dệt tăng qua các năm như năm
2003 là 4,0% và năm 2006 tăng 4,8%; sản xuất hóa chất chiếm khoảng 5%
trong toàn ngành.
Mặt khác, ngành công nghiệp chế biến gỗ đã tác động tích cực đóng
góp vào sự dịch chuyển của ngành kinh tế. Hình thành cụm công nghiệp chế
biến gỗ có qui mô lớn ở Bình Dương, Đồng Nai, thành phố Hồ Chí Minh,
Bình Định và Quảng Nam. Do thu hút được nhiều FDI nên các doanh nghiệp
gỗ Việt Nam đã tiếp cận và áp dụng công nghệ chế biến gỗ hiện đại để sản
xuất mặt hàng gỗ xuất khẩu sang các thị trường trọng điểm như Mĩ, EU, Nhật
và đang thâm nhập vào thị trường Đông Âu, Trung Đông, Nam Mĩ. Năm
2006 kim ngạch xuất khẩu gỗ đạt 1,93 tỉ USD, năm 2007 tăng 2,4 tỉ USD và
năm 2008 ước tính đạt 2,8 tỉ USD nhưng tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất
khẩu năm 2008 giảm so với năm 2006 và 2007.
Công nghiệp chế biến thực phẩm chiếm giá trị cao trong ngành công
nghiệp chế biến nhưng chưa khai thác hết thế mạnh và tiềm năng của đất
nước. Năm 2005, sản lượng thủy sản chế biến xuất khẩu 705.759 nghìn tấn.
Doanh nghiệp chế biến thủy sản phân bố trong cả nước, phấn đấu năm 2010
sản lượng thủy sản xuất khẩu đạt 891.000 tấn.
Đánh giá tốc độ tăng trưởng khu vực II và GDP của Việt Nam vào thời
70
kì sau so với Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan (%) ở thời kì trước cho thấy
sự chênh lệch lớn. Việt Nam giai đoạn 1990-2004 là 10,88% trong khi đó vào
năm 1960 Hàn Quốc là 17,2% và Đài Loan là 14,7%.
Theo hai cách tính, khu vực II ở nước ta đều tăng trưởng chậm và
chiếm tỉ trọng thấp trong GDP của nền kinh tế. Tính theo phân ngành của
Liên Hợp Quốc thì tỉ trọng khu vực II luôn thấp hơn so với phân ngành của
Tổng cục Thống kê là ngành công nghiệp và xây dựng, năm 2000 theo phân
ngành của Tổng cục Thống kê đạt 18,56% và theo phân ngành của Liên Hợp
Quốc là 36,73%; đến năm 2008 theo phân ngành của Tổng cục Thống kê là
21,23% và theo phân ngành của Liên Hợp Quốc là 39,91%, như vậy biên độ
chênh lệch giữa hai cách tính vẫn chưa có xu hướng thu hẹp (xem bảng 2.15).
Bảng 2.15: Tốc độ tăng trưởng khu vực II và GDP
Thời gian
Nước/ vùng lãnh thổ Việt Nam Việt Nam *
Nhật Bản
Hàn Quốc
Đài Loan
1991- 2004 1991- 2004 Thập kỉ 1950 Thập kỉ 1960 Thập kỉ 1970 Thập kỉ 1950 Thập kỉ 1960 Thập kỉ 1970 Thập kỉ 1950 Thập kỉ 1960 Thập kỉ 1970
Tốc độ tăng trưởng khu vực II (A) 11,97 10,88 13,70 10,90 5,50 12,30 17,20 15,40 10,70 14,70 12,50
Tốc độ tăng trưởng GDP (B) 7,48 7,48 8,00 10.90 5,00 5,10 8,60 9,50 7,60 9,60 8,80
Chênh lệch: (A): (B) lần 1,47 1,45 1,71 1,00 1,10 2,41 2,0 1,62 1,41 1,53 1,42
Việt Nam *: Theo phân ngành của Liên hợp quốc
Việt Nam: Theo phân ngành của Thống kê Việt Nam
Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2007
của Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan (%)
Bảng trên cho thấy tốc độ tăng trưởng của khu vực công nghiệp chế
biến ở Việt Nam trong thời gian qua về cơ bản tương tự như các nước NICs
Đông Á giai đoạn công nghiệp hóa, kinh tế tăng trưởng nhanh. So sánh chi
tiết tốc độ tăng trưởng của khu vực II (công nghiệp chế biến) với tốc độ tăng
71
GDP của Việt Nam giai đoạn 1991-2004 ngang bằng với Đài Loan và kém
Hàn Quốc trong thập kỷ 1950 và1960, kém Nhật Bản trong thập kỷ 1950.
Hơn nữa, nền kinh tế Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan đều duy trì được mức
tăng trưởng công nghiệp cao trên 10%/năm tới hai, ba thập kỉ đã biến ba nước
đó thành một nền kinh tế công nghiệp hóa mới.
Tính theo chuẩn của Liên Hợp Quốc nước ta giai đoạn 1991-2004 tốc
độ tăng trưởng ngành công nghiệp 10,88% thấp hơn theo cách tính của thống
kê Việt Nam 11,97% và của các NICs Đông Á là thách thức đặt ra trong
những năm tới. Qua nghiên cứu theo hai cách phân ngành ở trên cho thấy, cơ
cấu ngành công nghiệp chế biến ở nước ta chiếm tỉ trọng thấp trong GDP,
việc tính toán cơ cấu khu vực II theo phân ngành của Liên hợp Quốc có ý
nghĩa to lớn đối với nền kinh tế ở nước ta trong giai đoạn hiện nay; đánh giá
chính xác hơn thực tế khu vực công nghiệp chế biến ở nước ta và qua so sánh
sự phát triển khu vực II ở nước ta còn thấp, chuyển dịch chậm với các nước
trong khu vực và thế giới. Mặt khác, do chưa có chính sách đồng bộ, tiềm
năng thế mạnh của khu vực này khai thác chưa có hiệu quả và ứng dụng tiến
bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất còn hạn chế nên khả năng cạnh tranh của
khu vực này với thị trường nước ngoài còn gặp nhiều khó khăn.
Vì vậy, việc duy trì tốc độ tăng trưởng của khu vực công nghiệp chế
biến cao một cách bền vững đang là một nhiệm vụ to lớn; trước mắt cần đề ra
chính sách và biện pháp thúc đẩy ngành công nghiệp chế biến phát triển góp
phần thực hiện qui luật chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay; thực tiễn đặt ra đối với nền kinh tế ở nước ta nên lựa chọn
cách phân ngành của Liên Hợp Quốc để đánh giá đúng thực lực, khai thác
72
tiềm năng và thế mạnh của khu vực này.
2.3.3. Chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành dịch vụ
2.3.3.1. Theo phân ngành của Tổng cục thống kê
Từ khi đất nước tiến hành đổi mới, từ thập kỷ 90 thế kỷ XX trở lại đây,
khu vực dịch vụ của nước ta đã phát triển nhảy vọt cả về chất và lượng. Tuy
vậy, tốc độ phát triển này lại rất không đều qua các thời kỳ khác nhau.
Giai đoạn 1990-1995, ngành dịch vụ tăng trưởng nhanh, tỷ phần đóng
góp trong GDP của nền kinh tế cao hơn ngành công nghiệp.
Tốc độ tăng trưởng của ngành dịch vụ đạt 8,6% tuy thấp hơn ngành
công nghiệp, nhưng vẫn ổn định ở mức cao và vượt tốc độ tăng trưởng chung
của nền kinh tế (8,2%). Tỷ trọng của ngành dịch vụ trong GDP tăng tương đối
mạnh trong thời kỳ 1990-1995 (năm 1995 đạt 44,06%).
Cơ cấu nội bộ ngành dịch vụ đã có những thay đổi đáng kể. Ngành dịch
vụ thương mại có tốc độ tăng trưởng cao: từ 4,8% năm 1991 tăng lên 11,2%
năm 1995 và tỷ phần đóng góp trong GDP tăng từ 12,7% lên 13,2%. Xét
trong toàn bộ ngành dịch vụ, tỷ trọng của ngành thương mại có xu hướng
giảm dần, từ 31% năm 1991 xuống còn 29,5% năm 1995 và giá trị sản lượng
cùng kì tăng từ 3.654 tỷ đồng lên 4.981 tỷ đồng. Vì vậy, ngành thương mại
dịch vụ vẫn chiếm vị trí hàng đầu ở nước ta trong giai đoạn này và là ngành
có xu hướng đẩy mạnh kinh doanh xuất khẩu. Ngành kinh doanh nhà ở, khách
sạn, du lịch được đánh giá là một xu hướng có nhiều tiềm năng và chú trọng
phát triển. Năm 1991, kinh doanh nhà ở, khách sạn, du lịch chiếm tỷ trọng
34,4% toàn ngành dịch vụ (4.059 tỷ đồng so với 11.794 tỷ đồng toàn ngành
dịch vụ), đến năm 1995 là 33,9%. Các ngành cung cấp dịch vụ công cộng,
dịch vụ vận tải, thông tin liên lạc, bưu chính viễn thông, dịch vụ văn hóa, du
lịch, y tế, giáo dục cũng bắt đầu phát triển mạnh. Các lĩnh vực tài chính, tín
dụng, ngân hàng, bảo hiểm, chuyển giao công nghệ, môi giới việc làm…bắt
73
đầu mở ra theo hướng thị trường nhưng còn hạn chế và yếu kém.
Từ 1996 đến nay, tốc độ tăng trưởng của ngành dịch vụ liên tục bị suy
giảm và chỉ có dấu hiệu phục hồi nhẹ trong một vài năm gần đây. Tỷ trọng
của ngành dịch vụ trong GDP có xu hướng giảm qua các năm 1996 còn
%
Năm
Nguồn: Tổng cục Thống kê qua các năm
42,51%; năm 2000 còn 38,73% và đến năm 2007 đạt 38,12%.
Biểu đồ 2. 4: Tốc độ tăng trưởng trong GDP của ngành dịch vụ qua các năm
Tốc độ tăng GDP do khu vực dịch vụ tạo ra cũng liên tục bị giảm sút và
thường xuyên thấp hơn tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế: năm 1996
là 8,8% so với 9,34%; năm 1999 là 2,25% so với 8,9%; năm 2003 là 6,57%,
so với 7,26%, chứng tỏ khu vực dịch vụ chưa thực sự là một động lực quan
trọng trong tăng trưởng kinh tế. Vì các dịch vụ kinh doanh hiện nay có mặt
trên thị trường thường có chất lượng thấp, không phù hợp với các dịch vụ có
thể mang lại lợi ích kinh tế rõ ràng và chưa đáp ứng được các yêu cầu dịch vụ
hiện nay; hình thành thói quen sử dụng dịch vụ cho hoạt động kinh doanh và
đời sống của người dân chưa thường xuyên. Một số thị trường hiện nay vẫn
do Chính phủ quản lí do hạn chế tính cạnh tranh và dẫn đến giới hạn sự lựa
chọn của khách hàng; rõ ràng còn nhiều khó khăn để khu vực dịch vụ của
74
Việt Nam phát triển được như kế hoạch đã đặt ra.
Tỷ trọng trong GDP của các lĩnh vực dịch vụ chủ chốt trong các năm
gần đây có sự giảm sút, đặc biệt một số ngành dịch vụ quan trọng vẫn còn
chiếm tỷ trọng rất thấp và đang có xu hướng giảm dần. Thực tế, các ngành
dịch vụ của nước ta chưa phát triển, song phản ánh quá trình chuyển dịch cơ
cấu của các ngành dịch vụ chịu tác động bởi những nhân tố khách quan và
nhiều lĩnh vực dịch vụ mới xuất hiện do chuẩn mực thống kê thay đổi. Thí dụ,
Tổng cục Thống kê đã chuyển lĩnh vực sửa chữa đồ dùng cá nhân từ nhóm
nhà ở, du lịch, khách sạn sang nhóm với thương nghiệp; lĩnh vực khách sạn-
nhà hàng cũng được tách riêng ra thành một nhóm; tỷ trọng của một số lĩnh
vực dịch vụ chủ chốt của năm 2008 so với năm 1995 có sự thay đổi.
1995 44,06 16,38 3,77 3,98 2,01
2002 38,46 14,11 3,2 3,94 1,82
2005 38,5 13,58 5,50 4,37 1,80
2006 31,20 13,63 3,68 4,50 1,81
5,41
4,56
4,01
3,78
3,63
2007 2008 38,12 38,10 13,66 13,82 3,93 4,38 4,44 4,53 1,81 1,84 3,80
Năm % trong GDP của ngành dịch vụ Thương nghiệp Khách sạn và nhà hàng Vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc Tài chính tín dụng Kinh doanh bất động sản và dịch vụ tư vấn Giáo dục và đào tạo Khoa học và công nghệ
3.04 0,62
3,62 0,61
3,38 0,56
3,21 0,63
3,15 0,62
2,60 0,62
Nguồn: Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê qua các năm 1996 đến 2008
Bảng 2.16: Đóng góp của một số ngành dịch vụ chủ chốt vào GDP giai đoạn 1995-2008(%)
Tỷ trọng của lĩnh vực thương nghiệp - sửa chữa xe gắn máy và đồ dùng
gia đình liên tục giảm trong giai đoạn 1995-2007 từ mức 16,38% của GDP
xuống còn 13,66% năm 2007 đến năm 2008 đạt 13,82% do kinh tế tăng
trưởng chậm và chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ thế giới,
nhu cầu trong nước giảm. Tuy nhiên lĩnh vực này phục hồi trở lại kể từ năm
2002 với tỷ trọng trong tổng GDP tăng 0,3% và có nhiều dấu hiệu cho thấy tỷ
trọng của lĩnh vực này trong GDP sẽ tăng bởi đời sống nhân dân được nâng
75
cao, hoạt động thương mại có đà phát triển mạnh trong thời gian tới.
Tỷ trọng của lĩnh vực du lịch, nhà hàng, khách sạn cũng sẽ tiếp tục
tăng bởi hiện nay ngành du lịch đã được xác định sẽ là ngành kinh tế mũi
nhọn của đất nước năm 2002 giảm còn 3,2% và tăng mạnh vào năm 2005 đạt
5,5% đến năm 2008 đạt 4,38%. Đặc biệt, những dự án đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào lĩnh vực du lịch, sự tiếp tục gia tăng của khu vực kinh tế tư nhân
trong nước trong lĩnh vực này cũng hứa hẹn sự phát triển của hoạt động du
lịch và tỷ trọng của nó sẽ được tăng dần trong những năm tới.
Tỷ trọng của lĩnh vực ngân hàng, tài chính, bảo hiểm tăng chậm năm
2000 là 6,06% đến năm 2008 tăng 8,82%. Hiện nay, Việt Nam có hệ thống
ngân hàng, các tổ chức tài chính khá rộng khắp các vùng miền trong cả nước.
Song, Chính phủ lại rất thận trọng trong chính sách tự do hóa tài chính, nhất
là sau khi đã chứng kiến các nước láng giềng phải đối mặt với cuộc khủng
khoảng tài chính tiền tệ năm 1997. Tuy nhiên, quá trình tự do hóa trong các
lĩnh vực này làm tăng dần tỷ trọng của các ngành trên trong quá trình chuyển
dịch cơ cấu của khu vực dịch vụ. Đó là việc thực hiện cam kết theo Hiệp định
Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ về mở cửa tài chính, ngân hàng vào khoảng
năm 2007-2008; việc thực hiện cam kết về khu vực đầu tư tự do ASEAN vào
năm 2010; nhu cầu tăng mạnh khiến chính phủ sẽ nới lỏng hạn chế và cho
phép tư nhân trong nước tham gia kinh doanh lĩnh vực này nhiều hơn.
Những năm qua tỷ trọng của lĩnh vực giao thông vận tải, thông tin liên lạc
tăng qua các năm nhưng tốc độ chậm, năm 1995 đạt 3,98% đến năm 2008
tăng chiếm 4,53% trong toàn ngành dịch vụ. Hiện nay, lĩnh vực giao thông
vận tải sẽ phát triển với tốc độ nhanh hơn cả lĩnh vực dịch vụ viễn thông bởi
yêu cầu phát triển và được vốn đầu tư lớn hơn. Lĩnh vực bưu chính viễn thông
dù đã bùng nổ với tốc độ chóng mặt từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX; trong
dài hạn các lĩnh vực này chỉ có thể phát triển nhanh khi Việt Nam mở cửa thị
76
trường dịch vụ giao thông vận tải, thông tin liên lạc khi đã gia nhập WTO,
thực hiện cam kết Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và thực hiện
cam kết của Khu vực đầu tư tự do ASEAN; khi Chính phủ chủ động nới lỏng
kiểm soát để tăng lượng nhà cung cấp dịch vụ và giảm giá thành dịch vụ…
Tỷ trọng của lĩnh vực kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn đã tăng
nhanh kể từ đầu thập kỷ 90 thế kỷ XX chiếm tỉ trọng đáng kể trong ngành
dịch vụ, năm 2000 đạt 2,56% đến năm 2008 đạt 4,07% do kinh doanh bất
động sản tăng vọt vì giá nhà đất tăng nhanh và xuất hiện nhiều hình thức kinh
doanh tài sản và tư vấn nhưng có xu hướng giảm nhẹ qua các năm. Thời gian
tới, tỷ trọng của lĩnh vực này trong cơ cấu khu vực dịch vụ sẽ không tăng
Chính phủ đang có nhiều chính sách để làm giảm cơn sốt nhà đất nguyên
nhân nhu cầu cho thuê văn phòng, cửa hàng, khách sạn rất lớn, nhu cầu về
nhà ở tăng cao. Sau khi sửa đổi các qui định về nhập khẩu trong luật cư trú,
làn sóng nhập cư vào thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội tăng, họ cũng được
mua bán nhà đất; mặt khác, thị trường bất động sản cầu tăng mạnh mà cung
lên được ít. Năm 2009, khủng hoảng tài chính toàn cầu, lạm phát tăng buộc
người dân giảm chi tiêu, thị trường bất động sản đóng băng, giá giảm 40%;
không bán được sản phẩm và phải chịu lãi suất ngân hàng tăng cao. Đồng
thời, các hình thức dịch vụ tư vấn như trên có thể vẫn phát triển nhưng tỷ
trọng đóng góp cho GDP không đáng kể. Để cho lĩnh vực này có thể phát
triển phục vụ nhu cầu phong phú đa dạng của xã hội phát triển thì cần phải có
sự hoàn thiện các cơ chế chính sách của Nhà nước trong lĩnh vực này.
Tỷ trọng của lĩnh vực khoa học và công nghệ trong GDP của nước ta
rất nhỏ (chiếm 0,56% năm 2002 và 0,62% năm 2007) mặc dù cũng có sự phát
triển trong lĩnh vực này. Thực tế, hoạt động khoa học công nghệ của nước ta
hiện chủ yếu nằm ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và đầu tư cho khoa học
77
công nghệ của Nhà nước. Tương lai, ngành công nghệ thông tin sẽ phát triển
góp phần làm tăng tỷ trọng của khoa học công nghệ và thay đổi quá trình
chuyển dịch cơ cấu trong khu vực dịch vụ của nước ta.
Kể từ năm 2002 lĩnh vực giáo dục và đào tạo của nước ta được nhiều
nguồn vốn đầu tư từ khu vực tư nhân và từ ngân sách nhà nước, năm 2007 chi
ngân sách nhà nước cho giáo dục, đào tạo tăng 12,12% trong GDP. Mặt khác,
Nhà nước đã tiếp tục chính sách mở cửa nền giáo dục quốc gia, thúc đẩy hợp tác
giáo dục và đào tạo với nước ngoài, nên có tốc độ tăng trưởng tương đối cao.
Cùng với xu hướng phát triển nhanh của giáo dục và đào tạo, tỷ trọng
của các hoạt động dịch vụ phục vụ cá nhân và cộng đồng như y tế, văn hóa,
thể thao, làm thuê, một số hoạt động của các hiệp hội trong GDP có chiều
hướng tăng nhờ trình độ phát triển của xã hội tăng lên làm tăng nhu cầu đối
với các loại hình dịch vụ này.
Nhìn chung, khối ngành dịch vụ đã có sự phát triển vượt bậc, nhưng
trình độ các hoạt động dịch vụ còn ở mức thấp so với yêu cầu của sự phát
triển kinh tế và so với trình độ chung của khu vực và thế giới. Việc tổ chức
quản lí các hoạt động chưa mang lại hiệu quả cao, tính tự phát còn thể hiện
khá rõ; thị trường dịch vụ chưa hình thành một cách đầy đủ dẫn đến cạnh
tranh không bình đẳng và thiếu lành mạnh. Mặc dù ngành dịch vụ ở nước ta
đã cơ bản hình thành song chưa phát huy hết tiềm năng vốn có của nó, chưa
tập trung phát triển các ngành dịch vụ theo chiều sâu và bền vững như công
nghệ thông tin, tư vấn giáo dục…nên chưa tạo ra được cú hích đáng kể trong
sự tăng trưởng của khối dịch vụ.
2.3.3.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế khu vực III theo phân ngành của Liên Hợp
Quốc
Qua phân tích về cơ cấu của các ngành trong khu vực III (dịch vụ) là
các ngành phi sản xuất vật chất, cho thấy khu vực dịch vụ của nước ta tăng
78
không đều qua các năm, năm 1995 đạt 53,01% đến năm 2006 giảm xuống còn
41,25% và tăng lên 47,85% vào năm 2008. Tính theo chuẩn của Liên Hợp
Quốc, gộp cả ngành xây dựng vào trong khối dịch vụ thì tỷ trọng của khối
dịch vụ lên tới 48%, đây là kết quả bùng nổ xây dựng tại Việt Nam trong
79
những năm đổi mới.
Bảng 2.17: Đóng góp của một số ngành dịch vụ chủ chốt vào GDP
1995 100 53,01 16,38 3,77
2002 100 47,75 14,11 3,2
2005 100 48,30 13,58 5,50
2006 100 41,25 13,63 3,68
2008 100 47,85 13,82 4,38
2007 100 48,56 13,66 3,93 4,44
3,98
3,94
4,37
4,50
4,53
2,01
1,82
1,80
1,81
1,84
5,41
4,56
4,01
3,78
3,63
3,62 0,61 6,90
3,38 0,56 5,89
3,21 0,63 6,35
3,15 0,62 6,62
2,60 0,62 6,49
1,81 3,80 3.04 0,62 6,96 3,48
2,05
3,40
3,45
3,43
3,26
Năm GDP nền kinh tế % GDP toàn ngành dịch vụ Thương nghiệp Khách sạn và nhà hàng Vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc Tài chính tín dụng Kinh doanh bất động sản và dịch vụ tư vấn Giáo dục và đào tạo Khoa học và công nghệ Xây dựng SX và phân phối điện nước
Nguồn: Tổng cục thống kê qua các năm 1996 đến năm 2008
giai đoạn 1995-2008(%) theo phân ngành Liên Hợp Quốc
Trong nội bộ khu vực III, thương nghiệp chiếm tỉ trong cao nhất năm
1995 là 16,38% đến năm 2008 giảm còn 13,82% toàn ngành. Sau đó, ngành
xây dựng trung bình từ năm 1995 đến năm 2008 chiếm khoảng 6,5%; ngành
khoa học và công nghệ chiếm tỉ trọng thấp nhất hầu như không tăng qua các
năm năm 2005 đạt 0,63% đến năm 2008 là 0,62% (xem bảng 2.17).
Đối với ngành xây dựng, tổng giá trị sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp năm 2008 ước đạt 102.219 tỷ đồng, tăng 15,6% so với cùng kỳ năm
2007. Giá trị sản xuất công nghiệp vật liệu xây dựng đạt 33.586 tỷ đồng, tăng
17,5% so với cùng kỳ năm 2007. Giá trị tư vấn đạt 1.702,2 tỷ đồng, tăng
14,6% so với cùng kỳ năm 2007. Giá trị sản xuất kinh doanh khác (bao gồm
cả kinh doanh nhà và hạ tầng) đạt 19.382,9 tỷ đồng, tăng 14,2% so với cùng
kỳ sẽ góp phần làm tăng nhanh tỉ trọng của khu vực này trong nền kinh tế.
So với các nước trong khu vực, khu vực này tỷ trọng trong GDP năm
2006 của Ma-lai-xi-a là 41,35%; Thái Lan là 44,41%; Phi-lip-pin là 54,19%;
80
Hàn Quốc là 57,15%; Ấn Độ là 54,58% so với nước ta có sự chênh lệch năm
2006 ở nước ta chỉ đạt 41,25%; tính theo phân ngành của Tổng cục Thống kê
biên độ được nới rộng ra đạt 31,20%. Như vậy, theo hai cách phân ngành
trong khu vực III ở nước ta đã có sự chênh lệch khoảng 10%. Mặc dù tính
thêm ngành xây dựng vào khu vực III nhưng tỉ trọng so với các nước trong
khu vực còn thấp. Bài toán đặt ra đối với khu vực này phải tìm giải pháp thúc
đẩy sự tăng trưởng nhanh hơn so với hai khu vực còn lại và thu hẹp khoảng
cách với các nước trong khu vực.
Bảng 2.18: Tốc độ tăng trưởng khu vực III và GDP
Thời gian
Tốc độ tăng trưởng khu vực III (A)
Chênh lệch: (A): (B) lần
Nước/vùng lãnh thổ
Việt Nam Việt Nam * Nhật Bản
Hàn Quốc
Đài Loan
1991- 2004 1991- 2004 Thập kỉ 1950 Thập kỉ 1960 Thập kỉ 1970 Thập kỉ 1950 Thập kỉ 1960 Thập kỉ 1970 Thập kỉ 1950 Thập kỉ 1960 Thập kỉ 1970
Tốc độ tăng trưởng GDP (B) 7,48 7,48 8,00 10.90 5,00 5,10 8,60 9,50 7,60 9,60 8,80
0,93 1,02 1,10 1,05 1,10 1,73 1,03 0,89 1,32 0,95 0,94
6,99 7,63 8,80 11,50 5,50 3,70 8,90 8,50 10,00 9,10 8,30
Việt Nam *: Theo phân ngành của Liên hợp quốc
Việt Nam: Theo phân ngành của Thống kê Việt Nam
Nguồn niên giám thống kê năm 2007
của Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan (%)
Qua bảng trên, khối ngành dịch vụ có tốc độ tăng trưởng thấp hơn
nhóm NICs vào thập niên 1960, thời kì kinh tế tăng trưởng nhanh. Tương
quan so sánh giai đoạn 1991-2004, tính theo chuẩn của Liên Hợp Quốc khu
vực dịch vụ đạt 7,63% tốc độ tăng trưởng cao hơn chuẩn Việt Nam 6,99%.
Vào thập niên 1950, nhóm NICs tốc độ tăng trưởng Nhật Bản 8,8%, cao hơn
Hàn Quốc ở thập niên 1950 là 3,7% và thấp hơn ở thập niên 1960 là 8,9%,
81
Đài Loan 9,1%. Như vậy, khu vực III ở nước ta tăng trưởng thấp và không
cao hơn so với khu vực I và mục tiêu phấn đấu năm 2020 trở thành một nước
công nghiệp là thách thức lớn.
Vì vậy, phải nâng cao được tỷ trọng của khu vực III, bởi một nền kinh
tế phát triển và một nước được coi là công nghiệp hóa, hiện đại hóa được thể
hiện khi tỷ khu vực dịch vụ chiếm tỷ trọng cao nhất trong nền kinh tế. Công
cuộc đổi mới đã thực sự mở rộng cánh của cho nền kinh tế phát triển, sự
chuyển dịch cơ cấu ngành trong khu vực dịch vụ lại phụ thuộc vào một số yếu
tố cơ bản như: tốc độ tự do hóa và mở cửa kinh tế của đất nước; trình độ phát
triển của nền kinh tế; sự đa dạng của các thành phần kinh tế.
Về lượng, sự khác biệt trong hai cách phân loại trên cho thấy, theo
phân ngành của Liên Hợp Quốc dễ nhận thấy tỉ trọng của khu vực dịch vụ sẽ
tăng lên nhờ đóng góp của ngành xây dựng được bổ xung vào khu vực dịch
vụ sẽ có tác động đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Một trong những
nguyên nhân làm khu vực III tăng chậm là khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Lĩnh vực tài chính, tín dụng, bảo hiểm phát triển chậm và chiếm tỉ trọng thấp
trong toàn ngành, sự yếu kém về năng lực tiếp thị và nghiên cứu tăng trưởng
về thông tin kinh tế đã gây không ít khó khăn cho sự phát triển của khu vực
này.
Trong xu thế hội nhập, để đánh giá chính xác sự chuyển dịch của khu
vực này trong nền kinh tế so với các nước trong khu vực, Việt Nam nên
hướng tới sử dụng theo phân ngành của Liên Hợp Quốc. Thực tế, khu vực
dịch vụ trong những năm gần đây tốc độ tăng trưởng chậm hơn so với hai khu
vực còn lại; vì vậy, cần hướng tới xây dựng khối các ngành dịch vụ chất
lượng cao và hiệu quả được coi là nhiệm vụ trung tâm trong chiến lược phát
triển kinh tế ở nước ta. Tỷ trọng của khu vực dịch vụ tăng trưởng cao hơn hai
82
khu vực còn lại mạnh trong nền kinh tế quốc dân cần phải có những giải pháp
đồng bộ, cụ thể, trước mắt và lâu dài để khai thác tiềm năng, thế mạnh của
khu vực này.
2.4. Chuyển dịch cơ cấu lao động giữa các ngành trong nền kinh tế
2.4.1. Theo phân ngành của Tổng cục Thống kê
Phân công lao động xã hội và cơ cấu kinh tế là hai đặc trưng quan trọng
đánh giá trình độ sản xuất của một nền kinh tế. Theo số liệu thống kê năm
2007, sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành kinh tế có phần không được
khả quan như chuyển dịch cơ cấu GDP.
Trong thời gian này, tổng số lao động của ngành nông nghiệp đã tăng
từ 21,5 triệu năm 1990 lên 23,8 triệu năm 2007, bình quân tăng 340 nghìn lao
động/năm, tăng 1,3%/năm và chiếm 43,8% tổng số lao động tăng thêm; lao
động nông nghiệp chiếm tỉ trọng lớn nhất lên tới trên 80%. Trong nội bộ của
ngành, lao động nông nghiệp và lâm nghiệp chiếm tỉ lệ cao nhất vào khoảng 55%.
Ngành công nghiệp và xây dựng là 3,3 triệu lao động năm 1990 tăng
lên 8,8 triệu năm 2007, bình quân tăng 141 nghìn lao động/năm, tăng
3,2%/năm và chiếm 18% tổng số lao động tăng thêm. Xu hướng tỉ trọng lao
động tăng ít đi đôi với tỉ trọng GDP ngày càng cao cho thấy sự tăng trưởng
của công nghiệp và xây dựng gắn liền với việc thâm dụng vốn nhiều hơn là
thâm dụng lao động. Cơ cấu lao động trong nội bộ ngành công nghiệp ít có sự
biến đổi đáng kể theo hướng chuyển dần từ các ngành công nghiệp nhẹ mang
tính truyền thống sang các ngành công nghiệp hiện đại. Trong nội bộ ngành
xây dung và dịch vụ lao động ngành công nghiệp chế biến chiếm tỉ lệ cao nhất
khoảng 12% và ngành xây dung khoảng 4,3%.
Đối với các ngành dịch vụ, từ 4,6 triệu lao động năm 1990 tăng lên
11,5 triệu năm 2007, tăng bình quân 295 nghìn lao động/năm, tăng 4,5%/năm
và chiếm 30,8% tổng số lao động tăng thêm. Lao động tăng thêm vẫn ở ngành
83
dịch vụ truyền thống, tăng nhanh nhất trong các lĩnh vực thương nghiệp,
khách sạn, nhà hàng, vận tải...Mặt khác, sự gia tăng lao động trong ngành
dịch vụ chủ yếu là ở khu vực kinh tế tư nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn
ít, thu hút nhiều lao động.
Như vậy, lao động tăng thêm ở khu vực nông nghiệp cao hơn khu vực
dịch vụ 1,2 lần và cao hơn khu vực công nghiệp và xây dựng 2,4 lần. Mặc dù
về tỷ trọng, lao động ở khu vực nông nghiệp có giảm đi, nhưng về số lượng
tuyệt đối thì vẫn tăng lên, tuy mức tăng có xu hướng giảm đi rõ rệt; cơ cấu lao
động chuyển dịch đến các ngành kinh tế chưa cân đối.
1995
Ngành
1990
2000
2003
2004
2006
2007
Nông, lâm, ngư nghiệp
73,02
71,14 68,24 60,25 58,75 55,37
53,9
Công nghiệp và xây dựng
11,24
11,37 13,11 16,44 17,35 19,23 19,98
Dịch vụ
15,74
17,49 21,18 32,21
23,9
25,40 26,12
Nguồn Niên giám thống kê năm 2004, 2007
Bảng 2.19: Cơ cấu lao động phân theo ngành của Tổng cục Thống kê (%)
Theo nguồn số liệu thống kê, năm 2004 tỷ trọng lao động trong khu
vực nông nghiệp là 57,8%, với mức giảm 1,3%/năm thì phải mất 7 năm nữa
tức là vào năm 2012, lao động nông nghiệp giảm xuống còn 50%. Tuy nhiên,
năm 2007 tỷ trọng lao động trong khu vực nông nghiệp giảm xuống 53,9%,
lao động khu vực công nghiệp và xây dựng năm 2007 tăng 19,98% và khu
vực dịch vụ lao động tăng 26,12% năm 2007 nhưng mức tăng còn thấp. Về cơ
bản, nếu chính sách cơ cấu có tác dụng khuyến khích mạnh các lĩnh vực phi
nông nghiệp sử dụng nhiều lao động thì đảm bảo mục tiêu đến năm 2010 lao
động nông nghiệp giảm xuống còn 50% như Đại hội IX xác định.
Trong những năm 2000 đến nay, cơ cấu lao động xã hội đã có bước
chuyển dịch tích cực trong quá trình đổi mới nền kinh tế. Tỷ trọng lao động
của phi nông nghiệp tăng 1,16%/năm, tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm
84
1,16%, nhanh hơn so với nhiều nước đã trải qua quá trình công nghiệp hóa
trên thế giới. Tuy diễn ra chậm và kết quả chuyển đổi cơ cấu theo ngành chưa
tỉ lệ thuận với chuyển đổi cơ cấu lao động, nhưng tiến trình chuyển đổi cơ cấu
lao động trên là một bước tiến bộ trong phân bổ nguồn nhân lực lao động xã
hội vào quĩ đạo chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công nghiệp
hóa và hiện đại hóa.
Những thành tựu kinh tế đạt được từ khi đổi mới đến nay ở nước ta là
rất quan trọng, nó tạo ra những nét khởi sắc trong mối quan hệ giữa các ngành
và sự phân bố lao động trong các ngành kinh tế có sự chuyển dịch. Cơ cấu lao
động trong các ngành kinh tế đã có những chuyển biến tích cực và tiến bộ
theo hướng giảm dần tỷ trọng lao động trong nông nghiệp, tỷ trọng lao động
trong ngành phi nông nghiệp tăng dần.
2.4.2. Chuyển dịch cơ cấu lao động trong nền kinh tế theo phân ngành
của Liên Hợp Quốc
Trong quá trình đổi mới nền kinh tế, thực hiện công nghiệp hóa, hiện
đại hóa lực lượng lao động giữ vai trò quan trọng, phải phù hợp với sự chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế.
Nguồn lực lao động ở khu vực I còn quá cao, trong nội bộ khu vực này
lực lượng lao động phổ thông và lao động trong ngành nông nghiệp chiếm tỉ
lệ trên 50% và tính chung khu vực I mặc dù lao động qua các năm đã giảm
nhưng chiếm tỉ lệ nhỏ, năm 2007 ở mức 54,8% với tổng số 25,8 triệu lao động
và tăng thêm tỉ lệ nhỏ lao động ngành công nghiệp khai thác. Ngược lại, ở
khu vực II, số lượng lao động thấp vì khu vực này chỉ tính riêng lao động làm
việc trong ngành công nghiệp chế biến và kém 4 lần số lượng lao động tại khu
vực I với 5,9 triệu lao động. Tính đến khu vực III, số lượng lao động tăng đều
qua các năm do số lao động tăng thêm trong ngành xây dựng khoảng 4,3%
chuyển sang nhưng ở mức thấp và cao hơn khu vực I nhưng tăng chậm và
85
chiếm tỉ lệ thấp so với khu vực I, năm 2007 là 31,7%.
2005
Năm/Khu vực
2000
2003
2004
2006
2007
57,9
Khu vực I
65,77
60,98
59,53
56,22
54,80
12,34
Khu vực II
9,44
11,24
11,62
13,05
13,50
29,76
Khu vực III
24,79
27,78
28,85
30,73
31,70
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2004, 2007
Bảng 2.20: Cơ cấu lao động theo phân ngành của Liên Hợp Quốc (%)
Những thành tựu kinh tế đạt được từ khi đổi mới đến nay ở nước ta là
rất quan trọng, nó tạo ra những nét khởi sắc trong mối quan hệ giữa các ngành
và sự phân bố lao động trong các ngành kinh tế có sự chuyển dịch. Cơ cấu lao
động trong các ngành kinh tế đã có những chuyển biến tích cực theo hướng
giảm dần tỷ trọng lao động trong khu vực I, tỷ trọng lao động trong khu vực
công nghiệp tăng nhẹ nhưng khoảng cách giữa các khu vực còn quá lớn. Kể
từ cuối năm 2007 cho đến nay, khủng hoảng tài chính toàn cầu làm 405.000
người mất việc làm; trong những tháng đầu năm 2009, tình trạng thất nghiệp
có nguy cơ tăng trở lại từ 4,64% năm 2008 lên mức 5%. Năm 2008, tổng việc
làm tạo ra thấp tăng 1,82% so với năm 2007; các ngành có tương quan giữa
lao động và sản phẩm đầu ra cao nhất là nông nghiệp. Trong cuộc khủng
hoảng này, lao động mất việc tạm thời đổ về nông thôn tìm việc dẫn đến
lượng lao động trong khu vực I tăng và lao động trong các khu vực còn lại có
xu hướng giảm.
Nền kinh tế Việt Nam đã đạt đến điểm ngoặt về chuyển dịch cơ cấu lao
động chia theo khu vực, tốc độ giảm tỉ trong lao động theo hai cách phân
ngành đã cho thấy sự chênh lệch rõ ràng, đáng lưu ý số lượng lao động ở khu
vực công nghiệp chế biến và dịch vụ của nền kinh tế trong tiến trình thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa lại thấp hơn khu vực I. So với các nước NICs
Đông Á trong những thập niên 1950 đến 1980, tốc độ tăng tỉ trọng lao động ở
86
nước ta giai đoạn 2000-2007 trong khu vực công nghiệp chế biến và dịch vụ
lại nhỏ hơn rất nhiều và tốc độ giảm tỉ trọng lao động khu vực nông nghiệp
thấp; nhưng về cơ bản tương đương với sự chuyển đổi cơ cấu lao động của
nhóm NICs. Sự chuyển dịch cơ cấu lao động giữa các khu vực trong nền của
Việt Nam cho thấy quá trình công nghiệp hóa đang chuyển sang một thời kì
87
phát triển mới trước những thách thức và khó khăn (xem bảng 2.21).
Bảng 2.21: Chuyển dịch cơ cấu lao động
Nước/vùng lãnh thổ Năm Khu vực I Khu vực II Khu vực III
Việt Nam
2000
65,77
9,44
24.79
2007
54,80
13,50
31,70
Nhật Bản
1951
45,20
26,60
28,20
1980
11,0
40,50
48,50
Hàn Quốc
1950
57,2
18,0
24,8
1966
34,2
32,1
33,6
Đài Loan
1956
56,0
20,8
23,2
1980
19,5
47,3
33,2
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2002,2007
của Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan (%)
Như vậy, đánh giá theo hai cách phân ngành chuyển dịch cơ cấu lao
động giữa các ngành kinh tế ở nước ta còn chưa cân đối, điều đó minh chứng
sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế không đồng đều vẫn chiếm tỉ trong cao ở
khu vực I đặc thù của một nước 80% dân số làm nông nghiệp; ngược lại, số
lượng lao động trong khu vực công nghiệp quá thấp và ở khu vực dịch vụ
mức tăng lao động thấp. Thực tế cho thấy, cơ cấu lao động chuyển dịch chậm
đồng nghĩa là sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế chưa hợp lí. Trong những
năm đổi mới, kinh tế tăng trưởng cao góp phần kiềm chế và giảm lạm phát;
giữa các ngành cần sự hỗ trợ lẫn nhau tạo ra sự phát triển chung trong nền
kinh tế cũng như sự phát triển của từng ngành.
2.5. Đánh giá chung về quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở nƣớc ta
Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đến nay đã đạt được những thành
tựu kinh tế rất to lớn, nền kinh tế tiếp tục được ổn định và phát triển, đời sống
của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Cơ cấu nền kinh tế chuyển dịch theo hướng tỉ
trọng ngành nông nghiệp giảm dần, tỉ trọng của ngành công nghiệp và dịch vụ
88
tăng. Tuy nhiên tốc độ chuyển dịch giữa các ngành kinh tế còn chậm, cụ thể:
Theo phân ngành của Tổng cục thống kê, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành vĩ mô của Việt Nam đã có sự thay đổi nhất định; đã có một số dấu mốc
thay đổi có ý nghĩa quan trọng trong cơ cấu nông nghiệp, công nghiệp và dịch
vụ. Từ năm 1990 đến nay, tỉ trọng của nông nghiệp trong GDP giảm bình
quân 0,9%/năm với tốc độ chậm. Đối với ngành công nghiệp và xây dựng có
xu hướng tăng lên bình quân 0,86%/năm; ngành dịch vụ ngược với sự mong
đợi là tỉ trọng tăng lên, trên thực tế trong hơn 15 năm qua lại có xu hướng
giảm bình quân 0,03%/năm từ năm 1990 đến năm 2008. Theo phân ngành của
Tổng cục thống kê chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành diễn ra theo qui luật tỉ
trọng của ngành nông nghiệp giảm và tăng trong các ngành công nghiệp và
dịch vụ, nhưng tỉ trọng ngành dịch vụ không tăng mà có xu hướng giảm từ
năm 1996 đến nay và tăng chậm hơn so với các ngành còn lại.
Theo phân ngành của Liên Hợp Quốc chuyển dịch cơ cấu giữa các
ngành kinh tế không cân đối, tỉ trọng trong GDP của khu vực I tính đến năm
2008 quá cao chiếm trên 30% GDP, khu vực II (công nghiệp chế biến) quá
thấp chỉ có trên 20%, phần còn lại gần 50% thuộc khu vực III. Mặc dù, khu
vực I mỗi năm giảm khoảng 0,77%/năm, trong khi khu vực II tăng 0,5%/năm
chỉ bằng mức tăng gộp chung của cả ngành công nghiệp và xây dựng như
cách phân loại thống kê của Việt Nam; còn khu vực III tăng nhẹ 0,27%/năm
do sự gia tăng mạnh mẽ của ngành sản xuất phân phối điện, nước và xây dựng
trong thời gian qua.
Do cơ cấu giữa các ngành trong nền kinh tế nước ta chuyển dịch chậm,
nên cơ cấu lao động chậm thay đổi. Việc đảm bảo chỉ tiêu về chuyển dịch cơ
cấu lao động theo Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đến năm 2010 lao động
khu vực nông nghiệp còn 50% đòi hỏi những nỗ lực rất lớn. Chuyển dịch cơ
89
cấu lao động theo ngành có phần không khả quan như chuyển dịch cơ cấu
GDP, theo thống kê số lao động tăng thêm ở khu vực nông nghiệp cao hơn
khu vực dịch vụ 1,2 lần và cao hơn khu vực công nghiệp dịch vụ 2,4 lần.
Hiện trạng cơ cấu kinh tế ngành của Việt Nam trong tương quan so
sánh với các nước trên thế giới và trong khu vực nói chung còn rất lạc hậu,
tương đương với Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan vào những năm 30-40 năm
về trước. Thực tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở nước ta hiện nay nằm ở
khoảng giữa “các nước kém phát triển nhất” và “toàn bộ các nước đang phát
triển”. Theo cách tính của thống kê Việt Nam, ngành công nghiệp và xây
dựng tăng mạnh hơn hai ngành còn lại và theo cách tính của Liên Hợp Quốc tỉ
trọng khu vực I quá cao trong khi khu vực II chiếm tỉ trọng quá thấp. Theo
phân ngành của Liên Hợp Quốc, trong khu vực I được tính thêm cả ngành
khai thác cho nên khu vực sự chuyển dịch diễn ra chậm hơn so với cách tính
của Việt Nam và ngược lại khu vực II (ngành công nghiệp chế biến) được
đánh giá là ngành công nghiệp tiềm năng của đất nước tăng trưởng thấp một
phần do khâu qui hoạch giữa các bộ, ngành chưa thống nhất với nhau. Hệ quả
việc thiếu tính thống nhất vùng nguyên liệu, nhà máy và đường giao thông
vận chuyển hàng hóa không gặp được nhau; mặt khác thiếu chính sách thúc
đẩy phát triển khoa học công nghệ, chính sách khuyến khích công nghiệp chế
biến phát triển… Để thúc đẩy chuyển dịch của khu vực này trên bình diện vĩ
mô, nhà nước cần có những chính sách trong thời gian tới đưa công nghiệp
chế biến mới trở thành một trong những trụ cột chiến lược phát triển kinh tế
của nước nhà. Bên cạnh đó, tỉ trọng khu vực III được tăng thêm do tỉ trọng
của ngành xây dựng chuyển vào, nhưng vẫn thấp so với các nước trong khu
vực và thế giới.
Tóm lại, nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo phân ngành
của Liên Hợp Quốc cho thấy rõ hơn, chính xác hơn so với phân ngành của
90
Tổng cục Thống kê. Thực trạng cơ cấu kinh tế ngành ở Việt Nam còn rất lạc
hậu so với các nước trong khu vực với tỉ trọng khu vực I còn lớn, khu vực II
lại quá thấp, còn khu vực III tốc độ tăng chậm và tỉ trọng vẫn thấp hơn rất
nhiều so với các nước.
Những nguyên nhân tồn tại:
Nguyên nhân khách quan: Do xuất phát điểm nền kinh tế nước ta thấp,
chiến tranh kéo dài, kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất ở nước ta đã được đổi
mới nhưng so với thế giới vẫn còn lạc hậu. Mặt khác, các ngành kinh tế phải
gánh chịu từ thiên tai, khủng hoảng kinh tế châu Á năm 1997 và khủng hoảng
tài chính toàn cầu hiện nay thông qua xuất khẩu những sản phẩm chủ lực của
ngành nông nghiệp giảm và kéo theo số lao động mất việc làm tăng lên.
Nguyên nhân chủ quan: Từ phía nhà nước, chiến lược phát triển kinh tế
chưa rõ ràng, hoạch định chưa cụ thể và luật pháp thực thi chưa đồng bộ, cơ
chế quản lí còn nhiều bất cập, hạn chế đã ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế hiện nay ở nước ta.
Sự biến đổi tỷ trọng các ngành trong cơ cấu ngành tuy đúng hướng
song diễn ra còn chậm cả về tỉ trọng lẫn chất lượng. Nhìn một cách tổng
quát, từ năm 1990 đến nay sự ổn định đời sống xã hội của đất nước còn phụ
thuộc nhiều vào nông nghiệp. Những chỉ tiêu nói trên phản ánh mức độ quan
hệ các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ nước ta còn đang ở mức độ
thấp. Nông nghiệp, nông thôn chưa thực sự là thị trường có sức hút công
nghiệp và dịch vụ phát triển.
Sự phát triển của ngành công nghiệp còn yếu, biểu hiện rõ nét trong sự
tác động đối với nông nghiệp; bộc lộ nhiều hạn chế, sản xuất chưa ổn định,
năng suất chất lượng và hiệu quả không cao, tính cạnh tranh thấp, thiếu nhiều
yếu tố và cơ sở cho sự phát triển lâu dài, hội nhập và cạnh tranh. Chất lượng
91
nguồn lao động vẫn còn thấp, đặc biệt là công nghiệp đòi hỏi tay nghề cao.
Tỷ trọng của các ngành công nghiệp chế tạo chiếm vị trí rất nhỏ. Sản
phẩm xuất khẩu phần lớn là sản phẩm lắp ráp, gia công nên hiệu quả kinh tế
thấp. Cơ cấu các ngành còn dàn trải, thiếu các mũi nhọn làm trục tháp cho sự
phát triển trong xu thế hội nhập và mở cửa hiện nay.
Ngành dịch vụ chưa thực sự phát triển mặc dù đã xuất hiện được một số
lĩnh vực dịch vụ mới. Tỷ trọng của khu vực dịch vụ trong cơ cấu kinh tế còn
nhỏ so với các nước trong khu vực, nay đang có nguy cơ không tăng, thậm chí
có lĩnh vực còn giảm. Vì đây là ngành có tính chất “huyết mạch” trong nền
kinh tế nên sự phát triển không đều của ngành đã ảnh hưởng không nhỏ tới
quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành là nội dung chủ yếu, căn bản của quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa dẫn đến sự biến đổi sâu sắc cơ cấu ngành
kinh tế. Dưới tác động của khoa học và công nghệ, các yếu tố thời đại và các
mối quan hệ kinh tế quốc tế, chuyển dịch cơ cấu trong ba khu vực nền kinh tế
Việt Nam đang góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
92
đại hóa đất nước vào năm 2020.
93
Kết luận chƣơng 2
Qua phân tích, chương 2 của luận văn cho thấy sự cần thiết phải chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ngành ở nước ta trong quá trình đổi mới nền kinh tế; cần
phân tích đáng giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo cách
phân ngành của thống kê Việt Nam và phân ngành của Liên Hợp Quốc từ
năm 1990 đến nay trong sự tương quan so sánh với các nước trong khu vực.
Quá trình chuyển cơ cấu kinh tế ngành theo hướng tiến bộ, phù hợp với
xu hướng chung của thời đại trong gần 20 năm vừa qua đã đưa nền kinh tế
nước ta thoát ra khỏi khủng hoảng, suy thoái và tiếp tục tăng trưởng, một số
lĩnh vực đã có sự chuyển biến theo hướng tích cực, góp phần ổn định kinh tế
vĩ mô của đất nước.
Sự chuyển dịch cũng diễn ra theo xu hướng: nông nghiệp giảm dần với
tốc độ nhanh hơn so với hai ngành còn lại, nếu tính theo phân ngành của Liên
Hợp Quốc, nông nghiệp còn chiếm tỉ trọng quá cao, công nghiệp tăng nhưng
với tốc độ chậm, chiếm tỉ trọng thấp trong GDP và thấp so với các nước trong
khu vực và thế giới. Ngành dịch vụ tăng với tốc độ chậm, chiếm tỷ trọng thấp
trong nền kinh tế và so với các nước trong khu vực là bài toán đặt ra đối với
nền kinh tế ở nước ta trong giai đoạn tới.
Qua những phân tích về cơ cấu ngành kinh tế, có thể thấy: thực tiễn
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở nước ta diễn ra rất chậm, định ra hướng đi
đúng đắn là nhiệm vụ trọng tâm và sống còn của nền kinh tế; là vấn đề kinh tế
vĩ mô quan trọng nhằm đảm bảo mục tiêu tăng trưởng bền vững và hiệu quả.
Xây dựng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành phải dựa trên tiềm năng và vị
trí sẵn có làm cơ sở, lấy yếu tố thị trường làm mục tiêu, một số ngành kinh tế
phải đi trước đón đầu và mang tính chất dự báo. Từ những yếu tố đó, xác định
mục tiêu và phương hướng chuyển dịch nhằm phát huy cao nhất lợi thế của
94
một địa phương hay một quốc gia. Tuy nhiên, việc khai thác và sử dụng chưa
có hiệu quả các nguồn lực, các ngành mới, các ngành kĩ thuật cao, dịch vụ
hiện đại cũng như một số sản phẩm truyền thống phát triển còn chậm…là
những hạn chế trong quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở nước ta
hiện nay.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành là một quá trình phức tạp, đòi hỏi sự
phát huy tổng thể các nguồn lực. Việc xây dựng cơ cấu ngành kinh tế cũng
phải dựa trên đặc điểm phát triển kinh tế, văn hóa xã hội và phát huy cao nhất
lợi thế của từng vùng.
Những hạn chế trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Về nguyên nhân
chủ quan, việc thực hiện chiến lược, qui hoạch cơ cấu ngành chưa chặt chẽ và
đồng bộ; chưa chú trọng đúng mức chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế về mặt
chất, sự gắn kết giữa chuyển dịch cơ cấu ngành và với cơ cấu thành phần kinh
tế và vùng lãnh thổ chưa phù hợp; yếu tố thị trường chưa khai thác hết tiềm
năng, thế mạnh để gắn kết, phát triển mạnh cả ba khu vực này. Về nguyên
nhân khách quan, do xuất phát điểm nền kinh tế nước ta thấp, chiến tranh kéo
dài, kết cấu hạ tầng lạc hậu; cùng đó là hậu quả từ thiên tai, khủng hoảng kinh
tế, tài chính toàn cầu...kéo theo số lao động mất việc làm tăng lên.
Vì vậy, trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và gia nhập WTO, việc
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế sẽ gặp phải những khó khăn nhất và cơ cấu
kinh tế ngành ở nước ta chưa thực sự phản ánh một nền kinh tế hiện đại, bền
95
vững, đạt năng suất lao động và hiệu quả kinh tế cao.
Chƣơng 3.
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM ĐẨY NHANH
QUÁ TRÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ
Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN SẮP TỚI
3.1. Quan điểm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong thời gian sắp tới
3.1.1. Dự báo tình hình kinh tế vĩ mô
Trước những biến động nền khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay và
có thể kéo dài hơn nữa, Việt Nam được giá đánh chịu ảnh hưởng nhẹ đối với
nền kinh tế nhưng để lại khó khăn nhất định. Để đảm bảo bình ổn các vấn đề
vĩ mô của nền kinh tế năm 2008, Chính phủ có kế hoạch sử dụng các “gói
kích thích kinh tế”- kích cầu đầu tư lên đến 8 tỉ USD; trong năm 2009 đây
cũng là một nội dung quan trọng để ngăn chặn suy giảm kinh tế tính tổng gói
kích cầu lên tới 1 tỉ USD. Do vậy, nền kinh tế Việt Nam vẫn đang bước về
phía trước dự báo mức tăng trưởng GDP khoảng 5% năm 2009; nếu so sánh
với nhiều nước công nghiệp phát triển là một giấc mơ nhiều năm sau thời kì
khủng hoảng họ mới dám nghĩ đến.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong điều kiện hiện nay phải có sự
chuyển biến về chất và trình độ phát triển hơn hẳn so với hiện nay, tạo nền
tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại. Cơ cấu GDP sẽ có trạng thái: các ngành phi nông nghiệp
chiếm khoảng 85-88% tăng 0,4-0,6%/năm, trong đó khu vực dịch vụ chiếm
khoảng 42-45%. Tỉ trọng các ngành sản xuất vật chất chiếm khoảng 63%
trong tổng số GDP.
Mục tiêu các ngành trong ba khu vực của nền kinh tế:
- Ngành nông nghiệp, năm 2020 tỉ trọng chiếm khoảng 10% trong
96
GDP, tốc độ tăng trưởng của ngành nông nghiệp 3-3,5%/năm.
- Tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng công nghiệp bình quân trong 10
năm tới đạt khoảng 10 - 10,5%/năm. Đến năm 2020, công nghiệp và xây dựng
chiếm 40% GDP. Theo đó, sản phẩm chủ lực của cả nước đối với ngành công
nghiệp và xây dựng trong thời kỳ đến năm 2020 sẽ là khai thác và chế biến
dầu khí, điện, cơ khí chế tạo, vật liệu, hoá chất, phân bón, lúa gạo, cao su, cà
phê, thuỷ hải sản...
Ngành công nghiệp khai khoáng Việt Nam phấn đấu đến năm 2015 có
đội ngũ cán bộ quản lý giỏi chuyên môn và công nhân lành nghề. Khoa học
công nghệ trở thành lực lượng quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh, bảo đảm an toàn lao động và bảo vệ môi trường. Trong công
nghệ khai thác lộ thiên, phấn đấu đến năm 2015 đạt trình độ cơ giới hóa các
công đoạn sản xuất ngang tầm của khu vực và đến năm 2025 đạt trình độ thế
giới. Công nghệ thông tin được áp dụng phổ biến trong quản lý sản xuất kinh
doanh, quản trị tài nguyên ở những mỏ lớn. Tiến tới giảm tối đa lao động phổ
thông ở những mỏ nhỏ và vừa.
- Đặc biệt đối với ngành xây dựng, mục tiêu phấn đấu trong chiến lược
phát triển đến năm 2015 (giữa kỳ của giai đoạn 2011-2020). Theo đó, sẽ phát
triển nguồn nhân lực về chất lượng và số lượng; phấn đấu tách chỉ tiêu giá trị
sản xuất ngành xây dựng thành một chỉ tiêu riêng biệt trong tổng sản phẩm
quốc nội GDP, không để chung với giá trị sản xuất công nghiệp và xây dựng;
phấn đấu giá trị sản xuất của ngành đến năm 2015 chiếm từ 12 - 15% GDP.
- Toàn bộ các hoạt động dịch vụ tính theo giá trị gia tăng đạt nhịp độ
tăng trưởng bình quân 7- 8%/năm và đến 2020 chiếm 50% GDP. Trong giai
đoạn tới năm 2020, phát triển ngành du lịch sẽ có một số lĩnh vực chủ lực: du
lịch, vận tải và đặc biệt là vận tải quốc tế, tài chính, dịch vụ, y tế giáo dục và
97
khoa học công nghệ...
- Về cơ cấu lao động, đến năm 2020 tỉ trọng lao động khu vực nông
nghiệp đang làm việc trong nền kinh tế giảm xuống ở mức 25-30%, khu vực
phi nông nghiệp chiếm 70-85% lao động trong nền kinh tế.
Với các chỉ tiêu cơ cấu ngành nêu trên, nếu mức GDP/người đạt
khoảng 2500-3000 USD kết hợp với một số chỉ tiêu kinh tế khác, xét dưới
góc độ kinh tế Việt Nam sẽ cơ bản trở thành một nước công nghiệp như mục
tiêu phấn đấu nêu ra từ Đại hội Đảng lần thứ IX.
3.1.2. Quan điểm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành phải đảm bảo ổn định chính trị-xã
hội và phát triển bền vững. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong điều kiện
hội nhập kinh tế là cơ sở vững chắc để phát triển kinh tế nhanh, nâng cao hiệu
quả và sức cạnh tranh của từng ngành, sản phẩm cũng như toàn bộ nền kinh
tế. Cơ cấu ngành thay đổi về chất dựa trên cơ sở đổi mới công nghệ sâu hơn
nhằm tăng năng suất lao động xã hội, nâng cao chất lượng tăng trưởng và hiệu
quả kinh tế xã hội. Việc tăng nhanh năng lực nội sinh về công nghệ, đẩy mạnh
ứng dụng có hiệu quả các công nghệ nhập khẩu, đi nhanh vào công nghệ hiện
đại ở những ngành và lĩnh vực then chốt để tạo bước nhảy vọt về công nghệ,
về cơ cấu ngành, đạt tốc độ tăng trưởng cao tăng giá trị gia tăng nhất là những
sản phẩm và dịch vụ chủ lực. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế còn giải
quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, thu hẹp khoảng cách phát triển so với các
nước láng giềng và mức trung bình của thế giới.
Chuyển dịch cơ cấu ngành phải hướng tới mục tiêu phát triển nền kinh
tế bền vững, hình thành và phát triển nền kinh tế quốc dân ổn định, hiệu quả
và bền vững.
Phương hướng tổng quát trong thời gian tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành quốc dân phải tuân thủ nghiêm ngặt qui luật chuyển dịch cơ cấu ngành
98
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chuyển cơ cấu ngành kinh tế
nghiêng về nông nghiệp hiện nay sang cơ cấu nghiêng mạnh về công nghiệp
và dịch vụ; tăng nhanh tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tương ứng tỷ
trọng nông nghiệp trong GDP, hướng tới nền kinh tế dịch vụ trong dài hạn.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong quá trình đổi mới ở
Việt Nam hiện nay phải hướng vào hội nhập để thúc đẩy nhanh quá trình
chuyển dịch, trước hết lấy tăng trưởng xuất khẩu làm chủ đạo. Vì vậy, chiến
lược tăng trưởng nhanh, bền vững, lấy tăng trưởng xuất khẩu là một trong
những động lực chủ yếu là đòi hỏi khách quan, vừa có khả năng hiện thực ở
nước ta. Các nước và vùng lãnh thổ như Nhật Bản, Hàn Quốc, Xingapo...đã
từng đạt mức tăng trưởng nhanh làm nên những thần kì chủ yếu hướng mạnh
vào xuất khẩu. Ở nước ta, để có tăng trưởng cần hướng hoạt động kinh tế vào
mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu, cơ cấu lại nền kinh tế, rút ngắn con đường đi
lên nền kinh tế hiện đại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành dựa trên cơ sở khai thác có hiệu quả
các lợi thế so sánh, dựa trên cơ sở nguồn lực trong nước về lao động, thế
mạnh tài nguyên thiên nhiên, khai thác và chế biến chúng cho thị trường trong
và ngoài nước để thu hút các nguồn lực bên ngoài nâng cao hiệu quả, sức
cạnh tranh của sản phẩm, ngành hàng; từng bước vươn lên chế biến thành sản
phẩm tinh có thương hiệu trên thị trường thế giới.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế cần lựa chọn các ngành phát triển mang
tính đột phá về cơ cấu thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra theo hướng
đã định. Thu hút nguồn vốn và kĩ thuật tiên tiến của nước ngoài để phát triển
những ngành mới, cải tạo những ngành cũ, từ đó xác định một số hướng cụ
thể cho nhóm ngành sau:
Nhóm ngành sản xuất nông nghiệp, mà trọng tâm là sản xuất lương
99
thực trước hết là lúa gạo, là ngành có ý nghĩa đặc biệt đối với kinh tế Việt
Nam và hiện đang là một trong ba nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới; là
ngành được ưu tiên trong thời gian tới.
Nhóm ngành công nghiệp và dịch vụ sử dụng nhiều lao động; đó là các
ngành thuộc công nghiệp nhẹ, sử dụng công nghệ không cao, thu hồi vốn
nhanh, thích ứng với môi trường kinh doanh khá tốt; nhóm ngành này thực sự
đem lại hiệu quả cao cho nền kinh tế trong quá trình đổi mới nền kinh tế. Đến
năm 2020, nhóm ngành này là sự lựa chọn một cách rất tự nhiên của đông đảo
các nhà đầu tư tư nhân đã và sẽ gia nhập thị trường và chắc chắn vẫn chiếm
một tỉ trọng rất đáng kể trong nền kinh tế trên các mặt: tỉ phần trong GDP của
công nghiệp và dịch vụ, giá trị xuất khẩu và nhất là lực lượng lao động phi
nông nghiệp. Vì vậy, cần thực hiện đúng chính sách tín dụng, đất đai và các
doanh nghiệp thực hiện đúng qui định của pháp luật.
Nhóm ngành công nghiệp dựa trên khái thác tài nguyên thiên nhiên như
dầu mỏ, khí đốt, khai thác than, đá vôi… đã có đóng góp đáng kể vào sự khởi
động quá trình công nghiệp hóa của Việt Nam. Trong khoảng thời gian đến
năm 2020, nhóm ngành công nghiệp này sẽ được bổ sung thêm như khai thác
bô-xít nhôm ở Lâm Đồng, quặng sắt ở Hà Tĩnh và sẽ đóng vai trò quan trọng
vào tăng trưởng GDP và xuất khẩu, thu hút một lực lượng lao động đáng kể,
cung cấp nguồn nguyên liệu đầu vào cho nhiều ngành công nghiệp khác…
Đây là nhóm ngành cần vốn đầu tư lớn, công nghệ khai thác và chế
biến hiện đại, yêu cầu mức độ hiệu quả kinh tế theo qui mô lớn và đặc biệt là
có tính “tranh giành” cao với các ngành kinh tế khác; bởi vậy chưa thu hút
nhiều nhà đầu tư trong nước. Vì thế, nhà nước cần khuyến khích các nhà đầu
tư tham gia thăm dò, tìm kiếm, khai thác và chế biến một số loại tài nguyên
thiên nhiên dưới nhiều hình thức khác nhau. Mặt khác, nhà nước cần trực tiếp
tổ chức đầu tư phát triển nhóm ngành này nhằm tận dụng những ưu thế “trời
100
cho” để nhanh chóng tạo dựng một nền công nghiệp trong giai đoạn đầu của
thời kì công nghiệp hóa. Sự khởi động đầu tư của nhà nước có ý nghĩa quyết
định tạo điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của một loạt các ngành công
nghiệp chế biến phía sau công nghiệp khai thác như sản xuất và cung cấp
điện, sắt thép, vật liệu xây dựng, phân bón..; tạo cơ sở tốt hơn cho việc xử lí
các vấn đề môi trường đảm bảo sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
Nhóm các ngành công nghiệp và dịch vụ cao, quan điểm về quá trình
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng hiện đại rút ngắn thời gian trải
qua các bước tuần tự từ thấp lên cao của bậc thang kĩ thuật công nghệ, tập
trung vào việc phát triển những ngành, lĩnh vực sản xuất và dịch vụ dựa trên
công nghệ-kĩ thuật cao của thế giới như lĩnh vực sản xuất và chế tạo một số
thiết bị, linh kiện điện tử, công nghệ phần mềm, sản xuất một số loại vật liệu
mới; áp dụng công nghệ tiên tiến nhất trong các lĩnh vực dịch vụ thông tin,
truyền thông, ngân hàng, tài chính, quản lí xã hội và tài nguyên…
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành phải nhằm mục tiêu tạo nhiều việc
làm, nâng cao thu nhập cho người lao động. Theo dự báo đến năm 2015 có
63,4 triệu người trong độ tuổi lao động trên tổng số 94,3 triệu dân. Đồng thời
số người bước vào tuổi lao động mỗi năm là 1,6 triệu người khiến nhu cầu về
giải quyết việc làm tăng. Do vậy, giải quyết việc làm và sử dụng có hiệu quả
nguồn lao động dồi dào sẽ là một thách thức lớn đối với nền kinh tế nước ta
trong những năm tới, là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn
định và phát triển kinh tế, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân.
Phát triển đa dạng các ngành kinh tế, trong đó ngành sử dụng nhiều lao
động là một hướng chính của quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế; gắn
với trung tâm công nghiệp, dịch vụ ở các vùng miền. Tuy nhiên, việc phát
triển những ngành sử dụng nhiều lao động sẽ cản trở sự phát triển kinh tế tri
101
thức, tạo năng lực cạnh tranh mới dựa trên công nghệ tiên tiến hiện đại; vì vậy
phải chú trọng sử dụng lực lượng lao động chất lượng cao bằng việc phát triển
các ngành có sức cạnh tranh cao nhằm hội nhập kinh tế có hiệu quả.
Lực lượng lao động tăng thêm đến năm 2015 chủ yếu là ở khu vực
nông thôn, giải quyết việc làm ở nông thôn đòi hỏi cơ cấu ngành phải tính
đến; phải hướng cơ cấu ngành kinh tế vào phát triển công nghiệp vừa và nhỏ,
công nghiệp chế biến sản phẩm từ nông nghiệp để thu hút lực lượng lao động
này; hoàn thiện cơ chế, chính sách đào tạo nguồn nhân lực.
Giai đoạn từ nay đến năm 2020 là giai đoạn quan trọng của sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đòi hỏi chuyển dịch cơ cấu ngành
một cách có cơ sở khoa học, có trọng tâm trọng điểm, tạo ra thế và lực mới,
tạo đà cho sự phát triển kinh tế trong các giai đoạn tiếp theo.
Tóm lại, cần có sự đổi mới về tư duy phát triển các ngành và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ngành trong thời kì công nghiệp hóa. Bước đầu có thể và
cần phải phát triển một số ngành có hàm lượng khoa học công nghệ cao,
nhưng cần tập trung phát triển mạnh những ngành sử dụng nhiều lao động
trong một thời gian nhất định.
3.2. Các giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong các khu vực
3.2.1. Các giải pháp vĩ mô thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Thứ nhất, tạo môi trường chính trị, xã hội, pháp lí thuận lợi và ổn định
Giữ vững ổn định chính trị-xã hội là điều kiện đầu tiên có tính chất
quyết định đối với sự phát triển kinh tế nói chung và chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế nói riêng. Ở nước ta kể từ khi tiến hành đổi mới đến nay, sự ổn
định chính trị-xã hội luôn được đảm bảo nhất là trong bối cảnh tình hình khu
vực và quốc tế có những biến đổi và khó lường. Sự ổn định chính trị-xã hội
được thể hiện thông qua sự đúng đắn và minh bạch của chính sách, ổn định
102
kinh tế vĩ mô; nâng cao đời sống của nhân dân; giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc; đảm bảo tính hiệu quả và bền vững về môi trường sinh thái; đổi mới hệ
thống chính trị và cải cách nền hành chính quốc gia.
Tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lí là một giải pháp quan trọng đối
với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chuyển dịch cơ cấu ngành
trong quá trình đổi mới. Nhà nước ban hành một hệ thống pháp luật về kinh tế
của quốc gia theo hướng phù hợp với chuẩn mực và thông lệ quốc tế như Luật
doanh nghiệp được ban hành, Luật cạnh tranh và chống độc quyền kinh
doanh, Luật sở hữu trí tuệ…; cải cách hành chính và bộ máy quản lí nhà
nước, tăng cường tính minh bạch và hiệu quả trong quản lí của nhà nước.
Thứ hai, hoàn thiện công tác qui hoạch, kế hoạch
Trong công tác qui hoạch và phát triển kinh tế-xã hội, phải đổi mới
theo hướng Nhà nước xây dựng và thực hiện qui hoạch “cứng” tổng thể nền
kinh tế quốc dân, còn doanh nghiệp thực hiện qui hoạch “mềm”. Nhà nước
qui hoạch phát triển các kết cấu hạ tầng, định hướng phát triển cơ cấu theo
ngành có “tầm nhìn xa trông rộng”, định hướng theo chiến lược cơ cấu, phối
hợp đồng bộ giữa các ngành và địa phương trên phạm vi cả nước; tiến tới xóa
bỏ các qui hoạch mang tính cục bộ ngành, địa phương. Chuyển biến mạnh mẽ
trong chính sách đầu tư , tạo điều kiện khuyến khích đầu tư tư nhân và đầu tư
nước ngoài.
Thứ ba, khai thác kênh huy động các nguồn lực cho phát triển và
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Điểm đột phá là luật hóa vốn tư từ các loại tài sản cố định và nâng cao
năng lực xã hội; cần xác định rõ khả năng và giới hạn của việc huy động các
nguồn lực cho phát triển. Các nguồn lực hiện có ở Việt Nam: nguồn tài
nguyên thiên nhiên phong phú…; nguồn tài nguyên con người dồi dào, giá rẻ,
103
có khả năng nắm bắt nhanh công nghệ được chuyển giao…nhưng nặng về
“lợi thế tiềm năng”; vì vậy phải có chính sách đúng đắn trong việc huy động
và khai thác các nguồn lực này.
Vốn và công nghệ được coi là yếu tố nguồn lực nổi trội quyết định sự
phát triển kinh tế nhưng đều là yếu tố mà Việt Nam đang rất thiếu, không được
xem là thế mạnh ở nước ta; vì vậy phải có giải pháp huy động các nguồn lực
thúc đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hóa, cụ thể:
Mở thêm kênh tạo vốn cho đầu tư, khai thông một số nguồn vốn sẵn có
trong xã hội vốn bị xem là nghèo nàn về vốn lại ở chỗ, tạo lập một cơ chế
quyền sở hữu để đưa những tài sản của dân chúng vào trong hệ thống tài sản
sở hữu hợp pháp.
Nâng cao năng lực vốn xã hội thì nguồn lực con người quyết định; phải
nâng cao năng lực và sử dụng tốt nguồn lao động xã hội trước hết là lực lượng
lao động trực tiếp sáng tạo ra của cải vật chất. Như vậy cách tiếp cận nguồn
nhân lực từ góc độ năng lực xã hội hy vọng quá trình tăng trưởng và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế sẽ duy trì được tính bền vững góp phần quan trọng thúc
đẩy nhanh hơn tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Thứ tư, mở rộng thị trường kết hợp giữa mở rộng thị phần trên thị
trường quốc tế và tăng sức mua trên thị trường trong nước, đặc biệt chú ý thị
trường nông thôn.
Đối với thị trường nước ngoài, cơ cấu thị trường nước ngoài của hàng
hóa xuất khẩu Việt Nam hiện nay đa dạng, đa phương phản ánh số lượng và
chất lượng của hàng hóa Việt Nam. Tuy nhiên cần một chiến lược thị trường
nước ngoài:
Rút ngắn thời gian thực hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hóa, phải lấy nhập khẩu làm mục tiêu trực tiếp của việc
lựa chọn thị trường để có hướng ưu tiên tiếp cận. Tốc độ gia tăng kim ngạch
104
xuất khẩu là một chỉ tiêu quan trọng phản ánh thành tựu của kinh tế đối ngoại,
sử dụng nguồn ngoại tệ để nhập khẩu những công nghệ thiết bị, kĩ thuật hiện
đại để phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa một cách có hiệu quả
là một chỉ tiêu phản ánh thành tựu về kinh tế đối ngoại.
Cần xác định rõ một chiến lược thị trường, hướng thị trường ưu tiên
phải là thị trường, là những trung tâm kinh tế và khoa học công nghệ tiên tiến
trên thế giới. Trong thời gian tới nên đưa một chương trình hành động về xuất
khẩu với khẩu hiệu trung tâm chiếm 1% doanh số nhập khẩu của mỗi một
trong 4 thị trường: Mĩ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc (gọi là chiến lược
1%).[33].
Đối với thị trường trong nước trong điều kiện toàn cầu hóa là một bộ
phận của thị trường chung quốc tế. Nâng cao thu nhập cho nông dân được coi
là điểm then chốt để khởi động thị trường trong nước vào thời điểm hiện nay;
giải quyết vấn đề này chính là đẩy nhanh quá trình đô thị hóa thay cho quan
điểm “rời ruộng nhưng không rời làng”.
3.2.2. Giải pháp tập trung phát triển trong từng khu vực
Để đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở nước ta theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần tập trung vào các giải pháp sau:
3.2.2.1. Giải pháp cần tập trung phát triển trong khu vực I (ngành nông,
lâm nghiệp, thủy sản và khai thác)
Chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng hiệu quả kinh tế,
từng bước đáp ứng tiêu dùng của thị trường trong nước và xuất khẩu.
Trong nông nghiệp, đẩy mạnh thâm canh cây lương thực chuyển dịch
theo hướng sản xuất hàng hóa, đưa các loại giống lúa, ngô có năng suất cao
thay thế giống cũ; hình thành và đầu tư thâm canh vùng sản xuất lúa tập trung
như vùng cây ăn quả, vùng cây công nghiệp, cây đặc sản, cây lấy gỗ.
Kinh tế nông thôn từng bước phát triển theo hướng đa dạng hóa ngành
105
nghề, các dịch vụ sản xuất nông, lâm nghiệp ngày càng mở rộng và phát triển.
Chuyển diện tích trồng lúa kém hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản, trồng cây
ăn quả, cây công nghiệp nhằm tăng nguồn thu trên cùng đơn vị diện tích. Hiện
nay, ở nhiều địa phương mô hình kinh tế trang trại phát triển mạnh có hiệu
quả đem lại nguồn thu lớn góp phần xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm cho
người lao động. Có nhiều hộ gia đình đầu tư mua máy móc, áp dụng khoa
học, công nghệ tiên tiến trong sản xuất kinh doanh đã từng bước tiếp cận với
cơ chế thị trường, sản phẩm của họ có chỗ đứng trên thị trường nước ngoài.
Đẩy mạnh chăn nuôi, đưa chăn nuôi thành ngành chính, áp dụng các
tiến bộ khoa học công nghệ để tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa cho xã hội,
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu.
Hiện nay, để chuyển dịch cơ cấu kinh tế dựa vào tiềm năng thế mạnh
của địa phương với phương châm lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo, có nhiều
vùng đã đưa chăn nuôi thành ngành chính như nuôi cá ba sa, nuôi tôm, nuôi
cá, nuôi trồng thủy sản. Sử dụng có hiệu quả các nguồn lực hợp lý kết hợp với
trình độ chuyên môn cao đưa các tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ vào sản
xuất nên nuôi cá ba sa rất hiệu quả, có thể cạnh tranh với các nước trên thế giới.
Phát triển các ngành công nghiệp khai thác đáp ứng với tình hình đổi
mới và hội nhập.
Quá trình đổi mới và hội nhập hiện nay, nước ta đã gia nhập WTO đang
đặt ra nhiều thuận lợi cũng như khó khăn thách thức nhằm tạo vị thế của đất
nước trên trường quốc tế. Việc nghiên cứu khoa học cơ bản, phát triển các
ngành công nghiệp nặng phải được coi trọng, vì đó là đòn xeo giúp nền kinh
tế từng bước phát triển vững chắc.
Do vậy, chúng ta tiếp cận được với khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện
đại để ứng dụng trong sản xuất kinh doanh; phải đầu tư cho đào tạo nguồn
106
nhân lực, đầu tư cho nghiên cứu, khuyến khích các ngành, địa phương có mô
hình, phát minh sáng chế. Chú trọng phát triển công nghiệp nặng - vốn là
ngành công nghiệp chậm thu hồi vốn, lãi ít nhưng đó là đầu tư chiều sâu.
Trong quá trình phát triển, công nghiệp nặng ở nước ta hiện nay có ưu
thế là tài nguyên khá phong phú, có thể phát triển ở vùng, miền một cách hợp
lý nhằm phát huy nội lực nền kinh tế. Vấn đề đặt ra cần kết hợp kinh tế gắn
với quốc phòng an ninh, lấy hiệu quả kinh tế làm chủ đạo để phát triển công
nghiệp nặng nhanh đúng hướng, thực sự là đòn xeo thúc đẩy nền kinh tế phát
triển; cần sớm khắc phục khai thác tài nguyên thô để xuất khẩu.
3.2.2.2. Giải pháp tập trung phát triển khu vực II (ngành công nghiệp chế biến)
Tập trung phát triển khu vực II được xác định là giải pháp cơ bản, lâu
dài. Cụ thể:
Xác định các ngành mũi nhọn, chuyên sâu để có biện pháp đầu tư phát triển.
Căn cứ vào thực lực của đất nước có sự phối kết hợp với nước ngoài để cùng
thực hiện, nhưng xác định nội lực là chủ yếu. Quán triệt quan điểm là phải
làm chủ được công nghệ, không phụ thuộc vào các chuyên gia bên ngoài; cử
cán bộ đào tạo ở các nước có chuyên ngành sâu, có thành tựu, có thế mạnh về
công nghiệp và có công nghệ cao; nắm bắt, nghiên cứu để có bước đi phù hợp
với thực trạng của nền kinh tế và phải tính đến hiệu quả kinh tế của mỗi dự
án, mỗi công trình.
Các ngành mũi nhọn phải thực sự góp phần vào quá trình đẩy nhanh
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Các
ngành này thực sự phải là trụ cột của nền kinh tế, đáp ứng được quá trình sản
xuất kinh doanh trong tiến trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế. Kinh
nghiệm của nhiều nước phát triển trên thế giới trong quá trình công nghiệp
hóa, họ đi chuyên sâu vào một số ngành mũi nhọn mà quốc gia họ có thế
mạnh và không quảng bá khi sản phẩm chưa làm ra. Còn bí quyết sản xuất
107
sản phẩm đó thì bản quyền sáng chế luôn được giữ kín, tránh bị ăn cắp, học
công thức để làm. Cho nên, nhiều khu công nghệ cao được canh giữ cẩn mật,
không biết được họ làm gì ở đó. Đây chính là khâu bí quyết kinh doanh trong
nền kinh tế thị trường mà các nền kinh tế khác không có được.
Nhà nước nên có chính sách xúc tiến thương mại bằng cách tập trung,
đa dạng hóa các thị trường xuất khẩu, đặc biệt là các sản phẩm ngành công
nghiệp chế biến; giảm sự phụ thuộc vào thị trường truyền thống, phát triển
các thị trường mới; thu hút khách nước ngoài đến Việt Nam để quảng bá hàng
hoá, vừa phát triển du lịch, góp phần quân bình cán cân nhập siêu.
Nhà nước cần có những cơ chế hữu hiệu hơn về qui hoạch và cơ cấu lại
ngành công nghiệp chế biến gỗ, hạn chế tối đa xuất khẩu các sản phẩm thô và
làm gia công để nâng cao giá trị gia tăng cho đất nước. Mặt khác, cần sớm cụ
thể hóa luật đất đai về lâm nghiệp để các doanh nghiệp tiếp cận với đất trồng
rừng đảm bảo ổn định nguồn nguyên liệu phát triển sản xuất một cách bền vững.
Khuyến khích các ngân hàng thương mại tham gia hỗ trơ, đầu tư trực
tiếp phát triển công nghiệp chế biến, huy động mọi nguồn vốn, mọi thành
phần kinh tế trong và ngoài nước tham gia.
Đổi mới về tổ chức quản lí trong chế biến nông, lâm, thủy sản, thực
phẩm; chuyển đổi các cơ sở chế biến gắn liền với sản xuất nguyên liệu và thị
trường thành một tổ chức quản lí, phát triển loại hình doanh nghiệp và các tổ
chức khác nhau để liên kết giữa người sản xuất nguyên liệu với nhà máy chế
biến. Ví dụ, Công ty Cổ phần Đường Biên Hòa xây dựng cụm công nghiệp
chế biến đường tại Châu Thành, Tây Ninh nhằm nâng cao năng lực chế biến
lên 6 nghìn tấn mía/ngày và đầu tư 60 tỉ đồng cho nông dân để nâng diện tích
mía lên 9000 ha, đáp ứng 80% nhu cầu nguyên liệu.
Khuyến khích các thành phần kinh tế đổi mới, đầu tư phát triển kết cấu
hạ tầng, đổi mới công nghệ phục vụ công nghiệp chế biến, tổ chức các lực
108
lượng cơ khí chế tạo theo nguyên tắc chuyên môn hóa, hợp tác hóa, liên
doanh hợp tác với nước ngoài để từng bước chế tạo toàn bộ dây chuyền thiết
bị cho ngành chế biến.
Qui hoạch, phân bố hợp lí các cụm, khu công nghiệp, khu chế xuất, tiểu
thủ công nghiệp, làng nghề phục vụ sơ chế, tinh chế. Xây dựng và nâng cấp
các doanh nghiệp chế biến hiện có, phát triển thêm một số nhà máy mới có
công nghệ hiện đại gắn với qui hoạch vùng nguyên liệu đạt tiêu chuẩn về chất
lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn Việt Nam và quốc tế. Đặc
biệt, hình thành các khu vực công nghiệp, các điểm công nghiệp trọng điểm ở
nông thôn, các làng nghề gắn với thị trường trong nước và xuất khẩu. Cụ thể,
đồng bằng sông Hồng và vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ phát triển nông
nghiệp hàng hóa đa dạng, hình thành các vùng chuyên canh các sản phẩm
nông nghiệp tạo điều kiện phát triển công nghiệp chế biến nhằm khai thác
nguồn nguyên liệu sẵn có. Đối với Tây Bắc và Đông Bắc phát triển công
nghiệp chế biến khoáng sản, nông, lâm sản chú trọng chế biến xuất khẩu.
Qui hoạch và xây dựng các vùng nguyên liệu tập trung trên toàn quốc.
Việc đầu tư chế biến phải dựa trên cơ sở vùng nguyên liệu và gắn kết được “4
nhà” - nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và Nhà nước.
Đầu tư để có một ngành cơ khí đủ mạnh đảm bảo chủ động về trang thiết bị
Đầu tư phát triển cơ sở chế tạo thiết bị phục vụ công nghiệp chế biến.
cho lắp đặt và sửa chữa phục vụ ngành công nghiệp chế biến. Tổ chức các lực
lượng cơ khí chế tạo theo nguyên tắc chuyên môn hóa, hợp tác hóa, liên
doanh hợp tác với nước ngoài để từng bước chủ động sản xuất từng phần đến
chế tạo hoàn chỉnh các dây chuyền thiết bị cho ngành chế biến. Mỗi nhà máy
chế biến phải có xưởng cơ khí để sửa chữa, bảo dưỡng máy móc thường
xuyên, định kì.
Phát triển các ngành dịch vụ công nghiệp nhằm phục vụ nông, lâm
109
nghiệp, thủy sản xuất khẩu. Đây là ngành, lĩnh vực có tác dụng rất thiết thực
đối với nền kinh tế, nhất là phục vụ sản xuất và làm hàng xuất khẩu. Sự tác
động của nó vào các ngành khác tạo ra sản phẩm có chất lượng hơn, giá trị
hơn góp phần đẩy mạnh lưu thông hàng hóa, đem lại nguồn ngoại tệ cho đất
nước. Chẳng hạn, nhờ có công nghiệp tác động vào sản xuất kinh doanh mà
thương hiệu cà phê Trung Nguyên ở nước ta được thế giới biết đến; cá ba sa
được bạn hàng Mỹ và Tây Âu phải thừa nhận hàng chất lượng.
Vai trò của công nghiệp và nông nghiệp rất gắn bó với nhau thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nền
kinh tế phát triển ngày càng cao thì vai trò của công nghiệp đối với sản xuất
kinh doanh ngày càng phải đạt trình độ cao hơn, công nghệ kỹ thuật phải
vươn xa hơn. Công nghiệp ứng dụng hiện nay ngày càng đi vào cuộc sống
phục vụ sản xuất kinh doanh đa dạng hơn.
Đẩy nhanh công nghiệp chế biến phục vụ nông nghiệp để có sản phẩm
có giá trị cao, có thương hiệu trên thị trường trong nước và ngoài nước.
Trong nền kinh tế thị trường sản phẩm hàng hóa luôn được người tiêu
dùng được tự quyền lựa chọn sản phẩm. Vì vậy, làm thế nào có được sản
phẩm có chất lượng và đẹp, đáp ứng người tiêu dùng là mục tiêu vươn tới của
các nhà doanh nghiệp. Việc đưa công nghiệp chế biến phục vụ cho nông
nghiệp là vấn đề đầu tiên mà chúng ta phải tiến hành nhằm từng bước đưa sản
phẩm nông, lâm, thủy sản của chúng ta có thương hiệu trên thị trường trong
nước và nước ngoài. Vấn đề đặt ra làm thế nào để sản phẩm nông sản của ta
có thương hiệu trên thị trường như gạo, cà phê Trung Nguyên, bưởu Năm
Roi, cá ba sa…
Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế sẽ là bước chuyển từ nhận thức phải
vươn lên để tự cứu mình, không còn dựa vào bao cấp từ phía Nhà nước. Nước
ta là thành viên của WTO, chúng ta không còn toàn quyền ban hành các quy
110
định trái với tinh thần của WTO, cho dù là bảo vệ lợi ích quốc gia. Đây là cơ
hội để các thành phần kinh tế vươn lên tự khẳng định mình trên thương
trường, với phương châm bình đẳng, tự tin phát huy thế mạnh của chính
mình. Sản phẩm của nông nghiệp Việt Nam có tiêu thụ nhanh phải coi trọng
khâu chế biến, đưa công nghiệp dịch vụ phục vụ cho nông nghiệp. Để làm tốt
được việc này, chúng ta phải học tập Nhật Bản, Mỹ, Đức, Anh…coi trọng
khoa học kỹ thuật ứng dụng trong thực tiễn.
3.2.2.3. Giải pháp cần tập trung phát triển khu vực III (các ngành dịch
vụ và xây dựng)
Theo phân ngành của Liên Hợp Quốc, ngành xây dựng được tính vào
ngành dịch vụ sẽ thúc đẩy sự tăng trưởng của khu vực này nhanh hơn. Để
thực hiện mục tiêu đặt ra, ngành xây dựng phải không ngừng nâng cao hiệu
quả đầu tư xây dựng, tạo nguồn lực và cơ chế chính sách nhằm phát triển đô
thị nhanh và bền vững; hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách và công cụ
quản lý chi phí xây dựng phù hợp với cơ chế thị trường, thực tiễn của Việt
Nam và hội nhập toàn diện với quốc tế; xây dựng tiêu chí hoàn thiện cơ chế
chính sách nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế đô thị Việt Nam tiếp cận với các
nước trong khu vực và thế giới.
Nâng cao sức cạnh tranh của các sản phẩm ngành xây dựng trong thời
kỳ hội nhập. Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học kĩ thuật, ứng dụng công nghệ
xây dựng mới nhằm nâng cao chất lượng xây dựng và rút ngắn thời gian xây
dựng công trình. Tập trung chỉ đạo phát triển lực lượng xây dựng đáp ứng yêu
cầu của tình hình mới. Xây dựng, hình thành, phát triển một số tập đoàn kinh
tế đủ mạnh để có sức cạnh tranh trong quá trình hội nhập. Tiếp tục đẩy mạnh
sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước theo tinh thần Nghị
quyết Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng.
Kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực quản lý ngành xây dựng,
111
trong đó nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt trong giai đoạn mới là nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Tập trung hoàn thiện cơ chế chính sách trong
đầu tư xây dựng công trình, quản lý và phát triển đô thị; chính sách phát triển
hạ tầng kỹ thuật đô thị, mô hình tổ chức của bộ máy quản lý đô thị ở các cấp
và chính sách thúc đẩy thị trường nhà ở, thị trường bất động sản phát triển.
Nâng cao năng lực và chất lượng công tác quy hoạch, quản lý quy
hoạch xây dựng kiến trúc. Xây dựng và phát triển phải dựa trên cơ sở của quy
hoạch, bao gồm cả quy hoạch tổng thể, quy hoạch chi tiết và quy hoạch
chuyên ngành. Các đồ án quy hoạch khi đó được phê duyệt cần phải được
công khai cho nhân dân biết và thực hiện, là cơ sở pháp lý để triển khai các
hoạt động đầu tư, xây dựng và quản lý xây dựng, đặc biệt là ở đô thị.
Để tiếp tục hội nhập sâu và rộng hơn vào nền kinh tế thế giới, chủ động
đối phó với thách thức chung của nền kinh tế nước ta và trên thế giới, từng
doanh nghiệp ngành xây dựng phải nắm bắt và nhận thức rõ những ảnh
hưởng, cơ hội và thách thức do sự biến động của nền kinh tế thế giới mang
lại, để từ đó xây dựng, điều chỉnh chiến lược, kế hoạch phát triển sản xuất
kinh doanh của đơn vị mình cho phù hợp với tình hình mới.
Phát triển các loại hình dịch vụ đa dạng đáp ứng nhu cầu của nền kinh
tế trong tiến trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế. Trong tiến trình đổi
mới và hội nhập, các nước muốn có nguồn thu ngoại tệ nhanh, nhiều thì lĩnh
vực dịch vụ sẽ đáp ứng được điều đó. Trong lĩnh vực dịch vụ có ở nhiều
ngành, nhiều lĩnh vực đan xen nhau, đòi hỏi phải có các loại hình dịch vụ ra
đời từ quá trình sản xuất kinh doanh và nội tại của nền kinh tế. Khi các công
ty xuyên quốc gia ra đời và hoạt động trên khắp các châu lục thì khâu dịch vụ
phải được đặt ra là yếu tố quan trọng, không thể thiếu được. Việt Nam cần
học tập kinh nghiệm của các nước trong các khâu dịch vụ để bán hàng và sản
xuất hàng hóa ở các nước có một màng lưới thay thế công ty thực thi mọi hoạt
112
động và bản thân công ty chỉ có chỉ đạo tầm xa; ở các nước sở tại hàng loạt
các dịch vụ khác ra đời như mở các đại lý, quảng cáo khuyến mại… làm cho
khách hàng tiếp cận với sản phẩm của công ty...
Phát triển các loại hình dịch vụ thương mại đáp ứng nhu cầu đa dạng
của xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, các loại hình dịch vụ có nhiều ngành
lĩnh vực khác nhau như tài chính, ngân hàng, du lịch, thủy sản… nhưng loại
hình dịch vụ thương mại có vị trí rất quan trọng chiếm tỷ trọng lớn. Dịch vụ
thương mại ngày nay ở các nước công nghiệp phát triển đã đạt thành tựu khá
cao như mua bán hàng qua mạng, các siêu thị, nhà hàng, chợ bán buôn, chợ
đầu mối...
Trong những năm tới các dịch vụ thương mại nội địa phải quán triệt các
hệ thống quan điểm:
- Phát triển đồng bộ các loại hình dịch vụ phân phối bán buôn, bán lẻ và
nhượng quyền thương mại.
- Phát triển đồng bộ các hệ thống thị trường theo ngành hàng: vật tư,
nông sản thực phẩm, công nghiệp tiêu dùng.
- Phát triển hài hòa giữa các địa bàn thị trường: thành thị, nông thôn và
miền núi. Nếu làm tốt các giải pháp trên thì ngành dịch vụ sẽ thu được nguồn
ngân sách lớn góp phần đẩy mạnh nền kinh tế phát triển.
Phát triển các loại hình dịch vụ du lịch tạo nguồn thu cho ngân sách
và giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho nhân dân.
Cần xác định loại hình dịch vụ du lịch là một ngành công nghiệp không
có ống khói nhưng nguồn thu lại rất lớn. Vì vậy, chúng ta phải vươn lên để có
các loại hình dịch vụ đáp ứng nhu cầu đa dạng của du khách nhằm tạo nguồn
thu cho đất nước và cho nhân dân. Các dịch vụ đưa đón khách bằng các
phương tiện tiện ích để tránh mất nhiều thời gian, hướng dẫn khách, thông tin
cho khách, giới thiệu điểm du lịch đòi hỏi có đội ngũ nhân viên có trình độ
113
ngoại ngữ thành thạo, giao tiếp nhiệt tình, khéo tiếp khách qua các mời chào.
Ngoài ra, các điểm du lịch nên có những hàng lưu niệm mang tính độc đáo
riêng để du khách có cảm tình gây dấu ấn cho chuyến đi du lịch.
Phát triển các loại hình dịch vụ tài chính ngân hàng để tạo nguồn thu
ngoại tệ. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay,
các thành phần kinh tế phát triển đan xen được Nhà nước khuyến khích phát
triển. Đây là một động lực lớn để các thành phần kinh tế phát triển loại hình
dịch vụ nhất là dịch vụ tài chính, ngân hàng. Sự phát triển các dịch vụ ngân
hàng như thẻ ATM để thanh toán tiện ích, quỹ tiết kiệm, ngân hàng điện tử và
giảm tỷ lệ tiền mặt trong lưu thông. Thời gian thực hiện một giao dịch được
rút ngắn lại, các dịch vụ tài chính được sử dụng giao dịch qua mạng điện tử
nên thuận tiện, nhanh chóng. Ở các lĩnh vực như hải quan đưa khâu kiểm tra
hàng thông quan bằng hệ thống mạng điện tử tiết kiệm thời gian, rất tiện ích,
vừa kiểm kê, kiểm soát được hàng hóa.
Trong nền kinh tế thị trường, dịch vụ tài chính ngân hàng cần được
phát triển đáp ứng với tình hình thực tế của nền kinh tế. Các loại hình dịch vụ
cung cấp vốn, thanh toán luôn là vấn để rất nhạy cảm cần được coi trọng đúng
mức và vận dụng các bước đi cho phù hợp với bước phát triển của từng thời
kỳ. Thực tế sau khi Việt Nam vào WTO và qua Hội nghị APEC năm 2006 với
chủ đề “Hướng tới một cộng đồng năng động vì phát triển bền vững và thịnh
vượng” sẽ có nhiều doanh nghiệp nước ngoài đến đầu tư tại Việt Nam, dịch
vụ tài chính ngân hàng là một nhu cầu thiết yếu. Đây cũng là cơ hội để ngành
tài chính, ngân hàng vươn lên đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế trong sự
nghiệp đổi mới, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Điều cần chú ý là quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa là đòi hỏi
nguồn vốn lớn, cho nên việc cung ứng vốn đòi hỏi dịch vụ ngân hàng tài
chính, nhất là thị trường vốn, thị trường chứng khoán phải vươn lên đáp ứng
114
cho nền kinh tế. Bởi trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới hiện
nay các dòng vốn luôn luân chuyển để góp phần phục vụ sản xuất kinh doanh
115
và đặt ra yêu cầu sử dụng các nguồn vốn có hiệu quả kinh tế.
Luận văn đã nêu khái quát mục tiêu và phương hướng của sự chuyển
Kết luận chƣơng 3
dịch cơ cấu kinh tế ngành, đưa ra những dự báo thuận lợi và thách thức cần
lưu ý về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở nước ta trong quá trình đổi mới,
thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vào năm 2020.
Với mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế đến năm 2020 được Đảng ta
xác định, trên cơ sở lí luận và thực tiễn đúng đắn, luận văn đã đưa ra quan
điểm và phương hướng cơ bản nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nước
ta theo đúng mục tiêu đặt ra.
Trên cơ sở đó, đưa ra các giải pháp vĩ mô và các giải pháp cụ thể có
tính khả thi cho từng khu vực nhằm thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành ở nước ta trong quá trình đổi mới và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
Cụ thể:
Những vấn đề cấp thiết đặt ra về nhận thức, về đánh giá, phân biệt rõ
cơ cấu kinh tế có cấp độ khác nhau trong nền kinh tế quốc dân.
- Trong khu vực I (ngành nông, lâm, ngư nghiệp và khai thác):
Chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi đáp ứng tiêu dùng của thị trường
trong nước và xuất khẩu
Đẩy mạnh chăn nuôi, đưa chăn nuôi thành ngành chính, áp dụng tiến bộ
khoa học công nghệ tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội, đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng và xuất khẩu.
Phát triển các ngành công nghiệp khai thác đáp ứng với tình hình đổi
mới và hội nhập.
- Trong khu vực II (ngành công nghiệp chế biến):
Xác định các ngành mũi nhọn chuyên sâu để có biện pháp đầu tư và
116
phát triển
Phát triển các ngành dịch vụ công nghiệp nhằm phục vụ nông, lâm
nghiệp, thủy sản và xuất khẩu.
Đẩy mạnh công nghiệp chế biến phục vụ nông nghiệp tạo ra sản phẩm
có giá trị cao có thương hiệu trên thị trường trong nước và quốc tế.
- Đối với khu vực III (các ngành dịch vụ và ngành xây dựng):
Nâng cao sức cạnh tranh của các sản phẩm ngành xây dựng trong thời
kỳ hội nhập.
Phát triển các loại hình dịch vụ đa dạng đáp ứng nhu cầu của nền kinh
tế trong tiến trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế.
Phát triển các loại hình dịch vụ thương mại dịch vụ tài chính ngân hàng
để đáp ứng nhu cầu đa dạng của xã hội, tạo nguồn thu ngoại tệ.
Phát triển các loại hình dịch vụ du lịch tạo nguồn thu cho ngân sách và
giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho nhân dân.
KẾT LUẬN
Lý luận và thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta và trên thế
giới không phải là vấn đề mới; song, trong quá trình thực hiện đổi mới nền
kinh tế và hội nhập kinh tế khu vực, quốc tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế là
vấn đề đa dạng, phức tạp liên quan đến sự phát triển kinh tế-xã hội của đất
nước. Mặt khác, trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã vận dụng quan điểm
phân ngành của Liên Hợp Quốc để phân tích sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành và so sánh với phân ngành của Tổng cục Thống kê. Đây là vấn đề quan
trọng, luôn mang tính thời sự và đảm bảo tính mới. Sau quá trình nghiên cứu,
có thể đi đến một số kết luận dưới đây:
- Hệ thống hóa vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành; phân loại cơ
cấu kinh tế ngành theo quan điểm của Tổng cục Thống kê và của Liên Hợp
117
Quốc cùng với chỉ tiêu phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Trên
cơ sở đó, đề cập các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế ngành trong quá trình đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
- Trong xu thế mở cửa hội nhập, kinh tế-xã hội nước ta chịu sự tác động
của các nhân tố khách quan và chủ quan - các nhân tố đã có ảnh hưởng và
thậm chí quyết định sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Trên cơ sở đó, luận
văn đã tập trung phân tích tổng quan sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và
trong nội bộ từng ngành, từng khu vực thông qua các số liệu đã thống kê
được; phân tích đánh giá chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành kinh tế.
Quan trọng hơn, đã phân tích sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, cơ cấu lao
động ở nước ta theo quan điểm phân ngành của Liên Hợp Quốc, qua đó rút ra
ý nghĩa mang tầm vóc lớn giúp cho các nhà kinh tế và những người quan tâm
thấy được sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở nước ta phát triển không cân
đối, ở trình độ thấp so với các nước trong khu vực; cơ cấu kinh tế ngành ở
nước ta quá lạc hậu, biểu hiện: tỉ trọng của khu vực I trong GDP còn quá cao
và khu vực II lại quá thấp, tốc độ phát triển của khu vực III còn thấp cho thấy
cơ cấu kinh tế ngành ở nước ta chuyển dịch chậm so với các nước trong khu
vực và thế giới. Vấn đề trên đặt ra bài toán cần lời giải phù hợp để tránh tình
trạng “sự chuyển dịch ngược” trong cơ cấu ngành kinh tế nước ta và đạt được
mục tiêu đã đề ra trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX.
Với tinh thần trên, luận văn đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản
góp phần thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng hiện đại,
118
thực hiện quá trình đổi mới nền kinh tế có hiệu quả.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo phát triển con người Việt Nam (2001), Đổi mới và sự phát triển
con người, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. C.Mác và Ph. Ăng-ghen (1994), Toàn tập, tập 25, Phần 1, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
3. Lê Phong Du, Nguyễn Thành Độ (1999), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong
điều kiện hội nhập với khu vực và thế giới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Nguyễn Xuân Dũng (2007), “Về giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, số 12.
5. Nguyễn Xuân Dũng (2002), Một số định hướng đẩy mạnh CNH, HĐH ở
Việt Nam giai đoạn 2001-2010, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
10. Nguyễn Công Điền (1994), “Công nghiệp chế biến nông sản ở nông thôn
nước ta”, Tạp chí Thông tin lý luận, số 3.
11. Nguyễn Định (2002), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong xu
thế hội nhập toàn cầu, Tạp chí Giáo dục lí luận, số 8, tr 51- 54.
12. Tạ Ngọc Giao (2006), “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, vai trò và
cơ chế tác động của tài chính”, Tạp chí Tài chính, số 4, Tr 17- 20.
13. Ngô Đình Giao (1997), Một số vấn đề về thực trạng chuyển dịch cơ cấu
119
kinh tế (ngành, vùng, thành phần) trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, Đề tài khoa học xã hội 0204, Chương trình khoa học và công nghệ cấp
nhà nước KHXH02, nghiệm thu tháng 12, Hà Nội.
14. Ngô Đình Giao (1994), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo công nghiệp hóa
nền kinh tế quốc dân, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
15. Đinh Xuân Hạng (2005), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông
thôn, Tạp chí Tài chính, số 12, Tr 15-16.
16. Nguyễn Thanh Huyền (1997), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp,
phát triển nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Tạp
chí Phát triển kinh tế, số 83, tr 2-5.
17. Nguyễn Thị Bích Hường (2005), Chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế ở Việt
Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
18. Phạm Khiêm Ích, Nguyễn Đình Phan (1994), Công nghiệp hóa và hiện
đại hóa ở Việt Nam và các nước trong khu vực, Nxb Thống kê, Hà Nội.
19. Hoàng Sỹ Kim (2006), “Đầu tư vốn phát triển nông nghiệp, nông thôn theo xu
hướng hội nhập quốc tế”, Tạp chí Phát triển kinh tế, số 192/tháng 10, Tr 14-16.
20. Nguyễn Văn Lịch (2006), Nâng cao năng lực cạnh tranh ngành công nghiệp, Viện
trưởng Viện nghiên cứu thương mại.
21. Võ Đại Lược- Chủ nhiệm chương trình (2001), Chương trình khoa học cấp
bộ: Bối cảnh quốc tế và sự lựa chọn phát triển kinh tế của Việt Nam đến năm
2010, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia.
22. Nguyễn Đình Long (1995), “Thị trường yếu tố quyết định tới quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn”, Tạp chí Nghiên cứu kinh
tế, số 9.
23. Đỗ Hoài Nam (1996), Chuyển dịch cơ cấu ngành và phát triển các ngành
120
trọng điểm, mũi nhọn ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
24. Phạm Hoàng Ngân (1996), “Đổi mới chính sách nông nghiệp Việt Nam
trong bối cảnh quốc tế mới và thời kì hậu WTO”, Tạp chí Nông nghiệp và
phát triển nông thôn, số 16 tháng 9, tr 7-15.
25. Nxb Chính trị Quốc gia (2005), Khoa học công nghệ nông nghiệp và phát
triển nông thôn 20 năm đổi mới, tập 1,2,3,4, Hà Nội.
26. Nxb Khoa học xã hội (2004), Nông nghiệp Việt Nam: Chiến lược hướng tới việc
gia nhập WTO, Kỉ yếu diễn đàn số 3,4,6,7/6/2003, tr 81-109
27. Trần Anh Phương (2009), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế- thực trạng và
những vấn đề đặt ra, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
28. Bùi Tất Thắng (2003), “Kinh tế tri thức-Những cơ hội và thách thức mới
của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong thời kì CNH, HĐH”, Tạp chí
Nghiên cứu kinh tế, số 10, tháng 10.
29. Lê Hữu Tầng- Lưu Hàm Nhạc (đồng chủ biên)(2002), Nghiên cứu so sánh
đổi mới kinh tế ở Việt Nam và cải cách kinh tế ở Trung Quốc, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
30. Nguyễn Văn Tiến (2008), Các giải pháp phát triển thương mại thị trường
nhằm góp phần chuyển đổi cơ cấu lao động nông nghiệp nông thôn, Viện
Nghiên cứu Thương Mại.
31. Tổng cục Thống kê: Nguồn số liệu kinh tế- xã hội qua các năm 1990 đến 2008.
32. Trần Đình Thiên (Chủ biên) (2002), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt
Nam- Phác thảo lộ trình, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
33. Bùi Tất Thắng (Chủ biên)(2006), Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt
Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
34. Lê Tùng Sơn (2008), Biện pháp chủ yếu thực hiện sự liên kết bền vững
giữa nông nghiệp, nông dân, nông thôn với phát triển công nghiệp, khu công
121
nghiệp, Khu công nghiệp Việt Nam.
35. Ngô Doãn Vịnh (Chủ biên) (2005), Bàn về phát triển kinh tế, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
36. Ngô Doãn Vịnh (Chủ biên) (2006), Những vấn đề chủ yếu về phát triển
kinh tế, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
37. World Bank(2008), Báo cáo cập nhật tình hình kinh tế Việt Nam 2008, SaPa
38. Dain Rodrid (2000), Các chiến lược cho thế kỉ mới, trong Tư duy mới về
phát triển cho thế kỉ XXI, Đại học Harvard, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
39. UNDP & MPI/DIS (2001), Việt Nam hướng tới 2010, Nxb Chính trị Quốc
122
gia, Hà Nội.
123
124